Cải Lương - Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang.

Page 1

Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh

Cơ sở văn hóa Việt Nam

Giảng viên: Cô Nguyễn An Thụy

Cải lương Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang


Danh sách thành viên 1. Nguyễn Chí Toàn

KT20/A1

20510100358

2. Nguyễn Hoàng Kha

KT20/A1

20510100299

3. Bùi Thị Minh Thư

KT20/A1

20510101429

4. Nguyễn Thị Minh Thơ

KT20/A1

20510100352

5. Trương Đức Trọng

KT20/A1

20510100367

6. Đặng Duy Khoa

KT20/A1

20510100301


Mục lục

A. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục tiêu đề tài 3. Lịch sử nghiên cứu 4. Đối tượng nghiêm cứu 5. Phạm vi nghiêm cứu 6. Nội dung nghiên cứu 7. Phương pháp nghiên cứu B.NỘI DUNG 1. Nguồn gốc 2. Lịch sử phát triển 3. Phân tích nghiên cứu 4. Thành tựu 5. Giá trị 6. Ứng dụng 7. Thực trạng 8. Giải pháp bảo tồn C. TẠM KẾT


Đêm buồn ai hát ngân nga Bài ca năm cũ quê nhà nhớ thương Yêu hoài vọng cổ cải lương Đi xa khắc khoải vấn vương cõi lòng.


Mở đầu

Cải lương - Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang

Âm nhạc là món ăn tinh thần, là cái hồn dân tộc. Có một nhà nghiên cứu đã nói: Nhìn vào nền âm nhạc của một đất nước, bạn sẽ biết được đời sống tinh thần của họ, và phần nào tính cách của dân tộc đó. Có thể nói, âm nhạc là một hình thức văn hóa dễ dàng đi sâu vào công chúng hơn tất cả các môn nghệ thuật khác. Từ xưa đến nay, âm nhạc đã chiếm vị trí quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam. Mỗi vùng quê lại có một thể loại âm nhạc đặc trưng. Nhắc đến quê hương Kinh Bắc là nhắc đến những làn điệu quan họ “đắm say như đứt ruột gan người”, miền Trung nắng gió thì có điệu hò xứ Nghệ, hò Quảng hay ca Huế, Tây Nguyên có niềm tự hào là cồng chiêng. Riêng miền sông nước Cửu Long lại nổi tiếng với đờn ca tài tử và cải lương.


1. Lý do chọn đề tài Được sinh ra từ cái gốc âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam, trong quá trình hình thành và phát triển, nghệ thuật sân khấu Cải lương đã tiếp thu nhiều yếu tố từ sân khấu truyền thống dân tộc. Chịu sự chi phối của điều kiện lịch sử, nghệ thuật sân khấu Cải lương còn tiếp thu nhiều yếu tố sân khấu của hý khúc (Trung Quốc) Và sân khấu phương Tây (kịch nghệ Pháp); Trở thành một hình thức sân khấu kịch hát Việt Nam thể hiện rõ tính năng động, sáng tạo, dễ thích ứng với biến đổi của xã hội và thị hiếu của khán giả. Điều này lý giải vì sao ngay từ khi mới ra đời nghệ thuật sân khấu Cải lương không những trở thành món ăn “đặc sản” của người Nam Bộ mà còn nhanh chóng chiếm lĩnh sự ái mộ của nghệ sĩ cũng như khán giả miền Bắc và miền Trung. Đã có một thời, nghệ thuật sân khấu Cải lương bước lên đỉnh cao, được mọi người, mọi giới quan tâm, yêu chuộng với những gánh hát mà tên tuổi của các bầu gánh - những nhà quản lý giỏi được người trong và ngoài giới công nhận.


Tuy nhiên, trong giai đoạn đất nước ta bước vào thời kỳ Đổi mới, các hình thức nghệ thuật sân khấu truyền thống nói chung, nghệ thuật sân khấu Cải lương nói riêng buộc phải đối mặt với nhiều thách thức do cơ chế kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế ồ ạt mang đến. Thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề quan thiết như: Làm thế nào để thu hút khán giả, nhất là khán giả trẻ, đến với sân khấu Tuồng, Chèo, Cải lương, trong khi có biết bao hình thức nghệ thuật - giải trí mới mẻ, hiện đại của nước ngoài đã và đang được du nhập vào Việt Nam một cách nhanh chóng nhờ vào các phương tiện của công nghệ tiên tiến? Làm thế nào để vừa bảo tồn các giá trị truyền thống độc đáo của bộ môn nghệ thuật sân khấu dân tộc, vừa cải tiến và phát huy được chúng trong đời sống đương đại? Làm thế nào để nâng cao chất lượng nghệ thuật của các vở diễn, đồng thời đạt được mục tiêu về kinh tế để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nghệ sĩ hôm nay?


2. Mục tiêu đề tài Làm rõ quá trình hình thành sân khấu cải lương có tính hiện thực khoa học, về một thể loại sân khấu dân tộc, bản địa Nam Bộ

Nêu lên quá trình phát triển sân khấu cải lương có những hoạt động nổi bật về tác phẩm kịch, đội ngũ diễn viên, tác giả cải lương... qua các giai đoạn lịch sử.

Khẳng định những giá trị văn hoá tinh thần dân tộc, bản địa của sân khấu cải lương, góp phần xây dựng đời sống xã hội, đó là ý nghĩa bài học lịch sử ra đời, phát triển cải lương trên mọi miền đất nước.


3. Lịch sử nghiên cứu của đề tài Cải lương là một hình thức nghệ thuật sân khấu được rất nhiều nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ quan tâm. Đã có nhiều công trình nghiên cứu viết về nghệ thuật sân khấu Cải lương. Một số tác giả đã đề cập đến vấn đề quản lý, phương thức quản lý của nghệ thuật sân khấu Cải lương.

Hình ảnh triễn lãm tài liệu và một số tựa sách nổi tiếng về nghệ thuật sân khấu Cải lương (Nguồn ảnh: https://vi.m.wikipedia.org/)


Năm 1968, cuốn Hồi ký năm mươi năm mê hát, tác giả Vương Hồng Sển được xuất bản gồm hai chương. Chương thứ nhất đề cập đến năm ra đời và nguồn gốc của nghệ thuật sân khấu Cải lương [96, tr. 31-32]. Trong chương này, cũng ghi lại rất chi tiết những nghệ sĩ, những nhà chí sĩ, những bầu gánh có công đầu trong việc hình thành nên hình thức nghệ thuật sân khấu Cải lương. Ở chương thứ hai, tác giả đề cập đến tình hình hoạt động của các gánh hát, những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp sân khấu của các nghệ sĩ tài danh mà ông đã từng xem, từng gặp gỡ. Theo chúng tôi, cuốn sách chứa đựng nhiều tư liệu có giá trị cao về bối cảnh xã hội, người nghệ sĩ và các hoạt động nghệ thuật sân khấu ở Nam Bộ vào nửa đầu thế kỷ XX. Vai trò các bầu chủ, những người có công trong việc hình thành nghệ thuật sân khấu Cải lương cũng được tác giả đề cập tới [96, tr. 107-117]. Được kể lại với hình thức hồi ký, cuốn sách là một tư liệu đầy đủ và chi tiết nhất về lịch sử hình thành và phát triển nghệ thuật sân khấu Cải lương từ những ngày đầu sơ khai đến những năm 60 của thế kỷ XX.


Năm 1970, cuốn Nghệ thuật sân khấu Việt Nam của Trần Văn Khải ra đời. Cuốn sách được viết thành ba chương, mỗi chương trình bày một thể loại nghệ thuật sân khấu nước nhà, đó là: Hát bội, Cải lương và Kịch. Chương hai đề cập đến lịch sử Cải lương, những đặc điểm của Cải lương, các giọng Cải lương, văn Cải lương và việc soạn bài ca, âm nhạc Cải lương và vị trí các nhạc khí [36, tr. 87-90]. Cuốn sách là nguồn tài liệu tham khảo về đặc điểm của các hình thức nghệ thuật sân khấu này. ............................ Lịch sử nghiên cứu đề tài Lịch sử sân khấu cải lương đã có nhiều người viết, xuất hiện những quan niệm khác nhau, nhưng còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế về nhiều mặt.


4. Đối tượng nghiên cứu Thể loại nghệ thuật sân khấu cải lương Nam Bộ Nguồn gốc, hình thức, thành tựu và những giá trị mà loại hình này mang lại. Những tác phẩm cải lương kinh điển

5. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian: Từ khi cải lương ra đời năm 1918 đến nay Phạm vi không gian: các tỉnh phía Nam


6. Nội dung nghiên cứu Nội dung công trình sân khấu cải lương là nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển cải lương dựa trên nguồn tư liệu: quá khứ lịch sử, những hoạt động hiện nay. Công trình sẽ tổng hợp nhiều nguồn tư liệu quý, sát thực để khẳng định lịch sử sân khấu cải lương có căn cứ khách quan, khoa học mang tính hệ thống.

7. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu kết hợp: - Mô tả - Đồng đại - Đối chiếu - Lý luận lịch sử


Nội dung

Cải lương - Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang


1. Nguồn gốc

Dân ca Hát bội Nhạc tế lễ (nhạc cung đình Huế)

Đờn ca tài tử Ca ra bộ

Cải lương


Năm 1802, sau khi vào Đàng Trong, Nhạc cung đình Huế ra đời phục vụ cho vua chúa trong triều đình nhà Nguyễn.

Sau đó, nhóm nghệ nhân di cư vào sâu trong các tỉnh phía Nam, và phổ biến nhạc cung đình Huế cho công chúng, hình thành thể loại hát bội.


Để đến gần hơn với nhân dân lao động và không ép buộc kĩ thuật quá cao, dân ca (những giai điệu dân gian được lưu truyền) được hình thành dựa trên cảm hứng hát bội.

Sau thế kỉ IX, đầu thế kỉ XX, dựa trên cảm hứng của hát bội và dân ca, đờn ca tài tử được hình thành và ưu chuộng ở các tỉnh phía Nam.


Từ năm 1916, một bộ phận nghệ nhân đờn ca tài tử đã thêm vào lối độc thoại nhàm chán trước đó yếu tố đối đáp, đối thơ, đối thoại, dân ca, các động tác tay chân,.., chính thức hình thành biến thể “Ca ra bộ”.

Năm 1918, Chính quyền Pháp yêu cầu thêm lối kịch bản có vai diễn (diễn tuồng) vào “Ca ra bộ”, trở thanh tiền đề cho sự hình thành cải lương. Năm 1922, cải lương được lưu diễn cho công chúng, đánh dấu sự hình thành chính thức của nghệ thuật sân khấu cải lương.


2. Lịch sử phát triển Thời kì 1920 – 1930, cải lương phát triển rực rỡ, nhiều gánh hát ra đời, nổi tiếng nhất là hai gánh Phước Cương và Trần Đắc có dàn kịch gồm ba loại: các tuồng tích của Trung Quốc, loại xã hội và loại phóng tác (như "Tơ vương đến thác", "Giá trị và danh dự").

Gánh Trần Đắc

Gánh Phước Cương


Thời kỳ 1930 – 1934, nghệ thuật cải lương lan truyền ra ngoài Bắc và nhiều nghệ sĩ xuất sắc xuất hiện như Năm Phỉ, Phùng Há, Bảy Nhiêu, Sáu Hoàng,.. Thời kì kinh tế khủng hoảng, nhiều gánh hát tan rã. Dựa vào tâm lý của dân chúng ngả về tôn giáo, các gánh hát đua nhau diễn các tích về Phật, tiên, đi đầu là gánh hát Tân Thịnh.

Nghệ sĩ Sáu Hoàng

Nghệ sĩ Phùng Há

Nghệ sĩ Năm Phỉ


Năm 1934, xuất hiện phong trào "kiếm hiệp", đi đầu là gánh Nhạn Trắng và tác giả Mộng Vân người Bạc Liêu. Những vở nổi tiếng: "Chiếc lá vàng", "Bích Liên vương nữ", "Bảo Nguyệt Nương". Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Nhiều vở diễn mới xuất hiện, nội dung phong phú và đa dạng

Một số tuồng cái lương thể loại "kiếm hiệp" được thịnh hành


Thập niên 1960, Cải lương phát triển mạnh mẽ, hình thành nhiều “lò” đào tạo nghệ sĩ nổi tiếng như Út Trong, Văn Vĩ, Duy Trì, Tư Tân,... có cả giải thưởng cao nhất “Giải Thanh Tâm”. Những soạn giả nổi tiếng Năm Châu, Hà Triều, Hoa Phượng,.. kết hợp cải lương và tân nhạc bấy giờ thành thể loại tân cổ giao duyên.

Người đầu tiên đạt giải Thanh Tâm năm 1958 là NSUT Thanh Nga

Chân dung nghệ sĩ Thanh Nga


Khi Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cải lương miền Nam hoạt động mạnh 10 năm nữa, đến năm 1985, dần dần sa sú vì nhiều lý do, trong đó có thiếu kịch bản hay, thiếu rạp diễn mới và thế hệ lão thành tàn lụi. Sau năm 2000, thời kì Việt Nam trên đà phát triển đất nước, Nghệ thuật cải lương dần hạn chế, chỉ còn tồn tại trong một bộ phận người dân, phần nhiều do thế hệ trẻ ưu chuộng các dòng nhạc hiện đại.

Cải lương hiện đại ngày nay


3. Phân tích nghiên cứu Khái niệm Cải lương là một loại hình nghệ thuật sân khấu hình thành và phát triển trên vùng đất Nam Bộ. Thuật ngữ cải lương mang ý nghĩa là “cải cách và sửa đổi cho trở nên tốt hơn”, cải cách sửa đổi ở đây chính là hướng đến sự phát triển của nghệ thuật sân khấu ở Nam Bộ vừa mang đậm nét truyền thống, vừa theo kịp đà phát triển của văn minh.

Ở Nam Bộ, cải lương thật sự đã trở thành một loại hình nghệ thuật hấp dẫn với nội dung cốt chuyện và lối diễn xuất của nghệ sĩ phù hợp với tâm tư, nguyện vọng và lối sống phóng khoáng của người dân Nam Bộ.


Nội dung Nghệ thuật cải lương hướng về tả thực, diễn xuất giống như ngoài đời, người nghệ sĩ cần phải từng trải để thấu hiểu tâm lý nhân vật mà nhập vai, từ cách ăn nói, phong thái, xử sự. Về kỹ thuật trình diễn lại khác xa, hát bội hướng về tượng trưng và ước lệ, trong khi cải lương là tả thực. Cho nên, lối dàn cảnh ở cải lương rất công phu, phải giống hệt khung cảnh ngoài thiên nhiên, cần nhiều phông màn tranh cảnh khác nhau, thay đổi cho hợp tình tiết vở diễn. Y phục, hóa trang không cần lộng lẫy mà phải ăn mặc y như cách sống nhân vật, đúng vào thời đại nhân vật. Chẳng hạn, diễn tuồng Mông Cổ nhà Nguyên, không thể dùng y phục của triều đại Mãn Thanh. Về điệu hát, cải lương và hát bội đều sử dụng loại nhạc tuồng, nhưng cải lương không có xướng, bạch, hường, tán, ban… Cải lương vay mượn giọng điệu từ hát bội và đã biến thể rất nhiều để những điệu ca mới hợp với tiếng đờn tài tử. Như vậy, cải lương lấy âm nhạc làm chủ, diễn viên nhả chữ nhả câu phải hòa với tiếng đàn, giọng ca theo sát từng giai điệu và tiết tấu của điệu nhạc.


Đặc Điểm Tính trữ tình Tính trữ tình của nghệ thuật cải lương thể hiện qua nội dung tác phẩm thường đậm tính văn học kịch. Nội dung văn học kịch sân khấu cải lương phong phú về đề tài, phổ biến là các câu chuyện kể dân gian, truyền thuyết, lịch sử... là những câu chuyện cổ có nội dung xã hội, gắn liền với đời sống tinh thần của con người. Văn học kịch cải lương phản ánh hiện thực xã hội từ cổ xưa đến đương đại và tất nhiên không thể thiếu những câu chuyện về tình thân, tình yêu, tình bạn... được sử dụng như chất liệu chính. Vì vậy, chất trữ tình là đặc trưng, đặc điểm sân khấu cải lương, là nghệ thuật tình cảm.

Cải lương nổi tiếng với tính trữ tình chạm đến cảm xúc người xem


Nét bi Dù thể hiện theo hướng đề tài nào, sân khấu cải lương thường nói về số phận một con người, trong đó chủ đề nổi bật là tình yêu. Nhiều vở có lối dẫn dắt câu chuyện kịch: tử biệt - sinh ly - chia lìa - gặp lại, từ đó đi sâu khai thác những xung đột tình cảm, tạo cái bi. Nhưng cái bi của cải lương chỉ hé mở một nét buồn trong cuộc đời chứ không phải là bi kịch không lối thoát. Qua cái bi, khán giả nhận ra những giá trị nhân bản trong mỗi con người. Mỗi nhân vật có một cuộc đời, một số phận đầy bi ai, nhưng kết cục thì mọi nỗi oan khiên đều minh bạch. Kết có hậu là đặc điểm sân khấu cải lương và sân khấu phương Đông, cũng là nét thẩm mỹ tích cực của sân khấu truyền thống Việt Nam.

Những khoảnh khắc lấy đi nước mắt khán giả


Nét hài Hài là đặc tính chung của sân khấu truyền thống Việt Nam, nhưng sân khấu cải lương có nét hài khác lạ. Nếu cái bi của cải lương tập trung khai thác diễn xuất diễn viên, tình tiết, âm nhạc và lời ca; thì tính hài lại tập trung vào diễn xuất của diễn viên, chủ yếu ở ngoại hình và ngôn ngữ. Cái hài trong cải lương là sự điểm xuyết vào một chuỗi bi lụy kéo dài, diễn tả tình cảm của nhân vật. Đa phần nhân vật hài cải lương chỉ xuất hiện thoáng qua cùng với các nhân vật chính, như giảm bớt nỗi buồn bằng cách chọc cười.

Nét hài duyên dáng trong cải lương


Những tiếng cười của vai hài làm khán giả lấy lại thăng bằng. Nếu cải lương thiếu hài sẽ nặng nề và bi lụy ảm đạm. Nội dung tạo sự khôi hài ở cải lương là tiếng cười châm biếm, phê phán, cười ra nước mắt và cười vui, sảng khoái vô tư. Chất anh hùng ca Đặc biệt trong cải lương, chất anh hùng ca có từ truyền thống, phát triển qua những vở tuồng cổ cải lương từ năm 1921. Đến cải lương cách mạng, kháng chiến, chất anh hùng ca phát huy trọn vẹn.

Những bản "anh hùng ca" tráng lệ


Tổ nghề cải lương Thờ tổ nghề được coi là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thể hiện sự biết ơn vị sáng lập truyền nghề cho mình, di dưỡng đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Trong một năm, lễ cúng tổ nghề quan trọng nhất là nhằm vào ngày kỵ nhật của vị tổ nghề. Là vị thần phù hộ, là đức tin để người làm nghề cải lương có tinh thần cứng cáp hơn khi gặp khó khăn. Nó thể hiện nét tinh thần yêu văn nghề, điểm tựa cho người nghệ sĩ. Ngoài vị tổ sư nghề cải lương, người ta còn thờ nhiều vị tiên hiền và thần thánh khác như: thánh sư, tiên sư, tam giáo đạo sư, thập nhị công nghệ, lão lang đại thần, tiền hiền, hậu hiền,… Ngoài ra còn có Ông Quán và Bà Quán. Hai người có công lớn từng cưu mang nhiều đào, kép trên con đường hành nghề cải lương.


Trong nghề sân khấu thường nhắc đến 3 vị tổ nghề sân khấu (tam vị thánh tổ) • Tiên Sư: khai sáng ra nghề sân khấu • Tổ Sư: Nối tiếp và lưu truyền nghề • Thánh Sư: soạn tuồng Ông tổ nghề sân khấu cải lương: Tống Hữu Định, Năm Tú (Châu Văn Tú)

Chân dung Tống Hữu Định (hình giữa) và Châu Văn Tú (hình cuối) - những người khai sơn phá thạch nghề cải lương


Nghi thức ở Lễ hội giỗ Tổ nghề cải lương Nghi lễ ở lễ giỗ Tổ thường chia thành chung và riêng.


Lễ giỗ Tổ chung: là Lễ giỗ chung toàn thể nghệ sĩ tại khu vực lớn.

3 hồi trống thỉnh Tổ, chủ tế sẽ làm lễ niệm hương trước bàn thờ Tổ.

Phần lễ dâng hương lạy Tổ theo thứ tự từ già đến trẻ.

Nghi thức Đại Bội.

Hát hầu tổ, các nghệ sĩ biểu diễn tiết mục tâm đắc của mình trong không khí trang trọng và trang nghiêm.

Tiệc rượu. Đây là phần liên hoan vui vẻ cùng những anh chị em trong nghề hay ngoài nghề với nhau.

Một hồi trống chầu , ba hồi trống chiến. Vì vậy mới có câu: “Đuôi trống chầu là đầu trống chiến”


Lễ giỗ Tổ riêng: Lễ giỗ Tổ được các đoàn hát tổ chức riêng cho các nghệ sĩ trong đoàn (Lễ cúng Ông). Quy mô khách mời nhỏ nhưng chi tiết và long trọng hơn cả phần Lễ giỗ Tổ chung.

Diễn cúng tổ

10/8 âm lịch sẽ quét dọn nơi thờ và bàn thờ Tổ. Sau đó tắm gội và thay trang phục cho cốt tượng Tổ Sư.

Sáng 12/8 âm lịch sẽ tiến hành lễ cúng (cúng mặn). Khách mời là mội thế hệ nghệ sĩ.

Sáng 11/8 âm lịch sắp xếp hệ thống ngai thờ

Nghi thức tương tự lễ cúng Tổ chung.

Tối 11/8 âm lịch sẽ tiến hành lễ cúng Ông (cúng chay)

Sau cùng là tiệc rượu.


Cách cúng giỗ tổ nghề sân khấu Thứ nhất là khâu chuẩn bị mâm đầy đủ. Thực hiện nghi thức châm đèn nến, rót rượu nước và châm hương nhang. Đặc biệt phải đặt mâm cỗ cúng giỗ tổ nghề hướng ngoài trời. Mục đích của điều này để giúp cho lĩnh vực nghề sân khấu luôn hưng thịnh và gặt hái được thành công mới trên chặng đường tiếp theo. Thứ hai: châm hương và chắp tay vái 3 vái và đọc bài văn khấn cúng giỗ tổ nghề (cần phải gọi tên đầy đủ các vị bề trên và đất trời). Sau khi đọc xong bài văn khấn thì chắp tay vái ba vái và tiếp tục rót ba tuần rượu ba tuần nước. Thứ ba: nhang hương đã tàn thì vái 3 vái. Châm tửu một lần nữa, rót nước sau đó sẽ mang vàng mã ra hóa. Gạo và muối được vãi ra đường


Những điều kiêng kỵ

“Có thờ có thiêng, có kiêng có lành” “ Coi chừng Tổ trác.”

Kiêng cho tiền ăn xin Không mang mía và quả thị vào sân khấu Không ăn / mang theo chuối Không mang guốc vuông Không để trẻ con đá vào gương đồ diễn Không khen đồng nghiệp trang điểm đẹp Không động đến trống khi không biểu diễn ‘ Ăn mặc lịch sự khi cúng Tổ


Giọng hát Hát cải lương có đến sáu giọng: Bắc, Nam, Oán, Thán, Lý, Bình, Ngâm * Ca Bắc: Thường là văn vần, diễn trong tình tiết vui, tả cảnh vật, bày tỏ cái chí khí của đấng nam nhi, cái tiết tháo của kẻ sĩ, hoặc nói lên cái ý hướng của mình. Đôi khi dùng tả cảnh sinh ly tử biệt, nhưng đượm vẻ hào hùng. * Ca Nam: là giọng buồn thảm nhất trong các điệu cải lương. Thường dùng văn vần để có thanh bằng trắc, giọng trầm bổng thì ca mới nghe được. Tùy theo mức độ bi ai, điệu ca này chia làm 5 loại: Nam xuân có 8 lớp. Giọng Nam xuân buồn nhẹ, dịu hòa. Nam ai gồm 14 lớp. Giọng buồn thảm thê lương nhất. Nam bình (Trường tương tư), giọng buồn miên man. Nam chạy trong cải lương cũng giống như Nam tẩu trong trong hát bội, dùng khi bị rượt đuổi, vừa chạy vừa ca nhịp thúc để phù hợp với điệu bộ chạy giặc. Gồm nhiều lớp, mỗi lớp có 8 câu, và thường xen nói lối giữa hai lớp. Nam Đảo ngũ cung là 8 lớp. Mang thanh trắc, nghe chói tai xóc dựng, tạo âm điệu độc đáo trong cổ nhạc Việt Nam.


* Ca Bắc biến thể giọng Nam: Gồm 3 điệu: Hành vân hơi Nam: nhịp lơi và ngân nga, diễn tả tâm sự buồn của nhân vật. Chuồn chuồn hơi Nam: diễn cảnh gặp cơn hoạn nạn. Vọng cổ cũng là bản Bắc chuyển sang giọng Nam, nhưng là một điệu ca quan trọng nên có chỗ đứng riêng. * Nói lối: là những câu văn vần, chia làm ba loại: Lối Bắc: nói chậm từng tiếng, rõ ràng và nghiêm trang, không có đàn đưa hơi. Lối Ai (tức lối Nam): nói chậm, giọng buồn não ruột, có đờn đưa hơi Lối giặm: trong thời gian chờ diễn viên ca tiếp, nhân vật đối thoại xen vào câu Lối giặm, để tránh khoảng trống và tránh bị nguôi tuồng. * Nói thường: Dùng để xen giữa các câu nói lối, nên diễn viên phát ngôn bình thường, tự nhiên như kịch nói.


* Oán: Giọng oán thể hiện nỗi đau khổ buồn giận, nhưng mang tính bi hùng, chứ không ủy mị thê lương. Có 4 bài oán chính: Tứ Đại Oán (trong tuồng Vì Nghĩa Liều Mình) Giang Nam (những tuồng có nhân vật nữ trong cô phòng, than thân tủi phận) Phụng Cầu (trong tuồng Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu) Phụng Hoàng (tính chất oán nhẹ nhàng hơn các bản khác) Và 4 bài oán phụ: Văn Thiên Tường (ca trong lúc vợ chồng quyến luyến trước cảnh chia ly), Bình Sa Lạc Nhạn, Bộc Thủy Ly Tao, Thanh Dạ Đề Quyên. * Bình: Bài Bình bằng thơ lục bát và nói rõ ràng từng câu, từng điệu. Bình tả cái gia cảnh của vai tuồng. * Nói thơ: tức là không ngâm mà chỉ đọc thơ với giọng rõ ràng, thong thả.


* Thán: Điệu thán trong cải lương nhất định phải là thơ thất ngôn tứ tuyệt, có đờn đệm đưa hơi, với giọng não nề; chẳng hạn như than khóc người thân lìa đời. * Lý: Lý là điệu hát ngắn, gọn, tính nhạc phong phú, rất phổ biến trong dân gian. Cải lương thường dùng các điệu Lý sau đây: – Lý giao duyên dành cho đào hát trong lúc cô đơn, khi trông nhớ chồng, con đi xa lâu về. – Lý Ngựa ô căn cứ vào nguồn gốc có hai loại: điệu Lý Bắc hát nhanh nhịp 1, điệu Lý Nam hát chậm và nhịp tư lơi. – Lý Huế cũng hát chậm với nhịp tư lơi và giọng dịu dàng. – Lý con sáo tức Lý Tam thất, có hơi ca Nam. – Lý thập tình. – Lý chuồn chuồn.


* Ngâm: Là đọc thong thả bài thơ với giọng tha thiết diễn cảm qua âm điệu trầm bổng ngân dài, nhưng không theo khuôn nhịp cố định. Ngâm trong cải lương thường là thể thất ngôn tứ tuyệt, thơ tám chữ bốn câu, cũng có thể dùng lục bát hay song thất lục bát. * Vọng cổ: Vọng cổ nguyên thủy ca giọng Bắc, nhịp hai, bản đờn: “Hò liu xang xế cống, Líu cổng líu cổng xê xang, Xừ xang xê hò líu cống xê xang hò, Liu xế xang xự xể xang lìu hò… * Hò: Hò là điệu hát dân gian có giọng cất cao, to và dài hơi, đồng ca trong khi làm việc cho quên mệt nhọc, hay để hợp sức cùng làm một việc gì. Trong cải lương thường thấy hò cấy lúa, hò chèo ghe, hò đưa đò,…


Âm ngọc cải lương:

Giọng Thổ (còn gọi là Cung thanh âm thanh lớn, chậm rãi, nặng nề, trầm ngâm,vang khá lâu, tương tự như tiếng đại hồng chung của các chùa chiền.

Giọng Hỏa (còn gọi là Chủy thanh ) Tiếng khàn khàn như tiếng vịt đực, tuy cao vút như bị uất nghẹn trong yết hầu ,làn hơi như bị nén xuống trước khi phát ra thanh tiếng chứ không được suôn sẻ


Giọng Thủy (còn gọi là Vũ thanh) Giọng trong và nhẹ ,nhanh mà vẫn nghe được đầy đủ câu nói lẫn dấu giọng. Giọng Thuỷ chia làm hai loại:

Giọng Mộc (còn gọi là Giốc thanh) giọng trong trẻo ,có sinh khí, âm lượng tròn trịa ở xa vẫn nghe được rõ ràng,


Trang phục Những người may áo ‘giữ hồn’ cải lương . Mỗi bộ trang phục là một tác phẩm nghệ thuật


Theo các nghiên cứu thì nghề may phục trang cải lương tuồng cổ thực sự xuất hiện tại Sài Gòn từ khoảng thế kỷ XX, trước đó nó “kế thừa” của hát tuồng (hát bội) và của các đoàn hát Trung Quốc khi đến biểu diễn. Trang phục tuồng cổ được thiết kế trước hết phải mang sắc thái sặc sỡ, nhiều màu sắc. thời gian đầu, các nghệ nhân thiết kế trang phục dựa theo kiểu dáng quần áo Trung Quốc nhưng càng về sau vì lòng tự tôn dân tộc và do có nhiều điểm khác biệt giữa hai nền văn hóa, lịch sử đã buộc nghệ nhân phải sáng tạo trên quan điểm tôn trọng văn hóa - lịch sử dân tộc.Để đảm bảo tính lịch sử cho trang phục, các nghệ nhân phải tự mày mò, tìm chỗ dựa trong các cứ liệu lịch sử như các tư liệu thành văn, hiện vật khảo cổ, các di tích văn hóa, phong tục tập quán, hội hè, đình đám, thậm chí là truyền thuyết, cổ tích… Các nghệ nhân phải nghiên cứu rất lâu, khảo sát tại các viện bảo tàng rồi dựa theo tính cách nhân vật, vai trò của nhân vật mới vẽ và chọn chất liệu phù hợp để may. Tất nhiên, họ cũng có những hư cấu, nhưng phải trong giới hạn cho phép, gắn liền với cứ liệu lịch sử.


Trang phục cải lương tuồng cổ thường được chia làm ba loại:

Trang phục các vở tuồng sử Việt Nam: nhân vật thường mặc mũ cao, áo dài thuần Việt.

Trang phục các vở có tích truyện từ Trung Quốc (hay còn gọi là tuồng Tàu, tuồng Hồ Quảng): võ tướng đội mão kim quan có gắn lông chim trĩ, tay áo túm; quan văn tay áo rộng, đội mão cánh chuồn dài, ngang…

Trang phục các vở cải lương Mông Cổ, Ấn Độ, Ba Tư…

TP. Hồ Chí Minh hiện nay có khoảng 50 nghệ nhân làm nghề thiết kế trang phục cải lương trong đó nổi bật nhất phải kể đến nghệ nhân Công Minh (gia tộc cải lương tuồng cổ Bầu Thắng - Minh Tơ), nghệ nhân Kim Phượng - Bạch Nga (gia tộc Huỳnh Long), nghệ nhân Bảo Ly…


Người hát Trong các đoàn hát có “đào” là phải có “kép”.Cách gọi này vốn xuất phát từ lĩnh vực ca trù


Đào: nghệ sĩ nữ Kép: nghệ sĩ nam Họ thường đóng cặp với nhau, ăn ý khi diễn từ đó mà có rất nhiều cặp đào-kép nổi tiếng gắn bó lâu với nhau trong nghề.

NSƯT Kim Tử Long NSƯT Ngọc Huyền

NSND Minh Vương - NSND Lệ Thủy

NSƯT Vũ Linh Tài Linh


Đào kép tính cách dấu ấn đặc biệt trong cải lương Đào lẳng lơ: là vai lẳng lơ, đanh đá, thường dùng nhan sắc đẹp nhằm mưu toan làm chuyện xấu Đào độc_kép ác: là loại vai nữ tính cách gian ác, xảo quyệt, thường là chất xúc tác cho tấn bi kịch nhân vật chính. Đào hài và kép hài: gia vị đặc biệt cho vở diễn đó là những tiếng cười Đào_kép mụ: để vào vai mụ không cần thiết người diễn viên phải đạt đúng độ tuổ, quan trọng là cách diễn xuất, tiếng ca phù hợp để đảm nhận vai diễn. Đào_kép thương: là nhân vật chính lấy nhiều nước mắt của kháng giả, phải gánh chịu tấn bi thương của vở diễn. NSUT Hồng Nga, một trong những cô đào đa tài khi vừa diễn tròn vai đào độc, đào lẳng và đào mụ


Thành tựu Cải lương - Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang

- Ngày 16-11-1918, vở "Gia Long tẩu quốc" được trình diễn tại Nhà hát Tây Sài Gòn. Đây được xem là vở diễn đánh dấu sự ra đời của nghệ thuật cải lương. Đến nay, cải lương đã tròn 100 tuổi và trở thành loại hình sân khấu gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần người dân Nam Bộ. - Những thành tựu mà nghệ thuật cải lương đạt được: được chia làm 2 giai đoạn được xem là thời hoàng kim của cải lương: năm 19301945, năm 1955-1975.


- Giai đoạn năm 1930-1945: Tạo ra một đội ngũ nghệ sĩ là những "cây cổ thụ của cải lương" mà tài hoa sáng tạo của họ xếp vào bậc thầy của thế hệ sau. Đội ngũ soạn giả giai đoạn này là những người có trình độ am hiểu cổ - kim (Nho học và Tây học) như Tư Chơi, Năm Châu, Trần Hữu Trang, Lê Hoài Nở, Mộng Vân… Kịch bản có tính triết lí, giáo dục sâu sắc: Khúc oan vô lượng, Túy Hoa vương nữ, Tô Ánh Nguyệt, Đời cô Lựu, Tráng sĩ Kinh Kha, Khi người điên biết yêu… với đội ngũ diễn viên huyền thoại: Năm Phỉ, Kim Thoa, Ba Vân…

- Cố NSND Phùng Há (19112009) - Tên thật: Trương Phụng Hảo - Vở diễn nổi tiếng: Hoàng phi Hổ quy Châu, Thôi Tử thí Tề Quân, Mổ tim Tỷ Can, Anh hùng náo Tam Môn Nhai,…

- Cố NSND Bảy Nam (19132004)_ cùng với NSND Phụng Hảo được xem là vị tổ bộ môn cải lương - Vở diễn ấn tượng: Lá sầu riêng và Bông hồng cài áo - Vở kịch hay do bà làm soạn giả: Phấn hậu cung, Gươm vàng máu đỏ Người đàn bà Việt Nam, Nỗi đau lòng mẹ,…


- Giai đoạn năm 1955-1975: Các soạn giả trẻ tuổi, nhiệt huyết, dồi dào bút lực: Viễn Châu, Kiên Giang, Hà Triều - Hoa Phượng, Thu An, Yên Ba, Thiếu Linh, Phong Anh… đưa ra nhiều cách sáng tạo và văn hóa các nước vào cải lương. Các kịch bản phong phú, nhiều thể tài đa dạng của sân khấu cải lương như hương xa, kiếm hiệp, dã sử, tuồng cổ (tuồng Tàu), tâm lý xã hội… Nghệ sĩ nổi tiếng là những tấm gương tài đức vẹn toàn và mãi để lại dấu ấn đến ngày nay: Thanh Nga, Mỹ Châu, Ngọc Giàu, Bạch Tuyết, Lệ Thủy, Thanh Sang… Các tác phẩm nổi tiếng thời này: Mùa thu trên Bạch Mã sơn,Đời cô Lựu, Bóng tối và Ánh sáng, Mạnh Lệ Quân, Mưa Rừng,… - Cố NSƯT Thanh Nga (1942-1978)_ được mệnh danh là "Nữ hoàng sân khấu" của miền Nam Việt Nam thời điểm lúc bấy giờ. - Vai diễn nổi bật: tiếng trống Mê Linh (vai Trưng Trắc), Bên cầu dệt lụa (vai Quỳnh Nga), Lan và Điệp (vai Lan), Thái hậu Dương Vân Nga (vai Dương Vân Nga),…

Trích đoạn "Đời cô Lựu"


Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến hai tác phẩm nổi tiếng cũng được xem là những thành tựu, tài sản quý giá của nghệ thuật cải lương: Dạ Cổ Hoài Lang_ dựa trên bản nhạc cổ Dạ cổ hoài lang cho cố nhạc sỹ Cao Văn LẦu sáng tác, tiếng trống Mê Linh.

- Cố nhạc sỹ Cao Văn Lầu(1892-1976) _ tác giả bài Dạ cổ hoài lang - Bài hát nói về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm. Từ bản Dạ cổ hoài lang mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, mà thành bài vọng cổ đầu tiên.

Trích đoạn cải lương Tiếng trống Mê Linh qua tiếng hát của hai cố NSƯT Thanh Nga- Thanh Sang - Bối cảnh của vở cải lương là giai đoạn lịch sử: Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán, năm 40 sau Công nguyên, lúc bấy giờ nước ta là quận Giao Chỉ - Lời lẽ trong vở diễn thật giản dị nhưng đầy chất văn học, đã phá tan định kiến của một số người cho rằng cải lương là “quê mùa”,“lạc hậu”.


Giá trị Cải lương - Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang


- Giá trị truyền nghề- Giá trị nhân văn Tại TPHCM, có 2 dòng tộc theo trường phái Tuồng cổ, đó là đại gia đình Vĩnh Xuân, Bầu Thắng - Minh Tơ - Thanh Tòng và Huỳnh Long. Theo thời gian, bộ môn nghệ thuật này phát triển mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng với các chi tộc gia đình, không chỉ có diễn viên, nhạc sĩ, nhạc công, mà còn nhiều người chọn nghề may phục trang, làm đạo cụ tuồng cổ, mũ mão, hài,...

- Các thành viên trong gia đình Bầu Thắng - Minh Tơ - Thanh Tòng tiếp tục giữ gìn và phát huy nghệ thuật cải lương tuồng cổ.

Tuồng tích của sân khấu cải lương Tuồng cổ hầu hết còn mang tính giáo dục rất cao, đề cập đến các câu chuyện về hiếu, trung, tín, lễ, tiết, nghĩa; đưa ra những bài học giúp con người hướng thiện, bên cạnh đó, giữ gìn phát huy các truyền thống, phẩm chất đẹp của dân tộc.


- Giá trị nghệ thuật: Có thể nói, sự ra đời nghệ thuật sân khấu cải lương là kết quả của quá trình giao lưu giữa loại hình nghệ thuật truyền thống vốn phổ quát ở miệt vườn Nam Bộ là đờn ca tài tử và nghệ thuật sân khấu kịch thoại của Pháp. Tuy nhiên, Quá trình giao lưu văn hóa này đã hòa quyện một cách sâu đậm vào dòng văn hóa Nam Bộ đến mức khán giả không còn phân biệt đâu là sự ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp. Cải lương đã trở thành một loại hình nghệ thuật hấp dẫn với nội dung cốt truyện và lối diễn xuất của nghệ sỹ phù hợp tâm tư, nguyện vọng, lối sống phóng khoáng của người dân phương Nam. Nghệ thuật cải lương ra đời xuất phát từ lòng yêu nước của những người dân phương Nam muốn nước nhà có một nền nghệ thuật biểu diễn riêng, đặc sắc.


Nghệ thuật cải lương đúng là một hình thức văn hóa độc đáo như Nghệ sỹ Nhân dân Nguyễn Thành Châu (Năm Châu)-một trong những nghệ sỹ cải lương bậc thầy từng nói: Cải lương thật và đẹp. Nghệ thuật cải lương với những kịch bản hay về nội dung, đậm chất nhân văn, triết lý sâu sắc, bên cạnh đó khắc họa rõ nét bản sắc riêng và đã trở thành niềm tự hào của dân tộc.

Cố NSND Thanh Tòng và con gái là NSƯT Quế Trân biểu diễn giao lưu cùng các nghệ sĩ sân khấu cổ truyền Nhật Bản.


Thực trạng Cải lương - Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang


Nghệ thuật sân khấu Cải lương là một bộ môn nghệ thuật giàu tính truyền thống, mang nhiều nét đặc sắc của văn hóa dân tộc ta, hội tụ trong đó nhiều yếu tố nghệ thuật mang giá trị nhân sinh cao. Cải lương đúng như tên gọi của nó, tức là giúp người thưởng thức loại hình nghệ thuật này cảm nhận được những điều tốt đẹp, thậm chí là chông gai, trắc trở của cuộc sống từ đó cải cách để tiến đến những giá trị hoàn hảo, sống có đạo đức, thiện lương với xã hội, trong mối quan hệ người với người… Người nghệ sĩ Cải lương là những người đem tâm và tài của mình ra hết lòng biểu diễn cho khán giả xem, qua các vở diễn thể hiện những triết lí nhân sinh quan gắn liền ngàn đời với dân tộc. Các đạo lí từ uống nước nhớ nguồn, cho đến nhân quả tuần hoàn, tình yêu đôi lứa, lớn hơn nữa là tình yêu dân tộc, tình yêu Tổ quốc. Nhưng đứng trước sự hội nhập của quá nhiều loại hình nghệ thuật từ các nước bạn xuất hiện gây thu hút giới trẻ, những vấn đề của biến đổi thời đại… đã làm bộ môn nghệ truyền thống Cải lương đang dần thoái trào.


Tại Tọa đàm “Theo dòng lịch sử cải lương tại Sài Gòn (1955-1975)” do Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, với sự tham dự của NDND Trần Ngọc Giàu, NSND Trần Minh Ngọc, NSND Thanh Tuấn, các NSƯT, đạo diễn, tác giả, các nhà nghiên cứu cải lương, tác giả, đạo diễn... Hầu hết các tham luận đều vẽ nên một chân dung bộ môn cải lương 100 năm tuổi với màu sắc ảm đạm, ít niềm vui, thể hiện rõ qua những bất cập đang tồn tại nhiều năm qua, khiến môn nghệ thuật này gần như rơi vào khủng hoảng. Cải lương không còn đậm đà bản sắc như vốn có, thiếu hơi thở thời đại, trì trệ... khiến khán giả thờ ơ, thậm chí quay lưng. Tác động của cơ chế thị trường, sự bùng nổ công nghệ thông tin, công nghệ giải trí cũng khiến không ít tác giả, đạo diễn, diễn viên... rơi vào sự lúng túng, chạy theo thị hiếu dễ dãi, càng khiến cải lương lao dốc.

NSƯT-TS Nguyễn Thị Hải Phượng băn khoăn về vấn đề nhạc công cho cải lương. Trước đây, các đoàn đều có những ban nhạc riêng, đoàn lớn thì 8 - 10 nhạc công, đoàn nhỏ cũng phải có 3 - 4 nhạc công cổ nhạc cùng 1 tân nhạc. “Thế nhưng ở thời điểm hiện tại, như các đoàn của Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang, biên chế dàn nhạc chỉ có 3 nhạc công/đoàn, gồm 2 người đàn cổ và 1 người đàn organ. Như vậy không thể đủ đáp ứng cho toàn bộ yêu cầu của một vở diễn, không thể đủ âm sắc của các nhạc khí làm nhiệm vụ nâng đỡ lời ca, dẫn đến âm nhạc trong cải lương ngày càng đơn điệu và mất đi sự thu hút”


NSND-TS Bạch Tuyết cho rằng: “Những điểm nghẽn của cải lương hiện nay thể hiện ở các khâu: kịch bản thiếu hụt tác giả tài năng để tạo ra các tác phẩm hay, truyền tải được thông điệp mà xã hội, công chúng quan tâm, đang cần lắng nghe, suy ngẫm; thiếu vắng những sáng tạo âm nhạc trong cải lương để tạo điểm nhấn cho vở diễn; đạo diễn cải lương không nhiều, đạo diễn giỏi lại càng hiếm; sự thiếu vắng trầm trọng những nhà hát đúng tiêu chuẩn dành cho loại hình ca kịch dân tộc hiện đại...”.

NSƯT Kim Tử Long cũng bức xúc trước thực trạng khó khăn về nhà hát biểu diễn cải lương, khiến “ông bầu” này phải đau lòng “cất kho” vở diễn đầu tư đến 800 triệu đồng Rạng ngọc Côn Sơn. “Vở chỉ diễn được 2 lần trong dịp liên hoan cải lương toàn quốc vừa qua, đến giờ vẫn chưa có thêm suất diễn nào vì giá thuê rạp quá cao, muốn không lỗ thì phải bán vé giá cao, cả triệu đồng/vé thì làm sao có khán giả?”


Giải pháp bảo tồn

Cải lương - Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang

Để Cải lương phát triển, trở lại thời kì huy hoàng của những thập niên trước, tránh bị mai một nhiều ý kiến về giải pháp đã được đưa ra, từ việc đưa Cải lương vào game show, cho đến xây dựng nhà hát riêng cho Cải lương…


Trong tham luận “Vài suy nghĩ về âm nhạc cải lương, sau một trăm năm hình thành phát triển cải lương” của tác giả Hồ Văn Thành, ở mục cuối “Những giải pháp cần thiết để phát triển âm nhạc cải lương” bao gồm 5 điều thì đặc biệt ở điều đầu tiên là: “Sưu tầm, lưu trữ và phổ biến những bài bản mới, hay, hiệu quả trong Cải lương: Cần sớm xúc tiến việc sưu tầm, lưu trữ những bài bản Cải lương mới, hay, hiệu quả qua sáng tạo của các nghệ sĩ, nhạc sĩ từ nhiều vùng miền nhằm thống kê và bổ sung thêm vào hệ thống bài bản Cải lương . Sau đó có thể in ấn, phổ biến đến các Nhà hát, Đoàn Cải lương, các nghệ sĩ sử dụng, tham khảo, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.” Trong tham luận “Cải lương Nam Bộ - Nhìn lại và bước tiếp” của tác giả Mai Mỹ Duyên trong phần “Trao đổi về một số giải pháp” có nhận định rằng: “Giáo dục – đào tạo: giáo dục công dân, giáo dục âm nhạc và sân khấu dân tộc, học nhạc cụ, bài bản (bài bản nhỏ của Nhạc Tài tử - Cải lương) ở các bậc phổ thông theo hướng từ thấp lên cao. Chấn chỉnh chương trình đào tạo các chuyên ngành: biểu diễn nhạc cụ, biểu diễn sân khấu, sáng tác kịch bản, dàn dựng và biên đạo sân khấu, kỹ năng tiếp xúc công chúng, tư cách và nhân cách nghệ sĩ… ở các trường đào tạo âm nhạc và sân khấu dân tộc. Liên kết giữa giáo dục – đào tạo trong và ngoài nhà trường về văn hóa – nghệ thuật giữa thiết chế văn hóa do Ngành văn hóa – thông tin quản lý với các trường phổ thông trên địa bàn.”


Trong tham luận “Cải lương sống bằng gì” của tác giả Trần Nhật Vy có nói rằng: “… tôi nghĩ rằng muốn “gầy” lại hay “chấn hưng” cải lương thì chúng ta phải đầu tư. Nhưng đầu tư từ đâu? Xin thưa từ giáo dục. Phải có giờ các em học để biết thế nào là đờn ca tài tử, thế nào là hò, lý...Đây là cách tạo điều kiện để thanh niên biết rồi mới tiến tới thích nghệ thuật của dân tộc, của vùng đất nơi mình sanh sống. Phải có trường chuyên dạy những người có lòng, có năng khiếu với nghệ thuật cải lương. Không chỉ dạy hát mà dạy cả thủ thuật bí truyền trong cách diễn. Dạy cách soạn một tuồng cải lương như thế nào. Bởi viết tuồng cải lương không như cách viết kịch bản phim hay thoại kịch. Người viết ngoài tài năng, kiến thức còn phải có hiểu biết về ngũ âm về âm luật của nhạc tài tử, biết cách sử dụng cây đờn nào vào lúc nào...Đờn cũng phải học. Nhấn nhá thế nào cho mùi. Chạy ngón thế nào cho tinh tế. Hơi đờn thế nào cho hấp dẫn...đều phải học. Theo tôi, rất cần một hoặc hai trường chuyên nghề cho cải lương ở Nam bộ. Có học thì mới hiểu. Có hiểu thì mới yêu thích. Có yêu thích thì mới mê. Còn không biết thì chúng ta không có gì cả, đừng hy vọng.” Những giải pháp để “cứu” cải lương cũng được đặt ra. Trong đó, nhiều ý kiến nhấn mạnh đến việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải thiện chính sách đối với nghệ thuật cải lương. Bởi lẽ, các chính sách dành cho văn hóa, văn học nghệ thuật hiện đã trở nên bất cập, không theo kịp tình hình phát triển của kinh tế thị trường. Bên cạnh đó đòi hỏi cần phải có sự trang bị cơ sở vật chất phù hợp, đáp ứng hoạt động sáng tạo nghệ thuật của cải lương; các phương tiện thông tin đại chúng cần ưu tiên thời lượng và giờ phát sóng phù hợp, thuận lợi để quảng bá cho cải lương; xây dựng nguồn nhân lực tài năng; tạo một thế hệ khán giả mới, ngay từ tuổi nhỏ, đã biết thưởng thức cải lương...


“Tương lai của cải lương là giới trẻ, cải lương có tồn tại hay không cũng nhờ vào lớp trẻ. Thách thức của chúng ta là làm sao phổ biến cải lương thành đại chúng như tân nhạc, phá bỏ suy nghĩ “cải lương là sến súa”. Muốn vậy phải phổ cập cải lương qua các kênh thông tin phổ biến như YouTube, Zalo, Facebook... Ví dụ như bằng cách mời nghệ sĩ nổi tiếng hát các bài bản như Sương chiều, Xang xừ líu... rồi thách đố người nghe hát theo, có giải thưởng; tổ chức game show về kiến thức cải lương, đưa cải lương vào trường học...”, tác giả Vương Huyền Cơ đề xuất các giải pháp. Chị cũng nhấn mạnh rằng giới trẻ ngày nay thích ngôn tình. Trong khi đó, nghệ thuật cải lương mang tính tự sự, với những câu vọng cổ ngọt ngào, những bài bản thể hiện tâm trạng rất phù hợp với thể loại ngôn tình. Vì vậy cần đầu tư cho tác giả viết ra những kịch bản cải lương hay nhất, ca ngợi chânthiện-mỹ, ca ngợi tình yêu, lòng hiếu thảo, thủy chung... chạm được trái tim khán giả. Vậy, tổng hợp lại rằng để duy trì, phát triển và bảo tồn nghệ thuật sân khấu Cải lương thì có rất nhiều cách, nhưng cụ thể ở đây thì phải lưu ý đến hai vấn đề chính đó là “giáo dục” và “lưu trữ, phổ biến”.


MV làm về cải lương tốt nhất: Cung Đàn Vỡ Đôi - ChiPu

"Tuy còn nhiều thiếu sót, nhưng đúng ta đều phải thừa nhận rằng đây là MV nhạc Pop lấy cảm hứng về cảm lương tuyệt vời nhất hiện tại" - Cư dân mạng nhận xét


Chi Pu đã tham vấn từ Nghệ sĩ Cải Lương Thanh Sơn,hậu duệ đời thứ ba của gia tộc cải lương Bầu Thắng - Minh Tơ - Thanh Tòng, và NSND Bạch Tuyết, người được mệnh danh là "Cải lương chi bảo", một trong những tượng đài cải lương của Việt Nam để được tham vấn thêm về Cải Lương và cố vấn về diễn xuất, luyện tập động tác để hóa thân tốt hơn vào nhân vật.

Đoàn cải lương "Tân Cổ" là một đoàn hát rong, rày đây mai đó, phục vụ cho bà con khắp vùng đất Nam Kỳ. Ngay từ những phân đoạn mở đầu, ta có thể thấy đây là một đoàn hát nghèo, sử dụng những khoảng đất trống để tận dụng làm sân khấu. Đây là một nét văn hóa đặc trưng đã được khắc họa khá thành công trong MV này. 2 vở tuồng được Chi Pu tái hiện là Thái Hậu Dương Văn Nga và Lục Vân Tiên


Phim điện ảnh làm về cải lương tốt nhất: Song Lang

Song Lang gây ấn tượng với người mê điện ảnh ngay từ tên gọi mang nhiều ý nghĩa.


Song lang đã chiến thắng nhiều giải thưởng điện ảnh quan trọng của Việt Nam, bao gồm giải Bông sen vàng cho phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 21 và giải Cánh diều bạc cho phim truyện điện ảnh tại Giải Cánh diều 2018. Từ cuối năm 2018, phim đã được gửi đi tham dự và công chiếu tại nhiều liên hoan phim quốc tế, trong đó có Liên hoan phim quốc tế Tokyo và Liên hoan phim quốc tế Bắc Kinh, thu về hơn 30 giải thưởng tại các sự kiện điện ảnh này, đồng thời được cho là phim điện ảnh Việt Nam đoạt nhiều giải thưởng quốc tế nhất từ trước tới nay. Song lang ngoài ra cũng được khởi chiếu thương mại tại thị trường Nhật Bản và Hoa Kỳ.

Bộ phim do đạo diễn Leon Quang Lê thực hiện với tình yêu cải lương, tôn vinh môn nghệ thuật quý báu của nước nhà. Đây cũng là dự án tiếp theo mà nhà sản xuất Ngô Thanh Vân sẵn sàng mạo hiểm để mang đến cho khán giả tác phẩm nghệ thuật sau thành công của Cô Ba Sài Gòn. Nét đặc sắc của phim là sự kết hợp lần đầu giữa yếu tố ngôn tình và nghệ thuật cải lương cổ truyền.


Tạm kết Cải lương - Bộ môn nghệ thuật trăm tuổi và hành trình tìm lại ánh hào quang


Dù tuổi đời non trẻ so với các loại hình nghệ thuật truyền thống khác nhưng cải lương sớm khẳng định được chỗ đứng, đạt những thành tựu rực rỡ và sản sinh hàng loạt gương mặt nghệ sĩ tài danh, được đông đảo công chúng mến mộ. Bên cạnh đó, nhờ khả năng dung nạp, chọn lọc tinh hoa nghệ thuật trong, ngoài nước nên từ khi ra đời, nghệ thuật Cải lương đã luôn mới mẻ và hấp dẫn. Các nghệ nhân tiền bối liên tục bồi đắp sáng tạo, làm cho nghệ thuật Cải lương theo thời gian phát triển đa dạng, phong phú, trong đó có nghệ thuật Cải lương Tuồng cổ. Nghệ thuật cải lương còn được xem là một viên ngọc quý, tràn đầy sức sống và sự sáng tạo, mang đậm những tinh hoa văn hóa dân tộc. Tuy nhiên ngày nay, bộ môn nghệ thuật giá trị này như đang dần bị lãng quên. Có thể thấy, hành trình khôi phục lại cho loại hình nghệ thuật này vẫn còn lắm gian nan, vất vả chứ chưa dám mong thời hoàng kim sẽ lặp lại.Thật đáng buồn.


Tài liệu tham khảo 1. Các bài viết trên fanpage Cải Cách Lương Truyền: https://www.facebook.com/caicachluongtruyenajc/ 2. Lịch sử cải lương - bài viết: http://www.vanchuongviet.org/index.php? comp=tacpham&action=detail&id=16412&fbclid=IwAR0N8ZC0T9tHsN7guJtTpPvWQWZY7zToYCRYYgxGo-7CsdTyUmBB_IoaWU 3. Theo dòng Lịch sử Sân Khấu Cải Lương (Kỷ niệm 100 năm sân khấu cải lương) - ĐHQG Trường ĐH KHXH&NV, Hội sân khấu thành phố Hồ Chí Minh 4. Quá trình hình thành nghệ thuật cải lương, một di sản Đồng Bằng Nam Bộ - Phạm Trí Thành 5. Võ Thị Yến (2011), “Vai trò của cơ sở kinh doanh nghệ thuật tư nhân với sân khấu xã hội hóa TP. Hồ Chí Minh”, Nghiên cứu Văn hóa, (7) Tr. 66-72. 6. Võ Thị Yến (2012), “Nghệ thuật Cải lương trong bối cảnh Đông Á và Đông Nam Á”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (335), tr. 7277 7. Võ Thị Yến (2012), “Cơ sở hình thành phương thức quản lý tư nhân của sân khấu Cải lương Nam Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, (1), tr. 62-66. 8. Trần Việt Ngữ (1984), Nghệ sĩ Ba Vân với sân khấu Cải lương, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh 9. Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đỗ Hương (2007), Sân khấu Cải lương ở Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa, Tp. Hồ Chí Minh. 10. Tư liệu sưu tầm trên internet...


Tên

1. Nguyễn Chí Toàn

Bảng đánh giá thành viên

2. Nguyễn Thị Minh Thư 3. Nguyễn Hoàng Kha 4. Bùi Thị Minh Thơ 5. Trương Đức Trọng 6. Đặng Duy Khoa

Đánh giá


Cảm ơn cô Đã theo dõi và chỉ dạy nhóm em suốt thời gian qua!

Để xem bài theo dạng lật issuu - Mời cô nhấp vào link này!


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.