TẠP CHÍ KIẾN TRÚC CẢNH QUAN - CUNG ĐÌNH HUẾ

Page 1


MỤC LỤC GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ TRIỀU NGUYỄN

VƯỜN CUNG ĐÌNH LÀ GÌ?

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VƯỜN CUNG ĐÌNH HUẾ

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA VƯỜN CUNG ĐÌNH HUẾ

CÁC LOẠI HÌNH CỦA VƯỜN CUNG ĐÌNH HUẾ




SƠ LƯỢC TRIỀU NGUYỄN T

riều Nguyễn (1802-1945) là triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam, là triều đại kế thừa được những tinh hoa về văn hóa, kiến trúc của dân tộc qua hàng ngàn năm lịch sử. Hệ thống kiến trúc cung đình thời Nguyễn đã có những bư ớc phát triển đột khởi, tạo nên một bản sắc riêng, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc và cách tổ chức không gian vườn. Chính đặc điểm này đã làm cho Huế – kinh đô của triều Nguyễn trở thành một điển hình của lối kiến trúc đô thị – cảnh quan, nổi tiếng đẹp và thơ mộng. Tháng 12/1993, quần thể kiến trúc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới với những đánh giá đặc biệt về giá trị cảnh quan và lịch sử.

Triều Nguyễn được thành lập chính thức vào năm 1802, sau khi chúa Nguyễn Phúc Ánh thống nhất đất nước; cũng năm này ông lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long và chính thức chọn Huế để xây dựng kinh đô. Việc quy hoạch và xây dựng kinh đô Huế diễn ra hơn 30 năm, kéo dài qua hai triều vua là Gia Long (1802-1820) và Minh Mạng (1820-1841). Kinh đô Huế là một phức hệ kiến trúc phong phú và hoàn chỉnh, bao gồm thành trì, cung điện, đàn miếu, chùa quán, lăng tẩm, cầu cống, thủy hệ, vườn ngự, hành cung… Bên cạnh hệ thống kiến trúc cung đình còn có hệ thống phủ đệ của thân vương, hoàng tử, công chúa; dinh thự, nhà vườn của quan lại; hệ thống chùa chiền Phật giáo; hệ thống nhà thờ Thiên chúa giáo; hệ thống kiến trúc dân gian… Có thể nói đó là phức hệ kiến trúc phong phú và hoàn chỉnh nhất trong các kinh đô của Việt Nam thời kỳ chế độ quân chủ, và cũng là hệ thống kiến trúc – di sản còn bảo tồn được tốt nhất của Việt Nam cho đến ngày nay.


VƯỜN CUNG ĐÌNH LÀ GÌ?

Vườn cung đình là một loại hình kiến trúc đặc biệt, gắn liền với kiến trúc cung đình qua các triều đại quân chủ phong kiến. Tại Việt Nam, vườn cung đình đã có lịch sử hình thành, phát triển gần 1000 năm, qua các triều đại từ Đinh, Lý, Trần, Lê đến thời Nguyễn. Đặc

biệt, dưới thời Nguyễn (1802-1945), các loại hình vườn cung đình phát triển rực rỡ và góp phần quan trọng làm nên vẻ đẹp tuyệt vời của kinh đô Huế-một đô thị-thành phố vườn nổi tiếng đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới.


Để hiểu về khái niệm vườn cung đình, trước hết cần bàn về khái niệm “vườn” truyền thống.

VƯỜN TRUYỀN THỐNG heo quan điểm kiến trúc phương Đông, vườn là “một không gian kiến trúc dựa vào hình thế thiên nhiên để tạo nên không gian trữ tình có sự kết hợp giữa các yếu tố tự nhiên và kiến trúc, đặc biệt khai thác triệt để các yếu tố sông hồ, núi đ Vồi, cây xanh và hoa trái, khai thác triệt để các yếu tố về đá, nước và cây” Theo Trung Quốc cổ đại kiến trúc từ điển, xét về nguyên tự của chữ “VIÊN” có nghĩa là một khu vực có tường bao bọc 4 phía, bên trong có núi đất, hồ nước, rừng cây…, một không gian dùng để dạo chơi, thưởng lãm. chữ “viên” nghĩa là vườn về sau thường được dùng kép là “viên lâm”. Viên lâm cổ điển của Trung Quốc là một nghệ thuật cấu trúc vườn được xuất hiện và phát triển thuận theo sự phát triển của văn minh cổ đại Trung Quốc. Từ khoảng trên 2000 năm trước đã xuất hiện các uyển hựu của vua chúa, sau đó là các vườn của tư nhân, về sau loại hình vườn tư nhân ngày càng phát triển và trở thành một bộ phận chủ yếu của nghệ thuật kiến trúc vườn Trung Hoa. Kiến trúc khởi đầu của viên lâm Trung Quôc đều là “thái thổ trúc sơn” (lấy đất đắp núi) hoặc “thâm lâm tuyệt gián”(giữa rừng sâu tạo dòng nước chảy quanh co), tức mô phỏng theo tự nhiên để tạo nên cảnh sơn thủy kỳ thú. Sau đó tiến tới đắp đá làm núi hoặc xây lầu các trùng điệp.

T

Như vậy, loại hình vườn cung đình Trung Quốc có nguồn gốc từ các “uyển hựu” thời cổ đại, là nơi bậc đế vương nuôi dưỡng cầm thú, trong trồng rừng cây, hoa cỏ như viên lâm để phục vụ việc giải trí; về sau vườn hoa phát triển chiếm vị trí chủ đạo để trở thành các li cung của hoàng đế. Từ Trung Quốc, từ hàng ngàn năm trước, nghệ thuật kiến trúc vườn, trong đó có vườn cung đình đã ảnh hưởng lan tỏa đến nhiều nước, đặc biệt là các nước trong nhóm “Đồng văn”, trong đó có Việt Nam. VƯỜN CUNG ĐÌNH VIỆT NAM Vườn cung đình Việt Nam là hình thái kiến trúc cảnh quan do triều đình xây dựng để phục vụ cho nhu cầu nghỉ ngơi, thưởng lãm của bậc vua chúa, vì thế cũng có các tên ngự uyển, cung uyển, ngự viên... gọi chung là vườn ngự. Dĩ nhiên, vườn ngự chỉ xuất hiện cùng với sự ra đời của chế độ quân chủ phong kiến.


V

ườn cung đình Huế đã hình thành và có những bước phát triển trước đó hàng trăm năm trong thời kỳ các chúa Nguyễn chọn Huế làm thủ phủ xứ Đàng Trong. Theo các tư liệu lịch sử, năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan chọn đất làng Kim Long dưới chân chùa Thiên Mụ để xây dựng thủ phủ thì phong cách kiến trúc vườn đã xuất hiện ngay trong phủ chúa. Từ năm 16871775, khi thủ phủ Đàng Trong được dời về làng Phú Xuân thì loại hình kiến trúc vườn cảnh đã hình thành rõ nét. Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn từng mô tả về Đô thành Phú Xuân của chúa Nguyễn: “Ở vườn hậu uyển thì có non bộ, đá lạ, hồ vuông, hào cong, cầu vòng, thủy tạ”. Một nhân chứng khác là giáo sĩ Jean Koffler, người được mời làm bác sĩ riêng của chúa Nguyễn Phúc Khoát cũng mô tả trong hồi ký của mình về một khu vườn lớn trồng nhiều loại kỳ hoa dị thảo ngay trong phủ chúa. Tuy nhiên, phải tới đầu thế kỷ XIX, sau khi thống nhất đất nước và lập ra triều Nguyễn, vua Gia Long đã chọn Huế để xây dựng kinh đô. Huế đã được xây dựng thành một đô thị hoàn chỉnh và được ca ngợi là “một kiệt tác về kiến trúc thơ đô thị”, một thành phố vườn tuyệt đẹp. Trong thời thịnh Nguyễn, tại kinh đô Huế đã có hàng chục khu vườn ngự với nhiều loại hình khác nhau. Theo thống kê, trong thời kỳ đỉnh cao, tại kinh đô Huế, triều Nguyễn có đến hơn 30 khu vườn cung đình với các quy mô khác nhau nhưng đều là những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc của dòng kiến trúc phong cảnh.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH


Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của hệ thống vườn cung đình thời Nguyễn, có thể chia làm 3 giai đoạn:

ĐỈNH CAO

HÌNH THÀNH Thời kỳ hình thành, tương đương với thời vua Gia Long (1802-1820). Đây là thời kỳ manh nha hình thành một số vườn trong và ngoài hoàng cung. Thành tựu lớn nhất của giai đoạn này là Thiên Thọ lăng, một khu lăng tẩm mênh mông rộng hơn 2800 ha, mang đặc điểm của vườn sinh thái phong thủy.

Thời kỳ phát triển và đạt đỉnh cao (1820-1883), tương ứng với 3 triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Đây là thời kỳ xuất hiện hàng loạt khu vườn với nhiều quy mô, phong cách và tính chất khác nhau, trong đó có cả loại hình cung uyển (ngự uyển trong cung), biệt cung, ly cung, vườn lăng…

SUY THOÁI Thời kỳ biến đổi và suy tàn (1885-1945), tương ứng với thời kỳ vua Đồng Khánh trở về sau. Đây là thời kỳ triều Nguyễn đã mất quyền tự chủ, tiềm lực kinh tế yếu kém và bị phụ thuộc, đồng thời cũng là giai đoạn tiếp thu ảnh hưởng của văn minh phương Tây ngày càng sâu sắc. Các khu vườn cung đình đều lần lượt bị triệt giải.


ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT


MẶT NƯỚC

Y

ếu tố mặt nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và cấu trúc các Ngự viên. Tất cả các Ngự viên đều có diện tích mặt nước rất đáng kể dưới nhiều hình thức khác nhau: hồ, ao, khe, ngòi... Yếu tố mặt nước thường được sử dụng làm nền hoặc phối cảnh cho các công trình kiến trúc, tạo nên vẻ mềm mại, thơ mộng đặc biệt của cảnh quan. Ngay trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến dưới triều Tiền Lê, Lý, Trần, việc xây dựng các ngự viên đã gắn liền với yếu tố mặt nước. Đến thời Nguyễn thì đặc điểm này càng trở nên nổi bật. Hầu như tất cả các ngự viên của triều Nguyễn đều gắn với mặt nước rộng lớn. Bên cạnh đó, sự kết hợp sơnthủy thông qua sự phối trí giữa dòng nước với các non bộ, giả sơn cũng hết sức phổ biến và đạt đến trình độ tinh tế.


ĐẶC ĐIỂM

QUY MÔ

Q

uy mô các vườn Ngự thời Nguyễn đều khá khiêm tốn, (trừ các khu lăng tẩm), nhưng các loại hình kiến trúc rất đa dạng. Ở các triều đại trước thời Nguyễn, do thiếu tư liệu nên hầu như chúng ta chỉ biết được phần nào hình ảnh của những cung uyển (vườn xây ngay trong cung cấm). Nhưng dưới thời Nguyễn thì loại hình vườn cung đình rất đa dạng. Các vườn Ngự triều Nguyễn thường chỉ có quy mô vài ba mẫu, Tịnh Tâm hồ thuộc hàng lớn nhất cũng chỉ đạt đến 20 mẫu (10ha), tuy nhiên các công trình kiến trúc

trong vườn lại rất phong phú về thể loại và đa dạng về hình thức. Về thể loại thì có điện, đường, lâu, các, tạ, quán, tự, trai, đình, hiên, lang, kiều, cống… . Về hình thức, thì có loại 1 gian, 3 gian, 5 gian, một tầng, 2 tầng, 3 tầng..; bình diện hình vuông, tròn, lục giác, bát giác..; mái lợp ngói ống, ngói âm dương, ngói liệt, men vàng, men xanh..; hành lang thì có trường lang, dực lang, vạn tự hồi lang… Các công trình này hầu hết đều có quy mô nhỏ, kết cấu có thể đơn giản nhưng rất tinh xảo và trang nhã, được bố trí hài hòa với cảnh trí chung. Nổi bật trong các loại hình kiến trúc trong các Ngự viên thời Nguyễn là kiểu kiến trúc


NỔI BẬT

hành lang. Đây là một dạng kiến trúc đơn giản, nhưng khá đa dạng về kiểu thức: Hành lang, trường lang, hồi lang, dực lang, thủy lang… chủ yếu đóng vai trò nối kết giữa các công trình chính. Nhờ sự ứng dụng linh hoạt mà loại hình kiến trúc tưởng như phụ này lại tạo nên một vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển rất riêng của các Ngự viên. Kiến trúc hành lang đã tạo nên kết cấu “Vương Tự Điện” đặc sắc ở Trường Ninh Cung, tạo nên “Vạn Tự Hồi Lang” độc đáo ở Thiệu Phương Viên; ở Cơ Hạ Viên thì có “Tứ Phương Ninh Mật Hồi Lang”; tại Tịnh Tâm Hồ thì nhờ hệ thống hồi lang dài đến 144 gian mà 3 hòn đảo thần



ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT ĐỒI VÀ ĐÁ

Đ

ối với các hình thức đắp núi, xây non bộ, vườn cung đình Việt Nam cũng coi trọng và xem như thành tố không thể thiếu trong cấu trúc vườn. Tuy nhiên, cả trong tư liệu và trên thực tế hiện còn ở Huế, đều không thấy những non bộ có quy mô lớn như ở vườn ngự Trung Quốc. Việc đắp núi và tạo các hang động cũng ít phổ biến như ở vườn Trung Quốc. Người Việt cũng ít dùng các viên đá lớn có hình thù kỳ quái (Trung Quốc gọi là Kỳ thạch hay quái thạch) xếp đơn lẻ mà chủ yếu là xây đắp các non bộ từ gạch hoặc đá nhỏ. Đây có lẽ là đặc điểm của người phương Nam, ít sùng bái đá mà chú trọng hơn yếu tố nước.


ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT


SINH VẬT

Đ

ối với các loại động thực vật được nuôi trồng trong vườn cung đình, nhìn chung đều là những sưu tập của các loại thực vật, động vật quý của cả nước. Thực vật thì gồm các loại kỳ hoa dị thảo đưa về từ muôn nơi; động vật thì có đủ cả chim, thú, cá cảnh quý hiếm… Nhưng đó là đối với loại hình

cung uyển. Còn với các loại hình vườn cung đình khác thì chú trọng đến yếu tố tự nhiên hơn. Ở các biệt cung, li cung thời Nguyễn, cây cối phần nhiều là loài cây bản địa tự nhiên (gồm cả cây ăn quả, cây hoa, cây lấy gỗ…), cá nuôi cũng là cá tự nhiên chứ hầu như không nuôi cá cảnh nhiều màu sắc. Đặc biệt, thời Nguyễn còn có khu vườn Dữ Dã của vua Tự Đức trên đảo Dã Viên được thiết kế hết sức gần gũi với các khu vườn dân dã của xứ Huế.


CÁC LOẠI HÌNH VƯỜN CUNG ĐÌNH HUẾ

Biệt cung, ly cung:

Là các trang viên nằm tách biệt khỏi hoàng cung, có thể nằm trong hay ngoài kinh thành, số vườn loại này không nhiều nhưng đều là những khu vườn được xây dựng công phu, cầu kỳ. Loại hình này có khi là biệt cung của một vị hoàng đế (như cung Khánh Ninh của vua Minh Mạng, cung Bảo Định của vua Thiệu Trị, vườn Dữ Dã của vua Tự Đức), hoặc là ly cung của nhiều triều vua (hồ Tịnh Tâm, vườn Thư Quang, vườn Thường Mậu, vườn Thường Thanh).

Cung uyển:

Là loại vườn nằm ngay trong hoàng cung. Trong thời Nguyễn, hoàng cung Huế từng có 5 khu vườn thuộc dạng này là: vườn Thiệu Phương, Ngự Viên, Cơ Hạ, Hậu Hồ và cung Trường Ninh. Các khu vườn này đều có quy mô tương đối nhỏ nhưng lại có vai trò rất quan trọng, vì nằm ngay trong cung cấm, là nơi nghỉ ngơi thư giãn của hoàng đế và các thành viên hoàng gia.


Vườn hoàng gia: Là loại hình vườn có số lượng khá phong phú (khoảng 15 khu vườn, như vườn Xuân Viên, Chí Khánh, Phong Trạch, Diễm Lục…), chủ yếu nằm ở phía Tây bên ngoài Kinh thành, thuộc vùng Kim Long, Vạn Xuân ngày nay. Đa số chúng là những vườn trồng cây ăn quả, cây hoa lớn, ít có công trình kiến trúc. Đây là những khu vườn được xây dựng đồng loạt cuối thời Minh Mạng để dành cho nhà vua cùng gia đình thỉnh thoảng về nghỉ ngơi thư giãn.

Vườn lăng: Thực chất đây là những khu lăng tẩm hoàng đế với quy mô rất lớn được quy hoạch theo phong cách vườn sinh thái, phong thủy. Tiêu biểu nhất là 4 khu lăng của các vị hoàng đế đầu triều: Thiên Thọ Lăng (lăng vua Gia Long), Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng), Xương Lăng (lăng vua Thiệu Trị) và Khiêm Lăng (lăng vua Tự Đức). Có thể xem đây là một loại hình vườn đặc biệt, một thành tựu đặc sắc của kiến trúc cung đình Huế mà chúng tôi sẽ đề cập sâu hơn trong bài viết sau.


VƯỜN CƠ HẠ

V

ườn Cơ Hạ là một vườn cảnh nằm trong Hoàng Thành Huế, do vua Thiệu Trị lập nên vào năm 1843. Nay thuộc phường Thuận Thành, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Trong số hàng chục vườn ngự uyển của triều Nguyễn, vườn Cơ Hạ được xem là một kiệt tác vườn cung đình. Tên chữ Cơ Hạ được lấy từ chữ Vạn cơ thanh hạ (tức là “sự thanh nhàn trong muôn vàn cơ sự”). Vườn Cơ Hạ bao gồm một quần thể sông hồ, núi động, lầu tạ, cung điện liên hoàn, kết hợp hài hoà giữa công trình kiến trúc và cảnh trí thiên nhiên. Giữa vườn có hồ nước rộng gọi là Minh Hồ. Bên trái Minh Hồ có đài tạ gọi là Hoà phong. Cầu bắc qua Minh Hồ gọi là Kim Nghệ Ngọc Đống. Hành lang bên phải Minh Hồ gọi là Khả Nguyệt. Giữa Minh Hồ có một đảo nhỏ, trên đảo có lầu gác gọi là Quang Biểu. Lầu đài phía sau Minh Hồ gọi là Thưởng Thắng. Điện chính trong vườn là điện Khám Văn. Đại sảnh trong vườn gọi là Minh Lý. Ngoài ra, còn có nhiều công trình khác như: hang Phúc Duyên, hang Đào Nguyên, ao Thuỵ Liên, sông Trại Võ….



Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.