Hong vu cam thu

Page 1

http://www.tuvilyso.com HỒNG VŨ CẤM THƯ Dạy về thuật Phong thủy có phụ họa đồ Lập minh để truyền thụ cho học trò gồm có bốn mục: 1. Truyền thụ luận 2. Định minh thệ 3. Nghi thức lập minh 4. Tựa truyền phái Truyền phái tiết lậu thiên cơ Kiền là tượng trưng chức ngự sử Cấn là tượng trưng chức trạng nguyên Khôn là tượng trưng chức tể tướng Tốn là tượng trưng chức an phủ Thân là tượng trưng chức thái thú Hợi là tượng trưng chức quan huyện Dần là tượng trưng người thứ dân Tỵ là tượng trưng chức vị tướng quân Nói về thế bút sơn có năm thế: 1. Thế phát khôi giáp 2. Thế phát văn chương 3. Thế phát thư sinh 4. Thế phát áp mục 5. Thế phát thái họa (hội họa) Truyền phái tiết lậu cơ trời Ông Dương Quân Tùng tên chữ là Trường Mậu, tên hiệu là Cứu Bần, ông Tăng Văn Địch tên hiệu là Chân Tiên Nhân: khi Tăng Công còn nhỏ, có biệt danh là Liên Vũ, tu ở núi Kim Tinh dồn hết tinh hoa phát huy huyền bí tiết lậu cơ trời tức là bộ Địa lý (thuật Phong thủy) chính tông này, do ông Dương Quân Tùng phát minh truyền đến ông Tăng Văn Địch tên hiệu là Liêu Vũ. Chính những người theo học phải hiểu thế đất thế nào? Phải biết nhận ra những hình thế miệng truyền mắt thấy, thế kia thế khác v.v… nên có câu rằng: Phần phiên âm Lương điển cánh tác tử tôn lụy, Châu ngọc chung vi thể tử tai, Nhất quyển kinh truyền hiền tiếu giả, Thủ chi bất kiệt dụng vô nhai Giải nghĩa Ruộng nương chỉ để con mang lụy Châu ngọc hay gì vợ mắc tai Một quyển kinh này khôn giữ được Lấy dùng không hết cứ còn hoài. Lại có câu Kinh rằng: Phần phiên âm Cộng âm cộng hưởng cộng lai long, Bách tính cư chi tổng nhất đồng Tiền diện nhất ban thị tham lang, Nhất gia phú quý nhất gia cùng Trang 1


http://www.tuvilyso.com Giải nghĩa Cũng âm cũng hưởng cũng rồng chầu Trăm họ cùng nhau ở đã lâu Trước mắt tham lang ngay ở đó Người giàu kẻ khó bởi vì đâu? KINH HỒNG VŨ CẤM THƯ Môn Địa lý (thuật Phong thủy) mới chép Vậy sách địa lý là sách học để xem đất lành dữ tốt xấu. Cho nên người quân tử xem đất để cầu yên thân, đâu phải để cầu vinh thân vậy. Ví bằng nay không có sách, không học hỏi thì biết đâu là đất lành dữ, cốt phải xem rộng biết nhiều, mới mong thấu triệt được. Bảy mươi hai nhà học thức nghiên cứu phép tắc họa đồ, việc nào chỗ nào đã để bụng và để mắt, đều chép thành một tập gom lại thành bộ Hồng Vũ Cấm Thư này, để cho ai nấy xem mà hiểu biết. Hồi ấy đương khi Hồng Vũ yến ẩm, các vương tước ở trong bảo điện nghe tiếng người Châu Bắc Đôi là ông Lý Bá Tuyền tinh thông Địa lý, vua mới vời vào bệ kiến, vua dụ rằng: “Ta nghe người rất giỏi về môn Địa lý, vậy nên hết sức giúp cho nhà ta, chớ vì điều lợi nào mà đổi lòng”. Bấy giờ ông Lý Bá Tuyền lạy tạ mà thưa rằng: “Thần là một người quê mùa ở đất Bắc Đôi, trước theo học ở Kinh Giang, một hôm vào chùa Hoa Kinh ở trên núi Đôi Châu thấy có một quyển sách đề là: Địa Lý Diệu Ngữ Thần Kinh, thưa chính đó là do ý trời xui khiến để giúp nhà vua”. Rồi một ngày kia vua khiến biên chép những thế đất nào là đệ nhất, ngõ hầu giúp nhà vua biết được đến chỗ tinh vi huyền diệu. Khi Bá Tuyền được ở bên nhà vua biên tập thành một quyển sách bút ký bao la, mấy ngày viết xong dâng lên vua ngự lãm. Vua lấy làm vừa ý lắm, mới đề mục rằng: Một thiên đại lục. Liền phong cho Lý Bá Tuyền là Tĩnh An tiên sinh, cho cả mũ áo chức ngự sử. Thời bấy giờ là niên hiệu Hồng Vũ, năm Canh Tý, tháng Thân, giờ Thìn, đức quỹ đồng mà chứa ở trong cung Ngọc Hoa vậy. Luận về Ngũ hành tương ngộ Năm hành: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Thần đọc sách địa lý đã nhiều, nhưng chỉ thấy bàn về chỗ thuộc ngũ hành, chứ chưa ai biết ngũ hành cùng gặp. Xin đem định lý trước sau để cùng bàn luận, vì phép hay càng nên hiểu biết. Nước gặp nước thì nam nữ tính dâm Phương Bắc mà có nước thấm nhập thì trai gái hẳn là có tính dâm Lửa gặp lửa thì lắm điều kiện tụng Phương Nam có hỏa hình. Phương Kim lại gặp Kim là vượng, của cải tất nhiều tự nhiên tới. Phương Tây có Kim hình. Phương Mộc lại có Mộc tinh tương sinh tất nhiên trai gái giàu sang. Phương Đông có Mộc tinh càng tươi tốt vậy. Đất lại có đất ở trên, thì con trai mù lòa, con gái sầu não. Đất ở trung ương là minh đường. Mộc hình gãy (núi ở phía đông đứt gãy) tất nhiên tổ không có chim nghĩa là không có tử tức. Đất thấp: (tức là thổ sơn đê hãm) không dựng nên việc cửa nhà. Gió buồm nổi lên là khách giang hồ nghĩa là núi bên ta bên hữu ở đằng trước có mấy miếng đá nổi lên như cánh buồm. Đằng văn vũ hậu chết phương xa. Nghĩa là đàng sau có nước, đàng trước như mây cuốn chỉ ham đi ra ngoài. Trang 2


http://www.tuvilyso.com Bạch hổ có nước ngấm vai thì con gái tất nhiên tham tà hiếu sắc. Bạch hổ nước ngấm vào huyền vũ, vào vai thanh long. Thanh long vai có nước chảy đi con trai phải chết dữ. Vai thanh long có nước chảy về huyền vũ, hay có đường đi ngược về huyền vũ. Thanh long nối đuôi là con út phải tai nạn giết chóc. Đuôi thanh long nổi ngọn, con út tất phải khốn khổ vì việc quan. Trên vai bạch hổ như bay cao là con gái tính dâm. Trên vai bạch hổ có nước chảy là tính hay đi. Nước chảy quanh núi thủy sơn là có mệnh sứ thần. Nước đứng lặng chung quanh núi bản sơn thì tất nhiên có chức mệnh sứ thần. Bút thần, sông tới hẳn là sinh con quý tử. Núi bút thần bên vai tả có sông lớn vòng vào, hẳn sinh con trạng nguyên. Gió thổi nước tan con bỏ cha. Gió thổi nước chảy đi, con gái chẳng theo cha tùy trên dưới mà phân biệt. Hoa mai xuân muộn dẫu được một thời phú quý. Hoa mai ấy là bên tả có một ngọn núi trọn, chu tước lại có một ngọn là phú quý một thời. Nước chảy hình nhọn gái giết chồng. Bạch hổ có nước chảy, lại như hình nhọn là gái giết chồng rồi ở góa. Cung không có lá liễu thì tất nhiên con cháu không đông đúc cửa nhà. Núi bản sơn lại có một ngón núi không cao hay có cao mà không có dáng bao bọc tất nhiên là ít con cháu vậy. Hình thế nếu chẳng được nghiêm chỉnh ấy là dấu hèn. Là ý nói huyền vũ không được tôn nghiêm thì phát sinh nghèo hèn. Cửa đóng không mở con trai con gái ngu muội là ý nói minh đường không khai thông vậy. Hình dáng gặp nhiều cái xấu hẳn là suy vi. Là ý nói núi bản sơn có nhiều hình dáng xấu tất nhiên là hỏng. Hình như vách lở, không con nghèo là chết non là nói long hổ đều không, có nước xa không có núi mọc người ấy chết non và côi cút. Ba dấu lành, sáu dấu xấu, xấu tốt phải cần ở con mắt của người ta. Nghìn biến vạn hóa nhưng dầu có biến hóa cũng là ở tâm thân tinh tường của con người. Rất cần phải xét ở chỗ mạnh chỗ yếu. Cái khí thế mạnh yếu là cốt tìm ở chỗ đột khởi lên hoặc ở chỗ hình núi hình nước uốn vòng về bởi chỗ tinh thần tụ hội. Núi bản sơn mà xấu con trai nghèo khổ. Là ý nói núi huyền vũ mà thô sơ xấu xí quá con trai chỉ có ba. Nhiều nước chảy xói, con gái biệt ly là ý nói bạch hổ có lỗ nước chảy xói một bên hẳn là biệt ly. Thế trước, trước tới, đứng hướng trước. Núi dương bắn thẳng nhiều người nghèo khổ. Thanh long bắn thẳng con trai có ba. Thế ngầm chảy dài định rằng con gái bị hình Bạch hổ chạy dài đi thẳng là con gái vì chồng mà bị hình phạt vậy. Thế như ba quân ra trận là tất sinh tướng mạnh. Hai trò ôm vai tất sinh ra hủ nho. Muôn trùng ngọn núi mọc thì lấy thế quang nhuận xa xa. Nước chảy quanh hai đầu nên tìm sắc ngọc lắng trong Trước đón nước bể nên cầu xuân sắc như gương. Là ý nói rằng trước minh đường bên trong có bể nước mọc ngọn núi tròn như gương thì tất nhiên phát sinh trạng nguyên hoàng hậu. Trang 3


http://www.tuvilyso.com Đàng sau như mây cuốn mùa thu có sương. Là ý nói rằng đàng sau núi có mây như sương xuống cỏ cây tươi tốt nhà hẳn thịnh. Bên thanh long có ngọn núi như bút xinh như măng ngọc xinh tươi là phát trạng nguyên. Thiên ngoại có văn tinh đẹp tựa đan trì đối chiếu. Thiên ngoại: tức là chu tước đó có mọc ngọn núi như sao cao lên là điểm phát nho học vậy. Phép Diệu Ngũ Thần Kinh Mây đùn sấm dậy núi chầu Hiển vinh tiên tổ con giàu cháu sang Là ý nói huyền vũ có núi tròn như mây ùn lên. Minh đường cũng tròn trĩnh như quả trống là phát con giàu cháu sang hiển vinh tiên tổ. Nước chảy vòng về ngọn núi mọc cao là cha làm quan sinh con tuấn tú. Là ý nói thanh long có nước chảy vòng bao bọc, ngoài lại có núi cao tròn như ngọn bút nhọn, ắt là sinh con tuấn kiệt vậy. Giăng treo trên núi, con trai lấy được vợ hiền. Là ý nói bạch hổ bên vai có ngọn núi tròn theo nước mà hiện ra sáng sủa trong sạch ấy là người con trai lấy được vợ hiền vậy. Che ao núi thẳng từng hàng Cô nương gặp được anh chàng rể sang Nghĩa là ùn ùn núi mọc cao thẳng che ngoài ao bạch hổ nhà có con gái được chàng rể quý. Nước lặng chảy thêm theo, cha với con trai chẳng làm quan khanh thì quan phó. Thanh long ngoài có sông dài nước trong lại có núi tròn nhọn như cán bút, lại có sông nhỏ ôm theo bên trong, con trai hẳn phát đạt giàu sang phú quý. Bể nam mà có ngọc châu Con gái chẳng giàu thì cũng vẻ vang Là ý nói chu tước có ao hồ vòng ôm lại có núi nhỏ ngọn tròn đứng trong bể thì là con gái vẻ vang phú quý. Bắc lâu vách trống không đâu, Ông thọ trăm tuổi, nhà hầu ít khi Là ý nói chu tước có sông dài bao bọc làm ăn thì hẳn phát sinh giàu sang. Nhưng huyền vũ không cao dày mà thấp yếu hẳn là không có người thọ sống lâu trăm tuổi được. Nối liền trâm ngọc trùng trùng, Sinh con tuấn tú nối dòng trượng phu Là ý nói thanh long có núi tròn tranh vanh tươi tốt, trùng trùng điệp điệp, lại có sông dài nước chảy bao bọc vòng về hẳn là sinh con tuấn tú thông minh. Thiên các (Đằng trước mộ) tên gọi là Chu Tước, mà có sông dài vòng đấy lấy làm án thì trong nhà thường sinh con phú quý vinh hoa. Huyền Vũ (đằng sau mộ) tên gọi là Bích Đài xúm xít xum vầy, cao dày hồn hậu, là đất phát làm quan lộc hưởng lâu dài truyền gia mãi mãi. Bên tay phải gọi là Bạch Hổ, mà có đình chùa miếu mạo thần Phật hoặc là ngõ đi vườn tược bức vào, hoặc là lỗ sâu ủng tắc ấy là người chồng hẳn chết trước vậy. Bạch lâm thấy ở phương Nam thì quý (Bạch lâm ấy là gió thổi vậy, như gió thổi vào bản cung hoặc thổi vào đầu não huyệt mà núi thấp không được núi nào cao ở đàng sau chứa lại, thì ít lâu con cũng chết vậy. Về phương Sửu mà có đường đứt hay có hồ sâu hoặc là ao chuôm thì việc nuôi trâu bò tất không thành công vậy. Trang 4


http://www.tuvilyso.com Phương Tý, đường thấp mà nông, người giúp việc gia nô không tốt. Là ý nói: Tý phương là cung nô bộc, nhược bằng gió thổi nước tan thì người ở (gia nô0 hẳn chết. Cấn phương: Âm thần – Bức vách ngặt quá ở đàng trước thì là sinh chứng đau mắt, sưng mắt vậy. Dương đới thô mà gấp: con trai bị gãy chân. Là ý nói bên tả có núi to mà xấu, cấp bách bức quá thì con trai bị khổ gãy chân. Nước trong sạch lại có núi vuông, thì phát sinh ra người tính tình cương trực. Nước chảy yếu nhưng có núi tròn tròn, phát sinh ra người mềm mại, mà hiền hậu giỏi giang. Là ý nói sau núi có nước lại có ngọn núi tròn phát sinh ra người tính tình mềm mại mà hiền lành. Thái Bạch (đàng trước mộ) có nước chảy lại trước mặt thì gọi là Trạc y (giặt áo đằng trước) thì người con trai bụng sẽ phát phì. Dực tinh thấy ở giữa trời, thì người con trai đầu hẳn tròn. Dục tinh nghĩa là đàng trước có núi hình tròn hoặc ở bản cung có núi tròn trặn đẹp như sao thì người con trai đầu tròn mà xinh tươi. Trước minh đường có ao hồ là kiểu đất đón được người rể quý. Vách không nhà trống than phiền hiếm con. Sân thềm khóc cô mụ. Núi non táp nháp, âm không cầu dương không ứng, công việc dở dang không thành, nước nông than côi cút. Thanh long bốn mùa không có nước, mặc dù tuy có nước trời mưa, thì trước được danh lợi phú quý hiển đạt, nhưng hiềm vì vợ chết sớm. Tổng vịnh bốn câu văn vần: Minh đường trước án quy mô, Gặp chàng rể quý cơ đồ vẻ vang Thái không lốc ngốc thở than, Âm dương không ứng nát tan chẳng thành. Nước theo chảy về hướng bắc, con gái lấy chồng xa là ý nói Bạch Hổ nước chảy đi không trở lại, thì con gái hẳn lấy chồng xa. Núi chạy thẳng phương nam, con trai lìa cố quốc. Là ý nói Bạch hổ núi chạy thẳng đi không quay lại, thì con trai tất lìa tổ quốc. Huyệt sâu tuyết giá tự tử chết oan. Dẫn chứng: Mộ tổ ông Khuất Nguyên vi huyền vũ có lỗ sâu nên ông bị chết uổng. Mũi nhọn dài (kim tinh) vòng cung nhọn phá hẳn là bị chết vì khí giới. Đàng trước có hình như cây gỗ đổ bị gãy thì con gái bị bệnh đọa thai. Trực hỏa sau minh con trai mắc tai họa. Là ý nói đàng sau mình trong có dáng như ôm lấy mình ngoài, lại có như tên nhọn bắn vào mình, thì là con trai mắc tai họa. Nhời Diệu Quyết Khánh An Áo hoàng bào giá yêu sau, Cháu con vinh hiển dài lâu sang giàu Nhời chú giải rằng: Hai vai đều có ngọn núi tròn, ngoài có núi tròn nữa, hình như chiếc áo hoàng bào, con cháu tất nhiên vinh hiển. Trên vai thanh long và bạch hổ, có núi hình như cái ấn, con cháu sang trọng mà hiền tài. Thái bạch (kim tinh) có núi hình tròn đối chiếu, làm chính án, con cháu tất đỗ trạng nguyên. Giải nghĩa văn vần: Trang 5


http://www.tuvilyso.com Hổ long có ấn trên vai, Cháu con phú quý hiền tài vinh hoa, Thái bạch trước án đối xa Cháu con thi đỗ hẳn là trạng nguyên Bốn bên bốn thú ưu tiên Cháu con phát đạt thần tiên trên đời Tam thai ngọc ấn châu rơi Cháu con phú quý đời đời vẻ vang. Nhời chú giải rằng: Huyền Vũ, Chu Tước, Thanh Long, Bạch Hổ bốn cái đó gọi là tứ thú vậy, mà đều chầu vào mộ thì con cháu hẳn là phú quý. Tam thai ấy là ý nói đàng trước có ba núi tròn trong lại có núi ấn vuông đẹp như hạt ngọc thì con cháu sang trọng được gần vua chúa luôn luôn. Thanh long núi mọc trùng trùng, con cháu sang trọng mà thông đạt nhiều. Là ý nói long ngoại, long nội bao bọc trùng trùng thì trước có con hiền, sau lại có cháu hiền sang trọng và thông minh hiển đạt. Tổng vịnh văn vần: Thanh long núi mọc trùng trùng Cháu con sang trọng mà thông đạt nhiều. Bạch hổ hàng lẻ tẻ, sanh ra con cái ngu si là ý nói bạch hổ trong ngoài không tiếp ứng (thân lìa tức là không có khí) con gái bị ngu si. Bạch hổ nước chảy không chầu vào minh đường (gọi là bạch ngạch thủy vô qui) thì trong nhà của cải hao tổn. Đàng trước không có án hay thấp yếu quá thì trong nhà ít người đỗ đạt cũng như thiếu người học thức. Là ý nói đàng trước không có cái gì làm án, hay có mà thấp yếu quá thì không có người đỗ đạt. Hai khách thấy như đứng chầu trước cửa là kiểu đất thăng quan tiến chức được mọi người tôn trọng. Là ý nói trước minh đường có ngọn núi tròn nhọn hình như người đứng chực hai bên là con cháu tất thăng quan tiến chức phú quý vẻ vang được mọi người tôn trọng. Hình như con ngựa chạy lại phương nào là con trai ấy được giàu sang vinh hiển. Hình như con kỳ lân đứng vào chỗ nào thì con trai ấy đỗ cao. Long vị ôm mình vào chỗ nào là con trai ấy thi đỗ. Bạch hổ trên vai có núi như ngôi sao sinh con tú nữ được thiên tử rước vào trong cung. Là trúc rơi sau nhà, con cháu chết non và cùng khổ. Nghĩa là nói Huyền vũ có đường như chữ đinh, con cháu chết non khốn cùng, còn hay bị mất trộm cắp hay là chó cắn trộm vậy. Cành thông nằm ngang ngoài đường xá, con cháu đói khát và chết non. Là ý nói đàng trước có dáng ngã ba thì con chau đói khát và chết non vậy. Thanh long, Bạch hổ đều giữ chắc chắn, trong lại có nước lắng trong, thì con cháu tất nhiên thông minh. Bạch hổ có nốt nhọn như kim tinh bắn vào, hẳn là bị giặc cướp trộm cắp. Bạch hổ bị bức tối không quang đãng được thì con gái chết ở làng khác, là ý nói rằng bạch hổ bị vườn ao đường ngõ xóm làng bức bách, thì người con gái chết ở làng khác. Thanh long nước phản ra không bao bọc vào nhà, trong nhà ấy tất nhiên không có của cải gì.

Trang 6


http://www.tuvilyso.com Là ý nói rằng thanh long nước đã không bao bọc vòng về, mà lại chảy phản ra, thì nhà ấy tất nhiên bán hết ruộng vườn trong nhà không còn của cải gì. Thanh long sáng sủa nhuần nhã mà dài, con cháu đẹp đẽ mà có vẻ văn chương. Huyền vũ thanh tú mà hồn hậu thì con cháu sống lâu, làm ăn thịnh vượng Thêm câu vần để dễ nhớ: Cao dày Huyền vũ vững vàng Vẻ vang con cháu giàu sang thọ tràng Thần Kinh Dị Pháp Phú Núi sông non nước thiên nhiên, long mạch lưu hành muôn hình trên mặt đất thực bởi thợ trời khéo xếp dành cho người có phúc, bày ngay trước mắt người ta nhưng có biết nhận ra mới thấy. Đấy như thần kinh dị pháp cao kỳ, cũng bởi các bậc cao nhân thấu hiểu huyền vi xưa nay trải đã bao rồi mà cái điều thông dụng chẳng khá đổi thay được vậy. Người phương bắc đất cao nên lấy huyền vũ làm núi bản sơn, Huyền vũ cao hậu thì tất quan cao chức cả, người phương nam thì xem lại hơi khác là lấy minh đường làm gốc. Minh đường có nước, làm quan chức trọng quyền cao. Núi: Trông nên ngay thẳng chính bình hoặc là vuông, cho nên nói rằng không nên hướng vạy trông xiên. Điểm huyệt chớ nên lệch lạc Kinh có câu rằng: Hình chính mà huyệt lại thiên Con cháu khó tuyền yên việc làm ăn. Trước minh đường có núi vuông như ấn ngọc làm quan đến chức thượng thư. Cá vàng trên nước, làm quan võ đến chức tướng quân. Mạch đến chỗ chỉ, nên xét xem khí tụ ở đâu Là ý nói mạch đi đến chỗ đứng, nên xét xem khí thế thế nào? Có được nhật nguyệt tinh thần sương móc mưa sa lắm gội thì tất nhiên cây cỏ tốt tươi, ấy bảo rằng: là gió chẳng thổi được vậy. Hình thế hoàn toàn, nên chi mới chứa được gió lại ở trong Trong thẳng mà ngoại lại câu, Ấy là đất quý thật mầu nhiệm thay, Trong câu ngoài thẳng cũng rầy Là hình thô bỉ khó bày cho nên. Núi như yên ngựa nên được ngựa: là ý nói ngoài thanh long trong minh đường có núi hình giống loài ngựa thì ngoại lại cầu như hình ngựa. Thế như tình hình sao lại cầu được như sao. Minh đường đàng trước có hồ ao, ngọc tinh chiếu sáng bóng, trong có núi nhỏ như sao. Bạch hổ núi nhọn chân, gọi là cát hình hổ chết. Là ý nói đã nhọn chân lại có lỗ sâu hoặc có ngõ hay ao hồ có nước chảy đứt, tất nhiên không có rễ quý. Thanh long không có cá định là trạng thái đồi long. Là ý nói không có cá tức là hanh long minh không chắc chắn vòng ôm, nhược bằng có vòng ôm thì con cũng làm nên được vậy. Minh đường phải nên kiêng rằng mùa đông không có nước. Là ý nói trước minh đường chẳng nên không có nước bao giờ mặc dù mùa đông cũng thế. Nếu không có nước ấy là tiền phú hậu bần. Chính minh đường nên phòng gió bấc thổi. Là ý nói bản sơn phải đủ sức bao bọc chẳng nên để cho gió bấc lọt vào. Huyền vũ đất thấp tất nhiên không thọ khảo. Trang 7


http://www.tuvilyso.com Núi đằng sau có nước ngấm vào thì tiếc rằng có bà góa. Huyền vũ có nước thấm vào không chảy đi được hẳn là có người góa bụa. Bạch hổ liền lại hai lần: gọi là vợ chồng hai hổ, trong ngoài chẳng liên tiếp vậy. Thanh long: thượng long, hạ long, cùng đứt, thời là anh em chẳng có hòa thuận vậy. Nước phương nam ly cung, chẳng chầu vào nhà, thất bại hoặc có ngã ba sông ở ly phương, sông lớn qua sông con. Phương Tốn có ngọn núi cao là quỷ lại ma Cái phép phân kim: Phương Tốn (Tỵ) nổi cao, người con trai mạnh chẳng giữ chắc. Dương ngắn âm dài biết rằng nhà không quý tử. Dương dài âm ngắn nên phòng ra đời có nước có nhà. Giải nghĩa văn vần Tự thần đóng ở phương đông Trai không có vợ trông mong nổi gì Thần tiên ở bên tây thì, Gái không chồng lấy cũng vì đấy chăng Biết rằng muôn nước triều dâng, Hẳn là gặp gỡ trăm phần mừng vui Bao nhiêu thế núi châu hồi Phát nên quan cả tài bồi non sông Bài phú rất hay dùng Đành rằng bao nhiêu cốt yểu huyền vi Nhưng biết tìm được lẽ của nó mà suy rộng cho ra là cũng thấy, ấy những bậc ấy chỉ là những bậc chân nhân xa xét rộng tìm phát minh ra những chỗ thói đời ròm nom nông cạn mà chưa khám phá được chi. Kìa như nghìn ngọn thanh long khởi mạch mà vua Cao Tổ nhà Hán khởi nghiệp được hơn bốn trăm năm. Bạch thổ có liền muôn phái mà ông Lý Uyên xây dựng cơ đồ nhà Đường có ba trăm năm. Muôn hình vạn trạng theo người biết, Trăm núi nghìn sông đãi kẻ hay Thanh long đới thủy gần non Con trai phú quý sinh giàu vẻ vang, Nước theo Bạch hổ vòng ngang, Con gái vinh hiển lại càng giàu sang Trọn nguồn cảnh đẹp thật là quý Nước ấp sông ôm cũng rất vinh Thế đây kiểu dài, nếu càng được dài thì càng quý. Hình câu đối mà tròn, nếu được rất là tròn thì được rất là hay. Hình như cái măng tươi mùa xuân, thì nên xem thế chân (căn bản). Hình thế như rồng mây thì nên xem đàng đầu đẹp hay xấu. Rồng cuốn mây bay thì nên để ý xem chỗ nó quay đầu về. Quỷ sơn mà đối với thần sơn ấy là đất phát có quý nhân ra đời. Là ý nói rằng huyền vũ cao, dày là núi quỷ sơn, vậy nếu được vai ngoài thanh long có ngọn núi nhọn tròn như cái măng tươi hoặc là như cái bút nhọn ấy là đất phác có bậc kẻ sĩ thần đồng ra đời vậy. Nếu Bạch hổ bắn vào thanh long thì con trai chết non Thanh long bắn vào bạch hổ thì con gái bị thương. Thanh long bạch hổ hoàn toàn Trang 8


http://www.tuvilyso.com Con trai con gái vẻ vang sang giàu. Học đường thêm văn thủy, định rằng cái thẻ tuấn xinh. Nghĩa là thanh long có nước chảy qua phương Tỵ gọi là học đường thủy. Ví bằng minh đường được rộng rãi có nước thì gọi là văn học thủy. Thanh long bạch hổ vòng vào, Nên xem béo tốt tay nào cũng tươi Hổ đầu có ngấn xinh tươi Hãy xem có núi mọc nơi thêm vào Long hổ mà có miều thần phật tự, tất nhiên nội sát tai ương. Thế như ngọn nhọn, hẳn bị tai vạ ở ngoài. Là ý nói thanh long bạch hổ có núi nhọn tất nhiên bị tai vạ ở ngoài. Bên thanh long có nước ra vào thì con trai hoán thiếp đổi thê. Ngoài thanh long thì nên có núi nước bao bọc minh đường nếu bị nước ra vào bất thường, thì là cách hoán thiếp đổi thê vậy. Bạch hổ có tên nhọn bắn thẳng vào là gái giết chồng giết con. Huyền vũ có núi như chữ phẩm nhất định rằng quan cao thọ khảo danh tiếng vẻ vang. Minh đường có ba ngọn nước chảy đổ vào là nhà có học thức, phúc đức truyền gia vậy. Chính án có ngọn núi như mây thì đời ấy qua đời khác tất nhiên hiển vinh phú quý. Là ý nói đàng trước có núi tròn làm chính án đó vậy. Nước chảy hình như cầu vồng, bao bọc quanh thanh long thì đời ấy qua đời khác phú quý vẻ vang. Thanh long đầm phá vỡ bờ Con trai bị chết bất ngờ gớm ghê Hổ sâu bạch hổ tràn trề Bị thương con gái hại về thất gia Ngã ba nam ứng hỏa tà, Nhưng lại được nước chắc là không sao Giao kim đôi nước chầu vào Dẫu rằng không núi tí nào cũng hay. Nghĩa là ý nói ngã ba phương nam hẳn bị hỏa ứng tất nhiên nhà bị khô ráo nhưng nếu đã được có nước thì không sợ gì tai vạ cả. Đôi nước đây là ý nói long hổ thủy vậy nếu không có núi bao bọc, thì dẫu có phát phú quý một thời rồi cũng chóng hết vậy. Minh đường rộng rãi quy mô, Tất nhiên giàu có muôn kho bạc tiền. Hổ long ra mà đâm xiên Chắc là nghèo khó liên miên một đời Hổ long dài chắc cả hai Sống như Bành Tổ ai ai chả mừng Long thô hổ lãm lừng khừng, Nhan Hồi mạnh yểu chết chừng trẻ trung Đường dài thần miếu ở chung Hoài âm chết nhục đường cùng mới đau. Mộc tinh án ngắn ngang đầu, Kình Bố nuốt hận chịu rầu trướng trung. Bên Thanh long mà có giếng nước sâu thì người con trai tài cao tót vậy. Bạch Hổ mà có nước thấm vào đầu thì người con gái có tính dâm đãng. Phần phiên âm Trang 9


http://www.tuvilyso.com Đương tri phú quý bất hư, Tín vi tại thị, Khả kiến thọ yểu hữu mệnh, khởi hữu tha tai. Giải nghĩa Giàu sang có đất phải không, Cho người có phúc và công đức nhiều Thọ khang chết yểu bao nhiêu Mạnh trời đã định có điều nào sai Núi chủ tròn dày là đất phát. Phú quý chủ nhân ông. Huyền vũ có núi tròn dày, đấy là phát phú quý. Cho nên nói rằng: “Được đất tốt, thời giàu có, vì huyền vũ thuộc bắc phương địa vị vậy. Trước án mà được thanh nhã quang minh, là đất phát vinh hoa phú quý. Nghĩa là ý nói: Đàng trước mà được quang đãng thanh nhã, sáng sủa, là chủ phát phú quý. Cho nên nói rằng đắc hồ thiên tắc quí, nghĩa là được hưởng khí trời thời sang, vì rằng chu tước thuộc nam phương địa vị vậy. Thiên trụ vững vàng cao dày lại đeo hai ấn là phát thọ được bảy tám mươi tuổi. Bắc khuyết núi tròn lại lìa khỏi hai bên thanh long bạch hổ thì khó mà sống qua được đến tuổi ba mươi. Ao nghiên núi bút đàng hoàng Phát sinh văn sĩ mở đàng vinh quang. Gươm hẻo cờ trống nghênh ngang, Trời sinh quan võ vẻ vang giống nòi Hình chính mà huyệt thiên thì con cháu chẳng được vẹn tuyền. Hình thiên mà huyệt chính thì con cháu hiển vinh thịnh vượng. Luận về mạch Kìa như khí mạch tốt xấu phải đem hết tinh thần nhãn lực xét xem mạch lạc thế nào. Mạch có khi ẩn khi hiện, có khi chìm vào trong, khi nổi ra ngoài. Những mạch hiển hiện rõ rệt thì người ta dễ thấy. Những mạch nào ẩn tàng ở trong thì người ta khó biết được. Mạch có khi chứa trong hồ, có khi ngay ở chỗ khoáng đãng, hoặc ở trong đá, hoặc ở đáy nước. Mạch trong đáy nước khó thay, Người không thần nhãn sao hay được mà Mạch đi trong đá sâu xa Không phải bậc trí dễ mà biết ru? Luận về núi Nào là núi tốt bởi chi Xanh tươi mạch lạc người thì biết xem Kìa khi người ta xem núi, nên nhận xem khí thế thanh nhã sáng sủa đoan trang, không nên thô nỗi, cũng không nên quá cương mà cũng không nên quá nhu. Khí thế rõ ràng triều củng chầu về, chứ không nên ở chỗ tối tăm loạn tạp. Đại để bàn về những điều thiết yếu cần nhất ở chỗ tinh thần. Phàm nhà ở vai bên tả có nước chảy, thì gọi là sinh khí. Bên hữu có đường dài thì gọi là tiến khí, đàng trước có ao đầm thì gọi là tụ khí. Đàng sau có gò đống thì gọi là khảo sơn (núi nương tựa). Nghĩa là cái núi cái gò đống gì hình như là có chỗ nương tựa làm thế vững chắc được thì rất tốt rất quý vậy. Bên đông có nước chảy vòng bên ngoài là tốt, mà có đường đi lớn là xấu, phía bên bắc có đường đi lớn là xấu. Nhưng phía bên nam có đại lộ thì phát đạt vinh hoa phú quý. Bàn về Thanh Long và Bạch Hổ Trang 10


http://www.tuvilyso.com Khi người ta để ý xét xem, tất nhiên phải xem thanh long và bạch hổ trước. Thanh long và Bạch hổ của hai bên. Bên hữu thuộc âm, bên tả thuộc dương. Âm nên béo tròn mà không quá ngắn, Dương nên vòng lại mà cũng không nên quá dài. Cung nam thấy dậy chỗ nào là người con trai ấy phát quý. Thứ vị người con gái chỗ nào đáng kêu ca thì người con gái ấy bị hại. Đấy như thế đất phương nào thế nào rất tốt. Núi thanh nhã mà lại được nước bao quanh thì dương sinh xán lạn. Thế núi Huyền vũ cao chót vót, hai bên thanh long bạch hổ phân khoảng bao bọc ôm chắc chầu vào phần mộ. Lưỡng hổ đới hồng phát thành tiết phụ trùng long núi bút xa xa tức là phát hiền nhân ứng hiện. Minh đường nước chảy rốc đi thì con trai không có vợ. Huyền vũ hố sâu thăm thẳm thì con gái không chồng. Khí thế liên tu không phân biệt ra được thế nào? Nhưng thấy hình như nước chảy đến chỗ trũng ấy là biết rằng có huyệt vậy. Bạch hổ nước ngấm dầm sanh ra vợ dâm dục. Thanh long nước chảy quay đi nhưng vô tình ấy là đất phát sinh ra người du đãng. Sơn khê to lớn, chỗ cùng phát sinh ra người nam không chức vụ. Bên bắc có đường thẳng thì con gái không lấy chồng. Chẳng cứ gì việc cốt yếu nào là đã có trật tự nhất định chỉ thiết tha rằng nên tìm những cái gì được rõ ràng thích đáng. Hình trong dẫu yếu mà ngoài mạnh, cầu vồng vòng lại càng dài càng hay, được hết cả núi sông chầu về vòng về bao bọc lấy thì tất nhiên con trai được vua yêu dấu gần kề. Phần phiên âm Thượng long đoan thi: Thượng long chi ngoại hữu sơn cường Trưởng tử đa nam tự cát xương, Nhược kiến đại giang hồi thả bão Tất nhiên tử tức cận quân vương Giải nghĩa văn vần Hình trong dẫu yếu ngoài cường, Cầu vồng vòng lấy thế thường càng hay Núi sông chầu cả vui thay, Tất nhiên giai được vua hay gần kề Giải nghĩa Thượng long đoán thơ rằng: Thượng long ngoài thấy có non tròn, Trưởng tử giàu sang lại lắm con Bằng thấy sông to quanh bọc lại, Tất nhiên con cháu giúp vua luôn. Phần phiên âm Trung long đoán thì: Trung long chi ngoại hữu sơn thanh, Trung tử chi nam tất quí vinh Nhược hữu đại giang hoàn thả bão, Tất nhiên tử tức tọa triều đình Trang 11


http://www.tuvilyso.com Giải nghĩa Trung long thơ đoán rằng: Trung long sát cạnh có non xanh Con giữa sinh con tất hiển vinh Nếu có sông to vòng bọc lại, Tất nhiên con cháu ở triều đình Phần phiên âm Hạ long đoán thơ rằng: Hạ long chi ngoại hữu sơn kiều, Quý tử sinh nam lập tại triều, Nhược kiến ngoại sơn hoàn cố tổ, Tất nhiên tôn tử đoạt cao tiêu. Giải nghĩa Hạ long đoán thơ rằng: Hạ long ngoài lại có sơn kiều Con út sinh con đứng ở triều Núi ngoài ngoài lại quay chầu tổ. Con cháu khôi khoa chiếm bảng nhiều VĂN CHƯƠNG ĐỊA LÝ LUẬN Địa lý cũng giống như văn chương, chỉ muốn cầu lấy mỹ lệ chứ chẳng muốn thô lỗ xấu xí làm gì. Nếu được chỗ ấm áp nhuần nhã có sông núi vòng về bao bọc lấy, thì phát sinh tất nhiên hiền sĩ nho phong. Được thế hợp bên thanh long vững vàng thì người con trai tất nhiên lấy được người vợ hiền chính đáng. Bạch hổ có ao hồ vòng lấy ấn là đất phát con gái lấy được chồng hiền. Trên thu về dưới hợp lại là con trai có trưởng thành. Bên trong có khe nước chảy đi, không trở lại là đất không có tử tức. Đàng sau khuyết hãm trông không thế là không chính ngôi, tất nhiên con trai góa bụa. Phần phiên âm Văn chương địa luận: Trùng sơn trùng thủy lưỡng tranh quang, Hồ hải tuyền hoàn chính diện đang, Nhược kiến tiêm sơn lai tác án, Tất nhiên tôn tử thụ phong vương. GIẢI NGHĨA Trùng sơn trùng thủy khéo là may, Hồ hải vòng về giữa mặt đây? Núi nhọn mọc xinh trình án đó, Cháu con hưởng thụ đức vua thay Phần phiên âm Minh đường thi Minh đường quảng khoát thế hùng lượng, Long hổ tương giao tại diện đương, Nhược kiến sơn tiền hình tự bảng, Danh cao cập đệ cận quân vương

Trang 12


http://www.tuvilyso.com Giải nghĩa Minh đường có thơ rằng: Minh đường chính tẩm rộng khang trang, Long hổ giao nhau đối vững vàng Bảng sơn đàn trước non là án, Đỗ đạt vua yêu tiếng vẻ vang Luận về núi án Cổ nhân có nói rằng: Phần phiên âm Luận án sơn Cổ nhân vân viễn tắc sinh nhân kiệt, Cận tắc sinh sát nhân, Cao nhi viễn tử tôn nhân kiệt, Cận nhi bức tử tôn bại tuyệt, Giải nghĩa Án xa thì sinh nhân tài Án gần sát hại người hoài khổ thay Cao mà xa cũng còn may Gần mà bức bách thì hay khốn cùng. Đất nơi bình dương mà có chỗ nước giao hội nghìn dặm thì đất ấy tất sinh ra bậc thánh hiền. Ví bằng được chỗ chân chính mạch uyển chuyển sâu bề đất phát sinh ra người phú quý. Luận về thủy khẩu Thủy khẩu được cẩn mật thì tốt. Ôi người ta sinh ra cũng bởi nước mà sát hại người ta cũng bởi nước. Thấy nước chảy đi như chữ huyền chữ ất, lặng sâu mà không nông cạn, ấy là nước sinh người. Thấy nước úng tắc hay chạy thẳng chảy tuốt hay câu lưu tù hãm, ấy là nước sát hại người ta vậy. Luận về đất có thần Phật Kìa như đất có thần từ phật tự, nhưng ở về phía tây nam thì tốt, đông bắc thì xấu, đàng tây có nước chảy phá thì con gái dâm tà. Phía tây nam có làng xóm hoặc có thần miếu là đất có quan tước. Nhược bằng phía bắc đằng sau thấp xuống, thì chỉ được một thời rồi cũng sa sút. Cái đất nghèo nàn hèn hạ thì thế đất ấy. Thế đất như tên bắn loạn xạ, người ta sinh ra tính lỗ mãng. Như có nước phạm vào phương Càn, Khảm, Cấn là đất tuyệt tự phạm vào thần phương cũng tuyệt tự. Phạm vào phật phương thì sinh ra bệnh tật. Phàm bên tả có núi mọc như lâu đài, bên hữu có núi mọc như chuông trống. Đàng trước có núi mọc là lầu rồng. Đàng sau có núi mọc là bảo điện. Đàng sau thanh long ở bên tả là Thiên Ất. Ở bên hữu là Thái ất. Hình như chầu chực cân đối bên tả bên hữu là phụ bật. Bên tả là văn quan, bên hữu là quan võ. Luận về chữ Đức Kìa như người ta thường nói tiên tích đức nhi hậu tầm long, thì việc tu nhân tích đức thật là việc gốc để thu đất vậy. Đã gọi là tích đức thì không phải một ngày hai Trang 13


http://www.tuvilyso.com ngày mà đã làm nên được. Cho nên nói phải cần trước nhất, nếu chỉ biết đi tìm đất mà không biết tích đức tu thân, thời trời cũng che mất tinh thần con mắt của ta đi, làm tối tăm lòng ta, thì chẳng bao giờ tìm được đất phúc đức, còn hòng gì được hưởng bổng lộc ơn trạch bình yên của thần linh, phúc khánh của con cháu. Thế cho nên người quân tử một khi để ý việc sau này tất nhiên phải lấy việc tu thân tích đức làm gốc. Rồi mới đi tìm đất tốt cho mình chắc sẽ gặp ngay trời đất an bài, thần minh giúp đỡ, như thế chẳng những phần hồn yên lành sảng khoái, mà con cháu đời ấy qua đời khác vinh hiển giàu sang phúc lộc lâu dài vậy. Luận về huyệt Âm dương bí yếu mụ diêu nói rằng: Đại phàm khi người ta muốn xem huyệt lớn, trước hãy nhận lấy núi làm chủ, sau tự thấy núi nào là khách. Hai núi cần phải tương đối viên mãn, trung chính đều đặn. Nui bên tay tả, nước bên tay hữu thời là thuận khí hóa của trời đất. Núi bên hữu, nước bên tả: thời là nghịch trời đất. Tả thanh long không có bạch hổ thì lấy huyệt bên hữu, hữu bạch hổ không có thanh long, thì lấy huyệt bên tả. Thanh long mạch mà theo hổ, bạch hổ mạch mà theo thanh long ấy là nhân thượng vậy. Phủ việt ấy là bên thanh long. Kim mâu ấy là bên bạch hổ. Hơi núi vẫn phải triều củng vòng vào nhau, trông nhau. Nhưng nếu thanh long bức gần quá thì con trai thứ phải chết, Bạch hổ bức gần quá thì người con gái thứ bị chết. Ba mươi sáu phép huyền cơ dạy chọn huyệt Trước hết hãy xem chỗ nước chảy lại gọi là thiên môn thủy. Xem chỗ nước chảy đi gọi là địa bộ. Bất kiêng là núi chạy thẳng, nước chảy thẳng, song song hình như hai cái đuổi nhau. Đó gọi là chỗ âm dương cô quả vậy. Chia tay ít ấy thì là quỷ long, chia tay nhiều ấy thì là kiếp long lùi lũi lầm lì lìa tan ấy thì gọi là du long dung đổ, lở rách ấy là bênh long, giải tán không nương tựa vào đâu được ấy là tử long. Cô đơn một mình ấy là tuyệt long. Như then cửa trời, như trục xe của đất ấy gọi là nhũ long. Cá đi đến rùa rắn ấy là cát long. Sơ long thì phát chóng, trung long thì phát chậm, tận long thì phát cũng chóng Luận chia 24 hướng làm 3 huyệt... Ba huyệt ấy là thiên địa nhân vậy. Canh là thiên huyệt, Bính là địa huyệt. Nhâm là nhân huyệt. Càn, Khôn, Cấn, Tốn, Tý, Ngọ, Mão, Dậu đó là tám hướng thiên huyệt. Khi táng thì nên để cao. Giáp, Bính, Canh, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Quý đó là tám hướng địa huyệt. Khi táng thì nên để thấp. Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, đó là tám hướng nhân huyệt. Khi táng thì không nên cao quá, mà cũng không nên thấp quá. Âm dương trái ngôi là dữ, thuận theo trời đất ấy là lành. Trái trời đất ấy là dữ, Thiên huyệt ở trong lòng người ta. Địa huyệt ở âm nang người ta Nhân huyệt ở rốn người ta Thiên khiếu ở giữa, địa khiếu ở bên hữu Trang 14


http://www.tuvilyso.com Nhân khiếu ở bên tả, Người nam táng ở thiên huyệt, Người nữ táng ở địa huyệt. Thật là một quy mô nhất định không thể thay đổi được. Hình chính huyệt chính con cháu tất thịnh. Hình chính huyệt lệch, con cháu không toàn. Thế lớn hình lớn, phú quý vinh hoa Thế nhỏ hình nhỏ, sinh người nghèo khó. Thế nhỏ hình lớn con cháu không còn. Thế ngắn thì chẳng vinh hoa Hình ngắn là người chết non Lại có câu rằng: Huyền vũ cúi đầu duyên thay Án chi đàng trước múa may chầu vào. Thanh long uyển chuyển thanh tao Bạch hổ đứng doãng vòng bao minh đường Ấy là hình thể đại cương, Nếu không như thế tất thương tiếc hoài Sáu năm dương: Những năm Dần, Ngọ, Tuất thuộc hỏa sát ở nam. Những năm Thân, Tý, Thìn thuộc thủy sát ở bắc. Sáu năm âm: Những năm Hợi, Mão, Mùi thuộc mộc sát tại đông. Những năm Tỵ, Dậu, Sửu thuộc kim sát tại đây. Bài phú nói chung về khoa địa lý Phần phiên âm Địa lý phú: Phù pháp viết: Xuyên ngư ngọa mã, đặc bạng địa trục chi phương (thư hùng địa trục, tại Dậu Mão chi phương dã). Đột giả quật, tu triệt quật giả đột, mạc khứ đảo trượng, (Dương công) vô sai ư trượng pháp. Giao cầm tu hợp cát cầm, thiên thương cốc tướng triều phần phú kham địch quốc. Phượng hoàng kỳ lân nhập huyệt quý bất khả ngôn, Mạch tòng giả thảo mộc mậu phồn, khí toàn giả uyên nguyên hoàn tụ. Tử tôn hiển đạt, tuy do huyệt chi sinh thành Môn hộ suy vi, đặc úy nhập phong chỉ xuy khởi Giải nghĩa Kìa phép xưa địa lý nói rằng: Cá xâu từng hàng Ngựa về nằm nghỉ, Địa trục tìm phương, Mão Dậu phân kim hướng chỉ, Nhớ đến câu: Thư hùng địa lý, Đột quật chi ly, Phải nhận ra, Chợt khác là mồ Chỗ đặc biệt mới là nơi tụ khí Trang 15


http://www.tuvilyso.com Còn phải hay rành khoa Đảo trượng. Chớ có sai trượng pháp mà nguy Giao cầm phải được cát cầm, Cốc trưởng giàu sang nghĩ sao phải nghĩ. Kỳ lân nhập huyệt là hay Ấp ủ phượng hoàng càng quý Mạch lành cây cỏ tốt tươi Sông bọc núi chần tinh túy ở nơi thủy chi. Cháu con phát đạt vẻ vang Tổ mộ núi sông tuyệt mỹ Cửa nhà sa sát suy vi Gió thổi lọt vào mới bị. Vì rằng gió ấy là nộ khí của trời đất. Đất đi hình khác thế núi có bao tàng thì long mạch mới bao tàng. Hình núi tản mát rời rạc thời long mạch cũng tản mác. Gió thổi Thiên môn khuyết hãm gió vào Ly hương đã vậy của đào bán trơn Thiên môn ấy là phương Càn vậy. Nếu phương Càn bị khuyết hãm để gió thổi vào được thì nhà ấy tất bán hết gia tài sản nghiệp rồi bỏ làng đi xa. Địa hộ thưa không gió thổi vào thì bị điên cuồng và bị ngã cây. Là ý nói địa hộ tức là phương tốn vậy. Nhược bằng phương tốn thưa không, gió thổi vào được, thì người ra điên cuồng và bị ngã cây. Nhân môn gió thổi vào thì người đẻ rơi. Nhẫn môn ấy là phương khôn vậy. Nhược bằng phương khôn bị gió thổi vào thì người ta sẽ bị đẻ rơi. Quỷ môn gió thổi vào thì người chết làm ra bệnh ôn dịch. Quỷ môn ấy là phương Cấn vậy. Nếu phương Cấn bị gió thổi vào thì người chết rồi lại làm ra ôn dịch. Truyền tống gió thổi lại, người con trai hồn bướm bay cao. Truyền tống ấy là phương thân vậy. Nếu phương thân để gió thổi vào được thành ra như thế. Công tào gió thổi vào thì người con gái bị hổ lang làm khốn. Công tào ấy là phương Dần vậy. Nhược bằng phương Dần bị gió thổi vào thời ra như thế vậy. Phương Tỵ gió thổi lại, thì bị rắn làm hại. Phương Hợi gió thổi vào thì cỡi cá kình mà đi. Nhâm phương bị gió thổi vào thì người bị trầm hà mà chết. Bính phương bị gió thổi vào thì người bị đau mắt. Giáp phương bị gió thổi vào thì chết đường. Canh phương bị gió thổi vào thì bị chứng trĩ mà chết. Khảm phương bị gió thổi vào thì trầm hà, viễn phối Ly phương bị gió thổi vào thì nhà nóng hại tằm. Chấn phương bị gió thổi vào thì của cải hòm dương rỗng tuếch. Đoài phương bị gió thổi vào thì sớm hôm không thăm viếng thờ phụng bên ngoại. Đinh phương bị gió thổi vào thì lở lang khổ sở. Quý phương bị gió thổi vào thì bị thuốc độc. Tân phương bị gió thổi vào thì bị bệnh lưỡi Ất phương bị gió thổi vào thì con gái dâm dục. Mùi phương bị gió thổi vào thì bị ho hắng Sửu phương bị gió thổi vào thì bị chết trận. Thìn phương bị gió thổi vào thì bị hại lục súc. Tuất phương bị gió thổi vào thị bị thuốc độc giết người. Núi mà khuyết hãm gió vào, Thổi qua là hại xiết bao dữ lành Trang 16


http://www.tuvilyso.com Đường đi xa lộ bộ hành, Rõ ràng lợi hại đành dành phải kiêng Vậy nên theo dõi thiên nhiên Mỗi con đường vượng là tiên trên đời Chớ nên lạc lõng theo chơi, Vào nơi suy tuyệt chết thời hết ra Đường thời có chính có tà Hình có lành dữ biết mà chọn nên. Những cửa vượng là: 1. Trường sinh 2. Đế vượng 3. Dưỡng 4. Mộ Những đường suy là: Mộc dục, quan đới, lâm quan, suy, bệnh, tử Tuyệt, thai Mộc tinh thì hình thẳng Kim tinh thì hình uốn cong lên, Hổ tinh thì hình nằm ngang Thủy tinh thì hình uyển chuyển, chất chứa. Bên tả có đường cần nên uốn vòng vào gọi là thế vẫy cờ, chấn phương ấy vậy. Bên hữu có đường cần nên vòng lại, gọi là cờ bay là canh phương ấy vậy. Bên tả là quan văn từ học. Bên hữu là chức quan võ uy quyền. Phần mộ bị đường góc hẹp (Càn, Khôn, Tốn, Cấn). Gọi là tứ duy thì người ta hay bị tật ác sang mụn nhọt lở lang. Mồ mả hoặc là dương trạch bị đường đi có chữ thập sinh ra nhiều người nghèo khổ góa bụa. Đường trước giao nhau gọi là giang thi. Đàng sau dầu có nhiều đường giao nhau gọi là tự ải (tự thắt cổ chết). Ví bằng đường đàng sau có nhiều đường giao nhau thì là tự ải vậy. Tự nhiên thấy hình như kim treo là cách bỏ làng đi kết bạn xa. Hình như cắm chữ đinh, ấy là bị sấm sét hoặc bị chết vì khí giới. Đường tiếp đến thần tự hoa viên quản xá thì dễ tin. Đường gặp chỗ giao bằng thì say đắm phong nguyệt. Mộ để Cấn phương thì sớm đóng hương tồn. Càn phương giao trên thì hay bị đè nén. Tốn phương giao trên thì hay bị tranh tụng. Mộc tinh đóng ở phương nam nhà bị thất hỏa. Mộc tinh đóng ở phương bắc người bị rơi xuống sông Mộc tinh lại gặp mộc ở phương đông thì người ra điên cuồng hoặc là bị ngã cây. Mộc tinh mà ở kim phương, Tai bay vạ gió thường thường xảy ra. Như tơ dứt chẳng dứt ra, Là dấu tự ải nghiệp nhà oan khiên. Vô tình trái lại đảo điên. Ly hương xuất xứ liên miên quê người Xung phần đâu phải chuyện chơi Thắng ngay tới mộ của thời mất trơn Sông ở bên tả thì bên con trai mất trước. Sông ở bên hữu thì bên con gái mất trước, nam nữ hai cung phạm vào cung nào thì cung ấy bị hại. Khảm, Cấn, Chấn là nam cung. Trang 17


http://www.tuvilyso.com Ly, Khôn, Đoài là nữ cung Dâu rể hai vị bị xung vị nào thì vị ấy bị mất (Thìn Tuất là hai vị dâu rể). Huyệt pháp luận Huyệt có những thể nào? Nước chảy đổ vào là hơn hết, gió vào không ra được là thứ nhì Ngự bình nước cuốn chầu là, Cháu con tướng tá vào ra triều đình Hình như chuông vàng sinh ở chùa đàng tây là phát tướng võ, quản đốc ba quân. Hình như chõ úp chứa ở đàng đông, nhà giàu đại phú, ruộng muông nghìn mẫu. Núi nga mi hiện ở kim khanh, con trai con gái duyên hài gặp chủ. Liên châu tròn như quả trứng ở gần thủy khẩu, anh em thi đỗ đồng khoa? Lâu đài cổ vũ xum vầy la liệt như thành biểu hoa giữ cửa trấn thủ ở gần thủy khẩu. Trông giống gươm bày, huy vũ can thành, phần nhiều sản xuất tướng tài. Cờ mở bút chong, quan văn quan vũ sinh ra tuấn kiệt. Núi nga mi hiện ra phương Tốn, con gái được làm cung phi. Hình giống như tờ cáo trục, hay thấy hình như hoa nở thì con trai lấy được nàng công chúa. Thấy hình như văn bút ở liền với tờ cáo trục, thì đi thi một lần là đỗ. Thấy hình như bày mũ dựa ở ngự bình là đất phát đông cung thị giảng nên tìm cho được ba phương đất lành. Ba phương đất lành ấy là: Ất, Bính, Đinh thế vậy thôi. Còn thiên phương tức là phương Cấn vậy. Cốc tướng tức là mùi phương thế vậy. Phép kén chọn huyệt Nếu nhãn lực mơ hồ thì khó phân biệt ra được hình dung cho nên phải nhận ra răằg: Âm lại thì dương chịu nhận lấy Dương lại thì âm chịu nhận lấy (chứa đựng) (Trên to dưới nhỏ gọi là dương lại Trên nhỏ dưới to gọi là âm đại) Hình như nhũ đột ấy gọi là âm, hình như kiềm oa ấy gọi là dương. Hình vẹo (hình đất chéo lệch) lại đó thì chính phải thiện. Hình chính lại đó thì tà phải chịu. Nhận được càng rõ càng hay, Xem ngay cốt yếu khéo hay tinh tường Như bổ quả dưa, như cắt ngó sen, vợ con hai đoạn. Như cỡi rồng bay, như bắn tên lửa, tai hại hai phương. Xem long mạch cần nhất phải nhận dấu vết, nơi nào chứa những dấu vết nào. Biến dịch không bao giờ nhất định: người xem đó phải khéo mắt khôn ngoan. Tìm tòi đâu đã chắc mười phần hình dung mạch đã hình dung ở bụng. Cục đường xem xét phải sao nên, khi vào núi cốt phải tìm nơi thủy khẩu. Đăng cục cần xét đám đinh đường. Huyệt thuộc âm khai khẩu tất vuông, dương khai khẩu tất nhiên tròn trặn. Cờ hồng thấy lớn: Bính Đinh hai phương, núi hình như chữ bát: Người người như giữ thẻ hương, hay thế câu vào như gìn giữ cả đôi bên: đời đời áo tía. Địa trục thiên khai Thiên Ất: Tân phương gọi là Thiên Ất, Tốn phương gọi là Thái Ất. Ấn đông phương tốn phương, phương bính thì tất nhiên sản xuất được bậc công khanh tướng văn hay tướng võ. Trang 18


http://www.tuvilyso.com Ấn đóng ở phương Càn, phương Dần thì tất nhiên sinh ra sư nam tăng già mộ đạo. Thiên trụ tức là Bính Cấn phương vậy. Núi tổ cao dày cho nên ông Bành Tổ đã thọ được tâm trăm năm. Quan thượng thư Binh bộ nhà đại Minh, Hoàng phúc soạn. Họ Trần còn để bản thảo do ông Hoàng Phúc soạn. Những bậc danh nhân như ông Trần Quốc Việt soạn. So sánh thủy pháp Nguyên Thìn thủy (Càn thủy) nên hợp lòng đi thẳng. Nước phá thiên tâm: Thiên tâm tức là giữa minh đường vậy Kim nga nước chảy thẳng dài. Ruộng vườn bán hết ai hoài đấy chi. Nước chảy xuyên hai bên vai là nước kim nga thủy khẩu vậy. Bốn nước triều về lại đó, Bốn nước ấy là Càn Khôn Cấn Tốn những phương ấy vậy. Nước chảy văn khúc Văn khúc ấy là Dậu phương vậy Nước chảy phá thái âm, Thái âm tức là Mão phương vậy. Nước Quyển liêm (guộn rèm) Quyển liêm ấy là Dậu phương, Chu tước vậy. Đàng trước đường, liễu tường hoa nó bao dung (chịu đựng). Nếu được nước từ cát phương nó chảy vào thì tốt lành theo đó sinh ra vậy. Nếu nước từ hung phươn mà chảy lại thì bao nhiêu điều tay bay vạ gió nó cũng cùng theo đến. Tâm can được thả nước tốt thì đời đời thôi quan. Bát quái nước chảy đi luôn thì người nào cũng đoản mạnh. Nước chảy truyền tống khi sống thời phải lìa nhà xa cách mà khi chết thì thành ra lại chết đường. Truyền tống ấy là thân phương, ví bằng nước chảy vậy Nước chảy phá như Phục thì thì của cải rất là hao hụt. Phục thì ấy là Dần phương ví bằng có nước chảy phá vậy. Nước phá tiểu mộ: thì con trai con gái đều đoản mạnh. (Tiểu mộ ấy là Thìn phương) ví bằng có nước chảy phá vây. Nước chảy cốc tường: thì kho lẫm bịch thóc hư không. Cốc tường ấy là Thủy tinh Tý hại mùi như chữ nổi. Ví bằng nước chảy vậy. Bạch hổ có nước chảy ra vào thì con gái có thói dâm đãng. Ví bằng bạch hổ có như thế vậy. Thanh long có nước chảy xiên vẹo đi, chảy quanh quất lại thì làm quan thoái chức, ví bằng Thanh long nước chảy như thế thì như thế vậy. Thiên thương, địa kiếp: nước chảy thì sinh bệnh ngứa lở, hay là tật sứt môi. Thiên thương ấy là Cấn phương mà địa kiếp ấy là Mùi phương vậy. Thiên trụ, đông tào nước chảy phá ấy thì thương nam hại nữ. Thiên trụ ấy là Cấn phương vậy, huyền vũ vậy. Công tào ấy là dần phương vậy, chu tước vậy. Nước chảy phá quan vượng thì không có chức vị quan. Quan vượng ấy là giáp phương huyền vũ vậy. Quan vượng nước phá thì không có quan chức vì giáp phương thế vậy. Nước chảy phá quan đới thời ít nhân đinh.

Trang 19


http://www.tuvilyso.com Quan đới ấy là mão phương chu tước vậy. Thủy phá đại mộ thì con gái trong phòng giữ một mình. Đại mộ ấy là Thìn phương vậy. Nước chảy câu trận thì con cháu chết đường. Câu trận ấy là Tốn phương vậy. Nước chảy phá thiên kiếp thì mềm yếu yên sống. Thiên kiếp ấy là Ngọ phương ấy vậy. Nước chảy hình kiếp thì tội đến ngay. Ví bằng nước phá hình kiếp thời thế vậy. Hình kiếp ấy là phương Đinh Mùi vậy Nước chảy mọ6c dục ra đi thì sinh ra thói lười biếng, không chịu thi thố việc chi cả. Ví bằng nước chảy đi thì như thế vì tốn ly phương ấy vậy tam kiếp nước chảy lại thì trốn tránh thành thói quen. Ví bằng nước chảy lại, tam kiếp ấy là Ngọ Đinh Mùi phương ấy vậy. Đây là mới cử kỳ đại khái cốt phải nên nhận cho rành rẽ đến tinh vi. Nước cần xem chảy phương nào, Núi xem long mạch biết bao công trình Địa lý thông huyền phú Ngự bình khuất khúc lại chầu Cháu con khanh tướng dài lâu vững vàng Càn Khôn cấn tấn hiên ngang Vinh hoa phát phúc rõ ràng nước sinh Kén chọn về nước Cát thần, cát tướng, chẳng gì hơn là chẳng khiến phá phạm vào phương ngung. Cát thần tức là Càn Khôn Cấn Tốn vậy. Cát tường tức là Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Quý, Ất vậy. Hung thủy hung tinh thì chớ cho vào đăng đường nhuệ mộ cục. Hung thủy tức là tà thủy, chàng thủy, quyển liêm thủy, trực thủy, hoàng tuyền thủy, hình lục thủy ấy vậy. Hung tinh tức là lộc tồn, liêm trinh, phá quân, văn khúc, là những tinh ấy vậy. Kinh rằng: Thiên lý lai long Huyệt kết nhất tịch Kinh rằng: Long mạch dặm nghìn Chung quy huyệt kết chỉ tìm chiếu con. Mười can có âm dương. Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là dương. Ất Đinh Tỵ Tân Quý là âm. Mười hai chỉ có âm dương: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là dương. Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi là âm. Bát quái có âm dương: Càn, Khảm, Cấn, Chấn là dương. Tốn, Ly, Khôn, Đoài là âm. Hai mươi bốn hướng, âm dương đều có một nửa. Càn, Giáp, Khôn, Ất, Ly, Nhâm, Dần, Tuất, Khảm, Quý, Thân, Thìn, mười hai vị là dương long: Cấn, Bính, Tân, Tốn, Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Chấn, Canh, Hợi, Mùi là mười hai vị là âm long. Dương lại thì âm chịu Âm lại thì dương chịu. Dương long thì âm hướng Âm long thì dương hướng Huyệt dương thì âm chầu, Huyệt âm thì dương chầu. Trang 20


http://www.tuvilyso.com Long mạch Long huyệt Long hướng Hai mươi bốn long mạch lành dữ đoán rằng: Thượng tầng là cát long, hạ tầng là hung long: Thượng tầng cát long là: Nhâm long Chính khí là Bính Tý Nhâm long có ba hướng là: Ngọ: Khôn Ất. Nên ngồi Tý phương hướng về Ngọ: ngồi tân hướng về Ất, ngồi Cấn hướng về Khôn. Nhâm là dương long. Quý long chính khí Đinh Sửu. Quý long có hai hướng là Ngọ và Khôn. Nên ngồi phương Tý hướng Ngọ, ngồi phương Cấn hướng Khôn. Quý là dương long. Cấn long chính khí Mậu Dần. Cấn long có tám hướng: Bính, Đinh, Canh, Thân, Tỵ, Mùi, Tốn, Đoài nên ngồi phương Nhâm hướng về phương Bính, ngồi phương Quý hương về phương Đinh, ngồi phương Giáp hướng về phương Canh, ngồi phương Ất hướng về phương Tân, ngồi phương Hợi hướng về phương Tỵ, ngồi phương Sửu hướng về phương Mùi, ngồi phương Kiến hướng về phương Tốn, ngồi phương Mão hướng về phương Dậu. Cấn là âm long. Mão long chính khí Quý Mão. Mão long có bốn hướng, Canh Tân Đinh Hợi nên ngồi phương Giáp hướng về phương Canh, ngồi phương Ất hướng phương Tân, ngồi phương Quý hướng phương Đinh, ngồi phương Tỵ hướng phương Hợi, Mão là âm long. Tốn long chính khí Tân Tỵ, Tốn long có ba hướng: Tân, Hợi, Cấn. Nên ngồi phương Ất hướng phương Tân, ngồi phương Tỵ hướng phương Hợi, ngồi phương Khôn hướng phương Cấn, Tốn là âm long. Bính long Chính khí Nhâm Ngọ, Bính Long có bốn hướng là Hợi, Canh, Tân, Cấn nên ngồi phương Tỵ hướng Hợi, ngồi phương Giáp hướng Canh, ngồi phương Ất hướng Tân, ngồi phương Khôn hướng Cấn, Bính là âm long. Đinh Long Chính khí Quý Mùi, đinh long có hai hướng Cấn, Hợi nên ngồi phương Khôn hướng Cấn, ngồi phương Tỵ hướng Hợi, Đinh là âm long. Canh Long chính khí Ất Dậu, Canh Long có hai hướng là Mão và Cấn nên ngồi phương Dậu hướng Mão, ngồi phương khôn hướng Cấn, Canh là âm long. Dậu long Chính khí Ất Dậu, Dậu long có ba hướng Cấn, Tốn, Tỵ, nên ngồi phương khôn hướng cấn, ngồi phương kiền hướng tốn, ngồi phương hợi hướng tỵ. Dậu là âm long. Tân long Chính khí Bính Tuất. Tân long có ba hướng Tốn, Mão, Cấn nên ngồi phương kiền hướng tốn, ngồi phương Dậu hướng mão, ngồi phương khôn hướng cấn. Tân là âm long. Hợi long Chính khí tân hợi. Hợi long có ba hướng bính tốn đinh. Nên ngồi phương nhâm hướng binh, ngồi phương kiền hướng Tốn, ngồi phương quý hướng đinh. Hợi là âm long. Hạ tầng hung long Tý long Chính khí Canh Tý, Tý long có một hướng là hướng Khôn. Nên ngồi phương Cấn hướng khôn Tý là dương long. Sửu long Chính khí Tân Sửu, Sửu Long có một hướng bính. Nên ngồi phương nhâm hướng Bính. Sửu là âm long. Dần long Chính khí Nhâm Dần. Dần long có hai hướng khôn và thân. Nên ngồi phương Cấn hướng khôn, ngồi phương Dần hướng Thân. Dần là dương long. Giáp long Chính khí Tỵ Mão. Giáp long có hai hướng Càn và Khôn. Nên ngồi phương tốn hướng càn, ngồi phương cấn hướng khôn. Giáp là dương long. Ất long Chính khí Canh Thìn. Ất long có một hướng là hướng khôn. Nên ngồi phương Cấn hướng về Khôn. Ất là dương long. Trang 21


http://www.tuvilyso.com Thìn long Chính khí Giáp Thìn. Thìn long có hai hướng kiền và khôn. Nên ngồi phương tốn hướng kiền, ngồi phương cấn hướng khôn. Thìn là dương long. Tỵ long Chính khí Ất Tỵ. Tỵ long có một hướng là hợi. Nên ngồi phương Tỵ hướng Hợi. Tỵ là âm long. Ngọ long Chính khí Bính Ngọ. Ngọ long có hai hướng là Quý Nhâm. Nên ngồi phương Đinh hướng quý, ngồi phương bính hướng nhâm. Ngọ là dương long. Mùi long Chính khí Đinh mùi. Mùi long có một hướng là cấn. Nên ngồi phương khôn hướng cấn. Mùi là âm long. Khôn long. Chính khí Giáp Thân. Khôn long có một hướng là Quý. Nên ngồi phương Đinh hướng Quý. Khôn là dương long. Thân long Chính khí Mậu Thân. Thân long có hai hướng là Quý Giáp. Nên ngồi phương Đinh hướng Quý, ngồi phương Canh hướng Giáp. Thân là dương long. Tuất long Chính khí Canh Tuất. Tuất long có một hướng là Ất. Nên ngồi phương Tân hướng Ất. Tuất là dương long. Kiền long Chính khí Đinh Hợi. Kiền long có một hướng là Ất nên ngồi phương Tân hướng Ất Kiền là dương long. Xem nước lại phương nào sinh vượng. Bát đất đi khỏi chỗ hưu tù. Phải là được phép đó ru? Mới thành kết quả mới thu công trình. So sánh để lập huyệt ở chỗ bình dương. Đại phàm chọn đất ở chỗ bình dương, thì nên lấy nước tốt làm chủ, lấy phương hướng làm tôn vậy. Vậy nên xem được nước phải như thế nào. Nước thu về ở phương trường sinh đế vượng, bát đất đi khỏi nơi hưu tù nước đọng, ấy là người đã hiểu được phép vậy. Ví bằng được phương hướng trường sinh đế vượng thì sinh con rất thông minh tuấn tú. Nếu như đế vượng đi mà tràng sinh nghinh tiếp đến thì phú quý nó hẹn đến ngay. Như đế vuợng đi mà phá trường sinh, thì dẫu có con mà cũng chả làm ra gì. Trường sinh lại mà phá đế vượng thì dẫu có giàu sang rồi cũng chẳng ra làm sao, chỉ luống công vậy thôi. Ví như gặp minh đường phương hướng cực chẳng hợp với thủy khẩu cho lắm nhưng cũng có thể tòng quyền mà lập hướng chứ không nên coi nhẹ mà vội bỏ đi vậy chăng. So sánh thế nào là giả, kén chọn hình cục ấy thời là giả. So sánh thế nào là chân, kén chọn trường sinh đế vượng ấy là chân. So sánh thế nào là âm? - Nổi cao lên ấy thời là âm. So sánh thế nào là dương? - Bằng mà thấp ấy là dương. Trường sinh phương lại được nước tốt tức là lập được sinh hướng là tốt. Đế vượng phương mà được nước tốt tức là đã lập được vượng hướng là tốt. Mộ phương mà được nước tốt tức là đã lập được mộ hướng là tốt. Ngũ hành phương cục Thử xem bản sơn chỗ vị trí thuộc ngũ hành nào, Mộc tinh trường sinh ở Hợi, Hỏa tinh trường sinh ở Dần, Kim tinh trường sinh ở Tỵ, Thủy và thổ tinh trường sinh ở Thân Các vị đều phải chiếu theo địa vị của nó khởi tự đâu, rồi đuổi theo trường sinh mà xem sao quan diệu để mà xem phương vị. So sánh hai sao quan diệu để mà xem phương vị sinh tử. Trường sinh cung xuất hiện là đỗ khôi giáp. Trang 22


http://www.tuvilyso.com Quan diệu chủ ra đại quan về. Nửa năm tất nhiên đã phát. Mộc dục cung xuất hiện thời bổng lộc hậu, quan diệu cung sao xuất hiện thì phát đại quan. Quan đới cung xuất hiện thì phát tài hoa. Quan diệu sao chiếu chủ sang mà thanh chính. Lâm quan cung xuất hiện thì có tài chính sự. Quan diệu sao xuất hiện thì làm quan bị chín lần đổi. Đế vượng cung xuất hiện thì là người thống đạt Quan diệu sao chiếu thì làm quan chín lần đổi. Ai cung xuất hiện thì là lưu liên đình trệ Quan diệu sao chiếu chủ lâm quan không lộc. Bệnh cung xuất hiện là bị chinh chiến. Quan diệu sao chiếu thì chủ lâm quan làm ác ngược. Tử cung xuất hiện thì là người không khí độ. Quan diệu sao chiếu thì lâm quan không cất nhắc thì không có giấy tờ. Mộ cung xuất hiện là bổng lộc coi kho. Quan diệu chiếu là chủ làm quan tích bảo. Tuyệt cung xuất hiện thì bị hao hụt của cải. Quan diệu chiếu thì là làm quan chết đường. Thai cung xuất hiện thì người ta hình dung đẹp đẽ. Quan diệu sao chiếu thì chủ lâm quan thanh tú. Dưỡng cung xuất hiện là người nhân từ. Quan diệu sao chiếu thì làm quan hàm dưỡng khéo. Long mạch bằng ở hướng nước mà so sánh. Ông Dương quân Tùng làm cái thuật cứu bần cũng tùy theo tất cả trên phương hướng mà lên lên xuống xuống, đổi thay thay đổi luân chuyển tuần hoàn. Vì rằng long huyệt vốn không phải là lành dữ, mà chỉ dạy lấy hướng nước là lành dữ vậy. Cho nên long mạch dẫu chẳng được đẹp tốt hoàn toàn cho lắm mà thủy thần nếu được trường sinh đế vượng chi khí thì cũng có thể phát phúc đinh tài lưỡng vượng vậy. Trường sinh đế vượng nước đó cần phải đến, tử tuyệt nước đó cần phải đi. Nước lại nước đi quan hệ ở long huyệt lành hay dữ vậy. Một việc tối ư khẩn thiết không gì bằng cái nước trường sinh đế vượng phương mà nó tan rã. Thời long huyệt dẫu có thật cũng chẳng hay sinh tài phát phúc gì được, vậy mà lại còn tai bay vạ gió đến ngay. Đấy khá thấy bởi nước mà long huyệt thành ra dữ vậy. Mà nước nó lành dữ lại tại phương hướng. Cho nên ông Dương Quân Tùng nói rằng tìm long mạch mà điểm huyệt tất nhiên phải lấy nước làm chủ, lấy hướng làm tôn trọng vậy như gặp phương trường sinh đế vượng, sa thủy hay lấy hướng thu về cục nội làm gốc ở huyệt quan lộc. Thời phát phú quý phát phúc không còn ngờ vậy. Ngày xưa có người lập hướng nhỡ một khi nhầm lẫn, lại đem đế vượng phương sa thủy bát sang cái ngôi tử tuyệt thời bản huyệt quan lộc, hóa ra làm quỉ sát hại người tốn của. Đấy cái lý đương nhiên thật là việc đáng tiếc vậy. Giả như khôn thân hành long, dần mão là ngôi bệnh, tử Tỵ Ngọ là tuyệt hai địa vị vậy. Mà Dần Mão Tý Ngọ có núi cao nước cả ví bằng lộc tốn tỵ canh ba hướng, mà họa đến ngay. Như Bính Ngọ hướng thời cái núi Dần Mão làm hỏa tinh của tràng sinh mà cái nước của Tỵ Ngọ làm cái nước lâm quan đế vượng há chẳng làm phúc ru? Cho nên kén chọn hình thục ấy là giả Kén chọn đế vượng ấy mới là thật. Vậy cho nên những chỗ hay, còn phải ở người khéo biến báo hoạt bát vậy. Tam hợp ngũ hành kén chọn long mạch, đại phàm xem long mạch phải biết từ núi tổ nó phát ra đi thế nào. Xuất thân chuyển qua quan ải núi non rộng hẹp nương tựa đổi thay mà lại, nhưng cần phải đến chỗ nào đặc biệt nhất làm cốt, thảng hoặc Trang 23


http://www.tuvilyso.com như có chân long thay đổi vắn mà sau rốt lại dài tất nên bỏ chỗ nguy mà nhận lấy chỗ chân nương tựa vào nước mà lập hướng như long nhập thủ mùi phương nước chảy thì lập Giáp Mão hướng vượng Đinh Mùi mộ hướng. Cho nên cần phải so sánh tam hợp. Bốn cục cũng đều như thế vậy Tam hợp là: Thân, Tý, Thìn Bốn cục là: Thân Tý Thìn là thủy cục. Tỵ, Dậu, Sửu là kim cục Hợi Mão Mùi là mộc cục Dần Ngọ Tuất là hỏa cục. So sánh để lập huyệt nơi bình dương phép động tĩnh Đại phàm khi lập huyệt, cần nhất phải xem đất hay ruộng chỗ nào là chỗ động thì mới là chân thực xác đáng. Thế nào là động? Nơi cao nơi thấp của đất ruộng là động. Động nghĩa là hoặc lồi hoặc lõm, chỗ khác thường đi thời là long mạch hay ở những chổ ấy vòng quanh xúm xít hay ở những chỗ đứng mạch lại. Thế cho nên chỗ hơi cao một chút là động, hơi thấp một chút là tĩnh. Cho nên nói rằng: cao hơn một tấc là núi, thấy đi một tấc là nước vậy Nước vốn động nhưng cầu được chỗ tĩnh mới tốt. Đất vốn tĩnh nhưng cầu được chỗ động mới hay. Tính tình nước động chảy đi Ý thiêng tụ hội tĩnh thì mới hay Đất thường bình tĩnh xưa nay, Mạch động đặc biệt khác ngay mới là... Người xưa có nói rằng: Huyệt không động tĩnh, phúc ấm không hay kém thịnh, đất không cao thấp, mỏi mắt nhọc lòng uổng công phí sức, người ý tứ phải như thế đấy. Luận về Minh đường cao thấp Phàm khi định huyệt, huyệt cần nên xem những chỗ nào âm dương biến hóa, như được những phương đế vượng thì nhân định thịnh nhiều. Cao một tấc là núi thuộc âm, thấp một tấc bằng phẳng, ruộng thuộc dương. Cũng có khi vì ruộng thấp mà phải bồi đắp thêm đất để mà táng ấy cũng thành thuộc âm. Nhược bằng ấy nước thủy triều lên xuống cũng tức là thuộc dương. Chỗ âm dương cùng giao cảm với nhau tức là vượng tướng, phàm làm huyệt, trong minh đường nếu có ruộng thấp quá thì nên làm khí quản (ống hơi). Kinh nói rằng: Minh đường như lòng bàn tay Nhà giàu đấu đựng vàng đầy của dư. Nhưng ở ngoài minh đường cũng cần nên phải để cho cao. Lại có câu kinh rằng: Minh đường cao lại ưa cao, Phúc cho con cháu biết bao sang giàu Minh đường thấp quá hoặc sâu, Nghèo nàn con cháu buồn rầu xác xơ Luận về sự tranh đấu tịnh âm tịnh dương Đại phàm lập huyệt, chỉ nên xem nước nỏ chảy đi chảy lại thế nào, không những là kén chọn âm dương long mạch, điều ấy thì người ta ai cũng phải biết rồi. Như các sách Trác ngọc phủ biên ra trước kia có nói âm long dương hướng, dương long kỳ âm hướng là những lời nói như thế, người sau chẳng biết duyên cớ gì đâu lại cho là Trang 24


http://www.tuvilyso.com chính tông, thật là hại cho người ta quá tệ, chẳng biết rằng ông Lưu Thanh Điền có nói dương long dương hướng nước chảy cũng dương ấy là lời nói rất hoang đường. Âm long âm hướng nước chảy cũng âm. Người giết người câu lệ là thường, vì rằng âm long âm hướng, dương long dương hướng nó phối hợp với nhau vốn cũng đã nhiều mà âm long dương hướng, dương long âm hướng nó phối hợp với nhau lại cũng chẳng phải là ít vậy. Chỉ duy có người sáng suốt mới nhận định ra ngay nước chảy đứng chầu là bí quyết. Được như thế, thì không đi đến đâu mà chẳng đích đáng vậy. Hai bên cũng rất cần phóng khoáng Kinh có nói rằng: Chốn bình dương hình thế không cùng, núi thì giữ gió, nước nguyên do phát tự ở đâu lại phải phân biệt nước chảy đi chảy lại làm sao kiêng gió kiêng nước cũng thật là chân tuyệt diệu. Nhưng gió thổi thủy kiếp thì sống lâu giàu bền, con cháu nối dõi lâu dài mà minh đường thế đất trùng điệp sóng dồn lại thì càng tốt. Phép so sánh long mạch Kìa như kim mộc thủy hỏa thổ ấy là thiên tinh đấy vậy. Tròn hay là uyển chuyển, thẳng hay là nhọn vuông ấy là hình thế của đất vậy. Thiên tinh địa hình: Trên dưới cùng nương tựa nhau, mà mỗi cái vẫn có nguyên nhân, duyên theo chỗ đó mà phát sinh ra cho nên mới nói rằng: Hình tức là tinh vậy. Hiện thiên kim Trương thiên thủy Sung thiên mộc Diệm thiên hỏa Chướng thiên thổ Đây là năm sao chính ở trên trời vậy. Chủ phát đại phú đại quý. Phép kén chọn huyệt Tham lang tinh thuộc mộc tức là sao tử khí tinh, tức là sao sinh khí. Cự môn tinh thuộc thổ, tức là sao thiên tài, tức là sao thiên y. Lộc tồn tinh thuộc thổ, tức là sao cô diệu, tức là sao lộc cung. Sao văn khúc thuộc thủy tức là sao trảo đãng, lại tức là sao lục sát. Sao liêm tinh thuộc hỏa tức là sao táo hỏa. Sao vũ khúc thuộc kim tức là sao duyên niên vậy. Sao phá quân thuộc kim, tức là sao thiên cương, lại là tuyệt mệnh Thái dương thuộc kim tinh Thái âm thuộc kim tinh. Sao tả phụ thuộc kim Sao hữu bật thuộc kim. Sao tử khí thuộc mộc, tức là sao tham lang. Sao thiên tài thuộc thổ, tức là sao cự môn. Sao cô diệu thuộc thổ, tức là sao lộc tồn. Sao trảo đãng thuộc thủy tức là sao văn khúc Sao hỏa táo thuộc hỏa, tức là sao liêm trinh. Sao duyên niên thuộc kim, tức là sao vũ khúc. Sao thiên cương thuộc kim, tức là sao phá quân. Luận về các sao xuất huyệt Sao Tham Lang xuất huyệt, thì hiển đạt văn chương, thiếu niên cập đệ: Người ta tranh nhau để cho được xem mặt quan tân lang, vì tại phương Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cung là được đất, năm sáu người con chủ ứng ở phương Chấn là con trai trưởng vậy. Sao Cự Môn xuất hiện thì doanh nghiệp mở mang ngày thêm thịnh vượng, người ta chăm đọc thi thư nên tính tình độ lượng khoan hồng. Bởi tại Khôn, Cấn, Trang 25


http://www.tuvilyso.com Đoài, Kiều, Cung là được đất bốn con thủ ứng phương Khảm là người con trai giữa vậy. Sao Vũ Khúc xuất huyệt, thì vượng người vượng của, mũ xanh áo tía đàng hoàng đoan trang theo hút lại. Bởi tại Kiền, Khôn, Cấn, Đoài, Cung là được đất tam tự chủ ứng phương Cấn là người con trai Út vậy. Sao Tả Phụ xuất huyệt, đất phát võ quan soái phủ được người ta tôn sùng lại thêm mạnh mẽ làm quan tới chức tam công. Sao Thái Dương xuất huyệt, thì con cháu rất tốt, giàu sang của cải đề đa, tức là bạch ốc xuất công khanh thế vậy. Sao Thái Âm xuất huyệt, thời con gái thành cung nga, con trai mở kho lẫm, bên là đỗ đại khoa. Sao Thủy tinh tức là trương thiện xuất huyệt, thì con cháu đông đúc, nhiều người chăm đọc sách, đỗ đạt rất nhiều, giàu có, điền viên thiên mạch. Sao Mộc Tinh tức là xung thiên xuất huyệt văn chương hiển đạt giàu sang đẹp đẽ người nhiều ruộng lắm đất hay. Sao Thiên Tài xuất huyệt thì con cháu nối tiếp nhau thi đỗ, đôi con đôi vợ của cải giàu sang phát đạt. Kén chọn long mạch Từ đây trở xuống là thu góp các nhà so sánh về long mạch tốt xấu. Quý long ba hướng lành mạnh. Gọi là Cấn, Tốn, Đoài là ba phương tốt vậy. Xuất ở hải vũ kinh. Năm phương tiện long xấu, bảo rằng Càn, Khảm, Ly, Chấn là năm thứ hung long vậy. Xuất ở hải vũ kinh. Bốn khu vực của ngôi sao quý long: Bảo rằng là Hợi Cấn Binh Đoài là bốn khu vực của ngôi sao. Xuất ở thanh nang kinh. Hải lão tiện long. Bảo rằng là Kiền Khôn là hải lão tiện long. Xuất ở ngọc xích kinh. Lục tú quý long bảo rằng Hợi là đệ nhất, Cấn Tốn Đoài Binh Đinh Tân là lục tú quý long vậy. Xuất ở thôi quan thiên. Tứ khố tiện long bảo rằng là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là tứ khố tiện long vậy. Xuất ở ngọc xích kinh. Bất tường long nói rằng là Dần Thân Ất Khôn là bất tường long vậy. Bát cá tinh xuất ở la kinh vậy. Trong kinh có thơ nói rằng: Tốn Đoài Cấn Binh với Tân Đinh, Kỷ, Hợi bao gồm lại bát tinh. Núi nước được chiều ai phúc đức Cành vàng lá ngọc giúp vua mình. So sánh về thủy luận Từ đây trở xuống là gom góp các nhà nói về dị đồng của nước. Đây là mười hai phương âm thủy có: Hợi Mão Mùi Kỷ Dậu Sửu Cấn Bính Tân Tốn Đinh Canh ấy là âm thủy vậy nên chầu về long âm. Đây là 12 dương thủy có: Thân Tý Thìn Dần Ngọ Tuất Càn Giáp Khôn Nhâm Quý Ất là dương thủy vậy nên chầu về dương long. Đại thần thủy có: Nói rằng là Càn Khôn Cấn Tốn ấy vậy. Trang 26


http://www.tuvilyso.com Trung thần thủy có: Nói rằng là Giáp Canh Bính Đinh ấy vậy. Tiển thần thủy có: Nói rằng là Ất Tân Đinh Quý ấy vậy. Tiến thần thủy có. Nói rằng là sinh vào khắc ra ấy vậy. Thoái thần có. Nói rằng là thủy sinh ra khắc vào ấy vậy. Âm thôi thủy có. Bảo rằng là Cấn Chấn Tốn Đoài ấy vậy. Dương thôi thủy ấy có. Bảo rằng là Bính Đinh Canh Tân ấy vậy. Tứ khổ thủy ấy có. Bảo rằng là Thìn Tuất Sửu Mùi ấy vậy, nên xúc tích chẳng nên chảy. Lúc thần thủy ấy có bảo rằng là thanh long bạch hổ chu tước huyền vũ, câu trận, đằng xà là sáu thần thủy ấy vậy. Trích theo tràng sinh khởi: Lục kiến thủy ấy có nói rằng Hợi là thiên kiến, Cấn là địa kiến, Đinh là nhân kiến, Mão là tài kiến, Tốn là lộc kiến, Bính là mã kiến, là sáu kiến ấy vậy. Tam cát thủy ấy có nói rằng là Cấn là tam lang, thủy tinh chủ quan lộc. Tốn là cự môn. Thủy tinh chủ tài bạch. Đoài là vũ khúc. Thủy tinh chủ nhân tài ấy vậy. Xá văn thủy ấy có nói rằng là Tốn Bính Đinh là văn thủy ấy vậy. Trường thọ thủy ấy có nói rằng là Cấn Bính Đinh Đoài là tràng thọ thủy ấy vậy. Ngũ cát thủy ấy có bảo rằng là Mão Tốn Bính Tân Đinh là năm cát thủy ấy vậy. Bảo thương thủy ấy có nói rằng là Mão Thủy ấy vậy. Văn bút thủy ấy có bảo rằng là Tốn Thủy ấy vậy. Kim đường thủy ấy có bảo rằng là kính thủy ấy vậy. Ngọc môn thủy ấy có bảo rằng là đinh thủy ấy vậy. Học đường thủy ấy có bảo rằng là tân thủy ấy vậy. Lục tú thủy ấy có nói rằng là Cấn Tốn Đoài Binh Đinh Tân là lục tú thủy ấy vậy. Kim giai thủy ấy có nói rằng là Canh Dậu Tân là Kim giai thủy ấy vậy. Ngự nhai thủy ấy có nói rằng là Kiền Khôn Tốn Cấn là ngư nhai thủy ấy vậy. Đào hoa thủy ấy có nói rằng là Tý Ngọ Mão Dậu là đào hoa thủy ấy vậy. Sát kiếp thủy ấy có nói rằng là Dần Thân Tỵ Hợi là kiếp thủy sát ấy vậy. Hoàng tuyền thủy ấy có nói rằng là Canh Đinh hướng, thì khôn thủy là hoàng tuyền. Ất Bính hướng, thì Tốn thủy là hoàng tuyền. Tân Nhâm hướng, thì Càn Thủy là hoàng tuyền. Quý Giáp hướng, thì cấn thủy là hoàng tuyền. Đinh Canh Ngọ Mùi Thân năm hướng. Ất Bính Mão Thìn Tỵ năm hướng. Tân Nhâm Dậu Tuất Hợi năm hướng. Quý Giáp Tý Sửu Dần năm hướng. Khôn hướng, thì Canh Đinh thủy là hoàng tuyền. Tốn hướng, thì Ất bính thủy là hoàng tuyền. Càn hướng, thì Tân Nhâm thủy là hoàng tuyền. Cấn hướng, thì Quý giáp thủy là hoàng tuyền. Bát diệu thủy ấy có: Kiền long kiêng ngọ thủy, khảm long kiêng Thìn thủy. Cấn long kiêng Dần Thủy, Chấn long kiêng thân thủy. Tốn long kiêng Dậu Thủy, ly long kiêng hợi Thủy. Khôn long kiêng Mão thủy, Đoài long kiêng Tỵ thủy. Quy nguyên thủy ấy có nói rằng là thai tuyệt là hai vị vậy. Thủy của tôn miếu Pháp hồng Nhân lại nói rằng: Nước đi khuất khúc có tình, Trang 27


http://www.tuvilyso.com Tinh thần chưa hợp nhưng hình tốt thay Ông Dương Quân Tùng nói rằng: Cứu bần nước đến chữ huyền Hỏi chi cung cách tần phiền phi công Ông Khắc Yêm lại nói rằng: Dữ lành nước hỏi thành nao? Ly phương phúc trạch dồi dào cháu con. Đây là nói phương hướng tốt, còn như hình thế xung đột, bắn nhắm, bay lạc, xiên vẹo, dùi thủng, trái ngược, nghiêng ngửa, thì dẫu có ở được ngôi lành rồi sau cũng suy sút. Xuất gia dị đồng thủy. Phép kén chọn nước tốt. Kìa như nước ấy phát nguồn bao công linh động long được nó mới hay, huyệt hay được nó mới đến. Chính mạch nước chảy vào khuất khúc, thì gọi tên là cửu khúc thủy, cũng có tên là ngự nhai thủy, hoặc từng tầng từng cấp chầu vào, thì gọi tên là chiều hoài thủy, cũng có tên là thương bản thủy, đều là những thứ nước chóng phát giàu sang hiển đạt. Xuất ở thủy luận. Triều thủy Nguyên nhân bốc nói rằng nước cửu khúc chầu vào minh đường thì đương triều làm tới tể tướng. Xuất ở thủy luận. Vậy có lời quyết rằng: Nước bể từng lớp chầu vào, Uy quyền chức trọng quan cao đương thời. Cho nên có lời bói rằng: Nước về rúc rích có tình, Không hợp lệ cũng tốt lành hẳn hoi. Xuất ở thủy luận Ông Dương Quân Tùng nói rằng: Nước có chảy đi như vô tinh thời dẫu có hợp quái lệ, ta thấy cũng chỉ lấy làm khinh vi nó xấu. Nước chảy bao bọc có tinh, thì dẫu chẳng hợp quái lệ ta thấy cũng cho nó là tốt. Xuất ở thủy luận. Minh đường Ông Cố Ai nói rằng: “Đàng trước huyệt nên có chỗ đất bằng phẳng, thì mới được chân khí kết tụ vậy. Xuất ở thủy luận Ông Cố Dương nói rằng: Kết là cốt ở minh đường Nước giao khí tụ huyệt thường kết tinh Xuất ở thủy luận. Ông Cố Dương lại nói rằng: Minh đường như lòng bàn tay, Giàu có của cải chứa đầy vựa kho Ông Cố Dương lại nói rằng: Minh đường rộng rãi phẳng phiu Giàu sang đệ nhất muốn lưu luyến hoài. Ông Tạ nói rằng: Minh đường bằng phẳng hồ gương Trang 28


http://www.tuvilyso.com Giàu sang lừng lẫy bốn phương kinh thành. Ông Mông nói rằng: Núi quanh nước bọc nhà khoan Giàu sang vàng bạc muôn ngàn của dư Ông Cố Phạm nói rằng: Huyệt ở trên núi, minh đường lấy rộng rãi làm chính pháp, bình dương lại cần chỗ đường rộng mà thu hẹp lại. Núi cao ví bằng hẹp, bình dương ví bằng rộng, ấy là tinh thần đất bắc vậy. Xuất ở thủy luận. Cho nên người xưa có câu rằng: Hai nước giáp nhau ra chẳng nên ở giữa, trung tâm nước chảy đi mười phần xấu cả mười. Lại nói rằng: Hai nước hợp nhau chảy ra như đổ trước mặt là dấu trốn tránh đào vong chết tuyệt nhiều nghèo hèn. Xuất ở thủy luận Cho nên người xưa có nói rằng: Trở lại mình xem nước chảy về, Liên miên phát phúc nọ khen chê Lại nói rằng: Chưa xem được nước, núi xem chi. Cốt yếu cần xem hướng nước đi Có nước không non còn phát đạt Có non không nước chẳng ra gì. Ông Cố Lưu nói rằng: Những kẻ nghèo hèn cô độc đói rét là bởi tại vì thoái thần. Những người giàu sang anh hùng hiển đạt, là chỉ bởi tại vì tiến thần. Thuận dòng nước chảy xiết đi, thì gọi là thoái thần. Nước chảy ngược lên ứ lại dâng lên trên thì gọi là tiến thần. Xuất ở phong thủy luận. Bàn luận về thủy khẩu Minh đường chỗ nước nó chảy ra thì gọi là thủy khẩu, thanh long hay bạch hổ đàng trước huyệt hai tay giao khớp với nhau, giữa có nước chảy. Đó là đệ nhất trùng thủy khẩu. Gần án có sinh ngành thừa được thanh long bạch hổ châu ngành giao khớp vào đó. Ấy là đệ nhị trùng thủy khẩu. Núi vòng chầu quanh củng cố sau án để hộ trì giao thác hai núi giao khớp. Đó là đệ tam trùng thủy khẩu. Cho nên có câu ca rằng: Không khai thủy khẩu phi công Khí không chung đúc tất không phát nào Tam gia ngũ hộ xôn xao Cũng thành cơ cực biết bao khốn cùng. Ông Cố Lưu nói rằng: Cửa then chẳng thấy khóa nhiều Một đời phong vận chuyển vèo ra hung. Xuất ở thủy luận Thảng hoặc gặp địa thế đãng dịch chạy thẳng tuốt đi, thì quyết nhiên đất không có kho xúc tích tụ hội. Cho nên người ta sinh ra nghèo nàn. Ông Cố Tạ nói rằng: Cốt yếu phải nhận biết những chổ đại địa phát phú quý thì nước chảy như người chức nữ đưa thoi đi đi lại lại cuồn cuộn dệt vải. Xuất ở thủy luận. Luận về hãn môn Đại thủy khẩu mà được hai ngọn núi đứng hai bên nơm nớp mọc ngay nơi thiên biểu thì gọi là giữ cửa cho nhà vua. Hai ngọn sách đôi đối chiếu trong mây thì gọi là hoa biểu hãn môn. Hoặc là có núi tam thai, tam tinh, như chữ phẩm, phẩm vị nước Trang 29


http://www.tuvilyso.com tới, nước theo hai sao ở trong ra làm thành hàng thành dòng. Một sao tả hữu hai bên đó gọi là tam diệu hãn môn ấy vậy. Xuất ở thủy luận Ông Cố Tạ nói rằng: Đế tòa, hoa biểu hãn môn, thì nhất định sản xuất ra bậc vương hầu công khanh tể tướng. Xuất ở thủy luận. Ông Dương Quân Tùng nói rằng: Cửa then khóa khóa nghìn trùng Công hầu danh tướng anh hùng ở đây Xuất ở thủy luận. Tắc thủy khẩu luận Rằng như thế nào gọi là la tinh tắc thủy khẩu? Giàu sang phát đạt lâu dài, núi chót vót đứng bên sông che bụi. Mạnh mẽ như sư tử, như voi đàn, như hổ nằm ôm ấp chặn lấy thủy khẩu. Đó là thú tinh quanh kết khe sông nội cố. Có khi lại ấn tín, như đan trì, như lồng bịch, như mắt cá đi chơi. Đoán thủy khẩu là cốt ở cẩm tinh hai thú ấy khó đuợc hoàn toàn. Song le cũng chẳng nên câu nệ vì rằng cũng đều là chủ phát phú quý vậy. Xuất ở thủy luận Ông Cố Dương Quân Tùng nói rằng: Thủy khẩu la tinh thú được cầm Tể tướng công khanh đó xuất thân Xuất ở thủy luận Rằng sau nói rằng thủy khẩu đại khái không cầm thú. Dù vậy mặc lòng cũng có khi đất có tiểu long thần. Kén chọn hướng huyệt Ông Cố Quản nói rằng: Phương đông nam chẳng đáng quý vậy ôi ứng án. Phương Tây bắc chẳng đáng quý vậy ôi minh đường. Xuất ở luận hướng. Kinh rằng Càn Khảm Cấn, ba cửa nên đóng kỹ, Chấn Tốn Ly Khôn Đoài năm ngõ thường mở không. Xuất luận huyệt hướng. Luận án sơn Ông Cố Quản nói rằng: Án ngang thuận giữ được mình Giữ mình chẳng quá khô vinh là thường. Xuất ở luận sa pháp Ông Liêu nói rằng: Long mạch rất hiếm là không có án sơn. Nếu không có án sơn thì áo cơm tất nhiên vất vả. Xuất ở luận sa pháp. Ông Cố Quản nói rằng: Huyệt thì phải rất cần có án, cũng như người ta ngồi thì phải có ghế, nên gần mà chẳng nên xa lắm, nếu xa lắm thì phải nên cao, mà gần thì thấp cũng được. Ví bằng gần mà cao quá ức át, xa mà thấp quá đãng địch đi, đều là những thế không hợp cách vậy. Xuất ở luận sa pháp. Cho nên nói rằng: Tốt mà xa quá than ôi, Chẳng hay cứu được nước nôi ở gần. Lại nói rằng: Tuy rằng có chầu về mà xa quá thì chẳng bằng gần mà án tuyệt hẳn hoi. Trang 30


http://www.tuvilyso.com Luận về quỉ sơn Núi quỉ sơn mà ở bên tả bên hữu đem ra những đùi vế chân tay cùng giao cấu ôm giữ đối nhau ấy thì gọi là hiếu thuận quỉ. Nếu nó tròn nhọn thì gọi là đuôi trĩ quỉ. Xuất ở sa pháp. Ông Cố Dương nói rằng: Núi ngắn cành dài như đuôi phượng vĩ, tinh thần cũng có thế tròn nhọn, có khi ra như cái máng trũng, như hòn ngói ngửa. Chính những cái ấy đối chiếu sau lưng huyệt thì gọi là không vong quỉ. Xuất ở sa pháp. Lại có núi tam thai quỉ sơn, ngũ não quỉ sơn, liên châu quỉ sơn, ngọc tự quỉ sơn, ngọc chẩm quỉ sơn, thiên để quỉ sơn, núi quỉ sơn mà đuôi nhọn vót ấy là chủ sang trọng, tròn trịnh ấy là chủ giàu có, đuôi nó chạy dài mà thẳng, thì cần phải có nghịch thủy mới tốt, hoặc thuận thủy nhưng phải có nước chảy vòng quanh bao bọc. Nói tóm lại là cần phải có nước khuất khúc loanh quanh vòng về hộ vệ, chủ trương để giữ cho huyệt lúc nào cũng dồi dào. Xuất ở sa pháp luận. Ông Cố Dưong nói rằng: Thanh long nó di chuyển ngang mà có núi quỉ sơn, núi quỉ sơn nó hình như ôm lấy chân và đàng sau lưng thì càng tốt. Lại nói rằng: Núi quỉ sơn mà nó không hồi cố để hộ vệ bản thân, đó là không vong long mạch, là đất xấu vậy. Xuất ở sa pháp luận. Ông Cố Dương nói rằng: Núi quỉ sơn mà nó chạy thẳng ra sông ngòi, đó là long huyệt khí tán đoạn đi mất hết nhiều vậy. Xuất ở sa pháp luận ấy vậy. Lạc tinh Hộ thác lạc tinh ấy là núi đứng ở đàng sau vậy, nó sinh ra thêm một ngọn núi để giữ gìn giúp đỡ lấy huyệt. Nó mọc ra đối chiếu cũng như nhưng ngọn núi khác. Nhưng phải đối chiếu vào chỗ huyệt trường, cho nên người ta mới gọi là hộ thác lạc tinh. Lại có một tên gọi là hậu chiếu sơn, lại một tên nữa gọi là lộc từ phong, hợp thái bình cái trướng, là có những hình thể dáng điệu được như thế là rất quý. Xuất ở sa pháp luận. Ông Cố Dương lại nói rằng: Phàm những đất mà có như những cái bình phong hộ vệ ở đàng sau đỉnh huyệt. Đó là những đại địa phát xuất công hầu danh tướng, văn võ ở triều đình. Xuất ở sa pháp luận. Lâu đài Nguyên nhân tên gọi là la thành, bởi vì thành trên liên tiếp hai ba chục ngọn núi. Xuất ở luận sa pháp. Phần phiên âm Lâu đài, cổ vũ: Hữu tối cao tiêm giả vi lau Hữu tối cao bình giả vi đài, Cao viên như phúc chung giả vi cổ, Cao tú như sinh doãn giả vi vũ Vị chi lâu đài cổ vũ, Sâm liệt la thành, cực quý Xuất sa luận Giải nghĩa Lâu đài cổ vũ Trang 31


http://www.tuvilyso.com Rất cao nhọn ấy là lầu, Cao to bằng phẳng hướng chầu đài vuông Cao tròn như úp quả chuông, Ấy là núi cổ mọc luôn không rời Cao đẹp như cái măng tươi Gọi là núi vũ đãi người phúc cao Lâu đài cổ vũ hợp vào, Xum vầy la liệt thành bao quí là. Xuất ở sa luận Bảo rằng lâu đài cổ vũ sum vầy la liệt là cực quý. Nhược bằng chỉ thấy những núi hình như quý nhân, thiên mã, cáo trục, thì cũng là rất quý vậy. Xuất ở sa pháp. Phần phiên âm La Thành Cổ ca viết: La thành viên bình thủy quách tàng, Gia đao kim ngọc tính dang hương, Xuất sa pháp. Giải nghĩa La thành Nguyên nhân có ca rằng: La thành bằng phẳng tròn tròn, Nước vòng quanh chứa cuộn còn ở trong, Nhà nhiều phúc trạch thong dong, Ngọc vàng giàu có con giòng danh thơm Xuất ở sa pháp luận Sâm liệt la thành cực quý. Phần phiên âm Quý nhân thiên mã cáo trụ lai Phú quý công khanh phát tướng tài Lại có câu ca rằng: Giải nghĩa Quý nhân, thiên mã, đứng đầu Lại thêm cáo trục công hầu tướng khanh. Xuất ở sa pháp luận Phần phiên âm Diệu tinh: Cổ Dương viết: Diệu tinh nhược kiến thạch tiêm sinh, Niêm thân nghịch thủy diện tiền bình, Thân thủ nhược hoàn niêm đắc trứ, Thiếu niên nhất cấp trạng nguyên danh Giải nghĩa Diệu tinh Ông Cố Dương nói rằng: Diệu tinh đá mọc rung rinh Trang 32


http://www.tuvilyso.com Theo minh nghịch thủy như hình chữ chi Vươn tay như lại đón gì, Thiếu niên đỗ trạng tiếng thì cao sang Văn bút So sánh các nhà danh gia phương vị sa Luận về núi bút Trích ở Thôi quan thiên cùng với ngọc xích kinh, và sa pháp mọi sách. Đây là trích ở danh gia phương vị sa. Văn bút nên ở phương Tốn phương Tân là tốt. Thiên Ất Thái Ất thì là phát đại khoa ngôi giáp. Thiên ất bảo rằng là Tân phương đó là Thiên Ất. Thái ất bảo rằng là tốn phương đó gọi là thái ất. Xuất ở chư gia phương vị sa. Phần phiên âm Văn bút nhược đảo địa lâm thủy Kỳ phát quý hữu trạng nguyên xuất. Giải nghĩa Bút giầm lộn tới nước sâu, Hình dung phát phúc sang giàu văn hay Xuất ở chư gia phương vị sa. Cố Bốc nói rằng: Ở núi quý nhất là cần xem sao chỗ có tinh tú, vì rằng sát đao quá làm nha đao, chủ tiện long nhỏ nhặt văn bút biến làm họa bút, nên bậc trí giả xét xem nhận thức làm sao cho khôn khéo là được đó. Xuất ở sa pháp. Cổ hứa viết:

Phần phiên âm Văn bút hiền nhân tu yếu đối Thiên thương địa khố tối tương nghi.

Giải nghĩa Ông Cố Hứa nói rằng: Đối chiếu văn bút hiền nhân Bịch trời kho đất rất cần lương đương Xuất ở sa pháp Tụng bút Nhược bằng bút sơn mà đóng ở phương Khôn phương Thân thì gọi là tụng bút, chủ làm thầy kiện nay tra xem nam thành. Trương trạng nguyên đất mộ tổ văn bút đóng ở phương khôn. Tô xuyên thân trạng nguyên đất mộ tổ thì cũng văn bút đóng ở phương Thân. Văn bút mà ở phương Khôn phương Thân thì xuất thân là đại khôi khoa giáp, con cháu đỗ nhiều nhưng rút cùng thì ai ai cũng chẳng nghe rằng là dòng dõi hai nhà ấy làm thầy kiện cũng nhiều. Như thế thì ai chẳng nói rằng khôn thân thật không nên ở văn bút ấy vậy thay. Xuất ở chư gia phương vị sa. Kim sinh thủy Mộc sinh hỏa Thổ sinh kim

Ngũ hành tương sinh Thủy sinh mộc Hỏa sinh thổ

Trang 33


http://www.tuvilyso.com Ngũ hành tương khắc Kim khắc mộc, mộc khắc thổ Thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa. Hỏa khắc kim. Kiền thuộc kim Cấn thuộc thổ Tốn thuộc mộc Khôn thuộc thổ Giáp thuộc mộc Đinh thuộc hỏa Canh thuộc kim Quý thuộc thủy

Bát quái thuộc ngũ hành Khảm thuộc thủy Chấn thuộc mộc Ly thuộc hỏa Đoài thuộc kim Thiên can thuộc ngũ hành Ất thuộc mộc Bính thuộc hỏa Mậu thuộc thổ Thủy thuộc thổ Tân thuộc kim Kỷ Nhâm thuộc thủy

Tý thuộc thủy Mão thuộc mộc Ngọ thuộc hỏa Dậu thuộc kim

Địa chi thuộc ngũ hành Sửu thuộc kim Dần thuộc hỏa Thìn thuộc thủy Tỵ thuộc kim Mùi thuộc mộc Thân thuộc thủy Tuất thuộc hỏa Hợi thuộc mộc.

Tý thuộc thủy Mão thuộc mộc Ngọ thuộc hỏa Dậu thuộc kim

Ngũ âm thuộc ngũ hành Sửu thuộc kim Dần thuộc hỏa Thìn thuộc thủy Tỵ thuộc kim Mùi thuộc mộc Thân thuộc thủy Tuất thuộc hỏa Hợi thuộc mộc.

Ngũ âm thuộc ngũ hành Ngũ âm mai táng, và năm tháng ngày giờ phải kiêng. Vũ âm thuộc mộc, Hợi Mão Mùi sinh nhân thuộc vũ âm, kiêng năm Tuất, tháng Tuất, giờ Tuất chẳng làm. Nhâm Bính Đinh Quý, bốn hướng ấy phải nên đúng năm Kỷ Hợi và ngày giờ tháng ấy hợp được công tào, truyền thống, thanh long, quý nhân, nhật mã thì rất tốt. Thương âm thuộc kim tụ Dậu Sửu sinh nhân thuộc thương âm, kiêng năm Thìn, tháng Thìn, giờ Thìn chẳng nên làm, Bính Nhâm Đinh Quý bốn hướng ấy, nên phải dùng năm Dần Thân, ngày giờ tháng ấy, hợp được thiên ất, truyền tống, thanh long, nhật mã, lâm quan, thì rất tốt. Vì âm thuộc Hỏa, Dần Ngọ Tuất sinh là thuộc vi âm, phải kiêng năm Sửu, tháng Sửu, giờ Sửu chẳng nên làm Giáp Canh Ất Tân bốn hướng, nên phải dùng Dần Thân niên, ngày tháng giờ ấy mà hợp được thanh long, nhật mã, công tào, truyền tống, nghinh tài, tiến bảo khố tinh thì đại cát. Vũ âm thuộc thủy, Thân Tý Thìn sinh nhân là thuộc vũ âm, phải kiêng năm Mùi, tháng Mùi, ngày giờ ấy chẳng nên làm, bốn hướng Giáp Canh Ất Tân. Phải nên dùng năm Dần Thân, ngày tháng giờ Dần Thân hợp được công tào truyền tống thanh long nhật mã nghinh tài tiến bảo khố tinh là rất tốt. Cung âm thuộc thổ. Luận về tam sát. Tọa sát, hướng sát, và nguyệt sát thì gọi là tam sát. Thân Tý Thìn là những năm: Sát tọa nam, Tỵ Ngọ Mùi Hợi, Bính Đinh Nhâm Quý gọi là tọa sát và hướng sát, chẳng nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý mà nên dùng Giáp Canh Ất Tân Khôn Cấn Sơn là đại cát đại lợi. Trang 34


http://www.tuvilyso.com Tháng 3 tháng 7 tháng 10 và những năm Kỷ Dậu Sửu Sát tại đông, Dần Mão Thìn Thân, Dậu Tuất Giáp Ất Canh Tân gọi là tọa sát hướng sát, chẳng nên dùng Giáp Canh Ất Tân, nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý Càn Tốn Tốn sơn thì đại cát đại lợi. Tháng tư tháng tám tháng mười hai và những năm Dần Ngọ Tuất. Sát tại bắc, Hợi Tý Sửu, Tỵ Ngọ Mùi, Binh Nhâm Đinh Quý gọi là tọa sát hướng sát, chẳng nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý mà nên dùng Giáp Canh Ất Tân Khôn Cấn sơn thì đại cát đại lợi. Tháng giêng tháng năm tháng chín và những năm Hợi Mão Mùi sát tại Tây Thân Dậu Tuất Canh Ất Tân, gọi là tọa sát hướng sát, chẳng nên dùng Giáp Canh Ất Tân mà nên dùng Bính nhân đinh quý càn tốn sơn thì đại cát đại lợi. Tháng hai tháng sáu tháng mười những tháng ấy, kiền sơn sát Thìn Ngọ Tuất Khảm sơn sát Tý Ngọ Đinh Mùi Bính, Cấn sơn sát Dần Thân, chấn sơn sát Thân Dậu Tuất, tốn sơn sát Dậu Thìn, ly sơn sát Hợi Thìn, khôn sơn Sát Dậu Mão, đoài sơn sát Mùi Tuất. Lục giáp thuộc ngũ hành Sáu giáp những năm tháng ngày giờ đều cùng thuộc về ngũ hành. Sơn cục cùng với vong mệnh luận. Ngồi hướng núi bằng như vong mệnh gồm có năm tháng ngày giờ cùng hợp ngũ hành. Giáp Tý, Ất Sửu thuộc kim Bính Dần, Đinh Mão thuộc hỏa Mậu Thìn, Kỷ Tỵ thuộc mộc Canh Ngọ, Tân Mùi thuộc thổ Nhâm Thân, Quý Dậu thuộc kim Giáp Tuất, Ất Hợi thuộc hỏa. Bính Tý, Đinh Sửu thuộc thủy Mậu Dần, Kỷ Mão thuộc thổ Canh Thìn, Tân Tỵ thuộc kim Bính Tuất, Đinh Hợi thuộc thổ Mậu Tý, Kỷ Sửu thuộc hỏa. Canh Dần, Tân Mão thuộc mộc. Nhâm Thìn, Quý Tỵ thuộc thủy Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc kim Bính Thân, Đinh Dậu thuộc hỏa Mậu Tuất, Kỷ Hợi thuộc mộc. Canh Tý, Tân Sửu thuộc thổ Nhâm Dần, Quý Mão thuộc kim Giáp Thìn, Ất Tỵ thụôc hỏa Bính Ngọ, Đinh Mùi thuộc thủy Mậu Thân, Kỷ Dậu thuộc thổ Canh Tuất, Tân Hợi thuộc kim Nhâm Tý, Quý Sửu thuộc mộc Giáp Dần, Ất Mão thuộc thủy Bính thìn, Đinh Tỵ thuộc thổ Mậu Ngọ, Kỷ Mùi thuộc hỏa Canh Thân, Tân Dậu thuộc mộc Nhâm Tuất, Quý Hợi thuộc thủy. Phép an táng của ông Cao Vương Đại phàm phép mai táng, trước hết là những người sống phải nên trai giới thành tâm cầu khẩn với thần kỳ hậu thổ ở chỗ đất ấy, cũng nên kính cẩn mà sắm sửa phù miêu kính lễ kim ngân áo mũ tiền tài đủ các thứ vật. Ví như hướng nam thì dùng áo đỏ tiền giấy đỏ, để hướng đông thì dùng áo xanh tiền giấy xanh. Hướng tây thì dùng áo trắng tiền giấy trắng. Hướng bắc thì dùng áo đen tiền giấy đen. Đêm hôm trước đã dự bị mông kỳ, rồi ngày hôm sau mới dùng cỗ bàn trai giới, và mũ áo trắng. Tiền tài cũng như đã nói ở trên, nên làm văn kể tình trạng cáo tấu. Bản xứ hậu thổ thần kỳ, chủ nhân tên mệnh là gì, hoặc tổ khảo tỷ phụ mẫu tên hiệu là mỗ, tên chữ là mỗ, xin táng ở xứ mỗ tọa hướng mỗ. Công việc xong rồi phục khất vong mạnh bình yên, con cháu khang an thư thái. Xong rồi ông thầy đứng ở phương sinh khí, lấy tay viết trống không hình chữ âm dương khai thái, nhằm giữa huyệt, lấy thanh tre nhọn kẻ họa ba lần 3 đôi, đất huyệt ở trong lòng đất, dùng để phong bao đặt sinh khí phương, chẳng nên để lộ thấy ánh nắng của mặt trời, phàm dùng những cái gì cũng nên trinh khiết đến khi đã khai thành huyệt rồi, dùng dao vạch giữa huyệt khúc địa mạch: Đàn ông thì lấy bút son viết vào giấy những chữ thiên phúc Trang 35


http://www.tuvilyso.com huyệt, sinh phúc huyệt, long phúc huyệt, phật phúc huyệt, đàn bà thì dùng son thư phù những chữ địa phúc huyệt, nhân phúc huyệt, phật phúc huyệt. Huyệt chia làm bốn dọc, năm ngang, thư phù chữ hà đồ lạc thư, xong rồi mới hạ quan xuống huyệt, hoặc địa mạch vào đầu, thì hơi đun nhích xuống để cho trống đất một chút, hoặc mạch bên tả lại, thì đun nhích xuống để cho trống đất một chút, hoặc mạch bên tả lại, thì đun nhích sang bên hữu một chút, hoặc là mạch ở bên hữu lại, thì đun sang bên tả một chút, để khiến cho khí tụ hội ở giữa huyệt mà phát phúc cho con cháu người ta, rồi lại thư phù ngũ vân vào hà đồ để úp lên trên quan, rồi bấy giờ mới cho đất xuống, trước từ chân ở dưới trở lên, cho đến trung tâm rồi sau mới lấp trên đầu, căn dặn mọi người đắp lấp ở dưới, huyệt, đắp vuông là tượng trưng hình đất, trên phần mộ đắp tròn là để tượng trưng hình trời, tự phân biệt âm dương, âm ở trên phần mộ đắp như lục vũ mạch. Dương ở trên phần mộ thì đắp tròn, chớ có để lộ thiên cơ chớ có triết lậu huyền bí của tạo hóa. Bàn thêm về phép an táng Phàm người chết là dương mệnh, thì nên dùng năm âm. Người chết là âm mệnh, thì nên dùng năm dương. Ngày âm thì nên dùng giờ dương, ngày dương thì nên dùng giờ âm. Được phù hợp với cả âm dương, đúng trong vận hội, thì người chết được yên mồ đẹp mả, người sống được nhờ phúc ấm thì đạo gia đình tất nhiên thịnh vượng vậy. Luận về 24 phương hướng núi và phép dùng thước Trước đây phải dùng người con trai cả, tay bên trái ngón tay giữa đốt dưới là một tấc. Hễ 10 tấc là một thước. Núi thuộc kim. Ba thước thì con trai lớn phát. Ba thước ba tấc, thì con trai thứ ba làm ăn thịnh vượng. Bốn thước một tấc, thì con trai thứ hai phát đạt. Núi thuộc mộc: Ba thước ba tấc thì người con gái lớn phát. Ba thước sáu tấc thì người con trai giữa phát. Bốn thước bốn tấc thì người con trai thứ ba làm ăn thịnh vượng. Núi thuộc thủy: Bốn thước một tấc, thì người trưởng nam phát. Ba thước tám tấc thì người tiểu nam phát. Bốn thước sáu tấc thì người con trai thứ ba làm ăn thịnh vượng. Núi thuộc hỏa: Ba thước hai tấc, thì người trưởng nam phát. Bốn thước thì người trung nam phát. Bốn thước chín tấc thì người tiểu nam phát. Núi thuộc thổ: Bốn thước một tấc thì người trưởng nam phát. Ba thước tám tấc thì người tiểu nam phát. Bốn thước sáu tấc thì người con trai thứ ba làm ăn thịnh vượng. Phép so sánh về các thứ nước Kinh có nói rằng: Được những phương Giáp Canh Bính Nhâm nước chầu lại thì nhà ấy phát đại, xuất quan liêu. Hoặc nước sung canh giáp phương, mà lưng đeo ấn vàng. Hoặc nước sung Bính Nhâm mà mình treo áo đỏ, nhược bằng nước chảy về phương Tuất bởi nước phương Bính, bên là nước hồi lộc thủy. Trang 36


http://www.tuvilyso.com Nước Dần Thân Kỷ Hợi chầu lại thì chẳng phải ôn dịch hỏa tai cũng khó sinh sản uổng công khó nhọc, thành bệnh hư lao. Nước phương Tuất kiền Thìn đoài lại tới thì chẳng phải chứng phong cũng phải chứng mắt mờ, ấm ớ. Lại nói thêm rằng: Nước Dần giáp chủ chứng bệnh phong. Nước phương khôn là góa bụa. Tý Ngọ Mão Dậu phương bị nước phá thì sinh con gái dâm đãng. Quan đới bị nước phá thì dẫu có con đã thành tài rồi cũng sớm về chầu trời. Thìn Tuất Sửu Mùi tứ mộ thủy thì nên tìm đường súc tích không nên tìm đường chảy thông đi. Nước thủy khẩu nên thả ở mười thiên can, mà chẳng nên thả ở mười hai chi địa. Phương pháp địa lý về dương trạch Phàm nói rằng: Bên Đông có đồng cốt ở là xấu. Bên Tây có đồng cốt ở là tốt. Chày cối giã gạo ở đàng Đông thì nghịch. Chày cối ở đàng Tây thì tốt. Chày cối ở đàng Nam thì xấu. Chày cối ở đàng Bắc thì hay bị trộm cướp. Thành hoàng ở phía Nam con cháu ngu si thiếu thốn. Thành hoàng ở đàng Đông thì tật bệnh. Thành hoàng ở đàng Tây thì hay bị hỏa hoạn. Thành hoàng ở đàng Bắc thì tốt. Ví bằng làm nhà cùng hướng thì tổn hại trâu dê Thanh long tức là ở bên tả bị giếng bức bách thì con cháu hay bị hại vì lời nói. Bạch hổ tức là bên tay hữu bị giếng bức bách thì tổn hại trâu dê mà người vợ mang tật bệnh. Đàng trước chu tước bị giếng bức bách thì tán tài hay khóc lóc. Những ngôi dương cơ nền nhà không nên làm cao quá, những ao chuông hào rãnh không nên đào sâu quá nếu không kiêng tất sinh tật bệnh hay là góa bụa, tuyệt tự, chết non, trốn tránh. Cửa cần phải mở, nước cần phải phóng ra, nhược bằng thấy ở phương kiền khôn cấn tốn Dần Thân Kỷ Hợi có núi cao vuông hoặc tròn trịnh xinh tươi thời thọ khảo khang ninh phú quí dài lâu không dứt. Giả như năm Tý chẳng mở cửa bên Bắc hoặc phóng nước ở đàng bắc thời năm Ngọ phải chịu đó. Âm phần nước phá đầu non Cháu con nuôi nấng khó còn được nguyên Thiên lâm nước phá liên miên Dưỡng sinh vất vả tốn tiền đắng cay Nước chầu nghịch thủy rất hay Giàu sang thẳng cánh cò bay ruộng nhà, Dương cơ chịu khí trời xa Thế nên phải biết để mà lo toan. Phần phiên âm Thi vân: Khôn cấn sơn cao quan tất phẩm. Nhược vô sơn khởi thả hưu tầm, Kiền đê nan sử quan nhi thọ, Tốn thủy dương dương hội thị câm (kim) Giải nghĩa Thơ rằng: Trang 37


http://www.tuvilyso.com Núi cao khôn cấn rất hay, Quan cao phẩm tước một cây văn hào. Nhược bằng không núi nào cao, Còn phương lại thấp làm sao thọ trường Mông mênh tốn thủy ứng phương Đó là cơ hội kim cương sau này. Luận rằng: Được một gáo nước ở tốn phương, có thể cứu được bao đường nghèo đói. Bạch hổ nước chảy là con gái bị góa bụa. Thanh long nước chảy dài thẳng thì người con trai bị quan quả. Lại nói rằng: Thanh long là địa vị của người trưởng nam bạch hổ là địa vị của người con trai thứ hai, cho nên bị trướng nước hại thì cùng như nhau. Chu tước là địa vị của người con út thì thiết kỵ là ngã ba đường. Huyền vũ cũng là địa vị của người trưởng nam. Lại nói rằng: bạch hổ có núi hình như mây bay thì người con gái tính dâm, thanh long có nước chảy ngược về thì con trai đỗ đạt sớm, bạch hổ có nước chảy ngược về thì ruộng đất ngày một tăng thêm. Phần phiên âm Thi vân: Uyển uyển long phi địa tại nguyên, Viên tri phương chiểu súc lưu tuyền, Doanh doanh bất tuyệt thanh long nhũ, Đại đại nhi tôn vạn khoảnh điền Giải nghĩa Lại có thơ rằng: Uyển chuyển rồng bay đất có nguồn, Ao nhà súc tích nước trong luôn, Hằng đầy không dứt thanh long mạch, Muôn khoảnh ruộng vườn để cháu con. Lại nói rằng: Mạch ngắn ấy thì là sinh mạch nếu dài quá thì là mạch chết. Mạch tự lại ấy là sinh mạch tự đi ấy là mạch chết. Có thanh long mà không có bạch hổ thì là tốt. Có bạch hổ mà không có thanh long thì là không đâu là chẳng xấu. Thần từ phật miếu thì nên ở vào khoảng thủy khẩu. Còn như thập tự, tam kỳ, tứ kỳ, cửu long, thì nên làm đình chợ để cho người ta hội họp thì cũng tốt. So sánh phong thủy với nhà cửa Phàm nói về nhà ở, hoặc dinh thự mà bên tả có nước chảy, thì gọi là thanh long đó. Bên hữu mà có đường dài thì gọi là bạch hổ đó. Đàng trước có ao hoặc hồ đầm thì gọi là chu tước. Đàng sau có gò đống núi non thì gọi là huyền vũ đó. Được cả như thế thì là đất rất tốt vậy. Phàm đất đàng đông cao mà đàng tây thấp thì sinh khí bùn lấp nền, đàng đông thấp mà đàng tây cao thì nhà ấy chẳng giàu cũng sang vậy, đàng trước cao mà đàng sau thấp thời góa bụa, vợ cô độc tuyệt tự không con. Đàng sau cao mà đàng trước thấp thì giàu có ruộng nương vườn cau ao cá. Nhược bằng bôn mặt trong thấp thì gọi là vệ thổ cư, ở đó thì trước giàu sau nghèo. Luận về ngã ba đường cái

Trang 38


http://www.tuvilyso.com Ngã ba đường cái mà đóng ở cung kiền thì tuyệt tự không dòng dõi. Ngã ba đường cái mà đóng vào cung khảm thì ra điên cuồng. Ngã ba đường cái mà dòng vào phương Cấn thì bị gian tà lừa đảo trộm cướp hết của cải chẳng còn. Ngã ba đường cái mà đóng vào phương Chấn thì sinh ra dâm dục. Ngã ba đường cái mà đóng vào phương tốn thì giàu sang như mây nổi. Ngã ba đường cái mà đóng vào ly cung thì đi xa chết ở làng khác. Ngã ba đường cái mà đóng vào cung khôn thì câm ngọng tối tăm u mê. Ngã ba đường cái mà đóng vào cung đoài thì con đi ở chùa làm tăng ni. Nhiễm thủy luận Nhiễm thủy đóng ở kiền phương thì người ta sinh ra mạnh mẽ và thao lược dũng cảm. Nhiễm thủy đóng ở khảm phương thì chết hết trâu dê. Nhiễm thủy đóng ở cấn phương thì thoái quan mà được thêm của. Nhiễm thủy đóng ở chấn phương thì sinh ra con cái hoang dâm hoạt đầu. Huyền vũ bị nước phá thì người trưởng nam chết. Thanh long bị nước phá thì người con trai cũng chết. Bạch hổ bị nước phá thì người con gái mồ côi. Chu tước bị nước phá thì con cháu bị án tuyết. Kiếm tinh luận Huyền vũ kiếm tinh thì người trưởng nam chết, Thanh long kiếm tinh thì người con trai thứ mang bệnh. Bạch hổ kiếm tinh thì người con gái bị rơi xuống sông. Chu tước kiếm tinh thì con cháu bị nghiệp chướng Hóa quỉ luận Huyền vũ hóa quỉ thì người trưởng nam mang tật bệnh, Thanh long hóa quỉ thì người con trai thứ chết non, bạch hổ hóa quỉ thì người con gái mang tật bệnh. Chu tước hóa quỉ thì con cháu bị nghiệp chướng. Điền giác luận Huyền vũ điền giác thì người trưởng nam không lớn. Thanh long điền giác thì người con trai thứ chết vợ. Bạch hổ điền giác thì người con gái góa chồng. Chu tước điền giác thì con cháu bị nghiệp chướng. Bát tự luận Huyền vũ bát tự thì người trưởng nam độc thân. Thanh long bát tự thì người con trai thứ chịu chết. Bạch hổ bát tự thì người con gái bị chết. Chu tước bát tự thì con cháu bị nghiệp chướng. Thập tự pháp luận Huyền vũ thập tự người trưởng nam bị hại. Thanh long thập tự người con trai thứ tha hương cầu thực. Bạch hổ thập tự người con gái lấy chồng làng khác. Chu tước thập tự con cháu bị nghiệp chướng. Triêm thủy luận Huyền vũ triêm thủy người trưởng nam bị chết đường Thanh long triêm thủy người con trai thứ bị đao kiếm. Bạch hổ triêm thủy người con gái tính đa dâm. Trang 39


http://www.tuvilyso.com Chu tước triêm thủy con cháu bị nghiệp chướng. Thổ kiếm luận Huyền vũ thổ kiếm người trưởng nam chịu chết. Thanh long thổ kiếm thì người con trai thứ chịu chết. Bạch hổ thổ kiếm thì người con gái theo người đạo giáo. Chu tước thổ kiếm thì con cháu bị nghiệp chướng. Viên giác luận Huyền vũ viên giác trưởng nam bị mất trộm. Thanh long viên giác người con trai thứ bị đao binh. Bạch hổ viên giác người con gái bị tiêu diệt. Chu tước viên giác thì con cháu bị nghiệp chướng. Nhật trì luận Huyền vũ nhật trì người trưởng nam chịu chết. Thanh long nhật trì người con trai thứ bị thương chết non. Bạch hổ nhật trì người con gái nhiều tai vạ. Chu tước nhật trì con cháu bị hại trâu dê. Nhân tự luận Huyền vũ nhân tự người trưởng nam bị tai bay vạ gió Thanh long nhân tự người con trai thứ bị tai bay vạ gió. Bạch hổ nhân tự người con gái bị khổ. Chu tước nhân tự con cháu bị nghiệp chướng. Nguyệt trì luận Huyền vũ nguyệt trì người trưởng nam bị chết. Thanh long nguyệt trì người con trai thứ chết mất xác. Bạch hổ nguyệt trì người con gái chịu chết. Chu tước nguyệt trì con cháu bị nghiệp chướng. Luận về ngã ba sông Huyền vũ có ngã ba sông thì người trưởng nam ở thổ ngoài. Thanh long có ngã ba sông người con trai thứ ở làng khác. Bạch hổ có ngã ba sông người con gái làm hoa nương. Chu tước có ngã ba sông con cháu làm khách buôn. Đinh tự luận Huyền vũ đinh tự người trưởng nam bị hai Thanh long đinh tự người con trai thứ chịu chết. Bạch hổ đinh tự người con gái chết dữ. Chu tước đinh tự con cháu làm khách buôn. Đinh luận Huyền vũ có đình người trưởng nam nhiều tai vạ. Thanh long có đình người con trai thứ tổn thương trâu bò. Bạch hổ có đình người con gái nhiều cao thanh. Chu tước có đình con cháu hung bạo u mê. Tự luận Huyền vũ có chùa người trưởng nam tất chết. Trang 40


http://www.tuvilyso.com Thanh long có chùa người con trai thứ sinh con u muội tối tăm. Bạch hổ có chùa người con gái tốt lành thịnh vượng. Chu tước có chùa con cháu thành danh. Thần luận Huyền vũ có miếu thần người trưởng nam tổn hại trâu bò. Thanh long có miếu thần người con trai thứ không ra hình dáng. Bạch hổ có miếu thần con gái tốt lành thịnh vượng. Chu tước có miếu thần con cháu u mê tối tăm. Thị luận Huyền vũ có chợ người trưởng nam góa vợ. Thanh long có chợ người con trai thứ cô quả. Bạch hổ có chợ, người con gái tốt lành thịnh vượng. Chu tước có chợ, con cháu giàu sang. Kiều luận Huyền vũ có cầu, người trưởng nam cô quả. Thanh long có cầu, người con trai thứ chịu chết. Bạch hổ có cầu, người con gái làm hoa nương. Chu tước có cầu, con cháu bị nghiệp chướng. Tỉnh luận Huyền vũ có giếng, người trưởng nam chịu chết. Thanh long có giếng, người con trai thứ chịu chết. Bạch hổ có giếng, người con gái mang tật bệnh. Chu tước có giếng, con cháu bị nghiệp chướng. Đàm luận Huyền vũ có đầm, người trưởng nam sớm mở mang sớm mất Thanh long có đầm, người con trai thứ nghèo nàn. Bạch hổ có đầm, người con gái có tính nguyệt hoa. Chu tước có đầm, con cháu giàu sang. Thụ luận Huyền vũ có cây lớn, người trưởng nam được nên tăng sư. Thanh long có cây lớn, người con trai thứ mang bệnh tật. Bạch hổ có cây lớn, người con gái được tốt lành. Chu tước có cây lớn thì phúc đức vô hình vô tượng. Sơn luận Huyền vũ có núi dài, người trưởng nam mang tật bệnh. Thanh long có núi dài, người con trai thứ bị tai họa. Bạch hổ có núi dài, người con gái được cao thanh. Chu tước có núi dài, con cháu bị nghiệp chướng. Xạ luận Huyền vũ có đất nhằm bắn: người trưởng nam bị hại của. Thanh long có đất nhắm bắn: người con trai thứ chịu chết. Bạch hổ hoặc có đất nhắm bắn: người con gái thất bại chết. Chu tước hoặc bị nhắm bắn: con cháu chịu chết non.

Trang 41


http://www.tuvilyso.com Bội luận Huyền vũ hoặc bội, người trưởng nam chẳng toàn. Thanh long hoặc bội, người con trai thứ chịu chết. Bạch hổ hoặc bội, người con gái bị làm phản chết. Chu tước hoặc bội, con cháu bị cuồng phong. Thơ rằng: Đường thẳng phương càn mệnh chẳng lâu Ở nhà tai vạ chạy bu đầu, Tánh phương đường thẳng đâu cho khỏi. Công việc ngày nay khéo bảo nhau Xét qua công việc đương thời, nam nữ ngày nay rất nên cần học, xem đọc cho nhiều, biết đủ mọi phương đặc biệt nếu được cái gì là hay cái nấy, thông kim bác cổ cố gắng cho hay thấu triệt tinh vi bao nhiêu bí cơ huyền diệu, để cho tâm hồn sáng mãi cái sáng ra thì muôn vật xem qua khắc biết.

Bộ Hồng Vũ Cẩm Thư là bộ sách địa lý tuyệt diệu, Dẫu thế mặc lòng, cũng khó mà tả hết được những lẽ tinh vi huyền bí của tạo hóa. Nên chi có phụ họa đồ để cho mọi người tiện bề nghiên cứu. Mộc cục Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn long là đông phương thuộc mộc. Dương thì vòng trở lại bên tả. Luận rằng: Nguyên long làm giáp mộc, thì trường sinh ở Hợi là đi thuận. Trang 42


http://www.tuvilyso.com Âm thì vòng trở về bên hữu. Luận rằng: Nguyên long làm Ất mộc mà ất mộc thì trường sinh ở Ngọ ngược đi. Hỏa cục Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh (Đinh long) là nam phương thuộc hỏa. Dương thì vòng trở lại bên tả. Luận rằng: Nguyên long làm bính hỏa, mà bính hỏa thì trường sinh ở Dần là đi thuận. Âm thì vòng trở về bên hữu. Luận rằng: Nguyên long làm đinh hỏa, mà trường sinh thì ở Dậu là đi ngược.

Kim cục Thân Canh Dậu Tân (kiền long) là Tây phương thuộc Kim. Dương thì vòng trở về bên tả. Luận rằng: Nguyên long làm canh kim mà canh kim thì trường sinh ở Tỵ thì đi thuận. Âm thì vòng trở về bên hữu. Luận rằng: nguyên long làm tân kim, mà tân kim thì trường sinh ở Tý là đi ngược. Thủy cục Thủy cục, Hợi Nhâm Tý Quý (Quý long) là bắc phương thuộc thủy. Dương thì vòng trở về bên tả. Luận rằng: Nguyên long làm nhâm thủy mà nhâm thủy thì trường sinh ở thân là đi thuận. Âm thì vòng trở về bên hữu. Luận rằng: Nguyên long làm quý thủy mà quý thủy thì trường sinh ở Mão, là đi ngược. Kim cục Thân Canh Dậu Tân (kiền long) là tây phương thuộc kim. Dương thì vòng trở về bên tả. Luận rằng: Nguyên long làm nhâm thủy mà nhâm thủy thì trường sinh ở thân là đi thuận. Âm thì vòng trở về bên hữu. Luận rằng: Nguyên long làm quý thủy mà quý thủy thì trường sinh ở mão, là đi ngược. Thổ cục Khôn Cấn Thìn Tuất Sửu Mùi (mùi long) là trung ương thuộc thổ. Dương thì vòng trở về bên tả. Luận rằng: Mùi long làm mậu thổ mà mậu thổ thì bị trường sinh ở Thân là đi thuận. Âm thì vòng trở về bên hữu. Luận rằng: Nguyên long làm tân kim, mà tân kim thì trường sinh ở Tý là đi ngược. Thủy cục Thủy cục. Hợi Nhâm Tý Quý (Quý long) là bắc phương thuộc thủy. Dương thì vòng trở về bên tả. Luận rằng: Nguyên long làm nhâm thủy mà nhâm thủy thì trường sinh ở Thân là đi thuận. Âm thì vòng trở về bên hữu. Luận rằng: Nguyên long làm quý thủy mà quý thủy thì trường sinh ở Mão, là đi ngược. Trang 43


http://www.tuvilyso.com Thổ cục Khôn Cấn Thìn Tuất Sửu Mùi (Mùi long) là trung ương thuộc thổ. Dương thì vòng trở về bên tả. Luận rằng: Mùi long làm Mậu thổ mà mậu thổ thì trường sinh ở Thân là đi thuận. Âm thì vòng trở về bên hữu. Luận rằng: Mùi long làm Tỵ Thổ, mà Tỵ Thổ thì trường sinh ở mão là đi ngược. Đây là trở lên bên hữu là ngũ hành cục luận. Theo phép mộ, trường sinh và đế vượng. Hỏa cục: Ất (âm), Bính (dương), giao rồi sau mới đến Tuất. Thủy cục: Tân (âm), Nhâm (dương), hội rồi sau mới tụ ở Thìn. Kim cục: Đẩu ngưu đưa cái khí của nó cho đinh (âm) canh (dương) Mộc cục: Kim dương thu cái khí thiêng của quý (âm), giáp (dương). Những loại đất thế khoa tọa kiền phương hướng tốn. Ví dụ như có một thế đất, núi huyền vũ hình như tấm lụa dài khuất khúc rủ xuống đến khi gặp nước thì thôi, chỗ thượng long không có núi gì bao bọc, đến trung long thì hình như nắm thắt vào, bên ngoài mượn có núi thanh long mọc lên triều củng vùng vào bên trong thì có nước trong nông thôi đến giữa mới có nước sâu rồi chính bên bạch hổ đối với thế cục thì nó cũng giống như thế. Khoảng chỗ trung long, núi mọc cao, hai bên đăng đối tương đương. Bên trong có nước, chỗ trên thì nông mà chỗ giữa thì sâu, lại có mạch nước chảy bao bọc vòng thông đến đàng trước minh đường thì chảy ra bên hữu, chảy xuống đến minh đường làm thành sông lớn chảy vòng vào trong, chu tước đàng trước có núi hình tròn một hai ngọn tròn trặn xinh tươi chia ra thứ tự đứng chầu theo. Đó là thế đất khoa, đời ấy sang đời khác. Con trai giữa phát khôi khao con gái minh gặp được chàng rể quý. Phương kiền núi chiếu sáng vượng ở Dần cung, Dần cung ấy là địa vị của người con trai giữa, đóng ở Mùi, Ngọ, Mão thì là thứ hai, nếu ở Thân thì là thứ ba. Hoàng Thượng nói rằng: Nước Trung Hoa cũng có thế đất này chăng? Mới rồi cũng có người con giữa mà cũng phát đó vậy thì duyên cớ làm sao? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: Nếu gặp được năm Dần năm Ngọ thì ngõ hầu cũng có thể được vậy. Nhưng kẻ hạ thần này cũng còn sợ rằng tuy làm quan đấy, nhưng hoặc cũng có khí sút kém phần tài chính, mà đến lúc già thì thọ chẳng bằng người con trai giữa sống lâu hơn.

Trang 44


http://www.tuvilyso.com Ví dụ như có đất: Núi huyền vũ từ thượng long quay trở lại, bèn mượn làm núi bản sơn là huyền vũ. Bên tả thanh long, long mạch cũng thuận theo như thế, ôm ấp bao bọc lấy, vòng cung dài như cầu vồng võng xuống, ngoài cũng có nước chảy bao. Bên hữu bạch hổ cũng đều đều như thế vậy. Đến như án đàng trước thì có ao hồ tích chứa nước nhiều. Ngoài lại có ba ngọn núi tròn xếp đều như hình chữ phẩm. Ngoài nữa chừng hai ba dặm lại có sông chảy nước chầu vào. Được như thế là gọi ngân hà làm án đời đời xuất phát trạng nguyên, con trai lớn, con trai giữa, con trai út đều được phát phúc cả. Hoàng Thượng nói rằng: Thế đất này mà ông bảo rằng cả con trai lớn, con trai giữa, con trai út đều được phát phúc cả thì tại cớ làm sao vậy? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: Kẻ hạ thần có được nghe câu thơ của bậc chân nhân, thơ rằng: Phần phiên âm Thi vân: Trì hổ tích tụ vượng nhân đinh, Tả hữu trường giang thế xuất bình, Huống hựu ngân hà loan tác án, Trưởng giai trung quý trạc khoa danh. Giải nghĩa Ao hồ nước hội trội nhân đinh, Tả hữu sông dài phát phúc linh Huống lại ngân hà làm thế án Anh em lớn, giữa cuối khoa danh. Hoàng Thượng lại nói rằng: Vậy nước ta có đất này không? Ông Bá Truyền thưa rằng: Dạ có. Hiện ở Châu Kim Lăng, trước đã ba năm, người Châu Kim Lăng là Chu Thời đã trùng trạng nguyên là người có danh tiếng. Xin hoàng thượng cho vẽ họa đồ mộ tổ đất ấy thử xem. Quả nhiên đúng y như ý định. Ông Lý Bá Truyền nói rằng: Người ấy có thể là thầy địa lý giỏi vậy. Đất ấy Ông Chu thời đã ba đời thì trúng trạng nguyên, tiếng tăm lừng lẫy. Ví dụ có một thế đất, huyền vũ dài, dù mà thô, trên cứng dưới mềm, chạy vòng quanh về bên hữu, hóa ra cái ấn vuông, núi thanh long trong thô ngoài mềm. Cũng có sông to bao bọc vòng quanh vào bên bạch hổ, rồi cũng có sông lớn vòng quanh bao bọc vào tới án, trong cũng có hồ ao tích tụ, ngoài núi án có núi ấn vuông, cửa long mạch bên ngoài án hai tay mạch như hai cánh cùng muốn úp vào như như vái chào. Đó là đặt trước phát quan Binh bộ, sau lại ra học sĩ lang, rồi sau nữa lại ra đại lý thiến khanh. Trước con trưởng sau con út đều phát cả. Hoàng Thượng hỏi lại rằng: Gián hoặc có con người con giữa cũng đều phát cả vì cớ làm sao vậy? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: Người con giữa mà được giữ ấn như thế ngõ hầu cũng là may mắn vậy.

Trang 45


http://www.tuvilyso.com

Ví dụ như có một thế đất như núi huyền vũ mọc cao ba ngọn tròn xuống đến dưới chỗ đất trống lại mọc thêm ra bên tả ba ngọn núi tròn Bạch hổ lại có ngọn núi lớn tròn hình như cái môi bể (cồn cát). Ở bên trong cao bốn bề vòng quanh có bờ. Bên tả bên hữu đều có sông lớn bao vòng quanh vào. Bên trong có ao hồ làm án, núi án có ngọn núi tròn. Nên đến chỗ đất thừa mà mai táng ở đó thì rất tốt. Đất này phát phúc trạng nguyên, hoặc là chức tam công. Môi trong cao bốn bờ thì trước phát giàu có, sau lại phát phong hầu. Con trưởng con giữa và con út đều phát phúc cả. Hoàng Thượng hỏi rằng: “Nước ta có đất này chăng?” Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: Nước nam đất hẹp bao nhiêu mà còn có đất ấy huống chi đối với nước ta rộng lớn mà chẳng có vậy ru?

Ví dụ như có một thế đất, núi huyền vũ có sông nước chảy vòng quanh, ngoài núi hình như rủ đầu xuống, nước chảy từ bên tả, núi hình như con giun sống, ngoài thanh long có núi triều sơn cũng theo thế nước vòng vào, có chỗ như giao với nhau vòng vào bên hữu, cũng có núi hình như con cá đang bơi dưới nước. Mà khe suối từ trên đầu con cá cũng chảy vòng vào. Ngoài cái án có sông lớn qua sông con chảy vào với nhau chứa thành vực nước. Giữa vực nước ấy cũng lại có núi hình như lưỡi trai. Đó là đất rất quý, phát phúc vương hầu. Các con trai đều phát cả, con gái gặp được quan sang, hoặc làm cung phi hoàng hậu. Hoàng Thượng bèn cười lớn tiếng mà nói rằng: Đó là đất tổ mộ của quý hoa hoàng hậu và kim thị hoàng hậu. Phỏng như ngày nay đâu còn có đất ấy nữa chăng? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: Nay ở đất Tích Giang về Tô Châu có đất như thế, hoàng thượng hãy sai người đi xem chỗ đó qua thì sẽ thấy, đất ấy đã có người táng rồi. Ông lại tâu hỏi rằng: Nhà đó có người con gái đẹp, hoàng thượng cũng nên nạp Trang 46


http://www.tuvilyso.com vào hậu cung, ba tháng nữa quý phi hoàng hậu mất thì lúc bấy giờ hoàng hậu đã ba mươi bảy tuổi rồi. Hoàng thượng lại hỏi gạn thì ông Lý Bá Truyền thưa rằng huyền vũ thủy sung thì dẫu rằng sớm phát quý rồi lại cũng mất sớm, phương chi nước sông lại chảy gấp cho nên phải đến như thế vậy. Hoàng thượng nói rằng: Tiếc vậy thay khanh chẳng vì ta mà nói trước? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng hà tất kẻ hạ thần phải nói trước? Chớ thì bệ hạ đã chẳng xem các sách, đã chẳng thấy long mạch vậy ru? Phương chi hoàng hậu xét theo tuổi Quý Mão mà chấn phương thường xung mão, ngay như thế hoàng hậu cũng là tuổi mão rồi ngày khác cũng giống như thế vậy. Hoàng Thượng sợ hãi lấy làm ngạc nhiên và nói rằng biết làm thế nào được bây giờ? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: kẻ hạ thần này xét theo long mạch của đất mà dám tâu bày như thế. Đó là ý trời đã an bài, nào còn có kế nào khác mà có thể giúp vào việc đó được ru? Rồi Hoàng thượng phong cho Hoàng hậu là Mai Đức Ngọc anh chấn phi. Sau quả nhiên đến kỳ Hoàng Hậu 37 tuổi thì băng hà. Hoàng thượng lại hỏi ông Lý Bá Truyền rằng: Sao mộ tổ của ta mà lại can dự được đến người vợ hay sao? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: Tâu đức vua việc ấy có thể có lắm, vì rằng như bạch hổ sông vòng bao bọc mà kẻ hạ thần lấy làm nước chảy gấp là việc thường luôn có vậy. Hoàng thượng lại nói rằng: Thế thì việc quốc tộ tương lai như thế nào? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: Nếu nói đến việc quốc lộ thì an như thái sơn, chu tất vẹn toàn trước sau không sai suyễn gì vậy. Bây giờ các quan ở bên tả bên hữu đều tung hô vạn tuế. Ông Lý Bá Truyền lại nói rằng: Hợp được tuổi vợ thì nên nghĩa kết trăm năm. Nếu không thì đành đổi vậy. Việc ấy sao hay có thể can dự gì đối với việc quốc gia trọng đại, quốc tộ lâu dài được ru?

Ví dụ như có một thế đất, núi huyền vũ hình như chiếu bằng phẳng, thanh long bên tả uyển chuyển cúi mình, bạch hổ bên hữu hình như chấp tay, sông lớn từ chấn phương chảy qua chu tước, rồi tới minh đường, sau lại chảy ra phương tốn, ngoài ra có núi hình như đầu ngan, nhân đến ba trăm dặm ngoài, lại có núi trùng sơn hình như mũi giáo vị nhọn. Đó là đất pháp xuất tướng quân, con trai út phát phúc đó. Hoàng Thượng bèn sai quan đô hộ tên là Tô Doãn Khanh biên chép sách đó rồi bỏ vào trong cái kết đồng. Ông Doãn Khanh bèn sao thêm quyển thứ hai nữa. Quyển thứ nhất là quyển sách này, còn quyển thứ hai dành riêng cho mình xem xét, không Trang 47


http://www.tuvilyso.com ngờ việc sau phát giác Hoàng Thượng mới đem xử trảm hay trước triều đường. Vì thế thiên hạ mới biết được rằng Hoàng Thượng có bộ sách Hồng Vũ Cấm Thư này vậy.

Ví dụ như có một thế đất, quây quần vòng độ ba nghìn dặm lại hình dáng như đầu rồng, đàng trước có nổi cao ấn vuông lại xét xem núi hai bên thanh long bạch hổ, theo liền chiều cũng án bên trong đột khởi nổi ấn vuông, án bên ngoài núi nhọn như hình cái bút thẳng, sông lớn cũng như vòng cung ôm vào. Đó là thiên hạ đệ nhất quý địa, nên tới đầu rồng chỗ cao mà táng đấy thì rất tốt.

Ví dụ như đây có một thế đất, núi huyền vũ phẳng như giải chiếu. Núi thanh long hình như cuộn vòng về, từ dưới ngược lên đến trên vai, lại mọc thêm một núi hình như cái bút gọi là long bút. Bên hữu núi bạch hổ, có sông lớn vòng vào đến chỗ sông lớn, ngoài lại có những ngọn núi tròn chia ra đứng chầu theo, vòng lại chu tước, đột khởi nổi lên, một ngọn núi tròn to gọi là lôi phong làm án, nên đến chỗ giải chiếu rủ xuống ở bên dưới mà táng ở đó thì rất tốt.

Trang 48


http://www.tuvilyso.com

Ví dụ đây có một thế đất, núi huyền vũ ba ngọn đều tròn, núi thanh long bên tả hình tròn như cái dù. Bạch hổ có núi vuông hình như cái ấn gồm bên cái núi kim kiều ngọc bổn (Cái chậu ngọc). Thanh long bên ngoài có núi hình như con giao. Trước núi có hình như lồng vàng, ngoài có vực lớn, đất này lên đến núi tròn mà táng vào đất ấy thì rất tốt.

Ví dụ đây có một thế đất, núi huyền vũ như tấm lụa rủ, núi thanh long bên tả hình như cái hốt, suối khe chảy từ bên thanh long rồi chảy xuống, ngoài khe suối nhỏ cũng có núi chầu vào, liền liền ôm lấy, bạch hổ bên hữu có núi hình như bảo phiến (cái quạt phiến quý). Lại hình như bảo cái (cái lọng quý, cái lọng thờ phật). Ngoài cũng có khe suối nhỏ chảy xuống rồi chảy giao lại với nhau ở đàng trước là chu tước, chứa thành vực nước, trong vực nước lại có ba ngọn núi hình như chữ phẩm. Tìm được chính đất ấy mà mai táng ở đó thì là rất tốt vậy.

Trang 49


http://www.tuvilyso.com

Ví dụ đây có một thế đất quận vương, núi huyền vũ hình như bảo kiếm, núi bên tả hình như bảo kiếm, núi bên hữu hình như bảo ấn, bên ngoài có núi tròn đứng theo với bảo ấn ôm vào, nước chảy vòng quanh cũng giữ vào, đi đến chỗ bên ngoài bảo kiếm cũng có dòng nước chảy như bao bọc vào, chảy suốt mãi đến trước ấn, chứa thành vực nước, bên ngoài núi ấn đó lại mọc lên một ngọn núi tròn nhọn hình như mũi giáo. Đó là thế đất, gọi là chỗ đất thiên tử tập võ nghệ, đất này phát võ quan đời ấy qua đời khác gọi là thế gia ấy vậy.

Ví dụ đây có một thế đất như cái gối dài, đàng sau có cái khe suối nước chảy theo cái gối dài ấy vòng vào gọi tên là huyền vũ thủy. Thanh long bên tả nước chảy vượt qua nghìn dặm mà chảy lại, ngoài có sông lớn bao bọc giữ vào. Bạch hổ bên hữu noi theo gối dài mà chảy xuống đàng trước chu trước, lại có ấn vuông nên vực nước chảy quanh, ngoài vực nước đó mọc la liệt tám ngọn như tám ngôi sao làm án. Đây là thế đất văn quá hơn võ vậy.

Trang 50


http://www.tuvilyso.com Ví dụ đây có một thế đất. Huyền vũ hình như tấm ván vuông, theo khoảng nước, núi chạy thành dòng như rủ đầu vào huyệt. Núi thanh long như cái bánh xe, núi bạch hổ hình như cái lọng, đàng trước có núi hình như yên ngựa, dắt lại chính án. Lại có sông nhỏ chảy từ đầu núi yên ngựa chạy qua thanh long. Đó là đất mà người ta gọi là: Tướng quân xuất trại. Nên tìm đến chỗ giữa tấm ván lớn, trong núi nhỏ mà mai táng đó thì rất tốt.

Đây lại có một thế đất, núi huyền vũ mọc cao nằm ngọn tròn, cùng xếp thành một hàng. Bạch hổ bên hữu có ấn vuông gồm có cả ao hồ, bên trong án có sông lớn vòng lại, ngoài thì có núi như hình kim xương (hòm vàng). Táng được ở đó thì rất tốt.

Đất phát Trạng nguyên Sau đây là ba kiểu đất. Kiểu thứ nhất thơ rằng: Phần phiên âm Trạng nguyên địa đồ Thi vân: Trang 51


http://www.tuvilyso.com Lưỡng thủy triều phần hội diện tiền, Án phù thủy diện chính triều thiên, Hậu khởi nhị sơn hình tự bảng. Tú xuất tam quyền tảo đắc quyền? Long thế trùng trùng sinh dạng bút, Hổ vĩ trực điệp xuất thần tiên, Nhất tầng kim ấn danh cư quý, Bất phụ hoàng thiên sơn thủy duyên. Giải nghĩa Đôi nước loanh quanh hướng mộ tiền Chảy vòng bao bọc án chiều thiên Bảng sau hai núi thành kim bảng, Quyền trước ba nơi rất quý quyền Đỗ trạng bởi long sinh thế bút, Thần tiên vi hổ nối đuôi liền, Ấn vàng danh giá đóng khôi giáp, Non nước trời dành kẻ có duyên.

Đất phát Trạng nguyên Kiểu đất thứ hai: Thơ rằng: Phần phiên âm Trạng nguyên địa đồ Thi vân: Cửu khúc minh đường địa đạo thành, Nhất trì hỉ kiến trạng nguyên danh. Long lai tam cố long sinh bút Hổ bảo tam kiêm hổ đắc khanh, Hảo nhật thời lai kiên bảo địa Đắc thành đắc cách đắc sơn thanh, Nhược năng đắc thế triều lai hướng, Tất dã nhi tôn bá lệnh danh. Giải nghĩa Chín khúc minh đường cát huyệt thành Trạng nguyên một sớm bảng nên danh, Thanh long liền bút nên khôi giáp Bạch hổ trùng thân phát đại khanh, Trang 52


http://www.tuvilyso.com Đất tốt gặp thời nơi khí hóa Trời hay phúc hậu nước non xanh, Được như các thế đều chầu lại, Con cháu thanh danh hưởng phúc lành. Đây là một thế đất mà thanh long rất đẹp. Những năm Bính Dần, Bính Thân thì phát, những năm Bính Ngọ Bính Thìn cũng phát, con trai 28 tuổi thời đỗ đại khoa.

Đất phát trạng nguyên Kiểu thứ ba: Thơ rằng: Phần phiên âm Trạng nguyên địa đồ Thi vân: Tam bảng tiền hồi đệ nhất danh, Nhất triều xuất nhập phụ quân minh, Long biên khuê hối ấn thiêm thủy, Hổ bạn trì hổ lộ dẫn tinh, Hậu hữu lôi tinh đằng thượng dự, Tiền lâm thủy diện hướng trung đình, Toán lai công nghiệp tỏa thành sự, Đoan bảo âm phù địa đức sinh. Giải nghĩa Ba bảng khôi nguyên phúc đức dành Ra vào giúp chùa lập công danh Thanh long khuê hốt gồm thêm ấn Bạch hổ hồ ao lối dẫn tinh Sau có lôi tinh sinh phú quý, Trước thì hồ nước ánh rung rinh, Công danh sự nghiệp sao nhanh vậy Bởi tại âm phù đất mới sinh.

Trang 53


http://www.tuvilyso.com

Đất phát giáp khoa Dưới đây có bảy bản đồ (kiểu đất) Thơ rằng: Phần phiên âm Giáp khoa địa đồ Thi vân: Định huyệt tu chính mạc y tà, Tá thủy văn quan tiến bút hoa? Bạch hổ bão lai hình đặc dị? Thanh long hồi cố thế kham gia, Văn chương bút án phô tiền lập, Cao hậu mạc đầu hướng hậu trì, Nhất cử thành danh khoa giáp trúng Đoan do giang thủy tiến tiền qua. Giải nghĩa Định ngay chính huyệt chớ la đà, Bên tả quan văn bút có hoa, Bạch hổ vòng về hình kiểu cách, Thanh long hồi cố dáng khoan hòa Văn chương núi bút chầu làm án, Huyền vũ đàng sau gối chẳng xa, Thi cử cứ dành ngôi giáp bảng, Đoan vì sông trước nước bao la. Con trai trưởng con trai giữa con trai út đều phát cả, muộn là hai mươi bảy tuổi, sớm thì mười tám tuổi. Những năm Kỷ Mão, năm Đinh Dậu, năm Tân Dậu, năm Bính Dần mà sinh được người con trai tuổi Mùi, tháng Dần giờ Ngọ, hai tai châu về trước miệng, lưỡng nhĩ thùy châu, người mà được như thế là rất quý.

Trang 54


http://www.tuvilyso.com

Đất phát giáp khoa Kiểu đất thứ hai Thơ rằng: Phần phiên âm Giáp khoa địa đồ Thi vân: Minh đường quảng khoát thế nan lường, Long hổ tương giao tại diện tiền, Vũ hậu lôi sơn cao điệp điệp, Đường tiền bảng thủy chiếu dương dương, Long châu siêu xuất quý nam vượng, Hổ quan phi dương tiểu nữ xương, Nhược luận bảng sơn hà chức tổ, Danh đề bảng nhãn cận quân vương, Giải nghĩa Minh đường rộng lớn thế mông mênh Long hổ đều nhau trước mặt ghềnh, Huyền vũ lôi sơn cao chót vót, Tiền đường núi bảng nước rung rinh. Thanh long châu mọc hàng trai phát Bạch hổ dương bay phía gái vinh Thử hỏi bản sơn làm sao tốt, Gần vua giúp nước ở triều đình. Năm mùi mà sinh được người con, tháng Tý giờ Dần, thì hai chân tròn trĩnh, chủ phát quan sang phú quý, những năm Thân Tý Thìn Dậu Sửu là thứ đó.

Trang 55


http://www.tuvilyso.com

Đất giáp khoa Kiểu đất thứ ba Thơ rằng: Phần phiên âm Giáp khoa địa đồ Thi vân: Chính án ký thành như nhất tự, Bản sơn hà tất vấn tam đình, Long mạch bàn đáo hải trung thủy, Hổ vĩ niên như thiên thượng tinh, Nam tử tất nhiên nam tử quý, Nữ nhân đích thị nữ nhân vinh An bài tuy xuất kiền khôn ý, Yếu tại tâm cơ nhãn lực tinh. Giải nghĩa Chính án tam thai chữ nhất rồi Bản sơn đâu phải hỏi tam khôi Thanh long mạch chạy nguồn thông nước, Bạch hổ đuôi tròn sao đến nơi, Đỗ đạt con trai nền nền đất, Duyên may phận gái sắc hương trời, An bài ý hẳn do trời đất, Mắt phải tinh mà bụng chớ ngơi. Đất này là đất phát tam công, giàu sang có thừa, con trai út phát phú quý, con trai giữa phát sang trọng.

Trang 56


http://www.tuvilyso.com Đất phát giáp khoa Kiểu đất thứ tư Thơ rằng: Phần phiên âm Giáp khoa địa đồ Thi vân: Tứ phương củng hướng địa vô tha, Nhật củ danh đằng trúng giáp khoa, Hổ hữu thủy châu mao xuất dị, Long kiêm đái ấn vĩ kham gia, Phù kiên nhị sĩ danh khoa đệ, Xa túc kỳ sơn triển ỷ la, Giá lý thủy tri vi hảo xứ, Trường giang tiến nhập hảo vô tha, Giải nghĩa Bốn phương triều củng đất văn hoa, Nhất cử vang lừng trùng giáp khoa, Bạch hổ rủ châu danh xuất sắc, Thanh long đeo ấn lộc hằng hà, Kề vai hai sĩ đi thi đỗ, Bảo gót chân non gấm vóc là. Trong ấy mới hay ra chỗ quí. Sông dài nước cuộn phúc bao la. Giang xuất: Con trai lớn phát, con trai út phát, làm quan đến chức thượng thư, có tài kinh bang tái thế vương giả chi sự.

Đất phát giáp khoa Kiểu đất thứ nam Thơ rằng: Phần phiên âm Giáp khoa địa đồ Thi vân: Lôi vân tiền hệu dĩ vi kỳ. Nghiễn bút môn đình dị sở vi, Kỳ cổ phô tiền văn quá vũ, Thủy long bão hậu soái vi sư, Trang 57


http://www.tuvilyso.com Nam nhi tất đắc tọa triều phủ, Nữ tử hoàn thành nhập hậu phi, Nhược luận địa hình hà tối bản, Thủy ư hậu nhiễu liệt đường qui. Giải nghĩa Lạ lùng sau trước cả vân lôi, Nghiên bút bày ngay trước mặt rồi, Cờ trống linh đình văn vũ đủ, Thủy long sau giữ soái, sư thôi, Quí nam danh vọng nền khoa bảng, Ái nữ cung phi phúc đúng ngôi Thế đất nghĩ qua sao được vậy. Chung quanh nước bọc khắp nơi nơi.

Đất phát giáp khoa Kiểu đất thứ sáu Thơ rằng Phần phiên âm Giáp khoa địa đồ Thi vân: Thế tòng huyền vũ xuất long phân, Bão thả loan cung hướng thử phần, Lưỡng hổ đái hồng thành triết phụ, Trùng long liên bút xuất hiền nhân, Minh đường hữu lộ tu tương hợp, Huyền vũ lôi phong cẩn bất phân, Ta tả thử đồ đoan tại thị Đông tây trẩm luận diệc vân vân. Giải nghĩa Thế theo huyền vũ rước long mà, Ấp lấp vòng cung hướng mộ nhà, Lưỡng hổ cầu vòng thành triết phụ, Trùng long liên bút phát cao khoa, Minh đường có lối nên giao hợp. Huyền vũ lôi phong chớ bỏ qua. Trang 58


http://www.tuvilyso.com Mô tả đồ này sao rõ rệt. Đông tây so sánh phải sâu xa. Kiểu đất đây phát cho người con trưởng nam, còn người con trai út bị phạm sát, năm hai mươi tuổi, hoặc năm mười bảy anh em đỗ đồng khoa đồng bảng, đều lấy vợ nhà sang, làm nên bậc công thần truyền đời ấy qua đời khác là nhà phúc hậu.

Đất phát giáp khoa Kiểu đất thứ bảy Thơ rằng: Phần phiên âm Giáp khoa địa đồ Thi vân: Long hành uyển chuyển bút sinh biên Chính thị thần đồng trạc thiếu niên, Hổ án xuất mao hình dĩ lập, Tước khiên mã tử thế tranh tiên, Vân phong cao ngọi thần đồng hiện, Nguyệt chiếu giang trung ngọc nữ truyền, Nhược kiến án sơn hoàn tác án, Tất nhiên phụ tử thế khoa tuyền (toàn) Giải nghĩa Long hành uyển chuyển bút liền bên, Chính thị thần đồng đỗ thiếu niên, Bạch hổ ấn đeo hình tự lập. Dắt con ngựa mẹ khéo tranh trên, Mây bay ngoài cửa thần đồng hiện. Giăng chiếu trong sông ngọc nữ truyền: Rằng được sông to vòng trước án, Cha con khoa giáp tiếng tăm hiền. Năm người con trai lên hai mươi bảy tuổi, thì cha con đồng khoa bảng vàng.

Trang 59


http://www.tuvilyso.com

Đất phát chính khoa Dưới đây có bảy bản đồ là bảy kiểu đất Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa, khảm sơn Thi vân: Văn tinh xuất hiện án môn tiền, Chính thị sơn vân án chiếu nhiên. Long cố tam hồi xưng cố tổ, Hổ lai tam bảo hiệu lai huyên Minh đường hửu thủy thiêm văn bút, Huyền vũ hồi tiền hỉ đắc tiền, Nhất tự danh đề kim bảng thượng, Toán lai điền địa diệc do thiên. Giải nghĩa Trước án văn tinh xuất hiện ra, Núi mây chiếu bóng ánh hằng nga, Thanh long chầu tổ vùng ba lượt, Bạch hổ triều vào lại cũng ba, Chữ tốt minh đường cần có nước, Tiều giàu huyền vũ thích trông xa, Một mai chiếm bảng thân danh giá, Đất tốt trời thương phúc đức mà. Đất này phát cho người trưởng nam, người con trai út cũng phát, những năm Bính Dần, Đinh Mùi, Đinh Hợi, Ất Hợi, Ất Mão là tốt nhất. Còn những năm Tân Mùi, Nhâm Thân, Mậu Tuất là thứ nhì, mỗi đợt phát sinh được một người, năm Dần tháng Tý giờ Dần thì tốt gấp bội. Năm hai mươi tuổi đã trúng khoa.

Trang 60


http://www.tuvilyso.com

Đất phát chính khoa Núi phương Cấn Kiểu đất thứ hai Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa cấn sơn Thi vân: Lưỡng thủy giao lưu hội diện đương, Tam kỳ chính chiếu nhận gia tường, Long biên thủy nhiễu hiển đinh phát, Hổ bạn sơn triều tú nữ lang, Lưỡng sĩ phù kiên danh nội trúng, Tam sơn bố hậu nhật tăng xương, Toán lai danh xướng hoàng môn bảng, Địa đạo âm phù công ích quang Giải nghĩa Đôi nước giao lưu trước án đình, Tam kỳ phản chiếu ánh rung rinh, Thanh long nước cuộn trai hiển phát Bạch hổ non chầu gái đẹp xinh, Sĩ ở hai vai dốt thi đỗ, Bố sau ba núi phát càng vinh Cửa vua lên xướng vì đâu nhỉ, Bởi tại âm phù đất mới sinh Đất này phát cho con trưởng nam, con trai út cũng phát, những năm Tân Tỵ, Nhâm Thìn, Bính Dần, Bính Ngọ, Nhâm Thân, Tân Mùi sinh được người là quý, tuổi Ngọ tháng Dần giờ Tỵ mà sinh người thì bụng phệ to.

Trang 61


http://www.tuvilyso.com Đất phát chính khoa Kiểu đất thứ ba Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa Thi vân: Trùng trùng bàn nhiễu tổ tu hồi, Thả thượng đường tiền trạc nhật mai, Tiền hữu kim giang lai vọng nguyệt, Hậu phùng thổ bích tẩu kinh lôi, Trùng sơn trùng bút trùng huynh đệ, Liên xứ liên châu liên ngọc bôi, Địa đạo an bài thiên dĩ định, Chỉ ư trùng bút chính khoa thôi. Giải nghĩa Vòng quanh cố tổ mấy trùng khơi, Trên đỉnh ngành mai hẳn chiếm khôi, Trước có kim giang lồng bóng nguyệt, Sau nhân thổ bích chế kinh lôi, Anh em cùng đỗ trung hai bút, Châu ngọc liền nhau cũng một đôi, Trời đất an bài sao được vậy, Chỉ vì trùng bút chính khoa thôi. Đất này phát cho trưởng nam, con trai út cũng phát. Năm mười chín tuổi hoặc hai mươi tuổi quan tước cao sang tiếng tăm lừng lẫy.

Đất phát chính khoa Kiểu đất thứ tư Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa Thi vân: Hậu sơn đĩnh xuất nhất viên phong, Bảng thủy long tiền hướng diện trung Long nhiễu thủy giang nam đại vượng Trang 62


http://www.tuvilyso.com Hổ hoàn châu bôi nữ vinh phong Sơn tiền ngoại hướng sinh song bảng, Thủy hậu hình như phản bối cung Hậu hữu lạc sơn thiêm củng hậu, Nhi tôn tất hữu bá phương danh, Giải nghĩa Ngọn tròn sau mọc núi thong dong, Bảng nước bao quanh quá nửa vòng Sáng riểu thanh long trai phát đạt, Châu vòng bạch hổ gái vinh phong Hướng về đàng trước hai non bảng, Lạch nước bên sau một cánh cung, Xây đắp tạo sơn thêm lộng lẫy, Cháu con danh giá sướng vô cùng. Đất này phát cho con trưởng nam, con trai giữa con trai út cũng đều phát cả. Năm hai mươi tuổi hoặc hai mươi bảy, hoặc hai mươi lăm tuổi ba anh em đều liên trúng đăng khoa.

Đất phát giáp khoa Kiểu đất thứ năm Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa Nhị đại nhi tức Thi vân: Thủy hội môn tiền định tiến quan, Sơn lai viên vọng hướng long bàn, Nam môn thủy bão vi thần thủy, Bắc chẩm sơn bài thị quỉ san, Hổ bạn ngoại tùy chân hổ lưỡng, Long biên nội trực thị long đan (đơn) Tiến hữu thiên phong gia vạn điệp, Bất như thái thất thổ tam hoàn, Giải nghĩa Nước hội chiều vào cửa tiến quan, Trang 63


http://www.tuvilyso.com Núi theo sau lại gọi long bàn, Cửa nam nước cuốn kêu thần thủy, Gối bác non bầy gọi quỉ sau. Bạch hổ đứng liền hai hổ kép, Thanh long chắc chắn một long đan, Muôn ngàn dẫu lắm non trùng điệp. Thái thất chi bằng đất một gian. Đất này thi đỗ làm quan chỉ được hai đời là hết.

Đất phát chính khoa Kiểu đất thứ sáu Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa Thi vân: Ngô công xuất huyệt thế xà diên, Khai khẩu hàm châu chính diện tiền, Bất đắc xà diên tu khuất khúc, Hoặc phùng phương ấn yếu trường miên, Huyệt cư ngọa xứ an nhàn đắc, Thế hạ thùy hồi phong nhiễu liên, Hổ bạn nữ châu toàn nữ quý, Thủy uyên thâm xứ trực vần thiên. Giải nghĩa Ngô công ra huyệt thế xà tinh, Mở miệng hàm châu trước mặt mình, Chẳng những xà đinh đi rúc rích, Lại thêm ấn tín đứng rung rinh. Chỗ nằm huyệt đó an nhàn đó. Thế rủ non sinh ngọn núi xinh, Bạch hổ non châu con gái quý, Nước sâu mây bốc tới thiên tinh. Đất này con trai đều phát làm quan cả, năm hai mươi bảy tuổi hoặc năm hai mươi lăm tuổi, làm quan đến chức tam công, nhưng chỉ phát được có hai đời.

Trang 64


http://www.tuvilyso.com

Đất phát chính khoa Kiểu đất thứ bảy Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa Thi vân: Dục tri vinh quý địa như hà. Đoan đắc tiêm phong tại hậu gia, Tiền hữu nhất sơn đê tự nguyệt, Hậu như xà vĩ đảo hoành qua. Tiên thành dĩ hữu quân vương trọng, Hậu hữu phong nhiêu tiền lộc đa, Chính thị long bàn đầu quyển bão, Nhi tôn phú quý trạc đăng khoa. Giải nghĩa Muốn biết vinh hoa đất thế nào? Đoan rằng núi nhọn thế thanh tao, Núi như giăng nửa gương mờ tỏ, Bút tựa đuôi trăn giáo lộn nhào, Trước được quân vương trao chức trọng Sau nên phú quý biết chừng bao, Bởi vì nước uốn long bàn đó, Con cháu vinh quang đỗ đạt cao. Năm mươi tám tuổi hoặc năm hai mươi tuổi, ba đời đều đỗ đạt khoa danh, con trưởng nam phát, con trai út cũng phát, con trai con gái hai phòng đều phát cả.

Trang 65


http://www.tuvilyso.com Đất phát chính khoa Kiểu đất thứ tám Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa Thi vân: Long thân vi án thiểu nhân tri, Đàm tẩm môn tiền dị sở vi; Thủy nhiễu long thân lương dưỡng thủy, Chi liên hổ ấn uất liên chi, Nam nhi trưởng phát quí minh mục, Nữ tửphu vinh quý túc y Nhược luận thử trung hà sự tối, Đoan do sơn thủy tú kỳ kỳ. Giải nghĩa Thôi thân làm án ít ai hay, Trước mặt đầm sâu thực khéo bày, Nuôi nấng thanh long đầm sẵn nước, Bao dung bạch hổ ấn liền tay, Trai đầu quan phát em lòa mắt, Gái cả chồng sang út khỏi vay, Kén chọn đất này hay đáo để, Nước non, non nước khéo xinh thay. Ông Dương quân Tùng nói rằng: Thôi thân thanh long ngang mình để làm án cho nên con trai trưởng nam phát, mà con út lại bị lòa mắt, đất này chỉ phát một đời là hết.

Đất phát chính khoa Kiểu đất thứ chín Thơ rằng: Phần phiên âm Chính khoa Thi vân: Thế thế tòng lai tự tổ san, Tu tẩm hoãn xứ huyệt tài an, Trang 66


http://www.tuvilyso.com Lưỡng bàng đới thủy trùng nhi bão, Vạn tượng tùy sơn tĩnh thả bàn, Mạc vị tứ kim vi hảo huyệt, Chỉ duy tam tạp thị linh can (kiền) Đáo đẩu dục luận điều bình địa, Bất phó thần minh bố trí gian Giải nghĩa Thế thế theo về với tổ sơn, Huyệt tìm chỗ hoãn để bình an, Hai bên nước lặn dòng long mạch, Muôn dẫy non xanh thế hổ bàn. Chớ bảo tứ kim đâu quá chắc, Biết rằng tam tạp cũng khôn toan, Đến nơi đất ấy mà phê phán, Chẳng phải tinh anh chớ có bàn Năm hai mươi nhăm tuổi hoặc hai mươi ba tuổi thì quan tước đã lừng lẫy cao thăng, người con trưởng nam, con trai giữa, con trai út đều là phát cả.

Đất phát thế khoa Dưới đây có bốn bản đồ kiểu đất Kiểu đất thứ nhất Thơ rằng: Thế khoa Thi vân: Minh đường tam phẩm kiến đàm thâm, Lưỡng bút thai lai quan liêm lâm, Long hữu hồi đầu sinh thế trụ, Hổ vô tiêm vĩ vu hiền khâm, Mạc đầu lãm hậu tăng niên thọ, Đường thủy sinh tiền lộc hữu thẩm, Nhất tự phương danh truyền vạn đại, Hào đoan nhị bút đích tai tầm. Giải nghĩa Minh đường tam phẩm ở đầm sâu, Trang 67


http://www.tuvilyso.com Hai bút làm quan chắc được lâu, Tam cố thanh long thêm nối dõi, Vĩ tiêm bạch hổ chộ chi nhau, Màn đầu san sát người thêm thọ, Nước chảy qua thềm lộc hết mau, Để được danh thơm truyền vạn thế, Đoan vi hai bút phải nên cầu Đất này phát cho con trai giữa và con trai út làm nên đến chức tam công, phú quý vinh hoa.

Đất phát thế khoa Kiểu đất thứ hai Thơ rằng: Phần phiên âm Thế khoa Thi vân: Địa bình lưỡng ấn đới song kiên, Chính thị quan gia lập đế tiền, Vân ấn tất nhiên cư bối hậu, Bảng lôi yếu sử tọa nhan tiên, Long bút phù thân thiêm thủy dưỡng, Hổ châu ngoại lộ xuất mao tiên, Nhược luận quí vinh như hà địa, Bất quá sơn cao đắc thủy duyên. Giải nghĩa Đất bằng hai án dấu hai vai, Quan cận hầu vua thế cũng oai, Mây ấn sau lưng người khí phách, Bảng lôi trước mặt dáng nhân tài, Thanh long núi bút thêm đây nước, Bạch hổ non châu lá mọc hoài, Phú quý tài ba đâu được thế, Vì chưng nước bọc núi cao dài. Đất này phát cho con trai út và con trai trưởng nam, cháu út cũng đều phát cả đời ấy qua đời khác, dòng dõi thế khoa, phát đạt mãi chẳng dứt. Trang 68


http://www.tuvilyso.com

Đất phát thế khoa Kiểu đất thứ ba Thơ rằng: Phần phiên âm Thế khoa Thi vân: Hổ bảng môn tiền định xuất quan, Ấn châu đình lập hướng phần gian, Long biên thủy nhiễu vi thần thủy Hổ bạn sơn viên thị quỉ san Nam tử tất nhiên nam tử vượng Nữ nhân đích thị nữ nhân hoan, Toán lai địa đạo chân vi diệu, Bất quá tam thai hậu thủ hoàn. Giải nghĩa Hồ bảng mặt tiền định phát quan Ấn, châu chầu mộ hướng trung gian, Thanh long nước bọc tên thần thủy, Bạch hổ non tròn gọi quỉ san, Nam tử tất nhiên danh chiếm bảng Nữ nhân duyên phận cảnh hân hoan, Vì đâu địa lý này hay thế, Cũng bởi tam thai đóng thủ hoàn. Đất này trưởng nam, trung nam, quý nam đều phát tài, năm ba mươi tuổi trúng khoa danh làm quan đến chức thượng thư vậy.

Trang 69


http://www.tuvilyso.com

Đất phát thế khoa Kiểu đất thứ tư Thơ rằng: Phần phiên âm Thế khoa Thi vân: Đảo bút hoành tiền thủy nhiễu qua, Hậu lôi sáp bút trúng khôi khoa, Tam hồi đích thị long hồi cố, Nhất bão đoan vi hổ bão già, Nam tử tất nhiên nam tử vượng, Nữ nhân quả thị nữ nhân gia, Tựu trung nhược luận hà vi tối, Thủy nhiễu thành môn dẫn đáo hà, Giải nghĩa Bút ngã ngang sang nước cuốn vòng, Khôi khoa lôi bút thỏa cam lòng, Ba lần hoa nở long chầu lại, Một cách uyên nguyên hổ giữ trong, Khoa giáp con trai nền phúc hậu, Trung trinh con gái chốn khuê phòng, Đất hay biết nhận chi là quý, Vòng nước bao quanh bởi có sông Đất này phát đến ba đời cho người con trai trưởng, người con trai út cũng đều phát, năm hai mươi bảy tuổi, năm hai mươi nhăm tuổi thì đỗ làm quan đến chức tam công.

Trang 70


http://www.tuvilyso.com

Đất phát khoa danh Dưới đây có hai địa đồ (kiểu đất) Kiểu đất thứ nhất Thơ rằng: Phần phiên âm Khoa danh Thi vân: Đăng khoa hữu phạm thế nan tri, Thần chiếu môn tiền họa bất trì, Tam tử cộng thừa vinh hậu trạch, Nhị nương thả lạc giá khâm qui, Bảng sinh huyền vũ thành danh lão, Bút lập phong biên văn thiếu thì, Cánh hữu châu sinh long hổ bạn, Nữ nhân đích thị tác cung phi, Toán lai sở bão hà phương kiến, Thần phạm khiên lai mục hựu si. Giải nghĩa Đỗ mà có phạm dễ hay đâu Trước cửa thần soi thấy ruột đầu, Thi đỗ ba con danh giáp bảng, Vu qui hai ả phúc trần châu, Bảng sau huyền vũ già nên trước, Bút đóng long biên trẻ đỗ đầu, Lại có ngọc châu long với hổ, Nữ nhi tốt số với vương hầu. Năm hai mươi tuôi thì văn hay chữ tốt, năm bốn mươi tuổi, năm năm mươi tuổi thì cả ba anh em liên trùng đăng khoa.

Trang 71


http://www.tuvilyso.com

Đất phát khoa danh Kiểu đất thứ hai Thơ rằng: Phần phiên âm Khoa danh Thi vân: Nhất biên long bão hiệu long bàn, Thủy khẩu hoành già thế triển khoan, Tiền án tu tri như phẩm tự, Hậu sơn yếu dục tự kim san, Nam nhi tất hữu nam nhi vượng, Nữ tử hoàn thành nữ tử an Chính thị sơn viên tân chủ đối, Vạn niên hậu thế toán vinh khoan. Giải nghĩa Một bên long bão gọi long bàn, Thủy khẩu quanh ngang thế lài khoan, Án trước loanh quanh thành chữ phẩm, Núi sau nhấp nhánh ánh kim san, Con trai khoa giáp nên danh giá, Con gái giàu sang tiếng vẻ vang, Khách chủ đối nhau vui thú nhỉ, Hiển vinh phú quý lại an khang Đất này phát cho con trai út có một đời làm quan từ mười tám tuổi.

Trang 72


http://www.tuvilyso.com Đất phát đồng khoa Dưới đây có năm địa đồ (kiểu đất) Kiểu thứ nhất Thơ rằng: Phần phiên âm Đồng khoa địa đồ Thi vân: Cừ thủy loan lai ký hữu tình, Nghiễm nhiên chính thất nhược bồng dinh Đình tiền nghiên bút tu tương hợp Gia nội môn phòng yếu thản bình, Nam tử tất nhiên nam tử vượng, Nữ nhân đích thị nữ nhân vinh, Toán lai hoàng bảng danh đăng đệ? Đoan bảng âm phù địa đạo thành. Giải nghĩa Ngòi nước vòng quanh rất hữu tình, Nghiễm nhiên chính tẩm tựa bồng dinh, Bút nghiên đàng trước cần xum họp, Nhà cửa bên trong cốt phẳng bình, Nam tử tài ba nên phú quý, Nữ nhân đức hạnh đặng quang vinh, Bảng vàng thi đỗ vì đâu có, Cũng bởi âm cơ phúc đức mình. Đất này phát cho con trưởng nam, con trai út cũng phát quan tước chỉ bình thường không lên cao lắm.

Đất phát đồng khoa Kiểu đất thứ hai Thơ rằng: Phần phiên âm Đồng khoa địa đồ Thi vân: Chu tước loan lai giang thủy hồi, Huyền chung thùy hậu hữu song lôi Trùng long trùng bút trùng huynh đệ? Liên hổ liên châu liên ngọc bôi Trang 73


http://www.tuvilyso.com Dã thị gia trung nghinh quý tế, Định tri chương ngoại hữu quan thôi Tố tòng vinh tiến quan tăng hậu, Đoan bản trùng long thủy nhiễu hồi. Giải nghĩa Chu tước vòng quanh nước đáng mê, Chuông treo sấm lại khéo đem kề Trùng long trùng bút anh em phát, Liên hổ liên châu chén ngọc đề, Xe ngựa trong nhà mừng rể quý, Quyền hành ngoài nước sợ quan ghê Làm sao vinh hiển giàu sang thế, Đoan bởi trùng long nước hướng về. Đất này phát cho con trưởng nam, con trai út cũng phát, làm quan tước lộc giàu sang tiếng tăm lừng lẫy, mỗi ngày mỗi lên.

Đất phát đồng khoa Trước tốt sau thì xấu Kiểu đất thứ ba Thơ rằng: Phần phiên âm Đồng khoa, tiền cát hậu hung địa đồ Thi vân: Bút lập đình tiền hiệu bút hoa, Danh vi thần bút trúng thủ khoa Nghiễn bút liên thân thiên thủy tích, Lộ tinh nhập thủ địa cơ già, Nghịch long thủy xuất chân vi diệu, Thuận hổ nhân lai tín khả gia, Nhất tự thăng quan cao phẩm trật, Đoan do địa lộ thủy phần la. Giải nghĩa Trước đình bút đúng gọi là hoa, Thần bút trời cho đỗ đại khoa, Nghiên bút liền mình trời giúp nước, Thủy tinh vào huyệt đất cho ta, Thanh long nghịch thủy thêm mầu nhiệm, Bạch hổ người xa lại thiết tha, Một bước quan san cao phẩm giá, Đoan vì đường nước cuốn quanh nhà Trang 74


http://www.tuvilyso.com Đất này phát cho con trưởng nam, đăng khoa vinh hiển, nhưng sau rồi cũng bị đao kiếm mà chết.

Đất phát đồng khoa Kiểu đất thứ tư Thơ rằng: Phần phiên âm Đồng khoa địa đồ Thi vân: Vân tiêu trực thượng kỷ thiên trùng, Thế nhược thủy đẩu đắc thủy phùng Tùy bão liên liên sinh thủy hổ, Hựu loan đới đới xuất kim long, Nam nhi tất đắc đề kim bảng, Nữ tử hoàn thành nhập ngọc cung, Thùy thức mạch trung vi trú chỉ, Thủy chi xu hướng đắc nhân thông Giải nghĩa Trời mây quấn quít tít muôn trùng Thế tựa thùy đầu nước cuộn sông Bạch hổ liên liền bao bọc nước Thanh long đằng đặc giải vàng bông, Nam nhi tên chiếm nền khoa bảng, Nữ tứ duyên may chốn ngọc cung, Ai biết mạch kia vòng nước kết. Bao lòng nước bọc học người thông.

Trang 75


http://www.tuvilyso.com Đất phát đồng khoa Kiểu đất thứ năm Thơ rằng: Phần phiên âm Đồng khoa Thi vân: Hổ bảng môn tiền định xuất quan, Ấn châu đình lập hướng phần gian, Long biên thủy nhiễu vi thần thủy, Hổ bạn sơn viên thị quỉ san, Nam tử tất nhiên nam tử vượng, Nữ nhân đích thị nữ nhân hoan, Toán lai địa đạo hà vi diệu, Bát quá tam thai hậu thủ hoàn. Giải nghĩa Trước cửa bảng hồ đỗ đạt quan, Ấn châu chầu mộ để thân an, Thanh long nước bọc kêu thần thủy. Bạch hổ non tròn gọi quỉ san, Nam tử tất nhiên người thịnh đạt, Nữ nhân đích đáng cảnh hân hoan. Làm sao địa lý này hay thế, Cũng hỏi tam thai đóng thủ hoàn. Đất này phát cho con trai trưởng nam, con trai giữa con trai út, ba mươi tuổi trúng khoa danh làm quan đến chức thượng thư tước lộc vinh hiển.

Đất phát võ tướng Dưới đây có 15 địa đồ kiểu đất Kiểu đất thứ nhất Thơ rằng: Phần phiên âm Tướng quân Thi vân: Yếu cầu tả hữu hổ long hình, Sơn thủy cao đê sát dã tinh, Hổ thế bàn nham như dũng tướng, Long hình hữu khởi nhược hùng binh, Trang 76


http://www.tuvilyso.com Nam nhi tất đắc tướng quân ấn, Nữ tử hoàn thành anh kiệt sinh, Tất đắc đại giang hoàn thả bão, Tu thời hà chí khổ cầu danh, Giải nghĩa Tìm tòi theo dõi hổ long hình, Nước thấp non cao xét phải tinh, Bạch hổ vung cao như mãnh tướng, Thanh long nhún nhẩy tựa hùng binh, Nam nhi được ấn lên quan lớn, Nữ tử tài ba gặp tuấn sinh, Sông lớn chảy vào bao bọc được, Công danh phú quý tự nhiên thành. Năm tuổi hai mươi thì làm quan mới có ít nhiều tước lộc.

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ hai, Thơ rằng: Phần phiên âm Võ tướng địa đồ Thi vân: Kỳ cổ hình như vạn lý binh, Tiên nhân nghiễm nhược tọa bồng dinh, Long châu bàn tại hải trung thủy, Hổ thế viên như thiên thượng tinh, Chính án ký thành như phẩm tự, Bản sơn tất vấn thị tam đình. An bài tuy xuất kiền khôn ý, Yếu tại tiên sinh nhãn lực tinh. Giải nghĩa Cờ trống rung rinh vạn lý hình, Bóng tiên thấp thoáng cõi bồng doanh Thanh long châu ngọc vòng quanh nước, Bạch hổ tròn vo ngọn núi xinh, Chính án đã thành hình chữ phẩm, Bản sơn còn hỏi dáng ba đình Phó bày khéo biết lòng trời đất, Trang 77


http://www.tuvilyso.com Còn ở thầy xem mắt phải tinh.

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ ba Thơ rằng: Phần phiên âm Võ tướng địa đồ Thi vân: Tam quân xuất trận tướng uy quyền, Chính thị thần linh phù lưỡng kiến Kỳ tại tả biên quan tất đắc, Cổ sinh hữu bạn lộc vinh tiên. Dương triều tả thủy thiên tâm cận. Âm ủng vân phong trùng điệp liên, Tả hữu viên hoàn hồi nhiễu bảo, Vinh hoa đại đại lập triều thiên. Giải nghĩa Ba quân hùng hổ tướng oai quyền Bao núi thần tiên sắp cả bên, Tả nọ cờ bày quan tiến chức, Hữu kia trống thúc lộc ưu tiên, Thủy triều man mác lòng trời đóng, Mây núi trập trùng mặt nước lên, Tả hữu vòng quanh bao bọc lấy, Vinh hoa phú quý đội ơn trên Năm ba mươi tuổi làm quan tước lộc cao thăng, người con trưởng nam và người con trai út đều phát cả.

Đất phát võ tướng Trang 78


http://www.tuvilyso.com Kiểu đất thứ tư Thơ rằng: Phần phiên âm Tướng quyền địa đồ Thi vân: Kỳ địa như hà xuất võ quan, Tu tri tứ thú yếu hồi hoàn, Thanh long uyển chuyển lai hồi cố, Bạch hổ xà đinh phục tác san, Binh mã phô trần long hổ ngoại, Cổ chinh viễn lập tước long gian, Danh vi tập trận tướng quân địa Thủy ngoại trùng trùng san hựu san Giải nghĩa Đất sao tướng võ rất uy quyền, Bốn thú quây về cả bốn bên, Uyển chuyển thanh long binh mã trận Oai hùng bạch hổ đĩnh xà tiên, Mã binh phô diễn ngoài long hổ, Chiêng trống nghênh ngang trước hải triền, Hình thế tựa như nơi lập trận, Non non nước nước tướng thần tiên.

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ năm Thơ rằng: Phần phiên âm Tướng quân địa đồ Thi vân: Tiền hữu tam phong hậu đại phong, Tử tôn phú quý hữu anh hùng, Long biên uyển chuyển trữ ư thủy, Hổ bạn cao viên thể dạng chung, Nam tử tất nhiên sinh tuấn sĩ, Nữ nhân đích thị thất công khanh, Toán lai địa đạo chân vi hỏa, Trú chỉ nguyên lai thủy nhiễu thông. Giải nghĩa Trang 79


http://www.tuvilyso.com Trước ba bút nhọn, ngọn sau to, Con cháu sang giàu chẳng phải lo, Nước đọng thân long coi uyển chuyển, Chuông bày tay hổ thấy tròn vo, Con trai sản xuất cao hiền sĩ, Con gái duyên hài đại trượng phu, Đất quý suy ra vô giá quý, Nước bao mạch chỉ phúc trời cho.

Đất phát võ tướng công hầu Kiểu đất thứ sáu Thơ rằng: Phần phiên âm Công cầu địa đồ Thi vân: Huyền vũ cao phong cổn cổn lai, Quần hùng tỏ hữu lập môn đài, Hổ trung kiêm đắc thủy vi nguyệt, Án ngoại đương cầu sơn tác thai, Nam nhi tất đắc tọa triều phủ Nữ tử hoàn cung tác cấm khai, Nhược kiến ngoại sơn trì viễn thế Hựu kiêm thọ khảo định vô sai. Giải nghĩa Huyền vũ non cao tấp tới bày, Bao nhiêu hợp hội dựng đài đây, Trong hồ nhấp nhánh trăng soi nước, Ngoài án rung rinh núi ngất mây, Danh vọng con trai quan lớn tột, Thế thần con gái chức cao thay, Xa xa non, nước ngoài kiên cố, Thọ khảo an khang mấy kẻ tày Chú thích rằng: Trước cửa minh đường mà lại được nước chầu lặng trong sạch là rất quý.

Trang 80


http://www.tuvilyso.com

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ bảy Tam sơn bão hổ Thơ rằng Phần phiên âm Tướng quyền võ quan, Tam sơn bão hổ Thi vân: Tam trùng long ứng thủy trùng lai, Nam tử nhiêu nam đa tuấn tài, Tả bạn tam trùng liên ấn xứ, Hữu biên tương kế tam sơn bài, Nam nhi tất đắc tọa triều phủ, Nữ tử hoàn thành tác cấm khai, Nhược kiến diện tiền tam phẩm ấn, Tất nhiên tam đại liệt giai thai, Giải nghĩa Ba lần long ứng nước vòng qua, Nam tử sinh con tuấn tú mã Long tả ba non hình ấn tử Hổ biên ba núi mọc châu sa Con trai uy tín triều đình trọng, Con gái cung phi chính thất a Trước mặt án là ba phẩm án, Ba đời phú quý cũng không ngoa.

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ tám Thơ rằng: Trang 81


http://www.tuvilyso.com Phần phiên âm Tướng quyền – võ quan Thi vân: Long hổ khiên lai tại án tiền, An bài địa dã bản hoàng thiên, Long biên ngoại ứng giang hồ kiến, Hổ bạn trung sinh hoa cái viên, Vạn giáp đình kiêm nhưng dĩ tú, Tam quân môn ngoại Tỷ chi truyền, Nhược ư thủy đới tùy loan xứ, Tất hữu nhi tôn bỉnh tướng quyền. Giải nghĩa Long hổ đồng đều trước án môn, An bài đất quí bởi hoàng tôn Thanh long ngoài có sông hồ bọc, Bạch hổ trong nguyên tán lọng tròn. Muôn giáp trước nhà coi lẫm liệt. Ba quân ngoài cửa thế hùng hầu. Giải đài nước cuộn quanh vòng lấy, Con cháu quyền môn tiếng dậy đồn.

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ chín. Thơ rằng: Phần phiên âm Tướng quân địa đồ Thi vân: Hậu sơn điệp xuất vạn trùng san, Long khởi điều điều thế nhược baà, Đường thủy tam kỳ thùy thế lộc, Vũ sơn nhất phẩm xưng cao quan; Long biên đàm tích chân vi diệu; Hổ bạn sơn cao phục thả hoàn; Tu tả thử đồ minh khả bạch, Lưu thùy vạn đại ngưỡng nhi quan.

Trang 82


http://www.tuvilyso.com Giải nghĩa Đàng sau chồng chất núi cùng non, Rồng lượn xa xa cuộn khúc tròn Nước bạc tam kỳ ơn lộc hậu, Non vàng nhất phẩm tước quan tôn, Thanh long hồ thấp trăng soi khắp, Bạch hổ non cao kiếm phóng luôn, Mô tả họa đồ sao rõ rệt. Lưu truyền vạn đại dấu vàng son.

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ mười Thơ rằng: Phần phiên âm Tướng quân địa đồ Thi vân: Khuê bích chi san xuất tướng quân Nhất thân chuyên lĩnh vạn thiên nhân, Long biên huy kiếm hào đoan kiếm Hổ bạn trương kỳ chế độ tân, Tiền quá tiểu giang lai chiếu nhập, Hậu hoàn đại sĩ ủng tương luân, Toán lai tướng tướng hà do tố, Diệc bản khuê sơn diệc tại ngân. Giải nghĩa Khuê bích trời cho phát tướng quân. Một mình lãnh đạo vạn nghìn dân, Thanh long kiếm vẫy oai phong thế. Bạch hổ cờ bay chế độ tâu Trước có sông con quanh nước biếc. Sau thêm lực sĩ hộ xe thần. Tướng văn tướng võ sao mà có, Cũng bởi non khuê một giải ngân. Chú thích: Đất này lấy sông ngân hà làm án, cho nên là đất quý.

Trang 83


http://www.tuvilyso.com

Đất phát tướng văn và tướng võ lại phong tước vương Kiểu đất thứ mười một Thơ rằng: Phần phiên âm Tướng tướng phong vương địa đồ Thi vân: Hậu hữu bình quan tiền tiêm thương Tử tôn tất hữu kiến phong vương, Tả biên kỳ chính tu tương chỉnh, Hữu bạn hùng binh nhuệ khí trương, Nam tử định tri binh vạn lĩnh, Nữ nhân đích thị thất tam xương, Đô lòng địa đạo âm phù trợ, Diệc thị hoàng thiên sinh tử lương, Giải nghĩa Sau mũ bình quan, trước giáo đài, Phong vương con cháu chắc không sai Chính nền bên tả nhiều điều lạ, Khí mạnh nhung binh diễn lối ngoài. Biết trước con trai dương tướng lãnh, Về sau con gái lấy chồng oai, Đất kia dành để ai nhiều phúc, Hay bởi hoàng thiên đã kén tài.

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ mười hai Thơ rằng: Trang 84


http://www.tuvilyso.com Phần phiên âm Võ quan địa đồ Thi vân: Sinh long hình thế tẩu như bàn, Đáo xứ từ hành bạch mộ gian? Kỳ cổ phô trần môn ngoại vũ, Chính binh viễn ứng án tiền quan, Long biên thủ chấp đao thương khí, Hổ bạn thân thừa ngọc bôi san, Nhược kiến thủy triều phùng tắc chỉ, Nhi tôn tất dã đáo cao quan. Giải nghĩa Sinh long uyển chuyển khắp gần xa, Đến huyệt khoan thai lẽ thế mà. Cờ trống ngoài trời coi lẫm liệt. Giáo gươm trước án sáng bao la. Thanh long tay giữ hình đao bút, Bạch hổ thân đương chén ngọc ngà, Nếu được nước chiều chiều lại tụ, Cháu con quan cả đến vinh hoa.

Đất phát võ tướng Kiểu đất thứ mười ba Thơ rằng: Phần phiên âm Võ sĩ địa đồ Thi vân: Tứ thú câu toàn hữu tiểu thành, Kỳ gia nam nữ phụ quân minh, Long châu quyền xuất chân long vĩ, Hổ ngọc khởi sinh tú hổ hình, Chu tước thiêm lai thành thủy nhiễu, Lộ huyền cao khởi hữu sơn minh, Toàn ly nhược đắc vi triều án, Tôn tử thời thời tá thánh minh, Giải nghĩa Trang 85


http://www.tuvilyso.com Bốn thù vây quanh dáng tiểu thành, Toàn gia nam nữ giúp triều đình, Liên châu lấp lánh thanh long quý Hạt ngọc bao la bạch hổ xinh. Chu tước nước quanh dòng uyển chuyển. Bản sơn cao ngất núi rung rinh Non ly bề thế chầu làm án, Con cháu thời thường giúp thánh minh.

Đất phát vương hầu Kiểu đất thứ mười bốn Thơ rằng: Phần phiên âm Vương hầu địa đồ Thi vân: Quý địa thiên sinh thể dạng kỳ, Vương hầu sở phát lý nan khuy, Long đầu đới ấn kiêm khuê hốt, Hổ vĩ thùy châu liệt trướng duy. Hậu khởi tinh phong kiêm thủy nguyệt. Tiền sinh thương cổ lập đao kỳ, Quốc trung đại trạch chân vi diệu, Thử địa vương hầu tín hữu kỳ. Giải nghĩa Đất quý trời sinh kiểu cách hay, Vương hầu cao các khó xem thay, Thanh long đới ấn cân đai đó, Bạch hổ đuôi mang chuỗi ngọc này, Sau có núi tròn trăng nước biếc Trước sinh đao kiếm trống cờ bay. Đầm to giữa nước là hay nhất. Chẳng phải vương hầu khó tới đây. Đất này phát vương hầu, có thể tin chắc bằng kỳ hạn.

Trang 86


http://www.tuvilyso.com

Đất phát thế khoa Dưới đây là hai địa đồ (kiểu đất) Của Tỉnh An tiên sinh Dâng lên vua Hồng Vũ Kiểu đất thứ nhất Thơ rằng Phần phiên âm Thế khoa Thi vân: Thủy quá thiên môn tu chiếu hồi, Trừng trừng hậu hữu tuyết trung mai, Vũ môn yếu sử khai tam lãng, Bình địa tu giao chấn nhất lôi, Thiên hình cộng bão viên như nguyệt, Tứ bao hàm thế phúc tự bôi. Nhược đắc trường giang y hậu chẩm. Tử tôn tất hữu quý quan thôi. Giải nghĩa Nước quá thiên môn chảy nối về Trong veo tuyết trắng hóa mai huê, Vũ môn sóng vượt cao ba đợt, Bình địa sấm khua dậy một hồi Nhấp nhánh nước non vương bóng nguyệt. Ngổn ngang mây đá dáng con nghê. Sông dài nước chảy vòng làm án Con cháu quan sang đủ mọi bề. Đất này phát năm hai mươi bảy tuổi làm quan tước lộc đã có ít nhiều.

Trang 87


http://www.tuvilyso.com Đất phát thế khoa Kiểu đất thứ hai Thơ rằng: Phần phiên âm Giáp khoa Thi vân: Long hành uyển chuyển bút sinh biên, Chính thị thần đồng trạc thiếu niên, Hổ ấn xuất mao hình tự lập, Mã khiên mã tử thế tranh tiên, Vân phong cao ngoại thần đồng hiện, Nguyệt chiếu giang trung ngọc nữ truyền, Nhược kiến đại giang hoàn tác án, Tất nhiên phụ tử thế khoa tuyền (toàn) Giải nghĩa Rồng đi uyển chuyển bút ngay bên, Ấy chính thần đồng tuổi thiếu niên Hổ nọ ấn kia hình đứng sững Ngựa con ngựa mẹ khéo tranh lên, Mây bay ngoài cửa thần đồng hiện Giăng chiếu trong sông ngọc nữ truyền. Bằng có sông to vòng trước án, Cha con khoa giáp nối liền liền. Năm hai mươi bảy tuổi thì cha con thi đỗ đồng khoa.

Đất phát cự phú Dưới đây có mười địa đồ (kiểu đất) Kiểu đất thứ nhất Thơ rằng: Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Hổ long cường cán tự đại thuyền, Sinh nhân điển mại hữu sinh tiền, Phong viên tại hậu tăng điền sản, Quý nữ quí nam phú thọ tuyền (toàn) Trang 88


http://www.tuvilyso.com Giải nghĩa Hổ long mạnh mẽ thuyền to, Chủ trương buôn bán trời cho nhiều tiền, Đằng sau cao, ruộng khắp miền, Gái trai trưởng út thọ tuyền giàu sang.

Đất phát cự phú Kiểu đất thứ hai. Thơ rằng: Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Hổ long uyển chuyển lưỡng chính bình, Phú quý thiên nhiên tu dĩ định, Trưởng quý tam phòng câu sự thịnh, Nữ nhân thọ khảo hưởng thiên mệnh. Giải nghĩa Hổ long uyển chuyển đất đôi bên Phú quý trời cho há tự nhiên, Trưởng út ba ngành đều thịnh sự, Mạng trời con gái thọ cao niên. Chú thích rằng: Long hổ bình chính, là ý nói thanh long, bạch hổ cùng tương đương đều nhau, gọi là bình chính.

Đất phát cự phú Kiểu đất thứ ba Thơ rằng: Trang 89


http://www.tuvilyso.com Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Nguyệt chiếu thiên môn tu hướng lai, Gia trung phú quý mãn tiền tài, Nam nhi kiêm đắc thọ niên hưởng, Nữ tử hoàn thành đắc mỹ tài, Giải nghĩa Cửa trời hồng thủy bóng hằng nga, Giàu có phong lưu phú quý mà, Thọ khảo con trai người đĩnh đạc, Tài ba con gái tính văn hoa Chú thích rằng: Nguyệt chiếu thiên môn là ý nói nước chảy vòng cánh cung dáng tựa cầu vồng, mặt trăng mặt trời chiếu bóng lại thì gọi là nguyệt chiếu thiên môn.

Đất phát cự phú Kiểu đất thứ tư, Thơ rằng: Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Hổ long viên chiếu tự liên châu, Khoái đổ gia trung khương hữu dư, Trung trưởng tam phòng câu đại vượng, Nữ nhân vinh quý thế gian thủ. Giải nghĩa Long hổ liên châu chiếu sáng ngời, Cả nhà giàu có sướng ăn chơi, Ba ngành lớn nhỏ đều hưng vượng, Gái cũng giàu sang khác nước đời. Chú thích rằng: Long hổ liên châu là ý nói thanh long đã có núi hình tròn ngoài lại có nhiều ngọn tròn như hạ châu, bạch hổ núi cũng đã tròn bên ngoài lại có nhiều núi tròn hình như hạt châu nữa cho nên mới gọi rằng là long hổ liên châu.

Trang 90


http://www.tuvilyso.com

Đất phát cự phú Kiểu đất thứ năm Thơ rằng: Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Long tiêm long bạn tiến điền danh, Trung thứ nam nhi thổ địa hoành, Nữ tử túc y kiêm túc thực, Gia môn cộng hỉ lạc phong doanh. Giải nghĩa Thanh long bút nhọn tiền điền theo, Trung thứ hai trai ruộng đất nhiều, Con gái đủ ăn và đủ mặc. Cửa nhà vui vẻ phúc bao nhiêu. Chú thích rằng: Bút tiến điền là ý nói thanh long núi nhọn như quản bút cho nên gọi tên là bút tiến điền.

Đất phát cự phú Kiểu đất thứ sáu Thơ rằng: Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Hổ hổ sinh để long cố đi, Gia môn y thực nhân vô tỷ, Trang 91


http://www.tuvilyso.com Nam nhi tam tử câu hưng thịnh, Nữ tử bình thường an sở chỉ. Giải nghĩa Hổ thấp hơn long mấy nhịp cầu, Cửa nhà phong phú giống ai đâu, Con trai giàu có đều vinh hiển, Con gái bình thường của vững lâu. Chú thích rằng: Long cố hổ đê là ý nói hổ thấp hơn long mấy nhịp cầu mà thanh long đương gắng lại hổ, là đất phát nhà giàu đầy đủ ăn mặc sung sướng người ta không thể đem ra mà so sánh kịp.

Đất phát cự phú Kiểu đất thứ bảy Thơ rằng: Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Ngưỡng quan long bạn khởi trùng trùng, Khoái đổ gia môn phú thọ hùng, Nam tử tất nhiên quan vị tiện, Nữ nhân đích thị phú nhiêu phong. Giải nghĩa Thanh long núi mọc trùng trùng, Cửa nhà phong pú hào hùng thọ khang. Con trai tiến đạt vẻ vang, Con gái giàu có vinh quanh mỹ miều, Chú thích rằng: Long bạn trùng khởi là ý nói thanh long đã có ba từng dao bút mà bên ngoài lại có ba núi mọc tròn cho nên gọi là trùng khởi.

Trang 92


http://www.tuvilyso.com

Đất phát cự phú Kiểu đất thứ tám Thơ rằng: Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Cao sơn hổ bạn tú trùng (khởi) khỉ Thứ tử đăng khoa nhân thiện mỹ, Trung trưởng phú nhiêu an tính mệnh, Nữ nhân tam vị quan vinh quý, Giải nghĩa Non cao bạch hổ trùng trùng, Thứ nam thi đỗ người cùng khen lao. Trưởng nam phú túc cường hào. Mỹ nhân ba vị vị nào cũng sang. Chú thích rằng: Sơn cao hổ bạn trùng trùng là ý nói bạch hổ đã nhiều núi cao mà bên ngoài lại còn có nhiều núi tròn nhọn mọc thêm ba bốn ngọn cho nên nói rằng hổ bạn trùng trùng. Người con trai thứ và người con trai út thi đỗ bảng vàng.

Đất phát cự phú Kiểu đất thứ chín Thơ rằng: Phần phiên âm Phú gia Thi vân: Lai hồi long bạn điệp viên phong Trang 93


http://www.tuvilyso.com Tử tôn đại đại phú nhiêu phong Trung trưởng bình trường an sở xử, Nữ nhân đích thị phú gia ông. Giải nghĩa Thanh long trùng điệp ngọn tròn Cháu con giàu có mãi còn mai sau, Trưởng, trung nam được sở cầu, Gái hay duyên sánh nhà giàu vinh hoa. Chú thích rằng: Thanh long ngọn tròn trùng điệp là ý nói đời ấy qua đời khác của cải lúc nào cũng thịnh vượng không tiêu hao chi cả.

Đất phát cự phú Phú quý vinh hoa Kiểu đất thứ mười Thơ rằng: Phần phiên âm Phú quý vinh hoa Thi vân: Tử thế câu hồi thị lữ (kìm) câm, Toàn gia nam nữ lộc tài lâm Trung tâm ẩn huyệt tài phân biệt, Phú quý lưu truyền vạn đại tầm. Giải nghĩa Tứ kim thế uốn lưng về, Cả nhà giàu có đề huề gái trai, Giữa tim huyệt kết không sai, Vinh hoa phú quý lâu dài cháu con. Chú thích rằng: Tứ kim là bốn thế đều quay hướng cong vào nên trong gia đình đều được Đinh tài lưỡng vượng, người ta ai cũng muốn đến làm thân.

Trang 94


http://www.tuvilyso.com

Một thế đất thổ tinh Hữu thực nhi cổ Thơ rằng Phần phiên âm Nhất thế địa (hung) Thi vân: Sinh tiền nhất thổ áp gia phần, Huyền vũ cao viên áp bản thân, Án khởi ngu phong vô nhất thị, Phú nhi phản cổ hữu kỳ thân. Giải nghĩa Thổ tinh trước áp phần gia Đàng sau huyền vũ như là áp thân Án cao năm ngọn che gần. Giàu nhưng phải tội tấm thân mù lòa. Chú thích rằng: Đất này phát giàu có nhưng bởi tại án sơn gần quá thành ra giàu có ăn uống phong lưu, mà trái lại tấm thân phải mù lòa khốn cực.

Một thế đất hỏa tinh Tai hại cô quả Thơ rằng: Trang 95


http://www.tuvilyso.com Phần phiên âm Nhất hỏa địa (hung) Thi vân: Nhất hỏa tiêm sinh xuất huyệt trung, Toàn gia ôn dịch bị tai hung, Nam nữ yểu tử tinh cô quả, Thử huyệt kỳ gia thị khốn cùng. Giải nghĩa Hỏa tinh sinh nhọn giữa trong cung. Ôn dịch tai ương khốn khổ chung. Trai gái chết mòn nguyên góa bụa, Khốn cùng đất ấy chớ ai dung. Chú thích rằng: Đất này hoàn toàn khốn khổ, vì bị ngọn lửa nhọn giữa huyệt, nên người ta bị ôn dịch tai hại goá bụa cực khổ khốn cùng.

Một thế đất thủy tinh Gặp phải thủy huyệt này thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Nhất thủy địa đồ (hung) Thi vân: Địa sinh nhất thủy trực thành môn, Thử địa thương sinh bất khả ngôn, Nam nữ sinh sầu sầu quỉ bệnh, Tử nhân xâm nhập nhiễm hồn sinh. Giải nghĩa Thủy tinh bắn thắng lại thành cung, Làm hại người ta nói chẳng cùng, Trai gái buồn đầu vì bệnh quỉ, Chết rồi còn quấy bậy người hung. Chú thích rằng: Thủy tinh hay sinh tai vạ, cho người sống, khi đã chết lại làm quỉ còn quấy người sống.

Trang 96


http://www.tuvilyso.com

Một thế đất mộc tinh Mộc huyệt này thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Nhất mộc địa đồ (hung) Thi vân: Nhất mộc trường lai thị yểu vong, Hữu biên như xích trực trung xung, Tiền khuyết vô viễn phong thấu nhập, Kỳ gia yểu tử tuyệt vô tông. Giải nghĩa Mộc tinh dài, lại hóa nguy vong, Bên hữu như cây thước thẳng chong, Khuyết hãm không xa nên gió thổi, Cháu con yểu tuyệt hết trông mong. Chú thích rằng: Đất này ai táng phải bị con cháu chết non, họ hàng tuyệt tộc không người nối dõi.

Một thế đất tứ mộc Tứ mộc huyệt này thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Tứ mộc huyệt đồ (hung) Thi vân: Trang 97


http://www.tuvilyso.com Chu vi tứ mộc mãn chu vi, Gia thất phu thê tử biệt ly, Nam nữ tử tôn ngu dưỡng bệnh Kỳ gia tống tử tai dư thi, Giải nghĩa Bốn bên bốn mộc giữa vuông vuông, Vợ chết chồng xa thật đáng thương, Cháu gái con trai ngu, bệnh hoạn, Nhà sáo chết hại lại tai ương. Chú thích rằng: Đất này ai táng phải vợ chồng ly biệt, lúc chết không được gặp nhau, trong nhà tai nạn khốn khổ.

Tứ thổ tiêu phong đồ Tứ thổ huyệt này xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Tứ thổ phong (hung) Thi vân: Tứ thổ đồng hoành tọa tỉnh hôn, Phần doanh u ám hàn vô môn, Kỳ gia nam nữ phi tai quá, Hình ngục thường ly khốn tử tôn, Giải nghĩa Bốn thổ ngồi ngay bốn góc rồi, Âm u phần mộ bách không thôi, Tai bay vạ gió đâu đưa lại, Con cháu oan khiên khám ngục ngồi. Chú thích rằng: Đất này phần bị tối tăm âm u, bị gió lọt nên trai gái trong nhà đều bị tai bay vạ gió, con cháu bị mắc oan khiên.

Trang 98


http://www.tuvilyso.com

Đinh đầu phá trực đồ Bạch hổ có chữ đinh này thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Đinh đẩu phá trực đồ Thi vân: Bạch hổ đinh đầu bất khả quan, Kỳ gia tiên tử bị gian nan, Toán lại hà phạm thành hung phạm, Đoan bản đinh đầu phá hổ san. Giải nghĩa Bạch hổ đinh đầu chẳng phải chơi, Chết tươi khốn nạn thảm thương người, Vì đâu đến nổi ta nên biết, Chỉ tại đinh đầu phá hổ thôi. Chú thích rằng: Đất này bạch hổ bị chữ đinh đóng ở đầu, nên bị chết tươi.

Mộc phá đoạn kim đồ Đoạn kim này thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Mộc phá đoạn kim đồ (hung) Thi vân: Trực mộc long biên gia đạo phá, Nam nhi yểu tử nữ cao giá, Tôn tôn tử tử bị đao thương, Trang 99


http://www.tuvilyso.com Phụ phụ phu phu thành cô quả. Giải nghĩa Mộc tinh thẳng tắp phía thanh long, Trai chết còn non, gái muộn chồng, Góa bụa chiếc thân côi cút nữa, Cháu con khôn tránh lưỡi gươm đồng. Chú thích rằng: Mộc tinh bắn thẳng bên thanh long nên con trai chết sớm mà con gái muộn chồng, cả nhà góa bụa cùng côi cút.

Hữu lộ vô yên đồ Nữ nhi nam tử chết còn thiếu niên, xấu. Thơ rằng: Phần phiên âm Hữu lộ vô yên đồ Thi vân: Hữu lộ viên tú khuyết vô yên, Nam nữ câu ly tử thiếu niên, Nam bị đao thương binh trận thất, Nữ nhân cô quả bất an tuyền (toàn) Giải nghĩa Móc đã tròn nhưng khói lại không, Gái trai đều chết trẻ lung tung, Trai bị gươm đao ra trận chết, Gái thì côi cút chẳng thong dong. Chú thích rằng: Đất này nam tử nữ nhi đều mắc tai vạ mà chết non, còn người con gái côi cút mà chẳng an toàn.

Trang 100


http://www.tuvilyso.com

Tả biên mộc trực đồ Mộc tinh bức thẳng bên thanh long thì xấu Thơ rằng: Tả biên mộc trực (hung) Thi vân: Tả biên mộc trực bức long biên, Nam tử tiên tri tử thiếu niên, Nữ nhân thư thái an kỳ thất, Đoan bản hổ cung vô phạm cùng. Giải nghĩa Mộc tinh bức thẳng tả thanh long, Biết trước con trai chết trẻ trung. Con gái an nhàn thư thái khá, Bởi vì bạch hổ vốn ung dung. Chú thích rằng: Bởi tại mộc tinh bức hại bên thanh long quá, nên con trai bị chết, con gái được an nhàn, bởi vì bên bạch hổ không bị phạm.

Hữu biên mộc trực đồ Bạch hổ bị mộc tinh phá, xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Hữu biên mộc trực (hung) Thi vân: Hổ biên mộc trực phá phần gia, Nữ tử trực vi yểu tử ma, Nam hữu tử tôn an tính mệnh, Trang 101


http://www.tuvilyso.com Trung niên bị bệnh tử vô ta (sai) Giải nghĩa Mộc tinh bắn thẳng phá âm phần, Con gái xui nên chết bất thần, Con cháu phía trai may cũng đỡ, Nửa đời bị bệnh chết mòn dần Chú thích rằng: Bên bạch hổ bị trực mộc phá nên con gái bị chết non, còn bên con trai tạm được an toàn, nhưng đến nửa đời người rồi cũng chết mòn.

Hữu yên vô lộ đồ Cao đầy không móc thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Hữu yên vô lộ đồ (hung) Thi vân: Hữu yên cao hậu trật vô lộ, Lộ trực xung phần nữ vọng gia, Nhược thú bản hương thân thất tử, Viễn thân định thị dã vinh hoa, Giải nghĩa Có khôi cao đầy móc lại không, Thẳng đường xông mộ gái xa trông, Ở làng có lẽ thân mình chết, Làng khác vinh hoa có thể mong. Chú thích: Đường thẳng xông vào phần mộ nên con gái xa cách chỉ biết tưởng vọng về nhà, ở làng mình thì xấu, mà đi làng khác lại hay.

Trang 102


http://www.tuvilyso.com

Trùng long hoán thê thiếp Đã trùng long nước chảy xuyên trong là xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Trùng long hoán thê thiếp (hung) Thi vân: Trùng hữu long trùng thủy nội xuyên, Nam nhân thê thiếp bất an tuyền, Thất gia nghinh tống tam đại trụng, Thủy định duyên hài định số nhiên. Giải nghĩa Trùng long trong nước chảy xuyên, Đàn ông hỏi vợ tiếp liền mấy phen, Dâu gia đón rước liên miên, Ba lần mới định nhân duyên sắt cầm. Chú thích rằng: Trùng long nước chảy xuyên trong, Nên thê thiếp chẳng an toàn, ba đời cưới vợ duyên hài mới yên.

Trùng hổ hoán phu đồ Trùng hổ liên lai thì xấu Thơ rằng:

Trang 103


http://www.tuvilyso.com Phần phiên âm Trùng hổ liên lai hoán phụ đồ (hung) Thi vân: Trùng hổ liên lai nữ hoán phu, Triêu nghinh mộ tống bất tri tu, Chí tam tri định, thành gia thất, Tỉ dực uyên ương thủy thượng du. Giải nghĩa Bạch hổ liên lai gái cưới chồng, Chiều đưa sớm đón hổ hay không Ba phen mới được yên gia thất, Chắp cánh uyên ương giữa cánh đồng. Chú thích rằng: Bởi vì bạch hổ lại liền hai lần, nên con gái phải góa chống ba đời mới thành gia thất.

Loan cung bão ngoại đồ Thơ rằng: Phần phiên âm Loan cung bão ngoại đồ (hung) Thi vân: Loan cung bão ngoại chủ tha hương, Nữ tử vong gia tử ngoại phương, Hổ vĩ hướng lai gia diệc phú, Nư nhân tất dã thọ nhi xương. Giải nghĩa Vòng cung chủ thịnh tha hương, Vong gia con gái chết đương ở ngoài, Hổ đuôi hướng lại giàu hoài Thọ xương con gái phát tài phương xa. Chú thích rằng: Vì vòng cung hướng ngoài nên đi tha phương thì mới thịnh, vì đuôi bạch hổ thanh thế đàng hoàng nên con gái làm ăn thịnh đạt giàu có mà thọ khảo.

Trang 104


http://www.tuvilyso.com

Thủy xuyên đồ Hoa nguyệt con gái dâm phong, xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Thủy xuyên, nữ dâm phong (hung) Thi vân: Thủy xuyên hổ tý nữ dâm phong, Hoa nguyệt tâm đam sở mộng cung Hạnh hữu nam nhi cổ phú hĩ, Tuyết ư gia xỉ thất hưng long. Giải nghĩa Nước xuyên tay hổ gái hoang dâm, Hoa nguyệt mê man đã quá tầm, May có con trai mà giàu có, Cửa nhà thịnh vượng sửa sai lầm. Chú thích rằng: Nước xuyên bạch hổ nên con gái đam mê hoa nguyệt, mộng Tần mơ Sở may được người con trai giàu có mới rửa được cái nhục cho nhà nhưng phải bệnh mù.

Long phi hổ khứ đồ Đất phát ăn mày là xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Long phi hổ khứ, khất cái (hung) Thi vân: Trang 105


http://www.tuvilyso.com Long phi hổ khứ chủ tha hương, Phiêu bạc nam nhi tán tứ phương, Kham tiếu gia trung vô nhất vật, Nhi tôn khất thực thiên môn thương. Giải nghĩa Rồng bay hổ chạy ly hương, Con trai lưu tán bốn phương chơi bời, Nhà không một vật ăn chơi, Cháu con khất thực bên trời đau thương. Chú thích rằng: Vì long phi hổ khứ, nên tính thích đi xa phiêu bạt bốn phương, mà kết cục trong nhà không có lấy một vật, đến nỗi con cháu phải đi ăn mày.

Phúc chưởng đồ Hình như bàn tay úp là xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Hình như phúc chưởng (hung) Thi vân: Hình như phúc chưởng phục vô sơn, Chính thị nhân sinh ngọa bệnh gian, Nam nữ tất nhiên câu khốn khổ, Kỳ gia tật bệnh bất năng an. Giải nghĩa Hình bàn tay úp không non (núi) Chính nơi bệnh hoạn héo hon suốt đời. Gái trai đau ốm không ngơi, Cả nhà tật bệnh chẳng người nào yên. Chú thích rằng: Bàn tay úp chủ tật bệnh nhiều con trai con gái đều vất vả trong nhà tật bệnh chẳng lúc nào yên.

Trang 106


http://www.tuvilyso.com Tàng sơn đầu đổ Thê thiếp cao thanh thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Tàng sơn đầu (hung) Thê thiếp cao thanh Thi vân: Bất thùy huyền vũ viết tàng đầu, Nam nữ vô nam chủ tử sầu, Thê thiếp cao thanh tinh đại ngữ, Đọa kỳ gia đạo lực nan trì. Giải nghĩa Tàng đầu, huyền vũ trơn tru, Lấy chi ủng hộ đền bù đàng sau. Gái trai không có con dâu Mua sầu chuốc não nàng hầu tiếng to. Nào thê nào thiếp dày vò. Khuynh gia bại sản còn to cái mồm. Chú thích rằng: Bởi không có huyền vũ nên gọi là tàng đầu, thế chinh không vững, rất khỏ bảo nhau trong nhà lộn xộn, đạo nhà tan nát, chỉ vì thê thiếp nhiều lời.

Huyền vũ thượng đầu đồ Thượng đầu huyền vũ phạm sát là xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Huyền vũ thượng đầu (hung) Thi vân: Thượng đầu huyền vũ phạm hà đa, Tôn tử nhân sinh tử yểu ma, Tiên tử trưởng nam nan tẩu miễn Quý phòng hậu bại diệc kham ta. Giải nghĩa Trên đầu huyền vũ phạm vào chi, Con cháu sinh ra sống, chết đi, Trước hết trưởng nam đà khó thoát Đến sau con út chẳng ra gì. Trang 107


http://www.tuvilyso.com Chú thích rằng: Bởi vì huyền vũ thượng đầu phạm sát nên con cháu gian nan, lúc sống đau thương khi chết trưởng nam chết trước rồi con út cũng chết sau.

Vô huyền vũ, khuyết tiên ông Không có huyền vũ gọi là huyền không, xấu. Thơ rằng: Phần phiên âm Vô huyền vũ, khuyết tiên ông (hung) Thi vân: Địa vô huyền vũ hiệu huyền không, Định thị gia trung khuyết tổ ông, Nam nữ yêể vong ly khốn khổ, Kỳ gia tôn tử tất nhiên cùng. Giải nghĩa Đất không huyền vũ gọi huyền không Đóng đủ trong nhà chỉ thiếu ông Trai gái chết non hay khốn khổ, Cháu con nghèo túng bước đường cùng. Chú thích rằng: Bởi không có huyền vũ, cho nên ông không thọ, trai gái cũng chết non, cảnh nhà vất vả lầm than.

Chưởng trung hình đồ Bốn thế hình như bàn tay khá tốt Thơ rằng: Phần phiên âm Chưởng trung hình đồ (khả) Thi vân: Tứ thế hình như chưởng nhân trung, Toàn gia phú thọ diễn vô cùng? Trang 108


http://www.tuvilyso.com Nam nhi tất hữu đa tài bạch Nữ tử năng tinh nghệ nghiệp thông Giải nghĩa Hình tựa bàn tay đất mới hay, Cả nhà phú quý thọ khang thay, Con trai của cải dư thừa để, Con gái tinh thông nghệ nghiệp thầy. Chú thích rằng: Thế đất như giữa bàn tay, chủ thu vào, cho nên giàu có thọ khang con trai giàu có con gái cũng vẻ vang.

Thái cao địa đồ Gia thất rất hiền ở cao, xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Thái cao địa đồ (hung) Thi vân: Gia thất thâm hiềm sử thái cao, Kỳ gia tật bệnh hoạn gian lao, Liên miên sàng tịch tư đồ thiết, Tài tán vong gia vật đại hao. Giải nghĩa Nhà, đất kiêng thay chỗ quá cao, Người hay tật bệnh lại gian lao, Nằm trên giường chiếu liên miên nghĩ, Lo lắng ngày đêm của cải hao. Chú thích rằng: Âm phần cũng như nhà ở, không nên cao quá, nếu không kiêng được thì hay sinh bệnh tật lo âu, tiền tài của cải hao tán.

Trang 109


http://www.tuvilyso.com

Bạch hổ xạ long đồ Bạch hổ bắn phải thanh long thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Bạch hổ xạ long đồ (hung) Hổ xạ thanh long nam bất trường, Trung gia trưởng thập bệnh liêm sàng, Mục manh túc chiết thương đầu thống, Khốn khổ nam nhi bất kiến xương. Giải nghĩa Thanh long bị hổ bắn sang Con trai chẳng thọ nhà mang bệnh liền Đau đầu đau mắt liên miên Gẫy chân khốn khổ oan khiên chẳng lành. Chú thích rằng: Bạch hổ bắn sang thanh long, tất cả là phía bên con trai bị hại, trong nhà tật bệnh luôn luôn, con trai vất vả làm ăn chẳng thấy gì thịnh vượng.

Thanh long phạm hổ đồ Thanh long phạm vào bạch hổ thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Thanh long phạm hổ (hung) Thi vân: Trang 110


http://www.tuvilyso.com Thanh long phạm hổ nữ vô lương, Tất kiến gia trung nữ hữu thương, Thương hổ quá ư long xạ hổ, Nữ nhân tật bệnh bất duyên trường. Giải nghĩa Thanh long phạm hổ tai ương, Trong nhà con gái thường thường bị đau, Hổ thương bởi tại long đầu, Con gái tật bệnh mệnh hầu khó qua Chú thích rằng: Bạch hổ bị thanh long bắn sang mình, nên phía con gái không tốt, trong nhà tật bệnh liên miên, nên mệnh khó tuyền.

Tán thủy đồ Lưỡng vĩ thủy song phi thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Tán thủy (hung) Thi vân: Lưỡng vĩ phi phi bất bão hồi, Kỳ gia trưởng nữ tẩu bồi hồi, Thời sư bất thức mê huyền tự, Cấp tốc phiêu lưu bại tất thôi. Giải nghĩa Hai đuôi bay cả chả quay về Gái lớn nhà ta bối rối ghê. Thầy đốt mê man huyền tự đó, Chóng cháy phiêu bạt cách san khê. Chú thích rằng: Hai đuôi thanh long bạch hổ cùng bay ra đi không có thế bao bọc về, hơn nữa hai ngọn nước cũng chảy theo đi nên người con gái lớn có vẻ lo âu vi gia cảnh dễ phiêu lưu vậy.

Trang 111


http://www.tuvilyso.com

Đẩu tả đồ Minh đường sinh đẩu tả thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Đẩu tả đồ (hung) Thi vân: Mạc khiển minh đường sinh đẩu tả, Tài tán nhân vong tức cô quả, Thời sư bất thức mê huyệt kỳ, Tôn tử thời thời phòng độc ngọa. Giải nghĩa Minh đường nước cứ rót đi, Tán tài vong mệnh người thì quả cô, Thấy vườn không biết táng vô, Buồng không con cháu nằm khô một mình. Chú thích rằng: Minh đường bị nước rót đi mạnh quá, nên bị mất của, chết người, cháu con góa bụa, tình cảnh nghèo nàn khốn cực.

Thần tiền đồ Trước minh đường mà có miếu thần thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Thần tiền đồ (hung) Thi vân: Thần tại tiền đường ám nhãn hôn, Trang 112


http://www.tuvilyso.com Cuồng phong tật liệt cuống nan ngôn, Hựu thiêm ấm á ly tôn tử, Thử huyệt thương nhân bất khả luân, Giải nghĩa Thần ở trước nhà mắt tối tăm, Cuồng phong tật bệnh nổi lăng nhăng, Lại thêm ấm á cho con cháu Huyệt hại người thời hết nói năng. Chú thích rằng: Trước minh đường mà có miếu thần là không tốt, nên trong nhà thường bị tật bệnh, hiểm nghèo, câm ngọng, cuồng phong, tối tăm mắt mũi.

Kiểu tiền đồ Cầu cao trước cửa thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Kiểu tiền đồ Thi vân: Kiểu phàm cao trương lập lại môn, Kỳ gia cô quả tiểu nhân tồn, Trưởng nam tiểu nữ vinh hoa dự, Trưởng ngoại kham gia đắc đạo khôn. Giải nghĩa Trước cửa phàm kiều dựng nhố nhăng Nhà bà góa bụa trẻ măng măng, Trưởng nam gái út vinh hoa khá, Cháu ngoại khen thay được đạo hằng. Chú thích rằng: Trước cửa nhà mà có cầu cao bắc lên, lắm tiểu nhân lau nhau, đàn bà hóa nhưng trưởng nam và con gái út vinh dự, khá khen cháu trưởng ngoại lại thành đắc đạo.

Trang 113


http://www.tuvilyso.com

Thần cư mộc vị đồ Mộc phương có miếu thần thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Thần mộc (hung) Thi vân: Thần cư mộc vị tử vô nhân, Tuyệt tộc trung niên bị sát thân, Hạnh hữu trưởng nam vinh quý đạt, Tử tôn phong phú vĩnh vô luân. Giải nghĩa Miếu thần phương mộc hay chi, Chết không ai biết họ thì vắng tanh, May anh trai lớn hiển vinh, Cháu con phú quý trường sinh lâu dài. Chú thích rằng: Miếu thần ở mộc phương thì bị tuyệt tộc chết không ai biết nữa, đời mình lại giết mình, chỉ may được người con trai lớn phú quý hiển vinh con cháu thịnh vượng vì bạch hổ trông sang.

Bán nguyệt đồ Hình như bán nguyệt thế ít kẻ hay Thơ rằng: Phần phiên âm Bán nguyệt Trang 114


http://www.tuvilyso.com Thi vân: Bán nguyệt chi hình thế thiểu tri, Kỳ gia phú quý túc lương y, Trưởng nam khả hứa niên tăng thọ, Quý tử phiêu vong định bất nghi. Giải nghĩa Nửa giăng hình thể mấy ai hay, Phú quý tiền nong thóc lúa đầy Trai lớn thọ càng thêm tuổi hạc, Phiêu lưu con út thảm thương thay. Chú thích rằng: Hình như bán nguyệt trông lên, nên trong nhà giàu có vượng nhất là người con trai trưởng đã phú quý lại thọ khang, chỉ thương thay cho người con gái út phải phiêu lưu không định.

Khuyển ngọa đồ Hình như khuyển ngọa là tốt Thơ rằng: Phần phiên âm Khuyển ngọa Thi vân: Hình như khuyển ngọa thiếu phiêu lưu Ký thực quyền gia đắc sở ưu, Nhất tự thánh quân chuyên bính dụng. Quyền sưu ư thế thụ công hầu. Giải nghĩa Khuyển ngọa phiêu lưu lại tốt duyên, Quyền môn ăn gửi sướng như tiên, Thánh quân tín dụng giao quyền bính, Chức trọng quyền cao lại lắm tiền, Chú thích rằng: Đất hình khuyển ngọa dẫu có phiêu lưu ít nhiều, nhưng được thánh quân giao cho chức quyền, quyền hành vượt cả vương hầu.

Trang 115


http://www.tuvilyso.com

Ngưu miên đồ Ngưu niên là đất phú quý (tốt) Thơ rằng: Phần phiên âm Ngưu miên (cát) Thi vân: Miên ngưu kỳ địa phú thiên niên, Gia thất ưng tri tất hữu quyền, Nhất tự miếu đường đăng bính dụng, Tam phần điền địa nhất phần thiên. Giải nghĩa Miên ngưu đất phát giàu sang, Cửa nhà quyền quý lại càng vinh quang Miếu đường lên xuống nể nang. Ba phần đất ruộng giang san một phần. Chú thích rằng: Trâu nằm ngủ là đất phát giàu sang, lại thêm ba bề núi mọc, như thành, đàng trước có án hẳn hoi, đàng sau huyền vũ chắc chắn, nên phát một đời vinh quang quyền to chức trọng ruộng nương muôn ngàn.

Nga đầu địa đồ Nguyệt tựa nga đầu xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Nga đầu (hung) Thi vân: Ngưỡng quan kỳ huyệt tự nga đầu, Gia thất khổ sinh vô nhân hạnh, Trang 116


http://www.tuvilyso.com Nam nữ đông tây vô xứ ngưỡng, Sinh nhân tà khúc vô nhân chính, Giải nghĩa Xét xem huyệt tựa nga đầu, Chẳng ai may mắn nhà hầu khó khăn. Gái trai không chốn làm ăn, Sinh ra giả dối mất nhân phẩm người Chú thích rằng: Nga đầu là một loài nhấm gậm nên người ta sinh ra vất vả, chẳng mấy ai được may mắn. Con trai con gái chạy chọt khắp đông tây cũng không nơi nương tựa, gia đình quẫn bách nên con người cũng chẳng hay gì.

Ngưu giác địa đồ Hình như sừng trâu phạm sát thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Ngưu giác (hung) Thi vân: Hình như ngưu giác phạm sinh nhân, Nam nữ phối đồ định hữu chân, Bản vĩ tiêm sinh danh phạm ác Kiếm đao bị tử sát thương nhân, Giải nghĩa Sừng trâu tên nhọn bắn mình, Gái trai bạn sánh nhân tình lôi thôi, Nhọn đuôi sinh phạm ác rồi, Gươm đao sát hại mình thời bị thương Chú thích rằng: Hình như sừng trâu bị tên nhọn bắn vào cho nên nam nữ có nhiều điều khó khăn, vi đuôi nhọn sinh sát, nên bị đao kiếm tử thương.

Trang 117


http://www.tuvilyso.com

Xuyên tự địa đồ Hình như chữ xuyên tới sâu thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Xuyên tự (hung) Thi vân: Hình như xuyên tự tựu vưu thâm, Táng thử nhi tôn yểu tất thâm, Đoan bản minh sư mê mục hạ, Quan quan vưu cẩn để ư tâm. Giải nghĩa Xuyên tự hình dung tới rất thâm, Táng đây con cháu chết âm thầm, Cam đoan thầy giỏi còn chưa chắc, Xem xet cho tinh kẻo nữa nhầm. Chú thích rằng: Đất hình như chữ xuyên là rất xấu, táng phải huyệt này thì con cháu chết non, thầy hay còn có thể nhầm, cho nên rất phải cẩn thận mà để tâm mới được.

Án tiêm xạ địa đồ Mũi nhọn bắn vào phần mộ thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Án tiêm xạ, khất thực, hung) Thi vân: Án nhi tiêm nhập xạ kỳ phần, Nam nữ ly gia khất thực thân, Lão trắc đông tây vô xứ ngưỡng, Trang 118


http://www.tuvilyso.com Vô y vô thực hựu vô nhân. Giải nghĩa Án mà nhọn bắn linh phần, Lìa nhà trai gái kiếm lần bữa ăn, Đông tây chạy chữa khó khăn. Không ăn không mặc không thân thích gì. Chú thích rằng: Núi án mà nhọn nhằm bắn thẳng vào phần mộ thì người con trai bỏ nhà đi, kiếm ăn đến già, chạy khắp đông tây không có chỗ nương tựa, không ăn không mặc lại không cả người thân thích nữa.

Bạch hổ khai khẩn đồ Bạch hổ mở miệng hại người thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Bạch hổ khai khẩu (hung) Thi vân: Hổ biên khai khẩu đáo nhân thương, Trưởng thọ nhi tôn, vật bất xương, Niên niên tài tán tinh đạo kiếp, Gia trung thường tổn bị ngưu dương. Giải nghĩa Mở mờm bạch hổ hại người, Cháu con dẫu thọ của thời hiểm hoi, Năm năm trộm cướp lôi thôi, Trong nhà tổn hại trâu rồi lại dê Chú thích rằng: Bạch hổ mở miệng là hại người dẫu có trường thọ nhưng con cháu không còn của cải gì, hằng năm lại bị mất trộm luôn, trâu dê tổn thất.

Trang 119


http://www.tuvilyso.com

Trực lộ đồ Đường thẳng dài ngang là xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Trực lộ (hung) Thi vân: Lộ trực trường hoành tử thiếu niên, Kỳ gia tật bệnh diệc duyên miên, Toán lai đoạn bảo lộ thường trực, Trí sử nhân sinh mệnh bất (toàn) tuyền. Giải nghĩa Đường thẳng dài ngng chết thiếu niên, Cửa nhà tật bệnh thuốc liên miên, Xét ra dài thẳng tai ương thế, Sinh mệnh xui nên khó vẹn tuyền, Chú thích rằng: Vì ba đường thẳng mà đường ngang lại dài hơn cho nên chết lúc thiếu niên, nhà ấy bệnh tật liên miên khiến sinh mệnh khó được vẹn tuyền.

Hoả xà nhập huyệt Hỏa xà nhập huyệt (hung) Thi vân: Hỏa xà nhập huyệt dã nan tri, Sinh nhân yểu tử dĩ vi kỳ, Vong gia bị tử tinh lưu thủy. Thế thế thường ly hại khả ky (ca). Trang 120


http://www.tuvilyso.com Giải nghĩa Rắn lửa bò vào mộ khó hay, Chỗ sinh chỗ chết chả bao ngày. Mất nhà chết chóc xuôi dòng nước, Tai hại luôn luôn tiếng đắng cay. Chú thích rằng: Vì hỏa xà nhập huyệt nên sinh người hay chết non, hạn chết có thể lấy làm cử, mất nhà bị chết, tiếng mỉa mai tai hại luôn luôn.

Hữu long vô hổ đồ Có thanh long mà không bạch hổ, xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Hữu long vô hổ (hung) Thi vân: Hữu long vô hổ nữ vô nhi, Tất kiến huyền tôn bất thọ kỳ, Hạnh hữu nam nhân an ngưỡng chỉ, Cơ hàn nan miễn định vô nghi. Giải nghĩa Có long không hổ đất không hay, Con gái không con cũng đắng cay, Cháu chắt cơ hàn không có thọ, Nhưng con trai có lại còn may Chú thích rằng: Đất này chỉ có thanh long nên con trai làm ăn có hy vọng lớn, không có bạch hổ nên con gái lại không có con, gia tư nghèo nàn cơ hàn khốn khổ.

Trang 121


http://www.tuvilyso.com

Hữu hổ vô long Có bạch hổ mà không thanh long cũng xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Hữu hổ vô long (hung) Thi vân: Hữu hổ vô long nam yểu thương, Kỳ gia nam trưởng mệnh nan trường, Tử tôn tật bệnh hà thời liễu, Hạnh hữu nữ nhân mệnh ích xương. Giải nghĩa Có hổ không long đất yểu thương, Đau hoài con cháu bệnh lương vương. Trong nhà trai lớn không trường thọ, May có người con gái phú xương. Chú thich rằng: Đất này có bạch hổ mà không có thanh long, nên phía con gái vận mệnh khá làm ăn thịnh vượng, còn bên phía con trai người con trưởng mất sớm, con cháu bệnh tật đau hoài, nghĩa là bên con trai hoàn toàn thất bại.

Mại điền bút đồ Đất phát ăn này, xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Mại điền bút, Khất thực (hung) Thi vân: Trang 122


http://www.tuvilyso.com Bạch hổ tiêm đầu bút mại điền viên, Gia vô nhất xích tác điền viên, Hổ lai tiêm trưởng thương nhân vật, Tôn tử niên niên khất thực liên. Giải nghĩa Nhọn đầu bạch hổ đất không hay, Bút bán điền viên hết cấy cày, Hại của hại người đuôi thẳng nhọn, Cháu con nghèo khó đến ăn mày. Chú thich rằng: Đuôi bạch hổ đầu nhọn hình như cái bút, nên người ta gọi là mại điền bút, nhà không cửa trống không có một thước ruộng vườn, bởi vì đuôi bạch hổ nhọn dài nên nó hại người hại của, năm này qua năm khác con cháu cơ hàn chỉ còn có nghề đi hành khất.

Thiên huyệt địa đồ Long, hổ, hình lệch lạc là xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Thiên huyệt (hung) Thi vân: Hổ long hình chính huyệt mê thiên, Tôn tử sinh nhân mệnh bất truyền, Đoan bản thời sư mê mực điểm, Hại nhân tôn tử vĩnh thiên niên. Giải nghĩa Long, hổ, ngông nghênh huyệt lệch xiêu, Cháu con sinh mệnh khó nguyên tuyền, Cam đoan thầy kém chưa tinh mắt, Hại cháu nguy con tại tốn tiền. Chú thích rằng: Cả hai bên thanh long và bạch hổ, hình dáng xiêu vẹo tất nhiên con cháu không hay chẳng may thầy vườn nào không giỏi để đến nổi hại con hại cháu hại cả tiền tài.

Trang 123


http://www.tuvilyso.com

Tam trực địa đồ Ba đường chạy thẳng là xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Ham trực (hung) Thi vân: Tam trực bôn bôn nữ vọng môn, Kỳ gia nữ tử viến hương thôn, Trưởng trung quý tử tinh phiêu lạc, Khất thực đông tây bất khả luận. Giải nghĩa Chạy thẳng ba đường gái ngóng ai, Cửa nhà bỏ đó đến thôn ngoài, Trưởng nam giữa út đều lưu lạc. Chạy khắp đông tây chẳng đủ nhai. Chú thích rằng: Đất này ba đường chạy thẳng nên con gái phải ra phương ngoài còn con trai trưởng nam con trai út đều lâm vào cảnh lưu lạc giang hồ đi khắp đông tây mà cũng chẳng ra gì.

Đạp thanh long địa đồ Phần mộ lập hướng thì xấu Thơ rằng: Phần phiên âm Đạp thanh long (hung) Thi vân: An phẩn lập hướng đạp thanh long, Trưởng quì nam Phòng định tảo vong, Trang 124


http://www.tuvilyso.com Tôn trưởng định tri vinh quý hữu, Quý gia nam tử tuyệt gia phong. Giải nghĩa Yên phần quay lại bước thanh long, Trai út trưởng nam sớm yểu vong May có đích tôn còn hiển đạt, Con trai trai út mất gia phong. Chú thích rằng: Phần mộ lập hướng bị đạp thanh long, nên con trưởng nam và con út mất sớm, cháu đích tôn thì lại hiển đạt giàu sang, còn con trai út đồi tệ mất hết gia phong.

Long hổ giao hoán đồ Đất phát đại phú ông, tốt Thơ rằng: Phần phiên âm Long hổ giao hoán (cái) Thi vân: Hổ long giao hoán phú gia ông, Bút tiến điền trang nhất thế hùng, Hỉ kiến quý nam niên cập đệ, Gia trung nữ tử diễn vô cùng. Giải nghĩa Hổ long giao đổi phát ông giàu, Bút tiến điền trang nọ phải cầu, Trai út đăng khoa cha mẹ thấy Trong nhà con gái cũng giàu lâu Chú thích rằng: Đôi bên bạch hổ thanh long giao hoán Trao đổi tương đương cho nên phát giàu có lớn, lại có bút tiền điền trang, một đời thế gia, con trai con gái đều được hưởng phú quý lâu dài.

Trang 125


http://www.tuvilyso.com HỒNG VŨ CẤM THƯ QUYỂN NHÌ Sách địa lý Hồng vũ cấm thư là bộ sách chép những câu nguyên văn của vua Hồng Vũ của ông Lý Bá Truyền trong khi vua tôi vấn đáp về khoa địa lý mới biên chép như dưới đây: HỒNG VŨ CẤM THƯ Niên hiệu năm Bính Dần, ngày mồng năm tháng năm vua ngự yến ở cung Khánh hoa bèn cho vời ông Lý Bá Truyền vào dưới điện đoạn phán bảo rằng: “Mấy hôm trước đây ta rất lấy làm lo ngại vì thấy cái tinh con nhạn đỏ, nó bay từ phương nam đến phương bắc, rồi rơi xuống nước ta. Vì thế ta ngày đêm lo sợ ân cần và thiết tha với tiền đồ tổ quốc cùng cơ nghiệp giang san, cứ sự thường lấy lý mà suy ra, nếu xích nhạn mà nó rơi xuống đó, là điềm lưu huyết can qua, ta rất lấy làm lo sợ vì cái dấu tai họa ấy. Ôi, hết mọi người của ta ôi, hãy nên sốt sắng lo liệu thế nào, để cho ta được yên lòng, và được hứng khởi, không có lẽ trời muốn hại ta ru? trước kia Vĩnh an tiên sinh đã viết cho ta được quyển sách hay từ gốc đến ngọn, lời lẽ vững vàng, thực thà chứng cớ, thật là đã hết lòng với ta, mà đã đem hết tâm vào đến chỗ tinh vi, ta đã công nhận. Đến ngày nay ta đã khá nhiều cũng là nhờ ở thì càng hay khí thiêng trời đất, nhưng người có tuổi thì hay nghĩ về mai sau, phải chăng đó cũng là để giữ gìn cho dòng dõi được lâu dài, nghĩa là ta cũng phải nhờ ở khí thiêng trời đất, nhưng người có tuổi thì hay nghĩ về mai sau, phải chăng đó cũng là để giữ gìn cho dòng dõi được lâu dài, nghĩa là ta cũng phải nhờ ở khí thiêng non sông giúp sức. Vậy tiên sinh nên dốc chí cùng ta ân cần lo lắng cẩn thận soạn chép một sách cũng như lời lẽ uyên nguyên diệu lý của các bậc tiên hiền tiên thánh. Đâu mới phải là chân long? Làm sao mà biết rõ ràng được xấu tốt. Đâu là hình dáng mạch lạc tốt lành, hay không; sửa sang và gom góp, rồi khắc bản in, vẽ họa đồ, để truyền lại cho trong Hoàng môn cẩn thận chớ để tiết lộ ra ngoài, ở đời thì nghĩ mà coi chẳng có người nào khôn ngoan hiểu biết nào mà chẳng muốn giữ gìn cho mình được hoàn toàn ở trên mảnh đất này vậy. Ông Lý Bá Truyền tâu rằng: “Cái việc hôm trước mà xích nhạn lưu hình, từ nam chí bắc, rồi rơi xuống đất nước ta, hạ thần xin thưa: đó là vi phương nam nhân khí hỏa mà hóa ra đó, màu huyết sắc dẫu rằng là điềm binh huyết, song lẽ nó rơi xuống trúng vào chỗ là nơi thủy phương. Nước hay chế được lửa thế thì tất là lửa phải diệt vong, vậy xin bệ hạ không nên lo nghĩ quá nhiều về việc đó, vì hạ thần trộm thấy trong sách Địa lý Bí Thư có chép rằng: Địa lý đặc biệt thì cần nhất là đối với Huyền vũ, nếu là đất ở miền nam, thì lại quý ở chu tước, vì thế cho nên xích nhạn đã phải thần phục đến đất nước ta, thì ta không cần phải lo lắng so sánh hay bàn bạc về việc binh nhung, mà vẫn giữ được quốc lộ, uy nghi đế nghiệp lâu dài, chính là nhờ có những danh sơn đối với thiên hạ vậy, ví như tổ sơn xuất từ núi Côn lôn ở phương Kiền (Tuất) mà mạch liền đến bắc đến núi Thái hành sơn mới nhập thủ vậy, vả lại lộ trình đường xá của nước ta đi phải hơn ba tháng cũng chưa hết, đó là xem trong bản đồ của hoàng gia, từ trời tới đất chẳng có chỗ nào là chẳng phải đất của nhà vua, từ khi khai tịch đến giờ, chẳng có ai là chẳng bày tôi nhà vua. Nay bệ hạ muốn lo cái kế lâu dài thì trước hết, đối với tổ tôn phải làm sao cho thật là đắc hiếu, thì tổ tôn được yên nơi chín suối, cũng là bởi con cháu hết lòng hiếu thảo mà lo việc thờ phụng tổ tôn, muốn được như thế thì phải am thông địa lý, vì muốn giữ gìn dòng dõi lâu dài sau này, tất nhiên phải nên cẩn thận soạn chép quy mô thi hành cách thức những khuôn phép kỷ cương, phải ý chí hợp thành, phải noi theo những khuôn vàng thước ngọc cũng như là đã am thông được tinh vi địa lý biết thờ phụng tổ tôn thì tiền nhân được yên vui nơi chín suối có thế thì Trang 126


http://www.tuvilyso.com mới phù hợp công đức của tổ tôn, để ứng phát cho con cháu và điều cần thiết là ân cần mưu đồ hạnh phúc cho nhân dân cũng như là mang ơn xuống cho thiên hạ thì mới có thể thịnh vượng lâu dài. Hai điều ấy có thể tự tục cứu nguy. Vua khen rằng khéo vậy thay, lời nói của khanh vậy, nay ta muốn cùng với tiên sinh hội ý để thuật rõ những câu văn mà trong khi vua tôi đã nói, sau thành mấy bản cấm ngôn sau này vậy. Vua lại phán rằng ta nói ta muốn hợp thức hóa những cái gì gọi là khuôn phép, về pháp môn gia truyền thì xin tiên ngẫu hứng mà đối đáp cho hay bấy giờ vua mới ngự chế rằng: Long hổ huyền đàn, xuyên quỉ tâm, phá quỉ đỗ, hà vị vô linh. Kẻ ngu này đối rằng: Qui xà hợp khí, thông khôi vị, nghịch thiên cương, thùy vân bật diệu. Ông Lý Bá Truyền tâu rằng: Hạ thần học thức hẹp hòi chỉ biết những câu thường thức chưa được rõ trí tuệ của bậc thánh, vậy xin bệ hạ giảng trước cho những nghĩa câu: huyền đàn long hổ, dùng cách nào để cho được rõ chân long. Vua phán rằng: Huyền đàn là nơi thượng trường cấm quỉ, còn như nói rằng: dùi tim quỉ phá bụng quỉ ấy là nối gia pháp của bị kế, ngày hôm nay ta dùng đó, lấy làm ví dụ vì chính mạch đất khởi đầu từ núi Thổ sơn mà lại đế chỗ nhập thủ khai kiềm là thanh long và bạch hổ, bản thân ngồi ở nhà trung chính đoan trang thì gọi là huyền đàn kiểm quyết mà nói rằng là xuyên quỉ tâm, thì cũng như là cấm địa, mà hình như có đường thẳng bắn vào, hoặc là nước nhân có gió đưa lại thổi vào, phạm đến quỉ môn, còn như nói rằng phá quỉ đỗ, ấy là thổ vậy, đất quận ở giữa thì như thấy thanh long bạch hổ trong cuộc rồi mà đường đứt, tên gọi là thiên tâm, đó là hai cái ấy có thể chủ phạm vào tội chết như là bị giết phanh thây, bị giết cả chín họ hoặc lưng bắn phá mặt đường, thì bị chết non đói khổ trôi dạt hay chết mất xác ấy vậy. Vua lại phán hỏi rằng qui xà hợp khí là, nghĩa làm sao? Ông Lý Bá Truyền thưa rằng: “Chân võ thiên sứ vâng sắc lệnh ngọc hoàng để trừ ôn dịch cấm quỷ dữ, thiên sứ cỡi mây bay xuống, xuống tới nhân gian chỉ huy luật lệnh, bấy giờ quỉ hóa làm rùa rắn hợp hình phụng mệnh chịu chết, đó là ngụ ý của hạ thần, dùng làm gia pháp ngẫu nhiên xin đối câu trước, ví bằng địa trục xuất hiện linh qui, thì lấy thanh xà làm án, chính đất âấ là đất phát xuất tam công cửu khanh, lại càng là đất quý vậy. Ví bằng muốn biết khôi vị ấy, thì là hà khôi ở Tuất mà Tuất phương có nước thẳng xung, hoặc thiên cương ở Thìn mà Thìn phương có nước bắn thẳng, hoặc vì nước chảy đứt đường ở Thìn Tuất trong cuộc hẳn là con trai con gái, con cháu phải chết non chết mất xác, mà mình cũng không được thọ, ấy là dấu thanh long kết cục hẳn hoi, chiếu đối phân minh, mà bị phạm sát hại quá dữ, vậy nên chắc bản in, làm đồ bản, để vào sách cấm thư này vậy.

Bên hữu trên đây nói, về linh qui, mà lấy xà làm án, thì là xuất công khanh, vì bị tuất phương nước ngấm vào nữa, cho nên người ta gọi một tên là thiên cương thủy, Trang 127


http://www.tuvilyso.com một tên là hà khôi thủy, lại một tên nữa là hoàng tuyền thủy chủ rằng chỉ bị chết non chết mất xác cho nên mới nói rằng là qui xà bất linh là thế, thì dầu có phát đạt làm quan đến chức công khanh, nhưng chẳng được thọ vậy” Ngày hôm ấy buổi sáng mai đã muộn, vua thấy con trai ông Lý Bá Truyền tên là Lý Bá Cơ cùng đứng hầu dưới bệ ngọc, vua cười và phán rằng mày là con trai đã đến 18 tuổi rồi, đã biết tâm tính minh hiền hay không như thế nào? Vua bèn ngự chế một câu rằng: Nam dĩ thành nhân nhân tính ác nãi ly huynh đệ. Kẻ ngu này đối rằng: Nữ niên ký thập, thập bất trừng xú cập cô di. Ông Lý Bá Truyền tâu rằng hạ thần cúi xin hoàng đế giảng nghĩa cho câu thành nhân. Vua phán rằng đại phàm luận về hình đất thì ta hãy dùng thân người làm tỷ dụ, để mà dạy cho rõ ràng. Núi tổ sơn gọi là đầu óc tai mắt, long được tự nhiên là bản thân, huyệt bởi thế mới ở âm nang tuyền hộ, là chỗ chủ sát, mở miệng kim ra, đôi đất là thanh long và bạch hổ bởi thế mới thành chân tay huyệt nước là huyệt mạch, là then chốt họa phúc rất quan hệ của người ta, nước cũng như huyết thuận hòa thì người ta sống lâu, huyết nghịch dữ thì người ta chóng chết, cho nên nói rằng người ta tính thiện hay tính ác đều là bẩm ở huyết, long hành lành hay dữ phải dùng cách xem mạch nước đi là biết trước được. Ví dụ như miệng mũi con người ta bỗng như phát ra chỗ sinh khí là cái chỗ mà người ta thở ra hút vào, nếu đất nào mà không có minh đường, thì cũng như con người ta mà không có tai mắt miệng mũi vậy. Huyết ấy là chỗ âm nang tuyền hộ, mà minh đường là chỗ chứa nước cũng như con người ta chứa máu. Trong huyệt cần phải tránh gió như là tránh giặc. Ngày hôm nay ta đã giảng người con trai đã thành nhân chẳng phải là Lý Bá Cơ đâu. Vì chính con trai thì thuộc về thanh long địa vị, nếu mà thanh long đường đi thấy có chữ nhân, hoặc đất chạy hình như chữ nhân, ví bằng như phần mộ mà có như thế, là chủ con cháu anh em phân tán lìa làng bỏ tổ mà đi rồi có khi phải tội đồ lưu tù đầy trách phạt đuổi về. Ví bằng huyền vũ có nhân tự thì chủ rằng trong họ chỉ có mỗi một người, chính phép phải xem từ núi tổ sơn mà xem xuống, hoặc là có một hai ba bốn năm tám cắp, núi liên kết mạch dẫn mạch tất cả các núi, nhưng điều cốt yếu là phải xem xét hễ thấy tương sinh là rất hay, nhược bằng nó có tính cách hình khác là rất xấu, mạch đi đếu chỗ thủy giới, thì trước hết hãy xem mà nhận lấy chỗ nào hình như mở cái miệng kim ấy là chỗ có huyệt. Nhược bằng chưa dứt mạch hết, mà đã mở miệng kim hẳn ấy là mạch tán. Trong kinh điển sách Địa lý nói rằng mạch hết thì nên đề phòng chỗ khí tuyệt, đất ấy mà táng thì hẳn là không có con cháu nối dõi về sau, nhược bằng được chính ở chỗ trung chính mạch đã hết mà thanh long bạch hổ hai bên hóa ra làm bao la lỗi lạc thấy hình như cái bình hạc đương rót rượu thì con cháu giàu có sang trọng bền đỗ lâu dài. Hoặc là theo ở dạng khác, từ bên ngoài mà lại, hóa ra làm thừa khí, hoặc là đàng trước chỗ núi bản thân có hình như chiếu đệm thì lại càng tốt lắm, chỗ dính dáng có chiếu đệm thời con cháu nối dõi làm ăn thịnh vượng. Ngày hôm nay ta đã giảng rõ nghĩa người con trai đã thành nhân, nhưng từ chữ nhân tự trở xuống hoặc có dao nhọn, hoặc có chỗ nào phạm vào sát ấy, ví bằng ta chẳng giết người ta thì kẻ khác đó cũng giết ta ấy vậy. Lại nói rằng: đường đi có chữ nhân là dấu ta phải giết người, nên phải tội hình ngục tù đồ, nhược bằng nước chảy thành hình chữ nhân, mà có nhọn thì là dấu kẻ khác nó rình giết ta hoặc là đất chạy như hình chữ nhân cũng là chủ rằng dấu bỏ làng bỏ quê hương bỏ tiên tổ mà đi, hoặc đến nổi phải bị chết đường chết non chết mất xác vậy, đây là những ý tứ rất mầu nhiệm, vậy chừng trong một tháng phải khắc bản in làm đồ bản cho được vậy. Trang 128


http://www.tuvilyso.com Bản đồ dưới đây khởi tố trước hết là kim tinh, thứ nhì là mộc tinh, thứ nữa là thổ tinh, thứ nữa là thổ tinh, lại thứ nữa là hỏa tinh.

Đến chỗ huyệt mở miệng kim long, huyệt nhân vì có hỏa tinh nên gọi là quải đăng (treo đèn), huyệt treo đèn ở long huyệt thì chóng phát mà cũng chóng tàn. Lại một tên nữa là huyền vũ trác bút, huyệt này thì trưởng phòng thi đậu khôi khoa. Hoặc là xem tuổi người chết có nạp âm, hoặc là sinh nhân nạp âm, bút sơn ở trường sinh hoặc ở lâm quan, hoặc ở đế vượng, hoặc ở thai dưỡng, ở những phương ấy thì là phương rất tốt, có thể chiếm bảng khôi khoa, một lần đi thi là thiên hạ biết tiếng tăm tên tuổi. Nhược bằng bị đóng vào cung bệnh, thì đương khoa mà mắc bệnh, nhược bằng đóng vào cung tử thì vừa đỗ mà chết, hoặc đóng vào cung tuyệt thì vừa trúng khoa mà bị chết, hoặc đóng vào cung suy thì mãi đến tuổi già mới đỗ, hoặc đóng vào cung mộc dục thì vừa có khoa thi là phải tội, hoặc đóng vào cung mộ thì vừa có khoa thi là nhập mộ. Đó là luận về những cái huyệt mà có quải dâng thì dẩu rằng đã có thanh long bạch hổ củng phục núi tổ khởi mạch, năm sao hình khắc, mà thanh long trên mình có nhân tự phạm sát, hoặc nhân tự bên dưới có dao nhọn thì tất nhiên con cháu bị phải phạt hình ngục hay là bị giết cả chín họ giết cả mọi người thuộc về mình thí dụ như ngày nay nước ta có nhà họ Vương dùng tổ phụ nạp âm kim mà táng ở huyệt có quải đăng, con cháu sớm thì văn hoa phú quý, mà muộn thì lại bị hình ngục chu di, đó là như thế đó, ngày hôm nay ta đã chứng minh, ta đã giảng rõ những cái bí quyết huyền diệu của thanh long có nhân tự rồi vậy, vì bằng bạch hổ mà có thập tự thì cũng nên nói rõ ràng. Ông Lý Bá Tuyền tâu rằng hạ thần học thức hẹp hòi trí mọn tài hèn, chưa nghĩ ra được tri thánh, nhưng đại để con gái tuổi mới lên mười mà cha mẹ chẳng hay răn dạy, tất nhiên nó sinh ra bậy bạ xấu xa rồi xấu lây đến cả bà cô bà dì. Nay hạ thần dám thuật lại để đối với câu đối của thánh thượng, lấy những bí quyết trong sách địa lý mà đàm luận vi như bạch hổ có hình chữ thập hoặc chữ thập ngay ở đường đi hoặc chữ thập ở chỗ nước chảy hoặc chữ thập ở chỗ đất sang. Vì bạch hổ là thuộc về nữ nhi địa vị con gái hẳn có thói dâm, hình phạm sát có khi trốn tránh cùng trời rồi rút cục cũng bị chết đường ở nơi tha phương đất khách Lại có lời bí quyết rằng chữ thập ở phương đông hại vì rối loạn rồi bị thắt cổ, chết chữ thập ở phương tây bị vì binh đao trận thế khí giới hiểm nghèo mà chết mất xác, chữ thập ở phương nam thì bị hỏa tai bị ngục hình chữ thập ở phương bắc thì bị chết đuối chết chìm, chết mất xác, chết trôi sông, chữ thập ở phương tốn thì con trai con gái bị chứng cuồng phong, chữ thập ở phương khôn thì tổn hại lục súc của nhà, chữ thập ở phương kiền thì bị giặc bại, chữ thập ở phương cấn thì tật bệnh liên miên, hình núi như đổ nghiêng như siêu vẹo như chỉ trỏ như nhằm bắn vào nhau thì bị hình phạt chém giết thú đồ. Trang 129


http://www.tuvilyso.com Về bên bạch hổ thì phần hại về phía những người con gái, về bên thanh long thì phần hại về phía những người con trai ví bằng chu tước có chữ thập thì cả họ đều phải khổ đó là những vi chỉ bí quyết này.

Bức họa đồ bên hữu trên đây, là mạch dẫn tương sinh, mà được thanh long bạch hổ cũng phục vào nhau, cho câu đối tương đương là rất tốt. Nếu bị chữ thập phạm vào cung phạm sát thì chủ rằng bị hình thương. Vua phán rằng huyền diệu vậy thay, bao nhiêu những điều bí quyết giảng truyền nên khắc bản in mà để lưu truyền làm gương sáng cho con cháu lâu dài. Ngày mồng năm tháng năm, năm Bính Dần vua ngự yến ở diện Khánh Hòa ngày hôm ấy là ngày Đoan Ngọ vừa gặp phải ngày cương đương nóng nảy quá chừng thật là khó chịu vua phán bảo rằng trời đương là lúc khô khan hạn hán rồng ẩn dưới ruộng sông khô phơi bờ, chẳng biết làm thế nào để giúp cho việc mưa móc. Ngày hôm nay ta thuật lại chuyện long đồ vậy xin tiên sinh góp sức cho có hào hứng đối đáp cho vui, vua ngự chế rằng: Long bàn khô tỉnh nãi vi hình hãm chi long. Kẻ ngu này đối rằng Hổ tẩu trường đồ tất thị bôn vong chi hổ. Rồi ông Lý Bá Truyền lạy tạ mà tâu rằng hạ thần kiến thức hẹp hòi tài năng bỉ ổi chưa thấu hiểu ra được thánh tri, dám xin bệ hạ giảng rõ cho chính cái ý nghĩa câu đó. Vua phán rằng nay gặp giữa cái tiết đoan dương, khí trời nóng quá đến nỗi suối cũng phải khô khan, rồng bay dấu vết vắng tanh, chẳng biết làm thế nào hay để giúp cho người tưới nhuần cho ruộng vậy nên ta dùng thí dụ để bảo rõ cho địa hình địa thế chia ra lợi hại làm sao dùng đó nên phép học của nhà ta đại phàm địa hình thì thanh long bạch hổ khởi đầu từ núi tổ sơn dẫn mạch đến chỗ kết cục mở miệng kim là huyệt ở trong cung đó, mà bốn phương đường đi lối lại như hình chữ Tỉnh thì chân long bố khí ở trong chữ tỉnh đó nên gọi tên là long bàn khô tỉnh, ý nói chủ rằng con cháu phạm vào cung sát bị ngục hình kiện tụng tranh giành thâu năm suốt tháng không thôi ví bằng còn bị sao ác diệu thì còn chết vì binh đao chết trận chết mất xác vậy.

Trang 130


http://www.tuvilyso.com Chân long bố khí cục Hình trung đồ

Địa hình bản đồ bên hữu trên đây, long mạch khởi từ thổ sơn, dẫn mạch đến chỗ kết cục mở miệng kim huyệt được tự nhiên ở trong cung, mà bốn phương đường đi lối lại dọc ngang hình như chữ tỉnh thì chân long bố khí cả ở trong chữ tỉnh, người ta gọi tên là long bàn khô tỉnh, mặc dầu đã có tam dương lục tú, các nơi nước núi châầ vào, chu tước có ngọn núi xinh tươi như ngọn bút, đứng dựng là rất tốt, đất này phát đời ấy qua đời khác sản xuất khôi khoa nhưng vẫn bị phải ngục hình mọi tội đó là như thế vậy.

Vua lại phán hỏi câu hổ tẩu trường đồ. Ông Lý Bá Truyền lạy tạ tâu rằng: Hạ thần trộm nghe từ xưa đến nay: thì hổ bao giờ cũng thích ở nơi núi rừng rậm rạp xa xôi, chẳng bao giờ thích ở những chỗ đường dài đồng rộng bùn lầy. Một khi hổ đã quá chân về tới chỗ đồng bằng thì ắt là tấm thân phải chết, ngày nay lấy ví dụ người con gái, hạ thần ngẫu nhiên dám đem ra đối gọi là hình dung như thế vậy. Ví bằng hình khởi từ núi tổ sơn, mà xuống tới đồng bằng kết cục tác thành long hổ có triều có an phân minh mà thanh long minh hình như là co rút lại, còn bạch hổ như là hình đang nhảy bổ ngang tàng, mình đeo tên bắn, đường dài kéo hướng mãi ra ngoài, ấy là điệu mặt con trai con gái bôn tẩu nguy vong, con gái còn phải bị cái tội lộn chồng, con trai thành người cầm cố bán chác lôi thôi. Người đàn bà, mà thấy bạch hổ núi cao rủ đầu xuống, đeo thêm ác thạch (đá xấu). Tất là chết vì khí trời bởi mặt trận xui nên. Đầu bạch hổ mà có đường lớn ao lớn giếng to miếu lớn thì đất ấy chủ rằng con cháu bị hình ngục tranh tụng sinh ra nhiều việc lại gồm cả binh đao tử tội ấy vậy. Vua ngự yến ở cung khánh hoa vừa gặp tiết đoan ngọ ngày hôm ấy khi vua tôi yến ẩm đã xong rồi vua lại phán bảo rằng ngày nay ta xem văn võ các quan đương Trang 131


http://www.tuvilyso.com triều giàu sang sung sướng cũng là nhờ bởi vận mệnh nó tạo nên, cũng có khi là nhờ ở mạch đất tổ tông cho nên hoặc có người được song toàn, hoặc có người chỉ có một, ta muốn cùng với tiên sinh nghiên cứu bí quyết kinh chỉ diệu vi chép thành sách cho cẩn thận để răn dạy cho nhà ta, tiên sinh nên lấy đó để rồi phân địa hình địa thế đem ra giảng thuật, vậy tiên sinh cũng nên hào hứng đối đáp rồi chép để mà xem. Vua bèn ngự chế rằng: Thâm phòng đăng chúc giảng, chung tiên bất ngọa thư sinh. Kẻ ngu này đối rằng: Cẩm trướng nguyệt đăng huy, mỗi dạ tư phu tiết nữ. Ông Lý Bá Truyền tâu rằng: hạ thần kiến thức hẹp hòi, tài mọn thô sơ chưa đủ mở rộng đường thánh trí, cúi xin bệ hạ giảng trước cho cái nghĩa thâm phòng. Vua phán rằng: Con người ta đọc sách đến tuổi già mà chưa đỗ đạt, thâu năm suốt tháng ở trong buồng sâu với ngọn đèn xanh, một mình ngồi học, mà chẳng dám ngủ, nguyên nhân chính bởi tại chỗ long môn, lâu ngày bị khốn cho nên chẳng đỗ được. Là ý nói chỗ long môn ấy là minh đường vậy, thấy thanh long bạch hổ hoặc mở hoặc khóa đầy đủ chỉnh tề đều cả đôi bên, hoặc là bạch hổ hoặc là thanh long cao quá một bên hình như dấn đáp áp bức che lấp trong huyệt tất nhiên là con trai góa vợ mà con gái góa chồng, ngày nay thử lấy những hình đất đó khởi từ núi Tổ sơn mạch đi từ nghìn dặm tới chỗ bình nguyên, đến chỗ giáp giới tới nước thì dừng lại ở chỗ kết cục mở miệng kim. Ví dụ như là thanh long mà quá đường thì người con gái tất chết chồng. Hoặc là bạch hổ mà quá đường thì người con trai không có vợ. Điển kinh trong sách địa lý nói rằng: Phải khi bạch hổ quá đường. Vợ thường chết trước, chồng thường một mình, Thanh long chạy quá minh đình, Đàn ông chết trước chung tình dở dang. Nghĩa là thanh long bạch hổ cần nhất là phải đồng đều chỉnh tề tương đương thì mới chu toàn được. Minh được cốt yếu được chỗ trung chính cả đàng trước huyệt thì mới là tuyệt diệu. Nhược bằng thiên môn không có vẻ chứa được khoan thai hay là linh động sinh hoạt thì gọi là độc tọa đối đăng nên có câu rằng: Đằng xa có án hỏa chầu Gọi là dăng đối đêm thâu một mình. Nhược bằng bạch hổ quá lấn át, thì người đàn bà bị chết, vì ý chủ rằng người đàn ông là chồng ấy không có vợ thì gọi là bất ngọa thư sinh, cảnh ngộ người đàn bà ấy chỉ chừng một năm đối với người chồng ấy hẳn thấy như thế. Hễ khi gặp đất đối đăng độc tọa thì dẫu có tốt đến đâu cũng không nên tiếc, mặc dầu có cả núi chầu án đẹp cũng chẳng làm được gì vậy. Vua lại hỏi câu cẩm trướng nguyệt trừng hay là ý thế nào? Ông Lý Bá Truyền tâu rằng người chức nữ họ trông trăng dệt gấm thì trâm hoa khéo léo, ấy là người nhân gian mà lại muốn lấy chích tiên làm sứ ở đời thật là hiếm có, nay kẻ ngu này dám mượn câu của người ngày trước để mà đối câu đối trên. Đại phàm địa hình địa thế khởi đầu từ núi tổ sơn, mà xuống đến thế hai long thì khiết tịnh khai nha trì tỉnh nếu không kiêng được thì sẽ bị hình hại vậy, nhưng ngược bằng tốn phương mà bị khai thác đào những ao to giếng lớn, bốn mùa soi sáng tinh thần, sao bắc đẩu có mây có khói thì gọi là cẩm trướng trừng huy ấy là vi ý chính như thế vậy.

Trang 132


http://www.tuvilyso.com

Hình bên hữu trên đây là địa đồ huyệt đại sát, nhân vì trông không thấy minh đường, bạch hổ thì cao ngang, thế đất chủ rằng đàn ông không vợ, vì người đàn bà mất sớm, người đàn ông coi giữ phòng không cho nên mới gọi là bất ngọa thư sinh, hỏa tinh ở đàng xa châu lại thì gọi là đối đăng độc tọa, thật là câu bí quyết đó vậy. Long hành cẩm trướng chiếu nguyệt đồ

Hình bên hữu trên đây hoặc là phương đoài có ao có giếng hoặc là ở vai bạch hổ có giếng có ao là không tốt, vì rằng đoài thuộc kim, mà bạch hổ cũng thuộc kim, cho nên khi khai thác ao hoặc là giếng bốn mùa trăng sao soi sáng nên mới gọi là kim quang chỉ xạ thì chủ rằng là bị chết vì khí trời, hoặc chết ở trận vong, tất nhiên đàn bà phải góa chồng cho nên mới gọi tên là: tư phu chi nữ đó là những pháp lý bí truyền nên khắc bản in làm đồ bản nhưng cấm người ngoài không được xem vậy Trong khi vua đương thị yến thì cũng có lời răn dạy rằng chính mình ta đã chẳng chính thì còn làm sao bảo cho người ta chính được? Ngày hôm nay ta hãy lấy những địa hình địa thế để làm ví dụ mà bảo cho rõ ràng. Tiên sinh nên hào hứng đối lại để thành câu đối rồi khắc bản in, in thành sách kín để cho người nhà học chớ có tiết lộ ra ngoài, chẳng thế thì chẳng phải là người khôn vậy. Vua bèn ngự chế rằng: Ngã thân tà chúng ác tự lai, kẻ ngu này đối rằng: Gia trung bạc tha hiền nan hội. Giải nghĩa Thân ta có tính gian tà Bao nhiêu tội ác nó là đến ngay, Trong nhà bạc bẽo chua cay Tất nhiên hiền triết chẳng hay hội bàn. Ông Lý Bá Truyền tâu rằng xin bệ hạ giảng trước cho cái nghĩa câu đối ấy. Vua phán rằng: Đại phàm cái đạo làm người trước hết phải biết sửa sang chính bản thân Trang 133


http://www.tuvilyso.com mình, gian giảo quanh co tất nhiên bao nhiêu tội ác nó mò đến ngay, cũng như những việc tai bay vạ gió nó sẽ xảy ra không kịp trở tay đều là những việc phi nhân bất nghĩa đó vậy. Ngày hôm nay ta nên lấy những địa hình địa thế làm ví dụ mà bảo cho nó rằng lấy long huyệt làm bản thân, cần phải nên trung chính đoan trang, chỗ kết cục là minh đường, phải cho quang minh chính đại, thanh long bạch hổ phải tương đương như là lễ nhượng, ấy chính là những phép rất hay. Nhược bằng bản thân cũng như long huyệt hoặc khi thì ở bên trong hang núi, hoặc khi thì ở non cao chót vót hiểm hóc oái oăm, hoặc là khi ở núi đá đất cát nham nhở, hoặc khi ở núi hiểm trở khó khăn, hoặc khi ở chỗ hang sâu hiểm hóc, muôn hình vạn trượng như vỡ nhà sa nóc, có khi lại ở ngay chỗ bình nguyên khoáng dã, hoặc chỗ lồi cao lên, hoặc chỗ hủng lõm xuống, chỗ cây cối xanh tốt um tùm, chỗ hình thể chênh lệch ngã nghiêng, đấy là những hình đất ấy cũng ví như chính bản thân mình, hoặc chênh lệch ngả nghiêng vậy. Dương trạch cũng như âm phần phát phúc hay là tai ương đều tự nhiên đâu có đến thì gọi tên là chúng ác tự lai mà tai vạ không kịp trở tay nên chớ có tiếc núi chầu án đèn. Hoặc ở chỗ ruộng bằng tự nhiên bỗng sinh ra chếch lệch ngã nghiêng, hoặc sinh ra ở đất bên trên gần nước, hoặc là long mạch còn đương đi chưa đến chỗ chỉ, mà nửa đường hư hao, hoặc ở đầu núi chỗ kết thủy kết đến Lâm quan, đấy là lấy những mạch đó mà nói để cho rõ ràng lấy đây mà hiểu biết, mặc dù dương trạch hay là âm cơ tất cả đều không nên dùng, dẫu rằng có thanh long bạch hổ kết cục, nhưng trước hết phải xét xem bản thân mình cũng như chỗ chính cung đã được trung chính hay chưa. Cước chú lời bí quyết rằng: Phàm những địa hình địa thế chỗ nào đổ xiêu chảy rót chếch lệch, ngã nghiêng thì chẳng bao giờ mà khỏi phải lo lường, cốt yếu được chỗ khoan thai bằng phẳng là hơn còn như bình nguyên đại địa thì chớ bảo rằng cho tham vào những nơi thần miếu chớ tham nước đẹp cảnh tươi ấy là những câu bí quyết tuyệt diệu không được tiết lộ ra ngoài. Ông Lý Bá Truyền lại tâu rằng: Trong nhà bạc bẻo ấy là ý nói thanh long bạch hổ quá ư rộng lớn, mà thiên tâm thì lại hẹp hòi nông cạn không có tính cách chứa đựng được nước triều thì gọi là gia trung đơn bạc ví như có kẻ hiền là ý nói ở đàng xa tít mà có án rất đẹp chầu lại thì tùy đẹp đẽ đấy cũng chẳng khác gì người hiền quá xa trong nhà bạc bẽo thì có bao giờ tụ hội được lại nữa việc khó hội ấy là minh đường cục đóng kín không mở chủ khách ngồi mà chẳng thấy nhau nếu ai không may mà táng ở đó tất nhiên con cháu ngu si âm á không ra trò trống gì lại còn bị mù mắt mà tước lộc khó khăn sau rồi đến nổi suy vi tuyệt tự tan nát hóa khốn cùng ấy vậy. Long hổ bế cục bất khai Tha hiền bất hội đồ

Trang 134


http://www.tuvilyso.com

Đương khi vua thị yến vui vẻ mà phán rằng ngày hôm nay ta say quá, sao không có gì làm vui ư. Ông Lý Bá Truyền tâu rằng vui gì bằng một câu nói của thánh đế cũng có thể hơn nghìn chén rượu ngon, nay đương lúc giàu sang sao chẳng cố gắng để kiếm các bậc hiền thánh xưa kia vậy? Vua phán rằng khéo vậy thay khéo vậy thay bèn ngự chế rằng: Long Hình khai trảo, ngộ lôi hà vị vô thương Kẻ ngu này đối rằng: hổ lộ trương pha, ngộ vũ thùy vân hữu cát. Ông Lý Bá Truyền lạy tạ mà tâu rằng: Cúi xin bệ hạ giảng trước cho cái nghĩa câu ấy. Vua phán rằng long hình không nên có những dáng dương nanh dương vuốt, nhược bằng thấy những u đất hoặc những ngạch đá xấu dẫm ngang, hình như nó muốn bay cao mà gắng sức quá nhiều, thành ra phải giơ tay giơ chân, dương nanh dương vuốt, là tất nhiên phải hại vật nhiều. Ngày hôm nay ta cũng lấy hình đất làm ví dụ để mà bảo rõ ràng cho như là thấy hình đất mà thanh long với bạch hổ đã kết cục được rồi, nhưng trái lại long thủ hướng ngoại, mà ác diệu cũng như những hòn đá xấu lổm cổm che lấp mất chỗ bố trí ra mặt trước thì gọi tên là khai trảo, rồi thì mặt trước tự nhiên đột khởi những núi đá hoặc những u đất tròn cho nên chủ rằng đại phát quan văn rôồ thì mình phải bị tội hình hình ngục. Hoặc là thanh long bên tả chỗ bên dưới đột nhiên nổi lên những ác thạch lại gồm có cả miếu thần thì đất ấy chủ rằng trước hết thì phát văn quan rồi thì sau mới phát võ, con cháu bị nhiều bệnh tật, hoặc là bị tội tình hình thưởng nhân mạng ấy đấy ta phải lấy đấy mà suy cho rõ nếu chẳng phải cần hoặc gặp những con người tầm thường thì chớ nên tiết lậu những câu bí quyết ấy vậy. Long hành bố khí ngộ phong lôi đồ Long hình khai trảo sát đồ Vua phán hỏi rằng bạch hổ trương nha là nghĩa làm sao? Ông Lý Bá Truyền lạy tạ thưa rằng: Đoạn này sách bỏ thiếu. Hổ tẩu trương nha ác thạch đồ Vua phán bảo rằng: ngày hôm nay ta cùng với tiên sinh thử làm một cuộc vui là vui một cách ý vị, vui với những lời nói của thánh nhân tượng trưng sự cao đẹp xiết bao, lý thú tinh vi cũng có thể hơn là muôn chung rượu thịt và những sơn hào hải vị phải không tiên sinh. Rồi ngự chế rằng: Mộc quải xích thằng, tất hữu tiên nhân điếu sách. Trang 135


http://www.tuvilyso.com Kẻ ngu này đối rằng: Kim quang bạch kinh loại quan ngọc nữ thương phu. Vua phán rằng: Mộc quải xích thằng nghĩa là đất chủ phát văn rồi sau mới tự thắt cổ mình mà chết, núi thanh long thẳng như hình cây tất nhiên sinh văn sĩ. Nhược bằng tốn vị gió thổi đằng sau đầu lõm hủng xuống như đường đứt đoạn, ấy là chủ phát khôi khoa nhưng mà người tiên đòi mất.

Bản đồ ở bên hữu trên đây y tức là thanh long thuộc mộc lại xuất hiện ra ở mộc phương. Trong sách Hoàng Kinh có nói rằng: Mộc phát sinh ra văn sĩ rồi thì Minh đường ngoài Tốn Bính Đinh đều có núi nổi lên làm án rất đẹp, là chủ chiếm khôi khoa, đến như những lời nói về xích thằng ấy là những lời rất là bí quyết vậy. Long đầu có chỗ hủng lõm mà có thể gió lọt vào, do theo đấy lại nhân có đường đá lớn như con đê xuyên qua đầu thì là trước pháp văn, mà sau tự thắt cổ chết, xét theo đó lấy con đường đó mà gọi tên là thằng sách ấy nói một cách bí quyết vậy rồi khắc bản in làm bản đồ in thành sách cẩn thận để truyền cho bậc hậu học vậy. Vua lại hỏi về câu Kim Quang Bạch Kinh nghĩa là làm sao? Ông Lý Bá Truyền lạy tạ mà tâu rằng: Bạch hổ là thuộc kim, mạch bạch kinh là ý nói giếng đá sâu lặng trên dẫn đến tận ngang đường quan lộ mà bạch hổ có những răng nanh cùng dao nhọn bày ra la liệt, cho nên gọi là bạch kinh vậy đó là dấu con gái tất nhiên phải tội giết chồng, còn như mũi nhọn đều hướng ra ngoài cho nên nói rằng là hướng hổ xuất diệu, chủ rằng phát võ quan, nhưng sau ra trận cũng chết. Hoặc là núi cao hay những hòn đá lổm ngổm dọc ngang bậy bạ lăn xuống là chủ bị chết phanh thây, chết lây vì người khác. Hoặc là đá đen đè chồng ngổn ngang là chủ phải chết cháy ngoài châu quận khác. Vua phán rằng: Đúng vậy thay, thật là ý tứ sâu xa vậy, nên khắc bản in, in thành sách bí thư, chớ có đem truyền cho người khác.

Trang 136


http://www.tuvilyso.com

Vua lại ngự chế rằng: Lâu đài nguyệt bạch niên niên ngọc nữ bi phu. Kẻ ngu này đối rằng: Thương khố phong tàn thế thế lương công ái phụ. Ông Lý Bá Truyền lạy tạ tâu rằng: Hạ thần cúi xin bệ hạ giảng cho cái nghĩa câu ấy. Vua phán rằng: Ngưu lang chức nữ là cái tình tây bắc, trăng mùa thu ta xem trong cung đêm thanh trinh tuyết trăng trong gió mát hữu tình, ban đêm tất nhiên ngọc nữ nhớ chồng, ngày nay ở đây thì không phải thế, nhưng những lấy địa hình địa thế làm ví dụ để bảo cho rõ ràng đó thôi, phàm núi cao khởi từ núi Tổ sơn mà xuống hình, hóa làm núi nga my (mày ngài) án ở núi lâu đài cổ vũ, đàng trước kết cục đất này chính ra thì nhất định sinh ra con gái đẹp, nhưng phải tội thương xót chồng, ấy là bên tả bởi thanh long thấp yếu, bị nước chảy qua hoặc bị đường dắt díu dẫn đưa phản trái chạy ra bên ngoài, kéo dài xuống nước thành mất cả cái thế hồi cố, con trai thời tuyệt hình tính, hoặc phiêu bạt chết đường. Hoặc là thanh long bạch hổ hai bên dưới đều có thần miếu như có khí nghi ngút thẳng băng, thì người đàn bà không có chồng gọi là bi phu, hoặc trước cục lâu đài cổ vũ, núi nga my hoặc trên hoặc dưới có miếu thần Phạt, đó lại có cả giếng lớn thì tất nhiên là đất phát cung phi, nhưng phải tội hình khi chết không còn người nối dõi. Hoặc là hóa núi nga my mà đường đứt tất nhiên sinh ra con gái rất đẹp, nhưng phải tật bệnh không hoàn toàn. Hoặc là núi nga my hiện ngay ra ở ruộng đồng bằng nhưng bốn bên không có vẻ sầm uất chầu lại thì dẫu có sinh được con gái đẹp nhưng cũng phải nỗi không có chồng. Đây trở lên trên là những lời nói rất bí truyền đại ý nói tóm tắt là những tên lâu đài nguyệt bạch đều là những lời bí quyết cả vậy.

Trang 137


http://www.tuvilyso.com Ông Lý Bá Truyền tâu rằng: Thần long nhận trạch ấy là chính những đất tổ sơn mạch nó thoái thai từ tổ rồi sau mới tới. Hoặc là thế núi, hoặc là gò đống thổ đôi, hoặc là đất cát ruộng vườn, đến chỗ mở miệng kìm, hay thế đất vòng ra như hai cánh tay vòng, bạch hổ thì cương trực, mà thanh long thì uyển chuyển cũng đều về đến trước minh đường cũng như là triểu củng với nhau, hay hồi cố, hai bên tương đối trông vào huyệt gọi là thần long nhập trạch, tất nhiên hại con trai con rể cho nên nói rằng: người đàn bà mất chồng, chớ nói hồi cố vậy, chớ có nói không tai vạ vậy. Đó là chính những điều bí quyết và là lời lẽ rất hay vậy. Từ đây trở lên sách cấm thư có nhiều chỗ sát cục, chính là phải có đủ các bản đồ, khắp bản in, những câu long cách bố khí pháp độ để đề phòng những sự tai hại xảy ra cho người đời thật là đích xác không sai một mảy may nào vậy, phải cẩn thận soạn chép hẳn hoi chớ để tiết lộ ra ngoài. Lại còn những điều cũng đáng là sợ nên so sánh ngũ hành tinh thể hình dáng chớ có mơ hồ. Song lẽ mở ra ngoài những chính hình ấy cũng không có điều gì đáng để ngờ vực cho người hậu học vậy. Ở xã Cổ Phạm có một đất long mạch chân tiên, chính tên núi đó là núi tiên, mà mệnh danh là thổ long ẩm thủy, đàng trước có sông uốn vòng quanh, đàng sau có núi cao, huyệt ở gần non tiên táng được ở đó thì phát suất công hầu, rồi lại còn phát suất khoa giáp. Ở Kim cốc Tự long mạch ở trước chỗ tha ma huyệt ở núi cao đàng sau đàng trước có đường có nước chảy có thể nhận định ngay được rằng ở đấy có huyệt nếu táng được ở đó thì sẽ phát suất công hầu. Long mạch ở ngọc lập nước vùng quanh khắp tả thanh long hình như cánh tay bên hữu bạch hổ như hổ ngồi ở đường, đàng sau có núi tống sơn thấp xuống, mạch ở bên ra ở chỗ mũ quay đầu về, hoặc là làm quan sáu quan bảy nhà binh vậy. Có đất long mạch Địa Linh, khí nó nổi bên trên huyệt ở chỗ dương động, táng được đất ấy phát suất công hầu nhưng không được bền lâu. Lại có long mạch ở quần trũng, hướng xuống, chùa Cao Tự, phải mưu toan làm một cái lò hương bảy thước, táng được chính đất ấy thì chẳng đầy một năm đã phát xuất công hầu. Ở xã Cổ Phạm thuộc xứ Mã Mạc tôi nhận định ra là huyệt rất tốt, vì nó có mạch ở đàng trước xứ Phật, táng được chính đất ấy chừng bảy năm đã phát suất công hầu. Có một người một đời sinh được ba người con trai, cũng đã có phát phúc rồi, nhưng lại còn cải táng ở huyệt khác, khi táng ở đó đã phát suất công khanh, vì ở chỗ chùa lại nhận thấy có huyệt ở bên dưới cái lò hương lại táng ở đó, ba năm sau lại phát suất công khanh mãi đến hai mươi chín năm nữa mới thôi. Huyệt ở bên bắc có một long mạch nhận định ra rằng có huyệt rồi là ở chỗ họp khí gần sóng táng được chính đất ấy thì phải chừng hai mươi năm sẽ phát suất công hầu. Núi hai Tý Sơn ở xứ Thượng, hạ, nhận định ra rằng là chỗ có huyệt rồi táng được chính đất đó thì ba năm sẽ phát suất công hầu. Lại có một đất long mạch ở xứ tây, nhận định ra rằng là chỗ có huyệt táng được chính đất đó thì ba năm sẽ phát suất công hầu. Chính mắt tôi đã từng xem thấy ở xứ kia có ba quả thổ tinh, nhất định rằng sẽ có ba mạch phát ba đời, táng được chính đất ấy mười năm thì sẽ phát suất vương hầu, nhưng mỗi đời chỉ là chừng một năm. Rồi đến long mạch ở xã Cổ Phạm bên tả thì có sông lớn, bên hữu thì có ruộng nước bao la, có nước chảy vòng về, nhiều núi họp bày hàng bao bọc, đó là chính huyệt, ở chỗ đó, táng được chính đất ấy, mười năm sẽ phát suất công khanh. Và ở chùa cổ phạm đàng trước có huyệt ở về phía đông, táng được chính đất đó, thì bảy năm sẽ phát suất khoa giáp.

Trang 138


http://www.tuvilyso.com Ngũ hành diệu dụng Suy vận xem chính ngũ hành so sánh bằng long tụ khí để lập thành huyệt. Giáp Ất Dần Mão là tốn phương thuộc mộc. Bính Đinh Tỵ Ngọ thuộc hỏa. Cân Đoài Canh Tân Thân thuộc kim. Hợi Nhâm Tý Quý thuộc thủy. Thìn Tuất Sửu Mùi Cấn Khôn thuộc thổ. Theo phép đây thì muôn đời chẳng thể thay đổi được, mà cũng không ai có thể phá được vậy. So sánh bát quái đối với ngũ hành mà lập cục, tức là theo phép thu xa và tiêu thủy vậy. Thì đây kiền giáp Đoài Đinh Tỵ Sửu thuộc kim. Chấn Canh Hợi Mùi Tốn Tân thuộc mộc. Cấn Khôn Bính khôn thuộc thổ. Khảm Quý Thân Thìn thuộc thủy. Ly Nhâm Dần Tuất thuộc hỏa. Ngũ hành mà theo sách hồng phạm để so sánh mộ vận ở núi. Kiền Hợi Đoài Đinh thuộc kim Giáp Dần Thìn Tốn Khảm Tuất Thân Tân thuộc thủy. Quý Sửu Khôn Mùi Canh thuộc thổ. Ly Nhâm Bính Ất thuộc hỏa. Cấn Chấn Tỵ thuộc mộc. Ngũ hành so sánh với song sơn theo long mạch lập hướng thu thủy. Tức là Kiền Giáp Đinh Hợi Mão Mùi thuộc mộc. Khôn Ất Nhâm thân Tý Thìn thuộc thủy. Cấn Bính Tân Dần Ngọ Tuất thuộc hỏa. Tốn Canh Quý Tỵ Dậu Sửu thuộc kim. Ngũ hành so sánh với huyền không Luận hướng để mà thu thủy (Đất nào không có huyền vũ thì gọi là đất huyền không) Mặc dù đã có liên châu, đã có tam hợp, nhưng cần nhất phải định phương hướng trường sinh mà thu thủy, nhận định tử mộ và phóng thủy, tức là kiền khôn mão ngọ phân kim thu lấy phương hướng trường sinh và đế vượng rồi phóng thủy, ở chữ tử và chữ mộ. Ngũ hành so sánh với nạp âm để phân kim nhân bố khí Tức là Giáp Tý Ất Sửu là những loài kim trong bể, điều cần nhất là phải thu lấy hướng trường sinh đế vượng mà xa lánh những phương khắc chế. Ngũ hành so sánh theo sách hồn thiên để chia độ cho hợp khí Tức là Giáp Tý thủy, Giáp Dần mộc, Nhâm Ngọ hỏa, Nhâm Thân kim: đó là những lời xét về tài bạch quan đới hay cha con. Ngũ hành so sánh với các vi tinh tú để lập cục Tức là sao thất thuộc hỏa, sao khuê thuộc mộc, sao mưu thuộc kim, sao nữ thuộc thổ. Đó là những loài thuộc như thế đó. Xét theo trên đây về ngũ hành thì phải theo la bàn trong có mười hai chi thuộc về những sao gì, hai mươi bốn phương vị xét theo đến ba trăm sáu mươi lăm độ đều không có thể bao giờ khiến cho khách khắc được chủ. Chính những điều ấy ta phải nên tế nhận cho rõ ràng chỗ đó vậy.

Trang 139


http://www.tuvilyso.com Núi có hai mươi bốn thứ núi chính sát Núi Tý sơn sát Nhâm Tý, Mậu Dần, Kỷ Mùi, Đinh Mùi. Núi Quý sơn sát Nhâm Tý, Mậu Dần, Kỷ Sửu. Núi Sửu sơn sát Đinh Mùi, Nhâm Dần, Nhâm Thìn. Núi Cấn sơn sát Đinh Hợi, Bính Dần. Núi Dần sơn sát Đinh Mùi, Nhâm Dần, Nhâm Thìn. Núi Mão sơn sát Mậu Dần, Giáp Dần, Canh Dần. Núi Giáp sơn sát Giáp Dần, Ất Mão, Mậu Dần. Núi Thìn sơn sát Kỷ Mùi, Quý Dậu, Canh Thìn, Giáp Thìn. Núi Ất sơn sát Tân Mão, Ất Mão, Mậu Dần. Núi Tỵ sơn sát Tân Tỵ, Quý Tỵ, Ất Tỵ, Kỷ Mùi. Núi Tốn sơn sát Đinh Dậu, Bính Thìn, Kỷ Tỵ. Núi Ngọ sơn sát Đinh Mùi, Bính Ngọ, Canh Ngọ. Núi Bính sơn sát Ất Tỵ, Đinh Tỵ, Canh Ngọ. Núi Mùi sơn sát Đinh Mùi, Quý Mùi. Núi Đinh sơn sát Mậu Tuất, Mậu Ngọ, Tân Mùi, Mậu Dần. Núi Thân sơn sát Quý Hợi, Quý Sửu, Mậu Thân, Giáp Thân Núi Khôn sơn sát Ất Dậu, Ất Mão, Ất Mùi. Núi Dậu sơn sát Bính Tuất, Kỷ Dậu. Núi Canh sơn sát Tân Dậu, Mậu Thìn, Mậu Tuất. Núi Tuất sơn sát Đinh Tuất, Mậu Tuất, Đinh Mùi, Canh Tuất. Núi Tân sơn sát Đinh Mùi, Quý Mùi, Tân Dậu. Núi Hợi sơn sát Kỷ Tỵ, Tân Tỵ, Giáp Dần. Núi Kiều sơn sát Mậu Tuất, Nhâm Tuất. Núi Nhâm sơn sát Mậu Tuất, Quý Hợi, Giáp Tý. Hoàng tuyền Hoàng tuyền tổng đoán ca Ất bính hoàng tuyền tốn mạc du, Lai vi hoàng tuyền, khứ vi sát, Thái tuế gia lâm tai họa chí, Mãn môn lưu lệ khốc thu thu, Ngọ định mùi hướng thủy lộ khôn, Sát khước đầu nam sát trường tôn, Thái tuế gia lâm tai họa chí, Nan tri quả mẫu lệ bi khâm. Đây là bài ca tóm tắt để quyết đoán về hoàng tuyền ất bính là những hướng thuộc về hoàng tuyền thì không có thể làm gì được, nếu thủy đạo đóng ở phương tốn, trở lại là hoàng tuyền, mà trở đi ấy là bát sát, hơn thế nữa lại gặp phải năm thái tuế thì tai họa lại càng gớm ghê hơn, nếu không cẩn thận đề phòng, thì có thể xảy ra tai họa đầy nhà tiếng khóc như di. Ngọ Đinh Mùi là những hướng không thể đúng được nếu thủy đạo đóng ở cung khôn thì sát mất con trai đầu và cháu đích tôn, hơn thế nữa lại gặp phải năm thái tuế thì tai vạ lại càng thêm đến. Thật là khó lường biết trước được tình cảm chua cay của bà mẹ góa nước mắt đầm đìa thấm hết áo khăn. Phần phiên âm Thân canh nhị hướng khôn mạc du, Thủy lộ khanh xuất tác họa đầu, Huynh tử đệ lưu liên đệ tử, Mãn môn lưu lệ khốc thu thu, Trang 140


http://www.tuvilyso.com Thân canh hai hướng là những hướng mà thủy đạo đóng ở cung Khôn thì không nên dùng, nếu đường thủy đạo gặp phải hố sâu là dấu chất nên tai họa, anh chết em phải đi lưu lạc đày ải rồi em lại chết. Nhà cửa âm thầm tiếng khóc như đi. Phần phiên âm Dậu Tân Tuất hướng thủy lưu kiền, Trưởng tử nguyên tôn thị thoái điền, Hựu kiến toàn gia nhân ngỗ nghịch, Huynh nam đệ bắc khốc hoàng thiên. Dậu Tân Tuất là những hướng nhà thủy đạo chảy về kiền phương thì con trai lớn và cháu đích tôn bán hết ruộng vườn gia cảnh càng ngày càng thêm ngỗ nghịch, anh nam em bắc, ngày đêm non nỉ chỉ còn kêu khóc với trời xanh. Phần phiên âm Hợi Nhâm Tý hướng nhập kiền cung, Môn lộ thủy lưu định kiến hung, Công tụng quan tai nhân khẩu tử, Tu cứu nam phụ thủ chùy hung, Hợi Nhâm Tý là những hướng mà thủy đạo chảy vào cung kiền, cổng ngõ lại bị nước chảy thành đường xiết là dấu thất bại tai hung, việc công kiện tụng lung tung, việc quan thì tai họa hóa bởi miệng người nên cứu đàn ông thì đàn bà tay đấm ngực. Phần phiên âm Tý Sửu quý hướng cấn mạc thông, Hậu đại nhi tôn tiểu nhi ông, Lao bệnh quan tai ngưu mã tẩn, Tu giao thuyên nhật kiến bần cùng. Tý Sửu Quý là những hướng thủy đạo đóng ở phương cấn thì công việc không được hanh thông, đời sau con cháu làm ông trẻ con, bệnh nạn khó nhọc, việc quan thì tai họa, việc nhà thì tổn thương trâu bò, rồi gấp đến ngay những sự nghèo nàn khốn cực. Phần phiên âm Dần Giáp nhị hướng cấn mạc hành, Thủy lộ khanh môn hùng tỉnh liên, Sản tử đọa thai tinh thiếu tử, Kỷ đa nhi nữ nhập hoàng tuyền, Dần Giáp hai hướng là những hướng thủy đạo đóng ở cấn phương thì công việc chẳng có thi hành được việc gì, mà thủy lộ bị hố sâu hoặc cửa ngõ đường đi lối lại hoặc có giếng to liên tiếp, thì khi đẻ mà bị chết, hoặc là đọa thai, hoặc là bị chết non, biết bao nhiêu là tai họa cho người con gái, nếu bị vào hoàng tuyền. Phần phiên âm Mão Ất Thìn hướng tốn mạc thiên, Tốn Tỵ thiên chi hữu họa khiên, Quả mẫu vô thê tinh thiếu tử, Bất nhiên tử ngoại kiến hoàng thiên, Mão Ất Thìn là những hướng mà đạo thủy đóng ở tốn phương thì chẳng nên rời đi đâu, tốn phương Tỵ phương mà rời đi là đều có tai họa, mẹ góa chồng mà mình cũng góa vợ, rồi trẻ con bị chết, chẳng thế thì mình rồi cũng về chầu trời. Bàn long có mẫu hình Trang 141


http://www.tuvilyso.com Rồng cuộn khúc ngoái trông lại mẹ Thơ rằng: Phần phiên âm Thi vân: Bàn long cố mẫu hình Bàn bàn chân khí tối anh linh Bách mẫu thâm hổ cố mẫu hình, Mạch tại tỵ đẩu thiên tử huyệt, Cơ đồ đế nghiệp tộ quang minh. Bàn long cố mẫu tại kỳ hình, Vạn trượng thâm hồ mạch tối linh, Khả giới thời sư đương cấm thiệt, Dĩ kỳ vô phúc tội phi khinh. Giải nghĩa Chầu mẹ rồng thiêng đã rõ bày, Hồ sâu trăm mẫu cảnh sum vầy Huyệt ngay đầu mũi, ngôi thiên tử Đế nghiệp cơ đồ sáng lạn thay. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói rõ ra những chổ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Long xóa ngóng mẹ ngó xinh xinh Muôn trượng hồ sâu mạch rất linh Nhắn nhủ thầy vườn nên kín miệng Vì ai ít phúc tội cho mình.

Long ẩn kim sơn đồ Rồng ẩn bóng, dưới non vàng, Thơ rằng: Phần phiên âm Long ẩn kim sơn Thi vân: Bàn bàn long ẩn nhập kim sơn, Trang 142


http://www.tuvilyso.com Bảo kiếm hoành lai chiếu án tiền Thần tử đĩnh xưng vương giả liễu, Bất chiêu thập bát chiếm khôi nguyên, Bản tuyền long cách hạ kim sơn, Thiết kỵ trung yêu thủy đoạn ngân, Bảo kiếm tuy triều quang hạ án, Tảo sinh phú quý hạ hoàng tuyền. Giải nghĩa Kim sơn cuộn khúc rồng về, Kiếm ngang làm án rõ bề hiên ngang, Thần đồng mười tám vẻ vang Khôi nguyên chiếm bảng vinh quang nước nhà. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nõi rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Vòng tròn long xuống Kim San Giữa lưng đứt đoạn nước tràn kỵ to. Kiếm tuy triều án trời cho, Giàu sang sớm phát cũng lo sớm về.

Phụ tử khôi nguyên Cha con cùng đỗ khôi nguyên trong một khoa Thơ rằng: Phần phiên âm Phụ tử khôi nguyên Thi vân: Hỏa tinh quang chiếu tại sơn tiền, Hạ hữu thâm hồ hoặc đại uyên Ngọc bảng hổ thân triều tác án, Nhất khoa phụ tử cộng khôi nguyên. Tổ sơn viễn tống hạ bình nguyên, Đột khởi song tiêm chiếu huyệt tiền, Thiết kỵ tiền sơn sinh ác thạch, Tảo sinh khoa giáp hạ hoàng tuyền. Trang 143


http://www.tuvilyso.com Giải nghĩa Hỏa tinh chiếu sáng mặt tiền Hổ to đầm lớn đôi bên chầu vào Án thời núi bảng đẹp sao. Cha con một hội đỗ cao hơn người. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói rõ ra những ưu khuyết điểm, những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Xa đưa núi tổ xuống bình nguyên Vụt nổi đôi lai chiếu nguyệt tiền Đá nọ rất kiêng làn trước án. Sớm sinh khoa giáp sớm qui tiên.

Phụ tử đăng khoa Cha con cùng đỗ một ngày, một khoa Thơ rằng: Phần phiên âm Phụ tử đăng khoa Thi vân: Trắc thân thủy thượng hạ liên hoa, Quang chiếu hồ trung khởi lãng ba, Ngoại hữu quí ngư triều tác án, Nhất triêu phụ tử cộng đăng khoa, Phù phù thủy thượng ngũ liên tinh, Liên tiết quang bình diện tối minh, Tích đức chi gia phi hậu lộc, Nhược nhân phụ táng bại vong khuynh Giải nghĩa Nghiêng mình trên nước dưới ao sen, Chiếu sáng hồ trong cuộn sóng lên, Rùa cá ngoài xa chầu lại án, Trang 144


http://www.tuvilyso.com Cha con một khóa bảng đề tên Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Năm cánh gương sen nổi mặt đầm, Rung rinh ánh sáng giữa thiên tâm, Nhà nào có đức phát phi hậu. Táng phụ hay đâu chỉ hại ngầm.

Võ tướng nhạc sơn đồ Thơ rằng: Phần phiên âm Võ tướng nhạc sơn đồ Thi vân: Trắc ngọa kim tinh thể dạng viên, Danh vi bạch tượng hạ bình nguyên, Trì hồ án ngoại quang minh chiếu, Kế thế môn sinh võ tướng quyền. Quảng đại kim tinh trắc ngọa đồ, Danh vi bạch tượng quyển trì hổ, Vưu hiểm bối hậu lưu ngân thủy, Thế thế thường vi sát lục đồ. Giải nghĩa Chênh chếch kim tinh dáng dấp tròn, Gọi là bạch tượng xuống bình nguyên, Trăng sao chiếu sáng hồ làm án, Nối chức quyền cao tướng võ tôn. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Kim tinh nằm nghé thênh thang, Trang 145


http://www.tuvilyso.com Gọi là bạch tượng vắt ngang ao hồ, Rất lo lưng có nước rồ, Đời thường bị sát lục đồ chi đây.

Trạng nguyên địa đồ Đất phát trạng nguyên Thơ rằng: Phần phiên âm Trạng nguyên địa đồ Thi vân: Mạch thoát kim tinh ngọa quảng nguyên, Tiền đường nguyệt chiếu bút tinh nghiên, Danh vi thái bạch kim ngưu ngoa, Thế thế thường sinh ấu trạng nguyên, Thái bạch kim tinh diện hướng đông, Quang bình độc tọa tại điền trung, Vưu hiềm thủy phá xuyên cân cốt, Bạch thủ đồ lao bộc bích công. Giải nghĩa Kim tinh nằm khểnh quảng nguyên, Trước lầu trăng chiếu bút nghiên trương hoàng, Kim ngưu thái bạch nghênh ngang, Trạng nguyên trẻ tuổi giàu sang đời đời. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói là để cho rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quang phòng. Thơ rằng: Thái bạch kim tinh mặt hướng đông Một mình giữa ruộng chỉ ngồi trông, Rất lo nước phá đùi gân cốt, Đầu bạc lao đao tổ nhọc công.

Trang 146


http://www.tuvilyso.com

Vương hầu địa đồ Đất phát vương hầu Thơ rằng: Phần phiên âm Vương hầu địa đồ Thi vân: Bình địa quang tràn nhất mộc tinh, Danh vi chế cáo nhập môn đình, Hương đài án ngoại cao nghiêm vọng, Đại phát vương hầu tước hiển vinh. Long hổ khai đồ liệt trận dinh, Môn tiền hoành liệt mộc quang minh, Danh vi chế cáo nghinh triều án, Thủy nhập xuyên tà bị bại hình. Giải nghĩa Mộc tinh nghiêm chỉnh đất bằng, Gọi là chế các nhà hằng sắc phong, Hương đài án ngoại thong dong, Hiển vinh phú quý tam công vương hầu. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Thanh long bạch hổ thể rung rinh, Trước cửa bày ngang vị mộc tinh, Chế cáo là tên làm án đó, Nước xuyên phạm tới mắc tù hình.

Trang 147


http://www.tuvilyso.com

Kim long bão minh châu đồ Đất phát khôi nguyên Thơ rằng: Phần phiên âm Khôi nguyên Kim long bão minh châu Thi vân: Chân long giáng mạch ngọa bản tuyền, Phúc bão minh châu huyệt tại tiền, Kim tướng khai trương triều hướng án, Nam nhi thập bát chiếm khôi nguyên. Giải nghĩa Chân long uốn khúc khéo bao quanh, Bụng ấp mình châu huyệt đã thành. Kim tướng uy nghi chầu trước án, Khôi nguyên mười tám đã vang danh.

Cơ thượng kim thoa đồ Đất phát cung phi Thơ rằng: Phần phiên âm Cung phi – Cơ thượng kim thoa Trang 148


http://www.tuvilyso.com Thi vân: Thổ tinh bình diện tại trung nguyên, Hoành liệt kim thoa chính huyệt tiền, Huyệt tại kim thoa vân cẩm án, Thường sinh tú nữ thị vương tiền. Tứ giác phương hình hiệu chính bình, Nga mi sơn hiện án quang minh, Vưu hiềm thủy xạ hung tinh nhập, Tú nữ thường sinh bị ngục hình. Giải nghĩa Thổ tinh vương vấn ở trung nguyên, La liệt kim thoa ở giữa miền, Huyệt giữa thoa vàng mây gấm họp, Bên vua gái đẹp cũng như tiên. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói rõ ra những chổ ưu khuyết điểm, cũng như những chổ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Bốn góc hình vuông gọi chính bình, Nga mi núi mọc án phân minh, Dáng lo nước chảy hung tinh đến, Gái đẹp thường sinh mắc ngục hình.

Thương long qui hải đồ Đất phát công khanh và công hầu, tướng văn và tướng võ. Thơ rằng: Phần phiên âm Công hầu tướng tướng thương long qui hải đồ Thi vân: Khai nha bố trảo hạ bình điền, Đại trạch minh đường chiếu án tiền, Huyệt tại tỵ đầu châu tác án, Công khanh tướng tướng lưỡng song hiền Thủy tinh khuất khúc tẩu hổ biên, Hiệu viết thương long hạ hải tuyền, Thiết kỵ trưởng đồ hình chiết dực, Trang 149


http://www.tuvilyso.com Công khanh quí hiển mệnh nan tuyền. Giải nghĩa Hồ rộng minh đường ánh sáng xuyên, Nhe răng giơ vuốt dưới bình nguyên, Huyệt ngay đầu mũi châu làm án, Văn tướng công khanh, võ tướng quyền. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói là để cho rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chổ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Thủy tinh khuất khúc diễu bên hồ, Tên gọi thương long xuống bể đò, Rất kỵ đường dài hình gãy cánh, Công khanh phú quý mệnh thêm lo

Ngô công xuất huyệt đồ Đất phát công khanh Thơ rằng: Phần phiên âm Công khanh Ngô công xuất huyệt Thi vân: Tổ sơn giáng thế chuyển kim tinh, Tiền hữu kim tinh ẩn bán hình, Huyệt tại ngô đầu châu tác án, Tử tôn kế thế xuất công khanh. Tổ sơn điệp điệp xuất kim tinh, Tiều hữu ngô công xuất bán hình, Thiết kỵ yêu trung lưu phá đoạn, Ngô công nan bảo nghiệp công khanh. Giải nghĩa Tổ sơn chuyển xuống tới kim tinh, Trước có kim tinh dấu nửa hình, Đầu rết huyệt kia châu tác án, Công khanh muôn thuở cháu con vinh. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chổ xấu mà quan phòng. Trang 150


http://www.tuvilyso.com Thơ rằng: Tổ sơn trùng điệp những kim tinh Trước có ngô công hiện nửa hình, Rất kỵ giữa lưng mà nước phá, Công khanh khó giữ được cho mình.

Ngọc hà trạc thủy đồ Đất phát cung phi Thơ rằng: Phần phiên âm Cung phi Ngọc hà trạc thủy đồ. Thi vân: Kim tinh loan bối hướng giang hồ. Trạc thủy quang minh án ngọc châu Huyệt tại yêu trung hồ tác án, Cung phi tú nữ kế hoàng đô. Kim tinh loan bối hướng giang hồ, Yếu đắc triền ngân viết ngọc hà, Thiết kỵ trung đề nê trọc huyệt. Cung phi nan bảo mệnh hoàng đô. Giải nghĩa Kim tinh uốn khúc vào hồ, Án ngọc châu kia ánh sáng phô, Huyệt ở giữa lưng hồ lại án, Cung phi mỹ nữ tiến kinh đô. Đây lại thêm một thể thứ hai cố ý là để nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Kim tinh uốn xuống hồ là, Vết thương rịt được ngọc hà là tên. Chỉ e chân quấy đục lên. Cung phi khó giữ cho bền vua yêu.

Trang 151


http://www.tuvilyso.com

Phượng hoàng lạc tri đồ Đất phát khoa khôi và giáp đệ Thơ rằng: Phần phiên âm Khoa khôi giáp đệ Phượng hoàng lạc tri đồ Thi vân: Đảo thân bình ngọa cận trì hồ, Thủ vĩ bàn tuyền viết ngọc châu, Huyệt tại tràng trung châu tác án, Khôi khoa giáp đệ thượng hoàng đô. Liên hình thủy hỏa lưỡng kiên kỳ Đảo ngọa hồ trung phượng lạc trì, Thiết kỵ lộ hành xuyên đoạn dực, Đồ lao học nghiếp uổng danh phi. Giải nghĩa Đảo mỉnh nằm khểnh giáp hồ sâu, Đầu hổ đuôi long có ngọc châu, Án ngọc châu kia huyệt giữa ruột Khoa khôi ắt hẳn đứng hàng đầu. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Hình liền nước lửa hai vai. Nằm nghiêng hồ đó ao ngoài phương chơi. Đường đi rất kỵ đứt rời, Phí công học tập uổng thời công danh.

Trang 152


http://www.tuvilyso.com

Tượng nha chân hình đồ Đất phát khôi nguyên Thơ rằng Phần phiên âm Khôi nguyên. Tượng nha chân hình. Thi vân: Kim tinh cao ngọa tại bình nguyên. Lưỡng diệu quang minh liệt hướng tiền, Cục ngoại trì hổ lai tác án, Tử tôn chiếm bảng thượng khôi nguyên. Kim tinh trắc ngọa tại bình nguyên. Ngọc doãn song song liệt địa tiền. Thuận thủy trang điền tha mại tận. Hữu khoa bần bạc ngụ nhân miên. Giải nghĩa Kim tinh nằm khểnh ở bình điền. Ánh sáng đôi bên thấy diệu huyền Ngoại cuộc ao hồ làm án đó. Cháu con chiếm bảng đỗ khôi nguyên. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Kim tinh nằm nghé ở bình nguyên Măng ngọc song song trước đất liền. Vườn ruộng nước xuôi cầm bán hết. Không nhà thi đỗ ngụ người quen.

Trang 153


http://www.tuvilyso.com Lực sĩ khiên kỳ cục Đất phát võ tướng quyền cao Phần phiên âm Tướng quyền. Lực sĩ khiên kỳ cục Thi vân: Kỳ sơn cao xuất tại bình nguyên, Hạ hữu chân hình lực sĩ khiên, Hướng thượng tổ sơn kỳ cổ án, Trận trung bạt thảo tướng cao quyền. Kỳ sơn cao xuất tại bình nguyên, Thiết kỵ lưu ngân thủy phá xuyên, Như hữu án sơn sinh ác thạch. Trận tiền lâm phóng mệnh phi tuyền. Giải nghĩa Núi cờ phất phới giữa bình nguyên, Ngắm được hình như lực sĩ truyền, Núi tổ hướng về cờ trống án, Khắp trong hàng trận trọng uy quyền. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Kỳ sơn cao ngất bình nguyên, Rất kiêng vết chảy nước xuyên phá ngầm, Án sơn đá xấu phạm gần, Trận tiền rong ruỗi có phần mệnh nguy.

Tướng quân lạc mã đồ Đất phát khanh tướng Thơ rằng: Phần phiên âm Khanh tướng. Tướng quân lặc mã Thi vân: Kim tinh hoạt tẩu hạ bình nguyên, Thủ vĩ chân hình giá ngọc tiên, Đầu hướng tổ sơn kỳ tác án. Tử tôn khanh tướng thị vương tiền. Kim tinh viễn thủy hạ bình điền, Cố tổ chân hình lặc ngọc tiên Trang 154


http://www.tuvilyso.com Án chiếu kỳ sơn cao cố tổ, Vua hiềm, ác thạch mệnh phi tuyền. Giải nghĩa Kim tinh chạy thẳng xuống bình nguyên, Chân tướng rung rinh giá ngọc tiên, Đầu hướng tổ sơn cờ chính án, Giúp vua danh tướng cháu con hiền. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Nước xa kim (tinh) xuống ruộng bằng. Hướng về cố tổ khắc rồng ngọc tiên. Kỳ sơn làm án mặt tiền, Rất lo ác thạch mệnh liền nguy vong.

Quý nhân kỵ mã đồ Đất phát tướng văn và tướng võ Thơ rằng: Phần phiên âm Tướng tướng. Quý nhân kỵ mã Thi vân: Đột ngột sơn tiền khởi mộc tinh. Trạng như thần mã án quang minh Huyệt cư đạp đạp đan đôi án, Tướng tướng song tuyền mãn đế đình. Trực lập môn tiền khởi mộc tinh. Quý nhân kỵ mã án quang minh. Vưu hiềm thủy phá kim yên thượng. Tất xuất anh hùng bị trận binh. Giải nghĩa Mộc tinh như ghế nổi lên trên. Như ngựa thần kia khít ở bên. Huyệt giữa đống cồn châu đạp án. Tướng văn tướng võ trọn đôi quyền. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Mộc tinh đứng thẳng cửa tiền, Quý nhân cưỡi ngựa án liền sáng lên Trang 155


http://www.tuvilyso.com Rất kiêng nước phá kim yên Anh hùng ra mặt trận liền bi thương

Ngọc nữ phô châu Đất phát sinh ra tú nữ Thơ rằng: Phần phiên âm Ngọc nữ phô châu hình. Nga mi nguyệt chiếu minh. Thi vân: Mạch giáng bình điền liệt thổ tinh. Nga mi sơn hiện sắc quang minh, Trì hồ thanh khiết minh đường tú, Tú nữ thường sinh nhập đế đình. Bình điền đột khởi nhất kim tinh. Tứ giác quang bình triển tịch minh. Đột tại huyệt trung hồ tác án, Vật linh thủy phá tử thương hình. Giải nghĩa Thổ tinh mạch xuống ruộng bằng, Nga mi núi mộc thấy rằng quang minh, Hồ trong trăng sáng rung rinh, Sinh con gái đẹp đế đình mến yêu. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cùng những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Đất bằng nổi bật một kim tinh, Bốn góc thẳng bằng giải chiếu xinh, Huyệt chỗ đột lên hồ ấy án, Rất kiêng nước phá chết đao binh.

Trang 156


http://www.tuvilyso.com

Tràng hồng trạc thủy hình Đất phát sinh tú nữ Thơ rằng: Phần phiên âm Trưởng hồng lạc thủy hình Thi vân: Nguyên đã tường vân nhiễu hộ phong Kim tinh trắc ngọa kiến trường hằng Cục tiền hổ thủy sinh vi án, Tú nữ thường sinh nhập cấm cung. Kim tinh trắc ngọa hiệu trường hồng, Thiết kỵ long chu quyết hộ phong. Tuy hữu tinh thần triều tác án, Tảo sinh tú nữ tảo thân vong. Giải nghĩa Mây ngàn đồng nội uốn cong cong. Chênh chếch kim tinh núp dưới (cầu) vồng. Trước cục nước hồ làm án đó, Sinh nhiều gái quý kén vô cung. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Kim tinh nằm nghé gọi tràng hồng Kiêng giữ chu toàn gọi chấn phong. Dẫu có tinh thần triều án đó, Sớm sinh gái đẹp sớm thân vong.

Trang 157


http://www.tuvilyso.com Vương hầu công khanh Đất phát công khanh và vương hầu Thơ rằng: Phần phiên âm Vương hầu công khanh Ngô công dạ du thủy nhiễu hình Thi vân: Kim tinh điệp điệp kế long hành Thủy nhiễu loan hoàn châu tối minh Hải ngoại duyên du triều tác án, Vương hầu thế thế vĩnh công khanh, Điệp điệp kim tinh liên tiết hành, Ngô công du dạ xuất dao trình, Vưu hiềm thủy phá thân yêu phúc Tuy phát vương hầu hựu bị hình Giải nghĩa Kim tinh óng ánh rết đêm đi Nước chảy bao quanh quý nhất nhì, Ngoài bề điện giới chầu án đó, Đời đời khanh tướng vẻ uy nghi. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Kim tinh trùng điệp đối vân vi, Đêm tối ngô công xuất hiện đi, Rất kỵ nước kia dùi phải bụng Vương hầu dẫn phát bị tình nghi.

Nhật xuất phù tang đồ Đất phát cung phi và phò mà Thơ rằng: Phần phiên âm Trang 158


http://www.tuvilyso.com Cung phi phụ (phò) mã Nhật xuất phù tàng Thi vân: Trừng viên kính diện xuất phương đông, Nhạc hộ quần sơn bất động phong, Huyệt tại nhật trung hồ tác án, Cung phi phụ (phò) mã tứ hoàng tông. Nhật xuất đông phương ánh sắc quang. Tường vân phi nhiễu tế quần phương, Vưu hiềm nhật thực vô toàn bản, Tuy xuất cung phi diệc tảo vong. Giải nghĩa Mặt kính tròn trong xuất hướng đông, Chở che mọi núi gió không rung Huyệt trong mặt nhật hồ làm án, Phò mã cung phi họ chúa phong. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói là để cho rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Mặt trời rực rỡ sáng bên đông, Mây phủ chung quanh bóng chập chùng, Nhật thực không toàn là khiếp nhất, Cung phi dẫu phát sớm nguy vong.

Sư tử phục địa hình Đất phát tướng soái Thơ rằng: Phần phiên âm Tướng soái. Sư tử phục địa hình trượng. Thi vân: Lưỡng diện kim tinh lưỡng nhĩ viên, Danh vi sư tử trượng bình nguyên, Huyệt cư diện thượng châu vi án Thiên hạ danh cao tướng soái quyền. Kim tinh ngưỡng diện cách cao viên. Thiết kỵ thân chung lộ phá xuyên Tuy phát tướng tài chung bị ách, Trang 159


http://www.tuvilyso.com Trận trung đao sát mệnh phi tuyền. Giải nghĩa Hai tai hai mắt nhiệm màu Gọi là sư tử để hầu thấy đâu Huyệt ngay ở mắt thượng cầu Kim tinh huyệt ấy tướng đầu quyền cao Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Kim tinh ngửa mặt cách cao tròn, Kỵ nhất xuyên mình lối cỏn con, Tuy phát tướng tài sau bị nạn, Đao thương trong trận mệnh không còn.

Hải loa hồng thổ châu hình Đất phát cung phi và hoàng hậu Thơ rằng: Phần phiên âm Cung Phi hoàng hậu Hải loa hồng thổ châu hình Thi vân: Kim tinh phú ngọa tại bình nguyên, Thủ vĩ đê thủy khúc bối viên, Tiền hữu minh châu lai tác án, Cung phi hoàng hậu thị vương tiền. Phú ngọa kim tinh loa đạp triền, Yêu bối giai hành thủ cao viên, Thiết kỵ thời quan xuyên quật phá Tú nữ tuy sinh mệnh bất tuyền. Giải nghĩa Kim tinh nằm sấp bình điền, Đầu đuôi rủ thấp lưng nguyên uốn tròn Châu kia làm án một hòn, Cung phi hoàng hậu vua còn mến yêu. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Trang 160


http://www.tuvilyso.com Nằm sấp kim tinh ốc xoáy tròn, Lưng gù uốn éo dáng khom khom, Nước dùi rúc rích kiêng phần nhất, Tú nữ sinh ra mạng khó toàn.

Bạng hành du nguyệt Đất phát cung phi Thơ rằng: Phần phiên âm Cung phi. Bạng hành du nguyệt Thi vân: Bạng hành du nguyệt chiếu hồ trung, Lưỡng nhĩ kim tinh diện hướng đông, Yếu đắc tinh thần vân nhiễu tập, Nữ cung phi hậu phát vô cùng. Trắc diện kim tinh tại thủy điền Tường vân nhiễu tập nguyệt đoàn viên, Vưu hiềm thủy phá long tinh vị, Tú nữ tuy sinh tảo hạ tuyền. Giải nghĩa Trai đi aáh nguyệt chiếu hồ trong Kim đứng hai tai mặt hướng đông Ví được mây sao xum họp lại. Cung phi hoàng hậu phát song song. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Nghiêng mặt kim tinh ở thủy điền Trăng mây óng ánh cảnh đoàn viên Rất hiềm nước phá thân long vỡ, Tú nữ sinh ra sớm cõi tiên.

Trang 161


http://www.tuvilyso.com

Kim ngư trạo vĩ hình Đất phát khôi khoa Thơ rằng: Phần phiên âm Khôi khoa. Kim ngư trạo vĩ hình Thi vân: Kim ngư trạo vĩ khóa ba đào, Yếu tại đoài phương quan tối cổ, Hoặc dĩ huyệt cư đầu ngạch thượng, Khoa khôi tảo chiếm cẩm y bào. Kim ngư cao khóa vũ môn tiền Tam cấp ba đào chiếm đắc tiên Thiết kỵ thời nhân khai phá hại, Tảo đăng khoa giáp hạ hoàng tuyền. Giải nghĩa Cá ở đoài phương quan mới cao, Vẫy đuôi quẫy sóng mặc tiêu đao Huyệt trên đầu trán mi con cá, Bảng chiếm khôi khoa ao cẩm bào. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Cá vàng cửa vũ đã đôi phen Sóng gió ba tầng vượt trước tiên, Chỉ sợ người đời đem phá hoại, Đỗ cao sớm đã xuống hoàng tuyền.

Trang 162


http://www.tuvilyso.com Qui xà hợp hình Đất phát vương hầu và khanh tướng Thơ rằng: Phần phiên âm Vương hầu khanh tướng. Qui xà hợp hình Thi vân: Thùy vị qui xà nhận bất minh, Thủy tịnh tẩu nhiễu bão kim tinh, Ngang đầu cố hướng kim qui thượng, Thử huyệt vương hầu cập tướng khanh. Bình dị kim qui xuất dị hình Thủy tinh bão nhiễu án châu minh. Vưu hiềm lộ đoạn kim qui bối, Thế thế công khanh bị ngục hình. Giải nghĩa Rằng rắn rằng rùa nhận chữa mình Thủy tinh bao bọc giữ kim tinh Ngang đầu quay lại coi rùa nhỉ? Ấy huyệt vương hầu với tướng khanh. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói cho rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Hình dáng kim quy có lạ không Thủy tinh vòng khắp để giao thông Hiềm vì đường đứt ngang qui bối Tù ngục công khanh cũng lạ lùng.

Ngô công xuất huyệt hình Đất phát công khanh Thơ rằng: Phần phiên âm Công khanh. Ngô công xuất huyệt hình Thi vân: Trang 163


http://www.tuvilyso.com Tổ sơn thế xuất thị kim tinh, Tiền hữu kim tinh ẩn bán hình, Huyệt tại ngô đầu châu tác án, Từ tôn vinh hiển kế công khanh Kim tinh khai khẩu tổ sơn tiền Xuất huyệt ngô công ẩn bán hình, Huyệt tại ngô đầu khanh tướng địa, Vựu hiềm ác thạch bị tai liên. Giải nghĩa Tổ sơn thế xuất vốn kim tinh Trước có kim tinh dấu nửa hình, Đầu rét huyệt ngồi châu trước án, Nối đời con cháu hiển công khanh. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói cho rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Kim tinh mở miệng, tổ sơn, Ngô công huyệt mới hiện hơn nửa hình, Huyệt này là huyệt công khanh, Chỉ hiềm đá phạm hiển vinh cũng thừa.

Thương long bàn vĩ hình Đất phát khoa giáp Thơ rằng: Phần phiên âm Khoa giáp. Thương long bàn vĩ hình Thi vân: Chân lông khai dực xuất phiên phiên Hiệu viết long phi xuất động tiên Ngoại đối cổ kỳ cao tác án, Tử tôn vinh hiển thị vương tiền, Tổ sơn phi xuất dực phi trương, Huyệt tại tỵ đầu thị cát xương, Trang 164


http://www.tuvilyso.com Thiết kỵ tăng đăng đa ác thạch, Công khanh thường bị huyết bình thương. Giải nghĩa Hớn hở rồng thiêng cất cánh bay, Long phi thường gọi động tiên đây, Trống cờ đối ngoại cao làm án, Con cháu vinh hoa phú quý thay. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Tổ sơn phất cánh bay đi Huyệt ngay ở mãi hẳn thì cát xương, Rất hiềm ác thạch vấn vương, Công khanh phú quý bị đường đao binh.

Thương long ngọc bút Đất phát khôi nguyên Thơ rằng: Phần phiên âm Khôi nguyên. Thương long ngọc bút Thi vân: Thương long bàn vĩ ngọa bình nguyên. Yếu đắc minh châu thủy nhiễu triền, Ngọc bút quang trừng lai tác án, Tử tôn thập bát chiếm khôi nguyên. Bàn tuyên kim thủy hạ bình nguyên, Hiệu viết chân long hạ trạch điền, Thiết kỵ lộ hành xuyên đoạn phúc Tảo sinh khoa giáp nhập hoàng tuyền. Giải nghĩa Rồng xanh uốn khúc chốn bình nguyên, Cốt được chung quanh nước bọc liền, Bút ngọc sáng trong là án đó Khôi nguyên mười tám cháu con hiền. Trang 165


http://www.tuvilyso.com Đây lại thêm một thế đất thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Vòng quanh kim thủy dưới đồng bằng Có phải chân long xuống ruộng chăng? Rất kỵ đường đi dùi thủng bụng, Sớm đăng khoa giáp chết còn măng.

Hải thu xuất thực hình Đất phát đăng khoa Thơ rằng: Phần phiên âm Đăng khoa - Hải thu xuất thực hình Thi vân: Thiên lý trường kình hiệu hải thu, Yếu nghi đê sấu thủy loan cù, Phục qui quang chiếu lai triều án, Tổn tư đăng khoa thượng đế đô. Bình nguyên khê nhược thủy oanh hu, Thiên trượng ngư hình hiệu hải thu, Thiết kỵ trường đồ xuyên nhập phúc, Tảo đăng khoa đệ tảo thân đồ. Giải nghĩa Muôn dặm trường kình gọi hải thu. Cốt nên thấp bé nước loan cù, Rùa kia chiếu sáng chầu làm án, Con cháu vinh hoa chốn đế đô Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Đồng bằng khe nước uốn quanh co, Muôn trượng thu ngư thế khá to, Rất kỵ đường dài xuyên giữa bụng. Sớm đăng khoa giáp sớm âu lo. Trang 166


http://www.tuvilyso.com

Quí nhân lập hốt hình Đất phát công khanh Thơ rằng: Phần phiên âm Công khanh. Quý nhân lập hốt hình. Thi vân: Đình đình kim tướng tọa cao viên, Ngọc hốt loan loan bão tả kiên, Tiền hữu hương đài cao chiếu án, Công khanh tướng tướng vĩnh lưu truyền. Mộc tinh loan bão thượng kim tinh, Nghiễm nhiên ngật lấp xuất chân hình, Vưu hiềm thạch sắc như thán tử, Tướng soái anh hùng hãm trận binh. Giải nghĩa Cao tròn đẹp đẽ tướng kim, Vòng quanh hốt ngọc giữ gìn bên vai, Hương đài trước án không sai, Công khanh văn võ tướng tài dài lâu Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Mộc tinh ôm ấp lấy kim tinh, Dáng vệ rung rinh tỏ dáng hình, Sắc đá gió than hiềm tối lại, Anh hùng tướng soái mắc đao binh.

Trang 167


http://www.tuvilyso.com

Cơ thượng kim thoa cục Đất phát cung phi Thơ rằng: Phần phiên âm Cung phi Cơ thượng kim thoa cục. Thi vân: Thổ tinh bình diện tại trung nguyên, Hoành liệt kim thoa chính huyệt tiền, Huyệt tại thoa trung vân cẩm án, Thời sinh tú nữ thị vương tiền. Kim thoa quang tĩnh tại bình nguyên, Huyệt tại thoa trung nữ tự tiên, Thiết kỵ lộ hành lai phá chiết, Tảo sinh tú nữ hạ hoàng tuyền.

Giải nghĩa Thổ tinh bằng mặt ở trung nguyên Ngang chỗ kim thoa huyệt chính chuyên, Huyệt ở kim thoa mây núi án, Sinh con gái đẹp chúa yêu liên. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Trang 168


http://www.tuvilyso.com Thơ rằng: Kim thoa sáng sủa ở bình nguyên, Huyệt ở trong thoi gái tựa tiên, Rất kỵ đường đi rồi phá vỡ, Sớm sinh tú nữ xuống hoàng tuyền. Ngũ diệp hà quí cục Đất phát tam công Thơ rằng: Phần phiên âm Tam công Ngũ diệp hà quí cục Thi vân: Phù phù thượng thủy xuất hồ trung, Nhạc hộ ba đào bất động phong Hạ hữu qui ngư triều tác án, Tử tôn cập đệ chí tam công. Ngũ diệp tân hà thủy diện sinh, Đăng khoa cập đệ chiếm cao danh, Nhị trung ngưỡng chưởng chân vi diệu Phụ táng táng gia tất bại khuynh. Giải nghĩa Nổi trên mặt nước giữa hồ trong, Huyệt có hộ trì gió chẳng rung Trước mặt cá rùa chầu giữ án, Cháu con thi đỗ tới tam công Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Năm lá hoa sen nổi mặt hồ, Đậu cao lừng lẫy tiếng hoan hô. Như bàn tay ngửa sao mà quí Phụ táng ai đây hẳn hại to.

Trang 169


http://www.tuvilyso.com Phi phượng nghinh tiên đồ Đất phát sinh tú nữ Thơ rằng: Phần phiên âm Tú nữ Phi phượng nghinh tiên đồ Thi vân: Ngưỡng ngọa bình nguyên vĩ hoạt trường, Huyệt cư ngạch thượng xuất cung phi, Tiên nhân tọa hướng quang minh án, Tú nữ thường sinh tọa gia bang. Thủy tinh hoạt tẩu nhiễu trường phi, Án ngọa tiên nhân xuất diệu kỳ, Thuận thủy tà lưu tương nạp trực, Tha hương ngoại giá tử vô qui. Giải nghĩa Phượng bay bay ngửa giữa bình nguyên, Trán phượng cung phi huyệt vẹn tuyền, Sáng sủa người tiên ngồi ấy án Sinh con gái đẹp có oai quyền. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Thủy tinh chaạ một dòng dài, Tiên nhân ẩn hiện ấn ngoài diệu cơ, Nước xuôi chảy chéo hững hờ, Lấy chồng làng khác đừng mơ đường về.

Thiên mã khóa vân hình Đất phát tướng văn và tướng võ Thơ rằng: Phần phiên âm Lưỡng đồ tướng tướng Thiên mã khoa vân hình Thi vân: Trang 170


http://www.tuvilyso.com Vân sơn điệp điệp xuất thiên tằng, Thiên mà đầu cao tứ túc đằng, Tiền hữu sơn tôn quang chiếu án, Lưỡng đồ tướng tướng tịnh cao thăng Tổ sơn tiền khởi mã yên san, Tướng tướng lưỡng đồ tịnh phát an, Ác thạch tăng đăng trương phá thoái, Trận vong binh tử nghiệp toàn nan. Giải nghĩa Núi mây chồng chất muôn tầng, Ngựa trời bốn cẳng phi đằng đầu cao, Non to án trước chiều vào, Văn quan võ tướng đường nào cũng cao. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Tổ sơn nổi trước mã yên trên, Văn võ đôi đường phát hiển nhiên, Đá xấu gập ghềnh thêm đổ vỡ, Ra quân tử trận nghiệp khôn tuyền.

Giải hành du nguyệt hình Đất phát phò mã Thơ rằng: Phần phiên âm Phụ (phò mã) Giải hành du nguyệt hình Thi vân: Kim tinh ngưỡng diện xuất bình điền Viên cập thân khuân diệc chính viên, Án đối hồ trung thanh nhật nguyệt, Thanh tiền phụ mã nhập vương đình, Bình nguyên quảng dã ngưỡng kim tinh, Sinh thượng hồ trung châu thị minh, Thiết kỵ trường đồ xung đoạn bối, Trang 171


http://www.tuvilyso.com Nam nhi quí cực bị đao hình, Giải nghĩa Ngửa mặt kim tinh ruộng cỏ non, Mình tròn vựa thóc cũng quây tròn Án hồ nhật nguyệt gương mờ tỏ. Phò mã vương đình giúp chúa tôn Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Đồng bằng nội rộng kim tinh, Mặt hồ lóng lánh châu minh sáng bừng, Kiêng đường dài thọc đứt lưng Nam nhi dẫu quí không chừng hình theo.

Phượng hoàng hạ điền hình Đất phát cung phi Thơ rằng Phần phiên âm Cung phi Phượng hoàng hạ điền hình Thi vân: Kim tinh trắc ngọa tại bình nguyên, Lưỡng dực khai trương viết hạ điền, Tiền hữu minh châu lai tác án, Nữ nhi phi hậu thị vương tiền, Ngũ tinh tương kết danh vi phượng, Lưỡng dực phi trương hạ thủy điền Thiết kỵ lộ hành nhàn phá đoạn, Tuy sinh tú nữ mệnh nan tuyền. Giải nghĩa Kim tinh nghiên ngửa ruộng bằng, Dương hai cánh phượng lượn tầng mây bay Minh châu trước có án bày Cung phi hoàng hậu tháng ngày bên vua Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Trang 172


http://www.tuvilyso.com Thơ rằng: Ngũ tinh kết thúc phượng hoàng, Bay cao hai cánh nhập nhoàng xuống nương, Rất kiêng người đi đứt đường, Dẫu sinh gái đẹp mệnh thường khó nuôi.

Nguyệt lạc hàm trì hình Đất phát cung phi Thơ rằng: Phần phiên âm Cung phi Nguyệt lạc hàm trì hình Thi vân: Kim tinh ngưỡng diện tọa tây phương Ẩn ẩn kỳ trung sắc ánh quang Huyệt tại nguyệt trung tinh tác án, Thường sinh tú nữ phối công vương, Yểm ánh tường vân khởi nhiễu phi, Danh vi nguyệt lạc thị hàm trì, Vưu hiềm thủy xạ phong xuy kích, Tú nữ tuy sinh diệc tảo nguy. Giải nghĩa Kim tinh ngửa mặt phương tây, Ẩn hình trong ánh sáng đầy chiếu ra, Huyệt ngay trong mắt hằng nga Núi sao làm án thực là quý thay, Đất này phát phúc nhiều đây, Sinh con gái đẹp sánh tầy vương công. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Lượn tròn quanh ánh tường vân, Gọi là nguyệt lạc ở gần hồ chơi. Rất kiêng gío thổi nước xoi, Dẫu sinh gái đẹp cũng toi mạng liền.

Trang 173


http://www.tuvilyso.com

Long bộ thiềm cung hình Đất phát hiển vinh vương đình Thơ rằng: Phần phiên âm Bán nguyệt Long bộ thiềm cung hình Thi vân: Thủy tinh truyền nhễu bão kim tinh, Long bộ thiềm cung thị chính hình, Huyệt tại nguyệt trung tinh tác án, Tử tôn vinh hiển nhập vương đình. Trắc ngọa kim tinh bán nguyệt hình, Thủy tinh tẩu nhiễu bão kim tinh. Vưu hiềm phá toái phi toàn thể, Diệc phát quan cao bị ngục hình. Giải nghĩa Thủy tinh vòng khắp giữ kim tinh Long bộ thiềm cung ấy chính hình Huyệt ở mặt trăng sao án đó, Cháu con vinh hiển chốn vương đình Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói cho rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Nằm nghiêng bán nguyệt kim tinh, Thủy tinh chạy khắp bọc mình kim tinh. Kiêng sao giữ được toàn hình. Kẻo rồi quan cả tội tình càng ghê

Trang 174


http://www.tuvilyso.com

Lạc đà ẩm thủy hình Đất phát võ soái Thơ rằng: Phần phiên âm Võ soái Lạc đà ẩm thủy hình Thi vân: Kim tinh phi hậu hạ bình nguyên, Tứ túc phân minh hướng thủy tuyền, Hiệu viết lạc đà lai ẩm thủy, Huyệt cư tề phúc vũ cao quyền. Trắc ngọa kim tinh hạ ngãng nguyên, Hổ long tả hữu tự kình quyền, Vưu hiềm lộ đoạn xuyên hung phúc, Vũ tướng niên niên họa tự nhiên. Giải nghĩa Kim tinh béo tốt xuống bình nguyên, Bốn cẳng như in hướng thủy tuyền, Tên gọi lạc đà đi uống nước, Huyệt ngay ở rốn võ cao quyền. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói rõ ra những chỗ ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Kim tinh chăm chắm dưới bình nguyên, Bạch hổ thanh long tựa đấu quyền, Đướng đứt rất kiêng xuyên bụng ngực, Năm năm võ tướng họa liên miên

Trang 175


http://www.tuvilyso.com

Tân nguyệt sơ sinh hình Đất phát cung phi Thơ rằng: Phần phiên âm Cung phi Tân nguyệt sơ sinh hình Thi vân: Nga mi sơn hiện xuất loan loan, Tân nguyệt sơ sinh lại trạch điền Tiền hữu lưu tinh triều tác án, Thường sinh tú nữ nhập vương tiền. Kim tinh trắc ngọa lưỡng tiêm hình, Thủy trạch giang biên nguyệt thủy sinh Thiết kỵ lộ hành nhân phá đoạn, Tảo sinh tú nữ nhập tuyền đình. Giải nghĩa Nga mi núi uốn cong cong, Mặt trăng mới mọc chiếu trong ruộng đầm, Lưu tinh làm án sáng ngầm, Thường sinh tú nữ cung tần vua yêu Đây lại thêm một thể thứ hai có ý nói cho rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Kim tinh nằm nghé nhọn hai đầu Đầm nước bên sông nguyệt sáng màu, Đường đứt rất kiêng người phá hại, Sinh con tú nữ chết thêm đau

Trang 176


http://www.tuvilyso.com

Thần sư thiết pháp cục Đất phát hòa thượng Thơ rằng: Phần phiên âm Hòa thượng Thần sư thiết pháp cục Thi vân: Mộc tinh quang chiếu tại bình nguyên, Thần kiếm an bài bắc đầu tiền Huyệt tại kiếm phù tinh tác án, Quan cao hòa thượng thị vương tiền. Long hổ khai kiềm ngọai mộc tinh, Diện tiền thần kiếm chỉ quang minh, Đán hiếm thủy tẩm long tinh vị, Pháp phù tuy hữu bất anh linh. Giải nghĩa Mộc tinh chiếu sáng bình nguyên Kiếm thần bắc đẩu án tiền thảnh thơi, Huyệt ngay phù kiếm chính ngôi, Quan cao hòa thượng ở nơi đế đình. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói cho rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Mộc tinh long hổ mở kim rồi, Thần kiếm trên vai bóng sáng ngời, Nước ngấm chỉ lo long vị ố, Cao tay phù phép hết thiêng thôi.

Trang 177


http://www.tuvilyso.com Thổ tinh phương diện hình Đất phát hòa thượng Thơ rằng: Phần phiên âm Hòa thượng Thổ tinh phương diện hình. Thi vân: Thổ tinh phương diện tại bình điền, Chung cổ tiên bài đối lưỡng biên, Tiền hữu hương đài cao tác án, Danh cao hòa thượng đế vương tiền. Giải nghĩa Thổ tinh vuông vắn ruộng bằng, Trống chuông trước đã bày hàng đôi bên, Hương đài làm án uy nghiêm, Danh cao hòa thượng ở bên bệ rồng.

Kim đường ngọc khánh cục Đất phát hòa thượng Thơ rằng: Phần phiên âm Hòa thượng – Kim đường ngọc khánh cục Thi vân: Mộc tinh liên tiết tại bình nguyên, Long hổ song bài nhạc hộ triền, Tiền hữu hương đài cao vọng án, Quan cao hòa thượng thị vương tiền. Lưỡng mộc song tinh liên tiết ngọa. Danh vị ngọc khánh tại bình nguyên, Vưu hiềm lộ đoạn xuyên bản cục, Túng phát quan sư tuyền bất tuyền. Giải nghĩa Mộc tinh liền đất ở bình nguyên, Long hổ hai tay khéo giữ gìn. Trang 178


http://www.tuvilyso.com Trước có hương đài làm vọng án. Gần vua hòa thượng thọ cao niên. Đây lại thêm một thể thứ hai có ý là để nói cho rõ ra những ưu khuyết điểm, cũng như những chỗ xấu để mà quan phòng. Thơ rằng: Lưỡng mộc song tinh dắt díu nằm Gọi lạ ngọc khánh dưới đồng bằng Đứt đường rất sợ xuyên qua đó, Dẫu phát quan thầy khó vẹn chăng?

Ngọc quan ngân đối đồ Đất phát vinh phong Thơ rằng: Phần phiên âm Vinh phong Ngọc quan ngân đới đồ Thi vân: Bình địa tiên trần nhất ngọc quan, Tiền triều ngân đới thủy loan loan, Cục đường liêm thiếp lai triều án, Kế thế vinh phong cận thánh nhan. Giải nghĩa Mũ ngọc bày nơi đất phẳng bằng, Vòng quanh giải bạc nước sao băng, Minh đường trước có rèm làm án, Nối dõi gần vua chức tước thăng

Trang 179


http://www.tuvilyso.com Đột ngột cao sơn đồ Đất phát trạng nguyên Thơ rằng: Phần phiên âm Trạng nguyên Đột ngột cao sơn Thi vân: Đột ngột cao sơn khúc lưỡng kiên, Trương khai lưỡng dực sắc phiên phiên, Minh châu ngoại hướng tiên triều án, Thế thế thường sinh quốc trạng nguyên, Giải nghĩa Non cao chót vót cuốn hai vai, Hai cánh dương bay phất phới hoài, Án ngọc minh châu châu lại đó, Đời nào cũng trạng chắc không sai.

Thần kinh dị pháp Nghĩa là những pháp mầu nhiệm của thần kinh Đây hãy xét la kinh có hai mươi bốn vị. Tỳ là chính vị Bắc phương, mà Nhâm Quý là phụ đó. Ngọ là chính vị Nam phương, mà Bính Đinh là phụ đó. Mão là chính vị Đông phương, mà Giáp Ất là phụ đó. Dậu là chính vị Tây phương, mà Canh Tân là phụ đó. Tý Ngọ Mão Dậu, vua Văn Vương cho là hậu thiên. Khảm ly chấn đoài là bốn phương, là địa vị rất chính của nó vậy. Kiền Khôn Cấn Tốn là bốn góc cạnh (tứ duy). Đứng đầu tóm hết lại để dùng tám can với mười hai chi. Tức là phương đông thì Dần Giáp Ất Mão Thìn nhưng mà Mão thì là ở chính trung. Nam phương thì Tỵ Ngọ Bính Đinh Mùi, nhưng mà Ngọ thì là ở chính trung. Tây phương thì Thân Canh Dậu Tân Tuất, nhưng mà Dậu thì là ở chính trung. Bắc phương thì Hợi Nhâm Tý Quý Sửu nhưng mà Tý thì là ở chính trung. Như thế đó thì thật là cái lẽ rất trung rất chính vậy. Trời đất là cái ngôi chí cực, muôi đời chẳng dễ mà có thể thay đổi được. Về sau người ta mới nghĩ mà đã chế ra cái kim nam châm nổi để mà xem so sánh với ánh mặt trời. Trang 180


http://www.tuvilyso.com Ở phía nam thì trông lên sao Bắc đẩu. Ở phía Bắc cực thì xem sao Xu Tinh. Người ta dùng cái tính tự nhiên của kim ấy để đem so sánh thì nó thiên về hướng phương Bính. Bởi vì chẳng phải vì Nam bắc mà nó thiên dần, thực cũng chẳng qua là ví cái kim nổi đó nó sợ chính hỏa mà ra như thế vậy. Cho nên người ta mới lấp cái kim nam châm ấy vào trong la bàn dùng để làm phương châm, để mà xem sự chuẩn đích cũng như các phương hướng chính, địa vị chính của trời đất vậy, như thế thì những khả năng của cái kim ấy cũng có thể làm cho người ta biết được chỗ nào là địa vị nào, phương hướng nào, của trời đất vậy.

Trang 181


-1-

http://www.tuvilyso.com

HỒNG VŨ CẨM THƯ Dạy về thuật phong thủy có phụ họa đồ Quyển hạ Lập minh để truyền thụ cho học trò gồm có bốn mục: 1). Truyền thụ luận 2). Định minh thệ 3). Nghi thức lập minh 4). Tựa truyền phái Truyền phái tiết lậu thiên cơ Kiền là tượng trưng chức ngự sử Cấn là tượng trưng chức trạng nguyên Khôn là tượng trưng chức tể tướng. Tốn là tượng trưng chức an phủ. Thân là tượng trưng chức thái thú. Hợi là tượng trưng chức quan huyện Dần là tượng trưng người thứ dân Tỵ là tượng trưng chức vị tướng quân Nói về thế bát sơn có năm thế: 1). 2). 3). 4). 5).

Thế phát Thế phát Thế phát Thế phát Thế phát

khôi giáp văn chương thư sinh áp mục thái họa (hội họa)

Truyền phái tiết lậu cơ trời. Ông Dương Quân Tùng tên chữ là Trương Mậu, tên hiệu là Cửu Bần. Ông Tăng Văn Địch tên hiệu là Chân Tiên Nhân; khi Tăng Công còn nhỏ, có biệt danh là Liên Vũ, tu ở núi Kim Tinh dồn hết tinh hoa phát huy huyền bí tiết lậu cơ trời tức là bộ Địa lý (thuật Phong thủy) chính tông này, do ông Dương Quân Tùng phát minh truyền đến ông Tăng Văn Địch tên hiệu là Liên Vũ. Chính những người theo học phải hiểu thế đất thế nào? Phải biết nhận ra những hình thế miệng truyền mắt thấy, thế kia thế khác v.v... nên có câu rằng: Phiên âm Đề viết Lương điền cánh tác tử tôn lụy, Châu ngọc chung vi thê tử tai, Nhất quyển kinh truyền hiển tiếu già Thủ chi bất kiệt dụng vô thai Giải nghĩa Ruộng nương chỉ để con mang lụy, Châu ngọc hay gì vợ mắc tai. Một quyển kinh này khôn giữ được, Lấy dùng không hết cứ còn hoài.


-2-

http://www.tuvilyso.com

Lại có câu kinh rằng: Phiên âm Kinh vân Cộng âm cộng hưởng cộng lai long, Bách tính cư chi tổng nhất đồng, Tiền diện nhất ban thị tham lang, Nhất gia phú quý nhất gia cùng. Giải nghĩa Cũng âm cũng hưởng cũng rồng chầu, Trăm họ cùng nhau ở đã lâu, Trước mắt tham lang ngay ở đó. Người giàu kẻ khó bởi vì đâu? Thần kinh dị pháp Nghĩa là những phép mầu nhiệm của thần kinh, Đây hãy xét là kinh có hai mươi bốn vị. Tý là chính vị Bắc phương mà Nhâm Quý là phụ đó. Ngọ là chính vị Nam phương mà Bính Đinh là phụ đó. Mão là chính vị Đông phương mà Giáp Ất là phụ đó. Dậu là chính vị Tây phương mà Canh Tân là phụ đó. Tý Ngọ Mão Dậu vua Văn Vương cho là hậu thiên. Khảm Ly Chấn Đoài là bốn phương là địa vị rất chính của nó vậy. Kiền khôn cấn tốn là bốn góc cạnh (tứ duy). Đứng đầu tóm hết lại để dùng tám can với mười hai chi. Tức là phương đông thì Dần Giáp Ất Mão Thìn nhưng mà Mão thì là ở chính trung. Nam phương thì Tỵ Ngọ Bính Đinh Mùi nhưng mà Ngọ thì là ở chính trung. Tây phương thì Thân Canh Dậu Tân Tuất nhưng mà Dậu thì là ở chính trung. Bắc phương thì Hợi Nhâm Tý Quý Sửu nhưng mà Tý thì là ở chính trung. Như thế đó thì thật là cái lẽ rất trung rất chính vậy. Trời đất là cái ngôi chi cực muôn đời chẳng dễ mà có thể thay đổi được. Về sau người ta mới nghĩ mà đã chế ra cái kim nam châm nổi để mà xem và so sánh với ánh mặt trời. Ở phía nam thì trông lên sao Bắc đẩu. Ở phía bắc cực thì xem sao Xu tinh. Người ta dùng cái tính tự nhiên của kim ấy để đem so sánh thì nó thiên về hướng phương bính. Bởi vì chẳng phải vì nam bắc mà nó thiên đẩu, thực cũng chẳng qua là vì cái kim nổi đó nó sợ chính hỏa mà ra như thế vậy. Cho nên người ta mới lắp cái kim nam châm ấy vào trong la bàn dùng để làm phương châm để mà xem sự chuẩn đích cũng như các phương hướng chính, địa vị chính của trời đất vậy, như thế thì những khả năng của cái kim ấy cũng có thể làm cho người ta biết được chỗ nào là địa vị nào, phương hướng nào của trời đất vậy. Luật huyệt pháp Quyển thứ hai mươi sáu Theo phép xem hướng để mà nhận định ra long huyệt. Hai mươi bốn thứ long huyệt, mỗi thứ huyệt tốt và địa vị của nó. Nhâm long thì có ba thứ huyệt:


-3-

1. Cấn sơn hướng Khôn. 2. Tý sơn hướng Ngọ. Sửu long thì có một huyệt: Nhâm sơn hướng bính. Cấn long thì có tám thứ huyệt: 1. Quý sơn hướng Đinh. 2. Nhâm sơn hướng Bính 3. Giáp sơn hướng Canh 4. Ất sơn hướng Tân. 5. Mão sơn hướng Dậu 6. Kiền sơn hướng Tốn 7. Hợi sơn hướng Tỵ. 8. Sửu sơn hướng Mùi. Dần long có hai thứ huyệt. 1. Cấn sơn hướng Khôn 2. Dần sơn hướng Thân Giáp long có hai thứ huyệt: 1. Cấn sơn hướng Khôn. 2. Tốn sơn hướng Kiền. Mão long có bốn thứ huyệt: 1. Giáp sơn hướng Canh 2. Ất sơn hướng Tân. 3. Quý sơn hướng Đinh 4. Tỵ sơn hướng Hợi Ất long có một huyệt. Cấn sơn hướng Khôn Thìn long có hai thứ huyệt: 1. Tốn sơn hướng Kiền. 2. Cấn sơn hướng Khôn Tốn long có ba thứ huyệt 1. Ất sơn hướng Tân 2. Tỵ sơn hướng Hợi 3. Khôn sơn hướng Cấn Tỵ long có một huyệ: Tỵ sơn hướng Hợi Bính long có bốn thứ huyệt 1. Tỵ sơn hướng Hợi 2. Giáp sơn hướng Canh 3. Ất sơn hướng Tân 4. Khôn sơn hướng Cấn Ngọ long có hai thứ huyệt: 1. Bính sơn hướng Nhâm 2. Đinh sơn hướng Quý Đinh long có hai thứ huyệt: 1. Khôn sơn hướng Cấn 2. Tỵ sơn hướng Hợi Mùi long có một thứ huyệt: Khôn sơn hướng Cấn Khôn long có một thứ huyệt: Đinh sơn hướng Quý Thân long có hai thứ huyệt: 1. Đinh sơn hướng quý

http://www.tuvilyso.com


-4-

http://www.tuvilyso.com

2. Canh sơn hướng Giáp Canh long có hai thứ huyệt: 1. Dậu sơn hướng Mão 2. Khôn sơn hướng Cấn. Dậu long có ba thứ huyệt: 1. Khôn sơn hướng Cấn 2. Kiền sơn hướng Tốn 3. Hợi sơn hướng Tỵ. Tân long có ba thứ huyệt: 1. Kiền sơn hướng Tốn 2. Dậu sơn hướng Mão 3. Khôn sơn hướng Cấn Tuất long có một thứ huyệt: Tân sơn hướng Ất Kiền long có một thứ huyệt: Tân sơn hướng Ất Hợi long có ba thứ huyệt: 1. Nhâm sơn hướng Bính 2. Kiền sơn hướng Tốn 3. Quý sơn hướng Đinh. Nhâm long huyệt ấy có ba thứ hướng, hướng thứ nhất là tọa tý hướng ngọ. Nhâm long vào đầu ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Tý hướng Ngọ, nên đun nhích sang bên tả, gia thêm Hợi phương nửa phần, để lấy phương Bính Tý mà Nhâm là chính trung. Đến chỗ khi đến ấy để đi suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Khi theo tai hữu ngấm dần, Mười can trái chín một phần thiên nhâm, Nhích sang tả hợi phúc âm, Long mạch tinh thần phú quý vinh hoa. Phân kim Kiêm Nhâm Bính nên dùng Canh Ngọ Canh Tý (thuộc Thổ). Kiêm Quý Đinh nên dùng Bính Ngọ Tý (thuộc Thủy). Hướng thứ hai tọa Cấn hướng Khôn. Nhâm long vào đầu ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Cấn hướng Khôn, nên đun nhích sang bên tả gia, Hợi phương nửa phần để lấy mạch đi suốt sang lưng bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa cấn hướng khôn. Phiên âm Nhâm long điều điều (siêu) huyệt thiên nhị (cấn) Thiên phụ (nhâm) khí bôn khấu hữu du Huyệt vị xâm tả bán phần hợi. Phú quý thanh danh hưởng lư lý Giải nghĩa Nhâm long thiên thị xa sao Cấn nhâm thiên phụ khí vào hữu du Nửa phần bên tả hợi bù Giàu sang danh giá đi du dân lâng


-5-

http://www.tuvilyso.com

Phân kim Kiêm Sửu Mùi nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ) kiêm Dần Thân nên dùng Bính Dần Bính Thân (thuộc Hỏa). Hướng thứ ba là tọa tân hướng Ất. Nhâm long vào đầu ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa tân hướng Ất, nên đun nhích sang bên hữu gia sang Tý phương nửa phần để lấy nhân mạch khí suốt sang lưng bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ tam tọa tân hướng Ất Phiên âm Thiên nhâm phụ huyệt hướng thiên tinh, Khí tòng tả du thông huyền linh, Huyệt nghi ai hữu gia dương quang (Tý) Chủ khách phú nhân tắc anh minh. Giải nghĩa Thiên nhân phụ huyệt thiên tinh Khí theo bên tả mạch sinh diệu huyền. Huyệt đun bên hữu quy quyền. Anh minh chủ khách giầu tiền người hay. Phân kim Kiêm Mão Dậu nên dùng Tân Mão Tân Dậu (thuộc mộc). Kiến Thìn Tuất thì nên dùng Bính Thìn Bính Tu ất (thuộc thổ). Tý long huyệt ấy có một hướng. Hướng thứ nhất là tọa cấn hướng khôn. Tý long nhập thủ ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa cấn hướng khôn nên đun sang bên hữu gia một chút nhâm phương một phần để khiến chính cái khí phương Tý suốt sang tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ lại nói rằng: Tý long nhất hướng Đệ nhất tọa cấn hướng Khôn Phiên âm Dương (Tý) quang huyệt tại thiên (cấn) thị viên Khí tùng hữu nhĩ nãi vi huyền Huyệt nghi ai tả gia thiên (nhâm) phụ, Dựng sinh tử (lục súc) chỉ đa điền viên. Giải nghĩa Dương quang huyệt ở cấn viên, Khí chung bên hữu diệu huyền tự nhiên. Huyệt đun bên tả nhâm thiên, Dưỡng sinh nẩy nở điền viên của nhiều Phân kim Kiêm Sửu Mùi nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ) Kiên Dần Thân nên dùng Bính Dần Bính Thân (thuộc hỏa)


-6-

http://www.tuvilyso.com

Quí long huyệt ất có hai hướng: Hướng thứ nhất là tọa cấn hướng khôn Quí long nhập thủ ở chỗ bên tả, huyệt ấy thì là tọa cấn hướng khôn, nên đun nhích sang bên hữu gia lý phương nửa phần để lấy mạch đi suốt sang Đinh Sửu đến chính quý phương mạch suốt sang tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Quí long nhị hướng Đệ nhất tọa cấn hướng khôn Phiên âm Thôi quan thi vân: Thôi quan tam thập hướng huyền (khôn) qua, Nghi ai âm quang (tuấn mỹ) hữu nhĩ qua, Ai tả vi gia bán phân tý, Phú quý cách kiến phong lưu đa. Giải nghĩa Ba mươi khôn hướng thôi quan, Âm quan bên hữu hân hoan qua rồi, Nửa phần tỳ tả biên thôi, Phong lưu phú quý đất trời giúp cho. Phân kim Kiêm Sửu Mùi nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ). Kiến Dần Thân nên dùng Bính Dần Bính Thân (thuộc hỏa). Hướng thứ hai là hướng tọa Tý hướng Ngọ. Quí long nhập thủ ở chỗ bên tả, huyệt ấy thì là tọa Tý hướng Ngọ, nên đun nhích sang bên hữu hơi gia một chút Sửu phương để lấy chính khí Đinh Sửu suốt vào lai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Tý hướng Ngọ Phiên âm Am (quí) quang huyệt khảm hướng viêm tinh, Tả nhĩ thừa khí bất vi khinh, Huyệt nghi ai hữu vi gia sửu, Xuất nhân anh tuấn tư tài thịnh. Giải nghĩa Quí âm huyệt khảm hướng viêm tinh, Bên tả nhâm khí khí chẳng khinh Bên hữu đun sang thêm ít sửu Nhân tài phú quý tuấn anh sinh. Phân kim Kiêm Nhâm Bính nên dùng Canh Tý Canh Ngọ (thuộc thổ) Kiến Quý Đinh nên dùng Bính Tý Bính Ngọ (thuộc hỏa). Sửu long huyệt ấy có một hướng. Hướng thứ nhất là tọa Nhâm hướng Bính, Sửu long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa nhâm hướng Bính nên đun nhích


-7-

http://www.tuvilyso.com

sang bên hữu hơi gia cấn phương một chút để lấy chính khí Tân Sửu mà mạch chính đi suốt sang tai bên tả. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Sửu long nhất hướng Đệ nhất tọa nhâm hướng Bính. Phiên âm Ngọ (Sửu) kim tẩu hướng thái vi (Bính) viên, Khí bôn tả nhĩ long mạch tuyền. Dương (cấn) xư nghi gia huyệt niêm hữu, Thủy kiến cục tỏa đa điền viên. Giải nghĩa Ngọ kim sửu hướng thái vi viên, Khí chạy đưa sang long mạch tuyền. Dương cấn huyệt cần liên hữu vậy. Kiền phương thủy ứng ruộng nhiều tiền. Phân kim Kiêm Tý Hợi nên dùng Tân Tỵ Tân Hợi (thuộc Kim) Kiến Tý Ngọ nên dùng Bính Tý Bính Ngọ (thuộc Thủy) Cấn long huyệt ấy có tám hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa quý hướng Đinh. Cấn long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt Ất thì là tọa quí hướng đinh, nên đun sang bạch hổ gia thêm một phân Dần phương để khiến Mậu Dần phương chính khí hợp cấn long chạy suốt sang tai bên tả. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Cấn long huyệt bái hướng Đệ nhất tọa quí hướng Đinh Phiên âm Thôi quan đệ nhất huyệt nghi quí, Thiên (cấn) thị chính khí tại tả nhĩ (mão), Huyệt niêm tây thú vi gia dần, Họa cẩm vinh hoa huy lư lý. Giải nghĩa Đệ nhất thôi quan huyệt quý phương, Tả biên thiên cấn khí dương cường Huyệt niêm tây thú gia dần ít, Áo gấm vinh hoa rộn rực làng. Phân kim Kiêm Tý Ngọ nên dùng Canh Tý Canh Ngọ (tuổi thổ), Kiêm Sửu Mùi nên dùng Đinh Sửu Đinh Mùi (thuộc thủy). Hướng thứ hai là hướng tọa Nhâm hướng Bính. Cấn long nhập thủ ở chỗ bên ngang bên tả lại mà ra bên hữu huyệt ấy thì là tọa nhâm hướng Bính, nên đun sang bên hữu lấy khí Nhâm Dần chính khí cấn phương suốt sang lưng bên hữu.


-8-

http://www.tuvilyso.com

Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa nhâm hướng bính. Phiên âm Thiên (cấn) thị lai long thái vị xung, Yêu du quan chức vượng âm dương, Tương kiến phúc lai trinh nhị hướng, Cấn bính phối hợp tương tùy xương. Giải nghĩa Lai long thiên thị thái vi, Âm dương hưng vượng mạch thì ở lưng Điềm lành phát phúc tưng bừng. Tại hai hướng Bính Cấn cùng hợp nên Phân kim Kiêm Tỵ Hợi, nên dùng Tân Tỵ Tân Hợi (thuộc Kim) Kiêm Tý, Ngọ nên dùng Bính Tý Bính Ngọ (thuộc thủy). Hướng thứ ba là hướng tọa giáp hướng canh. Cấn long nhập thủ ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa giáp hướng Canh, nên đun nhích sang bên thanh long gia một phân sửu để lấy Bính Dần chính khí suốt sang tai bên hữu. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Đệ tam tọa giáp hướng Canh. Phiên âm Thiên (cấn) thị điều điều (siêu) nhập âm (giáp) cơ Khí xung hữu nhĩ vô uy di. Thiên (sửu) trù vi gia huyệt niêm tả, Phú quý vân vũ phẩm ban tùy. Giải nghĩa Thiên cấn xa xôi đến giáp âm, Khí xung bên hữu lượn đi ngầm Thiên trù đun ít liêm bên tả, Phú quý vinh hoa võ lại văn, Phân kim Kiêm Dần Thân nên dùng Canh Dần Canh Thân (thuộc thủy) Kiêm Mão Dậu nên dùng Đinh Mão Đinh Dậu (thuộc hỏa). Hướng thứ tư là hướng tọa ất hướng tân. Cấn long nhập thủ ở chỗ ngang bên hữu lại, ra bên tả huyệt ấy thì là tọa ất hướng tân nên đun nhích sang bên tả gia một chút Sửu phương để lấy Mậu Dần chính khí suốt vào lưng bên hưữ. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ tử tọa Ất hướng Tân Dương (cấn) xu huyệt thiên (quan) tinh. Hữu yêu thừa khí thị đa vinh. Giải nghĩa


-9-

http://www.tuvilyso.com

Dương xa huyệt ở thiên quan, Khí sang bên hữu lưng mang chỉ vì Nhích sang bên tả tỳ ti, Để cho khí tụ được thì vinh quang Phân kim Kiêm Mão Dậu nên dùng Tân Mão Tân Dậu (thuộc mộc). Kiến Thìn Tuất nên dùng Bính Thìn Bính Tuất (thuộc thổ). Hướng thứ năm là hướng tọa Mão hướng Dậu. Cấn long nhập thủ ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Mão hướng Dậu, nên đun nhích sang bên thanh long gia m ột phân Sửu phương để lấy Bính Dần chính khí suốt sang tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ ngũ tọa mão hướng dậu Phiên âm Dương (cấn) khu vi long tự tây đoài Hữu nhĩ thừa khí ưng vi tối Huyệt nghi ai tả gia (sửu) trù tinh, Phiệt duyệt vinh hoa thế vô ngài Giải nghĩa Dương xa long mạch tự Tây đoài Bên hữu giao nhau khí cũng tài Bên tả nhích sang gia trù sửu Vinh hoa phiệt duyệt mãi lâu dài. Phân kim Kiêm Giáp Canh, nên dùng Tân Mão Tân D ậu (thuộc mộc). Kiêm Ất Tân nên dùng Đinh Mão Đinh Dậu (thuộc hỏa), Hướng thứ sáu là hướng tọa kiền hướng tốn. Cấn long nhập thủ ở chỗ ngang vào bên trái, ra bên ph ải huyệt ấy thì là tọa kiền hướng tốn, nên đun nhích sang bên hữu để lấy Mậu Dần chính khí cấn phương chạy suốt vào lưng bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ lục tọa kiền hướng Tốn Phiên âm Thiên (cấn) thị hành long hướng dương (tốn) tuyền. Khí xung tả du thông vi huyền. Ốc nhuận gia phì tích ngọc kim Đản khủng thiên chiết hữu khuy thiên. Giải nghĩa Thiên cấn hành long hướng tốn thư, Khí xung bên tả diệu huyền như. Phong quang nhà cửa dư tiền của Biết sợ trời thương khéo kẻ dư Phân kim


- 10 -

http://www.tuvilyso.com

Kiêm Thìn Tuất bên dùng Canh Thìn Canh Tuất (thuộc Kim) Kiêm Tỵ Hợi nên dùng Đinh Tỵ Đinh Hợi (thuộc thổ). Hướng thứ bảy là hướng toạ Hợi hướng Tỵ. Cấn long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Hợi hướng Tỵ, nên đun sang bên hữu để lấy cấn phương chính khí suốt sang lưng bên tả huyệt đây phát phú quý. Phân kim Kiến tiền tốn nên dùng Tân Hợi Tân Tỵ thuộc kim. Kiêm Nhâm Bính nên dùng Đinh Hợi Đinh Tỵ (thuộc thổ). Hướng thứ tám là hướng tọa Sửu hướng Mùi. Cấn long nhập thủ ở chỗ ngang vào bên trái, ra bên ph ải huyệt ấy thì là tọa kiền hướng tốn, nên đun nhích sang bên hữu để lấy Mậu Dần chính khí cấn phương chạy suốt vào lưng bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ lục tọa kiền hướng tốn Phiên âm Thiên (cấn) thị hành long hướng dương (tốn) tuyền. Khí xung tả du thông vi huyền. Ốc nhuận gia phỉ tích ngọc kim Đản khủng thiên chiết hựu khuy thiên. Giải nghĩa Thiên cấn hành long hướng tốn thư, Khí xung bên tả diệu huyền như, Phong quang nhà cửa dư tiền của. Biết sợ trời thương khéo kẻ dư. Phân kim Kiêm Thìn Tuất bên dùng Canh Thìn Canh Tuất (thuộc kim). Kiêm Tỵ Hợi nên dùng Đinh Tỵ Đinh Hợi (thuộc thổ). Hướng thứ bảy là hướng tọa Hợi hướng Tỵ. Cấn long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Hợi hướng Tỵ, nên đun sang bên hữu để lấy cấn phương chính khí suốt sang lưng bên tả huyệt đây phát phú quý. Phân kim Kiến kiền tốn nên dùng Tân Hợi Tân Tỵ thuộc kim Kiêm nhâm Bính nên dùng Đinh Hợi Đinh Tỵ (thuộc thổ). Hướng thứ tám là hướng tọa Sửu hướng Mùi. Cấn long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Sửu hướng Mùi nên du về bên hữu gia một phân dần phương để lấy Mậu Dần chính khí của Cấn phương suốt sang tai bên hữu. Phân kim Kiếm Quí Đinh nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ). Kiêm Cấn Khôn nên dùng Đinh Sửu Đinh Mùi (thuộc thủy). Dần long huyệt ấy có hai hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa Cấn hướng Khôn. Dần long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa cấn hướng khôn nên đun sang bên hữu hơi gia giáp phương một chút để lấy Nhâm Dần chính khí suốt sang tai bên tả.


- 11 -

http://www.tuvilyso.com

Mấy hướng này đều thiếu bài thơ thôi quan trong bản chính. Phân kim Kiêm Sửu Mùi, nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc Thổ). Kiêm Dần Thân, nên dùng Bính Dần, Bính Thân (thuộc hỏa). Hướng thứ hai là hướng tọa Dần hướng Thân. Dần long nhập thủ mạch lại thẳng khí chịu thẳng, làm nên Dần Thân phương hướng huyệt nên đun sang bên hữu gia Giáp Dần chính khí cốt yếu làm sao để cho long thần đặc biệt nhảy nhót huyệt tinh rất khéo, đất nước tốt đẹp thời chẳng gì là chẳng tốt. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Dần long nhị hướng Đệ nhất tọa cấn hướng khôn Đệ nhị tọa Dần hướng Thân. Phiên âm Công tảo (Dần) chính hướng thiên khai tinh, Long mạch dĩnh dị huyệt kham thân. Sa thủy bất bị tối hung ác, Quả mẫu quái tật đa sinh sân. Giải nghĩa Công tảo chính hướng đức trời nhân, Long mạch nơi đâu lạ khó gần Đất nước đủ trăng sao dữ vậy Ốm đau góa bụa thảm thương thân. Phân kim Kiêm Cấn Khôn, nên dùng Canh Dần Canh Thân (thuộc mộc), Kiêm Giáp Canh, nên dùng Bính D ần Bính Thân (thuộc hỏa). Giáp long huyệt ấy có hai hướng: Hướng thứ nhất là hướng tọa Cấn hướng Không? Giáp long nhập thủ ở bên tả huyệt ấy thì là tọa cấn hướng khôn nên đun sang bên hữu hơn gia dần một chút để lấy Kỷ Mão chính khí giáp phương mạch suốt sang tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Giáp long nhị hướng Đệ nhất tọa cấn hướng Khôn Phiên âm Âm (giáp) cơ khởi phục long hướng xung Tả nhĩ thừa khí phúc vô cùng, Huyệt nghi niêm, hữu vi gia dần Long kỳ cục tỏa phương kham dụng. Giải nghĩa Âm cơ thăng giáng hướng long xung, Bên tả nhân khi phúc lạ lùng, Liên hữu huyệt nên dần ít chút, Long phương kỳ cục hóa nên dùng.


- 12 -

http://www.tuvilyso.com

Phân kim Kiêm Sửu Mùi nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ). Kiêm Dần Thân nên dùng Bính Dần Bính Thân (thuộc hỏa). Hướng thứ hai là hướng tọa tốn hướng kiền giáp long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa tốn hướng kiền, nên đun sang bên hữu để lấy Tỵ Mão chính khí suốt sang ta bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa tốn hướng kiền. Phiên âm Âm (giáp) cơ huyệt tốn hướng cơ phong Khí tòng hữu yêu thất hưng long. Tả hữu bất giao long thất độ Quan quả phong ba (bi) động ổn phong. Giải nghĩa Âm cơ huyệt tốn non cao, Bên hữu theo lưng khí ứng vào Tả hữu không giao long mất độ Phong lao góa bụa bệnh xôn xao. Phân kim Kiêm Thìn Tuất nên dùng Canh Thìn Canh Tuất (thuộc kim) Kiêm Tỵ Hợi nên dùng Đinh Tỵ Đinh Hợi (thuộc thổ). Mão long huyệt ấy có ba hướng: Hướng thứ nhất là hướng tọa giáp hướng canh. Mão long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy là tọa giáp hướng canh nên đun sang bạch hổ hơi gia ất phương một chút để lấy chính khí suốt sang bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Mão long tam hướng Đệ nhất tọa giáp hướng Canh. Phiên âm Thôi quan đệ ngũ huyệt tọa giáp Dương (mão) hành khí tòng tả nhĩ phát Huyệt ai tây thú gia thiên quan Trì tiết biên cương chưởng sinh sát. Giải nghĩa Thôi quan giáp huyệt thứ năm Dương hành bên tả mấy năm phát liền Huyệt đun tây thù quan thiên Biên cương trì tiết giữ niềm sát sinh Phân kim Kiêm Dần Thân nên dùng Canh Dần Canh Thân (thuộc mộc). Kiêm Mão Dậu nên dùng Đinh Mão Đinh Dậu (thuộc hỏa). Hướng thứ hai là hướng tọa Ất hướng Tân.


- 13 -

http://www.tuvilyso.com

Mão long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa giáp hướng Canh, nên đun sang bạch hổ hơi gia ất phương để lấy Quý Mão chính khí suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Ất hướng Tân Phiên âm Hà (Mão) hướng đông lai huyệt thiên quan Khí quán hữu nhĩ thi linh an Vi gia giáp vị huyệt niêm tả Tiên văn hậu võ vinh quan quyền. Giải nghĩa Hà hướng đông đến huyệt quan thiên Khí quán hữu biên thể xác yên Liên tả hơi gia thân pháp vị Trước văn sau võ cũng oai quyền. Phân kim Kiến Mão Dậu, nên dùng Tân Mão Tân Dậu (thuộc mộc). Kiến Thìn Tuất nên dùng Bính Thìn Bính Tuất (thuộc thổ). Hướng thứ ba là hướng tọa Quý hướng Đinh. Mão long nhập thủ ở chỗ ngang vào bên trái ra bên ph ải huyệt ấy thì là tọa quý hướng Đinh nên đun bên hữu để lấy Quý Mão chính khí suốt vào lưng bên tả, huyệt này thơ thôi quan chưa chép. Phân kim Kiến Tý Ngọ nên dùng Canh Tý Canh Ngọ (thuộc thổ). Kiến Sửu Mùi nên dùng Đinh Sửu Đinh Mùi (thuộc thủy) Ất long huyệt ấy có một hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa Cấn hướng Khôn. Ất long nhập thủ ở chỗ ngang, vào bên trái ra bên phải huyệt ấy thì là tọa cấn hướng khôn nên dính sát sang bên h ữu để lấy chính khí Canh Thìn Ất mạch suốt vào lưng bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Ất long nhất hướng. Đệ nhất tọa cấn hướng khôn Phiên âm Thiên (ất) quan khôn hướng huyệt thiên (cấn) thị. Khí bôn tả du nãi vi lợi. Huyệt cang kim thìn gia niêm tả, Diệc chủ phú quý nhân chiêu chuế. Giải nghĩa Ất thiêng khôn hướng cấn phương. Khí bôn bên tả mạch thường lợi thay Cang kim niêm tả huyệt này. Giàu sang vinh hiển người hay rập rìu. Phân kim


- 14 -

http://www.tuvilyso.com

Kiến Sửu Mùi, nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ). Kiến Dần Thân nên dùng Bính Dần Bính Thân (thuộc hỏa). Thìn long huyệt ấy có hai hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa tốn hướng kiền. Thìn long nhập thủ ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa tốn hướng kiền, nên đun nhích sang bên tả gia một chút ất phương để lấy chính khí Giáp Thìn chạy suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Thìn long nhị hướng Đệ nhất tọa tốn hướng kiền. Phiên âm Cang kim (thìn) huyệt tốn hướng dương (kiền) cơ Khí tòng hữu nhĩ hợp vi quý Thiên (ất) quan vi gia huyệt niêm tả Cự phú đãn khủng vô kỳ di. Giải nghĩa Cang kim huyệt tốn hướng kiền, Khi theo tay hữu hợp liền qui mô Gia niêm bên tả khi vô, Giàu to lại sợ không cho thọ trường Phân kim Kiền Thìn Tuất, nên dùng Canh Thìn Canh Tuất (thuộc Kim). Kiến Tỵ Hợi nên dùng Đinh Tỵ Đinh Hợi (thuộc thổ). Hướng thứ hai là hướng tọa cấn hướng khôn. Thìn long nhập thủ ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa cấn hướng khôn, nên đun nhích sang bên hữu hơi gia một chút ất phương để lấy chính khí Giáp Thìn và suốt lưng bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa cấn hướng khôn Phiên âm Cang kim (thìn) hành long hướng huyền (khôn) qua Tả yêu thừa khí lực tỷ hòa Thiên (ất) quan vi gia huyệt ai tả. Long yếu tinh tường cực khai tỏa. Giải nghĩa Hành long khôn hướng kim cang, Nhân lưng bên tả khí sang đều hòa Đưa sang bên tả niêm mà, Long sao rõ rệt mới là cực hay. Phân kim Kiêm Sửu Mùi nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ). Kiêm Dần Thân nên dùng Bính Dần Bính Thân (thuộc hỏa). Tốn long huyệt ấy có ba hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa Ất hướng tốn


- 15 -

http://www.tuvilyso.com

Tốn long vào đầu ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa ất hướng tân nên đun nhích sang bên bạch hổ gia một phần tỵ phương để lấy chính khí Tân Tỵ đi suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Tốn long tam hướng Đệ nhất tọa ất hướng tân Thiên âm Thôi quan đệ tử huyệt nghi ất. Dương (tốn) tuyền tả khí xung nhĩ nhập. Thiên quan (ất) tả huyệt tọa thanh xà, Cấm khuyết thần quan ban dạ trị. Giải nghĩa Thôi quan thứ bốn huyệt bàn, Bên tả dương tuyền khí bốc sang Ất huyệt thiên quan thanh xà đó, Ngày đêm cửa cấm giữ thần quan. Phân kim Kiền Mão Dậu nên dùng Tân Mão Tân D ậu (thuộc mộc) Kiến Thìn Tuất nên dùng Bính Thìn Bính Tuất (thuộc thổ). Hướng thứ hai là hướng tọa Tỵ hướng Hợi. Tốn long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Tỵ hướng Hợi, nên đun nhích sang thanh long gia một phân Thìn phương, để lấy Tân Tỵ chính khí tốn phương đi suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Tỵ, hướng Hợi. Phiên âm Thái ất (Tốn) hành long thiên (Tỵ) bính huyệt. Hữu nhĩ thừa khí chân kỳ tuyệt Cang (thìn) kim xát vị vật gia đa Cự phủ sinh nhân diệc anh kiệt Giải nghĩa Thiên Tỵ hành long thái ất kinh, Khí nhàn tai hữu rất thần tình, Cang kim sát vị gia đừng quá, Cự phú anh minh tuấn tú sinh. Phân kim Kiêm kiền Tốn, nên dùng Tân Tỵ Tân Hợi (thuộc Kim). Kiêm Bính Nhâm, nên dùng Đinh Tỵ Đinh Hợi (thuộc hỏa). Hướng thứ ba là hướng tọa Khôn hướng Cấn. Tốn long đầu vào ở chỗ ngang vào bên phải ra bên trái, huyệt ất thì là tọa khôn hướng cấn nên đun sang bên tả để lấy chính khí Tân Tỵ suốt vào lưng bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ tam tọa khôn hướng cấn.


- 16 -

http://www.tuvilyso.com

Phiên âm Thái ất (tốn) hành long hướng dương (cấn) xu Tả yêu thừa khí vô sai phù. Sa kỳ thủy ấp long tinh dị. Lễ thi phú quý đa kim châu. Giải nghĩa Thái ất hành long cấn hướng dương. Mạch lưng tả khi tưởng bình thường. Nước nhường đất lạ long tinh quý Thi lễ giàu sang ngọc có thường. Phân kim Kiêm Sửu Mùi nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ). Kiêm Dần Thân, nên dùng Bính Thân (thu ộc hỏa). Tỵ long huyệt ấy có một hướng, hướng thứ nhất là hướng tọa Tỵ hướng Hợi. Tỵ long đầu vào ở chỗ bên tả nên đun sang bên hữu, để lấy chính khí của tốn binh vào huyệt, huyệt này tọa kỵ hướng Hợi cũng là huyệt chủ phát phú quý. Thơ quan của họ Lại nói rằng: Tỵ long nhất hướng Đệ nhất tọa tỵ hướng Hợi Phiên âm Xích xà đầu hướng thiên môn bắc Trực lai trực hướng thần công liệt Tốn bính thụ huyệt tái vi lương Phú quý vinh hoa nhân anh kiệt. Giải nghĩa Cửa trời rắn đó chầu về Thần công chẳng tới tứ bề oai phong Tốn cùng với Bính thành công Vinh hoa phú quý người thông anh tài. Phân kim Kiêm tiền tốn nên dùng Tân Tỵ Tân Hợi (thuộc kim). Kiêm Bính Nhâm nên dùng Đinh Tỵ Đinh Hợi (thuộc thổ). Bính long huyệt ấy có bốn phương. Hướng thứ nhất là hướng tọa Tỵ hướng Hợi. Bính long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Tỵ hướng Hợi, nên Hợi đun nhích sang bên hữu để lấy chính khí bính phương suốt vào tai bên tả. Huyệt này thơ Thôi quan chưa chép nên xét theo kết cấu cũng như trong Tỵ long vậy. Phân kim Kiêm tiền tốn nên dùng Tân Tỵ Tân Hợi (thuộc kim) Kiêm Bính Nhâm nên dùng Đinh Tỵ Đinh Hợi (thuộc thổ) Hướng thứ hai là hướng tọa Giáp hướng Canh. Bính long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Giáp hướng Canh nên hơi đun nhích sang bên hữu để lấy chính khí Bính phương suốt vào tai bên tả.


- 17 -

http://www.tuvilyso.com

Huyệt này thơ Thôi quan cũng chưa chép. Phân kim Kiêm Dần Thân nên dùng Canh Dần Canh Thân (thuộc mộc). Kiêm Mão Dậu nên dùng Đinh Mão Đinh Dậu (thuộc hỏa). Hướng thứ ba là hướng tọa ất hướng Tân. Bính long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Ất hướng tân nên hơi đun sang bên hữu để lấy chính khí Bính phương suốt vào lưng bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Bính long tứ hướng Đệ nhất tọa Tỵ hướng Hợi Đệ tam tọa Ất hướng Tân. Phiên âm Thôi quan đệ bất bính long ất Khí xung tả yêu anh tái xuất Thái (bính) vi chi long huyệt niêm Tỵ. Tả khí quán nhĩ phủ nhi dĩ. Giải nghĩa Bính long thứ tám ất thôi quan Tả biên khí phát giỏi giang sẵn sàng Thái vi long mạch niêm sang, Khí qua bên tả giàu sang lâu dài. Phân kim Kiêm Mão Dậu nên dùng Tân Mão Tân Dậu (thuộc mộc). Kiêm Thìn Tuất nên dùng Bính Thìn Bính Tuất (thuộc thổ). Hướng thứ tư là hướng tọa khôn hướng cấn. Bính long Dần vào chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa khôn hướng cấn, nên hơi đun nhích sang bên tả gia một chút tý phương để lấy chính khí bính phương suốt vào lưng bên hữu. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Đệ tứ tọa khôn hướng Cấn Phiên âm Thái (bính) vi hành long h ướng dương (cấn) xu Hữu yêu thừa khí vô sai thù. Huyệt nghi ai tả gia thanh (tỵ) xà, Diệc chủ chi vượng gia tư phú. Giải nghĩa Long thành dương cấn thái vi xu Bên hữu lưng theo khí tịt mù, Bên tả huyệt đan sang tỳ ti, Phong lưu phú quý sướng lu bù Phân kim Kiêm Sửu Mùi nên dùng Tân Sửu Tân Mùi (thuộc thổ) Kiêm Dần Thân nên dùng Bính Thân Bính D ần (thuộc hỏa).


- 18 -

http://www.tuvilyso.com

Tỵ long huyệt ấy có một hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa Tỵ hướng Hợi. Tỵ long Dần vào ở chỗ bên tả, huyệt ấy thì là tọa Bính hướng Nhâm, nên đun sang bên bạch hổ gia nửa phần Đinh phương để lấy chính khí Ngọ phương cho mạch suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Lỵ long nhị hướng Đệ nhất tọa Bính hướng Nhâm Phiên âm Thôi quan đệ thập huyệt thiên (bính) quí Ly cung tả nhĩ khí tòng chú. Vi gia nam cực cực chu hồi Sa thủy cũ hợp công hầu chí. Giải nghĩa Thiên binh thôi quan huyệt thứ mười, Ly cung tai tả khí theo nơi, Gia thêm nam cực chu toàn khéo Hầu tước công khanh đất đãi người. Phân kim Kiêm Hợi Kỷ nên dùng Tân Hợi Tân Tỵ (thuộc Kim). Kiêm Tý Ngọ nên dùng Bính Ngọ Bính Tý (thuộc kỷ). Hướng thứ hai là hướng tọa Đinh hướng Quý. Ly long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Đinh hướng Quý, nên đun sang bên thanh long gia nửa phần Bính phương để lấy chính khí Bính Ngọ mà ly mạch suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Đinh hướng Quý Phiên âm Ly sơn thiều nghiêu ứng nhật tinh. Đinh huyệt hữu nhĩ thừa viêm (ngọ) tinh. Vi gia thiên quý (Bính) hào ly vị Lập kiến (sậu) phú quý quan chức vinh. Giải nghĩa Non ly chót vót nhật tinh Huyệt nhân tai hữu khí sinh ngọ nồng Hơi gia nhân quí vị chung Giàu sang quan chức vô cùng vinh quang Phân kim Kiêm Ngọ Tý nên dùng Canh Ngọ Canh Tý (thuộc thổ). Kiêm Mùi Sửu nên dùng Đinh Mùi Đinh Sửu (thuộc thủy). Đinh long huyệt ấy có hai hướng Hướng thứ nhất là hướng tọa khôn hướng cấn


- 19 -

http://www.tuvilyso.com

Đinh long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa khôn hướng Cấn, nên đun nhích sang bên thanh xà gia m ột phần Ngọ phương để lấy chính khí của Quý Mùi mà đinh mạch vào suốt sang tai bên hữu. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Đinh long nhị hướng Đệ nhất tọa khôn hướng Cấn Phiên âm Thôi quan đệ thất huyệt nghi khôn Nam (đinh) cực khí tòng hữu nhĩ bôn Yếu sử cang khôn kim vật quán huyệt Vi gia thiên mã (ngọ) vinh gia môn. Giải nghĩa Thôi quan thứ bảy huyệt đinh khôn Nam cực hơi theo bên hữu môn Cốt để cang kim đứng suốt huyệt Hơi gia thiên mã vẻ vang luôn. Phân kim Kiêm Mùi Sửu nên dùng Tân Mùi Tân S ửu (thuộc thổ). Kiêm Thân Dần nên dùng Bính Thân Bính Dần (thuộc hỏa). Hướng thứ hai là hướng tọa Tỵ hướng Hợi. Đinh long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Tỵ hướng Hợi nên đun nhích sang bên hổ gia một phần Mùi phương để lấy chính đinh mạch khí của Quý Mùi suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Tỵ hướng Hợi Phiên âm Nam (đinh) cực hành long thiên (hợi) hoàng hướng. Khí xung tả nhĩ tối vi thượng. Huyệt niêm tây thú vi gia mùi Dương (Ngọ) quyền thận vật hào ly gian Giải nghĩa Nam cực hành long hợi hướng về Khí xung bên tả khéo man mê. Huyệt niêm tây thù hơi gia vị, Dương Ngọ phân ly chớ trái nghề. Phân kim Kiêm tốn kiền nên dùng Tân Hợi Tân Tỵ (thuộc kim). Kiêm Bính Nhâm nên dùng Đinh Hợi Đinh Tỵ (thuộc thổ). Mùi long huyệt ấy có một hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa khôn hướng Cấn. Mùi long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa khôn hướng Cấn nên đun sang bên hữu hơi gia Đinh Mùi chính mạch suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng:


- 20 -

http://www.tuvilyso.com

Mùi long nhất hướng Đệ nhất tọa khôn hướng Cấn. Phiên âm Mùi sơn khởi phục long hướng Cấn. Thiên (Mùi) thường khí xung hữu tiền huyệt. Ai hữu vị đới Đinh Mùi khí Tả đạo vinh hoa nhân quý hiển. Giải nghĩa Non Mùi khôi phục Cấn long đáy, Mùi khí thường xung huyệt hữu đầy Bên hữu đun sang Đinh Mùi với, Vinh hoa phú quý vẻ vang thay. Phân kim Kiêm Mùi Sửu nên dùng Tân Mùi Tân S ửu (thuộc Thổ). Kiêm Thân Dần nên dùng Bính Thân Bính Dần (thuộc hỏa). Khôn long huyệt ấy có một hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa Đinh hướng Quý. Khôn long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Đinh hướng Quý, nên đun sang bạch hổ hơi gia nửa phần thân phương, để lấy Giáp Thân chính khôn mạch suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Khôn long nhất hướng Đệ nhất tọa Đinh hướng Quý. Phiên âm Đinh huyệt hồi hoàn cực chu tỏa Huyền (khôn) qua nhĩ nhập khí quán tà Huyệt ai tay thú vi gia thân, Khôn mạch chân kỳ phát như hỏa. Giải nghĩa Đinh huyệt vòng quanh khóa tứ bề, Huyền qua vào khí tả biên ghê, Huyệt đun tây thù thân gia chút, Khôn mạch chân kỳ phát hỏa huê. Phân kim Kiêm Ngọ Tý nên dùng Canh Ngọ Canh Tý (thuộc thổ). Kiêm Mùi Sửu nên dùng Đinh Mùi Đinh Sửu (thuộc thủy). Thân long huyệt ấy có hai hướng, hướng thứ nhất là hướng tọa đinh hướng quý Thân long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa đinh hướng quý nên đun sang bên hữu hơi gia khôn phương để lấy Mậu Thân chính mạch suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Thân long nhị hướng Đệ nhất tọa Đinh hướng Quý Phiên âm


- 21 -

http://www.tuvilyso.com

Thân sơn cục hướng dương (quí) quang cung Tả nhĩ thừa khí lực vi trùng. Huyền (khôn) qua vi gia huyệt niêm hữu Long tôn huyệt mỹ gia quý phong. Giải nghĩa Quí dương cục hướng non thân, Khí sang bên tả sức dần trọng thêm, Huyền qua gia để hữu niêm, Long tôm huyệt đẹp êm đềm giàu sang. Phân kim Kiêm Ngọ Tý nên dùng Canh Ngọ Canh Tý (thuộc thổ). Kiêm Mùi Sửu nên dùng Đinh Mùi Đinh Sửu (thuộc thủy). Hướng thứ hai là hướng tọa Canh hướng Giáp. Thân long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Canh hướng Giáp, nên đun sang bên tả hơi gia khôn phương để lấy Mậu Thân chính mạch suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Canh hướng Giáp. Phiên âm Thiên (thân) khai long t ọa thiên hán cung Khí lai hữu nhĩ thị chính long Vi gia thiên (khôn) việt phụ long hành. Thủy triều cục tỏa nhân tài long. Giải nghĩa Thiên thân long mạch hán thiên cung Bên hữu khí cùng phụ chính long, Khôn việt hơi gia thêm giúp đấy, Nước chầu của lắm được người đông Phân kim Kiêm Thân Dần nên dùng Canh Thân Canh Dần (thuộc mộc) Kiêm Dần Mão nên dùng Đinh Dậu Đinh Mão (thuộc hỏa). Canh long huyệt ấy có hai hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa Dậu hướng Mão. Canh long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Dậu hướng Mão, nên đun sang bên tả gia một phần thân phương để lấy Kỷ Dậu chính Canh khí của nó suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Canh long nhị hướng Đệ nhất tọa Dậu hướng Mão Phiên âm Thôi quan đệ lục hướng đông chấn, Thiên (canh) hán khí tòng h ữu nhĩ tiến, Vi gia thân vị đa vinh danh, Phú áp hương bang chúng khâm tín.


- 22 -

http://www.tuvilyso.com

Giải nghĩa Thôi quan thứ sáu chấn đông Thiên canh khí tiến cộng đồng hữu biên, Hơi già thân vị diệu huyền, Giàu sang danh vọng đức tuyền người tin. Phân kim Kiêm Canh Giáp nên dùng Tân Dậu Tân Mão (thuộc mộc). Kiêm Tân Ất nên dùng Đinh Dậu Đinh Mão (thuộc hỏa). Hướng thứ hai là hướng tọa Khôn hướng Cấn. Canh long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Khôn hướng Cấn nên đun nhích sang bên bạch hổ gia một phân Dậu phương để lấy cái khí chính Canh suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Khôn hướng Cấn. Phiên âm Thiên (canh) hán chính hướng thiên (cấn) thị tinh. Khí bôn tả nhĩ chân kỳ thanh. Vi gia tây đoài huyệt ai hữu Thủy triều cục bị gia tư doanh. Giải nghĩa Thiên canh thiên thị hướng xa, Khí sang bên tả thật là thanh cao, Tây đoài gia chút hữu vào, Nước chầu gia sản dồi dào đầy kho. Phân kim Kiêm Mùi Sửu nên dùng Tân Mùi Tân S ửu (thuộc thổ). Kiêm Thân Dần nên dùng Bính Thân Bính Dần (thuộc hỏa). Dậu long huyệt ấy có hai hướng Hướng thứ nhất là hướng tọa khôn hướng Cấn. Dậu long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa khôn hướng Cấn nên đun sang bạch hổ gia một phần tân phương để lấy Kỷ Dậu chính đoài của khí nó suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Dậu long nhị hướng Đệ nhất tọa khôn hướng cấn Phiên âm Thôi quan đệ cửu đoài sơn cấn Tả khí xung nhĩ vô đa hệ. Lược gia thiên (tân) ất quý long lai Diệc chủ văn chương điển châu quận. Giải nghĩa Thôi quan thứ chín non đoài Cấn Tả khí xung dinh không quá bận. Thiên Ất hơi gia long quí đến


- 23 -

http://www.tuvilyso.com

Văn chương lừng lẫy chốn châu quận. Phân kim Kiêm Mùi Sửu nên dùng Tân Mùi Tân S ửu (thuộc thổ). Kiêm Thân Dần nên dùng Bính Dần Bính Thân (thuộc hỏa). Hướng thứ hai là hướng tọa Tốn hướng kiền. Dậu long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa tốn hướng kiền nên đun sang thanh long gia một phân canh phương để lấy chính mạch đoài suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa tốn hướng kiền Phiên âm Kim (Dậu) kê lai bạc thiên môn đề Khí xung hữu nhị thiên (kiền) cứu hư Vi gia thiên hán oanh thủy sa (kiền) Thiếu niên nhất cử đăng khoa đệ. Giải nghĩa Cửa trời gà gáy ghé chơi, Khí xung bên hữu lâu trời xa xa. Chút gia thiên hán thủy sà Thiếu niên nhất cử đăng khoa bảng vàng. Phân kim Kiêm Thìn Tuất nên dùng Canh Thìn Canh Tuất (thuộc kim) Kiêm Tỵ Hợi nên dùng Đinh Tỵ Đinh Hợi (thuộc thổ). Tân long huyệt ấy có ba hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa tốn hướng kiền. Tân long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa tốn hướng kiền, nên đun sang thanh long hơi gia một chút Dậu phương để lấy Bính Tân chính khí của nó suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Tốn long tam hướng Đệ nhất tọa Cấn hướng Kiền. Phiên âm Thôi quan đệ tam huyệt thiên cứu Thiên ất hành long hữu nhĩ thụ. Ai tả lập huyệt vi gia Dậu Trung nam cập đệ hư tử thụ. Giải nghĩa Thôi quan thiên cứu thứ ba Long hành thiên ất tai mà hữu niêm Đun sang bên tả dậu kiêm Trung nam thị đậu long huyền áo lam Phân kim Kiêm Tuất Thìn nên dùng Canh Tuất, Canh Thìn (thuộc kim).


- 24 -

http://www.tuvilyso.com

Kiêm Hợi Tỵ nên dùng Đinh Hợi Đinh Tỵ (thuộc thổ). Hướng thứ hai là hướng tọa Dậu hướng Mão. Tân long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Dậu hướng Mão nên đun sang bạch hổ gia một phần Tuất phương để lấy Bính tuất chính tân của khí suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Dậu hướng Mão. Phiên âm Âm tuyền (tân) thiên tây hướng đông chấn, Âm tuyền khí tòng tả nhĩ tiến, Vi xâm lâu vị vật gia đa, Tuần cảnh tiểu quan diệc anh tuấn. Giải nghĩa Âm tuyền đông chấn trời tây Âm tuyền khí cũng theo tai tả mà Lấn sang lâu vị dần dà Tiểu quan tuần cảnh cũng là giỏi giang Phân kim Kiêm Canh Giáp nên dùng Tân Dậu Tân Mão (thuộc mộc). Kiêm Tân Ất nên dùng Đinh Dậu Đinh Mão (thuộc hỏa). Hướng thứ ba là hướng tọa Khôn hướng Cấn. Tân long đầu vào ở chỗ ngang vào bên trái ra bên ph ải, huyệt ấy thì là tọa khôn hướng cấn nên đun sang bên hữu để lấy chính khí Bính Tuất suốt vào lưng bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ tam tọa khôn hướng Cấn. Phiên âm Âm (tân) tuyền long hướng thiên (Cấn) thị viên. Khí tòng tả du xuy kỳ nguyên, Ngọc đường kim mã vô phân đáo, Nho quan tuấn nhã đa điền viên. Giải nghĩa Âm tuyền long hướng chợ trời, Khí theo bên tả bụng người tự nhiên. Ngọc đường kim mã thiên duyên, Quan cao nho nhã điền viên lâu dài. Phân kim Kiêm Mùi Sửu nên dùng Tân Mùi Tân S ửu (thuộc thổ). Kiêm Thân dần nên dùng Bính Thân Bính Dần (thuộc hỏa). Tuất long huyệt ấy có một hướng, hướng thứ nhất là hướng tọa Tân hướng Ất. Tuất long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa Tân hướng Ất, nên đun nhích sang bên hữu gia chút dậu phương để lấy chính khí Canh Tuất suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Tuất long nhất hướng


- 25 -

http://www.tuvilyso.com

Đệ nhất tọa Tân hướng Ất. Phiên âm Tuất long điều điều huyệt hướng Ất, Cổ bẩn tả khí bôn nhĩ nhập, Long hành khởi phục hựu dương triều. Đãn phú đãn khủng nhân tàn tật. Giải nghĩa Long tuất vượt qua hướng Ất trôi, Cổ bồn tả khí chạy vào rồi, Long hành vùng vẫy mông mênh nước Giàu có lo người khổ bệnh thôi Phân kim Kiêm Dậu Mão nên dùng Tân Dậu Tân Mão (thuộc mộc) Kiêm Tuất Thìn nên dùng Bính Tuất Bính Thìn (thuộc thổ). Kiền long huyệt ấy có một hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa Tân hướng Ất. Kiền long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt này thì là tọa tân hướng Ất, nên đun nhích sang bên hữu hơi gia một chút tuất phương để lấy chính khí phương Hợi suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Kiền long nhất hương Đệ nhất tọa tân hướng ất. Phiên âm Dương (kiền) cơ hành long nghi hướng Ất, Siêu siêu tả khí tòng nhĩ nhập, Huyệt nghi ai hữu vi gia lâu, Thủy triều cục bị gia tư phú. Giải nghĩa Dương cát hành long ất đóng vai Vượt qua bên tả khí vào tai. Huyệt đun sang hữu sao lâu chiếu, Triều thủy giàu sang ý chẳng sai. Phân kim Kiêm Dậu Mão nên dùng Tân Dậu Tân Mão (thuộc mộc). Kiêm Tuất Thìn nên dùng Bính Tuất Bính Thìn (thuộc thổ). Hợi long huyệt ấy có ba hướng. Hướng thứ nhất là hướng tọa Nhâm hướng Bính. Hợi long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa Nhâm hướng Bính, nên đun nhích sang thanh long hơi gia kiền phương nữa phần để lấy chính khí Tân Hợi suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Hợi long tam hướng Đệ nhất tọa nhâm hướng Bính.


- 26 -

http://www.tuvilyso.com

Phiên âm Thôi quan đệ nhất thiên (nhâm) phụ huyệt. Thiên hoàng (Hợi) chính khí tòng hữu nhĩ. Án nghi ai tả vi gia kiền. Tử thụ kim chương tại tiền liệt. Giải nghĩa Nhâm thiên đệ nhất thôi quan Khí theo tai hữu thiên hoàng hợi phương Nhích sang bên tả kiền nường, Cháu con giải tía huy chương cẩm bào. Phân kim Kiêm Hợi Tỵ nên dùng Tân Hợi Tân Tỵ (thuộc kim). Kiêm Ngọ Tý nên dùng Bính Ngọ Bính Tý (thuộc thủy). Hướng thứ hai là hướng tọa kiền hướng tốn. Hợi long đầu vào ở chỗ bên tả huyệt ấy thì là tọa kiền hướng tốn nên đun nhích sang bạch hổ hơi gia nửa phần, nhâm phương để lấy chính khí Hợi phương suốt vào tai bên tả. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ nhị tọa Kiền hướng Tốn Phiên âm Thiên hoàng (hợi) khí xạ thiên (kiền) cứu tinh. Ví ai tây thú gia nhâm hành. Thiên cứu huyệt không thủy vi cát Tả khí nhĩ (khí) thụ quan tư vinh. Giải nghĩa Thiên hoàng hợi khí cứu tinh Nhích sang tây thú gia đình nhâm hành Lầu trời không hoàng tốt lành. Mạch tai bên tả quan thành vinh quang Phân kim Kiêm Tuất Thìn nên dùng Canh Tuất Canh Thìn (thuộc kim). Kiêm Hợi Tỵ nên dùng Đinh Hợi Đinh Tỵ (thuộc thổ). Hướng thứ ba là hướng tọa quý hướng Đinh. Hợi long đầu vào ở chỗ bên hữu huyệt ấy thì là tọa quí hướng Đinh, nên đun nhích sang thanh long gia một phần kiền phương để lấy chính khí Tân Hợi suốt vào tai bên hữu. Thơ thôi quan của họ Lại nói rằng: Đệ tam tọa quí hướng Đinh Phiên âm Thiên hoàng (Hợi) khí xung huyệt bắc đạo. Ai tả lập huyệt vi xu yếu Sảo gia kiền vị tế suy tường Hữu nhi thừa khí đoài xung não.


- 27 -

http://www.tuvilyso.com

Giải nghĩa Bắc đạo thiên hoàng hợi khí xung, Đun sang bên tả tốt vô cùng, Hơi gia kiền vị càng tinh tế Tai hữu đoài xung đến não nùng. Phân kim Kiêm Tý Ngọ nên dùng Canh Tý Canh Ngọ (thuộc thổ). Kiêm Sửu Mùi nên dùng Đinh Sửu Đinh Mùi (thuộc thủy). Bên hữu trên đây đã nói rõ mọi phương hướng thuộc Can chi hay bát quái nào, và các thứ long mạch theo như phép phân kim thuộc về những huyệt vi hướng gì, đại phàm xem hễ thấy nói rằng: thôi quan thi vân ấy là những thiên địa lý thôi quan của nhà họ Lại vậy. TỔNG LUẬN VỀ HAI CUỘC ÂM DƯƠNG THEO THỦY PHÁP TỐT HAY XẤU Đại phàm long mạch mà lại âm vị thì nên thiên táng đầu hướng về âm vị để được chính khí thủy đạo mạch hợp ở chỗ hợp tinh, nên theo phát nguồn ở âm vị, âm vị tới minh đường rồi sẽ ra thủy khẩu được như thế thì là rất tốt, nhược bằng lẫn lộn tạp nhạp với dương thì trong kinh đã nói rằng: Đó là dương thủy phá âm cục tức là chủ xấu. Kiền Giáp khôn Ất Ly Nhâm Dần Tuất Khảm Quý Thân Thìn ấy là mười hai vị đều thuộc về dương vậy. Phàm lệ hễ long mạch lại dương vị, thì nên thiên táng theo hướng dương cốt làm sao để thu được dương thủy dẫn đến minh đường rồi phải có lối ra ngoài thủy khẩu được như thế thời là rất tốt, nhược bằng lẫn lộn với ở nơi âm thì là xấu. VẬN NIÊN TRONG MƯỜI HAI NĂM Khi làm nhà, hoặc khi mai táng, nên biết những phương hướng nào tốt hay xấu. Năm thái tuế gặp phải năm Tý thì là địa vị ấy của thủy tinh vậy. Chính sát là nam phương Tỵ Ngọ Mùi chẳng nên làm nhà hay mai táng Bính Nhâm Đinh Quý là phương sát dữ. Nên làm những hướng Giáp Canh Ất Tân tọa Cấn hướng khôn thì là đại cát lợi. Tháng ba, tháng bảy, tháng mười một năm thái tuế đóng ở Sửu thì là địa vị của kim tinh chính sát ở phương đông Dần Mão Thìn chẳng nên dùng Giáp Canh Ất Tân, phạm sát phương dữ. Nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý tọa kiền hướng Tốn dùng vào tháng hai, tháng tư, tháng sáu, tháng tám, tháng mười, tháng mười hai là đại cát lợi. Năm thái tuế công ở Dần thì là địa vị của hỏa tinh, chính sát tại Bắc phương Hợi Tý Sửu chẳng nên dùng Bính phân định quý là bốn hướng phạm sát nên dùng Giáp Canh Ất Tân tọa cấn hướng khôn dùng vào những tháng giêng, tháng ba, tháng chín, tháng mười một là đại cát. Năm thái tuế đóng ở Mão thì là địa vị của mộc tinh, chính sát tại phươg Tây Thân Dậu Tuất chẳng nên dùng Giáp Canh Ất Tân là bốn hướng phạm sát nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý tọa kiền hướng tốn nên dùng vào những tháng tám, tháng mười, tháng mười hai đều là cát lợi. Năm thái tuế đóng ở Thìn thì là địa vị của thủy tinh chính sát tại phương nam Tỵ Ngọ Mùi chẳng nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý là bốn hướng phạm sát nên dùng Giáp Canh Ất Tân tọa cấn hướng khôn nên dùng vào những tháng giêng, tháng năm, tháng bảy, tháng mười một là đại cát lợi. Năm thái tuế đóng ở Tỵ thì là địa vị của kim tinh, chính sát tại phương đông Dần Mão Thìn chẳng nên dùng Giáp Canh Ất Tân là bốn hướng phạm sát, nên dùng Bính


- 28 -

http://www.tuvilyso.com

Nhâm Đinh Quí tọa kiền hướng tốn dùng vào những tháng tư, tháng tám, tháng mười hai là những tháng đại cát lợi. Năm thái tuế đóng ở Ngọ thì là địa vị của hỏa tinh chính sát tại phương bắc Hợi Tý Sửu chẳng nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý là bốn phương phạm sát chỉ nên dùng Giáp Canh Ất Tân tọa cấn hướng khôn dùng vào những tháng giêng, tháng ba, tháng năm, tháng chín đều là những tháng đại cát lợi. Năm thái tuế đóng ở Mùi thì là địa vị của mộc tinh, chính sát tại phương tây Thân Dậu Tuất chẳng nên dùng Giáp Canh Ất Tân là bốn hướng phạm sát chỉ nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý tọa kiền hướng Tốn dùng vào những tháng tư, tháng sáu, tháng tám, tháng mười hai là những tháng đại cát lợi. Năm thái tuế đóng ở thân thì là địa vị của thủy tinh, Chính sát tại phương Nam Tỵ Ngọ Mùi chẳng nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý là bốn hướng phạm sát, chỉ nên dùng Giáp Canh Ất Tân tọa khôn hướng Cấn dùng vào những tháng năm, tháng ba, tháng chín, tháng mười một là những tháng đại cát lợi. Năm thái tuế đóng ở Dậu thì là địa vị của kim tinh. Chính sát tại phương Đông Dần Mão Thìn chẳng nên dùng Giáp Canh Ất Tân là bốn hướng phạm sát mà chỉ nên dùng Bính Nhâm Đinh Quí tọa kiền hướng Tốn dùng vào những tháng tư, tháng sáu, tháng tám, tháng mười hai là những tháng đại cát lợi. Năm thái tuế đóng ở Tuất thì là địa vị của hỏa tinh. Chính sát ở phương Bắc Hợi Tý Sửu chẳng nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý là bốn hướng phạm sát mà chỉ nên dùng Giáp Canh Ất Tân tọa khôn hướng Cấn dùng vào những tháng giêng, tháng ba, tháng chín, tháng bảy, tháng mười một là những tháng đại cát lợi. Năm thái tuế đóng ở Hợi thì là địa vị của mộc tinh. Chính sát tại phương tây Thân Dậu Tuất chẳng nên dùng làm nhà hay thiên táng nên kiêng nh ững Giáp Canh Ất Tân là bốn hướng phạm sát mà chỉ nên dùng Bính Nhâm Đinh Quý tọa kiền hướng Tốn, khi dùng hướng nào phải chọn cho được những hướng Thiên Ất hay là Quý Nhâm là đại cát lợi. PHÉP LUẬN DIỄN CẦM TINH Người ta có thể thử đặt ra thành công thức để mà nó phỏng, để làm phương châm, để tìm ra sao nào là bản mệnh, sao nào đóng ở cung nào, hoặc sao nào ghé vào cung độ nào? Nhưng cũng chỉ có hai mươi bốn tám vì tinh tú chính mỗi tháng chia ra làm mười lăm phần hay là chia ra làm hai cung Tý Ngọ Mão Dậu ấy là bốn cung chính rồi mỗi tháng có ba thứ sao, mỗi thứ sao đều chủ phận trong mười ngày, bốn cung và ba thứ sao, tám cung lại chia làm hai thứ sao mỗi tháng là mười lăm phần mỗi phần là một thứ sao, ví dụ từ ngày mười sáu đến ngày ba mươi mỗi một phần nửa là một phần sao, giả như năm Giáp Tý tháng giêng ngày Tý là ngày m ồng năm giờ Sửu thời khắc ấy mấy sinh ra, sao Thái dương và sao Nữ ở cung độ thứ tư thì an mạnh ở cung Dần. Sao vĩ và hỏa hổ độ bốn khởi từ cung ấy. Đến ngày mười lăm ngày mười sáu thời lại bắt đầu từ sao ky và thủy báo cứ y như thế trong một năm mười hai tháng bắt chước theo kiểu mẩu như thế, bằng như khi gặp phải sao nào qua cung nào thì thụ ở bài ca dưới đây để mà tra cứu cho đúng thực để cho được biết những sự tốt xấu hay lành dữ thì lập tức thấy ngay. Đó là một phép khôn khéo của người xưa đã nhất định như thế vậy.


- 29 -

TỴ Trương Dực Chẩn

http://www.tuvilyso.com

NGỌ

15 độ 1 độ

Liễu Tinh Trương

MÙI

4 độ 14 độ

Tinh Quý Liễu

THÂN

9 độ 3 độ

Tất Tuy Sâm Tinh

7 độ 8 độ

THÌN Đê Giốc Chẩn

DẬU 2 độ

11 độ

Đê 2 độ quá Mão Đẩu 4 độ quá Sửu Nguy 13 độ quá Hợi

Vĩ 3 độ quá Dần Nữ 2 độ quá Tý Khuê 2 độ quá Tuất

MÃO Đê Phòng Tâm Vĩ

6 độ 4 độ TUẤT

2 độ 3 độ

Vị 4 độ quá Dậu Tỉnh 9 độ quá Mùi Trương 15 độ quá Tỵ

Tất 7 độ quá Thân Liễu 4 độ quá Ngọ Chẩn 10 độ quá Thìn

SỬU

DẦN Đẩu Ngưu Kỵ Vĩ

Tất Mão Vị

3 độ 3 độ

Nữ Ngưu Đẩu

1 độ 3 độ

Nguy Hư Nữ

Khuê Lâu Vị

11 độ 3 độ HỢI

12 độ 2 độ

Khuê Bích Thất Nguy

4 độ 13 độ


- 30 -

TỴ Sao dực hỏa xà hỏa tinh Thăng điện Sao chẩn thủy dẫn thủy tinh

http://www.tuvilyso.com

NGỌ

MÙI

Sao liễu thổ trương thổ tinh Sao tinh nhật mã thái dương Sao trương nguyệt lộc thái âm thăng điện

Sao tinh mộc ngạn mộc tinh Thăng điện Sao quỉ kim dương kim tinh

THÂN Sao tuy Hỏa tinh Thăng điện Sao sâm Thủy viên thủy tinh

THÌN

DẬU

Sao giốc mộc giảo tinh thăng điện Sao cang kim long kim tinh

Sao vị Thổ trĩ thổ tinh thăng điện Sao mão Nhật kê thái dương Sao tất Nguyệt ô thái âm

TRUNG ƯƠNG

MÃO

TUẤT

Sao đê thổ lạc thổ tinh Sao phòng nhật thổ thái dương Nguyệt hồ thái âm sao tâm thăng điện

Sao khuê mộc lang mộc tinh thăng điện Sao lâu kim cẩu kim tinh

DẦN

SỬU

Sao kỵ thủy bảo thủy tinh thăng điện Sao vĩ hỏa hổ hỏa tinh

Sao Nữ thổ tức thổ tinh Sao Ngưu kim ngưu kim tinh Sao đẩu mộc giải mộc tinh thăng điện

Sao nguy nguyệt yến thái âm Thăng điện Sao hư nhật thử thái dương

HỢI Sao khuê Mộc lang mộc tinh thăng điện Sao bích thủy du thủy tinh Sao thất hỏa du hỏa tinh


- 31 -

TỴ Trương Dực Chẩn

http://www.tuvilyso.com

NGỌ

10 độ 1 độ

Liễu Tinh Trương

MÙI

4 độ 14 độ

Tinh Quý Liễu

THÂN

9 độ 3 độ

Tất Tuy Sâm Tinh

7 độ 8 độ

THÌN Đê Giốc Chẩn

DẬU 2 độ

11 độ

Đê 2 độ quá Mão Đẩu 4 độ quá Sửu Nguy 13 độ quá Hợi

Vĩ 3 độ quá Dần Nữ 2 độ quá Tý Khuê 2 độ quá Tuất

MÃO Đê Phòng Tâm Vĩ

7 độ 4 độ TUẤT

2 độ 3 độ

Vị 4 độ quá Dậu Tỉnh 9 độ quá Mùi Trương 15 độ quá Tỵ

Tất 7 độ quá Thân Liễu 4 độ quá Ngọ Chẩn 10 độ quá Thìn

SỬU

DẦN Đẩu Ngưu Kỵ Vĩ

Tất Mão Vị

3 độ 3 độ

Nữ Ngưu Đẩu

1 độ 4 độ

Nguy Hư Nữ

Khuê Lâu Vị

11 độ 3 độ HỢI

12 độ 2 độ

Khuê Bích Thất Nguy

1 độ 13 độ


- 32 -

TỴ Sao dực hỏa xà hỏa tinh Thăng điện Sao chẩn thủy dẫn thủy tinh

http://www.tuvilyso.com

NGỌ

MÙI

Sao liễu thổ trương thổ tinh Sao tinh nhật mã thái dương Sao trương nguyệt lộc thái âm thăng điện

Sao tinh mộc ngạn mộc tinh Thăng điện Sao quỉ kim dương kim tinh

THÂN Sao tuy Hỏa tinh Thăng điện Sao sâm Thủy viên thủy tinh

THÌN

DẬU

Sao giốc mộc giảo tinh thăng điện Sao cang kim long kim tinh

Sao vị Thổ trĩ thổ tinh thăng điện Sao mão Nhật kê thái dương Sao tất Nguyệt ô thái âm

TRUNG ƯƠNG

MÃO

TUẤT

Sao đê thổ lạc thổ tinh Sao phòng nhật thổ thái dương Nguyệt hồ thái âm sao tâm thăng điện

Sao khuê mộc lang mộc tinh thăng điện Sao lâu kim cẩu kim tinh

DẦN

SỬU

HỢI

Sao kỵ thủy bảo thủy tinh thăng điện Sao vĩ hỏa hổ hỏa tinh

Sao Nữ thổ tức thổ tinh Sao Ngưu kim ngưu kim tinh Sao đẩu mộc giải mộc tinh thăng điện

Sao nguy nguyệt yến thái âm Thăng điện Sao hư nhật thử thái dương

Sao khuê Mộc lang mộc tinh thăng điện Sao bích Thủy du thủy tinh Sao thất Hỏa dư hỏa tinh


- 33 -

TỴ

NGỌ

Trương Thập ngũ Dực độ

Liễu Tứ độ Tinh Trương Thập tứ độ

Chẩn

Nhất độ THÌN

Đê Giốc Chẩn

Đê Phòng Tâm Vĩ

Nhị độ Thập nhất độ MÃO Nhị độ Tam độ

Đê nhị độ quá Mão Đẩu tứ độ quá Sửu Nguy thập tam độ quá Hợi

Tam độ Tam độ

MÙI Tinh Quý Liễu

Cửu độ Tam độ

Vĩ tam độ quá Dần Nữ nhị độ quá Tý Khuê nhị độ quá Tuất

THÂN Tất Tuy Sâm Tinh

Thất độ Bát độ DẬU

Tất Mão Vị

Thất độ Tứ độ TUẤT

Vị tứ độ quá Dậu Tỉnh cửu độ quá Mùi Trương thập ngũ độ quá Tỵ

Tất thất độ quá Thân Liễu tứ độ quá Ngọ Chẩn thập độ quá Thìn

SỬU

DẦN Đẩu Ngưu Kỵ Vĩ

http://www.tuvilyso.com

Nữ Ngưu Đẩu

Nhất độ Tứ độ

Nguy Hư Nữ

Khuê Lâu Vị

Thập nhất độ Tam độ HỢI

Thập nhị độ Nhị độ

Khuê Bích Thất Nguy

Nhất độ Thập tam độ


- 34 -

TỴ

NGỌ

Sao dực hỏa tinh nhập viên Thủy tinh nhập viên Sao Chẩn kim tinh nhập viên.

Sao liễu thổ tinh nhập viên nhật tinh Sao tinh nhập viên Nguyệt tinh nhập viên Sao trương thủy tinh hiển vinh cục

http://www.tuvilyso.com

MÙI Sao tinh kim tinh nhập viên Hỏa tinh nhập viên Sao quỉ mộc tinh nhập viên.

THÌN Sao Giốc mộc tinh nhập viên Sao cang kim tinh nhập viên

MÃO Sao đê nhật tinh nhập viên Nguyệt tinh nhập viên. Sao phòng tai thiên đường cục Sao tâm duy tinh nhập viên

THÂN Sao tuy Hỏa tinh nhập viên Mộc tinh nhập viên Sao sâm sao tử vi nhập viên DẬU

Kìa như sao bản mạch tinh thần vào được trong viên cục, cũng như người làm quan ở triều đường mà được sao bản mệnh cùng chiếu vào cung viên thì mạng mình hiển vinh phát đạt vẻ vang thế lực có thể đề được tước tam thai vào được tám tòa quan thượng tọa. Đó là vận mệnh hàn lâm. Nhưng nếu cách dẫu cao mà tinh thần không vào được viên cung, thì dẫu có tài lộc chức vị cũng là bậc trung bậc dưới mà thôi.

Sao tất thổ tinh nhập viên Nhật tinh nhập viên Mão nguyệt tinh nhập viên Sao Vị la tinh nhập viên TUẤT Sao lâu Kim tinh nhập viên Sao Khuê mộc tinh nhập viên

DẦN

SỬU

HỢI

Sao vĩ Hỏa tinh nhập viên. Mộc tinh nhập viên Sao kỵ tử vi nhập viên

Sao ngưu mộc tinh nhập viên Thổ tinh thái thường nhập viên Sao Đẩu kim tinh nhập viên

Sao nguy nhật tinh nhập viên. Sao Hư thổ tinh nhập viên Sao Nữ nguyệt tinh nhập viên

Sao bích Hỏa tinh nhập viên Mộc tinh nhập viên Sao thất hỏa tinh văn xương nhập viên


- 35 -

TỴ

NGỌ

Sao dực hỏa tinh nhập viên Thủy tinh nhập viên Sao Chẩn kim tinh nhập viên.

Sao Liễu thổ tinh nhập viên nhật tinh Sao tinh nhập viên Nguyệt tinh nhập viên Sao trương thủy tinh hiển vinh cục

http://www.tuvilyso.com

MÙI Sao tinh kim tinh nhập viên Hỏa tinh nhập viên Sao quỉ mộc tinh nhập viên.

THÌN Sao Giốc mộc tinh nhập viên Sao cang kim tinh nhập viên

MÃO Sao đê nhật tinh nhập viên Nguyệt tinh nhập viên. Sao phòng tai thiên đường cục Sao tâm duy tinh nhập viên

THÂN Sao tuy Hỏa tinh nhập viên Mộc tinh nhập viên Sao sâm sao tử vi nhập viên DẬU

Kìa như sao bản mạch tinh thần vào được trong viên cục, cũng như người làm quan ở triều đường mà được sao bản mệnh cùng chiếu vào cung viên thì mạng mình hiển vinh phát đạt vẻ vang thế lực có thể được được tước tam thai vào được tám tòa quan thượng tọa. Đó là vận mệnh hàn lâm. Nhưng nếu cách dẫu cao mà tinh thần không vào được viên cung, thì dẫu có tài lộc chức vị cũng là bậc trung bậc dưới mà thôi.

Sao tất thổ tinh nhập viên Nhật tinh nhập viên Mão nguyệt tinh nhập viên Sao Vị la tinh nhập viên TUẤT Sao lâu Kim tinh nhập viên Sao Khuê mộc tinh nhập viên

DẦN

SỬU

HỢI

Sao vĩ Hỏa tinh nhập viên. Mộc tinh nhập viên Sao kỵ tử vi nhập viên

Sao ngưu mộc tinh nhập viên Thổ tinh thái thường nhập viên Sao Đẩu kim tinh nhập viên

Sao nguy nhật tinh nhập viên. Sao Hư thổ tinh nhập viên Sao Nữ nguyệt tinh nhập viên

Sao bích Hỏa tinh nhập viên Mộc tinh nhập viên Sao thất Hỏa tinh văn xương nhập viên


- 36 -

TỴ

NGỌ

Sao dực hỏa tinh nhập viên Thủy tinh nhập viên Sao Chẩn kim tinh nhập viên.

Sao Liễu thổ tinh nhập viên nhật tinh Sao tinh nhập viên Nguyệt tinh nhập viên Sao trương thủy tinh hiển vinh cục

http://www.tuvilyso.com

MÙI Sao tinh kim tinh nhập viên Hỏa tinh nhập viên Sao quỉ mộc tinh nhập viên.

THÌN Sao Giốc mộc tinh nhập viên Sao cang kim tinh nhập viên

MÃO Sao đê nhật tinh nhập viên Nguyệt tinh nhập viên. Sao phòng tai thiên đường cục Sao tâm duy tinh nhập viên

THÂN Sao tuy Hỏa tinh nhập viên Mộc tinh nhập viên Sao sâm sao tử vi nhập viên DẬU

Kìa như sao bản mạch tinh thần vào được trong viên cục, cũng như người làm quan ở triều đường mà được sao bản mệnh cùng chiếu vào cung viên thì mạng mình hiển vinh phát đạt vẻ vang thế lực có thể đề được tước tam thai vào được tám tòa quan thượng tọa. Đó là vận mệnh hàn lâm. Nhưng nếu cách dẫu cao mà tinh thần không vào được viên cung, thì dẫu có tài lộc chức vị cũng là bậc trung bậc dưới mà thôi.

Sao tất thổ tinh nhập viên Nhật tinh nhập viên Mão nguyệt tinh nhập viên Sao Vị la tinh nhập viên TUẤT Sao lâu Kim tinh nhập viên Sao Khuê mộc tinh nhập viên

DẦN

SỬU

HỢI

Sao vĩ Hỏa tinh nhập viên. Mộc tinh nhập viên Sao kỵ tử vi nhập viên

Sao ngưu mộc tinh nhập viên Thổ tinh thái thường nhập viên Sao Đẩu kim tinh nhập viên

Sao nguy nhật tinh nhập viên. Sao Hư thổ tinh nhập viên Sao Nữ nguyệt tinh nhập viên

Sao bích Hỏa tinh nhập viên Mộc tinh nhập viên Sao thất Hỏa tinh văn xương nhập viên


- 37 -

http://www.tuvilyso.com

TỴ

NGỌ

MÙI

DỰC Hỏa xà hỏa tinh Thăng điện Chẩn Thủy dẫn thủy tinh

Liễu Thổ trương thổ tinh TINH Nhật mã thái dương TRƯƠNG Nguyệt lộc thái âm Thăng điện

TINH Mộc ngạn mộc tinh Thăng điện QUÝ Kim dương kim tinh

THÌN

Vị Thổ trì thổ tinh thăng điện Mão Nhật kê thái dương Tất nguyệt ô thái âm

MÃO

TUẤT

TRUNG ƯƠNG

ĐẾ Thổ lạc thổ tinh PHÒNG Nhật thổ thái dương TÂM Nguyệt hổ Thái âm Thăng điện

KỴ Thủy báo thủy tinh thăng điện Vĩ Hỏa hổ hỏa tinh

Tuy Hỏa tinh Thăng điện Sâm Thủy tinh thủy viên

DẬU

GIỐC Mộc giảo Mộc tinh Thăng điện CANG Kim long kim tinh

DẦN

THÂN

SỬU NỮ Thổ bức thổ tinh NGƯU Kim ngưu kim tinh ĐẨU Mộc giải mộc tinh Thăng điện

Khuê Mộc viên Mộc tinh Thăng điện Lâu Kim cẩu kim tinh

HỢI

NGUY Nguyệt yến thái âm Thăng điện HƯ Nhật thử thái dương

Khuê Mộc lang Mộc tinh Thăng điện BÍCH Thủy du thủy tinh THẤT Hỏa trư, hỏa tinh


- 38 -

http://www.tuvilyso.com

TỴ

NGỌ

MÙI

DỰC Hỏa xà hỏa tinh Thăng điện Chẩn Thủy dẫn thủy tinh

Liễu Thổ trương thổ tinh TINH Nhật mã thái dương TRƯƠNG Nguyệt lộc thái âm Thăng điện

TINH Mộc ngạn mộc tinh Thăng điện QUÝ Kim dương kim tinh

THÌN

Vị Thổ trì thổ tinh thăng điện Mão Nhật kê thái dương Tất nguyệt ô thái âm

MÃO

TUẤT

TRUNG ƯƠNG

ĐẾ Thổ lạc thổ tinh PHÒNG Nhật thổ thái dương TÂM Nguyệt hổ Thái âm Thăng điện

KỴ Thủy báo thủy tinh thăng điện Vĩ Hỏa hổ hỏa tinh

Tuy Hỏa tinh Thăng điện Sâm Thủy tinh thủy viên

DẬU

GIỐC Mộc giảo Mộc tinh Thăng điện CANG Kim long kim tinh

DẦN

THÂN

SỬU NỮ Thổ bức thổ tinh NGƯU Kim ngưu kim tinh ĐẨU Mộc giải mộc tinh Thăng điện

Khuê Mộc viên Mộc tinh Thăng điện Lâu Kim cẩu kim tinh

HỢI

NGUY Nguyệt yến thái âm Thăng điện HƯ Nhật thử thái dương

Khuê Mộc lang Mộc tinh Thăng điện BÍCH Thủy du thủy tinh THẤT Hỏa trư, hỏa tinh


- 39 -

TỴ Dực chẩn Hỏa nhập viên Thủy nhập viên Kim nhập viên

NGỌ Liễu Tinh Trương Thổ nhập viên Nguyệt nhập viên Thủy hiển vinh cục

http://www.tuvilyso.com

MÙI Tĩnh Quỷ Kim nhập viên Hỏa nhập viên Mộc nhập viên

THÌN Giốc Cang Mộc nhập viên Kim nhập viên

MÃO Đê Phòng Tâm Nhật nhập viên Nguyệt nhập viên Tai thiên đường cục Duy nhập viên DẦN Vĩ Kỵ Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Tử nhập viên

THÂN Tuy Sâm Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Tử nhập viên DẬU

Tất Mão Vị Thổ nhập viên Nhật nhập viên Phù tinh thần chi nhập viên cục. Như sĩ Nguyệt nhập viên hoạn chi tại triều cường, thượng cách chi mạnh, tu đắc tinh chi qui viên vị, tắc mạnh La nhập viên chức hiển diệu, áp tam thai nhập bát tọa. TUẤT Nãi hàn lâm chi mạnh, cách tuy cao. Nhi tinh bất nhập cục, tắc tay hữu lộc vị, Lâu chung vị, chung phẩm hạ phẩm chi quí. Khuê Kim nhập viên Mộc lập viên

SỬU Ngưu Đẩu Mộc nhập viên Thổ thả thường viên Kim nhập viên

TÝ Nguy Hư Nữ Nhật nhập viên Thổ nhập viên Nguyệt nhập viên

HỢI Bích Thất Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Hỏa văn xương viên


- 40 -

http://www.tuvilyso.com

TỴ

NGỌ

MÙI

DỰC Hỏa xà hỏa tinh Thăng điện Chẩn Thủy dẫn thủy tinh

Liễu Thổ trương thổ tinh TINH Nhật mã thái dương TRƯƠNG Nguyệt lộc thái âm Thăng điện

TINH Mộc ngạn mộc tinh Thăng điện QUÝ Kim dương kim tinh

THÌN

Vị Thổ trì thổ tinh thăng điện Mão Nhật kê thái dương Tất nguyệt ô thái âm

MÃO

TUẤT

TRUNG ƯƠNG

ĐẾ Thổ lạc thổ tinh PHÒNG Nhật thổ thái dương TÂM Nguyệt hổ Thái âm Thăng điện

KỴ Thủy báo thủy tinh thăng điện Vĩ Hỏa hổ hỏa tinh

Tuy Hỏa tinh Thăng điện Sâm Thủy tinh thủy viên

DẬU

GIỐC Mộc giảo Mộc tinh Thăng điện CANG Kim long kim tinh

DẦN

THÂN

SỬU NỮ Thổ bức thổ tinh NGƯU Kim ngưu kim tinh ĐẨU Mộc giải mộc tinh Thăng điện

Khuê Mộc viên Mộc tinh Thăng điện Lâu Kim cẩu kim tinh

HỢI

NGUY Nguyệt yến thái âm Thăng điện HƯ Nhật thử thái dương

Khuê Mộc lang Mộc tinh Thăng điện BÍCH Thủy du thủy tinh THẤT Hỏa trư, hỏa tinh


- 41 -

TỴ Trương Dực Chẩn

http://www.tuvilyso.com

NGỌ

15 độ 1 độ

Liễu Tinh Trương

MÙI

4 độ 14 độ

Tinh Quỉ Liễu

THÂN

9 độ 3 độ

Tất Tuy Sâm Tinh

7 độ 8 độ

THÌN Đê Giốc Chẩn

DẬU 2 độ

11 độ

Đê 2 độ quá Mão Đẩu 4 độ quá Sửu Nguy 13 độ quá Hợi

Vĩ 3 độ quá Dần Nữ 2 độ quá Tý Khuê 2 độ quá Tuất

MÃO Đê Phòng Tâm Vĩ

6 độ 4 độ TUẤT

2 độ 3 độ

Vị 4 độ quá Dậu Tỉnh 9 độ quá Mùi Trương 15 độ quá Tỵ

Tất 7 độ quá Thân Liễu 4 độ quá Ngọ Chẩn 10 độ quá Thìn

SỬU

DẦN Đẩu Ngưu Kỵ Vĩ

Tất Mão Vị

3 độ 3 độ

Nữ Ngưu Đẩu

1 độ 3 độ

Nguy Hư Nữ

Khuê Lâu Vị

11 độ 3 độ HỢI

12 độ 2 độ

Khuê Bích Thất Nguy

1 độ 13 độ


- 42 -

TỴ Trương

NGỌ

Dực

Thập ngũ độ

Chẩn

Nhất độ

Liễu Tứ độ Tinh Trương Thập tứ độ

THÌN Đê Giốc Chẩn

Đê Phòng Tâm Vĩ

Nhị độ Thập nhất độ MÃO Nhị độ Tam độ

Đê nhị độ quá Mão Đẩu tứ độ quá Sửu Nguy thập tam độ quá Hợi

Tam độ Tam độ

MÙI Tinh Quý Liễu

Cửu độ Tam độ

Vĩ tam độ quá Dần Nữ nhị độ quá Tý Khuê nhị độ quá Tuất

THÂN Tất Tuy Sâm Tinh

Thất độ Bát độ DẬU

Tất Mão Vị

Thất độ Tứ độ TUẤT

Vị tứ độ quá Dậu Tỉnh cửu độ quá Mùi Trương thập ngũ độ quá Tỵ

Tất thất độ quá Thân Liễu tứ độ quá Ngọ Chẩn thập độ quá Thìn

SỬU

DẦN Đẩu Ngưu Kỵ Vĩ

http://www.tuvilyso.com

Nữ Ngưu Đẩu

Nhất độ Tứ độ

Nguy Hư Nữ

Khuê Lâu Vị

Thập nhất độ Tam độ HỢI

Thập nhị độ Nhị độ

Khuê Bích Thất Nguy

Nhất độ Thập tam độ


- 43 -

TỴ Sao dực hỏa xà hỏa tinh Thăng điện Sao chẩn thủy dẫn thủy tinh

http://www.tuvilyso.com

NGỌ

MÙI

Sao liễu thổ trương thổ tinh Sao tinh nhật mã thái dương Sao trương nguyệt lộc thái âm thăng điện

Sao tinh mộc ngạn mộc tinh Thăng điện Sao quỉ kim dương kim tinh

THÂN Sao tuy Hỏa tinh Thăng điện Sao sâm Thủy viên thủy tinh

THÌN

DẬU

Sao giốc mộc giảo mộc tinh thăng điện Sao cang kim long kim tinh

Sao vị Thổ trĩ thổ tinh thăng điện Sao mão Nhật kê thái dương Sao tất Nguyệt ô thái âm

TRUNG ƯƠNG

MÃO

TUẤT

Sao đê thổ lạc thổ tinh Sao phòng nhật thổ thái dương Nguyệt hồ thái âm sao tâm thăng điện

Sao khuê mộc lang mộc tinh thăng điện Sao lâu kim cẩu kim tinh

DẦN

SỬU

Sao kỵ thủy báo thủy tinh thăng điện Sao vĩ hỏa hổ hỏa tinh

Sao Nữ thổ bức thổ tinh Sao Ngưu kim ngưu kim tinh Sao đẩu mộc giải mộc tinh thăng điện

TÝ Sao nguy nguyệt yến thái âm Thăng điện Sao hư nhiệt thử thái dương

HỢI Sao khuê Mộc lang mộc tinh thăng điện Sao bích Thủy du thủy tinh Sao thất Hỏa du hỏa tinh


- 44 -

TỴ Dực chẩn Hỏa nhập viên Thủy nhập viên Kim nhập viên

NGỌ Liễu Tinh Trương Thổ nhập viên Nhật nhập viên Nguyệt nhập viên Thủy hiển vinh cục

http://www.tuvilyso.com

MÙI Tĩnh Quỷ Kim nhập viên Hỏa nhập viên Mộc nhập viên

THÌN Giốc Cang Mộc nhập viên Kim nhập viên

MÃO Đê Phòng Tâm Nhật nhập viên Nguyệt nhập viên Tai thiên đường cục Duy nhập viên DẦN Vĩ Kỵ Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Tử nhập viên

THÂN Tuy Sâm Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Tử nhập viên

DẬU Tất Mão Vị Thổ nhập viên Nhật nhập viên Phù tinh thần chi nhập viên cục. Như sĩ Nguyệt nhập viên hoạn chi tại triều cường, thượng cách chi mạnh, tu đắc tinh chi qui viên vị, tắc mạnh La nhập viên chức hiển diệu, áp tam thai nhập bát tọa. TUẤT Nãi hàn lâm chi mạnh, cách tuy cao. Nhi tinh bất nhập cục, tắc tay hữu lộc vị, Lâu chung vị, chung phẩm hạ phẩm chi quí. Khuê Kim nhập viên Mộc lập viên

SỬU Ngưu Đẩu Mộc nhập viên Thổ thả thường viên Kim nhập viên

TÝ Nguy Hư Nữ Nhật nhập viên Thổ nhập viên Nguyệt nhập viên

HỢI Bích Thất Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Hỏa văn xương viên


- 45 -

TỴ Dực chẩn Hỏa nhập viên Thủy nhập viên Kim nhập viên

NGỌ Liễu Tinh Trương Thổ nhập viên Nhật nhập viên Nguyệt nhập viên Thủy hiển vinh cục

http://www.tuvilyso.com

MÙI Tĩnh Quỷ Kim nhập viên Hỏa nhập viên Mộc nhập viên

THÌN Giốc Cang Mộc nhập viên Kim nhập viên

MÃO Đê Phòng Tâm Nhật nhập viên Nguyệt nhập viên Tai thiên đường cục Duy nhập viên DẦN Vĩ Kỵ Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Tử nhập viên

THÂN Tuy Sâm Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Tử nhập viên

DẬU Tất Mão Vị Thổ nhập viên Nhật nhập viên Phù tinh thần chi nhập viên cục. Như sĩ Nguyệt nhập viên hoạn chi tại triều cường, thượng cách chi mạnh, tu đắc tinh chi qui viên vị, tắc mạnh La nhập viên chức hiển diệu, áp tam thai nhập bát tọa. TUẤT Nãi hàn lâm chi mạnh, cách tuy cao. Nhi tinh bất nhập cục, tắc tay hữu lộc vị, Lâu chung vị, chung phẩm hạ phẩm chi quí. Khuê Kim nhập viên Mộc lập viên

SỬU Ngưu Đẩu Mộc nhập viên Thổ thả thường viên Kim nhập viên

TÝ Nguy Hư Nữ Nhật nhập viên Thổ nhập viên Nguyệt nhập viên

HỢI Bích Thất Hỏa nhập viên Mộc nhập viên Hỏa văn xương viên


- 46 -

SỞ Mặt trăng mặt trời triều Bắc huyết

http://www.tuvilyso.com

BẢNG ĐỒ CỦA TINH THẦN QUÝ CÁCH CHU TẤN Thủy tinh danh tiếng hiển vinh Mộc tinh âm triều Bắc huyết Nhật tinh đế cư dương Thủy tinh dương tương hội

Kim tinh ràng sao Thủy tinh thổ tinh quỉ cùng hội Bột tinh kim tinh cùng giúp Mộc tinh kim tinh cùng ở tần Thủy tinh nhập tần châu Thái ất âm thiềm từ kim tinh hổ nguyệt Mặt trăng treo ngọn liễu

TRỊNH

TRIỆU Nguyệt đáo kim ngưu vị Kim tinh trợ minh nguyệt

Kim tinh mộc tinh gặp rồng Nước sáng kim tinh sáng Hổ la tương hội Kim tinh hiệu là thái thường dùng đầy đủ Thổ qui tinh cục Mộc tinh ràng đường sao giốc

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ Thổ tinh nhật tinh hợp chiếu Nhật tinh gặp bạch dương Hỏa tinh cư Lâu tú

Thái dương tinh gặp quỉ Hỏa tinh yến thiên ngung Hỏa tinh viêm; thiên thịnh dùng đầy đủ YÊN Mộc kế cùng dần Tỵ văn mộc tinh

TẦN

NGÔ Ất khí kỵ ngưu Thủy viên phùng kim Sao chổi triều sao bắc đẩu Thổ tinh huỳnh tinh cùng hội đầy đủ Thổ tinh gọi là thái thường

TỀ Thủy tinh thổ tinh triều bắc Thủy tinh thanh thất bình Thổ tinh muốn tề giải Thổ tinh nên có nước

VỆ Kim tinh mộc tinh thừa xuyên Kim tinh lâu tinh sum vầy Hỏa tinh bột tinh kinh thiên Thái ất triều tinh Nhật nguyệt triều thiên Mộc kế gặp sao quỉ


- 47 -

SỞ Thủy bột hương phùng Thổ mai song nữ

http://www.tuvilyso.com

CHU

TẤN

Kim cư nhật phận Hỏa ngộ kim la Kế trạng sư vị Kim hỏa đồng chu Bột kỵ sư tử

Hỏa lâm dương vị

TRỊNH

Hỏa thiêu ngưu giốc Hỏa nhập kim hương Vưu phòng thủy chí

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ

Kim thừa hỏa vị Hựu phạ phùng thủy

Kim hiểm nhân mã Kim sầu kiến hỏa Sách ưu thủy nhập

Mộc

TRIỆU

Hỏa nhập kim hương Vưu phòng thủy chí Mộc xúc Kim long Khước hiếm kiến hòa

YÊN

TẦN

Kim kỵ bạch dương Thủy thừa hỏa vị Hựu phạ phùng kim NGÔ Tuyền khô Ngưu hác

TỀ Mộc đả Bảo bình Mộc phạt phùng kim

VỆ Mộc đính Hỏa tinh


- 48 -

SỞ Thủy bột tương phùng Thổ mai song nữ

http://www.tuvilyso.com

CHU

TẤN

Kim cư nhật phận Hỏa ngộ kim la Kế trạng sư vị Kim hỏa đồng chu Bột kỵ sư tử

Hỏa lâm dương vị

TRỊNH

Hỏa thiêu ngưu giốc Hỏa nhập kim hương Vưu phòng thủy chí

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ

Kim thừa hỏa vị Hựu phạ phùng thủy

Kim hiềm nhân mã Kim sầu kiến hỏa Sách ưu thủy nhập

Mộc

TRIỆU

Hỏa nhập kim hương Vưu phòng thủy chí Mộc xúc Kim long Khước hiếm kiến hòa

YÊN

TẦN

Kim kỵ bạch dương Thủy thừa hỏa vị Hựu phạ phùng kim NGÔ Tuyền khô Ngưu hác

TỀ Mộc đả Bảo bình Mộc phạt phùng kim

VỆ Mộc đính Hỏa tinh


- 49 -

SỞ

http://www.tuvilyso.com

CHU

TẤN

Thủy tinh bột tinh cùng Kim tinh cư nhật gặp phận hổ tinh ma song nữ Hỏa tinh gặp kim la Kế tinh trương sư vị Kim tinh hỏa tinh cùng hợp chu Bột tinh cưỡi sư tử

Hỏa tinh tới Dương vị

TRỊNH

Hỏa nhập kim hương HỎA TINH đốt sao Ngưu sao giốc Càng nên phòng nước đến

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ

Kim tinh thừa hỏa vị Lại sợ rằng gặp nước

Kim tinh ghét nhân mã Kim tinh sầu thấy lữa Đời lo nước nó vào

Mộc

TRIỆU

Hỏa tinh nhập kim hương Càng nên phòng nước đến Mộc tinh chạm Kim long Những lo thấy lữa

YÊN

TẦN

Kim tinh kỵ Bạch dương Thủy tinh thừa hỏa vị Lại sợ gặp kim tinh NGÔ Suối ngô ngưu hác

TỀ Mộc tinh đả Bảo bình Mộc tinh sợ gặp Kim tinh

VỆ Mộc kế gặp Hỏa tinh


- 50 -

SỞ

http://www.tuvilyso.com

CHU

TẤN

Thủy tinh bột tinh cùng Kim tinh cư nhật phận gặp Hỏa tinh gặp kim la hổ tinh ma song nữ Kế tinh trương sư vị Kim tinh hỏa tinh cùng hợp chu Bột tinh cưỡi sư tử

Hỏa tinh tới Dương vị

TRỊNH

Hỏa tinh nhập kim hương HỎA TINH đốt sao Ngưu sao giốc Càng nên phòng nước đến

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ Kim tinh kỵ Bạch dương Thủy tinh thừa hỏa vị Lại sợ gặp kim tinh

Kim tinh thừa hỏa vị Lại sợ rằng gặp nước

Kim tinh ghét nhân mã Kim tinh sầu thấy lữa Đời lo nước nó vào

Mộc

TRIỆU

Hỏa tinh nhập kim hương Càng nên phòng nước đến Mộc tinh chạm Kim long Những lo thấy lữa

YÊN

TẦN

NGÔ Suối ngô ngưu hác

TỀ Mộc tinh đả Bảo bình Mộc tinh sợ gặp Kim tinh

VỆ Mộc kế gặp Hỏa tinh


- 51 -

SỞ

http://www.tuvilyso.com

CHU

TẤN

Thủy tinh bột tinh cùng Kim tinh cư nhật gặp phận hổ tinh ma song nữ Hỏa tinh gặp kim la Kế tinh trương sư vị Kim tinh hỏa tinh cùng hợp chu Bột tinh cưỡi sư tử

Hỏa tinh tới Dương vị

TRỊNH

Hỏa nhập Kim hương HỎA TINH đốt sao Ngưu sao giốc Càng nên phòng nước đến

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ

Kim tinh thừa hỏa vị Lại sợ rằng gặp nước

Kim tinh ghét nhân mã Kim tinh sầu thấy lữa Đời lo nước nó vào

Mộc

TRIỆU

Hỏa tinh nhập kim hương Càng nên phòng nước đến Mộc tinh chạm Kim long Những lo thấy lữa

YÊN

TẦN

Kim tinh kỵ Bạch dương Thủy tinh thừa hỏa vị Lại sợ gặp kim tinh NGÔ Suối ngô ngưu hác

TỀ Mộc tinh đả Bảo bình Mộc tinh sợ gặp Kim tinh

VỆ Mộc kế gặp Hỏa tinh


- 52 -

SỞ Thủy bột tương phùng Thổ mai song nữ

http://www.tuvilyso.com

CHU

TẤN

Kim cư nhật phận Hỏa ngộ kim la Kế trạng sư vị Kim hỏa đồng chu Bột kỵ sư tử

Hỏa lâm Dương vị

TRỊNH

Hỏa thiêu ngưu giốc Hỏa nhập kim hương Vưu phòng thủy chí

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ

Kim thừa hỏa vị Hựu pha phùng thủy

Kim hiềm nhân mã Kim sầu kiền hỏa Sách ưu thủy nhập

Mộc

TRIỆU

Hỏa nhập kim hương Vưu phòng thủy chí Mộc xúc kim long Khước hiềm kiến hỏa

YÊN

TẦN

Kim kỵ Bạch dương Thủy thừa hỏa vị Hựu pha phùng kim NGÔ

TỀ

Tuyền khô ngưu hác Mộc đả Bảo bình Mộc Phạ phùng kim

VỆ Mộc kế Hỏa tinh


- 53 -

SỞ

CHU

Nhật nguyệt triều Bắc hộ

Thủy danh hiển vinh Mộc âm triều bắc Nhật đế cư dương Thủy dương tương hội

http://www.tuvilyso.com

TẤN

TẦN

Kim triền quỷ tú Thủy thổ tương hội Bột kim tương trợ Mộc bột đồng tần Thủy nhập tần châu Thái ất bão thiềm Kim tinh hồ nguyệt Nguyệt quái liễn tiêu

TRỊNH

TRIỆU Nguyệt đáo kim ngưu Kim tinh trợ nguyệt

Kim mộc phùng long Thủy minh kim minh Thổ la tương hội kim hiệu thái thường mãn dụng thổ qui trịnh quốc Mộc triền giốc đạo

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ

Thái dương phùng quỉ Hải yến thiên oa Hỏa viêm thin thị mãn dụng

Thổ nhật hợp chiếu Nhật ngộ bạch dương Hỏa cư lâu tú

YÊN Mộc kế đồng dần Tỵ văn mộc tinh

NGÔ Ất khí kỵ ngưu Thủy viên phùng kim Bột tinh triều đầu thổ huỳnh tương hội mãn dụng thổ hiệu thái thường

TỀ Thủy thổ triều Bắc Thủy thanh thất bình thổ hiếu tề giải Thổ nghi hữu thủy

VỆ Kim mộc thừa xuyên Kim lâu viên phận Hỏa bột kinh thiên Thái ất triều thiên Nhật nguyệt triều Mộc kế phùng quỷ


- 54 -

SỞ

CHU

Nhật nguyệt triều Bắc hộ

Thủy danh hiển vinh Mộc âm triều bắc Nhật đế cư dương Thủy dương tương hội

http://www.tuvilyso.com

TẤN

TẦN

Kim triền quỷ tú Thủy thổ tương hội Bột kim tương trợ Mộc bột đồng tần Thủy nhập tần châu Thái ất bão thiềm Kim tinh hồ nguyệt Nguyệt quái liễn tiêu

TRỊNH

TRIỆU Nguyệt đáo kim ngưu Kim tinh trợ nguyệt

Kim mộc phùng long Thủy minh kim minh Thổ la tương hội kim hiệu thái thường mãn dụng thổ qui trịnh quốc Mộc triền giốc đạo

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ

Thái dương phùng quỉ Hải yến thiên oa Hỏa viêm thin thị mãn dụng

Thổ nhật hợp chiếu Nhật ngộ bạch dương Hỏa cư lâu tú

YÊN Mộc kế đồng dần Tỵ văn mộc tinh

NGÔ Ất khí kỵ ngưu Thủy viên phùng kim Bột tinh triều đầu thổ huỳnh tương hội mãn dụng thổ hiệu thái thường

TỀ Thủy thổ triều Bắc Thủy thanh thất bình thổ hiếu tề giải Thổ nghi hữu thủy

VỆ Kim mộc thừa xuyên Kim lâu viên phận Hỏa bột kinh thiên Thái ất triều thiên Nhật nguyệt triều Mộc kế phùng quỷ


- 55 -

SỞ Mặt trăng mặt trời triều Bắc huyết

http://www.tuvilyso.com

CHU

TẤN

Thủy tinh danh tiếng hiển vinh Mộc tinh âm triều Bắc huyết Nhật tinh đế cư dương Thủy tinh dương tương hội

Kim tinh ràng sao Thủy tinh thổ tinh quỉ cùng hội Bột tinh kim tinh cùng giúp Mộc tinh kim tinh cùng ở tần Thủy tinh nhập tần châu Thái ất âm thiềm từ kim tinh hổ nguyệt Mặt trăng treo ngọn liễu

TRỊNH

TRIỆU Nguyệt đáo kim ngưu vị Kim tinh trợ minh nguyệt

Kim tinh mộc tinh gặp rồng Nước sáng kim tinh sáng KHỔ la tương hội Kim tinh hiệu là thái thường dùng đầy đủ Thổ qui tinh cục Mộc tinh ràng đường sao giốc

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ Thổ tinh nhật tinh hợp chiếu Nhật tinh gặp bạch dương Hỏa tinh cư Lâu tú

Thái dương tinh gặp quỉ Hỏa tinh yến thiên ngung Hỏa tinh viên thiên thịnh dùng đầy đủ YÊN Mộc kế cùng dần Tỵ văn mộc tinh

TẦN

NGÔ Ất khí kỵ ngưu Thủy viên phùng kim Sao chổi triều sao bắc đẩu Thổ tinh huỳnh tinh cùng hội đầy đủ Thổ tinh gọi là thái thường

TỀ Thủy tinh thổ tinh triều bắc Thủy tinh thanh thất bình Thổ tinh muốn tề giải Thổ tinh nên có nước

VỆ Kim tinh mộc tinh thừa xuyên Kim tinh lâu tinh sum vầy Hỏa tinh bột tinh kinh thiên Thái ất triều tinh Nhật nguyệt triều thiên Mộc kế gặp sao quỷ


- 56 -

SỞ Mặt trăng mặt trời triều Bắc huyết

http://www.tuvilyso.com

CHU

TẤN

Thủy tinh danh tiếng hiển vinh Mộc tinh âm triều Bắc huyết Nhật tinh đế cư dương Thủy tinh dương tương hội

Kim tinh ràng sao quỉ Bột tinh kim tinh cùng giúp Mộc tinh bột tinh cùng ở tần Thủy tinh nhập tần châu Thái ất âm thiềm từ kim tinh hồ nguyệt Mặt trăng treo ngọn liễu

TRỊNH

Nguyệt đáo kim ngưu vị Kim tinh trợ nguyệt minh

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ Thổ tinh nhật tinh hợp chiếu Nhật tinh gặp bạch dương Hỏa tinh cư Lâu tú

Thái dương tinh gặp quỉ Hỏa tinh yến thiên ngung Hỏa tinh viên thiên thịnh dùng đầy đủ

Mộc kế cùng dần Tỵ văn mộc tinh

Thủy tinh thổ tinh cùng hội

TRIỆU

Kim tinh mộc tinh gặp rồng Nước sáng kim tinh sáng KHỔ la tương hội Kim tinh hiệu là thái thường dùng đầy đủ Thổ qui trịnh quốc Mộc tinh ràng đường sao giốc

YÊN

TẦN

NGÔ Ất khí kỵ ngưu Thủy viên phùng kim Sao chổi triều sao bắc đẩu Thổ tinh huỳnh tinh cùng hội đầy đủ Thổ tinh gọi là thái thường

TỀ

VỆ

Thủy tinh thổ tinh triều bắc Thủy tinh thanh thất bính Thổ tinh muốn tề giải Thổ tinh nên có nước

Kim tinh mộc tinh thừa xuyên Kim tinh lâu tinh sum vầy Hỏa tinh bột tinh kinh thiên Thái ất triều tinh Nhật nguyệt triều thiên Mộc kế gặp sao quỉ


- 57 -

SỞ

CHU

Nhật nguyệt triều Bắc hộ

Thủy danh hiển vinh Mộc âm triều bắc Nhật đế cư dương Thủy dương tương hội

http://www.tuvilyso.com

TẤN

TẦN

Kim triền quỷ tú Thủy thổ tương hội Bột kim tương trợ Mộc bột đồng tần Thủy nhập tần châu Thái ất bão thiềm Kim tinh hồ nguyệt Nguyệt quái liễn tiêu

TRỊNH

TRIỆU Nguyệt đáo kim ngưu Kim tinh trợ nguyệt

Kim mộc phùng long Thủy minh kim minh Thổ la tương hội kim hiệu thái thường mãn dụng thổ qui trịnh quốc Mộc triền giốc đạo

TRUNG ƯƠNG

TỐNG

LỖ

Thái dương phùng quỉ Hải yến thiên oa Hỏa viêm thiên thị mãn dụng

Thổ nhật hợp chiếu Nhật ngộ bạch dương Hỏa cư lâu tú

YÊN Mộc kế đồng dần Tỵ văn mộc tinh

NGÔ Ất khí kỵ ngưu Thủy viên phùng kim Bột tinh triều đầu thổ huỳnh tương hội mãn dụng thổ hiệu thái thường

TỀ Thủy thổ triều Bắc Thủy thanh thất bình thổ hiếu tề giải Thổ nghi hữu thủy

VỆ Kim mộc thừa xuyên Kim lâu viên phận Hỏa bột kinh thiên Thái ất triều thiên Nhật nguyệt triều Mộc kế phùng quỷ


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.