Đạo Quang 19 Niên Tân San
Nội Giang La Càn Bá Trần Đồng Am Trần Trúc Ba Từ Hành
ĐỊA LÝ NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Liên Trì Tiên Sinh Tâm Pháp Phiên Ấn Tất Cứu
Nguyên Không Pháp Giám Tự (Lời tựa) Trời sinh ra thần vật, tên gọi là Dịch, thân mình màu sắc không bền, vì mỗi ngày 12 lần biến đổi. Thánh nhân làm quẻ xem tượng, lấy tên là Kinh, rất hay biến đổi, và thế gian luận đàm đến Địa Lý thường nâng cao về Dịch. Việc ấy cũng nhiều, vậy nó có biến không, rằng không. Biết cái đạo biến hóa đó chỉ có Nguyên Không. Nguyên Không đưa đi khí của Âm Dương, Nguyên là chưa từng bất không, Không là chưa từng bất nguyên, vì vậy Nguyên Không tùy thời tùy nơi mà biến. Biết tùy thời tùy nơi mà biến Nguyên Không, tức tùy thời tùy nơi nắm bắt được Nguyên Không. Nhưng tập tục thế gian lắm kẻ hành nghề lại chấp nhất cái lớn nhỏ để cầu cái không thật. Nào chấp Nạp Giáp, Hồng Phạm, Quái Lệ, Phụ Tinh, Tứ Kinh, Tam Hợp, để cầu cái không thiết thật. Đâu hiểu rằng biến động không ở vòng quanh 6 cõi. Nguyên có phép sống, Không có cơ sống, Thái Cực động thì sinh Dương, yên tĩnh thì sinh Âm. Âm Dương giao thì sinh vượng hợp, đó gọi là nguyên của một, và cái sự thần kỳ là từ nơi không có mà 2 là hóa ra có đặng. Chú: 12 lần biến là 12 giờ địa chi từ Tý Sửu … Hợi. 6 cõi tức lục hư là trên dưới đông tây nam bắc. Nguyên của một là khí nhất nguyên. Mà 2 là hóa, tức khí Âm Dương. Nạp Giáp là: càn nạp giáp, khôn nạp ất, … Hồng Phạm ngũ hành là giáp dần thìn tốn đại giang thủy …
Giang Nguyên Huy Sơn phu tử được cái sở học của Liên Trì, là danh sư của đương thời, thủ tập gồm Pháp Giám một quyển. Biết Nguyên Không xuất từ Dịch, rất tinh vi và chính xác, phu tử lấy làm thần kỳ ở cung Khảm Ly, mà Thượng Kinh đầu là Càn Khôn, nhưng cuối lại là Khảm Ly. Thiên địa 1 là thủy hỏa, Hạ Kinh đầu là quẻ Hàm, Hằng, cuối lại là Ký Tế, Vị Tế, sơn trạch phong lôi (núi, đầm, gió, sấm), 1 thủy hỏa vậy. Tóm lại, 1-6, 2-7, 3-8, 4-9, chính giữa 5, đồng chịu khí của tam nguyên, định trước sau, xem tả hữu, có núi thì thâu núi, có nước thì thâu nước, tức xét vận, bài tượng, định quái, phân tinh, điên đảo ai bài, không ngoài Nguyên Không, nhân nhơn hiếu tử của thế gian, thành tâm tinh tế mà cầu. Nếu biết địa lý tất biết dịch đạo, biết dịch đạo tất biết thiên đạo, mới có thể tận nhân đạo. Thiên đạo, địa đạo, nhân đạo một lẽ suốt thông vậy. Tương, những mong người thế đọc được sách này. Môn sinh: La Tương bái soạn.
Nguyên Không Pháp Giám Tự Tựa Nguyên Không đại pháp không được sáng rõ tại thế lâu rồi. Đọc sách Biện Chính của Tưởng thị, nó hàm hồ ẩn ước nên không thỏa lòng, vì lo nó sẽ làm lụy người đời, bởi kẻ gian tà nhân đó thừa dịp thổi phòng lên để mê hoặc người đời mà thu lợi. Nên lấy hết sức bình sanh học được của thầy của bạn, trích lại những cái thiết yếu vài hàng để cống hiến cho thế gian. Tên sách đề là: Nguyên Không Pháp Giám. Muốn cho người đời đọc dễ hiểu, nên những câu lý thuyết sâu xa man mác không còn nữa. Muốn cho người đời học để thành tài, nhất thiết lòng vòng khúc chiết pháp đó không còn nữa. Nhân nhơn hiếu tử thế gian, muốn che chở cái gốc để yên người thân, thì nên lấy đó mà làm gương soi, đừng để sách tục làm lầm lạc, tục thuật làm mê hoặc vậy. Đạo Quang năm 19 đầu mùa hạ. Quán Giang Tăng Hoài Ngọc. Ký lược.
Đề từ Xích Thành Sơn Thế Hà Từ Nguyên không tâm pháp có thế thôi Chớ hỏi quần thư lắm mỏi môi Tiên thiên diệu quyết đà hiểu đặng Kiền khôn lục tử một nhà vui Càn mà gặp Tốn là hang nguyệt Đất phùng sấm dậy thấy thiên căn Thiên căng Hang nguyệt hằng qua lại Ba mươi sáu viện vẫn là xuân Đề Từ (nhị thủ lục một) Thụ Nghiệp Nam Hải Trương Phục Sơ Thanh nang mật chỉ ấy nguyên không Ba quẻ bày lại thấy chẳng đồng Chính vận tới sơn mạch phù trợ Linh thần đúng chỗ nước thành công Nhào trời lộn đất kiền khôn nhỏ Đổi đẩu dời sao tạo hóa công Mới hay thầy là ngài Tham Tán Rõ ràng cũng một bản đồ trung
Thuật nghĩa Bí pháp Nguyên Không nếu không được thầy hay truyền dạy, thì không thể dùng tâm mà lãnh hội đặng. Năm Nhâm Tuất có dịp đi du phương bắc, thuyền ghé Kinh Môn, được Liên Trì tiên sinh truyền cho thuật tiên thiên, rồi mới rõ thông nên tập lấy Liên Trì tâm pháp làm chủ, kiêm sẵn có hái được một cái bí truyền của danh sư đương thời, hợp lại thành một thiên. Vì xé gan lộ mật, thiên cơ đã lộ gần hết, nhưng làm cho đạo đó sáng sủa thêm ở thế gian, và có ích cho người, tuy trái với điều cấm cũng không đoái nghi. Tập này phân làm 4 đại cương lĩnh: thư hùng, nguyên vận, kim long, ai tinh. Đồ hình rất khéo léo, tập ghi chú rất có quy ước, không dám bày vẽ để làm lầm lẫn người đời. Dương công dưỡng lão khán thư hùng. Tăng tựa câu đầu đã nói hết đạo lý của các kinh. Quyết đó chỉ ở chỗ giao gặp nhau mà sinh ra khéo dùng. Dịch Vi nói: một dịch mà gồm 3 nghĩa, Nguyên Không tức cái lý biến Dịch, nhưng cái lẫn lộn con số. Khổng Tử đã nói trước mà nho gia đương thế đến chết vẫn chưa hiểu đặng, thì biết làm sao hơn. Nguyên không đại pháp toàn lấy nguyên vận làm chủ Thư Hùng, để xem kim long, lấy đó nhận huyết mạch lai long, lấy đó xét hạ quái ai tinh, lấy đó định vận của ngũ đức, đang vượng là quý. Dịch đã nói đi đều với thời, há không phải 6 long sao. Cái đạo của địa lý, còn gì lớn hơn. Tăng, ở đầu tựa đã thổ lộ, kim long kinh nói: Nhận kim long nhất kinh nhất vi nghĩa không cùng. Đó tức khí của nguyên dương, mà không đặng nói phiếm là dương khí, bởi nó theo từ quẻ Càn của tiên thiên mà đến, nên tôn là Kim Long. Nếu động lớn thì toàn quẻ thuần Càn, tức dụng lớn. Nếu động nhỏ thì là Nhất Dương Lai Phục, tức dụng nhỏ, đó là công phu thứ nhất trước khi ra tay. Địa lý đắc, thất, là do quẻ quyết định, Kim Long thủy khẩu là tiêu chuẩn định quẻ, thế gian truyền Tưởng thị 48 cục, còn chưa là thật thuật. Bảo Chiếu Kinh nói:
Thành môn nhất quyết tối vi lượng. Cho nên biết định quái tất lấy kim long thủy khẩu làm chủ vậy. Tưởng thị không chú trọng ai tinh, nhưng Thiên Ngọc lại nói duy ai tinh rất quý. Áo ngữ Bảo Chiếu nói về ai tinh rất rõ ràng. Liên Trì tâm pháp có long thượng 9 sao, thủy thượng 9 sao. Bản đồ trong tập đó 9 sao có 2 cách. Lấy Tiên Thiên làm chủ Lây Hậu Thiên làm dụng Mỗi thứ đều có kỳ diệu của nó, khi xem chớ lẫn lộn. Nguyên Không đại pháp bất quá Định Quái Ai Tinh hai việc. Người đời chỉ biết Định Quái rồi bèn dùng Ai Tinh, mà không biết Ai Tinh để Định Quái, bởi Ai Tinh là sau khi Định Quái. Cho nên xét nước thì Ai Tinh trước khi Định Quái, vả lại biện khí xét nước người người đều biết, mà người biết biện khí thì rất ít vậy. Thế nên có thuyết Ai Tinh không quan trọng lắm, lại có một số bài bác Ai Tinh không thèm dùng, đó là hoàn toàn không hiểu Ai Tinh vậy. Nguyên Không trọng nhất phép dùng quẻ. Liên Trì tâm pháp Long, Huyệt, Sa, Thủy, Hướng, gồm quy một lối. Gọi là không xuất quẻ (lọt qua quẻ khác). Quẻ này không phải quẻ phương vị của Hậu Thiên, cũng không phải quẻ bát quái Tiên Thiên, mà là từ Tiên Thiên hóa ra. Ví dụ như Giáp, Quý, Thân, Tốn vi quẻ Chấn, nên gọi là Tiên Thiên quái khí vậy. Lâu nay tiên sư tương truyền la kinh, không có la kinh chữ đỏ đen, vì lấy âm dương khéo dùng, không thể lấy phương vị mà định. Từ Phạm Nghi Tân làm chữ đỏ đen, mỗi cung phân ra Thiên, Địa, Nhân, 3 quẻ, người học dễ nhập môn. Nhưng từ đó đã làm cho biết bao người bị sai lầm, vì không biết rằng, la bàn có chữ đỏ đen của họ Phạm là quái vị của Hậu Thiên, lấy đó mà cho là không xuất quẻ thì thật là sai ngàn dặm. Ấy là hệ trọng đệ nhất của việc tác dụng, nên đặc biệt phơi bày. Địa học lấy hình thế làm thể, Lý khí là dụng. 2 điều đó không bỏ điều nào. Sách hình thể tục muôn xe ngàn quyển mà xem không vô mắt. Học giả nên theo Dương công cửu tinh làm chủ. Nghi Long Kinh, Hám Long Kinh, 2 sách Khấu Hải Môn tiên sinh đã khắc ở Vĩnh Xương rồi. Kim thần giác lộ, công đó không nhỏ, đây khỏi nói lại.
Tưởng thị tác Biện Chính có công với Dương công, nhưng không vạch thẳng ra, để kẻ học đoán mò, trong khi không được rõ ràng, cứ theo đồ hình mà đòi ngựa kí, chỉ nai nói ngựa, khiến cho kẻ thông minh tài tử trong thiên hạ đều bị sai lầm, chẳng những tự sai mà làm cho kẻ khác cũng bị sai. Từ thời có sách Biện Chính đến nay, cái họa ở thế gian không kể xiết. Trên thế kẻ cầu miếng cơm manh áo, thường nâng cao danh Tưởng thị, chúng dám đại ngôn khi đời, là vì Tưởng chú thích không rõ câu, nên dễ che lấp gian dối, diện mạo thì láo xấc, tính tình thì hung hiểm. Thế gia đại tộc không biện chơn ngụy, đãi như cha mẹ, tôn như thần minh, không tiếc tài vật, không chấp nhục nhã, đến nỗi để hài cốt tiền nhân nơi hang rắn ổ mối, chỉ vài năm là bị bại vong. Tôi thấy cũng nhiều, những kẻ ấy thật diệt được cũng nên diệt cho rồi. Không cứu được họa cho đời, duy còn than khóc mà thôi. Vì đó mà phải làm ra Pháp Giám chứ có ngơi được đâu. Đọc sách phải phân biệt chân ngụy, sách thượng cổ từ Tần Hán trở về trước như Tố Thư, Tố ngôn chỉ loại, đa số do người đời sau ngụy tạo. Đây tạm không nói đến. Mà từ Tấn Đường trở xuống hình thế sách ngụy đếm không hết. Phàm luận Loan Đầu lại tạp vô ngũ hành sinh khắc, như Xích Đình truyện chỉ loại. Đều là sách ngụy tạo. Sách ngụy tạo về Lý Khí đếm không hết, phàm chấp phương vị rồi định âm dương phu phụ, Quái Lệ, Tam Hợp chỉ loại, đều là sách ngụy tạo vậy. Đại ước Hình Thế, Lý Khí, Phương Vị, 3 điều này nên phân biệt rõ ràng. 3 điều này hỗn tạp tức là sách ngụy. Liên Trì tiên sinh nói Tinh Thể của núi sông bản gốc ở Đẩu Xa, đó là chân hình thế. Người giỏi dùng Tiên Thiên thì không dùng Tiên Thiên. Người giỏi dùng Hậu Thiên thì không dùng Hậu Thiên. Đó là Lý Khí thật. Hiểu được vậy thì sách ngụy thấy rõ ràng.
Nguyên Không Pháp Giám Tự (tựa) Cái học của Âm Dương thuật số, Nho gia chẳng nói tới lý của Thiên Căn Nguyệt Quật, và biết mà không chịu nói ra, hai lẽ đều sai. Đủ thấy tấm lòng thánh hiền lượng lớn như trời đất. Thượng cổ thánh nhân ngửa mặt thì xem Thiên Văn, cúi mặt xét địa lý, chế thành hiến để lợi dùng trước dân. Thuyết đó thấy rời rạc ở thi thơ, mà tinh vi tích chứa là do Dịch phát ra. Dịch nói Thiên Thủy Tượng kiến cát hung. Thánh nhân theo phép Hà ra Đồ, Lạc ra Thư. Thánh nhân theo phép làm Thái Cực, bày Bát Quái, rõ đóng mở phán cương nhu. Lý Khí tượng số, tứ đức đủ cả. Dù vậy vẫn lo người không biết dùng. Hiển Yết Chi nói: Chấn là con so trai nên gọi trưởng nam, Tốn là con so gái nên gọi trưởng nữ. Biết dùng mà không biết quyền, tức là dùng chưa tinh xảo. Hiển Yết Chi nói thêm: 3 với 5 lẫn lộn, biết thành số phức tạp, ý nói dùng thì không thể bỏ di thể, Hiển Yết Chi lại nói thêm: một Âm một Dương mà gọi Đạo. Thánh nhan, về địa lý có thể nói là nói rõ ràng lắm rồi. Khái ! Từ thánh học thất truyền, lưu thất ngoại phương, các tàn dư ngỡ rằng là bí quyết của phép tu luyện. Ngô Bá Dương làm Tham Đồng Khế, chỉ qua loa câu nói, để minh tôn chỉ của Tiên Phật. Quản (Lộ) Quách (Phát) Dương (Quân Tùng) Tăng (Văn Địch) sư, cái ý là để tên nghề ở đời, tức là đạo mà lưu truyền nghề vậy. Mãi sau lấy dối truyền dối, kẻ tiểu nhân thì xem như vật kỳ bí, mượn câu Thiên Trân Địa Mật kẻ xấu không truyền, đó là lòng họ không những vì lợi mà còn vì danh nữa. Xem họ viết sách lập thuyết, đa số nói năng hàm hồ, làm dáng sâu xa khó khăn, để người không lường được. Vì vậy sách ngụy bày bán ngoài đường sáng ngày suốt đêm, thiên hạ bị hại còn hơn lũ lụt. Đồng sự Quán Giang, Huy Sơn tiên sinh ghét cáu ngụy làm loạn cái chân, tội nghiệp cho người tối học, tay tập Nguyên Không Pháp Giám 1 quyển, phát minh tôn chỉ 3 quẻ, chỉ điểm tinh vi của 2 quẻ, 1 quẻ thì diệu dùng. Tất cả đưa ra, không những các sách quái lệ trước đó, có thể biết cái sai. Tức 3 quẻ có thể chứng minh được các tà thuyết của sách ngụy.
Thành sau sách Biện Chính là sách không thể thiếu được, đồng đạo chư quân tử đưa ra cái nhân như loại quảng tích. Cùng nhau đóng góp vật tiền tài trợ để khắc bản ấn hành. Thấy sách này ra đời rồi, thì chính học của Dương công được sáng sủa tại thế, hiền hào anh tuấn nối gót sanh ra. Vì Thánh Thiên Tử phụ vực, hưu minh phủ trì, cảnh vận di miên phúc tộ vô cương, thử trung hiếu chi đại đoan dã. Pháp Giám chi công khởi bất vi tai. Đăng Cừ, ngu đệ Dương Úy Khởi bái soạn.
Mục lục Nguyên Không Đồ ........................................................................................................................ 1 Dương Công Thư Hùng Đồ.......................................................................................................... 2 Thư Hùng Giao Cấu Đồ ............................................................................................................... 3 Thư Hùng giao cấu sinh nam nữ phối cửu cung đồ ..................................................................... 4 Tiên Thiên Nguyên Vận Đồ .......................................................................................................... 5 Bát quái biến dịch đồ .................................................................................................................... 6 Lục Long Đồ Nhận Long Lập Huyệt ............................................................................................. 7 Tam Ban Quái Tiệp Quyết............................................................................................................ 8 Tam Đại Quái Toàn Đồ ................................................................................................................ 9 Thủ Khảm Điền Ly Đồ ................................................................................................................ 10 Kim Long Thủy Khẩu Tổng Đồ .................................................................................................. 11 1 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ............................................................................................. 12 2 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ............................................................................................. 14 3 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ............................................................................................. 16 4 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ............................................................................................. 18 6 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ............................................................................................. 20 7 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ............................................................................................. 22 8 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ............................................................................................. 24 9 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ............................................................................................. 26 Thủy Khẩu Định Quái 5 Tinh Đồ ................................................................................................ 28 Cửu Tinh Đại Ngũ Hành ............................................................................................................. 29 Ai Tinh Đại Giao Cấu Đồ ............................................................................................................ 30 9 Cung 9 Tinh Đồ ....................................................................................................................... 31 Trung 5 Lập Cực Đồ................................................................................................................... 32 Bài Phụ Mẫu Bí Quyết ................................................................................................................ 33 Tiên Thiên Định Phụ Mẫu Tổng Đồ ............................................................................................ 34 Hậu Thiên Bài Phụ Mẫu Tổng Đồ .............................................................................................. 35 Kim Long Thủy Khẩu Thấu Giải ................................................................................................. 36 Nguyên Không Pháp Giám Bạt .................................................................................................. 37 Nguyên Không Pháp Giám Bạt 2 ............................................................................................... 38
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Nguyên Không Đồ
Liên Trì Tâm Pháp Hà Lạc hai bản đồ Tiên Hậu Thiên Bát Quái Đều bao quát ở trong Lý Khí với tượng số Không một không cụ bị Nên không liệt thêm riêng Dịch là sách đứng đầu trong lục kinh. Mà bản đồ Nguyên Không truyền ra phương ngoại, kẻ nho khó thông nghĩa nó. Trộm nghĩ muốn nêu lên ở Thái Cực, mà Thái Cực không thể tỏ tường tận. Bởi Thái Cực chỉ rõ cái lý, còn Nguyên Không thì đưa cái dùng, điên đảo càn khôn, chuyển dời sao đẩu. Lấy Tiên Thiên để rõ Lý Khí mà không dùng Tiên Thiên, lấy Hậu Thiên để chính phương vị mà không dùng Hậu Thiên. Về Đan gia lấy Khảm điền Ly, Kim Mộc cùng hợp mà thành. Thật không khó, huống hồ Địa học đó là lấy biến động không chứa chất mà tinh nghĩa nhập thần không thể nghĩ đến. Nên gọi là Nguyên Không.
Trang 1
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Dương Công Thư Hùng Đồ
thái dương
thiếu dương
thái dương hùng thư
thư
thiếu âm
thiếu dương thư
hùng
hùng
hùng thái âm
thiếu âm thư thái âm
Sách tục giải thích thư hùng không gọi Âm Dương mà gọi phu phụ. Đều là nói phiếm. Không hiểu Tăng công chuyên vì kim long mà nói, nên gọi thư hùng. Lời tựa mở ra là vạch rõ câu đó. Đặc biệt nhấn mạnh rõ ràng Dương công chỉ duy nhất một pháp chứ không có 2 pháp vậy. Lời chú của Nam Phong: Thư hùng đồ chỉ rõ âm dương, nhưng người học không nên cố chấp âm dương như đồ hình; Cần hiểu âm dương theo diễn số, tức 1 3 7 9 là dương 2 4 6 8 là âm; âm dương theo phương vị; âm dương theo quái; âm dương theo hình thể như sơn là âm, thủy là dương...
Trang 2
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Thư Hùng Giao Cấu Đồ
khôn giao càn
chấn giao tốn
cấn giao đoài
khảm giao ly
ly giao khảm
tốn giao chấn
đoài giao cấn càn giao khôn
Càn khôn giao mà sanh 6 con 6 con giao mà sanh 24 quẻ Thượng hào giao thì sơn trạch thông khí Trung hào giao thì thủy hỏa tương tế Sơ hào giao thì lôi phong tương bác Giao tức dịch, dịch tất biến Là lý tự nhiên vậy. Lời chú của Nam Phong: nói biến hào giao cấu kỳ thực là nói âm dương phối hợp; nói sơn trạch, thủy hỏa, lôi phong là chỉ ra hợp số Hà đồ. 3-8, 1-6, 4-6 mới là chính cấu, ngoài ra còn bàng cấu và giao mà bất hợp nữa.
Trang 3
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Thư Hùng giao cấu sinh nam nữ phối cửu cung đồ lộc trung nam
tham trưởng nam
bính
cự thiếu nam
ngọ
phụ trưởng nữ
lộc trung nam
mùi
tốn
thân
vũ phá
phụ
ất
canh
mão
lộc
bật
tân tham
dần
văn
tuất
phá thiếu nữ
quý
bật trung nữ
phá thiếu nữ
càn sửu
tham trưởng nam
tý
lộc trung nam
nhâm
hợi
cự thiếu nam
bật trung nữ phá thiếu nữ
cự
cấn
phụ trưởng nữ
dậu
giáp
phụ trưởng nữ
tham trưởng nam
khôn
thìn
tham trưởng nam
cự thiếu nam
đinh
tị
cự thiếu nam lộc trung nam
bật trung nữ
phá thiếu nữ
bật trung nữ
phụ trưởng nữ
Nội tầng Thiên Quái. Ngoại tầng Địa Quái. Đó là cách 4 vị, phép khởi phụ mẫu. Giang tây 1 quẻ, Quẻ khởi ở đông. Giang đông 1 quẻ. Quẻ khởi ở tây. Nam bắc 1 quẻ. Giao lẫn nhau mà khởi. Gọi điên đảo là vậy đó. Gọi đảo bài phụ mẫu là vậy. Gọi giang nam lai long giang bắc ngó là vậy. Gọi phiên thiên đảo địa đối bất đồng là vậy. Gọi mẹ con ông cháu đồng đầy đó là vậy. Hiểu hết 1 bản đồ này, tức Thiên Ngọc Bảo Chiếu và các sách đều thông suốt cả. (Thử Đồ Cửu Tinh Di Tiên Thiên Vi Chủ) Trang 4
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Tiên Thiên Nguyên Vận Đồ phá hạ
văn thượng văn thượng vũ trung
bính
khôn
phá hạ
phụ trung
canh
lộc thượng
tham thượng
dần
văn thượng
tân
càn quý tham thượng
nhâm
tý
phụ trung bật hạ phá hạ
tuất
sửu bật hạ
dậu
cự hạ
cấn phá hạ
tham thượng thân
vũ trung
bật hạ
giáp
phụ trung
cự hạ
đinh
tốn
mão
tham thượng
lộc thượng mùi
ất
lộc thượng
ngọ
phụ trung
tị
thìn cự hạ
bật hạ
lộc thượng
cự hạ
hợi
văn thượng vũ trung
vũ trung
Nội tầng Tiên Thiên chủ thủy. Ngoại tầng Hậu Thiên chủ khí. Long sơn, sơn với thủy tương đối. Thiên quái Khảm thủy vượng ở Thượng Nguyên. Địa quái Tý, Mùi, Mão, long sơn ứng mà vượng. Thiên quái Ly thủy vượng ở Hạ Nguyên. Địa quái Ngọ, Dậu, Sửu, long sơn ứng mà vượng. Thiên vận ở trên chủ động, dùng để tiêu thủy. Địa trấn ở dưới chủ tĩnh dùng để cách long lập huyệt. Thiên quái giang đông chưởng thượng tầm, thủy vậy. Địa họa bát quái thủy năng hội, sơn vậy. Vạn thủy tận tòng thiên thượng khứ. Quần long giai hướng Địa trung hành.
Trang 5
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Bát quái biến dịch đồ
đoài -> cấn
đoài sơ -> khảm
đoài trung -> chấn
càn thượng -> đoài
bính
đinh
thân
lão phụ
trưởng nữ
trung nữ
canh
trung nam
trưởng nam
giáp dần
tân tuất càn
sửu quý chấn thượng -> ly
khôn sơ -> chấn
tý
nhâm
khôn trung -> khảm
hợi
khôn thượng -> cấn
tốn -> chấn khảm thượng -> tốn khảm -> ly
dậu
thiếu nam
lão mẫu
cấn chấn trung -> đoài
tốn trung -> cấn
mùi
thiếu nữ
mão
tốn thượng -> khảm
khôn
ất
chấn -> tốn
ngọ
tị
thìn
ly thượng -> chấn
càn sơ -> tốn
tốn
ly sơ -> cấn ly -> khảm
càn trung -> ly
cấn sơ -> ly
cấn trung -> tốn
khảm sơ -> đoài cấn -> đoài
Hậu Thiên trưởng nam thế cha, trưởng nữ thế mẹ. Càn Khôn già nên không dùng. Phép biến quẻ lần lượt hào mà đổi nhau. Duy chủ Hào 1 biến tức 3 Hào đều biến. Nam nữ đổi chỗ. Cấn, Đoài, gạch trên là chủ Hào. Càn Khôn Khảm Ly, lấy gạch giữa làm chủ Hào. Chấn Tốn, lấy sơ Hào làm chủ Hào. Dịch nói: 3 cầu mà được Nam, 3 cầu mà được nữ. Địa học đại nguyên thật từ đó mà ra. Lời chú của Nam Phong: nói Càn Khôn già nên không dùng, không có nghĩa là không dùng, trong một số trường hợp vẫn dùng Càn Khôn chính quái thay cho 6 con. Trang 6
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Lục Long Đồ Nhận Long Lập Huyệt
lão phụ Càn
Cấn Bính Tân
cự
tham
Canh Dần Đinh
Tuất Ngọ
phá
Tý
phụ
Dậu
Mão bật
Sửu lộc
lộc Mùi
tham
Hợi
cự
bật
Tị
Giáp
Khôn
Quý
Nhâm
Thân
Ất Thìn
Tốn lão mẫu phụ
phá
Chu tước phát nguồn sinh vượng khí Mạch đến đối diện là chân long Khôn Nhâm Ất Thìn sơn Dùng Cấn Bính Tân Tuất long Khôn Nhâm Ất Thìn long Tọa Cấn Bính Tân Tuất huyệt Thiếu nam thiếu nữ, phu phụ chính phối Kỳ dư phỏng theo đó Chữ Tý xuất mạch chữ Tý tầm Đừng làm sai thác Sửu với Nhâm. Lời chú của Nam Phong: ở trên là nói long và huyệt(âm trạch); long và tọa sơn(dương trạch). 2 câu sau cùng là nói vấn đề kiêm hướng, xuất quái hay không xuất quái theo đó mà luận.
Trang 7
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Tam Ban Quái Tiệp Quyết
Hậu thiên
Chấn
Tiên thiên
Thượng nguyên Thượng nguyên tham thủy long
Phối Ngọ Dậu Sửu Hợi
Trung nguyên long
Phối Dần Đinh Canh Càn
Ly
Trung phụ thủy
Hạ phá thủy
Đoài
Khảm
Giáp Quý Thân Tốn
Hạ bật thủy
Hạ nguyên long
Phối Cấn Bính Tân Tuất
Tý Mão Mùi Tị
Hạ nguyên long
Hạ nguyên cự thủy
Cấn
Thượng nguyên Thượng nguyên lộc thủy long
Hạ nguyên long
Khôn Nhâm Ất Thìn
Tốn
Tam quái thể dụng đều bao quái ở trong. Xem Thư Hùng lấy đó, nhận Kim Long, xét huyết mạch cũng dùng đó. Tất cả Hạ quái, ai tinh, không cái nào mà không dùng nó. Đồ hình này đơn giản mà nhanh, là số một trong chưởng quyết vậy.
Trang 8
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Tam Đại Quái Toàn Đồ
Văn Trung mẫu Địa thượng
Bật Phụ Trung nữ Trưởng nữ Hỏa hạ Phá Phong trung Trung nam Thủy thượng
Phá Thiếu nữ Trạch hạ
Văn Trưởng mẫu Địa thượng
bính
Vũ Thiếu phụ Thiên trung Cự Thiếu nam Sơn hạ
ngọ
tốn
khôn dương vũ
âm phá
trung hạ
âm bật
mão
dần
Phá Thiếu nữ Trạch hạ
âm phụ trung
canh
dương thượng lộc
hạ
sửu
Bật Trung nữ Hỏa hạ
tý
nhâm
Bật Trung nữ Hỏa hạ
dậu tân
Phá Thiếu nữ Trạch hạ
tuất càn
cấn quý
Phụ Trưởng nữ Phong trung
thân
thượng hạ dương dương thượng tham cự âm văn
giáp
Phụ Trưởng nữ Phong trung
Tham Trưởng nam Lôi thượng
mùi
ất
Tham Trưởng nam Lôi thượng
đinh
tị
thìn
Lộc Trung nam Thủy thượng
Cự Thiếu nam Sơn hạ
Văn Thiếu mẫu Địa thượng
hợi
Vũ Trưởng phụ Thiên trung
Cự Tham Phá Trưởng nam Thiếu nam Trung nam Lôi thượng Sơn hạ Thủy thượng
Vũ Trung phụ Thiên trung
Hợp các bản đồ trên gom lại thành một bản. Nguyên Không tâm pháp tất cả đều ở đây. Nội đồ chủ động là Long thần dưới nước không lên núi, dùng tiêu thủy. Ngoại đồ chủ tĩnh là long thần trên núi không xuống nước, dùng bộ long tiêu sa. Giang đông Tiên Thiên, thiên 1 sinh thủy, tiên thiên quẻ Càn. Giang tây Hậu Thiên, địa 2 thành chi, hậu thiên quẻ Khôn.
Trang 9
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Thủ Khảm Điền Ly Đồ 7 nhật lai phục cấn 1 dương lai
chấn 1 dương lai
ly 2 dương lai
khảm 1 dương lai
tốn 2 dương lai
đoài 2 dương lai càn 1 dương lai
Lấy trong quẻ Khảm lòng đầy đặt Điểm hóa Ly cung bụng rỗng không ấy là Đan quyết, Địa lý kim long thật xuất tại đó bởi phép biến quẻ, Tam âm lột hết biến thuần Càn mới xưng là kim long Cũng như luyện đan, phân âm hóa tận chuyển thuần dương nên gọi là Kim Đan.
Trang 10
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Kim Long Thủy Khẩu Tổng Đồ
cung 9
đoài tốn
tốn đoài cung 2
cung 4 càn đoài cung 3
tốn
ly
khảm
chấn
cung 7
cấn khôn
cung 8 chấn cấn
cung 6 cung 1
cấn chấn
Thủy khẩu tùy kim long mà biến. Phàm nơi kim long động thì sơn tức Càn, hướng tức Khôn. Cục đương nguyên, lấy Đoài Tốn làm thủy khẩu. Cục bất đương nguyên lấy Chấn Cấn làm thủy khẩu. Xét bản sơn Tiên Thiên quái biến là Càn, hễ thuộc cung nào bát quái đều y hào biến mà biến. Xem Đoài Tốn 2 quẻ tại tức là bản nguyên thủy khẩu, quẻ thuộc sơ hào, tức tại sơ hào. Quẻ thuộc nhị hào tức tại nhị hào. Quẻ thuộc tam hào tức tại tam hào. Ngoại nguyên Chấn Cấn thủy khẩu đồng lệ. Thủy khẩu 1 quẻ mà phân lưỡng cực. Tả thủy lai là thuận cục, tức dùng Đoài. Đoài lật lại là Tốn, nên hữu thủy lai là nghịch cục, tức là dùng Tốn vậy. Xuất nguyên tức dùng Chấn là thuận cục. Chấn lật lại là Cấn, nên nghịch cục dùng Cấn vậy. 4 chính chi Đoài đều ở tại bên hữu. 4 duy chi Đoài đều ở bên trái.
Trang 11
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
1 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ Địa quái hạ nguyên thủy khẩu
cung 9
hạ nguyên thủy khẩu cung 2
cung 4 khôn
cấn
chấn càn đoài
cung 3
tốn
khảm
cung 7
khảm
ly chấn
ly
cấn khôn
cung 8 thượng nguyên thủy khẩu
đoài
tốn
cung 6
càn
cung 1
thượng nguyên thủy khẩu
Thiên quái
Tiên Thiên quẻ Khôn, Hậu Thiên quẻ Khảm (Nhâm, Tý, Quý). Tả thủy xuất Tốn, thuận bài 1, 9 cung. Hữu thủy xuất Đoài, nghịch bài 1, 9 cung. Vận tại 1, cung Tiên Thiên quẻ Khôn. 3 hào đều biến thành Càn. Lấy các cung 3 hào đều biến làm lệ. Tức Đoài tại cung 6, Tốn tại cung 8, là bản nguyên thủy khẩu. Phàm long vận hiện tại, hoặc đồng nguyên sắp đến, di chí là vận khí chưa tận cùng vậy. Duy 4, 6; hai cung không đồng lệ ở đó. Đến như sơn vận đã qua, hạ nguyên Đoài Tốn cũng không vượng. Tức duy tìm cái sinh cơ không nghỉ, để chờ tới thời phục hồi mà dùng. 1 dương của Chấn Cấn chợt động là vậy. Trang 12
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM Nhâm sơn Bính hướng thuộc quẻ Khôn tả toàn lấy thượng hào đối thượng hào của Càn biến thành Cấn. Tinh là Cự Môn long đến từ Bính dùng Phá Quân, kim long động tức Nhâm là Càn, Bính là Khôn. Xét bán nguyên Đoài thượng hào xuất Tuất. Tốn thượng hào xuất Sửu là bản nguyên thủy khẩu. Cấn xuất Thìn, Chấn xuất Mùi là ngoại nguyên thủy khẩu. Tý sơn Ngọ hướng thuộc Khôn, trung hào đối Càn trung hào biến là Khảm. Sao là Lộc tồn. Long đến từ Ngọ dùng Hữu Bật kim vận động. Tức Tý là Càn, Ngọ là Khôn. Xét bản nguyên Đoài xuất Càn, Tốn xuất Cấn, là chính thủy khẩu. Cấn xuất Tốn, Chấn xuất Khôn, là hạ nguyên thủy khẩu. Quý sơn Đinh hướng thuộc Khôn tả toàn. Lấy sơ hào đổi Càn sơ hào, thành Chấn, sao là Tham lang. Long đến từ Đinh, dùng Tả phụ, kim vận động. Tắc Quý tức Càn, Đinh tức Khôn. Xét bản nguyên sơ hào của Đoài tại Hợi, sơ hào của Tốn tại Dần, đó là chính thủy khẩu. Cấn xuất Tị, Chấn xuất Thân, là ngoại nguyên thủy khẩu.
Trang 13
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
2 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ Địa quái hạ nguyên thủy khẩu
cung 8
hạ nguyên thủy khẩu cung 3
cung 1 khôn
cấn
chấn chấn ly khôn
cung 6
cấn ly
cung 4
đoài
khảm
khảm
càn tốn
cung 7 thượng nguyên thủy khẩu
tốn
đoài
cung 9
càn
cung 2
thượng nguyên thủy khẩu
Thiên quái
Tiên thiên quẻ Tốn, hậu thiên quẻ Khôn (Mùi , Khôn, Thân). Hữu thủy xuất Tốn, nghịch bài 2, 8 cung. Tả thủy xuất Đoài, thuận bài 2, 8 cung. Vận tại cung 2 là Tiên Thiên quẻ Tốn, sơ hào động biến thành Càn. Lấy 8 quái động sơ hào làm lệ. Tức Đoài tại cung 7, Tốn tại cung 9, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn tại cung 1, Cấn tại cung 3, là ngoại nguyên thủy khẩu. Mùi sơn Sửu hướng, thuộc Tiên Thiên quẻ Tốn. Lấy thượng hào đối Chấn thượng hào biến thành Khảm. Tinh là Lộc Tồn long đến từ Sửu dùng Hữu Bật, kim vận động. Xét bản nguyên Đoài thượng hào tại Canh, Tốn thượng hào tại Bính là thượng nguyên thủy khẩu. Chấn thượng hào tại
Trang 14
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM Nhâm, Cấn thượng hào tại Giáp là ngoại nguyên thủy khẩu. Giáp Canh Bính Nhâm, 4 thủy gồm đủ, 3 nguyên bất bại. Khôn sơn Cấn hướng, Tiên Thiên quẻ Tốn lấy trung hào đối trung hào của Chấn, biến thành Cấn, sao là Cự môn. Long đến từ Cấn dùng Phá Quân, kim long động. Xét bản nguyên Đoài trung hào tại Dậu, Tốn trung hào tại Ngọ là bản nguyên thủy khẩu. Chấn trung hào tại Tý, Cấn trung hào tại Mão, là hạ nguyên thủy khẩu. Tý Ngọ Mão Dậu 4 nước gồm đủ, 3 nguyên bất bại. Thân sơn Dần hướng, Tiên Thiên quẻ Tốn, sơ hào đối sơ hào của Chấn biến Chấn. Sao là Tham Lang. Long đến từ Dần dùng Tả Phụ. Kim long động, tức xét bản nguyên Đoài sơ hào tại Tân. Tốn sơ hào tại Đinh là bản nguyên thủy khẩu, Chấn sơ hào tại Quý, Cấn sơ hào tại Ất, là ngoại nguyên thủy khẩu. Ất Tân Đinh Quý gồm đủ, 3 nguyên bất bại.
Trang 15
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
3 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ Địa quái hạ nguyên thủy khẩu
cung 7
thượng nguyên thủy khẩu cung 6
cung 2 khôn
cấn
tốn khảm chấn
tốn
cung 9
càn ly
cung 1
khôn khảm
cấn
đoài ly
cung 4 hạ nguyên thủy khẩu
đoài
chấn
cung 8 càn
cung 3
thượng nguyên thủy khẩu
Thiên quái
Tiên Thiên quẻ Ly, hậu thiên quẻ Chấn (Giáp Mão Ất). Hữu thủy xuất Đoài nghịch bài 3, 7 cung. Tả thủy xuất Chấn thuận bài 3, 7 cung. Vận tại 3 cung, Tiên Thiên quẻ Ly trung hào động biến thành Càn, lấy 8 quái động trung hào làm lệ. Tức Đoài tại 8 cung, Tốn tại 6 cung, là thượng nguyên thủy khẩu. Chấn tại 4 cung, Cấn tại 2 cung, là hạ nguyên thủy khẩu. Giáp sơn Canh hướng, tiên thiên Ly thượng hào, đối Khảm thượng hào, biến là Chấn, tinh là Tham Lang. Long đến từ Canh dùng Tả Phụ, kim long động. Xét bản nguyên Đoài thượng hào tại Sửu, Tốn thượng hào tại Tuất, là đương nguyên thủy khẩu.
Trang 16
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM Chấn thượng hào tại Thìn, Cấn thượng hào tại Mùi, là ngoại nguyên thủy khẩu. Thìn Tuất Sửu Mùi, 4 thủy đều đủ, là 4 khố tề khai, 3 nguyên bất bại. Mão sơn Dậu hướng, tiên thiên Ly trung hào, đối Khảm trung hào, biến là Khảm. Tinh là Lộc Tồn. long đến từ Dậu dùng Hữu Bật. Kim long động. Xét bản nguyên Đoài chi trung hào tại Cấn, là thượng nguyên chính thủy khẩu. Cấn chi trung hào tại Khôn, là ngoại nguyên chính thủy khẩu. Tốn biến ra Tuất, Chấn biến ra Thìn, Khảm Ly trung hào, đều không có Chấn Tốn trung hào, chính xuất chi thủy khẩu. Ất sơn Tân hướng, tiên thiên Ly sơ hào, đổi Khảm sơ hào, biến là Cấn. Tinh là Cự Môn, long đến từ Tân, dùng phá quân. Kim long động tức xét bản nguyên, Đoài sơ hào tại Dần, Cấn sơ hào tại Thân, là chính thủy khẩu. Tốn sơ hào ra Hợi, Chấn sơ hào ra Tị, Tốn biến ra Tuất, Chấn biến ra Thìn.
Trang 17
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
4 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ Địa quái thượng nguyên thủy khẩu
cung 6
hạ nguyên thủy khẩu cung 1
cung 7 khôn
cấn
tốn cấn khảm
cung 2
khôn
ly
cung 8
chấn
tốn
khảm
ly
càn đoài
cung 9 thượng nguyên thủy khẩu
đoài
chấn
cung 3 càn
cung 4
hạ nguyên thủy khẩu
Thiên quái
Tiên Thiên quẻ Đoài, hậu thiên quẻ Tốn (Thìn Tốn Tị). Hữu thủy xuất Chấn nghịch bài 4, 6 cung. Tả thủy xuất Đoài thuận bài 4, 6 cung. Vận tại 4 cung là Tiên Thiên quẻ Đoài. Thượng hào động thì là Càn, lấy 8 quái các biến thượng hào làm lệ. Tức Đoài tại 9 cung, Tốn tại 7 cung, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn tại 3 cung, Cấn tại 1 cung, là ngoại nguyên thủy khẩu. Thìn sơn Tuất hướng, tiên thiên Đoài thượng hào, đối Cấn thượng hào, biến là Cấn. Tinh là Cự môn. Long đến từ Tuất là Phá Quân, kim long động. Xét bản nguyên, Đoài chi thượng hào tại Bính, Tốn chi thượng hào tại Canh, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn thượng hào tại Giáp, Cấn thượng hào tại Nhâm, là ngoại nguyên thủy khẩu. Trang 18
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM Tốn sơn Càn hướng, tiên thiên Đoài trung hào, đối Cấn trung hào, biến là Chấn, tinh là Tham Lang. Long đến từ Càn là Tả Phụ. Kim long động tức xét bản nguyên, Đoài chi trung hào tại Ngọ, Cấn chi trung hào tại Tý, là bản nguyên thủy khẩu, Chấn mượn Ất, Tốn mượn Tân làm thủy khẩu. Tị sơn hợi hướng, tiên thiên Đoài chi sơ hào, đối Cấn sơ hào biến là Khảm. Tinh là Lộc Tồn. Long đến từ Hợi là Hữu Bật. Kim long động xét Đoài sơ hào tại Đinh, Tốn sơ hào tại Tân, là bản nguyên thủy khẩu, Chấn sơn hào tại Ất, Cấn sơ hào tại Quý là ngoại nguyên thủy khẩu.
Trang 19
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
6 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ Địa quái bản nguyên thủy khẩu
cung 4 cung 9
cung 3
ngoại nguyên thủy khẩu
khôn
cấn
tốn đoài càn
ly
cung 8
chấn ly
cung 2
tốn
khôn
khảm
khảm cấn
cung 1 bản nguyên thủy khẩu
đoài
chấn
cung 7 càn
cung 6
ngoại nguyên thủy khẩu
Thiên quái
Tiên Thiên quẻ Cấn, hậu thiên quẻ Càn (Tuất, Càn, Hợi). Hữu thủy xuất Chấn nghịch bài 4, 6 cung. Tả thủy xuất Đoài thuận bài 4, 6 cung. Vận tại 6 cung, tiên thiên Cấn sơ nhị lưỡng hào động thì là Càn, lấy 8 quái các biến lưỡng hào làm lệ. Tức Đoài tại 1 cung, Tốn tại 3 cung, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn tại 7 cung, Cấn tại 9 cung, là ngoại nguyên thủy khẩu. Tuất sơn thìn hướng, tiên thiên Cấn Đoài chủ hào biến thành Cấn. Tinh là Cự môn, long đến từ Tuất, là Phá Quân kim long động. Xét bản nguyên Đoài thượng hào tại Nhâm, Tốn thượng hào tại giáp, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn thượng hào tại Canh, Cấn thượng hào tại Bính, là ngoại nguyên thủy khẩu. Trang 20
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM Càn sơn Tốn hướng, tiên thiên Cấn Đoài trung hào biến thành Tốn. Tinh là Tả Phụ. Long đến từ Chấn dùng Tham lang, kim long động. Xét bản nguyên Đoài trung hào tại Tý, Tốn trung hào tại Mão, là bản nguyên thủy khẩu. Cấn tại Ngọ, Chấn tại Dậu, là ngoại nguyên thủy khẩu. Hợi sơn Tị hướng, tiên thiên Cấn Đoài sơ hào biến thành Ly. Tinh là Hữu Bật. Long đến từ Khảm dùng Lộc Tồn, kim long động. Xét bản nguyên Đoài sơ hào tại Quý, Tốn sơ hào tại Ất là bản nguyên thủy khẩu. Cấn tại Đinh, Chấn tại Tân, là ngoại nguyên thủy khẩu.
Trang 21
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
7 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ Địa quái ngoại nguyên thủy khẩu
cung 3
bản nguyên thủy khẩu cung 4
cung 8 khôn
cấn
tốn ly chấn
cung 1
đoài
ly
cung 9
càn
khôn
khảm
tốn
cấn khảm
cung 6 ngoại nguyên thủy khẩu
đoài
chấn
cung 2 càn
cung 7
bản nguyên thủy khẩu
Thiên quái
Tiên Thiên quẻ Khảm, hậu thiên quẻ Đoài (canh, dậu, tân). Hữu thủy xuất Đoài, nghịch bài 3, 7 cung. Tả thủy xuất Chấn, thuận bài 3, 7 cung. Càn vận tại 7 cung, là tiên thiên Khảm Ly, sơ thượng lưỡng hào động biến thành Càn. Lấy 8 quái các biến sơ thượng lưỡng hào làm lệ. Tức Đoài tại 2 cung, Tốn tại 4 cung, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn tại 6 cung, Cấn tại 8 cung, là ngoại nguyên thủy khẩu. Canh sơn Giáp hướng, tiên thiên Khảm Ly, thượng hào biến là Tốn. Tinh là Tả Phụ, long đến từ Chấn, dùng Tham lang. Kim long động. Xét bản nguyên Đoài thượng hào tại Mùi, Tốn thượng hào tại Thìn, là bản
Trang 22
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM nguyên thủy khẩu, Cấn thượng hào tại Sửu, Chấn thượng hào tại Tuất, là ngoại nguyên thủy khẩu. Dậu sơn mão hướng, tiên thiên khảm ly trung hào biến là ly. Tinh là Hữu Bật, long đến từ Khảm là Lộc Tồn. Kim long động. Xét bản nguyên Đoài trung hào tại Khôn, Tốn mượn Thìn làm bản nguyên thủy khẩu, Cấn tại Cấn, Chấn mượn Tuất làm ngoại nguyên thủy khẩu. Tân sơn Ất hướng, tiên thiên khảm ly, sơ hào biến làm Đoài. Tinh là Phá Quân. Long đến từ Cấn là Cự Môn. Kim long động. Xét bản nguyên Đoài sơ hào tại Thân, Tốn sơ hào tại Tị, là bản nguyên thủy khẩu. CHấn sơ hào tại Hợi, Cấn sơ hào tại Dần, là ngoại nguyên thủy khẩu.
Trang 23
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
8 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ Địa quái ngoại nguyên thủy khẩu
cung 2
ngoại nguyên thủy khẩu cung 7
cung 9 khôn
cấn
chấn tốn càn
cung 4
khảm
ly
cung 6
cấn
đoài ly
khảm
khôn chấn
cung 3 bản nguyên thủy khẩu
đoài
tốn
cung 1
càn
cung 8
bản nguyên thủy khẩu
Thiên quái
Tiên thiên quẻ Chấn, hậu thiên quẻ Cấn (Sửu, Cấn, Dần). Hữu thủy xuất Tốn, nghịch bài 2, 8 cung. Tả thủy xuất Đoài, thuận bài 2, 8 cung. Vận tại 8 cung. Tiên thiên quẻ Chấn, trung thượng lưỡng hào biến thành Càn. Lấy 8 quái các biến lưỡng hào làm lệ. Tức Đoài tại 3 cung, Tốn tại 1 cung, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn tại 9 cung, Cấn tại 7 cung, là ngoại nguyên thủy khẩu. Sửu sơn Mùi hướng, tiên thiên Chấn Tốn thượng hào biến Ly. Tinh là hữu bật. Long đến từ Khảm là Lộc Tồn. Kim long động, xét bản nguyên Đoài thượng hào tại Giáp, Tốn thượng hào tại Nhâm, là bản nguyên thủy
Trang 24
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM khẩu. Chấn thượng hào tại Bính, Cấn thượng hào tại Canh, là ngoại nguyên thủy khẩu. Cấn sơn Khôn hướng, tiên thiên Chấn Tốn, trung hào biến là Đoài. Tinh là phá quân. Long đến từ Cấn là cự môn, kim long động. Xét bản nguyên, Đoài trung hào tại Mão, Tốn trung hào tại Tý, là bản nguyên thủy khẩu, Chấn trung hào tại Ngọ, Cấn trung hào tại Dậu, là ngoại nguyên thủy khẩu. Dần sơn Thân hướng, tiên thiên Chấn Tốn, sơ hào biến là Tốn, tinh là tả phụ. Long đến từ Chấn là tham lang. Kim long động, xét bản nguyên, đoài sơ hào tại Ất, Tốn sơ hào tại Quý, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn sơ hào tại Đinh, Cấn sơ hào tại Tân là ngoại nguyên thủy khẩu.
Trang 25
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
9 – Cung Kim Long Thủy Khẩu Đồ Địa quái ngoại nguyên thủy khẩu
cung 1
ngoại nguyên thủy khẩu cung 8
cung 6 khôn
cấn
chấn khôn cấn
cung 7
chấn
khảm
cung 3
ly
khảm tốn
ly
đoài càn
cung 2
đoài
tốn
cung 4 càn
bản nguyên thủy khẩu
cung 9
bản nguyên thủy khẩu
Thiên quái
Tiên thiên quẻ Càn, hậu thiên quẻ Ly (Bính, Ngọ, Đinh). Hữu thủy xuất đoài nghịch bài 1, 9 cung. Tả thủy xuất Tốn thuận bài 1, 9 cung. Vận tại 9 cung. Tức tiên thiên quẻ Càn. Lịch 7 cung rồi trở phục lại thành Càn. Lấy 8 quẻ chiếu tiên thiên Càn 1, Đoài 2, là lệ. Tức Đoài tại 4, Tốn tại 2, là bản nguyên thủy khẩu. Cấn tại 6, Chấn tại 8, là ngoại nguyên thủy khẩu. Bính sơn Nhâm hướng, tiên thiên Càn Khôn thượng hào biến là Đoài. Tinh là Phá quân. Long đến từ Cấn là Cự môn, kim long động. Xét bản nguyên, Đoài thượng hào tại Thìn, Tốn thượng hào tại Mùi, là bản nguyên
Trang 26
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM thủy khẩu. Chấn thượng hào tại Sửu, Cấn thượng hào tại Tuất, là ngoại nguyên thủy khẩu. Ngọ sơn Tý hướng, tiên thiên Càn Khôn trung hào biến là Ly, tinh là hữu bật. Long đến từ Khảm, dùng Lộc Tồn, kim long động. Xét bản nguyên Đoài trung hào tại Tốn, Tốn trung hào tại Khôn, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn trung hào tại Cấn, Cấn trung hào tại Càn, là ngoại nguyên thủy khẩu. Khôn mượn Mùi xuất, Cấn mượn Sửu xuất. Đinh sơn Quý hướng, tiên thiên Càn Khôn sơ hào biến là Tốn, tinh là Tả phụ. Long đến từ Chấn, là tham lang, kim long động. Xét bản nguyên Đoài sơ hào tại Tị, Tốn sơ hào tại Thân, là bản nguyên thủy khẩu. Chấn sơ hào tại Dần, Cấn trung hào tại Hợi, là ngoại nguyên thủy khẩu. Thân mượn Mùi xuất, Dần mượn Sửu xuất. Thủy khẩu ngũ tinh, Tham lang Tý Quý tịnh Giáp Thân, Mùi Khôn Mão Ất Nhâm Cự môn, Tốn Càn 6 vị giai Vũ khúc, Dậu Tân Sửu Cấn Bính phá quân, Dần Ngọ Canh Đinh 4 vị thượng hữu bật 1 tinh tháp thứ lâm. (Cổ quyết)
Trang 27
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Thủy Khẩu Định Quái 5 Tinh Đồ
văn cự bật
văn phụ
càn
tham
lộc phá
cự lộc phụ
3-7
1-9
văn cự
càn
phá
bật tham
tham bật
càn
phá
4-6
2-8
vũ phụ
khôn
tham
bật cự
cự bật
phụ khôn
tham văn
8-2
6-4
vũ
vũ phá
khôn
cự
lộc phá
văn
phụ
lộc phụ
vũ
vũ
bật
cự
vũ
phá
bật phá
vũ
văn
lộc
càn
vũ
phụ lộc
tham
lộc tham
cự
phụ lộc
khôn
bật tham
phá
văn
văn
9-1
7-3
Lời chú của Nam Phong: nói Càn nói Khôn kỳ thực nói Tiên thiên Hậu thiên; nói Thiên quái Địa quái cũng cùng 1 nghĩa.
Trang 28
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Cửu Tinh Đại Ngũ Hành
9
Hữu bật hỏa khí
Tả phụ thổ khí
8
7 Phá quân kim khí
6
Vũ khúc thủy khí
5
Liêm trinh hỏa khí
Lộc tồn thổ khí
4 Văn khúc thủy khí
2
1 Tham lang mộc khí
3
Cự môn kim khí
Trang 29
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Ai Tinh Đại Giao Cấu Đồ 9 tham bính
4 vũ
ngọ
đinh
tị tốn
khôn
bật văn
thìn
2 phụ
mùi
thân
cự
ất 3 phá
mão
canh phá
lộc
dậu
7 lộc
tân
giáp phụ
dần
vũ tham
cấn 8 cự
càn
sửu quý
tý
tuất
nhâm
hợi
6 văn
1 bật
Ly - 9 Tham
Cấn - 8 Cự
Đoài - 7 Lộc
Càn - 6 Văn
Tốn - 4 Vũ
Chấn - 3 Phá
Khôn - 2 Phụ
Khảm -1 Bật
Khôn - 2 Cự
Khảm -1 Tham
Trên là từ cung ly 9 khởi Tham lang, đảo bài 9 cung. Ly - 9 Bật
Cấn - 8 Phụ
Đoài - 7 Phá
Càn - 6 Vũ
Tốn - 4 Văn
Chấn - 3 Lộc
Lấy Tham ở trên di nhập vào cung Khảm. Từ Khảm 1 khởi Tham thượng hành 9 cung. 1-9, 2-8, 3-7, 4-6 cùng lật lại với nhau, đó là số đối đãi của Tiên thiên. Dương nhập âm, âm nhập dương, gọi là giao cấu. Đó là bản nguyên của ai tinh. Pháp ngụy không thể hiểu được nó. Vì vậy mới có thuyết sơn long dùng tọa sơn khởi Tham. Bình dương thì tứ hướng thượng khởi Tham, lại có đương nguyên hữu thủy vô thủy phiên pháp. Mà bảo rằng âm dương thuận nghịch, có tùy La kinh chuyển tả hữu, hoặc dùng phi cung điên đảo mà luận. Đều là chưa mộng thấy ai tinh vậy. Trang 30
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
9 Cung 9 Tinh Đồ bính
ngọ
đinh
tị
mùi
tốn
khôn
bật 9 văn 4
thìn
thân
cự 2
ất mão
canh lộc 3
phá 7
liêm
giáp
dậu tân
phụ 8
dần
vũ 6 tham 1
cấn
càn
sửu quý
tý
tuất
nhâm
hợi
9 vì sao này lấy Hậu Thiên mà dùng. 9 cung là do nơi Lạc Thư, 9 tinh là xuất từ Bắc Đẩu. Lấy 9 tinh bố 9 cung mà lý khí tác dụng như thần vậy. Dương công quan sát loan đầu dùng đó, thẩm lý khí cũng lấy đó, toàn thể đại dụng, 1 bản đồ bao quá tất cả.
Trang 31
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Trung 5 Lập Cực Đồ 9
bính
4
ngọ
đinh
tị
khôn
tốn thìn
thân
1 2
ất 3
2
mùi
mão
6
canh dậu
7
3
tân
giáp 8
4 dần
9
tuất càn
cấn 8
7
sửu quý
tý
nhâm
hợi
6
1
5 là số của thổ. Kim mộc thủy hỏa đều lệ thuộc nơi thổ. Không có 5 tức số Hà Lạc không thành. Khí của tiên hậu thiên bất thông. Vì vậy tác dụng của địa lý đều từ trung 5 mà khới. Tục thuật không hiểu quyết đó 8 quái 9 tinh lại dùng sai cả. Hào ly thiên lý, di họa vô cùng. Kinh nói: thức chưởng mô, thái cực phân minh tất hữu đồ, đó là bí pháp của nguyên không vậy.
Trang 32
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Bài Phụ Mẫu Bí Quyết Thiên Ngọc Kinh nói: lại coi phụ mẫu đặt 3 cát, 3 ban quẻ đệ nhất, bởi long có phụ mẫu, sơn có phụ mẫu, thủy có phụ mẫu. Long sơn thủy đều là phương vị của hậu thiên, mà phụ mẫu thì là quẻ khí của tiên thiên, bài phụ mẫu có thuận nghịch 2 phép. Quyết là lấy phương vị của hậu thiên, nhập trung cung mà khởi độn, lại đem tiên thiên 8 quái thuận nghịch bài đi, xem 3 cát ở cung nào tọa bản long tiên thiên chi sơn, thâu bản long tiên thiên chi thủy. Đó là đệ nhất tiệp pháp của tác dụng. Toàn đồ tức cách 4 vị khởi phụ mẫu nghĩa là vậy. Phụ mẫu ở 2 đầu, nam nữ kẹp ở trung gian, 8 phương không 1 vị nào mà không đối đãi, không 1 vị nào mà không giao cấu. Không như phép ngụy. Vì do khảm tới tốn, tốn tới đoài, gọi là cách 4 vị vậy.
Trang 33
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Tiên Thiên Định Phụ Mẫu Tổng Đồ khôn 1
cấn 2
3
ly
tốn
5
tốn
khôn 9 càn
Trang 34
khảm
7
cấn
chấn 4
6
càn đoài
khảm
chấn
8 đoài
ly
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Hậu Thiên Bài Phụ Mẫu Tổng Đồ càn 9
tốn 4
3
ly
đoài
5
đoài
khảm
7
ly
tốn
cấn 8
2
khôn chấn
khảm
cấn
càn 1
6 chấn
khôn
Trang 35
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Kim Long Thủy Khẩu Thấu Giải Thủy khẩu phải dùng Đoài. Đoài là chỗ sở xuất kim long và thiên địa định vị. Rồi sau khí sơn trạch bất thông, tuy có danh là nam nữ, nhưng không thật là phu phụ, thì sao hòng sanh dục, để thành cái công dụng của thiên địa đây. Từ sơn trạch nhất thông, Đoài Cấn thượng hào giao, mà Đoài là thuần Càn, Cấn là thuần Khôn. Khảm Ly trung hào giao, Ly là thuần Càn, Khảm là thuần Khôn. Chấn Tốn sơ hào giao, Tốn là thuần Càn, Chấn là thuần Khôn. Kim long xuất ư Đoài, không phải minh trưng sao, biết kim long, tức biết thủy khẩu thiên hạ chi thủy đều quy về Đông Nam, Đoài vị tại đó. Đoài lật lại biến thành Tốn. Tốn là đôi của Chấn. Chấn lật lại biến Cấn. Cho nên dùng Đoài mà kiêm Tốn Chấn Cấn vậy. Đoài Tốn dùng cho đương nguyên. Chấn Cấn dùng cho thất nguyên. Tức là quẻ có phán chính, thủy có thuận nghịch. Nhất sơn lưỡng dụng diệu thuật là vậy. Quyết rằng: biết yếu diệu tả hữu nguyên quan đồng nhất khiếu, lời nói 1 sơn 1 khiếu mà phân lưỡng cực, thần minh biến hóa vô cùng. Đó là nói về thủy. Thế truyền Tưởng thị 48 cục, là nói sơn, có thể là người đời sau ngụy thác, quyết không phải là sách của Trung Dương. Thanh nang tự nói: tiên khán kim long động bất động, hậu sát huyết mạch nhận lai long. Áo ngữ nói: nhận kim long nhất kinh nhất vi nghĩa bất cùng. Không biết kim long tức không biết thủy khẩu. Định quái ai tinh sẽ căn cứ vào đâu mà diệu dùng vậy. Dịch nói: lớn thay Càn nguyên vạn vật đấy bắt đầu. Lại nói: Càn đạo biến hóa các chính tính mệnh. Lại nói: lục vị thời thành thời quai, 6 long mà ngự thiên lớn thay. Kim long với thời đồng hành, với thời đồng cực. Nếu thiên hạ không có chí thần thì ai làm được vậy. Địa lý nói đến đây quá đầy đủ rồi. Tập này vì tiết kiệm tiền ấn loát, nên giảm bớt đồ chú. Những gì không thể giảm bớt thì bổ túc ở phần cuối tập để được toàn bích vậy.
Trang 36
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Nguyên Không Pháp Giám Bạt Địa, đất bản chất vốn đầy đặc, không trống rỗng. Lý hiển nhiên là không nguyên, cái thuyết của nguyên không là sao, không hiểu địa thống ư thiên, thiên bản vốn là không, nên khí của địa với thiên thông, thiên bản nguyên vậy. Nên khí của thiên với địa ứng nhất thông, nhất ứng đóng mở tương thuần. Nguyên không phải nguyên, không cũng không phải không. Nhưng 1 thông 1 ứng biến động không chừng, tức bất nguyên mà tới nguyên. Bất không mà lại tới không rồi. Huy Sơn tiên sinh sáng tác pháp giám, tức tôn chi đó sao. Xem những diễn đồ chiết nghĩa, gọi thư hùng, gọi nguyên vận, gọi kim long, gọi ai tinh. Chấp lấy cái thật để cầu, cái lý vốn ưu thâm vậy. Di lại cái tượng để mà cầu, học vô tôn chủ vậy. Đạo chí thật mà chí hư, lý càn hiển lại càn tinh. Đó là diệu đế của nguyên không. Hành nghề đó phải cầu cho tinh, rõ như thần. Tôn chỉ đã được thuyết của 120 nhà rồi không biện mà nghỉ à. Xưa Mạnh tử mà bài bác vị đoan, cái công không ở dưới vua Vũ vậy. Tôi ví cái tác của pháp giám cái công không ở dưới Dương Tăng vậy. Môn sinh Trần Nhữ Lâm. Đồng Am. Cẩn bạt.
Trang 37
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM
Nguyên Không Pháp Giám Bạt 2 Địa lý lấy 3 quẻ làm tông. 3 quẻ lấy nguyên không làm chủ. Chi của nguyên không bất minh. Tức dụng của 3 quẻ tất lẫn lộn. Rồi cái học của địa lý không chân. Trung Dương Tưởng thị Biện Chính nhất thư, cái danh không dưới Dương Tăng. Tiếc là ngôn từ sơ giản mà nghĩa mù mịt. Người đọc phải từ chỗ tối tăm mà lần mò thì không được chính xác. Nên Càn Không pháp khiếu, Biện Chính bổ nghĩa, Biện Chính trực giải, Biện Chính giải nghi, các sách tiếp nối mà ra. Nhân nhân nói Nguyên Không, thật nhân nhân bất giải Nguyên Không. Mà cái hại của 3 quẻ còn hơn tam hợp. Thật là khả hận vậy. Bỉ tính ưa bàn phong thủy, mỗi gặp danh thắng hoặc danh mộ tiền nhân, không sợ khó nhọc mà lặn lội khảo chứng cả năm vậy. Gần đây vì an trí huyệt mả song thân, không dám ủy thác nơi thầy mơ. Muốn dọ cái ảo diệu của Nguyên Không để dùng vào. Nên bị chư gia làm mêm hoặc. Không định được mục đích mà về. Đôi khi muốn bỏ sách mà rút lui. Nhâm Thìn nơi Thanh Thành. Huy Sơn phu tử vang danh giảng dạy nơi trung xuyên. Nên kiệt thành thỉnh giáo. Mong không rơi bỏ. Mà biện cái ngoa xằng chỉ cái chân thật. Mới hiểu cái lý giải của Nguyên Không vốn là nho gia Thái Cực chi tinh. Tức tiên phật chứng đạo chi nguyên. Thật là nghĩa vô thượng của địa lý. Xưa nay danh sư thường giữ kín, không chịu truyền ra. Giờ đây đã trứ tác thành sách. Chính cáo thiên hạ. Thiên hạ đọc Thanh nang, Thiên Ngọc, mà không hiểu được lý giải, thì lấy bản đồ chứng với ghi chú, lấy chú hợp với bản đồ. Được thiên sách này như được bửu phù độ bến mê tân. Giác lộ của kim thần. Không những có công biện chính, tái tạo phúc cho thiên hạ hậu thế. Không phải khắp cả sao. Hân hạnh được tham dự hiệu thủ nơi cuối, dám dẫn dụ vài lời trao ghi để cho có tự nói. Môn sinh Trần Thư Nhất. Cẩn bạt.
Trang 38
NGUYÊN KHÔNG PHÁP GIÁM Xén bỏ bàn tròn tiên thiên 64 quẻ của Thiệu Tử không dùng. Nhưng theo trên 24 hướng mà nói thì còn cách xa cả 1 hòn núi vậy. Bộ Vi, hạch. -------------------TRITRI. Biên dịch xong ngày 10 – 12 – 2005 tại Toronto, Canada. -------------------20 – 12 – 2009. Đánh máy dựa trên bản dịch tiếng Việt của cụ tritri, đăng tại: http://www.vietnambuysell.com/forum/forum_posts.asp?TID=369&PN=1 --------------------
23 – 12 – 2009. Bổ sung thêm một số lời chú của anh Nam Phong. Liên lạc tại diễn đàn huyenkhonglyso.com.
Trang 39