MỤC LỤC BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN .................. 1 1. Lời giới thiệu.................................................................................................. 1 2. Tên sáng kiến. ................................................................................................ 2 3. Tác giả sáng kiến ............................................................................................ 2 4. Chủ đầu tư: Nguyễn Thị Thơ. ......................................................................... 2 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:........................................................................... 2 6. Ngày sáng kiến được áp dụng: 18/9/2017 ....................................................... 3 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. ......................................................................... 3 A.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. ................................................................... 3 I. Cơ sở lí luận. ................................................................................................... 3 III. Mô tả các giải pháp nghiên cứu: ................................................................... 8 B. Tổ chức nghiên cứu: ...................................................................................... 9 I. Hệ thống kiến thức cơ bản ................................................................................. 9 II. Các dạng đề và gợi ý lời giải.......................................................................... 9 8. Những thông tin cần được bảo mật: .............................................................. 87 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến................................................ 87 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến. ........................................ 88 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu .............................................................................................. 89 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 91
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Bộ sách giáo khoa Ngữ văn phân ban được thực hiện trên toàn quốc từ năm học 2006 - 2007. Với quan điểm tích hợp, bộ sách này được sắp xếp theo tiêu chí giai đoạn, loại thể. Phần truyện hiện đại Việt Nam được đưa vào giảng dạy ở học kì I lớp 11 và học kì II lớp 12. Đồng hành với việc thực thi sách giáo khoa mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo bồi dưỡng cho giáo viên Chuẩn kiến thức - kĩ năng, giới thiệu Cấu trúc đề thi THPTQG môn Ngữ văn và hướng dẫn dạy học tích hợp, dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh kết hợp đổi mới kiểm tra đánh giá. Đây là định hướng cho mỗi giáo viên đứng lớp bám sát chương trình, từng bước thay đổi từ đó nâng cao hiệu quả giảng dạy. Để dạy học các tác phẩm truyện ngắn hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 11, 12, sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức - kĩ năng cùng hàng loạt sách tham khảo khác đều hướng dẫn phương pháp dạy cho từng truyện. Có nhiều bài học trong chương trình cung cấp cho các em đặc điểm của truyện và cách chiếm lĩnh tác phẩm tuyện như: Đọc truyện (Lớp 11 Nâng cao), Phương pháp đọc truyện (Tự chọn nâng cao lớp 11); Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi (Lớp 12). Song trên thực tế, để phân loại thí sinh thi THPTQG đề Ngữ văn thường yêu cầu cao khả năng tổng hợp kiến thức và sáng tạo nên những kiến thức đó chưa đủ giúp các em giải quyết linh hoạt những đề Ngữ văn yêu cầu cao về kiến thức, kĩ năng. Để giải quyết một đề Ngữ văn có liên quan đến tác phẩm truyện, ngoài kiến thức về tác phẩm học sinh cần nắm chắc kiến thức về: tiếp nhận văn học, giai đoạn văn học, đặc trưng thể loại truyện và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Trong khi đó, các tài liệu trên chỉ có tính chất giới thiệu tản mạn, chưa tập trung vì thế cũng chưa giúp học sinh có cái nhìn khái quát nhất để giải quyết tốt các đề văn có liên quan các vấn đề cơ bản trên. Đây là lí do khiến tôi trăn trở và nghiên cứu đề tài “Những vấn cơ bản khi luyện thi THPT quốc gia phần truyện ngắn hiện đại Việt Nam” Năm học 2017 – 2018, Bộ Giáo dục & Đào tạo tiếp tục đổi mới hướng tới sự hoàn thiện trong kì thi THPT Quốc gia. Bám sát tình hình thực tiễn đó, Sở Giáo dục Vĩnh Phúc đã tổ chức rất nhiều đợt tập huấn chuyên môn, các Hội thảo chuyên đề ôn thi THPT Quốc gia, thi khảo sát giáo viên,...nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ nhà giáo.Và chỉ đạo cho các trường tiển khai thực hiện công tác ôn thi THPT Quốc gia một cách hiệu quả. 1
Thực hiện nghiêm túc kế hoạch của Sở, BGH trường THPT Bến Tre đã xây dựng kế hoạch, giám sát thực hiện và luôn tạo điều kiện để các tổ chuyên môn ứng dụng những sáng kiến kinh nghiệm, chuyên đề chuyên môn thiết thực trong việc luyện thi THPT Quốc gia. Từ đầu năm học đến nay, tổ Văn – Ngoại ngữ đã phối hợp thực nghiệm giảng dạy một số chuyên đề luyện thi THPT Quốc gia như: Kĩ năng làm văn nghị luận xã, Kĩ năng làm bài Đọc - hiểu ; Những vấn đề cơ bản khi luyện thi THPT Quốc gia phần thơ Việt Nam 1945 1975;…Chuyên đề này, chúng tôi xin được trình bày sự cần thiết của việc tích hợp các kiến thức về đặc trưng thể loại truyện ngắn cách đọc - hiểu tác phẩm truyện, giai đoạn văn học và phong cách nghệ thuật của nhà văn trong việc tìm ra phương pháp phân tích, cảm thụ, khai thác các góc độ khác nhau trong phần các tác phẩm truyện ngắn hiện đại Việt Nam lớp 11,12; gợi ý giải một số đề cụ thể, thường gặp trong kì thi THPTQG hiện nay. Quá trình thực hiện và cải tiến chuyên đề, tổ chúng tôi nhận thấy: chuyên đề đã góp phần không nhỏ thay đổi thực trạng dạy học môn Ngữ văn của nhà trường. Biết rằng kết quả bài thi là tổng hợp của nhiều yếu tố, nhưng chúng tôi khẳng định rằng: những kiến thức mà chúng tôi truyền đạt tới học sinh từ chuyên đề này có vai trò không nhỏ trong việc nâng cao điểm số cũng như làm thay đổi ở các em những quan niệm chưa tích cực về môn Ngữ văn. Đây chính là lí do tôi xin mạo muội trình bày chuyên đề Những vấn đề cơ bản khi luyện thi THPT quốc gia phần truyện hiện đại Việt Nam, với mong muốn sẽ góp thêm những kinh nghiệm luyện thi cho đồng nghiệp tỉnh nhà, giúp họ nâng cao hơn nữa chất lượng mỗi giờ dạy, trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết để các em tự tin bước vào kì thi THPTQG. 2. Tên sáng kiến: "Những vấn đề cơ bản khi luyện thi THPT Quốc gia phần truyện ngắn hiện đại Việt Nam". 3. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: Nguyễn Thị Thơ. - Địa chỉ: Trường THPT Bến Tre, Phúc Yên, Vĩnh Phúc. - Số điện thoại: 0972373335; - Email: nguyenthitho.gvbentre@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư: Nguyễn Thị Thơ. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: - Lĩnh vực áp dụng áp dụng sáng kiến: Ngữ văn THPT.
2
- Vấn đề sáng kiến giải quyết: “Những vấn đề cơ bản khi luyện thi THPT Quốc gia phần truyện ngắn hiện đại Việt Nam” 6. Ngày sáng kiến được áp dụng: 18/9/2017 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. 7.1 Nội dung sáng kiến. A.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. I. Cơ sở lí luận. 1. Khái niệm về truyện ngắn. Là một tác phẩm văn xuôi tự sự, có khuôn khổ ngắn, ít nhân vật, ít sự kiện, nhà văn thường tập trung vào những tình huống đặc biệt để làm nên một lát cắt của cuộc sống, qua đó khám phá, phát hiện, giải mã cuộc sống. 2. Đặc trưng của truyện ngắn. a. Truyện mang tính chất khách quan trong sự phản ánh. - Con người, sự kiện được miêu tả và kể lại bởi một người kể chuyện nào đó. - Nếu thơ in đậm dấu ấn chủ quan thì truyện in đậm dấu ấn khách quan. - Dù kể chuyện đời hay kể chuyện mình, truyện báo giờ cũng tôn trọng sự thật. Bởi trên cái nền sự thật ấy mới có thể hư cấu tạo nhân vật điển hình. b. Cốt truyện được tổ chức một cách nghệ thuật Cốt truyện bao gồm nhân vật, sự kiện và mối quan hệ giữa các tình tiết và sự kiện. Tất cả tạo ra sự vận động của hiện thực được phản ánh, góp phần khắc họa tính cách nhân vật, số phận từng nhân vật. Nhân vật được miêu tả đặt trong quan hệ với hoàn cảnh, với môi trường xung quanh. Vì thế truyện không bị hạn chế về không gian, thời gian. c. Ngôn ngữ truyện Phong phú. Có ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật. Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại có ngôn ngữ độc thoại. Ngôn ngữ truyện gần với dời sống. 3. Yêu cầu và phương pháp đọc - hiểu tác phẩm truyện ngắn. a. Yêu cầu: Đọc - hiểu tác phẩm văn học là một công việc khó khăn bởi phải huy động vốn kiến thức về nhiều mặt ( lịch sử xã hội, lịch sử văn học, xã hội học, tâm lí học…) Nhưng có kiến thức chưa đủ, còn phải có cả khả năng cảm thụ, tức là cần có sự nhạy bén về tình cảm, cảm xúc trước cái đẹp văn chương. Ngoài ra còn phải nắm được phương pháp tiếp cận tác phẩm, khám phá các 3
khía cạnh khác nhau của tác phẩm. Đối với một truyện ngắn, khi khai thác cần chú ý những vấn đề cơ bản sau: * Phong cách tác giả - Phong cách là biểu hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ từng chưa có về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân người sáng tạo. - Phong cách tác giả không phải qua một tác phẩm là có thể nhận thấy ngay, vì thế phần tiểu dẫn cho một văn bản văn học trong sách giáo khoa bao giờ cũng giới thiệu phong cách tác giả của nó. Người học khi khai thác tác phẩm cần nắm được điều này để soi chiếu, đánh giá sâu nội dung, nghệ thuật, vị trí của tác phẩm, nét độc đáo của nó so với những tác phẩm khác. * Bối cảnh truyện - Bối cảnh truyện bao giờ cũng là yếu tố có tầm quan trọng bậc nhất trong việc hiểu đúng tư tưởng tác phẩm. - Hiểu bối cảnh truyện, người tìm hiểu truyện dễ dàng phân tích các yếu tố nội dung tác phẩm, tránh nhầm lẫn trước những vấn đề có nhiều cách hiểu khác nhau. - Bối cảnh truyện bao giờ cũng có yếu tố liên quan đến hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Hiểu được nó, ta sẽ đánh giá chính xác vai trò, vị trí, ý nghĩa của tác phẩm. * Các yếu tố nội dung tác phẩm - Chủ đề: Vấn đề cơ bản được nêu ra trong văn bản. Ví dụ Chí Phèo – Nam Cao: Sự mâu thuẫn giữa nông dân với cường hào. - Đề tài: Đối tượng để miêu tả, thể hiện trong tác phẩm. Nói cách khác nó là lĩnh vực đời sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình giá và thể hiện trong văn bản. Ví dụ Tắt đèn – Ngô Tất Tố: Cuộc sống bi thảm của người dân Việt Nam trước CMT8/1945, trong những ngày sưu thuế. - Nội dung cảm hứng: Niềm hứng khởi của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật, sự thôi thúc mạnh mẽ từ cả tâm hồn và trí óc khi hướng tới một đối tượng thẩm mỹ nào đó. - Giá trị tư tưởng: Tư tưởng là ý nghĩ và quan điểm chung của tác giả với hiện thực khách quan. Trong một tác phẩm truyện, giá trị tư tưởng bao giờ cũng quy về tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo.
4
* Các yếu tố nghệ thuật chính Một truyện ngắn, để truyền tải tốt nội dung, người viết luôn phải quan tâm đến các yếu tố nghệ thuật, nghệ thuật có sáng tạo, có độc đáo mới phát huy hết giá trị nội dung, mới làm bật lên tư tưởng tình cảm của người cầm bút. Người học bắt buộc phải nắm kĩ các yếu tố nghệ thuật của một tác phẩm truyện. Bao gồm các yếu tố chính sau: - Nhan đề: Các nhà thơ, nhà văn khi tạo ra tác phẩm đều có ý thức cao trong việc chọn tên gọi cho đứa con tinh thần của mình. Nhan đề thường có vai trò thâu tóm nội dung tư tưởng của tác phẩm, hơn thế nữa nhiều khi nó chính là một yếu tố nghệ thuật làm nên thành công của tác phẩm. - Cách vào truyện (cách mở đầu) + Gây ấn tượng và cuốn hút người đọc đầu tiên phải là nhan đề, nhưng sau nữa phải kể đến là cách vào truyện (cách mở đầu). + Cách mở đầu của truyện ngắn thao túng toàn bộ định hướng phát triển của mạch truyện, nó chất chứa và châm ngòi cho cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Khai mở cảm xúc, mạch truyện. Một mở đầu hay phải ấn tượng, lạ, trở thành điểm tựa cho sự sáng tạo của nhà văn và tạo sức hấp dẫn với người đọc. - Cốt truyện: Là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm. - Nhân vật: Là đối tượng được miêu tả (thường là con người) trong tác phẩm. Đây là yếu tố trung tâm, nơi người nghệ sĩ gửi gắm quan điểm, suy nghĩ của mình về cuộc sống. Qua nhân vật ta dễ dàng nhận ra phong cách, tài năng nghệ thuật của tác giả. - Tình huống truyện + Tình huống truyện là tình thế xảy ra truyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự việc diễn ra rất đậm đặc, là khoảnh khắc chứa đựng cả đời người. Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh và môi trường sống. Qua tình huống nhà văn bộc lộ tâm trạng, tính cách, thân phận của nhân vật… Tình huống góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ một cách sâu sắc. + Có ba loại tình huống: Tình huống hành động: Đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt mà chỉ có thể giải quyết bằng hành động
5
Tình huống tâm trạng: Đặt nhân vật vào tình huống biểu lộ chủ yếu thế gới nội tâm, tạo nên cho truyện ngắn kiểu nhân vật con người tình cảm, làm nên tác phẩm truyện ngắn trữ tình giàu chất thơ. Tình huống nhận thức: Là những sự kiện đời sống mà ở đó nhân vật được đẩy tới một tình thế bất ngờ, đối mặt với bài học nhận thức để làm bật lên vấn đề nhân sinh, nhận thức cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. - Cách kết thúc truyện: Kết thúc còn gọi là mở nút Một trong những thành phần của cốt truyện, thường tiếp theo ngay sau đỉnh điểm, đảm nhiệm chức năng thể hiện tình trạng cuối cùng của xung đột được miêu tả trong tác phẩm. Một kết thúc truyện hay là vừa làm nhiệm vụ kết luận, vừa giải quyết vấn đề mâu thuẫn đường dây, vừa là hình ảnh cuối cùng đọng lại trong tâm trí người đọc, vừa phải gây được ấn tượng sâu sắc. Cho nên, nếu tác giả cài được một ý triết lý tích cực rút ra từ nội dung câu chuyện, truyện sẽ được nâng lên bất ngờ. - Cách sử dụng ngôn ngữ: Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của tác phẩm văn học. Ngôn ngữ trong văn học giống như màu sắc trong hội họa, âm thanh trong âm nhạc. Trong sự lao động của nhà văn có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của tác phẩm một phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ của tác giả. b. Phương pháp Đọc – hiểu tác phẩm truyện - Chúng ta biết rằng một tác phẩm truyện là công trình nghệ thuật mà nhà văn mất bao công sức, bao trải nghiệm để sáng tạo nên. Nó thật sự có giá trị khi mang ý nghĩa đời sống, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm tư tình cảm, nhận thức của con người. Khi đọc hiểu tác phẩm truyện, chúng ta cần tiến hành theo các bước sau đây: + Tìm hiểu xuất xứ: Đó là bối cảnh xã hội , hoàn cảnh sáng tác mà truyện ra đời để có cơ sở cảm nhận các tầng nghĩa của tác phẩm. + Phân tích diễn biến của cốt truyện . + Phân tích nhân vật. + Giá trị của tác phẩm: về các phương diện nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ. Tác phẩm văn học có giá trị bao giờ cũng khảng định những tư tưởng sâu sắc, mới mẻ về cuộc sống qua sức mạnh tryền cảm về nghệ thuật. - Giá trị và sức sống của tác phẩm truyện phụ thuộc rất nhiều vào khả năng cảm thụ của người tiếp nhận. Chính bạn đọc sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm. Vì thế, mỗi học sinh phải thấy được vai trò quan trọng của mình – trong tư cách người tiếp nhận tác phẩm truyện. Trong dạy học tác phẩm văn học nói 6
chung cũng như tác phẩm truyện ngắn nói riêng, quá trình tiếp nhận tác phẩm trở thành quá trình "đồng sáng tạo". 4. Cần nhìn nhận các tác phẩm truyện ngắn hiện đại được tìm hiểu trong chuyên đề trong sự gắn bó với các đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam: a. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945: - Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa. - Văn học hình thành hai bộ phận phân hóa thành nhiều dòng vừa đấu tranh vừa bổ sung cho nhau cùng phát triển. - Văn học phát triển với nhịp độ hết sức nhanh chóng. b. Văn học Việt nam từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến 1975 - Nền văn học vận động chủ yếu theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. - Nền văn học hướng về đại chúng. - Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. c. Văn học Việt Nam 1975 – hết thế kỉ XX Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu săc, có tính hướng nội, quan tâm nhiều hơn đến số phận của cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường, đồng thời có nhiều đổi mới, tìm tòi về nghệ thuật. II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu: 1. Thuận lợi: - Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và học của Ngành và của toàn xã hội. - Yêu cầu của mục tiêu bài học trong chuẩn kiến thức, kĩ năng của mỗi bài dạy cụ thể của Bộ Giáo Dục và Đào tạo. - Gợi ý hướng dẫn giảng dạy theo thể loại từng bài của sách giáo viên. - Kinh nghiệm giảng dạy và lòng yêu nghề của giáo viên. - Học sinh phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong việc tìm hiểu, khám phá tác giả, tác phẩm văn học. 2. Khó khăn: - Phương pháp này khó đạt hiệu quả cao nếu học sinh không tích cực chủ 7
động, chuẩn bị bài trước khi lên lớp. (Tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở. Người học chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh gặp rất nhiều khó khăn). - Năng lực đọc – hiểu của học sinh còn hạn chế, văn hóa đọc chưa tự giác. - Xu thế xã hội, tâm lí học sinh chú trọng các môn khoa học tự nhiên hơn là các môn khoa học xã hội. - Tiếp cận và khai thác tác phẩm dựa vào đặc trưng thể loại mà kiến thức lí luận của học sinh còn hạn chế. III. Mô tả các giải pháp nghiên cứu: - Tổ chức ôn luyện hệ thống kiến thức cơ bản cần sử dụng trong chuyên đề - Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản, khám phá tác phẩm đi từ kiến thức cơ bản đến kiến thức nâng cao. - Hệ thống hóa các mức độ kiến thức kiểm tra, hệ thống câu hỏi, đề kiểm tra (bám sát cấu trúc đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo) về tác phẩm truyện ngắn hiện đại Việt Nam. - Hướng dẫn giải các đề cụ thể. - Phương pháp thảo luận nhóm, đàm thoại: Trong giờ học chuyên đề, giáo viên cho học sinh tự giải quyết vấn đề qua thảo luận nhóm. Cuối cùng, giáo viên nhận xét và kết luận. Như thế, học sinh sẽ phải tư duy và chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức. - Phương pháp thực hành: Giáo viên cần phải cho học sinh viết bài chuyên đề như cấu trúc đề thi THPTQG theo định kì (có báo trước) và không theo định kì (bất chợt), chấm chữa bài và uốn nắn những chỗ còn chưa đạt trong bài viết của học sinh. Khuyến khích nêu gương những học sinh có bài viết tốt, khen ngợi kịp thời những học sinh có biểu hiện tiến bộ từ đó thổi bùng lên ở mỗi em ngọn lửa đam mê, tình yêu văn chương. - Phương pháp thống kê, phân tích dữ liệu để đánh giá mức độ nhận thức của học sinh từ đó điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với tình hình thực tế. 8
B. Tổ chức nghiên cứu: I. Hệ thống kiến thức cơ bản 1. Những hiểu biết về tác giả - Cuộc đời. - Sự nghiệp sáng tác văn học. - Phong cách nghệ thuật. 2. Những hiểu biết về tác phẩm. - Hoàn cảnh sáng tác - Xuất xứ. - Giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. II. Các dạng đề và gợi ý lời giải - Thực hiện việc đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập theo hướng đánh giá năng lực học sinh ở các mức độ: thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao. Cụ thể là tập trung vào đánh giá hai kĩ năng quan trọng: kĩ năng đọc - hiểu văn bản và kĩ năng viết văn bản của học sinh - Mỗi một văn bản truyện trong chương trình Ngữ văn lớp 11, lớp 12 ( theo giới hạn chương trình của bộ GD & ĐT) đều có thể có mặt trong cấu trúc đề thi THPT Quốc gia. + Dạng câu hỏi kiểm tra phần đọc hiểu ( 3 điểm) + Dạng câu hỏi kiểm tra kĩ năng viết văn bản nghị luận văn học( 5 điểm). Như vậy, mỗi một văn bản có thể rơi vào một trong hai dạng câu hỏi của đề thi hoặc cả hai dạng. - Nắm vững kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm, đặc trưng thể loại kiến thức lí luận, thành thạo các kĩ năng: đọc - hiểu văn bản, kĩ năng làm văn nghị luận học sinh hoàn toàn có thể làm bài thi đạt kết quả tốt. 1. Dạng câu hỏi đọc - hiểu ( 3 điểm ). a. Cách thức ôn tập, kiểm tra - Ở phần đọc hiểu về kiến thức lí thuyết chủ yếu là kiến thức tiếng Việt: Từ ngữ, câu, văn bản (các biện pháp tu từ, ý nghĩa của từ ngữ, câu thơ,hình ảnh; phương thức biểu đạt, các phép liên kết, thao tác lập luận, phong cách ngôn ngữ; thể thơ,… trong một đoạn văn/thơ cho sẵn).
9
- Để làm tốt phần Đọc - hiểu, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững các kiến thức lí thuyết trên và xây dựng các loại câu hỏi tập trung vào một số khía cạnh sau: + Nhận diện thể loại/ phương thức biểu đạt/ phong cách ngôn ngữ vb ? + Chỉ ra chi tiết/ hình ảnh/ biện pháp tu từ/ thông tin nổi bật trong văn bản. + Chỉ ra cách thức liên kết của văn bản/ các thao tác lập luận, ... + Khái quát chủ đề/ nội dung chính/ vấn đề chính mà văn bản đề cập. + Nêu cách hiểu về một hoặc một số câu trong văn bản. + Hiểu được quan điểm,/ tư tưởng của tác giả + Nhận xét về một giá trị nội dung/ nghệ thuật của đoạn văn. + Rút ra bài học về tư tưởng/ nhận thức. + Rút ra thông điệp cho bản thân. b. Luyện đề Đề 1: Đọc đoạn văn và trả lời các câu hỏi sau: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. (“Hai đứa trẻ” – Thạch Lam, SGK Ngữ văn 11, tập 1, NXB GD 2013) a. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn b. Nội dung chủ yếu của đoạn văn là gì? c. Nêu hiệu quả của biện pháp tu từ chính sử dụng trong đoạn văn . Đáp án: a. Những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn văn là: tự sự, miêu tả b. Nội dung chính của đoạn văn là: tả khung cảnh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tàn c. Thủ pháp nghệ thuật: so sánh “phương tây đỏ rực như lửa cháy”; “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Tác dụng nhằm làm nổi bật nét đặc trưng riêng biệt của khung cảnh thiên nhiên: cảnh rực rỡ, sinh động, … Đề 2: Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế 10
cũng chắng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “ Chắc nó chừa mình ra!” không ai lên tiếng cả .Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn . nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại không ai biết… Gợi ý 1. Nêu xuất xứ và nội dung cơ bản của đoạn trích? - Đây là đoạn mở đầu truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao - Đoạn trích miêu tả cảnh Chí Phèo uống rượu say và vừa đi vừa chửi giữa sự thờ ơ của tất cả mọi người. 2. Chỉ rõ những tính chất tiếng chửi của Chí Phèo? Những tiếng chửi ấy cho thấy bi kịch gì của Chí Phèo? - Những tiếng chửi của Chí Phèo vu vơ, uất ức, hắn chửi từ trời đến đời, từ làng Vũ Đại đến những người không chửi nhau với hắn…hắn chửi tất cả mà chẳng chúng vào ai. Bởi Chí Phèo không biết ai làm hắn khổ, còn cả làng Vũ Đại ai cũng nghĩ mình vô can trong bi kịch của Chí. - Những tiếng chửi vu vơ, phấn uất ấy cho thấy Chí mơ hồ cảm nhận bi kịch đau khổ của một kẻ lạc loài, một kẻ hoàn toàn bị gạt bỏ ra bên lề cuộc sống bình dị của dân làng, hòan toàn đứng ngoài xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hình như dưới đáy cùng của cơn say triền miên u tối chí vẫn thèm nghe người ta nói với mình, cũng tức là công nhận sự tồn tại của mình trong cộng đồng loài người, dẫu sự công nhận chỉ bằng tiếng chửi, nhưng cả làng Vũ Đại, cả xã hội lòai người kiên quyết từ bỏ, tẩy chay Chí. 3. Anh/ chị có thể giải thích để trả lời giúp Chí Phèo câu hỏi: Ai đẻ ra Chí Phèo ? - Người mẹ khốn khổ bất hạnh nào đó chỉ đẻ ra một hài nhi bị bỏ rơi trong lò gạch cũ; những người dân làng Vũ Đại nhân hậu đã cưu mang, nuôi lớn và tạo ra một anh Chí nghèo khổ nhưng lương thiện. - Nhà văn đã cho thấy, chính xã hội thực dân nửa phong kiến trước 1945 đã đẻ ra Chí Phèo khi hủy hoại phần thiên lương, tước đoạt vĩnh viễn quyền làm người của Chí. Cụ thể, nhà tù thực dân cùng những thủ đoạn áp bức tàn bạo của bọn cường hào, ác bá ở nông thôn Việt nam trước Cách mạng đã đẩy 11
những người nông dân lương thiện như Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo,…vào con đường tha hóa lưu manh, đó chính là những kẻ đã đẻ ra Chí Phèo, đã hủy hoại nhân hình để Chí trở thành một con vật lại, hủy hoại nhân tính để Chí trở thành con quỉ dữ. Đề 3: Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới. Trong rừng ít có loài cây sinh sôi nảy nở khỏe như vây. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây hâm ánh sáng mặt trời đến thế.nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thú ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây non vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế hai, ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng… (Trích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành) Gợi ý 1. Nội dung của đoạn văn trên nói về vấn đề gì? Đặt tên cho đoạn văn. - Nội dung văn bản trên nói về đặc tính của cây xà nu: + Là loài cây ham ánh sáng mặt trời, sinh sôi nảy nở rất nhanh và khỏe… + Khi bị đạn đại bác bắn, cây xà nu bị chặt đứt ngâng thân, đổ ào ào như trận bão, cây chết. Nhưng một số cây khác vết thương chóng lành, vượt lên trên, cạnh một cây ngã gục, có bốn, năm cây con mọc lên… - Đặt tên cho văn bản: Sức sống mãnh liệt của cây xà nu. 2. Chỉ ra các biện pháp tu từ trong đoạn văn trên và tác dụng của chúng. - Các biện pháp tu từ: + So sánh: Nhưng cũng có những cây vượt lên được …cường tráng. + Nhân hóa: Cứ thế hai, ba năm nay…che chở cho làng… - Tác dụng: miêu tả sinh động đặc tính của cây xà nu; nhấn mạnh ý nghĩa biểu trưng của cây xà nu: gắn bó mật thiết và che chở, bảo vệ cho người dân xô Man, Tây nuyên trong kháng chiến chống mĩ. 12
Đề 4: Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi cho dưới: Tnú không cứu được vợ con. Tối đó Mai chết. Còn đứa con thì đã chết rồi.Thằng lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã xuống, không kịp che cho nó. Nhớ không, Tnú, mày cũng không cứu được vợ mày. Còn mày thì bị chúng nó bắt mày trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại. Còn tau thì lúc đó tau đứng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây rừng. Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng, tau đi tìm bọn thanh niên. Bọn thanh niên thì cũng đã đi vào rừng, chúng nó đi tìm giáo mác. Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rôì, bay còn sống phải nói cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!... (Trích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành) Gợi ý a. Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn văn. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. b. Câu nói “ chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” có ý nghĩa gì ? - Câu nói của già làng Mết là câu nói được rút ra từ cuộc đời bi tráng của Tnú và thực tế đấu tranh của đồng bào Xô man nói riêng và dân tộc tây nguyên nói chung. Giặc đã dùng vũ khí để đàn áp nhân dân ta thì ta phải dùng vũ khí để đáp trả chúng. - Thực tế, khi chưa cầm vũ khí đánh giặc, dân làng Xô Man chịu nhiều mất mát: anh Xút bị treo cổ, bà Nhan bị chặt đầu, mẹ con Mai bị giết bằng trận mưa roi sắt, Tnú bị đốt mười đầu ngón tay…Bởi vậy con đường cầm vũ khí để đáp trả kẻ thù là tất yếu. 2. Dạng đề nghị luận văn học ( 5,0 điểm ) Để làm tốt các bài văn nghị luận văn học, học sinh cần biết vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để tạo lập văn bản văn học theo hướng mở (đánh giá năng lực học sinh ) và tích hợp trong môn và liên môn, trong đề thi THPT quốc gia hiện nay , cần tập trung vào một số khía cạnh sau: - Kiến thức: nắm vững các kiến thức văn học phần truyện ngắn hiện đại Việt Nam( tác giả, tác phẩm,...); kiến thức về lí thuyết làm văn nghị luận văn học. - Kĩ năng: biết cách làm văn nghị luận văn học: + Nghị luận về một vấn đề nội dung/nghệ thuật của tác phẩm truyện + Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi. 13
+ Nghị luận về một (hoặc hai) ý kiến bàn về văn học ( truyện ngắn) + Nghị luận liên hệ, so sánh ,... 2.1 Giá trị nội dung của tác phẩm. 2.1.1. Giá trị hiện thực của tác phẩm. Đề 1: Giá trị hiện thực trong truyện ngắn "Chí Phèo"của Nam Cao và "Hai đứa trẻ"của Thạch Lam. Gợi ý 1. Giới thiệu chung. - Về giá trị hiện thực: - Về nhà văn Nam Cao và Thạch Lam: hai cây bút tiêu biểu của hai dòng văn học giai đoạn 1930 – 1945( hiện thực phê phán và lãng mạn) nhưng cả hai nhà văn đều nắm bắt khá rõ hiện thực đời sống và phản ánh vào trong tác phẩm. - Hiện thực cuộc sống con người giai đoạn 1930 - 1945 đã được khắc họa với những nét tiêu biểu và chân thực trong hai tác phẩm của Thạch Lam và Nam Cao. 2. Giá trị hiện thực trong truyện ngắn "Chí Phèo" và "Hai đứa trẻ" a. Giống nhau: Đều phản ánh hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến giai đoạn 1930-1945. - Hiện thực của những con người nghèo khổ: + Chí Phèo: không có miếng ăn, không tấc đất cắm dùi. + Hai đứa trẻ: cảnh chợ tàn với cuộc sống cơ cực của con người. - Hiện thực cuộc sống quẩn quanh không lối thoát. - Chí Phèo: + Bị đẩy đến bước đường cùng + Hình ảnh chiếc lò gạch cũ bỏ hoang (ở đầu và cuối tác phẩm) - Hai đứa trẻ: + Không gian phố huyện chiều tàn + Nhịp sống của con người nhàm tẻ, quẩn quanh. - Hiện thực về những con người với những phẩm chất tốt đẹp. + Giàu tình yêu thương. + Khát vọng sống mãnh liệt. 14
b. Khác nhau. - Chí Phèo: + Xã hội nông thôn nổi bật lên với mâu thuẫn giai cấp. + Con người bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. - Hai đứa trẻ: + Hiện thực xã hội thành thị với cuộc sống tối tăm, lay lắt. - Cách phản ánh hiện thực. + Chí Phèo: bút pháp hiện thực → xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. + Hai đứa trẻ: bút pháp lãng mạn kết hợp bút pháp hiện thực. 3 Đánh giá chung. - Hiện thực phản ánh sinh động, chân thực, mang tính khái quát. - Nghệ thuật khắc họa nhân vật: mang đặc điểm nhân vật của chủ nghĩa hiện thực và nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn Đề 2: Giá trị hiện thực của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Gợi ý 1. Giới thiệu chung - Về giá trị hiện thực. + Giá trị hiện thực là một trong hai giá trị cơ bản, làm nên giá trị nội dung của tác phẩm văn học. Phản ánh hiện thực là một thuộc tính của văn học nhưng đạt đến giá trị hiện thực lại là một phẩm chất của văn học. Giá trị hiện thực của tác phẩm thể hiện ở chỗ: tác phẩm ấy có phản ánh chân thực cuộc sống hay không, có thể hiện được những qui luật, bản chất của cuộc sống hay không. + Do hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ nên giá trị hiện thực cũng biểu hiện vô cùng phong phú. Để tìm hiểu giá trị hiện thực cần trả lời các câu hỏi: Hiện thực đó ở xã hội nào? Ở đâu? Được phản ánh thế nào? Hiện thực về những con người nào? Được phản ánh ra sao? - Về tác giả Tô Hoài: Là một trong những cây đại thụ của văn xuôi hiện đại Việt Nam, là người mở đường cho văn học viết về đề tài miền núi. Đây cũng là sở trường của nhà văn. - Về tác phẩm: Là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng núi Tây Bắc của nhà văn, ghi lại hiện thực cuộc sống của người dân Tây Bắc thời kì thực dân phong kiến. (Tóm tắt sơ qua tác phẩm) 15
2. Giá trị hiện thực trong truyện ngắn Vợ chồng APhủ. - “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về hiện thực cuộc sống, xã hội phong kiến miền núi: + Mâu thuẫn giữa nông dân và giai cấp thống trị, trong đó người nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề, bọn thống trị tàn ác có quyền có tiền do bóc lột: cho vay nặng lãi, phạt vạ, bắt đánh trói người vô lối, coi con người không bằng con vật… + Hiện thực về miền quê Hồng Ngài ở vùng núi cao Tây Bắc: + Phong cảnh thiên nhiên: mùa xuân, đêm đông. + Phong tục: đón Tết, tiền cưới cheo, chơi xuân, tìm bạn tình, cúng trình ma… - “Vợ chồng A Phủ” phản ánh chân thực cuộc sống của người nông dân miền núi trước Cách mạng tháng Tám: + Cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề, thân phận trâu ngựa … + Phẩm chất tốt đẹp: Giàu lòng tự trọng, khát vọng sống mãnh liệt… 3. Đánh giá chung. - Tác phẩm giúp ta hiểu rõ hơn về xã hội miền núi Việt Nam trước Cách mạng, góp phần làm phong phú hơn bức tranh hiện thực của xã hội Việt Nam đương thời, là thành công của nhà văn về một đề tài mới. - Bài học cho người sáng tạo và tiếp nhận. Đề 3: Phân tích gái trị hiện thực trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Gợi ý 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm - Kim Lân là một cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. - Vợ nhặt (in trong tập Con chó xấu xí) là tác phẩm đặc sắc viết về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945), được coi là một trong những tác phẩm thành công nhất của Kim Lân. Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, Vợ nhặt còn giàu giá trị hiện thực. 2. Phân tích gái trị hiện thực trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. - Giá trị hiện thực là một tiêu chí để đánh giá thành công của tác phẩm. Là nhà văn của nông thôn, Kim Lân rất hiểu người nông dân, lại là người trong 16
cuộc của nạn đói nên ông dựng lên trong Vợ nhặt một bức tranh hiện thực, cô đúc mà dầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc thành ấn tượng rõ nét. - Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945: + Cảnh người đói từ Nam Định, Thái Bình bồng bế, dắt díu nhau đi kiếm sống khi nạn đói tràn đến. Tất cả đều xanh xám như những bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ. + Cái đói tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào từng gia đình, bủa vây, đe dọa số phận từng con người, những âm thanh, mùi vị, màu sắc gợi lên sự ảm đạm, thê lương của một cuộc sống đang cận kề cái chết. Bức tranh xóm ngụ cư là hình ảnh thu nhỏ của hàng vạn xóm làng Việt Nam từ Bắc Kỳ đến Quảng Trị năm 1945. - Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: + Xóm ngụ cư: những khuân mặt hốc hác, u tối trong cuộc sống đói khát (lũ trẻ con ngồi ủ rũ không buồn nhúc nhích...) + Số phận của Tràng: Nghèo hèn, lại là dân ngụ cư, làm thuê nuôi sống gia đình. Lấy vợ trong lúc mình chưa nuôi nổi mình. Đêm tân hôn của anh đầy tiếng khóc hờ và mùi hắc của đống rấm khét lẹt. + Số phận của người vợ nhặt: Là người nhưng đến cái tên riêng cũng không có nữa. Thân hình tiều tụy. Vì cái đói mà quên cả nhân phẩm, chỉ nghĩ đến cái ăn, sao cho khỏi chết. - Có một hiện thực tuy chưa rõ netrs nhưng hiện ra ở cuối truyện, trong ý nghĩ của Tràng: ...cảnh những người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm. Đây là hiện thực nhưng cũng là niềm mơ ước của những người như Tràng. 3. Đánh giá chung: - Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói và lá cờ cách mạng là những mặt chủ yếu của hiện thực lúc bấy giờ được Kim Lân phản ánh bằng những nét bản chất đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Nó như một chứng tích văn học về một dự kiện lịch sử không thể nào quên. - Gía trị hiện thực ấy có sức tố cáo bọn thực dân phát xít. Cùng với giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực làm nên sức sống cho tác phẩm. 2.1.2 Giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đề 1: Phân tích giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) qua cuộc đời của Mị và A Phủ. Gợi ý 17
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm. 2. Khái quát chung về giá trị nhân đạo. 3. Phân tích những biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm a. Xót thương sâu sắc cho số phận trâu ngựa của người dân miền núi Tây Bắc: - Cô Mị xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói “Khổ từ trong trứng”. Bố mẹ nghèo , cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị, Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mị về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. . Cô Mị, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải là mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ. Mị ở nhà chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ vợ chồng; chỉ có những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ âm thầm, tăm tối. Dần dần rồi Mị cũng quên luôn mình là con người nữa. Suốt ngày “Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ” mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua xót: “Ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, cô nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: “Là con trâu, con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thôi”. Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Quả thật hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bốc lột tất sẽ dẫn đến cảnh ngộ bi đát ấy. Nỗi khổ nhục của cô gái Mèo này thật đã có thể so sánh với nỗi nhục của Chí Phèo khi “Đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình”. (Thật ra, Chí Phèo còn có lúc nghênh ngang, còn dọa nạt được người khác). b. Bản cáo trạng đanh thép lên án tội ác của bọn quan lại niềm núi dưới chế độ cũ: - Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lý nơm nớp sợ “Con ma nhà Thống Lý” đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về”Cúng trình ma” là một ám ảnh ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả đến khi cô đã trốn thoát khỏi Hồng
18
Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật “ ngu dân” để dễ trị. - Có thể nói, nhà văn đã không hà tiện cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, ở đó thân phận người dân nghèo mới mong manh bất ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi lơ lững trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái hình ảnh nhức nhối phũ phàng: người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ vì muốn đi chơi tết như bạn bè. Sự bất lực của Mị tràn theo dòng nước mắt chua chát trên má môi mà không có cách gì lau đi được. - Những chi tiết như vậy làm cho bức tranh hiện thực nới rộng thêm dung lượng và linh động thêm. Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh bức tranh đó. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mị. Lý do mà Thống Lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà Thống Lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan. Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ ít nhiều gợi đến những Chí Phèo, chị Dậu, những chú AQ và những thím Tường Lâm… Đó là những hình tượng nghệ thuật được cô đúc từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ. c. Sự phát hiện, khảng định sức sống tiềm tàng trong tâm hồn người dân miền núi bị áp bức. - Tô Hoài trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi . Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa vững chắc, Tô Hoài đã tìm ra được sự phát triển logic của tính cách. Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lí của quá trình tha hóa nhân cách của cô Mị thời kì đầu. Mị làm việc nhiều quá, bị đày đọa khổ ải quá, mãi rồi Mị phải “quen”, phải cam chịu. Lúc trước Mị không được quyền tự tử vì sợ liên luỵ với bố; giờ bố chết, nhưng Mị không còn muốn tự tử nữa. Mị như một cái máy, không có ý thức, không cảm xúc ước ao. ? Kỳ diệu thay và cũng đơn giản thay. Là tiếng sáo Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống dậy, Mị thấy lòng “thiết tha bồi hồi”và lập tức nhớ 19
lại cả quãng đời thiếu niên tươi đẹp. Nó thức dậy trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc. - Như vậy tiếng sáo lại động chính cái sức mạnh bền vững, bất diệt nhất của tuổi trẻ, Mị nhớ lại rành rõ “mình vẫn còn trẻ lắm”, rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Và bên tai Mị cứ “lững lờ”. Tiếng sáo sự bừng tỉnh từ sâu xa trong tâm hồn ấy biểu hiện bên ngoài bằng hành động mới nhìn rất lạ: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy”. Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả hợp lí toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. - Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. - Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích những vấn đề sắc bén, nhất là bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. . Cùng một số phận, một cảnh ngộ, những diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát. Mị dường như chính chắn hơn nhưng lại yếu đuối hơn. - “Vợ chồng A Phủ” đã để lộ cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài. Khi cô đúc nỗi cùng khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về xã hội cũ, Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót, sự cảm thông khi miêu tả buổi lễ ăn thề giữa A Châu và A Phủ như là cuộc nhân duyên giữa quần chúng và cách mạng, ông đem lại niềm tin về một tương lai sáng sủa cho những người bị áp bức.
20
- Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô vẫn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham sống, khao khát thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Không trước sau ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn tòan nhân tính. Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để sống như một con người. 3. Đánh giá chung Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm. Đề 2: Giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Gợi ý 1. Giới thiệu chung. - Về giá trị nhân đạo: là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người; sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của nó. - Về tác phẩm: Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt Nam sau 1945. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Thông qua tình huống truyện độc đáo, tác giả cho ta thấy cuộc sống tối tăm cũng như khát vọng sống mãnh liệt, ý thức về nhân phẩm rất cao của những người lao động trong nạn đói năm 1945. 2. Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt”của Kim Lân - Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa, thương cảm với cuộc sống bi đát của người dân nghèo trong nạn đói. Qua đó tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phát xít đối với nhân dân ta (phân tích dẫn chứng để chứng minh) + Tác phẩm đi sâu khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người:
21
+ Những khao khát hạnh phúc ở Tràng: cái tặc lưỡi có phần liều lĩnh, cảm giác mới mẻ “mơn man khắp da thịt”, êm ái lửng lơ sau đêm tân hôn… + Ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật vợ nhặt: chấp nhận theo không Tràng, bỏ qua ý thức về danh dự. + Ý thức vun đắp cuộc sống của các nhân vật: mẹ chồng nàng dâu quét dọn nhà cửa, bà cụ Tứ bàn về việc đan phên, nuôi gà… + Niềm hi vọng đổi đời của các nhân vật: hình ảnh lá cờ và đoàn người đói đi phá kho thóc của Nhật… - Tác phẩm thể hiện lòng tin sâu sắc vào phẩm giá, lòng nhân hậu của con người: + Tràng: Sự thông cảm, lòng thương người, sự hào phóng, chu đáo, tình nghĩa, thái độ, trách nhiệm. + Sự biến đổi của người vợ nhặt sau khi theo Tràng về nhà: Vẻ chao chát, chỏng lỏn, đanh đá đã biến mất. Thay vào đó là sự hiền hậu, đúng mực, ý tứ, đảm đang, hiếu thảo. + Tấm lòng nhân hậu của bà cụ Tứ: Thương con, cảm thông với tình cảnh của nàng dâu, trăn trở về bổn phận làm mẹ, cố tạo niềm vui trong gia đình giữa cảnh sống thê thảm. 3. Đánh giá chung. - Điểm đáng nói nhất về giá trị nhân đạo của tác phẩm là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. - Tình cảm nhân đạo ở đây có nét mới mẻ so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm của văn học hiện thực trước Cách mạng. Đề 3: Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Gợi ý 1. Giới thiệu chung. - Về giá trị nhân đạo: - Về tác phẩm: + Chiếc thuyền ngoài xa là sang tác tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới sau năm 1975. Truyện ngắn này cũng tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sang tác thứ hai. + Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa chứa nội dung nhân đạo và triết lý sâu sắc. 22
2. Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu: - Sự lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình (cách miêu tả khách quan nhưng chứa đựng sự phê phán, lên án hành động vũ phu, thô bạo của người chồng trong cách đối xử vói vợ, con). - Nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người (cảnh đói nghèo, cơ cực, tình trạng bất ổn, bất trắc trong cuộc sống … là nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành và sự nhịn nhục, chịu đựng). - Niềm trặn trở trước cuộc sống của thế hệ tương lại (qua cách nhìn của nhà văn với cậu bé Phác). - Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người, niềm tin vào con người + Ca ngợi tình mẫu tử (những đau khổ, tủi nhục đến cùng cực, những niềm vui nhỏ nhoi tội nghiệp của người mẹ đều xuất phát từ đứa con. + Trong hoàn cảnh đói nghèo, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của đức hi sinh thầm lặng. - Ngoài ra, có thể trình bày tư tưởng nhân đạo mang màu sắc triết lí của tác phẩm: Con người muốn thoát khỏi tăm tối, man rợ cần đến những giải pháp thiết thực, chứ không phải chỉ là thiệ chí hoặc các lý thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn; cần rút ngắn khoảng cách vữa văn chương và hiện thực đời sống. 3. Đánh giá chung - Khẳng định tác phẩm có giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. - Qua đó, thấy được những đóng góp mới mẻ của nhà văn (những đổi mới của văn học sau 1975) trong cách nhìn hiện thực, cuộc sống, con người và nghệ thuật. - Bài học cho người nghệ sĩ. 2.1.3. Nhân vật trong tác phẩm. Đề 1: Cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Gợi ý 1. Mở bài: Giữa cuộc đời cũng như trong nghệ thuật, Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ có lí tưởng thẩm mĩ và phong cách độc đáo. Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói : Nguyễn là “một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân nổi tiếng với “Vang bóng một 23
thời” – tập truyện được xuất bản năm 1940, viết về những vẻ đẹp của “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Trong tập truyện này, Chữ người tử tù được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, kết tinh phong cách sáng tác và tài năng nghệ thuật của nhà văn. Trong thiên truyện “gần đạt đến sự toàn thiện, toàn mĩ” này, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của tài hoa, khí phách và thiên lương. 2. Thân bài: a. Nguyên mẫu của hình tượng nhân vật Huấn Cao Theo các nhà nghiên cứu, nhân vật Huấn Cao được xây dựng từ nguyên mẫu là Cao Bá Quát (1808-1855). Trong lịch sử nước ta, Cao Bá Quát không chỉ nổi danh là “văn hay chữ tốt” như đương thời truyền tụng “Thần Siêu, thánh Quát”mà còn nổi tiếng là người cương trực, quý trọng tài năng, có bản lĩnh, sống có lý tưởng và dám đương đầu với cường quyền. Tuy nhiên, Cao Bá Quát chỉ là một điểm tựa, một “chất liệu văn học” để Nguyễn Tuân xây dựng nên nhân vật của mình. Phần hư cấu, sáng tạo của nhà văn vẫn là chủ yếu bởi Huấn Cao đã xuất hiện trong tác phẩm theo đúng lý tưởng thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của tác giả. b. Huấn Cao trước hết là người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp, người kết tinh vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc và tấm lòng yêu nước mang màu sắc riêng của nhà văn. Trong truyện Chữ người tử tù, Huấn Cao nổi lên là một nghệ sĩ tài hoa hiếm có trong nghệ thuật thư pháp. - Ngay từ đoạn văn mở đầu tác phẩm, thông qua một đối thoại ngắn giữa quản ngục và thầy thơ lại, nhà văn đã “gieo” trên trang văn một lời giới thiệu không thể thuyết phục hơn về tài năng của con người này. Đó là “cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Đây không phải là lời ngợi khen của một người mà là lời của người dân cả một tỉnh, tức là tài năng của ông Huấn từ lâu đã được công chúng rộng rãi thừa nhận. - Tuy nhiên, với riêng ngục quan, tên tuổi và tài nghệ của “người đứng đầu bọn phản nghịch” ấy còn nhiều hơn thế. Không biết từ nguồn nào và từ bao giờ, viên quan coi ngục này đã biết “cái tài viết chữ tốt” của Huấn Cao: “Chữ của ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Và cũng đã từ rất lâu rồi, nhưng chưa bao giờ có dịp được nói ra, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết… Có được chữ của ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”.
24
- Về phía chủ quan, mong muốn ấy của quản ngục xuất phát từ thú chơi chữ của ông ta. Nhưng về phía khách quan, chữ của Huấn Cao phải đẹp lắm, quý lắm, phải là “báu vật” hiếm có trên đời mới có thể khiến viên quan coi ngục lần đầu tiên có cái nhìn “hiền lành” và tỏ rõ thái độ “kiêng nể” với sáu người tù mà thực chất chỉ là Huấn Cao. Đặc biệt, quản ngục sẵn sàng “biệt đãi” ông Huấn – điều mà cả ông ta và bất cứ ai cũng thừa hiểu là hành động phạm pháp, thậm chí bị quy vào tội đồng lõa với tội phạm. Với tội danh này, nặng thì bị xử tử giống như những phạm nhân kia, nhẹ thì mất nghiệp, khuynh gia bại sản. Điều ấy, một người đại diện cho pháp luật như quản ngục không thể không hiểu. Nhưng cái gì đã khiến ngục quan nhẫn nại, hạ mình, dám đánh đổi cả sự nghiệp, thậm chí cả tính mạng của mình đến như vậy ? Rốt cuộc chỉ có một điều cốt lõi, ấy là chữ của Huấn Cao – một “vật báu trên đời” và vì thế với những người có thú chơi chữ như quản ngục thì được treo chữ của ông Huấn là một trong những sự mãn nguyện lớn nhất trong cuộc đời. => Có thể khẳng định, Nguyễn Tuân đã thành công khi miêu tả tài viết chữ của Huấn Cao. Cái giỏi của nhà văn là không có một từ nào miêu tả cụ thể về những chữ mà Huấn Cao đã viết, kể cả ở cảnh cho chữ cuối cùng, thế mà ấn tượng về tài năng của Huấn Cao, về người tử tù có phẩm chất nghệ sĩ, có tài nghệ hơn người vẫn đậm sâu trong lòng bạn đọc. Giống như thủ pháp “vẽ mây nảy trăng” thường thấy trong thơ, phương thức miêu tả gián tiếp của nhà văn đã có được hiệu quả nghệ thuật rõ nét trong trường hợp này. - Với những gì đã viết về Huấn Cao, nhất là qua thái độ, lời nói của nhân vật quản ngục, thơ lại, Nguyễn Tuân không hề giấu giếm thái độ say mê, cảm phục của mình đối với những người như ông Huấn. Đó là người “kết tinh” và tỏa sáng một trong những vẻ đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc. Vẻ đẹp ấy, ở thời đại Nguyễn Tuân, lại đang có nguy cơ mai một, rất dễ thuộc về “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Do đó, sáng tạo hình tượng Huấn Cao có thể xem là một phương thức nghệ thuật đắc dụng để nhà văn kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng của mình đối với những giá trị văn hoá cổ truyền của đất nước. Đây chính là tinh thần dân tộc, là lòng yêu nước mang nét đặc trưng riêng của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên, nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh – chuyên gia nghiên cứu về Nguyễn Tuân đã từng đánh giá khái quát : “Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng : gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc”. c. Huấn Cao còn là người nghệ sĩ có cái “thiên lương” trong sáng, có cách ứng xử cao thượng và đầy tinh thần văn hóa. - Trong cuộc sống và nhất là trong nghệ thuật, tài năng không phải là thứ mà tạo hóa hay xã hội muốn có hoặc có thể ban phát cho tất thảy mọi người. 25
Người có tài năng, năng khiếu nghệ thuật vốn đã không nhiều trong cuộc sống thì người vừa có tài vừa có tâm lại càng hiếm nữa. Mấy trăm năm trước, thi hào Nguyễn Du đã viết : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Chính cái “tâm” sẽ làm cho cái tài được cất cánh cao hơn nữa, tỏa sáng hơn nữa. Trong Chữ người tử tù, Huấn Cao đâu chỉ có tài viết chữ mà còn có đạo đức và văn hóa của một người nghệ sĩ thư pháp, một nhân cách cao thượng trong đời sống. - Đạo đức của Huấn Cao thể hiện trước tiên ở lòng tự trọng, ở chỗ biết giữ lấy cái tài, biết trân trọng tài năng đích thực của mình và biết dùng nó đúng lúc đúng chỗ. Con người ấy “nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Cả đời Huấn Cao cho đến trước khi cho chữ viên quản ngục mới chỉ “viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho “ba người bạn thân”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Huấn Cao cũng giữ trọn “thiên lương” của mình. Khi chưa hiểu con người của quản ngục, Huấn Cao không hề tỏ ra sợ hãi, càng không vì cái “uy vũ” đó để phải quỳ xuống viết chữ. Ông cũng không tỏ ra mềm lòng, thỏa hiệp, nhún mình viết câu đối trước sự “biệt đãi” của ngục quan. Ngay cả khi đã hiểu rõ con người của quản ngục và đã cho chữ viên quan này thì điều mà Huấn Cao khuyên bảo, mong muốn ở ngục quan là “giữ thiên lương cho lành vững”, đừng để “nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Đó đích thực là một tâm hồn trong sáng, cao đẹp, một biểu tượng của “thiên lương” lành vững mà thời đại nào cũng cần. - Cái tâm của Huấn Cao không chỉ hiện ra ở đạo đức của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ ở cách ứng xử cao thượng và đầy tinh thần văn hóa. - Đọc tác phẩm, ai cũng thấy Huấn Cao đã phản ứng dữ dội như thế nào trước hành động muốn “biệt đãi” ông của quản ngục. Nhưng đấy là khi ông chưa thực sự hiểu được bản chất của con người này. - Đến khi đã hiểu được con người bên trong của ngục quan, khi đã “cảm” được “cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của viên quan coi ngục thì Huấn Cao đã nhanh chóng bỏ qua những nghi kị trước đó, vui vẻ tự nguyện cho chữ. Lời của Huấn Cao: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” đã bộc lộ lẽ sống của ông : sống là phải xứng đáng với những tấm lòng tri kỉ, phụ tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ. Rõ ràng, đối với những người biết quý trọng cái tài, cái đẹp trên đời, Huấn Cao đâu có nề hà, đã không biết thì thôi chứ biết thì nhất định không “phụ tấm lòng trong thiên hạ”. Đấy chính là lẽ sống cao đẹp, là cách xử thể tràn đầy tinh thần văn hóa ở Huấn Cao, cũng là bài học về đạo lý, lẽ sống cho mỗi người trên đời. Xem ra, chuyện xin chữ - cho chữ ở đây không còn là thú chơi nữa mà là chuyện của lẽ sống và đạo đức của con người trong cuộc sống. 26
d. Huấn Cao là người anh hùng dũng liệt, có bản lĩnh, lý tưởng, có khí phách hiên ngang, bất khuất. - Không giống như nhiều nhân vật tài hoa, tài tử khác trong Vang bóng một thời, Huấn Cao có hai con người trong một con người : con người tài hoa nghệ sĩ với cái tâm trong sáng và con nguời anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang. Đấy là một người dám chống lại triều đình mục ruỗng mà ông căm ghét. Thái độ này không thay đổi kể cả khi ông nhận được thông báo sẽ bị giải vào Kinh để chịu án tử hình. Là kẻ chiến bại nhưng Huấn Cao không hề đánh mất khí phách của mình. - Ngay từ đầu tác phẩm, điều đó đã được thể hiện qua hành động “rỗ gông”. Huấn Cao đã bất chấp lời doạ dẫm của tên lính áp giải, “lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Cũng chính con người ấy đã “thản nhiên nhận rượu thịt” coi như “việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thậm chí còn “cố ý làm ra khinh bạc đến điều” đối với viên quản ngục mà không hề sợ “một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục”. Ngay cả khi được tin “ngày mai, tinh mơ” sẽ “về kinh chịu án tử hình”, Huấn Cao cũng chỉ “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”. Rõ ràng, Huấn Cao có phong độ của một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang của kẻ “chọc trời quấy nước” trên đầu “chẳng còn biết có ai nữa” (như chính quản ngục đã phải thừa nhận), có cái khí khái của đấng nam nhi coi cái chết “nhẹ tựa hồng mao”. e. Hình tượng Huấn Cao tỏa sáng trong cảnh cho chữ - Huấn Cao đúng là một nhân vật đặc biệt của Nguyễn Tuân. Ở con người này có sự hội tụ của ba phẩm chất, cũng là ba vẻ đẹp đáng trân trọng của con người : “tài” – “tâm” – “dũng”. Ba vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau và tỏa sáng rực rỡ trong cái đêm Huấn Cao cho chữ quản ngục. - Điểm hội tụ của tài năng nghệ sĩ và khí phách nghĩa sĩ của Huấn Cao trước hết là ở tư thế. Tuy “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng Huấn Cao vẫn có cái tư thế của một người nghệ sĩ thư pháp. Con người ấy đang dồn tinh lực để viết nên những “dòng chữ cuối cùng” cho đời – những dòng chữ “nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Tương phản với hình ảnh Huấn Cao là hình ảnh của ngục quan và thơ lại - những kẻ đại diện cho uy quyền, pháp luật đương thời, nắm trong tay quyền sinh, quyền sát nhưng lại đang “khúm núm”, “run run” trước từng nét chữ của Huấn Cao. Chính sự tương phản này đã gián tiếp khắc họa cái hiên ngang, khí phách của người tử tù. Đồng thời cho thấy trong khoảnh khắc này, tại chính gian nhà ngục này không phải cái
27
ác, cái xấu đang làm chủ mà chính là cái đẹp, cái tài của người nghệ sĩ đang tỏa sáng, hùng tâm, tráng chí của người anh hùng đang được tôn vinh. => Như mọi dòng sông đều chảy về biển, ở Huấn Cao, nơi hội lưu của thiên lương trong sáng và nhân cách con người viết hoa – CON NGƯỜI dừng lại ở một lời khuyên chí tình dành cho quản ngục : “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn […] Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên này giống như một di huấn – di huấn của người nghệ sĩ truyền lại cho đời và hậu thế : muốn chơi chữ thì trước hết phải giữ lấy “thiên lương”. Chữ nghĩa và “thiên lương” không thể chung sống với cái ác, cái xấu, đừng để những cái cao quý ấy bị hoen ố, bị mất đi ở chốn ngục tù đen tối tàn bạo. g. Nghệ thuật - Như ta đã biết, xây dựng hình tượng Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu là Chu thần Cao Bá Quát. Trong thực tế lịch sử, “thánh Quát” đã bỏ mình nơi chiến địa trong cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến. Nhưng với Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã “kéo dài cuộc đời Cao Bá Quát” bằng cuộc gặp gỡ thú vị giữa người tử tù có tài viết chữ đẹp với viên quản ngục – kẻ đại diện pháp luật đương thời nhưng khát khao ánh sáng chữ nghĩa. Sáng tạo này là chỗ nhà văn gửi gắm lí tưởng thẩm mĩ và quan điểm nghệ thuật của mình. - Đọc truyện Chữ người tử tù, có thể thấy Nguyễn Tuân đã sử dụng bút pháp lãng mạn, lí tưởng hóa để miêu tả hình tượng Huấn Cao. Đó là người có vẻ đẹp toàn diện : vẻ đẹp của tài năng – vẻ đẹp của tâm hồn – vẻ đẹp của khí phách. Vẻ đẹp ấy hiện lên lồng lộng trên nền tăm tối của ngục tù và trong sự kính nể, tôn vinh của những kẻ đại diện cho luật pháp đương thời. Hình ảnh Huấn Cao gắn liền với cái đẹp, với ánh sáng và cái thiện. Những cái đó cũng bật nổi trong ưu thế và sự lấn át cái xấu, bóng tối và cái ác. Đó là những biểu hiện khác nhau của thủ pháp tương phản – thủ pháp đã được sử dụng rất hiệu quả trong tác phẩm. - Cũng như nhiều sáng tác khác, ngôn ngữ miêu tả của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù rất đậm chất “điện ảnh”. Nhiều đoạn như những thước phim quay chậm, sắc nét, chậm rãi, hiển hiện từng nét cảnh vật, từng hành động của nhân vật. Ngôn ngữ miêu tả nhân vật Huấn Cao cũng thế. Những đoạn tả ông Huấn như đoạn “rỗ gông”, đoạn “cho chữ”… đều có thể coi là những “thước phim ngắn” về nhân vật này. Từng hành động, điệu bộ, cử chỉ của Huấn
28
Cao cứ dần dần, chậm rãi hiện ra qua lớp ngôn từ vừa cổ kính vừa hiện đại của nhà văn. 3. Kết luận Tóm lại, Huấn Cao là một trong những hình tượng nhân vật đẹp nhất của nhà văn Nguyễn Tuân. Hình tượng này thể hiện khá rõ quan niệm thẩm mĩ của nhà văn : cái Đẹp phải là sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài. Gốc của cái đẹp cũng như cái gốc của chữ nghĩa chính là “thiên lương”. Cái đẹp, dù trong hoàn cảnh nào, cũng sẽ luôn vươn lên và tỏa sáng. Nó không chấp nhận sống chung với cái ác, cái xấu. Cái đẹp chân chính có sức mạnh cảm hóa con người. Qua tư tưởng nghệ thuật về cái Đẹp, nhà văn thiết tha gửi đến bạn đọc thông điệp : dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải sống đẹp, phải giữ gìn “thiên lương” cho lành vững. Mà sống đẹp không thể không gắn liền với cách ứng xử văn hóa, một trong những cách ứng xử ấy là thái độ tôn trọng tài năng và phẩm giá của con người. Biết “biệt nhỡn liên tài” cũng chính là biết sống một cách nhân văn và đầy tinh thần văn hóa. Đề 2: Phân tích Mị để thấy được “Tô Hoài đã xây dựng nhân vật theo quá trình phát triển cách mạng” . Gợi ý 1. Giới thiệu chung - Là truyện ngắn xuất sắc rút từ tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. - Đây là truyện có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành cong về phương diện nghệ thuật. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật bộc lộ tập trung trong hình tượng nhâ vật Mị. 2. Phân tích nhân vật Mị: a. Cách giới thiệu nhân vật - Mị xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của tp: Ai ớ xa về ....rười rượi. Một cô gái â thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri vô giác. Hình ảnh m hoàn toàn tương phản với cái gđ mà M đang ở. Sự tương phản ấy báo hiệu một số phận nhiều ẩn ức của M. b. Mị khi chưa về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra: - Là cô gái Mèo trẻ, đẹp. - Khao khát sống tự do, khao khát tình yêu và cô được trai làng theo đuổi. - Lao động giỏi. - Là đứa con hiếu thảo. 29
=> Tóm lại: Mị có những phẩm chất rất đáng tôn trọng và rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc. c. Mị từ khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí: * Cuộc đời con dâu gạt nợ: - Vì cha mẹ không trả nổi nợ vay thống lí làm đám cưới lúc trẻ nên Mị phải làm dâu trả nợ. - Mị thành một nô lệ bị đoạ đày, bị hành hạ, bị tước hết mọi quyền sống nên không còn ý thức, sống như cái xác không hồn (cô ngồi bên tảng đá trơ lạnh, buồng Mị ở gần tàu ngựa, mặt Mị luôn cúi xuống buồn rười rượi…) - Cô không còn ý niệm về thời gian. Thế giới mà cô nhận thức được qua các ô cửa vuông bằng bàn tay “mờ mờ trăng trắng” “không biết là sương hay là nắng”. Ý niệm về thời gian bị tiêu diệt thì ý nghĩa của cuộc sống cũng bị thủ tiêu. * Sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân - Cầm nắm lá ngón định quyên sinh vì không chịu sống tủi nhục. - Vì thương bố Mị “quen trong cái khổ” an phận làm trâu ngựa và luôn bị ám ảnh bởi thần quyền: “Ta về trình ma nhà nó rồi chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây”. - Tiếng sáo và “những đêm tình mùa xuân” đánh thức sức sống tiềm tàng mãnh liệt, cái giấc mộng lứa đôi, một thời Mị khao khát. Cô nhớ quá khứ, sống trong quá khứ, cô quên đi thực tại phũ phàng và con người tự do, ham sống ngày nào hành động để đáp ứng nó. (Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi, Mị quấn lại tóc, Mị với tay”… Câu văn rành rẽ các hành động gấp gáp như lòng khát khao được tung cánh bầu trời tự do). - Nhưng A Sử (chồng Mị) đã lạnh lùng không nói, nó coi Mị như một con trâu, con ngựa đã đứt dây buộc. Nó cũng rành rẽ các hành động để trói đứng Mị vào cột từ hai tay rồi sau đó là từ “bắp chân” trở lên, cả mái tóc cũng được “quấn lên cột”. Mị bị trói rồi mà cô vẫn không tin được đó là sự thật. Cái lòng ham sống bị đánh thức của đêm xuân này vẫn còn một thế năng để cho “tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”… Để rồi sau đó chua chát hơn nhận thấy mình “không bằng con ngựa”. - Nếu không có A Phủ đánh A Sử để người ta cởi trói cho Mị đi kiếm lá thuốc cho chồng thì có lẽ Mị cũng phải chịu chết như một người đàn bà khác trong nhà này. Đúng là “chúng nó thật độc ác” “bắt trói người ta đến chết”.
30
* Sức phản kháng táo bạo của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ: - Những đêm khuya, Mị ra thổi lửa để sưởi, Mị đã thấy A Phủ bị trói, Mị bị A Sử đánh vì ngứa chân ngứa tay nhưng cô vẫn cứ ra sưởi. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Mị đã sống vô ý thức, tâm hồn đã vô cảm, chai sần. - Đêm nay nhìn thấy nước mắt A Phủ, Mị nhớ lại đêm năm trước bị A Sử trói, khi “sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã gục xuống”. Đêm ấy Mị đã khóc, còn bây giờ đây Mị dường như không còn biết khóc nữa. Chính dòng nước mắt nhân tình khổ đau đã thành dòng nham thạch nung chảy tâm hồn đã đóng băng của Mị. Thì ra đôi mắt “trừng trừng”, những cái đấm đá và bao nhiêu hành động phi nhân mà Mị phải chịu đã trở thành cuộc đời thường của cô. Cho nên dòng nước mắt chính là sự kiện bất bình thường gợi khơi cô nhớ lại quá khứ. Vừa thương mình, vừa căm phẩn lũ người tàn ác vừa bị ám ảnh bởi cái chết, ám ảnh bởi con ma nhà thống lí, vừa nhớ tới một người đàn bà cùng thân cùng phận như mình đã chết trong quá khứ vừa nghĩ tới số phận phải chết vô lí của A Phủ… Tâm hồn Mị nổi sóng bấn loạn. Vậy là dòng nước mắt của A Phủ đã làm mị nhớ tới nước mắt của mình, Mị nhớ tới cái chết nhãn tiền của A Phủ. Từ số kiếp A Phủ, Mị lại nghĩ tới mình đã về “trình ma nhà nó rồi” không phương thoát khỏi nhưng A Phủ không lí gì phải chết… - Những ý nghĩ ấy thực ra nó thúc đẩy bắt buộc phải có hành động đáp ứng. Mị cởi trói cho A Phủ và đặt mình phải lựa chọn con đường chạy theo A Phủ hay là được trói đứng như ngày nào cho đến chết. Thời điểm hệ trọng này “con ma” cũng không đủ sức giữ chân Mị lại, Mị cứu A Phủ là tự cứu mình mà cô đã không biết. Chẳng cưới xin, họ đã trở thành vợ chồng từ cái đêm đầy ý nghĩa ấy, cái đêm vì nghĩa trước lúc vì tình”. d. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Đây là đoạn văn bản lề khép mở hai cuộc đời. Đóng lại một kiếp khổ nhục, nô lệ để đi vào một cuộc đời chồng vợ chủ động xây dựng cuộc sống mới. Tô Hoài đã làm cho mạch truyện chuyển biến hợp lí, khiến cho tác phẩm không có những vết cắt, và những chỗ ghép giả tạo. Cũng cần lưu ý giọng văn ở đoạn này rất đa dạng. Giọng kể, giọng bán trực tiếp của nhân vật của và giọng nhân vật,.. Những giọng này góp phần mổ xẻ tâm trạng, Mị khá thành công, khá sinh động và có sức thuyết phục người đọc khá cao. 3. Đánh giá chung: Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mi. Mị tiêu biểu cho kiếp sống khốn khổ của người dân miền núi dưới ách thống trị của pk, thực dân. Mị là điển hình cho sức sống tiềm ẩn của người dân TB. 31
Đề 3: Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Gợi ý 1. Giới thiệu chung . - Tác giả: Kim Lân (1920 - 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh. Ông là nhà văn sống gắn bó và rất am hiểu về nông thôn và người nông dân. Không phải là nhà văn nổi tiếng về số lượng tác phẩm song nhiều truyện ngắn của Kim Lân được đánh giá là những tác phẩm xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại. - Vợ nhặt là một tác phẩm như vậy. “Vợ nhặt” thực ra là một chương trong tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này .“Vợ nhặt” in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). - Tràng, nhân vật chính của tác phẩm đánh dấu thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn. 2. Nhân vật Tràng. - Hoàn cảnh, lai lịch: Là dân ngụ cư – nhóm dân cư bị khinh rẻ, bị đè nén, áp bức trong làng. Tràng lại nghèo, chỉ có căn nhà lụp xụp trong xóm ngụ cư. Anh sống với người mẹ già, mưu sinh bằng nghề kéo xe bò thuê. - Ngoại hình: Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch: “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, quai hàm bạnh ra rung rung làm cái bộ mắt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú, vừa dữ tợn”. Cái đầu cạo trọc, tấm lưng to rộng như lưng gấu, điệu cười hềnh hệch. Đúng như cái tên của mình, Tràng là một “sản phẩm quá thô vụng của hóa công”. - Tính cách: + Tràng là một người đàn ông khỏe mạnh, sống vô tư, hồn nhiên, chất phác: thích chơi đùa với lũ trẻ con trong xóm, “nhặt vợ” rất tình cờ và vu vơ chỉ sau một câu đùa và một chầu bánh đúc. + Tràng là một người nhân hậu, cũng có những khát khao hạnh phúc: Hành động “chiêu đãi” người phụ nữ đang đói gieo đói giắt kia một chầu bánh đúc thể hiện tấm lòng nhân hậu, thương người của anh. Việc anh quyết định “lấy vợ” giữa thời buổi trời đất đang “tối sầm lại vì đói” thể hiện mong ước có được một gia đình, khao khát được hạnh phúc như bất cứ người nào khác. Tràng rất trân trọng người vợ mới (dù cưới hỏi chẳng có lễ lạt, nghi thức) và 32
cuộc hôn nhân của mình. Biểu hiện sinh động nhất là việc anh “mạnh tay” bỏ tiền mua dầu đèn thắp sáng trong đêm tân hôn; anh cũng tự hào và sung sướng gọi người vợ mới là “nhà tôi”. Trong lòng anh lâng lâng cảm giác sung sướng, hạnh phúc. Phát hiện được những khao khát hạnh phúc ẩn sâu trong con người tưởng như vô tâm, nông cạn, xấu xí, Kim Lân đã tỏ ra là một nhà văn có tư tưởng nhân đạo sâu sắc. + Tràng là người có trách nhiệm: Sau đêm tân hôn, Tràng ý thức rõ hơn về vai trò của mình với bản thân, với gia đình, nghĩ đến tương lai. Anh “xăm xăm chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì để tu sửa lại căn nhà” 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nghệ thuật miêu tả nhân vật: đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, tính cách và đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Qua hình ảnh nhân vật, nhà văn muốn thể hiện sự trân trọng những khao khát hạnh phúc của con người, dù trong hoàn cảnh đói khát, họ vẫn vươn lên mong sống một cuộc sống xứng đáng của một con người. Đó là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. 2.2. Giá giá trị nghệ thuật của tác phẩm. 2.2.1 Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Đề 1: Những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Gợi ý: 1. Giới thiệu chung - Về đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm - Về tác giả, tác phẩm: Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, độc đáo, tài năng. Ông nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám với những tác phẩm tiêu biểu như: Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua, Vang bóng một thời… - Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938, sau đó được in lại trong tập Vang bóng một thời (1940) và đổi tên thành Chữ người tử tù - Khái quát những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm 2. Những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Chữ người tử tù: - Nghệ thuật tạo tình huống truyện độc đáo: đó là cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong chốn lao tù, Xét trên bình diễn xã hội, họ là kẻ thù, nhưng trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm, tri kỉ. Thông qua tình huống truyện, tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét và chủ đề tác phẩm được tô đậm. 33
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được nhìn nhận từ phương diện tài hoa nghệ sĩ, được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, quản ngục và Huấn Cao được đặt trong mối quan hệ tương phản, soi sáng lẫn nhau, các miêu tả gián tiếp… - Nghệ thuật tạo dựng cảnh cho chữ: “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong cảnh này, thủ pháp nghệ thuật đối lập được sử dụng một cách triệt để, góp phần khắc họa đậm nét tính cách nhận vật. - Nghệ thuật tạo không khí cổ kính bằng những chi tiết chọn lọc, câu văn có nhịp điệu thong thả, đĩnh đạc, ngôn ngữ sử dụng nhiều từ Hán Việt… 3. Đánh giá chung: Khẳng định thành công của truyện ngắn Chữ người tử tù và tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân. 2.2.2 Chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Đề 1: Cảm nhận về chi tiết đôi bàn tay Tnú trong truyện ngắn "Rừng xà nu"của Nguyễn Trung Thành. Gợi ý 1. Giới thiệu chung - Vài nét về tác giả , tác phẩm - Về chi tiết nghệ thuật: Là tình tiết gói ghém tư tưởng, thể hiện tài năng, sự tinh tế của tác giả, làm nổi bật tính cách, số phận nhân vật. "Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn"( M.Gorki) - Chi tiết bàn tay Tnú: tình huống xuất hiện, số lần được nhắc đến trong truyện,... 2. Chi tiết đôi bàn tay Tnú. a. Bàn tay là chứng tích cho những mất mát, đau thương do chiến tranh gây ra. - Thằng Dục tẩm dầu xà nu đốt 10 đầu ngòn tay Tnú. - Nỗi đau của riêng Tnú. - Nỗi đau chung của nhân dân. b. Bàn tay thể hiện những phẩm chất cao đẹp. - Sự gan góc, bộc trực, thẳng thắn khi còn nhỏ: + Bàn tay lấy đá từ núi Ngọc Linh về làm phấn để học viết. + Bàn tay đập bể bảng nứa, lấy đá đệp bể đầu. 34
+ Bàn tay cùng Mai chăm chỉ chặt củi, xách nước, giấu gạo đi nuôi cán bộ. + Dũng cảm làm liên lạc cho cách mạng → bàn tay đưa thư vượt suối, băng rừng. - Sự trung thành với cách mạng, lòng căm thù giặc sâu sắc: + Khi bị bắt, nuốt lấy thư, lấy tay chỉ vào bụng và nói cộng sản ở đây. + Bị giặc tra tấn, không kêu van, chỉ im lặng: lòng căm thù ngùn ngụt khơi nguồn cho ngọn lửa đấu tranh, tinh thần quật khởi của dân làng Xô Man. - Ý chí kiên cường, bất khuất, sức sống mãnh liệt: + Bàn tay chỉ còn hai đốt vẫn cầm súng chiến đấu, vượt lên trên đau thương. - Bàn tay của tình yêu thương, nhân hậu: + Bứt hàng chục trái vả. + Che chở cho mẹ con Mai 3. Đánh giá chung. - Là hình ảnh giàu ý nghĩa. - Nghệ thuật: bút pháp sử thi làm nổi bật số phận, phẩm chất Tnú. - Thái độ tác giả: + Cảm thương, xót xa với nỗi đau của Tnú. + Tố cáo tội các của kẻ thù. + Khâm phục, ngợi ca phẩm chất Tnú. 2.2.3 Tình huống truyện. Đề 2: Tình huống trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Gợi ý: 1. Giới thiệu chung. - Vài nét về tác giả Kim Lân và tác phẩm “Vợ nhặt” . - Giới thiệu tình huống: Tràng – một thanh niên ngụ cư có ngoại hình xoàng xĩnh “nhặt” được vợ một cách dễ dàng giữa nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đây là tình huống hiếm gặp trong văn chương, được đánh giá là độc đáo, éo le và cảm động. 2. Tình huống nhặt vợ: - Tình huống và vai trò của tình huống trong truyện : Tình huống là tình thế xảy ra truyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự việc diễn ra rất đậm đặc, là khoảnh khắc chứa đựng cả đời người.Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn 35
cảnh và môi trường sống. Qua tình huống nhà văn bộc lộ tâm trạng, tính cách, thân phận của nhân vật…Tình huống góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ một cách sâu sắc. - Tình huống Vợ nhặt của Kim Lân: + Éo le: Tràng “nhặt” được vợ đúng vào thời điểm cái đói hầu như đã bao phủ bóng đen chết chóc lên tất cả - thời điểm chẳng ai nghĩ đến chuyện lấy vợ lấy chồng, nhưng trớ trêu là, nếu không “nhờ” nạn đói, Tràng lại không thể lấy nổi vợ…. + Độc đáo, bất ngờ: việc Tràng nhặt được vợ khiến cho những người dân ở xóm ngụ cư ngạc nhiên, gây bất ngờ cho bà cụ Tứ - mẹ Tràng. Ngay cả chính Tràng cũng “ngờ ngợ” như là “không phải thế”… 3. Ý nghĩa của tình huống nhặt vợ Tình huống nhặt vợ thể hiện sâu sắc giá trị tư tưởng của tác phẩm: - Làm bật lên giá trị hiện thực: + Phản ánh và khắc sâu được tội ác của giặc Pháp, Nhật và bè lũ tay sai (nhà văn không trực tiếp đưa ra hình ảnh bọn thống trị, nhưng qua cái đói mà chúng gây ra, vẫn phản ánh và khắc sâu được tội ác của chúng). + Phản ánh thân phận bi đát của con người trong nạn đói (cái đói khiến cho người chết như ngả rạ; khiến thân phận con người trở nên rẻ rung; người đàn bà thay đổi cả hình hài, trở nên liều lĩnh, trơ trẽn, phải thành vợ nhặt; bà cụ Tứ buồn tủi, lo lắng cho tương lai các con; cả nhà Tràng phải ăn cám sống qua ngày…). - Làm bật lên giá trị nhân đạo: Tình huống thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo: sự cưu mang đùm bọc nhau trong lúc khốn cùng, cùng khao khát hạnh phúc gia đình và hướng tới tương lai tươi sáng… Đề 2: Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Gợi ý: 1. Giới thiệu chung. - Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước,ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi,thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lí nhân sinh 36
- Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong thời kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh, qua đó thể hiện cách nhìn sâu sắc của tác giả về cuộc sống và sự băn khoăn về thân phận con người. 2. Tình huống truyện . - Tình huống và vai trò của tình huống trong truyện : Tình huống là tình thế xảy ra truyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự việc diễn ra rất đậm đặc, là khoảnh khắc chứa đựng cả đời người.Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh và môi trường sống. Qua tình huống nhà văn bộc lộ tâm trạng, tính cách, thân phận của nhân vật…Tình huống góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ một cách sâu sắc. - Tình huống trong truyện Chiếc thtuyền ngoài xa: Đó là tình huống nhận thức trước một hiện tượng đầy nghịch lí của cuộc sống. Nghệ sĩ Phùng đến vùng biển miền Trung chụp ảnh làm lịch và tiếp cận được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm hết sức thơ mộng. Ngay sau đó, tại bãi biển, anh chứng kiến nghịch cảnh của cuộc sống - đó là cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài sống trên chiếc thuyền kia. - Khía cạnh nghịch lí của tình huống: + Cảnh thiên nhiên toàn bích nhưng cảnh đời thì đen tối, người có thiện chí giúp đỡ nạn nhân lại bị nạn nhân từ chối quyết liệt. + Người vợ tốt lại bị chồng ngược đãi,vợ bị bạo hành nhưng vẫn cam chịu,quyết không bỏ chồng,lại còn bênh vực kẻ vũ phu đó,người chồng vẫn gắn bó nhưng vẫn cứ hành hạ vợ,con đánh bố... - Khía cạnh nhận thức của tình huống: Thể hiện qua những phát hiện về đời sống của hai nhân vật Phùng và Đẩu. - Nhận thức về nghệ thuật và cuộc sống của người nghệ sĩ: + Cái đẹp ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống (ban đầu Phùng ngây ngất trước cái đẹp bề ngoài của hình ảnh con thuyền, về sau anh nhận ra vẻ đẹp ngoại cảnh đó đã che lấp cuộc sống nhức nhối bên trong con thuyền) + Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp (tìm hiểu sâu gia đình hàng chài, Phùng lại thấy cuộc sống nhức nhối ấy làm khuất lấp nhiều nét đẹp của không ít thành viên trong gia đình) + Từ sự phức tạp ấy, Phùng nhận ra rằng để hiểu được sự thật đời sống không thể nhìn đơn giản, người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều và sâu sắc hơn. 37
- Nhận thức về con người và xã hội của người cán bộ (qua nhân vật Đẩu): + Đằng sau cái vô lí là cái có lí (việc người đàn bà bị hành hạ là vô lí, nhưng người đàn bà ấy không muốn rời bỏ chồng lại có lí riêng), đằng sau cái tưởng chừng đơn giản lại chứa chất nhiều phức tạp (ban đầu, Đẩu tưởng li hôn là cách giải quyết dứt điểm được sự việc, sau anh nhận ra quan hệ của họ có nhiều ràng buộc phức tạp hơn nhiều). + Muốn giải quyết những vấn đề của cuộc sống, không chỉ dựa vào thiện chí, pháp luật hoặc lí thuyết sách, vở, mà còn phải thấu hiểu cuộc sống và cần có giải pháp thiết thực 3. Ý nghĩa tình huống truyện: - Tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống và bộc lộ được cái nhìn nhân đạo của tác giả (mâu thuẫn giữa nghệ thuật giản đơn và cuộc đời phức tạp, mâu thuẫn nằm ngay trong đời sống, thân phận, và bản chất của con người....) - Nhờ tình huống truyện độc đáo, tác phẩm có sức hấp dẫn (kịch tính trong hành động và diễn biến mạch truyện, chiều sâu tâm lí...) 2.3. Dạng đề so sánh. 2.3.1. So sánh nhân vật. Đề 1: Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu). Gợi ý 1. Giới thiệu chung. - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm. - Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm. 2. Nhân vật người vợ nhặt. - Đây là nhân vật mang trong mình vẻ đẹp khuất lấp, qua nhân vật tác giả gửi gắm thông điệp của cuộc sống. Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau. Để rồi vẻ đẹp đó dần lộ ra, hấp dẫn người đọc như xem một bộ phim chứa chan tình cảm: tình người, tình mẫu tử, khát vọng vươn lên cuộc sống bèo bọt.... 38
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu: + Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt. Vì sự sống mà Thị bỏ hết tự trọng theo không Tràng mà không cần cưới hỏi, tạo lập một gia đình trong nạn đói... + Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ. Lễ phép với bà cụ Tứ, e dè khi đối diện với mẹ, cùng bà vun đắp cho tổ ấm gia đình... + Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. Sau đêm tân hôn Thị trở về dịu dàng đảm đang, tình yêu chân chính, khát vọng hạnh phúc gia đình khiến con người ta thay đổi... - Thị cùng với các nhân vật khác là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của Kim Lân: trong cái đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống... 2. Nhân vật người đàn bà hàng chài. - Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sắc nét, theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Qua đó giúp người đọc thấy được hạt ngọc ẩn chứa trong tâm hồn người lao động mà nhà văn Nguyễn Minh Châu suốt đời đi tìm. - Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu: + Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. Đó là lòng bao dung, thấu hiểu với lão chồng vũ phu, đó là tình mẫu tử cao đẹp, sẵn sàng hi sinh vì hạnh phúc của con cái... + Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi. Cố gồng mình lên để giữ cho các con một mái ấm gia đình... + Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. Chính mụ đã dạy cho Đẩu, Phùng những bài học về lẽ làm người, về cuộc sống vất vả mà nếu chỉ xem trên sách vở sẽ không có những trải nghiệm thật sự. Vì vậy trong đầu họ mới vỡ lẽ ra nhiều điều...để từ đó nhận ra rằng nghệ thuật không được xa rời cuộc sống, luật pháp phải gắn với tình người... 3. So sánh hai nhân vật. - Điểm tương đồng: + Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh.
39
+ Cả hai đều có ngoại hình xấu xí, nhưng ẩn bên trong là hạt ngọc tâm hồn đẹp đẽ. Đó mà điều mà các nhà văn đã rất trân trọng ở con người lao động. + Cả hai đều được khắc hoạ bằng những chi tiết chân thực... + Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, khát vọng vươn lên thường trực trong họ. - Điểm khác biệt: + Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. + Vẻ đẹp được khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình... 4. Lý giải sự khác biệt. - Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao(cảm hứng lãng mạn), thể hiện cách nhìn của Kim Lân về hiện thực cuộc sống trước cách mạng. - Người đàn bà chài lưới lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự - đời tư ). Nét khác biệt trong cách khai thác của nhà văn thể hiện cái tôi tài hoa của người nghệ sĩ. - Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng, phức tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này 5. Đánh giá chung. - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu. - Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân. Đề 2: Vẻ đẹp của hai nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt, A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài. Gợi ý 1. Giới thiệu chung. - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm. - Giới thiệu khái quát về hai nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân và A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
40
2. Vẻ đẹp của hai nhân vật. - Điểm giống: + Tràng, A Phủ, đều là những người nông dân nghèo, thật thà, chất phác, giản dị, nuôi sống bản thân và gia đình bằng bàn tay lao động của mình. Tràng dân ngụ cư làm nghề đẩy xe thuê, mẹ già cả...A Phủ là tôi tớ nhà thống lí, không mẹ cha, gia đình....Họ đều phải kiếm sống bằng sức lao động của mình. + Họ là những người cùng cảnh ngộ,đều là nạn nhân của hoàn cảnh đói khát, bị bóc lột, đè nén: A Phủ từ nơi khác lưu lạc đến Hồng Ngài, làm thuê, làm mướn. Tràng bị dồn đuổi bởi cái đói dừng chân, dựng nhà ở cuối xóm ngụ cư, bên mé bờ sông. => Cuộc sống của họ bấp bênh; do hoàn cảnh, do nghèo khó nên họ khó có thể lấy được vợ, có được vợ. + Bị đè nén bởi tư tưởng cai trị của giai cấp thống trị: Tràng không dám cướp thóc bỏ trốn khi có cơ hội. A Phủ không bước qua khỏi lời nguyền, trở thành kẻ ở gạt nợ cho thống lí Pá Tra; nhẫn nhục chịu đựng như con trâu, con ngựa. + Giàu ước mơ và khát vọng về hạnh phúc và mái ấm gia đình. Tràng vượt lên mọi hoàn cảnh khổ cực của bản thân; Tăm tối của cuộc sống để đến với hạnh phúc, đến với mái ấm gia đình, với thiên chức làm người cao cả "Trong một lúc Tràng như quên những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên". Tràng xôn xao, phấn khởi, sung sướng với hạnh phúc của đời mình. Khi cái đói đeo bám, cái chết đe doạ, Tràng vẫn không thôi nâng đỡ, tôn vinh những giá trị cao cả của cuộc sống. A Phủ: Dù khó lấy được vợ vì quá nghèo nhưng cái nghèo không kìm nén được bước chân của những con người biết tự mình vượt lên khỏi hoàn cảnh để được sống đúng ý nghĩa của cuộc sống. A Phủ cùng đám bạn rong ruổi theo những cuộc chơi khi mùa xuân về. Cùng thổi kèn thổi sáo; cùng réo rắt những bản tình ca gọi bạn đi chơi…Khi bị trói, nhận thức được cảnh ngộ của mình A Phủ đã khóc. Giọt nước mắt của sự cam chịu, bất lực, đồng thời cũng là giọt nước mắt khóc cho những ước vọng không thành, giọt nước của cuộc đời từ đây vĩnh biệt…. Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ khuỵ xuống, nhưng rồi khát vọng sống lại 41
khiến anh quất sức, vùng lên chạy. Đó là sự tiếp sức của lòng ham sống của, của khát vọng tự do + Đều hướng về ánh sáng cách mạng: CM đã soi đường chỉ lối cho A Phủ, đến Phiềng Sa, A Phủ trở thành một anh du kích dũng cảm, kiên cường . Anh có được tự do, hạnh phúc. Tràng chưa trở thành một anh du kích nhưng cuối tác phẩm tronh óc anh đã nghĩ tới đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Tác giả đã gieo hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, nhất định ngày mai trong đoàn quân của những người đói kéo nhau đi trên đê Sộp sẽ có Tràng, bà cụ Tứ và thị họ sẽ thoát khỏi đói nghèo và cuộc sống nô lệ. - Điểm khác: + Trong Vợ nhặt Tràng là nhân vật chính còn trong đoạn trích học Vợ chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ. + Tràng là anh nông dân nghèo trong nạn đói 1945 ở miền xuôi dưới sự cai trị trực tiếp của bọn thực dân, phát xít. A Phủ là người dân lao động miền núi, sống dưới sự cai trị của bọn chúa đất phong kiến, chúng lợi dụng cường quyền và thần quyền để biến những người dân nghèo thành nôlệ không công cho chúng, hết đời này sang đời khác. + Tràng được tác giả tập trung khắc hoạ bởi những diễn biến tâm lí phức tạp còn A Phủ lại được nhà văn Tô Hoài miêu tả bằng những hành động cụ thể, sinh động. - Lý giải sự khác biệt. + Hai tác phẩm này đều viết vào những thời kì nhạy cảm của đất nước, nhưng các tác giả đều cảm nhận được luồng gió cách mạng. + Tài năng và phong cách nghệ thuật của các tác giả khi đi viết về vẻ đẹp của người lao động, tạo nên những đóng góp sâu sắc cho văn xuôi hiện đại Việt Nam. 2.3.2 So sánh đoạn văn: Đề bài: Cảm nhận của anh / chị về hai đoạn văn sau: 1. Đoạn văn 1 “Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị cuốn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở
42
phái trong vách. A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh, thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi: - Mày muốn đi chơi à? Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại...” (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12 tập 2 - NXBGD trang 9) 2. Đoạn văn 2: “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá nơi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà mìn của công binh Mĩ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân. Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tập vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống hắn lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ! Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. (Trích Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12 tập 2 – NXBGD trang 92) Gợi ý 1.Giới thiệu chung ; - Tô Hoài và “Vợ chồng A Phủ”, Nguyễn Minh Châu và “Chiếc thuyền ngoài xa”. - Vị trí của từng đoạn trích trong tác phẩm. - Cảm nhận chung về hai đoạn trích.
43
2. Cảm nhận hai đoạn văn a. Giống nhau : - Cả hai đoạn văn đều nói về nạn bạo hành trong gia đình mà nạn nhân khốn khổ là những người vợ, và thủ phạm là những người chồng vũ phu. - Cả hai đoạn văn đều dùng bút pháp tả thực. Các chi tiết hiện lên tỉ mỉ sinh động khách quan. Vì thế mà sự tàn nhẫn của người đàn ông và nỗi đau đớn của người đàn bà đều được khác hoạ sắc nét… b. Khác nhau: * Đoạn trích trong “Vợ chồng A Phủ”. - Điểm nhìn trần thuật: từ ngôi thứ ba, tác giả có sự hoà nhập song trùng với chủ thể: chủ thể là người “ biết hết “ và giữ vai trò thống soái trong việc dẫn truyện, song không xuất hiện trực tiếp. Đây là cách trần thuật phổ biến của truyện ngắn thời kì này. - Tình huống và nhân vật: Mị chuẩn bị đi chơi ngày Tết, A Sử trói Mị lại rồi đi chơi. Tình huống chứa đựng những bất công, tàn bạo khiến người đọc phẫn nộ. - Nhân vật: được khắc hoạ trong quan hệ gia đình, nhưng trên bình diện giai cấp. Mối quan hệ giữa Mị và A Sử về thực chất là quan hệ giữa ông chủ và nô lệ, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. A Sử không cho Mị cái quyền được vui chơi ngày tết, trói vợ một cách tàn nhẫn độc ác và dửng dưng lạnh lùng như đối với một công việc bình thường quen thuộc…Còn Mị ngay khi có dấu hiệu hồi sinh sự sống đã bị vùi dập một cách thô bạo ... Tất cả làm dấy lên tình cảm thương xót đối với người phụ nữ bị chà đạp và thái độ căm phẫn đối với kẻ tàn bạo phi nhân tính… - Bút pháp: ngòi bút miêu tả tâm lý tính cách nhân vật sắc sảo , tinh tế . ngôn ngữ giàu tính điện ảnh. Chi tiết chọn lọc… - Lời văn tả hành động vũ phu của A Sử phần nhiều là câu ngắn và chỉ miêu tả thuần tuý hành động thể hiện sự lạnh lùng vô cảm… * Đoạn trích trong “ Chiếc thuyền ngoài xa “ - Điểm nhìn trần thuật: từ ngôi thứ nhất, với vai trò: người dẫn chuyện, xuất hiện trực tiếp như một nhân vật. Do đó, tác giả có thể thể hiện tình cảm, tư tưởng của mình một cách tự nhiên, linh hoạt, khách quan. - Tình huống và nhân vật : cảnh tượng người đàn ông đánh vợ dã man, bên cạnh chiếc xe rà mìn trên bờ biển. Tình huống chứa đựng những nghịch lí khiến người đọc cảm thấy kinh ngạc, khó hiểu. Nhân vật được khắc hoạ trong 44
mối quan hệ gia đình, trên phương diện cá nhân, góc độ thế sự đời thường. Người đàn ông đánh vợ một cách dã man nhưng “vừa đánh vừa rên rỉ đau đớn”, đánh vợ là một cách giải tỏa những ẩn ức, bế tắc trong lòng. Gánh nặng mưu sinh biến người chồng trở thành kẻ vũ phu thô bạo … Người vợ cam chịu nhẫn nhục là để bảo vệ gia đình … Điều đó gợi lên trong lòng người đọc nỗi xót thương xen lẫn lo âu… - Bút pháp: nổi bật là nghệ thuật xây dựng tình huống nghịch lí để giúp người đọc tự nhận thức. chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa … - Lời văn bao gồm câu dài, nghệ thuật liệt kê hàng loạt hành động lẫn thái độ bực tức diễn tả sự trút giận đầy “biểu cảm” đánh vợ như một sự giải toả tình thần nặng nề, giải toả một bi kich … 3. Đánh giá. - Cả hai đoạn trích đều thể hiện tình cảm nhân đạo của nhà văn nhưng mỗi người có một góc nhìn riêng, độc đáo. - Hai đoạn trích phần nào giúp ta hình dung nét độc đáo thuộc về phong cách của từng nhà văn. 2.3.3. So sánh hai chi tiết. Đề 1: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt - Kim Lân) “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt” (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) Anh/chị cảm nhận như thế nào về chi tiết “dòng nước mắt” trong những câu văn trên. Gợi ý 1. Giới thiệu chung: - Kim Lân và nguyễn Minh Châu, đều là hai nhà văn thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong sự nghiệp văn học của mình. - Cả hai truyện ngắn Vợ nhặt, Chiếc thuyền ngoài xa đều khắc họa tình người, tình mẹ, trong đó chi tiết dòng nước mắt là một phương tiện biểu hiện
45
2. Cảm nhận chi tiết dòng nước mắt ở hai truyện. a. Dòng nước mắt trong Vợ nhặt của Kim Lân. - Hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của bà cụ Tứ.: tình huống tràng nhặt được vợ, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ. - Cảm nhận chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ: + là biểu hiện của nỗi đau khổ,, tủi phận: con lấy vợ vào giữa nngày đói khiến bà vừa mừng, tủi vừa lo lắng. Giọt nước mắt chỉ rỉ ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc; Kẽ mắt kèm nhèm là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi. + Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng thương con thắt lòng của bà cụ Tứ. - Đánh giá: + Giá trị nội dung: Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ đã thể hiện được giá trị hiện thực của tác phẩm :phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945; giá trị nhận đạo; cảm thông thương xót, tố cáo xã hội phơi bày tình cảnh xã hội Việt Nam những năm sau chiến tranh và đêm trước thời kì đổi mới 1986; giá trị nhân đạo sâu sắc cảm thông, thương xót, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ. + Giá trị nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diẽn tả nội dung tâm nhân vật đặc sắc. b. Chi tiết dòng nước mắt trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. - Hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài: câu chuỵen gia đình hàng chài, diễn biến tâm trạng của người đàn bà hàng chài. - Cảm nhận chi tiết dòng nước mắt + Là biểu hiện của nỗi đau đớn; gia cảnh nghèo khó, bế tắc tình trạng bạo lực gia đình không có lối thoát, câu chuyện thằng con phạm vào tội ác trái luân thường đạo lí không thẻ giải quyết, nỗi lo lắng về sự phát triển nhân cách lêchị lạc của con đã không tìm được giải pháp,.. + Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi chồng đánh không hề có bất cứ phản ứng nào, nhưng hành động của con khiến chị như sực tỉnh, hư bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau tận cùng. - Đánh giá: 46
+ Giá trị nội dung : Chi tiết dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài đã thể hiện được giá trị hiện thực của tác phẩm: phơi bày tình cảnh xã hội Việt Nam những năm sau chiến tranh và đêm trước thời kì đổi mới 1986; giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm: cảm thông, thương xót, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ. + Giá trị nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diẽn tả nội dung tâm nhân vật đặc sắc. 3. So sánh a. Điểm tương đồng: - Về nội dung: + Đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn khổ. + Đều là “giọt châu của loài người”, giọt nước chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinh. + Đều góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm: tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả. - Về nghệ thuật: Đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn. b. Điểm khác biệt: - Về nội dung: Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ; bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình: Tràng có vợ vào lúc cái đói, cái chết đang ráo riết truy đuổi con người. Còn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài trào ra sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình bà đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình. - Về nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa chi tiết dòng nước mắt, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị, Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh. Đề 2: So sánh kết truyện của truyện ngắn “Chí Phèo “( Nam Cao) và “Vợ nhặt” (Kim Lân). Gợi ý 47
1 Giới thiệu chung. - Nam Cao và Kim Lân (Giới thiệu ngắn gọn) - Khẳng định: Cùng viết về người nông dân trước Cách mạng Tháng 8 nhưng họ lại có những khám phá khác nhau và đều hết sức thành công. Nam Cao đặc biệt nổi tiếng với truyện ngắn Chí Phèo, tên tuổi của Kim Lân cũng rạng rỡ nhờ truyện ngắn Vợ nhặt. Cả hai tác phẩm đều được đánh giá là những truyện ngắn hay của 2 nhà văn. Mỗi nhà văn đều chọn cho sáng tác của mình cách kết truyện độc đáo và giàu ý nghĩa. 2. Cách kết truyện của hai tác phẩm. - Truyện “Chí Phèo” kết thúc bằng cảnh Thị Nở khi nghe tin Chí Phèo chết đã nhìn nhanh xuống bụng, trong óc Thị hiện ra hình ảnh chiếc lò gạch bỏ không vắng người qua lại. - Truyện ngắn “Vợ nhặt” kết thúc bằng chi tiết: Trong óc Tràng hiện ra hình ảnh đám người đói đi phá kho thóc Nhật đang đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm. 3. So sánh: a. Giống nhau: - Cùng kết thúc bằng sự hình dung tưởng tượng của các nhân vật. - Nhân vật hình dung đều là những người dưới đáy cùng của xã hội, quay quắt bởi hoàn cảnh. b. Khác nhau: * Ở tác phẩm “Chí Phèo”: - Cách kết thúc truyện “Chí Phèo” gợi ra cuộc sống bế tắc của người nông dân trước cách mạng Tháng 8. Nhà văn nói lên một quy luật: Chí phèo cha chết đi sẽ có một Chí Phèo con ra đời. Tức là khi xã hội còn bất công tàn ác thì sẽ chưa hết những Chí Phèo (sẽ còn nhiều Chí Phèo xuất hiện). - Cách kết thúc còn thể hiện sự bế tắc trong tư tưởng của Nam Cao khi nhìn cuộc đời. Ông chưa tìm ra được hướng đi cho nhân vật. Cũng như nhiều truyện ngắn khác, nhân vật vẫn phải tìm đến cái chết. Nói như Nguyễn Tuân khi nhận xét về VHHT phê phán thì hầu hết các nhà văn chưa tìm thấy được ánh sáng dẫn đường để giải thoát nhân vật, may ra mới chỉ có Ngô Tất Tố, nhưng ông mới chỉ cầm được “bó hương” chứ chưa cầm được bó đuốc. - Mặc dù ánh chớp từ dưới lưỡi dao Chí Phèo vung lên kết liễu cuộc đời Bá Kiến từng rạch ngang bầu trời tăm tối nhưng cũng chỉ được trong chốc lát. 48
* Ở phẩm Vợ nhặt (nêu ý nghĩa kết truyện) c. Vì sao có sự khác nhau. - Cùng viết về người nông dân trước Cách mạng Tháng 8 nhưng hai nhà văn thuộc hai thế hệ khác nhau. - Hai tác phẩm được viết trong hai hoàn cảnh khác nhau. + Truyện ngắn Chí Phèo được viết khi ánh sáng Cách mạng chưa chiếu tới. Nam Cao chưa tìm được con đường đi cho nhân vật của mình. Chí Phèo đã dám cầm dao giết Bá Kiến nhưng rồi lại tự vẫn. Hình ảnh Chí giãy giụa trong vũng máu trước nhà Bá Kiến là đỉnh cao của sự bế tắc. Quy luật vẫn chưa chấm dứt. + Truyện ngắn Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết trước Cách mạng Tháng 8 nhưng bị thất lạc bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại, Kim Lân dựa vào cốt truyện cũ mà cô lại thành truyện Vợ nhặt. Kim Lân lúc này đã hiểu được sức mạnh của Cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc, hiểu được vai trò của nó đối với sự đổi thay trong cuộc đời người nông dân nên truyện của ông được kết thúc bằng con mắt lạc quan và khung cảnh tươi sáng. 2.4 Dạng đề liên hệ lớp 12 với lớp 11 Đề 1: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong buổi sáng đầu tiên sau khi Tràng có vợ (“Vợ nhặt” – Kim Lân). Liên hệ với tâm trạng của Chí Phèo trong buổi sáng đầu tiên tỉnh rượu sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Từ đó nhận xét về tấm lòng nhân đạo của các nhà văn. Gợi ý A.Mở bài: Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Có thể nói văn chương chân chính muôn đời luôn là tấm gương phản chiếu rõ nhất về hiện thực cuộc sống, con người, với những nét tinh túy nhất, bản chất nhất, để từ đó thực hiện chức năng “thanh lọc tâm hồn con người”. “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là một tác phẩm như thế. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng của cái đói. Tấm lòng ấy của nhà văn được thể hiện rất rõ qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng, trong buổi sáng đầu tiên sau khi Tràng có vợ. B. Thân bài: 1. Giới thuyết chung: - Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời. 49
- Giới thiệu ngắn gọn về nhân vật Tràng: + Tràng là một người dân ngụ cư, gia cảnh neo đơn, nghèo khó, lại thêm ngoại hình thô kệch, xấu trai, có phần dở tính. + Giữa thời buổi đói khát thê thảm, con người ta có thể trở nên ti tiện vì miếng ăn, vậy mà Tràng đã sẻ chia miếng ăn, chia sẻ cuộc đời với một người đàn bà khốn khổ. Người mà Tràng cưu mang, sẵn sàng đưa về làm vợ lại là một người phụ nữ xấu xí, đói khát, đáo để, chua ngoa, không có chút gì để hấp dẫn. Hành động này của Tràng thực sự là liều lĩnh, đến mức sau này khi nghĩ lại chính Tràng cũng cảm thấy chợn. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng đầy ngạc nhiên, bất ngờ trước quyết định của con trai song vẫn âm thầm vun vén hạnh phúc cho các con. Bên bờ vực của cái chết, bằng tình yêu thương, bằng khát vọng hạnh phúc, Tràng vẫn kiên cường, nỗ lực vươn lên với niềm hi vọng mãnh liệt vào tương lai. Buổi sáng đầu tiên sau khi Tràng có vợ là một bước ngoặt lớn, đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong tình cảm, nhận thức và hành động của nhân vật. 2. Phân tích: a. Cảm giác hạnh phúc: - Tràng như say trong hạnh phúc. Cái say ấy hiện hình thành một cảm giác tinh thần rất cụ thể. Một lần nữa ấn tượng của xúc giác quay trở lại: “một cái gì mới mẻ, lạ lẫm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. - Tràng như được nhào nặn lại từ chất liệu mới của hạnh phúc. Lần đầu tiên anh run rẩy trong cảm giác ngất ngây: Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa trong giấc mơ đi ra, việc có vợ hình như vẫn không phải. Hạnh phúc đến bất ngờ khiến Tràng ngỡ ngàng: “Ra hắn có vợ rồi đấy ư?”. Chính Tràng đã phát hiện ra vẻ mặt bần thần, nét buồn trên gương mặt thị hôm nay khác lắm. Rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực. Những chi tiết này cho thấy Tràng không còn là người con trai ngờ nghệch, vô tâm mà thực sự trở nên tinh tế, sâu sắc. b. Sau cảm giác lâng lâng vì hành phúc, Tràng chợt nhận ra sự thay đổi mới mẻ, khác lạ của căn nhà. Có lẽ chưa bao giờ người con trai vô tâm, ngờ nghệch ngày hôm qua lại quan sát không gian mình ở kĩ lưỡng đến như thế: - Nhà cửa, sân vườn, lối đi được quét sạch quang. - Những chiếc quần áo rách như tổ đỉa khươm mươi niên trong góc được đem ra phơi phóng.
50
- Và đặc biệt hai cái ang thường ngày khô khốc giờ đã “đầy ăm ăm”. Đây là hình ảnh của sinh khí rạo rực, một dấu hiệu của sự sống. - Căn nhà không chỉ có một diện mạo mới mà còn có một không khí mới: ấm áp, gần gũi, đơn sơ, bình dị mà thân thương biết mấy! Bà mẹ lúi húi giẫy cỏ. Nàng dâu quét tước, nấu nướng. Cảnh tượng diễn ra thật bình thường mà đối với Tràng nó thấm thía và cảm động. c. Không khí ấy đã tác động sâu sắc tới tình cảm và nhận thức của Tràng. - Có lẽ giờ đây anh mới thực sự hiểu được giá trị của một gia đình đầy đủ, hạnh phúc. Niềm vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập tâm hồn anh. Anh thấy yêu và gắn bó với ngôi nhà dù còn bao thương khó. Nhưng nó là nơi che mưa, che nắng cho cả gia đình anh. - Tràng có sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Hai chữ “nên người” như một nốt nhấn thật giản dị mà cảm động, thấm thía về sự biến đổi trong Tràng. Thế nghĩa là hắn đã khôn lớn, đã trưởng thành thực sự. Tràng thấy mình phải có trách nhiệm, bổn phận với người mẹ già cả cuộc đời dằng dặc khổ đau, với người vợ mới dù nghèo nhưng chăm chỉ, hiền thục. Cái gốc của sự thay đổi ấy chính là niềm hạnh phúc gia đình. d. Sự chuyển biến trong nhận thức, tình cảm đã thôi thúc ở Tràng một khao khát hành động. Chi tiết nghệ thuật đắt nhất của Kim Lân có lẽ là ở câu văn: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân….”. So với cái dáng đi “ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này là một đột biến, không chỉ ở dáng đi mà còn thay đổi cả số phận, tính cách của Tràng: Từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã phục sinh tâm hồn trong hạnh phúc. e. Dự cảm đổi đời. - Bữa cơm sáng đón nàng dâu mới thật thảm hại, với một lùm rau chuối thái rối, một nồi cháo loãng bõng nước và một nòi cháo cám. Khi ăn miếng cháo cám đắng chát, mặt Tràng chun ngay lại. - Câu chuyện của người vợ nhặt trong bữa ăn => Tràng chợt nhớ lại chuyện trên đê Sộp hôm nào: “Trong ý nghĩ của hắn……………….. Tràng cảm thấy tiếc vẩn vơ”. Nét tâm trạng mơ hồ này của Tràng gieo trong lòng độc giả một niềm tin: Nếu như có lần thứ hai gặp lại đoàn người đói, Tràng sẽ không bỏ lỡ cơ hội của mình. - Kết thúc tác phẩm là một chi tiết thật giàu sức nặng. “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Nếu thiếu đi chi tiết này, tác phẩm sẽ sa vào kết cấu khép kín giống như VH HTPT. Sự có mặt của chi tiết 51
này tạo nên kết cấu mở. Thiên truyện dù khép lại song số phận nhân vật sẽ mở ra một trang đời mới. Nhân vật vẫn tiếp tục vận động, hiện thực cuộc sống sẽ phát triển theo chiều hướng tích cực, hướng về phía ánh sáng. - Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới cháy lên một tín hiệu đổi đời, gợi mở ở Tràng con đường thanh toán triệt để số phận của Chị Dậu trong “Tắt đèn”, của anh Pha trong “Bước đường cùng”, để vươn tới một chân trời mới, một tương lai mới. 3. Liên hệ: a. Tóm tắt ngắn gọn về cuộc đời Chí Phèo: - Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ, ở thuê cho nhà bá Kiến. Vì sự ghen tuông của bá Kiến mà Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân ấy, oan trái thay, nó tiếp nhận con người khi người ta vô tội, lương thiện và trả người ta ra khi họ đã trở thành kẻ tha hóa, mất đi cả nhân hình và nhân tính. Ra tù, Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, bị đồng loại xa lánh. - Những tưởng cuộc đời Chí sẽ triền miên trong những cơn say, mãi sống kiếp thú vật như thế. Nhưng sự xuất hiện của Thị Nở, tình yêu thương mộc mạc của người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy đã đưa Chí từ cõi say trở về với cõi tỉnh, từ kiếp quỷ dữ trở về với kiếp người. b. Diễn biến tâm trạng Chí Phèo. - Buổi sáng đầu tiên sau khi tỉnh rượu, Chí nhận biết về cuộc sống xung quanh: âm thanh quen thuộc hàng ngày, tiếng gọi của cuộc sống lương thiện: tiếng chim hót, tiếng người thuyền chài gõ mái chèo, tiếng những người đàn bà đi chợ về… - Từ chỗ tỉnh rượu, Chí đã tỉnh ngộ, đã nhận thức về cuộc đời mình -> thức tỉnh. + Chí nhớ về quá khứ: ước mơ giản dị, nhỏ bé, cao đẹp thời trai trẻ. + Nghĩ tới hiện tại: già mà cô độc. + Lo lắng cho tương lai: tuổi già, đói rét, ốm đau…, nhất là sự cô độc. - Khi đón nhận bát cháo hành ấm áp tình người của Thị Nở, hết ngạc nhiên, xúc động, bâng khuâng, tới ăn năn, hối hận và rồi hắn khao khát được trở về cuộc sống lương thiện, khao khát hạnh phúc gia đình. Như vậy chính tình thương yêu của đồng loại đã làm hồi sinh ở Chí bản tính lương thiện. C. Kết bài: - Về nghệ thuật: Hai nhà văn đều mô tả chi tiết, chân thực, sinh động diễn biến tâm trạng của mỗi nhân vật ở vào thời điểm buổi sáng, gắn liền với sự
52
thức tỉnh, đổi thay của mỗi nhân vật qua cảm xúc và dòng suy nghĩ nội tâm của nhân vật. + Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, linh hoạt vừa khách quan vừa trữ tình. + Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế. - Tấm lòng nhân đạo: + Cả hai nhà văn đều nhìn người lao động với cái nhìn đồng cảm, xót thương, trước số phận đau khổ, bất hạnh của họ dưới ách áp bức của thực dân, phong kiến. + Tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của những con người bị đọa đày trong đau khổ, đồng tình với ước mơ, với khát khao đổi thay số phận, khát khao sống, khát khao hạnh phúc của con người. Với Chí Phèo Nam Cao tin tưởng vào bản chất lương thiện, trong sáng của những người nông dân ngay cả khi họ đã bị tha hóa, lưu manh hóa đến mức biến thành quỷ dữ. Qua đó nhà văn gửi gắm một thông điệp: chỉ tình thương mới có thể cảm hóa được cái xấu, cái ác, mới có thể cứu được tính người. Với Vợ nhặt, Kim Lân đã đặt người nông dân vào hoàn cảnh cái đói, cái chết đe dọa ghê gớm để từ đó ca ngợi lòng nhân hậu, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người. Cái nhìn và tấm lòng thấm đẫm cảm hứng nhân đạo. Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về khát vọng hạnh phúc của nhân vật Tràng (“Vợ nhăt” – Kim Lân). Từ đó liên hệ với khát vọng được sống lương thiện của nhân vật Chí Phèo (“Chí Phèo” – Nam Cao) để thấy được nét giống và khác nhau trong cách nhìn con người của hai nhà văn. Gợi ý A. Mở bài: B. Thân bài I. Giới thuyết chung: - Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời. - Tóm tắt mạch truyện: Truyện xoay quanh tình huống anh phu Tràng, một người đàn ông xấu trai, dở tính, nghèo hèn, nhiều tuổi, dân ngụ cư, bỗng dưng có vợ theo không về giữa thời buổi cái đói, cái chết đang bủa vây…… II. Cảm nhận về khát vọng hạnh phúc của Tràng: 1. Tâm trạng bay bổng trong hạnh phúc: 2. Sự biến đổi sâu sắc: từ một người đàn ông vô tư, ngờ nghệch trở nên chín chắn, sâu sắc, nghĩa tình, khao khát mãnh liệt sự đổi đời. 53
+ Trên đường đưa thị về. + Cách giới thiệu thị với mẹ. + Buổi sáng ngày hôm sau.... 3. Nhận xét chung: III. Liên hệ với Chí Phèo 1. Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Chí Phèo”. 2. Trình bày ngắn gọn về khát vọng được làm người lương thiện của Chí Phèo. - Chí Phèo từ đứa trẻ bỏ rơi bơ vơ, không nhà cửa, không họ hàng thân thích, làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến rồi bị đầy vào tù. - Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị huỷ hoại nhân tính đến nhân hình, bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. - Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện, nhưng bị xã hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn. - Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một hình tượng xã hội phổ biến ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, một bộ phận người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá 1. So sánh: a. Giống nhau: - Cả hai nhà văn đều có cái nhìn trĩu nặng yêu thương và đầy trăn trở suy tư về số phận người nông dân trước cách mạng tháng 8. - Trân trọng, đồng cảm với những khát vọng chính đáng của con người: khát khao hạnh phúc, khát khao được sống lương thiện. b. Khác nhau: - Trong Chí Phèo, qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình; từ đó cất lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương thiện cho những người cùng khổ; đồng thời thể hiện niềm tin và bản chất lương thiện của người lao động. Tuy nhiên trong tác phẩm, nhà văn vẫn có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận người nông dân. NC chỉ thấy họ là nạn nhân của hoàn cảnh mà chưa nhìn thấy ở họ khả năng cải tạo hoàn cảnh, khả năng vượt thoát khỏi số phận. 54
- “Vợ nhặt”: Qua tình cảnh, số phận thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp, KL khẳng định bản chất tốt đẹp của người lao động: Trong cảnh cùng đường đói khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, từ đó nhà văn thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin; vẫn khao khát có một mái ấm gia đình, khát khao về hạnh phúc, họ không nghĩ về cái chết mà chỉ nghĩ về sự sống. Kết thúc tác phẩm là dự cảm đổi đời của những người nông dân khốn cùng: Những người đói tất sẽ đi theo CM. Đó là đặc trưng trong tư tưởng nhân đạo của VH cách mạng: gắn tình thương với đấu tranh, gắn niềm tin vào tương lai tốt đẹp của con người. - Lí giải ngắn gọn: Do hoàn cảnh lịch sử, thời đại khác nhau. C. Kết bài : Đánh giá lại vấn đề. Đề 3: Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn người vợ nhặt (“Vợ nhặt” – Kim Lân). Từ đó, liên hệ với nhân vật thị Nở (“Chí Phèo” – Nam Cao) để thấy điểm gặp gỡ của hai nhà văn trong quan niệm về vẻ đẹp của con người. Gợi ý A. Mở bài B. Thân bài I. Giới thuyết chung: Hoàn cảnh ra đời, tóm tắt ngắn gọn nội dung cốt truyện II. Phân tích nhân vật người vợ nhặt 1. Lai lịch, số phận a. Lai lịch: - Người đàn bà không có tên. Đây là dụng ý nghệ thuật của Kim Lân. Con người ấy, thân phận ấy chỉ như một cánh bèo trôi dạt trong “bể đói”. KL gọi là “thị”, “vợ nhặt”, tính chất vô danh này có sức khái quát cho thân phận nói chung của người phụ nữ trong nạn đói. b. Số phận: - Người vợ nhặt không nhan sắc, không chốn nương thân, ngồi vêu ra ở cổng kho thóc Liên đoàn, đợi người đến mướn việc làm và để nhặt thóc rơi, thóc vãi kiếm ăn qua ngày. - Cái đói tàn phá ngoại hình người vợ nhặt: Chỉ qua hai lần gặp mặt mà Tràng không nhận ra người vợ nhặt, cái đói khiến chị ta trông thật thảm hại: quần áo rách như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt, ngực
55
lép kẹp, người gầy sọp đi => Cái đói đã tàn phá ngoại hình người vợ nhặt, cô trở thành người phụ nữ đáng thương và bất hạnh. - Cái đói còn tàn phá tính cách của thị: Ở người đàn bà không còn chút dịu dàng, e thẹn mà trở nên chao chát, chỏng lỏn, liều lĩnh: + Thị quên cả sự sĩ diện tối thiểu của một người phụ nữ, bám lấy câu hò giữa chợ, giữa đường như bám lấy cái phao cứu đói… Tràng đẩy xe hò… thị lon ton liếc mắt,… + Khi gặp Tràng lần thứ hai ở chợ, thị sưng sỉa trách móc: Điêu, người thế mà điêu! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống mà mất mặt. + Khi Tràng mời thị ăn, mắt thị sáng lên, thị ăn một lúc bốn bát bánh đúc…quệt ngang miệng, Tràng bông đùa mời thị về nhà, thị nhận lời theo Tràng về thật. c. Nhận xét: Vợ nhặt được Kim Lân miêu tả với tư cách là một nạn nhân trong những ngày đói. Tuy vậy, phải thấy bản chất của người vợ nhặt là tốt đẹp, lương thiện, những xộc xệch về nhân tính kia là do cái đói sinh ra. Người vợ nhặt sẽ hồi sinh khi hạnh phúc gia đình đến với chị. 2. Phẩm chất: a. Khao khát sống mãnh liệt: - Đằng sau những mảnh vỡ về tính cách do cái đói gây ra, trong con người thật của người phụ nữ vợ nhặt có cái e lệ của người phụ nữ đi lấy chồng. - Trên đường về xóm ngụ cư, vợ nhặt bước những bước ngượng ngùng, e thẹn rất phụ nữ. + Thị cắp cái thúng con đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn che nửa khuôn mặt. + Đi sau Tràng 3, 4 bước. + Trước những lời bàn tán của người dân xóm ngụ cư, thị chân nọ ríu vào chân kia. - Đến đây ta mới hiểu hành động theo không một người như Tràng, một kẻ tầm phơ tầm phào ở ngoài đường của người phụ nữ bất hạnh này, nguyên nhân chủ yếu là do khát vọng được sống, niềm hi vọng tìm được chỗ dựa để vượt qua nạn đói, tránh khỏi cái chết đang đợi chờ phía trước. b. Là người phụ nữ hiền thảo, biết cư xử, khao khát hạnh phúc gia đình: - Khi về đến nhà Tràng, trước một sự thật phũ phàng, người vợ nhặt không thể giấu nổi những nét tâm trạng hờn tủi, thất vọng của một con người. 56
Thị nhìn thấy: một con ngõ hoang đến cành dong dấp cổng, một mảnh sân lôn nhổn cỏ dại, căn nhà siêu vẹo. Thị buồn lo, thất vọng, xót xa, tủi hổ. Thị đảo mắt nhìn quanh, mặt tối sầm lại, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. - Tuy vậy, người vợ nhặt vẫn dũng cảm bước vào ngôi nhà ấy. Điều này cho thấy những phẩm chất tốt đẹp của người vợ nhặt mạnh hơn những lo buồn, xót tủi. Ban đầu thị đến với Tràng là vì miếng ăn để được sống nhưng hành động ở lại nhà Tràng, chấp nhận gia cảnh thê thảm ấy chứng tỏ khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc gia đình ở người vợ nhặt mạnh hơn tất cả. - Bước vào nhà Tràng, lần đầu tiên gặp bà cụ Tứ mẹ Tràng, thị lễ phép chào hỏi mẹ chồng: U đã về đấy ạ! Vì ngạc nhiên, người mẹ già đau khổ và từng trải ấy chưa kịp trả lời, thị bần thần ngồi ở mép giường, tay vân vê tà áo rách. Hành động này vừa cho thấy tâm trạng đầy xót xa, tủi cực khi phải theo không người khác, vừa cho thấy dấu hiệu của một người con dâu hiền thảo. Khi bà cụ Tứ hiểu ra cơ sự, người mẹ khốn khổ ấy đã khóc và nói những lời đầy yêu thương: Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…, cụ đon đả bảo nàng dâu ngồi xuống. Trước sự đối đãi của bà cụ Tứ, tâm trạng bế tắc của nàng dâu mới được giải thoát. Từ trong hạnh phúc, người vợ nhặt có những biến chuyển lớn. - Người vợ nhặt đi từ nhu cầu cứu đói đến nhu cầu tình yêu, hạnh phúc, từ người phụ nữ chao chát, chỏng lỏn đến cô dâu hiền thục, đúng mực, người vợ đảm đang, chu đáo, chị nghĩ đến cuộc sống gia đình, vun đắp tổ ấm vừa mới xây xong. + Dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa… + Sự đổi thay này chính Tràng cũng nhận thấy. Tràng nom thị hôm nay khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực. c. Dự cảm tốt đẹp về tương lai: - Ở cuối tác phẩm, không khí truyện được đẩy đến đỉnh điểm của sự ngột ngạt, của cái đói, cái chết. Bữa cơm đón nàng dâu mới với nồi cháo cám, 3 con người đói khổ ăn khi tiếng trống thúc thuế dồn dập ở ngoài sân đình. - Trong hoàn cảnh khốn cùng ấy, người vợ nhặt đã nói đến chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang, người dân đói đi phá kho thóc Nhật. Câu chuyện của người vợ nhặt đã dự cảm về một sự đổi thay số phận của những người đói trong đó có người vợ nhặt. 3. Chiều sâu tư tưởng của Kim Lân qua nhân vật vợ nhặt: - Kim Lân bày tỏ lòng xót thương vô hạn cho những con người năm đói bị đẩy xuống ngang hàng với súc vật, phải ăn cả cám. Thân phận hết sức rẻ rúng 57
như cọng rơm cọng rác bên đường, vợ mà có thể nhặt được ở đầu đường, xó chợ. - Gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít gây ra nạn đói. - Kim Lân thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động trong nạn đói: tình người cao đẹp, có khát vọng hạnh phúc gia đình và khát vọng sóng mãnh liệt. Đặc biết qua nhân vật vợ nhặt, nhà văn muốn minh oan cho người nông dân trong nạn đói, những xộc xệch về nhân tính của họ là do cái đói sinh ra chứ tuyệt nhiên không phải là bản chất. - Trong tác phẩm chưa có cuộc cách mạng nào nổ ra, nhưng hình ảnh người đói đi phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới ở cuối tác phẩm đã gợi lên sự đổi thay xã hội triệt để, tất yếu dẫn đến sự đổi thay số phận con người. Đó là cái nhìn nhân đạo mới mẻ, gắn tình thương với đấu tranh, gắn niềm tin vào nhân tính và tương lai tốt đẹp cho con người. III. Liên hệ với nhân vật Thị Nở 1. Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm “Chí Phèo”. 2. Về nhân vật Thị Nở - Thị Nở là một người phụ nữ với vẻ ngoài xấu ma chê quỷ hờn, tính tình vô duyên, lại thêm nhà có mả hủi nên bị khinh rẻ, ba mươi tuổi vẫn trong tình trạng ế chồng. Nhưng từ khi gặp gỡ và sống chung với Chí Phèo, những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật bắt đầu ngời sáng. - Khác với những con người làng Vũ Đại, thị Nở đến với Chí Phèo tự nhiên, không chút định kiến. Thị chăm sóc cho Chí bằng tất cả sự ân cần, yêu thương. Chính bát cháo hành xoàng xĩnh, được nấu bởi bàn tay vụng về của thị đã thức tỉnh Chí Phèo, mang Chí trở về với con đường lương thiện. 3. Nhận xét về quan niệm của hai nhà văn về cái đẹp của con người. - Như vậy, cả người đàn bà vợ nhặt và thị Nở đều có ngoại hình xấu xí, hoàn cảnh chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh, nhưng khi được sống trong tình thương yêu, họ lại toát lên vẻ đẹp phẩm chất rất đáng trân trọng có thể đại diện cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người và người phụ nữ nói riêng: trong sáng, nhân hậu. => quan niệm về vẻ đẹp của con người: cái đẹp của phẩm chất tâm hồn có khi bị che lấp bởi hoàn cảnh sống éo le, bởi hình thức bên ngoài xấu xí. - Là một sự gặp gỡ tình cờ trong quan niệm về vẻ đẹp con người hay do tính nhân văn, do cái nhìn đa diện nhiều chiều của văn học đã ngấm sâu trong tư tưởng của kim Lân và Nam Cao? 58
C. Kết bài: Khảng định vấn đề. Đề 4: Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong đêm tình mùa xuân (“Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài. Liên hệ với tâm trạng nhân vật Chí Phèo trong buổi sáng đầu tiên khi Chí tỉnh rượu, sau cuộc gặp gỡ với thị Nở trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Từ đó nhận xét về tấm lòng nhân đạo của các nhà văn. Gợi ý A. Mở bài: B. Thân bài: I. Giới thuyết chung - Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu đất cứu Mường) in trong tập Truyện Tây Bắc. - Tác phẩm là kết quả của chuyến thực tế dài 8 tháng đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952 của Tô Hoài. Trong chuyến đi đó, nhà văn có điều kiện sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng. Tô Hoài đã tâm sự: “Con người và thiên nhiên miền tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”. “VCAP” ra đời chính là kỉ niệm tấm lòng nhà văn với mảnh đất và con người nơi đây. - Truyện ngắn gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn. II. Phân tích 1. Giới thiệu về nhân vật Mị. - Một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo, tự trọng, khao khát sống tự do. - Tuy nhiên chỉ vì món nợ của cha mẹ mà cô bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí. - Danh nghĩa là con dâu nhưng Mị thực chất là nô lệ. Cô phải chịu những nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần. Từ một cô gái trẻ trung yêu đời, Mị đã dần trở nên chai sạn, vô cảm, tê liệt đi ý thức sống. - Tuy nhiên bằng cái nhìn nhân đạo, nặng trĩu yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện ra ẩn sâu bên trong một cô Mị lũi lũi như con rùa nơi xó cửa kia vẫn âm ỉ ngọn lửa của lòng ham sống mãnh liệt. Ngọn lửa ấy đã được thổi bùng lên
59
khi ngọn gió mùa xuân tràn về. 2. Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. a. Khung cảnh mùa xuân: Những tác nhân quan trọng tạo nên sự chuyển biến tâm lí nhân vật. - Sự thay đổi của ngoại cảnh khi xuân về: Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng; những chiếc váy hoa xòe ra trên mỏm đá như những con bướm sặc sỡ; không khí ngày tết tưng bừng…. => Sức sống, sức trỗi dậy mạnh mẽ của thiên nhiên làm nền cho sự trỗi dậy của lòng người. Tuy nhiên, sắc màu rực rỡ, tươi thắm của mùa xuân, sự biến đổi kì ảo trong màu sắc của loài hoa đặc trưng vùng Tây Bắc “hoa thuốc phiện vừa đỏ trắng lại sang màu đỏ hau, đỏ thậm rồi chuyển sang tím man mác”, chưa đủ sức làm nên sự nổi loạn trong tâm hồn Mị. - Tác nhân thứ hai đó là men rượu: + Chi tiết: “Ngày tết, Mị cũng uống rượu…”=> Mị uống nhanh, uống nhiều như để quên đi những uất ức, khổ đau. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. + Men rượu tác động đến Mị ở cả hai chiều thời gian: Mị lãng quên hiện tại: “Nhìn mọi người nhảy đồng, ốp đồng….. không hay biết”. Mị nhớ về quá khứ và nhận ra 2 điều: Mị nhớ mình từng rất xinh đẹp và tài năng; Mị nhớ những kỉ niệm hạnh phúc, những bữa rượu bên bếp lửa hồng cùng mẹ cha. + Nhưng men rượu nồng chỉ có thể đưa hồn Mị từ cõi quên về cõi nhớ, chứ chưa đủ sức xóa bỏ những xiềng xích tâm hồn đã áp chế Mị suốt bao năm qua. Cần phải có một tác nhân mạnh mẽ hơn. Đó chính là tiếng sáo. - Tiếng sáo: Nếu hình ảnh căn buồng Mị nằm là một trong những chi tiết có sức ám ảnh ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nhất thì hình tượng tiếng sáo đêm tình mùa xuân lại có sức quyến rũ lòng người nhất. Nó chứng tỏ nghệ thuật bậc thầy của TH trong miêu tả tâm lí nhân vật. + Tiếng sáo như một sinh thể có tâm trạng, nỗi niềm, có khát khao, mong nhớ, hoài vọng. Đó vừa là tiếng gọi của những mùa xuân trước, vừa là âm thanh vang vọng của mùa xuân nay, càng ngày tiếng sáo càng tác động mạnh mẽ đến Mị. + Ban đầu, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, vọng lại bên tai Mị “thiết tha, bổi hổi”. Từ láy bổi hổi thật tài hoa, không chỉ diễn tả được cái trạng thái xốn xang, rạo rực trong trái tim, trong lồng ngực Mị mà dường như có gì đó đang thổn thức, nức nở trong tâm hồn. Đôi môi vốn khô lạnh hằng ngày của Mị giờ đây đang mấp máy những giai điệu ngọt ngào: “Mày có con trai, con gái mày đi làm nương/ Tao không có con trai con gái/ Tao đi tìm người yêu…”. 60
+ Sau đó, tiếng sáo đến gần Mị hơn “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng đầy thiết tha, lôi cuốn. Rồi đến lúc tiếng sáo không chỉ gọi bạn mà còn gọi bạn yêu và lửng lơ bay ngoài đường như tình ai không thể tan, như lòng ai đợi chờ, hờn trách, nhắc Mị nhớ về một tình yêu cao đẹp mà dang dở: “Anh ném pao, em không bắt Em không yêu quả pao rơi rồi”. + Cuối cùng, tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, trở thành tiếng lòng thổn thức của người thiếu phụ: “Trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo”. => Tiếng sáo theo sát từng diễn biến tâm trạng của Mị, trở thành ngọn gió mùa xuân nồng nàn say đắm, thổi bùng lên đốm lửa của lòng ham sống còn âm ỉ trong tâm hồn tàn héo của Mị. b. Diễn biến tâm lí và hành động *Tâm trạng - “Mị thấy phơi phới trở lại. Trong lòng đột nhiên vui sướng”… Từ “đột nhiên” diễn tả cảm xúc đột ngột, bất ngờ nhưng đầy mạnh mẽ. Dường như Mị đã trở lại với chính mình của những năm xưa. - Trong Mị thức dậy ý thức và khát vọng: “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Những câu văn ngắn, dồn dập như tiếng lòng thiết tha, rạo rực, khao khát của người con gái bấy lâu héo tàn, nay đã hồi sinh trở lại. Như thể chỉ giây lát nữa thôi, Mị sẽ bước ra khỏi cái ngục thất tinh thần này để hòa mình vào cái tươi thắm của đất trời mùa xuân ngoài kia. Nhưng Mị không bước ra đường chơi mà từ từ bước vào buồng, ngồi xuống, trông xa cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ, trăng trắng. Hành động này lặp lại một cách vô thức, hệ quả tất yếu của quá trình áp bức, đè nén quá lâu. - Mị ngồi lặng im, nhưng trong đầu Mị đang trỗi dậy ý thức về quyền sống. Cô nhận ra sự bất công mà A Sử đối với Mị suốt bao ngày tháng qua. Lần đầu tiên, Mị dám chối bỏ duyên phận với A Sử “A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. - Khi ý thức về quyền làm người trỗi dậy mạnh mẽ, Mị lại muốn chết: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Đây là nét tâm lí mâu thuẫn nhưng hoàn toàn thống nhất trong con người Mị. Trước đây, khi bị thống lí Pá Tra lợi dụng cả thần quyền và cường quyền đầu độc, áp chế về tinh thần, Mị trở nên chai sạn, vô cảm, giống như một cái xác không hồn. Ngay cả khi cha đã mất, không còn gì ràng buộc, Mị cũng không còn nghĩ đến cái chết nữa. Nhưng khi ý thức về quyền sống trỗi dậy, Mị 61
lại muốn chấm dứt sự tồn tại vô nghĩa của mình. Cho nên nghĩ đến cái chết là hoàn toàn hợp với quy luật loogic của tình cảm và tính cách Mị. * Hành động - Nhưng rồi ý thức về sự sống đã mạnh hơn cái chết. Sức ám ảnh của tuổi xuân, của mùa xuân cứ lớn dần lên cho đến khi nó chiếm trọn tâm hồn Mị, khiến Mị chìm đắm vào ảo giác và hành động như một kẻ mộng du: - Lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho thêm sáng… => Ý thức về sự sống, ánh sáng. - Sửa soạn đi chơi: quấn lại tóc, lấy cái váy hoa…=> Ý thức về nhan sắc, tuổi xuân. - Tất cả những việc làm ấy của Mị như diễn ra trong giấc mộng du, Mị tuyệt nhiên không thấy sự xuất hiện của A Sử, không thấy A Sử bước vào, không thấy A Sử hỏi. - Khi sức sống và tuổi xuân của Mị trỗi dậy một cách mạnh mẽ nhất, nồng nàn và say đắm nhất thì Mị lại bị vùi dập một cách tàn nhẫn. Nhưng thật kì lạ, mặc cho A Sử trói đứng Mị vào cột nhà khiến cô không thể cúi, không thể nghiêng đầu được nữa, thì cô vẫn không phản ứng gì. Thực ra tả như thế mới chân thực vì Mị đâu có đang sống với thực tại. A Sử và sợi dây trói ác nghiệt của đời thực chưa thể làm kinh động giấc mơ của kẻ mộng du. + Trong bóng tối, Mị đứng lặng như không biết mình đang bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn, tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi. Chân Mị vùng bước đi. Đây là chi tiết đắt giá nói lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Ngay trong tình huống bi thảm nhất của đời mình, Mị vẫn bừng lên khát vọng được sống. Mị đã làm một cuộc vượt ngục tinh thần, tâm hồn Mị vẫn đuổi theo tiếng sáo để đến với những cuộc chơi xuân, Mị tha thiết, bồi hồi trong những câu hát tình tứ: Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào... Sợi dây tàn bạo của A Sử chỉ có thể trói buộc được thân xác Mị vào cột nhà, trong căn buồng tăm tối, u uất nhưng không thể giam giữ nổi tinh thần, khát vọng sống, khát vọng tuổi xuân của Mị. + Rồi đêm cũng tàn, tiếng sáo cũng tắt, Mị bị kéo lại với cuộc sống thực tại. Cô từng hoảng sợ khi nghĩ về người đàn từng bị trói đến chết ở nhà thống lí. Mị thổn thức xót xa khi nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách mà nghĩ mình còn khổ hơn con trâu con ngựa vì đêm đến chúng còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, còn Mị thì bị trói đứng suốt đêm. => Nhận xét: Tâm trạng của Mị nổi loạn trong đêm tình mùa xuân dù không giải phóng được số phận nhưng lại giàu ý nghĩa hiện thực, nhân đạo và thấm 62
đẫm chất thơ. Trong dòng chảy tâm lí của Mị, Tô Hoài đã khắc họa hai hình ảnh, hai chi tiết có sức ám ảnh mạnh mẽ đến người đọc: - Hình ảnh dây trói: xuất hiện khắp nơi, trở thành biểu tượng cho sức mạnh cường quyền, cho tội ác đầy tính dã man của chế độ quan lại miền núi nhằm chống lại con người, thật đáng phỉ nhổ. - Tiếng sáo: Điều kì diệu là trong dây trói, tiếng sáo vẫn vút lên như một sức sống không gì ngăn cản được. Tiếng sáo trở thành biểu tượng âm thanh cuộc sống, âm thanh của sự sống đang vang lên mãnh liệt trong tâm hồn Mị. - Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế, đạt đến phép biện chững tâm hồn. TH đã đặt nhân vật vào một hoàn cảnh thật căng thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong tâm hồn, từ đó làm nổi bật tính cách nhân vật, với sự dẫn dắt thật hợp lí, tự nhiên: Từ cõi tỉnh Mị chìm dần vào cõi mơ, từ cõi mơ lại trở về thực tại; giấc mơ ngọt ngào, hạnh phúc bao nhiêu thì hiện tại lại xót xa, đau đớn bấy nhiêu. - Qua đó ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn: không chỉ đồng cảm, xót thương cho cuộc đời tủi nhục của đồng bào vùng cao mà còn phát hiện, trân trọng khát vọng sống, khát vọng tự do của những con người bị đọa đày trong đau khổ. Tô Hoài như hóa thân vào nhân vật của mình để cất lên tiếng nói tâm hồn từ beentrong. Đó vừa là sự kế thừa tư tưởng nhân đạo của văn học truyền thống, vừa phát triển tư tưởng đó ở mức độ cao hơn. Con người không chỉ đấu tranh một cách tự phát mà chỉ có đấu tranh tự giác mới có thể giành lại được hạnh phúc. Vì thế, cuộc đời của Mị sẽ không thể câm lặng ở đây. III. Liên hệ 1. Tóm tắt ngắn gọn về cuộc đời Chí Phèo: Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ, ở thuê cho nhà bá Kiến. Vì sự ghen tuông của bá Kiến mà Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân ấy, oan trái thay, nó tiếp nhận con người khi người ta vô tội, lương thiện và trả người ta ra khi họ đã trở thành kẻ tha hóa, mất đi cả nhân hình và nhân tính. Ra tù, Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, bị đồng loại xa lánh. - Những tưởng cuộc đời Chí sẽ triền miên trong những cơn say, mãi sống kiếp thú vật như thế. Nhưng sự xuất hiện của Thị Nở, tình yêu thương mộc mạc của người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy đã đưa Chí từ cõi say trở về với cõi tỉnh, từ kiếp quỷ dữ trở về với kiếp người. 2. Diễn biến tâm trạng Chí Phèo. - Buổi sáng đầu tiên sau khi tỉnh rượu, Chí nhận biết về cuộc sống xung 63
quanh: âm thanh quen thuộc hàng ngày, tiếng gọi của cuộc sống lương thiện: tiếng chim hót, tiếng người thuyền chài gõ mái chèo, tiếng những người đàn bà đi chợ về… - Từ chỗ tỉnh rượu, Chí đã tỉnh ngộ, đã nhận thức về cuộc đời mình -> thức tỉnh. + Chí nhớ về quá khứ: ước mơ giản dị, nhỏ bé, cao đẹp thời trai trẻ. + Nghĩ tới hiện tại: già mà cô độc. + Lo lắng cho tương lai: tuổi già, đói rét, ốm đau…, nhất là sự cô độc. - Khi đón nhận bát cháo hành ấm áp tình người của Thị Nở, hết ngạc nhiên, xúc động, bâng khuâng, tới ăn năn, hối hận và rồi hắn khao khát được trở về cuộc sống lương thiện, khao khát hạnh phúc gia đình. Như vậy chính tình thương yêu của đồng loại đã làm hồi sinh ở Chí bản tính lương thiện. C. Kết bài: - Về nghệ thuật: Hai nhà văn đều mô tả chi tiết, chân thực, sinh động diễn biến tâm trạng của mỗi nhân vật, gắn liền với sự thức tỉnh, đổi thay của mỗi nhân vật qua cảm xúc và dòng suy nghĩ nội tâm của nhân vật. + Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, linh hoạt vừa khách quan vừa trữ tình. + Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế. - Tấm lòng nhân đạo: + Cả hai nhà văn đều nhìn người lao động với cái nhìn đồng cảm, xót thương, trước số phận đau khổ, bất hạnh của họ dưới ách áp bức của thực dân, phong kiến. + Tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của những con người bị đọa đày trong đau khổ, đồng tình với ước mơ, với khát khao đổi thay số phận, khát khao sống, khát khao hạnh phúc của con người. Với Chí Phèo Nam Cao tin tưởng vào bản chất lương thiện, trong sáng của những người nông dân ngay cả khi họ đã bị tha hóa, lưu manh hóa đến mức biến thành quỷ dữ. Qua đó nhà văn gửi gắm một thông điệp: chỉ tình thương mới có thể cảm hóa được cái xấu, cái ác, mới có thể cứu được tính người. Với Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã ngợi ca sức sống tiềm tàng ở những con người lao động khốn khổ tưởng như đã tê chai sạn, vô cảm, tê liệt ý thức sống dưới ách áp bức của bọn chúa đất vùng cao. Đề 5 : Cảm nhận của anh chị về diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ (“VCAP” – Tô Hoài). Hãy liên hệ với phần kết thúc truyện ngắn “Chí Phèo” (Nam Cao); từ đó chỉ ra điểm khác
64
nhau trong cách giải quyết số phận người nông dân trước và sau cách mạng tháng Tám qua hai tác phẩm. Gợi ý A. Mở bài B. Thân bài: I. Giới thuyết chung - Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời - Giới thiệu về nhân vật Mị. II. Phân tích 1. Hoàn cảnh: - Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành người ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. - Chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. 2. Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị - Ban đầu: Khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn thản nhiên, vô tình trước nỗi đau khổ của A Phủ. + Mỗi đêm khi Mị thức dậy nhóm bếp thổi lửa, ngọn lửa sưởi bùng lên A Phủ lại mở mắt trừng trừng nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. + Vì sao một cô gái trẻ trung từng yêu đời, yêu sự sống đến tha thiết như Mị khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra chịu bao đau khổ, tủi nhục lại vô cảm đến nhường ấy. Có lẽ là vì cảnh bắt người, trói người và hành hạ con người đã diễn ra quá quen thuộc ở nơi đây. Cho dù A Phủ hay bất cứ một người nào khác bị trói, bị hành hạ khổ sở đến thế Mị cũng đều thản nhiên, vô tình mà thôi. Khi người ta đã chứng kiến quá nhiều nỗi đau, nếu có thêm một nỗi đau mới cũng chỉ là chuyện bình thường. + Hơn nữa vào những ngày đau khổ, cùng cực nhất của cuộc đời A Phủ cũng là những ngày đau đớn đến tê dại trong cuộc đời Mị. Khi sức sống của Mị đang trỗi dậy mạnh mẽ trong những đêm tình mùa xuân, thì đã bị A Sử vùi dập một cách tàn nhẫn, làm tê liệt hoàn toàn khát vọng sống của Mị. Tâm hồn Mị đã 65
giá băng. Ngọn lửa bập bùng cháy mỗi đêm đông chỉ có thể xua tan đi cái lạnh giá của đêm đông vùng rẻo cao Tây Bắc, chứ không thể sưởi ấm tâm hồn Mị. “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng cho sự chai sạn, vô cảm hoàn toàn trong tâm hồn Mị. + Đêm đêm, Mị trở dậy sưởi lửa như một thói quen vô thức. Đến mức dù bị A Sử đá ngã quay ra cửa bếp thì đêm hôm sau Mị vẫn tiếp tục dậy thổi lửa. Quả thực, thật khó ai có thể diễn tả hay hơn Tô Hoài về nỗi cô đơn, héo hắt của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc trong mỗi đêm đông. - Thế nhưng, khi nhìn thấy A Phủ khóc “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen lại của A Phủ”, Mị đã thay đổi. + Chi tiết giọt nước mắt của A Phủ có giá tri biểu đạt cao, tạo nên bước ngoặt chuyển biến trong tâm hồn Mị. Đó là giọt nước mắt đau khổ và tuyệt vọng của một chàng trai gan góc, dũng cảm, căm ghét cường quyền giờ phải chết trong đau xót và tủi nhục. Giọt nước mắt cuối cùng, hiếm hoi, nóng bỏng, lấp lánh nỗi đau khổ cùng cực ấy đã đánh thức cảm xúc, tâm hồn, lẽ sống nhân hậu, giàu tình yêu thương của Mị. + Thức tỉnh nỗi đau của chính mình: Nhìn thấy A Phủ khóc, Mị chợt nhớ lại tình cảnh đau khổ, tuyệt vọng của mình vào đêm mùa xuân năm trước, cũng bị A Sử trói đứng thế kia, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không thể lau đi được. Như vậy, giọt nước mắt của A Phủ đã làm đồng hiện nỗi đau của Mị trong quá khứ. Từ tình cảnh của A Phủ Mị đã nhớ lại nỗi đau của chính mình, xót xa cho cuộc đời cay đắng, tủi nhục của mình. Như một lẽ tự nhiên của quy luật tình cảm chỉ khi nào người ta biết thương mình thì mới có thể thương người. + Thay đổi nhận thức: Khi thức tỉnh nỗi đau của chính mình, Mị cũng nhận ra tội ác của bọn thống trị. Dưới bàn tay tàn bạo của bọn chúng, không biết bao người đã chết ở cái nhà này: Từ người đàn bà ngày trước, đến Mị, rồi đến A Phủ bây giờ… + Thay đổi tình cảm: • Mị thấy thương và lo cho A Phủ: cơ chừng này chỉ nay mai là người kia chết, chết đau, chét đói, chết rét, phải chết. Nếu A Phủ khỏe mạnh, có thể vượt qua được nỗi đau vì bị đánh đập hèn hạ thì có lẽ anh sẽ phải chết vì đói, hay chết vì cái rét tê buốt, nhức nhối ở vùng cao. Mị nhận ra cái chết của A Phủ là vô lí “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Người kia việc gì phải chết?”. 66
• Hai tiếng A Phủ vang lên trong tâm trí Mị, nghe nhẹ nhàng như hơi thở của tình thương. => Như vậy, dòng nước mắt lấp lánh của A Phủ có thể xem là giọt nước cuối cùng làm tràn li. Nếu ngọn bập bùng sáng trong đêm đông không thể làm tan chảy lớp băng giá trong tâm hồn Mị thì dòng nước mắt của A Phủ đã làm trái tim Mị hồi sinh. Nam Cao đã từng ca ngợi “nước mắt là giọt châu của loài người” là vì thế! - Đấu tranh nội tâm: Tuy nhiên, lúc này Mị vẫn chưa thể cứu A Phủ vì ý thức thần quyền vẫn thống trị tâm thức tâm trí Mị. Đám than đã vạc hẳn lửa, nhưng lại có một ngọn lửa khác đang bùng lên trong tâm hồn Mị. Tô Hoài đã miêu tả chi tiết, chân thực diễn biến nội tâm đầy mâu thuẫn, giằng xé, căng thẳng ở Mị. • Ngồi lặng trong bóng tối, Mị nhớ lại đời mình, một cuộc đời đầy tủi nhục, buồn đau. • Mị tưởng tượng đến một lúc nào đó, A Phủ trốn được rồi, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy, nghĩ thế trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ. Đây là những suy nghĩ chín chắn, sâu sắc, đầy tính nhân văn ở Mị. Mị sẵn sàng hi sinh cuộc sống vốn đã quá buồn đau của Mị để cho A Phủ được sống. Đây là quyết định của tình yêu thương. Và quy luật tất yếu của tình thương chính là sự hi sinh. Đến đây, Mị đã hoàn toàn giải phóng về tinh thần và chuẩn bị có hành động táo bạo. - Hành động táo bạo: • Cứu người: Mị rút con dao nhỏ hàng ngày vẫn dùng để cắt lúa để cắt dây mây cởi trói cứu A Phủ. Cô chỉ thì thào được một tiếng: “Đi ngay!” • Cứu mình: Sau khi A Phủ đã quật sức chạy khỏi nhà thống lí, Mị lại sống trong những giấy phút đấu tranh nội tâm căng thẳng: Ở lại, đối diện với cái chết, Mị lại sợ chết, bởi xét đến cùng, Mị vẫn là cô gái trẻ trung, yêu đời, yêu sống thiết tha và có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. • Khát vọng ấy đã giúp Mị có sức mạnh chiến thắng thế lực thần quyền. Mị đã tự cắt sợi dây trói vô hình của cuộc đời mình để chạy theo A Phủ, chạy thoát khỏi địa ngục chốn trần gian này. Ý nghĩa: + Hành động của Mị tuy táo bạo, bất ngờ song hoàn toàn hợp với lôgic diễn biến tâm lí và phù hợp với tính cách của Mị. 67
+ Nó nói lên một quy luật tất yếu: tức nước thì vỡ bờ, có áp bức, có phản kháng. + Những con người như Mị và A Phủ cần phải có ý thức tự giác, tự vùng lên giải phóng cuộc đời mình, như vậy mới có cơ hội đổi đời. II. Liên hệ phần kết của Chí Phèo: 1. Tóm tắt cuộc đời Chí Phèo Chí Phèo vốn có một thân phận khốn khổ từ khi sinh ra: hắn là đứa trẻ bị bỏ rơi, không nhà cửa, không họ hàng thân thích. Tuy nhiên, đã có một thời Chí cũng là một người nông dân lương thiện khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn. Nhưng rồi, từ một thanh niên hiền lành, Chí bị Bá Kiến vô cớ đẩy vào tù, nhà tù thực dân đã biến Chí thành một tên lưu manh, mang diện mạo của một con quỷ dữ, mất cả nhân tính lẫn nhân hình, bị cả dân làng xa lánh, ruồng bỏ. Giữa bóng tối mênh mông của cuộc đời, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, được thị săn sóc, yêu thương, từ đó ý thức nhân tính trong con người Chí Phèo đã thức dậy. Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống bằng phẳng của những con người lương thiện. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô Thị Nở hiện thân của những thành kiến, định kiến bất công, tồi tệ, vô nhân đạo của xã hội cũ đã không cho Thị Nở "đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Thế là Chí Phèo thực sự lâm vào một tấn bi kịch tâm hồn đau đớn: bi kịch bị xã hội dứt khoát cự tuyệt làm người. Kết cục Chí Phèo phải tìm đến một cái chết đầy bi phẫn, thảm thương của một con vật. 2. Cách kết thúc truyện “Chí Phèo” gồm 2 chi tiết - Chí Phèo đâm chết Bá Kiến và tự sát. - Nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong đầu thị hiện ra hình ảnh “Cái lò gạch cũ bỏ không xa nhà cửa và vắng người qua lại” - > Ý nghĩa : + Chí Phèo chết. Đó là kết cục bế tắc mang tính tất yếu khi con người (đã thức tỉnh) bị dồn đẩy đến bước đường cùng buộc phải lựa chọn giữa cái chết và sống lưu manh, tha hóa. + Hình ảnh cái lò gạch cũ. (Sau khi Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng của mình, trong đầu thấy thấp thoáng cái lò gạch cũ bỏ không, vắng người qua lại). Đây vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng. Không gian hoang tàn, đổ nát là nơi bắt đầu một thân phận bất hạnh, một kiếp đời tăm tối. Khi một Chí Phèo chết đi, xuất hiện trong ý nghĩ của Thị Nở vẫn là cái không gian hoang vắng ấy. Nó báo hiệu một viễn cảnh u ám, bi đát, sẽ có một Chí Phèo 68
khác lại ra đời. Chi tiết ấy gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch bị tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân. Kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng vừa gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, vừa giúp nhà văn tô đậm chủ đề tư tưởng: Cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn chừng nào giai cấp thống trị phong kiến như Bá Kiến, Lí Cường còn tồn tại. + Kết thúc truyện cũng thể hiện được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ. + Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận, khiến độc giả cũng như nhà văn không khỏi trăn trở, đau đáu về thân phận con người. III. So sánh 1. Giống nhau: Cả hai kết thúc đều là những kết thúc mở, giàu sức gợi: một mặt vừa phản ánh được hiện thực tăm tối của người lao động nghèo, người nông dân nghèo trước Cm; mặt khác thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mỗi nhà văn. 2. Khác biệt: - Kết thúc “Chí Phèo” phản ánh hiện thực quẩn quanh, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng, hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại. Đau đáu trước số phận bất hạnh của người nông dân nhưng Nam Cao chỉ nhìn thấy con người là nạn nhân của hoàn cảnh chứ chưa nhìn thấy lối thoát cho người lao động. Đây cũng là hạn chế chung của các cây bút hiện thực bấy giờ (So sánh Chị Dậu, anh Pha…). - Kết thúc “Vợ chồng A Phủ” phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người: Có ý thức phản kháng lại hoàn cảnh, tự giải thoát cuộc đời mình. Tô Hoài đã có thể nhìn thấy được cả bóng tối và ánh sáng bao trùm hiện thực trước cách mạng. Nhà văn không chỉ thấy con người là nạn nhân của xã hộimà con phát hiện khả năng con người có thể cải tạo và làm chủ hoàn cảnh, làm chủ số phận mình. C. Kết bài: đánh giá lại vấn đề Đề 6: Phân tích hai phát hiện của nhân vật Phùng trên bãi biển trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (“Vũ Như Tô” – Nguyễn Huy Tưởng, từ đó nhận xét về thông điệp nghệ thuật của hai nhà văn. 69
Gợi ý A. Mở bài - Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của văn học VN thời kì đổi mới, “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Từ ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình, lãng mạn, sau năm 1975, NMC chuyển sang khai thác các vấn đề thế sự đời tư, có ý triết lí nhân sinh sâu sắc. - “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà văn ở giai đoạn này. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thực cuộc đời đằng sau tấm ảnh, truyện mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn cuộc sống, về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Bài học đó được gửi gắm sâu sắc thông qua những phát hiện của Phùng. B. Thân bài I. Giới thuyết chung - Hoàn canhra đời: “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời năm 1983 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đã đi qua gần một thập kỉ nhưng âm vang hào khí chiến thắng vẫn còn vang vọng trong tâm hồn mỗi người dân Việt. Tuy nhiên, trở về với muôn mặt đời thường thời hậu chiến, đất nước ta phải đối mặt với rất nhiều những thách thức, khó khăn, không ít những vẫn đề nóng bỏng cần được giải quyết. Trong khi đó, nhiều người vẫn bằng lòng với quá khứ, ngủ quên trên chiến thắng. - Là nhà văn luôn có ý thức sâu sắc về sống và viết, Nguyễn Minh châu không khỏi băn khoăn, trăn trở bên trang giấy trước đèn để đào sâu vào những tầng vỉa của hiện thực đời sống. “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời là kết quả của những suy tư, trăn trở đầy tính nhân văn ấy. II. Phân tích phát hiện của Phùng về nghệ thuật và và sự thật đời sống 1. Phát hiện về bức ảnh nghệ thuật a. Hoàn cảnh dẫn tới phát hiện - Theo đề nghị của trưởng phòng, Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh đã tìm về một vùng ven biển miền Trung, nơi từng là chiến trường xưa cũ của anh để chụp một bộ ảnh tĩnh vật về chủ đề thuyền và biển. - Sau một tuần lang thang trên bãi biển, dù đã dự tính bố cục, Phùng vẫn chưa tìm được khoảnh khắc nào ưng ý. Nghệ thuật là như thế, cái đẹp đâu phải
70
lúc nào cũng dễ kiếm tìm; những tác phẩm để đời lại càng phải đời hỏi từ quá trình chưng cất của cảm xúc, của hiện thực cùng sự chín nở của tài năng. - Đúng vào lúc không ngờ nhất, khi trời đầy mù từ ngoài biển bay vào, lác đác mấy hạt mưa, cảnh biển trở nên mơ màng, đang lúi húi quay phim thì Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa đang tiến vào bờ. - Dẫn chứng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe…” b. Cảm nhận của Phùng về kiệt tác nghệ thuật - Là một người lính từng trong chiến tranh, bom đạn, hơn ai hết, Phùng hiểu rất rõ ý nghĩa mong manh của sự sống và cái chết, anh cũng thấu hiểu sâu sắc hơn bao giờ hết cái đẹp mà anh vô tình phát hiện ra có ý nghĩa như thế nào giữa chiến trường một thời vang tiếng súng này. - Phùng đánh giá rất cao về phát hiện của mình: + Một cảnh đắt trời cho + Bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ + Một vẻ đẹp toàn bích, cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh. - Tâm trạng của Phùng: Không giấu nổi niềm cảm xúc dâng trào, Phùng bối rối “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh đang rung động đến từng tế bào, từng vi mạch cảm xúc. - Từ cái đẹp ấy, anh phát hiện ra chân lí của sự toàn thiện, toàn mĩ, rằng bản thân cái đẹp chính là đạo đức, có khả năng gột rửa, thanh lọc tâm hồn con người. Chân lý về cái đẹp ấy đâu phải chỉ riêng Phùng cảm nhận được. Đã có biết bao người đề cao, tôn thờ cái đẹp như một tôn giáo đó sao? Đôt-x tôi-épxki, nhà văn với sứ mệnh hòa giải các mâu thuẫn cuồng nhiệt của nước Nga cuối thế kỉ XIX đã cho rằng: “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Còn Thạch Lam, nhà văn lãng mạn của Việt Nam lại cho rằng: “Văn chương phải là một thứ khí giới thanh cao mà đắc lực để vừa tố cáo, thay đổi một xã hội giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn”. Chẳng phải lựa chọn, Phùng bấm liên thanh hết ¼ cuốn phim để có thê thu được trọn cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn do ngoại cảnh đem lại. 2. Phát hiện về hiện thực đời sống ngay trên bãi biển sau khoảnh khắc Phùng xúc động hạnh phúc khi chụp được cảnh đắt trời cho. a. Hoàn cảnh - Đúng vào lúc Phùng đang sống đến tận cùng những giây phút hạnh phúc do cái đẹp của nghệ thuật mang lại thì anh phát hiện ra một sự thật đầy đau xót và nghịch lý ẩn đằng sau chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ kia. 71
b. Nội dung - Khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, Phùng nghe thấy tiếng lão đàn ông nói chõ lên thuyền: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày bây giờ!”. Cách xưng hô “mày”, “tao”, sự đe dọa, uy hiếp đầy bạo lực khiến Phùng cảm thấy bàng hoàng. Lúc này đây, trái tim anh như ngừng đập trước hiện thực trớ trêu của cuộc sống. - Phùng ngạc nhiên hơn khi bước ra từ kiệt tác nghệ thuật hiếm có kia không phải là những con người hiền hòa, đôn hậu, tràn đầy niềm vui sau một chuyến ra khơi trở về đất liền mà là những con người lam lũ, nhọc nhằn, xấu xí như bước ra từ câu chuyện cổ quái đản. + Đó là người đàn bà chạc ngoài bốn mươi……. (miêu tả người đàn bà) + Lão đàn ông với mái tóc tổ quạ, hai con mắt độc dữ dưới hàng lông mày cháy nắng…. - Có thể nói hiện thực nham nhở, xù xì đang hiện ra trước mắt đã làm lụi tắt hoàn toàn những rung cảm của Phùng về nghệ thuật. Nó còn cứa vào trái tim anh một vết thương đau đớn. Không chỉ phát hiện ra cách nói năng đầy thô bạo của lão đàn ông, Phùng còn phát hiện ra cảnh bạo lực gia đình đầy thương tâm: “Đợi người đàn bà đến bãi xe tăng hỏng, ngay lập tức…. ông nhờ” (trích dẫn chứng). Khi đánh vợ, lão đàn ông không chỉ đày đọa người đàn bà về thể xác bằng những trận đòn roi khủng khiếp đến tàn bạo mà còn xúc phạm đến đau đớn tinh thần của người đàn bà khốn khổ. - Thật không thể ngờ rằng bãi biển năm xưa từng diễn ra trận đánh ác liệt của tá với giặc Mĩ, nay trở về hòa bình, lẽ ra nhân dân phải được hạnh phúc thì lại là nơi tiếp diễn những bi kịch ngang trái, xót xa. - Có áp bức, có đấu tranh; có áp bức, có chống trả, đó là quy luật tất yếu. Vậy mà quy luật ấy ngay lúc này lại không diễn ra ở vùng đất một thời chiến tranh bom đạn. Người đàn bà hoàn toàn cam chịu, không kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn. Điều gì khiến chị có thể chịu đựng những trận roi khủng khiếp đến nhường ấy? Phải chăng người đàn bà nhếch nhác, khổ sở, tội nghiệp kia là người quê mùa, thất học nên không có ý thức về quyền sống hay do thường xuyên bị hành hạ nên chị đã chai sạn, vô cảm trước nỗi đau bầm da tím thịt, hay đằng sau cảnh bạo lực nhức nhối kia còn có điều gì ẩn ức mà Phùng chưa thể hiểu. c. Tâm trạng của Phùng: - Khi chứng kiến cảnh tượng đau lòng ấy, Phùng vô cùng kinh ngạc, trong mấy phút đầu, anh cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Nhưng với bản chất của người 72
lính nhân hậu, chính trực, Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới để bênh vực người đàn bà. Như thế, Phùng đã không ngần ngại hi sinh thứ nghệ thuật vị kỉ để bảo vệ con người trước cái ác. d. Nhận thức của Phùng - Nhưng những bước chân hối hả của anh không chiến tắng nổi thằng Phác, con trai cuẩ cặp vợ chồng làng chài. Mặc dù sống với ông ngoại trên rừng nhưng trái tim nó luôn hướng về phía biển, nơi mẹ nó hàng ngày phải chịu đòn roi. Khi phát hiện ra bố đang bạo hành mẹ trên bãi xe tăng hỏng, nó “lao qua… tới đích” (dẫn chứng), nhảy xổ vào lão đàn ông, tìm cách bênh vực mẹ. - Sự thật đau lòng diễn ra hiển hiện trước mặt: vì thương mẹ, thằng bé sẵn sàng đánh trả lại người cha rồi hứng chịu hai cái tát tàn bạo của lão. Đánh vợ con xong, lão đàn ông lẳng lặng bỏ đi về phía thuyền không hề quay mặt lại. lão nghĩ gì khi lẳng lặng bỏ đi? Vì sao tấm lưng rộng và cong như mái thuyền của hắn có vẻ cúi thấp xuống? Hiện thực đầy uẩn khúc chưa thể lý giải khiến trái tim Phùng trĩu nặng bao suy tư. Để rồi, ngay sau đó, Phùng lại phát hiện tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp trong chính cảnh bạo lực ngang trái. - Sau khi lão đàn ông đã bỏ đi, người đàn bà mới sống với cảm xúc thực của mình. Chị cảm thấy xấu hổ, nhục nhã. Ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, chị ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, “chắp tay… ôm chầm lấy”. Thì ra người đàn bà ấy thương con vô cùng. Chị có thể cam chịu, nhẫn nhục đến cứng cỏi, gan lì trước những trận đòn roi của chồng nhưng lại hoàn toàn sụp đổ trước nỗi đau của đứa con thơ. Nguyễn Minh Châu sử dụng một hình ảnh so sánh đầy ám ảnh. Nỗi đau của thằng Phác không khác gì “một viên đạn” xuyên qua tâm hồn người đàn bà tội nghiệp, khiến trái tim chị tan ra thành nước mắt. Trên bãi cát mênh mông hoang vắng, không chỉ có vị mặn của biển mà còn có vị mặn đến đắng chát của nước mắt người đàn bà. Hành động của chị còn diễn tả niềm ân hận xót xa của người mẹ khi không thể bảo vệ được con mình. Vì thương con, không muốn con phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ, người đàn bà dứt ruột gửi con lên rừng cùng ông ngoại và tưởng rằng làm như thế sẽ khiến con không bị tổn thương. Nhưng rồi chị bất lực khi chính mình không thể bảo vệ được con mình khỏi bố nó. => Như vậy, sau cảnh bạo lực gia đình, Phùng đã khám phá và phát hiện ra vẻ đẹp lấp lánh như ngọc trong tâm hồn người đàn bà vị tha, độ lượng, bao dung, nhân hậu với chồng, với con. Có thể nói, đây là vẻ đẹp khuất lấp còn tiềm ẩn trong sự lấm láp của cát bụi đời thường. - Chứng kiến cảnh bạo lực gia đình, từ bàng hoàng kinh ngạc, Phùng trở nên căm giận, bất bình. Đến khi chứng kiến tình mẫu tử cao đẹp, thiêng liêng, 73
anh ngơ ngác giữa hai vùng hiện thực và giấc mơ để rồi cay đắng đau xót nhận ra cảnh bạo lực gia đình khiến những bức ảnh anh dày công chụp được bỗng hiện hình khủng khiếp. 3. Ý nghĩa hai phát hiện - Những phát hiện về hiện thực đã giúp Phùng nhận ra chân lý của hiện thực đời sống và chân lý nghệ thuật. - Đằng sau vẻ đẹp của chiếc thuyền lưới vó kia là nỗi đau khôn cùng, khôn tả của con người. Bản thân cái đẹp chưa chắc đã là đạo đức. Cũng là chiếc thuyền lưới vó nhưng nhìn ở khoảng cách ngoài xa đó là kiệt tác nghệ thuật, còn nhìn ở cự li gần người ta lại phát hiện bao điều nhức nhối. Thì ra giữa nghệ thuật và đời sống còn một khoảng cách rất xa. Người nghệ sĩ đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, trước khi là một người nghệ sĩ biết rung cảm trước cái đẹp hãy là một con người biết yêu thương, biết rung động trước mọi buồn vui của cuộc sống. Mỗi người nghệ sĩ cần rút ngắn khoảng cách cự li với đời sống để đem đến cho người đọc một tác phẩm chân thực nhất, vị nhân sinh nhất. - Không chỉ gửi gắm quan niệm về nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu còn đem đến một quan niệm quý giá cho chúng ta về cách nhìn nhận, đánh giá con người: hiện thực không đơn giản, xuôi chiều, con người cũng không thể nhìn nhận một cách đơn giản phiến diện mà cần phải có một cái nhìn đa diện, nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật sự của đời sống. 4. Liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô a. Giới thiệu chung - Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử, ông có rất nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Một trong những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là bi kịch lịch sử “Vũ Như tô”. Trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” thông qua nhân vật Vũ Như Tô, tác giả cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống. b. Nhân vật Vũ Như Tô - Vũ Như Tô vốn là một kiến trúc sư thiên tài và đam mê nghệ thuật, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. - Nhưng ông là một nghệ sĩ có nhân cách và có lý tưởng nghệ thuật hết sức cao đẹp, không phải là người ham sống sợ chết hay chỉ vì chút công danh mà phải bán thân mình cho nghệ thuật. Lúc đầu, ông nhất định thà chết chứ không xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua bạo ngược, nhưng khi nhận ra giá 74
trị nghệ thuật để lại cho đời thì ông lại quên mất một thực tế là dân chúng đang đói khổ. - Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của nhân dân ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Vũ Như Tô càng quyết tâm xây dựng Cửu Trùng Đài thì các mâu thuẫn ngày càng theo đó mà khó giải quyết và Đan Thiềm càng khuyến khích Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì xung đột giữa người nông dân và con người nghệ thuật ngày càng tăng cao. - Có thể nói khát vọng nghệ thuật của Vũ Như Tô là chân chính nhưng nó được đặt không đúng chỗ, không kịp thời, không tính đến giá trị cuộc sống thì nghiễm nhiên chính nó sẽ tự trở thành tai họa. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là phạm nhân và cũng vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm mặc dù được giải quyết nhưng không được thỏa đáng. Vũ Như Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm ông không hề có ý định hại dân, khi chết ông vẫn chưa nhận ra được sai lầm của mình. - Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân. c. Nhận xét: - Cả hai tác phẩm đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật nhưng chỉ vì chưa thấy rõ sự đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng buồn. Nghệ sĩ Phùng đã thấy được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai nhưng Vũ Như Tô phải lấy cả cái giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình. - Tuy được viết vào hai bối cảnh xã hội văn hóa khác nhau, đối tượng tồn tại khác nhau và phong cách của hai nhà văn cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng họ đều có một điểm chung đã lật ra lá bài của nghệ thuật. + Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng thì chỉ đem lại bi kịch thảm khốc như của Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. + Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng không phải lúc nào nó cũng đẹp. + Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống, nghệ thuật xa rời cuộc sống chỉ là thứ nghệ thuật vị kỉ. + Điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên nhiều phương diện. 75
- Cả hai nhà văn đã cho ta nhận thức được cái đẹp của nghệ thuật như thế nào, con sđường tìm kiếm, đi đến và chinh phục nghệ thuật sẽ ra sao. Tuy không đem lại kết cục như mong đợi nhưng hai nhà văn dường như đã bộc lộ hết vẻ tài tình qua những lời văn của mình. Ngôn ngữ điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn từ và hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, đó chính là cái tài mà không dễ ai có được. Và cũng nhờ nghệ thuật chân chính mà cái tài đó càng thêm sâu sắc hơn, thấm đẫm với chúng ta hơn. C. Kết bài: đánh giá lại vấn đề. 2.5 Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học (truyện ngắn) - Một nhận định, phê bình, ý kiến đánh giá văn học được đưa ra có thể mang tính tổng hợp, có thể nhận định một tác phẩm cụ thể. Và học sinh phải dùng kiến thức một hoặc nhiều tác phẩm để chứng minh. - Những năm gần đây, đề thi thường cho hai nhận định trong đề, hoặc tương đồng, hoặc đối lập về một hay nhiều vấn đề ( nhân vật, chi tiết nghệ thuật,...), trong một tác phẩm hay nhóm tác phẩm có cùng đề tài. Từ đó học sinh dùng thao tác phân tích, chứng minh, bình luận,…để làm bài. Đề 1: Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là sử dụng hiệu quả nghệ thuật miêu tả tương phản, đối lập. Hãy phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ ý kiến trên? Gợi ý 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn rất mực tài hoa uyên bác. Sáng tác của ông trước và sau Cách mạng tháng 8 đều gửi gắm tình cảm thiết tha với quê hương đất nước. - Chữ người tử tù in trong tập Vang bóng một thời (1940) là truyện ngắn xuất sắc kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân. Trong tác phẩm, bên cạnh hình tượng nhân vật Huấn Cao, hình tượng nhân vật viên quản ngục cũng được nhà văn xây dựng thành công, gửi gắm những quan điểm tiến bộ về cái đẹp cái thiện. 2. Giải thích nhận định. - Nghệ thuật miêu tả tương phản, đối lập là một trong những nét đặc trưng của văn học lãng mạn. Các nhà văn lãng mạn thường đi tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời tầm thường, tăm tối, khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp. - Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã miêu tả sự đối lập giữa tính cách với hoàn cảnh, giữa ánh sáng với bóng tối. 76
3. Phân tích truyện, chứng minh ý kiến. a. Sự đối lập giữa tính cách với hoàn cảnh. - Hoàn cảnh: môi trường tù ngục đen tối, xấu xa, cảnh ngộ éo le với những áp lực nặng nề phải đối mặt dễ khiến con người tha hóa. - Tính cách các nhân vật: có nhân cách, lương tâm khác biệt với thế giới đen tối, tội lỗi; có dũng khí (dũng khí của bậc anh hùng ở Huấn Cao, dũng khí của bậc hiền nhân ở Quản ngục) - Sự chiến thắng tuyệt đối của tính cách với hoàn cảnh: quản ngục dù sống trong hoàn cảnh đen tối vẫn giữ niềm đam mê cái đẹp và một thiên lương trong sáng; Huấn Cao dù phải đối diện với án tử hình vẫn hiên ngang, bất khuất, bộc lộ tài năng và tấm lòng cao quí. b. Sự đối lập giữa ánh sáng với bóng tối. - Bóng tối: theo nghĩa thực là của đêm khuya, của buồng giam tử tù; theo nghĩa tinh thần là cảnh ngộ éo le mà con người phải đối mặt (Huấn Cao chịu án tử hình, quản ngục sống trong môi trường của cái xấu, cái ác) - Ánh sáng: theo nghĩa thực là bó đuốc tẩm dầu; theo nghĩa tinh thần là ánh sáng tỏa ra từ cái đẹp của nghệ thuật (chữ Huấn Cao) và của tư thế, tâm hồn con người. Chính thứ ánh sáng này soi sáng con đường để những kẻ tri âm đến với nhau. - Ở cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã khẳng định sự chiến thắng tuyệt đối của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp với cái xấu xa. 4. Đánh giá chung. - Bút pháp miêu tả tương phản đối lập là một nét độc đáo trong nghệ thuật viết truyện của Nguyễn Tuân, mang đậm màu sắc lãng mạn. - Nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả tương phản đối lập đã góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm và khẳng định tài nguyên. Đề 2: Nhà văn Kim Lân đã từng nói về “Vợ nhặt” của mình: Những người đói họ không nghĩ đến cái chết , mà nghĩ đến cái sống. Hãy chứng minh điều đó qua các nhân vật của Vợ nhặt. Gợi ý 1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, 2. Ý nghĩa nhân bản của câu nói . 77
- Câu nói thể hiện cái nhìn đầy tính nhân bản chứa đựng một triết lí lạc quan sâu sắc của con người trong cuộc sống mà ở đây là những con người lao động cùng khổ đang ở trên bờ vực của cái chết. - Sống gần gũi họ ,cùng cảnh ngộ với họ , nhà văn không chỉ hiểu mà còn tin yêu họ, tin vào cái sức sống bất diệt của họ . -Từ niềm tin những con người khốn cùng Kim Lân đã viết nên câu chuyện Vợ nhặt thật cảm động . 3. Chứng minh qua các nhân vật a. Những nhân vật của Kim Lân đang phải sống trong một cảnh ngộ cực kì bi đát b. Một sức mạnh kì diệu đã giữ họ lại với cuộc sống: - Bà cụ Tứ:: Người mẹ nông dân nghèo đã đến cái tuổi “gần đất xa trời” vậy mà trong những ngày đói khủng khiếp này bà vẫn hướng về cuộc sống, hy vọng ở tương lai. - Nhân vật Tràng: Cái sống không chỉ là tìm cách kiếm cái ăn qua những ngày đói mà còn mang ý nghĩa hạnh phúc . - Nhân vật người vợ nhặt: Trong nạn đói vẫn nghĩ về cái sống và hướng về cái sống . - Dân ngụ cư: Xôn xao, bừng sáng lên trong khoảnh khắc của buổi chiều khi Tràng dẫn vợ về. 4. Đánh giá chung: Các nhân vật trong Vợ nhặt ,những người đói ấy ,đã không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống, điều này làm nên giá trị nhân bản sâu sắc của tác phẩm và cho ta thấy nét đẹp của tâm hồn nhân hậu và sức sống bất diệt của người nông dân lao động trong những ngày khủng khiếp nhất của trận đói năm 1945. Đề số 3: Về nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), có ý kiến cho rằng: Mị là người cam chịu, nhẫn nhục, chai sạn, vô cảm về tâm hồn. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: Mị là cô gái có khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt. Từ cảm nhận về nhân vật Mị trong tác phẩm, anh/chị hãy bình luận hai ý kiến trên. Gợi ý 1. Giải thích:
78
- Người cam chịu, nhẫn nhục là người không có tinh thần phản kháng, đấu tranh; luôn đầu hàng, chấp nhận số phận, hoàn cảnh mặc dù bị xúc phạm, đày đọa nhân phẩm và quyền sống. - Chai sạn, vô cảm về tâm hồn là tâm hồn không có cảm xúc, không có rung động, hoàn toàn thản nhiên, lạnh lùng trước mọi biến cố, vui buồn của cuộc sống. - Người có khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt là người có khát khao, hi vọng, tin tưởng vào một cuộc sống tốt đẹp, tự do; luôn tích cực, chủ động, vươn lên đấu tranh để có được cuộc sống tự do, hạnh phúc. 2. Cảm nhận về nhân vật Mị và bình luận hai ý kiến a. Cảm nhận về nhân vật Mị * Mị là người cam chịu, nhẫn nhục: - Mị là cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu đời, hiếu thảo, chăm chỉ lao động. Vì gia đình có món nợ truyền kiếp với nhà thống lí Pá Tra nên Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ. - Danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất Mị là tôi tớ, là nô lệ cho nhà thống lí. Sự thống trị về cường quyền và thần quyền đã khiến Mị hoàn toàn cam chịu thân phận nô lệ. * Mị là người chai sạn, vô cảm về tâm hồn - Từ khi về làm dâu nhà thống lí, Mị không có ý niệm về thời gian, không có ước vọng hạnh phúc, tương lai, không có ý thức về giá trị, nhân phẩm và quyền sống. Mị nghĩ mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí. - Những đêm đông giá lạnh ở vùng cao, Mị thức dậy thổi lửa, A Sử đi chơi về, liền đánh Mị ngã ngay ra cửa bếp, nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. - Nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị thản nhiên, lạnh lùng. A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế mà thôi. * Mị có khát vọng sống mãnh liệt, biểu hiện rõ nhất là trong đêm tình mùa xuân: - Khi làm dâu nhà thống lí : khóc, định ăn lá ngón tự tử. - Bức tranh thiên nhiên mùa xuân, men rượu và tiếng sáo là những tác nhân quan trọng làm nên sự nổi loạn trong tâm hồn Mị.
79
- Mị có sự thay đổi về tâm trạng và hành động. (Thí sinh cần phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật để làm rõ khát vọng sống mãnh liệt). * Mị là cô gái có khát vọng tự do. Điều đó được thể hiện qua diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Ban đầu: Mị thản nhiên, lạnh lùng. Nhìn thấy A Phủ khóc, Mị đã thức tỉnh. Tâm hồn chai sạn, vô cảm vì đau khổ của Mị đã hồi sinh. Mị đã cắt dây cởi trói cứu A Phủ và tự giải phóng cuộc đời mình. * Nghệ thuật xây dựng nhân vật : Cách kể chuyện hợp lí, hấp dẫn; miêu tả chân thực, tinh tế thế giới nội tâm phong phú của nhân vật. Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu chất thơ. Những yếu tố văn hóa, phong tục, thiên nhiên, cuộc sống, con người Tây Bắc được vận dụng một cách nghệ thuật. b. Bình luận về hai ý kiến: Khẳng định tính đúng đắn của hai ý kiến. Hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau, giúp người đọc cảm nhận đầy đủ về vẻ đẹp nhân vật, cuộc sống của đồng bào vùng cao và tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài. Đề 4: Về nhân vật thị trong tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là người phụ nữ lao động nghèo, cùng đường và liều lĩnh. Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: Thị là người giàu nữ tính và khát vọng. Từ cảm nhận của mình về nhân vật, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên. Gợi ý 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm - Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và người nông dân. - Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí (1962). Một trong những thành công của tác phẩm này là Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật thị - người phụ nữ khốn cùng trong nạn đói. 2. Giải thích ý kiến - Người phụ nữ cùng đường, liều lĩnh: Người phụ nữ bị dồn đẩy vào một hoàn cảnh nghiệt ngã, không lối thoát, trở nên táo bạo trong ngôn ngữ và hành động, dường như không còn ý thức được về nhân cách và phẩm giá của mình. - Người phụ nữ giàu nữ tính và khát vọng: Người phụ nữ có nhiều nét đẹp dịu dàng, nhân hậu, nhiều mơ ước, khát khao. 3. Cảm nhận về nhân vật thị và bình luận hai ý kiến a. Cảm nhận về nhân vật thị 80
- Người phụ nữ lao động nghèo, cùng đường và liều lĩnh (1,0 điểm) + Thị là người phụ nữ lao động nghèo, cùng đường: Thị cùng mấy người con gái khác đã phải ngồi vêu ở cửa nhà kho để nhặt hạt rơi hạt vãi. Ngoại hình của thị tiều tuỵ với áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Cái đói đã dồn đẩy thị vào hoàn cảnh nghiệt ngã, phải tìm mọi cách để có thể sống sót qua ngày. + Thị là người phụ nữ liều lĩnh: Thị bám vào mấy câu hò vu vơ của một người đàn ông xa lạ, đòi ăn một cách thẳng thừng và ăn một cách thô tục, không ý tứ. Đỉnh điểm của sự liều lĩnh ấy là việc theo không Tràng về làm vợ. - Người phụ nữ giàu nữ tính và khát vọng + Thị giàu nữ tính: Trên con đường từ chợ về nhà, thị rón rén e thẹn đi sau Tràng chừng ba bốn bước, xóc xóc lại tà áo; trước những cặp mắt đổ dồn về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia... Nữ tính còn thể hiện rõ hơn vào buổi sáng hôm sau, thị trở nên hiền hậu và đúng mực không còn vẻ gì chao chát và chỏng lỏn. Thị biết vun vén, chăm sóc gia đình. + Thị giàu khát vọng: Đó là khát vọng vượt qua nạn đói thê thảm, có một tổ ấm gia đình đơn sơ, hạnh phúc và một tương lai tốt đẹp. - Nghệ thuật thể hiện + Nhân vật được đặt vào một tình huống truyện độc đáo, lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách. + Nhân vật được khắc hoạ sinh động, thể hiện tâm lý tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng đậm cá tính, thể hiện hơi thở của đời sống lao động bình dân. b. Bình luận hai ý kiến - Hai ý kiến đề cập đến những phương diện khác nhau về tính cách nhân vật. Ý kiến thứ nhất nhấn mạnh đến hoàn cảnh trớ trêu đối với thân phận con người, ý kiến thứ hai khẳng định vẻ đẹp tâm hồn sâu xa của người nông dân Việt Nam dẫu bị đẩy vào đường cùng vẫn khao khát hạnh phúc, hướng tới tương lai. - Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành sự nhìn nhận toàn diện và thống nhất; giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc và thấu đáo hơn về vẻ đẹp của nhân vật và tư tưởng của nhà văn.
81
C. Hiệu quả của sáng kiến: Sáng kiến: Những vấn đề cơ bản khi luyện thi THPT Quốc gia phần truyện ngắn hiện đại Việt Nam đã mở ra một vài hướng đi hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng học tập và thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn của học sinh khối 12 trường THPT Bến Tre. Giúp các em biết cách khám phá, đọc hiểu văn bản truyện, từ đó cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác phẩm truyện ngắn. Biết cách làm các dạng đề nghị luận về tác phẩm truyện ngắn. Có khả năng ứng dụng những kiến thức đã học vào việc giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống. Cụ thể:
82
1 Kết quả điều tra ban đầu (khi chưa thực hiện luyện thi chuyên đề này): Lớp
Tỷ lệ HS Giỏi
Tỷ lệ HS Khá
Tỷ lệ HS TB
Tỷ lệ HS Yếu
12A4
4/36
10/36
20/36
2/36
Sĩ số: 36
11%
28%
56%
5%
12A5
2/35
8/35
20/35
5/35
Sĩ số: 35
6%
23%
57%
14%
Biểu đồ: Chưa thực hiện
Lớp đối chứng
Lớp thực nghiệm Tỷ lệ HS Yếu Tỷ lệ HS Giỏi 5% 11%
Tỷ lệ HS TB 56%
Tỷ lệ HS Yếu 14%
Tỷ lệ HS Khá 28%
Tỷ lệ HS Giỏi 6% Tỷ lệ HS Khá 23%
Tỷ lệ HS TB 57%
83
2. Kết quả khảo sát sau khi đã thực hiện chuyên đề này. 2.1. Điểm thi kháo sát chuyên đề lần II năm học 2017-2018 (Trường) Lớp
Tỷ lệ HS Giỏi
Tỷ lệ HS Khá
Tỷ lệ HS TB
Tỷ lệ HS Yếu
12A4
6/36
14/36
15/36
1/36
Sĩ số: 36
16%
39%
42%
3%
12A5
4/35
10/35
18/35
3/35
Sĩ số: 35
11%
29%
51%
9%
Biểu đồ: Lần II Trường
Lớp thực nghiệm
Lớp đối chứng
Tỷ lệ HS Yếu Tỷ lệ HS 3% Giỏi 16% Tỷ lệ HS TB 42%
Tỷ lệ HS Yếu 9%
Tỷ lệ HS TB 51%
Tỷ lệ HS Khá 39%
84
Tỷ lệ HS Giỏi 11% Tỷ lệ HS Khá 29%
2.2. Khảo sát chất lượng thi THPT Quốc gia lần II (Sở) Lớp
Tỷ lệ HS Giỏi
Tỷ lệ HS Khá
Tỷ lệ HS TB
Tỷ lệ HS Yếu
12A4
8/36
16/36
11/36
1/36
Sĩ số: 36
22%
44%
31%
3%
12A5
4/35
13/35
16/35
2/35
Sĩ số: 35
11%
37%
46%
6%
Biểu đồ: Lần II (2017-2018) Sở
Lớp đối chứng
Lớp thực nghiệm Tỷ lệ HS Yếu 3% Tỷ lệ HS TB 31%
Tỷ lệ HS Tỷ lệ HS Yếu Giỏi 6% 11%
Tỷ lệ HS Giỏi 22%
Tỷ lệ HS TB 46%
Tỷ lệ HS Khá 44%
85
Tỷ lệ HS Khá 37%
2.3. Kết quả thi THPT Quốc gia năm học 2017 – 2018 (Bộ) Lớp
Tỷ lệ HS Giỏi
Tỷ lệ HS Khá
Tỷ lệ HS TB
Tỷ lệ HS Yếu
12A4
9/36
18/36
8/36
1/36
Sĩ số: 36
25%
50%
22%
3%
12A5
7/35
16/35
10/35
2/35
Sĩ số: 35
20%
46%
28%
6%
Biểu đồ: THPTQG 2017-2018 (Bộ)
Lớp thực nghiệm Tỷ lệ HS Yếu 3% Tỷ lệ HS TB 22%
Lớp đối chứng Tỷ lệ HS Yếu 6%
Tỷ lệ HS Giỏi 25%
Tỷ lệ HS TB 28%
Tỷ lệ HS Khá 50%
Tỷ lệ HS Khá 46%
86
Tỷ lệ HS Giỏi 20%
7.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến - Hiệu quả của mỗi giờ dạy học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố định hướng là vô cùng quan trọng. Khi dạy một giờ đọc văn - đọc hiểu văn bản muốn thành công, đầu tiên giáo viên phải định hướng cho học sinh kĩ năng đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. Hướng dẫn học sinh khám phá những khía cạnh nội dung, nghệ thuật của tác phẩm theo thể loại. Có như vậy mới giúp học sinh cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, mơí đánh giá được năng lực Ngữ văn của học sinh. - Thiết nghĩ, việc nghiên cứu “ Những vấn đề cơ bản khi luyện thi THPT quốc gia phần truyện ngắn hiện đại Việt Nam ", là một việc làm cần thiết và quan trọng của mỗi giáo viên. Để từ đó có thể nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập và thi cử của học sinh theo đánh giá năng lực hiện nay. - Trong phạm vi chuyên đề này, với mục đích trang bị cho học sinh các kiến thức về đặc trưng thể loại truyện , cách đọc – hiểu tác phẩm truyện ngắn, giai đoạn văn học và phong cách nghệ thuật của nhà văn trong việc tìm ra phương pháp phân tích, cảm thụ, khai thác các góc độ khác nhau trong phần các tác phẩm truyện ngắn lớp 11, 12; gợi ý giải một số đề cụ thể, thường gặp trong các kì kì thi THPTQG hiện nay. Đúc rút từ thực tế trải nghiệm của bản thân trong công tác giảng dạy và ôn thi THPT Quốc gia, tôi đã mạnh dạn trình bày chuyên đề này với mong muốn để các đồng nghiệp tham khảo, góp phần nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng giáo dục tỉnh nhà. - Với kinh nghiệm còn hạn chế, chuyên đề chỉ là những ý kiến chủ quan của bản thân, không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp, để chuyên đề của tôi được hoàn thiện, có tính ứng dụng, tính hiệu quả cao. Đáp ứng được những yêu cầu đổi mới của Bộ Giáo dục,hiện nay. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Trong sáng kiến kinh nghiệm này không có những thông tin được bảo mật. Mọi vấn đề nghiên cứu đều mang tính thực tế và được áp dụng rộng rãi trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. - Đối tượng áp dụng sáng kiến: Những vấn đề cơ bản khi luyện thi THPT quốc gia phần truyện ngắn hiện đại Việt Nam (cấp THPT). - Khách thể áp dụng sáng kiến: Học sinh ôn thi THPT Quốc gia ( lớp 12A4, 12A5, trường THPT Bến Tre)
87
+ Điều kiện cơ sở vật chất : có đầy đủ SGK, Chuẩn kiến thức kĩ năng,tài liệu tham khảo, các TBDH... + Điều kiện tinh thần: giáo viên: tâm huyết, yêu nghề; học sinh phải nỗ lực, phát huy cá tính sáng tạo, năng lực ngữ văn của mình. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến. a. Đánh giá của tác giả sáng kiến: - Với sự nỗ lực cố gắng của thầy và trò, lợi ích mà chúng tôi thu được khi thực hiện chuyên đề này là: chuyên đề đã góp phần không nhỏ thay đổi thực trạng dạy học môn Ngữ văn của nhà trường. Biết rằng kết quả bài thi là tổng hợp của nhiều yếu tố, nhưng chúng tôi khẳng định rằng: những kiến thức mà chúng tôi truyền đạt tới học sinh từ chuyên đề này có vai trò không nhỏ trong việc nâng cao điểm số cũng như làm thay đổi ở các em những quan niệm chưa tích cực về môn Ngữ văn. Đây chính là lí do tôi xin mạo muội trình bày chuyên đề Những vấn đề cơ bản khi luyện thi THPT quốc gia phần truyện ngắn hiện đại Việt Nam với mong muốn sẽ góp thêm những kinh luyện thi cho đồng nghiệp tỉnh nhà, giúp họ nâng cao hơn nữa chất lượng mỗi giờ dạy, trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết để các em tự tin bước vào kì thi THPTQG năm 2018 - Tạo được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò. Giờ học sôi nổi, trò hiểu sâu sắc bài học. - Dần rèn luyện được tư duy logich, khoa học của trò, vận dụng vào môn học khác, lĩnh vực khác. - Học sinh biết cách học, chủ động sáng tạo trong bài học và chủ động sáng tạo trong cuộc sống. Xử lí công việc nhanh chóng, khoa học làm cho hiệu quả kinh tế, lợi ích xã hội cao hơn. b. Đánh giá của các tổ chức/ cá nhân khi áp dụng sáng kiến: - Khi các giáo viên cùng nhau đóng góp ý kiến cho sáng kiến kinh nghiệm đã tạo được sự đoàn kết, tâm huyết trong sự nghiệp trồng người. Mọi người cùng đồng tâm vào công cuộc đổi mới nền giáo dục của nước nhà đáp ứng xu thế hội nhập toàn cầu. - Vấn đề mới/ cải tiến sáng kiến kinh nghiệm đặt ra và giải quyết so với các SKKN trước đây( ở trong nhà trường/ tỉnh nhà): + Chuyên đề đã tích hợp được những kiến thức lí luận về truyện, đặc trưng của truyện ngắn hiện đại Việt nam trong việc khai thác, đọc – hiểu một tác phẩm truyện ngắn, có tính hệ thống khoa học. 88
- Hệ thống đề luyên tập phong phú, đa dạng bám sát chương trình, đặc trưng thể loại, cấu trúc đề thi THPT Quốc gia; Có tính ứng dụng thực tiễn cao 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu: Số TT
Tên tổ chức/cá nhân
Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Địa chỉ
1
Nguyễn Thị Thơ
THPT Bến Tre
Trường THPT
2
Bùi thanh Bình
THPT Bến Tre
Trường THPT
3
Ngô Thị Thu Thủy
THPT Bến Tre
Trường THPT
4
Nguyễn Kim Anh
THPT Bến Tre
Trường THPT
5
Đặng Thị Thu Hằng
THPT Bến Tre
Trường THPT
6
Nguyễn Thu Thủy
THPT Bến Tre
Trường THPT
7
Nguyễn Thị Thu Thủy
THPT Bến Tre
Trường THPT
8
Mai Thị Ngọc Hoa
THPT Bến Tre
Trường THPT
9
Lê Ngọc Lan
THPT Mê Linh
Trường THPT
10
Nguyễn Thị Hằng
THPT Mê Linh
Trường THPT
11
Phạm Thúy Hoa
THPT Mê Linh
Trường THPT
12
Nguyễn Kim Chung
THPT Mê Linh
Trường THPT
13
Phạm Thúy Hoa
THPT Mê Linh
Trường THPT
14
Lưu Thu Hương
THPT Hai Bà Trưng
Trường THPT
15
Nguyễn Thị Nhung
THPT Hai Bà Trưng
Trường THPT
16
Nguyễn Thanh Lan
THPT Hai Bà Trưng
Trường THPT
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị (Ký tên, đóng dấu)
Phúc Yên, ngày 18 tháng 02 năm 2019 Tác giả sáng kiến
Nguyễn Thị Thơ 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lí luận văn học – Nhà xuất bản Giáo dục, Trần Đăng Suyền – Nguyễn Long (đồng chủ biên) 2. Giáo trình VHVN hiện đại - Tập II, Nhà xuất bản ĐHSP - Nguyễn Văn Long (chủ biên). 3. SGK Ngữ văn 11 tập 1, lớp 12 tập 2 – Nhà xuất bản Giáo dục tháng 6/2008- SGK Ngữ văn 11 tập 1, lớp 12 tập 2 - sách nâng cao – Nhà xuất bản Giáo dục tháng 6/2008 4. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp11, lớp 12 NXB Giáo dục Việt Nam. 5. Thực hành làm văn lớp 11, 12. NXB Giáo dục Việt Nam. 6. Bộ đề luyện thi THPT quốc gia, năm 2017. NXB Giáo dục Việt Nam 7. Các chuyên đề ôn thi THPT quốc gia của các trương THPT trong tỉnh về truyện ngắn hiện đại Việt Nam . 8. Các tài liệu liên quan đến truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
90
PHỤ LỤC 1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA BAN ĐẦU NĂM HỌC 2017 – 2018 (Khi chưa thực hiện chuyên đề này) LỚP THỰC NGHIỆM (LỚP 12A4) STT
Họ và tên
Điểm kiểm tra trước tác động
1
Nguyễn Thị An
6,5
2
Đặng vân Anh
6
3
Nguyễn Mai Anh
6
4
Nguyễn Minh Anh
6,5
5
Nguyễn Trung Hậu
6
6
Phạm Thị Quỳnh Hoa
5,5
7
Đoàn Khánh Hòa
6,5
8
Đoàn Linh Hương
5
9
Đỗ Thị Thanh Hương
10
Nguyễn Thị Thanh Hương
11
Đỗ Đăng Khánh
3,5
12
Nguyễn Thị Khiêm
5,5
13
Đoàn Thanh Lam
5
14
Lê Thị Thùy Linh
8
15
Nguyễn Diệu Linh
6,5
16
Nguyễn Diệu Linh
5,5
17
Nguyễn hà Linh
18
Nguyễn Lê Thùy Linh
19
Trần Hà Linh
8
20
Đỗ Thị Loan
7
21
Lê Đức Long
4
22
Nguyễn Thành Long
6
23
Nguyễn Hương Ly
5
24
Lê Hà My
6
6.5 6
6 5,5
91
25
Nguyễn Ngọc Thanh Ngoan
5
26
Nguyễn Minh Ngọc
8
27
Nguyễn Thị Nhung
6
28
Nguyễn Thị Hồng Nhung
7
29
Kiều Thị Bích Phượng
30
Nguyễn Anh Quân
5
31
Nguyễn Như Quỳnh
8
32
Nguyễn Văn Thắng
6,5
33
Nguyễn Thị Thủy
7
34
Nguyễn Thanh Vân
6
35
Hoàng Hà Vi
36
Nguyễn Hải Yến
6,5
5,5 5
LỚP ĐỐI CHỨNG (LỚP 12A5) STT
Họ và tên
Điểm kiểm tra trước tác động 5
1
Dương Thị Hồng Anh
2
Lê Sĩ Việt Anh
3
Nguyễn Huyền Anh
4
Nguyễn Mai Anh
5
Nguyễn Trung Anh
6
Phạm Vân Giang
7
Nguyễn Hải Hà
8
Nguyễn Thanh Huyền
7,5
9
Dương Duy Hưng
6,5
10
Nguyễn Đình Khiêm
4,5
11
Đoàn Tuấn Linh
4
12
Đỗ Thùy Linh
5
13
Nguyễn Hoài Linh
6,5 8 6,5 5 4,5 5
5,5
92
14
Nguyễn Thị Linh
6,5
15
Nguyễn Thị Thùy Linh
6,5
16
Đỗ Thị Luyến
5,5
17
Đặng Thị Nhung
6,5
18
Nguyễn Tuyết Mai
6,5
19
Vũ Ánh Mây
6,5
20
Phạm Thu Phương
6,5
21
Nguyễn Thu Phương
5,5
22
Phạm Thúy Quỳnh
23
Nguyễn Hương Quỳnh
24
Nguyễn Minh Thu
25
Hồ Thị Thu
26
Nguyễn Thị Thùy
5
27
Nguyễn Thị Thủy
5,5
28
Lê Thu Trang
5
29
Nguyễn Thu Trang
5
30
Nguyễn Thị Huyền Trang
5
31
Nguyễn Thị Huyền Trang
5
32
Hoàng Thị Thanh Vân
5
33
Nguyễn Thị Vân
7,5
34
Đỗ Thị Vinh
3,5
35
Nguyễn Thành Vinh
8 5,5 6 6,5
4
93
2. KẾT QUẢ SAU KHI ĐÃ THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ 2.1. ĐIỂM THI KHẢO SÁT CHUYÊN ĐỀ LẦN II NĂM HỌC 2017 - 2018 (Kiểm tra chung. Đề của Trường) LỚP THỰC NGHIỆM (LỚP 12A4) STT
Họ và tên
Điểm kiểm tra sau tác động
1
Nguyễn Thị An
6,5
2
Đặng vân Anh
6,5
3
Nguyễn Mai Anh
6,5
4
Nguyễn Minh Anh
6,5
5
Nguyễn Trung Hậu
6,5
6
Phạm Thị Quỳnh Hoa
7
Đoàn Khánh Hòa
7,5
8
Đoàn Linh Hương
6
9
Đỗ Thị Thanh Hương
7
10
Nguyễn Thị Thanh Hương
6
11
Đỗ Đăng Khánh
4
12
Nguyễn Thị Khiêm
5,5
13
Đoàn Thanh Lam
5,5
14
Lê Thị Thùy Linh
8
15
Nguyễn Diệu Linh
7,5
16
Nguyễn Diệu Linh
6
17
Nguyễn hà Linh
6
18
Nguyễn Lê Thùy Linh
19
Trần Hà Linh
8
20
Đỗ Thị Loan
8
21
Lê Đức Long
5
22
Nguyễn Thành Long
6,6
23
Nguyễn Hương Ly
5,5
24
Lê Hà My
6,5
6
5,5
94
5,5
25
Nguyễn Ngọc Thanh Ngoan
26
Nguyễn Minh Ngọc
8
27
Nguyễn Thị Nhung
6
28
Nguyễn Thị Hồng Nhung
29
Kiều Thị Bích Phượng
30
Nguyễn Anh Quân
5,5
31
Nguyễn Như Quỳnh
8
32
Nguyễn Văn Thắng
7
33
Nguyễn Thị Thủy
8
34
Nguyễn Thanh Vân
35
Hoàng Hà Vi
36
Nguyễn Hải Yến
7,5 7
6,5 6 5,5
LỚP ĐỐI CHỨNG (LỚP 12A5) STT
Họ và tên
Điểm kiểm tra sau tác động 5,5
1
Dương Thị Hồng Anh
2
Lê Sĩ Việt Anh
7
3
Nguyễn Huyền Anh
8
4
Nguyễn Mai Anh
7
5
Nguyễn Trung Anh
6
Phạm Vân Giang
7
Nguyễn Hải Hà
8
Nguyễn Thanh Huyền
8
9
Dương Duy Hưng
7
10
Nguyễn Đình Khiêm
5
11
Đoàn Tuấn Linh
4,5
12
Đỗ Thùy Linh
5,5
13
Nguyễn Hoài Linh
5,5 5 5,5
6
95
14
Nguyễn Thị Linh
7
15
Nguyễn Thị Thùy Linh
7
16
Đỗ Thị Luyến
6
17
Đặng Thị Nhung
7
18
Nguyễn Tuyết Mai
7
19
Vũ Ánh Mây
7
20
Phạm Thu Phương
7
21
Nguyễn Thu Phương
6
22
Phạm Thúy Quỳnh
8
23
Nguyễn Hương Quỳnh
6
24
Nguyễn Minh Thu
6
25
Hồ Thị Thu
7
26
Nguyễn Thị Thùy
5,5
27
Nguyễn Thị Thủy
6
28
Lê Thu Trang
5,5
29
Nguyễn Thu Trang
5,5
30
Nguyễn Thị Huyền Trang
5
31
Nguyễn Thị Huyền Trang
5
32
Hoàng Thị Thanh Vân
5
33
Nguyễn Thị Vân
8
34
Đỗ Thị Vinh
4
35
Nguyễn Thành Vinh
4,5
96
2.2. KẾT QUẢ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG THI THPT QUỐC GIA LẦN II NĂM HỌC 2017 – 2018 (Kiểm tra chung. Đề của Sở) LỚP THỰC NGHIỆM (LỚP 12A4) STT
Họ và tên
Điểm kiểm tra sau tác động
1
Nguyễn Thị An
7,5
2
Đặng vân Anh
7,5
3
Nguyễn Mai Anh
7
4
Nguyễn Minh Anh
7
5
Nguyễn Trung Hậu
7
6
Phạm Thị Quỳnh Hoa
7
Đoàn Khánh Hòa
8
8
Đoàn Linh Hương
7
9
Đỗ Thị Thanh Hương
10
Nguyễn Thị Thanh Hương
11
Đỗ Đăng Khánh
12
Nguyễn Thị Khiêm
6
13
Đoàn Thanh Lam
6
14
Lê Thị Thùy Linh
8,5
15
Nguyễn Diệu Linh
8
16
Nguyễn Diệu Linh
7
17
Nguyễn hà Linh
6
18
Nguyễn Lê Thùy Linh
6
19
Trần Hà Linh
8,5
20
Đỗ Thị Loan
8
21
Lê Đức Long
5,5
22
Nguyễn Thành Long
7
23
Nguyễn Hương Ly
6
24
Lê Hà My
6,5
7,5 7 4,5
7,5 97
6
25
Nguyễn Ngọc Thanh Ngoan
26
Nguyễn Minh Ngọc
8,5
27
Nguyễn Thị Nhung
6,5
28
Nguyễn Thị Hồng Nhung
7,5
29
Kiều Thị Bích Phượng
7,5
30
Nguyễn Anh Quân
6
31
Nguyễn Như Quỳnh
8
32
Nguyễn Văn Thắng
7
33
Nguyễn Thị Thủy
8
34
Nguyễn Thanh Vân
7
35
Hoàng Hà Vi
36
Nguyễn Hải Yến
7,5 6
LỚP ĐỐI CHỨNG (LỚP 12A5) STT
Họ và tên
Điểm kiểm tra sau tác động 6
1
Dương Thị Hồng Anh
2
Lê Sĩ Việt Anh
3
Nguyễn Huyền Anh
4
Nguyễn Mai Anh
5
Nguyễn Trung Anh
6
Phạm Vân Giang
7
Nguyễn Hải Hà
6
8
Nguyễn Thanh Huyền
8
9
Dương Duy Hưng
7,5
10
Nguyễn Đình Khiêm
5,5
11
Đoàn Tuấn Linh
4,5
12
Đỗ Thùy Linh
6
13
Nguyễn Hoài Linh
6
7,5 8 7,5 6 5,5
98
14
Nguyễn Thị Linh
7
15
Nguyễn Thị Thùy Linh
7
16
Đỗ Thị Luyến
6
17
Đặng Thị Nhung
7
18
Nguyễn Tuyết Mai
7
19
Vũ Ánh Mây
20
Phạm Thu Phương
21
Nguyễn Thu Phương
6,5
22
Phạm Thúy Quỳnh
8,5
23
Nguyễn Hương Quỳnh
24
Nguyễn Minh Thu
25
Hồ Thị Thu
26
Nguyễn Thị Thùy
5,5
27
Nguyễn Thị Thủy
6,5
28
Lê Thu Trang
6
29
Nguyễn Thu Trang
6
30
Nguyễn Thị Huyền Trang
5,5
31
Nguyễn Thị Huyền Trang
5,5
32
Hoàng Thị Thanh Vân
5,5
33
Nguyễn Thị Vân
8,5
34
Đỗ Thị Vinh
4,5
35
Nguyễn Thành Vinh
7,5 7
6 6,5 7
5
99
2.3. KẾT QUẢ THI THPT QUỐC GIA NĂM HỌC 2017 - 2018 (Kiểm tra chung. Đề của Bộ) LỚP THỰC NGHIỆM (LỚP 12A4) STT
Họ và tên
Điểm kiểm tra sau tác động
1
Nguyễn Thị An
7,5
2
Đặng vân Anh
7,75
3
Nguyễn Mai Anh
7,5
4
Nguyễn Minh Anh
7,25
5
Nguyễn Trung Hậu
7,5
6
Phạm Thị Quỳnh Hoa
7
Đoàn Khánh Hòa
8,25
8
Đoàn Linh Hương
7,5
9
Đỗ Thị Thanh Hương
7,5
10
Nguyễn Thị Thanh Hương
7,25
11
Đỗ Đăng Khánh
4,75
12
Nguyễn Thị Khiêm
6,25
13
Đoàn Thanh Lam
6,75
14
Lê Thị Thùy Linh
8,75
15
Nguyễn Diệu Linh
8
16
Nguyễn Diệu Linh
7,5
17
Nguyễn hà Linh
6,25
18
Nguyễn Lê Thùy Linh
6,25
19
Trần Hà Linh
8,5
7
100
20
Đỗ Thị Loan
8,25
21
Lê Đức Long
6
22
Nguyễn Thành Long
7,25
23
Nguyễn Hương Ly
6,5
24
Lê Hà My
7,75
25
Nguyễn Ngọc Thanh Ngoan
6,5
26
Nguyễn Minh Ngọc
8,5
27
Nguyễn Thị Nhung
7
28
Nguyễn Thị Hồng Nhung
7,75
29
Kiều Thị Bích Phượng
7,75
30
Nguyễn Anh Quân
6,25
31
Nguyễn Như Quỳnh
8,25
32
Nguyễn Văn Thắng
7,5
33
Nguyễn Thị Thủy
8,25
34
Nguyễn Thanh Vân
7,5
35
Hoàng Hà Vi
36
Nguyễn Hải Yến
8 6,25
LỚP ĐỐI CHỨNG (LỚP 12A5) STT
Họ và tên
Điểm kiểm tra sau tác động
1
Dương Thị Hồng Anh
7
2
Lê Sĩ Việt Anh
8
3
Nguyễn Huyền Anh
8,25
4
Nguyễn Mai Anh
8,25
101
5
Nguyễn Trung Anh
7
6
Phạm Vân Giang
6
7
Nguyễn Hải Hà
6,5
8
Nguyễn Thanh Huyền
8,25
9
Dương Duy Hưng
8
10
Nguyễn Đình Khiêm
6
11
Đoàn Tuấn Linh
4,75
12
Đỗ Thùy Linh
6,5
13
Nguyễn Hoài Linh
7
14
Nguyễn Thị Linh
7
15
Nguyễn Thị Thùy Linh
7,5
16
Đỗ Thị Luyến
6,25
17
Đặng Thị Nhung
7,5
18
Nguyễn Tuyết Mai
7,5
19
Vũ Ánh Mây
7,75
20
Phạm Thu Phương
7,5
21
Nguyễn Thu Phương
22
Phạm Thúy Quỳnh
8,5
23
Nguyễn Hương Quỳnh
6,25
24
Nguyễn Minh Thu
25
Hồ Thị Thu
7,75
26
Nguyễn Thị Thùy
6,25
27
Nguyễn Thị Thủy
7
7
7
102
28
Lê Thu Trang
6,25
29
Nguyễn Thu Trang
6,25
30
Nguyễn Thị Huyền Trang
6
31
Nguyễn Thị Huyền Trang
6
32
Hoàng Thị Thanh Vân
6
33
Nguyễn Thị Vân
8,5
34
Đỗ Thị Vinh
4,75
35
Nguyễn Thành Vinh
6
103