Bộ đề thi thử 2019 môn Ngữ Văn - Từ ThS Đỗ Ngọc Thống, ThS Nguyễn Thành Huân gồm 49 đề có lời giải

Page 1

BỘ ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2019

vectorstock.com/22948427

Ths Nguyễn Thanh Tú Tuyển tập

Bộ đề thi thử 2019 môn Ngữ Văn - Từ ThS Đỗ Ngọc Thống, ThS Nguyễn Thành Huân gồm 49 đề có lời giải chi tiết (cập nhật đến 14.6.2019) WORD VERSION | 2019 EDITION ORDER NOW / CHUYỂN GIAO QUA EMAIL TAILIEUCHUANTHAMKHAO@GMAIL.COM Tài liệu chuẩn tham khảo Phát triển kênh bởi Ths Nguyễn Thanh Tú Đơn vị tài trợ / phát hành / chia sẻ học thuật : Nguyen Thanh Tu Group Hỗ trợ 24/7 Fb www.facebook.com/HoaHocQuyNhon Mobi/Zalo 0905779594


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 1 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Đôi khi cuộc sống dường như muốn cố tình đánh ngã bạn. Nhưng hãy đừng mất lòng tin. Tôi biết chắc chắn rằng, điều duy nhất đã giúp tôi tiếp tục bước đi chính là tình yêu của tôi dành cho những gì tôi đã làm. Các bạn phải tìm ra được cái các bạn yêu quý. Điều đó luôn đúng cho công việc và cho cả những người thân yêu của bạn. Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời. Và cách để tạo ra những công việc tuyệt vời là bạn hãy yêu việc mình làm. Nếu như các bạn chưa tìm thấy nó, hãy tiếp tục tìm kiếm. Đừng bỏ cuộc bởi vì bằng trái tim bạn, bạn sẽ biết khi bạn tìm thấy nó. Và cũng sẽ giống như bất kì một mối quan hệ nào, nó sẽ trở nên tốt dần lên khi năm tháng qua đi. Vì vậy hãy cố gắng tìm kiếm cho đến khi nào bạn tìm ra được tình yêu của mình, đừng từ bỏ. (Steve Jobs với những phát ngôn đáng nhớ,

dẫn theo http://www.vnexpress.net, ngày 26-8-2011)

Câu 1: Chỉ ra ít nhất 05 cụm từ trong đoạn trích thể hiện tính chất kêu gọi, động viên, khích lệ.

TH

Câu 2: Anh/ Chị hiểu thế nào về câu: "Đôi khi cuộc sống dường như muốn cố tình đánh ngã bạn.”? Câu 3: Theo anh/ chị, vì sao tác giả cho rằng: “Các bạn phải tìm ra được cái các bạn yêu quý.”?

YE

N

Câu 4: Thông điệp nào từ đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với anh/ chị? II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

U

Câu 1 (2,0 điểm):

N

G

Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến của Steve Jobs được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời. Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Từ đó liên hệ với hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu để nhận xét về những điểm giống và khác nhau giữa hai hình tượng này. -------------------- HẾT --------------------

Trang 1


HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: HS nêu được 05 trong số các cụm từ: “đừng mất lòng tin”, “đừng bỏ cuộc”, “hãy cố gắng”, “hãy tiếp tục”, “hãy yêu việc mình làm”, “đừng từ bỏ”... Câu 2: HS trình bày cách hiểu của mình một cách hợp lí, thuyết phục. Tham khảo các cách trả lời sau: - Câu nói cho thấy trong cuộc sống, đôi khi chúng ta đã cố gắng rất nhiều nhưng vẫn thất bại. - Câu nói cho thấy trong cuộc sống, đôi khi có những khó khăn khách quan bất ngờ xảy ra khiến chúng ta thất bại. Câu 3: Tham khảo cách trả lời sau:

C TI O

N

Mỗi người cần phải tìm ra được cái mình yêu quý - đó có thể là một công việc hoặc một con người. Đó là công việc/ con người mà chúng ta thích thú, đam mê, theo đuổi và tin tưởng là tuyệt vời. Chỉ khi đó chúng ta mới có động lực để làm việc hoặc sống có trách nhiệm hơn. Câu 4: HS trình bày hợp lí, thuyết phục về thông điệp của đoạn trích có ý nghĩa nhất đối với mình. Tham khảo một số thông điệp sau:

U

- Phải luôn có lòng tin vào những việc mình làm;

O D

- Phải yêu quý những công việc mình làm;

PR

- Không được bỏ cuộc khi thất bại; - Hãy kiên trì và liên tục cố gắng.

TU

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

TH

AN H

Câu 1: Viết 01 đoạn văn nghị luận, khoảng 200 chữ (theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng phân – hợp,...); xác định đúng vấn đề cần nghị luận (cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời); thể hiện quan điểm về vấn đề cần nghị luận bằng cách giải thích ý kiến, nêu cảm nhận hoặc bình luận về ý kiến (thể hiện sự đồng tình/ phản đối/ vừa đồng tình, vừa phản đối, ...); lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

N

Chẳng hạn, nếu bình luận về ý kiến, có thể theo các hướng sau:

N

G

U

YE

- Đồng tình với ý kiến: lập luận cần theo hướng khẳng định niềm tin, tình yêu đối với công việc (tin rằng đó là những việc tuyệt vời) sẽ là động lực mạnh mẽ để mỗi người vượt qua những khó khăn, trở ngại (bao gồm cả những yếu tố khách quan và chủ quan) để thành công. Người ta không thể thành công nếu không có niềm tin vào công việc và không tin đó là việc tốt (tuyệt vời). - Phản đối ý kiến: lập luận cần theo hướng để thành công trong công việc, nếu chỉ có niềm tin, tình yêu thôi thì chưa đủ; cần phải có hiểu biết/ kiến thức về công việc, kĩ năng và kĩ xảo để thực hiện công việc đó; ngoài ra, các yếu tố khách quan và sự may mắn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thành công của mỗi người trong công việc. - Vừa đồng tình, vừa phản đối ý kiến: kết hợp hai cách lập luận trên. Câu 2: Viết bài văn nghị luận, có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; có sáng tạo trong diễn đạt, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Có thể trình bày theo định hướng sau:

Trang 2


a) Giới thiệu khái quát về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, ... Ở phương diện thơ ca, Quang Dũng là một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình. - Tây Tiến là bài thơ thể hiện tập trung nhất những nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng. Bài thơ được coi là một kiệt tác về đề tài người lính thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong bài thơ, với cảm hứng lãng mạn bay bổng mà vẫn đậm chất hiện thực, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến vừa mang vẻ đẹp hào hùng và bi tráng, vừa mang nét đẹp hào hoa và lãng mạn. b) Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến trên hai phương diện chủ yếu sau:

C TI O

N

- Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng và bi tráng:

U

+ Người lính có ý chí, tư thế hiên ngang, vượt lên và coi thường những gian khổ, thiếu thốn, hi sinh: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời; Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người; Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm; ...

PR

O D

+ Người lính trải qua những đau thương, mất mát nhưng không hề bi luỵ: Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời; Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành...

TU

- Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hoa và lãng mạn:

AN H

+ Người lính có tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên và đằm thắm tình người: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi; Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi; Có nhớ dáng người trên độc mộc/ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa; ...

YE

N

TH

+ Người lính mang trong mình những khát vọng đẹp về tình yêu và tuổi trẻ: Kìa em xiêm áo tự bao giờ; Khèn lên man điệu nàng e ấp/ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ; Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm; ... c) Liên hệ với hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

G

U

- Vẻ đẹp của hình tượng người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc:

N

+ Trước “trận nghĩa đánh Tây”: cuộc đời lam lũ, vất vả, tủi cực (Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ); hoàn toàn xa lạ với công việc binh đao (chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó); căm thù giặc (ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ; Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ); có ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp cứu nước, tự nguyện sung vào đội quân chiến đấu và quyết tâm chiến đấu (Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn lành; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hồ...) + Trong “trận nghĩa đánh Tây”: có khí thế đạp đầu quân thù xốc tới, không quản ngại gian khổ, hi sinh, tự tin và đầy ý chí quyết tâm chiến thắng (ngoài cật có một manh ảo vải; trong tay cầm một ngọn tầm vông; hoả mai đánh bằng rơm con củi; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay; đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có; kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh,...); hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở, chí nguyện chưa thành (một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào Trang 3


hay da ngựa bọc thây; tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ;...). + Nhận xét: Người nông dân nghĩa sĩ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại, được tái hiện qua sự hồi tưởng và niềm tiếc thương vô hạn của tác giả. Lần đầu tiên hình tượng người nông dân mặc áo lính xuất hiện trong văn học với tất cả sự trân trọng, cảm phục; qua đó lột tả được khí phách kiên trung, lòng anh dũng, quả cảm của họ trước kẻ thù. - Điểm giống và khác nhau giữa hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến và hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: + Giống nhau: • Là những “bức tượng đài” về người lính trong các cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.

C TI O

N

• Mang trong mình lòng yêu nước; tinh thần dũng cảm xả thân; vượt mọi gian khổ, khó khăn, hi sinh vì lí tưởng lớn lao: bảo vệ Tổ quốc. + Khác nhau:

O D

U

• Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn của những chàng trai ra đi từ “đô thành khói lửa”; người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của những người nông dân Nam Bộ.

PR

• Khắc hoạ hình tượng người lính Tây Tiến, Quang Dũng chủ yếu sử dụng bút pháp lãng mạn; với hình tượng người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu sử dụng bút pháp hiện thực.

TU

- Đánh giá:

AN H

+ Mặc dù hai tác phẩm được sáng tác ở hai thời điểm khác nhau, với những cách thức thể hiện khác nhau (do đặc điểm của thể loại và phong cách tác giả quy định) nhưng đều đã khắc hoạ được những hình tượng nghệ thuật tuyệt đẹp, tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh.

N

G

U

YE

N

TH

+ Khắc hoạ hình tượng người lính Tây Tiến trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, Quang Dũng có sự kế thừa những thành tựu của các tác giả thời kì trước, trong đó có Nguyễn Đình Chiểu, nhưng cũng có những sáng tạo riêng về tư tưởng và nghệ thuật.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 2 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

C TI O

Người Nhật rất thích ăn cá, nhưng chỉ thích ăn cá tươi và cực ghét cá ươn.

N

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

U

Sau thời gian dài khai thác, biển gần bờ đã không còn cá nữa. Để giải quyết nhu cầu, người Nhật quyết định đóng tàu to hơn và chuyển sang đánh bắt xa bờ. Tuy nhiên, vấn đề lại nảy sinh: Đánh cá càng xa bờ thì lại càng tốn nhiều thời gian để mang cá về - có khi mất vài ngày và cá không còn tươi nữa.

PR

O D

Các công ty đánh bắt cá của Nhật thử cách lắp đặt tủ đông trên tàu đánh cá. Tủ đông làm đông cá ngay tại chỗ, từ đó giúp tàu có thể đi xa hơn và kéo dài thời gian đánh bắt lâu hơn. Tuy nhiên, vị cá đông lạnh không thể ngon như cá tươi sống, cá đông lạnh được bán với giá chẳng bao nhiêu.

TU

Một lần nữa, các công ty Nhật lại tìm cách giải quyết vấn đề. Họ đưa các bể nuôi lên tàu rồi bắt cá nhốt vào bể.

AN H

Sau một thài gian dồn lắc chật chội, lũ cá dù mệt lử nhưng vẫn còn sống. Cá lại được bán ra cho người tiêu dùng. Nhưng người Nhật lại phát hiện sự khác biệt: vị cá không được tươi ngon, có lẽ là do bị nhốt quá lâu trong bể.

TH

Các công ty Nhật đã làm thế nào để giải quyết bài toán khó này?

G

U

YE

N

Họ thả thêm một con cá mập nhỏ vào bể trên tàu. Cá mập chén một số cá trong đó - là những con cá yếu đuối, chậm chạp, số cá còn lại vẫn sống khoẻ và thịt vẫn rất thơm ngon khi vào đến bờ, bởi chúng luôn phải "hoạt động" để tránh cá mập. Và người tiêu dùng Nhật rất chuộng loại cá này. (Từ câu chuyện người Nhật thích ăn cá tươi, dẫn theo http://www.giadinhvietnam.com, ngày 20-10-2014)

N

Câu 1: Đoạn trích trên chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt nào? Câu 2: Theo anh/ chị, mục đích chính của người viết qua câu truyện này là gì? Câu 3: Những cách làm (để được ăn cá tươi) cho anh/ chị thấy điều gì ở người Nhật? Câu 4: Từ câu chuyện người Nhật thích ăn cá tươi, hãy rút ra cho mình 01 bài học mà anh/ chị cho là có ý nghĩa? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về một thông điệp mà anh/ chị tiếp nhận được từ đoạn trích ở phần Đọc hiểu. Câu 2 (5,0 điểm): Có ý kiến cho rằng:” Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng Trang 1


mạn và tài hoa – đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến…” (Ngữ văn 12, tập một, Sđd, tr.87). Anh/ Chị hãy chọn và phân tích 01 đoạn thơ (từ 8 dòng trở lên) trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng tỏ nhận định trên. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Đoạn trích chủ yếu sử dụng phương thức tự sự. Câu 2: HS có thể nêu 1 trong 2 mục đích của người viết như sau:  Động viên, khích lệ mọi người sáng tạo và kiên trì trong công việc.

N

 Ca ngợi óc thông minh, sáng tạo và sự kiên trì của người Nhật.

C TI O

Câu 3: Những cách làm đó cho thấy người Nhật rất thông minh, sáng tạo và kiên trì.

O D

U

Câu 4: HS rút ra cho mình 01 bài học có ý nghĩa với bản thân và những người xung quanh. Câu trả lời phải hợp lý, có sức thuyết phục, phù hợp với nội dung của văn bản. Cách diễn đạt có thể khác nhau nhưng cần nêu được ý chính là bài học về sự kiên trì hoặc luôn cố gắng, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm. II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

TU

PR

Câu 1: Viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng phân - hợp,...; xác định một thông điệp tiếp nhận được từ đoạn trích ở phần Đọc hiểu; thể hiện quan điểm về thông điệp ấy bằng cách giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ,... hoặc kết hợp các thao tác này; lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

AN H

Chẳng hạn, HS có thể nêu một trong những thông điệp sau và viết đoạn văn nêu suy nghĩ của mình về thông điệp đó:

TH

 Trong công việc, con người cần phải biết kiên trì, sáng tạo trong cách nghĩ và cách làm.  Các nhà sản xuất, kinh doanh cần đặt tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm lên hàng đầu.

YE

N

 Giả sử mỗi người là một chú cá bé nhỏ trong bể, nếu không có cá mập, liệu ta có thể nỗ lực hết mình (bơi nhanh và bơi xa) đến thế hay không?

N

G

U

 Hình ảnh con cá mập trong đoạn trích chính là những khó khăn, thử thách trong cuộc sống buộc ta phải nỗ lực tìm cách vượt qua để có thể trưởng thành và phát triển. Mỗi khó khăn, thử thách đều đi kèm với một cơ hội tương xứng. Quan trọng là chúng ta đối mặt với khó khăn, thử thách đó như thế nào (can đảm đối mặt hay chùn bước và trốn chạy)?  Thử thách giúp cho chúng ta tìm ra sức mạnh và cách thức để tồn tại, vươn tới. Thay vì né tránh, hãy dũng cảm đối mặt với nó.  Nếu bạn đã đạt được mục tiêu, hãy đặt ra mục tiêu lớn hơn. Đừng tự bằng lòng, thoả mãn với thành tích, ngủ quên trong chiến thắng của chính mình. Câu 2: Đề bài yêu cầu HS làm rõ "hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa" của Quang Dũng, đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến. Vì thế, cần chọn được đoạn thơ thể hiện rõ hình tượng người lính trong bài Tây Tiến để giải quyết vấn đề mà đề bài yêu cầu. Đoạn thơ thích hợp nhất là: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Có thể trình bày theo định hướng sau: Trang 2


a) Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm: xem phần gợi ý ở Đề 1, Câu 2, phần Làm văn.

C TI O

N

b) Giải thích ý kiến: "Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa - đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến", tập trung vào các từ phóng khoáng (không bị gò bó bởi những khuôn mẫu hoặc những cách viết có sẵn), hồn hậu (hiền từ, chất phác), lãng mạn (vượt lên trên thực tế cuộc sống để phản ánh, thể hiện theo ý muốn chủ quan; dùng trí tưởng tượng bay bổng để lí tưởng hoá vẻ đẹp của hình tượng), tài hoa (có tài về nghệ thuật, văn chương). Đây là những nét riêng trong phong cách thơ Quang Dũng so với các nhà thơ khác cùng viết về đề tài người lính (đã học) như Chính Hữu (Đồng chí), Phạm Tiến Duật (Bài thơ về tiểu đội xe không kính),... Trong bài Đồng chí, qua việc khắc họa hình tượng người lính cách mạng và tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn của họ bằng ngôn ngữ giản dị, chân thực, Chính Hữu đã khai thác cái đẹp, chất thơ trong cái bình dị, bình thường; trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, với chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống nơi chiến trường, ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khoẻ khoắn và giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, lạc quan, tác giả đã khắc hoạ hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam.

PR

O D

U

c) Giới thiệu vị trí của đoạn thơ sẽ phân tích: nằm ở phần thứ ba của tác phẩm, thể hiện rõ nét nhất hình tượng người lính Tây Tiến. Trước đó, tác giả đã khắc hoạ hình tượng thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, dữ dội vừa mĩ lệ, nên thơ để làm nền cho sự xuất hiện của người lính; người lính đã được khắc họa bước đầu với vẻ rắn rỏi, hào hùng và hào hoa.

YE

e) Nhận xét, đánh giá:

N

TH

AN H

TU

d) Phân tích đoạn thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mã gầm lên khúc độc hành" để làm rõ phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng khi viết về người lính. Khi phân tích, cần làm rõ những nét đặc sắc về mặt nghệ thuật (cách gieo vần, ngắt nhịp, dùng từ, sử dụng hình ảnh, chi tiết, biện pháp tu từ,...) để từ đó nêu lên nội dung của đoạn thơ (hình tượng người lính Tây Tiến và cảm xúc, tư tưởng của nhà thơ). Có thể liên hệ với đoạn/ bài thơ khác (đã học hoặc đã đọc) cùng viết về người lính, chỉ ra những nét chung và khác biệt giữa các đoạn/ bài thơ này, từ đó làm nổi bật nét riêng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa trong cách thể hiện hình ảnh người lính của Quang Dũng.

G

U

 Đoạn thơ nói riêng và bài thơ Tây Tiến nói chung đã làm nên tên tuổi của nhà thơ Quang Dũng khi viết về đề tài người lính.

N

 Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, tác giả đã khắc hoạ hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 3 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc bài thơ và thực hiện các yên cầu:

C TI O

N

NƠI DỰA Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia? Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào...

O D

U

Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.

PR

Và cái miệng nhỏ líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có. Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống. *

TU

*

*

AN H

Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia?

Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết.

TH

Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run rẩy.

N

Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời.

G

U

YE

Ai biết đâu: bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa vào cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách. (Nguyễn Đình Thi, Tia nắng, NXB Văn học, 1983)

N

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ. Câu 2: Giải thích nhan đề của bài thơ: Nơi dựa. Câu 3: Hai phần của bài thơ có gì giống nhau? Câu 4: Các hình ảnh em bé và bà cụ gợi cho anh/ chị suy nghĩ gì về “nơi dựa” của con người trong cuộc sống? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về tầm quan trọng của “nơi dựa” trong cuộc sống của mỗi con người. Câu 2 (5,0 điểm): Sự phù hợp giữa các yếu tố hình thức (nhan đề truyện, không gian, thời gian, điểm nhìn, nghệ thuật miêu Trang 1


tả, ngôn ngữ) với nội dung tư tưởng của truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam) -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ là biểu cảm. Câu 2: Nơi dựa – chỗ (nơi, vị trí, người, vật) để ta dựa vào nhằm có thêm sức mạnh (cả vật chất và tinh thần). Nơi dựa trong bài thơ là nơi dựa về mặt tinh thần, tình cảm của mỗi con người. Câu 3: Hai phần của bài thơ có cách cấu trúc và hình tượng tương tự như nhau.

N

Cụ thể là: Số lượng câu thơ ở mỗi phần như nhau và mỗi phần đề có 2 hình tượng nghệ thuật cùng làm nổi bật chủ đề của bài thơ.

O D

U

C TI O

Câu 4: HS trả lời theo cách hiểu riêng của mình, lập luận cần chặt chẽ, có sức thuyết phục. Tham khảo hướng trả lời sau: Hình ảnh em bé và bà cụ cho thấy trong cuộc sống, nhiều khi “nơi dựa” vững chắc cho mỗi người không phải là những người trẻ, khỏe, đầy đủ về vật chất... mà lại chính là những người có vẻ yếu đuối, bé nhỏ, mong manh (như em nhỏ, cụ già...). “Nơi dựa” thực sự của mỗi người chính là nơi chúng ta tìm thấy sự bình tâm, niềm tin tưởng, sự bình yên... để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

AN H

TU

PR

Câu 1: HS viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng – phân – hợp...; sử dụng một hoặc một số thao tác lập luận trong số các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ, ...; có lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày được suy nghĩ riêng của mình về tầm quan trọng của “nơi dựa” trong cuộc sống của mỗi con người.

YE

N

TH

- Nếu lập luận theo hướng khẳng định tầm quan trọng (mặt phải, mặt tích cực) của “nơi dựa”, cần nhấn mạnh và làm rõ: Nơi dựa là gì? Tại sao trong cuộc sống, mỗi người đều cần phải có “nơi dựa”, nhất là chỗ dựa về tinh thần? (để có thêm sức mạnh; để khỏi “chơi vơi”, “chông chênh”, “mất thăng bằng” khi gặp phải những khó khăn, vất vả)

G

U

- Nếu lập luận theo hướng phủ định (chỉ ra mặt trái, mặt tiêu cực) của “nơi dựa”, cần nhấn mạnh và làm rõ ý: mỗi người phải biết tự lực, tự đứng vững trên đôi chân của mình, không nên dựa dẫm, ỷ lại vào người khác.

N

- Nếu lập luận theo hướng vửa khẳng định vừa phủ định tầm quan trong của “nơi dựa”, cần kết hợp cả hai nội dung trên. Câu 2: Đề bài yêu cầu HS làm rõ sự phù hợp giữa yếu tố hình thức (bao gồm nhan đề truyện, không gian, thời gian, điểm nhìn, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ) và nội dung tư tưởng của truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam). HS có thể trình bày theo những cách khác nhau, tham khảo cách trình bày sau: a) Âm hưởng bao trùm và chủ đạo của truyện ngắn Hai đứa trẻ là niềm cảm thương, xót xa chân thành của nhà văn đối với cuộc sống chìm khuất, mỏi mòn, quẩn quanh của những kiếp người nhỏ nhoi nơi phố huyện bình lặng, tối tăm, cùng những ước mong khiêm nhường mà thiết tha của họ. Đây cũng chính là nội dung tư tưởng của tác phẩm, thực chất là chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Thạch Lam. b) Để thể hiện nội dung ấy, tác giả đã lựa chọn các yếu tố hình thức phù hợp như cách đặt tên cho truyện; cách xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật; cách lựa chọn điểm nhìn; nghệ thuật miêu tả và ngôn Trang 2


ngữ. - Nhan đề truyện: Hai đứa trẻ không đơn thuần là chỉ hai nhân vật chính của thế giới con người nơi phố huyện (Liên và An) mà quan trọng là gợi lên trong lòng người đọc hình ảnh hai con người bé nhỏ, yếu đuối... phù hợp với cảm hứng xót xa, thương cảm... Nếu so sánh với tiêu đề Hai chị em sẽ thấy rõ điều này. Đó chính là đối tượng để nhà văn thể hiện tư tưởng nhân đạo mới mẻ của mình. - Không gian, thời gian: không gian của thiên truyện là không gian tù túng, nhếch nhác, tàn lụi của phiên chợ đã “vãn từ lâu”, “chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía” với “một mùi ẩm ẩm bốc lên” cùng hình ảnh “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi”... khiến Liên “động lòng thương”. Thời gian của truyện là thời điểm bắt đầu từ lúc chiều tàn cho đến tận đêm khuya; phố huyện bị bao phủ, tràn ngập bởi bóng tối, mấy đốm sáng nhỏ từ gánh phở của bác Siêu và ngọn đèn của chị Tí... càng tô đậm thêm sự tối tăm của không gian phố huyện.

C TI O

N

Có thể nói, không gian và thời gian đã làm nổi bật bức tranh cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, bế tắc, lụi tàn của những người lao động nghèo khổ, bé nhỏ nơi phố huyện.

-

PR

O D

U

- Điểm nhìn: cảnh và người nơi phố huyện được nhìn, cảm nhận qua con mắt, tâm trạng của “hai đứa trẻ” mà chủ yếu là qua con mắt, tâm trạng của cô bé Liên, một thiếu nữ dịu hiền, nhân hậu, đa cảm, đa sầu. Điều này phù hợp với cảm hứng nhân đạo của Thạch Lam và đặc điểm của truyện ngắn trữ tình. Điểm nhìn ấy khiến cho cảnh vật vốn đơn điệu, tẻ nhạt trở nên thấm đượm cảm xúc, tâm trạng, có hồn hơn với cái thi vị và sức sống riêng của nó. Nghệ thuật miêu tả: miêu tả tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật

AN H

TU

 Có sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh (bức tranh phố huyện) với thế giới nội tâm nhân vật (tâm trạng của cô bé Liên) trong từng thời khắc: cảnh chiều buông thì người buồn thương man mác; cảnh đêm xuống thì người buồn khắc khoải; cảnh đêm khuya khi chuyến tàu đi qua thì người buồn tiếc, mơ tưởng, khát khao, ...

YE

N

TH

 Tính chất không thuần nhất của thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm: có một sự pha trộn buồn vui khó tả, hay một sự thống nhất giữa nhiều sắc thái tương phản từ ngoại cảnh và từ nội tâm. Những hình ảnh êm đềm thi vị hòa trộn với hình ảnh nghèo nàn lam lũ; ánh sáng hòa trộn với bóng tối; cái huyên náo chốc lát hòa vào cái im lặng mênh mông; ...

N

G

U

Nghệ thuật miêu tả trong thiên truyện cho thấy sự cảm thông, tri ngộ sâu sắc của nhà văn, đến mức tưởng như đã nhập hẳn vào tâm trạng, cảnh ngộ của nhân vật để mà diễn tả tất cả cái mong manh, mơ hồ “khó tả” nhất của tâm hồn con người (chẳng hạn: “Liên không hiểu sao...”, “mong đợi một cái gì...”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi...”). - Ngôn ngữ rất giàu chất thơ: chủ yếu là ngôn ngữ miêu tả và độc thoại nội tâm với giọng điệu nhẹ nhàng, thấm thía. Cả thiên truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn. c) Đánh giá: Khẳng định tài năng viết truyện ngắn của Thạch Lam.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 4 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

C TI O

N

Ta không thể ghét sự tự học được: nó là một cuộc du lịch. J.J. Ru-xô và V.Huy-gô, hai văn hào ở Pháp đều ca tụng thú đi chơi bộ.

O D

U

J.J. Ru-xô nói: “Lúc nào muốn đi thì đi, muốn ngừng thì ngừng, muốn vận động nhiều hay ít tùy ý. Cái gì thích thì nhận xét, cảnh nào đẹp thì ngừng lại. Chỗ nào tôi thấy thú thì tôi ở lại. Hễ thấy chán thì tôi đi, tôi chỉ tùy thuộc tôi, tôi được hưởng tất cả sự tự do mà một người có thể hưởng được”.

PR

Còn V.Huy-gô thì viết: “Người ta được tự chủ, tự do, người ta vui vẻ. Người ta đi, người ta ngừng, người ta lại đi, không có gì bó buộc, không có gì ngăn cản”.

AN H

TU

Cái thú tự học cũng giống cái thú đi chơi bộ ấy. Tự học cũng là một cuộc du lịch, du lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gấp trăm du lịch bằng chân, vì nó là du lịch trong không gian lẫn thời gian. Những sự hiểu biết của loài người là một thế giới mênh mông. Kể làm sao hết được những vật hữu hình và vô hình mà ta sẽ thấy trong cuộc du lịch bằng sách vở?

TH

(Nguyễn Hiến Lê, Tự học – một nhu cầu thời đại, ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr.211 – 212)

Câu 1: Câu nào nêu lên ý khái quát của đoạn trích?

YE

N

Câu 2: Nêu tác dụng của thao tác lập luận chính được sử dụng trong đoạn trích trên. Câu 3: Dựa vào đoạn trích, hãy giải thích vì sao tác giả lại cho rằng: “Ta không thể ghét sự tự học được”.

N

G

U

Câu 4: Quan điểm “Những sự hiểu biết của loài người là một thế giới mênh mông.” Giúp anh/ chị rút ra bài học gì cho bản thân? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến của tác giả được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Tự học cũng là một cuộc du lịch, du lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gấp trăm du lịch bằng chân, vì nó là du lịch trong không gian lẫn thời gian. Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau: - Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không

Trang 1


Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? - Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… (Tố Hữu, Việt Bắc, Ngữ văn 12, tập một, sđđ, tr.109) -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

N

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

C TI O

Câu 1: Câu văn nêu lên ý khái quát của đoạn trích là: Ta không thể ghét sự tự học được: nó là một cuộc du lịch.

O D

U

Câu 2: Thao tác lập luận chính được sử dụng trong đoạn trích là so sánh. Tác dụng của thao tác lập luận này: chỉ ra sự giống nhau giữa sự tự học với thú đi chơi bộ, từ đó giúp người đọc thấy được lợi ích của sự tự học.

TU

PR

Câu 3: Tác giả cho rằng: “Ta không thể ghét sự tự học được” bởi vì: “Sự tự học” là một cuộc “du lịch” – “du lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gấp trăm du lịch bằng chân, vì nó là du lịch trong không gian lẫn thời gian”, “Kể làm sao hết được những vật hữu hình và vô hình mà ta sẽ thấy trong cuộc du lịch bằng sách vở”.

AN H

Câu 4: HS rút ra ít nhất 01 bài học cho bản thân từ quan điểm của tác giả: “Những sự hiểu biết của loài người là một thế giới mênh mông.”. Câu trả lời phải hợp lí, có sức thuyết phục. Tham khảo các hướng trả lời sau đây:

TH

– Hiểu biết của loài người là một thế giới mênh mông, do đó, mỗi người phải nỗ lực học hỏi để có được nhiều tri thức cho bản thân.

YE

N

– Hiểu biết của loài người là một thế giới mênh mông, hứa hẹn nhiều điều thú vị để chúng ta khám phá và chiếm lĩnh. Vì vậy, con người phải chịu khó học hỏi để có được những niềm vui, sự thú vị ấy.

G

U

– Hiểu biết của loài người là một thế giới mênh mông. Hiểu biết của mỗi người là hữu hạn. Vì thế, con người cần phải khiêm tốn và học hỏi không ngừng.

N

II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS viết 01 đoạn văn nghị luân (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng – phân – hợp…; sử dụng một hoặc một số thao tác lập luận trong số các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ…; có lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày được suy nghĩ riêng của mình theo hướng làm rõ và khẳng định hoặc phủ định ý kiến: Tự học cũng là một cuộc du lịch, du lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gấp trăm du lịch bằng chân, vì nó là du lịch trong không gian lẫn thời gian. – Nếu lập luận theo hướng khẳng định ý kiến trên là đúng, cần khẳng định tính chất “tự chủ, tự do”, “không có gì bó buộc, không có gì ngăn cản” của việc tự học. – Cần làm rõ nội dung của ý kiến khẳng định theo hướng: Tự học là tự mình tìm hiểu, khám phá và chiếm lĩnh những tri thức về thiên nhiên, con người, cuộc sống… Đó là một cuộc đi chơi vừa để giải trí vừa để có thêm những hiểu biết về những điều mà mình quan tâm. Nhưng đó là cuộc du lịch bằng trí óc, qua sách Trang 2


vở (không chỉ sách giáo khoa mà còn là tất cả các loại sách, truyện khác). Vì thế, con người không chỉ đi du lịch trong hiện tại mà còn có thể quay về quá khứ hoặc đi đến tương lai, có thể đến với mọi miền xa xôi trên thế giới, khắc phục mọi hạn chế của việc “du lịch bằng chân” và việc học qua sách giáo khoa ở nhà trường. Nói như Phan Kế Bính (1875 – 1921): “Ngồi trong xó nhà mà lịch lãm suốt hết các nơi danh lam thắng cảnh của thiên hạ; xem trên mảnh giấy mà tinh tường được hết các việc hay, việc dở của thế gian; sinh ở sau mấy nghìn năm mà tựa hồ như được đối diện và được nghe tiếng bàn bạc của người sinh về trước mấy nghìn năm, cũng là nhờ có văn chương cả” (trích Hán Việt văn khảo).

C TI O

N

– Nếu lập luận theo hướng phủ định ý kiến trên, cần nhấn mạnh: Đi du lịch cũng có những giá trị riêng, cũng là một hình thức học tập, học từ thực tiễn cuộc sống. Vì người đi du lịch sẽ được trực tiếp nhìn ngắm cảnh vật, sông núi, mây trời, trực tiếp trải nghiệm những cảm xúc của mọi giác quan, trực tiếp giao tiếp với con người, cảnh vật… từ đó mà hình thành kinh nghiệm, kĩ năng sống, biết vận dụng những gì đã học, đã đọc ở sách vở vào các tình huống của cuộc sống thực… Ngoài ra, trong thực tế không phải ai cũng có điều kiện để đọc sách vở…

U

– Nếu lập luận theo hướng vừa khẳng định vừa phủ định ý kiến thì cần kết hợp cả hai nội dung trên theo hướng tự học có nhiều ưu điểm nhưng đi du lịch vẫn có những giá trị riêng của nó.

O D

Câu 2: Đề bài yêu cầu HS trình bày cảm nhận của mình về đoạn thơ đầu trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

PR

Có thể trình bày theo định hướng sau: a) Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm:

AN H

TU

– Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị. Đường đời, đường thơ Tố Hữu luôn song hành cùng con đường cách mạng của cả dân tộc. Với những tác phẩm giàu chất trữ tình chính trị và đậm đà tính dân tộc, Tố Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thơ ca cách mạng Việt Nam.

N

G

U

YE

N

TH

– Hoàn cảnh cảnh sáng tác: Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỉ XX cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nơi đây, người dân Việt Bắc đã từng che chở, đùm bọc và sát cánh bên bộ đội, cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, tháng 10 – 1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ được viết trong hoàn cảnh chia tay lưu luyến ấy. – Đặc điểm chính về nội dung và nghệ thuật: Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm chất ca dao – tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ: uống nước nhớ nguồn, hãy nhớ mãi chiến khu Việt Bắc và phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của những con người kháng chiến. b) Giới thiệu vị trí của đoạn thơ sẽ phân tích: nằm ở phần đầu của tác phẩm; nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ: tiếng nói ân nghĩa thủy chung và lòng tự hào của những con người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc. c) Phân tích đoạn thơ: Khi phân tích, cần làm rõ những nét đặc sắc về nghệ thuật (cách gieo vần, ngắt nhịp, dùng từ, sử dụng hình ảnh, chi tiết, biện pháp tu từ,…) để từ đó làm nổi bật nội dung của đoạn thơ. Đoạn thơ là lời đối đáp thứ nhất của “mình” và “ta” – người ra đi và người ở lại. Trang 3


– Bốn câu đầu là lời của người ở lại. Đó là hai câu hỏi của người dân Việt Bắc hướng về cán bộ, bộ đội kháng chiến – những người trở về với Hà Nội. Với những câu hỏi tu từ da diết, những hình thức điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những cách vận dụng tinh tế và sáng tạo ca dao, tục ngữ dân gian…, bốn câu thơ đầu đã thể hiện ân tình sâu nặng của đồng bào Việt Bắc với cán bộ, bộ đội kháng chiến trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến. Đó cũng là cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ. – Bốn câu thơ sau là khúc dạo đầu của cảm xúc chia tay để từ đó biết bao nhiêu điều chưa nói sẽ được thổ lộ, giãi bày. Lời hỏi chỉ là cái cớ gợi dẫn để mạch cảm xúc nhớ thương trong lòng người lên đường tuôn trào. d) Nhận xét, đánh giá:

C TI O

N

– Bằng lối kết cấu đối đáp, cách xưng hô mình – ta quen thuộc của ca dao, tám câu thơ là khúc dạo đầu đầy lưu luyến, bịn rịn, nặng tình nặng nghĩa của người ở lại và người ra đi. Đó cũng chính là cảm hứng chủ đạo của toàn bộ bài thơ, thể hiện tập trung nhất những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

– Thể hiện những nét tiêu biểu nhất của phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, đoạn thơ nói riêng và bài thơ Việt Bắc nói chung không chỉ xứng đáng là đỉnh cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 5 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

C TI O

N

Mới đây, các giáo sư tâm lí học ở Trường Đại học York và Toronto (Canada) đã tìm ra những bằng chứng để chứng minh rằng: Đọc sách văn học thực sự giúp con người trở nên thông minh và tốt tính hơn.

O D

U

Những nghiên cứu của các giáo sư đã cho thấy những người thường xuyên đọc sách văn học thường có khả năng thấu hiểu, cảm thông và nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ. Ngược lại, những cá nhân có khả năng thấu cảm tốt cũng thường lựa chọn sách văn học để đọc.

PR

Sau khi đã tìm thấy mối liên hệ hai chiều ở đối tượng độc giả là người lớn, các nhà nghiên cứu tiếp tục tiến hành với trẻ nhỏ và nhận thấy những điều thú vị, rằng những trẻ được đọc nhiều sách truyện thường có cách ứng xử ôn hoà, thân thiện hơn, thậm chí trở thành đứa trẻ được yêu mến nhất trong nhóm bạn.

AN H

TU

Đọc một "nội dung sâu sắc" khác với cách đọc "mì ăn liền" của chúng ta khi lướt qua các trang mạng. Hiện tại, việc thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học là việc ngày càng hiếm thấy trong đời sống đương đại.

U

YE

N

TH

Theo các nhà tâm lí học, việc chú tâm đọc một nội dung sâu sắc có tầm quan trọng đối với mỗi cá nhân giống như việc người ta cần bảo tồn những công trình lịch sử hay những tác phẩm nghệ thuật quý giá. Việc thiếu đi thói quen đọc nghiêm túc sẽ gây ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của những thế hệ "sống trên mạng". (Đọc sách văn học giúp chúng ta thông minh hơn, dẫn theo http://www.dantri.com.vn, ngày 12 - 08 – 2015)

G

Câu 1: Ghi lại câu nêu ý khái quát của đoạn trích trên.

N

Câu 2: Anh/ Chị hiểu ý kiến sau như thế nào? Theo các nhà tâm lí học, việc chú tâm đọc một nội dung sâu sắc có tầm quan trọng đối với mỗi cá nhân giống như việc người ta cần bảo tồn những công trình lịch sử hay những tác phẩm nghệ thuật quý giá. Câu 3: Dựa vào đoạn trích để giải thích vì sao có thể nói: Việc thiếu đi thói quen đọc nghiêm túc sẽ gây ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của những thế hệ "sống trên mạng". Câu 4: Từ đoạn trích anh/ chị hãy rút ra 02 bài học cho bản thân. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Hiện tại, việc thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học là việc ngày càng Trang 1


hiếm thấy trong đời sống đương đại. Câu 2 (5,0 điểm): Có ý kiến cho rằng: Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà (dẫn theo Ngữ văn 12, tập một, Sđd, tr. 98). Anh/ Chị hãy chọn và phân tích 01 đoạn thơ (từ 8 dòng trở lên) trong bài thơ Việt Bắc để làm sáng tỏ nhận định trên. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

C TI O

N

Câu 1: Câu nêu ý khái quát của đoạn trích là: Đọc sách văn học thực sự giúp con người trở nên thông minh và tốt tính hơn.

TU

PR

O D

U

Câu 2: Tham khảo cách trả lời sau: Ý kiến đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc "chú tâm đọc một nội dung sâu sắc". Việc đó cũng "giống như việc người ta cần bảo tồn những công trình lịch sử hay những tác phẩm nghệ thuật quý giá". Nếu những công trình lịch sử hay những tác phẩm nghệ thuật quý giá không được bảo tồn thì chúng có thể sẽ bị hư hỏng, không còn có giá trị nữa. Công việc "bảo tồn các công trình lịch sử hay những tác phẩm nghệ thuật quý giá" cũng phải tiến hành rất tỉ mỉ, công phu, thận trọng, kĩ càng đến từng chi tiết nhỏ, chứ không thể làm vội vàng, qua loa, đại khái. Việc "chú tâm đọc một nội dung sâu sắc" cũng phải như vậy. Việc "chú tâm đọc một nội dung sâu sắc" hay là cách "thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học" sẽ giúp người ta "có khả năng thấu hiểu, cảm thông và nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ". Đó là việc mỗi cá nhân cần làm

YE

N

TH

AN H

Câu 3: Có thể nói: Việc thiếu đi thói quen đọc nghiêm túc sẽ gây ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của những thế hệ "sống trên mạng" là vì: nếu không đọc nghiêm túc, tức không "thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học" hoặc "chú tâm đọc một nội dung sâu sắc", người ta sẽ không thể có "khả năng thấu hiểu, cảm thông và nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ" (còn gọi là "khả năng thấu cảm tốt"). Việc "đọc "mì ăn liền" của chúng ta khi lướt qua các trang mạng" hiện nay đang gây ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của chúng ta.

U

Câu 4: HS rút ra 02 bài học cho bản thân. Câu trả lời phải hợp lí, có sức thuyết phục.

G

Tham khảo các hướng trả lời sau đây:

N

 Cần hình thành thói quen thường xuyên đọc sách văn học và cổ vũ mọi người đọc sách văn học để trở nên thông minh và tốt tính hơn. Mặt khác, chăm đọc sách văn học là một cách góp phần làm cho những lối sống tốt đẹp, những giá trị nhân văn được nhân rộng hơn lên trong thế giới này.  Cần rèn luyện thói quen chú tâm đọc một nội dung sâu sắc để trở thành người có khả năng thấu cảm tốt. Không nên đọc theo kiểu "mì ăn liền", nhất là đối với các tác phẩm văn học, bởi nó sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển trí tuệ, tư tưởng và tình cảm, cảm xúc của chúng ta. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng - phân - hợp...; sử dụng một hoặc một số thao tác lập luận trong số các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ,...; có lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày được suy nghĩ riêng của mình theo hướng làm rõ và khẳng định hoặc phủ định ý kiến: Trang 2


Hiện tại, việc thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học là việc ngày càng hiếm thấy trong đời sống đương đại.  Trước hết, cần làm rõ nội dung của ý kiến theo hướng: Ý kiến nêu một hiện tượng trong đời sống: hiện nay, ít người "thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học", thay vào đó là kiểu đọc "mì ăn liền" lướt qua các trang mạng.  Nếu lập luận theo hướng khẳng định ý kiến trên là đúng, cần nhấn mạnh: Thói quen đọc sách, nhất là sách văn học, đang bị mai một bởi sự phát triển như vũ bão của các phương tiện nghe nhìn có kết nối mạng internet; thay vì cầm sách, nhất là sách văn học để đọc, người ta thường đọc trên máy tính, máy tính bảng, điện thoại,... Hơn nữa, do nhịp sống hiện đại, người ta có xu hướng đọc những tác phẩm ngắn hoặc đọc lướt nội dung của văn bản để nắm được ý chính... Đây là một hiện tượng đáng lo ngại bởi cách đọc "mì ăn liền" ấy không thể giúp người ta có khả năng "thấu hiểu, cảm thông và nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ".

PR

O D

U

C TI O

N

 Nếu lập luận theo hướng phủ định ý kiến trên, cần nhấn mạnh: mặc dù việc đọc qua các phương tiện nghe nhìn có kết nối mạng internet đang diễn ra phổ biến và ở một phương diện nào đó vẫn là cần thiết, nhung trong thực tế chúng ta thấy những tác phẩm văn học có giá trị được in thành sách vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều người. Chúng ta vẫn bắt gặp hiện tượng những tác phẩm hay khi ra đời đã thu hút sự chú ý của rất nhiều độc giả, Harry Potter là một ví dụ. Không phải tất cả mọi người đều đã quay lưng với văn học đích thực. Vì thế, việc người ta có "thực sự đọc, chìm lắng vào một nội dung văn học" hay không phụ thuộc nhiều vào việc có hay không những tác phẩm văn học có giá trị.  Nếu lập luận theo hướng vừa khẳng định vừa phủ định ý kiến, cần kết hợp cả hai nội dung trên.

AN H

TU

Câu 2: Đề bài yêu cầu HS chọn và phân tích 01 đoạn thơ (từ 8 dòng trở lên) trong bài thơ Việt Bắc để làm sáng tỏ nhận định "Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà.". HS có thể chọn một trong các đoạn thơ sau:

TH

 Mình về mình có nhớ ta ... cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...  Mình đi, có nhớ những ngày ... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

YE

N

 Ta với mình, mình với ta ... Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

U

 Ta về, mình có nhớ ta... Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

G

Sau khi đã chọn đoạn thơ để phân tích, HS có thể trình bày bài viết theo định hướng sau:

N

a) Giới thiệu vài nét về tác giả: xem phần gợi ý ở Đề 4, Câu 2, phần Làm văn. b) Giải thích ý kiến: Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà:  Thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình với sự phong phú về vần và cách phối âm trầm bổng, nhịp nhàng, tạo nên giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha thiết - giọng của tình thương mến.  Lối kết cấu đối đáp trong ca dao, dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình, phù hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm của đoạn thơ nói riêng, bài thơ nói chung.  Chất liệu văn học và văn hoá dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng, linh hoạt, đặc biệt là ca dao trữ tình.  Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ) được sử dụng thích hợp, tạo nên phong vị dân gian và chất cổ điển của đoạn thơ và bài thơ. Trang 3


c) Giới thiệu đôi nét về hoàn cảnh sáng tác và đặc điểm chính về nghệ thuật và nội dung của bài thơ Việt Bắc: xem phần gợi ý ở Đề 4, Câu 2, phần Làm văn. d) Giới thiệu vị trí của đoạn thơ sẽ phân tích. e) Phân tích nghệ thuật biểu hiện trong đoạn thơ để thấy được thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà.  Dựa vào phần giải thích trên đây để hình thành ý. Với mỗi ý, cần tìm những căn cứ/ dẫn chứng phù hợp trong đoạn thơ và phân tích để làm sáng tỏ.  Tổng hợp: nêu nội dung của đoạn thơ (đặc điểm của hình tượng nghệ thuật và tình cảm, cảm xúc của tác giả gửi gắm trong đó). f) Nhận xét, đánh giá:

C TI O

N

 Đoạn thơ đã cho thấy tính dân tộc đậm đà trong nghệ thuật biểu hiện của thơ Tố Hữu rất phù họp với nội dung cảm xúc được thể hiện trong bài thơ.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

 Tính dân tộc đậm đà trong nghệ thuật biểu hiện tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ Việt Bắc nói riêng, thơ Tố Hữu nói chung.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 6 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ ĐỀ 6 I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

C TI O

N

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lí học Peter Salovey ở Đại học Yale và John Mayer ở Đại học New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc (Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient –

O D

U

EQ). Thực tế cho thấy, cảm xúc chỉ đạo trí thông minh có lẽ còn hơn cả logic toán học. Bằng phân tích cấu tạo của bộ não và các xung thần kinh, người ta đã chứng minh được lí trí, mà đại diện là trí thông minh,

PR

không có ở dạng thuần túy mà được nuôi dưỡng bởi cảm xúc, và chính phần neocortex (phụ trách suy luận

TU

trên não) là nhạc trưởng, nó chỉ đạo, phối hợp, kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa.

AN H

EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người. Hơn thế,

TH

nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao

N

do vậy dễ thích nghi, luôn tìm được sự hòa hợp trong một tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những

YE

"thiên tài đơn độc" (mà trong thời đại hiện nay, tính tập thể trong làm việc hết sức quan trọng). Sau đó, nhà

G

Intelligence.

U

tâm lí học Daniel Goleman xác định cụ thể và có hệ thông hơn trong tác phẩm của ông mang tên Emotional

N

EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thân kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ1 , mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai. [...] Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn”. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.

IQ: Intelligence Quotient, chỉ số thông minh, được cho là có liên quan đến sự thành công trong học tập, trong công việc, trong xã hội…

1

Trang 1


(EQ, SQ, CQ – những chỉ số của người thành đạt, dẫn theo http://www.vnexpress.net, ngày 23 – 8 – 2004) Câu 1. Chỉ ra 02 phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên. Câu 2. Theo đoạn trích, EQ thể hiện điều gì ở một con người? Câu 3. Cụm từ "chế ngự cảm xúc" trong câu: "Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc." được hiểu là gì? Câu 4. Anh/ Chị có đồng tình với quan điểm: "Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ" không? Vì sao? II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

N

Câu 1 (2,0 điểm)

C TI O

Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.

U

Câu 2 (5,0 điểm)

O D

Có ý kiến cho rằng: Trong tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Huấn Cao là nhân vật đáng ca

PR

ngợi, nhưng nhân vật quản ngục còn đáng ca ngợi hơn. Quan điểm của anh/ chị về ý kiến trên như thế nào?

TU

-------------------- HẾT --------------------

AN H

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

TH

Câu 1: 02 phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên là thuyết minh và nghị luận.

N

Câu 2: Theo đoạn trích, EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu

YE

hiểu người khác và khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc.

U

Câu 3: Cụm từ "chế ngự cảm xúc" trong câu "Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích

G

ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc." được hiểu là khả năng kìm giữ các cảm xúc bốc đồng của bản

N

thân, giữ được sự bình tĩnh, lạc quan ngay cả trong những khoảnh khắc/ tình huống khó chịu nhất. Câu 4: HS có thể đồng tình hoặc phản đối hoặc vừa đồng tình vừa phản đối quan điểm "Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ". Dựa vào phần giải thích về EQ và IQ, kết hợp với kinh nghiệm của bản thân để trả lời. Cần có lí giải cụ thể, hợp lí, có sức thuyết phục.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng – phân – hợp...; sử dụng một hoặc một số thao tác lập luận trong số các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ,...; có lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm báo quy tắc chính tả, Trang 2


dùng từ, đặt câu để trình bày được suy nghĩ riêng của mình theo hướng làm rõ và khẳng định hoặc phủ định ý kiến: Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. Tham khảo tư liệu sau để làm bài: IQ QUAN TRỌNG HAY EQ? Một số nghiên cứu khoa học cho thấy chỉ 25% số người thành công là có chỉ số IQ cao hơn trung bình... Việt là học sinh giỏi và rất thông minh. Cậu luôn có điểm số cao ở hầu hết các môn học và là người đứng đầu trong các kì thi. Tuy vậy, tính của Việt tự cao và khó gần. Khi ra trường, Việt được nhiều công ty mời chào nhưng kết quả của các cuộc phỏng vấn lại không khả

N

quan. Đã bảy năm kể từ khi ra trường, Việt vẫn chưa làm được những gì cậu mong muốn.

C TI O

Trái với Việt, thời còn đi học Hùng không phải là học sinh giỏi. Tuy nhiên, với tính cách hoà đồng, hay quan tâm giúp đỡ người khác, cậu rất được bạn bè quý mến và tin yêu. Khi ra trường, Hùng không có nhiều

U

lời mời phỏng vấn như Việt nhưng kết quả cậu cũng đã tìm được một công việc yêu thích.

O D

Hiện tại, với vị trí trưởng phòng kinh doanh, được ban lãnh đạo công ty tin cậy, đồng nghiệp và khách

PR

hàng quý mến, Hùng đang có một tương lai sáng sủa.

Trong cuộc sống, chúng ta gặp không ít những câu chuyện như vậy. Tại sao người ít thông minh lại

TU

thành công hơn người giỏi hơn mình? Có phải do họ may mắn, làm việc chăm chỉ, hay họ có những năng lực

AN H

đặc biệt? Thông minh và thông minh cảm xúc

TH

Trí thông minh được đo bằng hệ số IQ. IQ đo lường khả năng trí lực, năng lực học hỏi, khả năng hiểu và xử lí tình huống, năng lực tư duy logic, phản biện, sự nhạy bén trong suy nghĩ... Trí thông minh có thể được

YE

N

đo tổng quát trong mọi lĩnh vực và được đo theo từng lĩnh vực cụ thể. Thông minh cảm xúc được đo bằng hệ số cảm xúc EQ. EQ đo lường năng lực, khả năng hay kĩ năng của

N

người.

G

U

một người trong việc cảm nhận, đánh giá và quản lí cảm xúc của bản thân, của người khác hay của một nhóm Trong một thời gian dài, người ta dùng chỉ số IQ để tìm kiếm người tài vì tin rằng người có IQ cao sẽ có xác suất thành công cao hơn người khác. Tuy vậy, một số nghiên cứu khoa học lại cho thấy chỉ 25% số người thành công là có chỉ số IQ cao hơn trung bình. Nghĩa là chỉ số IQ không giải thích được sự thành công vượt trội của 75% số người còn lại. Kết quả nghiên cứu đã loại yếu tố về năng lực chuyên môn. Cuối cùng, những người nghiên cứu khẳng định rằng chỉ số EQ mới là yếu tố quyết định sự thành công trong cuộc sống và công việc của mỗi chúng ta. Năng lực cảm xúc trong môi trường làm việc Trong khi chỉ số thông minh ít khi thay đổi theo thời gian, thì chỉ số thông minh cảm xúc có thể được "học" và thay đổi vào bất cứ giai đoạn hay môi trường nào. Trang 3


Để thành công trong môi trường làm việc, ông Daniel Goleman – người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về EQ hiện nay đã đề xuất chúng ta phải có những năng lực xúc cảm cá nhân gồm: năng lực tự nhận biết bản thân, năng lực tự điều chỉnh, năng lực tạo động lực; và những năng lực thông minh xúc cảm xã hội gồm: năng lực thấu cảm với người khác và năng lực giao tiếp xã hội. Năng lực tự nhận biết cảm xúc bản thân giúp chúng ta biết rõ cảm xúc hiện tại của mình và giúp chúng ta nhận biết vai trò quan trọng của cảm xúc đối với kết quả công việc của mình. Biết tự đánh giá bản thân còn giúp chúng ta hiểu điểm mạnh, điểm yếu của mình, giúp chúng ta can đảm thể hiện những suy nghĩ chưa được chấp nhận và dám một mình theo đuổi cái đúng. Trong khi đó, năng lực tự điều chỉnh giúp chúng ta kìm giữ các cảm xúc bốc đồng của bản thân, giữ được sự bình tĩnh, lạc quan ngay cả trong những khoảnh

C TI O

N

khắc khó chịu nhất.

Đối với những người có năng lực tạo động lực, họ thường xem kết quả của công việc là thước đo cuối cùng cho sự thành bại. Chính vì thế họ luôn cố gắng phát triển bản thân và mong muốn vượt qua hay ít nhất

O D

U

đạt được những tiêu chuẩn hoàn hảo. Những cá nhân này luôn tìm thấy mục tiêu của bản thân trong mục tiêu của tập thể. Họ luôn chú ý đến giá trị, mục tiêu của tổ chức trước khi ra quyết định.

PR

Bên cạnh một số năng lực kể trên, có những người còn có khả năng thấu cảm người khác. Họ có thể cảm

TU

nhận, dự đoán được cảm xúc và hoàn cảnh của người khác, có khả năng bày tỏ sự quan tâm của mình một cách chủ động đối với người khác. Hoặc cũng có người có năng lực phát triển người khác. Họ có năng lực

AN H

cảm nhận được nhu cầu phát triển bản thân của người khác, sẵn sàng kèm cặp, hỗ trợ cho những người đó phát triển.

TH

Nói đến năng lực giao tiếp xã hội của một người, chúng ta có thê kế đến năng lực truyền đạt thông tin,

N

năng lực quản lí xung đột, năng lực lãnh đạo hay năng lực tạo sự thay đổi, năng lực hợp tác với người khác...

YE

Người có năng lực quản lí sự xung đột có khả năng "xử lí" những tình huống căng thẳng một cách êm

U

đẹp. Họ có khả năng thương thuyết và giải quyết những mối bất hoà, đưa ra giải pháp để hai bên cùng thắng.

G

Trong khi đó người có năng lực lãnh đạo sẽ tạo cảm hứng cho mọi người làm việc, làm cho họ tin và

N

hướng theo một tầm nhìn, một mục tiêu chung. Dù ở vị trí nào họ cũng sẵn sàng tiến lên để nhận lãnh trách nhiệm, họ tạo ảnh hưởng lên người khác bằng chính những hành động của mình. Còn người có năng lực hợp tác luôn tạo ra một môi trường làm việc vì mục đích chung, trong đó mọi người đều có cơ hội để phát triển. Đọc những điều vừa kể chắc hắn bạn cũng như tôi sẽ cảm nhận rằng những năng lực trên tuy nghe hết sức bình thường nhưng lại là những phẩm chất lí tưởng của mỗi cá nhân trong môi trường làm việc. Đó là những phẩm chất mà chúng ta mong muốn có cho bản thân mình cũng như cho sếp và đồng nghiệp. Đó cũng là chìa khoá mở cánh cửa thành công cho mọi người.

Trang 4


Dù ở độ tuổi nào, mỗi người đều có tiềm năng để phát triển những năng lực trên. Đừng quá ỷ lại vào trí thông minh, trình độ chuyên môn mà nên tập trung nhiều hơn đến việc phát triển chỉ số EQ, phát triển năng lực cảm xúc của bản thân trong môi trường làm việc. Từ từ, chúng ta sẽ nhận biết, quản lí bản thân tốt hơn, hiểu biết và giao tiếp với người khác hiệu quả hơn, và chắc chắn sẽ gặt hái nhiều thành công hơn trong công việc và cuộc sống. (Dẫn theo http://www.vneconomy.vn, ngày 14 – 6 – 2007) Câu 2: Đề bài yêu cầu HS bày tỏ suy nghĩ riêng của mình trong việc đánh giá hai nhân vật chính của truyện ngắn Chữ người tử tù. Lâu nay, người đọc vẫn thường ca ngợi Huấn Cao và coi đó là kết tinh của cái Đẹp. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ tác phẩm sẽ thấy: nhân vật quản ngục – dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân – cũng

C TI O

N

có những vẻ đẹp đáng trân trọng, thậm chí, có người còn cho rằng Huấn Cao đáng ca ngợi, nhưng nhân vật quản ngục còn đáng ca ngợi hơn. Bởi vẻ đẹp của Huấn Cao rất dễ nhận ra, còn vẻ đẹp của quản ngục – "cái thuần khiết", "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ" thì

O D

U

không phải ai cũng nhận thấy. Ngay cả Huấn Cao khi phát hiện ra "sở thích cao quý" của quản ngục cũng phải ngạc nhiên và trách mình "thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".

PR

HS có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng không đi sâu vào phân tích nhân vật Huấn Cao mà

TU

tập trung làm rõ vẻ đẹp của nhân vật viên quản ngục. Tham khảo dàn ý sau: a) – Giới thiệu tác giả, tác phẩm

AN H

– Khẳng định: trong tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Huấn Cao là nhân vật đáng ca ngợi,

– Nhân vật Huấn Cao:

YE

+ Tài hoa, nghệ sĩ;

N

b) Phân tích và chứng minh

TH

nhưng nhân vật quản ngục còn đáng ca ngợi hơn.

G

U

+ Có khí phách hiên ngang, bất khuất;

N

+ Có nhân cách trong sáng, cao cả. – Nhân vật viên quản ngục: Quản ngục (trong xã hội cũ) là một người coi tù – đại diện cho bộ máy cai trị hà khắc, tàn bạo của triều đình phong kiến. Xét về vị thế xã hội, quản ngục là kẻ thù của Huấn Cao – người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình. Tuy nhiên, viên quản ngục lại có những vẻ đẹp về tâm hồn và nhân cách, thể hiện qua cuộc gặp gỡ đặc biệt với Huấn Cao (các chỉ tiết khi nghe tin Huấn Cao sắp đến cùng đoàn tử tù, những xét đoán của quản ngục về thầy thơ lại, đêm cuối cùng trước ngày Huấn Cao ra pháp trường,...). Qua đó, có thể thấy: + Quản ngục là người có tâm hồn nghệ sĩ: say mê và quý trọng cái đẹp. + Quản ngục là người dũng cảm, không sợ cường quyền: biệt đãi một tử tù.

Trang 5


+ Quản ngục là người có phẩm chất trong sáng, tốt đẹp: sùng kính Huấn Cao — hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái "thiên lương" cao cả. c) Nhận xét: Huấn Cao là anh hùng trong thiên hạ nên ông có những tính cách "phi thường" là chuyện thường tình. Nhưng với quản ngục thì rất khác, đủ là quản ngục nhưng thực chất ông có khác gì một "người tù chung thân". Trong hoàn cảnh nhà tù, giữa chốn đầy tầy cái ác và sự vô nhân, việc giữ được sở nguyện cao quý, yêu và quý trọng cái tài, khát khao được thưởng thức cái đẹp là điều không dễ. Đặc biệt, việc sẵn sàng từ bỏ công việc và quyền lực đề "giữ thiên lương cho lành vững" càng cho thấy ông là người đáng nể trọng và ngợi ca. d) Đánh giá: Quản ngục là người đáng được ca ngợi. Qua việc xây dựng nhân vật này, Nguyễn Tuân đã

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

thể hiện quan điểm thẩm mĩ tiến bộ: tài và tâm, cái đẹp và cái thiện thống nhất làm một.

Trang 6


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 7 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

C TI O

N

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu

Kĩ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen ứng xử đọc. Các thao tác tư duy đó là:

O D

U

1. Lựa chọn có ý thức đề tài hoặc những vấn đề cần đọc cho bản thân, biết vận dụng thành thạo các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu đọc (tài liệu nghiên cứu, tài liệu phổ thông, tài liệu giải trí,…).

TU

PR

2. Biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân, trước hết trong các thư mục và mục lục thư viện, các nguồn tra cứu như: bách khoa thư, từ điển giải nghĩa, các loại sổ tay, cẩm nang,… và biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân trong môi trường số (trong các cơ sở dữ liệu, trên internet).

AN H

3. Thể hiện được tính hệ thống, tính liên tục trong quá trình lựa chọn tài liệu đọc (đọc từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ các vấn đề đơn giản tới phức tạp).

TH

4. Biết cách tiếp nhận tối đa và sâu sắc nội dung tài liệu đọc, kể cả vệ sinh tài liệu đọc như cách ngồi, khoảng cách giữa mắt và tài liệu đọc.

Biết vận dụng vào thực tiễn những nội dung đã đọc.

U

6.

YE

N

5. Biết vận dụng các biện pháp kĩ thuật để củng cố và đào sâu vào những nội dung đã đọc như ghi chép, lập hộp phiếu thư mục, soạn tóm tắt, viết chú giải, trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp,…

N

G

Mục đích cuối cùng của kĩ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc. Ngày nay người ta đặc biệt lưu tâm tới yếu tố thứ 6: biết vận dụng những nội dung đã đọc vào cuộc sống của mỗi người đọc để có thể cải thiện được chính cuộc sống của họ. Không phải vô cớ mà hằng năm UNESCO trao giải thưởng xóa mù chữ cho những cá nhân, tập thể không chỉ biết đọc biết viết đơn thuần, mà phải biết vận dụng những điều đọc được vào cuộc sống của chính họ, cải thiện được cuộc sống nghèo khổ của người mù chữ. (Văn hóa đọc và phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam, Dẫn theo http://www.nlv.gov.vn)

Trang 1


Câu 1: Nội dung chính của đoạn trích trên là gì? Câu 2: Theo đoạn trích, thế nào là “kĩ năng đọc”? Câu 3: Theo anh/chị, vì sao người viết lại đưa vào đoạn trích hoạt động của UNESCO: “hằng năm UNESCO trao giải thưởng xóa mũ chữ cho những cá nhân, tập thể không chỉ biết đọc biết viết đơn thuần, mà phải biết vận dụng những điều đọc được vào cuộc sống của chính họ, cải thiện được cuộc sống nghèo khổ của người mù chữ”? Câu 4: Nêu tên một số cuốn sách hay mà anh/chị đã đọc; chỉ ra ít nhất 01 điều mà anh/chị đã vận dụng được từ việc đọc cuốn sách đó vào cuộc sống của bản thân. II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

N

Câu 1 (2,0 điểm):

U

C TI O

Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Ngày nay người ta đặc biệt lưu tâm tới yếu tố thứ 6: biết vận dụng những nội dung đã đọc vào cuộc sống của mỗi người đọc để có thể cải thiện được chính cuộc sống của họ.

O D

Câu 2 (5,0 điểm):

TU

PR

Trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng), mâu thuẫn trào phúng được đẩy lên đến đỉnh điểm ở cảnh hạ huyệt. Hãy phân tích một số chi tiết trong cảnh này để làm sáng tỏ điều đó.

AN H

-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

TH

Câu 1: HS có thể trả lời theo những cách sau: Kĩ năng đọc;

-

Các thao tác tư duy của kĩ năng đọc;

-

Kĩ năng đọc có hiệu quả.

U

YE

N

-

N

G

Câu 2: Theo đoạn trích, kĩ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen ứng xử đọc. Câu 3: Người viết đưa vào đoạn trích hoạt động của UNESCO: “hằng năm… người mù chữ” để làm minh chứng cho quan điểm của mình: “Mục đích cuối cùng của kĩ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc”, chứng tỏ quan điểm của mình là đúng đắn, có cơ sở thực tế. Câu 4: HS cần nêu tên cuốn sách hay mà mình đã đọc và chỉ ra ít nhất 01 điều đã vận dụng được từ việc đọc cuốn sách đó vào cuộc sống của bản thân. Điều vận dụng phải hợp lí, có sức thuyết phục. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng – phân – hợp…; sử dụng một hoặc một số thao tác lập luận trong số các thao tác giải thích, phân tích chứng minh, bình luận, bác bỏ…; có lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo Trang 2


quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày được suy nghĩ riêng của mình theo hướng thể hiện sự đồng tình hoặc phản đối ý kiến: Ngày nay người ta đặc biệt lưu tâm tới yếu tố thứ 6: biết vận dụng những nội dung đã đọc vào cuộc sống của mỗi người đọc để có thể cải thiện được chính cuộc sống của họ. - Nếu lập luận theo những hướng đồng tình, cần nhấn mạnh: Mỗi tài liệu đọc đều đưa đến cho người đọc những tri thức, kĩ năng mới mẻ, bổ ích về tự nhiên, xã hội… Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc nhận biết những tri thức và kĩ năng ấy thì chưa đủ, người đọc cần phải vận dụng những tri thức, kĩ năng ấy vào thực tiễn để cải thiện cuộc sống, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Muốn vậy, cần rèn luyện kĩ năng đọc.

Nếu lập luận theo hướng vừa đồng tình, vừa phản đối ý kiến, cần kết hợp cả hai nội dung trên.

O D

-

U

C TI O

N

- Nếu lập luận theo hướng phản đối, cần nhấn mạnh các tài liệu đọc hầu như chỉ cung cấp các kiến thức lí thuyết, nhiều kiến thức không phù hợp hoặc lạc hậu so với thực tiễn. Hơn nữa, không phải ai cũng có thể tiếp cận với những nguồn tài liệu bổ ích hoặc có khả năng phê phán/thẩm định tài liệu. Trong thời đại ngày nay, có quá nhiều tài liệu đọc không rõ nguồn gốc, nội dung chưa được kiểm duyệt, nhất là rên các trang mạng xã hội, các trang web. Đó là một kho vàng nhưng cũng chưa những “ổ bệnh”, đầy rẫy hiểm nguy. Vì vậy, sẽ là rủi ro khi người đọc vận dụng tất cả những nội dung đã đọc vào cuộc sống.

PR

Câu 2: Có thể tham khảo gợi ý sau:

AN H

TU

a) Cách quan sát, miêu tả của Vũ Trọng Phụng trong phần cuối đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (từ “Đến huyệt, lúc hạ quan tài” đến hết) rất đặc sắc. Ở đây, mâu thuẫn trào phúng được đẩy lên đến đỉnh điểm. Chi tiết nào cũng có ý nghĩa trong việc làm nổi bật mâu thuẫn ấy. HS có thể chọn một số chi tiết sau để phân tích:

N

TH

(1) Đến huyệt, lúc hạ quan tài, cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mà khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau.

N

G

U

YE

(2) Xuân Tóc Đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc to “Hứt!...Hứt!...Hứt!...” […] Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng lòe xòe, ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi. _ Hứt!...Hứt!...Hứt!... (3) Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư…Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy, rồi đi tìm sư cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ. b) Phân tích cụ thể - Với chi tiết (1), cần làm rõ tác dụng của bút pháp tự dự kết hợp với miêu tả, sử dụng biện pháp liệt kê, cách sử dụng các từ láy như luộm thuộm, bắt bẻ, rầm rộ để làm nổi bật hình ảnh cậu tú Tân, những người bạn của cậu và cả đám con cháu của cụ cố tổ trong giây phút hạ huyệt. Thông thường, giây phút “tử biệt sinh li” ấy, đám con cháu của người chết khóc than để bày tỏ niềm thương tiếc đối với người đã mất, nhưng ở đây đám con cháu bất hiếu của cụ cố tổ tuy trong lòng đang rất vui sướng, Trang 3


hạnh phúc nhưng lại cố tình “tạo dáng” ra vẻ đau đớn. Không những thế, bạn bè của tú Tân còn rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau (trong khi đó, việc nhảy hay trèo lên mồ mả là việc cấm kị). Tất cả những việc làm đó thể hiện thói đạo đức giả, hợm hĩnh, rởm đời của xã hội tư sản thành thị đương thời.

C TI O

N

- Với chi tiết (2), HS nên tập trung phân tích hình ảnh ông Phán mọc sừng: khóc to “Hứt!...Hứt!...Hứt!...”; khóc quá, muốn lặng đi; dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng lòe xòe, ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi. Dưới ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, tiếng khóc của ông Phán rất lạ, có thể nói là có một không hai. Khi ông ta khóc, những âm thanh vô nghĩa bật ra khiến người nghe chẳng những không cảm thấy bùi ngùi cảm động mà còn thấy buồn cười. Và chắc chắn, tiếng khóc đó không đi kèm với những giọt nước mắt tiếc thương người quá cố. Nó như là tiếng khóc sung sướng (bởi cái chết của cụ cố tổ đã mang lại “hạnh phúc” cho cả một “tang gia”, trong đó có ông). Niềm hạnh phúc bất ngờ khiến cho ông Phán “muốn lặng đi”, “cứ oặt người đi” vì sung sướng. Và tiếng khóc ấy cũng là một cách để ông ta gây sự chú ý đối với mọi người, bởi ai cũng biết để “tang gia” có được niềm “hạnh phúc” này, công của ông Phán mọc sừng là rất lớn.

TH

AN H

TU

PR

O D

U

- Với chi tiết (3), Vũ Trọng Phụng tiếp tục đẩy mâu thuẫn trào phúng của đoạn trích lên đến đỉnh điểm khi “ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy, rồi đi tìm sư cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ”. Nếu như ở chi tiết (2), ông Phán còn “khóc quá”, “muốn lặng đi”, “cứ oặt người đi” để gây sự chú ý của mọi người thì đến chi tiết này, ta không còn thấy “dáng điệu đau đớn” ấy của ông ta nữa. Thay vào đó là hành động trả ơn kịp thời đối với người có công mang lại “hạnh phúc” cho cả “một tang gia” – Xuân Tóc Đỏ. Hành động “dúi” “cái giấy bạc năm đồng gấp tư” vào tay Xuân Tóc Đỏ cho thấy việc làm tưởng như sòng phẳng song rất mờ ám của ông Phán. Nhưng Xuân Tóc Đỏ cũng mờ ám không kém khi hắn “nắm tay cho khỏi có người nom thấy”. Hắn đã được ông Phán thanh toán thêm một khoản tiền trong “phi vụ hợp đồng làm ăn” với ông này, và để qua đám tang cụ tổ mà càng thêm danh tiếng: “Ông cụ già chết, danh dự của Xuân lại càng to thêm”.

N

c) Đánh giá:

N

G

U

YE

Tóm lại, chỉ bằng những chi tiết trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã chộp được những khoảnh khắc rất “thần” trong cảnh hạ huyệt, qua đó vạch trần bản chất đạo đức giả, hợm hĩnh, rởm đời của những người đi đưa ma, trong đó nhà văn đã miêu tả cận cảnh những đứa con, đứa cháu bất hiếu của người chết để thấy “hạnh phúc của một tang gia” và cả những người ngoài tang quyến một cách trọn vẹn. Và khi đó, tiếng cười trào phúng được bật lên sảng khoái nhất nhưng cũng đau đớn nhất.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 8 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Trước khi các em nghĩ đến chuyện bay cao bay xa, hãy tập làm bất cứ thứ gì, có thế cả những thứ chẳng có ý nghĩa gì chứ không phải chỉ là những điều các em thích hay cho là quan trọng. Đừng bực bội vì những việc mà các em không tin tưởng, vì như thế các em sẽ cảm thấy nhàm chán chính bản thân mình, cũng đừng đem bản thân so sánh một cách lệch lạc với những người như Baltimore Orioles1. Hãy giết chết cảm giác tự mãn và dễ dàng thoả hiệp, cảm giác mọi thứ dường như đều có lí hay cảm giác tự bằng lòng trong trạng thải tinh thần u mê. Hãy làm cho bản thân xứng đáng với những gì mà các em đang cố gắng. Và hãy đọc, đọc mọi lúc, đọc như một nguyên tắc của bản thân và như một cách để tôn trọng chỉnh mình. Coi việc đọc như nguồn sống của cuộc đời. Hãy phát triển và bảo vệ một giá trị đạo đức bằng cách đưa ra các lập luận để chấp nhận nó. Hãy mơ những giấc mơ vĩ đại. Hãy làm việc cật lực. Hãy nghĩ cho bản thân mình. Hãy yêu tất cả những thứ các em thích và những người các em cảm mến bằng tất cả tấm lòng của mình. Và hãy làm tất cả những điều đó, như thể các em đang bị thúc giục, mỗi giây mỗi phút, từng chút một. Hãy tin bữa tiệc nào rồi cũng tàn nhưng các em đừng bao giờ tham gia vào một cuộc vui khi đã đến lúc tàn, cho dù buổi chiều hôm nay có rực rỡ đến thế nào.

YE

N

(David McCullough, Bài phát biểu tại buổi lễ tốt nghiệp trường trung học Wellesley, dẫn theo http://www.ehapu.edu.vn, ngày 5-6-2012)

U

Câu 1: Đoạn trích trên chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt nào?

G

Câu 2: Theo anh/chị, David McCullough muốn nhắn gửi điều gì qua câu: “Trước khi các em nghĩ đến

N

chuyện bay cao bay xa, hãy tập làm bất cứ thứ gì, có thể cả những thứ chẳng có ý nghĩa gì chứ không phải chỉ là những điều các em thích hay cho là quan trọng”? Câu 3: Anh/Chị hiểu câu: “Coi việc đọc như nguồn sống của cuộc đời” như thế nào? Câu 4: Anh/Chị có đồng tình với quan điểm của tác giả: “Hãy nghĩ cho bản thân mình” không? Vì sao? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): “Hãy mơ những giấc mơ vĩ đại” (David McCullough) - Nên hay không nên? Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm của anh/chị về vấn đề trên.

1

Baltimore Orioles: Một đội bóng chày chuyên nghiệp của Mỹ có trụ sở tại Baltimore Maryland.

Trang 1


Câu 2 (5,0 điểm): Trong đoạn trích Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm), “các chất liệu của văn hoá dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích” (dẫn theo Ngữ văn 12, tập một, Sđd, tr.123). Anh/Chị hãy chọn và phân tích 01 đoạn thơ trong đoạn trích Đất Nước để làm sáng tỏ ý kiến trên. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Đoạn trích chủ yếu sử dụng phương thức nghị luận.

N

Câu 2: HS trình bày cách hiểu riêng của mình. Câu trả lời cần hợp lí, có sức thuyết phục.

O D

U

C TI O

Tham khảo hướng trả lời sau: Theo David McCullough, các em đừng vội nghĩ đến việc làm những chuyện to lớn hay những việc mình thích hoặc cho là quan trọng, mà hãy làm từ những việc nhỏ nhất, thậm chí cả những việc chẳng có ý nghĩa gì, để thử sức mình, để tích luỹ kinh nghiệm, từ đó biết được đâu là điểm mạnh, điểm yếu của bản thân để xác định hướng đi cho cuộc đời mình. Câu 3: HS trình bày cách hiểu riêng của mình. Câu trả lời cần hợp lí, có sức thuyết phục.

TU

PR

Tham khảo hướng trả lời sau: “Coi việc đọc như nguồn sống của cuộc đời” nghĩa là coi sách và việc đọc sách (để giải trí, để tích luỹ tri thức, để bồi dưỡng nhân cách...) là cơ sở để tồn tại, là cách nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi người. Nguồn sống tinh thần này cũng quan trọng không kém nguồn sống vật chất nuôi dưỡng cơ thể con người. Tham khảo các hướng trả lời sau:

AN H

Câu 4: HS trình bày quan điểm riêng của mình. Câu trả lời cần hợp lí, có sức thuyết phục.

G

U

YE

N

TH

- Nếu đồng tình với quan điểm “nghĩ cho bản thân mình”, cần lập luận theo hướng: mọi việc mình làm trước hết phải vì mình, mình xứng đáng được hưởng những thành quả do mình cố gắng làm ra. Một người không biết nghĩ cho bản thân mình thì khó có thể nghĩ cho người khác, khó có thể sống vì người khác; cũng như vậy, một người không biết thương mình thì cũng khó thương người khác (tục ngữ Việt Nam có câu “thương người như thể thương thân”). Hơn nữa, chỉ khi biết mình cần những gì thì mới thấu hiểu được mong muốn của người khác, từ đó mới có thể giúp đỡ được người khác.

N

- Nếu phản đối, cần lập luận theo hướng: mặt trái của việc “nghĩ cho bản thân mình” là lối sống ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết nghĩ cho mình, chăm lo lợi ích riêng của mình, không quan tâm và chia sẻ với người khác. - Nếu vừa đồng tình, vừa phản đối: kết hợp hai cách lập luận trên. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: Viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng - phân - hợp,...; sử dụng một trong các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ,... hoặc kết họp các thao tác này; lí lẽ và dẫn chứng họp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính lả, dùng từ, đặt câu để bày tỏ quan điểm của bản thân về: “Hãy mơ những giấc mơ vĩ đại” - Nên hay không nên? - Nếu HS cho là nên, cần lập luận theo hướng: “Hãy mơ những giấc mơ vĩ đại” là hãy nghĩ đến và khao khát làm được những việc lớn lao. Những suy nghĩ và khao khát đó sẽ trở thành động lực để chúng ta đạt được những điều mà mình mong muốn. - Nếu HS cho là không nên, cần lập luận theo hướng: “Hãy mơ những giấc mơ vĩ đại” là hãy nghĩ đến Trang 2


và khao khát làm được những việc lớn lao. Nhưng nếu “giấc mơ” đó quá sức, không hoặc thiếu cơ sở thực hiện sẽ dễ rơi vào hoàn cảnh “lực bất tòng tâm” (không có sức để theo đuổi ý định); dễ thất bại; ước mơ không thành hiện thực khiến chúng ta dễ rơi vào tuyệt vọng và thất vọng về bản thân. - Nếu HS cho là vừa nên, vừa không nên: cần kết hợp hai cách lập luận trên. Câu 2: Đề bài yêu cầu HS chọn và phân tích 01 đoạn thơ trong đoạn trích Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khảt vọng của Nguyễn Khoa Điềm) để làm sáng tỏ nhận định: “các chất liệu của văn hoá dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích”. HS nên chọn một đoạn thơ khoảng 8 dòng thơ trở lên để phân tích. Chẳng hạn, có thể chọn một trong các đoạn thơ sau: - Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi... Đất Nước có từ ngày đó...

C TI O

- Những người vợ nhớ chồng... Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...

N

- Đất là nơi anh đến trường... Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Có thể trình bày theo định hướng sau:

a) Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích Đất Nước.

TU

PR

O D

U

- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, cùng với các tên tuổi tiêu biểu khác như Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Bằng Việt, Thanh Thảo, Xuân Quỳnh... Những nhà thơ này đã đem đến một tiếng nói mới cho thơ ca Việt Nam hiện đại, mở rộng chất liệu của hiện thực đời sống, gia tăng sức khái quát, chiều sâu suy nghĩ cùng những suy tư, trải nghiệm về chiến tranh.

AN H

Thơ Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.

U

YE

N

TH

- Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca Mặt đường khát vọng trong không khí nở rộ của thể loại này. Tác phẩm được viết năm 1971, in lần đầu năm 1974. Đây cũng là giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, là giai đoạn ác liệt nhất đòi hỏi sức mạnh tổng lực cho chiến thắng, trong đó lực lượng giữ vai trò quan trọng là thế hệ trẻ. Hiện thực ấy đã làm nảy sinh nhu cầu được khái quát, tổng kết về những bước đi thần kì của dân tộc. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng bị tạm chiếm ở miền Nam, nói rộng ra là sự ý thức của tuổi trẻ miền Nam về nhân dân, đất nước, sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

N

G

- Đoạn trích Đất Nước thuộc chương V của tác phẩm, là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. b) Giải thích ý kiến: “các chất liệu của văn hoá dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích”: “chất liệu của văn hoá dân gian” chính là các câu ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, truyện cổ tích, phong tục tập quán... mà nhân dân ta đã sáng tạo nên từ bao đời nay. Những “chất liệu” đó được Nguyễn Khoa Điềm sử dụng một cách tự nhiên (“nhuần nhị”), sáng tạo (không sao chép nguyên văn mà lấy ý, lấy tứ, mượn cách nói...), đem lại sức hấp dẫn cho nội dung của các câu thơ - cũng chính là tư tưởng của nhà thơ trong đoạn trích. c) Giới thiệu vị trí của đoạn thơ sẽ phân tích và nêu khái quát nội dung của đoạn thơ đó. d) Phân tích đoạn thơ để làm sáng tỏ ý kiến. Khi phân tích, cần tìm ra “chất liệu văn hoá dân gian” và chỉ ra sự vận dụng tự nhiên, sáng tạo của tác giả; từ đó, đánh giá ý nghĩa, tác dụng của chất liệu ấy trong việc thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Trang 3


e) Nhận xét, đánh giá - Đoạn thơ nói riêng và đoạn trích Đất Nước nói chung đã sử dụng nhuần nhị, sáng tạo các chất liệu của văn hoá dân gian, gợi ấn tượng vừa quen thuộc, vừa mới lạ.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

- Đó là đóng góp riêng của nhà thơ về nghệ thuật biểu đạt. Đó cũng là biểu hiện của tính dân tộc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 9 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu:

C TI O

N

QUÁN HÀNG PHÙ THUỶ Một phù thuỷ Mở quán hàng nho nhỏ

U

“Mời vào đây

Phù thuỷ ló ra nhìn:

PR

AN H

“Anh muốn gì?”

TU

Tôi là khách đầu tiên Từ bên trong

O D

Ai muốn mua gì cũng có!”

TH

“Tôi muốn mua tình yêu,

Mua hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn...”

N

“Hàng chúng tôi chỉ bán cây non (K. Badjadjo Pradip - Thái Bá Tân dịch)

G

U

YE

Còn quả chín, anh phải trồng. Không bán!”

N

Câu 1: Bài thơ trên có sự kết hợp những phương thức biểu đạt nào? Câu 2: Câu nói “Mời vào đây/ Ai muốn mua gì cũng có!” cho thấy điều gì ở phù thủy? Câu 3: Mong muốn của vị khách “Tôi muốn mua tình yêu,/ Mua hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn...” cho thấy vị khách là người như thế nào? Câu 4: Anh/ Chị có đồng tình với quan điểm của phù thủy ở hai câu thở cuối bài không? Vì sao? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung của bài thơ Quán hàng phù thủy ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Làm thế nào để có hạnh phúc? Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích vai trò của nhân vật thị Nở trong cuộc đời của Chí Phèo và trong truyện ngắn Chí Phèo của Trang 1


nhà văn Nam Cao. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Bài thơ trên có sự kết hợp giữa phương thức biểu cảm và tự sự. Câu 2: Câu nói “Mời vào đây/ Ai muốn mua gì cũng có!” cho thấy phủ thuỷ là người có quyền năng vô hạn, có thể đáp ứng tất cả các nhu cầu, mong muốn của “khách hàng”.

C TI O

N

Câu 3: Mong muốn của vị khách: “Tôi muốn mua tình yêu,/ Mua hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn..." cho thấy vị khách là người đang khao khát có được những điều tốt đẹp nhất trên đời này như tình yêu, hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn,... Song, cũng có thể hiểu vị khách - trong tình huống này - là một người khá khôn ngoan và hóm hỉnh, đang muốn “thử” xem phù thuỷ có khả năng đáp ứng tất cả các nhu cầu, mong muốn của “khách hàng” hay không.

PR

O D

U

Câu 4: Trước hết, HS cần nêu được quan điểm của phù thuỷ ở hai câu thơ cuối bài: Tình yêu, hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn như những thứ “quả chín” mà quán hàng phù thuỷ lại chỉ bán “cây non”. Muốn có được những thứ “quả chín” ấy thì “khách hàng” phải bỏ thời gian, công sức để “trồng”, chăm sóc những cái “cây non” lớn lên, đơm hoa, kết quả. Ngay cả phù thuỷ - người có quyền năng vô hạn cũng không thể tạo ra những giá trị ấy.

TU

Sau đó, HS bày tỏ sự đồng tình hoặc phản đổi quan điểm đó của phù thuỷ. Câu trả lời cần hợp lí, có sức thuyết phục.

AN H

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

YE

N

TH

Câu 1: HS cần nắm được nội dung tư tưởng của bài thơ Quán hàng phù thuỷ (được thể hiện rõ nhất trong lời nói của phù thuỷ ở hai câu thơ cuối bài - xem lại phần gợi ý ở Câu 4 - phần Đọc hiểu). Từ đó, viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng - phân – hợp,...; sử dụng một trong các thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ... hoặc kết hợp các thao tác này; lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Làm thế nào để có hạnh phúc?

U

Trả lời các câu hỏi sau để tìm ý cho bài viết:

G

- Có những quan niệm như thế nào về “hạnh phúc”?

N

- Với anh/ chị, hạnh phúc là gì? - Hạnh phúc sẽ mang đến cho cuộc sống của anh/ chị những giá trị nào? - Anh/ Chị làm thế nào để có được hạnh phúc? Câu 2: Với đề bài này, HS cần vận dụng thao tác phân tích để xem xét và đánh giá vai trò của nhân vật thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) trên 2 bình diện: vai trò của thị Nở với cuộc đời của Chí Phèo và vai trò của thị Nở đối với toàn bộ thiên truyện này của Nam Cao. Thực chất là trả lời các câu hỏi: Nếu không có thị Nở thì cuộc đời Chí Phèo sẽ thế nào? Và nếu không có nhân vật thị Nở thì truyện ngắn Chỉ Phèo sẽ ra sao, mất đi ý nghĩa gì? Tham khảo một số gợi ý sau: a) Giới thiệu tác phẩm Trang 2


- Truyện ngắn Chí Phèo được Nam Cao viết năm 1941 để phản ánh hiện thực về con người và cuộc sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Bức tranh hiện thực mà Nam Cao phản ánh trong truyện vô cùng phong phú với những mối quan hệ phức tạp, chồng chéo, vừa gắn bó phụ thuộc vào nhau lại vừa mâu thuẫn, xung đột với nhau. Cả một hệ thống các nhân vật hiện lên hết sức sinh động và đa dạng đã giúp nhà văn bộc lộ cách nhìn và thể hiện ý đồ tư tưởng - nghệ thuật của mình. - Trong truyện ngắn Chí Phèo, thị Nở tuy chỉ là một nhân vật phụ song lại có vai trò rất quan trọng trong cấu trúc hình thức cũng như ý nghĩa nội dung của toàn tác phẩm. Thử giả định nếu không có nhân vật thị Nở thì truyện ngắn Chí Phèo sẽ thế nào? b) Phân tích vai trò của nhân vật thị Nở - Giới thiệu khái quát về nhân vật thị Nở:

O D

U

C TI O

N

+ Ngoại hình: thị Nở thuộc loại nhân vật cá biệt, nhân vật xấu xí, dị dạng - một loại nhân vật được xây dựng khá nhiều trong những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cũng như những nhân vật khác thuộc loại này, thị Nở được ngòi bút của Nam Cao đặc tả thật khách quan, trần trụi để hiện lên như là nơi hội tụ của tất cả những gì kém cỏi, xấu xí nhất ở cõi người: một người dở hơi, ngẩn ngơ và xấu ma chê quỷ hờn...

PR

+ Phẩm chất: Trong sâu thẳm nhân vật có một tấm lòng mà nhiều người dân làng Vũ Đại không có: tình thương người và niềm khát khao hạnh phúc.

TU

- Vai trò của nhân vật thị Nở: + Vai trò của thị Nở đối với cuộc đời của Chí Phèo:

TH

AN H

 Nếu không có thị Nở, cuộc đời Chí sẽ cô đơn mãi mãi, không ai gần gũi, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn; không có ai chăm sóc lúc ốm đau và rất có thể Chí đã chết sau cái đêm say rượu ấy nếu không có thị Nở chăm sóc với bát cháo hành đầy tình thương...

U

YE

N

 Không gặp thị Nở, làm sao Chí Phèo có một lần tỉnh rượu, để nghe và cảm nhận được âm thanh cuộc sống đời thường; để cùng một lúc hắn nhận ra hai sự thật khủng khiếp: một là hắn đã mất hết nhân cách (thành con quỷ dữ làng Vũ Đại), hai là hắn muốn quay trở lại làm người lương thiện cũng không được nữa (bị cự tuyệt quyền làm người).

N

G

 Chính vì nhận ra hai sự thật ấy mà Chí phẫn uất muốn trả thù, vì muốn trả thù nên phải uống cho say và vì thế dẫn đến bi kịch cuối cùng: đâm chết bá Kiến và tự vẫn. Như thế, thị Nở chính là chất xúc tác để đẩy nhanh Chí đến phản ứng tự sát, kết thúc cuộc đời kể đã tạo ra hắn vả cũng lả để kết thúc cuộc sống của “con quỷ dữ” làng Vũ Đại. Có thể thấy thị Nở đóng một vai trò rất lớn trong cuộc đời của Chí Phèo. + Vai trò của nhân vật thị Nở đối với tác phẩm Chí Phèo:  Về cốt truyện: sự xuất hiện của nhân vật thị Nở là một bước ngoặt quan trọng để thúc đẩy cốt truyện phát triển đến cao trào, thể hiện xung đột và kết thúc tác phẩm. Không có thị Nở, Chí Phèo cứ say triền miên như thế, cứ mãi mãi sống kiếp lưu manh như thế... câu chuyện về cuộc đời Chí sẽ ra sao, và truyện không biết sẽ kết thúc thế nào.  Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, chi tiết: Nhờ có thị Nở mà Nam Cao thể hiện được tài năng khắc hoạ nhân vật từ ngoại hình đến nội tâm, đồng thời cũng nhờ nhân vật thị Nở mà tính cách của Chí Phèo (nhân Trang 3


vật trung tâm) được làm rõ và khắc sâu thêm, để Chí trở thành một nhân vật điển hình đúng nghĩa. Trong việc xây dựng nhân vật thị Nở, Nam Cao đã sáng tạo được một số chi tiết độc đáo và giàu ý nghĩa (như chi tiết bát cháo hành chẳng hạn).  Về nội dung tư tưởng: Nhờ có nhân vật thị Nở mà Nam Cao thể hiện được sâu sắc tư tưởng nhân đạo của mình: tố cáo xã hội; thể hiện sự thông cảm, xót xa cho những thân phận thấp hèn; bênh vực và đòi quyền sống, quyền yêu đương cho cả những con người tưởng đã bị vứt ra bên lề của cuộc sống đời thường. c) Đánh giá

C TI O

N

- Mục đích của Nam Cao khi xây dựng nhân vật thị Nở không phải để miệt thị, hạ thấp con người mà trước hết là để làm nổi bật tính chất bi thảm trong bi kịch cuộc đời của Chí Phèo; làm nổi bật những giá trị nhân đạo sâu sắc với cái nhìn của riêng ông; thể hiện một quan niệm rất hiện đại về hai chữ “con người”: không có con người hoàn toàn thánh thiện, cũng không có con người hoàn toàn xấu xa, con người hiện diện với tất cả sự phức tạp của những mặt đối lập.

PR

O D

U

- Nhân vật thị Nở được xây dựng như một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên một tình huống đặc biệt của truyện (cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo - thị Nở) và thúc đẩy quá trình diễn biến của tác phẩm. Trong tình huống truyện ấy, cả hai nhân vật đều bộc lộ trọn vẹn những gì tốt đẹp bấy lâu nay bị che khuất. Trong diễn biến cốt truyện Chí Phèo, sự hiện diện của thị Nở một mặt tạo cho truyện cái ý vị trữ tình đặc biệt qua sự toả sáng của tình thương, tình người, mặt khác tạo ra bước ngoặt cho mạch truyện khiến chủ đề tư tưởng của tác phẩm trở nên sáng rõ.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

- Xây dựng nhân vật thị Nở, Nam Cao đã bổ sung thêm một phần hiện thực về cuộc sống bi thảm của người phụ nữ nông thôn và thể hiện sâu sắc tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 10 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

O D

U

C TI O

N

Theo kết quả khảo sát gần đây của Trung tâm Hỗ trợ và tư vấn tâm lí (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), có đến 65,4% sinh viên thứ nhất tại một số trường đại học chưa hiểu hết về mục đích, ý nghĩa của ngành mình học; 50,8% không biết học xong sẽ làm việc gì và nơi nào tuyển dụng họ. Khi được hỏi về mức độ thỏa mãn với nghề đã chọn, có đến 75,6% sinh viên cho biết họ ít thỏa mãn với sự lựa chọn của mình, “vào học rồi mới biết mình không hợp”; 32,4% sinh viên muốn được thi lại vào năm sau... Kết quả này cho thấy có nhiều bạn trẻ không chọn đúng nghề như mong muốn.

PR

Những sai lầm chủ quan trong việc lựa chọn ngành học thường bắt đầu từ quan niệm mang nặng tính thực dụng: Ngành này có dễ xin việc làm, có thu nhập cao, có được làm việc ở thành phố hay không?

AN H

TU

Sai lầm có thể đến với người chọn nghề theo truyền thống gia đình, theo sự thành đạt của người thân, theo sự rủ rê của bạn bè... mà không quan tâm đến sự phù hợp của nghề đối với năng lực, nguyện vọng bản thân. Thậm chí, nhiều thí sinh không tự chọn ngành, chọn nghề để đăng kí thi đại học mà người lựa chọn, người làm hồ sơ chính là bố mẹ của thí sinh.

N

TH

Ngoài ra, một sai lầm phổ biến nữa là chọn nghề hời hợt theo kiểu “nước đến chân mới nhảy”. Nhiều học sinh đến năm lớp 12 vẫn chưa tìm hiểu và chưa quyết định chọn nghề. Bởi vậy, có khá nhiều thí sinh nộp 4, 5 bộ hồ sơ, thậm chí có người đã nộp 9-13 bộ để “chống trượt”.

U

YE

Việc chọn sai nghề khiến bản thân khó phát huy năng lực, giảm năng suất và hiệu quả lao động, từ đó dẫn tới tâm lí chán nản, thất vọng, thiếu tự tin, mất dần động lực làm việc.

N

G

Lúc ấy, nếu muốn bắt đầu với nghề khác thì phải chịu tốn kém, mất thời gian học nghề mới... Đối với xã hội, việc có nhiều cá nhân lựa chọn sai nghề sẽ gây lãng phí cho công tác đào tạo và đào tạo lại, năng suất lao động không cao, nảy sinh nhiều xáo trộn cho hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức (có nhiều người bỏ nghề, chuyển nghề). (Nhã Anh, 3/4 sinh viên chọn nhầm ngành học, dẫn theo http://www.petrotimes.vn, ngày 16 – 4 – 2013) Câu 1: Nội dung chính của đoạn trích trên là gì? Câu 2: Những con số được nêu ra ở phần đầu của đoạn trích cho thấy điều gì? Câu 3: Anh/ Chị có đồng tình với quan điểm: “Việc chọn sai nghề khiến bản thân khó phát huy năng lực, giảm năng suất và hiệu quả lao động, từ đó dẫn tới tâm lí chán nản, thất vọng, thiếu tự tin, mất dần động lực làm việc.” không? Vì sao? Câu 4: Anh/ Chị hãy rút ra cho mình 02 bài học trong việc lựa chọn ngành học hoặc công việc trong Trang 1


tương lai. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung của đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông – Nên hay không nên? Câu 2 (5,0 điểm): Bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh) là những lời giãi bày của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. Lời giãi bày nào của nhà thơ khiến anh/ chị thấy ấn tượng hơn cả? Hãy chọn và phân tích 01 đoạn thơ (từ 8 dòng thơ trở lên) thể hiện lời giãi bày ấy.

C TI O

N

-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

O D

U

Câu 1: HS có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật nội dung chính của đoạn trích: phản ánh tình trạng sinh viên chọn nhầm ngành học, nguyên nhân và những tác hại của tình trạng đó.

PR

Câu 2: Những con số được nêu ra ở phần đầu của đoạn trích cho thấy “có nhiều bạn trẻ không chọn đúng nghề như mong muốn”; tỉ lệ sinh viên chọn nhầm ngành học là rất lớn.

AN H

TU

Câu 3: Quan điểm “Việc chọn sai nghề khiến bản thân khó phát huy năng lực, giảm năng suất và hiệu quả lao động, từ đó dẫn đến tâm lí chán nản, thất vọng, thiếu tự tin, mất dần động lực làm việc” nêu lên tác hại của việc chọn sai nghề/ nhầm ngành của sinh viên. HS có thể đồng tình hoặc phản đối (hoặc vừa đồng tình, vừa phản đối) quan điểm này.

YE

N

TH

- Nếu đồng tình, cần lập luận theo hướng: Chọn sai nghề/ nhầm ngành có nghĩa là người học đã không chọn ngành/ nghề phù hợp với năng lực, nguyện vọng, sở thích của mình, do đó, khi làm nghề sẽ không phát huy được năng lực, không có động lực làm việc, chán nản, thiếu tự tin dẫn đến giảm năng suất và hiệu quả lao động.

N

G

U

- Nếu phản đối, cần lập luận theo hướng: Học sinh Trung học phổ thông chưa có nhiều kinh nghiệm sống, chưa được tư vấn nhiều về chọn nghề, vì thế rất dễ chọn sai nghề/ nhầm ngành. Chỉ khi biết mình chọn sai nghề/ nhầm ngành, người học mới nhận ra năng lực, sở trường, sở thích thật sự của mình, do đó sẽ tìm một nghề/ ngành khác phù hợp hơn; từ việc biết mình chọn sai nghề/ nhầm ngành, người học sẽ rút ra cho mình những kinh nghiệm bổ ích trong việc chọn ngành nghề; hơn nữa, cuộc sống và xã hội luôn thay đổi, một người có thể sẽ phải thay đổi nhiều lần ngành nghề cho phù hợp với sự phát triển của bản thân và xã hội. HS có thể lập luận theo hướng khác nhưng phải chặt chẽ, hợp lí. - Nếu vừa đồng tình, vừa phản đối, HS có thể kết hợp cả hai hướng lập luận trên hoặc theo hướng khác nhưng phải chặt chẽ, hợp lí, không trái với các chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Câu 4: HS rút ra được cho mình 02 bải học trong việc lựa chọn ngành học hoặc công việc tương lai. Tham khảo các hướng trả lời sau: xác định đúng năng lực, sở trường của bản thân; nhờ cha mẹ, thầy cô và những người có kinh nghiệm tư vấn về việc lựa chọn nghề nghiệp; tìm hiểu kĩ càng về đặc điểm và yêu cầu của ngành nghề mình định lựa chọn; tìm hiểu kĩ về nhu cầu lao động ở lĩnh vực ngành nghề mà mình lựa chọn trong tương lai; không lựa chọn ngành nghề theo tâm lí đám đông... Trang 2


II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS cần nắm được nội dung của đoạn trích ở phần Đọc hiểu (phản ánh tình trạng sinh viên chọn nhầm ngành học, nguyên nhân và những tác hại của tình trạng đó). Từ đó, viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng – phân – hợp,...; sử dụng một trong các thao tác lập luận, giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ,... hoặc kết hợp các thao tác này; lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông – Nên hay không nên? Trả lời các câu hỏi sau để tìm ý cho bài viết: -

Thế nào là định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông?

-

Thực trạng của việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông ở Việt Nam?

-

Có nên định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông hay không?

C TI O

N

+ Nếu có thì mục đích của việc làm này là gì? Làm thế nào để việc định hướng ấy có hiệu quả? + Nếu không thì vì sao?

O D

U

Câu 2: Đề bài yêu cầu HS làm rõ ý kiến: Bài thơ “Sóng” (Xuân Quỳnh) là những lời giãi bày của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. Từ đó, chọn 01 đoạn thơ (từ 8 dòng thơ trở lên) thể hiện một lời giãi bày mà mình thấy ấn tượng hơn cả và phân tích lời giãi bày ấy.

PR

HS có thể chọn một trong các đoạn thơ sau: Dữ dội và dịu êm... Bồi hồi trong ngực trẻ.

-

Trước muôn trùng sóng bể... Khi nào ta yêu nhau.

-

Con sóng dưới lòng sâu... Hướng về anh – một phương.

AN H

TU

-

Tham khảo định hướng bài làm sau đây:

YE

N

TH

a) Giới thiệu vài nét về tác giả: Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một người phụ nữ vừa giàu tình yêu thương, vừa hồn nhiên; vừa tươi tắn, vừa chân thành; vừa đằm thắm, mãnh liệt và đầy khao khát, vừa luôn âu lo về sự phai tàn, đổ vỡ cùng những dự cảm về bất trắc, chia lìa,...

G

U

- Dù viết về tình yêu lứa đôi hay tình yêu Tổ quốc, về thế giới trẻ thơ hồn nhiên, trong trắng hay về những quan hệ nhân sinh muôn vẻ, thơ Xuân Quỳnh vẫn nổi bật ở vẻ đẹp nữ tính.

N

b) Giới thiệu vài nét về bài thơ - Bài thơ Sóng được viết năm 1967 trong một chuyến đi công tác ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Trước khi Sóng ra đời, nhà thơ đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. - Bài thơ được viết vào thời kì cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ đang diễn ra ác liệt song bom đạn chiến tranh không làm thay đổi nhịp đập của trái tim người phụ nữ khi yêu. Có thể nói, bài thơ như một bông hoa tình yêu nở “dọc chiến hào” trong những năm đánh Mĩ. - Sóng là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh, hội tụ nhiều nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của tác giả. Bài thơ được coi là những lời giãi bày của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. c) Giải thích ý kiến ”Bài thơ “Sóng” là những lời giãi bày của một tâm hồn phụ nữ đang yêu” theo hướng: bài thơ là những lời bộc bạch, thổ lộ của một tâm hồn phụ nữ đang yêu về khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt. Trang 3


d) Giới thiệu vị trí của đoạn thơ sẽ phân tích và nêu khái quát nội dung chính/ lời giãi bày của nhà thơ qua đoạn thơ đó. e) Phân tích đoạn thơ đã chọn đề làm nội bật lời giãi bày của nhà thơ.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

g) Nhận xét, đánh giá về đoạn thơ trong việc góp phần thể hiện cảm hứng chủ đạo của tác phẩm và tạo nên cách thể hiện riêng của Xuân Quỳnh về đề tài tình yêu đôi lứa.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 11 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

O D

U

C TI O

N

Nói chung, sách có 2 loại, sách nền tảng và sách kĩ năng. Đọc sách kĩ năng (kĩ năng sống, kĩ năng hành xử, kĩ năng làm việc...) thì cũng rất tốt và cần thiết, nhưng sẽ tốt hơn nhiều nếu đọc sách văn hóa, sách khai minh (để hình thành bản tính bên trong, phần gốc rễ) rồi mới đọc sách kĩ năng (để hoàn thiện hành xử bên ngoài, phần cành lá). Như cuốn “Đắc nhân tâm”, hồi trẻ thì tôi rất thích thú cuốn này, nhưng sau này tôi không thích lắm, vì nó khác nhiều với tinh thần cốt lõi của “giáo dục khai phóng và con người tự do” mà tôi theo đuổi.

YE

N

TH

AN H

TU

PR

Tôi nghĩ, thay vì cố tìm cách học những thủ thuật hay chiêu trò để lấy lòng hay thuyết phục người khác thì con người ta cần nâng tầm vóc văn hóa của mình lên, làm giàu lương tri và phẩm giá của mình, khi đó chỉ cần sống đúng với con người của mình (sống thực, sống tự do), không cần dùng bất cứ chiêu trò hay mẹo vặt nào mà vẫn được người khác tôn trọng, quý mến và tin tưởng. Ngược lại, nếu mình chỉ học toàn những thủ thuật, chiêu trò, mánh khóe, mẹo vặt để lấy lòng người khác mà bản tính bên trong con người mình lại không ra gì thì về lâu dài sẽ rất nguy hiểm cho chính mình và cho xã hội. Bởi lẽ, với những thủ thuật tinh vi học được thì có thể giúp mình thành công nhất thời, nhưng dần dà mình sẽ tự biến mình thành kẻ hai mặt (bản tính bên trong khác hẳn hành vi bên ngoài), còn xã hội với nhiều con người như vậy sẽ sụp đổ niềm tin và ngày một trở nên dối trá hơn. Do vậy, người đọc khôn ngoan sẽ đi vào những cuốn sách “tu thân” mang trong mình những giá trị khai minh tiến bộ chứ không chỉ những cuốn sách thiên về chiêu trò, mánh khóe. (Giản Tư Trung, Sách hay mang những giá trị vượt không gian và thời gian,

G

U

dẫn theo http://www.tramdoc.vn)

N

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên là gì? Câu 2: Điểm khác nhau cơ bản giữa sách nền tảng và sách kĩ năng? Câu 3: Dựa vào đoạn trích, anh/ chị hiểu thế nào là “người đọc khôn ngoan”? Câu 4: Chia sẻ một kinh nghiệm khác của riêng anh/ chị về việc đọc sách. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Đọc sách nền tảng trước, đọc sách kĩ năng sau là một lựa chọn thông minh. Ý kiến của anh/ chị như thế nào? Trình bày trong 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ). Câu 2 (5,0 điểm): Số phận và vẻ đẹp của nhân vật Mị trong trích đoạn truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) -------------------- HẾT -------------------Trang 1


HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là nghị luận. Câu 2: HS chỉ ra điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại sách: - Sách kĩ năng chủ yếu dạy cách hành xử, cách làm việc, kĩ năng sống (kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng lãnh đạo...) ... tóm lại là cách vận dụng kiến thức để giải quyết hiệu quả các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. - Sách nền tảng hướng tới cung cấp các tri thức về thế giới, cuộc sống và con người, qua đó giúp người đọc nhận thức về bản thân, nâng tầm hiểu biết, hoàn thiện nhân cách....

N

HS có thể trình bày bằng ngôn ngữ của mình hoặc trích dẫn những từ ngữ trong đoạn trích.

C TI O

Câu 3: HS tham khảo một số ý sau: Người đọc khôn ngoan là:

U

- Người đọc tập trung đọc sách văn hóa, sách khai minh (để hình thành bản tính bên trong, phần gốc rễ) rồi mới đọc sách kĩ năng (để hoàn thiện hành xử bên ngoài, phần cành lá).

PR

O D

- Là người đọc “những cuốn sách “tu thân” mang trong mình những giá trị khai minh tiến bộ” chứ không chỉ “những cuốn sách thiên về chiêu trò, mánh khóe”.

TU

Tóm lại, có thể nói, người đọc khôn ngoan là người đọc các sách chú trọng bồi dưỡng về tâm hồn, tư tưởng, tình cảm và nhân cách trước khi học hỏi các thủ thuật, kĩ xảo, mánh khóe... Câu 4: HS có thể chia sẻ một trong những kinh nghiệm khác về việc đọc sách. Ví dụ như: Đọc sách phải có phương pháp mới hiệu quả;

-

Đọc sách hằng ngày như một thói quen;

-

Đọc sách và ghi chép để thực hành, vận dụng trong học tập, làm việc;

-

Đọc sách và trao đổi với người khác về cuốn sách đã đọc...

N

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

TH

AN H

-

N

G

U

YE

Câu 1: HS cần nêu rõ quan điểm của mình về ý kiến: Đọc sách nền tảng trước, đọc sách kĩ năng sau là một lựa chọn thông minh; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng – phân – hợp; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Có thể lập luận theo các hương sau: - Đồng tình với ý kiến: cần giải thích thế nào là sách kĩ năng, sách nền tảng; lấy ví dụ cụ thể tên một vài cuốn sách theo từng loại đó; cần lập luận theo hướng khẳng định mỗi loại sách có tác dụng khác nhau; đáp ứng những mục đích khác nhau của người đọc. Nếu chỉ đọc một loại sách nào đó, người đọc có thể thiếu hụt về kiến thức, văn hóa hoặc cách ứng xử, kĩ năng làm việc. Vấn đề là chọn đọc loại sách nào trước? Đọc sách nền tảng trước để chuẩn bị những tri thức cơ bản, cốt lõi cho bản thân một cách bền vững; sau đó mới đọc sách kĩ năng để có cách vận dụng kiến thức tổng hợp vào cuộc sống một cách uyển chuyển, linh hoạt, hiệu quả. Phải có kiến thức trước rồi mới có thể rèn luyện kĩ năng. Do đó, đọc sách nền tảng trước, đọc sách kĩ năng sau là cách lựa chọn thông minh. - Phản đối ý kiến: lập luận cần theo hướng để thành công trong công việc, tại thời điểm cụ thể, trong tình huống, bối cảnh nhất định, người đọc có thể chỉ cần học nhanh những kĩ năng, kĩ xảo để thực hiện công Trang 2


việc đó bằng cách đọc sách kĩ năng; không nhất thiết lúc nào cũng phải đọc sách nền tảng với kiến thức chuyên sâu trước. Việc chọn đọc loại sách nào trước phải linh hoạt; có mục đích rõ ràng và có phương pháp đọc hiệu quả. -

Vừa đồng tình, vừa phản đối: kết hợp hai cách lập luận trên.

Câu 2: Viết 01 bài văn nghị luận, có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận: số phận éo le, khổ đau và vẻ đẹp của lòng ham sống, khát vọng hạnh phúc ở nhân vật Mị trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; có sáng tạo trong diễn đạt, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Có thể trình bày theo định hướng sau:

N

a) Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

C TI O

- Tô Hoài là nhà văn có công “khai phá” vùng đất Tây Bắc xa xôi, nơi địa đầu Tổ quốc trong văn học cách mạng. Ở đề tài cuộc sống con người vùng Tây Bắc, Tô Hoài đã thể hiện rõ hứng thú và sở trường của một “nhà văn phong tục” khi tái hiện sống động bức tranh thiên nhiên và đời sống con người vùng núi cao.

TU

PR

O D

U

- Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn thuộc tập Truyện Tây Bắc viết sau chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài năm 1952. Đây là truyện đọng lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc, ấn tượng hơn cả; có lẽ trước tiên là do nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng Mị - linh hồn của tác phẩm. Mị là cô gái có thân phận khổ đau, tiêu biểu cho số phận con người lao khổ miền Tây Bắc dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến, thực dân nhưng vẫn mang một vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng sức sống vươn lên để vượt thoát khỏi cuộc đời tăm tối, nô lệ. -

AN H

b) Phân tích số phận và vẻ đẹp của nhân vật Mị Số phận éo le, đau khổ:

N

G

U

YE

N

TH

+ Sự khổ đau của thân phận: Số phận của Mị đã được hé lộ ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Bằng 2 câu văn với loạt động từ mô tả hoạt động đã thành quán tính của cô gái (quay sợi, thái cỏ, dệt vải, chẻ củi, cõng nước), nhà văn đã cho thấy nỗi đau khổ trĩu nặng mà người con gái này phải mang. Và những công việc hằng ngày cứ như những vòng quay nghiệt ngã, đè nặng lên tuổi trẻ của cô khiến cô không ngẩng đầu lên được, lúc nào “cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. + Sự éo le của số phận: Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà giàu. Bố Mị nghèo không có đủ tiền cưới mẹ Mị, phải đến vay nhà thống lí, mỗi năm đem nộp lãi một nương ngô, đến tận khi hai vợ chồng già rồi cũng chưa trả hết nợ. Rồi Mị bị bắt cóc về làm vợ A Sử, con trai thống lí, để trả nợ cho cha mẹ. + Nỗi đau đớn về tinh thần: Nỗi đau khổ của Mị không chỉ là bị bóc lột sức lao động, bị coi như một công cụ lao động trong tay nhà giàu, một cái máy làm việc, không bằng con trâu, con ngựa mà là sự cầm tù về tinh thần. Nỗi đau đớn này được nhà văn thể hiện bằng một chi tiết đắt giá: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Cái buồng giam oan nghiệt ấy đã giết dần giết mòn cảm giác về thời gian, mài mòn giác quan vốn tinh nhạy của tuổi trẻ, hút kiệt sức sống ở cô gái Mông xinh đẹp đang tuổi xuân thì; khiến Mị “nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen Trang 3


khổ rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”... Quá trình người nông dân miền núi bị nô lệ hóa được Tô Hoài miêu tả hết sức cụ thể, sống động và truyền cảm bằng lối trần thuật đều đều, chậm rãi, với những câu văn dài, như chở nặng nỗi buồn của cả người trong cuộc lẫn người chứng kiến – người kể chuyện. + Đánh giá: Số phận của Mị tiêu biểu cho số phận của người phụ nữ chịu nhiều đau khổ dưới chế độ thực dân phong kiến miền núi. Cũng như nhiều nhân vật người lao động trong văn học trước Cách mạng tháng Tám (chị Dậu, Chí Phèo, anh Pha...), Mị không chỉ khổ vì miếng cơm manh áo, Mị còn khổ vì những hủ tục, những định kiến nặng nề trong xã hội cũ. Tiếp nối cảm hứng nhân văn của văn học cổ điển, Tô Hoài đã làm mới hình tượng nhân vật nữ bằng những chi tiết rất “đời”, rất “miền cao”. -

Vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng trong Mị:

O D

U

C TI O

N

+ Vẻ đẹp của cô gái Mông khỏe mạnh, chăm chỉ lao động: Mị đã từng nhận sẽ cuốc nương làm ngô trả nợ thay cho bố để bố đừng bán cô cho nhà giàu. Là người con gái xinh đẹp, tài hoa, nhiều khát vọng, có mối tình đầu đẹp đẽ, Mị chan chứa tình yêu tự do, yêu lao động, yêu cuộc sống của những con người vùng cao. Mị là niềm mơ ước của các chàng trai: Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo; Tết đến “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Mị như bông hoa rừng hương sắc nồng nàn, quyến rũ. + Vẻ đẹp tâm hồn đầy sức sống:

TU

PR

 Mị đã từng vì không muốn chấp nhận phận làm dâu gạt nợ mà ăn lá ngón tự tử. Chỉ vì thương cha mà từ bỏ ý định. Lần thứ hai Mị muốn chết để thoát cảnh làm vợ A Sử vì Mị thấy bất công quá, “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”... Khi còn chủ động muốn tìm đến cái chết, khi ấy lòng ham sống của Mị chưa bị hủy diệt hoàn toàn.

YE

N

TH

AN H

 Lòng ham sống ấy đã bùng lên mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân ở rẻo cao. Mị nghe tiếng sáo, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một cách khác thường, Mị nhớ lại ngày trước, Mị thấy phơi phới trở lại, rồi Mị muốn đi chơi. Và khi trái tim tưởng đã hóa đá của Mị bắt đầu thổn thức những nhịp đập bản năng của cô gái trẻ thèm khát một tình yêu, một hạnh phúc đích thực, nó đã thôi thúc cô hành động. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bò thêm vào đĩa đèn cho sáng, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa... Những hành động nhanh, dồn dập diễn tả những thôi thúc của nội tâm.

N

G

U

 Lòng ham sống của Mị đã bùng lên mãnh liệt trong đêm cứu A Phủ: Nhìn thấy dòng nước mắt chảy trên má A Phủ, Mị nhớ lại mình ngày trước cũng bị trói đúng như thế, nước mắt chảy xuống mà không lau đi được. Tâm trạng “giật mình mình lại thương mình xót xa” của Mị đã được tác giả miêu tả rất chân thực, logic. Đây là phép biện chứng tâm hồn của ngòi bút Tô Hoài. Từ cảm giác thương mình đến nỗi thương người, Mị ý thức rất rõ về kiếp sống nô lệ của mình. Và Mị đã thức tỉnh. Mị cắt dây trói cho A Phủ rồi chạy vụt theo anh vì “Ở đây thì chết mất”. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã cắt dây trói vô hình buộc đời cô vào nhà thống lí. c) Nhận xét, đánh giá: - Nhà văn đã khắc họa số phận và vẻ đẹp của nhân vật Mị bằng bút pháp hiện thực, giàu chất thơ. Qua nhân vật Mị, nhà văn thể hiện cái nhìn nhân đạo mới mẻ về số phận người phụ nữ vùng cao. - Với nhân vật Mị, tác phẩm Vợ chồng A Phủ xứng đáng là một trong những viên gạch đầu tiên ghi dấu ấn riêng của Tô Hoài trên mảnh đất của bộ phận văn học viết về cuộc sống, con người và thiên nhiên miền núi Tây Bắc. Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 12 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu

O D

U

C TI O

N

Ngày Hạnh phúc được lấy ý tưởng từ Bhutan, một vương quốc bé nhỏ nằm sâu trong lục địa miền đông Himalayas, là nước được đánh giá là có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên các yếu tố về môi trường, tinh thần, mức sống của người dân, chất lượng quản lí, sức khoẻ và giáo dục. Đây là đất nước ghi nhận uy thế của hạnh phúc quốc gia hơn là thu nhập quốc dân từ những năm đầu tiên của thập kỉ 70, thế kỉ XX và nổi tiếng với việc thực thi mục tiêu tổng hạnh phúc quốc gia thay vì tổng sản phẩm quốc nội.

PR

Ngày Quốc tế Hạnh phúc được Liên hợp quốc lựa chọn và tuyên bố vào tháng 6 - 2012. 193 nước thành viên, trong đó có Việt Nam, cùng cam kết sẽ ủng hộ ngày này bằng các nỗ lực nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng xã hội công bằng, phát triển bền vững nhằm đem lại hạnh phúc cho người dân.

TH

AN H

TU

Liên hợp quốc chọn ngày 20 - 3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc bởi đây là một ngày đặc biệt trong năm, mặt trời nằm ngang đường xích đạo, độ dài của đêm và ngày bằng nhau, là biểu tượng cho sự cân bằng, hài hoà của vũ trụ, cũng là biểu tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sắng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực... Bởi vậy ngày 20 - 3 - Ngày Quốc tế Hạnh phúc, cũng truyền tải thông điệp: cân bằng, hài hoà là một trong những chìa khoá của hạnh phúc. (Tổng hợp từ Internet)

N

Câu 1: Ở vương quốc Bhutan, chỉ số hạnh phúc được đánh giá dựa trên các yếu tố nào?

YE

Câu 2: Vì sao Liên hợp quốc chọn ngày 20-3 hằng năm làm Ngày Quốc tế Hạnh phúc?

G

U

Câu 3: Từ đoạn trích trên anh/ chị hiểu mối quan hệ giữa thu nhập quốc dân với chỉ số hạnh phúc như thế nào?

N

Câu 4: Một quan niệm khác của anh/ chị về hạnh phúc. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Anh/ Chị có ý kiến như thế nào về quan niệm được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: "cân bằng, hài hoà là một trong những chìa khoá của hạnh phúc"? Trình bày ý kiến của mình trong 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ). Câu 2 (5,0 điểm): Màu sắc Tây Bắc trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT Trang 1


I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Ở vương quốc Bhutan, chỉ số hạnh phúc được đánh giá dựa trên các yếu tố về môi trường, tinh thần, mức sống của người dân, chất lượng quản lí, sức khoẻ và giáo dục. Câu 2: HS nêu được 2 lí do:  Ngày 20 - 3 là một ngày đặc biệt trong năm, mặt trời nằm ngang đường xích đạo, độ dài của đêm và ngày bằng nhau, là biểu tượng cho sự cân bằng, hài hoà của vũ trụ; cũng là biểu tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực.  Đặc điểm của ngày 20-3 liên quan đến quan niệm về hạnh phúc là cân bằng, hài hoà, "cân bằng, hài hoà là một trong những chìa khoá của hạnh phúc."

C TI O

N

Câu 3: HS nêu được ý: thu nhập quốc dân có ảnh hưởng (tạo điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục...) nhưng không phải là yếu tố quyết định hạnh phúc của người dân. Thu nhập quốc dân không tỉ lệ thuận vói chỉ số hạnh phúc. Câu 4: HS có thể nêu một quan niệm riêng của mình về hạnh phúc, ví dụ như:  Hạnh phúc là có một gia đình yên ấm, hoà thuận;

U

 Hạnh phúc là được yêu thương, chia sẻ;

O D

 Hạnh phúc là được sống thật với chính mình và với người khác;

PR

 Hạnh phúc là được cống hiến, làm những việc có ý nghĩa. II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

TH

Sau đây là một hướng giải quyết:

AN H

TU

Câu 1: HS cần nêu rõ quan điểm của mình về ý kiến "cân bằng, hài hoà là một trong những chìa khoá của hạnh phúc"; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng - phân - hợp; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.  Khẳng định: cân bằng, hài hoà là chìa khoá - yếu tố then chốt mở ra cánh cửa của hạnh phúc.

YE

N

 Cân bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần; hài hoà trong các mục tiêu phát triển xã hội sẽ đem đến cuộc sống thực sự đáng sống cho mỗi người dân.

N

G

U

 Nếu phá vỡ sự cân bằng, hài hoà, con người sẽ khó có được cuộc sống an vui, bình yên (tăng trưởng kinh tế quá nhanh ở một số nước dẫn tới môi trường sống của con người bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến chất lượng sống...). Câu 2: Viết 01 bài văn nghị luận, có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận: màu sắc Tây Bắc trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; có sáng tạo trong diễn đạt, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Có thể trình bày theo định hướng sau: a) Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:  Tô Hoài là nhà văn sinh ra ở Hà Nội, nhưng thiên nhiên và cuộc sống của con người miền núi lại là đề tài đem lại cho ông nhiều thành công. Ở mảnh đất ấy, hứng thú và sở trường của một "nhà văn phong tục" đã có cơ hội thăng hoa. Trang 2


 Bằng vốn hiểu biết qua những chuyến đi thực tế thâm nhập đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi và tài năng văn chương xuất sắc, Tô Hoài đã sáng tạo nên những tác phẩm đặc sắc, mang đậm màu sắc Tây Bắc mà tiêu biểu nhất là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (trích từ tập Truyện Tây Bắc). Màu sắc Tây Bắc thấm đẫm tác phẩm, làm nên sức hấp dẫn riêng của truyện ngắn này. b) Màu sắc Tây Bắc trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài biểu hiện trước tiên ở những trang văn miêu tả đời sống con người, những cuộc đời, số phận nhân vật với những phong tục tập quán riêng. Từ tên gọi đến chân dung ngoại hình, hành động... mỗi nhân vật dù là chính diện hay phản diện đều toát lên bản sắc khó trộn lẫn của người dân vùng cao Tây Bắc. Mị, A Phủ, thống lí Pá Tra, A Sử,... mỗi nhân vật có một diện mạo riêng, cuộc đời, thân phận khác nhau nhưng đều in đậm dấu ấn một vùng đất với văn hoá, phong tục riêng.

C TI O

N

 Mị là cô gái Mông xinh đẹp, có tài thổi sáo rất hay, được bao nhiêu chàng trai theo đuổi. Mị cũng đã có người yêu. Một cô gái như vậy đáng lẽ phải sống cuộc đời hạnh phúc, song những hủ tục của người Mông đã giết chết hạnh phúc của Mị. Cha mẹ Mị từ hồi cưới nhau đã vay tiền nhà thống lí Pá Tra để làm lễ cưới, mỗi năm nộp một nương ngô cho nhà thống lí. Vậy mà đến khi mẹ Mị mất, tiền nợ vẫn chưa trả xong.

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

Tô Hoài rất khéo léo đưa những tập tục của người Mông vào trong tác phẩm, từ đám cưới của cha mẹ Mị đến đám cưới của Mị, tục bắt vợ, tục cúng trình ma,... A Sử và người nhà thống lí Pá Tra dựa vào quyền thế đã lợi dụng những tập tục ấy bày ra những hành động ti tiện bắt Mị về ép duyên để gạt nợ, biến những ngày tháng còn lại của Mị trở thành cơn ác mộng. Tình cảnh của Mị chính là minh chứng tố cáo mãnh liệt nhất bọn cường hào cho vay nặng lãi. Nạn cho vay nặng lãi khiến cho bao nhiêu người nghèo phải phụ thuộc, cột chặt số phận vào chúa đất. Làm bao nhiêu năm, chăm chỉ cật lực cũng không trả hết nợ, Mị phải về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, thân phận thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa. Lúc đầu Mị còn có ý thức phản kháng, Mị khóc ròng mấy tháng liền, đêm nào cũng khóc, thậm chí còn định ăn lá ngón tự tử. Vì lòng hiếu thuận, vì nghĩ cha mình đã già, đến chết vẫn không yên, vẫn mang cái nợ lớn trên đầu nên Mị mới thôi. Ý thức phản kháng, sức trẻ của Mị đã tiêu tan chỉ vì ý nghĩ: mình đã bị đem trình ma thì có chết cũng trở thành ma của nhà thống lí Pá Tra. Cũng kể từ đó, Mị không còn biết đến năm tháng, đêm ngày nữa. Một cô gái tài năng, tràn đầy sức sống, đẹp cả về tâm hồn lẫn thể chất vậy mà giờ đây chỉ còn như một cái bóng, một cái xác không hồn, lầm lũi như con rùa trong xó cửa.

N

G

U

Thân phận nô lệ tủi nhục của Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ miền núi dưới ách cai trị của chế độ phong kiến miền núi Tây Bắc. Họ là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, của xã hội phong kiến thực dân tàn bạo, vô nhân đạo, chà đạp quyền sống, cướp đi quyền được hưởng hạnh phúc của con người.  A Phủ là một thanh niên khoẻ mạnh, cường tráng, chăm chỉ nhưng lại rất nghèo. Hoàn cảnh của A Phủ cũng là hoàn cảnh của rất nhiều người Mông khác: nghèo khổ, không có ruộng nương, bị bọn quan lang, thống lí bắt chẹt và trở thành nô lệ. Nhiều cô gái ước ao lấy được A Phủ. Thế nhưng vì dũng cảm đánh nhau với A Sử khi hắn đến phá đám chơi tết nên A Phủ bị bắt về làm đứa ở cho nhà thống lí. Tô Hoài đã phản ánh một tập tục nữa của người Mông, đó là tục phạt vạ, một tục lệ hết sức vô nhân đạo nhưng đã trở nên quá quen thuộc với tất cả đồng bào Mông. A Phủ bị đánh, bị bắt làm việc một cách cưỡng bức song cũng không có cách nào phản kháng lại được. Vì dường như tất cả những chuyện này là điều hiển nhiên tất yếu. A Phủ chính là nhân vật điển hình cho tầng lớp nông nô ở vùng cao Tây Bắc.  Thống lí Pá Tra và A Sử là hai nhân vật đại diện cho thế lực phong kiến chúa đất tàn bạo ở miền cao Tây Bắc, không từ một thủ đoạn nào để bóc lột tận cùng sức lao động của người dân, làm giàu trên mồ hôi, Trang 3


xương máu của người lao động. Không chỉ bóc lột sức lao động của người dân lương thiện, chúng còn đày đọa tinh thần, bóp nghẹt lòng ham sống của họ. Cách A Sử bắt cóc Mị giữa đêm tình mùa xuân khi cô đang rạo rực khát vọng yêu đương; cách A Sử tàn nhẫn trói Mị vào cột khi cô lấy váy hoa chuẩn bị đi chơi; cách hắn trói A Phủ khi anh để mất bò; những câu nói lạnh lùng của hắn... tất cả đều được Tô Hoài miêu tả chính xác, hấp dẫn khiến chân dung nhân vật toát lên vẻ riêng của một tầng lớp người ở vùng cao Tây Bắc.

C TI O

N

c) Truyện sẽ mất đi sức sống tự nhiên khi nhân vật của Tô Hoài không được đặt trong một bầu không khí đậm màu sắc Tây Bắc. Đó là bức tranh thiền nhiên đặc trưng của vùng núi cao khi mùa xuân đến: "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội...". Đó là cảnh "trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ". Đặc biệt là cái không khí rạo rực, ăm ắp sức xuân qua những cảnh "đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...". Tóm lại, cùng với bức tranh thiên nhiên đa sắc, biến ảo là những tập tục, những cảnh sinh hoạt đậm màu sắc vùng cao: trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa, cảnh người Mèo Đỏ "thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong", rồi cảnh "trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy".

AN H

TU

PR

O D

U

d) Nhà văn sử dụng ngôn ngữ đời thường, tự nhiên, mang màu sắc dân tộc vùng cao rõ nét: lối kể chuyện theo hơi hướng cổ tích ngay từ mở đầu truyện "Ai ở xa về..."; lối so sánh theo kiểu vật hoá (Mị "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa"...); lối độc thoại nội tâm, nhập sâu vào thế giới tinh thần của Mị để suy tư bằng giọng của người phụ nữ Mông bộc trực, thật thà, hồn nhiên, mộc mạc ("Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!", "Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế.")...

N

G

U

YE

N

TH

e) Nhận xét, đánh giá: sắc màu Tây Bắc đậm đà trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là kết quả của những quan sát tinh tường sau chuyến thực tế của nhà văn Tô Hoài tại vùng rẻo cao Tổ quốc; thể hiện tấm lòng của nhà văn với mảnh đất, con người Tây Bắc và tài năng văn chương độc đáo.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 13 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Hãy lắng nghe! Cuộc cách mạng thông tin đã bao phủ thế giới bằng những thiết bị. Bạn có thể bắt được sóng điện thoại di động ở giữa châu Phi hay gửi thư điện tử cho bạn bè từ máy tính xách tay trong khi đang bay qua Đại Tây Dương. Công nghệ thật tuyệt vời, nhưng cùng với nó là cái giá phải trả: rác điện tử.  Rác điện tử là loại rác thải tăng nhanh nhất trên toàn thế giới. Và nó cũng không phải là loại rác "tốt". Màn hình máy tính chứa chì. Pin chứa liti. Và đến lượt kẽm, đồng, thuỷ ngân chảy đầy trong bộ phận điện tử của các máy móc hiện đại. Đốt những thứ này sẽ làm ô nhiễm bầu không khí của chúng ta. Khi bị quẳng vào đống rác, các độc tố sẽ thấm vào đất làm nhiễm bẩn đất trồng và nguồn nước ngầm. Một vấn đề nghiêm trọng. Khoảng 130 triệu điện thoại di động bị vứt đi mỗi năm. Những thứ bị vứt đi hằng năm sẽ nhanh chóng nhiều bằng số mua vào. Chúng ta có khoảng hai tỉ chiếc điện thoại di động trên hành tinh, nhưng đó chỉ là phần nhỏ của bức tranh. Bây giờ, hãy cộng thêm 50 triệu màn hình máy tính, chúng ta có một đống rác thải mà khi chồng cái nọ lên cái kia, sẽ vượt qua chiều dài từ trái đất đến vệ tinh xa nhất. (Elizabeth Rogers - Thomas M.Kostigen, Sách xanh, NXB Thế giới, 2010, tr. 68 - 69) Câu 1: Nội dung của đoạn trích trên là gì?

YE

Câu 2: Từ đoạn trích, trên anh/ chị hãy nêu một định nghĩa về rác điện tử.

U

Câu 3: Vì sao rác điện tử không phải là loại rác “tốt”?

G

Câu 4: Anh/ chị hãy nêu ít nhất 02 việc làm cụ thể có thể giúp hạn chế ảnh hưởng của rác điện tử.

N

II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm):

Hạn chế sử dụng các thiết bị công nghệ hiện đại có phải là cách tốt nhất để bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm của rác điện tử không? Viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm của anh/ chị. Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích nỗi khổ cùng cực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 qua tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân. Từ đó liên hệ với tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao để thấy sự giống nhau và khác nhau trong việc thể hiện nỗi khổ của người nông dân ở hai tác phẩm. -------------------- HẾT --------------------

Trang 1


HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhưng ý chính là: Đoạn trích viết về tình trạng rác thải điện tử trong xã hội hiện nay; hoặc: Tình trạng rác thải điện tử hiện nay và mối nguy hiểm của chúng. Câu 2: Rác điện tử là loại rác được tạo ra từ tất cả các thiết bị điện tử bị vứt bỏ (màn hình máy tính, ti vi, máy in, máy fax, điện thoại, đĩa CD, DVD, máy nghe nhạc,...). Câu 3: Rác điện tử không phải là loại rác "tốt" vì các chất như chì, liti, đồng, kẽm, thuỷ ngân,... chứa trong các thiết bị điện tử thải loại khi phân huỷ sẽ làm ô nhiễm không khí, đất và nước. Câu 4: HS nêu ít nhất 02 việc làm cụ thể để hạn chế ảnh hưởng của rác điện tử, chẳng hạn như: tải phần mềm trực tuyến thay vì mua đĩa CD; quyên góp điện thoại cho trung tâm tái chế thay vì quẳng chúng vào thùng rác; nâng cao nhận thức cộng đồng về rác thải điện tử...

C TI O

N

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

O D

U

Câu 1: HS cần nêu rõ quan điểm của mình về việc hạn chế sử dụng các thiết bị công nghệ hiện đại có phải là cách tốt nhất để bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm của rác điện tử không?; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể theo cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng - phân – hợp; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Sau đây là một hướng giải quyết:

AN H

TU

PR

 Hạn chế sử dụng các thiết bị công nghệ hiện đại không phải là cách tốt nhất để bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm của rác điện tử. Bởi vì khoa học công nghệ không ngừng phát triển để phục vụ cuộc sống con người. Hiện nay, mỗi ngày lại có thêm rất nhiều thiết bị điện tử hiện đại, với những tính năng ưu việt ra đời giúp con người sống thoải mái hơn, làm việc năng suất, hiệu quả hơn. Hạn chế sử dụng những thiết bị công nghệ tiên tiến ấy nghĩa là từ chối sự tiến bộ của khoa học công nghệ, làm cản trở sự phát triển của công nghệ, bỏ qua những tính năng vượt trội của công nghệ.

YE

N

TH

 Vậy làm thế nào để việc sử dụng rộng rãi, phổ cập các thiết bị không tạo ra lượng rác điện tử khổng lồ gây ô nhiễm môi trường sống của con người? (HS đưa ra một số biện pháp như: sử dụng đúng mức, hạn chế tối đa tác động tiêu cực của thiết bị công nghệ đến đời sống và môi trường bằng các giải pháp tái chế, tiêu huỷ rác điện tử một cách khoa học, đúng quy trình,...)

N

G

U

Câu 2: Viết 01 bài văn nghị luận, có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; có sáng tạo trong diễn đạt, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.  Có thể trình bày theo hướng sau: a) Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt: Kim Lân được biết đến như một nhà văn hàng đầu trong số những cây bút văn xuôi viết ít mà tinh. Ông viết về nông thôn và người nông dân với những trang văn chân thật, xúc động, tinh tế, thể hiện sự am hiểu sâu sắc cảnh ngộ cũng như tâm lí của họ và một tấm lòng yêu mến tha thiết. Tác phẩm chính của ông là hai tập truyện ngắn Nên vợ nên chồng (1955) và Con chó xấu xí (1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, rút từ tập Con chó xấu. b) Truyện ngắn Vợ nhặt đã tập trung thể hiện nỗi khổ cùng cực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám

Trang 2


 Nỗi khổ phải sống trong cảnh đói khát thê thảm, ảm đạm, nhuốm mùi chết chóc (phân tích cảnh cái đói tràn về xóm ngụ cư với những xác người chết như ngả rạ, tiếng hờ người chết, tiếng quạ kêu, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói; bữa cơm đầu tiên đón dâu mới ở nhà bà cụ Tứ cũng chỉ có chè cám, rau chuối và những tiếng thở dài cố nén vào lồng ngực; sự đon đả đáng thương của người mẹ chồng như để cố xua đi sự nghèo khổ đến khốn cùng...).  Nỗi khổ bị cái đói dồn đuổi đến mức người đàn bà phải chấp nhận theo không người đàn ông mới gặp về làm vợ, chỉ qua mấy câu đùa tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc. Giá trị con người trong nạn đói thật là rẻ rúng (phân tích ngoại hình nhân vật người “vợ nhặt”, cuộc gặp gỡ của người “vợ nhặt” với Tràng, sự trơ trẽn của thị khi đòi ăn, tâm trạng thị lúc theo Tràng về nhà và khi nhìn thấy cái nhà rúm ró của Tràng).

C TI O

N

 Đói khát khiến cho người đàn ông tên Tràng phải “chậc lưỡi” lấy đại người đàn bà mới gặp hai lần ngoài chợ về làm vợ và phải chấp nhận một mình làm nên cuộc đón dâu thảm hại (phân tích hoàn cảnh và tâm trạng của Tràng khi dắt vợ về nhà).

O D

U

 Nỗi khổ của người nông dân cùng cực đến nỗi người mẹ già khi thấy con trai mang một người đàn bà xa lạ về nhà và giới thiệu là vợ cũng đành phải ngậm ngùi biến buồn thành vui, biến hoạ thành phúc (phân tích tâm trạng với nhiều âu lo, vui buồn, tủi hờn, hi vọng đan xen lẫn lộn của bà cụ Tứ khi Tràng dắt vợ về giới thiệu với mẹ).

TU

PR

 Đánh giá: Vợ nhặt đã thể hiện một cách chân thực, sâu sắc nỗi khổ cùng cực của người nông dân Việt Nam trong nạn đói lịch sử năm 1945. Qua đó, Kim Lân đã thể hiện tài quan sát tinh tế cùng sự thấu cảm sâu sắc với cuộc đời, số phận người nông dân Việt Nam trước Cách mạng.

AN H

c) Liên hệ với tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao để thấy sự giống và khác nhau trong việc thể hiện nỗi khổ của người nông dân ở hai tác phẩm

YE

N

TH

 Giống nhau: cả hai tác phẩm đều diễn tả nỗi khổ vì đói nghèo của người nông dân: trong Vợ nhặt, cái đói đẩy người nông dân vào những hoàn cảnh trớ trêu, bi thảm còn trong Chí Phèo, cũng chỉ vì đói nghèo mà người nông dân phải bán mình cho địa chủ, sống thân phận tôi đòi. Họ đều là nạn nhân của ách áp bức, bóc lột của thực dân và phong kiến.

N

G

U

 Khác nhau: Trong tác phẩm Chí Phèo, nỗi khổ của người nông dân không chỉ dừng lại ở việc bị bần cùng hoá mà bi kịch hơn, người nông dân còn bị lưu manh hoá. Chí Phèo từ một anh nông dân lương thiện trở thành con quỷ dữ, bị biến dạng cả về nhân hình và nhân tính, đau đớn hơn, bị cự tuyệt quyền làm người. Còn nỗi khổ của người nông dân trong Vợ nhặt lại được khai thác ở khía cạnh bi hài. Nếu như nhân vật của Nam Cao chỉ có cái chết là con đường giải thoát duy nhất thì Kim Lân lại nhìn ra ánh sáng le lói “cuối đường hầm”: đó là hi vọng về cuộc nổi dậy có cách mạng soi đường đưa người nông dân thoát khỏi đói nghèo.  Đánh giá: Cùng nói về nỗi khổ cùng cực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng nhưng mỗi tác phẩm có cách thể hiện riêng là do thời điểm sáng tác khác nhau (Nam Cao viết Chí Phèo trước Cách mạng tháng Tám còn Kim Lân viết Vợ nhặt sau khi Cách mạng tháng Tám đã thành công, âm hưởng thời đại đã vọng vào tác phẩm một màu sắc tươi sáng, lạc quan hơn). Hơn nữa, mỗi nhà văn là một tài năng sáng tạo nghệ thuật độc đáo không lặp lại, nên cùng nói về một đề tài nhưng Nam Cao và Kim Lân lại có những cách nhìn riêng, cách thể hiện riêng.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 14 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Nhiều người cho rằng có tiền là có tất cả. Tiền bạc quả thật có sức mạnh lớn lao. Nhưng tiền bạc không phải là vạn năng.

C TI O

Nó có thể mua được châu ngọc, nhưng không mua được sắc đẹp.

N

Nó có thể mua được chiếu giường, nhưng không mua được giấc ngủ. Nó có thể mua được giấy bút, nhưng không mua được ý thơ.

U

Nó có thể mua được nhà cửa, nhưng không mua được gia đình.

O D

Nó có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được sự ngon miệng.

PR

Nó có thể mua được trò chơi, nhưng không mua được niềm vui. Nó có thể mua được xu nịnh, nhưng không mua được lòng trung thành.

TU

Nó có thể mua được cánh hẩu, nhưng không mua được tình bạn. Nó có thể mua được sự phục tùng, nhưng không mua được lòng kính trọng.

AN H

Nó có thể mua được quyền thế, nhưng không mua được trí tuệ. Nó có thể mua được thể xác, nhưng không mua được tình yêu. (Theo Thác–cơ-rê, dẫn theo Ngữ văn 11 Nâng cao, tập hai,

YE

N

TH

Nó có thể mua được vũ khí, nhưng không mua được hòa bình. NXB Giáo dục Việt Nam 2016, tr. 17)

U

Câu 1: Đoạn trích trên sử dụng thao tác lập luận nào?

G

Câu 2: Tác giả sử dụng thao tác lập luận đó nhằm mục đích gì?

N

Câu 3: Hãy nêu cách hiểu của anh/ chị về một lí lẽ được nêu trong đoạn trích trên. Câu 4: Anh/ Chị có đồng tình với quan điểm “tiền bạc không phải là vạn năng” không? Vì sao? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung của đoạn trích ở phần Đọc, hiểu, anh/ chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Nếu không có tiền… Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh. -------------------- HẾT --------------------

Trang 1


HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Đoạn trích sử dụng thao tác lập luận bác bỏ. Câu 2: Thao tác lập luận bác bỏ được tác giả sử dụng để bác bỏ quan niệm “có tiền là có tất cả”. Đây là quan niệm của nhiều người nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Bằng những lí lẽ xác đáng và dẫn chứng thuyết phục, tác giả chỉ ra rằng tiền bạc có thể mua được những giá trị vật chất nhưng không mua được những giá trị tinh thần. Câu 3: HS chọn một trong những lí lẽ được nêu trong đoạn trích và nêu lên cách hiểu của mình. Chẳng hạn, với lí lẽ tiền bạc “có thể mua được chiếu giường, nhưng không mua được giấc ngủ”, có thể nêu cách hiểu theo hướng sau: “chiếu giường” là vật dụng (vật chất) để người ta nằm ngủ và người ta có thể dùng tiền để mua, nhưng “giấc ngủ” thì không thể dùng tiền để mua, bởi nhiều người mặc dù có “chiếu giường” đầy đủ, sang trọng nhưng vẫn “mất ngủ” vì buồn phiền, lo lắng, mệt mỏi (tinh thần).

C TI O

N

Câu 4: HS có thể đồng tình hoặc phản đối (hoặc vừa đồng tình, vừa phản đối) quan điểm “tiền bạc không phải là vạn năng”. - Nếu đồng tình, cần lập luận theo hướng: tiền bạc có thể mua được các giá trị vật chất nhưng không mua được các giá trị tinh thần.

PR

O D

U

- Nếu phản đối, cần lập luận theo hướng: con người trước hết phải tồn tại bằng vật chất: cơm ăn, áo mặc, nhà ở, … Nếu không có tiền thì ngay cả những nhu cầu vật chất tối thiểu con người cũng không thể chi trả, do đó, sẽ khó có thể tồn tại, khó có được cuộc sống hạnh phúc.

TU

- Nếu vừa đồng tình, vừa phản đối, HS có thể kết hợp cả hai hướng lập luận trên hoặc lập luận theo quan điểm riêng của mình nhưng phải chặt chẽ, hợp lý không trái với các chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

AN H

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

YE

N

TH

Câu 1: HS cần nắm được nội dung của đoạn trích ở phần Đọc, hiểu (thể hiện sự bác bỏ quan điểm “có tiền là có tất cả” và nhấn mạnh “Tiền bạc quả thật có sức mạnh lớn lao. Nhưng tiền bạc không phải là vạn năng”). Từ đó, viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ… hoặc kết hợp các thao tác này; lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu để trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Nếu không có tiền… Có thể tham khảo hướng dẫn trả lời Câu 4 ở phần Đọc hiểu để làm bài.

G

U

Câu 2: Đề bài yêu cầu HS nêu cảm nhận về hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh.

N

Tham khảo gợi ý sau: a) Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm: Xem Đề 10, Câu 2, phần Làm văn. b) Trình bày cảm nhận về hình tượng “sóng” trong bài thơ: - Giới thiệu khái quát về hình tượng: + Cấu tứ của bài thờ Sóng dựa trên sự tương đồng, hòa hợp giữa hai hình tượng trữ tình: “sóng” và “em”. “Sóng” chính là ẩn dụ của “em” – người phụ nữ đang yêu. “Sóng” giống như “em” và “sóng” cũng chính là “em”. Với mỗi khám phá về “sóng”, “em” lại thấy có mình ở trong đó. + Trong các khổ thơ, “sóng” hiện lên với những diện mạo và trạng thái khác nhau; qua đó làm hiện lên hình ảnh người phụ nữ đang yêu trước biển, đối diện với cái vô biên, cái vĩnh hằng để suy tư, chiêm nghiệm về tình yêu và tự khám phá tâm hồn mình. - Phân tích để làm nổi bật đặc điểm của hình tượng “sóng” qua mỗi khổ thơ: + Khổ 1: “Sóng” được thể hiện qua những trạng thái trái ngược: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Đây là những biểu hiện thường thấy của những con sóng ngoài biển khơi: lúc biển động, sóng dữ Trang 2


dội, ồn ào; khi trời êm biển lặng, sóng dịu êm, lặng lẽ. Cũng như “sóng”, người phụ nữ đang yêu tự nhận thức về những biển động trong lòng mình, chân thành bộc bạch những trạng thái tâm lí, tình cảm vừa phong phú vừa phức tạp của một tâm hồn khao khát yêu đương: lúc giận dữ, hờn ghen; khi dịu hiền, sâu lắng. “Sóng: hiện lên thật mạnh mẽ trong hành động vượt thoát khỏi thế giới chật hẹp và thiếu sự đồng cảm của sông để tìm ra biển rộng bao la, tìm đến với môi trường đích thực của nó. Cũng như “sóng”, “em” dứt khoát từ bỏ tình yêu nhỏ bé, chật hẹp, chủ động tìm kiếm một tình yêu lớn lao, một tâm hồn đồng điệu để được cảm thông, thấu hiểu, chia sẻ, bao dung. + Khổ 2: Từ xưa đến nay vì mãi mãi về sau, những con sóng ngoài biển khơi đã, đang và sẽ luôn luôn chuyển động. Sóng vẫn là sóng, vẫn “ru mãi ngàn năm” để làm thành bản tình ca muôn đời của biển cả. Sóng mãi “bồi hồi”, dào dạt, sôi nổi trong lòng biển cũng như tình yêu mãi mãi là niềm khao khát cháy bỏng, “bồi hồi” trong trái tim con người nhất là tuổi trẻ. + Khổ 3,4: “Em” truy tìm nguồn gốc của “sóng”, mượn “sóng” để cắt nghĩa nguồn gốc của tình yêu nhưng tình yêu mãi mãi vẫn là một điều bí ẩn mà “em” không bao giờ lí giải được.

C TI O

N

+ Khổ 5: Những con sóng dù ở trên mặt nước hay ở dưới lòng sâu thì cũng không bao giờ ngủ, tạo nên sự dạt dào của biển cả. Sóng là nhịp đập của biển, là trái tìm, sự sống của biển. Sóng luôn hướng vào bờ cát, luôn “nhớ bờ” cũng như “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Đó là nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thể nguôi yên, lúc nào cũng cuồn cuộn, dạt dào.

PR

O D

U

+ Khổ 7, 8: “Sóng: vượt qua mọi trở ngại để tới bờ. Cũng như “sóng”, tình yêu của “em” dù có trải qua cách trở, bão dông nhưng cuối cùng cũng sẽ đến được bến bờ hạnh phúc. Nó cũng tất yếu như “năm tháng vẫn đi qua”, “mây vẫn bay về xa” giữ cuộc đời dài rộng.

c) Nhận xét, đánh giá

AN H

TU

+ Khổ 9: Cũng như những con sóng nhỏ hòa mình vào đại dương để không bao giờ khô cạn, đề “ngàn năm còn vỗ”, nghĩa là sống mãi với thời gian, nhịp bước cùng năm thán, “em” mong ước hóa thân thành “sóng” để được sống hết mình, cháy hết mình trong tình yêu. Và khi con người dâng hiến tất cả cho tình yêu, khi tình yêu riêng hòa vào một tình yêu chung lớn lao, cao cả thì nó sẽ đạt đến sự vĩnh hằng.

TH

- Mượn hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã diễn tả được sự nồng nàn, mãnh liệt, cháy bỏng mà đằm thắm, dịu dàng và cũng không ít âu lo, trăn trở của người phụ nữ trong tình yêu.

N

G

U

YE

N

- Bài thơ là một cách nói đậm chất Xuân Quỳnh về tình yêu của người phụ nữ, trong đó, “sóng” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 15 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Một đại gia đình gồm hai con trai, hai con dâu, một gái, một rể và những đứa con của họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp ăn. Thiên hạ thì chia ra, bà cụ lại gom vào. Vẫn rất êm thấm mới lạ chứ. Nếp nhà đã thắng được tự do của cá nhân sao? Phải nói thêm, cái nếp nhà này cũng ít ai theo kịp. Người con dâu cả vốn là con gái Hàng Bồ, đỗ đại học, là một cô gái kiêu hãnh, tự tin, không dễ nhân nhượng. Ai cũng nghĩ hai người đàn bà, một già một trẻ, cùng sắc sảo sẽ rất khó chấp nhận nhau. Vậy mà họ ăn ở với nhau đã mười lăm năm chả có điều tiếng gì. Người chị của cô con dâu đến nói với bà cô tôi: "Bác chịu được tính nó thì con cũng phục thật đấy". Bà cải chính: "Đúng là tôi có phần phải chịu nó nhưng nó cũng có phần phải chịu tôi, mỗi bên chịu một nửa". Bà bảo, con dâu là vàng trời cho, mình không có công đẻ ra nó, cũng không nuôi nó ăn học ngày nào, bỗng dưng nó về nhận mình là mẹ, sinh con đẻ cái cho dòng họ, cáng đáng mọi việc từ trẻ đến già, không lễ sống nó thì thôi còn hoạnh họe nỗi gì. Bà chiều quý, và tôn trọng các con dâu thật lòng nên cả hai nàng dâu đều tâm sự với mẹ chồng: "Con ở với mẹ còn thoải mái hơn ở nhà với mẹ con". Con rể và con gái được nhận nhà ở một khu tập thể, nhà chật, lại xa, con còn nhỏ. Nhưng anh con rể không muốn nhờ vả mẹ vợ, tự mình cũng thấy không tiện mà người ngoài nhìn vào càng không tiện. Bà biết thế nên bảo con rể: "Trong cái nhà của tôi có một phòng dành cho vợ anh. Của vợ anh tức là của anh. Cũng như mọi thứ của anh tức là của vợ anh. Chẳng lẽ anh bảo không phải". Năm ngoái khu phố có yêu cầu bà cụ báo cáo về nếp sống gia đình cho hàng phố học tập. Bà từ chối, khi tôi lại thăm, bà nói riêng: "Cái chuyện ấy ai cũng biết cả, chỉ khó học thôi". Tôi cười: "Lại khó đến thế sao?"Bà cụ nói: "Trong nhà này, ba đời nay, không một ai biết tới câu mày, câu tao. Anh có học được không?"À, thế thì khó thật. Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay mình, nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó, lại hoàn toàn không dễ. (Nguyễn Khải, Nếp nhà, in trong Tuyển tập Nguyễn Khải, tập III, NXB Văn học, 1996) Câu 1: Đoạn trích trên sử dụng ngôi kể nào? Câu 2: Cuộc sống của gia đình nhân vật “bà cô” có gì đặc biệt? Câu 3: Thái độ của người kể với câu chuyện về “nếp nhà” của gia đình nhân vật “bà cô” được thể hiện như thế nào? Câu 4: Anh/ Chị có đồng tình với quan điểm sau đây của nhân vật "bà cô" hay không? Vì sao?

Trang 1


Thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay mình, nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó, lại hoàn toàn không dễ. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung của đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của mình về vai trò của người phụ nữ trong việc giữ gìn "nếp nhà" của mỗi gia đình. Câu 2 (5,0 điểm):

C TI O

-------------------- HẾT --------------------

N

Phân tích cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

O D

Câu 1: Đoạn trích sử dụng ngôi kể thứ nhất (người kể xưng "tôi").

U

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

AN H

TU

PR

Câu 2: Điều đặc biệt trong cuộc sống của gia đình nhân vật "bà cô" được thể hiện qua các câu văn: Một đại gia đình gồm hai con trai, hai con dâu, một gái, một rể và những đứa con của họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp ăn. Thiên hạ thì chìa ra, bà cụ lại gom vào. Vẫn rất êm thấm mới lạ chứ. Người con dâu cả vốn là con gái Hàng Bồ, đỗ đại học, là một cô gái kiêu hãnh, tự tin, không dễ nhân nhượng. Ai cũng nghĩ hai người đàn bà, một già một trẻ, cùng sắc sảo sẽ rất khó chấp nhận nhau. Vậy mà họ ăn ở với nhau đã mười lăm năm chả có điều tiếng gì. Và những câu nói của nhân vật "bà cô".

TH

HS có thể ghi lại những câu văn của tác giả và câu nói của nhân vật hoặc tóm tắt và diễn đạt bằng lời văn của mình nhưng phải bám sát văn bản.

YE

N

Câu 3: Qua những quan sát, triết luận, nhận vật "tôi" đã thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ "nếp nhà" của gia đình "bà cô". HS có thể có cách diễn đạt khác nhưng phải hợp lí.

N

G

U

Câu 4: HS bày tỏ sự đồng tình hoặc phản đối (hoặc kết hợp cả hai) với quan điểm của nhân vật "bà cô": Thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay mình, nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó, lại hoàn toàn không dễ. Lập luận của HS phải chặt chẽ, có sức thuyết phục, không đi ngược lại những giá trị đạo đức và nhân văn cao đẹp. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS cần viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng - phân - hợp, xác định đúng vấn đề cần nghị luận: vai trò của người phụ nữ trong việc giữ gìn "nếp nhà" của mỗi gia đình; sử dụng một hoặc kết hợp một số thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ... để triển khai vấn đề nghị luận một cách hợp lí, có sức thuyết phục; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Bài làm cần nêu được các ý:  "Nếp nhà" của mỗi gia đình là gì?  "Nếp nhà" được tạo nên bởi những yếu tố nào? Trang 2


 "Nếp nhà" góp phần vào việc tạo dựng nhân cách của mỗi con người ra sao?  Người phụ nữ (người bà, người mẹ, người chị,...) góp phần vào việc tạo dựng và giữ gìn "nếp nhà" của mỗi gia đình nhự thế nào? Câu 2: Đề bài yêu cầu HS phân tích cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trong đoạn trích kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Tham khảo gợi ý sau: a) Giới thiệu vài nét về tác giả Lưu Quang Vũ b) Giới thiệu vài nét về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt  Hoàn cảnh ra đời.

C TI O

N

 Tóm tắt vở kịch. c) Giới thiệu vị trí của đoạn đối thoại: trích từ cảnh VII của vở kịch.

U

d) Phân tích cuộc đối thoại

PR

O D

HS phân tích lời thoại của các nhân vật để làm nổi bật sự phụ thuộc của Hồn Trương Ba cao khiết, nhân hậu vào Xác hàng thịt phàm phu tục tử. Những lời tự giải thích, thanh minh của Hồn Trương Ba với thân xác hàng thịt quá yếu ớt, tội nghiệp bởi thực tế quá rõ ràng: từ khi mượn xác hàng thịt để sống, Trương Ba không còn là ông như trước nữa. Do đó, Hồn đuối lí trong tranh luận với Xác, nhận ra nguy cơ bị thân xác lấn át.

TU

e) Nhận xét, đánh giá

AN H

 Cuộc đối thoại này vừa là hành động kịch đẩy mâu thuẫn kịch lên cao, vừa là đoạn văn sinh động đầy ý nghĩa và ẩn chứa những triết lí sâu xa của tác giả.

TH

 Cuộc đấu tranh giữa Hồn và Xác chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần "người" và phần "con" trong mỗi con người.

N

G

U

YE

N

 Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác trở thành một trong những đoạn trích hấp dẫn nhất của vở kịch, chuyển tải nhiều thông điệp sâu sắc của nhà văn.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 16 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu:

C TI O

N

Em hiểu rằng mỗi lúc đi xa Tình anh đối với em là xứ sở Là bóng rợp trên con đường nắng lửa

U

Trái cây thơm trên miền đất khô cằn

O D

Đấy tình yêu, em muốn nói cùng anh: Lòng tốt để duy trì sự sống

TU

Cho con người thực sự Người hơn.

PR

Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng

(Xuân Quỳnh, Nói cùng anh,

AN H

in trong Không bao giờ là cuối, NXB Hội Nhà văn, 2013)

Câu 1: Nhân vật trữ tình trong đoạn thơ trên là ai ?

TH

Câu 2: Nêu tác dụng của 01 phép tu từ được sử dụng ở khổ thơ thứ nhất trong đoạn trích. Câu 3: Vì sao nhà thơ viết hoa chữ "Người" ở dòng thơ cuối cùng của đoạn thơ trên?

YE

N

Câu 4: Anh/ Chị có đồng tình với quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh ở khổ thơ thứ hai hay không? Vì sao?

U

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

G

Câu 1 (2,0 điểm):

N

Từ nội dung đoạn thơ ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày quan niệm của mình về một tình yêu đẹp. Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích vở kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Nhân vật trữ tình trong đoạn thơ trên là "em". Câu 2: Khổ thơ thứ nhất có sử dụng biện pháp tu từ so sánh (Tình anh đối với em là xứ sở/ Là bóng rợp trên Trang 1


con đường nắng lửa/ Trái cây thơm trên miền đất khô cằn). Biện pháp này nhấn mạnh ý nghĩa của tình yêu mà "anh" dành cho "em", khiến "em" cảm thấy được che chở, bảo vệ, nâng niu,... HS có thể diễn đạt theo cách khác nhưng phải hợp lí. Câu 3: Nhà thơ viết hoa chữ "Người" ở dòng thơ Cho con người thực sự Người hơn để nhấn mạnh sự cao quý, tốt đẹp của con người khi được sống trong tình yêu. HS có thể diễn đạt theo cách khác nhưng phải hợp lí. Câu 4: Trước hết, cần nêu được quan niệm của Xuân Quỳnh về tình yêu: tình yêu làm nảy sinh những khát vọng (mong ước cao đẹp), động lực để con người duy trì sự sống và sống nhân văn hơn, đẹp hơn. Từ đó, HS bày tỏ sự đồng tình/ phản đối hoặc vừa đồng tình vừa phản đối quan niệm trên. Nội dung câu trả lời phải thuyết phục, không đi ngược lại những giá trị đạo đức và nhân văn đã được khẳng định. II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

U

C TI O

N

Câu 1: HS cần viết được 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng - phân - hợp...; sử dụng một trong các thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ... hoặc kết hợp các thao tác này; lí lẽ và dẫn chứng hợp lí; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu... để trình bày quan niệm riêng của mình về một tình yêu đẹp.

O D

Có thể trả lời các câu hỏi sau để tìm ý cho đoạn văn:  Một tình yêu đẹp biểu hiện như thế nào?

TU

 Tình yêu đẹp mang đến cho con người điều gì?

PR

 Thế nào là một tình yêu đẹp?

 Làm thế nào để có hoặc gìn giữ được một tình yêu đẹp?

TH

AN H

Câu 2: Để thực hiện yêu cầu của đề bài, trước hết HS cần hiểu rõ khái niệm "bi kịch", từ đó, vận dụng vào việc tìm hiểu nhân vật Vũ Như Tô trong toàn bộ vở kịch, tập trung hơn cả vào đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài đã được học. Bài viết cần nêu được các ý như sau: a) Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

YE

N

 Giới thiệu tác giả Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch Vũ Như Tô.

N

G

U

 Giới thiệu nhân vật Vũ Như Tô: Đây là nhân vật trung tâm của vở kịch - một kiến trúc sư thiên tài. Vốn là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, song vì mượn quyền lực và tiền bạc của bạo chúa để thực hiện khát vọng của mình mà Vũ Như Tô đã rơi vào bi kịch. Đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài đã tập trung làm nổi bật bi kịch ấy của ông. b) Giải thích khái niệm "bi kịch" và nêu khái quát bi kịch của Vũ Như Tô  "Bi kịch" là "tình cảnh éo le, mâu thuẫn đến đau thương" mà nhân vật rơi vào và không thể điều hoà được. Mâu thuẫn này diễn ra căng thẳng và quyết liệt đến mức nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm, gây nên những suy tư và tác động mạnh mẽ đối với công chúng.  Bi kịch của Vũ Như Tô: vốn là một nghệ sĩ chân chính, có tài năng, Vũ Như Tô có khát vọng nghệ thuật cao cả, song lại rơi vào một mâu thuẫn không thể hoá giải nổi: mâu thuẫn giữa tài năng, ước vọng cao cả, niềm khát khao và đam mê sáng tạo nghệ thuật với thực tế phũ phàng, ngang trái của xã hội. c) Phân tích bi kịch của Yũ Như Tô  Vẻ đẹp của con người Vũ Như Tô: Trang 2


 Có tài năng: là một kiến trúc sư tài ba "ngàn năm chưa dễ có một". Nghệ sĩ ấy có thể "sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng những lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ". Ông "chỉ vẩy bút là chim, hoa đã hiện trên mảnh lụa thần tình biến hoá như cảnh Hoá Công". Theo đánh giá của cung nữ Đan Thiềm thì đó là cái tài trời phú và có thể đem ra để điểm tô cho đất nước.  Có khát vọng cao cả, lớn lao: "đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công". Xây Cửu Trùng Đài với Vũ Như Tô vừa là để bộc lộ trọn vẹn cái tài trời phú, vừa là để thực hiện giấc mộng lớn - giấc mộng sáng tạo một công trình nghệ thuật kì vĩ, mĩ lệ, "cao cả, huy hoàng", "cảnh Bồng Lai" giữa cõi trần lao lực, vừa để bằng chính kì công muôn thuở ấy mà điểm tô cho đất nước. Đài Cửu Trùng chính là tâm huyết, là linh hồn của Vũ Như Tô: "Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây...".

PR

O D

U

C TI O

N

 Có bản lĩnh cứng cỏi, mạnh mẽ: trước đây, khi mới bị Lê Tương Dực bắt về để xây Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô đã không chịu khuất phục trước uy quyền của bạo chúa. Theo lời khuyên của Đan Thiềm, Vũ Như Tô đã chấp nhận mượn tay Lê Tương Dực, dựa vào quyền thế và tiền bạc của hắn để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình. Khi xảy ra loạn lạc, Vũ Như Tô không nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, không bỏ trốn mà kiên quyết ở lại để bảo vệ Cửu Trùng Đài: "Người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cũng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh". Nghĩa là, bản lĩnh của Vũ Như Tô là bản lĩnh của một người nghệ sĩ dám dốc sức, dồn tài năng, tâm huyết cho nghệ thuật, sẵn sàng chết để bảo vệ cái đẹp.

TU

 Thực tế đời sống:

TH

AN H

 Mục đích và bản chất của tầng lớp vua quan: Lê Tương Dực cũng khao khát xây Cửu Trùng Đài song không phải là để tạo cho đất nước một công trình nghệ thuật mà chỉ đơn giản là để làm nơi vui chơi với các cung nữ. Đài Cửu Trùng trong mục đích của Lê Tương Dực chính là hiện thân của cuộc sống xa hoa đầy lạc thú. Nó sẽ tiêu tốn tiền của công khố, bòn rút mồ hôi xương máu của nhân dân.

YE

N

 Cuộc sống của nhân dân khi Cửu Trùng Đài được xây dựng: vô cùng lầm than, khốn khổ ("mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng"). Tình cảnh khốn cùng ấy tất sinh biến loạn: khi quân phản nghịch nổi lên, thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch.

G

U

 Bi kịch của Vũ Như Tô trong đoạn trích:

N

 Bị hiểu lầm và kết tội: Vì mượn tay Lê Tương Dực để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình nên Vũ Như Tô bị đánh đồng với kẻ xa hoa tàn ác, với tên hôn quân bạo chúa, bị coi là kẻ gây tội ác. "Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông". Trong hoàn cảnh ấy, cả Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài đã trở thành mục tiêu của sự oán giận, trở thành đối tượng để nhân dân và quân phiến loạn tàn phá, huỷ hoại. Chỉ có Đan Thiềm là người duy nhất hiểu được khát vọng và quý trọng tài năng của ông nhưng Đan Thiềm cũng hoàn toàn bất lực, không thể khuyên nhủ, cũng không thể bảo vệ được Vũ Như Tô.  Bị vỡ mộng: Cho đến phút cuối cùng, Vũ Như Tô vẫn không thể hiểu và không thể tin rằng việc mình làm là trái với quyền lợi của nhân dân, vẫn một mực khẳng định rằng mình không có tội và không thể hiểu vì sao dân chúng lại nổi lên phá Cửu Trùng Đài, không hiểu vì sao xây dựng Cửu Trùng Đài lại là việc làm hại nước, hại dân. Điều bi thương nhất của Vũ Như Tô là sự lạc lõng của ông giữa những kẻ nông nổi và tàn ác, là sự cô đơn đến đáng thương trước lòng hận thù của nhân dân. Khi Cửu Trùng Đài bị đốt cháy cũng là lúc Trang 3


Vũ Như Tô vỡ mộng, bừng tỉnh, đau đớn đến tuyệt vọng: "Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!". d) Nguyên nhân và ý nghĩa của bi kịch  Nguyên nhân của bi kịch: Do Vũ Như Tô quá chìm đắm trong niềm đam mê cái đẹp nên đã mơ mộng, ảo tưởng khi mượn tay Lê Tương Dực để xây Cửu Trùng Đài. Khát vọng nghệ thuật của ông là cao đẹp nhưng lại đặt nhầm chỗ, lầm thời và xa rời thực tế nên phải trả giá bằng cả sinh mạng và cả công trình nghệ thuật. Vũ Như Tô là hiện thân của tài năng, nhân cách và hoài bão lớn lao nhưng vì đi ngược lại với quyền lợi trực tiếp của nhân dân nên đã lâm vào bi kịch.

N

 Ý nghĩa bi kịch của Vũ Như Tô: thể hiện vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về cái đẹp, về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ và nhân dân, giữa những khát vọng nghệ thuật muôn thuở với quyền lợi trực tiếp của quần chúng.

C TI O

e) Nhận xét, đánh giá

PR

O D

U

 Tài năng, khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ rất đáng trân trọng song họ cần phải gắn bó với nhân dân; nghệ thụật chân chính phải xuất phát từ mục đích vì cuộc sống, vì con người. Chỉ khi giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa nghệ sĩ và nhân dân thì nghệ thuật mới có cơ sở để tồn tại và phát triển.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

 Vũ Như Tô chính là điển hình của mẫu nghệ sĩ có tài năng, có nhân cách, có hoài bão lớn lao, đẹp đẽ, song vì xa rời thực tế, ảo tưởng nên đã rơi vào bi kịch. Bi kịch của Vũ Như Tô có ý nghĩa như một bài học thức tỉnh những người nghệ sĩ đồng bệnh với ông.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 17 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

C TI O

N

Những rủi ro lớn và lâu ta gọi là nghịch cảnh; mà nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công. Bệnh tật liên miên là một nghịch cảnh phải không bạn?

O D

U

Nhưng nếu Voltaire không đau vặt, về già phải nằm trên giường quanh năm thì chắc gì ông đã sáng tác được nhiều như vậy?...

PR

Ông Ben Fortson bị tai nạn xe hơi, cụt cả hai chân mà không cho như vậy là nghịch cảnh, còn mừng là diễm phúc vì nằm liệt một chỗ, ông đọc được rất nhiều sách về chính trị, kinh tế xã hội, thành một nhà bác học có tài hùng biện rồi được bầu làm thống đốc một tiểu bang ở Mĩ.

AN H

TU

Nếu không bị lòa chưa chắc Milton đã thành một thi hào của muôn thưở và nhạc sĩ Beethoven nếu không bị điếc thì tài nghệ của ông chắc gì đã tới mức tuyệt đích? Charles Darwin nhờ tàn tật mà lập nên sự nghiệp. Ông nói: “Nếu thân tôi không là cái xác vô dụng, chưa chắc tôi đã có đủ sức mạnh tinh thần để biểu minh lí thuyết của tôi”.

YE

N

TH

Bà Helen Keller hồi hai mươi tuổi bị bệnh nặng, hóa đui, hóa điếc, lớn lên lại nghèo tới nỗi có hồi phải ngủ trong một nhà xác. Vậy mà bà thắng được nghịch cảnh, học rộng, viết bảy cuốn sách, đi diễn thuyết khắp châu Mĩ và châu Âu, được Mark Twain cho là một người lạ lùng nhất, ngang hàng với Nã Phá Luân ở thế kỉ XIX.

N

G

U

Nhiều bạn trẻ thường phàn nàn với tôi vì cảnh nhà nghèo túng, học không được lâu và làm ăn cũng không được. Nghèo túng là một nghịch cảnh thật, nhưng biết lợi dụng nó thì nó lại là một tay sai đắc lực giúp ta thành công. Chính vì nghèo khổ, người ta mới ham tự học, thấy cần phải tự học. J.J. Rousseau trên mười tuổi đã phải đi lang thang khắp nơi, làm đủ các nghề để kiếm ăn, nhờ có chí, biết tự học trong lúc rảnh mà nổi danh là một triết gia, ảnh hưởng lớn đến thế giới. Một người hỏi ông: “Ông học tại những trường nào mà giỏi như vậy?”. Ông đáp: “Học trong trường nghịch cảnh”. Elihu Burrit mười sáu tuổi tập nghề thợ rèn, mỗi ngày đập sắt mười một giờ mà còn có thì giờ học ngoại ngữ, sau ông thông 18 sinh ngữ và 32 thổ ngữ, thiên hạ gọi là “nhà bác học thợ rèn”. Những người không chịu học, đọc chuyện ông chắc phải mắc cỡ. Trên đường doanh nghiệp, cảnh nghèo thường kích thích hoạt động chứ không phải luôn luôn là một trở ngại. Hầu hết những ông vua thép, vua báo, vua dầu lửa, vua xe hơi ở Âu – Mĩ đều xuất thân hàn vi hơn bạn và tôi. Họ đã phải bán báo, đánh giày, lượm rác, làm bồi phòng… chỉ nhờ hai bàn tay trắng mà làm nên sự nghiệp. Trang 1


Cổ nhân đã xét đúng: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, vì hễ nghèo thì bị tủi nhục, bị hiếp đáp nên người ta quyết tâm thắng nó, tận lực cải thiện đời sống, đem cả tâm trí ra phấn đấu đến cùng, và sớm muộn gì người ta cũng thắng, cũng hóa giàu. Vả lại, có nghèo người ta mới dám mạo hiểm để làm làm lớn, không sợ thất bại, thắng thì được tất cả mà thua thì chẳng mất gì. Giàu có sinh nhút nhát, lười biếng nên một người Pháp đã nói: “Những con ngựa mập không chạy được nhanh” và một nhà doanh nghiệp nọ phàn nàn với bạn như vầy: “Tôi biết thằng con tôi, nó có nhiều đức tính lắm, song nó có một cái bất lợi rất lớn là nó sinh trong một nhà giàu”. (Nguyễn Hiến Lê, Rèn nghị lực để lập thân, dẫn theo http://www.wattpad.com) Câu 1: Câu văn nào khái quát nội dung của đoạn trích trên? Câu 2: Việc nêu lên những tên tuổi cụ thể trong đoạn trích nhằm mục đích gì?

Câu 4: Qua đoạn trích, anh/ chị rút ra bài học gì cho bản thân?

U

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

C TI O

N

Câu 3: Anh/ Chị hiểu như thế nào về câu nói: “Tôi biết thằng con tôi, nó có nhiều đức tính lắm, song nó có một cái bất lợi rất lớn là nó sinh trong một nhà giàu”?

O D

Câu 1 (2,0 điểm):

TU

PR

Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Nghèo túng là một nghịch cảnh thật, nhưng biết lợi dụng nó thì nó lại là một tay sai đắc lực giúp ta thành công”. Câu 2 (5,0 điểm):

AN H

Nhận định về đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975, có ý kiến cho rằng văn học giai đoạn này “chủ yếu mang khuynh hướng sử thi” (dẫn theo Ngữ văn 12, tập một, sđđ, tr. 12).

TH

Anh/ Chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

YE

N

-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

U

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

N

G

Câu 1: Câu văn nêu khái quát nội dung của đoạn trích là: Những rủi ro lớn và lâu ta gọi là nghịch cảnh; mà nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công. Câu 2: Việc nêu lên những tên tuổi cụ thể trong đoạn trích là những dẫn chứng nhằm khẳng định và làm sáng tỏ lí lẽ tác giả nêu lên ở câu văn đầu tiên, cũng là câu khái quát nội dung của đoạn trích. Câu 3: Khi nói câu: “Tôi biết thằng con tôi, nó có nhiều đức tính lắm, song nó có một cái bất lợi rất lớn là nó sinh ra trong một nhà giàu.”, người nói muốn nhấn mạnh ý: những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình giàu có, đầy đủ điều kiện dễ có tâm lí và thói quen ỷ lại, lười biếng, không có động lực và quyết tâm phấn đấu “cải thiện đời sống” hoặc làm những điều lớn lao khác. Câu 4: HS rút ra bài học thiết thực cho bản thân. Nội dung của bài học có thể là: không nên tự ti, nhụt chí khi ở vào hoàn cảnh khó khăn, bất lợi; cần biết lợi dụng nghịch cảnh để đi tới thành công; không nên dựa dẫm, ỷ lại vào người khác mà phải tự mình tạo dựng cuộc sống riêng; cần có niềm tin vào sự cố gắng, nỗ lực của bản thân… II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Trang 2


Câu 1: HS cần viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng – phân – hợp…; sử dụng một trong các thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ… hoặc kết hợp các thao tác này; lí lẽ và dẫn chứng hợp lí; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu… để bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến: “Nghèo túng là một nghịch cảnh thật, nhưng biết lợi dụng nó thì nó lại là một tay sai đắc lực giúp ta thành công”. Tham khảo quan điểm của tác giả trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu để làm bài. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng ý chính cần làm sáng tỏ là: Nghèo túng là nghịch cảnh, là khó khăn, bất lợi nhưng nếu con người biết lợi dụng nghịch cảnh, từ nghịch cảnh mà suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo “cái khó ló cái khôn” thì có thể đi đến thành công. Lập luận cần chặt chẽ, hợp lí, không trái với các chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

C TI O

N

Câu 2: Đề bài yêu cầu HS làm sáng tỏ ý kiến cho rằng văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 “chủ yếu mang khuynh hướng sử thi”. - Để làm bài, HS cần chỉ ra những đặc trưng cơ bản của “khuynh hướng sử thi” trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 với một số điểm chính sau:

TU

PR

O D

U

+ Ra đời và phát triển trong Cách mạng tháng Tám 1945 và cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại ác liệt và kéo dài chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ, văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 trước hết là một nền văn học của chủ nghĩa yêu nước. Đó không phải văn học của những số phận cá nhân mà là tiếng nói của cộng đồng dân tộc trước thử thách quyết liệt: Tổ quốc còn hay mất, độc lập, tự do hay nô lệ, ngục tù. Đó là văn học của những sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng.

AN H

+ Nhân vật trung tâm của văn học thời kỳ này là những con người gắn số phận mình với số phận đất nước và kết tinh những phẩm chất cao quý của cộng đồng. Đó là những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại, chứ không đại diện cho cá nhân mình.

TH

+ Nhà văn, nhà thơ nhân danh cộng đồng mà ngợi ca người anh hùng với những chiến công chói lọi.

YE

N

- Những đặc trưng cơ bản trên của khuynh hướng sử thi đã chi phối toàn diện và sâu sắc văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.

N

G

U

- HS lựa chọn trong các tác phẩm/ đoạn trích đã học như Việt Bắc (Tố Hữu), Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành),… những nội dung phù hợp để phân tích và làm sáng tỏ nhận định.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 18 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

U

C TI O

N

Chỉ số thông mình, hay IQ (viết tắt của Intelligence Quotient trong tiếng Anh), thường được cho là có liên quan đến sự thành công trong học tập, trong công việc. Những nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên quan giữa IQ và sức khoẻ, tuổi thọ (những người thông minh thường có nhiều kiến thức hơn trong việc chăm sóc bản thân) và cả số lượng từ mà người đó sử dụng...

AN H

TU

PR

O D

Vai trò của di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh là một đề tài nghiên cứu từ rất lâu. Khả năng kế thừa của một gen từ thế hệ trước sang thế hệ sau được biểu diễn bằng một số trong khoảng từ 0 đến 1, gọi là hệ số di truyền. Nói một cách khác, hệ số di truyền là phần trăm khả năng di truyền cho đời sau của một gen... Cho đến gần đây, hệ số di truyền hầu hết chỉ được nghiên cứu ở trẻ em và người ta cho rằng hệ số di truyền trung bình là 0,5. Điều này cho thấy một nửa số gen của số trẻ được nghiên cứu là gen đã biến dị. Phần còn lại được giải thích rằng do tính toán sai hay do yếu tố môi trường. Con số 0,5 cho thấy trí thông minh một phần là do thừa kế từ cha mẹ. Nghiên cứu ở người lớn tuy vẫn chỉ ở những mức rất sơ khai nhưng cũng có những kết quả rất thú vị: hệ số di truyền có thể lên đến 0,8.

(Theo http:/www.vi.wikipedia.org)

N

G

U

YE

N

TH

Yếu tố môi trường đóng vai trò rất lớn trong nhiệm vụ xác định trí thông minh trong một số trường hợp. Một chế độ dinh dưỡng hợp lí trong lúc nhỏ được cho là rất quan trọng; sự dinh dưỡng kém có thể làm suy giảm trí thông minh. Một số nghiên cứu khác về yếu tố môi trường còn cho rằng thai phụ trước khi sinh hay cho con bú nếu tiếp xúc với những loại độc tố hay thiếu các vitamin và muối khoáng quan trọng có thể ảnh hưởng đến IQ của đứa bé. Trong xã hội đã phát triển, môi trường trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu như biến mất.

Câu 1: Xác định nội dung chính của đoạn trích. Câu 2: Theo tác giả, chỉ số thông minh được cho là có liên quan đến điều gì? Câu 3: Anh/ Chị hiểu như thế nào về ý kiến sau khi nói về chỉ số IQ của con người: “Trong xã hội đã phát triển, môi trường trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu như biến mất.”? Câu 4: Anh/ Chị thấy thông tin nào trong đoạn trích có ý nghĩa với cuộc sống của bản thân mình? Vì sao? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm):

Trang 1


Từ nội dung của đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị có suy nghĩ gì về câu nói của Thomas Edison: “Trong thành công của tôi có 99% là mồ hôi và nước mắt, chỉ có 1% là do trời phú”? (Trình bày trong 01 đoạn văn khoảng 200 chữ.) Câu 2 (5,0 điểm): “Phong cách là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể". (Dẫn theo Ngữ văn 12, tập một, Sđd, tr. 181) Anh/ Chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

C TI O

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

N

-------------------- HẾT --------------------

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

U

Câu 1: Đoạn trích đề cập đến chỉ số thông minh (IQ) và sự liên quan giữa chỉ số thông minh với các yếu tố khác của cuộc sống con người.

PR

O D

Câu 2: Theo tác giả đoạn trích, chỉ số thông minh của con người được cho là có liên quan đến sự thành công trong học tập, trong công việc; sức khoẻ, tuổi thọ và số lượng từ mà con người sử dụng.

TU

Câu 3: Ý kiến: “Trong xã hội đã phát triển, môi trường trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu như biến mất.”, cho thấy yếu tố môi trường gia đình có tác động lớn đến IQ của con người khi còn nhỏ và dần dần không còn có ý nghĩa nữa khi con người trưởng thành.

AN H

Câu 4: HS chọn một thông tin mà mình thấy có ý nghĩa đối với cuộc sống của bản thân và giải thích lí do vì sao lại chọn thông tin ấy.

TH

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

U

YE

N

Câu 1: HS cần nhận thấy trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu, chỉ số IQ của con người được cho là có liên quan đến sự thành công trong học tập, trong công việc. Chỉ số IQ của con người một phần là do thừa kế từ cha mẹ - đây là yếu tố “trời phú” theo cách nói của Thomas Edison. Tuy nhiên, cũng theo Thomas Edison, vai trò của yếu tố “trời phú” ấy chỉ là rất nhỏ (1%), yếu tố có vai trò quyết định trong việc làm nên “thành công” của ông là “mồ hôi và nước mắt” - tức là công sức mà ông bỏ ra (99%).

N

G

Từ nội dung trên, liên hệ với thực tế, HS viết 01 đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng — phân — hợp...; sử dụng một trong các thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ... hoặc kết hợp các thao tác này; lí lẽ và dẫn chứng hợp lí; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu... để bày tỏ sự đồng tình, phản đối hoặc vừa đồng tình vừa phản đối ý kiến của Thomas Edison. Câu 2: HS có thể chọn tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ có phong cách nổi bật như Quang Dũng (với bài Tây Tiến), Tố Hữu (với đoạn trích Việt Bắc), Nguyễn Tuân (với đoạn trích Người lái đò Sông Đà),... để làm sáng tỏ ý kiến: “Phong cách là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể”. Tham khảo gợi ý sau: - Giải thích ý kiến: Phong cách là cá tính sáng tạo, là dấu ấn riêng của nhà văn khiến người ta có thể nhận ra, Trang 2


phân biệt người này với người khác. Nó biểu hiện ở cách khám phá và cách thể hiện riêng của nhà văn về đời sống. - Giới thiệu phong cách của một số nhà văn, nhà thơ tiêu biểu (theo gợi ý ở trên). Ví dụ: + Phong cách đậm đà tính dân tộc của nhà thơ Tố Hữu được thể hiện rất rõ trong đoạn trích Việt Bắc với nhiều biểu hiện như: nội dung nói về nghĩa tình chung thuỷ; thể thơ lục bát truyền thống, kiểu kết cấu đối đáp và cách sử dụng từ xưng hô mình – ta của ca dao, dân ca...

C TI O

- Phân tích phong cách của một nhà văn/ nhà thơ qua một tác phẩm cụ thể.

N

+ Phong cách đậm chất sử thi được thể hiện rõ trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành từ đề tài viết về cuộc chiến tranh giải phóng đến cách xây dựng nhân vật, cách miêu tả rừng xà nu tầng tầng lớp lớp; từ ngôn ngữ đến các chi tiết, hành động của các nhân vật trong thiên truyện đều nhằm làm nổi bật cảm hứng ngợi ca những con người Tây Nguyên bất khuất.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

- Nhận xét, đánh giá: Phong cách làm nên tên tuổi, vị trí của một nhà văn/ nhà thơ. Một nền văn học có nhiều phong cách nghệ thuật nổi bật là một nền văn học lớn, có giá trị.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 19 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

PR

O D

U

C TI O

N

Cô đơn kéo dài có thể dẫn đến một loạt các vấn đề sức khoẻ như rối loạn lo lắng, trầm cảm và lạm dụng thuốc. Đó cũng là yếu tố có nguy cơ gây ung thư và các bệnh tim mạch. Từ lâu mọi người biết rằng những người tách biệt với xã hội có hệ miễn dịch kém hơn so với những người thường xuyên giao tiếp trong xã hội. Trong vài năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã tìm ra cơ chế sinh học lí giải mối liên hệ giữa cảm giác cô đơn và sức khoẻ kém. Nhóm người này có mức hormone gây căng thẳng tăng. Dường như những hormone này biến đổi cấu trúc gen trong các tế bào của hệ miễn dịch, cơ quan có chức năng giúp cơ thể chống viêm nhiễm. Điều thú vị là những giao tiếp trực tiếp với người khác có thể giúp giải phóng hormone oxytocin, loại hormone giúp cơ thể có khả năng kháng viêm.

YE

N

TH

AN H

TU

Các nhà nghiên cứu Mĩ cho rằng tác động tiêu cực của sự cô đơn đối với sức khoẻ con người tương đương với việc hút 15 điếu thuốc lá mỗi ngày hoặc nghiện rượu. Tác hại này cao hơn so với hiện tượng không tập thể dục hoặc béo phì. Các nhà nghiên cứu nhận thấy các mối quan hệ xã hội như bạn bè, gia đình, hàng xóm và đồng nghiệp giúp cải thiện sức khoẻ khoảng 50%. Chúng ta cần nhớ rằng sự cô đơn không hoàn toàn giống cảm giác ở một mình. Vào thập kỉ 70 của thế kỉ trước, nhà tâm lí học Robert Weiss đã nêu ra định nghĩa về sự cô đơn: đó là tình trạng tâm thần lo âu do con người cảm thấy xa lạ hoặc bị người thân xa lánh, thiếu thốn những cảm xúc thân mật trong các mối quan hệ và các hoạt động chung với người khác. (Hoàng Nhật, dẫn theo Internet)

U

Câu 1: Mục đích chính của tác giả đoạn trích là gì?

G

Câu 2: Qua đoạn trích, anh/ chị hiểu thế nào là trạng thái cô đơn?

N

Câu 3: Theo anh/ chị, những thông tin nào về tác hại của trạng thái cô đơn trong đoạn trích khiến cho người đọc phải “giật mình”? Câu 4: Giả sử anh/ chị có người bạn thường xuyên rơi vào trạng thái cô đơn, anh/ chị sẽ khuyên người bạn đó những gì? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Trạng thái cô đơn có phải luôn mang đến những tác hại như đã nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu? Trình bày một quan niệm khác của anh/ chị trong 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ). Câu 2 (5,0 điểm): Tình huống truyện đặc sắc của tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân). -------------------- HẾT -------------------Trang 1


HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Mục đích của tác giả đoạn trích là cảnh báo về tác động tiêu cực của trạng thái cô đơn đối với sức khoẻ con người. Câu 2: Trạng thái cô đơn là trạng thái con người luôn có cảm giác lo âu; cảm thấy xa lạ hoặc bị xa lánh, thiếu thốn cảm xúc thân mật trong các mối quan hệ và các hoạt động chung với người khác.

- Nên hoà nhập với cuộc sống bên ngoài;

C TI O

Câu 4: HS có thể đưa ra hai lời khuyên trong số những gợi ý sau:

N

Câu 3: Có thể trích nguyên văn hoặc tóm tắt các tác hại của trạng thái cô đơn mà đoạn trích đã chỉ ra: cô đơn kéo dài có thể dẫn đến một loạt các vấn đề sức khoẻ như rối loạn lo lắng, trầm cảm và lạm dụng thuốc, cũng là yếu tố có nguy cơ gây ung thư và các bệnh tim mạch; tác động tiêu cực của trạng thái cô đơn đối với sức khoẻ con người tương đương với việc hút 15 điếu thuốc lá mỗi ngày hoặc nghiện rượu, cao hơn hiện tượng không tập thể dục hoặc béo phì.

U

- Nỗ lực vượt lên trên trạng thái cô đơn của bản thân bằng ý chí, nghị lực và niềm tin vào cuộc đời;

O D

- Mở rộng lòng mình để giãi bày, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với những người xung quanh... II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

AN H

TU

PR

Câu 1: - HS cần nêu một quan niệm khác của mình về trạng thái cô đơn và tác động, ảnh hưởng của nó đối với con người. Quan niệm đó có thể không hoàn toàn giống hoặc có thể trái ngược hoàn toàn với quan niệm đã trình bày trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu. Dù quan niệm thế nào thì HS cũng phải nêu rõ ý kiến của mình; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng - phân – hợp...; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

TH

- Sau đây là một định hướng để HS tham khảo: Không hoàn toàn đồng tình với ý kiến cô đơn luôn mang đến những tác hại cho con người.

YE

N

+ Cô đơn có những tác hại nhất định, tuy nhiên trạng thái này đôi khi lại thúc đẩy sự sáng tạo bởi khi một mình, con người có thời gian và điều kiện để suy nghĩ về mọi vấn đề một cách sâu sắc, thấu đáo.

N

G

U

+ Trạng thái cô đơn thực sự có khi lại là dấu hiệu của chiều sâu nội tâm. Cô đơn không hẳn luôn là điều tồi tệ (chẳng hạn như cảm giác cô đơn của các nghệ sĩ lớn: Xuân Diệu, Goethe,...). Goethe từng nói: “Không ai từng hiểu tôi đúng nghĩa, tôi chưa từng được ai thấu hiểu hoàn toàn và không ai hiểu được một ai khác”. Câu 2: Xem gợi ý ở Phần một, tr. 38 – 41.

Trang 2


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 20 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

O D

U

C TI O

N

(1) Vụ chiếc tàu Titanic bị chìm ngoài khơi Bắc Đại Tây Dương đêm 15 – 4 – 1912 làm hơn 1500 người thiệt mạng đã không ngừng làm đề tài cho bao tác phẩm văn chương nghệ thuật. Titanic có nghĩa là vĩ đại. Đặt tên như thế cho con tàu, con người muốn nói lên niềm kiêu hãnh cho một công trình có một không hai vào thời bấy giờ. Nhưng cái vĩ đại mà con người tưởng mình có thể đạt được trong tiến bộ khoa học kĩ thuật ấy không là gì trước sức mạnh thiên nhiên.

TU

PR

(2) Sau khi chiếc tàu vĩ đại ấy bị đắm, một tờ báo xuất bản ở Anh đã đăng kề nhau hai bức ảnh minh họa có nội dung như sau: Trong bức ảnh thứ nhất, người ta thấy chiếc tàu chạm vào tảng băng, bên dưới có dòng chữ: “Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên nhiên”. Còn bức ảnh thứ hai, người ta lại thấy một người đàn ông nhường chiếc phao cấp cứu của mình cho người đàn bà đang bế con trên tay. Lần này, bức ảnh được chú thích bằng dòng chữ: “Sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người”.

(Tương Quan, Phép màu nhiệm của đời,

YE

N

TH

AN H

(3) Sức mạnh, sự vĩ đại đích thực của con người hẳn không nằm trong khả năng chinh phục hay chế ngự thiên nhiên, mà chính là trong khả năng chế ngự được bản thân, vượt thắng sự ích kỉ. Mahatma Gandhi, người giành độc lập cho Ấn Độ bằng cuộc đấu tranh bất bạo động, đã nói: “Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay chính là tình yêu”. NXB Trẻ, 2004, tr. 72 – 73)

U

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là gì?

G

Câu 2: Văn bản có 03 đoạn, hãy nêu nội dung của từng đoạn.

N

Câu 3: Anh/ Chị hiểu như thế nào về “sức mạnh của con người” trong dòng chữ chú thích dưới bức ảnh thứ hai? Câu 4: Theo anh/ chị, thông điệp sâu sắc nhất của văn bản trên là gì? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): “Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay chính là tình yêu” (Mahatma Gandhi). Bàn luận về ý kiến trên trong 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ). Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích ý nghĩa của ba câu hỏi xuất hiện ở ba khổ thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. -------------------- HẾT --------------------

Trang 1


HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản là nghị luận. Câu 2: Nội dung của từng đoạn: - Đoạn (1) kể về vụ đắm tàu Titanic. - Đoạn (2) kể về hai bức ảnh minh họa cùng lời chú thích được đăng trên tờ báo xuất bản ở Anh sau vụ đắm tàu. - Đoạn (3) bình luận về sức mạnh, sự vĩ đại của con người thông qua sự việc nêu trên. Câu 3: “Sức mạnh của con người” trong dòng chữ chú thích dưới bức ảnh thứ hai có thể hiểu là sức mạnh của lòng vị tha, tình yêu thương, của sự vượt thắng bản năng để nhường cơ hội sống cho người khác.

N

Câu 4: HS có thể nêu một trong những thông điệp sau:

C TI O

- Tiến bộ khoa học giúp con người chinh phục thiên nhiên nhưng không thể chế ngự được nó; sức mạnh của con người không là gì trước sức mạnh của tự nhiên.

U

- Thiên nhiên có thể phá hủy những công trình vĩ đại con người làm ra nhưng không thể hủy diệt được sức mạnh tinh thần, sức mạnh tình yêu nơi con người.

O D

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

TU

PR

Câu 1: HS cần nêu rõ quan điểm của mình về ý kiến: “Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay chính là tình yêu”; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng – phân – hợp…; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

AN H

Sau đây là một vài gợi ý:

TH

- Giải thích: “tình yêu” – lòng vị tha, sự hi sinh bản thân, tình yêu thương của con người với đồng loại, với thiên nhiên, môi trường xung quanh – chính là sức mạnh vĩ đại nhất mà loài người có trong tay. - Nêu ý kiến đồng tình với câu nói của Mahatma Gandhi.

N

- Phân tích, chứng minh:

U

YE

+ Tình yêu là một giá trị tinh thần vô giá, có thể mang đến cho con người niềm vui, hạnh phúc, tạo động lực và sức mạnh giúp con người vượt qua những thử thách để chiến thắng cái ác, cái xấu.

N

G

+ Con người dù có vĩ đại đến đâu cũng trở nên nhỏ bé, yếu đuối, bất lực trước sự cuồng nộ của thiên nhiên, sức mạnh hủy diệt của bom hạt nhân… Chỉ có tình yêu mới khiến cho loài người biết sống thân thiện với môi trường và xích lại gần nhau, nắm tay nhau để cùng tạo dựng nên những giá trị trường tồn, bất tử. - Bàn luận: + Vì tình yêu là sức mạnh vĩ đại nhất nhân loại có trong tay nên mỗi người cần phải biết chia sẻ, có lòng vị tha; mọi người cần biết chung tay ngăn chặn và đẩy lùi chiến tranh, xung đột sắc tộc, dịch bệnh; bảo vệ môi trường sống… + “Nếu loài người muốn tồn tại; nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất “ (Thư của Albert Einstein gửi con gái về một nguồn sức mạnh vô hình, dẫn theo http://www.chungta.com). Câu 2: Đề bài yêu cầu nêu ý nghĩa của ba câu hỏi ở ba khổ thơ của bài Đây thôn Vĩ Dạ. Vì thế, HS cần đặt các câu hỏi vào ngữ cảnh của nó để phân tích, nắm được đặc điểm và ý nghĩa của ba câu hỏi đối với âm điệu của bài thơ và mạch tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Qua đó, HS khái quát được giá trị nhân văn Trang 2


của thi phầm và vẻ đẹp của thơ Hàn Mặc Tử. Trước tiên HS cần giới thiệu khái quát về thi phẩm Đây thôn Vĩ Dạ, hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng chủ đạo, cấu tứ của bài thơ; sau đó mới đi vào phân tích ý nghĩa ba câu hỏi ở ba khổ thơ. Cụ thể: a) Đặc điểm hình thức: Ba câu hỏi được đặt đều đặn ở cả ba khổ thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?; Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?; Ai biết tình ai có đậm đà?. Đây không phải là những câu hỏi vấn – đáp mà là sự tự phân thân của nhân vật trữ tình để bộc lộ cảm xúc. b) Ý nghĩa

N

- Đối với âm điệu bài thơ: Ba câu hỏi xuyên suốt ba khổ thơ làm nên âm điệu chủ đạo của thi phẩm: da diết, khắc khoải.

C TI O

- Đối với mạch cảm xúc của chủ thể trữ tình:

PR

O D

U

+ Câu hỏi mở đầu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” chứa chan cảm xúc nhưng lại rất kín đáo và giàu sắc thái biểu cảm: vừa là một lời hỏi han, một lời nhắc nhở, một lời mời mọc, lại vừa như một lời trách móc vang lên trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình. Đây không chỉ là lời của người thôn Vĩ mà còn là lời tự nhủ đầy xót xa, khắc khoải của nhà thơ với lòng mình (thể hiện qua hai từ không về). Nhà thơ hỏi để có một điểm tựa cảm xúc, một cái cớ để tâm tưởng thi nhân được trở về với thôn Vĩ. Cả khổ 1 mở ra một bức tranh thôn Vĩ trong trẻo, thánh thiện mà quen thuộc, gần gũi.

AN H

TU

+ Câu hỏi thứ hai: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?” đặt câu thơ vào ngữ cảnh của đoạn thơ và hoàn cảnh sáng tác, tâm thế sáng tạo của thi nhân, ta nhận thấy bi kịch tâm hồn, thân phận được thể hiện qua từ “kịp”. Câu hỏi làm toát lên niềm hi vọng đầy khắc khoải trong tâm trạng thi nhân.

N

G

c) Đánh giá, khái quát

U

YE

N

TH

+ Câu hỏi thứ ba: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà? đặt câu thơ vào mạch cảm xúc của toàn bài, câu thơ vừa là lời ướm hỏi, lại vừa mang sắc thái hoài nghi. Đại từ phiếm chỉ “ai” thứ nhất là chủ thể trữ tình, đại từ phiếm chỉ “ai” thứ hai có thể là ai? Là “khách đường xa” hay tình người trong cõi trần ai này? Dẫu hiểu theo cách nào, câu thơ của Hàn Mặc Tử vẫn thấm thía một niềm mong ngóng vừa ló rạng đã vội hóa thành một mối hoài nghi (Chu Văn Sơn). Đó là mối hoài nghi của một trái tim khao khát yêu thương, gắn bó với cuộc sống nhưng luôn ý thức được bi kịch của đời mình.

Sự nối tiếp của các câu hỏi cũng là mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình làm nên kết cấu chặt chẽ của thi phẩm: từ ao ước, đắm say đến hi vọng, phấp phỏng rồi mơ tưởng, hoài nghi. Đó là những cung bậc khác nhau của một mối u hoài. Song vượt lên trên những hoài nghi, mặc cảm chia lìa, người đọc vẫn thấy một tấm lòng tha thiết với cuộc đời, một tâm hồn trong trẻo, một trái tim khao khát yêu thương. Điều này làm nên giá trị nhân văn sâu sắc và vẻ đẹp của bài thơ.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 21 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu:

C TI O

N

LÁ ĐỎ Gặp em trên cao lộng gió

TU

Đoàn quân vẫn đi vội vã

PR

Vai áo bạc quàng súng trường

O D

Em đứng bên đường như quê hương

U

Rừng lạ ào ào lá đỏ

AN H

Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa Chào em cô gái tiền phương

TH

Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn… 1974

YE

N

(Nguyễn Đình Thi, Tuyển tập thơ Việt Nam giai đoạn chống Mĩ cứu nước, NXB Hội Nhà văn, 1999)

U

Câu 1: Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai?

N

G

Câu 2: Hình ảnh so sánh: “Em đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường” gợi lên vẻ đẹp nào của nhân vật “em”? Câu 3: Sức gợi của hình ảnh “Rừng lạ ào ào lá đỏ” và “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”? Câu 4: Anh/Chị có nhận xét gì về hai câu thơ cuối bài? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) bình luận về vai trò của những người “em gái tiền phương” trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ của dân tộc ta. Câu 2 (5,0 điểm): Có người cho rằng hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm cho tác phẩm đạt tới tầm vóc của những khúc sử thi hào hùng và mang vẻ đẹp trữ tình lãng mạn. Trang 1


Ý kiến của anh/chị về vấn đề trên như thế nào? -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Nhân vật trữ tình trong bài thơ là cô gái (em gái tiền phương). Câu 2: Hình ảnh so sánh “Em đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường” gợi lên vẻ đẹp gần gũi, thân thương, vừa mộc mạc, tảo tần vừa kiên cường, rắn rỏi,…của người con gái tiền phương.

C TI O

N

Câu 3: Hình ảnh “Rừng lạ ào ào lá đỏ” và “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa” gợi tả không gian của cuộc gặp gỡ giữa anh lính Trường Sơn và cô gái tiền phương: không gian núi rừng vừa hiện thực vừa lãng mạn; vừa trữ tình, thơ mộng (giữa mùa thu của đại ngàn Trường Sơn, lá rừng rụng ào ạt, đỏ rực) vừa hào hùng, dữ dội (lửa bụi chiến tranh bay nhòa trời),… Câu 4: Hai câu thơ cuối bài là lời chào, cũng là lời ước hẹn tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng và hi vọng vào ngày chiến thắng của người lính Trường Sơn.

U

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

TU

PR

O D

Câu 1: HS cần hiểu đúng vai trò của những người “em gái tiền phương” trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ của dân tộc ta; nêu được những dẫn chứng cụ thể, có lí lẽ và lập luận thuyết phục; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng – phân – hợp…; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Sau đây là một vài gợi ý:

TH

AN H

– “Em gái tiền phương” là những người phụ nữ trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu cùng bộ đội trên những tuyến đầu của mặt trận (phân biệt với “em gái hậu phương” là những người con gái không trực tiếp ra trận, ở lại hậu phương để sản xuất và chiến đấu). Cụ thể, “em gái tiền phương” ở đây là các nữ quân nhân hoặc thanh niên xung phong có mặt trên các tuyến đường Trường Sơn gian khổ, ác liệt trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước.

YE

N

– Họ có vai trò vô cùng quan trọng và có những đóng góp to lớn trong hai cuộc kháng chiến:

N

G

U

+ Là lực lượng trực tiếp góp phần làm nên chiến công nơi tiền tuyến chống quân thù (những cô gái ở ngã ba Đồng Lộc, ở Truông Bồn,…). Qua hai cuộc kháng chiến, đã có hàng triệu nữ quân nhân, nữ thanh niên xung phong tham gia lực lượng vũ trang. Đó là những cô gái đi tải đạn; là những cô giao liên xuyên rừng dẫn đường cho cán bộ, cho quân giải phóng; là hàng trăm ngàn nữ thanh niên xung phong không quản ngày đêm phá bom, san lấp, mở đường cho xe ta ra tiền tuyến;… + Trong số những “em gái tiền phương” ấy, có biết bao nhiêu người đã ngã xuống chiến trường; biết bao cô gái đã lấy tình yêu Tổ quốc thắp lên ngọn lửa – Đánh lạc hướng quân thù hứng lấy luồng bom” (Khoảng trời – hố bom, Lâm Thị Mỹ Dạ). – Họ xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng: “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Câu 2: Đề bài yêu cầu HS nghị luận về một ý kiến bàn về hình tượng cây xà nu trong truyện Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành). HS cần viết 01 bài văn có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo quy tắc đúng chính tả, dùng từ, đặt câu. Tham khảo định hướng làm bài sau đây: Trang 2


a) Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm: – Tác giả: Nguyễn Trung Thành quê ở Quảng Nam nhưng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, ông chủ yếu sống ở Tây Nguyên. Ông hiểu biết sâu sắc, gắn bó mật thiết với cảnh vật và con người các dân tộc Ba-na, Gia-rai, Ê-đê,…ở vùng đất này. Nhờ đó, ông viết nhiều và viết rất hay về Tây Nguyên. Với tiểu thuyết Đất nước đứng lên (1995) và truyện ngắn Rừng xà nu (1965), ông được coi là nhà văn của Tây Nguyên. – Tác phẩm: Rừng xà nu là tác phẩm nổi tiếng nhất trong số những sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

N

b) Giải thích: Tầm vóc sử thi hào hùng và vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của truyện ngắn Rừng xà nu toát lên từ cảm hứng, chủ đề, hình tượng nhân vật (trong đó có hình tượng cây xà nu) và cách kể chuyện cũng như ngôn ngữ tác phẩm.

O D

U

C TI O

+ Rừng xà nu là tiếng nói của lịch sử và thời đại, gắn liền với những sự kiện, những biến cố có ý nghĩa trọng đại đối với toàn dân (phân tích hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để thấy Rừng xà nu được sáng tác như một sự biểu dương, bằng sức mạnh của nghệ thuật, con đường đấu tranh giải phóng mà nhân dân Tây Nguyên nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung đã chọn: con đường bạo lực cách mạng, đấu tranh vũ trang.

TU

PR

+ Rừng xà nu phản ánh ý chí kiên cường, bất khuất, khát vọng, niềm tien mãnh liệt và sức sống bất diệt của cả một dân tộc trong hành trình giành độc lập, tự do cho đất nước, nhân dân; bảo vệ cuộc sống của mỗi cá nhân và của cộng đồng.

AN H

+ Rừng xà nu mang âm hưởng hào hùng của “khan” Tây Nguyên, là chuyện của một đời – cuộc đời của người anh hùng, dũng sĩ Tnú – được kể trong một đêm, với ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giảu cảm xúc và nhạc điệu, khi vang động, khi tha thiết, lúc trang nghiêm.

TH

c) Phân tích ý nghĩa của hình tượng cây xà nu trong việc tạo nên tầm vóc sử thi hào hùng và vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của truyện ngắn Rừng xà nu.

N

G

U

YE

N

– Giới thiệu khái quát về hình tượng cây xà nu: Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành, là hình tượng vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Đó là bức tranh thiên nhiên thơ mộng và hùng vĩ, đồng thời cũng là biểu tượng cho số phận đau thương và tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường của người dân Tây Nguyên thời kì chống Mĩ cứu nước. Trong tác phẩm, có khoảng 20 lần nhà văn nhắc trực tiếp hoặc gián tiếp đến cây xà nu, rừng xà nu và những biến thể khác như củi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, nhựa xà nu, lá xà nu,… – Phân tích ý nghĩa của hình tượng cây xà nu: Cây xà nu chứng kiến, chịu chung nỗi đau thương của dân làng Xô Man. Cây xà nu kiên cường, bất chấp bom đạn vẫn sinh sôi nảy nở, vươn lên xanh ngút ngàn, bất tận; biểu tượng cho tinh thần quật cường, khát vọng tự do, sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên. + Mở đầu câu chuyện (đoạn văn thứ nhất), nhà văn miêu tả một tình huống đặc biệt: sự chạm trán trực tiếp, sự đối lập giữa sức sống, sự quả cảm của dân làng Xô Man với sự tàn bạo, dữ dội của bom đạn kẻ thù, từ đó nhà văn đi vào miêu tả rừng xà nu. Nhà văn sử dụng các biện pháp só sánh, nhân hóa; dùng nhiều tính từ, động từ mạnh để miêu tả cây xà nu từ tổng thể, khái quát đến chi tiết, cụ thể. Ngòi bút của nhà văn như ống kính của nhà quay phim đã bao quát toàn cảnh, thu vào máy quay sự trùng điệp của rừng xà nu chạy tít tắp đến chân trời. Đó là cánh rừng nằm cạnh con nước lớn, hằng ngày phải hứng chịu bom đạn, đại bác của giặc. Đó là cánh rừng đầy thương tích: “không có cây nào không bị thương”, những vết thương dần bầm lại, Trang 3


nhựa xà nu như những cục máu lớn, đọng lại như nỗi căm hờn…Nhưng nó đã có từ ngàn đời và sẽ còn tồn tại đến ngàn đời sau. + Kết thúc tác phẩm, nhà văn lấy lại gần như nguyên văn câu viết về rừng xà nu ở phần mở đầu. Điều này tạo nên kiểu kết cấu vòng tròn vừa khép lại câu chuyện này vừa mở ra một câu chuyện khác. Kết cấu đầu cuối tương ứng ấy, một mặt, khiến người đọc cảm tưởng như kì tích anh hùng của Tnú, của dân làng Xô Man mà tác giả vừa kể chỉ là sự tiếp nối của những tù trưởng danh tiếng và câu chuyện sẽ được viết tiếp bởi những thế hệ sau của làng; mặt khác, dường như câu chuyện không chỉ bó hẹp trong không gian của làng Xô Man mà còn được mở rộng ra khắp mọi miền đất nước. + Ngoài phần mở đầu và kết thúc, trong câu chuyện của cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man, cây xà nu luôn được nhắc đến với một dụng ý nghệ thuật rõ nét:

PR

O D

U

C TI O

N

 Cây xà nu gắn bó mật thiết với cuộc sống thường nhật của người dân làng Xô Man: Cây xà nu có mặt trong đời sống hàng ngày của người dân làng Xô Man tự ngàn đời: lửa xà nu cháy trong bếp của mỗi gia đình, lửa xà nu cháy trong nhà ưng tập hợp dân làng, khói xà nu xông bảng nứa để trẻ con học chữ,…Cây xà nu còn gắn với những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man: ngon đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng lấy giáo, mác, dụ, rựa,…để chuẩn bị nổi dậy; khi giặc đốt hai bàn tay Tnú, dân làng Xô Man đã nổi dậy để rồi “xác mười người lính giặc ngổn ngang quanh đóng lửa đó”. Cây xà nu thấm sâu vào suy nghĩ và cảm xúc của dân làng: cảm nhận của Tnú về cụ Mết khi về thăm làng (ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn); sự tự hào của cụ Mết về cây xà nu (không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta)…

YE

N

TH

AN H

TU

 Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của người dân Tây Nguyên trong đấu tranh cách mạng: Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà người dân Tây Nguyên phải gánh chịu trong chiến tranh. Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khao khát tự do, lòng tin vào lí tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến. Khả năng sinh sôi nảy nở mãnh liệt của cây xà nu tượng trưng cho sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến. Sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu bất chấp những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong chiến tranh.

U

d) Nhận xét và đánh giá

N

G

– Đặc điểm của cây xà nu có sự hài hòa, tương ứng với những phẩm chất cao đẹp của người dân làng Xô Man. Thiên nhiên và con người Tây Nguyên đã thực hiện sự hòa nhập với nhau trong cả nỗi đau thương và sự kiên cường, mạnh mẽ. Nó là biểu tượng của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên nói chung trong kháng chiến. – Nghệ thuật miêu tả cây xà nu: với biện pháp nhân hóa, hình tượng cây xà nu đã trở thành chứng nhân lịch sử; sự xuất hiện lặp lại của hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu ở mở đầu, kết thúc và trong suốt thiên truyện đã khiến cây xà nu trở thành người bạn đồng hành của dân làng Xô Man… Những đoạn văn nói về xà nu là những đoạn văn đẹp hào hùng, bi tráng, đầy chất thơ; những chi tiết về xà nu bao giờ cũng gây ấn tượng mạnh về sự đau thương mà bất khuất, dữ dội khốc liệt mà trữ tình, lãng mạn (vì nó gắn với những con người và cuộc sống làng Xô Man trong những năm chiến tranh). – Qua việc miêu tả về cây và rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thật đặc sắc, góp phần quan trọng tạo nên tầm vóc sử thi hào hùng và chất trữ tình, cảm hứng Trang 4


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

lãng mạn cách mạng của tác phẩm.

Trang 5


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 22 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Rất nhiều người kiếm tìm sự an toàn và chắc chắn trong tư duy số đông. Họ nghĩ rằng nếu số đông người đang làm việc gì đó, việc đó chắc chắn phải đúng. Đó phải chăng là một ý tưởng tốt? Nếu mọi người chấp nhận nó, phải chăng đó là biểu tượng cho sự công bằng, liêm chính, lòng từ bi và sự nhạy cảm? Không hẳn. Tư duy số đông cho rằng Trái Đất là tâm điểm của vũ trụ, nhưng Copernicus nghiên cứu những vì sao, các hành tinh và chứng minh một cách khoa học rằng Trái Đất và những hành tinh khác trong thái dương hệ của chúng ta quay quanh Trái Đất và những hành tinh khác trong thái dương hệ của chúng ta quay quanh Mặt Trời. Tư duy số đông cho rằng phẫu thuật không cần những dụng cụ y tế sạch, nhưng Joseph Lister đã nghiên cứu tỉ lệ tử vong cao trong các bệnh viện và giới thiệu biện pháp khử trùng, ngay lập tức cứu được bao nhiêu mạng người. Tư duy số đông cho rằng phụ nữ không nên có quyền bỏ phiếu, tuy nhiên những người như Emmeline Pankhurst và Susan B. Anthony đã đấu tranh và giành được quyền đó. Tư duy số đông đưa Hitler lên nắm quyền lực ở Đức, nhưng đế chế của Hitler đã giết hại hàng triệu người và gần như tàn phá cả châu Âu. Chúng ta luôn cần nhớ rằng có một sự khác biệt lớn giữa sự chấp nhận và trí tuệ. Mọi người có thể nói rằng có sự an toàn trong một số trường hợp tư duy số đông, nhưng nó không phải lúc nào cũng đúng.

N

(John Maxwell, Tôi tư duy, tôi thành đạt, NXB Lao động – Xã hội, 2012, tr.130-131)

YE

Câu 1: Đoạn trích sử dụng thao tác lập luận chính nào?

U

Câu 2: Đoạn trích trình bày theo cách nào?

G

Câu 3: Nêu tác dụng của phép lặp cấu trúc câu “Tư duy số đông...”.

N

Câu 4: Qua đoạn trích trên, anh/ chị hiểu thế nào là “tư duy số đông”? Anh/ Chị ứng xử với “tư duy số đông” như thế nào? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Tư duy số đông có phải là lực cản của sự thành công? Anh/ Chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về vấn đề này. Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích một số nét đặc sắc trong nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh thể hiện trong Tuyên ngôn Độc Lập. Từ đó liên hệ với tập thơ Nhật kí trong tù để làm sáng tỏ phong cách nghệ thuật độc đáo và đa dạng của Hồ Chí Minh. -------------------- HẾT -------------------Trang 1


HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Đoạn trích sử dụng thao tác lập luận chính là bác bỏ. Câu 2: Đoạn trích trình bày theo cách tổng – phân – hợp. Câu 3: Phép lặp cấu trúc câu “Tư duy số đông...” ngoài tác dụng tạo sự liên kết về hình thức giữa các câu trong đoạn trích còn có ý nghĩa nhấn mạnh vấn đề cần bàn luận và tạo nên giọng điệu hùng biện hấp dẫn, lôi cuốn, thể hiện nhiệt huyết của người viết. Câu 4:

Có thể đưa ra một trong những cách ứng xử với “tư duy số đông” như sau:

C TI O

-

N

- “Tư duy số đông” là cách suy nghĩ, nhìn nhận, đánh giá của đa số, của đại bộ phận các tầng lớp người trong xã hội về một vấn đề/ hiện tượng nào đó. + Cần bình tĩnh nhìn nhận vấn đề và có chính kiến riêng.

+ Tránh a dua theo đám đông mà thiếu sự suy nghĩ, phân tích thấu đáo, khách quan;

O D

U

+ Tư duy số đông không hẳn luôn đúng nhưng con người cũng cần lắng nghe, xem xét, phân tích để từ đó xác lập cho mình một cách nghĩ, cách làm đúng.

PR

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

AN H

Sau đây là một vài định hướng giải quyết:

TU

Câu 1: HS cần nêu quan điểm rõ ràng; có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể, lập luận thuyết phục; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng – phân – hợp, ...; sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

YE

N

TH

- Đồng tình: Nếu quan niệm thành công là khác biệt, là sáng tạo thì tư duy số đông nhiều khi tạo ra đường mòn, hạn chế những tìm tòi riêng trong suy nghĩ và những hành động của con người và vì thế sẽ là lực cản của sự thành công. Ralph Waldo Emerson, nhà thơ lớn người Mĩ thế kỉ XIX, viết: “Người gây cảm hứng và dẫn đường cần tách khỏi những người khác, để không phải sống, thở, đọc và viết hằng ngày dưới gông cùm những ý kiến của họ” là có ý như vậy.

N

G

U

- Phản đối: Thành công là đạt được mục tiêu đề ra trong cuộc sống. Trên con đường thực hiện mục tiêu, con người cần phải biết lắng nghe và khi đó cách nhìn nhận, đánh giá của số đông cũng có những tác dụng nhất định: thể hiện xu hướng, trào lưu phổ biến nào đó; cảnh báo tính khả thi của mục tiêu đặt ra; chỉ ra hướng tiếp cận với công chúng;... Vậy nên tư duy số đông không hề cản trở chúng ta thành công, quan trọng là con người có cách ứng xử như thế nào với nó. -

Vừa đồng tình vừa phản đối:

+ Tư duy số đông là lực cản nếu con người chưa đủ năng lực tìm tòi cái mới, cái riêng cho suy nghĩ và hành động của mình. Con người sẽ lệ thuộc vào cách nghĩ, cách làm của số đông, điều này khó đưa lại thành công cho họ. + Tư duy số đông cũng có thể là lực đẩy, thôi thúc người ta tìm kiếm cách nghĩ, cách làm riêng, khác biệt; nỗ lực tìm tòi, kiến tạo những giá trị mới;... Khi đó, thành công là kết quả tất yếu cửa sự lao động nghiêm túc, miệt mài của những ai đam mê, không ngại khó; dám chấp nhận sự khác biệt, thậm chí cả sự cô đơn và thất bại. Câu 2: Tham khảo định hướng sau: Trang 2


a) Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh và bản Tuyên ngôn Độc lập (hoàn cảnh sáng tác, thể loại, giá trị nội dung và nghệ thuật) b) Phân tích một số nét đặc sắc trong nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập - Tuyên ngôn Độc lập là áng văn nghị luận chính trị bất hủ. Mạch lập luận của văn bản rất chặt chẽ, đanh thép, giọng điệu hùng hồn, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng xác thực, giàu tính luận chiến: + Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, tác giả trích dẫn hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, coi đó là nguyên lí, là tiền đề, cơ sở để lập luận. + Phần tiếp theo của Tuyên ngôn Độc lập, tác giả tranh luận ngầm với luận điệu của thực dân Pháp:

N

 Thực dân Pháp kể công “khai hóa” thì Tuyên ngôn Độc lập kể những tội ác dã man của chúng, trong đó tội nặng nhất là gây ra nạn đói giết chết hơn hai triệu đồng bào ra từ Bắc Kì đến Quảng Trị.

C TI O

 Thực dân Pháp kể công “bảo hộ” thì Tuyên ngôn Độc lập lên án chúng trong năm năm đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

O D

U

 Thực dân Pháp cho rằng Đông Dương là thuộc địa của chúng thì Tuyên ngôn Độc lập chỉ rõ Đông Dương đã là thuộc địa của Nhật và nhân dân ta đã đứng lên giành lại quyền độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.

AN H

TU

PR

 Thực dân Pháp nhân danh Đồng minh tuyên bố Đồng minh đã thắng Nhật, vậy chúng có quyền lấy lại Đông Dương, Tuyên ngôn Độc lập vạch rõ thực dân Pháp chính là kẻ phản bội Đồng minh, đã hai lần dâng Đông Dương cho Nhật. Chỉ có Việt Minh mới thực sự thuộc phe Đồng minh vì đã đứng lên đánh Nhật giải phóng Đông Dương.

TH

 Ngoài ra, Tuyên ngôn Độc lập còn lên án tội ác dã man và tư cách đê tiện của thực dân Pháp: khi trốn chạy còn tàn sát các chiến sĩ cách mạng ở trong tù. Ngược lại, Việt Minh đã tỏ rõ lòng nhân đạo khi giúp đỡ chúng chạy qua biên giới.

N

G

U

YE

N

+ Phần cuối của Tuyên ngôn Độc lập, tác giả đưa ra một kết luận không ai có thể phủ nhận được: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập; kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và tuyên bố với thế giới về quyền độc lập, tự do thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam cũng như quyết tâm của toàn thể nhân dân Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do, độc lập ấy. c) Liên hệ với tập thơ Nhật kí trong tù - Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ được viết trong thời gian Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm 1943. Tập thơ ghi lại những tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ của tác giả, phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh thử thách nặng nề của chốn lao tù. Qua đó, làm hiện lên bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh; nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và chan chứa tấm lòng nhân đạo; có trí tuệ sắc sảo, uyên thâm; có ý chí, nghị lực phi thường và tâm hồn khát khao tự do. -

Một con người nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và chan chứa tấm lòng nhân đạo:

+ Một tâm hồn nghệ sĩ giàu rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời mặc dù thân thể bị xiềng xích gông cùm. Đó là vẻ đẹp của trăng sao, của hừng đông buổi sớm, của làng xóm ven sông... mà nhà thơ bắt gặp trên đường chuyển lao (Ngắm trăng; Giải đi sớm; Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh; Mới ra tù, tập leo Trang 3


núi...) + Một tấm lòng luôn khắc khoải hướng về Tổ quốc (“Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng/ Tin tức bên nhà bữa bữa trông” – Tức cảnh). + Một tấm lòng yêu thương bao la với nhân quần: thương đứa trẻ mới sáu tháng tuổi phải theo mẹ đến ở nhà pha (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương), cảm thương cảnh ngộ của vợ chồng người bạn tù (Vợ người bạn tù đến thăm chồng), chia sẻ nỗi lòng của người bạn tù (Người bạn tù thổi sáo), bất bình trước nỗi khổ vô lí của cảnh tù (Một người tù cờ bạc vừa chết), ... -

Một con người có trí tuệ sắc sảo, uyên thâm:

+ Rút ra triết lí về những quy luật của đời người, của hoạt động cách mạng từ những chi tiết thông thường của đời sống (“Hết mưa là nắng hửng lên thôi/ Hết khổ là vui vốn lẽ đời” – Trời hửng; “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời, một tốt cũng thành công” – Học đánh cờ)...

-

C TI O

N

+ Phát hiện và phản ánh bộ mặt đen tối của nhà tù Quốc dân đảng và những mâu thuẫn hài hước của xã hội Trung Quốc những năm 1942 – 1943 để cất lên tiếng cưởi đầy trí tuệ (Lai Tân, Cờ bạc..). Một con người có ý chí, nghị lực phi thường và tâm hồn khao khát tự do:

U

+ Ý chí, nghị lực phi thường của người tù cách mạng Hồ Chí Minh (Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao/ Muốn nên sự nghiệp lớn/ Tinh thần càng phải cao);

O D

+ Niềm lạc quan cách mạng cho dù bị đọa đày về thân xác (Ngắm trăng, Đi Nam Ninh, Trời hửng,...); d) Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh

PR

+ Niềm khao khát tự do (Bị hạn chế, “Ở Việt Nam có biến động” theo nguồn tin xích đạo trên báo Ung Ninh).

AN H

TU

- Hai tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập và Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh được viết theo hai phong cách khác nhau, với những bút pháp khác nhau. Nếu Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực thì Nhật kí trong tù lại kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ ca Hồ Chí Minh – vừa cổ điển vừa hiện đại, rất Á Đông mà cũng rất Việt Nam.

N

G

U

YE

N

TH

- Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh thống nhất ở chỗ: Bác luôn xác định rõ mục đích (Viết để làm gì?), đối tượng (Viết cho ai?), từ đó xác định nội dung (Viết cái gì?) và cách viết (Viết như thế nào?). Nhìn chung, trong văn chính luận hay thơ ca, phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh đều hết sức phong phú, đa dạng mà thống nhất. Đó là cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị, sử dụng linh hoạt các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật, nhằm thể hiện một cách nhuần nhị và sâu sắc nhất tư tưởng và tình cảm của người cầm bút.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 23 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

C TI O

N

(1) Có một loại lực vô cùng mạnh mẽ, loại lực mà tới tận bây giờ khoa học cũng chưa thể tìm ra định nghĩa chính xác cho nó. Lực này bao gồm và chi phối mọi loại lực khác, thậm chí còn đứng sau vô vàn hiện tượng do vũ trụ vận hành mà chúng ta vẫn chưa thể lí giải. Đó chính là TÌNH YÊU.

PR

O D

U

(2) Khi các nhà khoa học tìm kiếm một học thuyết chung cho vũ trụ, họ đã bỏ qua lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất này. Tình yêu là ánh sáng soi chiếu tâm hồn những người biết trao và nhận nó. Tình yêu là lực hấp dẫn, bởi nó khiến người ta cuốn hút lẫn nhau. Tình yêu là sức mạnh, bởi nó phát triển bản tính tốt đẹp nhất trong ta, giúp nhân loại không bị che mắt bởi sự ích kỉ mù quáng. Tình yêu hé lộ và gợi mở. Tình yêu có thể khiến chúng ta sống và chết. Tình yêu là Chúa và Chúa cũng chính là tình yêu.

TU

(3) Loại lực này giải thích mọi điều và thổi ý nghĩa vào cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta đã bỏ qua nó quá lâu. Có lẽ là do chúng ta vẫn duy trì nỗi sợ trước một thứ con người không thể nào hiểu và kiểm soát được.

TH

AN H

(4) Để giúp khái niệm tình yêu trở nên dễ hình dung hơn, cha đã thực hiện một sự thay thế đơn giản trong phương trình nổi tiếng nhất của mình. Thay vì sử dụng công thức E = mc2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương. Chúng ta hoàn toàn có thể kết luận rằng: tình yêu chính là năng lượng bất khả chiến bại, bởi nó là vô hạn. [...]

G

U

YE

N

(5) Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất... (Thư của Albert Einstein gửi con gái về một nguồn sức mạnh vô hình, dẫn theo http://www.chungta.com, ngày 22-4-2016)

N

Câu 1: Thao tác lập luận chính được sử dụng trong đoạn trích trên là gì? Câu 2: Chỉ ra và nêu tác dụng của 01 phép tu từ trong đoạn (2). Câu 3: Nhận xét về nét độc đáo của câu văn: “Thay vì sử dụng công thức E = mc2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương”. Câu 4: Bài học nhân sinh sâu sắc nhất mà anh/ chị rút ra sau khi đọc đoạn trích trên. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Bình luận ý kiến trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất”. (Trình bày trong 01 đoạn văn khoảng 200 chữ.) Câu 2 (5,0 điểm): Trang 1


Mối quan hệ giữa hiện thực cuộc sống, tác phẩm nghệ thuật và cảm quan của người nghệ sĩ trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Thao tác lập luận chính được sử dụng trong đoạn trích là bình luận. Câu 2: Đoạn (2) sử dụng phép tu từ so sánh và điệp cấu trúc câu. HS có thể nêu và phân tích tác dụng của một trong hai biện pháp tu từ trên. Cụ thể:

N

- Phép so sánh (tình yêu là ánh sáng, tình yêu là lực hấp dẫn, tình yêu là sức mạnh, tình yêu là Chúa) có tác dụng ca ngợi sự kì diệu và sức mạnh của tình yêu.

C TI O

- Phép điệp cấu trúc câu (Tình yêu là...) có tác dụng tạo sự liên kết về hình thức, nhấn mạnh chủ đề và tạo nên giọng điệu nghị luận sôi nổi, nhiệt huyết, đầy cuốn hút.

O D

U

Câu 3: Câu văn “Thay vì sử dụng công thức E = mc2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương.” mặc dù viết về sức mạnh của tình yêu nhưng được diễn đạt một cách độc đáo, mang đậm dấu ấn của người viết – một nhà vật lí học nổi tiếng. Đặc biệt, công thức E = mc2 được vận dụng một cách rất sáng tạo.

PR

Câu 4: HS có thể nêu một số ý sau:

Sống trên đời cần có một tấm lòng yêu thương, nhân ái.

-

Tình yêu có sức mạnh kì diệu nên con người cần biết nuôi dưỡng và giữ gìn.

TU

-

AN H

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

N

Sau đây là một vài gợi ý:

TH

Câu 1: HS cần nêu quan điểm rõ ràng; có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể, lập luận thuyết phục; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ); có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng – phân – hợp,...; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Bàn luận:

N

-

G

U

YE

- Giải thích ý kiến: câu nói khẳng định sức mạnh và ý nghĩa của tình yêu (tình yêu đôi lứa, tình cảm bạn bè, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước và tình cảm quốc tế, ...): tình yêu vừa là lí do vừa là là động lực của mọi sự tồn tại; tình yêu mang đến sức mạnh để chúng ta duy trì giống nòi, bảo vệ thế giới. + Tình yêu mang đến cho con người niềm vui, niềm tin, niềm hạnh phúc và hi vọng vào tương lai. Vì thế, người ta không thể sống thiếu tình yêu thương. + Tình yêu thương tạo nên sức mạnh giúp con người vượt thoát nỗi cô đơn, thói vị kỉ; chiến thắng bệnh tật, đói nghèo,... + Con người ngày nay đang phải đối diện với rất nhiều hiểm họa: dịch bệnh, chiến tranh, ô nhiễm môi trường,... Vì thế con người càng cần xích lại gần nhau, chung sức bảo vệ cuộc sống và mái nhà chung; nối vòng tay lớn để giải quyết những vấn đề toàn cầu. + Nếu không có tình yêu thương, sự sẻ chia, cộng đồng trách nhiệm thì sẽ không có sự kết nối giữa những cá thể, quốc gia, dân tộc. Như vậy, loài người sẽ đứng trước vực thẳm của chiến tranh, chia rẽ, phân biệt chủng tộc và sự hủy diệt,... Câu 2: Đề bài yêu cầu HS nghị luận về mối quan hệ giữa hiện thực cuộc sống, tác phẩm nghệ thuật và cảm Trang 2


quan của người nghệ sĩ trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. HS cần viết 01 bài văn có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Khi bàn luận, có thể tham khảo gợi ý sau: -

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

+ Tác giả: Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một trong những người mở đường “tinh anh và tài năng” nhất của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Ông đã góp phần làm thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người với khát vọng “đi tìm con người ở bên trong con người”.

Sáng tạo nghệ thuật là đi tìm cái đẹp, nhưng chỉ dừng lại ở vẻ đẹp hình thức là chưa đủ.

O D

-

U

C TI O

N

+ Tác phẩm: Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được in lần đầu trong tập Bến quê, xuất bản năm 1985, sau này được đưa vào tập sách cùng tên xuất bản năm 1987, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự, đời tư. Cái nhìn hiện thực đa chiều giúp cho tác giả nhận ra đời sống con người bao gồm cả những quy luật tất yếu lẫn những ngẫu nhiên, may rủi khó lường. Ông day dứt trước thực trạng con người phải chấp nhận những nghịch lí không đáng có.

TU

PR

+ Bản chất của cái đẹp trong quan niệm của Nguyễn Minh Châu: Trong tác phẩm nghệ thuật, cả đối tượng biểu hiện, hình thức, ý tưởng đều hướng tới cái đẹp. Vì thế, trong Chiếc thuyền ngoài xa, quá trình khổ công săn tìm cái đẹp của Phùng cũng là quá trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ đích thực: luôn muốn tìm đến cái đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ, mang tính lí tưởng.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

+ Cái đẹp trong bản thân nó đã bao hàm cái thiện: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Tác phẩm nghệ thuật, trong quan niệm của Nguyễn Minh Châu, là sự đồng nhất của hai phạm trù, hai giá trị đó. Bức ảnh mà Phùng chụp được sau nhiều ngày khổ công suy nghĩ, tìm kiếm thực sự chứa đựng trong nó thế giới của cái đẹp mà người nghệ sĩ hằng khao khát: sự dung dị, đơn giản, hài hòa, hàm súc, gợi cảm xúc và suy tưởng sâu xa: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. + Với bức ảnh ấy, người nghệ sĩ đã phát hiện ra một bình diện cơ bản nhất, quan trọng nhất của thế giới: sự gắn kết hài hòa của sự sống, của con người, thiên nhiên và cuộc sinh tồn trên một con thuyền lặng phắc trước bình minh. Toàn bộ những hình ảnh ấy đều hàm chứa những ý nghĩa sâu xa, nhưng điều quan trọng là, trong tác phẩm của Nguyễn minh Châu, sau khoảnh khắc tuyệt vời của sáng tạo nghệ thuật, dường như cuộc truy tìm chân lí và cái đẹp thực sự vẫn chưa kết thúc. Bức ảnh ấy không phải là sự nhầm lẫn, ngộ nhận, dối lừa nhưng cái thế giới ẩn chứa trong nó, cái thế giới mà nó mở ra vẫn còn là điều bí ẩn với cả chính người nghệ sĩ. Đây là một quan niệm nghệ thuật sâu sắc và độc đáo của Nguyễn Minh Châu. Bức ảnh đã hoàn tất nhưng sự thật đằng sau bức ảnh vẫn là điều cần khám phá. Người nghệ sĩ không phải là người sở hữu toàn bộ sự thực, toàn bộ chân lí của cuộc sống. Anh phải luôn kiếm tìm chân lí ấy, sự thực ấy trong quá trình sáng tạo. Trang 3


Khoảng khắc mà người nghệ sĩ nắm bắt được qua bức ảnh không phải là khoảnh khắc dối lừa, nhưng sự thực sau khoảnh khắc ấy là cả một thế giới nhân sinh đầy nghịch lí. Để thấu hiểu được thế giới ấy, người nghệ sĩ phải tiếp tục khám phá cuộc sống, khám phá sự thực ẩn sau cái khoảnh khắc mà anh ta đã thâu nhận được đầy bất ngờ. Bởi vì cái đẹp đồng nhất với đạo đức, đồng nhất với sự thực, không chấp nhận sự thô lậu cũng như thái độ nửa vời, hời hợt. - Cuộc sống là vô tận và có muôn vàn bí ẩn, nhiều nghịch lí, nhiều bi kịch ẩn chứa sau vẻ đẹp hình thức mà người nghệ sĩ cần đi sâu khám phá.

O D

U

C TI O

N

+ Thế giới nhân sinh đầy nghịch lí và bị kịch ẩn chứa sau khoảnh khắc đột khởi của cái đẹp trong bức ảnh: Cần lưu ý rằng, toàn bộ sự thực được phơi bày sau khoảnh khắc bấm máy của người nghệ sĩ không phải là sự phủ nhận cái đẹp mà người nghệ sĩ đã bất chợt nắm bắt được. Bởi lẽ, ngay trong phút giây bấm máy ấy, cái thế giới lặng phắc và đầy bí ẩn của con thuyền, những bóng người, màn sương hồng trong ánh ban mai kia là toàn bộ cái thần của cảnh tượng, chợt hiện hữu, nhưng chưa được khai mở trong cái nhìn của người nghệ sĩ cũng như của tất cả những ai đứng trước bức ảnh – tác phẩm nghệ thuật hoàn mĩ của anh. Những gì người nghệ sĩ chứng kiến sau khoảnh khắc ấy là một cuộc khám phá tiếp theo, không hề đối nghịch với bức ảnh, mà chỉ soi tỏ hơn bản chất của cái khoảng khắc kì lạ, đột khởi mà người nghệ sĩ đã chứng kiến là một sự soi chiếu toàn bộ “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, là sự giải mã thế giới biểu tượng mà anh vừa thu vào trong ống kính một cách xuất thần, đột ngột, chưa kịp thấu suốt các chiều kích khác nhau của nó.

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

+ Sau khoảnh khắc lặng phắc là sự bùng nổ của xung đột, bi kịch: ống kính của Phùng đã thu được hình ảnh “người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Đó là khoảnh khắc lặng phắc, đầy dồn nén, chứa đựng một năng lượng tiềm tàng của thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Những gì anh nhìn thấy sau đó trên bãi cát là sự bùng nổ, sự phát lộ toàn bộ những xung đột, những năng lượng tiềm tàng ấy: người đàn ông độc dữ, người đàn bà bị hành hạ, chà đạp; đứa con trai nhỏ chống lại cha vì không thể chấp nhận được sự bạo hành khủng khiếp ấy. Sự “im phăng phắc” đã nổ tung. Đó là toàn bộ bi kịch của sự sinh tồn trên con thuyền trước bình minh. Bi kịch ấy được phơi bày ngay trên bãi cát, nơi con thuyền neo đậu, ngay dưới ánh ban mai màu hồng. Bi kịch ấy làm người nghệ sĩ choáng váng, phẫn nộ và cũng khiến anh phát hiện thêm một chiều kích nữa của đời sống: thế giới nhân sinh trên con thuyền nhỏ nhoi trước biển, trước ánh bình minh kia là một thế giới dữ dội, đau đớn. Cuộc mưu sinh và cộng sinh trên con thuyền đầy nhọc nhằn, cay đắng là sự xung đột không ngừng giữa phần nhân tính và thú tính.

N

G

+ Sau toàn bộ những xung đột dữ dội tưởng như không thể dung hòa, không thể chấp nhận được là bản chất sâu xa của đời sống: cuộc vật lộn và giằng co trên bãi cát, trong mắt Phùng – người vừa chụp bức ảnh con thuyền trong sương sớm – hiển nhiên là sự lộng hành, sự chế ngự của cái ác, của bạo lực. Cái thế giới nhân sinh ấy tưởng như tương phản hoàn toàn với thế giới nghệ thuật mà anh vừa thâu tóm trong bức ảnh thực chất, hai thế giới ấy không thể tách rời. Toàn bộ những gì diễn ra trên bãi cát chỉ là một chiều kích khác của bức ảnh, của những cảnh tượng mà người nghệ sĩ vừa nắm bắt được. Cuộc đối thoại giữa vị chánh án với người đàn bà, giữa người nghệ sĩ và người đàn bà lại mở ra một chiều kích nữa của hiện thực. Cảm quan hiện thực sâu sắc của Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rất rõ ở những chi tiết này. - Nghệ thuật cần khám phá, miêu tả và thể hiện cuộc sống từ những chiều kích khác nhau. Với hệ thống hình tượng và những tầng nghĩa khác nhau của câu chuyện, Chiếc thuyền ngoài xa đã biểu hiện quan niệm nghệ thuật sâu sắc của Nguyễn Minh Châu: người nghệ sĩ là người khám phá và biểu hiện bản chất của đời sống ở những chiều kích khác nhau. Thế giới nghệ thuật là thế giới hàm chứa trong nó các tầng khác nhau của hiện thực. Trang 4


- Cái đẹp, nghệ thuật đích thực không bao giờ tách rời cuộc sống của con người; người nghệ sĩ chân chính phải cất lên tiếng nói vì con người, đặc biệt là những kiếp người cùng khổ. + Trưởng phòng yêu cầu Phùng mang về một tấm ảnh “thuần là tĩnh vật”. Cuối cùng, anh ta cũng được “bằng lòng” với tấm ảnh chụp cảnh bình minh ở một vùng biển thơ mộng, lãng mạn. Nhiều “gia đình sành nghệ thuật” cũng treo bức ảnh đó ở những vị trí trang trọng trong nhà họ...

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

+ Nhưng tác giả của bức ảnh – nghệ sĩ Phùng – thì mỗi lúc “nhìn thật lâu” tấm ảnh toàn là tĩnh vật đó, bao giờ cũng thấy người đàn bà hàng chài “đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Mụ xuất hiện với tất cả dáng vẻ lam lũ, chịu đựng, mang theo cả cuộc đời cơ cực, tủi nhục... Bằng những hình ảnh đó, Nguyễn Minh Châu khơi lên nhiều suy ngẫm về sứ mệnh của người cầm bút, thiên chức của nghệ thuật giữa cuộc đời bề bộn, ngổn ngang.

Trang 5


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 24 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

PR

O D

U

C TI O

N

Đứng một mình không dễ. Không những nó có thể làm ta không được ưa thích, khi một mình, nhà văn Đan Mạch Dorthe Nors viết, chúng ta phải đối diện với cảm xúc của ta, quá khứ của ta, cuộc đời của ta, những vấp váp, sai lầm của ta, ta sẽ cảm thấy mình nhỏ bé. Cần lòng dũng cảm để không lẩn tránh chúng. Đổi lại, điều ta nhận được là một sự vững vàng mà không phải bám víu vào sự tung hô của người khác. Một mình nhưng không cô đơn. Triết gia thế kỉ XIX Henry David Thoreau viết: "Tôi không cô đơn hơn một cây mao nhị hay bồ công anh trên một đồng cỏ, hay một lá đậu, hay một cây chua me đất, hay một con mòng, hay một con ong nghệ. Tôi không cô đơn hơn ngôi sao Bắc Đẩu, hay một ngọn gió nam, hay một cơn mưa tháng tư, hay băng tan tháng giêng".

(Đặng Hoàng Giang, Bức xúc không làm ta vô can, NXB Hội Nhà văn, 2016, tr. 79 - 80)

U

YE

N

TH

AN H

TU

Cuối cùng, một mình không có nghĩa là phải tách khỏi người khác một cách vật lí. Một mình là một quan điểm sống, một trạng thái tinh thần độc lập, nó không được đo bởi khoảng cách vật lí giữa một cá nhân và những người xung quanh. Các ẩn sĩ hiện đại không cần thiết phải lên núi. Họ vẫn ở trong xã hội, yên lặng, quan sát và tìm hiểu thế giới. Họ tự do trước các con sóng của đám đông để có thể quan tâm tới cộng đồng một cách sâu sắc hơn, đóng góp cho cộng đồng một cách hiểu biết hơn. Vẻ đẹp của người đứng một mình là vẻ đẹp tự tại, với một niềm vui tự thân. Một niềm vui mà như nhà tu hành David Steindl-Rast diễn tả, không phụ thuộc vào những điều đang xảy ra.

G

Câu 1: Theo tác giả đoạn trích, vì sao cần có lòng dũng cảm khi "đứng một mình"?

N

Câu 2: Anh/ Chị hiểu như thế nào về quan niệm "Một mình nhưng không cô đơn"? Câu 3: Theo anh/ chị, nhan đề nào dưới đây phù hợp nhất với đoạn trích?  Đứng một mình không dễ  Một mình nhưng không cô đơn  Vẻ đẹp của người đứng một mình Lí giải sự lựa chọn của anh/ chị. Câu 4: Từ nội dung đoạn trích, anh/ chị rút ra cho mình bài học gì? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): "Đứng một mình" - nên hay không nên? Trả lời câu hỏi trên trong 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ). Trang 1


Câu 2 (5,0 điểm): Nhận xét về sự phù hợp giữa nội dung và hình thức biểu đạt của đoạn thơ sau: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim... (Tố Hữu, Từ ấy, Ngữ văn 11, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr. 44) -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

N

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

C TI O

Câu 1: HS có thể chọn các thông tin sau để trả lời:  Vì đứng một mình có thể làm ta không được ưa thích;

O D

U

 Vì khi đứng một mình, ta phải đối diện với cảm xúc của ta, quá khứ của ta, cuộc đời của ta, những vấp váp, sai lầm của ta, ta sẽ cảm thấy mình nhỏ bé.

PR

Câu 2: HS nêu cách hiểu của mình về quan niệm "Một mình nhưng không cô đơn". Tham khảo định hướng sau:

TU

 "Một mình" là một trạng thái tinh thần, không liên quan đến khoảng cách vật lí giữa cá nhân và những người xung quanh; nó thể hiện sự độc lập trong tư duy, trong hành động, không phụ thuộc bởi đám đông.

AN H

 "Một mình nhưng không cô đơn": tách khỏi số đông để quan sát, tìm hiểu, để đóng góp cho xã hội một cách hiểu biết chứ không phải để thu mình vào vỏ ốc cá nhân, trốn tránh trách nhiệm với cuộc đời.

TH

Câu 3: HS chọn nhan đề "Vẻ đẹp của người đứng một mình" bởi nhan đề này nêu lên ý tưởng chủ đạo, nội dung bao trùm của đoạn trích.

N

Câu 4: HS có thể nêu một trong những bài học sau:

U

YE

 Cần dũng cảm đối diện với bản thân để nhận thức chính mình và nhận thức sâu sắc hơn về thế giới xung quanh;

G

 Đứng một mình là cần thiết;

N

 Một mình chưa hẳn là cô đơn bởi giữa đám đông con người ta vẫn có thể cô đơn,... II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS cần nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề có nên "đứng một mình" hay không; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng - phân - hợp...; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Sau đây là một vài gợi ý:  Có nên "đứng một mình" hay không còn tuỳ thuộc vào cách hiểu thế nào là "đứng một mình", cần xác định một quan niệm nhất quán: "đứng một mình" là trạng thái tinh thần độc lập, nó không được đo bởi khoảng cách vật lí giữa một cá nhân và những người xung quanh. "Đứng một mình" cũng không có nghĩa là tách biệt với xã hội hoặc cố tình tạo sự khác biệt nhằm khẳng định cá nhân một cách cực đoan. Trang 2


 Chỉ rõ tính hai mặt của việc "đứng một mình": Khi "đứng một mình", người ta có thể phải đối diện với sự cô đơn, thành kiến xã hội, thói đố kị và kì thị... Nhưng mặt khác, chính trạng thái tinh thần không lệ thuộc vào đám đông này sẽ đem đến nhiều cơ hội để người ta suy nghĩ, nhận thức thấu đáo về nhiều vấn đề; tạo thói quen tư duy độc lập; tạo cơ hội sáng tạo và thành công.  Nên hay không nên "đứng một mình" tuỳ thuộc vào khả năng của con người: Luôn "đứng một mình", liệu con người có thể thành công? Khi nào cần "đứng một mình" và khi nào cần có sự hợp tác, hỗ trợ của người khác?  Phê phán những người có thói quen hùa theo đám đông một cách dễ dãi, hời hợt, thiếu suy nghĩ... bởi điều đó có thể gây nguy hại cho cộng đồng và cản trở sự phát triển của xã hội.

C TI O

N

Câu 2: Đề bài yêu cầu nghị luận về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức biểu đạt trong khổ thơ đầu bài thơ Từ ấy của Tố Hữu. Vì thế, HS cần hiểu được mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của tác phẩm văn học, phân tích được nội dung khổ thơ (niềm vui sướng của nhân vật trữ tình khi bắt gặp lí tưởng cộng sản) cùng hình thức biểu đạt mới mẻ của nó, từ đó thấy được phong cách thơ trữ tình - chính trị của nhà thơ cách mạng Tố Hữu.

a) Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận

O D

U

Tham khảo một số gợi ý sau:

AN H

TU

PR

 Tố Hữu là "nhà thơ của lí tưởng cộng sản". Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi giọng thơ trữ tình, ngọt ngào khi viết về những vấn đề chính trị, những sự kiện trọng đại của lịch sử dân tộc. Bài thơ Từ ấy là tiếng reo vui trong tâm hồn chàng trai mười tám đôi mươi trước bước ngoặt lớn của cuộc đời: giác ngộ lí tưởng cộng sản.

N

TH

 Bằng hình thức nghệ thuật độc đáo (hình ảnh, ngôn từ, vần nhịp...), khổ thơ đầu bài thơ đã thể hiện thành công niềm vui lớn của nhân vật trữ tình trong giây phút bắt gặp lí tưởng cộng sản. Khổ thơ này là điểm tựa cảm xúc cho toàn bài: chính lí tưởng cách mạng đã soi đường chỉ lối, đã đem đến những nhận thức mới, những tình cảm mới, lẽ sống mới cho nhà thơ.

YE

b) Phân tích mối quan hệ giữa nội dung và hình thức biểu đạt của khổ thơ

N

G

U

Nhà thơ R.Ta-go đã khẳng định "khi tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ", có nghĩa là, một tác phẩm văn học luôn có một hình thức biểu đạt phù hợp để thể hiện nội dung, không có hình thức ở bên ngoài nội dung và ngược lại. Ở khổ thơ đầu, niềm vui lớn của nhân vật trữ tình được thể hiện bằng một hình thức nghệ thuật mới mẻ từ hình ảnh thơ, biện pháp tu từ đến ngôn ngữ thơ ca.  Hình ảnh thơ và các biện pháp tu từ: Sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ nắng hạ, mặt trời chân lí, Tố Hữu khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Không phải thứ ánh sáng trong trẻo, tươi mát của nắng xuân, không phải thứ ánh nắng dịu dàng của chiều thu, nắng hạ là thứ ánh sáng mạnh mẽ, chói chang, rực rỡ. Nắng hạ làm bừng sáng không gian cũng như lí tưởng cách mạng đã choáng ngợp tâm hồn chàng trai trẻ tuổi. Thái độ trân trọng và thành kính của nhà thơ đối với lí tưởng cách mạng được thể hiện qua hình ảnh thơ mặt trời chân lí. Mặt trời của tự nhiên soi sáng muôn loài cũng giống như mặt trời của lí tưởng đã soi tỏ tâm hồn thi nhân, khơi nguồn cảm hứng thi ca để cho tâm hồn ấy trở thành vườn hoa lá dạt dào hương sắc, tràn đầy sự sống.  Ngôn ngữ thơ và giọng điệu: Trang 3


 Sử dụng những từ ngữ có sức diễn tả mạnh; bừng nắng hạ, chói qua tim, rất đậm hương, rộn tiếng chim... nhằm tô đậm, nhấn mạnh tình cảm, cảm xúc của nhà thơ trong giây phút vui sướng này.  Sử dụng kết hợp bút pháp hiện thực và lãng mạn; giọng thơ vui tươi, sôi nổi, đầy háo hức, say mê...  Sử dụng kiểu câu vắt dòng quen thuộc của thơ mới ở câu 3 và câu 4, thể thơ thất ngôn với cách ngắt nhịp linh hoạt đã diễn tả sâu sắc niềm vui sướng của tác giả khi bắt gặp lí tưởng cộng sản. c) Đánh giá

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Sự phù hợp của hình thức biểu đạt và nội dung của đoạn thơ không chỉ thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình mà còn góp phần thể hiện vẻ đẹp của thơ Tố Hữu - nhà thơ của lí tưởng cộng sản, của niềm vui lớn và của cảm hứng lãng mạn say mê, sôi nổi.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 25 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

PR

O D

U

C TI O

N

Như ta đã thấy, GDP không phản ánh được đầy đủ chất lượng cuộc sống, hay "mức độ phát triển". Những vấn đề như bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, bạo lực xã hội, bất công... không xuất hiện trong đó. Người ta tính rằng, nếu tính đến những hủy hoại môi trường ở Trung Quốc thì hằng năm phải đánh tụt GDP của nước này tới 3%. Luật pháp Brunei, nước giàu thứ năm trên thế giới theo thu nhập bình quân, cho phép ném đá tới chết những người đồng tính và những người ngoại tình. Ở Saudi Arabia, một quốc gia giàu có tương đương với Ý và New Zealand, phụ nữ không được phép lái ô tô, không được xuất cảnh mà không có nam giới đi kèm, và chỉ được bầu cử lần đầu vào năm 2015. Bạn có muốn sống ở những quốc gia "thịnh vượng" đó không?

YE

N

TH

AN H

TU

Càng ngày càng có nhiều tiếng nói cho rằng việc quá bị ám ảnh bởi GDP dẫn chúng ta tới một bế tắc trong triết lí phát triển. Cuộc chạy đua về GDP là cuộc chạy đua lạc lối. Thượng nghị sĩ Robert Kennedy của Mĩ có lần phát biểu: "GDP không bao gồm vẻ đẹp của thơ ca, sự bền vững của hôn nhân, mức sắc sảo của các cuộc tranh biện, mức liêm chính của viên chức. Nó không đo được lòng dũng cảm, trí tuệ hay cam kết của chúng ta với đất nước. Nó đo mọi thứ, trừ những gì làm cho cuộc sống này đáng sống". Gần đây nhất, năm 2009, nhà kinh tế học đoạt giải Nobel nổi tiếng Joseph Stiglitz yêu cầu chấm dứt "chủ nghĩa tôn thờ” GDP. (Đặng Hoàng Giang, Bức xúc không làm ta vô can, Sđd, tr. 113 — 114)

U

Câu 1: Nêu quan điểm của tác giả về GDP.

N

G

Câu 2: Những ví dụ về Trung Quốc, Brunei và Saudi Arabia giúp anh/ chị hiểu như thế nào về mối quan hệ giữa GDP và "chất lượng cuộc sống"? Câu 3: Anh/ Chị hiểu như thế nào về "chủ nghĩa tôn thờ" GDP và ý kiến: "Cuộc chạy đua về GDP là cuộc chạy đua lạc lối"? Câu 4: Từ đoạn trích trên, anh/ chị quan niệm thế nào là "cuộc sống đáng sống"? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) bình luận hiện tượng: "Ở Saudi Arabia, một quốc gia giàu có tương đương với Ý và New Zealand, phụ nữ không được phép lái ô tô, không được xuất cảnh mà không có nam giới đi kèm, và chỉ được bầu cử lần đầu vào năm 2015.". Câu 2 (5,0 điểm): Về thể tuỳ bút, SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, Sđd, tr. 159 cho rằng đây là thể loại có "tính chủ Trang 1


quan, chất trữ tình rất đậm, nhân vật chính là cái tôi của nhà văn. Cho nên sự hấp dẫn của tuỳ bút chủ yếu là sự hấp dẫn của cái tôi ấy". Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên bằng việc phân tích "cái tôi" của Nguyễn Tuân thể hiện qua đoạn trích Người lái đò Sông Đà. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: HS nêu được quan điểm của tác giả đoạn trích về GDP như sau:  GDP không phản ánh được đầy đủ chất lượng cuộc sống hay "mức độ phát triển".

N

 Việc quá bị ám ảnh bởi GDP dẫn chúng ta tới sự bế tắc trong triết lí phát triển.

C TI O

 Cuộc chạy đua về GDP là cuộc chạy đua lạc lối.

Câu 2: Những ví dụ về Trung Quốc, Brunei và Saudi Arabia chứng tỏ: GDP cao hay thấp chưa nói lên "chất lượng cuộc sống"; GDP không tỉ lệ thuận với "chất lượng cuộc sống".

O D

U

Câu 3: HS tham khảo cách trả lời sau:

PR

 "Chủ nghĩa tôn thờ GDP": coi GDP là thước đo cao nhất mức độ phát triển của một xã hội, một quốc gia trên mọi bình diện và nâng chỉ số GDP thành "nhân vật ngôi sao" trên các diễn đàn kinh tế, xã hội. Đây là xu hướng của nhiều nước trên thế giới.

AN H

TU

 "Cuộc chạy đua về GDP là cuộc chạy đua lạc lối": chạy đua về thu nhập bình quân tính theo đầu người mà quên rằng mục đích cuối cùng của mọi sự tăng trưởng kinh tế chính là tạo ra một cuộc sống chất lượng.

TH

Câu 4: HS nêu quan niệm riêng của mình một cách thuyết phục trên cơ sở đọc hiểu đoạn trích. Có thể tham khảo một số gợi ý sau:  Cuộc sống đáng sống là cuộc sống trong đó con người được hưởng tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc.

YE

N

 Cuộc sống đáng sống là cuộc sống cân bằng về vật chất và tinh thần; môi trường sống an toàn khiến con người có thể tận hưởng những gì tạo hoá ban cho họ.

G

U

 Cuộc sống đáng sống là cuộc sống trong đó mỗi cá nhân được tạo điều kiện phát triển tối đa năng lực, sở trường của mình và được thụ hưởng thành quả lao động một cách công bằng.

N

II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS có quan điểm rõ ràng trước hiện tượng mà đề bài đề cập tới; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng - phân - hợp...; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Sau đây là một số gợi ý:  Nêu hiện tượng: phụ nữ ở Saudi Arabia không có quyền lái ô tô, không được xuất cảnh mà không có nam giới đi cùng, không có quyền bầu cử (trước năm 2015). Đây là sự bất bình đẳng trong đối xử với phụ nữ tại một đất nước giàu có ngang với các quốc gia Tây Âu - một hiện tượng khiến người ta sửng sốt, ngạc nhiên vì nó đang tồn tại ở thế kỉ XXI, tại một quốc gia thịnh vượng.  Bàn luận:  Sự bất bình đẳng, sự coi thường người phụ nữ ở Saudi Arabia là dấu hiệu cho thấy một xã hội lạc hậu, Trang 2


thiếu nhân quyền, dân chủ.  Sự thịnh vượng và giàu có không đảm bảo rằng người dân có thể được hạnh phúc, được tự do và được tôn trọng.  GDP cao chưa phải là điều kiện cần và đủ để xây dựng một quốc gia văn minh, hạnh phúc. Cuộc chạy đua về GDP cần được chấm dứt.  So sánh với một số quốc gia khác trên thế giới để thấy rõ một đất nước có GDP cao chưa hẳn là một đất nước đáng sống.

N

Câu 2: Đề bài yêu cầu HS nghị luận về một ý kiến bàn về văn học. HS cần viết 01 bài văn có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

C TI O

Tham khảo gợi ý sau:

O D

U

 Là nhà văn có phong cách nghệ thuật đặc sắc, văn chương Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi "cái tôi" độc đáo, thể hiện ở sự tài hoa, uyên bác, sự sắc nhọn và tinh tế của các giác quan, ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc...

PR

 Phân tích "cái tôi" Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà:

N

TH

AN H

TU

 "Cái tôi" tài hoa, tinh tế thể hiện ở sự rung động, niềm say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ và mĩ lệ của thiên nhiên đất nước; ở sự phát hiện và ngợi ca phẩm chất tài hoa, nghệ sĩ của những con người lao động; ở những trang văn đẹp như thơ, như nhạc, như hoạ. Nhà văn đã thể hiện sông Đà như một sinh thể sống với hai nét "tính cách" tưởng như đối lập ("hung bạo" và "trữ tình"), để từ đó tấu lên một khúc tráng ca về con sông dũng mãnh ở thượng nguồn, đồng thời ngân nga những thanh âm dịu dàng, trong trẻo, êm ái chốn hạ lưu. Từ đó, nhà văn đã tạc dựng hình ảnh người lái đò sông Đà trong cuộc vượt thác đầy kịch tính và cũng thật ngoạn mục. Nguyễn Tuân tỏ ra hứng thú đặc biệt trong việc khám phá, thể hiện "chất vàng mười" trong tâm hồn con người Tây Bắc.

N

G

U

YE

 "Cái tôi" uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; sự huy động và sử dụng kiến thức của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao... và các tri thức đời sống một cách linh hoạt, có hiệu quả nhằm thể hiện hình ảnh con sông Đà và người lái đò một cách chính xác và ấn tượng. Nhà văn đã lựa chọn những chi tiết thật tiêu biểu, điển hình; miêu tả và soi chiếu chúng từ nhiều góc độ, kết hợp với những liên tưởng, so sánh bất ngờ và thú vị. Có thể nói, hình ảnh sông Đà và người lái đò thể hiện công phu quan sát, miêu tả; khả năng huy động và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của nhà văn.  "Cái tôi" tài hoa, uyên bác thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tình yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính đồng thời bộc lộ quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự độc đáo của người cầm bút. Thể tùy bút, một lối văn "độc tấu", đã phát huy hiệu quả của nó trong việc bộc lộ "cái tôi" độc đáo của nhà văn.

Trang 3


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 26 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

U

C TI O

N

Mùa xuân, tự nhiên tôi muốn gác hết mọi việc bận rộn để lên rong chơi trên những đồi cỏ gần vùng mộ Vua. Ở đó tôi có thể nằm ngửa mặt trên cỏ, ngước mắt nhìn chùm hoa lê nở trắng muốt trên cao. Tôi đã tìm đến định sống ở nhiều đô thị bắc nam; ở đó tôi có thể tìm thấy mọi cái cần cho cuộc sống của tôi, chỉ thiếu một cái mà tôi không chịu nổi, là thiên nhiên.

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

Mùa hạ, trong những khu vườn Huế, khí đất xông lên hùng mạnh, cỏ mọc xanh lạ thường. Trái cây sắp chín nằm chờ trên cành, và khắp đây đó trong vùng Kim Long, khói đốt cỏ toả ra mịt mùng xanh mờ một vùng ven sông. Trên một chiếc bình phong cổ khuất trong cây lá của một khu sân vắng vẻ còn dấu chạm lỗ chỗ của một câu đối nói đến những bầy chim nhạn thường về đậu kêu om sòm trên bãi sông Hương trước mặt nhà. Tôi lớn lên không hề thấy bóng chim nhạn ven sông này. Chắc […] chúng đã di trú về một vùng đất nào yên tĩnh hơn. Nhưng liệu có nơi nào gọi là “yên tĩnh hơn” trên hành tinh này. Hình như càng ngày nó càng trở nên ồn ào hơn xưa; và đó cũng là lỗi của chúng ta đã tước đoạt “quyền yên tĩnh” của thế hệ trẻ ngày mai. Mùa thu trời trở gió heo may lành lạnh làm người ta tự nhiên thấy nhớ nhung một quê hương nào không biết. Vào mùa này, các văn nhân thường mở hội leo núi, mang theo túi thơ bầu rượu lên các đỉnh núi cao mừng tiết “Trùng Cửu”. Núi đó có thể là núi Ngự Bình, núi Kim Phụng hoặc những rừng thông vùng đồi Thiên An, và văn nhân có thể là Bà Huyện Thanh Quan, Tuy Lý Vương, Hàn Mặc Tử. Những văn nhân ngồi uống rượu trên đầu núi, nghe tiếng chuông chùa thánh thót trên thành phố dầm mình trong sương khói; đi thăm núi trở về, băng qua sườn đồi, vó ngựa còn thơm nồng hương cỏ, gọi lũ bướm bay theo.

N

G

U

[…] Một thứ hạnh phúc kéo dài trong nhiều năm tháng thật khó có ở đời; hạnh phúc chỉ tồn tại trong từng khoảnh khắc. Đó là khoảnh khắc mà ta nằm buông mình trên cỏ, ngửa mặt nhìn từng áng mây chẳng biết bay về đâu. Vâng, chính đó là những áng mây mà người đời Đường đã từng thấy: “Bạch vân vô tận thi”(3). (Hoàng Phủ Ngọc Tường, Miền cỏ thơm, Dẫn theo http://tapchisonghuong.com.vn, ngày 7 -7 - 2009) Câu 1: Liệt kê những chi tiết nói về “cỏ” trong các mùa ở xứ Huế. Câu 2: Qua những chi tiết nói về “cỏ”, xứ Huế hiện lên như thế nào? Câu 3: Cách nhà văn gợi nhắc đến những văn nhân như Bà Huyện Thanh Quan, Tuy Lý Vương, Hàn Mặc Tử có tác dụng gì? Câu 4: Thông điệp mà người viết muốn gửi gắm qua những câu văn sau là gì: “Tôi lớn lên không hề thấy bóng chim nhạn ven sông này. Chắc […] chúng đã di trú về một vùng đất nào yên tĩnh hơn. Nhưng liệu có (3)

Bích Hồ dịch: “Phau phau mây trắng ngàn năm vẫn còn”.

Trang 1


nơi nào gọi là “yên tĩnh hơn” trên hành tinh này. Hình như càng ngày nó càng trở nên ồn ào hơn xưa; và đó cũng là lỗi của chúng ta đã tước đoạt “quyền yên tĩnh” của thế hệ trẻ ngày mai.”? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Anh/ Chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Một thứ hạnh phúc kéo dài trong nhiều năm tháng thật khó có ở đời; hạnh phúc chỉ tồn tại trong từng khoảnh khắc”. Câu 2 (5,0 điểm): Bình luận về “cái tôi” Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng.

C TI O

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

N

-------------------- HẾT --------------------

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Những chi tiết nói về “cỏ” trong các mùa ở xứ Huế:

O D

U

- Mùa xuân: đồi cỏ vùng mộ Vua, nằm ngửa mặt trên cỏ, ngước mắt nhìn chùm hoa lê nở trắng muốt trên cao;

PR

- Mùa hạ: cỏ mọc xanh lạ thường trong những khu vườn Huế, ở vùng Kim Long, khói đốt cỏ tỏa ra mịt mùng xanh mờ một vùng ven sông;

TU

- Mùa thu: vó ngựa của những văn nhân đi thăm núi trở về, băng qua sườn đồi, vó ngựa còn thơm nồng hương cỏ, gọi lũ bướm bay theo.

TH

AN H

Câu 2: Qua những chi tiết nói về “cỏ”, xứ Huế hiện lên với những khu vườn xanh mát, bình yên; có núi đồi, sông nước hữu tình, thơ mộng; thiên nhiên nguyên sơ mang sức sống mãnh liệt và một vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn.

YE

N

Câu 3: Cách nhà văn gợi nhắc đến những văn nhân như Bà Huyện Thanh Quan, Tuy Lý Vương, Hàn Mặc Tử có tác dụng gợi lên vẻ đẹp của con người xứ Huế với thú vui tao nhã, sống hoà hợp, gần gũi với thiên nhiên yên tĩnh, thơ mộng, thanh bình. Thể hiện một nét phong cách riêng của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường: tài hoa, uyên bác trong góc nhìn mang chiều sâu văn hoá.

N

G

U

Câu 4: Thông điệp người viết muốn gửi gắm qua những câu văn: “Tôi lớn lên … ngày mai” là chỉ ra thực trạng: những khoảng không gian yên tĩnh, trong lành, thơ mộng đang bị thu hẹp; môi trường sống tự nhiên, cân bằng đang bị chính con người can thiệp thô bạo. - Con người hãy trân trọng thiên nhiên, bảo vệ môi trường để không làm mất đi quyền được sống trong những không gian yên tĩnh, nơi con người có thể hoà hợp, thân thiện với thiên nhiên … II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: Viết được 01 đoạn văn nghị luận xã hội, đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ); có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng – phân – hợp; biết sử dụng các thao tác lập luận giải thích, chứng minh, bình luận. Diễn đạt lưu loát, đảm bảo các quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. HS nêu được quan điểm cá nhân một cách rõ ràng: đồng tình, phản đối hoặc đồng tình một phần với ý kiến; lí giải một cách thuyết phục. Sau đây là một vài gợi ý: - Đồng tình: Trang 2


+ Một thứ hạnh phúc kéo dài trong nhiều năm tháng thật khó có ở đời vì: cuộc sống luôn biến đổi không ngừng, nay hạnh phúc ngọt ngào, mai có thể đã đắng cay, bất hạnh,…; hạnh phúc không dễ gì có được, con người cần không ngừng tìm kiếm, nỗ lực vun đắp…; mỗi người có quan niệm riêng về hạnh phúc. + Hạnh phúc chỉ tồn tại trong từng khoảnh khắc. Đó là những giây phút tâm hồn con người thanh thản, không vướng bận, lo âu; là những giây phút tận hưởng hết mình những gì thiên nhiên ban tặng, dù chỉ là cảm giác được thả mình trên thảm cỏ, chìm đắm trong hương cỏ thơm, cảm nghe cái mềm mượt của cỏ,…(HS tự nêu ví dụ cụ thể.)

N

- Phản đối: nếu cho rằng hạnh phúc là cảm giác mãn nguyện, vui sướng khi đạt được những mục tiêu trong cuộc sống, những thành công về tiền tài, địa vị, chức tước,... thì hạnh phúc không chỉ là khoảnh khắc mà có thể kéo dài trong nhiều năm tháng. Vì sau những nỗ lực kiếm tìm, con người ta sẽ thụ hưởng thành quả xứng đáng của mình và lan toả những thành công ấy cho người khác, làm xã hội tốt đẹp hơn, nhiều người hạnh phúc hơn.

PR

O D

U

C TI O

- Có thể nêu ý kiến khác: hạnh phúc vừa là khoảnh khắc vừa là dài lâu; nếu quan niệm hạnh phúc là sự cân bằng hài hoà giữa nhu cầu vật chất và tinh thần. Cuộc sống đủ đầy về vật chất và thư nhàn về tâm hồn luôn là điều con người hướng tới. Và khi đó hạnh phúc là khoảnh khắc hay là dài lâu tuỳ thuộc vào quan niệm, cách cảm nhận và chất lượng cuộc sống mỗi con người, mỗi dân tộc và mỗi quốc gia. Mỗi con người cần biết trân trọng từng khoảnh khắc hạnh phúc; góp nhặt những khoảnh khắc để có hạnh phúc dài lâu cho mình và cho mọi người.

TU

Câu 2: Đề bài yêu cầu HS làm rõ “cái tôi” của nhà thơ Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng. Vì thế, HS cần đi từ các yếu tố nghệ thuật để phân tích những quan niệm của nhà thơ về thời gian, tuổi trẻ, hạnh phúc, qua đó, thể hiện hình tượng “cái tôi” của thi nhân.

AN H

Tham khảo gợi ý sau:

a) Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận

TH

- Là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam những cách tân mới mẻ cả về nội dung lẫn nghệ thuật, đặc biệt là sự thể hiện của “cái tôi” cá nhân.

U

YE

N

- Được rút từ tập Thơ thơ – “cụm hoa đầu mùa” mà Xuân Diệu “Dành cho nhân gian”, bài thơ Vội vàng là tiếng nói của một tâm hồn “đương thời sôi nổi”, của một tấm lòng “vừa lúc vang ngân” để dành tặng cho những người trẻ tuổi trẻ lòng.

G

b) Phân tích sự thể hiện “cái tôi” Xuân Diệu trong bài thơ Vội Vàng

N

- Một “cái tôi” mang cảm xúc dạt dào, trẻ trung, sôi nổi, yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt: + “Cái tôi” ham sống mãnh liệt thể hiện ở khát vọng ngông cuồng: đoạt quyền tạo hóa, muốn níu kéo bước đi của thời gian: điệp từ “tôi muốn”; các động từ mạnh: tắt nắng, buộc gió… + “Cái tôi” tràn đầy cảm xúc lãng mạn trước bức tranh mùa xuân rộn ràng âm thanh, ngạt ngào hương vị, chan hòa ánh sáng, hào phóng niềm vui: sử dụng linh hoạt, dồn dập những điệp từ, điệp ngữ “của”, “này đây…”; liệt kê những hình ảnh: ong bướm dập dìu, chim chóc hát ca, lá non phơ phất trên cành, hoa nở rực rỡ trên đồng nội, ánh sáng chớp hàng mi, thần Vui hằng gõ cửa,…; biện pháp so sánh độc đáo “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. + Một “cái tôi” lo âu, khắc khoải trước sự chảy trôi của thời gian, sự qua đi của tuổi trẻ: cách đặt dấu chấm ở giữa dòng thơ: “tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”, các từ ngữ gợi tả gợi cảm: bâng khuâng, tiếc, rớm, than thầm, hờn, đứt, sợ…, ngôn ngữ thơ đầy cảm giác. + Một “cái tôi” say sưa tận hưởng cuộc sống thể hiện trong đoạn thơ cuối với nhịp thơ thật sôi nổi, mạnh Trang 3


mẽ, gấp gáp. Sự lặp lại của cấu trúc câu “Ta muốn ôm…”, “Ta muốn riết…” cùng phép điệp từ, sự xuất hiện liên tục của các động từ chỉ trạng thái đắm say, các tính từ chỉ xuân sắc, các danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ,… tạo ra những hình ảnh tình tứ, quyến rũ, thể hiện thành công cảm xúc say sưa, phấn chấn đến cuồng nhiệt của con người đang “thức nhọn” giác quan để tận hưởng hương sắc của cuộc đời, bằng cả tâm hồn và trái tim. - Một “cái tôi” thể hiện những triết lí và quan niệm nhân sinh sâu sắc, mới mẻ: Không chỉ thấm đẫm cảm xúc dồi dào, bài thơ còn đầy ắp những suy nghĩ, triết lí về lối sống, thái độ sống của con người trước bước đi của thời gian: + Quan niệm thẩm mĩ mới mẻ: Không tìm cái đẹp trong quá khứ hay ở chốn bồng lai tiên cảnh, với Xuân Diệu, cái đẹp hiện hữu ngay trong cuộc sống hiện tại. Con người trong mùa xuân và tuổi trẻ mới là chuẩn mực cái đẹp.

C TI O

N

+ Quan điểm nhân sinh sâu sắc: Không giống với quan niệm thời gian tuần hoàn trong thơ xưa, với Xuân Diệu, thời gian qua đi và không bao giờ trở lại. Tuổi trẻ, cuộc đời và tình yêu của con người rất ngắn ngủi. Vì vậy, con người phải sống tận hưởng, tận hiến cho cuộc đời. Đó là một lối ứng xử tích cực với cuộc đời của một “cái tôi” luôn khao khát sống, khao khát yêu đến mãnh liệt.

O D

U

c) Bình luận, đánh giá

PR

- “Cái tôi” Xuân Diệu không chỉ nồng nàn cảm xúc mà còn mang một quan niệm nhân sinh, vũ trụ mới mẻ chưa từng có trong thơ ca truyền thống. Đó là một “cái tôi” trẻ trung, mới mẻ, tích cực, mang theo hơi thở của cuộc sống hiện đại.

TU

- “Cái tôi” cá nhân mới mẻ ấy là sản phẩm của thời đại Thơ mới và là tiếng lòng của Xuân Diệu – “một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt” (Nguyễn Đăng Mạnh).

N

G

U

YE

N

TH

AN H

- Làm nên sức hấp dẫn của bài thơ còn ở nghệ thuật thể hiện với hình thức thơ sáng tạo, ngôn ngữ đặc sắc, giọng thơ sôi nổi đến cuồng nhiệt, đậm chất Xuân Diệu. Bài thơ Vội vàng là lời tự họa, tự bạch của “cái tôi” Xuân Diệu về một điệu sống cuống quýt, vội vàng, một điệu hồn say đắm tình yêu, cuộc đời. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 27 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

O D

U

C TI O

N

Hiện tượng đố kị trong đời sống đã có từ xưa. Thời Tam quốc có danh tướng Đông Ngô là Chu Du, nổi tiếng thao lược nhưng lại có tính đố kị. Thấy Gia Cát Lượng tài ba, Du đã nhiều lần tìm cách chứng tỏ mình là người tài “đệ nhất thiên hạ”, nhưng lần nào cũng bị thua. Lòng đố kị còn khiến Chu Du tìm kế sách hãm hại Gia Cát Lượng, nhưng lần nào Lượng cũng đoán biết và thoát hiểm. Khi nhận ra tài trí của mình không bằng Gia Cát Lượng, Du đã ngửa mặt lên trời mà than: “Trời đã sinh Du, sao còn sinh Lượng!”. Câu nói đó đã bộc lộ chân tướng của người đố kị: không chấp nhận thực tế người khác hơn mình.

TH

AN H

TU

PR

Lòng đố kị có thể gắn với sự hiếu thắng, một tâm lí muốn chứng tỏ mình không thua chúng kém bạn, thậm chí hơn người. Tính hiếu thắng có thể có tác dụng kích thích người ta phấn đấu, cạnh tranh vượt lên người khác, có ý nghĩa tiến bộ nhất định. Tâm lí đố kị ngược lại, chỉ là sự biến dạng của lòng hiếu thắng. Đố kị là tâm lí của kẻ thất bại. Động cơ kích thích phấn đấu giảm sút, mà ý muốn hạ thấp, hãm hại người khác để thỏa lòng ích kỉ tăng lên. Phân tích lòng đố kị, nhà triết học Hi Lạp cổ đại A-ri-xtốt đã nói: “Người đố kị sở dĩ cảm thấy dằn vặt đau đớn không chỉ vì cảm thấy mình thua kém mà còn vì phải nhìn thấy người khác thành công”. Nhà triết học đã chỉ ra thực chất kẻ đố kị là kẻ không muốn nhìn thấy người khác thành công.

G

U

YE

N

Trên thực tế, không một lòng đố kị nào có thể ngăn cản được người khác thành công, cho nên lòng đố kị chỉ có hại cho bản thân kẻ đố kị. Nó vừa làm cho kẻ đố kị không được sống thanh thản, luôn dằn vặt khổ đau vì những lí do không chính đáng, lại vừa có thể dẫn họ đến những mưu đồ xấu xa, thậm chí phạm tội ác. Kẻ đố kị không hiểu rằng “ngoài trời còn có trời” (cao hơn), “ngoài núi còn có núi” (cao hơn), mình tài còn có người tài hơn.

N

Lòng đố kị là một tính xấu cần khắc phục. Con người cần phải có lòng cao thượng, rộng rãi, biết vui với thành công của người khác. Tình cảm cao thượng không chỉ giúp con người sống thanh thản, mà còn có tác dụng thúc đẩy xã hội và đồng loại tiến bộ. (Phỏng theo Băng Sơn, Ngữ văn 11 Nâng cao, Tập hai, Sđd, tr. 96 – 97) Câu 1: Đoạn trích sử dụng những thao tác lập luận nào? Câu 2: Theo tác giả, thế nào là đố kị? Câu 3: Tác giả bày tỏ thái độ như thế nào về thói đố kị của con người? Câu 4: Theo anh/ chị, cần làm gì để khắc phục thói đố kị trong bản thân mỗi chúng ta? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Trang 1


Viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) với chủ đề: Con người cần phải có lòng cao thượng. Câu 2 (5,0 điểm): “Cái tôi” Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Đoạn trích sử dụng các thao tác lập luận: chứng minh, phân tích, bình luận. Câu 2: HS cần nêu được cách hiểu của tác giả về sự đố kị: là một thói xấu của con người vốn có từ xưa; đố kị là không thích người khác hơn mình, ghen ghét và không muốn nhìn thấy người khác thành công.

C TI O

N

Câu 3: Thái độ của tác giả về thói đố kị: phê phán (thể hiện qua việc chỉ ra biểu hiện của thói đố kị; phân tích các tác hại, nguyên nhân của thói đố kị và cách khắc phục). Câu 4: HS nêu được một vài ý trong các ý sau đây: - Ý thức được đố kị là một thói xấu cần khắc phục;

O D

U

- Thấy được những tác hại của thói đố kị;

PR

- Điều chỉnh suy nghĩ, hành vi theo hướng tích cực: chia sẻ niềm vui thành công của người khác thay vì muốn phủ nhận, hạ thấp họ;

- Thay đổi lối nghĩ chỉ có mình là nhất.

AN H

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

TU

- Khẳng định bản thân bằng cách khiêm nhường học hỏi để hoàn thiện mình chứ không phải bằng cách hạ thấp người khác;

YE

Tham khảo gợi ý sau:

N

TH

Câu 1: HS cần nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề “Con người cần phải có lòng cao thượng”; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp song hành hoặc tổng – phân – hợp…; đảm bảo các quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

N

G

U

- Giải thích: “cao thượng” là “vượt hẳn lên trên những cái tầm thường, nhỏ nhen về phẩm chất, tinh thần” (Hoàng Phê (Chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 158). Cao thượng là đức tính tốt, là lối sống đẹp. Lòng cao thượng rất cần thiết trong sự ứng xử giữa con người với con người. Người có lòng cao thượng là người luôn suy nghĩ, hành động vì mục đích tốt đẹp: mang đến niềm vui, hạnh phúc cho người khác. - Con người cần phải có lòng cao thượng vì: + Lòng cao thượng giúp con người sống đẹp hơn, có ích hơn, hạnh phúc hơn. + Lòng cao thượng là động lực thúc đẩy con người vươn lên trong cuộc sống, tạo ra những giá trị tốt đẹp, khiến xã hội ngày càng phát triển. + Trong cuộc sống luôn có những khó khăn, thử thách nên con người rất cần có lòng cao thượng để chia sẻ, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau. - Đề cao lòng cao thượng, chúng ta cũng cần phê phán thói đố kị, nhỏ nhen, lối sống ích kỉ. Câu 2: Đề bài yêu cầu HS nghị luận về hình tượng “cái tôi” Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã Trang 2


đặt tên cho dòng sông?. Học sinh viết 01 bài văn có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Có thể tham khảo những ý chính sau: - Nhà văn Nguyễn Tuân từng gọi tùy bút là lối văn “độc tấu”, nghĩa là trong tác phẩm tùy bút, “cái tôi” của người viết trở thành nhân vật trung tâm. Sự hấp dẫn của tùy bút xét đến cùng là sự hấp dẫn của “cái tôi” tác giả: “cái tôi” ấy thông minh, sắc sảo thế nào, vốn văn hóa ra sao, tư tưởng, tâm hồn thế nào, vốn liếng và cách dùng chữ nghĩa ra sao,… Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng cho rằng điều cốt yếu làm nên sức mạnh của thể loại tùy bút là “để cho hiện thực cuộc sống chảy qua trái tim người cầm bút như một dòng máu nồng ấm” (Một vài suy nghĩ về thể kí, báo Văn nghệ, số 31 – 1983).

C TI O

N

- Hình tượng “cái tôi” Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là một “cái tôi” tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, gắn bó và say mê với vẻ đẹp của cảnh sắc và con người xứ Huế.

O D

U

+ Một con người có vốn tri thức phong phú, uyên bác về sông Hương và về địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật xứ Huế:

TU

PR

• Tác giả đã miêu tả dòng sông Hương với các tư liệu cụ thể, chính xác khiến người đọc có thể hình dung một cách rõ ràng, sinh động về địa hình và những đổi thay đầy biến ảo trong dòng chảy của nó: khi thì mạnh mẽ, dữ dội; khi lại êm đềm, dịu dàng; có khi trầm mặc, suy tư…

AN H

• Những địa danh cụ thể làm nên cả một “không gian Huế” với những nét đẹp đặc trưng của đất nước cố đô: ngã ba Tuần, điện Hòn Chén, bãi Nguyệt Biều, đồi Vọng Cảnh, ngoại ô Kim Long, Cồn Hến, Cồn Giã Viên, vườn cau Vĩ Dạ,…

N

TH

• Cái nhìn nghệ thuật độc đáo, có khả năng soi chiếu đối tượng từ nhiều góc độ khác nhau. Dòng sông Hương được miêu tả từ các góc nhìn địa lí, lịch sử, văn hóa,… Mỗi góc nhìn đều mang đến những khám phá mới mẻ, bất ngờ không chỉ về thiên nhiên mà cả về tâm hồn Huế.

U

YE

+ Một con người gắn bó sâu nặng với quê hương, có tâm hồn nghệ sĩ, có khả năng quan sát tinh tế và trí tưởng tượng bay bổng:

N

G

• Cái nhìn tràn đầy cảm hứng tình yêu: Hoàng Phủ Ngọc Tường hình dung sông Hương với kinh thành Huế như nàng Kiều với chàng Kim Trọng của Nguyễn Du gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thưở. Con đường từ thượng nguồn ra biển cả của sông Hương trong cái nhìn của nhà văn trở thành hành trình kiếm tìm người tình hằng mong đợi. • Trí tưởng tượng bay bổng, lãng mạn: hình dung sông Hương như một người con gái với tâm hồn phong phú, bí ẩn, chứa đựng bao nhiêu cung bậc cảm xúc vừa nồng nàn, táo bạo vừa dịu dàng, đằm thắm. Qua đó, nhà văn khám phá vẻ đẹp của tâm hồn Huế “vừa mãnh liệt vừa lắng sâu, vừa trữ tình thiết tha vừa bình thản, trí tuệ” (Trần Đình Sử). + Một nhà văn có vốn ngôn ngữ phong phú, có khả năng vận dụng một cách tài hoa các thủ pháp của hội họa, âm nhạc,… Lối viết hướng nội tài hoa và đậm chất trữ tình đã mang lại sức rung cảm mãnh liệt cho tác phẩm – một “bài thơ bằng văn xuôi”. - Sự tài hoa, uyên bác và mê đắm của “cái tôi” tác giả đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho những trang kí Hoàng Trang 3


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Phủ Ngọc Tường: giàu chất trí tuệ và đậm chất thơ. Đoạn trích đã thể hiện nét đặc sắc trong phong cách bút kí của nhà văn xứ Huế này.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 28 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Có bao giờ chúng ta yêu thế gian này như yêu ngôi nhà có bếp lửa ấm áp của mình không? Có bao giờ chúng ta yêu nhân loại như yêu một người máu thịt của mình không? Chúng ta từng nói đến việc làm sao trở thành những công dân toàn cầu. Danh từ công dân toàn cầu rất dễ làm cho những ai đó lầm tưởng về một siêu nhân trong những khía cạnh nào đấy. Nhưng bản chất duy nhất của một công dân toàn cầu là một người biết yêu thương thế gian này và luôn tìm cách cải biến thế gian. Có thể sẽ có những công dân kêu lên đầy bất lực: Ta chỉ là một sinh linh bé nhỏ làm sao ta có thể yêu thương và che chở cả thế gian rộng lớn nhường kia! Việc yêu thương và che chở cho cả thế gian có phải là một ước mơ hay một nhân cách hão huyền không? Không. Đó là một hiện thực và đó là một nguyên lí. Khi một con người yêu thương chân thực mảnh đất con người đó đang đứng dù chỉ vừa hai bàn chân thì người đó đã yêu cả trái đất này. Khi bạn yêu một cái cây bên cạnh bạn thì bạn yêu mọi cái cây trên thế gian. Khi bạn yêu thương một con người bên cạnh thì bạn yêu cả nhân loại. Và khi tất cả những con người dù bé nhỏ đến đâu yêu thương người bên cạnh thì tình thương yêu ấy sẽ ngập tràn thế gian này.

N

TH

Tình yêu thương nhân loại sẽ ngay lập tức trở nên hão huyền và mang thói đạo đức giả khi chúng ta nói đến tình yêu thương đó mà không bao giờ chúng ta yêu thương nổi một người bên cạnh. Và thói đạo đức giả đang lan rộng trên thế gian chúng ta đang sống.

(Cần một ngày hoà giải đế yêu thương, Bđd, tr.26)

N

G

U

YE

Hãy cứu thế gian này khỏi những hận thù, những ích kỉ, những vô cảm và giá lạnh bằng những hành động cụ thể của mỗi con người đang sống trên thế gian này. Đấy là tiếng kêu khẩn thiết, đầy tình thương yêu và trách nhiệm của biết bao con người đang sống trên thế gian này. Câu 1: Theo tác giả đoạn trích, phẩm chất cốt lõi của một "công dân toàn cầu" là gì? Câu 2: Chỉ ra và nêu tác dụng của 01 phép tu từ được sử dụng trong đoạn trích trên. Câu 3: Tác giả sử dụng thao tác lập luận nào khi bàn về "bản chất duy nhất của công dân toàn cầu"? Câu 4: Anh/ Chị thử đưa ra 01 định nghĩa khác về "công dân toàn cầu". II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Theo anh/ chị, thế hệ trẻ Việt Nam cần làm gì để trở thành "công dân toàn cầu"? Viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm của mình. Câu 2 (5,0 điểm): Sức hấp dẫn của bản Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh). Trang 1


-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Theo tác giả, phẩm chất cốt lõi của một "công dân toàn cầu" là biết yêu thương và luôn tìm cách cải biến thế gian này. Câu 2: HS có thể chỉ ra và nêu tác dụng của một trong các phép tu từ sau:  Phép so sánh (Có bao giờ chúng ta yêu thế gian này như yêu ngôi nhà có bếp lửa ấm áp của mình không? Có bao giờ chúng ta yêu nhân loại như yêu một người máu thịt của mình không?) khiến cho câu văn giàu cảm xúc, hình ảnh, tạo sự gần gũi, thân mật khi đề cập đến một vấn đề thoạt nghe rất cao siêu: tình yêu thế gian, yêu nhân loại.

O D

U

C TI O

N

 Phép điệp cấu trúc câu (Có bao giờ chúng ta yêu thế gian này như yêu ngôi nhà có bếp lửa ấm áp của mình không? Có bao giờ chúng ta yêu nhân loại như yêu một người máu thịt của mình không?. Khi bạn yêu một cái cây bên cạnh bạn thì bạn yêu mọi cái cây trên thế gian. Khi bạn yêu thương một con người bên cạnh thì bạn yêu cả nhân loại. Và khi tất cả những con người dù bé nhỏ đến đâu yêu thương người bên cạnh thì tình thương yêu ấy sẽ ngập tràn thế gian này.) có tác dụng liên kết và nhấn mạnh ý nghĩa, tác dụng của tình yêu thương; tạo nên giọng điệu nghị luận đầy nhiệt huyết.

TU

PR

 Sử dụng câu hỏi tu từ (Có bao giờ chúng ta yêu thế gian này như yêu ngôi nhà có bếp lửa ấm áp của mình không? Có bao giờ chúng ta yêu nhân loại như yêu một người máu thịt của mình không?) tác động mạnh mẽ đến tình cảm và lí trí của người đọc.

TH

AN H

Câu 3: Bàn về "bản chất duy nhất của công dân toàn cầu", tác giả sử dụng thao tác lập luận bác bỏ: nêu ý kiến cho rằng yêu thương nhân loại là một ước mơ hay nhân cách hão huyền, rằng mỗi người chỉ là một sinh linh bé nhỏ làm sao có thể yêu thương và che chở cả thế gian rộng lớn, sau đó đưa ra lí lẽ để lật lại vấn đề. Điều này khiến cho lập luận trở nên thuyết phục, sắc bén, hấp dẫn. Câu 4: HS có thể nêu một trong các cách định nghĩa dưới đây:

YE

N

 Công dân toàn cầu là những người sống, làm việc ở nhiều quốc gia khác nhau, có thể có một hoặc nhiều quốc tịch.

N

G

U

 Công dân toàn cầu là công dân có kiến thức nền tảng về các vấn đề văn hoá nhân loại; có thể giao lưu, học tập, làm việc tại bất cứ quốc gia nào; có khả năng hoà nhập với những người dân trên khắp thế giới; có năng lực giải quyết những vấn đề chung của toàn nhân loại: bảo vệ môi trường, chống chiến tranh, đẩy lùi dịch bệnh,...  Công dân toàn cầu là người coi những vấn đề của nhân loại là vấn đề của dân tộc mình, của cá nhân mình và biết suy nghĩ, hành động vì một thế giới tốt đẹp hơn,... II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS nêu rõ quan điểm của mình về những việc cần làm để trở thành "công dân toàn cầu"; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng - phân - hợp,...; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Tham khảo gợi ý sau:  Giải thích "công dân toàn cầu" là gì. Trang 2


 Để trở thành "công dân toàn cầu", con người cần phải làm gì?  Xây dựng nền tảng tri thức phổ thông cơ bản, vững chắc;  Có những hiểu biết về các nền văn hoá khác nhau trên thế giới; có những kĩ năng thiết yếu như kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng tự học, sáng tạo,... trong đó năng lực tiếng Anh, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông là cực kì quan trọng.  Bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mang tính cốt lõi: lòng tự trọng, tự tôn, tinh thần yêu nước, tinh thần trách nhiệm, lòng bác ái, khát vọng thay đổi, sự trung thực, tinh thần kỉ luật,...  "Công dân toàn cầu" có thể hoà nhập vào thế giới phẳng nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc của mình. Đây là một thách thức lớn đối với giới trẻ trong xu hướng hội nhập với thế giới.

C TI O

N

 Phê phán những người vì hiểu chưa đúng về khái niệm "công dân toàn cầu" mà sẵn sàng đánh mất bản sắc dân tộc; biểu dương những con người lao động không mệt mỏi để cống hiến cho dân tộc, cho đất nước, cho nhân loại,...

O D

U

Câu 2: Đề bài yêu cầu HS nghị luận về sức hấp dẫn của bản Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh). HS cần viết bài văn có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài; xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

PR

Tham khảo gợi ý sau:

AN H

 Ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập:

TU

Sức hấp dẫn của bản Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh) thể hiện trên hai phương diện: ý nghĩa lịch sử và giá trị văn học.

TH

 Là một văn kiện lịch sử vô giá, Tuyên ngôn Độc lập đã tổng kết một thời kì đầy đau thương nhưng vô cùng anh dũng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc và khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự do của nước Việt Nam.

YE

N

 Tuyên ngôn Độc lập khẳng định vị thế của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới: một dân tộc nhỏ bé nhưng có lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự cường và tinh thần chiến đấu ngoan cường.

N

G

U

 Tuyên ngôn Độc lập là niềm tự hào, niềm khích lệ đối với toàn thể nhân dân Việt Nam về quyền độc lập, tự do và tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ quyền tự do, độc lập.  Giá trị văn học của Tuyên ngôn Độc lập: Tuyên ngôn Độc lập là áng văn nghị luận chính trị bất hủ với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng hùng hồn.  Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh trích dẫn những lời bất hủ được ghi trong các bản tuyên ngôn của hai cường quốc Pháp và Mĩ, tạo căn cứ pháp lí vững chắc về quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.  Để đập tăn nhĩmg luận điệu của thực dân Pháp về việc Việt Nam là thuộc địa của Pháp và Pháp có quyền quay trở lại Việt Nam, bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ đanh thép, những bằng chứng hùng hồn tố cáo tội ác của thực dân Pháp, khẳng định bản chất phản động đi ngược lại với chủ trương chống phát xít của thực dân Pháp ở Đông Dương, đồng thời khẳng định vai trò của Việt Minh trong cuộc chiến đấu chống phát xít Nhật. Trang 3


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

 Bản tuyên ngôn có giọng điệu hào sảng, thể hiện niềm tin và ý chí, quyết tâm của cả một dân tộc.

Trang 4


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 29 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

U

C TI O

N

Khi người khác nói, chúng ta có cái kiểu nghe đại loại theo bốn cách: kiểu phớt lờ họ, chẳng chú ý nghe gì cả; hoặc giả như có nghe, ầm ừ cho qua chuyện; hoặc nghe có chọn lọc, nghe từng phần nào đó của câu chuyện thôi; và nghe chăm chú, quan tâm và tập trung vào những gì họ đang nói. Nhưng mấy ai trong chúng ta có được trình độ nghe cao: nghe với lòng thấu cảm.

PR

O D

Khi chúng ta biết nghe với lòng thấu cảm, chúng ta không nghe theo cách "chủ động" hoặc "ngờ vực” mà thực chất chẳng hơn gì cách nghe hờ hững, nghe có tính chất "xã giao", có khi còn làm tổn thương đến "người được nghe" - kiểu nghe để đối đáp, để khống chế, để toan tính.

TU

Khi tôi nói tôi nghe với lòng thấu cảm, có nghĩa là tôi nghe với ý hướng để hiểu. Có nghĩa là tôi hiểu người khác trước, để hiểu được họ thực sự. [...] Đó là cách nghe đi vào lòng người. Cả hai nhìn thế giới theo cùng một cách nhìn và cùng hiểu nhau.

TH

AN H

Thấu cảm khác với thương cảm. Thương cảm là một dạng của sự tán thành, một dạng của cách đánh giá và đôi khi là sự đáp ứng tình cảm có tính bao trùm, che chở. Con người lại thường ưa kiểu thương cảm này. Nó làm cho họ phụ thuộc.

N

Còn việc lắng nghe với lòng thấu cảm không nhất thiết đòi sự tán thành; mà là việc bạn hiểu người đó đầy đủ, sâu xa với tất cả tình cảm và hiểu biết của bạn.

N

G

U

YE

Lắng nghe với lòng thấu cảm vượt xa cả sự ghi nhận, hoặc đặt vấn đề, hay đơn thuần chỉ hiểu những gì họ nói ra thôi. Trên thực tế, theo các chuyên gia về giao tiếp thì trong những giao tiếp của chúng ta, chúng ta chỉ thể hiện 10% bằng lời nói, 30% khác là những âm động, còn tới 66% là ngồn ngữ của cơ thể. Trong việc lắng nghe có tính chất thấu cảm, chúng ta không chỉ nghe bằng tai mà còn nghe bằng mắt và bằng con tim. Bạn nghe để cảm nhận, nghe để tìm ra ý nghĩa. Bạn nghe để biết cách sống. Bạn vận dụng cả bán cầu phải và bán cầu trái của não. Bạn cảm nhận, bạn trực cảm, bạn cảm thấy. Lắng nghe với lòng thấu cảm còn cho bạn một khả năng vì nó cung cấp cho bạn những dữ liệu chính xác để hành xử. Thay vì khư khư giữ lấy những gì là của mình, xử sự với thực tại bên trong tâm trí của người khác, bạn đang lắng nghe để hiểu, bạn giao tiếp và lĩnh hội một tâm hồn. (Stephen R. Covey, Bảy thỏi quen của người thành đạt, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr. 197 - 198) Câu 1: Bài viết đề cập đến các cách nghe nào trong giao tiếp? Câu 2: Vì sao tác giả cho rằng "nghe với lòng thấu cảm" là nghe ở trình độ cao? Câu 3: Nhận xét về cách lập luận của tác giả khi bàn về vấn đề "lắng nghe với lòng thấu cảm". Trang 1


Câu 4: Để đạt được trình độ "nghe với lòng thấu cảm", theo anh/ chị, chúng ta cần làm gì? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Vì sao thói quen "lắng nghe với lòng thấu cảm" là một chìa khoá của thành công? Trả lời câu hỏi trên bằng 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ). Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích và làm sáng tỏ sức sáng tạo và tinh thần lao động nghệ thuật công phu của Huy Cận qua việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh và tu từ trong bài thơ Tràng giang.

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

C TI O

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

N

-------------------- HẾT --------------------

U

Câu 1: Bài viết đề cập đến 05 cách nghe trong giao tiếp: phớt lờ, chẳng chú ý nghe gì cả; giả như có nghe, ầm ừ cho qua chuyện; nghe có chọn lọc, nghe từng phần nào đó của câu chuyện thôi; nghe chăm chú, quan tâm và tập trung vào những gì người khác đang nói và nghe với lòng thấu cảm.

O D

Câu 2: HS chỉ ra các lí do sau:

PR

 Nghe thông thường chỉ để xã giao, để đối đáp hoặc chống chế, toan tính,...; nghe với lòng thấu cảm trước hết là để hiểu được người khác một cách thực sự.

TU

 Nghe với lòng thấu cảm vượt xa cả sự ghi nhận hoặc chỉ đơn thuần là để hiểu những gì người khác nói ra; đó là cách nghe không chỉ bằng tai mà còn bằng mắt, bằng tâm hồn, bằng trái tim.

N

Câu 4: HS nêu được một số ý sau:

TH

AN H

Câu 3: Tác giả sử dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận: giải thích (nghe với lòng thấu cảm nghĩa là nghe với ý hướng để hiểu); so sánh (nghe với lòng thấu cảm khác với nghe để đối đáp,...; thấu cảm khác thương cảm); phân tích (nghe với lòng thấu cảm vượt xa cách nghe chỉ để ghi nhận, để hiểu những gì người khác nói); bình luận (tác dụng của việc lắng nghe với lòng thấu cảm).

YE

 Rèn thói quen lắng nghe người khác nói;

G

U

 Có hiểu biết về tâm lí con người, về nguyên tắc ứng xử nói chung trong giao tiếp; có thái độ cảm thông, chia sẻ, chân thành với mọi người;

N

 Có năng lực nghe hiểu,... II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: HS cần nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề: thói quen "lắng nghe với lòng thấu cảm" là một chìa khoá của thành công; lập luận thuyết phục, có lí lẽ và dẫn chứng cụ thể; đoạn văn đảm bảo dung lượng (khoảng 200 chữ), có thể trình bày theo một trong các cách diễn dịch, quy nạp, song hành hoặc tổng - phân – hợp,...; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Tham khảo gợi ý sau:  Giải thích:  "Lắng nghe với lòng thấu cảm” là gì?  Vì sao thói quen "lắng nghe với lòng thấu cảm" là một chìa khoá của thành công? (Một trong những yếu tố then chốt dẫn con người tới thành công là năng lực giao tiếp, mà trong giao tiếp, kĩ năng lắng nghe có Trang 2


vai trò rất quan trọng. Biết lắng nghe có thể đem đến nhiều lợi ích.)  Bàn luận:  Những lợi ích của việc lắng nghe với lòng thấu cảm: Lắng nghe với lòng thấu cảm sẽ mang đến hiệu quả bất ngờ trong giao tiếp vì con người có nhu cầu được khẳng định, được công nhận, được đánh giá đúng mức,...  Để có thói quen này, mỗi người cần rèn kĩ năng nghe hiểu, biết cảm thông, chia sẻ, quan tâm đến người khác,...  Trái ngược với lắng nghe với lòng thấu cảm là những kiểu nghe qua loa, chiếu lệ: nghe để đối đáp, để khống chế, để toan tính - những kiểu nghe hạn chế sự tương tác giữa người và người.

C TI O

N

Câu 2: HS cần xác định đúng vấn đề nghị luận: sức sáng tạo và tinh thần lao động nghệ thuật công phu của Huy Cận qua việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh và tu từ trong bài thơ "Tràng giang". Cần phát hiện được những công phu của Huy Cận trong việc lựa chọn và sử dụng sáng tạo các yếu tố nghệ thuật để xây dựng hình tượng thơ, thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm Tràng giang. Đó là nỗi buồn mênh mông, sâu lắng của "cái tôi" cô đơn trước vũ trụ được biểu hiện qua lối diễn đạt cô đọng và hàm súc, vừa cổ điển vừa hiện đại.

O D

U

Tham khảo gợi ý sau:

N

TH

AN H

TU

PR

 Cách lựa chọn từ ngữ: người phu chữ Huy Cận đã công phu, nhọc nhằn trong cách lựa chọn từng từ, từng chữ trong bài thơ. Chẳng hạn: hai từ láy điệp điệp, song song tạo ra dư ba cho lời thơ; ba chữ sâu chót vót là sự xuất thần của hồn thơ để thể hiện một sự lạ hoá trong cách nhìn, trong cảm giác, tạo ra một không gian ba chiều mênh mông vô biên; từ không trong không tiếng, không đò, không cầu, không khói cực tả nỗi cô đơn lẻ loi của con người trước không gian quạnh hiu, hoang vắng; từ láy dợn dợn đã trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ nhà của thi nhân... Cách tổ chức câu thơ linh hoạt và sáng tạo: Có khi học cách dùng từ láy sóng đôi của Đường thi, có khi dùng cụm từ theo cấu trúc thành ngữ bốn tiếng (sóng gợn tràng giang, con thuyền xuôi mái, nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng...), có lối sử dụng từ ngữ theo phong cách cổ điển (bến cô liêu), có lối lạ hoá ngôn từ rất hiện đại (sâu chót vót)... khiến cho những câu thơ vừa mang vẻ đẹp hiện đại nhưng vẫn đậm đà phong vị Đường thi.

N

G

U

YE

 Cách lựa chọn hình ảnh thơ: Huy Cận đã sáng tạo những hình ảnh giàu tính hình tượng: hình ảnh củi xuất hiện sau các hình ảnh bèo, gỗ... kết hợp với phép đảo ngữ củi một cành khô vừa chân thực vừa giàu ý nghĩa biểu tượng, vừa đặc tả cảnh sóng nước tràng giang vừa gợi thân phận cô lẻ của con người trước dòng đời cuộn xoáy.  Cách tổ chức câu thơ: Phép đối ngẫu quen thuộc của Đường thi được sử dụng linh hoạt và phóng túng. Những cặp đối tương đồng: sóng gợn... đối với con thuyền...; nắng xuống đối với trời lên...; sông dài đối với trời rộng... vừa tạo vẻ cân xứng trang trọng, mở ra các chiều kích vô biên của không gian, vừa tạo thành kết cấu sóng đôi của cả bài thơ. Những cặp đối tương phản như chim nghiêng cánh nhỏ đối với bóng chiều sa gợi cảm giác ám ảnh về cái hữu hạn của kiếp người trước cái mênh mông vô cùng của trời đất, thể hiện nỗi sầu nhân thế, sầu vũ trụ trong lòng thi nhân.

Trang 3


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 1 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

C TI O

N

Có bao giờ bạn tự hỏi giá trị thực của cuộc sống không? Tại sao cả đời người, chúng ta cứ mê mải đi tìm, trăn trở suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị của nó? Phải chăng...

O D

U

Cuộc sống là một đường chạy marathon dài vô tận, nếu ta không cố gắng thì sẽ mãi bị bỏ lại ở phía sau và không bao giờ tới đích.

PR

Cuộc sống là một đường chạy vượt rào, nếu ta không cố gắng ta sẽ không thể vượt qua bất kì rào cản nào.

TU

Cuộc sống là một đường chạy nước rút, nếu ta không cố gắng ta chỉ là người chạy cuối cùng. Cuộc sống là một đường chạy tiếp sức, biết giúp đỡ nhau chúng ta sẽ chiến thắng.

AN H

Vậy cuộc sống của bạn là đường chạy nào?... Hay là tất cả?... (Dẫn theo http://khotangdanhngon.com/danh-ngon-cuoc-song)

TH

Câu 1: Phương thức biểu đạt trong đoạn trích trên là gì? Câu 2: Xác định biện pháp tu từ trong đoạn trích trên?

N

Câu 3: Nội dung chính của đoạn trích trên là gì?

U

YE

Câu 4: Anh (chị) hiểu câu: “Cuộc sống là một đường chạy marathon dài vô tận, nếu ta không cố gắng thì sẽ mãi bị bỏ lại ở phía sau và không bao giờ tới đích” là như thế nào?

G

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

N

Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Cuộc sống là một đường chạy vượt rào, nếu ta không cố gắng ta sẽ không thể vượt qua bất kì rào cản nào”. Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên và con người qua đoạn trích thơ sau: Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trăng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Trang 1


Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. (Trích Việt Bắc, Tố Hữu, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 111) Từ đó liên hệ với bức tranh sông nước xứ Huế qua khổ thơ: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cao nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

N

(Trích Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử, Ngữ văn 11, Tập hai,

C TI O

NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 111) và đoạn thơ:

U

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

O D

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

(Trích Nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngữ văn 10, Tập một, NXB

PR

Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 128, 129)

TU

để thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn của con người.

AN H

-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

TH

Câu 1: - Phương thức biểu đạt trong đoạn trích trên là phương thức nghị luận.

N

Câu 2: - Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích trên là: Ẩn dụ, so sánh.

YE

Câu 3: - Nội dung chính của đoạn trích trên là bàn về giá trị thực của cuộc sống.

G

U

Câu 4: Câu cuộc sống là một đường chạy marathon dài vô tận, nếu ta không cố gắng thì sẽ mãi bị bỏ lại ở phía sau và không bao giờ tới đích nghĩa là:

N

- Cuộc sống luôn phải phấn đấu không ngừng. - Nhịp sống luôn trôi chảy nếu không chịu cố gắng, ta sẽ là người tụt hậu. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: (2,0 điểm) A. Về kĩ năng - Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Giải thích Trang 2


- “Đường chạy vượt rào” nghĩa là trên đường chạy có những rào chắn, đòi hỏi sức bật để vượt qua. Có vượt qua được những rào cản mới về được đến đích.  Cách nói hình ảnh, có ý nghĩa biểu tượng: Nói về con đường đời với những tính chất và yêu cầu, đòi hỏi khác nhau, song có một điểm chung là con người luôn phải cố gắng nỗ lực hết sức, bằng khả năng của bản thân và kết nối với mọi người, để chúng ta đến được một cái đích, đạt được một mục tiêu nào đó đã đặt ra. 2. Bàn luận, mở rộng vấn đề - Có thể khẳng định: Đường đời của chúng ta không thể chỉ là một trong những con đường trên mà phải là sự tổng hợp linh hoạt của cả bốn con đường, tùy từng chặng, từng giai đoạn khác nhau của cuộc đời... - Dù ở chặng nào, điều quan trọng và cần thiết để chúng ta vượt qua và chiến thắng là: + Sự cố gắng nỗ lực của bản thân.

N

+ Sự đoàn kết, chung sức, hợp lực với những người khác

C TI O

- Tuy nhiên, cuộc sống không phải lúc nào cũng là những đường chạy, những cuộc đua, những cái đích hữu hạn, hữu hình. Nhưng cuộc sống luôn đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng bền bỉ để có những cuộc “về đích” thật ngoạn mục.

PR

+ Những người dựa dẫm, ỷ lại vào người khác...

O D

+ Những người không nỗ lực, cố gắng trên hành trình sống...

U

- Phê phán:

3. Bài học nhận thức và hành động

AN H

TU

- Từ nhận thức đúng đắn về đường đời và điều kiện, sức mạnh để đến đích, mỗi người xác định được ý thức và hành động để mỗi chặng đường đời của mình đều có thể gặt hái nhiều thành công, sự sống nhiều giá trị và ý nghĩa... Câu 2: (5,0 điểm)

TH

1. Mở bài

Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn. (Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên)

U

YE

N

Khi ta ở, chỉ là nơi ở

N

G

Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được. Mỗi lần nhắc đến Việt Bắc là gợi lại trong ta nhớ đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất Trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta không khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “ta – mình” của đôi lứa yêu nhau. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi, hào hùng. Ở đó, bên cạnh những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi thì vẫn còn bức tranh về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp: Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Trang 3


Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

N

2. Thân bài

C TI O

2.1. Khái quát chung

AN H

TU

PR

O D

U

- Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam. Việt Bắc là một trong những định cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10 - 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô lồng lộng gió ngàn” về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Cuộc chia tay đầy lưu luyến nhớ thương giữa những người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu phản ánh trong bài thơ Việt Bắc như cuộc chia tay của một đôi bạn tâm tình. Ta và mình đã sống với nhau mười lăm năm keo sơn gắn bó, giờ đây phải chia tay để làm nhiệm vụ mới. Bài thơ được kết cấu theo lối hát đối đáp bằng thể thơ truyền thống của dân tộc. Đoạn trích trên là lời của người cán bộ kháng chiến nói lên nỗi thương nhớ của mình đối với Việt Bắc, với thiên nhiên tươi đẹp và với con người Việt Bắc tình nghĩa.

TH

2.2. Phân tích

YE

N

 Hai dòng đầu là lời khẳng định nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủ chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc: Ta về, mình có nhớ ta. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.

N

G

U

- Nỗi nhớ ở đây mượn nguyên màu sắc ca dao, là sự nối tiếp, là khía cạnh tinh vi trong quan hệ khăng khít: “hoa” - “người”. Quê hương hiện hình trong vẻ đẹp cụ thể: vẻ đẹp tinh tuý của thiên nhiên (hoa) hòa hợp với vẻ đẹp và sức sống của con người. - Mỗi một hình ảnh hoa cùng người như đem lại ấn tượng riêng biệt về nét đẹp núi rừng Việt Bắc. Sự nối tiếp, đan xen sắc màu làm nên mạch cảm xúc của đoạn thơ, nỗi nhớ qua từng câu càng đậm đà và mãnh liệt hơn. Trên cơ sở đó, nhà thơ hướng toàn bộ tâm tư về con người - nhân dân với những phẩm chất bình thường mà vĩ đại.  Thiên nhiên và con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình. Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca - gói trọn bốn mùa: xuân – hạ – thu – đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hòa nhất. Bước luân chuyển của thời gian được tác giả chọn ở những thời điểm nên thơ, tạo ấn tượng không phai mờ trong kí ức. Nhớ cảnh để nhớ người. a. Bức tranh mùa đông:

Trang 4


Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. - Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là màu “đỏ tươi” của “hoa chuối”. Chấm phá của tranh thủy mặc điểm một sắc đỏ trong không gian xanh bao la, không gian mang sức sống mãnh liệt. Ở đấy là cách nhìn của thi nhân Á Đông, người đọc có thể nhớ đến một cảm xúc quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi: Hòe lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiện còn phun thức đỏ. (Cảnh ngày hè)

N

- Mùa đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè, không hề có cảm giác lạnh lẽo, bởi sắc đỏ hoa chuối cũng như phun trào từ giữa màu xanh của rừng.

O D

U

C TI O

- Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp của người thật khỏe khoắn với nắng ánh dao gài thắt lưng là hình ảnh người dân miền sơn cước. Cách hoán dụ không phải tình cờ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng - vật bất li thân của người miền núi - nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông, mang trong mình nét hiên ngang hùng vĩ kiêu hãnh của núi rừng, làm tăng thêm sự cảm phục, ngưỡng mộ và yêu mến vô cùng trong

PR

lòng người ra đi.

TU

b. Bức tranh mùa xuân:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

AN H

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

N

TH

- Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc. Phép đảo ngữ trong cụm từ “trắng rừng” đem lại ấn tượng về những khu rừng Việt Bắc mênh mông, trắng xóa sắc hoa mơ; động từ “nở” cho thấy sức sống sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa xuân.

N

G

U

YE

- Giữa nền trắng hoa mơ, nổi bật hình ảnh “người đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc hiện lên ở nét đẹp cần mẫn, chịu thương chịu khó. Trong cách tả không có một âm vang nào của núi rừng, những vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người. Sợi nhớ, sợi thương đan dày trong tâm tưởng, con người đẹp tự nhiên trong những công việc tỉ mẩn hàng ngày. Đó là những nét đáng yêu, đáng nhớ của Việt Bắc mãi in đậm trong lòng người ra đi. c. Bức tranh mùa hạ: Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. - Không gian nỗi nhớ hình như rõ nét nhất, đậm đà nhất trong bức tranh mùa hạ. Và cũng đọng lại hình ảnh ngọt ngào thân thương nhất của “cô em gái hái măng”. Câu thơ tả cảnh giàu sức biểu cảm, tiếng ve ran gọi màu vàng tràn ngập không gian. - Không gian lung linh hơn khi sắc vàng đổ xuống. Ấn tượng màu vàng đẹp như bức vẽ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người trong tiếng ve gọi hè, như gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh rừng. Động từ “đổ” miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, Trang 5


choáng ngợp trong lòng người. - Nổi bật giữa khung cảnh là hình ảnh “cô em gái”. Cách gọi biểu lộ niềm thân thương trìu mến của con người. Câu thơ gợi nhớ vẻ đẹp nên thơ của một cô hái mơ thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ (Cô hái mơ Nguyễn Bính). Nhưng ở đây cô gái Việt Bắc mang vẻ đẹp khỏe khoắn mộc mạc hơn. Một mình nhưng không tạo cảm giác cô đơn hiu quạnh, vì cả không gian nhuộm rực ánh vàng, làm lưu luyến bước chân người ra đi. d. Bức tranh mùa thu: Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

C TI O

N

- Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình, cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm chia li giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Không gian chuyển về đêm. Như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mĩ của núi rừng Việt Bắc. Đêm thu và ánh trăng như lan tỏa vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên vẻ huyền ảo. Khung cảnh gọi hồn thơ.

PR

O D

U

- Rọi” là động từ miêu tả nguồn sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian. Cách dùng từ này không chỉ giúp nhà thơ miêu tả chính xác ánh trăng lọt qua vòm cây, kẽ lá của núi rừng mà còn thể hiện tinh tế những cảm xúc của con người: đêm nay trăng sao cũng như thấu hiểu lòng người, trong giờ phút chia li như muốn dành riêng cho Việt Bắc, muốn tập trung soi chiếu hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong nỗi nhớ thương tha thiết của người ra đi.

TU

- Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, thành tiếng hát ân tình thủy chung. Nhớ không cụ thể một đối tượng nào. Như ca dao đã diễn tả:

AN H

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.

YE

N

TH

- Tình người bâng khuâng trong câu thơ gợi cảm xúc đồng điệu giữa kẻ ở - người đi. Đọng lại trong nỗi nhớ là “ân tình thủy chung” dào dạt. Ánh trăng đã là hình ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữa rừng sâu, dưới ánh trăng thanh càng làm đậm hơn cảm giác tươi vui, thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh. Cụm từ “nhớ ai” khiến hình ảnh con người như nhòa đi, nỗi nhớ trở nên sâu đậm, ám ảnh hơn...

N

G

U

 Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng Việt Bắc. Mỗi mùa mang một sắc màu riêng và bốn mùa hòa chung màu sắc đa dạng, làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh phong cảnh trữ tình. Thời gian diễn tả không tuần tự, nhưng không làm phai nỗi nhớ. Mỗi mùa đi qua có một khoảnh khắc đáng nhớ - đó là khi trái tim nhà thơ bắt nhịp cùng không gian - cảnh vật. Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại: cổ điển bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả; hiện đại - hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh. 2.3. Liên hệ với đoạn trích trong Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn của con người  Ở đoạn trích thơ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? đến Lá trúc che ngang mặt chữ điền” và đoạn thơ trong bài Nhàn có nét tương đồng với đoạn trích thơ Việt Bắc phía trên về cảm hứng khắc họa thiên nhiên và con người. Cụ thể: - Ở bài Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử không chỉ miêu tả vẻ đẹp của thôn Vĩ xứ Huế mộng mơ với hình ảnh “nắng hàng cau, nắng mới lên” tinh khôi buổi sớm mai, khu vườn thôn Vĩ xanh mượt mà như ngọc bích Trang 6


(Vườn ai mướt quá xanh như ngọc). Mà ở đó còn có sự xuất hiện của bóng dáng con người thôn Vĩ ở câu thơ cuối: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Bóng dáng con người xuất hiện kiến tạo một nét hồn, đầy ấn tượng, gợi tả vẻ đẹp cổ điển, kín đáo, duyên dáng của phụ nữ Việt. Nhìn chung con người và thiên nhiên qua trang thơ của Hàn Mặc Tử có sự gắn kết hài hòa. - Khác với đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, đoạn thơ trong bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau giữa con người với thiên nhiên. Mặc dù sống ở nơi thôn quê còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng ở đó lại có các thú vui riêng và được thưởng thức những món ăn dân dã nhưng lại rất ngon. Chỉ có “măng, trúc” và “giá” thôi, mùa nào thức nấy, những thứ ấy dù rất bình thường vì lúc nào cũng có sẵn trong nhà. Thế nhưng khi ăn chúng ta cảm nhận được vị ngon của nó nhờ vào sự hoà hợp, cảm thông của tấm lòng với tấm lòng. Bởi vì đã không ít lần Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng: “Câu thanh nhàn đọc qua ngày tháng” hay: “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách”.

C TI O

N

- Đoạn trích trong bài thơ Việt Bắc, thiên nhiên và con người hòa quyện gắn bó với nhau, thiên nhiên làm nền để tôn lên vẻ đẹp của con người, con người tô điểm cho bức tranh thiên nhiên.

O D

U

- Nhìn chung, ba đoạn trích có nhiều điểm tương đồng nhưng nó cũng có nét khác nhau do phong cách sáng tác, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng và thời đại mà mỗi nhà thơ sống. Điều đó đem lại nét độc đáo cho bức tranh thiên nhiên trong mỗi đoạn thơ:

TU

PR

+ Trong đoạn trích Việt Bắc cảm hứng thơ khơi nguồn từ những hoài niệm đầy ắp tình quân dân. Cách vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát, mỗi câu lục miêu tả thiên nhiên, mỗi câu bát lại miêu tả hình ảnh con người tạo nên bức tranh tứ bình trọn vẹn và đẹp đẽ. Nó như một vòng tròn của mười lăm năm gắn bó giữa người cách mạng với người dân Việt Bắc.

U

YE

N

TH

AN H

+ Đến với đoạn trích thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ, cảm hứng khắc họa bức tranh thiên nhiên và con người lại được khơi nguồn từ tình yêu đôi lứa và khát vọng hướng về cuộc sống của một tâm hồn tha thiết yêu đời nhưng bị tách biệt khỏi cuộc đời. Về nghệ thuật, Hàn Mặc Tử chọn thể thơ thất ngôn mang vẻ đẹp cổ điển, chau chuốt. Nghệ thuật khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên và con người bằng nghệ thuật điểm xuyết, tức là chỉ bằng một nét khắc họa như “khôn mặt chữ điền” trong câu cuối đã khơi gợi khuôn mặt người phụ nữ Huế phúc hậu, vừa gợi khuôn mặt người tình của Hàn Mặc Tử, vừa gợi được khuôn mặt Hàn trở về thôn Vĩ với bao mặc cảm bệnh tật chỉ dám đứng sau khóm trúc... Đó là nghệ thuật cách điệu hóa.

N

G

+ Còn ở đoạn thơ trong bài Nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lấy những hình ảnh của “măng, trúc, giá, hồ sen” để nói về sự hòa hợp với thiên nhiên của một ẩn sĩ đang sống đúng với thiện lương của mình. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát nét gần gũi với triết lí “vô vi” của đạo Lão, “thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. 2.4. Đánh giá chung - Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc là một đóng góp lớn của Tố Hữu từ góc nhìn nghệ thuật thơ ca về đề tài thiên nhiên và con người; một đoạn trích thơ đặc sắc mà tìm trong kho tàng văn học hiện đại Việt Nam khó có bức tranh tứ bình thứ hai đẹp như thế. Đoạn trích mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lại kiến tạo vẻ đẹp thiên nhiên và con người mang nét đẹp riêng của vùng miền, văn hóa; còn hai câu luận trong bài Nhàn là bức tranh thiên nhiên tinh tế thanh nhã hiếm có trong văn học Việt Nam: vừa trữ tình phóng khoáng vừa bộc lộ một mối tình tượng giao hòa hợp giữa tạo vật với con người. Thiên nhiên ấy chính là chốn thanh u tinh khiết Trang 7


để khi trở về từ kinh kì bụi bặm, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại tìm thấy sự thư nhàn, bình thản. Hòa mình vào phong cảnh hữu tình ấy, có lẽ nhà thơ gu thời mẫn thế Nguyễn Bỉnh Khiêm được phần nào xoa dịu nỗi buồn thế nhân. - Là một đóng góp lớn cho đề tài thiên nhiên và con người Việt Nam. Cả ba đoạn trích thơ trên đều cho thấy tài năng xứng đáng là những nhà thơ lớn Việt Nam. 3. Kết bài

U

Quê hương nếu ai không nhớ

C TI O

N

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung, quyến luyến, thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi. Vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình ấy giúp ta cảm nhận thấm thía hơn tình yêu thiên nhiên của tác giả và cũng giúp chúng ta ngộ ra được tình yêu đất nước nào đâu phải ở đâu xa, yêu những điều bình dị quanh ta cũng là yêu đất nước, quê hương. Vâng! Hãy yêu quê hương, đất nước mình, vì:

(Quê hương - Đỗ Trung Quân)

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

Sẽ không lớn nổi thành người.

Trang 8


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 2 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

O D

U

C TI O

N

Chúng tôi có một kế hoạch kinh tế rất lớn. Chúng ta sẽ tăng gấp đôi tốc độ tăng trưởng hiện tại và trở thành nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Đồng thời chúng ta sẽ đi cùng với những quốc gia sẵn sàng ủng hộ chúng ta. Chúng ta sẽ có được những mối quan hệ tuyệt vời. Không có ước mơ nào là quá lớn, không có thử thách nào là quá khó. Không có gì thuộc về tương lai chúng ta muốn chạm tới mà chúng ta không thể thực hiện được.

PR

Nước Mĩ sẽ không chấp nhận những gì mà không phải là tốt nhất. Chúng ta phải đòi lại số phận của nước ta và có những ước mơ lớn, táo bạo và liều lĩnh. Chúng ta phải làm điều đó. Một lần nữa, chúng ta sẽ mơ về những điều đẹp đẽ, thành công cho đất nước.

TU

(Trích Bài phát biểu nhận chức Tổng thống Mĩ của Donal Trum, 09 – 11 – 2016) Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?

AN H

Câu 2: Lời phát biểu của Donal Trum đã đặt ra những mục tiêu gì cho nước Mĩ trong tương lai? Câu 3: Nêu nội dung chính của lời phát biểu trên?

YE

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

N

TH

Câu 4: Anh (chị) hiểu như thế nào về câu nói: “Không có ước mơ nào là quá lớn, không có thử thách nào là quá khó”?

U

Câu 1 (2,0 điểm): Anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn luận về vấn đề nêu ra trong đoạn trích: “Không có gì thuộc về tương lai chúng ta muốn chạm tới mà chúng ta không thể thực hiện được”

G

Câu 2 (5,0 điểm):

N

Viết về cảm xúc trong thơ, nhà phê bình Hoài Thanh từng có ý kiến: “Dòng cảm xúc quá chừng sôi nổi khiến cho câu chữ không thể đi theo những đường viền có sẵn, ý thơ xô đẩy làm cho khuôn khổ câu thơ cũng phải lung lay”. Bằng việc cảm nhận bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. Từ đó liên hệ với bài thơ Tự tình (bài II) (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 19) của Hồ Xuân Hương và đoạn trích Trao duyên (Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 104, 105) để nhận xét về quan niệm tình yêu. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: - Phương thức biểu đạt chính là nghị luận. Trang 1


Câu 2: - Mục tiêu là đưa nước Mĩ trở thành nền kinh tế mạnh nhất trên thế giới. Câu 3: Nội dung chính: - Thể hiện khát vọng và nỗ lực thực hiện khát vọng của nước Mĩ. Câu 4: - Khẳng định ý chí, nghị lực của con người khi thực hiện ước mơ và mục tiêu đã đặt ra. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: (2,0 điểm) A. Về kĩ năng - Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận..., hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

N

B. Về kiến thức

C TI O

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Giải thích

O D

U

- Từ “tương lai” là mơ ước, dự định, mục đích, là cái đích của ước mơ, là thành công mà con người đang hướng tới. Khái quát lại vấn đề qua câu nói: Khẳng định con người có thể hoàn toàn đạt được ước mơ, mục đích nếu kiên trì, nỗ lực.

PR

2. Phân tích

- Tầm quan trọng của ước mơ đối với sự thành công của mỗi con người trong cuộc sống.

TU

- Cần phải làm gì để thực hiện ước mơ. (HS lấy dẫn chứng).

- Ước mơ phải đúng đắn, phù hợp với khả năng, phải có hành động đúng mới có ý nghĩa.

AN H

- Không nên ước mơ viển vông xa với thực tế. 3. Bài học nhận thức

TH

- Mỗi người cần biết xây dựng cho mình những ước mơ phù hợp, cao đẹp và biết hành động đúng đắn để biến ước mơ thành hiện thực.

YE

N

Câu 2: (5,0 điểm) 1. Mở bài

U

- Giới thiệu vấn đề nghị luận

N

G

+ Lãng khách cất bước ra đi trên con đường mịt mù gió bụi... Đôi chân nàng phiêu du như làn gió, đôi tay nàng ôm trọn hồn nước mây và đôi mắt nàng rực rỡ như muôn vì tinh tú quyện hòa. “Cũng là một nữ hoàng thơ ca, một khách nữ tài hoa nhưng hồn hậu, chân thành và đằm thắm trong đời thường” (Nguyễn Thành Huân), Xuân Quỳnh tựa như một lãng khách dừng bước chân trên con đường thi ca Việt Nam. Ghé lại nghỉ ngơi, rồi yêu, rồi gắn bó với thi ca lúc nào mà không hay. Để rồi trong phút trải lòng trước con sóng vô tận của tự nhiên, một chân trời riêng, một biên cương riêng và một xúc cảm riêng nữ sĩ đã cho ra đời tuyệt phẩm Sóng. - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Hiện thực cuộc sống đã khơi nguồn cho thi ca để thi sĩ nên họa trên trang viết. Chính vì thế khi viết về cảm xúc trong thơ, nhà phê bình Hoài Thanh từng có ý kiến: “Dòng cảm xúc quá chừng sôi nổi khiến cho câu chữ không thể đi theo những đường viền có sẵn, ý thơ xô đẩy làm cho khuôn khổ câu thơ cũng phải lung lay”. 2. Thân bài Trang 2


2.1. Vài nét về tác giả và tác phẩm - Xuân Quỳnh thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hằng ngày. Trong các nhà thơ nữ Việt Nam, Xuân Quỳnh xứng đáng được gọi là “nhà thơ của tình yêu”. - Tác giả của những thi phẩm nổi tiếng: Hoa dọc chiến hào (1968), Tự hát (1984), Hoa cỏ may (1989)... Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết trong khát vọng về một hạnh phúc đời thường. - Tác phẩm: + Sóng là bài thơ viết về tình yêu hạnh phúc, trích trong tập Hoa dọc chiến hào, viết năm 1967, tại biển Diêm Điền, Thái Bình. + Thơ năm chữ, có cấu tứ độc đáo - mượn sóng để nói đến khát vọng tình yêu.

C TI O

N

2.2. Giải thích ý kiến của Hoài Thanh

- “Cảm xúc” là những rung động, là tình cảm - đây là yếu tố quan trọng nhất của thơ. Khởi nguồn của thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc.

U

- “Sôi nổi” chỉ mức độ của cảm xúc: nồng nàn, cháy bỏng, mãnh liệt dâng trào.

PR

O D

- “Những đường viền có sẵn, khuôn khổ câu thơ” là những quy định có sẵn từ trước, những hình thức có tính chất khuôn mẫu, ổn định. - “Ý thơ xô đẩy, không đi theo, lung lay” đều chỉ sự bứt phá, vượt ra khỏi những quy định.

AN H

TU

 Khi cảm xúc, tình cảm trong thơ đến mức mãnh liệt nó sẽ phá vỡ những khuôn mẫu, những hình thức có tính chất ổn định. Từ đó cho thấy trong mối quan hệ giữa nội dung cảm xúc và hình thức nghệ thuật của thơ thì nội dung cảm xúc đóng vai trò chi phối. 2.3. Cảm nhận bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh

TH

a. Sóng là dòng cảm xúc quá chừng sôi nổi, là tiếng nói tình cảm mãnh liệt của một trái tim phụ nữ yêu chân thành, da diết

YE

N

- Cái “tôi” trữ tình khi thì hóa thân vào “em”, khi thì soi mình vào “sóng”. “Sóng” và “em” cùng song song tồn tại để bộc lộ những cảm xúc của nhân vật trữ tình.

G

U

- Những trạng thái cảm xúc phong phú, phức tạp có lúc tưởng mâu thuẫn mà lại thống nhất trong tâm hồn người con gái đang yêu: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”.

N

- Khát vọng tự nhận thức, khát vọng tình yêu: “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”. - Nỗi nhớ cháy bỏng , da diết trong tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu... Cả trong mơ còn thức”. - Tình cảm thủy chung khăng khít: “Dẫu xuôi về phương bắc... Hướng về anh - một phương”. - Những dự cảm âu lo và niềm tin vào tình yêu chân chính: “Cuộc đời tuy dài thế... Mây vẫn bay về xa”. - Khát vọng bất tử hóa tình yêu: “Làm sao được tan ra... Để ngàn năm còn vỗ”. b. Ở Sóng có sự phá vỡ những hình thức, khuôn mẫu có tính chất ổn định (câu chữ không đi theo đường viền có sẵn, khuôn khổ câu thơ bị lung lay) - Âm điệu của bài thơ: + Bài thơ có âm điệu của sóng. + Sóng biển đang vỗ ào ạt trên đại dương hay cũng chính là sóng lòng vỗ miên man của người con gái đang yêu? Trang 3


+ Âm điệu đó được tạo nên do thể thơ (thể thơ năm chữ, gieo vần, ngắt nhịp, hài thanh linh hoạt); phương thức tổ chức ngôn từ và hình ảnh. - Kết cấu của bài thơ độc đáo thể hiện “dòng cảm xúc quá chừng sôi nổi”: + Cả bài thơ có chín khổ. Bốn khổ đầu và bốn khổ cuối mỗi khổ đều có bốn câu, riêng khổ ... giữa (khổ năm) có sáu câu. + Kết cấu đặc biệt ở khổ thơ thứ năm khiến người ta liên tưởng tới hai hình ảnh: chân sóng và đỉnh sóng. - Hình tượng thơ: + Có hai hình tượng song song tồn tại: “sóng” và “em”, lúc thì phân thân soi chiếu vào nhau, lúc lại đan hòa với nhau làm thành một thể thống nhất. + Sóng biển và sóng lòng hòa quyện trong nhau.

C TI O

N

- Các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, điệp từ được sử dụng linh hoạt nhằm diễn tả những cảm xúc trong tâm hồn người con gái đang yêu. - Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên như tiếng lòng chân thành của người phụ nữ, không màu mè, kiểu cách. 2.4. Bình luận ý kiến của Hoài Thanh

TU

PR

O D

U

- Nội dung cảm xúc và hình thức nghệ thuật trong thơ phải có sự hài hòa, phù hợp với nhau. Tuy nhiên, trong mối tương quan giữa nội dung và hình thức thì nội dung là cái có trước và bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo. Thông qua ý thức năng động và tích cực chủ quan của người nghệ sĩ, nội dung cố gắng đi tìm một hình thức thể hiện phù hợp với nó, để bộc lộ một cách đầy đủ nhất, hấp dẫn nhất bản chất của nó. Khi tiếng nói cảm xúc, tình cảm trong thơ nồng nhiệt đến độ cao trào thì nó sẽ vượt ra khỏi khuôn khổ hình thức bình thường để rồi lại đi tìm một cách thể hiện khác phù hợp với nó. Đó chính là sự “phá vỡ những đường viền có sẵn”.

AN H

- Khi cảm xúc phá vỡ những giới hạn, những hình thức cũ thì sẽ có một hình thức mới ra đời. Đây cũng chính là hành trình đi tìm sự sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Nghệ thuật cũng vì thế mà luôn sáng tạo, luôn mới mẻ, hấp dẫn.

TH

Lưu ý: Thí sinh lấy dẫn chứng Thơ mới 1930 – 1945 để soi chiếu và làm sáng tỏ qua thi phẩm Sóng.

N

G

U

YE

N

- Ý kiến của nhà phê bình Hoài Thanh là ý kiến xác đáng, đúng đắn, đầy biện chứng về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong thơ. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng: không phải cứ có cảm xúc mãnh liệt thì sẽ có sự phá cách và tạo nên cái mới trong nghệ thuật thơ ca. Việc sáng tạo nên những hình thức mới mẻ còn phải phụ thuộc vào cái tài của người nghệ sĩ. Cảm xúc chỉ là phần xương thịt”, là yếu tố khơi nguồn và thúc đẩy. Hơn nữa, không chỉ thơ mà đối với loại hình nghệ thuật nào cũng vậy nội dung cảm xúc, tư tưởng luôn đóng vai trò chủ đạo, quyết định đối với hình thức thể hiện. 2.5. Liên hệ  Cùng viết hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến nữ sĩ Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du cũng gặp nhau ở đề tài về tình yêu và nỗi nhớ. a. Tự tình (bài II) - Hồ Xuân Hương là một người phụ nữ xinh đẹp, giỏi giang nhưng lại có tình duyên lận đận. Một trong những tác phẩm đặc sắc của bà thể hiện đặc sắc thân phận người phụ nữ là Tự tình (bài II). Bài thơ nói lên tâm trạng của Hồ Xuân Hương thể hiện nỗi cô đơn, buồn bã trước cuộc đời. - Hai câu đề: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn/ Trơ cái hồng nhan với nước non”: + Thời gian trôi nhanh và rất dồn dập thể hiện qua “đêm khuya, trống canh dồn”. + Con người buồn bã, trơ với hồng nhan. Trang 4


+ Thể hiện sự trơ trọi, lẻ loi của con người trước không gian bao la, rộng lớn. - Hai câu thực: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/ Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”: + Tác giả mượn rượu để giải sầu nhưng vẫn không tác dụng vì khi uống say rồi lại tỉnh. + Khi càng tỉnh lại càng buồn, càng chua xót cho cảnh đời. + Chuyện tình dở dang, muộn màng, không trọn vẹn. + Cả trăng và rượu vẫn không giúp được tác giả giải sầu. - Hai câu luận: “Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám/ Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”: + Thể hiện cảnh thiên nhiên sôi động, tươi đẹp. + Thể hiện sự kháng cự dữ dội, mãnh liệt của tác giả. - Hai câu kết: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con!”:

N

+ Ngán ngẩm trước sự trở lại của mùa xuân, khi mùa xuân đến cũng là lúc tuổi xuân ra đi.

C TI O

+ Chán chường trước sự chia sẻ tình yêu. b. Đoạn trích Trao duyên

U

- Thúy Kiều nhờ em là Thúy Vân thay mình trả ân nghĩa cho Kim Trọng:

O D

+ Một nỗi đau đến xé lòng khi đành phải hi sinh tình yêu của mình, hi sinh chính hạnh phúc cá nhân để cứu cha, cứu gia đình cho trọn chữ hiếu.

PR

+ Cách xưng hô, dùng từ khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa...) có ý nghĩa một phần là nhờ vả, một phần nài ép, Thúy Kiều coi đó là việc Thúy Vân cần làm “tình chỉ duyên em”.

TU

+ Mối tình của Thúy Kiều với chàng Kim tuy rất mặn nồng, thắm thiết nhưng lại mong manh, nhanh tan vỡ.

AN H

+ Mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm của Thúy Kiều trong cảnh trao duyên cho Thúy Vân. Lời trao duyên, trao kỉ vật nửa muốn trao, nửa muốn níu gữ. - Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên:

TH

+ Cuộc độc thoại nội tâm đầy đau đớn, Thúy Kiều hướng một lòng về tình yêu thương mong nhớ người mình yêu.

U

2.6. Nhận xét chung

YE

N

+ Mức độ của nỗi đau cao hơn, xót xa hơn khi Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li.

N

G

- Nhìn chung cả hai bài thơ và một đoạn trích đều thể hiện rõ tâm trạng cũng như khao khát hạnh phúc của người phụ nữ. - Tuy nhiên niềm khát khao hạnh phúc và nỗi niềm lo âu, khổ đau của mỗi người lại khác nhau: + Sóng của Xuân Quỳnh là lời bộc bạch chân thành về khát vọng tình yêu trong sự song hành của hình tượng sóng và em. + Tự tình là lời tự than, tự thương xót, buồn tủi cho duyên số, duyên phận hẩm hiu của mình. Càng thao thức cô đơn càng buồn tủi. Càng buồn tủi càng khao khát sống, sống trong hạnh phúc trọn vẹn, đầy đủ. Thực tại nặng nề, cay đắng như bủa vây, cái hồng nhan như “trơ” ra với nước non, với cuộc đời. Người đọc vô cùng cảm thông với nỗi lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc của nữ sĩ và người phụ nữ trong xã hội. - Đoạn trích Trao duyên đã khái quát lên bi kịch đau khổ của Thúy Kiều đó là bi kịch về tình yêu tan vỡ và bi kịch cuộc đời mỏng manh. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Qua đoạn trích Trao duyên, chúng ta cảm nhận được một trái tim giàu lòng Trang 5


nhân ái, yêu đời, yêu người. Chính vì yêu đời, yêu người, Nguyễn Du mới có thể viết lên những dòng thơ đẫm máu và nước mắt đến như thế. 3. Kết bài - Cả ba bài thơ và đoạn trích đều thể hiện niềm khao khát có một tình yêu bền chặt, nồng cháy. Tất cả những người phụ nữ ấy mong muốn có một tình yêu nồng thắm từ người bạn đời tri âm tri kỉ, đón những hương sắc của cuộc đời.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

- Sinh ra từ tâm hồn và trái tim con người, thơ đã trở thành tri âm của nhân loại từ bao thế kỉ qua. Thơ là một phần của thế giới nội tâm, của đời sống tâm linh con người. M. Goor-ki đã từng quan niệm rằng: “Thơ chính là tâm hồn, thơ là một đỉnh cao của cảm xúc phát khởi từ lòng người, mang trong nó cái tình cảm, cảm xúc ngất ngây của thi nhân”. Bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh), Tự tình (bài II) của Hồ Xuân Hương và đoạn trích Trao duyên (Nguyễn Du) giống như cuốn tự truyện mà các tác giả tự kể lại và miêu tả cuộc đời mình trong tác phẩm, khát vọng là những ước mơ, khát khao, mong muốn điều lớn lao, tốt đẹp về tình yêu đôi lứa, một xã hội công bằng.

Trang 6


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 3 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

C TI O

N

BỨC TRANH TUYỆT VỜI

Một họa sĩ suốt đời mơ ước vẽ một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi vị giáo sĩ để biết được điều gì đẹp nhất. Vị giáo sĩ trả lời: “Điều đẹp nhất trần gian là niềm tin, vì niềm tin nâng cao giá trị con người”.

O D

U

Họa sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với cô gái và được trả lời: “Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, mang đến nụ cười cho kẻ khóc than; làm cho điều bé nhỏ trở nên cao trọng, cuộc sống sẽ nhàm chán biết bao nếu không có tình yêu”.

TU

PR

Cuối cùng họa sĩ gặp một người lính mới từ trận mạc trở về. Được hỏi, người lính trả lời: “Hòa bình là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp. Và họa sĩ đã tự hỏi mình: “Làm sao tôi có thể cùng lúc về niềm tin, hòa bình và tình yêu?”.

AN H

... Khi trở về nhà, ông nhận ra niềm tin trong ánh mắt của các con, tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông dâng tràn hạnh phúc và bình an. Họa sĩ đã hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là “Gia đình”.

TH

(Theo Phép nhiệm màu của đời, NXB Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 2018, trang 87) Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.

YE

N

Câu 2: Nêu nội dung chính của văn bản. Câu 3: Chỉ ra biện pháp nghệ thuật có trong văn bản và nêu tác dụng.

U

Câu 4: Vì sao người họa sĩ đặt tên cho tác phẩm là “Gia đình”?

N

G

II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Từ câu chuyện trong phần Đọc hiểu anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của mình về ý kiến: “Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại những tai ương của số phận” (Euripides). Câu 2 (5,0 điểm): Có ý kiến cho rằng: “Cơ sở pháp lí là nền tảng tạo sức thuyết phục cho bản Tuyên ngôn”. Anh (chị) có đồng ý với ý kiến này không? Hãy phân tích đoạn trích của bản Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh) dưới đây để làm sáng tỏ ý kiến trên. Từ đó, so sánh với Nam quốc sơn hà (tương truyền của Lý Thường Kiệt) và Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) để thấy được sự tương đồng và khác biệt ở cơ sở pháp lí của ba bản Tuyên ngôn. Hỡi đồng bào cả nước, “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm Trang 1


phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. (Trích Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh, dẫn theo Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 39)

C TI O

N

-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

PR

- Người họa sĩ trăn trở vẽ một bức tranh đẹp nhất trần gian.

O D

Câu 2: Nội dung chính của văn bản:

U

Câu 1: - Phương thức biểu đạt chính của văn bản là tự sự.

- Ông đã hỏi nhiều người và cuối cùng nhận ra điều đẹp nhất chính là gia đình..

TU

Câu 3:

AN H

- Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn bản là liệt kê: Người họa sĩ hỏi giáo sĩ, hỏi cô gái và hỏi người lính. - Tác dụng: Người họa sĩ mong muốn tư vấn để vẽ nên bức tranh đẹp nhất trên đời.

TH

Câu 4:

N

- Người họa sĩ đặt tên tác phẩm của mình là “Gia đình”: vì khi trở về nhà, công nhận ra niềm tin trong ánh mắt của các con, tình yêu trong cái hôn của người vợ.

YE

- Chính những điều đó làm tâm hồn ông tràn đầy hạnh phúc và bình an.

G

A. Về kĩ năng

N

Câu 1: (2,0 điểm)

U

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

- Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ, lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Giải thích - “Gia đình” là tổ ấm của mỗi con người, nơi mỗi con người được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên. - “Chốn nương thân” là nơi che chở tin cậy, chỗ dựa vững chắc. - “Tai ương của số phận” là những bất hạnh, rủi ro gặp phải trong cuộc đời. - “Duy chỉ có... mới...” là nhấn mạnh tính duy nhất. Trang 2


 Câu nói khẳng định giá trị, tầm quan trọng của gia đình với mỗi người: là chỗ dựa, điểm tựa duy nhất để chống lại những bất hạnh, rủi ro gặp phải trên đường đời. 2. Phân tích và chứng minh - Câu nói có ý nghĩa sâu sắc, là lời nhắc nhở thấm thía về ý nghĩa, giá trị to lớn của gia đình đối với mỗi người: + Bởi vì: Gia đình là cái nôi hạnh phúc của mỗi người. + Nơi đó ta được nuôi dưỡng, chở che, bao bọc, được đón nhận tình yêu thương thiêng liêng vô bờ bến của những người thân, những người ruột thịt. - Truyền thống, lối sống và sự giáo dục của gia đình là môi trường hình thành nhân cách, phẩm chất cho mỗi con người - những hành trang cần thiết khi đối mặt với thử thách trên đường đời:

C TI O

N

+ Gia đình còn là nền tảng, là bệ phóng cho mỗi con người đến với những thành công sau này (điều kiện kinh tế, mối quan hệ xã hội... của gia đình...). + Gia đình còn là hậu phương, là chỗ dựa tinh thần vững chắc: nâng đỡ khi chúng ta vấp ngã, tiếp thêm sức mạnh khi chúng ta gặp khó khăn, trở ngại, an ủi, chia sẻ khi chúng ta đau buồn.

O D

U

+ Gia đình không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đời mỗi người mà còn có vai trò quan trọng góp phần tạo nên sự phát triển của xã hội (gia đình là tế bào của xã hội).

PR

3. Bình luận (Bàn bạc, mở rộng vấn đề) - Câu nói trên nhắc nhở con người cần biết quý trọng gia đình.

TU

- Phê phán những người không biết yêu quý, trân trọng giá trị của gia đình (sống thờ ơ, vô cảm, không quan tâm đến những người thân, chà đạp lên những giá trị truyền thống của gia đình...).

AN H

- Ý kiến của Éuripides đã tuyệt đối hóa vai trò của gia đình đối với mỗi người, song trong thực tế:

TH

+ Ngoài gia đình, mỗi người còn có những điểm tựa khác để vượt qua những khó khăn, thử thách như: bạn bè, đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp.

N

+ Những người không có được điểm tựa gia đình vững chắc vẫn biết vươn lên, trưởng thành, trở thành người có ích.

YE

4. Bài học nhận thức và hành động

U

- Yêu quý, trân trọng gia đình. Nhận thức được vai trò, ý nghĩa của gia đình đối với mỗi người và xã hội.

N

G

- Bằng những việc làm cụ thể góp phần xây dựng gia đình của mình hạnh phúc, bền vững, giàu mạnh. Vận động những người xung quanh cùng chung tay xây dựng gia đình vì một xã hội tốt đẹp. Câu 2: (5,0 điểm) 1. Mở bài: - Giới thiệu vấn đề nghị luận Hồ Chí Minh – Ông già thuyền trưởng Đã từng qua bốn biển năm châu Sinh cảnh đói nghèo, lớn bước gian lao Lòng sạch, chi cao đã thành thép qua nghìn lửa đạn Hồ Chí Minh dong buồm về nước Vung cánh tay ngang trời Tổ quốc Kêu gọi nhân dân lớp lớp theo Người Trang 3


Để thoát kiếp ngựa, trâu xây lại cuộc đời. (Hồ Chí Minh, Eoan Maccon - Anh, Đào Anh Kha dịch) Trong hành trình gian nan và vô tận, con người luôn tìm kiếm những hình mẫu có thật trong cuộc sống để tôn vinh và noi theo với mong muốn trở nên hoàn thiện hơn. Một trong những hình mẫu lí tưởng ấy là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. “Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Suốt đời, Bác hi sinh cho độc lập, tự do”... Câu hát xúc động về Hồ Chủ tịch - vị lãnh tụ cách mạng vô sản kiệt xuất, nhà ngoại giao lỗi lạc, danh nhân văn hóa của thế giới. Với dân tộc Việt Nam, “Người là Cha, là Bác, là Anh. Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ” (Theo chân Bác, Tố Hữu). Đất nước ta, dân tộc ta tự hào về Hồ Chủ tịch - con người giản dị và vĩ đại - tiêu biểu cho truyền thống bốn ngàn năm lịch sử vẻ vang. - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh viết:

C TI O

N

“Hỡi đồng bào cả nước... Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Đoạn mở đầu bản tuyên ngôn trên đã góp phần làm nổi bật giá trị của bản tuyên ngôn bất hủ này. Chính vì vậy mà có ý kiến cho rằng: “Cơ sở pháp lí là nền tảng tạo sức thuyết phục cho bản tuyên ngôn”.

U

2. Thân bài

O D

2.1. Khái quát chung

AN H

TU

PR

- Hồ Chí Minh coi văn nghệ là vũ khí đấu tranh đắc lực cho sự nghiệp cách mạng, còn người sáng tác là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Người chú trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn chương, khi cầm bút, Người luôn xác định đối tượng tiếp nhận (Viết cho ai?), mục đích viết (Viết để làm gì?) rồi mới quyết định nội dung (Viết cái gì?) và hình thức viết (Viết như thế nào?). Riêng những áng văn chính luận của Người đều ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, bằng chứng giàu sức thuyết phục và tính chiến đấu.

G

2.2. Giải thích ý kiến

U

YE

N

TH

- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Trên cả nước nhân dân đứng lên giành lại chính quyền. Ngày 26 - 8 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khi cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

N

- Ý kiến này khẳng định vai trò nền tảng quan trọng của phần cơ sở pháp lý trong một bản Tuyên ngôn, mà cụ thể ở đây là bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. - Tôi hoàn hoàn đồng ý với ý kiến này. 2.3. Phân tích đoạn mở đầu để làm sáng tỏ ý kiến  Muốn lập luận chặt chẽ, thuyết phục, trước hết một bản tuyên ngôn cần có ba phần. Nhưng ba phần ấy cần đảm bảo: Cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn cần làm đòn bẩy cho cơ sở thực tiễn, để từ đó đi đến tuyên bố độc lập. Cho nên, cơ sở pháp lí là phần đóng vai trò quan trọng trong bản tuyên ngôn: - Cơ sở pháp lí là cơ sở chân lí thời đại, những điều thuộc về lẽ phải và được mọi người thừa nhận. Đoạn văn khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của dân tộc ta cũng như các dân tộc khác trên thế giới. Hồ Chí Minh đồng tình với những tư tưởng tiến bộ của các bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.

Trang 4


- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba bản Tuyên ngôn của nước Việt Nam, Mỹ, Pháp nhằm quốc tế hóa vấn đề độc lập của dân tộc ta. Đoạn văn muốn gợi lại niềm tự hào cao cả của lịch sử dân tộc Việt Nam về các triều đại: Triệu, Đinh, Lý, Trần, cùng sánh vai với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên đã được Nguyễn Trãi ghi trong Đại cáo bình Ngô. - Cơ sở pháp lí đóng vai trò đòn bẩy cho phần cơ sở thực tiễn. Với những lẽ phải Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán và kết tội thực dân Pháp đi ngược lại tư tưởng tiến bộ của tổ tiên họ trong suốt 80 năm qua trên đất nước ta ở các phương diện: chính trị, văn hóa, kinh tế, ngoại giao. - Hồ Chí Minh đã dẫn chứng chính xác, từ ý tưởng lời văn hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Pháp để tạo cơ sở pháp lí, dùng lời nói của đối phương để so sánh, phản bác âm mưu và hành động trái với công lí của chúng, dùng nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”.

C TI O

N

 Đoạn văn dùng lí lẽ đanh thép, tư duy lí luận sáng tạo “suy rộng ra”, đưa vấn đề độc lập của dân tộc Việt Nam thành vấn đề tiêu biểu cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Lập luận của đoạn văn chặt chẽ bằng cách sử dụng nhiều câu văn khẳng định để phủ định những nội dung phản động của hai đế quốc Mĩ và Pháp. Lời văn mạnh mẽ, trong sáng dễ hiểu làm tăng thêm sức thuyết phục bằng lí lẽ của đoạn văn.

U

2.4. So sánh cơ sở pháp lí của bản Tuyên ngôn Độc lập với Nam quốc sơn hà, Đại cáo bình Ngô

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

- Cơ sở pháp lí của: Nam quốc sơn hà (tương truyền của Lý Thường Kiệt) khẳng định chủ quyền dựa trên sách trời (thiên thư) do ảnh hưởng bởi quan niệm Nho giáo: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”. Nếu như trong Nam quốc sơn hà, Lí Thường Kiệt khẳng định chủ quyền của dân tộc bằng một niềm tin nhuốm màu huyền thoại - “định phận tại sách trời”, thì hơn ba thế kỉ sau Nguyễn Trãi đã chứng tỏ điều đó bằng những luận cứ khoa học và sự thật lịch sử đầy tính thuyết phục: nước ta đã có một nền văn hiến lâu đời, có bờ cõi riêng, có phong tục riêng, có các triều đại sánh ngang với phương Bắc, chân lí lịch sử dựa trên lập trường chính nghĩa: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Với việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn của thế giới (Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”). Tuyên ngôn Độc lập đã đưa ra cơ sở pháp lí bằng việc nhấn mạnh quyền tự do cả quyền bình đẳng của con người.

N

G

U

- Nếu so về sự tiến bộ: Nam quốc sơn hà mới chỉ đưa ra cơ sở pháp lí để khẳng định chủ quyền dựa trên sách trời, chưa chú ý tới những nhân tố con người. Đại cáo bình Ngô phát triển hơn, cơ sở pháp lý của phần mở đầu dựa trên lập trường nhân nghĩa - chân lí lịch sử được chứng minh qua các triều đại. Còn Tuyên ngôn Độc lập khá đặc biệt với việc chọn trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của Mĩ và Pháp. Điều đáng nói là chứa đựng chân lí đã được chứng minh qua lịch sử đấu tranh được các dân tộc trên thế giới biết đến và thừa nhận. Như vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập không còn nằm phạm vi của một đất nước, một dân tộc nữa, mà nó còn đại diện cho tất cả các dân tộc trên thế giới, nhất là đối với các nước thuộc địa. Đồng thời bản tuyên ngôn đã nâng vị thế nước Việt Nam ngang hàng với hai nước lớn là Mĩ và Pháp. 2.5. Đánh giá chung - Nhìn chung, qua việc phân tích và so sánh ở trên, chúng ta thấy được cơ sở pháp lí đóng vai trò hết sức quan trọng trong một bản tuyên ngôn nói chung và đối với bản Tuyên ngôn Độc lập nói riêng. Do vậy, ý kiến đánh giá: “Cơ sở pháp lí là nền tảng tạo sức thuyết phục cho bản tuyên ngôn” là hoàn toàn xác đáng. - Đồng thời, ý kiến đánh giá này cũng đã phần nào giúp bạn đọc hiểu rõ vai trò của phần này trong một bản Trang 5


tuyên ngôn để từ đó định hướng tìm hiểu thể loại tuyên ngôn dễ dàng hơn. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận + Tuyên ngôn Độc lập ra đời là một trong những niềm xúc động, hạnh phúc lớn lao nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như có lần Người từng tâm sự. Giây phút xúc động, thiêng liêng khi Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập ta có thể thấy trong câu thơ của Tố Hữu: Người đứng trên đài lặng phút giây Trông đàn con đó vẫy hai tay Cao cao vầng trán ngời đôi mắt Độc lập bây giờ mới thấy đây.

N

- Bàn bạc và mở rộng vấn đề

C TI O

+ Tấm lòng vĩ đại cũng như tài năng xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua Tuyên ngôn Độc lập không chỉ đem lại ánh sáng tự do, hòa bình cho dân tộc mà còn đóng góp những tài sản tinh thần vô giá cho lịch sử và văn học nước nhà.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

+ Với mỗi cá nhân khi được sống trong thời bình phải luôn có những suy nghĩ và hành động trên tinh thần của công dân nước Việt Nam độc lập. Trong đời sống cá nhân, độc lập tự do có ý nghĩa hết sức lớn lao khi ta thực sự sống là chính mình.

Trang 6


Ths. Đỗ Ngọc Thống

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 4 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4: Nấm mồ xanh như một giọt lệ ngưng trên hình hài Tố quốc chúng tôi đến bên anh như lá xanh non củi nhìn cội rễ một màu thạch thảo thanh tao. Từ nơi nào mẹ đã tiễn anh đi? mải ra, bờ đê hàng cây, góc phổ đê vẫn xanh và bờ cây còn gió... Từ nơi nào... mắt ướt chia li bờ vai khép phượng hồng vào kỉ niệm đất nước ngày lửa đạn các anh đi biếc cả rừng già Anh trở về với cỏ lặng im mặt trời ngang qua dịu dàng nghiêng nắng mùa thu ngang qua khẽ khàng buông lá đất dâng lên khói sương lời ru... Có một ước mơ trời xanh còn nhớ có một tình yêu mùa thu còn giữ có một tuối hai mươi đất nước ủ trong lòng. (Theo http://dantri.com.vn/bloglViet bên mộ liệt sĩ vô danh, Tuyết Nga) Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ? Câu 2: Xác định biện pháp tu từ trong đoạn thơ trên? Và nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó. Câu 3: Từ đoạn thơ trên, anh (chị) có suy nghĩ gì khi thấy có những nguời làm giả hồ sơ thương binh, bệnh binh? Câu 4: Anh (chị) hãy nêu ý nghĩa của bài thơ trên. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩa của anh (chị) về ý kiến: Những gỉ tôi có, nay thuộc vể người khác Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng Những gì tôi đã cho đi, nay thuộc về tôi. Câu 2 (5,0 điểm): Trang 1


C TI O

N

Đọc đoạn văn dưới đây: ... Trong bóng tối, Mị đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...". Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thốn thức nghĩ mình không bằng con ngựa... (Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 8) Anh (chị) hãy bình giảng đoạn văn trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ tới hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và hình ảnh người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (trích Chinh phụ ngâm) nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, bản dịch diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm (Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để làm nổi bật giá trị nhân đạo được thể hiện trong các đoạn trích. -------------------- HẾT --------------------

U

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

O D

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

TH

AN H

TU

PR

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của bài thơ là phương thức biểu cảm. Câu 2: - Xác định biện pháp tu từ: biện pháp so sánh, ẩn dụ: “Nấm mồ xanh như một giọt lệ ngưng trên hình hài Tổ quốc”; “chúng tôi đến bên anh như lá xanh non cúi nhìn cội rễ”. - Tác dụng: Khẳng định nỗi xúc động của tác giả khi nghĩ về mất mát đau thương, sự cống hiến, sự hi sinh của các anh - những liệt sĩ vô danh. Xương máu các anh đã vẽ nên hình hài đất nước. Đồng thời thể hiện tấm lòng biết ơn của thế hệ hôm nay với các liệt sĩ đã ngã xuống vì sự bình yên của Tổ quốc. Câu 3: - Từ đoạn thơ, suy nghĩ gì khi thấy có những người làm giả hồ sơ thương binh, bệnh binh. Thí sinh bày tỏ

N

G

U

YE

N

chân thành những suy nghĩ của mình về hiện tượng này: + Sự trục lợi của một số thành phần bất hảo. + Sự phẫn nộ, day dứt, xót xa. + Đi ngược lại truyền thống, đạo lí của dân tộc. => Vì đó là hành động vô đạo đức, vi phạm pháp luật. Câu 4: - Dòng đời xuôi ngược, người ta tìm những thứ đã đánh rơi, kiếm những gì đã lạc mất và cố mua cho

được những thứ mình đang cần mà quên mất những giá trị mang lại cho con người hạnh phúc đích thực. Vì thế, con người ngày nay có vẻ như bơ vơ, lạc lõng giữa một xã hội đầy đủ tiện nghi do cứ mải mê đi tìm, đi kiếm và đi mua cho được những thứ nay còn mai mất. - Tiền bạc sẽ không theo con người lúc chết, những tiện nghi sẽ nói lời vĩnh biệt lúc con người qua thế giới bên kia. Chỉ còn lại tình thương và sự trao ban mới sống mãi với thời gian. Dù câu nói trên chỉ khắc trên bia mộ nhưng nó vẫn mang lại cho cho cuộc đời nhiều bài học đáng quý, đáng trân trọng và nó phản ánh được thực tế sống của con người. Dù ở bất cứ thời đại nào thì câu nói trên vẫn luôn đúng và là bài học để ta ý thức hơn về hành trình sống của kiếp nhân sinh. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Trang 2


Câu 1 (2 điểm) A. Về kĩ năng - Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân

tích, chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạ, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Mở đoạn - Thực tế của cuộc sống đã cho thấy: tiền tài, danh vọng, sắc dục, các tiện nghi là những nhu cầu làm thỏa mãn cho sở thích của con người trong một thời gian ngắn, chỉ có những gì ta trao tặng thì mới đáng quý và đáng trân trọng. Trong chiều hướng đó, trên bia mộ trong một nghĩa trang có khắc mấy dòng chữ sau đây: Những gì tôi có, nay thuộc về người khác Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng Những gì tôi đã cho đi, nay thuộc về tôi. Vậy chúng ta hiểu câu nói này như thế nào? Đâu là thông điệp mà câu nói muốn hướng tới? 2. Thân đoạn a. Giải thích - “Những gì tôi có, những gì tôi đã mua sắm” là những thứ đồ dùng ta đang được sở hữu, do bởi sức lực ta làm ra, hay được thừa hưởng của người khác. - “Những gì tôi cho đi” thể hiện sự quảng đại của bản thân trong cách sử dụng của cải vật chất hay sự trao ban tình thương bằng tấm lòng vị tha, bao dung trước mọi hoàn cảnh trong cuộc sống. => Vì thế, câu nói gợi lên trong ta sự bất lực của con người trước của cải vật chất trong cuộc đời. Nói khác hơn, nêu lên tầm quan trọng của giá trị cuộc sống hiện tại bởi sự cho đi không tính toán chứ không bởi thái độ tích góp giữ riêng cho bản thân. h. Bàn luận và chứng minh - Chưa bao giờ đồng tiền lại chi phổi và quyến rũ con người như ngày nay, người ta có thể vì tiền mà bất chấp luân thường, đạo lí để làm sao cho có thật nhiều tiền. - Với sự phát triển của khoa học một cách nhanh chóng thì những sản phẩm hôm nay được xem là hiện đại những ngày mai bị xem là lỗi thời. Nói thế đế chúng ta không nên cứ bám víu vào của cải là những thứ nay còn mai mất. - Thử hỏi trong cuộc sống lúc nhắm mắt, buông tay có ai mang theo bên mình thứ gì mà cả đời đã bỏ tâm huyết để đi tìm. Lịch sử đã minh chứng điều này: một “Salomon dù vinh hoa tột bậc”, dù có trăm thê, ngàn thiếp thì lúc chết ông cũng không thể mang một ai theo bên mình. Một Tần Thủy Hoàng dù cho ngọc châu chất cao như núi cũng không thể mang được một chút bên mình lúc thần chết gõ cửa. Hay ông phú hộ mà Kinh Thánh đã nhắc tới, lúc còn sống ngày nào cũng yến tiệc linh đình, thưởng thức đủ các loại cao lương mĩ vị, vậy mà lúc qua khỏi cuộc đời ông thèm được một giọt nước từ Lazaro nghèo hèn cho thỏa cơn khát cũng không được. Nhưng quan niệm của con người ngày hôm nay thì khác, dù biết những gì mình mua thì người khác sẽ hưởng dùng nhưng vẫn cứ thích sắm. - Tuy nhiên, nói qua thì cũng phải nói lại, nếu biết những gì mình đang sở hữu, những gì mình đã mua mà không được sử dụng nhưng trong tâm nghĩ rằng mình không dùng thì dành cho thế hệ sau thì hành động này cũng đáng quý, điều này thể hiện sự quan tâm lo lắng cho người khác. - Cuộc sống ngày càng nghiêng về chiều hướng hưởng thụ, ai cũng cố gắng tranh thủ tích góp tiền bạc hay củng cố địa vị, để tôn vinh cái tôi của mình, để thấy mình có giá trị. Từ đó, không gian tự do của con người ngày càng bị thu hẹp, ý niệm về tình thương đã thành lỗi thời. - Cuộc sống luôn cần sự cho đi. Vì lúc biết cho đi thì con người nhận được nhiều hon những thứ mình Trang 3


PR

O D

U

C TI O

N

đã cho đi. Vì thế sự cho đi sẽ không bao giờ trở nên vô ích, có thể ngay tại thời điểm cho đi ta chưa nhận ra được những ích lợi từ nó, nhưng với thời gian khi hạt giống của sự cho đi được gieo xuống cuộc đời thì nó sẽ trổ sinh trái ngon, quả tốt. c. Bài học nhận thức và hành động - Những tiện nghi nhằm phục vụ cho con người trong cuộc sống chỉ là nhu cầu cần chứ chưa đủ. Nghĩa là không thể phủ nhận những ích lợi mà chúng mang tới cho con người. Nhưng cũng không vì thế mà ta cứ mải mê đi tìm những thứ đó. - Trong cuộc sống còn có những thứ quan trọng hơn như: tình thương, sự trao ban, đó là những phạm trù mang tới cho con người cảm giác hạnh phúc. Chính tình thương là quà tặng cùa cuộc sống, sự trao ban là nét đẹp trong cuộc đời mà ai cũng khát khao. - Tình thương sẽ phát sinh năng lực sống cho con người, sự trao ban là động lực giúp đối tượng được lớn lên. Những tiện nghi có thế mua bằng tiền nhưng lại không tồn tại với thời gian. Còn tình thương không phải mua bằng bạc nhưng ở mãi với cuộc sống. Dù con người có sống đầy đủ trong tiện nghi vật chất mà không có tình thương thì lúc bước qua bên kia cuộc đời cũng chẳng để lại gì cho cuộc sống. 3. Kết đoạn - Qua câu nói trên, ta mới giật mình thấy trong cuộc sống sự cho đi đáng quý gấp ngàn lần những tiện nghi. Hơn nữa sự cho đi cũng không phải vất vả để đi tìm, nó luôn ẩn náu trong cuộc sống chi cần chúng ta mở rộng dung lượng trái tim thì chúng sẽ phát sinh. - Do đó, sẽ không thiệt thòi nếu chúng ta biết mở rộng lòng mình ra trải tình thương trong cuộc sống, để lúc lúc nhắm mắt, buông tay tình thương là lệ phí giúp đến bến bờ hạnh phúc. Câu 2 (5 điểm)

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

1.Mở bài - Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm + Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga M. Goor-ki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lởn". Nhà văn chỉ thực sự là "người thư kí trung thành của thời đại" (Banzắc) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người cầm bút. Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời... của nhà văn, nơi kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. - Dẫn vào vấn đề cần nghị luận + Nếu đoạn đời sống trong địa ngục trần gian ở Hồng Ngài là sự giao tranh âm ỉ, quyết liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà trong bóng tối có thể xem như là hình ảnh thu nhỏ cô đúc và thấm thìa của cuộc giao tranh đó. + Chỉ có điều nó lại diễn ra trong tâm trạng “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê" (Truyện Kiều, Nguyễn Du) của bông hoa ban núi rừng Tây Bắc – Mị, và Tô Hoài, như đã nhập thân vào nhân vật để viết nên một đoạn văn thật tinh tế, sâu sắc: Trong bóng tối, Mị đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...". Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thốn thức nghĩ mình không bằng con ngựa... 2. Thân bài 2.1.Khái quát chung - Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, Trang 4


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như: O chuột, Dế Mèn phiêu lưu kí... Sau Cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như: Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Cát bụi chân ai... Trong tập Truyện Tây Bắc, nối tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị - người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do. - Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được nhà văn Tô Hoài viết vào những năm 1952, 1953 sau chuyến đỉ thực tề cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Đây là tác phẩm được nhà văn xây dựng bằng những chuyện mắt thấy tai nghe, chan chứa tình cảm sâu nặng của tác giả đối với đồng bào miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực thực dân, phong kiến. Vợ chồng A Phủ còn là bài ca về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người miền núi trên con đường đấu tranh giải phóng cho bản thân và quê hương. - Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn mơ hồ về thời gian. Mị không nhớ mình về đây được mấy năm, vì trước nay với Mị đâu có mùa xuân. Nhưng giờ đây Mị muốn có cái quyền đơn giản như bao người khác: “Mị muổn đi chơi”. Có thể đối với Mị là một sự thay đổi lớn lao và vẫn còn kịp lúc, tuy bắt nguồn từ cảm xúc nhất thời nhưng nó cũng chứng tỏ Mị vẫn còn đó bao khát khao: “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lẩy cái váy hoa vắt ở trong vách”. - Chính sự thay đổi đó làm cho A Sử ngạc nhiên, vì dưới mắt hắn Mị chẳng khác nào một nô lệ. Hành động trói Mị tàn nhẫn của hắn tuy giam giữ được thể xác Mị, nhưng không thể giam giữ được tâm hồn của Mị: “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị giờ như chơi vơi trong mộng. Mị trở về thời xưa với bao ước vọng. Sức sống trỗi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng rồi Mị cũng trở về thực tại. Chính sức sống của Mị buộc cô phải nghĩ đến liệu cô có duy trì được nó hay không. Mị nhớ đến người chị dâu đã bị trói cho đến chết. Mị sợ. Một khi người ta biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sông. Và Mị cũng vậy. 2.2 Bình giảng a. Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ: “Mị vùng bước đi”. Trên là âm thanh tiếng sáo, dưới là tiếng chân ngựa - “Mị vùng bước đi” như một cái bản lề khép mở hai thế giới, hai tâm trạng: thế giới của ước mơ với “tiếng sáo rập rờn trong đầu”, và thế giới của hiện thực với “tiếng chân ngựa đạp vào vách”. - Tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập chờn theo “tiếng sáo gọi bạn yêu” và tâm trạng của một cô Mị đã tỉnh đang “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. => Thật cô đúc mà thấm thìa. Kiệm lời mà hàm chứa nhiều ý nghĩa. b. Tiếng sáo: ước mơ - sức sống của Mị - “Mị vùng bước đi”. Câu văn ngỡ như không đúng mà lại rất đúng, lại tinh tế và sâu sắc. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã vùng bước đi như một kẻ mộng du, như không biết mình đang bị trói. Bởi Mị đang Sống với ước mơ, sống trong những kỉ niệm đẹp của những ngày tháng tự do, sống trong quá khứ chứ không sống với hiện thực, bằng thực tại. Mị đang sống với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước, đang muốn tìm lại tuổi trẻ, tuổi xuân, tình yêu, hạnh phúc của mình. Hơi rượu còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi”.Chính âm thanh du dương, nồng nàn và đắm say của tiếng sáo kia đã gọi Mị vùng bước đi về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Thế mới biết sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong con người Mị mạnh đến nhường nào. - Sức sống ấy khiến Mị đã quên đi tất cả hiện thực xung quanh, không thấy, không nghe A Sử nói, không biết cả mình đang bị trói! Chỉ còn biết có tiếng sáo, chỉ còn sống với tiếng sáo, miên man và chập chờn trong tiếng sáo. Trang 5


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

=> Xây dựng nên khoảnh khắc tâm trạng mê man như một kẻ mộng du đi theo tiếng sáo. Tô Hoài đã nói lên rất rõ và sâu sắc về sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng Mị lúc bấy giờ. Và tiếng sáo đã thành một biểu tượng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị. c. Tiếng chân ngựa: hiện thực - số phận của Mị - “Mị vùng bước đi” nhưng tay chân đau không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay, ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng hiện ra: chỉ còn nghe “tiếng chân ngựa đạp vào vách”. - Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình “không bằng con ngựa”. - Cái dây trói kia chỉ làm đau thể xác, nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa: thân phận con người mà không bằng thân trâu ngựa? => Tiếng chân ngựa đã thành một biểu trưng giàu ý nghĩa cho hiện thực và số phận của Mị. d. Tiểu kết đoạn văn vừa bình giảng Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thoát khỏi căn nhà ấy, dù chỉ một giây phút. Nhưng Mị đã không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Vì thế, khi bị A Sử trói, lúc bàng hoàng tỉnh, Mị chợt nhớ đến câu chuyên một người vợ trong nhà thống lí Pá Tra bị trói đã chết không ai hay. Và, Mị sợ quá. Mị còn muốn sống. Mị còn ham sống. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi tan ra. Nó không mảy may thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng từ đó, sóng ngầm vẫn không mất. Nó sẽ tuôn trào thành những đợt sóng mới, mãnh liệt hơn lúc nào hết! 2.3 Đánh giá - Tinh tế trong miêu tả tâm trạng nhân vật ở hai cảnh đối lập nhau: mê man chập chờn theo tiếng sáo như một kẻ mộng du dẫn đến hành động “vùng bước đi”', tỉnh lại và cay đắng xót xa “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” - hai tâm trạng ấy tiếp nối nhau trong sự phát triển biện chứng để hoàn chỉnh chân dung và số phận nhân vật. - Sâu sắc trong những chi tiết giàu ý nghĩa, đặc biệt là hai biểu trưng “tiếng sáo” và “tiếng chân ngựa” đối lập nhau và đầy ấn tượng. - Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước sổ phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn. 2.4 Liên hệ a. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Bài thơ Thương vợ nằm trong những sáng tác của Tú Xương về bà Tú - là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của ông viết về bà. - Trong bài thơ hình ảnh bà Tú được Tú Xương khắc họa luôn ở trong tư thế bận rộn, tất bật với công việc mưu sinh: “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Bà Tú tảo tần, vất vả, lam lũ, nhọc nhàn, gian truân là thế nhung bà sẵn sàng chấp nhận, không kêu ca, phàn nàn, không oán trách. Bà chấp nhận với sự nhẫn nại, vị tha và đức hi sinh quên mình. - Bằng tình cảm yêu thưong và sự biết ơn sâu sắc đối với vợ, Tú Xương đã vẽ nên bức chân dung chân thực và cảm động về người vợ đảm đang, sẵn sàng hi sinh tât cả vì chồng vì con. Nhà thơ không chỉ hiểu và cảm nhận được những lo toan, vất vả thầm lặng trong cuộc mưu sinh của người vợ hiền mà còn hiểu và cảm nhận được những suy nghĩ, tình cảm và nỗi niềm sâu kín của bà Tú. Không có sự cảm thông, thương yêu chân thành, ông Tú không thể viết nên những vần thơ tri ân sâu sắc với vợ mình như thế. Trang 6


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

b. Hình ảnh người chinh phục trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Ba mươi sáu câu thơ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ như tích tụ nỗi đau, nồi nhớ thương và niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi ở tầng sâu nhất của tác phẩm. - Giữa một không gian tịch mịch “vắng” và “thưa”, người chinh phụ hiện lên như hiện thân của nỗi cô đơn. Nàng hết buông rèm rồi lại kéo rèm để hướng ra ngoài, hướng về nơi biên ải xa xôi kia để mong ngóng chút tin tức của chinh phu nhưng không có dấu hiệu hồi đáp lại. - Khi đối diện với ngọn đèn người chinh phụ đáng thương ẩy đang tự đối diện với chính mình, dưới ánh sáng của ngọn đèn mà tự phơi trải nỗi đau của chính mình. Để rồi những tâm tư ấy bật thành lời tự thương da diết: “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian. - Sống trong không gian cô đơn ấy, nàng chỉ biết nhớ về người chồng nơi biên ải xa xôi kia với một tấm lòng thủy chung, sắt son. 2.5. Nhận xét và bình luận về giả trị nhân đạo - Đoạn trích trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Thương vợ (Trần Tế Xương) và đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm) đều được thể hiện ngay từ đề tài, chủ đề của tác phẩm: + Ngay nhan đề Vợ chồng A Phủ, tác giả đã thể hiện tư tưởng cốt lõi, chủ đạo của truyện. Đọc nhan đề, ta có thể hình dung ra ngay cuộc đời của những chàng trai, cô gái người Mèo vùng núi trước Cách mạng tháng Tám, họ bị áp bức, bóc lột dưới ách thống trị của bọn chúa đất phong kiến, tay sai và thực dân, đồng thời ca ngợi sự đổi đời của họ khi cách mạng về. + Bằng ngòi bút tài hoa của mình, nhà thơ Tú Xương đã mang đến cho tác phẩm Thương vợ một nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt qua hình tượng nhân vật bà Tú, một nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất giàu đức hi sinh, tấm lòng vị tha của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. + Viết về nỗi buồn khổ, cô đơn trong sâu thẳm tâm hồn người chinh phụ cũng chính là cách tác giả thể hiện thái độ đồng tình và ngợi ca của mình đối với niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của nàng. Và đó cũng chính là một biểu hiện trong giá trị nhân đạo của đoạn trích Tĩnh cảnh lẻ loi của người chinh phụ. - Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông, chia sẻ đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. Chủ nghĩa nhân đạo không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích, áp bức, khổ đau và tạo điều kiện cho họ trở thành những con người tự do, con người làm chủ, chiến đấu chống lại mọi thế lực bạo tàn để xây dựng cuộc sống hạnh phúc của mình. - Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, bài thơ Thương vợ, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội thực dân và phong kiến; sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự lên án chế độ xã hội phong kiến với những luật lệ hà khắc. - Một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng dù ở đề tài nào, góc độ nào, tinh thần nhân đạo luôn là giá trị cốt

lõi. Nhờ có giá trị nhân đạo mà người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với con người, với tình tiết của câu chuyện, bài thơ. Nỗi khổ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ mãi mãi là vấn đề của văn học. Sự khám phá mới mẻ của Tô Hoài, Tú Xương, Đặng Trần Côn nhằm hoàn thiện con người, bản thân họ cũng như cách nhìn của con người với cuộc đời. 3. Kết bài - Đen với thơ, văn là đế hiểu thêm tấm lòng của các nhà văn, nhà thơ khi viết về vẻ đẹp và phấm chất

Trang 7


của người phụ nữ. Đặc biệt là tấm lòng đồng cảm yêu thương của các tác giả đối với nhân vật của mình. Ở đoạn văn trong Vợ chồng A Phủ Tô Hoài đã làm bật nổi được bức tranh tối - sáng của nhân vật (số phận và sức sống) một cách sinh động, gợi cảm và có chiều sâu, khiến ta càng hiểu thêm về nhân vật cũng như tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn đối với nhân vật của mình. Đó là một trong những đoạn văn hay nhất, in đậm phong cách Tô Hoài trong truyện ngắn này. Có thể nói Thương vợ là bài thơ tuyệt bút của Tú Xương viết về nỗi vất vả, gian truân và đức hi sinh cao đẹp của bà Tú. Không bộc lộ trực tiếp sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa nhưng thông qua việc thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình, tác giả Chinh phụ ngâm muốn cất tiếng tố cáo chiến tranh. Chính những cuộc chiến phi nghĩa này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng những người chồng phải xa vợ, những người mẹ phải lìa con, hạnh phúc, tình yêu lứa đôi lỡ dở. - Rõ ràng Vợ chồng A Phủ, Thương vợ, Tĩnh cảnh lẻ loi của người chỉnh phụ mãi mãi là hành trang để

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

chúng ta bước vào cuộc sống. Mỗi một tác phẩm văn học chân chính là một lời đề nghị về cách sống, có khả năng nhân đạo hóa con người.

Trang 8


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 5 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

C TI O

N

Cải quỷ giá nhất trển đời mà mỗi người có thể góp phần mang lại cho chính mình và cho người khác đó là ‘năng lực tạo ra hạnh phúc”, bao gồm năng lực làm người, năng lực làm việc và năng lực làm dân. Năng lực làm người là có cái đầu phân biệt được thiện - ác, chân - giả, chính - tà, đủng - sai... biết

U

được mình là ai, biết sổng vì cái gì, có trái tim chan chứa tình yêu thương và giàu lòng trắc ẩn. Năng lực

O D

làm việc là khả năng giải quyết được những vấn đề của cuộc Sống, của công việc, của chuyên môn, và thậm

PR

chí là của xã hội. Năng lực làm dân là biết được làm chủ đất nước là làm cải gì và có khả năng để làm được những điều đó. Khỉ con người có được những năng lực đặc biệt này thì sẽ thực hiện được những điều mình

TU

muốn. Khi đó, mỗi người sẽ trở thành một “tế bào hạnh phúc”, một "nhà máy hạnh phúc” và sẽ ngày ngày '"sản xuất hạnh phúc” cho mình và cho mọi người.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

Hạnh phúc là một quyền mà bất cứ ai đều được hưởng. Nó không phân biệt với bất kì ai. Bạn chưa được hạnh phúc chẳng qua là do bạn không làm gì để có được nó mà thôi. Hạnh phúc là đơn sơ nhưng nó cũng không đến với những ai không xứng đáng. Xã hội mở ngày nay làm cho không có ai là "nhỏ bé” trên cuộc đời này, trừ khi tự mình muốn "nhỏ bé”. Ai cũng có thể trở thành những "con người lớn” bằng hai cách, làm được những việc lớn hoặc làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Và khỉ biết chọn cho mình một lẽ sổng phù hợp roi song hết mình và cháy hết mình với nó, mỗi người sẽ có được một hạnh phúc trọn vẹn. Khi đó, ta không chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc, mà còn có cả một cuộc đời hạnh phúc. Khi đó, tôi hạnh phúc, bạn hạnh phúc và chúng ta hạnh phúc. Đó cũng là lúc ta thực sự “chạm” vào hạnh phúc! , (Để chạm vào hạnh phúc, Giản Tư Trung, Thời báo Kỉnh tế Sài Gòn Online, 21 - 9 - 2016) Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản. Câu 2: Nêu nội dung chính của văn bản. Câu 3: Trong văn bản có nhiều cụm từ in đậm được để trong ngoặc kép, hãy nêu công dụng của việc sử dụng dấu ngoặc kép trong những trường hợp trên. Từ đó, hãy giải thích nghĩa hàm ý của hai cụm từ “nhỏ bé” và “con người lớn”. Câu 4: Theo quan điểm riêng của mình, anh (chị) chọn cách “chạm” vào hạnh phúc bằng việc làm những việc lớn hay làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Vì sao? (Nêu ít nhất hai lí do trong khoảng 6 - 8 dòng). Trang 1


II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Hạnh phúc chỉ đến với những ai biết cảm nhận và chẩp nhận chứ không đến với những kẻ truy lùng hạnh phúc”. Câu 2 (5,0 điểm): Đọc đoạn văn dưới đây: Trong lúc chị Chiến xuống bếp nấu cơm, Việt đi câu ít con cả về làm bữa cúng má trước khi dời bàn thờ sang nhà chủ, còn một mình ở nhà trên, chú Năm lại cất tiếng hò. Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kẻo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội. Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú cháu thu xếp thu xếp đồ đạc dời nhà. Chị Chiến ra đứng giữa sẩn, kéo cái khăn trên cố xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thế rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tẳt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác. (Trích Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi, SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 63) Cảm nhận chi tiết hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm trong đoạn văn trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ đến hình ảnh người chí sĩ yêu nước trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu (Ngữ văn 77, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và hình ảnh người anh hùng trong bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão (Ngữ văn 10, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để nhận xét về lòng yêu nước và trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam hiện nay.

YE

N

-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

N

G

U

Câu 1: Phong cách ngôn ngữ của văn bản là phong cách ngôn ngữ báo chí. Câu 2: Nội dung chính của văn bản trên: - Con người có năng lực tạo ra hạnh phúc, bao gồm: năng lực làm người, làm việc, làm dân. - Để chạm đến hạnh phúc con người phải trở thành “con người lớn” bằng hai cách: làm việc lớn hoặc làm việc nhỏ với tình yêu lớn. => Con người tự tạo ra hạnh phúc bằng những vệc làm đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của xã hội dù đó là việc lớn hay nhỏ. Câu 3: - Công dụng của việc sử dụng dấu ngoặc kép: làm nổi bật, nhấn mạnh đến một ý nghĩa, một cách hiểu khác có hàm ý. - Nghĩa hàm ý của hai cụm từ “nhỏ bé”: tầm thường, thua kém, tẻ nhạt... và “con người lớn”: tự do thể hiện mình, khẳng định giá trị bản thân, thực hiện những ước mơ, sống cao đẹp, có ích, có ý nghĩa... Câu 4: Nêu ít nhất hai lí do thuyết phục để khẳng định lối sống mình chọn theo quan điểm riêng của bản Trang 2


thân. - “Làm những việc lớn” gắn với ước mơ, lí tưởng hào hùng, lối sống năng động, nhiệt huyết, tràn đầy khát vọng. - Còn “tìm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn” lại chú trọng đến niềm dam mê, cội nguồn của sáng tạo. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1 (2 điểm)

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

A. Về kĩ năng - Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Giải thích - “Hạnh phúc” là cảm giác vui sướng, mãn nguyện khi ta đạt được những mong ươc tốt đẹp, lành mạnh của chính mình. Ta chỉ có thể đạt được “hạnh phúc” khi ta biết “cảm nhận” mà thôi, nghĩa là phải biết lắng nghe, đón nhận vẻ đẹp của cuộc sống. Điều này đòi hỏi ta phải có một trái tim thật tinh tế và nhạy cảm. - “Chấp nhận” là thái độ thỏa mãn, nâng niu, ưân trọng và vui vẻ với những gì mình đang có. - “Những kẻ truy lùng” đó là những kẻ khao khát có được hạnh phúc đến điên đảo, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, mánh khóe để đạt được tham vọng. => Câu nói trên thực sự đã chỉ ra cho chúng ta một phương thức, một con đường tìm đến với niềm vui trong cuộc sống: hạnh phúc luôn luôn tồn tại và chờ đợi những ai biết trân trọng giá trị mình đang có, tham vọng quá đáng không bao giờ mang lại hạnh phúc thực sự. 2. Chứng minh và bàn luận - Câu nói trên có lẽ chính là kim chỉ nam cho những ai đang loay hoay trên con đường kiếm tìm “hạnh phúc” và có giá trị thức tỉnh những ai đang “than thân trách phận”. - “Hạnh phúc” chỉ đến với những ai biết “cảm nhận và chấp nhận” mà thôi. Thượng Đế ban tặng hạnh phúc cho trước hết là cho những ai biết cảm nhận. Vì họ chính là người có trái tim nhạy cảm, biết lắng nghe, yêu thương, chia sẻ và biết đón nhận vẻ đẹp của cuộc đời. Nhờ đó mạ tâm hồn họ luôn luôn rộng mở, nhẹ nhàng, thanh thản, thỏa mãn và vô cùng phong phú. - “Chấp nhận” là những người biết cảm nhận là những người có trái tim thì những ai biết chấp nhận là những người có một khối óc, một trí tuệ mẫn tiệp, nhìn sâu và xa hơn người khác. Không phải ai cũng nhận ra được giá trị của những gì mình đang có và không phải ai cũng hiểu được thể nào là cuộc sống đích thực, cuộc sống thì phải có cả chông gai lẫn đỉnh vinh quang, cả những gam màu xám bên cạnh những vì sao lấp lánh. - Còn với những “kẻ truy lùng hạnh phúc” khắp nơi, hạnh phúc sẽ lụôn luôn trốn chạy. Trên thực tế, những kẻ truy lùng hạnh phúc khắp nơi không hề có khái niệm đúng về hạnh phúc, thứ mà họ có, chỉ có hai từ “tham vọng”: là giàu sang, là vật chất hay thứ gì đó lớn lao lắm. Đã không hiểu thể nào là hạnh phúc, liệu có khi nào ta đã may mắn, ở trong hoàn cảnh tốt đẹp hơn kẻ khác mà nhận ra đó là hạnh phúc và rồi hài lòng, mãn nguyện đâu? Hơn nữa, đã là một kẻ đầy tham vọng, thì không dễ gì hài lòng với những gì mình đạt được. Thứ mà họ nhận được chỉ là nỗi đau khổ, hậm hực vì không thỏa mãn; họ quá bận bịu, quay cuồng đê nghĩ xem làm cách nào đạt được tham vọng, thậm chí là dùng mọi thủ đoạn sai trái. Vậy thì còn thời gian nào dành cho những khoảnh khắc lắng lòng mình lại mà cảm nhận, mà hưởng thụ chính đáng? Trang 3


-

-

U

-

C TI O

N

3. -

Và liệu, đó có phải là hạnh phúc mà họ đang ráo riết “truy lùng”? Đáng thương thay những kẻ luôn “than thân trách phận” hay “ôn nghèo kể khổ”, cả một đời luôn thấy mình bất hạnh và cuộc đời bất công với mình. Đảng phê phán thay những kẻ tham ô công quỹ, làm “hạnh phúc” cho bản thân dựa trên sự hao hụt, suy yếu dần của đất nước. Cũng thật đáng tiếc cho những ai không biết nâng niu quý trọng những gì mình đang có, để rồi khi vĩnh viễn mất đi một thứ mới biết rằng mình đã từng có nó... Tuy nhiên, “cảm nhận” và “chấp nhận” không có nghĩa là ta cho phép mình tự mãn, thỏa hiệp, mặc cho số phận an bài. “Cảm nhận và chấp nhận” thôi, chưa đủ, chúng ta còn phải hành động, cố gắng, nỗ lực không ngừng thì mới có được “hạnh phúc” đích thực bởi trên đời này, không có thành quà nào tự nhiên mà có cả. Bài học nhận thức và hành động Cần nhận thức sâu sắc về cách để dựng xây hậnh phúc cho chính mình, “hạnh phúc” là những gì đơn giản, gần gũi nhất quanh ta, hãy mở lòng và đón nhận cuộc sống này. Đồng thời, ta cũng không quên hành động, nỗ lực không ngừng để “hạnh phúc” với ta càng thêm ý nghĩa. Hãy đặt ra các dự định cụ thể, liên tục nâng các mục tiêu của mình lên để cầu tiến chứ không cầu toàn, khát vọng chứ không tham vọng.

O D

Câu 2 (5 điểm)

PR

1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

Việt Nam ơi! Đất nước của những người con gái, con trai Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép Xa nhau không hể rơi nước mắt Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt. (Chúng con chiến đẩu cho người sổng mãi Việt Nam ơi!, Nam Hà) Cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã lùi xa vào dĩ vãng, tiếng bom rơi đạn nố và mùi cay sè của thuốc súng cũng đã nằm sâu trong lòng đất. Thế nhưng mỗi khi đọc lại những câu thơ này, ta tưởng như thấy lại những năm tháng hào hùng của thời chống Mĩ, với những chàng trai, cô gái từ giã làng quê, mái trường, người thân ra trận với quyết tâm vì một ngày đoàn viên. Những người lính ấy “sung sướng được làm người con đất nước' (chữ dùng của Nam Hà), khi ra trận “băng tới trước quân thù như triều như thác, trút hờn căm để làm nên những vinh quang bất diệt” (Nam Hà). Nét đẹp ấy, đã gợi cho chúng ta liên tưởng đến truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi. - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Là một nhà văn cầm súng đã ngã xuống giữa chiến trường như một chiến sĩ thực sự, Nguyễn Thi đã để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị, những tác phẩm mà mỗi trang sách còn khét mùi đạn bom, cháy đỏ lửa căm thì quân xâm lược và xanh ngời một niềm lạc quan. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi ta phải kể đến tác phẩm Những đứa con trong gia đình. Nối bật trong tác phẩm là đoạn văn vẫn được nhiều người cho là hay nhất truyện: đoạn tả hai chi em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má, sang nhà chú Năm: “Trong lúc chị Chiến xuống bếp nấu cơm, Việt đi câu ít con cá về làm bữa cúng má trước khi dời bàn thờ sang nhà chủ, còn một mình ở nhà trên, chú Năm lại cất tiếng hò... Hai chị em khiêng má băng tẳt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi đế lội hết đồng này sang bưng khác”. 2. Thân bài 2.1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm Trang 4


Nguyễn Thi (1928 – 1968) là một người con của đất Bắc nhưng sống, chiến đấu và gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam Bộ. Do đó, làm nên một Nguyễn Thi trong nền văn học dân tộc không phải là cảm hứng về những gì lạ lẫm, xa vời, bay bổng, mà là mẹ, là đất, là quê hương, làng xóm, những cái gắn bó ruột rà, thân thiết với đời sống thuần hậu và còn rất nhiều cực khổ của con người. - Nguyễn Thi là cây bút có biệt tài phân tích tâm lí sắc sảo. Văn Nguyễn Thi giàu chất hiện thực, đầy những chi tiết dữ dội, ác liệt của chiến tranh, vừa đàm thắm chất trữ tình với một ngôn ngữ phong phú, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ. Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Thi, được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng, truyện được in trong tập Truyện và kí, xuất bản năm 1978. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ - những con người giàu lòng yêu nước, gắn bó với quê hương mà tiêu biểu nhất là Việt và Chiến. 2.2. Chi tiết nghệ thuật và vị trí của đoạn trích trong tác phẩm - “Chi tiết nghệ thuật” trước hết là những yếu tố về ngôn ngữ, lời văn được dùng để diễn tả nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Nếu trong thơ, chi tiết có thể là một từ như: “ngửi” (Tây Tiến, Qụang Dũng), một hình ảnh tu từ như: “Nhìn nắng hàng cau nắng mời lên” (Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Từ)... Thì trong tác phẩm tự sự chi tiết có thể là lời nói của nhân vật, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, đồ vật, cảnh tượng, hoặc có khi là một tình tiết của cốt truyện. - Đọc Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, chúng ta mãi không thể quên được chi tiết hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm. Sau khi được chú Năm ủng hộ, xin anh cán bộ tuyển quân ghi tên cho cả hai cùng đi tòng quân một đợt, chị em Chiến, Việt cắt đặt việc nhà gọn gàng chu đạo. Buổi sáng ngày lên đường, hai chị em làm cơm cúng má. Chị Chiến vào bếp nấu cơm, Việt đi câu cá. Cúng má, cơm nước xong, mấy chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Hai chị em mỗi người một đầu khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm, băng tắt qua bãi đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác. 2.3. Cảm nhận đoạn văn a. Tình thương mẹ sâu sắc, tình chị em cảm động - Chỉ trong gần một nửa trang giấy nhưng đoạn văn trên đã gây xúc động sâu sắc cho người đọc. Xúc động bởi đoạn văn đã chạm tới một miền tâm tưởng thuộc thế giới tâm linh của người Việt. Trong đời sống tinh thần, người Việt tin rằng có một thế giới khác, thế giới mà con người sẽ trú ngụ sau khi rời khỏi chốn dương gian. Quan niệm như vậy cho nên họ luôn cho rằng ngưởi đã chết chỉ thác về thể xác còn linh hồn thì vẫn tinh anh. Linh hồn vẫn có thể đi về giữa hai thế giởi ấy. Từ đó ngưới Việt lập ra bàn thờ để cúng người đã khuất. Bàn thờ trở thành nơi gặp gỡ của vong linh người đã khuất với những người thân trong gia đình. - Trong buổ`i sáng trước giờ lên đường tòng quân, hai chị em Chiến, Việt đã cho mượn hoặc đem cho hết đồ đạc trong nhà, riêng bàn thờ má thì đem gửi. Điều đó chứng tỏ bàn thờ má là những gì thiêng liêng nhất trong cuộc sống mà hai chị em đều trân trọng, giữ gìn, nâng niu. Quê hương, đất nước, Tổ quốc trước hết thể hiện ở nơi bàn thờ. Phải chăng, đó còn là lời nhắn nhủ: thế hệ trước đã hi sinh, nhưng họ sẽ sống mãi trong lòng những đứa con, sẽ luôn là lời nhắc nhở thế hệ sau phải tiếp nối truyền thống? Sự gắn kết giữa quá khứ và hiện tại càng tô đậm nét văn hóa truyền thống có từ ngàn đời của dân tộc. Thật đúng là: Nước chúng ta Nước của những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về. (Đất nước, Nguyễn Đình Thi) Má đã mất nhưng trong giờ phút khiêng bàn thờ má đem gửi, hai chị em cảm nhận được sự hiện diện gần gũi của má đâu đây. Hai chị em dường như đang nói cùng má: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về”. Những cảm

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

-

Trang 5


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

nhận của hai chị em Chiến, Việt cho ta hiểu đã không còn khoảng cách của hai thế giới của người còn sống và người đã khuất. Những đứa con đã thấy hình bóng mẹ trở về trong tâm tưởng, trong không gian “thoảng mùi hoa cam". Và hình như còn có cả bước chân lội đồng bì bõm của má trên con đường quen thuộc xưa má đi và nay hai chị em đang bước qua. => Đoạn văn xúc động bởi tác giả cho chúng ta tin rằng đã có một cuộc gặp gỡ cảm động giữa hai chị em Chiến, Việt và người mẹ đã khuất. Còn cuộc gặp gỡ nào cảm động hơn cuộc gặp gỡ ẩy! b.Tình yêu nước gắn liền lòng căm thù giặc cướp nước - Đoạn văn miêu tả một trạng thái của cảm xúc rất khó diễn tả thành lời, đó là niềm căm thù. Chưa bao giờ Việt thấy rõ như thế - mối thù thàng Mĩ. Mối thù ấy có thể “rờ thấy được”, “vì nó đang đè nặng ở trên vai", có thể cân đong được. Bàn thờ má đã “vật chất hóa” cái vốn vô hình đó là mối thù đối với thằng giặc đã giết ba má Việt. Nếu không có bom đạn của kẻ thù thì giờ này Việt sẽ được má xoa đầu, lấy cơm cho ăn. Nếu không có bom đạn của quân cưóp nước thì giờ này đâu có bàn thờ má nặng trên vai. Cảm nhận sức nặng của bàn thờ chính là hiểu được gánh nặng của mối thù phải trả. Hai chị em Chiến, Việt đã đi qua những trận đánh khốc liệt chính là từ những cảm nhận cụ thể này về mối thù sâu nặng của gia đình đối với kẻ thù xâm lược. - Đoạn văn của Nguyễn Thi đã nói lên một cách cô đọng nhất, hình ảnh nhất về cuộc chiến đấu của dân tộc: có yêu thương thì có căm thù, người đã mất nhưng mối thù ở lại đang lên tiếng đòi phải trả. Dân tộc Việt Nam bước đến ngày khải hoàn chính từ những nỗi yêu thương, những niềm căm thù cụ thể đó. Chị em Chiến, Việt dáng vóc khỏe, to, dang cả thân người lên nhấc bổng bàn thờ má. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức để bay xa, xa hơn cha mẹ. Để họ đưa truyền thống ấy hòa vào biển lớn của dân tộc: Ôi Đất Nước sau bổn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời này đã hỏa núi sông ta. (Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm) 2.4. Nhận xét và đánh giá - Lối kể chuyện lôi cuốn, có sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ qua hình ánh hai chị em khiêng bàn thờ má trên “con đường hồi trước má vẫn đi". Đó là con đường thân quen "men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam", gợi hình ảnh người má đã tần tảo ‘lội hết đồng này sang bưng khác". - Chất sử thi hiện lên ngay trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực, đậm màu sắc Nam Bộ, gọn gàng, giản dị, thiên về mô tả hành động, thể hiện tính cách phóng khoáng, mạnh mẽ. 2.5. Liên hệ a. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương - Bài thơ nói về chí làm trai là phải dám đối diện với cả trời đất để khẳng định mình trước cuộc đời, trước vũ trụ bao la. Phan Bội Châu đã vượt qua những giới hạn của tầng lớp nho sĩ mà ý thức sâu sắc về hoài bão và sứ mệnh của mình. Con người dám đổi mặt với cả trời đất, vũ trụ để khẳng định mình, vượt lên mộng công danh thường gắn liền với hai chữ trung hiếu để vươn tới lí tưởng nhân quần, xã hội rộng lớn. - Chí nam nhi thôi thúc Phan Bội Châu phải có một hành động xứng đáng, phi thường: Xuất dương. Và lời từ biệt đầy hào khí trước khi xuất dương đã thể hiện một khát vọng, tư thế lên đưởng mang vẻ đẹp lãng mạn. - Khát khao lớn lao của cái tôi trữ tình đang cuộn trong những lớp sóng bạc, gió lớn, khuấy động những đợt sóng lòng dào dạt sục sôi của một thế hệ thanh niên ưu tú nặng lòng với non sông đất nước, gạt bỏ tất cả để “xuất dương” cầu học tập, tiến bộ. b. Bài thơ Tỏ lòng - Bài thơ Tỏ lòng đã gợi ra hình ảnh người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp đầy hùng tâm, tráng chí. Tác giả đã khắc họa hình ảnh kì vĩ của người anh hùng cứu nước trên nền hào hùng của thời đại. Người anh hùng ấy thật mạnh mẽ, bền gan vững chí trong hành trình chiến đẩu bảo vệ đất nước. Trang 6


- Không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng, hình tượng người anh hùng còn đẹp bởi cái chí, cái tâm

cao cả. Đó là con người ôm ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống mà Ông hướng tới là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lí tưởng cao đẹp ấy được thê hiện qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân. Hùng tâm tráng chí của người anh hùng được thể hiện ở ngay nỗi “thẹn” – thẹn chưa có tài mưu lược lớn như Vũ hầu (Gia Cát Lượng) đời Thục Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để cống hiến cho đất nước. 2.6. Nhận xét về lòng yêu nước và trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam hiện nay - Dù ở bất kì thời đại nào thì tình yêu quê hương đất luôn luôn là nguồn mạch chảy trong trái tim của

mỗi người con Việt. - Trong cuộc sổng hiện nay, mỗi người cần sống có lí tưởng, hoài bão có mục đích cao đẹp, bởi:

N

“Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những

C TI O

cơn giông tố” (Saíontaine), và “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lỉ tưởng thì không cỏ phương hướng kiên định mà không có phương hướng thì không có cuộc sống'” (L. Tôn-xtôi). Chính vì vậy, mỗi

U

người hãy hướng tới lí tưởng sống cao đẹp ngày nay là cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp: “Dân giàu nước

O D

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hãy luôn rèn luyện, phấn đấu làm việc tận tụy và cống hiến hết mình.

PR

- Là thế hệ mùa xuân của đất nước, tuổi trẻ chúng ta càng phải xác định được lí tưởng sống của mình:

TU

“Sống là cho chết cũng là cho” (Tạm biệt, Tố Hữu). Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lí, hoặc là tự thỏa mãn với chút công trạng của mình hoặc đòi hỏi đất nước phải “trả công” cho mình. Hãy xác định đóng góp công

AN H

sức để xây dựng đất nước là nghĩa vụ thiêng liêng,và “đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc...” . Đặc biệt giờ đây khi đất nước đang còn nhiều khó khăn, đang phải “neo mình đầu

TH

sóng cả”, mỗi người hãy nhận thức được đúng đắn vai trò của mình. - Bên cạnh đó, cũng cần phải phê phán nhũng con người có lối sống vị kỉ, không có lí tưởng, mục đích

N

sống. Bởi như vậy là họ đang tự hủy hoại chính bản thân, cuộc sống cửa họ “đang rỉ đi, đang mòn ra, đang

YE

nổi váng”.

U

- Mỗi người chúng ta hãy luôn sống có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao đẹp. Và hình ảnh hai chị em

G

Chiến, Việt; nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu; người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt, với lí

N

tưởng sống cống hỉến sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Đó cũng là hành trang quý giá nâng bước cho mỗi chúng ta trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 3. Kết bài -

Đoạn văn đã khắc họa được vẻ đẹp trong tâm hồn, tình cảm của Chiến và Việt - những con người

giàu lòng yêu quê hương, đất nước. Chính sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và đất nước đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn cho con người Việt Nam. Trong tâm hồn Chiến và Việt, tình cảm đối với gia đình và quê hương là động lực để họ ra đi chiến đấu. Hiện thực cách mạng gay gắt cho thấy vận mệnh dân tộc, giai cấp trở thành vấn đề của mỗi gia đình, mỗi cuộc đời. -

Nhà văn đã chọn lọc chi tiết tiêu biểu, giọng văn tự nhiên giàu cảm xúc. Chiến và Việt - người thanh

niên trẻ, người chiến sĩ trẻ giữa vùng sông nước đất phương Nam, đã đi vào tác phấm như một hình tượng nghệ thuật sống, con người mang nặng tình với gia đình, với quê hương, đất nước mãi mãi là vẻ đẹp của tuổi Trang 7


trẻ đất phương Nam thời chống Mĩ. Vì Chiến và Việt đã biết: Hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

(Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm)

Trang 8


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 6 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

1 đến Câu 4:

N

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu

TU

PR

O D

U

C TI O

Kết thúc tiểu thuyết Suối nguồn, nhà văn Ayn Rand đã để cho nhân vật chính Howard Roark phát biểu như sau: Trong những thế kỉ qua, đã có những người đặt bước chân đầu tiên của họ trên những con đường mới; họ không được trang bị vũ khí gì ngoài tầm nhìn riêng của họ. Họ cỏ mục đích khác nhau, nhưng tất cả đều có một sổ điều chung, bước chân của họ là bước chân đầu tiên, con đường của họ là con đường hoàn toàn mới, nhãn quan của họ không hề do vay mượn, và phản ứng mà họ nhận được luôn là sự căm ghét. Những nhà phát minh vĩ đại, những nghệ sĩ, những nhà tư tưởng... đều phải đơn độc chống lại những người cùng thời với họ. Động cơ máy đầu tiên bị coi là ngu xuẩn. Chiếc máy bay đầu tiên bị coi là không tưởng. Chiếc mảy dệt đầu tiên bị coi là con ác quỷ. Việc gây mê bị coi là tội lỗi... Nhưng những người đó, với tầm nhìn không vay mượn, vẫn tiếp tục tiến lên. Họ đã chiến dấu, họ đã đau khổ và họ phải trả giá. Nhưng họ đã chiến thẳng. (Theo http://vanhay. edu. vn/de-doc-hieu-ve-tieu-thuyet-suoi-nguon-ayn-rand)

YE

N

TH

AN H

Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? Câu 2: Phương thức biểu đạt của đoạn văn trên là gì? Câu 3: Đoạn văn trên nói lên điều gì? Hãy đặt tên cho đoạn văn ấy Câu 4: Theo anh (chị) vì sao: “Những nhà phát minh vĩ đại, những nghệ sĩ, những nhà tư tưởng... đều phải đơn độc chống lại những người cùng thời với họ”. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm)

N

G

U

Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến nêu ở phần Đọc hiếu: “Trong những thế kỉ qua, đã có những người đặt bước chân đầu tiên của họ trên những con đường mới', họ không được trang bị vũ khí gì ngoài tầm nhìn riêng của họ".

Câu 2 (5,0 điểm)

“Thơ hay là thơ giản dị, xúc động, ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ẩy đối với các thi sĩ vẫn là điêu bí mật". Hãy giải thích ý kiến trên của nhà thơ Trần Đăng Khoa và hãy làm rõ quan niệm thơ ca ấy qua việc phân tích đoạn thơ sau của nhà thơ Quang Dũng: Doanh trại bừng lên hội đuôc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ẩy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Trang 1


U

C TI O

-------------------- HẾT --------------------

N

(Trích Tây Tiến, Quang Dũng, SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 88 - 89) Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ đến bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh (Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 41) và đoạn thơ: Biết bao bướm lả ong lơi, Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm. Dập dìu lủ gió cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh. Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, Giật mình mình lại thương mình xót xa. (Trích Nỗi thương mình -Truyện Kiều, Nguyễn Du, SGK Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 107) để nhận xét về sự biến chuyển của thời gian.

O D

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

PR

II. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

TU

Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngôn ngữ chính luận.

AN H

Câu 2: Phương thức biểu đạt của đoạn văn trên là: Phương thức thuyết minh. Câu 3: Đoạn văn trên bàn về:

N

G

U

YE

N

TH

+ Những người đi tiên phong, những người khai sáng. Những người đi tiên phong trong mọi lĩnh vực của cuộc sống (như khoa học, nghệ thuật, văn hóa...) ban đầu đều chịu thiệt thòi, đau khổ, thậm chí phải trả giá đắt...vì thường không được mọi người đương thời hiểu, đồng tình và ủng hộ ngay. + Nhưng với bản lĩnh, khát vọng cống hiền, đặc biệt ĩà khả năng sáng tạo, những người đó thường đạt được thành công, trở thành người chiến thắng và có những đóng góp to lớn cho cộng đồng, cho nhân loại. - Đặt tên cho đoạn văn: Thí sinh căn cứ vào nội dung của đoạn văn bản để đặt nhan đề, dưới đây là một số nhan đề gợi ý: + Những người đặt bước chân đầu tiên. + Những người đi khai phá. + Đi trước bình minh. Câu 4: Theo anh (chị) vì sao: “Những nhà phát minh vĩ đại, những nghệ sĩ, những nhà tư tưởng... đều phải đơn độc chống lại những người cùng thời với họ”. - Vì trong những bước chân đầu tiên trên con đường mới, những người sáng tạo thường đom độc vì những ý tưởng. - Những công trình mà họ đưa ra thường không dễ chấp nhận ngay được, bởi nó vượt qua khỏi suy nghĩ, tầm nhìn của mọi người đương thời.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1 (2,0 điểm) A. Về kĩ năng - Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận; giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

Trang 2


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Giải thích - “Những người đặt bước chân đầu tiên” là những con người đi tiên phong, khai mở - đặt bước chân đầu tiên tạo ra sản phẩm vật chất và trí tuệ. - “Những con đường mới” lúc đầu không có những con đường bằng phang, chỉ là những khoảng đất trống hoang đầy sỏi đá. Con đường mới được khai phá nhờ những bước chân đầu tiên của những người tiên phong. - “Không được trang bị vũ khí gì ngoài tầm nhìn” là tự .tìm tòi theo cách riêng và qua những trải nghiệm thực tế. => Hình tượng con đường ở đây cần phải được hiểu theo nghĩa bóng: là cách thức và phương hướng để con người giải quyết những vấn đề trong đời sống xã hội. .Như vậy với câu nói này, nhà văn Ayn Rand đã quan niệm: trên đời không có gì là bất biến. Chỉ cần con người có khát vọng và dám thực hiện khát vọng ấy thì sẽ có khả năng làm thay đổi thế giới. 2. Phân tích và chứng minh - Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, cái đích mà mỗi người hướng đến cũng khác nhau, tưong đồng với đó là những khó khăn thử thách khác nhau và không ai giống ai. - Của cải vật chất trong xã hội đều do con người tạo ra. Để có được nó, con người phải lao động: người nông dân cuốc đất, trồng cây; người công nhân vận hành máy móc; nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm... - Cần xác định rõ mục tiêu, lí tưởng để phấn đấu. Liên hệ câu nói của Đi-đơ-rô: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu mục đích tầm thường”. - Tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện để chọn con đường riêng cho bản thân phù hợp với khả năng và sở thích chứ không đi theo một con đường mà người khác vạch sẵn. 3. Bàn bạc và mở rộng - Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao khó khăn mà ta cần phải vượt qua. Những khó khăn đó như một định luật tự nhiên để ta có thể phát triển và thăng tiến. Nhưng để có thể vượt qua được những khó khăn đó đòi hỏi chúng ta phải có sự kiên trì, bền bỉ. sống trong đời, mỗi người có một hoàn cảnh. Tuy nhiên, chẳng mấy ai may mắn được hoàn cảnh trải cho tấm nhung để đi đến thành công. Hoàn cảnh luôn tác động lợn đến mỗi người. - Việc tìm con đường riêng rất khó nên đòi hỏi phải có sự tìm tòi sáng tạo và thời gian, cần có ý chí và bản lĩnh để thực hiện. Biết tận dụng cơ hội: thiên thời, địa lợi, nhân hòa để thực hiện con đường riêng của mình. - Chỉ cần có ý chí là chúng ta có thể vượt qua được mọi trở ngại cho dù trở ngại đó có lớn đến mức nào. Khó khăn càng lớn khi ước vọng càng cao, khó khăn càng không thể vượt qua khi khả năng làm chủ bản thân càng thiếu. Vậy tại sao chúng ta không thử quyết tâm, kiên trì theo đuổi một điều gì đó đến cùng để rồi ta có thể nhận được một thành quả lớn như ta đã mơ ước? - Sáng tạo chính là chìa khoá để mở cánh cửa thành công. Nhưng không phải ai cũng làm được điều đó, có những người khi gặp khó khăn thử thách họ chỉ biết chạy trốn thay vì là tìm cách vượt qua, đây là những người không có nghị lực sống, điều này tương đương với việc họ đã tự đánh mất đi chiếc chìa khóa quan trọng có thể mở mọi cánh cửa trong cuộc đời họ - chiếc chìa khóa mà do chính họ nắm giữ.Một xã hội mả có nhiều những con người như vậy là một xã hội lạc hậu, chậm phát triển. 4. Bài học nhận thức và hành động - Cuộc sổng của chúng ta luôn là một chuỗi khó khăn và thừ thách. Nếu hèn nhát và yếu đuối chắc chắn ta sẽ thất bại và gục ngã. - Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh cần rèn luyện cho mình những kĩ năng sống cần thiết. Đặc biệt là nghị lực sống, cách tốt nhất để vượt qua khó khăn và là một trong những hướng đi nhanh nhất dẫn đến thành công. - Cuộc sống luôn là một bức tranh muôn mầu muôn vẻ, còn biết bao nhiêu điều đang chờ đợi ta phía trước. Vì thế hãy dám nghĩ, dám quyết định và lựa chọn con đường đi cho chính bản thân mình, đừng nên chần chừ và do dự. Kiến thức, niềm tin, lòng nhiệt huyết và sự quyết tâm kiên trì vượt khó sẽ là những người bạn đồng hành không thể thiếu của mọi người chúng ta trên con đường đời ấy.

Trang 3


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Câu 2 (5 điểm) 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Thơ là sản phẩm của tâm hồn. Mỗi tâm hồn là một vương quốc riêng, đầy bí ẩn, tụy giữa những tâm hồn có những làn sóng giao thoa nhau. Con người và cuộc sống từ ngàn xưa đã là đối tượng phản ánh của thơ ca. Nhưng cuộc sống và con người trong thơ ca là cuộc sống và con người được phản ánh qua một lăng kính rất cụ thể, rất cá biệt - đấy là tâm hồn, tư tưởng, tình cảm... của người nghệ sĩ. - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Chính vì vậy mà nhà thơ Trần Đăng Khoa đã đưa ra ý kiến: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động, ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đổi với các thi sĩ vẫn là điều bỉ mật". Có thể nói, tinh hoa của hồn thơ Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ miêu tả cảnh đêm liên hoan lửa trại và cảnh mộng mơ trên sông nước miền Tây: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo ben bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. 2. Thân bài 2.1.Khái quát chung - Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ Mây đầu ô (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này vào một đêm cuối năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh bên dòng sông Đáy hiền hòa khi Quang Dũng đã rời khởi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. - Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Chính vì vậy mà toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết. 2.2.Giải thích Đâu là vẻ đẹp của thơ? Thế nào là thơ hay? Những câu hỏi đó không phải bao giờ cũng được trả lời một cách đầy đủ và cũng không dễ có sự thống nhất ở tất cả mọi người. Các nhà nghiên cứu, các nhà thơ tùy theo từng góc độ, họ có cách nhìn, cách lí giải riêng. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, người làm thơ từ lúc còn bé, qua nhiều năm sáng tác đã đóng góp một ý kiến về thơ. Thế nào là thơ hay? a. Thơ hay là thơ giản dị - Cái cốt lõi của thơ ca không nằm ở sự chài chuốt ngôn ngữ mà nó đọng lại ở bề sâu cảm xúc. - Giản dị không chỉ là một yêu cầu mà còn là một phẩm chất của thơ hay cần có. Cái giản dị của thợ có thể ví như duyên ngầm ở một cô gái đẹp, không cần trang sức quý giá, không cần trang đỉểm mà vẫn có sức thu hút. - Giản dị theo quan điểm này là ở ngôn ngữ, hình ảnh, cách viết. b. Thơ hay là thơ xúc động - Thơ là sự bộc lộ thế giới nội tâm sâu sắc ở người sáng tác và khi thi sĩ đã sống hết mình với những rung động, cảm xúc thì những vui buồn, âu lo, khát vọng... của người làm thơ mới động chạm đến trái tim của nhiều người, tiếng nói trữ tình trong thơ mới có thể trở thành nỗi lòng thầm kín của mọi người. - Thơ hay là thơ có sức truyền cảm chân thành và mãnh liệt nhất. c. Thơ hay là thơ ảm ảnh

Trang 4


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

- Sự ám ành của thơ được tạo bời những ấn tượng mạnh mẽ nhất mà hình thức và nội dung thơ đã để lại trong tâm hồn người đọc. - Những ấn tượng, xúc cảm mãnh liệt của thơ hay không phải được tạo bởi cường độ của bão lũ, không phải ở những xúc động nhất thời. Thơ hay, sau khi đọc xong, người đọc vẫn day dứt khôn nguôi về tình đời, tình người mà thi sĩ băn khoăn, trăn trở và kí thác trong thơ mình. 2.3. Phân tích đoạn thơ đế làm sáng tỏ ỷ kiến a.Khái quát trước khi phân tích - Ở đoạn thơ trước, Quang Dũng đã phác họa về miền Tây xa xôi qua những nét vẽ đậm vẻ hoang sơ, bí hiểm thì ở đoạn thơ này, thiên nhiên và con người như mang vẻ đẹp của một thế giới khác. Hình ảnh thiên nhiên con người Tây Bắc được khắc họa trong đoạn thơ bằng những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tài hoa tinh tế, thấm đẫm chất thơ, chất nhạc, chất hào hoa, lãng mạn của một thi sĩ đa tài. - Trong miền kí ức của Quang Dũng không chỉ cỏ những ngày tháng gian khổ với đèo cao, mưa rừng, thú dữ, sương phủ mà còn có cả ánh sáng hội hè của những đêm liên hoan lửa trại tưng bừng và những buổi chiều êm ả, bản làng khói sương như trong miền cổ tích xa xưa. b.Phân tích b1. Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. - “Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cụng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “bừng” kết hợp với hình ảnh đẹp “đuốc hoa” miêu tả không khí sôi nổi, cả doanh trại bừng sáng, lung linh ánh lửa đuốc khi đêm văn nghệ bắt đầu. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa”. Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng, gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiêng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Và sau này cũng trong cảnh thiên nhiên hữu tình ấy Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan: Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan. (Việt Bắc, Tố Hữu) - Tiếng reọ “kìa em” thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê, vui sướng của các anh lính Tây Tiến trước vẻ lộng lẫy vì sự xuất hiện bất ngờ của các cô gái nơi núi rừng. Các cô gái chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội có vẻ đẹp e thẹn, tình tứ, mềm mại, duyên, dáng trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ phương xa - “man điệu” đã thu hút hồn vía của các chàng trai Tây Tiến. - Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Những thiếu nữ Mường, Thái, Nùng... những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ “xiêm áo” rực rỡ. Qua câu thơ: “Kìa em xiêm áo tự bao giờ" ta cũng có thể hiểu là người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Và cũng không ai có thể ngờ được chính sự giả trang ấy khiến cho cả doanh trại và đồng bào Tây Bắc ngạc nhiên đến ngỡ ngàng. Sao mà các anh tài đến thế, giả trang đến y hệt, ngay đến chính những người đồng đội của mình còn không nhận ra, nên khi các anh xuất hiện tất cả mọi người trong đêm liên hoan lửa trại đều bất ngờ. - Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam Vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà thành hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, những mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ. Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ". - Không khí của đêm liên hoan còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực, réo rắt khiến cho con người và cảnh vật như bốc men say, trở nên phong phú, sinh động như muốn “xây hồn thơ” lãng mạn. Đây cũng chính là tâm hồn hào

Trang 5


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

hoa, tinh tế của Quang Dũng. Cảnh vật, con người như ngả nghiêng, ngất ngây, bốc men say rạo rực vì vui sướng được sống trong những giây phút bình yên. => Dư âm của chiến tranh tàn khốc bị đẩy lùi xa chỉ còn những tâm hồn lãng mạn, trong tiếng nhạc, hồn thơ. Đây là một khoảnh khắc hiếm hoi trong thời chiến, là một kỉ niệm đẹp khó phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến nói chung và trong lòng Quang Dũng nói riêng. b2.Cảnh sông nước miền Tây mênh mang, mờ ảo: Người đi Châu Mộc chiểu sương ấy Cỏ thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ họa dong đưa. - Một không gian bảng lảng khói sương như trong cối mộng cứ thế hiện ra: + Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hóa. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. + Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh “chiều sương” cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây không phải là “sương lấp”, “sương che” hay “sương phủ” mà là “sương li biệt” trong tư thế của người ra đi vì nghĩa lớn: “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy". Thời gian buổi chiều vừa gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỉ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng. - Sông nước tĩnh lặng và mênh mông như một bờ tiền sử, hai bên bờ những bông hoa lau khẽ lay động trong sương gió chiều thu. Quả đúng là: “Người trong cảnh ẩy, cảnh trong tình này" (Truyện Kiều, Nguyễn Du), cho nên Quang Dũng đã cảm nhận được những cánh hoa lau như có hôn. Không gian nủi rừng chiêu sương gợi cảm giác hoang văng, tĩnh lặng, giàu chât thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi. Cho nên “nẻo bến bờ” là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện. Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên đầy sức sổng và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: “Cớ nhớ dáng người trên độc mộc”. Điệp ngữ -‘có thấy - có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. “Độc mộc” là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. “Dáng người trên độc mộc” ở đây có thể hiểu là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo, Nùng đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiên về phía trước. Tật cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhòa,.. - Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kì lạ. Những cánh hoa rừng không bị “dồi lên dập xuống” mà là “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi: cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng trên tràng giang Tây Bắc “đong đưa” như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc. Bóng người bóng hoa như họa thêm vẻ đẹp cho nhau tạo ấn tượng giàu cảm xúc về cảnh và người miền Tây. => Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta như thấy trước mắt mình là một bức tranh sơn thủy hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền Tây - tâm hồn Quang Dũhg. 2.4. Nhận xét - Chất nhạc trong đoạn thơ ngân nga như tiếng hát cất lên từ tâm hồn ngất ngây, mê say, lãng mạn của cái tôi trữ tình giàu cảm xúc dẫn người đọc vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, cõi nhạc. Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc không chỉ đẹp ở sự hùng vĩ, dữ dội mà nó còn đẹp cả ở những nét mềm mại, mộng mơ khiến lòng người xao xuyến. - Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa. Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu

Trang 6


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

luyến, bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu giá trị. - Chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng hòa quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài .hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ. 2.5. Liên hệ a. Bài thơ Chiều tối - Chiều tối là bài thơ thứ 31 tròng tổng số 134 bài thơ in trong tập Nhật kỉ trong tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ lấy cảm hứng từ đoạn đường chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo.. Thi phẩm là khúc ca về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh. - Khung cảnh chiều tối nơi núi rừng hoang vu được gợi lên bằng bút pháp ước lệ quen thuộc của thơ cổ phương Đông. Trời tối, cánh chim sau một ngày bay đi kiếm ăn đầy mệt mỏi cuối cùng cũng đã trở về. Hình ảnh “chòm mây trôi nhẹ” giữa bầu trời bao la,.mênh mông gợi lên sự tĩnh lặng, buồn bã nơi núi rừng hoang vu. - Hình ảnh con người mang vẻ đẹp khỏe khoăn, năng động, trẻ trung và hăng say lao động. Đây chính là điểm khác biệt so vói thơ cổ, là nét hiện đại được điểm xuyết vào trong nét cổ điển. Hơn nữa trong bài thơ, hình tượng thơ không tĩnh tại như chúng ta thường ngày gặp trong thơ cổ mà có sự vận động hướng về ánh sáng, về tựơng lai. Từ. “hồng” được xem là nhãn tự của bài thơ, mang đến ánh sáng, hơi ấm và niềm vua, xua tan đi sự lạnh lẽo, tối tăm của hành trình chuyển lao. b.Đoạn thơ trong đoạn trích Nỗi thương mình - Đọc đoạn trích Nỗi thương mình người đọc thấy được chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều mắc lừa Sở Khanh và bị bán vào lầu xanh, dưới bàn tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. - Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy nổi bật lên một hình ảnh nàng Kiều cô đơn, buồn tủi. Nguyễn Du đã sử dụng tài tình các ẩn dụ: “bướm lả ong lơi”, “cuộc say”, “trận cười”, các thi liệu, điển tích: “lá gió”, “cành chim”, “Tống Ngọc”, “Trường Khanh” để diễn tả cảnh sổng xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. - Sống trong cảnh “Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” thì chỉ “Khi tinh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sổng thực với chính lòng mình. Lúc khách làng chơi ra về hết, đêm rất khuya chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn. - Những cảnh nghiêng ngả đã lùi xa, những trận cười lắng lại. Chỉ còn trơ lại ở đây một con người vô cùng cô độc đang tự thương thân. Khi tỉnh rượu thì đêm đã khuya, lúc này nàng mới “giật mình”, “thương mình xót xa”. 2.6. Đánh giá và nhận xét - Cảm xúc của chủ thể trữ tình ở đoạn thơ trong bài Tây Tiến, Chiều tối và đoạn trích Nỗi thương mình đều buồn vắng, đìu hiu, cô đơn trước thời khắc của ngày tàn (có sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, cảnh và tình): + Nỗi vấn vương, lưu luyến về cảnh chia tay trong buổi chiều sương mờ (Tây Tiến). + Cảnh nhà, tình nước qua những hình ảnh thiên nhiên thật bình dị, gần gũi (Chiều tối). + Không gian lầu xanh, thời gian là lúc “tỉnh rượu, tàn canh” - đêm khuya là thời gian của tâm trạng. Bởi vì triền miên trong những “cơn say, trận cười”, những “bướm lả ong lơi”, những khách làng chơi dập dìu tối ngày, chỉ đến khi tàn canh Kiều mới có thời gian để sống với tâm trạng thực của mình (Nỗi thương mình). - Cả Quang Dũng, Hồ Chí Minh và nàng Kiều đều có tư chất nghệ sĩ trước những biến cảm của thiên nhiên. - Ba đoạn trích cũng như bài thơ đều mang vẻ đẹp cổ điển thể hiện ở đề tài và cấu tứ. Một trong những thi đề phổ biến của thơ xưa là: “Giai thì, mĩ cảnh” (Thời gian đẹp, cảnh đẹp). Các hình ảnh thơ được thể hiện trong một cấu trúc đặng đối. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

Trang 7


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

+ Tóm lại, các đoạn thơ đều thể hiện tâm trạng và cảm xúc của các nhà thơ trước sự biến chuyển của thời gian. Qua đoạn thơ, người đọc thấy được tâm hồn nghệ sĩ hòa nhập với cuộc sống. Trong Tây Tiến, Quang Dũng đã đưa người đọc trở về với hoài niệm năm xưa, để được sống lại với những phút giây bình yên, hiếm có của thời chiến tranh. Nhà thơ cùng người đọc bước vào thế giới cổ tích với dòng sông huyền thoại, với thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của âm nhạc du dương; chất thơ, chất họa, chất nhạc thấm đẫm, quyện hòa đến mức khó mà tách biệt. Ở Chiều tối cảnh chiều muộn nơi núi rừng và cảnh sinh hoạt bên xóm núi cũng hài hòa trong sự phát triển biện chứng của hình tượng thơ để tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất của tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của bài tứ tuyệt, của phong cách thơ Hồ Chí Minh. Còn ở đoạn trích Nỗi thương mình, Nguyễn Du đã cất lên tiếng lòng đau đớn và tủi nhục thay cho tiếng lòng của Thúy Kiều khi lâm vào bi kịch khố đau của người con gái tài sắc bị những thế lực tàn ác trong xã hội phong kiến vùi dập. Sự tự ý thức đã vạch rõ ranh giới giữa nàng với môi trường phàm tục, để nàng vẫn tiếp tục là một con người mang nhiều nét lí tưởng mà Nguyễn Du cũng như những độc giả trung thành với những giá trị đạo đức truyền thống mong muốn. - Cảm xúc của bản thân + Đoạn thơ trong Tây Tiến, bài thơ Chiều tối và đoạn trích Nỗi thương mình đã đạt được một lúc ba điều: giản dị, xúc động, ám ảnh. Theo Trần Đăng Khoa thơ đạt được ba điều đó một lúc, đối với thi sĩ vẫn là điều bí mật. Qua các đoạn và bài thơ trên, người đọc dường như đã khảm phá được đôi điều trong sự bí mật ấy. Làm thơ cốt là sự giãi bày những buồn vui, khao khát một cách chân thành nhất, vẻ đẹp của thơ không phải ở sự trang điểm lòe loẹt cho ngôn từ; thơ hay, thơ đẹp ở sự xúc động chân thành của tình cảm. Ở nồi day dứt, ám ảnh khuôn nguôi mà thơ ca để lại nơi người đọc khi nói về những vấn đề hàm chứa nhiều ý nghĩa triết lí nhân sinh và đạt đến chiều sâu của giá trị nhân bản.

Trang 8


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 7 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:

C TI O

N

Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Xưa nay những đấng anh hùng làm nên những việc gian nan không ai làm nổi, cũng là nhờ cái gan mạo hiểm, ở đời không biết cái khó là cái gì.

O D

U

[…] Còn những kẻ ru rú như gián ngày, làm việc gì cũng chờ trời đợi số, chỉ mong cho được một đời an nhàn vô sự, sống lâu giàu bền, còn việc nước việc đời không quan hệ gì đến mình cả. Như thế gọi là sống thừa, còn mong có ngày vùng vẫy trong trường cạnh tranh này thế nào được nữa.

AN H

TU

PR

[…] Thành công chỉ đến khi bạn làm việc tận tâm và luôn nghĩ đến những điều tốt đẹp. Vậy học trò ngày nay phải tập xông pha, phải biết nhẫn nhục; mưa nắng cũng không lấy làm nhọc nhằn, đói rét cũng không lấy làm khổ sở. Phải biết rằng: hay ăn miếng ngon, hay mặc của tốt, hễ ra khỏi nhà thì nhảy lên cái xe, hễ ngồi quá giờ thì kêu chóng mặt,… ấy là những cách làm mình yếu đuối nhút nhát, mất hẳn cái tinh thần mạo hiểm của mình đi.

TH

(Trích Mạo hiểm, Nguyễn Bá Học, Quốc văn trích diễm, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2018, trang 22)

Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

YE

N

Câu 2: Theo tác giả, nhờ đâu mà “xưa nay những đấng anh hùng làm nên những việc gian nan không ai làm nổi”?

G

U

Câu 3: Tác giả đã thể hiện thái độ gì đối với “những kẻ ru rú như gián ngày, làm việc gì cũng chờ trời đợi số, chỉ mong cho được một đời an nhàn vô sự”?

N

Câu 4: Anh (chị) suy nghĩ gì về câu văn: “Thành công chỉ đến khi bạn làm việc tận tâm và luôn nghĩ đến những điều tốt đẹp”? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e sông”. Câu 2 (5,0 điểm): Bàn về hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân có ý kiến cho rằng: “Đó là người lao động đầy trí dũng trên sông nước Đà giang”. Ý kiến khác lại khẳng định: “Đó là người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt tác leo ghềnh”. Từ cảm nhận của mình về hình tượng người lái đò sông Đà, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ đến cảnh cho chữ trong Chữ Trang 1


người tử tù của Nguyễn Tuân (Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (Ngữ văn 10, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để nêu nhận xét về phẩm chất cao đẹp của người nghệ sĩ. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: - Phương thức biểu đạt chính là nghị luận.

N

Câu 2: - Theo tác giả “xưa nay những đấng anh hùng làm nên những việc gian nan không ai làm nổi” là nhờ “cái gan mạo hiểm, ở đời không biết cái khó là gì”.

C TI O

Câu 3: - Tác giả thể hiện thái độ phê phán, lo ngại, trăn trở đối với “những kẻ ru rú như gián ngày, làm việc gì cũng chờ trời đợi số”. Câu 4: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần phải nêu được những ý chính sau:

O D

U

- Con người ta sống ở đời đều muốn theo đuổi để đạt đến thành công. Biến những hoài bão đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ trở thành sự thật. Những khó khăn trở ngại không đáng sợ bằng sự ngại khó, ngại khổ, thiếu ý chí, thiếu nghị lực của con người.

AN H

TU

PR

- Đối diện với những khó khăn trước mắt, có người chọn cách thoái lui, có người rẽ sang hướng khác, dễ dàng và đơn giản hơn, dù nó không đúng với mục đích của mình. Còn có những người lại chọn cách nhìn nhận vấn đề thật lạc quan, và quyết tâm hướng đến mục tiêu của mình với sự nỗ lực cố gắng không ngừng nghỉ.

TH

- Khát vọng chính là nguồn động lực có sức mạnh vô biên, tiềm tàng bên trong mỗi con người. Động lực này được thể hiện qua những hành động liên tục và bền bỉ, để con người không bao giờ từ bỏ ước mơ, không bao giờ khuất phục hoàn cảnh.

U

YE

N

- Con người khi sinh ra không là gì cả chỉ là mầm sống mới được sinh ra chỉ là một đứa trẻ sơ sinh không tên tuổi. Nhưng bằng tất cả sự nỗ lực không ngừng lòng quyết tâm bền bỉ và ý chí vươn lên thì mầm sống ấy sẽ lớn lên và sinh hoa kết trái góp cho đời những hương sắc. Và khi chết đi họ đã có được tất cả mặc dù không còn trên cõi đời này nữa.

N

G

- Hãy sống hết mình và không ngừng phấn đấu bạn sẽ tìm thấy được tất cả và làm chủ mọi thứ vì: “Tôi chỉ có thể trở thành kẻ do chính tôi làm ra” mà không phải do ai khác sắp đặt hay ép buộc và tự do chính là cái mà chúng ta có được. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: (2,0 điểm) A. Về kĩ năng - Viết về một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Giải thích Trang 2


- “Đường đi” là khoảng cách giữa điểm xuất phát và đích mà ta cần nỗ lực vượt qua để về đến nơi. Nó có thể là một con đường bằng phẳng, dễ dàng nhưng cũng có khi rất nguy hiểm với nhiều chướng ngại vật khó khăn. - “Núi” là nơi có độ cao và có nhiều dốc khúc khuỷu. - “Sông” là nơi có độ sâu và có nhiều dòng nước chảy qua. - “E, ngại” là những từ dùng để chỉ thái độ ngại ngùng, nhút nhát với những chướng ngại vật trước mắt.  Câu nói của Nguyễn Bá Học có nghĩa là đường đi khó khăn với nhiều núi sông ngăn cách, nếu ta cứ e sợ, ngại ngùng thì nó vẫn sẽ rất khó đối với ta. Câu nói khuyên ta đừng nên nhụt chí mà hãy cố gắng hết mình thì việc khó sẽ trở nên dễ dàng. 2. Phân tích và chứng minh

C TI O

N

- Con đường đời sẽ không làm phụ lòng những người biết vượt lên trong cuộc sống. Người có nghị lực sẽ tìm được con đường đi đến thành công dù là con đường đó chông gai, khó khăn.

O D

U

- Mỗi người sẽ có một con đường đời của riêng mình nhưng điểm chung là tất cả mọi con đường đều có những lúc lên lúc xuống, lúc êm đềm, lúc khó khăn. Chúng ta phải luôn sẵn sàng đối mặt với những gian nan ấy. Tất cả những khó khăn sẽ không là vấn đề to lớn nếu ta bình tĩnh suy nghĩ và có đủ quyết tâm để vượt qua nó. - Dẫn chứng:

TH

AN H

TU

PR

+ Con đường Hồ Chí Minh đi đến giải phóng dân tộc quả không dễ dàng. Chế Lan Viên từng dùng hình ảnh “viên gạch hồng” mà Bác đã sưởi ấm cả một mùa đông. Đó mới chỉ là một trong cái khó về thiếu thốn vật chất thường ngày mà Bác phải trải qua. Để giác ngộ những trí thức hải ngoại thấu đạt được tư tưởng giải phóng dân tộc của Bác mà hỗ trợ cũng là cả một vấn đề. Xây dựng được cơ sở Đảng phải trải qua muôn vàn khó khăn; tìm kiếm vũ khí; tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế… Đó là những chặng đường Bác đã trải qua. Những năm tháng tù đày, sống và hoạt động trong vòng bí mật. Sau này giành được hòa bình, con đường Bác phải tiếp tục là làm cho dân no ấm…

N

G

U

YE

N

+ Hằng ngày, ta vẫn thấy những bà mẹ nghèo tần tảo nuôi con. Dẫu cho con họ từng bước lớn lên trong từng bát cơm cơ hàn, nhưng vẫn được đến trường từ gánh hàng rong của mẹ. Điều đó, ta đã từng được nghe, được thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Những đôi vai gầy gò, và gánh hàng còm cõi, họ vẫn đầy nghị lực và khát vọng hướng con đến con đường tươi sáng với những thiết tha cao đẹp. Ngày ngày, ta vẫn thấy biết bao người tật nguyền rong ruổi trên khắp nẻo đường. Họ mưu sinh chân chính và trĩu nặng trong từng bước chân số phận mà lương thiện. Họ đã sống bằng nghị lực phi thường.  Thật vậy, đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Nếu ta tin tưởng vào chính mình, không e ngại khó khăn thì dù vật cản có khó đến mức nào thì chúng ta cũng sẽ vượt qua được. 3. Bàn luận và mở rộng - Trong cuộc sống, ai cũng mong có được sự thành công. Nhưng nó không bao giờ tự đến với ta mà chúng ta cần phải luôn tự tin kiên trì, dũng cảm vượt qua những chông gai thì chắc hẳn cánh cửa đi đến thành công sẽ mở rộng chào đón ta. - Cứ e dè, tự ti, không dám đối mặt với những thử thách thì ta sẽ không bao giờ tiến bộ được. Khi đã đánh mất niềm tin, sự quyết tâm thì ta sẽ trở thành người không có ý chí, không có nghị lực, không thể sống tự lập và có thể bỏ qua nhiều cơ hội tốt đẹp.

Trang 3


- Ai cũng muốn mình có được thành công nhưng lại có nhiều người không dám đối đầu với thử thách mà chỉ muốn trốn tránh, bỏ cuộc. - Thực tế, trong xã hội hiện nay, có không ít người luôn tự ti, không dám thể hiện năng lực của mình. Vậy những người ấy sẽ đóng góp được gì cho đất nước khi cứ sống mãi trong vỏ ốc của chính mình. - Đường đời sẽ càng chông gai nếu những ai nghĩ rằng khó khăn sẽ không vượt qua được, chúng ta cứ thử một lần bước qua những thử thách, đối mặt với khó khăn thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua được vì nghị lực sẽ làm nên tất cả. 4. Bài học nhận thức và hành động

N

- Là thế hệ tương lai của đất nước, chúng ta phải sống và làm việc hết mình, tự tin và không được gục ngã trước rào cản. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mỗi cá nhân cần phải không ngừng học tập, trau dồi, rèn luyện kiến thức, giao lưu học hỏi để chuẩn bị cho mình một hành trang tri thức vững chắc khi bước vào con đường đời đầy chông gai và thử thách.

C TI O

- Xã hội cần xây dựng và phát huy lối học tập, giáo dục ý thức cá nhân, hình thành tính tự tin cho mọi người và biểu dương, những cá nhân dám nghĩ dám làm, có những đóng góp tích cực cho cộng đồng.

O D

U

- Đường đi nào cũng có nhiều chông gai, thử thách. Hãy đặt niềm tin vào bản thân, luôn quyết tâm, kiên trì dù núi có cao bao nhiêu, sông có sâu, hung bạo như thế nào thì chúng ta cũng sẽ vượt qua. Bạn, tôi, chúng ta hãy cùng nhau đối đầu với khó khăn và đi đến một tương lai tươi sáng.

PR

Câu 2: (5,0 điểm) 1. Mở bài

TU

- Giới thiệu vấn đề nghị luận

YE

- Dẫn ra vấn đề nghị luận

N

TH

AN H

+ “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của những người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp” (Pautôpxki). Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Ông quan niệm: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật và đã nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo”. Với tùy bút Người lái đò sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối kì diệu giữa cái đẹp của ngôn từ với ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh dẫn đến vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc nhất là chất vàng mười nơi tâm hồn con người.

N

G

U

+ Bàn về hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân có ý kiến cho rằng: “Đó là người lao động đầy trí dũng trên sông nước Đà giang”. Ý kiến khác lại khẳng định: “Đó là người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh”. Đó là hai vẻ đẹp nổi bật mang đặc điểm chung của cá tính Nguyễn Tuân. 2. Thân bài 2.1. Khái quát chung - Nguyễn Tuân là nhà trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của nhà văn thường không được phát biểu một cách trực tiếp mà ẩn đằng sau những bức tranh thiên nhiên, những giá trị văn hóa cổ truyền. Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa và uyên bác. Thể hiện sự tài hoa, Nguyễn Tuân thường nhìn nhận và khám phá mọi sự vật, hiện tượng ở phương diện thẩm mĩ và miêu ta con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ. Thể hiện sự uyên bác, văn Nguyễn Tuân đầy ắp những hiểu biết phong phú, đa dạng về nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống từ các bộ môn nghệ thuật (hội họa, điện ảnh…) cho đến lịch sử, địa lí, quân sự, thể thao… Nguyễn Tuân còn là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng. Ông không thích những cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt cũng như không ưa mọi khuôn phép gò bó. Trái lại, nhà văn luôn có hứng thú với những biểu hiện Trang 4


mạnh mẽ, phi thường của tạo vật và con người. Với cá tính của mình, Nguyễn Tuân tìm đến với tùy bút như một lẽ tất yếu. - Người lái đò sông Đà được trích trong Tùy bút sông Đà (1960). Đây là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc năm 1958. Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập tùy bút là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng. Viết về sông Đà nhà thơ muốn đề thơ, phổ nhạc vào sông nước quê hương. Cảm hứng sông Đà đã thành nghệ thuật, “thành một gợi cảm mênh mang” về sông quê, về con người Việt Nam. Và ông cũng là một “Đà giang độc bắc lưu” trên bình diện nghệ thuật. 2.2. Giải thích ý kiến

O D

U

C TI O

N

- Người lao động đầy trí dũng” – người lao động với những phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng đặc biệt là tài trí tuyệt vời và lòng dũng cảm vô song trong nghề lái đò vượt sông Đà hung dữ. Nguyễn Tuân là người tài hoa, uyên bác luôn tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm mĩ để từ đó say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống. Với người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân lại say mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống. Nguyễn Tuân có những cảm nhận về người lái đò mang nét độc đáo từ vẻ đẹp ngoại hình đến phẩm chất bên trong, không chỉ là người lao động khỏe khoắn từng trải nơi sông nước mà còn là một vị tướng tài ba trong những trận chiến với con nước hung dữ.

AN H

TU

PR

- “Nghệ sĩ tài hoa” là khái niệm để ca ngợi những người làm trong ngành nghệ thuật có tài năng xuất chúng, có phẩm chất hơn người được xã hội công nhận và tôn vinh. Người lái đò được ca ngợi là “người nghệ sĩ tài hoa” bởi tài năng đã đạt tới trình độ thuần thục, điêu luyện trong nghề lái đò vượt thác. Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ để đối lập với những con người tầm thường, phàm tục. Với Nguyễn Tuân những con người bình thường khi thực hiện những công việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp của mình nếu đạt đến độ tinh xảo khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một người tài hoa.

TH

2.3 Cảm nhận

U

YE

N

- Vẻ đẹp nghệ sĩ của ông lái đò không phải là một người lái đò thông thường mà là một nghệ sĩ trong nghệ thuật sông nước như một nhạc sĩ tài hoa chỉ huy dàn nhạc trên con thuyền để vượt qua bản trường ca sông nước ào ạt kia. Sự tài hoa đến từng động tác thuần thục của ông lái đò mà Nguyễn Tuân gọi đó là “tay lái ra hoa”:

N

G

+ Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề cao cái đẹp thuần túy nhưng đó là cái đẹp của quá khứ. Ông tìm đến những con người tài hoa thiên về lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. + Sau cách mạng, Nguyên Tuân không còn say sưa chắt chiu cái đẹp cho một thế giới nhỏ bé, tù túng, nhà văn cảm nhận được cái rộng rãi bao la của đất trời, cái nhìn của nhà văn trở nên đôn hậu hơn. Ông đi tìm cái đẹp của những người lao động bình thường vì vậy quan niệm về cái đẹp của ông bớt đi sự phù phiếm từng bước đến với cái đẹp chân chính tiến bộ. - Nguyễn Tuân đã không đặt cho nhân vật của mình một cái tên riêng mà gọi bằng một danh từ chung là: “người lái đò” hoặc “ông đò”. Từ một con người nhà văn muốn người đọc nghĩ đến rất nhiều người đang lặng lẽ âm thầm cống hiến trí tuệ và sức lực của mình cho đất nước. - Người lái đò có ngoại hình khá đặc biệt: thân hình “cao to, gọn quánh như chất sừng chất mun, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào như tiếng nước trước một ghềnh sông”. Nhà văn không chỉ miêu tả ngoại hình mà còn nhấn mạnh vào sự gắn Trang 5


bó tình yêu với nghề sông nước của con người ấy. Đó là một linh hồn muôn thưở của sông nước này. - Người lái đò sông Đà là một con người giàu trải nghiệm. Đó là một tay đò lão luyện đã xuôi ngược trên sông Đà hơn một trăm lần rồi và chính tay ông giữ lái khoảng độ sáu chục lần. Ông hiểu sông Đà như hiểu chính mình, nhờ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở. Ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá và “sông Đà như một trường thiên anh hùng mà ông đã thuộc từng dấu chấm câu, từng dấu chấm than và cả những đoạn xuống dòng”. Cuộc đời của người lái đò sông Đà cũng giống như một bản anh hùng ca hào hùng lãng mạn đến lạ kì. - Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, mỗi một hòn đá là một tên lính thủy hung tợn, tên nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm và sẵn sàng giao chiến. Cả một trận địa đá với những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm đã được bày ra để sẵn sàng dìm chết con thuyền. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp thành ba trùng vi nguy hiểm:

PR

O D

U

C TI O

N

+ Trùng vi thứ nhất: sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trải mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bại”.

AN H

TU

+ Trùng vây thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn… Dòng nước hùm beo hồng học tế mạnh trên sông đá đánh khúp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận đánh giáp la cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sông nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thắng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh là thất vọng”. Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!

U

YE

N

TH

+ Trùng vi thứ ba: “ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở giữa ngay bọn đá hậu vệ của con thác”. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải “phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác.

N

G

- Từ cuộc chiến đấu ác liệt với thác dữ sông Đà, từ sự bình dị của những con người lái đò sau chiến thắng (không lưu danh tên tuổi, chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua), có thể thấy Nguyễn Tuân đã khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của những người lao động bình thường, ầm thầm, giản dị nhưng đã và đang làm nên những kì tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ nơi ải nước sông Đà. 2.4. Nhận xét và đánh giá - Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân là thế giới nhân vật của nghệ sĩ. Nghệ sĩ uống trà, nghệ sĩ đao phủ, nghệ sĩ tử tù, những anh bộ đội trực chiến giữa cánh rừng nở đầy hoa đào. Như vậy với Nguyễn Tuân người nghệ sĩ đâu phải chỉ ở những lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật mà còn ở những lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. - Người lái đò điêu luyện, thuần thục đến tài tử trong nghề vượt thác. Ông xử lí các tình huống, những thách thức của thiên nhiên khéo léo và linh hoạt, mỗi động tác của người lái đò như một đường cọ trên bức tranh thiên nhiên sông nước, khi thì dũng mãnh và quyết đoán, khi thì mềm mại uyển chuyển. Trang 6


- Người lái đò còn có một tâm hồn cao đẹp, phong thái ung dung của những đáng tài hoa tài tử. Sau cuộc vượt thác, “Sông nước Đà giang xèo xèo tan trong trí nhớ và không ai bàn thêm một lời nào về chuyện vừa qua nơi cửa ải nước. Họ chỉ bàn tán về cá dầm xanh, cá anh vũ và những ống cơm lam trong hang đá”. Người lái đò sông Đà coi việc đối mặt với sông nước hung bạo là chuyện thường tình, không có gì đáng nói những hồi ức về sự hiểm nguy đều không có mà tất cả đều là sự lãng mạn ngọt ngào. Đó là khí chất nghệ sĩ ở mỗi con người bình thường luôn ung dung thanh thản sau những thác lũ cuộc đời, nó làm nên sự khác biệt với những người bình thường khác. - Có thể nói khả năng làm chủ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phi thường muốn “vẫy gió tuôn mưa”, “hô phong hoán vũ” để từ đó dựng cảnh cho người lái đò xuất hiện với tất cả sự tài hoa của người nghệ sĩ lái đò – một nhân vật đạt đến đỉnh cao của sự toàn mĩ trong công việc của mình.

C TI O

N

- Người lái đò trí dũng và tài hoa trên dòng sông hung bạo và trữ tình. Vẻ đẹp của những người lái đò – vẻ đẹp bình dị, thầm lặng nhưng đầy trí tuệ và sức mạnh, đầy ý chí và nghị lực, tài năng và tài hoa có khả năng chinh phục thiên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người dựng xây đất nước chính là “chất vàng mười” của con người Tây Bắc nói riêng và người lao đông Việt Nam nói chung trong thời kì mới. 2.5. Liên hệ

O D

U

a. Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

TU

PR

- “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có” chứng minh cho sự thăng hoa của tài năng nghệ Huấn Cao, giúp nhân vật được tỏa sáng. Ở cảnh này Nguyễn Tuân đã gia công kĩ lưỡng bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập: ánh sáng – bóng tối, nhà tù – tự do, cao cả – tầm thường… tất cả đều chứng minh cái đẹp đã thống trị trong cảnh huống này.

AN H

- Một cảnh tượng giàu ý nghĩa bởi mọi ranh giới và quyền lực của sự tăm tối bị xóa mờ, thay vào đó là cái đẹp lên ngôi. Nó không còn là hình ảnh của người tử tù, thầy thơ lại, quản ngục mà chỉ còn lại những người bạn tri âm tri kỉ được tận hiến trong không gian nghệ thuật.

N

TH

- Cảnh cho chữ của Nguyễn Tuân khẳng định được giá trị bất tận của cái đẹp. nó không những soi sáng cho con người trong thiên lương mà còn cảm hóa và thanh lọc tâm hồn con người đến đời sống văn minh, trong sạch hơn. Rõ ràng, cảnh cho chữ diễn ra trong nhà tù, nhưng mọi rào cản của tù tội đã biến mất.

G

U

YE

- Kết thúc cảnh cho chữ Huấn Cao đã khuyên quản ngục chuyển chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững và quản ngục đã bái lĩnh trong niềm xúc động nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Điều đó chứng minh cho giá trị của nghệ thuật: cảm hóa và hướng thiện cho con người.

N

 Bằng đam mê và khát vọng săn tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã khẳng định được vị thế của nó đối với con người và xã hội. Tuy nó không có sức mạnh, không có quyền lực nhưng nó lại mang tính thống trị, có thể hóa giải mọi khổ đau, tăm tối trong cuộc đời này. b. Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí - Đọc Tiểu Thanh kí là bài thơ gửi gắm tâm sự đồng cảm dành cho những người phụ nữ có tài, có sắc nhưng có số phận đau khổ. Cùng với Tiểu Thanh, đó là Dương Quý Phi, là nàng Đạm Tiên, là Thúy Kiều, là người phụ nữ gảy đàn ở Thăng Long… - Bốn câu đầu là tiếng khóc người, thương người, là lệ dành cho Tiểu Thanh. Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh trong một hoàn cảnh có phần giống Kiều đến với Đạm Tiên. Nấm mồ Đạm Tiên: “Sè sè nấm đất bên đường/ Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” gợi lên ở Kiều bao mối thương tâm. Cái gò hoang nơi chôn Tiểu Thanh gợi lên ở Nguyễn Du bao điều thổn thức. - Thế giới của văn chương và người đời hoàn toàn khác nhau, không thể nào hàn gắn cho văn chương cùng Trang 7


một số mệnh với người làm ra nó. Đó là một điều tất yếu xưa nay. Thế mà nàng Tiểu Thanh tội nghiệp đến cả những tác phẩm của mình cũng bị người đời ghen ghét đốt đi, tàn nhẫn và lạnh lùng đến vô cùng. Còn gì đau đớn hơn thế nữa, xót xa hơn thế nữa. Nguyễn Du đã khóc cho nàng và bật lên những tiếng nói căm hờn. - Nguyễn Du tự coi mình là người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Như vậy là bằng chính sự thể nghiệm của bản thân, Tố Như thấu hiểu nỗi đau oan khốc của Tiểu Thanh và ngược lại từ Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã “một lời là một vận vào” bản thân để tự hận, tự thương. - Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du “thổn thức bên song” trước “mảnh giấy tàn”. Còn với Nguyễn Du, ba trăm năm sau liệu có ai “khóc Tố Như chăng”? “Bất tri” – chưa biết được.

C TI O

N

 Có thể nói Nguyễn Du là nhà thơ thuộc thế hệ những nhà đầu tiên của Việt Nam nghĩ về thân phận những người nghệ sĩ trong xã hội phong kiến. Ông bắt đầu quan tâm đến con người ở phương diện tinh thần, con người với tư cách là chủ nhân của những giá trị tinh thần như thi ca, âm nhạc, hội họa… Chia sẻ thân phận bất hạnh của họ, Nguyễn Du thực chất đã đòi xã hội phải biết trân trọng tài năng, trân trong những người làm ra các giá trị văn hóa tinh thần. 2.6. Đánh giá và nhận xét

O D

U

- Cả ba đoạn trích và tác phẩm đều đề cập đến vẻ đẹp và tài năng của những người nghệ sĩ – những con người đem cái tài của mình để điểm tô cho cuộc đời.

PR

- Ở ba đoạn trích và tác phẩm ca ngợi cái tài và cái tâm của những người nghệ sĩ nhưng lại có sự khác nhau về cách nhìn:

TU

+ Nhân vật ông lái đò trong Người lái đò sông Đà là một anh hùng sông nước, một chiến binh quả cảm giữa cuộc sống bình dị, đời thường là “chất vàng mười” đã qua thử lửa của con người vùng đất Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đã chắt lọc và nâng niu trên trang viết cuộc đời.

TH

AN H

+ Trong cảnh cho chữ ở truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân tìm cái đẹp vang bóng một thời đã lùi vào quá khứ, ở các bậc siêu phàm – tài nghệ của Huấn Cao là những “bông hoa cuối mùa còn vương xót lại của một thời kì huy hoàng – một quá khứ vàng son trong lịch sử dân tộc.”.

U

YE

N

+ Đọc Tiểu Thanh Kí – tiếng khóc của người đa tình Nguyễn Du là tiếng thơ của một tấm lòng nhân ái mênh mông không biên giới. Suốt đời ông khóc cùng người đời, nói lên tiếng nói cảm thương vô hạn cùng thân phận của người đời bằng trái tim xót đau và nhạy cảm. Và trong ông, cái day dứt ấy không bao giờ nguôi ngoai vẫn cứ còn bật lên tiếng khóc thầm, lặng lẽ ủ kín trong nỗi đau đớn, khắc khoải của nhân gian dài dặc.

3. Kết bài

N

G

- Nguyễn Tuân và Nguyễn Du – hai người nghệ sĩ sống cách nhau hơn hai thế kỉ nhưng ở họ có chung một điểm gặp gỡ đó là tiếng nói tri âm với những con người có tâm hồn nghệ sĩ. - Bằng ngòi bút tài hoa của mình, tác giả Nguyễn Tuân và Nguyễn Du đã mang đến cho tác phẩm Người lái đò sống Đà, Chữ người tử tù và Đọc Tiểu Thanh Kí một nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt qua hình tượng nhân vật ông lái đò; nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ, nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn. Vẻ đẹp ấy của các nhân vật đã tôn thêm giá trị của tác phẩm. - Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân và nhà thơ Nguyễn Du – người đã “cắm một cây sào sáng tạo” để đưa tác phẩm Người lái đò sông Đà, Chữ người tử tù và Đọc Tiểu Thanh kí – tác phẩm văn học của lòng nhân, của đức tin và của giá trị sống về phía những con người chân – thiện – mĩ.

Trang 8


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 8 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

…Mỗi năm Việt Nam có hàng trăm nghìn sinh viên, học sinh rời ghế nhà trường hoặc lên đường xuất ngoại du học. Họ sẽ là những doanh nhân và chuyên gia thuộc mọi lĩnh vực, nối tiếp thế hệ đàn anh tiếp tục gánh vác trách nhiệm phát triển đất nước. Với bản chất thông minh, hiếu học sẵn có, việc thu thập kiến thức kĩ thuật thật sự không khó đối với dân Việt. Giáo dục là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn bao gồm giáo dục nhân cách làm người, làm cho con người chúng ta nhận thức được cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, cái chính, cái tà để từ đó chúng ta sống một cuộc sống thật sự có ý nghĩa, hợp với đạo lí làm người, góp phần làm cho cuộc sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Sinh viên Việt Nam liên tục đạt được những giải thưởng quốc tế và người Việt được đánh giá là rất thông minh và nhẫn nại. Điều quan trọng là chúng ta cần đầu tư nhiều hơn vào lớp trẻ để giúp họ có được vốn văn hóa sâu dày, biết yêu quý và hãnh diện về văn chương, nghệ thuật và những giá trị cao đẹp của Việt Nam. Có như vậy họ mới cảm thấy gắn bó và quay về với quê hương đất nước. Những chương trình “về nguồn” và “mùa hè xanh” đều là những cố gắng đúng hướng và chắc chắn sẽ mang lại kết quả lâu dài.

(Theo http://news.hoasen.edu.vn/tin-chuyen-de/dau-tu-cho-gioi-tre Nguồn:Vnexpress.net, ngày 15 – 6 -2018)

G

U

YE

N

TH

Trước làn sóng văn hóa ngoại lai đầy sôi động và cám dỗ của thời hội nhập, tôi nghĩ chúng ta cần chú tâm nhiều hơn đến giới trẻ nếu muốn tránh những bước đi sai lầm của các nước bạn. Muốn thu ngắn cách biệt, muốn tạo dựng được một nền móng kinh tế vững chắc để có thể bắt kịp xứ người, vấn đề tăng cường chất lượng giáo dục đào tạo văn hóa cho lớp trẻ quả là một thách thức của Việt Nam hôm nay.

N

Câu 1: Đoạn trích trên thuộc phong cách ngôn ngữ nào? Câu 2: Những phương thức biểu đạt nào được sử dụng trong đoạn trích. A. Miêu tả, biểu cảm.

B. Nghị luận, thuyết minh.

C. Nghị luận, biểu cảm.

D. Tự sự, miêu tả.

Câu 3: Xác định nội dung chính của đoạn trích. Hãy chỉ ra các phương thức liên kết câu trong đoạn trích trên. A. Phép đồng nghĩa, phép trái nghĩa.

B. Phép thế, phép nối.

C. Phép liên tưởng, phép đối.

D. Phép lặp, phép thế, phép liên tưởng.

Câu 4: Tưởng tượng anh (chị) là tác giả của bài viết trên, hãy viết tiếp một đoạn văn ngắn để bàn về một giải pháp cụ thể nhằm tăng cường chất lượng giáo dục văn hóa cho giới trẻ hiện nay. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Trang 1


Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới”.

C TI O

Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

N

Câu 2 (5,0 điểm):

PR

O D

U

Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ trên trong đoạn trích Việt Bắc – Tố Hữu (SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 110). Từ đó liên hệ với cái tôi của Huy Cận trong khổ cuối bài thơ Tràng giang để thấy sự khác biệt giữa cái tôi trong Thơ mới và thơ ca cách mạng.

TU

-------------------- HẾT --------------------

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: - Phong cách ngôn ngữ báo chí.

TH

Câu 2: - A – Sai; B – Sai; C – Đúng.

AN H

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

Câu 3:

YE

N

- Xác định nội dung của đoạn trích: Khẳng định sự cần thiết của việc đầu tư giáo dục văn hóa cho giới trẻ. - Các phương thức liên kết câu trong đoạn trích trên: - A – Sai; B – Đúng; C – Sai; D – Sai.

U

Câu 4: - Yêu cầu về hình thức: Thí sinh viết một đoạn văn hoàn chỉnh, đảm bảo dung lượng theo yêu cầu.

N

G

– Yêu cầu về nội dung:

+ Đoạn văn cần có sự liên kết với nội dung đoạn trích đã cho. + Thí sinh có thể đưa ra nhiều giải pháp khác nhau nhưng cần hợp lí và có sức thuyết phục: đưa nội dung giáo dục văn hoá nhiều hơn vào nhà trường, tổ chức các hoạt động ngoại khoá có mục đích giáo dục văn hoá cho giới trẻ, tăng cường giáo dục văn hoá trên các phương tiện thông tin đại chúng… II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: (2,0 điểm) A. Về kĩ năng - Viết về một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức Trang 2


Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Giải thích - “Giáo dục” có thể hiểu như là một công cụ mà các lớp người đi trước dùng để truyền đạt và gửi gắm những mong muốn và kì vọng vào những tầng lớp trẻ sau này là tương lai là sức mạnh của một quốc gia.  Giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi không có nó thì có lẽ xã hội loài người không thể nào có được sự phát triển vượt bậc như bây giờ. 2. Chứng minh và bàn luận - Giáo dục trước hết góp phần hình thành nhân cách của con người làm cho chúng ta có thể nhận thức được thiện, ác, đúng, sai, biết sống có đạo đức và hành xử đúng đắn theo những chuẩn mực đạo lí của xã hội.

N

- Cho dù là ở đất nước nào đi nữa nền giáo dục luôn hướng con người sống đẹp và nhận thức được những gì bản thân cần phải làm và nghĩa vụ của mỗi người đối với đất nước mình sinh ra.

C TI O

- Giáo dục không chỉ gói gọn trong khuôn khổ nhà trường mà còn có xã hội chính là “trường đời” sẽ mang đến cho mỗi con người những bài học cuộc sống vô cùng quý giá.

U

- Giáo dục bên cạnh tác động thay đổi được nhận thức, thì việc mang đến tri thức và sự hiểu biết cho con người chính là một vai trò to lớn có thể thay đổi được bộ mặt của xã hội.

PR

O D

- Dù bất kì thời đại nào chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò to lớn của giáo dục, nó thật sự là “vũ khí mạnh nhất mà con người có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới”. - Phê phán những hành động sai trái, định hướng không đúng về vai trò của giáo dục.

AN H

3. Bài học nhận thức và hành động

TU

 Như vậy mục đích quan trọng của nền giáo dục chính là hướng chúng ta học làm người, sống có ích, biết cống hiến cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

TH

- Câu nói này chính là chân lí, là kim chỉ nam cho mọi quốc gia đang trên đà xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị…

N

- Phải biết lấy giáo dục làm nòng cốt để đào tạo nên những con người ưu tú biết cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

1. Mở bài

N

Câu 2: (5,0 điểm)

G

U

YE

- Đối với mỗi học sinh, sinh viên nhận thức được ý nghĩa của câu nói này phải càng ra sức phấn đấu không ngừng học tập nghiên cứu trở thành những con người đủ đức đủ tài góp phần đưa đất nước phát triển vươn xa ra tầm thế giới.

Là người, ai cũng có một miền đời để thương nhớ. Có những mảnh đất tuy không phải nơi chôn nhau cắt rốn nhưng vẫn không bao giờ phai mờ trong tâm khảm. Bởi đó là máu thịt, là nơi ghi lại kỉ niệm đẹp nhất của một đời người như Chế Lan Viên đã từng ghi lại cảm xúc chân thành từ lòng mình về mảnh đất Tây Bắc trong Tiếng hát con tàu: Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn. Việt Bắc – quê hương của kháng chiến, cách mạng trong những ngày đầu tiên của nền Dân chủ Cộng hòa đã trở thành biểu tượng của tấm lòng gắn bó thủy chung với cách mạng, dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại mối tình sắt son đậm đà “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” trong bài thơ Việt Bắc, bằng tất cả cảm xúc nồng nàn của một hồn thơ đằm thắm, thủy chung. Trang 3


Qua bao năm tháng, biến động của lịch sử, tiếng nói thiết tha ấy vẫn rung cảm lòng người, Việt Bắc của ngày xưa vẫn nguyên vẹn trong lòng người hôm nay: Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù … Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? Tiếng lòng ân tình ngày ấy phải chăng đã thấm sâu vào mạch ân tình chung thủy của thi ca dân tộc, cho nên khoảng cách thời gian không làm nhạt nhòa ấn tượng về một vùng rừng núi chiến khu xưa hùng vĩ nên thơ? 2. Thân bài 2.1. Khái quát chung

C TI O

N

Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, lá cờ đầu tiên của nền thơ ca cách mạng Việt nam. Mỗi thời kì lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa…

PR

O D

U

Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc Việt Nam. Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại.

TU

Trên đường ta về lại thủ đô

AN H

Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ. (Ta đi tới, Tố Hữu)

N

TH

Sau hơn ba ngàn ngày khói lửa, Thủ đô Hà Nội và miền Bắc hoàn toàn giải phóng (10 - 1954). Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ra đời trong bối cảnh lịch sử hào hùng và vẻ vang ấy. Mang tầm vóc một trường ca, với 150 câu thơ lục bát, bài thơ ca ngợi mối tình Việt Bắc, những kỉ niệm sâu sắc cảm động của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc với bao ân tình thủy chung.

U G

2.2. Phân tích

YE

Phần mở đầu bài Việt Bắc gồm hai mươi câu thơ, là lời đưa tiễn của kẻ ở lại đối với người về, của “ta” đối với “mình”. Đoạn thơ tám câu trên (từ câu chín đến câu mười sáu) nằm trong phần mở đầu bài thơ Việt Bắc.

N

Đoạn thơ đầy ắp kỉ niệm về Việt Bắc: “Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa”, mà “ta” hỏi “mình đi, có nhớ”. Hai chủ thể trữ tình: “Ta” là người ở lại, là đồng bào Việt Bắc, là cô gái Việt Bắc, đang hát lời tiếng đưa “thiết tha bên cồn”. “Mình” cũng là một chủ thể trữ tình phiếm chỉ, ước lệ, cùng với “ta” tạo nên một cặp nhân vật trong giao duyên, đưa tiễn, ở đây là người cán bộ kháng chiến về xuôi, trong đó có nhà thơ. Mỗi cặp lục bát nhắc lại một kỉ niệm về Việt Bắc. Những chi tiết nghệ thuật vừa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng giàu sắc thái biểu cảm. Các câu lục trong đoạn thơ là những câu hỏi tu từ nối tiếp xuất hiện, như nhắc nhở, như gợi nhớ gợi thương: “Mình đi, có nhớ những ngày… Mình về, có nhớ chiến khu… Mình về, rừng núi nhớ ai… Mình đi, có nhớ những nhà”… Điệp ngữ “có nhớ” làm cho cảm xúc thơ lắng đọng, giọng thơ trở nên tha thiết bồn chồn, ngọt ngào sâu lắng. Hai tiếng “mình đi” và “mình về” được luân phiên giao hoán, chuyển đổi một cách uyển chuyển, sinh động, có giá trị gợi lên cảnh chia tay thêm lưu luyến và bâng khuâng, hình ảnh người cán bộ kháng chiến về xuôi mỗi lúc một đi xa dần, nhưng trong lòng vẫn mang theo tiếng hát và nỗi nhớ. Trang 4


Các câu bát trong đoạn thơ đều được tạo thành hai vế tiểu đối 4/4 cân xứng, hài hòa. Những kỉ niệm sâu sắc chứa chan ân tình đối với kẻ ở, người về được nhắc lại gợi lên bao nỗi niềm: “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”… Mình đi rồi, mình có còn nhớ: “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”? Cảnh mưa trắng nguồn, lũ ngập đầy suối, mây mù bao phủ núi rừng… là sự khắc nghiệt của thời tiết, của thiên nhiên Việt Bắc. Mưa, lũ, mây mù còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những gian khổ, thử thách mà quân và dân ta phải trải qua trong những năm dài máu lửa. Mình về rồi, mình có nhớ: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”? Tố Hữu đã lấy cái cụ thể: “miếng cơm chấm muối” để nói lên cái trừu tượng: gian khổ thiếu thốn. “Mối thù nặng vai” cũng là một hình ảnh cụ thể biểu cảm. Mối thù đối với quân xâm lược đè nặng đôi vai, luôn luôn nhắc nhở nuôi dưỡng ý chí chiến đấu để giải phóng đất nước, giành lại tự do, hòa bình cho nhân dân. Không bao giờ có thể quên “mối thù nặng vai” ấy.

Mình về, rừng núi nhớ ai

C TI O

N

Hỏi núi rừng “nhớ ai”, cũng là hỏi “mình về, có nhớ”. Nghệ thuật nhân hóa và đại từ phiếm chỉ “ai” gợi lên bao man mác, bâng khuâng:

U

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

PR

O D

“Trám bùi” “măng mai” là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi bộ đội đánh giặc trong những tháng ngày gian khổ. Hương vị núi rừng ấy tượng trưng cho mối tình Việt Bắc sâu nặng ân nghĩa. Các từ ngữ: “để rụng”, “để già” thoáng chút bùi ngùi, cô đơn, thương nhớ.

TU

Và ở vào giờ phút bịn rịn này, khi về nơi phồn hoa đô hội, liệu “mình” có còn nhớ tấm lòng của người dân Việt Bắc? Mình đi, có nhớ những nhà

AN H

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.

N

TH

Những ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc, nghèo khổ trong dáng vẻ “hắt hiu lau xám” gợi nỗi buồn hiu quạnh. Bên trong “những ngôi nhà” ấy lại chứa đựng tấm lòng son sắt thủy chung, nghĩa tình. Hình ảnh thơ được đặt trong thế tương phản kết hợp với nghệ thuật hoán dụ, nhà thơ đã tô đậm tấm lòng của nhân dân Việt Bắc – những con người đã góp phần làm nên Điện Biên “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”.

N

G

U

YE

Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Nếu Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, thì các cán bộ kháng chiến về xuôi có còn nhớ những kỉ niệm của một thời kháng chiến: Mình về, có nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thưở còn Việt Minh

Câu thơ như một sự nhắc nhở người đi hãy nhớ về núi rừng Việt Bắc nơi căn cứ địa kháng chiến cùng với hai sự kiện lịch sử: “Khi kháng Nhật thưở còn Việt Minh”. Năm 1940 khi Nhật vào xâm lược nước ta. Núi non Việt Bắc bắt đầu vào cuộc chiến đấu. Năm 1941 Việt Nam độc lập Đồng minh (còn gọi là Việt Minh) được thành lập. Đây là phong trào lớn mạnh đã tạo thành một mặt trận vũ trang góp phần làm nên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và tiền đề cho những thắng lợi kháng Pháp sau này. Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa? Chỉ với hai câu thơ, nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm. Câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về Trang 5


xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không? Thay “ta” bằng “mình” để chỉ người Việt Bắc là Tố Hữu muốn nhấn mạnh: “ta” và “mình” đã hòa vào nhau. Dù kẻ ở, hay người đi đều cùng một tâm trạng buồn nhớ như nhau. Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo nghĩa: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ chính mình – nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lí của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính chính trị mà vẫn thấm đượm tình cảm, ân tình như khúc ca tình yêu giữa người ở lại và kẻ ra đi.

G

2.3 Liên hệ

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Đoạn thơ được khép lạ bằng hình ảnh: “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22 – 12 – 1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (sau này là Quân đội Nhân dân Việt Nam); mái đình Hồng Thái gợi nhắc những cuộc họp quan trọng mang tầm chiến lược đi đến sự thắng lợi của cách mạng. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng chính là cái nôi của cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng cách mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa hay không hay là đã thay lòng đổi dạ. Khơi dậy một quá vãng đầy kỉ niệm: cay đắng, ngọt bùi, gian nan, vất vả, người ở lại muốn khẳng định với người ra đi một điều: Nét đẹp cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo khổ mà chân tình rộng mở, sắt son thủy chung với cách mạng, người cũng vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Và cũng chỉ với mười hai câu thơ Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa cách mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng về xuôi, về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp với phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu. Thêm vào đó là một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với điệp từ “nhớ” gợi cho ta cảm nhận được những cung bậc, những sắc thái khác nhau trong tâm trạng của người ở lại.

N

Tố Hữu đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của phong trào Thơ mới 1932 – 1945 về phương diện hình thức biểu hiện là chủ yếu. Từ ấy mới và hiện đại cả về nội dung và hình thức. Nhưng từ tập thơ Việt Bắc – cái tôi cách mạng của Tố Hữu đã có khoảng cách khác biệt rõ rệt với cái tôi của thơ ca lãng mạn. Nếu như ở cái tôi của phong trào Thơ mơi đa phần thể hiện ở cái tôi đậm tính chất khẳng định cá nhân “Ta là một, là riêng, là thứ nhất” như trong thơ Xuân Diệu, thì cái tôi của Tố Hữu lại là cái tôi mang chất cộng đồng, là cái tôi cá nhân cá thể hòa hợp với cái ta chung nhân danh cộng đồng và hướng về giai cấp cần lao. Cái tôi của Tố Hữu là cái tôi biểu hiện của một thanh niên giác ngộ cách mạng, say mê lí tưởng và tinh thần đấu tranh kiên cường cho lí tưởng cộng sản. Cái tôi mang lí tưởng của cái ta chung của cộng đồng thay mặt giai cấp vô sản nói lên tiếng nói chung mang âm hưởng rất riêng. Và nếu như “cái tôi” Thơ mới yêu vẻ đẹp cuộc sống trần gian thì ở Tố Hữu cái tôi cũng thể hiện ở tình yêu cuộc sống và con người. Cái tôi trong phong trào Thơ mới thể hiện là cái tôi mang nỗi u sầu nhân thế, nỗi đau riêng của đời người, của kiếp thi nhân mà được xem như người mặc khách chốn trần gian đang cảm thấy lạc lõng, bơ vơ giữa Trang 6


dòng đời và trong chính bản thân mình. Họ tìm đến cõi mộng, cõi hư vô, hoặc thoát li lên cõi tiên, cõi hư không như lời bình của Hoài Thanh trong Một thời đại trong thi ca: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ra đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lưu, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta say đắm cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận…”. Cái tôi trong phong trào Thơ mới là cái tôi u sầu, bế tắc không tìm được hướng đi. Ta còn bắt gặp một hồn thơ với sự giao hòa của vẻ đẹp cổ điển và hiện đại thể hiện trong Tràng giang”. Huy Cận đã thể hiện một cái tôi trữ tình trực tiếp: Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

“Dợn dợn: là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”: “Không khói hoàng hôn cũng nhà”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước. Câu thơ cũng gợi cho ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng hạc lâu: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà. Còn nhà thơ mới của chúng ta tuy không thấy khói sóng cũng nhớ nhà. Nên nỗi buồn nhớ quê hương của nhà thơ cũng da diết hơn, cháy bỏng hơn. Và có lẽ chỉ đến Thơ mới thì nỗi buồn nhớ quê mới có được cái cảm giác “dợn dợn” như thế và theo Xuân Diệu: “Tuy không khói hoàng hôn nhưng chính là bằng cách ấy tác giả đã đưa thêm khói hoàng hôn của Thôi Hiệu vào bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ nhà của người lữ thứ trước cảnh tràng giang”.

YE

N

TH

Ta chú ý ở câu thơ cuối cùng, bởi vì chính Huy Cận đã từng nói: “Khi viết câu thơ ấy, tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời Đường”. Tuy nhiên ở đây, ta không nói rằng ai buồn hơn ai mà là thể hiện nỗi buồn của thế hệ khi đứng trước tình cảnh quê nhà và sự bộc lộ trực tiếp “cái tôi” của Huy Cận, không cần trên sông có khói sóng nỗi buồn này vẫn thường trực, vẫn cuồn cuộn dâng lên như một con sóng ngầm của tràng giang ngày đêm vỗ vào tâm thức của tác giả. 3. Kết bài

N

G

U

Tóm lại, đoạn thơ trên không chỉ là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Mà nó còn tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian. Đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, Tố Hữu đã ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thủy chung son sắt của Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến. Như vậy, ta thấy được ở Tố Hữu “cái tôi” riêng đã kết hợp với “cái ta” chung, hài hòa giữa yếu tố “trữ tình” và yếu tố “chính trị” để hướng về giai cấp cần lao, giai cấp vô sản để làm nên tình quân dân gắn bó, ân nghĩa, thủy chung.

Trang 7


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 9 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

TU

PR

C TI O U

O D

Đi không há lẽ trở về không? Cái nợ cầm thư phải trả xong Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt Dở đem thân thế hẹn tang(3) bồng(4) Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông Trong cuộc trần ai, ai dễ biết Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.

N

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:

(Trích Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ)

Câu 1: Dựa vào văn cảnh, có thể thấy bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh như thế nào?

AN H

Câu 2: Điển cố “tang điền” giúp anh (chị) hiểu như thế nào quan niệm của Nguyễn Công Trứ về chí làm trai.

TH

Câu 3: Chép lại ít nhất một câu thơ đã học về quan niệm chí làm trai trong xã hội phong kiến. Cho biết sự khác nhau giữa “tiếng” và “danh” trong câu thơ:

YE

N

Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông.

U

Câu 4: Tư tưởng trên có gì mâu thuẫn với tư tưởng của Cao Bá Quát? Phải chăng không nên theo

N

G

đuổi công danh, sự nghiệp. Cần tránh xa vòng danh lợi để rước họa vào thân? Xưa nay phường danh lợi Tất cả trên đường đời Đầu gió hơi men theo quán rượu Người say vô số, tỉnh bao người. (Trích Bài ca ngắn đi trên bãi cát, Cao Bá Quát) Bàn luận về vấn đề này trong một đoạn văn ngắn. (3)

Tang: Cây dâu, lá dùng để chăn tằm, quả chín ăn ngon gọi là tang thẩm.

(4)

Bồng: Cỏ bồng. Mùa thu thì chết khô, gió thổi bay tung gọi là phi bồng.

Tang hồ bồng thỉ, nghĩa là cung làm bằng gỗ dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Tục Trung Hoa ngày xưa, hễ sinh con trai thì dùng loại cung tên này bắn lên sáu phát; một phát lên trời, một phát xuống đất và bốn phát theo bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.

Trang 1


II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: “Chuyện đỗ, trượt trong thi cử”. Câu 2 (5,0 điểm): Về hình tượng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường có ý kiến cho rằng: “Vẻ đẹp nổi bật của sông Hương là cảnh sắc thơ mộng tình tứ”. Ý kiến khác lại cho rằng: “Vẻ đẹp bề sâu của sông Hương là trầm tích văn hóa, lịch sử”. Bằng cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sông Hương, hãy làm sáng tỏ các nhận định trên. Từ đó, anh (chị) hãy cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông đất Việt qua hai đoạn trích thơ dưới đây: - Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

C TI O

N

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?

(Trích Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử, SGK Ngữ văn 11,

U

Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 39)

O D

- Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

PR

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều. Bát ngát sóng kình muôn dặm,

TU

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu,

TH

AN H

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu (Trích Phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu, SGK

Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 4)

YE

N

-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

U

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

G

Câu 1: - Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:

N

+ Đang trên đường đi thi để trả nợ công danh. + Con đường thi cử lận đận và gian truân. Câu 2: - Điển cố “tang bồng”: + Sống trên đời người con trai phải có chí lớn. + Hai vai gánh vác sơn hà. + Tung hoành ngang dọc khắp bốn phương trong trời đất. Câu 3: - Quan niệm chí làm trai trong xã hội phong kiến: + Trai thì đọc sách, ngâm thơ/ Dùi mài kinh sử để chờ nở hoa (Ca dao). + Công danh nam tử con vương nợ/ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu (Tỏ lòng, Phạm Ngũ Lão). Trang 2


+ Vũ trụ nội mạc phi phận sự (Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ). + Làm trai phải lạ trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời (Xuất dương lưu biệt, Phan Bội Châu). + Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn/ Lừng lẫy làm cho lở núi non (Đập đá ở Côn Lôn, Phan Châu Trinh). - Sự khác nhau giữa “tiếng” và “danh”: + Tiếng: Chỉ thân phận nam nhi trong trời đất; những việc làm thực hiện hoài bão ngang dọc. + Danh: Sự ghi nhận việc làm đó trên bia đá bảng vàng; để lại tiếng thơm muôn đời nhờ tài năng, công đức. Câu 4: - Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ: + Coi danh gắn liền với nợ. + Đỗ đạt làm quan để giúp nước giúp dân.

N

+ Khát khao theo đuổi công danh.

C TI O

- Tư tưởng của Cao Bá Quát: + Danh vị giống như là thứ rượu ngon làm say lòng người.

U

+ Danh gắn với sự vụ lợi và ích kỉ.

O D

+ Danh phải gắn với thực để thay đổi thời đại. II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

PR

Câu 1: (2,0 điểm)

TU

A. Về kĩ năng

- Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

AN H

- Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức

TH

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:

N

1. Mở đoạn

YE

- Trên con đường chinh phục tri thức của nhân loại chẳng ai mà không biết đến hai chữ: “đỗ – trượt”.

G

U

- Có lẽ đó là cặp từ gắn liền với cuộc sống, với tâm trí của những con người đã – đang và sẽ đi tìm con đường đến tri thức. Từ ngàn xưa đã vậy.

N

- Chắc hẳn các bạn đã có lần đọc văn bản Đi thi tự vịnh của Nguyễn Công Trứ, một sĩ tử có mong ước chinh phục con đường gian nan ấy. Tôi đã đọc, và suy ngẫm. Văn bản ấy làm đọng lại trong tôi biết bao tâm trạng về vấn đề thi cử trong cuộc sống xưa và nay. 2. Phân tích và chứng minh - Hiện nay nền giáo dục nước ta vẫn còn căn bệnh thành tích: + Việc thi đua giữa các khu vực, các trường, các thầy cô và giữa các học sinh với mục đích khiến mọi người coi trọng học tập, thi đua để giành kết quả tốt nhất nhưng lại vô tình khiến căn bệnh thành tích ngày càng trở nên trầm trọng. + Chính việc đó đã ảnh hưởng rất lớn đến phụ huynh, học sinh, ai cũng mong con em mình đỗ và không chấp nhận việc con em mình thi trượt. + “Trượt” không chỉ làm xấu mặt gia đình, thầy cô dạy, nhà trường, làm giảm thành tích… do vậy nhiều người không cần biết con em mình, học trò mình có kiến thức không mà thúc ép, tìm mọi cách để “đỗ”. Còn Trang 3


học sinh, ai lại muốn mình trượt? - Việc “đỗ – trượt” của học sinh đã trở thành một vấn đề hết sức sôi nổi mỗi khi hè đến, kì thi tới đặc biệt là ở kì thi chuyển cấp, thi đại học, nó được sự quan tâm của cả cộng đồng và nhất là những người liên quan. 3. Bàn luận và mở rộng - Xưa nay, chuyện đỗ – trượt gắn liền với sự học của học sinh. Chăm chỉ thì đỗ còn lười nhác thì trượt. Bây giờ, sự đỗ – trượt đó có sự biến tướng đi chút ít. Nhiều khi học sinh học kém nhưng vẫn đỗ vì họ chăm chỉ nên học đúng phần thi, học tủ không may trúng tủ, chép được bài của bạn hoặc “copy”… hoặc do chọn trường thi phù hợp với lực học, điểm vào không cao. Ngược lại, trượt do tâm lí hôm thi thí sinh mất bình tĩnh, lệch tủ, đề quá khó ôn không trúng, điểm thi khá cao nhưng chọn trường quá tầm… Việc trượt – đỗ cũng có phần của “vận may” bên cạnh việc ôn tập của học sinh.

O D

U

C TI O

N

- “Đỗ” đương nhiên là ai cũng muốn, thế nhưng việc “đỗ” có phải là tất cả? Nhiều bạn coi việc thi trượt như một điều cực kì kinh khủng, khó chấp nhận. Do nhiều sức ép từ cha mẹ và cảm tưởng ánh mắt khinh thị của bạn bè, thầy cô nên rất nhiều trường hợp học sinh thi trượt thì tự tử, trầm cảm, hoặc không dám đi đâu… Tổng thống Mĩ A. Lincon trong thư gửi hiệu trưởng có viết: “Ở trường xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi trượt còn vinh dự hơn gian lận trong khi thi”. Đúng vậy, thi trượt nhưng là ta đã thi trung thực, làm bài rất cố gắng đáng để ngẩng cao đầu hơn những kẻ đỗ nhờ lót chân trong chạy chọt, quay cóp, nhìn bài bạn…

TU

PR

- Xã hội quá trọng cái danh, cái thành tích mà không hề nghĩ đến chất lượng. Sẽ ra sao nếu các học sinh yếu, kém bị thi trượt mà vẫn đỗ làm bác sĩ, y tá, giáo viên, kĩ sư. Họ có cái danh đấy nhưng năng lực đâu ra? Họ nắm giữ các ngành trọng điểm, hàng đầu thì những thế hệ sau và xã hội sẽ loạn như thế nào?

N

TH

AN H

- Cần phải chấp nhận thực tế rằng con cái của chúng ta lực học được đến đâu để có những định hướng về trường thi, nghề nghiệp cho con em mình chứ không vì cái oai của mình mà thúc ép con em mình học, bắt con mình phải đăng kí trường này trường nọ, nếu không đủ thì chạy cho con dù có mất bao nhiêu tiền. Đó quả là một sai lầm lớn, không chỉ gây hại cho xã hội, cho tương lai đất nước mà còn khiến cho chính con em mình một áp lực học tập nặng nề vượt quá khả năng bản thân dễ dẫn đến những rối loạn tâm lí, trầm cảm hoặc khủng hoảng đầu óc…

YE

4. Bài học nhận thức và hành động

N

G

U

- Thất bại là mẹ thành công. Trượt cũng chưa hẳn là đã hết, chỉ là thành công đến muộn mà thôi. Đỗ chắc gì đã tốt, nếu một người chưa trải qua thất bại họ dễ dẫn đến tâm lí tự phụ, kiêu căng cho mình là giỏi nhất, khi gặp các vấn đề dễ dẫn đến tâm lí khó chấp nhận sự thực. Trượt – khiến bạn rèn luyện sự kiên cường giúp vượt qua mọi khó khăn, khiến bạn có nghị lực để tiến lên. Biết đâu, lùi một bước để tiến ba bước. Đương nhiên, nói như thế không có nghĩa là khuyến khích thi trượt? Thành công đến chỉ với những con người biết cố gắng. - Trượt – đỗ là chuyện thường tình trong học tập, có học tập, có thi cử, có đỗ – trượt. Biết mình biết người, biết chấp nhận thất bại, biết nỗ lực cố gắng – đó mới là cái quan trọng giúp bạn có được thành công thực sự trong tương lai. Các bậc phụ huynh hãy luôn sát cánh bên con em mình cổ vũ, hiểu con em mình – đó cũng là một động lực lớn khiến cho các sĩ tử thấy cố gắng hơn và đỡ áp lực hơn. Câu 2: (5,0 điểm) 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Trang 4


Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát. (Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm) Tổ quốc Việt Nam có trăm núi nghìn sông diễm lệ, có biết bao lời thơ, câu hát và trang văn đã cất lên để ngợi ca sông núi. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trường hợp như thế. Tác phẩm không chỉ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo mà còn bộc lộ tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà văn đối với mảnh đất miền Trung của Tổ quốc. - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Chính vì vậy mà khi bàn về hình tượng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Của Hoàng Phủ Ngọc Tường có ý kiến cho rằng: “Vẻ đẹp nổi bật của sông Hương là cảnh sắc thơ mộng tình tứ”. Ý kiến khác lại cho rằng: “Vẻ đẹp bề sâu của sông Hương là trầm tích văn hóa, lịch sử”, có thể thấy các ý kiến đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của Hương giang xứ Huế mộng mơ.

C TI O

N

2. Thân bài 2.1. Khái quát chung

PR

O D

U

- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Tác phẩm có rất nhiều ánh lửa của tình yêu thiên nhiên đất nước và con người Việt Nam; kết hợp chặt chẽ giữa trí tuệ và trữ tình, nghị luận sắc bén và suy tư nhiều chiều, tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng. “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất nước ta hiện nay” (Nguyên Ngọc)… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích mê đắm và tài hoa.

AN H

TU

- Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Với sự tinh tế của một nghệ sĩ, với tình yêu dòng sông Hương của xứ Huế mộng mơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả thành công vẻ đẹp dòng sông Hương. 2.2. Giải thích ý kiến

TH

- Vẻ đẹp nổi bật vẻ đẹp hiện lên trên “bề nổi” thường gây ấn tượng vượt trội, dễ dàng cảm nhận bằng trực quan. Ý kiến thứ nhất coi cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trữ tình là nét đẹp nổi bật của Sông Hương.

YE

N

- “Vẻ đẹp bề sâu” là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp, không dễ dàng phát hiện mà đòi hỏi phải có tri thức phong phú, những chiêm nghiệm sâu sắc mới khám phá ra được. Ý kiến thứ hai coi những trầm tích văn hóa, lịch sử là vẻ đẹp bề sâu của sông Hương.

U

2.3 Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương theo định hướng ý kiến

G

2.3.1. Cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ

N

a. Sông Hương thuộc thành phố duy nhất - Sông Hương là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà đất trời tặng riêng cho xứ Huế. Suốt hành trình từ thượng nguồn xa xôi đến khi đổ ra biển lớn, sông Hương vẫn nằm trong vòng tay ôm ấp của xứ Huế mộng và thơ. - Nghĩ đến tình yêu chung thủy của Hương giang dành cho xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường không khỏi bồi hồi xúc động: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Chỉ bằng một câu văn giản dị, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ghim vào lòng người đọc vẻ đẹp độc đáo của sông Hương. b. Sông Hương ở thượng nguồn - Sông Hương “là bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hoành tráng, dữ dội khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Và sông Hương khi “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Sử dụng Trang 5


động từ, tính từ mạnh diễn tả vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn mang sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính. Hình ảnh có sức gợi, sức liên tưởng cao khiến người đọc cảm nhận sông Hương như một thực tế tràn đầy nhựa sống, mạnh mẽ và cá tính. - Sông Hương như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, có “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” và sông Hương như một cô gái đã bị “chế ngự sức mạnh bản năng” “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”, “là người mẹ phù sa”, mang vẻ đẹp còn phong kín, bí ẩn. Các từ đi theo cặp, có sự hòa thanh kết hợp với thủ pháp so sánh, nhân hóa khiến sông Hương giống như là cô gái đẹp, cá tính luôn căng tràn sức sống lại giống như người mẹ hiền nuôi dưỡng sự sống. Sông Hương mang nét đẹp của con người xứ Huế, là một phần của Huế hay chính sông Hương đã góp phần tạo nên một tạng riêng của con người xứ Huế.

N

 Thủ pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng kì thú, độc đáo kết hợp với cách sử dụng hình ảnh ấn tượng để làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn, một dòng sông hoang dại, phóng khoáng nhưng không kém phần trữ tình, bí ẩn.

C TI O

c. Sông Hương ở ngoại vi thành phố

 Về đến đồng bằng, sông Hương có những thay đổi và bộc lộ nhiều vẻ đẹp đa dạng:

U

- Thay đổi:

O D

+ Thay đổi về tính cách: “mang sắc một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.

TU

PR

+ Thay đổi về hình dáng: “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “mềm như tấm lụa”, “uốn một cánh cung rất nhẹ…; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”.

TH

AN H

 Những thay đổi về mặt tự nhiên có thể giải thích được lại được tác giả giải thích bằng một tầm nhìn khác: dường như những thay đổi của sông Hương không phải do địa hình tự nhiên mà nó là bản chất, là thuộc tính của dòng Hương Giang. Về đến đồng bằng, con sông đã thực sự trở về với tính cách dịu dàng mềm mại linh hoạt. Từ tượng hình và cách liên tưởng táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đang nhìn sông Hương như một người con gái đáng yêu của xứ sở mình.

N

G

U

YE

N

- Vẻ đẹp đa dạng: cảnh đẹp sông Hương như bức tranh nhiều đường nét: Vẻ đẹp đa màu sắc, biến ảo: “sắc nước trở nên xanh thẳm”, “những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím””  cho thấy sự quan sát tinh tế, sâu sắc. Vẻ đẹp trầm mặc mang màu sắc triết lí, cổ thi: sông Hương chảy dưới chân những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ  nếu không sống, hiểu và hoài niệm về sông Hương thì tác giả không thể có cái nhìn đầy suy tư và chiêm nghiệm như thế. Để thấu thị được vẻ đẹp đó, nhà văn phải là người am hiểu lịch sử của dòng sông. Vẻ đẹp vui tươi giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô. Vẻ đẹp mơ màng trong sương khói khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ.  Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải đang viết về sông Hương như một cảnh đẹp tự nhiên của xứ Huế mà là đang viết về sông Hương như một người con của mảnh đất quê hương, một phần cơ thể của xứ Huế thơ mộng, lãng mạn và trữ tình. Thủ pháp so sánh, liên tưởng rộng tự do phóng khoáng rất đặc trưng của kí đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường sử dụng tối đa đã mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Trong cái nhìn sâu sắc tinh tế và lãng mạn của tác giả, thủy trình của dòng sông Hương như cuộc tìm kiếm tình nhân của người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. d. Cảnh sắc sông Hương ở trong lòng thành phố - Vẫn là thái độ và cử chỉ của người tình đang yêu khi tả sông Hương vào gặp thành phố cổ: “vui tươi hẳn Trang 6


lên”, uốn một cánh cung rất nhẹ, mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói của tình yêu”. Cách so sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh cung của dòng sông  cái nhìn tình từ, thống nhất, đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo.

C TI O

N

- Liên tưởng của tác giả: So sánh mở rộng với sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét để thấy sự tương đồng – những dòng sông chảy qua, giữa lòng thủ đô, thành phố châu Âu, châu Á. So sánh với dòng Nê-va chảy qua Pê-téc-bua (Nga) để lắng nghe được cái nhịp chậm rãi buồn bâng khuâng của điệu slow, ngập ngừng nửa đi nửa ở trước khi dòng sông xuôi ra biển cả như nỗi vương vấn, và chút lẳng lơ, kín đáo. Đánh thức trong tâm hồn giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại: muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh qua, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo.  Hai nghìn năm trước: triết gia Hi Lạp đã “khóc suốt đời vì dòng sông trôi đi quá nhanh”. Nhớ lại con sông Hương: “quý điệu chảy lững lờ của nó khi đi ngang thành phố”  điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.

TU

2.3.2. Vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn văn hóa

PR

O D

U

 Nét độc đáo nhất của dòng sông Hương đoạn này chính là ở những chi tiết và suy tư cảm nhận của một người con rất yêu, rất hiểu dòng sông và kinh thành Huế. “Hành trình của sông Hương từ nguồn ra biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế” (Trần Đình Sử); nghệ thuật nhân hóa khiến Hương Giang giống như một người gái đẹp đang đi tìm người tình mong đợi – một hành trình gian truân và cũng không hề ngắn ngủi, một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó; sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và nghĩa tình.

TH

AN H

 Hoàng Phủ Ngọc Tường không quan sát sông Hương như người khách phương xa ngỡ ngàng, bất ngờ về vẻ đẹp của dòng sông, mà cầm bút với tâm thế của người con của xứ Huế. Am hiểu sâu sắc và dành một tình yêu lớn lao cho Huế và cho sông Hương. Vì thế, ông nhìn sông Hương trong chiều sâu văn hóa của nó. Sông Hương được cảm nhận từ nhiều góc độ. a. Từ góc độ hội họa

G

U

YE

N

- Sông Hương cùng những chi lưu của nó tạo nên những đường nét tinh tế làm nên vẻ đẹp cố đô: “kéo một nét thẳng thực… chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”… “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít”;… “những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”…

N

b. Từ góc độ âm nhạc

- “Con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.  Dòng chảy con sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế. - “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. - “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.  Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn phát hiện sâu sắc: bản đàn của xứ Huế chính là “bản đàn đã đi suốt đời Kiều” và “Tứ đại cảnh!” đã kịp vọng vào trong bản đàn của Kiều, trở thành tiếng nói đồng điệu với tâm hồn Kiều. c. Từ góc độ thi ca

Trang 7


- “Có một dòng thi ca về sông Hương”, “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.  Sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận. - Mỗi nhà thơ có một khám phá riêng về nét đẹp của dòng sông này: + Tản Đà: “Dòng sông trắng – lá cây xanh”.  Từ xanh biếc thường ngày bỗng thay màu rực rỡ, bất ngờ. + Cao Bá Quát: “như kiếm dựng trời xanh”  hiên ngang hùng tráng. + Bà Huyện Thanh Quan: “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng”. + Tố Hữu: “sức mạnh phục sinh trong tâm hồn”; trong sự đồng cảm cùng đại thi hào Nguyễn Du.  Sông Hương mang đến niềm cảm hứng bất tận, mới mẻ cho các nghệ sĩ. Các tác giả, tác phẩm viết về Huế và dòng sông Hương: Thu Bồn, Nguyễn Trọng Tạo, Hàn Mặc Tử… d. Dòng sông Hương với những phong tục, vẻ đẹp tâm hồn người dân xứ Huế

C TI O

N

- Màn sương khói trên sống Hương là màu áo điều lục, một sắc áo cưới mới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng. - Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: dịu dàng, trầm tư.

PR

O D

U

 Từ đầu đoạn trích, miêu ta về sông Hương, nhưng không phải như một phong cảnh đẹp mà tác giả khắc họa nó giống như một con người xứ Huế (cô gái Di-gan, mẹ phù sa…) gần gũi, thân thiết, giàu tình cảm. Dòng sông hiện diện như một bức tranh có đường nét, lại được khám phá, phát hiện dưới góc nhìn của âm nhạc, thi ca và gắn liền với phong tục của người dân xứ Huế.

TH

AN H

TU

 Đoạn văn thể hiện sự uyên bác tài hoa của tác giả trong cái nhìn liên tưởng độc đáo cùng với những triết luận sâu sắc về mối quan hệ giữa dòng sông với thi ca, nhạc, họa. Am hiểu sâu sắc về hội họa, âm nhạc và thi ca, điểm nhìn xuyên suốt từ truyền thống đến hiện đại, đậm chất hoài niệm, suy tư (đặc biệt trong cái nhìn đồng cảm và phát hiện với Nguyễn Du và Kiều). Ngôn từ chau chuốt, mềm mại, giàu chất thơ. Hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo (sông Hương như người tài nữ, là dòng sông không tự lặp lại mình… 2.3.3. Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với các sự kiện lịch sử

YE

N

- Dòng sông Hương không chỉ mang trong mình nét đẹp tự nhiên với những đường nét mềm mại, không chỉ nổi bật trên nền văn hóa cổ kính, trầm lắng mà còn khiến tác giả ấn tượng mạnh mẽ về bề dày lịch sử của nó. Sông Hương đã lớn lên và âm thầm phát triển bên cạnh sự phát triển của xã hội loài người.

N

G

U

- Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thủa còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Tên của sông Hương được ghi trong Dư địa chí (1435) của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang (nghĩa là dòng sông thiêng). Dòng sông ấy là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ. Thế kỉ XIX, nó đọng lại với máu của những cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám với những chiến công rung chuyển. Cuộc tiến công mùa xuân Mậu Thân (1968), bị tàn phá nặng nề xong vẫn kiên trinh với lời thề sắt đá.  Sông Hương là một chứng nhân lịch sử, đã gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc. Là người bảo vệ kinh thành như vua Thiệu Trị từng viết “Nhất uyên ương hộ đế thành” (Một dòng sông thẳm bảo vệ kinh thành); dòng sông ấy sẵn sàng “tự hiến đời mình làm một chiến công” cho đất nước; và làm “một người con gái dịu dàng của đất nước”. Sông Hương, là “người lưu dấu ngàn năm”, là “con mắt của cựu thần kinh”, là “trái tim của xứ Huế”. Vẻ đẹp sử thi của sông Hương là vẻ đẹp của những chiến công gắn với mốc lịch sử trọng đại của đất nước. Nhưng cái độc đáo và tinh tường của tác giả thể hiện ở chỗ phát hiện ra chất thơ trong Trang 8


sử. Chính diện mạo và chiều sâu của lịch sử dân tộc khi in bóng xuống dòng sông đã mang lại cho sông Hương một tầm vóc kì vĩ, lớn lao, một ý nghĩa thiêng liêng và một tinh thần bất diệt. Nhìn sông Hương trong sự vận động: từ một con sông địa lí trở thành con sông lịch sử; từ một người con gái đẹp và tài hoa trở thành người con gái kiên cường của đất nước. Sông Hương không chỉ in dấu lịch sử, song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử của riêng nó. 2.4. Bình luận ý kiến - Khám phá vẻ đẹp sông Hương dễ dàng nhận thấy, hai ý kiến nhận xét đều phù hợp và có cơ sở, không đi vào cụ thể chi tiết, hai ý kiến đều vươn tới tầm khái quát cao. Ý kiến thứ nhất nghiêng về ngợi ca khẳng định vẻ đẹp thơ mộng của cảnh sắc thiên nhiên địa lí. Ý kiến thứ hai lại đi sâu khám phá giá trị văn hóa lịch sử của dòng sông.

N

- Mối quan hệ giữa hai ý kiến: hai ý kiến có vẻ khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung, tương hỗ cho nhau, hợp thành cái nhìn toàn diện thống nhất về vẻ đẹp của Hương giang xứ Huế.

C TI O

2.5. Liên hệ a. Khổ thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ

PR

O D

U

- Đây thôn Vĩ Dạ thuộc thể loại thơ điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được khởi nguồn cảm hứng từ tấm bưu thiếp và lời hỏi thăm của Hoàng Thị Kim Cúc – người con giá thôn Vĩ mà Hàn Mặc Tử từng thầm thương trộm nhớ. Bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn cô đơn của tác giả trong một mối tình xa xăm, vô vọng, một tấm lòng thiết tha của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người.

TU

- Ở khổ thơ đầu, dẫu chỉ trong tâm tưởng nhưng nó là cảnh chân thực trong hồi ức, nhưng đến khổ hai mọi thứ đã đã trở nên mờ ảo hơn, mờ mờ ảo ảo qua cách nhảy cóc quen thuộc siêu lôgic của thơ điên.

AN H

- Mở đầu khổ thơ vẫn là những cảnh thực đẹp tới nao lòng về con sông Hương trong đêm trăng có gió thổi, mây vờn nhè nhẹ, với dòng nước chảy chầm chậm buồn thiu như để hòa hợp với sự nhẹ lay của hoa bắp, mới chớp mắt đó thôi cảnh đã được chuyển từ thực sang ảo: “Gió theo lối gió, mây đường mây”.

G

U

YE

N

TH

- Nỗi niềm tiếc nuối chia li đó mang theo nỗi lòng Hàn Mặc Tử gửi gắm trong dòng sông Hương thơ mộng: “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Trong khung cảnh sông nước ấy, thời gian biến chuyển linh hoạt. Thoắt cái, cảnh đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?”. Đây là cảnh thực mà cứ như ảo, vì dòng sông ở đây không chỉ là dòng sông của sóng nước mà còn là dòng sông của ánh sáng lấp lánh trăng vàng. Cũng vì thế, con thuyền vốn là cảnh thật nay trở thành một hình ảnh của mộng tưởng.

N

b. Khổ thơ trong Phú sông Bạch Đằng - Trong lịch sử Văn học nghệ thuật Việt Nam, nhiều địa danh của đất nước đã trở thành những đề tài hấp dẫn, vì ghi dấu những chiến công vĩ đại như Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa, sông Lô… Nhưng gợi nhiều cảm hứng nhất có lẽ phải kể đến sông Bạch Đằng lịch sử – nơi đã từng diễn ra những trận đánh quyết liệt chống quân xâm lược phương Bắc. - Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu đưa đến cho người đọc là sự bề thế rộng lớn và sức sống bền bỉ muôn đời của Bạch Đằng giang. Con sông này thật hùng vĩ, bởi rộng “bát ngát” và dài “muôn dặm”. Như vậy nó không những là đại giang mà còn là trường giang (Bát ngát sóng kình muôn dặm) với bao lớp sóng lớn trùng điệp. - Cái tài của Trương Hán Siêu là ở chỗ ngay trong khi miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ của Bạch Đằng giang vẫn gợi lên được những nét đìu hiu, hoang vắng cho thấy dấu của những trận chiến kinh thiên động địa năm xưa vẫn còn đó. Trang 9


2.6. Đánh giá và nhận xét - Có thể thấy cả ba tác giả đều gắn bó, yêu quý và tự hào về dòng sông của quê hương, đất nước mình nên mới có những câu văn, vần thơ thấm đẫm tình cảm như thế. - Đề tài về dòng sông không phải là đề tài mới trong văn học nghệ thuật, trước Trương Hán Siêu, Hàn Mặc Tử, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có rất nhiều những tao nhân mặc khách cũng như các nhà văn, nhà thơ đã họa hình, khắc nét về những dòng sông thơ mộng, trữ tình. Tuy nhiên người đọc có thể nhận thấy sự khám phá riêng của mỗi tác giả trong từng tác phẩm của mình khi viết về dòng sông để gửi gắm những nỗi niềm tâm tự, tự hào:

C TI O

N

+ Làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là tình yêu đắm say với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ, đến với tiếng gà Bao Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với những con người thủy chung trọn tình trọn nghĩa, là đến với những bài ca điệu hò dân gian dịu ngọt. Tác giả bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Đã nói hộ lòng ta những tình cảm sâu sắc, tốt đẹp ấy.

PR

O D

U

+ Đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ thực sự là một đoạn thơ đậm chất Huế, là tiếng lòng của thi sĩ họ Hàn tha thiết yêu đời, yêu người. Đoạn thơ không chỉ khắc họa đầy đủ tâm cảnh, phong cảnh mang nội dung sâu sắc, mới mẻ mà còn có sự độc đáo trong việc sử dụng nghệ thuật với những hình ảnh mang tính biểu tượng, ngôn ngữ tinh tế, biểu cảm cùng bút pháp gợi tả hấp dẫn, sinh động tạo cho đoạn thơ những chiều sâu không thể nào kể hết.

AN H

TU

+ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu xứng đáng là một trong những kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm là bài ca yêu nước tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc; là khúc ca ca ngợi lí tưởng chính nghĩa của dân tộc ta. Tên tuổi của những anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn… và những chiến công lẫy lừng của họ sẽ trường tồn cùng dòng sông Bạch Đằng lịch sử.

YE

N

TH

- Đến với sông Hương quá bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Của Hoàng Phủ Ngọc Tường, và sông Hương qua thi phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử; đến với Bạch Đằng giang trong Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu người đọc sẽ thấy yêu và gắn bó hơn với dáng hình và dòng chảy của những dòng sông trên mảnh đất hình chữ S thân thương. Những dòng sông ấy sẽ mãi là kỉ niệm đẹp: “Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi/ Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ” (Quê hương, Tế Hanh). 3. Kết bài

N

G

U

- “Thế giới không phải được tạo lập một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới tạo lập” (Mác-xen Prút). Điều quan trọng nhất trong nghề văn là tác giả phải in được dấu ấn riêng, có cách cảm nhận riêng, không trộn lẫn với ai. Với thiên tùy bút lấp lánh bao ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ghi được dấu ấn riêng như thế để vẻ đẹp thơ mộng, tình tứ đằm sâu giá trị văn hóa lịch sử sông Hương mãi ám ảnh tâm trí người đọc. Vẫn là dòng Hương Giang êm trôi tự tình ấy đã chở những thuyền trăng mơ mộng để chàng lãng khách họ Hàn phiêu du trong mối tình đằm thắm, chân thành và ngọt ngào yêu thương trong Đây thôn Vĩ Dạ. Và ta càng tự hào biết bao về dòng sông Bạch Đằng lịch sử ghi dấu chiến công của thời đại máu lửa oai hùng của dân tộc trong Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu. - Mãi mãi và muôn đời sau những dòng sông trên đất Việt thân yêu cứ chảy và chảy mãi không ngừng; những dòng sông ấy chảy đổ về đại dương mênh mông, cuộn chảy và chở nặng phù sa bồi đắp cho ruộng vườn; và hơn hết những dòng sông như Hương Giang, Bạch Đằng còn ghi dấu biết bao chiến công oanh liệt của dân tộc Việt Nam.

Trang 10


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 10 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

C TI O

N

HOA HỒNG TẶNG MẸ

U

Anh dừng lại mua hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện nhân ngày 8/3. Mẹ anh sống cách chỗ anh ở khoảng 300km. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao lại khóc. Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu – nó nức nở - nhưng cháu chỉ có 75 xu trong khi giá bán hoa hồng đến 20 đô la. Anh mỉm cười và nói với nó:

-

Đến đây chú sẽ mua cho cháu. Anh liền mua cho cô bé và đặt một bó hồng gửi cho mẹ anh, Xong xuôi, anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không. Nó vui mừng nhìn anh trả lời:

-

Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu. Nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có phần mộ vừa đắp. Nó chỉ vào ngôi mộ và nói:

-

Đây là nhà của mẹ cháu. Nói xong, nó ân cần đặt bông hoa hồng lên mộ. Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa hủy bỏ dịch vụ gửi hoa và mua một bó hoa hồng thật đẹp. Suốt đêm đó anh đã lái xe một mạch 300km về nhà để trao tận tay mẹ bó hoa.

TH

AN H

TU

PR

O D

-

(Dẫn theo Quà tặng cuộc sống)

YE

N

Câu 1: Phương thức biểu đạt của câu chuyện trên là gì? Câu 2: Nội dung câu chuyện trên là gì?

G

U

Câu 3: Theo anh chị, hai nhân vật: em bé và anh thanh niên, ai là người con hiếu thảo? Tại sao anh thanh niên lại hủy điện hoa để cả đêm lái xe về trao tận tay mẹ bó hoa?

N

Câu 4: Thông điệp muốn mà văn bản muốn gửi lại cho chúng ta là gì? Đọc xong câu chuyện trên, anh chị nghĩ đến câu tục ngữ, ca dao nào? Hãy ghi lại câu tục ngữ hay ca dao đó? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về nội dung được nêu ở phần Đọc hiểu: “Tình mẫu tử”. Câu 2 (5,0 điểm): Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở

Trang 1


Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ. (Trích Sóng, Xuân Quỳnh, SGK Ngữ Văn 12, Tập một,

N

NXB Giáo dục, Việt Nam, 2019, trang 155)

U

C TI O

Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ trên. Từ đó liên hệ với khổ thơ cuối bài thơ Vội Vàng – Xuân Diệu để nhận xét về khát vọng sống và khát vọng tình yêu của hai nhà thơ.

O D

-------------------- HẾT --------------------

PR

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

TU

Câu 1: - Phương thức biểu đạt: Tự sự và biểu cảm

AN H

Câu 2: - Nội dung câu chuyện: Ngợi ca lòng hiếu thảo của cô bé mồ côi và bài học về cách ứng xử với các đấng sinh thành trong cuộc sống. Câu 3:

TH

- Trong câu chuyện trên, cả cô bé và anh thanh niên đều là những người con hiếu thảo.

G

U

YE

N

- Vì cả hai người đều nhớ đến mẹ, đều biết cách thể hiện lòng cảm ơn đến mẹ. Tuy nhiên, hành động cảm ơn của hai người lại bộc lộ theo hai cách khác nhau. Mẹ cô bé đã mất, cô vẫn muốn tự tay đặt bó hoa hồng lên mộ mẹ. Anh thanh niên cũng muốn tặng mẹ hoa nhưng vì xa xôi nên muốn dùng dịch vụ gửi quà. Nhưng sau khi chứng kiến tình cảm của cô bé dành cho mẹ anh đã nhận ra được ý nghĩa thực sự của món quà.

N

- Người thanh niên hủy điện hoa vì anh được đánh thức bởi hành động cảm động của cô bé. Vì anh hiểu ra rằng, bó hoa kia không mang lại hạnh phúc và niềm vui bằng việc anh xuất hiện cùng với tình cảm chân thành của mình dành cho mẹ. Và điều mẹ cần ở anh là thấy anh mạnh khỏe, an toàn. Đó là món quà ý nghĩa nhất với mẹ. Câu 4: - Thông điệp mà văn bản muốn gửi lại cho chúng ta là: cần yêu thương trân trọng đấng sinh thành, nhất là người mẹ đã chịu nhiều vất vả, hi sinh. Trao và tặng là cần thiết nhưng trao và tặng như thế nào mới là ý nghĩa là điều mà không phải ai cũng làm được. - Thí sinh có thể dẫn ra một trong những câu ca dao, tục ngữ sau: Công cha như núi Thái Sơn Trang 2


Nghĩa mà như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi Ngó không thấy mẹ bùi ngùi nhớ thương. Mẹ già đầu bạc như tơ Lưng đau con đỡ mắt mờ con nuôi. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1:

C TI O

- Bài viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

N

A. Về kĩ năng

O D

U

- Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức

PR

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Mở đoạn

AN H

TU

- Trong cuộc sống nhộn nhịp, tất bật này có lúc ta vô tình lướt qua những điều tưởng chừng như nhỏ nhoi để rồi khi dừng lại tại một khoảng lặng ngắn và nghĩ lại…ta mới ngỡ ra rằng nó thật ý nghĩa. Đó dường như là sự vô tâm của con người khi mải mê hướng tới cái gì đó to lớn hơn mà quên rằng chính điều bé nhỏ ấy lại là một phần quan trọng để làm nên ý nghĩa tươi đẹp của cuộc sống.

N

2. Nêu khái quát câu chuyện

TH

- Và câu chuyện Hoa hồng tặng mẹ là câu chuyện cảm động về tình mẫu tử. Hơn thế nữa nó còn mang một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

N

G

U

YE

- Câu chuyện kể về hai người con mua hoa tặng mẹ. Nó không đơn thuần chỉ có vậy. Hai người con một lớn một nhỏ mua hoa trong hai hoàn cảnh khác nhau. “Anh dừng lại tiệm bán hoa để mua hoa tặng me. Mẹ anh sống cách chỗ anh khoảng 300km”. Hành động dừng lại và mua hoa tặng mẹ là một hành động rất đỗi bình thường của những đứa con – anh cũng vậy! “Nhưng khi bước ra khỏi xe anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vìa hè”, câu chuyện bắt đầu từ đây. - Cô bé ấy không có đủ tiền để mua một bông hồng tặng mẹ. Chỉ vọn vẹn 75 xu trong túi trong khi bông hồng có giá hai đôla. Thế là không mua hoa tặng mẹ được, cô bé khóc nức nở. Và giúp cô bé mua bông hồng tặng mẹ, chở cô bé đến “nhà mẹ” cô ấy. Câu chuyện tưởng như rất đỗi bình thường ấy lại khiến cho người đọc và chàng trai trong câu chuyện hết sức bất ngờ khi nhà mẹ cô bé là “một phần mộ mới đắp”. Đó như là một điểm nhấn, một nốt lặng để ta phải dừng lại và suy nghĩ. 3. Phân tích, chứng minh, bàn luận - Trong sự xô bồ, nhộn nhịp của cuộc sống đã cuốn đi cả sự quan tâm của con người. Cô bé thì đã mất mẹ nhưng bà vẫn nhận được bông hồng tươi thắm của đứa con gái bé bỏng. Còn anh – mẹ vẫn còn sống, vẫn còn trên đời này với anh và chỉ cách nơi anh sống khoảng 300km thôi. Một khoảng cách có vẻ như là xa nhưng thực ra nó lại rất gần. Đúng vậy, nó gần hơn khoảng cách từ thế giới bên này đến Trang 3


thế giới bên kia. Vượt qua 300km là anh có thể về nhà gặp mẹ và ôm chầm lấy mẹ còn cô bé ấy lại phải trải qua một quãng đường đời mới có thể gặp được người mẹ yêu dấu, cô cũng không thể sà vào lòng mẹ và làm nũng mẹ được nữa…

N

- Dường như tình yêu ấm áp của cô bé đã đánh thức được chàng trai, đưa anh về với những giá trị thực tại. Và cũng vô tình đứa trẻ ấy để lại trong lòng người lớn những suy ngẫm sâu sắc hơn. Chợt nhận ra mình đã bỏ qua điều gì đó “tức thì anh quay lại tiệm bán hoa, hủy bỏ dịch vụ gửi hoa vừa rồi và mua một bó hoa thật đẹp. Suốt đêm đó anh lái xe một mạch 300km về nhà mẹ anh và trao tận tay bó hoa cho bà”. Anh nhận ra rằng đến một ngày nào đó mẹ anh cũng sẽ rời xa anh để bước đi sang bên kia thế giới và lúc ấy anh có muốn tặng những bông hoa đẹp nhất thì cũng không thể nào trao đến tay mẹ được nữa. Lúc này đây mẹ anh cần gặp anh chứ không phải là bó hoa mà anh gửi về. Đúng, bây giờ thì anh đã hiểu ra dù mình đã trưởng thành rồi nhưng vẫn có những phút giây vô tâm…đối với mẹ - người đã sinh thành và nuôi dưỡng anh nên người.

C TI O

- Dòng đời mãi êm đềm trôi theo thời gian, thấm thoắt con chợt nhận ra mình đã lớn…

PR

O D

U

+ Mới ngày nào, con còn được bú mớm, đút cơm, được nâng niu vỗ về và được ngủ say trên chiếc võng trưa, trong câu hát ru à ơi ngọt ngào của mẹ. Lời ru ấy, đã ở trong giấc ngủ con từ những ngày thơ bé, và mãi theo con cho đến tận bây giờ. Con biết rằng ngày đó, không chỉ riêng con, mà tất cả những đứa trẻ khác khi nghe lời ru ấy, đều chỉ biết tròn xoe đôi mắt ngây ngô, ngó nhìn vạn vật xung quanh, và đòi cho bằng được tất những gì chúng con muốn.

N

TH

AN H

TU

+ Lớn thêm một chút, đến tuổi cắp sách tới trường, dù cuộc sống có muôn vàn khó khăn, nhưng mẹ cha vẫn cố gắng lo cho con được bằng bạn bằng bè. Mẹ đã dậy sớm hơn khi vạn vật còn chìm trong màn đêm tĩnh mịch. Những gánh hàng trĩu nặng đã theo mẹ tới đường xa, để từ đó mẹ chở ước mơ con bằng đôi bàn tay thêm chai sạn, bằng đôi mắt mẹ ngày một mờ đi, bằng tấm lung gầy ngày thêm oằn nặng, bằng đôi chân run rẩy, nhưng vẫn vững vững bước, để dìu dắt bước con đi. Những miếng cơm lành, canh ngọt mẹ để nhường phần con, mẹ dành phần mình những đắng cay, chua chát. Mẹ thức trắng đêm, đôi mắt thâm quầng với nỗi lo lắng, xót xa khi con đau, con ốm. Tình thương của mẹ dạt dào, miệt mài, không biết chán mỏi…

U

YE

+ Mẹ! Mẹ là một dòng suối tươi mát, là một thiên thần mà Thượng đế đã ban tặng cho những đứa con. Tình mẹ bao la, rộng lớn như đại dương kia. Vậy mà lắm lúc ta không biết, để rồi đôi khi phải giật mình mà thốt lên rằng:

N

G

Trên trời cao xa thẳm Có nghe rõ lời tôi Từ trần gian cát bụi Tôi thấy tôi mất mẹ Như cả bầu trời

- Mất mẹ là nỗi đau, nỗi mất mát lớn lao nhất của con người. Mất mẹ là mất đi bầu trời yêu thương, mất đi những gì dịu ngọt hạnh phúc nhất. Có những con người vô trách nhiệm, thờ ơ với bậc sinh thành ra mình. Không một lần họ quan tâm xem bố mẹ họ hiện tại đang như thế nào, có khỏe không mà ngược lại họ lại luôn khiến cho bố mẹ lo lắng về mình. Vậy mà những người đó vẫn sống một cách vui vẻ, an nhàn mặc cho bố mẹ cực nhọc làm lụng. - Thử hỏi trong cuộc sống đầy bộn bề lo toan này có nhiều không những tấm lòng hiếu thảo như anh thanh niên và cô bé kia không? Đừng nói đến việc tặng những bông hoa đẹp nhất cho mẹ mà ngay cả Trang 4


một lời nói nhẹ nhàng đầy yêu thương cũng không hề có. Họ bỏ qua nó – một điều rất nhỏ nhặt ấy để chạy theo những điều xa xỉ vô ích. Họ đâu biết rằng cái điều mà họ cho là nhỏ nhặt ấy lại vô cùng quý giá và to lớn đối với người mẹ. 4. Bài học nhận thức và hành động - Mẹ lớn lao, mẹ cao cả, mẹ là tất cả, là món quà vô giá mà ta nhận được. - Mẹ không cần một điều gì lớn lao cả, chỉ cần con cái luôn được vui vẻ, hạnh phúc và sống với những giá trị đích thực của cuộc đời là đã đủ để làm mẹ vui rồi. - Và xin một lần hãy dừng lại trước dòng đời xuôi ngược để tìm lại cho mình những khoảng yên tĩnh, những bài học sâu sắc về tình mẫu tử để ta có thể trở về bên tình yêu của mẹ mãi mãi. Nếu ai đã làm cho mẹ buồn, phải đau đớn thì xin hãy nhớ rằng:

C TI O

Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không.

N

Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc

O D

U

- Con người ta chỉ biết tiếc nuối khi những gì đã đi qua, đã vượt ra khỏi tầm tay của mình. Câu chuyện này có ý nghĩa sâu sắc đối với tất cả mỗi chúng ta. Nó như đánh thức chúng ta, đưa ta trở về và giữ lấy những giá trị thực tại của cuộc sống. Mẹ sẽ sống mãi trong tâm hồn con. Sẽ mãi là như vậy. Bởi vậy mà trong bài Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa nhà thơ Nguyễn Duy đã viết những vần thơ xúc động về mẹ: Ta đi trọn một kiếp người

TU

PR

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. Câu 2:

AN H

1. Mở bài

N

2. Thân bài

G

U

YE

N

TH

Người yêu thơ mệnh danh chị là “người đàn bà yêu và làm thơ”, là “nữ hoàng của thi ca tình yêu”, là bông hoa cúc xanh, là một nhành cỏ may, là một người đàn bà với trái tim vào đất vẫn nồng say hát câu: “Vẫn yêu anh cả khi chết đi rồi”, người đàn bà có đôi mắt đẹp như thất lạc ấy đã từ bỏ ánh đèn màu của sân khấu để bước hẳn sang lãnh địa của thi ca với một giọng thơ hồn hậu, lắng sâu, giàu trực cảm. Trên mảnh đất màu mỡ của thi ca, chị đã gieo ngót chục tập thơ. Như một bông “hoa dọc chiến hào”, giữa mưa bom bão đạn của những năm đánh Mĩ. Chị đã kể với chúng ta những truyền thuyết đẹp về tình yêu. Chị là ai nếu không phải là thi sĩ Xuân Quỳnh – người đã đi qua cuộc đời và còn để lại bài thơ Sóng sống mãi trong trái tim độc giả. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua ba khổ thơ cuối thi phẩm. 2.1. Khái quát chung Từ ngàn đời nay tình yêu luôn là điều bí ẩn, là đề tài vô tận của văn chương. Nhiều văn nhân thi sĩ đã mượn văn chương để lí giải tình yêu như chẳng ai cắt nghĩa trọng vẹn được hai mĩ từ ấy. Ta biết nhà thơ Xuân Diệu đã từng ví von: “Yêu là chết trong lòng một ít” (Yêu), Đỗ Trung Quân cũng từng thốt lên rằng: Anh đã thấy một điều mong manh nhất Là tình yêu, là tình yêu ngát hương (Hương tình yêu) và ta cũng không quên nhắc đến Sóng của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. Sóng chính là nơi gửi gắm những tâm tư sâu kín, những trạng thái phức tạp tinh vi của tâm hồn người thiếu nữ khi nói về tình yêu trẻ trung, Trang 5


nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người. Tình yêu là đề tài muôn thuở của thi ca Việt Nam. Đã có nhiều nhà thơ viết về đề tài này với những cảm xúc và phong cách nghệ thuật riêng của mình, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Xuân Diệu đã từng làm người đọc nhớ mãi khi đặt tất cả dấu ấn tình yêu mãnh liệt của mình với “biển”, còn Xuân Quỳnh – một nhà thơ nữ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đã thể hiện tình yêu của mình qua hình ảnh “sóng”, một sự tiếp nối và sáng tạo độc đáo trong định nghĩa về tình yêu. Lúc nhịp nhàng trầm lắng, khi sôi nổi ngân nga đầy mãnh liệt, “sóng” – dòng chảy xuyên suốt của bài thơ đã thể hiện tình cảm chân thành và sâu sắc của người phụ nữ đang yêu.

N

Năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – (Thái Bình), khi đứng trước con sóng thực của biển, tâm hồn của người con gái rung động và xao xuyến con sóng lòng trào dâng, thế là con sóng tâm trạng khuấy động phút thăng hoa đã tới nàng Sóng ra đời. Sóng được in trong tập Hoa dọc chiến hào – 1968.

C TI O

2.2. Phân tích a. Sự lo âu về phai tàn, đổ vỡ trong tình yêu

O D

U

Sóng với Xuân Quỳnh không chỉ là biểu tượng của khát vọng tình yêu mà còn là phương tiện để chị bộc lộ những suy tư về cuộc sống, tình cảm: Ở ngoài kia đại dương

PR

Trăm ngàn con sóng đó Dù muôn vời cách trở.

TU

Con nào chẳng tới bờ

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo

Ngũ lực sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.

G

U

YE

N

TH

AN H

Ba từ “ở ngoài kia” như cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ tay về khơi xa nơi trăm ngàn con sóng ngày đêm không biết mỏi đang vượt qua giới hạn không gian thăm thẳm “muôn vời cách trở” để hướng vào bờ ôm ấp nỗi yêu thương. Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Những con sóng ở đại dương dù gió xô vão táp tới phương nào đi chăng nữa thì cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng như sóng, cho dù gặp bao khó khăn em cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã cho em sức mạnh như ông bà xưa có câu:

(Ca dao)

N

Khát vọng mãnh liệt, tình yêu chân thành sâu sắc nhưng trong trái tim trẻ kia vẫn ý thức được rằng đó là thứ mong manh khó giữ, có thể trơn tuột khỏi tay: Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi. (Nói cùng anh, Xuân Quỳnh) Trăn trở băn khoăn liệu tình yêu ấy có vượt qua được bể lớn của cuộc đời, liệu có thoát khỏi quy luật cuộc sống, những đổi thay không ai nói trước được. Cuộc đời dài đấy, năm tháng dẫu đi qua, mây vẫn bay, biển vẫn rộng, sóng vẫn vỗ vào bờ cát, nhưng rồi tất cả sẽ vào cõi xa xăm vô định. Tương lai hạnh phúc như đang còn ở phía trước. Và vì thế, ý thức về thời gian không làm nhà thơ lo âu mà chỉ làm tang thêm niềm tin tưởng: Cuộc đời tuy dài thế Trang 6


Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa.

O D

U

C TI O

N

Qua khổ thơ trên phần nào Xuân Quỳnh đã trao cho người đọc nhận thức rõ về những dự cảm và nỗi băn khoăn của chị. Những từ “tuy dài thế”, “vẫn đi qua”, “dẫu rộng” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo. Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến với bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về phía chân trời xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu. Đời người là hạn hẹp, thời gian là vĩnh hằng, không gian vũ trụ thì vô cùng, vô tận… Còn con người, để đạt được sự vĩnh cửu hoàn thiện ấy chỉ có tình yêu, bởi chỉ có tình yêu là muôn đời trẻ trung, bất tử. Như sóng biển cồn cào không bao giờ ngưng nghỉ, nỗi khát vọng tình yêu mãi mãi bồi hồi trong lồng ngực tuổi thanh xuân. Xuân Quỳnh đã hơn một lần nói về điều này trong thơ của mình: Thời gian như là gió

PR

Mùa đi theo tháng năm Chỉ còn anh và em

AN H

Chỉ còn anh và em

TU

Tuổi theo mùa đi mãi

Cùng tình yêu ở lại.

(Thơ tình cuối mùa thu)

N

G

U

YE

N

TH

Xuân Quỳnh vừa thổ lộ trực tiếp, vừa mượn hình tượng sóng để nói và suy nghĩ về tình yêu. Những ý nghĩ này có vẻ tự do, tản mạn, nhưng từ trong chiều sâu của thi tứ vẫn còn sự vận động nhất quán. Bên cạnh đó Xuân Quỳnh thường đặt tình yêu giữa không gian bao la (biển khơi, đất trời, mây, gió…), và thời gian bất tận (mùa thu đi, kí ức, thời gian trắng, thời gian ơi sao không đổi sắc màu…) để đi đến tận cùng xứ sở, đến tận cùng đau đắng khổ đau của cuộc đời chị đã nếm trải. Cho nên, thật dễ hiểu cái khát vọng ngày càng dâng lên mãnh liệt khôn cùng trong trái tim người nữ thi sĩ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. b. Sự rạo rực, xôn xao khát khao đến khắc khoải Cuộc đời tuy dài nhưng không phải vô cùng, như biển lớn mênh mông nhưng không phải vô tận. Xuân Quỳnh rất nhạy cảm với sự trôi trảy của thời gian, ý thức về thời gian gắn với nỗi âu lo, dù vậy, nhân vật trữ tình trong thơ đã có cách ứng xử tích cực: âu lo nhưng không mấy thất vọng, mà chỉ khao khát nắm lấy hạnh phúc trong hiện tại, sống hết mình, mãnh liệt với tình yêu để vượt qua và chiến thắng sự hữu hạn của thời gian và đời người. Khát vọng sống hết mình với tình yêu được Xuân Quỳnh diễn tả một cách giản dị. Thi sĩ ước muốn: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ

Trang 7


Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.

O D

U

C TI O

N

Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng “trăm con sóng nhỏ”. Trong đại dương bao la, vô tận kia để được tồn tại mãi, sống mãi và yêu mãi. Tình yêu bùng lên thành khát vọng. Khát vọng sôi sục mà vẫn khiêm nhường, đầy nữ tính. Người con gái mong muốn hòa mình vào bể đời rộng lớn, bứt mình ra khỏi những lo toan tính toán, để ngập chìm trong bể lớn tình yêu. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng không phải là biểu tượng của một “cái tôi” ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường: “trăm con sóng nhỏ” như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm “trăm con sóng” để hòa mình vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương: “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người với người, sống để yêu nhau” (Một khúc ca xuân, Tố Hữu)… Phải chăng đó là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh? Vâng! Đó không chỉ tinh thần của con người thời đại chống Mĩ mà còn là âm vang của một tấm lòng luôn tha thiết với sự sống, với tình yêu. Phải có một tình yêu chân thành, sâu sắc và mãnh liệt đủ đầy. Cuộc đời còn tình yêu thì cuộc đời còn tươi đẹp và đáng sống và sống trong tình yêu là một niềm hạnh phúc. Xuân Quỳnh mong ước được sống mãi trong tình yêu, bất tử với tình yêu.

PR

2.3. Liên hệ và bàn luận

AN H

TU

Hai đoạn thơ đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm trước cuộc đời. Đây là hai đọan thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc – triết lí. Hình tượng sóng là một ẩn dụ độc đáo, khiến lời thơ vừa thực, vừa lãng mạn. Thể thơ năm chữ, ngắt nhịp linh họa tạo âm hưởng thơ dạt dào, vừa gợi âm hưởng của sóng, vừa diễn tả tinh thế khát vọng tình yêu nồng nàn. Kết cấu song hành giữa hình tượng sóng và em tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo của bài thơ.

N

G

U

YE

N

TH

Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ viết về tình yêu rất nhiều và hay, điều làm nên sức sống mãnh liệt của thơ Xuân Quỳnh có lẽ là tính chân thực và niềm đam mê gửi gắm trong những lời thơ giản dị mà vô cùng sâu lắng. “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” (Biêlinxki) thơ Xuân Quỳnh rất ít triết lí mà thường nghiêng về duy cảm. Nó được viết bằng cảm xúc chân thật của một người mẹ, người vợ với bao lo toan chuyện cơm áo gạo tiền thời chiến tranh, là cảm xúc cụ thể của một người phụ nữ làm thơ tình yêu khi đã trải qua nhiều ngọt ngào, cay đắng của tình yêu nên những lời thơ ấy giản dị mà vẫn xúc động lòng người. Nhà thơ từng viết: Bàn tay em ngón chẳng thon dài Vệt chai cũ đường gân xanh vất vả Em đánh chắc, chơi thuyền từ thuở nhỏ Hái rau dền, rau rệu nấu canh …Lấy thời gian em viết những dòng thơ Để thấy được chúng mình không cách trở Bàn tay em, gia tài bé nhỏ Em trao anh cùng với cuộc đời. (Bàn tay em) Thơ Xuân Quỳnh giản dị nhưng không bao giờ cũ vì nó cũng có triết lí, thứ triết lí của thi ca thứ triết Trang 8


lí đôn hậu của một người phụ nữ làm thơ. Xuân Quỳnh nói chuyện tình yêu, chuyện cái chết, chuyện được mất một cách rất giản dị mà lại đi vào lòng người. Trong Vội vàng, thi sĩ đã thức nhọn giác quan để “sống toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mày “say, thâu, hôn, cắn” cho kì hết những hương nồng của tuổi trẻ? Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi; - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

C TI O

N

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

O D

U

Ba chữ “Ta muốn ôm” như phơi bày ra hết sự ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế. Nếu như mở đầu bài thơ, nhà thơ xưng tôi với ước muốn táo bạo “tắt nắng, buộc gió”, thì ở đoạn cuối này cái tôi đó đã hòa vào cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời.

TU

PR

Ngay sau đó là câu thơ thể hiện sự tươi non của cả cuộc sống mới bắt đầu mơn mởn. Từ láy “mơn mởn” được nhà thơ dùng rất gợi cảm và giày ý nghĩa. Nó cho ta thấy các sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt, đầy sức sống khiến cho thi nhân tràn lên khao khát.

YE

N

TH

AN H

Điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại như một nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi sĩ. Chứng tỏ Xuân Diệu đang nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt như muốn cùng một lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Đồng thời nó còn nói lên được cái ham muốn khát thêm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Mỗi một lần khao khất “ta muốn” là một lần kết hợp với một động từ chỉ trạng thái yêu thương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm – sự sống, riết – mây đưa, gió lượn, say – cánh bướm, tình yêu, thâu – cái hôn nhiều”, để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say, thể hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

N

G

U

Thi sĩ muốn ôm hết vào lòng mình mây đưa và gió lượn, muốn say đắm với cành bướm tình yêu, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy một cái hôn nhiều. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “và non nước và cây và cọ rạng”. Để rồi nhà thơ như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã đầy ánh sáng, cho “no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo đảo bay đi. Không chỉ nằm ở phong cách thơ (Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy nam tính, Xuân Quỳnh thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) mà còn trong cách ứng xử của mỗi nhà thơ: trước sự chảy trôi của thời gian. Xuân Diệu thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy, no nê) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi). Còn Xuân Quỳnh lại thể hiện ước mong được tan hòa cái tôi nhỏ bé – con sóng cá hể, thành cái ta chung rộng lớn – “trăm con sóng” giữa biển cả mênh mông. Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống, tình yêu mãnh Trang 9


liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách để tình yêu trở thành bất tử. Tác giả Xuân Diệu sử dụng các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh… góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt. Bài thơ Sóng sử dụng thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng” vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính. Là một tình cảm nhân bản, các cảm xúc tình yêu: âu lo, nỗi nhớ, khát khao, say mê, thường mang tính phổ quát, nhưng do tâm tính, kinh nghiệm sống và vốn văn hóa, mỗi nhà thơ sẽ có cách thể hiện khác nhau. Cái riêng của Xuân Quỳnh trong bài thơ Sóng liên quan đến cái nhìn nữ tính của nhà thơ: giàu trực cảm và ưa bộc bạch, nữ tính nhưng vẫn chủ động, tự tin của người phụ nữ hiện đại, nên nhân vật trữ tình trong thơ nồng nàn mà ý nhị, sôi nổi mà đằm thắm.

N

3. Kết bài

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

Mỗi người cầm bút đều có một nỗi niềm riêng. Xuân Quỳnh mượn thể thơ năm chữ để dồn nén khát vọng chân thành trong tình yêu. Xuân Diệu sử dụng thể thơ tự do để thể hiện lòng ham sống, khát vọng sống hết mình của tuổi trẻ. Mỗi nghệ sĩ có một cách thể hiện riêng, đem đến một khát vọng sống và khát vọng tình yêu với sắc thái riêng. Tất cả đều là những tình cảm cao đẹp, nhân văn của lòng người. Qua đó người đọc cảm nhận được trái tim yêu của Sóng và người phụ nữ rất nồng nàn say đắm, mãnh liệt đồng thời cũng thấy được khát vọng sống đến cuồng nhiệt của tuổi trẻ qua những vần thơ rất mới của thi sĩ Xuân Diệu.

Trang 10


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 11 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4

C TI O

N

Tôi là viên đá mọn không tên Tôi tự hào sung sướng tuổi thanh niên Chiến đấu lớn dưới ngọn cờ của Đảng

U

Tôi yêu bản hùng ca không tắt

O D

Mà lời ca sang sảng những tên người

PR

Bế Văn Đàn hiến trọn tuổi hai mươi Thân trai trẻ vì nhân dân làm giá súng

TU

Phan Đình Giót như một hòn núi lớn Ngực yêu đời đè bẹp lỗ châu mai

AN H

La Văn Cầu vì rất quý những bàn tay Đã chặt đứt cánh tay mình xông tới

TH

Lí Tự Trọng đầu không hề chịu cúi

Lúc ra pháp trường còn đọc truyện Nguyễn Du

N

Chị Sáu ơi! Bông hoa chị cài đầu

YE

Còn thắm mãi giữa ngàn cây Côn Đảo

U

(Theo Vương Trùng Dương http://vanhay.edu.vn/de-thi-thu-thpt-quoc-gia-mon-văn)

G

Câu 1: Phương thức biểu đạt của văn bản trên?

N

Câu 2: Đoạn thơ sử dụng biện pháp tu từ nào là chính? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó. Câu 3: Trình bày ý nghĩa của hai câu thơ: La Văn Cầu vì rất quý những bàn tay Đã chặt đứt cánh tay mình xông tới. Câu 4: Từ những tấm gương Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Lí Tự Trọng, Võ Thị Sáu... Anh (chị) hãy viết đoạn văn ngắn (khoảng 10-12 dòng) nói lên lòng biết ơn của mình với các thế hệ cha anh. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: “Lòng yêu nước”. Câu 2 (5,0 điểm): Trang 1


Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng Mị trong cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019). Từ đó liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong cảnh buổi sáng đầu tiên khi tỉnh rượu (Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để nhận xét về cách nhìn và nhìn tình cảm của các nhà văn đối với người lao động nghèo trong xã hội cũ. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả, biểu cảm Câu 2: Biện pháp tu từ chính: Liệt kê. Tác giả liệt kê những vị anh hùng của dân tộc: Lí Tự Trọng, Bế Văn Đàn, Võ Thị Sáu, La Văn Cầu...

-

Tác dụng: Nhằm nhấn mạnh vẻ đẹp của đức hi sinh, lòng dũng cảm, lí tưởng sống cao đẹp của những con người đã làm nên “dáng hình xứ sở” Việt Nam.

C TI O

N

-

PR

Đã chặt đứt cánh tay mình xông tới.

O D

La Văn Cầu vì rất quý những bàn tay

U

Câu 3: Trình bày ý nghĩa của hai câu thơ:

TU

Cả hai câu thơ đề cập đến hình ảnh người anh hùng La Văn Cầu đã dũng cảm hi sinh cánh tay của mình để tiếp tục chiến đấu mở đường tiến cho bộ đội công đồn.

AN H

Qua đó thể hiện tinh thần dũng cảm, ý chí chiến đấu ngoan cường. Hình ảnh “chặt đứt cánh tay mình” vì rất “quý những bàn tay” của bao đồng đội, đồng chí và nhân dân mãi mãi là biểu tượng bất từ cho tinh thần Việt Nam.

TH

Câu 4: Thí sinh viết theo nhiều cách khác nhau nhưng bảo đảm được: Lòng biết ơn sâu nặng trước sự hi sinh của các anh hùng liệt sĩ.

YE

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

N

Bản thân cần làm gì cho cuộc sống hôm nay tươi đẹp?

U

Câu 1:

G

A. Về kĩ năng

Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

-

Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

N

-

B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Mở đoạn -

Đất nước ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm bể dâu mới có được hòa bình và nền độc lập như hôm nay. Đó là nhờ vào sự nỗ lực cống hiến cũng như tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước sâu sắc của mỗi thế hệ.

-

Cho đến ngày nay, lòng yêu nước vẫn luôn là thứ tình cảm thiêng liêng cần được trân trọng và phát Trang 2


triển hơn nữa. 2. Giải thích -

“Lòng yêu nước” là tình yêu đối với quê hương, đất nước; nỗ lực cố gắng không ngừng để dựng xây và phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.

Lòng yêu nước là tình cảm cao cả, thiêng liêng của mỗi người dành cho quê hương đất nước. Đó là yêu sông, yêu núi, yêu làng, yêu xóm, yêu người dân sống trên mảnh đất hình chữ S. Tình cảm ấy đơn giản, gần gũi và nằm ngay trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của mỗi người. 3. Chứng minh và bàn luận -

Biểu hiện của lòng yêu nước không phải là những thứ quá cao xa, nó nằm ngay ở ý thức và hành động của mỗi người:

C TI O

N

+ Trong thời kì kháng chiến, lòng yêu nước chính là đứng lên, cầm súng ra trân chiến đấu với kẻ thù. Mọi khó khăn, gian khổ đều không ngần ngại, xông lên phía trước giành lại độc lập tự do cho nhân dân. Lòng yêu nước lúc đó mạnh mẽ và quyết liệt. Đó là tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, tương thân tương ái, cùng nhau chống lại kẻ thù.

O D

U

+ Trong thời bình, lòng yêu nước thể hiện ở việc chung ta xây dựng xã hội chủ nghĩa, mang lại cuộc sống no đủ cho nhân dân và sự vững bền cho đất nước. Tình yêu mà chúng ta dành cho làng quê yên bình, cho những dòng sông đỏ nặng phù sa, cho bãi mía nương dâu. Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua từng nói: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê hương tạo nên lòng yêu Tổ quốc. Những tình yêu tưởng chừng như bình dị như vậy nhưng lại tạo nên một tình yêu lớn lao và cao cả hơn.

-

Mỗi chúng ta từ lúc sinh ra cho tới lúc lớn khôn và trưởng thành thì gia đình là nơi nuôi dưỡng, dạy dỗ. Đó là nơi chúng ta cần yêu thương đầu tiên. Mai này chúng ta lớn lên có trường học, xã hội, những người bạn xung quanh.

-

Lòng yêu nước của mỗi công dân sẽ đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Xung quanh chúng ta còn có rất nhiều mảnh đời cần sự sẻ chia và giúp đỡ. Có những đứa trẻ lang thang cơ nhỡ, bị bố mẹ bỏ rơi, những cụ già neo đơn hoặc bị con cái ngó lơ. Họ cần được yêu thương và sẻ chia. Chúng ta hãy dang rộng vòng tay để yêu thương họ, kêu gọi xã hội yêu thương họ bằng những hành động thiết thực nhất.

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

-

N

G

 Chúng ta cần phải san sẻ tình yêu thương của mình cho tất cả mọi người nếu có thể. Đôi khi lòng yêu nước chỉ là tình cảm đơn giản, bình dị như vậy nhưng lại có ý nghĩa rất lớn. 4. Bài học nhận thức và hành động -

Đất nước ta đang đi lên chủ nghĩa xã hội, thế hệ trẻ cần phải cống hiến và chung tay xây dựng đất nước phát triển hơn.

-

Khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì cần phải cố gắng chăm học, rèn luyện không ngừng để trở thành người công dân tốt cho xã hội.

-

Phê phán: tuy nhiên bên cạnh những người tràn đầy tinh thần yêu nước thì vẫn có những phần tử cố ý chống lại đất nước, chống lại chính quyền. Đó là những kẻ đi theo chủ nghĩa xuyên tạc, nói xấu Đảng và Chính phủ. Cần phải xử lí thật nghiêm khắc những trường hợp này để mang lại sự yên ổn của xã hội.

 Như vậy lòng yêu nước trong xã hội này là cần thiết đối với mỗi con người. Chúng ta cần phải rèn luyện Trang 3


tinh thần này thường xuyên để xây dựng và cống hiến cho đất nước. Câu 2: 1. Mở bài Đã có lần nhà văn Tô Hoài – nhà văn có duyên nợ gắn bó với đề tài miền núi Tây Bắc tâm sự rằng: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi dốc núi làng Tà Xùa và vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù!” (“Trờ lại! Trở lại”). Và hình ảnh Tây Bắc đau thương lúc nào cũng thành nét, thành hình, thành điểm trong tâm trí tôi và tôi thấy cần phải trở lại cho những người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình dành cho những người Mèo “chí tình, trung thực”. Và đó là lí do để Vợ chồng A Phủ ra đời với tất cả những thương quý của nhà văn Tô Hoài.

C TI O

N

2. Thân bài 2.1 Khái quát chung

PR

O D

U

Tô Hoài (1920 – 2014), là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, nhất là miền núi. Phong cách văn chương: hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ giàu có.

N

TH

AN H

TU

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là kết quả của một chuyến đi tham gia chiến dịch Tây Bắc của tác giả, ra đời và năm 1952. Đây là tác phẩm được nhà văn xây dựng bằng những chuyện mắt thấy tai nghe, chan chứa tình cảm sâu nặng của tác giả đối với đồng bào miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực thực dân, phong kiến. Truyện Vợ chồng A Phủ nằm trong tập Truyện Tây Bắc là thành công tốt đẹp đầu tiên của Tô Hoài sau Các mạng tháng Tám. Tập truyện được tặng giải Nhất – giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Qua cuộc đời tủi nhục đau khổ của Mị và A Phủ hai nô lệ của thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ của người Mèo trong chế độ cũ và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.

YE

2.2 Phân tích

N

G

U

Trước đêm mùa xuan, do bị đày đọa, áp chế, Mị trở thành người phụ nữ vô hồn, mất cảm giác về thời gian lẫn không gian. Kiếp sống của Mị chẳng khác nào kiếp sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra. Tuy nhiên, sức sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Mỗi khi bước vào buồng, Mị lại ngồi xuống giường trông ra cửa sổ. Điều ấy cho thấy Mị luôn hướng ra bên ngoài, ẩn chứa một khát khao, dù khá mong manh và mơ hồ. Sức sống có thể bị dập tắt vĩnh viến, nhưng cũng có thể sẽ trỗi dậy khi có điều kiện. Sự tác động của bối cảnh bên ngoài đối với Mị trong đêm mùa xuân. Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa... Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ. “Mị nghe tiếng sao vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Mị ngồi nhầm thầm bài hát của người đang thổi...

Trang 4


Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.

C TI O

N

Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: “Mị thổi sáo giỏi... Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.

AN H

TU

PR

O D

U

Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương? Mải mê chìm đắm trong quá khứ nên Mị tạm quên hiện tại: “Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng”. Tâm trạng Mị “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.

Anh ném pao, em không bắt Em không yêu, quả pao rơi rồi...

U

YE

N

TH

Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị úa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:

N

G

Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi. Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động nổi loạn diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa... là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp. Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa. Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: “Mày muốn đi chơi à?”, A Sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc Trang 5


được tâm hồn Mị. Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn. Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...”. Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách... Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

C TI O

N

Mị đang sống với con người bên trong của mình: “Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng: “Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ”.

PR

O D

U

Mị bàng hoàng tỉnh... Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan... Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: “Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà bà ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt”.

TH

AN H

TU

Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, du chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng trốn khỏi Hồng Ngài.

N

G

U

YE

N

Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngằn Vợ chồng A Phủ. 2.3 Liên hệ Cùng xây dựng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc để làm rõ đời sống nội tâm nhân vật, Nam Cao và Tô Hoài đã chung nhau một điểm đó là mượn âm thanh để gợi dậy những âm thanh vốn dĩ bị chìm khuất trong nhân vật. Đấy cũng là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong hai tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao và Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài. Cùng xây dựng chi tiết nghệ thuật ấy nhưng do quan niệm và cách viết khác nhau, đề tài khác nhau nên ở hai chi tiết nghệ thuật trong Chí Phèo và Vợ chồng A phủ lại mang những ý kiến riêng. Ở tác phẩm Chí Phèo là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh hôm nào cả có. Đó là tiếng chim hót ngoài vườn, tiếng mấy bà đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Cuộc gặp gỡ Trang 6


C TI O

N

bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ có sự hay đổi hẳn cả về tâm sinh lí. Từ khi đi tù về, đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hoàn toàn tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống... Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Tiếng mấy bà đi chợ về những âm thanh thường nhật ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe được bởi vì đến bây giờ hắn mới được tỉnh sau những cơn say dài mênh mang, từ tiếng chim hót, tiếng mái chèo, tiếng người nói... như những âm thanh nhỏ giọt vào tâm hồn Chí, như dòng nước mát lành, như cơn mưa mùa hạ đang đổ xuống thớ đất tâm hồn khô cằn sỏi đá của Chí, vùng đất khô hạn tình thương ấy, vùng đất chỉ biết đến thứ nước luôn tưới lên nó là rượu và nước mắt của người lương thiện, nay đọc được những thứ nhựa sống của cuộc đời tưới vào thẳm sâu tâm hồn của Chí, từ đó tâm hồn của anh bùng lên đầy xúc cảm, anh như con chim trong chiếc lồng giam cầm, xa cuộc sống đồng loại, bỗng một ngày được nghe tiếng hót ca của bạn bầu bỗng như tìm lại được mình lại vui ca hót. Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhận ra ngoài cái lều ẩm ướt thấp vấn mới chỉ hơi lờ mờ của mình rằng: “Mặt trời chắc đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ”. Cũng như những ngày người say tỉnh dậy, Chí Phèo thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, nhưng với anh, đây là cảm giác, cảm xúc vừa bị đánh thức.

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

Khi Chí Phèo nghe những âm thanh của cuộc sống chính là anh đã dần ý thức về cuộc sống. Âm thanh cuộc sống y như âm thanh của chiếc kim đồng hồ quay ngược thời gian đã đánh trong Chí về giấc mơ thời trai trẻ. Âm thanh của cuộc sống bình dị đã đưa anh nhớ về quá khứ: “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Cả kí ức ấy sống lại trong Chí thật đẹp, thật dung dị đời thường xiết bao, quá khứ càng đẹp thì Chí lại càng cô đơn trong hiện tại bấy nhiêu. Thông thường, người ta nhớ lại thời gian quá vãng để hiểu hiện tại. Chí cũng vậy, đến lúc hắn chợt nhận ra rằng hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Cũng chính âm thanh bình dị mà Chí nghe được lại làm cho anh phải nghĩ suy nhiều hơn, sâu xa hơn. Chí hình dung được tương lai đầy bất ổn ở phía trước. “Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến... Cũng may thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. Đến đây, không ai nghĩ Chí Phèo là con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa, một người không những giàu cảm giác, cảm xúc, mà còn ý thức có phần sâu sắc về cuộc đời, về bản thân phải là con người bình thường.

N

G

Với bàn tay yêu thương giản dị của thị Nở, Chí như được lột bỏ vỏ quỷ để trở lại hình hài của con người. Bát cháo hành có thể là liều thuốc giải cực mạnh đã góp phần tẩy ố men rượu, tẩy ố những nhơ nhuốc của cuộc đời bất hạnh, trả lại cho anh những điều đã mất. Lòng yêu của thị Nở là lòng yêu của một người làm ơn và có cả lòng yêu của người chịu ơn. Còn Chí Phèo, anh cảm nhận được một điều thật chua chát xưa nay nếu muốn có cái ăn thì phải dọa nạt, giật cướp; cuộc đời hắn chưa bao giờ được bàn tay đàn bà nào cho. Lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bàn cho, được sống trong tình cảm yêu thương thực sự, bát cháo hành đã ngấm càng làm hắn suy nghĩ nhiều. Từ cảm nhận về tình yêu của thị Nở, cảm xúc, cảm giác càng được đánh thức sâu sắc hơn. Lúc này hắn thấy mắt hình như ươn ướt... hắn nhìn bát cháo hành bốc khói mà bâng khuâng... hắn thấy vừa vui vừa buồn... Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền... không những thế, ở Chí còn giống một cái gì nữa như ăn năn, hối hận về tội ác khi không đủ sức mà ác nữa. Và có lẽ sự bùng nổ trong tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở là khát vọng lương thiện. Đấy Trang 7


cũng là đỉnh điểm của sự thức tỉnh của Chí Phèo: “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”... Đoạn văn ngắn nhưng chứa đựng trong đó là sự khao khát cháy bỏng của Chí Phèo. Tình người của thị Nở đánh thức tính người ở Chí. Tình người vẫy gọi Chí trở về với đồng loại, bởi con người chỉ thực sự là con người khi đồng loại chấp nhận. Khát vọng ấy ở con người như Chí thật cảm động biết bao.

C TI O

N

Cũng chính nhờ âm thanh ấy mà Chí Phèo đã tự ý thức và trở về với một Chí Phèo hiền lành, lương thiện. Cũng chính nhờ âm thanh ấy cũng với những ngày hạnh phúc trong tình yêu, tình người với thị Nở mà Chí Phèo đã trở lại là chính mình. Cuối tác phẩm, Chí Phèo xách dao đi đòi lương thiện, giết chết con cáo già bá Kiến, trừ hại cho dân và cũng chính Chí cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng cũng là do âm thanh ấy trong cuộc sống ấy đã thức tỉnh Chí để đi đến một hành động đầy đau đớn nhưng cũng rất tất yếu và hợp lí?

TU

PR

O D

U

Đánh giá về giá trị nghệ thuật của chi tiết ấy, ta thấy âm thanh “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ về” là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và bi kịch của nhân vật. Chi tiết ấy nhỏ, chỉ thoáng qua vài câu văn ngắn nhưng lại là yếu tố nội liên văn bàn làm cho mạch truyện từ đây bất ngờ rẽ sang hướng khác. Nhờ nó mà ta có thể nhìn thấy hai nửa cuộc đời của Chí. Qua việc tập trung vào chi tiết đắt giá ấy, Nam Cao đã tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc mang đến cho người đọc những trang viết đẹp, xúc động.

YE

N

TH

AN H

Cuộc trỗi dậy trong Chí Phèo vì Mị có nhiều điểu tương đồng như một đợt sóng dâng lên rồi tràn ra sau nhiều ngày tháng câm nín trong bóng tối. Nó không làm mảy may thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng từ đó, sóng ngầm vẫn không mất. Nó sẽ tuôn trào thành những đợt sóng mới, mãnh liệt hơn lúc nào hết, bằng chứng là hành động cởi trói cho A Phủ và cùng anh ta trốn khỏi Hồng Ngài sau này. Nam Cao nhìn con người trong số phận bi kịch, nhân vật của ông chưa tìm được con đường đi, con đường giải phóng cho chính mình. Tô Hoài nhìn con người trong sự vận động đến với cuộc sống tốt đẹp, tương lai tươi sáng.

N

G

U

Thành công của nhà văn là khắc họa một nhân vật sống chủ yếu bằng tâm trạng, với tâm trạng. Cả đêm mùa xuân, Mị hành động được rất ít, nhưng người đọc vẫn thực sự hấp dẫn với một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy. Không gian, thời gian, giọng kể của tác phẩm theo một tiết tấu của chính tâm trạng ấy, khi tha thiết, khi nghẹn ngào xót xa? 3. Kết bài Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị. Vốn sống, sự hiểu biết tinh tế và đặc biệt tình yêu con người đã tạo cho ngòi bút của Tô Hoài rất vững vàng khi lí giải những đột biến về sự thức tỉnh trong nhân vật Mị. Qua đó, nhà văn đã đặt ra những vấn đề nhân sinh sâu sắc: chế độ phong kiến là chế độ trói buộc, giam hãm sức sống con người nhưng sức sống con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng không bị mất đi. Điều ấy càng khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người. Và ta càng thấm thía về cái giá của tự do. Cái mùi vị của tự do là “cái vị ngọt ngào và có mùi tanh nồng” như Hê-minh-uê đã nói.

Trang 8


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 12 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

PR

O D

U

C TI O

N

(1) Văn hóa ứng xử từ lâu đã trở thành chuẩn mực trong việc đánh giá nhân cách con người. Cảm ơn là một trong các biểu hiện của ứng xử có văn hóa. Ở ta, từ cảm ơn được nghe rất nhiều trong các cuộc họp: cảm ơn sự có mặt của quý vị đại biểu, cảm ơn sự chú ý của mọi người... Nhưng đó chỉ là những lời khô cứng, ít cảm xúc. Chỉ có lời cảm ơn chân thành, xuất phát từ đáy lòng, từ sự tôn trọng nhau bất kể trên dưới mới thực sự là điều cần có cho một xã hội văn minh. Người ta có thể cảm ơn vì những chuyện rất nhỏ như được nhường vào cửa trước, được chỉ đường khi hỏi... Ấy là chưa kể đến những chuyện lớn lao như cảm ơn người đã cứu mạng mình, người đã chìa tay giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn... Những lúc đó, lời cảm ơn còn có ý nghĩa là đội ơn.

YE

N

TH

AN H

TU

(2) Còn một từ nữa cũng thông dụng không kém ở các xứ sở văn minh là “Xin lỗi”. Ở những nơi công cộng, người ta hết sức tránh chen lấn, va chạm nhau. Nếu có ai đó vô ý khẽ chạm vào người khác, lập tức từ xin lỗi được bật ra hết sức tự nhiên. Từ xin lỗi còn được dùng cả khi không có lỗi. Xin lỗi khi xin phép nhường đường, xin lỗi nhờ ai đó bấm hộ một kiểu ảnh... Tóm lại, khi biết mình có thể làm phiền đến người khác dù rất nhỏ, người ta cũng đều xin lỗi. Hiển nhiên, xin lỗi còn được thốt ra trong những lúc người nói cảm thấy mình thực sự có lỗi. Từ xin lỗi ở đây đi kèm với một tâm trạng hối lỗi, mong được tha thứ hơn là một cử chỉ văn minh thông thường. Đôi khi, lời xin lỗi được nói ra đúng nơi, đúng lúc còn có thể xóa bỏ biết bao mặc cảm, thù hận, đau khổ... Người có lỗi mà không biết nhận lỗi là có lỗi lớn nhất. Xem ra sức mạnh của từ xin lỗi còn lớn hơn cảm ơn.

N

G

U

(3) Nếu toa thuốc cảm ơn có thể trị bệnh khiếm nhã, vô ơn, ích kỉ thì toa thuốc xin lỗi có thể trị được bệnh tự cao tự đại, coi thường người khác. Vì thế, hãy để cảm ơn và xin lỗi trở thành hai từ thông dụng trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta. (Theo http://tin.tuyensinh247.com/de-thi-thpt-quoc-gia-mon-van) Câu 1: Hãy ghi lại câu văn nêu khái quát chủ đề của đoạn trích trên. Câu 2: Trong đoạn (1), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào? Câu 3: Hãy giải thích vì sao tác giả lại cho rằng: “Toa thuốc xin lỗi có thể trị được bệnh tự cao tự đại, coi thường người khác?”. Câu 4: Anh (chị) hãy nêu ít nhất 02 ý nghĩa của việc cảm ơn và xin lỗi theo quan điểm riêng của mình. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu trong đoạn trích phần Đọc hiểu: “Nếu toa thuốc cảm ơn có thể trị bệnh khiếm nhã, vô ơn, ích kỉ thì toa thuốc xin lỗi có thể trị được bệnh tự cao tự đại, coi thường người khác”. Trang 1


Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận của anh (chị) diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) từ đó liên hệ với cảnh ngộ bị trói của Mị trong đêm tình mùa xuân và nhận xét về sự vận động số phận, tính cách của nhân vật và tư tưởng của nhà văn. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: - Ghi đúng câu văn nêu khái quát chủ đề của văn bản: “Văn hóa ứng xử từ lâu đã trở thành chuẩn mực trong việc đánh giá nhân cách con người”.

C TI O

N

Câu 2: - Trả lời đúng theo một trong các cách: Thao tác lập luận bình luận/ Thao tác bình luận/ Lập luận bình luận/ Bình luận.

O D

U

Câu 3: - Tác giả cho rằng khi “toa thuốc xin lỗi có thể trị được bệnh tự cao tự đại, coi thường người khác”, bởi vì lời xin lỗi sẽ giúp ta sống thật với lòng, tâm hồn thanh thản, biết nhận ra khiếm khuyết, lỗi sai và sửa lỗi để hoàn thiện bản thân. Câu 4:

Nêu ít nhất 02 ý nghĩa của việc cảm ơn và xin lỗi theo quan điểm riêng của bản thân, không nhắc lại quan điểm của tác giả trong đoạn trích đã cho.

-

Câu trả lời phải chặt chẽ, có sức thuyết phục.

TU

PR

-

AN H

II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1:

TH

A. Về kĩ năng

Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

-

Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

U G

B. Về kiến thức

YE

N

-

1. Mở đoạn

N

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: -

Trong cuộc sống hối hả bộn bề với bao công việc lởi cảm ơn và xin lỗi – bài học về phép lịch sự đầu tiên của mỗi người dường như đang bị lãng quên. Tiếng cảm ơn, xin lỗi đang thưa dần.

-

Từ khi bập bẹ biết nói, biết nhận thức chúng ta đã được cha mẹ, người lớn dạy nói lời cảm ơn khi nhận quà, xin lỗi khi làm hỏng đồ của người lớn. Lớn lên đến trường cô giáo dạy biết nói lời cảm ơn khi được sự giúp đỡ, xin lỗi khi mắc sai lầm. Và mỗi khi người nói hoặc người nhận lời cảm ơn , xin lỗi đều cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc.

2. Giải thích -

“Cảm ơn” là lời bày tỏ thái độ biết ơn, cảm kích trước lời nói, hành động hay sự giúp đỡ của một ai đó.

-

“Xin lỗi” là nhận ra lỗi lầm của mình gây ra với người khác và thành thật nhận lỗi. Trang 2


 Cảm ơn và xin lỗi là một trong các tiêu chí để đánh giá văn hóa của một con người bởi cảm ơn, xin lỗi là hành vi văn minh, lịch sự. 3. Phân tích và chứng minh Từ lâu, văn hóa ứng xử đã trở thành chuẩn mực trong việc đánh giá nhân cách con người. Cảm ơn và xin lỗi là một trong các biểu hiện của ứng xử có văn hóa, là hành vi văn minh, lịch sử trong quan hệ xã hội.

-

Trong ứng xử giữa cộng đồng, khi lời cảm ơn được trình bày một cách chân thành, một mặt phản ánh phẩm chất văn hóa của cá nhân, một mặt giúp mọi người dễ cư xử với nhau hơn. Trong nhiều trường hợp, lời cảm ơn không chỉ đem niềm vui tới người nhận, chúng còn trực tiếp giải tỏa khúc mắc, gỡ rối các quan hệ, và con người cũng vì thế mà sống vị tha hơn.

-

Nói “cảm ơn” đồng nghĩa với việc bạn đã ý thức rất rõ về bản thân mình, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình, dám dũng cảm nhận ra lỗi lầm của mình, biết quý trọng sự giúp đỡ của người khác.

C TI O

N

-

4. Bàn bạc và mở rộng

Biết nói lời cảm ơn và xin lỗi là biểu hiện của một lối sống có văn hóa và giàu ý thức tự trọng.

-

Trong cuộc sống, để nói “cảm ơn” và “xin lỗi” hoàn toàn không phải là một việc quá khó khăn. Thế nhưng những từ ngữ rất đỗi gần gũi và bình dị ấy đã dần dần trở nên xa lạ với mỗi người chúng ta.

O D

U

-

PR

5. Bài học nhận thức và hành động

Biết nói lời cảm ơn và xin lỗi là một tiêu chí đánh giá phẩm chất và vốn liếng văn hóa của mỗi cá nhân, từ đó góp phần xây dựng xã hội ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn.

-

Tất nhiên, cũng phải loại trừ những lời cảm ơn hay xin lỗi không thật lòng, để cho qua chuyện.

-

Giữa bộn bề công việc chúng ta hãy dành một ít thời gian để nghĩ rằng có biết bao nhiêu điều cần thiết để ta nói lời cảm ơn, xin lỗi để mối quan hệ giữa con người với con người trở nên thân thiện, vị tha và tốt đẹp hơn.

TH

AN H

TU

-

N

Câu 2:

YE

1. Mở bài

N

G

U

Văn chương, ấy là mẹ, là cha của tâm hồn con người; là khí trời, là cơm ăn, là nước uống, nghệ thuật cứ bình dị, lặng lẽ như dòng sông bồi đắp phù sa cho hồn người. Phải chăng điều này hoàn toàn đúng với tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài? Tám tháng – một khoảng thời gian không dài nhưng nó đủ để cho một người nghệ sĩ ươm ủ và dâng tặng cho đời một “đứa con tinh thần” vô giá. 2. Thân bài 2.1 Giới thiệu tác giả, tác phẩm Mỗi người yêu văn Tô Hoài từ trong tiềm thức của mình, nhắc đến ông trước Cách mạng tháng Tám, ta không thể không nhắc đến tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí. Sau Cách mạng, Tô Hoài để lại dấu ấn của mình trong lòng độc giả qua tập Truyện Tây Bắc với ba truyện tiêu biểu là: Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường, Mường Giơn. Trong đó, Vợ chồng A Phủ là linh hồn của cả tập truyện. Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhắc đến ông với tác phẩm Cát bụi chân ai và tiểu thuyết Ba người khác. Thế nhưng đến nay Vợ chồng A Phủ vẫn là mốc thách thức với chính nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm đạt giải Nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 – 1955 và đưa vào trong chương trình giảng dạy như là một trong những kiệt tác của Tô Hoài. Trang 3


Linh hồn của truyện Vợ chồng A Phủ là nhân vật Mị - biểu tượng của người nông dân sau Cách mạng tháng Tám, được Tô Hoài xây dựng vô cùng chân thực, sống động. Toàn bộ bức chân dung ấy được Tô Hoài vẽ lên bằng ngòi bút giàu lòng nhân ái của một nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy. Văn hào Nga Sê-khốp đã từng nói: “Một người nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Tô Hoài là một nhà văn như vậy. 2.2 Khái quát trước khi phân tích Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử trói đứng vào cột nhà.

C TI O

N

A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà thống lí. Không may hổ vồ mất một con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết. Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn đến Phiềng Sa. Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.

O D

U

Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.

PR

2.3 Phân tích

AN H

TU

Khi đọc Chí Phèo, người đọc đã chứng kiến một Chí Phèo từ người biến thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, thế nhưng chỉ một bát cháo hành của thị Nở, một hòn than nhân tính nhỏ trong đống tro tàn Chí Phèo bỗng bốc cháy một khát vọng làm người lương thiện. Trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài cũng đã tìm được hòn than nhân tính ấy. Bởi thế, Mị cô gái hồn nhiên tươi trẻ với bao khát vọng đã bị áp chế bởi thế giới bạo tàn làm cho gục ngã và biến đổi chỉ còn là chiếc bóng đã hồi sinh.

YE

N

TH

Phát hiện của Tô Hoài là tìm thấy một sự thật nhân văn, đó là song tồn với cuộc sống đen tối còn có một cuộc sống khác tiềm ẩn trong Mị. Nhà văn đã đi sâu vào tận cùng cuộc sống nội tâm nhân vật, phát hiện khơi gợi nó và ông đã tìm thấy nơi ấy vẫn nén chứa một tiềm năng ham sống khát khao hạnh phúc.

N

G

U

Tuy nhiên khát vọng ấy thực tế vẫn bị đè bẹp, lằn dây trói cứa vào làn da thịt, làm Mị tỉnh lại, giấc mộng tan biến thay vào đó là ý nghĩ cay đắng Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa; và như vậy cuộc vùng dậy lần thứ nhất của Mị thất bại, sự quẫy đạp vươn dậy không đủ sức mạnh để thay đổi số phận. Chỉ khi chứng kiến cảnh ngộ của A Phủ khi cận kề cái chết, Mị mới hồi tưởng và đồng cảm lại cảnh ngộ của mình trước đó. Đó là căn nguyên của lần vùng dậy thứ hai. Như vậy nó là hành trình có những căn nguyên sâu xa, hành động khởi phát từ bên trong rất tự nhiên rất bản năng con người. Tuy nhiên có thể Mị chưa ý thức được việc cắt dây trói cho A Phủ cũng là cách Mị tự cắt dây trói buộc bản thân vào cuộc đời nô lệ khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Đó đơn giản chỉ là hành động tự phát hé mở quá trình nhận thức và đi đến với cách mạng ở phần hai của câu chuyện. a. Từ thương mình đến thương người Đột biến lớn nhất làm thay đổi kiếp sống của Mị là đêm Mị quyết định cứu A Phủ. Khởi đầu là tâm trạng lạnh lùng thản nhiên của Mị khi nhìn A Phủ bị trói đứng Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Tâm hôn vốn nhân hậu đã rơi vào vô cảm. Một lần trở dậy, khi “ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị hé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh Trang 4


bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chao ôi nước mắt! Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy như thế mà không lau được; Mị lại nhớ tới người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ của Mị lại lóe lên một cách vô thức. Thoát ra khỏi vô cảm, Mị sống dậy bằng những hồi ức run rẩy nơi trái tim đầy thương tích của chính cô. Cảm giác thương thân làm tăng thêm xúc cảm thương người để rồi bật lên tiếng kêu: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết”. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm trời trong cái thế giới nhà thống lí Pá Tra, Mị mới bật kêu được thành tiếng con người. Mị đã thực sự sống lại hoàn toàn, với ý nghĩa là con người đầy đủ nhân cách; và do vậy đến đây, lòng thương người đã trở thành sức mạnh lấn át nỗi thương thân.

O D

U

C TI O

N

Và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại hai số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạ đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị trang văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước, nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Bởi, Mị từng nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội? Lòng nhân hậu trong Mị đã hồi sinh, và chính nó trở thành động lực giúp Mị chiến thắng nỗi sợ, thúc đẩy cô có hành động cứu người: Mị rút dao cắt dây cứu A Phủ.

PR

b. Từ cứu người đến cứu mình

TH

AN H

TU

Hành động xong, nỗi sợ xuất hiện nhưng bản năng tự vệ tích cực đã kích thích hành động tiếp theo Mị chạy theo A Phủ, với lời giải thích ngắn gọn: “Ở đây thì chết mất”. Mị đã trở về là Mị tư cách là con người và trưởng thành về nhận thức, cô thấy rõ được bộ mặt của thế giới bạo tàn, kiên quyết từ bỏ nó. Hành dộng chạy trốn của Mị là hành động chạy theo khát vọng tự do mà bấy lâu bị nén chặt. Mị tự thoát ra khỏi bóng đêm để đến với ánh sáng; tự đập vỡ không gian oi ngạt cầm tù mở ra cuộc đời mới cho chính bản thân mình, mặc dù ở thời điểm này, hành động ấy vẫn là tự phát.

N

2.4 Liên hệ

N

G

U

YE

Ý kiến trên đã khắc họa sâu sắc các khía cạnh tâm lí và hành động của Mị trong đêm mùa đông. Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: nhận thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ, bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội, và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó, hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ khát vọng sống mãnh liệt từ đêm mùa xuân vốn có trong tâm lí và tính cách của Mị. Bao năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù những người đàn bà có chồng khác đi vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một lỗ cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc. Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử - con trai thống lí và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động. Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lí trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi Trang 5


theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồi tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí mà đã là con trâu, con ngựa thì không có suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Trong đêm đông trước khi cởi trói cho A Phủ, Mị đã có những liên tưởng từ số phận của mình đến số phận của A Phủ. Nhưng không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm, thương mình và thương người, lần đầu tiên Mị ý thức được tội ác của cha con nhà thống lí, lần đầu tiên thấy bất công cho người cho mình. Nếu trước đó khi Mị muốn giải thoát. Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Còn bây giờ để cứu mình Mị đã vùng bước đi, gọi với theo A Phủ để tự giải thoát bản thân. Hành động cứu A Phủ là hành động táo bạo có ý nghĩa quyết định đời Mị và mở ra cuộc sống mới. Ở đó, Mị và A Phủ thành vợ thành chồng, cùng đội du kích đánh giặc bảo vệ bản làng ở miền đất mới Phiềng Sa. Hành động ấy khẳng định cuộc sống vốn tiềm tàng và phong phú, những đau khổ và khát vọng tự do đều tồn tại trong Mị từ trước, vấn đề đặt ra là cái gì khơi gợi cho sự tích cực trỗi dậy chiến thắng. Hành động giải phóng (cứu A Phủ và cứu mình) là hành động tự phát, và nó trở thành phát triển tự giác ở đoạn sau của tác phẩm. Nhưng Tô Hoài đã tạo ra được cái khác biệt giữa nhân vật Mị với các nhân vật: Thúy Kiều (Truyện Kiều, Nguyễn Du) hay Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ)... ở chỗ bông hoa xứ Mèo không tìm đến một thế giới ảo tưởng, hoặc một vòng vây đen tối bi kịch mới, mà là khát vọng vùng lên tìm một con đường sống với sự đổi thay và tự do triệt để.

N

G

U

YE

N

Tuy nhiên, cách kết thúc của tác phẩm, chúng ta có thể thấy được, bởi Tô Hoài sáng tác thiên truyện này sau Cách mạng tháng Tám. Trước đó không lâu, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng... đã không thể tìm được một con đường tốt đẹp cho nhân vật của mình. Còn Mị, và nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học cách mạng, đã tìm ra con đường giải phóng thật sự, biết cách cởi trói cho mình trong quá trình đến với cách mạng. Tô Hoài đã có được một tác phẩm thật ý nghĩa, góp phần vào viện bảo tàng con người Việt Nam tiến dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Mị là nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi Cách mạng đương đại Việt Nam. Điều này chỉ có thể đạt được khi tác phẩm “chín” về nghệ thuật và đứng trên tầm cao tư tưởng. Nhân vật trung tâm Mị được xây dựng thành công và là hình ảnh văn học đặc sắc. Trang viết về Mị ở phần đầu truyện đầy ấn tượng, trong đó có những đoạn viết thăng hoa. Tài năng độc đáo của Tô Hoài là xây dựng lên những nghịch cảnh diễn biến tinh vi trong con người Mị. Một cô gái xinh đẹp nhưng gánh chịu số phận đa đoan, một nội tâm đầy mâu thuẫn. Các tình tiết viết về Mị hầu hết là đối thoại nội tâm, hay nói cách khác Mị hiện lên trong truyện bằng những tình tiết thoát ra từ miêu tả nội tâm. Những cuộc đối thoại nội tâm đã dẫn đến kết cục bất ngờ nhưng hoàn toàn hợp lí và lôgic. 3. Kết bài Rõ ràng Vợ chồng A Phủ mãi mãi là hành trang để chúng ta bước vào cuộc sống. Mỗi một tác phẩm Trang 6


N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

văn học chân chính là một lời đề nghị về cách sống, có khả năng nhân đạo hóa con người. Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm như vậy. Nó là một minh chứng cho lời nhận định của nhà văn Nguyễn Khải: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những gian khổ, hi sinh. Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới. Điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”.

Trang 7


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 13 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

C TI O

N

Sự thành đạt của tôi không phải ở các dãy số trong tài khoản ngân hàng, mà chính là lúc tôi biết cho đi, san sẻ những gì mình có với những người cần được giúp đỡ. Tôi có học cao đến mấy cũng chưa đủ, chỉ khi nào tôi dùng sự hiểu biết của mình để hỗ trợ, nâng đỡ người khác, thì lúc đó tôi mới thực sự thành đạt.

O D

U

(Trích trả lời phỏng vấn của nhà văn nữ Phùng Lệ Lí trên báo Phụ nữ và Đời sống, số 18, ngày 27-17-2016)

Câu 2: Phong cách ngôn ngữ của đoạn trên là gì?

PR

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn văn trên.

AN H

TU

Câu 3: Tìm thành phần hàm ý trong câu: “Tôi có học cao đến mấy cũng chưa đủ, chỉ khi nào tôi dùng sự hiểu biết của mình để hỗ trợ, nâng đỡ người khác, thì lúc đó tôi mới thực sự thành đạt” và phân tích hiệu quả sử dụng phương thức hàm ý ở trên. Câu 4: Thông điệp nào của đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với anh (chị)? II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

YE

N

TH

Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày ý kiến của anh (chị) về ý kiến được nêu trong đoạn trích phần Đọc hiểu: “Sự thành đạt của tôi không phải ở các dãy số trong tài khoản ngân hàng, mà chính là lúc tôi biết cho đi, san sẻ những gì mình có với những người cần giúp đỡ”.

N

G

U

Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Từ đó, liên hệ với nhân vật thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao để thấy điểm gặp gỡ của hai nhà văn trong quan niệm về vẻ đẹp con người. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: - Phương thức biểu đạt: Nghị luận. Câu 2: - Phong cách ngôn ngữ báo chí. Câu 3: -

Thành phần hàm ý trong câu trên là: “Tôi có học cao đến mấy cũng chưa đủ”.

-

Hiệu quả: Thể hiện sự khiêm tốn của tác giả. Cuộc sống là bao la và vô tận, mỗi chúng ta giống như là hạt cát trên sa mạc. Phải luôn học hỏi và không ngừng phấn đấu. Sự thành đạt thực sự khi biết đem những gì mà mình học hỏi được để giúp đỡ, sẻ chia với mọi người. Trang 1


Câu 4: Thông điệp của tác giả: -

Cuộc sống như một vòng tròn bất tận, nhưng vòng tròn đó không nằm ngoài tình yêu thương và sẻ chia.

-

Mỗi chúng ta dù ở bất cứ vị trí nào trong xã hội và nhất là đối với mỗi cá nhân khi đạt được thành công trong cuộc sống cũng phải biết sẻ chia, giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: A. Về kĩ năng Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

-

Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

C TI O

N

-

B. Về kiến thức

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:

U

1. Mở đoạn

Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người thành đạt theo một cách giản dị đến bất ngờ. Trong thế giới rộng lớn này, mỗi con người lại có những bí quyết riêng để thành đạt: người làm việc chăm chỉ để tích lũy từng ngày, người dám mạo hiểm tất cả để theo đuổi giấc mơ, người bồi dưỡng và phát triển khả năng thiên phú.

-

Trích dẫn câu trả lời phỏng vấn.

AN H

2. Giải thích

TU

PR

O D

-

“Thành đạt” là đạt kết quả tốt đẹp, đạt mục đích về sự nghiệp, làm nên (Từ điển tiếng Việt).

-

Thành đạt trong ý kiến trên được hiểu như thế nào?

TH

-

N

+ Giải thích những từ: “cho đi”, “san sẻ”, “hỗ trợ”, “nâng đỡ” để hiểu thành đạt ở đây chính là sự đồng cảm, chia sẻ. Đó là tình thương đồng loại.

U

YE

+ Xét về mặt tinh thần, khi chúng ta biết cho đi, ấy là lúc chúng ta sẽ nhận lại hạnh phúc. Thành đạt chính là sự thỏa mãn với hạnh phúc mình có được khi thể hiện lòng nhân đạo.

G

3. Phân tích và chứng minh

So sánh: Quan niệm về sự thành đạt nói chung trong thời đại ngày nay với quan niệm thành đạt của nhà văn Phùng Lệ Lí.

-

Quan niệm chung cho rằng: Thành đạt gắn liền với sự nghiệp vẻ vang, một tiền đồ hứa hẹn, sự giàu có về tiền bạc, đỉnh cao của vinh quang.

-

Quan niệm của nhà văn Phùng Lệ Lí: Thành đạt là niềm vui gặt hái được từ tấm lòng vị tha, từ việc làm ý nghĩa, sự giàu có về mặt tinh thần.

-

Khẳng định: Quan niệm của nhà văn Phùng Lệ Lí không mâu thuẫn mà bổ sung cho quan niệm truyền thống mà thôi.

N

-

 Lưu ý: Thí sinh lấy dẫn chứng trong cuộc sống và văn học để chứng minh. 4. Bình luận và đánh giá -

Đây là quan niệm sống tích cực, tiến bộ, một lối sống đẹp trong cuộc sống ngày nay mà thanh niên Trang 2


cần học tập. Đã có nhiều người cùng có quan niệm sống trên. -

Thành đạt đúng đắn cho một người phải là mỗi ngày anh tiến bộ hơn chính anh ngày hôm trước về năng lực lao động, trí tuệ, đạo đức và tình yêu nhân loại. Kết quả thành đạt phản ánh gián tiếp qua chất lượng sống cá nhân và trực tiếp hiệu quả lao động mà qua đó anh đóng góp cho xã hội, đóng góp cho nhiều người khác.

-

Dẫn chứng thực tế đời sống.

Khổng Tử là nhà tư tưởng vĩ đại thời kì Trung Quốc cổ đại – sáng lập nên Nho giáo, coi nhà nho là người đóng góp cho xã hội, biết xử sự đúng lẽ trời, người được thiên hạ chờ đợi để giúp việc đời. Nói một cách đơn giản, ông đã chỉ ra cách sống hài hòa với vũ trụ và đưa quy luật muôn đời này vào xã hội, mang lợi ích cho mọi người.

Những tấm gương thành đạt làm nhân đạo, từ thiện.

-

Khẳng định đây là một quan niệm sống đẹp, cần phát huy.

-

Bày tỏ thái độ, suy nghĩ của bản thân:

C TI O

N

5. Bài học nhận thức và hành động

O D

U

+ Chúng ta được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm của chúng ta là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành đạt.

PR

+ Đừng bao giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng nói: “Cuộc sống này không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thôi”.

TU

Câu 2:

AN H

1. Mở bài

TH

Có những tác phẩm đọc xong là ta quên ngay nhưng có những tác phẩm đọc xong mà để lại ấn tượng sâu sắc tựa như một dòng nước chảy qua để lại lớp phù sa màu mỡ. Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như vậy.

N

G

U

YE

N

Kim Lân – nhà văn của con đê đất đai đồng ruộng, “một lòng đi về với đất, với người thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn ngày trước” (Nguyên Hồng). Với mỗi trang viết của nhà văn Nam Cao đều là sự trả ơn đối với người nông dân thì với Kim Lân lại luôn tôn thờ hiện thực về cuộc sống của người nông dân. Những trang viết của Kim Lân không chỉ là bức tranh về hiện thực cay cực, khốn khổ mà còn ánh lên những phẩm chất, tâm hồn cao đẹp của con người nghèo khó. Khi viết về những người đói trong truyện Vợ nhăt, Kim Lân đã đặt họ trong bối cảnh đặc biệt của nạn đói khủng khiếp năm 1945 và từ ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới dù là rất mỏng manh. 2. Thân bài 2.1 Khái quát chung Nông thôn và nông dân vốn là một đề tài quen thuộc của văn học Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám đã có Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan... với nhiều tác phẩm có giá trị. Trong số những nhà văn viết về nông thôn đó, có một người tuy viết sau và viết ít nhưng tác phẩm vừa ra đời thì đã được mọi người hoan nghênh bởi nó có một nội dung mới, cách nhìn và cách thể hiện mới. Truyện ngắn Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Cuốn tiểu thuyết được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và sau đó bị lạc mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại 1954 Kim Lân dựa vào một Trang 3


phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn Vợ nhặt sau này in trong tập truyện ngắn Con chó xấu xí. Khi trao đổi về nghệ thuật truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã nói với nhà nghiên cứu – phê bình Văn học Hà Minh Đức: “Tôi quan niệm: truyện ngắn cũng là tiểu thuyết và điều quan trọng là nhân vật. Nhân vật phải có tính cách và phải hành động theo tính cách nhân vật một cách tự nhiên, không giả tạo, sáo rỗng”. Mỗi nhân vật trong truyện được Kim Lân dựng mỗi cách khác nhau, dù thiên về tính cách hay nội tâm đều rất chân thực, sống động. Dung lượng viết về nhân vật thị - người đàn bà không tên – vợ Tràng, không nhiều nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. 2.2 Phân tích a. Sự nghèo đói cùng đường biểu hiện qua thân phận và ngoại hình

C TI O

N

Thị giống như những số phận, những kiếp người trong xã hội cũ. Sự xuất hiện của nhân vật góp phần không nhỏ giúp Kim Lân thể hiện ý tưởng của mình và cũng từ hình ảnh ấy để lại bao suy nghĩ ám ảnh trong lòng người đọc: Kiếp người cơm vãi cơm rơi

O D

U

Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.

(Ba mươi năm đời ta có Đảng, Tố Hữu)

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là “nhà tôi” mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi mà còn có biết bao người con gái như thế. Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị chỉ mới “gầy xanh xao, ngồi vêu trước cửa kho thóc”, nhưng đến lần gặp thứ hai, anh ta không nhận ra. Dòng xoáy của cơn lũ đói khát đã cuốn phăng đi tất cả, cho nên chỉ có mấy hôm không gặp mà hôm nay người đàn bà đứng trước mặt Tràng với bộ dạng “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải. Bức chân dung của một người phụ nữ không được nhìn qua con mắt của một người đàn ông đang yêu, không hề có sự đẽo gọt của ngôn từ nên nó trần trụi đến thê thảm. Nhà văn không cần phải dẫn giải gì nhiều về người đàn bà giữa đường giữa chợ ấy nhưng qua hình hài thảm hại này đã chắc chắn cho người đọc biết rằng chị thuộc số đông những người đang sống lay lắt trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 đang mấp mé bên bờ vực của cái chết. b. Sự nghèo đói cùng đường khiến thị bất chấp sĩ diện danh dự vì miếng ăn Dân gian có câu: “Đói thì đầu gối phải bò”, “Chết thì phải giãy”... Cái bối cảnh của câu chuyện theo triết học phương Đông, đã ở mức “cùng”. “Cùng tắc biến”... Thói thường, khi đã “cùng”, để có miếng ăn – lúc này đây là miếng sống, phải tranh cướp, thậm chí giết hại lẫn nhau. Kim Lân vẫn theo quy luật “cùng tắc biến” ấy, tạo điều kiện cho Tràng “nhặt” được vợ chỉ bằng bốn bát bánh đúc. Trước cổng chợ, Tràng đang ngồi uống nước thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói: -

Điêu! Người thế mà điêu! Trang 4


-

Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.

Mục đích của thị mắng Tràng cũng chỉ vì miếng ăn. Bộ dạng thị trong con mắt của Tràng: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái “khôn ở thị là xin ăn nhưng không nhắc đến miếng ăn. Trước mắt mọi người thị gán cho Tràng cái tội bội tín. Câu: “Người thế mà điêu”, vừa nâng Tràng lên lại vừa đập Tràng xuống. “Người thế” chỉ con người ra dáng con người, đáng mặt nam nhi. “Người thế mà điêu!” lại bóc mẽ anh ta chỉ có bộ dạng bên ngoài là tử tế thôi. Tình thế ấy buộc Tràng phải chống chế, không muốn bị xem là thất tín, mất mặt trước mọi người: -

Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Tràng đã sập vào cái bẫy thị giăng ra. Chớp thời cơ, thị nói luôn:

N

Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.

C TI O

-

Khi Tràng vỗ vào túi “rích bố cu”, “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả”: Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.

U

-

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

Hỏi rồi thị tự “chốt” lại luôn. “Ừ ăn thì ăn sợ gì”. Như vậy với thị ăn vì thách thức chứ không phải vì đói khát! Thế là thị “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng nói chuyện trò gì”. Chi tiết ăn xong “thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở” thật đắt. Nó vừa cho ta thấy hành vi văn hóa chẳng mấy đẹp, vừa cho thấy thị đói đến nhường nào. Lần trước gặp Tràng, thị cùng mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa kho nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì thì gọi đến làm. Từ “vêu” Kim Lân dùng thật tuyệt, tôi dám khẳng định không có một từ thay thế nào hay được như vậy. Thế nhưng thị vẫn “cong cớn” đùa lại với tràng, “vùng đứng dậy, ton ton chạy lại” đẩy xe và “ban phát” cái “liếc mắt, cười tít” khiến anh cu Tràng thích lắm, vì: “Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Nhắc lại chi tiết này để thấy, tuổi trẻ dù trong hoàn cảnh nào cũng khao khát hạnh phúc. Hai lần thị xuất hiện trước Tràng là “ton ton chạy lại”, “sầm sập chạy đến”, rất nhanh và bất ngờ. Một lần là giúp người, một lần là cứu mình. Kim Lân để cho thị xuất hiện như thế trái với hình ảnh người con gái đã được mặc định trong tiềm thức xã hội phong kiến: Em đi chàng theo sau Em không dám đi mau Sợ chàng chê hấp tấp Số gian nan không giàu (Chùa Hương, Nguyễn Nhược Pháp) Bước chạy cứu mình của thị được Kim Lân đẩy cao hơn nữa, khi Tràng đùa: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Anh Tràng chỉ nói đùa thôi thế mà thị ta về thật, đúng là: “Lộng giả thành chân”. Thị liều với số phận. Mà nói thực, khi cái chết cận kề như thế thì còn gì để mà lựa với chọn, suy với tính nữa, thị đã ở thế “cùng” rồi. Thị liều, Tràng cũng liều nhưng cũng không khỏi những giây phút chọn nghĩ: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng”. Quả đúng là khi đã liệu là bất chấp tất cả. c. Đằng sau vẻ chao chát, chỏng lỏn là một người phụ nữ nữ tính và giàu khát vọng Trang 5


Trên con đường trở về nhà của tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt “có vẻ gì phớn phởn khác thường”, hay “tủm tỉm” cười một mình và hai con mắt sáng lên lấp lánh, thì thị lại “đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận của mình, là người vợ theo không. Hóa ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Song, dù “cố đấm ăn xôi” đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ lẻ con chọc ghẹo, thì “thị có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo”. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, khi “thị biết xung quanh người ta đang dồn cả về phía mình, thị càng ngượng ngịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người. Cái sự trơ trẽn ở chợ hẳn không phải là bản chất của người đàn bà tội nghiệp ấy. Bây giờ những lời lẽ của thị với Tràng vẫn trống không nhưng không hề đánh đá, chỏng lỏn, thậm là tình tứ - một lối tình tứ rất đỗi mộc mạc chân quê bởi họ vốn sinh ra từ ruộng đồng chân chất, không quen nói những lời hoa mĩ có cánh: “Đã một mình còn lại mấy u. Bé lắm đấy... hoang nó vừa vừa chứ”. Rõ ràng nếu đây không phải là lối cư xử của một đôi vợ chồng thì chí ít cũng là một cặp tình nhân. Hình như trong sâu thẳm con người thị vẫn còn mong chờ một điều gì khác đẹp đẽ, chẳng hạn như hạnh phúc lứa đôi hơn là tìm một chốn nương thân một nơi để chạy đói. Nhân vật đang dần dần lột bỏ những nét xấu xí, thảm hại về ngoại hình để hé lộ những đặc điểm tốt đẹp trong tâm hồn và tính cách. Người đọc bắt đầu thấy thương hơn là chê trách thị.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn xung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiên, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám “ngồi mớm xuống mép giường”. Ngồi mớm vì mất tự nhiên. Tự nhiên sao được khi về nhà chồng với những cái không: “Không tấm áo lành lặn, không họ hàng đưa tiễn, không một chút hiểu biết về gia đình nhà chồng, không cưới hỏi”. Ý thức hoàn cảnh của bản thân pha chút lo sợ đối diện với mẹ chồng chưa một lần gặp mặt nên thị ngồi mớm ở mép giường như pho tượng. Suy nghĩ của người vô tư, liều lĩnh, cả nể như Tràng về thị lúc ấy: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ? ... Ồ sao nó lại buồn thế nhỉ?” ... như càng tô đậm thêm tâm trạng lo âu, thấp thỏm, buồn tủi của thị mà thôi. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào bà bằng u. Có lẽ nói được bốn từ: “U đã về ạ!” là một sự cố gắng lắm của thị. Bởi vì, khi bà cụ đã chấp thuận, “Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi” thì “thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Chính thái độ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ, trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng với nàng dâu, nhìn thị bằng tấm lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều xa lạ. d. Thị đã biến những người xung quanh trở thành những con người khác Chỉ sau một đêm có vợ, sáng hôm sau, trong mắt Tràng: “Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sấn vườn hôm nay đều được quét trước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Sự thay đổi ấy bắt đầu từ bàn tay của thị, của người vợ đảm đang: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì Trang 6


chao chát chỏng lỏng như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không?”. Sự xuất hiện của thị ở ngôi nhà đã dẫn đến những thay đổi không khí của cả xóm ngụ cư. Đầu tiên là “những khuôn mặt hốc hác u tối bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”, họ túm tụm bàn tán nói chuyện rồi cười lên rung rúc, những đứa trẻ ủ rũ thấy sự lạ lùng, chúng vội chạy ra xem và đột nhiên có đứa cong cổ gào lên trêu đùa. Đặc biệt sự xuất hiện của thị trong cuộc đời của Tràng đã khiến anh thay đổi, từ một anh cu Tràng hay có tật “vừa đi vừa nói”, thường “tủm tỉm cười một mình”. Đặc điểm ấy làm cho Tràng “hấp dẫn” với đám trẻ con vô tư, hồn nhiên xem anh như một đứa trẻ lớn hơn là chàng trai trong mắt các cô gái.

O D

U

C TI O

N

Thị mang đến cho người đọc hơi thở mới của anh cu Tràng sau cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ chịu “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Việc Tràng có vợ có lẽ là giấc mơ đẹp nhất đời anh. Đó cũng là cảm xúc rất tự nhiên và chân thật của một con người đang sống trong choáng ngợp trước hạnh phúc lớn lao và bất ngờ đã đến. Tràng cảm động khi thấy vợ và mẹ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên mặt đất. Mỗi nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột ngập tràn trong lòng. “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Nếu như ở trên niềm vui, niềm hạnh phúc có vẻ mơ hồ thì đến đây hiện hữu thật cụ thể trở thành nguồn sống của tâm hồn Tràng.

TH

AN H

TU

PR

Với bà cụ Tứ, thị đã thắp lên trong bà ngọn lửa của niềm tin và sự lạc quan. Chỉ có thể nói đó là một niềm tin bé nhỏ mà bất diệt, âm ỉ và dai dẳng tiếp thêm sức mạnh cho con trên sinh lộ cuộc đời. Và niềm tin đã chuyển hóa thành niềm vui. Bà vui trong công việc “sửa sang nhà cửa, vườn tược”. Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã chủ động tạo nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào một nàng dâu mới. Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời các con mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và cảm thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con. Trong bữa cơm, bà toàn nói chuyện vui, chuyện lạc quan, chuyện tương lai sau này.

YE

N

e. Thị gieo vào lòng người khát vọng giải phóng số phận

N

G

U

Khi bà mẹ chồng đem ra một món ăn “hay lắm cơ” người con dâu “đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng” như thể đó là món ăn xa xỉ mà bà mẹ khoe là “chè khoán”. Cái nhìn “tối lại” cho biết người con dâu biết thực chất món chè này vốn không dành cho người, những cử chỉ “điềm nhiên và vào miệng” đã cho thấy khả năng chịu đựng và chấp nhận hoàn cảnh của người phụ nữ này. Thị có thể không ăn, thậm chí có thể bỏ đi từ tối hôm trước khi nhìn thấy căn nhà rách nát mà thị không hề mong đợi, nếu như người đàn bà nầy chỉ nghĩ đến miếng ăn. Nhưng cũng như Tràng, người phụ nữ này ngoài khát vọng được tồn tại, còn có một ao ước mái ấm gia đình, có mẹ con, có vợ chồng dù có phải ăn cháo cám. Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh cu Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào thì mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế! Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống dồn dập, vội vã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thì ngay lúc này thị khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn đi phá cả kho thóc của Nhật, chia Trang 7


TU

PR

O D

U

C TI O

N

cho người đói”. Câu chuyện ấy khiến Tràng thần ặt ra và nghĩ ngợi, khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Tương lai của Tràng chỉ báo hiệu sự thay đổi thực sự khi Tràng không còn sống vô tư, không chỉ biết việc trước mắt mà còn biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng thấy ân hạn, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm... Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới.... Những người nông dân nghèo khổ như Tràng vẫn còn mơ hồ và xa lạ với cách mạng nhưng nếu hiểu ra vai trò của lực lượng chính trị ấy, họ sẽ sẵn sàng đi theo. Chính thị là người đã gieo vào lòng người khát vọng lớn lao giải phóng số phận. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn anh cu Tràng! Hóa ra cái đanh đá, trơ trẽn trước kia của người đàn bà mà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong một mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống đúng với phẩm chất tốt đẹp của mình, của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Chúng ta thực sự quên đi cái ngoại hình xấu xí, thảm hại của thị để yêu quý, tin tưởng vào khả năng cải tạo hoàn cảnh bản thân, khả năng cải tạo hoàn cảnh gia đình chồng và đặc biệt khả năng cải tạo chính anh chồng. Sự chăm nom, thu vén gia đình và những tình cảm vợ chồng mà thị tạo nên đã khiến cho Tràng – một người đàn ông vốn vô tư, vô nghĩ thức tỉnh ý thức trách nhiệm thấy yêu thương gia đình hơn. Thị đem đến niềm vui (cho dù niềm vui xen lẫn nỗi lo âu) cho người mẹ già gần đất xa trời đang mòn mỏi chờ con trai mình có vợ. Thị như sợi dây nối kết các thành viên trong gia đình để mọi người yêu thương và có trách nhiệm với nhau hơn. Sự xuất hiện của thị đã thổi một luồng sinh khí mới mẻ, tươi mát vào căn nhà tăm tối của mẹ con Tràng, xua bớt đi cái không khí u ám vẩn lên mùi tử khí của xã hội.

G N

2.3 Liên hệ

U

YE

N

TH

AN H

Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lí nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lí hết sức tỉ mỉ). Tác giả lại chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết (thị lấy nón che mặt) diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng, hoặc (thị nén một tiếng thở dài) khi đảo mắt nhìn xung quanh căn nhà của Tràng, hay chi tiết (thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng) là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng... Nhiều chi tiết nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người. Kim Lân đã rất vững vàng khi đưa thị xuống địa phận cuối cùng của đường cùng để rồi từ từ nâng thị lên giản dị mà đẹp lạ thường.

Nếu như thị đã thay đổi không khí của gia đình Tràng, gieo vào họ những khát vọng hạnh phúc và thay đổi cuộc sống thì thị Nở trong Chí Phèo bản năng hơn nhưng cũng đã góp phần đánh thức con người lương thiện trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Thị Nở một người đàn bà xấu xí. “Đã thế thị lại dở hơi... Và thị lại nghèo... Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...”. Thế nên, thị Nở không có chồng và “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm”. Vậy mà thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo – con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người. Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng... Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó Trang 8


mà...”. Không những thế, khi thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của thị Nợ tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy thị thật có duyên. Bát cháo hành mà thị Nở mang sang cùng những quan tâm mà thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.

O D

U

C TI O

N

Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dữ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân thị Nở - người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát từ trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hi vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hi vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.

PR

3. Kết bài

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

Trong tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Ôxtrốp-xki đã để nhân vật Paven ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không chịu được”. Với những việc khắc họa người phụ nữ này, Kim Lân một lần nữa gửi tới người đọc thông điệp: “Đói, nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó nó làm lóe lên những tia sáng về đạo đức và danh dự”. Phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn con người là biểu hiện của tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Đây cũng là cảm hứng chủ đạo trong văn học Việt Nam khi viết về số phận và vẻ đẹp của người lao động.

Trang 9


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 14 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lòi các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

PR

O D

U

C TI O

N

Dầu trôi nổi, dẫu cực khố thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong! Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng những thế mà thôi, “một người làm quan một nhà có phước”, dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu rút tỉa của dân thế nào cũng không ai phẩm bình, dầu lấy của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ ham mồi phú quý không đua chen vào đám quan trường sao được! (Về luân lí xã hội ở nước ta, Phan Châu Trinh, SGK Ngữ văn 11,

TU

Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 86 - 87)

Câu 1: Nêu ý chính và xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn văn.

AN H

Câu 2: Những phưong thức biểu đạt nào đã được tác giả sử dụng trong đoạn văn? Dựa vào đâu để khẳng định điều đó?

TH

Câu 3: Chỉ ra biện pháp điệp trong đoạn văn và nêu tác dụng của nó.

Câu 1 (2,0 điểm):

YE

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

N

Câu 4: Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề được chí sĩ Phan Châu Trinh đề cập ở trên.

N

G

U

Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu trong đoạn trích phần Đọc hiểu: “Dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu rút tỉa của dân thế nào cũng không ai phẩm bình, dầu lấy của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai”. Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận về cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? (SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019). Từ đó liên hệ với cái “tôi” của Huy Cận trong bài Tràng giang (SGK Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để nhận xét về điểm giống và khác nhau trong cái “tôi” của mỗi tác giả. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Trang 1


TU

PR

O D

U

C TI O

N

- Ý chính của đoạn văn: Bày tỏ sự bất bình về tình trạng vô cảm của số đông trước những đau khổ của người dân, trước sự nhũng lạm của bọn quan lại - một sự vô cảm có khả năng tiếp tay cho cái ác. - Phong cách ngôn ngữ của đoạn văn là phong cách chính luận. Câu 2: Đoạn văn đã sử dụng hai phương thức biểu đạt chính: - Phương thức nghị luận: Tác giả rất chú ý chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng, sự việc, nhằm thuyết phục người đọc tin vào điều ông khẳng định. - Phương thức biểu cảm: Đoạn văn thể hiện rõ tình cảm thống thiết của tác giả khi nói tới sự thối nát của đám quan trường, nỗi khổ của dân chúng và sự vô cảm của các công dân. Câu 3: Đoạn văn đã sử dụng thường xuyên biện pháp điệp: - Điệp từ: “dầu, dẫu”. - Điệp cú pháp (điệp mô hình câu): “có kẻ... ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ... lúc nhúc lạy dưới”; “dân... mà chi”; “dầu... cũng không ai...”; “người ngoài thì... người nhà thì...”. - Tác dụng của biện pháp điệp: nhấn mạnh tình trạng thê thảm của hoàn cảnh; bộc lộ nỗi đau và nỗi căm giận của tác giả một cách trực diện, nhằm gây hiệu quả tác động một cách nhanh chóng. Câu 4: Đoạn văn phải viết gọn, các câu phải đúng ngữ pháp, tập trung làm nổi bật một trong các ý: - Sự thối nát của lũ quan lại. - Sự đua chen kiếm mồi phú quý của người đời. - Sự vô cảm trong đời sống xã hội. (Tuy nhiên, thí sinh cũng có thể bày tỏ suy nghĩ về các vấn đề khác được gợi ra trong đoạn được trích dẫn). II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

AN H

Câu 1: A. Về kĩ năng -

Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

TH

Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

N

-

YE

B. Về kiến thức

G

a. Mở đoạn

U

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:

N

Tham nhũng thì thời nào chẳng có, ở nơi nào, nước nào chẳng có. Vương Ông và Vương Quan muốn thoát cảnh tù đày phải đút lót bọn quan lại: “Có ba trăm lạng, việc này mới xong” (Truyện Kiều, Nguyễn Du). Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến có câu nói về chuyện “công lí đồng tiền” thật nhẹ nhàng mà sâu sắc: -

b. Giải thích -

Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giải thích từ tham nhũng, như sau: “Tham nhũng là lợi

dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy cùa dân”. Có tiền việc ấy mà xong nhỉ, Đời trước làm quan cũng thế a! - Trích dẫn ý kiến. - “Không ai phẩm bình” là sự bỏ mặc biết mà không lên tiếng. c. Phân tích và chứng minh Trang 2


a. Thực trạng - Vấn đề tham ô, tham nhũng đang là một hiện tượng, một vấn đề nóng mà cả thế giới phải quan tâm. - Nó xảy ra hầu hết ở tất cả các cấp và các ngành trong xã hội. - Hình thức ngày càng tinh vi, kĩ xảo. → Nếu thế giới có căn bệnh thế kỉ không có thuốc đặc trị là HIV/AIDS thì ta cũng có thể xem bệnh tham nhũng cũng giống như căn bệnh thế kỉ kia. b. Nguyên nhân - Điều đáng buồn là nó lại xuất phát từ những quan chức cấp cao của nhà nước đến các tầng lớp thượng lưu. - Ngay cả trong một công xưởng nhỏ bé cũng xuất hiện vấn đề tham ô.

N

c. Hậu quả

C TI O

- Lương tâm và đạo đức biến chất.

- Tham nhũng như một con vi rút len lỏi vào từng ngóc ngách, hơi thở trong cuộc sống con người. d. Bàn luận và đánh giá

O D

U

- Cái ý nghĩ cho rằng phải có tiền mới được sung sướng, phải có tiền mới khẳng định mình đã ăn sâu vào tiềm thức họ, khiến họ bỗng chốc trở thành kẻ tham ô, tham nhũng lúc nào không hay.

e. Bài học nhận thức và hành động

TU

PR

- Tham nhũng, người ta cứ nghĩ nó là vấn đề nhẹ, giải quyết nhanh chóng, nhưng sự thật, nó lại như con đỉa cứ đeo bám xã hội hết đời này qua đời khác. Nó làm điên đảo tài chính, kinh tế và giết chết dân lành trong cơn túng quẫn tột cùng.

AN H

- Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực, chính nó làm cho xã hội “thụt lùi” so với sự phát triển của nhân loại.

TH

- Chúng ta phải cùng nhau chung tay để nói “không!” với tham nhũng, nhằm giúp xã hội tiến bộ, phát triển.

U

- Liên hệ bản thân.

YE

N

- Phải lựa chọn cách ứng xử đúng đắn khi đứng trước tham nhũng. Không vì bất cứ lí do gì mà khoan nhượng!

N

Câu 2:

G

- Đề xuất sáng kiến. 1. Mở bài

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát. (Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm) Tổ quốc Việt Nam có trăm núi nghìn sông diễm lệ, có biết bao lời thơ, câu hát và trang văn đã cất lên để ngợi ca sông núi. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trường hợp như thế. Tác phẩm không chỉ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo mà còn bộc lộ tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà văn đối với mảnh đất miền Trung của Tổ quốc.

Trang 3


2. Thân bài 2.1. Khái quát chung

C TI O

N

Cuộc đời của Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn bó sâu sắc với xứ Huế (sinh ra ở thành phố Huế, học đại học Huế, dạy học tại trường Quốc học Huế, tham gia phong trào cách mạng tại Huế và trở thành một tri thức yêu nước, một chiến sĩ trong phong trào đấu tranh chống Mĩ - ngụy ở Thừa Thiên - Huế). Vì thế Hoàng Phủ Ngọc Tường là người có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực nhất là lịch sử, địa lí, văn hóa Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về thể loại bút kí. Ông từng được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là một trong những nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng viết: “Trong đời sống văn học, những nhà văn có tài năng, người thì đóng góp một cách viết, người thì đóng góp vào một cách sử dụng ngôn từ... nhưng trên tất cả anh phải cho người đọc thấy được cái riêng của anh”. Khi tìm đến thể kí của văn học Việt Nam hiện đại ta sẽ gặp một đỉnh cao là Nguyễn Tuân nhưng dù là người đến sau, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã và sẽ không bao giờ bị che khuất bởi đỉnh cao ấy. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và lối hành văn mê đắm, tài hoa.

PR

O D

U

Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết tại Huế tháng Một năm 1981. Sau này nhà văn đã chia sẻ: “Tác phẩm dù viết trong mười ngày nhưng tôi đã nghĩ về nó bằng nửa cuộc đời của mình”. “Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ nên một dòng sông y như nó vốn có. Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: “sông Hương như một viên ngọc quý mà thiên nhiên ban tặng cho Huế”.

AN H

TU

Nếu như Nguyễn Tuân viết về sông Đà với cảm hứng đi tìm chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao động Tây Bắc thì Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về sông Hương với niềm khao khát được khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên và những lớp trầm tích văn hóa của mảnh đất cố đô.

TH

2.2. Phân tích

N

a. Bài kí là hiểu biết sâu sắc về sông Hương dưới góc độ địa lí

N

G

U

YE

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận sông Hương và Huế ở tận sâu thẳm tâm hồn của mình để thấu hiểu và trân trọng, ông viết về sông Hương như viết về chính mình, nhà văn thuộc từng khúc quanh, ngã rẽ, từng chỗ đổi dòng. Với nhà văn, dòng sông không chỉ là một dòng chảy vô tư của tạo hóa mà còn là một sinh thể với sức sống riêng và những cung bậc cảm xúc phong phú, đa chiều. Từ hình tượng sông Hương có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn hoài vọng về một vẻ đẹp nào đó chưa đạt tới ở đời của thiên nhiên xứ Huế. Men theo dòng sông, nhà văn đã gọi tên biết bao địa danh xưa cổ và trầm mặc của Huế. Ở thượng nguồn sông Hương được ví như “bản trường ca của rừng già”. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại dành cho sông Hương một tên gọi như vậy. Thì ra ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ con sông toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt vừa hùng tráng, vừa trữ tình như bán trường ca bất tận cùa thiên nhiên:“Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Câu văn dài chia làm nhiều vế liên tục như gợi dậy cái dư vang của trường ca. Thủ pháp điệp cấu trúc với những động từ mạnh tự nó đã tạo nên âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa rừng già. Nhà văn còn nhân cách hóa sông Hương như “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Đây là một Trang 4


liên tưởng thú vị và độc đáo. Những cô gái Bê-hô-miêng thích sống tự do và yêu ca hát, nhảy múa có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Ví sông Hương với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của con sông. Chưa hết, nhà văn còn nhân cách hóa sông Hương, khiến nó hiện lên như một con người cá tính, tâm hồn khi “rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nếu tư duy nghiên cứu chủ yếu cung cấp những dữ kiện, những tri thức về dòng sông thì tư duy nghệ thuật giúp những tri thức đó trở nên mềm mại hơn.

O D

U

C TI O

N

Hơn hết sông Hương như “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Không chỉ giúp cho bạn đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man dại đầy chất thơ của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn muốn đem đến cái nhìn sâu sắc hơn, muốn ghi công sông Hương như một đấng sáng tạo đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Lâu nay, ta chỉ nhìn sông Hương ở vẻ đẹp của nó mà không biết rằng sông Hương chính là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không gian văn hóa - văn hóa Huế. Sẽ không quá nếu cho rằng: “Không có sông Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay”. Chính vì vậy, mà từng ngày, từng giờ sông Hương duy trì và bồi đắp phù sa cho cả một vùng văn hóa thẩm mĩ đã được hình thành ở trên và hai bên bờ sông. Ấy thế nhưng mà dòng sông không muốn bộc lộ cái công lao to lớn ấy. Nó âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến qua nhiều thế kỉ qua. Và đây chính là chiều sâu vẻ đẹp và nhân cách của dòng sông, là nét tính cách đáng trân trọng của Hương giang mà Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn khắc họa.

TU

PR

Ở ngoại vi thành phố Huế “sông Hương giống như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Từ đây thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi tựa một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như người con gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Nó thể hiện một vóc dáng mới, một sức sống mới, đầy khát khao và lãng mạn: “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những con đường thật mềm”. Hành trình đến với người tình mong đợi của người con gái đẹp khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua hàng loạt các chướng ngại vật: “điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán”, nhưng chính trong quá trình ấy sông Hương lại có cơ hội phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình - vẻ đẹp gợi cảm với những đường cong tuyệt mĩ của người gái đẹp ra đi từ “cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại” qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. “Từ Tuần về dây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi của sông Hương. Mỗi đường đi nước bước của con sông gắn liền với những địa danh khác nhau của xứ Huế đã được nhà văn dành cho một cách diễn đạt riêng với một động từ phù họp. Nhờ đó hành trình về xuôi của sông Hương không đơn điệu, nhàm chán mà trái lại nó khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này đến bất ngờ, thích thú khác. Có những câu văn giàu chất họa đến mức cứ ngỡ như đường cọ của người họa sĩ đang đưa những nét vẽ về sông Hương trên bức tranh thiên nhiên xứ Huế. Lại có những câu văn gợi nét mơ hồ với nhiều liên tưởng và cảm xúc rất thú vị. Thủ pháp nhân hóa và so sánh được sử dụng kết họp với hệ thống ngôn từ giàu cảm xúc và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc họa một dòng sông thơ mộng trữ tình. Sông Hương như người con gái Trang 5


đẹp càng trở nên gợi cảm, hấp dẫn, lại như biết làm mới mình, trang điểm cho mình đẹp hơn trước khi gặp người tình mà nó mong đợi. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Nhà văn không chỉ tái hiện một cách chân thực dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí của dòng sông mà quan trọng hơn là biến cái thủy trình ấy thành một hành trình của người con gải đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đó cũng chỉnh là cảm nhận riêng, độc đáo và đầy thi vị của Hoàng Phủ Ngọc Tường về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu.

O D

U

C TI O

N

Đó còn là “vẻ đẹp trầm mặc như triết lí như cổ thi của sông Hương”. Đi giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố như đang nép mình bên giấc ngủ nghìn năm của các vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch. Chảy bên những di sản văn hóa ấy, sông Hương như khoác lên mình tấm áo trầm mặc mang cái triết lí cổ thi của cố nhân. Dòng sông hay chính dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay. Tác giả đã nhắc lại một vần thơ cổ gợi lên không khí, khung cảnh u tịch và trầm mặc của rừng thông, của dòng sông, của những thành quách và những đồi núi lô xô ở đây. Ai đã một lần đến thăm thú Khiêm Lăng (lăng vua Tự Đức) mới cảm nhận hết được vẻ đẹp mà tác giả muốn nhắc đến: Bốn bề núi phủ mây phong

PR

Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên.

TU

Sắp đến thành phố mến thương, mặt nước sông Hương trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa bạt ngàn tiếng gà của những xóm làng.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

Sông Hương trong lòng thành phố Huế còn như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế". Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn cho mình kênh tiếp cận là âm nhạc. Ở góc độ này, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong tiếng Anh, “slow” có nghĩa là chậm và sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi dành riêng cho xứ Huế. Có thể thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tinh tế khi nhìn ra một đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông khác của Việt Nam và thế giới, lưu tốc của sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lí giải từ đặc điểm địa lí: “những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Để làm nổi bật hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh với sông Nê-va băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến mức không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với nguời bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Tuy nhiên, tất cả sự lí giải và so sánh nêu trên chưa lột tả được hết cái mệnh đề mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khái quát về sông Hương khi nó chảy giữa lòng thành phố: “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Mượn câu nói của Hê-ra-lít - nhà triết học Hi Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một kiến giải khác, hết sức thú vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông yêu quý. Đó là cách lí giải bằng trái tim: sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa. Đó là tình cảm của sông Hương với Huế hay chính là tình cảm của nhà văn với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ. Sự ngập ngừng vấn vương ấy chính là vẻ đẹp của Hương giang mà Thu Bồn từng có lần cảm nhận:

Trang 6


Con sông dùng dằng, công sông không chảy Sóng chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên những nét văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Một trong số đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế. Ở góc nhìn âm nhạc này tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp đến Huế, thưởng thức nhã nhạc cung đình Huế, được xem các nghệ sĩ chơi nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hóa đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả chỉ thực sự là nó “khi sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có cái quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước. Trong Tì bà hành, Bạch Cư Dị cũng từng viết:

C TI O

N

Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt Một vầng trăng trong vắt lòng sông. Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả tiếng đàn của nàng Kiều:

O D

U

Trong như tiếng hạc bay qua Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.

PR

Có lẽ khi viết những câu văn này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nghe vọng về những câu hò: Chiều chiều trước bến Vân Lâu

TU

Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm

AN H

Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông Thuyền ai thấp thoáng bên sông

TH

Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

G

U

YE

N

Dần ra câu chuyện về một nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ khi nghe người con gái đọc câu thơ trên nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!” một điệu nhạc Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là nền văn hóa Huế nói chung và vẻ đẹp của sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sôg nào ở trong nước cũng như trên thế giới.

N

Sông Hương đối với Huế như một "người tình dịu dàng và chung thủy”. Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên do đặc điểm địa lí ở đất nước ta (hầu hết các con sông đều chảy về hướng Đông để đổ ra biển) thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và như vậy sẽ phải đi qua một góc của thành phố Huế. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biếu hiện của nỗi vương vấn, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa. Đây cũng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân thương xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay còn trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với tâm hồn bên trong. Toàn bộ thủy trình của sông Hương trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của nhà văn như một cuộc tìm kiếm có ý thức của người tình đích thực của đời mình như câu chuyện tình yêu của người con gái nhuốm màu cổ tích. Men theo sông Hương, người đọc được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế. Đó là Trang 7


những tên đất tên làng, những lăng tẩm đền đài u trầm, những bồi bãi xanh biếc, những xóm thuyền xum xít, những ánh hoa đăng bồng bềnh, những đảo Côn Hên quanh năm mơ màng sương khói... Qua những cảm nhận nêu trên về sông Hương, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của Huế. Từ trong cái nhìn ấy và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên mà đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương. b. Bài kí là vốn tri thức về dòng sông dưới góc độ lịch sử, cuộc đời và thi ca

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? ta mới cảm nhận được văn hóa lịch sử đi qua còn in bóng trên dòng sông thơ mộng. Dòng chảy của dòng sông không đơn thuần là dòng nước từ nguồn ra biển mà nó còn là dòng chảy của thời gian, thời gian hoài niệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phạm Phú Phong đã nhận xét một cách hình tượng rằng: “Bằng chiếc thuyền của tâm hồn có mái chèo là ngòi bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa người đọc xuôi theo dòng sông thơm mát lùi xa vào lịch sử còn khuất nẻo để khám phá lịch sử lâu đời của thành Châu Hóa đứng uy nghiêm soi bóng trên sông Hương. Nó chính là một ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã bao lần làm quân thù khiếp sợ. Châu Hóa giữ vị trí chiến lược trong việc trấn giữ biên cương của Tổ quốc Đại Việt. Lịch sử gọi đó là Vạn Lí Trường Thành của phương Nam. Ngược dòng thời gian Hoàng Phủ Ngọc Tường gửi vào trang viết của mình niềm kính trọng, sự tự hào về thành cổ Châu Hóa, về mảnh đất quê hương”. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương lại được biết đến với tư cách là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ XVIII, nó sống hết thế kỉ bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa. Thế kỉ XX, sông Hương đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt.

N

G

U

YE

N

Trong đời thường, sông Hương mang một vẻ đẹp giản dị của một người con gái dịu dàng. Điều làm nên vẻ đẹp đáng trân trọng và đáng mến của con sông là khi nghe lời gọi của Tố quốc, nó biết cách hiến đời mình làm một chiến công nhưng khi trở về với cuộc sống bình thường, sông Hương tự nguyện làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Những đổi thay bất ngờ này của dòng sông rõ ràng đã mang cái dáng dấp, cái vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua: Đạp quân thù xuống đất đen Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa. (Việt Nam quê hương ta, Nguyễn Đình Thi) Vì vẻ đẹp đa dạng và độc đáo của sông Hương, vì con sông “không bao giờ tự lặp lại mình”, nó luôn có những vẻ đẹo mới, có khả năng khơi nguồn cảm hứng cho các nhà văn nghệ sĩ, đặc biệt là các nhà thơ. Chẳng phải ngẫu nhiên, mà sông Hương hiện lên với nhiều sắc màu và xúc cảm khác nhau trong thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan và Tố Hữu... Nếu như Nguyễn Tuân đã tạo cho Đà giang một cá tính dữ dội và trữ tình, Hoàng Cầm tạo cho dòng sông Đuống của quê hương một dáng nằm đặc biệt: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo cho sông Hương một bản sắc văn hóa Huế. Đó là vẻ đẹp không thể trộn lẫn của dòng sông. Đã có nhiều tác phẩm viết về dòng sông Hương nhưng khó có ai có thể vượt qua được Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì nhà văn đã khai thác đến ngọn Trang 8


nguồn chi li từng giọt nước, cọng rêu, sâu sắc và trải nghiệm đến vô cùng, xứng đáng với danh hiệu “cuốn từ điển sống về Huế”. c. Bài kí còn thấm đẫm chất thơ của một ngòi bút tài hoa Chất thơ là yếu tố trữ tình của một tác phẩm văn xuôi. Chất thơ được biểu hiện ở các phương diện: ngôn ngữ giàu hình ảnh, câu văn giàu nhạc điệu, giọng văn êm ái, nhẹ nhàng, trí tưởng tượng phong phú, dòng cảm xúc mãnh liệt hướng tới cái đẹp, cái cao cả.

O D

U

C TI O

N

Bài kí mở đầu bằng một câu hỏi đầy trăn trở: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Lẽ thường nhan đề cùa một tác phẩm là một cụm danh từ chỉ hình tượng chính. Còn ở đây là một câu hỏi đầy băn khoăn về một cái tên của một dòng sông, mở ra không gian nghệ thuật giàu cảm xúc. Câu hỏi không chỉ bộc lộ niềm khao khát tìm câu trả lời mà còn mang theo niềm tự hào về một dòng sông quê hương. Cả bài kí giống như một cuộc hành trình đi tìm câu trả lời. Nhưng phải đến những dòng cuối cùng, nhà văn mới đưa ra câu trả lời cho câu hỏi đó. Và nhà văn đã chọn một đáp án thật ấn tượng, đậm chất trữ tình: “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bên bờ đã nấu nước của trăm loại hoa để xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”. Mượn huyền thoại này để giải thích cho câu hỏi: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Phải chăng nhà văn muốn khẳng định hai tác phẩm cao quý của sông Hương, cũng là hai vẻ đẹp còn mãi với thời gian của con sông này: vẻ đẹp vĩnh hằng và danh thơm muôn thuở?

AN H

TU

PR

Ý vị trữ tình của bài kí còn được thoát ra từ hệ thống hình ảnh đẹp đẽ, được xây dựng dựa trên trường liên tưởng bất ngờ thú vị của nhà văn. Trong bài kí có rất nhiều hình ảnh miêu tả cảnh sắc của Huế giản dị và lãng mạn: “lập lòa trong đêm sương một ánh lửa thuyền chài của một lỉnh hồn mô-tê xưa cũ”, “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”, “những ngọn đồi tạo nên những phản quang nhiều màu sắc”, “con chim nhỏ đứng trên con tàu thủy tinh đi ra biển”...

N

G

U

YE

N

TH

Bằng lối tư duy giàu tính hướng nội, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xây dựng được những hình ảnh so sánh độc đáo làm cho những tri thức về dòng sông Hương và Huế lưu lại thật lâu trong lòng người đọc. Dáng hình của dòng sông đi vào liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như những đường cong quyến rũ trên cơ thể của người con gái: “đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Hơn thế nhà văn so sánh một đặc điểm tự nhiên của một trạng thái của tình yêu, so sánh một cái hữu hình cụ thể với một cái vô hình của lòng người. Trạng thái hữu hình của dòng sông với những cảm xúc tinh tế, e thẹn kín đáo mà vô cùng duyên dáng của tình yêu. Ở dòng sông ta như gặp người con gái Huế đắm say mà vẫn dịu dàng. Hay ấn tượng là hình ảnh so sánh “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ như vành trăng non”. Hình ảnh so sánh thể hiện sự tinh tế của nhà văn. Chiếc cầu Tràng Tiền sơn tráng bạc với những nhịp cầu hình bán nguyệt được cảm nhận như những vì tinh tú của bầu trời. Hình ảnh so sánh không chỉ gợi nên dáng hình mà còn gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc ánh sáng, vẻ đẹp e ấp trong ngần của cảnh cây cầu và dòng sông. Giống như Nguyễn Bính từng miêu tả cây cầu: Cầu cong như chiếc lược ngà Sông dài mái tóc cung nga buông hờ. Hay cách Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành phố như “điệu slow tình cảm”. Điệu chảy của dòng sông được so sánh như vũ điệu của tình yêu. Từ hình ảnh ấy, người đọc cảm nhận được niềm đắm say, tình yêu tha thiết của sông Hương dành cho kinh thành Huế. Điệu chảy êm đềm, trữ tình như không một chút vấn vương cái ào ạt xô bồ của không gian, thời gian như mang theo suy tư sâu sắc của một người phương Đông về vũ trụ. Câu chuyện của dòng sông Hương trong cách viết hào hoa Trang 9


của Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như một thiên tình sử lãng mạn. Sông Hương giống như một cô gái đến với tình yêu khao khát đợi chờ, phải trải qua một hành trình gian truân đầy thử thách và xốn xang bao cảm xúc. Lúc nào ta cũng thấy sông Hương thiết tha, nồng nàn và cũng thật e ấp đáng yêu.

C TI O

N

Chất thơ của bài kí còn được thể hiện ở nhạc điệu của lời văn. Kết cấu của câu văn dài, với những vế câu mở ra miên man trong một điệp khúc êm đềm và lặng lẽ như chạm vào cái phần xa vắng, bâng khuâng của tâm hồn khi nghĩ về Huế và sông Hương. Nhịp điệu của câu văn trong bài kí cũng là nhịp điệu của tâm hồn Huế, nhịp sống bình thản của người Huế. Mỗi câu văn đọc lên như một câu thơ. Bút kí cuốn hút người đọc một phần ở việc, ở tri thức, sự việc lạ, tri thức mới nhưng nếu chỉ có thế, bài bút kí sẽ không hơn bài báo và nó nhanh qua đi mà không đọng lại trong lòng người. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giống như thế, nó đầy chất liệu quý, thể hiện một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, nhất là về Huế. Hơn thế nó còn mãi, ngân mãi vì nó đầy chất thơ. Chất thơ ấy gắn với nhiều yếu tố, bắt đầu từ nhiều nguồn nhưng yếu tố quan trọng nhất, nguồn lớn lao, dạt dào nhất là tình yêu, tình yêu tha thiết với dòng sông, với Huế, với đất nước của tác giả. 2.3. Liên hệ

TH

AN H

TU

PR

O D

U

Trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thiên nhiên rất đẹp, rất quyến rũ hồn người nhưng nó thường bị vây phủ bởi một nỗi buồn. Nhà thơ hay đặt mình và con người hữu hạn vào thời gian vô hạn và không gian vô biên để suy ngẫm về sự sống của vũ trụ, từ những cái thường ngày nhỏ nhặt mà đề cập tới những vấn đề to lớn của trời đất, trăng sao... Nhưng cảm quan đó dù có ít nhiều màu sắc triết lí cũng không thoát khỏi nỗi buồn man mác. Đất nước, thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang cũng thấm sâu một nỗỉ buồn như thế. Bài thơ thể hiện tâm trạng của “cái tôi trữ tình” cô đơn, thấm đượm nỗi sầu nhân thế trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ. Huy Cận đã tiếp thu thế mạnh của thể thơ bảy chữ, kết hợp với từ ngữ hàm súc, tinh tế để thể hiện sự chân thành, thiết tha của một tấm lòng nhớ nhung, hoài vọng quê hương. Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn lan rộng và thấm thìa. Đó là nỗi buồn của kiếp người nhỏ bẻ, hữu hạn trước cái vô biên, vô tận của vũ trụ vĩnh hằng. Tuy nhiên, đó là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc.

N

G

U

YE

N

Tràng giang đã kết hợp được những nét cổ điển của thơ Đường, vẻ đẹp của truyền thống thơ ca dân tộc cùng dáng dấp hiện đại của Thơ mới. Tấm lòng nhà thơ đã dàn trải ra thành những hình ảnh, âm điệu, màu sắc vừa đơn sơ giản dị, vừa đẹp đẽ thanh cao. Bài thơ phản ánh tâm trạng của một trái tim cô đơn, một “cái tôi trữ tình” đau đáu nỗi buồn trước cuộc đời. Nỗi buồn sâu xa ấy đã hòa vào nỗi bơ vơ, cô độc trước khung cảnh thiên nhiên hoang vắng. Tuy vậy nhưng tình cảm của nhà thơ Huy Cận đối với non sông đất nước thể hiện qua bài thơ cũng thật thiết tha, sâu lắng. Đúng như nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn dường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”. Chất trí tuệ và chất thơ trong bài kí là biểu hiện của một phong cách văn xuôi vừa tài hoa nghệ sĩ vừa uyên bác làm nên cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Ở bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? có sự hòa họp tương giao linh ứng giữa cảnh sắc, lịch sử, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, vô cùng nhạy cảm. Qua bài kí ta có thể cảm nhận được tấm lòng của nhà văn dành cho thiên nhiên, cho đẩt Huế, sâu xa hơn là tấm lòng cho quê hương đất nước, thiết tha với những giá trị cổ xưa của dân tộc. Đó là những giá trị mà cuộc sống hôm nay vẫn cần đến. Dòng sông Hương không chỉ bồi đắp nên một nền văn hóa cố đô mà còn làm màu mỡ thêm cho cuộc sống của mỗi chúng ta hiện tại. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? là cái “tôi” của người trí thức sống trong hoàn cảnh đất nước đã hòa bình, trong tâm thế hòa nhập với cuộc đời, đắm mình trong cảm hứng Trang 10


ngợi ca, tự hào về cảnh sắc quê hương đất nước. Cái “tôi” ấy được thể hiện bằng thể kí với những trang viết đầy chất thơ, văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. Nghĩa là người nghệ sĩ phải đem đến một cái gì đó mới mẻ cho tác phẩm; phải thể hiện được cá tính sáng tạo; dấu ấn cá nhân, cái “tôi” của người làm nghệ thuật. Cái “tôi” được hiểu là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi người. (Ở phương diện khác, cái “tôi” là biểu hiện cao độ của ý thức cá nhân, xuất hiện khi con người có nhu cầu được là chính mình). Trong lĩnh vực nghệ thuật, cái “tôi” không chỉ thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách của tác giả. Nhà văn phải luôn ý thức trước ngòi bút, đổi mới, sáng tạo, không ngừng tìm tòi, khám phá. Chỉ có như vậy họ mới có “chỗ đứng” riêng của mình. 3. Kết bài

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? mang đậm phong cách của thể tùy bút vì chất tự do phóng túng và hình tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những xúc cảm sâu lắng. Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, qua đó người đọc nhận ra tình yêu và sự gắn bó tha thiết của một trí thức yêu nước với cảnh sắc quê hương và lịch sử dân tộc.

Trang 11


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 15 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

N

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

C TI O

Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng Gian khổ sẽ dành phần ai Ai cũng một thời trẻ trai

O D

Phải đâu may nhờ rủi chịu

U

Cũng từng nghĩ về đời mình

PR

Phải đâu trong đục cũng đành

TU

Phải không anh, phải không em? Chân lí thuộc về mọi người

AN H

Không chịu sống đời nhỏ nhoi! Xin hát về bạn bè tôi

TH

Những người sống vì mọi người Ngày đêm canh giữ đất trời

YE

N

Rạng rỡ như rừng mai nở chiều xuân. (Trích Một đời người, một rừng cây, Trần Long Ẩn)

G

U

Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên.

N

Câu 2: Đoạn thơ thuộc phong cách ngôn ngữ nào? Xác định thể loại của đoạn thơ trên. Câu 3: Đoạn thơ đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào? Nội dung của những lời hát trên là gì? Câu 4: Thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm qua lời bài hát trên là gì? II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu trong đoạn trích phần Đọc hiểu: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng. Gian khổ sẽ dành phần ai”. Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp hình tượng sông Hương khi đi qua thành phố Huế trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019). Từ đó hãy liên hệ với khổ hai bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử, Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để thấy sự khác biệt của hai nghệ sĩ trong cách nhìn về dòng sông Hương.


-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên là phương thức biểu cảm. Câu 2: Đoạn thơ thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (văn chương). Thể thơ sáu chữ có xen tám chữ. Câu 3: - Xác định đúng, đủ các biện pháp nghệ thuật: + Lặp cấu trúc câu: “Ai cũng...”, “phải đâu...”, “phải không...”. + Điệp ngữ: “Ai cũng”.

N

+ Câu hỏi tu từ: “Phải không anh, phải không em?”.

C TI O

- Nội dung:

+ Có ý nghĩa như một lời nhắn nhủ tha thiết về lối sống trách nhiệm của con người trong cuộc sống.

U

+ Bàn luận về quan niệm sống tích cực, đầy sức thuyết phục được gợi lên từ bài bài hát.

O D

Câu 4:

PR

- Trong rất nhiều sự lựa chọn mà cuộc đời mỗi con người phải trải qua, có năm lựa chọn quan trọng nhất sẽ quyết định cả cuộc đời: chọn lẽ để sống, chọn thầy để học, chọn việc để làm, chọn người để lấy, chọn bạn để chơi. Trong đó, chọn lẽ để sống là lựa chọn quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng tới tất cả những lựa chọn còn lại.

AN H

TU

- Đối với những người trẻ, điều này lại càng có ý nghĩa hơn, bởi họ có cả một tương lai dài đang chờ đợi phía trước. Bài ca Một đời người, một rừng cây của nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã chọn cho chúng ta một lẽ sống đẹp. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1:

TH

A. Về kĩ năng

N

- Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

YE

- Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích,

G

B. Về kiến thức

U

chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

N

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Giải thích ý nghĩa lòi bài hát - Là lời khẳng định, lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết về ý thức trách nhiệm của mỗi người trong cuộc sống. - Biết gánh vác, biết chia sẻ. Không lẩn tránh, không cam chịu nhẫn nhục, không an phận thủ thường. Thậm

chí biết chấp nhận và từ đó biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống của con người. → Giai điệu nhẹ nhàng như mở đầu một điều thổ lộ tâm tình. Sự liên tưởng sâu sắc bắt đầu gợi cho ta mối quan hệ giữa cuộc đòi mỗi con người với cộng đồng, với dân tộc mình đang sống. 2. Phân tích và chứng minh - Nếu ai cũng bo bo cho mình thì trách nhiệm cộng đồng sẽ đùn đẩy cho ai. Một câu hỏi rất giản dị như một

lời tự vấn, độc thoại, mang triết lí, nhưng người nghe không có cảm giác bị giáo huấn, mà thấm thía cái ý nghĩa sâu sắc về ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trước cộng đồng, để ai cũng tự nhìn lại chính mình, đối diện với


bản thân mình, rồi tự hỏi: Mình là ai? Mình sống để làm gì? Cuộc đời mình sẽ đi về đâu? Mình sẽ dùng cuộc đời mình vào việc gì? Mình đã làm được gì cho những người xung quanh, cho cộng đồng, cho dân tộc. - Trong cuộc sống, có những con người luôn biết sống vì người khác, không ngại khó, ngại khổ, biết vì lợi ích

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

của cộng đồng, biết vì mọi người, sống có trách nhiệm... Đó là những con người có nhân cách cao quý, có cuộc sống đáng trân trọng. (Dẫn chứng: Hồ Chí Minh, anh Nguyễn Văn Trỗi sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân vì lợi ích cách mạng... Đặng Thùy Trâm từ giã Hà Nội vào nơi ác liệt của chiến trường...; thời bình: những chiến sĩ Trường Sa, nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa...). - Bên cạnh đó cũng có những con người luôn sống vị kỉ, cá nhân, nhỏ nhen, luôn tránh né, đùn đẩy khó khăn cho người khác, sống vụ lợi, lợi dụng sự giúp đỡ của người khác để thu vén cho bản thân... Lối sống đó rồi sẽ bị xã hội đào thải. (Thí sinh lấy dẫn chứng: loại người: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”... những kẻ cơ hội, “đục nước béo cò”; đó là một số thanh niên chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ, thõa mãn những thú vui tầm thường trụy lạc như đua xe bất chấp gieo tai họa cho người khác, đốt thời gian, sức khỏe, tiền bạc nơi vũ trường, luôn đòi hỏi ở người khác vì mình, vô trách nhiệm với gia đình, xã hội và cả với bản thân...). - Lời bài hát là những lời nhắn nhủ thiết tha gửi đến mọi người, nhất là đối với lớp trẻ, một thông điệp - Về sống đẹp đầy sức thuyết phục. Nó chứa đựng một quan niệm nhân sinh tích cực, đáng để cho mỗi chúng ta xem như kim chỉ nam trong rèn luyện và tu dưỡng bản thân để có một cuộc sống chân chính. - Từ quan niệm sống đẹp đó phê phán lối sống ích kỉ, nhỏ nhen, vô trách nhiệm, thụ động, yếu hèn của một bộ phận cá nhân trong xã hội. 3. Đánh giá và mở rộng - Bài hát ra đời đã lâu, nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là trong lúc chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỉ đang có xu hướng trỗi dậy. Ý thức của con người về trách nhiệm của cá nhân trước cộng đồng xã hội như một nền tảng đang sụp lở. Con người đang tìm mọi cách để thu vén cho lợi ích cá nhân mình mà quên đi lợi ích của cộng đồng. Hơn thế nữa, nhiều cá nhân còn làm tổn hại đến lợi ích cộng đồng. - Bài ca càng có ý nghĩa lớn lao khi một bộ phận thanh niên đang “lạc điệu” bởi thiếu định hướng nghề nghiệp, sống không có lí tưởng, thiếu ý chí vượt khó vươn lên, thất học, chạy theo lối sống không lành mạnh, coi trọng giá trị vật chất, coi thường kỷ cương pháp luật và các giá trị đạo lí, nhân văn, sống buông thả, sa vào tệ nạn xã hội... 4. Bài học nhận thức và hành động - Trong cuộc sống ngày nay, thanh niên càng cần chăm chỉ, năng động, sáng tạo biết gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của nhân dân, Tổ quốc. - Hiểu rằng cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa, nhân cách con người sẽ thật sự cao quý khi biết chọn cho mình lối sống đẹp và cao quý, cự tuyệt lối sống tầm thường, thấp hèn. - Để có thể sống đẹp như lời bài hát gợi ý, thanh niên cần sống có lí tưởng cao đẹp, có ý thức bồi dưỡng lòng nhân ái, vị tha, phải học tập, rèn luyện bản thân ý chí, nghị lực, những năng lực và kĩ năng sống. - Phải năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội.

Câu 2: 1. Mở bài Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ. (Nhớ con sông quê hương, Tế Hanh)


Quả thật, mỗi người chúng ta, ai ai cũng có dòng sông quê hương, dòng sông tự tình, dòng sông hoài niệm, dòng sông để thương để nhớ trong tiềm thức của mỗi con người, mãi mãi nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người lớn dần theo chiều dài cùng quê hương đất nước. Hôm nay, đưa chúng ta tìm về hình ảnh dòng sông Hương nơi cố đô Huế trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? qua ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, để tìm lại những vẻ đẹp về hình ảnh của dòng sông Hương khi đi qua thành phố Huế. 2. Thân bài 2.1. Khái quát chung

C TI O

N

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn nặng lòng với xứ Huế mộng mơ, với dòng sông Hương hiền hòa chảy. Có lẽ ông có duyên với mảnh đất và con người nơi đây nên những gì ông viết thường rất bình dị, mộc mạc nhưng lãng mạn và trữ tình. Bài kí Ai đã tên cho dòng sông? này được xem là thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi khắc họa rõ ràng từng đường nét và vẻ đẹp đa chiều của dòng sông Hương. Một vẻ đẹp trầm lắng, dịu dàng, nên thơ và rất mực cổ kính.

PR

O D

U

Ai đã đặt tên cho dòng sông? được viết theo thể kí, một thể loại có thể ghi chép lại cảm xúc, tâm tư tình cảm, những dòng cảm xúc bất chợt, suy nghĩ bất chợt một cách sâu sắc nhất. Có lẽ chính thể loại này đã khiến cho bài kí đi vào lòng người đọc một cách chân thành như vậy. Vẻ đẹp của dòng sông Hương theo ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện lên một cách đầy ấn tượng, một vẻ đẹp khiến cho người đọc ngỡ ngàng, sửng sốt.

AN H

TU

Bài tùy bút thể hiện lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn liền với tình yêu thiên nhiên sâu sắc, với truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời, đồng thời truyền đạt bằng một ngòi bút tài hoa, với lời văn đẹp và sáng. Linh hồn của bài viết chính là vẻ đẹp huyền thoại của dòng sông Hương, qua ngòi bút tài hoa, lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 2.2. Phân tích

TH

a. Vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố Huế

N

G

U

YE

N

Chính cái đặc biệt của sông Hương, vẻ đẹp trữ tình của nó trong toàn bộ quần thể văn hoá của Huế đã là nguồn cảm hứng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ra lớn lên và gắn bó với Huế, hàng ngày hàng giờ được nhìn thấy dòng Hương nên chất nghệ sĩ trong tác giả đã phát hiện được cái tình tứ, duyên dáng của dòng sông. Ông đã tìm thấy vẻ đẹp của dòng sông trong từng bước đi của nó. Dưới ngòi bút của ông dòng chảy vô tri vô giác đã biến thành một con người mà mỗi bước đi là một suy tư, một trăn trở, một nỗi niềm vương vấn với thành phố quê hương. Theo bước đi của dòng sông vẻ đẹp của Huế hiện lên ngày càng đủ đầy, toàn vẹn. Đi đến đâu dòng sông đều mang một tâm trạng của một con người. Rời xa tiếng chuông chùa Thiên Mụ là chạm đến sự đông đúc của thành phố. Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên... Một trong những nét độc đáo rất riêng, rất Huế trong cách tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường có lẽ chính là cách tả những khúc uốn lượn của dòng sông với một hệ thống các hình ảnh so sánh rất mềm, rất duyên. Đó là cách so sánh dùng những cảm giác phi vật chất để miêu tả sự vật. Có chút gì đó gần với Thạch Lam, Vũ Bằng, song vẫn có nét điệu đàng của Huế. Dòng sông khi “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, khi lại “đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, và lúc lại “mềm như tấm lụa” rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, không chỉ mô tả hình dáng dòng sông bằng những từ ngữ giàu hình tượng và rất gợi cảm mà cái đặc biệt tạo nên phong cách kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường, góp phần tạo nên bản đại hợp xướng ngôn từ cho nền văn học dân tộc, chính là sự sáng tạo nên những phương thức so sánh rất


đắc địa, bất ngờ và đầy chất thơ, thể hiện đỉnh cao cảm xúc trữ tình của tác giả như “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”; hay “trăm nghìn ảnh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của những nỗi lòng”. Với những cách so sánh độc đáo sống động ấy sông Hương đã thành một con người, một người con gái đầy tình cảm dịu dàng và thủy chung.

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Bài bút kí là kết quả mối lương duyên giữa một tâm hồn nghệ sĩ giàu cảm xúc, tinh tế có tình yêu xứ sở tha thiết và một trí tuệ nghiên cứu minh mẫn, uyên thâm. Đó là bản trường ca đầy chất thơ tạo cho sông Hương và xứ Huế một tâm hồn mang tinh hoa văn hoá đất kinh kì xưa. Sự mạch lạc của tư duy nghiên cứu thể hiện ở cách thể hiện rất rõ ràng nhưng hiểu biết về nguồn gốc, đặc điểm địa lí, lịch sử, dòng chảy của dòng sông với một giọng điệu trữ tình, giàu hình ảnh, lối diễn đạt đàm thắm dịu dàng tràn đầy xúc cảm. Lối viết ấy tạo cho người đọc cảm giác như đang được tâm tình trên con thuyền thả trôi theo dòng chảy lặng lờ của dòng sông mà vừa ngắm vừa nghe ai đó thủ thỉ kể về dòng sông huyền thoại này. Cái điệu chảy lững lờ của dòng sông đã được tác giả thổi vào đó một cái hồn khiến nó trở thành người con gái dịu dàng, mỗi bước đi là một niềm vương vấn với quê hương, với thành phố Huế nên thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kết hợp một cách điêu luyện tư duy nghiên cứu và tư duy nghệ thuật để giải thích nguyên nhân cái điệu chảy chậm chạm của dòng sông mà tác giả gọi “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, tác giả đã giải thích bằng cả hai cách: cách của người nghệ sĩ, cách của nhà địa lí. b. Tình yêu xứ sở của nhà văn

N

G

U

YE

N

TH

AN H

Bắt nguồn từ rừng già Trường Sơn, sông Hương cũng từng gào thét hung dữ cùng gió ngàn bởi cái địa thế hiểm trở của núi rừng. Nhưng khi vào lòng thành phố nó lại chảy thật chậm do đặc điểm cấu tạo của dòng chảy, ở đây dòng sông chia làm nhiều nhánh, theo những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị và những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi thật chậm... Dưới con mắt của người nghệ sĩ dòng chảy của Hương Giang lại được miêu tả thật hấp dẫn với nhiều cách so sánh, những từ ngữ được sử dụng rất đắc địa, giàu hình ảnh, màu sắc và hình khối tạo nên một dòng Hương Giang thật đẹp, thật nên thơ và như một con người đầy xúc cảm chứa chan tình yêu với cố đô Huế giàu truyền thống văn hoá. Sông Hương, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, không còn là một dòng chảy mà là cả một nền văn hoá, cả một chiều dài lịch sử anh hùng và một chiều sâu tâm hồn cao quý. Người nghệ sĩ cũng lần lượt theo bước dòng sông từ thượng nguồn cho đến khi nó tạm biệt thành phố Huế thân yêu để ra cửa Thuận An và hoà mình ra biển. Và người nghệ sĩ ấy đã dừng lại rất lâu, giống như dòng sông, khi đi vào lòng thành phố. “Thành công đáng kể nhất của tác phẩm chính là ở ngôn ngữ kí giàu hình tượng và giàu sức gợi cảm, điều đó đã làm nên một Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những người viết kí hay nhất” (Nguyên Ngọc). Ở thể kí người viết có điều kiện phát huy tối đa những liên tưởng phong phú của mình vê đối tượng. Từ cảm xúc vê dòng sông tác giả đã thể hiện thành công những suy tưởng của mình về Huế, về lịch sử, về những dòng sông đẹp trên thế giới với một lối viết thật tự nhiên, dễ thấm vào lòng người. GS. Hoàng Ngọc Hiến khi viết về thể loại kí đã nhận xét: Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường mang dáng dấp etxe - một thể kí đặc biệt từng xuất hiện nhiều ở phương Tây - đòi hỏi ở người viết một khả năng diễn đạt uyển chuyển, những sáng tạo khi quan sát và khéo léo khi trình bày những suy ngẫm chủ quan của mình. Giọng văn etxe thường là giọng văn nhẩn nha, thủng thẳng


C TI O

N

của một người suy ngẫm... lối văn etxe có sự mềm mại, uyển chuyển của một người biết tranh thủ mà cũng biết nhân nhượng, biết tôn trọng ý kiến của người khác nhưng trước sau vẫn cậy vào ý kiến chủ quan của mình. Vì vậy trong tác phẩm hay xuất hiện những từ hình như, dường như, như... Tất nhiên đó chưa phải là biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi tích cực, cơ sở triết học của thể etxe, nhưng nó đã giúp nhà văn dễ dàng thể hiện những liên tưởng của mình một cách tự nhiên hơn. Tư duy etxe làm nên chiều rộng của trường liên tưởng để từ sông Hương có thể tái hiện cả lịch sử, văn hoá Huế, những dòng sông đẹp trên thế giới qua đó thể hiện tình cảm sâu đậm với quê hương. Suy tưởng của nhà văn có sự chuyển hướng rất linh hoạt, từ miêu tả hiện thực đến suy ngẫm tạo nên sự đan xen hợp lí của tính chất triết luận với những sáng tạo hình tượng nghệ thuật. Từ điệu chảy lặng lờ của sông Hương mà nhớ đến sông Xen của Pa-ri hoa lệ, sông Đa-nuýp xanh thẳm của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Lê-nin-grát rồi đến cả triết lí của Hê-ra-clít thời cổ đại... để rồi bộc lộ tình cảm với sông Hương tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lững lờ của nó. Đấy là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Sông Hương có vẻ đẹp riêng, đó là vẻ đẹp đặc trưng nên thơ và trữ tinh của Huế bởi nó mang trong mình cả một nền văn hóa của quê hương xứ sở.

U

2.3. Liên hệ

AN H

TU

PR

O D

Nhắc đến sông Hương xứ Huế người ta còn nhắc đến Hàn Mặc Tử với những vần thơ vừa trong sáng thơ mộng, vừa nhiều khắc khoải lo âu, hoài nghi trong Đây thôn Vĩ Dạ. Cả hai nhà văn, nhà thơ đều lấy những địa danh nổi tiếng của xứ Huế (Vĩ Dạ và sông Hương) làm điểm nhấn và khởi hứng cảm xúc. Cùng tái hiện được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc con người xứ Huế rất riêng, rất thơ mộng. Có được điều đó chứng tỏ mảnh đất, con người Huế đã chiếm chỗ sâu bền nhất trong lòng các tác giả. Cả hai đều là những cây bút tài hoa, tinh tế, nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng mạn, phong phú.

N

G

U

YE

N

TH

Trong Thơ mới đặc trưng đó là các tác giả thường xuyên sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, cách sử dụng ngôn ngữ vô cùng tinh tế, giàu tính liên tưởng trên nền thơ thất ngôn, Hàn Mặc Tử đã đem đến một làn gió lạ cho nền văn học Việt Nam. Các biện pháp nghệ thuật ấy không chỉ dựa vào hình ảnh thiên nhiên giúp làm bật lên tình yêu quê hương, đất nước, con người mà chúng còn tạo cho người đọc một nỗi buồn man mác, cái buồn bắt nguồn từ sự bế tắc, tuyệt vọng. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Nỗi đau về bệnh tật, nồi đau về một kiếp sống ngắn ngủi đã khiến cho những vần thơ của ông thấm đẫm một nồi buồn da diết. Đây thôn Vĩ Dạ cũng là một bài thơ được nhà thơ sáng tác vào những năm cuối đời của mình, với nỗi niềm tiếc nuối về mối tình với cô gái trong mộng chưa kịp chớm nở đã bị số phận trớ trêu cắt đứt. Bài thơ cũng là một bức tranh về thôn Vĩ Dạ thợ mộng bên bờ sông Hương, thật đẹp, những vẫn thấm đẫm một nỗi buồn da diết, bâng khuâng của Hàn Mặc Tử. Xứ Huế hiện lên với khung cảnh tuyệt đẹp. Khung cảnh thôn quê mộc mạc nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ hiện lên trước mắt người đọc qua từng câu thơ. Từ cổng vào, đã thấy hàng cau thẳng tắp, xanh mướt. Từng tia nắng chiếu trên hàng cau ấy. “Nắng mới lên” là một màu nắng nhạt, không quá chói chang và cũng không gây ra cảm giác nóng nực của nắng trưa. Nắng mới lên trải đều lên hàng cau, biểu hiện cho một sức sống mãnh liệt, một vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn, sinh động. Vào đến sâu trong vườn, cũng lại chỉ thấy một màu xanh của cây cối, của lá trúc. Cả khu vườn xanh mướt, mượt mà đến lạ lùng. Từ “mướt” ở đây để chỉ một màu xanh bóng, tựa như mọi nơi đều là màu xanh, xanh đến lạ lùng. Màu xanh ngọc ở đây cũng có thể là do nắng chiếu xuyên qua lá tạo thành màu xanh ngọc, cũng có thể là do nắng chiếu lên những giọt sương sớm còn đọng trên phiến lá tạo thành những viên ngọc long lanh, đẹp tuyệt vời. Trong không gian xanh mộc mạc, giản dị nhưng cũng tuyệt đẹp đó,


C TI O

N

con người xuất hiện khiến cho cảnh vật càng trở lên sinh động. Tác giả không nói rõ người ấy là ai, cũng chẳng rõ hình dáng khuôn mặt, chỉ biết người ấy ẩn ẩn hiện hiện sau màu xanh của lá trúc. Đó cũng có thể là một người đang chăm sóc vườn, cũng có thể là một người khách đến thăm. Nhưng cũng có những câu thơ mà cảnh thiên nhiên, nhưng nó đã bị vương một chút gì đó của sự tan rã, chia li. Gió thổi mây bay, từ xưa đến nay gió với mây vốn vẫn luôn quấn quýt với nhau, chẳng mấy khi tách rời. Vậy mà ở đây, gió đi một đường, mây đi một nẻo, hai con đường ấy không trùng nhau. Gió với mây chia li, dòng nước cũng trở nên buồn bã, hiu quạnh. Tất cả như dừng lại vì chán nản, chỉ còn những bông hoa bắp ở hai bên bờ khẽ khàng lay động, như vô tình không biết, hay có lẽ là đang quan tâm, an ủi dòng sông đang buồn trước cảnh chia li. Giữa cảnh thực, Hàn Mặc Tử bỗng lại vẽ lên con thuyền và bến sông trăng. Thuyền sắp đi, liệu có chờ kịp trăng để chở trăng về tối nay. Cái mờ ảo thấm đẫm từng câu thơ, hư hư thực thực. Thuyền trăng, bến sông trăng, đó chỉ là những thứ mà tác giả tưởng tượng ra, là ảo ảnh, là sự tiếc nuối, lỡ làng của một kiếp sống dở dang với đời, với tình.

AN H

TU

PR

O D

U

Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn điểm nhìn là sông Hương, đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn. Vẻ đẹp của xứ Huế hiện lên ở rất nhiều góc độ từ quá khứ cho đến hiện tại, từ lịch sử, thơ văn đến địa lí, văn hóa... Vì thế vùng đất cố đô hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế, là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa. Bài kí đã thể hiện một tấm lòng thiết tha, say đắm của nhà văn với cảnh và người xứ Huế. Một nhà văn nước ngoài nói: “Có ba khả năng cơ bản của một nhà tiểu thuyết: anh ta kể một câu chuyện, anh ta tả một câu chuyện, anh ta suy nghĩ một câu chuyện”. Hoàng Phủ Ngọc Tường là loại thứ ba, đúng hơn, ông là cả ba nhưng thiên về loại thứ ba. Ông kể, ông tả để mà suy nghĩ, phải chăng ở đây đã có một sự hòa hợp, tương giao linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tương giao đến mức hoàn thiện, chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn không dễ một lần thứ hai viết được.

N

G

U

YE

N

TH

Nhà văn còn có nét đặc sắc trong lối viết kí. Ngòi bút phóng túng, tài hoa, với sự liên tưởng kì diệu, kết hợp hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc, khách quan và chủ quan, thể hiện một cái tôi hấp dẫn trong một bài kí tâm hồn. Nhà văn cứ rỉ rả, cứ lặng lẽ kể ra, viết ra những dòng chữ bình dị nhất nhưng đồng thời cũng là tâm huyết nhất trong trái tim một nhà văn tài năng. Xuất phát từ đặc điểm của thể loại thơ và bút kí là khác nhau. Thơ nghiêng về cảm xúc, tâm trạng. Bút kí không chỉ đòi hỏi có cảm xúc mà ít nhiều có tính xác thực và khách quan. Đối với Hàn Mặc Tử, Huế là nơi tác giả từng gắn bó, giờ đã trờ thành kỉ niệm. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người con của xứ Huế nên chất Huế đã thấm sâu vào tâm hồn máu thịt của ông. Đoạn văn là những trải nghiệm của bản thân, tạo nên những trang viết uyên bác, lôi cuốn, ngôn ngữ phong phú, uyển chuyển, nồng nàn chất thơ, lãng mạn, trữ tình. Phải là sự tương giao đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa, không dễ một lần thứ hai viết được. “Nhà văn là người làm văn phải coi sóc đến văn khi viết. Huống chi đây, Huế lại là một đối tượng rất văn, nên văn. Hoàng Phủ Ngọc Tường bằng những bài viết về Huế đã làm đẹp thêm thành phố của mình. Thành phố của anh trên trang viết không giống ai và không ai có” (Phạm Xuân Nguyên). 3. Kết bài Bằng ngòi bút tinh tế, cảm xúc chân thành và một tấm lòng yêu thương của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về sông Hương. Một vẻ đẹp rất riêng, rất dịu dàng, rất Huế khiến người đọc muốn một lần đến đó tận hưởng.


Hình ảnh dòng sông Hương của thành phố Huế của vùng đất miền Trung, đất cày lên sỏi đá nhưng cố đô Huế, cố đô của một thời vang bóng đã có dòng sông thật đẹp, thật thơ mộng, trữ tình càng tô đậm sự giàu đẹp cho Huế cho đất nước Việt Nam. Quả thật: Không nơi đâu đẹp tuyệt vời

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Sông Hương núi Ngự nghìn đời mến yêu


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 16 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Hội chứng vô cảm hay nói cách khác là căn bệnh trơ cảm xúc trước niềm vui, nhất là nỗi đau của người khác, vốn là một mặt trong hai phương diện cấu trúc bản chất Con - Người của mỗi sinh thế người. Tính “con” và tính “người” luôn luôn hình thành, phát triển ở mỗi con người từ khi lọt lỏng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Cái thiện và cải ác luôn luôn song hành theo từng bước đi, qua từng cử chi, hành vi của mỗi con người trong mối quan hệ với cộng đồng, với cha mẹ, anh chị em, bạn bè, bà con làng xóm, đồng bào, đồng loại. Trong cuộc hành trình lâu dài, gian khổ của một đời người, cái mất và cái được không phải đã được nhận ra một cách dễ dàng. Mất một đồng xu, một miếng ăn, mất một phần cơ thể, mất một vật sở hữu, con người nhận biết ngay. Nhưng có những cái mất, cái được nhiều khi lại không dễ gì cảm nhận được ngay. Nhường bước cho một cụ già cao tuổi, nhường chỗ cho bà mẹ có con nhỏ trên tàu xe chật chội, biếu một vài đồng cho người hành khất... có mất có được nhưng không phải ai cũng đã nhận ra cái gì mình đã thu được, có khi là sự thăng hoa trong tâm hồn từ thiện và nhân ái. Nói như một nhà văn lớn, người ta chỉ lo túi tiền rỗng đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần. Tôi muốn đặt vấn đề là cùng với sự báo động những hiểm họa trông thấy, cần báo động cả hiểm họa không trông thấy hay khó trông thấy. Hiện nay đã có quá nhiều dấu hiệu và sự kiện trầm trọng của hiểm họa vô cảm trong xã hội ta, nhất là trong tuổi trẻ. Bạo lực đã xuất hiện dữ dằn những tháng ngày gần đây báo hiệu nguồn gốc sâu xa ở sự xuống cấp nghiêm trọng về nhân văn, về bệnh vô cảm.

YE

N

(Trích Nguồn gốc sâu xa của hiểm họa, Bài tập Ngữ vãn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 36 - 37)

U

Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

G

Câu 2: Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là gì?

N

Câu 3: Tác giả đã thể hiện thái độ gì khi bàn về hiểm họa vô cảm trong xã hội hiện nay? Câu 4: Anh (chị) suy nghĩ như thế nào khi có những người chỉ lo túi tiền rỗng đi lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: “Bệnh vô cảm”. Câu 2 (5,0 điểm): Đọc đoạn trích dưới đây: ý Về hình tượng Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, có kiến cho rằng: ''Tnú điển hình cho tính cách con người Tây Nguyên”. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: “Tnú điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người làng Xô Man”. Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh (chị) hãy bình luận


những ý kiến trên và nêu ý kiến đánh giá về hình tượng Tnú. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ với khí thế, tinh thần của người chí sĩ yêu nước trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu (Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và tầm vóc, chí hướng người nam nhi trong bài thơ Tỏ lòng của vị danh tướng Phạm Ngũ Lão (Ngữ văn 10, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để làm nổi bật niềm tự hào về một thời kì oanh liệt, hào hùng của lịch sử dân tộc trong lòng của ba tác giả và nỗi niềm của chúng ta. ------------------- HẾT ------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên là nghị luận.

C TI O

Câu 3: Thái độ của tác giả khi bàn về hiểm họa vô cảm: lo ngại, trăn trở...

N

Câu 2: Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là do bệnh vô cảm, do sự xuống cấp nghiêm trọng về ý thức nhân văn.

O D

U

Câu 4: Thể hiện được suy nghĩ chân thành, sâu sắc trước hiện tượng: có những người chỉ lo túi tiền rỗng đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần. Dưới đây là một gợi ý: - Vấn đề được đưa ra ở câu nói là thực trạng kinh tế ngày càng phát triển đi lên nhưng nhân cách con người ngày càng xuống thấp. - Đó là việc con người chỉ lo vun vén những lợi lộc, ích lợi cho bản thân (đặc biệt là về mặt kinh tế) mà quên đi

PR

việc rèn luyện, bồi đắp nhân cách bản thân mình.

TU

- Đó là điều xã hội cần phải thay đổi.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

AN H

Câu 1: A. Về kĩ năng

TH

- Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích,

N

chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

YE

B. Về kiến thức

G

1. Mở đoạn

U

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:

N

- Từ khi trên quả đất này có sự sống, thì Thượng đế đã sinh ra vạn loài, trong đó có loài người. Một điều đặc

biệt thay là tạo hóa đã ban tặng cho loài người chúng ta một thứ quý báu đó chính là tình cảm. - Xã hội ngày càng phát triển, dường như con người càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó

chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lóp xã hội - “bệnh vô cảm”. 2. Thân đoạn

a. Giải thích - “Vô cảm” là không có cảm xúc, xúc động, sống ích kỉ, lạnh lùng, thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa,

hoặc nỗi bất hạnh, không may của những người sống xung quanh mình. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động... - Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không


ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. - Người bị bệnh vô cảm càng lúc càng khép chặt cánh cửa trái tim mình lại, không còn biết hưởng thụ cái đẹp

mà chỉ nghĩ đến tiền, đến công việc. b. Biểu hiện của bệnh vô cảm - Bệnh vô cảm được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng. Với những người thuộc vị trí khác nhau lại có

những biểu hiện khác nhau: + Đối với những người có trọng trách trước cộng đồng: không quan tâm đến công việc của người dân; một số người có quyền lực lại dựa vào quyền lực để ức hiếp nhân dân... + Đối với mỗi cá nhân: Không sẵn lòng giúp đỡ những người gặp khó khăn hoạn nạn trong khi mình có đủ điều kiện để giúp đỡ; có thái độ rẻ rúng, coi khinh những mảnh đời bất hạnh...

N

c. Chỉ ra nguyên nhân của bệnh vô cảm

C TI O

- Con người chạy theo đồng tiền, chạy theo vật chất mà quên đi giá trị của đời sống tinh thần. Coi đồng tiền cao

hơn giá trị con người.

- Một phần nữa cũng là do xã hội hiện đại quá bận rộn và đòi hỏi con người phải làm việc, làm việc và làm việc

O D

U

mà bỏ quên thời gian để trao nhau hơi ấm của tình thương, để ươm mầm cảm xúc. d. Tác hại của bệnh vô cảm

PR

- Bệnh vô cảm có những tác hại ghê gớm. Với từng vị trí, nghề nghiệp khác nhau trong xã hội, người mắc

“bệnh vô cảm” sẽ gây ra hậu quả khác nhau.

TU

- Nó là một căn bệnh lâm sàng mà trong đó, não của người bệnh vẫn hoạt động nhưng trái tim lại hoàn toàn

AN H

băng giá. Người ta đã vô cảm thì làm sao có thể thấu hiểu được nỗi đau, tình cảm của người khác, người ta chỉ nghĩ đến mình và lợi ích của riêng mình mà thôi. - Vô cảm là con đường trực tiếp dẫn đến những cái xấu, cái ác. Nó biến con người thành kẻ vô trách nhiệm, vô

Người mắc “bệnh vô cảm” không được mọi người tin yêu, kính trọng.

YE

-

N

TH

lương tâm và vô văn hóa, thậm chí là kẻ tội đồ. Bệnh vô cảm làm cho cái xấu, cái ác có mảnh đất mầu mỡ để sinh sôi nẩy nở như “cỏ mọc hoang” và đang đầu độc, chế ngự cuộc sống tốt đẹp của con người trong xã hội mới của chúng ta hôm nay.

U

e. Làm thế nào để chữa bệnh vô cảm?

G

- Mỗi cá nhân phải là một thành viên có trách nhiệm đối với những vấn đề chung của cộng đồng.

N

- Tham gia các hoạt động xã hội có tính nhân văn cao như phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào thanh niên

lập nghiệp... - Xã hội cần lên án mạnh mẽ bệnh vô cảm, coi đó như là một cuộc chiến đấu để loại bỏ căn bệnh này ra khỏi xã

hội ta. 3. Kết đoạn - Vô cảm là căn bệnh nguy hiểm, chúng ta cần tìm phương thuốc “đặc trị”, cần phê phán những người mắc

“bệnh vô cảm”. - Bản thân cần sống hòa đồng, biết đồng cảm, sẻ chia với những người bất hạnh. Ví dụ: ủng hộ đồng bào vùng

bị thiên tai, những người là nạn nhân của chất độc màu da cam, những trẻ mồ côi, người già... không nơi nương tựa. Câu 2:


1. Mở bài - Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm

+ Nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là một nền văn học sử thi. Cảm hứng anh hùng ca xuất hiện trong hầu hết các sáng tác văn xuôi thuộc giai đoạn này. Thấm nhuần tư tưởng: Nơi nào không cầm súng, nơi đó không phải là Tổ quốc Định nghĩa Việt Nam là phải cầm vũ khí diệt thù. (Phác thảo cho một trận đánh, một bài thơ diệt Mĩ, Chế Lan Viên) Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã sáng tác Rừng xà nu được coi như “hịch tướng sĩ văn” của thời đại chống Mĩ. Tác phẩm là truyền thống hào hùng là lòng dũng cảm của những người dân Tây Nguyên sẵn sàng cầm vũ khí vùng lên đánh đuổi quân thù.

N

- Trích dẫn ý kiến

C TI O

+ Hình tượng trung tâm của tác phẩm là người anh hùng Tnú. Nhân vật không chỉ “điển hình cho tính cách con người Tây Nguyên” mà còn “điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người làng Xô Man”. Vậy đâu là giá trị thực sự của hình tượng này?

O D

U

2. Thân bài 2.1. Khái quát chung

PR

- Nguyễn Trung Thành bút danh Nguyên Ngọc - là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam

TU

hiện đại. Ông cũng là nhà văn tiêu biểu của mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ. Có duyên và gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là điều kiện thuận lợi, tiền đề dẫn đến những thành công trong những sáng tác về vùng đất này: Đất nước đứng lên, Rẻo cao, Rừng xà nu...

TH

AN H

+ Truyện ngắn Rừng xà nu được viết năm 1965, ra mắt lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ số 2- 1965, sau đó in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Tác phẩm nổi tiếng nhất trong số các sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết về những anh hùng làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam 1945 - 1975.

U

2.2. Giải thích ý kiến

YE

N

+ Cảm hứng của Rừng xà nu được phát khởi từ một triết lí nảy ra từ máu lửa của một thời đại đau thương mà anh dũng.

G

- Văn học nghệ thuật luôn hướng người đọc về khát vọng ngàn đời của nhân loại, đó là niềm trăn trở về tự do,

N

hạnh phúc và nhân phẩm của con người. Nhà văn thể hiện tất cả điều đó thông qua hình tượng. Vì thế hình tượng phải luôn có tính khái quát, khái quát đến mức có thể làm ta liên tưởng đến cái tương tự ở ngoài đời. - Điển hình trong văn học thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh: nhân vật điển hình và hoàn cảnh điển hình. Nhân

vật điển hình là sản phẩm nhào nặn từ hoàn cảnh cụ thể điển hình, cho nên nó rất sống động và gần gũi. - Tnú điển hình cho tính cách con người Tây Nguyên” nghĩa là tính cách, phẩm chất của Tnú có nhiều điểm

tương đồng, khái quát hoặc được kết tinh từ tính cách, phẩm chất của con người Tây Nguyên. Tính cách của Tnú tiêu biểu cho tính cách con người Tây Nguyên. - “Tnú điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người làng Xô Man” là nói tới cuộc đời Tnú có

điểm tương đồng với con đường đấu tranh cách mạng của con người làng Xô Man, đi từ khó khăn gian khổ đến thắng lợi, từ đau thương đến anh dũng. 2.3. Phân tích khái quát vê hình tượng


-

Bối cảnh đất nước và làng Xô Man trong kháng chiến.

-

Hoàn cảnh riêng của nhân vật.

-

Khái quát tính cách, tâm hồn, lí tưởng của nhân vật.

→ Chúng ta nhất trí với những ý kiến trên. Đây là hai nhận xét khái quát về hai khía cạnh khác nhau của hình tượng Tnú: ý kiến trước chỉ ra vẻ đẹp tính cách, phẩm chất; ý kiến sau khái quát phương diện cuộc đời. 2.4. Chứng minh qua hai ý kiến a. Tnú trước hết điển hình cho tính cách con người Tây Nguyên - Yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, bất khuất với kẻ thù: Tnú có ba mối thù lớn: của bản thân, của gia đình,

của buôn làng. (Thí sinh cần phân tích những chi tiết hay); + Bị đốt mười ngón tay, lửa cháy ở trong lồng ngực.

N

+ Đôi mắt Tnú biến thành hai cục lửa lớn khi chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn.

C TI O

- Sớm có lí tưởng cách mạng, trung thành tuyệt đối với cách mạng, tính kỉ luật cao:

+ Từ bé đã thuộc lòng câu nói của cụ Met: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn”.

U

+ Về thăm làng một đêm nhưng có giấy phép.

O D

- Sức sống mãnh liệt, dẻo dai: (Thí sinh chú ý chi tiết “đôi bàn tay của Tnú”). - Trung thực, dũng cảm, gan góc, thông minh lanh lợi, có tinh thần trách nhiệm trong công việc: để cán bộ

TU

- Có tình thương yêu sâu sắc với gia đình, buôn làng.

PR

ngủ một mình ngoài rừng bụng dạ không yên được; đi rừng; vượt suối; nuốt lá thư... b. Tnú còn là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của dân làng Xô Man

AN H

- Mang thân phận mồ côi, sinh ra và lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của buôn làng, Tnú có một cuộc

đời nghèo khổ, cơ cực như bao người khác nhưng cũng phát huy được cốt cách của người Xô Man: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.

TH

- Tnú gặp bi kịch khi chưa cầm vũ khí: bản thân bị bắt, bị tra tấn dã man (mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt), bị

U

YE

N

tù; vợ con bị giặc tra tấn đến chết; cụ Met nhắc lại nhiều lần Tnú không cứu sống được Mai - Tnú không cứu sống được mẹ con Mai - Tnú không cứu được vợ con... để khắc ghi vào tâm trí người nghe một chân lí của thời đại: chừng ấy phẩm chất (gan góc, quả cảm, tình yêu sâu sắc...) là chưa đủ để cứu sống mẹ con Mai mà phải là chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm mác.

G

- Tnú được giải thoát khi dân làng Xô Man đã cầm vũ khí, đứng dậy đấu tranh, bảo vệ buôn làng; vượt lên

N

nỗi đau đớn, bi kịch cá nhân, Tnú quyết tâm gia nhập lực lượng giải phóng, giết giặc trả thù cho gia đình, quê hương, góp phần bảo vệ buôn làng. - Bước đường đời của Tnú đại diện cho con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong khói lừa đấu tranh.

Câu chuyện bi tráng ở một con người mang ý nghĩa của cả một dân tộc. 2.5. Phản biện của bản thân (bổ sung ý kiến) - Hai ý kiến đều đúng và sâu sắc, tuy khác nhau, tưởng đối lập nhưng thực ra là bổ sung cho nhau cùng

khẳng định vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Tnú. - Đó là sự hòa hợp cuộc đời và tính cách, cá nhân và cộng đồng để tạo nên vẻ đẹp toàn vẹn của một hình

tượng giàu chất sử thi. - Có được vẻ đẹp toàn vẹn đó là do nhà văn không chỉ có duyên mà còn đã gắn bó sâu nặng với mảnh đất

Tây Nguyên man dại, đằm sâu trong vẻ đẹp hùng vĩ; không chỉ là “tôi yêu say mê cây xà nu từ ngày đó” mà còn


cùng ăn, cùng ngủ, cùng chiến đấu với đồng bào Tây Nguyên, để rồi mang không khí đau thương mà anh dũng của một thời khói lửa thổi hồn vào tác phẩm, và rồi ghi một dấu ấn cho văn học cách mạng Việt Nam bằng sự bất tử của hình tượng Tnú. 2.6. Nhận xét và đánh giá - Trên những trang viết của mình, Nguyễn Trung Thành thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con

người, đất nước quê hương. Giọng văn trong truyện Rừng xà nu đằm sâu chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà ưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Met, khi tha thiết luôn chảy theo dòng hồi tưởng về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú... Lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, mượt óng như ngôn ngữ của một bài thơ. - Rừng xà nu là truyện của một con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc. Từ câu chuyện của

C TI O

N

Tnú và làng Xô Man, tác giả nói tới sự trưởng thành của cách mạng miền Nam trong những ngày trước và sau Đồng khởi. Đọc Rừng xà nu hôm nay, vẫn thấy âm vang cái hào hùng của một thời chống Mĩ, một thời có những con người đẹp như cụ Met, như Tnú, như Dít, như Mai. 2.7. Liên hệ

U

a. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương

O D

- Phan Bội Châu là lãnh tụ của các phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, là cái tên đẹp nhất một thời. Sự

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

nghiệp cứu nước của ông không thành nhưng tấm lòng yêu nước của ông còn mãi với muôn đời. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từng suy tôn ông là “bậc anh hùng vị thiên sứ được hai mươi lăm triệu đồng bào tôn kính”. - Lưu biệt khị xuất dương là bài thơ tiêu biểu cho tư tường và phong cách Phan Bội Châu ở giai đoạn đầu của cuộc đời cách mạng, khi ông xuất dương ra đi cứu nước theo đường lối cách mạng mới mà ông xiết bao tin tưởng. - Bài thơ mang khẩu khí của bậc trượng phu đội trời đạp đất. Cái hay của bài thơ xuất phát từ vẻ đẹp của nhân vật trữ tình với khát vọng làm nên sự nghiệp lớn lao, với khí thế hăm hở và “một dự cảm mới mẻ" (Nguyễn Huệ Chi). Bởi vậy, bài thơ có giá trị khích lệ, động viên, tuyên truyền cách mạng mạnh mẽ, nhất là đối với thế hệ thanh niên yêu nước hồi đầu thế kỉ XX. - Bài thơ chỉ có 56 chữ mà chứa đựng một nội dung tư tưởng vừa phong phú, vừa lớn lao: có chí làm trai, có khát vọng xoay trời chuyển vũ trụ, có hoài bão lưu danh thiên cổ, có quan niệm vinh nhục ở đời, có thái độ mới mẻ và táo bạo về sách vở của thánh hiền, có tư thế ra đi cứu nước. Tất cả thể hiện một nhiệt tình cứu nước sôi sục tuôn trào. b. Bài thơ Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) người Phù Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lóp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đại Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, ông cùng những tên tuổi khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó. - Bài thơ Tỏ lòng được viết sau chiến thắng vang dội chống quân xâm lược Mông - Nguyên các năm 1285 và 1288. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: Làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc. - Bài thơ có mạch thơ xuyên suốt liên tục làm tái hiện tư thế hiên ngang, tầm vóc vũ trụ lớn lao, khí thế hào hùng qua nghệ thuật xây dựng hình ảnh hùng tráng múa giáo, khí mạnh át sao Ngưu. Bài thơ khẳng định ý chí sôi sục, quyết tâm cao độ được “nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc” của người anh hùng Phạm Ngũ Lão. Điều đó


PR

O D

U

C TI O

N

càng được thể hiện rõ qua từ “thẹn” cùa câu cuối. Từ “thẹn” đặt trong bài thơ rất thích hợp với mạch thơ, nhịp thơ mạnh, chắc, rắn rỏi. - Tỏ lòng không chỉ để bày tỏ nỗi lòng của tác giả mà bài thơ còn là lời nhắc nhở đối với bậc nam nhi phải có ý thức cầu tiến, xả thân vì nghĩa lớn. Đây cũng là bài học đầy ý nghĩa thiết thực cho những con người hôm qua, hôm nay và mai sau. 2.8. Nhận xét và đánh giá - Cả ba đoạn trích và tác phẩm đều làm nổi bật tầm vóc, chí hướng nam nhi cũng như lòng yêu nước của mỗi người con Việt. - Sự kế thừa và phát triển tinh thần tự tôn dân tộc ở ba tác giả nói chung đã làm nổi bật niềm tự hào về một thời kì oanh liệt, hào hùng của lịch sử dân tộc. - Thông qua vẻ đẹp các nhà văn và nhà thơ đã bộc lộ lòng yêu quý và ngưỡng vọng vô cùng về những con người ưu tú của mảnh đất Việt thấm máu và nước mắt. Đó cũng chính là tình yêu và sự ngưỡng vọng của chúng ta về một thế hệ cha anh về máu lửa mà vùng lên anh dũng quật cường như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng ngợi ca: Nước Việt Nam từ trong máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa. (Đất nước, Nguyễn Đình Thi) 3. Kết bài - Tóm lại, bằng ngòi bút tài hoa của mình, tác giả Nguyễn Trung Thành đã mang đến cho tác phẩm Rừng xà

AN H

TU

nu một nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt qua hình tượng nhân vật Tnú, một nhân vật tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, tác giả đã ngợi ca phẩm chất anh hùng, gan dạ, bất khuất, thủy chung của con người nơi đây. Vẻ đẹp ấy của nhân vật đã tôn thêm giá trị của tác phẩm. Vì vậy, mấy chục năm qua đi, tác phẩm Rừng xà nu ngày một thêm sáng giá và bất tử với thời gian.

TH

- Vẻ đẹp phẩm chất của những trang anh hùng thời loạn như Tnú, Phan Bội Châu, Phạm Ngũ Lão càng tôn

N

G

U

YE

N

lên dũng khí và niềm tự hào cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 17 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

TU

PR

O D

U

C TI O

N

Cứ nhìn dòng người đang cuộn chảy trên đường phố trong cái ngột ngạt của trưa hè nóng bức, càng ngạt thở vì chất thải của động cơ xe máy, xe ô tô mà cho dù khẩu trang che kín mũi miệng, cũng không sao thoát khỏi những chất độc ấy chui vào phổi. Hậu quả sẽ ra sao với sức khỏe của con người, khó mà lường được. Nhưng trước mắt thì vẫn cứ phải tồn tại bằng thở hít cái khói bụi độc hại đó để mà bươn chải với cuộc mưu sinh. Cứ ngỡ như chỉ cư dân đô thị mới trực tiếp gánh chịu tai họa đó. Song, như nhận định có trách nhiệm của một nhà khoa học trong Hội thảo về “Phát triển nông thôn” vừa rồi, thì cư dân nông thôn cũng cùng chung thảm họa đó. Đấy là chưa nói đến một thực trạng mà theo ông, sự ô nhiễm môi trường ở nông thôn còn có khía cạnh nặng nề hơn. Mới đó, nông thôn thơ mộng với những “con sông xanh biếc - Nước gương trong soi tóc những hàng tre” (Nhớ con sông quê hương, Tế Hanh), mà nay đang “có những dòng sông sắp qua đời, dòng sông đang kêu cứu”...

AN H

(Theo http://www.daibieunhandan. vn/defaul Tương lai, Môi trường và phát triển)

TH

Câu 1: Đoạn trích trên đây bàn về vấn đề gì?

Câu 2: Câu thơ: “Nước gương trong soi tóc những hàng tre”, gợi cho anh (chị) những liên tưởng gì?

N

Câu 3: Hãy chỉ ra những phương thức biểu đạt và biện pháp tu từ trong đoạn trích?

YE

Câu 4: Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 10 – 12 dòng) bàn về giải pháp bảo vệ môi trường.

U

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

N

G

Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: “Mà nay đang có những dòng sông sắp qua đời, dòng sống đang kêu cứu”.... Câu 2 (5,0 điểm): Đọc đoạn trích dưới đây: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ chi tiết tiếng sáo là chi tiết đặc sắc được nhà văn Tô Hoài nhắc lại nhiều lần: Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi: Mày có con trai con gái Mày đi nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu. ... Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên Trang 1


môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước... tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường... Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...”... (Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 7, 8)

C TI O

-------------------- HẾT --------------------

N

Cảm nhận của anh (chị) về tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn trích trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ với âm thanh: “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá... một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về” (trích Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2019, trang 149) và hình ảnh “ngọc trai - giếng nước” trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy (Ngữ văn 10, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để bình luận về ý kiến: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

U

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

O D

Câu 1: Đoạn văn bàn về vấn đề: - Ô nhiễm môi trường.

PR

- Sự ô nhiễm môi trường ở thành thị và nông thôn hoặc ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với cuộc sống con người.

TU

Câu 2: – Gợi liên tưởng về dòng sông quê hương thanh bình, yên ả trong kỉ niệm.

AN H

Câu 3: Các phương thức biểu đạt được sử dụng là:

- Nghị luận về ô nhiễm môi trường (thực trạng, hậu quả...); phân tích khí thải, khói bụi độc hại ở đô thị, ô nhiễm nguồn nước ở nông thôn...

YE

N

TH

- Biểu cảm về hậu quả sẽ ra sao với sức khỏe của con người, khó mà lường được, mới đó, nông thôn thơ mộng với những con sông xanh biếc – “Nước gương trong soi tóc những hàng tre” (Nhớ con sông quê hương, Tế Hanh), mà nay đang có những dòng sông sắp qua đời. - Các biện pháp tu từ:

U

+ Nghệ thuật đối ý: “mới đó, nông thôn thơ mộng với những con sống xanh biếc

N

G

- Nước gương trong soi tóc những hàng tre, mà nay đang có những dòng sông sắp qua đời”. + Nhân hóa: “Có những dòng sông sắp qua đời”. Câu 4: Các giải pháp bảo vệ môi trường: - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó có những quy định xử phạt. - Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường... II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: (2,0 điểm) A. Về kĩ năng Trang 2


- Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. – Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Mở đoạn - Đất nước ta đang trên đường phát triển. Thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội; tình hình an ninh, quốc phòng; đối nội, đối ngoại là thật đáng tự hào. Đảng và Nhà nước đang có nhiều chủ trương để đảm bảo đất nước phát tiển bền vững.

C TI O

N

- Song, bên cạnh những gì đáng tự hào, chúng ta cũng thật xót xa khi được biết vấn đề môi trường của đất nước đang có những dấu hiệu không tốt. Điều đáng quan tâm nhất là hiện tượng ô nhiễm môi trường nước. Những ngày gần đây, trên báo chí và phương tiện thông tin đại chúng đã thông tin về hiện tượng: “Hiện nay, trên đất nước ta có những dòng sông sắp qua đời và những dòng sông đang kêu cứu”. 2. Giải thích

O D

U

- “Sắp qua đời” là không còn sức lực, mất sức đề kháng → Chỉ nguồn nước ở những dòng sông đang bị ô nhiễm nặng → động thực vật không còn môi trường sống... .

PR

- “Đang kêu cứu” là sự khẩn thiết, cấp bách hãy hành động trước khi quá muộn. → Con người phải suy nghĩ lại những hành động mà chính mình gây ra cho những dòng sông.

TU

3. Vai trò của những dòng sông trên đất nước

- Những dòng sông của đất nước là tài sản, là tiềm năng để phát triển đất nước.

AN H

- Con sông của năm tháng tuổi thơ của những ai đã sinh ra và lớn lên và tám mát trên dòng sông quê.

TH

- Con sông Hồng tắm mát cả đồng bằng Bắc Bộ và là nguồn điện vô cùng lớn của đất nước. Những dòng sông chảy qua đồng bằng Nam Bộ mang theo phù sa màu mỡ làm nên những hạt gạoViệt Nam. - Con sông nào chẳng là nguồn cá tôm dồi dào phục vụ con người.

YE

N

 Có thể nói, từ bao đời, con người đã được những dòng sông nuôi dưỡng, những dòng sông là người bạn thân thiết sẵn lòng ban tặng cho chúng ta một cuộc sống đủ đầy, no ấm.

U

4. Thực trạng những dòng sông hiện nay

G

- Đây không chỉ là hiện tượng đáng suy nghĩ mà còn là vấn đề cần hết sức quan tâm.

N

- Hiện tượng trên đất nước ta có những dòng sông sắp qua đời và những dòng sông đang kêu cứu là một thực tế. Dẫn chứng: + Báo Vietnamnet ngày 23 - 10 - 2017 phản ánh sông Thị Vải đã trở thành dòng sông chết. Và hiện nay, sông Dinh ở Thành phố Vũng Tàu cũng đang hấp hối. Hiện nước trên sông Thị Vải đã trở nên đen đặc, hôi thối nồng nặc. + Không chỉ sống Thị Vải, sông Dinh mà còn rất nhiều con sông khác đang kêu cứu: sông Đồng Nai ô nhiễm vi sinh và dầu mỡ rõ rệt, ô nhiễm kim loại nặng, sông Sài Gòn mức độ ô nhiễm là nghiêm trọng; sông Cầu chất lượng nước các sông thuộc lưu vực ngày càng xấu đi, nhiều đoạn sông đã bị ô nhiễm tới mức báo động. Ô nhiễm cao nhất là đoạn sông Cầu chảy qua địa phận thành phố Thái Nguyên... (Trích Báo cáo môi trường Nước Việt Nam tháng 9 - 2017). Ở Quảng Nam, dòng sông Trường Giang đã chết dần do chất thải từ các bãi khai thác vàng đã từng được báo chí địa phương kêu cứu liên tục trong mùa hè vừa qua là hiện thực gần nhất. - Rõ ràng, có biết bao dòng sông thơ mộng đã sống trong thơ, trong nhạc, họa một thời hiện đang chết, đang Trang 3


hấp hối và đang kêu cứu! 5. Nguyên nhân và hậu quả - Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng những dòng sông Việt Nam đã chết và đang kêu cứu như đã nói ở trên? Trả lời câu hỏi này thật không khó. Song chúng ta cần suy xét cho đầy đủ, sâu sắc. - Có thể nói, nguyên nhân chính là con người, những con người vì lợi ích của mình đã bằng nhiều cách tạo nên sự ô nhiễm, dẫn đến cái chết của biết bao dòng sông: + Dòng sông Thị Vải chết từ sự ngọt ngào vô cảm của những người chủ VeDan. Vì lợi nhuận, họ đã trở thành người vô trách nhiệm đã giết chết dần một dòng sông. + Sự ô nhiễm môi trường nước ở sông Nhuệ - sông Đáy bắt đầu từ đâu nếu không phải do sự ra đời và hoạt động của các khu công nghiệp, khu khai thác và chế biến, các tụ điểm dân cư....

C TI O

N

- Các cơ quan Nhà nước đã chưa làm việc có hiệu quả trong việc bảo vệ môi trường. Sự quản lí bằng luật bảo vệ môi trường còn yếu kém.

O D

U

- Nước là môi trường của sự sống, điều này ai cũng hiểu. Thế nhưng con người vẫn còn chưa thấy rằng, một dòng sông ô nhiễm sẽ kéo dẫn đến nguồn thủy sản bị hủy diệt, nguồn nước cho cây xanh, cho động vật, cho con người sẽ nguy hại vô cùng. Ta đã từng nghe xuất hiện một số làng ung thư, nạn ngộ độc cả làng, dịch tiêu chảy cấp... phần lớn là bắt nguồn từ nguồn nước.

PR

- Thái độ đối xử để những dòng sông chết dần trong kêu cứu là một hành vi vong ơn, bội nghĩa, một thái độ tàn nhẫn đáng phê phán.

TU

 Rõ ràng, tiếng kêu cứu của những dòng sông là tiếng kêu cứu về môi trường sống của mỗi chúng ta, tiếng kêu cứu cho hôm nay và cho cả tương lai của dân tộc.

AN H

6. Giải pháp

TH

- Trước hết, cần làm cho mọi người nhận thức được rằng bảo vệ môi trường là nhiệm vụ không của riêng ai mà là của cả cộng đồng, làm cho mọi người nhận ra tác hại khi những dòng sông từng ngày đang dần ô nhiễm.

YE

N

- Mỗi chúng ta không chỉ nói mà phải làm, phải có trách nhiệm, có hành động thiết thực để giữ lấy những dòng sông trong sạch. Mỗi người phải có trách nhiệm bảo vệ những dòng sông, phải có ý thức phê phán những hành vi gây ô nhiễm, phải mạnh dạn tố cáo những biểu hiện dẫn đến cái chết của những dòng sông.

N

G

U

- Mặc khác, Nhà nước cũng phải nhận rõ sự yếu kém của mình trong việc quản lý môi trường nước nói riêng và môi trường nói chung để có thể xây dựng chiến lược để bảo vệ và phát huy tiềm năng của những dòng sông thật đúng mức.. - Hiện thực về những dòng sông sắp qua đời và những dòng sông đang kêu cứu là một lời cảnh báo cho mỗi chúng ta về môi trường sống của chúng ta đang bị đe dọa. Phải biết lo lăng xót xa trước hiện tượng này. - Tôi nghĩ rằng, sự yêu mến cuộc sống của chúng ta, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức môi trường, người dân Việt bằng việc làm của mình, sẽ đem lại cho dòng sông quê nguồn nước ngọt ngào, trả lại cho cánh đồng nguồn nước mát, trả lại cho hôm nay và cho mai sau tài sản vô giá của sự sống - là nguồn nước từ các dòng sông. Câu 2: (5,0 điểm) 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga M. Goor-ki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà Trang 4


văn lớn”. Nhà văn chỉ thực sự là “người thư kí trung thành của thời đại” (Banzắc) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người cầm bút. Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. – Dẫn ra vấn đề nghị luận

N

+ Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời... của nhà văn, nơi kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Vợ chồng A Phủ là một trong số không nhiều những tác phẩm văn xuôi viết thành công trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Có thể xem đó là gương mặt tiêu biểu của văn học thời đại mà cả dân tộc cùng “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước, Nguyễn Đình Thi). Trong đó chi tiết “tiếng sáo đêm tình mùa xuân” là lát cắt ngang giữa nhân tế bào của tác phẩm. Vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật cùng lộ ra từ chi tiết ấy.

C TI O

2. Thân bài 2.1. Khái quát chung

AN H

TU

PR

O D

U

– Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như: O chuột, Dế Mèn phiêu lưu kí... Sau Cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như: Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Cát bụi chân ai... Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

YE

N

TH

- Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được nhà văn Tô Hoài viết vào những năm 1952, 1953 sau chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Đây là tác phẩm được nhà văn xây dựng bằng những chuyện mắt thấy tai nghe, chan chứa tình cảm sâu nặng của tác giả đối với đồng bào miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực thực dân, phong kiến. Vợ chồng A Phủ còn là bài ca về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người miền núi trên con đường đấu tranh giải phóng cho bản thân và quê hương. 2.2. Cảm nhận chi tiết tiếng sáo thông qua đoạn trích trong đề

G

U

a. Hoàn cảnh xuất hiện của tiếng sáo

N

– Mị từ khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra đã trở thành người khác hẳn. Không còn là cô Mị trẻ trung, yêu đời, có biết bao người mê ngày đêm thổi sáo đi theo. Mị trở nên câm lặng, chỉ biết vùi mình vào việc, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị mất hết ý niệm về thời gian, bản thân, cảm xúc và tinh thần phản kháng cũng bị tê liệt. - Những đêm tình mùa xuân trên núi cao đã trở lại, ngày Tết trai gái rủ nhau đánh pao, đánh quay rồi thổi sáo gọi bạn đi chơi. Ngày Tết Mị lén lấy rượu uống, rồi say lịm mặt ngồi đấy, Mị nghe thấy tiếng sáo, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi, Mị uốn chiếc là trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, tiếng sáo trở trành nguồn sống trong tâm hồn Mị... b. Vai trò của tiếng sáo  Tiếng sáo là một chi tiết nghệ thuật được nhà văn nhắc đến nhiều lần với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. - Tiếng sáo là âm thanh gợi lên cảnh sắc đặc trưng, phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi. Tiếng sáo mở ra một không gian xa xôi của núi rừng Tây Bắc. Tiếng sáo gọi bạn, gọi người yêu là nét đẹp văn hóa của Trang 5


người dân miền núi: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi... Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường...”. – Tiếng sáo đại diện cho tài năng của con người: “Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị...”. - Âm thanh của tiếng sáo khiến Mị nhớ về một quá khứ tươi đẹp, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, đồng thời tiếng sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị: “Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...”. Mị vùng bước đi”. - Tiếng sáo là biểu tượng cho cuộc sống, tình yêu, nó lay gọi khát vọng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mị, có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân.

U

C TI O

N

- Tiếng sáo thể hiện tư tưởng của tác phẩm: Sức sống của con người bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên. Và dù bị trói suốt đêm nhưng dây trói chỉ giữ được thể xác của Mị còn tiếng sáo đã đem tâm hồn Mị trở lại với thời con gái, với những cuộc chơi ngày trước. Đây là giá trị nhân đạo sâu xa của truyện.

PR

O D

- Tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đặc biệt tố cáo bản chất của giai cấp thống trị thực dân phong kiến miền núi, cự tuyệt quyền sống, quyền làm người của con người. Nếu tiếng chân ngựa đạp vào vách là sự lên tiếng của hiện thực phũ phàng thì tiếng sáo lại là hiện thân của những ước mơ, hoài niệm. 2.3. Bình luận về chi tiết tiếng sáo

TU

- Chi tiết tiếng sáo đêm tình mùa xuân là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

TH

AN H

- Chính nhờ tiếng sáo mùa xuân mà Mị có được sự thức tỉnh trong tâm hồn, giả sử không có tiếng sáo mùa xuân thì có lẽ tâm hồn Mị không bao giờ thức dậy được. Nó là cú hích để Mị dũng cảm làm một cuộc vượt ngục trong tâm hồn, nó khơi dậy sức sống tinh thần phản kháng lâu nay bị vùi lấp trong Mị.

G

2.4. Liên hệ

U

YE

N

- Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa và Mị đã vững vàng hơn. Chi tiết tiếng sáo là sản phẩm của một sự am tường cặn kẽ, tinh thông về phong tục, lối sống của đồng bào rẻo cao. Là sản phẩm của một ngòi bút tài hoa: văn như nhạc, như tranh, tải được cả sắc màu, hương vị, âm điệu, linh hồn của núi rừng Tây Bắc: Trong sáng, hồn nhiên mà tình tứ, réo rắt da diết, mà khỏe khoắn lạ thường. Thật trọn vẹn, ngọt ngào và đầy dư vị!

N

a. Âm thanh trong Chí Phèo của Nam Cao - Chí Phèo là tác phẩm tiêu biểu cho những sáng tác về đề tài người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám của Nam Cao. Nam Cao miêu tả Chí Phèo từ đứa trẻ bị bỏ rơi, được người làng nuôi, lớn lên thành anh canh điền khỏe mạnh lương thiện. Rồi Chí bị bá Kiến ghen tuông và đẩy vào tù. Khi ra tù trở về làng Chí trượt dài trong tội lỗi, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lí. Từ khi đi tù về, đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hoàn toàn tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống: “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá... một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về” những âm thanh thường nhật ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe được bởi vì bây giờ hắn mới được tỉnh sau những cơn say dài mênh mang. - “Tiếng chim hót”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”... “tiếng mấy bà đi chợ hỏi nhau” là những Trang 6


âm thanh nhỏ giọt vào tâm hồn Chí, như dòng nước mát lành, như cơn mưa mùa hạ đang đổ xuống thớ đất khô cằn sỏi đá, thiếu vắng tình thương yêu đồng cảm chia sẻ của Chí. Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhận ra cái lều ẩm thấp chỉ có hơi lờ mờ của mình rằng: “Mặt trời chắc đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ”. Cũng như những ngày người say tỉnh dậy, Chí Phèo thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. - Những âm thanh của cuộc sống đã làm cho chí dần lấy lại ý thức về cuộc sống, đưa Chí về quá khứ tươi đẹp và hạnh phúc một thời với giấc mơ bình dị về một cuộc sống gia đình nho nhỏ: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. - Cũng chính những âm thanh của cuộc sống ấy cũng khiến Chí nhận ra hắn già mà vẫn còn cô độc, khiến Chí suy nghĩ nhiều hơn, sâu xa hơn, hình dung được tương lai đầy bất ổn ở phía trước để rồi lo sợ...

O D

U

C TI O

N

 Âm thanh “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá... một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về” là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và bị kịch của nhân vật. Chi tiết nhỏ chỉ thoáng qua vài câu văn ngắn nhưng lại là yếu tố nội liên văn bản làm cho mạch truyện từ đây bất ngờ rẽ sang hướng khác. Nhờ nó mà ta có thể nhìn thấy hai nửa cuộc đời của Chí Phèo. Đó là chi tiết đắt giá thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. b. Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy

TU

PR

- Nhắc đến Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là nhắc đến một trong những truyền thuyết hay nhất của dân tộc Việt Nam. Cái hay của truyện không chỉ nằm ở tư tưởng nhân văn hoặc những chi tiết kì ảo, hấp dẫn mà còn ở sự sáng tạo tuyệt vời của dân gian trong hình ảnh “ngọc trai – giếng nước”.

AN H

- Có thể thấy hình ảnh “ngọc trai” được sáng tạo trong tương quan với lời của Mị Châu khấn nguyện trước lúc chết, còn hình ảnh “giếng nước” có hồn Trọng Thủy hòa cùng nỗi hối hận vô hạn:

TH

+ Hình ảnh “ngọc trai” là nhằm chiêu tuyết cho danh dự của Mị Châu, nó chứng thực tấm lòng trong sáng của nàng. + Hình ảnh “giếng nước” là sự chứng nhận cho mong muốn hóa giải tội lỗi của Trọng Thủy.

N

G

U

YE

N

 Chi tiết “ngọc trai” đem rửa trong giếng nước này lại càng sáng đẹp hơn nói lên rằng Trọng Thủy đã tìm được sự hóa giải trong tình cảm của Mị Châu ở thế giới bên kia. Đó chính là ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” trong câu chuyện. Qua đây, chúng ta được chứng kiến tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhân dân. Phải có một lòng bao dung, cảm thông, độ lượng, phải có một trái tim nhân ái, cao cả, dân gian mới đem trí tuệ của mình sáng tạo nên một kết cục hoàn mĩ, duy nhất hợp lí cho số phận của đôi trai gái. 2.5. Bình luận về vai trò của chi tiết trong tác phẩm - Trong tác phẩm văn học, chi tiết nghệ thuật cực kì quan trọng, nếu không có nó, tác phẩm dường như chưa thực sự có được tầm vóc. - Chi tiết nghệ thuật giống như một hạt cát nhưng đủ để mang đến một sa mạc mênh mông; chi tiết nghệ thuật như một giọt nước nhưng có thể làm đồng hiện cả đại dương bao la. - Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng lại mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng, sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm xúc và góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ ở chi tiết. Chi tiết bao giờ cũng có khả năng thuyết minh, biểu hiện cái toàn thể. 3. Kết bài - Có thể nói, “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, với tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ, tiếng chim hót trong Trang 7


Chí Phèo và hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là những chi tiết nghệ thuật có sức dư ba, làm trụ cột cho cả ba tác phẩm, góp phần tạo nên ba thiên truyện ngắn đặc sắc nhất của văn chương Việt Nam.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

- Qua ba chi tiết nghệ thuật ấy, người đọc càng hiểu sâu sắc hơn tấm lòng nhân đạo của hai nhà văn và các tác giả dân gian của văn học dân tộc.

Trang 8


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 18 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

C TI O

N

Cũng cờ cũng biển cũng cần đai Cũng gọi ông nghe có kém ai Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng

U

Nét son điểm rõ mặt vân khôi

O D

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ

PR

Cái giá khoa danh ấy mới hời Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ

TU

Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi.

(Tiến sĩ giấy, Nguyễn Khuyến)

AN H

Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của bài thơ? Nêu phương thức biểu đạt. Câu 2: Xác định thông tin đúng, sai.

TH

A. Bài thơ được làm theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. B. Bài thơ gói gọn trong bốn cặp câu (đề, thực, luận, kết) mà ẩn chứa và khái quát biết bao nhiêu điều.

N

C. Bài thơ mang hai lớp nghĩa.

YE

D. Bài thơ thuộc chùm thơ trào phúng.

U

Câu 3: Nêu nội dung chính của bài thơ. Tìm biện pháp tu từ và nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.

N

G

Câu 4: Anh (chị) hãy cho biết những lớp nghĩa chính của bài thơ. Viết đoạn văn cảm nhận về hai câu thơ: “Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ/ Cái giá công danh ấy mới hời”. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu với chủ đề: “Danh và thực”. Câu 2 (5,0 điểm): Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019). Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ với bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích vở kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và bi kịch của Thúy Kiều qua đoạn trích Nỗi thương mình (trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du (Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để rút ra bài học ứng xử của con người khi bị rơi vào nghịch cảnh. Trang 1


-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: - Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. - Phương thức biểu đạt: Tự sự. Câu 2: - A - Đúng; B - Đúng; C - Sai; D - Đúng. Câu 3:

U

- Biện pháp tu từ: Ẩn dụ với lối thơ trào phúng kín đáo và thâm thúy.

C TI O

N

- Nội dung: Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong Tiến sĩ giấy nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hạ bệ thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại hàng mấy trăm năm - ông tiến sĩ - nhưng chỉ là cái danh, sự rởm đời.

TU

PR

O D

- Tác dụng: Bài thơ cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe thấy, chứng kiến một cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính mình - tiếng nói phản tỉnh của một người trong cuộc. Đó cũng chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng như là nói ngược nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất của xã hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế đương thời. Câu 4:

AN H

- Bài thơ có ba lớp nghĩa: Miêu tả một thứ đồ chơi cho trẻ con; đả kích những ông tiến sĩ hữu danh vô thực, tự chế giễu chính mình.

N

G

U

YE

N

TH

- Cảm nhận hai câu thơ: Đến hai câu luận này, Nguyễn Khuyến dường như đã chuyển từ việc mô tả khách quan sang việc đánh giá chủ quan. Chỉ qua hai cụm từ cảm thán: “sao mà nhẹ”, “ấy mới hời” dường như giá trị của ông nghè đã có thể mang ra cân đo, đong đếm. Ngày xưa kẻ lao tâm khổ tứ để đỗ đạt khoác trên thân tấm áo vua ban mà cảm thấy trách nhiệm nặng nề, thì nay kẻ mua danh bán tước khoác lên mình tấm áo ấy mà sao lại thấy nhẹ bẫng. Đơn giản bởi nó là thứ giả. Không phải ngẫu nhiên khi mô tả một ông tiến sĩ bằng giấy nhưng nhà thơ vẫn phải luôn gắn vào đó từ thân (thân giáp bảng) hoặc tấm thân (tấm thân xiêm áo), chính để tạo nên sự so sánh. Nhưng sao những lời lẽ tưởng như chủ quan chế giễu, mỉa mai trên lại như cũng đang nhuốm những ngậm ngùi, chua chát, cảm thán thời thế và nhà thơ dường như đang buồn cho chính mình vậy? II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: (2,0 điểm) A. Về kĩ năng - Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Mở đoạn Trang 2


- Bài thơ ra đời vào thời kì đất nước ta đã rơi vào họa xâm lăng, bút nghiên, chữ nghĩa của ông tiến sĩ không đủ để cứu nước, cứu đời, tài cán của ông tiến sĩ không đủ để đuổi giặc. - Đề cập đến chuyện xã hội giao thời lố lăng, chuyện mua quan bán tước chả khác gì mua bán những món hàng thông thường thì cái danh tiến sĩ lại càng không đáng giá. 2. Thân đoạn a. Giải thích - “Danh” là những thành quả mà con người gặt hái được như tiếng tăm, tiền bạc, địa vị... - “Thực” là thực lực tự có, tự rèn luyện được của mỗi người.  Thực rất đắng cay, gian khổ nhưng danh quả thật vô cùng ngọt ngào và hấp dẫn. Danh chỉ phát huy đúng ý nghĩa và lợi ích của mình khi nó thật sự là hệ quả của thực mà thôi.

N

b. Bàn luận (bàn từ lời giải thích), mặt trái của danh

C TI O

- Con người thường mờ mắt trước danh vọng, địa vị và sẵn sàng đi đường tắt để đạt được điều đó. - Hệ quả: Xuất hiện những kẻ hữu danh vô thực, những vụ tham nhũng, bê bối làm tổn thất cho nhà nước hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng.

U

- Bác bỏ những bàn luận:

O D

+ Sự đảo lộn danh và thực ấy đã xóa nhòa tính công bằng trong quy luật cuộc sống.

PR

+ Nó đưa những người có tiền và biết đi đường tắt lên tột cùng của danh vọng, đồng thời đã làm lu mờ ý chí phấn đấu, cầu tiến của những ai có thực lực.

TU

c. Mở rộng và đánh giá vấn đề

- Sự tráo trở giữa danh và thực ấy còn len lỏi vào học đường với căn bệnh thành tích đáng sợ.

TH

d. Bài học nhận thức và hành động

AN H

- Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, nắm bắt được tình hình đó, chúng ta đang thực hiện một cuộc cải cách triệt để không chỉ trong ngành giáo dục mà ở mọi lĩnh vực và toàn xã hội.

N

- Những người đủ bản lĩnh để vượt qua chữ danh hư vô, nhạt nhẽo bằng chính thực lực và sự cố gắng không ngừng nghỉ của bản thân mình thì thực sự rất đáng quý và đáng trân trọng.

U

YE

- Những người không chịu sống luồn cúi, không chịu khuất phục và không chịu để cho đồng tiền làm mờ mắt. Nhân cách ấy, lối sống ấy có thể giúp hoàn thiện một con người.

N

G

- Bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến không chỉ phản ánh bộ mặt xã hội thời bấy giờ mà còn khiến người đọc phải dừng lại suy ngẫm về danh và thực trong cuộc đời và về con đường của chính bản thân mình. Sự thành công, cái danh không dễ dàng để có được. Mỗi con người nên trân trọng những gì mà bản thân mình đã cố gắng để có được. . . 3. Kết đoạn - Bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến không chỉ phản ánh bộ mặt xã hội thời bấy giờ mà còn khiến người đọc phải dừng lại suy ngẫm về danh và thực trong cuộc đời và về con đường của chính bản thân mình. - Hãy tin vào thực lực của mình, bởi nếu có thực lực thì danh tiếng có hay không chỉ còn là chuyện thời gian. Câu 2: (5,0 điểm) 1. Mở bài - “Anh phải trở về cái gì của chính anh.” (Nietzsche, triết gia người Đức) Trang 3


Lời nói của Nietzsche là tiếng nói, phải sống như chính anh, thật sự là của anh, của chính mình để hướng con người đến sự hoàn thiện. Tiếng nói ấy đã làm chúng ta nghĩ đến kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, thông qua nhân vật hồn Trương Ba cũng bật lên tiếng gọi, lời thiết tha khẩn cầu để tìm lại chính mình: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Chỉ một lời nói ngắn gọn nhưng toát lên cả một nỗi niềm, là bi kịch tinh thần đau đớn cùng khát vọng chính đáng của nhân vật hồn Trương Ba. 2. Thân bài 2.1. Khái quát chung

N

- Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) được công chúng, bạn đọc biết đến với tư cách một nhà thơ. Nhưng gây tiếng vang và được hâm mộ là với tư cách một nhà viết kịch tài ba. Vào những năm 1980 kịch của ông đã chiếm lĩnh sân khấu của rất nhiều nhà hát. Và với quan điểm sáng tác không phải để ngợi ca mà như một sự đóng góp cho cuộc sống đang còn nhiều dang dở ấy, thông qua những tác phẩm của mình, Lưu Quang Vũ đã truyền tải những thông điệp nhân sinh ý nghĩa.

O D

U

C TI O

- Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được biết đến như một tiếng nói phê phán những vấn đề tiêu cực của cuộc sống thông qua những câu chuyện vui vẻ, chân thực và sống động nhưng cũng hết sức sâu sắc. Trích đoạn trong Sách giáo khoa Ngữ văn 12, Tập hai là phân cảnh cuối cùng, và cũng là cảnh tập trung nhất về chủ đề, tư tưởng của vở kịch và tài dựng cảnh, dựng đối thoại của ngòi bút Lưu Quang Vũ.

TU

PR

- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó - thời điểm những năm 1980 của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một tích truyện dân gian cũ để đan cài vào đó những suy nghĩ, quan niệm, triết lí nhân văn mới mẻ và sâu sắc. 2.2. Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba

AN H

a. Hoàn cảnh dẫn đến bị kịch

N

TH

- Ông Trương Ba là một người làm vườn có lối sống thanh cao, thích đọc sách, đánh cờ, yêu công việc của mình là ươm những mầm xanh cho cuộc sống. Do một việc làm tắc trách của Nam Tào, ông Trương Ba bị chết oan, để được tiếp tục cuộc sống, ông bắt buộc phải trú nhờ vào thân xác anh hàng thịt, một con người thô lỗ, phàm tục.

U

YE

– Hoàn cảnh đó nảy sinh bi kịch của Trương Ba: không được sống như mình mong muốn, phụ thuộc vào thân xác anh hàng thịt, bị những nhu cầu bản năng của thân xác chi phối.

G

b. Bi kịch của hồn Trương Ba là phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”

N

1. Qua cuộc đối thoại với xác hành thịt: - Bị xác hàng thịt chi phối, sai khiến: “Nhờ có tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới... Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”. - Đau đớn nhất là chính ông Trương Ba cũng cảm nhận được sự tha hóa của mình, ông ngày càng ngả theo những thói xấu của anh hàng thịt mà tự đánh mất mình. - Trong cuộc đối thoại này hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí vì dù muốn hay không ông cũng phải thừa nhận những điều mà các anh hàng thịt nói là sự thật. Đó là ông càng ngày càng cảm thấy xao xuyến trước những món ăn mà trước đây mình cho là phàm; là cái lần mà ông tát thằng con tóe máu mồm, máu mũi; là cái đêm ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ nghẹ lại và suýt nữa thì... Xác hàng thịt thắng thế tuôn ra những lời thoại dài, khi thì mỉa mai châm chọc, khi thì lên mặt dạy đời. Hồn Trương Ba chỉ nói những lời thoại ngắn bằng giọng nhát ngừng, kèm theo những tiếng kêu, than. Trang 4


 Như vậy, hồn Trương Ba rơi vào bi kịch, dù tiếp tục được sống nhưng phải sống nhờ trong thân xác thô lỗ, phũ phàng của anh hàng thịt, bị những nhu cầu bản năng của thân xác chi phối, làm cho tha hóa. Hồn Trương Ba muốn đầu tranh để thoát khỏi nghịch cảnh nhưng đành bất lực. Kết thúc màn đối thoại, hồn Trương Ba đành chấp nhận quay trở lại thân xác. Bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba chính là lời cảnh báo: khi con người phải sống trong sự dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ chế ngự, lấn át và hủy hoại những giá trị tốt đẹp, cao quý. 2. Bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba khi đối thoại với những người thân: - Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ nhất quyết đòi bỏ đi, với bà “Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt. Để ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt... Còn hơn là thế này...”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng cảm nhận được: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

C TI O

N

- Cái Gái - cháu nội ông thì một mực từ chối tình thân: “Ông nội tôi chết rồi”. Trước đây nó yêu quý ông nội nó bao nhiêu thì giờ đây nó căm ghét con người thô lỗ phũ phàng trước mắt bấy nhiêu. Sự căm ghét của cái Gái biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

PR

O D

U

- Chị con dâu là người sâu sắc, hiểu điều hơn lẽ thiệt, hiểu và thương ông Trương Ba nhất, chị hiểu rằng “giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi đau trước cảnh gia đình như tan hoang ra cả khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã nói ra nỗi đau ấy: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...”.

YE

2.3. Đánh giá và nhận xét

N

TH

AN H

TU

 Những người thân của ông Trương Ba, bằng những cử chỉ và lời nói khác nhau nhưng đều bộc lộ nỗi đau khổ tột cùng trước sự thay đổi của ông. Điều đó khiến ông Trương Ba không thể chịu đựng được, nỗi cay đắng với bản thân đã lên đến đỉnh điểm muốn đứt tung, vọt trào. Đó là tác động tâm lí cuối cùng như giọt nước mắt tràn ly khiến ông đi đến quyết định dứt khoát: Chấm hương gọi Đế Thích, trả lại thân xác cho anh hàng thịt, xin cho cu Tị được sống còn mình thì mãi mãi ra đi không nhập hồn vào thân xác của bất kì một ai nữa. Quyết định sáng suốt đầy tính nhân văn này đã giúp hồn Trương Ba thoát khỏi bi kịch và khẳng định nhân cách cao đẹp của nhân vật.

N

G

U

 Lưu Quang Vũ đã thành công trong việc thể hiện bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba khi phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Qua đó, nhà văn đã gửi đến người đọc những thông điệp sâu sắc về giá trị nhân sinh sâu sắc về lẽ sống của cuộc đời. - Con người sẽ rơi vào bi kịch khi phải sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, sống lệ thuộc vào người khác và tự đánh mất mình. Cuộc sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc và có ý nghĩa khi được sống là chính mình. - Cuộc sống là quý nhưng không thể sống bằng mọi giá. – Khi bị đẩy vào nghịch cảnh thì con người cần phải có bản lĩnh, ý chí và một tâm hồn nhân văn để có thể thoát khỏi nghịch cảnh, giữ vững bản chất tốt đẹp của mình... 2.4. Liên hệ a. Bi kịch của Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Cũng như nhân vật hồn Trương Ba, nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng cũng gặp bi kịch khi bị đẩy vào nghịch cảnh. Nhưng lựa chọn của Vũ Như Tô có sự khác biệt so với hồn Trương Ba vì vậy mà nhân vật này không thể thoát khỏi bị kịch bế tắc. - Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài “ngàn năm chưa có một”, có thể “sai khiến gạch đá như ông tướng Trang 5


cầm quân, có thể xây những tòa lâu đài cao cả nóc vờn mây mà không hề sai một viên gạch...”. Ông cũng là người có ước mơ hoài bão cao cả, muốn xây cho đất nước một “tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công”... Ông còn là người có tấm lòng thiện lương biết đồng cảm với nỗi đau khổ lầm than của nhân dân nên khi Lê Tương Dực bắt xây Cửu Trùng Đài làm nơi ăn chơi sa đọa thì Vũ Như Tô đã kiên quyết cự tuyệt và chửi mắng tên hôn quân vô đạo. - Sai lầm của Vũ Như Tô là ở chỗ đã không kìm nén được khát khao nghệ thuật cháy bỏng của bản thân nên đã nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm lợi dụng vương quyền của Lê Tương Dực xây Cửu Trùng Đài để thỏa mãn giấc mộng nghệ thuật của mình bất chấp những đau khổ, lầm than của nhân dân. Sai lầm này đã đẩy nhân vật đến chỗ bản thân bị xử tử, công trình bị phá hủy. Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không tự nhận xây Cửu Trùng Đài là sai lầm, ông vẫn tin mình là “quang minh chính đại”. Đến khi ông và Đan Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị tiêu hủy thì ông mới bừng tỉnh: “Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài”.

N

b. Bi kịch của Thúy Kiều ở đoạn trích Nỗi thương mình

O D

U

C TI O

- Sau khi Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh. Biết mình bị lừa, nàng đã chống trả rất quyết liệt và rút dao định tự sát, nhưng không chết. Mụ Tú Bà thấy Thúy Kiều không chịu tiếp khách nên đã bày mưu cùng với Sở Khanh (tên tay sai của Tú Bà) để lừa Thúy Kiều trốn. Nhẹ dạ cả tin nên thúy Kiều lại bị lừa và bị mụ Tú Bà đánh đập rất dã man. Thúy Kiều phải ra tiếp khách làng chơi từ đó.

PR

- Đoạn trích Nỗi thương mình nói về những tháng ngày Thúy Kiều sống trong chốn lầu xanh. Đoạn trích đã thể hiện một cách xúc động về nỗi đau đớn, tủi nhục, thương thân xót phận và ý thức cao về nhân phẩm của Kiều khi bị ép, bị đẩy vào vũng bùn hội tanh.

TH

AN H

TU

- Thông qua đoạn trích Nỗi thương mình, Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy được phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Bên cạnh đó Nguyễn Du đã thể hiện rất thành công nỗi đau khổ, buồn tủi đáng thương của Kiều giữa vũng bùn tanh hôi, nhơ nhớp để đề cao nhân phẩm, phẩm giá của Kiều. Đọc đoạn trích này, khiến người đọc càng xót xa, căm giận về cái xã hội phong kiến tàn ác xưa. Đồng thời, càng cảm phục, yêu thương người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bạc mệnh – Thúy Kiều. 2.5. Nhận xét về ứng xử của con người khi bị đẩy vào nghịch cảnh

G

U

YE

N

- Cả Trương Ba, Vũ Như Tô và Thúy Kiều đều bị đẩy vào nghịch cảnh. Trương Ba thì không được sống là chính mình; Vũ Như Tô thì không được thực hiện hoài bão lớn lao của cuộc đời mình; Thúy Kiều phải sống trong đau khổ, tủi nhục, cô đơn của người con gái tài sắc vẹn toàn đang vùng vẫy chống trọi lại cảnh đời trụy lạc.

N

- Trương Ba đã có sự lựa chọn dũng cảm và đầy chất nhân văn dù phải chết nhưng vẫn giữ trọn vẹn tâm hồn cao đẹp của mình. Vũ Như Tô lựa chọn sai lầm là đặt khát vọng nghệ thuật của cá nhân lên trên quyền lợi trực tiếp của nhân dân nên không thoát khỏi bị kịch. Thúy Kiều khi bị đẩy vào nghịch cảnh đã tự ý thức về thân phận và nhân phẩm của mình. 3. Kết bài - Có thể khẳng định ba tác giả đã cho người đọc một bài học về giá trị của nghịch cảnh và nghị lực sống. - Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Du đã xây dựng thành công ba nhân vật bi kịch và gửi gắm trong đó những thông điệp mang ý nghĩa tư tưởng và nhân văn sâu sắc. - Cả ba tác phẩm đều để lại những bài học về lẽ sống và cách ứng xử của con người, đặc biệt là khi bị lâm vào nghịch cảnh.

Trang 6


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 19 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

C TI O

N

Tôi càng đọc nhiều sách thì càng làm cho tôi gắn bó với thế giới, cuộc đời càng trở nên rực rỡ, có ý nghĩa đối với tôi. Tôi thấy rằng có những người sống khổ cực hơn, khó khăn hơn tôi, điều đó an ủi tôi phần nào, tuy vẫn không làm tôi thỏa hiệp với cái hiện thực ô nhục. .

TU

PR

O D

U

Tôi cũng thấy rằng có những người biết sống một cách vui thú và sung sướng mà không một người nào xung quanh tôi biết sống như thế. Và hầu như trong mỗi quyển sách đều có cái gì đáng lo ngại, như một tiếng chuông nhè nhẹ lôi cuốn tôi đi: đi tìm những cái chưa từng biết làm tôi xúc động tâm tình. Mọi người đều thay đổi thế này thế khác, mọi người đều không bằng lòng với cuộc sống, đều tìm kiếm một cái gì tốt đẹp hơn, và họ trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn. Sách làm cho khắp trái đất, khắp thế giới tràn ngập nỗi buồn nhớ cái tốt đẹp hơn, và mỗi cuốn sách dường như đều là tâm hồn được ghi lại trên giấy bằng những dấu hiệu và những từ, những dấu hiệu và những từ ấy lập tức trở nên sống động, hễ mắt tôi, trí tuệ tôi tiếp xúc với chúng.

TH

AN H

Nhiều lần tôi khóc khi đọc sách: sách kể chuyện hay biết bao về con người, họ trở nên đáng yêu và gần gũi biết bao. Là một thằng bé bị công việc ngu độn làm cho kiệt lực, luôn luôn phải hứng lấy những lời chửi mắng đần độn, tôi trịnh trọng hứa với mình là lớn lên, tôi sẽ giúp đỡ mọi người, hết lòng phục vụ họ.

U

YE

N

Như những con chim kì diệu trong truyện cổ tích, sách ca hát về việc cuộc sống đa dạng và phong phú như thế nào, con người táo bạo như thế nào trong khát vọng đạt tới cái thiện và cái đẹp. Và càng đọc, trong lòng tôi càng tràn đầy tinh thần lành mạnh và hăng hái. Tôi trở nên điềm tĩnh hơn, tin ở mình hơn, làm việc hợp lí hơn và ngày càng ít để ý đến vô số những chuyện bực bội trong cuộc sống.

N

G

Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú để tiến gần tới con người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất và về sự thèm khát cuộc sống ấy. Khi trong đầu chồng chất những điều đã đọc được, cảm thấy mình là cái bình tràn đầy một chất lỏng hồi sinh, tôi đến với những người lính hầu, những người thợ đào đất, kể cho họ nghe những chuyện khác nhau vừa kể vừa sắm vai các nhân vật. Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống. (Theo https://www.google.com.vn/ Tôi đã học tập như thế nào?, M. Goor-ki) Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. Câu 2: Theo anh (chị), đoạn văn: “Nhiều lần tôi khóc khi đọc sách... hết lòng phục vụ họ” bàn luận về ý nghĩa gì của việc đọc sách? Câu 3: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau: “Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú để tiến gần tới con người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất và về sự thèm khát cuộc . sống ấy”. Trang 1


Câu 4: Viết đoạn văn (khoảng 6 – 8 dòng) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa của việc đọc sách. II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến | thức mới là con đường sống”. Câu 2 (5,0 điểm): Đọc đoạn trích dưới đây:

PR

O D

U

C TI O

N

Nhân vật Trương Ba trong đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, khi gặp Đế Thích đòi trả lại thân xác anh hàng thịt đã nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn... Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” (Theo SGK Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019), hãy nêu suy nghĩ của anh (chị) về câu nói trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ đến câu nói của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao trước khi đâm chết bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình: “Ai cho tao lương thiện?” (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và câu nói: “Cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm? Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt cháy đền tà, chống cãi yêu ma, làm một việc hơn cả thân và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vị ở Minh ti, thật là xứng đáng. Vậy là kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi” (trích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, SGK Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 60) để nhận xét về ý nghĩa của các câu nói.

TU

-------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

AN H

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1: - Hai phương thức biểu đạt của văn bản trên là: Nghị luận, biểu cảm.

N

TH

Câu 2: - Đoạn văn: “Nhiều lần tôi khóc khi đọc sách... hết lòng phục vụ họ” bàn luận về ý nghĩa nhân đạo hóa con người của việc đọc sách. Đọc sách khiến tâm hồn con người được thanh lọc, biết hướng bản thân mình mình đến cái chân - thiện - mĩ.

YE

Câu 3:

N

- Tác dụng:

G

U

- Biện pháp tu từ được sử dụng: So sánh: “mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ”, ẩn dụ “con thú, con người”, tương phản đối lập “con thú  con người”. + Biện pháp so sánh là một cách nói hình tượng hóa về giá trị mà mỗi quyển sách mang đến cho con người. Mỗi quyển sách mang đến cho con người những kiến thức vô giá, đó chính là những nấc thang đưa con người đến dần với sự thành công và phát triển. + Biện pháp ẩn dụ và tương phản đối lập được sử dụng đã khẳng định giá trị của việc đọc sách. Đọc sách khiến con người có thêm nhiều hiểu biết, tri thức để dần hoàn thiện mình, loại bỏ những ham muốn bản năng (con thú) để đến gần hơn với những điều kiện tốt đẹp, lương thiện của “con người”. Câu 4: Thí sinh biết cách viết đoạn văn theo đúng quy định về số câu. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần hướng đến những nội dung cụ thể như sau: - Đọc sách giúp ta mở rộng thêm kiến thức, nâng cao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực về cuộc sống và thế giới xung quanh, về đời sống văn hóa, tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người. Trang 2


- Đọc sách sẽ bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm lẽ sống cao đẹp, hoàn thiện nhân cách của con người. - Đọc sách giúp rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là năng lực đọc - một trong những năng lực giúp con người thành công trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay. II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: (2,0 điểm) A. Về kĩ năng - Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

N

B. Về kiến thức

C TI O

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Mở đoạn

PR

O D

U

- Nếu ví trí thức nhân loại như đại dương mênh mông thì sự hiểu biết của chúng ta chỉ là hạt muối bỏ bể. Trên chuyến hành trình đi tìm biến kiến thức vô tận, con người đã dần lớn lên để từ một cá thể nhỏ bé mà tạo nên tiếng nói riêng, phong cách riêng. Sách chính là phương tiện đưa ta đến với nguồn kiến thức vô tận, mở ra một cánh cửa kì diệu.

AN H

TU

- Chính vì vậy, khi nhận định về tầm quan trọng của sách, M. Goor-ki đã nói: “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống”. Con người yêu sách, nuôi dưỡng “con đường sống” để khẳng định rằng mình tuy là một hạt muối nhỏ bé nhưng góp phần quan trọng trong việc hình thành nên đại dương bao la. 2. Giải thích

N

TH

- “Sách” là di huấn tinh thần của thế hệ người đi trước đối với thế hệ sau, lời khuyên của người già sắp từ giã cõi đời với người trẻ bước vào tương lai. Sách là sản phẩm tinh thần phi vật thể, kho báu trí tuệ của nhân loại. Sách đã trường tồn với thời gian như một nhân vật quan trọng mãi không bao giờ khuất.

G

U

YE

 Vì vậy, chúng ta hãy yêu sách. Hãy bảo quản, trân trọng, nâng niu như một người bạn tri kỉ, phải phát huy giá trị mà sách mang đến cho con người. Bởi vì sách không đơn thuần chỉ là “kho vô tận” mà còn là nơi kí thác những tâm sự riêng tư, thầm kín.

N

3. Bàn luận và chứng minh - Sách cho ta kiến thức. Đó chính là những kĩ năng, những hiểu biết của con người trong cuộc sống, nơi lưu giữ tri thức toàn nhân loại được đúc kết qua hàng nghìn, hàng vạn năm trong mỗi lĩnh vực của cuộc sống. - Sách là kết tinh trí tuệ con người, không chỉ tác động vào tri thức mà còn ăn sâu vào tinh thần, bồi dưỡng tâm hồn để ta biết cách sống đẹp, sống tốt và có ích. Đồng thời kết nối không gian, thời gian, kết nối trái tim, tấm lòng con người, là chiếc cầu nối đưa ta từ thực tại ngược dòng thời gian trở về quá khứ để chứng kiến những mốc son vàng lịch sử. - Sách mở ra những câu chuyện, tác phẩm văn học thấm đẫm nhân văn để khiến ta khi đọc phải có những suy ngẫm chính chắn hơn về cuộc đời. Trong khi từng khắc của dòng thời gian bất tận trôi qua thì xã hội lại từng lúc một phát triển hơn. Từng bước đi lên vững chắc của xã hội chính là nhờ vào kho tàng kiến thức nhân loại đã đúc kết từ bao đời nay, mà sách chính là chiếc cầu tri thức đã nối giữa không gian này với không gian khác, giữa thời đại trước với thời đại sau. Không có cách giải trí nào rẻ hơn đọc sách, cũng không có sự thú Trang 3


vị nào bền lâu hơn đọc sách. Sách không chỉ giúp mở mang kiến thức mà còn đem đến nguồn hạnh phúc, sự thanh thản cho tâm hồn. Chính nhờ có sách mà đôi khi, con người ta khám phá ra sức mạnh của bản thân, tìm ra chân lí thiết thực cho con đường đời của chính mình, mở rộng thêm tầm hiểu biết về thế giới xung quanh... - Nhưng có điều, không phải sách nào cũng có ích. Loại sách vô ích đầu độc ý nghĩ con người, xuyên tạc cuộc sống, làm chúng ta u mê, ngu muội thì hãy nên loại bỏ. Tuy đọc sách nhiều nhưng phải biết gạn lọc mới chính là thái độ đọc sách đúng đắn. - Hãy yêu quý, lựa chọn những loại sách giúp ta mở rộng kiến thức, bồi dưỡng tâm hồn, giúp ta yêu cuộc sống, nó phải ca tụng sự nhân nghĩa, lòng bác ái - công bằng, vị tha thì mới chính là hành trang của con người trong cuộc chinh phục những đỉnh cao hy vọng. 4. Bài học nhận thức và hành động

N

- Không một ai bước đi trên con đường thành đạt mà không song hành cùng kiến thức. Không có kiến thức, con người sẽ trở nên vô dụng, lạc hậu, thấp kém trong một xã hội hiện đại hóa như bây giờ.

C TI O

- Sách là cây đèn thần soi sáng cho con người trên những nẻo đường xa xôi nhất và tăm tối nhất của cuộc đời. Vì vậy ta phải yêu sách. Phải chăm chỉ đọc sách mà thực sự hiểu nó, đam mê nó.

O D

U

- “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống”. Sách là kho báu trí tuệ. Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau giữ gìn, phát huy những giá trị của sách, ứng dụng sách vào đời sống để sách mãi là ngọn đèn soi sáng tâm hồn chúng ta trên bước đường đi tới tương lai.

PR

Câu 2: (5,0 điểm) 1. Giới thiệu vấn đề nghị luận

TU

Tôi không muốn viết những lời như thế

AN H

Tôi không thể viết những lời như thế

...Tôi xé đi vòng hoa giấy bức màn sương Những niềm vui dại khờ những nỗi buồn yếu đuối

TH

Cuộc sống còn dở dang

YE

N

Cần đóng góp không cần ngồi ca ngợi. (Thơ, Lưu Quang Vũ)

N

G

U

Lưu Quang Vũ được công chúng, bạn đọc biết đến với tư cách một nhà thơ. Nhưng gây tiếng vang và được hâm mộ là với tư cách một nhà viết kịch tài ba. Vào những năm 1980 kịch của ông đã chiếm lĩnh sân khấu của rất nhiều nhà hát. Với quan điểm sáng tác không phải để ngợi ca mà như một sự đóng góp cho cuộc sống đang còn nhiều dang dở ấy, thông qua những tác phẩm của mình, Lưu Quang Vũ đã truyền tải những thông điệp nhân sinh ý nghĩa. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua câu nói của Trương Ba khi gặp Đế Thích đòi trả lại thân xác anh hàng thịt đã nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn... Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. 2. Khái quát chung - Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) nhà biên kịch lớn của nền văn học Việt Nam. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được biết đến như một tiếng nói phê phán những vấn đề tiêu cực của cuộc sống thông qua những câu chuyện vui vẻ, chân thực và sống động nhưng cũng hết sức sâu sắc. - Câu chuyện bắt đầu từ khi cuộc sống của Trương Ba bắt đầu tái sinh dưới thân xác anh hàng thịt. Với Trang 4


truyện cổ tích, đó là một kết thúc có hậu và Trương Ba tiếp tục hạnh phúc với hình hài và thân xác mới. Tuy vậy, dưới con mắt của Lưu Quang Vũ, hiện thực cuộc đời được tái hiện theo đúng cách mà nó tồn tại. Vì thế mới nảy sinh một bi kịch mới, đó là bi kịch của một tâm hồn thanh cao, trong sáng lại phải sống chật chội trong thân xác một anh hàng thịt phàm phu tục tử, thô lỗ, bản năng. Tuy nhiên, sau ba tháng trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, với những lí lẽ đầy cám dỗ của thân xác, tâm hồn thanh cao của Trương Ba cũng có lúc bị tha hóa, phải làm những điều trái với tư tưởng, đạo lí của mình để thỏa mãn thân xác. Đó chính là bi kịch nội tại của nhân vật. 3. Cảm nhận về ý nghĩa của câu nói

PR

O D

U

C TI O

N

- Đoạn trích có thể gọi là Thoát ra nghịch cảnh là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong “da” anh hàng thịt, không thể kéo dài “nghịch cảnh” mãi được. Sự chắp vá này mở đầu cho quá trình xung đột gay gắt giữa hồn và xác. Trương Ba vô cùng đau khổ vì linh hồn thanh cao của ông phải sống lệ thuộc vào cái xác mà ông xem là âm u đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc. Sự lệ thuộc này làm cho ông dần dần trở thành con người khác, đánh mất những phẩm chất vốn có. Sự thay đổi đó đúng như Huấn Cao đã từng nói với quản ngục khi cái tốt cái đẹp tồn tại sống cùng với cái xấu: “Ở đây, khó giữ thiện lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” (Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân) hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ.

TU

- Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba và Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lối sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này:

AN H

+ Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.

U

YE

N

TH

+ Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau về tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước khi Đế Thích xuất hiện.

N

G

- Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào các cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa cuộc sống.  Câu nói của Trương Ba đã khắc họa bi kịch của nhân vật nhưng đồng thời thể hiện một ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người. Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ đồng thời đã khẳng định khao khát hoàn thiện nhân cách, đấu tranh chống lại sự tha hóa trong mỗi con người. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ. Trang 5


4. Liên hệ a. Câu nói của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên - Tác phẩm kể về cuộc đời của nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã tái hiện quá trình tha hóa của Chí Phèo qua những chặng đường đời bất hạnh. Từ một người nông dân lương thiện bị giai cấp thống trị chà đạp, đày đọa trở thành lưu manh hóa. Từ đó sống kiếp đời quỹ dữ... - Chí Phèo vốn có bản tính hiền lành, lương thiện chỉ vì hiện thực quá tủi cực, tối tăm, mà họ lại là nạn nhân của xã hội, trở thành những con người tha hóa và tuyệt vọng như Chí. Trong câu chuyện này, Nam Cao đã tái hiện trọn vẹn cuộc đời Chí Phèo để đồng cảm và thấu hiểu cho những bi kịch mà Chí Phèo phải trải qua. Hắn bước vào tác phẩm từ cái lò gạch cũ với bản tính hiền lành, lương thiện nhưng nhà tù thực dân và tầng lớp thống trị phong kiến đã cướp đi của hắn tất cả. Xót xa nhất là chúng đã cướp đi giá trị con người hắn ở cả nhân hình và nhân tính. Cuộc đời Chí chỉ là số “0” tròn trĩnh.

O D

U

C TI O

N

- Từ một anh canh điền lương thiện, Chí biến thành một kẻ lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Không những thế, nhân tính của hắn cũng bị tha hóa, Chí trở thành quỷ dữ: “Đạp đổ biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện”. Và như thế, Chí Phèo dấn thân vào con đường tha hóa, từng bước một, hắn bị khước từ quyền làm người với những vết sẹo dày lên theo năm tháng với nghề rạch mặt ăn vạ và trở thành tay sai cho bá Kiến - công cụ đòi nợ thuê.

PR

- Gặp được thị Nở, tình yêu mộc mạc, chân thành của thị đã đánh thức phần lương thiện tốt đẹp trong con người Chí khiến Chí có khao khát được hoàn lương.

TU

- Những định kiến nghiệt ngã của dân làng Vũ Đại về Chí đã khiến Chí bị thị Nở cự tuyệt. Chí Phèo đau đớn nhận ra mình đã bị tước đoạt quyền làm người lương thiện. Chí uống rượu, xách dao đến nhà bá Kiến, đòi lương thiện, tuyên án, trừng trị kẻ thù rồi tự sát.

AN H

 Câu nói của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?” là một câu hỏi đau đớn, nhức nhối. Câu nói chứa đựng bi kịch của nhân vật và tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

TH

b. Câu nói trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

- Với đoạn kết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên và lời bình cuối truyện chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều đó.

U

YE

N

- Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên nổi bật nhân vật Ngô Tử Văn - một con người khảng khái, cương trực, kiên quyết đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân. Một mình chàng dám đương đầu với hồn ma tên tướng giặc, và dù phải xuống tận Minh ti, chàng vẫn không hề sợ hãi, rút lui.

N

G

- Lòng cảm phục và thái độ ngợi ca của Nguyễn Dữ đã được thể hiện một cách trực tiếp trong lời bình ngay sau kết thúc truyện. Theo ông, con người sống trên đời không sợ “cứng quá thì gãy” mà chỉ sợ không thể “cứng” được.  Ngô Tử Văn - một kẻ sĩ nước Việt là người luôn giữ cho mình sự cứng cỏi để vượt qua mọi thế lực phi nghĩa. Cũng từ nhân vật này, người đọc có thể thấy Nguyễn Dữ đề cao sự cứng cỏi trong nhân cách kẻ sĩ. Thực ra đã là trí thức thì cần rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Quan niệm của Nguyễn Dữ về nhân cách kẻ sĩ không phải không đúng nhưng có lẽ chưa đầy đủ, trọn vẹn. Nếu kẻ sĩ lúc nào cũng “cứng” quá thì chắc chắn cũng có lúc phải “gãy”. 5. Bàn luận và mở rộng - Từ những câu nói trong ba đoạn trích, mỗi con người cần rút ra những giá trị sống đích thực cho bản thân: biết sống là chính mình, không nên gục ngã trước hoàn cảnh; đồng thời cần biết tôn trọng giá trị sống đích thực mà mình đang có. - Ba câu nói của các nhân vật cũng như lời nhận xét của các nhân vật khác trong những hoàn cảnh số phận Trang 6


khác nhau nhưng đều phản ánh khát vọng nhân bản, khát vọng thời đại. Điều đó làm nên giá trị và tầm cỡ cho ba tác phẩm văn học “Chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn” (M. Goor-ki). 6. Nhận xét và đánh giá - Cả ba đoạn trích đều khắc họa tâm lí, tính cách thông qua hành động, ngôn ngữ của nhân vật một cách chân thực. - Ba đoạn trích trong ba tác phẩm đều là sản phẩm nghệ thuật độc đáo không lặp lại. Những tư tưởng lớn gặp nhau nhưng cách thể hiện của mỗi tác giả là riêng biệt, chính phong cách riêng của mỗi nghệ sĩ làm nên sự phong phú của diện mạo văn học dân tộc.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

TU

PR

O D

U

C TI O

N

- Cùng là những lời nói tỉnh táo, sáng suốt, có tính chất như lời trăng trối của nhân vật trước khi từ giã cuộc đời. Thông qua lời nói của mỗi nhân vật, cả ba nhà văn đều thể hiện triết lí nhân sinh sâu sắc. Sự sống của con người lúc nào cũng là đáng quý, đáng trân trọng nhưng nó chỉ thực chỉ đáng quý khi con người được sống trọn vẹn là mình với phần lương thiện, tốt đẹp chân chính, được mọi người tôn trọng, thương yêu.

Trang 7


Ths. Nguyễn Thành Huân

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 20 Môn thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh: ....................................................................... Số báo danh: ............................................................................ I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:

O D

U

C TI O

N

Chắc có lẽ trong mỗi chúng ta ai cũng luôn đi tìm cho mình một câu trả lời về đất nước. Đất nước vốn là khái niệm trừu tượng, mà thoạt đầu con người khó có thể cắt nghĩa cho thật gãy gọn, rõ ràng. Nhưng những người thân như ông bà, cha mẹ… thì lại vô cùng cụ thể và được mỗi người cảm nhận trong những mối quan hệ cũng vô cùng cụ thể. Đó là mối quan hệ gắn bó máu thịt hình thành ngay từ khi ta cất tiếng khóc chào đời và sẽ đi theo ta suốt cuộc đời với biết bao biến cố, thăng trầm, buồn vui, hi vọng…

TU

PR

Từ cái nôi gia đình, mỗi người đều có một tuổi thơ gắn liền với kỉ niệm về cây đa, bến nước, sân đình, lũy tre, mái trường, thầy cô, bè bạn. Theo thời gian, những kỉ niệm ấy dần dần trở thành sợi dây tình cảm neo giữ tình yêu của mỗi con người với gia đình, quê hương… và có thể nói, chính tình yêu đối với gia đình và quê hương sẽ khơi nguồn cho tình yêu đất nước.

AN H

(Theo http://vanhay.edu.vn/de-thi-thu-thpt-quoc-gia)

Câu 1: Nêu nội dung và xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?

TH

Câu 2: Hãy tìm câu chủ đề của đoạn văn. Từ đó, cho biết đoạn văn được triển khai theo phương pháp nào?

G

U

YE

N

Câu 3: Tại sao tác giả lại nói: “Đất nước vốn là khái niệm trừu tượng, mà thoạt đầu con người khó có thể cắt nghĩa cho thật gãy gọn, rõ ràng”. Phân tích cấu trúc ngữ pháp của câu sau: “Từ cái nôi gia đình, mỗi người đều có một tuổi thơ gắn liền với kỉ niệm về cây đa, bến nước, sân đình, lũy tre, mái trường, thầy cô, bè bạn”.

N

Câu 4: Từ văn bản trên, anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về trách nhiệm của thanh niên với đất nước. (Trình bày khoảng 6 đến 8 dòng). II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Gia đình và quê hương là chiếc nôi nâng đỡ cuộc đời con”. Câu 2 (5,0 điểm): Đọc đoạn trích dưới đây: Bàn về hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân có ý kiến cho rằng: “Đó là người lao động đầy trí dũng trên sông nước Đà giang”. Ý kiến khác lại khẳng định: “Đó là người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt tác leo ghềnh”. Từ cảm nhận của mình về hình tượng người lái đò sông Đà, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ đến cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và bài thơ Đọc Tiểu Trang 1


Thanh kí của Nguyễn Du (Ngữ văn 10, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để nêu nhận xét về phẩm chất cao đẹp của người nghệ sĩ. -------------------- HẾT -------------------HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu 1: - Nội dung chính: Bàn về vấn đề tình yêu đất nước được bắt nguồn từ tình yêu gia đình, yêu quê hương. - Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Nghị luận.

N

Câu 2:

C TI O

- Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. - Đoạn văn triển khai theo phương pháp quy nạp.

U

Câu 3:

O D

- Tại sao tác giả lại nói: “Đất nước vốn là khái niệm trừu tượng, mà thoạt đầu con người khó có thể cắt nghĩa cho thật gãy gọn, rõ ràng”. Bởi:

PR

+ Đất nước là những gì hiện hữu quanh ta, là tất cả từ vật chất đến tâm hồn.

TU

+ Khái niệm về đất nước được mỗi người hiểu theo một khía cạnh khác nhau. Với người này là sông, đồng, bể… với người khác là cha mẹ, ông, bà… + Thoạt đầu chính ta cũng khó mà định nghĩa cho trọn vẹn về khái niệm đất nước.

TH

- Phân tích cấu trúc ngữ pháp:

AN H

+ Trong trái tim của mỗi người dân đất Việt có dòng máu Lạc Hồng đang chảy và ngân vang muôn điệu về dòng giống Rồng tiên cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.

YE

+ “Mỗi người”: Chủ ngữ.

N

+ “Từ cái nôi gia đình”: Trạng ngữ. + “Đều có… bè bạn”: Vị ngữ.

G

U

Câu 4: Học sinh có thể trình bày suy nghĩ riêng của mình về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay với đất nước viết đoạn văn đảm bảo các ý:

N

- Vì sao thế hệ trẻ lại cần phải có trách nhiệm với đất nước. - Trách nhiệm đó là gì? - Để thực hiện trách nhiệm đó cần phải làm gì? II. LÀM VĂN (7,0 điểm): Câu 1: (2,0 điểm) A. Về kĩ năng - Viết về một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định. - Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả. B. Về kiến thức

Trang 2


Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: 1. Mở đoạn Quê hương là con diều biếc Tuổi thơ con thả trên đồng Quê hương là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông. (Quê hương, Đỗ Trung Quân) - Nguồn cội yêu thương của mỗi con người chính là gia đình và quê hương, đó là điều không thể thiếu trong cuộc đời của bất kì ai, nguồn cội ấy sẽ là chiếc nôi bình yên nâng đỡ suốt cuộc đời mỗi người. 2. Giải thích

C TI O

N

- “Gia đình” là nơi có mẹ, có cha, có những người thân yêu ruột thịt của chúng ta. Đó là nơi bao bọc, che chở, nâng đỡ mỗi con người trên bước đường đời trưởng thành. - “Quê hương” là nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi con người khi chào đời. Nơi đó có mọi người ta quen biết thân thiết, có cánh diều vi vu, có những kỉ niệm thơ mộng bên bạn bè, người thân…

PR

O D

U

- “Chiếc nôi nâng đỡ” nghĩa là từ thưở còn nằm trong nôi, mỗi người đều được ươm ủ trong những câu hát ru à ơi đầy yêu thương của mẹ, của bà. Không những thế “chiếc nôi” ấy còn là sự bao bọc, chở che cho con người sau hành trình dài lưu lạc khi tìm về chốn cũ thân thương…

TU

 Như vây: Gia đình và quê hương chính là nguồn cội, là nơi bắt đầu để hình thành nên tình yêu thương trong mỗi người. 3. Bàn luận

TH

AN H

- Gia đình từ xưa đến nay vẫn luôn được coi là “chiếc nôi” của trẻ thơ. Ở nơi ấy có đầy ắp tình thương và niềm tin trao gửi. Ở nơi ấy, đứa trẻ được lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc, chở che. Một gia đình trong đó cha mẹ luôn yêu thương, chăm sóc và tôn trọng nhau sẽ để lại dấu ấn tuyệt đẹp trong đời sống tâm lí của trẻ.

YE

N

- Gia đình và quê hương là bến đỗ bình yên cho mỗi con người. Dù ai đi đâu, về đâu cũng sẽ luôn tự nhắc nhở phải nhớ về quê hương bởi nó theo bước hành trình của ta suốt cuộc đời.

N

G

U

- Mỗi người chỉ có một cội nguồn, vì vậy chúng ta phải biết trân trọng, yêu quý tình cảm của gia đình, quê hương, bên cạnh đó cần phát huy những giá trị đẹp đẽ của quê hương, gia đình bởi đó chính là cội nguồn yêu thương của mỗi con người. - Nguồn cội của mỗi con người là gia đình và quê hương, rộng hơn nữa đó không chỉ là nơi ta sinh ra và lớn lên, mà đó còn là Tổ quốc. Chúng ta phải biết yêu quý, trân trọng để giúp cội nguồn ấy đẹp hơn trong mắt ta cũng như trong mắt mọi người. 4. Bài học nhận thức và hành động - Gia đình từ xưa đến nay vẫn luôn được coi là “chiếc nôi” của trẻ thơ. Ở nơi ấy có đầy ắp tình thương và niềm tin trao gửi. Ở nơi ấy, đứa trẻ được lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc, chở che. - Mỗi con người trong cuộc đời đều cần có nơi tìm về sau mỗi lần thất bại hay mỗi khi bị gục ngã để được chắp cánh thêm niềm tin, để tiếp tục sống và vươn lên – nơi ấy là gia đình! - Mỗi con người trong cuộc đời đều cần có nơi tìm về sau mỗi lần thất bại hay mỗi khi bị gục ngã để được chắp cánh thêm niềm tin, để tiếp tục sống và vươn lên. Nơi ấy là gia đình, là những người thân yêu. Ơi gia đình mến thương, hãy thực sự là chiếc nôi hạnh phúc để: “Vương vấn bước chân ta đi. Ấm áp trái tim quay Trang 3


về”, để nâng đỡ con trẻ vượt qua khó khăn, thử thách trên mỗi chặng đường đời. - Có thái độ phê phán trước những hành vi: phá hoại cơ sở vật chất. Những suy nghĩ chưa tốt về quê hương: chê quê hương nghèo khó, chê người quê lam lũ, lạc hậu, không muốn nhận quê hương mình… Câu 2: (5,0 điểm) 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận

C TI O

N

+ “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của những người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp” (Pautôpxki). Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Ông quan niệm: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật và đã nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo”. Với tùy bút Người lái đò sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối kì diệu giữa cái đẹp của ngôn từ với ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh dẫn đến vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc nhất là chất vàng mười nơi tâm hồn con người. - Dẫn ra vấn đề nghị luận

O D

U

+ Bàn về hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân có ý kiến cho rằng: “Đó là người lao động đầy trí dũng trên sông nước Đà giang”. Ý kiến khác lại khẳng định: “Đó là người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh”. Đó là hai vẻ đẹp nổi bật mang đặc điểm chung của cá tính Nguyễn Tuân.

PR

2. Thân bài

TU

2.1. Khái quát chung

G

U

YE

N

TH

AN H

- Nguyễn Tuân là nhà trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của nhà văn thường không được phát biểu một cách trực tiếp mà ẩn đằng sau những bức tranh thiên nhiên, những giá trị văn hóa cổ truyền. Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa và uyên bác. Thể hiện sự tài hoa, Nguyễn Tuân thường nhìn nhận và khám phá mọi sự vật, hiện tượng ở phương diện thẩm mĩ và miêu tả con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ. Thể hiện sự uyên bác, văn Nguyễn Tuân đầy ắp những hiểu biết phong phú, đa dạng về nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống từ các bộ môn nghệ thuật (hội họa, điện ảnh…) cho đến lịch sử, địa lí, quân sự, thể thao… Nguyễn Tuân còn là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng. Ông không thích những cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt cũng như không ưa mọi khuôn phép gò bó. Trái lại, nhà văn luôn có hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ, phi thường của tạo vật và con người. Với cá tính của mình, Nguyễn Tuân tìm đến với tùy bút như một lẽ tất yếu.

N

- Người lái đò sông Đà được trích trong Tùy bút sông Đà (1960). Đây là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc năm 1958. Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập tùy bút là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng. Viết về sông Đà nhà thơ muốn đề thơ, phổ nhạc vào sông nước quê hương. Cảm hứng sông Đà đã thành nghệ thuật, “thành một gợi cảm mênh mang” về sông quê, về con người Việt Nam. Và ông cũng là một “Đà giang độc bắc lưu” trên bình diện nghệ thuật. 2.2. Giải thích ý kiến - “Người lao động đầy trí dũng” – người lao động với những phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng đặc biệt là tài trí tuyệt vời và lòng dũng cảm vô song trong nghề lái đò vượt sông Đà hung dữ. Nguyễn Tuân là người tài hoa, uyên bác luôn tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm mĩ để từ đó say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống. Với người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân lại say mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo của con Trang 4


người và cuộc sống. Nguyễn Tuân có những cảm nhận về người lái đò mang nét độc đáo từ vẻ đẹp ngoại hình đến phẩm chất bên trong, không chỉ là người lao động khỏe khoắn từng trải nơi sông nước mà còn là một vị tướng tài ba trong những trận chiến với con nước hung dữ. - “Nghệ sĩ tài hoa” là khái niệm để ca ngợi những người làm trong ngành nghệ thuật có tài năng xuất chúng, có phẩm chất hơn người được xã hội công nhận và tôn vinh. Người lái đò được ca ngợi là “người nghệ sĩ tài hoa” bởi tài năng đã đạt tới trình độ thuần thục, điêu luyện trong nghề lái đò vượt thác. Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ để đối lập với những con người tầm thường, phàm tục. Với Nguyễn Tuân những con người bình thường khi thực hiện những công việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp của mình nếu đạt đến độ tinh xảo khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một người tài hoa. 2.3. Cảm nhận

C TI O

N

- Vẻ đẹp nghệ sĩ của ông lái đò không phải là một người lái đò thông thường mà là một nghệ sĩ trong nghệ thuật sông nước như một nhạc sĩ tài hoa chỉ huy dàn nhạc trên con thuyền để vượt qua bản trường ca sông nước ào ạt kia. Sự tài hoa đến từng động tác thuần thục của ông lái đò mà Nguyễn Tuân gọi đó là “tay lái ra hoa”:

O D

U

+ Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề cao cái đẹp thuần túy nhưng đó là cái đẹp của quá khứ. Ông tìm đến những con người tài hoa thiên về lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.

TU

PR

+ Sau cách mạng, Nguyễn Tuân không còn say sưa chắt chiu cái đẹp cho một thế giới nhỏ bé, tù túng, nhà văn cảm nhận được cái rộng rãi bao la của đất trời, cái nhìn của nhà văn trở nên đôn hậu hơn. Ông đi tìm cái đẹp của những người lao động bình thường vì vậy quan niệm về cái đẹp của ông bớt đi sự phù phiếm từng bước đến với cái đẹp chân chính tiến bộ.

TH

AN H

- Nguyễn Tuân đã không đặt cho nhân vật của mình một cái tên riêng mà gọi bằng một danh từ chung là: “người lái đò” hoặc “ông đò”. Từ một con người nhà văn muốn người đọc nghĩ đến rất nhiều người đang lặng lẽ âm thầm cống hiến trí tuệ và sức lực của mình cho đất nước.

YE

N

- Người lái đò có ngoại hình khá đặc biệt: thân hình “cao to, gọn quánh như chất sừng chất mun, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào như tiếng nước trước một ghềnh sông”. Nhà văn không chỉ miêu tả ngoại hình mà còn nhấn mạnh vào sự gắn bó tình yêu với nghề sông nước của con người ấy. Đó là một linh hồn muôn thưở của sông nước này.

N

G

U

- Người lái đò sông Đà là một con người giàu trải nghiệm. Đó là một tay đò lão luyện đã xuôi ngược trên sông Đà hơn một trăm lần rồi và chính tay ông giữ lái khoảng độ sáu chục lần. Ông hiểu sông Đà như hiểu chính mình, nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở. Ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá và “sông Đà như một trường thiên anh hùng mà ông đã thuộc từng dấu chấm câu, từng dấu chấm than và cả những đoạn xuống dòng”. Cuộc đời của người lái đò sông Đà cũng giống như một bản anh hùng ca hào hùng lãng mạn đến lạ kì. - Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, mỗi một hòn đá là một tên lính thủy hung tợn, tên nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm và sẵn sàng giao chiến. Cả một trận địa đá với những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm đã được bày ra để sẵn sàng dìm chết con thuyền. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp thành ba trùng vi nguy hiểm: + Trùng vi thứ nhất: sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa Trang 5


vào trận chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. + Trùng vây thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn… Dòng nước hùm beo hồng học tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận đánh giáp la cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sông nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thắng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh là thất vọng”. Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!

C TI O

N

+ Trùng vi thứ ba: “ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở giữa ngay bọn đá hậu vệ của con thác”. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải “phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác.

PR

O D

U

- Từ cuộc chiến đấu ác liệt với thác dữ sông Đà, từ sự bình dị của những con người lái đò sau chiến thắng (không lưu danh tên tuổi, chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua), có thể thấy Nguyễn Tuân đã khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của những người lao động bình thường, ầm thầm, giản dị nhưng đã và đang làm nên những kì tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ nơi ải nước sông Đà.

TU

2.4. Nhận xét và đánh giá

TH

AN H

- Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân là thế giới nhân vật của nghệ sĩ. Nghệ sĩ uống trà, nghệ sĩ đao phủ, nghệ sĩ tử tù, những anh bộ đội trực chiến giữa cánh rừng nở đầy hoa đào. Như vậy với Nguyễn Tuân người nghệ sĩ đâu phải chỉ ở những lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật mà còn ở những lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống.

YE

N

- Người lái đò điêu luyện, thuần thục đến tài tử trong nghề vượt thác. Ông xử lí các tình huống, những thách thức của thiên nhiên khéo léo và linh hoạt, mỗi động tác của người lái đò như một đường cọ trên bức tranh thiên nhiên sông nước, khi thì dũng mãnh và quyết đoán, khi thì mềm mại uyển chuyển.

N

G

U

- Người lái đò còn có một tâm hồn cao đẹp, phong thái ung dung của những đấng tài hoa tài tử. Sau cuộc vượt thác, “Sông nước Đà giang xèo xèo tan trong trí nhớ và không ai bàn thêm một lời nào về chuyện vừa qua nơi cửa ải nước. Họ chỉ bàn tán về cá dầm xanh, cá anh vũ và những ống cơm lam trong hang đá”. Người lái đò sông Đà coi việc đối mặt với sông nước hung bạo là chuyện thường tình, không có gì đáng nói, những hồi ức về sự hiểm nguy đều không có mà tất cả đều là sự lãng mạn ngọt ngào. Đó là khí chất nghệ sĩ ở mỗi con người bình thường luôn ung dung thanh thản sau những thác lũ cuộc đời, nó làm nên sự khác biệt với những người bình thường khác. - Có thể nói khả năng làm chủ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phi thường muốn “vẫy gió tuôn mưa”, “hô phong hoán vũ” để từ đó dựng cảnh cho người lái đò xuất hiện với tất cả sự tài hoa của người nghệ sĩ lái đò – một nhân vật đạt đến đỉnh cao của sự toàn mĩ trong công việc của mình. - Người lái đò trí dũng và tài hoa trên dòng sông hung bạo và trữ tình. Vẻ đẹp của những người lái đò – vẻ đẹp bình dị, thầm lặng nhưng đầy trí tuệ và sức mạnh, đầy ý chí và nghị lực, tài năng và tài hoa có khả năng chinh phục thiên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người dựng xây đất nước chính là “chất vàng mười” của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung trong thời kì mới. Trang 6


2.5. Liên hệ a. Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù - “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có” chứng minh cho sự thăng hoa của tài năng nghệ Huấn Cao, giúp nhân vật được tỏa sáng. Ở cảnh này Nguyễn Tuân đã gia công kĩ lưỡng bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập: ánh sáng – bóng tối, nhà tù – tự do, cao cả – tầm thường… tất cả đều chứng minh cái đẹp đã thống trị trong cảnh huống này. - Một cảnh tượng giàu ý nghĩa bởi mọi ranh giới và quyền lực của sự tăm tối bị xóa mờ, thay vào đó là cái đẹp lên ngôi. Nó không còn là hình ảnh của người tử tù, thầy thơ lại, quản ngục mà chỉ còn lại những người bạn tri âm tri kỉ được tận hiến trong không gian nghệ thuật.

N

- Cảnh cho chữ của Nguyễn Tuân khẳng định được giá trị bất tận của cái đẹp. nó không những soi sáng cho con người trong thiên lương mà còn cảm hóa và thanh lọc tâm hồn con người đến đời sống văn minh, trong sạch hơn. Rõ ràng, cảnh cho chữ diễn ra trong nhà tù, nhưng mọi rào cản của tù tội đã biến mất.

U

C TI O

- Kết thúc cảnh cho chữ Huấn Cao đã khuyên quản ngục chuyển chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững và quản ngục đã bái lĩnh trong niềm xúc động nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Điều đó chứng minh cho giá trị của nghệ thuật: cảm hóa và hướng thiện cho con người.

PR

O D

 Bằng đam mê và khát vọng săn tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã khẳng định được vị thế của nó đối với con người và xã hội. Tuy nó không có sức mạnh, không có quyền lực nhưng nó lại mang tính thống trị, có thể hóa giải mọi khổ đau, tăm tối trong cuộc đời này. b. Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí

AN H

TU

- Đọc Tiểu Thanh kí là bài thơ gửi gắm tâm sự đồng cảm dành cho những người phụ nữ có tài, có sắc nhưng có số phận đau khổ. Cùng với Tiểu Thanh, đó là Dương Quý Phi, là nàng Đạm Tiên, là Thúy Kiều, là người phụ nữ gảy đàn ở Thăng Long…

N

TH

- Bốn câu đầu là tiếng khóc người, thương người, là lệ dành cho Tiểu Thanh. Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh trong một hoàn cảnh có phần giống Kiều đến với Đạm Tiên. Nấm mồ Đạm Tiên: “Sè sè nấm đất bên đường/ Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” gợi lên ở Kiều bao mối thương tâm. Cái gò hoang nơi chôn Tiểu Thanh gợi lên ở Nguyễn Du bao điều thổn thức.

N

G

U

YE

- Thế giới của văn chương và người đời hoàn toàn khác nhau, không thể nào hàn gắn cho văn chương cùng một số mệnh với người làm ra nó. Đó là một điều tất yếu xưa nay. Thế mà nàng Tiểu Thanh tội nghiệp đến cả những tác phẩm của mình cũng bị người đời ghen ghét đốt đi, tàn nhẫn và lạnh lùng đến vô cùng. Còn gì đau đớn hơn thế nữa, xót xa hơn thế nữa. Nguyễn Du đã khóc cho nàng và bật lên những tiếng nói căm hờn. - Nguyễn Du tự coi mình là người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Như vậy là bằng chính sự thể nghiệm của bản thân, Tố Như thấu hiểu nỗi đau oan khốc của Tiểu Thanh và ngược lại từ Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã “một lời là một vận vào” bản thân để tự hận, tự thương. - Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du “thổn thức bên song” trước “mảnh giấy tàn”. Còn với Nguyễn Du, ba trăm năm sau liệu có ai “khóc Tố Như chăng”? “Bất tri” – chưa biết được.  Có thể nói Nguyễn Du là nhà thơ thuộc thế hệ những nhà đầu tiên của Việt Nam nghĩ về thân phận những người nghệ sĩ trong xã hội phong kiến. Ông bắt đầu quan tâm đến con người ở phương diện tinh thần, con người với tư cách là chủ nhân của những giá trị tinh thần như thi ca, âm nhạc, hội họa… Chia sẻ thân phận bất hạnh của họ, Nguyễn Du thực chất đã đòi xã hội phải biết trân trọng tài năng, trân trọng những người làm ra các giá trị văn hóa tinh thần. 2.6. Đánh giá và nhận xét Trang 7


- Cả ba đoạn trích và tác phẩm đều đề cập đến vẻ đẹp và tài năng của những người nghệ sĩ – những con người đem cái tài của mình để điểm tô cho cuộc đời. - Ở ba đoạn trích và tác phẩm ca ngợi cái tài và cái tâm của những người nghệ sĩ nhưng lại có sự khác nhau về cách nhìn: + Nhân vật ông lái đò trong Người lái đò sông Đà là một anh hùng sông nước, một chiến binh quả cảm giữa cuộc sống bình dị, đời thường là “chất vàng mười” đã qua thử lửa của con người vùng đất Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đã chắt lọc và nâng niu trên trang viết cuộc đời. + Trong cảnh cho chữ ở truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân tìm cái đẹp vang bóng một thời đã lùi vào quá khứ, ở các bậc siêu phàm – tài nghệ của Huấn Cao là những “bông hoa cuối mùa còn vương xót lại của một thời kì huy hoàng – một quá khứ vàng son trong lịch sử dân tộc.”.

C TI O

N

+ Đọc Tiểu Thanh kí – tiếng khóc của người đa tình Nguyễn Du là tiếng thơ của một tấm lòng nhân ái mênh mông không biên giới. Suốt đời ông khóc cùng người đời, nói lên tiếng nói cảm thương vô hạn cùng thân phận của người đời bằng trái tim xót đau và nhạy cảm. Và trong ông, cái day dứt ấy không bao giờ nguôi ngoai vẫn cứ còn bật lên tiếng khóc thầm, lặng lẽ ủ kín trong nỗi đau đớn, khắc khoải của nhân gian dài dặc.

O D

U

- Nguyễn Tuân và Nguyễn Du – hai người nghệ sĩ sống cách nhau hơn hai thế kỉ nhưng ở họ có chung một điểm gặp gỡ đó là tiếng nói tri âm với những con người có tâm hồn nghệ sĩ. 3. Kết bài

TU

PR

- Bằng ngòi bút tài hoa của mình, tác giả Nguyễn Tuân và Nguyễn Du đã mang đến cho tác phẩm Người lái đò sông Đà, Chữ người tử tù và Đọc Tiểu Thanh kí một nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt qua hình tượng nhân vật ông lái đò; nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ, nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn. Vẻ đẹp ấy của các nhân vật đã tôn thêm giá trị của tác phẩm.

N

G

U

YE

N

TH

AN H

- Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân và nhà thơ Nguyễn Du – người đã “cắm một cây sào sáng tạo” để đưa tác phẩm Người lái đò sông Đà, Chữ người tử tù và Đọc Tiểu Thanh kí – tác phẩm văn học của lòng nhân, của đức tin và của giá trị sống về phía những con người chân – thiện – mĩ.

Trang 8


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.