Phong thủy luận

Page 1

PHONG THỦY LUẬN - Điện Bà Tây Ninh http://trantuliem.blogspot.com/2014/02/phong-thuy-luan.html PHONG THỦY LUẬN - Điện Bà Tây Ninh Mình đang tìm hiểu về các bài viết về Phong Thủy của Điện Bà Tây Ninh. Xin phép tác giả đƣợc sao chép lại 38 bài viết Phong Thủy Luận của tác giả.

Phong Thủy Luận

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT PHONG THỦY LUẬN Tác giả: Điện Bà Tây Ninh

1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38

Phong Thủy Luận - Bài 1 PHONG THỦY LUẬN A/ Thân

gửi

PHẦN các

bạn

MỞ trên Diễn

ĐẦU đàn

Phong

; thủy.


Từ trƣớc tới nay,phần lý thuyết Phong thủy đƣợc viết rất nhiều,hằng hà sa số cuốn sách đã đƣợc in hoặc lƣu truyền trong dân gian.Tuy viết rất nhiều,nhƣng vấn đề lý thuyết của bộ môn Phong thủy,vì không đƣợc dựa trên một căn bản Lý thuyết thống nhất và triệt để nên tùy theo điều kiện cụ thể mà phát triển ra rất nhiều Môn phái Phong thủy,có lý luận và cách thực hiện nhiều khi trái ngƣợc lẫn nhau,khiến ngƣời đời sau không làm sao hiểu đƣợc và tính chất Thần bí cứ dần dần xen vào và từ đó Thuật Phong thủy trở nên một cái gì đó Huyền bí,khó hiểu và đƣợc coi là Mê tín dị đoan. Việc tìm lại cội nguồn Lý thuyết của bộ môn Phong thủy nói riêng và Lý thuyết của Dịch lý Đông phƣơng nói chung,là một vấn đề rất thiết yếu.Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian nghiên cứu,sƣu tầm,nhận định ,tập hợp và sắp xếp lại.dienbatn không dám có tham vọng làm việc đó,chỉ xin làm viên đá nhỏ lót đƣờng cho sự nghiên cứu của các bạn.Nếu thành công thì thành quả đó xin tặng lại các bạn ,hoặc nếu chẳng đi đến đâu cả thì âu cũng là số Trời,và những gì có đƣợc xin các bạn cứ dùng làm tƣ liệu để tiếp tục những bƣớc sau này.Mọi việc đều phải có sự khởi đầu và nhƣ ngƣời xƣa nói :"VẠN SỰ KHỞI ĐẦU NAN ".Trong bài viết này dienbatn xin đƣợc công bố,những bài viết,những ý tƣởng của một số Cao nhân ẩn danh,không muốn xuất hiện. Đúng hay sai còn phụ thuộc nhiều yếu tố, song dienbatn xin kính cẩn cảm ơn các vị Tiền bối đã chỉ giáo. dienbatn chỉ là ngƣời trích dẫn,sắp xếp lại cho thứ tự và mạch lạc hơn,ngoài ra do sự kém cỏi thô lậu, không có ý tƣởng gì hay nên xin các bạn cũng đừng chấp.Nào ,bây giờ chúng ta bắt đầu khởi hành. 1/LỜI NÓI ĐẦU :Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở ngƣời,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân. THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh. ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa. NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần. Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động. THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lƣu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định. ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lƣu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dƣỡng vạn vật. NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tƣơi nhuận thì Thần mới minh. Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngƣng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt. Một Cảnh giới hài hòa tạo đƣợc sự an lạc,hạnh phúc cho mọi ngƣời tức là cả ba thành phần phải tốt tƣơng ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ƣớc muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỷ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc. NHÂN

THỂ

MỘT

TIỂU

TRỤ.

Trƣớc khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sƣ phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con ngƣời có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc nhƣ Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt đƣợc đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hƣởng thăng hoa vật chất và nhân thể. Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hƣởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nƣớc,âm,dƣơng trạch thì ảnh hƣởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sƣ phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng. Tâm năng của con ngƣời gần nhƣ bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ nhƣ: -Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nƣớc. -Thần giao cách cảm.Tƣơng tác giữa ngƣời này và ngƣời kia. -Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị. -Hóa giải theo ý muốn. -Biết đƣợc Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ. -Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu...


-Trị liệu bằng Trƣờng Sinh học. Ngày xƣa ở Trung quốc,Việt nam và các nƣớc Chấu Á đều có Kỷ thuật xây dựng,kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍSỐ. 1/KHÍ :là Năng lƣợng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nƣớc,con ngƣời.. 2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm ba nguyên tắc : a/Trời chƣởng quản Địa,Nhân. b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con ngƣời,nên phải biết vận dụng ảnh hƣởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống. c/Vận mạng ,hạnh phúc của ngƣời sống tùy thuộc ảnh hƣởng của ngƣời chết,tức là Âm trạch.Do vậy ngƣời xƣa có câu :"Ngƣời sống thì xem cái nhà ,ngƣời chết thì xem cái mồ ". 3/SỐ :Là những tƣợng số của Dịch lý(Nghi,Tƣợng,Quái,Hào). 4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nƣớc,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hƣởng tốt đến mạch khí. Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu tố đƣợc xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hƣởng đến hoạt động của Trƣờng Sinh học con ngƣời,nếu hai lực này tƣơng phản thì đem lại kết quả xấu cho con ngƣời trong cuộc đất này hay Dƣơng trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng tử thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con ngƣời sẽ tốt,sức khỏe dồi dào,kinh tế phát triển lên mãi. Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dƣơng-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xƣa đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định. PHONG THỦY. Phong : Là Gió. Thủy :Là nƣớc. Hỏa :Là Lửa. Là tinh túy của Đất,sự lƣu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tƣơng ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tƣơng ứng với nó;Nhân vận động ở dƣới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Nhƣ vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dƣơng là Đạo (Nhất âm nhất dƣơng chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thƣ hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dƣơng hay thuần Dƣơng,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm. Sách "CHÍNH QUYẾT CHƢƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lƣơng Sơn,Từ Lã Lƣơng Sơn hƣớng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phƣơng Tây chẩy qua phƣơng Nam,rồi từ Nam chuyển hƣớng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân nhƣ vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phƣơng Nam là Trƣờng giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;nhƣ vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xƣa là của Việt tộc ).Nhƣng rồi Thiên vận hƣớng Can Long xuôi theo về hƣớng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dƣ thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nƣớc ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa". Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xƣa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc. TÍCH

ĐỨC

HÀNH

THIỆN

LẬP

ÂM

CHẤT.

Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ". Ngƣời ngƣời đều muốn có đƣợc một Địa trạch tốt tƣơi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy


đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có ngƣời đức hạnh cao thƣợng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con ngƣời làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sƣ không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long đƣợc Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm. Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc đƣợc Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sƣ phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thƣợng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hƣởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lƣơng thì tƣơng ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tƣởng rằng tầm đƣợc Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ đƣợc hƣởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu nhƣ các Phong Thủy Sƣ họ tài giỏi nhƣ thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vƣơng,Công Hầu,Khanh tƣớng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ? Ví nhƣ Phong Thủy Sƣ Cao Biền thời Thịnh Đƣờng đƣợc Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nƣớc ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vƣơng rất nhiều nên sai ngƣời đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xƣng Vƣơng.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nƣớc Việt chúng ta,nên thƣờng cƣỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hƣ hại rất nhiều Long mạch.Nhƣng ý ngƣời muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp ngƣời xƣa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc. HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhƣng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con ngƣời.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ". Khi táng di hài Tổ tiên,chắc ngƣời ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,ngƣời tại tiền phải nỗ lực tu dƣỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngƣợc,làm tổn hại đến con cháu đời sau. Nếu nhƣ có Nhân,tất phải có Quả;nhƣng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng nhƣ ngày xƣa có ngƣời chết đƣợc Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vƣơng,Công hầu.Trƣờng hợp nhƣ thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát đƣợc 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập đƣợc Nhân -Quả,đƣợc Trời -Đất cho hƣởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới đƣợc. Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phƣớc cho ai không có nhân duyên mà đƣợc Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hƣởng đến cát hung,nhƣng Âm đức của con ngƣời có thể cải biến đƣợc Vận -Mạng.Đến nhƣ các bậc Tiền bối Phong thủy nhƣ Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhƣng khi gặp Huyệt Đế Vƣơng cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhƣng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của ngƣời xƣa dạy quả không sai. 2/

PHẦN

TẦM

LONG

-CẮM

HUYỆT

:

Phong Thủy Sƣ quan sát Thiên văn,xem tinh tú trên trời.Sao Tử vi ở phƣơng Bắc;Sao Thiên thị ở phƣơng Đông;Sao Thiếu vi ở phƣơng Nam;Sao Thái vi ở phƣơng Tây,nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phƣơng.Lấy tứ chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dƣơng Long,và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ).Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó,thấy cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa ,dị thảo thì phải biết đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ vệ sơn chạy đến đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này,xem cục thế lớn,nhỏ,tốt xấu.Sau cùng quan sát xem tính tình,ăn ở của dân địa phƣơng nơi đây thì ta mới nhận biết đƣợc đó là Chân Long hay giả Long. Kinh Thƣ có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dƣới đất luôn tƣơng hỗ với nhau,Phong thủy Bảo địa


tự nhiên sẽ thành...Dƣơng đức sẽ hình thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cƣ xử thiện hạnh của ta ".Tóm lại thuật Sƣ Phong thủy phải tiến hành tính toán,nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ. MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 loại :SINH LONG,PHÖC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG,UỔNG LONG,SÁT LONG,QUỴ LONG,KIẾP LONG,DU LONG,BỆNH LONG,TUYỆT LONG,TỬ LONG.Các tên này nhằm chỉ vào sự tán tụ của chân Khí mà gọi.SINH LONG,PHÖC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG là bốn loại Chân Khí hội tụ,còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình thể của Long ngắn,gấp khúc ít lần đi lên,xuống hoặc đi lên mà không đi xuống,xuống mà không lên,cho nên nó làm cho mạch Khí thế đi xuống.Còn tụ Chân Khí thì trải dài ,lên xuống theo hình thể nhiều lần. Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch,theo đƣờng hƣớng mà đi xuống,đoạn ẩn ,doạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó là SINH LONG. Loại có thêm hoành án hai bên nhƣ có cánh dơi thì gọi là PHÖC LONG. Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên,ôm vòng trở lại thì gọi là ỨNG LONG. Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần,khí trùng điệp,hình dáng giao đầu lẫn nhau gọi là ẤP LONG. Long mạch hình thế hiểm ác,gấp rút,trùng điệp,nhƣng không đối xứng chỉnh tề gọi là UỔNG LONG. Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG. Loại phân chi,chia cắt mạch gọi là QUỴ LONG. Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG. Loại mà Khí lƣu ly,tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG. Mạch Khí không lên,xuống,không chuyển động gọi là BỆNH LONG. Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG. Mạch nằm riêng biệt không hộ,giáp,triền và không có Khí lực gọi là TUYỆT LONG. Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì tác động cho những âm phần táng trong cuộc đất nhƣ : SINH LONG thì con cháu ðƣợc hƣởng Phúc ,Thọ.PHÖC LONG thì con cháu Phú quý.ỨNG LONG thì con cháu giầu có,hiếu thuận.ẤP LONG thì con cháu Lễ ðộ ,nhƣờng nhịn,thuận hòa. SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai họa,chết chóc.QUỴ LONG và BỆNH LONG thì con cháu bị bệnh tật,không an cƣ,nghèo khổ.DU LONG thì con cháu hoang đàng,dâm loạn.TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử thƣơng,tuyệt tự,không có ngƣời nối dõi Tông đƣờng. 12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần,quan hệ đến ngƣời còn tại tiền,nên vì thế khi mai táng cho ngƣời chết,không thể không lựa chọn đất cắm Huyệt. Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 thế núi căn cứ vào hình dáng,tƣ thế mà chia ra làm 9 RỒNG : 1/XUẤT DƢƠNG LONG. 2/SINH LONG. 3/GIÁNG LONG. 4/PHI LONG. 5/HỒI LONG. 6/NGỌA LONG. 7/ẨN LONG. 8/ÐẰNG LONG. 9/LĨNH QUẦN LONG. Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dƣơng,lý Phân ly,hội hợp của tụ và tán. Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao,vƣợt lên,hƣớng đi của Ðịa mạch hoạt bát nhƣ Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.Ðịa mạch xuất hiện ở giữa,xung quanh có Sa trƣớng trùng trùng.Sa trƣớng của nó có gần có xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lƣng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế cử đỉnh,có chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn,khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc ,thì Ðịa mạch lại tựa nhƣ hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tƣơng ứng với Tinh thần,tựa hồ nhƣ sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ,muôn hình vạn trạng.Minh đƣờng rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn lƣợn xung quanh,bốn phƣơng tám hƣớng không có nơi nào


bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này,khí Âm Dƣơng phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên nhƣ hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dƣới hợp lại,Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỵ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội.Nơi đƣợc nhƣ vậy đƣợc xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy." Trong phần trên chúng ta đã phân tích mối quan hệ giữa tam tài THIÊN -ÐỊA -NHÂN ,mối quan hệ giữa Long mạch,Huyệt vị....vv.Từ ðây chúng ta lần lƣợt xem xét đến hai nhánh chính của Phong thủy là ÂM TRẠCH VÀ DƢƠNG TRẠCH. Phần ÂM TRẠCH rất phức tạp và còn nhiều rối rắm,dienbatn sẽ viết ở phần sau.Bây giờ chúng ta đi vào địa hạt thứ nhất của Phong thủy là DƢƠNG TRẠCH -Tức là nơi sinh sống của ngƣời tại tiền.Theo định nghĩa : Dƣơng trạch là nơi sinh sống của ngƣời tại tiền (đang sống ),nó không chỉ bao gồm nhà cửa,cơ sở làm ăn,buôn bán mà xét rộng ra nó còn bao gồm cả các Thành phố,Tỉnh lỳ.... Trong thuật Phong thủy hiện nay,có rất nhiều Trƣờng phái,đang bàn cãi lung tung cả và ai cũng cho rằng Trƣờng phái của mình là đúng nhất.Tạm thời ngƣời ta có thể chia ra các Trƣờng phái chính nhƣ sau : 1/PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH -Hiện nay do Thái Kim Oanh đang chủ xƣớng. 2/PHÁI DƢƠNG TRẠCH TAM YẾU (Còn đi theo nó là Dƣơng cơ chứng giải ) của Triệu Cửu Phong chủ xƣớng. 3/PHÁI HUYỀN KHÔNG HỌC . 4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY. 5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. Ngoài ra còn có rất nhiều trƣờng phái khác ,nhƣng dienbatn chỉ xét đến những Trƣờng phái nổi bật nhất hiện nay. Bây giờ ngƣời viết xin đi vào chi tiết cụ thể từng môn phái một.Tất nhiên chỉ có thể nêu những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất,sau cùng xin chia sẻ với các bạn một số kiến thức Phong thủy còn chƣa đƣợc phổ biến rộng nhƣ PHONG THỦY LẠC VIỆT,CẢM XẠ PHONG THUỴ VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. PHẦN

1

:

NHỮNG

KHÁI

NIỆM

BẢN.

Trƣớc hết chúng ta phải bắt đầu từ những khái niệm cho về sau khỏi cần phải tranh luận về vấn đề này. 1/TRẠCH :Là một cuộc đất,có ranh giới hoặc không ,đƣợc sử dụng vào công việc chôn cất, làm mồ mả,nhà mồ hay xây cất nhà cửa ,Làng mạc,Thành phố..Cũng có một số ngƣời coi Trạch là dải đất,giống nhƣ con lƣơn trên đê.Riêng ngƣời viết chỉ quan niệm đơn giản Trạch là một cuộc đất,vùng đất.Trong Trạch lại đƣợc chia ra làm Âm Trạch và Dƣơng Trạch. 2/ÂM TRẠCH :Là cuộc đất dùng để chôn ngƣời chết , còn gọi là Mồ mả.Phong Thủy cho rằng,nếu ngƣời chết đƣợc chôn vào một cuộc đất tốt về Phong thủy thì sẽ truyền đƣợc Phúc ðức cho con cháu đời sau. 3/DƢƠNG TRẠCH :Là cuộc đất đƣợc dùng vào mục đích làm nhà cửa,Ðình ,Chùa,Miếu mạo,Thôn xóm,làng mạc,Thị trấn,Thành phố.Dƣơng trạch phải hài hòa với Thiên nhiên,có môi trƣờng tốt đẹp,làm cho con ngƣời thấy vui tƣơi ,mạnh khỏe,hạnh phúc.Dƣơng trạch tốt tức là môi trƣờng tốt. 4/LONG MẠCH :Mạch là nguồn gốc,là đƣờng dẫn máu đi nuôi cơ thể ngƣời ta;Long là con Rồng. Nhƣng trong Phong thủy,ngƣời ta gọi Long mạch là những dải Núi,dải đất, Dòng sông,dòng nƣớc chảy,nhấp nhô,uốn khúc nhƣ Rồng,thoắt ẩn,thoắt hiện.Long mạch có thể chỉ vài chục cây số,nhƣng cũng có thể là vài ngàn cây số. Long mạch lại đƣợc chia ra SƠN MẠCH VÀ THỦY MẠCH. SƠN MẠCH :Là những dải Núi,dải đất đi từ Tổ Sơn đến Huyệt.Tổ Sơn là Núi cao,nơi xuất phát Sơn mạch.Dải Núi đi ra khỏi Tổ Sơn gọi là Hành Long.Hành Long lại đƣợc chia ra làm CÁN LONG :Là dải Núi chínhđi ra từ Tổ Sơn và BÀNG LONG :Là chi nhánh đi ra từ Cán Long.Long mạch lúc nổi lên thành Núi,đồi ,gò ,đống,lúc lại chìm sâu vào lòng đất,có khi vƣợt qua cả những dòng sông. THỦY LONG :Là các mạch nƣớc dòng sông bắt nguồn từ các Tổ Sơn,chảy theo các Sơn Long.Thủy Long cũng có Cán Long và Chi Long,đổ vào Minh đƣờng rồi thoát ra ở Thủy khẩu tiêu


Thủy. Sơn Long đi thuận theo chiều nƣớc chẩy gọi là Thuận Long.Ði ngƣợc chiều nƣớc chẩy gọi là Hồi Long,đi ngang qua chiều nƣớc chảy gọi là Hoành Long. Theo cấu tạo Ðịa chất nƣớc Việt nam ta,nói chung Núi sông chạy từ Tây Bắc xuống Ðông Nam (Trục CÀN -KHÔN ),do vậy Long mạch thƣờng đi theo trục CÀN -KHÔN,hoặc CÀN -LY là chính.Long đi theo hƣớng này là thế chính có tính chất rất bền vững,dài lâu.Long thuận thì nƣớc chầu xuống,Long ngƣợc thì nƣớc chầu lên.Thuận nƣớc chầu lên là thế thuận,nƣớc chầu xuống là thế nghịch. 6/THỦY KHẨU :Thủy khẩu là nơi mà nƣớc chẩy vào Minh đƣờng.Chẩy đến gọi là Thủy lai, chẩy đi gọi là Thủy khứ.Nơi nƣớc chẩy vào gọi là Thiên môn,nơi nƣớc chẩy ra gọi là Ðịa hộ.Dòng nƣớc chẩy đến,chẩy đi tại vị trí Huyệt rất quan trọng,riêng về nó ngƣời ta có hẳn một mục là THỦY PHÁP TRƢỜNG SINH,xét đến sự tốt xấu của hƣớng các dòng nƣớc đối với Huyệt vị. ÐIỂM HUYỆT :Sau khi đã tìm đƣợc địa thế hội đủ các tiêu chuẩn của Long mạch,Thủy khẩu,Minh đƣờng, Long -Hổ,Sơn,Chu tƣớc,Huyền vũ...,các phƣơng vị sinh ,Vƣợng thì cần phải chọn nơi tụ khí để xác định chính xác vị trí Huyệt.Làm nhƣ vậy đƣợc gọi là Ðiểm Huyệt. Ðiểm Huyệt là công việc vô cùng khó ,là việc phải tổng hợp tất cả các kiến thức về Ðịa lý Phong thủy,các Kinh nghiệm ,các pháp của Huyền thuật,cảm giác của Phong thủy sƣ,kết hợp với La kinh để chọn đƣợc vị trí cát lợi nhất cho việc xây cất nhà cửa hay táng Mộ. Cãn cứ vào địa hình,Ðịa thế có thể lấy đúng giữa Huyệt,lấy ở Huyệt nhánh hay bên cạnh Huyệt. 7/MINH ÐƢỜNG :Theo danh từ ,Minh đƣờng là nơi ngày xƣa Vua,Chúa tiếp các Bá Quan,Văn -Võ triều bái.Trong Phong thủy,Minh đƣờng là vùng đất phía trƣớc của Huyệt vị.Minh đƣờng cũng đƣợc chia ra làm Nội Minh đƣờng,Trung Minh đƣờng và Ngoại minh đƣờng,gọi chung là Tam đƣờng.Minh đƣờng ở trƣớc Huyệt gọi là nội Minh đƣờng. Minh đƣờng đƣợc bao bọc bởi hai tay Long -Hổ gọi là Trung Minh đƣờng.Minh đƣờng ở ngoài Án Sơn gọi là ngoại Minh đƣờng. 8/HUYỆT VỊ :Nghĩa gốc của từ Huyệt là hang ổ,sào Huyệt,là ngôi nhà bằng đất,là chỗ châm cứu trên cơ thể con ngƣời.Trong Phong thủy ,Huyệt là nơi tập trung Khí của Long mạch. 9/ÁN SƠN :Án có nghĩa là cái bàn làm việc của các cụ Ðồ Nho ngày xƣa (Án Thƣ ).Án cũng co nghĩa là che chắn trƣớc mặt.Án Sơn là núi nhỏ chắn trƣớc Huyệt nhƣ cái bàn làm việc trƣớc mặt ngƣời ngồi,Án Sơn không đƣợc quá cao.Huyệt có Án nhƣ Chủ có Khách,Vua có Tôi. 10/TRIỀU SƠN :Triều có nghĩa là đối diện nhƣ Chủ với Khách.Triều Sơn là núi to ở phía xa hơn Án Sơn.Triều Sơn mà hai bên có Thủy lƣu kèm theo Triều vào Huyệt là Triều Sơn quý.Nhƣ vậy tính chất của Triều Sơn và Án Sơn tƣơng tự nhƣ nhau ,nhƣng khác nhau ở độ cao và tầm xa. 11/SA SƠN :Là Núi ở xung quanh Huyệt.Trong Ðịa lý chia ra các Sa (Sơn ) nhƣ sau :Án sơn,Triều sơn,Thanh long,Bạch hổ,Tả phù,Hữu bật,La thành viên cục,Lạc sơn,Hạ thủ sa,Thủy khẩu sa,Cản môn sơn,Hoa biểu sơn,Bắc Thần tinh,La tinh sơn,Quan tinh sơn,Quỵ tinh sơn,Diệu tinh sơn... 12/THANH LONG (TAY LONG ):Thanh long là Núi hay dải đất nằm bên TRÁI Huyệt.Có khi Sơn mạch chạy đến Huyệt rồi phân ra hai nhánh nhƣ hai cánh tay ôm lấy Huyệt tạo nên Thanh long,Bạch hổ.Thanh long chủ DƢƠNG,CON TRAI,KHÍ DƢƠNG. 13/BẠCH HỔ :Là Núi hay dải đất bên Phải Huyệt.Bạch hổ chủ Âm,Con Gái,Khí Âm. Thanh long - Bạch hổ đối với Huyệt giống nhƣ chúng ta ngồi trên chiếc ghế có hai tay tựa vậy,hai tay này phải cân đối mới tốt. 14/TẢ PHÙ HỮU BẬT :Là hai trái núi nằm hai bên tả hữu của Huyệt vị.Tả phù hữu bât cần phải cân xứng về cả độ cao,xa gần,lớn nhỏ.Nếu không xứng lứa vừa đôi là Huyệt không quý.Ngƣời ta gọi tả phù - Hữu bật là Nhật Nguyệt giáp chiếu,hay Văn võ thị vệ.Tả phù hữu bật dịch về phía sau của Huyệt gọi là Thiên ất,Thái ất.Dịch về phía trƣớc một chút gọi là Thiên hồ,Thiên giác.Nếu dịch về phía trƣớc một chút nữa và chụm đầu vào nhau gọi là Kim ngô,Chấp pháp.Nếu nằm ở hai bên Minh đƣờng Gọi là Thiên quan,Ðịa trực.Nếu nằm ở hai bên Thủy khẩu gọi là Hoa biểu,Cản môn. 15/LA THÀNH VIÊN CỤC :Là thế núi bao bọc xung quanh Huyệt vị nhƣ tƣờng thành bao quanh trùng trùng điệp điệp,lên xuống nhấp nhô bảo hộ Huyệt vị,tựa nhƣ cánh sen ôm lấy nhị hoa.Nếu có điều đó là Huyệt quý. 16/HẠ THỦ SA :Còn gọi là hạ quan,Hạ tƣ.Núi nằm bên cạnh dòng nƣớc chảy ra ở bất kỳ phƣơng nào của Huyệt đều gọi là Hạ thủ sa.Hễ có Hạ thủ sa là có sự kết phát.Dòng chảy trƣớc Huyệt rẽ về bên nào thì bên đó Hạ thủ.Hạ thủ sa cần trùng điệp,dày đặc,liên tiếp,không đƣợc mỏng,nhỏ. 17/BẮC THẦN SA :Là núi đá dựng đứng ở giữa Thủy khẩu mà có hình thù kỳ quái. Núi Bắc Thần sa rất quý hiếm,thƣờng đi với Huyệt Công hầu ,Khanh tƣớng.Bắc Thần sa càng hùng vĩ càng cát lợi. 18/LA TINH :Là núi nhỏ hoặc gò nổi lên ở giữa Thủy khẩu giống nhƣ Bắc Thần sa.La tinh có thể là


núi nhỏ,gò đá hoặc đất,nếu là đá thì tốt hơn là đất.La tinh tròn trặn hay nghiêng vát là tốt.La tinh có bốn bề la mặt nƣớc là tốt.Ðịa thế Huyệt có La tinh là địa thế Huyệt quý. 18/QUAN TINH :Là núi nhỏ đằng trƣớc Huyệt ở phía ngoài đối diện với Thanh long,Bạch hổ,kéo sơn mạch ra đằng trƣớc. 20/DIỆU TINH :Là tảng đá lớn nhô lên ở hai bên tả hữu của Huyệt.Diệu tinh to lớn và đẹp thì sẽ tạo phú quí lâu dài. 21/QUỴ TINH :Là sơn mạch ở đằng sau Long Huyệt mọc ra hai cánh,để cho Huyệt trƣờn gối lên.Chỉ có Hoành long kết Huyệt mới có Quỵ tinh.Quỵ sơn không nên qua cao,lớn vì sẽ đoạt mất chân khí của Long Huyệt.Huyệt có Quỵ tinh đẹp là Huyệt quý. 22/CẦM TINH :Là sơn thạch (Núi đá ) ở giữa Thủy khẩu ,còn gọi là Hỏa tinh Hà Lạc.Hình dạng của Cầm tinh giống nhƣ cái bút lông,con cá đang bơi,hay Rùa,rắn,dài,nhọn,vuông tròn,cao thấp,tụ hay tán.Huyệt có Cầm tinh là Huyệt quý. 23/HUYỀN VŨ :Là sơn mạch đằng sau Huyệt.Huyền vũ là nơi mà từ đó Mạch chẩy vào Huyệt.Huyền vũ cao đầy thì có nhiều khí mạch dự trữ.Huyền vũ cúi đấu,bằng phẳng,vuông tròn là quí.Tôn nghiêm có bút nhọn,thanh tú thì quý.Thấp,mỏng bị gió thổi,thô bạo lấn át Huyệt là xấu. 24/CHU TƢỚC :Là các sa sơn ở trƣớc Huyệt,là các gò đống ở trƣớc Huyệt.Nó múa lƣợn,chầu đón Huyệt,tốt tƣơi,sáng sủa,vòng cung ôm lấy Huyệt là quý.Sơn chạy tán loạn,lởm chởm ,âm u là xấu. Ghi chú :Những định nghĩa trên dienbatn viết theo KS.TRẦN VĂN TAM trong cuốn XÂY DỰNG NHÀ Ở THEO PHONG THỦY. Trong phần này có một bài của Nguyên Vũ ( Văn Hóa Phƣơng Đông ) , tóm lƣợc rất nhiều sách về các khái niệm trong Phong Thủy . Ngƣời viết xin đƣa vào để các bạn tham khảo - dienbatn . Phong thủy: Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hƣớng gió, dòng nƣớc cùng tọa hƣớng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp. Sách Táng thƣ viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh viết : Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nƣớc (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nƣớc chảy có chỗ dừng". Do vậy mà có tên là Phong thủy. Hai chữ Phong thủy còn chỉ phƣơng pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tƣờng phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy. Phong thuỵ thuật: Học thuyết cổ đại Trung Quốc hƣớng dẫn ngƣời ta lựa chọn nơi trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với một hệ thống lý luận và phƣơng pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng môi trƣờng tự nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con ngƣời có thể ảnh hƣởng đến con cháu của ngƣời đã khuất hoặc đến vận mệnh của những ngƣời sinh sống tại đó. Thuật này đề xuất lý luận và phƣơng pháp hƣớng dẫn ngƣời ta chọn cát tránh hung, cầu phúc tránh họa. Thuật Phong thủy có nguồn gốc xa xƣa, thời thƣợng cổ con ngƣời đã chú ý đến ảnh hƣởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi cƣ trú của loài ngƣời, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích. Khi loài ngƣời bắt đầu có hoạt động xây dựng một cách tự giác, việc tìm kiếm cho đƣợc nơi trú ngụ an toàn, thích hợp, tiện lợi đã trở thành một trong những nhu cầu cơ bản. Khi việc chôn cất ngƣời chết trở thành phƣơng thức chủ yếu, do ảnh hƣởng của quan niệm sùng bái linh hồn và tổ tiên, ngƣời ta cố tìm cách mai táng sao cho có thể giữ gìn lâu dài thi thể ngƣời chết. Thời kỳ Tiên Tần, do trình độ khoa học còn thấp, các hình thức bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong xã hội gắn liền với hoạt động xây dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến nhƣ Bốc trạch, Bốc cƣ, Bốc lạc phản ánh tình hình đƣơng thời. Đồng thời các học thuyết âm dƣơng, ngũ hành, bát quái Chu Dịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc cƣ, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong thủy nhờ đó có đƣợc cơ sở tƣ tƣởng triết học cần thiết. Thời Lƣỡng Hán , đã xuất hiện các trƣớc tác về Phong thủy nhƣ Cung trạch địa hình, Kham dƣ kim quí. Các học thuyết Hình pháp gia, Kham dƣ gia cũng mang nội dung Phong thủy. Mối quan hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung họa phúc của con ngƣời đã trở nên rất mật thiết, đồng thời xuất hiện những ngƣời chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu sấm) và hàng loạt điều cấm kỳ mang tính chất mê tín đang thịnh hành trong xã hội đƣơng thời. Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, quan niệm nhà ở và mồ mả gắn với cát hung họa phúc của con ngƣời đƣợc tầng lớp sĩ đại phu tiếp nhận rộng rãi, thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật Phong thủy. Các sách Phong thủy xuất hiện nhiều chia ra 2 loại : Dƣơng trạch và âm trạch. Thuyết "Tứ Linh" cũng bắt đầu hình thành. Các quan niệm âm dƣơng ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà


lạc, âm luật quý hậu đƣợc áp dụng vào thuật Phong thủy. Đến thời kỳ Tùy Dƣờng, thuật Phong thủy về cơ bản đã hình thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời hàng loạt, trong đó Trạch Kinh có đến mấy chục loại, Táng thƣ có trên trăm loại. Sách Trạch kinh, Táng thƣ đời Đƣờng là 2 trƣớc tác chuyên về Phong thủy sớm nhất của Trung Quốc còn đến nay, những điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại thể đã hoàn bị, làm cơ sở lý luận cho 2 trƣờng phái lớn là Lý pháp và Hình pháp trong học thuyết Phong thủy sau này. Nhất là Táng thƣ đề xuất "thuyết sinh khí" đã trở thành lý luận căn bản nhất của học thuyết Phong thủy. Sách này mƣợn tên Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác đƣợc tôn là ngƣời sáng lập học thuyết Phong thủy. Một nhân vật trọng yếu khác trong lịch sử thuật Phong thủy là Dƣơng Quân Tùng cũng là ngƣời đời Đƣờng, đƣợc tôn là tổ sƣ. Cuối đời Đƣờng, xuất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong thủy sƣ. Thời kỳ Tống Nguyên Minh Thanh, thuật Phong thủy càng đƣợc hoàn thiện và phát triển về lý luận và phƣơng pháp, đồng thời chia thành nhiều trƣờng phái khác nhau. Phái Lý pháp đặc biệt thịnh hành, song chứa đựng quá nhiều điều huyền bí. Ảnh hƣởng của thuyết Phong thủy trong xã hội cũng ngày một gia tăng, thâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội; đồng thời đƣợc Lý học đời Tống Minh và giai cấp thống trị phong kiến ra sức ủng hộ, có tác động vô cùng mạnh mẽ tới đời sống xã hội Trung Quốc cổ đại. Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, Tụ khí, Đắc khí. Nội dung gồm 2 loại lớn là Phong thủy dƣơng trạch và Phong thủy âm trạch, trong đó Phong thủy âm trạch có ảnh hƣởng đặc biệt quan trọng. Nội dung của Phong thủy âm trạch bao gồm : khảo sát hình dạng núi non sông nƣớc trong một phạm vi khá rộng, xác định địa chất địa mạo, lựa chọn vị trí và phƣơng hƣớng của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất thổ nhƣỡng, thƣớc tấc huyệt mộ, cây cỏ trên mặt đất, cách thức và thời gian mai táng, các vật kiến trúc phụ bên trên huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm nội dung dùng sức ngƣời cải tạo địa hình. Nội dung của Phong thủy dƣơng trạch thì gồm có: chọn địa điểm nhà ở, thôn xóm, thành phố, khảo sát môi trƣờng kiến trúc xung quanh chúng, địa thế cao thấp, hình dáng và bố cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày giờ khởi công và trình tự xây dựng, hƣớng mở cổng cửa, kích thƣớc cổng cửa, các loại cây trồng và phƣơng vị sở tại còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở tính thống nhất giữa nhà ở với các công trình xây dựng xung quanh. Bết kể dƣơng trạch hay âm trạch cũng đều có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy hình thế sông núi làm chính; Lý pháp thì lấy nguyên lý suy diễn thuật số làm chính; hai "pháp" có chỗ mạnh chỗ yếu, nên về sau ngƣời ta theo xu thế kết hợp cả hai. Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa cổ truyền Trung Quốc, hiển nhiên chứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần đƣợc gạn đục khơi trong. Đồng thời thuật Phong thủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con ngƣời tích lũy hàng ngàn năm trên cơ sở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới đƣợc phát hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất : thuật Phong thủy thực tế là lý luận qui hoạch thiết kế xây dựng cổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp các khoa địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, tâm lý học, là tinh hoa của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại, cùng với Doanh tạo học và Tạo viên học hợp thành 3 cột trụ của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại. Tuy thuật Phong thủy có giá trị không thể xem nhẹ, nhƣng vì nó khoác bộ áo huyền bí và lối diễn đạt dung tục, nên khó hiểu và có khi bị chê cƣời; hơn nứa quan niệm cho rằng vị trí mai táng có thể quyết định cát hung họa phúc của con cháu chƣa hề có tƣ liệu khoa học nào xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần dần bị thay thế (chẳng hạn bằng hỏa táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa. Kham dƣ: Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán thƣ. Dƣơng Hùng truyện viết: "Kham dƣ là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo đồ trạch thƣ". Văn tuyển. Cam tuyền phú viết : "Hoài Nam Tử nói Kham dƣ "hành hùng (đực) để biết thƣ (cái). Hứa Thận nói Kham là đạo trời, dƣ là đạo đất vậy". Hán thƣ. Nghệ văn chí chép 14 quyển "Kham dƣ kim quí". Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo chứng là "sách viết về phƣơng vị Phong thủy". Sử ký. Nhật giả liệt truyện . "Thời Hiếu Võ đế, có triệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cƣới vợ ? Các nhà ngũ hành đáp có thể; các nhà kham dƣ đáp không đƣợc". Tùy thƣ. Kinh tịch chí có chép "Kham dƣ lịch chú", "Địa tiết kham dƣ", bàn về cách chọn ngày giờ. Đủ biết kham dƣ thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong thủy. Theo khảo chứng của các học giả thời nay, kham dƣ thoạt tiên chỉ tên 12 vị thần. Các nhà kham dƣ căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách quan sát tƣợng trời để phán đoán cát hung dƣới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán nói kham dƣ là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy. Từ thời Tùy Đƣờng trở đi, ngƣời ta dần dần coi Tƣớng trạch và Tƣớng mộ là kham dƣ. Đời Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết : "Các nhà Kham dƣ thời cổ tức là các nhà "tƣớng trạch đồ mộ" thời cận đại, các nhà địa lý ngày nay"; chứng tỏ về sau ngƣời tá mới đƣa nghĩa Phong thủy vào khái niệm Kham dƣ. Ngoài ra, các văn nhân sĩ đại phu


quen dùng thuật ngữ Kham dƣ, còn dân gian thì gọi là Phong thủy. Địa lí : Tức Phong thủy. Vƣơng Tịch Chi đời Tống trong Mãnh thủy yên đàm lục viết : "Văên Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dƣơng địa lý". Cố Viêm Võ đời Thanh trong Xƣơng Bình sơn thủy ký, quyển thƣợng, viết " Hoàng hậu họ Từ qua đời, Lễ bộ thƣợng thƣ Triệu Hồng đƣợc lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân Khanh tới, chọn đất tốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xƣơng Bình". Địa lí học: Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hƣng tạo ký của Lục Du đời Tống: "Kỵ Thực Trƣợng nhìn bốn phía hỏi, "Ai biết ngôi chùa kia là do trời đất tạo dựng nên.. Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới sai ta chọn địa dƣ này chăng?" Tức là khi hỏi ý kiến các nhà địa lí học, thì họ nói gần giống nhƣ Kỵ vậy". Địa học: Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thƣ tổng mục, quyển 109 viết : "Đời sau khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ sƣ". Âm trạch : Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thƣợng viết: "Đại phu bói về nhà ở và ngày mai táng". Sớ : "Trạch, nghĩa là đất mồ mả". Đời sau ngƣời ta thêm nghĩa nhà ở, nơi trú ngụ vào chữ "trạch", nên gọi mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120 : "Nếu ta chết ở chốn này, thì đây là âm trạch". Còn bao hàm nội dung chọn đất mai táng, tức Phong thủy âm trạch. Dƣơng trạch: Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời cổ, chu "trạch" vừa có nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong thủy gọi mồ mả là âm trạch, còn nhà ở là dƣơng trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh khuyết danh đời Đƣờng : "Phàm dƣơng trạch tức là có khí dƣơng ôm âm, âm trạch tức là có khí âm ôm dƣơng". Còn bao hàm nội dung chọn đất làm nhà, xây dựng nhà cửa, tức phong thủy dƣơng trạch. Âm dƣơng trạch: Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong thủy âm trạch và Phong thủy dƣơng trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức đại diện cho Phong thủy. Thanh ô thuật: Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử soạn Táng kinh, nên các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy là thuật Thanh ô, ngƣời chuyên hoạt động Phong thủy là "Thanh Ô đồ" . Thanh nang thuật: Tức thuật Phong thủy. Tấn thƣ. Quách Phác truyện : "Phác giỏi chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dƣơng tài tình. Có ông thày họ Quách ẩn cƣ ở Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thày đem 9 quyển sách chứa đựng thuật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh nang (chiếc túi vải xanh) tặng Phác". Nhờ đó phác giỏi xem tƣớng đất. Đời sau lại có Thanh nang kinh, tức Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh chuyên nói về Phong thủy, mƣợn tên Quách Phác viết lời tựa. Dần dần thuật Phong thủy đƣợc gọi là thuật Thanh nang. Trạch tƣớng: Tƣớng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thƣ. Ngụy Thƣ truyện : "Thƣ mồ côi từ nhỏ , đƣợc bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dƣỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tƣớng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thƣ còn bé mà thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thƣ nói : Họ ngoại có đƣợc trạch tƣớng tốt vậy". Về sau ngƣời ta dùng hai chu "ngoại sanh" (cháu ngoại) thay cho chu "trạch tƣớng". Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu Nguyên Nhất đời Đƣờng viết : "Vƣơng Mãng làm Thị lang, chuyên về trạch tƣớng, chí khí hào hùng, rất giống ngƣời cậu của mình". Gia tƣớng : Tức Phong thủy dƣơng trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của gia đình, hình tƣớng của gia trạch, nên gọi là Gia tƣớng (tƣớng nhà). Địa tƣớng: Tức Phong thủy âm trạch. Vì nó gắn liền với hình thế của sông núi, hình tƣớng của mồ mả, nên gọi là Địa tƣớng (tƣớng đất). Bốc triệu: Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để mai táng. Quản thị địa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị : "Bốc triệu dinh thất gồm 2 việc; một là luận sơn (núi), hai là luận hƣớng, là điểm mấu chốt của nhà kham dƣ". Bốc cát : Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy chủ hậu lục, quyển 1, của Vƣơng Minh Thanh đời Tống, viết : "Vĩnh Xƣơng Lăng bốc cát, lệnh cho Tƣ thiên giám Miêu Xƣơng đi xem tƣớng đất ở Tây Lạc". Về sau "Bốc cát" đƣợc dùng để chỉ việc chọn đất mai táng. Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là tiến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Hoàng đế trạch kinh : "Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay dữ, địa điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự". Tƣớng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát hung tọa hƣớng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống sử.


nghệ văn chí có chép âm dƣơng tƣớng sơn yếu lƣợc, 2 quyển. Tƣớng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hƣớng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc liên quan. Tƣớng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hƣớng tốt nhất của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thƣờng dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thƣ tổng mục, quyển 109 : "Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tƣớng ngƣời, tƣớng vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng của tƣớng trạch, tƣớng địa". Tƣớng thổ: Tƣớng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thƣ. Cao Tổ kỵ thƣợng : "Nơi sông núi mỷ lệ, cây cỏ tốt tƣơi, "Bốc thực tƣớng thổ, nên xây dựng đô thị". Phép tƣớng thổ, nếu thấy đất bị sƣơng gió xâm thực, tơi tả nhƣ tro, quá khô cứng, hoặc bị nƣớc xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tƣơi nhuận, cây cỏ tƣơi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chƣa bị đào bới, thấy chắc chắn dày dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là "Uất thảo", cũng là đất lành. Cho nên phàm đất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực. Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ đƣợc xây dựng kinh đô. Thƣợng thƣ. Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc. Văn tuyển của Lƣơng Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: "Bốc lạc dịch long thế, Hƣng loạn võng bất vong" . Bốc thục: Thời thƣợng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nƣớng mai rùa, nếu sau khi nƣớng, mai rùa có những đƣờng hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thƣợng thƣ Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau liền gọi việc chọn đất xây dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn : "Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập". Tùy thƣ. Cao Tổ kỵ thƣợng : "Nơi sông núi mỷ lệ, cây cỏ tốt tƣơi, Bốc thực tƣớng thổ, nên xây dựng đô thị" . Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cƣ trú hoặc dựng nƣớc. Ngô Việt xuân thu. Câu Tiễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán : "Đƣờng Ngu bốc địa, Hạ ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc". Cũng dùng đó để chỉ riêng việc lựa chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lƣu Ngôn Sử đời Đƣờng có câu thơ "Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ". Đời sau bèn dùng để thay cho hai chữ Phong thủy. Bốc trạch: Chữ "trạch" có 3 nghĩa : l) Nơi trú ngụ 2) Phần mộ 3) Lựa chọn. Cho nên bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô. Thƣợng thƣ. Chiếu cáo: "Thái bảo triều chí ƣ Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh", ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cƣ trú. Bài thơ "Vi nông của Đỗ Phủ đời Đƣờng có câu : "Bốc trạch tòng từ lão Vi nông khử quốc xa". Thơ Di cƣ Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu : "Đào Tiềm ái bốc trạch, Thẩm ƣớc phú giao cƣ ". 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần mộ. Lễ ký. Tạp ký thƣợng: "Đại phu bốc trạch và ngày mai táng". Sớ của Khổng Dĩnh Đạt : "Trạch là đất mai táng". Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thƣợng của Cố Viêm Vũ đời Thanh : "Bốc trạch dĩ an vƣơng khảo triệu, Huề xuất hoàn qui cố nhân trai". Đời sau bèn gọi Phong thủy là Bốc trạch. Bốc cƣ : Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần bản kỵ. "Đức công nguyên niên, bốc cƣ Ung". Sau chỉ việc chọn đất định cƣ. Nghệ văn loại tụ, quyển 64, dẫn bài thơ "Hành trạch" của Tiêu Tử Lƣơng nƣớc Tề thời Nam triều : "Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cƣ tây dã ngoại". Bài thơ Ký đề giang ngoại thảo đƣờng của Đỗ Phủ đời Đƣờng có câu : "Thị tửu ái phong trúc, Bốc cƣ tất lâm tuyền". Bốc thất : Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ Phụng tống thế mỷ qui dƣơng tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu : "Phiêu phiêu số niên nhƣ nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây". Minh sử. Trƣơng Khả Đại truyện : "Khả Đại ƣớc thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử". Bốc vũ : Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tƣ không khúc giang công hành trạng của Nhiệm Phƣởng, ngƣời nƣớc Lƣơng thời Nam triều : "ái nái bốc vũ Kim Lăng, doanh đới lâm hách" . Bốc trúc : Chọn đất xây dựng nhà ở để định cƣ. Lƣơng thƣ. Lƣu Hứa truyện chép rằng Lƣu Hứa cùng ngƣời anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đền Tống Hy ở khe suối phía đông. Minh sử.


Đƣờng Thuận chi truyện : "Bốc trúc dƣơng tiễn sơn trung, độc thƣ thập niên dƣ" Bốc lân : Chỉ việc chọn láng giềng mà cƣ trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên : "Thả Ngạn nói : Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. 'Nhị, tam tử tiên bốc lân hề". Đỗ Dự chú giải: "Bói láng giềng tốt". Bài thơ Ký tán thƣợng nhân của Đỗ Phủ đời Đƣờng có câu : "Nhất tạc bồi tích trƣợng, Bốc lân nam sơn u". Thực ra chỉ việc chọn đất cƣ trú, đồng thời biểu thị với ngƣời khác ý muốn cƣ trú ở bên cạnh nhà họ. Bốc lão : Chọn nơi ở để dƣỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cƣ. Tịnh danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết ngƣời Nang Dƣơng, tự Nguyên Chƣơng, bốc lão ở Đan Đồ". Chiêm trạch : Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch tức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dƣơng trạch. Hoàng đế trạch kinh : " Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà dự đoán tình hình họa phúc cát hung" Tƣớng trạch : Tƣớng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tƣớng trạch nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phƣơng vị tọa hƣớng cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà. Thực chất là Phong thủy dƣơng trạch. Tấn thƣ. Ngụy Thƣ truyện : "Thƣ mồ côi từ nhỏ, đƣợc bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dƣỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tƣớng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển" . Tùy thƣ. Kinh tịch chí có chép " Tƣớng trạch đồ" 8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép " Tƣớng trạch đồ" 1 quyển. 1) Sinh khí : Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của toàn bộ hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm dƣơng tràn ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mƣa, còn vận hành tiềm ẩn dƣới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên nói "Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy" (Táng kinh dực). Bởi thế tìm sinh khí trƣớc tiên phải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành, gặp nƣớc thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía. Cho nên điều quan trọng nhất là tìm đƣợc nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để sinh khí không bị gió thổi tứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà nuôi dƣỡng vạn vật. Loài ngƣời đƣợc nó nuôi dƣỡng thì cát, mất sự nuôi dƣỡng của nó thì hung. Sự sống của loài ngƣời là kết quả hội tụ sinh khí , sinh khí ngƣng kết thành cốt cách của con ngƣời. Ngƣời ta chết đi, máu thịt rứa nát, xƣơng cốt vẫn còn; nếu đem thi thể của tổ tiên cha mẹ mai táng ở nơi sinh khí hội tụ, thì sinh khí sẽ nhập vào xƣơng cốt mà trở thành nuôi dƣỡng con cháu của họ, cho nên nói : "Mai táng phải thừa sinh khí vậy" (Táng thƣ). Đây là cơ sở lý luận của Phong thủy âm trạch. Còn về Phong thủy dƣơng trạch mà nói , vì sinh mệnh của con ngƣời do sinh khí hội tụ tạo nên, bởi vậy cũng cần phải tìm đƣợc mảnh đất có sinh khí thịnh vƣợng mà xây dựng nhà ở, để chủ nhà đƣợc sinh khí nuôi dƣỡng. Nhƣng sinh khí dƣới lòng đất nuôi dƣỡng ngƣời từ bên dƣới, lực lƣợng ở sâu mà công hiệu chậm, cho nên khác với âm trạch, dƣơng trạch còn phải có đƣợc "thiên hạ" (khí trời). Khí trời trực tiếp sƣởi ấm thân thể con ngƣời lực lƣợng ở bên trên mà công hiệu nhanh , cho nên "Dƣơng trạch dƣới thì tiếp nhận cát khí của đất, trên thì muốn có vƣợng khí của trời" (Tƣớng trạch kinh soạn . quyển 4), bởi vậy khi xây dựng nhà ở phải chú ý hƣớng mở cổng, cửa, hình dạng ngôi nhà, lựa chọn phƣơng vị, để tiếp nhận vƣợng khí , loại trừ tà khí. 2) Phƣơng vị. Chỉ khi xây dựng hoặc tu sửa nhà ở, một phƣơng vị cố định nào đó đối lập với "tử khí". Nếu tiến hành xây dựng, tu sửa ở phƣơng vị sinh khí này, ắt sẽ thu đƣợc hồng phúc lớn lao. Phƣơng vị có sinh khí không giống nhau trong một năm: tháng giêng ở Tý, Quý (tức chính bắc và phƣơng bắc dịch sang đông 15 độ, Xem mục nhị thập tứ sơn); tháng 2 ở Sửu, Cấn; tháng 3 ở Dần, tháng 4 ở Mão, ất; tháng 5 ở Thìn, Tốn; tháng 6 ở Tỳ, Bính; tháng 7 thân, Canh; tháng 8 Mùi, Khôn; tháng 9 ở Thân, Canh; tháng 10 ở Dậu, Tân; tháng 11 ở Tuất, Khôn; tháng 12 ở Hợi, Nhâm. Trong 1 năm, bắt đầu từ phƣơng chính bắc, thuận theo chiều kim đồng hồ mà xoay 1 vòng. 3) Tức sao Sinh khí. Xem mục Sinh khí tinh. 4) Chữ "khí" ở đây theo quan niệm của cổ nhân khác với "không khí", nó là một chất đặc biệt trong vũ trụ hoặc trong cơ thể ngƣời. Ngoại khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ dòng nƣớc chảy trên mặt đất. Nƣớc chảy trên mặt đất gọi là Ngoại khí. Thứ khí này mềm. Ngoại khí chuyển tải, chỉ nội khí mới có thể tụ lại, nên Long vận hành mà sinh khí tùy theo, thủy (nƣớc ) ngăn lại mà nội khí tụ. Nội khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí trong đất. Sinh khí vận hành trong lòng đất, nên gọi là nội khí. Thứ khí này cứng. Long thần: Tức sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, biểu hiện là


long mạch, thần diệu khó đoán, chủ mọi cát hung, nén dùng hai chữ "Long thần" để biểu thị sự kỳ diệu của nó. Thiên khí: 1) Khái niệm Phong thủy. Hai khí âm dƣơng tràn ngập trong trời đất; ẩn tàng mà vận hành dƣới lòng đất thì gọi là "sinh khí", phát tán trôi nổi trong không trung thì gọi là "thiên khí". Hoặc nói là khí chia ra âm dƣơng, khí dƣơng gặp gió thì vận hành, sƣởi ấm thân thể, ngƣời, tức khí trời, thực ra là sinh khí trong không trung. Phong thủy dƣơng trạch coi việc tiếp nhận thiên khí là điều cốt yếu. 2) Phƣơng vị. Trong 24 sơn, sinh khí ở phƣơng vị 8 thiên can Giáp, Canh, Bính, Nhâm, ất, Tân, Đinh, Quý, là thiên khí. Địa khí: Khái niệm Phong thủy. Sinh khí vận hành trong đất, phát ra mà sinh thành vạn vật, nên gọi là địa khí. Đối xứng với nó ắt là thiên khí. Xem mục Sinh khí, Thiên khí. Cát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí thịnh vƣợng. Thuộc dƣơng. Thi thể ngƣời chết sau khi mai táng nếu đƣợc cát khí nuôi dƣỡng, thì vong hồn sẽ bay lên phù hộ cho con cháu hƣởng phú quí. Sinh khí cũng đƣợc gọi là cát khí. Sát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ gió độc thổi đến từ khe núi, hẻm núi hoặc chỗ lõm trong núi. Cổng nhà ở nếu bị sát khí thổi vào thì hung, cản thay đổi hƣớng cổng, cửa. Thực khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi sơn (núi) là Thực khí, đất càng cao thì khí càng dày, đất càng thấp thì khí càng mỏng, cho nên núi càng phải lớn mới là cát. Nhƣng Thực khí không thể tự nó khai phá, muốn làm cho Minh đƣờng rộng rãi, thoáng khí, còn phải dựa vào tác dụng của thủy lƣu. Xem mục Hƣ khí. Hƣ khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi thủy (nƣớc) là Hƣ khí. Nƣớc càng sâu khí càng mạnh, nƣớc càng nông khí càng yếu, cho nên nƣớc phải sâu và chảy xa mới là cát. Nhƣng Hƣ khí không thể tự nó trở thành nông sâu, núi cao thì nƣớc mới cô thể dài xa, nên Hƣ khí còn cần phối hợp với Thực khí. Xem mục Thực khí. Hung khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ thứ khí không tốt trong lòng đất. Thuộc âm. Nếu thi thể ngƣời chết sau khi mai táng bị hung khí tấn công, thì vong hồn sẽ bị hung khí dìm xuống, ảnh hƣởng xấu đến con cháu, khiến con cháu trở nên nghèo hèn, hiếm muộn, tai họa. Lậu khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí bị tiết thoát. Trong thuật Phong thủy, Long đến hình dừng, nhƣng thủy lƣu không ôm lấy, tạo thành chỗ khuyết, sinh khí từ chỗ khuyết ấy tiết thoát ra, gọi là Lậu khí. Không lành. Phong thủy dƣơng trạch cho rằng, nếu cửa sau đối diện với cửa trƣớc, thì sinh khí vào nhà sẽ theo cửa sau mà tiết thoát đi, là Lậu khí. Nếu hai bên phòng ở không có hành lang mà thông thẳng ra ngõ hẻm, là nhà bị Lậu khí không lành. Cốt trùng: Là loại sinh vật hƣ cấu (không có thật). Thuật phong thủy cho rằng loài ngƣời tiếp nhận sinh khí mà hình thành, sinh khí ngƣng kết thành xƣơng cốt. Ngƣời ta chết đi, máu thịt sẽ rữa nát, duy xƣơng cốt vẫn còn. Sau khi mai táng, sinh khí thấm vào xƣơng cốt, có ảnh hƣởng tốt con cháu ngƣời đã khuất. Thời Trung Hoa Dân quốc, Viên Cao phát triển thuyết này, cho rằng xƣơng cốt loài ngƣời giống nhƣ san hô, do các cốt trùng nhỏ xíu ngƣng làm thành. Ngƣời ta chết đi, cốt trùng vẫn còn, cảm với sinh khí mà ảnh hƣởng tới con cháu (xem Thuật bốc phệ tinh tƣớng học, quyển 3). Thực chất đây là dùng học cận đại phụ họa thuật Phong thủy, hoàn toàn vô căn cứ. Địa lý ngũ quyết: Năm nội dung lớn, có tính chất khái quát lý luận Hình pháp trong thuật Phong thủy, là Long (tầm long), Huyệt (định huyệt), Sa (sát sa), Thủy (quan thủy), Hƣớng (lập hƣớng). Sự tổng kết khái quát 5 yếu tố lớn đó có ảnh hƣởng khá mạnh tới lý luận Hình pháp. Tam cƣơng ngũ thƣờng: Tổng kết lý luận mà thuật phong thủy đƣa ra cho phù hợp với quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến. Tam cƣơng là : " Một, Khí mạch, là cƣơng phú bần tiện; hai, Minh đƣờng, là cƣơng sa, thủy đẹp xấu; ba, Thủy khẩu, là cƣơng sinh vƣợng tử tuyệt" . Ngũ thƣờng là : "Một, Long, long phải chân (thật); hai, Huyệt, huyệt phải đích (đúng); ba, Sa, sa phái tú (đẹp); bốn, Thủy, thủy phải bao (ôm); năm, Hƣớng, hƣớng phải cát (lành). Ngũ tính : Đem họ (họ tên) của ngƣời phối với ngũ âm, ngũ hành, rồi căn cứ vào đó mà dự đoán cát hung của nhà ở, phần mộ. Thuyết này rất thịnh hành vào giữa thời Hán và Đƣờng, mai một dần từ thời Tống, Nguyên. Cách thức cụ thể nhƣ sau : trƣớc tiên, phối họ với ngũ âm. Ngũ âm gồm: cung, thƣơng, giốc, chủy, vũ. Phát âm họ của một ngƣời , nếu âm ở trong cổ họng là cung, ở chân răng 1à thƣơng, ở kẽ răng là giốc, ở lƣỡi là chuỳ, ở môi là vũ. Ngũ hành gồm: thổ, kim, mộc, hỏa, thủy. Ví dụ các họ Trƣơng, Vƣơng, là thƣơng; họ Vũ, Dữu là vũ; họ Liễu là cung; họ Triệu là giốc. Ngƣời không am hiểu âm vận, có thể tra cứu trƣớc tác Phong thủy có liên quan để biết họ của mình thuộc âm nào. Định đƣợc ngũ âm rồi, thì biết đƣợc ngũ hành. Sau đó căn cứ nguyên lý ngũ hành sinh khắc


mà xây nhà đặt cửa. Ví dụ, họ Trƣơng là âm thƣơng, thì cổng, cử chính không đƣợc đặt ở hƣớng nam, vì thƣơng thuộc kim, mà phƣơng nam là hỏa, hỏa khấc kim, không lành. Lại nhƣ họ Đồ là âm chủy, cổng nhà không đƣợc mở ra hƣớng bắc, vì chủy thuộc hỏa, mà phƣơng bắc thuộc thủy, thủy khắc hỏa, không lành. Ngũ tính có quan hệ với tọa hƣớng của phần mộ, có ca quyết đơn giản nhƣ sau : "Thƣơng, giốc nhị tính, bính nhâm ất tân; cung, vũ, chủy tam tính, giáp canh đinh quý, đắc địa đắc cung, thứ sử vƣơng công; đắc địa đắc cung, hữu thủy vô chung; thất địa đắc cung, tử tôn bất cung, thất địa thất cung, tuyệt tự vô tông (Hoàng đế trạch kinh). Ngũ phúc lục cực: Tình trạng cát hung. Ngũ phút gồm : thọ, phúc, khang ninh, hiếu đức, khảo chung mệnh; I ục cực gồm : yểu chiết (chết sớm), bệnh tật, lo buồn, nghèo khổ, độc ác, yếu ớt. Thuyết này gặp trong Thƣợng thƣ. Thuật Phong thủy cho rằng lục cực cứ bám riết, ngũ phúc chẳng tới là do ngũ hành mất cân bằng tạo nên. Cho nên chọn đất mai táng phải tìm nơi sinh khí thịnh vƣợng, thuận hợp ngũ hành, để trừ lục cực đón ngũ phúc. Ngũ hung Tình trạng hung họa. Gồm bệnh tật thƣơng tích, sinh ly tứ biệt, tai nạn hình phạt, yểu chiết cô đơn, ngang ngƣợc điên cuồng. Học thuyết Lí pháp trong thuật Phong thủy cho rằng mai táng phải có đƣợc âm long, âm huyệt, âm ứng, hoặc dƣơng sơn, dƣơng thủy, dƣơng huyệt, dƣơng ứng, là khí thuần nhất, thì có thể tránh đƣợc Ngũ hung. âm dƣơng ở đây chỉ thuộc tính âm dƣơng của phƣơng vị Xem mục Nhị thập tứ sơn. Giang Tây phái : Trƣờng phái Phong thủy. Thuật Phong thủy có hai trƣờng phái lớn. Phái Giang Tây do Dƣơng Quân Tùng đời Đƣờng khởi xƣớng. Họ Dƣơng về cuối đời sống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn là ngƣời Giang Tây, nên có tên nhƣ vậy Thuyết này lấy hình thế làm chính, tìm nơi khởi đầu và kết thúc của sơn mạch, thủy lƣu; lặn lội phát hiện hình mạo hƣớng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hƣớng, chú trọng quan sát hình dạng sơn loan thủy đạo, nhấn mạnh sự phối hợp long, huyệt, sa, thủy. Còn gọi là phái Loan đầu. Thuyết này về sau hình thành nên lý luận Hình pháp. Phái Giang Tây với Dƣơng Quân Tùng là tổ sƣ, lần lƣợt truyền cho Tăng Văn Sán, Lại Văn Tuấn, Ngô Cảnh Loan, Mục Vũ. Trƣớc tác của phái này hiện còn rất nhiều, tiêu biểu là Hám long kinh, Nghi long kinh, Thập nhị trƣợng pháp của Dƣơng Quân Tùng, Táng thƣ ngƣời đời Tống mƣợn danh Quách Phác, Thôi quan thiên của Lại Văn Tuấn. Lý luận của phái Giang Tây chú trọng quan sát giới tự nhiên, tiến hành tổng kết qui nạp rất nhiều hình thế sông núi, kết tinh nhiều kinh nghiệm hợp lý. Thuyết này lấy âm trạch làm chủ, dƣơng trạch thƣờng mƣợn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng của nhà ở và sự phối hợp về hình thức trong không gian. Phái Giang Tây từ đời Đƣờng Tống trở đi, lƣu truyền khá rộng, đời Mình, Thanh có sút giảm, nhƣng vẫn đƣợc xã hội tiếp thu rộng rãi, có ảnh hƣởng rất sâu rộng. Hình pháp : 1) Học thuyết Phong thủy. Tức hệ thống lý luận Phong thủy do trƣờng phái Giang Tây đƣa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí vƣợng mà cát, ắt hình sẽ đẹp đẽ uyển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi vậy, có thể căn cứ vào hình mà biết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm ra đất tốt. Theo thuyết này, lý luận âm trạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long, định huyệt, sát sa, quan thủy, lập hƣớng, tết cả đều xuất phát từ hoàn cảnh địa hình tự nhiên mà xác định cát hung. Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều dạng địa hình tự nhiên, là kết tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Quốc cổ đại trong việc nhận thức quan sát thế giới tự nhiên. Lý luận dƣơng trạch cũng chú trọng hình dáng và sự phối hợp hình thức của nhà ở, đƣa ra rất nhiều hình vẽ và cách thức cố định. Phần lớn khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do trƣờng phái tiên phong Giang Tây đề xuất và định nghĩa, mà đƣợc hậu thế nhất trí thừa nhận. Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả giới tự nhiên chân thực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, lại tƣơng đối dễ hiểu, nên đƣợc lƣu truyền rộng rãi trong xã hội, có ảnh hƣởng rất lớn trong xã hội. Trƣớc tác tiêu biểu của thuyết này là : Táng thƣ, Hám long kinh, Nghi long inh, Thập nhị trƣợng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh huyệt pháp , Ngọc xích kinh, Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dƣơng trạch thập thƣ. 2) Một học thuyết về thuật số cổ đại. Nội dung bao gồm : xác định hình thế sông núi, để xây dựng thành quách, nhà cửa, tức tƣớng địa, tƣớng trạch, tƣớng ngƣời, tƣớng lục súc tƣớng vật thể mà định cát hung. Đời sau bèn dùng hai chữ Hình pháp nhƣ chữ Phong thủy. Loan đầu phái : Tức phái Giang Tây. Vì học thuyết này chú trọng hình dạng của núi sông, nên có tên nhƣ vậy. Phúc hiến phái : Trƣờng phái Phong thủy. Một trong 2 trƣờng phái lớn của thuật Phong thủy. Thuyết này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Kiến), nên có tên gọi nhƣ vậy. Đến Vƣơng Cấp thời Nam Tống thì rất thịnh hành. Trƣờng phái này chủ yếu căn cứ vào cái lý của âm dƣơng, ngũ hành,


bát quái, cửu tinh, Hà Lạc mà tính toán. Nhấn mạnh âm sơn âm hƣớng, dƣơng sơn dƣơng hƣớng, để xác định quan hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Do phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý trạch pháp, dƣơng trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dƣơng, xác định hƣu cữu (cát hung) âm trạch cũng thƣờng luận về cát hung của tọa hƣớng, chủ yếu sử dụng cách phán đoán trừu tƣợng là chính, chứ không quan tâm nhiều đến hình dáng cụ thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là ốc trạch pháp. Thuyết này về sau phát triển thành học thuyết Lý pháp. Phái Phúc Kiến ít nhân tài, trƣớc tác cũng không nhiều, có chăng thƣờng là mƣợn tên của ngƣời đời trƣớc, khó biết đích xác là của ai. Từ đời Minh Thanh trở đi, phái này suy dần, chỉ lƣu truyền rộng rãi ở vùng Chiết Trung, ảnh hƣởng kém hơn hẳn phần Giang Tây. Lý pháp : Học thuyết Phong thủy. Còn gọi là Lý khí, tức hệ thống lý luận Phong thủy do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng các nguyên lý thuật số nhƣ : âm dƣơng, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà Lạc để tổng hợp và phán đoán cát hung, nhân mạnh phƣơng vị tọa hƣớng. Ví dụ thuyết Bát trạch trong lý luận dƣơng trạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử nguyên phi bạch, phép Tam hợp trạch, Song sơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số mệnh của ngƣời phối hợp với bát quái, cửu tinh, can chi, ngũ hành mà có đƣợc. Trong âm trạch, Tam ban đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành thủy pháp cũng dùng các loại nguyên lý thuật số căn cứ vào phƣơng vị sông núi mà tính toán. Dù là âm trạch hay dƣơng trạch, hầu nhƣ không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phƣơng thức và quá trình suy lý rất trừu tƣợng, phức tạp, rắc rối. huyền bí, đầu tính tƣ biện. Trƣớc tác về lý luận gồm Bát trạch minh kinh, Thanh nang hải giác kinh. Hệ thống lý luận chặt chẽ, kết quả suy lý gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm lâu dài. nhiều ít. Lý pháp thịnh hành thời Minh Thanh, nhƣng vì tính trừu tƣợng, huyền bí nên nó không đƣợc tầng lớp dƣới trong xã hội tiếp nhận. Ốc trạch pháp : Tức phái Phúc Kiến. Vì lý luận về dƣơng trạch hết sức chú trọng nguyên lý thuật số, biện luận phức tạp, độc đáo, rút ra từ Hoàng đế trạch kinh nên có tên nhƣ vậy. Đồ trạch thuật : Một lý luận Phong thủy thịnh hành giữa thời Hán Đƣờng, phép này lấy họ tên của ngƣời phối hợp với ngũ âm, đem nhà ở, mộ phần cũng phối hợp với ngũ âm, rồi phối hợp với nguyên lý ngũ hành sinh khắc, để xác định cát hung về nhà ở và mộ phần của những ngƣời có họ khác nhau. Chƣơng "Khiết thuật thiên" trong Luận hoành của Vƣơng Sung đời Đông Hán, chuyên luận về Đỗ trạch thuật. Xem mục Ngũ tính. Hình gia Tức Phong thủy tiên sinh (thày địa lý). Thời Hán có Hình pháp gia, là ngƣời xác định cung độ của nhà cửa mà định cát hung. Về sau những ngƣời hoạt động Phong thủy đều tự xƣng hoặc đƣợc gọi là Hình gia. Kham du gia : Lúc đầu là Chiêm gia, về sau là Phong thủy tiên sinh. Đời Hán có các nhà Kham dƣ. Sử ký. Nhật giả liệt truyện : "Thời Hiếu Võ đế, ông mời các thày bói đến hỏi : vào ngày nọ có thể cƣới vợ đƣợc không? nhà ngũ hành bảo đƣợc, các nhà Kham dƣ nói không đƣợc". Các nhà Kham dƣ đoán cát hung dựa vào 12 thần, tƣơng ứng với khu vực, bao gồm hoạt động xây dựng hữu quan, có quan hệ nhất định với Phong thủy. Nên đời sau dùng Kham dƣ để gọi thay cho Phong thủy, còn nhà Kham Dƣ tức là Phong thủy tiên sinh. Hằng ngôn lục của Tiền Đại Hân đời Thanh viết: "Nhà Kham dƣ đời xƣa, tức là ngƣời xem nhà cửa, mộ phần đời nay". Xem mục Kham dƣ. Âm dƣơng gia : Một trong "Cửu lƣu" (9 trƣờng phái) thời Xuân Thu, thời Hán cũng có âm dƣơng gia, bao gồm nội dung : can chi âm dƣơng, ngũ hành sinh khắc, ngũ đức chung thủy. Trƣớc tác có Kham dƣ kim quí, cũng chứa đựng nội dung Phong thủy, nên đời sau gọi Phong thủy tiên sinh là âm dƣơng gia hoặc âm dƣơng tiên sinh. Âm dƣơng tiên sinh : Tên thông tục thời xƣa gọi những ngƣời chuyên hoạt động Phong thủy , vốn xuất phát từ tên gọi âm dƣơng gia thời Tiên Tần. Hai chữ tiên sinh biểu thị sự tôn kính. Mông nhân : Chức quan thời Chu, chuyên trách quản lý phần mộ chung, phân biệt địa hình, vẽ đồ hình trình lên thƣợng cấp. Mộ đại phu : Chức quan thời nhà Chu , chuyên trách quản lý phần mộ trong nƣớc, vẽ địa hình bốn phƣơng và phần mộ trình thƣợng cấp . Lƣ trạch đãi chiếu : Chức quan đời Hán. Trung Quốc cổ đại phần nhiều dùng hệ thống quan lại "Thái sử lệnh" quản lý bốc phệ chiêm tinh, tƣớng trạch, tƣớng mộ; thời Hán thiết chế "Đãi chiếu" 37 ngƣời dƣới chức Thái sử, trong đó có 4 ngƣời là Lƣ trạch đãi chiếu, chuyên trách về tƣớng trạch. Tƣ thiên đài học sĩ : Chức quan thời Kim. Các triều Trung Quốc thời xƣa dùng hệ thống cơ cấu quan lại Tƣ thiên đài để quan sát tƣợng trời, định lịch pháp. Thời Kim quy định chức Học sĩ trong phạm vi toàn quốc phải trải 1 hi tuyển mới đƣợc bổ vào chức đó. Khoa mục thi tuyển thiên văn, lịch pháp, chiêm bốc, thuật Phong thủy (Địa lý tân thƣ) và thuật hợp hôn an táng. Một khi đã trúng tuyển trở


thành Thiên đài học sĩ, phải đồng thời tham gia sự hoạt động Phong thủy. Âm dƣơng nhân : chức quan đời Nguyên. Đời Nguyên quy định Tƣ thiên giám tuyển chọn âm dƣơng nhân qua thi cử. Khoa mục thi tuyển gồm : chiêm toán, tam mệnh, Chu dịch, Lục nhâm, Phong thủy dƣơng trạch (thi theo "Chu thƣ bí áo", "Bát trạch thông chân luận"), Phong thủy âm trạch (thi theo "Địa lý tân thƣ", "Doanh nguyên tổng luận", "Địa lý minh chân luận"). Trúng tuyển sẽ trở thành âm dƣơng nhân thuộc Tƣ thiên giám, tham gia tòng sự hoạt động phong thủy. Về sau , đời Minh cũng có thiết chế âm dƣơng nhân thuộc Khâm thiên giám, tòng sự hoạt động Phong thủy. âm dƣơng sinh Thời Nguyên, Tƣ thiên giám thiết lập khoa âm dƣơng học, học sinh theo học khoa ấy gọi là âm dƣơng sinh, chuyên về thuật số, lấy Chu dịch làm đầu, thứ đến thiên văn, tinh mệnh, chiêm bốc, tƣớng trạch, tƣớng mộ. Tƣ thiên giám lo bồi dƣỡng nhân tài, học sinh do các địa phƣơng trong cả nƣớc tiến cử, qua thi tuyển, nếu đỗ sẽ đƣợc nhập học. Đời Minh, Khâm thiên giám cũng có thiết lập khoa Địa lý, dạy phƣơng pháp lý luận Phong thủy; có chức quan nào khuyết, sẽ đƣợc bổ nhiệm. Phong thủy tiên sinh : Tên thông tục thời xƣa gọi những ngƣời chuyên hoạt động Phong thủy. Từ đời Đƣờng bắt đầu có tên gọi.này, nó trở nên phổ biến khắp nơi trong nƣớc cũng có khi gọi là Phong thủy sƣ. Phong thủy sƣ : Tên gọi nhung ngƣời chuyên hoạt động Phong thủy. Xem mục Phong thủy tiên sinh. Địa lý gia : Tức Phong thủy tiên sinh, vì Phong thủy còn gọi là địa lý, cho nên ngƣời chuyên hoạt động Phong thủy còn gọi là địa lý gia. Vân lộc mạn chung, quyển 4, của Triệu Nhan Vệ đời Tống, viết : "Nhà địa lý không rõ có từ thời nào . Từ khi Hoàng đế ra lệnh thay đổi Giáp tí, phối hợp can chi mà phân ngũ hành, nay nhà địa lý tất có thuyết đại ngũ hành, chẳng hạn Nhâm thuộc thủy, nhà địa lý báo bảo Nhâm thuộc Hỏa". Dung am bút ký. Dật văn của Tích Phúc Thành đời Thanh: "Ngƣời đời rất tin vào lời nói của nhà địa lý, họ bảo mai táng ngƣời thân ở chỗ đất lành, thì con cháu sẽ đƣợc giàu sang phú quí, trái lại sẽ nghèo hèn suy tuyệt" Địa lý tiên sinh : Ngƣời lấy thuật Phong thủy làm chức nghiệp, tức Phong thủy tiên sinh. Vì Phong thủy còn gọi là địa lý, nên có tên gọi đó. Sơ khắc phách án kinh kỳ, quyển 16: "Lại cách 2 tháng nữa, mời một địa lý tiên sinh đến chọn đất hoàn tất việc mai táng Vƣơng thị, từ đó dần dần có ngƣời tới cầu thân". Địa lý sƣ : Tức địa lý tiên sinh. Sơ đàm tập . Sƣ hữu. Học đạo của Lý Chí đời Minh : "ở đây Cƣu Thắng là địa lý sƣ (thầy địa lý). Kiên Hồ tứ tập. phong thủy của Chử Nhân Hoạch đời Thanh : "Thân phụ của Hồ Sơn Khiêm nói với thầy địa lý rằng, ngƣời đời biết tƣờng tận về huyệt mộ trong núi, há biết đến huyệt mộ trong lòng ngƣời". Táng sƣ : Ngƣời tòng sự hoạt động Phong thủy âm trạch . Phong thủy chia ra âm trạch và dƣơng trạch. Âm trạch chuyên nói về việc chọn đất mai táng, nên ngƣời ta gọi ngƣời chuyên về hoạt động này là táng sƣ. Địa sƣ : Ngƣời tòng sự hoạt động Phong thủy. Phong thủy có tƣớng địa, bốc địa, lại còn gọi là địa lý, địa học, nên ngƣời ta gọi ngƣời chuyên tòng sự hoạt động Phong thủy là địa sƣ. Bốc công : Ngƣời tòng sự chiêm bốc. Luận hoành. Cát nghiệm của Vƣơng Sung đời Hán: "Ban đêm không trăng mà trong phòng tự bừng sáng, vua lấy làm lạ, bèn triệu Công tào sứ Sung Lan đến để đi hỏi bốc công". Còn chỉ ngƣời tòng sự hoạt động Phong thủy, tức Phong thủy tiên sinh. Hậu Hán thu. Đống Tuyên truyện : "Công Tôn Đan làm nhà ở, mà bốc công cho rằng nhà này sẽ có ngƣời chết". Thái Bình quảng ký, quyển 137, dẫn sách U minh lục của Lƣu Nghĩa Khánh thời Nam triều : "Phụ thân của Viên An chết, bà mẹ sai An mang gà rƣợu đến biếu bốc công, nhờ chọn đất chôn cất". Đạo sĩ : Chỉ Phong thủy tiên sinh. Vốn chỉ ngƣời theo đạo phƣơng sĩ, tăng lữ, tín đồ Đạo giáo, trong đó phổ biến chỉ tín đồ Đạo giáo. Vì các phép vu thuật, phù chú của Đạo giáo cũng giống nhƣ các phƣơng pháp tƣơng tự trong thuật Phong thủy, nên vào một số thời kỳ, ở một số nơi các đạo sĩ cũng tham gia hoạt động Phong thủy, đồng thời các Phong thủy tiên sinh chân chính cũng đƣợc ngƣời ta gọi là đạo sĩ. La bàn : Còn gọi là La kinh. Công cụ quan trọng nhất trong thuật Phong thủy. Do Tƣ nam bàn, Lục nhâm bàn diễn hóa mà thành , xuất hiện nhƣ một công cụ định hình chuyên dùng trong thuật Phong thủy vào khoảng cuối đời Đƣờng Năm 1985 đào đƣợc một chiếc la bàn bằng gỗ trong tay bức tƣợng "Trƣơng Tiên. Nhân" thời Nam Tống bằng đất nung. Đến đời Minh, Thanh, la bàn đƣợc chế tạo khá lớn, chứa dựng nội dung cũng ngày thêm phức tạp; chiếc la bàn lớn nhất đạt tới hơn 40 lớp, bao gồm vạn tƣợng kinh vĩ trời đất, tập hợp cái lý của hai khí âm dƣơng, cái chỉ của bát quái ngũ hành, cái số của Hà đồ Lạc thƣ, cái tƣợng của thiên văn tinh tú, trình tự của tiết khí bốn mùa, dùng để xác


định phƣơng vị, quan sát thiên văn, tính toán ngày lành, dự đoán họa phúc, trở thành công cụ không thể thiếu trong hoạt động Phong thủy, biểu hiện nhận thức và hiệu chỉnh góc lệch địa bàn, đồng thời gợi mở vô số khái niệm mang tính suy lý tổng hợp và liên tƣởng triết học. Nhất là khi ứng dụng cho học thuyết Lý pháp thì nó càng thêm huyền bí khó hiểu. La kinh: Tức La bàn. Thuật Phong thủy dùng nó để thâu tóm vạn tƣợng, kể cả kinh vĩ trời đất, huyền diệu khó đoán. Xem mục La bàn. La bàn bát kỳ : Chỉ 8 trạng thái của chiếc kim trên la bàn trong những tình huống khác nhau, đó là : đƣờng, đoái khi, thám, trầm, nghịch, trắc, chính. Đƣờng, chỉ chiếc kim la bàn run rẩy bất định, không trở lại trung tuyến, chứng tỏ dƣới đất có đồ cổ. Đoái, nghĩa là đột khởi, chỉ chiếc kim cứ nằm ngang la bàn, không trở về trung tuyến, chứng tỏ dƣới lòng đất có khoáng sản hoặc vật bằng sắt. Khi nghĩa là dối trá, chỉ việc dùng sắt nhiễm tử dẫn kim, khiến nó di chuyển không ổn định. Thám, nghĩa là chúi xuống, chỉ chiếc kim nửa nổi nửa chìm, hoặc một đầu nổi, đầu kia chìm. Trầm, nghĩa là chìm, chứng tỏ dƣới đất có đồ đồng. Nghịch, nghĩa là không thuận, chỉ kim nổi mà không có trật tự. Trắc, nghĩa là không thẳng, chỉ kim cứ dao động sang hai bên, không trở về trung tuyến. Chính, nghĩa là không tà, chỉ kim ổn định, luôn chỉ hƣớng Tí Ngọ. Trong bát kỳ, chỉ có Chính là cát; còn 7 trạng thái kia chứng tỏ đất chỗ ấy không lành, không nén làm nhà, xây mộ. Thiên trì : Trung tâm la bàn, tức lớp thứ nhất. Nói chung, đƣờng kính là 1 thốn 2 phân, tƣợng trƣng 12 tháng trong 1 năm; sâu 3 phân, ví với 1 tháng có 30 ngày. Thiên trì trên la bàn dùng để bố trí kim la bàn chỉ hai hƣớng nam bắc, cũng có loại vẽ đồ hình Thái cực mà không bố trí kim la bàn. Phân kim : Phƣơng vị. Tức lấy 60 Giáp Tí phối thuộc ngũ hành, nhƣ Giáp Tí, ất Sửu là kim, bính dần, đinh mão là hỏa, mậu thìn, kỵ ty là mộc, canh ngọ, tân mùi là thổ, bính tý, đinh sửu là thủy. Vì ngũ hành lấy kim làm đầu, nên gọi là phân kim. Còn gọi là 60 long, trên la bàn biểu thị phƣơng vị, đồng thời có thể dựa vào đó mà phán đoán sinh khắc cát hung. Chính châm : Trên la bàn lấy phƣơng vị nam bắc mà kim nam châm chỉ hƣớng làm Chính châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Chính châm để xác định tọa hƣớng của nhà cửa, phần mộ. Có thuyết nói Chính châm dùng để định ô vuông của Lai long. Địa bàn: Các lớp sở thuộc Chính châm trên la bàn gọi là Địa bàn, thống nhất ở dƣới Chính châm, dùng để xác định tọa hƣớng. Có thuyết nói vừa để định ô vuông của Lai vừa để định hƣớng. Xem mục Chính châm. Trung châm : Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, ngƣợc chiều kim đồng hồ (hƣớng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Trung châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Nó có tác dụng hiệu chỉnh góc lệch địa bàn , có tính chất khoa học, song thuật Phong thủy giải thích là do tác dụng cảm ứng của khí ngũ hành hoặc hai khí âm dƣơng. Trung châm trên la bàn dùng để định ô vuông Lai long. Vì Lai long là từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, nên trƣớc tiên phải xác định tọa hƣớng của chúng. Có thuyết nói Trung châm dùng để nạp thủy. Thiên bàn : Các lớp sở thuộc Trung châm trên la bàn gọi là Thiên bàn, thống nhất ở dƣới Trung châm. Tác dụng của Thiên bàn là định ô vuông Lai long. Vì long thuộc dƣơng, thiên (trời) cũng thuộc dƣơng, nên gọi là Thiên bàn. Lại vì trời thuộc dƣơng, mà đất thuộc âm, dƣơng động trƣớc mà âm động sau, nên Thiên bàn vận hành trƣớc nửa bƣớc so với Địa bàn. Có thuyết nói Thiên bàn dùng để nạp thủy. Xem mục Trung châm. Phùng châm: Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, thuận chiều kim đồng hổ (hƣớng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Phùng châm, thực tế là cột bóng Tí Ngọ, tức là dùng cột bóng để đo bóng nắng mà biết đƣợc phƣơng vị nam bắc. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Phùng châm để thu nạp sa, thủy. Vì sa thủy là tử gần ra xa, tử trong ra ngoài, nên cần vận hành nửa bƣớc mà thu nạp. Có thuyết nói Phùng châm chuyên để tiêu sa. Nhân bàn : Các lớp sở thuộc Phùng châm trên la bàn gọi là Nhân bàn, thống nhất ở dƣới phùng châm, dùng để tiêu sa nạp thủy. Vì sa thủy là từ gần ra xa, từ trong ngoài, nên Nhân bàn vận hành sau nứa bƣớc so với Địa bàn. Có thuyết nói Nhân bàn dùng để tiêu sa. Xem mục Phùng châm. Môn xích : Một trong những công cụ chuyên dùng trong thuật Phong thủy. Làm bằng gỗ, trên cán chia thành từng nấc đều nhau, với các ký tự phân biệt cát hung, để đo đạc kích thƣớc cổng, cửa và đồ dùng trong nhà. Nếu khớp vào ký tự cát tƣờng thì là cát (tốt lành), khớp vào ký tự hung thì là hung. Môn xích gồm các loại nhƣ Lỗ Ban xích (thƣớc lỗ ban), môn quang xích. Lỗ Ban xích: Một loại môn xích (thƣớc đo). Làm bằng gỗ. Mặt trƣớc và mặt sau cùng chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 5 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. Dùng để đo kích thƣớc cổng, cửa đi, cửa sổ, phòng khách, bếp, các vật dụng trong nhà . Lấy chiều


ngang, chiều dọc, hoặc 3 chiều dài, rộng, cao, nếu rơi vào chữ cát tƣờng là cát, rơi vào chữ hung là hung. Còn tính chi li hơn, nhƣ cổng, cửa chính phòng khách nếu rơi vào các chữ "quyền lộc", "cát khánh" , "quan lộc" " thiên lộc" là đại cát; cửa đi và cửa sổ từng phòng trong nhà rơi vào các chữ " tử tôn" , "hoạnh tài" , "tuấn nhã" , " yên ổn" là đại cát; cửa bếp, bệ bếp nếu rơi vào các chu " thanh quí" , "mỷ vị" là đại cát; cửa đi, cửa sổ thƣ phòng nếu rơi vào các chữ "trí tuệ", "thông minh" là đại cát. Do độ dài của thƣớc thời xƣa và thời nay khác nhau, cho nên khó xác định độ dài tổng cộng của thƣớc Lỗ Ban là bao nhiêu. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì con số ấy là 29,7 cm. Môn Quang xích: Một loại môn xích (thƣớc đo). Làm bằng gỗ. Trên mặt chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 4 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. (Xem hình vẽ ở trang 347 nguyên tác). Dùng để đo kích thƣớc nhà cửa. Lấy chiều ngang, chiều dọc, nếu rơi vào chứ cát tƣờng (tài, nghĩa, quan, bản) là cát, rơi vào chữ hung là hung. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì độ dài tổng cộng của thƣớc Môn quang là 42, 76 cm. Sơn tổ : Tổ tiên của các mạch núi. Còn gọi là Tổ Long, tức núi Côn Nam long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền nam Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vƣợt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam thì tách khỏi Bắc Long mà chạy xuống phía nam, đến Thƣợng Lạc (nay là huyện Thƣờng, tỉnh Thiểm Tây), vƣợt Hán Thủy, đến núi Kinh, men mạch núi Đại Ba chạy xuống phía đông nam, lại vƣợt Trƣờng Giang, đến Hoành sơn, men phía đông Nam Lĩnh, tới Phúc Kiến, Chiết Giang mà ra biển. Thuật Phong thủy cho rằng mạch núi Nam Long phần nhiều kỳ vĩ, ở Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh) tạo thành địa thế hiểm trở, là đất đế vƣơng phát tích. Bắc long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền bắc Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vƣợt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam, Hoa sơn, lại vƣợt Hoàng Hà mà quành lên phía bắc, qua núi Vƣơng ốc, núi Thái Hành, chạy sang phía đông, đến Liêu Đông thì dừng. Thuật Phong thủy cho rằng Bắc Long là đất kết tuyệt vời, với các đỉnh núi cao ngất trời, đƣợc Hoàng Hà và sông áp Lục ôm ấp trƣớc sau, cùng với mạch núi Yên sơn tạo nên cơ nghiệp đế vƣơng ngàn năm. Trung long : Một trong 3 đại hành Long, chỉ mạch núi nằm ở khoảng giữa Nam Long và Bắc Long. Phần đầu nó đồng hành với Nam Long, đến Tần Lĩnh thì hƣớng sang phía đông, qua mạch núi Đại Biệt mà ra biển. Mạch núi này không có thế liên tục rõ rệt, chỉ là do vua cha của Minh Thái tổ Chu Nguyên Chƣơng đƣợc an táng tại Phụng Dƣơng, tỉnh An Huy, nên ngƣời đời Minh thần bí hóa Trung Long một cách khiên cƣỡng. Khiếu lĩnh : Mạch núi. Thuật Phong thủy dùng để đặc chỉ mạch núi ở miền tây nam, thuộc Nam Long. . Tái viên : Thời xƣa gọi vùng biên giới phía bắc là Tái viên. Thuật Phong thủy dùng để chỉ mạch núi miền đông bắc, thuộc Bắc Long. Toàn khu : Hình thế núi. Chỉ mạch núi khởi từ đƣờng chân trời, có đầu có đuôi. Thái tổ ở nơi xuất phát cao lớn hùng vĩ, đoạn giữa liên tục, nhấp nhô, phần cuối kết huyệt có tình, triều sơn và án sơn phía đối diện ngay ngắn đoan chính. Chỉnh thể trông nhƣ toàn bộ thân mình đầy đủ của một con rồng, nhƣ vậy thì sinh khí tự nhiên thỉnh vƣợng, an táng sẽ đại cát. Phân chi : Hình thế núi. Chỉ mạch núi chính tách ra mấy mạch nhánh, các ngọn núi nhô cao, xếp đặt có thứ tự lớp lang. Chỉ cần Tổ sơn cao lớn hùng tráng, thì sinh khí của các mạch nhánh cũng sẽ thịnh vƣợng, an táng sẽ đại cát. Ẩn phục : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tuy có ngọn núi không cao to lắm, nhƣng nhấp nhô chạy đến, liên tục không đứt, lúc ẩn lúc hiện, đến ngay trƣớc mắt. Long ẩn phục có sức mạnh lâu dài, an táng sẽ cát. Thực tế tƣơng đƣơng ẩn Long. Xem mục ẩn Long. Lĩnh quần long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở giữa, đƣợc các ngọn núi xung quanh tiền hô hậu ủng, nghiễm nhiên nó trở thành thủ lĩnh, an táng sẽ cát. Sinh long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi cao đẹp, nhấp nhô lên xuống, uyển chuyển chạy đến một cách sinh động, đồng thời có khá nhiều mạch nhánh, giống nhƣ cành lá phân bố đồng đều, nhƣ con


rết lắm chân, hoặc không có mạch nhánh, nhƣng giống nhƣ chuỗi ngọc đẹp. Sinh Long có tƣơng ngũ hành thuộc hỏa, an táng sẽ cát. Phi long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi sinh động khoáng đạt, có 2 mạch nhánh nhƣ hình chim nhạn giang cánh, phƣợng hoàng sải cánh ôm ấp huyệt mộ; an táng sẽ cát. Đằng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tƣơng đối thấp, nhƣng dần dần đi cao lên, với các đỉnh núi đẹp, thân núi dày rộng. Phải chọn huyệt tại đỉnh núi, gọi là định Thiên huyệt; an táng sẽ cát. Giáng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát cao đẹp lạ thƣờng, nhƣng mỗi lúc đi một thấp dần, giống nhƣ con rồng từ trên trời mây đáp xuống biển xanh. Giáng Long có sinh khí cực vƣợng, an táng sẽ đại cát. Có câu ca rằng "Thế nhƣợc giáng Long, thủy nhiễu vân tòng, tƣớc lộc tam công" (Thế nhƣ rồng đáp, từ mây cuốn nƣớc, tƣớc lộc sánh ngang chức tam công) (theo sách Quản thị địa lý chỉ mông). Hồi long : Hình thế núi. Nhƣ Phiên Long. Chỉ mạch núi uốn lƣợn trở lại, đầu đuôi tƣơng ứng, giống nhƣ con rồng cuộn mình lại. Hồi Long có tƣợng ngũ hành là mộc, là đệ nhất Long; an táng sẽ đại cát. Phiên long : Hình thế núi. Xem mục Hồi Long. Ngọa long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi đƣờng bệ sừng sững, dáng vững vàng, yên ổn, chân núi thu lại nhƣ con hổ dừng chân, con trâu nằm quì. Ngọa Long có sinh khí lâu bền; an táng sẽ cát, tuy phát tích hơi muộn. Thụy long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi du dƣơng mà đến, thản nhiên bình dị, khí độ ung dung, tinh thần bình tĩnh, giống nhƣ mắt rồng nhắm lại, mạch khí ẩn phục, tƣơng tự Ngọa Long, có tƣợng ngũ hành là thổ; an táng sẽ cát. Hoành long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tràn ngang qua, tiến thẳng không vòng lại. Nói chung không nên định huyệt; nhƣng nếu sa, thủy có tình, có tả hữu hộ vệ, thì cũng có thể an táng gần sống núi, gọi là Phán Long định huyệt. Xem mục Phán Long định huyệt. Xuất dƣơng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tứ chỗ đất bằng đột nhiên cao vút lên, siêu quần xuất chúng một mình đẹp đẽ, uốn lƣợn nhƣ rắn bò, giống ngƣ mãnh thú ra cửa rừng. Xuất dƣơng Long có sinh khí thịnh vƣợng, sức mạnh rộng lớn, chớ thấy nó đơn độc mà bỏ qua; về tƣợng ngũ hành, Xuất dƣơng Long là kim, an táng sẽ cát. Ẩn long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi bàng bạc từ xa mà đến, mạch lạc không rõ, tông tích lừ mờ, nhƣ có nhƣ không, giống nhƣ rồng rắn ẩn hiện; thực ra nó uốn trƣờn liên tục, sinh khí không hề bị tiết thoát, cứ thế tiến đến thẳng huyệt vị. Ở chỗ tận cùng, địa thế tựa nhƣ bàn tay để ngửa; định huyệt ở nơi hai dòng nƣớc hội tụ; an táng sẽ cát. Can long: Hình thế núi. Chỉ một mạch núi chính trong một số mạch núi, cao lớn hùng vĩ, có nguồn gốc từ xa, giống nhƣ thiên mã hành không (ngựa trời phi trên không trung), khí tƣợng tôn quí, có vô số núi hai bên hộ vệ. Can Long có sính khí cực vƣợng, nếu triều và án sơn có tình, thì an táng đại cát, chủ con cháu đời đời làm quan to. Chi long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tƣơng đối nhỏ tách ra từ mạch núi chính, thấp và ngắn hơn núi chủ. Sinh khí của Chi Long không vƣợng, nếu an táng ở đó, con cháu chỉ bình thƣờng mà thôi. Bình nguyên long: Địa hình. Đồng bằng không có núi, lấy gò đống làm Long. Nếu không có cả gò đống, thì lấy chỗ đất hơi cao làm Long, nhƣ câu "Đất cao 1 tấc cũng là núi". Nhƣng nếu dùng sức ngƣời đắp đất cao lên thành gò thì không Phải là Long. Hoặc lấy thủy đạo làm Long. Xem mục Thủy Long. Giáp phụ long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi nhỏ hơn ở hai bên mạch núi chính, nhƣ cành lá tách ra tứ thân cây hình thế thâm thúy; an táng sẽ cát. Ứng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi đối diện với Lai Long; cần phải ngay ngắn có tình, hô ứng với Lai Long. Nếu Lai Long không có ứng, thì không phải là Chân Long; Ứng Long không có chủ thì cũng không phải là Chân ứng. Sát long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hung dữ, đá cứng sần sùi, nhọn sắc nhƣ lƣỡi dao,


mũi tên, hiểm ác dị thƣờng; an táng ở đó con cháu sẽ gặp nhiều tai họa, hung hiểm. Kiếp long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tán loạn, không phân chính phụ, sinh khí không tụ; an táng sẽ đại hung. Phúc long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn ốc thâm hậu, hình thế tổ tông hoàn hảo, có các núi hai bên hộ tống. Phúc Long có sinh khí thịnh vƣợng; an táng đƣợc phúc. Dù tình huống nơi kết huyệt không thật nhƣ ý, cũng có thể căn cứ địa hình cụ thể mà chọn huyệt mộ. Bệnh long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi uể oải, lúc liền mạch lúc đứt quãng, sạt lở, nhiều hầm hố, do đó sinh khí bị thất thoát, không nên mai táng. Nếu miễn cƣỡng kết huyệt, chủ con cháu cô hàn. Tiến long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn gốc cao lớn, lần lƣợt thấp dần tổ tông cha mẹ phân minh, giống nhƣ ngựa trời phi xuống ráng mây. Nếu phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi tựa hồ cao dần lên, an táng sẽ khiến con cháu làm quan to; tƣơng tự Giáng Long. Thoái long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi sau khi xuất phát cứ từng bƣớc cao dần. Nếu ở phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi cứ tựa hồ thấp xuống, nhƣ lúi lại, thì an táng sẽ hung. Dù đƣợc huyệt đẹp, con cháu cũng chỉ phát phúc một đời, khó tránh khỏi bần cùng. Thuận long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trập trùng chạy đến, các mạch nhánh hai bên đối xứng, phía trƣớc có dãy núi bao bọc hộ vệ, bản thân nó nhấp nhô rõ ràng với nhiều mạch nhánh. An táng sẽ cát. Nghịch long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi chạy đến không thuận, chạy xéo đi không ngoảnh lại, các ngọn núi phía trƣớc và hai bên huyệt quay đầu đi mỗi cái mốt hƣớng, nhƣ anh em chẳng buồn quan tâm đến nhau. Không nên mai táng. Cƣờng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hùng tráng, linh hoạt khí khái, mạch nhánh hai bên có lực. Nếu an táng ở chỗ cuối của mạch núi, con cháu sẽ lập tức trở nên phú quí. Nhƣợc long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trơ trọi đơn bạc, cỏ cây lơ thơ, tựa nhƣ con trâu gày trơ xƣơng, ngã quỳ xuống đất, nhƣ con hạc gày không có gì ăn, rụng hết cả lông. Nhƣợc Long quá ít sình khí, không nên mai táng. Tử long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi lở lói, hình thể lở loét, không thể gƣợng dậy nổi, không có mạch nhánh hộ vệ, nhƣ cá mắc cạn, nhƣ cây không cành lá, chẳng nên mai táng. Thái tổ: Hình thế núi. Còn gọi là Tổ sơn, Thái tổ sơn, phát tƣớng. Chỉ đỉnh núi ở nơi mạch núi xuất phát, đột nhiên nổi lên cao sừng sững, trấn giữ một phƣơng, là đỉnh núi cao to nhất trong vùng. Từ đây có một hoặc nhiều mạch nhánh xuất phát mà trƣờn đi nhƣ rắn bò. Thái tổ phải cao chọc trời, hùng vĩ trang nghiêm, đƣờng bệ đáng kính. Thuật Phong thủy lấy quan hệ gia tộc thời cổ đại để ví với địa mạo. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ, tiếp đến Thái tông, Thiếu tổ, Thiếu tông, Phụ mẫu (cha mẹ), Tử tôn (con cháu), trong đó con cháu chỉ triều và án sơn. Xem các mục bên dƣới. Tổ sơn: Tức Thái tổ. Xem mục Thái tổ. Phát tƣớng: Hình thế núi. Tức Tổ sơn. Xem mục Tổ sơn Thái tông: Hình thế núi. Tức Thái tông sơn. Chỉ đỉnh núi tiếp sau chỗ xuất phát, thấp nhỏ hơn Tổ sơn một chút, là phần đầu của mạch núi. Thiếu tổ: Hình thế núi. Tức Thiếu tổ sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau Thái tông trong mạch núi, là phần hệ trọng của Long. Nếu hai cánh mở ra, cao to đoan chính là cát; nếu thấp nhỏ cô đơn là ít sinh khí. Thiếu tông: Hình thế núi. Tức Thiếu tông sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau thiếu tổ trong mạch núi, tiếp cận chỗ của mạch núi, nếu rõ ràng mạch lạc và liên tục là cát. Phụ mẫu: Hình thế núi. Chỉ nơi nhập thủ của mạch núi, mạch núi tới đó thì dừng. Phải nguy nga cao đẹp, lại lại có thế đi xuống. Ca quyết nói : "Vấn quân hà giả vi phụ mẫu, huyệt hậu nga nga tủng nhất sơn" (Xin hỏi thế nào là núi cha mẹ, là sau huyệt có một ngọn núi cao vút nguy nga). (Theo sách Kham dƣ mạn hƣng). Tử tôn: Hình thế núi. Tức triều và án sơn. Chỉ dãy núi đối diện với Lai Long. Sau khi mạch núi đã tận cùng, cần có đất dung nạp huyệt mộ và sa ở hai bên tả hữu. Ngay phía trƣớc huyệt mộ, phải có núi cao với diện mạo nhƣ chào đón, gọi là Tử tôn (con cháu) của Long.


Giáng thể : Hình thế núi. Chỉ nơi Lai Long nhập thủ phải có hình thế từ cao trải xuống thấp dần, để địa thế dần dần trở lại bằng phẳng, tiện lợi cho việc dựng nhà xây mộ. Chẩm kháo: Hình thế núi. Chỉ đồi núi ở sau lƣng nhà ở hoặc phần mộ, nói chung là nơi tận cùng của Lai Long, cũng chính là Huyền Vũ. Chẩm kháo có nghĩa là đối đầu dựa vào phía sau. Tam thoa: Hình thế núi . Tam là 3 , thoa là giao nhau. Chỉ mạch núi ở chỗ nhập thủ giao nhau nhƣ hình chữ "cá" (của tiếng Hán), nên còn gọi là "Cá tự" . Hai mạch nhánh chạy ở hai bên phía trƣớc là Long, Hổ, huyệt vị nằm ở giữa chỗ giao nhau, hai bên có dòng nƣớc kèm theo, ví nhƣ cái trán trên mặt ngƣời. SƠN HÌNH VÀ ĐỊA HÌNH Long mạch núi (sơn mạch) : Vốn là tên một con vật mang lại may mắn, theo truyền thuyết cổ đại Trung Quốc. Thuật Phong thủy mƣợn để chỉ mạch núi có sinh khí, nhấp nhô uyển chuyển nhƣ hình con rồng, nên gọi mạch núi, thế núi là Long. Âm dƣơng nhị trạch toàn thƣ : "Sự vận hành nhấp nhô của mạch đất (địa mạch) gọi là Long". Sinh khí vận hành trong lòng đất, không thể trực tiếp nhìn thấy, mà chỗ sinh khí thịnh vƣợng biểu hiện là mạch núi. Cho nên, Long là sinh khí sớ tại, Long đi thì khí đi, Long dừng thì khí dừng. Đất là mẹ của khí, khí dày ắt núi cao, khí dài ắt Long dài. Khí là mẹ của thủy, Long đi ất thủy tùy theo, thủy ngăn lại ắt Long dừng. Long gắn liền với sinh khí , dòng nƣớc, chẳng thể tách riêng. Long dừng khí tụ, ắt là đất lành, có thể làm nhà xây mộ. Do mạch núi thiên hình vạn trạng, nên Long có hàng loạt tên gọi. Các bộ phận của mạch núi cũng có sự phân biệt thành các bộ vị khác nhau trên thân Long. Mạch núi có đất, đá, cỏ cây, trong đó đất là thịt của Long, đá là xƣơng của Long, cây cỏ là da lông của Long. Ở vùng đồng bằng không có núi, thì chỗ hơi nhô cao lên là Long. Ở vùng đất thấp trũng, thì thủy đạo (đƣờng nƣớc) là Long, gọi là Thủy Long. Để phân biệt với mạch núi, thế núi của mạch núi gọi là Sơn Long. Thẩm Long hình, biện Long mạch, định vị trí của nhà cửa và huyệt mộ, là nội dung quan trọng hàng đầu của thuật Phong thủy. Lấy mạch núi chỉ sinh khí, dùng cha Long cho thêm thần bí, là mặt hạn chế của thuật Phong thủy. Còn mƣợn cách tìm Long để lặn lội khảo sát hoàn cảnh địa hình thích hợp cho việc dựng nhà xây mộ, là mặt có giá trị của thuật Phong thủy. Địa mạch : Tức mạch khí dƣới lòng đất, sự vận hành lên xuống của nó biểu hiện ở mạch núi trên mặt đất, cũng là "Long" trong thuật Phong thủy vậy. Long mạch Mạch núi. Nơi sinh khí vận hành. Thuật Phong thủy gọi mạch núi là Long. Long có mạch khí vận hành trong đó gọi là Long mạch. Tầm long : Còn gọi là "mịch Long". Tức là khảo sát toàn diện và thăm dò đo đạc hoạt động của chủ sơn (núi chính), là bƣớc thứ nhất trong nội dung của thuật Phong thủy. Phƣơng pháp tiến hành cụ thể là : trƣớc hết, phải xem mạch núi bắt nguồn tử xa hay gần, tổ tông của nó cao to chừng nào, cha mẹ của nó ở đâu, tiến thoái rõ ràng hay không; hai bên mạch núi có các chi nhánh nhấp nhô nhƣ hộ vệ hay không, nếu có nhiều thì đại (rất) quí; thứ đến trung quí (quí vừa), tiểu quí; cuối mạch núi cần có thế thoải xuống, đằng trƣớc cần có thủy lƣu uốn quanh, hai bên có dãy núi hộ vệ, nhƣ vậy thì sinh khí mới dừng tụ, gọi là Chân Long. Long chia ra âm dƣơng, đại thể mạch núi chạy sang bên trái (hƣớng đông) là dƣơng, chạy sang bên phải (hƣớng tây) là âm. Lại coi mạch núi thuộc phƣơng vị dƣơng chạy đến là dƣơng, mạch núi thuộc phƣơng vị âm là âm. Khi tầm Long, phải chú ý điều hòa phƣơng vị âm dƣơng. Nguyên tắc chung của tầm Long là nó phải tụ, nghĩa là mạch chính rõ ràng, uyển chuyển tiến về phía trƣớc, không nên phân tán thành nhiều mạch nhánh khó tìm. Ở chỗ Long dừng lại, tức chỗ cuối mạch núi, cần có thủy ôm ấp sinh khí tụ tập; nếu không, sinh khí sẽ thoát đi nơi khác, là đất hung. Phƣơng vị của nơi mạch núi nhập thủ cũng có qui định phức tạp, đại thể nếu từ phƣơng bắc nhập thủ là cát Tầm Long là nội dung trọng yếu của thuật phong thủy. Những tổng kết về mạch núi và một số nguyên tắc là kết tinh vốn kinh nghiệm lâu dài. Lai long : Tức núi chính (chủ sơn). Chỉ mạch núi chủ yếu ở giữa, cao lớn nhất. Lai Long đồng hành với mạch khí, là nơi sinh khí thịnh vƣợng, có thể dựng nhà xây mộ, tức là nhừ Lai Long mà đấc sinh khí. Bởi vậy, trƣớc tiên phải khảo sát phƣơng vị, hình dáng của Lai Long để định cát hung. Chủ sơn: Địa hình, tức Lai Long. Chỉ mạch núi hoặc ngọn núi chủ yếu ở phía sau huyệt mộ hoặc


nhà ở, là nơi có mạch khí, sinh khí theo đó mà đến. Xem mục Lai Long. Tổ long : Mạch núi. Còn gọi là Sơn tổ. Chỉ nơi xuất phát của mọi mạch núi trong thiên hạ, tức núi Côn Luân. Côn Luân có hình thế cao lớn hùng vĩ, chúa tể thiên hạ. Tổ Long tách ra 2 đại hành Long là Nam Long và Bắc Long. Có thuyết nói chia ra 3 đại hành Long, nghĩa là có thêm Trung Long. Tổ Long và hành Long là nơi sinh khí tổng hội tụ, dựng nhà xây mộ tại đó thì đại cát. 3/

HUYỆT

MỘ,

HUYỆT

PHÁP

TÁNG

PHÁP

Huyệt : Địa hình. Chỉ huyệt mộ hoặc mảnh đất sở tại, nơi tận cùng của Lai Long, sinh khí hội tụ, có hai sa tả hữu bảo vệ, có thủy ngăn lại phía trƣớc. Huyệt quan hệ mật thiết với mạch khí, hơi xê dịch, tức là thoát sinh khí. Phép định huyệt vô cùng phúc tạp. Trƣớc tiên phái xác định vị trí hai bên cao thấp, tiếp đó nhận đúng tọa hƣớng, thứ ba là phải phối hợp với hình thế bốn phía; bốn là xác định độ nông sâu thích đáng. Nguyên tắc chung là vừa có đƣợc sinh khí nuôi dƣỡng, vừa tránh ba cái hại là bị gió thổi, nƣớc xối và kiến đục. Có rất nhiều yêu cầu cụ thể, ví dụ, huyệt ắt phải có môi, tức Táng khẩu, phải có trán, tức Cầu thiềm; phải có hai thủy giao hợp, tức thủy Hà tu và thủy Hợp khâm. Do Lai Long, hai sa Long Hổ và ứng án phía trƣớc có hình dạng khác nhau, huyệt cũng phải có vị trí biến đổi tƣơng ứng, nên có khi huyệt ở đỉnh núi, ở sƣờn núi, ở chân núi, lại khác nhau nhƣ trực thụ, trắc thụ, nghịch thụ. Huyệt cao không nên chênh vênh, huyệt thấp không nên lặn mất; huyệt nổi rõ không nên vội vã; huyệt tĩnh không nên huyên náo. Huyệt của núi cao, ắt phải ở chỗ hơi lõm; huyệt tại vùng đồng bằng, nên ở chỗ hơi nhô cao. Hình của huyệt hoặc hiền nhƣ hoa, căng nhƣ nỏ, hoặc nhƣ bàn tay để ngửa, nhƣ miệng hổ, hoặc nhƣ vú xệ, nhƣ lỗ rốn... Trong một vài trƣờng hợp cũng có thể dùng sức ngƣời cải tạo địa hình cho phù hợp với yêu cầu kết huyệt. Mục đích cuối cùng của hàng loạt hoạt động Phong thủy âm trạch là tìm cho đƣợc huyệt địa lý tƣơng, phƣơng pháp vô cùng phức tạp, gắn liền với cát hung họa phúc. Ngoài nội dung mê tín, một số phƣơng pháp rất chú trọng việc báo vệ thi thể và môi trƣờng tự nhiên. Thổ huyệt : Huyệt mộ trong đất. Còn có huyệt ở núi đất núi đá. Thổ huyệt trên núi đất, chọn chỗ chất đất mịn nhỏ, chắc chắn là cát (lành), nếu quá ẩm thấp, tơi tả thì hung; trên núi đá thì mở huyệt ở chỗ có đất màu hồng và màu vàng thì cát. Thạch huyệt : Huyệt mộ trong đá. Còn có sự khác nhau ở núi đất, núi đá. Thạch huyệt trên núi đá, chọn chỗ đá mềm, ấm, dễ đào khoét là cát; trên núi đất thì mở thạch huyệt ở chỗ đá có màu tím và màu trắng, chất đá mềm ấm là cát, nếu chất đá cứng khô là hung. Bối tù chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ sƣờn núi u ám, ẩm thấp. Táng ở đó sẽ bị kiến đục và nƣớc xối lở, không cát lành. Đằng lậu chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ mạch núi xung quanh huyệt bảo vệ không chu đáo, hoặc trên sống núi có chỗ khuyết. Táng ở đó sẽ bị gió thổi, không cát lành. Bất cập chi huyệt : Chỉ huyệt mộ mà ở ngay phía trƣớc không có án sơn, triều sơn, khiến Ao phong thổi thẳng vào, đời con cháu sẽ bị tuyệt tự, hung. Bất súc Chi huyệt : Chỉ huyệt mộ nằm ở chỗ không có mạch núi bảo vệ, gió cứ thổi thốc vào, khiến xƣơng cốt mau bị hủy hoại, hung. Tứ trấn thập tọa: Huyệt pháp. Tức căn cứ hình thế của Lai Long để xác định chỗ đặt huyệt mộ. Trấn, nghĩa là trấn thủ; tọa, nghĩa là tọa lạc. Tứ trấn tức là trấn đầu Long, trấn gáy Long, trấn bụng Long, trấn chân Long (có khi nói là trấn lƣng Long). Tức là căn cứ hình thế hƣớng đi của mạch núi mà lựa chọn bộ vị tọa lạc của huyệt mộ. Nói chung, Long chạy thẳng đến, trấn đầu Long, tức là huyệt ở chỗ tận cùng, còn gọi là Tông Long. Long nằm ngang, trấn gáy Long, tức là huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, nên gọi là huyệt bám vào sống núi, hoặc Phán Long. Long cuộn khúc, trấn bụng Long, tức là huyệt ở chỗ đầu ngoảnh nhìn lại phía trong sƣờn núi, còn gọi là Ky Long. Long cao to bàng bạc, trấn chân Long, tức là huyệt ở chân núi, còn gọi là Thửa Long. Do "tứ trấn" mà sinh "thập tọa". Trấn đầu Long ắt tọa tai Long, mũi Long, trán Long, bờm Long; mà tránh đuôi Long, sừng


Long, răng Long, mắt Long. Trấn gáy Long, ắt tọa vai Long, gáy Long; mà tránh lƣng Long, cổ Long. Trấn bụng Long ắt tọa rốn Long, vú Long; mà tránh ngang lƣng Long, sƣờn Long. Trấn chân Long ắt tọa cổ tay Long , mắt cá chân Long; mà tránh khuỵu chân Long, móng chân Long. Có nhiều tiêu chuẩn nói về tứ trấn thập tọa khác nhau đôi chút, lại có thuyết nói thập nhị tọa, thực ra đều biểu thị một cách hình tƣợng sự lựa chọn bộ vị tốt nhất để định huyệt. Tông long : Huyệt pháp. Mạch núi từ xa chạy thẳng tới định huyệt ở chỗ tận cùng của mạch, thì gọi là Tông Long, hoặc trấn đầu Long. Hình của nó nhƣ nhụy hoa, trông ngay ngắn. Ky phía trƣớc Lai Long không có dãy núi che chở, bị ác phong thổi thẳng vào làm tiêu tán sinh khí. Xem mục Tứ trấn thập tọa. Kỵ long : Huyệt pháp. Mạch núi quay đầu ngoảnh lại nhìn phía đuôi, trông nhƣ vòng tròn, định huyệt ở chỗ lõm núi mà đầu Long quay lại, lấy đuôi Long làm án sơn, thì gọi là Ky Long, hoặc trấn bụng Long. Hình của nó trông nhƣ gian chính của tòa nhà, phía trƣớc huyệt có dãy núi chắn gió. Kỳ đối diện với sơn khẩu, gọi là "Kiềm lƣu trực huyền", nghĩa là dãy núi hai bên dốc thẳng xuống, sinh khí theo đó mà thất thoát hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa. Phán long : Huyệt pháp. Mạch núi chạy ngang, thẳng về phía trƣớc, không quay đầu nhìn lại, định huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, thì gọi là Phán Long, hoặc trấn gáy Long. Hình của nó giống nhƣ huyệt Kiên tỉnh lúc thân ngƣời đang nằm. Tối kỳ không có huyệt Kiên tỉnh và Hạ sa không ôm vòng, thủy Bát tự (thủy hình chữ "bát") không tụ lại, không có sinh khí, hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa. Thừa long : Huyệt pháp. Mạch núi cao to bàng bạc, nhấp nhô tiến tới; định huyệt ở khoảng giữa chân núi và vùng đồng bằng, thì gọi là Thừa Long, hoặc trấn chân Long. Hình của nó nhƣ ánh mắt lờ đờ, ngụ ý thế núi đã hết, nhƣng mạch khí vẫn còn, ở chỗ đất bằng tuy khó tìm dấu vết, song vẫn là đất lành. Ky mất thế mất mạch, cô đơn không chỗ dựa. Xem mục Tứ trấn thập tọa. Tam đình : Huyệt pháp. Vốn là thuật ngữ khoa xem tƣớng, chỉ 3 phần trên mặt ngƣời : phần trán là thƣợng đình, phần mũi là trung đình, phần miệng là hạ đình; hoặc chi 3 phần trên thân thể ngƣời : phần đầu là thƣợng đình; phần từ vai đến eo lƣng là trung đình; phần tử eo lƣng xuống chân là hạ đình. Lý luận Phong thủy cho rằng tƣớng núi giống nhƣ tƣớng ngƣời, nên lập huyệt Tam đình, gọi là Thiên đình, Trung đinh, Địa đình. Huyệt thiên đình nằm ở nơi cao nhất, đòi hỏi Lai Long lớn và xa, thế xuống nhƣ mây vờn, hai bên phía trƣớc có hộ vệ nghiêm mật, Minh đƣờng ở phía dƣới . Huyệt trung đình thì mạch núi uốn lƣợn, trong vuông ngoài tròn, rất chú trọng hình thế bốn phía xung quanh, đòi hỏi Minh đƣờng phải rộng rãi sáng sủa. Huyệt hạ đình nằm ở vùng đất bằng, nhƣng không đƣợc tách khỏi mạch khí, đòi hỏi Thủy thành phải nhƣ hình cầu vồng ôm ấp kín đáo. Thập nhị trƣợng pháp : Huyệt pháp. Còn gọi là Thập nhị đảo trƣợng, là phép Thừa Long định huyệt do Dƣơng Quân Tùng đởi Đƣờng sáng lập. Phƣơng pháp này căn cứ thế đến khác nhau của mạch núi mà qui định cách định huyệt khác nhau, nhƣ thuận trƣợng, nghịch trƣợng thúc trƣợng, xuyết trƣợng, khai trƣợng, xuyên trƣợng, ly trƣợng, một trƣợng, đối trƣợng, phạm trƣợng, tiệt trƣợng, đốn trƣợng; tổng cộng 12 trƣợng. Ngoài 12 trƣợng, còn có hình thế núi đặc thù, tạo thành 17 phƣơng pháp kết huyệt, nhƣ thuận trƣợng kiêm nghịch, thuận trƣợng kiêm thúc, nghịch trƣợng kiêm thuận, đại thể lấy thuận trƣợng và nghịch trƣợng làm phƣơng pháp cơ bản, kiêm với phƣơng pháp khác, rất cụ thể tƣờng tận. Thập nhị trƣợng pháp có ánh hƣởng rất lớn trong Phong thủy âm trạch, một số nguyên tắc trở thành tiêu chuẩn mà các Phong thủy sƣ đều tuân theo. Thuận trƣợng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thuận theo mạch chính của Lai Long. Yêu cầu lực lƣợng của Lai Long phải hậu trọng, thế đến hơi hòa hoãn, hơi uốn lƣợn; định huyệt phải chính giữa mạch khí, dung 4 phép Cái huyệt, Chƣơng huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt. Huyệt loại này cực quí, chủ con cháu làm vƣơng hầu, trạng nguyên. Nghịch trƣợng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ngƣợc với mạch chính của Lai Long. Yêu cầu Tổ sơn phải cao vút, nhấp nhô chạy thẳng đến trƣớc mặt. Định huyệt thì lấy Tổ sơn làm Triều sơn, dùng 4 phép Niêm huyệt, Tịnh huyệt, Câu huyệt, Tà huyệt.


Mạch núi phía trƣớc không đƣợc chĩa thẳng vào huyệt, nên huyệt phải cách mạch khí vài thƣớc, ngƣợc đón mạch khí. Huyệt loại này phát phúc lâu dài. Thúc trƣợng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long dài mà kết thế ngắn, khí tụ ở trên đỉnh, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở chỗ sống núi co lại. Yêu cầu chỗ tận cùng của đỉnh núi phải hơi nhô, sinh khí tụ tại đó giống nhƣ huyệt Bách hội trên đỉnh đầu con ngƣời; dùng 2 phép Cái huyệt và Thôn huyệt. Do huyệt ở chỗ khá cao, rất sợ gió thổi, nên bốn phía phải cao tƣơng ứng, Minh đƣờng viễn tụ. Thúc trƣợng nên cao, không nên thấp; nếu thấp sẽ bị núi bốn phía lấn át. Xuyết trƣợng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có thế đến hùng vĩ mà lục lƣợng nhỏ nhẹ, đến thẳng mà xuống gấp, cần thoát mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Mạch và huyệt lúc liền lúc rời, nhƣ thể dùng chỉ khâu áo, nên có tên nhƣ vậy (xuyết nghĩa là khâu). Yêu cầu huyệt phải ở cách mạch khí hoặc 1 - 2 thƣớc, hoặc 3 -4 thƣớc, không cao không thấp; thƣờng dùng 2 phép Niêm huyệt và Trụy huyệt. Nếu huyệt cách mạch quá gần, khó tránh bị xung sát, nếu cách quá xa, sinh khí không đƣợc tiếp nối. Khai trƣợng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long xộc thẳng đến nhƣ kẻ xung sát đáng sợ, cần né sang hai bên mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thành 2 huyệt; dùng 3 phép Ỵ huyệt, Ai huyệt và Tịnh huyệt, để huyệt mộ tránh bị xung sát mà tiếp nhận sinh khí từ bên cạnh. Yêu cầu phải quan sát xem Minh đƣờng, sa thủy, Triều sơn và án sơn qui tụ tại phƣơng nào. Huyệt cách mạch 2 - 3 thƣớc, gọi là mƣợn mạch lập huyệt, chủ phát đạt mau chóng. Xuyên trƣợng : Huyệt pháp. Chỉ mạch núi đến ngang hoặc đến xéo, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) tại chính diện, giống nhƣ dùng chỉ xỏ lỗ kim, tra cán búa, khí nhập vào eo lƣng. Yêu cầu Lai Long từ xa đến thẳng, không tách thành các nhánh, tứ ứng đều tốt; dùng 3 phép Sáp huyệt, Chƣơng huyệt, Cái huyệt. Mạch khí chỉ có thể đi vào từ eo lƣng, không đƣợc xung não, sau khi mai táng chủ phát phúc lâu dài. Ly trƣợng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có khí thế hùng vĩ, đang chạy đến thì bỗng nhiên sững lại, tụt xuống biến mất tại đồng bằng, cần tách khỏi mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Long mạch đang nhấp nhô chạy về phía trƣớc, đến chỗ kết huyệt bỗng dàn trải thoáng rộng, tựa nhƣ con rắn con ve lột xác, sinh khí không tụ, cách mạch 2 - 3 thƣớc ở phía trƣớc tất có chỗ lõm đột ngột, sinh khí tụ lại ở đó; định huyệt tại đây rất tốt. Dùng 3 phép Cái huyệt, Tịnh huyệt và Trụy huyệt. Huyệt không nén sâu. Một trƣợng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long uốn lƣợn xuống gấp mà chỗ tận cùng lõm hãm sinh khí đến đó thì hết; định huyệt (kết huyệt thụ huyệt) chỗ lõm, chìm vào mạch khí. Yêu cầu Lai Long phải có hình thế cao lớn, đến trƣớc huyệt thì uốn lƣợn sang hai bên rồi vòng lại, kết thành lõm núi, xung quanh cao, huyệt mộ tàng ẩn ở sâu bên trong. Dùng 5 phép Chƣơng huyệt, Sáp huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt, Giá huyệt. Nếu chỗ lõm quá nhỏ, có thể dùng sức ngƣời đục đẽo để tạo huyệt. Đối trƣợng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long cao thẳng to lớn, ở chỗ nhập thủ bỗng nhiên thấp xuống, trải ra bằng phẳng, không có chỗ lõm, chỗ kẹp, nên định huyệt ( kết huyệt, thụ huyệt) ở giữa mảnh đất đó, hoặc ở chỗ tiếp giáp giữa phần cao với phần thấp. Do mạch Đối trƣợng cao mà gấp, xung sát liên tục, nên nửa cát nửa hung, khó biết thành bại. Tiệt trùng : Huyệt pháp. Chỉ mạch khí của Lai Long không mạnh mẽ, chƣa đến chỗ tận cùng thì dừng thâu mạch khí mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Yêu cầu chân núi của Lai Long phải khá dài, lập huyệt ở chỗ mạch khí chƣa tận cùng; huyệt cao ắt bị gió thổi, huyệt thấp ắt bị băng đè, nên cần ngăn chặn mạch khí, làm cho sinh khí không bị tiết thoát, đó là điểm cốt yếu của Tiệt trƣợng. Phạm trƣợng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long ngắn nhỏ, hòa hoãn, nên định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở trên mạch; nếu lập huyệt ở chỗ tận cùng thì sinh khí quá yếu, kém tác dụng, cho nên phải phạm mạch tọa huyệt để lấy vƣợng khí; thƣờng dùng 4 phép Chƣơng huyệt, Thôn huyệt, Cái huyệt, Sáp huyệt; đồng thời yêu cầu Minh đƣờng phải rộng, núi sông phải ở phía xa. Có thuyết nói mạch Phạm trƣợng nguy hiểm, lập huyệt kiều này rất hung. Đốn (đột) trƣợng: Huyệt pháp. Chi Lai Long cao lớn hùng vĩ, Tứ ứng đều thấp, nên đắp đất thành gò ở chỗ tận cùng mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Do sinh khí của Lai Long quá vƣợng, gặp


thủy thì dừng mà cuồn cuộn bốc lên, bởi vậy phải đắp đất tạo huyệt để tiếp nhận sinh khí mà không bị xung. Nếu không đắp đất thành gò, huyệt mộ sẽ bị mạch khí bắn thẳng tới, mai táng ở đó con cháu sẽ tán gia bại sản. Oa kiềm nhũ đột: Địa hình. Thuật Phong thủy cho rằng lập huyệt mộ ở chỗ lõm tròn, là nơi sinh khí hội tụ. Nơi lõm tròn có hình dạng khác nhau, nên có tên gọi khác nhau, trên tròn dƣới nhỏ là Oa kiềm, dƣới tròn trên lớn là Nhũ, giữa tròn trên dƣới nhỏ là Đột. Bào đột : Địa hình. Ở trong chỗ lõm tròn của huyệt mộ có điểm nhỏ nhô lên, trông nhƣ cái bong bóng nƣớc (bào : bong bóng, đột : nhô lên); Nếu trong Oa kiềm có Bào đột, gọi là La văn, đại quí. Phù thổ: Chỉ thổ nhƣỡng của mặt đất ở chỗ có huyệt mộ. Bên dƣới nó là Thực thổ. Thực thổ: Chỉ thổ nhƣỡng ở sâu dƣới mặt đất, chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Phù thổ, bên dƣới nó là Huyệt thổ. Huyệt thổ: Chỉ thổ nhƣỡng ở rất sâu dƣới mặt đất chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Thực thổ, trên nữa là Phu thổ. Huyệt thổ ở dƣới cùng, nhƣ hạt châu dƣới vực, nhƣ ngọc trong đá; khi đào huyệt mộ tất phải đào tới Huyệt thổ, không đƣợc đào xuyên sâu hơn. Vì huyệt thổ tàng chứa sinh khí, nếu chƣa đào tới đo thì chƣa đắc khí, nếu đào xuyên qua ắt làm tổn thƣơng Long cốt. Phân biệt Huyệt thổ thì căn cứ vào màu sắc va đƣờng vân của đất. Mà sắc của huyệt thố thì trong và nhuận ẩm, đƣờng vân của huyệt thổ thì có nhiều dạng, hoặc nhƣ đồ hình Thái cực, hoặc nhƣ vỏ ốc, hoặc nhƣ lỗ vuông của đồng tiền cổ, vừa vặn dung nạp quan quách; hoặc bao quanh tảng đá, gỡ bỏ tảng đá đi thì thành huyệt. Còn có cách, khi đào tơi huyệt thổ thì dùng ngón tay vê thử, nếu đất thành viên tròn, đó chính là chân thổ (đất thực sự). Sâu dần xuống, đất cứng lại, không thể vê thành viên nhỏ, tức là chân thổ đã hết, nên san lấp lại dày chừng 2 ~ 3 tấc, rồi hãy đƣa quan tài xuống. Tam hại: Tức gió, nƣớc, kiến. Phong thủy âm trạch cho rằng huyệt mộ bị gió thổi, nƣớc xối, kiến đục là 3 cái hại, cho nên phải cẩn thận lựa chọn đất lành, tránh bị tam hại. Nếu chất đất tại huyệt mộ khô vụn, tơi, huyệt mộ không sâu, ắt khó tránh bị kiến đục. Nếu huyệt mộ ở chỗ đất ám ấm thấp, đào xuống quá sâu, thì khó tránh bị nƣớc xói lở. Nếâu xung quanh huyệt mộ sông núi bao bọc không kín, ngay phía trƣớc lõm khuyết, thì khó tránh bị gió thổi. Huyệt bị tam hại thì sinh khí không tụ, xƣơng cốt khó đƣợc bảo tồøn nguyên vẹn, nguời chết không yên, ngƣời sống gặp họa, đại hung. Tam cát lục hung: Tam cát nói về huyệt mộ, Lục hung nói về phép mai táng. Tam cát : một là tàng thần hợp sóc, thần đón quỵ tránh; hai là âm dƣơng xung hòa, ngũ thổ tứ bị , ba là mục lực chi xảo (nhìn vừa mắt), công lực chi cụ (công lực có đủ ), chu toàn không khuyết, tăng cao ích hạ. Phải chọn đất mai táng sao cho có thể đón cát tránh hung, điều hòa ngũ hành, bốn phía bảo vệ, dùng sức ngƣời tu bổ đƣợc, là cát. Lục hung : một, âm dƣơng sai biệt; hai, ngày tháng sai lạc; ba, sức nhỏ đòi làm lớn; trông chờ phúc đức lớn; năm, đội trên đạp dƣới; sáu, ứng biến quái dị. Nghĩa là khi mai tang, nếu phạm hung sát, chọn sai ngày giờ cuồng vọng hƣởng phúc, đối xử không đúng với ngƣời trên kẻ dƣới, phá hoại đất lành, nhiều lần gặp chuyện kinh dị, đều là hung. Thuật Phong thúy cho rằng huyệt cát mà táng hung thì chẳng khác gì đem thi thể vứt bỏ đi, rất xấu. Phong thi : Phép mai táng. phong tục thời cổ, trƣớc khi chôn ngƣời chết bèn dùng thủy ngân rót vào các lỗ trên thi thể để bít kín "thất khiếu", đề phòng thi thể khỏi bị thối rữa. Thuật Phong thủy cho răng nếu làm nhƣ vậy, thi thể sẽ không thể hóa, sinh khí khó bề nhập vào, chẳng khác gì thủy táng (đem vứt xác xuống sông), đại hung. Đạo táng : Phép mai táng. Thuật Phong thủy qui định : trƣớc khi đào mộ chôn ngƣời chết, phải đem rƣợu cúng Thổ thần, rồi cắt cỏ ở khoảnh đất ấy thành 3 đoạn, rồi mới đào huyệt mai táng, nếu không sẽ là Đạo táng (chôn trộm), thì hung. Ái khoảng: Phép mai táng. Khoảng, nghĩa là huyệt mộ. Phong tục ngày xƣa, sau khi đào mộ, dùng than hoặc củi đốt nóng để sƣởi ẩm trong lòng huyệt, gọi là ái khoảng. Thuật Phong thủy cho rằng, sinh khí gặp lửa sẽ không đến, việc ái khoảng sẽ diệt hết sinh khí, chẳng khác gì hỏa táng, đại hung. Đồng thời phản đối việc dùng gạch nung xây quanh huyệt mộ, vì gạch nung đều đƣợc chế tạo qua lò lửa, bên trong vẫn còn khí hỏa; thứ khí hỏa ấy sẽ tấn công sinh khỉ trong đất, tiêu diệt ngũ hành, hung.


Hóa huyệt: Phép mai táng. Tức ái khoảng. Xem mục ái khoảng. Quan thƣợng gia quan : Phép mai táng. Phong tục xƣa đem ngƣời chết sau chôn chung vào huyệt mộ của ngƣời đã chết trƣớc, gọi là "quan thƣợng gia quan", ngụ ý để lấy phúc. Thuật Phong thủy nghiêm cấm việc đó, vì cho rằng huyệt mộ đƣợc mai táng lần thứ nhất là đất mới, sinh khí thịnh vƣợng, nếu đào lần thứ hai để mai táng thì không còn là đất tự nhiên, sinh khí bị tiết thoát, sẽ làm cho cả hai cùng hỏng. Một mảnh đất cát lành đã có một huyệt đắc khí thì huyệt thứ hai không có sinh khí; cho nên trong gia tộc đem chôn ngƣời chết sau chung huyệt với ngƣời chết trƣớc là hung. Những ngôi mộ danh nhân cũng vậy. Trạch triệu: Đất huyệt mộ. Hiếu kinh. Táng thân viết : "Bốc kỳ trạch triệu nhi an thố chi". Đƣờng Huyền Tông chú giải : "Trạch, nghĩa là đất huyệt mộ, triệu, đất mồ mả vậy". Vị nhân trần tình biểu của Trần Tử Ngang đời Đƣờng có câu "Kim bốc cƣ trạch triệu, tƣơng nhập cựu doanh" (Nay bói đất đào huyệt, đem an táng ở ngôi mộ cũ. Về sau các chữ "Bốc trạch", "Bốc triệu" đều chỉ việc chọn đất an táng, riêng Bốc trạch còn có nghĩa chọn nơi làm nhà ở. Xem mục Bốc trạch. Ngƣu miên địa: Đất huyệt mộ. Rút từ Tấn thƣ. Chu Phỏng truyện : "Hồi Đào Khản còn nhỏ, Đinh Gian chết, sắp mai táng, nhà có con trâu bỗng dƣng bỏ đi đâu không biết. Gặp một ông già nói: Ở cái gò phía trƣớc lão thấy có con trâu nằm ngủ, nếu mai táng ở đó, sẽ đƣợc làm quan to. Ông già lại chỉ tay về phía một quả núi mà nói, chôn ở đấy cũng tốt, đời này sẽ có ngƣời làm quan hƣởng lƣơng hai ngàn thạch, nói đoạn biến đi luôn. Khản tìm thấy trâu, nhân đó đem mai táng ở chỗ ấy". Về sau ngƣời ta bèn dùng hai chủ ngƣu miên" (trâu ngủ) để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngƣu miên địa, Bình lập Thái sơn đới vĩ tƣ". Giai thành: Đất huyệt mộ. Rút từ Bác vật chí, quyển 7 "Dị văn" : "Đời Hán, Đằng Công (Hạ Hầu Anh) chết, định mai táng ở bên ngoài thành Đông Đô , các quan đi đƣa tang, chiếc xe tứ mã chở quan tài. Mấy con ngựa không chịu đi, cứ hí thảm thiết và dùng vó cào xuống đất, hằn thành dòng chữ "Giai thành uất uất, tam thiên niên, kiên bạch nhật, hu giai Đằng Công cƣ thử thất" bèn mai táng tại chỗ đó. Về sau ngƣời ta bèn dùng hai chữ "Giai thành" để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngƣu miện địa, Binh lập Thái sơn đới vĩ tƣ". Huyền thất: Nhà mồ. Tƣ đồ Lã Công lỗi của Trƣơng Hoành đời Hán (xem Nghệ văn loại tụ, quyến 47): "Khứ thử ninh ngụ, qui ƣ u đƣơng. Huyền thất minh minh, tu dạ di trƣờng". Tấn thƣ. Tá Quí Tần truyện: "Ái định trạch triệu, khắc thành huyền thất". Thuật Phong thủy bèn dung hai chữ "huyền thất" để chỉ huyệt mộ. Huyền trạch Huyệt mộ. Trịnh quân mộ chí minh của Hàn Dũ đời Đƣờng (xem Xƣơng Lê tập, quyển 32), có câu : "Động nhiên hỗn phác tuyệt hà thƣơng, Giáp Tí nhất chung phản huyền trạch". Đôn Hoàng, quyển Tử Bá 3358 "Mộ huyệt phù": "Thử thƣ huyền thất tứ giác, đại cát lợi". Huyền khƣ: Huyệt mộ. Quán thị địa lý chỉ mông. Thịnh suy cải độ đệ tứ thập" : "Đƣơng sơ lũ khảm, cự khoa kim nhật chi huyền khƣ, huống thử giai thành, ninh bảo thiên niên chi hoang tần !" với lời chú "Huyền khƣ, nghĩa là huyệt vậy". Sinh khoảng : Nhà mồ xây dựng cho mình lúc còn sống. Phong tục này có từ đời Hậu Hán. Hậu Hán thƣ. Triệu Kỳ truyện : Lúc còn sống, Triệu Kỳ xây dựng thọ tàng đúc 4 bức tƣợng Tử Sản, Án Anh, Lý Trát, Thúc Hƣớng đặt ở vị trí tân khách, lại tự vẽ chân dung mình treo ở vị trí chủ nhân, ngụ ý tán tụng". Lý Hiền chú giải : thọ táng nghĩa là nhà mồ, dùng chữ thọ, ngụ ý mong đƣợc lâu bền nhƣ chữ thọ quan, thọ khí vậy". Về sau, vào đời Đƣờng, quan Tƣ không xây dựng sinh khoảng, mỗi khi đến ngày lành vào mùa xuân, mùa thu, lại mời quan khách đến đó ngâm vịnh. Ngày nay vẫn còn có ngƣời theo cách ấy, thực là một hủ tục. THỦY

ĐẠO

THỦY

HÌNH

Thủy long: Chi thủy đạo (đƣờng nƣớc chảy) ở vùng đồng bằng. Thuật Phong thủy vốn lấy mạch núi làm Long, sinh khí tùy theo nó mà vận hành trong lòng đất, là Nội khí, còn thủy lƣu thì gọi là Ngoại khí. Ở vùng đồng bằng sông nƣớc, không có núi, chỉ có thủy, nên lấy thủy lƣu làm Long, đồng thòi


cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất mà vô hình, khi dồi dào sung mãn thì tràn lên mặt đất, tức là thủy. Quan sát thủy tức là quan sát khí, giống nhƣ tầm (tìm) Long ở vùng núi. Ca quyết nói: "Hành đáo bình dƣơng mạc vấn tông, Chỉ khán thủy nhiêu thị chân Long" (Thủy Long kinh tự ). Thuyết thủy Long lấy dòng sông lƣu thông làm Hành Long, tức là Can Long (thân Long), thân Long uốn lƣợn. giới định Ngoại khí. Mƣơng ngòi, kênh rạch là các Chi Long (phân nhánh), Chi Long giao hội, Nội khí thai nghén. Dựa vào thủy Long mà định huyệt dựng nhà, lấy Chi không lấy Can, nhƣng cần có Can Chi tƣơng xứng. Can Long không có Chi, khí của nó dàn trải, không thiết thân với nhà ở, huyệt mộ. Chi Long không có Can, tuy phát phúc nhƣng chẳng lâu bền. Điều quan trọng là phải phối hợp Can Chi một cách sinh động. Vùng sông hồ, nƣớc mênh mông trông nhƣ đại Can, dựng nhà có thể hội tụ sinh khí, làm mộ chỉ cần Chi thủy có tình là đƣợc. Trong thuật Phong thủy, thuyết thủy Long căn cứ vào tình hình vùng sông nƣớc mà đƣợc đề ra, có ảnh hƣởng rất lớn đối với Phong thủy dƣơng trạch. Thủy thành : Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu uốn quanh nhƣ bức tƣờng thành. Sinh khí vận hành trong lòng đất, gặp thủy thì dừng; thủy lƣu uốn lƣợn nhƣ cánh cung, giới hạn chân núi, ngăn dừng sinh khí, nên gọi là Thủy thành. Huyệt mộ, nhà ở đều cần nằm ở bên trong Thủy thành; nếu ở bên ngoài Thủy thành sẽ là phản cung, hung. Ngoại thuỷ : Thủy đạo. Đối ứng với Nội thủy, tức là dòng nƣớc chảy ở bên ngoài Minh đƣờng. Thuyết thủy Long lấy Can lƣu ở bên ngoài Chi thủy làm Ngoại thủy. Nội thủy: Thủy đạo. Chỉ dòng nƣớc chảy bên trong Minh đƣờng. Nói chung, nó chảy theo hai bên mạch núi đến Minh đƣờng, hội hợp ở trƣớc huyệt, yêu cầu phải Bình, Hoành, Nhiêu; có thể dùng sức ngƣời cải tạo cho phù hợp với yêu cầu. Thuyết thủy Long lấy Chi lƣu ở bên trong Can lƣu sông nƣớc làm Nội thủy. Nhuế vị : Thủy đạo. Nhuế, nghĩa là chỗ dòng sông uốn khúc. Còn gọi Thủy bắc là Nhuế. Phần lớn vị trí của huyệt mộ, nhà ở đều tọa bắc hƣớng nam; vị trí sơn nam thủy bắc gọi là Nhuế. Nhƣng yêu cầu thủy lƣu phải ôm vòng lấy phía trong nhƣ cánh cung, thì chỗ đất ấy mới lành. Nghênh tài: Thủy đạo. Chỉ phía trƣớc huyệt mộ có thủy lƣu bốn phía chảy tới hội tụ. Thủy tƣợng trƣng tiền tài, nên gọi là nghênh tài. Mai táng thì cát. Kim long: Thủy đạo. Thuật Phong thủy lấy Thìn sơn, Tuất sơn, Mùi sơn, Sửu sơn làm đất Tứ mộ; thuỵ chảy đi phƣơng vị Tứ mộ là cát. Nếu dòng nƣớc ở phƣơng vị Tứ mộ thông thoáng, thì nói là Kim Long động; nếu dòng chảy ở đó bế tắc, thì gọi là Kim Long không động. Kim Long động, thì tại đất huyệt mộ âm dƣơng điều hòa, thƣ hùng giao hội, cát lành. Kim Long không động, thì thiếu sinh khí, hung. Thủy khẩu : Thủy đạo. Chỉ chỗ nƣớc chảy vào chảy ra ở phía trƣớc nhà ở, thôn xóm hoặc huyệt mộ. Theo lý luận Phong thủy, sinh khí vận hành tùy theo mạch núi, gặp thủy thì dƣng. Nghĩa là Lai Long từ xa đến, ắt cần có thủy lƣu ở phía trƣớc để ngăn Long tụ khí. Bất kể thủy lƣu từ phƣơng nào chảy đến và chảy đi phƣơng nào, chỗ nó đến là nhập khẩu (chảy vào), cũng gọi là Thiên môn; chỗ chảy ra là xuất khẩu, gọi là Địa hộ. Hai chỗ đó gọi gộp là Thủy khẩu. Yêu cầu Thiên môn phải rộng rãi, không nên vòng vèo ách tắc; Địa hộ thì phải phong tỏa kín đáo, tối kỳ chảy thẳng đi một cách vô tình. Do tác dụng của địa hình, nƣớc bao giờ cũng chảy từ chỗ cao tới, nói chung có thể tự nó tìm cách mở rộng lối đi, nên Địa hộ (chỗ nƣớc chảy ra) càng trở nên quan trọng. Thuật Phong thủy trong đa số trƣờng hợp nhắc đến thủy khẩu thì chủ yếu là nói về Địa hộ. Táng kinh dực viết: "Thủy khẩu là một phía mà các loại thủy cùng chảy ra vậy". Vị trí của thuỵ khẩu nên nằm ở giữa hai bên núi cao hoặc ở chỗ mạch núi uốn lƣợn; yêu cầu dòng nƣớc uốn khúc mà chảy đi, không thấy nó chảy đi là cát Núi ở hai bên bờ thủy khẩu co 4 tên gọi là Sƣ (sƣ tử), Tƣợng (voi). Qui (rùa), Xà (rắn), lớp lớp che chắn trong thì tụ khí, ngoài thì chắn gió. Nếu Hanh Long phƣơng khác thích hợp với thủy khẩu, sẽ tạo thành các cục diện Hoa biểu, Cản môn, Thiên mã đại quí. Xây dựng đô thành, lăng tẩm đế vƣơng, thì núi ở hai bên thủy khẩu phải sừng sững, cao đẹp, hùng cứ một phƣơng. Cự li của thủy khẩu có xa và gần. Nhìn chung, đất huyệt mộ cách thủy khẩu tƣơng đối gần, còn thôn xóm đô thị thì cách thủy khẩu tƣơng đối xa, từ 1 đến 2 ~ 3 dặm, 7 ~ 8 dặm, thậm chí vài chục dặm, 2 ~ 3 trăm dặm.


Cách thủy khẩu xa tất là đại địa. Thủy khẩu đại chia ra nội, ngoại, đại, tiểu. Ngoại thủy khẩu tức Đại thủy khẩu, là nơi tổng vào ra của toàn bộ thủy lƣu trong vùng, tức Tổng thủy khẩu. Bên trong Tổng thủy khẩu bất kể Lai Long nhiều hay ít, kết địa nếu là Can, thì sát thân mình cần có Tiểu thủy khẩu, tức Nội thủy khẩu, yêu cầu Sa phải thành lớp lớp thu thủy. Ca quyết viết "Quan môn nhƣợc hữu thập trùng tỏa. Tất hữu vƣơng hầu cứ thử gian"; (Táng kinh dực), là đất đại quí. Trong Phong thủy dƣơng trạch, tại thủy khẩu ngƣời ta có thể tiến hành kiến tạo các công trình che chắn phong tỏa thủy khẩu, nhƣ bắc cầu, đắp đê, hoặc xây dựng trên bờ đình đài, lầu tháp, hoặc đắp gò nổi ngay trong nƣớc. Ở vùng đồng bằng không có núi che chắn thủy khẩu, thi đòi hỏi thủy lƣu phải uốn khúc, đồng thời phải kiến tạo công trình phong tỏa. Phƣơng vị của thủy khẩu cũng có quy tắc phải theo; Ở vùng rừng núi, nói chung thủy lƣu tùy theo hƣớng của mạch núi mà định, ở vùng đồng bằng, thì căn cứ địa thế cao thấp mà quyết. Đặc điểm địa hình của Trung Quốc là phía tây cao, phía đông thấp, nên các dòng sông chủ yếu chảy từ phía tây sang phía đông mà ra biển, cho nên thủy khẩu phần lớn cũng phải nằm ở phía đông, phía nam hoặc đông nam, mà phổ biến là ở phía đông nam. Thuật Phong thủy tổng kết rằng thủy khẩu ở vị trí Tốn sơn là cát lành. Thủy khẩu có nhiều tên gọi, ví dụ Phong môn, ngụ ý có gió thổi vào đây; gọi là Lậu đạo, ngụ ý sinh khí thất thoát từ đây; nên núi ở thủy khẩu có tên gọi Phong thành, Cản môn ngụ ý chắn gió, cản gió. Thuật Phong thủy cực kỳ coi trọng thủy khẩu". Có lý luận "Nhập sơn quan thủy khẩu" (vào núi quan sát thủy khẩu), cho rằng một vùng đất có đủ mọi điều kiện tốt mà thủy khẩu không đƣợc phong tỏa, thì rất hung. Tác dụng thực tế của thủy khẩu là giới định phạm vi bên ngoài của đất huyệt mộ, thôn trấn, đồng thời thủy khẩu cùng nằm ở chỗ địa thế thấp nhất, thƣờng thƣờng cũng là nút giao thông. Thuật Phong thủy rất chú trọng thủy khẩu về căn bản là do ngƣời ta coi trọng môi trƣờng bên ngoài của huyệt mộ và thôn trấn. Kim tinh thủy : Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lƣu uốn cong giống nhƣ cánh cung, nhƣ cầu vồng, lấy tọa bắc ôm vòng phía nam làm chính thể cát. Nếu tọa đông, ôm vòng phía tây, gọi là Hữu Kim, chủ con trai thứ phát phúc; tọa tây mà ôm vòng phía đông, gọi là Tả Kim, chủ con trai cả phát quí; nếu phản cung quay lƣng lại chủ suốt đời bần cùng. Trên thực tế, nhà ở và huyệt mộ nhất thiết phải co thủy lƣu ôm vòng ở một phƣơng. Mộc tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lƣu chảy thẳng theo hƣớng nam bắc. Vị trí đối diện thẳng với Mộc tinh thủy là bị bắn thẳng, hung. Mộc tinh thủy phối hợp với 4 tinh khác cung là hung, duy phối hợp với thổ tinh thủy thì chủ yếu là hung, chỉ có một chút cát lành. Thủy tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lƣu hơi uốn lƣợn nhƣ sóng, cát (lành). Thủy tinh thủy bất kể chảy về phía nào, nếu phối hợp với Kim tinh thủy đều là cát; nếu gặp Mộc tinh thủy, Hỏa tinh thủy bắn thẳng thì hung. Hỏa tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lƣu đến xéo đi xéo, hai thủy giao nhau thành mũi tên, trông thẳng cứng hoặc hơi uốn lên, hung. Chỉ có một thry đến xéo đi xéo, gọi là Tà phi, cũng hung. Hỏa tinh thủy phối hợp với các tinh khác, cũng hung. Thổ tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lƣu tràn ngang, theo hƣớng đông tây, hung. Các biến thể nhƣ Thổ thành thủy, Trung thổ thủy thì cát. Thanh long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ở phía đông (phía bên trái) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung. Chu tƣớc thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ở phía Nam (phía trƣớc) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng và tiếng nƣớc chảy của nó mà xác định cát hung. Bạch hổ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ở phía tây (phía bên phải) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung. Huyền vũ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ở phía bắc (phía sau) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung. Triều thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu chảy đến từ phía trƣớc nhà ở và huyệt mộ. Yêu cầu nó phải uốn lƣợn nhƣ con rắn trƣờn mình mà tới, hoặc nhƣ dải ngọc quấn quanh eo lƣng, trông dịu dàng hòa hoãn. Ca quyết nói: "Thủy kiến tam loan, phú quý an nhàn" (Thủy Long kinh). Nếu chảy thẳng đến, gọi là xung xạ, đại hung.


Kiềm thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ôm vòng hai bên tả hữu huyệt mộ nhƣ cái kìm, còn gọi là "Lƣỡng thủy hợp". Sau khi mai táng chủ con cháu không phú thì quí. Nếu bên trong cái kìm có chỗ đất cao, định huyệt tại đó, chủ con cháu văn võ toàn tài. Đấu thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu có hình dạng tròn, lõm, khuyết nhƣ cái đấu. Ca quyết nói: "Long hổ lƣỡng tƣơng đấu, gian nghịch đa hung cữu, phụ tử bất tƣơng thân, huynh đệ nhƣ cừu khấu" (Thủy long king). Hung. Xung xạ: Thủy đạo. Phàm thủy lƣu chảy thẳng đến trƣớc nhà ở hoặc huyệt mộ, đều gọi là Xung Xạ, đại hung. Phân phi: Thủy đạo. Phàm thủy lƣu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lƣng chảy đi, gọi là Phân phi. Hung. Phi thủy: Thủy đạo. Phàm thủy lƣu ở một bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lƣng chảy đi, chứ không ôm vòng lấy phía trong gọi là Phi thủy, hung. Phản thủy : Thủy đạo. Phàm thuỵ lƣu ở một bên hoặc cả hai bên nhà ở và huyệt mộ nhƣ cánh cung ôm ra phía ngoài, gọi là Phản thủy, hung. Nếu thủy lƣu ở phía sau nhà ở, huyệt mộ nhƣ cánh cung trở ngƣợc, thì gọi là Phản khiếu thủy. Nếu ở một bên hoặc ở phía sau thoạt đầu uốn lƣợn ôm lấy phía trong, nhƣng sau đó lại quay lƣng chảy đi, thì cũng gọi là Phản phi hoặc Tiên bão hậu phản, đều là hung. Ất tự thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng nhƣ chữ Ất, chảy vòng qua nhà, qua mộ mà đi, đại cát. Chi huyền thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng nhƣ chữ Chi, chữ Huyền, uốn lƣợn mà đến, đại cát. Nếu Chi huyền thủy ở phía trƣớc nhà ở hoặc huyệt mộ, gọi là Triều thủy. Thập tự thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu giao nhau nhƣ hình chữ Thập, ngang dọc rõ ràng, mai táng sẽ hung. Nếu xây nhà ở trong thị trấn thì cát; riêng một nhà thì hung. Nếu thủy lƣu giao xéo nhau thành chữ Thập, bất luận âm dƣơng trạch, đều là hung. Tính tự thuỷ: Thuỵ đạo. Chỉ thủy lƣu giao nhau nhƣ hình chữ Tỉnh, ngang dọc rõ ràng, mai táng sẽ hung. Nếu xây nhà ở trong thị trấn thi cát, riêng một nhà thi hung. Nếu thủy lƣu uốn lƣợn mà giao nhau nhƣ chữ Tỉnh, thì dựng nhà sẽ đại quí. Song long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng uốn lƣợn nhƣ con rồng, đồng thời ôm vòng lấy phía trong, an mộ dựng nhà đại cát. Lục kiện thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành thần đồng, trạng nguyên, Tể tƣớng. Nghênh thần thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chỉ con cháu trở thành thần đồng, trạng nguyên. Kim ngƣ yêu đới: Thủy Đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại phú, đại quý. Tứ long hí châu: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại phú, đại quý. Tiên chƣởng phủ cầm: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây chủ con cháu thi cử đỗ đạt cao. Phi phụng thủy : Thuỵ đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu có kẻ trở thành phi tần. Hồi long thủy : Thủy đạo. Chi thúy lƣu tử phƣơng đông nam chảy đến, vòng sang phía tây, ôm lấy nhà ở hoặc huyệt mộ, sau đó chảy về hƣớng đông bắc, hình dạng nhƣ chữ U nằm ngang, chủ con cháu nhiều đời phú quí, làm quan to. Ca quyết nói : "Thủy thần lai xứ phục hồi đầu, hồi long khí mạch thâu, phúc lý bao tàng vô thẩm lậu, phát phúc vĩnh vô hƣu" (Thủy Long kinh). Nếu thủy lƣu từ phƣơng tây nam chảy đền ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, sau đó chảy về hƣớng tây bắc, thì cũng tốt nhƣ vậy. Qua đằng thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu hơi uốn lƣợn nhƣ sóng, từ phía sau chảy đến ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, rồi lại chảy về phía sau mà đi; đại cát. Ca quyết nói : "Diện tiền nhất chuyển nhất trùng khố, tài bảo đa vô số, đại giang tiện xuất đại quan vinh, tiểu khê tất chủ gia hào phú" (Thủy Long kinh).


Hoành thủy : Thuỵ đạo. Chỉ thủy lƣu từ phía trƣớc hoặc phía sau nhà ở, huyệt mộ chảy tràn ngang qua, hung. Thực tế đó là Thổ tinh thủy. Ca quyết nói : "Thất hậu hoành thủy trực lƣu thông, tạm thời vị bại tức bần cùng" (Thủy long kinh). Đao thƣơng thuỷ : Thủy đạo. Chỉ nơi thủy lƣu giao nhau hoặc dừng lại có hình dạng nhọn nhƣ mũi dao, mũi thƣơng, chĩa thẳng vào nhà ở và huyệt mộ, đại hung. Ca quyết nói : "Lƣu lai thủy thế tự đao thƣơng, xạ hiệp xung tâm bất khả đƣơng" (Thủy Long kinh) Bát tự phân lƣu : 1) Thủy đạo. Chỉ thủy lƣu ở phía trƣớc huyệt mộ chảy ra nhƣ hình chữ Bát, chứ không giao nhau, hung. 2) Hình thế bên trong nhà ở. Chỉ rãnh nƣớc bên trong nhà từ sân giữa chảy ra thành hình chữ Bát cùng gọi là Thiên thần, hung. Tam hợp thủy : Thủy đạo. Chi ở 3 chỗ Bát tự, Tiết bao, Cầu thiềm đều có thủy lƣu từ hai bên chảy xuống, chia thành 3 lớp trong ngoài giao hội tại trƣớc huyệt và ở phía trong hai sa tả hữu, gọi là Tam hợp thủy. Trên thực tế thƣờng thƣờng không thấy mặt nƣớc, chỉ có rãnh nƣớc rất nông, dòng chảy không rõ. Cách kiểm tra nhƣ sau: đốt cỏ thành tro, rắc tro bốn phía, chờ lúc mƣa nhỏ, thấy tro bị dồn thành vệt, chính là nó. Cũng có Nhị hợp thủy, là Chi long kết mạch. Tác dụng của Tam hợp thủy là tụ họp sinh khi, nếu không có nó thì không phải đất lành. Đại bát tự: Thủy đạo. Ở chỗ tam thoa của Lai Long có thuỵ chảy tách ra hai bên hình dạng nhƣ chữ Bát. Vì bên dƣới nó lại có Bát tự thủy phân lƣu, nên gọi là Đại bát tự. Ví với cơ thể ngƣời, thì Đại bát tự là hai vai. Tiểu bát tự : Thủy đao. Bên dƣới tam thoa của Lai Long, ở chỗ Cầu thiềm, có thủy chảy tách ra hai bên, hình dạng nhƣ chữ Bát. Vì bên trên nó đã cỏ Bát tự thủy là Đại bát tự, nên gọi nó là Tiểu bát tự. Ví với cơ thể ngƣời, thì Đại bát tự là hai mắt. Hà tu thủy : Thủy đạo. Ở hai Sa tả hữu phía trƣớc huyệt mộ có thủy gần nhƣ giao nhau tại phần đầu mút, đó là Hà tu thủy. Ví với cơ thể ngƣời, thì Hà tu thủy là ria mép. Ngọc tính: Chỉ rãnh, hào chứa nƣớc ở trƣớc huyệt mộ. Nói chung ngƣời ta dùng sức ngƣời lát các phiến đá che bên trên rãnh nƣớc cho ngang bằng mặt đất; sau đó ngầm dẫn nƣớc từ hai bên Lai sơn cho chảy vào Ngọc tỉnh, rồi từ đây cho chảy ra phƣơng vị lục thế. Thực tế là dùng sức ngƣời cải tạo Nội thủy. Ngọc tỉnh có tác dụng khiến Nội thủy giao hội ở trƣớc huyệt mà không phá hoại địa thế bằng phẳng của Minh đƣờng Ngọc tỉnh phải là rãnh hoặc hào nƣớc do thiên nhiên tạo nên ở trƣớc huyệt, không thể do con ngƣời đào khoét, nêu không sẽ hứng chịu nhiều tai họa. Có thuyết nói Ngọc tỉnh là chỗ chứa nƣớc dơ trƣớc huyệt, không nên che đậy bên trên. Thủy thanh: Chỉ âm thanh do nƣớc chảy mạnh phát ra. Phàm thủy lƣu ở bốn phía nhà ở, huyệt mộ bất kể từ đâu chảy tới rồi chảy đi đâu, đều phải êm đềm hòa hoãn mới tốt; nếu chảy xiết réo sôi là hung; nghe rì rào thì đƣợc nghe ai oán hoặc sôi reo, ùng ục nhƣ tiếng sấm thì đại hung. Tiếng nƣớc chảy ở trƣớc nhà nghe nhƣ tiếng khóc la thoái tài (tiền tài sa sút). Thƣởng thủy pháp: Phƣơng pháp phân biệt chất lƣợng tốt xấu của thủy (nƣớc) để xác định cát hung. Thuật Phong thủy cho rằng vị của nƣớc tốt hay xấu có quan hệ với cát hung của mạch đất, nên dung Thƣởng thủy pháp (phép nếm vị của nƣớc) để dự đoán tình hình mạch đất. Ở vùng đồng bằng và gò đồi, thì lấy nƣớc giếng, nƣớc suối hoặc nƣớc mƣơng ngòi; Ở vùng núi thì lấy nƣớc khe suối, đƣa lên miệng nếm thử, nếu thấy vị ngọt, thơm, dịu là cát (lành), nếu thấy vị đắng, chua, cay, nồng là hung. 4/

PHƢƠNG

VỊ

TỌA

HUỚNG

Nhị thập tứ sơn: Phƣơng vị. Còn gọi là Nhị thập tứ lộ, Nhị thập tứ hƣớng, là một trong những khái niệm quan trọng nhất của thuật Phong thủy. Xuất hiện sớm nhất trong Ty nam ( kim chỉ nam ) thời cổ, hiện còn giữ đƣợc dụng cụ loại đó chế tạo vào đời Hán. Tức là đem chia vòng tròn 360 độ thành 24 phần bằng nhau, mỗi phần là 15 độ, gọi là 1 sơn và dùng 4 duy 8 can 12 chi để đặt tên. Trong thuật Phong thủy, phàm nói đến phƣơng vị, hầu nhƣ đều đề cập 24 sơn; đƣợc ứng dụng rất rộng rãi.


Trên hình vê, đƣờng gạch đứt ( - ) chỉ ranh giới âm dƣơng. Có thuyết nói từ Tuất sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Ất sơn là dƣơng, từ Thìn sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Tân sơn là âm. Một thuyết khác coi từ Tí sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Bỉnh sơn là dƣơng, từ Ngọ sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Nhâm sơn là âm. Khi nói đến Tọa hƣớng thủy pháp, lại thƣờng lấy 12 sơn Nhâm, Tí, Quý. Dần, Giáp, Ất, Thìn, Ngọ, Khôn, Thân, Tuất, Càn làm dƣơng; còn 12 sơn Hợi, Sửu, Cấn, Mão, Tốn, Ty, Bính, Đinh, Mùi, Canh Dậu, Tân lam âm. Trong phạm vi dƣơng là dƣơng sơn dƣơng thủy, trong phạm vi âm là âm sơn âm thủy, phái căn cứ qui tắc mà phối hợp, dƣơng chảy theo dƣơng, âm chay theo âm, âm dƣơng rối loạn thì hung. Mỗi một trong 24 sơn có tên gọi cát hung khác nhau, âm dƣơng trạch khác nhau. Dƣơng trạch lấy Càn sơn làm Thiên môn, Thú dƣơng; Hợi sơn là Chu tƣớc, Long đầu (đầu của long); Nhâm sơn là Đại họa; Tí sơn là Tử táng, Long hƣu thủ (tay phải của Long), đối ứng quẻ Khảm; Quý sơn là Phạt ngục; Sửu sơn là Quan ngục, Huyền ngục. Cấn sơn là Quỉ môn Trạch ung; Dần sơn là Thiên hình Long bối (lƣng của Long ); Giáp sơn là Trạch hình; Mão sơn là Hình ngục, Long hữu hiệp (sƣờn bên phải của Long), đối ứng quẻ Chấn, Ất sơn là Đằng xa, Tụng ngục, Thìn sơn là Bạch hổ, chân bên phải của Long; Tốn sơn là Địa hộ, Phong môn. Phúc thủ, Tỳ sơn là Thiên phúc, Trạch cực, đuôi Long; Bính son là Minh đƣờng, Trạch phúc; Ngọ sơn là Cát xƣơng, chân trái của Long, đối ứng quẻ Ly; Đinh sơn là Thiên thƣơng; Mùi sơn là Thân phủ; Khôn sơn là Nhân môn, ruột của Long, Phúc nang (Túi phúc); Thân sơn là Ngọc đƣờng; Canh sơn là Trạch đức. Dậu sơn là Đại (đức, sƣờn bên phải của Long, đối ứng quẻ Đoài; Tân sơn là Kim quý, Tuất sơn là Đia phủ, tay trái của Thanh Long. Tên gọi cát hung của 24 sơn âm trạch thì ngƣợc hƣớng với dƣơng trạch, ví dụ Hợi sơn của dƣơng trạch là Chu tƣớc, đầu của Long, thì đối nghịch là Tỳ sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, vậy Hợi sơn của Âm trạch biến thành Tỳ sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, âm trạch Ty sơn biến thành Chu tƣớc, đầu của Long. Những cái khác theo đó mà suy, nhƣng Tứ duy thì không biến động, nghĩa là Càn sơn, Cấn sơn Tốn sơn, Khôn sơn thì âm dƣơng trạch giống nhau. 24 sơn lại có tọa mệnh, nhƣ Hợi sơn dƣơng trạch là phụ mệnh (mệnh cha), Nhâm sơn là Mẫu mệnh (mệnh mẹ ), Tí sơn là mệnh con trai cả, Quý Sơn là mệnh con trai thứ. Âm trạch thì lấy Tỳ sơn làm mệnh cha, Bính sơn làm mệnh mẹ, Ngọ sơn làm mệnh con trai cả, Đinh sơn làm mệnh con trai thứ. Phàm xung phạm mệnh tọa, thì tai họa sẽ ứng vào ngƣời tƣơng ứng, đại hung. 24 sơn có quan hệ với ngũ hành, bát quái, 12 cung, cửu tinh, 24 thiên tinh, 24 tiết khí. Xem mục La bàn. Nhị thập tứ lỗ : Tức Nhị thập tứ sơn. Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tứ chính : Phƣơng vị. Chỉ 4 hƣớng chính đông, chính tây, chính nam, chính bắc. Trong 24 sơn đó là Tí sơn (chính bắc), Ngọ sơn (chính nam), Mão sơn (chính đông), Dậu sơn (chính tây), phân biệt đối ứng 4 quẻ Khảm, Ly, Chấn, Đoài. Tầm Long định huyệt nhìn chung không coi việc toạ lạc hoặc mặt hƣớng về tứ chính là cát. Tứ ngung : Phƣơng vị. Tức 4 góc. Chỉ 4 hƣớng đông nam, tây bắc, tây nam, đông bắc. Góc đông nam còn gọi là "Giao", góc tây bắc còn gọi là "Ốc lậu", góc tây nam còn gọi là "Áo", góc đông bắc còn gọi là "Hoạn". Trong 24 sơn, Tứ ngung là Càn sơn (tây bắc), Cân sơn (đông. bắc), Tốn sơn (đông nam), Khôn sơn (tây nam). Hạ tang lấy tọa lạc hoặc mặt hƣớng về Tứ ngƣng là quí. Tứ ngƣng còn gọi là Tứ duy. Tứ duy: Phong vị. Tục Tứ ngung. Xem mục Tứ ngƣng. Bát can : Phƣơng vị. Chỉ 8 thiên can trong 24 sơn là Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Qúy. Phân biệt lần lƣợt nằm ở các vị trí: chính đông thiên bắc 15 độ (Giáp), chính tây thiên nam 15 độ (Canh), chính nam thiên đông 15 độ (Bính), chính bắc thiên tây 15 độ (Nhâm), chính đông thiên nam 15 độ (Ất), chính tây thiên bắc 15 độ (Tân), chính nam thiên tây 15 độ (Đinh), chính bắc thiên đông 15 độ (Quý). Vì thiên can không có Sát mà địa chi không có Sinh nên hạ táng lấy tọa lạc hoặc chính hƣớng tám Can nói trên là quí. Ca quyết có câu : "Cổ nhân vi hà chỉ hữu bát, trong dục phùng sinh bất phùng sát" (Quản thị địa lý chỉ mông). Thiên môn : 1) Phƣơng vị. Chỉ hƣớng tây bắc. Chính là Càn sơn. Thuyết này xuất hiện rất sớm. Thuật Phong thủy cho rằng ở phƣơng vị Thiên môn không nên xây lầu cao, phạm vào chỗ đó sẽ hại


cho gia trƣởng. Chọn ngày Đinh, ngày Nhâm trong tháng Năm mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thi cát. 2) Địa hình. Chỗ nƣớc chảy đến hoặc chảy vào, cần phải rộng mở. Xem mục Thủy khẩu. Địa hộ : 1) Phƣơng vị. Chỉ hƣớng đông nam. Chính là Tốn sơn. Còn gọi là Phong môn. Thuật phong thuỵ cho rằng ở phƣơng vị Địa hộ không nên xây lầu cao, (chỉ nên mở cửa hoặc xây phòng thấp, để sinh khí khỏi bị bế tắc. Chọn ngày Bính, ngày Tân trong tháng Mƣời Một mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. 2) Địa hình. Chỗ nƣớc chảy đi hoặc chảy ra, cần uốn lƣợn ngoằn ngoèo. Xem mục Thủy khẩu. Nhân môn : Phƣơng vị. Chỉ hƣớng tây nam. Chính là Khôn sơn. Còn gọi là Long tràng. Phong thủy dƣơng trạch cho rằng Nhân môn là nơi nên làm chuồng trâu chuồngngựa. Chọn ngày ất, ngày Canh trong tháng Hai mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. Có thuyết nói Nhân môn là "Lý quỉ môn" hoặc "Nữ quỉ môn", không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phƣơng vị này. Quí môn : Phƣơng vị. Chỉ hƣớng đông bắc. Chính là Cấn sơn. Còn gọi là Quỵ Lộ. Tà khí, Sát khí phần nhiều từ phƣơng này đến, cho nên tuyệt đối không mở cửa hoặc làm phòng ở. Nên xây tƣờng cao che chắn sát khí. Chọn ngày Giáp, ngày Kỵ trong tháng Tám mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. Có thuyết gọi đây là "Biểu quỉ môn" , không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phƣơng vị này. Quí lộ : Phƣơng vị. Tức Quỉ môn. Xem mục Quỉ môn. Lục tƣơng : Phƣơng vị. Tƣơng có nghĩa phu trợ. Chỉ trạng thái sinh vƣợng của ngũ hành. Thuật Phong thủy lấy Dƣỡng, Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vƣợng trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục tƣơng, ở các vị trí lần lƣợt khác nhau nhƣ : Bính hỏa lấy Ngọ làm Đế vƣợng. Đinh kim lấy Mùi làm Quan đới. Khôn thổ lấy Thân làm Tràng sinh, Canh thổ lấy Dậu làm Mộc dục, Tân thủy lấy Tuất làm Quan đới, Canh mộc lấy Dần làm Lâm quan, Ất hỏa lấy Thai làm Quan đới. Căn cứ phƣơng vị Lục tƣơng, có thể dự đoán sự cát hung hƣu vƣợng của sơn, thủy. Nói chung, phàm Long hoặc Thủy đến từ phƣơng vị Lục tƣơng thì đều là cát lợi. Phƣơng vị sở tại của Lục tƣơng thì biến đổi theo ngũ hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập tứ sơn ngũ hành thủy pháp). Lục thế : Phƣơng vị. Thế có nghĩa phế bỏ, suy bại. Thuật Phong thủy lấy Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục thế, ở các vị trí lần lƣợt khác nhau và biến đổi theo Ngũ hành, nhƣ Giáp thủy lấy Dần làm Bệnh, Tốn mộc lấy Thìn làm Mộ, Càn kim lấy Hợi làm Bệnh, Nhâm hỏa lấy Tý làm Thai, Quý thổ lấy Sửu làm Suy. Từ đó có thể suy ra cát hung của sơn thủy. Nói chung, phàm sơn, thủy tử phƣơng vị lục thể đi tới thì không cát lợi. Từ phƣơng vị Lục tƣơng đến, rồi đi tới phƣơng vị Lục thế, thì cát. Phƣơng vị sở tại của Lục thế thì biến đổi theo ngu hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập tứ sơn ngù hành thủy pháp). Tứ mộ : Phƣơng vị. Chỉ 4 phƣơng Thìn sơn, Tuất sơn, Sửu sơn, Mùi sơn trong 24 sơn, lần lƣợt nằm ở vị trí đông nam thiên đông 15 độ (Thìn), tây bắc thiên tây 15 độ (Tuất), đông bắc thiên bắc 15 độ (Sửu) tây nam thiên nam 15 độ (Mùi). Hạ táng mà toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phƣơng vị Tứ mộ thì chỉ có hung, không có cát. Nêu thủy lƣu chảy đi phƣơng Tứ mộ, thì cát lợi. Xem mục Kim long. Tứ tuyệt: Phƣơng vị. Chỉ 4 phƣơng Dần sơn. Thân sơn, Tỳ sơn, Hợi sơn trong 24 sơn, lần lƣợt nằm ở vị trí đông bắc thiên đông 15 độ (Dần), tây nam thiên tây 15 độ (Thân), đông nam thiên nam 15 độ (Tỳ), tây bắc thiên bắc 15 độ (Hợi). Hạ táng mà toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phƣơng vị Tứ tuyệt thì đại hung. Tứ hung : Phƣơng vị. Phong thủy dƣơng trạch coi phƣơng vị sở tại của 4 hung tinh Lục sát, Ngũ quỉ, Họa hại. Tuyệt mệnh là Tứ hung. Ở vị trí Tứ hung thì phòng ốc nên thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Nếu Du niên của chủ nhà định cung Sinh tại phƣơng vị Tứ hung, thì không nên động thổ sửa chữa. Sinh khí tinh: Phƣơng vị. Thƣờng gọi tắt là Sinh Khí, một trong Cửu tinh. Tƣơng ứng sao Tham Lang, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là quẻ Cấn. Rất tốt. Âm trạch phong thủy dùng sao này chi phƣơng vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Tham Lang. Dƣơng trạch phong thủy chuyên chỉ phƣơng vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phƣơng, nhƣ Khảm trạch thi Sinh Khí ở phƣơng vị đông nam Tốn ; Đoài trạch thì Sinh Khí ở vị trí Càn, tây bắc. Tại vị trí có Sao Sinh Khí nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa, bố trí


phòng ở, giếng nƣớc, chuồng gia súc. Sinh Khí còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tƣơng ứng. Diên niên tinh : Phƣơng vị. Thƣơng gọi tắt là Diên Niên, một trong cửu tinh. Tƣơng ứng Vũ Khúc, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Đoài. Rất tốt. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phƣơng vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Vũ khúc. Dƣơng trạch phong thủy chuyên chỉ phƣơng vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phƣơng, nhƣ Càn trạch thì Diên Niên ở vị trí Khôn, tây nam; Chấn trạch thì Diên Niên ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Diên Niên nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng nƣớc. Diên Niên còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. (Xem mục tƣơng ứng) Thiên ất tinh: Phƣơng vị. Thƣờng gọi tắt là Thiên ất, còn gọi là Thiên Y, một trong Cửu tinh. Tƣơng ứng sao Cự Môn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Tốn. Tốt vừa. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phƣơng vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Cự Môn. Dƣơng trạch phong thủy chuyên chỉ phƣơng vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phƣơng, nhƣ Khôn trạch thì Thiên ất ở vị trí Khảm, chính bắc; Ly trạch thì Thiên Ất ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Thiên Ất, nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa; bô trí phòng ở, chuồng gia súc. Thiên ất còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tƣơng ứng. Thiên y tinh : Phƣơng vị. Tức sao Thiên ất. Xem mục Thiên ất tinh. Lục sát tinh : Phƣơng vị. Thƣờng gọi tắt là Lục Sát, một trong Cửu tinh. Tƣơng ứng sao văn Khúc, ngũ hành thuộc thủy, bát quái là quẻ Ly, hung (xấu vừa). âm trạch phong thủy dung sao này chỉ phƣơng vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Văn Khúc. Dƣơng trạch phong thủy chuyên chỉ phƣơng vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phƣơng, nhƣ Tốn trạch thì Lục Sát ở vị trí Đoài, chính tây; Cấn trạch thì Lục Sát ở vị trí Chấn, chính đông. Tại vị trí có sao Lục Sát, không nên xây phòng ốc cao lớn, mà nên bố trí nhà bếp, nhà vệ sinh. Lục Sát còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tƣơng ứng. Ngũ quỉ tinh: Phƣơng vị. Thƣờng gọi tắt là Ngũ Quỉ, một trong Cửu tinh. Tƣơng ứng sao Liêm Trinh, ngũ hành thuộc hỏa, bát quái là quẻ Chấn, đại hung (rất xấu). Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phƣơng vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Liêm Trinh. Dƣơng trạch phong thủy chuyên chỉ phƣơng vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phƣơng, nhƣ Khảm trạch thì Ngũ Quỉ ở vị trí Cấn, đông bắc, Ly trạch thì Ngũ Quỉ ở vị trí Đoài, chính tây. Tại vị trí có sao Ngũ Quỉ phòng ốc nên thấp bé, nên bố trí chuồng gia súc, nhà vệ sinh. Ngũ Quỉ còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tƣơng ứng. Họa hại tinh: Phƣơng vị. Thƣờng gọi tắt là Họa Hại, một trong Cửu tinh. Tƣơng ứng sao Lộc Tồn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Càn. Am trạch phong thủy dùng sao này chỉ phƣơng vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Lộc Tồn. Dƣơng trạch phong thủy chuyên chỉ phƣơng vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phƣơng, nhƣ Cấn trạch thì Họa Hại ở vị trí Ly, chính nam; Đoài trạch thì Họa hại ở vị trí Khảm, chính bắc. Tại vị trí có sao Họa Hại phòng ốc nên thấp bé, nên bố trí nhà bếp, chuồng gia súc. Họa hại còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tƣơng ứng. . Họa hoạn tinh: Phƣơng vị. Tức sao Họa Hại. Xem mục Họa Hại tinh. Tuyệt mệnh tinh : Phƣơng vị. Thƣờng gọi tắt là Tuyệt Mệnh, một trong Cửu tinh. Tƣơng ứng sao Phá Quân, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Khảm. đại hung (rất xấu). Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phƣơng vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Phá Quàn. Dƣơng trạch phong thủy chuyên chỉ phƣơng vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phƣơng, nhƣ Chấn trạch thì Tuyệt Mệnh ở vị trí Đoài, chính tây; Cấn trạch thì Tuyệt Mệnh ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Tuyệt Mệnh, không nên xây phòng ốc cao lớn, chỉ nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Tuyệt Mệnh còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tƣơng ứng. Phụ Bật tinh : Phƣơng vị . Tên gọi gộp hai sao Tả Phù và Hữu Bật, một trong Cửu tinh. còn gọi là Phục Vị, hoặc Phục Ngâm. Tƣơng ứng sao Phúc đức, tức bản cung, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là


quẻ Khôn. Tốt vừa. Có thuyết coi là hung tinh. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phƣơng vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Phụ Bật, Tả phù, Hữu bật. Dƣơng trạch phong thủy lấy Phụ Bật làm chỗ ký gửi phúc đức của chủ nhà, chuyên chỉ phƣơng vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phƣơng, nhƣ Khảm trạch thì Phụ bật vị trí Khảm, chính bắc; Khôn trạch thì Phụ Bật ở vị trí Khôn, tây nam. Tại vị trí có sao Phục Vị, tức có cổng chính của ngôi nhà thì mở cửa ở giữa Tam sơn; duy cấn sơn chính là Quỉ môn, chỉ có thể mở cửa ở hai bên Dần sơn, Sửu sơn. Phụ bật làm bản cung, còn là mộït trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tƣơng ứng. Phục vị: Phƣớng vị. Chỉ phƣơng vị ký gửi cung Phúc Đức của chủ nhân. Còn gọi là Phục Ngâm hoặc Bản cung, tƣơng ứng sao Phu bật. Cổng lớn của dƣơng trạch đều ở phƣơng vị Phục Vị. Xem mục Phụ bật tinh. Thái tuế : Phƣơng vị. Thời xƣa lấy phƣơng đối xứng với Tuế tinh làm Thái tuế. Hung. Ở phƣơng vị sở tại của Thái tuế, 1ớn thì nhƣ việc quốc gia cất quân, xây dựng cung điện mở mang bờ cõi, nhỏ thì nhƣ việc xây tƣờng sửa nhà, đều phải né tránh nếu phạm tức thị rất xấu. Thái tuế cứ 12 năm sẽ trở lại một vòng, năm Tý ở phƣơng Tý, năm Sửu ở phƣơng Sửu phƣơng vị đối xứng với Thái tuế ở dƣới mặt đất gọi là Tuế Hạ, ý nói bên dƣới Thái tuế. Tuế phá : Phƣơng vị. Phƣơng đối xứng với Thái tuế là Tuế Phá, thực ra là Tuế tinh sở tại. Hung. Phƣơng vị Tuế Phá sở tại không đƣợc động thổ xây dựng, thay đổi hôn nhân, xuất hành đi xa, phạm vào đó thi hao tổn tiền bạc, hại cho gia trƣởng. Tuế phá 12 năm trở lại một vòng, năm Tý thì Tuế phá ở Ngọ, năm Ngọ thì ở Tý, vòng trong là 12 chi ghi năm, vòng ngoài là phƣơng vị Tuế Phá sở tại. Tuế hạ : Phƣơng vị. Tức bên dƣới sao Thái tuế. Thái tuế ở trên trời, phƣơng vị đối ứng với nó ở dƣới đất là Tuế hạ, thực ra là phƣơng vị Thái tuế. Xem mục Thái tuế. Thái tuế thổ: Phong tục thời xƣa cho rằng phƣơng vị sở tại của Thái tuế thì không đƣợc động thổ tu sửa hoặc xây dựng, nếu phạm sẽ rất xấu. Đồng thời nếu đào thấy trong đất một khối thịt, ngƣời trong nhà sẽ bị bạo bệnh mà chết, tức là Thái tuế thổ. Trƣớc thuật thời cố có nhiều ghi chép về điều này. Gần đây ở một huyện nọ thuộc tỉnh Cam Túc có đào đƣợc một khối thịt, giám định khoa học cho biết đó là một loại khuẩn mô trắng hiếm thấy gọi là "Thái tuế khuẩn". E rằng đó là "Thái tuế thổ" mà cổ nhân từng gọi. Đại tƣớng quân : Phƣơng vị. Phƣơng mà Thái tuế "ăn" (che lấp) gọi là Đại tƣớng quân. Hung. Có hai thuyết. Thuyết thứ nhất nói rằng không đƣợc động thổ tu sửa hoặc xây dựng xung phạm Đại tƣớng quân. Thuyết thứ hai cho rằng nếu động thổ xay dựng ở phƣơng vị Thái tuế, thì ngƣời ở phƣơng vị Đại tƣớng quân sẽ bị tai hoạ. Đai tƣớng quân thƣờng cƣ ở Tứ chính, ba năm thay đổi một lần. Ví dụ, nếu Thái tuế ở phƣơng Dần, Mão, Thìn, thì Đại tƣớng quân ở vị trí Tý, chính bắc. Trong đồ hình, vòng ngoài là nơi sở tại của Đại tƣớng quân, vòng trong là phƣơng vị sở tại của Thái tuế. Lai lộ để lộ : Phƣơng vị . Phàm ngƣời ta di chuyển chỗ ở, nơi từ đó dời đi gọi là Lai lộ, nơi sẽ điều gọi là Để lộ. Ví dụ chuyển từ phƣơng nam lên phƣơng bắc, thì phía nam của nhà ở là Lai lộ, phía bắc của nhà ở là Để lộ. Sửa nhà không nên ở hƣớng Để lộ, sẽ khiến ngƣời ở bất an; còn sửa ở hƣớng Lai lộ thì không sao. Trùng âm trùng dƣơng : Hƣơng vị. 24 sơn lấy từ truất Sơn thuận chiêu kim đồng hồ đến Ất sơn là dƣơng, từ Thìn sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Tân sơn là âm. Lại lấy 12 sơn là Càn, Giáp Khôn, Ất, Khảm (Ty), Quý, Thân, Thìn, Ly (Ngọ), Nhâm, Dần, Tuất lam dƣơng; lấy 12 sơn Cấn, Bính, Tốn, Tân, Chấn (Mão), Canh, Hợi, Mùi, Đoài (Dậu), Đinh, Ty, Sửu làm âm. Thuật Phong thủy cho rằng dƣơng hoặc âm không nên vƣợng một ình, phải phối hợp với nhau mới là tốt, bởi vậy chủ trƣơng dƣơng trạch nên tu sửa ở phƣơng âm, âm trạch nên tu sửa ở phƣơng dƣơng. Nếu dƣơng trạch lại tu sửa ở hƣớng dƣơng, gọi là trùng dƣơng, âm trạch tu sửa ở phƣơng âm, gọi là trùng âm, đều không tốt. Tử khí : Phƣơng vị. Chỉ phƣơng vị cố định nào đó đối xứng với Sinh Khí trong xây dựng nhà ở. Trong một năm, vị trí của Tử khí thay đổi tùy từng tháng. Tử khí vào tháng Giêng đóng ở Ngọ, Đinh (chính nam và nam thiên sang tây 15 độ). Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tháng Hai ở Mùi, Khôn; tháng


Ba ở Thân, Canh , tháng Tƣ ở Dậu, Tân; tháng Năm ở Tuất, Càn; tháng Sáu ở Hợi, Nhám, tháng Bảy ở Tý, Quý; tháng Tám ở Sửu, Cấn. tháng Chín ở Dần, Giáp; tháng Mƣời ở Mão, ất; tháng Mƣời một ở Thìn, Tốn, tháng Chạp ở Tỳ, Bính. Mỗi năm Tử khí khởi đầu từ chính nam, thuận chiều kim đồng hồ xoay một vòng, ở vị trí đối diện với Sinh khí. Nếu tu sửa hoặc xây dựng nhà ở mà xung phạm Tử khí, thì sẽ bị tai họa. Thổ khí : Phƣơng vị. Phong thủy dƣơng trạch cho rằng tu sửa hoặc xây dựng nhà ở sẽ động thổ, làm kinh động thổ khí. Thổ khí bị kinh động, một phƣơng vi cố định nào đó bị xung phạm, thì ngƣời sống ở phƣơng vị ấy sẽ gặp tai họa. Ở phƣơng vị đo cần đƣợc yểm, trấn. Phƣơng vị thổ khí bị xung phạm trong một năm sẽ khác nhau tùy từng tháng: tháng Giêng ở Đinh , Mùi (chính bắc và tây bắc thiên sang bắc 15 độ). Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tháng hai ở Khôn, tháng ba ở Nhâm. Hoả ; tháng Tƣ ở Tân, Tuất; tháng năm ở Càn; tháng Sáu ở Dần, Giáp, tháng Bảy ở Quý, Sửu; tháng Tám ở Cấn; tháng Chín ở Bính, Tỳ, tháng Mƣời ở Thìn, Ất; tháng Mƣời một ở Tốn; tháng Chạp ở Thân, Canh. Chỉ có 4 phƣơng vị chính nam (Ngọ), chính bắc (Tý), chính đông ( Mão), chính tây (Dậu) là thổ khí không bị xung phạm. Nhị thập tứ sơn ngũ hành thủy pháp Phƣơng vị. Phƣơng pháp phối hợp 24 sơn với Chính Ngũ hành, Tràng sinh Ngũ hành và Cửu tinh. Căn cứ phƣơng vị của Lai long để biểu thị cát hung của phƣơng vị thủy chảy đến và chảy đi. Trình tự cụ thể nhƣ sau: trƣớc hết đem 24 sơn phối thuộc Ngũ hành theo ca quyết "Giáp dần thìn tốn đại giang thủy, tuất khảm (Tý ), thân tân thủy tổng đồng. Chấn ( mão) Cấn tỳ sơn ngƣời thuộc mộc, ly ( ngọ) nhâm bính ất hỏa vi tông". (Thanh nang hải giác kinh ). Khi đã định tính chất Ngũ hành của 24 sơn ất sẽ phân chia 5 cục kim mộc, thủy, hỏa, thổ, khởi Tràng sinh từng cục, đồng thời tạp phối Cửu tinh, tổng cộng đƣợc 24 vị trí, tƣơng ứng 24 sơn. Trong đó kim cục khởi Tràng sinh ở Tỳ sơn, mộc cục khởi Tràng sinh ở Hợi sơn; thủy cục và Thổ cục khởi Tràng sinh ở Thân sơn; hỏa cục khởi Tràng sinh ở Dần sơn. Tràng sinh Ngũ hành phối hợp với Cửu kinh (thực ra chỉ với 7 sao) xếp theo trật tự thuận và trạng thái cát hung nhƣ sau : Tràng sinh (cát), Tham Lang (cát); Mộc dục (hung), Văn khúc (hung), quan đới (hung), Văn khúc ( hung), lâm quan (cát) Vũ khúc ( cát), Đế vƣơng (cát), Vũ khúc (cát ), Suy ( hung ), Cự môn (hung), Bệnh (hung), Liêm trinh (hung), Tử ( (hung), Liêm trinh (hung), Mộ (hung ), Phá quân (hung), Tuyệt (hung), Lộc tồn (hung) Dƣỡng (cát), Tham lang (cát). Lấy 24 vị trí, khởi từ Tràng sinh, thuận chiều kim đông hồ, sắp xếp 24 sơn tƣơng ứng. Câu ca là: "Dƣỡng sinh Tham lang vị, Quan đới Mộc dục văn, Vũ khúc làm quan vƣợng, phùng suy thị Cự môn. Liêm trinh đa bệnh tử, đại mộ thuộc Phá quân, tuyệt thai thị Lộc tồn, thất diệu nhất khởi phân". (Thanh nang hải giác kinh). Do 5 cục khởi Tràng sinh khác nhau nên Tràng sinh Ngũ hành sau khi phối với Cửu tinh tại 24 sơn tƣơng ứng mỗi cục cũng khác nhau. Dƣới đây chỉ nêu ví dụ thủy cục và thổ cục khởi Tràng sinh. Các cục khác có thể suy diễn tƣơng tự. Đã biết phƣơng vị của 24 sơn tƣơng ứng với Tràng sinh Ngũ hành, Cửu tinh, thì có thể suy ra phƣơng vị đến và đi nào của thủy là cát hoặc là hung. Nguyên tắc cơ bản là nên từ phƣơng sinh vƣợng (phƣơng cát ) chảy đến, và chảy đi phƣơng tử tuyệt (phƣơng hung). Ví dụ, Tý sơn lai long. Về Ngũ hành tý sơn thuộc thủy, thủy cục khởi Tràng sinh tại Thân, nên phàm là 4 phƣơng vị Canh sơn (tƣơng ứng Tham lang), Mùi sơn (tƣơng ứng Dƣỡng), Khôn sơn (tƣơng ứng Than Lang), Thân sơn (tƣơng ứng Tràng sinh ), mà có thủy chảy đến, thì đều chủ có nhiều phú quý; còn phƣơng vị Dậu sơn (tƣơng ứng Mộc dục), Tân sơn (tƣơng ứng Văn khúc) thủy chảy xộc đến thì chủ phụ nữ trong nhà dâm loạn; lai thủy phƣơng vị Cấn sơn (tƣơng ứng Mộ) chủ ngƣời trong nhà bị hình phạt; lai thủy phƣơng vị Can sơn (tƣơng ứng Văn khúc), Tân sơn (tƣơng ứng Văn khúc), chủ trong nhà có dịch bệnh. Nếu lai thủy chảy về phƣơng sinh vƣợng, thì không có gì đáng lƣu luyến đất này. Nếu thủy chảy đi về hƣớng phƣơng vị Bính sơn (tƣơng ứng Lộc tồn) , Tốn sơn (tƣơng ứng Phá quân), chủ đời sau có công khanh. Ca nói : "Tý sơn địa, Canh Mùi cập Khôn Thân. Tứ vị triều lai đa phú quí, Dậu tân xạ nhập phụ nhân dâm. Long (Thìn) tẩu nhập, định tao hình. Lƣu Phá, Sinh, Vƣợng bất tu tầm. Văn khúc triều lai động ôn hỏa, nhƣ lƣu Bính, Tốn xuất công khanh, lai khứ yếu phân minh" (Thanh nang hải giác kinh). Nói chung chỉ cần nhớ rằng thủy từ thƣờng sinh vƣợng chảy đến và chảy đi về


hƣớng tử tuyệt là cát thì đủ rồi. Tràng sinh Ngũ hành : Tức Ngũ hành ký sinh 12 c ung. Vốn chỉ trạng thái khác nhau trong 12 tháng của Ngũ hành theo trình tự Tuyệt, Thai, Dƣỡng, Tràng sinh, Mộc Dûục, Quan đới, Lâm quan, Đế vƣợng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ. Thuật Phong thủy mƣợn các tên gọi ấy để chỉ trạng thái cát hung của phƣơng vị, trong đó Tràng sinh, Dƣỡng, Lâm quan, Đế vƣợng là cát, còn lại đều hung. Cũng có khi coi Quan đới, Mộc dục cũng là cát. Tràng sinh Ngũ hành trong thuật Phong thủy chỉ phƣơng vị, tùy Ngũ hành sở thuộc khác nhau của 24 sơn mà biến đổi, trong đó tác dụng chủ yếu là biểu thị phong vị thuỵ lƣu chảy đến và chảy đi. Xem thêm mục Nhị thập tứ sơn Ngũ hành thủy pháp. Đại du niên biến hào pháp : phƣơng pháp tính toán phƣơng vị bát quái Cửu tinh ký gửi cung phúc đức của chủ nhà dùng để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà. Trình tự cụ thể nhƣ sau. Trƣớc hết, căn cứ phép Tam nguyên tính xem mệnh của chủ nhà ký gửi ở cung nào (tên quẻ ), tức cung Phúc đức, hoặc còn gọi là Bản cung; sau đó khởi từ bản cung tính Cửu tinh theo trật tự thuận cùng phƣơng vị sở tại. Phải sử dụng phép biến hào tức là phải biến đổi ba hào trên, giữa, dƣới của quẻ ký gửi Bản cung, hào dƣơng thì biến thành âm, hào âm thì biến thành dƣơng, từ đó mà biết đƣợc phƣơng vị Cửu tinh. Lấy quẻ Càn làm ví dụ. Nếu mạng của chủ nhà ký gửi ở quẻ Càn, biến hào trên sẽ thành quẻ Đoài, là Sinh khí; biến hào trên và hào giữa, sẽ thanh quẻ Chấn là Ngũ quỉ; biến hào trên và hào dƣới sẽ thành quẻ Khảm, là Lục sát; biến hào giữa sẽ thành quẻ Ly, là Tuyệt mệnh. biến hào giữa và hào dƣới, sẽ thanh quẻ Cấn, là Thiên ất hoặc còn gọi là Thiên y; biến hào dƣới, sẽ thành quẻ Tốn, là Họa hại; biến cả ba hào sẽ thành quẻ Khôn, là Diên niên; cả ba hào đều không biến thì vẫn là quẻ Càn, là Phụ bật, hoặc còn gọi là Phục vị, tức cung Phúc đức, hoặc Bản cung. Trong Cửu tinh, lấy Sinh khí, Diên niên, Thiên Ất, Phụ bật làm 4 cát tinh; con Họa hai, Lục sát, Ngũ quỉ, Tuyệt mệnh làm 4 hung tinh; cũng có thuyết coi Phụ bật là hung tinh. Do phƣơng vị bát quái đã định, tức là cung Phúc đức sở tại, ta đem Cửu tinh (thực ra chỉ có 8 sao) sắp xếp theo trật tự thuận trên bề mặt 8 vị trí của nhà ở (Tứ chính và Tứ ngung), thì có thể phán cát hung, chỉ đạo việc xây dựng nhà ở. Vì sự biến hào quá rắc rối, cho nên các trƣớc tác Phong thủy nói chung đƣa ra cách bố trí thứ tự Cửu tinh bát quái nhƣ sau : Càn trạch là Càn ( Phúc đức, Phụ bật, Phục vị, từ đây xuống dƣới cũng nhƣ vậy), Lục sát, Thiên Ất, Ngũ quỉ, Hoạ hại, Tuyệt mệnh, Diên niên, Sinh khí, Khảm trạch là Khảm, Ngũ quỉ, Thiên ất, Sinh khí, Diên niên, Tuyệt mệnh, Họa hại, Lục sát. Cấn trạch là Càn, Lục sát, tuyệt mệnh, họa hại, Sinh khí, Diên niên, Thiên Ất, Ngũ quỵ. Chấn trạch là Chấn, Diên niên, Sinh khí, Họa hại, Tuyệt mệnh, Ngũ quỵ. Thiên ất, Lục sát. Tốn trạch là Tốn, Thiên ất, Ngũ quỵ, Lục sát, Hoạ hại, Sinh khí, Tuyệt mệnh, Diên niên, Ly trạch là Ly, Lục sát, Ngũ quỵ, tuyệt mệnh, Diên niên, Hoạ hại, Sinh khí, Thiên ất. Khôn trạch là khôn, Thiên ất, Diên niên, Tuyệt mệnh, Sinh khí, Hoạ hại, Ngủ quỵ, lục sát, Đoài trạch là đoài, Sinh khí, Hoạ hại, Diên niên, Tuyệt mệnh, Lục sát, Ngũ quỵ, Thiên Ất. Đối chiếu trật tự sắp xếp trên, có thể phân biệt phƣơng vị cát hung của 8 phía nhà ở. Tam nguyên pháp: Phƣơng pháp căn cứ trình tự nhất định mà tính toán bát quái ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Còn gọi là "Phúc nguyên Pháp". Tam nguyên tức là thƣợng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên. Lục thập (60) Giáp Tý là một nguyên. Tam nguyên cộng là 180 năm. Trƣớc hết cần biết niên đại khởi đầu hoặc chấm dứt ở Giáp Tý thƣợng nguyên, trung nguyên hay hạ nguyên. Qui định rằng năm 1504 (năm thứ 17 niên hiệu Hoằng Trị, Giáp Tý, đời nhà Minh ) là Thƣợng nguyên Giáp Tý, năm 1564 (năm thứ 13 Gia Tĩnh, Giáp Tý, đời nhà Minh) là Trung nguyên Giáp Týù, năm 1624 (năm thứ 4 Thiên Khải, Giáp Tý, đời nhà Minh ) làm hạ nguyên Giáp Tý. Từ năm 1504 trở về trƣớc và từ năm 1684 trở về sau, cứ 180 năm là một Tam nguyên mà tính mãi mãi. Ví dụ, năm 1864 1à Thƣợng nguyên Giáp Tý, năm 1924 là Trung nguyên Giáp Tý, năm 1984 là Hạ nguyên Giáp Tý, năm 2044 lại là Thƣợng nguyên Giáp Tý. Khi đã biết tam nguyên Giáp Tý, căn cứ giản đồ Dã mã Khiêu ta tính trên các ngón tay, theo khẩu quyết : "Dã mã khiêu giản tấu, tòng Dân số đáo Cẩu (Tuất). Nhất niên cách nhất vị, bất dụng Hợi, Tý, Sửu". Khẩu quyết phối hợp Tam nguyên pháp : "Thƣợng nguyên giáp tý nhất cung liên, Trung nguyên khởi Tốn hạ Đoài gian. Thƣợng ngũ trung nhị hạ bát nữ, nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên"(Dƣơng trạch thập thƣ). Ngoài ra qui định nam ở 5 trung thì ký gửi tại Khôn, nữ ở 5 trung thì ký gửi tại Cấn. Cách tính cụ thể nhƣ sau : trƣớc hết tra


xem can chi nam sinh của chủ nhà nam hoặc nữ, xem thuộc nguyên nào trong tam nguyên; sau đó tính theo khẩu quyết. Nếu chủ nhà là ngƣời sinh năm Bính Dần thƣợng nguyên, thì áp dụng câu "Thƣợng nguyên giáp tý nhất cung liên", tức là nam sinh trong 60 năm thƣợng nguyên, thì khởi nhất Khảm ở vị trí Dần, nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên, tức là nam thì tính số theo chiều nghịch , nữ thì đếm số theo chiều thuận, vậy sau 1 sẽ đến 9 Ly ở vị trí Tuất, là năm Ất Sửu, đó là do "nhất niên cách nhất vị, bất dụng Hợi Tý Sửu", cho nên phải chuyển tới 9 Ly, vị trí Tuất. Tính nghịch tiếp đến số 8 là Cấn, vị trí Dậu, là năm Bính Dần, ắt sẽ biết cung Phúc đức của chủ nhà là ở Cấn. Nếu chủ nhà là ngƣời sinh năm Qúy Hợi, thuộc Hạ nguyên, trung nguyên khởi Tốn, Hạ Đoài gian", tức là nam giới sinh vào Trung nguyên, thì năm Giáp tý khởi tính từ số 4 ở vị trí Tỳ, còn ngƣời sinh vào Hạ nguyên thì khởi tính từ số 7 Đoài, ở vị trí Thân. Vậy là năm Giáp Tý hạ nguyên tính từ sô 7 Đoài ở Thân, đếm nghịch đến 6 càn ở Mùi là năm Ất Sửu, đến 5 trung ở ngọ là năm Bính Dần, đến 4 Tốn ở Ly là năm Đinh Mão, đến 3 Chấn ở Thìn là năm Mậu Thìn, đến 2 khôn ở mão là năm Kỵ Tỳ, đến 1 Khảm ở Dần là năm canh Ngọ, nhảy sang 9 Ly ở Tuất ( vì bỏ qua Hợi tý sửu) là năm Tân Mùi đến 8 Cấn ở Dậu là năm Nhâm Thân, tiếp đến 7 Đoài ở Thân là nărn Quý Dậu. Do năm Quý Hợi ở cuối 60 giáp tý, nếu cứ tính lần lƣợt từng năm một nhƣ thế thì quá phiền toái. Trên bàn tay Dã mã khiêu có 9 vị trí, trong 60 giáp tí cứ 10 năm thì thiên can lặp lại một lần, mỗi lần một vị trí, thực tế mỗi vị trí vừa vặn cách nhau 1o năm; do đó ta có thể đơn giản hóa quá trình tính toán. Nhƣ vậy, khi tính nghịch đến 6 Càn ở Mùi là năm Quý Mùi cách năm Quý Dậu 10 năm, đến số 5 trung ở Ngọ là năm Quý Ty, đến số 4 Tốn ở Tỳ là năm Quý Mão, nên số 3 Thìn ở thìn là năm Quý Sửu, đến số 2 Khôn ở mão sẽ là năm Quý Hợi, ắt ta biết Phúc đức của chủ nhà ấy nằm ở Khôn. Nếu chủ nhà là nữ giới, theo câu : "Thƣợng ngũ trung nhị hạ bát nữ" tức là Nữ sinh vào thƣợng nguyên giáp ty thì khởi 5 trung ở Ngọ, sinh vào trung nguyên giáp tý thì khởi tính 2 khôn ở mão, sinh vào hạ nguyên giáp Tý thì khởi Bính 8 Cấn ở Dậu. Nếu nữ chủ nhà sinh năm ất Dậu thuộc trung nguyên, thì khởi tính 2 Khôn ở Mão, rồi "nam nghịch nữ thuận", vậy theo chiều thuận.

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 2 Phong Thủy Luận. TRẠCH HÌNH Dung huyệt: 1) Chỉ nền đất của nhà ở, thôn xóm, thành trấn (thành thị, thị trắn), gọi là huyệt trƣờng của dƣơng trạch, điểm dƣơng huyệt" tức là xác định nền đất và phạm vi của một địa chi nào đó. 2) Mộ huyệt có phân ra âm và dƣơng; âm long mà kết huyệt âm thì chủ bị nói xấu, phá hại gia sản; dƣơng long mà kết huyệt dƣơng, chu sự sinh li tử biệt. Phân biệt âm dƣơng thì căn cứ vào vị trí âm hay dƣơng mà xác định. Chính huyệt: Chỉ trung tâm của thành trấn. Tức Chính trung của Dƣơng huyệt. Đất là nơi xây cất công trình chính, nếu ở kinh đô thì là nội thành cung điện, hoàng cung; nếu ở tỉnh thành thì đó là dinh tỉnh trƣởng, ở châu huyện là công đƣờng. Cho nên, xây dựng kinh đô thì trƣớc hết phải xây dựng ở trung tâm (Chính huyệt) tông miếu, cung điện; xây dựng tỉnh thành thì trƣớc tiên xây dựng dinh thự quan nha; xây dựng châu huyện thì trƣớc hết chọn Chính huyệt xây dựng công đƣờng chính trị, thứ đến kho lẫm, nhà lao. Thuật Phong thủy coi đây là bảo đảm thể hiện thể chế tông pháp phong kiến trong kiến trúc thành trấn, cũng là một đặc trƣng kiến trúc đô thị của Trung Quốc thời cổ. Trạch hình: Tức hình dáng của nhà ở, chia ra hai loại trong và ngoài. Hình dáng bên ngoài của nhà ở là chỉ vị trí, hình dạng, địa hình tứ phía cùng cảnh vật kiến trúc của toàn bộ ngôi nhà. Hình dáng bên trong của nhà ở thì chỉ hình dạng,vị trí của mọi vật kiến trúc cùng hình thức phối hợp giữa chúng với nhau. Thuật Phong thủy cho rằng hình dáng bên ngoài của nhà ở liên quan đến khí thế của mạch đến, nếu không tốt, thì dù hình dáng bên trong có hay mấy, cũng sẽ không toàn vẹn. Hình dáng bên ngoài của nhà ở lấy vị trí địa thế của nhà ở làm yếu tố quan trọng nhất, nói chung nhấn mạnh yêu cầu địa thế bằng phẳng, Minh đƣờng rộng rãi, trƣớc sau có thủy bao bọc, thủy khẩu cách


nhà không quá xa. Kiến trúc cảnh vật xung quanh cũng rất quan trọng. Tốt nhất là bên trái nhà ở có dòng chảy, bên phải có đƣờng đi, đằng trƣớc có ao, sau lƣng có gò cao, gọi là đất “Tứ thần tƣơng ứng". Nhà ở không nên nằm ngay giao lộ, năm cạnh quan nha hầm hố, câu, nhà lao, không nên ở chỗ cây cỏ không thể mọc nổi, không nên có giếng nƣớc ở ngay trƣớc cổng ... Nhà ở tại các quần thể kiến trúc, nhƣ thôn trấn, thành phố, thì điều kiện tự nhiên chi phối căn nhà là phụ; chủ yếu phải xem xét mối tƣơng quan hài hòa với cảnh vật kiến trúc xung quanh, đồng thời so sánh Sa, Thuỵ. Ca nói: “Vạn ngõa lân lan thị tỉnh trung, cao liên tầng tích thị lai long” (Dƣơng trạch tập thành; quyển 1), lại nói : “Nhất tầng nhai cù vi nhất tầng thủy, nhất tầng tƣờng ngõa vi nhất tầng sa. Môn tiền nhai đạo tức thị Minh đƣờng, đối diện thất vũ tức vi án sơn”. (mỗi đƣờng phố coi nhƣ một dòng nƣớc chảy, mỗi bức tƣờng là một lớp Sa, Đƣờng phố trƣớc cửa tức là Minh đƣờng đối diện phía trƣớc ngôi nhà tức là Án sơn) (Dƣơng trạch hội tâm tập ). Nghĩa là các mái nhà liên tiếp nhau tức là Long, căn cứ vào các đƣờng hẻm để luận khí, còn đƣờng phố là thủy đạo vậy. Qui định về hình dáng nhà ở cũng rất phức tạp, không dƣới một trăm điều, chỉ nêu ví dụ vài điều, nhƣ hình 198. Hình dáng bên trong của nhà ởchủ yếu là vị trí, dạng thức, độ cao thấp của các vật kiến trúc trong nhà, ví dụ qui định cột phòng chính phải dùng số 9, cột sảnh dùng số 7, cứa dùng số chẵn. Thuật Phong thủy cho rằng mở cửa phía tây là “bạch hổ há mồm" thì không cát. Cối giã gạo không đƣợc nằm cùng một hàng với lai long. Bên ngoài cổng không đƣợc xây dựng thêm phòng ốc; bên trên cổng không đƣợc xây dựng lầu. Trong nhà không nên có phòng ốc hình chữ Đinh, không nên có đƣờng đi xuyên tâm. Phƣơng vị mở cửa, độ cao thấp của phòng ốc chủ yếu căn cứ vào phƣơng vị Cửu tinh rnà xác định. Việc bố trí giếng nƣớc, chuồng gia súc, nhà vệ sinh, nhà bếp cũng vậy. Qui định về hình dáng bên trong nhà ở cũng rất phức tạp, không dƣới một trăm điều, chi nêu ví dụ vài điều, nhƣ hình 199. Phần lập luận trong Thuật Phong thủy liên quan đến hình dáng nhà ở có một bộ phận là sự tích lũy và đúc kết kinh nghiệm lâu dài, ví dụ nhà ở không nên hẹp theo chiều nam bắc. dài theo chiêu đông tây. không nên bốn phía là đƣờng lớn không năm trên sống núi, chỗ cửa gió...Có một bộ phận mang tính chất mê tín, còn lại thì liên quan đến tập quán truyền thống dân tộc và quan niệm thẩm mỷ. Tam yếu lục sự : Hình dáng nhà. Tổng kết những nhân tố quan trọng liên quan đến xây dựng nhà ở của Phong thủy dƣơng trạch. Tam yếu gồm : chủ, môn, táo, tức là mệnh của chủ nhà phối họp với ngôi nhà, hƣớng mở cổng và cửa. vị trí của bếp. Lục sự gồm : môn (cồng cửa), táo (bếp), tỉnh (giếng nƣớc), lộ (lối đi), xí (nhà xí), cối giã gạo, những vị trí nên hoặc kỳ của các nhân tố đó. Tĩnh trạch : Hình dáng bên trong của nhà ở. Chỉ nhà ở chỉ có 1 dãy hay 1 phòng. Vì số dãy, phòng ít, nên phƣơng vị của cửu tinh ngũ hành về cơ bản là cố định, không cần thay đổi vị trí, độ cao thấp của vật bài trí khi cửu tinh thay đổi. Động trạch : Hình dáng bên trong của nhà ở. Chỉ nhà ở có từ 2 - 5 dãy hoặc phòng. Vì số dãy, số phòng nhiều, nên cửu tinh ngũ hành sẽ biến đổi có qui luật theo dãy phòng và phƣơng vị cổng, phƣơng vị và độ cao thấp của vật bài trí trong nhà cũng thay đổi tùy theo sự biến động của cửu tinh ngũ hành. Bát trạch : Dựa theo phƣơng vị Toạ, Hƣớng cùng phƣơng vị mở cửa của nhà ở, chia thành bát quái, cả thảy có 8 loại, gồm : Càn trạch, Ly trạch, Đoài trạch, Khảm trạch, Cấn trạch, Tốn trạch, Khôn trạch, Chấn trạch, Cửu tinh sẽ biến động có qui luật theo sự khác nhau của mỗi loại nhà tại phƣơng vị sở tại, từ đó có thể phán đoán lành dữ, chỉ dẫn xây dựng, sửa chữa. Thuộc tính bát quái của nhà ở là cố định, phƣơng vị của Tọa Hƣớng và cửa cũng theo đó mà xác định, nhƣng do có thể đặt cửa ở hai bên trái phải của bốn quẻ Ngẫu : Càn, Khảm, Tốn, Cấn , nên nhà ở thực ra có tới 12 Toạ hƣớng và cửa khác nhau, đó là: Tọa nam Hƣớng bắc cửa Khảm, Tọa bắc Hƣớng nam cửa Ly, Tọa đông hƣớng tây cửa Đoài, Tọa tây Hƣớng đông cửa Chấn, Tọa nam Hƣớng bắc cửa Càn, Tọa đông Hƣơng tây cửa Càn, Tọa bắc Hƣớng nam cửa Khôn, Tọa đông Hƣớng tây cửa Khôn, Tọa nam Hƣớng bắc cửa Cấn, Tọa tây Phƣơng đông cửa Cấn, Tọa bắc Hƣớng nam cửa Chấn, Tọa tây Hƣớng đông cửa Chấn. Đông tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Chấn trạch, Tốn trạch, Khảm trạch và Ly trạch là Đông tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung Chấn, Tốn, Khảm, Ly thì nên sống ở ngôi nhà Đông tứ trạch. Tây tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Càn trạch, Khôn trạch, Cấn trạch, Đoài trạch là Tây tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung Càn, Khôn, Cấn, Đoài thì nên sống ở ngôi nhà Tây tứ trạch. Khảm trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa nam hƣớng bắc, mở cửa ở chính hƣớng bắc Khảm, thích hợp với ngƣời thuộc Đông tứ trạch. Phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh của Khảm trạch theo chiều thuận lần lƣợt là Khảm (Phúc đức), Ngũ quỉ (đông bắc )- Thiên ất ( chính


đông ), Sinh khí (đông nam), Diên niên (chính nam), Tuyệt mệnh (tây nam), Hoạ hại (chính tây), Lục sát (tây bắc ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tinh từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quỵ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà ở thì ở phƣơng vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nƣớc, chuồng gia súc; Ở phƣơng hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. ..Xem mục đông tứ trạch. Ly trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hƣớng nam, mở cửa ở chính phƣơng nam Ly, thích hợp với ngƣời thuộc Đông tứ trạch. Phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh của Ly trạch theo chiều thuận lần lƣợt là Ly (Phúc đức), lục sát (tây nam), Ngũ quỵ (chính tây), Tuyệt mệnh (tây bắc), Diên niên (chính bắc), Hoạ hại (đông bắc), Sinh khí ( chính đông), Thiên ất (đông nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quì, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phƣơng vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nƣớc, chuồng gia súc; ở phƣơng hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí... Chấn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa tây hƣớng đông, mở cửa ở chính hƣớng đông Chấn, thích hợp với ngƣời thuộc Đông tứ trạch. Phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh của Chấn trạch theo chiều thuận lần lƣợt là Chấn (Phúc đức), Diên niên (đông nam), Sinh khí ( chính nam), Hoạ hại (tây nam), Tuyệt mệnh (chính tây), Ngũ quỉ (tây bắc), Thiên ất (chính bắc), Lục sát (đông bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất. Bất kể trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phƣơng bị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí giƣờng ngủ, giếng nƣớc, chuồng gia súc; ở phƣơng hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí . . Tốn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Tốn trạch do toạ hƣởng khác nhau mà chia làm hai; một là ngôi nhà tọa tây phƣơng đông, mở cửa ở hƣớng đông nam Tốn: hai là ngôi nhà toạ bắc hƣớng nam và mở cửa ở hƣớng đông nam Tốn; thích hợp với ngƣời thuộc Đông tứ trạch. Phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh của Tốn trạch theo chiều thuận lần lƣợt là Tốn (Phúc đức), Thiên Ất ( chính nam), Ngũ quỉ (tây nam), lục sát ( chính tây), Hoạ hại (tây bắc), Sinh khí (chính bắc), Tuyệt mệnh ( đông bắc), Diên niên ( chính bắc ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Diên niên, Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ bắc hƣớng nam mở cửa hƣớng Tốn thì sắp xếp Cửu tinh cung giống nhƣ nhà toạ tây hƣớng đông, lần lƣợt tính từ ngăn thứ nhất là Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ . Bất kể toạ tây hay toạ bắc, bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phƣơng vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nƣớc, chuồng gia súc; ở phƣơng hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí... Càn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Càn trạch do toạ hƣớng khác nhau nên chia làm 2; một là ngôi nhà tọa nam hƣớng bắc, mở cửa ở hƣớng Càn tây bắc, và hai là ngôi nhà toạ đông phƣơng tây cũng mở cửa ở hƣớng Càn tây bắc; thích hợp với ngƣời thuộc Tây tứ trạch. Nhà toạ nam hƣớng bắc thì phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh của Càn trạch theo chiều thuận làn lƣợt là Càn (Phúc đức), Lục sát ( chính bắc), Thiên ất ( đông bắc), Ngũ quỉ ( chính đông), Hoạ hại ( đông nam), Tuyệt mệnh ( chính nam), Diên niên ( tây nam), Sinh khí ( chính tây ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ đông hƣớng tây mở cửa hƣớng Càn thì Cửu tinh sắp xếp cũng giống nhƣ ngôi nhà toạ nam hƣớng bắc mở cửa hƣớng Càn, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong là Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài loại nhà này thì ở phƣơng vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa bố trí phòng ngủ, giếng nƣớc, chuồng gia súc; ở phƣơng hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. . . Đoài trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa đông hƣớng tây, mở cửa ở hƣớng chính tây Đoài thích hợp với ngƣời thuộc Tây tứ trạch. Phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh của trạch theo chiều thuận lần lƣợt là Đoài (Phúc đức), Sinh khí (tây bắc), Hoạ hại (chính bắc), Diên niên ( đông bắc), Tuyệt mệnh ( chính đông): Lục sát (đông nam), Ngũ quỵ (chính nam), Thiên ất ( tây nam ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phƣơng vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nƣớc, chuồng gia súc; ở phƣơng hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí .. .


Khôn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Khôn trạch do tọa hƣớng khác nhau nên chia làm hai loại; một là ngôi nhà tọa đông hƣớng tây, mở cửa hƣớng Khôn tây nam, và hai là nhà tọa bắc hƣớng nam, mở cửa ở hƣớng Khôn tây nam, thích hợp với ngƣời thuộc Tây tứ trạch. Phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ đóng hƣớng tây, mở cửa hƣớng Khôn tây nam theo chiều thuận lần lƣợt là Khôn (Phúc đức), Thiên ất (chính tây), Diên niên ( tây bắc), Tuyệt mệnh ( chính bắc), Sinh khí ( đông bắc), Hoạ hại ( chính đông), Ngũ quỷ ( đông nam ), Lục sát (chính nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Sinh khí, Ngũ quỵ, Thiên ất. Nhà tọa bắc hƣớng nam mở cửa hƣớng Khôn tây nam cũng sắp xếp Cửu tinh giống nhƣ nhà tọa đóng hƣớng tây nói trên, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong tính từ dãy hoặc ngăn thứ nhất lần lƣợt là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỵ Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài hai loại nhà này thì ở phƣơng vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng nghỉ, giếng nƣớc, chuồng gia súc; ở phƣơng hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí... Cấn trạch : Một trong bát trạch . Thuộc Tây tứ trạch. Cấn trạch chia ra hai loại, một là nha toạ tây phƣơng đông mở cửa ở hƣớng Cấn đông bắc, hai la ngôi nhà tọa nam hƣớng bắc, mở cửa ở hƣớng Cấn đông bắc, thích hợp với ngƣời thuộc Tây tứ trạch. Phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ tày hƣớng đông, mở cửa ở hƣớng Cấn, Dần sơn, đông bắc, theo chiều thuận lần lƣợt là Cấn (Phúc đức). Lục sát ( chính đông), Tuyệt mệnh (đông nam), Hoạ hại (chính nam), Sinh khí ( tây nam), Diên niên ( chính tây). Thiên ất (tây bắc), Ngũ quỉ ( chính bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngu quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Nhà tọa nam hƣớng bắc , mở cửa ở hƣớng Cấn đông bắc, thì sắp xếp Cửu tinh cũng giống nhƣ nhà tọa tây hƣớng đông, mở cửa ở hƣớng Cấn đông bắc, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong tính từ ngăn thứ nhất lần lƣợt là Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài thì hai loại nhà này ở phƣơng vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nƣớc: chuồng gia súc; ở phƣơng hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cói giã gạo, nhà xí... Đặc thù của Cấân trạch là ở Cấn là Quỉ môn, mở cửa không tốt; chỉ nên mở cửa ở Dần sơn, Sửu sơn là hai bên phải trái của Cấn son, chứ không thể ở chính Cấn sơn. Chu địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, gọi là Chu địa . Còn có tên khác là đất Địa tàng. Quân tử cƣ trú ở đây tốt, chủ phú quí liên tục. Tiểu nhân mà cƣ trú ở đất này thì hung. Câu ca nói : “Trung ƣơng chính diện tứ diện cao, tu cái trung trạch phúc hữu dƣ. Ngƣu dƣơng lục súc đa hƣng vƣợng, gia đạo cao quí xuất anh hào". (Dƣơng trạch thập thƣ). Hàn địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở rìa phía bắc cao, rìa phía nam thấp, gọi là Hàn địa . Còn có tên là đất Trạch tàng. Cƣ trú ở đây cực tốt. Tề địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông có lƣu thủy thì gọi là Tề địa. Cƣ trú ở đây tốt. Ngụy địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía nam có lƣu thủy thi gọi là Ngụy địa. Cƣ trú ở đây tốt. Cung địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, lại có vũng nƣớc. Cƣ trú ở đây tốt. Lƣơng thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bằng phẳng, không lồi lõm hoặc ở giữa hơi lồi lên một chút thì gọi là Lƣơng thổ. Cƣ trú ở đây tốt. Tấn thổ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trƣớc thấp sau cao thì gọi là Tấn thổ. Cƣ trú ở đây tốt. Lỗ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông thấp, phía tây cao, thì gọi là Lỗ thổ. Con trai cả sống ở đất này thì hƣng vƣợng, phú quí anh hào. Nếu địa thế âm trạch mà phía đông thấp, phía tây cao, thì lại không Tốt. Tề thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trƣớc cao sau thấp thì gọi là Tề thổ. Cƣ trú ở đây không tốt Vệ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp thì gọi là Vệ thổ. Cƣ trú ở đây không tốt Tú thần tƣơng ứng: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm phía đông nhà có dòng chảy là Thanh long, phía tây nhà có đƣờng đi là Bạch hổ, phía nam có ao hồ là Chu tƣớc, phía bắc có gò đống là Huyền vũ. Có đủ 4 thủ đó gọi là cách tứ thần tƣơng ứng, là đất đại cát đại quí. Cƣ trú ở đây cực tốt Huyền vũ thú: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía sau (phía bắc) nhà ở có gò đống hoặc công trình kiến trúc cao thì gọi là Huyền vũ thủ ( Huyền vũ trấn giữ). Cƣ trú ở đây đại cát


Chu tƣớc môn : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía trƣớc (phía nam) nhà ở địa thế trải rộng ra gọi là Chu tƣớc môn. Cƣ trú ở đây đại cát. Tứ phƣơng vị : Địa hình bên ngoài nha ở. Bốn phía nhà ở bị các con đƣờng bao vây, gọi là đất Tứ phƣơng vị. Cƣ trú ở đây rất xấu. Câu ca nói : "Tứ diện giao đạo chủ hung tàn, họa khởi nhân gia bất khả đƣơng, nhƣợc bất tôn tài tai họa tử, đầu hà tự vẫn tỉnh trung vong" (đƣờng vây bốn phía chủ hung tàn, tai họa ập đến ngƣời ta kho bề chống đỡ, nếu không tốn tiền thì cũng chết ngƣời, nhảy xuống sông xuống giếng mà tự vẫn) (Dƣơng trạch thập thƣ). Huyết bàn chiếu kinh : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phong thủy dƣơng trạch lấy phía trƣớc nhà ở có ao hồ hình vuông là “Huyết bàn chiếu kính". Cƣ trú ở đây rất xấu. Có thuyết nói rằng phàm phía trƣớc nhà mà có đào ao hồ mới thì đều là Huyết bàn chiếu kính, không tốt. Câu ca nói : “Nhƣợc hữu thử đƣờng đƣơng diện tiền, đại đại lao tật bất thậm ngôn. Nhất đƣờng tiện đoạn nhất nhân táng, hà sủng bất dữ ngoại nhân truyền" (nếu nhà có ao vuông ở ngay phía trƣớc, thì đời nọ tiếp đời kia bị bệnh lao, mỗi ao làm chết một mạng ngƣời). Tây ích trạch : Địa hình bên ngoài nhà ở. Tức là làm thêm phòng ốc vào phía tây ngôi nhà cũ. Phong tục cổ của ngƣời Trung Quốc cho rằng Tây ích trạch là không tốt. Phong tục này có từ thời Xuân thu Chiến quốc, rất thịnh hành vào đời Hán, là một trong điều đại kỳ. Sách Phong tục không giải thích : "Phong tục coi phía tây là cao nhất, làm thêm phòng ốc ở phía đó sẽ hại cho chủ nhà, nên mới có sự cấm ky đó". Có thuyết nói Đông ích trạch (làm thêm phòng ốc vào phía đông nhà cũ) cũng không tốt. Xung hạng : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính của nhà ở bị đƣờng hẻm đâm thẳng vào. Cƣ trú ở đây không tốt. Phong thủy dƣơng trạch coi đƣờng hẻm là thủy đạo (dòng nƣớc ), Xung hạng chẳng khác gì bị dòng chảy xối, bắn thẳng vào, cho nên phải tránh. Cách né tránh là làm cổng chếch đi hoặc dùng bùa trấn áp. Chúng để sát : Địa hình bên ngoài nhà ở . Ch ỉ ngôi nhà nằêm trái ngƣợc với hƣớng của các công trình xây dựng xung quanh. Không tốt. Thuật Phong thuỵ mƣợn cách này để nhấn mạnh tính nhất trí, hài hòa của cả quần thể kiến trúc. Địa đài : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ khoảng đất trống đằng trƣớc nhà, tức Minh đƣờng. Yêu cầu Địa đài của nhà này không đƣợc cao hơn Địa đài của hai nhà bên phải bên trái: nếu hói thấp mọt chút nhƣng đừng trũng thì tốt. Đột khuy : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm một trong 4 phía nhà có chỗ vết lõm vào hoặc lồi ra thì gọi là Đột khuyết. Cổ nhân mê tín cho rằng nếu phần lõm vào dài không quá 2/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Khuyết, hung (xấu); nếu lồi ra không quá 1/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Đột, cát (tốt). Song nếu Đột (lồi ra) ở hai hƣớng đông bắc và tây bắc thì cát biến thành hung. Ngoài ra, đột tuy là cát, Khuyết tuy là hung, nhƣng còn phải xem năm sinh của chủ nhà phối với phƣơng vị Cửu tinh, có thể cát biến thành đại cát, hung biến thành đại hung tại phƣơng vị có đột khuyết. Kiều lƣơng : Địa hình bên ngoài nhà ở. Nói chung Thuật Phong thủy nghiêm cấm làm cầu ở 4 phía nhà ở, vì cho rằng bốn phía có cầu là bị bắn thẳng, ở nhà đó con cháu sẽ khiếp nhƣợc, gia sản lụn bại. Hung. Câu ca nói : “Nhất kiều cao giá trạch sảnh tiền, tả hữu tƣơng đồng hậu diệc nhiên, bất xuất tam niên tịnh ngũ tái, gia tƣ đãng tận mại điền viên" (Dƣơng trạch thập thƣ) (trƣớc nhà hai bên nhà mà có một chiếc cầu thì chỉ trong vòng ba năm gia sản sẽ khánh kiệt phải bán cả ruộng vƣờn). Nếu nhà ở bên cạnh cầu thì phải trấn yểm thƣờng dùng bia đá dựng ngay trƣớc cầu. Một thuyết khác nói rằng nếu quanh nhà có cầu, thì cân phân biệt cầu ở phƣơng nào, phƣơng suy hay phƣơng vƣợng; phƣơng suy mà có cầu thì hung, phƣơng vƣợng mà có cầu thì cát. Nếu Chu tƣớc (phía nam) có cầu, không kỳ; nếu Thanh long (phía đông) có cầu, gia đình bình an. Đối với làng xóm, thị trấn, có khi ngƣời ta sử dụng cầu ở thủy khẩu để phong toả sinh khí, ngăn chặn gió thổi, là một yếu tố quan trọng của Phong thủy nơi đó. Phong thủy âm trạch thì không coi trọng lắm sự hiện diện hay không của những cây cầu. Văn bút tháp : Kiến trục hình tháp. Vì hình dáng giống cây bút, lại cĩ quan hệ tới sự đỗ đạt, nên có tên gọi đó. Còn gọi là “Văn phong tháp". Thuật Phong thủy cho rằng, nếu một thành phố hoặc thôn trấn nào đó mà việc văn chƣơng khoa cử yếu kém, thì tại 4 phƣơng vị là Giáp sơn (chính đông thiên bắc), Tốn sơn (đông nam), Bính sơn (chính nam thiên đông), Đinh sơn (chính nam thiên tây ) nên chọn mảnh đất tốt mà xây Văn bút tháp. Bất kể địa thế nơi ấy thế nào, tháp đều phải cao hơn mọi công trình kiến trúc khác, thì sẽ có những ngƣời đỗ cao. Có khi ngƣời ta đắp đất đá làm hòn giả sơn, cũng đƣợc gọi là Văn bút phong, Văn bút sơn. Ngũ hƣ ngũ thục : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ 5 trạng thái cát hung của kết cấu bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy coi 5 điều sau là "Ngũ hƣ “: nhà lớn mà ít ngƣời cƣ trú, cổng lớn mà nhà nhỏ,


tƣờng rào không trọn vẹn, giếng và bếp bố trí sai phƣơng vị, nhà rất lớn mà ít phòng ốc; 5 điều sau là “ngũ thực" : nhà nhỏ mà đông ngƣời, nhà lớn mà cổng cửa nhỏ, tƣờng rào hoàn chỉnh, nhà nhỏ nhƣng nhiều gia súc, nƣớc ở phía trƣớc và phía sau nhà chảy về phía đông nam. Ngũ hƣ làm cho nghèo hèn, còn Ngũ thực làm cho ngƣời ta phú quí. Thực ra đó là khuynh hƣớng xây dựng những ngôi nhà cỡ vừa và nhỏ, đồng thời khuyên ngƣời ta chú ý hoàn thiện kết cấu không gian bên trong nhà ở. Xuyên cung cửu tinh : Địa hình bên trong nhà ở. Phƣơng pháp xác định tình trạng cát hung của các ngăn hoặc dãy phòng, để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà ở. Tuy mang tên Cửu tinh (9 sao), nhƣng thực ra chỉ sử dụng 5 sao là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, tƣơng ứng với ngũ hành hỏa, thổ, kim, thủy, mộc, sắp xếp theo trật tự thuận cố định, không thay đổi, trong đó Lục sát, Ngũ quỉ là hung tinh, dãy hoặc ngăn phòng ốc nào có hai sao đó thì nên làm nhỏ, thấp, con ba sao Sinh khí, Thiên ất, Diên niên là cát tinh, phòng ốc nào có 3 sao ấy thì nên làm cao rộng. Phƣơng pháp sắp xếp cụ thể phải kết hợpvới phƣơng vị Bát trạch cửu tinh. Trƣớc tiên, xem cửa chính của ngôi nhà mở về hƣớng nào, là sao nào, lấy sao ấy làm đại diện cho ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất, sau đó lần lƣợt 4 sao kia theo trật tự cố định, thì có thể biết ngăn nào là sao gì. Ví dụ, ngôi nhà toạ đông hƣớng tây, mở cửa về hƣớng Khôn tây nam, chính giữa phƣơng mở của, tức phƣơng chính tây, là sao Thiên ất; vậy Thiên ất là ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất nên làm cao, rộng. Trong trật tự cố định, Thiên ất ở vị trí thứ tƣ tiếp sau nó là sao Diên niên. Vậy Diên niên là ngƣời thứ hai, phòng này cũng nên cao rộng. Tiếp sau Diên niên sẽ trở lại từ đầu, là sao lục sát, ngăn thứ ba, với sao này, phòng nên thấp nhỏ. Ngăn thứ tƣ là sao Sinh khí, phòng này nên cao to. Ngăn thứ năm là Ngũ quỉ, nên thấp nhỏ. Ngăn thứ sau lại là Thiên ất nên làm cao to. Ví dụ khác, ngôi nhà tọa tây hƣớng đông, mở cửa hàng Cấn. Chính giữa phƣơng mở cửa tức đông bắc là sao Lục sát, thì lấy Lục sát làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Nếu ngôi nhà mở cửa ở phƣơng vị Tứ chính, thì ngăn thứ nhất là Hán cung Phúc đức phòng ốc nên làm cao to hoặc vừa phải. Ngăn thứ hai là Lục sát, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỵ, Thiên ất, Diên niên. Ví dụ, ngôi nhà toạ nam hƣớng bắc, mở cửa tại phƣơng Khảm chính bắc, thì Khảm là Bản cung Phúc đức, lấy đó làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, là dãy thứ hai, Sinh khí là dãy thứ ba; Ngũ quỵ là dãy thứ tƣ; Thiên ất là dãy thứ năm, Diên niên là dãy thứ sáu. Bất kể nhà nào, nếu cửa của dãy thứ nhất mở ra phía ngoài, thì từ dãy thứ hai tính là Lục sát, mà không tính đến Cửu tinh theo phƣơng vị tứ chính nữa. Xuyên cung Cửu tinh gặp sao Sinh khí (Tham lang, Mộc) cƣ ở Trung cung, còn gọi là Cát tinh đƣơng hung, phòng ốc không nên cao to, là một trƣờng hợp ngoại lệ. Phƣơng vị sắp xếp Bát trạch cửu tinh hữu quan, xin xem thêm các mục Bát trạch. Tài lộ phân phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phƣơng pháp xác định cát hung của từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc trong một toà nhà. Căn cứ Đại du niên biến hào pháp và tam nguyên pháp có thể tính toán cung Phúc đức của chủ nhà nằm ở đâu và từng ngƣời nên ở loại nhà nào; nhƣng trong cùng một toà nhà, cỏ rất nhiều nhân khẩu, già trẻ, trai gái, mệnh rất khác nhau. Cho nên Phong thủy dƣơng trạch lại có phép Tài lộ phân phòng để giải quyết tình trạng đó. Phép này tính Cửu tinh cho từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc , theo toạ hƣớng và phƣơng mở cửa của chúng. Trình tự sắp xếp Cửu tinh có thể biết nhờ phép Đại du niên biến hào pháp. Ví dụ, nhà toạ nam hƣớng bắc, cửa Khảm, chủ nhà là ngƣời thuộc Đông tứ trạch. Trong nhà đó ngăn thứ nhất mở cửa Khảm, thích hợp cho ngƣời thuộc Đông tứ trạch cƣ trú. Ngăn thứ hai đƣợc ngăn cách bằng tƣờng vách, mở cửa Đoài (chính tây) , ắt thành nhà toạ đông hƣớng tây, cửa Đoài, là Tây tứ trạch, thích hợp cho ngƣời nào mạng thuộc Tây tứ trạch cƣ trú. Trình tự sắp xếp Cửu tinh của ngăn này giống nhƣ ở ngôi nhà toạ đông hƣớng tây mở cửa Đoài, ở phƣơng vị cát tinh nên làm phòng ốc cao to, còn ở phƣơng vị hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, ngƣời chủ nên ở phƣơng vị cát tinh. Lại còn phải chú ý kết hợp phƣơng vị cát hung tinh từng ngăn (hoặc dãy) trong nhà với toàn bộ toà nhà; nếu phƣơng vị cát tinh của một ngăn trùng với cát tinh của cả tòa nhà, thì đƣơng nhiên là đã tốt càng thêm tốt; ngƣợc lại, nếu hung tinh của ngăn ấy cũng là hung tinh của cả toà nhà, thì đã xấu càng thêm xấu; nếu cát tinh lẫn lộn với hung tinh, thì nên làm phòng thấp nhỏ hoặc vừa phải, tùy tình hình cụ thể mà xác định. Trong một nhà, vợ chồng không nên ở hai dãy khác nhau, nếu cung Phúc đức khác nhau, thì lấy của chồng làm chính. Thuyết tài lộ phân phòng nhằm chứng minh một đại gia đình có thể đoàn tụ ở một nơi. Khai môn : Địa hình bên trong nhà ở. Xác định phƣơng vị, ngày giờ tu sửa hoặc làm và kích thƣớc của cổng và cửa các phòng của ngôi nhà là một nội dung quan trọng của phong thủy dƣơng trạch. Thuật Phong thủy cho rằng ngƣời sống trong nhà bị cách biệt với sinh khí, phải dựa hoàn toàn vào sự thông thoáng khí, nên Khai môn rất quan trọng. Câu Ca nói: “Ninh dữ nhân gia tạo thập phần, bất dữ nhân gia tu nhất môn" (Thà làm cho ngƣời ta mƣời cái mộ còn dễ hơn sửa một cái cửa) (Dƣơng


trạch thập thƣ). Trình tự Khai môn cụ thể nhƣ sau : trƣớc hết, xác định phƣơng vị Bát trạch. Thƣờng lấy phƣơng vị cung Phúc đức của chủ nhà hoặc phƣơng cát tinh làm phƣơng vị Khai môn, nếu nhầm lẫn thì rất xấu. Trƣớc cổng không nên có Sa, Thuỵ xối thẳng vào, không nên là đƣờng gập ghềnh nguy hiểm, không nên có cây khô, đền miếu, không nên đối diện hoàn toàn với cổng nhà khác, không nên bị đƣờng hẻm đâm thẳng tới. Trên cổng không đƣợc xây lầu, chủ bất lợi cho chủ nhà. Cổng lớn và cửa từng dãy, từng ngăn trong nhà không đƣợc nằm trên một đƣờng thẳng, để sinh khí khỏi bị tiết thóat đi mất. Thứ nữa, tu tạo cổng cửa phải chọn ngày lành tháng tốt, mùa xuân không đƣợc Khai môn ở Phía đông, mùa hạ ở phía nam, mùa thu ở phía tây, mùa đông ở phía bắc. Làm cổng, cửa kỳ các sao nhƣ Cửu lƣơng, Đại hao, Tiểu hao, Khƣu công sát, cộng cả thảy hơn 10 điều cấm kỳ. Lại có Môn quang pháp tính toán ngày lành hợp thì tốt, không hợp mà làm thì xấu. Thứ ba kích thƣớc của cổng, cửa phải theo qui định, không đƣợc tùy tiện. Nội dung luận thuật của Phong thủy dƣơng trạch về Khai môn có phần phù hợp yêu cầu bảo đảm ánh sáng và sự thoáng khí, là có giá trị. Còn qui định kích thƣớc tỉ mỉ là mang tính chất mê tín. Khí khẩu : Địa hình trên trong nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính. Thuật Phong thuỵ cho rằng ngôi nhà tiếp nhận khí ở cổng, cửa, giống nhƣ ngƣời hít thở bằng miệng, nên gọi là khí khẩu. Yêu cầu kiến tạo ở phƣơng vị cát tinh để đón khí tránh hung. Phúc đức môn : Địa hình bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy qui định rằng phàm là chùa chiền (của Phật giáo) tọa ở 7 phƣơng vị là Khảm (chính bắc), Cấn (đông bắc), Chấn (chính đông), Tốn (đông nam), Ly (chính nam), Khôn ( tây nam), Đoài ( chính tây), đều có thể mở cổng cửa ở chính giữa. Duy tọa ở phƣơng vị Càn (tây bắc) thì không đƣợc Khai môn ở Thìn, Tốn, Ty sơn, tức ở chính hƣớng đông nam đối diện; mà phải thiên sang ất sơn, nhƣ thế gọi là Phúc đức môn, đại cát. Thanh long môn : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hƣơng nam mở cổng hoặc cửa ở phƣơng vị đông nam (vị trí Tốn), gọi là Thanh long môn, cực tốt. Theo thuyết Bát trạch, toạ bắc hƣớng nam có 3 loại nhà, một toạ bắc hƣớng nam Ly môn, hai, toạ bắc hƣớng nam Tốn môn, ba, toạ bắc hƣớng nam Khôn môn. Hai loại đầu thi vị trí Tốn chính là cát tinh Thiên ất, Phúc đức; còn loại thủ ba vị trí Tốn là sao Ngũ quỉ, rất xấu. Nội lộ : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ lối đi trong nhà. Trong nhà có một cƣa thì chỉ có một lối đi. Yêu cầu lối đi trong nhà không đƣợc xuyên thăng từ cổng vào đến cuối cùng. Ngoại lộ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ các con đƣờng bên ngoài không nên đâm thẳng vào cổng không nên vây quanh tứ phía hoặc kèm hai bên. Hỏa yên : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc. Thuật Phong thủy cho rằng khói lửa là vật không lành, cho nên nhà bếp nên bố trí ở phƣơng vị có hung tinh trong nhà để hun khói hung thần sát khí. Nếu đặt ở phƣơng vị cát tinh, thì sẽ làm ô uế thần phúc sinh khí, cực hung. Câu ca nói : "Càn Bính Cấn ất vị hỏa yên, Khôn Đoài Quý thƣợng thị căn nguyên, Chấn Tốn hỏa yên Canh thƣợng thị, Khảm Ly Giáp thƣợng bất hƣ truyền" (Dƣơng trạch thập thƣ ), nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính sơn, Cấn trạch thì bếp ở ất sơn; Khôn trạch và Đoài trạch thì bếp ở Qúy sơn; Chấn trạch và Tốn trạch thì bếp ở Canh sơn; Khảm trạch và Ly trạch thì bếp ở Giáp sơn, đều là phƣơng vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phƣơng vị cát tinh. Có thuyết nói Hoả yên là hƣơng hỏa từ đƣờng, hƣớng coi đó là Phục vị Phúc đức, đều là dị thuyết về Phong thủy dƣơng trạch, không đáng tin. Hóa lộ : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc, tức Hỏa yên. Câu ca nói : “Càn trạch toạ Bính Chấn toạ Canh, Đoài trạch Qúy vị Tốn trạch Tân. Khảm trạch toạ Giáp Ly tu Ất, Cấn trạch tọa ất Khôn trạch Nhâm" ( Dƣơng trạch thập thƣ) nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính sơn. Chấn trạch thì bếp ở Canh sơn; Đoài trạch thì bếp ở Quý sơn, Tốn trạch thì bếp ở Tân sơn, Khảm trạch thì bếp ở Giáp sơn; Ly trạch thì bếp ở Ất Sơn. Cấn trạch thì bếp ở Ất sơn. Khôn trạch thì bếp ở Nhâm sơn, đều là phƣơng vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phƣơng vị cát tinh. Thuyết này câu ca hơi khác so với Hỏa yên. Phóng thủy : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ việc xả nƣớc của nhà ở. Phong thủy dƣơng trạch rất coi trọng Phóng thủy. Lôi xả nƣớc có qui định hết sức nghiêm ngặt, theo nguyên tắc chung là dƣơng sơn thì xả dƣơng, âm sơn thì xả âm. Nghĩa là nƣớc của phƣơng vị dƣơng sơn phải chảy ra từ dƣơng sơn, mà nƣớc của phƣơng vị âm sơn thì phải chảy ra từ âm sơn. Trong 24 sơn, thì Càn, giáp, khôn, ất, tý, qúy, thân, thìn, nhâm, dần, ngọ, tuất là dƣơng sơn, còn Cấn, bính, tốn, tân, dậu, đinh, tỳ, sửu, canh, hợi, mão, mùi là âm sơn. Cƣả xả nƣớc lại chỉ đƣợc ở phƣơng vị Thiên can, cái gọi là “Phóng thủy chỉ tòng thiên thƣợng khứ" (Dƣơng trạch thập thƣ ). Từ dƣơng sơn chảy ra dƣơng thủy, chủ phú quí tột bậc. Từ âm sơn chảy ra âm thủy, chủ có nhiều con cháu. Nêu lẫn lộn âm dƣơng, tai họa sẽ dồn dập. Phóng thủy còn phải liên quan tới phƣơng vị Cửu tinh. Phƣơng vị Tham lang, Văn


Khúc, Vũ khúc, thủy chảy đến thì đại cát, thủy chảy đi thì hung. Phƣơng vị Cự môn, Phụ bật, thủy đến và đi đều cát. Phƣơng vị Lộc tồn, Liêm trinh, Phá quân, thủy nên chảy đi, không nên chảy đến. Thủy chảy đến hoặc chảy đi trên phƣơng vị Cửu tinh sẽ có ảnh hƣởng không giống nhau tới chủ nhà. Ví dụ thủy Tham lang chảy đến thì chủ con trƣởng hƣng vƣợng, thủy Cự môn chảy tới, thì con thứ phát triển; thủy Lộc tồn chảy đến, chủ trong nhà sẽ có quả phụ; thủy Văn khúc chảy đến, chủ con thứ bị suy kém. Phóng thủy ngoài việc phải theo qui định về phƣơng vị chảy đến và chảy đi, còn có những điều nên hoặc không nên, chẳng hạn kỳ chảy thẳng, xuyên ngang, phân nhánh hình chữ Bát; kỳ chảy ngầm bên dƣới phòng ốc, tối kỳ chảy xuyên qua cổng. Nên chảy vòng, men bên cạnh. Tốt nhất là uốn lƣợn ngoằn ngoèo mà chảy đi. Phóng thủy (xả nƣớc, thoát nƣớc) là yếu tố tất nhiên phải suy tính khi xây dựng nhà ở. Thuật Phong thủy đề ra hàng loạt yêu cầu hoàn chỉnh về mặt này, có nhiều điều đáng tiếp nhận, chẳng hạn cống thoát nƣớc không nên chảy xuyên qua sân, không nên chảy qua dƣới lòng nhà, không để trong nhà qua mức ẩm thấp, nhƣng về mặt phƣơng vị cát hung thì mang màu sắc mê tín. Thủy phá Thiên tâm: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nƣớc trong nhà chảy xuyên thẳng hoặc tràn ngang qua nhà, hung. Nếu xuyên thẳng qua nhà còn gọi là “Bão thƣơng sát". Bão thƣơng sát : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nƣớc trong nhà chảy xuyên thẳng qua giữa nhà; còn gọi là “Thủy phá Thiên tâm", hung. Xả nƣớc xéo qua nhà cũng gọi là Bão thƣơng sát. Hung. Khốn tự : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm làm nhà mà xây tƣờng rào vày xung quanh trƣớc, sau đó mới xây phòng ốc, gọi là “khốn tự", vì giống hình chữ "Khốn". Chủ nhà này sẽ không thể phát đạt, hƣng vƣợng nổi. Đình táng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà đã làm xong, lại làm thêm một phòng ốc nhỏ ở phía sau, gọi là Đình táng, không tốt. Ai sống trong căn phòng làm thêm ấ thì đại hung. Long đốn trạch : Địa hình bên trong nhà ở. Sau phòng ở làm nhà kho, gọi là Long đốn trạch. Vì phía sau nhà là Lai long, nên có tên nhƣ vậy. Xuyên tâm sát : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm lối đi bên trong hoặc đƣờng đi bên ngoài đâm thẳng vào cổng nhà thì gọi là Xuyên tâm sát. Qui đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà tọa bắc hƣớng nam mà làm thêm phòng ốc ở phía trƣớc, gọi là Qui đầu, vì giống con rùa thò đầu ra. Đƣợc giải thích là nhà đó sẽ bị hao tài tốn của. Thanh long đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ nhà ở có phòng ốc phía bắc, phía đông, mà không có phòng phía tây, gọi là Thanh long đầu; ngƣợc lại thì gọi là Bạch hổ đầu. Bạch hổ đầu Câu ca nói : “Thử ốc danh vi Thanh long đầu, tất chủ trƣởng phòng y thực sầu. Tại gia cô quả chủ trƣởng bại, xuất khứ bất hồi không ỵ lâu” (nhà kiểu Thanh long đầu thì con trƣởng suy bại, nghèo khổ). "Thử ốc danh vi Bạch hổ đầu, tất chủ tiểu phòng y thực sầu. Ấu nam cô quả tất tổn bại, tiện kiến nguyên nhân tại lí đầu” (nhà kiểu Bạch hổ đầu thì con thứ suy bại, nghèo khổ) ( Dƣơng trạch thập thƣ ). Thanh long phệ đầu tháp vĩ : Địa hình bên trong nhà ở. Căn phòng phía đông mà đầu nam nối với một phòng nhỏ, gọi là ."Thanh long phệ đầu”, đầu bắc nối với một phòng nhỏ, gọi là "Thanh long tháp vĩ". Câu ca nói: "Thanh long tháp vĩ cộng phệ đầu, nhất niên lục độ trƣởng tử sầu, tiền tài phá tán nhân tật bệnh, thời thời ƣơng quái chí môn đầu” (ở nhà kiểu Thanh long co đầu rụt đuôi thì con trƣởng trong một năm sáu lần gặp chuyện buồn, nhƣ hao tài tốn của, bệnh tật, tai ƣơng dồn dập) (Dƣơng trạch thập thu ). Ngoài ra, nếu trong nhà mà phòng phía bắc, phòng phía tây, phòng phía nam nối với một phòng nhỏ, thì gọi là Huyền vũ phệ đầu tháp vĩ, Bạch hồ phệ đầu tháp vĩ, Chu tƣớc phệ đầu tháp vĩ, đều là những kiểu không lành, cần giỡ bỏ hoặc trấn yểm. Đằng xà cử đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Tại gốc đông bắc của nhà ở xây thêm một phòng nhỏ, gọi là Đằng xà cử đầu. Câu ca nói : " Đằng xà cử kỳ đầu, cƣ gia đa hữu ƣu, lục súc gia tài tan, tật bệnh sự bất hƣu” (Ở nhà kiểu Đằng xà ngóc đầu thì gặp nhiều chuyện lo buồn nhƣ hao tài tốn của, bệnh tật liên miên, gia súc chết) (Dƣơng trạch thập thƣ). Tả hữu tích xạ : Địa hình bên trong nhà ở. Góc nhọn của nóc phòng chính chĩa thẳng sang phòng phía đông và phòng phía tây ở hai bên phải trái thì gọi là Tả hữu tích xạ. Câu ca nói : “Oác tích xạ tả phòng, trƣởng tử mệnh tiêu vong. Oác tích xạ hữu phòng, ấu tử chủ li hƣơng, nhƣợc hoàn tề lai xạ, xạ đắc lãng đãng quang" (Phòng phía đông chủ con trƣởng, phòng phía tây chủ con út. Góc nhọn nóc nhà chĩa sang phòng bên trái thì con trƣởng chết trƣớc, chĩa sang phòng bên phải thì con út phải rời bỏ quê hƣơng) (Dƣơng trạch thập thƣ) Trùng âm phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà chỉ có phòng phía nam hoặc phòng phía tây mà không có phòng phía bắc, phía đông, thì gọi là Trùng âm phòng. Câu ca nói : " âm thịnh dƣơng suy tối bất cƣờng, nữ nhân hƣng vƣợng nhi bất trƣởng. Đạo tặc quan sự đô vô số, tuyệt liễu hậu đại


thiểu nhi lang" (Âm thịnh dƣơng suy thì nữ mạnh, nam yếu, ở nhà này sẽ gặp kiện tụng, trộm cƣớp và không có con trai nối dõi) (Dƣơng trạch thập thƣ) Cô dƣơng phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà chỉ có phòng phía bắc gọi là Cô dƣơng phòng. Câu ca nói : “Chỉ hữu nhất bắc phòng, nam vƣợng nữ tao ƣơng, tiền tài chủ phá tán, niên niên hữu bất tƣờng" ( Nhà chỉ có phòng phía bắc, thì nam vƣợng, nữ gặp tai ƣơng, hao tài tốn của, năm nào cũng có tai họa) (Dƣơng trạch thập thƣ). Giang thi phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Bất kể phòng nào, phàm ở giữa cao lớn mà hai bên phòng xép thấp nhỏ, thì gọi là Giang thi phòng ( Phòng gánh xác chết). Câu ca nói : “Xung thiên lạc địa lƣỡng đầu đê, tam niên lƣỡng độ tổn nam nữ. Hựu chủ giang thi tịnh ngoại tử, thái tuế đƣơng môn vô cải di" ( Nhà kiểu Gánh xác chết thì ba năm gặp hai cái tang, một nam một nữ) (Dƣơng trạch thập thƣ) Đơn nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ơû đầu phía đông của căn phòng phía bắc làm thêm một phòng xép thì gọi là Đơn nhĩ phòng. Câu ca nói : “Đƣờng ốc đông đầu tiếp tiểu phòng, trạch trung tiểu khẩu tu tao ƣơng, tam niên lƣỡng độ ứng nan miễn, nhân khẩu lục súc hữu tổn thƣơng" ( Nhà kiểu Đơn nhĩ phòng thì dễ bị tai họa, ba năm hai lần bị tổn hại về ngƣời và gia súc) (Dƣơng trạch thập thƣ). Song nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở cả hai đầu của căn phòng phía bắc đều làm thêm phòng xép, thì gọi là Song nhĩ phòng. Câu ca nói : "Bắc phòng lƣỡng đầu đô hữu phòng, trạch trung lão thiếu thƣờng bệnh ƣơng, ám phong huyết khí tịnh hoàng thũng, hạch thấu sinh phong chủ ôn hoàng" (Ở nhà kiểu Song nhi phòng thì già trẻ đều dễ bị các loại bệnh nhƣ ho lao, phù thũng...) (Dƣơng trạch thập thƣ). Tiểu tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Đằng trƣớc nhà lại xây một phòng chính chắn ngang, gọi là Tiểu tự phòng. Câu ca nói : " Mạc cái Tiểu tự phòng, dƣơng nhân hữu tai ƣơng. Nhân khẩu đa hữu bệnh, nhất niên lƣỡng độ vong" (chớ nên làm nhà kiểu chữ Tiểu mà nam giới bị bệnh, một năm có hai ngƣời chết) (Dƣơng trạch thập thƣ). Thủy tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở hai bên phòng chính lại có phòng, gọi là Thúy tự phòng. Câu ca nói : “Mạc cái Thủy tự phòng, âm nhân hữu tai thƣơng, đa phục cổ độc tử, nhất niên lƣỡng độ vong ( chớ nên làm nhà kiểu chữ Thủy mà nữ giơi bị bệnh cổ trƣớng, một năm có hai ngƣời chết ) ( Dƣơng trạch thập thƣ). Vƣơng tụ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Từ phòng chính nhô ra hai bên đông tây hai phòng nhƣ hình chữ Vƣơng, gọi là Vƣơng tự phòng. Câu ca nói : "Mạc cái Vƣơng tự phòng, gia trƣơng tất tai ƣơng, thũng khí tịnh cƣớc tật, âm nhân tất tổn thƣơng” ( chớ nên làm nhà kiểu chữ Vƣơng mà gia trƣởng bị tai ƣơng, bệnh phù thũng, phù chân, nữ giới bị tổn thƣơng) ( Dƣơng trạch thập thƣ). Lộ cốt phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Khi làm nhà để lộ ra các đầu keo bằng gỗ ở mái hiên, gọi là Lộ cốt phòng. Câu ca nói : “Nhƣọc cái Lộ cột phòng, lão gia bệnh trƣớc sàng, sổ niên tần tần khổ, bất miễn mại điền trang" (chớ nên làm nhà kiểu lộ xƣơng mà ngƣời già sẽ ốm liệt giƣờng mấy năm, phải bán sạch ruộng vƣờn ) (Dƣơng trạch thập thƣ). Trạch thần : Thần cai quản nhà ở. Có thuyết lấy thần thổ địa làm Trạch thần, có thuyết lấy ông Táo làm Trạch thần. Chủng thụ thuyết : Qui định của Thuật Phong thủy về việc trồng cây. Nhin chung có thể chia ra hai loại, khung cảnh lớn và khung cảnh nhỏ. Trong khung cảnh lớn, để bảo vệ cây cối là chính, Thuật Phong thủy cho rằng cây co là da và lông của Long, mà lai long là mạch máu sở tại của nhà ở và mộ phần, chặt cây ắt Long bị tổn thƣơng. Hơn nữa, cây mọc ở phƣơng vị tốt, chặt cây tức là trừ bỏ điều lành ; cây mọc ở phƣơng vị hung, chặt cây tức là kích động sự hung hãn. Do đó nghiêm cấm chặt cây. Có khi chủ trƣơng trồng cây một cách có chủ đích, ví dụ nếu hậu sơn Lai long và Sa hai bên tả hữu thƣa thớt cây cỏ, thì có thể dùng sức ngƣời trồng cây cho khói thƣa thớt. Bờ thủy khẩu và trên núi cũng có thể trồng cây để bảo đảm tính kín đáo của thủy khẩu. Trong khung cảnh nhỏ, chủ yếu trong phạm vi nhà ở, thì có nhiều thuyết phức tạp, trồng cây ở vị trí nào phải theo qui định rất nghiêm ngặt. Chẳng hạn, ở phía đông trồng cây hạnh, chủ nhà sẽ say mê tửu sắc, toàn gia ly tán, hung. Tại phía bắc có cây mận, phía tây có cây đào, thì ngƣời nhà ấy dâm tà, hung. Bốn phía quanh nhà đều có hoa hồng, thì chủ nhà nát rƣợu, hung. Còn trồng đào, liễu ở phía đông, cây du, cây quất ở phía tây, cây mai cây táo ở phía nam, cây hạnh cây thị ở phía bắc, thì cát. Trƣớc cửa giữa trồng hoè, ba đời phú quí; sau nhà có cây du, ma quỉ chẳng dám bén mảng. Tùng, trúc cũng là những thứ cây lành. Câu ca nói : “Thanh tùng úc úc trúc y y, khí sắc quang dung hảo trú cơ" ( tùng xanh trúc vàng từng khóm làm đẹp cảnh sắc nhà cửa) ( Dƣơng trạch thập thƣ). Nếu địa hình làm nhà trái qui tắc, dẫn tới hung họa, cũng có thể trồng cây để biến hung thành cát. Thuật


Phong thủy rất coi trọng cây cối ở trƣớc cổng. Qui định rằng trƣớc cổng không đƣợc cò cây lớn, không đƣợc có một cây độc nhất, không đƣợc có cây rỗng ruột, không đƣợc có cây cành sứt sẹo, không đƣợc trồng bụi mây song ... Thuyết trồng cây trong Thuật Phong thủy tuy có yếu tố mê tín, song cũng có tính khoa học của nó. Biện thổ pháp : Phƣơng pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể nhƣ sau. Tại nền đất định làm nhà, ta đào một cái hố vuông, mỗi chiều 1 thƣớc 2 tấc, độ sâu cũng vậy. Đất đào lên đem đập vụn, sàng qua, rồi đổ xuống hố, lấp đầy thì thôi, không đƣợc nén. Sáng sớm hôm sau ra đó quan sát, nếu thấy đất trong hố lồi lên, chứng tỏ sinh khí dồi dào, làm nhà rất tốt; nếu thấy hố lõm xuống, chứng tỏ sinh khí suy kiệt, làm nhà ắt là hung. Biện thổ pháp giống nhƣ Xứng thổ pháp, là phƣơng pháp khảo sát xác định chất đất thời cổ cua Trung Quốc. Xứng thổ pháp : Phƣơng pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể nhƣ sau. Tại nền đất định làm nhà, ta lấy một cục đất vuông, mỗi chiều 1 tấc. Đem cân lên, nếu nặng 9 lạng là đất tốt, nặng 5 - 7 lạng là đất tốt vừa, nên làm nhà; còn chỉ nặng 4 lạng trở xuống là đất dữ, không nên làm nhà. Hoặc đào đất, đập nát, dùng đấu mà đong rồi cân. Nếu mỗi đấu cân nặng 10 cân là rất tốt, nặng 8 - 9 cân là tốt vừa, nặng 7 cân cũng tốt. Phƣơng pháp này là sự tổng kết kinh nghiệm lâu đời mà có, xác định độ bền của nền đất xây dựng khá chính xác. Thổ sắc : Phƣơng pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Ngƣời ta quan sát màu sắc của đất nơi đào mộ hoặc làm nhà, chia ra 5 loại màu : đỏ, vàng, trắng, xanh, đen. Ba màu đỏ, vàng, trắng là tốt nhất, màu xanh kém hơn, xấu nhất là màu đen. Tục khí : Tức là tiếp tục sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng nhà ở sau một thời gian sẽ hết sinh khí, cần đƣợc tiếp tục bồi bổ sinh khí. Cũng có phân biệt Bát trạch mà qui định thời hạn khác nhau. Ví dụ, Càn trạch sau 40 năm hết sinh khí , Khôn trạch sau 50 năm... Khi đó phải Tục khí (hoặc Hoán khí, nghĩa là dùng gạch mới, đất mới tu tạo nhà ở). CHỌN LỰA VÀ TRẤN YỂM Mệnh chủ : Chủ nhân của ngôi nhà. Cổ nhân cho rằng nam sinh của mỗi ngƣời khác nhau, nên cung mệnh sở thuộc cũng khác nhau. Phong thủy dƣơng trạch yêu cầu căn cứ cung mệnh của chủ nhà mà tính toán thuộc tính của ngôi nhà để xác định phƣơng vị lành dữ và ngày khởi công, nên gọi là Mệnh chủ. Mệnh chủ có phân biệt nam nữ. Đông tứ mệnh : Thuật Phong thuỵ cho rằng, phàm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4 quẻ Chấn, Tốn, Khảm, Ly, thì là ngƣời sinh Đông tứ vị, thuộc Đông tứ mệnh. Theo lý luận Phong thủy dƣơng trạch, ngƣời sinh Đông tứ mệnh chỉ có thể ở tại Đông tứ trạch, ví dụ đối với ngƣời Khảm mệnh trong Đông tứ trạch, Phúc đức tại Kham, thì nhà toạ bắc hƣớng nam là cực tốt, nhà toạ nam hƣớng bắc là rất tốt, nhà toạ tây hƣớng đông cũng tốt, còn toạ đông hƣớng tây thì hung. Cũng có thể áp dụng phƣơng pháp Tài lộ phân phòng. Phòng ngủ ở phòng phía nam dãy đông là cực tốt, ở phòng phía đông dãy nam là rất tốt, ở phòng phía bắc dãy giữa cũng tốt. Cổng nếu mở ở phƣơng đông nam Tốn sơn, tỳ sơn, thìn sơn, là cực tốt; tại phƣơng chính bắc Khảm sơn sẽ là cổng Phúc đức, rất tốt; tại phƣơng chính nam Ly sơn cũng tốt. Giếng nƣớc nếu ở phƣơng vị đông nam thìn sơn, ty sơn thì đại cát. Bếp nên đặt ở phƣơng đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn. Cối giã gạo nên đặt ở phƣơng đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn và phƣơng chính tây Đoài sơn. Chuồng gia súc nếu bố trí ở phƣơng đông nam thì đại cát. Phong thủy (thoát nƣớc) nên bố trí tại Giáp sơn, ất sơn. Mệnh Chấn, mệnh Ly, mệnh Tốn qui định còn phức tạp hơn. Thực ra đều có qui luật phải theo, đó là căn cứ trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phƣơng vị cát tinh thì bố trí tọa hƣớng, mở cổng của, làm phòng ngủ, giếng nƣớc, chuông gia súc, còn ở phƣơng vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo. Tây tứ mệnh : Thuật Phong thủy cho rằng, phạm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4 quẻ Càn, Khôn, Cấn, Đoài, thì là ngƣời sinh Tây tứ vị, thuộc Tây tứ mệnh. Theo lý luận Phong thuỵ dƣơng trạch , ngƣời sinh thuộc Tây tứ mệnh chỉ có thể ở tại Tây tứ trạch, ví dụ Càn mệnh lấy cung Càn làm cung Phúc đức, thì ở ngôi nhà toạ bắc hƣớng nam Khôn môn, hoặc ngôi nhà toạ nam hƣớng bắc Càn môn là rất tốt, ở ngôi nhà toạ đông hƣớng tây Càn môn, Khôn môn, Đoài môn cũng tốt, nhà toạ nam hƣớng bắc phong Cấn Sửu sơn. toạ tây hƣớng đông phƣơng Cấn Dần sơn cũng tốt. Cổng nhà nên mở ở phƣơng Tây bắc Càn sơn, Hợi sơn, Tuất sơn; ở phƣơng tây nam Khôn sơn, Mùi sơn, Thân sơn, thì rất tốt. Cổng ở phƣơng chính tây Tân sơn, đông bắc Dần sơn, Sửu sơn, cũng tốt. Nhƣng không đƣợc ở chính cấn sơn vì đó là Qui môn. Phòng ngủ thì lấy lầu trên phòng phía tây là tốt nhất; cũng có thể ở phòng phía bắc dãy tây, dãy đông, phòng phía nam dãy tây. Giếng nƣớc, chuồng gia súc mà đặt ở phƣơng chính tây thì đại cát. Bếp ở phƣơng nam Bính sơn, cối giã gạo ở phƣơng chính đông, đông nam là đại cát Phóng thủy (thoát nƣớc) ở phƣơng đông Giáp sơn, Ất Sơn, phƣơng bắc Nhâm sơn, Qúy sơn là đại cát. Khôn mệnh, Cấn mệnh, Đoài mệnh cũng theo nguyên tắc tƣơng tự đó


là căn cử trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phƣơng vị cát tinh thì bố trí toạ hƣớng, mở cổng cửa, làm phòng ngủ, giếng nƣớc, chuồng gia súc; còn ở phƣơng vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo. Phúc đức : Còn gọi là cung Phúc đức. Chỉ nơi ký gửi năm mệnh của chu nhà, phƣơng vị của nó dùng Bát quái thay thế. Ví dụ, nếu Phúc đức của một ngƣời chủ nhà nào đó là Càn, ắt ngƣời đó thuộc Tây tứ vị, nên ở Tây tứ trạch, mở cổng ở vị trí Càn (tây bắc). nếu Phúc đức của một ngƣời chủ nhà nào đó là Chấn, ắt ngƣời đó thuộc Đông tứ vị, nên ở Đông tứ trạch, mở cổng ở vị trí Chấn ( chính đông). Muốn biết cung Phúc đức ở quẻ nào, có thể dùng Tam nguyên pháp mà tính. Biết nó ở quẻ nào rồi, thì dùng Đại du niên biến hào pháp sẽ tính ra tình trạng lành dữ của 8 phƣơng vị (Tứ chính và Tứ ngung). Du niên biến trạch pháp : phƣơng pháp tính lành dữ năm làm nhà căn cứ tuổi của chủ nhà. Cần phối hợp với Tam nguyên pháp, Cửu cung kiến trạch pháp, Đại du niên biến hào pháp. Cách tính nhƣ sau. Nam nữ đều khởi tính từ Đoài là 10 tuổi, nam thì đến Ly 20 tuổi, đến Chấn 30 tuổi đến Khảm 40 tuổi. đến Càn 41 tuổi, đến Đoài 42 tuổi. Theo Tam nguyên pháp, nữ sinh năm Bính Ngọ, trung nguyên, thì cung Phúc đức nằm ở quẻ Cấn. Theo Cửu cung kiến trạch pháp, định cung Sinh của ngƣời này là Chấn; rồi theo Đại du niên biến hào pháp tính ra các phƣơng vị sắp xếp Cửu tinh cho Chấn trạch nhƣ sau : Phúc đức ( Chấn), Diên niên (Tốn), Sinh khí (Ly), Hoạ hại ( Khôn ), Tuyệt mệnh ( Đoài ), Ngũ quỉ ( Càn ), Thiên ất ( Khảm ), Lục sát ( Cấn ). Đã biết Du niên của ngƣời ấy ở Đoài, vị trí đó là Tuyệt mệnh, thì năm Đinh Hợi 42 tuổi tuyệt đối không đƣợc làm nhà, đại hung. Theo Du niên biến trạch pháp, sẽ biến đƣợc tình trạng cát hung Cửu tinh diên niên của chủ nhà nhƣ sau. Biến đƣợc Thiên ất, chỉ trong một năm nhà ấy có ngƣời đỗ cao; biến đƣợc Sinh khí, chủ nhân khâu và gia súc tăng nhiều, phú quí liên tục; biến đƣợc Diên niên, chủ trong vòng 180 ngày có tin vui, hỉ sự; biến đƣợc Phúc đức (Phục vị), chủ ngƣời nhà đi xa trở về đoàn tụ. Đó là 4 cát tinh, gặp chúng thì nên khởi công tu tạo nhà ở. Câu ca nói : "Sinh khí Diên niên kiêm Phục vị, Thiên ất tứ lộ hảo hƣng công" ( Dƣơng trạch thực thƣ). Biến đƣợc Lục sát, chủ ngƣời nhà bị chết trong vòng một năm có tai họa lớn; biến đƣợc Ngũ quỉ, thì trong vòng 200 ngày sẽ có tang; biến đƣợc Tuyệt mệnh, chủ hai năm sau, con trai giữa sẽ bị chết; biến đƣợc Hoạ hại, hao tài tốn của. Đó là 4 hung tinh, gặp chúng thì không nên động thổ làm nhà Cứu cung biến trạch pháp : phƣơng pháp tính cung Định sinh căn cứ vào nơi ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Cần kết hợp với Tam nguyên pháp. Trình tự cụ thể nhƣ sau. Theo Tam nguyên pháp mà tính ra xem cung phúc đức của chủ nhà nằm ở quẻ nào; tiếp đó theo hình bàn tay Dã mã khiêu động đồ mà khởi tính số 1 từ cung ấy, bấ kể nam nữ, theo chiều nghịch lùi lại 5 cung, tức là cung Định Sinh. Ví dụ, chủ nhà là nam, sinh năm Canh Tý, thƣợng nguyên. Theo Tam nguyên pháp, tính ra cung Phúc đức (bản cung) nằm ở Khảm, lùi ngƣợc lại là Ly, lùi tiếp 5 cung đến 5 trung là vị trí Ngọ, nam giới thì 5 cung ky gửi tại Khôn, ta biết cung Định Sinh của anh ta là Khôn. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Giáp Tuất, hạ nguyên. Dùng Tam nguyên pháp tính ra Bản cung nằm tại Ly, lùi lại sau Ly là Cấn, từ Cấn lùi trên ngón tay 5 cung là Tốn, ắt ta biết cung Định Sinh của ngƣời này là Tốn. Sau khi biết cung Định Sinh, có thể dùng phƣơng vị Bát trạch cửu tinh cùng Du niên biến trạch pháp mà tính đƣợc Du niên sở tại, tử đó sẽ biết cát hung của việc khởi công tu tạo nhà ở. Hành niên hiên trạch pháp : Phƣơng pháp mê tín lấy hành niên của chủ nhà để tính cát hung cho việc làm nhà. Đem 12 thần phối với 12 địa chi, qui định rằng năm Tý là Thần hậu, năm Dần là Công tào, năm Ngọ là Thắng Quang, năm Thân là Truyền Tống; 4 năm đó gọi chung là năm Đại thông, tu tạo nhà ở sẽ đại lợi. Năm Hợi là Đăng Minh, năm Sửu là Đại Cát, năm Mùi là Tiểu Cát Ba năm này gọi chung là năm Tiểu thông, nên tu tạo nhà ở. Năm Mão là Thái Xung, năm Dậu là Tòng Khôi, năm Ty là Thái ất; ba năm này là năm tiểu hung, không nên tu tạo nhà ở. Năm Thìn là Thiên Canh, năm Tuất là Hà Khôi, hai năm này đại hung, làm nhà sẽ gặp tai hoạ. Câu ca nói : " Tý Ngọ Dần Thân vi Đại thông, Tiểu thông Sửu Hợi Mùi Đăng Minh, Thái ất Mão Dậu bất kham tạo, Thìn Tuất Thiên Canh vị đại hung (Dƣơng trạch thập thu ). Đã biết cát hung 12 năm, sẽ phân ra nam nữ để tính hành niên của chủ nhân để định lành dữ. Đầu tiên giở xem bảng Lục thập Giáp tý. Từ năm Giáp tý trở xuống 10 năm là tuần giáp tý, từ năm Giáp tuất trỏ xuống 10 năm là tuần Giáp tuất, tƣơng tự là tuần giáp thân, tuân Giáp ngọ, tuần Giáp thìn, tuần Giáp dần. Mệnh nam, ngƣời sinh vào tuần Giáp tý, 1 tuổi khởi tính từ Bính dần, 11 tuổi là Bính tý, 21 tuổi là Bính tuất, 31 tuổi là Bính thân, 41 tuổi là Bính ngọ, 51 tuổi là Bính thìn, 61 tuổi là bính dần. Ngƣời sinh vào tuần giáp tuất 1 tuổi khởi bính tý, 11 tuổi là Bính tuất. Ngƣời sinh vào tuần Giáp thân 1 tuổi khởi Bính tuất, 11 tuổi là Bính thân. Ngƣời sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ. Ngƣời sinh vào tuần giáp thìn, 1 tuổi khởi Bính ngọ, 1 1 tuổi là Bính thìn. Ngƣời sinh vào tuần Giáp dần, 1 tuổi khởi Bính


thìn, 11 tuổi là Bính dần. Mệnh nữ thì ngƣời sinh vào tuần Giáp ty, 1 tuổi khởi Nhâm thân, 11 tuppri là Nhâm tuất 21 tuổi là Nhâm tý, 31 tuổi là Nhâm dần, 41 tuổi là Nhâm thìn, 4l tuổi là Nhâm ngọ, 5l tuổi là Nhâm thân. Ngƣời sinh vào tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý; ngƣời sinh vào tuần Giáp thân, 1 tuổi khỏi Nhâm tý, 11 tuổi là Nhâm dần; ngƣời sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Nhâm dần, 11 tuổi là Nhâm thìn; ngƣời sinh vào tuần Giáp thìn 1 tuổi khỏi Nhâm thìn, 11 tuổi là Nhâm ngọ; ngƣời sinh vào tuần Giáp dần 1 tuổi khởi Nhâm ngọ, 1 1 tuổi là Nhâm thân. Khi tính toán, cần chú ý đối vơi nam , theo chiều ngang tính nghịch, theo cột dọc tính thuận, còn đối với nữ, theo chiều ngang tính thuận, theo cột dọc tính nghịch. Tức la nam tính từ phải sang trái theo chiều ngang hết hàng ngang thì chuyển xuống dƣới 1 hàng; nữ thì tính từ trái sang phải theo chiều ngang, đến cuối thì chuyển lên 1 hàng. Vi dụ, chủ nha là nam, sinh năm Tân Sửu, đến nam Mậu Tuất là 58 tuổi ( tuổi mụ). Tân Sửu thuộc tuần Giáp Ngọ, 1 tuổi khởi tính từ Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ, 21 tuổi là Bính thân, 3l tuổi là Bính dần, 41 tuổi là Bính tý, 51 tuổi là Bính tuất, theo chiều ngang lùi lại là ất Dậu 52 tuổi, Giáp thân 53 tuổi, theo cột dọc tính thuận, chuyển xuống 1 hàng là Qúy mão 54 tuổi, Nhâm dần 55 tuổi, tân sửu 56 tuổi, Canh tý 57 tuổi đến Kỵ hợi 58 tuổi. Thuận với hành niên của chủ nhà tài lợi, Hợi là Đăng Minh, là năm Tiểu thông, có thể làm nhà, vậy thì biết rằng năm ông này 58 tuổi mà làm nhà thì tốt. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Đinh sửu, đến năm Tân dậu là 45 tuổi (tuổi mụ). Đinh sửu thuộc tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý , 21 tuổi là Nhâm dần, 31 tuổi là Nhâm thìn, 41 tuổi là Nhâm ngọ, chiều ngang tính thuận đến Qúy mùi 42 tuổi, cột dọc tinh nghịch, chuyển lên 1 hàng là Giáp tý, 43 tuổi, tiếp đến ất sửu 44 tuổi, Bính dần 45 tuổi, thuận với hành niên của bà này tại Dần, Dần là Công Tào, là năm Đại thông, làm nhà thì đại lợi. Vậy ta biết bà này mà làm nhà vào năm 45 tuổi thì rất tốt. Mệnh tiền ngũ thần pháp : phƣơng pháp tính năm làm nhà cát hung căn cứ năm sinh của chủ nhà và Thái tuế sở tại Ngũ thần tức là đem 10 thiên can chia ra 5 nhóm, mỗi nhóm 1 thần, cộng là 5 thần, cát hung khác nhau. Giáp, ất là Thanh Long; Bính, Đinh là Minh Hỵ; Mậu, Kỵ là Thƣơng Khố; ba thần ấy là thần hành. Thƣơng khố chủ lúa thóc đầy kho. Minh hỵ chủ hỉ sự dồn dập. Thanh long chủ đại phú đại quí, đều nên tu tạo nhà ở. Nhâm, Qúy là Đạo tặc, chủ chuốc họa trộm cƣớp, hao tài tốn của. Canh, Tân là Bạch hổ, chủ tai họa, tang tóc; đó là 2 hung thần, xung phạm thì đại hung, không nên tu tạo nhà cửa. Đem 5 thần trên phối với năm sinh của chủ nhà, tức là Mệnh tiền ngũ thần. Ngƣời sinh năm Tý ngũ thần ở Tỳ. Ngƣời sinh năm Sửu ngũ thần ở Ngọ. Ngƣời sinh năm Dần ngũ thần ở Mùi. Ngƣời sinh năm Mão ngũ thần ở Thân. Ngƣời sinh năm Thìn ngũ thần ở Dậu. Ngƣời sinh năm Tỳ ngũ thần ở Tuất. Ngƣời sinh năm Ngọ ngũ thần ở Hợi. Ngƣời sinh năm Mùi ngũ thần ở Tý. Ngƣời sinh năm Thân ngũ thần ở Sửu. Ngƣời sinh năm Dậu ngũ thần ở Dần. Ngƣời sinh năm Tuất ngũ thần ở Mão. Ngƣời sinh năm Hợi ngũ thần ở Thìn. Khi tính cụ thể thì phối hợp với Thái tuế sở tại và phép “Ngũ hổ độn". Thái tuế sở tại : năm Giáp tý tại Tý, năm ất sửu tại Sửu, năm Bính dần tại Dần, các năm khác cứ thế mà suy. Khẩu quyết “Ngũ hổ độn" là : Giáp, Kỵ chi niên Bính tác thủ, ất Canh chi tuế Mậu vi đầu, Bính Tân chi tuế tầm Canh thƣợng, Đinh Nhâm chi vị thuận hành lƣu, Mậu Quý chi tuế hà phƣơng khởi, Giáp dần chi thang hảo suy cầu” (Dƣơng trạch thập thƣ). Nghĩa là năm Giáp, năm Kỵ thì khởi tính từ Bính dần; năm ất, Canh khỏi từ Mậu dần, năm Bính, tân khởi từ Canh dần; năm Đinh, Nhâm khởi từ Nhâm dần; năm Mậu Qúy khởi từ Giáp dần. Lại tham chiếu bảng Lục thập Giáp tý để biết Mệnh tiền ngũ thần sở tại của chủ nhà. Ví dụ, một ngƣời sinh năm Ngọ muốn biết năm Mậu Tuất tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là Mậu Tuất. Theo Ngũ hổ độn, năm Mậu, Qúy khởi Giáp dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta hƣớng sang bên phải thuận đến Qúy hợi. Ngƣời sinh năm Ngọ, ngũ thần tại Hợi, cho nên phải đếm từ Giáp dần trở đi, tới năm Hợi thì dừng. Qúy là Đạo Tặc, vậy Mệnh tiền ngũ thần năm mậu Tuất của ông tuổi Ngọ nói trên là Đạo Tặc, không nên tu tạo nhà cửa. Ví dụ khác, ngƣời sinh năm Tuất muốn biết năm ất sửu tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là ất Sửu. Theo Ngũ hổ độn, năm ất, Canh khởi Mậu dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta hƣớng sang bên phải thuận đến năm Mão. Ngƣời sinh năm Tuất thì ngũ thần ở Mão. Mậu, Kỵ là Thƣơng Khố, chủ tiền của đầy kho, vậy ngƣời ấy làm nhà vào năm ất Sửu thì đại lợi. Định tinh : Tức sao Doanh Thất, còn gọi là sao Doanh, một trong Nhị thập bát tú (28 sao). Phong tục thời xƣa lấy phƣơng vị sao Định sở tại để khởi công động thổ cho rằng đó là lành. Phƣơng vị sao Định trong 12 tháng không giống nhau, tháng Giêng nhìn thấy nó ở Thìn, tháng hai nhìn thấy nó ở Mão, tháng ba nhìn thấy nó ở Dần, tháng tƣ nhìn thấy nó ở Sửu, tháng năm nhìn thấy nó ở Tý, tháng sáu nhìn thấy nó ở Hợi, tháng bảy nhìn thấy nó ở Tuất, tháng tám nhìn thấy nó ở Dậu, tháng chín nhìn thấy nó ở Thân, tháng mƣời nhìn thấy nó ở Mùi, tháng 11 nhìn thấy nó ở Ngọ, tháng Chạp nhìn thấy nó ở Tỳ. Phƣơng vị sở tại của sao Định cùng phƣơng vị hai sơn tả hữu là có lợi cho việc khởi công động thổ. Ví dụ, tháng Giêng thấy sao Định ở Thìn, thì tại 3 phƣơng vị Tốn sơn, Thìn sơn, ất


sơn đều có thể động thổ; tháng hai thấy nó ở Mão, thì tại ba phƣơng vị ất sơn, Mão sơn, Giáp sơn đều có thể đọng thổ. Tiếp theo các tháng khác cứ theo đó mà suy. Thần sát xuất du nhật : Chỉ các ngày mà Thái tuế cùng các Thần sát khác rời vị trí sở tại đi tuần du 5 phƣơng. Trừ phƣơng vị mà các thần Sát đến tuần du, các phƣơng còn lại đều có thể khởi công động thổ. Ví dụ nếu các thần đi tuần ở trung ƣơng, thì bốn phƣơng còn lại không hề bị cấm kỳ. Các thần đi tuần lấy Thái tuế làm đầu, trong 5 ngày giáp tý, ất sửu, bính dần, đinh mão mậu thìn đi tuần ở phƣơng đông, trong 7 ngày kỵ tỳ, canh ngọ, tân mùi, nhâm thân, qúy dậu, giáp tuất, ất hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày bính tý, đinh sửu, mậu dần, kỵ mão, canh thìn đi tuần ở phƣơng nam, trong 7 ngày tân ty, nhâm ngọ, qúy mùi, giáp thân, ất dậu, bính tuất, đinh hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày mậu tý, kỵ sửu, canh dần, tân mão, nhâm thìn các thần đi tuần ở trung ƣơng, trong 7 ngày quý tỳ, giáp ngọ, ất mùi, bính thân, đinh dậu, mậu tuất, kỵ hợi thì các thần trở về vị trí cũ ; trong 5 ngày canh tý, tân sửu, nhâm dần, quý mão, giáp thìn các thần đi tuần ở phƣơng tây, trong 7 ngày ất tỳ, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, kỵ dậu, canh tuất, tân hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày nhâm tý, quý sửu, giáp dần, ất mão, bính thìn các thần đi tuần ở phƣơng bắc, trong 7 ngày đinh tỳ, mậu ngọ, kỵ mùi, canh thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi thì các thần trở về vị trí cũ; cứ thế mà xoay vòng mãi mãi. Môn quang tinh : Sao Môn Quang theo Phong thủy dƣơng trạch là những ngày trong tháng mà có sao này chiếu rọi thì tốt lành đối với việc đặt cửa, làm cửa và mở cửa. Có 2 cách tính sao Môn Quang. Một, theo khẩu quyết : "Thiêm thiêm tiêu tạc dạ vũ lâm ly vũ quá trƣờng sa mãn động đình đao tại giang hồ lƣu bất tận đắc trừng thanh xứ thị trùng thanh" ( tổng cộng 30 chữ, những chữ nào có bộ "Chấm thủy" tức là ngày có sao Môn Quang, nhƣ các chữ thiêm, tiêu, lâm, ly, sa, mãn, động, giang, hồ, lƣu, trừng, thanh, là ngày lành, còn lại là ngày dữ. Tháng nào đủ thì dùng câu đó, tháng thiếu (có 29 ngày) thì bỏ chữ thứ ba, chữ “Tiêu”; tháng đủ hay tháng thiếu thì đều đếm từ ngày mồng 1 trở đi theo chiều thuận. Ví dụ, ngày 20 tháng đủ, đếm gặp chữ “Lƣu” là lành; ngày 20 tháng thiếu, bỏ chủ thứ ba, nên đếm ngày ấy gặp chữ “Bất” là hung. Cách thứ hai, dựa vào ký hiệu sắp xếp cố định để tìm sao Mơn Quang Tháng đủ 30 ngày thì tính ngƣợc từ phía sau lên phía trƣớc; tháng thiếu chỉ có 29 ngày, thì tính thuận từ trƣớc ra sau, gặp ký hiệu O là ngày lành, gặp hai ký hiệu H và X là ngày hung ( X thì hại cho gia súc, H thì hại cho ngƣời). Ví dụ, ngày 21 tháng đủ, tính từ sau ngƣợc lên trƣớc, gặp ký hiệu H, là hung. Tháng thiếu, ngày 21, đếm thuận từ trƣớc ra sau, cũng gặp ký hiệu H là hung. Bốc nhật : Bói để biết ngày giờ lành dữ. Cũng chỉ việc chọn ngày tốt để chôn cất, làm nhà hoặc chuyển nhà. Thuật Phong thủy cho rằng việc chôn cất, dựng nhà, chuyển chỗ ở nếu không chọn năm, thang, ngày, giờ tốt, đất tốt thì sẽ hóa thành hung; cho nên rất coi trọng Bốc nhập Sách Duyệt vi tháo đƣờng bút ký của Kỵ Vân đời Thanh có chép : "Nhà họ Mã nọ trong nhà bỗng nhiên xuất hiện những điều quái gở, khó tin, bèn "Bốc nhật"chuyển chỗ ở thì mọi việc trở lại yên lành". Phù trấn pháp : Phƣơng pháp mê tín ma nghìn xƣa sử dụng bùa chú và các vật đặc định khác để trấn yểm nhà cửa, mộ phần hoặc công trình kiến trúc khác, đồng thời tiến hành nghi thức tƣơng ứng đặng giải trừ điều dữ. Tục này có nguồn gốc rất sớm, thới kỳ Tiên Tần đã xuất hiện các hoạt động trấn yểm nhƣ ngƣời ta thấy về sau. Thời kỳ Hán Đƣờng bùa chú thịnh hành khắp nơi với những hình thức vô cùng phức tạp. Phép trấn yểm liên quan đến âm dƣơng trạch chủ yếu là viết, vẽ bùa, cử hành nghi thức nhất định, rồi đốt, treo hoặc chôn sâu lá bùa để ngăn chặn nhƣng điều chẳng lành. Đồng thời tục chôn đá cũng rất thịnh hành, mà nội dung bao hàm từ việc bảo đảm sự bình yên cho ngôi nhà, đến việc đề phòng chuột cắn quần áo, nội dung trấn yểm trong Thuật Phong thủy cũng rất đa dạng, bao hàm đủ thứ ăn mặc, ở, đi lại, chủ yếu nhằm ngăn chặn các hiện tƣợng quái gở, bằng các hình thức nhƣ vẽ bùa, chôn đá, trát bùn đất, khắc gỗ làm tƣợng. . phép trấn yểm của Thuật Phong thủy, bùa chú của Dạo giáo sử dụng các biến thể Giáp cốt văn, Kim văn cùng phù hiệu vô ý nghía tạo nên, mang màu sắc kỳ bí là nhám an ủi tinh thần ngƣời khác. Tục chôn đá có liên quan đến sự sùng bái đá thời cổ. Có bùa chú sử dụng dƣợc liệu, cũng có công dụng trừ tà chữa bệnh nhất định . Tuy nhiên, những nghi thức và vật phẩm đặc định chứng tỏ màu sắc thần bí quá rõ rệt của phép trấn yểm. Tam giáo cứu trạch thần phù: Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phàm gia quyến thân thích gặp nhiều tai ƣơng là vì khi làm nhà gặp phải hung tinh cao lớn, cần làm nhà khác. Nếu không làm nhà khác, thì phải cấp tốc sử dụng “Tam giáo cứu trạch thần phù”, gồm 8 lá bìa, dùng bút bằng gỗ hồng đào mà viết vẽ, rồi đem dán ở 8 phƣơng, vài tháng sau tai họa sẽ bớt dần. Trấn lão trạch họa hoạn bát chỉ pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phạm nhà làm đã lâu năm, sinh khí sắp kiệt, ngƣời và tiền của đều tổn thƣơng. Cần lấy 5 thăng đất ở phƣơng vị


Bản cung Phúc đức của chú nhà, 5 thăng đất ở phƣơng vị Thiên đức, Nguyệt đức trộn với bùn nƣớc chảy về phía đông mà trát lên phƣơng vị Thái tuế của ngôi nhà ấy. Tiếp đó dùng bút mực son vẽ bùa mà yểm. Mỗi trạch trong Bát trạch có số năm nhất định. Ví dụ càn trạch 40 năm là hết sinh khí; Khôn trạch thì 50 năm; nếu không làm nhà thác thì phải trấn yểm nhƣ trên. Trấn trạch trung yêu tà pháp : Một trong các phép trấn yểm. Chủ ngăn chặn yêu tà trong nhà. Dùng bút mực son vẽ bài vị Phong Đô đại đế để thờ, tiếp đó dùng thanh bùa bằng gỗ bách dài 1 thƣớc hai tấc mà trấn yểm trong nhà. Trấn phòng ốc tụ hƣớng pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng đây là cách trân yểm để giải trừ hiện tƣợng phòng ốc tự dƣng vô cớ phát ra âm thanh kỳ dị Dùng Bạch Chi, phèn trắng và một hòn đá xanh nặng 60 cân, Chu Sa 1 tiền, Hùng Hoàng 1 tiền rƣỡi, cọng cỏ 7 cái, lấy đất và nƣớc ở phƣơng vị Thiên đức, Nguyệt đức, mỗi thứ 1 thăng, hoà với bùn mà trát lên chỗ có âm thanh lạ. Trấn thủy tinh pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng nếu ngƣời ta đào giếng không ở phƣơng vị tốt, thì sẽ gặp hung họa. Khi đó phải dùng hai phiến gỗ bách dài 1 thƣớc rƣỡi, dùng bút mực son vẽ hai tấm bùa “Ngũ phƣơng thần chú” đính ở miệng giếng. Lại thả một hòn đá và 1 thăng ngũ cốc vào trong giếng, miệng niệm chú câu sau 7 lần : “Thần giếng năm phƣơng, hãy ở yên chỗ mình". Trấn lân cƣ động thổ xung phạm pháp Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phàm bốn phía quanh nhà mình mà ngƣời ta động thổ làm nhà sẽ đều xung phạm nhà mình, là hung. Phải lấy 3 phiến gỗ dai 3 thƣớc 6 tấc hoặc 1 thƣớc 2 tấc, dùng bút mực son vẽ ba tấm bùa rồi treo ở giữa nhà mình. Mộ huyệt phù : Một trong các phép trấn yểm. Chuyên dùng ở huyệt mộ. Lấy 4 phiến gỗ đào dài 1 thƣớc, vẽ và viết trên đó nhƣ rồi cắm ở 4 góc mộ huyệt, để giải trừ hiện tƣợng nhà cửa không yên, tiền tài hao tán. Giải thổ : Tức cúng Thổ thần để giải trừ hung họa. Thời trƣớc, sau khi ngôi nhà đƣợc làm xong, chủ nhà phải làm lê cúng tạ ơn Thổ thần, vì động thổ làm nhà e xúc phạm đến quỉ thần tứ phƣơng. Thƣờng là dùng đất nặn tƣợng quỉ thần, mời thày cúng tới làm lễ, niệm chú. Thạch thu đƣờng : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà mình đối diện với đƣờng hẻm, cầu, thì dùng tấm bia đa, trên khắc ba chủ "Thạch thủ đƣờng" hoặc năm chữ “Hoàng đế thạch thủ đƣơng” chôn ngay trƣớc cổng để trấn yểâm. Có nhiều thuyết nói về nguồn gốc phong tục này. Có thuyết nói nó xuất hiện từ thời Hoàng đế đánh nhau với Si Vƣu; có thuyết nói nó bắt nguồn từ thời Tây Chu, có thuyết bảo từ thời Ngũ đại Văn tự nhắc đến “Thạch thủ đƣơng" sớm nhất là trong sạch Cấp tựu chƣơng của Sử Du đời Hán. Nhan Sƣ Cổ đời Đƣờng chú giải: “Thạch là họ, thủ đƣơng là mƣợn tên gọi mà thôi; ý nói là không có gì địch nổi". Phong thủy dƣơng trạch dùng “Thạch thủ đong" để trấn yểm khi có đƣờng hầm hoặc cây cầu đâm thẳng vào phía cổng nha. Đa cần đƣợc khắc vào 10 ngày sau giết Đông chí, là các ngày Giáp thìn, Bính thìn, mậu thìn, canh thìn, nhâm thìn, giáp dần, bính dần, mậu dần, canh dần, nhâm dần, tức là vào “các ngày Long (thìn), Hổ (dần). Bia làm xong đêm Trừ tịch dùng ba miếng thịt sống ma cúng, rồi vào giờ Dần thì đem cắm ở cổng. Sơn trấn hải : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà bị đƣờng hẻm đâm thẳng vào, thì dùng một tấm bia đá có khắc ba chữ “Sơn trấn hải" cắm ở trƣớc cổng để trấn áp điều xấu. Tƣơng tự “Thạch thủ dƣơng", song không đƣợc phổ biến rộng rãi bằng. NHÂN

VẬT

ĐIỂN

TỊCH

Sủ Lý Tử: (300 trƣớc CN). Tên là Tật, em trai của Tân Huệ Vƣơng, từng nhiều lần đem quân Tần đi chinh phạt các nƣớc Triệum Ngụy, Sở; đƣợc phong tƣớc Nghiêm Quân. Khi Tần Vũ Vƣơng lên ngôi ông làm Tả thừa tƣớng. Là một ngƣời túc trí đa mƣu, biệt hiệu “Trí Nang" (túi khôn). Sắp chết đa chọn trƣớc cho mình mộ huyệt ở phía nam Vị Thuỵ và nói : “Trăm năm sau, sẽ có cung tiến từ bên mộ của ta”. Đến đời Hán hƣng thịnh, ngƣơi ta đã xây dựng cung Trƣờng Lạc ở phía đông ngôi mộ và cung Vị Ƣơng ở phía tây ngôi mộ, kho vũ khí thì ở ngay chỗ ngôi mộ. Việc này không đáng tin lắm, nhƣng các nhà phong thủy dựa vào đó coi Sù Lí Tử là nhà địa lý nổi danh đầu tiên. Thanh Ô tiên sinh : Tức Thanh Ô Tử, ngƣời đời Hán. Có thuyết nói ông là ngƣời thời Hoàng đế. Tƣơng truyền tinh thông Thuật Phong thủy. Hiện có Thanh Ô tiên sinh táng kinh, 1 quyển, nghi là do ngƣời thời Tấn - Đƣờng mạo danh viết ra. Lại có Cựu đƣờng thƣ Kinh tịch chí chép Thanh Ô Tử, 3 quyển, đã thất lạc.


Quản Lộ : ( năm 207 - 256 ), tự Công Minh, ngƣời nƣớc Ngụy, ở Bình Nguyên (nay là tây nam huyện Bình Nguyên, tỉnh Sơn đông). Nổi tiếng thần đồng. Từng đƣợc thái thú Thanh Hà tên là Hoa khen có tài văn chƣơng, lại đƣợc thứ sử Ký châu cho giữ chức Văn học tòng sự, sau đỗ tú tài, làm quan đến chức Thiếu phủ thừa. Quản Lộ tinh thông Chu Dịch, bói toán, Phong thủy, đoán gì đúng nấy. Từng qua chỗ mộ Vô Khƣu Kiệm, tựa gốc cây buồn bã nói "Cây cối rậm rạp nhƣ rừng, nhƣng vô hình chẳng thể sống lâu; bia mộ tuy đẹp, nhƣng không có mặt sau để giữ. Huyền vũ rụt đầu, Thƣơng long không chân, Bạch hổ ngậm xác, Chu tƣớc than khóc, 4 cái nguy đều có cả, đó là cái họa giết cả họ" (Tam quốc chí, quyển 29. Đây là thuyết Tứ linh của Thuật Phong thủy đƣợc thể hiện lần đầu bằng văn tự. Hiện còn sách Quán thị địa lý chí mông, 1 quyển, thực ra là của ngƣời đời sau mạo danh. Xem thêm mục Quán thị đều lý chi mông). Quách Phác : ( năm 276 - 324), tự Cảnh Thuần, ngƣời cuối thời Tây Tấn, huyện Văn Hỵ, Hà Đông (nay là huyện Văn Hỵ, tỉnh Sơn Tây), tránh loạn đến Giang Đông, lúc đầu đƣợc Thái thú thành Tuyên cho làm Tham quân, sau làm Trƣớc tác tá lang, rồi mƣợn cớ mẹ mất mà từ chức. Sau lại đƣợc Vƣơng Đôn ban chức Ký thết tham quân, nhƣng vì không theo Đôn mƣu phản nên bị Đôn giết. Quách Phác thuở nhỏ yêu thích kinh thuật thơ phú nổi danh một thời, sau theo Quách Công học Dịch lý, địa lý, thiên văn, bói toán , đƣợc Quách Công tặng Thanh nang thƣ. Từng chọn đất mai táng cho mẹ ở bãi sông, ngƣời ta báo sao lại chôn dƣới nƣớc, ông nói rồi nơi đây sẽ thành đất khô. Quả nhiên về sau nơi đó đƣợc cát bồi thành nƣơng dâu. Lại từng chọn mộ cho ngƣời khác. Tấn Minh đế từng tới xem, hỏi chủ nhân vì sao chôn ở đất “Long giác", dễ thành tai họa cả họ bị giết. Chủ nhân đáp rằng Quách Phác bảo táng ở tai rồng thì sẽ đƣợc nhà vua hỏi tới. Huyền thoại này e của ngƣời đời Đƣờng, khó tin. Hiện có sách Táng thƣ còn gọi là Táng kinh. 1 quyển, đề của Quách Phác, có lẽ do ngƣời đời Đƣờng mạo danh viết nên. Tiêu Cát : Tự Văn Hƣu, ngƣời Lan Lăng (nay là tây bắc thành phố Thƣờng Châu, tỉnh Giang Tô), cháu của Lƣơng Vũ Đế. Nhà Lƣơng diệt vong, ông vào Bắc Ngụy làm Nghi đồng. Sau khi nhà Tùy thống nhất, ông làm quan đến chức Thƣợng nghi đồng, Thái thƣờng; Tùy Dạng Đế lên ngôi, phong ông chức Phủ thiếu khanh. Chết khi đang làm quan. Tiêu Cát là ngƣời uyên bác, tinh thông âm dƣơng, thuật đoán mệnh , Thuật Phong thủy. Nhân Thái tử ở Đông cung hay thấy ma quỉ, ông đã lập đàn thần trấn yểm. Lại chọn mộ cho Văn Đế hoàng hậu. Trƣớc tác về phong thủy có Trạch kinh, ý quyển, Táng kinh 6 quyển ; nay đều thất truyền. Song trong trƣớc tác của các nhà phong thuỵ đời sau thƣờng dẫn lời của Tiêu Cát. Thƣ Xƣớc : Ngƣời Đông Dƣơng (nay thuộc tỉnh Chiết Giang), đời nhà Tùy. Giỏi thuật số địa lý. Tể tƣớng Dƣơng Cung Nhân muốn dời mộ tổ, bèn mời năm sáu ông thày nổi tiếng trong nƣớc tới, lấy đất ở 4 góc ngôi mộ, mỗi góc 1 đấu, vẽ địa hình ngôi mộ rồi bỏ vào phong bì dán kín lại, đoạn đƣa đất ra cho các thày phán. Duy chỉ có Thƣ Xƣớc nói rằng đất ấy có phúc và miêu tả hình thế giống hệt nhƣ thực địa. Thiên hạ nhân đó tôn ông là thánh phong thủy. Đây là một ví dụ điển hình về phép nhìn đạt biết phong thủy thời cổ . Lã Tài : ( 665 ), ngƣơi đời Đƣờng, ở Thanh Bình, Bác Châu ( nay là huyện Liêu, tỉnh Sơn Đông). Giỏi âm dƣơng, thiên văn, phƣơng thuật, địa lý, âm luật học. Thời Trinh Quán vào cung Huyền Văn, làm Lụy thiên thái thƣờng bác sĩ, Thái thƣờng thừa. Từng đƣợc triều vào triều san định sách âm dƣơng để ban hành cho thiên hạ. Còn làm “Phƣơng vực đồ”. Các trƣớc tác phần lớn nay đã thất truyền. Hiện còn Tự trạch kinh , Tự táng thƣ, Tự trạch kinh chuyện bàn về cách phối ngũ tính với ngũ hành để xác định cát hung của nhà ở và huyệt mộ. Táng táng thƣ thì nói đại ý rằng Táng thƣ có đến 120 nhà, với đủ thứ thuyết cát hung, cấm kỳ. Song thời thƣợng cổ chôn cất có ai chọn lựa gì năm tháng ngày giờ chẳng ai tin chuyện lành dữ, cũng không phân biệt họ tên, tƣớc vị, quan chức. Nhƣ vậy táng thƣ chỉ làm bại hoại phong tục, làm những chuyện vô bổ. Lã Tây là ngƣời đầu tiên thời cổ đi sâu vào Thuật Phong thủy mà phê phán các yếu tố mê tín. Lý Thuần Phong : ( năm 602 - 670), ngƣời đời Đƣờng ở đất Ung, Kỳ châu ( nay là phía nam huyện Phụng Tƣờng tỉnh Thiểm tây). Đầu thời Trinh Quăn, từ chức Tƣớng sĩ lang vào thẳng Thái sử cục, chế ra máy Hỗn thiên nghi, dần dần đƣợc thăng đến chức Thái sử lệnh. Trƣớc tác phong thuỵ có Trạch kinh, Aâm dƣơng chính yếu, nay không rõ bao nhiêu quyển, ngờ rằng do ngƣời đời sau mƣợn tên soạn nên. Khâu Diên Hàn : Tự Dực Chỉ, ngƣời đời Đƣờng, ở đất Văn Hỵ ( nay là huyện Văn Hỵ, tỉnh Sơn Tây ). Thuở nhỏ nổi tiếng về văn thơ. Truyền thuyết kể rằng Khâu từng du ngoạn Thái Sơn, gặp thần trong hang đá. nhận “Hải giác kinh", nhờ đó thông hiếu âm dƣơng, phong thủy. Khoảng năm Khai Nguyên ( 7 1 8 - 714 ) có chọn mộ cho viên tri huyện, có khí thiên tử bốc lên trên


mộ. Triều đình kỳ điều đó, sai phá bỏ mộ, đồng thời hạ chiếu bắt giữ Khâu Diên Hàn, nhƣng ông trốn đƣợc. Sau triều đình tha tội, Khâu đem dâng Thiên cơ thƣ. Đƣờng Huyền Tông phong làm Á đại phu và cất sách kia vào hộp ngọc. Cuối đời Đƣờng thì sách ấy bị Dƣơng Quân Tùng, Tăng Cầu Kỵ lấy trộm. Trƣớc tác có Ngọc hàm kinh , 1 quyển, Hoàng nang đại quái quyết 1 quyển, Nội truyện thiên hoàng biết cực trấn thế thần thƣ 3 quyển. Theo Địa lý chính tông, Khâu Diên Hàn là đệ tử của Phạm Việt Phụng, mà Phạm Việt Phụng là cao túc của Dƣơng Quân Tùng. Dƣơng là ngƣời thời Hi Tông, Khâu là ngƣời thời Cao Tông, nhƣ vậy là lẫn lộn về thời gian, chứng tỏ truyền thuyết về sự việc và trƣớc tác không đáng tin, là do ngƣời đời sau tạo ra. Dƣơng Quân Tùng : Vốn tên là ích, tự Thúc Mậu, hiệu Cứu Bần, ngƣời Đậu châu ( nay là phía nam huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông ) đời Đƣờng. Thời Hi Tông, ông làm Quốc sƣ, làm quan đến chức Kim tứ quang lộc đại phu, phụ trách công việc địa lý của Linh Đài. Năm Quảng Minh ( năm 880 ), khi nghĩa quân Hoàng Sào tiến đánh kinh đô, Dƣơng Quân Tùng thửa cơ rối ren đã lấy trộm sách Thiên cơ thƣ cất trong hộp ngọc của hoàng thất rồi trốn đến núi Côn Luân, sau đến Kiền châu hành nghề địa lý phong thủy, sáng lập nên phai Giang Tây, đƣợc đời sau tôn là tổ sƣ chính tông của Thuật Phong thủy. Học thuyết của ông lấy hình pháp làm chính, chú trọng hình thế sông núi, phối hợp Long – Huyệt – Sa – Thủy, chú trọng bám sát thực địa , mà ít dung phép suy lý. Về sau do học thuyết này lấy hình pháp làm chỗ dựa, bởi vậy chủ yếu đƣợc áp dụng cho Phong thủy âm trạch, mà ít cho phong thủy dƣơng trạch. Trƣớc tác có Hám Long Kinh 1 quyển , Nghi long kinh 1 quyển, Táng pháp chế trƣợng còn gọi là Thập nhị trƣợng pháp 1 quyển, Thanh nang áo ngữ 1 quyển, Thên ngọc kinh 1 quyển, Hắc nanh kinh, Tam thập lục long. Nhƣng việc và sách của ông không thấy chép trong sử truyện; duy Trực trai thƣ lục giải đề của Trần Chấn Tôn và Tống sử. Nghệ văn chí có chép 12 trƣớc tác đề là của Dƣơng Cứu Bần soạn. Các chuyện về ông phần lớn la do các nhà phong thủy lƣu truyền. Tăng Văn Siêm : Có khi viết la Tăng Văn Thuyên hoặc viết lầm thành Tăng văn Địch . Ngƣời Ninh Đô (nay là tỉnh Giang tây) đời Đƣờng. Cha là Tăng cầu Kỵ đã cùng Dƣơng Quân Tung lấy trộm Thiên cơ thƣ trong hộp ngọc của hoàng thất mà chạy đến Giang Nam. Ông là đệ tử giỏi nhất của Dƣơng Quân Tùng, nổi tiếng không kém gì thầy; sau đem thuật học đƣợc truyền cho Trần Đoàn. Những điều đó lẫn lộn về thời gian, không đáng tin. Trƣớc tác có Thanh nang tự 1 quyển. Hà Phổ: Tự là Lệnh Thông, ngƣời thời Ngũ Đại, Nam Dƣờng; quê quán, lai lịch không rõ. Có Linh thành tinh nghĩa, 2 quyển, thực ra la của ngƣời đời Minh mƣợn tên soạn nên. Xem mục Linh thành tinh nghĩa. Ngô Cảnh Loan : ( 1068 ). Tự Trọng Tƣờng, ngƣời Đức Hƣng (nay là tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Tƣơng truyền cha ông là Ngô Khắc Thành từng theo học Trần Đoàn, đƣợc thầy truyền hết nghề. Loan từ bé thông minh đĩnh ngộ, đƣợc cha truyền lại cái học của Trần Đoàn. Năm Khánh Lịch thứ nhất ( năm 1041), triều đình hạ chiếu tuyển dụng các nhà âm dƣơng. Ngô Cảnh Loan đƣợc tiến cử vào kinh đô, ứng đối trôi chảy đƣợc giữ chức Tƣ thiên giám chính. Sau do trái ý Tống Nhân Tông, bị hạ ngục. Nhân Tông chết, ông đƣợc phóng thích, bèn gọt tóc giả điên, đi ẩn cƣ. Mất năm Trị Bình thứ nhất (l068 ). Cái học của ông đƣợc truyền cho con gái, sau truyền cho Liêu Vũ. Trƣớc tác có Lý khí tâm ấn, Ngô Công giải nghĩa. Tiếp tục viết xong 2 cuốn sách cha mình viết dở là Thiên ngọc kinh ngoại truyện, Tứ khố toàn cục đồ. Liêu Vũ : Tự Nghiêu Thuần, lại có tự là Vạn Bang, ngƣời Vu Đô ( nay là huyện Vu Đô, tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Có thuyết nói lầm ông là ngƣời đời Đƣờng. Thuở nhỏ thông minh, 15 tuổi thông thuộc ngũ kinh, dân làng nhân đó đặt cho biệt hiệu “Liêu Ngũ kinh". Khoảng năm Kiến Viêm ( 1127 - 1 130 ) đi thi không đỗ. Ông đƣợc truyền thụ cái học từ con gái của Ngô Cảnh Loan, tinh thông Thuật Phong thuỵ. Sau ẩn cƣ ở núi Kim Tinh, do vậy có biệt hiệu “Kim Tinh sơn nhân". Trong giới phong thủy, nổi tiếng ngang với Dƣơng Quân Tùng, Liêu Văn Xiêm, Lại Văn Tuấn thành tên gọi gộp “Dƣơng, Tăng, Liêu, Lại". Trƣớc tác có Cửu tinh huyệt pháp, 4 quyển, Biết cực kim kinh (không rõ mấy quyển, nghi là do ngƣời đời sau mạo danh ). Thái Nguyên Định : (năm l]35 – 1198) Tự Quý Thông, ngƣời Kiến Dƣơng ( nay là tỉnh Phúc Kiến ). Cha vốn là nhà Lý học, thuở nhó ông theo học cha mình, sau thành học trò của Chu Hy, cùng Chu Hy biện luận ý nghĩa các kinh đến tận đêm khuya. Học trò bốn phƣơng đến học, nếu hỏi gì thì Chu Hy bao giờ cũng trao đổi trƣớc với Thái Nguyên Định . Khi Hàn Thái Trụ nêu việc “Cấm ngụy học” ông bị đày đi Đạo châu. Đến Xuân Lăng, học trò theo học càng đông. Ông chết ở đó, sau khi chết đƣợc truy tặng thụy hiệu Địch công lang, Văn Tiết. Trƣớc tác rất nhiều, về phong thủy có Phát vi luận 1 quyển, dùng học thuyết Nho gia giải thích lý luận phong thủy. Xem thêm mục Phát vi luận.


Vƣơng Cấp : Tự Triệu Khanh, còn có tự là Khổng Chƣơng, ngƣời thời Nam Tống. Tổ tiên vốn ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam ), sau di cƣ đến Cán châu (nay là tỉnh Giang Tây). Vƣơng Cấp chịu khó học hành, nhƣng đi thi hai lần không đỗ, bèn bỏ nhà đi ngao du sơn thủy. Sau ông yêu thích phong cảnh núi Long Tuyền mà định cƣ tại Tùng Nguyên ( nay là huyện Tùng Khê, tỉnh Phúc Kiến ). Ông đọc các sách phong thủy của Quản Lộ, Quách Phác, nắm vững và vận dụng vào việc chọn huyệt mộ cho ngƣời ta, sao cho con cháu họ quí hiển, thƣờng thƣờng linh nghiệm. Lập luận của ông coi trọng lý pháp và các nguyên lý thuật số để định cát hung của phƣơng vị tọa hƣớng, mà coi nhẹ hình thế sông núi, nên ông trở thành nhân vật tiêu biểu cho trƣờng phái Phúc Kiến ( thiên về Lý pháp). Trƣớc tác có Tam kinh và các ghi chép vấn đáp, đƣợc môn nhân là Diệp Thúc Lƣợng biên soạn thành sách. Lại Văn Tuấn : Tự Thái Tố, hiệu Bố Y Tử, nên còn có tên Lãn Bố Y, ngƣời Xử châu (nay là huyện Lệ Thủy tỉnh Chiết Giang) đời Tống. Có thuyết nói ông ngƣời Ninh Đô ( nay là tỉnh Giang Tây) đời Đƣờng là nhầm. Theo truyền ngôn của các nhà phong thủy, Lại Văn Tuấn là con rể Tăng Văn Siêm, đệ tử đời thứ ba của Dƣơng Quân Tùng. Làm quan đến chức Kiến Dƣơng lệnh, sau mê thuật phong thủy nên từ quan mà hành nghề địa lý. Hiện nay một dải đất Quảng Đông có rất nhiều truyền thuyết về ông. Trƣớc tác có Thiệu Hƣng đại địa bát kiềm, đã thất truyền. Chỉ còn Thôi quan thiên, 2 quyển. Lƣu Binh Trung : (năm 1216 - 1274). Thoạt đầu tên là Khản, tự Trọng Hối. Tổ tiên vốn là ngƣời Thụy châu (nay ]à thành phố Hình Đài tỉnh Hà Bắc ). Năm 17 tuổi làm Tiết độ sứ phủ lệnh sử Hình Đài, sau bỏ quan vào rừng đi tu, đổi tên thành Tƣ Thông. Hốt Tất Liệt (Nguyên Thế tổ) triệu vào dinh cùng bàn việc cơ mật, nên ngƣời ta gọi ông là “Thông thƣ ký". Sau khi Hốt Tất Liệt lên ngôi , liền phong cho ông chức Quang lộc đại phu, Thái bảo, Tham dự trung thƣ tỉnh sự và ban cho cái tên Bỉnh Trung. Ông tham gia bàn tính nhiều kế sách lớn trong thiên hạ. Ông tinh thông cái học âm dƣơng địa lý, từng giám sát việc xây dựng Thƣợng Đô (hiện ở Nội Mông) và Đại Đô (nay là thành Bắc Kinh ), dùng Thuật Phong thuỵ để xác định qui mô hai Đô ấy. Cuối đời lại có hiệu Tàng Xuân Tản Nhân, khi chết đƣợc truy phong tƣớc Thƣờng son vƣơng, thụy Văn Chinh. Trƣớc tác có Ngọc Xích kinh 4 quyển, thực ra là của ngƣời đời sau mạo danh soạn nên. Lƣu Cơ : (năm 1311 – 1875) Tự Bá ôn, ngƣời Thanh Điền ( nay là tỉnh Chiết Giang ) đời Minh. Đỗ tiến sĩ cuối đời Nguyên, bỏ quan đi ẩn cƣ. Sau phò tá Chu Nguyên Chƣơng dựng nƣớc, giữ chức Khanh sử trung thừa, Thái sử lệnh, tƣớc Thanh Yù bá. Khi mất đƣợc phong thụy Văn Thành. Lƣu Cơ tinh thông âm dƣơng, thiên văn, thuật số; ngƣời đời sau tạo các đồ thƣ thƣờng mƣợn tên ông. Hiện còn Phệ can lộ đởm kinh. Kham dƣ mạn hung cùng nhiều bản chú. Cung trạch địa hình : Tên sách. Không rõ tác giả. 20 quyển, đã thất truyền. Hán thƣ. Nghệ văn chí xếp vào phái Hình pháp. Sửù ký khảo chứng nói sách này bàn về phƣơng vị phong thủy". Hán chí viết : “Thuộc loại Hình pháp, bàn về hình thế 9 châu đề xây dựng nhà cửa thành quách". Đủ biết sách này là trƣớc tác phong thủy sớm nhất chuyên bàn về phong thủy dƣơng trạch. Kham du kim quí : Tên sách. Không rõ tác giả, 14 quyển, đã thất truyền. Hán thƣ. Nghệ văn chí xếp vào loại ngũ hành. Sử ký khảo chứng nói sách này bàn về “phƣơng vị phong thủy". Theo Sử ký. Nhập giả liệt truyện, các nhà Kham dƣ (địa lý) từng tham khảo phần bàn về ngày lành cho việc cƣới vợ, thuộc về “Chiêm gia” (thày bói), đủ biết đây không chỉ là sách phong thủy. Lai theo Luận hoành, Chu Lễ chú, Hoài Nam Tử, Thuyết văn giải tự, thì hai chữ Kham dƣ là tên vị thần, có thuyết nói la tên gọi chung trời đất, không phù hợp hoàn toàn với những gì phong thủy đề cập. Cho nên nghĩ rằng sách nay là sách bói toán, trong đó có phần bàn về phong thủy. Thanh Ô tiên sinh táng kinh : Tên sách. Trƣớc đề là do Thanh Ô tiên sinh (Thanh Ô Tử) đời Thanh soạn Kim thừa tƣớng Ngột Khâm Trắc chú, 1 quyển. Trong lời tựa viết: “Táng thƣ của họ Quách thƣờng dẫn "Kinh viết” chính là sách này vậy”. Khảo cứu văn của Kinh viết trong Táng thƣ với Thanh ô tiên sinh táng thƣ, thì thấy có nhiều điểm giống nhau, song cũng có chỗ khác nhau. Tứ khố toàn thƣ tổng mục viết : “Văn sách này thiển cận, kinh với chú nhƣ của cùng một ngƣời viết ra, hẳn là ngƣời đời sau mạo danh kinh vậy”. Khảo cứu các sách nhƣ Văn tuyển, Sơ học ký, Thái bình ngự lãm có Sách Tƣớng chủng thƣ ( sách xem mộ) của Thanh Ô Tử thì nghi là sách này. Sách Táng thƣ ~ của Quách Phác đời Đƣờng thì mãi về sau này (mấy trăm năm sau) mới xuất hiện, trong khi Tƣớng chủng thƣ thì đã sớm thất truyền cho nên nghi là ngƣời đời sau mạo danh viết ra. Nội dung Táng kinh khá tỉ mỉ, chuyên bàn về cát hung của hình thế sơn thủy, lại đƣa ra những qui tắc thế nào là đất công hầu, đất tể tƣớng, đất phú quí, đất văn sĩ mà không có lý luận kèm theo. Đồ trạch thuật : Tên sách. Tác giả là ngƣời thời Đông Hán, khuyết danh. Sách này nay đã thất truyền, chỉ còn hai đoạn văn nói sơ qua về lành dữ trong cách phối hợp ngũ tính ngũ hành nhà ở, thuộc loại văn tự sớm nhất về phong thủy còn giữ đƣợc đến ngày nay.


Quán thị địa lý chỉ mông : Tên sách. Trƣớc đề là của Quản Lộ đời Tam Quốc nƣớc Ngụy Soạn. Tổng cộng 100 thiên. Thực ra là sách của ngƣđời đời Minh viết ra. Chuyên ban về hình pháp âm trạch là chính, văn từ thanh nhã, chú giải rõ ràng. Thuyết hình pháp đến đây đã hầu nhƣ hình thành quá nửa. Duy sách trình bày thành 100 thiên là gò ép miễn cƣỡng, rắc rối khó đọc. Táng thƣ : Tên sách. Còn gọi là Quách Phác táng thƣ, 1 quyển. Trƣớc đề là do Quách Phác đời Tấn soạn; nhƣng sách này xuất hiện lần đầu trong Tống sử. Nghệ văn chí khảo sát nội dung, thì sách này hẳn do ngƣời đời Đƣờng viết, mạo danh Quách Phác. Sau khi sách ra đời các nhà phong thủy thêm thắt vào, thành ra hơn 20 thiên. Thái Nguyên Định đời Tống mới san định lại còn 8 thiên; Ngô Trứng san đinh lại còn 2 thiên nội, ngoại tức bản hiện hành. Sách này nêu các thuyết, nhƣ thuyết Sinh khí, thuyết Tam cát lục hung, thuyết Hình thế, thuyết Ngũ bất táng phát triển hoàn thiện thuyết Tứ linh; đồng thời đề xuất định nghĩa Phong thủy, tôn định hệ thống lý luận của Thuật Phong thủy, là tiêu chí hoàn toàn chín muồi của phong thủy âm trạch, trở thành một trƣớc tác lý luận rất quan trọng của học thuyết phong thủy. Đời sau tôn sùng gọi là “Táng kinh". Trong Táng thƣ có nhiều chỗ viết hai chữ “Kinh nói”, đủ hiểu trƣớc sách này từng có một bộ Táng kinh, sách nay chi la tiếp tục phát triển học thuyết kia mà thôi. Thanh nang Hải giác kinh : Tên sách. Tên đầy đủ là Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh, trƣớc đề do Quách Phác đời Tấn tu chỉnh, đòng thời có lời tựa của Trƣơng Sĩ Nguyên đời Tống và Ngô Thiên Tƣớc đời Minh, 4 quyển. Sách này nửa đầu nói về Lý khi, nửa sau về Hình pháp, chuyên luận âm trạch, nội dung cực kỳ rắc rối. Tam ban đại quái, Long huyệt sa thủy, nào ngũ tinh cửu tinh, chính thể biến thể, đều tập hợp ở sách này. Có thiên chuyên bàn về huyệt pháp, lại đƣợc nhắc lại phía sau, văn từ lúc nhã lúc thô, dƣới chính văn có chú văn, không rõ của ai. Ngờ rằng sách này là do ngƣời từ đời Minh trở đi mạo danh Quách Phác mà soạn nên. Trạch kinh : Tên sách. Thời Tùy Đƣờng có rất nhiều sách Trạch kinh lƣu truyền, không dƣới vài ba chục loại; theo ngƣời đời sau chép lại, thì có Hoàng đế nhị trạch kinh, Địa điển trạch kinh, Tam nguyên trạch kinh, Văn vƣơng trạch kinh, Khổng tử trạch kinh, Thiên lão trạch kinh, Lƣu căn trạch kinh, Huyền nữ trạch kinh, Tƣ Mã Thiên sƣ trạch kinh, Hòai nam Tử trạch kinh, Vƣơng Vĩ trạch kinh, Tƣ tối trạch kinh, Lƣu Tấn Bình trạch kinh, Lục thập tứ quái trạch kinh. Hữu bàn long trạch kinh, Tả bàn long trạch kinh, Lý Thuần Phong trạch kinh, Ngũ kinh trạch kinh, Lã Tài trạch kinh, Phi âm loạn phục trạch kinh, Tử Hạ trạch kinh, Điêu Đàm trạch kinh, Huyền Ngộ trạch kinh, Ngũ Phi trạch kinh, Bát Quái trạch kinh, Tiêu Cát trạch kinh .v.v… trong đó có một số là cùng một sách mà đề tên khác nhau, nay đã không thể khảo cứu, vì hiện chỉ còn Hoàng đế nhị trạch kinh, các sách khác đã thất truyền. Sự xuất hiện nhiều trạch kinh nhƣ vậy chứng tỏ trƣớc tác phong thủy rất thịnh hành vào đời Tùy đƣờng. Hoàng đế trạch kinh : Tên sách. Còn gọi là Hoàng đế Nhị trạch kinh. Không rõ ngƣời soạn. 2 quyển. Nhị trạch tức là dƣơng trạch và âm trạch. Sách chia ra 24 phƣơng vị, khu biệt âm dƣơng, qui định cát hung, xác định hƣu cữu. Điều cơ bản là âm dƣơng tƣơng đắc, phƣơng vị không loạn. Không khảo sát hình dạng cụ thể và địa hình xung quanh nhà ở, cho nên có học giả coi đây là trƣớc tác đại biểu cho trƣờng phái Lý pháp trong phong thủy. Sách bàn nhiều về việc chọn ngày có ảnh hƣởng lớn tới việc chọn lựa ngày giờ của Thuật Phong thủy đời sau. Tứ khố toàn thƣ cho rằng sách này “rất có nghĩa lý” lại viết rằng trong Tổng sử có chép Tƣớng trạch kinh 1 quyển, chính quyển sách này. Nhƣng khảo sát văn hiến Đôn Hoàng, thấy đã có văn bản Hoàng đế trạch kinh đủ giết sạch đã đƣợc lƣu hành rộng rãi từ đời Đƣờng, và hoàn toàn không phải là bản Tƣớng trạch kinh chép trong Tống sứ. Nghệ văn chí. Thập nhị trƣợng pháp : Tên sách. Trƣớc đề là do Dƣơng Quân Tùng soạn, 1 quyển. Sách này chuyên bàn về phép điểm huyệt căn cứ hình thể bối hƣớng của Lai long, sự thuận nghịch mạnh yếu của khí mạch mà chia ra 12 loại huyệt pháp là : thuận trƣợng, nghịch trƣợng, túc trƣợng, xuyết trƣợng, khai trƣợng, xuyên trƣợng, cao trƣợng, một trƣợng, đối trƣợng, tài trƣợng, phạm trƣợng, đốn trƣợng. Tiếp đó lại phân ra 17 loại trƣợng kiêm nhƣ: thuận trƣợng kiêm nghịch, thuận trƣợng kiêm túc, thuận trƣợng kiêm xuyết, thuận trƣợng kiêm xuyên, thuận trƣợng kiêm cao, thuận trƣợng kiêm đốn, thuận trƣợng kiêm một, thuận trƣợng kiêm đối, thuận trƣợng kiêm tài, thuận trƣợng kiêm phạm, nghịch trƣợng kiêm túc, nghịch trƣợng kiêm xuyết, nghịch trƣợng kiêm khai, nghịch trƣợng kiêm xuyên, nghịch trƣợng kiêm cao.. Mỗi loại đều có đồ hình, mỗi đồ hình có thuyết minh, căn cứ trƣợng pháp định huyệt có thể tránh hung đón cát. Nguyên tắc chung là phân liệt từng li từng tấc để thụ khí. Dƣơng Quân Tùng lại có Táng pháp đảo trƣợng, thực ra là Thập nhị trƣợng pháp, mà cuối sách kèm theo 1 thiên “24 sa táng pháp"' Thập nhị trƣợng pháp là trƣớc tác quan trọng của trƣờng phái Hình pháp của Thuật phong thùy, có ảnh hƣởng rất lớn.


Nghi long kinh : Tên sách. Trƣớc đề là do Dƣơng Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này gồm 3 thiên thƣợng, trung, hạ. Thiên thƣợng bàn về Can long tìm chi, lấy “thủy khẩu quan cục" làm chính; thiên trung bàn về phép tìm phần tận cùng của long, phép nhìn triều ứng trƣớc sau, thiên hạ bàn về hình thế kết huyệt. Cuối sách kèm theo “Nghi long thập vấn" đề giải thích những chỗ khó. Là trƣớc tác lý luận quan trọng, đƣợc lƣu hành rộng rãi , của trƣờng phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy. Sách Trƣc trai thƣ lục giải đề của Trần Chấn Tôn đời Tống co chép sách này, nhƣng không nói ai là tác giả, nên Tứ khố tòan thƣ tống mục viết : “Bản này không biết của ai". Hám long kinh : Tên sách. Trƣớc đề là do Dƣơng Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này chuyên luận về hình thế của sơn long mạch lạc, chia ra 9 sao : Cự môn, Tham lang, Lộc tồn, Văn khúc, Vũ khúc, Liêm trinh, Phá quân, Hữu Bật để nhận biết hình dạng sơn và phân biệt cát hung. Là trƣớc tác tiêu biểu của trƣờng phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy. Thanh nang áo ngữ : Tên sách. Trƣớc đề là do Dƣơng Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lƣu Cơ đời Minh chú. Sách này chuyên bàn về hình thế sông núi phân ra âm dƣơng thuận nghịch, cửu tinh thất diệu để phân biệt cát hung quí tiện. Khảo sát sách Quận trai độc thƣ chí của Triệu Hy Biền đời Tống có chép Thanh nang bản chỉ, 1 quyển, không đề ngƣời soạn sách Trực trai thƣ lục giải đề có chép Diệu kim ca, Tam thập đồ tƣợng của Dƣơng Quân Tùng, 1 quyển; sách Thông chí. Nghệ văn lọc của Trịnh Tiêu lại có chép Thanh nang kinh của Dƣơng Quân Tùng, Tăng Văn Xiêm, 1 quyển không biết có phải là sách này chăng. Bản này đƣợc lƣu hành đồng thời với Thanh nang tự của Tăng Văn Siêm. Kim cƣơng toàn bản hình pháp táng đồ quyết : Tên sách. Tên đấy đủ là Dƣơng Tái Thƣơng tiên nhân Dƣơng công Kim cƣơng tòan bản hình pháp táng đồ quyết, 1 quyển. Đầu sách có lời tựa, nói là của Dƣơng Quân Tùng, rằng “Long hung mà huyệt cát, vô tình mà có tình vậy, tuy có phúc nhƣng không lâu bền; còn long cát mà huyệt hung, có tình mà là vô tình vậy, tuy hung nhƣng lại có phúc", cho nên sách bàn về cách dùng sức ngƣời cải tạo địa hình Long cát mà huyệt hung, để tránh hung đón cát. Sách có 24 bản hình, 24 pháp táng, kèm theo thuyết minh. Phàm Lai Long mà có tình, thì dù thuỵ thế nào, mạch ra sao, Minh đƣờng rộng hay hẹp, đều có thể dùng nhân công cải tạo làm cho huyệt trở nên cát (lành ). Thanh nang tự : Tên sách. Trƣớc đề là do Tăng Văn Siêm soạn, 1 quyển. Lƣu Cơ đời Minh chú. Sách này lƣu hành đồng thời với Thanh nang áo ngữ của Dƣơng Quân Tùng. Sách lấy ngũ hành phối hợp với 8 Can, khởi tính Tràng sinh theo từng hành. Tiếp đó lấy hợi mão mùi làm mộc cục, dần ngọ tuất làm hỏa cục, tỳ dậu sửu làm kim cục, thân tý thìn làm thủy cục, cứ thế diễn dinh, cộng thành 48 cục, dƣơng nghịch âm thuận, dùng để phán đoán cát hung của phƣơng vị thủy lƣu toạ hƣớng. Thực ra là “Song sơn ngũ hành" đón sau. Tứ khố toàn thƣ tổng mục cho rằng các sách đời sau nhƣ Ngô Công giáo tử thƣ, Ngọc xích kinh, Trục chí nguyên chân đều là sự tiếp tục phát triển thuyết này mà thành, cho nên Thanh nang tự là trƣớc tác quan trọng của trƣờng phái Lý pháp trong Thuật Phong thủy là khởi đầu của sáng lập pháp . Song Tứ khố toàn thƣ tổng ngục lại nói Tăng Văn Siêm là đệ tử của Dƣơng Quân Tùng, nhân vật trung kiên tiêu biểu cho trƣờng phái Hình pháp, chứ không phải cho trƣờng phái Lý pháp. Khảo cứu sách Thông chí. Nghệ văn lƣợc của Trịnh Tiêu thấy có chép Thanh nang tử ca, 1 quyển, của Tăng Văn Xiêm và Thanh nang kinh của Dƣơng Quân Tùng, Tăng Văn Siêm, 1 quyển: không có Thanh nang tự nên sách này có lẽ do ngƣời đời sau soạn ra, mạo danh Tăng Văn Siêm cho thêm vẻ kỳ bí. Linh thành tinh nghĩa: Tên sách. Trƣớc đề do Hà Phố đời Nam đƣờng soạn Lƣu Cơ đời Minh chú. 2 quyển. Quyển thƣợng nói về hình thế sơn thủy, biện Long định huyệt chủ theo thuyết Hình pháp. Quyển hạ bàn về thiên tinh quái lệ, cát hung sinh khắc, để định huyệt lập hƣớng, lại theo thuyết Lý pháp pha tạp hai phái Hình và Lý. Thuyết “nguyên vận" dùng trong sách nay vốn xuất hiện từ đầu đời Minh nên chắc bằng sách nay hẳn phải do ngƣời đời Minh soạn mới đúng. Cửu tinh huyệt pháp : Tên sách. Trƣớc đề do Liệu Vũ đời Tống soạn, 4 quyển. Sách này chuyên nói lấy Cửu tinh phân biệt hình dạng huyệt. Cửu tinh là Thái dƣơng, Thái âm, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, Ao não, Thiên Canh, Bình não, Song não; mỗi sao lại phân 9 thể : Chính thể (ngay ngắn), Khai khẩu (há miệng), Huyền nhũ (treo vú), Cung cƣớc (cong chân), Song tí (hai cánh tay), Đơn cổ (một đùi), Trắc não (đầu), Một cốt (khung xƣơng), Bình diện (bằng phẳng). Mỗi thứ đều có đồ hình và thuyết minh. Là trƣớc tác quan trọng cua thuyết Hình pháp liên quan đến việc định huyệt. Sách còn nói nếu hình sơn không đẹp có thể dùng sức ngƣời san lấp tăng giảm. Phát vi luận : Tên sách. Thái Nguyên Định đời Tống soạn. Nội dung chủ yếu nói về Địa đạo một âm một dƣơng, một cƣơng một nhu, phàm sự động tĩnh, tụ tán, hợp phân, hƣớng bối, thƣ hùng (đực cái), thuận nghịch, mạnh yếu, sinh tử, vi trƣớc (nhỏ, rõ), phù trầm (chìm nổi), sâu nông .. .của sơn


thủy đều có thể từ đó mà phân biệt rõ ràng, nghĩa là theo trƣờng phái Hình pháp. Cuối sách có kèm một thiên nhan đề “Nguyên cảm ứng” muốn dùng học thuyết Nho gia mà nghiên cứu và đề cao địa vị phong thủy. Thái Nguyên Định là học trò Chu Hy, quan điểm của ông phản ánh thái độ Lý học tán dƣơng Thuật Phong thủy. Có thuyết nói sách này do Thái Thu Đƣờng soạn. Thái Thu Đƣờng tức Thái Phát, hiệu Thu đƣờng lão nhân, là cha của Thái Nguyên Định, cũng tinh thông địa lý. Thôi quan thiên : Tên sách. Lại văn Tuấn đời Tống soạn. 2 quyển. Gồm 4 thiên Long, Huyệt, Sa, Thủy, mỗi thiên có ca quyết và chú giải. Long thì lấy 24 sơn chia âm dƣơng, lại phân ra tam cát lục tú, mà thay đổi thụ huyệt. Huyệt thì lấy Long làm chủ, nhƣng tùy theo khí mạch mà phân tả hữu. Sa, Thủy thì lấy phƣơng vị phán đoán cát hung theo cái lý sinh khắc chế hóa của âm dƣơng ngũ hành. Tuy nhiên có nhiều điều vô căn cứ ví dụ cho rằng Đoài Long Thìn thủy chủ đời con có sẽ bị bệnh sâu răng, hƣ răng, bởi lẽ Thìn có kim sát, Đoài là miệng lƣỡi, răng lợi bị kim sát thì răng gãy, răng hƣ. Ngọc xích kinh : Tên sách. Trƣớc đề Lƣu Bỉnh Trung đời Nguyên soạn, Lƣu Cơ đời Minh chú. 4 quyển. Thực ra ngƣời soạn và ngƣời chú đều là cuối đời nhà Minh. Sách nói về các mạch núi lớn trong thiên hạ, Côn Luân là tổ của vạn ngọn núi. Ngũ nhạc cùng Trƣơng Giang, Hoàng Hà phối với 24 sơn. Nói rằng toạ hƣớng Long, Huyệt cát hung lấy thủy làm chính, không hề tính đến hình thế của sơn, cƣờng điệu cát hung của thủy khẩu, coi Giang Nam là địa hình chính tông. Tƣởng Bình Giai nói rằng sách này "sao chép cách phân chia Long thành thuận nghịch và Sa thành quí tiện của hai nhà Dƣơng, Lại; lập luận theo kiểu ức thuyết, nông cạn" (Địa lý biện chính). Kham dƣ mạn hƣng : Tên sách. Trƣớc đề do Lƣu Cơ đời Minh soạn. 1 quyển. Sách toàn dùng ca quyết thất ngôn tứ cú, tổng cộng 150 đề, luận Long, Huyệt, Sa, Thủy lấy Hình pháp làm chính. Lời văn ý tứ sáng sủa, tuy trƣớc sau hay lặp lại, rất ít ví dụ. Địa lý đại toàn : Tên sách. Lý Quốc Mộc đời Minh soạn. 2 tập, 55 quyển. Tập hợp rất nhiều trƣớc tác phong thủy của Quách Phác, Khâu Diên Hàn, Dƣơng Quân Tùng, Liêu Vũ, Thái Nguyên Định, Lƣu cơ, Tăng Văn Siêm, Lƣu Bỉnh Trung, Lại Văn Tuấn, Ngô Khắc Thành, có đến hơn 10 loại Kèm theo phụ đồ, phụ thuyết của Lý Quốc Mộc, chiêm đến một nửa bộ sách Tập chuyên luận về Hình pháp, tập 2 luận về Lý pháp. Tuy việc tuyển chọn không tinh, nhƣng phải nói là dày công. Táng kinh dực : Tên sách. Mậu Hy Ung đời Minh soạn. 1 quyển. Nửa sách này nói về Táng thƣ của Quách Phác, phần giữa giải thích “Thập nhị trƣợng pháp" của Dƣơng Quân Tùng; phần cuối tạp giải Tam hợp, Bát tự, kèm theo “Nan giải 24 thiên". Lấy Hình pháp làm chính. Lời văn rõ ràng, tinh tế. Thuỷ long kinh : Tên sách. Không rõ soạn giả, 5 quyển. Đầu sách có lời Tựa của Tƣởng Bình Giai là ngƣời ở buổi giao thời Minh - Thanh, viết năm "Hạ nguyên Quý Mão" (tức năm 1663), ngƣời Tùng Giang, Giang Tô, một ngƣời tinh thông Thuật Phong thủy. Quyển 1 nói về đại thể Hành long kết huyệt, chi long can long tƣơng thửa; quyển 2 nói về chính thể và biến thể ngũ tinh, thẩm biện cát hung; quyển 3 nói về cách cục của thủy - long; quyển 4 nói về tƣợng thủy - long thác vật tỉ loại; quyển 5 nhan đề "Thân ngôn". Trƣớc sau tuy có mâu thuẫn, nhƣng thể lệ về cơ bản nhƣ của một tác giả, nên ngờ rằng sách này là do Tƣởng Bình Giai tham khảo các trƣớc thuật liên quan mà soạn ra, chứ không chỉ viết lời Tựa. Nội dung sách là vấn đề làm nhà xây mộ ở vùng đồng bằng sông nƣớc, nhiều hình vẽ mà ít lời văn, căn cứ hình dạng để định cát hung. Lại kèm theo thuyết Sơn long, lấy Can thủy làm Hành long, Chi thủy làm Chi long, Can Chi tƣơng phối, nội ngoại hợp khí. Lại tạo Ngũ tinh thủy hình, Tinh tú thủy hình, nhƣng dựa vào hình để nhận biết cách, không nói đến Lý pháp; ca quyết thì thô kệch vụng về. Dƣơng trạch thập thƣ : Tên sách. Không rõ soạn giả. 10 quyển. Cuối sách có lời Bạt, với câu “Vƣơng Tử đã soạn xong Dƣơng trạch thập thƣ” chứng tỏ soạn giả họ Vƣơng. Nội dung rất phức tạp, bao gồm những gì liên quan đến lý luận, phƣơng pháp của Phong thủy dƣơng trạch. Sách có 10 thiên là : Luận trạch ngoại hình, Luận phúc nguyên, Luận đại du niên, Luận xuyên cung cửu tinh, luận huyền không trang quái quyết, Luận khai môn tu tạo môn, Luận phóng thủy, Luận trạch nội hình, Luận tuyển trạch, Luận phù trấn. Do vậy có tên Dƣơng trạch thập thƣ. Sơn pháp toàn thƣ : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dƣơng Quân Tùng . Sơn pháp toàn thƣ : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dƣơng Quân Tùng và Ngô Cảnh Loan, kèm với lời bình chú của soạn giả.Nguồn : Nguyên Vũ http://vanhoaphuongdong.com Còn một số những Ðịnh nghĩa khác ,nhƣng dienbatn xin cùng các bạn đi tiếp vì sợ rằng bài viết trở thành cuốn từ điển thì chán lắm.


Trong các Trƣờng phái Phong thủy hiện đang lƣu hành truyền bá thì hiện nay nổi lên những Trƣờng phái sau : 1/Phái BÁT TRẠCH MINH CẢNH do Thái Kim Oanh chủ xƣớng. 2/Phái DƢƠNG TRẠCH TAM YẾU do Triệu Cửu Phong và sau này có thêm cuốn Dƣơng cơ chứng giải của tác giả Lộc Dã Phu. 3/Phái CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC .Theo các sách cổ ghi chép lại thì Huyền Không Học ban ðầu do Quách Phác đời nhà Tấn phát minh ra, sau đƣợc các nhà Phong Thuỵ Học nhƣ Dƣơng Quân Tùng đời Ðƣờng, Tƣởng Ðại Hồng đời Minh, cuối cùng là Thẩm Trúc Nhƣng nhà Thanh hoàn thiện lại toàn bộ học thuyết. 4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY.Hiện nay tại Việt nam có tác giả DƢ QUANG CHÂU và nhiều ngƣời nữa đang phát triển rất mạnh ,đi kèm theo đó là Lý thuyết về Năng lƣợng Sinh học. 5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.Trƣờng phái này có từ rất xa xƣa,thƣờng đƣợc truyền trong dân gian qua cách Gia truyền,bí mật.Ngày nay nhiều chi phái Ðạo giáo đang thực hiện ðể giải phá những Long mạch bị trấn yểm,Khai mở những Huyệt đạo ,dùng năng lƣợng của nó cứu dân độ thế. Ngoài ra còn có rất nhiều trƣờng phái khác ,nhƣng dienbatn chỉ xét đến những Trƣờng phái nổi bật nhất hiện nay.Các Trƣờng phái nhƣ :BÁT TRẠCH MINH CẢNH,DƢƠNG TRẠCH TAM YẾU,CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC,hiện nay có rất nhiều tài liệu cho các bạn nghiên cứu và trên Diễn đàn cũng đã thảo luận rất nhiều và tƣõng đối đầy đủ.dienbatn chỉ xin điểm lại những nét chung nhất của ba Trƣờng phái này,và mong các bạn hiểu rằng ,cả ba trƣờng phái trên ,thực chất chỉ là một vấn đề ,nhìn từ những góc độ khác nhau của môn Phong thủy.Trọng tâm của bài viết này ,muốn đƣa các bạn đến với những gì hiện nay chƣa phổ biến,chƣa có nhiều tƣ liệu,ngõ hầu giúp các bạn hiểu thêm về Phong thủy và có cách sử lý chính xác những khiếm khuyết của ngôi nhà mình đang ở.Những tƣ liệu trong các Trƣờng phái CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY,dienbatn trong qua trình đi Ta bà ,đƣợc các Cao nhân chỉ giáo,xin chép lại để hầu các bạn.Có những cái thấy mới tin ,nhƣng một ngƣời Thày của dienbatn dạy rằng :"PHÖC CHO NHỮNG AI KHÔNG THẤY MÀ TIN ".Và các cụ có câu "LINH TẠI NGÃ -BẤT LINH TẠI NGÃ ".Có những cái tƣởng là vững chắc mà thật ra ,sẽ đổ lúc nào chẳng hay.dienbatn xin điểm lại những Trƣờng phái thông thƣờng tạm gọi là những Trƣờng phái HỮU VI : PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH;DƢƠNG TRẠCH TAM YẾU và DƢƠNG CƠ CHỨNG GIẢI;CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC.Sau đó dienbatn đi tiếp vào những Trƣờng phái tạm gọi là VÔ VI :CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.Ðiều mong muốn của dienbatn là các bạn phải nhớ câu này trƣớc khi lên đƣờng :"NHẤT BỔN TÁN VẠN THÙ -VẠN THÙ QUY NHẤT BỔN ".Ðó chính là hai mặt của Âm -Dƣơng đối lập cùng tồn tại trong mọi vật thể,trong Vũ trụ.

B/

PHẦN

PHONG

THỦY

HỮU

VI:

Trong phần này, dienbatn chỉ xin điểm lại những vấn đề chính mà bất cứ ngƣời nào khi bƣớc chân vào nghiên cứu Phong thủy cũng phải bƣớc qua.Phần này đƣợc tạm gọi là PHẦN PHONG THỦY HỮU VI vì nó có tính chất trực quan hơn, gần gũi với ngƣời sử dụng hơn.Trong phần này,nhƣ đã trình bày ở các phần trƣớc,dienbatn coi các Trƣờng phái Phong thủy đều có chung một nguồn gốc và đó chính là những mảnh bị tán lạc của một nền Văn minh cổ đã bị diệt vong do bản tính xu cát tỳ hung của loài ngƣời cách đây khoảng 7.000- 14.000.Vấn đề này dienbatn sẽ trình bày kỷ khi có dịp.Có một bài thơ nói về vấn ðề này xin chia sẻ cùng các bạn: "Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng, Vũ khí hung tàn có thể ngăn. Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến, Còn hơn là Ðịa chấnSơn băng. Nhƣ Hải tinh trong Quốc bảo mình, Ðời nào cũng có bậc anh minh. Mỗi khi sông núi vang lời gọi, Là có Rồng thiêng biến hữu hình ". Cố GS-TS NGUYỄN HOÀNG PHƢƠNG trong cuốn TÍCH HỢP ÐA VĂN HÓA ÐÔNG TÂY CHO MỘT CHIẾN LƢỢC GIÁO DỤC TƢƠNG LAI cũng đã cảnh báo về cuộc chiến này.Trong


cuộc chiến tranh Tâm linh này,vũ khí nguyên tử chỉ là những trò chơi trẻ con và sự tàn phá không chỉ tính là một vài Ðất nƣớc mà là cả một nền Văn minh của Nhân loại.Cái thuộc tính xu cát tỳ hung của con ngƣời, sẽ dần dần đẩy Văn minh Nhân loại vào cuộc chiến tự hủy diệt và bắt đầu một nền Văn minh mới đƣợc thành lập dƣới THỜI ÐẠI DI LẶC THÁNH ÐỨC. Con ngƣời có khả năng làm những điều tốt đẹp nhất cho đồng loại và đồng thời cũng có thể làm những điều tồi tệ nhất mà không có một giới hạn nào có thể cản ngăn.Ðó cũng chính là hai mặt Âm Dƣơng đối lập nhƣng cùng tồn tại song song.Cứu cánh cho việc đó chính là công việc của các Tôn giáo đang thực hiện là hƣớng con ngƣời vào CHÂN- THIỆN- MỶ.dienbatn xin đƣợc trình bày vấn đề này khi có dịp thích hợp. Trở lại vấn đề Phong thủy.Thực ra nói đến thuật Phong thủy thực ra cũng chỉ là một bộ môn của nền Văn minh tối cổ đã bị hủy diệt do chính con ngƣời. Cái gốc của Phong thủy cũng nhƣ tất cả các vấn đề khác của TRIẾT HỌC ÐÔNG PHƢƠNG nhƣ KINH DỊCH,Y THUẬT,TỬ VI LÝ SỐ,BÁT TỰ HÀ LẠC,THÁI ẤT,ÐỘN GIÁP,TỬ BÌNH vv đều dựa trên cơ sở chặt chẽ của THUYẾT ÂM DƢƠNG- NGŨ HÀNH.Ðây chính là một siêu công thức Vũ trụ,có thể lý giải những vấn đề từ vi mô đến Vĩ mô và đồng thời có khả năng dự báo.Ðây cũng chính là công thức mơ ƣớc của các nhà Khoa học hiện đại.Tuy nhiên, đây cũng chính là công thức của Tâm linh,của những chiều không gian khác.Thuyết ÂM DƢƠNG - NGŨ HÀNH có thể lý giải tuyệt vời những vấn đề của Khoa học hiện đại, nhƣng Khoa học hiện đại không thể lý giải những vấn đề về Tâm linh.Khoa học của Không gian ba chiều không thể lý giải đƣợc những vấn ðề của Không gian nhiều hơn ba chiều;Nhƣng Tri thức của không gian nhiều hơn ba chiều lại có thể lý giải đƣợc những vấn đề của Không gian ba chiều.Nói theo Toán học thì Không gian ba chiều nằm trong Tập của không gian đa chiều.Cái tối ƣu là sự kết hợp giữa Tâm linh và Khoa học sẽ làm cho con ngƣời tiến rất mau vào biển tri thức ðã có sẵn. Bây giờ ta trở lại những vấn đề đơn giản hơn của những thuật Phong thủy cụ thể. Trong Phong thủy,cái quan trọng nhất vẫn là vấn đề trƣờng Khí.Khí ở đây không phải là Không khí hay một chất khí cụ thể nào cả.Ở nƣớc ngoài ngƣời ta dịch Khí là SHA,hay Qi,tuy nhiên cũng chƣa gọi đúng bản chất của nó.Thực ra ,nói theo từ của Khoa học,KHÍ là một dạng của Năng lƣợng,có vô số dạng thù hình khác nhau ,tùy theo điều kiện cụ thể.Trong Phong thủy ngƣời ta nói :"Tụ là hìnhTán là Khí" hay "Nhất bổn tán vạn thù- Vạn thù quy nhất bổn". Ðó chính là những khái niệm về bản chất của Khí.Theo Ðịnh luật bảo toàn năng lƣợng đã khái quát : "NĂNG LƢỢNG KHÔNG TỰ NHIÊN SINH RA VÀ CŨNG KHÔNG TỰ NHIÊN MẤT ÐI,NĂNG LƢỢNG CHỈ BIẾN ÐỔI TỪ DẠNG NÀY SANG DẠNG KHÁC".Các dạng thù hình của Khí thật là muôn hình vạn trạng nhƣng bản chất của nó vẫn là dạng Năng lƣợng.Khí cũng không thoát khỏi quy luật của siêu công thức ÂM DƢƠNG- NGŨ HÀNH.Tức là Khí cũng có những tính chất âm dƣơng - Ngũ hành cụ thể cho từng dạng thù hình.Những tính chất này tùy theo tƣơng sinh hay tƣơng khắc mà tác động lên các vật thể khác mà đem lại sự tốt hay xấu,thuận hay không thuận cho sự vận động của những vật thể khác.Nhiệm vụ của thuật Phong thủy là tìm ra điều kiện tối ƣu cho cuộc sống của con ngƣời phù hợp với môi trƣờng sống của mình.Tất cả các Trƣờng phái Phong thủy đều phải tuân theo quy luật đó.

CHƢƠNG 1 / KHẢO QUA TRƢỜNG PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH : Thực ra Bát Trạch Minh Cảnh cũng mới xuất hiện bằng văn bản trong vài chục năm gần đây . Tác giả là Thái Kim Oanh . Không thấy nói rõ nguồn gốc tự ở đâu mà ra . Tuy nhiên đây là một phƣơng pháp khảo sát Phong Thủy tƣơng đối thuận tiện và dễ xử dụng . Trong các tác phẩm của Thái Kim Oanh có những cuốn nhƣ : Bát Tự Lữ Tài , Bát Môn Thần Khóa , Bác Lãm Quần Thơ , Bát Trạch Minh Cảnh ... Các bạn mới bắt đầu học Phong thủy có thể đi từ trƣờng phái này . Trong Bát Trạch Minh Cảnh , ngƣời ta xét đến mối quan hệ giữa tuổi chủ chủ nhà và hƣớng nhà . Để có thể tự lập cho mình các hƣớng tốt xấu theo cung phi Bát trạch , các bạn dùng chƣơng trình của Vietshare rất thuận tiện . Đây là đƣờng Link : http://tuvi.vietshar...ly/battrach.asp . Các bạn chỉ cần điền giới tính , năm sinh và hƣớng nhà chính xác tới từng độ là có thể tự in cho mình những hƣớng tốt xấu để lựa chọn khi mua nhà hay xây dựng nhà mới .


Có một cuốn sách điện tử dạng pdf của Kép Nhật bên TUVILYSO cũng rất hay , các bạn có thể lấy về tham khảo . Đây là đƣờng link của cuốn sách đó : http://www.tuvilyso.... BatTrach.pdf Dùng hai công cụ mà dienbatn vừa dẫn , các bạn đã có thể tự coi nhà cho mình theo phái bát Trạch Minh Cảnh rồi . Tuy nhiên , dienbatn cũng xin cảnh báo : Phái bát Trạch Minh Cảnh chỉ là một phần nhỏ trong công việc khảo sát Phong thủy của Dƣơng trạch . Muốn giởi Phong thủy cần phải học tiếp những phần ở sau . Trong phần Bát trạch Minh Cảnh này , chúng ta cần lƣu ý một số bƣớc sau : 1/ Việc quan trong khi đo hƣớng nhà : các bạn phải đo chính xác tới từng độ một . Ví du Tọa Dậu - Hƣớng Mão - thuộc cung Chấn - Đông tứ cung . Chính Mão là 90 độ . Từ tâm của đƣờng chỉ hƣớng nhà , mỗi bên không quá 3 độ là còn nằm trong cung này và đƣợc tính toán cho Tọa Dậu Hƣớng Mão . Khi quá cung 3 độ trở lên ( 87 93 độ ) tức là cung hƣớng Kiêm , các bạn phải tính toán theo hƣớng Kiêm mới chính xác . 2/ Khi đặt La Kinh có vòng Phúc Đức xoay đƣợc thì khởi đầu nhƣ sau : Tùy theo hƣớng cửa chính, sao Phƣớc-đức của sơn đƣợc bày bố ở vị trí sau đây: 1. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Tây-bắc: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Thân. 2. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Bắc: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Dần. 3. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Ðông-bắc: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Giáp. 4. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Ðông: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Tỳ. 5. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Ðông-nam: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Tỳ. 6. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Nam: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Thân. 7. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Tây-nam: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Hợi. 8. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Tây: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Hợi. Các sao kế tiếp đƣợc bày bố tiếp tục đến các sơn kế tiếp theo đó cho đến hết vòng. LA KINH VÀ VÕNG PHÖC ĐỨC. 1. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Tây-bắc + Cửa chính của nhà quay về hƣớng Nam: : sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Thân.

2. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Bắc : sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Dần.


3. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Ðông-bắc: sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Giáp.

4. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Ðông +Cửa chính của nhà quay về hƣớng Ðông-nam : sao Phƣớc-đức đƣợc bày bố ở sơn Tỳ.


6. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Nam +Cửa chính của nhà quay về hƣớng Tây-bắc: sao Phƣớcđức đƣợc bày bố ở sơn Thân.

7. Cửa chính của nhà quay về hƣớng Tây-nam +Cửa chính của nhà quay về hƣớng Tây : sao Phƣớcđức đƣợc bày bố ở sơn Hợi.


3/Tính

chất

của

vòng

Phúc

đức

nhƣ

sau

:

PHÖC ĐỨC : Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt. Sản xuất chăn nuôi đều thịnh đạt , giàu sang, con cái hiển đạt. ÔN HOÀNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, bệnh tật làm ăn thua lổ, thị phi, quan sự bất lợi. TẤN TÀI : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt ,tăng nhân khẩu, điền trạch thịnh đạt, lợi công danh, sản xuất thịnh đạt. TRƢỜNG BỆNH : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, nhiều bệnh tật, con cái hƣ hỏng, làm ăn thua lổ, thị phi,gia trƣởng bị thủ túc bất nhân. TỐ TỤNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,gia tài bị tranh chấp, tiểu nhân hãm hại, sản xuất chăn nuôi thua thiệt, cuốc sống không yên ổn. QUAN TƢỚC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, quan lộc tăng tiến, tăng nhân khẩu, sản xuất chăn nuôi phát đạt. QUAN QUÍ : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, sinh quí tử, chức vị cao, điền trạch thịnh vƣợng, chăn nuôi kinh doanh phát tài, giàu có. TỰ ẢI : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,thiệt nhân khẩu,quan sự bất lợi, nam ly hƣơng, nữ tật bệnh, chăn nuôi thua thiệt. VƢỢNG TRANG : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, điền trang gia tăng, nhân khẩu thịnh đạt, sản xuất kinh doanh phát đạt, Lợi cho chủ mệnh. HƢNG PHƢỚC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt,trƣờng thọ anh khang thịnh vƣợng, trai gái thanh lịch, quan chức gia tăng, chăn nuôi thịnh vƣợng, lợi cho con thứ. PHÁP TRƢỜNG : Đặt cửa vào sơn vị này là rất xấu , đoản thọ, kiện cáo tù đày, tha phƣơng cầu thực. ĐIÊN CUỒNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , dâm loạn rƣợu chè, hao tổn tài sản, con caí bạo ngƣợc, nhân khẩu bất an. KHẨU THIỆT : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,bị vu oan giáng họa, con cái ngổ nghịch, huynh đệ bất hoà, chăn nuôi thất bại. VƢỢNG TÀM : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, gia đạo nghiêm túc, điền sản thịnh vƣợng , tiền của nhiều, nhiều con cháu, cần kiệm, chăn nuôi phát đạt. TẤN ĐIỀN : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, phúc lộc lâu dài, con cái hiền tài, tiền bạc, ruộng vƣờn sung túc. KHỐC KHẤP : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia đình luôn bị tai hoạ, đoản thọ, nhiều bệnh tật, tiền tài bị phá hại, chăn nuôi bất lợi. CÔ QUẢ : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , quả phụ, tha phƣơng cầu thực, phá sản, chăn nuôi bất lợi. VINH PHÖ : Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt, vƣợng nhân khẩu, gia đình vô tai hoạ, phú quí vinh hoa, tôt nhứt cho ngƣời co mệnh hỏa. THIẾU VONG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,hại nhân khẩu, rƣợu chè, háo sắc, nhiều bệnh tật. XƢỚNG DÂM : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,dâm loạn, nam nữ tửu sắc hại gia phong, hoài thai,


chăn nuôi bất lợi. THÂN HÔN : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, vuợng nhân khẩu, chăn nuôi thịnh vƣợng, buôn bán phát tài,lợi ngƣời mệnh hoả. HOAN LẠC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, phát tài, vƣợng điền, chăn nuôi hƣng thịnh, lợi cho ngƣời mạnh Thuỵ. TUYỆT BẠI : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia tài phá bại, cha con không quan tâm đến nhau. VƢỢNG TÀI : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, kinh doanh buôn bán phát tài, phú quí, con cái hiều thảo,lợi cho ngƣời mạng hỏa. 4/TÍNH

CHẤT

CÁC

SAO

TRONG

HỆ

NHỊ

THẬP

BÁT

TÖ.

1. Sao Giác :Là Mộc tinh mang tên con Giao ( Cá Sấu ) . Là một sao tốt, chủ về vinh hiển, đỗ đạt, gặp Quý nhân, lơi cho việc hôn thú, con cái tốt lành. Kỳ mai táng và xây cất mộ phần. 2. Sao Cang : Là Kim tinh, mang tên con Rồng. Là một sao xấu, chủ mọi việc phải giữ mình, đừng làm liều. Ky hôn thú. 3. Sao Đê : Là Thổ tinh mang tên con cầy hƣơng. Là một sao xấu, chủ phải đề phòng mọi chuyện. Kỳ động thổ, Kinh doanh, xuất hành. 4. Sao Phòng :Là sao Thái dƣơng, mang tên con Thỏ. Là một sao tốt, chủ về vƣợng tài sản, ruộng vƣờn, giầu sang,xây cất, cƣới xin hài hòa vui vẻ. 5. Sao Tâm : Là sao Thái âm,mang tên con hổ. Là một sao xấu, chủ xấu về chung thủy, hôn nhân bất lợi, kinh doanh thua lỗ, kiện tụng. 6. Sao Vĩ : Là hỏa tinh mang tên con Hổ. Là một sao tốt, chủ tốt về làm nhà, giá thú, xuất ngoại, kinh doanh đều tốt.Thăng quan, tiến chức, sự nghiệp hƣng vƣợng. 7. Sao Cơ : Là Thủy tinh, mang tên con Báo. Là một sao tốt, chủ tốt về sự nghiệp, tƣơng lai sang sủa, nhà cửa khang trang, giầu sang. 8. Sao Đẩu : Là Mộc tinh, mang tên con Giải. Là một sao tốt, chủ hôn nhân, sinh đẻ tốt đẹp. Chăn nuôi, sản xuất tốt. Xây dựng nhà cử tốt đẹp. 9. Sao Ngƣu : Là Kim tinh, mang tên con Trâu, là một sao xấu. Chủ tổn sức lực, tài sản, cƣới xin, kinh doanh bất lợi, sản xuất bất lợi, xa nhà phải thận trọng. 10. Sao Nữ : Là Thổ tinh, mang tên con dơi. Là một sao xấu, chủ xấu về bị mắc lừa, bất lợi khi sinh đẻ, hao tốn tiền của, 11. Sao Hƣ : Là Nhật tinh mang tên con chuột . Là một sao xấu về quan hệ vợ chồng. 12. Sao Nguy : Là Nguyệt tinh mang tên con én. Là một sao xấu, kỳ xây cất nhà cửa, kinh doanh bất lợi, dễ bại sản. 13. Sao Thất : Là Hỏa tinh mang tên con lợn. Là một sao tốt, chủ về công danh , sự nghiệp, buôn bán, kinh doanh, xây dựng đều cát lợi. 14. Sao Khuê : Là Mộc tinh mang tên con sói. Sao Khuê nử a tốt nửa xấu. Tốt về quan hệ vợ chồng hòa thuận, phúc lộc. Xấu về khai trƣơng động thổ, an táng. 15. Sao Lâu : Là Kim tinh, mang tên con chó. Là sao tốt, chủ về hôn thú, sinh đẻ, con cái tốt. Thăng quan tiến chức , ngƣời của hƣng thịnh. 16. Sao Vĩ : Là Thổ tinh , mang tên con chim trĩ. Là một sao tốt, chủ về Vinh hoa , phú quý, buôn bán , hôn nhân, xây dựng đều cát lợi. 17. Sao Mão : Là Nhật tinh mang tên con gà. Là một sao xấu, chủ về chăn nuôi, xây dựng đều xấu, hôn thú bất lợi,công danh trục trặc. 18. Sao Tất : Là Nguyệt tinh mang tên con quạ. Là một sao tốt, chủ về đƣợc mùa,chăn nuôi phát đạt, nhà cửa khang trang, hôn nhân, sinh đẻ tốt đẹp. 19. Sao Chủy : Là Hỏa tinh, mang tên con Khỉ. Là một sao xấu, chủ về kiện tụng, mất của, bất lợi cho công danh. 20. Sao sâm : Là Thủy tinh mang tên con vƣợn. Là một sao tốt, chủ về Vinh hoa phú quý,mƣu cầu sự nghiệp cát lợi, buôn bán phát tài, xây dựng tốt, an táng cát lợi. 21. Sao Tỉnh : Là Mộc tinh mang tên con hƣơu. Là một sao tốt, chủ về lợi cho việc thi cử, công danh, trồng trọt, chăn nuôi đƣợc mùa, xây dựng nhà cửa, hôn nhân tốt đẹp. Sao này kỳ an táng. 22. Sao Quỵ : Là Kim tinh, mang tên con dê. Là một sao xấu, chủ về bất lợi cho việc xây cất nhà cửa, hôn nhân bất lợi. Riêng việc an táng tốt. 23. Sao Liễu : Là Thổ tinh mang tên con hoẵng, Là một sao xấu, chủ về hao tài tổn sức, tai nạn, không đƣợc yên ổn.


24. Sao Tinh : Là Nhật tinh mang tên con ngựa. Là một sao xấu, chủ xấu về quan hệ vợ chồng, hôn nhân. Riêng về xây dựng thì tốt. 25. Sao Trƣơng : Là nguyệt tinh, mang tên con hƣơu. Là một sao xấu, chủ về xấu trong xây dựng, tai nạn, quan hệ nam nữ . 26. Sao Dực : Là Hỏa tinh, mang tên con rắn. Là một sao tốt, chủ về vƣợng tài lộc, con cháu giầu sang, xây dựng, hôn thú tốt đẹp. 27. Sao Chẩn : Là Thủy tinh, mang tên con giun. Là sao tốt, chủ về thăng quan tiến chức, tăng tài lộc, kinh doanh phát tài, hôn nhân, an táng tốt đẹp. 28. Sao Bích : Là một sao tốt . Hai vòng này đƣợc dùng khi xác định tốt xấu của các vị cửa : Chính Môn , Tả Thiên Môn , Hữu Thiên Môn . 5/ CÁCH ĐẶT BẾP THEO PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH . Phƣơng Pháp đặt Bếp : Bếp có 3 tiêu chí để xác định : • Hƣớng Bếp : Phải quay về hƣớng tốt của Gia chủ. • Vị trí đặt Bếp : Phải đặt tại cung tốt của Gia chủ. • Sơn (lƣng ) của Bếp phải đốt về hƣớng xấu chủ. Khi đặt bếp phải xem khi phân cung , bếp nằm tại cung nào của 24 Sơn và ta chọn VI TRÍ đặt bếp vào 1 trong 24 cung tốt theo bài thơ sau . Phép giải hung của bếp:Đây là nguồn gốc nuôi dƣỡng con ngƣời, bệnh tật cũng do ăn uống mà sinh ra. Do đó bếp phải an theo hƣớng có sinh khí. Thiên Y hay Diên Niên, đó là 3 kiết phƣơng, điều tối kỳ là làm bếp ở hung phƣơng nhƣ Ngũ quỵ và Lục sát. Nếu phạm vào cát hung phƣơng này thời hại ngƣời hại của, hay sinh bệnh hoạn. Muốn giải trừ hung họa, thời dọn dẹp hết tro bụi trên bếp cũ, cúng nƣớc sạch quét rửa cho sạch sẽ. Sau đó đem tro bụi ra đổ ở sông hoặc hoặc ở vùng đồng trống. Mua những vật liệu mới xây cất theo cát phƣơng Thiên y nhƣ vậy có thể giải quyết đƣợc hung tai, điều này rất ứng nghiệm, nếu bếp thuộc phƣơng Mộc sẽ ứng nghiệm trong vòng 30 ngày, bếp thuộc phƣơng Thổ ứng trong vòng 50 ngày, bếp thuộc phƣơng Kim, ứng nghiệm trong vòng 40 ngày, bếp thuộc Hỏa ứng trong vòng 20 ngày, cuối cùng bếp thuộc phƣơng Thủy sẽ ứng trong vòng 60 ngày. Nếu chủ cũng đƣợc cát phƣơng thời bệnh mau khỏi, thêm con thêm của, và công danh hoạn lộ thƣờng ứng trong vòng 3 năm. Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp cũ, vì e hung khí chƣa tan, nên để nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại mà vô hại. Riêng những vật dụng thƣờng dùng nhƣ chén bát, đũa, muỗng… đều không kỳ. Trái lại chỉ kỳ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi xa, đúng 5 ngày là lấy theo ý nghĩa phá Ngũ quỵ. BÀI

THƠ

KHAI

TÁO

MÔN

LỆ

AN

ĐỒNG

TÁO

VỊ

Táo nhập Càn cung thị diệt môn Nhâm Hợi nhị vị tổn nhi tôn Giáp Dần đắc tài , Thìn Mẹo phú Cấn Ất thiêu hỏa tức tào ôn Tý Quý Khôn phƣơng Gia khốn khổ Sửu phƣơng tổn súc , gia học ƣơng Tỳ Bính phát tài , Canh đại phú Ngọ phƣơng vƣợng vị phú nhi tôn Tân Dậu Đinh phƣơng đa tật bệnh Thân Tốn Mùi Tuất trạch hanh thông Tác Táo thiết kỳ dụng phấn Thổ Tàn chuyển Cận Thủy thiết an ninh Giải nghĩa Táo đặt vào cung Càn thì Gia môn bị suy sụp Đặt vào 2 cung Nhâm Hợi thì hại cho con cháu Đặt vào 2 cung Giáp - Dần thì có tiền , Thìn - Mão thì giầu Cung Cấn , Cung Ất thì bị Ôn dịch

. . . . . . . . . . . . . . . . . .


Ba cung Tý Quý Khôn nhà bị khốn khổ . Phƣơng Sửu hại lục súc , nhà gặp họa ƣơng . Hai Sơn Tỳ Bính phát tài , Phƣơng Canh đại phú . Phƣơng Ngọ là phƣơng vƣợng , con cháu đƣợc giầu . Tân Dậu Đinh ba phƣơng này nhiều bệnh tật . Cung Thân Tốn Mùi Tuất gia đạo đƣợc hanh thông . Làm bếp rất kỳ đất dơ bẩn , dùng gạch mới hay đá ở mé nƣớc rất tốt .Khi đặt bếp mới ta có thể khấn theo thủ tục nhƣ sau : Thỉnh

ti

mệnh

Táo

Bái thỉnh cửu thiên đông trù , Nhất gia chi chủ , ngũ Từ hậu thiệt ƣ , bắc Sát thiện ác ƣ , đông Tứ phúc xá tội , di An trấn âm dƣơng , bảo Họa tai tất diệt , hà Hữu cầu tất ứng , vô Đại bi đại nguyện . Đại Cửu thiên đông trù . Ti Nguyên hoàng định quốc . Hộ Cấp cấp nhƣ luật lệnh TƢ MẠNG TÁO QUÂN Tƣ Nhất Tƣ hậu Tứ phúc Họa tai Đại Cửu thiên thiên NAM

Mạng

Táo

Quân

ti

mệnh

tự đẩu trù hung hữu phúc cảm thánh mệnh trạch .PHẬT

quân

quân . chi thần . chi trung . chi nội . hóa cát . gia đình . tất tăng . bất thông . đại từ . lô vƣơng . thiên tôn . THUYẾT : CHƠN KINH

Bửu

táo

Cáo

:

gia chi chủ , ngũ tự chi thần . thiệt ƣ , bắc đẩu chi trung . xét thiện ác ƣ đông trù chi nội . xá tội , di hung hóa cát . An trấn âm dƣơng , bảo hựu gia đƣờng tất diệt , hà phúc tất tăng . Hữu cầu tất ứng , vô cảm bất thông bi đại nguyện . Đại thánh đại từ . đông trù . Tƣ mệnh Táo Quân .Đế Quân Phật Táo , Nguyên hoàng định quốc . Hộ trạch tôn .(1 lần ) MÔ

A

DI

ĐÀ

PHẬT.

TƢ MẠNG TÁO QUÂN CHƠN KINH. TƢ MẠNG TÁO QUÂN. TÁNH TRƢƠNG , HÖY ĐƠN , TỰ TỬ QUÁCH , BÁT NGOẠT , SƠ TAM NHỰT (vía mùng 3 tháng 8 âm lịch ), THÁNH DIÊN THỊ NHỰT NGHI THIẾT TRAI CÖNG DƢ- TƢ MẠNG TÁO QUÂN. TÁNH TRƢƠNG , HÖY ĐƠN , TỰ TỬ QUÁCH , BÁT NGOẠT , SƠ TAM ỜNG. THẬP NHỊ NGOẠT THẬP TỨ NHỰT TÝ THỜI THƢỢNG TẤU THIÊN TÀO , NGHI TIÊN Ƣ NHỊ NGOẠT THẬP TAM NHỰT KIỀN THÀNH TRAI CÖNG KỈNH TỐNG CHÍ , TAM THẬP NHỰT HỒI VỊ VỤ , NGHI CHÍ THÀNH NGHINH TIẾP TRAI CÖNG TÁO THẦN . NẢI NHỨT GIA TƢ MẠNG CHI CHỦ CẢM ỨNG CHÍ LINH , MỖI NGOẠT THẬP TAM NHỰT , TƢƠNG NHỨT GIA SỞ VỊ THIỆN ÁC , LỤC TẤU THIÊN TÀO HÀO BẤT ẨN QUÍ GIÁNG TƢỜNG GIÁNG ƢƠNG , BÁO NHƢ ẢNH HƢỞNG , CẬN HỬU NAM NỮ ĐỘ HẢI PHẦN HƢƠNG ĐĂNG SƠN ĐẢO MIẾU BẤT GIA TRI HỬU TÁO QUÂN TƢ MẠNG TỐI HIỂN TỐI LINH , NHI BẤT ÂN CẦN KHÂM KỈNH , SỞ VỊ XÁ CẬN CẦU VIỄN , NHƢỢC NĂNG THÀNH TÂM KĨNG PHỤNG KINH HÀNH , THIỆN SỰ TẤT HỘ KIẾT KHÁNH , PHÀM NHƠN GIA KHẨU BẤT AN SỰ BẤT TOẠI Ý GIẢ VIỆC NHƠN QUÁT QUA THIÊU CHỬ , HỬU ĐỘC TÁO QUÂN NHI BẤT TRI GIÁC , CẬN NGỘ CAO NHÂN TRUYỀN THỌ TẠNG KINH , SỞ TẠI NGHI KỲ SỞ KHOẢN CƢ GIA TRIỀU TỊCH , PHẦN HƢƠNG TÁO TIỀN THƢỜNG GIÁO HƢ HOÀNG ĐẠI ĐẠO , KIẾP KIẾP HÓA SANH , BIẾN HÓA THÀNH HÌNH , MINH MINH DẠ DẠ , SANH SANH HÓA HÓA , THÁNH THÁNH HIỀN HIỀN , PHẬT PHẬT TIÊN TIÊN , NHƠN NHƠN QUỴ QUỴ , HỬU TÀ HỬU XÍ , HỬU ÔN


HỬU TINH , DỊCH LỆ LƢU HÀNH , TỬ SANH BỊNH KHỔ. CHUYỂN VIẾT THƢỢNG CỔ , HẠ CHÍ NHƠN GIAN , KIẾT HUNG THIỆN ÁC , OAN HỒN TẠO TÁC , NHIỂM HOẠN THÂN TRUNG , TẬT BỊNH NAN THÔNG , TỨ THỜI HÀN NHIỆT , PHONG KHÍ CHI HUYẾT , TÀ MA XÂM LĂNG , KẾT THÀNH OAN TRÁI , CỪU THÙ CHẤP ĐỐI , NAM THƢƠNG YỂU TỬ , DỊCH LỆ ÔN HOÀNG , HÓA VI BÁ QUỈ , CHUYỂN VẬN THIÊN ĐỊA , TRỪ TÀ QUI CHÁNH , CHUYỂN THẦN VI THÁNH , CHUYỂN PHẬT VI TIÊN , CHUYỂN THIÊN VI ĐỊA , CHUYỂN SƠN VI THỦY , CHUYỂN ÔN VI QUỈ , CHUYỂN TÀ VI CHÁNH , CHUYỂN TỬ VI SANH , CHUYỂN HUNG VI KIẾT. TỐNG ÁC NGHINH TƢỜNG , TAM BÀNH LỤC TẶC , HÓA VI THÁNH TIÊN ...... CHUYỂN THIÊN THIÊN ĐỘNG , CHUYỂN ĐỊA ĐỊA KINH , CHUYỂN NHỰT NHỰT MINH , CHUYỂN NGUYỆT NGUYỆT HIỆN , CHUYỂN PHONG PHONG CHÍ , CHUYỂN VỎ VỎ ĐÌNH , CHUYỂN SƠN SƠN TẨU , CHUYỂN LÔI LÔI OANH , CHUYỂN THỦY THỦY KIỆT , CHUYỂN HẢI HẢI BÌNH , CHUYỂN PHẬT PHẬT HIỆN , CHUYỂN TƢỚNG TƢỚNG HÀNH , CHUYỂN BỊNH BỊNH TẨU , CHUYỂN TẬT TẬT KHINH , TỨ CHI CỬU KHIẾU , BÁT MẠCH TAM TINH , NGỦ TẠNG LỤC PHỦ , THÂN THỂ AN NINH , TẢ PHỤ HỬU BẬT , TIỀN TỐNG HẬU KHINH , VẬN CHUYỂN THIÊN ĐỊA NHƠN VẠN VẬT HÓA SANH , TAM HOÀNG NHẤT LÝ , HỖN HIỆP ĐỒNG HÌNH , TÀ MA BÔN TẨU , TÍN CHỦ AN NINH , PHẬT THUYẾT THỊ KINH VĨ GIA TRÌ , CHUYỂN VẠN VẬT QUỴ DIỆT TÀ KINH , VẠN SANH HOAN DUYỆT ĐẠI CHÖNG MẪN CỤ TÍN THỌ PHỤNG HÀNH ĐƢƠNG KIẾT TỊNH , SÓC , VỌNG MINH ĐĂNG MỖI NGOẠT TAM THẬP NHỰT , VÃNG KIỀN THIỀN LỂ KÍNH TÁO THƢỢNG , THIẾT VẬT XAO QUA ĐẢO THIẾT CƢƠNG QUẾ THÔNG TÁN TÁO TIỀN THIẾT VẬT CA KHỐC CHÖ MẠ , TÁO NỘI BẤT KHẢ PHẦN HÓA TỰ CHỈ VẬT DỈ UẾ SÀI KÊ MAO THÖ CỐT , NHẬP TÁO VẬT VĨ , HÀI LÝ Y PHỤC HỒNG TÂM VẬT TÖC ĐẠP TÁO MÔN GIA PHỦ TÁO THƢỢNG TẢO BẢ HƢỚNG TÁO VẬT THỰC NGƢU KHUYỂN NHỊ NHỤC TỰ NHIÊN THẦN AN GIA VƢỢNG PHƢỚC TẬP TIÊU TAI HỴ. (tụng 3 LẦN ) Nghi thức cúng vào giờ Hợi (22 giờ) các ngày : 7 , 13 , 23 , 24 âm lịch hàng tháng , lể vật gồm :3 chung nƣớc , 1 bình bông , trái cây , giấy vàng bạc cúng Táo Quân (có chử ĐỊNH PHÖC TÁO QUÂN ) Thắp 7 ngọn đèn cầy để trên đĩa cúng nơi bếp và 7 ngọn đèn cầy để trên dỉa cúng trên bàn thờ ông Táo theo hình sau đây : 2

3

14567

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 3. Phong Thủy Luận. 6 / XÁC ĐỊNH TÂM NHÀ : Theo cách thông thường chúng ta xác định tâm nhà bằng cách lấy tâm cân bằng trọng lực của căn nhà . Tức là chúng ta lấy trọng tâm về lực của căn nhà theo hình dạng của nó bất kz . Các căn nhà chữ nhật , hình vuông lấy tâm bằng cách đơn giản là điểm giao nhau của đường chéo . Các căn nhà có dạng bất kz phải lấy tâm theo cân bằng lực . Tuy nhiên , khi người Thày Phong thủy có tu tập Mật Tông , đến một mức nào đó có thể có sự Linh thông với Thần Linh Thổ địa , chính lúc đó , nếu Phong thủy sư bắt ấn triệu Thổ Địa , với sự Linh thông , Thần Thổ địa sẽ chỉ cho người đó đâu là trong tâm của Dương trạch và rất nhiều khi trọng tâm này khác với trọng tâm hình học mà chúng ta đã thực hiện . dienbatn . 7/ Cung Tài của một căn nhà .


Thông thường theo Bát quái của PT thì Các Cung được kể như sau theo phương hướng (do La bàn xác định) . Cách này tại Đài loan rất hay được áp dụng . 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9.

Cung

Nghề Nhân/

nghiệp.

Hướng Bắc Cung Quí Cung Du lịch. Tây Bắc Cung Tử (Cung Con trẻ) Tây Cung Hôn nhân hay Cũng gọi là Cung Phu Thê.Tây Nam Cung Danh tiếng. Nam Cung Tài. Đông Nam Cung Gia đình/ Cung Sức khỏe. Đông Cung Học Vấn/ Cung Kiến thức Đông Bắc Trung Cung thuộc Chủ nhà. Chính giữa thuộc Tâm nhà .

Trong bất kể trường hợp nào , chúng ta họp hội nghị , thảo luận nên ngồi ở góc Đông Nam của căn nhà hay cái bàn để chiếm cung Tài để có lợi thế , quay mặt về một trong 4 hướng tốt của mình , nhường khách ngồi vào cung Quý nhân ( Tây bắc ) . Nếu làm ngược lại , tức là mình ngồi ở Tây Bắc , khách ở Đông Nam là hiện tượng " Phản khách vi chủ " - Phần thiệt hại hay bị động lập tức về phía mình . Cung Đông Nam tức cung tài tuyệt đối không để WC vì mỗi lần giật nước , tiền bạc sẽ bị cuốn trôi đi . Khu vực cung Tài nên đặt Tủ chứa tiền , bàn thờ hay chỗ làm việc của mình . Người Đài Loan thường dùng những cung này để cải biến tình hình trong nhà . Ví dụ tự nhiên thấy trong nhà vợ chồng hay bị xào xáo , gây gổ , người ta xem lại góc phía Đông hay Tây Nam của ngôi nhà tức là cung Gia đình và Phu thê . Người ta quét dọn khu vực này cho sạch sẽ , gắn thêm đèn sáng hoặc đặt thêm một cái Phong Linh . Chỉ ít bữa sau hiện tượng lục đục trong gia đình sẽ hết . dienbatn thử cách này thấy rất hiệu quả . dienbatn . 8 / LƯU Ý VỀ BÁT SÁT : Bát sát là quan hệ hung hại giữa phương vị của Long và Thủy chảy vào Minh đường , của Long và Hướng nhà , giữa Hướng nhà và hướng của Thủy chảy vào Minh đường , giữa Hướng nhà và phương vị của cửa chính , giữa Hướng nhà và ngày tháng khởi công xây dựng . Bát sát là các kiêng cữ rất nghiêm ngặt trong việc lập hướng , lập Thủy Pháp Trường Sinh , chọn ngày khởi công xây dựng trong cả Âm trạch và Dương trạch . Nếu vi phạm vào bát sát thì chắc chắngia chủ không tránh khỏi tai họa cho gia đình và con cháu . Bát sát bao gồm : Ngọ sát càn , Thìn sát Khảm , Dần sát Cấn , Thân sát Chấn , Dậu sát Tốn , Hợi sát Ly , Mão sát Khôn , Tỵ sát Đoài . Ý nghĩa của bát sát rất phức tạp , song các bạn chỉ cần lưu { những điều cơ bản sau : HƯỚNG BỊ SÁT : Cửa nhà hướng Càn mà ở Ngọ vị ( ta đặt la kinh trên tâm điểm của ngôi nhà , phóng các cung tới bức tường đối diện ) là bị sát . Nhà hướng Đoài mà cửa ở Tỵ vị là bị sát . Nhà hướng Khôn mà cửa ở mão vị là bị sát . Nhà hướng Ly mà cửa ở Hợi vị là bị sát . Nhà hướng Tốn mà cửa ở Dậu vị là bị sát . Nhà hướng Chấn mà cửa ở vị Thân là bị sát . Nhà hướng Cấn mà cửa ở vị Dần là bị sát . Nhà hướng Khảm mà cửa ở vị Thìn là bị sát . NGÀY BỊ SÁT : Tương tự như vậy Nhà hướng càn không được khởi công hay để cửa ra vào , cửa ngõ , cửa sổ hay dòng nước tới từ vị Ngọ , ngày Ngọ . nếu để vào vị đó , ngày đó tai họa sẽ ập đến liền . Khi làm nhà , các bạn hết sức lưu { vấn đề này . 9

/

THỦY

PHÁP

TRƯỜNG

SINH

:

Trong Địa lý cổ truyền,phương pháp căn cứ vào các dòng nước chẩy chảy đến,tụ lại chảy đi ở xung quanh cuộc đất để xác định hướng và vị trí nhà gọi là Thủy pháp.Phương pháp căn cứ vào các dòng nước chảy,nuớc tụ và hướng nhà nằm vào cung nào của hệ trường sinh thì gọi là Thủy pháp trường sinh.Vậy phương pháp kết hợp Thủy pháp với các phương vị của thiên bàn và phương sinh thái của hệ trường sinh để xác định hướng và vị trí nhà để đón cát tránh hung gọi là Thủy pháp trường sinh.Trong Địa lý cổ truyền Thủy pháp trường sinh là quan trọng nhất,ở vùng đồng bằng và Thành phố các điều kiện về Sơn mạch,Long mạch


rất khó phát hiện ,do vậy Thủy pháp trường sinh càng quan trọng.Khi làm đúng Thủy pháp trường sinh rồi ,đã đón được cát tránh được hung rồi. Thủy

pháp:

Hướng vượng gặp nước là vượng thủy. Hướng suy gặp nước thì lại suy hơn. Trái lại, Tọa vượng gặp nước thì lại rất xấu nhưng Tọa suy gặp nước thì lại rất tốt. Do đó, các bố trí về thủy như bồn tắm, bồn rửa mặt, hồ cá, hồ bơi, vòi nước, máy giặt... đều cần phải đặt đúng vị trí để làm cho suy vượng. Phía bên ngoài nhà nếu có thủy nơi các Hướng, Tọa vượng, suy như sông ngòi, hồ ao... có thể thấy được từ nhà nhìn ra thì cũng có ảnh hưởng quan trọng đến những người cư ngụ trong căn nhà này. Thủy pháp được dùng rất nhiều trong phái Huyền-không để làm vượng thêm các cung có Hướng đương vượng và cũng để làm vượng các cung có Tọa đương suy. Khi dùng Thủy-pháp phải chú ý tránh việc làm vượng hướng có thể làm suy tọa hay ngược lại. Phối hợp Ngũ-hành, Thu sơn xuất xát và Thủy-pháp nhiều khi có thể giúp làm giãm sự sui sẻo mà lại tăng thêm may mắn. Ngoài ra, hình thể của sông ngòi theo phái Loan-đầu cũng rất quan trọng dù rằng thủy ở đúng phương làm cho vượng. Như dòng nước chảy vòng cung rồi bắn thẵng trở lại hay thuận thủy (còn gọi là tống thủy) tức là thủy khí đi từ gần nhà xa ra thì xấu cho tài lộc. Còn trường hợp nghịch thủy là nước chãy ngược tới thì rất tốt cho tiền tài. Nghịch thủy hay Thuận thủy là căn cứ theo phương hướng của cửa chính và dòng nước hay con đường phía trước cửa chính. Trong vị thế cửa chính như đón hướng đi của dòng nước hay hướng đi của dòng xe cộ lưu chuyễn thì như là đón thủy khí vào nhà, tức là nghịch thủy. Trong vị thế cửa chính quay xuôi theo dòng nước hay chiều đi của xe cộ trước nhà thì coi như là thủy khí từ nhà theo dòng này mà thoát ra nên đây là tống thủy khí đi, là thuận thủy, là mất thủy khí. Thủy Pháp Tường Sinh rất quan trọng khi thiết kế xây dựng nhà mới . Nó chính là việc điều tiết dòng Khí ra vào của căn nhà nhờ vào dòng nước cho phù hợp với Thiên Môn - Địa Hộ của căn nhà . Đây chính là hướng đường cấp , thoát khi tiến hành tính toán cụ thể khi thiết kế . 10

/

Tam

sát:

Tam sát là 3 sao có sát khí là Tuế-sát, Kiếp-sát và Tai-sát. Tam-sát có 3 loại là Niên Tam-sát, Nguyệt Tam-sát và Nhật Tam-sát hay nói cách khác là Tam-sát của năm, tháng và ngày. Tam-sát là sát ở các cung sau đây: 1. Năm Thân, T{, Thìn (hay tháng 7, 11, 3 ta) sát ở 3 phương Tỵ, Ngọ và Mùi tức phương Nam. 2. Năm Dần, Ngọ, Tuất (hay tháng 1, 5, 9 ta) sát ở 3 phương Hợi, Tý, Sửu tức phương Bắc. 3. Năm Tỵ, Dậu, Sửu (hay tháng 4, 8, 12 ta) sát ở 3 phương Dần, Mão, Thìn tức phương Ðông. 4. Năm Hợi, Mão, Mùi (hay thánh 10, 2, 6 ta) sát ở 3 phương Thân, Dậu, Tuất tức phương Tây. Các nơi có Tam-sát đều kỵ động làm tăng năng lực sát. Vì vậy mà cấm động thổ, tu sửa... nhứt là khi Tam-sát ở cung Tọa vì khi đó khí mạnh của hướng xung chiếu thẳng làm phạm xung sát nên tai họa đến liền. 11/

MỘT

DỤ

VỀ

XÁC

ĐỊNH

VỊ

CỦA

CỬA

RA

VÀO

:

CÁC VỊ CỬA CHÍNH : Nhà tọa Nhâm hướng Bính Cửa chính được chia làm ba vị theo chiều dài mặt tiền.Cửa ở chính giửa gọi là chánh môn .Cửa bên phải và bên trái mặt tiền (từ trong nhìn ra ) được gọi là tả,hữu thiên môn.Ta lần lượt xét các vị cửa như sau : A/Chánh môn : Hướng Bính vị Bính bị Xương dâm và các sao Dực , Sao Trương quản . • Xướng dâm(Hung):Đặt cửa vào sơn vị này là xấu: Dâm loạn nam nữ tửu sắc hại gia phong,hoài thai,chăn nuôi bất lợi. • Sao Trương : Là nguyệt tinh, mang tên con hươu. Là một sao xấu, chủ về xấu trong xây dựng, tai nạn, quan hệ nam nữ . • Sao Dực : Là Hỏa tinh, mang tên con rắn. Là một sao tốt, chủ về vượng tài lộc, con cháu giầu sang, xây


dựng, hôn thú tốt đẹp. • Đây là một vị cửa xấu . B/ HỮU THIÊN MÔN : Hướng Bính vị Mùi : Bị Tuyệt bại và các sao Tỉnh , sao Quỷ quản . • Tuyệt bại(Hung):Đặt cửa vào sơn vị này là xấu:Gia tài phá hoại,cha con không quan tâm đến nhau. • Sao Tỉnh : Là Mộc tinh mang tên con hươu. Là một sao tốt, chủ về lợi cho việc thi cử, công danh, trồng trọt, chăn nuôi được mùa, xây dựng nhà cửa, hôn nhân tốt đẹp. Sao này kỵ an táng. • Sao Quỷ : Là Kim tinh, mang tên con dê. Là một sao xấu, chủ về bất lợi cho việc xây cất nhà cửa, hôn nhân bất lợi. Riêng việc an táng tốt. • Đây cũng là một vị cửa xấu . C/ TẢ THIÊN MÔN : Hướng Bính vị Thìn bị Cô quả và các sao Giác , sao Cang quản . • Cô quả(Hung):Đặt cửa vào sơn vị này là xấu:Quả phụ ,tha phương cầu thực,phá sản,chăn nuôi bất lợi. • Sao Giác :Là Mộc tinh mang tên con Giao ( Cá Sấu ), . Là một sao tốt, chủ về vinh hiển, đỗ đạt, gặp Quý nhân, lơi cho việc hôn thú, con cái tốt lành. Kỵ mai táng và xây cất mộ phần. • Sao Cang : Là Kim tinh, mang tên con Rồng. Là một sao xấu, chủ mọi việc phải giữ mình, đừng làm liều. Ky hôn thú. • Đây cũng là một vị cửa xấu . Như vậy hướng nhà này không có một vị cửa nào tốt cả . Nếu mở cửa Hướng Bính vị Đinh thì được Hoan lạc trong hệ Phúc đức là tốt , nhưng bị sao Liễu trong Nhị thập bát Tú lại xấu . Song sao tốt của hệ Phúc đức ảnh hưởng liên tục còn sao xấu trong Nhị thập bát tú 28 năm , tháng , ngày mới xuất hiện một lần . Nếu mở cửa hướng Bính vị Tốn thuộc trạch Ly điều kiện lập Thủy pháp Trường sinh : Thủy khẩu ở Tuất được sinh hướng và Vượng hướng . Thủy khẩu ở Mùi thì được tự sinh hướng và tự vượng hướng . 12/ TÀI LIỆU THAM KHẢO : NGHỆ THUẬT ĐIỂM THẦN SÁT . Căn 1/ 2/ 3/ I/ ( A/ a/ 1/ 2/ 3/ÂM b/ 4/ 5/ 6/ 7/ 8/

Thần sát Xác định Tọa .( Phân kim) Xác định Hướng ( Phân kim ) Xác định Đại môn ( Phân kim ) MÔN KHÍ CỬU CUNG ĐIỂM THẦN SÁT Môn Lầu cửu cung điểm Thần sát ) CÁC THẦN SÁT PHẢI AN Thần sát an theo Can của Đại môn bao gồm THIÊN LỘC DƯƠNG QUÝ NHÂN QUÝ NHÂN các Thần sát an theo Chi của Đại môn ĐÀO HOA ĐẠI SÁT THIÊN ĐỘC HỎA THIÊN HÌNH

II/CHỦ A/ a/ Thần 1/ 2/ 3/ÂM b/ các 4/

cứ

để

ĐỊA CÁC sát

KHÍ

an

CỬU THẦN theo THIÊN

an DƯƠNG

Thần

QUÝ sát an ĐÀO

Can

CUNG SÁT của QUÝ theo

ĐIỂM THẦN PHẢI AN Hướng nhà bao gồm LỘC NHÂN NHÂN Chi của Hướng nhà HOA

: . . . : . : . . . . : . . MÃ. . . SÁT : . . . . : .


5/ ĐẠI SÁT . 6/ THIÊN MÃ. 7/ ĐỘC HỎA . 8/ THIÊN HÌNH . Ý NGHĨA CỦA THẦN SÁT Đại môn là nơi họa phúc tiến vào hoặc ra đi , là nơi động Khí , nơi Âm - Dương - Ngũ Khí gặp nhau mà tạo ra cát hung ." Họa tòng Khẩu xuất - bệnh tòng Khẩu nhập " . Nghĩa là mọi tai họa , bệnh tật đều do từ miệng mà ra . Có thể nói rằng : Cát , Hung , Họa , Phúc của Dương Trạch đa phần có liên quan đến khẩu Môn , mà điều đó người ta có thể tạo ra được thông qua phép KHAI MÔN THỤ KHÍ. Từ đó có thể tạo ra và quyết định vận mệnh của mình . 1/

THIÊN

LỘC

:

Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh , đang lên phơi phới , là đúng Đạo sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá . Lộc là cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt . Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng tiến , điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú lại khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh - Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có Lộc cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên .Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung tài , là Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp . 2/ THIÊN MÃ : Mã chủ trạng thái động , là tượng của thay đổi , bôn tẩu . Mã ra chính môn thì Gia trạch luôn gặp sự may mắn , tin vui ngất trời , phát tài mau chóng , công việc đều trôi chẩy thuận lợi . Thường sinh ra người khôi ngô , tuấn tú lại hay xuất Ngoại ra ngoài , ăn nên làm ra . Tuy nhiên cũng như Lộc , Mã cần phải Sinh - Vượng , tránh Không vong , Tử , Tuyệt . Gặp Sinh , Vượng thì tốc phát , lại sinh ra người thông minh , cao quý . Gặp Không vong , Tử , Tuyệt thì Giang hồ bôn tẩu nơi xa đểu mưu sinh . Tha phương , cầu thực , công danh thăng giáng thất thường , sự nghiệp thì long đong , lận đận , lại dễ gặp tai nạn về chân tay . Công việc chỉ có đầu mà không có đuôi , thành công ít mà thất bại thì nhiều . Gặp Thoái Khí lại ra cung Đoài trực cùng Đào hoa thì Âm thịnh - Dương suy , con gái dễ phát sinh dâm loạn , con trai chơi bời , nghiện ngập , bại hoại Gia phong . Mã cũng là cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Chỉ có giường ngủ của Nữ là không nên đặt tại Mã cung, nếu đặt phải thì Tâm bất an , không ở yên một chỗ . 3/ QUÝ NHÂN : Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần , hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động , chí tôn mà có thể trấn được phi phù . Nhà có chính môn ra Qu{ là Đại cát khánh , Gia đạo bình an , hòa thuận , hỉ Khí đầy nhà , luôn gặp may mắn . Quý nhân là sao cứu trợ , là Thần giải tai ách , nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ , gặp ách có người giải cứu , gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh , công danh thành đạt , dễ thăng Quan , tiến chức , học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp . Quý nhân gặp sinh , Vượng , thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên , tướng mạo phi phàm , tính tình nhanh nhẹn , lý lẽ phân minh , không thích mẹo vặt , thẳng thắn mà ôn hòa , khôi ngô tuấn tú . Nếu ngộ Không vong , Tử , Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều , hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh , bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực , người và gia súc bị tổn thất , kiện cáo , thị phi . Lại hay sinh người tính tình cố chấp , bảo thủ mà suốt đời vất vả , không nên người . Quý nhân ra Thai Khí , nếu lại ngộ Đào hoa thì nam , nữ tuy thông minh , tuấn tú , nhưng nam thì hiếu sắc , nữ thì dâm đãng , làm bại hoại


Gia phong , lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải , tự vẫn vì tình . Quý nhân là Cát Khí rất tôn qu{ , nên gia vào cung nào cũng rất tốt , ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có Âm Qu{ nhân là đại cát khánh , như vậy sẽ được âm Linh phù trợ . Không được để phòng tắm , nhà vệ sinh vào cung Qu{ nhân , vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên , nữ nhân thiếu máu , động thai , sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục , làm điếm , cuối cùng phải tự vẫn . Tài sản tiêu tan , yêu ma hoành hành , gia đình có người bị cướp bóc , chém giết máu me thảm khốc , bệnh tật đau khổ triền miên . Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp khó lường . 4/ THIÊN HÌNH : Chính Môn gia Hình thì hại vô cùng , vì Hình chủ tù , ngục , kiện tụng , là tượng của chém giết , mổ xẻ , châm chích . Hình gia Môn thì Gia đạo thường xuyên gặp tai họa , tai bay m họa gió từ đâu đưa đến . Những người sống trong nhà này , tuổi thọ bị triệt giảm . Trong người hay mang thương tật , lại dễ xảy ra kiện tụng , hoặc những việc liên quan đến ngục hình . Trai khắc vợ , gái sát chồng . Hình gia Môn cũng thường sinh ra người có tính khí hung bạo , liều lĩnh , bướng bỉnh , ngang tàng và gian trá , lại hay mang tật trong mình , lớn lên ắt phá tán Tổ nghiệp , tha phương cầu thực . Thiên hình gia cung nào cũng hung , nếu nó thất hãm còn đỡ , chứ nếu Miếu , Vượng thì vô cùng nguy hiểm . Giường ngủ hay bàn học của con trẻ , nếu để vào cung Hình thì dù có giỏi giang sáng dạ cũng không may khi thi cử , điểm số không cao . Thiên Hình mà đóng ở cầu thang , lại gặp Mã thì ra Mã què , chủ gặp khó khăn trong công việc , nhất là các thủ tục liên quan đến giấy tờ , thủ tục hành chính . Nếu Hình Vượng thì chủ gặp tai nạn Giao thông , tai nạn thương tích chân , tay . Hình , Lộc đi cùng nhau , chủ hay bị mất cắp , làm ăn đổ bể , thất tài , phá sản , hoặc do làm ăn bất chính mà dính dáng tới Pháp luật . Thiên Hình chỉ nên đặt tại nhà WC , phòng tắm , để yểm , trấn là tốt . Khi ấy Hình không còn hiệu lực tác phát , trở thành vô họa . 5/ ĐẠI SÁT : Đại sát là sát của Âm Khí , đó là loại đặc biệt độc . Đại sát thường đóng ở tứ Qu{ . Đất của Tuế sát không thể phạm vào , phạm vào ắt thương tổn . Nhà có chính Môn gia Sát là phạm vào cách hung họa nhất , chủ tai nạn chết chóc , ốm đau , bệnh tật . Tai nạn giáng xuống liên miên . Nặng thì mất mạng toàn Gia và chết đến một cách rất thê thảm , khủng khiếp . Nhẹ thì cũng Quan trường bãi miễn , gia sản lụng bại , bần cùng . Tuế Sát mà Gia Môn thì thường sinh ra người yểu tử ( Hữu sinh vô dưỡng ) , hoặc sinh ra người tính tình ương ngạnh , hiếu thắng , hung tơn , nham hiểm , bất nhân nhưng có đầu óc kinh doanh , thủ công , mỹ nghệ . Tuy nhiên vẫn suốt đời vất vả , thường hay mắc nhiều tai ách và chẳng làm nên công cán gì . Loại nhà này chẳng thể ở lâu , phải mau chóng sửa , trị kịp thời . Đại Sát là một sao đại hung họa , nên vào cung nào cũng hung . Giường ngủ hay bàn học của con trẻ , nếu để ở cung Đại Sát , được Sinh , Vượng Khí , thì học tài thi phận , thi cử không may . nếu gặp Tử , Tuyệt thì lười biếng , ham chơi lại hay nói dối . Đặc biệt tối kỵ đặt bàn thờ vào cung Đại Sát , lúc đó sẽ có người điện khùng , hoảng loạn , cũng có thể sinh ra người cờ bạc , nghiện hút , đổ đốn , hư hỏng . Cung Đại Sát chỉ có thể đặt WC hay phòng tắm mà thôi . 6/ ĐỘC HỎA : Độc Hỏa là khí Hỏa thịnh vượng , là Hỏa khí do sự biến đổi của Âm - Dương tạo ra . Nó chính là khí Liêm Trinh nên mang nhiều sát khí . Độc Hỏa lâm môn thì Hỏa khí vượng , khiến dễ bị Hỏa tai hay bị Hỏa khí bốc lên đầu , mà sinh ra bệnh tật , đồng thời khiến cho những người sống trong nhà hay bị hồ đồ , lỗ mãng . Độc Hỏa lâm môn hay sinh ra những người nóng tính , liều lĩnh , hung bạo , thường làm những chuyện rồ dại . Độc Hỏa lâm môn cũng đồng nghĩa thóai tài , nghèo khổ . Độc Hỏa là hung tinh nên khi đến cung nào cũng không tốt . Tuy vậy , Độc Hỏa là hung tinh nhưng không quyết liệt như Đại sát , Thiên Hình . Do vậy , Độc Hỏa chỉ thật sự gây tác hại khi đến cung đặt bàn thờ hay bếp . Những trường hợp khác có thể châm chước được . Bàn thờ và bếp là hai cung phát hỏa nên không bao giờ đặt bàn thờ và bếp vào cung có Độc Hỏa . Thúc Đẩy ( Tham khảo

Vị bản

Trí dịch

Đào của

Hoa Thế

Anh

Tăng Cường Tình Duyên http://vanhoaphuongdong.com ).


Huyệt vị đào hoa , theo quan niệm của Khoa Phong Thủy Trung Hoa gồm có ba hệ thống tính toán . Hệ thống đầu tiên là Lý Khí lại được chia làm hai . Phái Bát Trạch thì lấy cung Diên Niên của phi cung mỗi người làm căn cứ để thúc đẩy Đào Hoa hoặc căn cứ theo cửa để tính . Tức là Tý , Ngọ , Mão , Dậu tức là bốn vị trí của Đào Hoa , tức là chính Bắc, Nam, Đông ,Tây . Tất cả những nhà cửa lớn hướng Dần , Ngọ , Tuất , Đào Hoa nằm ở chính Đông . Cửa lớn hướng Thân , T{ , Thìn , Đào hoa tại hướng Nam . Cửa lớn hướng Hợi ,Mão ,Mùi Đào Hoa nằm chính Bắc . Phái Cửu Tinh huyền không thì lấy sao Nhất Bạch thủy tinh làm Đào Hoa tinh , căn cứ cung vị nó đóng ở mỗi nhà , hoặc bay đến hàng năm để kê đặt cho đúng . Tuy nhiên phái này cũng coi Sao Nhất Bạch này là tán tài , giống như chúng ta ngày nay thường hay đùa nhau rằng : “Yêu là tốn trong nhà một ít !” . Hệ thống tính dựa trên Sinh Tiêu ( Tuổi con gì ) thì đặc biệt coi trọng tính khác biệt của mỗi người , dù cùng chung một nhà nhưng tôi có Đào Hoa của tôi , anh có Đào Hoa của anh , “Hồn ai nấy giữ !” . Cách tính như sau :Năm sinh thuộc Thân T{ Thìn Đào Hoa Tại Tây Phương . Năm sinh thuộc Dần Ngọ Tuất Đào Hoa tại Đông Phương . Năm sinh thuộc Tỵ Dậu Sửu Đào Hoa tại Nam Phương . Năm sinh tại Hợi Mão Mùi Đào Hoa tại Bắc phương . Căn cứ vào tuổi của mỗi người , có thể bù đắp làm tốt thêm cho Đào Hoa vị , Đào Hoa chỉ thích hợp dùng cho người có cùng tuổi phù hợp càng qu{ hơn ( Nghĩa là đối tượng cùng vị trí Đào Hoa thì việc thành công càng dễ hơn ) . Hệ thống cuối cùng thì đơn giản hơn nhiều . Bạn chỉ cần đứng trong nhà nhìn ra cửa bên tay trái của bạn sẽ là Thanh Long ứng với nam tính , bên tay phải là Bạch Hổ ứng với nữ tính . Nếu bạn là Nam thì dùng Bạch Hổ , Nữ thì dùng Thanh Long . Chia mỗi bên làm ba khoảng cách bằng nhau nếu bạn là con trai thứ 1, 4 , 7 thì dùng phần đầu bên Bạch Hổ , 2 , 5, 8 thì dùng vị trí thứ hai 3, 6, 9 thì dùng vị trí thứ ba . Nữ cũng thế mà suy ra cho bên Thanh Long . Xin lưu { là tính thứ tự của mình thì tính anh em nam riêng , chị em nữ riêng . Vậy trong ba cách tính Đào Hoa này thì nên chọn cái nào !? Theo tôi trước hết các bạn nên sử dụng theo cách tính của Bát Trạch và Cửu Tinh trước rồi sau đến sử dụng hướng của Sinh Tiêu , hướng cửa . Nếu các vị trí đó đều không thuận tiện để kê đặt thì sử dụng tới Thanh Long , Bạch Hổ . Để sử dụng phép thúc đẩy Đào Hoa này các bạn có thể sử dụng các Bảo Khí dùng trong Phong Thủy hoặc sử dụng ngay các vật có sẵn trong nhà như giường ngủ , bình hoa , bề cá để kê đặt tăng cường cho Đào Hoa vận . 1. Giường Ngủ : Đây là phương pháp đơn giản mà không dễ , bạn chỉ cần căn cứ theo các phép tính toán như trên rồi kê giường nằm quay đầu và đặt trong cung vị đó là được . Tuy nhiên cần lưu { tránh đừng để phạm vào các tiêu chuẩn khác của Khoa Phong Thủy . Song nếu bạn là người yêu mãnh liệt thì không ngại ! Tất cả cho tình yêu ! 2. Bình Hoa : Tại các vị trí Đào Hoa đặt một bình nước trong , cắm hoa tươi . Đây là một biện pháp giản tiện , mà hiệu quả . Tuy nhiên có mấy điều các bạn cần lưu { như sau : - Bình Hoa nhất định phải có nước sạch và hoa tươi ! Nếu chỉ có bình không bạn sẽ phải đối đầu với sự bất hạn trong tình cảm , như yêu đơn phương , hoặc yêu mà không lấy được . - Rất cần sử dụng hoa tươi , các loại hoa nhựa , hoa pha lê , hoa khô đều không có kết quả gì . Số cành tốt nhất là 4 vì tượng cho 4 vị trí Đào Hoa làm tăng thêm cơ hội cho bạn . - Hoa tươi khi khô héo nhất định bạn phải thay hoa khác , nếu không nó tượng trưng cho tình yêu của bạn nửa đường đứt gánh , hoặc miễn cưỡng trong hôn nhân . Màu sắc của bình hoa cũng nên phối hợp tốt với phương vị sẽ đặt . Như Đông , Đông Nam sử dụng màu xanh . Nam sử dụng màu đỏ , hồng . Bắc dùng màu lam , màu đen . Tây và Tây Bắc dùng màu kim , trắng . Tây Nam , Đông Bắc dùng màu vàng , màu cam . Nếu sử dụng theo cách tính Thanh Long , Bạch Hổ thì Thanh Long dùng màu xanh , Bạch Hổ dùng màu trắng . Bình Hoa có thể sử dụng các chất liệu thuộc hành thổ như Gốm , Sứ , Pha Lê …v…v… bởi hoa vốn sinh trưởng trong đất ! Dùng hoa tốt nhất là dùng các màu sắc diễm lệ như đỏ thắm , phấn hồng , vàng , tím , các màu đen trắng rất kỵ . Còn một vật dụng cũng rất quen thuộc nữ cũng dùng thúc đẩy lương duyên mà khoa phong thủy hay dùng


đó là bể cá cảnh . Đương nhiên trong bể nhất định phải thả cá thật . Ngày nay do một số người ngại chăm sóc nên dùng bể cá điện tử , trường hợp này cũng tương tự như dùng hoa giả vậy . Mầu sắc của cá cũng khá quan trọng , nói chung là nên sử dụng các loại cá có màu sắc rạng rỡ , tươi tắn , cũng có thể dùng loại cá nhiều màu tha thướt . Tốt nhất là các loại có ánh kim . Xin các bạn lưu { là không nên nuôi các loại cá thuộc dòng cá chép , bởi cá chép ( L{ Ngư ) chủ về thúc đẩy tài vận , sự nghiệp còn đối với Đào Hoa vận lại vô hiệu . Cá rồng thì càng không nên vì cá rồng sát khí quá mạnh , chủ về trấn sát , trừ tà . Xin gợi ý với các bạn một chút về mầu sắc : Đối với những người thuộc phi cung Khảm ,Chấn , Tốn các bạn có thể dùng các có sắc xanh , lam , đỏ . Đối với người có phi cung Ly các bạn có thể dùng màu đỏ , xanh , vàng . Đối với người có phi cung Càn , Đoài nên dùng trắng , bạch kim , vàng . Phi cung Cấn , Khôn nên dùng đỏ , vàng , kim . Có một điều mà sẽ ít người để { đó là số lượng cá ; thật ra có nhiều thuyết đưa ra để tính số cá cần thiết ; tuy nhiên có hai điều cần chú ý : Tuyệt đối không thả một con ; nên có cặp đôi trống mái . Vì theo quy luật thiên nhiên thì nam nữ kết hợp mới sản sinh vạn vật . Trên đây là một số cách thúc đẩy tình yêu theo quan niệm triết lý của Khoa Phong Thủy Á Đông . Mùa xuân về chính là mùa của vạn vật sinh sôi kết thành đôi lứa , chuẩn bị cho một mùa sinh sản mới . Tất cả bừng tỉnh sau một mùa đông dài lạnh giá . Còn các bạn hãy lạc quan cho tình yêu của mình và thử áp dụng thêm các cách trang trí này xem . Hiệu quả đến đâu tự các bạn sẽ chiêm nghiệm , nhưng có một điều quan trọng là các bạn còn yêu và muốn được yêu . Có một điều nói khẽ là các biện pháp này chỉ dùng cho các bạn chưa có gia đình . Đối với người đã có gia đình thì không có lợi , lại còn hại , vì bạn sẽ vô tình đẩy bạn đời của mình vào tay người khác , hoặc tự chuốc cho mình những rắc rối về tình cảm . Xin hãy cẩn thận ! Tuy nhiên nếu để bảo vệ hạnh phúc của gia đình mình thì bạn cũng nên nắm rõ vị trí Đào Hoa của mọi người trong gia đình mình để hóa giải , bảo vệ hạnh phúc gia đình . Với chủ đề này xin hẹn một dịp khác 13

/

SỬ

DỤNG

GƯƠNG

TRONG

PHONG

THỦY

.

Trước hết nói về tấm gương: 1/ Những tấm gương có tác dụng phản chiếu:Khi người ta không muốn nhận các tia hay các nguồn sáng, các dòng Khí ( Qi )đi vào nhà hay một phần nào đó của ngôi nhà , người ta thường dùng gương để phản chiếu nhằm đẩy hắt các tia hay dòng khí đó đi. Khi căn nhà có hướng không hợp với tuổi chủ nhà, người ta thường đặt một tấm gương ở mặt tiền căn nhà để hóa giải những bất lợi. 2/ Gương soi làm cho các vị trí mờ tối được sáng sủa lên. Ví như trong căn nhà, hướng Đông Nam là cung Tài lộc, hướng Tây Bắc là cung Quý nhân phù trợ, hướng Chánh Nam là cung Danh vọng, Hướng Chánh Bắc là cung Nghề nhgiệp, hướng Chánh Tây là cung con cái, hướng Chánh đông là cung Gia đạo, hướng Đông Bắc là cung Kiến thức, hương Tây Nam là cung Hôn nhân . Khi trong nhà phát sinh ra sự xấu, ví dụ như Gia đạo lộn xộn, xào xáo, người ta đặt gương và những bóng đèn ở cung Chánh Đông của ngôi nhà, tự nhiên mọi việc được hóa giải....Đây là cách trấn yểm dùng để khắc phục những sự xấu phát sinh trong nhà. 3/ Gương có tác dụng làm mất đi những góc cạnh hay khiếm khuyết của ngôi nhà. Nếu ngôi nhà hương Tây bị khuyết góc chẳng hạn, sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của Thiếu nữ sống trong nhà.Người ta dùng gương lắp vào góc khuyết làm mất đi sự khiếm khuyết đó. Gương còn có tác dụng hóa giải những cấy to hay trụ điện trước cửa - Trường hợp này người ta hay dùng gương lồi hay lõm. 4/Gương soi có thể hóa giải cho những cầu thang đổ ra đường ( Làm cho tiền bạc trong nhà đổ ra vì hình tượng cầu thang đổ ra đường có hình như một thác nước ). Người ta dùng một tấm gương để hóa giải điều đó. Lúc đó có hai cầu thang thật và ảo giống như hai con Rồng âm và dương đối diện nhau. Bởi lẽ " Nhất âm nhất dương chi vi Đạo" nên hai con Rồng tương tác, hóa giải được việc cầu thang đổ ra đường. 5 /Gương soi còn có tác dụng làm cho căn phòng thêm rộng ra, có thể rời đổi vị trí của đồ vật kê trong phòng mà trong thực tế ta không có khả năng dời đổi. Tác dụng này được sử dụng rất nhiều trong các trường hợp đồ vật để không đúng chỗ mà người ta không thể dịch chuyển chúng sang vị trí khác. Lúc đó ta


dùng gương làm cho vật đó như đã được đổi chỗ. Một điều rất quan trọng là khi đặt gương như thế nào cụ thể trong nhà, bạn phải tính toán hết sức cẩn thẩn, vì đôi khi chỉ có một mảng gương bằng bàn tay để không đúng chỗ sẽ làm cho cuộc sống của bạn đi về một hướng khác.









PHẦN

HAI

NÓI

VỀ

NHỮNG

NÉT

PHÙ

ĐƯỢC

VẼ

TRÊN

GƯƠNG.


Thông thường các bạn chỉ tiếp xúc với những tấm gương bán trên thị trường đã vẽ sẵn Tiên Thiên hay Hậu Thiên Bát quái. Trong thực tế đó chỉ là một trong các dạng Linh phù, thường được các Pháp sư vẽ trên gương, hay bảng gỗ, kim loại...Những Linh phù này theo Huyền môn có tác dụng hóa giải những tác dụng xấu của ngôi nhà về nhiều mặt, đây cũng là một dạng Trấn yểm mà các Pháp sư hay dùng để hóa giải những cái xấu trong căn nhà. Trong các dạng Linh phù ( Hay còn gọi là Bùa ), thì các Linh phù dùng Bát quái có công năng giải trừ những điều xấu rất mạnh. Chính vì vậy, các Pháp sư từ xưa đến nay sử dụng rất thông dụng trong việc Trấn yểm nhà cửa. Trong việc trấn Trạch, người ta không chỉ sử dụng hai dạng Bát quái Tiên Thiên và Hậu Thiên cơ bản có bán sẵn trên Thị trường để Trấn yểm, mà người Pháp sư có học qua môn CẢM XẠ PHONG THỦY phải biết sử dụng cả 64 gương Bát quái khi Trấn trạch. Tuz theo Sơn và Hướng của từng ngôi nhà cụ thể, người ta có những QUẺ THU VÀ PHÁT của Bát quái để vẽ trên gương. Như vậy chúng ta thấy rằng, hai loại gương Bát quái vẽ sẵn bán trên Thị trường chỉ là hai trường hợp của 64 phương pháp Trấn trạch bằng gương Bát quái. Ngoài ra,rất nhiều khi, người ta sử dụng gương để Trấn trạch mà không sử dụng Linh phù Bát quái, mà tùy theo sự xấu xẩy ra trong nhà, người ta vẽ các Linh phù khác nhau lên gương để Trấn yểm.

14 / HÓA GIẢI HÌNH SÁT : Trên thực tế, ít khi thấy một ngôi nhà hội đủ những mặt đúng và tốt theo Phong thuỷ. Do vậy, Phong thuỷ học đưa ra những phương pháp hoá giải hình sát, đó là những hình thế mang sát khí ở phía bên ngoài ngôi nhà. Sau đây là cách hoá giải những hình sát thường gặp. 1. Phản quang sát: Đó là những ngôi nhà gần sông, hồ, biển, ao lớn, khi sáng hay chiều tà, ánh nắng mặt trời chiếu xuống mặt nước khúc xạ rồi lại hắt ánh nắng vào nhà làm cho đầu óc người ta tối tăm, tinh thần tán loạn, có khi gây bệnh nặng nguy đến tính mạng. Mặt nước như vậy được phong thuỷ gọi là “gương soi chậu máu”. Một dạng phản quang sát khác thường thấy ở đô thị, nơi nhiều nhà cao tầng, bên ngoài gắn nhiều kính và gương, khi ánh nắng mặt trời chiếu nghiêng, sẽ phản quang chiếu xạ vào nhà đối diện. Phản quang sát như vậy khiến người ở đó dễ mắc bệnh về máu hoặc gặp tai nạn do va đập. Hoá gỉai phản quang sát có thể dùng giấy nhám có keo dính thấu suốt dán lên kính nơi ánh nắng hay chiếu vào. Ngoài ra còn dùng hai xâu minh chú hồ lô treo ở hai bên góc cửa sổ. Nếu phản quang sát mạnh thì đặt thêm hai xâu tiền cổ ngũ để phối hợp với bạch ngọc minh chú. Nếu phản quang yếu thì không cần thêm hồ lô gỗ. 2. Liêm đao sát: Đó là đất bằng có hình đường cong mà lưng cong quay về phía nhà, có sức sát thương lớn gây đổ máu. Cách hoá gỉai: ở cát phương đặt một đôi ngựa đồng và ngũ đế bạch ngọc thì có thể hoá gỉai được. 3. Thương sát: Đây là một loại sát khí vô hình, phong thuỷ gọi là “nhất điều đạo lộ, nhất điều thương”, tức là có một hành lang thẳng và dài đối thẳng với cửa chính ngôi nhà. Ngoài ra ở ngoài cửa sổ có trồng trúc lá nhọn chĩa vào, cũng là thương sát. Lấy nhà mình làm trung tâm, thấy có đường thẳng hoặc dòng sông chĩa thẳng vào nếu khi mở cửa sổ ra quan sát được, cũng là thương sát. Ảnh hưởng: tai nạn chẩy máu, bệnh tật. Cách hoá gỉai: treo rèm hạt châu hoặc làm bình phong. Hoặc ở cửa sổ treo một đôi chuông gió kz lân hoặc đặt kim nguyên bảo. 4. Bạch hổ sát: Bạch hổ sát là bên phải nhà đang ở, hàng xóm phá thổ; hoặc bên phải nhà có một toà nhà xây lên hoặc phá đi. Ảnh hưởng đến bệnh tật. Cách hoá gỉai : cạnh tường bị xung sát đặt hai xâu ngũ đế bạch ngọc hoặc hai con kz lân cùng với minh chú hồ lô. 5. Thiên trảm sát: Nếu từ ngôi nhà mình ở nhìn ra ngoài thấy phía trước có hai toà nhà cao tầng rất gần mà giữa hai nhà cao tầng ấy hình thành một kẽ hở rất hẹp, nhìn vào như chiếc búa trời chém xuống tách làm đôi sẽ ảnh hưởng


đến sức khoẻ và gây tai nạn. Hoá gỉai: đơn giản là đặt ngựa đồng hoặc một đôi kz lân đặt ở chỗ sát khí xông đến để ngăn sát. 6. Pháo đài sát: Có những ngôi nhà nằm đối diện với một toà kiến trúc có hai khẩu pháo thật hoặc gỉa chĩa vào, gặp trường hợp này là phạm sát, khiến người ở tính khí cục cằn, do lợi mà mất nghĩa tình . Vì sát khí ở đây rất lớn, cho nên vật hoá sát cũng phải nhiều, như ở hai bên cửa sổ treo đôi chuông gió kz lân, ở giữa cửa đặt tiền cổ ngũ đế và 5 xâu minh chú hồ lô. 7. Khai khẩu sát: Khai khẩu sát là ngôi nhà có cửa chính đối diện với cửa cầu thang máy của một ngôi nhà khác; khi ta mở cửa nhà, thấy cánh cửa cầu thang máy mở ra, nhìn vào như một cái mồm to muốn nuốt mình. Trường hợp này có thể tốt mà cũng có thể xấu, như người xưa nói: “Xung khởi lạc cung vô giá bảo”, nghĩa là: khi đang gặp vận tốt thì có chuyện vui mừng, nhưng khi vận xuống thì người trong nhà gặp cảnh ốm đau hoặc tán tài. Hoá gỉai khai khẩu sát: cửa treo rèm, trên đó có minh chú quan âm, thêm một bộ tiền ngũ đế, nếu để kín trong chốt cửa thì càng có hiệu qủa. 8. Đao sát: Đó là hình vật giống như con dao chĩa thẳng vào nhà. Trong thành phố, nhiều toà nhà cao tầng có lối kiến trúc dài, một đầu nhà trông giống cán chuôi dao chĩa vào một khu nhà cao tầng khác, như ở Hồng Kông, trung tâm ngân hàng Hưng Cảng có đầu hồi giống cán dao chĩa vào phủ Thống đốc. Phạm sát này, phong thuỷ cho rằng dễ bị thương nạn. Hoá gỉai đao sát: ở trong nhà đặt long thần toạ đã đánh bóng thì hoá gỉai được sát này. 9. Xung sát: Hiện nay, do tốc độ xây dựng ngày càng nhanh và ngày càng nhiều ngôi nhà chọc trời , theo phong thuỷ học, người ở từ tầng lầu thứ 5 trở xuống dễ bị xung sát, vì hay bị cột đèn hoặc cây cối ngăn cản. Phạm sát này người ta dễ bị nhiễm bệnh. Hoá gỉai sát này dùng tiền cổ văn xương ngũ đế đã đánh bóng treo trong nhà; hoặc cửa đối diện với cây cối, cột điện treo rèm hạt châu hay bình phong. 10. Cô dương sát: Là khi nơi ở gần trạm biến thế điện, trạm bán xăng dầu, trạm bán gas, người ở nơi đây tính tình bất định, thô bạo, vì lợi mà vất bỏ tình nghĩa, trong nhà hay xô sát, cãi nhau. Hoá gỉai bằng cách lấy hồ lô gỗ đánh bóng và la bàn bát quái treo phía tường giáp các vật gây sát nói trên. Nếu chủ nhà ốm yếu, nhiều bệnh thì treo thêm hai xâu minh chú hồ lô cũng ở vị trí này. 11. Độc âm sát: Là loại hình sát khi trước nhà cao tầng có nhà vệ sinh công cộng, hoặc nơi thu mua phế liệu, nơi gom rác. Nhà ở từ 5 tầng trở xuống thường phạm loại độc âm sát này. Nếu các trạm thu gom rác thải hay nhà vệ sinh càng gần nhà, thì độc âm sát càng nặng, ảnh hưởng đến sức khoẻ mọi hành viên trong gia đình, hao tài tốn của. Nếu độc âm sát đến từ bên ngoài, ở trong nhà đặt hồ lô gỗ và tiền cổ ngũ đế có thể hoá gỉai sát khí; nếu độc âm sát đến từ trong nhà, thì căn buồng cạnh nhà vệ sinh treo 4 xâu minh chú hồ lô. 12. Thanh sát: Âm thanh có thể làm rung động lòng người, cũng có khi gây khó chịu cho con người, gây ảnh hưởng hoặc bệnh thần kinh, khi đó âm thanh trở thành thanh sát. Nhà ở gần sân bay, bến tàu, ga xe, đường sắt… đều có thanh sát. Thanh sát nếu xuất hiện từ phương Tây Nam( phương Khôn) là hung nhất. Trong trường hợp này, hoá sát bằng cách đặt hồ lô đồng hoặc hai xâu chuông gió kz lân ở phương Khôn để hút hung khí. Tuy vậy cũng không thể loại trừ âm thanh bên tai, cách thông thường phải đóng kín cửa nhà. 13. Cân trời xung xạ sát: Là nơi ở gần công trường xây dựng quy mô lớn, cạnh đó có tháp cần trục cao để nâng vật liệu, khi mở cửa ra thấy cần trục là phạm cân trời xung xạ sát. ảnh hưởng của sát khí này thường gây bệnh mắt hoặc dễ bị thương. Hoá gỉai sát khí này bằng cách đặt ngay phía xung sát long thần toạ và tiền cổ ngũ đế phối với bạch ngọc. 14. Tiêm xạ sát: Gần giống thương sát nói trên, chỉ khác có nhiều góc nhọn và chúng không tập trung chỉ một hướng nhất định. Ví dụ trong nhà đặt núi gỉa có đá nhọn, các tượng hay hình điêu khắc có các mũi nhọn chỉ vào đâu đó


trong nhà. Khi mở cửa ra, nhìn thấy núi với vô số mũi đá nhọn chĩa vào, cũng gọi là tiêm xạ sát. Cách hoá gỉai: đặt chén liên hoa tại phương sát ở trong nhà và tiền cổ ngũ đế có thể không chế sát khí này. 15. Phản cung sát: Là phía trước ngôi nhà có đường hình cong mà lưng cong lại đối diện với cửa nhà, phạm sát này dễ bị tai nạn hoặc tiêu tốn nhiều tiền của một cách vô ích. Nếu phản cung sát nằm ở phía Đông Tây ngôi nhà thì sức sát thương càng lớn; nếu xuất hiện ở cạnh một thôn xóm, cả thôn sẽ có nhiều người bị tai nạn, hao tốn tiền của. Nếu phản cung sát lại là khúc sông hay con ngòi, thì sức sát của nó càng lớn. Do vậy, khi mua nhà, người ta hết sức chú { địa hình xung quanh. Hoá gỉai sát này dùng đồng tử vận tài đánh bóng để đặt trong nhà gỉai sát, đặt minh chú hồ lô và tiền cổ ngũ đế đặt ở phía phản cung chĩa vào nhà mình. Cũng có thể đặt một đôi kz lân đặt ở phương phạm sát để ngăn sát. 16. Hỏa hình sát: Khi ngoài nhà có những vật thể nhọn sắc xung xạ chiếu đến, như: góc tường nhà cao tầng, góc đình, những pho tượng nghệ thuật dựng ở công viên…, ống khói từ 3 cái trở lên, tam giác, góc nhọn, góc rẽ của con đường chĩa thẳng vào nhà. ảnh hưởng của sát này rất mạnh, thường gây bệnh đường ruột, nhà dễ bị hỏa hoạn. Hoá gỉai bằng cách dùng gấu trắng bằng đồng để ngăn sát, hoặc dưới cửa treo tiền đồng để tăng sức mạnh hoá gỉai sát khí từ bốn phương. 17. Liêm trinh sát: Khi lưng nhà dựa núi, theo phong thuỷ là cát tướng, đó là “đằng sau dựa minh sơn là nắm quyền”. Nhưng núi dựa phải có cây cỏ tốt tươi, hình dáng thanh tú. Nếu núi dựa ít cây cối, đá lộ ra lởm chởm, phong thuỷ gọi là liêm trinh sát, làm cho tài năng người ở bị thui chột, không phát huy được. Nếu bản thân là công chức thì không có thực quyền, nếu có quyền thì cấp dưới không phục, hay chống đối. Hoá gỉai bằng cách: thường buông rèm cửa sổ, ở phưng phạm sát đeo hồ lô hoặc 2 xâu ngũ đế mịnh chú. Nếu nặng dùng 4 đôi gấu trắng để ngăn sát. 18. Thích diện sát: Trường hợp trước cửa hoặc cửa sổ thấy sườn núi nhấp nhô, gọi là thích diện sát. Loại này làm cho người trong nhà dễ bị người khác đánh đập hoặc bị thương, hoặc dễ có hành vi phạm pháp. Hoá gỉai bằng cách treo hai xâu mịnh chú hồ lô hoặc tượng voi bằng đồng trước cửa hoặc cửa sổ. 19. Ngô công sát: Khi mở cửa nhà hay cửa sổ nhìn thấy những vật thể như ống dẫn nước, cống dẫn nước bẩn, có ống chính và ống phụ trông như con rết. Ảnh hưởng: người ở hay bị đơm chuyện đặt điều, công việc không thuận lợi. Hóa gỉai bằng cách dùng một đôi gà đồng đặt ở phương phạm sát. 20. Đỉnh tâm sát: Là trước cửa hay cửa sổ có cột đèn, biển chỉ đường, biển quảng cáo, chúng sẽ tạo ra xung xạ vào nhà, làm cho người ở tính bất định , hay cáu gắt, dễ bị tai nạn. Hoá gỉai bằng cách dùng 2 xâu ngũ đế minh chú để chế sát. Những quan niệm khống chế hình sát theo quan điểm của Phong thuỷ học nêu trên, chỉ có giá trị tham khảo .Tài liệu dienbatn sưu tầm của tác giả Quảng Tuệ . 15 / Nhà ở và phân gian . Phong thuỷ học cho rằng, ngôi nhà tuy nằm trên mảnh đất đẹp về hình và thế, chọn phương và hướng đúng phong thuỷ, song việc bố trí phân gian các căn phòng trong khuôn viên căn nhà không đúng cách cũng gây bất lợi. Về vấn đề này, người xưa quan niệm như sau: Nhà ở lớn người ít thì dương khí không đủ, thiếu sự phát triển, dần dần đi đến suy vi, nghèo khó. Theo quan điểm của xã hội hiện đại, điều đó có thể có căn cứ vì những l{ do sau đây: chủ nhà mất thời gian và mệt nhọc phải quét dọn, làm vệ sinh các căn phòng; phòng không có người ở lâu ngày ẩm thấp, mốc meo, ánh sáng không đủ, không thông gió sẽ mau hỏng; về tâm lý học, không gian quá rộng khiến người ở cảm thấy không ổn định. Các nhà kiến trúc, môi trường đưa ra cách tính diện tích ở hợp lý theo số người như sau: - Đối với nhà đông người, lấy tổng số tuổi của mọi người trong nhà nhân với 1m vuông chính là tổng diện tích quy ra mét vuông ngôi nhà gồm phòng khách, phòng ngủ bố mẹ, phòng ngủ con cái, phòng ăn, nhà tắm và vệ sinh. Như một gia đình có 4 người, chồng 35 tuổi, vợ 30, con 9 tuổi và 6 tuổi, tổng số tuổi của họ là 80,


vậy diện tích ở thích hợp là 80 m vuông. - Một cách tính khác là tính theo từng đầu người, như phòng ở bố mẹ là 50m vuông, con chưa đến tuổi đi học là 10m vuông, con học mẫu giáo, tiểu học, phổ thông trung học mỗi suất 15m vuông, học đại học trở lên và người già mỗi người 20m vuông. So với cách tính qua ví dụ trên, kết qủa như nhau. Nhà ở nhỏ người đông theo bí truyền dương trạch là tướng tôn quý phồn vinh. Phong thuỷ cho rằng, ở trường hợp này do người đông nên dương khí sung mãn, sinh khí tràn đầy, báo sự phát triển dần thành giàu có, làm ăn phát đạt. Tuy vậy ở ngôi nhà này phòng khách phi rộng rãi thích đáng, các phòng khác phi thiết kế đặc biệt để có thể sử dụng hết công suất. Nhà ở chiều sâu dài hơn chiều ngang. Chiều sâu nhà tính từ cổng trước đến cổng sau, chiều rộng tính từ bên trái đến tường bên phải. Người xưa cho loại nhà này là cát lành. Nếu chiều sâu không dài, tuy có khí phồn vinh nhưng không bền. Quan điểm này có cơ sở bởi Trung Hoa cổ xưa tiền thuế đất ở tính theo chiều rộng sát mặt đường; mặt khác chiều sâu nhà dài ngăn gian dễ. Để giữ được bí mật trong nhà thì các phòng đều ngăn lùi về phía sau là thuận nhất. Nhà ở bề ngang dài hơn bề sâu. Theo Phong thuỷ học, nhà bề ngang rộng hơn bề sâu, người nhà dễ sinh bệnh, là hung. Ngày nay các ngôi nhà được xây dựng thường bị ảnh hưởng bởi địa thế đất mà người ta có. Sau khi xây dựng, tỷ lệ bề ngang gấp đôi bề sâu, Phong thuỷ cho là được. Song loại nhà này có nhược điểm làm cho từng thành viên trong nhà sống không độc lập, sắp xếp đồ đạc thường khó khăn. Nhà ở ngăn 3-4 gian. Theo thuật số Trung Hoa cổ xưa phán đoán sự cát hung trong kiến trúc theo số gian của ngôi nhà: một gian là cát, hai gian không chướng ngại, 3-4 gian là hung, 5, 6, 7 gian là cát, 8 gian là hung, 9 gian là cát. Gia đình hiện đại thông thường có ba loại không gian: không gian ngủ, bao gồm phòng ngủ của vợ chồng, của con cái là hai làm chuẩn, nếu có ông bà phải có phòng riêng, ngoài ra có nhà tắm nhà vệ sinh; không gian ăn uống bao gồm nhà bếp, nhà ăn; không gian dùng vào việc khác như phòng khách, phòng đọc sách, tiền sảnh, ban công, nhà kho, nhà xe…Theo ba loại không gian, loại nhà rộng để ngăn phòng như trên không phải ai cũng có. Vì vậy, người ta thường gộp lại dùng chung mấy loại không gian, như vậy nhà ngăn 3,4 gian là không đủ dùng. Nhưng nhà quá nhỏ ngăn ra nhiều phòng là không dễ, mà có được cũng không tiện. Có lúc người ta dùng chung phòng ăn, phòng khách dùng chung làm một, làm cho nhà hung trở thành nhà cát. Gian giữa ngôi nhà khi trở thành không gian vô dụng. Theo gia tướng học, gian giữa ngôi nhà được cho là gian quan trọng nhất. Nếu gian giữa nhà bố trí thành giếng trời, nhà tắm, nhà vệ sinh hoặc thành một không gian vô dụng sẽ là hung tướng, quyền uy của chủ nhà ngày càng sa sút. Gian giữa nhà tốt nhất nên bố trí là tiền sảnh để mọi người trong nhà có thể tụ họp chuyện trò, vui chi gỉai trí hoặc nghỉ ngi. Nơi đây có lúc dùng làm phòng tiếp khách hoặc phòng ăn. Gian này phải mở nhiều cửa sổ và cửa rộng để người ra vào dễ dàng, nên đặt ghế ngồi, ti vi, máy hát ở đây. Gian phòng này phải rộng, thoáng, độ cao từ 8 điệp (2,4m) đến 12 điệp ( 3,6m), phía Đông Nam cần có cửa sổ để thông gió. Phòng ngủ của chủ nhà đặt giữa nhà. Trong gia tướng học, phương vị có liên quan rất nhiều đến sự cát hung cho người ở, nguyên điểm quan trọng nhất của phương vị là điểm trung tâm của nhà. Ngôi nhà là tượng trưng cho địa vị quyền thế của người chủ, nên gian giữa bố trí làm phòng ngủ của chủ nhà là thích hợp nhất. Nhà ở hiện đại, phòng ngủ thường đặt ở một góc nhà, theo gia tướng học địa vị chủ yếu của chủ nhà không được tôn trọng, trong nhà hay xẩy ra tranh chấp, thiếu không khí thân mật và ấm áp trong nhà, dẫn tới người chủ nhà càng tìm cơ hội tìm niềm vui bên ngoài, không muốn về nhà, tính cách tiêu cực, gia đạo ngày càng suy vi, về cuối không cứu vãn nổi, gia đình tan nát. Cửa chính và cổng thành một đường thẳng. Cổng và cửa chính ngôi nhà thành một đường thẳng, theo gia tướng học có sát khí, không lợi cho người ở. Về l{ thông thường, cửa, cổng như vậy dễ để người ngoài dò xét nội tình bên trong căn nhà, cho nên người xưa làm cổng hơi lệch về trái hoặc về phải một chút để cho nhà kín đáo. Ngày nay đất chật người đông, nhiều nhà không có cổng, chỉ có cửa chính ra vào, Phong thuỷ khuyên nên làm cánh cửa đẩy vào trong, cửa sẽ kín đáo và an toàn hơn, còn có hàm { như đón mời khách vào nhà, nhà sẽ nhiều khách. Nhà đông khách là đầy sinh khí, cuộc sống và làm ăn phát đạt. Người xưa có câu: “Môn đa khách đáo thiên tài đáo, gia hữu nhân lai vạn vật lai ”( cửa rộng thì tài nhiều, nhà nhiều người lui tới phát đạt giàu có). Nhà ở không mở cửa sau. Theo sách cổ Lạc địa của Trung Hoa cổ đại, nhà dù lớn hay nhỏ mà không có cửa


sau thì không nên ở, vì ở vợ chồng trước sau cũng ly tán, người mất người còn. Cái lý của quan niệm này do xưa có kẻ thù có khi đến gây hại, nếu không có cửa sau không có lối thoát hiểm. Của sau cũng có thể là cửa sổ, nếu không như cách nói của phong thuỷ sẽ gặp hung hoạ. Theo quan điểm của vệ sinh phòng bệnh hiện đại, nhà có cửa trước không cửa sau không khí không lưu thông, không có sự thông gió, thấp khí nặng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người trong nhà. Nhà ở hướng về Nam các phòng đặt bên phía Tây, buổi sáng có đủ ánh sáng mặt trời, mùa Đông rất ấm áp, mùa hè gió nồm nam thổi tới, mùa Đông ngăn được gió lạnh từ Đông Bắc về, do vậy đây là ngôi nhà cát tướng. Phòng ngủ và cửa chính thành một đường thẳng. Sự ngủ và phòng ngủ là quan trọng đối với cuộc sống mỗi người. Người xưa khi bố trí phòng ngủ bao giờ cũng suy xét hai điều kiện là an toàn và yên tĩnh, an toàn được đặt lên vị trí hàng đầu.Phòng ngủ gần cổng, gần cửa chính đều có sát khí, người xưa cho là dễ bị kẻ xấu quấy rối, đột kích. Phòng ngủ và cửa chính thành đường thẳng, khách đến nhà phải đi qua phòng ngủ khiến người ta cảm thấy không an toàn, không tiện lợi nên ngủ không yên. Phòng ngủ cạnh bếp. Người xưa không bao giờ đặt phòng ngủ cạnh bếp vì cho là hung. Trên thực tế, phòng ngủ cạnh bếp bị nhiễm nhiều tiếng ồn, vì nơi đây nhiều người qua lại, nói năng ồn ào, dễ bị hỏa hoạn. Phòng ngủ tốt nhất đặt nơi ngăn cách với bên ngoài; nơi ít người qua lại nhất và an toàn nhất. Ngoài ra phòng ngủ phải luôn thông gió mới đảm bảo sức khoẻ cho con người. Từ ngoài nhìn thấy bếp trong nhà bếp. Theo gia tướng học, người ngoài cửa thấy được lửa khi bếp đang đun là không tốt, vì người xưa cho rằng lửa là thần linh nên không để ai nhìn thấy. Theo l{ thông thường, nhà bếp như chỗ hậu sân khấu, theo quan điểm mỹ học, không nên để người ngoài nhìn vào nơi lộn xộn này. Phong thuỷ học còn cho rằng, nhà bếp sạch sẽ không mùi hôi thì mới làm ăn phát đạt, gia đình hưng vượng. Nhà vệ sinh đặt ở giữa nhà. Theo l{ thông thường, nhà vệ sinh đặt giữa ngôi nhà là thiếu mỹ quan, vì nó phá mất bố cục chung của ngôi nhà. Nhưng có người cho là tiện, vì mọi người ở các phòng khác nhau có thể vào đó mà không làm phiền nhau. Trong gia tướng học, người ta rất coi trọng vị trí trung tâm ngôi nhà, coi đây là vị trí tốt nhất cho chủ nhà, chỉ có thể đặt nhà tiền sảnh hoặc nhà khách là hợp lý nhất. Nếu nhà vệ sinh đã đặt ở giữa nhà, phải chú ý khâu vệ sinh, không cho mùi hôi bốc ra xung quanh. Xong cũng không nên đặt nhà vệ sinh ở giữa nhà, phong thuỷ cho như vậy là không cát. Cầu thang đặt ở giữa nhà là không tiện, vì trong gia tướng học, giữa nhà là nơi quan trọng của chủ nhân, nên tốt nhất là phòng ngủ của chủ nhà; cầu thang đặt ở giữa nhà, khác nào cắt đôi ngôi nhà, làm mất đi vẻ hoàn chỉnh ngôi nhà đó, phong thuỷ cho như vậy sẽ ảnh hưởng tới hạnh phúc của toàn gia. Việc bố trí cầu thang phải căn cứ vào tình hình các phòng ở tầng trên mà quyết định, thường nên đặt ở sát rường. Nếu phòng khách đặt ở tầng trên thì cầu thang nên đặt gần cổng để khi khách đến nhà đi thẳng lên phòng khách. Nếu phòng ngủ đặt ở các tầng trên thì cầu thang nên đặt ở góc cửa chính, hoặc cạnh nhà ăn, nhà bếp. Cửa sổ đặt ở hướng Bắc ngôi nhà, người xưa cho rằng kinh nguyệt của phụ nữ trong nhà không đều. Đông y cho rằng, môi trường lạnh lẽo cũng gây bệnh phụ nữ. Ở Việt Nam, cửa sổ đặt hướng Bắc, gió mùa đông Bắc lạnh lẽo sẽ thổi vào nhà, khiến ở trong nhà rất khó chịu, nhất là đối với phụ nữ, nên dễ gây bệnh cho họ. Nếu phải mở cửa sổ hướng Bắc,thì nên mở cửa sổ nhỏ đủ để thông gió; cửa nên làm hai lớp kính để chống lạnh. Nhà hướng Tây, mở cửa sổ hướng Nam, theo bí tryền của phong thuỷ là cát,nhất là mở cửa sổ lớn. Tuy vậy cũng nên một cửa sổ nhỏ hướng bắc để thông gió, làm cho mùa hè đến thì mát. Nhà bếp hướng Đông. Theo phong thuỷ học, nhà bếp hướng về Đông hoặc Đông Nam là cát. Cái l{ ở đây theo học thuyết ngũ hành: đốt mộc thì sinh hỏa, mộc thuộc Đông, hỏa thuộc Nam, sự nhóm lửa của bếp là có sự sinh, cho nên nhà bếp ở hai hướng này là cát. Theo quan điểm môi trường sinh thái, nhà bếp ở hai hướng nói trên là tốt. Buổi sáng nhiệt độ thấp nhưng được ánh sáng mặt trời chiếu vào, buổi chiều nhiệt độ cao lại trở thành nơi mát mẻ, việc bảo quản thức ăn và thực phẩm dễ dàng. Xây thêm nhà phụ ở hướng Tây nhà chính. Theo phong thuỷ học, nếu xây thêm nhà phụ ở phía Tây nhà chính là dấu hiệu phồn vinh của gia chủ, nếu có hành lang liên kết hai nhà lại thì được cát tướng. Tuy vậy, khi xây nhà phụ, điều đầu tiên khi chọn hướng không cản trở nhà chính. Vì nếu nhà phụ đặt ở phía Đông


hoặc Nam sẽ cản trở sự thông gió và ánh sáng của nhà chính, nếu đặt ở phía Bắc thì sẽ bị nhà chính che chắn hòan toàn, thông gió không tốt. Nếu nhà chính và nhà phụ có hành lang thông nhau thì không phải đi qua các phòng khác, không ảnh hưởng tới sự kín đáo của phòng khác, điều mà phong thuỷ học cho là không tạo ra sát khí. Trên đây là cách phân gian trong một ngôi nhà theo phong thuỷ học, quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo. Tài liệu dienbatn sưu tầm của tác giả Quảng Tuệ 16 / NHỮNG LỐI KIẾN TRÚC GÂY TAI HẠI . Ngày nay, khi xây dựng những công trình dân sinh, người ta thường thiết kế theo trường phái công năng, tạo điều kiện tiện dụng tối đa cho người ở. Theo Phong thuỷ học, nhiều khu nhà theo lối kiến trúc này, cũng gây những sự cố về tài vận và sức khoẻ cho người ở. Sau đây là những lối kiến trúc thường gặp, dưới góc nhìn của phong thuỷ học là chưa ổn. Hành lang giữa nhà, chủ sẽ phân ly Trong các ngôi nhà cao tầng hiện đại, thang máy và hành lang thường ở trung tâm nhà, các phòng tỏa ra 4 hướng, 6 phương…, nhiều trường hợp hành lang đặt giữa nhà, Phong thuỷ học cho rằng, đó là lối thiết kế gây xấu nhất cho người ở. Có những đơn nguyên tương đối lớn, bước vào cửa đã là phòng khách, phòng ăn, cửa chính đối thẳng với hành lang mà độ dài hành lang bằng nửa diện tích nhà. Tình hình càng bất lợi hơn đối với người ở, khi nhà vệ sinh lại ở hai bên hành lang. Nếu kiến trúc nhà ở như vậy, chủ nhà thường dễ phân ly hoặc bệnh tật, vận thế cũng đi xuống. Phong thuỷ học cho rằng, để hoá gỉai sát trong trường hợp này, tốt nhất là dùng rèm treo cửa bằng vỏ ốc hến. Cái xà cái cột gây bệnh Trong kiến trúc hiện đại xưa và nay khác nhau về sử dụng vật liệu, tạo dáng… mà còn khác nhau về cái cột cái kèo (hay xà). Cột kèo của người Việt Nam, Trung Hoa xưa phần lớn là hình tròn, nếu có dùng hình vuông thì bao giờ người ta cũng vuốt bỏ góc nhọn đi. Kiến trúc hiện đại, cột bằng bê tông, hầu như là hình vuông. Về kết cấu xây dựng không thể không có cột xà, Phong thuỷ học cho rằng, những cột phải dấu trong tường, không lộ ra, vị trí dầm cần tính toán hợp lý cho bố trí nội thất. Với loại nhà này, vị trí đặt giường ngủ cần cân nhắc, nếu nơi ngủ bị xà (hoặc kèo) đè, sẽ sinh ốm đau, vận thế đi xuống. Làm ăn lụn bại vì hướng cửa sai Phong thuỷ học cho rằng, phưng vị của cửa là chủ sát hung hoặc cát đối với chủ hộ, do vậy khi xây nhà hoặc mua nhà, người ta rất chú { điều này. Một nữ doanh nhân tuổi Mùi, người Hồng Kông ngoài 30 tuổi đang làm ăn phát đạt, có tiền mua căn nhà, sau khi về ở, bỗng dưng làm ăn đi xuống. Nhiều hợp đồng mà chị đã ký kết bỗng dưng bị huỷ bỏ. Linh cảm thấy việc làm ăn của bản thân có liên quan đến ngôi nhà, mời thầy Phong thuỷ đến xem xét. Thầy Phong thuỷ phát hiện cổng chính ngôi nhà đặt không đúng phương vị, nên sự kinh doanh của chị đi xuống. Chị tuổi Mùi, nhưng cổng chính lại ở Thân Sơn; nhà toạ Dần hướng Thân không đẹp, khí khẩu hỗn tạp. Cửa sổ mở ra ở phương Đông và Đông Bắc, niên sát nằm ở Mão Sơn, phối hợp niên vận gọi là điệp sát (sát kép). Do vậy nữ doanh nhân này suy thoái trong làm ăn do phương vị cửa không nạp vượng. Theo lời khuyên của thầy phong thuỷ, trước cửa sổ phương vị chính Đông, đặt một chậu nước nuôi cây cảnh, ở cổng chính phía trong treo một bức rèm kết bằng vỏ ốc hến để hy vọng có thể giảm bớt điều không lợi. Sau không đầy một tháng, nữ doanh nhân làm ăn có khá lên, nhưng thầy Phong thuỷ vẫn khuyên nên đổi nhà. Về chuyện ấy… Phong thuỷ học cho rằng, vị trí phòng ngủ trong nhà có liên quan đến quan hệ giới tính của gia chủ; như phạm hay không phạm đào hoa, có hay không lãnh cảm và bất lực giới tính. Khái niệm đào hoa ở đây chỉ ngoài người bạn đời chính thức, còn có quan hệ với người bạn khác giới nữa. Trong 24 Sơn hướng của phong thuỷ học, nếu chủ nhân có phòng ngủ ở Mão Sơn và Dậu Sơn dễ phạm đào hoa, còn nằm ở vị trí T{ Sơn và Ngọ Sơn là cũng có đào hoa, nhưng không mạnh mẽ. Về vấn đề này, phong thuỷ học còn cho rằng, phải xem xét thêm bản mệnh của gia chủ. Trong môn tử vi, người có mệnh thân ở Mão Dậu thì có đào hoa, nếu phòng ngủ lại nằm ở Mão Sơn, Dậu Sơn thì đào hoa càng mạnh; người tương khắc với Mão Sơn, Dậu Sơn thì mắc chứng lãnh cảm giới tính hoặc bất lực tình dục. Những người này muốn


khôi phục lại giới tính trời sinh, hẳn phải bố trí giường ngủ ở Mão Sơn , Dậu Sơn. Phong thuỷ học cho rằng, người bản mệnh đào hoa, phương vị phòng ngủ lại ở Mão Sơn, Dậu Sơn thì nên đổi vị trí phòng ngủ, nếu không, có người “ nằm ngủ trên giường mà lòng tơ tưởng ”, còn ông chồng thì dễ biến thành “người sâu đo”. Khái niệm “người sâu đo” do dân gian Trung Hoa cổ đại cuối Triều Minh chỉ những quan đại thần giầu có, sinh hoạt xa xỉ, rất nhiều nàng hầu thê thiếp; suốt ngày đêm uống thuốc kích dục để cùng thê thiếp hoan lạc, nhằm quên đi nỗi sắp mất nước về tay nhà Mãn Thanh. Vì dâm dục quá độ, có quan đại thần chết, nhưng có người không chết được, xưng cốt rã rời, người co rúm lại, không duỗi thẳng ra được, giống hình con sâu đo, người dân đương thời gọi họ là “người sâu đo”. Phong thuỷ học còn cho rằng, trong thế giới đương đại, người bản mệnh đào hoa, giường ngủ ở Mão Sơn hoặc Dậu Sơn, nhà lại ở gần đền miếu, khí âm sát ở đây nạp vào nhà, ông chủ nhà cũng sẽ trở thành “người sâu đo” nếu không đổi Phong thuỷ. Không nên ở nhà tầng lầu có góc nhọn Kiến trúc hiện đại có nhiều ngôi nhà có những cụm nhà cao tầng liên kết với nhau, ở mỗi tầng lầu có tới 6 đến 8 đơn vị, trên mặt phẳng mỗi tầng lầu nhìn ra như hình quạt; cầu thang máy và hành lang đều đặt ở giữa lầu có thể toả ra 6 phương 8 hướng. Cách thiết kế này tạo ra từng bộ phận nhô ra một góc, làm cho ánh sáng và không khí vào từng căn hộ đầy đủ. Đứng về góc độ phong thuỷ mà nói, vì các hộ chĩa ra 6 phương tám hướng, nên không đạt được “4 bình 8 ổn”, mà mỗi căn hộ có một phòng với một góc nhọn. Những người sống trong ngôi nhà ấy luôn cảm thấy mơ hồ, trong lòng lúc nào cũng buồn bực, sức khoẻ gỉam dần, gia cảnh sa sút. Xu hướng xấu nặng hay nhẹ, còn tuz thuộc vào mệnh của chủ nhân , hướng và phương của ngôi nhà. Mua nhà cũng nên chọn tầng Phong thuỷ học cho rằng, khi mua nhà ở chung cư, ngoài việc chọn hình thế ngôi nhà có dấu hiệu cát, còn nên chọn tầng lầu họp với bản mệnh của gia chủ. Nguyên tắc mà phong thuỷ đưa ra là: nếu số tầng lầu ngũ hành sinh chủ mệnh là tốt nhất, nếu khắc chủ mệnh là không tốt. Nếu số tầng lầu ngũ hành bị chủ mệnh khắc cũng tốt vào loại trung bình; ngũ hành chủ mệnh với ngũ hành tầng lầu như nhau thì giúp chủ mệnh nên cát. Ví dụ người sinh năm Hợi, hành Thuỷ, nên ở tầng 1 hoặc 6 (đều thuộc thuỷ); tầng 4 và 9 thuộc kim, kim sinh thuỷ là cát, ở cũng tốt; cũng có thể ở tầng 2 và tầng 7 (đều thuộc hoả), vì thuỷ khắc hoả; không nên ở tầng 5 hoặc 10 ( đều thuộc thổ), vì thổ khắc thuỷ. Về mối quan hệ tầng lầu với ngũ hành, được người xưa nêu như sau: Tầng 1 và 6 thuộc thuỷ; tầng 3 và 8 thuộc mộc; tầng 4 và 9 thuộc kim; tầng 5 và 10 thuộc thổ. Tầng 10 thuộc thổ, tầng 11 thuộc thuỷ, tầng 12 thuộc hoả, tầng 13 thuộc mộc, tầng 14 thuộc kim, tầng 15 thuộc thổ, tầng 16 thuộc thuỷ, tầng 17 thuộc hoả, tầng 18 thuộc mộc, tầng 19 thuộc kim, tầng 20 thuộc thổ… Về tuổi theo ngũ hành như dịch học nêu ra như sau: Tý hành thuỷ, Sửu hành thổ, Dần hành mộc, Mão hành mộc, Thìn hành thổ, Tỵ hành hoả, Ngọ hành hoả, Mùi hành thổ, Thân hành kim, Dậu hành kim, Tuất hành thổ, Hợi hành thuỷ. Về mối quan hệ tương sinh, tương khắc như sau: Tương sinh: Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Mối quan hệ tương khắc như sau: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim… Vị trí nhà vệ sinh trong khuôn viên ngôi nhà Trong gia tướng học không nói rõ nhà vệ sinh đặt ở phương vị nào thì tốt, chỉ nhắc nhở cần tránh đặt giữa nhà, phía Đông Bắc hoặc phía Tây Nam. Nếu đặt ở phía Bắc thì từ thu phân đến xuân phân không nhìn thấy ắnh mặt trời, khí hậu ẩm lạnh, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Phong thuỷ học còn cho rằng, vị trí nhà vệ sinh không đặt nơi trùng với bản mệnh. Ví dụ người sinh năm T{ và Hợi ( đều thuỷ), không đặt nhà vệ sinh phương Bắc, vì Bắc thuỷ; người sinh năm Dậu và Thân ( đều là kim ), không đặt nhà vệ sinh phương Tây, vì Tây kim… Trên đây là một số trường hợp thường gặp đối với một ngôi nhà, với nơi ở mà phong thuỷ học nêu ra, quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo . Tài liệu dienbatn sưu tầm của tác giả Quảng Tuệ 17

/

LƯU

Ý

HƯỚNG

BÀN

LÀM

VIỆC

:


Thông thường chủ một cơ sở làm ăn,buôn bán cần phải đặt bàn làm việc của mình và của các nhân viên dưới quyền theo hướng tốt của cung Mạng người chủ.Ta cũng cần lưu { rằng :Các cung quan trọng như cung Danh vọng (Phương Nam );cung Sự nghiệp (Chánh Bắc );Cung Phú quí,Tài lộc (Đông Nam );cung Tri thức (Đông Bắc ) cần phải xác định cho chính xác để làm cho các khu vực đó thêm sáng sủa ,sinh động.Khi cần phát triển một vấn đề nào đó ta làm cho cung đó nổi bật lên bằng cách thắp đèn,treo Phong linh hay quả cấu thủy tinh,đặt hồ cá cảnh vào vị trí tương ứng của cung đó. Bàn làm việc của chủ nhân cần phải có chỗ dựa đằng sau (Sơn ),như là dựa lưng ghế vào tường. Ghế ngồi không được quay ra cửa sổ,cửa ra vào,không được để các góc nhọn như cạnh bàn,tủ,góc tường đâm vào vị trí ngồi.Chỗ ngồi của người Chủ không được có đường đi đâm trực diện vào.Khi làm việc,từ chỗ ngồi của mình,người Chủ phải bao quát được toàn bộ cơ sở của mình và không để người khác nhòm ngó vào chỗ làm việc của mình. Khi bố trí bàn làm việc,Chỗ ngồi của Chủ nhân phải chiếm được các phương vị tốt và tuyệt đối không để bất cứ ai ngồi vào vị trí đã chọn của mình.Nên bố trí làm sao khách ngồi vào cung Quí nhân là tốt nhất.Có như vậy Chủ nhân mới được giúp đỡ,hậu thuẫn ,nâng đỡ.Nếu có điều kiện nên treo sau lưng chỗ ngồi các bức tranh Long –Hổ. 18/ Thế ngồi trong Phong Thủy của Bạn. * Bất cứ một cuộc họp nào , bạn nên ngồi ở vị trí góc Đông Nam của căn phòng hay cái bàn để chiếm giữ cung Tài . ** Khi Bạn kinh doanh một thương nghiệp, Bạn có những buổi họp thương mại, hãy cố gắng chọn một chỗ ngồi tốt cho riêng Bạn (nghĩa là những hướng tốt theo phong thủy của Bạn). Nếu có khó khăn khi Bạn không thể chọn chỗ ngồi theo ý ý mình muốn, thì hãy xoay người về hướng tốt đó hay quay mặt về hướng tốt đó khi phát biểu háy nói chuyện. ** Khi Bạn phải đi ra ngoài dự một buổi ăn tối thật quan trọng để tạo một cơ hội tốt, Bạn hãy ngồi đối diện với hướng Diên Niên. Hướng này sẽ làm cho Bạn có cảm giác tốt và may mắn. ** Khi có một cuộc phỏng vấn cho nghề nghiệp hay một buổi họp mặt quan trọng, hãy ngồi day mặt về hướng Sinh khí. Hướng này sẽ gia tăng may mắn và thành công cho Bạn . Như vậy chỗ ngồi họp của bạn cần lưu { tới Vị ( tọa độ của chỗ ngồi trong phòng ) và Hướng mặt của mình . 19 / Ảnnh hưởng của đòn dông : Theo khoa Phong thủy thì cái đòn dông chính thường tạo ra một lực tác động mạnh mẽ đối với những vật thể nằm trên đường thẳng trực chiếu của nó, nơi nào bị trực chiếu thì nơi đó bị ảnh hưởng nặng nề nhất đối với những người ở trong đó, ví dụ chiếu vào phòng ngủ thì người nào ở trong phòng mới bị ảnh hưởng, nếu chiếu vào phòng làm việc thì người ngồi làm việc bị tác hại. Đặc biệt chiếu vào cửa chính ra vào thì cả gia đình đều bị ảnh hưởng chứ không riêng gì chủ gia đình . Riêng về cái đòn dông có rất nhiều cách sửa chửa hoặc là treo một cái bát quái có gương phản chiếu ở chính giửa treo ngay trước cửa nhà. Một cách khác làm một mái hiên che nắng hay là giàn cây leo ngay trước cửa nhà che khuất tầm mắt mình đối với cái đòn dông trên cao của nhà đối diện cũng tránh được ảnh hưởng xấu.

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 4. PHONG THỦY LUẬN . 20/ XÉT VỀ DƢƠNG CÔNG KHÍ HUYỆT.


Bây giờ, chúng ta xem xét đến phần quan trọng nhất của Phong thủy , đƣợc xây dựng bởi Dƣơng Công. Đó là sự phân loại 60 Khí ( hay Khí huyệt hoặc Long khí ) theo Can, Chi, có thể gọi đó là Long khí Can, Chi.Long khí Can, Chi chia thành 3 loại sau : 1/ HỆ KHÍ BẢO CHÂU : Hệ khí này là một hệ khí cát, gọi là Hệ khí Bảo châu gồm 24 phần tử. 2/ HÊ KHÍ HỎA KHANG : Hệ khí này là một hệ khí hung. Khí Hỏa khanh còn gọi là Sát diệu gồm 12 phần tử. 3/ HỆ KHÍ KHÔNG HƢ : Những hệ khí khác nói chung không cát gọi là Hệ khí Không hƣ gồm 24 phần tử. Trong phần này có sử dụng một số thuật ngữ là Xuyên sơn và Thấu địa. XUYÊN SƠN : Xuyên sơn là khả năng định đƣợc Nguyên khí hay Long đi đến Huyệt từ phƣơng hƣớng nào, tính theo thuật ngự Can, Chi.Khả năng này gọi là khả năng Địa kỳ. THẤU ĐỊA : Là khả năng dẫn đƣợc Nguyên khí hay Long vào quan tài tại nơi Huyệt kết. Khả năng này là khả năng Thiên Kỵ. NGŨ TỬ : Nhƣ ta đã thấy, mội chi đều tƣờng ứng với 5 Khí Can , Chi. Ví dụ chi Tý ứng với 5 Khí Can, Chi nhƣ sau :

DƢƠNG CÔNG NGŨ KHÍ LUẬN Theo ông Dƣơng Công luận xét thì: Từ Giáp Tý luân chuyển đi một vòng đến ất Hợi là mạch lãnh khí, là hƣ, từ Bính Tý đi một vòng đến Đinh Hợi là mạch chính khí là vƣợng; từ Mậu Tý một vòng đến Kỵ Hợi là mạch bại khí là sát; từ Canh Tý một vòng đến Tân Hợi là mạch khí vƣợng là tƣớng; từ Nhâm Tý một vòng đến Quý Hợi là mạch khí thoái là hƣ . LỤC THẬP LONG THẤU ĐỊA TỨC NGŨ TÝ KHÍ – CÁT HUNG BÍ QUYẾT . 1/ CHI TÝ .


1-Khí Giáp Tý 7 phân Nhâm 3 phân Hợi là tiểu thác; là Giáp Tý xung quan mà sanh ra các bệnh: hoàng sũng, điên dại, phong, lao, tê liệt, cùi hủi, gái câm, trai ngọng v.v… Nếu thấy thủy ở phƣơng Bính lại, thì trong quan tài có bùn nƣớc đọng sinh ra thƣa kiện v.v… sẽ ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu. 2-Khí Bính Tý ở chính Nhâm long thì rất tốt thêm ngƣời, gia của phú quý song toàn, mọi việc đều tốt. Nếu thấy thủy ở phƣơng Mùi lại và phƣơng Khôn thì chung quanh quan quách là cái lọ chứa nƣớc, rất xấu, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu. 3-Khí Mậu Tý, 5 phân Tý, 5 phân Nhâm là hỏa khanh thì sinh ra ngƣời du đãng, bại nhân luân, không những quan tài bị rễ cây xuyên vào mà còn kiến, mối đục nữa. Không những quan tài bị rễ cây xuyên vào , mà kiến, mối còn đục khoét nữa. Hiện tƣợng rễ cây đâm vào quan tài sẽ gây ra nhiều hậu quả cụ thể . Chẳng hạn rễ cây đâm vào hốc mắt của hài cốt , thì gia đình đó tất có ngƣời đau mắt , không tài nào chữa đƣợc nếu không đào mả rút rễ cây đó ra. Ta cũng thấy tƣơng tự nhƣ vậy, nếu rễ cây đâm qua sọ dừa ( có ngƣời trong nhà đau đầu) hay quấn xung quanh xƣơng sống ( gia đình có ngƣời đau xƣơng sống )...Đây cũng là một biểu hiện của cơ chế cộng hƣởng hình thái huyết thông. Nếu thấy thủy ở phƣơng Tốn lại thì trong quan tài có 2,3 phần nƣớc, bùn thì hỏng, sẽ ứng vào những năm: Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn.

4-Khi Canh Tý ở chính Tý long đƣợc phú quý song toàn, phúc lộc thịnh vƣợng lâu bền. Nếu thấy thủy ở Tốn lại là trong quan tài có bùn thì xấu hay dở sẽ ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn. 5-Khí Nhâm Tý, 7 phân Tý, 3 phân Quý là dƣơng nhận, sinh ra ngƣời hay chết non và bị trộm cƣớp, tổn thê, hại tử, gặp nhiều tai nạn. Nếu thấy thủy ở Canh Tân lại thì trong quan tài có đầy bùn nƣớc, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn.


2/ CHI SỬU . 6-Khi Ất Sửu 7 phân Quý, 3 phân Tý thì ngƣời của đều đƣợc thịnh vƣợng, sang giàu. Nếu thấy thủy ở phƣơng Ngọ, Đinh thì quan tài có đầy bùn nƣớc; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu 7-Khí Đinh Sửu ở ngay Quý long, sinh ra ngƣời thông minh, lanh lợi, phú quý lâu bền; mọi sự vui vẻ. Nếu thấy thủy ở phƣơng Mùi đến, thì trong quan tài có nƣớc nhƣ ao thì hỏng; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn 8-Khi Kỵ Sửu có 5 phân Sửu, 5 phân Quý là hắc phong, thì con gái bị chết non, con trai bệnh tật; mọi sự đều xấu, thƣờng sinh ra bệnh điên khùng và thất bại đau đớn. Nếu thấy thủy ở phƣơng Hợi lại thì trong huyệt có nƣớc và sâu bọ, là vì thủy ở trong hỏa khanh sinh xuất, sẽ ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất 9-Khí Tân Sửu ở chính Sửu long, thì 30 năm sau mới giàu sang Đinh tài, đại vƣợng; mọi sự cát tƣờng, sinh ra ngƣời nhân từ hiếu thảo, khác thƣờng. Nếu thấy thủy ở phƣơng Dần lại, trong quan tài có bùn nƣớc là xấu. 10-Khí Quý Sửu, 7 phân Sửu, 3 phân Càn là phạm cô hƣ, sau khi tọa táng xong có nhiều tai họa xảy ra; mọi sự không vừa ý, cả gia đình đều lủng củng, khẩu thiệt sẽ ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy thủy ở phƣơng Kiền thì có rễ cây xuyên vào quan tài 3/ CHI DẦN. 11-Khí Bính Dần, 7 phân Cấn, 3 phân Sửu thì huyệt bình thƣờng, phát phúc, nhƣng không bền sẽ ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất; mọi sự đều cát tƣờng. Nếu thấy thủy ở phƣơng Hợi lại thì quan tài bị bùn vào nát hƣ 12-Khí Mậu Dần chính Cấn long thì phú quý vinh hoa đời đời thịnh vƣợng, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn đậu đạt; chỉ sợ thủy ở phƣơng Mão lại xung quan thì hung. 13-Khí Canh Dần, 5 phân Càn, 5 phân Cấn là cô hƣ, hỏa khanh, hắc phong, không vong. Sau khi táng 3, 6, 9 năm thấy sinh ra bệnh tật, gia tộc bại tuyệt, rất đau buồn. Lại thấy Thân thủy lại xung thì trong huyệt có bùn vào 14-Nhâm Dần khí ở chính long Dần, thì phú quý, phúc trạch dồi dào, lắm ruộng nhiều vƣờn, sẽ ứng vào các năm Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy thủy ở phƣơng Ngọ xung thì quan tài có bùn là hỏng. 15-Giáp Dần khí có 7 phân Dần, 3 phân Giáp thì đƣợc bình an, một đời phát phúc, qua đời sau bị mắc bệnh đau mắt. Nếu thấy thủy ở Khôn xung vào thì quan tài bị mối, kiến đục thì xấu. 16-Đinh Mão khí có 7 phân Giáp, 3 phân Dần là bình thƣờng, sinh ra ngƣời hay tửu sắc, phiêu lƣu, lƣời biếng, ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất. Nếu thấy thủy ở Hợi xung vào thì huyệt có nhiều bùn nƣớc là họa bại 4/ CHI MÃO. 17-Kỵ Mão khí ở chính Giáp long, Đinh tài đều phát đạt, ăn mặc phong lƣu. Nếu thấy thủy ở Tốn xung vào thì có chuột bọ đục khoét hài cốt, con cháu đau buồn, không nghi hoặc gì nữa. 18-Tân Mão khí có 5 phân Tân, 5 phân Mão là hắc phong, hỏa khanh sanh ra trộm cƣớp, ngành thứ 3 bị bại tuyệt trƣớc, rồi đến cả các ngành khác; sau bị thƣa kiện, xảy ra nhiều sự hung dữ. Nếu thấy thủy ở Canh Thân lại thì quan tài có đầy bùn ngập. Mộ này chậm không chịu di cải thì bị bại tuyệt không tránh khỏi. 19-Quý Mão khí ở chính Mão long thì phú quý song toàn, sinh ra ngƣời thông minh, khỏe mạnh, mọi sự tăng tiến. Nếu thấy thủy ở Tị phƣơng xung vào thì có rễ cây đâm vào quan tài, lành dữ đều ứng vào các năm Tị, Dậu, Sửu 20-Ất Mão khí, 3 phân ất, 7 phân Mão, hay sinh ra ngƣời cô quả, yểu tử, đời sau sinh ra ngƣời khòng lƣng, khèo chân, tuy có ngƣời cũng khó giữ thân thế an toàn. Nếu thấy thủy ở phƣơng Tuất xung vào thì trong huyệt có nhiều bùn nƣớc nuôi cá tốt. 5/ CHI THÌN. 21-Mậu Thìn khí, 7 phân ất, 3 phân Mão, thì đƣợc ngƣời trƣờng thọ, giàu sang, danh giá nêu cao. Nếu thấy thủy ở phƣơng Thân, Dậu xung vào thì trong quan tài có kiến, bọ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu 22-Canh Thìn khí ở ngay ất long, thì an nhàn phát phúc vĩnh cửu vô cùng; 7 đời giàu sang, sanh ra ngƣời tuấn tú, anh hùng, siêu quần quán thế, ứng vào những năm Hợi, Mão,Mùi; chỉ


sợ Đinh thủy xung vào thì sinh hỏa tai. 23-Nhâm Thìn khí, 5 phân Thìn, 5 phân ất là hắc phong, hỏa khanh, bại tuyệt, hay què chân, sinh khẩu thiệt, thƣa kiện, ly hƣơng, tu đạo, biệt tông. Nếu thấy thủy ở phƣơng Tuất lại thì quan tài có bùn, bọ, kiến ở trong. 24-Giáp Thìn khí ở chính Thìn long thì 75 năm phát giàu sang thịnh vƣợng. Nếu thấy Tý, Quý thủy đến thì trong huyệt có bùn ngâm 25-Bính Thìn khí, 7 phân Thìn, 3 phân Tốn, thì ngƣời ngoài đƣợc phát phúc no ấm, yên ổn, rƣớc con rể vào phòng (rƣớc họa vào nhà) đời sau bại tuyệt vô tử, ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy Dần, Thân thủy xung vào, thì bị rễ cây đâm vào quan, vong nhân bất an. 6/ CHI TỲ. 26-Kỵ Tị khí, 7 phân Tốn, 3 phân Thìn thì phú quý ngang nhau, ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy phƣơng Kiền thủy xung, thì thây cốt chôn bùn 27-Quý Tị khí, 5 phân Tị, 5 phân Tốn là hắc phong, hỏa khanh thì bại tuyệt, bách sự hung dữ, sau khi táng 5 hoặc 7 năm thì già trẻ, lục súc tan nhƣ gió bay. Nếu thấy thủy ở phƣơng Sửu đến xung thì có chột làm tổ ở trong huyệt. 28-Ất Tị khí ở chính Tị long, đƣợc vinh hoa, phú quý, phúc lộc hƣng long, ứng vào những năm Dần, Ngọ, Tuất có nghiệm. Nếu Quý thủy xung vào thì quan tài có bùn đầy. 29-Đinh Tị khí, 7 phân Tị, 3 phân Bính, thì sau 3 hoặc 7 năm thì khẩu thiệt đều. Nếu thấy Mão thủy đến thì trong quan tài có bùn và nƣớc ở ngoài xâm nhập 30-Tân Tị khí ở chính Tốn long thì quá nguyệt là phát vinh hoa phú quý cho con cháu dòng họ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu; chỉ sợ là Ngọ Đinh thủy lại xung thôi . 7/ CHI NGỌ. 31-Canh Ngọ khí, 7 phân Bính, 3 phân Tị thì nhân hƣng tài vƣợng sẽ hẹn đƣợc đời đời tăng tiến hạnh phúc, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất; chỉ kỳ thủy ở Giáp Dần lại thì tổn Đinh. 32-Nhâm Ngọ khí ở chính Bính long thì sinh xuất anh hung, phú quý song toàn, đƣợc 3 đời, sau cháu chắt vẫn còn thịnh vƣợng, ân hƣởng bằng sắc huy chƣơng. Kỳ thấy thủy ở phƣơng Thân lại thì hỏng. 33-Giáp Ngọ khí, 5 phân Bính, 5 phân Ngọ là hỏa khanh, năm Tị, Dậu, Sửu gia trung bị bại khuynh. Lại thấy Đinh, Ngọ thủy lại thì đáy quan tài nát nhƣ bùn. 34-Bính Ngọ khí ở chính Ngọ long thì gia nghiệp bình bình, sinh ra ngƣời thông minh, mọi mƣu sự đều thành tốt lành; gặp vào các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy Sửu, Cấn thủy lại xung thì trong quan tài bùn nƣớc vào thì hỏng. 35-Khí Mậu Ngọ, 7 phân Ngọ, 3 phân Đinh thì quan tụng, khẩu thiệt rắc rối, ngƣời của bình thƣờng, hằng năm hay sanh ra hoành sự bất ngờ. Nếu thấy thủy ở Quý, Tý xung thì ứng vào những năm Dần, Ngọ, Tuất không sai 8/ CHI MÙI. 36-Tân Mùi khí, 7 phân Đinh, 3 phân Ngọ thì sinh ngƣời tuấn kiệt, phát phúc mạnh nhƣ sấm động, tiền nát, thóc mục đầy kho. Nếu thấy Ngọ phƣơng thủy xung, thì quan tài bị rễ cây xuyên vào thì rất xấu. 37-Quý Mùi khí ở chính Đinh long, thì sinh ra ngƣời phú quý, thọ khảo mộc đầu. Nếu thấy phƣơng Canh thủy xung vào thì ngƣời chết về tai ách, ứng vào các năm Hợi, Mão, Mùi 38-Ất Mùi khí, 5 phân Đinh, 5 phân Mùi là phạm cô hƣ, hỏa khanh thì bại tuyệt rất đau đớn. Lại thấy Tị phƣơng thủy xung, thì thây xƣơng nát rã thành đất bùn, ứng vào các năm Tị, Dậu Sửu. 39-Đinh Mùi khí ở chính Mùi long thì gặp đƣợc phú quý song toàn, lâu dài, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn. Còn gặp hung sự vào những năm Dần, Ngọ, Tuất. Nếu thấy Sửu, Cấn phƣơng thủy xung vào thì bùn nƣớc đầy trong quan tài là hỏng. 40-Kỵ Mùi khí, 7 phân Mùi, 3 phân Khôn là phạm cô hƣ thì bị tai họa phá bại không sai. Đến hạn những năm Dần, Ngọ, Tuất thì sinh ra bệnh phong mê cuồng độc. Nếu thấy thủy ở phƣơng Hợi, Nhâm xung vào thì nhi tôn có sự tai họa bất ngờ. 9/ CHI THÂN.


41-Nhâm Thân khí, 7 phân Khôn, 3 phân Mùi thì phá gia tài, bại sản, bệnh tật, đau đớn liên miên đáng buồn khổ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu, thuốc thang khó điều trị. Nếu gặp thủy ở phƣơng Ngọ xung thì quan tài có đầy nƣớc. 42-Giáp Thân khí ở chính Khôn long, đƣợc sinh ra ngƣời thông minh, tuấn tú, phú quý thanh nhàn, điềm ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn; đời đời vui vẻ vô cùng. Nếu thấy thủy phƣơng Càn lƣu xung thì quan tài bể nát làm hƣ thì hỏng bại 43-Bính Thân khí, 5 phân Thân, 5 phân Khôn là hắc phong, hỏa khanh bị bại tuyệt bần cùng. Nếu thấy Tý, Quý thủy xung thì huyệt có bùn nƣớc, thực không sai. 44-Mậu Thân khí ở chính Thân long thì sinh ra ngƣời thông minh trƣờng thọ, phú quý song toàn. Nếu thấy Giáp thủy xông vào thì quan tài đầy bùn nƣớc, là tối hung. 45-Canh Thân khí, 7 phân Thân, 3 phân Canh thì phạm cô hƣ, có nhiều tai nạn xảy ra.Lại thấy Kiền thủy lai xung, thì ngƣời bị về tai nạn áp bức chết. 10/ CHI DẬU. 46-Quý Dậu khí, 7 phân Canh, 3 phân Thân đƣợc phát phú quý, ngƣời của vẹn toàn cả hai và sống lâu. Nếu thấy thủy phƣơng Đinh xung vào thì huyệt trở thành ao ngâm nƣớc quan tài, hài cốt hƣ nát. 47-Đinh Dậu khí, 5 phân Canh, 5 phân Dậu là phạm hỏa khanh, thì bách sự bất nhƣ ý, bị tuyệt tự nhân Đinh. Nếu thấy Quý thủy xung vào thì quan tài đầy bùn nƣớc mãi. 48-Ất Dậu khí ở chính Khôn long sinh ra ngƣời rất thông minh và giàu sang. Nếu thấy thủy Thìn phƣơng xung vào thì quan tài chôn chỗ nƣớc bùn. 49-Kỵ Dậu khí ở chính Dậu long, thì phát văn võ gần tới tƣớc tam công (quan to) đời đời giàu sang, điềm ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy thủy phƣơng Mão xung, thì áo quan cũng bị bùn vào, không kết phát đâu. 50-Tân Dậu khí, 7 phân Dậu, 3 phân Tân thì giàu sang bền mãi, ngƣời của hƣng vƣợng, mọi sự đều tốt lành, sẽ ứng vào các năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy Kiền thủy phƣơng xung vào quan tài thì lại ƣu sầu. 11/ CHI TUẤT. 51-Giáp Tuất khí, 7 phân Tân, 3 phân Dậu, đƣợc phát phú quý 1 đời không vẹn, qua đời sau sinh ra ngƣời đi làm tăng ni tu đạo; ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất, bị cô quả mà bại tuyệt, mọi sự buồn chán, lo âu. Nếu thấy thủy phƣơng Nhâm xung vào thì sinh ra kỳ quái, ma quỵ trêu quậy. 52-Bính Tuất khí ở chính Tân long thì sinh ra nhân Đinh phát đạt vui vẻ, đăng khoa cập đệ sớm, vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy Giáp Mão thủy xung, có rễ cây đâm xuyên vào quan tài. 53-Mậu Tuất khí 5 phân Tuất, 5 phân Thân, phạm vào cô hƣ, hỏa khanh, bị bại tuyệt, ngƣời sinh nhiều bệnh tật, chết non, cô quả, vào chùa tu đạo, tổn vợ khắc con, quyết định không nghi hoặc, ứng vào các năm Ngọ, Mùi đã biết trƣớc rồi, lại chịu nhiều tai họa kỳ dị. Nếu thấy thủy phƣơng ở Thân xung thì quan tài hƣ nát không còn. 54-Canh Tuất khí ở chính Tuất long, thì đƣợc giàu sang, sung sƣớng,ăn mặc phong lƣu, những năm Tị, Dậu, Sửu thấy tin vui mừng, 36 năm sẽ sanh ra ngƣời thông minh xuất chúng. Nếu thấy Ngọ, Đinh thủy xung vào thì hung bại. 55-Nhâm Tuất khí, 7 phân Tuất, 3 phân Kiền, sinh ra ngƣời chết non, không có của cải, Ly hƣơng vào chùa tu đạo, tổn khê, khắc tử, bại phòng 2 (con thứ 2 bại), thoái bại không thể lo tính thoát khỏi. Điềm ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy thủy Thìn, Tuất phƣơng xung thì trong quan tài có đầy bùn nƣớc ngập. 12/ CHI HỢI. 56- Ất Hợi khí, 7 phân Kiền, 3 phân Tuất sinh ra con dâu quả phụ, chết non, bệnh tật phong tàn đủ cảnh thảm thƣơng, con mồ côi. Năm Dần, Ngọ, Tuất thì phát khốc đau buồn. Nếu thấy thủy ở cung Khôn xung thì trong quan tài đầy mối kiến đục gặm. 57-Đinh Hợi khí ở chính Kiền long thì đại phát phú quý, đƣợc nhiều sự cát khánh, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn; chỉ sợ Tốn thủy phƣơng xung thì quan tài đầy bùn nƣớc mục nát, tối hung. 58-Tân Hợi khí ở chính Hợi long, thì Đinh tài đều phát, lâu bền thịnh vƣợng. Nếu thấy Ngọ, Đinh thủy xung thì bùn vào quan tài mục nát, đại hung, tối kỳ. 59-Kỵ Hợi khí, 5 phân Kiền, 5 phân Hợi là phạm hắc long hỏa khanh, sinh ra hung bại,


đến những năm Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất ngƣời ly tán tha phƣơng, đa sinh kỳ quái. Nếu thấy Canh, Dậu thủy xung, thì rễ cây xuyên đâm vào quan tài thì hung bại. 60-Quý Hợi khí, 7 phân Hợi, 3 phân Nhâm, đƣợc làm quan, phát mọi sự, phong hanh, ngƣời của đƣợc thịnh vƣợng, sẽ ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn có nhiều cảnh vui đẹp. Nếu thấy Thìn thủy xung thì trong quan tài không sạch sẽ. 21/

Ảnh

hƣởng

của

24

sơn

dựa

theo

Bát-trạch:

Tám cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn và Ðoài còn đƣợc chia ra làm 24 sơn tức là mổi cung đƣợc chia ra 3 sơn nhƣ sau đây: 1. a. b. c. 2. a. b. c.

Cung Càn (Tây-bắc) có các sơn: Tuất: nằm trong giới hạn từ 292.5 đến 307.4 độ. Chính Tuất 300 độ. Càn: nằm trong giới hạn từ 307.5 đến 322.4 độ. Chính Càn 315 độ . Hợi: nằm trong giới hạn từ 322.5 đến 337.4 độ. Chính Hợi 330 độ. Cung Khảm (Bắc) có các sơn: Nhâm: nằm trong giới hạn từ 337.5 đến 352.4 độ. Chính Nhâm 345 độ . Tý: nằm trong giới hạn từ 352.5 đến 7.4 độ. 0 độ . Quý: nằm trong giới hạn từ 7.5 đến 22.4 độ. Chính Quý 15 độ .

3. a. b. c.

Cung Cấn (Ðông-bắc) có các sơn: Sửu: nằm trong giới hạn từ 22.5 đến 37.4 độ. Chính Sửu 30 độ . Cấn: nằm trong giới hạn từ 37.5 đến 52.4 độ. Chính Cấn 45 độ . Dần: nằm trong giới hạn từ 52.5 đến 67.4 độ. Chính Dần 60 độ .

4. a. b. c.

Cung Chấn (Ðông) có các sơn: Giáp: nằm trong giới hạn từ 67.5 đến 82.4 độ. Chính Giáp 75 độ . Mảo: nằm trong giới hạn từ 82.5 đến 97.4 độ. Chính Mão 90 độ . Ất: nằm trong giới hạn từ 97.5 đến 112.4 độ. Chính Ất 105 độ .

5. a. b. c.

Cung Tốn (Ðông-nam) Thìn: nằm trong giới hạn từ 112.5 đến 127.4 độ. Tốn: nằm trong giới hạn từ 127.5 đến 142.4 độ. Tỳ: nằm trong giới hạn từ 142.5 đến 157.4 độ.

6. a. b. c.

Cung Ly (Nam) có các sơn: Bính: nằm trong giới hạn từ 157.5 đến 172.4 độ. Chính Bính 165 độ . Ngọ: nằm trong giới hạn từ 172.5 đến 187.4 độ. Chính Ngọ 180 độ . Ðinh: nằm trong giới hạn từ 187.5 đến 202.4 độ. Chính Đinh 195 độ .

7. a. b. c.

Cung Khôn Mùi: nằm trong giới hạn từ 202.5 Khôn: nằm trong giới hạn từ 217.5 Thân: nằm trong giới hạn từ 232.5

8. a. b. c.

Cung Ðoài (Tây) có các sơn: Canh: nằm trong giới hạn từ 247.5 đến 262.4 độ. Chính Canh 255 độ . Dậu: nằm trong giới hạn từ 262.5 đến 277.4 độ. Chính Dâu 270 độ . Tân: nằm trong giới hạn từ 277.5 đến 292.4 độ. Chính Tân 285 độ .

22/ Bát-trạch 1. 2. 3. 4. 5.

dựa

theo Càn: Khảm: đại Cấn: đại Chấn: đại Tốn: đại

có các sơn: Chính Thìn 120 độ , Chính Tốn 135 độ . Chính Tỳ 150 độ .

(Tây-nam) có các sơn: đến 217.4 độ. Chính Mùi 210 độ . đến 232.4 độ. Chính Khôn 225 độ . đến 247.4 độ. Chính Thân 240 độ .

8

quẻ đại biểu biểu biểu biểu

của Bát-quái biểu cho cho con trai cho con trai cho con trai cho con gái

là: Cha, thứ, út, cả, cả,


6. 7. 8.

Ly: Khôn: Ðoài:

đại đại

biểu đại biểu

cho biểu cho

con cho con

gái mẹ gái

giửa, và út.

Nhƣ các cung trong nhà không đều nhau thì các cung nhõ tƣợng trƣng cho sự bất lợi của những cái nó đại biểu. Thí dụ nhƣ cung Tốn là cung khuyết , tƣợng trƣng cho sự bất lợi về ngƣời con gái cả.

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 5. PHONG THỦY LUẬN B/ PHẦN PHONG THỦY HỮU 1/ KHẢO QUA TRƢỜNG PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH : ( Tiếp theo ).

VI.

23/ XÁC ĐỊNH HÀNH CỦA NGÔI NHÀ . Nhà xây hƣớng nào thì xem nhƣ nhà mang hành của hƣớng đó. * Tây Bắc - Hành Kim - Chính Càn 315 độ. * Bắc - Hành Thủy - Chính Khảm 0 độ. * Đông Bắc - Hành Thổ - Chính Cấn 45 độ. * Đông - Hành Mộc - Chính Chấn 90 độ. * Đông Nam - Hành Mộc - Chính Tốn - 135 độ. Nam - Hành Hỏa - Chính Ly 180 độ. * Tây Nam - Hành Thổ - Chính Khôn 225 độ. * Tây - Hành Kim - Chính Tây 270 độ. Hình dạng của nhà cũng nói lên Ngũ hành của nó : * Hình vuông - Hành Thổ. * Hình tròn hoặc bán nguyệt - Hành Kim. * Hình chữ nhật - Hành Mộc. * Hình tam giác - Hành Hỏa. * Hình ngoằn nghèo bất định - Hành Thủy. 24/ LOẠI NHÀ KHUYẾT CẠNH. 1/ Nhà khuyết cạnh NAM - BẮC : Nam - Bắc là 2 phƣơng thuộc hành Thủy và Hỏa. Ứng với tai họa , bệnh tật , bất hòa kiện tụng, . Cách hóa giải : Nam đặt các vật có màu đỏ, hồng , tía. Bắc đặt các vật có màu lam, đen. 2/ Khuyết cạnh ĐÔNG - TÂY : Đông thuộc Mộc , Tây thuộc Kim, khuyết cạnh các góc này ứng với Khó khăn trong công việc, làm ăn, công danh. Cách hóa giải : Đông đặt các vật có màu lục nhƣ chậu cây cảnh...Tây đặt các vật có màu vàng, trắng. 3/ Nhà khuyết góc Đông Bắc : Hại sức khỏe, đƣờng tiêu hóa . Cách hóa giải : Đông đặt các vật có màu đất, cà phê. Đặt bếp lò. 4/ Nhà khuyết góc Đông Nam : Bất lợi cho con gái đầu , hay bị các bệnh gan , mật, thần kinh . Cách hóa giải : Đông đặt các vật có màu xanh lục. 5/ Nhà khuyết góc Tây Nam : Hành Thổ . Hay mắc các bệnh đƣờng tiêu hóa, hại cho nữ. Cách hóa giải : Đông đặt các vật có màu vàng, màu cà phê. 6/ Nhà khuyết 4 góc : Hay bị bệnh vặt, khó làm ăn, hay bị kiện tụng . MỘT SỐ NGUYÊN LÝ BỐ TRÍ NHÀ HỢP PHONG THỦY. 1/ NÊN NHÀ : Phải hình vuông hoặc chữ nhật, có 4 góc = 90 độ. Không nên có góc nhọn. 2/ MÓNG NHÀ : Khi có nƣớc mới đóng cọc tre để tránh mối và cọc tre bị ải. Không có nƣớc phải ép cọc. Chỗ nào ép xuống đƣợc bao nhiêu phải ép xuống đủ từng đó.


3/ CỐT NỀN : Nền nhà phải giữ một cốt để đảm bảo tính thống nhất, có thể khu vực bếp hay phần đằng sau giật cấp lên một chút để tạo thế dựa. Nhà vệ sinh phải có cốt thấp hơn nền nhà. 4/ TÂM NHÀ : Phải xác định tâm điểm và tâm tuyến ngôi nhà Khu vực trung cung là chủ nên không đƣợc bố trí bể phốt và cầu thang. Cầu thang nếu đặt ở tâm tuyến nó sẽ cắt âm dƣơng của ngôi nhà. Khi xem Phong thủy , ngoài việc xem cách cục của ngôi nhà còn phải xác định tọa hƣớng và phƣơng vị. Cách đặt La bàn : Đặt la bàn ở vị trí chính giữa nhà ( một gian thì đặt ở chính giữa thiên tỉnh, nhà 2 gian trở lên thì đặt ở chính giữa khu nhà. Để la bàn song song với mặt đất ( thƣờng sử dụng mâm gạo hay cát rồi để la bàn lên đó ) . Khi đo , cần phải dọn dẹp tất cả các vật bằng kim loại quanh đó để tránh ảnh hƣởng đến độ chính xác của từ tính .

Xác định trung tuyến và tọa hƣớng : Xác định trung tuyến của ngôi nhà tức là xác định đƣờng thẳng chỉ tọa hƣớng của nhà và hƣớng cửa . Lúc đó cần để la bàn ở trung tâm của công trình kiến trúc , dùng dây chăng thành hình chữ thập kéo qua vị trí trung tâm của mặt bằng kiến trúc , sao cho trùng với thiên tâm thập đạo ( hai dây vuông góc trên la bàn ) đƣờng chữ thập phải song song với tƣờng công trình kiến trúc Nhƣ vậy khi chuyển động nội bàn ta có thể xác định đƣợc tọa, hƣớng của công trình. Hƣớng nhà : là đƣờng thẳng từ trung tâm thiên tâm thập đạo của la bàn vuông góc với cửa chính , hƣớng từ trong tâm nhà ra cửa . Đƣờng thẳng này nằm trong cung nào của la bàn thì hƣớng nhà mang tên cung đó. Đƣờng thẳng góc với cửa chính nằm trong cung nào của bát quái thì dùng tên của cung bát quái đó đặt tên cho nhà . Muốn xác định hƣớng nhà thì ta đặt la bàn tại tâm nhà sao cho số 0 của la bàn vào đúng cung Tý của la bàn, số 180 độ vào đúng cung ngọ của la bàn. ( Tức là đầu Bắc của kim chỉ vào 0 độ, đầu Nam chỉ vào 180 độ ). Đƣờng thẳng góc với cửa nằm ở cung nào thì cung đó chính là hƣớng nhà. Vị của cửa là đƣờng thẳng nối từ tâm nhà đến tâm cửa. Đƣờng thẳng này nằm trong cung nào thì cung đó là vị của cửa. Tâm cửa là điểm giữa của cửa. Nhƣ vậy mỗi cửa có hai tiêu chí để xác định là Hƣớng và Vị của cửa.


5/ CỔNG NHÀ : Cổng nhà là nơi đƣa Sinh khí và tà khí vào nhà. Nhà không có cổng thì khí thiểu ( kém ), cổng xa nhà thì khí tốt càng tốt lên , khí xấu càng xấu thêm . Cổng phải đặt vào vị trí cát khí của ngôi nhà ( các cung tốt trên vòng phúc đức ) và các cung Phúc đức, Sinh khí, Thiên y sẽ đƣợc sinh vƣợng. Tâm của cổng không đƣợc phạm vào các đƣờng tuyến Đại, tiểu Không vong ( 16 đƣờng phân tuyến giữa các sơn ). Lạc quái nằm vào sát đƣờng phân tuyến của các quẻ : Giáp Dần - Đinh Mão; Đinh Tỳ - Canh Ngọ; Canh Thân - Quý Dậu ; Quý Hợi - Giáp Tý. Âm dƣơng sai thác nằm đúng vào vị trí bát Long : Bính Thìn - Kỵ Tỳ; Kỵ Mùi - Nhâm Thân; Nhâm Tuất - Ất Hợi; Quý Sửu Bính Dần. Cổng không nên có con đƣờng đâm thẳng vào . Nếu gặp phải trƣờng hợp này nên có treo tấm gƣơng bát quái với các quẻ nhƣ đã viết ở các phần trên hoặc đặt một Thái sơn cảm đƣơng thạch- Thạch cảm đƣơng Đây là Vật Hóa Sát khá phổ biến trong Phong Thủy, nhất là ngoài miền Bắc. Theo truyền thuyết thì ngày xƣa ở núi Thái có 1 vị đạo sĩ tên Thạch Cảm Đƣơng, ông nhờ tài giỏi đã đánh đuổi đƣợc yêu quái chuyên quấy nhiễu các khuê nữ, nên ngƣời ta mới dùng tên ông khắc vào đá để trấn tà khí, giải trừ uế khí.


Lối từ cổng vào nhà nên rộng rãi , uốn lƣợn. 6/ CỬA NHÀ : Cửa là yếu tố quan trọng nhất của ngôi nhà , nó dẫn Sinh khí và Tà khí vào nhà. Cửa nhà phải tƣơng ứng với kích thƣớc ngôi nhà. Các cụ ngày xƣa dạy : Nhà cao - Cửa rộng là vậy. Cửa trƣớc không đƣợc thông thẳng với cửa sau sẽ bị thoát khí. Trƣớc cửa không nên để non bộ cao hơn cửa, không vày nhiều gạch đá trƣớc cửa. Cửa chính không đƣợc đối diện với hƣớng xuống của cầu thang trong nhà sẽ tán tài. Gặp trƣờng hợp này ta hóa giải bằng một tấm gƣơng đặt trên cánh cửa đối diện với cầu thang sao cho cầu thang lọt vào trong tấm gƣơng. Lúc này trong nhà có 2 cầu thang : Cầu thang thật và cầu thang ảo trong tấm gƣơng, âm - dƣơng sẽ hài hòa hóa giải hiện tƣợng cầu thang đổ ra đƣờng. Cửa chính không nên đối diện với cao ốc lớn. Nếu phạm nên hóa giải bằng cách dùng vật này đặt trƣớc cửa hoặc cổng.

Cửa chính kỳ đối diện với đòn dông nóc nhà ở phía trƣớc, hoặc một cây lớn đơn độc , cột điện, trụ cao thế , cây thập tự, câu cầu lớn. Nếu phạm thì dùng cái này hóa giải .



7/ PHÕNG TẮM , NHÀ VỆ SINH : Không đặt ở trung tâm ngôi nhà , không đặt đối diện cửa chính , không đặt đối diện nhà bếp, không đặt đối diện phòng ngủ hoặc cửa đối diện giƣờng ngủ. Phòng ngủ không đƣợc đặt vào cung tình duyên và tài lộc cửa ngôi nhà ( góc Tây Nam và Đông Nam ). Trung tâm của nhà vệ sinh không đặt vào các phƣơng vị Tý, Cấn, Mão , Tốn, Ngọ, Dậu, Càn. Phải đặt nhà vệ sinh vào cung xấu của tứ trạch , khuất , kín và thoáng gió. Nhà vệ sinh không nên cải tạo thành phòng ngủ. Nền nhà vệ sinh phải thấp hơn nền nhà. 8/ BẾP : Bếp hành hỏa. Bếp có 3 tiêu chí để xác định : • Hƣớng Bếp :Phải quay về hƣớng tốt của Gia chủ. • Vị trí đặt Bếp :Phải đặt tại cung tốt của Gia chủ. • Sơn (lƣng ) của Bếp phải đốt về hƣớng xấu chủ. Kỳ cửa nhà nhìn thẳng vào miệng bếp . Kiêng đặt bếp sát giƣờng ngủ. Không đặt bếp trên rãnh thoát nƣớc . Kiêng có xà gồ trên bếp. Không để các góc nhọn đâm vào cửa ( miệng ) bếp . Trƣớc mặt bếp không đặt thùng nƣớc, bồn rửa bát, thùng giác, đồ dơ bẩn, không đƣợc khỏa thân trƣớc mặt bếp. 9/ PHÕNG NGỦ : Phòng ngủ phải hợp với mệnh ngƣời ngủ ( Thƣờng quay chân về các cung Phúc đức, Thiên Y, Sinh khí ). Cửa phòng ngủ và giƣờng phải hợp với bản mệnh. Phòng ngủ tránh đối diện với cửa chính , tránh đối diện phòng tắm. Không đặt phòng ngủ vào các cung Tình duyên và hôn nhân bị khiếm khue61t ( góc Tây Nam ) .Không làm la phông đầu cao đầu thấp trong phòng ngủ. Cửa phòng ngủ : Kiêng gƣơng chiếu thẳng vào cửa phòng. Phòng ngủ không đặt tƣợng các Thần linh. Cửa ra vào ( cửa chính ) không đối diện với cửa phòng ngủ . Giƣờng ngủ : Nên đặt giƣờng vào cung Phục vị của bản mệnh, chân quay về các cung tốt ( Phƣớc đức, Thiên Y, Sinh khí ). Đầu giƣờng phải không có xà ngang, xà dọc đè lên. Đầu giƣờng không đƣợc đối diện với cửa ra vào. Với nhà tầng, giƣờng không đặt trên hoặc dƣới bếp và nhà vệ sinh. Đầu giƣờng không đối diện với gƣơng soi. 10/ PHÕNG KHÁCH : Nền gạch của phòng khách nên sinh vƣợng cho mệnh chủ. Chỗ ngồi của chủ nhân nên đặt vào hƣớng Đông Nam ( cung tài ) , chỗ ngồi của khách nên đặt vào cung Quý nhân ( Tây Bắc ). Nếu ngƣợc lại sẽ phạm vào Phản khách vi chủ - Chủ nhà dễ bị ngƣời ngoài lấn át. 11/ BỒN NƢỚC TRÊN SÂN THƢỢNG ( SATADO ) : Không đƣợc đặt trên bàn thờ, bếp . giƣờng ngủ. 12/ CẦU THANG : Không đặt cầu thang ở trung tâm nhà. Cầu thang nên đặt ở cuối nhà theo hƣớng lên là hƣớng tốt của gia chủ. Bậc cầu thang nên có số lẻ ( 4n + 1 ) kể cả chiếu nghỉ và mặt sàn . Cầu thang phải để ở vị tốt ( theo cửu cung ) và hƣớng tốt ( theo bát quái ). Không để bể nƣớc, bể phốt dƣới gầm cầu thang, cầu thang đi theo chiều thuận của âm dƣơng ngũ hành ( theo chiều kim đồng hồ ). Cầu thang chính là Khí khẩu ( đƣờng nạp khí ) của tầng trên. Cầu thang nên rộng ít nhất là 1m, và chiều cao bậc khoảng 15 cm sẽ giúp ngƣời già và trẻ nhỏ lên xuống không mệt.


Trong phép đặt cầu thang có câu : Nhất Vị Nhị Hƣớng. Nhất vị ( Theo cửu cung ) Không phụ thuộc vào mạng chủ, ảnh hƣởng tốt xấu đến 70 %. Nhị Hƣớng ( Theo bát quái ) , Phụ thuộc vào mệnh của thân chủ. Anh hƣởng tốt xấu đến 30 %. Lƣu ý : Tất của cầu thang, bàn thờ , giƣờng ngủ , chỗ an tọa và vị trì, quay mặt ảnh, hay miệng lò đó là hƣớng. Tọa theo đầu ảnh hƣởng 70%, hƣớng theo chân ảnh hƣởng 30 %. Cầu thang đƣợc chia làm 2 phần * Động khẩu : Chỉ làm 3 bậc. * Phần còn lại là lai mạch : Từ 4-5 bậc.

Thang điểm cho cầu thang : Đông khẩu tốt ( 5 điểm ) Lai mạch tồt ( 2 điểm ) Hƣớng tốt ( 3 điểm ). tốt - tốt - tốt = 10 điểm. tốt - xấu - tốt = 8 điểm tốt - xấu - xấu = 5 điểm. xấu - tốt - xấu = 2 điểm. xấu- xấu - tốt = 3 điểm xấu- xấu - xấu = 0 điểm. * Khi đặt cầu thang, động khẩu phụ thuộc trƣờng khí của nhà . Nếu cầu thang gần cửa chính , khí mạnh , ta chỉ cần đặt 1 bậc về hƣớng tốt. Cách này gọi là Thừ Khí động khẩu. * Do cầu thang ở sàn hơn vị trí thứ nhất một chút , không ở gần cửa chính nên khí vừa phải. Ta chỉ cần đặt 2 bậc động khẩu là vừa. Cách này gọi là Động khẩu Khí mạch. * Nếu cầu thang lại có những bức tƣờng che chắn, trƣờng khí trầm, yếu dẫn tới ta phải dùng động khẩu 3 bậc. Cách này gọi là Động khẩu tiếp mạch. Thang điểm vị và hƣơng : Cung vị tốt - Hƣớng tốt = 10 điểm. Cung vị tốt - Hƣớng xấu = 6-7 điểm. Cung vị xấu - Hƣớng tốt = 3-4 điểm. 13/ BÀN THỜ : Bàn thờ phải đặt tại phòng trang trọng nhất. Nên tránh đặt bàn thờ trong phòng ngủ. Nên có bàn thờ bằng gỗ. Bàn thờ tọa tại cung cát và có hƣớng cát ( hƣớng bàn thờ là hƣớng nhìn của ảnh ) . Tốt nhất bàn thờ nên đặt tại cung âm Quý nhân . Không đặt bàn thờ trên bể nƣớc. Không để bàn thờ hƣớng về nơi ô uế. Theo quan niệm của Nam bộ : Bàn thờ quay ra hƣớng cửa chính. Khi đặt bát nhang phải có 3 bát trên một ban thờ ( số lẻ ) , Bát ở giữa là bát hƣơng của Quan Thần linh, bát bên phải từ ngoài nhìn vào là của Cửu huyền thất tổ - Tứ thân phụ mẫu. Bát bên trái là bát hƣơng của bà cô ông mãnh ( là những ngƣời chết trẻ chƣa có vợ, chồng nên phải cúng hoa trắng. ) Khi đặt bát nhang cần quay mặt nguyệt ra bên ngoài và khi thắp nhƣng không nên xê dịch bát hƣơng ( động bát hƣơng ) . Nếu bàn thờ ở tầng dƣới thì tần trên khu vực bàn thờ không để giƣờng ngủ, bể nƣớc . 14/ ĐƢỜNG NƢỚC VÀO - RA ( Đƣờng sống đƣờng chết ) : Đƣờng nƣớc sống ( vào ) phải xuất phát từ cung tốt ( Sinh khí, Phƣớc đức , Thiên y ). Đƣờng nƣớc chết ( Thải ra ) cần thải ra cung xấu ( Tuyệt mạng, ngũ quỵ , lục sát, họa hại ).


PHẦN 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG.

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 6. PHONG THỦY LUẬN.

Phần

2

:

KHẢO

QUA

HUYỀN

KHÔNG.

( Tất cả các tài liệu dẫn trong bài này đều là tài liệu sưu tầm, dienbatn chỉ xin tóm lược lại ).

Cổ dịch Huyền không học là môn Địa lý bí truyền có từ rất lâu đời , nhưng cũng vì bí truyền nên những người được truyền thụ chân truyền rất ít, do vậy mà các kiến thức lọt ra bên ngoài khá muộn. Theo truyền lại bắt đầu do Quách Phác đời nhà Tấn , sau đó nối tiếp là Dương Quân Tùng đời Đường, Tưởng Đại Hồng cuối đời Minh , Ngô Cảnh Loan đời Tống và mãi đến đời Thẩm Trúc Nhưng cuối đời Thanh tác phẩm này mới lọt ra bên ngoài. Cổ dịch Huyền không học có 3 đặc điểm quan trọng : 1/ Dùng lý luận Dịch học hậu thiên làm cơ sở. 2/Lấy phương pháp sắp xếp sao theo Lường Thiên xích làm công cụ. 3/ Lấy phân bố trường khí và môi trường tự nhiên làm căn cứ. Môn học này có tính lý luận cao, rất linh hoạt nên còn được gọi là " Hoạt dịch học " . Về mặt lý luận , nó lấy Khí và trường khí làm căn bản. Cái mà người đời gọi là cát hay hung đều do sự biến đổi âm dương và quan hệ sinh khắc của ngũ hành mà tạo nên. Cổ dịch Huyền không chính là nghiên cứu quy luật biến đổi của hai khí Âm - Dương cùng tính chất sinh khắc của ngũ hành trong môi trường tự nhiên , ngõ hầu tìm ra những quy luật vận động và hiểu rõ chúng để phục vụ co con người mưu cầu xu cát tỵ hung. Trong môn học này, người ta dùng La kinh làm công cụ , lấy sự sắp xếp cửu tinh , Lạc


thư để xác định lý khí , lấy bố cục sông núi địa hình làm căn cứ , kết hợp cả hai mặt đó lại để xác định sự vượng suy.

A/ CĂN CỨ DỊCH LÝ CỦA HUYỀN KHÔNG HỌC. Trong cổ dịch Huyền không, công cụ cơ bản để nghiên cứu là Dịch học. Dùng Dịch học nghiên cứu các phương vị khác nhau tại các thời điểm khác nhau trong một môi trường nhất định - Đó chính là bản chất của cổ dịch Huyền không học. Nội dung chính của nó là Khí và sự vận hành của Khí . Hình thức biểu diễn của nó là sự thống nhất của phương vị không gian với sự dịch chuyển của thời gian -Đây cũng là tiền đề của lý thuyết tương đối của Anhxtanh trong môi trường 4 chiều Không - Thời gian.

1/ Vạn vật trong vũ trụ đều hình thành từ Khí . Kinh dịch viết " Tinh Khí là vật " , " Thiên địa yên ấm, vạn vật nảy sinh " . Hai câu đó nói rằng nguyên tố cơ bản của vũ trụ là Khí. Khí ở trạng thái hỗ độn thì trời đất chưa sinh. Khí trong, nhẹ nổi lên thành trời, khí nặng, đục chìm xuống thành đất. Trời bắt đầu phân thành dương trên , âm dưới . Khi dương Khí ở trên giao hòa với Khí Âm ở dưới thì sinh thành vạn vật. Linh Khí giao nhau sinh ra con người và vạn vật. Cho nên Khí ở khắp nơi , tồn tại mọi lúc, tạo thành vạn vật. Chúng ta cũng cần phải hiểu rằng : Khí này có bản chất bao quát hơn khí mà chúng ta thở hàng ngày. Khí mà chúng ta thở hàng ngày chỉ là một dạng thù hình của Khí mà chúng ta đang xét. Các cụ xưa có câu : " Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất bổn " - Đó chính là tính chất đặc trưng của KHÍ mà chúng ta đang xem xét. Như vậy đến đây bắt buộc chúng ta cần phải có một định nghĩa cụ thể về KHÍ. Trong tất cả các sách từ trước đến nay, Khí không được định nghĩa cụ thể mà chỉ nêu ra những tính chất cụ thể của khí như :

" Theo sách cổ để lại “Khí” gặp gió thì tán, nghĩa là “Khí” nhẹ, lẫn vào không khí nên bị gió cuốn đi. Nếu gió nhẹ vừa phải sẽ có tác dụng dẫn khí lưu thông, được coi là tốt. Còn gió mạnh làm tán khí, mất khí lại là không tốt. Sách cũng ghi “Khí” gặp nước thì dừng. Thường thì khí trong tự nhiên vận động dựa theo sức mang của không khí, khi gặp vật cản sẽ đổi hướng theo dòng khí. Khí gặp nước thì dừng nghĩa là nước có khả năng giữ khí lại , khái niệm chuyên môn của phong thuỷ là “Tụ khí”. Hay nói một cách mang tính hình tượng hơn là nước có khả năng hút khí, hòa tan khí. Nước chảy chậm rãi, có chỗ dừng là rất tốt vì mang được khí tươi mới đến và lưu lại ở đó. Đó là nguyên nhân để các chuyên gia phong thuỷ nhìn dòng nước chảy để dự đoán khí vận trong lòng đất mà từ chuyên môn gọi là “Long mạch”. Tính chất của khí sẽ khác nhau tuz theo sự tụ thuỷ, sức chảy mạnh yếu trong lưu thông của dòng nước….. Như vậy trong mô hình cơ học chất lưu đề nghị để nghiên cứu sự vận động, “Khí” được mô phỏng như là một chất lưu có các đặc tính sau:


* Có tính tụ hoặc tán. * Có khối lượng quán tính nhỏ, dễ bị gió cuốn đi * Có thể coi như độ nhớt động học thấp * Có thể coi như có tính dính ướt mạnh với các vật thể có độ ẩm và nhiệt độ phù hợp, đặc biệt là vật thể sống, sinh vật. “Khí” cần lưu động nhẹ nhàng, bình ổn mới có tác dụng tương tác tốt. Cũng giống như với các chất lưu khác, dòng chảy tầng bình ổn là dòng chảy l{ tưởng. được coi là mang sinh khí đến. Dòng chảy hỗn tạp, chảy rối, dòng xoáy hay các dạng dòng chảy hẹp, vòi phun, dòng xung kích đều không tốt, gây nguy hiểm. Chúng ta có thể hình dung tính chất thủy khí động học của “Khí phong thủy” gần giống của nước, trừ tác dụng của trọng lực, để dễ dàng cho việc khảo sát. Dòng nước chảy siết, nước xoáy mạnh cũng tạo ra xung khí, tạp khí. Nếu dòng nước bẩn thỉu, hôi hám thì khí cũng sẽ bị uế tạp, không còn mang được năng lượng sống cho con người nữa." ( Thạc sỹ Hà Mạnh Hùng ). Theo thiển ý của dienbatn tất cả những tính chất đã nêu ở trên chỉ là những dạng thù hình cụ thể của Khí mà chưa đi vào đúng bản chất của Khí. Với câu : " Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất bổn " - Đó chính là tính chất đặc trưng của KHÍ mà chúng ta đang xem xét , dienbatn cố gắng gượng gạo thử định nghĩa về Khí trong Phong thủy như sau, mong rằng các cao nhân bổ xung cho hoàn chỉnh.

ĐỊNH NGHĨA KHÍ VÀ TRƯỜNG KHÍ CỦA DIENBATN :

Khí trong Phong thủy là một dạng năng lượng cơ bản để sinh ra mọi hình thức thù hình của vũ trụ và có quy luật vận động tuân theo quy luật vận động của Vũ trụ. Một tập hợp các dòng năng lượng sẽ tạo nên một Trường năng lượng có mật độ năng lượng thay đổi cả về độ lớn và chiều chuyển động. Trường năng lượng là dạng tồn tại của vật chất mà các tương tác cơ bản được thực hiện thông qua nó. Năng lượng tạo ra trường năng lượng này không phải do các hạt cơ bản như điện tử, proton... mà là những hạt có cấu trúc từ các quark với điện tích phân số. Chúng vẫn chưa được tìm ra. Tuy chưa tìm ra bản chất của chúng nhưng bằng nhiều cách, chúng ta vẫn có thể đo được chúng . Trong một không gian vật lý, có thể tồn tại nhiều trường năng lượng và các trường năng lượng này đều tuân theo Định luật bảo toàn năng lượng. Đối với thuyết Tương đối Einstein, chúng ta có thể vắn tắt như sau: Mỗi hệ quy chiếu quán tính đều tương đương nhau và vận tốc ánh sáng là tối đa. Trong khuôn khổ lý thuyết Einstein, đó là tiền đề. Nên trong một hệ tiền đề khác, thế giới khác rất có thể tồn tại vật chất nào đó có vận tốc nhanh hơn ánh sáng. Ví dụ: Chúng ta có một Hạt có khối lượng ảo thì tự nhiên nó chuyển động nhanh hơn ánh sáng. Trường năng lượng của chúng ta đang xem xét có chiều không gian >= 3. Tùy theo số chiều không gian càng lớn thì tính chất của trường năng lượng này càng tinh khiết ( nhẹ, trong ). Quy luật vận động của chiều không gian lớn bao gồm toàn bộ quy luật của chiều không gian nhỏ và quy luật vận động của chiều không gian nhỏ không bao gồm toàn bộ quy luật vận động của chiều không gian lớn hơn. Trong các chiều không gian > 3 thì không còn tồn tại khái niêm không gian, thời gian và vận tốc ánh sáng không phải là lớn nhất. Thời gian trong các chiều không gian lớn hơn 3 có thể co lại hay kéo dài, có thể chồng quá khứ và tương lai lên với nhau và có thể thắng được lực hấp dẫn bằng ý chí của mình. Như vậy tại đó không có khái niệm về Thời gian. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, tất cả mọi dạng vật chất mà chúng ta có thể nhận biết đều là những dạng thù hình của KHÍ - Trường năng lượng đặc biệt tuân theo quy luật Âm - Dương , Ngũ hành.


Octonion và lý thuyết hạt cơ bản của GS.TSNguyễn Hoàng Phương. " Vũ trụ là một hệ thống sinh học cần phải có 2 phần không thể thiếu được : 1/ Phần cứng : Vật lý học với tính chất duy lý của nó . 2/ Phần mềm : Kinh dịch với tính Minh triết của nó . Ý đồ thống nhất Đông - Tây của nhà Phật là không phải loại trừ một trong hai phía khoa học trên mà là tìm cách gộp cả hai phía trong một sơ đồ chung "

2/ Âm - Dương đối lập và thống nhất là trạng thái cơ bản của Khí : Một vật là một Thái cực nên thái cực chia thành âm dương. Do vậy mọi vật đều do hai khí âm - dương cấu thành. Sự đối lập và thống nhất của Khí biểu hiện thành trạng thái vật chất . Âm - dương đối lập và thống nhất là quy luật vận động của vũ trụ , nhưng giữa âm khí và dương khí không phải lúc nào cũng cân bằng nhau. Chúng có thể biểu hiện nhiều hơn hoặc ít hơn, hoặc biểu hiện thành bao dung nhau.


Âm - dương chuyển hóa gọi là biến. Cực dương sinh âm , cực âm sinh dương. Âm dương vận hành gọi là thông - Cùng tắc biến - Biến tắc thông. Âm - dương không biến , không thông thì trời đất không tồn tại . Sự biến hóa của âm - dương trên gọi là Đạo, dưới gọi là Khí . Nói về vạn vật là nói về Đạo, nói về hình của vạn vật là nói về Khí. " Nhất âm - Nhất dương chi vi Đạo " là cái lý này. Trong Phong thủy, phần mộ gọi là âm trạch, nhà cửa gọi là dương trạch. Địa lý Phong thủy lấy âm - dương trạch làm đối tượng nghiên cứu. Tất nhiên là chúng ta thực hiện trong hệ tọa độ Đề các - Tức là trong không gian 3 chiều. Tuy nhiên nhiều trường hợp , chúng ta vẫn cần phải có kiến thức về những chiều không gian >3 mới giải quyết chính xác công việc nghiên cứu. Các phương vị trong không gian đều là âm - dương đối lập - thống nhất. Hậu thiên Bát quái chia thành 24 sơn và hướng . Sơn và hướng lại được chia thành âm và dương, giới hạn của chúng rất rõ không thể lẫn lộn . Sự vận hành của Khí cũng chia ra âm - Dương , âm vận hành nghịch, dương vận hành thuận. Tọa Sơn và lập hướng đều phải căn cứ theo sự vượng, suy của hai khí âm - dương.

3/ Biến đổi là sự tồn tại của sinh mệnh vạn vật. Trong vũ trụ này, cái duy nhất không biến đổi - Chính là sự biến đổi. Sự biến đổi của Khí là vĩnh hằng, không ngừng nghỉ. Vòng chu kz : Trường sinh - Mộc dục - Quan đới - Lâm quan - Đế vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ Tuyệt - Thai - Dưỡng cứ luân chuyển không ngừng không nghỉ. Trong Địa lý thì thất sắc ( 7 màu ), cửu Khí ( 9 khí ) biến đổi tuần hoàn trong sự dịch chuyển của thời gian , biến đổi tuần hoàn theo mùa, biến đổi tuần hoàn trong sự thuận nghịch của Âm - Dương. làm Phong thủy chính là phương pháp tìm cách xu cát - Tỵ hung. Chúng ta nghiên cứu Phong thủy và áp dụng vào cuộc sống không phải là tìm vũ khí chống lại Trời, chống lại quy luật vận động của vũ trụ mà chính là dựa trên sự hiểu biết của mình để hòa đồng cùng quy luật vận động của vũ trụ, thuận theo quy luật vận động của vũ trụ ngõ hầu tìm cho mình một cuộc sống an vui , hài hòa. 4/ Hệ thống lý luận của Cổ dịch Huyền không bắt nguồn từ " Thuyết quái " của Kinh dịch. Dịch biến theo một phương vị nhất định và có tượng vật tương ứng. Các phương vị do câu : " Đế xuất hồ Chấn - tề hồ Tốn - tương kiến hồ Ly- chí dịch hồ Khôn - thành ngôn hồ Cấn " . Đây cũng chính là căn bản của Hậu thiên Bát quái Văn vương.


Mối quan hệ giữa 8 phương vị là mối quan hệ của 8 loại yếu tố của môi trường sơn - thủy. Huyền không lấy bát quai của Văn vương làm cơ sở , lấy mối quan hệ phương vị bát quai Văn vương và thuyết Ngũ hành để xây dựng nên toàn bộ hệ thống ly luận mà chúng ta sẽ nghiên cứu. Sự phát minh ra La kinh chính là biểu hiện tập trung của hệ thống lý luận này. Hình thức nguyên thủy của La kinh là hậu thiên bát quái của Văn vương và đây cũng là loại La kinh thông dụng nhất. Trong Địa l{, người ta dùng tượng ( hình tượng - Ý nghĩa ) của quẻ để phán đoán cát hung cho âm - dương trạch. Cho dù dùng tượng quẻ hay ngũ hành để chọn ra các tượng vật dùng để phán đoán đều phải gắn chặt với nội dung mà " Thuyết quái " bao hàm , lấy nội dung đó làm căn bản để mở rộng suy luận.

Lưu { của dienbatn : Qua các phần trên chúng ta phải hiểu rõ định nghĩa của Khí trong phong thủy với những tính chất tổng quát. Chúng ta không thể nhầm lẫn giữa Khí và gió mặc dù gió cũng là Khí ...nhưng lại không hoàn toàn là Khí !!!! Có như vậy chúng ta mới không dẫn đến những kết luận sai lầm đến tức cười ví như cầu thang không có lan can sẽ rơi mất Khí...hoặc như sau khi dẫn khí vào nhà mà có một con mẹ mập nào đó cỡ ...dienbatn ngồi chắn trước cửa sẽ che mất đường khí lưu thông. Khí vận hành không thô thiển như vậy đâu các bạn ạ - Xin lưu { điều này.


PHONG THỦY LUẬN BÀI 7 Điện Bà Tây Ninh PHONG THỦY LUẬN . Phần 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG ( tiếp theo ). ( Vì chỉ khảo sát qua Cổ dịch Huyền không nên dienbatn không đi sâu vào những kiến thức cơ bản. Những điều này hầu như sách nào cũng nói đến và các bạn có thể tham khảo trên trang http://www.huyenkhonglyso.com/. Đây là một trang quy tụ nhiều nhân tài như Vanhoai, VinhL...Longnguyenquang, vuivui...là những người quen của dienbatn từ trang Tuvilyso.net . Có ai qua đó, cho dienbatn gửi lời hỏi thăm và tặng vanhoai tấm ảnh khoảng gần 10 năm trước tại nhà chị Mai - Thái Bình. ).Phần viết của Khảo qua Huyền không chỉ chú trọng vào những điểm cần lưu { và các sách ít nói đến .dienbatn. NHỮNG

ĐIỀU

CẦN

LƯU

Ý

TRONG

KHẢO

QUA

HUYỀN

KHÔNG.

1/ PHÂN KIM. Phân kim là phép đặt sơn hướng, đặt tâm cổng, cửa vào những vị trí có độ số tốt nhất. Tránh phạm vào Không vong, lạc quái, sai thác.

A/ KHÔNG VONG : * Đại không vong : Là đường phân tuyến ( có 8 đường ) giữa các cung ( quẻ ) bát quái, trong đó có 4 Đại không vong có thấu Địa long và 4 Đại không vong không có Thấu địa long. a/ Tứ Đại Không vong không có thấu Địa long bao gồm những đường sau : * Đường phân tuyến giữa quẻ Chấn và quẻ Cấn. * Đường phân tuyến giữa quẻ Tốn và quẻ Ly. *Đường phân tuyến giữa quẻ Khôn và quẻ Đoài. * Đường phân tuyến giữa quẻ Càn và quẻ Khảm. Tứ Đại Không vong có thấu Địa long là hung họa nhất trong trạch vận. b/ Tứ Đại Không vong có Thấu Địa long là khi mà sơn hướng nhà , tâm cổng, cửa rơi vào các vị trí sau :


* Long Nhâm Thìn ( Vòng 60 Thấu Địa long ). * Long Ất Mùi. * Long Mậu Tuất. Long Kỷ Sửu. Lạc vào Bát Đại không vong là tối hung họa, thường gây ra bệnh tật, tai họa, chết người, hao tiền , tốn của. Khi lạc vào Lạc vào Bát Đại không vong thì đa phần gia đình không hòa thuận , hôn nhân lục đục, hay bị cô quả . * Tiểu không vong : Là đường phân tuyến giữa 24 sơn. Có 16 đường Tiểu không vong , trong đó có 8 đường Tiểu không vong không có long và 8 đường Tiểu không vong có long. a/ 8 đường Tiểu không vong không có long bao gồm : * Đường phân tuyến giữa Mão Ất . * Đường phân tuyến giữa Thìn Tốn. * Đường phân tuyến giữa Ngọ Đinh. * Đường phân tuyến giữa Mùi Khôn. * Đường phân tuyến giữa Dậu Tân. * Đường phân tuyến giữa Tuất Càn. * Đường phân tuyến giữa Tý Quý, * Đường phân tuyến giữa Sửu Cấn. b/ 8 đường Tiểu không vong có long. Đường phân tuyến giữa Tân Mão. * Đường phân tuyến giữa Quý Tỵ. * Đường phân tuyến giữa GiápNgọ. * Đường phân tuyến giữa Bính Thân. * Đường phân tuyến giữa Đinh Dậu. * Đường phân tuyến giữa Kỷ Hợi. * Đường phân tuyến giữa Mậu Tý. * Đường phân tuyến giữa Canh Dần. B/ LẠC QUÁI. Lạc quái là đường sơn hướng của nhà , đường tâm cổng, cửa nằm sát vào đường phân tuyến giữa các quẻ. Long lạc quái bao gồm : * Giáp Dần Đinh Mão. * Đinh Tỵ Canh Ngọ. * Canh Thân Quý Dậu. * Quý Hợi Giáp Tý. Lạc quái là tiến thoái bất nhất, vợ chồng lục đục, anh em bất hòa, văn nhân hay mắc phải bệnh tâm thần, nhiều sự việc bất hạnh liên tiếp xảy ra. Người ta gọi nhà Lạc quái là " tiện cục ". C/ ÂM DƯƠNG SAI THÁC . Âm dương sai thác là đặt sơn hướng của nhà hoặc tâm của cổng, cửa nằm đúng vị trí của bát long sau : * Bính Thìn Kỷ Tỵ. * Kỷ Mùi Nhâm Thân. * Nhâm Tuất Ất Hợi. * Quý Sửu Bính Dần. Nhà phạm vào âm dương sai thác là tiến thoái lưỡng nan ( Còn gọi là âm dương sai thố ). Nhà loại này hay bị kiện tụng , miệng tiếng thị phi, khẩu thiệt, tổn nhân đinh, dễ mất chức, giới sĩ bị bôi bẩn , hoen ố. Nhà này gọi là nhà " Bại cục ". D/

PHÂN

KIM.


1/ Giải thích phân kim: Vòng tròn 360 độ chia cho 60 phần, bắt đầu từ Giáp T{ cho đến Quý Hợi. Giáp Tý hành Kim nên gọi là phân Kim. 2/ Chính Kim : Là vượng khí. Chính kim có 24 thấu địa long như sau : Kỷ Mão Nhâm Ngọ Ất Dậu Bính Tý. Quý Mão Nhâm Ngọ Ất Dậu Canh Tý. Canh Thìn Quý Mùi Bính Tuất Đinh Sửu. Giáp Thìn Đinh Mùi Canh Tuất Tân Sửu. Tân Tỵ Giáp Thân Đinh Hợi Mậu Dần. Ất Tỵ Mậu Thân Tân Hợi Nhâm Dần. Đây chính là 24 Huyệt khí Bảo châu. Trên La kinh phần trên Huyệt khí Bảo châu được tô màu đỏ. E/

PHÂN

CHÂM

THEO

TRẠCH

VẬN.

Khi đặt La kinh lấy hướng nhà, hướng cổng , cửa chúng ta phải lấy theo Tam nguyên Long ( Thiên, Địa , Nhân nguyên Long ). * Địa nguyên long :+ Giáp, Canh , Nhâm , Bính. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. * Thiên nguyên long :+ Càn , Khôn , Cấn, Tốn. Tý , Ngọ , Mão, Dậu. * Nhân nguyên long :+ Dần , Thân , Tỵ , Hợi. Ất , Tân , Đinh, Qu{. Lưu { : Hướng nhà dương, hướng cửa âm và ngược lại cùng một Long thì khí mạnh. Thí dụ : Hướng nhà Dần , Thân, Tỵ, Hợi thì dùng hướng cửa Ất, Tân , Đinh, Qu{. Khi đặt phân châm thì lấy hướng nhà và cổng, cửa cùng một Long ( Thiên, Địa, Nhân ) . Nếu hướng nhà dương thì lấy hướng cửa , cổng âm và ngược lại. Khi đặt phân châm phải lấy chính hướng ở giữa 24 hướng để lọt bào Huyệt khí Bảo châu. Không đặt vào hướng Không vong, lạc quái và Không vong sai thác. Ví dụ : Nhà tọa Sửu - Hướng Mùi : Cả hướng và tọa đều là âm Địa nguyên long. Nên mở cửa các hướng Canh , Bính. G/

KHI

LÀM

NHÀ

CẦN

CHÚ

Ý

:

1/ Hướng nhà ; Nằm vào Huyệt Khí Bảo châu. 2/Tuổi chủ nhà. 3/ Cổng. 4/ Cửa : Theo hướng nhà. 5/ Cung vị : Cung vị hung đặt WC, nhà kho, chuồng nuôi gia súc. Cung vị cát : Đặt bếp, bàn thờ, giường ngủ. 6/ Hợp hướng : Sau khi được vị cát thì xoay theo hướng cát . Lưu { : Vị là tọa độ trong nhà, hướng là theo phương 24 hướng. 7/ Vận : Cứ 20 năm tính là một vận. Nếu : * Mệnh tốt, vận xấu là nhà trung bình. * Mệnh tốt , vận tốt là nhà rất tốt. * Mệnh xấu , vận tốt là nhà khá. * Mệnh xấu , vận xấu là nhà rất xấu. 8/ Đặt cổng : Khi đặt cổng phải đặt vào các vị trí cát như Sinh khí, Phúc đức, Thiên y để được sinh vượng. Kỵ đặt cổng : "Quý nhập lôi môn thương trưởng tử. Hỏa kiến thiên môn thương lão ông. Ly xâm Tây Đoài phương thương nữ.


Tốn nhập Khôn vị mẫu ly ông. Đoài gia Chấn , Tốn trưởng nhi nữ. Cấn Ly âm phụ hoa gia phong. Cấn , Khảm tiểu khẩu đa tật bệnh. Khôn Khảm trung nam mạng tảo vong." Giải thích : * Nhà tọa Chấn , nếu mở cổng phương Càn là phương động khí do người qua lại . Vì vậy khi Càn kim tràn vào khắc Chấn mộc là trưởng nam ( Càn phối Chấn ra Ngũ quỷ ). * Nhà tọa Càn nếu mở cổng, cửa phương Ly hỏa - Càn phối ly thành tuyệt mạng khiến bố, ông chết. * Nhà Đoài mở cổng cửa phương Ly . Đoài phối Ly sinh Ngũ quỷ, khắc Sơn chủ Đoài là con gái. * Nhà tọa Khôn mở cổng cửa phương Tốn . Khôn phối Tốn thành Ngũ quỷ, khắc người mẹ. * Nhà tọa Tốn mở cửa phương Đoài . Đoài phối với Tốn thành Lục sát khắc tốn là trưởng nữ. * Nhà tọa Cấn mở cổng phương Ly. Cấn phối Ly tạo thành họa hại Các câu khác tương tự. Lưu { : Ta cần lưu { khi gọi nhà theo sơn hoặc hướng. Ví dụ : Nhà hướng Nam, sơn chủ Khảm người ta gọi là Ly trạch, dùng để phối hướng. Còn gọi là Khảm trạch để sử dụng khi mở cổng cửa nhà. Mặc dù vẫn chỉ là một căn nhà có mặt tiền Nam, mặt hậu Bắc gọi là Sơn chủ. H/ 1/

HOÀNG Hoàng

TUYỀN ca

tuyền

(

Tính

BÁT theo

hướng

SÁT. ).

Đinh , Canh, Khôn thượng thị hoàng tuyền. Ất , Bính tu phòng Tốn thủy tiên. Giáp, Qu{ hướng lai hưu kiến Cấn. Tân, Nhâm thủy lộ phạ đương Kiền. Ví dụ : * Nhà hướng Khôn mà tại các hướng Đinh, Canh có đường đi vào , hoặc có thủy lao đến từ 2 hướng đó là phạm vào Hoàng tuyền.. * Nhà hướng Cấn mà có con đường hoặc thủy chạy tới từ hướng Giáp, hướng Quý là phạm Hoàng tuyền. Kể cả khi có hồ ao ở hai hướng đó cũng là phạm Hoàng tuyền. * Nhà hướng Càn mà gặp đường đi vào , hoặc có thủy lao đến từ 2 hướng Tân, Nhâm phạm Hoàng tuyền. Kể cả khi có hồ ao ở hai hướng đó cũng là phạm Hoàng tuyền. Hoàng tuyền là vị trí tử huyệt của tọa Sơn mà thôi. Với Sơn là can âm thì sợ vị trí Tử. Với Sơn là can dương thì sợ chữ Tuyệt. I/ * * * * * * * Ví

VÒNG Giáp + Ất Bính , Canh Tân Nhâm Quý dụ : Nhà tọa

K/ Khảm Tốn Cấn Mộ

Long Kê, Hổ trạch

trường

TRÀNG

Hợi. Tử tại Hợi khở nghịch. Mậu khởi thuận Trường sinh tại Dần. khởi thuận Trường sinh tại Tỵ. Khởi Tử nghịch tại Tỵ. Khởi Trường sinh thuận tại Thân. khởi Tử nghịch tại Thân. Giáp - Hướng Canh khởi Trường sinh tại Hợi theo chiều thuận. BÁT Khôn Kiền Ly phùng

sinh

khởi

SINH.

Thỏ Mã, Chư chi

thuận

SÁT Chấn Đoài vi nhất

từ

sơn Xà sát về

CA. Hầu. đầu. diệu. hưu.


Nếu lưng nhà (Sơn chủ ) ở Khảm tức Nhâm , Tý , Quý . Khảm thuộc hành Thủy mà mở cửa chính hay phụ, cổng ngõ ở phương Thìn , hoặc tại phương Thìn có thủy lưu, thủy tụ hoặc có con đường đâm xộc thẳng đến là Thìn Thổ khắc Khảm Thủy. Do vậy gọi là phạm Bát sát. Các câu khác tương tự. Người ta có câu : Nhất vị - Nhị Hướng để chỉ tầm quan trọng của hướng và vị. L/ a/ b/ c/ d/

Chính Thần Linh Thần: Chính Thủy : Linh Thủy :

LINH THẦN CHÍNH THẦN. : Phương vị chính vận gọi là chính Thần. Chính Thần là phương vượng Khí. Là phương vị đối xứng với Chính Thần. Linh Thần là phương thoái Khí. Ở phương vị Linh Thần nếu thấy Thủy gọi là Chính Thủy. Chíh Thủy là Thủy vượng. Ở phương vị Chính Thần nếu thấy Thủy gọi là Linh Thủy. Linh Thủy là Thủy suy.

2/ LẬP VẬN BÀN. Vận bàn bao gồm 3 tinh đẩu : Vận tinh - Hướng tinh - Sơn tinh. Việc sắp xếp vận bàn là sắp xếp sự vận hành giữa 3 cung tinh đẩu trong cửu cung trạch. a/ Vận tinh : Lấy số của vận đặt vào trung cung thuận phi tinh ( Thiên vận cửu tinh ). b/ Hướng tinh : Lấy vận tinh đến Hướng nhập Trung cung , ghi nhỏ bên phải rồi dùng số của Lạc thư phối âm hoặc dương để định quỹ đạo thuận nghịch. c/ Sơn tinh : Lấy vận tinh tới Sơn nhập trung cung ghi nhỏ bên trái rồi lấy số của Lạc thư phối âm hay dương để định quỹ đạo thận hay nghịch. ( Các bạn nên tham khảo kỹ trong các cuốn : Thẩm thị huyền không học ) Đồ hình bay thuận.

Đồ

hình

bay

nghịch

.


Thiên

nguyên

Long

Sơn

Ngọ

-

Hướng

vào

Bát

vận.

3/ ĐÁO SƠN ĐÁO HƯỚNG. Đáo là sự trở về. * Đáo Sơn là Sơn tinh của Vận lại trở về đúng vị trí của Sơn. * Đáo hướng : Là Hướng tinh của Vận lại trở về đúng vị trí của Hướng. Đáo Sơn tức là vượng Sơn. Đáo Hướng tức là vượng Hướng. Khi Sơn tinh của Vận khí ra số trùng với số của Đại vận thì ta gọi là Sơn Vận. Khi Hướng tinh của Vận khi ra số trùng với số của Đại Vận ta gọi là Hướng Vận. Trong mối quan hệ giữa Sơn và Hướng : Sơn chủ nhân đinh - Hướng chủ về Tài lộc. Trong Địa lý Phong thủy phải xét L{ khí và môi trường . Lý khí : Trạch vận bên trong ngôi nhà là nội lực , chiếm 40 %. Môi trường : Ngoại cảnh bên ngoài căn nhà , chiếm 60 %. Vượng sơn vượng hướng: thích hợp nhất dùng cho sơn long, cũng hợp nhất với đa số : Phía sau có chủ tinh đẹp, thanh tú, long hổ đều dừng, mắt trước có đoạn cong đẹp của dòng nước chảy bao quanh, hoặc có


nước trong sâu của hồ phát quang, là thế cục đạt tiêu chuẩn. Từ cục diện đó trọng lai long tinh thể, quá hẹp, xuất mạch, thắt lại, huyệt tinh dựa vào nhọn, tròn và vuông là ba ngôi sao tốt. Toạ hướng của xuấ mạch và kết huyệt không thể phạm và xuất quẻ, sai lầm. Nếu kết hợp những người liêm khiết, có phúc lâu dài, chủ chính là quân tử, nhân khẩu đông đúc, xuất hiện qu{ nhân, trường thọ, ái tinh lại có được "thập hợp", "Thư hùng chính phối", "Tam ban quẻ", phúc trạch dài lâu. 4/ THƯỚNG SƠN HẠ THỦY. Thướng là sự lên cao không đúng chỗ. * Thướng Sơn là Hướng tinh của Vận lại đến vị trí của Sơn ngụ. * Hạ thủy là Sơn tinh của Vận lại đến vị trí của Hướng ngụ. Sách Thanh nang kinh có viết : " Sơn thượng long thần bất hạ thủy. Hạ lý long thần bất thướng Sơn. " Vì vậy : * Thướng Sơn là suy Hướng. * Hạ thủy là suy Sơn.Nếu trạch vận rơi vào cả thướng Sơn lẫn Hạ thủy là cực hung số 1 của trạch vận. Thượng sơn hạ thuỷ: thích hợp nhất với địa hình bằng phẳng. Đằng sau địa hình tương đối thấp, xa hơn một chút có suối, sông, dòng nước, hoặc có hồ nước, thác nước tụ họp. Mặt trước địa hình tương đối cao, núi cao có hình thế đẹp. Dương trạch lấy mặt nhà cao tầng là bố cục thích hợp. Từ bố cục này, mặc dù phía tứước cao phía sau thấp, phía tứước có phía sau không nhưng lại được coi là bố cục phù hợp. Nhưng cũng cần phải rõ ràng, không nên hiểu sai cho rằng chỉ cần dựa vào phía sau toạ có thuỷ, phía trước có sơn là có thể sử dụng được. Nếu mà như vậy thì lại không có nơi nào là không có đất. Thuỷ ở phía sau của toạ phải tào thành hình cong giống như hình dáng của cái tổ hoặc cái kìm ( Hình dáng là nửa hình tròn hoặc là hình chữ U). Đỉnh núi, gò đồi, kiến trúc của các toà nhà cần phải có một khoảng cách nhất định ( để không còn có cảm giác bị bức bách). Hình dáng của chúng phải đẹp, cân đối (nhìn thuận mắt), bao bọc lấy bản thân chúng ta, đó mới là mảnh đất có khí mạch, nếu sử dụng mảnh đất này sẽ có được phúc lộc dài lâu. Nếu thuỷ ở phía sau toạ nghiêng, và hướng tới mạch, đây là mảnh đất không tốt, rất dễ bị tuyệt tự, vì thế mà không nên sử dụng mảnh đất này. 5/

PHẢN

PHỤC

NGÂM

.

Hai sao Sơn và Hướng nhập trung cung , thuận cục gọi là Phục Ngâm, nghịch cục gọi là Phản Ngâm. * Phục ngâm là phi tinh của Sơn hướng có số trùng với số của Lạc thư. * Phản ngâm : Phi tinh của Sơn hướng có số trùng với số của Cửu cung địa bàn ( Lạc thư ) . Khi hợp thập thành 10 , Phản ngâm hại không kém gì thướng Sơn hạ Thủy. Đây là họa đứng thứ 2 , nếu phạm phải thì tiền hết, người chết. Tuy nhiên nếu Hướng tinh vượng khí thì không coi là Phản ngâm . Các trường hợp khác không sợ phản phục ngâm là khi tạo thành cung Khảm đả kiếp, cung Ly đả kiếp, Tam ban xảo số . Phản, phục ngâm: Sơn tinh của Ái tinh, hướng tinh và "nguyên đơn bàn" tương đồng viết là "phục ngâm"; tương phản viết là "phản ngâm". Đương lệnh do dự, mất đi lệnh thì sẽ gặp phải rất nhiều tai hoạ, chủ về mắc nhiều bệnh, phá sản, gặp nhiều bât trắc trong cuộc sống, thậm chí còn bị tuyệt tự không có người nối dõi. Tại âm quẻ, nữ giới bị thương, tại dương quẻ thì nam giới bị thương.

PHONG THỦY LUẬN BÀI 8 Điện Bà Tây Ninh PHONG THỦY LUẬN.

24 SƠN QUYẾT.


Giới thiệu : Đây là công trình nghiên cứu của cụ Tritri ( www.vietnambuysell.com/ ). Đây là một đại yếu quyết rất cần cho một phong thủy sư. dienbatn xin cảm ơn cụ Tritri và trân trọng giới thiệu. Để xem rõ hơn, các bạn bấm vào hình ảnh sẽ thấy rõ hơn. Thân ái. dienbatn.















PHONG THỦY LUẬN. BÀI 9. PHONG THỦY LUẬN. BÁT SƠN QUYẾT PHÁP. ( Tài liệu của NCD, dienbatn xin giới thiệu ). BÁT SƠN QUYẾT PHÁP CỬU CUNG, BÁT SƠN TỔNG LUẬN Nhà Địa lý Thái Cửu Thăng nói: Ngƣời đời nay nói về Lý Khí ở trong miền Bình dƣơng, đại để là không ngoài hai môn: Cửu Cung và Bát Sơn. Cửu Cung thì lấy Bản cục tinh nhập Trung Cung, phi ra 8 phƣơng, lấy phƣơng Sinh Khí và Vƣợng kHí làm phƣơng tốt lành. Bát Sơn thì lấy Bản cục quái, khởi sao Liêm Trinh, lấy Tham Lang, Cự Môn, Vũ khúc là 3 sao ở ba phƣơng đó làm tốt lành.Về định cục và biện quái của hai môn thì cùng nhƣ nhau, nhƣng so sánh cái Cát và cái Hung ở 8 phƣơng thì không giống hệt nhƣ nhau. Tức là bất đồng. Xem ra thập Can thì chỉ có 1,2 cái là đồng còn 8,9 cái là bất đồng. Vì thế nên ngƣời theo môn Cửu Cung thì bảo Cửu Cung là phải; ngƣời theo phái Bát Sơn thì cho Bát Sơn là phải. Hai bên mâu thuẫn và tranh cãi rất nhiều, NHƢNG, thực ra, thì do cả hai phái đều chƣa thấu đáo cái LÝ bên trong. Họ có biết đâu Địa Vận có lúc Thịnh, lúc Suy; đắc Vận thì Hƣng Vƣợng, thất Vận thì suy bại. Nếu không tƣờng môn Cửu Cung thì không biết


khi nào hƣng thịnh, khi nào suy bại, vì Cửu Cung chính là cách xem Khí Vận của Địa cục. Phƣơng vị thì có tinh thuần, có bác tạp.Cho nên mới có câu: " Âm, Dƣơng tƣơng kiến nhi cát Âm, Dƣơng tƣơng thừa nhi hung" ( nôm na là có khi Âm, Dƣơng gặp nhau thì Cát; có khi Âm, Dƣơng gặp nhau lại Hung) Và không có Bát Sơn thì không thể biết khi nào Cát, khi nào Hung vậy. Bát Sơn là cách xem Thủy định Hƣớng, nếu không thông tỏ Bát Sơn thì không biết phƣơng vị đó là Cát hay Hung đƣợc. Không am hiểu Cửu Cung thì không biết lúc nào Vận Vƣợng, lúc nào Vận Suy. Vậy cả hai môn hỗ tƣơng cho nhau, cùng dùng cả, chẳng thể thiếu một. Nên khi xét phƣơng hƣớng định vị thì lấy Bát Sơn làm chủ, lấy Cửu Cung để hỗ trợ. Tỵ nhƣ Bát Sơn có Cát Địa, Cát Thủy cũng phải đợi đến lúc Vận Vƣợng mới ứng nghiệm mà phát đƣợc. Nói vậy cũng có nghĩa là: Khi xem xét Khí Vận phải lấy Cửu Cung làm chủ, mà Bát Sơn hỗ trợ thêm. Tỵ nhƣ Cửu Cung đã gặp Vận Hƣng, nhƣng cũng phải có Cát Sơn, Cát Thủy thì mới phát Phú Quý đƣợc. Cho nên, cả hai môn cũng nhƣ Thể, Dụng đi đôi với nhau, không thể tách rời. Xét về ứng dụng thì thế, xét về phạm vi thì Cửu Cung luận cái Tổng Quát, đại lƣợc của bố cục thôi; còn Bát Sơn thì phải đến trên Huyệt mà định 8 quẻ, mỗi quẻ phân ra ba sơn, xem Thủy, xét phƣơng một cách chi tiết hơn. Cả hai môn không thể trộn lẫn mà dùng một cách hỗn tạp, mà phải có từng cái Dụng riêng, do đó không có tình trạng dẫm chân nhau nhƣ ngƣời của hai phái này thƣờng tranh luận. Vậy ta cũng thấy hai môn đâu hề mâu thuẫn nhau, chỉ có ngƣời học không đến nơi, hiểu không đến chốn mới bình phẩm cái này đúng, cái kia sai, không hề có việc cái này phải, cái kia trái khi xét một cuộc đất giửa hai môn này. Đại sƣ Lại Bố Y cho rằng: Bát Sơn dụng Ngũ Quỷ quái, ở trong cái Âm, Dƣơng thuần tịnh có Liêm Trinh; ở cái Âm , Dƣơng bác tạp có Phụ Tinh; chỗ thuần tịnh chẳng phải lúc nào cũng toàn Cát, chỗ bác tạp chẳng phải lúc nào cũng toàn Hung. Âm, Dƣơng cùng gốc, họa phúc cùng chịu. "Cực tắc bất biến" chính là "Thiên đạo chi diệu dã" vậy (Vật đến chỗ cùng cực tất sẽ biến đổi, đó mới đúng là đạo thật hay). Lý này của Ngài chẳng khác nào Ý Dịch mà NCD mình đã nhiều lần nói với các anh chị, các bạn "Dịch không có tốt, không có xấu, mà tốt xấu cùng một chỗ", cũng nhƣ vòng tròn Lƣỡng Nghi, trong Âm có Dƣơng, trong Dƣơng có Âm, khi đến Thái Dƣơng tất sẽ sinh Thiếu Âm, đến Thái Âm tất sẽ sinh Thiếu Dƣơng vậy. Theo Ngọc Xích Kinh nói thì miền Bình dƣơng (đồng bằng) chỉ có Tiểu vận thôi, cho rằng ở miền Bình Dƣơng chỉ có Địa cuộc nhỏ sẽ không đắc Đại vận đƣợc, nên chỉ luận Tiểu vận. Nếu các anh chị, các bạn còn nhớ, trong bài "Thánh vật sông Tô Lích", NCD mình đã từng nói ở miền Bình dƣơng đa phần là Huyệt Phú, ít có Huyệt Quý, nhƣng nếu có thì Huyệt kết sẽ lớn không kém miền sơn cƣớc. Bởi ở vùng đồng bằng cũng có Đại Cán Longkết Huyệt vậy, chẳng những thế, Lực của nó rất lớn, Khí dồi dào, phải lấy Đại vận mà suy xét sự Hƣng, Suy của nó vậy. Tiểu Vận thì lấy 20 năm, đổi thay một sao vào giửa Trung Cung mà phi đi. Đại Vận thì lấy 60 năm ( tƣơng đƣơng một Nguyên) cũng lấy một sao chủ Đại Vận nhập vào Trung Cung mà thuận phi đi. Muốn luận đất là Đại địa hay Tiểu Địa phải xem xét cái Địa Cục đó lớn hay nhỏ, dày hay mỏng mà quyết định Sao vào Trung Cung là của Tiểu Vận hay Đại Vận, có vậy mới khỏi lầm lạc khi quyết đoán sự Cát Hung khi 8 sao phi đến tám phƣơng. NGỌC XÍCH CHÍNH KINH SƠN, THỦY, KIẾN, PHÁ ĐỊNH CỤC LUẬN. Đến bất kỳ Hình cục nào, thấy có Sơn thì xem theo Sơn, thấy có Thủy thì xem theo Thủy. Sơn thì xem theo cái thế nó dẫn lại, phải định rõ đƣợc đâu là Tổ Sơn (trong Dƣơng Trạch đô thị, thì xem những Cao Ốc lớn là Tổ Sơn), có thế mới xác định đƣợc Mạch đi theo Hƣớng nào đến. Thủy thì xem chỗ nó triều lại, hay nơi nƣớc hội tụ, hay nơi gần Thủy. Sơn tuy là gốc khởi phát Tinh-phong, nhƣng Bản cục mà ta chọn thƣờng xem chỗ kết cục, tức Long dẫn vào. Nếu gần nơi Hình cục không có sơn phong khởi chỏm lên, thì lấy chỗ Lai Long, tức là lấy hƣớng Mạch lại Huyệt trƣờng. Nếu có sơn phong (núi cao lên) thì Bản cục phải theo chỗ phong khởi mà định.


Thủy tuy gốc ở chỗ Lƣu nguyên (phát xuất của nguồn nƣớc), nhƣng Bản cục định ở chỗ góc nó triều vào, không có Hợp thủy thì lấy chỗ Thủy hoành nhiễu (quấn quanh ngang mặt). Nếu có chổ Thủy hội họp, thì bản cục lấy ở chỗ hội họp ấy mà quyết. Vậy thì ở chốn đồng bằng, đô thị lấy chỗ cao hơn làm Sơn, chỗ thấp hơn làm Thủy. Chỗ Sơn khởi phong cao lên gọi là Kiến, chỗ Thủy gặp nhau gọi là Phá. Kiến làm Chủ, Phá làm Khách, ChủKhách phối với nhau thì ra quẻ. Sau khi biết đƣợc quẻ gì, sao gì thì lấy đó nhập Trung Cung, phi thuận ra 8 phƣơng để xem Sinh, Vƣợng, Quan Sát và đoán Cát Hung. Nói thì khó hiểu, nhƣng để mình ví dụ cho dễ hiểu hơn : Tỵ nhƣ phƣơng Ly có Thủy thì ta định là Khảm Sơn, phƣơng Càn có Thủy thì ta định là Tốn Sơn Sơn xuyên Kiến, Phá yếu phân minh Kiến thanh hồ, Phá yếu ninh Cánh trị sơn phƣơng vô khắc sát Chủ sơn đắc vận, họa nan sinh Dịch nôm na đại ý thế này: Núi, sông, Kiến, Phá phải rõ ràng, tinh tƣờng. Ở phƣơng Kiến cần phải thanh, sảo, không nên thô ngạnh; phƣơng Phá cần yên tĩnh. Nếu nhƣ phƣơng chủ sơn (quẻ, cục) ấy không bị phƣơng ấy khắc sát. Thì lúc chủ sơn đắc vận, tai họa khó mà xâm hại đến đƣợc. Ở nơi núi cao thì lấy chỗ cao làm Kiến, chỗ thấp làm Phá. Nơi đất bằng thì lấy Tọa sơn làm Kiến, hƣớng triều vào làm Phá. Kiến là Chủ thì nên triều vào và tú lệ, thanh quang. Phá là Khách thì nên vòng cong ôm lại. Nếu thấy phƣơng Sinh có Cao Sơn mà Thủy uốn vòng quanh, thì con cahú có phƣớc lộc, nếu đƣợc chủ Kiến đắc Vận thì đại phát phú quý. Cũng phân nhƣ Cửu Cung trong Huyền Không : Cửu cung Bát Quái thử trung phân Nhất Bạch Tham Lang , Khảm Thủy thần Cửu Tử Hữu Bật, Ly Hỏa diệm Tứ Lục Văn Xƣơng, Tốn Mộc thân. Lục Bạch Vũ Khúc, Càn thuộc Kim Bát Bạch Cấn Thổ, Tả Phù tinh Thất Xích Phá Quân, Đoài Kim quản Tam Bích Chấn Mộc, Lộc Tồn sinh Ngũ Hoàng Liêm Trinh, Trung cung Thổ Nhị Hắc Khôn Thổ, Cự Môn hình Cửu cung ngôi vị tƣờng minh bạch Cát Hung quyết đoán dữ phân minh. Tức là : Nhất Bạch sao Tham Lang là Khảm Thủy, Nhị Hắc sao Cự Môn thuộc Khôn Thổ, Tam Bích sao Lộc Tồn thuộc Chấn Mộc, Tứ Lục sao Văn Xƣơng thuộc Tốn Mộc, Ngũ Hoàng sao Liêm Trinh chiếm Trung cung Thổ, Lục Bạch sao Vũ Khúc thuộc Càn Kim, Thất xích sao Phá Quân thuộc Đoài Kim, Bát Bạch sao Tả Phù thuộc Cấn Thổ, Cửu Tử sao Hữu Bật thuộc Ly Hỏa. Trên là phần giới thiệu về Cửu tinh và cách lập cục, tiếp đến chúng ta tìm hiểu thế nào là Sinh, Sát, Thoái, Tử, Vƣợng Khí của Cửu tinh CỬU TINH SINH KHẮC CA. Sinh Khí nguyên lai, sinh ngã thân Sát tinh khắc ngã, tiệp sinh sân Ngã nhƣợc sinh tha, vi Thoái khí Lâm ngộ khắc giã thị Tài thần Đản vi Tử khí, phi toàn lợi Dữ ngã tƣơng đồng, Vƣợng khí chân Tức là : Nếu nó sinh ta thì đó là Sinh Khí, nó khắc ta là Sát Khí, ta sinh nó là Thoái Khí, ta khắc nó thì đó Tài Khí tuy nhiên đó là phƣơng Tử Khí thì cũng chẳng ích lợi gì, cùng ngũ hành với ta đó là Vƣợng Khí. Khi đến Cuộc thế đất, ta xem phƣơng khởi phong (núi cao lên), xem nơi nào gần nƣớc thì lấy chỗ đó mà định quái cục Quái cục đã định đƣợc rồi thì lấy Sao bản quái đó nhập vào Trung cung, thuận phi 8 phƣơng, xem phƣơng nào Sinh , Khắc,... Ví dụ : Ta có phƣơng Ly gần nƣớc, tức lấy Bản quái cục là Khảm. Xem trên kia thì thấy " Nhất Bạch Tham Lang, Khảm Thủy Thần", vậy thì ta lấy Nhất Bạch nhập Trung Cung thuận phi đi 8


phƣơng, Nhị Hắc ở Càn là Sát Khí phƣơng, Tam Bích ở Đoài là Thoái Khí phƣơng, Tứ Lục đến Cấn cũng là Thoái Khí phƣơng, Ngũ Hoàng đến Ly là Sát Khí phƣơng, Lục Bạch đến Khảm là Sinh Khí phƣơng, Thất Xích đến Khôn là Sinh Khí phƣơng, Bát Bạch đến Chấn là Sát Khí phƣơng, Cửu Tử đến Tốn là Tử Khí phƣơng. Sao tại Trung Cung làm chủ, các sao phi đến các phƣơng đều so đối với nó mà xét sự Sinh, Khắc, Sát, Tử, Thoái. Cho nên khi so đối ra, Nhị Hắc đến Càn không phải so với bản cung Càn Kim đó, mà so với Nhất Bạch ở Trung Cung, Thổ khắc Thủy, nên đó mới là phƣơng Sát Khí. Các cung , sao khác cũng tƣơng tự vậy mà tính. CỬU TINH ĐẠI CỤC Đây là thực tế chúng ta thấy nhiều nhất : Cũng trên Trái Đất nhƣ nhau, cũng cùng 1 thời điểm, mà Đông, Tây, Nam, Bắc khác nhau; nơi là ngày, nơi là đêm, nơi là trƣa, nơi là chiều, nơi thì nóng, nơi thì lạnh, nơi mát mẻ, nơi ấm áp, nơi mƣa rào, nơi khô hạn,....điều này thì có lẽ ai cũng lý giải đƣợc. Và câu đơn giản nhất để trả lời là : Trời Đất xoay vần. Đúng vậy. Chính do Trái Đất còn xoay, Vũ Trụ còn biến di nên Tinh tú chuyển dời. Cũng chính vì vận hội độ số do Thiên, Địa tuần hoàn ấy mà Âm phần có khí Vƣợng Suy, Dƣơng Trạch có lúc hƣng phát, lúc phế bại, cũng vì vậy mà ảnh hƣởng đến con ngƣời chúng ta. Đã biết đấy là quy luật tuần hoàn của Thiên Địa, ảnh hƣởng đến cả muôn loài, muôn vật, thì tất cả đều không tránh khỏi quy luật " Cấu, Tạo, Hóa, Thành" của Dịch, và " Sinh, Lão, Bệnh, Tử" của Đạo tự nhiên, nhất giai đồng thụ, chẳng riêng loài nào. Chỉ có những ai am hiểu Lƣờng Thiên Xích, thông tỏ Thiên Văn Địa Lý mới có thể biết trƣớc : gặp vận tốt thì phƣớc hạnh sẽ tăng thêm, gặp vận rủi thì ẩn thoái để giảm thiểu hung tai. Vận tốt tức là Địa cục gặp đƣợc Sinh Khí, Vƣợng Khí. Vận xấu là gặp Sát Khí, Tử Khí dẫn lại. Chỉ có những ngƣời vô tri, không hiểu biết mới lo sợ, bởi ngƣời hiểu biết thì đối diện với vận xấu, nƣơng theo nó mà Chiết giải. Vận là luân thứ của Cửu Tinh cai quản 8 sơn, phân làm Tam Nguyên, mỗi nguyên có 60 năm. _ Thƣợng Nguyên _ Trung Nguyên _ Hạ Nguyên THƢỢNG NGUYÊN : Do sao Nhất Bạch thống trị, 2 sao Nhị Hắc và Tam Bích là phụ lực. TRUNG NGUYÊN : Do sao Tứ Lục thống trị, Ngũ Hoàng và Lục Bạch là 2 sao phụ lực HẠ NGUYÊN : Do sao Thất Xích làm chủ, Bát Bạch và Cửu Tử là 2 sao phụ lực. Trong Nguyên là Chính Vận Khí, ngoài Nguyên là Dƣ Khí. Dƣ Khí là Khí đã hết, thì dẫu là Đại địa cũng nghỉ, không phát phúc nữa. Nếu Long Mạch kết Huyệt hùng hậu, thì còn đƣợc bình bình, không gặp tai họa; nếu Long Mạch bạc nhƣợc, nhỏ yếu thì còn biến động, tai họa bất thƣờng. Đa số thấy những nhà chỉ có 1 ngôi Âm Phần hay 1 ngôi Dƣơng Cơ kết phát thôi, nhƣng trƣớc sau hƣởng phƣớc khác nhau, ngƣời không hiểu thì nghi ngờ, cho là Địa lý không đủ để tin. Họ có biết đâu Mộ, Trạch không thay đổi, nhƣng Nguyên, Vận tự chuyển biến theo thời gian tất có sự thay đổi họa, phƣớc trƣớc sau. NGUYÊN VẬN : Thƣợng Nguyên Giáp Tý thì sao Nhất Bạch ở Khảm làm chủ thống trị, Nhị Hắc là Khôn và Tam Bích là Chấn là phụ trị trong suốt 60 năm. Sao Nhất Bạch quản 20 năm đầu, tức 10 năm thuộc về Giáp Tý, 10 năm thuộc về Giáp Tuất; kế đến là sao Nhị Hắc quản 20 năm kế, tức 10 năm thuộc Giáp Thân và 10 năm thuộc Giáp Ngọ; sau cùng là sao Tam Bích quản 20 năm cuối, tức 10 năm thuộc Giáp Thìn và 10 năm thuộc Giáp Dần. Đến năm Quý Hợi thì đủ 60 năm, hết Thƣợng Nguyên. Tuy nhiên, trong cùng 1 Nguyên Vận mà phát phúc cũng có trƣớc sau, nhiều ít bất đồng, là do Địa cục đó thừa Vƣợng Khí ở Bát Sơn thế nào. Trung Nguyên Giáp Tý thì Tứ Lục là Tốn làm chủ thống trị, Ngũ Hoàng Trung Cung và Lục Bạch Càn là 2 sao phụ trị. Cách quản trong Trung Nguyên cũng chia nhƣ trên. Hạ Nguyên Giáp Tý thì sao Thất Xích ở Đoài sẽ thống trị, và 2 sao Bát Bạch ở Cấn và Cửu Tử ở Ly phụ trị. Xét các Địa cục trƣớc nay theo lịch sử thì Khảm Ly là Trung khí của Thiên Địa, là phƣơng vị thuộc về Trung nam, Trung nữ. Khảm Ly ở Hậu Thiên cũng chính là Càn Khôn ở Tiên Thiên, vì Mậu-Kỵ là Chân Thổ tàng trú ở trong đó, nên thấy rất nhiều đất ở 2 Địa cục này vƣợng cả 3 Nguyên không suy bại. Chấn cục thuộc Mộc thì lấy là "bản tráng, căn thâm" (gốc lớn mạnh, rễ sâu). Đoài thuộc Kim thì lấy là nhỏ bé mà bền cứng, vả lại là cửa ngõ của vòng Nhật, Nguyệt, tƣợng trƣng là khí hậu ôn hòa của mùa xuân, mùa Thu. So sánh với Khảm Ly cũng là thứ hạng.


Cấn thuộc Thổ thì tƣợng trƣng là Sơn, mà núi thì không thể di dịch, vì chất kiên cố, nên cũng bền lâu ví với Chấn, Đoài. Kiền là "lão cang chi kim" (vàng già cứng), Khôn là "ký sản chi thổ" ( đất đã sinh sản rồi), Ngũ Hoàng Trung Cung là "liêm trinh chi hỏa" ( lửa nóng dữ) cũng không có căn nguyên, chỉ nƣơng tựa vào vật khác mà cháy bùng lên và dễ tàn lụi, nên tất cả đều không đƣợc bền lâu. Tốn là "trĩ mộc kỳ hoa" ( cây non, hoa đẹp) sáng sủa, xinh tƣơi, nhƣng không quen chịu gió mƣa, nên dễ suy tàn. Trong Long Mạch Âm Phần của Cửu Cung có khác so với Dƣơng Cơ. Những Long Mạch thuộc về Thƣợng Nguyên đều vƣợng về Trung Nguyên, những Long Sơn thuộc về Trung Nguyên cũng Dự Vƣợng về Thƣợng Nguyên, những Long thuộc về Hạ Nguyên thƣờng có Dƣ Lực vƣợng về Thƣợng Nguyên. Đây là Định Vận, Long vận tuy định nhƣng cũng cần phải xem rõ cái Địa lực,, Long Mạch hùng hậu thế nào, và Phiên Tinh quái phải thuần khiết, dẫu gặp vào vận bại cũng chỉ là nghỉ, không phát phƣớc nhƣng còn tự giử đƣợc. Nếu Địa mạch nhƣợc bạc, Tinh Quái lại hỗn tạp, dẫu gặp Vận vƣợng, dù có phát phƣớc cũng gặp nhiều nghiêng ngã bất ngờ, ngũ phƣớc không trọn vẹn.. Xƣa nay đã thấy : Chỉ có 1 ngôi Âm Phần, Dƣơng Cơ kết phát, khi hết Vƣợng vận thì thƣờng không thể khiên chế nổi. Nếu có 2 ngôi, 1 ngôi suy, 1 ngôi Vƣợng thì 2 cái lại đƣơng đối, khống chế lẫn nhau, cũng đƣợc hƣởng phƣớc lộc bình thƣờng, NHƢNG cũng phải nhận rõ Lực Địa của 2 ngôi lớn nhỏ thế nào để quyết định cho chính xác, 1 cái Vƣợng chẳng chống nổi 2 cái Suy, thì cái Suy hay tác hại; 1 cái Suy, 2 cái Vƣợng thì cái Suy không địch nổi, thì cái Vƣợng vẫn hay phát phúc. LƢU Ý : Cái Đại Cát thì mới có thể quét sạch đƣợc cái Tiểu Hung. Vậy đƣợc mộ cha, ông rồi, cũng cần thiết đến cả những mộ Tổ Tiên ở 4,5 đời trƣớc, thì phƣớc ấm mới mỷ mãn bền lâu, không bị biến đổi; nếu không cũng phải xét đến ngôi Dƣơng Cơ mình đang trú ngụ, không đƣợc tính toán sai lầm về Nguyên Vận, Phiên Quái cho Bát Sơn. Tóm lại, tìm đƣợc cái Đại Địa mà không đúng Nguyên Vận không bằng tìm đƣợc cái Tiểu Địa mà đắc vƣợng khí. Bởi đời ngƣời chúng ta chỉ có 60 năm, đợi hết Nguyên suy đền Nguyên vƣợng...60 năm (có thể hơn nữa) mà hƣởng phƣớc e không thể, lúc đó chắc đã "gia phá thân vong" mất còn đâu. Cho nên các bậc Thầy Địa lý xƣa hay chỉ ngƣời ta khai mở chỗ này, lấp chỗ kia, hầu tìm chỗ đắc Vƣợng Khí trong Bát Sơn mà phát phúc. ***Riêng bản thân mình nhìn thấy nhiều cuộc mộ Tốn cục vẫn phát phúc lâu dài, không nhƣ Tiền nhân luận định trong sách, mình không dám Vọng Ngữ phê phán các bậc tiền nhân là sai lầm, chỉ đƣa ra để các anh chị, các bạn để ý xem thử thế nào hầu rút kinh nghiệm. BÁT SƠN SUY VƢỢNG TẾ PHÁP Lục Bạch: Vƣợng Tƣớng tại Thƣợng Nguyên Thất, Bát hƣng long tại Hạ Nguyên. Tam, Tứ lƣỡng sơn trùng lục thập. Khôn sơn trung vị hạ đầu liên. Duy hữu Cửu Tử dữ Nhất Bạch Thƣợng vỉ, Trung đầu, Ngũ thập niên. _ Thƣợng nguyên Nhất Bạch chủ sự: Khảm Chấn Tốn Khôn cát, Ly hung. _ Trung nguyên Tứ Lục chủ sự: Ly Khảm Càn Đoài cát, Khôn Cấn hung _ Hạ nguyên Thất Xích chủ sự: Khảm Ly Khôn Cấn Đoài cát, Chấn Tốn hung. Giải nghĩa: Xét kỷ về phép Suy và Vƣợng ở Bát sơn tức là tám phƣơng: _ Lục Bạch thuộc về Càn thì Vƣợng về Thƣợng nguyên. _ Thất Xích thuộc về Đoài, Bát Bạch thuộc về Cấn, tức Đoài Cấn hai phƣơng thì hƣng long về Hạ nguyên _ Tam Bích thuộc về Chấn, Tứ Lục thuôc về Tốn , tức Chấn Tốn hai phƣơng thì hƣng vƣợng về 60 năm ở Trung nguyên _ Khôn phƣơng thì Vƣợng về cuối ở Trung Nguyên và đầu Hạ nguyên _ Chỉ có Ly phƣơng và Khảm phƣơng là hai phƣơng cùng Vƣợng về cuối Thƣợng nguyên và đầu Trung nguyên. Thƣợng nguyên thì sao Nhất Bạch cầm đầu trị sự cả 60 năm, thì phƣơng Khảm Chấn Tốn Khôn phƣơng tốt lành, phƣơng Ly thì hung bại.


Trung nguyên thì sao Tứ Lục đứng đầu trị sự cả 60 năm, thì phƣơng Ly Khảm Càn Đoài bốn phƣơng tốt lành, Khôn Cấn là hai phƣơng hung bại Hạ nguyên thì sao Thất Xích đứng chủ quyền trị sự cả 60 năm thì phƣơng Khảm Ly Khôn Cấn Đoài là năm phƣơng tốt lành, Chấn Tốn hai phƣơng hung hại. BÁT SƠN SINH SÁT KHÍ PHÁP Về phép Sinh hay là Sát của 8 phƣơng thì lấy Sao Chủ Vận làm chủ: _ Khắc Chủ Vận gọi là Tử khí _ Sinh Chủ Vận gọi là Thoái khí _ Chủ Vận sinh vào mình thì gọi là Sinh khí _ Chủ Vận khắc vào mình thì gọi là Sát khí _ Cùng hoà với Chủ Vận gọi là Vƣợng khí Vì dụ nhƣ: Hiện nay là Bát Bạch đang làm Chủ Vận, thì Càn cục, Đoài cục làm Sinh Khí; Cấn Khôn cục là Vƣợng Khí; Khảm cục là Sát Khí; Chấn Tốn cục là Tử Khí; Càn Đoài cục là Sinh Khí; Ly cục là Thoái Khí. Trên đây là Sinh, Sát...Khí lấy Chủ Vận tinh phân ra. So với cái Sinh, Sát...Khí của 8 phƣơng phân ra thì khác, không cùng một phép. Xin hãy nhận chân cho rõ! TINH PHÙ THIÊN Khí hoá lƣu hành suốt trong bầu trời, quả đất và các vì tinh tú chuyển vần...vv... hết thảy đều do Cửu Tinh chủ trị cả. Danh hiệu của Cửu Tinh: _ Thiên Hoàng Đại Đế tức Tôn Tinh. _ Tử Vi Đại Đế tức Đế Tinh. _ Bắc Đầu thứ nhất tức Tham Lang Tinh. _ Bắc Đẩu thứ nhì tức Cự Môn Tinh. _ Bắc Đẩu thứ ba tức Lộc Tồn Tinh. _ Bắc Đẩu thứ tƣ tức Văn Khúc Tinh. _ Bắc Đẩu thừ năm tức Liêm Trinh Tinh. _ Bắc Đẩu thứ sáu tức Vũ Khúc Tinh. _ Bắc Đẩu thứ bảy tức Phá Quân Tinh. Hai vị Tôn Tinh và Đế Tinh lại hoá ra hai sao Tả Phù và Hữu Bật, hai sao kèm ở hai bên ngôi Vũ Khúc, đều là ở ngoài ngôi cao của Tử Vi Viên mà làm chủ tể cả Thiên Địa, quay chuyển Tạo Hoá, dƣới thì thi hành ở Địa cầu hoá sinh muôn vật. Tất cả những việc liên quan đến Thỏ, Yểu, Cùng, Thông trong sinh mệnh của con ngƣời đều hệ thuộc ở đó mà ra cả. Cái Địa Khí tuy phát sinh dƣới lòng đất, nhƣng thực ra nó cũng hợp nhất với Thiên Khí trên trời. Do vậy, cái hay, dỡ của đất đai địa cục phải theo ở Cửu Tinh mà xét đoán, cho nên mới gọi là Huyền Không Bát Quái Ngũ Hành pháp. Nhƣ Kiền, Khôn, Cấn Tốn, Khảm, Ly, Chấn, Đoài cái thứ tự hào quái của nó tự nhiên đã có nhƣ thế, không phải ngƣời tạo ra mà đƣợc. Tuy thấy điên đảo thác loạn mà cùng hợp bên trong, trong cái bất đồng lại có cái qui hợp đại đồng (điều này cũng tƣơng ứng trong Ý Dịch, trong Âm có Dƣơng, trong Dƣơng có Âm, thấy tốt mà ẩn cái xấu, thấy xấu mà tàng chứa cái tốt, tốt xấu cùng một lúc, "vạn thù qui nhất bổn, nhất bổn tán vạn thù"). Quái thì lấy Kiền Khôn làm Phụ Mẫu, lấy lục hào làm Tử tôn. Hai mƣơi bốn phƣơng vị lại lấy Bát Quái làm Phụ Mẫu, lấy Can Chi nạp giáp vào mà làm Tử tôn vậy. Bởi Long Mạch là Địa Khí, mà Địa Khí thì nặng và đục, nên ba phƣơng vị qui vào một quái. Tinh là Thiên Khí, mà Thiên Khí thì nhẹ và trong, nên hai mƣơi bốn phƣơng vị tự phân hành đi nhƣng vẫn lệ thuộc vào quái nạp giáp, lấy cách một cung làm Địa Mẫu Quái. Mà Địa và Mẫu vốn mang tính chịu đựng, thu nạp (nhƣ chúng ta đổ nƣớc hoa xuống đất, đất có khen thơm chăng? Chúng ta xả rác xuống đất, đất cò chê hôi hay phiền trách chăng?), nên Lập Hƣớng lấy Nạp Thuỵ làm chủ yếu. Lấy bản cung đối xứng làm Thiên Phụ Quái, Thiên và Phụ vốn là tính trải ra, phản hồi (nhƣ chúng ta thả khói ô nhiễm vào bầu trời, tất lãnh ngay hậu quả phản hồi "lỗ thủng tầng ô zôn"), nên Tiêu Thuỵ làm chủ yếu. Tham, Cự, Vũ, Phụ ở Thiên Phụ Quái. Văn, Lộc, Phá, Liêm ở Địa Mẫu Quái. Ngƣời biết Thu đƣợc cái Thuỵ của Tam Cát (Tham, Cự, Vũ), biết tiêu đƣợc cái Ác khí của Tứ Hung (Phá, Lộc, Văn, Liêm) thì bất kỳ cục địa nào cũng có thể trở nên tốt lành. Vậy ở hai bên trái phải của quái nhƣ có Sa, Thuỵ Cát tú thì nên ở phía trƣớc, không nên ở đằng sau. Điều này cũng ví nhƣ bầy tôi với vua chúa


vậy, hƣớng chầu vào vua là kẻ phò tá, trung thần; quay lƣng vào vua là phản bội, gian thần vậy. Sa, Thuỵ, Long, Hƣớng chỉ nên thu cái tam Cát và Phụ Bật thôi, không nên làm phạm vào phƣơng vị của Tứ Hung. Cái Thuỵ Lai ở những phƣơng Cát ấy phải cực thanh. Nếu cả hai cái Thuỵ Cát Hung cùng đến Huyệt, thì cái Thuỵ Cát ứng Cát, cái Thuỵ Hung ứng Hung. Nếu cả Cát và Hung cùng hợp vào một cung mà dẫn vào Huyệt, thì trong cái tốt có cái xấu, bán Cát bán Hung. Còn cái Ảnh diệu, tức cái bóng ánh nƣớc chiếu, nếu không trông thấy nƣớc ở Nội Minh Đƣờng, hay ngắn gọn hơn, không thấy ánh nƣớc chiếu vào Huyệt, là ẩn mà không thấy, thì cái Phƣớc, cái Hoạ chƣa ứng nghiệm. Chính vì Thuỵ là cái gốc gây ra Phƣớc, Hoạ cho Địa Huyệt vậy. Thƣờng có cái nhà nhỏ, thấp của ngƣời nghèo lại phát phƣớc dần dần; mà cái nhà lầu cao của ngƣời giàu lại thoái bại dần, là do bới thấy cái Hung Thuỵ ở bên ngoài vậy. Có nhiều cái Huyệt thuở ban đầu không phát, sau trồng cái cây cao, hay tự nhiên có cây cao mọc lên mà phát quý, đó là do cái Cát Thuỵ bên ngoài ứng chiếu vào vậy. Còn cái Chuyển diệu, là cái sao luân chuyển đi, khiến sinh có cái Hƣớng Cát mà trở thành Hung, có cái Hƣớng Hung mà phản lại thành Cát. Trong cái Hƣớng mà có Thuỵ Lai là hƣớng Thực, trong cái Hƣớng mà có Thuỵ Khứ là hƣớng Hƣ, nên cái Cát mà thành Hung, cái Hung mà thành Cát là vì thế. Vậy cái Tinh quái ở chỗ Khứ Thuỵ phải lấy ở chỗ cửa khẩu Tiêu Thuỵ gần với Nội Minh Đƣờng, lấy chỗ Thuỵ gẫy khúc lần thứ nhất là đúng. Sau chỗ Thuỵ gẫy khúc đã chảy đi rồi, mà trong chỗ Huyệt kết lại thấy cái bóng của Thuỵ Khứ nữa, cái ấy gọi là chỗ Ngoại lƣu. Còn cái Khứ Thuỵ mà tiêu đi không hết, là ở chỗ cửa nƣớc tiêu đi, lại khai ra cái vũng chứa nƣớc, hoặc cái đầm, ao để làm cho cái Khứ Thuỵ ấy chứa lại, thì cái Cát Hung tất nhiên cũng có sự điên đảo, nên xem xét cẩn thận, bởi chỗ ấy là Nguyên khí thịnh vƣợng, nƣớc tiêu đi mà còn trở lại ( Cái này trong Dƣơng Trạch thƣờng rất hay gặp, nhiều nhà hay làm hố ga chƣa nƣớc lại trƣớc khi thoát đi ra, cần phải chọn vị trí cho đúng, không khéo mà gặp hoạ . Cẩn thân! Cẩn thận!). Đây chính là dụng pháp của Ai Tinh, là cái bí quyết ẩn tàng của Thiên Địa. Xƣa có câu: Hữu nhân đắc thức Ai Tinh quyết, chiêu thị phàm phu mộ thị Tiên. Nghĩa là: Có ngƣời nào biết đƣợc phép Ai Tinh thì buổi sớm là kẻ trần tục, buổi tối đã là bực Tiên rồi. Tức là ngƣời nào biết sử dụng đƣợc phép Ai Tinh, thì Tạo Hoá ở cả trong bàn tay rồi, hô hấp quán thông đến tận cả trời xanh. Cổ nhân truyền cho cái hay mà không truyền cho cái thuyết, thật là bí hiểm, có lẽ còn theo về Duy Tâm, sơ e Thiên nộ vì tiết lậu Thiên cơ. Còn những chổ gần biển, có nƣớc biển dâng lên, rút xuống, thì lấy chỗ cửa ra biển là nơi Thuỵ Khứ. Nghĩa là cái nƣớc Hải Triều chảy ngƣợc lên, không phải là cái Thuỵ Lai. Đó là Lạc Thuỵ Quy Nguyên, ở khoảng đó là Lƣu Tinh, đạo lý tự nhiên của Thiên Địa, do sự hô hấp của Âm Dƣơng mà thăng giáng nhƣ vậy. PHIÊN QUÁI QUYẾT LY TỐN KHÔN ĐOÀI KIÊN CẤN KHẢM CHẤN Khời Tham Lang pháp và Liêm Trinh pháp: _ Khôn tòng Ly khởi, Ly tòng Khôn khởi. Nghĩa là: Khôn cục thì khởi tinh ở cung Ly, Ly cục thì khởi tinh ở cung Khôn. Đây là pháp cách cung khởi tinh. _ Kiền tòng Đoài khởi, Đoài tòng Kiền khởi. Nghĩa là: Kiền cục thì khởi tinh ở cung Đoài, Đoài cục thì khởi tinh ở cung Kiền. Đây là pháp đối cung khởi tinh. Thu Lai Thuỵ (nƣớc chảy lại) thì lấy bản cục cách một cung khởi tinh. Hễ đƣợc Tham, Cự, Vũ, Phụ là Cát tinh thì tốt. Tức là quẻ Ngũ Quỷ tức vị vi khởi Liêm Trinh, đó là khởi Liêm Trinh trƣớc (theo thứ tự Phụ, Vũ, Phá, Liêm, Tham, Cự, Lộc, Văn). Tiêu Khứ Thuỵ (nƣớc tiêu chảy đi) thì lấy bản cục đối cung để khởi tinh, hể đƣợc Tham, Cự, Vũ, Phụ là Cát tinh thì tốt. Tức là quẻ Thiên Định (Thiên Định Quái) thì khởi Tham Lang trƣớc (Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ). Tinh quái định cục: _ Quẻ Ngũ Quỷ: Phụ, Vũ, Phá, Liêm, Tham, Cự, Lộc, Văn.


_ Quẻ Thiên Định: Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ. Dƣới đây NCD sẽ kê ra sẵn theo từng cục với hai cách phiên tinh của hai quẻ trên, lần lƣợt theo thứ tự các sao nhƣ trên, hàng trên là khởi theo Ngũ Quỵ pháp, hàng dƣới là theo Thiên Định pháp (hay còn gọi là Tham Lang pháp): ĐOÀI CỤC: _ Đoài, Chấn, Khôn, Khảm, Tốn, Cấn, Ly, Kiền. _ Kiền, Ly, Cấn, Tốn, Khảm, Khôn, Chấn, Đoài. CHẤN CỤC: _ Chấn, Đoài, Khảm, Khôn, Cấn, Tốn, Kiền, Ly. _ Ly, Kiền, Tốn, Cấn, Khôn, Khảm, Đoài, Chấn. KHÔN CỤC: _ Khôn, Khảm, Đoài, Chấn, Ly, Kiền, Tốn, Cấn. _ Cấn, Tốn, Kiền, Ly, Chấn, Đoài, Khảm, Khôn. KHẢM CỤC: _ Khảm, Khôn, Chấn, Đoài, Kiền, Ly, Cấn, Tốn. _ Tốn, Cấn, Ly, Kiền, Đoài, Chấn, Khôn, Khảm. TỐN CỤC: _ Tốn, Cấn, Ly, Kiền, Đoài, Chấn, Khôn, Khảm. _ Khảm, Khôn, Chấn, Đoài, Kiền, Ly, Cấn, Tốn. CẤN CỤC: _ Cấn, Tốn, Kiền, Ly, Chấn, Đoài, Khảm, Khôn. _ Khôn, Khảm, Đoài, Chấn, Ly, Kiền, Tốn, Cấn. LY CỤC: _ Ly, Kiền, Tốn, Cấn, Khôn, Khảm, Đoài, Chấn. _ Chấn, Đoài, Khảm, Khôn, Cấn, Tốn, Kiền, Ly. KIỀN CỤC: _ Kiền, Ly, Cấn, Tốn, Khảm, Khôn, Chấn, Đoài. _ Đoài, Chấn, Khôn, Khảm, Tốn, Cấn, Ly Kiền. Chẳng lẽ mỗi lúc cần xem lại lấy bảng này ra xem, hay phải nhớ thứ tự của cả bảng 8 cục với hai cách tính, thật là khó khăn, nên NCd sẽ chỉ công thức cho cả hai cách phiên quái này, các anh chị, các bạn chỉ cần biết cách tính, còn nhớ thì chỉ cần nhớ thứ tự sao theo thứ tự mỗi lần biến là đủ. 1/. Cách tính cho quẻ Thiên Định: Lần thứ nhất biến hào thƣợng. Lần thứ nhì biến hào trung. Lần thứ ba biến hào hạ. Lần thứ tƣ biến hào trung. Lần thứ năm biến hào thƣợng. Lần thứ sáu biến hào trung. Lần thứ bảy biến hào hạ. Lần thứ 8 biến hào trung trở về Nguyên vị. Ví dụ: Càn cục khởi quái: Lần thứ nhất biến hào thƣợng thành quẻ Đoài, lần thứ nhì biến hào trung thành quẻ Chấn, lần thứ ba biến hào hạ thành quẻ Khôn, lần thứ tƣ biến hào trung thành quẻ Khảm, lần thứ năm biến hào thƣợng thành quẻ Tốn, lần thứ sáu biến hào trung thành quẻ Cấn, lần thứ bảy biến hào hạ thành quẻ Ly, lần thứ tám biến hào trung trở về Nguyên vị là quẻ Càn. 2/. Cách tính cho quẻ Ngũ Quỷ: Lần thứ nhất giử nguyên vị.


Lần thứ nhì biến hào trung. Lần thứ ba biến hào hạ. Lần thứ tƣ biến hào trung. Lần thứ năm biến hào thƣợng. Lần thứ sáu biến hào trung. Lần thứ bảy biến hào hạ. Lần thứ tám biến hào trung. Ví dụ: Cũng là Càn cục khởi quái: Lần thứ nhất giử Nguyên Vị quẻ Càn là Phụ, lần thứ nhì biến hào trung thành quẻ Ly là Vũ, lần thứ ba biến hào hạ thành quẻ Cấn là Phá, lần thứ tƣ biến hào trung thành quẻ Tốn là Liêm, lần thứ năm biến hào thƣợng thành quẻ Khảm là Tham, lần thứ sáu biến hào trung thành quẻ Khôn là Cự, lần thứ bảy biến hào hạ thành quẻ Chấn là Lộc, lần thứ tám biến hào trung thành quẻ Đoài là Văn. SANH KHÍ QUYẾT Sinh Nguyên khí tụ xuất danh thần Hiếu hữu trung lƣơng tá thánh quân Chập chập tử tôn hành hiếu nghĩa tự nhiên phú quý vạn niên xuân Nghĩa là: Vị sao làm chủ cái Nguyên ấy là Sinh-bản-cục, mà thấy khí tụ ở ohƣơng ấy tất sanh đƣợc bậc danh thần, là ngƣời trung lƣơng hiếu nghĩa phò tá vua, giúp nƣớc; con cháu đông đảo, tất thảy đều là ngƣời hiếu nghĩa; tự nhiên giàu sang trƣờng thịnh muôn năm vẫn còn. Những phƣơng là Sinh Khí, mà có đồi núi cao, hoặc Thuỵ lƣu, Thuỵ tụ, tú lệ hữu tình, từ ngoài xa triều lại, là đƣợc Khôi tinh tƣơng tá. Những phƣơng Quan sát thấp phục, thì đại phát tài lộc, đời đời làm quan. Sơn cƣơng, Thuỵ lộ đoản, tiểu cũng đƣợc tiểu phú quý. Nếu không có Sơn Thuỵ thì bất Cát. VƢỢNG KHÍ QUYẾT Sơn gia Vƣợng khí uất Liêm Trinh Tú lệ ứng tri Cát sở chung Ác diệu, thô ngoan tính phản bối Quan tinh xung phá dữ vi hung. Nghĩa là: Ở phƣơng là Vƣợng Khí mà có núi cao ngùn ngụt vót lên, thấy tốt đẹp (tú lệ) thì biết khí chung tụ nhiều lắml nếu là đơn độc, thô xuẩn, to ngạnh và lƣng phản lại, và quan tinh xung phá, vậy là hung. Ở phƣơng là Vƣợng Khí, mà có núi nhọn cao, ôm ấp; hoặc có Tú Thuỵ vòng quanh triều vào là Đại Cát lợi. Nếu Sơn xấu, Thuỵ trực thì không phải là tốt đẹp. Nếu gồm cả Quan sát lại xung thì biến làm Hung. TỬ KHÍ QUYẾT Thuỷ lộ, Sơn cƣơng phạm Tử thần Gia môn tịch tịch chủ cô bần Lãnh thoái, tai truân, tần nhạ hoạ Khan khan hậu đại tuyệt vô nhân. Nghĩa là: Nƣớc và núi đồi phạm vào phƣơng Tử khí nên cửa nhà vắng vẻ, bị cô quả, bần hàn, lạnh lẽo, thoái bại cả ngƣời lẫn của, tai hoạ gây ra luôn luôn, xem thấy đời sau tuyệt tự không sai THOÁI KHÍ QUYẾT Thoái khí nguyên lai tối bất lƣơng Thời nhân phạm chƣớc hoạ nan đƣơng Doanh mƣu tất bản, đồ ta thán Gia đạo tiêu điều, khởi hoạ ƣơng Nghĩa là: Phƣơng Thoái Khí nguyên là phƣơng rất xấu, không lành, ngƣời nào bị phạm ứng vào thì tai hoạ khó tránh khỏi, mƣu sự buôn bán thì mất cả vốn, luống những than phiền, gia đạo bị tiêu điều, đầy dẫy tai nạn, thiệt hại khởi lên. Hai phƣơng Tử Khí và Thoái Khí đều là bất lợi cả, nhƣng Sơn củng, Thuỵ nhiễu thì cũng còn không đến nỗi. Tuy không phát quý, nhƣng tài lộc còn khá, không bị tuyệt sản nghiệp. Vậy nên Sơn, Sa


phải đê phục, bình thản, Thuỵ khộng nên chảy đi ở phƣơng Thoái khí, nếu Trực khứ thì tiết hết cục khí, tức là Ngã thân Tuyệt khí, cực kỳ hung hại. Cẩn thận! SÁT KHÍ QUYẾT Lục Sát sinh lai thụ thứ ƣơng Chỉ nhân định cục khiếm tƣ lƣờng Cấp tƣ di cải hung vi cát Miễn đắc nhi tôn hoạn cửu trƣờng Nghĩa là: Phƣơng Lục sát mà sinh lai thì bị tai ƣơng ở chỗ ấy. Chỉ vì khi định cục thiếu suy nghĩ, không biết liệu lƣợng. Kíp tức thời mà dời đổi, để chuyển cái hung làm cái cát. khiến cho con cháu khỏi phải bị cái nạn lâu dài. Những phƣơng Sát khí mà có núi non cao tủng, thuỵ lộ xung xạ gọi là "Sát tinh ngang lộ". Lập hƣớng nhà ở, hay là lập hƣớng phần mộ thì Đại Hung. Bình phục hoặc quanh ngang thì lành, phƣơng ấy tối kỳ Thuỵ lai- Thuỵ khứ thì lại đƣợc lành. XUNG QUAN QUYẾT Quan sát tƣơng xung bất khả đƣơng Sơn cƣơng, Thuỷ lộ xạ hình đƣờng Can thƣợng tƣơng quan do tự khả Chi nội tƣơng quan lập kiến thƣơng Nghĩa là: Phƣơng Quan sát tƣơng xung (xung sát lẫn nhau) thì không nên đƣơng đầu, đối diện. NHƣ là Sơn cƣơng, Thuỵ lộ đâm thẳng vào Minh Đƣờng (là xạ), ở phƣơng Thiên Can mà tƣơng xung thì còn đỡ chútl ở phƣơng Địa Chi mà tƣơng xung thì thấy đao thƣơng ngay (chết về đâm chém bất đắc kỳ tử) Quan Sát là phƣơng Ngũ Hoàng, cùng với Bản cục đối xung. Vậy bảo là Quan Sát hung cũng cùng nhƣ phƣơng Sát khí. QUAN SÁT SINH KHÍ (Hỗn tạp quyết) Sơn gia Sinh khí phúc phi thƣờng Quan Sát hung tai bất khả đƣơng Chỉ nhân Thiện, Ác tinh tƣơng tạp Cố sử vinh hoa kiến tử thƣơng. Nghĩa là: Về Sơn, phƣơng là Sinh Khí, thì cái phƣớc chẳng phải là thƣờng. Quan Sát phƣơng là tai ƣơng, không nên đối xung. Bởi vì là sao dữ, sao lành cùng lẫn lộn, khiến cho ngƣời vinh hoa mà bị chết thảm thƣơng. Phƣơng Sinh Khí và phƣơng Quan Sát với phƣơng Sát Khí, chỉ hiềm Sơn cƣơng, Thuỵ lộ ôm lại, gọi là nửa lành, nửa ác. NHững chỗ ấy mà làm nhà ở hay phần mộ, đều sinh ra ngƣời "khẩu thiện, tâm ác" (là khéo léo ngoài miệng mà trong lòng hiểm độc), hiếu tranh, hiếu tụng, hiếu chiến, hiếu sát, cƣớp của mọi ngƣời làm của mình, nhƣng đa thành đa bại. Tuy nhiều con cháu, nhƣng khó thoát đƣợc tội vạ. Quan tƣớc tuy hiển, mà chẳng đƣợc hoàn thiện. Những Sơn, Sa, Thuỵ lộ ở Sát phƣơng phát lai, mà có Sinh phƣơng kết cục, gọi là: Hành Hung, Toạ Thiện. Những chỗ ấy có mộ hoặc nhà ở, thì gặp sự hung có ngƣời cứu, gặp nạn rồi lại đƣợc phƣớc, ra ngoài làm quan thƣờng bị phi tai đƣa về, nhƣng ở nhà thì không bị, nhƣng cũng khó đƣợc lâu dài. Nếu ở Sinh phƣơng dẫn mạch lại, đến Sát phƣơng kết tác, gọi là "Hành Thiện Toạ Hung". Phần mộ hoặc nhà cửa ở chỗ ấy đều là "hảo sự đa ma" (việc tốt hay mà nhiều cái dỡ tiềm ẩn bên trong), làm khéo thành vụng, lợi khách bất lợi chủ, không có mối gì mà vẫn bị tai hoạn phá gia. KHÔI TINH QUYẾT Khôi tinh trùng điệp khởi cao phong Cửu cửu tinh trung đệ nhất long Thử địa trình tƣờng sinh kiệt sĩ Nhi tôn thế đại nhập triều trung. Nghĩa là: Ở phƣơng là Khôi tinh, mà trùng trùng điệp điệp khởi cao phong. Ở trong Cửu cung, và Cửu tinh, hay nhất là Long Mạch ở phƣơng ấy. Đất ấy là tốt lành, sinh ra kiệt sĩ, danh nhân, con cháu đời đời đƣợc vào nơi triều đình, tức là làm quan cao , quyền lớn.


Thổ cục kiến Nhất Bạch, Mộc cục kiến Bát Bạch, Hoả cục kiến Lục Bạch làm Khôi Tinh. Lại nói: Chỉ có Nhất Bạch làm Khôi Tinh thôi, ở phƣơng ấy khởi cao phong, Long sơn từ đằng xa quay lại, mà bát phƣơng triều bão, hộ vệ, đất ấy táng mộ hay làm nhà ở thì sinh ra ngƣời thông minh, tài học, đời đời làm quan và hiếu nghĩa, là bực anh hào, phú quý vĩnh viễn. Nếu thấy Sơn, Thuỵ gần, hẹp cũng sinh ra ngƣời anh tài, phú quý. Nếu phƣơng ấy là Sinh Khí hay Tài khí, thì cái tốt lành không thể nói xiết. Nhƣng nếu là phƣơng Thoái khí thì xuất cao tăng, đạo sĩ, nghệ thuật xuất chúng. Chỉ có là phƣơng Sát khí thì sinh ra ngƣời khôn ngoan xảo trá, độc ác hung tàn, nghèo khổ, chết non, khó thoát khỏi hoạn nạn. THIÊN DIỆU QUYẾT Tam Bạch sinh lai thị tử tôn Mạc tƣơng Thoái Khí đẳng nhân ngôn Cát tinh lâm chiếu đa hƣng vƣợng Dịch dịch quan trƣờng, khánh mãn môn Nghĩa là: Sinh lại ba phƣơng Bạch (là Nhất Bạch, Lục Bạch, Bát Bạch) thì phƣơng ấy cũng nhƣ là con cháu mình, đừng đem ra mà ngôn luận coi là phƣơng Thoái Khí nhƣ ngƣời ta nói. Những phƣơng ấy là Cát tinh mà chiếu tới thì hƣng vƣợng lắm, con cháu đời đời nối tiếp mũ áo, cân đai, phƣớc lộc đầy cửa, trâm anh thế phiệt nối dòng. Hoả sơn kiến Bát Bạch, Thổ sơn kiến Lục Bạch, Kim sơn kiến Nhất Bạch. Nghĩa là: Hoả cục (Hoả sơn, Hoả quái cũng thế) gặp phƣơng Bát Bạch là Hoả sinh Thổ (Với các trƣờng hợp Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỵ cũng vậy), thì lấy đó làm con cháu mình (Tử tôn). Ba sao Bạch đó gọi là sao lành (Thiên Diệu), nó hay chế ngự đƣợc cái Sát Khí. Vậy những sơn đó mà có Sơn Thuỵ triều củng thì rất là hay (hoá hung vi Cát). Nếu có Chùa, Miếu, Đình, Đền, Chuông, Trống trấn đóng thì đó là Đại Cát Địa, con cháu giàu sang, thông minh, lƣơng thiện. TAM CÁT ĐỊA QUYẾT Địa hữu Tam Cát thực nghi cầu Sinh Khí Khôi tinh tử tế sƣu Đại cƣơng, đại sơn, tinh xa mã Tự, Quán, Chung, Cổ nhất dạng thâu. Nghĩa là: Đất có ba điều lành thật là nên cầu. Sinh Khí, Khôi tinh nên cẩn thận xem xét kỷ mà sƣu tầm. Nhƣ là núi to, gò lớn, xe, ngựa lai vãng, đình, đền, chuông, trống cũng vậy, nên thâu nhận. Những phƣơng Sinh Khí, Khôi tinh mà có Đại sơn, Đại Thuỵ triều cố (chầu vào mộ) bốn mùa không dứt, là một cái tốt lành. Có cầu, đƣờng lộ giao thông, xe ngựa đi lại triều vào, là hai cái tốt lành. Có chùa, đền, chuông, trống sớm tối nghe tiếng vang động là ba cái tốt lành. Đất nào có những cái tốt lành nhƣ thế thì con cháu thông minh, lƣơng thiện, đinh-tài lƣỡng vƣợng. Nếu ở vào phƣơng Quan Sát thì lại là hung, bị tai hoạ, hình thƣơng, yểu tử, không thể kể xiết. TAM NGUYÊN VƢỢNG KHÍ QUYẾT Khán sơn, tu khán Chủ Long Tinh Thƣợng Nguyên Nhất Bạch cát nghi minh Tứ Lục chi tinh Trung Nguyên cát Thất Xích Hạ Nguyên đa hữu tình. Nghĩa là: Xem sơn thì phải xem vị sao nào làm chủ Long Sơn. Nên biết rõ là: Về Thƣợng Nguyên thì sao Nhất Bạch tốt, Trung Nguyên thì sao Tứ Lục tốt, Hạ Nguyên thì sao Thất Xích nắm quyền hành, đƣợc vậy thì thịnh vƣợng. NHững Sơn cƣơng, huỵ lộ mà đƣợc sao Quản Nguyên Vận (sao làm chủ Nguyên, Vận) triều cố, thì đại lợi trong 60 năm (hay 20 năm). Nếu là phƣơng Sinh Khí thì trƣớc sau Đại Cát. Nhƣng là phƣơng Sát Khí thì cũng đƣợc 60 năm (hay 20 năm) Tiểu Lợi, nhƣng đến Nguyên khác (Vận khác) thì Hung. TAM NGUYÊN LONG VẬN QUYẾT Tam Nguyên Long Vận lý nghi thông Thƣợng Nguyên Nhất Bạch, Nhị, Tam đồng Trung Nguyên Tứ Lục, Trung, Kiền vị Hạ Nguyên Thất Xích, Cấn, Ly trung


Nghĩa là: Long Vận về Tam Nguyên, lý khí nên thông hiểu: Thƣợng Nguyên thì sao Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, ba sao cùng ở trong một Nguyên; Trung Nguyên thì sao Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, ba sao cùng ở trong một Nguyên; Hạ Nguyên thì sao Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử, ba sao cùng ở trong một Nguyên. Nhƣ Thƣợng Nguyên gồm 60 năm, thì Giáp Tý và Giáp Tuất, 20 năm thuộc về sao Nhất Bạch quản trị; Giáp Thân và Giáp Ngọ, 20 năm thuộc về sao Nhị Hắc quản trị; Giáp Thìn và Giáp Dần, 20 năm thuộc về sao Tam Bích quản trị. NHƢNG sao Nhất Bạch vẫn làm chủ thống vận cả một Đại Nguyên là 60 năm, nó đều nắm quyền quản trị. Các Nguyên khác luật lệ cũng nhƣ thế. Mỗi Nguyên lấy một sao Quản Nguyên làm chủ, để luận Sinh, Vƣợng trong tám phƣơng. Nhƣ Thƣợng Nguyên thì sao Nhất Bạch làm Chủ Nguyên, thì Khảm cục là Vƣợng Khí, Nhất Bạch Thuỵ sinh Mộc nên Chấn và Tốn cục đƣợc Sinh Khí, Thuỵ khắc Hoả nên Ly cục là Sát Khí, Kim sinh Thuỵ nên Kiền và Đoài cục là Thoái Khí, Thổ khắc Thuỵ nên Khôn và Cấn cục là Tử Khí. Khắc Nguyên là Tử Khí, đƣợc Nguyên sinh là Sinh Khí, bị Nguyên khắc ấy là Sát Khí, tỵ hoà với Nguyên là Vƣợng Khí, sinh Nguyên là Thoái Khí. Cái Sinh, Sát Khí ở bản cục với cái Sinh, Sát Khí ở trên tám phƣơng không cùng nhƣ nhau. Lấy cái bản cục (là chính mình) đƣợc cái Sinh, Vƣợng Khí là Cát; cái Tử, Thoái Khí là Hung, thì dầu có đƣợc Địa Cát cũng không phát phƣớc. BÁT SƠN SINH VƢỢNG QUYẾT Lục Bạch Vƣợng Tƣớng tại Thƣợng Nguyên. Thất, Bát hƣng long tại Hạ Nguyên. Tam, Tứ nhị sơn Trung lục thập. Khôn sơn Trung vỹ, Hạ đầu liên. Duy hữu Cửu Ly dữ Nhất Khảm Nhất Thƣợng vỹ, Trung đầu, ngũ thập niên. Nghĩa là: Phƣơng Kiền (là Lục Bạch) thì Vƣợng Tƣớng ở Thƣợng Nguyên. Thất Xích là Đoài, Bát Bạch là Cấn, thì hƣng thịnh ở Hạ Nguyên. Tam Bích là Chấn, Tứ Lục là Tốn, hai sơn này thì Vƣợng Tƣớng 60 năm thuộc Trung Nguyên. Khôn sơn là Nhị Hắc thì Vƣợng về cuối Trung Nguyên và liền với đầu Hạ Nguyên. Chỉ có Cửu Tử là phƣơng Ly và Nhất Bạch là phƣơng Khảm , thì Vƣợng về cuối Thƣợng Nguyên và đầu Trung Nguyên, liền suốt 50 năm. CHỦ VẬN GIA PHI QUYẾT: Nhƣ Thƣợng Nguyên, sau năm Giáp Thân lấy Nhị Hắc nhập trung thuận phi đi tám phƣơng. Xét xem Sinh Khắc ở các phƣơng vị, để đoán Cát, Hung của bản cục. Nhƣ Nhị Hắc nhập trung, thì Tam Bích gia Kiền, Tứ Lục đấn Đoài, đó là Hạ khắc Thƣợng; Ngũ Hoàng tới Cấn là tỵ hoà; Lục Bạch tới Ly, Thất Xích tới Khảm, đều là Thƣợng sinh Hạ,...những cái khác cũng y lệ nhƣ thế. Hạ khắc Thƣợng là Chủ khi khách: Chủ nhân tâm bất hoà, hoạ nhẹ thôi. Thƣợng khắc Hạ là Khách khi Chủ: Đó là Sát Khí gia lâm, bách sự bất lợi, tất chiêu hung hoạ. Hoặc đất ấy Long, Cục, Sa, Thuỵ bị ngƣời phá huỷ, nhƣng thấy Thƣợng sinh Hạ, là ngoại ích nội, thì vẫn đại hƣng, đại phát; nếu là Hạ sinh Thƣợng, là ngoại hao nội, tất lãnh thoái nhân đinh, ở lâu e tuyệt tự. Lại lấy Sao Chủ Vận làm chủ để luận bát phƣơng Sinh, Sát, Cát, Hung. Nhƣ Thƣợng Nguyên Nhị Hắc nhập trung, tức lấy Nhị Hắc làm chủ, thì Tam Bích gia Kiền, Tứ Lục gia Đoài, tất hai phƣơng Kiền Đoài là Sát Khí phƣơng, vì khắc với Sao Chủ Vận. Cửu Tử gia Chấn thì Chấn là Sinh Khí phƣơng,...các phƣơng Tử, Thoái, Vƣợng cũng theo cách ấy mà suy. Những Âm phần, Dƣơng trạch là phƣơng Sinh Khí của Sao Chủ Vận, mà có cửa ngõ, lối đi, hoặc đƣờng Thuỵ chảy lại thì Vƣợng Tài, Thêm đinh. Nếu là phƣơng Sát Khí có chỗ khuyết hãm, vỡ lỡ, thì quyết là biến ra tai hoạ ở ngoài đƣa đến. Phƣơng Ngũ Hoàng có đƣờng, ngõ xung động thì đại hung. Thoái phƣơng thì chủ hao tán tiền tài. Là Tử phƣơng thì ngƣời bị tổn thƣơng, nặng thì chết ngƣời. Ở Vƣợng phƣơng mà có Lục Sát lại gồm cả Lƣu niên Cửu Tử và Ngũ Hoàng phi đến, thì bị kiện tụng, hoả tai, thoái bại. Đây là Sinh Sát Xung Quan, chủ quản 20 năm, tức là Đại Lƣu Niên Pháp vậy. CHỦ VẬN LƢU NIÊN CỬU TINH GIA LÂM CÁT, HUNG QUYẾT. Sinh nhập Sát phƣơng khán tật bệnh Sát nhập Sinh phƣơng đoán Tử, Sinh


Tử thƣợng Sát lai, động điền sản. Tài lâm Sát, Thoái, tổn vật sinh Sát lâm Quan Sát, xuyên tâm hại! Sinh nhập Sinh phƣơng, xứ xứ hƣng. Nghĩa là: Sinh vào Sát phƣơng thì sinh tật bệnh. Sát vào Sinh phƣơng thì đoán có chuyện sống, chết. Sát lại trên phƣơng vị Tử thì động về chuyện ruộng vƣờn, đất đai, nhà cửa. Tài vào phƣơng Sát, THoái thì hao tổn súc vật. Sát tới phƣơng Quan Sát thì hại nhƣ dao đâm vào bụng (ám chỉ rất nguy hiểm). Sinh vào phƣơng Sinh thì mọi cái đều hƣng thịnh. Chỉ có sao Ngũ Hoàng là Chính Thần Sát, cả tám phƣơng, đến phƣơng nào cũng chỉ có sinh tai hoạ thôi. Lấy Chủ Vận Tinh và Lƣu Niên Tinh phi đi tám phƣơng mà đoán. Nhƣ Khảm cục thì lấy Khôn phƣơng làm phƣơng Sinh Khí, nếu trong Thƣợng Nguyên Giáp Tý 20 năm, lại đƣợc Thất Xích gia Khôn , tức là Sinh nhập Sinh phƣơng, các cái khác cũng theo thế mà tính. Sinh mà thấy Sinh thì tiến tài, tăng điền sản. Sinh thấy Sát thì tai hoạ về quan tụng, nhƣng có ngƣời tốt cứu. Sát thấy Sát thì bị hoả tai, tổn ngƣời, mọi sự đều bất lợi. Sát thấy Sinh thì đƣợc nửa tốt, nửa xấu, nửa năm trên thì lành, nửa năm dƣới thì hao tổn nhân đinh. Thoái thấy Thoái thì hoạ hại bệnh hoạn. Sinh thấy Thoái thì tổn lục súc và sinh khẩu thiệt, nhƣng sau gặp quý nhân. Lấy ở bản phƣơng có Sơn, Thuỵ, đạo lộ và Lục sự mà đoán xét Hung, Cát. NIÊN NGUYỆT CỬU TINH QUYẾT (dùng về tu phƣơng hƣớng) Thiên văn Cửu Tinh tuế tuế suy Địa lý Cửu Tinh vĩnh bất di Phi khứ tƣơng sinh , sinh quý tử Phi lại khắc Phục, thị hung kỳ Tam Bạch đáo Toạ chủ hoài thai Tử, Bạch lâm môn hỷ khí lai Hình, Hại, Không Vong, câu bất thực Sinh phù ƣng đắc quý nhân tài. Nghĩa là: Sao Lƣu Niên Cửu tinh phi ra thì lấy bản cục phƣơng làm chủ, sao phi đến làm khách. Khách (Phi) sinh Chủ (Phục) thì sinh quý tử. Khách khắc Chủ thì bị hung hoạ. Nhƣ Kiền phƣơng là Kim, Bát Bạch gia lâm là khách sinh chủ, Cửu Tử gia lâm là khách khắc chủ. Trong Cửu Tinh thì ba sao Bạch và sao Cửu Tử là Cát tinh, nhƣng không khắc bản phƣơng thì mới đoán là Cát. Còn Hình hại là gì? Nhƣ Nhất Bạch đáo Chấn, là Tý hình Mão, Nhất Bạch đáo Khôn là Tý hại Mùi, các loại khác cũng thế mà suy. Không Vong là thế nào? Lấy theo Thái Tuế bản giáp là phƣơng vị Không Vong. Tỵ nhƣ Giáp Tý 10 năm thì tại Tuất, Hợi là Không Vong; Giáp Tuất 10 năm thì tạiThân, Dậu là Không Vong; Giáp Thân 10 năm thì tại Ngọ, Mùi là Không Vong... Cát Tinh hay Hung Tinh mà đến cung Không Vong thì đều bị kềm hãm vô lực, dầu Tử, Bạch đến đấy cũng vô dụng. Nếu Tử, Bạch đến cung sinh phù thì là Cát. KHỞI NIÊN BẠCH QUYẾT Niên bạch Tam Nguyên, các bất đồng Thƣợng Nguyên Giáp Tý khởi Khảm cung. Trung Nguyên Tứ Lục, cung trung khởi Hạ Nguyên Thất Xích nghịch hành cung. Nghĩa là: Khởi Bạch tinh về niên mỗi vận đều khác. Nhƣ Thƣợng Nguyên năm Giáp Tý thì khởi ở cung Khảm Nhất Bạch. Trung Nguyên thì năm Giáp Tý khởi ở cung Tốn Tứ Lục. Hạ Nguyên năm Giáp Tý thì khởi ở cung Thất Xích Đoài, tất cả đều là đi nghịch. Mỗi một Giáp Tý thì đều nghịch hành Cửu tinh ở từng năm, nhƣng khi nhập trung cung rồi thì phi thuân. Nhƣ Thƣợng Nguyên năm Giáp Tý thì khởi ở cung Khảm là Nhất Bạch, năm Ất Sửu sẽ là cung Cửu Tử Ly, năm Bính Dần sẽ là Bát Bạch Cấn... Khi nhập trung cung thì năm Giáp Tý Nhất Bạch Khảm nhập trung, thuận phi, Nhị Hắc Khôn đến Càn, Tam Bích Chấn đến Đoài...; năm Ất Sửu thì Cửu Tử là Ly sẽ nhập trung cung, thuận phi, Nhất Bạch Khảm đến Càn, Nhị Hắc Khôn đến Đoài... Các vận khác cũng tính nhƣ thế, tuỳ sao của Vận đó khởi từ đâu mà tính tiếp cho các năm sau. Cách dễ nhớ nhất là tính ngƣợc:


Ví dụ: Thƣợng Nguyên Giáp Tý là Nhất, thì Giáp Tuất là Cửu, Giáp Thân là Bát, Giáp Ngọ là Thất, Giáp Thìn là Lục, Giáp Dần là Ngũ. Đến Trung Nguyên Giáp Tý là Tứ, Giáp Tuất là Tam, Giáp Thân là Nhị, Giáp Ngọ là Nhất, Giáp Thìn là Cửu, Giáp Dần là Bát. Đến Hạ Nguyên Giáp Tý là Thất, Giáp Tuất là Lục, Giáp Thân là Ngũ, Giáp Ngọ là Tứ, Giáp Thìn là Tam, Giáp Dần là Nhị. Các anh chị, các bạn cũng thấy, tất cả thành một vòng khép kín, từ Thƣợng Nguyên đến Trung Nguyên rồi Hạ Nguyên, tuy khởi cung khác nhau nhƣng khí vận xoay vần tuần tự nối tiếp nhau không chút sai lệch. Cách tính cách cung một tuần Giáp nhƣ thế này sẽ tiện cho chúng ta tìm những năm cách xa năm hiện tại. Tu tạo, khởi công làm thì Đại Kỳ kiến phƣơng của bản cục. Nghĩa là: Khảm cục thì lấy Nhất Bạch làm Kiến, nếu Nhất Bạch đáo phƣơng Khảm thì không nên làm. Lại kỳ Sát tinh của bản cục ở đấy. Nhƣ là Khảm cục kỳ Nhị Hắc và Bát Bạch gia đáo bản cung Khảm. Phạm Kiến thì thƣơng Trạch Trƣởng, phạm Sát thì chiêu hoành hoạ (tai hoạ đến bất kỳ). Lại Tam Bạch là Cát tinh đến đấy, dầu khắc bản phƣơng vẫn lấy là Tiểu Cát, còn Ngũ tinh khác thì chỉ lấy sinh bản phƣơng mới làm Cát, nếu không phải là Sinh thì đều là Hung. NGUYỆT BẠCH KHỞI CHÍNH NGUYỆT TINH QUYẾT Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu Bát Bạch cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi Ngũ Hoàng trung Dần, Thân, Tị, Hợi cƣ hà vị Nghịch tầm Nhị Hắc thị kỳ trung. Nghĩa là: Năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu thì tháng giêng khởi Bát Bạch. Năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì khởi Ngũ Hoàng. Năm Dần, Thân, Tị, Hợi thì khởi Nhị Hắc. Tất cả đều là nghịch hành theo các tháng, nhƣng cung vẫn đi thuận. Nhƣ năm nay là năm Sửu thì tháng giêng là Ngũ Hoàng, tháng hai là Tứ Lục, tháng ba là Tam Bích, tháng tƣ là Nhị Hắc... Rồi tháng giêng nhập trung cung là Ngũ, thì Lục đến Càn, Thất đến Đoài, Bát đến Cần... Tháng 8 là Thất Xích nhập trung cung, thì Bát Bạch đến Càn, Cửu Tử đến Đoài, Nhất Bạch đến Cấn... Các năm khác khởi tháng cũng y theo thế mà suy. Cái Cát, Hung của năm thì còn chậm, chứ cái Cát, Hung của tháng thì tới mau lắm. TAM NGUYÊN NHẬT BẠCH QUYẾT Đông Chí Nhất Bạch, Vũ Thuỷ Xích Cốc Vũ nguyên tòng Tứ Lục cầu Hạ Chí Cửu Tử, Xử Thử Bích Sƣơng Giáng tiên tòng Lục Bạch du Dƣơng tu thuận khứ, Âm hoàn nghịch Đãn cầu Lục Giáp vĩnh vô hƣu Nhƣợc phùng Tử, Bạch phƣơng vi Cát Hoạt pháp tu dƣơng, tử tế sƣu. Nghĩa là: Những ngày bắt đầu từ sau tiết Đông Chí thì lấy Giáp Tý khởi Nhất Bạch. Những ngày từ sau tiết Vũ Thuỵ thì lấy Giáp Tý khởi Thất Xích. Những ngày sau tiết Cốc Vũ thì lấy Giáp Tý khởi Tứ Lục. Những ngày sau tiết Hạ Chí thì lấy Cửu Tử cho ngày Giáp Tý. Những ngày sau tiết Xử Thử thỉ lấy Giáp Tý khởi Tam Bích. Những ngày sau tiết Sƣơng Giáng thì lấy Giáp Tý khởi Lục Bạch. Dƣơng thì theo chiều thuận, Âm phải theo chiều ngƣợc quay đi. Tìm đúng Lục Giáp thì lâu dài phát phƣớc không nghĩ. Ở trên mình chỉ in đâm có một hàng của tiết Đông Chí, chỉ là để nhấn mạnh với các anh chị, các bạn rằng: Đừng lầm tƣởng cứ ngày Giáp Tý sau Đông Chí đều là Nhất Bạch. Mà là khởi ngày Giáp Tý là Nhất Bạch. Nếu nhƣ ngày giao tiết Đông Chí đó mà ngay ngày Giáp Tý thì không có gì để bàn cãi, NHƢNG nếu nhƣ đó không phải ngày Giáp Tý thì tính cách nào? Ví dụ: Ngày giao tiết Đông Chí là ngày Canh Dần. Ta cứ khởi Giáp Tý là Nhất Bạch, do từ Đông Chí đến Hạ Chí là Dƣơng khí thịnh, nên thuộc Dƣơng, đi thuận. Giáp Tý là Nhất, Ất Sửu là Nhị, Bính Dần là Tam, Định Mẹo là Tứ...Giáp Tuất là Nhị...Giáp Thân là Tam, Ất Dậu là Tứ, Bính Tuất là Ngũ, Đinh Hợi là Lục, Mậu Tý là Thất, Kỵ Sửu là Bát, Canh Dần là Cửu. Vậy ngày giao tiết Đông Chí, ngày Canh Dần đó là sao Cửu Tử. Muốn động cung nơi nào thì đem Cửu Tử nhập trung, thuận phi đi.


Các tiết khí kia cũng y theo vậy mà tính. Các tiết Đông Chí, Vũ Thuỵ, Cốc Vũ là thuộc Dƣơng, đi thuận ngày, lẫn thuận cung khi nhập trung. Các tiết Hạ Chí, Xử Thử, Sƣơng Giáng thuộc Âm, đi nghịch ngày, nhƣng vào trung cung vẫn thuận. TAM NGUYÊN THỜI BẠCH QUYẾT Tam Nguyên thời bạch, nhật tƣơng đồng Dƣơng thuận, Âm nghịch nhập trung cung Đông Chí Nhất, Tứ, Thất dƣơng kỳ Hạ Chí Cửu, Lục, Tam thị tông. Nghĩa là: Khởi Bạch của giờ cũng nhƣ lệ khởi ngày, Dƣơng thì đi thuận giờ, Âm thì đi nghịch giờ và vào đến trung cung rồi đều thuận phi đi 8 phƣơng. Tiết Đông Chí thì nhớ là khởi Nhất Bạch, Tứ Lục và Thất Xích. Tiết Hạ Chí nhớ là khởi Cửu Tử, Lục Bạch và Tam Bích. Quá khó hiểu phải không các anh chị, các bạn. Đọc chẳng biết sau tiết Đông Chí khi nào dùng Nhất, khi nào dùng Tứ và khi nào dùng Thất cả. Thực ra cái này là phân theo nhóm ngày Mạnh, Trọng, Quý thôi. Các ngày Tý Ngọ Mẹo Dậu là nhóm thứ nhất, tƣơng ứng với sao thứ nhất trong cả hai tiết Đông Chí và Hạ Chí. Thìn Tuất Sửu Mùi là nhóm thứ hai, tƣơng ứng với sao thứ hai trong cả hai tiết Đông Chí và Hạ Chí. Dần Thân Tị Hợi là nhóm thứ ba, tƣơng ứng với sao thứ ba trong cả hai tiết Đông Chí và Hạ Chí. Nói đến đây, NCD chắc chắn rằng cũng còn một vài anh chị, bạn nào đó chƣa hiểu, ví dụ sẽ thấy ngay thôi. Ví dụ: Giờ Thìn của Ngày Thân sau tiết Đông Chí, nhƣng chƣa đến Hạ Chí. Ta thấy Thân trong nhóm thứ ba, vậy thì sao thứ ba trong tiết Đông Chí là gì? Nhất, đến Tứ, đến Thất. Vậy giở Tý của ngày đó sẽ khởi là sao Thất Xích, giờ Sửu là sao Bát Bạch, giờ Dần là sao Cửu Tử.... Giờ Thìn có sao Nhị Hắc nhập trung, thì Tam Bích đến Càn, Tứ Lục đến Đoài, Ngũ Hoàng đấn Cấn... Ví dụ: Giờ Ngọ ngày Mùi sau tiết Hạ Chí, trƣớc tiết Đông Chí. Ta thấy Mùi trong nhóm thứ hai Thìn Tuất Sửu Mùi, nên tƣơng ứng với sao thứ hai của tiết Hạ Chí, đó là sao Lục Bạch. Vậy giờ Tý ngày hôm đó là sao Lục Bạch quản trị, giờ Sửu là Ngũ Hoàng (nhớ nghen, đây là Âm nên đi nghịch), giờ Dần là Tứ Lục, giờ Mẹo là Tam Bích, giờ Thìn là Nhị Hắc, giờ Tị là Nhất Bạch, giờ Ngọ là Cửu Tử. Ta lấy giờ Ngọ Cửu tử nhập trung, THUẬN PHI, đi 8 phƣơng thì Nhất Bạch đến Càn, Nhị Hắc đến Đoài, Tam Bích đến Cấn... Còn một cách nữa là ta nhớ theo Thiên, Địa, Nhân Tam Nguyên Long của Huyền Không. "Thiên Nhất Cửu, Địa Tứ Lục, Nhân Thất Tam". Cứ ngày thuộc Thiên thì tiết Đông Chí lấy Nhất Bạch, tiết Hạ Chí lấy Cửu Tử. Ngày thuộc Địa thì tiết Đông Chí lấy Tứ Lục, tiết Hạ Chí lấy Lục Bạch. Ngày thuộc Nhân thì tiết Đông Chí lấy Thất Xích, tiết Hạ Chí lấy Tam Bích. Ta lại để ý, thứ tự các sao trong tiết Đông Chí là Nhất, đến Tứ, đến Thất là các số thuộc nhóm 1-4-7 y nhƣ Tam Ban Quái, lớn dần lên theo chiều thuận. Các sao trong tiết Hạ Chí là Cửu, Lục, Tam là các số thuộc nhóm 3-6-9 y nhƣ Tam ban Quái nhƣng nhỏ dần theo chiều nghịch đi xuống. Ta cứ lấy ba Địa Chi đầu tiên làm chuẩn mà tính sẽ dễ và lẹ rất lẹ: Ngay Tý cứ đọc Nhất Cửu, còn thuộc Đông Chí thì lấy số trên, Hạ Chí lấy số dƣới. Ngay Sửu thì cứ đọc Tứ Lục, thuộc Đông Chí lấy số trên, thuộc Hạ Chí thì lấy số dƣới. Ngay Dần thì đọc Thất Tam, thuộc Đông Chí thì lấy số trên, thuộc Hạ Chí thì lấy số dƣới. Còn nhóm đó chẳng qua là các nhóm Tứ Hành Xung mà NCD nghĩ chúng ta ai cũng biết rồi đó. Trên đây cả, năm, tháng, ngày, giờ chỉ có gặp các sao Tử, Bạch Sinh khí thì mới là Đại lợi. Tu tạo ở ba phƣơng Bạch thì không kỳ Thái Tuế, Tƣớng Quân, Quan Phù, Đại Hao, Tiểu Hao, hành niên bản mệnh đƣợc mọi điều Cát. Chỉ có Thiên Cƣơng Tứ Vƣợng, Sát Đại Nguyệt Kiến thì chẳng nên phạm. Cẩn thận! TỔNG LUẬN NIÊN, NGUYỆT BẠCH QUYẾT Bát Quái sơn đầu số yếu tinh. Chiêu nhiên dị kiến, lý nghi minh Ai niên, toán nguyệt, bình tai hoạ. Huyền huyền thấu lý, quỷ thần kinh.


Nghĩa là: Cái độ số của tám phƣơng thuộc về Tam Nguyên phi đến bản cục cốt phải tinh tƣờng, rõ rệt dễ thấy, lý luận phân minh. Phải tính tháng và năm của Nguyên Vận tinh phi đến. Tuy huyền bí cao siêu, nhƣng Lý Khí mà thấu đƣợc thì quỵ thần cũng kinh sợ. Những cái Sát khí gia thuỵ cục tất thị phát hung, nhƣ là Nhị Hắc gia Khảm cục vậy. Sinh Khí gia Mộc cục tất phát phƣớc, nhƣ là Nhất Bạch gia Tứ Tốn vậy. Trƣớc lấy Chủ Vận của Tam Nguyên gia đấy, thì sau định hai mƣơi năm Cát, Hung. Rồi lại theo năm và tháng , lấy quản trị tinh gia vào đấy, thì cái hạn Cát, Hung có thể quyết đoán đƣợc. Lại Tam Nguyên độ số đến bản cục, làm Ám Kiến, đối cung làm Ám Phá. Nhƣ Thƣợng Nguyên Giáp Tý, thì năm Bính Dần đáo Cấn, thì Cấn cục làm Ám Kiến, Khôn cục làm Ám Phá. Nguyên là Cát Địa, Mỷ Huyệt thì lay động Bản Long, vậy mọi sự đƣợc Cát Tƣờng. Nếu là đất Hung, Huyệt sai lầm thì mọi sự Đại Hung. Những Can Chi của Thái Tuế ở bản vị làm Minh Kiến, đối cung làm Minh Phá. Nhƣ năm Giáp Tý, Giáp ở cung Chấn làm Can Minh Kiến, Tý ở Khảm cung làm Chi MInh Kiến. Vậy thì Đoài làm Can Minh Phá, Ly làm Chi Minh Phá. Năm Mậu, Kỵ thì Can Kiến Phá đều ở Trung cung. Phạm vào Can Kiến, Phá thì hoạ, phƣớc giảm một nửa. Phạm vào Chi Kiến, Ph1 thì Đại Hung, không nên phạm. CỬU TINH KHẮC ỨNG QUYẾT Nhất Bạch tinh bản thuộc Thuỷ Chấn, Tốn tu tạo mỹ Khan khan Thất, Bát, Cửu nguyệt lai Giao tiến Nam phƣơng ngoại khí tài. Nhị Hắc tinh bản thuộc Thổ Kiền, Đoài phùng chi tu tạo mỹ Thả đãi Nhị, Bát nguyệt giao lai Tiến nhập Đông, Bắc, Tây phƣơng tài Tam Bích tinh bản thuộc Mộc Dƣ cung mạc tạo Tác Giáo quân Nam phƣơng dụng trƣớc thời Tây phƣơng hoá vật lục tuần chí (Tứ Lục tinh đồng). Ngũ Hoàng tinh trung Thổ tôn Tây Bắc chính tƣơng thân Thử tinh d6ãn khả tu Kiền, Đoài Thất, Bát, Cửu nguyệt ngoại tài lâm (Bát Bạch cánh Cát). Lục Bạch tinh nguyên thuộc Kim Khảm sơn dụng chi phƣớc dĩ thâm Đãn giao Tứ, Lục, Thất, Bát nguyệt Đông Nam hỷ chí, lạc hân hân (Thất Xích tinh đồng). Cửu Tử bản thuộc Hoả Khôn, Cấn nhị phƣơng tu tạo khả Trực đãi Dần, Tị, Ngọ nguyệt niên Bắc phƣơng tài sản lai, phi toả. Nghĩa là: Sao Nhất Bạch vốn thuộc Thuỵ, về phƣơng Chấn và phƣơng Tốn tu tạo (đặt táng hay làm nhà) thì tốt đẹp. Xem thấy tháng 7, tháng 8, tháng 9 liền lại, thì có ngoại tài ở phƣơng Nam tiến tới. Sao Nhị Hắc vốn thuộc Thổ, về phƣơng Đoài và phƣơng Kiền, gặp đƣợc lúc tu tạo thì tốt, và đợi đến tháng 2 và tháng 8 khí giao lai, thì có của ở phƣơng Đông Bắc và phƣơng Tây tiến đến. Sao Tam Bích vốn thuộc Mộc, các cung khác không nên tạo tác. Chỉ có phƣơng Nam mà dụng làm thì có của cải ở phƣơng Tây đƣa đến, chỉ 60 ngày là đƣa đến => Mau phát. (Sao Tứ Lục cũng nhƣ sao này).


Sao Ngũ Hoàng thuộc Thổ, là sao tôn trọng ở Trung cung, phƣơng Tây Bắc chính là tƣơng thân. Sao này chỉ nên tu tạo ở hai phƣơng Kiền và Đoài, các tháng 7, 8, 9 thì có ngoại tài đến (sao Bát Bạch gặp cũng tốt lành). Sao Lục Bạch nguyên thuộc Kim, phƣơng Khảm mà gặp đƣợc, tạo tác thì phƣớc càng lâu bền, to dầy. Nhƣng đợi tháng 4, 6, 7 giao khí đến, thì có vui mừng ở phƣơng Đông Nam đến (sao Thất Xích cũng nhƣ sao này). Sao Cửu Tử vốn thuộc Hoả, gặp hai phƣơng Khôn và Cấn thì nên tu tạo. Đợi đến tháng hoặc năm Dần, Tị, Ngọ thì tốt, sẽ có tài sản ở phƣơng Bắc đem đến, chẳng phải khoá cửa. THÁI TUẾ SƠN ĐẦU BẠCH TINH QUYẾT Tý niên Nhất Bạch nhập Trung cung. Ngọ tái tƣơng phùng Cửu Tử đồng. Mẹo tuế Trung cung Tam Bích hội. Dậu niên Thất Xích thị tinh tông. Mùi, Thân nhị niên câu Nhị Hắc Thìn, Tị hồi lai Tứ Lục trung. Tuất, Hợi Trung cung khởi Lục Bạch. Sửu, Dần Bát Bạch chính tƣơng phùng. Bạch đáo sơn đầu nghi tác dụng Âm phần, lập Trạch, tử tôn vinh. Bạch trung hữu sát nghi hồi tị. Phạm giả tu giao lập kiến hung. Nghĩa là: Năm Tý thì sao Nhất Bạch nhập Trung. Năm Ngọ thì sao Cửu Tử nhập Trung. Năm Mẹo thì sao Tam Bích nhập Trung. Năm Dậu thì sao Thất Xích nhập Trung. Năm Mùi và năm Thân thì lấy sao Nhị Hắc nhập Trung. Năm Thìn và năm Tị thì lấy sao Tứ Lục nhập Trung. Năm Tuất và năm Hợi thì khởi sao Lục Bạch nhập trung. Năm Sửu và năm Dần thì sao Bát Bạch nhập Trung. Những sao Bạch đến cung Tọa, Hƣớng thì nên làm nhà, hay làm mộ phần thì con cháu đƣợc hiển vinh. Ở trong phƣơng mà sao Bạch phi đến lại bị Sát thì nên tránh đi không dùng, nếu phạm vào thì lập tức thấy ngay cái Hung. Trên đây là 12 năm, năm nào lấy sao gì nhập Trung cung để phi ra Bát phƣơng. Tìm 3 sao Bạch đến phƣơng nào thì phƣơng ấy tốt, nên tu tạo. Nhƣng bị Sơn sát thì tránh không nên làm. Ví dụ nhƣ năm Tý, ta lấy Nhất Bạch nhập Trung cung, thì Tứ Lục đến Cấn, là Mộc khắc Thổ, nếu làm tại Cấn Sơn, Phƣơng (Động Thổ, Tu Tạo) thì 4 ngƣời bị thƣơng. Phạm Nhất Bạch sát thì bị thƣơng 1 ngƣời, phạm sao Nhị Hắc sát thì bị thƣơng 2 ngƣời... Lấy số của sao mà suy đoán. Cốt là biết ứng vào thời điểm nào. Nhƣ sao Tứ Lục thì có thể là 40 ngày, là 4 tháng; xa thì lấy năm Thìn, năm Tị hoặc năm tƣơng xung là năm Tuất, năm Hợi sẽ ứng.. Cần biết là ngƣời nào bị tổn thƣơng, thì lấy Địa Chi ở phƣơng phạm ấy, ứng vào đó. Nhƣ Cấn phƣơng là Sửu, Dần thì ứng vào ngƣời tuổi Sửu, tuổi Dần... Phép đoán tháng cũng cùng nhƣ năm. Nhƣ năm Dần lấy Bát Bạch nhập Trung. Bạch trung sát giả, là Ám Kiến Sát, Lục Tiệp Sát, Xuyên Tâm Sát, Đấu Ngƣu Sát, Giao Kiếm Sát, Thụ Khắc Sát, những phƣơng phạm Sát đều chẳng nên phạm. Nhất Bạch đáo Ly phi vi Cát. Nhị Hắc hoàn phùng Khảm thƣợng hung. Tam Bích, Tứ Lục_ Khôn, Cấn phạm. Ngũ Hoàng, Bát Bạch_ Khảm, Trung hung. Lạu Bạch, Thất Xích_ Chấn, Tốn kỵ. Cửu Tử tƣơng hình Kiền, Đoài trung. Bạch trung hữu Sát thiểu nhân tri. Đa, thiếu thời sƣ hội bất thông Đãn đáo Mộc Bạch vi Sinh Khí, Hắc, Hoàng, Bích, Lục, Xích hà Hung. Nghĩa là: Sao Nhất Bạch phi đáo cung Ly thì không phải là Cát. Nhị Hắc gặp đến phƣơng Khảm thì Hung. Tam Bích, Tứ Lục mà đến hai phƣơng Khôn, Cấn thời Hung. Ngũ Hoàng, Bát Bạch đến cung Khảm là Hung. Lục Bạch, Thất Xích đến hai phƣơng Chấn Tốn thì kỳ. Cửu Tử đến hai phƣơng Kiền, Đoài thì hình hung. Ở trong phƣơng Bạch bị Sát ít có ngƣời biết, phần nhiều là các ngƣời làm thầy lúc còn ít tuổi không biết đƣợc thông đạt cái lý này. Nhƣng đáo cung Mộc thì Nhất Bạch là


Sinh Khí; Nhị Hắc, Ngũ Hoàng, đáo cung Kiền, Đoài hay Tam Bích Mộc đến đến cung Tốn cũng là Mộc thì đâu phải là Hung? Nhất định kỳ Sát Khí nhập Trung. Nhƣ Khảm sơn kỷ Nhị Hắc, Bát Bạch nhập trung, thì Đại kỳ tu tạo. Nhất định kỳ Sát tinh đáo phƣơng. Nhƣ là Cửu Tử phi đáo Kiền, Đoài phƣơng cũng kỳ tu tạo cả, nếu phạm thì bị phi tai hoàng họa, nhƣ là hỏa tai, đạo tặc, kiện tụng, tù ngục, ôn hoàng, dịch lệ, Đại hung. Cả Tam Nguyên và năm tháng ngày giờ, Bạch tinh cùng kỳ nhƣ nhau. Tý niên Kiền, Khảm, Chấn phƣơng khai. Sửu, Dần, Trung, Đoài, Cấn, Ly lai. Mão niên, Khôn, Cấn, Chấn, Tốn cát. Thìn, Tị, Ly, Khôn, Chấn, Đoài tài. Ngọ, Khôn, Kiền, Tốn, Ly, Trung, Đoài. Mùi, Thân, Khôn, Khảm, Tốn, Trung, Ly. Duy hữu Dậu niền Kiền, Cấn cát. Tuất, Hợi thủ cung Cấn, Đoài suy. Hoàn hữu Chấn, Kiền vi tiểu lợi. Phân minh chỉ dẫn hậu nhân tài. Bài này tức là lấy Bát Bạch đáo sơn đầu, định cục tốt. Nhƣ là năm Tý thì lấy Nhất Bạch nhập Trung, phi tá thì Nhị Hắc gia Kiền là Sinh Khí, Lục Bạch gia Khảm là Sinh Khí, Bát Bạch gia Chấn là Cát Khí, nên mới bảo rằng Kiền, Khảm, Chấn phƣơng khai. Nhƣ năm Sửu, Dần thì lấy Bát Bạch nhập Trung, thì Trung Cung là tốt rồi, Nhất Bạch đáo Đoài là Sinh Khí, Nhị Hắc đáo Cấn là Cát Khí, Tam Bích đáo Ly là Sinh Khí, nên mới bảo rằng Sửu, Dần_ Trung, Đoài, Cấn, Ly lai là thế. Các năm khác cũng theo đó mà suy. ***Theo NCd mình nhận thấy trong yếu quyết trên có phần lẫn lộn, có thể do sách in sai: Vì nhƣ năm Tý thì khi Bát Bạch đến Chấn là Cung khắc Tinh không thể là Cát, năm Sửu, Năm Dần khi Nhất Bạch đến Đoài là Cung sinh Tinh cũng chẳng thể là Cát. NIÊN ĐẦU CỬU TINH QUYẾT Thập nhị niên đầu phân chính vị Tổng lĩnh vạn vật chủ cùng, thông Thế nhân bất tín chiêu hung cữu Tôn thử, tƣơng vi tế thế công. Nghĩa là: Mƣời hai năm phân ra chính vị của sao đứng đầu. Tóm lãnh cả muôn vật hay và dỡ. Ngƣời đời không biết thì bị tai họa mãi. Biết cái ấy mà tôn trọng, đem ra làm thì có công tế thế khắp cả thế gian. Nói sát nghĩa nghe thì có vẻ khó hiểu, nhƣng thực ra ý đoạn văn trên muốn nói trong Cửu Tinh, thì mỗi năm sẽ có 1 Cát Tinh hay Hung Tinh làm chủ trị của năm đó. Cụ thể là: Năm Tý thì sao Tham Lang. Năm Sửu, năm Hợi thì sao Cự Môn. Năm Dần, năm Tuất thì sao Lộc Tồn. Năm Mẹo, năm Dậu thì sao Văn Khúc. Năm Thìn, năm Thân thì aso Liêm Trinh. Năm Tị, năm Mùi thì sao Vũ Khúc. Năm Ngọ thì sao Phá Quân. Mỗi năm lấy sao Chủ trị của năm đó nhập vào Trung Cung, thuận hành tìm Tứ Cát tinh đáo phƣơng thì Đại Lợi. Ngoài ra, mỗi năm có 1 sao làm Đế Tinh, nếu phƣơng vị ta định làm mà đƣợc ngay Đế Tinh đó đến thì Cát Lợi vô cùng. Cụ thể là: Năm Thân, Tý, Thìn thì sao Tham Lang làm Đế Tinh. Năm Dần, Ngọ, Tuất thì sao Cự Môn làm Đế Tinh. Năm Tị, Dậu, Sửu thì sao Phá Quân làm Đế Tinh. Năm Hợi, Mẹo, Mùi thì sao Lộc Tồn làm Đế Tinh. Tứ Đế Tinh đáo Sơn, Phƣơng thì lợi tạo táng, đáo phƣơng nào thì lợi việc tu phƣơng ở nới nơi ấy. Qua đây, ta mới thấy rõ: Không phải chỉ có Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc là Tam Cát Tinh, mà tùy thời tùy lúc mà Hung Tinh cũng trở thành Cát. Xem phải tƣờng, biết phải tận là vậy. NIÊN ĐẦU TAM CÁT QUYẾT Tý niên Chấn, Đoài, Tốn sơn khai Sửu, Dần_ Cấn, Đoài, Tốn, Trung tài.


Mẹo tuế Kiền, Ly, Khôn vi Thổ Thìn, Tị_ Đoài, Chấn, Cấn kham tài. Ngọ niên cánh hữu Tốn, Cấn, Đoài. Mùi, Thân_ Khôn, Khảm, Kiền thƣợng lai. Dậu tuế Ly, Kiền, Khảm thƣợng đối. Tuất, Hợi_ Khảm, Khôn, Ly diệc khai. Nghĩa là: Theo phép lấy Thái Tuế đối quái làm chủ, theo Thiên Định Quái phiên Cửu tinh, lấy ba phƣơng Cát làm Khai. Nhƣ năm Tý thì Tý thuộc Khảm, đối quái là Ly. Theo Thiên Định Quái đối Ly là Chấn, thì lấy Chấn khởi Tham Lang phi đi, Đoài là Cự Môn, Tốn là Vũ Khúc, ba Cát Tinh tới ba phƣơng ấy, nên mới bảo " Tý niên Chấn, Đoài, Tốn sơn khai" là thề. Trong năm Tý nếu ba phƣơng ấy mà tu phƣơng và tạo táng thì đắc lơi. Các năm khác cũng theo cách này mà suy ra vậy. DƢƠNG TRẠCH QUYẾT Bàn cổ thủ khai, Thiên dữ Địa Phục Hy hoạch quái, đồ dĩ bị Hiên Viên thủ sáng lập cung thất Trụ cơ phong thủy, kham bằng dƣ. Truyền cập Tấn triều Quách Cảnh Thuần Tạo trạch, doanh Phần tri xu, tị Ƣ kim phù hợp, quỷ thần cơ Tử Bạch tinh thần, suy cao nghệ Tiên tu chƣởng thƣởng thƣợng bãi Cửu Cung. Nghĩa là: Từ thuở đầu tiên, đời Bàn Cổ mở ra Trời và Đất. Đến Phục Hy đã vạch ra đủ quái đồ. Đến đời Hiên Viên mới bắt đầu sáng lập cung điện, cung thất. Lấy Quái đồ ấy làm trụ cốt của phong thủy, để làm bằng cứ. Tuyền tới Quách Cảnh Thuần đời nhà Tấn. Tạo tác nhà cửa, phần mộ, biết lấy đó mà xu Cát, tị Hung. Đến đời nay, cho đó là phù hợp Huyền cơ của Quỵ Thần. So sánh các Tinh Thần, thì Tử Bạch là cao nghệ, nên trƣớc hết bày ra Cửu Cung. Đoạn văn trên chỉ tóm lƣợc khởi nguyên của Phong Thủy, và qua đó nhấn mạnh đến Tứ Cát Tinh trong Phong Thủy cần nên tận dụng nó trong Cửu tinh. Xét kỷ xem phƣơng nào khởi phong, phƣơng nào gần Thủy để định Quái cục. Sau đó lấy Quái tinh nhập Trung cung, thuận phi ra tám phƣơng để luận Cát Hung. Trƣớc lấy Sinh Khí, Sát Khí.... xem Sa, Thủy ở cục ngoài. Rồi lấy Sát Khí, Sinh Khí... phân ra từng khoảng của bố cục trong nhà. Xem mọi cái Sinh Khí, Sát Khí... thấy ở trên phƣơng nào. Những phƣơng mà rtrên đó thấy Sinh Khí, Vƣợng Khí thì tốt, nhƣng không phải là Hình, Hại với Bản phƣơng thì mới là toàn mỷ. Cái khí Tử, Sát với Bản phƣơng hình khắc nhau thì hung họa, cần tránh. Lại lấy phƣơng trƣờng Sinh, Đế Vƣợng của bản cục làm phƣơng Hữu Khí; phƣơng Tử, Bệnh, Mộ, Tuyệt làm phƣơng Vô Khí. Nội, ngoại cục đều cần luận cả. Thứ tƣơng Thái Tuế lâm phƣơng vị Tài vấn kỳ gia tạo tác niên Thứ độ khai ngôn, vô sai dị. Nghĩa là: Lần lƣợt đem Thái Tuế tới phƣơng vị, rồi mới hỏi đến năm tuổi của nhà tạo tác đó, cứ thứ tự ấy mà khai ngôn thì mới không bỏ sót, và đừng làm sai khác. Xem Dƣơng Trạch những năm nào hƣng, phế thì lấy ngay bản niên Giáp Tý khởi xử, để tra tìm Trị niên tinh nhập trung, thuận hành bát phƣơng, trƣớc xem ở trên bản cục đƣợc Tinh gì, là Sinh, là Khắc so với bản cung để đoán Cát, Hung một nhà. Thứ xem các phƣơng, Tinh nào Sinh, Tinh nào khắc, để đoán các phòng Hung, Cát. Nhƣ Nhất Bạch gia Tốn, là Sinh Khí thì Tốn cục, Tốn phƣơng Cát; Nhị Hắc gia Khảm, thì Khảm cục, Khảm phƣơng Hung. Bản cục tinh làm Thống lâm, bản phƣơng Tinh làm Chuyên lâm. Thống lâm Cát mà Chuyên lâm Hung thì bản phòng chẳng khỏi Hung. Thống lâm Hung mà Chuyên lâm Cát, thì bán phòng không bị mất Cát. Nếu cùng đều là Hung thì rất Hung, cùng là Cát thì rất là lành. Lại xem Đại tƣợng cả 10 năm, đƣơng lấy Quản Giáp Tinh nhập trung, thuận hành bát cục, để tra cái Sinh, cái Sát mà đoán Cát, Hung. Quản Giáp Tinh nhƣ Thƣợng Nguyên Giáp Tý là Nhất Bạch, thì Giáp Tuất là Cửu Tử, vậy lấy Cửu Tử làm Quản Giáp Tinh cả 10 năm của tuần Giáp Tuất. Tức là trong 10 năm đó Cửu Tử làm Quản


Giáp Tinh Thống lâm. Thái Tuế Tinh sẽ là Chuyên lâm. Thống lâm Cát đến Chuyên lâm Cát thì phát đại phƣớc. Thống lâm Hung đến Chuyên lâm Hung nữa thì tai họa đến. Xem Dƣơng Trạch lại phải hỏi xem tạo tác về thời nào? thuộc Nguyên nào? Làm chủ Nguyên là Tinh gì? Và hỏi chủ nhân tuổi mệnh gì? thì sự hƣng hoặc phế có thể biết đƣợc. Nhƣ Thƣợng Nguyên 60 năm thì 20 năm đầu Nhất Bạch làm chủ Vận, 20 năm kế Nhị Hắc làm chủ Vận, 20 năm cuối Tam Bích làm chủ Vận. Nhƣ Nhất Bạch làm chủ Vận thì Khảm, Chấn, Tốn ba cục đƣợc Sinh Khí là Đại Cát; Kiền, Đoài, Khôn, Cấn cục là Tử, Thoái khí; Ly cục là Sát khí. Đều ở trong 20 năm ấy mà Hung, Cát bất đồng vậy. Đến khi Nhị Hắc làm chủ Vận thì 4 cục Kiền, Đoài, Cấn, Khôn trƣớc Hung nay lại biến thành Sinh, Vƣợng khí thành Cát; Khảm cục lại biến thành Sát khí mà Hung. Đây là một nhà mà lại có cái hay, dỡ khác nhau. Vậy cái nhà tạo tác ở bản Nguyên Giáp Tý, trong bản Nguyên tuy có cái bất Cát, chƣa đến Đại Hung, đến sau ra Nguyên khác quản trị, mà bị Tử, Sát khí thì sự hung bại không thể cứu đƣợc. Lại lấy chủ Vận tinh nhập Trung cung, thuận hành, xem trên bản cục đƣợc Tinh gì, để biết rõ Cát, Hung. Nếu đƣợc bản Vận là Sinh, Vƣợng Khí mà gia lâm chỗ bất Cát, thì trong cái Cát có cái Hung. Bản vận là Sát, Tử khí mà gia lâm lai sinh thì còn có phƣớc nhỏ. Nhƣ Khảm cục ở trong Vận của Nhị Hắc, thì phƣơng Khảm bất Cát. Nhƣng lấy Nhị Hắc nhập trung đƣợc Thất Xích gia Khảm, là Kim sinh Thủy, làm Sinh khí thì Cát. Lại xem cái tuổi mệnh của chủ nhân nạp âm, mà đƣợc cái Sinh, Vƣợng khí của bản vận thì Cát, bị là Tử, Sát khí thì Hung. Đƣợc cả Mệnh và nhà ở đều Cát thì phƣớc to lắm, nếu đều là Hung thì đại bại. Chu, Huyền, Thanh, Bạch tứ thú thần Tƣờng sát tả, hữu, tiền, hậu trụ Tam Bạch, Cửu Tử lệ phi đồng Tƣơng hợp, tƣơng sinh, quân tu ký Đãn năng thừa thử Cát cung hành Phân phòng động tác giai vi tá Hắc, Hoàng, Bích, Lục tuy vận Hung Nhƣợc phòng Sinh khí Cát vô cùng Hoặc ngộ Thoái Sát, hà tu thử Đãn tri Vƣợng vị chủ phú vinh Nghĩa là: Chu Tƣớc, Huyền Vũ, Thanh Long, Bạch Hổ là tứ thú thần. Vậy phải xem rõ, bên tả, bên hữu, đằng trƣớc, đằng sau nhƣ là Tứ Trụ vậy. Ba phƣơng vị Bạch tinh và Cửu Tử tinh thể lệ không đồng nhau. Những cái tƣơng sinh, tƣơng hợp phải nên nhớ rõ. Chỉ hay thừa đƣợc cái ấy mà đi đến Cung Cát. Phân ra từng phòng để tu tạo thì đều giúp sức cả. Nhị Hắc, Ngũ Hoàng, Tam Bích, Tứ Lục tuy nói rằng Hung. Nhƣng gặp đƣợc Sinh khí thì lại tốt vô cùng. Gặp Thoái, Sát khí thì chẳng nên lấy. Nhƣng gặp đƣợc Trị Tinh là Vƣợng vị thì giàu có vinh hoa. Dƣơng Trạch phân phòng thì lấy Bản cục tinh nhập trung, thuận phi để xem Sát khí, Sinh khí ở từng phƣơng một mà đoán Cát, Hung riêng từng phòng. Nhƣng ở bản phƣơng cũng tự có chia ra từng phần vị Sinh, Vƣợng, Tử, Thoái Cát, Hung khác nhau. Phi đáo mà khắc bản vị là Sát, bản vị mà khắc phi đáo là Tử, phi sinh bản vị là Sinh, bản vị sinh phi là Thoái, tƣơng tỵ với nhau là Vƣợng. Hợp với cái Sinh, Vƣợng ở Trung cung, mà bạn vị lại tự là Sinh, Vƣợng, chẳng phải tƣơng hình, tƣơng hại thì Đại Cát. Hợp với Sinh, Vƣợng ở Trung cung, mà bản phƣơng lại là Thoái, Sát thì Cát, Hung tƣơng bán (tuy nói thế nhƣng kinh nghiệm NCD thấy thì kiểu này về lâu về dài thì thoái bại). Không đƣợc cái Sinh, Vƣợng của Trung cung, mà bản phƣơng tự là Sinh, Vƣợng, chẳng tƣơng hình, tƣơng xung thì lại là Cát. Nếu nhƣ thế cốt Trợ khởi bản phƣơng, mỗi phƣơng thì lấy cái giƣờng nằm trong phòng ấy làm chủ, định cái cục ấy để luận Sinh, Khắc; lại lấy Phòng sàng tinh (sao chủ của phòng đặt giƣờng) nhập trung, thuận phi ra các cửa, ngõ, bếp, phòng xí...vv.. chọn lấy cái Sinh, Vƣợng, tránh cái Quan Sát, rất kỳ là Cửa buồng với Cửa Bếp xung nhau, nếu có xung khắc thì nên đổi một đi. Định cục luận phƣơng đều có cái tốt, cái xấu, cái Sinh, cái Khắc, đại để đƣợc nhiều cái Cát thì tốt lành, nhiều cái Hung thì Hung hại, không nên lấy. NCD


PHONG THỦY LUẬN . BÀI 10. PHONG THỦY LUẬN .

PHẦN 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG. ( Tiếp theo ).

MỘT SỐ QUY TẮC CỦA CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG. 1/ BÀN VỀ ĐỊA VẬN VÀ NHẬP TÙ.

Trong 216 bảng sắp xếp sao để lập quẻ, mỗi bảng đều ghi thời gian dài ngắn của Địa vận.Thời gian địa vận này được xác định nghư thế nào ? Người ta quan niệm : độ dài ngắn của Địa vận là do mối quan hệ giữa Sao ở trung cung và sao Hướng quyết định . Trong 24 Sơn và Hướng , mỗi cặp sao Sơn và Hướng đều có quan hệ giữa sao nhập trung cung và sao Hướng riêng biệt.

Vào ngục: cũng có thể nói là khí vận hành tận. Nếu một ai đó phạm pháp phải vào tù, thì không thể nói đến chuyện ngƣời đó có thể làm đƣợc gì, bởi họ đã bị khống chế trong một không gian cố định. Đinh tinh vào ngụ, nhân đinh không vƣợng. Hƣớng tinh vào ngục, tức là một loạt các tai hoạ sẽ xảy ra, chủ nhà phá sản, chết chóc thƣơng tâm. Nếu vận vào ngục, thì thƣờng nhìn thấy những ngƣời trong gia đình phải chết. Đối với thế cục mà song tinh hội hƣớng, dựa vào hƣớng phi tinh di chuyển tới vận của toạ sơn là thời điểm phải vào tù. Ví dụ : Sơn T{ - Hướng Ngọ : tại vận 1, sao Nhất bạch thủy nhập trung cung , sao Hướng là Ngũ Hoàng , trong đó các vận 1,2,3,4 cứ mỗi vận 20 năm, tổng cộng là 80 năm. Tứ đó về sau : Bất cứ sao nào nhập trung cung , địa vận đều là 80 năm. Các địa vận : *Sơn T{ - Hướng Ngọ - Địa vận 80 năm. * Sơn Qu{ - Hướng Đinh - Địa vận 80 năm.


* Sơn Nhâm - Hướng Bính - Địa vận 80 năm. * Sơn Ngọ - Hướng Tý - Địa vận 100 năm. Sơn Đinh - Hướng Quý - Địa vận 100 năm. * Sơn Bính - Hướng Nhânm - Địa vận 100 năm. * Sơn Càn - Hướng Tốn - Địa vận 160 năm. * Sơn Hợi - Hướng Tỵ - Địa vận 160 năm. * Sơn Tuất - Hướng Thìn - Địa vận 160 năm. * Sơn Tốn - Hướng Càn - Địa vận 20 năm. * Sơn Tỵ - Hướng Hợi - Địa vận 20 năm. * Sơn Thìn - Hướng Tuất - Địa vận 20 năm. * Sơn Dậu - Hướng Mão - Địa vận 20 năm. * Sơn Tân - Hướng Ất - Địa vận 140 năm. * Sơn Canh - Hướng Giáp - Địa vận 140 năm. * Sơn Mão - Hướng Dậu - Địa vận 40 năm. * Sơn Ất - Hướng Tân - Địa vận 40 năm. * Sơn Giáp - Hướng Canh - Địa vận 40 năm. * Sơn Khôn - Hướng Cấn - Địa vận 60 năm. * Sơn Thân - Hướng Dần - Địa vận 60 năm. * Sơn Mùi - Hướng Sửu - Địa vận 60 năm. * Sơn Cấn - Hướng Khôn - Địa vận 120 năm. * Sơn Dần - Hướng Thân - Địa vận 120 năm. * Sơn Sửu - Hướng Mùi - Địa vận 120 năm. Như vậy ta thấy rằng, khi phân kim điểm hướng, bất kể các hướng tốt như Vượng Sơn - Vượng Hướng, Toàn cục hợp Thập hay các hướng xấu như thượng sơn - Hạ Thủy thì các tính chất tốt xấu chỉ nằm trong thời gian của Địa vận . Vượt quá thời gian của Địa vận thì Hướng tinh sẽ nhập trung cung và nó sẽ bị mất tác dụng. Ví dụ : Nhà lập sơn T{ - Hướng Ngọ vận 1. Hướng tinh của nó là Ngũ Hoàng. Đến vận 5, Ngũ Hoàng nhập trung cung, lúc đó hướng mà nó xác lập ban đầu không còn { nghĩa nữa. Hiện tượng này gọi là " Vô khả hướng " - Nghĩa là không còn hướng nào có thể chọn làm hướng được nữa. Hiện tượng này còn gọi là " Hướng tinh nhập tù" . Nhà mà hướng tinh nhập tù thi cả Đinh ( người ) và tài đều suy, khó cứu vãn nổi. Chỉ có một trường hợp nhập tù mà nếu môi trường bên ngoãi tốt đẹp thì tuy nhập tù không bị suy bại. Ví dụ : Nếu trên phương để lập hướng có sông , hồ lớn, hoặc lối đi trước cửa rông thênh thang, luốn lượn có tình thì nhập tù cũng không hãm nổi. Còn có trường hợp là Hướng vượng được xác lập khi vận 5 , Ngũ


Hoàng nhập trung cung . Hướng này tất yếu Ngũ Hoàng là hướng tinh của hướng đó. Bởi vì Ngũ Hoàng Thổ thuộc trung ương , uy nghiêm, cao nhất nên không xem là nhập tù. Trường hợp này chỉ có tại vận 5 với 12 sơn - Hướng sau " Vận 5. * Sơn T{- Hướng Ngọ. * Sơn Qu{ - Hướng Đinh. * Sơn - Ngọ - Hướng Tý. * Sơn Đinh - Hướng Quý. * Sơn Tuất - Hướng Thì, * Sơn Thìn - Hướng Tuất. * Sơn Sửu - Hướng Mùi. * Sơn Mùi - Hướng Sửu. * Sơn Mão - Hướng Dậu. * Sơn Dậu - Hướng Mão. * Sơn Ất - Hướng Tân. * Sơn Tân - Hướng Ất. Tất cả các sơn hướng trên tại vận 5 đều có hướng tinh là Ngũ Hoàng. Các địa vận thời gian dài nhất là 160 năm, ngắn nhất là 20 năm. Tổng hợp lại 160 + 20 = 180 năm gọi là Địa vận Tam nguyên nhỏ. Nếu địa mạch kéo dài liên miên , khí thế bao la hùng vĩ , trong 8 phương có 2 cung thành môn , tả hữu đầy đủ , lại là toàn cục hợp thập thì Địa vận có thể kéo dài 540 năm hoặc 1080 năm. Thông thường nhà chỉ cần địa vận tốt , vượng trong khoảng 100 năm là đủ. Tuy nhiên nếu là mồ mả thì phải cần địa vận có thời gian dài hơn. Để có thể kéo dài Địa vận lên tới 1080 năm như trường hợp Long mạch mộ Tổ Vũ Hồn của dòng họ Võ - Vũ Việt Nam , cần hội tụ rất nhiều điều kiện. Đây cũng chính là nguyên nhân dienbatn hay làm các mộ có hình bát quái hoặc tròn kết hợp với Trận đồ bát quái . Việc này dienbatn sẽ giải thích rõ ràng ở phần Phong thủy Huyền môn .

2/ BÀN VỀ 2 CUNG THÀNH MÔN. a/ Phương pháp thành môn là phép phụ trợ cho việc tọa Sơn lập Hướng.

Quẻ Thành môn có 2 loại : Thành môn chính và Thành môn phụ.

Về lý Khí , Thành môn chính hỗ trợ cho chính hướng 60 % Khí. Thành môn phụ hỗ trợ cho chính hướng 40 % Khí.


Dựa vào Lạc thư, khi biết hướng nhà thì 2 quẻ 2 bên hướng là quẻ Thành môn. Thành môn chính là quẻ kết hợp được với số của Hướng sẽ phù hợp tạo thành hành.

VÍ DỤ : Hướng số 1. 1 Thủy, 6 Kim . Kim sinh Thủy nên cung 6 là quẻ Thành môn chính. 1 Thủy , 8 Thổ . Thổ khắc Thủy nên cung 8 là quẻ Thành môn phụ. Dựa theo nguyên vận khác nhau để xây dựng nhà ở , tọa Sơn lập Hướng là phải tìm được " Vượng Sơn Vượng Hướng " , làm cho gia nghiệp thịnh vượng . Nếu lập được " Vượng Sơn - Vượng Hướng " , sẽ co được một loại vượng Khí phụ trợ , giúp đỡ thêm thì đã vượng lại càng thêm vượng. Nếu nhà lập được không phải " Vượng Sơn - Vượng Hướng " , nhưng được Khí của 2 bên hướng trợ giúp , thì dù hướng không đẹp vẫn có thể phát đạt, giống như đang khó khăn nhận được sự giúp đỡ. . Sức mạnh phụ trợ này chính là tìm được vượng Khí của thành môn bằng phương pháp Thành môn. b/ Vượng Khí của Thành môn đến từ phương nào ? Vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ của 2 bên hướng . * Lập hướng Ly , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Khôn và quẻ Tốn. *Lập hướng Khảm , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Càn và quẻ Cấn . * Lập hướng Đoài , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Càn và quẻ Khôn. * Lập hướng Chấn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Cấn và quẻ Tốn. * Lập hướng Cấn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Chấn và quẻ Khảm. * Lập hướng Khôn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Ly và quẻ Đoài. * Lập hướng Càn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Khảm và quẻ Đoài. * Lập hướng Tốn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Chấn và quẻ Ly. Bát quái có tất cả 24 Sơn, Hướng , mỗi quẻ có 3 hướng , mỗi hướng phải chọn 2 bên nó làm Thành môn . Lập Hướng theo Nguyên long nào thì quẻ Thành môn phải chọn 2 bên thuộc nguyên long đó .


Ví dụ : Lập Hướng thuộc Thiên nguyên long thì phải chọn 2 bên Thiên nguyên long đó làm Thành môn. Có như vậy mới giữ được " Khí thuần cùng nguyên " . Khí phải thuần nhất, cùng nguyên , không pha tạp mới có hiệu quả , nếu không dễ gặp tai họa. * Lập hướng Tý, Thành môn chính ở Càn , Thành môn phụ ở Cấn. * Lập hướng Quý, Thành môn chính ở Hợi, Thành môn phụ ở Dần. * Lập hướng Nhâm , Thành môn chính ở Tuất , Thành môn phụ ở Sửu. * Lập hướng Càn , Thành môn chính ở Tý , Thành môn phụ ở Dậu. * Lập hướng Hợi , Thành môn chính ở Quý , Thành môn phụ ở Tân. * Lập hướng Tuất , Thành môn chính ở Nhâm , Thành môn phụ ở Canh. * Lập hướng Dậu , Thành môn chính ở Khôn , Thành môn phụ ở Càn. * Lập hướng Tân , Thành môn chính ở Thân, Thành môn phụ ở Hợi. * Lập hướng Canh , Thành môn chính ở Mùi, Thành môn phụ ở Tuất. * Lập hướng Khôn , Thành môn chính ở Dậu , Thành môn phụ ở Ngọ. * Lập hướng Thân , Thành môn chính ở Tân , Thành môn phụ ở Đinh. * Lập hướng Mùi , Thành môn chính ở Canh , Thành môn phụ ở Bính. * Lập hướng Ngọ , Thành môn chính ở Tốn , Thành môn phụ ở Khôn. * Lập hướng Đinh , Thành môn chính ở Tỵ, Thành môn phụ ở Thân. * Lập hướng Bính , Thành môn chính ở Thìn , Thành môn phụ ở Mùi. * Lập hướng Tốn , Thành môn chính ở Ngọ , Thành môn phụ ở Mão. * Lập hướng Tị , Thành môn chính ở Đinh , Thành môn phụ ở Ất. * Lập hướng Thìn , Thành môn chính ở Bính , Thành môn phụ ở Giáp. * Lập hướng Mão , Thành môn chính ở Cấn , Thành môn phụ ở Tốn. * Lập hướng Ất, Thành môn chính ở Dần , Thành môn phụ ở Tị. * Lập hướng Giáp , Thành môn chính ở Sửu , Thành môn phụ ở Thìn. * Lập hướng Cấn , Thành môn chính ở Mão , Thành môn phụ ở Tý. * Lập hướng Dần , Thành môn chính ở Ất , Thành môn phụ ở Quý. * Lập hướng Sửu , Thành môn chính ở Giáp , Thành môn phụ ở Nhâm.

c/ Không phải hai bên của hướng nào cũng có Thành môn đáng chọn. Về nguyên tắc, 2 bên của một Hướng xác định , đều tốn tại Thành môn chính và Thành môn phụ. Nhưng vì âm , dương của Hướng tinh Thiên bàn bay đến 2 bên khác nhau sẽ tạo ra 3 tình hướng :


* Một là hai bên của Hướng tồn tại Thành môn chính và thành môn phụ. * Hai là Chỉ có 1 bên của Hướng có Thành môn chính hoặc phụ, còn bên kia không có . * Ba là 2 bên đều không có Thành môn nào có thể chọn . Tại sao lại xuất hiện 3 tình hướng này ? Đó là do nguyên nhân tương quan của 2 bên tạo nên. a/ Thứ nhất là do Tam nguyên của Hướng được xác lập tạo nên . Hướng được lập có tam nguyên là một trong cac nguyên ( Thiên - Địa - Nhân nguyên long ) . Nếu hướng là Thiên nguyên long cũng sẽ đòi hỏi Thành môn 2 bên Hướng là Thiên nguyên long. Các trường hợp Hướng là Nhân nguyên long và Địa nguyên long cũng tương tự như vậy.Chỉ khi đạt được yêu cầu đó mới có thể giữ được một thứ khí cùng nguyên.. b/ Thứ 2 là do tính chất âm - dương của cung gốc Hậu Thiên bát quái của phi tinh Thiên bàn hai bên quyết định. Ví dụ : Lập sơn Tuất - Hướng Thìn , Thành môn 2 bên hướng Thìn là Giáp và Bính , cùng là Địa nguyên long đảm bảo chắc chắn được một loại khí cùng nguyên.


Tính Ví

dụ

Thành : Nhà

môn tọa

Canh

vượng -

Hướng

hay Giáp

suy -

Vận

. 3.


Thành môn chính đưa số 6 nhập trung cung.

Thành môn phụ đưa số 2 nhập trung cung. Thành môn chính và Thành môn phụ đều vượng khí.

Luận : 1/ Thướng Sơn - Hạ Thủy ( xấu ). 2/ Phục ngâm Sơn tinh. 3/ Hướng thủ đoạt hồn( gây chết chóc ). 4/ Nhà này muốn tốt cần phải mở cửa tại cung Tốn ( 2 ) , xung quanh có đường đi để khí vào vì Thành môn chính và Thành môn phụ đều vượng khí, để hỗ trợ cho hướng chính. Thành môn ngầm : Hướng có số 5 ở bên phải hoặc bên trái hướng nhà gọi là Thành môn ngầm.

Thành môn quyết: là thông qua tứ vị khởi cha mẹ, nhìn ra cách bí mật của mạch để lập toạ hướng. Quyển sách này vốn dựa vào hướng thượng tả và hữu hai cung, những vận phi lâm khác có thể dựa vào nghịch ái đương lệnh vượng khí đến cung này, tức là có thể dùng " Thành môn quyết". Phương pháp này là dùng để bổ cứu cho sơn hướng mà không phải đương nguyên; âm trạch dùng để thu nhân thuỷ, dương trạch dùng để mở cửa, an phúc thần, bàn làm việc. Nếu sử dụng những điều này thì phát tài rất nhanh chóng. Căn cứ vào kinh nghiệm của tác giả, lấy vượng khí và sinh khí của hướng tinh, những phương của nước mà sao di chuyển tới có, mới là " Thành môn quyết" chuẩn nghiệm nhất. "Thành môn quyết" thực sự là tác giả dùng


để khảo cứu long mạch, định toạ hướng. Người đọc cần suy nghĩ cẩn thận " Ngọc chiếu kinh". "Ngũ tinh nhất quyết phi chân thuật, thành môn nhất quyết tối vi Cấn; Khi nhận biết được ngũ tinh Thành môn quyết, thì việc xây dựng nhà cửa hay yên phần mồ mả mới là cát. Đoạn sau đây của Vanhoai - http://huyenkhonglyso.com dienbatn thêm vào.

Phép mở cửa dùng “thành môn quyết”

Đối với những nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh có hướng bị kiêm hướng, hướng không có vượng khí tới hướng hoặc có vượng khí tới hướng nhưng muốn mở thêm cửa phụ tại những cung có hướng tinh là sinh, tiến khí thì ta cần dùng “thành môn quyết” còn gọi là "bí quyết thành môn" để mở cửa.

Điều cần lưu { là khi dùng “ thành môn quyết”để mở cửa phụ là vấn đề hoà hợp âm dương. Thí dụ: cửa chính tại sơn dương thì cửa phụ tại sơn âm và ngược lại. Có như thế thì mới được lâu dài, bằng không thí chỉ được lúc đầu mà thôi. Ngoài ra còn một số trường hợp sau: 1)_ Nhà bị kiêm hướng hoặc hướng không có vượng khí. Thí dụ: nhà GIÁP hướng CANH vận 8. Khi an hướng bàn thì tử khí tam bích(3) tới hướng. Nếu mở cửa tại CANH thì gặp tử khí. Nay dùng bí quyết thành môn xét cung DẬU: Vận tinh 1 nhập trung cung, DẬU là thiên nguyên, thiên nguyên của 1 là TÝ, TÝ tính chất là âm nên 1 đi nghịch, vượng khí 8 tới DẬU. Vậy nếu mở cửa tại dậu thì sẽ có vượng khí tới cửa. Điều này sẽ làm vượng những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Cần lưu { cửa chỉ để trọn trong cung đó mà thôi, không nên cho lấn qua cung khác vì lúc đó âm dương lẫn lộn mà mất đi cái tốt đẹp. 2)_ Nhà qua vận sau không còn vượng khí. Thí dụ: Nhà TUẤT hướng THÌN vận 7 có cửa tại TUẤT được vượng sơn vượng hướng, nay qua vận 8 thì 7 trở thành thoái khi. Nếu có đổi vận thì cũng không tốt đẹp vì tinh bàn vận 8 tử khí 6 tới hướng. Nay không dùng cửa tại THÌN nữa mà mở cửa khác tại TỐN (hoặc TỴ), dùng bí quyết thành môn với vận bàn 8 nhập trung cung, vận tinh tại TỐN là 7, TỐN là thiên nguyên, thiên nguyên của 7 là ĐOÀI, ĐOÀI âm nên 7 đi nghịch, vượng khí 8 tới TỐN 3)- Nhà có hướng tinh là sinh vượng khí nhưng mở cửa không đúng cách thì cũng không nhận được vượng khí vào nhà mà làm ăn suy bại. Thí dụ: nhà tọa Càn hướng Tốn. Thay vì mở cửa ở Tốn hay Tị, nay lại mở ở Thìn. Xét cung Đông Nam vận 8 có vận tinh 7. Thìn là địa nguyên long, Địa nguyên long của thất xích là Canh. Canh dương nên đi thuận thì tử khí lục bạch đến cung Thìn. Vậy nhà không nhận được vượng khí.

4)- Nhà Tuy không được vượng khí đến hướng nhưng nếu mở cửa có khí thành môn thì vẫn không đến nỗi suy bại. Thí dụ nhà tọa Thìn hướng Tuất vận 8. bị Thướng sơn hà thủy, có hướng tinh 1 đến hướng. 1 tuy là tiến khí nhưng còn xa. Nếu mở cửa tại cung Càn hoặc Hợi thì vẫn tốt đẹp một thời.


5)_ Nhà đã được cửa có vượng khí nay muốn mở thêm cửa phụ tại hướng có hướng tinh là sinh hoặc tiến khí. Thí dụ: Nhà SỬU hướng MÙI vận 8. Tinh bàn có vượng tinh 8 tới hướng, sao sinh khí 9 tới hướng BẮC. Nay muốn mở cửa tại BẮC ta áp dụng bí quyết thành môn. MÙI thuộc địa nguyên long, địa nguyên long tại hướng BẮC là NHÂM. Vận tinh tại BẮC là 4, lấy 4 nhập trung cung bay nghịch (địa nguyên long của 4 là THÌN, tính chất của THÌN là âm) vượng khí 8 tới NHÂM. Để ý ta thấy tính chất của MÙI là âm và tính chất của NHÂM là dương Để tìm cung có vượng khí trong nhà hầu đặt bếp hoặc đặt thủy kích tài, Ta cũng cần dùng "bí quyết thành môn". Trong vận 8 này các cung có vượng khí theo "thành môn quyết" là: - Hướng Nam: Ngọ, Đinh - Hướng Tây Nam: Mùi - Hướng Tây: Dậu, Tân - Hướng Tây Bắc: Càn, Hợi - Hướng Bắc: Nhâm - Hướng Đông Bắc: Sửu - Hướng Đông: Giáp - Hướng Đông Nam: Tốn, Tị Thí dụ: Nhà Nhâm hướng Bính vận 8. Cung Đông Bắc có (1-6), nay muốn đặt nước kích tài thì cung đặt nước có tác dụng mạnh nhất là trong cung Sửu. Hướng Bắc có cặp (8-8), nay muốn đặt bếp thì vị trí tốt nhất là cung Nhâm. Đối với các vật khí khác cũng vậy...

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 11. PHONG THỦY LUẬN . Phần 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG. MỘT SỐ QUY TẮC CỦA CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG. ( Những tài liệu ở đây do dienbatn sƣu tầm và tổng hợp- Vì quá nhiều nguồn nên dienbatn không ghi nguồn - Xin cảm ơn các tác giả - dienbatn ) 3/ Bàn về quẻ Tam ban. Quẻ nối liền nhau đƣợc hình thành trên cơ sở hai cung Sơn và hƣớng hợp thành 10 gọi là quẻ Tam ban.Hai cung cùng nhau sinh thành nhƣ Nhất và Lục , Nhị và Thất , Tam và Bát, Tứ và Cửu, Ngũ và Thập là các số Thiên tiên bát quái sinh thành. Hai cung cùng nhau hợp thành 10 nhƣ Khảm nhất Ly cửu; Khôn nhị - Cấn bát;Chất Tam - Đoài thất ; Tốn tứ - Càn lục; là các cung đối nhau của Hậu thiên bát quái. Các cung hợp nhau thành 10 tức là 2 khí thông nhau. Trên cơ sở này sinh ra 2 quẻ là loại quẻ " Tam ban liền số " và một loại quẻ " Tam ban phụ mẫu ". * Quẻ Tam ban liền số có 9 loại : 1-2-3; 2-3-4; 3-4-5; 4-5-6; 5-6-7; 6-7-8; 7-8-9; 8-9-1; 9-1-2. Các loại quẻ Tam ban này thích hợp dùng với hai loại Linh thần và Chính thần. Thí dụ: Vận 1, sơn Tý hƣớng Ngọ. Vì là vận 1 nên Chính thần ở tại cung Khảm 1 còn Linh thần ở tại cung đối chiếu qua Trung-cung là cung Ly 9. Nơi cung tọa là cung Khảm (Tý nằm trong cung Khảm) có phi tinh của Tọa và Hƣớng là 2 (Nhị-hắc) và 9 (Cửu-tử) trong khi ở cung hƣớng là cung Ly (Ngọ nằm trong cung Ly) có phi tinh là 1 (Nhất-bạch) và 1 (Nhất-bạch). Bốn phi tinh ở 2 cung


tọa và hƣớng hợp thành quẻ Tam ban quái là Cửu Nhất Nhị (9, 1, 2). Quẻ Tam ban này có thể thông khí 3 vận Cửu, Nhất và Nhị. Một vận vƣợng thì 2 vận kia đều vƣợng. * Quẻ Tam ban phụ mẫu nhƣ : 1-4-7 ; 2-5-8 ; 3-6-9 ; Các loại quẻ Tam ban này lấy sự sinh thành của Sơn và Hƣớng làm cơ sở , bao hàm hợp thành 10 trong đó. Phụ mẩu Tam ban quái là các bộ 3 số cách khoảng nhau là 3: Nhất Tứ Thất, Nhị Ngũ Bát hay Tam Lục Cửu. Khi các cung Ly với Càn Chấn, Khảm với Tốn Ðoài đều có Phụ mẫu Tam ban quái tới thì gọi là đồng liệt. Nhƣ Hƣớng ở cung Ly có Nhất-bạch, ở cung Càn có Tứ-lục và ở cung Chấn có Thất-xích chứ không phải ở mổi cung Ly, Càn, Chấn đều phải có Vận, Tọa và Hƣớng tạo thành Phụ mẫu Tam ban quái làm thông khí trong cả Tam Nguyên Cửu Vận. Loại quẻ này lấy hợp số sinh thành của tọa và hƣớng của các cung Ly và Khảm làm cơ sở. Nhƣ Nhất Tứ Thất là khí của vận 1, 4 và 7 thông nhau nên đƣơng vận có thể rút mƣợn khí của 2 vận kia để dùng trƣớc... Sau đây là giảng giải rỏ hơn về Phụ mẫu Tam ban quái: Cung Càn là Thiên-môn, cung Tốn là Ðịa-hộ là 2 cung quan trọng trong phép đả kiếp. Trong trƣờng hợp vƣợng tinh đáo hƣớng: a) Phi tinh ở cung Càn và cung Ly tƣơng hợp với cung Chấn thành Phụ mẫu Tam ban quái gọi là chân đả kiếp. Tức là chân hợp thì tự phát vì lệnh tinh ở đầu hƣớng. b) Phi tinh ở cung Tốn và cung Khảm tƣơng hợp với cung Ðoài thành Phụ mẫu Tam ban quái gọi là giả đả kiếp. Tức là giả hợp. Số ở Trung-cung là số sinh (còn gọi là số lập cực), trong khi số thành là: a) số ở cung Khảm trong các vận 1, 2, 3, 4 và b) số ở cung Ly trong các vận 6, 7, 8, 9. Hợp số sinh thành là số sinh hợp với số thành tạo thành một trong các cặp sau đây: a) Nhất Lục (cùng họ), b) Nhị Thất (đồng đạo), c) Tam Bát (bạn bè), d) Tứ Cửu (bằng hửu), Ðây còn gọi là các cặp số đồng một khí vì là “cùng họ” hoặc “đồng đạo” hoặc “bạn bè” hoặc “bằng hửu” nên hợp nhau. Các cặp số này là các cặp số sao của các chòm sao của 4 hƣớng của Hà-đồ. Sau đây là những phân tích từ thấp đến cao về phép này: 1. Bất cứ ở vận nào, số của Vận ở Trung-cung đều hợp với cung Ly hay cung Khảm thành cặp số có cùng một khí vì Vận-bàn đƣợc bày bố theo chiều thuận của Lƣờng-Thiên-Xích. Cho nên số sinh thành của tiên thiên bát quái là số của Trung cung hợp với cung Khảm hoặc với cung Ly. 2. Nếu số ở Hƣớng (hay Tọa) của Trung-cung có thể hợp với số ở Hƣớng (hay Tọa) của cung Ly và Tọa (hay Hƣớng) ở Trung-cung có thể hợp với Tọa (hay Hƣớng) của cung Khảm cùng một lúc thì 3 cung hợp thành số của Tiên-thiên Bát-quái. Nhƣ vậy tọa và hƣớng cùng thông khí với Trungcung. Trƣờng hợp tổng số của Hƣớng (hay Tọa) ở cung hƣớng, cung tọa hay Trung-cung là 10 (hợp thập) cũng đƣợc coi là thông khí giửa các cung này. 3. Khí của quẻ trƣớc, giửa và sau liên thông nhau sẻ xuất hiện sự liên thông khí của Thƣợng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên nên các nguyên đều dùng đƣợc. Nhƣ những cuộc mà ở cung hƣớng có các sao ở Tọa và Hƣớng là Nhất + Nhất có thể dùng để thông khí của vận 4 và 7, tức là hợp thành quẻ Tam ban Nhất Tứ Thất. Nhị + Nhị có thể dùng để thông khí của các vận 5 và 8 tức là hợp thành quẻ Tam ban Nhị Ngủ Bát... 4. Muốn biết ba loại quẻ Phụ Mẫu Tam ban là Nhất Tứ Thất, Nhị Ngũ Bát, Tam Lục Cửu xuất hiện ở các cung vị nào thì phải xem cung có song tinh đáo hƣớng. Nếu song tinh đáo hƣớng xuất hiện ở cung Ly 9 tức là Cửu, là vận 9 Hạ-nguyên nên nguyên và vận mà nó đối ứng là vận 3 Thƣợng-nguyên (cung Chấn) và vận 6 Trung-nguyên (cung Càn). Tức là Phụ Mẫu Tam ban quái xuất hiện ở các cung Chấn Càn Ly. Nhƣ vậy: a. Khảm 1 hay Tốn 4 hay Ðoài 7 thì Phụ Mẫu Tam ban quái xuất hiện ở các cung Khảm Tốn Ðoài. Còn gọi là Khảm cung đả kiếp. b. Khôn 2 hay Trung-cung 5 hay Cấn 8 thì Phụ Mẫu Tam ban quái xuất hiện ở các cung Khôn Trung-cung Cấn. Còn gọi là Khôn Cấn đả kiếp hay Tam-ban xảo quái. c. Chấn 3 hay Càn 6 hay Ly 9 thì Phụ Mẫu Tam ban quái xuất hiện ở các cung Chấn Càn Ly. Còn gọi là Ly cung đả kiếp.


Ngoài ra còn có trƣờng hợp toàn cuộc hợp thành quẻ Phụ Mẫu Tam ban tức là Vận, Tọa và Hƣớng của mổi cung hợp nhau lại thành Phụ Mẫu Tam ban quái. Trƣờng hợp này không cần điều kiện song tinh đáo hƣớng. Thí dụ: Vận 2, sơn Cấn hƣớng Khôn. 5. Trong cách tuyễn chọn hƣớng thì sau đây là các cách tuyễn chọn có công dụng tốt từ cao xuống thấp: a) Phụ Mẫu Tam-ban xảo quái: có thể thông khí cả 3 nguyên nên có đƣợc tốt lành lâu đời, phồn vinh, hƣng thịnh mà không bị giới hạn Thƣớng Sơn Há Thủy. Nếu có thể đảo ngƣợc cách kỳ long thì càng tuyệt diệu. b) Toàn cuộc hợp thập. c) Phụ Mẫu Ly cung đả kiếp. d) Vƣợng sơn vƣợng hƣớng (Ðáo sơn đáo hƣớng) có 2 cung Thành-môn. e) Vƣợng sơn vƣợng hƣớng. f) Phụ Mẫu Khảm cung đả kiếp. g) 2 cung Thành-môn. I/ Từ vận 1 đến vận 9 , bất cứ sao nào nhập vào trung cung đều hình thành với Khảm hoặc Ly một số sinh thành Tiên thiên bát quái . Nhất nhập trung cung hợp với Khảm thành Nhất - Lục, Nhị nhập trung cung hợp với Khảm thành Nhị - Thất , Tam nhập trung cung hợp với Khảm thành Tam - Bát, Tứ nhập trung cung hợp với Khảm thành Tứ - Cửu , Lục nhập trung cung hợp với Ly thành Lục Nhất Thất nhập trung cung hợp với Ly thành Thất - Nhị , Bát nhập trung cung hợp với Ly thành Bát - Tam , Cửu nhập trung cung hợp với Ly thành Cửu - Tứ. Do vậy số sinh thành của Thiên tiên bát quái phải là cung chính giữa với cung Khảm hoặc cung chính giữa với cung Ly cùng hợp với nhau. II/ Nếu cung chính giữa hợp với cung Khảm lại hợp với cung Ly , 3 cung hợp lại thành số Tiên thiên bát quái thì Sơn và Hƣớng nhất quán với khí quẻ của trung cung , cùng thông Khí trƣớc sau. . III/ Sự liên thông Khí của quẻ trƣớc, quẻ giữa và quẻ sau sẽ xuất hiện việc liên thông Khí của Thƣợng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên , do đó các Nguyên đều dùng đƣợc. IV/ Ba loại quẻ Tam ban 1-4-7; 2-5-8, 3-6-9 gọi là quẻ Tam ban xảo số. Ba sao nói trên ( 1-4-7; 2-58, 3-6-9 ) đóng cùng một cung giống nhƣ một chuỗi ngọc đính liền nhau nên ngƣời ta gọi là " Tam châu liên thành cách " , tạo thành cách tốt đẹp , rực rợ. Trong trạch bàn mà cung nào tam thông nhƣ vậy gọi là quẻ Tam ban xảo số. Tam ban xảo số ở cung nào thì cung đó đại cát. Tam ban xảo số toàn bàn thì toàn bàn đại cát. Trong 1944 cục của Huyền không phi tinh chỉ có 16 cục có Tam ban xảo số toàn bàn . Tam ban xảo số toàn bàn đẹp hơn rất nhiều cục Cung Ly đả kiếp và cục cung Khảm đả kiếp . Theo sắp xếp của Huyền không học nhƣ sau : 1/ Tam ban xảo số . ( Đẹp gấp 3 mục 2 ) 2/ Đáo Sơn đáo Hƣớng. ( Đẹp gấp 2 mục 3 ). 3/ Ly cung đả kiếp và Khảm cung đả kiếp . Ví dụ : Nhà tọa Sửu Hƣớng Mùi vận 6.


Nhà 5-8-2; Nhà

này 1-4-7;

đƣợc 3-6-9; này

Tam 4-7-1; đa

ban xảo số 6-9-3; 8-2-5; 9-3-6 ; cát tiểu

toàn 2-5-8;

bàn. 7-1-4. hung.

4/ Cung Ly đả kiếp . Điều kiện để có Cung Ly đả kiếp là : Có song tinh ra hƣớng nhà , ba cung đó liên thông : LYCHẤN - CÀN , tạo thành một trục tam giác liên hoàn khí giữa các khí ( 1-4-7, 2-5-8 ; 3-6-9 ). Ly cung đả kiếp có thể chống lại Phản, Phục ngâm, biến suy tinh của Sơn và Hƣớng thành Vƣợng tinh. Trong 24 Sơn, Hƣớng, 216 cục ( Nếu bao gồm cả quẻ thay thế có 432 cục ) , phàm là cục Hạ thủy mà song tinh đáo hƣớng , đều có thể dùng phép " Đả kiếp " . Còn cục " Thƣợng Sơn - Hà Thủy " của 2 cung Khôn Cấn đều có Tam ban xảo quái. LY * Vận Vận Vận * Vận * Vận * Vận * Vận Vận Vận * Vận

Sơn

CUNG Tý

ĐẢ Hƣớng

-

KIẾP Ngọ

vận

3 6 8 Sơn

Dậu

-

Sơn

Thìn

-

Sơn

Canh

-

Sơn

Nhâm

-

Hƣớng

Mão

:

Hƣớng

Tuất

:

Hƣớng

Giáp

:

Hƣớng

Bính

.

:

Vận

1

:

Vận

1

:

Vận

2

:

:

4 7 9

: : : Hƣớng

9

2

:

8

-

Vận :

4

Tân

:

: : :

9

Sơn

CÁC 1

Ất

:

Vận :

2

:

VẬN. 1-4-7. 3-6-9. 3-6-9. 2-5-8. 2-5-8. 3-6-9. 1-4-7. 1-4-7. 1-4-7. 2-5-8. 2-5-8. 1-4-7. 1-4-7. 3-6-9. 2-5-8. 3-6-9.


* vận Vận Vận * Vận * Vận

Sơn

Sơn Sơn

Quý

Tốn Tỳ

hƣớng Đinh . 3 6 8 Hƣớng Càn. 9 Hƣớng Hợi , 9

Vận

1

:

Vận

6

:

1-4-7. 3-6-9. 3-6-9. 2-5-8. 3-6-9. 3-6-9. 3-6-9. 3-6-9.

: : : : Vận

6

:

:

5/ Khảm cung đả kiếp. Khảm cung đả kiếp chỉ hình thành khi song tinh ra hƣớng nhà , tạo đƣợc 3 cung : KHẢM - TỐN ĐOÀI , tạo thành một trục tam giác : 1-4-7; 2-5-8, 3-6-9. Khảm cung đả kiếp có thể chống lại Thƣớng Sơn hoặc Hạ thủy. Lƣu ý : Nếu Thƣớng Sơn hoặc Hạ thủy đi cùng với Phản ngâm, Phục ngâm thì không chống đƣợc. KHẢM * Sơn Vận Vận Vận * Sơn Vận * Sơn Vận * Sơn Vận * Sơn Vận Vận Vận * Sơn Vận * Sơn Vận Vận Vận 9 : Vận * Sơn Vận

CUNG Ngọ

ĐẢ Hƣớng

-

KIẾP Tý

CÁC Vận

.

4 7 9 Mão

Dậu.

Vận

8 Tuất

-

Giáp

-

Thìn

.

Hƣớng

Canh

.

Hƣớng

Nhâm

.

Tân

.

8 Đinh

4 7 Sơn 4

3-6-9.* Hợi

Càn Hƣớng

4

:

Vận

2

:

Vận

1

:

Vận

1

:

Vận

2

:

: Hƣớng

-

6

: : : Hƣớng

-

Vận :

3 6 8 Ất

:

:

9 -

1

: Hƣớng

9 Bính

VẬN :

: : : Hƣớng

-

2

Quý

-

. : : Tốn :

Hƣớng Tỳ

. :

.

Vận

Vận

1

1

: :

. 2-5-8. 1-4-7. 1-4-7. 3-6-9. 1-4-7. 2-5-8. 3-6-9. 3-6-9. 2-5-8. 3-6-9. 1-4-7. 3-6-9. 3-6-9. 2-5-8. 2-4-7. 2-5-8. 2-5-8. 1-4-7. 1-4-7. 1-4-7. 1-4-7. 1-4-7. 1-4-7.

TAM BAN XẢO QUÁI CÁC VẬN. * Sơn Cấn Hƣớng Khôn . Vận 2 Toàn cục. Vận 5 : Toàn cục. Vận 8 : Toàn cục. * Sơn Khôn Hƣớng Cấn : Vận 2 Toàn cục. Vận 5 : Toàn cục. Vận 8 : Toàn cục. * Sơn Dần Hƣớng Thân : Vận 2 Toàn cục. Vận 5 : Toàn cục. Vận 8 : Toàn cục. * Sơn Sửu Hƣớng Mùi : Vận 4 ; Toàn cục. Vận 6 : Toàn cục. * Sơn Mùi Hƣớng Sửu : Vận 4 : Toàn cục. Vận 6 : Toàn cục. Nhƣ vậy trong cửu vận : Quẻ Tam ban Ly cung đả kiếp có 24 cục, Quẻ Tam ban Khảm cung đả kiếp có 24 cục, quẻ tam ban xảo quái cung Cấn có 16 cục . Công lại tất cả là 64 cục.


QUẺ

TAM

BAN

ĐẢ

KIẾP

LY

CUNG VÀ

KHẢM

CUNG.

Mỗi quẻ có 3 cục phạm phản , phục ngâm nên không thể xử dụng. * * * * * *

Sơn Sơn Sơn Sơn Sơn Sơn

Tốn Tỳ Nhâm Bính Càn Hợi

Hƣớng Càn - Vận 6 - Phạm Hƣớng Hợi - Vận 6 Phạm - Hƣớng Bính - Vận 9 - Phạm - Hƣớng Nhâm - Vận 1 - Phạm - Hƣớng Tốn - Vận 4 - Phạm Hƣớng Tỳ - Vận 4 Phạm

-

PHẢN PHẢN PHẢN PHẢN PHẢN PHẢN

PHỤC PHỤC PHỤC PHỤC PHỤC PHỤC

NGÂM. NGÂM. NGÂM. NGÂM. NGÂM. NGÂM.

Phép Ly cung đả kiếp và Khảm cung đả kiếp đƣợc xử dụng khi khó chọn địa hình của âm hay dƣơng trạch. So với phép vƣợng Sơn - Vƣợng Hƣớng , hai cung Thành môn, và toàn cục hợp thập thì phép đả kiếp đã cung cấp thêm cho ta một cách nữa để lựa chọn.Nó trội hơn phép vƣợng Sơn Vƣợng Hƣớng và ngang công hiệu với toàn cục hợp thập. Trong 64 cục kể ở trên thì có quẻ Tam ban xảo quái hình thành trên 2 cung Cấn và Khôn là khó gặp nhất nhƣng có giá trị nhất. 16 cục này gọi là toàn cục hợp thành quẻ Tam ban , có thể thông khí cả 3 nguyên là Thƣợng, Trung, Hạ nguyên , dùng nó tốt lành, đời đòi phồn thịnh. Quẻ Tam ban nhƣ thế không bi giới hạn của Thƣớng Sơn - Hạ thủy , nhƣng nếu có thể dùng cách đảo ngƣợc kỳ Long thì càng tốt đẹp. Sử dụng quẻ Tam ban cần phải phối hợp với cách cục của môi trƣờng , phải có đắc Sơn để chế ngự Thủy , phải có đắc Thủy để thu hồi Sơn , hợp với Ngũ hành sinh khắc , bằng không sẽ phản tác dụng . Bỏi vậy các Phong Thủy Sƣ phải hết sức lƣu ý và làm cho thuần thục. Trong Ly cung đả kiếp và Khảm cung đả kiếp , công hiệu của Ly cung đả kiếp mạnh hơn. Phong thủy gọi là " Chân đả kiếp" ( Cƣớp đoạt thật sự ) , còn Khảm cung đả kiếp thì công hiệu nhỏ hơn gọi là : Giả đả kiếp " ( cƣớp giả ) .

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 12 PHONG THỦY LUẬN. Phần 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG. MỘT SỐ QUY TẮC CỦA CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG. 4/ 16 CÁCH CỤC HUYỀN KHÔNG. ( Trần Mạnh Linh ).


Nhất vị - Nhị Hƣớng. Vị là nơi đặt, Hƣớng là theo bản mệnh ( Bản cung ). Cục là sự kết hợp giữa Sơn tinh và Hƣớng tinh , vận hành trong cửu cung đồ trạch gồm có 16 cục nhƣ hình trên.

Ghi chú: 1- Nhất bạch, 2 - Nhị hắc, 3 - Tam bích, 4 - Tứ lục, 5 - Ngũ hoàng, 6 - Lục bạch, 7 - Thất xích, 8 - Bát bạch, 9 - Cửu tử. Song tinh chính khí bao giờ cũng tại hƣớng hoặc tại sơn. - Tại hƣớng tạo ra vƣợng tài cách (hoặc hạ thuỵ cách) - Tại sơn là vƣợng đinh cách (hoặc thƣớng sơn cách). Sau khi lập trạch bàn, trong 16 cục nếu: - Sinh Vƣợng hay hợp cách gặp sinh nhập và khác nhập là cát. - Suy Tử gặp sinh xuất, khắc xuất thì hung Sinh nhập: Khách sinh chủ Khắc nhập: Khách khắc chủ Cát Sinh xuất: Chủ sinh khách Khắc xuất: Chủ khắc khách Hung GIẢNG NGHĨA: (1) Khôi tinh cung (1 + 4): Vƣợng: thành “Đăng khoa đoạt kim bảng cách”, thuận lợi cho học hành thi cử, thông minh, anh kiệt, tuấn tú: đặt các tiết minh (bàn học, bàn làm việc, giƣờng ngủ của trẻ em...). Suy: Học tài thi phận. (2) Phúc đức (còn gọi là Tử tức cung):(4 + 9) Vƣợng: Đem lại phúc cho gia đình, cho trạch, đông con, nhiều cháu, gia đình hoà thuận anh em sum họp. Muốn cầu con đặt giƣờng ngủ vào cung này (kết hợp với xoay bếp) để đến năm, ngày giờ nó sinh nhập thì đƣợc. Suy: Hiếm nhân đinh, anh em bất hoà. (3) Thôi quan cung (1 + 6; 6 + 8): Vƣợng: Chủ quan chức, địa vị, danh tiếng, sự nghiệp. Tốt đẹp cho công việc,


cho quá trình phát triển sự nghiệp, công danh của mình (đặt phòng làm việc hoặc cửa...) Suy: quan vận bất hanh thông, hay bị gẫy đổ, điều tiếng, thị phi, dời đổi trong quan trƣờng. (4) Tật ách cung (1 + 2; 1 + 5;2 + 5; 3 + 5; 4 + 5): Ốm đau, bệnh tật, tai hoạ.Nên đặt bất tiết minh (Nhà tắm, vệ sinh, nƣớc thải...) 4 + 5 vƣợng thành “Hồi lộc chi tai” cách (lộc đến kèm tai họa), suy là hoạ hại. 2 + 5 nếu suy thành “Nhị hắc ôn thần sát” (5) Đào hoa cung (4 + 7): Vƣợng: Hỵ khí, chủ sự may mắn, sớm thành đạt, đƣợc nhiều ngƣời giúp đỡ, tình cảm, tình duyên, sinh ra ngƣời đẹp, khôi ngô, có duyên (Ngƣời chƣa có gia đình nên đặt cửa, bàn làm việc vào đây, thanh niên mới đi làm đặt bàn làm việc vào đây thì tốt. Kỳ với ngƣời có gia đình, con cái, bàn thờ, giƣờng đặt vào; không tốt hay sinh sự). Suy: Hoạ đào hoa sát (tai hoạ vì tình cảm không trong sáng, không lành mạnh). (6) Tài lộc cung (1 + 7; 3 + 9; 7 + 8; 8 + 9): Vƣợng: Chủ tiền tài, giàu có. Tăng tài tiến lộc, làm ăn thịnh vƣợng phát tài. Đẹp nhất là đặt cửa ra vào (tài lộc lâm môn là đẹp nhất), hoặc cầu thang (vì động khí mạnh), phòng làm việc, phòng ngủ, bếp nhƣng phải xem chủ khách để phụ hoạ thêm vì bếp hành hoả (ví dụ 1-7 đặt bếp thì tốt, nhƣng 7-8 thì tài lộc vẫn có nhƣng lại ngộ song hao thoát vợi tiền). Nếu mà ra Tuế sát thì có lộc nhƣng hay gặp tai hoạ, nếu Tuế hình là lộc chi hình thì có lộc nhƣng hay bị hình, rắc rối. Suy: làm ăn khó khăn hơn, có tiền nhƣng hay hao hụt (giống nhƣ Lộc ngộ song Hao). (7) Kiếp tài cung (3 + 7): Phá sản, mất mát, suy bại, làm ăn khó phát triển, không thịnh vƣợng, nếu phát triển cũng dễ phá sản. Nên để nhà vệ sinh, nhà tắm, kho hoặc những nơi tĩnh, không động (vì càng động càng kiếp tài mạnh). Suy là “Xuyên tâm sát” Phải làm cho kiếp tài giảm bớt cái xấu: Ví dụ: vận 7, cửa ra vào có 3+7 (kiếp tài), số 7 là chủ, số 3 là khách, kim khắc mộc là khắc xuất hung. Tức là hung vƣợng thì phải làm cho con số 3 vƣợng là chủ, số 7 là khách, 7 khắc nhập là cát, khi cát tăng thì hung sẽ giảm. Muốn vậy phải trấn để cho 7 là khách thì phải có sơn: đắp một hòn giả sơn. (Trong 9 cung của nhà thì Cửa là giá trị nhất, sau đó đếng Hƣớng và sau mới đến Sơn.) (8) Vô tự cung (5 + 7; 5 + 8): Không có con cái, hay là có sinh nhƣng chết yểu “hữu sinh vô dƣỡng”, hoặc chỉ có con gái không có con trai. (9) Dịch mã cung (2 + 6; 4 + 6): Vƣợng: chủ đi lại, nhanh nhẹn, năng động, thuận lợi trong công tác, thành đạt và hay phải đi lại nhiều hoặc sống ở nƣớc ngoài, hỗ trợ cho các cung khác để hƣng khởi hơn. Suy: chủ tai nạn giao thông, khó khăn trong đi lại, xuất ngoại, sinh ngƣời ham chơi lƣời nhác. (Nếu gặp Tuế sát, Tuế hình là xấu đi lại có khi bị tai nạn ở chân). (10) Cô Quả cung (2 + 9; 5 + 6): Chủ cô đơn (nhƣ sao Cô thần, Quả tú) nam chậm lấy vợ, nữ chậm lấy chồng. Mỗi ngƣời sống một nơi, có khi già vẫn cô đơn con cái không ở cùng. (11) Hoạ hại cung (1 + 3; 3 + 6; 5 + 9; 6 + 7; 7 + 9): Chủ về tai hoạ vận hạn, tai bay vạ gió, điều tiếng và ốm đau. Nên đặt bất tiết minh (nhà tắm, vệ sinh...). 5 + 9 vƣợng thành “Hồi lộc chi tai” cách (lộc đến kèm tai họa), vƣợng thích hợp với nghề Y, Dƣợc, suy là hoạ hại với thảo dân thành “Cửu hoàng độc chiêu sát”. 7 + 9 suy là “Lƣỡng hoả sát”. 6 + 7 suy là “Giao kiếm sát”, sát chủ trộm cƣớp (7 + 7 suy là “song kiếm sát”). (12) Điền trạch cung (1 + 8; 2 + 7; 2 + 8): Vƣợng: Thuận lợi cho đất cát, điền trang, địa ốc và phát triển bất động sản (Điền


trạch nhập môn mệnh có Thái âm miếu vƣợng nên đi buôn đất) Suy: Hay mất mát đất cát, khó khăn khi tạo dựng bất động sản. 2 + 7 biến thành “Thiên hoả sát” rất xấu. (13) Đoạt hồn cung (2 + 4; 3 + 8; 4 +8): Chỉ về cái chết, giống Tuyệt mệnh (bệnh tật, tai nạn...) Tránh đặt cửa, bàn thờ. Nên để những cái tĩnh, ít động, bất tiết minh (nhà tắm, vệ sinh...). 4 + 8 nếu vƣợng và trạch bàn tốt với ngƣời có đức thì là “ân tình phù trợ cách” (14) Tụng đình cung (2 + 3): Chủ sự cãi vã, kiện tụng, tranh chấp (nếu có thêm cột điện hay là sơn cao thì suốt ngày kiện tụng). Vƣợng: Kiện cáo, tranh chấp thƣờng là mình đứng nguyên đơn (đi kiện ngƣời). Suy: Ta là ngƣời bị kiện. Vƣợng hay suy đều là “Đấu ngƣu sát”. Thƣờng tốt với ngƣời làm công tác pháp luật, khi đó đƣợc gọi là “Tụng đình cung”. (15) Hoan lạc cung (3 + 4): Vƣợng: chủ sự vui vẻ, hoan hỵ, hay có khách, đặt bếp thì nhậu nhẹt, ăn uống suốt ngày. Suy: hay gặp hoạ vì hoan hỵ, cãi nhau, hay cờ bạc, chơi bời, trai gái, nghiện hút. (16) Diên thọ cung (1 + 9; 6 + 9): Chủ tuổi thọ cao, phúc đức (hai cung Diên thọ và Phúc đức thích hợp đặt bàn thờ). Nếu bàn thờ ở cung này mà cửa ra Tật ách thì sống lâu mà bệnh tật suốt lại là khổ. ( Trần Mạnh Linh ). 5/ LỤC DIỆU BÁT SƠN TÁC TÁO. ( 6 diệu pháp đặt bếp ). Lục diệu : Lục diệu này kỳ Bát sát và Hoàng tuyền ). Căn cứ vào Tọa Sơn ngôi nhà . Nếu bếp tách hẳn ra khỏi nhà thì xác định theo tọa Sơn của nhà bếp. 1/ Nhất Long. Cát. 2/ Nhị Vũ . Hung. 3/ Tam Âm . Hung. 4/ Tứ Hổ . Cát. 5/ Ngũ Xà - Hung. 6/ Lục Trận . Hung. Từ tâm của nhà, kéo một đƣờng thẳng đến tâm của bếp lò, chia làm 3 loại : a/ Tọa Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Giáp , Canh , Nhâm , Bính. Ta có : Nhâm, Tý - Nhất Long. Quý, Sửu - Nhị Vũ. Cấn, Dần - Tam Âm. Giáp , Mão - Tứ Hổ. Ất, Thìn - Ngũ Xà. Tốn , Tỳ - Lục Trấn. Bính, Ngọ - Nhất Long. Đinh , Mùi - Nhị Vũ. Khôn , Thân - Tam Âm. Canh, Dậu - Tứ Hổ. Tân , Tuất - Ngũ Xà . Càn , Hợi - Lục Trấn. Lƣu ý :


Tọa Mão kỳ Nhâm Tý ( Đào hoa sát ). Tọa Ngọ kỳ Giáp Mão ( Đào hoa sát ). Tọa Dậu kỳ Bính Ngọ ( Đào hoa sát ). Tọa Tý kỳ Canh Dậu ( Đào hoa sát ). b/ Tọa Dần , Thân , Tỵ , Hợi, Càn , Khôn, Cấn , Tốn . Nhâm , Tý - Lục Trấn. Quý , Sửu Nhất Long. Cấn , Dần - Nhị Vũ. Giáp , Mão - Tam Âm. Ất , Thìn - Tứ Hổ. Tốn , Tỳ - Ngũ Xà. Bính , Ngọ - Lục Trần. Đinh , Mùi - Nhất Long. Khôn , Thân - Nhị Vũ. Canh , Dậu - Tam Âm. Tân , Tuất - Tứ Hổ. Càn , Hợi - Ngũ Xà. Lƣu ý : Khảm ( Nhâm , Tý , Quý kị Thìn vì phạm bát sát. Khôn ( Mùi , Khôn , Thân ) kị Mão vì phạm bát sát. Chấn ( Giáp , Mão , Ất ) kị Thân vì phạm bát sát. Tốn ( Thìn, Tốn , Tị ) kị Dậu vì phạm bát sát. Càn ( Tuất , Càn , Hợi ) kị Ngọ vì phạm bát sát. Đoài ( Canh, Dậu, Tân ) kị Tị vì phạm bát sát. Ly ( Bính , Ngọ , Đinh ) kị Hợi vì phạm bát sát. c/ Tọa Thìn , Tuất , Sửu, Mùi, Ất , Tân , Đinh, Quý. Nhâm, Tý - Nhị Vũ. Quý, Sửu - Tam Âm. Cấn, Dần - Tứ Hổ. Giáp , Mão -Ngũ Xà Ất, Thìn - .Lục Trấn. Tốn , Tỳ - Nhất Long. Bính, Ngọ -Nhị Vũ. Đinh , Mùi - Tam Âm. Khôn , Thân - Tứ Hổ. Canh, Dậu - Ngũ Xà . Tân , Tuất - Lục Trấn. Càn , Hợi - Nhất Long. Ví dụ : Nhà Tọa Ất - Hƣớng Tân . Vị trí tốt đặt bếp tại cấn, Dần, Tốn , Tỳ. Ta chọn đặt bếp tại Tỳ để tránh Hoàng tuyền.


PHONG THỦY LUẬN . BÀI 13. PHONG THỦY LUẬN . Phần 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG. MỘT

SỐ

6/

QUY

TẮC KHỞI

CỦA

CỔ

DỊCH

HUYỀN

THẾ

KHÔNG. QUÁI.

a/ KHÁI NIỆM : Trong tất cả các phần ở những bài trƣớc, khi phân cung , điểm hƣớng nhà hay mộ phần, chúng ta toàn sử dụng trong những trƣờng hợp là CHÍNH HƢỚNG. Trong khi đó , đa phần những trƣờng hợp chúng ta gặp trên thực tế đều là không phải chính hƣớng. Tám cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn và Ðoài còn đƣợc chia ra làm 24 sơn tức là mổi cung đƣợc chia ra 3 sơn nhƣ sau đây:

1.

Cung Càn (Tây-bắc) có các sơn:

a. b. c. 2. a. b. c.

Tuất: nằm trong giới hạn từ 292.5 đến 307.4 độ. Chính Tuất 300 độ. Càn: nằm trong giới hạn từ 307.5 đến 322.4 độ. Chính Càn 315 độ . Hợi: nằm trong giới hạn từ 322.5 đến 337.4 độ. Chính Hợi 330 độ. Cung Khảm (Bắc) có các sơn: Nhâm: nằm trong giới hạn từ 337.5 đến 352.4 độ. Chính Nhâm 345 độ . Tý: nằm trong giới hạn từ 352.5 đến 7.4 độ. Chính tý 0 độ . Quý: nằm trong giới hạn từ 7.5 đến 22.4 độ. Chính Quý 15 độ .

3.

Cung Cấn (Ðông-bắc) có các sơn:


a. b. c.

Sửu: nằm trong giới hạn từ 22.5 đến 37.4 độ. Chính Sửu 30 độ . Cấn: nằm trong giới hạn từ 37.5 đến 52.4 độ. Chính Cấn 45 độ . Dần: nằm trong giới hạn từ 52.5 đến 67.4 độ. Chính Dần 60 độ .

4.

Cung Chấn (Ðông) có các sơn:

a. b. c.

Giáp: nằm trong giới hạn từ 67.5 đến 82.4 độ. Chính Giáp 75 độ . Mảo: nằm trong giới hạn từ 82.5 đến 97.4 độ. Chính Mão 90 độ . Ất: nằm trong giới hạn từ 97.5 đến 112.4 độ. Chính Ất 105 độ .

5.

Cung Tốn (Ðông-nam) có các sơn:

a. b. c.

Thìn: nằm trong giới hạn từ 112.5 đến 127.4 độ. Chính Thìn 120 độ , Tốn: nằm trong giới hạn từ 127.5 đến 142.4 độ. Chính Tốn 135 độ . Tỳ: nằm trong giới hạn từ 142.5 đến 157.4 độ. Chính Tỳ 150 độ .

6.

Cung Ly (Nam) có các sơn:

a. b. c.

Bính: nằm trong giới hạn từ 157.5 đến 172.4 độ. Chính Bính 165 độ . Ngọ: nằm trong giới hạn từ 172.5 đến 187.4 độ. Chính Ngọ 180 độ . Ðinh: nằm trong giới hạn từ 187.5 đến 202.4 độ. Chính Đinh 195 độ .

7.

Cung Khôn (Tây-nam) có các sơn:

a. b. c.

Mùi: nằm trong giới hạn từ 202.5 đến 217.4 độ. Chính Mùi 210 độ . Khôn: nằm trong giới hạn từ 217.5 đến 232.4 độ. Chính Khôn 225 độ . Thân: nằm trong giới hạn từ 232.5 đến 247.4 độ. Chính Thân 240 độ .

8.

Cung Ðoài (Tây) có các sơn:

a. b. c.

Canh: nằm trong giới hạn từ 247.5 đến 262.4 độ. Chính Canh 255 độ . Dậu: nằm trong giới hạn từ 262.5 đến 277.4 độ. Chính Dậu 270 độ . Tân: nằm trong giới hạn từ 277.5 đến 292.4 độ. Chính Tân 285 độ .


Mỗi tọa Sơn hay lập Hƣớng chỉ chiếm 15 độ. Dùng đƣờng trung tuyến chia đôi thì mỗi nửa của Sơn hay Hƣớng chỉ chiếm 7,5 độ . Khi lệch với chính hƣớng nhỏ hơn 3 độ thì ta vẫn coi là chính hƣớng. Nhƣng khi lệch so với chính hƣớng lớn hơn 3 độ thì lúc này tạp Khí rất nhiều , nên phải thay thế quẻ bằng quẻ khác mới điều chỉnh đƣợc Khí quẻ. Khi phân cung mà gặp trƣờng hợp không đƣợc chính hƣớng ( gọi là nhà kiêm hƣớng - Sai lệch so với chính hƣớng từ lớn hơn 3 độ đến 7 độ ), ta phải lập theo một phƣơng pháp đặc biệt gọi là THẾ QUÁI.


B / Quẻ thay thế có 3 trƣờng hợp : 1/ Quẻ thay Sơn tinh. 2/ Quẻ thay Hƣớng tinh. 3/ Quẻ thay cả Sơn tinh và Hƣớng tinh. Đó là ba trƣờng hợp, đại để là Hƣớng nếu tìm đƣợc sao thay thế thì thay Hƣớng tinh, nếu không tìm đƣợc sao thay thế thì thay Sơn tinh. Đối với trƣờng hợp tìm đƣợc sao thay thế cả Sơn lẫn Hƣớng thì ta thay thế cả C/ Có một số sơn, Hƣớng tuy lệch từ lớn hơn 3 độ đến 7 độ, nhƣng khi lập Hƣớng , hai sao Sơn và Hƣớng đều không tìm đƣợc sao thay thế :

Ngƣời ta vẫn dùng 2 sao Sơn và Hƣớng cũ , lần lƣợt nhập trung cung, tuy đƣợc vƣợng Sơn vƣợng Hƣớng nhƣng vẫn xem là không vƣợng Sơn vƣợng Hƣớng , bởi phạm phải âm - dƣơng sai lệch hoặc phạm vào quẻ xuất Hƣớng.

D/ QUẺ THUẦN :

Dùng quẻ thay kiêm Hƣớng sẽ xuất hiện 8 trƣờng hợp vô cùng đặc biệt , đó là 8 quẻ thuần. Loại quẻ này phi tinh của Sơn và Hƣớng chữ nào cũng giống nhau , không hề biến đổi - Đó là quẻ đại hung mà trong 216 cục không có . Quẻ này cũng còn gọi là quẻ phản phục ngâm . 8 quẻ thuần trong 216 cục , chỉ có 6 cục đều phát sinh ở hai cung Khôn và Tốn tại Vận 5. Đặc điểm của 8 quẻ thuần là Càn gặp càn, Tốn gặp Tốn, Cấn gặp Cấn, Khôn gặp Khôn ...., Sơn tinh và Hƣớng tinh cùng một chữ.


E/ VÌ SAO KIÊM HƢỚNG PHẢI DÙNG QUẺ THAY THẾ :

Kiêm Hƣớng có 3 trƣờng hợp : a/ Kiêm Hƣớng đồng tính : Thiên nguyên long và Nhân nguyên long cùng thuộc tính dƣơng hay âm có thể kiêm dùng. Tý, Quý, Mão, Ất , Ngọ, Đinh , Dậu , Tân cùng thuộc tính âm nên 2 quẻ kiêm cùng tính âm. Cấn, Dần, Tốn, Tị , Khôn , Thân, Càn , Hợi cùng thuộc tính dƣơng , nên 2 quẻ cùng tính dƣơng. b/ Kiêm hƣớng khác tính : Thiên nguyên long và Địa nguyên long là âm dƣơng tƣơng kiêm. Tý và Nhâm , Cấn và Sửu, Mão và Giáp, Tốn và Thìn, Ngọ và Bính, Khôn và Mùi , Dậu và Canh, Càn và Tuất là một âm một dƣơng kiêm dùng với nhau. c/ Kiêm tƣơng quẻ xuất . Quẻ Khảm và quẻ Cấn là Quý Sửu tƣơng kiêm, quẻ Cấn và quẻ Chấn là Dần Giáp tƣơng kiêm, quẻ Chấn và quẻ Tốn là Ất Thìn tƣơng kie6mque3 Tốn và quẻ Ly là Tị Bính tƣơng kiêm, quẻ Ly và quẻ Khôn là Đinh Mùi tƣơng kiêm, quẻ Khôn và quẻ Đoài là Thân Canh tƣơng kiêm, quẻ Đoài và quẻ Càn là Tân Tuất tƣơng kiêm, quẻ Càn và quẻ Khảm là Hợi Nhâm tƣơng kiêm, Ngƣợc lại : Khảm và Càn, Càn và Đoài , Đoài và Khôn, Khôn và Ly, Ly và Tốn, Tốn và Chấn , Chấn và Cấn, Cấn và Khảm cũng là quẻ xuất tƣơng kiêm . Đã là quẻ xuất tƣơng kiêm thì Khí quẻ không thuần , tạo thành tạp khí hỗn loạn , chiêu lấy hung họa. Do vậy mà ta cần phải dùng phƣơng pháp quẻ thay thế để điều chỉnh tạp khí, tránh đƣợc hung sát. Nếu chính hƣớng không tìm đƣợc vƣợng Sơn vƣợng Hƣớng , nhƣng có Thành môn thì ta có thể dùng quẻ thay kiêm hƣớng cho vƣợng tinh đáo thành môn , thu hút đƣợc khí tốt của núi sông . G/ CÁCH KHỞI THẾ QUÁI . Bƣớc 1 : Lập vận bàn. Bƣớc 2 : Xác lập mũi tên ( Chiều ) Sơn và Hƣớng. Bƣớc 3 : Nhập trung cung Sơn tinh và Hƣớng tinh. Bƣớc 4 : Xác định Tam nguyên long để biết chiều thuận hay nghịch của phi tinh. Bƣớc 5 : Căn cứ vào Tam nguyên long của Sơn tinh và Hƣớng tinh, nhìn vào vòng số 6 trên La kinh ( 24 Sơn ) để lấy Thế tinh. Lƣu ý : Âm - Dƣơng phi thuận nghịch lấy theo số của Sơn và Hƣớng tinh gốc.


Nhắc lại một chút kiến thức Huyền không : * QUẺ CÀN : Tuất Sơn - Địa nguyên long. Càn Sơn - Thiên nguyên long. Hợi Sơn - Nhân nguyên long. * QUẺ KHẢM . Nhâm Sơn - Địa nguyên long. Tý Sơn - Thiên nguyên long. Quý Sơn - Nhân nguyên long. * QUẺ CẤN. Sửu Sơn - Địa nguyên long. Cấn Sơn - Thiên nguyên long. Dần Sơn - Nhân nguyên long. *QUẺ CHẤN. Giáp sơn - Địa nguyên long. Mão Sơn - Thiên nguyên long. Ất Sơn - Nhân nguyên long.


* QUẺ TỐN. Thìn Sơn - Địa nguyên long. Tốn Sơn - Thiên nguyên long. Tỳ Sơn - Nhân nguyên long. * QUẺ LY. Bính Sơn - Địa nguyên long. Ngọ Sơn - Thiên nguyên long. Đinh Sơn - Nhân nguyên long. * QUẺ KHÔN. Mùi Sơn - Địa nguyên long. Khôn Sơn - Thiên nguyên long. Thân Sơn - Nhân nguyên long. * QUẺ ĐOÀI. Canh Sơn - Địa nguyên long. Dậu Sơn - Thiên nguyên long. Tân Sơn - Nhân nguyên long. VÍ DỤ : Nhà tọa Hợi - Hƣớng Tị ( kiêm 4,5 độ ) kiêm Càn Tốn\ Nhâm Bính - Vận 7.

Hƣớng Tị - Thuộc Nhân nguyên long - Sao địa bàn là số 6 , quẻ số 6 là Càn. Quẻ Càn ( Tuất Sơn Địa nguyên long. Càn Sơn - Thiên nguyên long. Hợi Sơn - Nhân nguyên long ) . trên vòng La kinh Hợi là Vũ Khúc số 6. Đặt số 6+ vào trung cung bên phải.Vận hành theo chiều thuận.


Tọa Hợi là Nhân nguyên long - Sao địa bàn là số 8 , quẻ số 8 là Cấn . Quẻ Cấn ( Sửu Sơn - Địa nguyên long.Cấn Sơn - Thiên nguyên long.Dần Sơn - Nhân nguyên long ) . Có Nhân nguyên Long là Dần. Tại vòng La kinh số 6 Dần là sao Hữu bật số 9. Đặt số 9 + vào trung cung bên trái. Vận hành theo chiều thuận. Lƣu ý : Âm - Dƣơng phi thuận nghịch lấy theo số của Sơn và Hƣớng tinh gốc. Giải thích : Lục đáo Hƣớng. Nhân nguyên long của Lục là Hợi - Sao Vũ Khúc. Vẫn dùng Lục của Vũ Khúc nhập trung cung. Hợi là dƣơng nên vận hành thuận. Bát đáo Sơn . Nhân nguyên long của bát là Dần - là sao Hữu bật , nên không nhập Bát vào trung cung mà nhập Cửu vào trung cung . Dần là dƣơng nên Cửu hành theo chiều thuận. Quẻ này Thành môn ở phƣơng Ất. Các bạn có thể tra cứu 216 quẻ thay kiêm hƣớng tại cuốn Cổ dịch Huyền không học của Hồ Kính Quốc.

PHONG THUỶ LUẬN. BÀI 14. Thứ Hai, ngày 12 tháng 8 năm 2013 PHONG THỦY LUẬN . Phần 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG. MỘT SỐ QUY TẮC CỦA CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG. 6/ TÀI LIỆU THAM KHẢO : NGHỆ THUẬT ĐIỂM THẦN SÁT . ( Tác giả Trần Mạnh Linh )


Căn cứ để an Thần sát : 1/ Xác định Tọa .( Phân kim) . 2/ Xác định Hướng ( Phân kim ) . 3/ Xác định Đại môn ( Phân kim ) .

I/ MÔN KHÍ CỬU CUNG ĐIỂM THẦN SÁT : ( Môn Lầu cửu cung điểm Thần sát ) . Có thể nói rằng cát, hung, phúc, họa của ngôi nhà đa phần liên quan đến khẩu Môn là Cổng và Cửa. Một căn nhà nếu đã có hướng, tọa tốt mà lại có vị trí Cổng, Cửa tốt để đưa được: Lộc, Mã, Quý nhân vào cổng, vào trong cửa và không phạm bát đại Không vong thì chủ nhà sẽ có Tài lộc và Quý nhân phù trợ là rất tốt . Đây là phép tìm Địa khí, một phép linh diệu trong Phong Thủy. Để tìm được Địa khí các nhà Phong Thủy phải Phân kim Hướng nhà và Cửa - Đại Môn, Ngoại môn. Nếu theo phân kim Đại môn, Ngoại môn, theo chủ địa khí và Môn khí mà cửa hay cổng được: Lộc, Mã, Quý nhân lại gặp thêm Hoan lạc hay Phúc đức, hoặc các sao tốt trong vòng sao Phúc Đức, tránh bị Đại Sát, Thiên hình, Vô tự...lâm Môn là ngôi nhà có Cửa, cổng hoàn hảo. - Cổng và Cửa đặt theo phép “Khai môn – Nghệ thuật phân cung điểm Thần sát” Đây là phép bí truyền của Địa lý cao cấp dương cơ rất linh diệu để xác định các Thần sát trong cửu cung của ngôi nhà. Loại tốt có: Dương Qu{ Nhân, Âm Qu{ nhân, Thiên Lộc, Thiên mã, Đào Hoa. Loại xấu có: Đại sát, Thiên hình, Độc hỏa.( Như Chủ Địa khí) Cửu tinh an Thần sát Chủ địa khí và điểm Thần sát Môn khí trong Phong thủy để bố trí các Tiết minh và bất Tiết minh cho phù hợp. - Ngoài ra Cổng, Cửa phải Phân kim tìm tuyến chính kim, tránh Bát đại Không vong, trong đó có Tiểu không vong và Đại không vong. Không vong nghĩa là khi Sơn, hướng nhà hoặc tâm Cổng, tâm cửa rơi vào Sát Thần Địa Long trong 60 thấu địa Long. Nếu khi Sơn, hướng nhà hoặc tâm Cổng, tâm cửa rơi vào Bát đại Không vong là tối nguy hại. Nó thường làm cho chủ nhà ốm đau, bệnh tật, Tai nạn, chết người, hao mòn tiền của, nếu ảnh hưởng ít nhất cũng là chậm vợ. Chậm chồng, ly hôn, cô đơn nếu lại có vị là Cô quả. Trong thực tế đã chứng minh nếu nhà có Bát đại Không vong sẽ có 99% gia đình bất ổn. Khi đó phải cần phải sửa chữa, sử lý, hay trấn yểm để làm cho không bị tai hoạ khi hướng nhà có phạm Bát đại không vong. Cổng và Cửa thì tất nhiên là tuyệt đối tránh Bát đại Không vong. A/ CÁC THẦN SÁT PHẢI AN :

a/ Thần sát an theo Can của Đại môn bao gồm . 1/ THIÊN LỘC . 2/ DƯƠNG QUÝ NHÂN . 3/ÂM QUÝ NHÂN . b/ các Thần sát an theo Chi của Đại môn : 4/ ĐÀO HOA .


5/ ĐẠI SÁT . 6/ THIÊN MÃ. 7/ ĐỘC HỎA . 8/ THIÊN HÌNH . II/CHỦ ĐỊA KHÍ CỬU CUNG ĐIỂM THẦN SÁT

A/ CÁC THẦN SÁT PHẢI AN : a/ Thần sát an theo Can của Hướng nhà bao gồm . 1/ THIÊN LỘC . 2/ DƯƠNG QUÝ NHÂN . 3/ÂM QUÝ NHÂN . b/ các Thần sát an theo Chi của Hướng nhà : 4/ ĐÀO HOA . 5/ ĐẠI SÁT . 6/ THIÊN MÃ. 7/ ĐỘC HỎA . 8/ THIÊN HÌNH .

Ý NGHĨA CỦA THẦN SÁT

Đại môn là nơi họa phúc tiến vào hoặc ra đi , là nơi động Khí , nơi Âm - Dương - Ngũ Khí gặp nhau mà tạo ra cát hung ." Họa tòng Khẩu xuất - bệnh tòng Khẩu nhập " . Nghĩa là mọi tai họa , bệnh tật đều do từ miệng mà ra . Có thể nói rằng : Cát , Hung , Họa , Phúc của Dương Trạch đa phần có liên quan đến khẩu Môn , mà điều đó người ta có thể tạo ra được thông qua phép KHAI MÔN THỤ KHÍ. Từ đó có thể tạo ra và quyết định vận mệnh của mình .

1/ THIÊN LỘC :

Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh , đang lên phơi phới , là đúng Đạo sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá . Lộc là cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt . Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng tiến , điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú lại khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh - Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có


Lộc cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên .Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung tài , là Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp .

2/ THIÊN MÃ :

Mã chủ trạng thái động , là tượng của thay đổi , bôn tẩu . Mã ra chính môn thì Gia trạch luôn gặp sự may mắn , tin vui ngất trời , phát tài mau chóng , công việc đều trôi chẩy thuận lợi . Thường sinh ra người khôi ngô , tuấn tú lại hay xuất Ngoại ra ngoài , ăn nên làm ra . Tuy nhiên cũng như Lộc , Mã cần phải Sinh - Vượng , tránh Không vong , Tử , Tuyệt . Gặp Sinh , Vượng thì tốc phát , lại sinh ra người thông minh , cao quý . Gặp Không vong , Tử , Tuyệt thì Giang hồ bôn tẩu nơi xa đểu mưu sinh . Tha phương , cầu thực , công danh thăng giáng thất thường , sự nghiệp thì long đong , lận đận , lại dễ gặp tai nạn về chân tay . Công việc chỉ có đầu mà không có đuôi , thành công ít mà thất bại thì nhiều . Gặp Thoái Khí lại ra cung Đoài trực cùng Đào hoa thì Âm thịnh - Dương suy , con gái dễ phát sinh dâm loạn , con trai chơi bời , nghiện ngập , bại hoại Gia phong . Mã cũng là cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Chỉ có giường ngủ của Nữ là không nên đặt tại Mã cung, nếu đặt phải thì Tâm bất an , không ở yên một chỗ .

3/ QUÝ NHÂN :

Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần , hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động , chí tôn mà có thể trấn được phi phù . Nhà có chính môn ra Qu{ là Đại cát khánh , Gia đạo bình an , hòa thuận , hỉ Khí đầy nhà , luôn gặp may mắn . Quý nhân là sao cứu trợ , là Thần giải tai ách , nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ , gặp ách có người giải cứu , gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh , công danh thành đạt , dễ thăng Quan , tiến chức , học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp . Quý nhân gặp sinh , Vượng , thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên , tướng mạo phi phàm , tính tình nhanh nhẹn , lý lẽ phân minh , không thích mẹo vặt , thẳng thắn mà ôn hòa , khôi ngô tuấn tú . Nếu ngộ Không vong , Tử , Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều , hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh , bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực , người và gia súc bị tổn thất , kiện cáo , thị phi . Lại hay sinh người tính tình cố chấp , bảo thủ mà suốt đời vất vả , không nên người . Quý nhân ra Thai Khí , nếu lại ngộ Đào hoa thì nam , nữ tuy thông minh , tuấn tú , nhưng nam thì hiếu sắc , nữ thì dâm đãng , làm bại hoại Gia phong , lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải , tự vẫn vì tình . Quý nhân là Cát Khí rất tôn qu{ , nên gia vào cung nào cũng rất tốt , ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có Âm Qu{ nhân là đại cát khánh , như vậy sẽ được âm Linh phù trợ . Không được để phòng tắm , nhà vệ sinh vào cung Quý nhân , vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên , nữ nhân thiếu máu , động thai , sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục , làm điếm , cuối cùng phải tự vẫn . Tài sản tiêu


tan , yêu ma hoành hành , gia đình có người bị cướp bóc , chém giết máu me thảm khốc , bệnh tật đau khổ triền miên . Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp khó lường .

4/ THIÊN HÌNH :

Chính Môn gia Hình thì hại vô cùng , vì Hình chủ tù , ngục , kiện tụng , là tượng của chém giết , mổ xẻ , châm chích . Hình gia Môn thì Gia đạo thường xuyên gặp tai họa , tai bay m họa gió từ đâu đưa đến . Những người sống trong nhà này , tuổi thọ bị triệt giảm . Trong người hay mang thương tật , lại dễ xảy ra kiện tụng , hoặc những việc liên quan đến ngục hình . Trai khắc vợ , gái sát chồng . Hình gia Môn cũng thường sinh ra người có tính khí hung bạo , liều lĩnh , bướng bỉnh , ngang tàng và gian trá , lại hay mang tật trong mình , lớn lên ắt phá tán Tổ nghiệp , tha phương cầu thực . Thiên hình gia cung nào cũng hung , nếu nó thất hãm còn đỡ , chứ nếu Miếu , Vượng thì vô cùng nguy hiểm . Giường ngủ hay bàn học của con trẻ , nếu để vào cung Hình thì dù có giỏi giang sáng dạ cũng không may khi thi cử , điểm số không cao . Thiên Hình mà đóng ở cầu thang , lại gặp Mã thì ra Mã què , chủ gặp khó khăn trong công việc , nhất là các thủ tục liên quan đến giấy tờ , thủ tục hành chính . Nếu Hình Vượng thì chủ gặp tai nạn Giao thông , tai nạn thương tích chân , tay . Hình , Lộc đi cùng nhau , chủ hay bị mất cắp , làm ăn đổ bể , thất tài , phá sản , hoặc do làm ăn bất chính mà dính dáng tới Pháp luật . Thiên Hình chỉ nên đặt tại nhà WC , phòng tắm , để yểm , trấn là tốt . Khi ấy Hình không còn hiệu lực tác phát , trở thành vô họa .

5/ ĐẠI SÁT :

Đại sát là sát của Âm Khí , đó là loại đặc biệt độc . Đại sát thường đóng ở tứ Qu{ . Đất của Tuế sát không thể phạm vào , phạm vào ắt thương tổn . Nhà có chính Môn gia Sát là phạm vào cách hung họa nhất , chủ tai nạn chết chóc , ốm đau , bệnh tật . Tai nạn giáng xuống liên miên . Nặng thì mất mạng toàn Gia và chết đến một cách rất thê thảm , khủng khiếp . Nhẹ thì cũng Quan trường bãi miễn , gia sản lụng bại , bần cùng . Tuế Sát mà Gia Môn thì thường sinh ra người yểu tử ( Hữu sinh vô dưỡng ) , hoặc sinh ra người tính tình ương ngạnh , hiếu thắng , hung tơn , nham hiểm , bất nhân nhưng có đầu óc kinh doanh , thủ công , mỹ nghệ . Tuy nhiên vẫn suốt đời vất vả , thường hay mắc nhiều tai ách và chẳng làm nên công cán gì . Loại nhà này chẳng thể ở lâu , phải mau chóng sửa , trị kịp thời . Đại Sát là một sao đại hung họa , nên vào cung nào cũng hung . Giường ngủ hay bàn học của con trẻ , nếu để ở cung Đại Sát , được Sinh , Vượng Khí , thì học tài thi phận , thi cử không may . nếu gặp Tử , Tuyệt thì lười biếng , ham chơi lại hay nói dối . Đặc biệt tối kỵ đặt bàn thờ vào cung Đại Sát , lúc đó sẽ có người điện khùng , hoảng loạn , cũng có thể sinh ra người cờ bạc , nghiện hút , đổ đốn , hư hỏng . Cung Đại Sát chỉ có thể đặt WC hay phòng tắm mà thôi .

6/ ĐỘC HỎA :


Độc Hỏa là khí Hỏa thịnh vượng , là Hỏa khí do sự biến đổi của Âm - Dương tạo ra . Nó chính là khí Liêm Trinh nên mang nhiều sát khí . Độc Hỏa lâm môn thì Hỏa khí vượng , khiến dễ bị Hỏa tai hay bị Hỏa khí bốc lên đầu , mà sinh ra bệnh tật , đồng thời khiến cho những người sống trong nhà hay bị hồ đồ , lỗ mãng . Độc Hỏa lâm môn hay sinh ra những người nóng tính , liều lĩnh , hung bạo , thường làm những chuyện rồ dại . Độc Hỏa lâm môn cũng đồng nghĩa thóai tài , nghèo khổ . Độc Hỏa là hung tinh nên khi đến cung nào cũng không tốt . Tuy vậy , Độc Hỏa là hung tinh nhưng không quyết liệt như Đại sát , Thiên Hình . Do vậy , Độc Hỏa chỉ thật sự gây tác hại khi đến cung đặt bàn thờ hay bếp . Những trường hợp khác có thể châm chước được . Bàn thờ và bếp là hai cung phát hỏa nên không bao giờ đặt bàn thờ và bếp vào cung có Độc Hỏa .

7/ ĐÀO HOA.

KHAI MÔN ĐIỂM THẦN SÁT: 1. Bước 1: Đo toạ hướng của nhà, hướng của cửa (môn khí, đo từ tâm nhà đến tâm của cửa) lấy phân kim theo vòng 60 thấu địa long. Ví dụ: (xem hình vẽ)

2. Bước 2: Trên địa bàn, theo Can của toạ sơn dùng “Ngũ hổ độn” để nạp Can cho 12 địa chi.


3. Bước 3: Căn cứ vào Can Chi phân kim của hướng cửa (đại môn), an các thần sát cho 12 chi, nạp âm theo Can Chi của thần sát là hành của nó.

4. Bước 4: Đặt Can Chi của môn khí vào trung cung chạy thuận đến Can Chi của các thần sát. Ví dụ 1: Nhà toạ T{ (Canh T{) hướng Ngọ (Bính Ngọ), cửa mở hướng Tốn (Tân Tị)


Đặt Tân Tị vào trung cung chạy thuận đến Can Chi của địa bàn (bảng trên), các Can Chi rơi vào cung nào an thần sát tương ứng tại đó.

Ví dụ 2:Nhà toạ T{ (Canh T{) hướng Ngọ (Bính Ngọ), cửa mở hướng Tị (Ất Tị) .


Đặt Ất Tị vào trung cung chạy thuận đến Can Chi trong bảng trên, các Can Chi rơi vào cung nào an thần sát tương ứng tại đó.


Ví dụ 3: Nhà toạ T{ (Canh T{) hướng Ngọ (Bính Ngọ), cửa mở hướng Mùi (Đinh Mùi) .


Để cho rõ thêm , dienbatn đăng lại phần bài viết của Vanhoai trên ( http://www.nhantrachoc.vn)


KHAI MÔN – PHÂN KIM ĐIỂM THẦN SÁT (theo Huyền Không) Trong thời gian qua chúng ta đã tìm hiểu về lý thuyết Huyền Không cũng như ứng dụng của nó. Nay tôi xin trình bày ở một mức cao hơn của Huyền Không (cũng có thể gọi là “Huyền Không” cao cấp). Đó là phương pháp khai môn (mở cửa chính hoặc cổng) dùng phân kim để an thần sát (cát hung) Nếu chúng ta để ý thì sẻ thấy: hai nhà cùng hướng, cùng nhập trạch trong một vận, nhưng vượng suy khác nhau. Đó là vì cách để cửa và bố trí trong nhà khác nhau. Đại môn hay cửa chính là nơi người nhà thường ra vào là nơi động khí mạnh nhất và cũng là nơi rước họa hay đón phúc của mọi người sống trong nhà đó. Phép phân kim điểm thần sát là cách xác định vị trí cửa chính hoặc cổng rồi theo đó mà xác định Thần (cát khí) hay Sát (hung khí) vào trong cửu cung Trước khi đi vào chi tiết cũng xin nhắc lại: Nếu nhà có cửa được vượng khí thì vẫn vượng nhưng nếu cửa đó hợp cách với cách phân kim thì càng vượng hơn, còn nếu thất cách thì cũng giảm đi nhiều phần. Nếu cửa chính là suy tử mà cách phân kim được đắc cách thì sự “hung” sẽ giảm đi nhiều và ngược lại 1-) La kinh phân châm: a- La kinh thông thường: Ngoài cách phân bổ vòng tròn của la bàn ra làm 24 cung người ta còn phân làm 60 cung , mỗi cung 6’ gọi là “phân châm”.


b- Phân châm theo Huyền Không: Cách phân châm theo cách trên có nhược điểm là hay bị vào tuyến “đại không vong” hoặc “tiểu không vong”. Theo Huyền không thì phân châm mỗi cung 3’ vị chi là 120 cung. Cách này được Thẩm trúc Nhưng (tác giả cuốn Thẩm Thị Huyền Không) phát triển và dùng cho tới ngày nay.


Muốn áp dụng phương pháp Phân kim điểm thần sát đòi hỏi người xem phải có kinh nghiệm đồng thời dụng cụ đo đạc cần chính xác vì chỉ cần lệch một chút là đã cho kết quả khác, đặc biệt là tìm tâm nhà. Đặt la kinh vào tâm nhà để xác định TÂM cửa chính nằm trong cung nào. 2-) Thần Sát: Thần sát có hai loại cát, hung. Gồm: Cát Dương quí nhân Âm quí nhân Thiên lộc Thiên mã Đào hoa Hung Đại sát


Thiên hình Độc hỏa 3-) Lục thập Hoa Giáp Là những cặp phối hợp giữa 10 can và 12 chi, được 60 cặp gọi là Lục Thập Hoa Giáp

4/ An Thần Sát: Thần Sát được tính toán dựa vào: - Phân kim tọa sơn nhà - Phân kim Đại môn hoặc Cổng (thành môn) An Thần Sát gồm hai bước: Bước I : · Lấy can chi của Đại môn (hay cổng) để tìm chi của thần sát . Như vậy ta sẻ có hai đồ hình, một của đại môn và một của thành môn. · Lấy Phân kim của Tọa sơn nhà để tìm can của Thần Sát. Can của thần sát dựa trên can phân kim của tọa sơn nhà theo phép Ngũ Hổ độn. Phép Ngũ Hổ độn là phép tìm can tháng dựa vào can của năm theo bài ca quyết sau: Giáp Kỷ chi niên Bính tác thủ


Ất Canh chi tuế Mậu vi đầu Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng Đinh Nhâm, Nhâm dần thuận hành lưu Duy hữu Mậu Quí hà phương Giáp Giáp Dần chi thượng hảo suy cầu Có nghĩa là Phân kim tọa sơn là giáp hay kỷ thì can khởi là Bính, can tọa là Ất hay Canh thì can khởi là Mậu, Can tọa sơn là Đinh hay Nhâm thì can khởi là Nhâm, Can tọa sơn là Mậu hay quí thì can khởi là Giáp. Sau đó đặt can khởi tại chi Dần rồi an tiếp các chi còn lại theo vòng “Lục Thập Hoa Giáp”. Thí dụ: Can khởi là Mậu thì đặt vào chi khởi là Dần tức Mậu Dần và các can chi tiếp theo là Kỷ Mão, Canh Thìn,… Hoặc Can Khởi là Canh thì đặt vào chi khởi là Dần tức Canh Dần và các can chi tiếp theo là Tân Mão, Nhâm Thìn,…

Bước II : Đặt phân kim đại môn nhập trung cung rồi an tiếp các can chi tiếp theo của vòng “lục thập hoa giáp” vào cửu cung theo vòng “lường thiên xích” thuận. Cứ hết 9 cung thì lại cho nhập trung cung rồi an tiếp cho tới hết. Thay thế can chi bằng Thần sát có can chi đó.

Nhà mà Phân kim cổng và phân kim đại môn trùng nhau (tức cửa và cỗng thẳng nhau) thì không nói gì. Nếu cổng bố trí khác với đại môn thì việc đặt cổng như thế nào để đại môn ra cát khí: Lộc, Mã, Quí nhân chứ không phải là Đại sát, Thiên Hình, Độc Hỏa đòi hỏi trình độ cao và đặc biệt phân kim đại môn lại được song tinh cát khí (Lộc+Mã), (Lộc+Quí), (Quí+Mã) hay Phân kim cổng và phân kim Đại môn để đại môn ra tam tinh cát khí (Lôc+Mã+Quí Nhân) lại thêm vượng khí đến đại môn hoặc đắc thành môn thì không còn gì bằng, cách này trong khoa địa lý gọi là đắc “tam hội liên châu” cực quí hiển và tốt đẹp.

5-) Kích Thần, chế sát: Ngoài cách bố trí thủy hỏa trong nhà cho phù hợp với Thần sát còn phải biết kích thần, chế hóa sát. Đây là nét độc đáo của Huyền Không. Trong Huyền Không , sau khi đã an tinh bàn Ta biết được trong một cung có nhiều sao mang tính chất ngũ hành khác nhau mà sinh hay khắc nhau. Nay ta biết thêm được Thần sát đến cung đó mang tính ngũ hành dựa vào can chi của Thần Sát đó. Nếu tính chất ngũ hành trong cung tăng được cho ngũ hành của thần hoặc chế hóa ngũ hành của sát thì thật tốt đẹp. Bằng không ta cần đến vật khí phong thủy hầu kích thần chế sát vậy. Thi du: phân kim đại môn là giáp thìn, phân kim của tọa sơn là Đinh hợi Phân kim đại môn là giáp thìn, tra bảng Can giáp thì chi thần sát: Thiên Lộc - Dần Âm quí nhân - sửu


Dương quí nhân - Mùi

Chi Thìn thì chi thần sát: Thiên mã - Dần Đào hoa _ Dậu Đại sát - Mùi Thiên Hình - Thìn Độc Hỏa - Tị Tọa sơn nhà là Đinh Hợi, dùng Ngũ Hổ độn cho can Đinh thì khởi là Nhâm tức Nhâm Dần rồi an tiếp : Nhâm dần. quí mão, giáp thìn,... Như vậy can chi thần sát sẽ là : - Thiên lộc - Nhâm dần - Âm quí nhân - quí sửu - Dương quí nhân - Đinh mùi - Thiên mã - nhâm dần - Đào Hoa - Kỷ dậu - Đại sát - Đinh mùi - Thiên hình - Giáp thìn - Độc hỏa - Ất tị Đặt phân kim đại môn vào trung cung phi thuận theo lường thiên xích ta được:

Nhâm tý .......Mậu thân .........Canh tuất

Tân hợi ....Giáp thìn...........Bính ngọ

Đinh mùi ......Kỷ dậu..............Ất tị

Rồi lại cho tiếp Quí sửu nhập trung cung rồi phi tiếp ta được

Tân dậu......Đinh tị........Kỷ mùi


Canh thân..........Quí sửu........Ất mão

Bính thìn........Mậu ngọ............Giáp dần

Rồi lại cho Nhâm tuất nhập trung cung rồi phi tiếp……..

Thay thế các can chi trên bằng thần sát ta được

………..X...........Thiên lộc.................X....... ........................Thiên mã

............X..........Âm quí nhân.............X....... .......................Thiên hình

Đại sát...............Đào hoa...........Độc hỏa Dương quí nhân. Cho Giáp thìn nhập trung cung rồi an các can chi trong lục thập hoa giáp theo vòng "lường thiên xích thuận"

49.....................45............................47............

48.....................41Giáp thìn..............43............

44Đinh mùi ......46Kỷ dậu.................42Ất tị

Rồi lại cho tiếp 50Quí sửu nhập trung cung rồi phi tiếp ta được

58...........................54....................56...........

57.......................50Quí sửu............52...........


53.......................55.........................51

Rồi lại cho 59Nhâm tuất nhập trung cung rồi phi tiếp…….. Sau cùng là 35Mậu tuất nhập trung cung

...................39Nhâm dần..........................

...................35.........................37.............

38...............40.........................36.............

Sau cùng thay thế các can chi trên bằng Thần Sát mang can chi đó. KHAI MÔN – PHÂN KIM ĐIỂM THẦN SÁT (tiếp theo) Nhà tọa Ất hướng Tân 287’ vận 8 Thành môn ở Hợi 330' (có ngã tư). Cửa mở tại cung Tân và Dậu là có vượng khí. Tọa sơn 107’ Quí mão, Cửa chính mở tại 283’ Ất dậu, cổng mở tại 321’ Nhâm Tuất 1- An Thần sát của phâm kim Ất Dậu · Chi Thần sát theo can Ất: - THIÊN LỘC : Mão - ÂM QUÍ : Tý - DƯƠNG QUÍ : Thân · Chi Thần sát theo chi Dậu: - THIÊN MÃ :Hợi - ĐÀO HOA : Ngọ - ĐẠI SÁT : Thìn - THIÊN HÌNH : Dậu - ĐỘC HỎA : Thân


· Can Thần sát theo can của tọa sơn Quí Mão khởi từ Giáp Dần (51)(can theo ngũ hổ độn của Quí là Giáp) - (51) Giáp Dần - (52) Ất Mão _ THIÊN LỘC - (53) Bính Thìn _ ĐẠI SÁT - (54) Đinh Tị - (55) Mậu Ngọ _ ĐÀO HOA - (56) Kỷ Mùi - (57) Canh Thân _ DƯƠNG QUÍ, ĐỘC HỎA - (58) Tân Dậu _ THIÊN HÌNH - (59) Nhâm Tuất - (60) Quí Hợi _ THIÊN MÃ - (1) Giáp Tý _ ÂM QUÍ Lấy Ất Dậu (22) nhập trung cung bay thuận (vòng 1) _ Giáp Ngọ (31) nhập trung cung bay thuận (vòng 2) _ Quí Mão (40) nhập trung cung bay thuận (vòng 3) _ Nhâm Tý (49) nhập trung cung bay thuận (vòng 4) ta được.

57……….53………….55

56……….49………….51

52……….54………….50

_ Tân Dậu (58) nhập trung cung bay thuận (vòng 5) ta được

6………..2…………4

56……..58……….60

1………..3………..59


Thay số bằng thần sát…… 2- An thần sát của phân kim Nhâm Tuất: Tương tự như trên ta được: - Thiên lộc _ Quí Hợi (60) - Âm Quí _ Giáp Tý (1) - Dương quí _ Ất Mão (52) - Thiên Mã _ Canh Thân (57) - Đào Hoa _ Ất Mão (52) - Đại sát _ Ất sửu(2) - Thiên Hình _ Ất sửu (2) và Kỷ Mùi (56) - Độc hỏa _ Quí Hợi ( 60) Sau đó cho Nhâm Tuất (59) nhập trung cung bay thuận………….. - Phân kim theo cửa Ất Dậu thì cửa chính được THIÊN MÃ. - Phân kim theo cổng Nhâm Tuất thì cửa chính được Âm Quí. - THIÊN MÃ Có hành là thủy theo hành của Quí hợi. Cung hướng Tây có (8-1-8) là Thổ (8-8) sanh kim (cung đoài) rồi kim sanh thủy (1), như vậy là được THIÊN MÃ vượng.


MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ MÔN KHÍ CỬU CUNG ĐIỂM THẦN SÁT ĐÁNG LƯU Ý :

* "Theo ngu ý của riêng tôi thì Phong Thủy học của thầy Trần Mạnh Linh mang tính sử dụng tổng hợp các kỹ thuật của các phái: Bát Trạch, Huyền Không, thêm cả chút Lý Số Phong Thủy (Khai Môn Điểm Thần Sát). Thực ra các cái mà bạn thấy ghi là Độc Hỏa, Kiếp Tài, Thôi Quan ...đều là những cách cục Huyền Không mà thôi, các tên này phần thì cũng đã có trong các sách cổ, phần cũng được thấy Mạnh Linh đặt ra để người học dễ nhớ. Còn như phân ra làm 8 cung, cái gọi là Nguyên Khí chính là được Phúc Nguyên của Bát Trạch mà thôi. Còn cái gọi là Khai Môn Điểm Thần Sát thì bắt nguồn từ thuyết Thần Sát có từ đời Hán, thuyết này gây ra nhiều tranh cãi, bởi có rất nhiều Thần Sát không có được lý giải thích hợp, rất có thể do các Phương Sĩ đời xưa đưa ra để hù thân chủ ... :x . Hơn nữa Thần Sát hay được dùng trong Tứ Trụ Toán Mệnh, chứ ít thấy nói đến trong Phong Thủy. Huyền Không chỉ hay nói đến Ngũ Hoàng Liêm trinh, Tam Hợp thì nói Tam Sát ..... Tóm lại tôi thấy sách của Thầy Trần cũng là dùng tổng hợp các kiến thức hiện có của các sách Phong Thủy, Kinh Dịch, Mệnh Lý có ở Việt Nam, nhưng ông đã dùng cách biến hóa tên gọi để làm mới cho sách của mình. Bằng chứng là ông đánh giá rất thấp Bát Trạch, như vậy ông chưa hề biết đến Bát Trạch Chân Pháp. Huyền Không thì ông chỉ dừng ở mức dùng cách cục, chưa thấy sử dụng được Linh thần, Lưu thần...." * "Mang cửu tinh đặt đủ thứ tên làm rối người ta. Nào là 4-9 làm Phúc đức; 4-7 làm Đào hoa; 3-7 làm Kiếp tài... Ông ấy không biết rằng Thần-Sát định cát hung, Cửu Tinh đo lường vượng suy. Mang hai cái này ghép lại rồi nói là Nguyên khí, thật hết sức tưởng tượng. Tam Hợp qu{ Âm long mà xem thường Dương long vì Âm long ở được các ngôi tôn quý của Thiên tinh nên phát phú qu{ lâu dài hơn Dương long, Dương long thì bạo phát bạo tàn. Tuy nhiên nếu Dương long đắc cách


còn hơn âm long trung bình. Đây là luận về Âm Dương long của Tam hợp phái. Nói Nguyên khí là khí Âm tĩnh phát chậm lực mạnh so với cách luận của Tam hợp như trên còn quá khiên cưỡng. Chưa nói đến Nguyên khí thực chất là Khí nhất nguyên, nói Khí nhất nguyên là khí Âm là đã sai lắm rồi." http://khonggian4chieu.freeforums.org/ dienbatn : Đây là một tài liệu về Phong thủy cũng đáng để nghiên cứu. Nếu hiểu rõ , chúng ta cũng có được một số kiến thức về Lý Khí.

7/ CÁCH ĐẶT BẾP .

DI YÊN HẠ HOẢ (Phép đặt bếp)

(1) Vị trí đặt bếp (chiếm 5 điểm): Chọn các cung tốt trong cửu cung (Lộc, Mã, Qu{ Nhân. Chưa có gia đình có thể đặt ở Đào hoa, Thiên Mã).

2) Đặt bếp tại các cát sơn (chiếm 3 điểm): (a) Đặt bếp theo vòng lục diệu: Nhất long, Nhị Vũ, Tam Âm, Tứ Hổ, Ngũ Xà, Lục Trận Trong đó Nhất Long, Tứ Hổ là cát các cung còn lại là hung. Theo toạ sơn của nhà để tính, không căn cứ vào toạ sơn của phòng bếp. Trường hợp bếp nằm thành nhà riêng tách rời độc lập, khác mái với nhà thì tính cung của nhà bếp riêng (cũng chia nhà bếp thành 9 cung và tính toán như tính với một cái nhà). Vị trí của nhà bếp nằm riêng này căn cứ vào toạ, hướng của nhà chính để chia thửa đất thành 9 cung và chọn cung tốt về huyền không và không có các thần sát xấu mà dựng bếp.

Cách tính: Nhà toạ NHÂM, TÝ, BÍNH, NGỌ, GIÁP, MÃO, CANH, DẬU khởi Nhất Long tại NHÂM TÝ, sau chạy thuận cứ hai sơn một cung Nhị Vũ, Tam Âm, Tứ Hổ, Ngũ Xà, Lục Trận Nhà toạ CẤN, DẦN, KHÔN, THÂN, TỐN, TỊ, CÀN, HỢI khởi Nhất Long tại QUÝ SỬU. Nhà toạ ẤT, THÌN, CANH, TUẤT, QUÝ, SỬU, ĐINH, MÙI khởi Nhất Long tại


CÀN HỢI. Đông tứ mệnh đặt Nhất long tốt hơn. Tây Tứ mệnh đặt Tứ hổ tốt hơn Bảng lập sẵn để tra

Ngoài ra còn dùng kết hợp cung Phi mệnh chủ với cửu cung của 24 hướng để tìm thêm các vị trí tốt xấu của bếp (Sự kết hợp này giúp chúng ta sử dụng trong trường hợp không tìm được vị trí Nhất Long, Tứ Hổ phù hợp khi xây sửa nhà, hoặc kết hợp cả hai để lấy cái tối ưu) - Nhâm, Thìn, Ngọ, Đinh, Thân thuộc Khảm - Tý, Dần, Bính, Tân, Tuất thuộc Ly - Quý, Khôn thuộc Khôn - Sửu, Ất, Tị, Canh thuộc Đoài . - Cấn, Dậu thuộc Cấn - Giáp, Mùi, Hợi thuộc Chấn - Mão, Tốn thuộc Tốn - Càn thuộc Càn Nếu đặt bếp, mệnh trạch chủ phối với khu vực đặt bếp ra: - Sinh khí là Phúc tinh Tốt nhất - Phục vị là Quý tinh Tốt nhất - Thiên y là Thọ tinh Tốt thứ 2 - Diên niên là Tài tinh Tốt thứ 3


- Lục Sát là Sát tinh Xấu - Ngũ Quỷ là Hao tinh Xấu - Tuyệt mạng Xấu - Hoạ hại Xấu Bếp ra Phúc tinh: là tốt nhất, vị trí này phù hợp với bếp có Mộc dưỡng Hoả như nguồn dưỡng mệnh. Nếu lại được âm dương Qu{ nhân hợp cách nữa thì có thể chế ngự được hung sát, tăng cường phúc khí cho ngôi nhà. Bếp ra Qu{ tinh: cũng như Phúc tinh, Qu{ tinh có Mộc khí nuôi dưỡng táo hoả qu{ hoá như viên ngọc châu gia truyền linh bảo trong nhà. Nếu được cùng âm dương Quý nhân hợp cách nữa thì chủ quý hiển vinh hoa, giải trừ hung hoạ, chế phục cát tinh. Nếu đã đủ các yếu tố đã nêu mà lại ra vào cung tử tức nữa thì là phép dùng hoả cầu tự. Phép này các bậc tiền nhân đã dùng, linh diệu thật khó lường. Bếp ra Thọ tinh: tức phép lấy chân hoả hậu thiên bổ khuyết cho hoả hầu tiên thiên mà kéo dài tuổi thọ. Phép này nếu được cùng với thái cực Đào hoa ra vào cung Diên thọ là cầu thọ pháp. Bếp ra Tài tinh: là vị trí được đánh giá thấp nhất trong 4 vị trí cát, nó chủ về phát tài lộc. Lấy tài tinh là dùng nguyên l{ “Ngã khắc giả vi tài”, dùng hoả đốt chảy nguyên tinh chân phách mà dẫn nhập thành tài. Nói cách khác là cách này dùng chân hoả hậu thiên hỗ trợ đốt chảy nguyên tinh (phách) của chính mình mà dẫn nhập biến thành tài. Cũng tựa như một người hút lấy tuỷ cốt của mình để mà ăn. Tài quá vượng thì tự đốt cháy hết phách, con cháu không được nhờ, không được hưởng gì. (3) Hướng cát theo vòng du niên bát biến ( cùng với kỵ ở dưới thì đạt 2 điểm):


So mệnh chủ nhà với hướng bếp (từ sau bếp nhìn tới trước), được Sinh Khí, Thiên y, Diên niên là tốt. Trường hợp vợ chồng Đông Tây tứ trạch khác nhau thì có thể lấy hợp với vợ để san sẻ cái tốt cho vợ, nhất là đối với người vợ nhiều bệnh tật. (4) Kỵ: - Kỵ đặt bếp tại vị trí Hoàng tuyền, Bát sát.

(4) Kỵ: - Kỵ đặt bếp tại vị trí Hoàng tuyền, Bát sát. - Kỵ bếp trực xung với cổng và cửa nhà: chủ về hao tài, sinh ra ăn uống tụ tập, trẻ em lười học. - Kỵ thuỷ hoả tương xung: bếp cạnh nước, hoặc trên hoặc dưới nơi chứa nước (cách khoảng 80cm là được). - Kỵ xú uế: chủ trong nhà có bệnh tật, ốm đau, sức khoẻ kém (nhà có mùi không khí tanh khoảng 10 đến 30 ngày dễ có tang). - Kỵ bị thực khí xung xạ đè nén (trên có dầm nhà, góc chéo dưới gầm cầu thang,


góc nhọn chiếu vào bếp...): chủ nhà bế tắc không hanh thông. (5) Những vị trí cần phải kiêng tránh đặt bếp: Nhà toạ Càn kiêng đặt bếp tại Bính. Nhà toạ Cấn kiêng đặt bếp tại Ất. Nhà toạ Đoài, Khôn kiêng đặt bếp tại Quý. Nhà toạ Chấn, Tốn kiêng đặt bếp tại Canh. Nhà toạ Khảm, Ly kiêng đặt bếp tại Giáp. (Mệnh chủ, hướng nhà cũng nên kiêng như vậy)

8. TRẤN TRẠCH:

(1) Trấn hướng nhà không hợp:

Hướng nhà không hợp mệnh dùng bếp để trấn. Dùng hướng cát của bếp (là chiều từ bếp nhìn ra ngoài). Hướng nhà Tuyệt mệnh dùng táo quay hướng Thiên y. Hướng nhà Ngũ Quỷ dùng táo quay hướng Sinh khí. Hướng nhà Hoạ hại, Lục sát dùng táo quay hướng Diên niên. Mức độ trấn tuz thuộc sự sinh vượng của Thiên y, Sinh khí, Diên niên. Dùng hướng bếp so với sơn chủ và mệnh chủ. Ví dụ: Sơn chủ (lưng nhà) Tốn hướng Càn, mệnh Tốn. Bếp quay hướng Bắc (Khảm) kết hợp với Tốn được Sinh khí mộc. Sinh khí được Khảm thuỷ sinh.

Ví dụ: Mệnh Khảm. Nếu nhà sơn chủ Khôn (Tuyệt mạng) dùng bếp hướng Chấn là Thiên y (thổ). Nếu nhà sơn chủ Khôn (Tuyệt mạng) dùng bếp hướng Tốn là Sinh khí (mộc). Nếu nhà sơn chủ Khôn (Tuyệt mạng) dùng bếp hướng Ly là Diên niên (kim). Dùng khí tạo ra bởi hướng bếp với với mệnh chủ (cùng Đông Tây): Sinh khí (Mộc), Thiên y (Thổ), Diên niên (Kim) so sánh với quẻ của sơn chủ (lưng nhà)

Ví dụ: Mệnh Tốn.


Phương Khảm (1) sinh khí. Sơn chủ (lưng nhà) Càn (6) 1 + 6 = Thuỷ hợp với Tốn mộc 2 + 7 = Hoả 3 + 8 = Mộc 4 + 9 = Kim 6 + 1 = Thuỷ Ví dụ: Ly mệnh, nếu lưng nhà là Cấn (hợp thành Ngũ quỷ) đặt bếp Chấn (hợp thành Sinh khí) giáng Ngũ quỷ, tốt vì 8 + 3 = Mộc. So sánh: Mệnh Ly Hoả. Khí bếp Sinh khí Mộc. Sơn chủ Cấn Thổ. Vì Thổ của Cấn sinh mộc (8 + 3 = Mộc) làm cho mộc tiên thiên càng vượng. Nếu lưng nhà Khôn thì bị khắc thực sự.

(2) Trấn cửa không hợp cách (theo vòng Phúc đức gặp phải sao xấu):

PHÉP DI YÊN HẠ HOẢ: - Nhâm, Thìn, Ngọ, Đinh, Thân thuộc Khảm - Tý, Dần, Bính, Tân, Tuất thuộc Ly - Quý, Khôn thuộc Khôn - Sửu, Ất, Tị, Canh thuộc Đoài - Cấn, Dậu thuộc Cấn - Giáp, Mùi, Hợi thuộc Chấn - Mão, Tốn thuộc Tốn - Càn thuộc Càn Ví dụ: Nhà toạ Canh hướng Giáp. Bếp đặt tại Qu{ sơn. Mệnh chủ là nam sinh năm 1973 (Ly).

Qu{ sơn đặt bếp thuộc quẻ Khôn Mệnh chủ là Ly Sơn Qu{ nơi đặt bếp thuộc quẻ Khôn (nếu di chuyển thì là sơn nơi mới đến)


Nhà toạ Canh theo cách tính vòng Lục Diệu thì bếp Qu{ rơi vào Nhị Vũ (xấu) Mệnh chủ sinh năm Qu{ Sửu 1973 tính ra cung sinh là Tốn 4. Từ quẻ Minh Di chi Khôn ta bỏ đi hào 4, còn lại 8 hào. tiếp tục bỏ hào 1 và 9 còn lại 6 hào là quẻ Dự

(a) Cấp độ 1: (Đưa bếp về Nhất Long hay Nhị Vũ... để tân táo hợp với mệnh chủ) Lần đầu chuyển chỉ cần chọn ngày đẹp như thông thường

Qu{ sơn đặt bếp thuộc quẻ Khôn Mệnh chủ là Ly Tân táo: chọn cùng Đông Tây tứ trạch với mệnh chủ (Ví dụ T{ sơn) . Mệnh chủ sinh năm Qu{ Sửu 1973 tính ra cung sinh là Tốn 4. Từ quẻ Minh Di chi Hoả ta bỏ đi hào 4, còn lại 8 hào. tiếp tục bỏ hào 1 và 9 còn lại 6 hào là quẻ Giải.


Khảm với Chấn tạo thành khí Thiên y (Cự môn 8), đẹp. Lấy số của sao nhân với số cung Phi của mệnh chủ (Ly 9): 72 9 8 = × vậy sau 72 ngày thì việc chuyển tới nơi mới của bếp mới có hiệu lực, lúc đó mới có thể chuyển dịch tới nơi khác nếu muốn. (b) Cấp độ 2: (Để tạo ra quẻ lục hào là khí cát, có tác dụng chế cửa bị ra sao xấu của vòng Phúc đức) Sau 72 ngày chọn ngày đẹp để chuyển bếp * Phương án thứ nhất là chuyển về Bính (thuộc quẻ Ly) là nhất Long

Cựu táo T{ sơn Phục vị Mệnh chủ là Ly Phục vị Tân táo: Bính Nhất Long

Phục vị

Mệnh chủ sinh năm Qu{ Sửu 1973 tính ra cung sinh là Tốn 4. Từ quẻ Thuần Ly chi Hoả ta bỏ đi hào 4, còn lại 8 hào. tiếp tục bỏ hào 1 và 9 còn lại 6 hào là quẻ Khốn. Đoài với Khảm tạo thành khí Hoạ hại , xấu. không dùng phương án này.

* Phương án thứ hai:


Cựu táo T{ sơn Phục vị Mệnh chủ là Ly Tân táo: Ngọ Mệnh chủ sinh năm Qu{ Sửu 1973 tính ra cung sinh là Tốn 4. Từ quẻ Thuần Ly Hoả ta bỏ đi hào 4, còn lại 8 hào. tiếp tục bỏ hào 1 và 9 còn lại 6 hào là quẻ Tuz.

Đoài với Chấn tạo thành khí Tuyệt mạng, xấu. không dùng phương án này. * Phương án thứ ba: Cựu táo T{ sơn Mệnh chủ là Ly Tân táo: Cấn

Mệnh chủ sinh năm Qu{ Sửu 1973 tính ra cung sinh là Tốn 4. Từ quẻ Thuần Ly chi Hoả ta bỏ đi hào 4, còn lại 8 hào. tiếp tục bỏ hào 1 và 9 còn lại 6 hào là quẻ Khốn.

Đoài với Khảm tạo thành khí Hoạ hại , xấu. không dùng phương án này.


Chỉ dùng hai cấp độ là phải ra quẻ đẹp. Quẻ lục hào ra khí tốt thì có tác dụng chế hoá được cửa xấu. Còn nếu chỉ ra được quẻ đẹp thì chỉ có nghĩa là vị trí đặt bếp đó đẹp. Ý NGHĨA CỦA PHÉP DI YÊN HẠ HOẢ: Táo đặt ở Nhất Long: Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Sinh khí thì chế được cửa Bại tuyệt và Xương dâm. Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Thiên y thì chế được cửa Ôn hoàng và Thiếu vong. Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Diên niên thì chế được cửa Khốc khấp và Khẩu thiệt. Táo đặt ở Tứ Hổ: Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Sinh khí thì chế được cửa Cô quả và Tự ải. Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Thiên y thì chế được cửa Điên cuồng và Trường bệnh. Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Diên niên thì chế được cửa Pháp trường và Tố tụng. http://www.nhantrachoc.vn/archive/index.php?t-4307-p-3.html&s=d42ebd9bb6eb89dc5f8e251eea2ecdc5

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 15. PHONG THỦY LUẬN . Phần 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG. MỘT SỐ QUY TẮC CỦA CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG. 8/ MỘT SỐ TÀI LIỆU CỦA CỤ TRITRI VỀ HUYỀN KHÔNG ĐÁNG CHÖ Ý. ( dienbatn giới thiệu và xin cảm ơn cụ TriTri ) A/ TÂM ĐIỂM LẬP CỰC.


B/ CÁCH ĐO HƢỚNG NHÀ.


C/ SONG TINH Phần này tƣơng tự nhƣ của Trần Mạnh Linh.

PHỐI

CÁT

-

HUNG.









D/

VẬN

8

-

24

AI

TINH

ĐỒ

GIẢI.




( E/

Tài

liệu

này TRỰC

cụ

TriTri

đang HƢỚNG

viết

dở

). ĐỒ.












PHONG THỦY LUẬN . BÀI 16. PHONG THỦY LUẬN . Phần 2 : KHẢO QUA HUYỀN KHÔNG. MỘT SỐ QUY TẮC CỦA CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG. 8/ MỘT SỐ TÀI LIỆU CỦA CỤ TRITRI VỀ HUYỀN KHÔNG ĐÁNG CHÖ Ý. ( dienbatn giới thiệu và xin cảm ơn cụ TriTri ). G/ Ngọc Liễn Kinh 24 hƣớng cửa cát hung.









H/ Môn

Lâu

Ngọc

Liễn

Kinh

khởi

Pháp.


Ngọc

Liễn

Đoài

Trạch

Khai

Môn

phóng

thủy



Ngọc

Liễn

Khôn

Ngọc

Liễn

Ly

Trạch

Trạch

Khai

Khai

Môn

Phóng

Thủy

môn

Phóng

Thủy


Ngọc

Liễn

Tốn

trạch

Khai

Môn

Phóng

Thủy


Ngọc

Liễn

Chấn

Trạch

Khai

Môn

phóng

thủy.


Ngọc

Liễn

Cấn

Trạch

khai

môn

phóng

thủy.



Ngọc

Liễn

Khảm

Trạch

khai

Môn

Phóng

Thủy.


Ngọc

Liễn

Càn

Trạch

Khai

Môn

Phóng

Thủy.


PHONG THỦY LUẬN . BÀI 17 PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 3 : KHẢO QUA MÔN CẢM XẠ PHONG THỦY.


Lời bạt : Theo http://vi.wikipedia.org/. "Cảm xạ là khả năng nhạy cảm của con ngƣời với bức xạ của vật thể. Cảm xạ (tiếng Pháp: radiesthésie; tiếng Anh: radiesthesia; xuất phát từ tiền tố radi- trong tiếng Latin có nghĩa là "phóng xạ" và từ aisthesis trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "nhạy cảm") chỉ kỷ thuật thực hành tìm kiếm các dòng nƣớc ngầm, khoáng vật hoặc các vật thể bị giấu kín hoặc chôn vùi, bằng những dụng cụ đặc biệt nhƣ đũa, con lắc v.v., không sử dụng máy móc thiết bị khoa học. Cảm xạ đƣợc thực hành rộng rãi , mặc dù thiếu bằng chứng khoa học về công dụng của nó. Ở nhiều nƣớc, cảm xạ đƣợc coi là giả khoa học (pseudoscience) và phần lớn các cuộc khảo nghiệm khoa học đƣợc tiến hành nghiêm túc đã chỉ ra rằng các nhà cảm xạ không thể tìm đƣợc các vật thể bị che giấu với hiệu quả lớn hơn kết quả hoàn toàn ngẫu nhiên. Song cũng có nƣớc, ví dụ Ba Lan, định nghĩa cảm xạ là khoa học nghiên cứu việc phát ra các ion bởi các chất không phóng xạ. Cảm xạ tồn tại dƣới các hình thức khác nhau từ hàng ngàn năm trƣớc. Nguyên thuỵ có thể cảm xạ phục vụ mục đích bói toán (divination) – bói ý chí của các thần, tiên đoán tƣơng lai và tìm tội lỗi trong xét xử. Cảm xạ đƣợc thực hành nhƣ ngày nay có lẽ bắt nguồn ở nƣớc Đức trong thế kỵ 15, khi đƣợc sử dụng để tìm kim loại. Kỷ thuật này đã đƣợc truyền bá sang Anh bởi các ngƣời khai mỏ Đức đến làm việc trong các mỏ than tại đó. Trong thời Trung cổ, cảm xạ gắn kết với Quỵ dữ . Năm 1659 cảm xạ bị Gaspar Schott tuyên bố là thuộc Sa-tăng. Năm 1701 Toà án Dị giáo (Inquisition) thôi sử dụng đũa cảm xạ trong xét xử. Cuối thập niên 1960 trong thời gian Chiến tranh Việt Nam, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ hình nhƣ đã dùng cảm xạ hòng để định vị vũ khí và các địa đạo. Một quyển sách lớn về lịch sử cảm xạ đƣợc ông Christopher Bird phát hành năm 1979 dƣới nhan đề Cánh tay bói toán. Nói chung các nhà cảm xạ sử dụng que dò hoặc đũa hình chữ Y hoặc chữ L để hỗ trợ việc tìm kiếm, tuy nhiên một số nhà cảm xạ hoàn toàn không dùng thiết bị nào hoặc dùng các dụng cụ khác. Hiện nay dụng cụ cảm xạ rất phong phú và đa dạng. Nhiều nhà cảm xạ sử dụng đũa đơn giản bằng đồng (brass) uốn gập hình chữ L đƣợc gọi là đôi đũa bói (divining rods); nhũng ngƣời khác sử dụng đũa hình chữ Y bằng gỗ và thậm chí cái mắc áo bằng dây sắt uốn cong. Theo ý kiến một số nhà cảm xạ sử dụng đũa bói, đồng cho phép đũa hoà hợp với từ trƣờng mà mục tiêu phát ra không bị trƣờng điện từ của Trái Đất gây nhiễu nhƣ trong trƣờng hợp kim loại nhƣ thép. Điểm mút của đũa đƣợc nhà cảm xạ cầm thƣờng đƣợc bọc trong vật liệu cung cấp trở kháng (impedance) điện bất biến, để tránh cho tính dẫn điện (conductivity) của bản thân nhà cảm xạ khỏi bị nhiễu bởi quá trình cảm xạ. Con lắc (pendulum), nhiều khi chỉ là một miếng pha lê treo dƣới dây xích, hoặc một cục kim loại đôi khi đƣợc dùng trong việc bó và trong dò nƣớc ngầm. Con lắc thƣờng dùng nhất là: Lắc inox hình giọt nƣớc Antoine Luzy, Lắc thạch anh tròn, Đũa L bằng inox, Đũa Michel,


Lắc Thạch anh Lắc Ai Cập Một phƣơng pháp sử dụng con lắc là đầu tiên ngƣời ta xác định phƣơng hƣớng (trái-phải, lênxuống) sẽ biểu thị “có” hoặc “không”, trƣớc khi tiến hành hỏi con lắc một câu cụ thể. Phƣơng pháp khác là sử dụng con lắc với cảm xạ đồ - tờ giấy hoặc miếng vải có viết chữ “có” và/hoặc chữ "không” lên trên, cũng có thể là các từ khác đƣợc viết trong đồ hình tròn, bán nguyệt, cánh quạt, đa giác,... trên tờ giấy hoặc miếng vải. Ngƣời cầm con lắc cố ý giữ nó đứng yên hết sức trên trung tâm. Ngƣời xem bói có thể đƣa ra các câu hỏi đối với ngƣời cầm con lắc, và sau một lát con lắc đung đƣa chuyển động cả khối vô thức theo hƣớng câu trả lời. Trong quá khứ, thực hành cảm xạ chỉ đƣợc dùng để dò tìm các mạch nƣớc nằm sâu dƣới lòng đất. Ngày nay cảm xạ đƣợc sử dụng phục vụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau: Y học Kinh doanh Nông nghiệp Khảo cổ học Ẩm thực Hình sự Địa sinh học, phong thuỵ, kiến trúc, xây dựng Khí tƣợng, thuỵ văn Tìm mỏ quặng, mạch nƣớc ngầm, kho báu Tìm kiếm vật dụng hay ngƣời mất tích Xác định giới tính Tìm hiểu tâm lý Chiêm tinh, dự đoán tƣơng lai Đến nay chƣa có nhà khoa học nào ở Việt Nam thử lý giải công việc cảm xạ; chỉ có bác sĩ Dƣ Quang Châu, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Cảm xạ Địa sinh học, trực thuộc Đại học Hồng Bàng, Thành phố Hồ Chí Minh đề cập tới cơ sở khoa học của cảm xạ trong các giáo trình giảng dạy từ các khía cạnh: Sự phát xạ của mọi vật thể và sóng hình dạng; Mối quan hệ hỗ tƣơng giữa các bức xạ của vũ trụ và Trái Đất; Sinh từ tính học. Trên thế giới có hai học thuyết cố gắng lý giải sự hoạt động của hiện tƣợng cảm xạ: lý thuyết "vật lý" và lý thuyết "tâm thần". Phƣơng pháp vật lý đặt giả thiết rằng các dòng nƣớc chảy ngầm dƣới đất phát ra những bức xạ nào đó chƣa xác định rõ hoặc "rung" một cách đặc thù mà một số ngƣời cảm nhận đƣợc. Bức xạ đó tác động tới hệ thần kinh của con ngƣời khiến các cơ bắp rung động và kết quả là khiến cho con lắc hoặc đũa chuyển động. Các nhà khoa học cho rằng sở dĩ đũa chuyển động là vì trung tâm trọng lực nằm ngoài điểm tựa. Hệ ổn định mờ đó nhậy cảm với sự cố định không hoàn hảo (ví dụ cầm trong tay) và chỉ phản ứng với trọng trƣờng Trái Đất. Tác động của "bức xạ" đến hệ thần kinh cũng không phải là sác xuất, bởi vì cơ chế dẫn các xung điện qua dây thần kinh rất giống sự truyền tín hiệu qua thang các bộ chuyển tiếp Schmitt. Lý thuyết tâm thần giả định rằng hiệu quả cảm xạ có thể liên quan với một trong các đặc tính của trí tuệ con ngƣời. Quan điểm này đƣợc xếp vào sự phân tích từ góc độ cận tâm lý học. ". Theo bác sĩ Dƣ Quang Châu : " Tìm đƣợc một ngôi nhà mà mắt ta cảm nhận thấy nó có hình thức đẹp, diện tích thích hợp với nhu cầu sử dụng, màu sắc trang trí và thiết kế nội thất vừa ý, ánh sáng đủ đầy, thông (thoáng) gió và hệ thống thoát nƣớc tốt, môi trƣờng đẹp, giao thông việc mua bán, việc học tập của con trẻ thuận tiện... có lẽ chẳng còn gì để nói. Điều này cũng trùng hợp với nội dungcảm xạ phong thủy học (CXPTH) về nhà cửa. Có điều, hầu nhƣ không phải ai cũng biết hƣớng nhà nhƣ thế nào thì phù hợp và đƣa lại lợi ích nhiều mặt (sức khỏe, tài lộc, công danh, sự nghiệp, hạnh phúc, tƣơng lai) với mình. Còn nhƣ hƣớng mà ta thích cũng nhƣ phƣơng vị mà ta quen thuộc, thì CXPTH coi đó chính là hƣớng và phƣơng vị phù hợp với ta hơn cả. Linh cảm, ý thức và trực giác của con ngƣời có vai trò quan trọng giúp cho sự lựa chọn đƣợc thích hợp. Thực tế gần 20 năm nay, nhiều ngƣời mua nhà (đất) có sự tƣ vấn của chúng tôi thì chƣa hề thấy trƣờng hợp nào chệch ra khỏi hay đảo ngƣợc lại với quan điểm nêu trên. Nghĩa là, khi bƣớc vào


ngôi nhà định mua, trong 3 thời điểm gồm sáng, trƣa/chiều và tối, ngƣời muốn mua chỉ cần ở lại trong ngôi nhà ấy một lát, mà linh cảm, ý thức và trực giác (nói đúng hơn là Trí tuệ cảm xúc L'intélligence émotionelle) của ngƣời muốn mua nhà sẽ mách bảo cho ta cảm ứng về ngôi nhà ấy có thích hợp hay không thích hợp. Và bấy giờ, con lắc hay đũa cảm xạ đƣợc hỏi và trả lời hoàn toàn tƣơng ứng. Nếu thích hợp, ngƣời mua sẽ cảm thấy dễ chịu và muốn ở lại thêm một lát nữa, chứ không hề muốn rời bỏ đi ngay. Trái lại, nếu ngƣời mua thấy khó chịu, thì ngay lập tức chỉ muốn ra khỏi ngôi nhà ấy. Nhƣợc bằng ráng mà nán lại, ở thêm một lúc sẽ tự thấy trong ngƣời đứng ngồi bồn chồn không yên hoặc tâm và thần của ta sẽ hơi bối rối. Đấy là trƣờng hợp "chống lại chỉ định", đồng nghĩa với việc phải đi tìm ngôi nhà khác. CXPTH có thể giải thích hiện tƣợng này: trái đất có từ trƣờng, sức hút và những sóng hình thức khác. Trong máu con ngƣời có thành tố sắt, tuần hoàn máu chịu ảnh hƣởng của địa từ trƣờng và cả những sóng hình thể khác trong phạm vi không gian, môi trƣờng cụ thể tác động mà sinh ra cảm ứng. Cảm ứng này bao giờ cũng thực hiện trong thời gian và không gian nhất định. Và nó hƣớng tác động vào cơ thể con ngƣời. Lý thuyết CXPTH giúp đỡ tích cực cho chúng ta, nhằm đánh giá từ trƣờng + các sóng hình thể hiện hữu của ngôi nhà có thích hợp với cảm ứng của con ngƣời ở trong đó hay không. Nếu thích hợp thì tuần hoàn máu của ngƣời ở trong ngôi nhà đó sẽ hoạt động bình thƣờng, cảm giác thấy khỏe mạnh, phấn khởi, sinh hoạt, làm ăn tốt đẹp. Ngƣợc lại, nếu không thích hợp mà cứ ở ngôi nhà đó, sẽ ngày càng cảm thấy nhiều triệu chứng bất ổn, không an toàn, thoạt đầu chỉ mới cảm thấy yếu ớt, dần dần thấy rõ hơn, nặng nề hơn và cuối cùng có thể tai họa không mong muốn cứ ập tới. Ví dụ điển hình: + Cằm con ngƣời ứng với nền móng nhà. Nếu có nƣớc ngấm dƣới nền móng nhà trầm trọng, mà nền móng lại làm ẩu hay không đƣợc tốt thì hậu quả không tránh khỏi, ngôi nhà sẽ phải chịu đựng độ ẩm rất cao. Ngƣời chủ ở lâu trong đó, cái cằm sẽ chẳng chóng thì chầy sẽ xuất hiện một thứ khí hắc ám. Nội tạng sẽ trục trặc, thƣờng bị đau bụng, đau bão, bụng kêu và đi đại tiện lỏng./tiêu chảy... Quần áo, đồ dùng trong nhà ấy dễ bị ẩm mốc, có mùi hôi khó chịu. Giữa lông mày và mắt nổi gân xanh, rất có thể đó là ám thị cho biết nóc/mái nhà bị thẩm lậu, giột nát. Nếu vẫn bình chân nhƣ vại trong tình trạng nhƣ vậy, mà lao vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tƣ vấn về nhà đất hay đứng ra nhận công trình kiến trúc, thiết kế xây dựng dù lớn hay nhỏ, hoặc mua nhà đất với giá hời đi nữa cũng không đƣa lại lợi ích, thậm chí sẽ dẫn tới hậu quả đáng tiếc có thể hại ngƣời thiệt của và dĩ nhiên mối quan hệ làm ăn giữa mình với mọi ngƣời chắc chắn không tốt đẹp lắm. " Theo dienbatn : Từ nhiều năm trƣớc đây, dienbatn đã áp dụng cảm xạ vào trong Phong thủy âm trạch và dƣơng trạch để tìm và khử tia ác xạ, phúc xạ, xác định vị trí mồ mả, tìm các mạch nƣớc ngầm chảy dƣới lòng đất tạo nên tia ác xạ tác động đến bộ não con ngƣời, tìm những phay đất dƣới nền nhà hay khu mộ, đo đƣợc các tia ác xạ từ những vật khí Phong thủy hay đồ cổ...Ngoài ra trong qua trình luyện tập theo môn cảm xạ của Dƣ Quang Châu, dienbatn đã có những khả năng quan trọng khi phát hiện Thiên - Địa - Nhân khí. Các kiến thức trong phần bài này, do dienbatn sƣ tầm và cũng đã nhiều lần trải nghiệm qua, kết quả rất tốt. Xin giới thiệu cùng các bạn. 1/ MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ CẢM XẠ. Theo bác sĩ Dƣ Quang Châu, Giám đốc Trung tâm Cảm xạ địa sinh thái, trƣờng Đại học dân lập Hồng Bàng (TP. Hồ Chí Minh), cảm xạ là khả năng nhạy cảm của con ngƣời với các tia bức xạ từ các vật thể phát ra. Theo cảm xạ học, bất kỳ vật thể nào, dù là sinh vật, thực vật, hay khoáng vật cũng đều phát ra bức xạ. Các bức xạ lan truyền theo đủ mọi hƣớng trong không gian, chúng đi xuyên qua mọi vật và tác động đến nhà cảm xạ. Khi đó, phản ứng cơ thể của nhà cảm xạ sẽ đƣợc truyền sang các dụng cụ cảm xạ nhƣ con lắc, đũa và chúng khuếch đại những phản ứng đó thành các loại chuyển động có hình dạng khác nhau. Bác sĩ Dƣ Quang Châu cho biết: “Cảm xạ học chủ yếu là luyện rung động thƣ giãn. Đây là phƣơng pháp tự lắng nghe những rung động của chính mình qua việc luyện tập các bài tập. Những chuyển động trong cơ thể đều tự phát và không ai giống ai. Những rung động đó hoàn toàn tự động và chính nhờ vào sự rung động đó giúp cân bằng cơ thể (tự động tác động lên hệ thần kinh) và từng bƣớc đẩy lùi các bệnh tật”.


1/ CÁC BƢỚC CẦN THIẾT KHI HỌC CẢM XẠ. a/ Rung động - Thƣ giãn. b/ Nâng Khí - Gọi màu. c/ Sử dụng con lắc và các dụng cụ cảm xạ phụ trợ. d/ Định hƣớng và quy ƣớc thầm. e/ Đặt câu hỏi và nhận câu trả lời. A/ Rung động - Thƣ giãn. Với cuộc sống nhiều xáo trộn trong xã hội hiện đại này, thì con ngƣời không thể tránh khỏi những áp lực do cuộc sống đem đến. Những áp lực đó có thể trực tiếp hay gián tiếp làm cho con ngƣời mất đi sự cân bằng trong cơ thể – nguồn gốc của bệnh tật và stress. Hay nói chính xác hơn là có những việc đáng lẽ buồn thì có lúc ta phải che giấu, đáng lẽ đến lúc cơ thể phải nghỉ ngơi thì ta lại phải cố gắng hoàn thành công việc, đáng lẽ tức giận thì ta lại phải mỉm cƣời cho đƣợc việc… Tất cả những cảm xúc đó bị kìm nén và chôn kín lâu dần sẽ tạo nên những ức chế trong cuộc sống và dẫn đến stress. Bài tập rung động thƣ giãn của cảm xạ học có thể coi là một liệu pháp chữa stress hiệu quả. Những ngƣời chƣa hiểu và chƣa trải nghiệm phƣơng pháp rung động thƣ giãn này mà quan sát từ bên ngoài có thể sẽ có cảm tƣởng rằng học viên cảm xạ trong khi tập rung động thƣ giãn có những hành vi rất kì dị: uốn éo, lắc lƣ, lăn lê bò toài, thậm chí khóc cƣời vô lối… mà đôi khi bị gán cho mấy chữ tâm linh huyền bí hoặc thậm chí hai chữ “tâm thần” hoặc “ma quái”. Nghĩ vậy mà không phải vậy, vì thực chất, những học viên tập luyện hoàn toàn ở trạng thái tỉnh táo, chỉ có điều họ cho phép cơ thể đƣợc tự do thƣ giãn bởi phƣơng pháp rung động thƣ giãn này giúp con ngƣời tự quân bình cơ thể. Khi cơ thể đƣợc thả lỏng và thƣ giãn hoàn toàn thì sóng rung động trong cơ thể chuyển động một cách vô thức nhằm giúp hệ thống thần kinh tự động của con ngƣời tự điều chỉnh những trục trặc, bế tắc của bản thân, từ đó đạt đƣợc sự cân bằng. Nó rất tự nhiên, nhƣ khi nóng da đổ mồ hôi, khi chạy tim đập nhanh, khi buồn ta khóc, khi vui ta cƣời, khi tức giận thì la hét, mà không phải kìm nén, dấu lòng. Trong tập luyện rung động thƣ giãn, những việc này diễn ra nhƣ một lẽ đƣơng nhiên mà ít ai đặt câu hỏi tại sao lại nhƣ vậy? Dƣờng nhƣ trong vô thức, những hành động bản năng này giúp con ngƣời lấy đƣợc sự cân bằng, chống chọi lại với những áp lực, căng thẳng của đời sống. Kết quả là sau những phút tựa “xuất thần” ấy, con ngƣời nhƣ trút đƣợc biết bao thứ từng chất chứa nặng trĩu trong ngƣời, chợt thấy nhẹ nhõm và sảng khoái vô cùng nhƣ thành một con ngƣời hoàn toàn tƣơi mới – một cảm giác thăng hoa quý giá giúp nhiều ngƣời thay đổi sâu từ tận bên trong. Ông giải thích rõ hơn: “Năng lƣợng cảm xạ học cho thấy tiềm năng của con ngƣời là vô cùng to lớn. Đặc biệt là sự kỳ diệu và bí ẩn của tổ chức bộ não với hơn 16 tỉ tế bào thần kinh. Con ngƣời là một thực thể trong vũ trụ nên chỉ có thể tồn tại và phát triển tốt đẹp trong sự hài hòa với vũ trụ. Và khi có khả năng nhận biết đƣợc những thông tin phát ra dƣới dạng năng lƣợng bức xạ từ các vật thể xung quanh nên con ngƣời rút ra đƣợc những cách thức để sống hài hòa với tự nhiên, giữ gìn sức khỏe, cải thiện môi trƣờng sống, làm cho cuộc sống lành mạnh và tốt đẹp hơn”. Dienbatn : Các bạn có thể tập rung động thƣ giãn theo video sau . Các bạn ăn mặc quần áo nhẹ nhàng, thoải mái, đứng hay ngồi và chăm chú nghe nhạc nhé. https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=vzktpswFaU8 https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=b2njHW9ydWs https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=wasYNNfnfVE https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=Kgh7IJ8yqX8 Đây là bài tập đầu để các bạn bước vào cảm xạ. Nhẹ nhàng , thư thái. Học mà chơi - Chơi mà học. Vì video phải tải nặng nên dienbatn sẽ kéo dãn bài viết thành những bài việt nhỏ để chạy nhanh hơn.


PHONG THỦY LUẬN . BÀI 18. PHONG THỦY LUẬN . Phần 3 : KHẢO QUA CẢM XẠ PHONG THỦY. A/ Rung động thƣ giãn ( tiếp ). Tập thở khai thông 3 điểm (luân xa). https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=081BYqq_vzA Hệ thần kinh và các luân xa

Luân xa 7: Điều khiển toàn bộ cơ thể. Chủ trị các bệnh thần kinh, phối hợp với các LX khác chữa trị hầu hết các bệnh. Luân xa 6: Liên quan vỏ não và tuyến tùng là “Thần nhãn”. Chủ trị về Thần kinh, mất trí, huyết áp và hoạt động tứ chi. Luân xa 5: Chữa trị hô hấp, mũi, họng, phổi, suyễn, bệnh về da, dị ứng (allergy). Luân xa 4: Chữa trị về tim và cholesterol. Luân xa 3: Điều hòa năng lƣợng cơ thể. Chữa trị các bệnh về tiêu hóa, gan, dạ dày, ruột, lá lách, thận. Luân xa 2: Chữa trị về bộ phận sinh dục, bài tiết. Luân xa 1: Là tiềm lực nguồn vũ trụ. Sự hiểu biết về hệ thống và vị trí các luân xa là rất quan trọng trong quá trình tập thiền. Luân xa là các huyệt đạo chính trên cơ thể, đƣợc sắp xếp theo các cặp đối xứng. Luân xa 6-16, 7-1, 5-8, 4-9, 3-10, 2-11 mà trong đó các luân xa 6, 7, 5, 4, 3, 2 nằm trên mạch đốc (mạch dƣơng), các luân xa 8, 9, 10, 11 và 1 nằm trên mạch nhâm (mạch âm). (Ghi chú: Trong một số tài liệu khác ngƣời ta xếp các luân xa theo cặp A-B.) Ngoài các cặp luân xa trên, các huyệt và cơ quan tạng phủ sau còn có liên quan tới quá trình trao đổi năng lƣợng:


- 2 huyệt Lao Cung trong 2 lòng bàn tay: huyệt ở trên đƣờng văn tim của gan bàn tay, nơi khe của ngón giữa và ngón vô danh (ngón 4 hay còn gọi là ngón nhẫn) chạm vào đƣờng văn này hoặc gấp các ngón tay vào lòng bàn tay, đầu ngón tay giữa chạm vào đƣờng nếp gấp giữa lòng bàn tay (đƣờng tâm đạo) ở đâu thì đó là huyệt - xem ảnh dƣới

- 2 huyệt Dũng Tuyền trong 2 lòng bàn chân: huyệt nằm trên gan bàn chân. Lấy khoảng cách từ ngón chân thứ 2 (ngón chân trỏ) tới gót chân chia làm 5 phần, thì huyệt Dũng Tuyền là điểm lõm nằm cách ngón chân trỏ 2/5 khoảng cách đó (cách gót 3/5) - xem ảnh trên - Cửu khiếu: 2 lỗ tai, 2 mắt, 2 lỗ mũi, miệng, lỗ sinh dục, lỗ bài tiết - Lục phủ: 6 bộ phận quan trọng trong vùng bụng là vị (bao tử), đảm/đởm (mật), tam tiêu (thƣợng tiêu là miệng trên của bao tử, trung tiêu là khoảng giữa bao tử, hạ tiêu là miệng trên của bàng quang), bàng quang (bọng đái), tiểu trƣờng (ruột non), đại trƣờng (ruột già)

- Ngũ tạng: 5 bộ phận quan trọng trong vùng ngực và bụng là tâm (tim), can (gan), tỳ (lá lách), phế (phổi), thận (cật) - và 2 huyệt Thái Dƣơng ở chỗ lõm phía sau ngoài đuôi mắt 1 tấc, ấn vào có cảm giác ê tức. Tƣ thế khi ngồi thiền Có các tƣ thế ngồi thiền khác nhau. Khi luyện thiền theo pháp môn Thiền Thu Lửa Tam Muội, bạn có thể ngồi theo một trong các tƣ thế sau: - ngồi theo thế kiết già, hay còn gọi là thế hoa sen - ngồi theo thế bán kiết già - ngồi xếp chân bằng tròn - ngồi trên ghế Xin giới thiệu lần lƣợt các tƣ thế ngồi. 1. Ngồi trên ghế:


Ngồi trên ghế vừa đủ cao để đạt đƣợc các yêu cầu sau: - Chọn loại ghế có độ cao vừa tầm với cẳng chân, mặt ghế không quá cứng, hoặc quá mềm để có thể ngồi thoải mái đƣợc lâu và tạo cảm giác vững chắc. - Hai bàn chân để song song trên mặt đất, khoảng cách ngang rộng bằng vai. - Cẳng chân thẳng tạo thành góc vuông với bàn chân. - Đùi thẳng góc với cẳng chân tạo thành góc vuông, khớp gối vuông hình thƣớc thợ. - Thân thẳng góc với đùi, ngực không ƣỡn, lƣng không gù, không dựa lƣng vào thành ghế. - Vai để xuôi tự nhiên. - Cánh tay để xuôi theo thân, bàn tay để ngửa tự nhiên giữa đùi (nếu đẩy nhẹ khuỵu tay, cánh tay có hiện tƣợng đong đƣa thì mới đạt yêu cầu), tay không chạm, không tựa vào tay ghế, đối với loại ghế có tay dựa. - Đầu ngay ngắn thẳng với sống lƣng.

Tƣ thế ngồi trên ghế 2. Ngồi xếp bằng tròn (vành tròn) - Ngồi trên sàn nhà, trên giƣờng, nơi có mặt phẳng, hai chân xếp bằng tròn, có hai cách dễ làm là ngồi xếp bằng tự nhiên và xếp bằng đơn, nếu tập lâu rồi có thể ngồi xếp bằng kép. - Đầu, thân, vai và cánh tay tƣơng tự nhƣ tƣ thế ngồi ghế.


Ngồi xếp bằng tự nhiên Ngồi

xếp

bằng

kép.

3. Ngồi thế bán kiết già - Ngồi trên sàn nhà, trên giƣờng, nơi có mặt phẳng, đặt chân trái lên đùi phải. Tuy nhiên có thể thay đổi, chân trái có thể đặt dƣới và chân phải đặt trên đùi trái. - Đầu, thân, vai và cánh tay tƣơng tự nhƣ tƣ thế ngồi ghế.

Ngồi thế bán kiết già 4. Ngồi thế kiết già: - Kiết già hay Kết già, nói đầy đủ là Kiết già phu tọa, là cách ngồi xếp bằng hai chân gác tréo nhau tạo thành thế ngồi rất vững của các tăng ni Phật giáo khi ngồi Thiền định. Trƣớc hết đặt bàn chân phải lên đùi trái rồi đem bàn chân trái đặt lên đùi phải (hoặc ngƣợc lại). Kéo sát chân vào trong thân để ngồi đƣợc lâu.


Ngồi thế kiết già Muốn ngồi đƣợc kiết già thì khớp háng, khớp đầu gối, khớp cổ chân phải mềm (mềm dẻo) (từ chuyên môn gọi là khớp đƣợc mở); lƣng phải thẳng (Trục Tí Ngọ thẳng – trục Tí Ngọ là đƣờng thẳng nối từ LX7 xuống LX1). Ngƣời muốn ngồi đƣợc phải kiên trì tập cho các khớp trên mềm ra. (Xem bài Cách tập ngồi kiết già của anh Trần Nghĩa) - Đầu, thân, vai và cánh tay tƣơng tự nhƣ tƣ thế ngồi ghế. Lƣu ý: Đầu lƣỡi chạm nhẹ lên chân răng cửa hàm trên Dù ngồi tƣ thế nào đầu và cột sống phải thẳng, không nghiêng bên trái cũng không ngả bên phải, không cúi về phía trƣớc cũng không ngả về phía sau, lỗ tai thẳng với vai và lỗ mũi thẳng với rốn. Toàn thân thả lỏng. Đặt đầu lƣỡi lên vòm họng trên tại chân răng cửa, mắt khép hờ. Gƣơng mặt bình thản, miệng hơi mỉm để cho các cơ bắp trên mặt đƣợc giãn ra. Điều này rất cần thiết cho hệ thần kinh. Ngoài các tƣ thế kể trên, trong trƣờng hợp bạn quá mệt hoặc quá ốm yếu không thể ngồi thiền đƣợc thì cũng có thể nằm thiền. Để thực hành nằm thiền bạn nằm ngửa trên giƣờng phẳng để cột sống đƣợc thẳng, không nên gối cao, chân duỗi thẳng, cẳng chân để tự nhiên, hai cánh tay để xuôi dọc theo thân, bàn tay để ngửa, đầu ngón cái chạm vào đầu ngón giữa, thả lỏng toàn thân, mắt nhắm nhẹ, đặt đầu lƣỡi lên vòm họng trên tại chân răng cửa. Một điểm cần đặc biệt chú ý: Dù thiền trong tƣ thế ngồi hay nằm bạn cần cố gắng loại bỏ bớt suy nghĩ để đầu óc đƣợc thảnh thơi, tránh suy nghĩ lung tung, và luôn ý thức đƣợc mình đang thiền. ( http://www.luatamuoi.com/). Bây giờ dienbatn mời các bạn ngồi theo một trong những tƣ thế trên và nghe nhạc. https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=2FOYAD6Ai3U https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=8l4ZHlUuzsY Phương Pháp Khai Mở Con Mắt Thứ 3 (Phần này các bạn không nên tự ý tập, khi tập cần có thày hướng dẫn. Tốt nhất các bạn nên đến những trung tâm của bác sĩ Dư Quang Châu đăng k{ học. ) Truyền Pháp: Cư sĩ THANH TÂM Phương pháp này là của Mật Giáo Ấn Độ ( Phái Du Già ) và hoàn toàn không dính líu gì đến Phương Pháp Xuất Hồn của Ông Tám-Lương Sĩ Hằng.


1.Ngồi ngay thẳng, xương sống thật thẳng. Đặt 2 cùi Chỏ song song ngang bằng với 2 Vai, hoặc cao vừa đủ để bạn có thể đặt 2 ngón tay Cái vào 2 lỗ Tai dễ dàng mà không nghiêng mình về phía trước hoặc phía sau. 2.Đè mạnh 2 ngón tay Cái chặt vào trong 2 lỗ Tai vừa đủ không quá mạnh. 3.Đặt các ngón Út vào 2 khóe mắt để có thể khép nó lại 1 cách nhẹ nhàng và tránh sự chuyển động của con ngươi. 4.Đặt những ngón tay còn lại lên trên Trán. 5.Với Mắt nhắm lại hãy hướng cái nhìn bằng Tâm của bạn vào khoảng giữa 2 chân mày và giữ cái nhìn cố định vào nơi đó. 6.Mặc niệm âm thanh ” OM, OM ” nhưng klhông được phát ra bất kz tiếng động nào của Lưỡi hoặc Miệng. 7.Lắng nghe vào trong nơi lỗ Tai bên Mặt mà nơi đó luồng năng lực của từ điện vừa đủ mạnh để có thể bắt được những âm thanh khác ( Nếu bạn thuận tay Trái thì Nhĩ căn của bạn hợp với bên lỗ Tai Trái thì bạn nên lắng nghe bằng Tai Trái ). 8.Tập trung vào bất cứ âm thanh nào mà bạn cảm thấy lớn nhất ( Bạn có thể nghe cùng 1 lúc tập hợp các âm thanh với các cường độ khác nhau ). 9.Tập trung vào 1 âm thanh duy nhất cùng 1 lúc tức âm thanh lớn nhất, khi bạn lắng nghe những âm thanh khác sẽ tuần tự đến sau. Từng âm thanh 1 lắng nghe cho rõ phân biệt và các âm thanh khác nhau này như là mỗi âm thanh lớn nhất.

10.Hãy mặc niệm âm thanh vũ trụ ” OM ” và nhìn vào điểm giữa 2 chân mày 1 cách tự nhiên mà không cần cố gắng nào cả. Khi cặp mắt trở nên bình lặng và yên tĩnh, bạn có thể thấy 1 ánh sáng hoặc 1 ngôi sao 5 cánh, ở nơi điểm giữa 2 chân mày, nhưng trong suốt thời gian áp dụng phương pháp này: Điều quan trọng nhất là tập trung tinh thần vào các âm thanh vũ trụ hay là âm thanh OM ( Cố gắng nhìn thấy được con mắt tâm linh hay tâm nhãn nằm nơi điểm giữa 2 chân mày sau 1 thời gian thực tập phương pháp này ) nên lắng nghe âm thanh bên trong nơi lỗ Tai bên Mặt. 11.Nếu bạn có thể nghe được âm thanh vũ trụ OM cùng 1 lúc ngay lập tức như là Tiếng Thét Gầm Của Sóng Biển, tức là Tiếng Hải Triều Âm, thì không phải nghe các âm thanh khác nữa mà chỉ cần TẬP TRUNG vào âm thanh đó thôi. Cố gắng thể nhập vào 1 âm thanh đó, bỡi vì Đức Phật Mẫu Quan Âm có thể hiển hiện đến với bạn qua âm thanh vũ trụ OM đó. Theo CĂN BẢN MẬT TÔNG TÂY TẠNG của vị Lạt ma Người Đức, tức Lama ANAGARIKA GOVINDA, trang 61: OM là cái âm thanh sâu thẳm của 1 thực tại vĩnh cửu, rung động trong chúng ta từ dĩ vãng vô thủy và âm vọng lại trong chúng ta, nếu như chúng ta biết khai mở được thính quan nội tại ( Nhĩ căn viên thông ) bằng cách bình tịnh được tâm trí vọng động của chúng ta./. Nguồn : http://xuangiao.com/phuong-phap-khai-mo-con-mat-thu-3.html#ixzz2cJXNEZIT

https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=lX8n6zUjIUo http://www.mediafire.com/listen/l6n52l23eb571z9/khai_mo_luan_xa_bt1-DIEU_KHI_QUA_7_LUAN_XAthien_tinh.mp3

PHONG THỦY LUẬN BÀI 19.


PHONG THỦY LUẬN . Phần 3 : KHẢO QUA CẢM XẠ PHONG THỦY. A/ Rung động thư giãn ( tiếp ). Một số định nghĩa : 1/ THƯ GIÃN LÀ GÌ ? Thông thường ta nghe người ta nói : Tôi đã thư giãn, được thư giãn, nhưng ...thư giãn không chỉ là cảm giác bình an và bớt căng thẳng. Những khi bạn thức dậy vào buổi sáng , trước khi hoàn toàn có ý thức, bạn sẽ trải qua một vùng mờ mờ, êm ái mà thời gian xem ra không ảnh hưởng gì cả. Đôi khi các { tưởng đến một cách tự nhiên mà không cần sự nỗ lực . Điều tương tự cũng xảy ra vào buổi chiều và ít ra là hai lần mội ngày bạn đi qua một vùng thức và ngủ được gọi là thư giãn. Học thư giãn là học cách thả lỏng toàn thân, giữa trạng thái thức và trạng thái ngủ và giữ trạng thái đó trong một thời gian tùy thích . Chúng ta đi tìm trạng thái giữa thức và ngủ theo ý thích bất cứ lúc nào, trong bất cứ trường hợp nào , trong bất cứ tư thế nào : nằm, ngồi thậm chí cả khi đứng . 2/ Ý THỨC VỀ RUNG ĐỘNG THƯ GIÃN. Người ta thâm nhập vào rung động vô thức sau khi vượt qua rung động ý thức. Trình độ rung động vô thức chỉ giới hạn lờ mờ giữa ngủ và thức. Các giới hạn ấy bao gồm một giai đoạn đặc biệt mà khoa rung động thư giãn dùng trong một { nghĩa tích cực , dựa vào căn bản các kỹ thuật của nó để củng cố các cấu trúc của ý thức . Người không được tập luyện hàng ngày phải vượt qua hàng rào chia cách sự thức và ngủ tạo thành một khu vực nguy hiểm để các ảnh hưởng xấu xâm nhập. Với rung động thư giãn , người ta khảo cứu các trình độ khác nhau của ý thức trong lúc thức , lúc ngủ và lúc hôn mê và chấp nhận một giai đoạn trung gian : trình độ rung động vô thức hay còn gọi là rung động giới hạn, Trong rung động vô thức , giấc ngủ không phải là một tình huống mà là một biểu hiện của ý thức để thực nghiệm hoạt động về tần số rung động của nó . Các tần số rung động của ý thức mang tính phổ quát , thích hợp cho tất cả loài người. 3/ CHÚNG TA NGHĨ THẾ NÀO VỀ RUNG ĐỘNG THƯ GIÃN. Rung động thư giãn không phải là một môn thể thao, càng không phải là một phương thuốc kz diệu , một hành động an nhàn hay một nới lánh nạn . Rung động thư giãn là một sự biến đổi đến tận gốc rễ, nghĩa là một việc làm nghiêm túc. Vì rung động thư giãn xuất phát từ tham thiền , nhập định : trước tiên nó là sự chuẩn bị trong những giai đoạn đầu , sau đó rung động thực sự với ba bước lần lượt là rung động thư giãn { thức, rung động thư giãn vô thức và cuối cùng là rung động thư giãn siêu thức. CÁC BÀI TẬP VỀ KHAI MỞ LUẬN XA VÀ VÔ THỨC. ( Lưu { khi tập phải có thày hướng dẫn ).


khai

mo

luan

xa

bt1-DIEU

KHI

QUA

7

LUAN

XA-thien

tinh

http://www.mediafire.com/listen/o70epqyj7j8za8b/vothuc1.mp3 http://www.mediafire.com/listen/p8ysqkg2yuijypx/vothuc1.2.mp3 http://www.mediafire.com/listen/32ijcv7fu7jdqpi/vothuc2.1.mp3 http://www.mediafire.com/listen/l6cm3g5ad1ujvb5/vothuc2.2.mp3

https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=kZzA6PrNhZo https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=vyQlFRwEnkw Đây là những bài tập rất cơ bản. Các bạn nên tìm thày hướng dẫn chu đáo sẽ đạt được nhiều thành công trong môn Cảm xạ. Thân ái. dienbatn. Xin theo dõi tiếp bài 20.

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 20 PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 3 : KHẢO QUA MÔN CẢM XẠ PHONG THỦY. 1/ CÁC BƢỚC CẦN THIẾT KHI HỌC CẢM XẠ. a/ Rung động - Thƣ giãn. b/ Nâng Khí - Gọi màu.



A/ TRUNG TÂM LUÂN XA. 1/ ĐỊNH NGHĨA . Trong tiếng Phạn, CHAKRA ( Luân xa ) có nghĩa là bánh xe hoặc cái đĩa quay. Luân xa là những trung tâm truyền tải năng lƣợng . Ngƣời ta dễ dàng thấy đƣợc luân xa trên bề mặt thể hào quang đôi : Chúng nhƣ những đám rối quay cuồng. Các luân xa có liên quan đến một số trung tâm nội tạng trong thể khí chất, nhƣng trung tâm hào quang năng lƣợng không ở bên trong cơ thể con ngƣời , mà ở trên bề mặt thể hào quang đôi ( cách khoảng 6 mm bên ngoài chu vi bề mặt thể khí chất ). 2/ THỂ HÀO QUANG ĐÔI . Thể này rất quan trọng vì nó có vai trò trung gian giữa thể khí chất và trƣờng cảm xúc . Ngoài ra nó còn giúp cho chúng ta nhận biết ngoại giới nhờ hệ thần kinh. Thể hào quang có nhiều đặc tính quan trọng phụ thuộc vào sự hoạt động nhịp nhàng của các luân xa. Thể chất đƣợc xây dựng hoàn toàn trên khuôn mẫu của thể hào quang . Lúc này , các dây thần kinh chính là bản sao của các kênh truyền tải năng lƣợng của thể hào quang . 3/ BẢY LUÂN XA CĂN BẢN.


Có 7 luân xa căn bản và 21 trung tâm nhỏ hơn . Đó là những trung tâm có chứa năng lƣợng hào quang, khu trú tại nhiều khu vực khác nhau của cơ thể , đều có gốc là cột sống lƣng , trừ luân xa xƣơng trán ở trên đỉnh đầu. Bảy luân xa đƣợc phân bố nhƣ sau : */ Vùng bộ phận sinh dục. * Vùng rốn. * Vùng thƣợng vị. * Vùng ngực. * Vùng cổ họng. * Ở giữa lông mày. * Đỉnh đầu. Bảy trung tâm luân xa này liên hệ với 7 màu và cũng ứng với 7 bông hoa có số cánh khác nhau. Chính nhờ các luân xa này mà các dòng năng lƣợng mới đi vào thể khí chất , góp phần tạo nên thể hào quang đôi. Thể này đƣợc nuôi dƣỡng chủ yếu nhờ sinh khí " PRA^NA " do các trung tâm truyền tải đến. Luân xa có thể quay với nhiều tốc độ nhanh chậm khác nhau. Cánh luân xa tỏa ra một luồng ánh sáng rực rỡ , truyền tải một năng lƣợng cực mạnh, tạo cơ sở cho nhiều khả năng mới phát triển. Đối với ngƣời bình thƣờng, luân xa tỏa ra ánh sáng lờ mờ. Đối với những ngƣời đã luyện tập thì luân xa phát ra những tia ánh sáng chói lòa , đƣờng kính của hào quang tăng dần từ 5-15 cm. 4/ CON RẮN LỬA KUNDALINI. ( Xem hình trên ). Năng lƣợng này hoàn toàn giống nhƣ nguồn lửa cuồn cuộn khắp cơ thể sau khi dùng ý chí đánh thức nó. Lộ trình nó chạy khắp cơ thể là một hình xoắn ốc . Với ngƣời bình thƣờng, năng lƣợng này ở yên dƣới cột sống , vì vậy trong suốt cuộc đời, ngƣời ta không hề biết đến sự hiện hữu của nó. Khi con ngƣời chƣa phát triển về tinh thần, ý chí chƣa đủ mạnh , tƣ tƣởng không trong sáng thì không nên đánh thức rắn lửa KUNDALINI vì sẽ tạo ra nhiều nguy hiểm nhƣ xé nát các mô, hủy hoại đời sống thể chất , gây thƣơng tổn các luân xa. Đánh thức rắn lửa KUNDALINI quá sớm thƣờng có kết quả xấu. Thay vì nâng cao đời sống tinh thần , nó làm cho con ngƣời xa đọa, kích thích đam mê thấp hèn, có thể dẫn đến điên cuồng. Năng lực này thực sự là một hiện thực nguy hiểm mà ta không nên đụng đến nó. Đối với sự phát triển tâm linh, chức năng chính của năng lực này chỉ đạo các luân xa, làm cho các trung tâm ấy hăng hái hơn và đƣợc dùng nhƣ một cửa liên kết giữa thể chất khí và phần hồn. Một ngày nào đó , mọi ngƣời đều triển khai đƣợc năng lực này , nhƣng rất nhiều ngƣời không thể nào có đƣợc năng lực ấy trong kiếp hóa thân hiện nay nếu ngày đầu tiên đã muốn chiếm hữu năng lƣợng ấy cho riêng mình.


5/ THỰC HÀNH PHƢƠNG PHÁP RUNG ĐỘNG THƢ GIÃN. A/ 5 trạng tái tinh thần cần vƣợt qua. * Nhận thức đƣợc cơ thể vật chất và chuẩn bị tinh thần để bƣớc vào luyện tập, ý niệm về đặc tính tích cực của 7 khu vực liên quan đến 7 màu sắc và 7 âm thanh. * Tình trạng bất định và hỗ độn tiềm ẩn trong con ngƣời đƣợc thể hiện bởi cảm xúc: Những lo âu, những suy nghĩ cũng nhƣ bệnh tật đã lần lƣợt qua rồi trở lại nhƣ một cuốn phim quay ngƣợc. Đây còn gọi là thời gian bộc lộ các ẩn dấu tồn tích bên trong bấy lâu. * Tình trạng ổn định : Những lo âu, buồn phiền, đau đớn dần tan đi , cơ thể dần dần trở lại quân bình. * Thống nhất mục tiêu : Cơ thể càng lúc càng có những rung động thống nhất và điều hòa, chuẩn bị tiếp nhận những năng lƣợng từ thiên nhiên: Năng lƣợng từ lòng đất , từ vũ trụ , từ thực vật. * Tự chủ : Sự hòa nhập với rung động từ vũ trụ , cơ thể trở nên nhẹ nhàng , có thể kiểm soát đƣợc các biến động của thất tình lục dục. Trong lúc nghiên cứu , mức độ của trạng thái tinh thần của mình có thể xác định để sẵn sàng cho việc bắt đầu khảo cứu thực sự về luyện tập. Nếu còn ở giai đoạn đầu thì ta chƣa cần đề cập đến con đƣờng hợp nhất , mà chủ yếu là phải làm sao nhận rõ mình. B/ CÔNG VIỆC CHUẨN BỊ. Giai đoạn chuẩn bị cho rung động thƣ giãn có 3 điểm chính cần phải tuân thủ : 1/ Thƣ giãn và nâng khí sắc màu : Khởi đầu có thể ngồi trên ghế hay nằm thoải mái trên giƣờng . Lắng nghe tiếng nhạc tại bài 19. Trong lúc thƣ giãn , cố tránh không để ngủ gật vì nhƣ vậy bạn mới có thể ở trong trạng thái nửa thức nửa ngủ.Dần dần với sự luyện tập đều đặn bạn sẽ không bị ngủ gục nữa. Đó là bạn đã kiểm soát đƣợc cơ thể trong lúc thƣ giãn. Việc phục hồi sau khi thƣ giãn là giây phút quan trọng. Bằng sự tƣ giãn , bạn đã tác động một số thay đổi trên hệ thần kinh sinh lý. Cần phải thực hiện việc phục hồi này một cách tốt nhất. Hãy thực hiện từ từ. Lúc đầu có thể việc thƣ giãn của bạn chƣa sâu , bạn muốn mở mắt nhanh sau bài tập này. Nhƣng với thời gian , bạn sẽ nhận ra sự tốt đẹp và mong muốn kéo dài thêm khoảng khắc thƣ giãn này. Lúc đó sự phục hồi cần đƣợc thực hiện hoàn hảo. Việc phục hồi là một phần quan trọng của bài tập . Thở sâu, bít các đầu mối của cơ thể bạn . Vƣơn vai thật lâu và dùng thời gian để mở mắt . Thản nhiên nhìn quanh bạn . Thấy lại khung cảnh, màu sắc của không gian bạn ghi nhận trƣớc khi khởi sự bài tập. Cần phải biết cách thoát ra khỏi một thời gian thƣ giãn. 2/ Sự tẩy rửa năng lƣợng xấu hay bài tập thác nƣớc. Đây chỉ là một bài tập nhẹ nhàng nhƣng chúng ta cần phải thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Trong cuộc sống ồn ào náo nhiệt, nhiều vần đề tiêu cực xảy ra làm cho năng lƣợng bao quanh cơ thể chúng ta bị lu mờ . Thể khí ( thể hào quang bao quanh chúng ta ) là nơi tiếp nhận những thông tin từ bên ngoài đƣa vào và đồng thời cũng là trạm phát thông tin đi khắp nơi . Muốn làm tốt hai việc đó, thì tạm thu và phát đó phải luôn đƣợc trong sáng. Cách thực hiện : Bạn đứng thẳng và thực hiện việc nâng khí sắc màu từ màu đỏ lan dần đến màu chàm . Từ điểm cao nhất của màu chàm , bạn tƣởng tƣợng có một thác nƣớc chảy ra từ đó hay có một bông sen cực lớn chảy từ đầu đến chân. Nƣớc tràn ngập đều bạn , vai, ngực , lƣng , chảy dọc theo đùi bạn và đƣa những năng lƣợng xấu, những cảm xúc xấy chảy vào lòng đất. Bạn hãy tập bài này từ tứ , không nên vội vàng. Chỉ cần tập bài này vài lần là bạn sẽ cảm thấy thoải mái , thƣ giãn cả thể xác và tâm hồn. 3/ Giao phó tất cả cho tự nhiên, cho sức mạnh tàng ẩn trong vũ trụ. Đây là ý nghĩa tôn trọng mọi hình thức của cuộc sống. Nhận ra mọi cái đều tùy thuộc vào vũ trụ , nhận ra vũ trụ không phải là một mớ hỗn độn mà nó đƣợc chi phối bở những quy luật chặt chẽ và không có gì xảy ra ngẫu nhiên cả. Ta cần loại bỏ những nguyên nhân gây xáo trộn tinh thần nhƣ bất công, ganh tị , giận hời , thiếu kiên nhẫn ...Những điều trên thật sự cần thiết chi giai đoạn chuẩn bị cho sự rung động thƣ giãn C/ LUYỆN TẬP RUNG ĐỘNG THƢ GIÃN.


Giai đoạn 1 : RUNG ĐỘNG THƢ GIÃN CÓ Ý THỨC. Đối với ngƣời mới tập, việc rung động thƣ giãn chƣa làm quen đƣợc, do vậy bạn cố tình tạo ra sự rung động theo từng khu vực. Rung động nhẹ nhàng chứ không phải lắc. 1/ Rung động khu vực ứng với vùng sinh dục ( Luân xa 1 ). Rung động nhẹ nhàng khu vực ứng với vùng sinh dục, nghĩ đến màu đỏ và ý chí mạnh mẽ , đấu tranh. 2/ Rung động khu vực ứng với vùng rốn ( Luân xa 2 ). Rung động nhẹ nhàng khu vực ứng với vùng rốn, nghĩ đến màu vàng , sự lạc quan , yêu đời , tình cảm sâu đậm. 3/ Rung động khu vực tƣơng ứng với vùng thƣợng vị ( Luân xa 3 ). Rung động nhẹ nhàng khu vực ứng với vùng thƣợng vị , nghĩ đến màu cam, sự can đảm. 4/ Rung động khu vực ứng với vùng ngực ( Luân xa 4 ) . Rung động nhẹ nhàng khu vực ứng với vùng ngực , nghĩ đến màu xanh lá cây , chia sẽ với mọi ngƣời , tình yêu thƣơng, tinh thần trách nhiệm. 5/ Rung động khu vực ứng với vùng cổ họng ( Luân xa 5 ) Rung động nhẹ nhàng khu vực ứng với vùng cổ họng, nghĩ đến màu tím , biểu lộ tâm ý, nhập định, 6/ Rung động khu vực ứng với vùng đầu não ( Luân xa 6 ). Rung động nhẹ nhàng khu vực ứng với vùng đầu não , nghĩ đến màu xanh da trời , lòng khoan dung , độ lƣợng, yêu thƣơng mọi ngƣời. 7/ Rung động khu vực ứng với vùng đỉnh đầu ( Luân xa 7 ). Rung động nhẹ nhàng khu vực ứng với vùng đỉnh đầu , nghĩ đến màu chàm , sự tiếp nhân và hòa đồng năng lƣợng vụ trụ. Lƣu ý : Bƣớc đầu chƣa quen có thể bạn bị mệt mỏi , ngƣợng ngịu nhƣng chỉ vài buổi sau là sẽ thuần thục, Giai đoạn 2 : RUNG ĐỘNG THƢ GIÃN CHUYỂN SANG DẠNG SÓNG. Rung động từng khu vực bây giờ chuyển sang dạng sóng nhất định , tùy theo từng khu vực mà nó có thể chuyển động theo dạng sóng ngang, dọc, ngƣợc hau xuôi theo chiều kim đồng hồ. Khi tập đến đây , bạn cần ghi chép cẩn thận từng dạng sóng và theo dõi sự lập đi lập lại của mỗi lần luyện tập để tìm dạng sóng không thay đổi cho từng cá nhân từ nay về sau. Giai đoạn 3 : RUNG ĐỘNG THƢ GIÃN VÔ THỨC. Rung động thƣ giãn vô thức không phải là điều khó , chỉ cần luyện tập thƣờng xuyên trong khoảng 2 tuần . Trong lúc các bạn rung động dạng sóng , thì đột nhiên nó ngừng lại, ta vẫn chú ý đến nó. Đột nhiên khu vực mà bạn đang cho ngừng rung động bỗng có những rung động theo một dạng sóng không giống nhƣ rung động lúc ban đầu. Sau một thời gian luyện tập khi bạn đang làm việc hay khi ngủ , bạn vẫn thấy một sự rung động nhẹ nhàng ở trong một vùng của cơ thể . Bạn cứ để yên và một lúc nào đó nó sẽ ngừng . Đó là sự rung động nhằm tái tạo lại cân bằng trong cơ thể . Đó chính là rung động thƣ giãn vô thức. ( Viết theo tài liệu của Dƣ Quang Châu - 8/8 Khu phố 3 . Phƣờng Bửu long - TP. Biện hòa - Tel : 061. 827740. )

Phần bổ xung : BÀI TẬP CỦA ĐẠO TRÀNG DPLHVV TẬP MỞ LUÂN XA VÀ KHAI LỤC THÔNG.

1/ VẬN CHUYỂN THÂN PHÁP. ( Kiết ấn Đại bi ). Phụng thỉnh Phật Kim Cang, Bát bộ vận chuyển. Chuyển vận toàn pháp linh linh.


Tâm hiển minh kinh khai tốc. Sức hoá hiện. Bát nhã ba la mật đa. Đệ đát diệt đa. Án đọc rị , đĩa rị, thất rị. Thú rô tri lật tri, phá đế ta ha. Kim Cang Bát nhã ba la mật đa. Tâm mật đệ đát diệt tha. Kim Cang Bát nhã ba la mật đa. Án Hôlô Sari- Hô lô Sa đệ. Mục đế ta phật sa đệ ta ha. 2/ NGŨ HÀNH CƢƠNG KHÍ. Ngũ hành cƣơng khí, Kim mộc thủy hoả thổ. Chuyển thông. Om Mani padmê hùm Nam mô adi đà. Nhƣ Lai Phật Tổ giáng độ chứng minh. Giải phá toàn thân, Khai thông bá mạch, Khí huyết lƣu thông, Tam hoa tụ đỉnh, Ngũ khí triều nguyên. Thân nhƣ ý, Phản diệt Tà trừ bệnh tật, Nam mô adi đà. Nhƣ Lai Phật Tổ chứng minh. Om Mani padmê hùm- Brum. 3/ PHÁP ĐỊNH TÂM. Um Um vòng vòng già ra tâm Ba ra án tác lệ đã di chi ni. Nom rô chiết lệ ly du. Đã hô rô , Hô rô, Kan rô. Dù tà , ấn Lƣu linh Đế Thích ta thăng pha. An tâm rô định tỉnh ngũ tạng định thân khẩu ý. Om Mani padmê hùm Án Na đà Bồ đề Phật Tổ chứng minh. 4/ LƢU THÔNG HUYẾT MẠCH. ( Kiết ấn ngũ hành ). Nam mô a di đà Nhƣ Lai Phật tổ chứng minh. NU NA NI CÔN LY. MA NE ONG LUNG, ONG XONG. CHU MA Ô LAN, SÍT MO TO NA. 5/ PHẬT KHÍ CÔNG.


THOÁI LA TÍT RA, MẶC CA RÂY LA MÍT TẶT LÔ MÍT , CẠC SI SÊ. MẠC MO RAY TỐT TÍT. SAY RI PHU MI NA SÁT NÁT. 6/NỘI NGOẠI CÔNG. Phật Tổ – Lục Tổ chứng minh. A CA RÂY DANH MẮC. A LĂNG PHĂNG MẮC MẮC. ( Ghi chú : Nội công có tác dụng sung nạp nguyên khí , tiếp thu các tia cực tím nuôi toàn thân. )

7/ MỞ KHẨU. SI ỐP PRÂY – MI CA – MI MÍT. 8/ BÍCH CHI KHAI KHẨU.

• ỐP LĂN THIẾP PHI MO TO RA – TI MI MÍT MÍT . • ỐP LĂN SĂN TI MI – MO CA RA MO BÍCH SÁT. • A LÍT BÍCH SÁT MÓT – MI CA MI MÍT. 9/ MỞ NHĨ. SI ON RAY – MA NI- RA RÂY MÍT- MO NI PHÉP. 10/ KHAI NHĨ . NAM MÔ A DI ĐÀ NHƢ LAI PHẬT TỔ CHỨNG MINH. ( 3 LẦN ). Ô LA SA NI – TÉT TA RA MA GO RAY- MI TU Ô LA – Ô LA KHÔNG RAY – BỌ SA LÁT MÉT TÊ ( 3 LẦN ). 11/ KHAI LƢỠNG NHĨ. SI ON SAY MA NI- RA RÂY MÍT MO NI PHÉP. 12/ MỞ MŨI. ỐP MA SA SI ÂY – MO DI PHI MÍT HA.

13/ KHAI THÂN PHÁP.


ÚM LA LA.

14/ KHAI NHÃN TAM QUANG. CÙ ON NÔ SI – MI ĐA MI CA SI. 15/ MỞ THẬP THÔNG ( Bắt ấn âm dƣơng ) Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Nhãn biên quang Chú chi nhãn văn Chú văn nhãn khai quang Thần thông nhập nhãn Tốc chi nhãn bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ) Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Nhĩ biên quang Chú chi nhĩ văn Chú văn nhĩ khai quang Thần thông nhập nhĩ Tốc chi nhĩ bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ). Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Tỵ biên quang Chú chi tỵ văn Chú văn tỵ khai quang Thần thông nhập tỵ Tốc chi tỵ bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ). Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Thiệt biên quang Chú chi thiệtû văn Chú văn thiệt khai quang Thần thông nhập thiệt Tốc chi thiệt bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ). Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Thân biên quang Chú chi thân văn Chú văn thân khai quang Thần thông nhập thân Tốc chi thân bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ).


Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Ý biên quang Chú chi ý văn Chú văn ý khai quang Thần thông nhập ý Tốc chi ý bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ). Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Tha Tâm thông biên quang Chú chi Tha Tâm thông văn Chú văn khai Tha Tâm thông quang Thần thông nhập Tha Tâm thông Tốc chi Tha Tâm thông văn bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ). Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Thần túc thông biên quang Chú chi Thần túc thông văn Chú văn khai Thần túc thông quang Thần thông nhập Thần túc thông Tốc chi Thần túc thông văn bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ). Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Túc mạng thông biên quang Chú chi túc mạng thông văn Chú văn túc mạng thông khai quang Thần thông nhập túc mạng thông Tốc chi túc mạng thông văn bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ). Thiên chi Thần quang Địa chi Thần quang Nhật Nguyệt Thần quang Lâu tân thông biên quang Chú chi Lâu Tân thông văn Chú văn Lâu Tân thông khai quang Thần thông nhập Lâu Tân thông Tốc chi Lâu Tân thông văn bàn ( Cấp cấp nhƣ Cửu Thiên Huyền Nữ luật lệnh sắc nhiếp ). Chú này dùng mở Thần thông, khai Thập thông, đọc lúc nào cũng đƣợc. Đọc lâu ngày ngƣời phát sáng. https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=K7K99nq4pj4 https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=p2QYveSJFwo https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=cEQ2-FRarG4


PHONG THỦY LUẬN . BÀI 21 Thứ Năm, ngày 29 tháng 8 năm 2013 PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 3 : KHẢO QUA MÔN CẢM XẠ PHONG THỦY. 1/ CÁC BƯỚC CẦN THIẾT KHI HỌC CẢM XẠ. a/ Rung động - Thư giãn. b/ Nâng Khí - Gọi màu. c/ Sử dụng con lắc và các dụng cụ cảm xạ phụ trợ. Hướng dẫn sử dụng “Con lắc”. Các đũa L và đũa dò hình chữ Y thường được dùng ở bên ngoài trời. Còn con lắc thì thông thường dùng để dò tìm trong nhà. Tuy nhiên, tất cả chúng đều có thể dùng ở trong nhà hoặc ngoài trời nếu cần. Con lắc đơn giản là một vật nhỏ được treo trên một sợi dây hoặc một đoạn xích. Nhiều nhà cảm xạ thích các con lắc làm bằng gỗ, chỉ vì nhiều người thích dò tìm với một đũa dò hình chữ Y bằng gỗ hơn là đũa dò làm bằng nhựa. Tuy nhiên, bạn cũng có thể thích một con lắc thạch anh hoặc con lắc kim loại. Một vài nhà cảm xạ không thích các con lắc kim loại vì họ cho rằng chúng thu nhận các rung động từ các vật thể kim loại tương tự trong lòng đất. Abbé Mermet đã thiết kế một con lắc kim loại đặc biệt, được làm từ một hợp kim, và đây là loại mà những nhà cảm xạ thường dùng. Tại các Trung tâm Cảm xạ Việt Nam có các con lắc tùy theo tác dụng và bạn có thể chọn một con lắc mà bạn ưa thích. Quả dọi của các thợ mộc thực chất cũng là các con lắc, và các nhà cảm xạ thường nói các con lắc của họ là “các quả dọi” Khi bạn mua một con lắc, điều đầu tiên là bạn sẽ phải khử các năng lượng mà con lắc đã thu nhận từ những người đã cầm nó trước đây trước khi bạn sở hữu nó. Nó có thể được làm bằng thạch anh, kim loại, gỗ…, bạn có thể khử năng lượng cũ và làm nó hòa hợp với rung động của bạn bằng cách nắm chặt trong tay và xoay cổ tay ngược chiều kim đồng hồ nhiều vòng. Với các mục đích cảm xạ, độ dài của dây không cần quá dài. Bắt đầu với chỉ khoảng 2.5 cm, với phần còn lại được giữ trong lòng bàn tay bạn. Cầm con lắc sao cho dây treo được kẹp giữa ngón tay cái, ngón tay trỏ và các ngón tay hướng xuống. Lắc qua lại con lắc ra sau và ra trước. Chầm chậm thả dây lắc dài dần cho đến khi con lắc bắt đầu xoay vòng. Tạo một cái nút ở giữa của đoạn dây treo nằm dưới ngón tay trỏ và ngón cái. Đây là điểm đúng để cầm con lắc khi bạn tiến hành dò tìm với nó. Bây giờ bạn đã sẵn sàng để hỏi con lắc một vài câu hỏi. Cầm nó ở điểm mà bạn vừa thắt nút và hỏi nó xem chuyển động nào có nghĩa là “Có” Hãy kiên nhẫn. Con lắc có thể mất một thời gian, nhưng cuối cùng nó cũng sẽ bắt đầu chuyển động và cho bạn câu trả lời. Con lắc xoay tròn theo chiều kim đồng hồ là “Có”. Con lắc của bạn có thể có một chuyển động hoàn toàn khác tùy theo qui ước của bạn. Nó có thể dao động từ bên này qua bên kia, hoặc chuyển động theo vòng tròn, theo chiều thuận hoặc ngược chiều kim đồng hồ. Hãy ghi nhớ chuyển động mang nghĩa “Có”, và sau đó hỏi con lắc chuyển động nào là “Không”. Điều này chính xác giống như thời xưa dùng một cái nhẫn cưới treo trên một sợi dây để xác định giới tính của một đứa trẻ chưa sinh. Một kiểu chuyển động sẽ chỉ ra đó là bé trai, và một kiểu khác là bé gái.


Bạn lúc này có thể hỏi con lắc bất kz câu hỏi nào mà có thể trả lời bằng một trong hai đáp án “Có”, “Không”. Bắt đầu bằng việc hỏi nó về những điều mà bạn đã biết. Bạn có thể hỏi, “Tên của anh này là …phải không?” “Anh này đã cưới … phải không” v.v. Một khi con lắc của bạn đã trả lời thành công các câu hỏi đơn giản như vậy, bạn có thể bắt đầu hỏi nó các câu hỏi mà bạn không biết câu trả lời. Cẩn thận khi hỏi các câu hỏi về bản thân bạn, vì con lắc sẽ có thể cho bạn các câu trả lời mà bạn muốn nghe, thay vì câu trả lời đúng. Nếu đó là một điều quan trọng mà bạn muốn có câu trả lời, hãy tìm một ai đó khác không bị dễ xúc động để hỏi câu hỏi cho bạn. Bạn sẽ cần hỏi con lắc định kz xem chuyển động nào là có và chuyển động nào là không, vì các chuyển động có thể thay đổi, thậm chí là từ ngày này qua ngày khác. Điều này có thể có hoặc có thể không xảy ra với bạn. Bạn có thể thấy các chuyển động ban đầu của bạn sẽ ổn định mãi mãi. Ngược lại, bạn có thể thấy nó thay đổi ở mỗi lần riêng lẻ bạn sử dụng con lắc. Bạn cần phải xác nhận lại đáp ứng của con lắc như vậy từ nay về sau. Bác sĩ Dư Quang Châu.


d/ Định hướng và quy ước thầm. Con lắc là công cụ để chúng ta có thể kiểm chứng, đo đạc cũng như phán đoán những việc cần nên làm, những việc cần nên tránh. Cụ thể là đo năng lượng, xem phong thủy, xác định phương hướng, kiếm người lạc...Nói cách khác con lắc là người bạn làm việc gắn liền với bất kz cảm xạ viên nào. Quy ước thầm Con lắc quay theo chiều kim đồng hồ: nghĩa là có, đúng, nên làm, ... Con lắc quay theo ngược kim đồng hồ: nghĩa là không, xấu, không được làm ... Con lắc đánh ngang hoặc dọc : nghĩa là không biết, hoặc còn có cách trả lời khác, ... Lời khuyên dành cho người mới -Khi cầm lắc, nó vẫn đứng yên hay xoay xoay nhẹ thì đó đã là biểu hiện của người có năng lượng. Nếu người chưa biết gì về năng lượng cảm xạ thì thường do lực tay rung nên con lắc có biểu hiện rung rung rất đặc


trưng. (Không nên nghĩ mình làm không được dễ tự kỷ ám thị) Nhưng đặc biệt vẫn có những người sử dụng lần đầu con lắc đã xoay liên tục. (gặp mấy người rồi) -Lúc mới sử dụng đừng nên áp đặt nên xoay theo chiều nào, cứ để con lắc xoay tự nhiên. Một thời gian sau hãy quy ước cho con lắc cách xoay sau. -Không nên biểu diễn chứng minh những kẻ thách thức hoặc nhạo bán cảm xạ... chỉ nên thực hiện với những ai thực sự tin tưởng vào khả năng của mình. Sau khi nâng khí, năng lượng sẽ “phát” ra nhiều hơn nên kết quả sử dụng con lắc cũng tốt hơn. Và con lắc chỉ là phương tiện thể hiện sự phát khí trong cơ thể chứ không phải nó hút năng lượng của chúng ta... cầm nguyên ngày lắc lắc cũng chẳng sao cả. -Không kiềm chế áp đặt, tự kỷ ám thị lên con lắc. Không cần tin tưởng con lắc như một người bạn mà phải tin tưởng vào năng lực chính mình, cái vô thức đang tồn tại trong cơ thể (RĐTG). Những điều con lắc nói có thể chính xác lên đến 90% nhưng tất nhiên còn tùy vào năng lực của bạn e/ Đặt câu hỏi và nhận câu trả lời. 2/ THỰC HÀNH CẢM XẠ TRONG PHONG THỦY . Ứng dụng Cảm xạ trong Phong thủy để xem xét nơi bạn ở và những hiện tượng xảy ra xung quanh nơi ở của bạn. vì nó phản ánh sự tồn tại của chính bạn. Điều cần thiết là bạn phải làm thế nào để có một sự đồng nhất giữa sóng rung động của bạn với sóng rung động của nơi bạn ở. Bạn biết rõ tính năng nhậy cảm và hệ thống thần kinh thực vật của con người sẽ bị thay đổi trước một số chất liệu ( mỹ phẩm, màu sắc, diện từ trường ...) . Thí dụ : Chúng ta ghi nhận đa số những người mắc bệnh nghặt nghèo , đều có những điểm giống nhau là nơi họ ngủ phần nhiều là những điểm có chỉ số địa từ trường xấu ( đũa dạt ra, con lắc quay ngược ) . Chỉ cần thay đổi chỗ ngủ hay chuyển đi nơi khác có chỉ số địa từ trường tốt ( đũa chập lại, quả lắc quay thuận ) , thì bệnh giảm đi rõ rệt. Sự hiểu biết về lĩnh vực này là yêu cầu cần thiết của bộ môn Cảm xạ học , để đào tạo ra những Cảm xạ viên có chuyên môn vững vàng và thành thạo. Ứng dụng Cảm xạ vào Phong thủy giúp các bạn nhận thức được sự mất quân bình trong mối liên hệ giữa NGƯỜI Ở VÀ NƠI Ở. Chúng là nguyên nhân của việc tiêu hao năng lượng của con người. Mỗi một người là antena để đón nhận các bức xạ xung quanh. Họ có một khả năng tự điều chỉnh để thích ứng với môi trường. Mỗi thay đổi của môi trường xung quanh , buộc cư dân phải tạo một thế quân bình mới để tồn tại ( giống như con tắc kè phải thay đổi màu da tùy theo thân cây mà nó đang cư ngụ , tránh kẻ thù có thể gây hại cho chúng ). Những ai bị một số bất ổn trong cơ thể , thường thấy rằng họ phải mất nhiều sức lực ( năng lượng ) để tái lập sự cân bằng trong điều kiện mới. Bởi vậy chúng ta chịu ảnh hưởng của đất, trời mà ta gọi là ĐỊA VŨ TRỤ . Các hiện tượng này tác động lên các bộ phận của cơ thể chúng ta , ngoài ý muốn của chúng ta , đôi lúc nó cũng cần thiết để duy trì sự sống của chúng ta. Nhưng nếu các bức xạ tác động không đúng chỗ, hoặc quá mạnh hoặc bị nhiễu loạn sẽ tạo ra các xáo trộn về vật chất và tinh thần từ mức độ nhẹ như mất ngủ, đau đầu đến sinh bệnh nặng như ung thư, hen xuyễn , căng thẳng , suy nhược , chưa kể đến những xáo trộn trong cuộc sống đôi lứa dẫn đến ly hôn. Nơi ta sống giống như một trường năng lượng cộng hưởng các rung động. Bạn có phản ứng tốt hay xấu với môi trường rung động này tùy vào khả năng thích nghi của chính bạn. A/ CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH CẢM XẠ TRONG PHONG THỦY. 1/ Tìm ác xạ - Phúc xạ . Định nghĩa : Ác xạ gồm 3 loại


* Ác xạ Thiên là nguồn năng lượng vũ trụ tác động lên căn nhà gây tổn hại mọi mặt trong sinh hoạt của những người sống trong ngôi nhà đó. * Ác xạ địa là khí xấu trong lòng đất phát lên gây tổn hại mọi mặt trong sinh hoạt của những người sống trong ngôi nhà đó. * Ác xạ nhân : Do sự sinh - Khắc bản mệnh của từng người trong nhà với nhau và sự sinh - khắc giữa người với đồ vật kê trong nhà. 2/ Tìm hiểu về các loại ác xạ . * Ác xạ Thiên gồm : Ác xạ các điểm di động, ác xạ các điểm cố định , ác xạ diện cố định, ác xạ diện di động . Tính chất ác xạ Thiên là do các long mạch xung quanh môi trường sống của ta có những biến động đột biến , gây ảnh hưởng đế tương khắc ngũ hành , gây ra tương thừa, tương vũ làm triệt tiêu các sóng tốt trong căn nhà , gây ra sự thay đổi xấu môi trường trong nhà. Trong Địa lý phong thủy, cổ nhân dùng phương pháp " Thủy pháp trường sinh " để triệt tiêu sóng xấu đó. Thực chất của phương pháp " Thủy pháp trường sinh " là tính toán sao cho đường nước vào - Thiên môn và đường nước ra - Địa hộ ( giống như cái miệng và hậu môn của con người ) hai đường nước vào ra hài hòa, dẫn đến đường khí vào ra có quy luật và điều hòa. * Ác xạ Địa bao gồm : Ác xạ điểm cố định và ác xạ diện cố định . Trong ác xạ địa gồm 2 nhóm : Nhóm sinh học và nhóm vật lý. - Nhóm sinh học là mồ mả hoang, xác người, động vật , thực vật nhiễm xạ trong vùng đất đó phát lên. _ Nhóm vật lý là mạch nước ngầm , hầm rỗng, giếng cũ bị lấp bỏ, khoáng chất, hóa chất độc hại , tia khí độc ( lục âm ). * Ác xạ đồ vật : là ác xạ do những vật mua mang về , tặng phẩm , đồ cổ...phát ra hoặc do treo nhầm vị trí mà nó tạo ra xung sóng. 3/ Phương pháp tìm và giải ác xạ. a/ Tìm ác xạ : Dùng con lắc , đũa Michel, trần Văn Ba để hỏi . Trước hết làm các thủ tục giao cảm sau đó tiến hành hỏi cụ thể ( Xem phần trên ). Câu hỏi thường đặt ra cho con lắc là : Nhà có ác xạ Thiên hay không ? Có bao nhiêu điểm ? Hỏi từng điểm là cố định hay di động ? Điểm đó là ác xạ sinh học hay vật lý ? Nếu là ác xạ sinh học thì do người , động vật hay thực vật ? ( Ta tự quy ước người thì lắc quay thuận, động vật thì lắc quay nghịch, thức vật thì quả lắc lắc đi lắc lại ) . Nếu là ác xạ vật lý thì hỏi tiếp : Ác xạ đó là khoáng chất ? Hóa chất ? Tâm lý xã hội ? Long mạch môi trường? Khí môi trường ? Nếu là ác xạ đồ vật hỏ đó là quan hệ giữa người và người ? Là ác xạ người với môi trường ? Ác xạ giữa người với đồ vật kê trong nhà ? Ác xạ Địa : Hỏi con lắc đó là ác xạ sinh học hay vật lý ? Ác xạ điểm hay ác xạ diện ? Nếu trường hợp là Phúc xạ không cần điều tra kỹ mà chỉ cần biết điểm đó có bao nhiêu tác phúc và hướng tác phúc của điểm đó. 4/ Tìm tọa độ tạm thời điểm có ác xạ : Sau khi làm thủ tục giao cảm, Cảm xạ viên đưa quả lắc sang tay đối nghịch ngầm hỏi cho tôi biết tọa độ của điểm ác xạ. Lắc chiều nào, tay antena chỉ theo chiều đó được một hướng. Sau đó chuyển lắc sang tay đối diện cũng làm như vậy ta được hướng thứ 2. Giao điểm của 2 hướng đó là tọa độ tàm thời cần tìm. Sau khi xác định được điểm tạm thời thì cảm xạ viên đến điểm tạm thời đó xác định chính xác điểm ác xạ trong diện hẹp . Cũng dùng lắc như phương pháp trên từ 2-3 hướng . Khi xác định được điểm ác xạ rồi ta tiến hành


kiểm tra lại . Nếu theo cảm xạ vật lý thì lắc quay là đúng, lắc lắc là sai. Nếu theo cảm xạ tâm linh thì lắc quay thuận là đúng, lắc quay nghịch là sai. 5/ Khử ác xạ . a/ Khử ác xạ sinh học : Cảm xạ viên giao cảm với điểm ác xạ . Nếu có bút la de thì sử dụng bút, nếu không có thì dùng 5 nén nhang , xin quẻ kép khoán vào điểm ác xạ đó. Dùng bút la de giao cảm như sau " Tôi ước vọng nhạy cảm với tọa độ điểm ác xạ và thu lấy chấn động sóng của điểm ác xạ để tiến hành lấy quẻ dịch quai linh phù , dùng tia la de khoán lên điểm ác xạ để trừ khử vĩnh viện điểm ác xạ đó . Sau khi giao cảm xong đưa lắc lên tay xin thượng quái và hạ quái. b/ Khử ác xạ vật lý : Nếu là tia ác xạ địa : Mua đinh inox có mũ to đóng vào các điểm ác xạ rồi dùng dây điền dẫn phóng lên trời. Nếu là ác xạ sinh học thì phải khử tại mặt đất mới hóa giải được. 6/ Tìm tia vũ trụ . Cách này phải dùng trên họa đồ . Muốn xác định, cảm xạ viên phải xác định ác xạ từ phương nào của mặt tường nào của căn nhà , đo kích thước bức tường đó , sau đó vẽ thu nhỏ theo tỷ lệ trên giấy. Sau đó xác định điểm ác xạ trên họa đồ. Đo chiều cao từ chân tường tới điểm ác xạ , rồi tứ hướng ác xạ tại chân tường đo lên xác định chính xác vị trí của ác xạ tại điểm cụ thể trên tướng. Cũng có thể dùng con lắc và tay antena xác định trực tiếp trên tường. Sau khi xác định ta hỏi lại con lắc, nếu lắc quay thuận thì đúng là điểm ác xạ. 6/ PHÚC XẠ. Phúc xạ là những chấn động sóng của các bình diện THIÊN - ĐỊA - NHÂN tác động đến cuộc sống con người , gây lợi cho con người với 12 tác phúc. Cách tìm điểm Phúc xạ giống như tìm điểm ác xạ. Tứ điểm Phúc xạ , hướng phát theo hình dấu cộng ( + ) . Do vậy cảm xạ viên sau khi tìm được điểm Phúc xạ phải tìm tiếp 4 hướng phát và kiểm tra tác phúc theo từng hướng. Trước khi xác định tác phúc hướng phải xác định tác phúc điểm . Cả hướng và điểm đều tìm theo 12 cung tử vi xem tác phúc tại cung nào : Tài, quan, tử, di, nô..... MỘT

SỐ

BẢNG

BIỂU

KHI

THỰC

HÀNH

CẢM

XẠ

PHONG

THỦY.










PHONG THỦY LUẬN. BÀI 22. PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 3 : KHẢO QUA MÔN CẢM XẠ PHONG THỦY. 2/ THỰC HÀNH CẢM XẠ TRONG PHONG THỦY . B/ ĐỊA SINH HỌC - THIÊN ĐỊA NHÂN - CẢM XẠ HỌC.

1/ NHỮNG HIỆN TƢỢNG ĐÁNG CHÖ Ý TRONG CẢM XẠ PHONG THỦY. Trong một số trƣờng hợp ung thƣ , ngƣời ta vô vọng tìm ra nguyên nhân . Song một số nhà Cảm xạ , có thể tìm ra nguyên nhân của nó là do một sóng từ xuất hiện ngay dƣới giƣờng nằm của bệnh nhân. Đến khi ngƣời ta dời cái giừng của bệnh nhân sang một chỗ khác , ngƣời bệnh dần đƣợc bình phục. Công việc của nhà Cảm xạ đó là tìm ra một điểm giao nhau của 2 dòng nƣớc ngầm ở dƣới đất , ngay chỗ giƣờng nằm cũ của bệnh nhân. Nếu không dời giƣờng đi , tía Ác xạ ấy cứ bốc lên , dần dần ngƣời bệnh sẽ chết. Tất cả những ai đặt giƣờng nằm trên các mạch nƣớc ngầm đều có thể phát bệnh, song có một số ngƣời thay đổi hƣớng nằm thì đã trút đi đƣợc những sự việc chẳng lành đó. Một cái cây phát triển xanh tốt trong một phòng khách này , nhƣng lại gây độc hại cho một căn phòng khác do ảnh hƣởng của những vũng nƣớc dƣới nền máy giặt cùng đặt tại chỗ đó. Có những điều bí ẩn ngƣời ta không giải thích đƣợc đó là những tai nạn giao thông cứ lập đi lập lại nhiều lần tại một địa điểm. Dù rằng ngƣời ta đã cố tạo ra những biện pháp đảm bảo an toàn . Đó là vì ngƣời ta chƣa tìm ra nơi giao điểm của một phay đất địa chất với một dòng chảy ( Theo dienbatn còn một nguyên nhân nữa là tại đây có hiện tƣợng giống nhƣ Ma Thần Vòng -dienbatn sẽ nói rõ ở những phần sau ). Cứ nhìn dọc đƣờng quốc lộ , chúng ta dễ dàng nhận thấy những bàn thờ nhỏ ngay bên cạnh lề đƣờng , đó chính là dấu tích của những tai nạn lập đi lập lại cùng một vị trí . Ngƣời ta nghi ngờ những mãnh lực vô hình nào đó tác động và việc lập ban thờ nhƣ trên hy vọng sẽ tránh bớt đƣợc những tai nạn. Dù sao đi chăng nữa, việc đó cũng có tác động ít nhiều đến những ngƣời tham gia giao thông, khiến cho họ cảnh giác hơn khi đi qua chỗ đó. Một trƣờng hợp khác : Hai chuồng ngựa xây dựng kề nhau trên một sƣờn đồi . Nƣớc thảỉ của chuồng trên đi ngang qua chuồng dƣới thấp gây ra ngựa ở chuồng dƣới bị bệnh chết. Ngƣời ta dời chuồng ngựa phía dƣới đi chỗ khác, đàn ngựa lại đƣợc yên lành. Một trƣờng hợp khác là hiện tƣợng những ngôi nhà chết . Cụm từ này thu hút sự chú ý của mọi ngƣời do nhà Cảm xạ Roget De Lafforest đƣa ra . Đó là những thông tin về sóng độc hại trong lòng đất mà cho đến nay khoa học vẫn còn coi là những việc lạ lùng . Ví dụ nhƣ một căn nhà xây cất kiên cố , gắn bó với những ngƣời ở trong nhà nhiều năm. Sau này khi họ chết đi hay dời qua nơi khác , những sóng bức xạ của họ vẫn quanh quẩn nơi đó nhiều năm sau.


2/ VẤN ĐỀ SÓNG ĐỘC HẠI. Có một số trƣờng năng lƣợng mang từ tính khác nhau ảnh hƣởng đến cuộc sống trên mặt đất nhƣ : * Trƣờng đa dạng theo hƣớng Bắc - Nam của trái đất. * Trƣờng nội lực trong lòng đất. * Trƣờng ngoại lực do tác động của hệ mặt trời mà ngƣời ta nhận ra qua sự phát xạ của các thiên thể. * Năng lƣợng âm tính do những cơn bão đem đến cho quả đất . Ngƣợc lại là những năng lƣợng dƣơng tính là năng lƣợng thiên nhiên của vũ trụ ( Trƣờng năng lƣợng của Thái dƣơng hệ ). Quan hệ giữa những trƣờng năng lƣợng đó với con ngƣời biểu thị mối quan hệ Thiên _ Địa - Nhân là nội dung của Địa động học. Việc xuất hiện các sóng ác xạ liên quan mật thiết tới quá trình tự cân bằng năng lƣợng , cân bằng sinh thái. " “Trên hành tinh của chúng ta sự sống đƣợc bắt đầu và duy trì bởi các bức xạ, đồng thời cũng bị hủy diệt bởi những sự dao động mất cân đối của nó”. Trong thời đại hiện nay, ngoài các môn khoa học nhƣ sinh học, vật lý, hóa học, địa chất học, các hiện tƣợng sóng…, con ngƣời ngày càng quan tâm tới mối liên hệ giữa SỨC KHỎE và NƠI Ở. Do đó khoa ĐỊA SINH HỌC đã hình thành. Cũng nhƣ Y học, ngoài nền Y học chính thống ra còn một nền Y học thay thế, Y tế dự phòng (alternative medicine) song song tồn tại với nó. Khoa học tự nhiên cũng có nhiều vấn đề chƣa giải thích đƣợc, nhƣng đại đa số quần chúng bình dân vẫn xem chúng nhƣ gắn liền với cuộc sống của họ. Là những nhà khoa học chân chính, chúng ta không nên có một thái độ thiếu khoa học là bác bỏ thẳng thừng những điều mà chính chúng ta chƣa thể lý giải đƣợc. Trên tinh thần đó, một sự tiếp cận mới gần đây khuyến cáo ta cần phải quan tâm đến việc mỗi ngƣời đều có liên quan mật thiết đến nơi ở của mình. Và phải làm thế nào để có thể thuần hoá các địa điểm trên đang bị chi phối bởi những sức mạnh hiện diện một cách vô hình: các trƣờng hay bức xạ khác nhau, năng lƣợng, khí hậu sinh học, thuỵ thổ… Đó là một thách thức mới đặt ra với những ngƣời làm công tác khoa học, nhất là những ngƣời chuyên nghiên cứu môn Năng lƣợng Cảm xạ học. Cần phải đặc biệt quan tâm đến những hiện tƣợng xảy ra xung quanh nơi ở của bạn vì chúng có ảnh hƣởng rất lớn đến cuộc sống của bạn. Điều cần thiết là phải làm thế nào để có một sự đồng nhất giữa sóng rung động của bạn với sóng rung động của chính nơi bạn ở. Đó là điều thiết yếu cho một sự hài hòa và thích hợp. Bạn đã biết rõ tính năng nhạy cảm và hệ thống thần kinh thực vật của con ngƣời sẽ bị thay đổi trƣớc một số chất liệu (mỷ phẩm, nƣớc hoa, màu sắc…) hay những thông tin xung quanh bạn. Thí dụ: Chúng ta ghi nhận đa số những ngƣời mắc bệnh hiểm nghèo đều có những điểm giống nhau: đó là nơi họ ngủ phần nhiều là những điểm có chỉ số địa từ trƣờng xấu (đũa dạt ra và lắc quay ngƣợc), chỉ số Bovis dƣới 3.000. Chỉ cần thay đổi chỗ ngủ hoặc chuyển đi nơi khác có chỉ số địa từ trƣờng tốt (đũa chập lại và lắc quay thuận), chỉ số Bovis trên 6.500 thì bệnh giảm rõ rệt. Sự hiểu biết về lĩnh vực này đòi hỏi bộ môn Năng lƣợng Cảm xạ học đào tạo ra những nhà thực hành Cảm xạ có chuyên môn vững vàng và thành thạo. Con ngƣời là một tổng thể, sống trong môi trƣờng phức tạp mà chỉ cần một sự mất cân đối nhỏ từ bất cứ nguyên nhân nào cũng có thể phát sinh bệnh tật. Sóng địa từ trƣờng hiện diện khắp nơi trong vũ trụ và nó có những ảnh hƣởng nhất định đến sức khoẻ chúng ta. Khoa Địa sinh học nghiên cứu các mối liên hệ giữa trái đất và cuộc sống, sức khoẻ và nơi ở, các tác động của địa từ trƣờng trên vật thể sống, trên vật liệu xây dựng, trên hình thể kiến trúc, trên trang thiết bị, màu sắc, tiếng ồn… Một sự tiếp cận để biết một cách tổng quát về môn Năng lƣợng Cảm xạ với Địa sinh học sẽ mang lại cho chúng ta một sự hòa hợp tốt đẹp giữa con ngƣời với môi trƣờng xung quanh. Tài liệu này không chỉ đơn thuần là một tài liệu về Cảm xạ học với Địa sinh học, mà nó thực sự là một tuyển tập về nghệ thuật sống nhằm làm chúng ta biết sống nhƣ thế nào cho tốt hơn. Các nhà khoa học ở Âu châu và Hoa Kỳ đã phát hiện đƣợc các “ngôi nhà ung thƣ”, “nhà ly dị” và điều này liên hệ mật thiết với môi trƣờng: cấu tạo đất, mạng lƣới năng lƣợng đất, dây dẫn điện, vật liệu xây dựng, kiểu dáng, màu sắc. Qua quan sát, các nhà Sinh học và Vật lý học xác nhận các nguyên tắc của lý thuyết Đông phƣơng cổ đề ra: đất giống nhƣ một sinh vật sống. Nhà Cảm xạ Địa Sinh học cũng tiến hành cách tiếp cận để tìm giải pháp tổng thể cho vấn đề chứ không chỉ giới hạn ở một vài khía cạnh nhỏ bé của nó. Thế giới không phải chỉ giới hạn trong nhận thức từ các giác quan của chúng ta. Có một dòng chảy lƣu thông bên trong vật thể để chuyển tải


thông tin: đó là năng lƣợng. Phƣơng trình đánh dấu thế kỵ XX của Einstein E=mc2. Thật là giản dị! Nhƣng phải mất nhiều thời gian để quan niệm này đƣợc chấp nhận. Cùng với việc coi năng lƣợng là bản chất của vật chất và tinh thần, có một tƣ tƣởng quan trọng nữa làm ảnh hƣởng đến nhận thức của nhân loại là coi vũ trụ nhƣ một tổng thể thống nhất. Sau phát minh về ảnh toàn đồ (hologram) của Gabor (giải Nobel 1972), các công trình của David Bohm về vũ trụ toàn đồ đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Các ý tƣởng này cũng trùng với lý thuyết Thiên-ĐịaNhân hợp nhất của của ngƣời Phƣơng Đông, cũng nhƣ các lý thuyết về vũ trụ – vật chất của Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại. Phải căn cứ vào sự nghiên cứu và quan sát để nhận ra rằng mỗi yếu tố trong đời sống đều chứa đựng cái toàn thể và mong muốn đƣợc hoà hợp với cái khác. Hiện tại có nhiều học thuyết mà qua trình bày của những ngƣời đã xây dựng ra chúng, kết hợp ý tƣởng giữa ngƣời này và ngƣời khác, dẫn đến sự gặp nhau, bổ túc cho nhau. Rất có thể trong tƣơng lai họ làm cho tất cả đều hợp nhất lại. Nhiều thử nghiệm đƣợc tiến hành với một loạt các dụng cụ đã cho những kết quả có thể tạo ra sự thừa nhận các lý thuyết mới về khoa học trong cuốn sách này. Mục tiêu của cuốn sách này là nhằm phổ biến và thực hành các hiểu biết về “Nơi ở an toàn”. Ngày nay ta biết rằng vũ trụ là một hệ thống gồm các yếu tố sống động tùy thuộc vào nhau, không thể tách rời ra, luôn luôn chuyển động, vừa là yếu tố vật chất vừa là ý thức. Từ khái niệm năng lƣợng, nhiều nhà nghiên cứu đƣa thêm khái niệm tinh thần, tƣ tƣởng cũng có liên quan đến thế giới vật chất. Tính thống nhất của vũ trụ theo vật lý học hiện đại cũng gần với quan điểm của Phật giáo về cái Bản thể, cái Một, cái Duy nhất, phù hợp với quan điểm Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của phƣơng Đông. Sự khám phá ra tính thống nhất, tính tổng thể dạng toàn đồ (hologram) của vũ trụ có thể coi là 1 bƣớc ngoặt lớn về nhận thức thế giới quanh ta. Một ví dụ dễ hiểu là khi một ngƣời bị bệnh ở gan, sẽ thấy thể hiện bệnh chính ở gan (kiểm tra sinh hóa gan theo Tây y) nhƣng cũng thể hiện ở mắt, ở tai, ở mặt, ở móng tay, ở bàn chân, ở giọng nói, hơi thở, nhịp mạch (theo Đông y), vì con ngƣời là 1 tiểu vũ trụ có tính tổng thể, tính toàn đồ của Đại vũ trụ. Chúng ta biết vũ trụ là một hệ thống bao gồm các vật thể, phụ thuộc vào nhau, di chuyển liên tục nhƣ một đại dƣơng, năng lƣợng luôn biến động. Theo Basarah Nicolescu, các photon là những phần tử vận chuyển thông tin giữa thế giới nội tâm và ngoại giới. Các quá trình năng lƣợng đƣợc thực hiện qua việc trao đổi électron-photon và phần lớn xảy ra với tốc độ ánh sáng. Bản thân các quá trình đƣợc các phản ứng sinh hóa-thần kinh trong bộ não con ngƣời giải thích nhƣ quá trình trao đổi photon, từ đó dẫn đến các nhận thức, vấn đề trí nhớ, cảm giác… đều liên quan đến photon, đến năng lƣợng. Hiện tại, các vấn đề về năng lƣợng – vật chất – ý thức còn đang đƣợc nghiên cứu. Thật ra dƣờng nhƣ ngƣời ta mới chỉ đạt đƣợc những bƣớc đầu và chỉ mới sử dụng đƣợc một phần nhỏ cái khả năng khổng lồ của nó mà thôi. Từ tính trên mặt đất Trên bề mặt của trái đất có một từ trƣờng mà chiều của nó đƣợc xác định bằng la bàn. Từ trƣờng của trái đất là cái hiện hữu và luôn vận động nghĩa là luôn cùng một hƣớng và cùng một giá trị ở một nơi định sẵn. Ngƣời ta xác định địa từ trƣờng qua các toạ độ của nó. Vả lại, các đƣờng giới hạn bắt buộc của từ trƣờng trái đất không nằm trên mặt đất. Chúng chui sâu trong lòng đất theo hƣớng của vùng có mật độ từ tính cao ở cực Bắc. Góc hợp thành giữa đƣờng ngang và trục của kim lúc dao động tự do là vào khoảng 65o trong vùng: đó là độ nghiêng. Ta dễ dàng tìm thấy hƣớng Bắc qua việc xác định hƣớng của bóng một sợi dây đúng lúc 12 giờ trƣa. La bàn chỉ hƣớng Bắc từ tính tạo với hƣớng Bắc địa lý một góc nhỏ gọi là độ lệch – thay đổi từ từ theo năm tháng và khác biệt theo từng vùng trên bán cầu. Các tọa độ này sẽ thay đổi theo địa điểm và nếu ta thể hiện trên bản đồ từ tính các đƣờng cong nối các điểm khác nhau mà một trong các toạ độ này có cùng một trị số với nhau. Chúng biểu hiện các bất thƣờng của địa phƣơng liên hệ với các đặc tính sinh học của lòng đất. Nơi đó đƣợc sử dụng cho các đo lƣờng từ tính để thăm dò địa vật lý. Nhà Địa Sinh học dùng một máy địa từ trƣờng để phát hiện các dị thƣờng của từ trƣờng bên trong một ngôi nhà, cơ quan. Thông thƣờng, cƣờng độ từ trƣờng của các điểm bình thƣờng trên mặt đất cỡ 0,5 miligram. Gaus là đơn vị đo cƣờng độ từ trƣờng, 1 gaus = 1.000 miligram. Các sóng điện từ Trong thời gian sóng điện từ lan toả, một số sóng chạy dài trên đất, số khác tự biến mất, số khác thì phản chiếu vào lòng đất ngang tầm của tầng điện ly (tầng ion hoá học).


Một số sóng điện từ khi lƣớt qua trên mặt đất thì một phần do đất hấp thụ nơi mà có các dòng điện tự tạo ra ở một độ sâu nào đó, dòng điện này càng xuống sâu càng giảm. Các sóng dài và các sóng có tần số yếu dễ dàng xuyên thấu do vậy các dòng điện trên bề mặt đặc biệt yếu vì năng lƣợng đƣợc phân bố ở độ sâu. Đối với sóng ngắn, trái lại, các dòng điện trên mặt sẽ cao hơn và ảnh hƣởng của nó gia tăng theo tần số. Dòng điện cũng gia tăng với tính dẫn điện từ của đất. Đất có tính dẫn điện cao là đất ẩm ƣớt ở trên mặt, do đó dòng điện rung động với một cƣờng độ mạnh hơn. Trong một số trƣờng hợp, chúng có thể có tác động nguy hại cho đời sống. Hàng ngày vào bất cứ lúc nào, cơ thể ta bị các bức xạ chiếu vào, ngay cả lúc bình thƣờng ta không nhận ra. Phần lớn các bức xạ đến với chúng ta từ khoảng ngoài không gian, mặt trời, các vì sao. Một số bức xạ khác đƣợc hình thành một cách tự nhiên trên bề mặt của trái đất. Chúng đến phần lớn từ sự phóng xạ của các khối đá trong lòng đất ví dụ nhƣ uranium. Các bức xạ là một phƣơng tiện vận chuyển cho năng lƣợng tại một điểm: từ chỗ phát đến chỗ thu. Thƣờng chúng di chuyển theo đƣờng thẳng dƣới dạng bức xạ. Các bức xạ vô hình là những sóng vô tuyến, bức xạ hồng ngoại, cực tím, tia X, tia gamma, tất cả những sóng này truyền qua không gian với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng tức 300.000km/giây. Nguyên tắc chụp tia X hay scanner ứng dụng trong y học và nha khoa đƣợc dựa trên sự phát các sóng điện từ này. Tùy theo sự thâm nhập hay hấp thụ bởi cơ thể con ngƣời, các bộ phận có thể hiện trên phim hay trên màn hình. Ảnh hƣởng nhiệt học của chúng đƣợc sử dụng trong nguyên tắc lò vi ba. Rada thì sử dụng ảnh hƣởng này trong một ứng dụng khác. Một số các bức xạ điện từ này có đặc tính làm biến đổi cấu trúc điện từ của nguyên tử, đó là những bức xạ ion hoá, đặc biệt đƣợc dùng trong bảo quản thực phẩm. Tính phóng xạ Có 3 loại bức xạ phát ra từ các chất phóng xạ. Các tia alpha là những nhân nguyên tử héli. Chúng tích điện dƣơng vì đƣợc cấu tạo bằng 2 proton (dƣơng) và 2 neutron (không tích điện). Các tia bêta: Chúng không có trong nhân nhƣng chúng đƣợc phát ra khi một neutron biến thành 1 proton cộng với 1 électron trong một nhân. Các tia gamma là những sóng điện từ có bƣớc sóng rất ngắn. Đó là những bức xạ thấm sâu nhất. Đối với các chất phóng xạ nguy hiểm, các phần tử vật chất alpha và bêta không thể thâm nhập sâu trong tế bào sống mà chỉ tạo thành những vết bỏng trên da. Nhƣng tia gamma thì nguy hiểm hơn vì chứa năng lƣợng cao và khả năng thâm nhập lớn của chúng có thể gây tổn hại cho các phân tử của chất di truyền (ADN) đƣợc tích luỷ trong các bộ phận sinh sản và gây ra các đột biến làm nguy hại cho sự sinh sản sau này. Vì lý do này mà các chất phát tia gamma đƣợc lƣu giữ sau các màn dày của bê tông và chì. Chớ nên đánh giá quá cao cũng nhƣ quá thấp các nguy hại của những phóng xạ này mà chỉ cần tự bảo vệ. Vì vậy ngƣời ta ấn định một số định mức an toàn để mọi ngƣời tuân thủ. Dƣ Quang Châu (Bộ môn Năng lƣợng Cảm xạ) ". 3/ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA MÔN ĐỊA SINH HỌC Ngày nay, Các nhà Địa vật lý nghiên cứu cấu tạo của địa cầu thấy rằng mọi sự bất thƣờng trong cấu tạo địa chất đều thƣờng dẫn đến một sự xáo trộn ở bề mặt trái đất, tác động đến con ngƣời. Các nhà Thiên văn vật lý đã chứng minh thiên hà giống nhƣ sao chổi từ tính, khi di chuyển trong không trung tạo ra các hiện tƣợng bão từ, địên từ cảm ứng trong lòng đất , đại dƣơng và trong không gian. Các Bác sĩ Y năng lƣợng đã tìm thấy trong khoa Địa sinh học một lời giải đáp cho một số tác nhân sinh bệnh. Thông thƣờng, khi địa từ trƣờng thay đổi, môi trƣờng sống bị tác động, con ngƣời dễ bị mất quân bình và kéo theo tật bệnh. Nguyên nhân này đôi lúc mang vẻ bí ẩn vì mấy ai nghĩ đến những hệ thống điện từ trƣờng chằng chịt có thể làm xáo trộn cuộc sống do các tác động cộng hƣởng của trƣờng điện từ từ bên ngoài với các dòng điện trong cơ thể con ngƣời, nhất là khi dùng điện không đúng cách có thể gây nguy hại từ mức độ nhẹ nhƣ : đau đầu, mất ngủ đến sinh bệnh nặng nhƣ: căng thẳng, suy nhƣợc, hen suyễn, ung thƣ . . . chƣa kể đến những xáo trộn trong cuộc sống lứa đôi dẫn đến ly hôn.


Và con ngƣời nhận ra rằng: muốn sống thỏai mái, khỏe mạnh thì phải sống trong một môi trƣờng vừa có tính chất hóa học hợp lý, vừa có tính chất vật lý phù hợp. Đó là một môi trƣờng: • Không khí trong lành nhƣ ở nông thôn, bờ biển, rừng núi . . . • Thời tiết ổn định nhƣ : nhiệt độ, gió, độ ẩm . . . • Chất liệu của đất để tạo ra các bức xạ phóng lên từ lòng đất thích hợp cho con ngƣời. • Bức xạ phóng ra trong không gian gồm bức xạ mặt trời và bức xạ vũ trụ ở một giới hạn cho phép. • Hạn chế đƣợc các bụi khói công nghiệp, ô nhiễm hóa chất, bụi khói xe cộ. Với cảm xạ Địa sinh học, chúng tôi sẽ đi sâu và giúp cho các bạn làm thế nào để xây dựng và ắp xếp ngôi nhà của mình một cách lành mạnh, chẳng hạn nhƣ chọn nơi thích đáng để đặt giƣờng ngủ, để có thể hạn chế ảnh hƣởng của các bức xạ có hại. 4/MẠNG LƢỚI HARTMAN. Địa sinh học hiện đại bắt đầu có vào những năm 50 nhờ Ernst Hartman, Bác sĩ ngƣời Đức của trƣờng đại học Heidelberg. Bs Hartman đã phát hiện lại rằng tổ tiên chúng ta từ lâu rồi, chắc chắn là từ thời Cổ Đại đã biết trái đất bị bao phủ với kiểu nào đó bởi một lƣới sóng điện từ trƣờng phát ra đồng thời từ vũ trụ và từ đất Và bao phủ đồng đều khắp quả đất, (ngoại trừ một vài vùng nhƣ Hi-mã-lạp-sơn, thì trục bắc – nam của nó giãn xa hơn). Từ đất, lƣới sóng này đƣợc gọi là mạng lƣới Hartman hay mạng lƣới H. Vậy những đặc trƣng chính xác của mạng lƣới này là gì?


Trƣớc tiên, mạng lƣới này gồm những lực đạo (ligne de force) hƣớng về bốn phƣơng trời. Các lực đạo nằm thẳng góc với nhau tạo thành một tấm lƣới mà mỗi ô lƣới (hình chữ nhật) có kích thƣớc chừng 2m theo chiều Bắc-Nam và 2,5m theo chiều Đông-Tây. Bề dày của các lực đạo này là 21cm, chúng dựng đứng thẳng góc với bề mặt của trái đất tạo thành những bức tƣờng vô hình cao lucdaovà vƣợt qua tất cả các chƣớng ngại trên mặt đất, thế đất, công thự. Thực tế, bức xạ của lòng đất là bức xạ gần nhƣ tự nhiên dâng lên từ đất dƣới hình dạng của những bức tƣờng mịn màng và không thể thấy đƣợc, bề dày độ 21 cm, lên cao thật cao, ngay cả ở tầng thứ 18 của một toà nhà cao tầng, ngƣời ta còn có thể xác định vị trí của chúng (nhƣng lƣu ý, càng lên cao, thì vùng trung tính càng thu hẹp lại, vì vậy càng ở gần mặt đất càng tốt). Cần nói thêm rằng, càng có nhiều lớp thẳng đứng, thì mạng lƣới Hartman càng có nhiều lớp nằm ngang, chúng khởi động vào khoảng 60 cm từ mặt đất. Sự cấu tạo của thế đất, sự hiện diện của dòng nƣớc, các phay địa chất, các dây cáp, các khối từ trƣờng quan trọng, các bức xạ hay mọi dị thƣờng có thể biến đổi sự đồng thể hoá (déshomogénéisation) của khu vực, kể cả mạng lƣới Hartman: các lực đạo bị lệch và các ô chữ nhật có thể thay đổi theo chiều dài từ 2 đến 3,5m và chiều rộng thay đổi từ 1,8m đến 2,5 m. Theo nguyên tắc, tại một vùng trung tính, mạng lƣới toàn cầu là một mạng lƣới chặt chẽ giữa các mắc, trừ trƣờng hợp nếu có những sóng nguy hại khác hiện ra theo chiều thẳng đứng. Nhƣng địa từ trƣờng của lực đạo của mạng Hartman giao nhau tạo thành các gút địa sinh bệnh. Tính chung, cứ 4 điểm cho mỗi hình chữ nhật. Theo chiều thẳng đứng của các nút địa sinh bệnh này xuất hiện một sóng độc hại vừa gây rối loạn vừa mang tính chất lâu dài. Ngƣời Trung Hoa cổ gọi chúng là”các lối đi của ma quỵ”. Qua hình dƣới đây, bạn có thể ghi nhận tại những giao điểm của những lực đạo của mạng lƣới là những gút đƣợc gọi là gút Hartman, những gút đƣợc các nhà địa sinh học gọi là “những điểm gây bệnh từ lòng đất” (géopathogènes) Chúng hợp thành những hình vuông với cạnh xấp xỉ là 21 cm, đó là nơi có yếu tố nguy hại cao nhất. Nhƣ thế có nghĩa là những nơi đó có khả năng tạo thuận lợi cho bệnh phát sinh hay bệnh tiến triển. Những nơi giao nhau của lực đạo này đƣợc gọi là gút lƣới, còn đƣợc gọi là gút Hartman hay gút H. Tại những nơi giao nhau này, sựrung động cực kỳ thấp.

Vì thế nhất thiết phải tránh những gút đó. Vùng trung tính là vùng tốt, nếu không bị nhiễu độc hại khác, là vùng nằm ở giữa các ô lƣới này. Đây là điểm mà ngƣời ta có thể hoàn toàn đặt giƣờng ngủ

Cơ sở khoa học của mạng lƣới Hartman qua các cuộc thí nghiệm


Nhiều thí nghiệm trên động vật đƣợc thực hiện trong labo: nhà địa sinh học nổi tiếng Rémy Alexandre kể lại chuyện này trong tác phẩm của Ông tựa là Giƣờng ngủ của bạn đặt đúng chỗ tốt chƣa ? Nội dung nhƣ sau :”Ở Đức, Bác sĩ Hartman và Bs Jenny đã thực hiện trong labo những thí nghiệm trên 14.000 con chuột bạch trong 12 năm. Cuộc thí nghiệm bao gồm nhốt các con chuột cùng gốc, cùng tuổi, cùng trọng lƣợng trong một chỗ trung tính nào đó, và nhốt một số khác trên nơi gút lƣới, gút H. Các chuột trong vùng trung tính sống yên lành trong suốt thời gian thử nghiệm, chúng giữ đƣợc bộ lông đẹp và sinh sản ra hậu duệ

của chúng 30% nhiều hơn các chú chuột nhốt nơi các giao điểm. Các chú chuột ở các gút này thƣờng xuyên xao động và tìm cách chui trốn trong các góc gần với vùng trung tính, bộ lông của chúng thƣa ra, chúng kêu ban đêm, gặm nhấm đuôi của mình, xé ăn các con nhỏ. Sau 40 ngày của mỗi đợt thử nghiệm, mổ xác chúng, ngƣời ta phát hiện thật nhiều khối u. Phân chất cho thấy độ pH trong máu của số con vật này biến đổi thành vùng đầy chất kích thích.” Điều đó, than ôi, với con ngƣời cũng thế nếu con ngƣời thƣờng xuyên lƣu trú trên những gút độc hại đó… Theo dòng thời gian, địa sinh học đã trở thành một môn khoa học thực sự. Nhiều nhân vật nổi tiếng cũng đã từng ứng dụng địa sinh học. Nhƣ thế, công việc của họ là phân tích một cách hợp lý tất cả những tham số xác thực tại một chỗ ở: vị trí (nền nhà, tầng hầm – móng), kiến trúc, xây cất công trình … để loại trừ những ảnh hƣởng tai hoạ có thể có ở những nơi đó. Họ cũng có thể giữ vai trò cố vấn cho một gia chủ để xây cất một cách hoàn hảo ngôi nhà mới. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ đi sâu và giúp cho các bạn làm thế nào để xây dựng và sắp xếp ngôi nhà của mình một cách lành mạnh, chẳng hạn nhƣ chọn nơi thích đáng để đặt giƣờng ngủ, để có thể tránh tất cả những sai lầm trong tầm ảnh hƣởng của điện, v.v… Chúng tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn những phƣơng cách giản đơn, thực tiễn và trong tầm tay của các bạn để tự phòng vệ và chống lại những sóng đang gây hại cho tiến trình tốt đẹp của sự sống chúng ta trên quả đất. ( Nguyễn Minh Trí – DS. Lê Văn Giàu) 5/ Chỉ số Năng Lƣợng Sinh Học - Bovis

Để đo năng lƣợng sinh học của ngƣời, động thực vật hay địa sinh học. Các nhà nghiên cứu năng lƣợng sinh học trên thế giới (chuyên gia cảm xạ học, chuyên gia năng lƣợng sinh học) luôn dùng tới chỉ số đo có tên gọi là Bovis. Vậy chỉ số đo Bovis là gì ?.


Chỉ số Bovis trong công phu tu luyện tập thiền cao nhất là bao nhiêu ? Chỉ số Bovis của cơ thể con ngƣời bao nhiêu là tốt ? Chỉ số Bovis của một số vật thể, nhƣ của khu đất ảnh hƣởng đến sức khỏe và bệnh tật. Một ngƣời trung bình phát ra 15.000 Bovis nhƣng nếu có công phu luyện tập thiền thì chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis, điều đó nói lên khả năng trị liệu chữa bệnh ở mức độ cao. Chỉ số Bovis trong công phu tu luyện tập thiền cao nhất là bao nhiêu ? Các Thiền sƣ, các hành giả, các học viên luyện tập qua các phƣơng pháp Thiền nhận năng lƣợng vũ trụ - Nhân điện- Yoga - Dƣỡng sinh trƣờng Sinh học, cảm xạ học ...thì cơ thể có chỉ số Bovis tăng rất cao, sự tăng nhanh chóng tùy theo sự tu luyện của mình, tùy theo cấp học cao thấp mà sự tăng chỉ số Bovis cũng có sự khác nhau. Máy đo Địa từ trƣờng (Géomagnétomètre), máy Bovis Biometer dùng đơn vị chỉ số n là Bovis. Thông thƣờng các nhà Ðịa Sinh Học hay dùng từ ngữ: “chỉ số Bovis”. Nhƣ vậy chỉ số này nói lên điều gì? Chỉ số Năng Lƣợng Sinh Học - Bovis Để đo năng lƣợng sinh học của ngƣời, động thực vật hay địa sinh học. Các nhà nghiên cứu năng lƣợng sinh học trên thế giới (chuyên gia cảm xạ học, chuyên gia năng lƣợng sinh học) luôn dùng tới chỉ số đo có tên gọi là Bovis. Chỉ số Bovis đƣợc lấy theo tên của nhà vật lý học ngƣời Pháp có tên là Antoine Bovis. Ông không chỉ là nhà vật lý nổi tiếng mà còn là một nhà cảm xạ, một nhà năng lƣợng cảm ứng giỏi của thế kỵ 20. 1. Chỉ số đo năng lƣợng của địa sinh học đƣợc lấy từ: 0 đến 20.000 đơn vị Bovis. 2. Chỉ số đo năng lƣợng của ngƣời, động vật đƣợc tính từ : 0 đến 400.000 đơn vị Bovis. Đây là những chỉ số cơ bản đƣợc áp dụng vào thế kỵ 19 và thế kỵ 20. Bƣớc sang thế kỵ 21, Các chuyên gia cảm xạ học của nhiều nƣớc trên thế giới nhƣ: Balan, Bỉ, Đức , Mỷ…..đã nghiên cứu năng lƣợng sinh học trên hàng triệu con ngƣời và đã thấy rằng: chỉ số đo năng lƣợng sinh học ở ngƣời cần áp dụng từ: 0 đến 100.000 đơn vị Bovis. Trong những trƣờng hợp mà cơ thể có năng lƣợng đặc biệt thì chỉ số Bovis này có thể đƣợc sử dụng từ: 0 đến 1.000.000 đơn vị Bovis. Với những nơi có năng lƣợng địa sinh học đặc biệt, sẽ lấy chỉ số đo từ: 0 đến vô cực. Chỉ số Bovis đƣợc lấy theo tên nhà vật lý Pháp Antoine Bovis. Ông đã đƣa ra chỉ số này trong khi tiến hành khảo sát kim tự tháp Ai Cập trong những năm 1930. Chỉ số Bovis dùng để đo “sức khỏe”, ”sức sống” tự nhiên của vật thể hữu cơ, đo năng lƣợng tự nhiên, sóng dao động của quả đất. Năng lƣợng này đƣợc gọi là “biophoton” tức là phân tử ánh sáng mặt không nhìn thấy đƣợc. Thứ năng lƣợng này là cần thiết để duy trì sự sống trên quả đất. Ðó là sự cân đo trực giác của những nhà cảm nhận năng lƣợng, của những ngƣời có công năng bẩm sinh họăc rèn luyện công phu. Muốn đo đƣợc chính xác bằng phƣơng pháp trực giác (intuition), ngƣời đó phải vô thức hoàn toàn, thực hiện nguyên lý của lão tử “không mà có”, các nhà cảm nhận năng lƣợng đã thực hiện một phƣơng pháp rất hiệu quả đó là phƣơng pháp lập trình hệ thống cảm nhận năng lƣợng chính xác tối đa. Cho đến nay chƣa có máy móc gì nhiều để đo chỉ số Bovis trực tiếp, giá máy rất đắt. Song cũng vẫn có cách đo chỉ số Bovis gián tiếp thật đơn giản với chi phí thấp, bằng cách ngƣời ta có dùng một số liệu pháp cộng hƣởng song song với hình ảnh của Cropcircles…. Tóm lại, hiện nay chúng ta cũng có cách đo chỉ số Bovis cho con ngƣời và vật chất khác, bằng các phƣơng tiện khác nhƣ dùng con lắc, cảm xạ đồ, Hào Quang Phổ .. rồi dựa vào đó mà luận tính ra chỉ số Bovis một cách dễ dàng. Sau đây là chỉ số Bovis của một số vật thể: Chỉ số Bovis càng cao thì sức khỏe càng tốt. Nếu một ngƣời chỉ có chỉ số Bovis < 5000 thƣờng là sức khỏe yếu, bệnh tật. Năng lƣợng tối thiểu cần thiết cho con ngƣời từ 6500 đến 10.000 Bovis hay hơn chút ít. Một ngƣời trung bình phát ra 15.000 Bovis nhƣng nếu có công phu luyện tập chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis, điều đó nói lên khả năng trị liệu ở mức độ cao. (luyện tập qua các phƣơng pháp Thiền - Khí công - năng lƣợng vũ trụ - Nhân điện...thì cơ thể có chỉ số Bovis tăng rất cao nhanh chóng giúp tăng cƣờng sự đề kháng của cơ thể, giảm thiểu đƣợc bệnh tật. Ngoài ra, ngƣời có chỉ số Bovis cao sẽ có khả năng hỗ trợ chữa bệnh cho nhiều ngƣời khác rất hữu hiệu )


Chỉ số Bovis cơ thể con ngƣời: Chỉ số Bovis của cơ thể con ngƣời bao nhiêu là tốt ? Từ 0 đến 1.000 rất có khả năng gây ung thƣ. Từ 1.000 đến 3.000 bệnh nặng Từ 3.000 đến 5.000 sức khỏe yếu, bệnh thƣờng gặp và hay mắc phải Từ 5.000 đến 6.400 dƣới bình thƣờng một ít. Từ 6.000 đến 6.500 bình thƣờng.trung bình, khỏe mạnh Từ 6.500 đến 9.000 tốt. Từ 9.000 đến 12.000 khá tốt Từ 12.000 đến 14.000 rất tốt, xúc cảm, thuận lợi sức khỏe Từ 14.000 đến 18.000 trí tuệ. Từ 18.000 đến 20.000 khí lực tốt. Từ 20.000 trở lên có công năng rất tốt. Một ngƣời trung bình phát ra 15.000 Bovis nhƣng nếu có công phu luyện tập các pháp môn thiền định, nhƣ Năng Lƣợng Vũ Trụ - Khí công... chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis,

Chỉ số Bovis của đất đai, chỗ ở (nhà cửa):

Chỉ số Bovis của một số vật thể, nhƣ của khu đất ảnh hƣởng đến sức khỏe và bệnh tật

- Từ 0 đến 1.000 đất đai nằm trên giao điểm địa từ trƣờng họăc giao điểm của mạch nƣớc ngầm (còn gọi là căn nhà ung thƣ, căn nhà có tử khí). - Từ 1.000 đến 3.000 vùng đất có tử khí là giao điểm của mạng lƣới địa từ trƣờng - đũa dạt ra - con lắc quay ngƣợc chiều kim đồng hồ (con gọi là căn nhà ly dị, đất sinh bệnh nặng, bệnh tiên thiên). - Từ 3.000 đến 5.000 vùng đất có âm khí, đây là giao điểm của mạng lƣới từ trƣờng - đũa dạt ra con lắc quay thuận (còn gọi là căn nhà bệnh tật, đất gây ra sự hao hụt năng lƣợng, sinh mệt mỏi thƣờng xuyên). - Từ 5.000 đến 6.500 có mức độ năng lƣợng vật lý dƣới trung bình. - Từ 6.500 là năng lƣợng vật lý trung bình. tƣơng đối khỏe mạnh - Từ 6.500 đến 9.000 có mức độ năng lƣợng vật lý khá tốt,sinh khí khá tốt, địa điểm đạt yêu cầu - Từ 9.000 đến 12.000 đất rất tốt - Từ 12.000 đến 18.000 đất vƣợng khí - Từ 18.000 đến 20.000 đất long mạch, năng lƣợng vật lý thật tốt vƣợt lên tỵ lệ này thì có khả năng sinh tồn cao. Tu Luyện, tập Khí công, Thiền định sẽ giúp chúng ta quân bình và tăng chỉ số Bovis. Đặc biệt là ngƣời luyện tập sau một gian có thể là 10 - 20 năm có thể tự khai mở đƣợc 6 Luân xa thì chỉ số Bovis sẽ cao trên từ 18.000 đến 30.000 Bovis nên sẽ tránh đƣợc nhiều bệnh tật. Chỉ số Bovis tăng là biểu hiện Năng lƣợng sinh học trong cơ thể tăng. Nếu ta có nhân duyên đƣợc ngƣời có khả năng giúp chúng ta kích hoạt, khai mở 6 Luân xa thì việc tăng chỉ số Bovis sẽ tăng nhanh chóng trong một thời gian rất ngắn trong vòng vài tuần, vài tháng mà thôi.


Nếu ngƣời có năng lực giúp chúng ta trong việc kích hoạt 6 Luân xa, thì chỉ trong vòng vài phút là xong. Sau đó, ngƣời nào kiên trì tu tập khí công -Thiền định thì chỉ số Bovis sẽ lên đến 40.000 là một điều rất bình thƣờng, khi đó Tâm Thân sẽ an lạc, sẽ có một đời sông Hạnh phúc thật sự. ( Sƣu tầm - dienbatn )

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 23. PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 3 : KHẢO QUA MÔN CẢM XẠ PHONG THỦY. 6/ BÀI THAM KHẢO THÊM.

“Tia đất” và các hiện tƣợng kỳ bí Bạn đang sống trong một không gian, mà ở đó bạn cảm thấy sức khỏe dồi dào, tinh thần sảng khoái. Ngƣợc lại, có những nơi vừa đặt chân đến, bạn đã có cảm giác mệt mỏi, sức khỏe yếu đi... Tại sao có những vùng “địa linh, nhân kiệt”, xuất hiện nhiều ngƣời tài, lại có chốn “tử địa”, bệnh tật, chết chóc? ... Tia dat ky bi Bạn đang sống trong một không gian, mà ở đó bạn cảm thấy sức khỏe dồi dào, tinh thần sảng khoái. Ngƣợc lại, có những nơi vừa đặt chân đến, bạn đã có cảm giác mệt mỏi, sức khỏe yếu đi... Tại sao có những vùng “địa linh, nhân kiệt”, xuất hiện nhiều ngƣời tài, lại có chốn “tử địa”, bệnh tật, chết chóc? Câu trả lời: “Tia đất” là một nguyên nhân khách quan gây nên những điều huyền bí này. Điều này đƣợc kỷ sƣ Vũ Văn Bằng-nhiều ngƣời mệnh danh là “thầy phù thủy” trong việc tìm nƣớc ngầm, tìm hài cốt-khẳng định. Vậy “tia đất” là gì? Tác hại của nó thế nào? Lý thuyết về “tia đất” có từ thời cổ đại Có thể định nghĩa “tia đất” nhƣ thế nào, thƣa ông? Theo truyền thống khi tìm đất để làm nhà, đặt mồ mả... việc đầu tiên là tìm “đất lành”, tránh “đất dữ”. Để gặp “lành”, tránh “dữ” ngƣời xƣa dùng thuyết phong thủy và xuất hiện những ngƣời chuyên làm nghề này gọi là “thầy địa lý”. Câu chuyện về phong thủy thƣờng gắn liền với một cái gì đó thần bí và khó giải thích, vì vậy đã bị nhiều ngƣời khoác cho cái vỏ bọc mê tín. Ở các nƣớc phƣơng Tây họ ít dùng thuật phong thủy mà dùng một phƣơng pháp khác, đó là phát hiện và xử lý những tia năng lƣợng phát lên từ dƣới đất gọi nôm na là “tia đất”. Hiểu một cách phổ thông nhất thì đó là những tác động của một loại “trƣờng địa điện từ” mà trƣờng này tùy vào cƣờng độ mạnh nhẹ tác động lên con ngƣời. Loại trƣờng này hiện diện ở khắp mọi nơi.


Trong lòng đất, trong vật liệu xây dựng, nhà cửa... Cho đến nay, hầu hết các nhà nghiên cứu về “tia đất” mới chỉ dừng ở mức xác định đƣợc sự hiện diện và mức độ ảnh hƣởng của nó tới sức khỏe con ngƣời. Còn bản chất thực của “tia đất” vẫn bỏ ngỏ. Ai phát hiện ra “tia đất”? Ông có phải là ngƣời Việt Nam đầu tiên áp dụng “tia đất” vào cuộc sống không, thƣa ông? Trong sách cổ Trung Hoa có ghi vào năm 2000 trƣớc Công nguyên vua Ngu Hoàng nhà Thuấn ( 2205-2197 tr.CN) rất giỏi trong việc dò tìm các mỏ quặng, các mạch nƣớc ngầm, của cải chôn giấu dƣới đất. Vào thời Phục Hƣng ở châu Âu, đặc biệt ở Đức, Pháp, Ý… rộ lên nghề dùng “đũa thần” hình chữ Y và con lắc tìm những thứ dƣới mặt đất mà họ muốn. Nhƣ thế, ngƣời xƣa đã biết vận dụng những kiến thức về “tia đất” để phục vụ cuộc sống. Trong đó, theo tôi biết, ngƣời Ai Cập cổ đại là những chuyên gia hàng đầu về “tia đất”. Năm 1958, tôi học tại Đại học Bách khoa Hà Nội, ngành Địa chất công trình. Mặc dù học ngành khoa học về công trình nhƣng quả thực tôi chƣa hề biết gì về cái gọi là “tia đất”. Năm 1990, khi sang Ba Lan học, tôi biết có một công ty (của Ba Lan) chuyên xử lý các tia có năng lƣợng xấu cho các công trình, trong đó có cả nhà ở. Tôi đến tận nơi tìm hiểu và sau khi hiểu ra, tôi hoàn toàn bị chinh phục. Từ đó, tôi say mê tìm hiểu về tác động của “tia đất” lên con ngƣời. Hiện nay, có thể áp dụng lý thuyết về “tia đất” nhƣ thế nào vào cuộc sống? Nhờ áp dụng kiến thức về “tia đất”, chúng ta có thể xác định đƣợc nơi đất tốt, đất xấu cho sức khỏe con ngƣời; tìm nƣớc ngầm, khoáng sản; xác định các vị trí rò rỉ của các ống dẫn nƣớc, dẫn dầu dƣới lòng đất; tìm kiếm mồ mả, hài cốt… Nơi có “tia đất” xấu sẽ sinh bệnh, “tia đất” tốt chữa đƣợc bệnh “Tia đất” có những tác động nhƣ thế nào đến đời sống? Con ngƣời ta hằng ngày đều tiếp xúc với “tia đất” nhƣng đa số là với các “trƣờng địa điện từ” rất nhỏ ít ảnh hƣởng đến con ngƣời. Chỉ những nơi có “tia đất” phát mạnh thì mới có ảnh hƣởng rõ rệt. “Tia đất” bao gồm cả những tia phát ra từ vỏ cứng của Trái Đất và lan tỏa trên mặt đất dƣới dạng sóng và trƣờng. Do các sóng này va đập vào các tác động khác của tự nhiên nên sản sinh ra các bức xạ điện từ. Nếu là các bức xạ có liên quan đến mạch nƣớc ngầm và phóng xạ thì sự nguy hại đến sức khỏe con ngƣời tăng lên gấp bội lần. Tất cả các kết quả nghiên cứu đã công bố cho thấy “tia đất” có nguồn gốc từ phóng xạ và dòng nƣớc chảy dƣới mặt đất đều có hại tới sức khỏe con ngƣời dƣới dạng bệnh lý nhƣ: đau đầu, khó thở, huyết áp tăng, rối loạn tuần hoàn máu, đau cơ bắp, giảm sức đề kháng, lâu dần dẫn đến ung thƣ. Trong đa số trƣờng hợp bệnh lý không rõ ràng (ốm không ra ốm, khỏe không ra khỏe) khó khăn cho bác sĩ chẩn đoán bệnh. Bác sĩ Ha-gơ thuộc Hội khoa học Y tế Đức cùng các đồng nghiệp ngƣời Ba Lan đã tiến hành khảo sát những căn nhà của 5.348 ngƣời bị chết vì bệnh ung thƣ ở thành phố Ste-tin (Ba Lan) cho thấy: hầu hết họ đã sống và ngủ ở những nơi có “tia đất” xấu có cƣờng độ mạnh. Nhƣ vậy, “tia đất” có ảnh hƣởng xấu, cần phải loại trừ? Không phải thế, bên cạnh những nơi có “tia đất” xấu thì lại có những nơi có “tia đất” rất tốt. Con ngƣời sống ở nơi này sẽ khỏe mạnh, khí chất thông minh. Đây chính là tiền đề để hình thành những vùng “địa linh, nhân kiệt”. Hay nhƣ ngƣời xƣa vẫn quan niệm rằng nếu tìm ra những “long mạch” để an táng phần mộ tổ tiên ở đó thì con cháu sẽ “phát lộc, phát tài”. Những nơi “long mạch” ấy chính là nơi có “tia đất” rất tốt. “Tia đất” xấu có thể làm con ngƣời sinh bệnh tật. Ngƣợc lại, những nơi “tia đất” tốt lại có tác dụng chữa bệnh. Dƣ luận từng xôn xao về những “khu đất lạ” mà ngƣời bệnh đến đó khỏe ra. Điều này có cơ sở khoa học của nó. Tuy nhiên, những khu đất ấy không phải và không thể chữa đƣợc bách bệnh mà nó chỉ giúp ngƣời bệnh cảm thấy sức khỏe tốt hơn, khí huyết lƣu thông. Chắc chắn nó không thể chữa đƣợc những bệnh truyền nhiễm. Chuyện dùng thần giao cách cảm để tìm hài cốt có liên quan tới “tia đất”? Ông có nói hài cốt khi đƣợc chôn dƣới lòng đất sẽ phát ra các tia đặc biệt. Liệu đây có phải là nguyên nhân xuất hiện những câu chuyện thần bí về việc đi tìm mộ? Hài cốt khi ở trong lòng đất sẽ phát sinh một loại sóng đặc biệt. Ngƣời bình thƣờng cũng nhận đƣợc loại sóng này nhƣng không giải mã đƣợc. Chỉ những ai có khả năng đặc biệt, mà theo tôi là trong ngƣời họ có một thứ gen rất nhạy cảm, sẽ trở thành an-ten để thu nhận những sóng đó. Những ngƣời có khả năng siêu việt kia, lúc đầu có thể chỉ là những ngƣời bình thƣờng, chỉ sau khi gặp những biến cố nhƣ ốm nặng, điện giật, tai nạn thì các gen đặc biệt mới đƣợc kích hoạt. Và khả năng đặc biệt ấy không tồn tại vĩnh viễn. Đến một thời điểm nào đó, nó tự mất đi.


Còn những chuyện mê sảng thấy vong hồn hiện về? Nghe thì có vẻ mê tín, nhƣng hiện tƣợng này cũng có thể lý giải dƣới góc độ khoa học về “tia đất”. Các hài cốt phát ra “tia đất” không tốt. Nếu dƣới nền nhà mà có hài cốt thì những ngƣời sống trong nhà đó sẽ chịu những ảnh hƣởng nhất định đến sức khỏe, hay gặp chuyện mộng mị. Để chấm dứt, đầu tiên phải chuyển hài cốt đi nơi khác, sau đó tiếp tục dùng các chất cần thiết để trung hòa các “tia đất” xấu còn rơi rớt lại. Hóa giải “tia đất” xấu bằng cách nào? Khi đã phát hiện đƣợc “tia đất” xấu, có thể dùng than hoạt tính để trung hòa nó. Than hoạt tính có tác dụng hấp thụ trƣờng địa điện từ rất tốt, hay nói cách khác nó có tác dụng khử từ. Ở phƣơng Tây, ngƣời ta dùng thạch anh để trung hòa “tia đất”. Tuy nhiên, thạch anh hiếm, giá thành đắt hơn than hoạt tính rất nhiều. Ta có thể dùng than hoạt tính chôn xuống nền nhà, hoặc chỉ cần để mỗi góc nhà một giỏ than hoạt tính. Sau 2 năm, nếu “tia đất” lại tiếp tục tác động thì đặt tiếp than hoạt tính mới. Chi phí để “hóa giải” có lớn không? Thấp nhất chỉ cần vài trăm nghìn đồng. Ngƣời ta kể rằng ông đã giúp rất nhiều nơi loại trừ “tia đất” độc? Tại Sở Tài nguyên và Môi trƣờng Quảng Bình, nhân viên làm việc ở đây luôn có hiện tƣợng mỏi mệt, bất an. Thậm chí, có ngƣời đã đi gặp thầy cúng để giải hạn. Tôi đến đo và nhận thấy có tác động của “tia đất”, do dƣới nền đất nằm trong khuôn viên Sở có khá nhiều mồ mả, hài cốt. Sau khi dùng than hoạt tính để khử từ, mọi ngƣời trong Sở không còn cảm thấy trạng thái mệt mỏi nữa. Hay nhƣ chính nội tộc nhà tôi ở Đại Mỗ (Hà Tây), có ngƣời trong nhà hay ốm đau kéo dài mà đi khám không tìm ra nguyên nhân. Tôi mang máy về đo và phát hiện trong nền nhà có hài cốt liền dùng than hoạt tính khử từ và mọi ngƣời từ đó hết ốm đau. Đến nay, tôi đã khử từ ở hơn 600 nhà dân và nhiều cơ quan. Nếu ở các nhà xây cao hoặc chung cƣ thì “tia đất” có tác động lên sức khỏe con ngƣời không? Tôi đã thử và thấy rằng ở trên tầng cao của chung cƣ, “tia đất” vẫn tác động. Thậm chí nhiều vật liệu xây dựng hiện nay cũng phát ra “tia đất” rất mạnh nhƣ đá Granite, gạch men, thép sản xuất… Ngay cả những đƣờng ống dẫn nƣớc lên các tầng cao của các căn hộ chung cƣ cũng có khả năng phát ra “tia đất” ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời, vì vậy phải tính toán vị trí lắp đặt cho phù hợp. Làm thế nào để nhận biết khu đất tốt, không có những “tia đất” độc hại? Thƣờng những nơi cao ráo, thoáng đãng rất có lợi cho sức khỏe. Những nơi ẩm thấp, tối tăm, gần sông suối, ao hồ thƣờng có “tia đất” xấu tác động mạnh. Một vài vùng đồng bằng ven sông của ta có địa thế thấp nên xuất hiện nhiều “tia đất” bất lợi. Ở các nƣớc nhƣ Đức, Ba Lan, Áo, Anh, Pháp, Mỷ…, các bác sĩ là ngƣời đi tiên phong trong lĩnh vực dò tìm “tia đất” để di chuyển bệnh viện hoặc giƣờng bệnh cho bệnh nhân đến vị trí không có “tia đất” xấu. Đây đƣợc coi là phƣơng pháp phòng và chữa bệnh đầu tiên phải nghĩ đến của các bác sĩ trƣớc khi khám và can thiệp bằng thuốc. Nƣớc Đức đã có luật, khi bán đất hay nhà ở cho ngƣời khác trong thủ tục chuyển nhƣợng phải kèm theo chứng nhận ở đó không có “tia đất” độc hại. Trong điều kiện quỷ đất ngày càng eo hẹp hiện nay, nếu không thể chọn đƣợc mảnh đất tốt, khi xây nhà cần phải áp dụng các biện pháp để khử “tia đất” xấu. ( HỒ QUANG PHƢƠNG -Báo Quân Đội Nhân Dân ) LỜI BÀN CỦA DIENBATN. Cảm xạ phong thủy là một công cụ hỗ trợ rất cần thiết và tuyệt vời đối với bất cứ ai nghiên cứu và thực hành Phong thủy. Nó nhƣ một chiếc đèn chiếu sáng cho con đƣờng nghiên cứu của mỗi chúng ta. Cảm xạ mang lại cho chúng ta rất nhiều khả năng mà những môn học khác không làm đƣợc. Khi luyện tập đến một mức độ nào đó, chúng ta dễ dàng cảm nhận đƣợc sự di chuyển của những dòng Khí , những điều còn bị chôn dấu ở dƣới mặt đất. Ngày xƣa các cụ không gọi là Phong thủy mà gọi là Địa lý - Tức là nghiên cứu cái lý của đất. Nếu không hiểu rõ dƣới lòng đất mình đang đứng nhƣ thể nào ? Có cái gì đang vận động, có mồ mả, xƣơng cốt không ? Có những phay đất dịch chuyển không ? Có những dòng nƣớc ngầm dịch chuyển theo phƣơng nào thì dù chúng ta có học nhuần nhuyễn những môn khác nhƣ Bát trạch, Huyền không cũng chỉ là cái vỏ, chƣa thấu đáo tận cùng của cái ruột Phong thủy. Tuy nhiên nếu các bạn muốn luyện tập môn Cảm xạ, dienbatn khuyên các bạn


tìm đến những trung tâm cảm xạ của bác sĩ Dƣ Quang Châu hoặc tìm những Thày có khả năng về Cảm xạ nhờ hƣớng dẫn. nếu các bạn tự ý tập , đôi khi gây nên những hậu quả tai hại khó sửa chữa. Phong thủy chính là tổng hợp tất cả những hiểu biết của con ngƣời nhằm sống hòa hợp cùng thiên nhiên, tận dụng tất cả những cái tốt và xấu của thiên nhiên cho mục đích sống của con ngƣời.Trong Tam tài THIÊN - ĐỊA - NHÂN , con ngƣời sánh vai cùng Trời - Đất và có quyền sống sánh ngang Trời - Đất khi hiểu rõ nguyên lý : Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ƣ nhất bản.Chúc các bạn thành công trên đƣờng học tập , nghiên cứu của mình. Thân ái. dienbatn. PHẦN

4.

KHẢO QUA MÔN DƢƠNG TRẠCH TAM YẾU. Lời bàn : "Dƣơng trạch tam yếu" là cuốn sách nói về phƣơng pháp xây dựng nhà ở theo thuật phong thủy Đông phƣơng cổ. Sự ứng dụng của cuốn sách đƣợc nhiều ngƣời cho là hữu hiệu. "Dƣơng trạch tam yếu" cho rằng nhà ở có ba điểm chính là: Cổng chính, phòng chủ và bếp (môn, chủ, táo). Từ những vị trí chủ yếu trên tốt hay xấu, phù hợp hay khắc kỳ sẽ có ảnh hƣởng đến cuộc sống và gia đình gia chủ; bốn loại trạch khác nhau: Tĩnh trạch, Đông trạch, Biến trạch, Hóa trạch; chỉ dẫn cách phiên tinh và cách tính đăng diện, đắc vị hay thất vị cho các du niên tốt nhƣ Snh khí, Diên niên, Thiên y hoặc cho các sao tốt nhƣ Tham lang, Vũ khúc, Cự môn... "Dƣơng trạch tam yếu - Đồ giải" lấy bản "Dƣơng trạch tam yếu" nói trên làm bản nền, để tiến hành biên tập lại theo phong cách hiện đại. Mục đích của cuốn sách là chuyển hóa những lý luận phong thủy tinh thâm uyên bác vận dụng vào trong thực tiễn là bố cục phong thủy của nhà ở hiện đại. Hy vọng cuốn sách sẽ trở thành cẩm nang hữu ích cho bạn đọc trong lĩnh vực lựa chọn môi trƣờng sống, bố cục nhà ở, cửa hàng, công ty, giải đáp những thắc mắc thƣờng gặp về bố cục phong thủy, cải thiện môi trƣờng sống, đem lại những gợi ý thiết thực giúp bạn tiến tới một cuộc sống và vận mệnh tốt đẹp hơn. Sau này Lộc Dã Phu có viết thêm cuốn : " Dƣơng cơ chứng giải " nhằm làm rõ cuốn "Dƣơng trạch tam yếu" của Triệu Cửu Phong. " Nhà của ngƣời sống gọi là Dƣong Cơ hay Dƣơng Trạch, vì xét theo Tám Cung của Bát Quái nên đƣợc gọi là Bát Trạch. Sách này danh đề DƢƠNG CƠ hay Dƣơng Trạch, vì xét theo Tám cung của Bát Quái nên đƣợc gọi là Bát Trạch. Sách này danh đề Dƣơng Cơ, không gọi là Bát Trạch, vì muốn giải trừ định kiến của những ngƣời xƣa nay quen trói buộc sự khảo sát của một ngôi nhà vào mỗi cái cửa cái mở theo hƣớng của tám cung Bát Quái. Gọi là Chứng Giải , vì đã qua một quá trình khảo sát về nhà cửa trong thực tế để kiểm chứng những luận cứ, những định lý của các bậc tiền bối trong các sách Bát Trạch Minh Cảnh, Bát Chánh Tông, Dƣơng Cơ, Dƣơng Trạch, vì muốn giải trừ định kiến của những ngƣời xƣa nay quen trói buộc sự khảo sát của một ngôi nhà vào mỗi cái cửa cái mở theo hƣớng của tám cung Bát Quái. Gọi là CHỨNG GIẢI, vì đã qua một quá trình khảo sát về nhà cửa trong thực tế kiểm chứng những luận cứ, những định lý của các bậc tiền bối trong các sách Bát Trạch Minh Cảnh, Bát Trạch Chánh Tông, Dƣơng Cơ, Dƣơng Trạch..... Sách khảo sát về nhà cửa có rất nhiều, hoặc bằng Hán văn hoặc Việt Ngữ, một đời chƣa đủ cơ may để đọc cho hết, huống hồ là NGHIỆM GIẢI . Luận cứ của mỗi nhà có chỗ tƣơng đồng, có chỗ trái ngƣợc hẳn. Những sách viết bằng Việt ngữ, trích dịch từ Hán văn, nhƣng có nơi soạn giả chỉ dịch âm mà không có nguyên bổn để tra cứu, chƣa kể phần dịch âm này in không rõ ràng hoặc sai sót. Mặc dầu tựu trung chỉ có tám loại nhà xếp đặt theo hƣớng của Bát Quái, nhƣng thực tế có rất nhiều kiểu cách nhà cửa, vì hễ có vô lƣợng tâm thì có vô lƣợng pháp. " ( Dƣơng cơ chứng giải - Lộc Dã Phu ). Lời bàn của dienbatn : Thực ra cả 2 cuốn sách đều không nói rõ một điều quan trọng : Đó chính là 2 cuốn sách này nhằm giải quyết các trƣờng hợp nhà hình ống ở trong thành phố. Nhà nông thôn ngày nay hầu nhƣ không ai làm nhà theo những gì mà "Dƣơng trạch tam yếu" và " Dƣơng cơ chứng giải " đề cập đến cả. Nhà hình ống ở các thành phố ngày nay chủ yếu chỉ có một cửa trƣớc và may lắm thì có một cửa sau thông ra ngõ khác , hầu nhƣ không có cửa sổ ở hai bên vách nhà. Nhƣ vậy vấn đề làm các phòng nhƣ thế nào để cho thông thoáng khí và đảm bảo việc thông gió là một việc hết sức quan trọng. Nói là Dƣơng trạch tam yếu ( 3 chỗ quan trọng nhất trong một ngôi nhà ) , nhƣng thực ra có tới 7 chỗ quan trọng cần để tâm khi khảo sát một căn nhà . Đó chính là : 7 chỗ quan hệ tốt xấu : * 3 chỗ chính yếu : CỬA CÁI - SƠN CHỦ - BẾP. * 4 chỗ thứ yếu : CỬA PHÕNG - CỬA BẾP - HƢỚNG BẾP - CỬA NGÕ.


Ta sẽ khảo sát những việc này ở bài tiếp theo.

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 24. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 4 : KHẢO QUA MÔN DƢƠNG TRẠCH TAM YẾU.

( dienbatn giới thiệu bài của NCD viết rất gọn về Dƣơng trạch tam yếu. Các bạn có thể tham khảo thêm từ cuốn DƢƠNG TRẠCH TAM YẾU của TRIỆU CỬU PHONG và cuốn DƢƠNG CƠ CHỨNG GIẢ của Lộc Dã Phu trong thƣ viện miễn phí của dienbatn. ) Sau khi đã lƣợc sơ qua về 1 số thiết kế cho nội thất nhƣ cửa cái , bếp , phòng ngủ...và 1 số yếu tố ngoại vi , nay KIM YEN xin giới thiệu với các anh chị ,các bạn 1 trƣờng phái trong PT , đó là trƣờng phái DƢƠNG TRẠCH TAM YẾU. Dƣơng Trạch thì chúng ta đã biết là để chỉ nhà ở của ngƣời sống chúng ta , còn Tam Yếu là gì ? Theo phái này luận , thì trong 1 ngôi Dƣơng Cơ có 3 điểm chính yếu , đó là : CỬA CÁI- BẾP(ở đây ý nói là Hỏa Môn tức Hƣớng miệng Bếp ) - SƠN CHỦ hay PHÕNG CHỦ . Do đó mới gọi là Tam Yếu , tức chỉ 3 điểm trọng yếu này. Cũng nhƣ trƣờng phái Bát Trạch Minh Cảnh , trƣờng phái này cũng chia 8 cung Bát Quái ra làm 2 nhóm : Đông Tứ Trạch và Tây Tứ Trạch. _ Đông Tứ Trạch gồm các cung Khảm, Ly, Chấn, Tốn. _ Tây Tứ Trạch gồm các cung Càn, Đoài, Cấn, Khôn. Ngƣời có Quái số ở nhóm Đông Tứ Trạch thì 3 điểm chính yếu nên an trí trong 4 cung thuộc Đông Tứ Trạch. Ví dụ nhƣ : Ngƣời có Quái số là 9, là cung Ly , thuộc nhóm Đông Tứ Trạch ; vậy thì 3 điểm chính yếu trong nhà cũng nên an vị ở các cung Khảm , Ly, Chấn , Tốn. Ngƣời có Quái số ở nhóm Tây Tứ Trạch thì 3 điểm chính yếu nên an trí trong 4 cung thuộc Tây Tứ Trạch. Ví dụ : Ngƣời có Quái số là 7 , là cung Đoài thuộc Tây Tứ Trạch ; vậy thì 3 điểm chính yếu trong nhà cũng nên an vị ở các cung thuộc Tây Tứ Trạch là Càn , Đoài , Cấn , Khôn. A/. PHÂN LOẠI TRẠCH : Theo trƣờng phái này , nhà ở đƣợc chia làm 2 loại : Đơn Trạch và Phức Trạch. Sự phân chia này do việc nhà có phân ngăn hay không. Nhà từ trƣớc ra sau không phân chia ra ngăn nào cả thuộc về Đơn Trạch , tức là nhà đơn giản. Vậy thì ta có thể hiểu Phức Trạch nói nôm na là nhà bố trí phức tạp hơn , hay là nhà có phân ngăn. TỊNH TRẠCH thì lấy 3 điểm chính yếu là : CỬA CÁI - BẾP - PHÕNG CHỦ ( tức là căn phòng ngủ của gia chủ , căn phòng nằm ở 1 góc nào đó trong nhà ).


Phức Trạch lại chia ra làm 3 loại , mỗi loại có sự sắp xếp các sao trong các ngăn khác nhau. Sự phân loại này dựa trên số ngăn mà nhà đó có : _ Từ 2 đến 5 ngăn : Là Động Trạch. _ Từ 6 đến 10 ngăn : Là Biến Trạch. _ Từ 11 đến 15 ngăn: Là Hóa Trạch. Các loại nhà thuộc dạng Phức Trạch lấy 3 điểm chính yếu là : CỬA CÁI - BẾP - và SƠN CHỦ ( với SƠN CHỦ là mặt hậu của nhà , đối nghịch với hƣớng vậy ). 2/. CÁCH XÁC ĐỊNH CUNG CỦA 3 ĐIỂM CHÍNH YẾU : _ CỬA CÁI : Từ mặt tiền nhà kéo 1 đƣờng thẳng vuông góc với mặt tiền , lấy 1 đoạn bằng nửa chiều ngang mặt tiền. Đó chính là điểm đặt La bàn để xác định vị trí cửa cái dùng La bàn nhìn về hƣớng Cửa Cái xem đó là cung gì , đánh dấu vào sơ đồ nhà tên cung Cửa Cái. _ BẾP : Từ trung tâm phòng Bếp ( nếu là Phức Trạch ) , hay trung tâm nhà ( nếu là Đơn Trạch ) , đặt La bàn nhìn về hƣớng Bếp , xác định xem Hỏa Môn xoay hƣớng gì , thì đó là cung của Bếp vậy. Cũng trong phái này có 2 ý kiến khác nhau : Phái thì lấy ví trí đặt Bếp nhƣ bên Bát Trạch Minh Cảnh _ là đặt ở vị trí xấu , ngó về hƣớng tốt _ ; Phái thì lấy vị trí đặt Bếp là tốt , ngó về hƣớng tốt luôn. Và 2 phái này cứ tranh cãi suốt , luôn cho mình là đúng , đối` phƣơng là sai. Riêng NCD thì chủ trƣơng theo phái đầu , tức đặt ở phƣơng Hung trấn áp cái xấu , nhƣng Miệng Bếp phải xoay hƣớng tốt. Tuy vậy , NCD tôi không chê cách nào cả , chỉ vì bản thân NCD thử nghiệm cách đầu trúng nên theo luôn , chƣa thử qua cách sau , nếu quý vị nào muốn thì hãy thử xem. _ PHÕNG CHỦ : Phòng Chủ không nhất thiết Trạch Chủ phải ngủ trong đó. Một căn Tịnh Trạch có thể có 1 phòng , có thể có nhiều phòng nhƣng không phân ngăn thôi. Nếu có nhiều phòng thì phòng nào CAO-RỘNG-LỚN nhất sẽ đƣợc xem là phòng chủ. Nếu chỉ có 1 phòng thì dù phòng đó nhỏ hẹp vẫn là Phòng Chủ. Một căn buồng chỉ che bằng màn , hay kê bằng tủ không đƣợc xem là Phòng Chủ ; phải có tƣờng vách hẳn hoi mới tính. Từ trung tâm nhà đặt La bàn nhìn về hƣớng Phòng Chủ xem đó là cung gì , thì đó là cung của Phòng Chủ vậy. _ SƠN CHỦ : Từ vách mặt hậu , cũng làm nhƣ đối với mặt tiền , tức là kéo 1 đƣờng thẳng vuông góc với mặt hậu , lấy 1 đoạn bằng nửa chiều ngang mặt hậu , đó là điểm đặt La bàn. Từ điểm đó , đặt La bàn nhìn về mặt hậu ấy xem là cung gì thì đó là cung của SƠN CHỦ vậy, phải nhìn theo đƣờng vuông góc ấy mới chính xác nhé ! 3/. AN DU NIÊN CHO TRẠCH : Theo trƣờng phái này , 1 ngôi nhà có 1 Du niên ảnh hƣởng đến sự Hƣng Suy của nhà đó , tùy theo đó là Du niên tốt hay xấu. Để an Du niên cho nhà , thì TỊNH TRẠCH và PHỨC TRẠCH hơi khác 1 tý. _ TỊNH TRẠCH : Từ cung của CỬA CÁI biến tới cung của PHÕNG CHỦ , đƣợc Du niên gì thì đó vừa là Du niên của PHÕNG CHỦ , vừa là Du niên của Trạch vậy. Thí dụ : Cửa cái là ở cung Càn , còn Phòng Chủ là ở cung Cấn , 2 cung biến vơio1 nhau , Càn phối Cấn là THIÊN Y , vậy Du niên của Phòng Chủ là Thiên Y , mà Du niên của Trạch cũng là Thiên Y. Ta gọi đó là nhà THIÊN Y TRẠCH. _ PHỨC TRẠCH : Từ cung Cửa Cái biến tới cung của Phòng Chủ ( Sơn Chủ ) , đƣợc Du niên gì thì đó là Du niên của Trạch , cũng là Du niên của Sơn Chủ vậy. Thí dụ : Cửa cái là ở cung Khảm , nhƣng Sơn chủ là ở cung Khôn , 2 cung Khôn_Khảm phối với nhau ra Du niên Tuyệt Mạng , vậy Du niên của Trạch là Tuyệt Mạng , và Du niên của Sơn Chủ cũng là Tuyệt Mạng vậy. Ta gọi đó là nhà TUYỆT MẠNG TRẠCH. Do có sự phân chia thành 2 nhóm Đông Tây , nên khi phối hợp với nhau tất có tốt ,có xấu. Các cung cùng nhóm phối với nhau sẽ cho ra các Du niên tốt , các cung khác nhóm khi phối với nhau sẽ cho ra các Du niên xấu vậy. Các anh chị , các bạn có thể xem lại các bài 4 & 5 của chị NHDT khởi đăng trên mục PT này , để thấy cách phối hợp giửa các cung BQ với nhau. Mỗi 1 Du niên tốt xấu đều có 1 Sao đi kèm với nó, và vì sao đó thể hiện rõ tính tốt xấu của Du niên đó. Nghĩa là : Du niên tốt thì đi kèm với Cát Tinh , Du niên xấu thì đi kèm với Hung Tinh. Dƣới đây, NCD xin kê ra tên và sự tƣơng ứng của các Du niên với các sao để quý vị tiện xem nhé! _ Sanh Khí : ứng với sao THAM LANG , thuộc hành MỘC. _ Thiên Y : ứng với sao CỰ MÔN , thuộc hành THỔ.


_ Diên Niên : ứng với sao VŨ KHÖC , thuộc hành KIM. _ Phục Vì : ứng với sao PHỤ BẬT , thuộc hành MỘC. _ Tuyệt Mạng : ứng với sao PHÁ QUÂN , thuộc hành KIM. _ Ngũ Quỷ : ứng với sao LIÊM TRINH , thuộc hành HỎA. _ Lục Sát : ứng với sao VĂN KHÖC , thuộc hành THỦY. _ Họa Hại : ứng với sao LỘC TỒN , thuộc hành THỔ. Vì trƣờng phái này lấy việc phân ngăn làm căn cứ phân chia loại Trạch, nên cũng phân bố từng Sao cho mỗi ngăn 1 cách chi ly. Hôm nay NCD xin giới thiệu về cách tính Sao cho từng ngăn. PHIÊN TINH ( sắp xếp Sao ). A/. TỊNH TRẠCH : Với TỊNH TRẠCH thì rất đơn giản. Từ cung Cửa Cái , biến tới cung Phòng Chủ xem đƣợc Du niên gì , thì đó là Du niên của Phòng Chủ , cũng là Du niên của Trạch. Đƣơng nhiên vì Sao tƣơng ứng với Du Niên đó cũng là Sao của Phòng Chủ, và là Sao của Trạch luôn vậy. Từ cung Cửa Cái , biến tới cung của Cửa Buồng , ta sẽ có Du niên & Sao của Cửa Buồng _ đây là 1 yếu tố phụ để luận đoán thêm về ngƣời ngủ ở phòng đó vậy. B/. PHỨC TRẠCH : I / AN DU NIÊN VÀ SAO CHO NGĂN ĐẦU : Do Phức Trạch có nhiều ngăn , nên việc phân bố Du niên & Sao cho các ngăn cũng phức tạp hơn. Việc an Du Niên & Sao của các ngăn sau, trong Phức Trạch, phụ thuộc rất lớn vào việc An Du Niên cho ngăn đầu , nếu sai ngăn đầu coi nhƣ các ngăn sau sai hết. Vì sao thế? Bởi trong Phức Trạch , các Sao tịnh tiến vào trong theo chiều tƣơng sanh của Ngũ Hành của các Sao. Ví dụ nhƣ : Ngăn đầu ta có Lục Sát Thủy đi , thì ngăn kế sẽ là Mộc , tƣơng ứng với Sao Tham Lang - Du niên Sanh Khí ; ngăn kế nữa sẽ là hành Hỏa , tƣơng ứng với Sao Liêm Trinh - Du niên Ngũ Quỷ... Do đó , việc An Du Niên cho ngăn đầu thật chính xác rất quan trọng !!! Để An Du niên cho ngăn đầu trong Phức Trạch , ta cần xác định Cửa Cáithuộc CHÍNH MÔN hay là THIÊN MÔN. Cửa Cái CHÍNH MÔN là cửa ngay chính giửa nhà vậy , trƣờng hợp nhà xƣa có 3 gian , có 3 bộ cửa , đƣơng nhiên phải xét cửa nào là cửa chính thƣờng đƣợc sử dụng nhất rồi . Khi ấy , không tiện thì ta có thể sử dụng cửa bên , nếu nó tạo ra hiệu quả tốt ( Việc này NCD sẽ có chứng minh bằng ví dụ trong phần sau ). Nhƣ vậy ta dễ dàng hiểu ra cửa nằm 1 bên nhà là cửa THIÊN MÔN rồi. Với mỗi vị trí CHÍNH hay THIÊN thì cách phối hợp Sao cũng khác. 1/. CỬA CHÍNH MÔN : Cửa này là cửa trùng với Hƣớng nhà. Với cửa CHÍNH MÔN thì cách phối hợp là bình thƣờng : Từ cung CỬA CHÍNH MÔN biến tới cung SƠN CHỦ , ta đƣợc Du niên gì , ứng với Sao gì ,thì đó là Du niên của Trạch ,Du niên của Sơn Chủ ,cũng là Du niên của ngăn đầu _ Sao tƣơng ứng với nó cũng đƣợc An cho ngăn đầu. Ví dụ : Nhà Tọa Càn , Hƣớng Tốn , có cửa Chính Môn , có 4 ngăn. Trƣớc tiên , ta thấy cửa Chính Môn thì trùng với Hƣớng , vậy đó là Cửa Tốn. Từ Cửa Tốn biến tới SƠN CHỦ Càn ( SC chính là Tọa , là mặt hậu của nhà ) , ta đƣợc Du niên Họa Hại & Sao ứng với nó là Sao Lộc Tồn thuộc Thổ. Ta có ngăn đầu là Lộc Tồn_Họa Hại Thổ Ở ngăn kế sẽ là Vũ Khúc _Diên Niên Kim Ngăn kế nữa là Văn Khúc_Lục Sát Thủy Và ngăn cuối là Tham Lang_ Sanh Khí Mộc. Nhà đó sẽ đƣợc gọi là nhà HỌA HẠI TRẠCH. 2/. CỬA THIÊN MÔN :


Trƣớc tiên ta hãy dùng La Bàn xác định cung của Cửa Thiên Môn này đã. Kế đến từ cung của cửa THIÊN MÔN biến tới HƢỚNG NHÀ ,đó chính là Du niên của ngăn đầu vậy. Muốn xác định Du niên của Trạch , Du niên của Sơn Chủ thì ta lấy từ cung của cửa THIÊN MÔN biến tới cung SƠN CHỦ , đó là Du niên của Sơn Chủ , và Du niên của Trạch vậy. Thí dụ : Nhà Tọa Ly , Hƣớng Khảm ,cửa bên trái thuộc cung Càn , nhà có 3 ngăn. Trƣớc tiên ta lấy từ cung Cửa biến tới Hƣớng : Càn với Khảm phối nhau cho ra Du niên LỤC SÁT Thủy , ứng với Sao VĂN KHÖC. Ta An Sao này và Du niên này vào ngăn đầu để tính tiếp các ngăn sau. Ngăn đầu ghi vào đó là Văn Khúc _ Lục Sát Thủy. Ngăn giửa ghi vào Tham Lang _ Sanh Khí Mộc. Ngăn cuối ghi vào Liêm Trinh _ Ngũ Quỷ Hỏa. Kế đến ta tìm Du niên cho Trạch & Du niên cho Sơn Chủ. Từ cung của cửa thiên môn biến tới cung của Sơn Chủ , ta có Càn phối với Ly là Tuyệt Mạng , đó là Du niên của Sơn Chủ lẫn Du niên của Trạch vậy. Ta gọi nhà đó là TUYỆT MẠNG TRẠCH. II/ CÁCH PHÂN BỐ SAO Ở ĐỘNG TRẠCH ( từ 2 đến 5 ngăn ) Cách mà NCD di chuyển Sao nhƣ trên là cách di chuyển Sao của loại Động Trạch này đó. Đọc đến đây ắt sẽ có quý vị thắc mắc : Sao thì có đến 8 Sao , trong đó có 2 sao Kim , 2 sao Thổ , 2 sao Mộc , vậy gặp ngăn phải phân Sao Mộc hay sao Kim thì dùng Sao nào ? Xin thƣa rằng ở Động Trạch chỉ dùng 5 Sao làm chính , đó là :Tham Lang , Văn Khúc , Vũ Khúc , Liêm Trinh & Cự Môn. Trừ trƣờng hợp các Du niên phối nhau ra các sao Lộc Tồn, Phá Quân & Phụ Bật thì mới an Sao đó vào ngăn đầu thôi. Ngoài ra ,các trƣờng hợp Du niên ngăn đầu không phải là Họa Hại , Tuyệt Mạng , Phục Vì thì chỉ dùng 5 Sao kia. III/ CÁCH PHÂN BỐ SAO Ở BIẾN TRẠCH ( từ 6 đến 10 ngăn ). Trong trƣờng hợp An Sao cho Biến Trạch , thì mới dùng thêm 4 sao phụ ngũ hành kia. Tuy gọi là 4 sao nhƣng thực tế chỉ có...3 rƣởi thôi , vì Sao Phụ Bật chỉ có tác dụng phân nửa thôi, lực nó yếu hơn hẳn các sao khác. Nhƣ vậy ngoại trừ THỦY và HỎA chỉ có 1 Sao , còn lại các nhóm ngũ hành kia đều có 1 đôi sao. Trong trƣờng hợp gặp các nhóm ngũ hành có đôi sao thì dùng liên tiếp cả đôi sao cho 2 ngăn liền nhau. Tuy nói vậy , nhƣng không phải nhà BIẾN TRẠCH nào cũng dùng hết các đôi sao , còn tùy thuộc vào số ngăn của nó : _ Biến Trạch có 6 ngăn : Chỉ dùng đôi sao đầu tiên mà nó gặp. _ Biến Trạch có 7 ngăn : Chỉ dùng 2 đôi sao đầu mà nó gặp. _ Biến Trạch có 8-10 ngăn mới dùng đú cả 3 đôi sao. Đến đây lại nảy sinh vấn đề : Thế gặp đôi sao thì an sao nào trƣớc ? Đây là mấu chốt của vấn đề , nếu quý vị nào đọc đến đây mà nêu ra câu hỏi ấy liền thì chắc chắn vị đó rất ham mê tìm tòi về PT vậy. Ngoại trừ trƣờng hợp ngăn đầu & ngăn kế có đôi sao , vì khi đó đã có sao ở ngăn đầu tính theo Du niên biến ra. Các trƣờng hợp ở sau thì sự an bố các đôi sao theo luật nhất định : _ Gặp đôi sao thuộc Mộc thì : PHỤ BẬT trƣớc , THAM LANG sau. _ Gặp đôi sao thuộc Kim thì : VŨ KHÖC trƣớc , PHÁ QUÂN sau. _ Gặp đôi sao thuộc Thổ thì : LỘC TỒN trƣớc , CỰ MÔN sau. IV/ CÁCH PHÂN BỐ SAO CHO HÓA TRẠCH :(từ 11 đến 15 ngăn ) Vẫn áp dụng nhƣ phần Biến Trạch, và cứ thế xoay cho đến ngăn chót.


NGĂN CHÁNH & SAO CHÖA Nhƣ ta thấy , mỗi ngăn có 1 sao trấn giữ , Du niên chỉ là cái để ta tìm ra Sao ở các ngăn thôi , thật ra , chính các Sao đó mới chi phối sự Cát Hung của các ngăn đó vậy. Sau khi an Sao cho từng ngăn rồi , ngƣời ta mới tìm 1 Sao làm Sao Chúa. Vì sao phải cần 1 Sao Chúa ? Do trong Phức trạch có nhiều ngăn , nên cần chọn 1 ngăn chánh có Sao tốt để phát huy hiệu lức vƣợt trội của sự tốt đẹp , hầu trấn áp các ngăn xấu hại có Hung Tinh , nhất là với các căn nhà có tên Ác hại _ tức các Hung Du niên Trạch. Thƣờng khi chọn Ngăn Chánh , ngƣời ta ít chọn các ngăn đầu lắm , vì nó xa Sơn Chủ. Trong PT , khi không xét đến LONG , thì Sơn Chủ biểu tƣợng cho Trạch Chủ vậy , nên ngƣời ta luôn tìm cách củng cố nó , bồi bổ nó , hỗ trợ nó. Chính vì thế , khi chọn Ngăn Chánh ngƣời ta mới thƣờng chọn ngăn gần với Sơn Chủ , hoặc trực ngộ Sơn Chủ. Một căn cao lớn hơn , rộng rãi hơn , sạch sẽ hơn các ngăn khác mới đáng gọi là Ngăn Chánh. Nói 1 cách dễ hiễu nhất , cứ căn cứ vào Thể Tích của Ngăn , thể tích ngăn nào lớn nhất thì đó là Ngăn Chánh vậy. Đây chính là 1 điều mà 1 số thầy PT trong trƣờng phái này lầm lẫn. Cứ nhìn thấy Diện Tích lớn hơn đã vội vàng cho đấy là Ngăn Chánh thì tai hại vô cùng Ví dụ : Một ngăn ngang 3m, dài 4m,cao 6m (vì không vƣớng gác lửng bên trên , lại không có laphông) ; một ngăn ngang 4m, dài 4m , cao 3m. Nếu chỉ nhìn sơ theo diện tích tất phán đoán rằng ngăn sau lớn hơn ngăn trƣớc. Ta thử làm phép tính nhân xem : 3m x 4m x 6m = 72 m3 4m x 4m x 3m = 48 m3. Một trời một vực phải không quý vị ? Nếu nhƣ Ngăn chọn lầm đó mà do 1 Hung Tinh trấn ở đó thì thử hỏi tai hại cỡ nào? Trong Pt , chỉ cần 1 tính toán sai lầm của ngƣời thầy ,thì có thể tai họa lập tức giáng xuống đầu gia chủ liền tức thời. Do đó , nếu muốn chọn Ngăn Chánh với Sao tốt hỗ trợ cho nhà , thì xin hãy cẩn thận xét cả chiều cao của ngăn đó !!! Ngăn Chánh thì Sao của nó đƣợc gọi là SAO CHÖA. Cùng với Du Niên Trạch , Sao Chúa góp phần chi phối sự lành dữ , cát hung của những ngƣời sống ở nhà đó. Do vậy , phải chọn Sao Chúa là 1 Cát Tinh mới đem lại lợi ích cho những ngƣời sống ở nhà đó. Và tốt hơn nữa , Cát Tinh đó phải hữu lực nhƣ : Đắc Vị , Đăng Điện hay tốt bậc nhất là NHẬP MIẾU. _ Cát Tinh Đắc Vị là chỉ Sao TƢƠNG SANH với cung. _ Cát Tinh Đăng Điện là chỉ Sao CÙNG NGŨ HÀNH với cung. Ví dụ nhƣ : 2 cung Cấn -Đoài biến ra Vũ Khúc-Diên Niên Kim. vậy thì so với cung Cấn thì Sao Vũ Khúc Đắc Vị , nhƣng so với cung Đoài thì Sao Vũ Khúc là Đăng Điện. _ NHẬP MIẾU là chỉ trƣờng hợp Ngăn Chánh là ngăn cuối cùng , tức Sao Chúa trực ngộ Sơn Chủ , giáp với Sơn Chủ. Khi 1 căn nhà đã có Du Niên Trạch là 1 Cát Du Niên , lại thêm Sao Chúa là 1 Cát Tinh hữu lực thì khác nào nhƣ Gấm thêu hoa , nhƣ Rồng mây gặp hội , nhà càng hƣng thịnh lâu bền. Khi 1 căn nhà có Du Niên Trạch là 1 Hung Du Niên , ta càng cần chọn 1 Sao Chúa là Cát Tinh hữu lực , nhắm áp chế bớt Hung Tinh. Trƣờng hợp này , các nhà PT gọi là YỂM SÁT TRẠCH. Khi gặp trƣờng hợp này , thì tác dụng tốt của Sao Chúa sẽ bị giảm đi 1/3 đến 1/2 hiệu lực tốt đẹp vốn có của nó ; thời gian còn lại , hiệu lực của nó rất yếu , khó chống ngăn nếu có thêm Hung Tinh nào nữa TUYỆT ĐỐI KỲ lấy Sao Chúa là 1 Hung Tinh , nếu Hung Tinh này Đắc Vị , Đăng Điện hay Nhập miếu nữa thì càng thập phần nguy khốn cho gia chủ. Ví nhƣ 1 kẻ hôn quân bạo chúa mà lên nắm quyền sinh sát vậy , tha hồ mà hành hung tác ác , gieo tai rắc họa. Bất đắc dĩ lắm ngƣời ta mới dùng Cát Tinh Thất Vị ( là chỉ Sao tƣơng khắc với Cung ) làm Sao Chúa. Vì 1 Cát Tinh Thất Vị có khác gì cá trên cạn , cọp xuống đồng bằng đâu , chẳng làm đƣợc gì.


CUNG VÀ SAO Ở đây, ta chỉ xét các Cung trọng ( tức là các Cung : Cửa Cái , Bếp và Sơn Chủ hay Phòng Chủ ) , không bàn đến các Cung Khinh ( tức là các Cung : Cửa ngõ , Cửa Bếp , Cửa Buồng ) . Trong 3 Cung Trọng này lại chia ra làm 2 : Cung bên ngoài và Cung bên trong. _ Cung bên ngoài ( ngoại ) là Cửa Cái. _ Cung bên trong ( nội ) là Bếp và Sơn Chủ hay Phòng Chủ Điều đầu tiên mà NCD muốn nói đến là 1 điều...xƣa nhƣ Trái Đất : 1/. CÔ ÂM BẤT SINH , ĐỘC DƢƠNG BẤT TRƢỞNG Vâng , điều này NCD luôn nhắc mãi. Đây là LÝ của Dịch , cũng là LÝ của PT_ dù theo bất kỳ trƣờng phái nào thì cũng không thể gạt bỏ ý này , xin hãy nhớ !!! Vậy thì khi nào sẽ rơi vào trƣờng hợp này ? Ấy là khi 2 Cung Thuần Âm hay Thuần Dƣơng. Khi ấy , dù cho có giao phối nhau cho ra Cát Du Niên , thì sự tốt đẹp ấy cũng không đƣợc bền lâu. Cũng nhƣ 2 vợ chồng vậy thôi , ngƣời này nóng (Dƣơng )thì ngƣời kia phải nguội (Âm ) chứ , nếu không chắc tan hoang nhà cửa quá. Việc phân cung Âm , Dƣơng này ta có thể chủ động đƣợc , nên khi phối Cung , ta không chỉ xét Du Niên tốt , mà nên xem cả việc nó có đú Âm Dƣơng chƣa? Nếu thiếu thì ta tìm cách bổ khuyết vào. Ví dụ 1: Nhà có cửa Tốn , Sơn Chủ Khảm. Phối với nhau đƣợc Sanh Khí Trạch , lại đủ Âm Dƣơng tất phát dài lâu vậy. Ví dụ 2: Nhà có Cửa Cái Khảm , Sơn Chủ Chấn. Phối với nhau đƣợc Thiên Y Trạch , nhƣng đây là 2 Cung Thuần Dƣơng không sanh hóa , ở lâu nhà này sẽ dẫn tới tuyệt tự. Ta có thể dùng BẾP LY Âm để trung hòa lại , tất phát bền lâu vậy. Các Cung Bát Quái phân Âm Dƣơng , NCD đã có nói rồi , nay xin nhắc lại : _CUNG DƢƠNG : Càn vi Lão Ông, Khảm vi Trung Nam, Cấn vi Thiếu Nam, Chấn vi Trƣởng Nam _CUNG ÂM : Tốn vi trƣởng Nữ , Ly vi Trung Nữ , Khôn vi Lão Mẫu , Đoài vi Thiếu Nữ. 2/. NGOẠI SINH NỘI _ NỘI SINH NGOẠI : Ngoại sinh nội , là ngoài sinh vào trong , nhƣ Cung Cửa Cái sinh Cung Bếp , Cung Cửa Cái sinh Cung Sơn Chủ (hay Phòng Chủ). Quan hệ này gọi là SINH NHẬP. Hiệu ứng tốt đẹp sẽ đến sớm và nhanh , sự hanh thông trong gia đình thuận lợi hơn và dễ dàng hơn. Ví dụ : Cửa Tốn , Sơn Chủ Ly. Đƣợc Thiên Y Trạch , lại có Cửa Tốn Mộc ở ngoài sinh vào trong cho Sơn Chủ Ly Hỏa nên phát rất nhanh. Tuy 2 Cung này Thuần Âm , nhƣng ta có thể dùng Bếp Khảm , hay Bếp Chấn trung hòa thì vẫn phát lâu bền đƣợc. Nội sinh ngoại , là ở trong sinh ra ngoài , nhƣ Cung Sơn Chủ (hay Cung Phòng Chủ ) sinh ra Cung Cửa Cái , Cung Bếp sinh ra Cung Cửa Cái. Quan hệ này gọi là SINH XUẤT. Hiệu ứng tốt đẹp sẽ đến trễ và chậm vì nhịp độ thƣa thớt , sự hanh thông trong gia đình do cần lao đƣa đến hơn là duyên may. 3/. NỘI KHẮC NGOẠI_ NGOẠI KHẮC NỘI : Nội khắc ngoại là ở trong khắc ở ngoài. Là Cung Sơn Chủ ( Phòng Chủ) khắc Cung Cửa Cái , Cung Bếp khắc Cung Cửa Cái. Quan hệ này gọi là KHẮC XUẤT . Trong trƣờng hợp này , dù ngƣời trong nhà chống chế đƣợc ngoại cảnh , nhƣng cuối cùng vẫn là sự hao tổn tinh thần và vật chất. BÁN HUNG. Ngoại khắc nội là ở ngoài khắc vào trong. Là Cung Cửa Cái khắc Cung Sơn Chủ ( Phòng Chủ ) , Cung Cửa Cái khắc Cung Bếp. Quan hệ này gọi là KHẮC NHẬP. Rơi vào trƣờng hợp này , nạn tai sẽ đến nhanh và bất ngờ , không biết đâu mà lƣờng và khó ứng phó , xoay trở , họa này do bên ngoài đƣa đến.


_ Cung bị khắc là Càn : Ngƣời đàn ông lớn tuổi trong nhà , cha , ông bệnh đau , họa hoạn , vô năng , bất lực vì không thể thi thố đƣợc tài trí của mình. _ Cung bị khắc là Đoài : Khốn khổ cho con gái út , cháu gái nhỏ. _ Cung bị khắc là Khôn : Tổn hại cho Lão mẫu , ngƣời bà-mẹ-vợ trong nhà _ Cung bị khắc là Ly : Tổn hại cho con gái , cháu gái giửa , trung nữ. _ Cung bị khắc là Tốn : Tổn hại cho con gái , cháu gái lớn , tức hạng nữ nhân trung tuổi trong nhà. _ Cung bị khắc là Chấn : Tổn hại cho hàng nam nhân trọng tuổi nhƣ con trai trƣởng , cháu trai trƣởng trong nhà. Đặc biệt nếu chỗ đó là Từ Đƣờng thì bất kể Trƣởng Tử , Trƣởng Tôn nội , ngoại đều bị khắc cả. Xin cẩn thận !!! _ Cung bị khắc là Cấn : Tổn hại cho con trai nhỏ , con trai út , cháu trai nhỏ , thiếu nam ( ở đây cũng có thể là...con trai dòng thứ ) _ Cung bị khắc là Khảm : Tổn hại cho con trai giửa , cháu trai giửa , trung nam trong nhà. 4/.NGOẠI CHIẾN _ NỘI CHIẾN : Sao đƣợc coi là yếu tố bên ngoài , vì nó còn phài do các Cung hỗ biến với nhau mà ra , nhƣ là các yếu tố ngoại lai vậy. Các Cung đƣợc xem là các yếu tố bên trong , bởi chúng là yếu tố có sẵn nằm trên địa bàn , nhƣ cái gốc rễ bên trong vậy. _ Sao khắc Cung : Là ngoài khắc vào trong , đƣợc gọi là ngoại chiến , ví nhƣ kẻ gây chiến từ bên ngoài đến vậy. _ Cung khắc Sao : Là trong khắc ra ngoài , đƣợc gọi là nội chiến , nhƣ ngƣời trong nhà ra ngoài sinh sự vậy. Theo Dƣơng Trạch Tam Yếu thì cho rằng : Mỗi trƣờng hợp Nội Chiến sẽ giảm 50% tốt. Mỗi trƣờng hợp Ngoại Chiến sẽ giảm 30% tốt. Nhƣ vậy nghe có vẻ không hợp lý ! Vì sao? Ta thử nghĩ xem nhé ! Nội Chiến là Cung khắc Tinh , là trong khắc ra ngoài , ví nhƣ ngƣời trong thắng thế , tức Cung còn khả năng chế ngự Hung Tinh , khiến Hung Tinh cũng phải kiêng dè không dám hành hung nữa. Vậy thì phần xấu phải giảm đi nhiều hơn chứ , sao lại giảm đến 50% tốt ??? Còn Ngoại Chiến là Sao khắc Cung , là ngoài khắc vào trong , ví nhƣ ngƣời trong nhà yếu thế. Khi ấy Hung Tinh thắng thế , ví nhƣ tiểu nhân đắc chí , tha hồ tác yêu tác quái , hoành hành bá đạo. Thế thì phần Hung Hại của chúng càng nhiều hơn , sao chỉ giảm có 30% tốt ??? SƠN CHỦ VÀ CỬA CÁI KIM YEN xin giới thiệu qua các câu thiệu về từng trƣờng hợp Sơn Chủ phối với Cửa Cái : 1/ SƠN CHỦ LÀ CẤN : Phối với Cửa Cái là : _ Cấn : Trùng trùng , điệp điệp , thê tử thƣơng _ Chấn : Long phó Sơn trung , thiểu nhi lang. _ Tốn : Phong sơn quả mẫu , đa phạp tự. _ Ly : Hỏa Sơn phụ cƣơng , bất điều kinh _ Khôn : Địa Sơn thổ trùng , điền sản túc. _ Đoài : Trạch Sơn tăng phúc , tiểu phòng vinh. _ Càn : Thiên lâm Sơn thƣợng , gia phú quý. _ Khảm : Thủy ngộ Sơn khắc , phạp tự tình. 2/. SƠN CHỦ LÀ CHẤN : Phối với Cửa Cái là : _ Chấn : Thê tử tƣơng khắc , Chấn mộc trùng. _ Tốn : Phong Lôi công danh tợ hỏa sung. _ Ly : Hỏa Lôi phát phúc , lƣơng-hiền nữ. _ Khôn : Nhân lâm Long vị : mẫu sản vong. _ Đoài : Hổ nhập Long oa : lao cổ phế. _ Càn : Quỵ nhập Lôi môn thƣơng trƣởng tử. _ Khảm : Thủy Lôi phát phúc duy tuyệt tự. _ Cấn : Lôi Sơn tƣơng kiến : tiểu nhi ƣơng.


3/. SƠN CHỦ TỐN : Phối với Cửa Cái là : _ Tốn : Nhi nữ gian nan thị trùng Phong _ Ly : Hỏa Phong :đinh hi, gia hảo thiện. _ Khôn : Nhân mai địa hộ :lão mẫu vong _ Đoài : Hổ phùng hạn địa diệc âm thƣơng. _ Càn : Càn Tốn sản vong , tâm thối thống. _ Khảm : Thủy Mộc vinh hoa , phát nữ tú ! _ Cấn : Sơn ngộ Phong môn quả mẫu tuyệt. _ Chấn : Lôi Phong tƣơng phối tốc phát phúc ! 4/. SƠN CHỦ LY : Phối với Cửa Cái là : _ Ly : Hỏa diệm trùng trùng , nam nữ thƣơng. _ Khôn : Nhân môn kiến Hỏa đa quả phụ. _ Đoài : Hổ Hỏa viêm chung : nữ thiếu vong. _ Càn : Càn Ly : quả cƣ , sinh nhãn tật. _ Khảm : Ký tế danh tỳ : Đại kiết xƣơng ! _ Cấn : Sơn phùng Hỏa hủy cƣơng phụ nữ. _ Chấn : Lôi Hỏa quang minh : Phú quý xƣơng ! _ Tốn : Phú quý , phạp tự : Phong Hỏa đƣơng. 5/. SƠN CHỦ KHÔN : Phối với Cửa Cái là : _ Càn : Thiên môn đáo địa : Vinh hoa chủ ! _ Khảm : Thủy Thổ hình nam _ tử trung niên. _ Cấn : Sơn Địa điền sản đa tấn ích ! _ Chấn : Long nhập nhân môn , mẫu qui tiên. _ Tốn : Phong đáo nhân môn , vong tiên mẫu. _ Ly : Hỏa đáo nhân môn , tuyệt tự liên. _ Khôn : Trùng địa , cô quả chƣởng gia viên. _ Đoài : Trạch Địa : Tài long, dị tính quyền. 6/. SƠN CHỦ ĐOÀI : Phối với Cửa Cái là : _ Khôn : Địa Trạch tấn tài , tuyệt tự vƣơng. _ Đoài : Trạch trùng tiếu phụ chƣởng quyền binh _ Khảm : Trạch ngộ Thủy tiết , thiếu nữ vong. _ Càn : Thiên Trạch tài vƣợng : Đa loạn dâm. _ Cấn : Sơn Trạch nhơn vƣợng , gia phú quý. _ Chấn : Long tranh, hổ đấu trƣởng nam thƣơng. _ Tốn : Phong sinh hiện hổ thƣơng trƣởng phụ. _ Ly : Ly Đoài quang hỏa : thiếu nữ thƣơng. 7/. SƠN CHỦ CÀN : Phối với Cửa Cái là : _ Khảm : Thủy tiết Càn khí : Dâm , bại , tuyệt. _ Cấn : Sơn khởi Thiên trung , tử vinh , hiền. _ Chấn : Long phi Thiên thƣợng , vong ông lão _ Tốn : Phong Thiên đông thống , trƣởng phụ viên( =>viên tịch ) _ Ly : Ly Càn giao phối , nữ đoạt tiên _ Khôn : Địa khởi Thiên môn : Đa phú quý ! _ Đoài : Trạch Thiên quả nữ chƣởng binh quyền _ Càn : Càn Càn thuần Dƣơng thƣơng phụ nữ. 8/. SƠN CHỦ KHẢM : Phối với Cửa Cái là _ Cấn : Quỵ ngộ uông dƣơng : Lạc thủy thƣơng. _ Chấn : Lôi Thủy : Phạp tự , đa hành thiện. _ Càn : Thiên môn lạc Thủy : Xuất dâm cuồng. _ Ly : Âm Dƣơng chính phối : tam đa cục !


_ Tốn : Thủy Phong : ngũ tử đăng khoa tƣờng ! _ Đoài : Bạch hổ đầu giang : Vong lục súc. _ Khôn : Khôn Khảm trung nam mạng bất tồn. _ Khảm : Thủy nhƣợc trùng phùng thê tử ly. DU NIÊN TRẠCH Nhƣ ta đã biết , 1 căn nhà chịu ảnh hƣởng rất lớn bởi Sao Chúa và Du niên Trạch. Nay KIM YEN xin giới thiệu 7 loại Du Niên Trạch ? Sao chỉ có 7 loại ? Vì Phục Vị Trạch thực tế gần nhƣ không có , và nó chỉ là 1 Du Niên trung bình không đáng để luận. I/ SANH KHÍ TRẠCH : 1/. CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ TỐN : THỦY MỘC VINH HOA : PHÁT NỮ TÖ. Nếu nhà có tác dụng , thì ngay khi còn nhỏ , Trƣởng nữ đã mỷ mạo , thông minh ; lớn lên thì đoan trang , hiền thục ,hiếu để ,đem lại danh giá cho gia đình. Nếu cặp vợ chồng trẻ ở nhà này , ngƣời đàn bà không những tú lệ mà còn vƣợng phu ích tử , 1 tay đắc lực giúp chồng xây dựng và củng cố gia nghiệp. Là nhà tốt đệ nhất của Đông Tứ Trạch , lại thêm ngoài Thủy sinh Mộc trong , phát đạt đến cấp kỳ , đắc cả phú lẫn quý , vừa giàu sang vừa danh giá , con hiếu cháu hiền , nam thanh nữ tú , của cải ngày một phát đạt. Nếu đƣợc nhà-3-tốt ( là 3 cung Cửa Cái _Bếp _Sơn Chủ hay Phòng Chủ biến với nhau có đủ : THIÊN Y-SANH KHÍ-DIÊN NIÊN , gọi là nhà-3-tốt ) , thì có thể duy trì cơ nghiệp đến 80 năm. Thời hiệu này còn có thể tăng hơn nữa ,nếu gia chủ cũng có Quái Số thuộc nhóm Đông Tứ Trạch. Khi ấy nhà sẽ sản sinh ra bậc cái thế anh hùng , hiền lƣơng đạo đức , giúp dân giúp nƣớc , làm nên đại nghiệp. 2/. CỬA CÁI TỐN -SƠN CHỦ KHẢM : NGŨ TỬ ĐĂNG KHOA THỊ PHONG THỦY. Nhà có 5 con đỗ đạt , 5 là số tƣợng trƣng cho sự tối đa của cách Sanh Khí Mộc này , không nhất thiết phải là 5. Nhà thuộc 2 cách này , con cháu ngày càng đông đảo và tài trí hơn ngƣời. Khoa hoạn và quý hiển của nhà này nối tiếp nhiều thế hệ, vì nhà này không có dân giả tầm thƣờng. ***Đặc biệt : Nếu nhà Cửa Tốn -Chủ Khảm - Hƣớng Ly , tức là nhà trổ cửa thiên môn bên trái (từ trong nhìn ra ) : Nên làm 2 ngăn với ngăn cuối làm Phòng Chúa , để Sao Vũ Khúc Kim Đắc Vị Nhập Miếu (Tinh sanh Cung ). Nếu làm 4 ngăn thì hãy để ngăn cuối cao rộng hơn hết , để Sao Tham Lang Mộc Đắc Vị Nhập Miếu ( Cung sanh Tinh ) ; TUYỆT ĐỐI KỲ trong trƣờng hợp này là làm 3 ngăn với ngăn 3 lớn nhất , khi đó Sao Lục Sát Đăng Điện Nhập Miếu , gia cƣ tán bại , Danh giá vùi xuống bùn nhơ !!! Do đó , đƣợc cuộc đất lợi thế chƣa phải là đủ. Xin hãy cẩn thận !!! 3/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ CẤN : ĐỊA SƠN THỔ TRÙNG : ĐIỀN SẢN TÖC. Nhà này có nhiều ruộng vƣờn , gia súc ; con hiếu cháu hiền , gia đạo hòa thuận , ai cũng thọ mạng nên nhà đông cả nam lẫn nữ. Chỉ nên làm 3 ngăn với ngăn 3 làm Phòng Chúa , để có Sao Cự Môn Thổ Đăng Điện Nhập Miếu. Nếu làm 4 ngăn thì ngăn 4 lớn hơn để Sao Vũ Khúc Kim Đắc Vị Nhập Miếu. 4/.CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ KHÔN : SƠN ĐỊA ĐIỀN SẢN ĐA TẤN ÍCH. Ngoài những đặc tình giống cách trên , nhà này còn có triệu Hỵ Lạc , vì tƣợng quẻ là Mẹ (Khôn) gặp Con (Cấn). Giàu sang, phú quý , thọ mạng. 5/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ LY : LÔI HỎA QUANG MINH : PHÖ QUÝ XƢƠNG. Ngoại sanh nội , lại đủ cả Âm Dƣơng : Phu phụ tƣơng thân ,tƣơng kính ,con cái hiển đạt ,gia đình vẻ vang ,sự hƣng phát của nhà này đầy khí thế đều nhở Chấn và Sanh Khí Mộc lâm cung Ly, sanh cho


Sơn Chủ Ly. Điền sản đã phong thịnh , ngƣời đã hiển đạt danh giá` , trai tuấn tú , gái mỷ lệ , lại còn ngƣời nào cũng thuần hậu , hiền lƣơng , thật là ngƣời xứng của. 6/. CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ CHẤN : HỎA LÔI PHÁT PHÖC : PHỤ NỮ LƢƠNG. Đạt cách cục Mộc_Hỏa thông minh. Nhà Sanh Khí Mộc lâm Chấn Mộc : Sanh Khí Đăng Điện => Đại thịnh vƣợng, đại cát xƣơng. Nhà đầy trai thanh gái lịch , thông minh lại lƣơng thiện , công danh rỡ ràng hiển hách. Nhà này còn đƣợc các nhà PT đặt cho cái tên gọi nữa là " Bình địa nhất thanh lôi ", hiển đạt bất ngờ , từ bần hàn thành phú quý rất nhanh chóng. 7/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ ĐOÀI : THIÊN TRẠCH TÀI VƢỢNG : ĐA DÂM LOẠN ! Cách cục này sinh tài lộc vƣợng , nhƣng chỉ đƣợc lúc đầu thôi. Càng về sau càng chịu nhiều lời tai tiếng , không còn quý hiển nữa. Đoài vi Thiếu Nữ , ví nhƣ gái còn tơ măng mơn mởn , mà ƣng giao phối cùng ông già_ Càn vi Lão Ông, dú có thật vì tình nghĩa cũng khó tránh dị nghị , ảnh hƣởng đến thuận hợp gia đạo. Chồng giả cỗi , vợ còn trẻ măng đầy xuân sắc sung mãn , tất chồng già say mê cô vợ trẻ rồi kiệt lực , ngày càng suy nhƣợc , có thể chết bỏ lại vợ trẻ giữ gia sản. Đây chính là cách cục thƣờng gặp của nhà này : Mẹ kế còn trẻ măng tranh chấp gia sản với con riêng chồng lớn tuổi hơn , hay vợ trẻ lang chạ ngoại tình _ vì chồng già không tƣơng hợp về nhiều mặt vậy. 8/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ CÀN : TRẠCH THIÊN QUẢ MẪU CHƢỞNG TÀI NGUYÊN. Cũng tƣơng tự nhƣ trên , lão ông sủng ái cô vợ trẻ....dẫn đến lắm chuyện phiền toái vậy ! II/ DIÊN NIÊN TRẠCH 1/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ KHÔN : THIÊN MÔN ĐÁO ĐỊA : CHỦ VINH HOA. Diên Niên kim gặp cung Khôn Đắc Vị , nên càng đem nhiều phƣớc lợi cho nhà : Con hiếu cháu hiền , vừa giàu có vừa hiển đạt , có danh thơm tiếng tốt , vửa đƣợc ban thƣởng phong tặng. Càn vi Lão Ông , Khôn vi Lão Mẫu , nên có thể nói đây là cách cục Âm Dƣơng tƣơng phối rất xứng , lại thêm là nhà Diên Niên , chủ về hạnh phúc lứa đôi, nên ở nhà này vợ chồng sẽ chung sống hài hòa , hạnh phúc , lại thêm thọ mạng. Nếu chủ nhà có Quái Số thuộc Tây Mạng thì....trên cả tuyệt vời ! 2/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ CÀN : ĐỊA KHỞI THIÊN MÔN : PHÖ QUÝ XƢƠNG ! Càng thêm thuận lợi hơn cách trƣớc , bởi bây giờ là Cửa ngoài sinh vào Sơn trong , nên sự phát đạt càng mau chóng hơn nữa , dễ dàng hơn nữa. Sơn Chủ Càn kim gặp Vũ Khúc kim thật tƣơng hòa , tƣơng mỷ. Có 2 điều lợi thế trong cách này : _ Cửa Cái sinh Sơn Chủ giúp phát mau. _ Diên niên Kim tỵ hòa Sơn Chủ Kim tạo thành nhà Vƣợng Cách , cực kỳ tốt. Nếu gia chủ là tây mạng nữa thì nhƣ gấm thêu hoa , trai anh hùng gặp gái thuyền quyên. Chính vì vậy , trong cách này mới tƣợng quẻ là " Xƣơng ". 3/. CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ ĐOÀI : SƠN TRẠCH NHƠN VƢỢNG : GIA PHÖ QUÝ . Đây cũng là 1 trong những nhà thuộc Đệ Nhất Cách của Tây Tứ Trạch. Ở cách này , những ngƣời trẻ tuổi sớm thành đạt. Sự thuận lợi cho nhà này tƣơng tự cách thứ II , vì Cửa sinh Chủ , Diên Niên Kim tỵ hòa với Sơn Chủ Kim nên Đăng Điện Vƣợng Cách. Đây cũng là sự giao phối tƣơng xứng giửa Âm Dƣơng , Cấn vi Thiếu Nam , Đoài vi Thiếu Nữ , rất xứng đôi phải lứa. Và kiến trúc này dễ gặp hơn cách Càn Khôn ở trên. Nhà này chẳng những phát mau mà còn khiến gia đạo thuận hòa , vợ chồng mãn ý. 4/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ CẤN : TRẠCH SƠN TĂNG PHÖC : TIỂU PHÕNG VINH.


Nhà này Sơn Chủ sinh ra Cửa nên tuy phát nhƣng gia chủ ắt hẳn cũng phải cực nhọc , lo toan không ít , nhất là với những ngƣời " tiểu phòng " . Hai chữ này ở đây ám chỉ thứ thê , thiếp trẻ , hay nói nôm na là....vợ nhỏ , cùng con cái của những ngƣời này. Nói chung về đặc tính tốt thì cũng tƣơng tự 3 loại trên , duy chỉ cực nhọc hơn thôi , và ngƣời nhà này kém chững chạc hơn so với 2 cách đầu , và kém hiển hách hơn so với cách III 5/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ TỐN : LÔI PHONG TƢƠNG PHỐI : TỐC PHÁT PHÖC ! Cả 2 đều cùng hàng trƣởng , đủ cả Âm dƣơng , cũng nhƣ vợ chồng chính phối , đồng đẳng xứng đôi. Chấn Tốn cùng là Mộc nên Mộc khí cƣờng thịnh , thành ra 1 loại "Danh Mộc , Thần Mộc ". Nay gặp Vũ khúc kim biến chế tất Mộc thành vật hữu dụng , quý giá. Ví nhƣ Mạng Tòng Bá Mộc sanh mùa xuân , trong ngày giờ có Kim vậy. Cho nên nhà này từ 1 bậc thƣờng dân 1 bƣớc nhảy vọt lên công danh hiển hách bất ngờ, đang bần cùng khốn khổ , chỉ trong sớm tối trở nên Đại Phú Đại Quý. Vì chỉ có 1 bƣớc mà đƣờng mây thênh thang rộng mở , nên cần xử sự hợp đạo và cận nhân tình. Ngoài Chấn , trong Tốn , tƣợng quẽ là Lôi Phong Hằng. Thoán từ của kinh Dịch có nói : Hằng ;hanh, vô cữu , lợi trinh, lợi hữu du vãng. Nhƣ vậy thì hàm ý sự việc chậm 1 tý thì lâu dài , không phải âu lo ; giữ theo chính đạo thì có lợi , tiến hành việc gì cũng thuận lợi. HẰNG tự nó là mang ý lâu dài , bền bĩ , chậm rãi rồi , nên trong trƣờng hợp này cần cƣ xử cho hợp đạo mới vững bền. 6/. CỬA CÁI TỐN-SƠN CHỦ CHẤN : PHONG LÔI : CÔNG DANH NHƢ HỎA THÔI. Gió ở trên , Sấm ở dƣới , gió thổi mạnh thì Sấm càng vang xa. Cách này và cách trên còn gọi chung là " Bình Địa Nhất Thanh Lôi ". Công danh thịnh đạt nhƣ trở bàn tay. Cách này giống cách trên ở chỗ từ bạch đinh thoáng chốc đã thành đại phú ông. Nếu dám chấp nhận nguy hiểm làm lợi ích cho ngƣời khác thì càng vang danh hơn. Chớ hãnh tiến quá mà mang họa vào thân , phải biết tiến thoái , biết nghĩ đến những ngƣời xung quanh mình ( ý quẻ Phong Lôi Ích : Ích chi đạo , dữ thời giai hành ). Phải cố hành thiện tích đức thì mới giử đƣợc cái phú quý lâu bền đƣợc (kiến thiện tác thiện , hữu quá tác cải ) , có sai thì phải biết sửa sai , chớ ngông ngênh làm càn mà mang tiếng " tiểu nhân đắc chí ". Cần xử sự khéo léo , tiến thoái hợp lẽ là ý chung cho 2 trƣờng hợp này. Xin chớ vì đắc ý nhất thời mà buông lung sẽ khó mà giữ đƣợc lâu dài. 7/.CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ LY : THỦY HỎA KÝ TẾ : ĐẠI CÁT XƢƠNG ! Trung nam sánh duyên Trung nữ , vợ chồng chính phối , đồng đẳng. Gia đình hài hòa , hạnh phúc , ngƣời đông , của nhiều , giàu có lại danh vọng. Đây là Quẻ Thủy Hỏa Ký tế. Ký tế là đã xong , là đƣợc hanh thông rồi , nếu chịu làm hết các việc nhỏ còn lại và củng cố những việc đã thành tựu thì mới đƣợc lợi. Mới đầu đƣợc tốt nhƣng cuối cùng sẽ loạn ( sơ cát chung loạn ). 8/. CỬA CÁI LY-SƠN CHỦ KHẢM : ÂM DƢƠNG CHÍNH PHỐI : PHÖ QUÝ CỤC . Nhà này đắc cả Tam Đa : Phúc -Lộc -Thọ , gia tƣ phong thịnh , giàu sang , quý hiển , trƣờng thọ. *** Lƣu ý : Hai cách sau này là nhà nằm trên trục Nam Bắc , nên nhà ở chịu ảnh hƣởng của 2 cực trên Trái đất , ở lâu tất sinh bịnh đau mắt, hại tim , bụng đau nhức , khắc vợ , nhà khắc khẩu. Muốn phá giải nên đặt bếp Chấn hoặc Tốn , lấy Mộc làm trung gian hòa giải nƣớc và lửa. Ngoài ra , sự hóa giải này còn 2 điều lợi : _ Khảm sinh Chấn : Tạo ra sự hanh thông , thịnh cát. _ Chấn Mộc sinh Ly Hỏa : Cách cục Mộc Hỏa thông minh => ngƣời trong nhà sẽ mỷ lệ , thông minh tài trí. III/ THIÊN Y TRẠCH :


1/. CỬA CÁI CÀN - SƠN CHỦ CẤN : THIÊN LÂM SƠN THƢỢNG : GIA PHÖ QUÝ Giàu tiền bạc ,của cải , ruộng đất. Sang trọng , có chức vị lớn trong xã hội, ngƣời đời trọng vọng. Thiên Y với Sao Cự Môn là Phúc Tinh , rất hợp với Tây Tứ Trạch. Sao Cự Môn nếu Đăng Điện sẽ đem lại thịnh vƣợng ở mức độ sâu dầy , con cháu đông , điền sản nhiều , danh giá lớn , con hiếu cháu hiền. Tuy nhiên , do 2 cung Thuần dƣơng nên sự tốt đẹp đó chỉ đƣợc khoảng 20-30 năm , sau đó nhà này sẽ khiến khắc chế vợ con , ở lâu sẽ tuyệt tự. 2/. CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ CÀN : SƠN KHỞI THIÊN TRUNG : TỬ QUÝ HIỂN. Sự hanh thông , hƣng vƣợng dễ dàng hơn và mau chóng hơn cách trên , nhờ Cửa sinh Sơn Chủ. Thiên Y thổ lâm Sơn Chủ Càn kim Đắc vị => Nhà đƣợc cả danh vọng lẫn tiền bạc , của cải , ngƣời nhân từ hay làm việc thiện. Đàn ông sống lâu , đàn bà chết sớm vì nhà Thuần Dƣơng , chẳng nên ở nhà này lâu quá 30 năm kẻo tuyệt tự. 3/. CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ CHẤN : THỦY LÔI PHÁT PHÖC , CỮU : TUYỆT TỰ . Trong vài ba mƣơi năm đầu , nhà này con cái đông đảo , công danh hiển đạt , nhà đầy hỵ lạc vì nhiều ngƣời hiền lƣơng , trung nghĩa. Ở lâu hơn nữa , điền tài suy giảm , hậu tự khó khăn bởi cách Thuần Dƣơng. 4/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ KHẢM : LÔI THỦY : PHẠP TỰ , ĐA HÀNH THIỆN. Dù Cửa và Sơn Chủ tƣơng sinh , nhƣng nội sinh ngoại , nên ngƣời trong nhà cực nhọc hơn , nếp sinh hoạt rộn ràng hơn cách trên. Chỉ giúp phát đạt , đông đảo lúc đầu . Về sau , khắc chế vợ con , gia cảnh lụn bại , bởi Thuần dƣơng. 5/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ ĐOÀI : ĐỊA TRẠCH : TẤN TÀI , TUYỆT HẬU TỰ. Thiên Y thổ gặp Đoài kim Đắc vị , lại là Ngoại sinh Nội , nên ruộng vƣờn , tài sản hƣng phát ,ngƣời nhà nhơn đức. Về sau , nhà Âm thịnh tất Dƣơng suy , bất lợi cho đàn ông , con trai. Âm khí nặng nề sẽ tổn hại cho sự thanh khiết. Mẹ già góa chìu chuộng con rễ quá mức ( vì yêu thƣơng con gái : do Khôn sinh Đoài ) khiến gia pháp chẳng nghiêm ,lần lần kẻ khác họ kế tự. 6/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ KHÔN : TRẠCH ĐỊA : TÀI LONG , DỊ TÁNH CƢ. Dị tánh là ngƣời khác họ , ở đây ám chỉ ngƣời dƣng rặt ,tỵ nhƣ chỉ có bà con với dâu hay rễ thôi. Những ngƣời này đấn ở chung nhà , ban đầu chỉ là tạm thời , dần dà chiếm đƣợc lòng tin yêu hoặc do sự cần thiết của gia đình , họ trở thành những nhân vật quan trọng , cuối cùng có thể đi tới chỗ chiếm đoạt cơ nghiệp. Cách này tiền bạc , ruộng vƣờn dồi dào , gia đạo hoan hỵ , vì cả nhà đều phƣớc thiện. Hiềm nổi nhà này Âm thịnh Dƣơng suy , nam nhân lần hồi thƣa thớt , nữ quản gia tƣ và quyền quản lý có thể về tay ngƣời khác. 7/. CỬA CÁI TỐN -SƠN CHỦ LY : PHÖ QUÝ , PHẠP TỰ : PHONG HỎA ĐƢƠNG Đắc cách Mộc Hỏa thông minh => Đàn bà con gái trong nhà đều mỷ lệ , vừa đẹp vừa tài trí , giáu có , sang trọng. Ngƣời nhà giàu lòng nhân ái , xử thế khéo léo . Nhƣng tiếc rằng nhà này Thuần Âm , nên cũng không tránh khỏi kết cục tuyệt hậu nhƣ trên. 8/. CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ TỐN : HỎA PHONG : ĐINH HI , GIA HẢO THIỆN. Nhà này đắc cả Phú lẫn Quý , nhà toàn hiền lƣơng , trung hậu. Nữ nhân nắm quyền , nam nhân ít ỏi , có thể phải nhận con nuôi kế tự cũng vì cách Thuần Âm. ***LƢU Ý : Nhà Thiên Y không bằng nhà có Sao Chúa là Cự Môn Đắc vị hay


Cự Môn Đăng Điện Nhập Miếu,vì nó đắc cách nên có thể phá giải cô Âm-độc Dƣơng mà vẫn đạt đƣợc sự tốt đẹp của Cự Môn. Nhà Thiên Y tất cả đều vƣớng cách Thuần Âm hay Thuần Dƣơng, nên dùng Bếp để có đủ Âm Dƣơng , thì mới ở lâu dài đƣợc. IV / NGŨ QUỶ TRẠCH : 1/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ CHẤN : QUỴ NHẬP LÔI MÔN : THƢƠNG TRƢỞNG TỬ. Tai họa ở cách này đến cấp kỳ , đú cả : khẩu thiệt , quan phi , đạo tặc , tù tội , cha con bất hòa , gia súc nuôi chết , hiện tƣợng quái dị phát sinh trong nhà; tim , bụng đau nhức , con cái chƣa nên gia thất đã vong mạng , sinh kế trở ngại , điền sản tiêu tan. 2/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ CÀN : LONG PHI THIÊN THƢỢNG : LÃO ÔNG ƢƠNG . Tuy chủ khắc cửa cái , nhƣng Sao Liêm Trinh Hỏa khắc Sơn Chủ Càn Kim , khiến cho gia chủ lực bất tòng tâm. Từ việc gia chủ bất mãn , sinh ra sa đà vào trụy lạc trác táng. Ngoài ra , cách này còn dễ phát sinh án mạng , hoặc ngƣời trong nhà bị chết dữ ( tai nạn, ửa đốt,nƣớc sôi ); khắc hại vợ con , phải cƣới thê thiếp nhiều lần , lại thêm mục tật , sản nạn , ung nhọt độc hại. 3/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ TỐN : NHÂN MAI ĐỊA HỘ : LÃO MẪU VONG. Nói về Âm Dƣơng thì : Dƣơng là minh , thanh...;Âm là ám , trọc... Nhà này đã Thuần Âm lạ phạm Ngũ Quỵ , Âm Khí càng nặng nề , trong nhà nhiều điều lầm lỗi nhƣ : đam mê tửu sắc , dâm bôn , sanh sứa chuyện điên cuồng ; con gái lớn khắc mẹ già ; ngƣời thì dễ mắc bệnh tỳ vị hay bộ máy tiêu hóa yếu ; dễ mắc vạ mồm miệng , quan tụng . Nam đoản mạng , nữ góa bụa. Lâu ngày dẫn đến tuyệt tự. 4/. CỬA CÁI TỐN - SƠN CHỦ KHÔN : PHONG ĐÁO NHÂN MÔN : MẪU TIÊN VONG . Cửa cái Tốn Mộc khắc vào trong Sơn Chủ Khôn Thổ , bao nhiêu tai họa từ ngoài đƣa đến trút cả lên ngƣời mẹ lãnh hết , nên chết sớm. Nhà nhƣ có ma quỵ phá vậy , tai nạn đến bất kỳ. Trƣởng nữ lộng hành , mẹ con ( hay bà và cháu gái )tƣơng khắc lẫn nhau , nhiều điều lo buồn đƣa đến , phát sinh bệnh tỳ vị , da vàng , phù thũng. Ngƣời nhà yểu vong. Phát sinh chuyện phóng đãng , trụy lạc , đạo tặc , làm tán gia bại sản. Nhà này không nên ở lâu , sẽ tuyệt tự ở vài thế hệ sau. 5/. CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ KHẢM : QUỴ NGỘ UÔNG DƢƠNG : LẠC THỦY THƢƠNG. Lạc thủy thƣơng ở đây ám chỉ những vụ : Gieo đầu xuống sông , xuống giếng tự vẫn , hay bị hỏa nạn thủy tai. Trong nhà , anh em tƣơng chiến tƣng bừng , con cái bất hiếu , ngỗ nghịch.Là nhà khắc hại vợ con , tai vạ đến ào ào không kịp chống đỡ , gia sản tiêu tan . 6/. CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ CẤN : THỦY NGỘ SƠN KHẮC : TU PHẠP TỰ . Là Sơn Chủ Cấn Thổ khắc ra ngoài Cửa Cái Khảm thủy , nội khắc ngoại , gia chủ còn gắng gƣợng chống đỡ đƣợc , nhƣng cuối cùng cũng lụn bại , gia nghiệp tiêu tan , đặc biệt nhà này rất khó nuôi con nít , nên khó giữ hƣơng lửa. Còn nhỏ thì bị Sát chụp; lớn lên nếu không tự thắt cổ , nhảy sông , uống thuốc rày thì cũng tƣơng tranh , huynh đệ thủ túc tƣơng tàn , gia đạo cực kỳ hỗn loạn. ***LƢU Ý : 2 cách 5 & 6 này Nam Nhân tranh chiến rất ác liệt. 7/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ LY : HỔ HỎA VIÊM CHUNG : NỮ THIẾU VONG . Nhà này trong khắc ra ngoài. Ly mãi mê đốt Đoài , khắc Đoài , rốt cuộc lại thì Ly cũng tắt. Nhà này nữ nhân lộng hành , đoạt quyền chồng , gây điều tệ hại. Có ngƣời bệnh phổi , ho lao. Không khí


trong nhà này luôn ngột ngạt , căng thẳng , nặng nề. Và nhất là bùng ra những vụ Hung Tử , Bạo Tử bất chợt , dẫn đến gia nghiệp tiêu tan. 8/. CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ ĐOÀI : LY ĐOÀI HỎA QUANG : THƢƠNG THIẾU NỮ . Ám chỉ những Hỏa nạn nhƣ : Phỏng lửa , tự thiêu , cháy nhà. Nhà này là ngoài khắc vào trong => Ngƣời ngoài đời khinh rẽ ngƣời trong nhà , mà ngƣời trong nhà khó nỗi chống chế. Ly lại là tƣợng phụ nữ. Nên khiến ngƣời đàn bà từ ngoài đến làm loạn kỵ cƣơng , gia chủ buồn phiền sinh lao tổn rồi chết. *** LƢU Ý : 2 cách 7 & 8 này Nữ Nhân giao chiến , lộng quyền. V/ HỌA HẠI TRẠCH : 1/. CỬA CÁI KHẢM -SƠN CHỦ ĐOÀI : TRẠCH NGỘ THỦY TIẾT : THIẾU NỮ VONG. Tai họa xảy đến cho cả chủ nhà và con gái út ( con gái -cháu gái nhỏ). Nhà này khiến tán tài , nhiều tai biến xảy đến , dẫn tới phá tan gia nghiệp , hàng phụ nữ trẻ , thiếu phụ phải chết non , chủ nhà lao tổn quá độ sinh bệnh ở phổi và những cơ quan liên hệ. 2/. CỬA CÁI ĐOÀI -SƠN CHỦ KHẢM : BẠCH HỔ ĐẦU GIANG : LỤC SÖC THƢƠNG. Cửa Đoài , Sơn Chủ Khảm , là Đông Tây giao chiến , Kim bị Thủy làm tiết khí ( vì Kim phải sinh Thủy mà ) , nên Đoài chịu thua , ví nhƣ thiếu nữ sao bì với sức trai tráng trung niên đƣợc ? Lại thêm Đoài sinh xuất bị hao tổn tinh khí , nên nhà này tổn thƣơng lục súc , ăn mòn phúc lộc , khuyết gia nghiệp rồi lụn bại hẳn luôn. 3/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ CHẤN : NHÂN LÂM LONG VỊ : MẪU SẢN VONG . Nhà này có thể xảy ra 1 trong 4 điều sau : _ Ngƣời mẹ sinh con trai thì bị sản nạn chết. _ Mẹ con bất hòa trầm trọng. _ Trƣớc tổn hao tiền của , sau thoái bại nhân khẩu. _ Giữ đƣợc tiền của thì nhân số giảm dần , nếu giữ đƣợc nhân số thì tiền của suy hao , tán gia bại sản 4/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ KHÔN : LONG NHẬP NHÂN MÔN : THƢƠNG LÃO MẪU Nhà này con trai trƣởng khắc mẹ già ( Chấn vi trƣởng nam, Khôn vi lão mẫu ,Chấn mộc khắc Khôn thổ ) , làm mẹ già khốn khổ , sinh bệnh bao tử và bệnh về bộ máy tiêu hóa. Sự xung đột lên đến cao độ , có thể tới mức mẹ con không còn nhìn mặt nhau , và lão mẫu phải thoát ra khỏi nhà mới mong tồn tại. Nhà Họa Hại là Sao Lộc Tồn Thổ , nó tỵ hòa với Sơn Chủ , nên lúc đầu cũng rộn rịp , đông ngƣời ở , tiền bạc dƣ dả , về sau phải mất 1 trong 2. 5/. CỬA CÁI TỐN -SƠN CHỦ CÀN : PHONG THIÊN ĐÔNG THỐNG : SÁT TRƢỞNG PHU Nhà này nội khắc ngoại , ngƣời trong nhà mạnh thế , kẻ bên ngoài có ghét cũng chẳng làm gì đƣợc. Trong nội bộ gia đình thì hoặc chồng khắc vợ , hoặc cha khắc con gái. Khằc thì ngoài mặt chẳng ƣa , hoặc nặng hơn thì chửi rủa ,đánh đập. Có khi chỉ khắc trong thần khí,làm nữ này bịnh đau triền miên rồi yểu mạng. Cách Họa Hại này thuận với Sơn Chủ ( thổ và kim ) , vì vậy về ý thức hệ : Chuyện Họa Hại nhiều khi chỉ đƣợc sửa đổi ngoài mặt , nhƣng kỳ thực Hung hại nhƣ đƣợc Sơn Chủ (ngƣời đàn ông lớn tuổi trong nhà , ngƣời chồng , ngƣời cha , ngƣời trụ cột trong nhà đó ) bao dung, che lấp. Nên thỉnh thoảng lại có 1 hình thái tai họa nổi lên (nhƣ say rƣợu về đánh vợ con,đập phá đồ đạc..)


Mặt khác , Cửa Tốn lại chống chế nổi Họa hại này. Theo thời gian , sức chịu đựng , sự nhẫn nhục đƣợc chấp nhận nhƣ là thứ định mạng. Hơn nữa , sự chịu đựng đƣợc giúp sức bằng những đợt tài lộc thỉnh thoảng đáo lai , vì Càn khắc Tốn mà cũng làm Tốn thành vật hữu dụng. Nhà này chì thành đạt đoản kỳ. 6/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ TỐN : CÀN TỐN SẢN VONG , TÂM THỐI THỐNG. Đây là cách từ ngoài khắc vào trong , tai họa đến liên miên , thƣa kiện rối ren , ngƣời bệnh , của tiêu tan , đàn bà bị chết vì sanh đẻ (sản nạn) , yểu vong , trộm cƣớp ; thƣờng dễ bị các bệnh về tim , mông đau nhức. ***LƢU Ý : CÁCH SỬA CHỮA ở 2 cách 5 & 6 này : _ Gặp cách 5 : Nên biến thành Tịnh Trạch với Cửa Tốn, Phòng Chủ Khảm chẳng hạn. từ nhà Họa hại sẽ thành nhà Sanh Khí. _ gặp cách 6 : Nên đổi từ Chính Môn Càn ra Hữu Thiên Môn Khảm ( từ trong nhìn ra , cửa nằm bên tay phải gọi là Hữu thiên Môn ). Thiết kế theo Động Trạch với 2 ngăn, và ngăn 2 là Ngăn Chính cao lớn nhất : Nhà từ Họa Hại sẽ biến ra nhà với Sao Tham Lang Mộc Đăng Điện Nhập Miếu. 7/. CỬA CÁI CẤN -SƠN CHỦ LY ; SƠN PHÙNG HỎA HỦY : PHỤ NỮ CƢƠNG. Cấn là Dƣơng thổ đã là đất khô ráo , nay lại bị thêm lửa Ly thiêu đốt , nên càng cháy tiêu hết dƣỡng chất , trở thành đất chết không dùng đƣợc nữa. Nữ nhân trong nhà rất cƣơng cƣờng , khắc nam nhân , khiến gia đạo bất hòa , gây điều điên đảo. Họa hại thổ , Cấn cũng thổ, cả 2 hòa hợp , Họa Hại xu mị Cấn nhƣ kiểu chồn nịnh gà , nên cuối cùng Cấn thổ te tua mà Ly cũng rã rời. 8/.CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ CẤN : HỎA SƠN PHỤ CƢƠNG : KINH BẤT ĐỀU. Nhà này là cách phụ nữ tiếm quyền , gia phong trong nhà rối ren , bại hoại , mọi việc nhƣ loạn cả lên. Là cách ngoài khắc vào trong ,. mà Ly vi trung nữ , Cấn vi thiếu nam , là tƣợng đàn bà từ bên ngoài đến làm loạn , làm hại thiếu nam trong nhà ( con tri út , cháu trai nhỏ , con trai vợ thứ ). Du niên Họa Hại hợp cả Cấn lẫn Ly , cho nên cách Họa Hại này cực kỳ nguy hiểm , gia chủ phải phƣớc đức thật sâu dầy mới mong tránh khỏi đƣợc. Loại Họa Hại này , tai ách nhƣ cứ đƣợc bao che , dung túng bởi ngƣời trong cuộc , làm tác dụng của nó có tính dai dẳng . So với các loại Hung Du Niên khác thì cách Họa Hại thƣờng rất khó chuyển đổi dù trên nhân thân hay trên nhà cửa. *** LƢU Ý :Nhà này có thể đổi sang Cửa Hữu thiên Môn Khôn , nhà làm 4 ngăn với ngăn sau caolớn nhất : Nhà từ Họa Hại sẽ thành nhà Sanh Khí Trạch , và có Sao Chúa Cự Môn Thổ Đăng Điện Nhập Miếu , từ xấu trở thành cực kỳ tốt vậy. VI/ TUYỆT MẠNG TRẠCH : 1/. CỬA CÁI CÀN - SƠN CHỦ LY : CÀN LY : QUẢ CƢ , SINH NHÃN TẬT. Ly hỏa chỉ chuyên khắc đối vật , đối nhân , thế của nó là lửa cháy nên rất mạnh mẽ , hung hãn nên ở trong nhà này rơi vào cảnh cô độc là chuyện thƣờng . Ly vi trung nữ , Càn vi lão ông , trung âm sung sức khắc lão dƣơng yếu đuối : Những ngƣời lớn tuổi sức khoẻ suy nhƣợc , bại vong , chẳng những chết mà còn chết lãng , chết vô duyên , chƣa đáng chết mà chết nữa. Thƣơng sinh các chứng bệnh nhức đầu , mờ mắt , cao huyết áp. 2/. CỬA CÁI LY - SƠN CHỦ CÀN : LY CÀN : LÃO CÔNG CHỦ BẤT CỮU. Nhà này Âm thịnh Dƣơng suy. Cửa Cái Ly Hỏa từ ngoài khắc vào trong Sơn Chủ Càn Kim , tai họa đến nhanh và bất kỳ , vô phƣơng chống đỡ. Nhà này thƣờng sinh ra chuyện tán tài , tuyệt tự , nữ nhân nắm quyền , các bệnh về mắt , ho hen do Hỏa thịnh , viêm khí quản -phổi , lao phổi.


3/. CỬA CÁI CẤN - SƠN CHỦ TỐN : SƠN NGỘ PHONG MÔN : QUẢ MẪU , TUYỆT. Tốn Mộc khắc Cấn Thổ , Tốn vi trƣởng nữ , Cấn vi thiếu nam. Là tƣợng em trai bị chị lớn khắc hại , sao chịu nổi. Cấn vì bị tốn khắc nên trẻ nhỏ khó nuôi , dễ bị yểu mạng.Âm trấn áp Dƣơng khiến Dƣơng tuyệt , cón lại Cô Âm Bất Sinh, nên dẫn đến tuyệt tự. Du niên Trạch là Tuyệt Mạng kim lai khắc trở lại Tốn mộc => nhà này đàn bà chịu cảnh góa bụa , lại thêm bộ máy tiêu hóa suy nhƣợc , vàng da , phù thũng => Đây là cảnh Âm cũng phải vong khi Dƣơng đã tuyệt. Thƣờng thấy ở cách này là : Chị gái và anh rễ chiếm lĩnh cơ ngơi ,tài sản cha mẹ để lại , em trai bị khống chế và cho ra rìa. 4/. CỬA CÁI TỐN - SƠN CHỦ CẤN : PHONG SƠN : QUẢ MẪU ĐA , PHẠP TỰ. Là ngoài khắc vào trong , tai họa đến nhƣ " sét đánh không kịp bƣng tai " , vừa nhanh vừa bất ngờ khó chống đỡ. Do Cấn thiếu nam bị khắc nên trẻ nhỏ càng khó nuôi hơn , nam nữ gì cũng tai ƣơng. Trạch chủ sống cô độc , âm thầm chịu đựng 1 cách vô vọng. Nhà này khiến sinh ra nhiều đàn bà góa. con cái hiếm muộn . Thƣờng thấy ở cách này là : Em trai hƣởng gia nghiệp , bất ngờ CÁC bà chị đã xuất giá ở đâu cũng về tranh chấp , lại còn mắng chửi. đe dọa. 5/. CỬA CÁI KHẢM - SƠN CHỦ KHÔN ; THỦY THỔ TƢƠNG KHẮC : TRUNG NAM TỬ. Tuyệt mạng vì Khôn khắc Khảm làm trung nam phải chết. Nhƣng cách cục này có thể chậm chết hoặc èo uột , sống mà nhƣ chết rồi , hoặc không chết bất ngờ vì : _ Sao Phá Quân Kim sinh Khảm , nhƣ giúp thêm sức chịu đựng. _ Sao Phá Quân Kim làm Khôn Thổ phải hao tán khí lực vì sinh nó. Đa Thủy thì Khôn Thổ không khắc nổi còn phải thọ nguy khốn nữa. Cách này ác độc ở chỗ nó làm tiêu hao tất cả sinh lực của tất cả ngƣời trong nhà , suy yếu dần , nhƣ hành hạ từ từ cho chết lần chết mòn vậy. 6/. CỬA CÁI KHÔN - SƠN CHỦ KHẢM : KHÔN KHẢM : TRUNG NAM MẠNG BẤT TỒN. Là ngƣời đàn bà lớn tuổi ở ngoài khắc trung nam ở trong , ngoại khắc nội ,tai họa đến nhanh và khó lƣờng trƣớc. Nhà này gia chủ bất lực trƣớc các sự tàn phá , xâm hại từ ngoài đƣa đến vô phƣơng chống đỡ. Sự nghiệp lần hồi tiêu tan , sức khoẻ ngày một suy sụp ; dễ mắc các chứng sỏi , sạn , khí huyết ngƣng trệ. Đến khi áp lực bên ngoài hết thì cũng đủ cho tan hoang nhà cửa rồi vậy. 7/. CỬA CÁI ĐOÀI - SƠN CHỦ CHẤN : HỔ NHẬP LONG OA : LAO CỔ PHẾ. Lao do thể chất mệt nhọc , tinh thần lo lắng buồn phiền vì phải liên tục chống đỡ những tai họa từ ngoài đƣa đến. Cổ là 1 căn bệnh chứng đầy , cứ nhƣ căng trƣớng lên. Cửa Đoài Kim khắc Sơn Chủ Chấn Mộc , trƣởng nam không chết cũng tàn mạt , suốt đời không làm nên đƣợc việc gì. Nhà này Âm khắc Dƣơng , khắc chồng , hại con , bất hòa , lâu dần sinh tuyệt tự. 8/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ ĐOÀI : LONG TRANH HỔ ĐẤU : ƢU THƢƠNG TRƢỞNG. Âm nhỏ bức hại Dƣơng lớn , nhà này không còn tôn ti trật tự gì , hỗn loạn đến cùng cực. nếu xét theo hƣớng nội ngoại , thì cách cục trên tuy Dƣơng lớn bị bức bách , nhƣng ít ra nó cũng còn ở ngôi Chủ vị ( Chấn ở SC) , còn trong cách này , Âm chiếm địa vị chủ , lại còn truy diệt Dƣơng ở ngôi khách bên ngoài. Nói rộng ra , Âm đã lộng hành bức đuổi Dƣơng khỏi ngôi vị gia chủ , mà còn muốn tận diệt bậc trƣởng thƣợng. Nếu xét theo mức độ nặng nhẹ : Cách Cấn + Tốn thì Dƣơng mới bị Âm lấn bức , thì ở cách Chấn + Đoài , Dƣơng bị tán bại đến tận xƣơng, nhất là cách 8 này : Dƣơng bị tàn diệt đến tột độ: Sinh ra nhiều vụ chết chồng,chết vợ ,chết con trai trƣởng , cháu trai trƣởng khiến họa diệt tộc luôn treo lơ


lững trên đầu. Đấy là mới nói đến nạn chết chóc , ngoài ra còn : Tranh chấp , bệnh đau , kiện thƣa , tù tội , chém giết , phá sản... Dƣơng tƣợng trƣng cho những gì sáng sủa , hanh thông , hƣng thịnh , phát triển....Âm tƣợng cho sự tối ám ,ngƣng trệ , cùng khốn , lụn bại.... Dƣơng thắng thì những sự tốt lành sẽ đƣa đến. Âm thắng thì tất cả các điều Hung hại sẽ nổi lên nhƣ nấm và cách cục Cửa Chấn -Sơn Chủ Đoài là cách Tuyệt Mạng Ác Nhất !!! Xin cẩn thận. Cách Tuyệt Mạng Ác Độc thứ nhì chính là : Cửa Cái Ly -Sơn Chủ Càn. Không cứ gì Càn phải là cụ già , nói chung là ngƣời đàn ông lớn tuổi trong nhà , bậc trƣởng thƣợng hay rƣờng cột chính , trụ cột của gia đình thì ngƣời đó là Càn vậy. Ly diệt Càn tức là diệt trực tiếp ngƣời lao động chính , tất nhà ấy sụp đổ thôi. Giống nhƣ cắt đứt rễ đuôi chuột , rễ cái của cây rồi thì dù cây không chết , gió thổi cũng trốc gốc dễ dàng thôi. CÁCH HÓA GIẢI : _ Với cách CHẤN - ĐOÀI : Sửa từ cửa giửa thành cửa bên trái , cửa Cấn , Sơn Chủ Đoài , nhà từ Tuyệt Mạng thành nhà Diên Niên vậy. Có thể làm nhà % ngăn , với ngăn chót làm Phòng Chúa , hoặc ít ra cũng 4 ngăn với ngăn chót làm Phòng Chúa. _ Với cách LY- CÀN : Tốt nhất là sửa thành Đơn Trạch , bởi dù có sửa thành Thiên Môn , tìm Cát Tinh làm Sao Chúa , dùng thế yểm Sát Trạch thì cũng không đƣợc tốt. Chi bằng sửa thành Đơn Trạch , ta có thể chủ động chọn Phòng Chủ tìm Du Niên tốt cho Trạch vậy. VII/ LỤC SÁT TRẠCH : 1/.CỬA KHẢM -SƠN CHỦ CÀN : THỦY TUYỆT CÀN KHÍ : DÂM , BẠI , TUYỆT. Nhà này giúp thịnh đạt lúc đầu , khoảng chừng 10 năm trở lại. Nhƣng càng về sau càng phát sinh ra những chuyện thói hƣ tật xấu , rƣợu chè cờ bạc , trai gái đàng điếm , đủ thứ chuyện tệ hại. Lúc đầu thịnh đạt là nhờ 2 cung tƣơng sanh , nhƣng nội sanh ngoại , trong sinh ra ngoài khiến gia chủ hao tổn tinh lực. Nhà này thƣờng sinh các chứng bệnh về phế phổi , về ruột già. 2/. CỬA CÁI CÀN -SƠN CHỦ KHẢM : THIÊN MÔN LẠC THỦY XUẤT DÂM CUỒNG. Lục Sát ứng với Sao Văn Khúc thuộc Thủy , Sơn Chủ cũng thuộc Thủy , Hung Tinh càng đƣợc dịp thả sức tung hoành không ai càn trở. Văn Khúc tinh là Sao chủ về sự dâm dật , cộng thệm tƣợng của quẻ Khảm là hiểm , nên mức độ của nó càng trầm trọng thêm. Cách này nhờ từ ngoài sinh vào nên phát đạt lâu hơn cách trên 1 tý , nhƣng sự dâm loạn , phóng đãng cũng nhiều hơn lên vậy. Cả 2 cách đều đƣa đến việc khắc hại vợ con , gia cơ tán bại vì những chuyện trụy lạc của cánh đàn ông trong nhà vậy.Thêm vào đó , cả 2 cách đều thuần Dƣơng , ở lâu tất tuyệt tự là điều khó tránh khỏi. 3/. CỬA CÁI CHẤN -SƠN CHỦ CẤN : LONG PHÓ SƠN TRUNG : THIỂU NHI LANG. Rồng đến núi trong tƣ thế khách mạnh chủ yếu ( Chấn mộc khắc Cấn thổ ) , từ ngoài khắc vào trong , tai họa đến mau và bất ngờ , ảnh hƣởng nặng nhất là các thiếu nam , các con trai nhỏ , cháu trai nhỏ trong nhà. Là tƣợng anh lớn khắc em nhỏ , lại thêm thuần dƣơng , nhà này càng ở lâu càng tuyệt tự 4/. CỬA CÁI CẤN - SƠN CHỦ CHẤN : LÔI SƠN TƢƠNG KIẾN : TIỂU NHI ƢƠNG. Nhờ nội khắc ngoại nên đỡ hơn cách trên. Tuy nhiên sự hình khắc dù từ trong ra ngoài hay từ ngoài vào trong , sau cùng đều mang lại kết quả xấu cả. Khi trẻ nhỏ bị khắc , thì ngƣời lớn cũng chẳng ích lợi gì. Cả 4 cách đều thuần Dƣơng , Dƣơng thịnh tất Âm suy , tất hại cho các nữ nhân trong nhà vậy , dù trong tƣợng quẻ không nói đến. Hai cách đầu thì nhà thịnh đƣợc lúc đầu , không khí trong nhà cũng rộn rịp lắm , nhƣng là sự rộn rịp của việc ăn nhậu , dâm bôn trác táng , cờ bạc. Sự tranh chiến trong nhà ít gay go. Tất cả nam nhân trong nhà , từ già đến trẻ đều say mê "hái mận , bẻ đào " mà dẫn đến bại tuyệt.


Hai cách sau có sƣa tranh chiến trong nhà , nhƣ huynh đệ tƣơng tàn , anh em tranh giành đàn bà với nhau mà trở mặt. Cả 4 cách đều dẫn tới tán gia bại sản , không ngƣời thừa kế vậy. 5/. CỬA CÁI KHÔN -SƠN CHỦ LY : NHÂN KIẾN MÔN HỎA : ĐA QUẢ MẪU . Âm thịnh tất Dƣơng lại suy , cánh đàn ông qua cách này lại bị tổn hại , sinh ra nhiều đàn bà góa trong nhà , khó có ngƣời thừa kế hƣơng hỏa. Nội sinh ngoại làm cho Trạch chủ tổn hao tinh lực chống đỡ , cố gắng giữ vững gia nghiệp cho đến kiệt lực vậy. 6/. CỬA CÁI LY -SƠN CHỦ KHÔN : HỎA ĐÁO NHÂN MÔN : QUẢ PHỤ , TUYỆT. Đỡ hơn cách trên đôi chút nhờ từ ngoài sinh vào trong thôi , nên trong lúc đầu nhà này vẫn phát đạt. Về sau , do nhà thuần Âm nên nam nhân đoản mạng , để lại nhà toàn bà góa. 7/. CỬA CÁI TỐN -SƠN CHỦ ĐOÀI : PHONG SINH HIỆN HỔ : THƢƠNG TRƢỞNG PHU. Là cách nội khắc ngoại , từ trong khắc ra ngoài , nên Trạch Chủ còn gắng gƣợng chống chọi đƣợc 1 thời gian trƣớc ngoại cảnh. 8/. CỬA CÁI ĐOÀI - SƠN CHỦ TỐN : HỔ PHÙNG HẠN ĐỊA DIỆC ÂM THƢƠNG. Là ngoại khắc nội , gia chủ lâm vào cảnh cọp vào thế đất cùng , vào chỗ hãm địa , tất phải chịu thọ khốn thôi. Cả 4 cách sau này đều là Thuần Âm , tất Dƣơng suy , thƣơng tổn nam nhân , và hậu quả tất yếu , khi đàn ông bị diệt tuyệt rồi thì đàn bà chịu cảnh góa bụa thôi ***LẠM BÀN : Các cách 1-2-5-6 ta thấy nhƣ tƣơng sanh , nhƣng thực tế đó chỉ là giả sanh , các cung tƣơng phối tạo ra Hung Du Niên thì gọi là Giả Sanh vậy. Khi có trƣờng hợp Giả Sanh , ta phải hiểu : Sự hung hại ở đây đã có sự âm thầm đồng lõa , hoặc làm ngơ để thủ lợi , để rút rỉa công sức ngƣời khác. Cách Lục Sát của Càn Khảm => Sự toa rập vi phạm đạo lý. Cách Lục sát của Khôn Ly => Sự giả trá với hệ quả tƣơng hại của nó Ngoài ra , cách Khôn Ly còn biểu hiện sự điêu toa , đểu giả , vì Ly đã Giả Sanh Khôn , mà tạo ra Lục Sát , để rồi Sao Văn Khúc Thủy quay lại khống chế Ly Hỏa. Cho nên sự Hung Hại cứ chồng chéo mà triền miên cho đến tận diệt mới thôi , rất hung hiểm. Hơn nữa , Lục Sát Văn Khúc là Hung Du niên , cho nên Ly sinh Khôn mà cũng diệt Khôn vậy <= Ly Hỏa đốt làm khô đất Khôn Thổ vậy. Cho nên sự thuận tùng giửa đôi bên chỉ có ngoài mặt (Giả Sanh mà ), nhƣng bên trong thực ra chất chứa oán hờn , bực bội. Nhƣng Ly chẳng dám chống Khôn , vì Ly ở thế yếu , sự đối kháng nếu có chỉ là ngầm trong lòng mà thôi. Tốn Đoài cũng thuần Âm mà tƣơng khắc, đây là tƣợng " nhị nữ đồng cƣ" , tựa nhƣ 2 gái lấy 1 chồng vậy : Chị thì ỵ mình lớn khôn hơn , em thì cậy mình trẻ đẹp hơn. Do đây là cách tƣơng khắc , nên không còn là sự tranh đấu ngấm ngầm nữa. Bên nguýt qua , bên háy lại , lời qua tiếng lại là nhẹ , thậm chí còn chửi mắng nhau , đánh lộn Mặt khác , Khôn Ly kẻ nhỏ thiệt thòi thì cách này Tốn Đoài gái trẻ thắng thế Sao Lục Sát chẳng những hại ngƣời mà còn hại cho súc vật nuôi trong nhà. Rộng thêm , trong thời hiện đại này , xe cộ cũng tƣợng nhƣ súc vật ( ngƣời ta chẳng gọi nó là "ngựa sắt" là gì ). Nên nhà phạm Lục Sát dễ bị tai nạn giao thông , xe cộ mất mát hƣ hao , tứ chi thƣơng tật vậy. ( NCD - Nguyễn Kim Yến ). PHẦN BỔ XUNG CỦA DIENBATN.


I/ MỨC ĐỘ TỐT XẤU CỦA CỬU CUNG. 1/ THẤT VỊ : Khi hành của Sao và hành của Cung Hƣớng tƣơng khắc . Nếu Tinh khắc Cung thì Cung bị khắc nhập , bị xấu nhiều hơn. 2/ ĐẮC VỊ : Khi hành của Sao và hành của Cung Hƣớng tƣơng sanh . Tinh sanh cho Cung thì lợi ích lớn hơn Cung sinh cho Tinh. 3/ ĐĂNG DIỆN : Khi Tinh và Cung có cùng hành tỵ hòa , chẳng khác gì Vua đăng Đàn , rất tốt. 4/ NHẬP MIẾU : Là chốn miếu đƣờng , khi Sao đắc vị thì đăng diện ở ngăn cuối cùng nên gặp trực diện với Sơn chủ. Cát tinh đắc địa hay đăng diện mà gặp Sơn chủ , chẳng khác nào tôi trung gặp Chúa Thánh nhân từ. Hung tinh đắc vị nay lại nhập miếu chẳng khác nào Vua gặp loạn thần. a/ * Tham lang gặp các Sơn : Càn, Đoài, Cấn , Khôn là thất vị. * Tham lang gặp các Sơn : Khảm , Ly là đắc vị. Tham lang gặp các Sơn : Chấn , Tốn là đăng diện. b/ * Vũ khúc gặp các Sơn : Chấn, Tốn , Ly là Thất vị. ** Vũ khúc gặp các Sơn : Cấn, Khôn , Khảm là đắc vị. * Vũ khúc gặp các Sơn : Càn , Đoài, Tốn là Đăng diện. c/ * Cự môn gặp các Sơn : Chấn , Tốn , Khảm là Thất vị. * Cự môn gặp các Sơn : Càn , Đoài , Ly là đắc vị. * Cự môn gặp các Sơn : Cấn , Khôn là đăng diện. II/ LUẬN NGÔI NHÀ ĐỘNG TRẠCH . Một ngôi nhà tốt hay xấu có 3 chỗ chính yếu : CỬA CÁI - SƠN CHỦ - BẾP. Trong đó Sơn chủ là quan trọng nhất. * 3 cung chính yếu trên cùng phe Đông tứ cung hoặc Tây tứ cung là một ngôi nhà tốt . * 3 cung chính yếu ở tại 3 cung : Thủy - Mộc - Thổ là đƣợc cách rất quý. * Trong một ngôi nhà 6 chỗ đều cùng một cung ( Đông hoặc Tây tứ trạch ) là ngôi nhà đại cát , đại lợi. Nếu đƣợc Sao Chúa là cát tinh đắc vị hay Đăng diện nữa thì là ngội nhà đệ nhất, càng ở lâu càng thịnh cƣợng. * Nếu ngôi nhà mà cửa cái ở một phe tứ cung, 5 chỗ còn lại ở một phe tứ cung là ngôi nhà đại hung , đại bại. III/ BẾP. * Táo tòa : Là nơi đặt bếp. Táo tòa đặt tại 1 trong 8 cung Bát quái. * Táo khẩu : Miệng bếp tức là Hỏa môn theo hƣớng lƣng ngƣời đứng nấu. * Phƣơng ( Vị ) : Vị trí của bếp. * Hƣớng : Nơi bếp trông tới tức là hƣớng bếp theo hƣớng lƣng ngƣời đứng nấu. Đối với phái Dƣơng trạch tam yếu, muốn tính toán cát hung của bếp . khi đã phân cung điểm hƣớng cho bếp , phải an du niên. Dùng phép biến cung , từ cung của CỬA CÁI đến cung BẾP thừa Du niên nào thì ghi Du niên đó vào bếp. Từ cung của SƠN CHỦ biến đến cung BẾP. Cung của CỬA CÁI, SƠN CHỦ và BẾP cùng phe ( Đông trù hoặc Tây trù , tức là bếp hợp với nhà sẽ đem lại thịnh vƣợng. Nếu Đông - Tây hỗn loạn sẽ đem lại suy bại. VỊ TRÍ đặt BẾP liên quan tới CỬA , SƠN CHỦ hoặc PHÕNG CHỦ ( Hỗ biến ) . * Hỏa môn phải cùng phe với mạng chủ mới không tác hại đến chủ nhà. * Nếu cung vợ chồng trạch chủ nghịch nhau , có thể đặt hƣớng Hỏa môn thuận với cung mạng của vợ. * Cửa cái cùng phe với hƣớng bếp và cửa bếp. * Nếu nhà Đông - Tây hỗn loạn ( Cửa cái và Sơn chủ khác phe nhau ) , phải đặt vị trí bếp cùng phe với cửa cái mới mong đủ ăn , đủ mặc. * Nếu Bếp và mạng chủ nghịch phe với cung cửa thì gia cảnh ngày càng suy khốn , thê lƣơng. * Nếu cung mạng chủ cùng phe với bếp nhƣng đối nghịch với nhà thì gia cảnh ban đầu còn khá , sau cùng vẫn mạt. * Nếu nhà và cung mạng chủ cùng phe, bếp khác phe thì nếu phấn đấu xoay sở vẫn đủ mƣu sinh.


PHONG THỦY LUẬN . BÀI 25. PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 5 : THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH ỨNG DỤNG TRONG PHONG THỦY.

Lời giới thiệu của dienbatn : Ngày xƣa các cụ có câu nói : Thày Địa lý phải : Trên thông Thiên văn, dƣới tƣờng Địa lý, giữa thông muôn loài. Khi làm Địa lý - Phong thủy mà quên đi phần Thiên văn - Chiêm tinh thì chúng ta đã bỏ đi hết 1/ 3 việc phải làm rồi. Trong Tam tài : THIÊN - ĐỊA NHÂN thì Thiên đứng đầu và phản ánh những quy luật vận động của các Thiên hà bao quanh chúng ta. Chiêm tinh thuật: Tinh chiêm thuật là học thuyết và phƣơng pháp dùng việc quan sát tƣợng sao mà dự đoán sự thay đổi của tự nhiên, quốc sự và nhân sự. Phổ biến trong lịch sử các nƣớc. dienbatn xin giới thiệu một số tài liệu về Thiên văn và Chiêm tinh thƣờng đƣợc các Phong thủy sƣ sử dụng.Phần tài liệu về Thiên văn và Chiêm tinh này là những kiến thức rất cần thiết cho việc nghiên cứu các phần sau, đặc biệt là phần 36 tầng của La Kinh - Xin các bạn chớ bỏ qua. Thân ái. dienbatn. 1/ TÀI LIỆU VỀ CHIÊM TINH CỔ.


Chiêm tinh thuật : Tinh chiêm thuật là học thuyết và phƣơng pháp dùng việc quan sát tƣợng sao mà dự đoán sự thay đổi của tự nhiên, quốc sự và nhân sự. Phổ biến trong lịch sử các nƣớc. Ở Trung Quốc có từ trƣớc đời Thƣơng. Theo sử liệu, Vu Hàm là nhà chiêm tinh sớm nhất đời Thƣơng, cùng với Cam Đức, Thạch Thân thời Chiến Quốc là ba nhà chiêm tinh lớn. Học thuyết và phƣơng pháp chiêm tinh trong lịch sử từng trải qua nhiều thay đổi. Từ tên gọi Tinh quan, tinh số, phƣơng vị, đến cách quan sát sao thƣờng có sự khác nhau. Nhƣng về cơ bản đều thông qua sự phân dã, độ sáng mạnh yếu của sao, khả năng nhìn thấy hay không nhìn thấy, sự dao động của ánh sáng sao, sự biến đổi vị trí và sự vận hành ngũ tinh theo ngày, tháng mà chiêm đoán. Trƣớc tác sớm nhất về Tinh quan và phép chiêm tinh còn giữ đƣợc đến nay, là Sử ký. Thiên quan thƣ của Tƣ Mã Thiên. Các trƣớc tác khác, ngoài những điều có trong các loại Thiên văn chí, có Ất Tỳ chiêm của Lý Thuần Phong đời Đƣờng, Linh đài bí phạm của Vƣơng An Lễ thời Bắc Tống và Quan tƣợng ngọan chiêm đời Minh. Nội dung chứa đựng nhiều tƣ liệu thiên văn học cổ đại. Thiên chiêm : Thuật số nghiên cứu cát hung của quốc sự, nhân sự qua hiện tƣợng dị thƣờng của bầu trời sao. Bầu trời trong mà sáng là bình thƣờng, đổi màu sắc là dị thƣờng, là do ngũ hành âm dƣơng


không hòa hợp, là hung, đất nƣớc sẽ rối loạn. Bầu trời dị thƣờng bao gồm Thiên liệt (trời rạn nứt N.D), Thiên liệt kiến nhân (trời rạn nứt thấy ngƣời N.D). Thiên khai kiến quang (trời mở ra thấy ánh sáng N.D). Thiên mệnh hữu thanh (trời kêu có tiếng ( N.D) v. v... Tùy thƣ. Thiên văn chí dẫn sách Hồng phạm. Ngũ hành truyện : "Thiên liệt ( trời rạn nứt) là dƣơng không đủ là thần (bầy tôi) mạnh, cấp dƣới hại cấp trên, quốc hậu phân liệt, kẻ dƣới làm chủ. Thiên khai kiến quang thì máu chảy tràn lan. Thiên liệt kiến nhân thì binh khởi mất nƣớc. Thiên minh hữu thanh thì bậc chí tôn kinh sợ; đều là hiện tƣợng đất nƣớc rối lọan. Đồng thời đƣa ra những ví dụ chiêm nghiệm, nhƣ năm Thái An thứ 2 đời Hán Huệ Đế, trời có hiện tƣợng rạn nứt. Năm Thăng Bình thứ 5 đời Mục Đế, trời lại rạn nứt phát ra tiếng vang nhƣ sấm, sau đó đều xảy ra binh biến. Tinh tƣợng: Cách gọi chung vị trí của các ngôi sao và sự thay đổi vận hành của chúng. Trung Quốc thời cổ cho rằng tƣợng sao trên trời gắn liến với nhân sự dƣới trái đất. Sao ở các khu vực khác nhau trên trời đai diện cho các khu vục khác nhau dƣới đất; tƣợng sao thay đổi chứng tỏ nhân sự sẽ thay đổi. Từ đó xuất hiện thuật chiêm tinh, Tinh mệnh học và Tinh tƣớng học. Quan tƣợng thụ thời: Thông qua quan sát sự biến đổi của tƣợng sao mà phán đoán thời tiết 4 mùa trong năm. Ở Trung Quốc, nội dung chủ yếu của việc quan sát tƣợng sao sớm nhất là vào thời kỳ tiền lịch pháp. Tƣơng truyền thời thƣợng cổ có quan "Hỏa chính", lấy sự mọc hay lặn của sao Hỏa làm mốc định thời tiết. Hạ tiều chính có chép kinh nghiệm quan sát sao trời mỗi tháng để xác định thời tiết. Thứ dân duy tinh: Quan niệm tƣợng sao thời thƣợng cổ ở Trung Quốc. Mỗi ngôi sao đại diện cho một ngƣời dân, sao trên trời có ảnh hƣởng và chứng tỏ sự thay đổi nhân sự Thuật chiêm tinh dùng Tinh quan thuyết minh tƣợng trời, dùng phân dã chỉ rõ các châu quận dƣới đất mà Tinh quan đại diện, là dựa trên quan niệm này. Trong tƣ tƣởng chiêm tinh cổ đại, ngƣời ta còn cho rằng nỗ lực của nhân gian có thể gây ảnh hƣởng tới sự thay đối tƣợng sao, nhƣ vua chúa thất đức thì sẽ có nhật thực, nếu có đức độ cao thì có thể làm cho nhật thực sắp xảy ra sẽ không xảy ra nữa. Phân dã : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn. Chỉ sự phân phối tƣợng sao tƣơng ứng với khu vực dƣới mặt đất. Thuật chiêm tinh Trung Quốc cổ đại cho rằng tƣợng sao gắn liền với nhân sự, cho nên dùng tƣợng sao làm đại diện hoặc tƣợng trƣng cho các khu vực khác nhau dƣới mặt đất. Cho rằng một sự biên đổi đặc định nào đó của tƣợng sao sẽ có ảnh hƣởng và chi ra sƣ thay đổi về tự nhiên, quốc sự ở khu vực tƣơng ứng dƣới đất. Chu Lễ viết rằng họ Bảo Chƣơng cai quản sao trời, dung Tinh thổ (đất sao) phân biệt 9 châu. Mỗi châu dƣới đất đều có sao chủ ở trên trời, quan sát sao chủ ấy, sẽ có thể dự đoán cát hung ở mỗi châu. Phân dã chính thức hình thành vào thời Xuân thu Chiến quốc. Cách phân phối có đôi chỗ khác nhau. Chu Lễ. Xuân quan. Bảo Chƣơng thị Trịnh chú viết rằng việc phân chia 9 châu diễn ra 12 lần, Thiên quan thƣ sắp xếp 28 tinh tú, Xuân thu vĩ sắp xếp 7 sao Bắc đẩu, Lã thị xuân thu thì sắp xếp Cửu thiên. Sự sắp xếp của đời sau phối hợp các cách đó. Sử ký. Thiên quan thƣ của Tƣ Mã Thiên nói về sự phân dã 28 tinh tú : "Giốc, Cáng, Đê, ở Doãn châu; Phòng, Tâm, ở Dự châu; Vĩ, Cơ, ở U châu; Đẩu, Giang, ở Hồ châu; Khiên Ngƣu, Vụ Nữ, ở Dƣơng châu, Hƣ, Nguy, ở Thanh châu; Doanh, Thất, Bích, ở Tịnh châu; Khuê, Lâu, Vị, ở Từ châu; Ngang, Tất, ở Dực châu; Tƣ Huề, Chẩn, ở ích châu; Tỉnh, Qủy, ở Ung châu; Liễu, Thất tinh, Trƣơng, ở châu Tam Hà; Dực, Chẩn, ở Kình châu. Tinh quan : Còn gọi là Thiên quan, Tinh cung. Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, dùng để biểu thị sự sắp xếp tƣợng sao. Để hiểu và quan sát tƣợng trời, cổ nhân lấy một số hằng tinh xếp vào một chòm sao, đặt tên cho nó theo kiểu tổ chức xã hội dƣới trần gian, dùng quan hệ nhân gian nói về cách sắp xếp đó và mối liên hệ vị trí giữa chúng. Mỗi chòm sao gọi là một Tinh quan. Sử ký. Thiên quan thƣ viết : "Quan, tức Tinh quan. Các chòm sao có tôn ti, nhƣ thứ bậc quan lại của nhân gian. nên gọi là Thiên quan". Tinh quan trên trời đại diện cho sự sắp xếp khu vực nhân gian, sự biến đổi vận hành của nó cho biết, cát hung dƣới nhân gian. Sử ký. Thiên quan thƣ gọi Tinh quan là Thiên quan, là bộ sách sớm nhất của Trung Quốc nói về Tinh quan. Sách này nói có 91 Tinh quan, bao gồm hơn 500 hằng tinh, đồng thời nói về cách quan sát Tinh quan. Các phái thời cổ đặt tên cho các Tinh quan không giống nhau. Trần Trác thời tam Quốc gộp 3 nhà Tinh quan Vu Hàm, Cam Đức, Thạch Thân thành một hệ thống Tinh quan gồm 238 quan với 1464 ngôi sao, mà đời sau cứ theo đó sử dụng.


Thiên quan : Sử ký của Tƣ Mã Thiên gọi Tinh quan là Thiên quan, soạn chƣơng Thiên quan thƣ. Xem mục Tinh quan. Tinh cung : 1) Tức Tinh quan. 2) Thuật ngữ phân chia khu vực tƣợng sao. "Cung" đại diện cho một phạm vi khu vực tinh tú nhất định. Thời cổ Trung Quốc thƣờng chia tƣợng sao thành 5 cung, tức Trung cung và 4 cung đông, nam, tây, bắc. Về sau có phƣơng pháp chia thêm các cung bên ngoài để biểu thị khu vực tinh tú nhất định. Tinh biếu : Chỉ cách thể hiện hoặc ghi chép tên gọi, phƣơng vị, cấp sao và qũy đạo vận hành của tƣợng sao hữu quan. Tinh biểu bắt đầu có từ thời Chiến Quốc, thƣờng dùng để quan sát sao và xác định thời tiết bốn mùa. Cam Thạch tinh kinh là nguồn gốc sớm nhất của Tinh biểu Trung Quốc. Tinh đồ : Còn gọi là Thiên văn đồ, Thiên tƣợng đồ. Đồ hình tạo nên nhờ dùng mặt cầu của hằng tinh nhìn vị trí hình chiếu trên mặt phẳng. Thời cổ ngƣời ta dùng các vật liệu nhƣ bông, vải, đá và kính bằng đồng mà họa chế một số lớn Tinh đồ, thể hiện trực quan mối liên hệ vị trí các Tinh quan (chòm sao), có những đồ hình biểu thị sƣ phân dã (phân bố) các Tinh quan (nhƣ Thiên văn đồ khắc đá đời Thuần Hựu nhà Tống ở Tô Châu, Giang Tô). Linh tiên đồ của Trƣơng Hòanh là Tinh đồ sớm nhất của Trung Quốc đáng tin cậy, đã thất truyền. Hiện còn giữ đƣợc Tinh đồ cổ nhất trên thế giới là "Đôn Hoàng tinh đồ" đƣợc họa chế bằng bông vào năm 940 trƣớc Công nguyên. Phân dã đồ : Biểu đồ các Tinh quan trên trời tƣơng ứng với châu quận dƣới mặt đất. Khởi đầu và hƣng thịnh vào đời Hán, la phƣơng tiện dùng để chiêm nghiệm. Tứ tƣợng: 1) Thuật ngữ chiêm tinh thiên văn cổ đại, dùng để phân chia khu vực tƣợng sao. Thời cổ ngƣời ta thƣờng phân chia tƣợng sao thành 4 khu vực lớn là đông, tây nam bắc, hoặc phải, trái, trƣớc, sau, gọi là Tứ duy, Tứ lục hoặc Tứ phƣơng; cũng có khi thêm khu thứ 5 là Trung cung (nhƣ Thiên quan thƣ). Đa số các khu vực tƣợng sao đƣợc gọi bằng tên động vật, nên còn gọi là Tứ tƣợng, Tứ thú hoặc Tứ cầm. Đời ân , ngƣời ta gọi tƣợng sao nhìn thấy vào lúc sẩm tối mùa xuân ở phƣơng nam là Điểu (chim), ở phƣơng đông là Long (rồng), ở phƣơng tây là Hổ, ở phƣơng bắc là Qui Xà. Sau thời Xuân thu Chiến quốc, thì gọi Thanh Long (Thƣơng Long) phƣơng đông, Chu Điểu, (Chu Tƣớc) phƣơng nam, Bạch Hổ phƣơng tây. Huyền Vũ (Hàm Trì) phƣơng bắc là Tử thú, Tứ cầm hoặc Tứ tƣợng. Dƣới mỗi một trong Tứ tƣợng có 7 sao, cộng là 28 sao. Đời sau ghi Tứ tƣợng gồm 28 sao là : Thanh Long gồm 7 sao Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki; Huyền Vũ gồm 7 sao Đẩu, Ngƣu, Nữ, Hƣ, Nguy, Thất, Bích; Bạch Hổ gồm 7 sao Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Tƣ, Sâm; Chu Tƣớc gồm 7 sao Tinh, Qủy, Liễu, Trƣơng, Dực, Chẩn. Các nhà Tinh tƣớng học chia Tứ tƣợng thành 28 tiểu tƣợng, ghép với 12 canh giờ và 12 sinh tiêu làm cơ sở đoản mệnh. Ngũ tƣợng thì thêm 1 tƣợng là Hoàng Long hoặc Kỳ Lân, thành Ngũ thú. 2) Danh từ Tƣớng số học "Dịch truyện". Xem mục Tú tƣợng ở chƣơng Dịch. Tứ duy, Tứ Lục, Tứ Thú Xem mục Tứ tƣợng. Ngũ cung còn gọi là Ngũ quan. Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, dùng để phân chia khu vực tƣợng sao. Cổ nhân định rằng bầu trời sao ở gần Bắc cực là Trung cung, đem toàn bộ tƣợng sao chia thành 5 khu vực lớn. Thiên quan thu dùng quan hệ cai quản của Ngũ đế mà thuyết minh phạm vi phân chia 5 khu vực lớn, gọi là Ngũ cung hoặc Ngũ quan. Tức Trung cung, Đông cung, Tây cung, Nam cung, bắc cung. Trung cung ở giữa là sao Thiên cực (tức Đế tinh), nơi cƣ trú của Thiên thần đại đế chí tôn (Thái Nhất), còn 4 cung kia là của đế, Xích đế, Bạch đế và Hắc đế; đồng thời dùng tên 4 con thú để gọi : Đông cung Long, Nam cung Chu Tƣớc (Chu Điểu ), Tây cung Hàm Trì (sau gọi là Bạch Hổ), Bắc cung Huyền Vũ. Hết thảy Tinh quan dƣới Ngũ cung hợp thành toàn bộ thế giới các hung tinh trong con mắt cổ nhân. Các Tinh quan gần Bắc cực do Trung cung cai quản, 28 sao, chia ra 4 cung đông, tây, nam, bắc. Ngũ quan : Tức Ngũ cung. Sử ký. Thiên quan thƣ viết rằng có 5 cung. Ngũ cung vốn là Ngũ quan, về sau thƣờng gọi là Ngũ cung.


Cửu thiên : Còn gọi là Cửu dã. Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn dùng để phân chia khu vực tƣợng sao. Lã thi Xuân thu. Hữu thủy giác chia bầu trời sao thành 9 khu vực hoặc phƣơng vị, tức Cửu thiên. Đó là Quân thiên ở giữa có các sao Giốc, Cang, Đê; Thƣơng thiên phƣơng đông có các sao Phòng, Tâm, Vĩ; Biến thiên phƣơng đông bắc có các sao Ki, Đẩu, Ngƣu; Huyền thiên phƣơng bắc có các sao Nữ, Hƣ, Nguy, Thất; U thiên phƣơng tây bắc có các sao Bích, Khuê, Lâu; Hạo thiên phƣơng tây có các sao Vị, Ngang, Tất; Chu thiên phƣơng tây nam có các sao Từ, Sâm, Tỉnh; Viêm thiên phƣơng nam có các sao Qủy, Liễu, Thất tinh; Dƣơng thiên phƣơng đông nam có các sao Trƣơng, Dực, Chẩn . Sách trên còn chia mặt đất thanh 9 khu vực, gọi là Cửu châu: Dự châu, Chu; Dực châu, Tấn; Dõan châu, Vệ; Thanh châu, Tề; Tƣ châu; Lỗ, Dƣơng châu, Triệu; Kinh châu, Sở; Ung châu. Tần; U châu, Yên. Cửu

:

Xem

mục

Cửu

thiên

Tam viên: Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, dùng để phân chia khu vực tƣợng sao. Đƣợc sang lập vào khoảng thời Chiến Quốc hoặc sau đó. Bắt đầu gặp trong sách Bộ thiên ca của Đan Nguyên Từ đời Tùy. Chia tƣợng sao thành 81 khu vực lớn, trong đó trừ 28 sao, 3 khu vực kia là Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị. Mỗi một trong 3 khu vực này đều có các chòm sao vây quanh hai phía đông, tây. Nên gọi là Tam viên. Tử Vi viên là Trung viên, Thái Vi viên là Thƣợng viên. Thiên Thị viên là Hạ viên. Mỗi viên gồm một số Tinh quan (chòm sao). Nhị thập bát tú : Còn gọi là Nhị thập bát xá hoặc Nhị thập bát tinh. 28 tinh tú ở gần Hoàng đạo và Xích đạo. Thời cổ dùng làm tiêu chí tham chiếu, quan sát tƣợng trời và sự vận hành của mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh. Gặp đầu tiên trong Chu lễ : "Vị trí của 28 sao". Đến thời Sử ký đã hoàn bị. Xuất hiện trƣớc thời Chiến Quốc. Thoạt tiên đƣợc xếp vào bốn khu vực lớn đông, tây, nam, bắc hoặc Tứ tƣợng. Mỗi khu vực có 7 sao. Lấy sao Giốc mà cán sao Bắc đầu chỉ làm khởi điểm, sắp xếp từ tây sang đông. 7 sao phƣơng đông là : Giốc, Cang, Đê Phòng, Tâm, Vĩ, Ki; 7 sao phƣơng bắc là : Đẩu, Ngƣu, Nữ, Hƣ, Nguy, Thất, Bích; 7 sao phƣơng tây là : Khuê, lâu, Vị, Ngang, Tát, Tƣ, Sâm; 7 sao phƣơng nam là: Tỉnh, Qủy, Liễu Tinh, Trƣơng, Dực, Chẩn . Sau đời Tùy, 28 sao phối hợp vơi Tam viên chia bầu trời thành 31 khu vực làm tiêu chuẩn cho việc phân chia khu vực tƣợng sao của Trung Quốc. Trong phép chiêm tinh mỗi sao trong 28 sao có tƣợng riêng của nó, làm sự phân dã cho các khu vực dƣới mặt đất. Thiên quan thƣ dẫn Tinh kinh viết : "Giốc, Cang là phân dã của Trịnh, Doãn châu; Đê, Phòng. Tâm là phân dã của Tống, Dự châu; Vĩ, Ki là phân dã của Yên, U châu, Nam Đẩu, Khiên Ngƣu, là phân dã của Ngô, Việt, Dƣơng châu; Nữ, Hƣ là phân dã của Tề, Thanh châu. Nguy. Thớt. Bích. là phân dã của Vệ, Tịnh châu; Khuê, Lâu, là phân dã của Lỗ, Từ châu; Vị, Ngang, là phân dã của Triệu, Dực châu; Tất, Tƣ, Sâm, là phân dã của Ngụy, ích châu; Tỉnh, Qủy, là phân dã của Tần, Ung châu; Liễu, Tinh, Trƣơng, là phân dã của Chu, Tam Hà; Dực, Chấn là phân dã của Sở, Kinh châu". Tham chiếu phƣơng vị 28 sao, có thể quan sát và thuyết minh sự biến đổi vận hành của ngày, tháng, ngũ tinh. Nên có câu "Thất chính nhị thập bát tú". Sử ký. Luật thƣ viết : "Xá, địa chỉ vậy; tú, là nhƣ vậy; thất chính nhị thập bát tú là nói sự vận hành của nhật nguyệt ngũ tinh; hoặc địa chỉ phân ra 28 lần vậy". Dùng quan hệ vị trí vận hành của mặt trăng, mặt trời và ngũ tinh tại 28 sao mà dự đoán nhân sự, đó là một trong những phƣơng pháp chính của thuật chiêm tinh. Nhị

thập

bát

xa

:

Tức

Nhị

thập

bát

tú.

Thất chính : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, gặp đầu tiên trong Thƣ. Nghiêu điển: "Thi, Cơ. Ngọc Hoành, dĩ Tề thất chính". Giải thích khác nhau. 1) Mặt trăng mặt trời, cùng Ngũ tinh (5 sao) Hỏa, Thổ, Thủy, Mộc, Kim. Sử ký. Luật thƣ viết : "Thất chính là Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh. (Quan sát) 7 cái đó có thể biết thiên thời". Quan sát sự vận động của Mặt trăng, mặt trời, Ngũ tinh cùng vị trí tƣơng đối của chúng so với các hằng tinh, cổ nhân phán đoán thời tiết và chiêm nghiệm cát hung. 2) Chỉ 7 ngôi trong chòm sao Bắc đẩu, chu Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh. Thiên quan thƣ dẫn Thƣợng thƣ của Mã Dung : "Thất chính, mỗi sao trong chòm bắc đẩu chủ một thứ, ngôi thứ nhất là Chính Nhật, ngôi thứ hai chủ Nguyệt pháp, ngôi thứ,ba là Mệnh Hỏa, Huỳnh Hoặc cũng là nó; ngôi thứ tƣ là Sát Thổ, Điền Tinh cũng là nó; ngôi thứ năm là Phạt Thủy, Thần Tinh cũng là nó; ngôi thứ sáu là Nguy Mộc, Tuế Tinh cũng là nó; ngôi thứ bảy là Phiêu Kim, Thái bạch cũng là nó vậy. Nhật, nguyệt, Ngũ tinh mỗi thứ khác nhau, nên gọi là Thất chính vậy". 3) Bảy ngôi sao chòm Bắc đẩu : Thiên Khu, Thi, Cơ, Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dƣơng, Dao Quang.


Thiên quan thu: "Bảy ngôi sao chòm Bắc đầu : Thiên Khu, Thi, Cơ, Ngọc Hoành... là Thất chính". 4) Chỉ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và thiên văn, địa lý, nhân đạo. Thất diệu : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn. Chỉ Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngu tinh (Mộc Kim Hỏa Thủy Thổ). Thiên quan thƣ dẫn Trƣơng Hoành viết: "Văn diệu ở trên trời, có 7 ngôi sao chuyển động, la Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh vậy". Cốc Lƣơng truyện tự của Phạm Ninh viết: "Thất diệu vị chi dựng thúc". Xuân thu. Cốc Lƣơng truyện sớ của Dƣơng Sĩ Huân viết: "Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh đều chiếu rọi thiên hạ, nên gọi là Thất diệu (bảy ngôi sao)". Ngũ thú ngũ đế : Tên khu vực sao, Ngũ thú : Thanh Long ( long) phƣơng đông, Chu Điểu (Chu Tƣớc) phƣơng nam, Hoàng Long (Kỳ Lân) ở giữa; Bạch Hổ phƣơng tây, Huyền Vũ (Phi Xà) phƣơng bắc. Cổ nhân sau khi chia ra Tứ thú, lại thêm một khu vực nữa, là Kỳ Lân hoặc Hoàng Long, thành Ngũ thú. (Gặp đầu tiên trong Nguyệt lệnh của Thái Ung). Thêm Hoàng Long gặp nhiều hơn, sớm nhất thấy trong Thạch thị tinh kinh, Linh tiên và kinh Châu chiêm. Thiên quan thƣ thì thêm Hoàng Long ở cạnh Nam cung. Ngũ đế là thiên thản cố đại, chủ của Ngũ thú. Ngũ đế là : Thanh đế phƣơng đông Linh Uy Ngƣỡng, Xích đế phƣơng nam Phiêu Nộ, Hoàng đế trung ƣơng nắm then chốt. Bạch đế phƣơng tây Thiệu Cừ, Hắc đế phƣơng bắc Diệp Quang Kỵ. Tinh của Ngũ đế là Ngũ thú. Vì Ngũ đế có tác dụng chi phối thần linh, nên cổ nhân dùng để biểu thị quan hệ cai quản các ngôi sao, đồng thời dùng tƣợng của Ngũ đế thuyết minh phạm vi chiêm nghiệm các Tinh quan (chòm sao). Thanh Long : Còn gọi là Long, Thƣơng Long. 1) Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tƣợng. Tên gọi khu vực sao phƣơng đông hoặc Đông cung. 7 ngôi sao phƣơng này là Giốc, Cang, Dê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki, hợp thành tƣợng Long (con rồng). Thiên quan thƣ viết, rằng tinh của Đông cung Thanh đế là Long, nên Đông cung gọi là Thƣơng Long, cũng là thiên thần phƣơng đông. 2) Chỉ Thái Tuế. Hậu Hán thƣ. Luật lịch chí: "Thanh Long di thần, gọi là Tuế". Long: Tức Thanh Long. Chu Điểu : Còn gọi là Điểu, Chu Tƣớc. Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tƣợng. Tên gọi khu vực sao phƣơng nam hoặc Nam cung. 7 ngôi sao phƣơng này là Tỉnh, Quỵ, Liễu, Tinh, Trƣơng, Dực, Chẩn, họp thành tƣợng Điểu (con chim). Thiên quan thƣ gọi là Xích đế Nam cung, tinh của nó là Chu Điểu, "nên Nam cung là Chu Điểu, cũng là thiên thần phƣơng nam". Chu

Tƣớc

:

Tức

Chu

Điểu

Bạch Hổ : l) Còn gọi là Hổ hoặc Hàm Trì. Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tƣợng. Tên gọi khu vực sao phƣơng tây hoặc Tây cung. 7 ngôi sao phƣơng này là Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Tƣ, Sâm, hợp thành tƣợng Hổ (con hổ). Thiên quan thƣ gọi la Bạch đế Tây cung, vì tinh của nó là hổ trắng, nên lấy cung là Bạch Hổ, cũng là "Thiên thần phƣơng tây". 2) Còn gọi là sao Bạch Hổ, Đoài tinh, một hung thần. Huyền Vũ : Còn gọi là Quy Xà. Là tƣợng con rùa và con rắn quấn nhau. Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tƣợng. Tên gọi khu vực sao phƣơng bắc hoặc Bắc cung. 7 ngôi sao phƣơng này là Đẩu, Ngƣu, Nữ, Hƣ, Nguy, Thất, Bích, Thiên quan thƣ gọi là Hắc đế Bắc cung, tinh của nó là Huyền Vũ, (nên Bắc cung là Huyền Vũ, cũng là thiên thần phƣơng bắc". Đại đế : Còn gọi là Thiên đế. 1) Chỉ thiên thần chí tôn. Xem mục Thái Nhất. nghĩa thứ hai. Tên Tinh quan. Chỉ Đế tinh. Ngôi sao sáng nhất ở Bắc cực. Thiên quan thƣ viết rằng đó là Cực tinh, còn gọi là sao Thiên Cực. 3) Tên gọi khu vực sao ở Trung cung Thiên quan thƣ dẫn Văn diệu câu viết : "Trung cung Đại đế, tinh của nó là Bắc cực". Thƣợng đế : Còn gọi là Thanh đế. Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phƣơng đông. Là thần Linh Uy Ngƣu phƣơng đông, tinh của nó là Thƣơng Long. Xích đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phƣơng nam. Là thần Xích Phiêu Nộ phƣơng nam, tinh của nó là Chu Điểu.


Bạch đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phƣơng tây. Là thần Bạch Thiệu Cử phƣơng tây, tinh của nó là Bạch Hổ. Hắc đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phƣơng bắc. Là thần Diệp Quang Kỵ phƣơng Bắc, tinh của nó là Huyền Vũ. Trung cung : 1) Còn gọi là Trung quan. Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Cổ nhân coi bầu trời gần Bắc cực là Trung cung, xung quanh nó có 4 cung đông, tây, nam, bắc. Thiên quan thƣ viết rằng Trung cung ở giữa là sao Thiên Cực, còn gọi là sao Bắc cực, là ngôi sao mà Thiên thần Đại đế chỉ tôn (Thái Nhất) thƣờng cƣ. Chủ thiên thần Thiên Nhất của 16 thần và Nữ chúa âm Đức. Cạnh đó có Tam Công, Chính Phi, Hậu Cung; xung quanh có Phàn Thần tức 12 sao Tử cung. Bên trái là Thiên Thƣơng, bên phải là Thiên Bàng, phía sau là Các Đạo; ngoài ra có 7 sao Bắc đẩu, các chòm sao Tam Đài, Phụ, Triệu Dao, Thiên Phong Quán Sách, tổng cộng 78 sao. Ngoài ra thời cổ ngƣời ta còn có nhiều cách phân chia khu vực sao khác, phần lớn đều có Trung cung. Chăng hạn có cách phân chia ra 6 khu vực gồm Trung cung, Ngoại cung, và Tứ thú: có khi chỉ đơn giản chia ra Trung cung và Ngoại cung. Trong các cách phân chia khác nhau, vị trí của Trung cung cũng khác nhau. Ngoài việc định vị trí của Trung cung ở gần Bắc cực, còn có khi xác định nó ở phía bắc 28 sao, hoặc coi chòm sao Bắc đẩu có 7 ngôi làm Trung cung . 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung. Đông cung : Còn gọi là "đông quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Khu vực sao ở phía đông Trung cung. Tƣợng sao ở đây giống nhƣ con rồng, nên gọi là Long, Thƣơng Long hoặc Thanh Long. Một thuyết nói là nên ở của Thƣợng đế. Gồm 7 sao : Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki. Thiên quan thƣ viết rằng ở chính giữa Đông cung có hai sao chính của phƣơng đông là sao Tâm và sao Phòng. Sao Tâm là Minh đƣờng, là cung mà sao lớn Thiên Vƣơng bố chính. Sao Phòng là Thiên phủ. Sao Dại Giốc là chỗ ngồi của Thiên Vƣơng. Hai bên sao Đại Giốc có 3 sao thay quyền. Ngoài ra có 12 sao nhƣ Tham, Khâm, Hạt, Kỳ, 27 sao Kỳ Quan, 2 sao Nam Môn ..., cộng là 94 sao. 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung. Nam cung : Còn gọi là "Nam quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Khu vực sao ở phía nam Trung cung. Tƣợng sao ở đây giống nhƣ con chim, nên gọi là Điểu, Chu điểu (chìm đỏ) hoặc Chu Tƣớc (chim sẻ đỏ). Có thuyết bảo của Xích đế. Gồm 7 sao : Tỉnh, Quỵ, Liễu, Tinh, Trƣơng, Dực, Chẩn. Thiên quan thƣ viết ở giữa Nam cung là sẽ là sao Quyền, sao Hoành, sao chính của phƣơng nam. Sao Quyền là chỗ ngồi của ngũ đế, là tƣợng nữ chúa. Hoành là Nam cung của Thiên Giốc, nên Tam Quan vào triều đình; ở giữa là chỗ ngồi của Ngũ đế. Xung quanh có 12 sao phiên thần; ngoài ra có các sao nhƣ Lang Vị, Tƣớng Vị, Bắc Hà, Nam Hà, Quan Lƣơng, Chất, Thiên Khố Lâu v. v.., tổng cộng 135 sao. 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung. Tây cung : Còn gọi là "Tây quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Khu vực sao ở phía tây Trung cung. Tƣợng sao ở đây giống nhƣ con hổ, nên gọi là Hổ hoặc Bạch Hổ (Hổ trắng). Thiên quan thƣ lấy chính vị đại biểu cho vị trí của Ngũ cung, nên gọi là Hàm Trì. Có thuyết bảo là nơi ở của Bạch đế. Gồm 7 sao : Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Sâm, Tƣ. Hàm Trì là "xa giá của Ngũ đế. Sử ký viết : "Xa giá của Ngũ đế chở ngũ cốc đi bán" , nên Tinh quan Tây cung có tƣợng kho lẫm, kho nhà trời . Ngoài ra còn có các chòm sao nhƣ Ngũ Diễn, Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Xí, Thiên Kỳ, Thiên Uyển, Cửu Du, Lang, Hồ, Nam Cực lão nhân..., tổng cộng 117 sao. 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung. Bắc cung : Còn gọi là "Bắc quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Khu vực sao ở phía bắc Trung cung. Tƣợng sao ở đây giống nhƣ con rùa con rắn quấn nhau, nên có tên là Quy Xà. Thƣờng gọi là Huyền Vũ. Có thuyết bảo là nơi ở của Hắc đế. Gồm 7 sao: Hƣ, Nguy, Thất, Bích, Đẩu, Ngƣu, Nữ. Hƣ, Nguy ở chính giữa, là sao chính của phƣơng bắc. Phía nam sao Hƣ có 45 sao, nhƣ Vũ Lâm, Thiên Khố; phía tây bắc có sao Lũy. Phía tây sao Nguy có hai sao Ty Mệnh, Ty Lộc. Ngoài ra có các sao nhƣ Doanh Thất, Thiên Thất, Vƣơng Lang, Sách, Thiên Hoàng, Giang, Bào Qua, Kiến, Hà Cổ, Chức Nữ v.v., tổng cộng 134 sao.


2)

Thuật

ngữ

Tinh

mệnh

học.

Một

trong

Cửu

cung.

Xem

mục

Cửu

cung

Ngoại cung : Còn gọi là Ngoại quan. 1) Tên khu vực sao, tƣợng sao ở bên ngoài một khu vực sao nhất định (nhƣ Trung cung chẳng hạn). Trong các cách phân chia khu vực sao khác nhau, vị trí của Trung cung không giống nhau. Tấu thƣ. Thiên văn chí chia ra Trung cung và Ngoại cung, còn lại là 28 sao. Ngoại cung là tƣợng sao ở phía nam Xích đạo Tùy thƣ. Thiên văn chí chia ra 6 khu vực lớn, gồm Trung cung, Tứ thú và Ngoại cung, trong đó Ngoại cung là chỉ tƣợng sao ở phía nam 28 sao. Còn có cách chia ra 7 khu vực lớn, gồm Ngũ thú, Trung cung, Ngoại cung và 11 khu vực gồm Cửu dã, Trung cung va Ngoại cung. Tử Vi : Còn gọi là Tử Vi Viên, Tử Viên, Tử Cung Viên, Tử Vi Cung, Tử Cung. 1) Tên khu vực sao. Trung viên trong Tam Viên. Nằm ở vị trí giữa bầu trời phƣơng bắc, nên còn gọi là Trung cung. Do 8 chòm sao hàng rào phía đông (Tả Viên) và 7 chòm sao hàng rào phía tây (Hữu Viên) vây quanh hợp thành. Tƣợng trƣng Hoàng cung trên trời. Sao Bắc cực nằm ở giữa, các sao khác vây quanh hƣớng vào. Hai hàng rào 15 sao là Cung vệ phiên thần. Nằm giữa hai sao Tả Khu và Hữu Khu, ở bên trong khu vực chốt cửa là 39 chòm sao : Bắc cực, Lƣơng Viên, Tả Phụ, Thiên ất, Thái ất, âm Đức, Thƣợng Thƣ, Nữ Sử, Trụ Sử, Ngự Nữ, Thiên Trụ, Đại lý. Câu Trần, Lục Giáp, Thiên Hoàng, Đại Đế Ngu Đế Nội Tòa, Hoa Cái, Giang, Truyền Xá, Nội Giai, Thiên Trù, Bát Cốc, Thiên Bội, Thiên Sàng, Nội Trù, Văn Xƣơng, Tam Sƣ, Thái Tôn, Thiên Lao, Thái Dƣơng, Thủ, Thế, Tƣớng, Tam Công, Huyền Qua, Thiên Lý, Bắc Đẩu, Phụ, Thƣơng Thiên . Trong đó có 37 chòm chính, sao Giang là chòm phụ của sao Hoa Cái, sao Phụ là chòm phụ của sao Bắc Đẩu. Gồm 163 ngôi sao chính; 2) Còn gọi là Trƣởng Viên, Thiên Doanh hoặc sao Kỳ. Tên một chòm sao gồm 15 ngôi. Tức hai hàng rào sao bên phải và bên trái chòm Tử Vi. Hàng rào bên trái gồm 8 ngôi, tính tử phía nam là : Tả Khu, Thƣơng Tể, Thiếu Tể, Thƣợng Bật, Thiếu Bật, Thƣợng Vệ, Thiếu Vệ, Thiếu Thừa. Hàng rào bên phải gồm 7 ngôi, tính từ phía nam là : Hữu Khu, Thiếu úy, Thƣợng Phụ, Thiếu Phụ, Thƣợng Vệ, Thiếu Vệ, Thƣợng Thừa. Tƣợng là tòa nhà của Thiên đế hoặc chỗ ở của Thiên tử. Tƣợng mệnh. Lại tƣợng bầy tôi hộ vệ hoàng cung. Tƣợng sao thẳng hàng chứng tỏ thiên tử đang điểm binh trong cung. Thái Vi : Còn gọi là Thái Vi Viên. 1) Tên khu vực sao. Thƣợng Viên trong Tam Viên. Ở vị trí phía đông bắc, dƣới chân Tử Vi, phía nam Bắc Đẩu. Do 2 hàng rào, mỗi hàng rào gồm 5 ngôi sao chính, ở 2 phía đông và tây, hợp thành. Tƣợng trƣng Thiên đình, tòa Ngũ đế hoặc dinh phủ của 12 chƣ hầu. Tòa Ngũ đế nằm ở giữa, các chƣ hầu làm hàng rào bên trong, mỗi bên có 5 bầy tôi vây quanh. Có cửa hàng rào. Giữa 2 sao Chấp Pháp là cửa chính, phía đông sao Tả Chấp Pháp là cửa phụ bên trái, phía tây sao Hữu Chấp Pháp là cửa phụ bên phải. Ở hang rào phía đông, đông bắc sao Thƣợng Tƣớng là cửa Thái Dƣơng; phía bắc sao Thứ Tƣớng là cửa Đông Trung Hoa. Ở hàng rào phía tây, tây bắc sao Thƣợng Tƣớng là cửa Thai Dƣơng; phía bắc sao Thứ Tƣớng là cửa Tây Trung Hoa; tây bắc sao Thứ Tƣớng cũng là cửa Thái Dƣơng. Hàng rào bên ngoài tƣợng trƣng Cửu khanh. Thiên quan thu có ghi "Chu Điểu quyền hành", thì chữ "Hành" là chỉ khu vực Thái Vi Viên. Thái Vi Viên gồm 12 chòm sao. Hàng rào bên trong có các chòm: Cát Giả, Tam Công, Cửu Khanh, Ngũ Chƣ Hầu, Nội Bình, Ngũ Đế, Hạnh Thần, Thái Tử, Tòng Quan, Lang Tƣơng, Hổ Bôn, Lang Vị. Hai hàng rào là Lƣỡng Viên, phía trên Lƣỡng viên là chòm sao Thƣờng Trần, Tam Đài. Phía ngoài hàng rào ngoài có các chòm : Minh đƣờng, Linh Đài, Thiếu Vi, Trƣởng Viên, chứa tổng cộng 98 ngôi sao chính. 2) Tên Tinh quan (chòm sao), gồm 10 sao. Tức Lƣỡng viên ở bên trái và bên phải khu vực sao Thái Vi. Hàng rào bên trái (phía đông) có 5 sao, tính từ phía nam là : Tả Chấp Pháp , Thƣợng Tể Tƣớng, Thứ Tể Tƣớng, Thứ Tƣớng, Thƣợng Tƣớng. Hàng rào bên phải (phía tây) có 5 sao, tính từ phía nam là : Hữu Chấp Pháp, Thƣợng Tƣớng, Thứ Tƣớng, Thứ Tể Tƣớng, Thƣợng Tể Tƣớng. Có thuyết cho rằng mỗi Viên gồm 4 sao, Tả Hữu Chấp Pháp là hàng rào phía nam. Tả Chấp Pháp tƣợng trƣng Đình úy, còn Hữu Chấp Pháp là tƣợng Ngự sử đại phu, chủ những sự gian hiểm. Hai hàng rào đông tây mỗi bên có Tử Phụ, tức là 4 đại thần phò ta. Khi chiêm đoán, nếu sao Chấp Pháp di chuyển là có hình phạt nặng; 8 sao hàng rào mọc ra góc nhọn và dao động, tức là chƣ hầu mƣu hại thiên tử. Mặt trăng, Ngũ kinh thấy nhập vào Thái Vi hợp quĩ đạo thì đoán là cát, nghịch quĩ đạo thì đoán là hung; phạm vào tòa Ngũ đế thì đại hung.


Thiên Thị : Còn gọi là Thiên Thị Viên. 1 ) Tên khu vực sao. Hạ Viên trong Tam Viên. Ở chân phía đông nam Tử Vi Viên. Do 2 hàng rào vây quanh, mỗi hang rào gồm 11 ngôi sao chính, ở 2 phía đông (Tả Viên) và tây (Hữu Viên) hợp thành. Tƣợng trƣng đô thị trên trời, còn gọi là "Thái tử suất chƣ hầu hạnh đô thị". Đế Tòa cƣ ở bên trong, có 22 vị quan hoặc chƣ hầu vây quanh. Cửa Thiên Thị (chợ trời) nằm giữa hai sao ở phía nam. Khu Thiên Thị Viên gồm 19 chòm sao : Lƣỡng Viên, Thị Lâu, Xa Tứ, Tông Chính, Tông Nhân, Tông, Bạch Đạc, Đồ Tứ, Hầu, Đế Tòa, Hoạn Giả, Liệt Tứ, Đấu, Hộc, Quán Sách, Thất Công, Thiên Kỵ, Thiên Sàng, gồm 87 ngôi sao chính. 2) Còn gọi là "Thiên Kỳ Đình". Tên chòm sao, gồm 22 ngói, tức hai hàng rào của Thiên Thị Viên. 11 ngôi ở hàng rào phía đông (Tà Viên) tính từ phía nam là : Tống, Nam Hải, Yên, Đông Hải, Tử, Ngô Việt, Tề, Trung Sơn, Cửu Hà, Triệu, Ngụy. 11 ngôi ở hàng rào phía tây (Hữu Viên) tính từ phía nam là : Hành Sở, Lƣơng, Ba, Thục, Tần, Chu, Trịnh, Tấn, Hà Gián , Hà Trung. Tƣợng chợ trên trời, chủ quyền hành, chủ tụ họp. Kết hợp chiêm đoán với các sao bên trong chợ. Các sao trong chợ mà sáng tỏ, đoán là năm đó đƣợc mùa; sao mờ và ít là năm đó mất mùa. Lại tƣợng quân kỳ của trái chủ việc chém giết. Sao Huỳnh Hoặc ở đó tức là chém đầu kẻ bầy tôi bất trung. Khách tinh ở đó thì đoán là có chuyện dấy binh. Khách tinh ra khỏi đó thì đoán là có quí nhân qua đới. Đông phƣơng thất tú : Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki. Trong đó Giốc gồm các sao : Giốc, Bình Đạo, Thiên Điền, Tiến Hiền, Chu Đỉnh, Thiên Môn, Bình, Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn; Cang gồm các sao : Cang, Đại Giác, Chiết Uy, Tả Nhiếp Đề, Hữu Nhiếp Đề, Ngoan, Dƣơng Môn; Đê gồm các sao : Đê, Thiên Nhũ, Triệu Dao, Cánh Hà, Đế Tịch, Cang, Trì, Thiên Bức, Trận Xa, Ky Quan, Ky Trận Tƣớng Quân, Xa Ky; Phòng gồm các sao : Phòng, Phạt, Tây Hàm, Nhật, Câu Linh, Kiện Bế, Đông Hàm, Tòng Quan; Tâm gồm các sao : Tâm, Tích Tốt; Vĩ gồm các sao : Vĩ, Thần Cung, Quy, Thiền Giang, Phó Thuyết, Ngƣ; Ki gồm các sao: Ki, Khang, Chử, tổng cộng 46 chòm sao chính, 2 chòm phụ, với 186 ngôi sao. Bắc phƣơng thất tú : Hƣ, Nguy, Thất, Bích, Đẩu, Ngƣu, Nữ. Trong đó Đẩu gồm các sao : Đẩu, Kiến, Thiên Biền, Biết, Thiên Kê, Thiên Thƣợc, Cẩu Quốc, Thiên Uyên, Cẩu, Nông Trƣợng Nhân; Ngƣu gồm các sao : Ngƣu, Thiên Điền, Cửu Khảm, Hà Cố, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, Thiên Phù, La Yến, Tiệm Đài, Liên Đạo; Nữ gồm các sao : Nữ, Thập Nhị Quốc, Li Châu, Bại Qua, Hộ Qua, Thiên Tân, Hề Trọng, Phù Khuông; Hƣ gồm các sao : Hƣ, Ty Mệnh, Ty Lộc, Ty Nguy, Ty Phi, Khốc, Khấp, Thiên Lũy Thành, Bại Cữu, Li Du; Nguy gồm các sao : Nguy, Phần mộ, Nhân Chủ, Cữu Xa Phủ, Thiên Câu, Tạp Phụ, Cái Ốc, Hƣ Lƣơng, Thiên Tiền; Thất gồm các sao : Thất, Li Cung, Lôi Điện, Lũy Bích Trận, Vũ Lâm Quân, Phu Việt, Bắc Lạc Sƣ Môn, Nhập Khôi, Thiên Cƣơng, Thổ Công Sứ, Đằng Xà; Bích gồm các sao : Bích, Tích Lịch, Vân Vũ, Thiên Cứu, Phu Chất, Thổ Công; tổng cộng 65 chòm sao chính, 2 . chòm phụ, với 408 ngôi sao. Tây phƣơng thất tú : Khuê, Lâu, Vi, Ngang, Tất, Sâm, Tƣ. Trong đó Khuê gồm các sao : Khuê, Ngoại Bình, Thiên Hỗn, Thổ Ty Không, Quân Nam Môn, Các Đạo, Phụ Lộ, Vƣơng Lƣơng, Sách; Lâu gồm các sao : Lâu, Tả Cánh, Hữu Cánh, Thiên , Thiên Canh. Thiên Đại Tƣớng Quân. Vị gồm các sao : Ví, Thiên Bẩm, Thiên Khuân, Thiên Lăng, Thiên Thuyền, Tích Thi, Tích Thúy; Ngang gồm các sao : Ngang, Thiên A, Nguyệt, Thiên Nguyệt, Sô Cảo, Thiên Uyển, Quyển Thiệt, Thiên Sàm, Lệ Thạch; Tất gồm các sao : Tất, Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Tiết, Chƣ Vƣơng, Thiên Cao, Cửu Châu Thù Khẩu, Ngũ Xa, Trụ, Thiên Hoàng, Hàm Trì, Thiên Quan, Sâm Kỳ, Cửu Du, Thiên Viên; Sâm gồm các sao : Sâm, Phạt, Ngọc Tỉnh. Bình, Khố Tỉnh, Xí, Thỉ; Tƣ gồm các sao : Tƣ, Tọa Kỳ, Ty Quái; tổng cộng 54 chòm sao chính, 2 chòm phụ, với 297 ngôi sao. Nam phƣơng thất tú : Tỉnh, Quỵ, Liễu, Tinh, Trƣơng Dực, Chẩn. Trong đó Tỉnh gồm các sao : Tỉnh, Việt, Nam Hà, Bắc Hà, Thiên Tôn, Ngũ Chƣ Hầu, Tích Thủy, Tích Tân, Thuỵ Phủ, Thủy Vị, Tứ Độc, Quân Thị, Dã Kê. Tôn, Tử, Trƣợng Nhân, Quyết Khâu, Thiên Lang, Hồ Thỉ, Lão Nhân; Quỵ gồm các sao : Quỵ, Tích Thi, Quan, Thiên Cẩu, Ngoại Trù, Thiên Xã, Thiên Ký; Liễu gồm các sao : Liễu, Tửu Kỳ; Tinh gồm các sao : Tinh, Hiên Viên, Khanh Nữ, Nội Bình, Thiên Tƣớng, Thiên Tắc, Trƣơng gồm các sao: Trƣơng, Thiên Miếu; Dực gồm các sao : Dực, Đông Bình; Chẩn gồm các sao :


Chẩn, Trƣơng Sa, Tả Hạt, Quân Môn, Thổ Ty Không, Thanh Khƣu, Khí Phu; tổng cộng 42 chòm sao chính, 5 chòm phụ, với 245 ngôi sao. Ngũ tinh : Còn gọi là "Ngũ tá", "Ngũ vĩ". Chỉ 5 sao ngũ hành Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Vận hành cạnh Hoàng đạo. Thời cổ Trung Quốc gọi chúng là Tuế Tinh, Huỳnh Hoặc, Điền Tinh (hoặc Trấn Tinh), Thái Bạch, Thần Tinh. Cốc lang truyện tụ sớ viết "Ngũ tinh tức là Tuế Tinh ở phƣơng đông, Huỳnh Hoặc ở phƣơng nam, Thái bạch ở phƣơng tây, Thần Tinh ở phƣơng bắc, Trấn Tinh ở giữa vậy". Gọi là sao Mộc, sao Hỏa, sao Thổ, sao Kim, sao Thủy tức là theo thuyết ngũ hành giải thích tƣợng trời, "đất có ngũ hành, trời có ngũ tinh". Trong thuyết ngũ hành, 5 sao là tinh của ngũ hành. Tuế tinh là tinh của Mộc, Huỳnh Hoặc là tinh của Hỏa, Trấn tinh là tinh của Thổ, Thái Bạch là tinh của Kim, Thần tinh là tinh của Thủy. Hán thƣ. Luật lịch chí : "Thủy hợp với Thần tinh, Hỏa hợp với Huỳnh Hoặc, Kim hợp với Thái Bạch, Mộc hợp với Tuế tinh, Thổ hợp với Trấn tinh". 5 sao làm hành tinh của hệ Mặt trời, đối xứng với hằng tinh của trời xa, có sự vận động nhìn thấy khá rõ ; cổ nhân thƣờng quan sát hiện tƣợng vận động: biến đổi, màu sắc sao, trong mối quan hệ của chung với nhau, với mặt trăng, mặt trời và vị trí 28 tinh tú mà chiêm đoán. Từ ngữ thƣờng dùng biểu đạt các hiện tƣợng ấy là : tại, nhập, xuất, phạm, thủ, lƣu, thuận hành, nghịch hành, qui đạo, tu, hợp, yểm (che), thực (ăn), lâm, trú kiến (nhìn thấy ban ngày), tranh minh (tranh sáng), liên châu, tịnh xuất v.v. . . Hiện tƣợng khác nhau, dự đoán sẽ khác nhau. Sử liệu cổ của Trung Quốc chứa rất nhiều nội dung chiêm nghiệm 5 sao. Sách lụa tìm thấy trong ngôi mộ cổ đời Hán ở đồi Mã Vƣơng, Trƣờng Sa, nhan đề Ngũ tinh chiêm ghi chép rất tỉ mỉ về sự vận hành 5 sao đó kèm theo các dự đoán. Ngũ tá : Tức Ngũ tinh. Thuật chiêm tinh cổ đại cho rằng 5 sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ "khi ẩn khi hiện, vận hành có độ", phò tá trời hành đức, nên gọi là Ngũ Tá. Ngũ vĩ : Tức Ngũ tinh. Thời cổ gọi hằng tinh là sao Kinh, hành tinh là sao Vĩ. Văn tuyển, Trƣơng Hoành của Lý Thiện Chú : "Ngũ vĩ là Ngũ tinh vậy". Tam quang : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Chỉ Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ tinh (Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa). Thiên quan thƣ dẫn Tống Quân, viết : "Tam quang là Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ tinh vậy". Tam vọng : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Chỉ Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ tinh (Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa). Khách tinh : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Là ngôi sao lạ ít thấy, ngẫu nhiên nhìn thấy. Cụ thể chỉ sao nào, thì sử liệu ghi chép rất khác nhau. Thiên quan thƣ là sách đầu tiên dùng thuật ngữ này, nhƣng chỉ sao nào thì không rõ. Thiên văn chí đời Tấn, đời Tùy mới xác lập loại sao này, nói là nhìn thấy (nó) không định kỳ, (nó) vận hành vô độ. Đến Thiên văn chí đời Minh thì coi đó là ngôi sao mới xuất hiện, nhƣng ở chƣơng Khách tinh thì phần lớn dùng để gọi sao Chổi. Tục văn hiến thông khảo thời Càn Long thì coi các loại sao lạ là Khách tinh. Vậy Khách tinh thƣờng là tên gọi chung các ngôi sao mới và sao Chổi. Trong sử liệu, nói về Khách tinh chủ yếu có Chu Bá, Lão Tử, Vƣơng Bồng Tự, Quốc Hoàng, ôn Hoàng. Thƣởng căn cứ vào việc nhìn thấy nó, vận hành, màu sắc, độ lớn nhỏ, sự lƣu thủ mà đoán. Sao lớn thì có chuyện lớn, sao nhỏ thì có chuyện nhỏ. Màu vang thì cát màu trắng là có tang, màu xanh có lo buồn, màu đen là chết chóc, màu đỏ có chiến tranh, thời gian xảy ra sẽ trong khoảng 3 năm. Khách tinh nhập vào cung nào, thì đoán sự việc xảy ra ở chòm sao ấy, vận hành đến chỗ nào, thì nơi ấy, nƣớc ấy có họa. Lƣu tinh : Thuật ngữ chiêm tinh cố đại. Tinh thể lao vút trên bầu trời nhanh nhủ mũi tên, là hiện tƣợng do bụi vũ trụ bay vào khí quyển trái đất, bị ma sát mà phát sáng. Sự chuyển động phát quang của nó tạo ra nhiều hình dạng, đƣờng bay khác nhau. Thời xƣa, từ trên giáng xuống gọi là Lƣu, từ dƣới vút lên gọi là Phi. Việc dự đoán dựa vào kích thƣớc to nhỏ, nhiều ít, hình dạng, âm thanh, đƣờng vận hành, ngắn dài, độ nhìn rõ v.v... Tƣợng cho thiên sứ. To thì thiên sứ cấp cao, nhỏ thì cấp thấp; phát ra âm thanh là tƣợng giận dữ; vút nhanh thì việc xảy ra nhanh, chậm thì sự việc xảy ra chậm; lớn mà không sáng là sự việc của đông đảo quần chúng; nhỏ mà sáng là việc của quí nhân, to mà sáng là việc của nhiều quí nhân. Lúc sáng lúc tắt là tƣợng giặc bại; trƣớc to sau nhỏ là việc lo buồn, trƣớc nhỏ sau to là việc vui mừng. Chuyển động ngoằn ngoèo nhƣ rắn là chuyện gian tà; dài


thì sự việc kéo dài, ngắn thì sự việc mau chóng. Sao chúi xuống vùng nào, vùng ấy có chiến sự. Trời quang đãng mà thấy Lƣu tinh, hơn nữa hồi lâu không rớt, là có bão lớn làm đổ nhà gãy cây. Lƣu tinh nhỏ, nhƣng nhiều hàng trăm, tán phát tứ phía, là tƣợng dân di cƣ ồ ạt. Sử chép hơn 2 ngàn lần có Lƣu tinh. Các Lƣu tinh chú yếu có Thiên Bảo, Trì Nhạn, Thiên Nhạn, Đốn Ngoan, Giải Hàm, Đại Hoạt, Uông Thỉ, Thiên Cẩu, Thiên Hình, Doanh Đầu. Thụy tinh: Thuật chiêm tinh cổ đại cho rằng có một vài sao lạ vốn là sao lành, nếu nhìn thấy sẽ có phúc, có đạo, có đức. Các sao đó gọi là Thụy inh. Sử liệu chép có các Các Thụy tinh chính là : Cảnh Tinh, Chu bá, Hàm Dự, Cách Trạch. Yêu tinh : Thuật chiêm tinh cổ đại cho ràng có một vài sao lạ vốn là sao hung, nếu nhìn thấy sẽ có tai hoạ, tranh đoạt, chiến tranh, chết chóc, nên gọi chúng là Yêu tinh (sao yêu quái). Thƣờng cho rằng phần lớn là do tinh của Ngũ tinh bị tán thoát tạo nên, là tạp khí của sao. Thời Hán ngƣời ta gọi những đám mây ngũ sắc cạnh Mặt trăng nhìn thấy vào ngày Dần là Yêu tinh. Các Yêu tinh chính có : sao Chổi, Thiên Bội, Thiên , Thiên Sàm, Thiên Xung, Quốc Hoàng, Suy Vƣu, Thiệu Minh, Ty Nguy, Ngũ Tàn, Lục Tặc, Bồng Tinh, Chúc Tinh, Tuân Thủy, Ngục Hán, Trƣởng Canh, Tứ Trấn, Địa Duy Tàng Quang. Nhìn thấy chúng ở nƣớc nào thì nƣớc ấy có triệu chứng vô đạo, thất lễ, binh đao, đói rét, thủy tai, hạn hán, chết chóc. Cho rằng hễ chúng xuất hiện, dù hình dạng thế nào, cũng đều gây tai ƣơng. Thời gian xuất hiện kéo dài thƣờng không quá một năm, nếu kéo dài 3 năm, thì ắt nƣớc mất thành tan, vua chết, thiên hạ đại loạn, chiến tranh liên miên, thây chất đầy đồng. Yêu tinh xuất hiện mà to và dài, thì tai ƣơng lớn và lâu; nhỏ và ngắn thì tai ƣơng nhỏ và chóng qua; đuôi sao Chổi dài từ 3 đến 5 thƣớc, tai họa kéo dài trăm ngày, từ 5 thƣớc đến 1 trƣợng, tai họa kéo dài 1 năm, từ 1 đến 3 trƣợng, tai họa 3 năm; từ 3 đến 5 trƣợng, tai họa 5 năm; từ 5 đến 7 trƣợng, tai họa 7 năm; từ 10 trƣợng trở lên, tai họa 9 năm. Trung đạo : Tức Hoàng đạo, còn gọi là Quang đạo. Đƣờng vận hành trong 1 năm của mặt trời giữa các hằng tinh mà ta nhìn thấy. Hán thƣ. Thiên văn chí: "Mặt trời có Trung đạo". Mặt trăng và Ngũ tinh cũng vận hành gần Trung đạo. Thời cổ nói Trung đạo phía bắc đến sao Tỉnh, phía nam đến sao Ngƣu phía đông đến sao Giốc, phía tây đến sao Lâu; tiết Hạ Chí đến sao Tỉnh, tiết Đông Chí đến sao Ngƣu, tiết Xuân Phân đến sao Lâu, tiết Thu Phân đến sao Giốc. Căn cứ mặt trời , mặt trăng và Ngũ tinh vận hành theo Trung đạo mà xác định bốn mùa, dự đoán khi hậu. Thời cổ cũng có khi gọi Trung đạo là Quỷ đạo. Thiên Hán : Tức Ngân Hà, còn gọi là Thiên Hà, Ngân Hán hoặc Hán Tân. Là hệ sao do rất nhiều hằng tinh hợp thành. Thời cổ thấy nó có hình dạng một dải mây sáng, nên gọi là Hà (dòng sông tƣợng dòng sông trên trời. Thời cổ cho rằng nó khởi nguồn tử phƣơng đông, qua đuôi sao Ki thì tách ra hai nhánh nam bắc; nhánh nam đi qua các sao Phó Thuyết, Ngƣ, Thiên Thƣợc, Thiên Bôn, Hà Cổ; nhánh bắc đi qua các sao Quy, sao Ki, Nam Đẩu Khôi, Tả Kỳ, đến dƣới sao Thiên Tân thì hợp với nhánh nam mà chảy về phía tây nam, vòng sao Qua, qua sao Nhân, sao Chử, Thiên Thuyền, Quyển Thiệt; rồi đi về phía nam, qua Ngũ Xa, Bắc Hà Nam, nhập vào vị trí sao Tỉnh mà chảy ra đông nam, cuối cùng chìm lẫn vào sao Thất Tinh. Thuật chiêm tinh thƣờng căn cứ vị trí của Thiên Hán qua chòm sao nào mà xem tƣợng, dự đoan nhân sự. Tinh đấu quang đãi: Còn gọi là Tinh đấu. Chỉ hiện tƣợng biến đổi sao, ánh sáng giữa Ngũ tinh hoặc giữa các hằng tinh xâm phạm nhau, tƣơng phản nhau. Thiên quan thƣ chính nghĩa: "Đấu, tức là ánh sáng tƣơng phản với nhau". Tùy thƣ. Thiên văn chí : "Phàm cùng bỏ là họp, phạm vào nhau là đấu". Sao đấu nhau, thì đoán là thiên hạ đại loạn; Ngũ tinh đấu nhau, thì có chiến tranh, quân không xuất chinh ắt là nội loạn, hai sao đấu nhau ở cự li gần thì tai họa 1ớn, cự li xa thì vô hại. Tinh trú kiến : Chỉ ngôi sao (chủ yếu là Ngũ tinh) có thể nhìn thấy vào ban ngày. Là hiện tƣợng biến đổi của sao. Có các trƣờng hợp : cùng xuất hiện khi mặt trời mọc, tranh sáng với mặt trời, ban ngày mà quầng sáng vẫn còn. Cùng xuất hiện khi mặt trời mọc thì gọi là "gả chồng", tranh sáng với mặt trời gọi là "tranh sáng", ban ngày mà quầng sáng vẫn còn cũng gọi là "tranh sáng". Hằng tinh bất hiến : Chỉ hằng tinh giữa đêm khuya vẫn không nhìn thấy. Là hiện tƣợng biến đổi của sao. Hằng tinh tƣợng trƣng nhân quần, không thấy hằng tinh là tƣợng chƣ hầu quay lƣng, không chịu phò tá quân vƣơng; cũng tƣợng trƣng không có quân vƣơng. Còn tƣợng trƣng chúa không


nghiêm,

luật

pháp

sa

sút,

hoặc

thiên

tử

mất

quyền,

chƣ

hầu

làm

loạn.

Tinh dao : Chỉ ánh sáng của hằng tinh hoặc Ngũ tinh dao động. Là hiện tƣợng biến đổi của sao. Đoán rằng dân chúng mệt mỏi. Tinh vẫn : Là hiện tƣợng sao băng, sao đổi ngôi. Là hiện tƣợng biến đổi của sao. Căn cứ sao băng lớn nhỏ, nhiều ít, hình dạng, hƣớng sao ( rơi) mà dự đoán. Sao băng lớn là dƣơng mất địa vị, âm lấn lƣớt, có họa. Nhiều sao băng là ngƣời mất uy thế. Phàm sao băng đều đoán là chính sự có biến động. Sao băng rơi xuống phía nào, nơi ấy có chiến trƣờng, thiên hạ loạn li, thời gian 3 năm. Nhiều sao cùng sa là nhiều ngƣời chết. Sao sa nhƣ mƣa là thiên tử suy yếu, chƣ hầu làm loạn, lập minh chủ mới. Sao sa từ đƣờng chân trời, là thiên tử thất đạo, kỵ cƣơng rối ren. TINH QUAN TAM VIÊN Bắc Cực : Còn gọi là Bắc Thần. Tên chòm sao. Chỉ ngôi sao ở sát Bắc cực. Có thời chỉ chòm sao Bắc Cực. Trong lịch sử, từng lấy sao Đế làm sao Bắc Cực (nhƣ Thiên quan thƣ). Sau lấy sao Nữu làm sao Bắc Cực. Chòm sao Bắc Cực gồm 5 ngôi : Thái Tử, Đế, Thứ Tử, Hậu, Nữu hoặc Bắc Cực. Sao thứ 5, sao Nữu, còn gọi là sao Thiên Khu. Tùy thƣ. Thiên văn chí : "Trời vận động không ngừng, Tam Quang đổi ngôi, riêng sao Cực không xê dịch, nên nói mọi ngôi sao đều hƣớng về chỗ nó". Tƣợng trƣng cho bậc chí tôn của mọi ngôi sao, chỗ ở của đế vƣơng. Trong chòm này, sao Thái Tử chủ mặt trăng, sao Đế chủ Mặt trời, sao Thứ Tử chủ Ngũ tinh. Dự đoán, nếu sao Đế không sáng, thì vua chúa không dụng sự; sao Thái Tử không sáng, thì vƣơng tử trong cung đình lo âu. Bắc

Thần

:

Tức

Bắc

Cực.

Thiên Cực tinh : Tên chòm sao. Chỉ sao Cực của bầu trời. Thời cổ Trung Quốc thƣờng lấy ngôi sao ở gần Bắc cực làm sao Cực, nên còn gọi là sao Bắc Cực, Bắc Thần. Thiên quan thƣ lấy sao Đế làm sao Cực, gọi là sao Thiên Cực, đồng thời dùng tên đó để gọi Trung cung. Sách ấn dẫn Văn diệu câu viết : "Trung cung đại đế, tinh của nó là sao Bắc Cực". Tƣợng trƣng cho bậc chí tôn của mọi ngôi sao, chỗ ở của đế vƣơng. Tùy thƣ. Thiên văn chí : "Mọi ngôi sao đều hƣớng về chỗ nó". Tứ Phụ : Còn gọi là Tứ Bật. Tên chòm sao. Gồm 4 ngôi. Ở gần sao Bắc Cực, thành hình dạng ôm lấy sao đó. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên . Tƣợng trƣng cho sự phò tá Bắc Cực. Thái Nhất : Còn gọi là Thái ất. 1) Tên thiên thần. Thiên quan thƣ chính nghĩa :"Thái Nhất là biệt danh của Thiên đế vậy". Lƣu Bá Trang viết: thái Nhất là vị thiên thần tôn quí nhất". Cƣ ở Trung cung. 2) Tên chòm sao, tƣợng trƣng thiên thần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Ở phía nam sao Thiên Nhất, chủ mƣa gió, thủy tai hạn hán, binh biến, đói khát, dịch bệnh. Thái Nhất không sáng hoặc đổi vị trí là tƣợng tai họa. Cùng với Thiên Nhất chỉ việc vua lên ngôi, lập Thái tử truyền ngôi. Nếu mờ thi việc lên ngôi không thành. Thái

ất

Thiên

Nhất

:

l) :

Tức Còn

gọi

Thái

Nhất.

2)

Tức

Thiên

ất.

1)

Số Tên

Thái thiên

Ất thần.

Xem mục Thiên Nhất thiên thƣợng. 2) Tên chòm sao. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên, ởû gần miệng sao Bấc đẩu, phía ngoài cửa Tử Cung, cạnh phía bắc sao Hữu Khu, phía nam sao Thái Nhất. Cổ nhân cho rằng ánh sáng của nó tƣơng đối yếu, khi thấy khi không. Tƣợng thần của Thiên đế chủ chiến đấu, biết cát hung. Nếu sáng. là âm dƣơng hài hòa, vạn vật trƣởng thành, vua cát lợi; nếu quá mờ, thì âm dƣơng không hòa, vạn vật không thành, vua gặp hung hiểm. Cùng với Thái Nhất chỉ việc vua lên ngôi, lập Thái tử truyền ngôi. Nếu mờ thì việc lên ngôi không thành. Khuông vệ phiên thần : Ngụ ý quần thần bảo vệ xung quanh. Thuật chiêm tinh cổ đại dùng quan chức của xã hội loài ngƣời mà biểu đạt vị trí của các hằng tinh, quan hệ tôn ti của chúng, phân chia giới hạn tƣợng sao. Trong Ngũ cung, Thiên quan thƣ chép rằng Trung cung và Nam cung mỗi cung


có 12 sao phiên thần (hộ vệ) vây quanh, tạo thành 2 khu vực sao là Trung cung, hoặc Tử cung, và Nam cung, hoặc Thái Vi. Hộ vệ Trung cung là các sao Hữu Khu, Thiếu úy, Thƣợng Phụ, Thiếu Phụ, Thiếu Vệ, Thƣợng Thừa ở phía tây và các sao Tả Khu, Thƣợng Tể, Thiếu Tể, Thƣợng Bật, Thiếu Bật, Thiếu Vệ. Hộ vệ Nam cung là các sao Thƣợng Tể Tƣớng, Thứ Tể Tƣớng, Thƣợng Tƣớng, Thứ Tƣớng ở phía tây và các sao Thƣợng Tể Tƣớng, Thứ Tể Tƣớng, Thƣợng Tƣớng, Thứ Tƣớng ở phía đông cung hai sao Tả, Hữu Chấp Pháp. Hai cụm sao phiên thần đó về sau gọi là Lƣỡng Viên, tức Lƣỡng Viên của Tử Vi Viên và Lƣỡng Viên của Thái Vi Viên. Xem mục Lƣỡng Viên. Lƣỡng Viên : Còn gọi là Lƣỡng Phiên. Chỉ hai chòm sao Tả Viên (Đông Phiên) và Hữu Viên (Tây Phiên) của Tử Vi Viên. Tả Viên gồm 8 sao, Hữu Viên gồm 7 sao, cộng là 15 sao. Ở phía bắc sao Bắc Đẩu. 8 sao Tả Viên tính từ phía nam là: Tả Khu, Thƣợng Tể, Thiếu Tể, Thƣợng Bật, Thiếu Bật, Thiếu Vệ, Thiếu Thừa. 7 sao Hữu Viên tính tử phía nam là : Hữu Khu, Thiếu úy, Thƣợng Phụ, Thiếu Phụ, Thiếu Vệ, Thƣợng Thừa. Giữa hai sao Tả, Hữu Khu có hình dạng cửa đóng mở, là cổng lớn của Tử cung. Lƣỡng Viên lại gọi gộp là chòm sao Tử Vi, hoặc còn gọi là Trƣởng Viên, Thiên Doanh hoặc Kỳ Tinh. Khi dự đoán, thấy Tử Vi thì có 2 nghĩa. 2) Chỉ hai chòm sao Tả Viên (Đông Phiên) và Hữu Viên (Tây Phiên) của Thái Vi Viên. Tả Viên gồm 5 sao, Hữu Viên gồm 5 sao, cộng là 10 sao. Ở phía nam sao Bắc Đẩu Hai Viên thành hình hàng rào vây quanh khu vực sao Thái Vi. 5 sao Tả Viên tính từ phía nam là : Tả Chấp Pháp, Thƣợng Tể Tƣớng, Thứ Tể Tƣớng, Thƣợng Tƣớng, Thứ Tƣớng. 5 sao Hữu Viên tính tử phía nam là : Hữu Chấp Pháp, Thƣợng Tƣớng, Thứ Tƣớng, Thứ Tể Tƣớng, Thƣợng Tể Tƣớng. Trong 12 phiên thần của Nam cung, Thiên quan thƣ chép rằng mỗi sao Tả, Hữu Chấp Pháp gồm 2 sao. Lƣơng Viên lại gọi gộp là chòm sao Thái Vi. Khi dự đoán, thấy Thái Vi thì có 2 nghĩa. 3) Chỉ hai chòm sao Tả Viên (Đông Phiên) và Hữu Viên (Tây phiên) của Thiên Thị Viên. Tây Viên gồm 11 sao, Hữu Viên gồm 11 sao, cộng là 22 sao ở phía đông nam Tử Vi Viên. Hai Viên thành hình hàng rào vây quanh khu vực sao Thiên Thị. 1 1 sao Tả Viên tính từ phía nam là : Tống, Nam Hải, Yên, Đóng Hải, Từ, Ngô Việt, Tề, Trung Sơn, Cửu Hà, Triệu, Ngụy. 11 sao Hữu Viên tính từ phía nam là : Hàn, Sở, Lƣơng, Ba, Thục, Tần, Chu, Trịnh, Tấn, Hà, Gián, Hà Trung. Giữa hai Viên có cửa Thiên Thi hoặc Thiên Môn. Khi dự đoán, thấy Thiên Thị thì có 2 nghĩa. Tả Viên : Tên chòm sao. Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên đều có chòm sao Tả Viên của mình. Xem mục Lƣỡng Viên. Hữu Viên : Tên chòm sao. Từ Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên đều có chòm sao Hữu Viên của mình. Xem

mục

Lƣỡng

Viên.

Âm đức : Tên chòm sao. Gồm 2 sao. Tấn thƣ. Thiên văn chí gọi là âm Đức và Dƣơng Đức. Nằm ở gần miệng sao Bắc Đẩu, phía tây sao Thƣợng Thƣ, ánh sáng tƣơng đối yếu Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng nữ chúa trong cung, chủ ban phúc đức và ân huệ. Khi dự đoán, coi sao này không sáng là tốt; nếu sáng là vua mới thiên vị; nếu sáng lung linh, thì có họa thê thiếp trong cung. Dƣơng Đức : Tên chòm sao. Một trong hai sao của chòm âm Đức. Tấn thƣ. Thiên văn chí gọi chòm này có 2 sao âm Đức và Dƣơng Đức. Thƣợng Thƣ : Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở phía trong Tả Viên Tử Vi, phía dƣới sao Ngự Nữ. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. chủ sự bàn mƣu. Nếu sao này sáng thì đoán là tốt. Trụ sứ : Tên chòm sao. Còn gọi là Trụ Hạ Sứ. Gồm 1 sao, ở phía trong Tả Viên Tử Vi, phía dƣới sao Thiên Trụ, nên có tên đó. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng quan tá hữu sứ. Chủ đã ghi chép. Nữ sử : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở dƣới sao Ngự Nữ. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng địa vị thấp của phụ nữ. Chủ việc tiết lộ. Ngự nữ : Tên chòm sao. Còn gọi là Nữ Ngự Quan. 1) Gồm 4 sao, ở phía bắc sao Câu Trần. Thuộc


Trung cung hoặc Tử Vi Viên. tƣợng 81 ngự thê, chủ việc hậu cung. 2) Gồm 1 sao, ở chót phía nam sao Hiên Viên, thuộc Nam cung. Có khi đƣợc coi là 1 sao trong chòm Hiên Viên. Thiên Trụ : Gọi tắt là Trụ. 1) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở gần Tả Viên bên trong Tử Vi Viên. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng thiết lập chính pháp, chủ cấm lệnh và thi hành pháp lệnh. 2) Chỉ Ngũ Trụ. 3) Chỉ Tam Trụ. 4) Chỉ Tam Đài. Đại Lý : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên trái cửa Tử Vi Viên, gần sao âm Đức. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chỉ phán quyết ngục hình. Câu Trần : Tên chòm sao. Còn gọi là Chính Phi. Cũng là sao Bắc Cực ngày nay. Gồm 6 sao. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ Lục quân. Lại tƣợng trƣng Hậu cung, Chính phi của đại đế hoặc tòa Thiên đế. Chủ việc hoàng hậu và phi tần. Hậu Câu tú tinh : Còn gọi là Hậu phi tứ tinh. Chỉ 4 ngôi sao sáng trong 6 ngôi của chòm Câu Trần. Gắn sao Đế là sao Câu Trần thứ tƣ, tiếp đến Câu Trần thứ ba, Câu Trần thứ hai, rồi đến ngôi sáng nhất là Câu Trần thứ nhất. Còn gọi là sao Chính Phi. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. có thuyết nói là 4 sao Tứ Phụ. Lục Giáp : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở bên phải chòm Ngũ đế. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. chủ việc chia âm dƣơng mà định khí hậu, ban bố chính giáo. Thiên hoàng đại đế : Tên chòm sao. Còn gọi là Thiên hoàng đại đế, Thiên Vƣơng. Gồm 1 sao, ở trong Tử Vi Viên, ở giữa Câu Trần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng trƣng

thần

Diệu

Phách

Bảo.

Chủ

thần

linh

ngự

chúng.

Ngũ đế nội tòa : Tên chòm sao. Gọi tắt là Đế tòa. 1) Chỉ tòa Ngũ đế. Vi nằm trong Nam cung Thiên đế hoặc đình Tam Quang ( Thái Vi), nên có tên gọi đó. 2) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở trong Tử Vi Viên, dƣới sao Hoa Cái, trên sao Câu Trần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng nơi ở của Ngũ đế. Nếu Khách tinh nhập Tử cung là phạm, là đại thần khinh chúa. Hoa Cái: Tên chòm sao. Gồm 9 sao ở phía trên sao Thiên hoàng đại đế. Thuộïc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng trƣng cái lọng che tòa Thiên đế. Chủ việc của quân vƣơng. Giang : Tên chòm sao. Gồm 9 sao, ở phía bắc sao Thiên hoàng đại đế. Phía tây nam sao Hoa Cái, phía đông bắc tòa Ngũ đế. Thuộc Trung cung hoặc Tƣ Vi Viên. Chòm phụ của sao Hoa Cái. tƣợng cái cán lọng Hoa Cái. Truyền Xá : Tên chòm sao. Gồm 9 sao, ở bên trên sao Hoa Cái, gần Thiên Hà. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng nơi đón tân khách, chủ ngƣời Hồ vào Trung Quốc. Khách tinh mà thủ ở đây là có kẻ gian hoặc dân Hồ động binh. Nội Giai : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở phía bắc sao Văn Xƣơng. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng bậc thềm của Thiên hoàng. Thiên Trù : Tên chòm sao. Gồm 6 sao. Ở phía đông bắc bên ngoài Tử Vi Viên. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi viên. Tƣợng nhà bếp của Thiên phủ, chủ yến tiệc linh đình. Bát Cốc : Tên chòm sao. Gồm 8 sao, ở phía tây bên ngoài Tử Vi Viên, phía bắc sao Ngũ Xa, bên trong Hoa Cái. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ Hậu tuế. Không thấy 1 sao, thì không thu hoạch một loại trong ngũ cốc. Thấy rõ cả chòm sao, thì đƣợc mùa lớn. Thiên Bổng: 1) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở phía tây Tử Vi Viên, đông bắc Nữ Sàng. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ phân tranh và hình ngục. Lại chủ tàng binh, gặp nạn. Không thấy 1 sao, đoán là nƣớc sẽ dấy binh. Thƣờng cùng chiêm đoán với sao Thiên, nên gọi là Bổng.


Thiên Sàng : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở bên ngoài cửa Tử Vi Viên. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ nơi ngủ, nghỉ ngơi. Nội Trù : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên ngoài góc tây nam Tử Vi Viên , bên trên sao Thiên Nhất và Thái Nhất. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ việc ăn uống của 6 cung, việc ăn uống của Hoàng hậu và Thái tử. Văn Xƣơng : Còn gọi là Cung Văn Xƣơng. Tên chòm sao. Gồm 6 sao, Thiên quan thƣ nói đó là các sao Thƣợng Tƣớng, Thứ Tƣớng, Quý Tể Tƣớng, Ty Mệnh, Ty Trung, Ty Lộc. Hán thƣ. Thiên văn chí nói ngôi sao thứ 5 là Ty Lộc, ngôi thứ 6 là Ty Tai. Tùy thƣ. Thiên văn chí nói ngôi sao thứ 4 là Ty Lộc, ngôi thứ 5 Ty Mệnh, Ty Quái, ngôi thứ 6 là Ty Quán. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Ở phía trên sao Bắc Đẩu, thành hình bán nguyệt. Tƣợng lục phủ trên trời, chủ đầu mối thiên đạo. Khi đoán, nếu sáng, 6 sao chỉnh tề, thì là điềm tốt lành. Tam Sƣ : Tên chòm sao. Gồm 3 sao, ở phía bắc cái gáo sao Bắc Đẩu, bên trái Hữu Viên Tử Vi, gần sao Thiếu Phụ. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Sử liệu thƣờng gọi gộp cùng sao Tam Công thành Tam Sƣ Tam Công. Về dự đoán, xem nghĩa thứ nhất mục Tam Công. Thái Tôn : Còn gọi là Thiên Tôn. Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở phía bắc sao Trung Đài của Tam Đài, phía tây sao Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng thân thích của hoàng cung. Thiên Lao : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở phía tây sao Bắc Đẩu. Thuộc Nam cung hoặc Tử Vi Viên . Tƣợng nhà lao của quí nhân, chủ cấm bạo dâm. Thái Dƣơng Thú : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở bên trái sao Tể Tƣớng. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng đại thần đại tƣớng; chủ việc cảnh giới đề phòng bất trắc, thiết lập võ bị. Sao này xuất hiện không bình thƣờng, thì đoán là có chiến tranh . Thế : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở tây bắc sao Thái Dƣơng Thủ, phía tây sao Thiên Lao. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng ngƣời cung hình. Tƣớng : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở phía nam sao Bắc Đẩu, gần sao Thiên Quyền thuộc chòm Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ thống lĩnh mọi ty sở, phò tá đế vƣơng an đinh bang quốc, nắm giữ mọi việc. Sao nay sáng là tốt lành. Tam Công : 1) Tên chòm sao. Gồm 3 sao : Thái úy. Tƣ Đồ, Tƣ Không, ở phía nam cái gáo sao Bắc Đẩu phía đông giáp sao Dao Quang. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên sau công phân chia thái úy, tử đồ, tƣ không. Chủ việc hòa âm dƣơng, phò tá cơ vụ, tuyên đức hóa, điều thất chính. Khi dự đoán, nếu sao này ở yên vị là tốt, di chuyển là hung. Kim, Hỏa thú ở đó thì đoán là xấu. 2) Tức "Nội tòa Tam Công" của Thái Vi Viên. Huyền Qua : Tên chòm sao. Còn gọi là Nguyên Qua. Gồm 1 sao. Tùy thƣ. Thiên văn chí nói gồm 2 sao, ở cạnh sao Dao Quang. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ việc binh nhà Hồ, hoặc chủ việc Bắc di (rợ phía bắc). Khách tinh thủ ở đây, đoán là quân Hồ đại bại. Thiên Lý : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở cạnh sao Bắc Đẩu, tƣợng nhà lao của quí nhân. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Sao sáng thi đoán là quí nhân hạ ngục. Bắc Đẩu : Tên chòm sao. Gọi tắt là Đẩu. Gồm 7 sao, ở phía bắc Thái Vi Viên, thành hình cái gáo ở bầu trời phƣơng bắc. 7 sao là : Khu, Thi, Cơ, Quyền, Hành, Khai Dƣơng, Dao Quang. 4 sao đâu là miệng gáo, 3 sao sau là cán gáo. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Bắc Đẩu là tƣợng trƣng cổ hong của trời hoặc xe trời, là cơ chế thất chính, nguyên thể âm dƣơng nên vận hành ở trên trời, giám sát tứ phƣơng, thiết lập 4 mùa, cân bàng ngũ hành. 7 ngôi sao đó tƣợng trƣng và chủ điều gì, các sách nói không thống nhất. Có thuyết nói Khu là khu vực trên trời, Thi là phân phát, Quyền là cân bằng nặng nhẹ, Cơ là biến động, Khai Dƣơng là mở khí dƣơng, Dao Quang la dao động ánh sáng. Có thuyết nói Khu là trời, Thi là đất, Cơ là ngƣơi, Quyền là thời gian, Khai Dƣơng là luật, Dao


Quang là sao, Ngọc hoàng là âm. Thạch thị tinh chiêm thì cho rằng 7 sao lần lƣợt chỉ trời, đất, hỏa, thủy, thổ, mộc, kim; lần lƣợt chủ 7 nƣớc dƣới trái đất : Tần, Sở, Lƣơng, Ngô, Triệu, Yên, Tề. 7 sao thì mỗi ngôi cũng có tƣợng riêng. Ngôi thứ nhất là chính tinh, chủ dƣơng đức, tƣợng thiên tử; ngôi thứ hai là pháp tinh, chủ âm hình, tƣợng địa vị nữ chúa; ngôi thứ ba là lệnh tinh, chủ họa hại ; ngôi thứ tƣ là phạt tinh, chủ thiên lý, tƣợng trừng phạt vô đạo; ngôi thứ năm là sát tinh, chủ trung ƣơng, tƣợng giúp bốn phƣơng giết tội phạm; ngôi thứ sáu là nguy tinh, chủ kho ngũ cốc của trời; ngôi thứ bảy là bộ tinh hoặc ứng tinh, chủ binh. Quan sát phƣơng vị 7 ngôi sao chòm Bắc Đẩu có thể biết bốn mùa, định tiết khí; căn cứ sự di chuyển của chúng có thể xác định năm tháng, ngày, giờ; nên còn gọi 7 sao chòm Bắc Đẩu là Thất chính. Tiêu : 1 ) Chỉ cán gáo sao Bắc Đẩu. Gồm 3 sao : Hành, Khai Dƣơng, Dao Quang. Tiêu chủ đất tây nam Hoa Sơn. Có khi gọi Tiêu là Ngọc Hoành. Xem mục Bắc Đẩu thất tinh. 2) Chỉ 2 ngôi sao phía bắc sao Bắc Đẩu. Khôi : Chì Đầu Khôi của Bắc Đầu. Khôi gồm 4 sao: Khu, Thiên Cơ, Quyrrgn. Khôi chu vùng đông bắc hai đảo, tức phân dã của Tề. Còn gọi là Thi Cơ. Sao Chổi nhập vào Khôi, thì đoán là có thánh nhân thụ mệnh; mặt trăng và Ngũ tinh nhập vào đó, thi đại nhân lo âu, thiên hạ có chiến sự; phạm vào đó thì đại nhân lo âu, nữ chúa nắm quyền. 2) Chỉ Đẩu Khôi Nam Đẩu, gồm 4 sao. Mặt trăng và Ngũ tinh nhập vào đó, thì đại nhân lo âu, thiên hạ có chiến sự hoặc Ngô Việt có nỗi lo. Thiên Khu : Còn gọi là Khu. 1) Chỉ sao thứ nhất trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Chính tinh. Tƣợng thiên tử. Chủ trời, chủ dƣơng đức, chủ đất Tần. 2) Chỉ ngôi sao thứ 5 của chòm Bắc Cực. Tùy thƣ. Thiên văn chí : "Bắc Cực, Thần vậy. Là khu vực của trời". Xem mục Bắc Cực. Thi : Còn gọi là Thiên Thi. Ngôi sao thứ hai trong 7 ngôi sao của chòm Bác Đẩu. Còn gọi là Pháp tinh, tƣợng vị trí của nữ chúa, chủ đất, chủ âm hình, chủ đất Sở. Cơ : Còn gọi là Thần Cơ. Ngôi sao thƣ ba trong 7 ngôi sao của chùm Bắc Đẩu. Còn gọi là Lệnh tinh. Chủ họa hại, chủ ngƣời, chủ Hỏa, chủ đất Lƣơng. Quyền : Còn gọi là Thiên Quyền. Ngôi sao thứ tƣ trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Phạt tinh, chủ thời gian, chủ Thuỵ, chủ thiên lý (lý của trời), phạt vô đạo, chủ đất Ngô. Hành : Còn gọi là Ngọc Hoành. Ngôi sao thứ năm trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Sát tinh, chủ âm thanh, chủ Thổ, chủ trung ƣơng giúp bốn phƣơng, giết kẻ phạm tôi; chủ vùng đất nằm giữa Hoàng Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nƣớc Triệu. Khai Dƣơng : Ngôi sao thứ sáu trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là sao Nguy. Chủ luật, chủ kho ngũ cốc của trời; chủ vùng đất nằm giữa Hoàng Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nƣớc Yên. Ngọc Hoành : 1) Tức sao Hành. 2) Chỉ ba ngôi sao cán gáo của chòm Bắc Đẩu. Thiên quan thƣ dẫn Văn diệu câu : "Ngọc Hoành thuộc cán gáo, Khôi là Thi Cơ". Xem mục Bắc Đẩu thất tinh. Dao Quang : Còn gọi là sao Phá Quân. Ngôi sao thứ bảy trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Bộ tinh hoặc Ứng tinh. Chủ quân đội, chủ vùng đất nằm giữa Hoàng Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nƣớc Tề. Phụ : Tên chòm sao. Gồm 1 sao Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Cạnh ngôi sao Khai Dƣơng thuộc chòm Bắc Đẩu, sao nhỏ mà sáng, tƣợng đại thần. Nếu to mà sáng, là bầy tôi đoạt quyền vua, nếu nhỏ mà mờ, là bầy tôi không làm tròn trách nhiệm; nêu to, sáng, lại lung linh tức là quân đôi bạo loạn; nếu mờ và xa sao Bắc Đẩu, là bầy tôi chết hoặc mất chức nếu ánh sáng tỏa về một phía, chứng tỏ vua thiên vị, trọng dụng gian thần, gạt bỏ hiền thần, nếu mọc cánh (phát tia sáng ra hai bên), chứng tỏ cận thần vƣợt quyền mƣu quốc sự, định cƣớp ngôi, hoặc danh tƣớng bại trận, bỏ mạng. Thiên Thƣơng : Tên chòm sao. 1) Còn gọi là Thiên Việt. Gồm. 3 sao. Ở phía đông Tử Vi Viên, phía


đông miệng gáo sao Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tƣợng võ bị của trời. Thiếu một sao chứng tỏ đất nƣớc có binh biến . Thƣờng kết hợp với sao Bàng để dự đoán, gọi là Bàng. 2) Tên sao yêu quái, thuộc loại sao Chổi. Hình dạng nhƣ cây thƣơng, hai bên có mũi nhọn, dài vài trƣợng. Xuất hiện lâu quá 3 tháng, ắt có nạn cƣớp ngôi vua, tàn phá đất nƣớc. Cát Giá : Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở bên trong cửa Thái Vi Viên, phía bắc sao Tả Chấp Pháp. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ tán dƣơng tân khách. Tam Công nội tòa : Tên chòm sao. Còn gọi là Tam Công. Gồm 3 sao. Ở đông bắc sao Cát Giả, nam sao Cửu Khanh. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ nơi hội họp của Tam công. Cửu Khanh : Tên chòm sao. Gồm 3 sao ở bên ngoài hàng rào Thái Vi Viên. 3 sao này còn gọi là Cửu Khanh nội tòa. Ở phía nam Ngũ chƣ hầu, phía bắc sao Tam Công. Thuộc Thái Vi Viên. Chủ trì vạn sự. Nội Ngũ chƣ hầu : Tên chòm sao. Còn gọi là Ngũ chƣ hầu, Chƣ hầu hoặc Ngũ hầu. Gồm 5 sao. Ở phía tây sao Cửu Khanh. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ nội thị thiên tƣ. Khi dự đoán. coi việc sao này sáng nhuận là tốt, nếu khô lạnh là các nơi có tai biến nặng thì là tai họa chết ngƣời, nhẹ cũng là nạn lƣu vong, có kẻ nhân danh thiên mệnh mà xâm phạm vua chúa. Nội Bình : Tên chòm sao. Gọi tắt là sao Binh. Gồm 4 sao. Ơû bên trong cửa chính của Thái Vi Viên phía dƣới Ngũ đế tòa, gần sao Hữu Chấp Pháp. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ việc che kín chỗ ngồi của đế vƣơng. Ngũ đế tòa : Tên chòm sao. Còn gọi là Ngũ tinh tinh tòa, Ngũ đế nội tòa, gọi tắt là Đế tòa. Gồm 5 sao. Ơû trong Thái Vi Viên, phía bắc giáp sao Tể Thần, Thái Tử, Tòng Quan; phía nam giáp sao Bình. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Ngôi lớn nhất ở giữa là chỗ của Hoàng đế, bốn vị đế khác ở xung quanh, mạn đông là sao Đế (Thanh Đế). Linh Uy Ngƣỡng, mạn nam là sao Xích Đế Hách Phiêu Nộ, mạn tây là sao Bạch Đế Triệu Củ, mạn bắc là sao Hắc Đế Diệp Quang Kỵ; tƣợng 5 tòa Ngũ đế tụ tập thần linh mƣu sự Tòa Ngũ đế sáng là tốt. Sáng thì thiên tử làm đúng đạo trời, y đất; mờ thì thiên tử thất vị; nếu nhỏ yếu, xanh đen, thì vua chết. Hạnh Thần : Ten chòm sao. Gồm 1 sao. Ơ bên trong Thái Vi Viên, phía bắc Ngũ đế tòa, phía đông sao Thái Tử. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tƣợng sủng thần. Thái Tử : 1) Tên sao. Ngôi sao ở chót nam của chòm sao Bắc Cực, phía trên giáp sao Đế. 2) Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở bên trong Thái Vi Viên, phía bắc Ngũ đế tòa. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tƣợng con trai của thiên tử, việc của Thái tử. Tòng Quan : 1 ) Tên chòm sao. Gồm 1 sao ở bên trong Thái Vi Viên, phía bắc Ngũ đế tòa, phía tây sao Thái Tử. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tƣợng bầy tôi đứng hầu vua. 2) Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở tây nam sao Phòng, tây bắc sao Tích Tốt. Thuộc Nam cung hoặc sao Phòng. Tƣợng bầy tôi đứng hầu vua. Tƣớng Vị : Hoặc gọi là Lang Tƣớng. Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ơû phía bắc sao Lang Vị. Tƣợng các tƣớng soái. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ duyệt binh, võ bị. Sao này sang thì quân đội hùng mạnh, mờ thì quân yếu ớt; to mà sáng, lại có góc cạnh, thì tƣợng dũng tƣớng vô địch. Hổ Bôn : Hoặc gọi là Võ Bôn. Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ơû bên ngoài Tây Viên của Thái Vi Viên, phía tây sao Thƣợng Tƣớng, phía nam sao Hạ Đai. Tƣợng võ sĩ hộ vệ Thiên Tử. Sao dao động, là thiên tử rời cung đi ra ngoài. Sao này sáng, thì võ binh mạnh; sao mờ thì võ binh yếu. Thƣờng Trần : Tên chòm sao. Gồm 7 sao. Ơû phía bắc Thái Vi Viên. Thuộc Đông cung hoặc Thái Vi Viên. Tƣợng võ sĩ hộ vệ Thiên Tử. Sao dao động, là thiên tử rời cung đi ra ngoài. Sao này sáng, thì võ binh mạnh; sao mờ thì võ binh yếu.


Lang Vị : Còn gọi là Viên Điểu hoặc Y Điểu. Hán thƣ gọi Viên Điểu là diện mạo của sao. Tên chòm sao. Gồm 15 sao. Ơû đông bắc Ngũ đế tòa. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ hộ vệ. Khi dự đoán, lấy việc chòm sao 15 ngôi này sáng nhuận, hiện diện đủ là cát. Có khi sao sáng thì đoán là đại thần lấn chúa hoặc khách phạm thƣợng; sao không hiện diện đủ, là sủng thần bị chém. Khách tinh nhập vào đó, thì đoán là đại thần làm loạn. Minh đƣờng : 1) Chỉ sao Phòng hoặc sao Tâm. Tùy thƣ. Thiên văn chí : "Phòng là Minh Đƣờng". Thiên quan thƣ : "Tâm là Minh Đƣờng". Hoặc sao Phòng cùng sao Tâm hợp thành Minh Đƣờng. Xuân Thu thuyết đề từ : "Phòng, Tâm là Minh Đƣờng, cung mà Thiên vƣơng bố chính". 2) Tên chòm sao. Gồm 3 sao. Ở phía bắc sao Dực, tây nam sao Hữu Chấp Pháp . Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tƣợng cung mà thiên tử ban bố chính sách. Linh Đài : l) Tên chòm sao. Gồm 3 sao. Ở bên ngoài Hữu Viên của Thái Vi Viên. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tƣợng đài quan sát hiện tƣợng. Chủ việc quan sát khí hậu, điềm báo, đoán tai biến. 2) Thời xƣa thiết lập đài quan sát hiện tƣợng, gọi là Linh Đài. Thiếu Vi : Còn gọi là sao Xử Sĩ. Tên chòm sao. Gồm 4 sao. Ơû phía tây Hữu Viên của Thái Vỉ Viên, xếp thành hàng theo chiều nam bắc. gần sao Hổ Bôn và Thƣợng Tể Tƣớng. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tính từ bắc xuống nam là Xử Sĩ, Nghị Sĩ, Bác Sĩ, Đại Phu. Coi việc sao to, sáng màu vàng nhuận là hiền sĩ đƣợc trọng dụng; sao mờ là hiền sĩ không đƣợc trọng dụng. Mặt trăng, Ngũ tinh phạm thủ, thì đoán là xử si, nữ chúa lo âu, tể tƣớng dễ mất chức. Trƣởng Viên : Tên chòm sao. l) Gồm 4 sao. Ơ phía tây Thái Vi Viên, phía nam Thiếu Vi. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. chú biên cƣơng, dân tộc Hồ. Sao Huỳnh Hoặc nhập Trƣởng Viên là ngƣời Hồ xâm nhập Trung Quốc; sao Thái bạch nhập vào đây là cửu khanh có mƣu mô. 2) Tức Tử Vi Viên. Xem mục Tử vi , nghĩa thứ 2. Tam Đài : Còn gọi là Tam Năng, Thái Giai, Thiên Giai hoặc Thiên Trụ. Tên chòm sao. Gồm 6 sao. Chia ra 3 cặp Thƣợng Đài, Trung Đài, Hạ Đài. Thƣợng Đài khởi từ Văn Xƣơng, Trung Đài đối diện với sao Hiên Viên, Hạ Đài ở phía dƣới Thái Vi. Thuộc Trung cung hoặc Thái Vi Viên. Tƣợng 3 bậc thềm của thiên tử. Bậc thềm trên cùng gồm 2 sao, bên trên là Nam chúa, bên dƣới là Nữ chúa. Bậc thềm giữa gồm 2 sao, trên là Chƣ hầu tam công, dƣới là Khanh đại phu. Bậc dƣới cùng gồm 2 sao, trên là Sĩ, dƣới là Thứ dân. Chúa thì dùng âm dƣơng hài hòa mà cai quản vạn vật, lại tƣợng trƣng địa vị Tam công, chú tuyên dƣơng đức độ. Thƣợng Đài cai quản mệnh, chủ thọ. Trung Đài cai quản trung, chủ tôn thất. Hạ Đài cai quản lộc, chủ việc binh, ngăn chặn gian tà. Khi dự đoán, coi Tam Đài song hành chỉnh tề là cát, là âm dƣơng hài hòa, mƣa thuận gió hòa, vua tôi một lòng; ngƣợc lại thì khí hậu quái gở, mất mùa, có thiên tai, chiến tranh. Tam Năng : Tức Tam Đài. Thiên quan thƣ: (Sáu ngôi sao phía dƣới sao Khôi, xếp thành 3 cặp cân xứng, là Tam Năng". Tập giải dẫn Tô Lâm viết: "Năng là đài". Xem mục Tam

Đài.

Thị Lâu : Còn gọi là Thị Lâu Thị Phủ. Tên chòm sao. Gồm 6 sao. Ơû bên dƣới Thiên Thị Viên, phía trên sao Ki. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chỉ giá cả thị trƣờng. Xa Tứ : Tên chòm sao. Gồm 2 sao. Một ngôi ở trong, một ngôi ở ngoài cửa Thiên Thị, ở tây bắc sao Tống thuộc Tả Viên. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chỉ khu vực buôn bán của dân chúng. Tông Chính : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở tây nam Nội Đế tòa của Thiên Thị Viên. Thuộc cung hoặc Thiên Thị Viên. Tƣợng tôn thất đại phu. Nếu sao Chổi thủ ở đó, sao mất màu, thì đoán là đại phu có chuyện . Nếu Khách tinh thủ ở đó, thì đoán là hiệu lệnh thay đổi. Tông Nhân : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở phía đông sao Tông Chính" Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc cúng tế c thân. Nếu sao sáng mà có vân đẹp, đoán là vƣơng tộc hoa hợp; nếu sao dao động, tức là thân thích nhà vua có biến. Khách tinh thủ ở đó, đoán là có quí nhân qua đời.


Tông : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc sao Tông Chính, phía đông sao Hầu. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tƣợng tôn thất, thân thích của thiên tử. Khách tinh thủ ở đó, thì đoán là vƣơng tộc bất hòa. Bạch Dạc : Ten chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc sao Tông Chính. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc đo lƣờng vải vóc. Đỗ Tử : Tên chòm sao. Gồm sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông hắc sao Bạch Đạc. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tƣợng chợ mua bán gia súc. Hầu: 1) Tên chòm sao. Gồm 1 sao ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc sao Đế tòa. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ hòa âm dƣơng. Sao sáng ma to, đoán là đại thần phò tá vững vàng, không lo các dân tộc thiểu số xâm phạm bờ cõi. Sao mở mà nhỏ, là đất nƣớc bình an. Thiếu vắng sao này, là chúa thất vị. Sao di chuyển vị trí là chủ bất an. 2) Nhƣ sao Hậu. Tƣợng điềm trời. Trong thiên văn cổ đại có thuật ngữ Chiêm đoán khí hậu, mƣa gió. 3) Nhƣ sao Hầu. Tƣợng dự đoán, dự báo, nhƣ "Hầu Tuế", với ý đầu năm hoặc đầu mùa dự báo quang cảnh một năm. 4) Nhƣ chữ Hậu. 5 ngày là một Hậu. Tố vấn. Tạng tƣợng luận : (năm ngày gọi là một Hậu, ba Hậu là một Khí, sáu Khí là một Thời, bốn Thời là một năm Một năm có 72 Hậu. Đế tòa : 1) Chỉ Ngũ đế tòa. 2) Chỉ Ngũ đế nội tòa. 3) Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở trong Thiên Thị Viên. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên, phía tây sao Hầu. Tƣợng thiên đình. Sao sáng nhuận, đoán là thiên tử cát; ít sáng và nhỏ, đoán là đại nhân hung. Di Giả : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, tây nam Đế tòa. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tƣợng ngƣời hầu hạ vua chúa. Sao nhỏ đoán là cát, sao sáng thì hung. biến đổi khó lƣờng thì kẻ hầu vua có lo buồn. Sao Chổi phạm vào đó, thiên hạ có tang hoặc quân bại trận. Liệt Tử : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên trong hai hàng rào Thiên Thị Viên, phía tây nam cao Hộc. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ hàng hóa quý giá, tƣợng chợ mua bán vàng ngọc. Hộc : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở phía bắc sao Thị Lâu, bên trong hai hàng rào Thiên Thị Viên. Thuộc cung hoặc Thiên Thị Viên. Tƣợng vị quan đo lƣờng ở chợ trên trời. Chủ đo lƣờng chất lỏng. Quán Sách : Còn gọi là Liên Sách, Thiên Quốc hoặc Thiên Lao. Tên chòm sao, gôm 9 sao. Thiên quan thƣ, Hán thƣ. Thiên văn chí nói là gồm 15 sao, ở đông nam cái gáo sao Bắc Đẩu, phía nam sao Thất Công, phía tây sao Cánh Hà. Thuộc Trung cung hoặc Thái Vi Viên. Quan tƣợng ngoạn chiêm nói là ở bên ngoài Thiên Thị Viên, thuộc Thiên Thị Viên. chủ pháp luật cấm cƣờng bạo. Tƣợng nhà lao nhốt đạo tặc. Cửa nhà lao có 1 sao trấn giữ. Sao này sáng, thì có ân xá. Không thấy sao nay, tức là trong ngục có nhiều tù nhân. Sao lung linh, đoán là có việc nhà binh. Thấy đủ 9 sao, đoán là nhà ngục đông đảo, hoặc có việc mừng nhỏ; thấy 8 sao, đoán là có ban lộc, thấy 7 sao vua có đức, có lệnh ân xá, thấy 5 sao, có đại xá. Vắng cả 9 sao, đoán là lao ngục đơn giản. Khách tinh ra khỏi đó, sao lớn là có đại xá, sao nhỏ là có tiểu xá. Thất Công : Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở phía đông sao Dao Quang, bắc sao Quán Sách. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tƣợng Tể tƣớng, Tam công trên trời. Chủ thất (bảy) chính. Thiên Kỵ : Tên chòm sao. gồm 9 sao, ở phía đông sao Quan Sách. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tƣợng cửu khanh. Chủ ghi chép vạn sự, xử lý khiếu kiện. Sao này sáng, thì thiên hạ lắm việc kiện tụng. Không thấy là chính lý bại hoại, kỵ cƣơng rối loạn. 9 sao phân tán là động đất, núi lở. Sao Chổi phạm vào là có động đất. Nữ Sàng : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía bắc sao Thiên Kỵ. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc hậu cung. CHÕM

SAO

NHỊ

THẬP

BÁT


Giốc : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, sao phía bắc nhỏ, sao phía nam lớn, trên nhỏ dƣới to, thành hình cái sừng. Cắt ngang chòm sao Bình Đạo, ở phía đông sao Cang, phía nam sao Thiên Điền, phía bắc sao Thiên Môn. Hoàng đạo chạy qua sao này (hiện nay Xích đạo cũng chạy qua nó). Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phƣơng đông. Sao Giốc bên trái (phía bắc) là Lý, tức pháp quan. chủ hình phạt. Sao Giốc bên phải (phía nam) là Tƣớng, chủ quân đội. Giốc là tƣợng cửa ải trên trời, cùng với Thiên Vƣơng đế đình và Thiên Môn hợp thành ba cửa trời. Chòm này sáng mà lớn, là đạo trời thái bình, ngƣời hiền ở trong triều đình; nếu dao động di chuyển, là vua vi hành. Sao Hỏa phạm thủ sao Giốc, là có chiến sự bùng nổ. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú. Sao thứ nhất trong 7 sao phƣơng đông, gồm 11 chòm : Giốc, Bình đạo, Thiên điền, Tiến Hiền, Chu Đinh, Thiên Môn, Bình, Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn, với 45 ngôi sao. Tấn thƣ. Thiên văn chí cho rằng 6 sao từ Thiên Môn đến Nam Môn không nằm trong Nhị thập bát tú. Tinh thần khảo nguyên cho rằng Giốc chỉ gồm 3 chòm Giốc, Tiến Hiền, Thiên Điền. Có thuyết tính sao Giốc khởi từ Đại Giốc, cùng với 2 sao Giốc hợp thành hình đầu rồng. Giốc và Cang, Đê cung là phân dã của Dõan Châu. 3) Tên gọi tắt sao Đại Giốc. Bình Đạo : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở giữa 2 sao Giốc. Thuộc Đông cung hoặc giốc tú. Tƣợng quan Bình đạo. Thiên Điền : 1) Tên chòm sao, tức sao Giốc bên trái. 2) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía bắc sao Giốc, nam sao Hữu Nhiếp Đề. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tƣợng tịch điền của thiên tử, chủ việc canh nóng. 3) Tên chòm sao, gồm 9 sao; có thuyết nói gồm 4 sao, ở khoảng giữa ba sao Khiên Ngƣu, La Yến và Cửu Khảm. Chủ việc canh nông. Tiến Hiền : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây bắc sao Bình Đạo. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc, chủ khanh tƣớng tiến cử ngƣời hiền tài. Sao Thái Bạch phạm vào đó đoán là ngƣời tiến cử bị chém đầu. Thiên Môn : 1 ) Tên chòm sao gồm 2 sao, ở phía nam sao Giốc, phía bắc sao Bình. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tƣợng của thiên phú chủ sự việc thiên phủ. 2) Tức Thiên Quan. Bình : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía bắc sao Khố Lâu. Thuộc đông cung hoặc sao Giốc. Tƣợng Đình úy, chủ cai quản việc hình ngục trong thiên hạ. Khố Lâu : Còn gọi là Thiên Khố, Thiên Lâu hoặc Thiên Khố Lâu. 1) Tên chòm sao, gồm 10 sao, ở phía nam sao Giốc đông nam sao . Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Trong 10 sao, 6 ngôi lớn uốn cong thành hình nhà kho, 4 ngôi vuông thành hình cái lầu. Còn tƣợng trƣng cho binh xa. Dự đoán cùng với các sao Ngũ Trụ, Hành, Dƣơng Môn, Nam Môn. Ngũ Trụ tụ thành 5 nhóm ở trong và ngoài Thiên Khố, chủ ngựa xe; sao Hành ở bên trong thiên Khố chủ quân dàn trận. Sao Dƣơng Môn ở phía đông bắc Khố Lâu, chủ việc canh giữ kho lẫm. Nam Môn ở Nam Khố Lâu, tƣợng cổng của trời, chủ quân canh giữ. Ngũ Trụ : Còn gọi là Thiên Trụ, Trụ. Tên chòm sao, gồm 15 sao, Thiên quan thu gọi là Ngũ Xa của Nam cung. Tụ thành 5 chòm, nên có tên đó. Nằm ở nam bắc, trong ngoài sao Khố Lâu. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tƣợng cột của kho nhà trời, nếu có nhiều tia sáng chia ra hoặc sắp xếp không chỉnh tề, thì đoán là không có chỗ bố trí xe ngựa. Nam Môn : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía nam sao Khố Lâu. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tƣợng cổng của trời, chủ quân canh giữ (Sao sáng mà thấp, là có chƣ hầu đến nộp cống; sao mờ, thì đoán là chƣ hầu làm phản. Khách tinh thủ ở đó đoán ra quân bên ngoài kéo tới. Cang : 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Giốc, phía nam sao Đại Giốc, hình dạng cong nhƣ cánh cung, tiếp liền với sao Thiên Vƣơng đế đình. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phƣơng đông. Tƣợng đền thờ của thiên tử, chủ cai quản hình ngục, ghi chép công trạng. Có thuyết nói là chủ việc


cúng tế bên ngoài triều đình, chủ dịch bệnh. Sao sáng mà lớn, đoán là bầy tôi trung thành thiên hạ yên ổn, không có dịch bệnh, ngƣợc lại là bầy tôi bất trung, thiên hạ không yên; sao dao động, đoán là có nhiều ngƣời bị dịch bệnh 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ hai trong 7 sao phƣơng đông. Gồm 7 chòm sao : Cang. Đại Giốc, Chiết Uy, Tả và Hữu Nhiếp Đề, Độn Ngoan, Dƣơng Môn, với 22 ngôi. Cang và Giốc, Đê cùng là phân dã của Doãn Châu. Đại Giốc : Gọi tắt là Giốc. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở chót phía bắc sao Cang, giáp hai sao Tả và Hữu Nhiếp Đề. Thuộc đông cung hoặc sao Cang. Tƣợng tòa Thiên vƣơng hoặc Thiên vƣơng đế đình, tƣợng vua chúa. Sao này sáng nhuận, màu vàng, thì đoán là thiên hạ đại đồng. Chiết Uy : Còn gọi là Thất Chiết Uy. Tên chòm sao gồm 7 sao, ở phía nam sao Cang. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Chủ việc chém đầu. Nhiếp Đề : Chỉ hai sao Tả và Hữu Nhiếp Đề. Tên chòm sao, ở hai bên sao Đại Giốc. Ba sao bên trái là Tả Nhiếp Đề, ba sao bên phải là Hữu Nhiếp Đề. Tƣợng đại thần, chủ tám tiết, cai quản vạn sự. Hoặc tƣợng hậu thuẫn, chủ cửu khanh. Sao to mà mờ, đoán là vua lo sơ. Khách tinh nhập vào đó, đoán là thánh nhân bị chế ngự. Tả Nhiếp Đề : Tên chòm sao, gồm 3 sao. Ở phía đông sao Đại Giốc. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Xem mục Nhiếp Đề. Hữu Nhiếp Đề : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía tây sao Đại Giốc. Thuộc Dông cung hoặc sao Cang. Xem mục Nhiếp Đề . Độn Ngoan : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông nam sao Chiết Uy. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Chủ cai quản tình hình tù nhân, xét đoán sự gian trá. 2) Tên lƣu tinh. Sao này di chuyển nhƣ bay, sao to nhƣ cái phễu, đuôi trắng, trƣớc thấp, sau cao. Đuôi dài đoán là có nhiều ngƣời chết. Dƣơng Môn : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông bắc sao Khố Lâu, tây nam sao Độn Ngoan. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Tƣợng cửa ngoài của kho quân giới, chủ canh giữ kho. Đê: 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Cang, phía tây sao Phòng, uốn cong phía bắc Hoàng đạo nam. Còn gọi là Thiên Căn. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phƣơng đông. Tƣợng chỗ ở của vua, phủ của Hậu phi, nơi nghỉ ngơi . Hai sao đầu tƣợng vợ cả, hai sao sau tƣợng hầu thiếp. Sao sáng mà lớn, đoán là cận thần hầu hạ chu đáo. Sao dao động, đoán là sắp có việc lao dịch. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ ba trong 7 sao phƣơng đông. Gồm 11 chòm sao : Đê, Thiên Nhũ, Triệu Dao, Canh Hà, Đế tòa, Cang Trì, Kỳ Quan, Trận Xa, Xa Ky. Thiên Bức, Ky Trận Tƣớng Quân, với 54 ngôi sao. Thiên văn chí đời Tống chép rằng chòm sao Đê không có các sao Trận Xa, Thiên Bức, Kỳ Trận Tƣớng Quân. Tinh thần khảo nguyên thì cho rằng chòm này không có các sao Canh Hà, Triệu Dao. Đê và Giốc, Cang cùng là phân dã của Dõan Châu. Thiên Nhũ : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đông bắc sao Đê, bên ngoài Hữu Viên của Tử Vi Viên. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Chủ nƣớc Cam lồ. Sao sang thì đoán là tốt. Triệu Dao : Còn gọi là sao Dữ hoặc Thiên Dữ. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía nam sao Dao Quang (của chòm Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc sao Đê. Chủ việc quân của tội Hồ. Sao sáng mà không đoan chính, đoán là quân tộc Hôg không nghe lệnh Trung Quốc. Cùng tranh sáng với sao Cánh Hà, Bắc Đẩu, thì đoán là quân tộc Hôg thƣờng đến thụ mệnh của Trung Quốc. Áng sáng chớp chớp, có sừng lớn, đoán là chiến sự bùng nổ. Dữ

:

Tức

Chất

:

Tức

Triệu Thiên

Dao. Phong.

Thiên Phong : 1) Tên chòm sao, còn gọi là Phong Chất, Thiên Chất, gồm 1 sao. Thiên quan thƣ viết rằng ở đầu cái gáo sao Bắc Đẩu có 2 ngôi sao, "một ở bên trong là sao Dữ, tức Triệu Dao, một ở bên


ngoài là sao Chất, tức Thiên Phong". Tùy thƣ. Thiên văn chí thì viết, rằng sao Cánh Hà tức là sao Thiên Phong, phía bắc sao đó là sao Triệu Dao, tức sao Dữ. Khi dự đoán thì giống nhƣ sao Cánh Hà, Tiêu Dao. 2) Tên sao yêu quái, đuôi của nó tƣợng trƣng đầu mút cái thuỗn, chủ tung hoành. Cánh Hà : Tên chòm sao. Thiên nguyên lịch lý viết: "Hà tức là kha (cành cây), thuộc loại giáp trƣợng", nên còn gọi là Cánh Kha hoặc Thiên Phong, gồm 3 sao, ở phía nam sao Triệu Dao, phía bắc sao Đại Giốc. Thuộc Trung cung hoặc sao Đê. Tƣợng sao chở kiếm. Chủ quan của tộc Hồ. Không thấy sao này, hoặc tiến thoái bất định, thì đoán là sắp có tai họa ở vùng biên cƣơng. Lại chủ tang. Ánh sáng biến động, đoán là quân bại trận. Đế tòa : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía tây bắc sao Đại giốc, tây nam sao Cánh Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê chủ yến tiệc. Cang Trì : Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía bắc sao Cang, giữa 2 sao Tả và Hữu Nhiếp Đề. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tƣợng tàu thuyền đi lại nghênh tống. Kỳ Quan : Tên chòm sao. gồm 27 sao. Nghi tƣợng khảo thành viết là gồm 10 sao ở phía nam sao Đê, phía bắc sao Kỳ trận Tƣớng Quân. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tƣợng thiên tử xuất hành. Chủ việc của túc vệ. Trận Xa : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía nam sao Đê, phía đông bắc sao Kỳ Quan, phía tây sao Thiên Bức. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tƣợng binh xa. Xa Kỳ: Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía đông nam sao Khố Lâu, phía nam sao Kỳ Quan. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tƣợng tƣớng cƣỡi xe. Thiên Bức : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông nam sao Đê, phía tây sao Phòng, theo chiếu nam bắc. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Chủ quan ngồi xe, chủ việc cúng tế. Kỳ Trận Tƣớng Quân : Tên chòm sao. gồm 1 sao, ở phía nam sao Đê, giữa 2 sao Kỳ Quan và Xa Kỳ. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê, tƣợng vi tƣớng cƣỡi xe. Phòng : Còn gọi là Thiên Tứ, Thiên Cứu. 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông bắc sao Tâm, tây nam sao Đê, phía dƣới 4 sao Biện Bế, Câu Linh, Đông Hàm và Tây Hàm. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phƣơng đông. Tƣợng ngựa trời, chủ xa giá. Bốn sao là Tả Tham, Tả Phục, Hữu Phục, Hữu Tham. Cũng tƣợng chuồng gia súc. Chủ việc đóng mở. Hai sao bên dƣới chỉ vị trí của vua, hai sao trên chi vị trí phu nhân. Hai sao Phòng, Tâm sáng thì đoán là vua sáng suốt. Sao Tham (hoặc Thƣợng Tể Tƣớng và Thƣợng Tƣớng) lớn thì chiến sự bùng nổ. Sao dời chỗ là dân chúng li tán. Sao Phòng còn là tƣợng "Thiên cù đại đạo" (đƣờng lớn, đƣờng cái quan trên trời), nếu mặt trời, mặt trăng cùng Ngũ tinh ra vào nơi đó, thì thiên hạ yên ổn. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao Phòng, Tâm và Câu Linh, thì đó là triệu chứng động đất. Mặt trăng phạm vào sao Phòng, ắt bầy tôi phò tá bị chém đầu. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ tƣ trong 7 sao phƣơng đông. Gồm 7 chòm sao chính và 1 chòm sao phụ : Phòng, Kiện Bế, Phạt, Đông Hàm, Tây Hàm, Nhật, Tòng Quan, Câu Linh, với 21 ngôi. Sách Càn tƣợng thƣ của Cảnh Hựu đời Tống xếp sao Đông Hàm vào chòm sao Tâm; Tinh thần khảo nguyên thì xếp các sao Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn vào chòm sao Phòng. Phòng và Tâm cùng là phân dã của Dự Châu, chỉ nƣớc Tống. Câu Linh : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía bắc sao Phòng, gần đỉnh sao Phòng. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Tƣợng chuông cửa, tiếng sáo của trời. Chủ đóng kín, đề phòng bất trắc. Câu Linh sáng, thì vua có hiếu, sáng mà gần sao Phòng, thì thiên hạ đồng tâm; rời xa sao Phòng thì thiên hạ bất hòa, vua tuyệt tự. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao Phòng, Tâm, thì đó là triệu chứng động đất. Kiện Bế : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đông bắc sao Phòng, giữa hai sao Câu Linh và Đông Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Chủ chốt giữ khu vực quan trọng. Sao Huỳnh Hoặc phạm vào đó, thì vua có lo âu. Sao Điền phạm vào đo, thì nhà vua không nên ra khỏi cung điện.


Phạt : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía bắc sao Phòng Tâm, giữa 2 sao Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Chủ sự mua chuộc. Lƣỡng Hàm : Chỉ hai sao Dông Hàm và Tây Hàm. Mỗi sao Hàm gồm 4 sao, ở hai bên phía trên sao Phòng và Tâm. 4 sao phía đông gọi là Đông Hàm , 4 sao phía tây gọi là Tây Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Lƣỡng Hàm ở khoảng giữa Hoàng đạo, nên đƣợc coi là Trung đạo của mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh. Tƣợng cứa phòng. Chủ đề phòng dâm loạn, sao sáng thì tốt, sao mờ thì hung. Mặt trăng, Ngũ tinh phạm hoặc thủ ở đó, đoán là có âm mƣu. Đông Tây

Hàm Hàm

: :

Xem Xem

mục

Lƣỡng

Hàm.

mục

Lƣỡng

Hàm.

Tâm : 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía đông sao Phòng. Ngôi lớn ở giữa, gọi là Minh Đƣờng, nên sao Tâm còn gọi là Minh Đƣờng; ngôi thứ 2 là Thiên Vƣơng, tƣợng địa vị thiên tử, nơi vua ban bố chính sách, chủ việc thƣởng phạt trong thiên hạ. Sao này sáng mà lớn, thì đoán là thiên hạ đại đồng; ngôi ở phía nam là Thái Tƣ, nếu mở thì Thái tử không đƣợc chọn nối ngôi. Ngôi ở phía bắc là Thƣ Tử, nếu sáng thì con thứ đƣợc chọn. Sao Tâm mờ đen, là đại nhân lo âu. Sao dao động, là cỏ sự biến khẩn cấp trong nƣớc; ánh sao mọc sừng là chiến sự bùng nổ. Các sao tách xa nhau, là dân chúng phải ly tán. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao Phòng, Câu Linh, thì đó là triệu chứng động đất. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ năm trong 7 sao phƣơng đông. Gồm 2 chòm sao : Tâm, Tích Tốt, với 15 ngôi sao. Tấn thƣ. Thiên văn chí viết rằng Tích Tốt không thuộc chòm sao này. Tâm và Phòng cùng chỉ nƣớc Tống, là phân dã của Dự Châu. Thiên Vƣơng : l) Tên sao, chỉ ngôi sao ở giữa trong 3 ngôi của chòm sao Tâm, còn gọi là Minh Đƣờng. Xem mục Tâm, nghĩa thứ nhất. 2) Tức Thiên hoàng đại đế. Tích Tốt : Tên chòm sao, gồm 12 sao. tƣợng nghi khảo thành viết rằng chỉ gồm 2 sao, ở phía nam sao Phòng, sao Tâm. Thuộc Đông cung hoặc sao Tâm. Chủ thị vệ. Khách tinh thủ ở đó thì đoán là cận thần bị chém đầu. Vĩ : l) Tên chòm sao, gồm 9 sao, còn gọi là Vĩ Cửu Tử, ở phía đông nam sao Tâm, có dạng uốn cong nhƣ cái đuôi. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phƣơng đông. Tƣợng cung điện của hoàng hậu, phi tần. Sao thứ nhất gần giữa là Hậu, sao thứ 3 là Phi, tiếp theo là Tần, 2 ngôi cuối là Thiếp. Tấn thƣ. Thiên văn chí gọi ngôi thứ 3 là Phu Nhân, 5 ngôi còn lại là Tần, Thiếp. Ngôi sao cạnh ngôi thứ 8 là Thần Cung, tƣợng phòng thay áo. Khi đoán, các sao đều sáng, to nhỏ nối tiếp nhau là tốt, là hậu và phi trong cung có thứ tự, đông con cái; sao mờ và nhỏ, là trong hậu cung có chuyện đố ky. Sáng tối bất định, hoặc ánh sao dao động, là hậu phi không còn thứ tự trên dƣới, vua tôi bất hòa, thiên hạ rối loạn. 9 sao tụ gần nhau là có nạn hồng thủy. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ sáu trong 7 sao phƣơng đông. Gồm 5 chòm sao chính và 1 chòm phụ : Vĩ, Quy, Thiên Giang, Phó Thuyết, Ngƣ và Thần Cung, với 21 ngôi (xem hình 104). Tân thƣ. Thiên văn chí cho rằng các sao Quy, Phó Thuyết, Ngƣ không thuộc chòm sao Vĩ. Tấn thƣ. Thiên văn chí thì không xếp sao Thần Cung. Sao Vĩ cùng với sao Ki cùng chỉ nƣớc Yên, là phân dã của U Châu. Thần Cung : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở bên cạnh ngôi thứ 3 sao Vĩ. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Là chòm sao phụ của sao Vĩ. Tƣợng phòng thay áo trong hậu cung. Quy : 1) Còn gọi là Liên Châu. Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía nam sao Vĩ, trong Thiên Hà, giống hình con rùa. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Chủ chiêm bốc (bói toán cát hung). 2) Xem mục Bốc Phệ, nghĩa thứ nhất. Thiên Giang : Gọi tắt là Giang. Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở bên dƣới Tử Vi Viên, phía bắc sao Vĩ. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Chủ Thái âm. Không nhìn thấy sao này, thì bến sông trong thiên hạ không thông suốt. Sao sáng mà dao động, là có lụt lớn, chiến tranh bùng nổ. Bốn sao xếp lệch lạc, thì ngựa tăng giá. Hỏa tinh thủ ở đó, ắt có việc lập vua. Khách tinh nhập vào sao Giang, đoán là bến sông khô cạn. Phàm mặt trăng, Ngũ tinh phạm sao này, đều đoán là bến sông tắc nghẽn.


Phó Thuyết : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở khoảng giữa sao Vĩ và sao Ngƣ, trong Thiên Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Tƣợng quan coi bói. Chủ việc cúng lễ trong hậu cung, cầu tự. Sao sáng mà lớn, là vua nhiều con cháu. Ngu : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía bắc sao Vĩ và Phó Thuyết, trong Thiên Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ Chủ âm sự, biết thời tiết mƣa gió. Sao không sáng, đoán là cá chết nhiều, ít cá. ánh sao dao động, ắt có lũ lụt lớn; rời xa Thiên Hà, đoán là có nhiều cá chết. Kỵ :1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Vĩ, trông nhƣ cái ki (cái hốt rác). Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phƣơng đông. Còn gọi là Thiên Tân hoặc Thiên Kế. Cũng nhƣ sao Vĩ, tƣợng cung điện của hậu phi. Còn tƣợng miệng trời, chủ xuất khí, chủ bát phong (tám thứ gió). Mặt trời, mặt trăng ở chỗ sao Ki, ắt có gió lớn. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ bảy trong 7 sao phƣơng đông. Gồm 3 chòm sao : Ki, Khang, Chử, với 8 ngôi. Tấu thƣ. Thiên văn chí cho rằng chòm này chỉ có sao Ki, không có 2 sao Khang, Chử. Sao Ki cùng với sao Vĩ chỉ nƣớc Yên, là phân dã của U Châu. Khang: Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây sao Ki, tây bắc sao Chử. Thuộc Đông cung hoặc sao Ki. Chủ lƣơng thực. Đẩu : 1) Tên chòm sao, tức Nam Đẩu, gồm 6 sao. Còn gọi là Thiên Cơ. Màu đỏ, ở phía nam Thiên Thị Viên, phía đông sao Ki, hình nhƣ cái cán gáo. Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phƣơng bắc. Tƣợng đền miếu trên trời, là địa vị thừa tƣớng, tể tƣớng. Chủ chiêu hiền đãi sĩ, bẩm thụ tƣớc lộc lại chủ binh khí. Hai sao phía nam là Đẩu Khôi, Thiên Lƣơng; hai sao ở giữa là Thiên Tể Tƣớng; hai sao phía bắc là Thiên Phủ Đình, lại chủ tuổi thọ của thiên tứ Sao Đẩu sáng nhuận, đoán là đạo vua hòa bình, tƣớc lộc ban đều. Ánh sao dao động, chĩa ra nhƣ súng, đoán là thiên tử lo buồn, có chiến sự, có đại thần bị đuổi. Ở phía bắc sao Đẩu có ngôi sao lớn là sao Kiến. Hoàng đạo chạy xuyên qua giữa hai sao Đẩu và Kiến. Khi chiêm đoán, thƣờng gộp Đẩu và Kiến để cùng đoán. Xem mục Kiến. 2) Tên chòm sao, tức sao Đẩu của Nam Đẩu. Một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ nhất trong 7 sao phƣơng bắc. Gồm 10 chòm sao : Đẩu, Kiến, Thiên Biền, Biết, Thiên Kê, Thiên Thƣợc, Cẩu Quốc, Thiên Uyên, Cẩu, Nông Trƣợng Nhân, với 62 ngôi sao. Với sao Ngƣu cùng chỉ Ngô Việt, là phân dã của Dƣơng Châu. 3) Chỉ "Bắc Đẩu thất tinh". 4) Tên chòm sao, gồm 5 sao , ở phía tây Nội Di của Thiên Thị Viên, hình dạng nhƣ cái gáo. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ cân đo. Sao Đẩu chênh lên chứng tỏ việc cân đo trong thiên hạ sai lệch, sao Đẩu chúc xuống chứng tỏ thiên hạ đƣợc mùa. Kiến : còn gọi là Thiên kỳ tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam sao Bắc đẩu Tƣợng thiên chi đô quan, trống trời, mƣu sự hoặc thiên mã. 2 sao phía nam là Thiên khố, 2 sao ở giữa là thực, 2 sao ở phía bắc là Kỳ Phụ ở giữa đẩu có hoàng đạo quán xuyến tức là đƣờng thất diệu. Nhìn thấy ảnh sao nhấp nháy thì dân mệt mỏi, ngƣợc lại thì dân nhàn. Bị ánh trăng che mờ đi thì thấy giao long; bò ngựa bị ôn dịch. ánh trăng và Ngũ tinh phạm vào thì đại thần gièm pha lẫn nhau. Có hành động mƣu hại chủ, mùa màng thất bát, có nƣớc lớn. Thiên Biền : Còn gọi là Thiên Biện. Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía bắc sao Đẩu và sao Kiến, phía đông nam Tả Viên của Thiên Thị Viên. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ viên trƣởng quan coi chợ và tình hình thị trƣờng. Sao sáng là cát. Sao Chổi phạm vào đây, thì đoán là lƣơng thực đắt đỏ, hoặc tù nhân nổi loạn trong ngục. Biết : Tên chòm sao, gồm 14 sao, hình dạng nhƣ con ba ba, ở phía nam Nam Đẩu, ở khoảng giữa Nông Trƣợng Nhân và Thiên Uyên. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ Thủy trùng, Thái âm. Khách tinh phạm vào đó, thì đoán là chúa có khí thủy. Thiên Kê : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông bắc sao Đấu, phía tây sao Khiên Ngƣu, phía bắc sao Cẩu Quốc. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ khí hậu. 2) Tức sao Hồ Qua. 3) Tức sao Ki. Cấu Quốc : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông Nam Đẩu, phía tây gần sao Cẩu. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu Chủ các dân tộc Tiên Ti, Ô Hoàn, ốc Thả. Sao Huỳnh Hoặc thủ ở đây là dân thiểu số


có biến; sao Thái Bạch nghịch thủ, là nƣớc có loạn; Khách tinh phạm vào đây, là có cƣớp bóc lớn. Cấu : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía trƣớc sao Khôi Nam Đẩu, ở khoảng giữa Cẩu Quốc và sao Kiến. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ sự canh giữ. Nông Trƣợng Nhân : Tên chòm sao, gọi tắt là Nông, gồm 1 sao, ở phía tây nam Nam Đẩu, tây bắc sao Biết. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Tƣợng lão nông. Chủ cây lƣơng thực. Ngƣu : Còn gọi là Khiên Ngƣu. 1) Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam Hà Cổ, Thiên Phù, bên phải sao La Yên; bên trên là Trung đạo 7 sao. Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phƣơng bắc. Tƣợng thanh chắn ngang trên trời. Hai sao phía bắc của nó, một là Tức Lộ, chủ đƣờng đi, hai là Tụ Hỏa, chủ thanh chắn ngang; ngôi thủ ba chủ Nam Việt. Sao sáng mà to, là đƣơng đi thông suốt, vƣơng đạo thênh thang, trâu bò qui; sáng chói là ngựa quí; sao mờ hoặc không thấy, là trâu bò trong thiên hạ bị dịch bệnh, mất mùa; ngôi sao ở giữa di chuyển lên xuống, là trâu bò bị chết rất nhiều. Sao dao động là có dịch trâu bò; di chuyển vào Ngân Hà là thiên hạ có loạn. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi thứ hai trong 7 sao phƣơng bắc. Gồm 11 chòm sao : Ngƣu, Thiên Điền, Cƣu Khảm, Hà Cổ, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, Thiên Phù, La Yên, Tiệm Đài, Liên Đạo, với 65 ngôi sao. Càn tƣợng thƣ của Cảnh Hựu đời Tống xếp các sao Cửu Khảm, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, La Yên, Tiệm Đài, Liên Đạo vào sao Đẩu. Ngƣu cùng với sao Nữ chỉ Ngô Việt, là phân dã của Dƣơng Châu. ( Tài liệu sƣu tầm - dienbatn quên mất nguồn - Cảm ơn tác giả. )

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 26. PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 5 : THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH ỨNG DỤNG TRONG PHONG THỦY. II / MỘT SỐ VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG TRONG THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH . ( Tài liệu này dienbatn sƣu tầm và tổng hợp nên không ghi nguồn .) I. PHƢƠNG PHÁP XEM SAO Trên nguyên tắc, ngƣời ta có thể quan sát đƣợc tinh tƣợng, tiên tƣợng: - Sáng sớm, lúc mặt trời mọc (giờ Mão). - Trƣa, lúc mặt trời chính ngọ (giờ Ngọ). - Hoàng hôn, lúc mặt trời lặn (giờ Dậu). - Nửa đêm (giờ Tí). Sáng, chiều, tối xem sao, đã dĩ nhiên; trƣa không xem đƣợc sao, nhƣng đo đƣợc bóng nêu. Cái đó cũng quan hệ nhƣ ta đã thấy. Đó chính là phƣơng pháp vua Nghiêu đã áp dụng. Gustave Schlegel, bình thiên Nghiêu điển của Thƣ Kinh, đã cho thấy: Vua Nghiêu sai các thiên văn gia đi bốn phƣơng để quan sát tinh tƣợng, thiên tƣợng. - Thiên văn gia đi về phía Đông, trong mùa Xuân, phải quan sát tinh tƣợng sáng sớm, khi mặt trời mọc. - Thiên văn gia đi về phía Nam, trong mùa Hạ, phải quan sát thiên tƣợng, ban ngày, lúc chính ngọ. - Thiên văn gia đi về phía Tây, trong mùa Thu, phải quan sát tinh tƣợng, lúc buổi chiều, khi mặt trời lặn. - Thiên văn gia đi về phía Bắc, trong mùa Đông, phải quan sát tinh tƣợng lúc nửa đêm. Và ông kết luận: - Xem sao mọc sáng sớm để định mùa Xuân. - Xem sao lặn buổi chiều cùng với mặt trời để định mùa Thu. - Xem sao qua đỉnh đầu nửa đêm để định mùa Đông. - Xem sao qua kinh tuyến phía dƣới buổi trƣa (trên lý thuyết) để định mùa Hạ. II. NHỊ THẬP BÁT TÖ.


Ngƣời Trung Hoa cho rằng: - Mùa Xuân sẽ thấy các sao Giác 角, Cang 亢, Đê 氐, Phòng 房, Tâm 心, Vĩ 尾, Cơ 箕 lần lƣợt hiện ra ở phía trời Đông cùng với trăng rằm. - Mùa Hạ sẽ cho thấy các sao Tỉnh 井, Quỉ 鬼, Liễu 柳, Tinh 星, Trƣơng 張, Dực 翼, Chẩn 軫 mọc lặn cùng với mặt trời. - Mùa Thu, sẽ thấy các sao Khuê 奎, Lâu 婁, Vị 胃, Mão 昴, Tất 畢, Chủy 觜, Sâm 參 hiện ra ở phía trời Đông cùng với trăng rằm. - Mùa Đông, sẽ thấy các sao Đẩu 斗, Ngƣu 牛, Nữ 女, Hƣ 虛, Nguy 危, Thất 室, Bích 璧 mọc lặn cùng với mặt trời. (Xem hình vẽ trên và xét vị trí của Nhị thập bát tú theo 4 phƣơng hƣớng, vào lúc sáng sớm, ban ngày, chiều, tối.) Còn nhƣ ta muốn biết mùa nào, mặt trời ở chòm sao nào trong Nhị thập bát tú ta sẽ thấy: - Mùa Xuân, mặt trời lần lƣợt ở trong các chòm sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm. - Mùa Hạ, mặt trời lần lƣợt ở trong các chòm sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trƣơng, Dực, Chẩn. - Mùa Thu, mặt trời lần lƣợt ở trong các chòm sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. - Mùa Đông, mặt trời lần lƣợt ở trong các chòm sao: Đẩu, Ngƣu, Nữ, Hƣ, Nguy, Thất, Bích. Nói cách khác, tùy theo mùa, những chòm sao nói trên sẽ lần lƣợt mọc và lặn với mặt trời. Tam Viên nằm ở khu vực giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu vực dải nằm giữa con đƣờng mà mặt trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban ngày đƣợc phân chia theo 28 chòm – 28 Tòa nhà của sao, tức Nhị thập bát Tú. Trong mỗi chòm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không phải là sáng nhất. Có tài liệu nói rằng ghi chép về Nhị thập bát tú đã đƣợc tìm thấy có từ thời Chiến quốc, 400 TCN ở Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất là vào thế kỵ 5 TCN, trong Sử Ký cũng viết về các chòm. Nhƣng việc phân chia thành các cung theo Ngũ hành thì phải đến đời Tần mới có, và việc gán tên các con vật thì còn muộn hơn, có thể là chịu ảnh hƣởng của Ấn Độ, giống nhƣ gán các con giáp vào các chi vậy. Điều đáng lƣu ý là trong kinh điển Ấn Độ cổ cũng đề cập đến các chòm sao quanh Bạch đạo, và cũng nêu con số 27 hoặc 28. Tuy các chòm không trùng nhau, nhƣng trong mối quan hệ giao lƣu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng cũng đƣợc gọi chung là Nhị thập bát Tú. Quanh Thiên Cực đƣợc quy ƣớc chia làm 4 phƣơng Đông Tây Nam Bắc, 28 Tú cũng đƣợc chia là 4 cung, mỗi cung 7 chòm, đó là: Thanh Long – Rồng xanh - phƣơng Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm: Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ. Bạch Hổ - Hổ trắng - phƣơng Tây - hành Kim, mùa thu, gồm: Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm.


Chu Tƣớc – Chim đỏ - phƣơng Nam - hành Hỏa, mùa hạ, gồm: Tỉnh – Quỵ - Liễu – Tinh – Trƣơng – Dực – Chẩn. Huyền Vũ – Rùa, rắn đen – phƣơng Bắc, hành Thủy, mùa đông, gồm: Đẩu – Ngƣu – Nữ - Hƣ – Ngụy – Thất – Bích. Nếu xếp theo vòng Đông – Tây – Nam – Bắc thì nhƣ vậy. Có thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông thì xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh Long – Chu Tƣớc – Bạch Hổ - Huyền Vũ. Tuy nhiên thƣờng 28 Tinh tú đƣợc xếp theo vòng vận động trời đất là Đông – Bắc – Tây – Nam, ngƣợc chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long – Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu Tƣớc, vì vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ – Đẩu – Ngƣu – Nữ - Hƣ – Nguy – Thất – Bích – Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm – Tỉnh – Quỵ - Liễu – Tinh – Trƣơng – Dực – Chẩn. Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc biệt. Mỗi tên gồm 3 chữ, chữ đầu là tên gọi tắt nhƣ trên, không thống nhất. Trong đó có bộ phận cơ thể (sừng, cổ, tim,…), có đồ vật (đấu, giỏ, lƣới, xe), có con ngƣời (nữ), con vật (trâu), có kiến trúc (phòng, tƣờng, giếng,…,), có cả các khái niệm (gốc, hƣ,…). Dƣờng nhƣ không có quy tắc. Việc này có lẽ phản ánh tƣ duy phóng khoáng không gò bó cổ đại. Chữ thứ 2 là một trong Thất chính lần lƣợt theo thứ tự: Mộc - Kim - Thổ - Nhật - Nguyệt - Hỏa Thủy, tinh tú nào có chữ tƣơng ứng sẽ là phù trợ cho Hành tinh ấy. Thuyết Ngũ hành đời Tần đã đem một khuôn khổ quy luật vào đây. Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm cả vật nuôi, vật hoang, và thần thoại. Con số 7 cũng là một cơ số quan trọng đối với ngƣời Trung Hoa. Có học giả cho rằng thời cổ đại ngƣời Trung Hoa chƣa dùng cơ số 10, mà mới dùng cơ số 7, nên để lại một số dấu vết nhƣ tục cúng bảy bảy bốn chín ngày. Con số 7 đƣợc dùng trong Đạo giáo nhiều hơn. Trong đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phƣơng Đông nằm ở bên trái, Chòm Giác Đông Nam ở góc dƣới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên trên vòng dần lên trên tức là theo phƣơng Nam mà xoay vòng (trên bầu trời phƣơng vị ngƣợc với mặt đất). Vị trí cụ thể các chòm Nhị thập bát tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi màu trắng là chủ tinh. Đƣờng màu đỏ ở giữa là Thiên xích đạo, đƣờng cong màu xanh là Hoàng đạo. Chòm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân

Chòm Huyền Vũ – phía Bắc, mùa Đông.


Chòm Bạch Hổ - phía Tây, mùa Thu.

Chòm Chu Tƣớc – phía Nam, mùa Hạ.

Việc phân chia 28 chòm sao này có từ thời cổ đại, và ngƣời Trung Hoa không muốn thay đổi những kiến thức của ngƣời đi trƣớc, nên họ chấp nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng


28 chòm có một cái tiện lợi là xác định đƣờng đi của mặt trăng, nhƣng có nhiều bất tiện. Trƣớc hết là các chòm không chiếm những cung bằng nhau; có cung nhƣ Tỉnh góc lớn hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chƣa đến 3 độ. Điều này là do độ lớn các chòm chênh lệch quá nhiều, có chòm chỉ có 2 sao, trong khi chòm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất khác nhau, rồi có chòm nhƣ Chủy gần nhƣ nằm lọt vào giữa chòm Sâm, nên không mang tính khoa học. Trong văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 chòm sao nằm trong khu vực mặt trời và mặt trăng đi qua, nhƣng không trùng với nhị thập bát tú. Các chòm sao của Ấn Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tƣợng trƣng cho tất cả các vì sao trên bầu trời. Vì vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các chòm sao, và khi sang Trung Quốc, đƣợc các hòa thƣợng biên dịch là Nhị thập bát tú luôn, để thống nhất với quan sát, khoa học và truyền thống bản địa. Trong cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”, Nhị thập bát tú ứng với 28 mạch trong cơ thể, trời xoay một vòng qua hết 28 Tú thì cúng tƣơng ứng với mạch vận động 1 chu trình trong cơ thể con ngƣời. Nhị thập bát Tú (28 sao) luân lƣu chủ ngày để đoán cát hung do các nhà chiêm tinh đời Đƣờng đƣa ra. Lịch Hội thiên thời Nam Tống đã áp dụng vào Trạch cát theo cách sau: Nguyên tắc phối 28 tú với các loài Thú. 1-Giác mộc Giao - Đặng Vũ: Tốt ...................... Giác tinh tọa tác chủ vinh xƣơng, Ngoại tiến điền tài cập nữ lang, Giá thú hôn nhân sinh quý tử, Vănh nhân cập đệ kiến Quân vƣơng. Duy hữu táng mai bất khả dụng, Tam niên chi hậu, chủ ôn đậu, Khởi công tu trúc phần mộ địa, Đƣờng tiền lập kiến chủ nhân vong. .......................... 2-Can kim Long - Ngô Hán: Xấu .......................... Can tinh tạo tác Trƣởng phòng đƣờng, Thập nhật chi trung chủ hữu ƣơng, Điền địa tiêu ma, quan thất chức, Đầu quân định thị hổ lang thƣơng. Giá thú, hôn nhân dụng thử nhật, Nhi tôn, Tân phụ chủ không phòng, Mai táng nhƣợc hoàn phùng thử nhật, Đƣơng thời tai họa, chủ trùng tang. ........................... 3-Đê thổ Lạc - Giả Phục: Xấu ........................... Đê tinh tạo tác chủ tai hung, Phí tận điền viên, thƣơng khố không, Mai táng bất khả dụng thử nhật, Huyền thằng, điếu khả, họa trùng trùng, Nhƣợc thị hôn nhân ly biệt tán, Dạ chiêu lãng tử nhập phòng trung. Hành thuyền tắc định tạo hƣớng một, Cánh sinh lung ách, tử tôn cùng. ........................... 4-Phòng nhật Thố - Cảnh Yêm: Tốt .............................


Phòng tinh tạo tác điền viên tiến, Huyết tài ngƣu mã biến sơn cƣơng, Cánh chiêu ngoại xứ điền trang trạch, Vinh hoa cao quý, phúc thọ khang. Mai táng nhƣợc nhiên phùng thử nhật, Cao quan tiến chức bái Quân vƣơng. Giá thú: Thƣờng nga quy Nguyệt điện, Tam niên bào tử chế triều đƣờng. ............................ 5-Tâm nguyệt Hồ - Khấu Tuân: Xấu ............................ Tâm tinh tạo tác đại vi hung, Cánh tao hình tụng, ngục tù trung, Ngỗ nghịch quan phi, điền trạch thoái, Mai táng tốt bộc tử tƣơng tòng. Hôn nhân nhƣợc thị phùng thử nhật, Tử tử nhi vong tự mãn hung. Tam niên chi nội liên tạo họa, Sự sự giáo quân một thủy chung. ............................. 6-Vĩ hỏa Hổ - Sầm Bành: Tốt Vĩ tinh tạo tác đắc thiên ân, Phú quý, vinh hoa, phúc thọ ninh, Chiêu tài tiến bảo, tiến điền địa, Hòa hợp hôn nhân, quý tử tôn. Mai táng nhƣợc năng y thử nhật, Nam thanh, nữ chính, tử tôn hƣng. Khai môn, phóng thủy, chiêu điền địa, Đại đại công hầu, viễn bá danh. ............................ 7-Cơ thủy Báo - Phùng Dị: Tốt ............................ Cơ tinh tạo tác chủ cao cƣờng, Tuế tuế niên niên đại cát xƣơng, Mai táng, tu phần đại cát lợi, Điền tàm, ngƣu mã biến sơn cƣơng. Khai môn, phóng thủy chiêu tài cốc, Khiếp mãn kim ngân, cốc mãn thƣơng. Phúc ấm cao quan gia lộc vị, Lục thân phong lộc, phúc an khang. ............................. 8-Đẩu mộc Giải - Tống Hữu: Tốt ............................ Đẩu tinh tạo tác chủ chiêu tài, Văn vũ quan viên vị đỉnh thai, Điền trạch tiền tài thiên vạn tiến, Phần doanh tu trúc, phú quý lai. Khai môn, phóng thủy, chiêu ngƣu mã, Vƣợng tài nam nữ chủ hòa hài, Ngộ thử cát tinh lai chiến hộ, Thời chi phúc khánh, vĩnh vô tai. ...........................


9-Ngƣu kim Ngƣu - Sái Tuân: Xấu ........................... Ngƣu tinh tạo tác chủ tai nguy, Cửu hoành tam tai bất khả thôi, Gia trạch bất an, nhân khẩu thoái, Điền tàm bất lợi, chủ nhân suy. Giá thú, hôn nhân giai tự tổn, Kim ngân tài cốc tiệm vô chi. Nhƣợc thị khai môn, tính phóng thủy, Ngƣu trƣ dƣơng mã diệc thƣơng bi. .......................... 10-Nữ thổ Bức - Cảnh Đan: Xấu .......................... Nữ tinh tạo tác tổn bà nƣơng, Huynh đệ tƣơng hiềm tựa hổ lang, Mai táng sinh tai phùng quỵ quái, Điên tà tật bệnh cánh ôn hoàng. Vi sự đáo quan, tài thất tán, Tả lị lƣu liên bất khả đƣơng. Khai môn, phóng thủy phùng thử nhật, Toàn gia tán bại, chủ ly hƣơng. ......................... 11-Hƣ nhật Thử - Cái Duyên: Xấu .......................... Hƣ tinh tạo tác chủ tai ƣơng, Nam nữ cô miên bất nhất song, Nội loạn phong thanh vô lễ tiết, Nhi tôn, tức phụ bạn nhân sàng, Khai môn, phóng thủy chiêu tai họa, Hổ giảo, xà thƣơng cập tốt vong. Tam tam ngũ ngũ liên niên bệnh, Gia phá, nhân vong, bất khả đƣơng. .......................... 12-Nguy nguyệt Yến - Kiên Đàm: Xấu .......................... Nguy tinh bât khả tạo cao đƣờng, Tự điếu, tao hình kiến huyết quang Tam tuế hài nhi tao thủy ách, Hậu sinh xuất ngoại bất hoàn lƣơng. Mai táng nhƣợc hoàn phùng thử nhật, Chu niên bách nhật ngọa cao sàng, Khai môn, phóng thủy tạo hình trƣợng, Tam niên ngũ tái diệc bi thƣơng. .......................... 13-Thất hỏa Trƣ - Cảnh Thuần: Tốt .......................... Thất tinh tạo tác tiến điền ngƣu, Nhi tôn đại đại cận quân hầu, Phú quý vinh hoa thiên thƣợng chỉ, Thọ nhƣ Bành tổ nhập thiên thu. Khai môn, phóng thủy chiêu tài bạch,


Hòa hợp hôn nhân sinh quý nhi. Mai táng nhƣợc năng y thử nhật, Môn đình hƣng vƣợng, Phúc vô ƣu! ......................... 14-Bích thủy Du - Tang Cung: Tốt ......................... Bích tinh tạo ác tiến trang điền Ti tâm đại thục phúc thao thiên, Nô tỳ tự lai, nhân khẩu tiến, Khai môn, phóng thủy xuất anh hiền, Mai táng chiêu tài, quan phẩm tiến, Gia trung chủ sự lạc thao nhiên Hôn nhân cát lợi sinh quý tử, Tảo bá thanh danh khán tổ tiên. ............................... 15-Khuê mộc Lang - Mã Vũ: Xấu ............................... Khuê tinh tạo tác đắc trinh tƣờng, Gia hạ vinh hòa đại cát xƣơng, Nhƣợc thị táng mai âm tốt tử, Đƣơng niên định chủ lƣỡng tam tang. Khán khán vận kim, hình thƣơng đáo, Trùng trùng quan sự, chủ ôn hoàng. Khai môn phóng thủy chiêu tai họa, Tam niên lƣỡng thứ tổn nhi lang. ............................ 16-Lâu kim Cẩu - Lƣu Long: Tốt ........................... Lâu tinh thụ trụ, khởi môn đình, Tài vƣợng, gia hòa, sự sự hƣng, Ngoại cảnh, tiền tài bách nhật tiến, Nhất gia huynh đệ bá thanh danh. Hôn nhân tiến ích, sinh quý tử, Ngọc bạch kim lang tƣơng mãn doanh, Phóng thủy, khai môn giai cát lợi, Nam vinh, nữ quý, thọ khang ninh. .......................... 17-Vị thổ Trĩ - Ô Thành: Tốt ........................... Vị tinh tạo tác sự nhƣ hà, Phú quý, vinh hoa, hỵ khí đa, Mai táng tiến lâm quan lộc vị, Tam tai, cửu họa bất phùng tha. Hôn nhân ngộ thử gia phú quý, Phu phụ tề mi, vĩnh bảo hòa, Tòng thử môn đình sinh cát khánh, Nhi tôn đại đại bảo kim pha. ............................. 18-Mão nhật Kê - Vƣơng Lƣơng: Xấu ............................. Mão tinh tạo tác tiến điền ngƣu,


Mai táng quan tai bất đắc hƣu, Trùng tang nhị nhật, tam nhân tử, Mại tận điền viên, bất năng lƣu. Khai môn, phóng thủy chiêu tai họa, Tam tuế hài nhi bạch liễu đầu, Hôn nhân bất khả phùng nhật thử, Tử biệt sinh ly thật khả sầu. ............................. 19-Tất nguyệt Ô - Trần Tuấn: Tốt ............................. Tất tinh tạo tác chủ quang tiền, Mãi dắc điền viên hữu lật tiền Mai táng thử nhâtj thiêm quan chức, Điền tàm đại thực lai phong niên Khai môn phóng thủy đa cát lật, Hợp gia nhân khẩu đắc an nhiên, Hôn nhân nhƣợc năng phùng thử nhật, Sinh đắc hài nhi phúc thọ toàn. ............................. 20-Truỵ hỏa Hầu - Phó Tuấn: Xấu ............................. Truỵ tinh tạo tác hữu đồ hình, Tam niên tất đinh chủ linh đinh, Mai táng tốt tử đa do thử, Thủ định Dần niên tiện sát nhân. Tam tang bất chỉ giai do thử, Nhất nhân dƣợc độc nhị nhân thân. Gia môn điền địa giai thoán bại, Thƣơng khố kim tiền hóa tác cần. ............................. 21-Sâm thủy Viên - Đỗ Mậu: Tốt ............................. Sâm tinh tạo tác vƣợng nhân gia, Văn tinh triều diệu, đại quang hoa, Chỉ nhân tạo tác điền tài vƣợng, Mai táng chiêu tật, táng hoàng sa. Khai môn, phóng thủy gia quan chức, Phòng phòng tôn tử kiến điền gia, Hôn nhân hứa định tao hình khắc, Nam nữ chiêu khai mộ lạc hoa. ................................ 22-Tỉnh mộc Hãn - Diêu Kỳ: Tốt ............................... Tỉnh tinh tạo tác vƣợng tàm điền, Kim bảng đề danh đệ nhất tiên, Mai táng, tu phòng kinh tốt tử, Hốt phong tật nhập hoàng điên tuyền Khai môn, phóng thủy chiêu tài bạch, Ngƣu mã trƣ dƣơng vƣợng mạc cát, Quả phụ điền đƣờng lai nhập trạch, Nhi tôn hƣng vƣợng hữu dƣ tiền. ..............................


23-Quỵ kim Dƣơng - Vƣơng Phách: Xấu .............................. Quỵ tinh khởi tạo tất nhân vong, Đƣờng tiền bất kiến chủ nhân lang, Mai táng thử nhật, quan lộc chí, Nhi tôn đại đại cận quân vƣơng. Khai môn phóng thủy tu thƣơng tử, Hôn nhân phu thê bất cửu trƣờng. Tu thổ trúc tƣờng thƣơng sản nữ, Thủ phù song nữ lệ uông uông. .............................. 24-Liễu thổ Chƣơng - Nhậm Quang: Xấu .............................. Liễu tinh tạo tác chủ tao quan, Trú dạ thâu nhàn bất tạm an, Mai táng ôn hoàng đa bệnh tử, Điền viên thoái tận, thủ cô hàn, Khai môn phóng thủy chiêu lung hạt, Yêu đà bối khúc tự cung loan Cánh hữu bổng hình nghi cẩn thận, Phụ nhân tùy khách tẩu bất hoàn. .................................. 25-Tinh nhật Mã - Lý Trung: Xấu .................................. Tinh tú nhật hảo tạo tân phòng, Tiến chức gia quan cận Đế vƣơng, Bất khả mai táng tính phóng thủy, Hung tinh lâm vị nữ nhân vong. Sinh ly, tử biệt vô tâm luyến, Tự yếu quy hƣu biệt giá lang. Khổng tử cửu khúc châu nan độ, Phóng thủy, khai câu, thiên mệnh thƣơng. ................................. 26-Trƣơng nguyệt Lộc - Vạn Tu: Tốt ................................. Trƣơng tinh nhật hảo tạo long hiên, Niên niên tiện kiến tiến trang điền, Mai táng bất cửu thăng quan chức, Đại đại vi quan cận Đế tiền, Khai môn phóng thủy chiêu tài bạch, Hôn nhân hòa hợp, phúc miên miên. Điền tàm đại lợi, thƣơng khố mãn, Bách ban lợi ý, tự an nhiên. ................................. 27-Dực hỏa Xà - Bi Đồng: Xấu ................................. Dực tinh bất lợi giá cao đƣờng, Tam niên nhị tái kiến ôn hoàng, Mai táng nhƣợc hoàn phùng thử nhật, Tử tôn bất định tẩu tha hƣơng. Hôn nhân thử nhật nghi bất lợi,


Quygia định thị bất tƣơng đƣơng. Khai môn phóng thủy gia tu phá, Thiếu nữ tham hoa luyến ngoại lang. ................................. 28-Chẩn thủy Dẫn - Lƣu Trực: Tốt ................................... Chẩn tinh lâm thủy tạo long cung, Đại đại vi quan thụ sắc phong, Phú quý vinh hoa tăng phúc thọ, Khố mãn thƣơng doanh tự xƣơng long. Mai táng văn tinh lai chiếu trợ, Trạch xá an ninh, bất kiến hung. Cánh hữu vi quan, tiên đế sủng, Hôn nhân long tử xuất long cung. Trong Phong thủy, Nhị thập bát tú đƣợc ứng dụng tại tầng thứ 16 nhƣ sau : TẦNG THỨ 16: 60 LONG PHỐI CÁC SAO ĐỂ ỨNG VỚI TỨ CÁT SA, THỦY . 28 sao phân ra khắp tất cả trong 60 long, bắt đầu khởi từ Giáp Tý là Giốc mộc giảo, đi thuận đến Ất Sửu là cang kim long, đến Bính Dần là chi thổ lạc, hết 1 vòng lại trở ngƣợc lại, bắt đầu khởi từ Giốc, luân chuyển ra 2 vòng, mỗi sao đều quản 2 long. Chỉ có 4 sao: Giốc, cang, chi (đê), phòng đều đƣợc quản 3 long, để cho đủ số 60 mà đủ tra sao khởi quái trì theo xét cách sử dụng của tứ cát, lại còn 1 phép nữa nhƣ là 60 long Giáp Tý nạp âm kim long, là Giáp mộc giao quản cục, tức mộc thụ kim long, đây là sao khắc, chịu chế ngự, vậy khi phân kim không nên dùng kim độ tọa huyệt, vì sao mộc chịu khắc quá nhiều thì không tốt, lại nhƣ: Bính Ngọ thủy long nguyên là khuê mộc lang quản cục, là cầm tinh đƣợc thủy long, sinh, thật là tốt thƣợng hạng. Vì vậy đƣợc phân kim tọa độ lƣỡng nghi thì càng tốt, mọi cái khác cũng vậy sẽ suy ra. NHỊ THẬP BÁT TÖ PHÂN PHỐI LỤC GIÁP Có bài tiệp quyết phụ nhƣ sau: Giáp Tý giác hệ, ất Sửu cang Bính Dần, Đinh Mão, chi phòng dƣơng Thứ tự bài lai, chí Giáp Tuất Hƣ tú quản cục, bất tu trang Sâm Quý Giáp Thân, chi quy nạp Giáp Thìn thất hỏa vi định củ Giải nghĩa: Bài thơ ca dễ nhớ về 28 sao phân phối với 6 Giáp, rất mau hiểu. Giáp Tý thuộc độ (vi) là sao Giốc; Ất Sửu là sao cang; Bính Dần là sao chi, Đinh Mão là sao phòng; Giáp Tuất là sao hƣ; sao sâm thuộc về Giáp Thân; sao chi thuộc về Giáp Ngọ; Giáp Thìn thuộc về sao thất, thuộc hỏa; Giáp Dần thì sao quý, quản cục; mỗi vòng có 10 sao luân chuyển đi đủ số độ. Xét thiên này là định luật lệ về cầm tinh cai quản vị trí ở trong la bàn, nhƣ: Giáp Tý long mà xuyên đƣợc vào sơn phận của sao giác – mộc giao cai quản, thì Giáp Tý là kim long; giác là mộc tú, là kim long khắc sao mộc, lại thêm cái hành long là kim độ của hỗn thiên nữa, đó là cầm tinh chịu khắc, thì dù là long, huyệt, sa, thủy đƣợc khẩn mật, tốt đẹp cũng chỉ phát tạm thời 1 ít thôi, rồi sau tất bị bại tuyệt, vì sinh ra nhiều tai họa; bệnh lao, giặc cƣớp bóc, chết đƣờng xá v.v… Lại nhƣ Bính Tý là thủy long, xuyên đƣợc vào sơn phận của sao khuê mộc lang quản lý, là thủy sinh mộc, lại đƣợc long, huyệt, sa, thủy toàn mỷ, lập hƣớng hợp pháp thì phát phú quý vô cƣơng. Cầm tinh nên chịu Thân hãm (chế ngự) cũng không tốt lành. Tức nhƣ đất mộ tổ nhà ông Giã Mộ Tƣớng, hƣ danh tự đạo, ở huyện Thiên thai bên Trung quốc làm Dậu sơn, Mão hƣớng là lữ đậu Lôi, quẻ quy muội, hào tam là


Đinh Sửu sao bích trì thế, sao tốt quản cục, Kỵ Dậu lại thuộc Đinh Dậu, xuyên đƣợc sao Vỷ quản sơn, hay lấn át sao trì thế, hợp tính từ bản sơn luân chuyển những năm tiếp theo đi thuận đến Đinh Dậu 6 vòng là thấy tai họa ngay lập tức. Vậy sách có ghi mấy câu thi ca: “Kim tinh, Bích thủy, Du Tinh hiện Tối Kỷ kim ô, thăng bảo điện Chính diện chƣ hầu bán diện Quân Quý cậu sinh nhân, thụ âm quyền Lục thập niên hậu cáp nghi thiên Vỹ hỏa bỏ tinh quả xuất hiện Mã đầu hỏa điệm chủng thiên Hồng Phá liễu kim ô Thƣợng bảo Điện Địa hình, thiên tƣợng, sát khí đông đáo thử linh nhân vô nhãn kiến Thiên cơ bí mật bất dong thức địa ký lầu Vi Thiên cổ nghiệm” Giải nghĩa: Kim tinh và sao bích Thủy Du hiện, tất rừng là thấy vầng kim ô (mặt trời) lên bảo điện, tức là làm Thừa Tƣớng chính ở trƣớc mặt là chƣ hầu Quốc, một nửa quyền hành là thay mặt vua. Quý hậu sinh ra ngƣời đƣợc ân hƣởng phúc lớn. Nhƣng sau 60 năm phải cấp tốc dời mộ đi chỗ khác, bởi sao Vỷ là hỏa hổ sẽ xuất hiện, tức là lửa ở đầu ngọn bốc cháy đỏ rực trời, phá tan vầng kim ô và tòa bảo điện. Sát khí ở địa hình cũng nhƣ sát khí ở thiên tƣợng. Đến lúc đó mới biết là mắt ngƣời thƣờng không thể thấy đƣợc. Sự bí mật của Thiên cơ chẳng dễ mà biết trƣớc. Nhà địa lý ghi để lại cho ngàn đời kinh nghiệm mà xem. Đó là nói: phƣơng vị của loan đầu chịu khắc, mà sao trì thế lai chịu thôn hãm (lấn áp nuốt mất) Những cầm tinh ở trong mƣời hai chi phƣơng điện, nhập viên, là sao Đại cát của huyệt, lai nên cùng với sao của phƣơng thủy lai là tƣơng sinh hay tỵ hòa thì mới tốt lành. Phƣơng pháp, thì lấy 2 sao tàng ẩn ở dƣới long thấu địa, dùng địa bàn tìm lấy 4 sao cát của Sa Thủy, cầm tinh trì thế, làm thấu địa long nạp âm, là trong ngoài cùng nhau, lại phải xét tới cái hỗn thiên độ tƣơng khắc, là quan sát đó, nên cẩn thận xem kỷ lúc mới đƣợc. Sao tốt lành là: kim, thủy, nhật, nguyệt, đó là tứ tú hội hợp 1 chỗ, nên gọi là (hỗn thiên khai bảo chiếu, kim thủy Nhật Nguyệt phùng). Dục tri Tứ cát, hội hà cục Hƣ nhị, quỷ cứ, câm cơ lục Tất lai bản cung, chi tại Tam Khuê ngũ, dực thất, tƣơng kế lục Thức đắc âm, dƣơng thuận nghịch tâm Ngã kim lập pháp kham truyền thuật Dƣơng độn tiên tiên, thuật vị Âm độn thoái cung nghịch vị Giải nghĩa: Muốn biết 4 sao lãnh hội ở cục nào thì: Sao hƣ ở cung thứ 2, sao quy ở cung 4, sao cơ ở cung 6, sao tất ở bản cung, sao chi ở cung 3, sao khuê ở cung 5, sao dực ở cung 7 nối tiếp nhau. Phải biết phép thuận nghịch của âm dƣơng mới tìm đƣợc. Nay tôi lập pháp truyền lại cho biết là: Quẻ độn là dƣơng thì tiến về phía trƣớc mặt, đi thuận vị; quẻ độn là âm thì lùi lại về cung đằng sau, chuyển ngƣợc lại đi Tại tầng La kinh thứ 25 . TẦNG THỨ 25: THẬP NHỊ CUNG PHÂN DÃ Ngƣời đời thƣờng thƣờng là chỉ biết cái có phƣơng tốt phát tài đa lộc mà không biết là do ảnh hƣởng của phong thủy. Thí dụ: thấy một vùng địa mà ở trên Thân long có tinh phong tủng tú (cao vót), an thủy thanh kỳ thì phải tra xem cung vị đó là phƣơng thuộc về đâu? Thì biết là ở vùng đó có ngƣời sẽ đƣợc hƣởng phúc lộc về sơn, thủy mỷ lệ đó. Chẳng hạn nhƣ: cung Thìn thì thuộc về địa phận Châu quận của nƣớc Trịnh thì ngƣời ở trong Châu huyện đó sẽ làm quan, hƣởng lộc về sơn, thủy đó, ứng nghiệm không sai. Vả lại, phân địa vị ranh giới 12 cung xƣa, nay thay tên, đổi dạng khác rồi. Xƣa gọi là quốc, thời nay gọi là Tỉnh, Phủ, Châu, Huyện v.v… Cho nên phân đã bất đồng, nên có đọc cuốn Đại Thanh nhất thống chí mới rõ.


THẬP NHỊ CUNG PHÂN DÃ

Chỉ có 4 cung chính là Tý, Ngọ, Mão, Dậu đƣợc 3 sao, còn các cung khác mỗi cung chỉ có 2 sao; mà 4 sao là Phòng, Hƣ, Mão, Tinh là nhật tú là Trung cung. Tại TẦNG CÁC Trên đây

tầng PHẬN phân độ

thứ và

26 THỨ vị

ĐỘ trí

của

của 28

CỦA sao

La mà

28 chỉ có

12

kinh. 26: SAO cung


Tầng

36

của

La

kinh.

TẦNG THỨ 36: LÀ 28 SAO PHỐI VỚI 24 SƠN Hai mƣơi tám sao, chu vi có 365 độ 25 phân, trên La kinh đã ghi phân ly từng cung độ rõ rệt là lý tự nhiên, thứ tự không hỗn độn. Mỗi độ là 10 phân, lấy 1 độ chia ra làm 4, tức ¼ đƣợc 25 phân, nhƣng có độ lớn (chữ là thái độ ), độ nhỏ là (sao độ ). Thái độ bằng 9 phân của 1 độ, sao độ bằng nửa độ, tức là ½ của 1 độ, nửa độ là 5 phân. Sao độ 6 phân thì hơn 1 phân, nói về độ lớn thì không đủ 100 phân nhƣ là: sao Chân có 18 độ 99 phân, tức thiếu đi 1 phân, đó là không đủ 1 độ. Lại nhƣ bao độ 95 Phân ở trong, là thiếu đi mất 5 phân, cũng đều không đủ 1 độ. Vì vậy mà xƣa nay có 4 cuốn lịch chép đều khác nhau: lịch Thông Thiên thì ghi sao nữ qua cung Tý 95 phân thiếu 9. Lịch Khai Hy thì ghi sao nữ 92 phân thiếu 9. Lịch Hội Thiên thì chép sao nữ 92 phân thiếu 8. Lịch Thu Thời thì ghi sao nữ 96 phân thiếu 3. Tra xét cổ lịch về thái dƣơng mọc, về thời vua Nghiêu thì chép: mọc ở độ sao cơ, thời nay mọc ở độ sao hƣ. Vì khí tiết hậu bạc, viễn cận bất đông, nên có sự nhiều ít khác nhau. Theo lịch của triều ta thì rõ rệt để cứu xét, tôi căn cứ vào sự sai biệt đó để suy luận thì thấy lịch hàng năm, đều thay đổi, không


triều đại nào là không mà lịch của tây (tây gọi là dƣơng lịch, á gọi âm lịch) dƣơng thì rất hợp vậy độ của các sao ở một bàn trong La kinh nên đổi cũ theo mới, để tiện việc thu sơn xuất sát, su cát, tị hung, làm phúc cho ngƣời đời. Xƣa Lai Công lấy 28 sao để xem sa, chính là ở lẽ này vậy. Mỗi phƣơng có 7 vì sao, mà sơn chỉ có 6 sơn. Theo thiên thôi quan thì sao liễu phối Đinh, sao tinh phối Ngọ, sao trƣơng phối Bính, sao dực phối Ất, chỉ có 1 sao Chấn là không phối với sơn nào cả, tức là thiếu không có sơn để phối. Tý, Ngọ, Mão, Dậu là 4 ngôi chính, nên đem nhật nguyệt, nhị tú mà song phối, còn các sơn khác thì mỗi sơn phối 1 sao, mới ổn định đƣợc. Những sơn phối lại có thứ tự là: sơ quan, trung quan, mạt quan nhƣ sao thất hỏa chƣ có 17 độ, thì độ 1 và độ 2 là sơ quan, độ 8 và 9 là trung quan, độ 16 và 17 là mạt quan. Nhƣng lấy thời tiết chuyển đi mà tính ngày thì độ 16 và 17 là sơ quan, độ 8 và 9 là trung quan, độ 1 và 2 là mạt quan, nhƣ thế ta đủ thấy độ số của các sao, cùng với sự tiêu sa ở nhân bàn, trong thông, sự cát hung chóng, chậm đều căn cứ ở trong đó mà phân biệt ra, phần này ở trung châm nhân bàn, đƣa chuyển và phân phối 28 sao với 24 sơn nhƣ là: Tốn giác, Thìn cang, Ất chi, Mão phòng, Tân Giáp, vỷ Dần, cơ Cấn, đẩu Sửu, ngƣu Quý, nữ Tý, hƣ và nguy là Nhâm, thất Hợi, bính Kiền, khuê Tuất, lâu Tân, vị Dậu, Mão Canh, tất Thân, chủy Khôn, sâm Mùi, tỉnh Đinh, Quý Ngọ, liễu và tinh là Bính, trƣơng dực là Tị, Chấn, đó là đủ 28 sao. Đây là ai tinh nhân bàn, hợp với 365 độ, chu vi quanh vòng trời qua 28 sao. Thƣợng quan, trung quan, mạt quan, mỗi sơn 1 sao, chỉ có Tý, Ngọ, Mão, Dậu là 4 ngôi chính, lấy song tinh nhật, nguyệt phối với đó, có dùng về việc tiêu sa, là diệu quyết của thiên cƣ. ( dienbatn sẽ đi sâu vào việc này trong phần LA KINH THẤU GIẢI ).

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 27. PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 5 : THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH ỨNG DỤNG TRONG PHONG THỦY. II / MỘT SỐ VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG TRONG THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH . ( Tài liệu này dienbatn sƣu tầm và tổng hợp nên không ghi II. NHỊ THẬP BÁT TÖ. ( Tiếp theo ).

nguồn

.)

A/ Nhị thập bát tú tính theo ngày dƣơng lịch: Năm dƣơng lịch có 365 ngày tức 13 chu kỳ của Nhị thập bát tú (28 x 13 = 64) cộng thêm 1 ngày. Nếu năm nhuận (có ngày 29/2) thì cộng thêm 2 ngày - Ngày 1-1-1995 là ngày chủ nhật thuộc sao Hƣ (số 11) ta dễ dàng tính ra ngày 1-1-1996 là ngày thứ hai thuộc sao Nguy (số 12). Nhƣng đến năm 1997 phải tụt xuống 2 sao tức ngày thứ 4 sao Bích (số 14) (vì năm 1996 có thêm ngày 29/2). Chỉ cần biết một mốc chính xác, ta có thể tính ra bất cứ ngày nào trong quá khứ và tƣơng lai theo cách tính trên.Thí dụ tính ngày 8/3/1997 tức thứ 7 là sao số 24 Sao Liễu. Thí dụ: Ta biết ngày 1.1.1995 là ngày chủ nhật thuộc sao Hƣ (số 11). Thử quay lại ngày 28.2.1985 là ngày gì? Bƣớc 1: Tính từ 1985 đến 1995 là 10 năm 13 chu kỳ cộng 1 ngày = 1 năm thƣờng tuột xuống một ngày. Từ năm 1985 đến 1995 có thêm 2 ngày 29/2 (1988, 1992) Từ 1985 đến 1995, hệ sao đã tuột xuống (10 + 2) = 12 sao. Sao Hƣ ngày 1.1.1995 số 11, vậy ngày 1.1.1985 phải ngƣợc lại 12 sao là sao số 27, sao Dực (ngày thứ 3) Bƣớc 2: từ 1.1.1985 đến 28.2.1985 có 2 chu kỳ 28=56 và 2 ngày. Ngày 1.1.1985 là sao Dực (27), 28.2.1985 là ngày sao Giác (1) thứ năm (đem từ sao Dực lên 2 ngày). B/ Xác định sao của năm

Theo chu kỳ thì 28 năm, sao sẽ trở lại nhƣ ban đầu, bắt đầu từ nhóm sao ở phƣơng Tây (Bạch Hổ), xuống phƣơng Nam (Chu Tƣớc), lên phƣơng Đông (Thanh long) và phƣơng Bắc (Huyền vũ). Cách tính


Sau Công nguyên, lấy số năm chia cho 28, nếu số dƣ bằng 0 thì năm đó do sao Khuê gây ảnh hƣởng (số dƣ chớ không phải số thành), nếu số 1 = sao Lâu, số 2 = sao Vị... (xem bảng số bên dƣới). Bắt đầu từ sao Khuê và theo thứ tự tiếp tục cộng 1. Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỵ, Liễu, Tinh, Trƣơng, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngƣu, Nữ, Hƣ, Nguy, Thất, Bích. Thí dụ * Tìm sao gây ảnh hƣởng cho năm 1990? Lấy số 1990 chia cho 28, số dƣ còn lại là 2. So vào bảng số tính năm cho sao thấy số 2 thuộc sao Vị. Vậy sao của năm 1990 là sao Vị (số thành là 71, không tính). * Tìm sao gây ảnh hƣởng cho năm 1996? Lấy số 1996 chia cho 28, số dƣ còn lại là 8. So vào bảng số thấy số 8 thuộc sao Quỵ. Vậy sao của năm 1996 là sao Quỵ. * Tìm sao gây ảnh hƣởng cho năm 2006? Lấy số 2006 chia cho 28, số dƣ còn lại là 18. So vào bảng số thấy số 18 thuộc sao Đê. Vậy sao của năm 2006 là sao Đê. C/Xác định sao của tháng Tháng Giêng của năm sao Giác là sao Tâm. Mỗi tháng sao thay đổi. Chu kỳ của sao là 28. Một năm có 12 tháng, vì vậy chu kỳ của tháng là 12. Bội số chung nhỏ nhất của 28 và 12 là 84. Số 84 = 28 x 3 = 12 x 7. Nhƣ vậy theo chu kỳ 7 năm thì tháng Giêng và sao Tâm trùng trở lại. Chỉ cần tìm sao của tháng Giêng mỗi năm để tính các tháng kế tiếp. Điều cần nhớ trong phƣơng pháp xác định sao của tháng là: Năm tính theo dƣơng lịch, còn tháng tính theo âm lịch. Cách tính * Đầu tiên lấy số năm muốn tính chia cho 7 để xem đƣợc bao nhiêu lần tháng Giêng (chu kỳ). Lấy số dƣ (D) nhân với 12 để đƣợc số tháng dƣ (T). Sẽ có hai trƣờng hợp sau: - Nếu T + 5 > 28 thì lấy T + 5 - 28 = S. S là số sao của tháng Giêng cần tìm. - Nếu T + 5 < 28 thì chính T + 5 là số sao của tháng Giêng cần tìm vậy. Chú thích: Dấu > là lớn hơn; dấu < là nhỏ hơn. * Tính tháng khởi đầu bằng sao Giác của chòm sao Thanh long ở phƣơng Đông, tiếp theo là chòm sao Huyền vũ ở phƣơng Bắc, kế đến là chòm sao Bạch hổ ở phƣơng Tây và cuối cùng là chòm sao Chu tƣớc ở phƣơng Nam trở lại sao Giác nhƣ lúc khởi đầu bằng số 1, Cang 2, Đê 3, Phòng 4... Chẩn 28. Thứ tự 28 sao đƣợc sắp xếp nhƣ sau: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngƣu, Nữ, Hƣ, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỵ, Liễu, Tinh, Trƣơng, Dực, Chẩn. * Biết đƣợc sao tháng Giêng của năm thì tính các tháng kế tiếp rất dễ dàng theo thứ tự các sao ghi trên. * Gặp tháng nhuần thì tính nhƣ tháng trƣớc. Thí dụ nhƣ năm Bính Tuất (2006) là năm nhuần, nên có hai tháng 7. Tháng 7 đầu thuộc sao Đê thì tháng 7 nhuần sau cũng vẫn thuộc sao Đê, tháng 8 mới qua ảnh hƣởng của sao Phòng. Thí dụ * Tìm sao của tháng Giêng năm 1990? Lấy số 1990 chia cho 7, số dƣ còn lại là 2 (D). Lấy số dƣ 2 x 12 = 24 (T) + 5 = 29 (S). Vì S > 28, nên lấy số 29 - 28 = 1 Vậy sao của tháng Giêng năm 1990 là sao Giác (S = 1). * Tìm sao của tháng Giêng năm 1996? Lấy số 1996 chia cho 7, số dƣ còn lại là 1 (D). Lấy số dƣ 1 x 12 = 12 (T) + 5 = 17 (S). Vậy sao của tháng Giêng năm 1996 là sao Vị (S = 17). * Tìm sao của tháng Giêng năm 2006? Lấy số 2006 chia cho 7, số dƣ còn lại là 4 (D). Lấy số dƣ 4 x 12 = 48 (T) + 5 = 53 (S). Vì S > 28, nên lấy số 53 - 28 = 25. Theo thứ tự số 25 là sao Tinh


Vậy sao của tháng Giêng năm 2006 là sao Tinh (S = 25). D/ TỊNH DƢƠNG MỘNG ẢNH. 1/ Tính theo Can. * Giáp cung độ sao Vĩ cƣ tại vị trí Dần. * Ất cung độ sao Đê cƣ tại vị trí Mão. * Bính cung độ sao Dực cƣ tại vị trí Tị . * Đinh cung độ sao Liễu cƣ tại vị trí Ngọ. * Mậu cung độ sao Khuê cƣ tại vị trí Tuất . * Kỵ cung độ sao Giốc cƣ tại vị trí Thìn . * Canh cung độ sao Chủy cƣ tại vị trí Thân. * Tân cung độ sao Vị cƣ tại vị trí Dậu . * Nhâm cung độ sao Thất cƣ tại vị trí Hợi . * Quý cung độ sao Vĩ cƣ tại vị trí Tý. 2/ Tính theo Chi. * Dần cung độ sao Cơ. * Mão cung độ sao Phòng. * Thìn cung độ sao Cang. *Tỳ cung độ sao Chẩn . * Ngọ cung độ sao Tinh. * Mùi cung độ sao Quỵ. * Thân cung độ sao Sâm. * Dậu cung độ sao Mão. * Tuất cung độ sao Lâu. * Hợi cung độ sao Bích. * Tý cung độ sao Hƣ. * Sửu cung độ sao Nguy. 3/ Đƣờng mặt trời vận hành qua các cung. Theo Thiên văn học phƣơng Đông thì mỗi tháng mặt trời ( Thái dƣơng ) sẽ chuyển vầng Khí ( đi qua ) một cung độ nhƣ sau : Vòm trời 360 độ. * Tiết Vũ thủy , mặt trời chuyển qua cung Hợi sơ độ, khi đó ra khí " Trâu tử ". * Tiết Xuân phân , mặt trời chuyển qua cung Tuất sơ độ, khi đó ra khí " Giáng lâu ". * Tiết khí Cốc vũ - Cung Dậu sơ độ - Khí Đại lƣơng. * Tiết khí Tiểu mãn - Cung Thân sơ độ - Khí Thực trầm. * Tiết khí Hạ chí - Cung Mùi sơ độ - Khí Thuần thủ. * Tiết khí Đại thử - Cung Ngọ sơ độ - Khí Thuần hỏa. * Tiết khí Xử thử - Cung Tị sơ độ - Khí Thuần vĩ. * Tiết khí Thu phân - Cung Thìn sơ độ - Khí Thọ tinh. * Tiết khí Sƣơng giáng - Cung mão sơ độ - Khí Đại hỏa. * Tiết khí Tiểu tuyết - Cung Dần sơ độ - Khí Tích mộc. * Tiết khí Đông chí - Cung Sửu sơ độ - Khí Tinh kỵ. * Tiết khí Đại hàn - Cung Tý sơ độ - Khí Huyền hiếu. 4/ Tinh đồ cung vị.

* Tý tƣớng: - Đại hàn - Sao Giốc ( 1 độ 28 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 12 phân ( 1 khắc=15 phút, 1 phút = 1 phân ). - Lập xuân - Sao Đê - ( 1 độ 43 phút ) -Giờ Mão sơ 3 khắc 5 phân.


* Hợi tƣớng : - Vũ thủy - Sao Phòng ( 1 độ 21 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 7 phân. - Kinh chập - Sao Tâm ( 1độ 47 phút ) - Giờ Dần chính 2 khắc 9 phân. * Tuất tƣớng . - Xuân phân - Sao Vĩ ( 1 độ 25 phút ) - Giờ Dần chính 1 khắc 10 phân. - Thanh minh - Sao Vĩ ( 2 độ 37 phút ) - Giờ Dần sơ 1 khắc 10 phân. * Dậu tƣớng. - Cốc vũ - Sao Cơ ( 4 phút 31 độ ) - Giờ Dần sơ 2 khắc 8 phân. Lập hạ - Sao Cơ ( 3 độ 51 phút ) - Giờ Dần sơ 0 khắc 13 phân. * Thân tƣớng. - Tiểu mãn - Sao Dẩu ( 2 độ 51 phút ) - Giờ Sửu sơ 3 khắc 15 phân. Mang chủng - Sao Đẩu ( 7 độ 57 phút ) - Giờ Sửu sơ 2 khắc 11 phân. * Mùi tƣớng. - Hạ chí - Sao Nữ ( 1 độ 8 phút ) - Giờ Sửu sơ 1 khắc 18 phân. Tiểu thử - Sao Nguy ( 3 độ 39 phút ) - Giờ Sửu sơ 2 khắc 3 phân. * Ngọ tƣớng. - Đại thử - Sao Thất ( 1 độ 42 phút ) - Giờ Sửu chính Sửu 3 khắc 5 phân. - Lập thu - Sao Bích ( 0 độ 33 phút ) - Giờ Sửu chính 3 khắc 3 phân. * Tị tƣớng. - Xử thử - Sao Lâu ( 1 độ 31 phút ) - Giờ Dần sơ 2 khắc 8 phân. - Bạch lộ - Sao Vị ( 0 độ 20 phút ) - Giờ Dần sơ 1 khắc 10 phân. * Thìn tƣớng. - Thu phân - Sao Tất ( 2 độ 51 phút ) - Giờ dần chính 1 khắc 10 phân. Hàn lộ - Sao Sâm ( 0 độ 2 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 1 phân . Mão tƣớng. - Sƣơng giáng - Sao Tỉnh ( 2 độ 2 phút ) - Giờ Dần chính 1 khắc 9 phân. - Lập đông - Sao Quỵ ( 1 độ 43 phút ) - Giờ Mão sơ 1 khắc 5 phân. * Dần tƣớng . Tiểu tuyết - Sao Liệu ( 6 phút 2 độ ) - Giờ Dần chính 3 khắc 12 phân. Đại tuyết - Sao Dực ( 3 độ 9 phút ) - Giờ Mão sơ 2 khắc 10 phân. Sửu tƣớng. - Đông chí - Sao Dực ( 5 độ 38 phút ) - Giờ Mão sơ 0 khắc 10 phân. - Tiểu hàn - Sao Chuẩn ( 2 độ 20 phút ) - Giờ Mão sơ 0 khắc 7 phân. Nhị Thập Tứ Khí (24 tiết khí trong năm).

Nhị thập tứ khí gốc là do một khí. Lấy cả năm mà nói, thì chỉ có một khí. Lấy bốn mùa mà nói thì cũng chỉ là một khí phân thành bốn khí. Lấy 12 tháng mà nói thì cũng là một khí phân thành 6 khí. Cho nên 6 khí Âm, 6 khí Dƣơng là 12 khí. Lại trong 6 khí Âm, 6 khí Dƣơng mỗi khí đều có đầu có cuối, nên lại chia thành 24 khí. Mỗi khí trong 24 khí lại có 3 ứng, cho nên lại chia thành 3 hầu. Nhƣ vậy có 72 hầu, mà chung quy vẫn là một khí. Từ một khí thành 4, thành 12, thành 24, thành 72, tất cả đều là phân đoạn của một khí mà thôi. Thập Nhị Thần Thập Nhị Thần là nơi mà các sao Đẩu Cƣơng của Bắc Đẩu chỉ vào mỗi tháng. Đẩu Cƣơng của Bắc Đẩu chỉ vào đâu thì nguyên khí của tháng ở tại đấy. - Tháng Giêng, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Dần. - Tháng Hai, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Mão. - Tháng Ba, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Thìn. - Tháng Tƣ, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Tị.


- Tháng Năm, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Ngọ. - Tháng Sáu, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Mùi. - Tháng Bảy, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Thân. - Tháng Tám, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Dậu. - Tháng Chín, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Tuất. - Tháng Mƣời, Đẩu Cƣơng Bắc Đẩu chỉ Hợi. Gọi là Nguyệt Kiến vì nguyên khí của trời thì vô hình, nên cứ trông sao Bắc Đẩu chỉ vào đâu, thì biết nguyên khí ở đó. Bắc Đẩu có 7 sao. Sao thứ nhất là Khôi, sao thứ năm là Hành, sao thứ bảy là Tiêu. Ba sao ấy gọi là Đẩu Cƣơng. Nhƣ tháng Dần, thì buổi tối, sao Tiêu chỉ Dần; nửa đêm, sao Hành chỉ Dần; tảng sáng sao Khôi chỉ Dần. Các tháng khác cũng phỏng theo đó.

Thập Nhị Thứ Thập Nhị Thứ là 12 vùng trời mà mặt trời, mặt trăng giao hội. Trong một năm mặt trời và mặt trăng gặp nhau 12 lần, nên gọi là 12 thứ. - Tháng Tí, thứ là Huyền Hiêu. - Tháng Sửu, thứ là Tinh Kỵ. - Tháng Dần, thứ là Tích Mộc. - Tháng Mão, thứ là Đại Hỏa. - Tháng Thìn, thứ là Thọ Tinh. - Tháng Tị, thứ là Thuần Vĩ. - Tháng Ngọ, thứ là Thuần Hỏa. - Tháng Mùi, thứ là Thuần Thủ. - Tháng Thân, thứ là Thực Trầm. - Tháng Dậu, thứ là Đại Lƣơng. - Tháng Tuất, thứ là Giáng Lâu. - Tháng Hợi, thứ là Tƣu Tí. Thập Nhị Phân Dã Tức là nơi Thần,Thứ ảnh hƣởng tới. Ở trên trời có 12 Thần, 12 Thứ, thì ở dƣới đất có 12 nƣớc (dã), 12 châu. Phàm Nhật Nguyệt giao hội, hay nhật thực, nguyệt thực, hay tinh thần (các sao) biến dị, cứ xem ứng vào phân dã, phân châu nào thì biết đƣợc cát hung ứng vào nơi đó ra sao. Nhị thập bát tú tƣơng ứng với những không phận, địa phận sau đây, ngoài ra còn chiếm một khoảng trời rộng hẹp khác nhau đƣợc định bằng những độ số sau đây:


Nơi sao Hƣ thấy đề 9o với chữ tiểu cƣờng tức là hơn 9o. Cộng các độ với nhau, ta đƣợc 365o, lại cộng với một chút «tiểu cƣờng» ta sẽ có 365o ¼ của vòng Chu Thiên. II/ THIÊN QUAN (Các vì sao trời) I. TRUNG CUNG (các vì sao quanh Bắc Cực) Ở Trung Cung, sao Thiên Cực sáng nhất. Đó là sở cƣ của Thái Nhất. Bên cạnh là 3 ngôi sao, gọi là Tam Công hay Tử Thuộc. Phía sau, xếp theo hình cong, có 4 sao: sao phía sau cùng sáng nhất là Chính Phi, còn 3 sao kia cũng thuộc về hậu cung. Chung quanh có 12 sao hợp thành một đội cận vệ, gọi là Phiên Thần. Tất cả (4 chòm sao nói trên: Thiên Cực, Tử Thuộc, Tứ Phụ, Phiên Thần) là Tử Cung. Phía trƣớc xếp thẳng hàng với miệng Bắc Đẩu (le Boisseau) là 3 ngôi sao hợp thành một hình nhọn, đầu hƣớng về phía Bắc, lúc ẩn, lúc hiện, gọi là Âm Đứchay Thiên Nhất. Phía tả Tử Cung có 3 sao gọi là Thiên Thƣơng (cây giáo trời). Phía hữu có 3 sao gọi là Thiên Bảng (gậy trời dùng để đánh). Phía sau có 6 sao, băng qua sông Ngân Hà đến tận chòm sao Doanh Thất, nên gọi là Các Đạo (đƣờng treo). Bắc Đẩu gồm 7 sao, đã đƣợc Thƣ Kinh đề cập đến khi nói rằng (vua Thuấn) quan sát tuyền ki và ống ngọc hành để điều chỉnh thất chính.


Sao Tiêu gần với sao Giác. Sao Hành dẫn tới chòm sao Nam Đẩu. Sao Khôi dựa vào chòm sao Sâm.

Nếu xem sao vào chập tối, sẽ thấy sao Tiêu Tử khoảng núi Hoa đến Tây Nam. Nếu xem sao vào nửa đêm, sẽ dùng sao Hành làm chuẩn. Sao Hành ở giữa khoảng miền Trung Châu, giữa sông Hoàng Hà và sông Tế. Buổi sáng nhìn sao Khôi. Sao Khôi ở giữa miền biển, núi Đại, và phía Đông Bắc. Chòm sao Bắc Đẩu là xe trời. Nó vận chuyển ở trung ƣơng, chỉ huy bốn phƣơng, phân Âm Dƣơng, định bốn mùa, điều hòa ngũ hành, chi phối mọi sự, chuyển hó`a thời tiết, định độ số trời. Ở đầu sao Khôi có 6 sao xếp theo hình vuông, gọi là Văn Xƣơng. Sao thứ nhất là Thƣợng Tƣớng, sao thứ hai là Thứ Tƣớng, sao thứ ba là Quí Tƣớng, sao thứ tƣ là Tƣ Mệnh (định vận mệnh), sao thứ năm là Tƣ Trung (coi về nội vụ), và sao thứ sáu là Tƣ Lộc (coi về tƣởng thƣởng). Ở khoảng giữa nhửng sao Khôi Đẩu là nhà lao giam những bậc quí nhân. Ở phía dƣới sao Khôi có 6 sao xếp thành từng đôi một, gọi là Tam Năng (Tam Thai). Nếu sao Tam Thai mà sáng đều, quân thần sẽ hòa hợp; nếu không sáng đều, quân thần sẽ gàng quải, xung đột. Nếu sao Phụ mà sáng, thì các quan đại thần sẽ mạnh; nếu sao Phụ mà nhỏ thì đại thần nhát sợ và yếu.


Ở đầu sao Tiêu có hai sao: Một sao phía trong là Mâu, hay Chiêu Diêu; một sao phía ngoài là Thuẫn, hay Thiên Phong. Ngoài ra, còn có 15 sao hợp thành một vòng tròn, cũng thuộc sao Tiêu, gọi là tiện nhân chi lao (lao tù của ngƣời hèn). Nếu sao ở giữa chòm mà sáng, thì tù nhân sẽ nhiều; nếu mờ thì tù nhân sẽ ít. Nếu sao Thiên Nhất, Thiên Bảng, Mâu, Thuẫn mà lấp lánh nhiều và tỏa ra nhiều tia sáng, thì sẽ có giặc giã lớn. II. ĐÔNG CUNG (Bàn về 7 chòm sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ) Đông Cung Thanh Long có các chòm sao Phòng, Tâm. (1) Tâm là Minh Đƣờng. Sao lớn nhất là Thiên Vƣơng (Antarès). Sao phía trƣớc và sao phía sau nó là các sao con gái. Ba sao này không nên thẳng hàng nhau. Nếu thẳng hàng nhau, thì sao Thiên Vƣơng sẽ sai lầm trong mƣu tính. (2) Sao Phòng là Phủ Khố, cũng gọi là Thiên Tứ (sao Tứ mã nhà trời). Sao về phía Bắc nhất là con ngựa phía bên phải nhất của cỗ xe. Cạnh nó có hai ngôi sao gọi là Kiềm. Phía Bắc có một sao gọi là Hạt. Ở phía Đông Bắc có 12 sao, xếp thành hình cong gọi là Kì (cờ). Bốn vì sao giữa chòm sao Kì gọi là Thiên Thị. Sáu ngôi sao ở giữa gọi là Thị Lâu. Nếu ở trong Thiên Thị mà có nhiều sao, thì dân chúng buôn bán phát tài. Nếu ít sao thì sẽ bị hƣ hao. Phía Nam chòm sao Phòng là Kị Quan. (3) Phía tả sao Giác là sao Lý (Thiên Điền), phía hữu là sao Tƣớng (Thiên Môn). Sao Đại Giác (Arcturus du Bouvier) là Thiên Vƣơng đế đình. Mỗi phía cạnh sao Đại Giác đều có 3 sao nhƣ hình chân vạc, gọi là Nhiếp Đề. Nhiếp Đề chỉ thẳng vào miền sao Tiêu của Bắc Đẩu chi, vì thế gọi là Nhiếp Đề cách. (4) Sao Cang là Sơ Miếu, chủ tật bệnh. Phía Nam và phía Bắc sao Cang có hai sao sáng gọi là Nam Môn. (5) Sao Đê là Thiên Căn, chủ ôn dịch.


(6) Nhóm sao Vĩ gồm 9 sao. Nếu những sao này mà hoặc mờ hoặc sáng thất thƣờng thì vua tôi sẽ lục đục bất hòa. (7) Chòm sao Cơ còn gọi là Ngạo Khách, chủ khẩu thiệt. Nếu Hỏa Tinh phạm vào địa phận sao Giác, sẽ có chinh chiến. Nếu thấy sao Hỏa phạm vào không phận sao Phòng, Tâm, thì vua chúa cũng rất lo ngại. III. NAM CUNG (Bàn về Thái Vi viên và 7 sao Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trƣơng, Dực, Chẩn; và Hiên Viên kỳ) [Thái Vi viên] Nam Cung Chu Điểu gồm có hai chòm sao tiêu biểu là Quyền và Hành. Hành tức là sân đình Thái Vi của Tam Quang. 12 sao xếp thành hàng vây quanh gọi là Phiên Thần. Phía Tây gọi là Tƣớng (võ), phía Đông gọi là Tƣớng (văn). Phía Nam có 4 sao gọi là Chấp Pháp. Ở giữa là Đoan Môn, hai bên là Dịch Môn. Trong cửa có 6 sao, gọi là Chƣ Hầu. Trong nữa, có Ngũ Đế Tọa. Phía sau có một chòm sao dày, gồm 15 sao, gọi là Lang Vị. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Tƣớng Vị (Lang Tƣớng). Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh vào vùng Thái Vi thuận chiều (tức là từ phía Tây lại), và ra thuận chiều, ta sẽ để ý chỗ chúng ra nơi đâu, nhà vua sẽ chém giết ở đó. Nếu chúng mà vào ngƣợc chiều (tức là từ phía Đông lại) và phạm vào Đế Tọa, thì biết rằng bầy tôi sẽ mƣu loạn. Nếu Kim Tinh và Hỏa Tinh phạm vào Thái Vi thì lại càng tệ hơn nữa. Phía Tây hàng sao Phiên Thần có 6 sao gọi là Thiếu Vi, chia thành Sĩ và Đại Phu. [Hiên Viên Kỳ] Chòm sao Hiên Viên. Hiên Viên tức là mình con rồng vàng. Trƣớc nó có một ngôi sao lớn gọi là Nữ Chủ (Régulus). Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh phạm vào chòm sao Quyền (Hiên Viên), thì hay và dở cũng y nhƣ là đối với chòm sao Hành. [7 sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trƣơng, Dực, Chẩn] (1) Chòm sao Đông Tỉnh chủ về nƣớc. Phía Tây nó có một ngôi sao gọi là Việt. Phía Bắc sao Việt là sao Bắc Hà. Phía Nam sao Việt là sao Nam Hà. (2) Chòm sao Dƣ Quỉ chủ sự cúng tế tổ tiên. Ở giữa chòm sao này thấy có vệt trắng, đó là Chất. Nếu sao Hỏa Tinh mà ở nơi các sao Nam Hà và Bắc Hà, thì sẽ xảy ra binh đao, mất mùa. Nhƣ vậy nếu có đức, thì thấy [sao Hỏa] ở chòm sao Hành, muốn coi điềm thì xem [sao Hỏa] ở chòm sao Hoàng. Sao Hỏa mà ở nơi sao Việt thì sẽ thất trận; sao Hỏa ở nơi chòm sao Quỉ sẽ có sự tàn sát. Nếu sao Hỏa ở chòm sao Tỉnh, sẽ có tai họa. (3) Sao Liễu là mỏ chim (Chu Tƣớc) chủ về cây cỏ. (4) Chòm sao Thất Tinh hay Cảnh là cổ chim (Chu Tƣớc) chủ về những chuyện cấp thời. (5) Trƣơng hay Tố, là cái diều [chim], chủ bếp nƣớc và yến tiệc. (6) Dực là lông cánh, chủ về viễn khách. (7) Chẩn là cỗ xe, chủ gió. Cạnh nó có một sao gọi là Trƣờng Sa. Trƣờng Sa thƣờng không sáng. Nếu sáng thì cũng sáng tỏ nhƣ 4 vì sao khác trong chòm sao Chẩn. Phía Nam sao Tỉnh có nhiều sao, gọi là Thiên Khố Lâu. Khố Lâu có 5 xe. Nếu chúng chiếu sáng, tăng thêm số sao, thì sẽ không có đủ chỗ để chứa xe và ngựa. IV. TÂY CUNG (Bàn về chòm sao Hàm Trì và 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm) [Chòm sao Hàm Trì: le Cocher] Tây Cung là Hàm Trì. Ngƣời ta còn gọi nó là Thiên Ngũ Hoàng hay Ngũ Đế Xa Xá (nhà chứa 5 xe của vua). Nếu sao Hỏa vào đó, sẽ xảy ra hạn hán. Nếu sao Kim Tinh vào đó, sẽ xảy ra lụt lội. Ở giữa có sao Tam Trụ. Nếu Tam Trụ không đủ 3 sao, sẽ xảy ra chiến tranh. [7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm] (1) Sao Khuê cũng gọi là Phong Thỉ, chủ ngòi lạch. (2) Sao Lâu chủ về quần chúng tập hợp. (3) Sao Vị là kho trời. Phía Nam sao Vị có một chòm sao gọi là Quái Tích (đống cỏ khô). (4) Sao Mão cũng gọi là sao Mao Đầu, là sao của rợ Hồ, chủ về tang tóc. (5) Sao Tất cũng gọi là sao Hãn Xa (xe săn), chủ về giặc giã nơi biên thùy, hoặc săn bắn. Gần một vì sao lớn của chòm sao này, có sao Phụ Nhĩ. Nếu sao Phụ Nhĩ mà sáng, thì sẽ có những bầy tôi xàm loạn bên cạnh vua.


Giữa sao Mão và Tất có sao Thiên Nhai (đƣờng trời). Phía Bắc nó là các nƣớc thuộc Âm, phía Nam nó là các nƣớc thuộc Dƣơng. (6) Sâm là Bạch Hổ. ba sao thẳng hàng gọi là Hành Thạch. Dƣới có 3 sao hình nhọn, gọi là Phạt, chủ về trảm quyết. Bốn sao phía ngoài là hai vai, hai đùi trái phải. Ba sao xếp thành hình nhọn gọi là Trủy Huề. Trủy Huề là đầu hổ, chủ về quân lữ và bảo vệ đất đai. Ở dƣới chúng có 4 sao gọi là Thiên Sí. Dƣới sao Thiên Sí có sao Thiên Thỉ. Nếu có màu vàng thì tốt; nếu có màu trắng thì hung. (7) Ở phía Tây chòm sao Chủy có các sao hợp thành các đƣờng khúc khuỵu, từng chòm sao một. Một chòm gọi là Thiên Kỳ, một chòm gọi là Thiên Uyển, một chòm gọi là Cửu Du. Ở phía Đông các sao ấy có một sao sáng lớn gọi là sao Lang. Nếu sao Lang chiếu sáng hay thay mầu, sẽ có nhiều đạo tặc. Ở dƣới sao Lang có 4 sao gọi là Hồ, chiếu thẳng vào sao Lang.[22] Đối ứng với sao Lang có một sao lớn gọi là Nam Cực Lão Nhân.[23] Khi sao này sáng tỏ, sẽ bình trị. Nếu không thấy nó, sẽ có binh biến. Thƣờng ngƣời ta hay ra Nam giao (cánh đồng phía Nam) để xem sao này vào ngày Thu Phân. Nếu sao Phụ Nhĩ mà tiến gần với sao Tất, sẽ có binh biến. V. BẮC CUNG (Nói về các sao: Đẩu Ngƣu, Nữ, Hƣ, Nguy, Thất, Bích) Bắc cung gọi là Huyền Vũ, đặc biệt tƣợng trƣng bởi hai sao Hƣ và Nguy. (1) Nguy chủ về mái nhà. (2) Hƣ chủ về than khóc. Ở phía Nam có một chòm sao gọi là Vũ Lâm Thiên Quân. Phía tây chòm sao đó có chòm sao Lũy, nhiều khi còn gọi là Việt. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Bắc Lạc (Fomalhaut du Poisson Austral). Nếu Bắc Lạc mà mờ, thì sẽ hao binh. Nếu sao Bắc Lạc mà không tỏa sáng đủ, hay nếu ngũ tinh mà phạm vào chòm sao Bắc Lạc hoặc Vũ Lâm Thiên Quân, thì sẽ có chuyện hƣng binh. Thủy, Hỏa, Kim Tinh mà phạm vào thì lại càng tệ. Hỏa Tinh phạm, sẽ hao binh. Thủy Tinh phạm, quân sĩ sẽ phải lo lƣờng. Thổ và Mộc Tinh đóng vào, quân sĩ sẽ gặp may. Ở phía Đông chòm sao Nguy có 6 sao gọi là Tƣ Không (đúng ra phải gọi là Tƣ Mệnh). (3) Chòm sao Doanh Thất là Thanh Miếu, là Ly Cung, hay Các Đạo. Ở giữa giải Ngân Hà có 4 sao gọi là Thiên Tứ. Ở cạnh nó có một sao gọi là Vƣơng Lƣơng.[24]Khi Vƣơng Lƣơng mà đánh ngựa, thì binh mã sẽ chật đồng. Gần đó có 8 sao gọi là Thiên Hoàng. Cạnh Thiên Hoàng có Giang Tinh. Nếu sao đó mà giao động, thì ngƣời ta phải lội sông. Chử Cửu là 4 sao phía Nam sao Nguy. Khi sao Bào Qua bị hànmh tinh xanh hay đen đóng vào, thì cá và muối sẽ đắt. (4) Chòm sao Nam Đẩu là miếu mạo. Phía Bắc nó có chòm sao Kiến Tinh, và Kiến Tinh có hình lá cờ. (5) Sao Khiên Ngƣu chủ về vật hi sinh. Phía Bắc nó có chòm sao Hà Cổ. Sao lớn là Thƣợng Tƣớng, hai sao tả hữu là Tả Tƣớng và Hữu Tƣớng. (6) Ở phía Bắc Vụ Nữ có sao Chức Nữ. Chức Nữ là cháu gái trời. NHẬT NGUYỆT VÀ NGŨ TINH (Mặt trời, mặt trăng và 5 hành tinh: Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) * Mộc Tinh (Tuế Tinh: Jupiter) Ngƣời ta quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng để định xem Tuế Tinh đi thuận hay nghịch ra sao. Tuế Tinh (Mộc Tinh) ứng với phƣơng Đông, mùa Xuân, và các ngày Giáp Tí. Nếu làm điều trái lẽ, Tuế Tinh sẽ gia phạt. Khi Tuế Tinhđi nhanh hay chậm, nó sẽ định vận mệnh quốc gia tƣơng ứng với cung nó đang ở. Nƣớc nào mà nó đang chiếu vào, thì không thể bại trận, trái lại có thể đi chinh thảo. Tuế Tinh đi nhanh quá thì gọi là Doanh; đi chậm quá thì gọi là Súc. Nếu đi nhanh quá (doanh) thì quốc gia tƣơng ứng sẽ có chiến tranh và suy yếu; nếu nó đi chậm quá (súc) thì quốc gia tƣơng ứng sẽ bị lao lung, tu7ớng soái sẽ bị chết. Nếu Tuế Tinh mọc đúng chỗ, lại hội cùng ngũ tinh, thì quốc gia tƣơng ứng sẽ có thể dựa theo lẽ phải mà đƣợc Thiên hạ.


PHONG THỦY LUẬN . BÀI 28. PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 5 : THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH ỨNG DỤNG TRONG PHONG THỦY. II / MỘT SỐ VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG TRONG THIÊN VĂN VÀ CHIÊM TINH . ( Tài liệu này dienbatn sƣu tầm và tổng hợp nên không ghi nguồn .) I/ Chu kỳ 12 năm của Tuế Tinh . [Năm thứ I]: Năm Nhiếp Đề Cách Tuế Âm (Thái Tuế) chuyển về phía trái và ở cung Dần. Tuế Tinh chuyển phía phải và đóng ở cung Sửu. Tháng Giêng vào buổi sáng, Tuế Tinh sẽ mọc ở phía Đông, nơi các chòm sao Đẩu và Khiên Ngƣu, có tên là Giám Đức. Sắc xanh và sáng. Nếu nó mọc sai chỗ và nếu nó mọc nơi chòm sao Liễu thì đầu năm đó sẽ mƣa nhiều, cuối năm đó sẽ nắng nhiều. Tuế Tinh mọc, tiến về phía Đông 12o. Sau 100 ngày dừng lại, rồi thoái. Thoái 8o. Sau 100 ngày lại tiến về phía Đông. Trong một năm nó đi đƣợc 30o 7/16 và nhƣ vậy mỗi ngày di chuyển trung bình là 1/12o. Trong vòng 12 năm nó đi đƣợc một vòng trời. Bao giờ nó cũng mọc ở phía Đông lúc bình minh, và lặn về phía Tây lúc chập tối. [Năm thứ 2]: Năm Đơn Ất Tuế Âm ở Mão, Tuế Tinh ở Tí. Tháng Hai mọc phía Đông, buổi sáng, nơi chòm sao Vụ Nữ, Hƣ, Nguy. Có tên là Giáng Nhập. Nếu mọc không đúng chỗ, mà lại mọc nơi chòm sao Trƣơng thì gọi là Giáng Nhập. năm đó nƣớc lớn. [Năm thứ 3]: Năm Chấp Từ Tuế Âm ở Thìn. Tuế Tinh ở Hợi. Tháng Ba mọc buổi sáng nơi chòm sao Doanh Thất, Đông Bích, gọi là Thanh Chƣơng. Ánh sáng rất xanh, rất sáng. Nếu nó mọc sai chỗ và mọc ở chòm sao Chẩn thì gọi là Thanh Chƣơng. Năm đó đầu năm hạn hán, cuối năm nƣớc to. [Năm thứ 4]: Năm Hoang Lạc Tuế Âm ở Tị, Tuế Tinh ở Hợi. Tháng Tƣ, sáng sớm mọc nơi chòm sao Khuê, Lâu, Vị, Mão, gọi là Biền Chủng. Có màu đỏ. Nếu nó mọc sai chỗ, không đúng cách, thì sẽ mọc nơi chòm sao Cang. [Năm thứ 5]: Năm Đôn Tàng Tuế Âm ở Ngọ, Tuế Tinh ở Dậu. Tháng Năm, mọc nơi chòm sao Vị, Mão, Tất, vào lúc buổi sáng, gọi là Khai Minh. Nó sáng rực. Không nên chinh chiến, vì chỉ lợi cho vƣơng công mà không lợi cho tƣớng soái. Nếu mọc sai chỗ, không đúng cách, nó sẽ mọc nơi chòm sao Phòng. Năm đó thì đầu năm nắng nhiều, cuối năm nƣớc lớn. [Năm thứ 6]: Năm Hiệp Hiếp Tuế Âm ở Mùi, Tuế Tinh ở Thân. Tháng Sáu, mọc ở chòm sao Chủy, Huề, Sâm; gọi là Trƣờng Liệt. Sáng láng. Nếu mọc sai chỗ thì sẽ mọc nơi chòm sao Cơ. [Năm thứ 7]: Năm Huân Than Tuế Âm tại Thân, Tuế Tinh tại Mùi. Tháng Bảy, sáng sớm mọc nơi chòm sao Đông Tỉnh, Dƣ Quỉ; gọi là Thiên Âm. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Thiên Ngƣu. [Năm thứ 8]: Năm Tác Ngạc Tuế Âm tại Mão, Tuế Tinh tại Ngọ. Tháng Tám, mọc nơi các chòm sao Liễu, Thất, Tinh, Trƣơng; gọi là Vi Trƣờng Vƣơng. Nếu sáng lóe thành tia thì quốc gia tƣơng ứng sẽ thịnh và sẽ đƣợc mùa lúa. Nếu nó mọc sai chỗ và mọc ở chòm sao Nguy thì gọi là Đại Chƣơng, nắng nhiều nhƣng thịnh vƣợng. Đàn bà chết nhiều, dân chết nhiều. [Năm thứ 9]: Năm Yêm Mậu Tuế Âm tại Tuất, Tuế Tinh tại Tỵ. Tháng Chín, Tuế Tinhmọc nơi chòm sao Dực, Chẩn; gọi là Thiên Huy, sáng và trắng. Nếu mọc sai chỗ sẽ mọc nơi chòm sao Đông Bích. Năm đó mƣa nhiều, con gái chết nhiều.


[Năm thứ 10]: Năm Uyên Hiến Tuế Âm tại Hợi, Tuế Tinh tại Thìn. Tháng Mƣời, Tuế Tinh mọc nơi chòm sao Giác, Cang; gọi là Đại Chƣơng. Nếu sao sáng xanh và lấp lánh nhiều và nếu hiện ra vào lúc rạng đông thì gọi là Chính Bình. Nên xuất binh chinh phạt. Quốc gia tƣơng ứng sẽ có và lấy đƣợc Thiên hạ. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Lâu. <Trong nguyên bản thiếu năm thứ 11> [Năm thứ 12]: Năm Xích Phấn Nhƣợc Tuế Âm ở Sửu, Tuế Tinh ở Dần. Tháng 12, ban sáng mọc ở chòm sao Vĩ, Cơ; gọi là Thiên Hạo, sắc sẫm và sáng. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Sâm.

II. QUAN SÁT SAO BẮC ĐẨU Xem sao Bắc Đẩu buổi chiều khoảng 18 giờ sẽ biết dƣới trần gian đang ở vào mùa nào. Thí dụ: - Tháng 11 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Tí. - Tháng 12 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Sửu. - Tháng 1 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Dần. - Tháng 2 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Mão, v.v. Nhƣ vậy, sao Bắc Đẩu chính là đồng hồ để chỉ mùa, chỉ tháng quanh năm. Sao Bắc Đẩu còn quay một vòng trong một ngày, nhƣ chiếc kim đồng hồ. Thí dụ: Lúc 18 giờ buổi chiều nào đó, ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Mão, thì 6 giờ sau tức vào nửa đêm, ta sẽ thấy nó chỉ hƣớng Ngọ. Sáu giờ sau nữa (tức 6 giờ sáng ngày hôm sau), nó sẽ chỉ hƣớng Dậu. Suy ra thì 12 giờ trƣa hôm sau nó sẽ chỉ hƣớng Tí, để rồi 18 giờ chiều lại chỉ hƣớng Mão, v.v. Lê Quí Đôn viết trong Vân Đài Loại Ngữ nhƣ sau: «Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Mão (tháng 2), chính là tiết Xuân Phân, cho đến tiết Lập Hạ giữa tháng Tị (tháng 4) là lúc Thiếu Dƣơng quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa. «Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Tị (tháng 4), chính là tiết Tiểu Mãn, cho đến tiết Tiểu Thử vào giữa tháng Mùi (tháng 6) là lúc Thiếu Âm tƣớng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tƣớng hỏa làm việc. «Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Mùi (tháng 6), chính là tiết Đại Thử, cho đến tiết Bạch Lộ vào giữa tháng Dậu (tháng 8), là Thái Âm thấp thổ làm chủ khí, tiết trời lúc ấy mây mƣa nhiều, khí ẩm thấp bốc lên.


«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Dậu (tháng 8), chính là tiết Thu Phân, cho đến tiết Lập Đông vào giữa tháng Hợi (tháng 10), là lúc Dƣơng minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo. «Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Hợi (tháng 10), chính là tiết Tiểu Tuyết, cho đến Đại Tuyết (vào giữa tháng 12) là Thái Dƣơng hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá. «Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hƣớng Sửu (tháng 12), chính là tiết Đại Hàn, cho đến tiết Kinh Trập (vào giữa tháng 2) là lúc Quyết Âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là mỗi tiết khí ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.» Lê Quí Đôn tuy bàn về tiết khí nhƣng chính cũng đã gián tiếp cho ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu có thể dùng để chỉ các tháng trong năm. I.

Tử

Vi

Viên

Tử Vi Viên tức là nội cung, nội tẩm, gồm 54 sao hay chòm sao. Ta thấy Thiên Hoàng Đại Đế 天 皇 大 帝 ngự ở ngôi Bắc Thần 北 辰. Có Câu Trần 勾 陳 làm cận vệ, có Đế Tọa 帝 座 (Thiên Đế Tinh: l’Étoile souveraine du ciel), có Thiên Sàng 天 床 (le Lit de justice céleste), có lọng che (Hoa Cái 華 蓋 và Giang 杠: le Baldaquin), lại có các Hậu Phi 后 妃 (les Reines), Thái Tử 太 子 (le Prince Impérial), các Thứ Tử 次 子 (les fils de concubine), các công chúa (Ngự Nữ 御 女: les filles impériales). Điểm qua hàng phụ tá, ta thấy có: - Tứ Phụ 四 輔 (les quatre Supports) - Thƣợng Thƣ 尚 書 (le Secrétaire) - Trụ Sử 柱 史 (Ngự sử: Censeurs) - Đại Lý 大 理 (les Juges) - Tam Sƣ 三 師 (les Trois Gouverneurs) - Tam Công 三 公 (les Trois Conseillers) - Tƣớng 相 (le Ministre) - Tam Thai 三 台 (les Trois Éminences) - Văn Xƣơng 文 昌 (les Accomplis) - Thái Tôn 太 尊 (les Grands Augustes) - Thiên Ất 天 乙 (la Première du Ciel) - Thái Ất 太 乙 (l‟Archie première) - Lục Giáp 六 甲 (les Six Chefs) - Thái Dƣơng Thủ 太 陽 守 (le Gardien resplendissant) - Truyền Xá 傳 舍 (le Maître du Logis) Ngoài ra còn có:


- Thiên Trù 天 廚 (la Cuisine céleste) - Nội Trù 內 廚 (la Cuisine intérieure) - Thiên Lao 天 牢 (la Prison céleste) - Tả Khu 左 樞 (le Pivot droit) - Hữu Khu 右 樞 (le Pivot gauche) Và nhất là chiếc xe trời: Đế Xa 帝 車 gồm 7 vì sao Bắc Đẩu: (1) Khu Tinh (Tham Lang), (2) Tuyền Tinh (Cự Môn), (3) Kỳ Tinh (Lộc Tồn), (4) Quyền Tinh (Văn Khúc), (5) Hành Tinh (Liêm Trinh), (6) Khai Dƣơng (Vũ Khúc), (7) Giao Quang (Phá Quân).

II. Thái Vi Viên 太 微 垣 Thái Vi Viên là chỗ Thƣợng Đế thiết triều. Ta thấy ở giữa có Ngũ Đế Tòa (la Siège Intérieur des cinq empereurs) chỗ ấy là ngai Thƣợng Đế (Hoàng Đế). Đàng sau ngai Đế Tòa, ta thấy: - Thái Tử 太 子 (le Prince) và các cận vệ nhƣ: . Hạnh Quan 幸 官 (les Officieur du Bonneur) . Tòng Quan 從 官 (la Suite) . Hổ Bí 虎 賁 (Hổ Bôn: les Tigres rapides) . Thƣờng Trần 常 陳 (l‟Escouade perpétuelle) . Lang Tƣớng 郎 將 (le Commandant de la Garde)


. Tam Thai 三 台 (les Trois Éminences) . Lang Vị 郎 位 (le Siège des Officiers) Hai bên tả hữu phía trƣớc ngai lại giàn ra hai hàng văn võ: - Thƣợng Tƣớng 上 將 (Premier Général) - Thứ Tƣớng 次 將 (Second Général) - Thƣợng Tƣớng 上 相 (Premier Conseiller) - Thứ Tƣớng 次 相 (Second Conseiller) - Tả Chấp Pháp 左 執 法 (le Justicier de Gauche) - Hữu Chấp Pháp 右 執 法 (le Justicier de Droite) Nơi sân rồng ta thấy bức bình phong (Nội bình 內 屏) và sự hiện diện của: - Cửu Khanh 九 卿 (les Neuf Nobles) - Tam Công 三 公 (les Trois Conseillers auliqués) - Chƣ Hầu 諸 侯 (les Qinq Officiers) - Yết Giả 謁 者 (les Visiteurs) Xa hơn nữa, ta thấy có cửa „Đoan Môn‟ 端 門, toà „Minh Đƣờng‟ 明 堂, tòa „Linh Đài‟ 靈 臺 cùng với bức tƣờng „Trƣờng Viên‟ 長 垣 của triều đình Thiên Quốc. Thái Vi Viên gồm 29 sao hay chòm sao. (Xem hình vẽ)


III. Nhị thập bát tú 二 十 八 宿 Ngƣời xƣa gọi Nhị thập bát tú tức là 28 „quán xá‟ trời hay là những Kinh tinh để cho mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh chuyển vận lại qua. Nhị thập bát tú theo từ nguyên, vừa có ý nghĩa luân lý, vừa có mục đích mô tả lại công việc một năm của nhà vua. Ví dụ: Giác 角 là vạn vật bắt đầu sinh. Vạn vật sinh ra rồi thì phải định tông miếu lễ nghĩa (Cang 亢), v.v. Giác là đầu mùa xuân, cũng là sừng để tung lòng trời, lòng đất mà nhô lên. Giác có phụ tinh là Thiên Điền 天 田, vì đầu xuân vua ra đồng để cấy một luống tƣợng trƣng… Ta không đi sâu vào chỉ tiết, mà chỉ cần nhớ tên và vị trí Nhị thập bát tú. Nhị thập bát tú gồm 4 nhóm sao lớn: a. Nhóm sao phía Đông là Thanh Long 青 龍 , có 7 chòm sao: Virginis(1) Giác 角 Spica và Virginis(2) Cang 亢 Libræ(3) Đê 氐 Scorpionis(4) Phòng 房 Scorpionis(5) Tâm 心 Scorpionis(6) Vĩ 尾 TelescopiiSagittarii,(7) Cơ 箕 b. Nhóm sao phía Bắc là Huyền Võ 玄 武, có 7 chòm sao: Sagittarii(1) Đẩu 斗


Neb. 323, 324 Capricorne, Neb. 322 Sagittarii(2) Ngƣu 牛 493 Piazzii, Aquarii(3) Nữ 女 Equlei Aquarii,(4) Hƣ 虛 Pegasi Aquarii, (5) Nguy 危 Pegasi(6) Thất 室 Aquarii, Pegasi Andromedæ (7) Bích 璧 c. Nhóm sao phía Tây là Bạch Hổ 白 虎, có 7 chòm sao: PisciumAndromedæ, (1) Khuê 奎 16 sao Capitis Arietis(2) Lâu 婁 Muscoe(3) Vị 胃 Tauri (Pleiades)(4) Mão 昴 Tauri (Hyades) IV61 Piazi,(5) Tất 畢 Orionis(6) Chủy 觜 , Orionis(7) Sâm 參 d. Nhóm sao phía Nam là Chu Tƣớc 朱 雀, có 7 chòm sao: Germinerum và (1) Tỉnh 井 8 sao: Caneri(2) Quỉ 鬼 Hydræ(3) Liễu 柳 20 và 26 Flamsteed vài sao chòm Hydræ(4) Tinh 星 Hydrævà (5) Trƣơng 張 6 sao (6) Dực 翼 22 sao Crateris và Hydræ Cervi(7) Chẩn 軫 Cách sắp xếp Nhị thập bát tú trên vòng Hoàng Đạo hết sức phức tạp. Ta thấy có mấy cách sắp sau đây:

IV. Thất Chính 七 正 Thất Chính gồm: (1)Mặt trời (Thái Dƣơng); (2)Mặt trăng (Thái Âm); và Ngũ Hành: (3) Kim Tinh (Thái Bạch); (4) Mộc Tinh (Mộc Đức); (5) Thủy Tinh (Thủy Diệu); (6) Hỏa Tinh (Vân Hán); (7) Thổ Tinh (Thổ Tú).[1] - Mặt trăng (Lune) quay 1 vòng chu thiên: 1/12 năm. - Thủy Tinh (Mercure) quay 1 vòng chu thiên: 1 năm. - Kim Tinh (Venus) quay 1 vòng chu thiên: 1 năm. - Mặt trời (Soleil) quay 1 vòng chu thiên: 1 năm. - Hỏa Tinh (Mars) quay 1 vòng chu thiên: 2 năm. - Mộc Tinh (Jupiter) quay 1 vòng chu thiên: 12 năm. - Thổ Tinh (Saturne) quay 1 vòng chu thiên: 28 năm.


Hỏa, Mộc, Thổ : Dƣơng (chủ ngoại) Kim, Thủy: Âm (chủ nội) Âm Dƣơng đắp đổi giao thoa thành thiên văn, thiên biến, và thời tiết. Ngày nay theo hệ thống Copernic thì các hành tinh đều quay quanh mặt trời theo những qui đạo bầu dục. Ngày xƣa, ngƣời Trung Hoa cũng nhƣ Âu Châu quan sát tinh tƣợng từ trái đất và bằng mắt trần, nên thấy các hành tinh có những đƣờng lối hết sức là phức tạp, lắt léo, lúc tiến lúc lui, lúc đi lúc đứng, lúc hiện lúc ẩn, lúc ấp lúc trì; ánh sáng cũng tùy theo thời tiết, tùy theo các lớp mây lớp mù mà biến sắc, do đó họ cho là các vì sao biết giận biết vui nhƣ con ngƣời, tiến thì hay, thoái thì dở… Họ cho rằng: Thổ Tinh là phúc tinh, ứng vào nƣớc nào thì nƣớc ấy phúc khánh. Mộc Tinh hay Tuế Tinh là phúc tinh, còn Hỏa Tinh là sao đem tới loạn lạc, giặc giã. Kim Tinh hay Thái Bạch chủ về quân binh nên tƣớng soái phải tùy Thái Bạch cao thấp, nhanh chậm, tỉnh táo, ẩn hiện mà bắt chƣớc, điều binh. Thủy Tinh chỉ tứ thời, sắc vàng thì đƣợc mùa, đen thì hồng thủy… Ta làm bản tóm lƣợc về ngũ tinh nhƣ hình sau.

V. Sông Ngân Hà

Vòng Dịch có đƣờng xoáy chữ S ở giữa, thì trời có sông Ngân Hà vắt ngang theo chiều Tí Ngọ. Cát Hồng Bão Phác Tử viết: Sông Ngân Hà[2] nơi gần Bắc Cực chia thành hai nhánh, và từ đó vắt sang Nam Cực. Một nhánh qua chòm sao Nam Đẩu, một nhánh qua chòm sao Đông Tỉnh.


Thiên Tân Gustav Schlegel cho rằng quả thực cách đây 18.500 năm sông Ngân Hà đã có vị trí nhƣ trên, và sách chiêm tinh học đều ghi chép nhƣ vậy. Tuy nhiên, vì sự chuyển dịch ngày nay chỗ sông Ngân Hà chẻ nhánh đã xa Bắc Cực nhiều. Khoảng gần Bắc Cực, sông Ngân Hà có một chỗ khô «có thể lội qua» gọi là Thiên Tân (bến trời) thuộc các chòm sao Ngƣu, Đẩu, vì thế Thiên Tân còn có một tên là Cách Tinh. Cách là đến, Tân là qua. Thiên tân trên trời có thể nói là ứng với quẻ Phục trong vòng Dịch Tiên Thiên. Khảo sát về thiên văn học Trung Hoa ta thấy các nhà thiên văn chẳng những muốn nghiên cứu sự vận chuyển các vì sao, mà còn muốn dùng các sao trên trời để viết lại niềm tin của mình, những hoài bão của mình, những công trình của mình phải làm trong năm, trong tháng. Hơn nữa, ngƣời xƣa còn muốn đem tâm tƣ con ngƣời mà điểm xuyết cho các vì sao, đem tính nết lành dữ của con ngƣời gán ghép cho các vì sao, làm cho bầu trời trăng sao trở thành một thiên đình linh động, thành một triều đình đƣợc tổ chức theo nhƣ nơi trần thế. Sau cùng, đem gắn liền hoạt động các vì sao vào công việc, vào số mệnh và sự hƣng vong họa phúc của dân nƣớc. Muốn hiểu thiên văn Trung Hoa ta hãy mƣờng tƣợng nhƣ các vì sao nhất là hai vầng nhật nguyệt và 5 hành tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) là những vị thần linh, mà Nhị thập bát tú là những quán xá trời mây của những vị thần linh ấy. Các hành tinh này rong ruổi trên con đƣờng Hoàng Đạo nhanh chậm khác nhau. Các hành tinh lại còn đi lúc nhanh lúc chậm, khi đi khi đứng, khi lui gót lúc bối rối vòng vo, lúc giận hờn mà thấy sắc diện, hoặc phát ra những tia lửa tức tối. Mỗi quán xá trời mây của Nhị thập bát tú lại ứng vào một phần đất dƣới trần gian, và tùy theo sao lành dữ đóng ở cung nào trên trời thì hạnh phúc hay loạn lạc sinh ra nơi phần đất tƣơng ứng ở trần gian. ( Viết theo Thiên văn học cổ - Nhân tử Nguyễn Văn Thọ ). Lời nhắn nhủ của dienbatn : Những kiến thức về Thiên văn học này rất quan trọng để hiểu đƣợc những phần sau của môn Phong thủy, nhất là khi nghiên cứu về La Kinh. Xin các bạn chớ bỏ qua. dienbatn.


PHONG THỦY LUẬN. BÀI 29. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN. Lời bạt : Những kiến thức về âm phần , dienbatn đã viết trong loạt bài " NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN " từ bài 1( http://dienbatnblog.blogspot.com/2011/11/nhung-ieu-canbiet-khi-cai-tang-mo-phan.html ) đến bài 11 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/nhung-ieucan-biet-khi-cai-tang-mo-phan_21.html ) và loạt bài " ỨNG DỤNG BÁT QUÁI ĐỒ TRONG VIỆC ĐẶT MỘ PHẦN " từ bài 1 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/ung-dung-bat-quai-tran-otrong-viec-at.html ) đến bài 4 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/ung-dung-bat-quai-trano-trong-viec-at_2259.html ). Phần này xin bổ xung thêm một số kiến thức chung mà dienbatn sưu tầm được. Thân ái.

CÁC I. II/ III. IV. V. VI.

ĐỀ TỔNG

MỤC QUAN

CHUNG TRONG VỀ PHONG THỦY LONG HUYỆT SA THỦY TÁNG

PHẦN ÂM

NÀY. PHẦN. PHÁP. PHÁP. PHÁP. PHÁP. PHÁP.

Mối quan hệ giữa ÂmDƣơng Mệnh. ÂM---------------------DƢƠNG ------------------------------MỆNH. Nhất Mộ----------------------Nhị Phòng ---------------------------Tam Tứ trụ. " Quý Vận tìm Quý Nhân " Dƣơng trạch chịu ảnh hƣởng của Mệnh tốt, xấu. Âm trạch không chịu ảnh hƣởng của Mệnh tốt, xấu. Âm Phần là phúc đức của cả dòng họ. Phúc đức của dòng họ thì cần đƣợc Mộ tốt . Làm mộ tốt thì sau này con cháu đƣợc phúc lộc tốt Tức là có số tốt. I. Phong 1/ 2/ 3/

TỔNG thủy

QUAN Âm

VỀ phần

PHONG có 4

THỦY yếu

ÂM tố

PHẦN. bản. Long. Huyệt. Sa.


4/

Thủy.

Hình trên là dạng tiêu biểu cho sự vận hành của Long khí. Từ Tổ Long, Long khí bắt đầu vận hành theo con đƣờng riêng của mình. Khi chúng ta quan sát ( Các bạn có thể lấy trƣờng hợp này trên con đƣờng từ Lạng Sơn về Hà Nội rất rõ. ). Khi ta thấy các đỉnh của dãy núi đầu nhọn hoắt, tức là đoạn đó đang trên đƣờng vận chuyển của Long khí ta gọi là hành Long. Quá trình vận hành cứ nhƣ vậy cho đến khi ta thấy những quả núi bắt đầu tròn đầu, tức là lúc đó Long khí sắp dừng lại. Tiếp tục đi tiếp ta thấy những quả đồi tròn nhƣ bát úp, tạo nên một vùng trung du. Một đoạn tiếp theo nữa, chúng ta thấy hết những quả đồi tròn và đi tiếp qua một hay hai con sông, phía bên kia sông ta thấy một loạt gò đống nổi lên, đó chính là khu vực mà Long khí dừng lại kết huyệt. Lúc này ta chú trọng quan sát sẽ nhận biết đƣợc đâu là Huyệt chính, đâu là huyệt bàng và tính chất của huyệt đó nhƣ thế nào.Nhƣ vậy ta thấy : Long đi đến tận cùng thì kết huyệt. Ta cũng nhận thấy song song với đƣờng hành long luôn luôn có thủy. Nơi dòng nƣớc đến gọi là Thiên Môn, nơi dòng nƣớc đi gọi là Địa Hộ. Tại khu vực mà Long kết huyệt ta gọi là Huyệt trƣờng, trƣớc mặt Huyệt có những gò nhỏ nổi lên ta gọi là Án. Sau Huyệt có gò đất nhỏ nổi lên ta gọi là Ngọc Chẩm . Phía bên trái của Huyệt là Thanh long, bên phải là Bạch Hổ . Phía trƣớc huyệt có đất trũng chứa nƣớc là Nội Minh đƣờng, Khu vực đất trũng có nƣớc phía ngoài hai tay Long, Hổ gọi là Ngoại Minh đƣờng. Các dãy núi nhỏ phía xa gọi là Sa. Tại khu vực chính Long điểm đƣợc Huyệt là nơi Khí tích tụ mạnh nhất gọi là chính Huyệt. 1/ LONG . Long là các dãy núi chạy nhấp nhô, biểu hiện Sinh khí từ trong lòng đất phát lên . Long đi thì Khí đi, Long dừng thì Khí dừng. Khi Long dừng thì Sinh khí tụ lại . Nơi tụ Khí đó chính là Huyệt. Tại khu vực này, nếu Sinh khí viễn trƣờng , mạnh mẽ có thể đặt các thành phố , Thị trấn , nếu nhỏ hơn có thể đặt mồ mả, nhà cửa , từ đƣờng lên đó. Sinh khí vận hành trong lòng đất , ngƣời phàm không thể nhìn thấy đƣợc, tuy nhiên bằng những biểu hiện ra bên ngoài khác nhau, kết hợp luyện tập, các Phong thủy sƣ vẫn có thể nhận biết đƣợc đƣờng vận hành của nó. Muốn biết Khí có vƣợng lên hay không, ta quan sát khu vực đó có nhiều gò đống nổi lên hay không ? Bởi những gò đống đó chính là do Khí dƣ của Long mạch khi kết tụ nổi lên. Có những khu vực Long khí mạnh làm nổi lên 99 cái gò nhƣ vùng Thuận thành - Bắc Ninh. Long cao Khí vƣợng, Long thấp khó sung. Long đi trên mặt đất đều đều, không nhấp nhô, uốn lƣợn là Tử Long ( Long chết ), hoặc đất nhô cao thành dải đều đều cũng là Tử Long.. Chỗ nào có gò đống nổi lên, xung quanh có nƣớc thì Khí vƣợng. 2/ HUYỆT.


Là nơi mạch khí của đất tụ lại, nơi tận cùng của Lai Long ( Long đến ) . Huyệt của các mạch núi cao khi kết tụ phải trầm phục ( thƣờng ở chân núi lõm ). Huyệt của miền bình dƣơng ( đồng bằng ) ắt phải nổi cao. 3/ SA. Sa là Khí mạch nổi lên ở phía trƣớc , phía sau, bên phải, bên trái của Huyệt, cùng chầu về Huyệt. Tất cả các Sa nằm phía trƣớc Huyệt gọi là Chu Tƣớc. Tất cả các Sa nằm phía sau Huyệt gọi là Huyền Vũ. Các Sa nằm bên trái Huyệt gọi là Thanh Long. Các Sa nằm bên phải Huyệt gọi là Bạch Hổ. Sa là để tạo ra sự kết tụ của Khí Huyệt. Không có Sa thì dù Long có dừng thì nếu kết Huyệt, Huyệt đó cũng tứ tán , không tụ đƣợc Khí, không tạo nên sự kết phát . 4/ THỦY. THủy là phần nƣớc nằm ở phía trƣớc mặt Huyệt hoặc ở Minh đƣờng.

II/ LONG PHÁP.

1/ LONG MẠCH VIỆT NAM.


Hình trên là một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lƣng uốn theo hƣớng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dƣơng sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m). Đây là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lƣợn nhƣ hình con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nƣớc tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nƣớc ta. Nhìn vào sơ đồ "vi địa mạch" - Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nƣớc ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dƣơng (3143m). Hƣớng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông nhƣ sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu... Thế nhƣng các dãy núi chỉ "chầu" nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con sông thì đã "tụ" lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã "mọc" lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nhìn theo đƣờng chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km. Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn "Đắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hƣớng bối chi nghi" mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ. Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thƣợng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đƣờng kinh mạch đi theo hƣớng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngƣu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xƣa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc. Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đƣờng theo hƣớng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi ngƣời quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngƣu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trƣớc của vua An Dƣơng Vƣơng và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trƣớc của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông Nhƣ Nguyệt năm 1077 của Đại tƣớng Lý Thƣờng Kiệt và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hƣng Đạo Đại Vƣơng lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288. Kỳ lạ thay, đƣờng chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hƣớng Đông Bắc là hƣớng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ? Những ngƣời có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3' 28'' từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nƣớc cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi ngƣời vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia. Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nƣớc sông Hồng dâng cao, nhƣ thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Địa mạch của Việt Nam có những Long mạch lớn nhƣ sau : 1. DÃY HOÀNH SƠN : Còn gọi là Trƣờng Sơn. Phát nguồn từ Trung Quốc qua tỉnh Vân Nam , chạy dài về phía hữu ngạn sông Đà , qua miền Bắc Việt, vùng Thƣợng Lào, chạy đến miền Trung , tiếp tục cho đến Nam Việt Nam mới dừng. Giới hạn của Long mạch : Phía Đông là Biển, phía Tây Nam là châu thổ sông Cửu Long . 2. DÃY BA VÌ : Dãy núi Ba Vì còn đƣợc gọi là Tản Viên , cũng nối liền từ tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, qua vùng phong thổ Lai Châu Lào Cai, Yên Bái, Hƣng Hóa, Sơn Tây. Dãy núi này một bên là sông Nhị Hà ( Sông Hồng ), nằm dƣới mạch tả ngạn. Bên hữu ngạn là sông Đà . Dãy núi này chạy đến đồng bằng Bắc bộ, qua Hà Đông, Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định. 3. DÃY TAM ĐẢO : Phát nguồn từ tỉnh Vân Nam - Trung Quốc , qua vùng Bảo Lạc, Nguyên Bình, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hƣng Yên, Thái Bình, Nam Định. 4. DÃY HUYỀN ĐINH : Cũng bắt nguồn từ Thập vạn đại sơn của Trung Quốc, qua vùng Đông Hƣng, Móng Cái, Tiên Yên, Quảng Yên, Hải Phòng. Một nhánh chia ra qua vùng Lục nam, Đông Triều, đến Phả Lại giáp Lục Đầu Giang, băng qua miền bình dƣơng nhập vào Hải Dƣơng.


Ngoài ra, trong miền Nam Việt nam còn có một số địa mạch xuất phát từ bên Lào, Cam Pu Chia qua, dienbatn đã viết tại bài : NHỮNG CUỘC HÀNH HÓA KHAI THÔNG HUYỆT ĐẠO THỜI NAY " ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/nhung-cuoc-hanh-hoa-khai-thong-huyet-ao.html ) 2/ CÁC LOẠI LONG- HÌNH THẾ CỦA NÚI. 1. DẠNG NGŨ TINH . * Kim tinh : Thƣờng là loại đỉnh núi trên vuông tròn dƣới hơi choãi ( giống nhƣ nửa mặt trăng ). " Kim tinh hình thể tịnh nhi viên, Cung khởi hỗn nhƣ nguyệt bán biên ". Kim tinh đƣợc chia ra làm 3 loại : - Ở vùng Sơn cƣớc : Kim tinh giống hình cái chuông, đầu tròn ngay ngắn, mập mạp, nếu trông nó tƣơi sáng, hữu khí thì tốt đẹp.

- Ở vùng Trung du : Kim tinh giống nhƣ cái mũ, có chóp tròn hoặc giống cái chậu úp sấp.

-Ở vùng đồng bằng : Kim tinh giống nhƣ hình cái bánh ngọt, tròn trịa, đầy đặn, ở giữa cao hơn một chút.


Kim tinh hình thể đẹp đẽ , tú mĩ thì sẽ xuất hiện con cháu hiền sĩ, trung nghĩa, chủ phát về văn chƣơng. Nếu Kim tinh hình thể cao to hùng vĩ , thì sẽ xuất hiện tƣớng võ oai nghiêm , tổng quản hàng triệu ngƣời. Kim tinh cũng chủ phát về phú ( tài lộc ). Nếu đỉnh của Kim tinh tròn không bị khuyết , có thể phát đến quan hàng Tứ trụ triều đình , nếu không cũng là phú gia địch Quốc.

* Mộc tinh : Mộc tinh là một loại núi có đỉnh núi cao, hơi tù , chân thu lại không rộng nhƣ Kim tinh. " Mộc tinh thân lập vạn nhân kinh. Đạo địa nhân khan nhất thụ hoành ". - Ở vùng Sơn cƣớc : Mộc tinh dáng cao, thằng, sừng sững nhƣ cây măng mới mọc. Không nghiêng vẹo thì đại cát.

- Ở vùng Trung du : Mộc tinh thƣờng uốn lƣợn nhƣ cây roi, sơn đầu tròn trĩnh hơn.

-Ở vùng đồng bằng : Mộc tinh nằm nhƣ một cây gỗ, mặt bằng phẳng. Nếu có các nhánh nằm ngang hƣớng vào thì đại cát.

* Thủy tinh : Thủy tinh chỉ hình thể đỉnh núi uốn nhƣ con rắn, hoặc nhƣ sóng nƣớc nhấp nhô. Phú viết : " Trƣớng Thiên thủy tinh lãng giao gia,


Hoặc lạc bình dƣơng khúc nhƣ xà ". Thủy tinh nếu uốn lƣợn , sinh động ắt phát phúc lâu dài.Nếu tản mạn thì táng gia , bại sản.Thủy tinh chia ra làm ba loại: - Ở vùng Sơn cƣớc : Thế thƣờng uốn lƣợn , triển khai dài rộng. - Ở vùng Trung du :Bình cƣơng có thể lƣu thủy hành vân , giống nhƣ mây bay, nƣớc chảy, dàn trải vững vàng. -Ở vùng đồng bằng : Thế nhƣ sóng nƣớc dập dờn từng lớp, dàn hàng ngang mà tới, hoặc nhƣ con xà uốn lƣợn.

* Hỏa tinh : Hình thế đỉnh núi nhọn, chân choãi rộng hình tam giác , nhìn tựa nhƣ mũi giáo.

Hỏa tinh nếu đẹp đẽ sẽ không nghiêng lệch, nhọn đều, hình thù tú mĩ thì có thể dùng đƣợc . Nếu nghiêng lệch thì tối hung. - Ở vùng Sơn cƣớc : Núi thƣờng cao to, nhọn, lừng lững chọc trời - Gọi là Nha đao. - Ở vùng Trung du : Thƣờng Hỏa tinh thấp , nhiều mạch nhánh ngang dọc tỏa ra, hình thể nhƣ lửa phun. -Ở vùng đồng bằng : Thế những gò đất hình đa giác , không nổi cao, có góc cạnh nhƣ hình cờ đuôi nheo. Huyệt này xấu. Thƣờng vùng nhƣ vậy dân nghèo . nóng tính, hay sinh đầu trộm đuôi cƣớp, đâm chém nhau.


* Thổ tinh : Chỉ hình thể đỉnh núi hình vuông , chân chất, bốn góc vuông vắn đều đặn. Phú viết : " Thổ tinh cao đại hậu nhi đoan Ngƣu bối bình phong tổng nhất ban ". Thổ tinh kết huyệt thì chủ con cháu đời đời làm quan.

- Ở vùng Sơn cƣớc : Hình thể nhƣ phú viết , dày dặn, hùng vĩ, ngay ngắn. - Ở vùng Trung du : Gần giống nhƣ hƣơng án, cao trung bình, không lệch lạc. -Ở vùng đồng bằng : Các góc cạnh vuông vức, bằng phẳng, bên trên không có chỗ cao chỗ thấp quá.

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 30. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN. Lời bạt : Những kiến thức về âm phần , dienbatn đã viết trong loạt bài " NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN " từ bài 1( http://dienbatnblog.blogspot.com/2011/11/nhung-ieu-canbiet-khi-cai-tang-mo-phan.html ) đến bài 11 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/nhung-ieucan-biet-khi-cai-tang-mo-phan_21.html ) và loạt bài " ỨNG DỤNG BÁT QUÁI ĐỒ TRONG VIỆC ĐẶT MỘ PHẦN " từ bài 1 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/ung-dung-bat-quai-tran-otrong-viec-at.html ) đến bài 4 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/ung-dung-bat-quai-trano-trong-viec-at_2259.html ). Phần này xin bổ xung thêm một số kiến thức chung mà dienbatn sưu tầm được. Thân ái. CÁC ĐỀ MỤC CHUNG TRONG PHẦN NÀY.


I. TỔNG QUAN VỀ PHONG THỦY ÂM PHẦN. II/ LONG PHÁP. III. HUYỆT PHÁP. IV. SA PHÁP. V. THỦY PHÁP. VI. TÁNG PHÁP. II/ LONG PHÁP. 1/ LONG MẠCH VIỆT NAM. 2/ CÁC LOẠI LONG- HÌNH THẾ CỦA NÚI. 3/ CỬU TINH. Cửu tinh bao gồm các sao : Tham Lang, Cự Môn , Lộc Tồn , Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Tả Phù, Hữu Bật. Trong đó các sao Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc,Tả Phù, Hữu Bật là sao cát. Các sao : Lộc Tồn , Văn Khúc, Liêm Trinh, Phá Quân là sao hung. 1. Sao Tham Lang : Thuộc Mộc tinh. Ở miền sơn cƣớc thì thân nhƣ cây măng mới mọc, sơn đầu tròn, nhỏ . Thân thẳng thì đại cát. Nếu lệch lạc, cong hay đột chỏm ( chân lồi lên ) mà nghiêng vẹo là hung. Tham Lang phai đảm bảo 5 yếu tố : - Tiêm ( Nhọn, thẳng ). -Viên ( ngay ngắn , tròn đầy ). - Bình ( Bằng phẳng ). - Trực ( Thẳng thắn ). - Tiểu ( nhỏ nhắn, xinh xắn phần sơn đầu ). Tham Lang thì phát phúc , nếu kết huyệt mà táng vào đó thì con cháu đời đời đƣợc hƣởng phúc lộc. 2 . Sao Cự Môn. Cự Môn thuộc Thổ tinh , sơn đầu bằng phẳng , thân hơi vuông , đẹp đẽ là cát tinh. Nếu không vuông vắn , bằng phẳng mà tan lở, tiết hãm là hung. Cự Môn thƣờng kết huyệt ở bình độ thấp , nơi có tụ thủy. Trƣờng hợp đặc biệt có thể kết huyệt tại nơi cao trên đỉnh Cự Môn. Nếu ngọn Cự Môn có dải nhƣ ngƣời nằm thì gọi là " Hình nhân kết huyệt ".


Chú ý : Nếu là ngoại Cự Môn thì xung quanh có núi cao bao bọc mới tốt. " Sơn cước tầm Oa xứ ( đỉnh núi lõm ). Sơn cước yếu tàng phong ( tránh gió lùa để đảm bảo tụ khí ). Bình dương tu dụng thủy ( có ao hồ xung quanh ). Bình dương bất luận phong ." Cự môn táng huyệt phúc thọ trƣờng , của cải dƣ dả, ngƣời béo tốt, đầy đặn. KHU MỘ BÀ HOÀNG THỊ LOAN.

3. Sao Lộc Tồn. Lộc Tồn thuộc Thổ tinh , sơn đầu tròn nhƣ cái trống để đứng , phần dƣới thắt đáy. Nếu Lộc Tồn làm gián tinh cho 3 cát tinh : Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc thì đƣợc coi là đại cát địa. Dƣợc thế này sẽ phát võ tƣớng , uy quyền hiển hách . Còn nếu kết huyệt trực tiếp tại Lộc Tồn thì là hung huyệt . Thƣờng sinh ra những ngƣời hung dữ, làm giặc, cƣớp sát hại nhân dân, trƣớc sau cũng bị diệt.


4/ Sao Văn Khúc. Văn Khúc là Thủy tinh , hình thể nhƣ lƣơn nhƣ rắn đang bò, uốn lƣợn tả hữu trông sinh động , uyển chuyển. Văn Khúc đa phần là gián tinh , biến thể thành các tinh khác đột khởi kết huyệt. Nếu văn Khúc làm gián tinh , cũng nhƣ Lộc Tồn, phát về văn chƣơng. Nếu Văn Khúc mà kết huyệt trực tiếp thì hay sinh ra kẻ trộm cắp, nghiện ngập.

5/ Sao Liêm Trinh. Sao Liêm Trinh thuộc Hỏa tinh , thế núi cao lớn , sơn đầu nhọn , thƣờng là núi đá đồ sộ , ít khi có núi đất. Liêm Trinh có một ngọn cao hẳn lên gọi là Long Lâu, nếu có nhiều ngọn gọi là Bảo Điện.


Liêm Trinh có uy quyền rất mãnh liệt, thích hợp nhất là Tổ sơn. Liêm Trinh thƣờng không kết huyệt mà nếu có là hung huyệt, hung hãn, đa sát. 6/ Sao Vũ Khúc. Vũ Khúc thuộc Kim tinh , sơn đầu tròn , chân rộng choãi ra nhƣ cái chảo úp . Cao mà đoan nghiêm thì là cát tinh. Vu4Khu1c đƣợc coi là chủ tinh , tôn quý, thƣờng phát về quan chức , phát phú rất mạnh . Thƣờng sinh ra những ngƣời có tính cƣơng trực, thẳng thắn , quyết đoán.

7/ Sao Phá Quân. Sao Phá Quân cũng thuộc Kim tinh, thân cao hơn Vũ Khúc một chút, sơn đầu cũng tròn , nhƣng dƣới chân doãi ra thấp dần , trông nghiêng nhƣ cớ đuôi nheo đƣợc gọi là chính thể Phá Quân. Nếu nghiêng lệch , xô vẹo , trồi lên , uốn lƣợn là phá thể. Phá Quân chính thể là một hung tinh , nhƣng lại có quyền uy vũ dũng , thƣờng sinh ra ngƣời có tính cách nóng nảy , thích làm trái, ƣa lật đổ , ƣa sát phạt , tuy nhiên cũng có quyền và địa vị cao.


8/ Tả Phù. Tả Phù cũng thuộc Kim tinh, gần giống nhƣ sao Vũ Khúc , nhƣng thấp hơn nhiều lần, sơn đầu tròn, chân trải rộng ra , là cát tinh.

Tả Phù phần nhiều làm hộ vệ tinh. Những núi cao thành Long khi sắp kết tinh cũng biến đổi ra Tả Phù tinh kết Huyệt. Nếu không biến hóa ra Tả Phù tinh thì do thế núi quá cao mà Khí không thể tụ. Tuy nhiên các Long biến hóa ra Tả Phù tinh rồi mới kết Huyệt , Khí của Huyệt vẫn lấy theo Khí của Chủ tinh. Ví dụ : Tham Lang hay kết Nhũ Huyệt gọi là Tả Phù. Cự Môn có gò cao, chỗ giữa hơi lõm.

9/ Hữu Bật. Hữu bật thuộc Thủy tinh, hình thế bình thản, phía trên hơi đột chỏm ( có chỗ lồi lên.


Đa động điểm tĩnh ( Vùng thấp điểm Huyệt chỗ cao ). Đa ti4ng điểm động ( Vùng cao điểm huyệt chỗ thấp ). Những đại địa ở vùng bình dƣơng đều là Hữu Bật tinh kết Huyệt, nhƣ thế gọi là ẩn diệu, hoặc có hình bé nhỏ, hoặc có hình sinh động tựa nhƣ con cá đánh sóng, hay nhƣ con rắn bò trên bãi cỏ thì quý báu vô cùng. Hữu Bật tinh là cát tinh phát hết cƣơng phát , vì vậy nếu kết Huyệt thì 90% là cát Huyệt. 4. LƢU Ý . * Trong khảo sát Địa lý thì Sinh Khí vô hình vô ảnh, nhƣng ta có thể rèn luyện để nhận biết đƣợc thông qua ngồi Thiền, luyện tập Cảm Xạ, Mật Tông.... * Khi quan sát Loan đầu : Phải quan sát cả dãy núi dài để xem hình thế núi sông , mục đích là phán đoán đƣợc nơi có Sinh khí. * Lý khí : Căn cứ vào nơi ở hay phần mộ đặt đúng hƣớng , tƣơng sing , tƣơng khắc trong Ngũ hành , Bát quái ( đã viết ở các bài trƣớc ). * Âm trạch : Để nhập thổ cho ngƣời đã chết đƣợc yên lành phải nhờ vào việc làm Địa lý thật chính xác. * Thể xác : Di thể của ngƣời chết phải chôn cất đúng theo thuật Địa lý. Có các cách táng nhƣ : Thổ táng, Hỏa táng, Thủy táng, Thiên táng . * Thổ táng phải có một khu đất cho cả dòng họ, làm tập trung vừa dễ cho con cháu thăm viếng, vừa có thể dùng các biện pháp Phong thủy làm cho dòng họ phồn thịnh , phú quý. Muốn có đƣợc điều đó cần phải có : Tâm cơ và mục lực ( mắt nhìn ). * Táng : Huyệt cát - Táng hung : Táng hung là chỉ táng vào thời điểm năm , tháng, ngày, giờ không tốt . Muốn cho Huyệt cát táng cát phải vận dụng tất cả những kiến thức về Phong thủy, Bát tự, Hà Lạc, Dịch học, Âm - Dƣơng, Ngũ hành .... để mà suy ra tọa, Hƣớng, vận của mộ. * Các ngôi mộ tọa Bắc triều Nam kị năm tháng ngày giờ Dần - Ngọ - Tuất ( Tam hợp Hỏa khắc Thủy tọa bắc ). * Các ngôi mộ tọa Nam hƣớng Bắc kị năm , tháng, ngày, giờ Thân , Tý , Thìn - Tam hợp Thủy khắc Hỏa tọa Nam ). * Các ngôi mộ tọa Tây hƣớng Đông kị năm , tháng, ngày, giờ Hợi, Mão , Mùi - Tam hợp Mộc khắc tọa Kim Tây. * Các ngôi mộ tọa Đông hƣớng Tây kị năm , tháng, ngày, giờ Tị , Dậu, Sửu - Tam hợp Kim khắc tọa Mộc Đông. * Tọa là hƣớng đặt đầu, hƣớng là phía chân ngƣời mất.

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 31. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN.


Lời bạt : Những kiến thức về âm phần , dienbatn đã viết trong loạt bài " NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN " từ bài 1( http://dienbatnblog.blogspot.com/2011/11/nhung-ieu-canbiet-khi-cai-tang-mo-phan.html ) đến bài 11 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/nhung-ieucan-biet-khi-cai-tang-mo-phan_21.html ) và loạt bài " ỨNG DỤNG BÁT QUÁI ĐỒ TRONG VIỆC ĐẶT MỘ PHẦN " từ bài 1 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/ung-dung-bat-quai-tran-otrong-viec-at.html ) đến bài 4 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/ung-dung-bat-quai-trano-trong-viec-at_2259.html ). Phần này xin bổ xung thêm một số kiến thức chung mà dienbatn sưu tầm được. Thân ái. VI. TÁNG PHÁP. 1/ KHÁI NIỆM CHUNG : 1. HUYỆT LÀ GÌ ? Huyệt là nơi tận cùng của Lai long, nơi Sinh khí hội tụ , là nơi Âm - Dƣơng giao hòa mà hội tụ lại thành Huyệt.

Khí vùng sơn cƣớc vƣợng nhƣng không tụ , bị tán. Khí vùng bình nguyên ít nhƣng tụ nên Huyệt tốt hơn. 2. CÁC KIỂU HUYỆT. Xem bài dienbatn đã viết tại : http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/nhung-ieu-can-biet-khi-cai-tang-mo-phan_17.html 3/ TỨ TRẤN. A. Tông long ( Đầu long ) : Nếu mạch núi từ xa chạy thẳng tới , trải ngang ra rồi kết Huyệt, trông nhƣ nhị hoa ngay ngắn thì dùng phép trấn Tông long.

Hoặc trấn ở tai long, mũi long, trán long, bờm long. Tránh trấn tại các điểm đuôi long, sừng long , răng long, mắt long . B/ Kỵ long ( Bụng long ) : Thế này mạch núi quay đầu ngoảnh nhìn về đuôi trông nhƣ vòng tròn thì nên điểm Huyệt ở chỗ lõm mà đầu Long quay lại.


Lấy đuôi Long làm Án sơn thì gọi là Kỵ long hoặc trấn bụng Long. Kỵ long thì phải tọa rốn hay vú của Long mà tránh tọa ngang lƣng hay sƣờn Long. C/ Phán Long ( Gáy Long ) : Phán Long phải chọn mạch núi chạy ngang về phía trƣớc, không quay đầu nhìn lại mà quay ngang , thì định Huyệt ở chỗ mé hơi nghiêng xuống gọi là Phán long.

Phán long phải tọa ở vai Long, gáy Long , tránh tọa ở lƣng Long, cổ Long. D/ Thừa Long ( Chân Long ). Thừa Long là mạch núi cao to , nhấp nhô tiến tới rồi đứt hẳn ( không còn mạch ) . Thừa Long điểm Huyệt ở dƣới chân núi hay đồng ruộng gọi la2cha6n Long. Thừa Long phải tọa ở cổ tay , mắt cá chân . Tránh tọa ở khuỷu chân.

2. LONG PHÁP.


3/ TẦM LONG. Phép tầm Long : Khi tầm Long , đầu tiên phải tìm tổ tông, cha mẹ của Long để thẩm định Khí mạch .Một thế Long khi khởi từ Tổ sơn thành Long có khi đi gần , có khi đi xa. Khi gần có khi chỉ vài dặm, khi xa có thể hàng ngàn dặm mới tới đất kết. Long đi phải có nƣớc đi cùng . Khi đến đất kết ( kết Huyệt ) , nƣớc sẽ tụ tại Minh đƣờng ( nƣớc tụ lại trƣớc mặt Huyệt ).

A. Long có 3 cách đi ( hành Long ) : - Thuận Long : Long đi xuôi theo dòng nƣớc chảy và kết Huyệt xuôi theo dòng nƣớc.. -Nghịch Long : Long đi từ Tổ sơn xuôi theo dòng nƣớc bỗng quay ngƣợc lại nhìn Tổ sơn mà kết Huyệt. Trƣờng hợp này còn gọi là " Hồi long cố Tổ ". - Hoành Long : Long từ Tổ sơn đi xuôi theo dòng nƣớc rồi bỗng quay ngang với chiều nƣớc chảy và kết Huyệt. B. CỬU THẾ. 1/ Sinh long : Chỉ mạch núi nhấp nhô , cao, đẹp lên xuống uyển chuyển , vận hành một cách sinh động . Có thể mạch núi liền nhau hoặc thành từng qủa núi một chạy liên tiếp nhƣ một chuỗi ngọc. 2/ Phi Long : Mạch núi sinh động , khoáng đạt, hình thế nhƣ chim Phƣợng hoàng xải cánh ôm lấy Huyệt. 3/ Giáng Long : Mạch núi ở nơi xuất phát cao đẹp , càng đi càng thấp dần , giống nhƣ con Rồng từ trên trời đáp xuống dƣới biển. Phú viết : " Thế nhƣợc giáng Long, Thủy nhiễu vân tòng, Tƣớc lộc tam công ". 4/ Ngọa Long : Mạch núi oai vệ, sừng sững, dáng dấp vững vàng, chân núi hơi thu lại nhƣ con hổ dừng chân . Ngọa Long có Sinh khí lâu bền là cát Long. Vì vậy khi kết Huyệt thì cũng đƣợc gọi là " Đại cát Huyệt " , nhƣng phát hơi chậm. 5/ Đằng Long : Mạch núi ở nơi xuất phát tƣơng đối thấp, dần dần nhô cao với các đỉnh núi đẹp, thân núi dày, rộng . Đằng Long thƣờng kết huyệt trên đỉnh núi gọi là " Thiên Huyệt " - Huyệt này sinh ra con cháu là những nhân vật huyền thoại. 6/ Ẩn Long : Mạch núi từ xa đến , mạch lạc không rõ ràng , tung tích lờ mờ nhƣ có nhƣ không. Ẩn Long tƣởng nhƣ bị tiết thoái Khí nhƣng thực ra khí rất vƣợng . Đến khi kết Huyệt thƣờng nhìn thấy một gò đất nhƣ hình bàn tay để ngửa ( xung quanh cao, giữa hơi lòm ) . Định Huyệt nơi có 2 dòng nƣớc tụ - Đây là đại cát Huyệt . 7/ Hồi Long cố tổ : Thế mạch này núi uốn lƣợn trở lại , đầu đuôi nhìn nhau tựa nhƣ một con Rồng uốn mình quay lại . Hồi Long là đệ nhất Long kết Huyệt , an táng sẽ đại cát.


8/ Phi Long xuất dương : Mạch núi sinh động khoáng đạt từ chỗ đất bằng tự nhiên cao vút lên , siêu quần xuất chúng , một mình đẹp đẽ uốn lƣợn nhƣ mãnh thú ra khỏi rừng . Phi Long xuất dƣơng thì Sinh thế ào ạt , cực vƣợng . Mạch núi này kết phát tạo ra những anh hùng kiệt xuất . 9/ Lĩnh Long quần thủ : Mạch núi ở giữa đƣợc các ngọn núi xung quanh tiền hô hậu ủng, tả hữ triều viên. Đỉnh núi cao to hùng vĩ nhƣng trông lại thanh tú , thƣờng kết huyệt ở lƣng chừng núi . Lĩnh Long quần thủ , giống nhƣ con Rồng thủ lĩnh giữa bầy Rồng . Vì vậy Lĩnh Long quần thủ là đại cát Long . An táng vào đó đƣợc phát Đế Vƣơng . Đặc biệt xung quanh chính Huyệt còn có vài chục Huyệt bàng kết phát.

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 32. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG 3. CỬU TINH THỤ HUYỆT. 1/ THAM LANG . Tham Lang là Huyệt đại cát. H1.Kết Huyệt kiểu Trung thiên chính huyệt.

VỀ

ÂM

PHẦN.

H 2. Huyệt giống con tằm nằm gọi là Huyệt Trắc lạc thiên tài. H3. Huyệt ở cuối gò , trên ruộng không cao không thấp. Huyệt Thủy đầu quán gấp diện chi khái.


Tham Lang thì hay kết Huyệt ở phía trƣớc mặt, nơi có dƣ khí thè ra. Chúng ta chọn chỗ lõm xuống một chút hoặc chỗ đất nổi lên nhƣ cái vấu, cái đốt ( mắt của cây tre ) mà điểm huyệt. Tham Lang kết huyệt có đầy đủ Phúc - Lộc - Thọ - Phú. Đứng hàng đầu trong các Huyệt cát. 2/

CỰ

MÔN

.

Cự Môn có hình giống nhƣ cái ghế ngồi, thình thế vuông vắn , ngay ngắn. Nếu trông thanh tú là Huyệt phát vừa phú vừa quý. Nếu thô trọc , nặng nề thì chỉ phát phú. Cự Môn thƣờng có tuổi thọ cao, khỏe mạnh , thân hình đầy đặn. Nếu Cự Môn thô trọc mà lại đơn độc thƣờng xuất Tăng , ni , Phật tử. 3/ LỘC TỒN.

Lộc Tồn là hung tinh. Phát nhỏ , chỉ một đời , không dài lâu. Lộc Tồn đỉnh giống Cự Môn nhƣng có nhiều chân , thƣờng kết Huyệt ở chân to nhất. 4/ VĂN KHÚC.


Văn Khúc là hung tinh. Hình thể nhƣ con rắn đang bò. Nếu kết Huyệt thƣờng theo 3 dạng sau : * Xà tinh : Táng ở tai. * Xà uốn tròn : Là gò cao, xung quanh có rìa cao hơn, ở giữa hơi lõm mà có đột nổi lên thì rất quý. ( trƣờng hợp Hoàng xà phủ châu ). Huyệt này phát đến thứ , bộ trƣởng. * Nga Mi tác án : Hình thế chạy quanh co , trƣớc có Án. Huyệt đối diện với Án.

5/ LIÊM TRINH. Là hung tinh. Hình nhƣ ngọn lửa bốc cao, là đại hung tinh , không nên táng. Chỉ có 2 thế của Liêm Trinh có thể dùng đƣợc ở miền bình dƣơng .

Liêm Trinh chính trực , phát không mạnh, thƣờng là quan võ.

6/ VŨ KHÚC. Vũ Khúc Kim tinh là cát tinh.



Vũ Khúc là Huyệt cát tinh, thƣờng xuất Vƣơng hầu, Tể tƣớng nếu Huyệt to đẹp ( Đại địa ). Còn nếu là Tiểu địa thì cũng xuất văn võ, con cháu phú quý. 7/ PHÁ QUÂN. Phá Quân Kim tinh là đại hung tinh. Phá Quân hình thể nhƣ lá cớ đuôi nheo , dƣới chân thƣờng sinh ra Hỏa tinh ( hình nhƣ mũi kiếm ) . Phá Quân chỉ nên đặt miếu, điện thờ thì tốt . Đặc biệt Phá Quân cũng có thể kết Huyệt cát nếu trong một số trƣờng hợp mà ta phân cung điểm huyệt đúng.

Thế Huyệt có 3 chân có thể dùng đƣợc. Phát quan võ giỏi nhƣng vất vả, hay bị ám sát .

Thế Huyệt có nhiều chân , có gò nhỏ là Huyệt quý, công thành danh toại , cuối cùng vẫn phải đi ở ẩn nhƣng không chết .


Thế Huyệt gần giống nhƣ Vũ Khúc , có 2 chân mở ra , có gò hình bán nguyệt . Huyệt này sinh con gái đẹp , nhƣng sau này bị thất sủng. Nếu là con trai thì phải đánh nhau ở chiến trƣờng mới thành danh. 8/

TẢ

PHÙ.

Tả Phù là cát tinh. Hình vành khăn , phía sau to, phía trƣớc nhỏ. Tả Phù kết Huyệt nhƣ tổ chim cú , lấy chỗ đột khẩu làm đỉnh . Nếu phần trên đầu mà thiên lệch là giả Huyệt. Hình của lạc thì đặt Huyệt dƣới đất thấp. 9/ HỮU BẬT. Hữu Bật là cát tinh. Hữu bật gần nhƣ tả Phù , hình nhƣ mặt trăng khuyết hay hình con thoi. Hữu bật thƣờng phát quan bậc trung, học hành thƣ cử thuận lợi.


PHONG THỦY LUẬN .BÀI 33. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN. 4. ĐIỂM HUYỆT PHÁP. 1/ TAM PHÁP : * Tiếp mạch. * Thừa Khí. * Khí mạch kiêm thu. A/ TIẾP MẠCH : Là điểm Huyệt gần ngay chỗ mạch dẫn đến Huyệt trƣờng , tức là chồ Long đang đi cao tự dƣng xà xuống thấp , ta điểm Huyệt ngay chỗ cao.


B/ THỪA KHÍ . Thừa Khí là điểm Huyệt tại chỗ thấp , dƣới chỗ Long sơn dững lại , phía dƣới nó còn thè ra nhƣ lƣỡi con trai. Điểm Huyệt nhƣ vậy gọi là điểm Thừa khí ( điểm chỗ thè ra ).

C/ KHÍ MẠCH KIÊM THU. Khí mạch kiêm thu là điểm Huyệt chính giữa bậc thấp và bậc cao , tức là đƣợc gần cả mạch lẫn khí, gọi là Khí mạch kiêm thu. Chính giữa gò là mạch, hai bên là Khí.


2/ TỨ THỂ. a/ Thể Oa : Oa là chỗ đất lõm xuống nhƣ trôn bát , nhƣ đáy nồi, hoặc nhƣ lòng bàn tay để ngửa.

b/ Thể Kiềm : Kết Kiềm là chỗ đất đang bằng phẳng , có một chỗ mở tách khe, phân ra làm 2 gọng kiềm . ( 3 phía cao, một phía thấp ). Mạch ở vùng sơn cƣớc thƣờng kết dạng Oa và dạng Kiềm.

c/ Thể Nhũ : Nhũ là loại Huyệt khi mà Sơn tự nhiên rủ xuống hoặc cao lên một chút mà kéo dài ra nhƣ cái vú quả mƣớp .


d/ Thể đột : Đột là đất tự nhiên cao lên nhƣ cái gò hay cái nấm hình tròn , vuông. Ở vùng bình dƣơng kết Huyệt thƣờng là Nhũ và Đột.


3/ THẬP NHỊ TRƢỢNG PHÁP. ( DƢƠNG CÔNG ). 1. THUẬN TRƢỢNG. " Điềm thiên thiều thiểu thế nhuyễn bình, Uy di khuất khúc hướng trung hành. Khí tòng não nhập quan tu chính, Thuận trượng tiến cơ diệu tại nghinh ".

Thuận trƣợng thì sơn thế trông bình tĩnh, mềm dẻo, lớp lớp kéo dài, đắt díu lƣợn theo chiều vào trong . Thế này Khí phải theo vào đằng đầu , vì vậy để thu đƣợc Khí , thày địa lý phải cho đào Huyệt chính giữa mạch Khí , đặt áo quan ở chỗ chính giữa và khi táng thì chỉ đƣợc dùng 2 phép trong Ngũ táng là : Thâm táng và Thiển táng ( nông , sâu ). Huyệt này cực quý nếu tìm đƣợc đúng Huyệt và táng đúng phép tắc sẽ phát sinh ra Vƣơng hầu hay Trạng nguyên. Lƣu ý : Khi hạ táng phân kim phải đặt lệch quan tài 3 phân ( Nghi ai tả hữu 3 phân ) . Để quán tả nhĩ hay hữu nhĩ - quan tài để tai trái hay phải , tránh để Khí đi thẳng vào huyệt Bách hội ( sẽ làm quan to nhƣng bì chém đầu ). 2. " Lưu

NGHỊCH Long quy

mạch tả

TRƢỢNG.

lai hữu

bất trắc

hướng biên

trung phùng

, ,


Nghịch Giá

mạch Long

tà giá

lai Hổ

thủ

nhi thành

thụ công

khí, ".

Nghịch trƣợng mạch đi theo không triều vào giữa mà tạt về bên tả hay bên hữu , gặp nhau ở cạnh rìa , đó là nghịch mạch tà chuyển. Ta phải thu khí ở bên tai , vì vậy khi táng phải ghé vào bên Long hay bên Hổ mới thành công.


Lƣu ý : Huyệt phải đặt cách mạch Khí vài thƣớc. Nghịch trƣợng phải dùng phép Ỷ táng hay Giá táng . Huyệt này phát phúc lâu dài , vừa phú vừa quý. Phú có thể phú gia địch Quốc, quý thì làm quan rất to. 3. THÚC TRƢỢNG. " Thế đoản lai từ thượng tụ cam, Khí ngưng Bách hội sản anh hào. Phóng quan thấu khẩu đường trung tiết, Súc nhập thiên tinh bất dụng nhiêu". Thúc trƣợng sơn thế ngắn, mạch thong thả , từ từ chạy lại. Khí ngƣng tụ ở trên cao , kết Huyệt ở phần Bách hội. Do Huyệt ở khá cao nên đối với miền sơn cƣớc thì rất sợ gió thổi . Vì vậy khi gặp Huyệt này , phải quan sát thế núi xung quanh , nếu thấy 4 phía có núi cao bao bọc, Mih đƣờng xa thoáng thì là chân Huyệt. Thúc trƣợng khi táng dùng phép Thiên táng ( táng nông ) . Khi hạ táng đặt quan tài nhất định phải tập trung khẩn trƣơng . Đặt quan tài chính giữa Huyệt Bách hội . Nếu thời gian kéo dài sẽ thoát Khí , hóa cát thành hung. Phép này đặc biệt quan tâm đến thời điểm khai Huyệt , không đƣợc xê dịch 1 khắc ( 15 phút ). Nếu đáp ứng đƣợc những yêu cầu đó , Huyệt Thúc trƣợng sẽ sản sinh ra những anh hùng hào kiệt lẫy lừng , phất cờ khởi nghĩa làm nên nghiệp lớn. Lƣu ý: 1 giờ = 2 tiếng ( 12o phút ) = 8 khắc. Khi làm ta bỏ 2 khắc đầu và 2 khắc cuối, chỉ làm trong vòng 4 khắc giữa = 60 phút. 4. XUYẾT TRƢỢNG. ( Nhƣ kiểu đột mũi khâu ).

" Kính thế xung lai bất khả hồi, Tu tòng mạch tận tuế suy quy, Bán mạch bán bình liêm nhất huyệt, Xuyết trượng năng giao phát tự lôi ". Xuyết trƣợng chỉ Huyệt hơi co lại , Long mạch hùng vĩ , khí lực hào hùng . Khí đến tận cùng thì vội dừng lại , nhƣng vẫn cao lớn nguy nga. Xuyết trƣợng thì Khí đến thẳng mà xuống gấp . Ở vùng đồng bằng có gò nổi lên mà trông thấy phía đuôi thắt lại thẳng tuột với gò cao.


Trong trƣờng hợp này nếu khi hạ táng áo quan phải biết thoát xác Khí để tăng Sinh khí lên. Đặt Huyệt cách mạch Khí 2-3 m , táng không cao không thấp . Khi táng phải dùng phép Ỷ táng . Nếu táng đúng phép tắc thì phát cực nhanh, gia nghiệp vƣợng trong thời gian rất ngắn.

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 34. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ 4. ĐIỂM 3/ THẬP NHỊ TRƢỢNG PHÁP. 5. KHAI

ÂM HUYỆT ( DƢƠNG

PHẦN. PHÁP. CÔNG ). TRƢỢNG.

" Trực xung chúng sát bất khang thiên, Đường khí quy tùy tại lưỡng biên. Khí mạch tiêu ly nhị tam xích, Pháp trung khai trượng tối tinh nguyên ". Phép Khai trƣợng khó nhất trong 12 phép . Khai trƣợng thì Lai long xộc thẳng đến xung sát thật đáng sợ . Nếu táng chính giữa mạch thì tai họa đến cấp kỳ ( gia đình chết dần mòn đến tuyệt tự ) . Nhƣng nếu ta tránh xa mạch khí quá thì vô phong , tuyệt Khí , không có giá trị gì nữa . Vì vậy phép khai Huyệt phải chia đôi mạch đối với đỉnh núi , lấy 2 bên thụ khí, nghĩa là lấy Huyệt bàng của mạch chứ không phải chính mạch. Điểm Huyệt theo phép này phải dùng Giá táng pháp , tức là phải lệch sang một bên.


Khai

trƣợng

phát

6.

đạt

mau

XUYÊN

chóng

nếu

đặt

lệch. TRƢỢNG.

" Thế tủng thũng thùy mạch bất thanh, Thảo tầm uyển uyển thốt vi sinh. Y thốt hoàn công xuyên thổ nhập, Phúc trung khí đắc phát trường sinh " . Xuyên trƣợng thế cao mà rủ xuống , mạch lai khô, không đƣợc thanh thoát , khí đến ngang hoặc xéo. Khi điểm Huyệt , tìm chỗ mạch đi mềm dẻo, hơi lõm xuống một chút là Sinh khí. Đặt quan tài táng chặn ngang mạch nhƣ dùi sâu vào bụng sơn long. Phép điểm Huyệt này giống nhƣ dùng chỉ xỏ lỗ kim hay tra cán cuốc. Lƣu ý : Xuyên trƣợng phải dùng phép Thâm táng, tức là táng sâu mới tụ khí đƣợc. Phải cho Khí nhập tại eo lƣng, không đƣợc xung vào não ( nếu vào não sẽ bị chết vì tai họa ). Đƣợc đúng phép tắc sẽ phát lâu dài. 7. LY TRƢỢNG. " Long hùng mạch cấp tuấn vô danh, Phát mạch phô thiên triển tich bình. Ly mạch tựu bình trung đảo trượng, Như kim trung chính lũy thành phần ".


Ly trƣợng lai long cao lớn cứng cáp , đang chạy đến bỗng dƣng tụt xuống biến mất. Mạch lìa thoát chỗ cao ra chỗ bằng phẳng , nhƣ cái chiếu trải rộng ra , hơi nhô lên một chút hình Kim tinh . Ly trƣợng thƣờng điểm Huyệt cách mạch 2,3 đến 5 thƣớc ở phía trƣớc , ta hạ táng tại đó . Ly trƣợng dùng phép Thiên táng ( táng nông ), đắp thành đống mô cao lên ( Đào sâu 20-30 cm rồi đắp cao lên.

8.

" Thế bình diên mãn mạch vi man,

MỘC

TRƢỢNG.


Pháp hữu khai kim thủ cố phương. Phát đạt khai oanh trung nhất khí. Phong tiền khai phát pháp chân lương " . Mộc trƣợng thì lai long uốn lƣợn , sơn đầu bình diên phì mãn. Định Huyệt ở chỗ lõm chìm vào mạch Khí . Xung quanh Huyệt cao. Huyệt mộ táng ẩn sâu bên trong. Khi táng có thể dùng phép Thiên táng hoặc Thâm táng ( táng sâu hoặc nông ). Lƣu ý : Nếu chỗ lõm quá nhỏ, ta phải đục để tạo Huyệt. Huyệt này cực kỳ vƣợng phát. 9. ĐỐI TRƢỢNG . ( Huyệt xấu - phát ở làng nghề ). " Đối trượng thượng cương hạ tán huyệt nan, Cương nhu giao sử khước vi kỳ. Chi đương đối thử quan trung chính, Phát phúc tu giao cát bán chi ". Đối trƣợng sơn mạch phía trên cƣơng , phía dƣới tản mạn , lai long cao lớn tại nơi nhập thủ, bỗng nhiên thấp xuống , trải ra bằng phẳng , không có Oa, Kiềm, Nhũ, Đột gì cả . Nên định Huyệt ở giữa vùng đất đó , hoặc giữa nơi phân phần cao phần thấp, giữa chỗ cƣơng và chỗ nhu.

Huyệt này bán cát bán hung, nửa thành nửa bại. 10. TRIỆT TRƢỢNG. " Thể miên thế trực khí hành hành, Bình nhuyễn trung gian tất hữu bình. Triệt tại long yêu kị mã tích, Tế kham giáp nhĩ giữ triều nghinh " .


Triệt trƣợng thì Long mạch đi thẳng , hình thế thấp , nằm dài , Lai long không mạnh, chƣa đến chỗ tận cùng thì dừng lại. Phép này đặt quan, điểm Huyệt tại lƣng của Long . Táng Huyệt này khá là khó khăn . Nếu đặt cao thì bị gió thổi ( Con cái lêu lổng, cái gì cũng biết một tý ) , nếu táng sâu thì bị băng đè ( con cái hiền lành , chăm chỉ , thông minh nhƣng vất vả, không thành đạt , không gặp may ). Vì vậy khi táng theo Triệt trƣợng phải theo phép Giá táng, đồng thời cần có biện pháp ngăn chặn mạch khí , làm cho Sinh khí không bị thoát . Táng theo Triệt trƣợng gia nghiệp trong vài năm đầu sa sút sau mới thịnh vƣợng. Để giữ khí nên xây bức tƣờng ngăn phía sau dòng khí chạy. 11. PHẠM TRƢỢNG. " Khí lai hoãn nhược tiêm đê thủy, Nhược hạ đê bình khí tiện ly. Hoãn hướng mạch căn sơ khởi xứ, Phạm cầu cái hạ pháp tương nghi ". Phạm trƣợng lai long ngắn nhỏ, hòa hoãn, khí mạch chậm và yếu , thấp dần xuống . Nếu định Huyệt ở tận cùng thì Sinh khí quá yếu , kém tác dụng , cho nên phải " Phạm mạch tọa Huyệt " ( gọi là táng tiết mạch ) , tức là táng trên mạch, đến chỗ gốc mạch mới khởi lên mà đặt táng . Nếu hạ táng ở chỗ thấp, bằng phẳng thì Khí sẽ đi mất . Phạm trƣợng yêu cầu Minh đƣờng phải rộng rãi , núi sông phải ở phía xa chầu lại . Phạm trƣợng phát nhanh, phát mạnh nhƣng khó táng.


* Tiếp mạch là mạch khí đang đến , hạ quan tài chặn không cho mạch khí đi tiếp. Nếu đặt Huyệt sai thì quan tài bị lật hoặc bị đẩy đi ( bị trôi ). Mạch Phạm trƣợng phải dùng phép Ỷ táng. 12. ĐỐN TRƢỢNG.

" Thượng bình hạ cấp nhũ thùy tiêm, Cao xứ tu tương đốn thượng thiên. Sinh khí kỷ thừa, sát hạn áp , Tam niên ngũ tải , sản anh hào ". Đốn trƣợng sơn mạch ở phía trên bình thản, phía dƣới cấp rủ xuống , tứ hƣớng đều thấp , vì vậy phải dùng phép Thiển táng ( táng nông ) . Khí vào Huyệt cấp , vƣợng ( nhanh , nhiều ) khi gặp thủy thì dừng lại , nên phải đắp đất tạo Huyệt mà tiếp nhận Sinh khí. Nếu chôn sâu, Khí sẽ bị bắn thẳng tới , khiến cho con cháu đời sau gặp họa ( theo nhau chết ) . Nếu táng đúng phép , thừa đƣợc Sinh khí , áp chế đƣợc sát Khí thì sau khi táng 3-5 năm thì phát, sinh ra ngƣời tài năng , anh dũng. Xem thêm : BÁT DIỆU THỦY PHÁP.


http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/nhung-ieu-can-biet-khi-cai-tang-mo-phan_14.html

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 35. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN. Lời bạt : Những kiến thức về âm phần , dienbatn đã viết trong loạt bài " NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN " từ bài 1( http://dienbatnblog.blogspot.com/2011/11/nhung-ieu-can-biet-khi-cai-tangmo-phan.html ) đến bài 11 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/05/nhung-ieu-can-biet-khi-cai-tangmo-phan_21.html ) và loạt bài " ỨNG DỤNG BÁT QUÁI ĐỒ TRONG VIỆC ĐẶT MỘ PHẦN " từ bài 1 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/ung-dung-bat-quai-tran-o-trong-viec-at.html ) đến bài 4 ( http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/ung-dung-bat-quai-tran-o-trong-viec-at_2259.html ). Phần này xin bổ xung thêm một số kiến thức chung mà dienbatn sưu tầm được. Thân ái. CÁC ĐỀ MỤC CHUNG TRONG PHẦN NÀY. CÁC ĐỀ MỤC CHUNG TRONG PHẦN NÀY. I. TỔNG QUAN VỀ PHONG THỦY ÂM PHẦN. II/ LONG PHÁP. III. HUYỆT PHÁP. IV. SA PHÁP. V. THỦY PHÁP. Trong khoa Địa lý, Thủy pháp là quan trọng nhất ( thƣờng là bí truyền ). Nay dienbatn xin bổ xung một số kiến thức sƣu tầm đƣợc về vấn đề này. Trong phần Thủy pháp có 5 điều cần lƣu ý : 1. Tất cả có 4 cục Thủy pháp : Kim - Mộc - Thủy - Hỏa dùng để khởi Thủy pháp Trƣờng sinh ( Không có Thổ cục ). 2. Mỗi Long có 6 Huyệt: * Chính sinh hƣớng. * Chính vƣợng hƣớng. Tự sinh hƣớng . * Tự vƣợng hƣớng. * Chính dƣỡng hƣớng : Khởi vòng Tràng sinh ở Dƣỡng. Chính Mộ hƣớng : Khởi vòng Trƣờng sinh ở Mộ. Vòng Trƣờng sinh cần : Dƣỡng, Trƣờng sinh, Vƣợng, Mộ. Các Huyệt 1,2,5,6 vòng Tràng sinh chảy ra ở Mộ khố. 3. Nƣớc từ đâu chảy đến Minh đƣờng gọi là Thủy lai. Nƣớc từ Minh đƣờng chảy ra gọi là Thủy khứ. Nƣớc từ Minh đƣờng chảy Mộ ra gọi là Thủy khẩu. 4. Nƣớc có thể chảy xuôi, chảy ngƣợc theo chiều kim đồng hồ : * Nếu chảy xuôi gọi là Thuận. Nếu chảy ngƣợc chiều kim đồng hồ gọi là chảy Nghịch. 5. Các chính sinh của các cục Long đều giống nhau , duy chỉ có Hƣớng và Thủy khẩu là khác nhau. Các Chính vƣợng, Chính dƣỡng, Chính Mộ , Tự sinh, Tự vƣợng cũng nhƣ vậy. 1. THỦY PHÁP TRƢỜNG SINH. Ta biết rằng : Long có 5 cục : Kim - Mộc- Thủy - Hỏa - Thổ. Thủy có 4 cục ( Không có Thổ cục ): * Hỏa cục Thủy. * Thủy cục Thủy. * Kim cục Thủy. * Mộc cục Thủy.


1/ HỎA CỤC THỦY LONG. * Nếu ngồi trƣớc Huyệt vị , mặt hƣớng về phía trƣớc Minh đƣờng , nếu ta thấy Thủy phóng về phía Bắc ( tức là phóng về các Sơn : Tân, Tuất, Càn, Hợi. Nhâm , Tí ) thì đối cung là phƣơng Nam - Tức là HỎA CỤC LONG. * Nếu thấy nƣớc chảy từ phải qua trái đằng trƣớc mặt rồi tiêu ra chữ Tân, Tuất trên La kinh là Dƣỡng Thủy Hỏa cục - Lấy Bính quản cục. * Nếu nƣớc chảy từ trái sang phải , qua trƣớc mặt , rồi tiêu ra chữ Tuất trên La kinh , là ÂM HỎA CỤC LONG , thì lấy Ất quản cục : " Ất - Bính giao nhi xu Tuất " . 2/ THỦY CỤC LONG. * Nếu ngồi trƣớc Huyệt vị , mặt hƣớng về phía trƣớc Minh đƣờng , nếu ta thấy Thủy phóng về phía Nam ( tức là phóng về 6 Sơn : Ất, Thìn, Tốn, Tị, Bính ), thì đối cung là phƣơng Bắc - tức THỦY CỤC LONG. * Nếu thấy nƣớc chảy từ phải qua trái đằng trƣớc mặt rồi tiêu ra chữ Ất - Thìn là dƣơng Thủy cục - Lấy Nhâm quản cục. * Nếu nƣớc chảy từ trái sang phải , qua trƣớc mặt , rồi tiêu ra chữ Ất - Thìn là Âm Thủy cục - Lấy chữ Tân quản cục. " Tân , Nhâm, Hợi nhi tự Thìn ". 3/ KIM CỤC LONG. * Nếu ngồi trƣớc Huyệt vị , mặt hƣớng về phía trƣớc Minh đƣờng , nếu ta thấy Thủy phóng về phía Đông ( Có 6 Sơn : Quý, Sửu, Cấn , Dần, Giáp, Mão ) , thì đối cung là phƣơng Tây - Tức là KIM CỤC LONG. * Nếu thấy nƣớc chảy từ phải qua trái đằng trƣớc mặt rồi tiêu ra chữ Quý - Sửu thì là Dƣơng Kim cục Lấy Canh quản cục. * Nếu nƣớc chảy từ trái sang phải , qua trƣớc mặt , rồi tiêu ra chữ Quý - Sửu thì là Âm Kim cục Lấy Đinh quản cục. " Đẩu , Ngƣu nạp Đinh , Canh chi khí ". 4/ MỘC LONG CỤC. * Nếu ngồi trƣớc Huyệt vị , mặt hƣớng về phía trƣớc Minh đƣờng , nếu ta thấy Thủy phóng về phía Tây ( có 6 Sơn : Đinh, Mùi, Khôn, Thân , Canh, Dậu ) , thì đối cung là Đông - Tức là MỘC CỤC LONG . * Nếu thấy nƣớc chảy từ phải qua trái đằng trƣớc mặt rồi tiêu ra chữ Đinh - Mùi - là Dƣơng Mộc cục - Lấy Giáp quản cục. * Nếu nƣớc chảy từ trái sang phải , qua trƣớc mặt , rồi tiêu ra chữ Đinh - Mùi - là Âm Mộc cục - Lấy Quý quản cục. " Kim dƣơng thu Quý, Giáp chi linh ". 2. VÒNG TRÀNG SINH . Vòng Tràng sinh bao gồm : Trƣờng sinh - Mộc dục - Quan đới - Lâm quan - Đế vƣợng - Suy - Bệnh - Tử Mộ - Tuyệt - Thai - Dƣỡng . Địa Huyệt ứng Thiên văn : " Liêm trinh ám Bệnh , Tử. Thai, Tuyệt nãi Lộc tồn. Phá quân chân Mộ vị. Phùng Suy thị Cự môn. Học đƣờng Lâm quan tƣợng. Vƣợng phƣơng thị Vũ khúc, Quan đới thuộc Văn xƣơng. Mộc dục Văn khúc vị. Dƣỡng , Sinh thị Tham lang. * 6 tƣớng đáo cục lai Thủy : Trƣờng sinh, Quan đới, Lâm quan,Đế vƣợng, Suy, Dƣỡng ( lấy nƣớc đến ).


* 6 tƣớng đáo cục khứ Thủy : Mộc dục, Bệnh, Tử , Mộ, Tuyệt , Thai ( lấy nƣớc chảy đi ). * Mỗi Thủy cục long có 6 hướng ( 6 phép đặc biệt ). * Chính sinh hƣớng. * Chính vƣợng hƣớng. Tự sinh hƣớng . * Tự vƣợng hƣớng. * Chính dƣỡng hƣớng . Chính Mộ hƣớng . 1/ CHÍNH SINH HƢỚNG.

Là hƣớng Huyệt vị nhìn vào cung Trƣờng sinh , Minh đƣờng nằm ở cung Trƣờng sinh. Nƣớc chảy vào Minh đƣờng rồi thoát qua Thủy khẩu tại cung Mộ.Ví dụ : Hỏa cục Long : Ngọ Long nhập thủ , ta lấy Dần ( Dƣơng ) - Không lấy Cấn vì Cấn Âm.

2/ TỰ VƢỢNG HƢỚNG. ( Hƣớng Huyệt nhìn về cung Tử ). Là Hƣớng Huyệt nhìn về cung Tử , lấy Tử làm cung Đế vƣợng rồi tiếp tục thuận hay nghịch khởi vòng Trƣờng sinh. Bắt đều lấy nƣớc từ cung Lâm quan mà bây giờ ta gọi là Trƣờng sinh chảy vào Minh đƣờng , rồi thoát ra Thủy khẩu ở cung Mộ của địa bàn tức là cung Suy mà ta đã chồng lên nhau.


3/ CHÍNH VƢỢNG HƢỚNG.

Là chính Huyệt nhìn về cung Đế vƣợng , Minh đƣờng nằm ở cung Đế vƣợng. Nƣớc từ cung Trƣờng sinh chảy vào Minh đƣờng rồi phóng ra Thủy khẩu vào cung Mộ khố rồi tiêu chảy đi. Ta gọi là Chính Vƣợng hƣớng.


4/ TỰ SINH HƢỚNG. Là hƣớng Huyệt nhìn vào cung Tuyệt, lấy Tuyệt làm cung Trƣờng sinh , rồi tiếp tục thuận hay nghịch khởi vòng Tràng sinh ( Dƣơng cục an thuận - Âm cục an nghịch ). Lấy nƣớc từ cung Mộc dục mà bây giờ trở thành cung Đế vƣợng chồng lên, chảy vào Minh đƣờng rồi thoát qua Thủy khẩu tại cung Mộ thực của Địa bàn.

5/ CHÍNH MỘ HƢỚNG. Là hƣớng Huyệt vị nhìn vào cung Mộ - Minh đƣờng nằm ở cung Mộ. Nƣớc chảy từ cung Lâm quan vào Minh đƣờng rồi thoát ra Thủy khẩu ở Tuyệt.

6/CHÍNH DƢỠNG HƢỚNG. Là hƣớng Huyệt vị nhìn vào cung Dƣỡng - Minh đƣờng nằm ở cung Dƣỡng. Nƣớc chảy từ cung Đế vƣợng vào Minh đƣờng rồi thoát qua thủy khẩu vào cung Tuyệt.

Long nhập thủ : Ất . Ất thuộc Văn khúc quản cục . Quản cục Minh đƣờng - Liêm trinh.

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 36. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN. V. THỦY PHÁP. 3. Ý NGHĨA CỦA CÁC SAO VÒNG TRƯỜNG SINH. 1/ SAO THAM LANG ( SINH - DƢỠNG ).


Thủy Dƣỡng - Sinh chảy đến Minh đƣờng , sao Tham Lang chiếu xạ Huyệt vị. Chủ sinh con cháu nổi danh văn tài, nhân đinh đông đúc, tính nết hiền lƣơng. Dòng trƣởng đời con cháu phát phúc phát quý, trung hậu, hiếu lễ. Nếu Lai Thủy càng uồn lƣợn quanh co chảy tới thì cành vinh hoa phú quý trƣờng cửu và trong họ có nhiều ngƣời giữ chức vụ to trong triều đình. Còn nếu Thủy hiền hòa bao bọc thì phát Phúc và Lộc. Nếu thủy Dƣỡng - Sinh chảy đi hoặc xối thẳng vào Huyệt vị thì sẽ bị phá tuyệt, vợ và con dâu sớm thành cô quả. Có thơ rằng : " Đệ nhất Dưỡng , Sinh thủy đáo đường , Tham Lang tinh chiếu hiển văn chương, Trưởng vị , nhị tôn đa phú quý, Nhân đinh xương chức tính trung lương. Thủy cuốn chi huyền quan chức trọng, Thủy tiểu loan hoàn phú thọ trường. Dưỡng , Sinh lưu phá trung tu huyệt, Thiếu niên, quả phụ thư không phòng". Dịch nhƣ sau : " Dưỡng , Sinh đem nước lại Minh đường, Con cháu khoa danh phát văn chương. Ngành trưởng giầu sang cao chức trọng, Trong họ nhiều người tính trung lương. Nước cuộn lượn về quyền chức trọng, Nước tiêu Sinh , Dưỡng lắm tai ương. Phá tán điền trang tha hương xứ, Trai cô , gái góa tủi sầu thương ".

2/ SAO VĂN KHÖC ( MỘC DỤC - ĐÀO HOA ). Thủy Mộc dục chảy đến Minh đƣờng , sao Văn khúc chiếu xạ Huyệt vị là Đào hoa sát Thủy chủ dâm đãng. Con gái trong nhà dâm loạn không thể quản lý đƣợc . Hoặc bỏ nhà theo trai hoặc vì tình mà gieo mình xuống sông , xuống giếng tự vẫn . Gia sản lụn bại, tông tộc suy đồi , đầy dẫy tai họa bệnh tật . Nếu Mộc


dục thủy từ cung Tý - Ngọ chảy đến thì ruộng vƣờn bán sạch . Nếu Mộc dục thủy từ phƣơng Mão - Dậu chảy đến thì sinh ngƣời ham mê cờ bạc , rƣợu chè, nghiện hút , tiêu xài hoang phí dẫn đến ngục đƣờng. Thơ rằng : " Mộc dục thủy lai phạm Đào hoa, Nữ tử dâm loạn bất do tha, Đầu hà tự ải tùy nhân tẩu, Huyết bệnh tự tai phá bại gia. Tý - Ngọ thủy lai điền nghiệp tận. Mão - Dậu lưu lai hiếu tham hoa. Nhược hoàn lưu hóa sinh thần vị, Trụy thai dâm thanh đới quả già ". Dịch : " Mộc dục nước về phạm Đào hoa, Gái trai dẫm đãng loạn trong nhà, Thắt cổ, trầm mình, người quyến rũ. Tý - Ngọ nước về nhà, ruộng hết. Huyết bệnh lại thêm khổ quan nha.Mão - Dậu rượu chè, đổ bác sa. Hút sách tiêu sài nhiều bệnh tật, Tụng đình , hình ngục khổ can qua. Nếu bát diệu Thủy pháp Minh đƣờng có các sao Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc. Phụ Bật thì có thể dùng nƣớc chảy tới từ phƣơng Mộc dục.

3/ SAO VĂN KHÖC ( QUAN ĐỚI ). Thủy Quan đới chảy đến Minh đƣờng , sao Văn khúc chiếu xạ Huyệt vị . Chủ con cháu thông minh , trí tuệ hơn ngƣời , phong lƣu. Trong nhà xuất hiện thần đồng , 7 tuổi đã uyên bác . Nếu Quan đới thủy mà chảy tuột đi thì thiếu niên chết yểu , nữ nhân bị tổn hại. Thơ rằng : " Quan đới thủy lai , nhân thông tuệ, Vi chủ phong lưu thích bạc bài. Thất niên thơ ấu hay thơ phú Văn chương bác sĩ vạn nhân khoa , Thủy phần lưu khứ tối vị hung, Cánh cổn thâm khuê kiều thái nữ. Thử cương bình súc hóa vi cát " Dịch : " Quan đới nước triều học thông minh, Rượu , chè , cờ bạc mãi phong tình. Thần đồng nổi tiếng thời thơ ấu, Phú lục văn thơ vượng thịnh danh. Văn khúc nước đi con thứ hại, Sát hại biết bao trẻ sơ sinh. Ai oán phòng không thương kiều nữ. Quan đới nước lại tốt cát lành.

4/ SAO VŨ KHÖC ( LÂM QUAN ). Thủy Lâm quan chảy đến Minh đƣờng - Sao Vũ khúc chiếu xạ Huyệt vị. Chủ đại cát đại lợi. Thiếu niên đã sớm thi đỗ làm quan , gặp nhiều may mắn, thăng quan tiến chức . Tối kị Lâm quan thủy chảy đi , làm cho con cái đang thành đạt chết yểu, con dâu , con gái sớm để tang chồng, gia nghiệp lụn bại. Thơ rằng : " Lâm quan vị thượng thủy tư tich, Lộc mã triều nguyên hỷ khí tân. Hiền tướng trù mưu tá thánh nhân, Tối kị Lâm quan xuất Thủy khứ.


Thành tài chi tử tạ vong ân, Tài cốc không hư triệt gốc bần". Dịch : " Lâm quan nước triều phúc lộc giăng, Lộc, Mã triều nguyên lắm sự hay, Hiển tướng đương phần nhẹ đường mây, Lâm quan thủy khứ tử tôn yểu, Gái góa cơ cùng khóc đêm ngày ".

5/ SAO VŨ KHÖC ( ĐẾ VƢỢNG ). Thủy Đế vƣợng chảy đến Minh đƣờng - Sao Vũ khúc chiếu xạ Huyệt vị. Chủ tài lộc tốc phát , con cháu nhiều ngƣời làm quan to , tƣớc cao , lộc hậu , uy danh lừng lẫy , tiền bạc đổ vào nhà nhƣ nƣớc . Nhƣng Đế vƣợng thủy tốc phát mà không bền . Nếu lại xung tán thì có giầu nhƣ Thạch sùng cũng bị phá sản , lụn bại. Cổ nhân xƣa có nói : " Kẻ tham vinh hoa , phú quý thì bỏ Dƣỡng, Trƣờng sinh mà nghênh tiếp Vƣợng thần . Muốn đời con cháu lâu dài thì bỏ Vƣợng thần mà nghên tiếp Dƣỡng - Trƣờng sinh ". Thơ rằng : " Đế vượng triều lai tụ diện tiền, Nhất đường vượng khí phát trang điền. Quan cao, tước trọng , uy danh hiển, Kim cốc phong danh hữu thừa thiên. Vượng khương lưu khứ căn cơ bạc, Thực thực cơ hàn quán thượng thiên ". Dịch : " Đế vượng nước triều vượng gia tài, Tước cao, lộc hậu nhất quan giai, Vàng bạc đầy rương , lúa đầy lẫm, Đáng sợ nước tù khứ bất lai, Thạch sùng hào phú cũng vì vậy , Giầu xổi rồi mai hết đồ xài ".

6/ SAO CỰ MÔN ( SUY ). Thủy Suy chảy tới Minh đƣờng - Sao Cự môn chiếu xạ Huyệt vị. Chủ con cháu thông minh , học giỏi , lại sinh nhiều ngƣời có năng khiếu về nghệ thuật, âm nhạc , hội họa. Thủy Suy thì ngƣời già phúc thọ phong lƣu. Phƣơng thủy Suy thủy lai, thủy khứ đều tốt , miễn nó chảy chậm dãi , uốn khúc là đại cát. Thơ rằng : " Suy phương thanh lịch đại thông minh, Cửa nhà tấp nập người hạ mã, Phúc lộc bền lâu khách tướng khanh, Nước tiêu Vượng cục là quý địa.Nước chảy quanh co khách trữ tình.

7/ SAO LIÊM TRINH ( BỆNH - TỬ ). Thủy Bệnh - Tử chảy đến Minh đƣờng - Sao Liêm trinh chiếu xạ Huyệt vị. Chủ tai họa , binh đao , bệnh tật triền miên , gia nghiệp suy bại , hao tán . Nếu 2 phƣơng Bệnh - Tử mà thủy khứ thì lại tốt đẹp, vạn sự nhƣ ý. Thơ rằng : " Phương Bệnh , phương Tử thủy triều Minh, Dẫu có khoa danh cũng chẳng lành. Liêm trinh chủ quản trường tai họa, Thuốc độc hại người , nạn đao binh. Thay vợ đổi chồng thêm cố tật,


Đọa thai, tật ách , khổ điêu linh. Gia tài phá tán sinh nhân yểu, Gẫy gốc, nhuốc nhen cực thân hình ".

8/ SAO PHÁ QUÂN ( MỘ ). Thủy ở phƣơng Mộ chảy đến Minh đƣờng , sao Phá quân chiếu xạ Huyệt vị . Chủ gia nghiệp lụn bại, mang công mắc nợ , gia đình dù có nhân đinh đông đúc , cuối cùng cũng tuyệt tự. THủy Mộ khố mà chảy đi , nếu chậm rãi mà uốn lƣợn thì thành danh gia vọng tộc. " Nước từ cung Mộ tháo chảy đi, Phát văn, phát võ, pháyt quyền uy. Nước chứa ao hồ giàu muôn vạn, Nước đi thẳng tuột chẳng nên gì , Mang công mắc nợ nghèo xơ xác, Tù tội, lưu đầy bị khinh khi " .

9/ SAO LỘC TỒN ( TUYỆT - THAI ). Thủy Tuyệt - Thai chảy đến Minh đƣờng - Sao Lộc tồn chiếu xạ Huyệt vị. Chủ gia đình đời sau con cháu sẽ tuyệt tự , thai sản khó khăn, hữu sinh vô dƣỡng . nếu có sinh con thì cha con, vợ chồng cũng tử biệt , sinh ly . Nếu phƣơng này mà thủy lai ( đến ) mạnh mẽ thì con cái trong nhà sẽ hƣ hỏng , dâm loạn . Phƣơng này chỉ có thủy chảy đi mới hợp cách. " Thai - Tuyệt nước lai hại không con, Có đẻ không nuôi phải đem chôn, Vợ chồng ly tán , người đối mặt, Nước cả, đàn bà loạn dâm bôn. Nước nhỏ tự tình ngầm ngang trái, Nước đi hợp pháp lại vuông tròn " .

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 37. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN. V. THỦY PHÁP.


4. THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH ( Tiếp theo ). 1/ TAM HỢP CỤC. * Thân - Tý - Thìn - Tam hợp Thủy cục. ( Trƣờng sinh tại Thân - Đế vƣợng tại Tý - Mộ tại Thìn ). * Dần - Ngọ - Tuất - Tam hợp Hỏa cục ( Trƣờng sinh tại Dần - Đế vƣợng tại Ngọ - Mộ tại Tuất ). * Tỵ - Dậu - Sửu - Tam hợp cục Kim ( Trƣờng sinh tại Tỵ - Đế vƣợng tại Dậu- Mộ tại Sửu ). * Hợi - Mão - Mùi - Tam hợp cục Mộc ( Trƣờng sinh tại Hợi - Đế vƣợng tại Mão - Mộ tại Mùi ).

2/ QUY ĐỊNH TRONG PHONG THỦY. *Tên chi đầu là dòng nƣớc chảy đến gọi là Thủy đầu ( Thủy lai ). *Tên chi cuối là dòng nƣớc chảy đi gọi là Thủy khẩu . * Tên chi giữa là hƣớng nhà hay Huyệt mộ. 3/ TAM HỢP CỤC KẾT HỢP VÕNG TRƢỜNG SINH. *Tên chi đầu ứng với sao Trƣờng sinh. * Tên chi giữa ứng với sao Đế vƣợng. *Tên chi cuối ứng với sao Mộ.

4/ 12 SAO CỦA VÕNG TRƢỜNG SINH . Trƣờng sinh - Mộc dục - Quan đới - Lâm quan - Đế vƣợng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dƣỡng.

5/ DƢƠNG CỤC VÀ ÂM CỤC. * Dƣơng Thủy long cục : Thân - Tý - Thìn. * Âm Thủy long cục : Mão - Hợi - Mùi.


* Dƣơng Kim long cục : Tỵ - Dậu - Sửu. * Âm Kim long cục : Tý - Thân - Thìn. * Dƣơng Hỏa long cục : Dần - Ngọ - Tuất. * Âm Hỏa long cục : Dậu - Tỵ - Sửu. * Dƣơng Mộc long cục : Hợi - Mão - Mùi. Âm Mộc long cục : Ngọ - Dần - Tuất. * Dòng nƣớc chảy từ Trƣờng sinh đến Đế vƣơng rồi ra Mộ theo chiều từ trái qua phải là Dƣơng long cục. * Dòng nƣớc chảy từ Trƣờng sinh đến Đế vƣơng rồi ra Mộ theo chiều từ phải qua trái là Âm long cục. * Dòng nƣớc chảy từ Đế vƣợng tới Trƣờng sinh ra Mộ theo chiều từ phải qua trái gọi là Dƣơng long cục. * Dòng nƣớc chảy từ Đế vƣợng tới Trƣờng sinh ra Mộ theo chiều từ trái qua phải gọi là Âm long cục.

6/ XÁC ĐỊNH HƢỚNG LONG CỤC. * Dƣơng Kim long cục - Trƣờng sinh ở Tỵ. * Âm Kim long cục - Trƣờng sinh ở Tý. * Dƣơng Mộc long cục - Trƣờng sinh ở Hợi. * Âm Mộc long cục - Trƣờng sinh ở Ngọ. * Dƣơng Hỏa long cục - Trƣờng sinh ở Dần. * Âm Hỏa long cục - Trƣờng sinh ở Dậu. * Dƣơng Thủy long cục - Trƣờng sinh ở Thân. * Âm Thủy long cục - Trƣờng sinh ở Mão.

7/ THỦY PHÁP TRƢỜNG SINH CÁT LỢI. * Dòng nƣớc chảy từ Trƣờng sinh đến Minh đƣờng thì lợi về nhân khẩu, con cháu thịnh vƣợng. * Dòng nƣớc chẩy từ Đế vƣợng đến Minh đƣờng thì lợi về quan danh, sự nghiệp, nhiều tài lộc. * Dòng nƣớc chẩy từ Quan đới đến Minh đƣờng thì lợi cho gia đình phong hóa, con cháu học giỏi , thông minh. * Dòng nƣớc chẩy từ Lâm quan đến Minh đƣờng thì tuổi trẻ làm quan chức, công danh thành đạt. * Dòng nƣớc chẩy từ Mộc dục đến Minh đƣờng thì sinh cờ bạc , rƣợu ché, gia tài khánh kiệt, gia phong bại hoại. * Dòng nƣớc chẩy từ Suy đến Minh đƣờng thì gặp tai họa, tối kị, nếu không chảy đến Minh đƣờng thì con cháu công danh, phú quý. * Dòng nƣớc chẩy từ Mộ đến Minh đƣờng thì hung , kị, nếu có dòng nƣớc chảy quanh co thì có ngƣời nổi danh. * Dòng nƣớc chẩy từ Bệnh - Tử đến Minh đƣờng thì gặp tai họa, nếu không chảy qua Minh đƣờng thì tốt đẹp. * Dòng nƣớc chẩy từ Tuyệt - Thai đến Minh đƣờng thì gia đình bất hòa , hại ngƣời tốn của.

8/ LẬP HƢỚNG VÀ NGHÊNH LỘC. * Khi tiến hành lập hƣớng phải xác định đƣợc Dƣơng hay Âm long cục, Dƣơng hay Âm hƣớng . Nếu Long cục và Hƣớng cùng Dƣơng hay Âm tức là Thuần Âm hay Thuần Dƣơng thì phải đƣợc xử lý bằng cách lấy Hƣớng ở Sơn này kiêm Sơn kia 3 phân, nhƣ vậy tránh đƣợc cô Âm hay cô Dƣơng. * Trong 24 Sơn , Hƣớng có 8 Can, tại Sơn của mình Can đều đƣợc nghênh Lộc : - Giáp nghênh Lộc tại Dần. - Ất nghênh Lộc tại Mão. - Bính nghênh Lộc tại Tị. - Đinh nghênh Lộc tại Ngọ. - Canh nghênh Lộc tại Thân. - Tân nghênh Lộc tại Dậu. - Nhâm nghênh Lộc tại Hợi. - Quý nghênh Lộc tại Tý.


9/ BÁT SÁT. Mối quan hệ hung sát : 1, Giữa Long và dòng nƣớc chảy vào Minh đƣờng. 2, Giữa Long và hƣớng nhà, Huyệt mộ. 3, Giữa hƣớng Nhà, Huyệt mộ và ngày khởi công. * Ngọ sát Càn. * Thìn sát Khảm. * Dần sát Cấn. * Thân sát Chấn. * Dậu sát Tốn. * Hợi sát Ly. * Mão sát Khôn. * Tỵ sát Đoài. Quan hệ Bát sát là quan hệ Ngũ hành sinh khắc.

5. PHÉP XÁC LẬP QUẺ CỦA HUYỆT VỊ. ( Theo Tam quái pháp ). Thông thƣờng Huyệt phát dài nhất thời gian là 540 năm. Trƣờng hợp đặc biệt mới có thể vƣợt qua Đại vận 1080 năm. Có thơ rằng : " Nhất cá sơn trung hạ thập phần, Nhất phần phú quý cửu phần bần. Cộng Đường, công Án , cộng Sơn Thủy, Diệu tại Huyệt trường , nhận đắc chân ". Phép xác lập quẻ của Huyệt vị bao gồm 9 bƣớc : Bước 1 : Xét Long nhập thủ theo Tam hợp Ngũ hành ( để xem Long nhập thủ theo 24 Sơn , đƣợc Sơn gì ? Âm hay Dƣơng ? ). Bước 2 : Đo Long nhập thủ để xem Long nhập thủ do Sao nào quản cục. Bước 3 : Phối giữa quẻ của Long theo Tam hợp Ngũ hành lấy đƣợc ở bƣớc 1 với Sao quản cục ở bƣớc 2 thoe phép biến " Nhất biến thƣợng vi Tham ". Kết quả ra Sao gì ? Sao đó thuộc quẻ gì thì quẻ đó gọi là LONG QUÁI. Bước 4 : Lấy Long quái nhập trung cung rồi thuận hay nghịch khởi theo quỹ đạo của Sao quản cục Long nhập thủ ( lấy đƣợc ở bƣớc 2 ) , chạy tới Tọa sơn của Huyệt vị theo Chính Ngũ hành ra quẻ gì ? Quẻ đó là " LONG SƠN QUÁI ". Bước 5 : Lấy Long sơn quái phối với quẻ thuộc quản cung Tam hợp Tọa sơn ở Huyệt vị , rồi theo phép thứ 3 ( Nhất biến hạ vi liêm ) , ra quẻ gì ? Quẻ đó là QUẺ HẠ của Huyệt vị. Bước 6 : Lại lấy chủ tinh biến quái của Minh đƣờng Thủy ( Theo Bát diệu thủy pháp ) nhập trung cung , rồi thuận hay nghịch khởi theo quỹ đạo của Sao quản cục của Minh đƣờng chạy tới Hƣớng của Huyệt vị, ra quẻ gì ? thì quẻ đó là THỦY HƢỚNG QUÁI của Huyệt vị. Bước 7 : Lấy Hƣớng quái phối với quẻ bản cung Tam hợp chiếu Hƣớng của Huyệt vị theo phép biến 3 ( Nhất biến hạ vi liêm ) , ra quẻ gì ? thì quẻ đó là quẻ THƢỢNG của Huyệt vị. Bước 8 : Phối giữa 2 quẻ Sơn và quẻ Hƣớng của Huyệt ( Chồng quẻ Thƣợng ở bƣớc 7 lên Quẻ Hạ ở bƣớc 5 ) ta đƣợc QUẺ CỦA HUYỆT VỊ cần tìm. Bước 9 : Tìm Nguyên đƣờng và hào động.

THẾ

NGUYÊN ĐƢỜNG ỨNG

Trong quẻ có 6 vấn đề : 1/ Quan chức : Do hào Quan quỷ phụ trách. 2/ Tài lộc : Do hào Thê tài phụ trách.

THÂN QUẺ. ĐỘNG

HÀO CHỦ


3/ Điền trạch : Do hào Phụ mẫu phụ trách. 4/ Bằng cấp : Do hào Phụ mẫu phụ trách. 5/ Nhân đinh : Do hào Huynh đện phụ trách. 6/ Phúc đức : Do hào Tử tôn phụ trách.

TÌM NGUYÊN ĐƢỜNG . Nguyên đƣờng căn cứ vào quẻ gốc của Huyệt vị lấy ở bƣớc 8 . Trƣờng hợp là nam nhân, nếu thấy hào Dƣơng thì khởi Sao Văn khúc , nếu thấy hào Âm thì khởi Sao Cự môn. Nếu là nữ nhân : nếu thấy hào Dƣơng thì khởi Sao Cự môn, nếu thấy hào Âm thì khởi Sao văn khúc. Khởi thuận cho đến sao Chủ mệnh của vong mệnh , mỗi sao một hào theo thứ tự của phép ( Nhất biến hạ vi Liêm ) . Dừng tại hào nào thì hào đó là HÀO NGUYÊN ĐƢỜNG.

TÌM HÀO ĐỘNG. Từ hào Nguyên đƣờng coi là Tý, thuận đến chi của năm sinh vong mệnh , dừng tại hào nào thì hào đó là HÀO ĐỘNG.

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 38. PHONG THỦY LUẬN. PHẦN 6: BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN. V. THỦY PHÁP.

6. XÉT THỜI ĐIỂM VÀ THỜI HẠN KẾT PHÁT CỦA HUYỆT VỊ. 1/ Thời điểm kết phát :

Lấy năm táng ( Can chi năm hạ táng ) , tính đến Can chi của hào động xem cách nhau bao nhiêu vị , mỗi vị là một năm thì cuối của số vị đó là thời điểm của Huyệt kết phát.


Ví dụ : Táng vào năm Nhâm Ngọ , hào động là Hào Kỷ Mùi , tức là có 38 vị ứng với 38 năm sau sẽ kết phát ( Hạ táng năm Nhâm Ngọ 2002 , đến năm 2040 Canh Thân sẽ kết phát ). 2/ Thời hạn kết phát :

Muốn xác định thời hạn kết phát của Huyệt nhanh hay chậm , ta phải căn cứ vào đốt của Long nhập thủ : * 1 đốt : Khởi tại Bính, Tân ( Dƣơng long tại Bính, âm Long tại Tân ). * 2 đốt : Khởi tại Mậu, Tý (Dƣơng long tại Mậu , âm Long tại Tý ). * 3 đốt : Khởi tại Nhâm, Đinh (Dƣơng long tại Nhâm , âm Long tại Đinh ). * 4 đốt : Khởi tại Canh , Ất (Dƣơng long tại Canh , âm Long tại Ất ) . * 5 đốt : Khởi tại Giáp , Kỷ (Dƣơng long tại Giáp , âm Long tại Kỷ ) . Từ đốt thứ 6 lại quay lại nhƣ đốt 1. Trong thực tế nhiều nhất chỉ có 9 đốt. Đặt Can gốc này vào hào Thế thuận đến Can phân kim Tọa Sơn của Huyệt vị, dừng tại hào nào thì hào đó là hào chủ . Từ Can , chi của hào chủ lại thuận thế đến phân kim của Long nhập thủ xem cách nhau bao nhiêu vị . Lấy số đốt nhân với số vị vừa tìm ta đƣợc thời hạn kết phát - Ví dụ : 29 vị x 3 đốt = 87 năm.

TÓM TẮT CÁCH XÁC ĐỊNH QUẺ HUYỆT VỊ.

Xác định quẻ Huyệt vị dùng để xác định thời điểm bắt đầu kết phát và xác định thời hạn kết phát của Huyệt mộ. Đây là một việc làm cần thiết khi đặt Huyệt mộ của Phong thủy sƣ. Việc tính toán tƣơng đối phức tạp và do tiện ích của trang Web không đủ nên dienbatn chỉ nêu ra một số vấn đề cơ bản. Bạn nào muốn học kỹ cần phải có thày và tài liệu đầy đủ, kết hợp với chuyên cần nhiều năm mới đủ kiến thức để thực hiện. Xác định quẻ Huyệt vị bao gồm 9 bƣớc thực hiện nhƣ dienbatn đã viết tại bài 37. Tại đây chỉ tóm tắt lại.

I. LẬP QUẺ HUYỆT VỊ .

Tìm quẻ HẠ.

Bƣớc 1 : Xem Long nhập thủ là Long gì ? Dƣơng hay Âm ? sau đó tra bảng. Bƣớc 2 : Xem Sao nào quản cục của Long nhập thủ : Tra bảng. Bƣớc 3 : Tìm Long quái ( sử dụng phƣơng pháp phép 1 ) sao Quái ( quẻ gì đó ) => Sao quản cục phối với tam hợp Ngũ hành của Long nhập thủ. Bƣớc 4 : Tìn Long SƠN quái ( Tọa của Huyệt vị ) . Bƣớc 5 : Tìm quẻ HẠ của Huyệt vị. Tìm quẻ THƯỢNG. Bƣớc 6 : Tìm Thủy hƣớng quái : Minh đƣờng ( Phép 2 ) => Tính từ sao quản cục của Long nhập thủ chạy tới Minh đƣờng ( Theo phép biến 2 ). Bƣớc 7 : Tìm quẻ THƢỢNG của Huyệt vị. Bƣớc 8 : Lập quẻ kép của Huyệt vị. Bƣớc 9 : Tìm hào nguyên đƣờng và hào động của quẻ.

VÍ DỤ .

   

Nữ vong nhân sinh 1929 ( Kỷ Tỵ ). Năm cải táng : 2002 ( Nhâm Ngọ ). Hƣớng Huyệt vị : Tọa Tị - Hƣớng Hợi ( Trung Minh đƣờng ). Long nhập thủ : Tỵ ( Khi phân kim là Ất Tỵ ).


GIẢI .

Bƣớc 1 : Tỵ : Long nhập thủ là ÂM LONG. Tam hợp Ngũ hành ( Tỵ - Dậu - Sửu ) => Quẻ Đoài. Bƣớc 2 : Sao quản cục của Long nhập thủ : Phụ Bật. Bƣớc 3 : Lây quản cục của Long nhập thủ phối với quẻ Tam hợp Ngũ hành : Tốn phối với Đoài ( Theo phép biến 1 ) = > Khảm là Long quái. Bƣớc 4 : Lấy Long quái Khảm nhập trung cung , rồi thuận hay nghịch khởi theo quỹ đạo của sao quản cục của Long nhập thủ , chạy tới tọa Sơn của Huyệt vị theo chính Ngũ hành ra quẻ gì ? thì quẻ đó là Sơn quái. Quỹ đạo theo quản cục của Long nhập thủ : TỐN .

Số 4 chính Ngũ hành là TỐN => Long Sơn quái . Tìm tọa Sơn là số 7 theo quẻ Lạc thƣ. Bƣớc 5 : Lấy Long sơn quái phối với quẻ thuộc bản cung ( Tam hợp ) của Tọa Sơn Huyệt vị . Biến theo phép thứ 3 xem đƣợc quẻ gì ? Quẻ đó là quẻ HẠ của Huyệt vị.

Nhƣ vậy ta tìm đƣợc quẻ Hạ của Huyệt vị là quẻ Cấn là sao Cự Môn. Bƣớc 6 : Lấy chủ tinh biến quái của Minh đƣờng thủy : HỢI ( Theo Bát diệu thủy pháp ).


Hợi Minh đƣờng đƣợc Phá quân Đoài . Lấy quẻ sao quản cục của Hợi Minh đƣờng đƣa vào trung cung : Đoài = Phá quân.

Bƣớc 7 : Lấy thủy Hƣớng quái ( Tốn ) phối với quẻ bản cung của Huyệt vị ( Tam hợp Ngũ hành ).


TỐN phối CHẤN ( Hợi - Tam hợp Ngũ hành ) theo phép 3 = > CÀN = Vũ Khúc. Quẻ Càn = Vũ Khúc là quẻ THƢỢNG của Huyệt vị. Bƣớc 8 :

Quẻ của Huyệt vị là : THIÊN SƠN ĐỘN . Bƣớc 9 : Tìm hào Nguyên đƣờng và tìm hào động của quẻ Huyệt vị.

Tổng số 1+7 = 8. Tổng là số chẵn. Thƣợng quái là quẻ gốc : CÀN - KIM. Lấy quẻ thuần CÀN biến cho đến quẻ THIÊN SƠN ĐỘN. Xác định hào ứng , thế. Ta đƣợc Thế ở hào 2, ứng ở hào 5. Căn cứ vào trụ quái để an Can, Chi vào từng hào :

THIÊN SƠN ĐỘN.

Phụ mẫu Nhâm Tuất thổ. Hung đệ Nhâm Thân kim - Ứng. Quan quỷ Nhâm Ngọ Hỏa . Huynh đện Bính Thân kim. Quan quỷ Bính Ngọ hỏa - Thế Phụ mậu Bính Thìn thổ.

Xét quẻ Cấn ; Hào 1 Bính Thìn. Hào 2 : Bính Ngọ. Hào 3 : Bính Thân. Xét quẻ Càn . Hào 1 : Nhâm Ngọ. Hào 2 : Nhâm Thân. Hào 3:


Nhâm Tuất.

An lục thân vào từng hào. Tìm hào Nguyên đƣờng: Nam - Hào Thế Dƣơng khởi ở Văn Khúc. - Hào Thế Âm khởi ở Cự Môm. Nừ - Hào Thế Dƣơng khởi ở Cự Môn. - Hào Thế Âm khởi ở Văn Khúc.

Hào Thế là hào 2 ( Âm ) , mộ là của nữ vong nên ta khởi từ Văn Khúc. Ta lấy theo thứ tự của phép 3"

Nhất biến hạ vi Liêm. Nhị biến trung vi Phá. Tam biến hạ vi Phụ. Tứ biến trung vi Văn. Ngũ biến hạ vi Vũ. Lục biến trung vi Cự. Thập biến hạ vi Lộc. Bát biến trung vi Tham.

Nữ sinh 1929 = 3 ( 1+2 = 3 ) , lƣợc bỏ 2 số 9 . 3 là quẻ Đoài = Phá Quân. Phá Quân là mệnh chủ của vong nhân. Phá quân chính là hào của Nguyên đƣờng.


Từ hào Nguyên đƣờng là Tý dịch đến chi của Vong ( Kỷ Tỵ ) thì đƣợc hào động . Nhƣ vậy hào 1 là HÀO ĐỘNG.

THỜI ĐIỂM KẾT PHÁT. Căn cứ vào Can, Chi của năm hạ táng ( Nhâm Ngọ ) tính đến Can, Chi của hào động.

Vậy thời điểm kết phát là 35 năm sau : 2002 + 35 = 2037.

THỜI HẠN KẾT PHÁT.

Không phụ thuộc vào vong nhân mà phụ thuộc vào ĐỐT CỦA LONG NHẬP THỦ . Tìm Tỵ

long

đƣợc Âm

Long

=>

hào Khởi

theo

chủ số

Long

của

của từng

Can,

quẻ: Chi.


Đốt Long : Có 2 đốt , Tỵ long là Âm long nên ta lấy Can Quý đặt vào hào Thế ( hào 2 ) , tính đến Can của tọa Sơn ( ẤT ) , đƣợc hào chủ tại hào 4. Từ Can, Ch của hào chủ ( Nhâm Ngọ ) , thuận đến phân kim của Long nhập thủ xem cách bao nhiêu vị , rồi nhân với số đốt của Long để ra thời hạn kết phát. Từ Nhâm Ngọ tới Ất Tỵ đƣợc 24 vị = 24 năm x 2 đốt = 48. Nhƣ vậy thời hạn kết phát là 48 năm.

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 39. PHONG THỦY LUẬN . PHẦN 7 . LẤY LỘC MÃ QUÝ NHÂN HÌNH SÁT. 1/ LỘC ( THIÊN LỘC VÀ TÀI LỘC ). Căn cứ vào Can của năm sinh vong mệnh : Gíáp Lộc tại Dần. Ất Lộc tại Mão. Bính , Mậu Lộc tại Tị. Đinh, Kỷ Lộc tại Ngọ. Canh Lộc tại Thân. Tân Lộc tại dậu. Nhâm Lộc tại Hợi. Quý Lộc tại Tý. Ngƣời ta sinh ra vào các năm : Giáp , Ất , Canh , Tân là tốt , đắc lộc , nhân tài xuất chúng . Ta xem trong quẻ chính và quẻ biến có chi trùng với chi có Lộc hay không. 2/ THIÊN MÃ. Theo các Chi của năm sinh của vong mệnh : Tam hợp Thân - Tý - Thìn Thiên mã tại Dần. Tam hợp Tỵ - dậu - Sửu Thiên Mã tại Hợi. Tam hợp Hợi - Mão - Mùi Thiên Mã ở Tị. Tam hợp Dần - Ngọ - Tuất Thiên Mã ở Thân. Nhƣ vậy ngƣời sinh năm Hợi sẽ có Thiên Mã tại Tị. 3/ QUÝ NHÂN. Quý Nhân bao gồm Dƣơng Quý nhân và Âm Quý nhân. Tính theo Can năm sinh của vong mệnh. CAN NĂM

DƢƠNG QUÝ NHÂN

ÂM QUÝ NHÂN.


Giáp Mậu Ất Kỷ Canh Tân Nhâm Quý Bính Đinh

Sửu Mùi. Tý. Thân Ngọ. Dần Tị.

Mùi Sửu Thân Tý Dần Ngọ Mão Tị Dậu Hợi

Mão. Hợi . Dậu.

Có thơ rằng : " Giáp, Mậu Ngƣu Dƣơng địa. Ất , Kỷ Thử , Hầu dƣơng. Canh , Tân tầm Mã, Hổ. Nhâm , Quý Thỏ , Xà tàng. Bính , Đinh Chƣ, Kê vi. Thử thị Quý, Nhâm phƣơng. 4/ Tính theo Tam Thân Tý Dần Ngọ Tị Dậu Hợi - Mão - Mùi Đào hoa tại Tý.

ĐÀO hợp Thìn Tuất Sửu

5/ An Tý Dần Sửu Thìn

THIÊN

6/ Tính Thân Dần Tị Hợi

theo Hình -

Chi Mão Tị Tuất Ngọ

của Đào Đào Đào

năm hoa hoa hoa

tại tại tại

HÌNH. năm sinh của vong mệnh. ( Thiên hình vô lễ ). Thân . ( ỷ thế chi Hình ). Mùi . ( Vong ơn chi hình ). Dậu . ( Tự hình ). ĐẠI

theo -

Chi Tý Ngọ dậu Mão

HOA. sinh. Dậu. Mão. Ngọ.

năm -

sinh Thìn Tuất Sửu Mùi

của Sát Sát Sát Sát

vong tại tại tại tại

SÁT. mệnh. Mùi. Sửu. Thìn. Tuất.

Xem Huyệt để biết cả cuộc đời con ngƣời này có đức độ hay không ? giầu sang, nghèo hèn thế nào ? Có Quý nhân giúp đỡ không ? 1/ Chủ phƣơng : Lấy theo năm sinh của vong mệnh.. 2/ Khách phƣơng : Lấy theo phân kim Hƣớng huyệt . Khi thấy Chủ, Khách trùng nhau thì đức của con ngƣời này tốt, dùng đúng. Khi mà Chủ, Khách xung đối nhau là Đức mỏng , đất đó chƣa phải là chỗ giành cho vong mệnh . TÓM TẮT LẠI . 1/ Chủ phƣơng : Can ,Chi của vong mệnh . * Chi của vong mệnh để an : Mã, Đào hoa ( Căn cứ vào Tam hợp ), am Đại sát , Hình ( Tam Hình ). * Can của vong mệnh : Dùng để an Thiên Lộc, Quý nhân ( Âm và Dƣơng ). 2/ Khách phƣơng : Theo Can của hƣớng Huyệt. Khi vào trung cung ( chạy theo cửu cung ) phải dùng phép thay thế . VÍ DỤ : Hƣớng mộ tọa Tốn - Hƣớng Càn rơi vào Đinh Hợi. Lấy Long tinh để làm quỹ đạo phi tinh thuận nghịch theo Long nhập thủ.



An 6 họ Giáp vào cửu cung ( Theo ví dụ là tuổi Canh Ngọ ). Tìm xem Canh Ngọ thuộc họ gì ? Ta thấy tuổi Canh Ngọ thuộc họ Giáp Tý. 1/ Bƣớc 1 : An vong mệnh . a/ An Chủ phƣơng : Can , Chi của vong mệnh : CANH - NGỌ. * Chi : Dần - Ngọ - Tuất : Thiên Mã tại Thân , Đào hoa tại mão , Đại sát tại Sửu . * Can : Can Canh Lộc tại Thân. b/ An Khách phƣơng . Tọa Tốn - Hƣớng Càn chính kim Đinh Hợi ( nằm trong 60 Long nhập thủ ) : Quý nhân Dƣơng tại Hợi. Quý nhân Âm tại Dậu. Chủ phƣơng và khách phƣơng không trùng nhau nên ngƣời này phúc mỏng. 2/ An Lộc, Mã quý nhân vào phƣơng của Huyệt vị. Sát : Nằm tại Tân Sửu - Thuộc họ của Giáp Ngọ , ta tính từ Giáp Ngọ đến Tân Sửu . Giáp Ngọ số 7. Ất Mùi số 8. Bính Thân số 9. Đinh Dậu số 1. Mậu Tuất số 2. Kỷ Hợi số 3. Canh Tý số 4. Tân Sửu số 5.

Lộc Mậu Giáp Ất Bính Đinh Mậu Khách Dƣơng Giáp Ất Bính Đinh Dƣơng Giáp Ấy Bính

,

Thân

họ Thìn Tị Ngọ Mùi

Thân Quý

Hợi Quý

số nhân

Đinh Thân Dậu Tuất số nhân Tân Thìn Tị Ngọ

3.

Là phƣơng Hợi.

Giáp số số số số cung Thuộc

Đoài

họ

Giáp

họ

cung Giáp

số số số 9. Hợi

Là thuộc số số số

: Thìn. 8. 9. 1. 2. . . Thân. 6. 7. 8. Tốn. Thìn. 8. 9. 1.


Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Âm Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân

Mùi Thân Dậu Tuất số

Hợi Quý

nhân

Dậu

: Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân số

6. Tân

Dậu.

7.

Âm Quý nhân Đinh Dậu . Giáp Ngọ Ất Mùi Bính Thân số 9. Đinh Dậu Đinh Dậu số 1 nằm ở trung cung nằm ở Khảm Sát ( Nhâm Tý , Quý ) . Do vậy gia đình Dƣơng Quý nhân của khách phƣơng : Con

số số số số là Thuộc số số số số số số số Thuộc

2. 3. 4. 5. Ly.

quẻ họ

Giáp

quẻ

Dần. 9. 1. 2. 3. 4. 5. 6. Càn.

Thuộc họ Giáp Ngọ. số 7. số 8. số 1. Thuộc quẻ Tốn. hệ Đoài nên phải lấy Tốn thay. không nên sinh con cháu vào năm Tý. cháu học tốt nhƣng khó đỗ đạt.

Chạy theo quỹ đạo của Phá Quân ( Đoài ) thuận. Lộc mã ở Mậu Thân . Tân Sửu phƣơng Khảm bị Sát. Nếu phƣơng đó có Nha đao tất gặp họa chết chém. Trấn yểm vào cung Tân Sửu. Dƣơng Quý nhân từ Đinh Hợi . Từ Giáp Thân tính đến Đinh Hợi vào cung Cấn Dƣơng Quý nhân. Đinh Dậu Âm Quý nhân khởi tính từ Giáp Ngọ đến trung cung

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 40.


PHONG THỦY LUẬN. Phần 8. MỘT SỐ NHỮNG ĐIỀU LƢU Ý KHÁC. 1/ Hƣớng Tốt Của Mộ Trong Nghĩa Trang Quy Hoạch .

Vài chục năm gần đây, việc cải cách chôn cất trong mộ phần phát triển, hình thức chôn táng mộ theo ngĩa trang đƣợc quy hoạch rất đƣợc ƣa chuộng, việc này cũng hợp với chủ trƣơng tiết kiệm đất đai của nhà nƣớc. Nhƣng có một câu hỏi đƣợc đặt ra: Nhƣ vậy thì mộ quy hoạch trong nghĩa trang có Phong Thủy hay không ? Tất nhiên là có, song thật khó mà cầu cho đƣợc Phong Thủy thật sự hoàn mỹ. Đại bộ phận các nghĩa trang quy hoặc đang đƣợc đƣa về các vùng bán sơn địa để xây dựng, thƣờng lấy dựa sơn làm căn bản, có một số ít không nhiều huyệt vị ở tại vị trí tốt, chính nhƣ Kinh Văn xƣa có câu: “Nhất Cá Sơn Đầu Táng Thập Phần, Nhất Phần Phú Quý Cửu phần Bần – Một Núi Chôn Mƣời Ngôi Mộ, Một Mộ Phú Quý Chín Mộ Nghèo”. Có rất nhiều gia đình có quan niệm sai lầm cho rằng khi sống ở vị trí cao thì chết cũng chọn chỗ cao để "Đè đầu cƣỡi cổ thiên hạ", đó thật sự là sai lầm, vì mộ càng ở chỗ cao càng dễ phạm cái gọi là "Cô Phong Sát" đón gió bốn phƣơng, thủy không có thì hỏi làm sao có thể Tụ đƣợc Khí. Đặc biệt trong nghĩa trang quy hoạch thƣờng đƣợc chia làm nhiều khu, mà trong mỗi khu thì bia mộ chỉ có thể quay về cũng một hƣớng. Cho nên đây cũng là một vấn đề nan giải để Phong Thủy Lý Khí lựa chọn. Cho nên chọn lựa đất mộ trong khu nghĩa trang, rất khó án theo các lý luận thông thƣờng của Lý Khí phong thủy học. Ngƣợc lại các Phong Thủy Sƣ rất cần thông biến linh hoạt sử dụng các biện pháp thông thƣờng để chọn lựa, nhƣ vậy cần có các kiến thức Lý Thuyết và Thực Hành rất sâu sắc vận dụng mới đạt đến mức tối đa. Sau đây là một số điểm tôi tổng kết: 1.Tránh Gió (Tỵ Phong) cố gắng chọn lựa chỗ không có gió thổi hoặc ít gió, đặc biệt tránh xa chỗ sau lƣng có Ao Phong; 2.Cố gắng tránh trƣớc mộ có nƣớc xung xạ hoặc thẳng đến thẳng đi; 3.Tốt nhất là trƣớc mặt có Triều Sơn và đê án lấy làm Quan Nội Khí; 4.Trái Phải tốt nhất có Sa hộ vệ. 5.Lập đƣơng vận vƣợng sơn vƣợng hƣớng hoặc lập hƣớng thu cát thủy trƣớc mặt. 6.Lấy độ số Hƣớng Bia lập Tinh Bàn Huyền Không, lấy Tọa Mộ lập Tinh Bàn Đại Huyền Không sao cho đƣợc thu Thủy, khứ Thủy ở vào Lý Khí tốt, lại phù hợp Thiên Tinh! Đây là những điểm khá quan trọng, bởi vì bốn điều trên (Hình Thế) khả năng có những cái làm không đƣợc, song vƣợng sơn vƣợng hƣớng thì có thể làm đƣợc. Nhƣng điều khác không đủ, nhƣ có đƣợc Vƣợng Sơn Vƣợng Hƣớng hoặc thu Cát Thủy, tuy không thành đại phú đại quý, nhƣng cầu nhân tài lƣỡng vƣợng, thuộc nhà Tiểu Khang cũng không thành vấn đề. Điều này tất cần có Phong Thủy Sƣ cao minh mới có thể làm nổi. Chính là câu “Giang Sơn Nghìn Dặm ! Không Gian Một Hƣớng”. 2/ Ngũ Thuật Chân Chính


“Ngũ Thuật” là dùng để chỉ năm bộ môn Phương Thuật gồm: Sơn – Y – Mệnh – Bốc – Tướng. Nó đã lưu truyền tại các nước châu á đặc biệt là Trung Hoa và các nước chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa từ mấy ngìn năm nay. Đại đa số nó bắt nguồn từ Trung Hoa sau đó lan xa truyền rộng ra các nước xung quanh. Nhiều người nhận được lợi ích của nó. Song cũng có nhiều người vì nó mà gặp họa. Trong thời đại xã hội mà khoa học kỹ thuật đã tiến bộ rất nhiều, mà nó không hề bị đào thải, trái lại nó còn thường xuyện hiện diện trong mỗi sinh hoạt đời sống của chúng ta. Do đó có thể thấy, sự tồn tại của nó đã khẳng định giá trị nhất định của nó. Vậy chúng ta nên đánh giá thế nào về các bộ môn Ngũ Thuật, để có được sự đánh giá chuẩn xác thì cần có nhiều công trình nghiên cứu quy mô, toàn diện. Ở đây chúng ta chỉ cùng xem xét và nghiên cứu một vài khía cạnh nền tảng. Vận Mệnh Con Ngƣời Với Ngũ Thuật Có thể nói chắc chắn một câu đại đa số con ngƣời sinh ra thì các giờ phút khổ não nhiều hơn hẳn lúc sung sƣớng thanh thản. Ở trong tình cảnh luốn mong cho đầy đủ, nghèo thì cầu tài, bệnh cầu khỏe mạnh, không con cầu có con, học tập cầu công danh, chƣa có hôn nhân cầu gặp ngƣời trong mộng, ra làm quan cầu đƣợc thăng tiến ..v..v..Song có một điều chắc chắn là giữa mong muốn và sự thực có khoảng cách rất lớn. Đâu phải lúc nào chúng ta muốn mà cũng đƣợc nhƣ ý. Đại đa số ngƣời ta là mong muốn đều không đƣợc, hy vọng lạc vào hƣ vô. Có một số ngƣời khi gặp sự gãy đổ, gặp nạn, hoặc nghiệp báo đến không thể giải thích đƣợc, liền đổ cho đó là số mệnh đã sắp đặt cố định. Đó không chỉ là ở nơi bách tính trăm họ, ngay cả các bậc thánh nhân cũng vậy. Vi nhƣ Tăng Quốc Phiên là một bậc Thánh vào đời nhà Thanh là ngƣời rất tin Vận Mệnh, ông từng nói “Không Tin Sách, Tin Vận Mệnh, đó là lời nói công khai truyền trăm đời về sau.” Đƣơng nhiên sẽ có một số ngƣời không tin vào Vận Mệnh. Cũng có ngƣời thì cho rằng chỉ có 3 phần là Vận Mệnh, còn 7 phần là dựa vào nỗ lực tu dƣỡng của chính mình. Trong thực tế đời sống hiện nay có thể phân chia thái độ với Vận mệnh ra làm 4 loại: - Tin hoàn toàn. - Không tin chút nào. - Tin nhƣng còn xem xét. - Trƣớc tin mà sau không tin nữa. (Do lúc đầu tin tƣởng, nhƣng sau do tu tập sai, hoặc gặp phải giang hồ thuật sĩ, đồng cốt dị đoan thấy không còn linh nghiệm nên không tin nữa.). Do Ngũ Thuật có tƣ tƣởng chủ đạo là Thiên Địa Nhân hợp nhất, chủ yếu do tìm cách cải thiện, làm cho tốt hơn vận mệnh con ngƣời mà phát sinh các bộ môn học thuật. Cho nên do có nhiều cách nhìn về Vận Mệnh thì cũng có nhiều cách nhìn về Ngũ Thuật. Cuối cùng có thể tin, hay vứt bỏ? Nó là các học thuật có giá trị hay chỉ là mấy cái để bọn giang hồ thuật sĩ lừa tiền ngƣời ta? Sự tranh luận này từ cổ chí kim chƣa bao giờ ngừng lại. Đến hiện nay đã có cái nhìn rõ ràng hơn một chút về chân lý và mê tín, khoa học và văn hóa, hiện đại và cổ đại, nó có quan hệ rất nhiều đến sự phát huy văn hóa truyền thống ở nƣớc ta.

3/ Phong Thủy Đối Với Cách Thức Hỏa Táng .


Theo trào lƣu hiện nay, cũng do nhu cầu về đất mai táng ngày càng trở nên hạn hẹp, cộng thêm một số vấn đề tế nhị khác mà phƣơng pháp Hỏa Táng đang ngày càng đƣợc nhiều ngƣời chọn lựa để lo hậu sự cho ngƣời thân. Cũng có rất nhiều ngƣời cũng có nhận thức mới, thấy việc Hỏa Táng là sạch sẽ chu toàn nên đã dặn ngƣời nhà Hỏa táng sau khi mình qua đời. Theo Học Thuyết của Phật Giáo thì thân xác con ngƣời sau khi qua đời thực sự không mấy quan trọng. Việc Hỏa Táng hoàn toàn phù hợp với các triết lý của Đức Phật tuyên thuyết. Bản thân Đức Phật sau khi nhập Niết Bàn cũng đƣợc các học trò và ngƣời thân Hỏa Táng trong một nghi lễ giản dị nhƣng trang trọng. Song nếu theo con mắt nhìn của Phong Thủy Âm Trạch thì rõ ràng Hỏa Táng hoàn toàn không thể tốt hơn chôn cất (Tất nhiên phải khi có đƣợc ngôi mộ táng nơi Phong Thủy tốt – chí ít cũng bình thƣờng). Tuy nhiên đi cùng bƣớc tiến của xã hội Phong Thủy Học đã sớm tổng kết và áp dụng các mệnh đề Phong Thủy vào việc Hỏa Táng những mong ngƣời đã khuất có đƣợc sự yên nghỉ hoàn toàn, ngƣời sống cũng không phải áy náy lƣơng tâm, sự phù trì cho con cháu cũng từ đó tốt hơn. Dƣới đây xin đƣa vài điểm chú ý cũng các bạn tham khảo! Vị Trí Đặt Lọ Tro: 1.Kỵ đặt tại chỗ bên dƣới có xà đè ngang. 2.Kỵ bị gió thổi xuyên vào trƣớc mặt hoặc hai bên phải trái, đó là Phong Sát. 3.Kỵ đặt tại chỗ quá ít ánh sáng quá, chỗ có tƣờng sơn đen, không chút sinh khí. 4.Kỵ đặt quá gần chỗ cầu thang. Bởi sẽ bị khí đi từ trên các tầng trên theo cầu thang xung kích xuống, mà xuống chỗ dƣới cầu thang là minh đƣờng nhỏ hẹp càng kỵ. Kinh Viết: “Minh Đƣờng Hạ Hãm, Tử Tôn Sầu”. 5.Kỵ đối diện thẳng với chỗ hóa tiền vàng. 6.Kỵ ở tại tầng quá thấp, bởi vì dễ bị ẩm ƣớt quá hoặc bị nƣớc tràn ngấm vào, lại cũng kỵ tại vị trí quá thấp so với thân thể ngƣời đang sống. 7.Cũng giống nhƣ ở ngoài mộ, vị trí tọa hƣớng lọ tro cốt cần phối mệnh quái (Tức phân quái năm sinh mệnh ngƣời mất) đƣợc Cát. Căn cứ lấy hƣớng là ảnh hƣởng bài vị của ngƣời quá cố dán trên lọ tro hoặc bài vị đặt kèm. 8.Chọn lựa số tầng đặt lọ tro cần chọn lựa theo Hà Đồ Ngũ Tử Vận Phối Với Tiên Mệnh Quái. Khẩu Quyết Hà Đồ: “Nhất Lục cộng tông Thủy, Nhị Thất đồng Đạo Hỏa, Tam Bát vi bằng Mộc, Tứ Cửu vi hữu Kim, Thập Ngũ cộng xứ thổ.” Tức là từ tầng thấp nhất bắt đầu tính là tầng một và tầng 6 là Thủy, tầng 2 với tầng 7 tính là Hỏa, tấng 3 với tầng 8 tính là Mộc, tầng 4 với tầng 9 tính là Kim, tầng 5 với tầng 10 tính là Thổ.Từ tầng 11 lại quay trở lại, y theo thứ tự Thủy Hoả Mộc Kim Thổ. 4/ “Phong Thủy Chân Truyền Chỉ một Câu” Từ xƣa đến nay, Phong Thủy Sƣ Phó chân truyền đệ tử đều chỉ nói một câu: “Tiên thiên là thể, Hậu thiên là dụng, Tiên thiên cố định không biến đổi, Hậu thiên theo Khí Vận lƣu chuyển, Tinh tức Quái, Quái tức Tinh” Nói rõ ràng, chân lý chính nằm ở đây, rất đơn giản, chẳng có gì cho ngƣời ta chú ý, vậy mà nói linh tinh liên chi hồ điệp dông dài có khi lại làm cho ngƣời ta chú ý! Thế mới thành nói giản đơn nhìn không đẹp, nói phức tạp lại thành khó tiêu. Trừ các sách về “Loan Đầu” ra còn nhƣ các sách về Lý Luận, đặc biệt các sách bán trên thị trƣờng hầu nhƣ đều làm ngƣời đọc nhầm lẫn!


Khai môn mở lớp, chiêu mộ nhiều đệ tử, học thì đƣợc, dùng chẳng đƣợc. Chân chính hiểu đƣợc Thầy nói, hỏi đƣợc mấy ngƣời, dạy đã không đúng, mà sao tiền học vẫn thu. Nghiên cứu mấy năm, nhiều ngƣời tự cho mình là Thầy giỏi, đúng là ngốc nghếch! Vớ lấy một đống tri thức vô dụng, lộng xƣng có đƣợc bí quyết gia truyền quý báu để truyền nghệ, tất cả chỉ là tự mình lừa dối mình mà thôi! Chẳng dám đàm luận hỏi ai là cao thủ. Có đƣợc chút Đạo Lý rất nông cạn, chẳng dám lộ cho ngƣời xem. Một môn Phong Thủy, lƣu truyền nghìn năm. Tính chân thực của nó không cần hoài nghi, có thể không tin, nhƣng đừng bài xích nó! Nó xuất phát chính từ hiện thực, bao quát một môn Phong Thủy, tri thức cổ truyền cần kết hợp với hiện thực thời nay. Chẳng phải cứ mệnh tốt, Phong Thủy tốt là Tọa Địa Hoa Khai. Nó chẳng qua là 99% phấn đấu+1% Vận Khí = Thành Công. Học tri thức Phong Thủy, đầu tiên là cần có tinh thần Duy Vật biên Chứng, dùng Thực Tiễn Làm Tiêu Chuẩn Kiểm Nghiệm. Bỏ những cái mê vọng. Gốc là cái nhìn với thái độ tin tƣởng để nhận thức, song cũng cần hoài nghi để học tập. Một ngƣời nói chƣa chắc đã là đúng, kể cả đối với các Thầy Cao Minh, sự truyền dạy nhất định cũng có hạn định. Phong Thủy là sự lƣu chuyển, mỗi cá nhân đều có cơ hội. 5/ Để Chọn Lựa Đƣợc Mộ Phong Thủy Cát Huyệt

Tại đây chúng tôi tổng hợp và trình bày một số nhân tố ảnh hƣởng đến Mộ trong nghĩa trang quy hoạch. Có thể căn cứ vào nguyên lý Phong Thủy, sơ bộ xác định vị trí đất Phong Thủy của Mộ tập thể. Ở vấn đề Long Mạch, cần quan sát kỹ xung quanh khu vực mộ, chọn lựa tối chuẩn, sao cho tối đa tiếp thu đƣợc Long Khí Cát Huyệt. Bởi vì tại mộ tập thể có thể tiếp thu Long Khí yếu hay mạnh trực tiếp quan hệ con cháu bần tiện hay phú quý. Cuối cùng đứng tại chỗ Huyệt Vị xem Minh Đƣờng, đƣờng thủy, Sa Hƣớng ….Xem có hợp Cục hay không, đó là bƣớc quan trọng thứ nhất của một Mộ Địa Cát Huyệt tại nghĩa trang tập trung. Ngoài ra còn cần tránh những nhân tố bất lợi sau: Cần ấm áp (tức Tàng Phong Tụ Khí), đó là khi chọn mộ cần ở chỗ tránh gió thổi, cần cố gắng chọn chỗ không có gió hoặc gió nhẹ. Cố gắng tránh trƣớc mặt mộ có cống nƣớc chảy thẳng đến, rồi đi đó là Khiên Ngƣu Thủy, chọn nó ắt phá tài tổn đinh. Do mộ ở nghĩa trang là sắp xếp theo hàng bậc, từ cao xuống thấp, bởi vậy các mộ chôn về sau có nguy cơ bị giáp vào chỗ sƣờn đồi hoặc tƣờng, dễ bị hiện tƣợng Lâm Đầu Thủy hoặc Xạ Thủy là tai họa, dễ vì thế mà đời sau bị tổn đinh, phá tài hoặc nhiễm bệnh chứng kỳ quái. Quá gần cây to cũng không tốt, ngày nay có một số gia đình đem cây cối lớn nhƣ đào, mai tròng ngay cạnh mộ thậm chí trên nóc mộ, điều này rất nguy hiểm, rễ cây có thể bó chặt hoặc xuyên qua quan tài, dẫn đến hậu nhân bất an tâm mà gia cảnh lộn xộn. Cần tránh các tuyến hoàng tuyền độ số, bởi thu phải Hoàng Thuyền Thủy là bại sản tổn nhân, quyết không thể dùng.


Tuyệt đối không dùng độ số Không Vong. Bởi các độ tuyến không vong dễ khiến đời sau thoái bại vì là tuyến vô Khí. Tóm lại chọn lựa Huyệt Mộ tốt, cần dựa vào Lai Long cùng trƣớc sau phải trái Sa Thủy, cần cố gắng tận dụng các vị trí lợi, kết hợp tiên mệnh, niên vận để lập chuẩn hƣớng tốt, nhƣ thế mới có hiệu ứng di truyền tốt cho con cháu đời sau. (Theo A Tƣ Tiểu Khang .)

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 41. PHONG THỦY LUẬN. Phần 8.

MỘT SỐ NHỮNG ĐIỀU LƢU Ý KHÁC. 7/ MỘT SỐ KINH NGHIỆM THỰC TẾ KHI XỬ DỤNG CON LẮC . Khi xử dụng con lắc trong Phong thủy, phải tuyệt đối tuân thủ những quy định sau : 1. Nâng Khí gọi Mầu : Buổi sáng sớm, hƣớng về phía mặt trời mọc , thực hiện các bƣớc: a/ Hít vào : Trong quá trình hít vào đƣa thông tin : " năng lƣợng màu đỏ vào khu vực 1, tôi có ý chí mạnh mẽ ". Miệng nói thầm, óc tƣởng tƣợng màu đỏ tràn ngập vùng hạ bộ. b/ Thở ra : Phải thở ra trong tình trạng vô thức . Làm tƣơng tự từ màu đỏ đến các màu : vàng, cam, lục, tím, xanh , chàm . Mội vòng nhƣ vậy làm ít nhất 3 lần. c/ Nội âm thanh : Phát âm trong cổ họng một hơi : I..P - A - Ê -AI -U - Ô - A Âm. Làm nhƣ vậy ít nhất 3 lần.

2/ Định hƣớng thần : Tập trung tƣ tƣởng cao độ vào vấn đề định hỏi lắc. 3/ Xả lắc : Quay lắc trong lòng bàn tay ngƣớc chiều kim đồng hồ 7 lần nếu là nam, 9 lần nếu là nữ. Chớ nên quên việc xả lắc sau mỗi lần sử dụng. 4/ Tiến hành hỏi lắc trong việc chuẩn bị : a/ Lắc đã hết nhiễu xạ chƣa ? " nếu hết xin quay thuận ". b/ Tôi đã đủ thần Khí để sử dụng lắc chƣa ? Nếu lắc quay nghịch thì phải làm lại động tác nâng Khí gọi màu lại. 5/ Quy ƣớc thầm : Quy ƣớc rõ ràng với lắc: Quay thuận có ý nghĩa gì ? Quay nghịch có ý nghĩa gì ? 6/ Khi đặt câu hỏi cho lắc , cần phải có ý nghĩa rõ ràng . Nâng Khí, Gọi Màu, Quy ƣớc thầm, đặt câu hỏi rõ ràng là 4 phần chính khi sử dụng lắc. Trong khi lắc quay , óc phải để hoàn toàn vô thức , không có định kiến sẵn trong đầu . Muốn sử dụng lắc đƣợc hiệu quả , phải đảm bảo 3 điều sau : + Tâm hoàn toàn trong sáng.


+ Nâng Khí gọi Màu tốt. + Đầu óc hoàn toàn vô thức. Những điểm cần lƣu ý : + Phải coi lắc nhƣ một ngƣời thân thiết của mình . Đặt cho lắc cái tên và hỏi xem lắc có đồng ý hay không . Tuyệt đối không cho ngƣời khác mƣợn lắc hay sờ vào lắc. + Khi làm việc với lắc, tinh thần phải sảng khoái , thoải mái, sức khỏe tốt, cách xa bữa ăn. + Không làm việc với lắc khi trời mƣa to , gió lớn, sấm sét , dƣới đƣờng dây cao thế, gần máy tính, ti vi , điện thoại đang hoạt động. + Chú tâm vào công việc , tác phong thoải mái, tốt nhất là đi chân trần không dày dép . Không bắt chéo 2 tay, không thắt lƣng chặt quá, không đeo đồng hồ hay dây kim loại khi sử dụng lắc. + Nên mặc quần áo vải, ngồi quay lƣng về hƣớng Đông . Khi làm việc không thay đổi chỗ ngồi . Cách xa ngƣời xung quanh tối thiểu 2 m. + Khi kết luận không nên nói nhƣ đinh đóng cột mà chỉ nên nói " Tôi cảm thấy...Tôi dự đoán ...". + Quy ƣớc chung có tính phổ biến : * Quay thuận : Dƣơng - Đƣợc - Vâng - Đúng - Tốt . * Quay nghịch : Âm Không Sai Xấu . * Quay hình bầu dục thuận là chuẩn bị trả lời : Vâng nhƣng chƣa chắc chắn lắm. * Quanh hình bầu dục thuận trái : Không , nhƣng chƣa chắc chắn lắm. * Dao động tới - Lui : Từ phải sang trái : Lƣỡng lự , không chắc chắn. Từ trái qua phải : Hãy chờ đợi . Chúc các bạn xử dụng con lắc thành công . Thân ái , dienbatn.

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 42. PHONG THỦY LUẬN. Phần 8. MỘT

SỐ

NHỮNG

ĐIỀU

LƢU

Ý

KHÁC.

9 / HÌNH DÁNG MỘT SỐ LOẠI MỘ . "Khí gồm có Âm khí và Dƣơng khí, Sinh khí và Tà khí. Đó là hai mặt đối lập cùng tồn tại khách quan của Khí. Ta không nhìn thấy Khí âm hay Khí dƣơng, không nhìn thấy Sinh khí hay Tà khí, nhƣng cảm nhận đƣợc nó. Vào một nhà mà thấy nóng quá thì đó là nhiều Dƣơng khí quá, hoặc thấy khó thở thì có nghĩa là nhiều Tà khí quá. Con ngƣời ta cần một môi trƣờng sống cân bằng Âm Dƣơng khí, nhiều Sinh khí ít Tà khí. Quan sát một ngôi mộ nhƣ ở Hình 2 ta thấy, khi một dòng Khí tác động vào nấm mồ, nó lập tức đƣợc phân ra: Tà khí (TK) nặng trọc lao xuống dƣới (trực vô tình), còn Sinh khí (SK) thanh nhẹ thì lƣợn theo dƣờng cong hình khối của nấm mồ để thẩm thấu xƣống dƣới mộ (khúc hữu tình). Nhƣ vậy ngôi mộ này luôn đƣợc Sinh khí nuôi, lại cân bằng Âm Dƣơng khí, dƣới mộ luôn đƣợc mát, làm cho hài cốt tƣơi lâu. Ngƣợc lại, ở ngôi mộ Hình 3 ta thấy: ngôi mộ này đƣợc xây tƣờng xung quanh và lát kín trên mặt đã làm cho Sinh khí không thẩm thấu đƣợc xuống mộ đƣợc, mà bay đi mất. Thành ra ngôi mộ này luôn bị mất Sinh khí, lại bị nắng mặt trời nung nóng xung quanh làm cho Dƣơng khí luôn quá lớn,


mất cả cân bằng Âm Dƣơng khí. Ngôi mộ này chắc chắn hài cốt sẽ mau hoai. Từ đây cho thấy rằng nấm mồ có cỏ xanh phía trên là rất cần thiết. Đó là phƣơng tiện để nhận Sinh khí và thải bớt Tà khí và để cân bằng Âm Dƣơng khí. Nhƣ vậỵ trên mộ cần phải có cỏ xanh là một tiên quyết !

Quan sát hình 4 ta thấy: Khi một dòng Khí tác động vào thành mộ tròn thì phần Tà khí (TK) sẽ tách ra lao xuống dƣới. Còn Sinh khí (SK) thì vừa chạy viền quanh đƣờng cong thành mộ, vừa đổ vào mặt trên của mộ để thẩm thấu vào mộ theo mọi hƣớng. Nhƣ vậy mộ tròn có ƣu điểm là nhận đƣợc nhiều Sinh khí hơn là mộ xây hình chữ nhật.

Quan sát một ngôi mộ xây hình chữ nhật nhƣ hình 5 ta thấy: Ngôi mộ này không có đƣờng Sinh khí bao quanh nhƣ ở mộ xây tròn vì mặt tƣờng là mặt phẳng. Mặt khác, bức tƣờng cao để đặt bia đã làm thoát mất Sinh khí SK2, không rơi xuống mặt mộ, mà vƣợt qua mộ đi mất. Mộ này chỉ có thể thƣờng xuyên nhận Sinh khí SK1 từ 3 hƣớng mà thôi.

Nhƣ vậy, mộ có thể xây hình tròn hay hình chữ nhật đều đƣợc, nhƣng xây tròn thì vẫn hơn. Có một nguyên tắc cần nhớ là trên mộ phải có cỏ xanh. Đó là cửa giao lƣu thông thoáng Âm Dƣơng giúp cho mộ luôn nhận đƣợc Sinh khí và cân bằng Âm Dƣơng khí.


Ở một vài tỉnh miền Trung nƣớc ta, nhân dân xây mộ không làm tƣờng cao gắn bia, mà đặt bia ngay trên thành mộ (Hình 6). Ƣu điểm của những mộ này là không cản đƣờng Sinh khí vào mộ. Mộ có thể nhận Sinh khí từ mọi phía. Mộ này vừa đơn giản, đủ lịch sự, lại vừa phù hợp với quy luật vận hành Khí của vũ trụ. Ở những mộ này bia đƣợc gắn trên thành mộ theo nguyên tắc: ngƣời đứng lễ phía chân ngƣời chết phải nhìn thấy bia. Nghĩa là: nếu gắn trên thành mộ thì bia gắn ở phía chân ngƣời chết (ngoài thành mộ). Còn gắn trên cao thì gắn phía đầu ngƣời chết (trong thành mộ).

Theo GS TS Nguyễn Tiến Đích ." MỘT SỐ HÌNH MỘ DO DIENBATN THỰC HIỆN . 1/ Mộ tại Hà Tĩnh .



2/ Mộ tại Hoài Đức .

3/ Mộ tại Lý Nhân - Hà Nam Ninh .


4/ Mộ tại Sóc Sơn.


5/ Mộ tại Hà Nam .


6/ Mộ tại Thanh Hóa .



7/ Mộ tại Đông Anh.


8/ Mộ tại Quỳnh Bảo - Quỳnh Phụ - Thái Bình.


9/ Mộ tại công viên Vĩnh hằng .




10/ Mộ tại An Bài - Hoa Lƣ - Đông Hƣng - Thái Bình.

11/ Mộ tại Phùng Xá - Thạch Thất - Hà Nội.



12/ Mộ tại An Ninh - Tiền Hải - Thái Bình.







Chúc các bạn thành công trên con đƣờng nghiên cứu của mình. Thân ái . dienbatn


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.