MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
2. Thể loại đề tài
3. Sơ lược lịch sử gốm Biên Hòa
4. Vai trò của trường Bá nghệ thực hành Biên Hòa đối với dòng gốm Biên Hòa
5. Sự cần thiết của đề tài
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH KHU ĐẤT
1. Vị trí khu đất
2. Giao thông- Giao tiếp
3. Liên hệ vùng
4. Đặc điểm khí hậu tự nhiên
5. Tầm nhìn cảnh quan
6. Đánh giá về khu đất
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU THIẾT KẾ
1. Cơ sở thành lập nhiệm vụ thiết kế
2. Quy mô công trình
3. Yêu cầu về không gian xưởng gốm
4. Nhiệm vụ thiết kế
CHƯƠNG 4: THUYẾT MINH PHƯƠNG ÁN THIẾT KẾ
1. Mục tiêu thiết kế
2. Ý tưởng thiết kế
3. Tổ chức mặt bằng
4. Không gian mặt cắt
5. Mặt đứng công trình
6. Phương án nội thất
7. Phương án cảnh quan
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
lànggốmArita-NhậtBản
lànggốmArita-NhậtBản
Cách nhanh nhất để quảng bá sản phẩm là du khách phải được sờ tận tay thấy tận mắt.
1. Lý do chọn đề tài
Khi một đất nước càng công nghiệp hóa hiện đại hóa, người ta càng quan tâm đến việc lưu giữ, bảo tồn và phát triển các làng nghề thủ công một cách bền vững, đóng góp nhiều sản phẩm có giá trị văn hóa cao. Qua tìm hiểu cho thấy, Nhật Bản- đất nước chiếm vị trí hàng đầu thế giới về máy móc công nghiệp, thiết bị điện tử, người máy đã và đang khẳng định truyền thống nghệ thuật và những ngành nghề thủ công truyền thống Nhật bản được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mà không bị biến đổi bởi các
tác động từ thế giới bên ngoài.
Với hơn 115 nghề truyền thống được công nhận, Việt Nam không hề thiếu những làng nghề độc đáo nhưng du lịch làng nghề ở nước ta vẫn chưa thu hút được nhiều du khách. Điều đó cho thấy du lịch làng nghề hiện nay vẫn chưa mang lại nguồn lãi cho doanh nghiệp, chưa gia tăng giá trị trải nghiệm nhiều cho du khách và cốt yếu là sản phẩm du lịch làng nghề chưa được đầu tư phát triển trở thành điểm nhấn nổi bật trên các tuyến hành trình.
Hiện nay, phần lớn các trung tâm quảng bá sản phẩm gốm chỉ tập trung vào hoạt động trưng bày, buôn bán sản phẩm hoặc có hoạt động tham quan, thực hành làm gốm nhưng mô hình cũ, không hấp dẫn như việc du khách phải di chuyển khá xa đến các xưởng của thợ, dây chuyền sản xuất không được biểu diễn trực quan do phải đặt trong các nhà xưởng khép kín, hình thức kiến trúc chưa hấp dẫn trong khi cách nhanh nhất để quảng bá sản phẩm là du khách phải được sờ tận tay thấy tận mắt.
2. Thể loại đề tài
TRUNG TÂM TRƯNG BÀY VÀ NGHIÊN CỨU
showroomMinhLong-LáiThiêuđược tổchứcthemmôhìnhtrưngbàykết hợpthựchànhchodukhách
Trưng bày, theo nghĩa chung nhất, là sự giới thiệu những vật được sắp xếp một cách có chủ đích. Sự trưng bày thường được xuất hiện trong không gian bảo tàng, phòng triển lãm, sảnh trưng bày và các kì hội chợ. Không gian trưng bày có thể nằm trong bảo tàng, không gian triển lãm, không gian nghệ thuật trình diễn, triển lãm thương mại, hội chợ triển lãm.
Nghiên cứu là quá trình thu thập dữ liệu, thông tin, dữ kiện nhằm tạo ra tri thức, sản phẩm. Nghiên cứu nghệ thuật, còn gọi là “nghiên cứu dựa trên thực hành”, có thể diễn ra khi công trình sáng tạo được xem vừa là một sự nghiên cứu vừa là một đối tượng của nghiên cứu.
bảo tàng trưng bày thuộc Shared Space—SculptureSpaceNYCCenterforArt&Ceramics
Trung tâm trưng bày và
nghiên cứu là nơi thực hiện các hoạt động trưng bày, lưu trữ, bảo quản hiện vật; xây dựng, thực hiện chiến lược nghiên
cứu nghệ thuật và chuyển giao
công nghệ ngắn hạn và dài hạn.
Xây dựng mô hình và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất gốm sứ kết hợp với
tư vấn, tham quan, trưng bày và kinh doanh mua sắm sản
phẩm từ nhiều nguồn sản xuất.
Mô hình có sự kết hợp giữa dây
chuyền sản xuất gốm truyền
thống với hình thức trưng bày-
mua sắm hiện đại, cởi mở, tập trung, hấp dẫn.
phòng thực hành thuộc Shared Space—SculptureSpaceNYCCenterforArt&Ceramics
bảotànggốmBátTràng-Hà Nộilàvídụđiểnhìnhchomô hình kếthợpkhônggiantrưng bày-thựchànhchodukhách vàcóhìnhthứckiếntrúchấp dẫn.
3. Sơ lược lịch sử gốm Biên Hòa
Cách ngày này trên
2.000 năm, từ những kỹ
thuật mới trong chế tác
đồ gốm được phổ biến
từ Trung Hoa, nghề gốm
Việt Nam với trình độ
và kinh nghiệm truyền
thống sẵn có đã nhanh
chóng tiếp thu, nắm
vững và phát triển để
tạo nên những sắc thái
riêng biệt, trở thành một
trong số ít các quốc gia
có nghề sản xuất đồ
gốm men ra đời sớm và
phát triển liên tục.Trên
nền tảng nền văn hóa
Đông Sơn bền chắc, với kinh nghiệm và bản
lĩnh, người Việt đã nhanh
chóng tiếp thu và phát
triển kỹ nghệ và từng
bước tạo nên diện mạo
mới cho sản xuất gốm
sứ, hình thành nên các
trung tâm khá quy mô
với nhiều loại hình phong phú, kiểu dáng mẫu mã
hiện đại hơn. Đặc trưng
của đồ gốm thời kỳ này
có xương gốm dày, men
mỏng thường không
phủ hết đồ vật, men màu vàng ngà, trắng nhạt, trắng xám; Trang
trí hoa văn in nổi ô trám, hoa văn xương cá hoặc
lá dừa, hình thoi, chữ S, văn sóng nước... một số
ấm, âu, hũ có trang trí hình cánh sen, chim, cá, đầu gà, đầu voi.
Tiếp đó, từ thế kỷ thứ X được coi là thời kỳ bản nề, kỷ nguyên độc lập Quốc gia và văn minh Đại Việt, nghề gốm có bước nhảy vọt với kỹ thuật thuần thục cùng với sự xuất hiện của
dòng men chủ đạo. Đây là gia đoạn đình hình
phong cách gốm Việt
Nam để chúng ta cảm
nhận chúng là riêng biệt
không thể pha trộn với
bất cứ loại gốm nào trên
thế giới. Vào thế kỷ XVXVI, gốm sứ Việt Nam ở
một nấc thang mới tiếp tục phát triển và cách
tân với nhiều đỉnh cao.
Nghề gốm thịnh hành
và nở rộ nhiều trung
tâm sản xuất mang tính
chuyên hóa cao cao cấp
đến những lò gốm với những sản phẩm bình
dân, chủng loại phong phú, đồ gốm có thể khối lớn đạt trình độ kiệt tác nghệ thuật. Bên cạnh đó, đồ gốm còn xuất khẩu ra quốc tế.
Thế kỷ XVII – XVIII, trước những thay đổi của thị trường thị hiếu thay đổi đã tác động và ảnh hưởng đến sản xuất, nhiều lò gốm đã tắt lửa không còn hoạt động. Trong bối cảnh đó Bát Tràng với đặc trưng mang đậm tính truyền thống đã nổi lên tiếp tục tồn tại trước những khó khăn phát triển cho đến ngày hôm nay trở thành bảo tàng sống động về lĩnh vực gốm sứ Việt Nam.
Thế kỷ XX, Hoa kiều di dân vào định cư tại Cù Lao Phố, mang theo kỹ thuật tạo nên dòng gốm lu đen trứ danh. Pháp đô hộ Việt Nam, mở nhiều trường dạy mỹ nghệ, đưa người Pháp vào quản lý, từ đó, dòng gốm Biên Hòa có nhiều thay đổi bước ngoặc.
4. Vai trò của trường Bá nghệ thực hành Biên
Hòa đối với dòng gốm Biên Hòa
chợbánđồgốmxưa
1679
Hoa kiều định cư
tại Cù Lao Phố, sản
xuất đồ gốm phục
vụ nhu cầu đời sống. Giai đoạn ra
đời các dòng gốm
Cây Mai, Biên Hòa, Thạch Loan.
Khởi đầu gốm Biên
Hòa giai đoạn ông
bà Balick. Vạch
ra hướng đi mới
với các dòng sản
phẩm nổi tiếng tiêu
biểu và để lại tiếng
vang có dòng men
đồng trổ bông
“Vert de BienHoa”
thầyVõKimĐôi-cựuhiệu trưởngtrườngBánghệBiên Hòabênsảnphẩmgốm
Tham dự Hội chợ quốc tế Paris, thành lập hợp tác
xã Mỹ nghệ thủ
công của thợ gốm
và thợ đúc đồng, mở rộng quy mô
trường.
hìnhảnhôngbàBalickbên sảnphẩmgốmBiênHòa
Nghề gốm bản địa ở Biên Hòa đã có từ lâu đời, nhưng từ khi có sự dẫn dắt của ông bà Balick – hiệu trưởng trường Mỹ nghệ Biên Hòa – cả hai đã khai sinh ra một dòng gốm đặc biệt và làm cho nó nổi tiếng trong và ngoài nước nhờ màu men không bóng (mát), trầm lắng mà có chiều sâu, trang trí đơn giản mà có hồn, càng nhìn càng thấy đẹp nổi bật nhất là ba màu men: xanh đồng (vert de Bienhoa), đá đỏ và trắng ta. Ông bà Balick đã tạo cho gốm Biên Hòa hướng đi riêng, đó là sản phẩm gốm trang trí nhiều màu, chạm khắc chi tiết các hoa văn đặc sắc, màu men lạ mắt. Trong khoảng thời gian gần 30 năm (1923 – 1950), dưới sự điều hành của ông bà Balick là khoảng thời gian thành công nhất trong lịch sử nhà trường, đánh dấu giai đoạn phát triển rực rỡ của gốm Biên Hòa cả thị trường trong và ngoài nước.
1950
Sau khi Cách
mạng tháng Tám
thành công, ông
bà Balick trở về
Pháp. Kết thúc thời
kì gốm Biên Hòa
dưới sự cai quản
của người Pháp.
1960
Áp dụng công
nghệ men, xương
đất, kỹ thuật xây lò
theo sự hướng dẫn
của của các cố vấn
người Nhật Bản.
1975
Đất nước thống
nhất, ngành gốm
Mỹ thuật Biên Hòa
mất dần vị thế như
thời ông bà Balick.
5. Sự cần thiết của đề tài
Theo Cục Thống kê Đồng Nai, tháng 7/2015, giá trị kim ngạch xuất khẩu gốm sứ của các doanh nghiệp tại Đồng
Nai đạt gần 13 triệu USD, tăng 300.000 USD so với tháng 6. Qua 7 tháng
của năm 2015, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu
của mặt hàng này đạt
trên 76 triệu USD, tăng
gần 15% so với cùng kỳ
năm 2014. Đây là mức
tăng cao nhất trong
vòng 5 năm qua. Trên địa
bàn Đồng Nai có trên 30 doanh nghiệp (có dấu hiệu suy giảm), cơ sở sản xuất kinh doanh hàng gốm mỹ nghệ thuộc các thành phần kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động tại địa phương. Gốm Biên Hòa (Đồng Nai) đã được xuất khẩu đi hầu hết các nước ở Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ, hàng năm mang lại hàng chục triệu USD kim ngạch xuất khẩu cho địa phương.
“Thiếu chiến lược lâu dài, không có định hướng rõ ràng khiến gốm Biên
Hòa bị tụt hậu”
-ông Nguyễn Háo Thoại
Theo các chuyên gia, gốm Biên Hòa mang giá trị lớn về văn hóa và kinh tế. Đây là một trong những ngành nghề truyền thống có giá trị gia tăng cao nhất. Bởi từ khâu tạo mẫu, nguyên liệu đến sản xuất đều có sẵn tại địa phương. Nhưng từ cuối thế kỷ 20, gốm Biên Hòa bắt đầu chựng lại và đầu thế kỷ 21 bắt đầu có dấu hiệu suy giảm dần.
Nguyên nhân chính khiến nghề gốm Biên Hòa sút giảm:
• Nguyên liệu sản xuất là đất sét cao lanh, đất đen, phí vận chuyển tăng cao. Các lò nung gốm nằm trong khu dân cư không được đốt bằng củi khi chuyển qua đốt bằng gas, dầu màu men không được đẹp nên khách không ưa chuộng.
• Sự chậm trễ khi thực hiện chính sách di dời các cơ sở sản xuất gốm vào Cụm gốm Tân Hạnh.
• Nguồn lao động suy giảm, nhất là lao động tay nghề cao. Vì nghề gốm vất vả, thu nhập không cao nên nhiều người đã chuyển nghề
“Ngành nghề mang giá trị kinh tế và văn hóa của khu vực”
Gốm Biên Hòa có khả năng “chết ngay trên đất mẹ”?
Xu hướng quảng bá đất nước
bằng du lịch, văn hóa là xu hướng
phát triển bền vững. Du lịch và văn hóa
giúp giới thiệu những nét đẹp trong cảnh quan và bản sắc dân tộc, không
chỉ để rạng rỡ văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế mà qua đó tạo điều
kiện tích cực trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển nền
Tuy tạo được danh tiếng ở thị trường thế giới, phần lớn thế hệ người Việt trẻ lại ít ai biết đến cái tên gốm Biên Hòa.
Để nâng cao giá trị xuất khẩu, thu nhập cho người thợ và phát triển thương hiệu sản phẩm thủ công nói chung và gốm Biên Hòa nói riêng cần có chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nguyên vật liệu và đẩy mạnh đầu tư hướng tới xây dựng chuỗi giá trị gốm bền vững.
Hiện nay, phần lớn các trung tâm quảng bá sản phẩm gốm chỉ tập trung vào hoạt động trưng bày, buôn bán sản phẩm hoặc có hoạt động tham quan, thực hành làm gốm nhưng mô hình cũ, không hấp dẫn như việc du khách phải di chuyển khá xa đến các xưởng của thợ, dây chuyền sản xuất không được biểu diễn trực quan do phải đặt trong các nhà xưởng khép kín, hình thức kiến trúc chưa hấp dẫn trong khi cách nhanh nhất để quảng bá sản phẩm là du khách phải được sờ tận tay thấy tận mắt.
kinh tế vĩ mô cũng như cải thiện kinh tế của người dân trong vùng. Tuy Việt Nam là một đất nước, khu vực đi lên
từ kinh tế làng nghề nhưng thực trạng khai thác và phát triển còn nhiều bất cập. Ngày càng có nhiều sự quan tâm đầu tư phát triển du lịch tại các làng nghề tuy nhiên còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa bao quát.
Vậy nên, cần thành lập một trung tâm trưng bày và nghiên cứu gốm Biên Hòa, mà tại đó:
• Kiến tạo không gian kiến trúc mới
lạ nhằm giới thiệu, quảng bá, giữ gìn và phát triển những điểm ưu việt
tạo nên vẻ đẹp của gốm Biên Hòa, phổ cập một cách nhanh chóng
nhất gốm Biên Hòa đến đông đảo mọi người. Từ đó khôi phục danh tiếng và giá trị sản phẩm gốm Biên Hòa trong lòng người yêu nghệ thuật
• Tạo không gian và cơ hội cho mọi người có thể thực nghiệm, tìm hiểu và khám phá quy trình tạo hình, trang trí, nung gốm, các loại máy móc… giúp định hướng rõ hơn về sự phát triển của gốm sứ Biên Hòa trong tương lai, góp phần tìm kiếm và đào tạo ra nguồn nhân lực có chuyên môn cao bằng phương pháp thực nghiệm.
• Mở ra không gian giao lưu, buôn bán, vui chơi cởi mở với mô hình cửa hàng hiện đại và hội chợ truyền thống. Là điểm hẹn hội tụ các dòng gốm không chỉ riêng gốm Biên Hòa
• Lưu trữ, bảo quản, trưng bày tập trung các hiện vật, di tích gốm sứ Biên Hòa phục vụ cho công việc nghiên cứu, phục dựng, học tập, tìm hiểu.
phòng thực hành thuộc Shared Space—SculptureSpaceNYCCenterforArt&Ceramics
THUYẾT MINH TỐT NGHIỆP TRUNG TÂM TRƯNG BÀY VÀ NGHIÊN CỨU GỐM BIÊN HÒA
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH KHU ĐẤT
THUYẾT
1. Vị trí khu đất
Lựa chọn khu đất tại phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, được biết đến với cái tên khi xưa là Cù Lao Phố. Cù Lao Phố của Biên Hòa trước đây từng là thương cảng quan trọng của khu vực Nam Bộ với sản phẩm tiêu biểu là đồ gốm.
Diện tích: 5.5 ha
MĐXD: 40%
Tầng cao: 3 tầng
Khoảng lùi:
bờ sông: 20m
đ. nhánh 1: 20m
đường phụ: 10m
2. Giao thông và Giao tiếp
Từ vị trí khu đất có thể dễ dàng di chuyển đến trung tâm thành phố Biên Hòa bằng tuyến đường bộ trong bán kính 3km và di chuyển đến hai tỉnh Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đường bộ: từ khu đất có thể tiếp cận Xa lộ Hà Nội và Quốc lộ 51 trong vòng bán kính 3km.
Đường thủy: Được bao bọc bởi sông Đồng Nai, cách cảng Đồng Nai 2km.
Đường sắt: Cách ga Biên Hòa 3km.
Là vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển hơn 300 năm, Tp.Biên Hòa ngày nay là thành phố phát triển công nghiệp với diện mạo hiện đại nhưng giữa lòng tp vẫn giữ gìn được các đình làng, miếu cổ. Với hàng chục đình làng, cổ miếu hiện đang tồn tại mang đậm giá trị về lịch sử, kiến trúc, văn hóa làng xã, tín ngưỡng dân gian từ xa xưa và hơn hết đình chùa là nơi lưu giữ trọn vẹn di tích quần thể tượng gốm Biên Hòa
Từ khu vực này có thể tiếp cận các xưởng gốm thủ công, xí nghiệp gốm và trường chuyên dạy nghề gốm nổi tiếngtrường Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Biên Hòa trong bán kính 1-3km.
3. Liên hệ vùng
Đất có di tích lịch sử văn hóa
Đất phát triển cơ sở hạ tầng
Đất ở thấp tầng
Đất công viên
Đất thể thao
Đất thương mại, dịch vụ Đất mặt nước
Đất vui chơi giải trí cộng đồng
Đất xây dựng cơ sở đào tạo
Khu đất quy hoạch có liên hệ chặt chẽ với các khu chức năng của thành phố Biên Hòa, với các xưởng sản xuất và trường dạy nghề, thuận lợi cho khách và dân địa phương có nhu cầu tìm hiểu, học hỏi, thực hành về gốm cũng như một địa điểm giải trí cuối tuần cho nhóm bạn bè và gia đình.
SNằm cạnh tuyến đường trung tâm dễ tiếp cận từ nhiều phía và các công trình cộng đồng từ xung quanh. Thuận lợi trở thành điểm dừng chân cho du khách truyến Sài Gòn- Đà Lạt.
Vị trí cạnh bờ sông tạo nên chất liệu đặc biệt về thẩm mỹ, công năng, cảnh quan, view nhìn... chịu ảnh hưởng khí hậu đặc trưng của Biên Hòa Đồng Nai,
WVị trí cạnh dòng sông Đồng Nai với triều cường thay đổi theo mùa cùng với tình hình sạc lở đất ven sông... Ảnh hưởng đến việc thi công và bố trí cơ sở vật chất sinh hoạt trong phạm vi công trình.
Hệ thống cơ sở hạ tầng của tỉnh nhà chưa đủ mạnh.
OBiên Hòa là một thành phố phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại, tạo điều kiện áp dụng các công nghệ kĩ thuật tiên tiến vào công trình.
Biên Hòa- cái nôi cùa dòng gốm mỹ nghệ Biên Hòa đang dần đánh mất đi những giá trị thủ công vốn có.
TDù là vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhưng Biên Hòa Đồng Nai không có hình thức kiến trúc tiêu biểu. Điều này vừa là cơ hội cho sự sáng tạo không giới hạn, vừa là thách thức trong việc lựa chọn ngôn ngữ kiến trúc phù hợp với thể loại công trình trưng bày nghiên cứu và hài hòa với cảnh quan khu vực lân cận.
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU THIẾT KẾ
Quy trình sản xuất gốm
Công đoạn lọc luyện đất: yêu cầu đặt gần nguồn cấp nước và có bố trí hệ thống xử
lý nước thải, bể lắng sơ bộ, bể nén...
Tưới no nước cho đất và loại bỏ tạp chất được thực hiện ngay tại bãi đất.
Việc lựa chọn hình thức sơ chế đất phụ thuộc vào phương pháp (PP) tạo hình: thái nhiều lần và nhào kỹ chủ yếu dùng cho PP in khuôn, chuốt, xoay máy, nắn tay; làm nhão hoặc hóa lỏng dùng cho PP rót khuôn.
1. Yêu cầu về không gian xưởng gốm
Công đoạn tạo hình: đa dạng trong các phương pháp tạo hình
Chuốt là phương pháp được sử dụng
phổ thông trong thời kì đầu, hiện nay
ít được ưa chuộng. Người thợ dùng tay nắn gốm trên bàn xoay xoay liên tục. Bàn xoay có thể sử dụng động cơ
hoặc có một người khác dùng chân xoay. Người thợ ngồi trên ghế kết hợp bàn xoay để trên bàn… không gian sẽ giao động từ 0,5-2m2
Phương pháp rót khuôn quy cách
9m2, thường được thực hiện ở sân ngoài trời hoặc có mái che mỏng, mục đích là để cho vật liệu ở dạng lỏng được khô nhanh nhất có thể. Khuôn gốm được xếp sẵn trên giàn. Giàn không có kích thước cố định mà phụ thuộc vào kích thước khuôn sao cho bề mặt trên của khuôn cao khoảng 900 (ngang hông người thợ)
để thao tác được thuận tiện. Lu chứa
đất hóa lỏng có thể cố định hoặc di động. Khoảng cách giữa hai giàn giao
động từ 800 (dùng lu di động) đến hơn 1200 (dùng lu cố định). Sau khi
sản phẩm khô, người thợ gỡ khuôn tại chỗ và dùng xe rùa/ xe hàng di chuyển sản phầm vào trong.
Xoay máy: 2m2
Thợ thao tác trực
tiếp trên máy. Bán
thành phẩm đợi
khô và gỡ khuôn
trước khi chuyển
sang công đoạn
trang trí.
Phương pháp in khuôn bao gồm hai thao tác chính: cắt đất thành từng lát và in khuôn. Khi in các sản phẩm vừa và nhỏ chỉ 1 người thao tác, quy cách 2m2 người thợ thường cắt đất dưới sàn, khuôn được đặt trên bàn xoay, sản phẩm in xong được chuyển qua khu chờ khô và gỡ khuôn.. Khi in các sản phẩm lớn cần 2 người thao tác, quy cách >2m2 các dãy khuôn được xếp sẵn theo hàng, hai người thợ sẽ di chuyển đến từng khuôn để thực hiện sau khi in xong thì khuôn đặt tại chỗ để chờ khô và gỡ khuôn.
Công đoạn trang trí: 1m2. Bán thành phẩm sau khi trang trí sẽ đợi khô trước khi nung.
Dội men/ kìm
đúc: Sản phẩm
được đặt trên hai thanh gác ngang
bể men, người
thợ dùng gáo dừa
múc men dội từ
2-3 lớp.
Phun men: 2m2
Sản phẩm được đặt trên bàn xoay, người thợ dùng máy phun men.
Thực hiện trong môi trường khuất gió hoặc đứng thuận chiều gió.
Vẽ men/ vẽ nét: 1m2. Sản phẩm
được đặt trên bàn xoay hoặc mặt bàn, người thợ dùng cọ vẽ men hoặc vẽ nét trang trí.
Công đoạn nung sản phẩm:
Lò nung dài đến vài chục mét.
Các mắt lò phân bố trên vòm lò
bên phải.
Mỗi lò nung được tầm 2000
sản phẩm cỡ vừa hoặc 700 sản
phẩm cỡ lớn. Thời gian nung
kéo dài khoảng 48 tiếng, thời
gian đợi lò nguội từ 8-10 tiếng.
Do vậy các xưởng thường làm
sản phẩm vào các ngày trong
tuần và nung vào những ngày
cuối tuần. Lò có thể nung cho
cả sản phẩm da men hoặc
gốm trần.
Khi chất sản phẩm vào lò, người
thợ đưa sản phẩm vào từ cửa
lò, một mẻ nung nhét xen kẽ
các sản phẩm nhỏ chung với
sản phẩm lớn.
1. Mục tiêu thiết kế
Nhận ra những vấn đề cũng như những điểm cộng quan trọng của khu vực này trong hoạt động quảng bá sản phẩm gốm Biên Hòa, đồ án hướng tới các mục tiêu chính:
• Ghép 2 chức năng xưởng sản xuất và trưng bày sản phẩm vào làm 1 nhằm phổ cập một cách nhanh nhất gốm Biên Hòa đến đông đảo mọi người.
• Giới thiệu kỹ thuật sản xuất gốm Biên Hòa truyền thống bằng ngôn ngữ kiến trúc hiện đại, đối lập nhằm tôn vinh vẻ đẹp của sản phẩm đồ gốm và người thợ làm gốm
• Khai thác sự đơn giản của xưởng truyền thống tạo nên tổ hợp hướng vào vị trí trung tâm, trở thành biểu tượng của gốm Biên Hòa.
Hoạt động chính
Tạo hình và phơi gốm
Nung và hoàn thiện sản phẩm
Trính diễn thời trang gốm
Bảo tàng trưng bày
Cafe trải nghiệm
Hội chợ buôn bán
Đối tượng phục vụ
Bến xuồng
TẬN DỤNG ĐƯỜNG
NÉT TỪ HIỆN TRẠNG
TỔ HỢP CÁC KHỐI
HƯỚNG VÀO VỊ TRÍ
TRUNG TÂM- LÒ NUNG
TRUYỀN THỐNG, TRỞ
THÀNH BIỂU TƯỢNG
CỦA GỐM BIÊN HÒA.
GIẢI PHÁP CÁC GÓC
NHÌN TỪ CÁC CAO ĐỘ
KHÁC NHAU ĐỂ XÂY
DỰNG CÁC XƯỞNG VÀ
SHOP.
GHÉP HAI CHỨC NĂNG
XƯỞNG TẠO TÁC VÀ
SHOP TRƯNG BÀY VÀO
LÀM MỘT NHẰM PHỔ
CẬP MỘT CÁC NHANH
NHẤT GỐM BIÊN HÒA
ĐẾN ĐÔNG ĐẢO MỌI
NGƯỜI.
KẾT HỢP NGÔN NGỮ
KIẾN TRÚC TRUYỀN
THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG HÌNH KHỐI VÀ
VẬT LIỆU NHẰM TÔN
VINH VẺ ĐẸP CỦA SẢN
PHẨM GỐM VÀ TÀI
NGHỆ.
SỬ DỤNG LINH HOẠT
CÁC NGÔN NGỮ LAM
ĐỨNG TẠO NÊN CHẤT
CÔNG NGHIỆP VÀ TẬN
DỤNG TRỞ THÀNH GIẢI
PHÁP CHẮN NẮNG
CHO CÔNG TRÌNH.
3. Tổ chức mặt bằng
BÃI ĐỖ XE
KHỐI ĐÓN TIẾP
KHỐI HỘI TRƯỜNG
KHU TỔ CHỨC HỘI CHỢ
KHỐI CẦU NỐI
MÔ HÌNH LÒ NUNG TRUYỀN THỐNG
KHỐI CAFE
KHỐI XƯỞNG -TRƯNG BÀY BUỐN BÁN
KHỐI BẢO TÀNG
BẾN XUỒNG
LẦU 1 COTE +7.200
LẦU 2 COTE +9.750
COTE -3.900
HƯỚNG
MẶT ĐỨNG HƯỚNG NAM
6. Phương án nội thất
THUYẾT
7. Phương án cảnh quan
MẶT BẰNG CẢNH QUAN
MẶT CẮT CẢNH QUAN
CỎ ĐẬU PHỘNG
BÒ SÁT ĐẤT
CHỊU HẠN
CHỊU ÚNG
CHUỐI MỎ KÉT
1-1.5M
ƯA SÁNG
ƯA NƯỚC