Phong Thủy Huyền Không Nói về hai chữ HUYỀN KHÔNG Chương trọng Sơn nói:” Vô định, vô cứ, không phương hướng, không góc cạnh, không khởi đầu, không kết thúc, không hình thể, không dấu vết, tồn tại khắp nơi, không lúc nào không có. Đấy gọi là Huyền Không” Lạc Sĩ Bằng viết:”Huyền nghĩa là trời đất khiến nó như thế. Không nghĩa là đất phải bẩm thụ như thế. Chính vì chú trọng mặt đất như thế thì có gì là “Không”? Nhưng đất cũng có lưu động, thông dòng. Đấy chính là chỗ “không” của mặt đất vậy. Đấy cũng chính là chỗ xảo diệu, khéo léo của đất vậy. Thẩm Trúc Nhưng giải thích về Huyền Không: “Huyền nghĩa là nhất (một) (Huyền giả nhất dã). Không cũng là vạch liền trong bát quái. Song “không “ở đây không phải là không có gì mà không ở đây vẫn bao hàm cái có. Các học giả Thiên Trúc (Ấn Độ) nói về chữ “không”: Sắc bất dị không Không bất dị sắc Sắc tức thị không Không tức thị sắc Thụ tưởng hành thức Diêc phục như thị “Sắc(vật) chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Cái cảm nhận và suy nghĩ cũng hệt như vậy”. Khái niệm không ở đây phải dựa vào khái niệm có mà nên vậy. HUYỀN KHÔNG là sự đến từ hư vô rồi trở về hư vô. Từ một đến chín, để suy đoán sự sinh ra hay mất đi, thăng hay giáng, âm hay dương trong trời đất. Thế giới chúng ta đang sống, con người – trời – đất , thời gian và không gian, mỗi cái đều khác nhau. Nhưng cùng tồn tại theo một qui luật chung trong mối quân bình hài hòa, Chúng đã ở đúng trong vị trí mà chúng phải tồn tại. Qui luật luôn biến đổi mà hài hòa cân đối đó chính là thuật “phong thủy” mà Huyền Không địa lý nghiên cứu. Sơn –tĩnh, Thủy – động, nhưng có mối quan hệ quân bình với nhau. Không thể chỉ dùng mắt thường để xem mà phải dùng “tâm nhãn” để xem nữa. HUYỀN KHÔNG nghiên cứu sự thay đổi, biến hóa của sự vật, biểu thị bằng các số từ 1 đến 9 di chuyển theo một quĩ đạo nhất định là vòng “Lường thiên xích” Bàn về vòng Lượng thiên xích, sách "Trạch vận tân án" có viết: Thùy đắc Lượng thiên Xích nhất chi, Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi, Tử sinh đắc thất tùy thám sách,
Quá hiện vị lai liễu liễu tri Tạm dịch: Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích, Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay, Tìm hiểu được sự sống chết và được mất, Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai. Cho nên Huyền khôngđịa lý là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát quái mà đoán định sự thịnh, suy, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch). __________________
Lạc thư, Hà đồ và Lượng thiên Xích Hãy coi thử ma phương sau:
Tổng số của các cạnh hay đường chéo đều bằng 15. Đây chính là cân bằng của vũ trụ 1-Hà Đồ: Hà Đồ có 10 số: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10. Tổng số Hà Đồ là 55. Năm số lẻ là số dương tức số trời được biểu tượng bắng những chấm trắng. Tổng số các số trời là 1+3+5+7+9= 25. Năm số âm là số chẵn tức số đất biểu thị bằng những chấm đen. Tổng số các số đất: 2+4+6+8+10 = 30. Tổng cộng số trời đất là 55. Do đó “Dịch từ thượng” nói: số trời có 5, số đất có 5. Năm ngôi cùng tương tác mà hợp với nhau. Số trời là 25, số đất là 30, tổng số là 55, các số đó tạo nên sự biến hóa và điều hành quỷ thần. Theo Chu Hy, 5 ngôi tương đắc mà đều hợp với nhau. Theo “Dịch hệ từ thượng”: Ở trên là chỉ sự xếp đặt 5 cặp số của Hà Đồ, cứ một số trời hợp với một số đất, 1-6 ở dưới, 2-7 ở trên, 3-8 ở bên trái, 4-9 ở bên phải và 5 hợp với 10 ở trung cung. Hà Đồ là bức đồ đầu tiên của Kinh Dịch, sự vận hành của nó theo chiều tương sinh của ngũ hành, vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới luôn luôn tiến hóa , biểu hiện sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch. Bắt đầu từ Bắc đến Đông, vì Thủy sinh Mộc, qua Nam, vì Mộc sinh Hỏa, vào trung ương, vì Hỏa sinh Thổ, đi qua Tây , vì Thổ sinh Kim, trở về Bắc , vì Kim sinh Thủy. Vậy đường vận hành khởi từ Bắc ở dưới, qua bên trái, lên phía trên,vào trung ương, sang bên phải, lại về Bắc ( Theo quan điểm Á Đông vì ở Bắc bán cầu: Phía Bắc biểu trưng cho hàn lạnh nên thuộc Thủy, Phía Nam biểu trưng cho ấm nóng, nên thuộc Hỏa. Phía Đông biểu trưng cho sự trỗi dậy, nên thuộc Mộc. Phía Tây biểu trưng cho bền chắc, nên thuộc Kim. Trong khi đó Nam Bán Cầu thì vị trí Hỏa và Thủy sẽ đổi cho nhau, điều này lý giải
phía Nam bán cầu “lường thiên xích” bay ngược với Bắc bán cầu)
Theo truyền thuyết thì vua phục Hy bên tàu thấy thần Mã xuất hiện ở sông hoàng hà, trên lưng có chữ số theo 4 phương vị BẮC – NAM – ĐÔNG – TÂY nên ghi chép lại, gọi là hà đồ Khẩu quyết của hà đồ như sau: “Nhất – Lục công tông, vi Thủy cư BẮC. Nhị - Thất đồng đạo, vi Hỏa cư NAM. Tam – Bát vi bằng, vi Mộc cư ĐÔNG. Tứ - Cửu tác hữu, vi Kim cư TÂY. Ngũ – Thập cư trung, vi Thổ cư Trung” Tạm dịch là:
“ 1 - 6 đồng tông (cùng gốc), là thủy cư phương BẮC. 2 – 7 đồng đạo (cùng chí hướng), là Hỏa đóng ở phương NAM 3 – 8 là bè bạn, là Mộc đóng ở phương ĐÔNG 4 – 9 anh em, là Kim đóng ở phương TÂY 5 – 10 là Thổ nằm ở chính giữa” Dựa vào khẩu quyết, có thể biết vào thời Phục Hy, ngưới ta chỉ biết có 4 hướng là : ĐÔNG-TÂY-NAM-BẮC mà thôi.
__________________
2 – Lạc Thư: Lạc Thư có 9 số. Số lẻ là số trời hay dương số. Tồng số các số lẻ 1+3+5+7+9 = 25. Số chẵn là số đất. Tổng số các số chẵn là 2+4+6+8 = 20. Lạc thư vận hành khởi từ Thủy qua đến Hỏa, vì Thủy khắc Hỏa, Hỏa lên Kim, vì Hỏa khắc kim, đến Mộc vì Kim khắc Mộc, vào Thổ, vì Mộc khắc Thổ, rồi lại về Thủy, vì Thổ khắc Thủy.
Theo truyền thuyết vua VŨ khi trị thủy trên sông Lạc thì gặp rùa thần nổi lên, trên lưng có đồ hình phương vị của cửu tinh. Vua Vũ sao chép lại và gọi đó là Lạc Thư. Khẩu quyết của Lạc Thư : “Đời Cửu, lý Nhất; tả Tam, hữu Thất; Nhị-Tứ vi kiên; Lục-Bát vi túc; Ngũ cư trung vị” Có nghĩa là : “ Trên đội 9, dưới đạp 1; bên trái 3; bên phải 7; vai là 4 và 2; chân là 6 và 8; còn 5 ở chính giữa”
__________________
3- Tiên Thiên Bát Quái: từ Hà Đồ người đời sau này khi phát hiện được 8 quẻ dịch mới lập thành 8 hướng và đưa 8 quẻ dịch vào đó (các chữ số là số quẻ tiên thiên) 4-Hậu Thiên Bát Quái : Dựa vào lạc thư, sau này vua Văn Vương nhà Chu mới đổi lại phương vị của 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái theo với ý nghĩa và phương vị của 9 số trên Lạc Thư mà đặt ra Hậu Thiên Bát Quái (các chữ số là số của Lạc Thư và cũng là số quẻ Hậu Thiên)
Với việc phát minh và sử dụng 8 hướng trên la bàn, vua Vũ đã có thể tách rời các cặp và phân bố chúng ra khắp 8 hướng, nhưng trên thực tế vẫn là qui tụ về những cặp số của hà đồ tức tiên thiên. Trong Hà Đồ, 1-6 đứng chung ở phía Bắc. Còn trong Lạc Thư , 1 vẫn nằm ở phía Bắc, còn 6 ở Tây Bắc. Nên tuy hình thức là tách rời, nhưng thật ra vẫn là kề vai sát cánh, đứng bên cạnh nhau mà tạo thành thế “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Và với sự ra đời của Hậu thiên bát quái, tính chất, phương vị, ngũ hành của cửu tinh và của 8 quẻ đều đã được khẳng định. Nên chúng chính là khởi điểm cho mọi ngành học thuật phương đông, trong đó có phong thủy. Các quẻ bát quái đứng trong Hậu thiên (cũng như lạc thư) tạo thành một vòng tương sinh.
Phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên bát quái như sau: - Số 9 nằm ở trên tức hướng NAM. Vì phương NAM nóng, thuộc quẻ Ly-Hỏa nên số 9 mang hành Hỏa. - Số 1 nằm ở dưới nên thuộc hướng BẮC. Vì phương Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ KhảmThủy nên số 1 mang hành Thủy. - Số 3 nằm bên trái thuộc phương ĐÔNG. Vì phương ĐÔNG là quẻ CHẤN-Mộc, nên số 3 mang hành Mộc. - Số 7 nằm bên phải thuộc phương TÂY. Vì phương TÂY là quẻ ĐOÀI-Kim, nên số 7 mang hành Kim. - Số 2 là "vai” bên phải, nên nằm tại phía TÂY NAM. Vì phía TÂY NAM thuộc quẻ KHÔN-Thổ, nên số 2 mang hành Thổ. - Số 4 là "vai” bên trái, nện nằm tại phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐNMộc, nên số 4 mang hành Mộc. - Số 6 là "chân” bên phải, nên nằm tại phía TÂY BẮC. Vì TÂY BẮC thuộc quẻ CÀNKim, nên số 6 có hành Kim. - Số 8 là "chân” bên trái, nên nằm tại phía ĐÔNG BẮC. Vì phía ĐÔNG BẮC thuộc quẻ
CẤN-Thổ, nên số 8 mang hành Thổ. - Số 5 nằm ở chính giữa (tức trung cung). Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Vì thế nên số 5 cũng mang hành Thổ. Do đó, phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên Bát quái như sau: đông nam..............nam...............tây nam ............4................9................2 đông.....3................5................7 tây ............8................1................6 đông bắc.............bắc..............tây bắc
Đây chính là những phương vị "nguyên thủy” của Cửu tinh trong Lạc thư (hay Hậu thiên bát quái). Nhưng khi có những thay đổi về không gian và thời gian thì Cửu tinh cũng sẽ thay đổi hoặc di động theo 1 qũy đạo nhất định. Quỹ đạo đó được gọi là vòng Lượng thiên Xích. __________________
ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH Âm dương
Trong cuộc sống chúng ta luôn luôn tồn tại 2 cái trái nghịch nhau: - Mặt phải và mặt trái - Vui và buồn - Quân tử và tiều nhân - Tối và sáng - Thuận và nghịch - Nóng và lạnh - V. v…….. Trong tất cả những cái giống nhau thì đều có điểm khác nhau Trong tất cả những cái khác nhau thì đều có điểm giống nhau Đó là Âm – Dương Âm dương là hai yếu tố quan trọng trong cuộc sinh thành tiến hoá của vạn vật. Ý nghĩa tuy trái ngược nhau nhưng âm dương luôn luôn dung hoà lẫn nhau, bổ túc cho nhau,… Âm dương là lưỡng nghi, phân ra làm 4 gọi là tứ tượng: Thiếu dương: Khí dương còn non. Thái dương : Dương cực mạnh Thiếu âm : Âm mới sinh Thái âm : Âm dày đặc. Đặc tính : Dương : Động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên, khô ráo, cứng, mạnh, tiến đi xa, mau lẹ, mở. số lẻ, nam, ngày, mặt trới, hoả, bên trái cơ thể. Âm : Tĩnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới , ẩm ướt, mềm, yếu, lùi trở lại, chậm chạp, đóng, số chẵn, nữ, đất, đêm, mặt trăng, thuỷ, bên phải cơ thể Trong sự biến hoá tuần hoàn : Âm mạnh thì dương yếu; dương mạnh thì âm yếu Âm dương như 2 cực nam châm, cùng tính thì chống đẩy nhau, khác tính thì thu hút lẫn nhau. Nhưng trong mọi vật hai yếu tố ấy luôn dung hoà lẩn nhau, tương giao cùng nhau. Cả hai đóng vai trò quan trọng trong cuộc sinh thành của vạn vật. Âm Dương và sự hình thành tám quẻ tượng Chu Hy nói rằng : Dịch có Thái Cực sinh hai nghi (âm và dương) , hai nghi sinh bốn tượng (tức thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm), bốn tượng sinh bát quái (tức càn , đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn) rồi bát quái lại sinh 64 quẻ cũng như rễ thì có gốc, gốc có cành, cành lớn càng ít thì cành nhỏ càng nhiều. Âm trường thì dương tiêu (âm lớn mạnh thì dương mất đi), dương trường thì âm tiêu (mặt trời càng lên cao thì bóng tối dần càng mất đi). Đó là lẽ sinh sinh diệt diệt trong vũ trụ. Như ta từ không mà đến rồi lại sẽ trở về không vậy.
Khôn (địa)
☷ Khi trời đất còn là mội cõi hư vô . Do Đó tính của quẻ là Hư, Hình ảnh của quẻ là lục đoạn, lý là nhu thuận, thuận dã, mềm mỏng, như mặt đất yêu thương mọi vật trên đó (thổ), Dương thuận tòng,hòa theo lẽ, chịu lấy,ẩn, như tuân theo mà được lợi, thấp, nhỏ, tối,là hình ảnh cũa mẹ già. Số tiên thiên là 8, sô hậu thiên là 2 (cũng là số của cửu tinh) Cấn (sơn)
☶ Không còn ẩn nữa và dương bắt đầu xuất hiện nhưng còn non vì ở ngọn. Do đó tính là Ngưng, hình ảnh quẻ là phủ hạ tức trùm lên cũng là hình trái núi (thổ). Lý là Ngưng nghỉ. Chỉ dã, ngăn giữ, ở, thôi, ngừng lại, đậy lại, để dành, Ngăn cấm, vừa đúng chỗ, che phủ. Ngôi thứ là trai út hay thiếu (dương còn non). Ngôi thứ là thiếu nam (trai út). Số tiên thiên 7, số hậu thiên là 8 Khảm (thủy)
☵ Dương lẩn vào trong tức được đứng vững. Do đó tính là Trụ (cây trụ muốn vững thì cần cắm xâu) hình ảnh là trung mãn (đầy bên trong) là eo thắt, như được bao kín (thủy) , Lý là hãm hiểm, hãm dã, hãm vào trong, bắt buộc, xuyên xâu vào trong, hố xâu, trắc trở, hiểm hóc, gập ghềnh. Ngôi thứ là trung nam (đồng lấy dị mà luận). Số tiên thiên là 6, số hậu thiên là 1 Tốn (phong)
☴ Xuất hiện thêm một hào dương, Âm lui dần về tức ẩn tàng, dấu diếm. Do đó tính là Tiềm. hình ảnh là hạ đoạn (đứt dưới), như cây cổ thụ có rễ tỏa ra (mộc cỗi). Lý là Thuận nhập, thuận dã (chiều theo), thuận theo ý trên, theo xuống, theo tới, theo lui, có sự dấu diếm ở trong. Ngôi thứ là trưởng nữ. Số tiên thiên là 5, số hậu thiên là 4 Chấn (lôi)
☳ Lúc này khí dương đã đủ sức xuống đến gốc để chuẩn bị chu kỳ mới bung lên. Do đó tính là Khởi. Hình ảnh là ngưỡng thượng (chén ngửa), như mầm non mới nhú (mộc non). Lý là động dụng, động dã, bung lên, khởi lên, sợ hải, nổ vang, chấn động, chấn kinh, phân phát. Ngôi thứ là trưởng nam. Số tiên thiên là 4, số hậu thiên là 3 Ly (hỏa)
☲ Xuất hiện một khí dương bên trên ngọn như ngọn lửa tỏa ra. Do đó tính là Vũ. Hình ảnh là trung hư, rỗng ở trong , như ngọn lửa thấy vậy mà trong rỗng mà thôi (hỏa). Lý là nóng sáng, lệ dã, sáng sủa, tỏa ra, bám vào, phụ vào, trưng bày, phô trương, trống trơn, không yên. Ngôi thứ là trung nữ (gái giữa). Số tiên thiên là 3, số
hậu thiên là 9 Đoài (trạch)
☱ Lúc này dương đã làm chủ đẩy âm hiện lên trên. Do đó tính của quẻ là Hiển. hình ảnh là thượng khuyết, là khuyết mẻ , như lưỡi dao bị mẻ vậy (kim bén , mỏng) . Lý là hiện đẹp, duyệt dã, vui lòng, vui vẻ, ưa thích, nói năng, khuyết mẻ. Ngôi thứ là thiếu nữ (gái út). Số tiên thiên là 2, số hậu thiên là 7 Kiền (thiên)
☰ Dương đã hoàn toàn xuất hiện như một điều hiển nhiên. Do đó tính là Như. Hình ảnh tam liên, tròn đầy , cứng chắc như khối kim loại (kim khối, cục). Lý là cương kiện, kiện dã, mạnh mẽ, cứng mạnh, khỏe mạnh, khô, lớn , cao, dương sáng. Hình ảnh của người Chồng hoặc Cha. Số tiên thiên là 1, số hậu thiên là 6 Tóm lại: sự hình thành tính chất của 8 quẻ qua các giai đoạn từ hư không cho đến hiện tại: 8_Hư – 7_Ngưng – 6_Trụ - 5_Tiềm – 4_Khởi – 3_Vũ – 2_Hiển – 1_Như Từ tám quẻ tiên thiên khi chồng nên nhau giống như những sự kiện được liên kết lại mà hình thành nên 64 quẻ dịch. __________________
Ngũ hành Khí âm dương luân chuyển biến hoá mà tạo ra ngũ hành. Năm hành của ngũ hành được hình thành qua 2 giai đoạn 1- Giai đoạn sinh: Nói về số thì : Trời 1 sinh thuỷ, đất 2 sinh hoả, trời 3 sinh mộc, đất 4 sinh kim, trời 5 sinh thổ. Vậy số 1,2,3,4,5 là số sinh của ngũ hành 2- Giai đoạn thành; Nói về số thì ; -Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành thuỷ (1-6 là thuỷ tiên thiên)
- Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành hoả (2-7 là hoả tiên thiên) - trời 3 sinh mộc, đất 8 thành mộc (3-8 là mộc tiên thiên) - Đất 4 sinh kim, trời 9 thành kim (4-9 là kim tiên thiên ) - Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành thổ (5-10 thành thổ) Phương hướng; Mộc ở phương đông, hoả ở phương nam, thổ ở trung ương, kim ở phương tây, thuỷ ở phương bắc. Đây chính là phương vị ngũ hành trong hà đồ. Ngũ khí ; - Phong khí ( gió)thuộc mộc - Thử khí và nhiệt khí( khí nóng) thuộc hoả - Thấp khí(khí ẩm ướt) thuộc thổ - Táo khí (khí khô) thuộc kim - Hàn khí ( khí lạnh) Tạng phủ - Kim: đầu, họng, lưỡi, phổi - Mộc: Lông, tóc, tay chân, gan, mật - Thuỷ: Máu, mồ hôi, nước mắt, tai, thận - Hoả: Mắt, tim - Thổ: dạ dày, lá lách, lưng, bụng Hình dáng: - Kim: Tròn, dày - Mộc: hẹp dài - Thuỷ : Khúc khuỷu - Hoả: nhọn sắc - Thổ: vuông vức Quẻ dịch; - Kim: 2 quẻ CÀN, ĐOÀI - Mộc: 2 quẻ CHẤN TỐN - Thuỷ: quẻ KHẢM - Hoả: Quẻ LY - Thổ; 2 quẻ KHÔN, CẤN Thiên can: - Kim: canh, tân - Mộc: Giáp, ất - Thuỷ: Nhâm, quí - Hoả: Bính đinh - Thổ: Mậu, kỷ
Địa chi: - Kim: Thân, dậu - Mộc: dần, mão - Thuỷ: Hợi, tý - Hoả: Tỵ, ngọ - Thổ : Thìn, tuất, sửu, mùi Sinh khắc của ngũ hành Sinh: - kim sinh thuỷ - thuỷ sinh mộc - mộc sinh hoả - hoả sinh thổ - thổ sinh kim Khắc: - Kim khắc mộc - Mộc khắc thổ - Thổ khắc thuỷ - Thuỷ khắc hoả - Hoả khắc kim Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy. Ngũ hành phản sinh Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành. Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là: - Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp. - Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than. - Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt. - Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.
- Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục. Ngũ hành phản khắc Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc. Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là: - Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy. - Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu. - Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt. - Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn. - Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt. Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa. Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7. Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc. Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi.
Lượng thiên xích Là sự di chuyển của cửu tinh trong lạc thư hay hậu thiên bát quái còn gọi là "Cửu tinh đăng quái" 1- Lượng thiên xích thuận: đông nam.............nam.............tây nam ............9..............5..............7
đông.....8...............1..............3...tây ...........4................6..............2 đông bắc...............bắc...............tây bắc (1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC. (2) Từ TÂY BẮC lên TÂY. (3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC. (4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM. (5) Từ NAM xuống BẮC. (6) Từ BẮC lên TÂY NAM. (7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG. (8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM. (9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung. 2- Lượng thiên xích nghịch đông nam..................nam...............tây nam ............2....................6................ ...4 đông.....3....................1................. ..8...tây ............7....................5................ ...9 đông bắc...................bắc.................tây bắc (1) Từ trung cung lên ĐÔNG NAM (2) Từ ĐÔNG NAM xuống ĐÔNG (3) Từ ĐÔNG lên TÂY NAM (4) Từ TÂY NAM xuống BẮC (5) Từ BẮC lên NAM. (6) Từ NAM xuống ĐÔNG BẮC. (7) Từ ĐÔNG BẮC sang TÂY. (8) Từ TÂY xuống TÂY BẮC. (9) Từ TÂY BẮC trở về trung cung. Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm-dương của Tam nguyên long. Cửu tinh và ý nghĩa - Số 1: Nhất bạch hay tham lang: Đệ nhất cát tinh. Nếu đương vượng mà hình thế loan đầu có thủy động thì khoa cử đỗ đạt, sinh con trai thông minh trí tuệ. Nếu suy tử
thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi, mang nhiều bệnh tậ về huyết, thận hư... * về ngũ hành: thuộc thuỷ * Về màu sắc: màu trắng * Về cơ thể : Thận, tai, máu huyết * về người : con trai thứ * về tính chất : thuộc dương - Số 2 : Nhị hắc hay cự môn : Hung tinh. Nếu vượng thì giàu có, điền sản phát mạnh, nhân khẩu hưng vượng lại phát quí về binh nghiệp. Nếu suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểm, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng. Trong nhà thường phát sinh bệnh hoạn liên miên. * về ngũ hành: thuộc thổ * Về màu sắc: màu đen * Về cơ thể : bụng và dạ dày * về người: mẹ hoặc vợ trong gia đình * về tính chất : thuộc âm - Số 3 : Tam bích hay lộc tồn : Hung tinh. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng, con cái dòng trưởng rất hưng thịnh. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khắc vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp. * về ngũ hành: thuộc mộc * Về màu sắc: màu xanh lá cây * Về cơ thể : mật, vai và tay * về người: con trai trưởng * về tính chất : thuộc dương - Số 4 : Tứ lục hoặc văn xương : Cát tinh. Vượng thì văn chương lừng danh, khoa cử đỗ đạt, con gái dung mạo đoan trang lấy được con nhà quyền quí. Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn, đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá hoại, phải lang thang phiêu bạt. * về ngũ hành: thuộc mộc * Về màu sắc: màu xanh dương * Về cơ thể : đùi và 2 chân * về người: con gái trưởng * về tính chất : thuộc âm - Số 5 : Ngũ hoàng hoặc Liêm trinh :Đạt sát tinh. Vượng thì tài đinh đại phát. Nếu suy tử thì bất kể được sinh hay bị khắc đều rất xấu ví vậy nó tịnh không nên động. Nếu gặp sao thái tuế tới thì tính hung càng phát mạnh làm tổn đinh, phá tài , nhẹ thì
ốm đau, nặng thì mất người * về ngũ hành: thuộc thổ * Về màu sắc: màu vàng * Về cơ thể : không * về người: không - Số 6 : Lục bạch hoặc vũ khúc : Cát tinh. Vượng thí quyền uy , làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giáu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì cô độc hoặc chết trong binh đao, người nhà thường góa bụa, có nhiều quả phụ. * về ngũ hành: thuộc kim * Về màu sắc: màu trắng bạc * Về cơ thể : đầu, mũi, cổ, xương, ruột già * về người: cha hoặc chồng trong gia đình * về tính chất : thuộc dương - Số 7 : Thât xích hoặc phá quân : tặc tinh. Vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận hay bị giam cầm, gia đạo không yên có thể bị hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc * về ngũ hành: thuộc kim * Về màu sắc: màu đỏ * Về cơ thể : phổi, miệng, lưỡi * về người: con gái út * về tính chất : thuộc âm - Số 8 : Bát bạch hoặc tả phù: Cát tinh. Vượng thì trung hiếu, phú quí dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc của tổ tiên. Suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch * về ngũ hành: thuộc thổ * Về màu sắc: màu trắng * Về cơ thể : lưng, ngực và lá lách. * về người: con trai út * về tính chất : thuộc dương - Số 9 : Cửu tử hay hữu bật : trung tính. vượng thì văn chương lừng lẫy, con cháu dòng giữa được hưởng phú quí. Suy thì hỏa tai hoặc tai họa chốn quan trường, bị bệnh về máu huyết, thần kinh, mắt hoặc sanh đẻ khó. * về ngũ hành: thuộc hoả * Về màu sắc: màu đỏ tía * Về cơ thể : mắt, tim, ấn đường * về người: con gái giữa * về tính chất : thuộc âm
Còn như thế nào là vượng hay suy sẽ phân tích ở phần sau. Trên đây là những yếu tố căn bản tối thiểu mà người học huyền không phải nắm vững để ứng dụng sau này __________________
Theo truyền thuyết thì vua phục Hy bên tàu thấy thần Mã xuất hiện ở sông hoàng hà, trên lưng có chữ số theo 4 phương vị BẮC – NAM – ĐÔNG – TÂY nên ghi chép lại, gọi là hà đồ Khẩu quyết của hà đồ như sau: “Nhất – Lục công tông, vi Thủy cư BẮC. Nhị - Thất đồng đạo, vi Hỏa cư NAM. Tam – Bát vi bằng, vi Mộc cư ĐÔNG. Tứ - Cửu tác hữu, vi Kim cư TÂY. Ngũ – Thập cư trung, vi Thổ cư Trung” Tạm dịch là: “ 1 - 6 đồng tông (cùng gốc), là thủy cư phương BẮC. 2 – 7 đồng đạo (cùng chí hướng), là Hỏa đóng ở phương NAM 3 – 8 là bè bạn, là Mộc đóng ở phương ĐÔNG 4 – 9 anh em, là Kim đóng ở phương TÂY Cơ Bản Huyền không còn nhiều cái cần ngẫm nghỉ . Tại sao là những cặp số trên không phải là cặp số khác .... __________________ Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
Chào Quốc Trung Không phải ngẫu nhiên mà các cặp số này hợp thành. Bạn cần ngẫm nghĩ thêm thì sẽ có câu trả lời. Lưu ý: hãy dùng 2 đồ hình hà đồ và lạc thư mà so sánh thì sẽ thấy rằng sự kết hợp này là không thể khác. Thường người ta thấy sự kỳ diệu thì hay gắn cho nó một truyền thuyết để thêm phần kỳ bí mà thôi. Thân __________________
Hướng nhà và Tâm nhà 1- Hướng nhà: Hướng nhà là một trong nhiều căn bản của Huyền Không Phi Tinh. Tuy là căn bản nhưng lại đòi hỏi nhiều kinh nghiệm . Nếu không thì sẻ nhận thức sai về phương hướng của căn nhà . Phái phi tinh dùng hướng nhà chứ không dùng hướng cửa như phái bát trạch Đại đa số hướng nhà đều đi chung với hướng cửa ngoại trừ vài trường hợp như cửa mở bên hông nhà, nhà có kiến trúc khác thường, v.v. Nói một cách đơn giản thì hướng nhà phải là hướng đối ngược với hướng của người đi tới nhà . Như người đi tới hướng Nam để tới nhà thì hướng nhà là hướng bắc. Có người dùng cách lấy dương làm hướng, theo cách này thì dương là nơi khí động, có thủy, thấp v.v. Như vậy sẻ gặp nhiều trường hợp rất khó quyết định, thí dụ như
có nhà phía sau trống trải và thấp còn phía trước thì có đường lộ và đôi khi cao hơn phía sau vậy làm sao định hướng. Có nhà phía sau rộng và thoáng, phía trước hẹp lại có đường . Khi phân vân thì ta phải lập nhiều tinh bàn rồi so sánh với diễn biến đã sảy ra trong nhà đó phù hợp với tinh bàn nào thì dùng tinh bàn của hướng đó.
Đo hướng nhà thì đơn giản hơn nhận định hướng, chỉ cần chọn một vách nhà song song với hướng của nhà, sau đó căng một sợi giây song song với vách đó và chạy ra khỏi nhà khoản 2-3 mét . Để la bàn song song với sợi giây đó và xem bao nhiêu độ . Nếu có khả năng canh bằng mắt thì không cần dùng giây . Trong một vài trường hợp không có vách nào song song với hướng nhà thì chọn một vách vuông gốc với hướng nhà mà đo, sau đó cộng hoặc trừ 90 độ thì sẻ được hướng nhà
Tại sao phải làm như dưới đây ? Tại gì đó là một cách đo chính xác nhất mà không cần phải có nhiều kinh nghiệm. Có người thì đứng giửa nhà hay trước cửa nhìn ra hoặc đứng trước nhà nhìn vào v.v. Những cách này không thể chính xác được . Tại sao ? đó là gì la bàn không có điểm tựa, và người đứng không có điểm tựa, nhích một chút là đã sai lệch thấp nhất củng 1 độ. Sai lệch 1 độ là rất lớn có thể dẩn tới kết quả đảo ngược . Tại sao? đó là gì khi phân kim ta phân 24 sơn ra 60 long rồi có người lại phân ra 384 quẻ như vậy 0.5 độ đã có thể từ quẻ này sang quẻ khác rồi đừng nói gì tới 1 độ Dụng cụ để đo hướng nhà là la bàn (dụng cụ chuyên nghiệp là La kinh) This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1024x768 and weights 184KB.
Âm Trạch Và Sự Hưng Suy Của Con Cháu Chết rồi mai táng, Chân Khí của người ta hội với Huyệt Khí tạo thành Sinh Khí, thông qua Âm Dương giao lưu hình thành đường lối, ảnh hưởng trong sâu thẳm, lảng vảng xung quanh vận khí của người thân. Hai Khí Âm Dương sóng đôi, thở ra tạo thành gió, bay lên tạo thành mây, rơi xuống mà thành mưa móc, chảy trên mặt đất mà thành Sinh Khí. Sinh Khí đi trên mặt đất, khi sinh phát thì nuôi dưỡng vạn vật. Con người là do tinh cha huyết mẹ kết lại mà thành, cho nên bản thân mình là tinh hoa của hai khí Âm Dương. Mỗi người khi sống là hai khí Âm Dương hoạt đông nơi toàn thân, khi mất rồi thịt da tiêu hết, hai khí Âm Dương không hề tiêu mất. Ấy bám trên người, Khí tụ nơi xương, xương người quá vãng không mất, cho nên khí của họ vẫn hoạt động. Khi hạ táng, cần nhất tìm nơi âm trạch có Sinh Khí, làm cho Sinh Khí kết hợp với hai Khí Âm Dương tồn lưu trong cốt, bảo hộ cho thân nhân đang sống. Kinh Thư nói: “Người mất rồi có Khí, Khí có thể cảm ứng, ảnh hưởng đến mọi người.” thế nên sự cảm ứng giữa người sống và người đã khuất là có căn cứ thực sự. Ví như vào đời nhà Hán, quả chuông đồng ở cung Vị Ương kêu thành tiếng, thì núi chỗ đã khai thác đồng để đúc chuông nơi miền tây bị sụp đổ, chính là sự cảm ứng vậy. Lại như vào tiết trời xuân, cây cối bên ngoài đâm chồi khai hoa, thì các hạt lúa mạch để trong nhà cũng nảy mầm. Khí đi trên mặt đất, khi nó vận hành, tùy theo địa thế mà chạy; Khi tụ tập lại, cũng theo địa thế mà dừng chân. Cốt đá nơi núi non thung lũng, sống đất đột khởi nơi bình địa, đều là có Khí vận hành nơi đó. Kinh Thư nói: "Khí có gió thổi mà tản mát, gặp chỗ thủy dừng thì đứng tụ. Người xưa làm cho Khí dừng laị mà không để thất tán, dùng giới thủy hạn chế để cho nó không di chuyển đi mất, cái đó gọi là Phong Thủy." Phép tắc Phong thủy, được nước hàng đầu, có thể tích chứa gió là thứ hai. Tại sao lại nói vậy ? Bởi vì khi nó dừng lại thì lợi ích thịnh đạt lớn, nên đem khí tản mát các nơi mà tụ tập một chỗ. Kinh Thư nói: “Thủy chảy trên mặt đất, gọi là Ngoại Khí.” Ngoại Khí dọc ngang là Giới Thủy, Nội Khí trong đất tự nhiên cũng theo đó mà dừng, nói dừng là ở ý này. Kinh Thư lại nói: Cạn sâu được thừa, Phong Thủy tự thành. Đất là mẹ của Sinh Khí, có đất rồi mới có Khí. Khí là mẹ của Thủy, có Khí rồi mới có Thủy. Cho nên chôn tại nơi khô ráo nóng cạn Khí cần nông, chôn tại nơi đất bằng Khí cần sâu.
Mar 21 2010, 05:49 PM Cuối năm 2009 , gia đình một bà chị họ của em tiến hành bốc mộ cho mẹ đẻ , vì từ khi bà cụ mất đến hôm tiến hành bốc mộ đã được hơn 5 năm ( 5 năm 8 tháng ) , lúc cụ mất ,trong thể trạng thân hình hơi béo . đêm hôm bốc mộ thì xảy ra một hiện tượng như sau : sau khi mở nắp quan tài thì thấy xung quanh mặt xuống đến thắt lưng có những chất dính kết với nhau chất này màu trắng đục bết lai thành một khối như người ta bó bột vậy , còn từ thắt lưng trở xuống thì tiêu hết không có gì , thấy vậy nhưng người được thuê đào huyệt tỏ vẻ sợ sệt không ai dám làm tiếp và nói "đây là trường hợp đầu tiên mà chúng tôi gặp" , sau đó
họ hỏi ý kiến người nhà xem có nên tiếp tục tiến hành bốc mộ nữa không? mọi người sau khi bàn bạc đã nhất trí là vẫn tiến hành bốc tiếp . trong khi tiến hành tiếp tục bốc và làm sạch hài cốt thì chỉ làm sạch được từ vai trở xuống còn riêng về khuôn mặt thì không thể làm sạch được vì những chất kia bết lại và dính chặt xung quanh mặt như đắp chõ xôi vào vậy . theo như lời nói của những người được thuê bốc thì họ không dám làm sạch vì nếu muốn làm sạch, phải dùng dao nạo hết đi , như vậy sẽ ảnh hưởng đến xương sọ . Gần 20 ngày sau khi bốc mộ thì người anh cả đang mạnh khỏe tự nhiên ốm rất nặng , còn con trai út của anh thì bị tai nạn xe máy , cho đến nay anh không thể dậy được nữa . Hiện tượng như kể trên liệu có phải là mộ kết bị lộ thiên cơ hay không? và nếu đúng là mộ kết bị lộ thiên cơ thì có cách nào hóa giải được phần nào tai họa không? Kính mong các cao nhân chỉ dạy . Xin chân thành cảm ơn ! NGÔI MỘ KẾT BỊ LỘ THIÊN CƠ KyNiem 21-04-06, 02:19 AM NGÔI MỘ KẾT BỊ LỘ THIÊN CƠ Nguyễn Viết Trường Có lẽ trong chúng ta,một lần trong đời thế nào cũng có nghe nói đến “Mộ Kết”,nhưng vì sao mà có?thì đa phần mọi người đều không rành hoặc hiểu chưa thuần nhất … Thông thường chúng ta thấy ngôi mộ nào do “Mối” xông lên,mỗi ngày đất đắp mộ một lớn ra,thì gọi là mộ kết, và thân nhân của ngôi mộ đó chắc chắn sẽ được hồng phúc… giàu sang ,phú quý v.v… Trước năm 1975,trong khu nghiã trang Mặc đĩnh Chi,tại Sài gòn, chúng ta thấy cũng có vài ngôi mộ như vậy!nhưng… nếu mộ bị xây bao phủ bằng xi măng kiên cố,mộ không có Mối xông! thì… thật khó mà có thể luận định? Trong phạm vi bài viết này,xin cho phép Tôi được lạm bàn về : Ngôi mộ bà Nội của Tôi cũng đã được gọi là Mộ Kết, nhưng lại bị “lộ thiên cơ”! Kết là gì? ảnh hưởng ra sao?khi bị “lộ thiên cơ” thì hậu quả sẽ ra như thế nào?Xin mời mọi người cùng đọc tiếp …. Vào đầu thập niên 40,gia đình Họ Hàng của Tôi sống ở Nam Định, ngôi nhà số 41 phố Hàng Sắt là nơi Ông Nội Tôi thường trú,nhà có 03 tầng lầu , to rộng và dài, dưới bán
hàng sắt,và một vài thứ khác , trên để ở,ngoài chỗ để ở ra còn có chỗ thờ Quan Công,Lưu Bị ,Ngũ Hổ,chỗ thờ Gia Tiên , rất khang trang và uy nghi ở tầng thứ hai…và đặc biệt hơn hết là phòng đọc sách của Ông Nội Tôi,chứa đựng rất nhiều sách hiếm quý, mà từ ngày Bà Nội mất đi, ông Nội Tôi thường hay dành nhiều thời giờ ở trong đó… Hơn 03 năm sau ngày Bà Nội Tôi mất, gia đình Bác T….của Tôi có chuyện buồn, Bác T…. gái bị bệnh lao phổi, mỗi ngày một kiệt quệ thấy rõ,chữa thuốc Tây rồi lại thuốc ta mà nào có thấy hiệu quả? Bác T…. trai tuy là người theo Tây học nhưng đến lúc rối trí cũng đành tin vào lời thầy bói? Vào thời điểm này sự mê tín dị đoan vẫn còn ảnh hưởng lớn trong dân gian, vì vậy việc tin tưởng vào bói toán vẫn còn có “cái lý của nó”! Theo như lời của thày bói thì: “ Sở dĩ bác T…. gái cứ đau hoài không khỏi, lý do là:ngôi mộ của Bà Nội Tôi bị động, cần phải bốc mộ,cho mát mẻ,con cháu mới khoẻ mạnh, ăn nên làm ra,công danh phát triển???” Thông thường thì một người mất đi,sau 03 năm thân nhân có thể bốc mộ, do đó việc bốc mộ của Bà Nội Tôi sau 03 năm thì cũng hợp lý thôi, tuy nhiên khi Bác T…. trai xin bốc mộ thì ông Nội Tôi không mấy đồng ý, thấy khó có thể lay chuyển ngay được ông Nội Tôi,Bác T…. trai nghĩ ra một cách là cầu cứu tới anh chị em trong gia đình,hy vọng mọi người đồng ý thì ông Nội Tôi cũng sẽ siêu lòng? Ông nội Tôi có 05 người con trai và 03 người con gái,nhưng người con Cả mất sớm (khi chết còn là “Trai Tân”), nên rất “Linh”thỉnh thoảng đôi lúc hay “nhập”vào bác S…. để báo cho mọi người biết những gì sẽ xảy ra để biết mà tránh hay nên làm, Mọi người trong gia đình chỉ cần nhờ bác S…. thắp nhang, khấn, là bác Cả Tôi sẽ hiện về và nhập vào Bác S…. để nói chuyện cùng mọi người, nghe nói thì chẳng mấy ai tin, nhưng đó lại là chuyện có thật100%. Trong thế giới Khoa Học này, có những chuyện huyền bí cho đến nay chưa có ai giải thích chính xác được ,bởi chuyện này xảy ra có thật ,trước mắt, nên đại gia đình nhà Tôi không ai phủ nhận!ngay chính Ba Tôi là người theo Tây Học ,chẳng tin vào nhửng chuyện ma quỷ, đồng bóng v.v…cũng phải đồng ý là có thật!vì khi chuyện xảy ra có Ba Tôi ở đó!!! Anh em trong gia đình tuy mỗi người mỗi nơi,nhưng khi nhận được thông tin KHẨN của bác T…. trai của Tôi thì tất cả đều thu xếp việc nhà, để về nhà ông Nội Tôi,hầu họp mặt gia đình… Trước khi mọi người “mời” bác Cả Tôi “về”, thì bác S…. nằm ngủ mơ thấy: một người bằng Vàng!!! nhưng nói lại cho mọi người hay thì vì đang rối bời câu chuyện, nên không được chú ý !
Khi mọi người hiện diện đầy đủ tại nhà ông Nội Tôi,tối đến ,mọi người đề nghị hãy “thỉnh” bác Cả Tôi về để xin ý kiến, dĩ nhiên Bác S….là người đại diện anh em trong gia đình,thắp nhang khấn bác Cả về… Mọi người ngồi xung quanh bác S…. chờ đợi,chẳng bao lâu bác Cả Tôi hiện về,nhập vào bác S…. giống như mọi lần trước,có một điều lạ là mỗi khi bác Cả nhập vào bác S…. thì giọng nói nghe đúng là giọng của bác Cả!? Thoạt tiên bác Cả nói với bác Nh…. là : · Chú Nh…. hãy vào dưới cầu thang đuổi con nhỏ người làm đi chỗ khác,nó đang núp ở đó để tò mò muốn nghe lén,chuyện gia đình không nên cho người lạ hay biết? Bác Nh…. đến dưới cầu thang,thì quả thật con bé người làm đang xanh máu mặt núp trong đó!!! Tiếp nối Bác Cả Tôi nói với Ba Tôi : * Chú Tr….,chú có học võ, khoẻ mạnh hơn mọi người hãy thử “Kéo tay”với Anh xem sao? Ba Tôi vâng lời kéo tay với bác S…. tôi thì bị bác S…. thắng một cách rất dễ dàng và nhẹ nhàng…mọi người lúc đó tin chắc bác Cả Tôi đã “nhập” vào bác S…. rồi! Qua trò chuyện giữa người Âm và người Dương,thì Bác Cả Tôi góp ý : · Cái gì Trời cho , thì ráng mà giữ lấy, · Mộ của Mẹ quý lắm!? Sau đó Bác Cả Tôi “Thăng”, mọi người cũng phân vân lắm, ông Nội Tôi nằm trong phòng tuy nghe hết nhưng không ra, và cũng chẳng góp ý gì , ông Tôi là người nhân từ, quảng đại,thương con,quý cháu,mỗi lời nói đều cân nhắc kỹ càng, sự im lặng của Ông Nội Tôi cũng ngầm tỏ ý : “Các con muốn làm gì thì làm, nhưng Bố thì chẳng muốn bốc mộ, Bố cũng đành tôn trọng quyết định của các con thôi!miễn là các con đồng lòng?” Bác T…. Tôi cố gắng thuyết phục mọi người, nên cuối cùng thì đã được toại ý. Và thế là công việc bốc mộ Bà Nội Tôi được tiến hành sau đó…………… Phái đoàn tham dự,ngoài tất cả anh em trong gia đình còn có sự hiện diện của ông Nội Tôi nữa ,ông lặng lẽ đi theo mọi người,nét mặt đăm chiêu,im lặng, ông như chỉ muốn là một chứng nhân đối với việc làm thuận ý, đồng lòng của các con !?...... Sau khi cúng vái xong xuôi, theo lệnh của thày cúng , gia đình cho người cắt cổ con gà , máu gà được vảy để trừ tà ma,khi nhang tàn thì những người phu bốc mộ bắt đầu làm việc…chính ra trước khi mở nắp quan tài, thày phải thắp một cây nến (đèn cày)trên nắp quan tài, rồi *****c một lỗ nhỏ sát cạnh , nếu hơi trong quan tài thoát ra làm tắt ngọn nến,thì không được tiếp tục nữa,còn nếu *****c xong mà nến vẫn cháy thì mới cho bốc mộ?Một phần dị đoan,một phần cũng do kinh nghiệm truyền khẩu mà tương truyền như
thế. Nắp quan tài đang được mở ra, thì từ đằng xa mọi người thấy người giữ nghĩa trang đang hối hả chạy đến,vừa chạy tới vừa la lên: · Ngưng…Ngưng …đừng mở ??? Nhưng, nắp đã được mở ngay khi người giữ nghĩa trang chạy vừa tới sát bên mộ Bà Nội Tôi, ông ta vừa nhìn xuống quan tài vừa hốt hoảng nói lớn tiếng: · Mộ kết mà sao lại cho phép mở ? Thày cúng chắc cũng hiểu được sự tắc trách của mình, xanh máu mặt ,gượng gạo nói như phân bua: · Trời lạnh quá,mọi người lại hối thúc,nên Tôi phải làm nhanh,cướp giai đoạn, đâu ngờ lại xảy ra như vậy! Mọi người chồm sát tới mộ bà Nội Tôi,thì thấy phía nắp trong của quan tài kết bằng những sợi như sáp, trông như mạng nhện, những khớp xương của Bà Nội Tôi,có những lớp trông như sáp bao quanh, toàn bộ xương người còn nguyên vẹn,một lớp như thạch (sương sa) bao phủ………. Trong bàng hoàng của mọi người, bàc T…. trai, ngồi phệt xuống đất, đôi mắt vốn dĩ đã thiếu ngủ lâu ngày, mất ít nhiều sự tinh anh, nay mở trao tráo nhìn xuống mộ mẹ mình…nỗi đau đớn,hối hận,kinh hãi của Bác lúc bấy giờ, làm sao ai trong anh em có thể đo lường chính xác??? Ông Tôi sau khi quan sát tình hình,thật chậm rãi và khoan dung, nói vừa đủ cho các con nghe : · Cho tiếp tục thôi…. Ông không phê bình,không quy trách nhiệm cho một ai, trong những giây phút khó xử nhất như thế này, mới thấy sự bao dung ,sự độ lượng cao cả của Ông Tôi…. Và thế là, những người phu tiếp tục làm việc trong sự lo âu tột độ của thày cúng!!! chẳng biết mọi người sẽ đối xử với mình ra sao? Nhưng nói cho cùng,sự thể đã rồi, chẳng ai quan tâm phiền trách đến ông thày cúng làm gì … Bởi những chỗ tiếp nối của xương đã dính chặt vào nhau bằng một chất như sáp ong,nên thật khó khăn cho các người phu làm việc tháo rửa , Sau khi toàn bộ hài cốt, được gỡ ra và rửa bằng rượu trắng,rồi cho vào một cái hũ bằng sành,có “Khằng” cẩn thận để chôn lại,Mọi người lặng lẽ ra vể….
Trời buổi sáng miền Bắc hôm đó,lạnh giá, mù sương, khung cảnh thật buồn và ảo não làm sao,có ai hay chăng ngày đó chính là ngày thê lương nhất của ông Nội Tôi và các con cháu của ông? Một sự mất mát không thể bù đắp được,một mốc thời gian cho những ngày bất hạnh tiếp nối trong gia đình…. Trở về nhà,mọi người vô cùng bối rối, Bác S…đề nghị hãy “mời” Bác Cả về thỉnh ý xem sao?mọi người đồng ý liền, Khi Bác Cả về, “nhập” vào Bác S…và nói: · Anh đã nói mà sao không nghe?chuyện đến nước này quả là rất nghiêm trọng, Mộ của Mẹ Kết như vậy là “Kết Tam Đại” có nghĩa ba đời được hiển vinh, con cháu có người làm tới Tứ Trụ Triều Đình,nhưng nay “Bị lộ Thiên Cơ”, con cháu chắc chắn bị khốn đốn vô cùng, có thể có người không có cái gáo dừa mà ăn cơm! Anh sẽ cố gắng tháo gỡ,tuy sẽ không đến nỗi như thường tình,nhưng sẽ có những bất ngờ xảy đến,lành dữ tới đâu tùy vào “Cái đức cũa nhà mình”? Anh nay sống ở trên Trời,cúng Anh thì cúng với trái cây,chứ đừng cúng bằng đồ mặn!... Nhớ phải tu thân tích đức,mọi chuyện mới hạnh thông. Mọi người nghe nói vậy cũng vơi đi nỗi kinh hoàng, đến lúc đó ai cũng tiếc là không nghe lời Bác Cả, không quan tâm đến những gì Bác S…kể về giấc mộng của Bác!và nhất là vì thương hoàn cảnh của gia đình Bác T….mà bỏ qua những hành động ngăn cản của Ông Tôi!!! …………………………………………�� �…………………………. Thời gian sau đó ….Khởi đầu là Bác T….gái mất, chị Ch…con của Bác T….cũng mất tiếp theo, Me Tôi qua đời sau khi sanh ra Tôi được 11 tháng, Anh chị em trong gia đình bị phân tán, liên hệ ruột thịt cũng ảnh hưởng xấu đi nhiều,Mỗi gia đình đều có những chuyện đau lòng, lộn xộn, nhưng cuộc sống bết bát nhất vẫn còn cơm ngày ba bữa mà ăn,có lẽ Bác Cả Tôi đã tận tình giúp đỡ,nên Qua đời Ông Tôi , đời Ba Tôi, đời chúng Tôi,nay đời con cháu chúng Tôi không còn bị ảnh hưởng nữa, Bọn trẻ gia đình nào cũng học hành giỏi dáng, cần cù làm ăn,và có một tương lai rực sáng… Trong thời loạn lạc,di cư, Ông Tôi đã cùng sống với gia đình của Ba Tôi, Ông Tôi nhân từ lắm,sống giản đơn và luôn hòa mình cùng mọi người trong gia đình, Ông dạy chúng Tôi rất nhiều về cách sống sao cho đáng sống,có một câu Tôi còn nhớ Ông dạy: “Ông Trời sanh ra con người,cho con người hai cái mắt để nhìn mọi sự,cho con người hai cái tai để mà lắng nghe học hỏi,cho con người hai lỗ mũi để mà biết mùi vị trên đời,nhưng….chỉ cho con người một cái Mồm để diễn tả cảm nghĩ,do đó hãy: nhìn nhiều,nghe nhiều, ngửi nhiều, nhưng hãy nói ít, làm được như vậy mới xứng đáng làm
NGƯỜI” Khi hồi cư về Hải Phòng thì Ông Tôi sống với gia đình Bác T….Tôi và mất sau đó, Xuốt thời gian sau cho đến lúc qua đời, mọi người không bao giờ thấy ông Tôi trách cứ con cái về sự vụ việc Bốc Mộ cả, nếu ông có nói gì về chuyện này,chỉ là có tính cách kể lại chuyện mà thôi Và Tôi,nay tường trình lại câu chuyện này, theo sự góp nhặt những chi tiết nơi Ba Tôi, và một vài người uy tín trong dòng họ, Bởi đây là một chuyện có thật, những tình tiết viết trong đây không là hư cấu vì trọng tâm của Tôi chỉ muốn ghi lại cho con cháu đời sau được rõ,và những đọc gỉả được hiểu thêm về một câu chuyện thật,mang tính huyền bí,đã xảy ra trong giai đoạn lịch sử của một dòng họ, câu chuyện bao quanh chủ đề : NGÔI MỘ KẾT nhưng lại BỊ LỘ THIÊN CƠ. Cali.03/14/2006 Nguyễn Viết Trường