Chuyện xin xăm 2016/03/11 bởi levinhhuy
Một bộ xăm của Đài Loan. “Xăm” vốn tiếng Hán là “Thiêm” (籤), nhưng lại thường được phiên âm thành “Sám” (như Xăm Tả quân của Lăng Ông Bà Chiểu được gọi là “Tướng quân linh sám”), có lẽ từ chỗ đọc trại âm tiếng Tàu của nó là “qiān”. “Xăm” hay “Thiêm”, là những thẻ tre dùng để bói toán, rất tiện dụng để đáp ứng nhu cầu “tiên tri” họa phước hên xui khi ai đó cảm thấy bối rối trước một vấn đề cụ thể. Đây là một dạng vấn bốc, dùng bói toán để mượn năng lực siêu nhiên giải đáp cho những nghi vấn của mình. Nhờ đó, trò xin xăm được phổ biến khắp các chùa chiền, đạo quán cõi Á Đông. Xuất xứ Tất nhiên, các dạng “khoa học huyền bí” (ngôn ngữ Việt Nam hiện đại gọi là “văn hóa tâm linh”) của Á Đông đều khởi nguồn từ Trung Hoa. Từ xa xưa, người Tàu đã dùng cách gieo quẻ âm dương (xin keo) để hỏi ý thần linh mỗi khi phải lựa chọn quyết định trước những vấn đề quan trọng. Hơn 2.500 năm trước công nguyên, Hiên Viên (Hoàng đế) đã gieo quẻ âm dương khi ra trận đánh nhau với thủ lĩnh Xi Vưu (và ở Việt Nam, vào đầu năm 2016, tức mới tuần trước thôi, thằng cha Năm Tuấn quán cà phê chợ xã chỗ tôi cũng dùng cách tung hai chiếc dép tổ ong để có quyết định theo kèo nào trước một trận bóng Cúp C1). Nhưng gieo quẻ âm dương chỉ cho câu trả lời tối giản “Yes or No”, trong khi người ta thường có khuynh hướng muốn được đối thoại nhiều hơn với thần linh để có thông tin tối đa, nên đã sáng chế ra các thẻ xăm. Quá trình
Ban đầu, lời thánh phán được ghi trực tiếp trên 49 thẻ xăm cả thảy, đó là những câu văn ngắn cực kỳ cô đọng do các vu sư đời Đường đặt ra. Qua các đời sau, theo sự phát triển của Đạo giáo, dần dần hình thành các loại xăm khác nhau, từ 49 thẻ thành 64 thẻ theo Dịch quái, rồi thành 100 thẻ để dự đoán thế sự. Đời sống ngày càng phát triển, những câu hỏi do con người đặt ra mong cầu thần linh giải đáp ngày thêm đa dạng, chỉ một câu văn ngắn trên thẻ không hiển thị đủ mặc khải của thần linh, nên xuất hiện thêm “thơ xăm” (thiêm thi). Trên thẻ xăm do đó chỉ còn ghi những ký hiệu hoặc đánh số để phân biệt, người xin quẻ theo đó lãnh “thơ xăm” để đọc. Thơ xăm thường là một bài tứ tuyệt ngũ ngôn hoặc thất ngôn, lời lẽ mông lung bao la, lại phải có thêm lời “giải xăm” (thiêm giải). Nhưng chỗ gọi “lời giải” này thường lại dẫn điển tích cổ xưa, phải người có căn bản Nho học mới lãnh hội được ít nhiều huyền cơ trong đó, vậy là nghề bàn xăm ra đời, thường do các thầy đồ đảm trách. Nội dung thẻ xăm nhờ các thầy bàn này ngày thêm phong phú đa dạng, có thể giải đáp hầu hết những thắc mắc về công danh tài lộc, hôn nhân gia đạo, mùa màng thất bát, thậm chí cả buôn bán đi xa, giới tính thai nhi, tìm lại của rơi… Nghi thức xin xăm cũng theo đó ngày một trang trọng, được bổ sung thêm lối gieo quẻ âm dương (xin keo) xác nhận lá xăm để tăng phần trang trọng, tạo thêm sự tin tưởng vào hiệu nghiệm linh ứng của quẻ xăm. Đến khoảng đời Nguyên, cuối thế kỷ XIII trở về sau, ống đựng thẻ xăm và hai miếng gỗ hình bán nguyệt dùng xin keo nghiễm nhiên đã có chỗ trên hương án chánh điện của các danh lam cổ tự, và gian ngoài đền miếu thường có chỗ riêng cho thầy bàn xăm cũng như kệ hộc đựng những tờ xăm. Mỗi chùa đều có bản khắc để có thể tự in xăm ra những tờ giấy mỏng. Nghi thức Người xin sau khi thắp nhang đèn trước tượng thần phải làm lễ ba quỳ chín lạy, bày tỏ mục đích mình muốn tham vấn thần ý. Sau đó hai tay nâng ống xăm quá đầu để xóc cho đến khi có một thẻ văng ra (nếu ra quá một thẻ thì không tính, phải xóc lại). Khi thẻ xăm đã ra, lại phải gieo âm dương (xin keo) để được thần linh xác nhận thẻ đó. Hạn trong ba lần gieo âm dương, nếu không được thần ý “xác nhận” tức là thiên cơ bất khả lậu, phải trả thẻ, qua tháng sau mới được xin lại. Phổ biến Những thẻ xăm của Trung Hoa được lan truyền sang Nhật, Hàn, Miến, Việt, và biến thể ra nhiều lối khác nhau tùy phong hóa thủy thổ mỗi nơi. Như ở Nhật, ống xăm chỉ chừa lỗ nhỏ vừa đủ một thẻ rơi ra, khi đọc xong quẻ, tờ xăm xấu sẽ được đặt lại trên giá, ngụ ý ký thác, nhờ thần Phật giúp mình sửa đổi vận khí. Gần đây, Nhật lại có máy xin xăm, chỉ cần nhét đồng xu vào, tờ xăm sẽ rơi ra. Lưu truyền văn hóa
Một lá xăm trong Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông – Bà Chiểu). Những bài thơ xăm tuy tùy mỗi đền chùa có khác nhau (như xăm Chùa Ông, xăm Chùa Bà, xăm Quan Âm, xăm Thiên Hậu…), nhưng đều do những bậc văn tài, sở học uyên thâm quảng bác chế tác. 100 thẻ xăm không chỉ ẩn tàng nguyên lý Dịch học(*) mà còn chứa đựng nhiều điển tích văn học, lịch sử, địa lý, v.v… Người Trung Hoa thuở xưa vì thời cuộc hoặc sinh kế phải lưu lạc tứ tán muôn phương, họ hầu như chỉ có đôi tay trắng và một nhiệt huyết sinh tồn. Theo bước chân những người Tàu trôi dạt, đền chùa, hội quán được dựng lên, làm nơi đoàn kết tụ họp và gìn giữ văn hóa nghìn đời; những lá xăm trong chùa Tàu chính là một phần của kho tàng văn hóa đó. Người ngoài đọc xăm thường thấy rối rắm lung tung, nhưng với Ba Tàu, họ thể nghiệm được nhiều huyền cơ giúp thân tâm an lạc, điềm đạm. Tôi bắt nhớ hoài hình ảnh bà nội tôi trong một lần xin xăm ở Chùa Ông bên Cù Lao Phố. Khi đó, nhà chỉ còn nội và tôi, có hai ông chú sống chung thì đều bị bắt cải tạo. Một hôm, vào đầu mùa mưa, nội đón xích lô để hai bà cháu đi xin xăm: của cải đồ dùng trong nhà, tivi, máy hát đĩa, rồi cả bộ ván gõ, tủ thờ cũng lần lượt theo nhau ra chợ trời. Bà nội gần như kiệt sức vì gánh mưu sinh và nỗi thương nhớ hai chú, bà muốn xin xăm để biết bao giờ mấy chú được tha về. Tiếng chuông mõ khoan thai điểm nhịp hòa theo tiếng lóc xóc của ống xăm, nội tôi an nhiên thư thả lắc đều đều. Chừng xin được thì lại là lá xăm “Hạ hạ” xấu nhất, cho biết tương lai còn mờ mịt lắm, hai chú chưa biết chừng nào mới về được. Tôi những tưởng nội sẽ gục xuống vì thất vọng, nhưng bà lại điềm tĩnh mỉm cười trấn an tôi: “Không sao, vậy cũng được!” Với bà, xin xăm không chỉ để cầu lời dự đoán tiên tri, mà chính là một dịp được giao tiếp với thần linh, qua đó được tiếp sức để đi tới, vô cầu vô oán. “Tập tục” cần gìn giữ?
Cách mạng văn hóa do Mao Trạch Đông phát động đã gần như xóa sạch văn hóa ngàn đời của Trung Hoa. Chùa chiền, đạo quán ở đại lục bị đập phá tan tành, tượng thần bị kéo sập cho rụng đầu gãy tay, kinh sách bị thiêu hủy hầu như tuyệt diệt thất truyền, những lá xăm linh thiêng cũng thành đối tượng cần đấu tranh tiêu diệt. 10 năm Văn cách là một trường ác mộng, mãi đến chừng Đông tắt thở, người dân đại lục mới được thở phào nhẹ nhõm biết mình còn sống. Phải qua đến thập niên 90 thế kỷ trước, sau cuộc chiến tranh Trung-Việt, Trung Nam Hải mới cho phục hồi tái thiết nền văn hóa cổ truyền. Nhưng huyết mạch đã đứt đoạn, nguyên khí văn minh học thuật đã thành tàn lụi, cái được dựng lại chỉ là bản sao mờ nhạt nhiều khiếm khuyết. Những bản khắc in xăm còn lại đều chẳng vẹn toàn, các xăm đa phần thất lạc, được chép lại theo trí nhớ; đã vậy, chúng được in lại theo lối giản thể do Trung cộng bày ra, chữ nghĩa đều bị biến dạng, một trong những phương pháp quan trọng để giải xăm là cách chiết tự đã không còn thể vận dụng để giải đoán các xăm mới này; và chủ yếu là thơ xăm bị kiểm duyệt cải sửa thêm thắt cắt xén để khỏi có tư tưởng đi ngược với chủ trương của đảng. Ở đại lục đã vậy, ở xứ ta thì “văn hóa xin xăm” lại càng tệ lậu bội phần. Chùa miếu chính là những công trình được “xã hội hóa” thành công nhất của chế độ, đó không còn là chỗ thanh lọc, di dưỡng tâm hồn, mà biến thành nơi khai thác lợi nhuận. Việc xin xăm cúng bái nhang đèn trong chùa đều được đấu thầu; hòm công đức được phát minh, đặt chễm chệ nơi chánh điện như đấm vào mặt khách thập phương, và thường xuyên có nguy cơ bị kẻ gian moi móc xén bớt công quả; những lá xăm nhỏ bằng bàn tay, lời lẽ ngây ngô xàm xí, được bán với giá 5, 10 ngàn, kèm theo đó là những dịch vụ giải hạn trừ căn dành cho những người bị nhằm xăm xấu. Và đến gieo quẻ âm dương như thằng cha Năm Tuấn xã tôi, khi xin kèo bóng đá C1 cứ tung đôi dép nhựa hàng chục lần cho đến khi “thần ý” phán đoán kết quả khớp với dự đoán của y mới thôi. Thần thánh phải chìu theo sở thích và dục vọng của con người; và giới hữu trách cũng như các nhà nghiên cứu văn hóa thì cứ lớn tiếng bảo rằng xin xăm là một tập tục cổ truyền của người Việt, cần phải giữ gìn! Giải pháp Ngoại trừ số ít chùa chiền trong Nam còn giữ được nét đẹp của văn hóa xin xăm (như Lăng Ông Bà Chiểu Sài Gòn, Chùa Ông Cù lao Phố Biên Hòa…), còn thì đều là những thứ bát nháo thần chẳng ra thần ma chẳng ra ma. Thiết nghĩ, cần phải quét sạch những thứ xăm nhảm nhí ta bà trên khắp tổ quốc thương yêu của chúng ta. Bên cạnh đó, cần thiết lập loại xăm mới phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Các đền chùa ngày nay đều có đặt tượng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cạnh thiên binh thần tướng, vậy sao chúng ta không trứ tác ra loại xăm mới, kêu bằng “Lãnh tụ linh sám”, “Đại tướng thần sám”? Chất liệu để sáng tác những thơ xăm sẽ là những điển tích trích dẫn từ cuộc đời và sự nghiệp của hai vị Minh và Giáp, qua đó tư tưởng cách mạng cũng như trình độ lý luận của toàn đảng toàn quân toàn dân sẽ được nâng cao. Còn chờ gì nữa? Muốn có chùa chiền chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những lá xăm xã hội chủ nghĩa thôi, nam mô! _______
(*) Có thuyết cho rằng con số 100 đó là do sự kết hợp của bát quái và lục hào mà ra: (8 × 8) + (6 × 6) = 100
Quẻ xăm Điện Nam | Thứ Sáu, 07/03/2014 04:35 GMT +7
Tháng giêng vẫn còn tươi với xuân đương thì. Bà con rủ nhau đi chùa chiền, hoặc tới những đền miếu linh thiêng bói quẻ, bốc xăm. Tục xưa mang theo ước vọng ngàn đời của con người là cầu may, cầu phúc, nhưng cũng có bao chuyện dở khóc dở cười từ đó mà ra.
Chuyện rằng, đứa cháu tôi cùng với người yêu tới “điện” xin xăm, cầu năm nay duyên thành hạnh phúc. Rủi thế nào hai cháu bốc trúng quẻ “Ngạ hổ trùng dương”. Cứ theo quẻ mà giảng, đây là quẻ hạ hạ, tức quẻ xấu, giải nghĩa rằng “hổ đói gặp dê”. Thầy “phán” thế nào mà hai đứa cháu mặt nặng mày nhẹ với nhau bởi nghĩ đến chuyện không rõ ai là hổ, ai là dê, cứ thế mà đổ thừa nhau, lôi cả chuyện tình cũ ra mà xét. Quẻ xấu, hiểu theo như hai cháu tôi đã đành, nhưng quẻ tốt thì sao? Anh bà con của tôi bốc trúng quẻ “lão bạng sinh châu”, tức quẻ thượng thượng, là đại cát. Thầy cứ theo quẻ mà luận, nghĩa của quẻ là “trai già sinh ngọc”. Đúng là con trai biển, tích tụ linh khí, sinh khí mà sinh ra ngọc; trai càng già, ngọc càng chắc. Nhưng vợ anh lại nghĩ khác, ấy là anh chồng đã đến tuổi lão, còn sinh ngọc cái nỗi chi, hay là có “phòng nhì”, có con riêng (?). Cớ sự ra làm sao cho việc hậu vận thì không rõ, chỉ thấy nhãn tiền sinh sự. Thật vậy, ít nhất có những mục mà cách chú giải xăm đại để phải bàn luận. Đó là chín loại quẻ nói về: tự thân gia trạch (nhà cửa, gia đạo của bản thân); cầu quan, cầu tài (con đường quan chức, tài lộc); hôn nhân (tình duyên); lục giáp (đường con cái); phong thủy (chuyện xây nhà, xây mộ); quan tụng (việc kiện tụng); tật bệnh (sức khỏe, bệnh tật); hành nhân thất vật (về người đi, người về; về những vật mất mát); lục súc điền tầm (chăn nuôi, canh tác). Tuy có vẻ khoa học vậy, nhưng cách chú giải của thầy bàn, cộng thêm sự suy đoán, suy luận của thân chủ, trong bối cảnh người tới xin xăm quẻ nườm nượp, có khi “phán đại” tùm lum, trúng trật tòa loa. Vì vậy, không ít người xin xăm, nghe luận quẻ, về chưa thấy tốt đã xấu, chưa xấu đã tè le. Đó là chưa kể, cứ theo hiện tại mà luận, khi gia đình nào có tì vết, xăm quẻ nói chuyện ngoài vành đã vận vào trong, xích mích nảy sinh càng nhiều. Đi xin xăm, xin quẻ đầu năm là cái tục mà người Việt nói chung, người Quảng nói riêng hay
thích vào mỗi kỳ xuân nhật. Vì vậy xuống các chùa, hội quán ở Hội An và nhiều nơi khác hay thấy cảnh người người đi xin xăm, xin quẻ. Giữa vô thiên lủng của số phận con người, không rõ cái gì sẽ ứng với hành trình từng năm của họ, cách giải cũng còn nhiều chỗ mù mờ nhưng sao nhiều người vẫn mê lầm. Ngay ở xăm quẻ, có bài thơ như lời sấm truyền của “thánh nhân” mà người luận giải cũng không rõ hết ý tứ vậy thì ứng vào cái gì. Một nguyên tắc hay được nhắc là “hữu cảm tư thông, hữu cầu tắc ứng”, nhưng các thầy bàn thường theo ý chủ quan của mình mà luận, vậy thì lời thánh ai mà hiểu hết được. Có vị học giả khuyên người đời là “tính cách tạo nên số phận”, vậy chuyện xăm quẻ cũng nên xem là thú vui trong những ngày du xuân, còn phần lớn do mình tạo ra xấu tốt của đời mình. Ở góc độ văn hóa, có thể lý giải chuyện xin xăm quẻ là lời cầu nguyện quốc thái dân an, cầu lành lánh dữ. Do vậy, có người muốn chuyện là khuyến cáo các chùa chiền, nơi thờ tự linh thiêng cứ đặt quẻ nào cũng “cát” như “hòa thân đương xuân” (mùa xuân thần thái ôn hòa), “thiên tương cát nhân” (trời giúp người lành), “nhất lộ phúc tinh” (một đường sao phúc), “đăng hoa báo hỷ” (đèn hoa báo tin vui)… Thế là, ai cũng hỉ hả, vui cả./. Nguồn: QNO
Cách xin xâm và vái tượng thần phật
1. Cách xin xâm nơi đền miếu Hàng năm cứ vào dịp tết, đón năm mới, nhiều người già trẻ, trai gái đều đế chùa, đền miếu lễ Phật, lễ Thánh cầu bình an cho bản thân và gia đình, người thân… Khi lễ Phật, lễ Thánh xong nhiều người muốn xem quẻ đầu năm để biết sự tốt xấu của vận mạng trong năm. Có hàng vạn người xin xâm nhưng rất ít có người biết cách xin như thế nào để được kết quả chính xác nhất cho bản thân. Chúng tôi xin trình bày các bước tiến hành xin keo như sau: Người muốn xin keo trước tiên cầm hai cái keo lên vái tên, tuổi, địa chỉ chỗ ở hiện tại của mình và khấn vái nói những điều mình cầu xin trước Thánh Thần. Lời cầu xin này sau khi xin keo sẽ được hiển thị qua lá xâm. Sau khi cầu xong lại để hai lá keo xuống đất. Người xin đi một vòng trong chùa hay đền đến vái các tượng Phật, Thánh độ hai ba phút sau đó trở lại nơi có hai lá keo lúc đầu. Cầm hai lá keo vái lại lần nữa những lời cầu xin của mình. Sau khi cầu xong, hai tay chụm lại giữ hai lá keo trong lòng hai bàn tay, đưa lên cao ngang mặt rồi buông xuống. Nếu một lá keo sấp, một lá ngửa thì coi như xin được keo. Khi đã được quẻ rồi thì bước kế tiếp là hai tay cầm ống đựng những lá xâm và lắc ống xâm. Nếu thấy lá xâm nào nhảy ra thì cầm lấy lá xâm đó, tìm số ghi trên lá xâm là số nào thì đi tìm tờ giấy ghi lời giải của số đó. Những câu thơ hay lời giải trên tờ giấy là vận tốt, xấu của mình trong năm.
2. Giải thích quy trình xin keo 2.1 Tại sao khi vái xong độ vài phút mới xin keo? Lúc người xin keo vái tên tuổi, địa chỉ nơi cư ngụ và lời cầu xin thì Thánh, Phật sẽ cho người âm đến địa chỉ của người xin để điều tra và xem vận của người đó năm nay tốt xấu thế nào? Phải mất vài phút mới xong. Sau khi người xin cầm hai lá keo lên khấn lần thứ hai lúc này mọi chi tiết về người đó Thánh đã biết nên khi tung hai lá keo thì Ngài sẽ cho hai lá này rơi xuống một sấp, một ngửa (một âm một dương) là Ngài đồng ý báo cho người xin biết số phận trong năm mới. Khi người xin cầm ống thẻ xâm lắc thì Thánh sẽ đưa ra thẻ xâm ứng với vận mạng của người xin trong năm đó. Lá xâm rơi ra là số nào thì có lời giải trên giấy đã in sẵn chỉ cần đọc là hiểu. Những người nào vừa cầu Thánh xong mà tung hai lá keo ngay thì quẻ không linh nghiệm vì Thánh, Thần chưa cho người âm đi điều tra nên không thể nói chính xác về họ được. Do đó, có thể hỏng quẻ keo theo giải thích ở phần 1 trên và phần 2.2 dưới. 2.2 Trường hợp không xin được keo Có hai trường hợp xảy ra là: cùng sấp hay cùng ngửa. * Nếu hai lá keo cùng ngửa (cùng Âm) thì đó là lời cầu xin của người cầu không rõ, không cụ thể nên Thánh chưa trả lời được. Người xin xâm có thể cầu lại rõ ràng theo trình tự như trên rồi xin lại quẻ khác. * Nếu thấy hai lá xâm cùng sấp (cùng dương) thì không nên xin lại quẻ khác vì Thánh không cho biết kết quả có thể lúc mình cầu không nghiêm túc, không thành tâm. 3. Những điều cần biết khi thắp hương, khấn và lạy tượng
3.1 Cách thắp hương đúng a. Thắp một nén hương Khi lên chùa, vào Đình miếu hay đến những nơi thờ cúng ta chỉ cần thắp một nén hương là đủ vì khi thắp hương là có linh hồn hiển hiện. Thắp một nén hương ở đâu là cầu người nơi đó. Hàng ngày, mỗi buổi sáng ta thắp một nén hương ở bàn Thần Tài là cầu Thần Tài phù hộ. Buổi tối thắp một nén hương ở bàn thờ tổ tiên là cầu tổ tiên phù hộ. b. Thắp ba nén hương Ngày giỗ, ngày tết ta chỉ cần thắp ba nén hương ở mỗi bát nhang là đủ vì ba nén hương cầu Trời - Đất - Người, đại diện cho Thiên - Địa - Nhân phù hộ độ trì cho toàn gia. c. Thắp năm nén hương Thắp năm nén hương khi làm lễ lớn bố cáo thiên hạ như khai trương công trình, động thổ, lễ lớn của tổ tiên, của Quốc gia hay các lễ hội kỷ niệm các vị danh nhân. Năm nén hương cắm theo hình chữ thập đại diên cho Ngũ hành. Những người không hiểu điều này nên họ đốt hàng bó nhang, cắm hàng bó nhang vào bát nhang nhưng nào biết điều này vô tình tạo cho lũ cô hồn vào tranh cướp gây lôn xộn ở nơi tôn nghiêm. Không phải cứ đốt nhiều hương là được thần thánh phù trợ nhiều. Việc làm này thể hiện mình là người thiếu hiểu biết về văn hóa tâm linh. Vì sao đó có người đi vơ những số nhang đó đi hủy? Đó là vì việc làm này vừa gây ô nhiễm môi trường vừa lãng phí lại không đúng về mặt tâm linh. d. Lưu ý: Hàng ngày trong gia đình, nếu thắp hương thì mỗi bát hương chỉ thắp một nén nhang, không thắp nhiều thẻ hương trên cùng một bát nhang vì thắp nhiều ma, quỷ âm hồn theo vào hưởng khói làm cho vong linh tổ tiên và vong ma quỷ tranh nhau gây lộn xộn. Gia đình vì đó mà sinh bất hòa.
3.2 Cách khấn nơi thờ phụng như thế nào? Trước hết chúng ta hiểu linh hồn là cõi vô hình tụ tán bất thường, giống như những làn sóng điện không có hình dạng nhất định. Có thể như một làn gió thoảng qua, cũng có thể hiện hình giống như một người bằng xương bằng thịt. Nếu có duyên thì có thể nhìn thấy như người sống trước mặt. Linh hồn có thể biến đổi muôn hình. Trong cõi âm các giác quan của linh hồn không phải cấu tạo bằng vật chất nên mọi ý nghĩ của con người sống ra sao thì người cõi âm đều cảm nhận được ngay, dù cho không cùng ngôn ngữ họ vẫn cảm nhận được những suy nghĩ của nhau. Khi lên chùa vào đình miếu không cần cầu khấn to, chỉ cần tập trung cao độ những suy nghĩ của mình thì Thánh thần sẽ cảm nhận được lời thỉnh cầu. Nếu có tâm thì có sự linh ứng ngay. 3.3 Cách lạy các tượng như thế nào là đúng Thông thường ở các đình, chùa miếu mỗi khi tạc hay đắp xong một pho tương, người ta làm lễ khai quang điểm nhãn rồi hô thần nhập tượng sau đó đặt bát hương. Sau đó thắp hương hàng ngày hay những ngày rằm ngày sóc vọng. Khi đến những nơi thờ cúng có tượng ta muốn đi lạy các tượng trước tiên phải nhìn xem dưới chân tượng có bát hương hay không? Nếu dưới chân các tượng có bát hương là là tượng đó đã có thần rồi, ta có thể lạy và vái được. Trường hợp dưới chân tượng không có bát hương nghĩa là tượng đó vô chủ giống nhu ngôi nhà hoang ai ở cũng được. Bức tượng này có thể là nơi trú ngụ của ma quỷ nên ta không nên vái hay cầu xin. Nếu cầu xin có thể ma quỷ sẽ theo mình về nhà gieo tai họa cho gia đình người thân. 2015/07/23
Xâm quẻ Nhật Bản (日本のお神籤) Nhật Bản tuy là một đất nước hiện đại bậc nhất thế giới nhưng không vì thế mà những tín ngưỡng đời sống tâm linh ngày ngày bị mất đi. Va một trong những hình thức tín ngưỡng tôi thấy được tại đất nước hiện đại này đó chính là việc đi chùa xin xâm quẻ đầu năm giống như tại Viện Nam có phong tục đi chùa hái lộc đầu năm. Omikuji thực chất là một thẻ xăm (quẻ bói), thường có ở các đền, chùa. Người dân thường đi xin quẻ vào ngày đầu năm hay trước các dịp quan trọng như thi học kỳ, xin việc… với mong ước gặp đại cát – nghĩa là mọi việc sẽ suôn sẻ tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng có người bốc được quẻ xăm tiểu hung, đại hung. Khac với xâm quẻ tại Việt Nam một tí đó là nếu bốc phải quẻ không được tốt thì bạn chỉ cần xóa vận xui bằng cách gấp nó lại và treo lên một cái cây trong chùa. Vì vậy tại các chùa hoặc đền thờ thần đạo tại Nhật chúng ta nhìn thấy rất nhiều tờ giấy nhỏ gấp lại treo trên các cành cây xung quanh.
Những quẻ xâm không tốt được gấp lại và treo lên các cành cây xung quanh đền chùa Trong thời gian ở Nhật, tôi cũng đã xin cho mình một quẻ xâm tại đền thần đạo, tuy nhiên không
hiểu ý nghĩa của nó là gì và cũng không mê tín dị đoan nên chỉ xin về làm kỷ niệm cho vui. Và cho đến bây giờ mới hiểu được ý nghĩa của quẻ xâm này nhờ được anh bạn người Nhật giải thích. Đại khái quẻ xâm mà các vị thần của Nhật Bản cho tôi là tương đối tốt... hy vọng Kamisama "phán" mình đúng !
Lá xâm tôi đã xin được tại đền thần đạo
Nội dung lời khuyên của các vị thần mà ngay cả người Nhật nhiều khi còn không hiểu hết ý nghĩa Giá của quẻ xâm này là 600 yên (120k VND)!