Tử Vi Dưới Cái Nhìn Của Nghiệp Quả NHẬT LÝ
- Danh Từ Định Mệnh sẽ không cần thiết có trong Bách-khoa đại tự diển nếu nhƣ mỗi ngƣời trong chúng ta dều mang những đặt tính nhƣ nhau từ trong ra ngoài, một dời sống nhƣ nhau trong không gian cũng nhƣ thời gian. Sự khác biệt giữa hai ngƣời nhƣ giàu-nghèo, thiện-ác, sang-hèn, thành công-thất bại, chính-tà, tàn tật-lành lặn, hạnh phúc-bất hạnh, thông minh-dần dộn, cao-thấp...là những yếu tố tất yếu để danh từ dịnh mệnh đƣợc định nghĩa. Trong ý nghĩ đó, Tử vi đã đƣợc sử dụng để giải đoán định mệnh. Một Định mệnh mà ngƣời ta tin rằng đã đƣợc an bài cho mỗi cá nhân riêng biệt. Có thật sự rằng Tử vi đƣợc soạn thảo để giải đoán cái Định mênh an bài dó hay không? Nếu có Thựợng đế hay Đấng tạo hoá thì dựa vào dâu để xác định, áp dặt khi trẻ sơ sinh kia đã phải mang tật nguyền vào thân mà cho dến khi lớn khôn, hắn vẫn không hiểu tại sao hắn ta mang tàn tật vào thân ? và hắn ta cũng chẳng bao giờ đƣợc nghe qua bản phúc trình luận tội, bản kết án tật nguyền cho hắn. Nhƣ thế có gì hay, có gì tốt cho Đấng Thuợng đế kia khi mà sự bất công đầy rẫy trong nhân loại, khi mà cá nhân nhận lãnh mà không hề biết, trong suốt cuộcđời hiện tại, hắn ta chẳng biết vì sao hắn lại nhận lãnh cái xấu số đó. Chúng ta chẳng thể giải thích đuợc hiện tƣợng bất công trên nếu không dựa vào một giáo lý nào đó. Khoa học nhìn qua DNA và xác xuất để giải thích hiện tựợng bẩm sinh. Nhƣng tại sao hắn lại rơi vào cái xác xuất không may đó? Chẳng phải ngẫu nhiên mà hắn ta rơi vào cái không may đó, cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà ta rơi vào cái hiện tựợng không vừa ý nào dó. Mọi hiện tƣợng xảy ra đều có nguyên nhân của nó ví nhƣ hạt giống là nhân của cây cỏ, cây cỏ lại là nhân cho ra hạt giống, quá trình này chẳng phải tự nhiên sinh sôi nẩy nỡ mà còn tùy vào diều kiện tất yếu nhƣ mua, gío, sấm chớp, phân bón, hay sự chăm sóc. Điều kiện tất yếu này, theo Phật Giáo thi gọi là Duyên. Con ngƣời cũng thế, theo Phật giáo thì con ngƣời kiếp hiện tại là Quả của quá khứ và là nhân cuả kiếp tƣơng lai. Con ngƣời, theo Phật giáo, khi chết thì Tứ dại, ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tƣởng, Hành, Thức) và lục căn (Mắt, Mui, Tai, Lƣỡi, Thân, Ý) đều bỏ lại chỉ còn A-Lại-Da-Thức (thần thức) sẽ đƣợc tái sinh. A-Lại-Da-Thức mang toàn bộ bản sao chép 6 thức kia hay Nghiệp (tốt và xấu) từ kiếp truớc sang kiếp sau. Tùy theo dòng nghiệp lực đó mà ta sẽ có sự tái sinh phù hợp với cái Nhân (cause) ta đã gieo trong quá khứ để có một cuộc sống hiện tại, tức là quả (effect). Tuy nhiên Phật giáo còn chia Nghiệp ra làm 4 loại : Hiện nghiệp, Hậu nghiệp, Vô hạn định nghiệp, Vô hiệu lực nghiệp vì vậy không nhất thiết một Nhân trong quá khứ phải là quả trong hiện tại. (Xin tìm đọc The buddha and His teachings : Đức Phật và Phật Pháp do Phạm Kim Khách chuyển dich). Có thật có sự Tái sinh hay không? Theo Phật giáo thì bởi vì Nghiệp mà con ngƣời còn phải tái sinh, Sống rồi Chết , Chết rồi Sống chỉ là hai giai đoạn của tiến trình rủ bỏ Nghiệp, một tiến trình
bất tận Tu chính và Kiến Tâm mà mỗi một Nghiệp gieo vào lại là một điều kiện ắt sẽ có và đủ cho một chu trình Sống Chết trong tiến trình bất tận dó. Và cũng chính dòng Nghiệp lực đó mà Tứ đại, ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tƣởng, Hành, Thức) và lục căn (Mắt, Mui, Tai, Lƣỡi, Thân, Ý) lại đƣợc tái tạo, tùy dòng nghiệp lực mà hình hài tái sinh sẽ mang trạng tƣớng nhƣ thế nào. Có những bằng chứng hiển nhiên của tái sinh qua công trình nghiên cứu của Tây phƣơng nhƣ truờng hợp Edgar Cayce, bản phúc trình của Bác si Ian Stevenson, the after death experience của Ian Wilson , Liểu sinh thoát tử.... thế nhƣng khoa học phƣơng Tây ngày nay vẫn chƣa có bằng chứng rõ ràng sự hiện diện của A-Lại-Da-Thức ( hay thần thức). Nhƣ vậy qua giáo lý nhà Phật, Con ngƣời tái sinh là do nghiệp mà nghiệp bị chi phối bởi luật Nhân-duyên-quả, và cái đinh mênh kia thật sự chỉ là dòng NghiệpLực dẫn dắt ta ví nhƣ chiếc con thuyền không ngƣời lái trên ghềnh thác, trên dòng sông hay trên mặt hồ yên tỉnh. Tử vi Dƣới mắt Nghiệp Quả không nhìn Số Mệnh con ngƣời nhƣ là một sƣ việc đã đƣợc an bài bởi Thƣợng đế, mà nhìn qua gíao lý Phật giáo, qua thuyết Nhân-Duyên-Quả vì vậy Tử vi Dƣới mắt NghiệpQuả cho rằng : Không một Định Mệnh nào đƣợc gọi là An Bài mà con ngƣời đƣợc dẫn dắt bởi dòng NghiệpLực, Nghiệp chỉ phát khi hội đủ những yếu tố Nhân duyên, nhƣ vậy Con ngƣời có thể thay đổi đƣơc cái định mệnh đó bằng cách gieo một Duyên Khởi để khởi động một Nghiệp tốt trong qúa khứ thay vì phải hứng chịu một Nghiệp xấu trong qúa khứ, hay là dịu lại Nghiệp nặng đã gieo trong chu trinh Sống Chết đã qua. Tuy nhiên chúng ta chẳng thể thay đổi hẳn dòng NghiệpLực kia mà chúng ta chỉ có thể tìm đƣợc một đời sống khả dĩ tốt nhất cho cho một Dòng Nghiệp lực nhất định. Làm thế nào để phát khởi một Nhân Duyên tốt trong quá khứ, làm thế nào để biết dòng Nghiệp Lực kia dẫn ta về đâu ? Làm thế nào để tìm đƣợc một cuộc sống hiện tại bình an nhất trong một Định Nghiệp hẳn hiu? Để giải đáp thỏa đáng câu hỏi này, Trần Doàn tự la Hi Di sinh vào đời nhà Tống ,Trung Hoa. Trần Tiên Sinh sinh trƣởng và trƣởng thành trong giai đoạn mà Phật giáo là quốc giáo , tiên sinh ắt hẳn đã thấm nhuần tƣ tƣởng cùng giáo ly nhà Phật và cac nghành khoa học ứng dụng nhƣ Dịch lý học, Âm Dƣơng, Ngũ hành, Ngũ hành Nạp Âm là những căn bản của nền khoa học thuần túy ở Trung quốc nhƣ Số học, Toán số, Y khoa và các môn lý số nhƣ Hoa mai Dich số, Bốc Phệ, Tử Bình, điạ lý.. mà soan-thào Hàm TừVi Tử vi Dƣới mắt Nghiệp Quả không nhìn Tử vi là một bộ môn thuộc khoa học huyền bí, lý số hay bói toán mà nhìn Tử vi nhƣ là một hàm số Nghiệp lực.Dòng Nghiệp Lƣc trong tiến trình Kiến Tâm của Phật Giáo. Hàm số ở đây là một hàn số đa thức và là hàm số Hạt Tử. Theo Cụ Nguyễn Phát Lộc trong cuốn Tử vi Hàm Số thì “ Hàm số nhằm tìm hiểu một dự kiện linh động trong liên hệ Nhân Quả của các yếu tố biến thiên, nó nói lên đƣợc sự tƣơng quan ẩn khuất giữa các yêú tố. Xem Tử vi theo lối hàm Số là tìm tƣơng quan giữa các Cung, Sao, Bản mênh, Cục, Cách những chi tiết về Phúc Đức, Cha Mẹ, Anh Em, Con Cái, Bản Tính, Nghề Nghiệp, Tài Sản, Bạn Bè, Xã Hội, Bệnh Tật của con ngƣời, và đời ngƣời. Chỉ có phƣơng pháp hàm số mới giúp vận dụng một lúc hàng chục vì sao để xem một cung, phối hợp một lúc năm sáu cung để tìm hiểu vài yếu tố, kết hơp một loạt 5,6 yếu tố linh hoạt để xác định một bí-ẩn của congƣời và đời ngƣời. Chỉ có danh từ hàm số mới gói ghém đƣợc sự sống động của khoa Tƣ vi, mới diễn dạt nỗi quan niệm tổng hợp của chúng ta. Chỉ có Hàm Số mới nói lên đƣợc ý niệm Dịch lý độc đáo của nhân loại, của nhân-sinh, của nhân tính. Chỉ có hàm số mới là phƣơng pháp
Động học khai triển đƣợc quy luật biến hóa vô cùng phong phú của cá tính và sinh họat của con ngƣời.” Không một môn lý số nào từ Đông sang Tây có hệ thống sao và an sao nhƣ Tử vi. Ngoài ra sƣ sắp xếp dặt các sao trong Tử vi theo những quy luật và đặt biệt hơn các sao còn đƣơc sắp xếp theo chiều Dƣơng hay Âm , Thuận hay Nghịch, Đối xứng nhau qua một trục Dần Thân, Tí Ngo, Sửu Mùi, Thìn Tuất, Mão Dậu, Tị Hợi hay Spin Thuận hoặc Nghịch, và sự tƣơng tác tuân theo những quy luật nhƣ Tam hơp, Nhị hơp, Lục hại, Ám hơp. Đó là nhƣng cơ cấu cơ bẳn trong phuơng trình Hạt Tử của khoa Vật lý Hạt Tử, một khoa vừa mới tìm ra cách đây không lâu. Tử vi Dƣới mắt Nghiệp Quả nhìn Tử vi qua Lý Nhân Duyên Quả của Phật giáo, qua cấu trúc Hàm Số Hạt Tử cuả khoa Vật ly Hạt tử vì vậy danh từ “Sao” trong tử vi chỉ là những Hạt Tử di chuyển theo quy luật Tử vi để viết lại dòng nghiệp lực trong tiến trình KiếnTâm nhà Phật, dĩ nhiên Dòng Nghiệp Lực này bị chi phối bỏi Lý Nhân DuyênQuả. Và Tử vi đƣợc định nghĩa là một Hàm số Nghiêp Lực mà ta có thể giải dáp một cách thỏa dáng khi có một số dự kiên đủ cho một ẩn số cần tìm kiếm. Chúng ta cũng chẳng thể giải dƣợc hàm số Hạt tử nếu chỉ có một hoặc hai ẩn số đƣợc cho biết trƣớc. Và Lá số Tử vi đƣợc định nghiã nhƣ sau Lá số Tử vi là một bản đồ số mệnh trên đó ghi lại dòng nghiệp lực của ta trong kiếp hiện tại, các sao hay hạt tủ ở trạng thái “Tỉnh” hay “Chết”, và chỉ có ý nghĩa khi các sao thật sự đã “ăn” lên đƣơng số hay ta nói các sao đã “Động”, đây là ý nghiã Dịch Lý trong Tử vi, các sao đã tác động lên đƣợc cơ thể của đƣơng số dƣới hìng thức Hình tƣớng học, tƣớng mênh học, Chỉ tay học, Thanh tƣớng học, ẩn tƣớng học, Sắc khí học, Tâm tƣơng học, Địa lý, và y lý hay bệnh lý học. Nói nhƣ vậy không có nghiã la học Tử vi thì cần thấu triệt các môn học trên nhƣng sự thấu triệt nhiều môn học trên giúp ngƣời học Tử vi giải đoán lá số càng chính xác. Tóm lại, không một định mệnh nào đƣợc gọi là an bài mà con ngƣời đƣợc dẫn dắt bởi dòng nghiệp lực của chính mình. Trên tinh thần này, con ngƣời có thể thay đổi đƣợc vận mệnh của mình, có thể chuyển xấu thành tốt, có thể chuyển bại thành thắng, có thể chuyển khổ đau thành hạnh phúc, có thể chuyển phàm thành thánh, tất nhiên mọi việc thay đổi đó sẽ xảy đến với mình cho đến khi nào mình chịu tu tập, chịu lánh ác chịu làm lành, chịu tu nhơn tích đức, chịu bố thí cúng dƣờng.... cầu mong mọi ngƣời đầu năm mới thấy rõ đƣợc điều đó để giữ vững niềm tin Tam Bảo trên bƣớc đƣờng quay về với cội nguồn tâm linh. Source: langviet.net
Một bậc Tôn sƣ của đạo Phật trong bài thuyết pháp đã cho rằng: “Thể xác thân: Biểu hiện bằng hành động. Thể cảm thọ hay thể vía : Biểu hiện bằng tình cảm. Thể trí: Biểu hiện bằng tƣ tƣởng. Tam thể này thƣờng xuyên gây chƣớng nghiệp, vì thế mà con ngƣời cứ mãi trôi lăn trong lục đạo luân hồi . Đối với một linh hồn trải qua vô số kiếp tiến hóa nơi cõi trần gian này đã tạo ra biết bao nghiệp chƣớng . Đến khi phát tâm ăn chay, tập làm điều thiện, cải sửa tâm tƣ, tu hành từ bực hạ thừa tiến dần qua thƣợng thừa, thọ pháp thiền định. Nhƣng vì nghiệp chƣớng đã gieo tạo từ vô số kiếp đã kết thành trƣợc khối nặng nề, luôn ám ảnh, thế nên không thể tu hành trong đôi ba năm mà có thể hoàn toàn hóa giải hết đƣợc”.
Dù con ngƣời ta gặp điều không may, dù hóa giải đƣợc hay không, nhƣng họ tin vào Phật, vào sự siêu nhiên đó cũng là một cách giải thoát. Có một điều, nếu có nhiều ngƣời tin theo Phật, làm theo lời Phật dạy, họ sẽ không dám làm điều ác. Điều này, xét về mặt xã hội là tốt bởi con ngƣời sẽ hành xử với nhau có tình ngƣời hơn, chứ không mang tính cơ học nhƣ con ngƣời trần tục của xã hội hiện đại”
Lộc Tồn Hay Thiên Lộc là Ruộng Phước cho tất cả mọi người. (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 1) Tƣởng cũng nên nhắc lại, Tử Vi Dƣới Mắt Nghiêp Quả (TVDMNQ) không lý luân Âm Dƣơng Ngũ hành ở trạng thái Tỉnh của lá số mả luận xét tính Động của Âm Dƣơng Ngũ hành qua Tâm Tƣơng, Hình Tƣơng, Sắc khí, Âm thanh, Bênh Lý, Chì tay,.. Thí dụ: Tƣ vi thủ mệnh, Thổ mệnh, Mộc cục có đƣợc Trán là Phục tê quán đính, sắc khí tƣơi nhuân, Phúc có đủ ở lƣng, tinh quang sáng mà không phạm hung, nô, sát khí, bụng có 3 lằn (ngấn, văn), Âm thanh trầm mà có âm vang, chỉ tay có trí đao và tâm đao cách nhau rông rãi, nạng ba lên các gò Mộc, Thổ, Thái dƣơng, Quyền xƣơng, pháp lệnh dai nỡ rộng và rỏ nét, ngón cái và ngón trỏ mâp chắc (tránh dẹp yếu đuối có thể gây sát quân) Theo Tử vi Nghiêm Lý cũa cụ Thiên Lƣơng : "Lôc tồn là Thiên Lộc đƣợc ấn đinh theo hàng Thiên-Can của tuổi, là Lộc Định-Mênh đã đƣợc đặt sẵn ở thiên bàn phát cho từng hạng ngƣời, đã đƣợc sắp xếp theo tuổi nhất định ỡ vị trí nhất định, nếu kẻ bàng quang lạm dụng sẽ có hâu quả bù trừ. Đây là căn quả luân hồi không thể Tham Sân Si mà đƣợc.". Thật vậy, đó là sự thừa hƣởng Quả Phƣớc Thiện mà đƣơng số đã tạo trong nhiều kiếp trƣớc. Tử vi gắn liền với Phậc học qua lý Nhân Duyên Quả và là hàm Hạt (Từ=Hạt,Vi=sóng) cơ bản của dòng nghiêp lực. Tỉm hiểu Tử vi không thể bỏ qua việc tìm hiểu Phật pháp. Phật Pháp cao thâm, trí huệ trong sạch thì sự hƣớng dẫn, dẫn dắt đƣơng số sẽ vô cùng chính xác, phát huy khả năng, tái năng phù hợp vói thiện nghiệp trong nhiều kiếp trƣơc, triệt tiêu bất thiện nghiệp dọn đƣơng cho đƣơng số một khi đƣợc nhân lảnh vai trò xã hội giao phó. Theo Tử Vi dƣới mắt Nghiệp Qủa (Nhân Duyên Quả) thì Lộc tồn là Ruộng phƣớc và ngƣời chăm sóc thủa ruông ấy là Bác Sĩ., Lộc tồn đâu thì Bác sĩ ở đó, "ruông phƣớc luôn đi theo ngƣời cho". 1- Bác sĩ đƣơc đinh nghỉa là ngƣời cứu nhân độ thế, dƣới một góc độ nào đó, Bác sỉ có thể đƣơc xem là Bố thí độ trong Phật giáo. Con ngƣời chính là con bênh, trƣớc tiên, con bệnh của dòng nghiêp lực. Lời Thề Hải Thƣợng Lãn Ông :
"Nhân danh sự đau khổ của nhân loại, với sự khiêm nhƣờng, lòng trắc ẩn và sự tận tuỵ với sức khoẻ của bệnh nhân, tuỳ vào khả năng và lí trí, tôi xin hứa sẽ giữ những nguyên tắc sau đây: Tôi sẽ luôn thành thật với bệnh nhân. Khi báo tin buồn cho bệnh nhân, tôi sẽ hết sức khéo léo với một tinh thần hiểu biết và thông cảm. Tôi hứa sẽ lựa chọn cách chuẩn đoán và điều trị thích hợp cho mỗi bệnh nhân, giải thích rõ nhất cái lợi và cái hại mà tôi biết. Tôi sẽ để cho bệnh nhân lựa chọn cách chăm sóc của họ. Khi bệnh nhân không quyết định đƣợc thì thân nhân của bệnh nhân sẽ lựa chọn thay cho bệnh nhân. Tôi sẽ tích cực hết mình điều trị cho mọi bệnh nhân trong mọi hoàn cảnh. Tôi sẽ thông cảm cho những bệnh nhân nghiện rƣợu, nghiện ma tuý. Biết rằng mình không hoàn toàn và bản thân y khoa cũng không hoàn thiện, tôi sẽ cố gắng trị khỏi khi có thể, nhƣng luôn luôn xoa dịu bệnh nhân. Tôi sẽ chỉ làm xét nghiệm khi tin rằng kết quả xét nghiệm có thể cải thiện việc điều trị cho bệnh nhân. Tôi sẽ tự nguyện đƣa bệnh nhân đến một bác sĩ khác nếu tôi tin rằng ở đó bệnh nhân đƣợc điều trị tốt hơn tôi. Tôi sẵn sàng cung cấp các hồ sơ bệnh án cho bệnh nhân và giai đoạn họ khi đƣợc yêu cầu. Tôi chỉ thực hiện trên bệnh nhân và gia đình họ những gì tôi muốn thực hiện trên chính tôi và gia đình tôi . Tôi sẽ không dùng bệnh nhân làm thí nghiệm trừ khi họ bằng lòng. Tôi sẽ là sinh viên trong suốt thời gian hành nghề, luôn cố gắng học hỏi ở sách vở và trên bệnh nhân. Tôi sẽ cố gắng làm tròn trách nhiệm của thầy thuốc để săn sóc bệnh nhân tốt hơn và học hỏi ở họ để phục vụ bệnh nhân khác. Tôi sẽ phục vụ cho tất cả bệnh nhân không phân biệt giới tính, nòi giống, màu da, và tín ngƣỡng, không phân biệt lối sống và giàu nghèo. Tôi sẽ hy sinh một số thời gian để chăm sóc miễn phí cho ngƣời nghèo, kẻ vô gia cƣ, ngƣời bất hạnh và ngƣời cô đơn. Tôi khuyến khích bệnh nhân tìm ý kiến khác trƣớc khi chấp nhận ý kiến của tôi.
Tôi sẽ không bỏ mặc một bệnh nhân nào dù họ mắc bệnh lây nhiễm kinh tởm nhất. Tôi luôn luôn đối xử với các đồng nghiệp với sự kính trọng và ngƣỡng mộ, nhƣng không ngần ngại tố cáo công khai những bác sĩ hay bệnh viện làm những việc xấu, tham lam hay lừa đảo. Tôi sẽ nhiệt tình bảo vệ những đồng nghiệp tốt khi họ bị vu khống là làm việc xấu, tham lam hay lừa đảo". 2- Quốc Ấn luôn luôn ờ vị trí Tam hợp cùng Bác Sĩ có ý nghĩa: Cái "học" (mọi ngành nghê / Bác sĩ) có chứng nhận, bằng cấp (Quốc Ấn) cũng thay đổi đƣợc con tạo. Sự chăm chỉ chăm sóc cái học đạt thành quã là bẳng cấp, chứng nhân là nhân tố thay đổi Lộc tồn dễ nhận biết. Bác sĩ theo nghĩa thông thƣờng, hẳn nhiên có bằng cấp cao nhất, thế nhung, Quốc Ấn vẫn theo sau (tam hợp). Đây chính là Ý thức trong Duy thức học. Cái học cũa Ý thức là cái học bất tận từ kiêp này qua kiếp khác : " Ý thức đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình giáo dục, giúp cho con ngƣời vƣơn đến một sự toàn tri (giác ngộ). Ý thức là ngƣời cầm đuốc soi sáng cho toàn thể ngôi nhà tâm thức và thế giới hiện tƣợng khách quan. Và chỉ có ánh sáng của ý thức mới có thể đem lại cho cuộc đời của chính mỗi con ngƣời một đời sống hiểu biết thật sự. Tuy nhiên, nên nhớ rằng ý thức là vô ngã và không vĩnh hằng, chỉ trợt té một cái và ngất xỉu là ý thức băng tiêu. Những gì còn lại ở đây là hạt giống, tập khí và nghiệp nằm trong lòng Tàng thức, ngay cả khi thân thể này đã yên giấc nghìn thu. Do đó, con ngƣời sẽ mãi mãi chìm đắm trong thế giới luân hồi - tái sinh ; và con ngƣời sẽ thật sự giải thoát - giác ngộ khi và chỉ khi nào mọi hạt giống ô nhiễm, mọi tập khí trần lao, và mọi nghiệp thức cấu uế, bất thiện không còn hiện hữu trong lòng Tàng thức. (http://www.quangduc.com/tamly/34tamluhocpg.html) Và Ý thức "Cái học Bác Sĩ" đạt tới Chứng Thực của Trí Huê (Quốc ấn) chính là lúc Tử vi chuyển qua Phập học, đó là con đƣờng Giải thoát, nhƣ đã nói "Không một ai có thể nhảy từ lá số này sang lá số khác ngoại trừ ngƣời đó đã rủ bỏ Nghiêp." và Tử vi bây giờ, chỉ là loài hoa bằng lăng mang sắc tím, tên gọi Tử vi, đƣợc dùng tô điễm các đại sảnh đƣơng bên Trung Quốc nhiều thế kỷ. 3- Sinh Bênh Lão Tử. Con ngƣời sinh ra không tránh đƣợc già hóa rồi chết, chĩ có Bệnh thì còn có thầy có thuốc, Bác sĩ là ngƣời đại diên chính thức điều tri Bệnh. Vòng Thiên Can lại khởi đầu bằng Bác Sĩ. Ý và nghĩa đã rõ rệt. Vòng Lộc tôn không an trực tiếp nhƣ vòng Tràng Sinh hay Thái Tuế mà khởi đầu bằng hành động Gieo Chủng Tử (Tân Huân Tử), nói một cách khác hành động Tâm ÝThức đó có khả năng thay đổi những biến số theo sau nó. Cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều viết Sƣ rằng phúc họa đạo trời Cõi nguồn cũng ở lòng ngƣời mà ra
Có trời mà cũng có ta Vòng Thiên can (Hoạ phúc đạo Trới) , Chử Hiếu của nàng Kiều ( Ta / Bác Sĩ ). Có ngƣời nói:" tai sao tôi bố thi rất nhiều mà không thấy gì cả"," Bác ơi, 12 ngƣời con bác vƣợt biên không môt chút khó khắn, đó là cái quã mà bác gặt đƣợc ." . Có ngƣời hỏi:" tôi vẫn thƣờng tụng kinh, cúng dƣờng, bố thí mà sao vẫn gặp tai nạn, sa thải....", Nhìn vào anh ấy hắc khí, ám khí đang phân tán, nhuận khí đang trở về trên trên khuôn mặt anh ta, "Cuộc đối thoại này không nói lên cái trân quý mà anh đang có? Sự sống lành lặng?" Có lẻ cái Tham Sân Si đã khuất lấp cái bao dung của đạo trới, cái hảnh động mang tên "Bác Sĩ" chỉ trả lại cho họ cái phúc khí âm thầm chở che khi ác nghiệp bùng vỡ, mà không ầm ỉ bộc phát vật chất nhƣ họ mong đợi, một núi vàng ở đàng sân sau. Chúng ta nên dừng lại, một chút suy nghỉ về cụm từ Bác sĩ và thử hỏi: tai sao Bác-Sĩ mà không là Đại-Phu, hay Y-sỹ, nhƣ ngƣời Trung Hoa vẫn dùng? đây chính là chìa khóa tìm về cội nguồn Tử Vi, là chia khóa tìm về cội nguồn Âm Dƣơng Ngũ hành mà ngƣời sáng tạo dể lại. Cũng nhƣ lần theo dấu chân Đức Phật đã một lần Đản Sinh trƣớc đó. Bác sỉ là một danh từ vƣợt thới gian khi các linh mục Francesco de Pina, Gaspar d'Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre De Rhodes chƣa bƣớt chân lên dất Lạc việt vào thế kỷ 17 sau Tây Lịch, thì Ý vả nghĩa Bác-Sỉ đƣợc dùng trong Tử vi trƣớc đó rất lâu. Đoạn sau đƣợc trích từ http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AB_H%C3%A1n-Vi%E1%BB%87 Có nhiều từ Hán-Việt đã mang ý nghĩa khác với nghĩa gốc trong tiếng Hán. Ở Trung Quốc, bác sĩ = PhD và y sĩ = medical doctor; ở Việt Nam, tiến sĩ = PhD và bác sĩ = medical doctor trong khi y sĩ = "nhân viên y tế đƣợc đào tạo ngắn hạn (3 năm), đƣợc quyền khám và điều trị bệnh" (hệ đào tạo này chỉ tồn tại trong điều kiện đất nƣớc còn chiến tranh hoặc khó khăn kinh tế, nay không còn nữa. Cụm từ Bác-Sỉ chỉ có nghĩa cứu nhân độ thế với ngƣời Lac Việt và chỉ ngƣời Lạc Việt. Tử vi qua ông kính Lac Việt hƣớng dẫn bời Phật pháp mới có thể lột hết sự thâm thuý của bộ môn này qua Lý Nhân Duyên Quả. Tìm hiễu Bác Sĩ, bƣớt khởi đầu của vòng Lộc tồn, vòng con tạo trong Tử vi là tìm hiểu Bố thí Độ, là tìm hiểu phát triên "Ý-thức" để đạt đến Trí Huệ Bát Nhã. Bố thi là gì? Bố thí trong ý niệm mộc mạc nhất là cho không, biếu không, cúng dƣờng, tặng không. Để thực hiện đƣợc sự Bố thí thì phải có ngƣời cho(Ta), ngƣời nhận (là ruộng phƣớc vi chính ở nơi họ mà ta gieo hạt giống phƣớc đức nên gọi là ruộng phƣớc) và vật cho (Vật bố thí). Có hai loại ruộng phƣớc:
1) Ruộng phƣớc nhỏ (Karunàpunyaksetra) : Vì lòng thƣơng hại (karunà) ngƣời nhận nên ta phát tâm bố thí. Những hạt giống thƣơng hại sẽ cho ra những cây lúa nhỏ, nên gọi là ruộng phƣớc nhỏ. 2) Ruộng phƣớc lớn (satkàrapunyaksetra) : Vì có tâm kính trọng (satkàra) ngƣời nhận nên ta phát tâm bố thí. Những hạt giống kính trọng sẽ cho ra những cây lúa lớn, nên gọi là ruộng phƣớc lớn. (Bố Thí Ba-La-Mật / Thích Trí Siêu ) Theo Phật giáo thì Vật bố thi đƣơc chia ra làm Tài thi, Pháp thí và Vô-úy thí : 1- Tài thi : của cải , tiền bạc và hiến tặng thân thể. Hiến tặng thân thể là một hành động cao quý nhất cùa Tài thí, một chiến sĩ hy sinh một phẩn thân thể cho Tỗ Quốc, hiến tặng một cơ quan trong cơ thể cho bênh nhân nan y. Tuy nhiên trai gái yêu nhau chết cho nhau không có nghĩa là hiên tặng thân thể !! 2-Pháp Thí : đem giáo lý hay Phật pháp giảng dạy cho ngƣời khác nhằm tu thân hƣớng thiên với mục dích tối hậu là giải thoát khòi vòng sinh từ. Thiếu mục đích tối hâu là Giải thoát thì Pháp thí mất ý nghĩa rất nhiều. 3-Vô Úy thí : trân an tinh thần, xoa dịu tinh thần cho những ai bi khủng khoàng, lo sợ trong mọi tình huông nhƣ sa thải, khủng khoàng tâm lý, mất thân nhân, sắp chết.. Lục tổ, kinh Kim cang chƣ gia : Tuy có ăn mặc mà tánh ngu mê, là kiếp trƣớc bố thí cúng dƣờng mà không thọ trì kinh điển. Còn thông minh trí huệ nhƣng lại nghèo hèn thiếu ăn thiếu mặc là kiếp trƣớc trì kinh nghe pháp mà không bố thí cúng dƣờng. "Bố thí là một kho tàng phƣớc đức luôn luôn đi theo ngƣời chủ (tức ngƣời cho) đời này sang đời khác; bố thí xây dựng hạnh phúc và tiêu trừ đau khổ; ngƣời biết bố thí thì ai cũng thƣơng mến; bố thí làm cho tâm (ngƣời cho) đƣợc an vui, khi gần chết tâm không sợ hãi; bố thí tiêu trừ lòng tham lam bỏn xẻn; ngƣời biết bố thí thì chƣ Thiên ủng hộ; bố thí là con đƣờng trong sạch mà tất cả thánh nhân đều đã đi qua; bố thí là một thiện nghiệp sẽ cho ra quả báo tốt; bố thí là hành động của những ngƣời hùng; bố thí sẽ tiêu trừ sự nghèo và đóng cửa dẫn đến ba đƣờng ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh); bố thí giữ gìn công đức; bố thí là điều kiện đầu tiên của con đƣờng dẫn đến Niết Bàn; bố thí là gốc rễ của tất cả thiện pháp; bố thí là nhà ở của những ngƣời cao quý, là thú vui của những bậc Thánh (Arya) và Vĩ nhân; bố thí là một cái gƣơng sáng đáng để cho những ngƣời thiếu phƣớc đức và trí huệ noi theo" (trích từ http://www.thuvienhoasen.org/trisieu-botathanh-00.htm) Để thay đổi dỏng định mệnh, một trong những hạnh đâu tiên, theo Tử vi Dƣới Mắt Nghiêp Quả là thực hiên hạnh bác sĩ, thực thi lời thề Hãi thƣợng Lãn Ông, là sinh viên trong suốt thời gian hành nghề, phục vụ cho tất cả moi ngƣời không phân biệt giới tính, nòi giống, màu da, và tín ngƣỡng, không phân biệt lối sống và giàu nghèo, hy sinh một số thời gian để chăm sóc cho ngƣời
nghèo, kẻ vô gia cƣ, ngƣời bất hạnh và ngƣời cô đơn. Bố thí gìn giữ công đức qua Thiên quan Thiên phúc, chuyển nghiệp Song Hao thành dòng Thiện nghiệp tiêu trừ chương ngại và sự ngheo khó, đốc thúc Tướng Quân quẵng Kinh Dương , thu hồi Đà La mỡ kho Lộc tồn. Mƣời hai cung, mƣời hai tƣơng quan, chì một Hạnh Bố thí đủ để thay đổi những gì tƣởng đã an bải. Mƣời hai cung, mƣời hai tƣơng quan, chì một Thiện Tân Huấn Tử đủ để thay đổi Dòng Nghiêp Lực.
Tử Vi và Duy Thức (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 2) Nhƣ trên, chúng ta thấy rằng vòng lộc tồn (Thiên Can) khi khởi đẩu bằng Bác Sí, nó mang khái niêm cũa dòng Ý thức. Bản thân Bác sĩ nó không hẳn mang khái niêm Ý thức, nhƣng khi hội nhập và khởi đầu vòng Thiên can, khi mang khái niệm mãi mãi là học hòi, mãi mãi là sinh viên trong nghành nghề, khi kết qủa tối hậu là Quốc Ân đƣợc chứng thực thì khái niêm dòng Ý thức mới thành hình, nghĩa là qua sự tu tâp và chúng đạt tối hâu của trí tuệ mới có thể nói vòng thiên can chính là dòng Ý thức. Theo Duy thức học (trích từ Tâm Lý Phật Giáo / Đại đức Thích Tâm Thiện http://www.quangduc.com/tamly/34tamluhocpg.html ) Các đặc tính và sự liên hệ của ý thức Ý thức có phạm vi hoạt động bao quát hơn cả so với Tàng thức và Mạt na thức. - Trong ba tánh: Ý thức có đầy đủ các tính chất: thiện (Kusala), bất thiện (Akusala) và vô ký (Advaya hay Avyàkrta). - Trong ba lƣợng: Ý thức có đầy đủ hiện lƣợng (Pramana), tỷ lƣợng (Anumana) và phi lƣợng (Apramana). - Trong ba cảnh: Ý thức có đầy đủ Tánh cảnh (realm of things in themselves), Đới chất cảnh (realm of representations) và Độc ảnh cảnh (realm of mere images) - Trong ba cõi và chín địa: Ý thức có mặt đầy đủ, tùy theo nhân duyên.
- Trong 51 tâm sở: Ý thức có mặt và liên hệ đầy đủ, bao gồm: 5 tâm sở biến hành, 5 tâm sở biệt cảnh, 11 thiện tâm sở, 6 tâm căn bản phiền não, 20 tâm tùy phiền não và 4 tâm bất định." (hết đoạn trích) Đâu là 4 tâm bất định, 20 tâm tùy phiền não, 6 tâm căn bản phiền não, 11 thiện tâm sở, 5 tâm sở biệt cảnh, 5 tâm sở biến hành,, ba còi chín địa, ba cảnh-lƣơng-ý ? Trở lại khoa vật lý Newton, một vật có khối lƣợng m, di chuyển với gia tốc a thì F=ma. Khối lƣơng m không nhất thiết là xe, tau, phi đan ... và nếu là chiếc xe thì cũng không nhất thiết xe đó hiệu gì, mảu gì, mây cửa, hình dạng.. chỉ cẩn có khối lƣơng và gia tốc thì có đƣơc lực F. Tử vì dƣới mắt Nghiêp quả là một ham hạt do vây nó không nhất thiết mang theo 4 tâm bất định, 20 tâm tùy phiền não, 6 tâm căn bản phiền não, 11 thiện tâm sở, 5 tâm sở biệt cảnh, 5 tâm sở biến hành,, ba còi chín địa, ba cảnh-lƣơng-ý . Điều chũ yếu là Tƣ vi là một hàm viết lại dòng nghiêp lực thì Tử vi phãi hội đủ thành phân tàng thức, mạt na thức, Ý thức, Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức và Thân thức theo Duy thức hoc. Mạt na thức : (Tâm lý học Phật giao / Thich Tâm Thiên) "Tánh của thức Mạt na là hữu phú vô ký, sinh khởi ở đâu thì chấp ngã ở đó, [cho đến khi đạt đến] quả vị A La Hán, Diệt tận định và đạo xuất thế thì nó không còn [hiện hữu] nữa". Nhƣ đã trình bày, Mạt na là Chuyển thức, nó một mặt chấp Tàng thức làm ngã ; mặt khác, nó lại là nền tảng cho sự nhiễm và tịnh của sáu chuyển thức trƣớc (mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân, và ý thức). Vì sao nói Mạt na làm nền tảng cho sự nhiễm và tịnh của 6 thức trƣớc ? Vì lẽ, sáu chuyển thức luôn luôn liên hệ chặt chẽ với sự hiện diện của Mạt na, và Mạt na luôn luôn tác động - chức năng lƣu chuyển, đối lƣu (interchange) giữa chủng tử và hiện hành - đến sáu chuyển thức. Do đó, nếu sự cuồng si của Mạt na càng lớn thì khả năng sáng suốt của sáu chuyển thức càng nhỏ heo quan hệ tỉ lệ nghịch. Ngƣợc lại, Mạt na đƣợc giải thoát chừng nào, nghĩa là qui giảm lần mức độ cuồng si trong bốn phiền não (si, kiến, mạn, ái) v.v... đến mức nào, thì khả năng thanh tịnh sáng suốt của sáu chuyển thức càng lớn lên chừng đó, cũng theo quan hệ tỉ lệ nghịch. Cần xác định rõ, tính khí của Mạt na là vừa thẩm reflecting) - khảo sát, thẩm sát - lại vừa hằng (always) - luôn luôn có mặt suốt 24 giờ trong một ngày. Khái niệm chung về Mạt na thức Về tên gọi, Mạt na thức có nhiều cách gọi khác nhau nhƣ: Ý căn (căn nguyên của ý thức - thức thứ 6), thức thứ bảy (vì đứng dƣới thức thứ tám - Tàng thức), Truyền tống thức (vì có chức năng lƣu chuyển hai chiều, đƣa các pháp [dharmas] hiện hành [current] vào Tàng thức, và làm cho các chủng tử trong Tàng thức biến thành các pháp hiện hành) và ý thức (vì thức này sinh và diệt tƣơng tục, không gián đoạn. Tuy nhiên, để tránh lẫn lộn với thức thứ sáu [Ý thức], Mạt na thƣờng đƣợc gọi là Ý căn hay là ý, gọi chung là Mạt na thức.
Về cội nguồn, Mạt na thức đƣợc sinh khởi từ Căn bản thức (Tàng thức Alaya), do nƣơng vào Tàng thức để hiện hành và có tác năng (function) lƣu chuyển, đối lƣu (interchange) nên Mạt na đƣợc gọi là Chuyển thức (Pravrtti vijnàna). Duy thức học có một Căn bản thức (Alaya) và bảy chuyển thức (Mạt na thức + 6 thức giác quan: mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân thể và ý thức). - evolving consciousness. Khi một con cá lội ở vùng nƣớc trong, vùng chung quanh nó bi xáo trộn, vì nƣớc trong chúng ta rất khó thấy sự quấy đông của dòng nƣớc, chỉ khi con cá ấy lội gần vùng bùn, dòng nƣớc đục vẫn, con cá mất di tùy vào sự đâm đặc của bùn. Cũng nhƣ thế, khi đƣơng số đi vào một cung nào đó tùy vào nghiêp mà sự xáo động nhiều hay ít, sự tƣơng tác của nghiêp lên dƣơng số nhiếu hay ít, sự tƣơng tác đó là Mạt na thức. Mạt na thức chức năng lƣu chuyển, đối lƣu giữa chủng tử và hiện hành (nghiêp) - đến sáu chuyển thức.(ý thức, nhãn thức,..). Đoạn trên đƣơc trich từ Tâm Lý Học Phật giáo/Thich Tâm Thiện/Bản in lần thứ hai/NXB Tp.HCM) Qua vận dụng Y-lỳ mả các thức trƣớc đƣợc khí hóa thành âm dƣơng ngũ hành mà tạo tác, nhồi nặn, nuôi dƣơng cơ thể, mà mỗi ngƣời có 1 hình tƣớng riêng biệt tùy vào nghiêp lực chi phối, 1 hình tƣớng cho 1 lá số. Ngoài cáí hình tƣớng riêng biệt đó, ở mỗi thới điễm, mỗi không gian, khi nói 12 cung bị đông thì cũng có nghĩa âm dƣơng ngũ hành cũng bị động, cũng tạo tác, cũng nhồi nặn, nuôi dƣơng cơ thể, cũng tạo nên 1 hình tƣớng lồng lên cái hình tƣớng ban đầu. Thí dụ: Anh An là đƣợc nhận biết là anh An nhờ vào cái tƣớng ban đầu "anh AN". anh An là 1 giáo sƣ giãng dạy tai trƣờng Chu van An, mỗi khi bƣớt lên bục giãng thì anh An đƣơc nhận biết qua vai tró giáo sƣ, lới nói, ánh mắt, cử chỉ, khuôn mặt... : ta nói anh An đang dóng vai trò Giáo sƣ, cái Mặt Nạ Giáo Sƣ Khi anh An gặp chị Yến, là vợ của anh ta, thí anh An dƣơc nhân biết qua vai tró ngƣời Tình, ngƣời Chồng, lới nói, ánh mắt, cử chỉ, khuôn mặt... : ta nói anh An ta nói anh An đang dóng vai trò ngƣời Chồng, cái Mặt Nạ Ngƣời Chồng Với ngƣời con , với ngƣời bạn, với tập đoàn X, với ... muôn ngàn cái "với" đó, vai trò, lới nói, ánh mắt, cử chỉ, khuôn mặt... anh An cũng thay đổi tùy vào mỗi thời điễm, mỗi không gian nào đó. Ta nói anh An với muôn ngàn cái vai trò muôn ngàn mặt nạ.... Khi tâm biến, các thức trƣớc biến, âm dƣơng ngũ hành biến, 12 cung Tử vi bị động, sự tƣơng tác (hê thống chiếu) các sao tạo nên khuôn mặt, vai trò cử chỉ, sắc khí hình tƣớng .... đó chinh là Mạt na Thức, và mỗi cái vai trò, lới nói, ánh mắt, cử chỉ, khuôn mặt... đó gọi là "Thọ giả Tƣớng"
Mạt Na = Mặt Nạ ? Dƣới mắt Tử Vi nghiệp quả, khi đƣơng số tại một cung, lập tức có 3 tam hợp chiếu, một xung chiếu một nhị hợp chiếu, một lục hại chiếu, và một ám hợp cục, mỗi cung trên lại có 7 tƣơng tác trở lại địa bàn và cứ nhƣ vây, một cung bị động lập tức bảy cung liền biến theo đó, hay một "sao" / chũng tử bị đông lập tức có bảy cung liên hệ bi động.... và địa bàn đƣợc nhìn nhƣ là Tạng thức trong hệ Tám Thức của Duy thức học. Tạng Thức Đây là một thức rất quan trọng , Tử vi viết lai dòng nghiêp lực, lại đặt để Tang thức lên địa bàn (lá số) do vậy xin trích lại phần tạng thức của đại đức Thích Tâm Thiện trong Tâm lý Phật giao, hầu mong làm nỗi bật ý nghĩa Địa bàn hay Tàng thức trong tử vi. *** TÀNG THỨC ALAYA A- Khái niệm chung về Tàng thức Tụng ngôn viết rằng: [01] "Do giả lập nên nói có Ngã và Pháp [chủ thể và đối tƣợng], có tất cả sự vật hiện tƣợng, [nhƣng] tất cả Ngã và Pháp đó đều nƣơng vào Thức mà sinh ra; [bản chất] của thức - năng biến có ba [đặc tính]". [02] "[Đó là]: Dị thục và Tƣ lƣơng, cùng với Liễu biệt cảnh. Trƣớc hết là thức A-lại-da, cũng gọi là Dị thục hay Nhất thiết chủng". Tiền đề của Duy thức học đƣợc xác định ngay bài tụng thứ nhất [01]. Tất cả các pháp (hiện tƣợng sự vật) là không thật có tự tính (vô tự tánh). Do đó, khi nói về Ngã (chủ thể) và Pháp (đối tƣợng) chỉ là sự giả định của tâm thức. Tỉ dụ nhƣ: nhƣ thế này thì gọi là cái bàn; nhƣ thế kia thì gọi là cái ghế. Sự giả định nhƣ thế đối với tất cả hiện tƣợng sự vật (tâm lý cũng nhƣ vật lý) luôn luôn tùy thuộc vào sự trôi chảy năng động của tâm thức (gọi là thức - năng biến). Từ đó, tâm thức đƣợc chia thành ba loại cụ thể theo các tác năng cụ thể nhƣ đƣợc trình bày ở bài tụng số [02]. Ba đặc tính của thức đƣợc phân chia theo tác năng cụ thể bao gồm: 1- Dị thục (Vipàka) chỉ cho Tàng thức Alaya (thức thứ 8) 2- Tƣ lƣợng (Manana) chỉ cho thức Mạt na (thức thứ 7) 3- Liễu biệt cảnh (Vijnapti) chỉ cho 5 thức cảm giác Ở đây, chúng ta trƣớc hết khảo sát về Dị thục thức.
Dị thục thức (Vipàkavijnàna), nhƣ đƣợc nói rõ trong bài tụng số [02], còn đƣợc gọi là Tàng thức (Àlayavijnàna) và Nhất thiết chủng thức (Sarvabijaka). Các danh từ này không phải là đồng nghĩa mà mỗi danh từ có một ý nghĩa khác nhau, nhằm giải minh các tính năng của thức thứ tám. * Tàng thức (Àlayavijnàna): chữ tàng (storehouse) nghĩa là kho tàng, có chức năng dung chứa (storing) tất cả chủng tử (bijas) tức là hạt giống tâm thức (seeds of mind). Tàng thức, do đó, đƣợc ví nhƣ là nền tảng của tâm thức, là đất để tâm phát triển. Vì thế, Tàng thức đƣợc xem nhƣ là tự tƣớng - hay thể của tâm. Ở đây, nó có ba tính chất: 1- Năng tàng: là chủ thể dung chứa 2- Sở tàng: là đối tƣợng đƣợc dung chứa hay của sự dung chứa 3- Ngã ái chấp tàng: bị ngộ nhận là ngã tính vĩnh hằng. Nhƣ thế, tâm đƣợc nhận thức luôn luôn bao gồm hai phần, đó là chủ thể nhận thức và đối tƣợng đƣợc nhận thức. Tỉ dụ, giám đốc viện bảo tàng là chủ thể cất giữ và bảo trì các hiện vật, gọi là Năng tàng; các hiện vật đƣợc cất giữ và bảo trì bởi ông giám đốc viện bảo tàng gọi là Sở tàng. Nhƣ vậy, Năng tàng là chủ thể cất giữ và bảo trì, Sở tàng là đối tƣợng đƣợc cất giữ và bảo trì. Tại đây, tác dụng đầu tiên của tâm là tàng (storing) - cất giữ và bảo trì. Và khi nói đến tàng thì phải nói đến Năng tàng (chủ thể) và Sở tàng (đối tƣợng). Tác dụng thứ hai của tâm là [bị] "Ngã ái chấp tàng" - tức là bị thức thứ bảy (Manas) chấp làm ngã tính: cái tôi, cái của tôi, cái tự ngã của tôi ... Tác năng thứ nhất của tâm, nhƣ vừa trình bày, mang tính cách năng động. Và tác năng thứ hai này (Ngã ái chấp tàng) mang tính chất bị động, tức là bị thiên chấp bởi một thức khác, đó là Mạt na thức. Tại sao Tàng thức là đối tƣợng bị chấp nhƣ là ngã thể (The object of attachment as a self) sẽ đƣợc giải thích ở phần trình bày về thức Mạt na. * Nhất thiết chủng thức (Sarvabijaka) Một tính năng khác của tâm là Nhất thiết chủng. Sarva là tất cả (Nhất thiết), Bija là hạt giống (chủng). Nghĩa là tính năng của Tàng thức có thể dung chứa tất cả hạt giống (chủng tử) thiện, ác trong tâm thức. Thông thƣờng mọi hiện tƣợng diễn biến trong thế giới thực tại khách quan cũng nhƣ trong tâm thức luôn luôn đƣợc sinh khởi từ các hạt giống (ý niệm) tiềm tàng trong tâm thức. Tại đó, khi các hạt giống đang ngủ yên trong Tàng thức thì gọi là nhân, và sự hiện khởi của nó đƣợc gọi là quả. Tỉ dụ, trong tâm thức chúng ta có đầy đủ các hạt giống thiện và bất thiện, khi nào gặp thuận duyên là nó hiện khởi (hiện hành). Nhƣ sự sân hận luôn luôn sẵn có trong ta, khi gặp thuận duyên (nhƣ bị ai mắng chửi, đánh đập...) thì hạt giống sân hận đó sẽ biến hiện. Cũng nhƣ hoa cam và trái cam dầu chƣa xuất hiện, nhƣng mầm mống của hoa và trái cam có sẵn trong cây cam. Sự kiện này đƣợc gọi là Căn bản thức. Trong luận thƣ của Nhất Thiết Hữu Bộ cũng có đề cập đến Căn bản thức (Mulavijnàna); và Đồng Diệp Bộ (Tamrasatiya) thì gọi là Hữu phần thức (Bhavangasota) - nghĩa là các hạt giống tâm thức nhƣ biểu hiện của sóng-nƣớc luôn luôn hiện hữu trong dòng nƣớc. Về khái niệm Căn bản thức, nghĩa là thức cơ bản, nhƣ hạt giống sản sinh ra mọi hiện tƣợng sự
vật nhƣ: vui, buồn, mê, ngộ, sinh tử, Niết bàn, thân, tâm, thế gian, giới, địa v.v... Ở đây nên chú ý rằng, theo quan điểm của Duy thức, thì thân thể của con ngƣời cũng đƣợc nhận diện hay phát sinh từ trong tâm thức, vì tâm ở đây đƣợc hiểu là Nhất thiết chủng thức. * Dị thục thức (Vipàkavijnàna) Dị thục (Vipàka) có nghĩa là sự chín muồi của nghiệp quả hay sự kết tinh "khí chất" của mỗi con ngƣời; nói đến Dị thục là nói đến tính năng tƣơng quan nhân quả của dòng tâm thức. Dị thục đƣợc chia thành ba loại: 1/ Dị thời nhi thục: Thời điểm chín muồi của quả khác với thời điểm gieo nhân. Tỉ dụ: trái cam, thời điểm sinh ra và thời điểm chín muồi là khác nhau. 2/ Dị loại nhi thục: khi chín muồi thì đã biến chất Tỉ dụ: trái cam khi mới sinh ra thì chua, đến khi chín vàng thì ngọt. 3/ Biến dị nhi thục: khi chín muồi thì đã biến thái (biến tƣớng). Tỉ dụ: trái cam lúc nhỏ thì màu xanh, đến khi chín muồi thì ngả sang màu vàng. Ở đây, sự phân biệt khái niệm "Dị thục" cốt là để soi sáng cái bản chất vô ký (không thể xác định là thiện ác) hay bất định của Tàng thức, tức là Dị thục thức. Nhƣ thế, sự biện biệt về các danh từ Tàng thức, Nhất thiết chủng thức và Dị thục thức là nhằm giải minh các tính năng cơ bản của tâm thức (thức thứ tám). B- Các đặc tính của Tàng thức Tụng ngôn viết rằng: [03] "[Đặc tính của nó là] bất khả tri: chấp thủ và duy trì, [nhƣng] trong sự biểu biệt các xứ [ các quan năng của căn thân] nó thƣờng biểu hiện cùng với xúc, tác ý, thọ, tƣởng và tƣ; [và trong các thọ] nó chỉ tƣơng ƣng với xả thọ". [04] "Thức này và các tâm sở của nó là vô phú và vô ký, [nó] trôi chảy nhƣ dòng sông, [khi đạt đến] quả vị A La Hán [thì tất cả] đều buông xả". Nhƣ vừa đƣợc trình bày ở hai bài tụng [03 và 04], tính chất của Tàng thức có những điều không thể biết đƣợc (bất khả tri) so với tri giác thƣờng nghiệm của con ngƣời, đó là: 1/ Sự cất giữ và duy trì các chủng tử của căn thân (thân thể) và khí thế gian (thế giới thực tại khách quan), làm cho nó không biến mất và chờ nhân duyên để hiện hành. 2/ Tính chất năng động (năng duyên - thuộc chủ thể, lối dịch cũ là kiến phần) của Tàng thức vô cùng nhiệm mầu và tinh tế. Do đó, đặc tính của Tàng thức bao gồm hai tính chất; một là năng động - tức là chủ thể cất giữ và
duy trì các chủng tử của thân thể và thế giới thực tại khách quan, lối dịch cũ là kiến phần - tức chủ thể; hai là bị động - tức là đối tƣợng (chủng tử của thân thể và thế giới thực tại khách quan) đƣợc cất giữ và duy trì bởi chủ thể (subject), lối dịch cũ là tƣớng phần - tức đối tƣợng. Tuy nhiên, trong sự biểu biệt (phân biệt) các xứ (Àyatana) - nghĩa là căn thân và thế giới thực tại khách quan - nó thƣờng biểu hiện cùng với các tâm sở (Cetasika), tức là tác dụng của tâm, bao gồm năm loại cơ bản: Xúc (Sparsa), tác ý (Manaskara), thọ (Vedana), tƣởng (Samjna) và tƣ (Cetana). Trƣớc hết, về khái niệm tâm sở (Cetasika), đó là tác năng hoạt động (tác dụng) của tâm. Tỉ dụ tâm sở nhƣ những ngọn/làn sóng ba đào phát sinh từ nƣớc; hay cây cối, núi rừng phát sinh từ đất. Tâm sở là những thuộc tính sở hữu của tâm (Citta). Có 51 loại tâm sở, nhƣng ở đây chúng ta chỉ đề cập đến năm tâm sở (xúc, tác ý, thọ, tƣởng và tƣ); năm tâm sở này là các hiện tƣợng tâm lý (mental formations) hiện hành cùng với hệ thống tám thức một cách phổ quát (universally operating), bao gồm cả trong Tàng thức, Mạt na thức, ý thức và năm thức giác quan (mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân thể). 1/ Xúc (Sparsa): là sự cảm xúc, xúc chạm, hay giao tiếp giữa thế giới tâm lý và vật lý, giữa thân thể (con ngƣời) và cảnh vật (thế giới tự nhiên), hay giữa tâm và tâm. Tỉ dụ: sự tri giác về một sự thể nào đó, nhƣ một cành hoa chẳng hạn, chỉ có mặt khi xuất hiện sự giao tiếp và tiếp biến giữa con mắt và cành hoa; cũng nhƣ khi tâm thức con ngƣời tiếp xúc với nỗi buồn hay niềm vui của tâm thức chính nó v.v... Sự giao tiếp giữa các căn (mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân thể, ý thức) và trần (sắc, thanh, hƣơng, vị, xúc, pháp) là cơ sở để hình thành tri giác (sự hiểu biết, phân biệt hay liễu biệt và biểu biệt) của tâm thức nhƣ: mắt-thấy, tai-nghe, mũi-ngửi, lƣỡi-nếm, thân-cảm xúc, ý-suy tƣ. 2/ Tác ý (Manaskara): là sự tập trung (Manas) hay chú ý về một đối tƣợng nào đó. Tỉ dụ: nhƣ khi cƣỡi ngựa xem hoa, giữa một rừng hoa mênh mông bỗng dƣng ta dừng lại và để ý một cành hoa thơ dại nào đó. Nhƣ thế, sự hiện khởi ý niệm về một đối tƣợng nào đó gọi là tác ý. 3/ Thọ (Vedana): là sự cảm thọ các hiện tƣợng nhƣ vui, buồn và trung tính (không vui, không buồn). Cảm thọ có ba loại cơ bản: - Khổ thọ: cảm thọ bất an, khổ đau... - Lạc thọ: cảm thọ an lạc, hạnh phúc... - Xả thọ: cảm thọ trung tính không bị chi phối bởi vui, buồn, khổ, lạc... Thọ (feeling) là thức ăn để nuôi sống tâm thức đối với con ngƣời. Cảm thọ nhƣ là một dòng sông trôi chảy tƣơng tục trong đời ngƣời, nó không hề dừng nghỉ. Do đó, con đƣờng giải thoát chính là sự thoát ly mọi nô lệ của con ngƣời về các sự cảm thọ của tâm thức vô minh. 4/ Tƣởng (Samjna): là ấn tƣợng hay tƣởng tƣợng của tri giác chớ không phải là tƣ tƣởng. Tỉ dụ, sau khi nhìn thấy một cành hoa nào đó, ngƣời nhìn tƣởng tƣợng và nghĩ ngợi về nhan sắc và tính chất của cành hoa đó. Tƣởng là một trong những tác dụng chính của tâm thức; tuy nhiên, giữa tƣởng và thực tại thì hoàn toàn khác biệt. Một tri giác (a cognition, a perception) về một sự thể nào đó, nghĩa là, tri giác đó chỉ phảng phất hay là ảnh tƣợng của thực tại. Giữa tri giác và thế giới thực tại là một khoảng cách xa vời; do đó, không thể dùng tri giác hay ấn tƣợng của tri giác để lĩnh hội thực tại. Vì thế những sự nhận thức, tri giác, hiểu biết v.v... về một sự thể hay hiện tƣợng
nào đó đều đƣợc gọi là tƣởng. Và theo quan điểm của Duy thức nói riêng hay Phật giáo nói chung, phần lớn tri giác (tƣởng) thƣờng nghiệm của con ngƣời là sai lầm (58). Và nữa, cần ghi nhận rằng, ngoài thế giới tri giác và tƣ tƣởng của con ngƣời còn có các thế giới nhƣ Trời Vô tƣởng (Asannasatta), Phi tƣởng và các cảnh giới thiền định bậc cao Diệt thọ tƣởng định (Nirodha - samàpatti - State of meditation of annihilation). 5/ Tƣ (Cetana): Tƣ không phải là tƣ duy theo quan niệm tầm (Vitaka) và tƣ (Viccara) trong thiền quán, mà tƣ (Cetana) ở đây là một động lực tâm lý đƣa đến một quyết định (volition). Nói theo ngôn ngữ của Nghiệp (Karma), tƣ chính là hành động tác ý (volitional action), và tất nhiên nó là nghiệp. Có thể nói, Thọ - Tƣởng là đại dƣơng mênh mông, và Tƣ-sở-tác (Cetana) là sóng gió ba đào. Sóng nƣớc "thọ-tƣởng-tƣ" vừa là năng tàng (chủ thể) vừa là sở tàng (đối tƣợng), lại vừa là kiến phần (tác năng của chủ thể nhận thức), vừa là tƣớng phần (diệu dụng của đối tƣợng đƣợc nhận thức). Do đó, xúc, tác ý, thọ, tƣởng và tƣ là năm tâm hành vốn là biểu hiện của thức (Vijnàna). Tâm hành là sóng, tâm vƣơng là nƣớc; sóng cũng là nƣớc và nƣớc cũng là sóng. Sự tƣơng tác (một là hai, hai là một) này là biểu hiện của các hiện tƣợng tâm lý của cả tâm (Citta), ý (Manas) và thức (Vijnàna). Các danh từ nhƣ Duy tâm (Citta matra), Duy thức (Vijnànavada) và Duy biểu (Vijnaptimatra) trong luận thƣ và kinh tạng đều có nghĩa tƣơng tự nhƣ vậy. Nhƣ thế, thức thứ tám này tƣơng ƣng với 5 tâm sở biến hành (Universal mental factors), và sự biểu hiện của nó rất tinh tế, không hiển thị sự khổ và vui, do đó nó chỉ tƣơng ƣng với xả thọ. Bài tụng [04] nói tiếp rằng; tính chất của Tàng thức và các tâm sở của nó là vô phú (Anivrta) tức không bị vây bủa, ngăn che - và vô ký (Àvyàkrta) - tức không bị chi phối bởi thiện hay ác (being neither good nor bad); tiếng Anh gọi là non-defiled (vô phú) và non-defined (vô ký). Sự hiện hữu của nó trôi chảy nhƣ dòng sông (hằng chuyển nhƣ bộc lƣu), không thể nói là thƣờng hằng hay đoạn diệt. Cho đến khi nào thăng chứng A La Hán vị thì tất cả đều tan biến, buông xả. Tuy nhiên, ở đây chỉ xả bỏ cái danh tự Alaya, nghĩa là từ vọng thức chuyển thành thánh trí, ở đó là thể tính thanh tịnh thƣờng trú của Alaya nhƣng không phải là biến hiện của Alaya ở mặt hiện tƣợng, và cũng không khác với Alaya ở mặt tự thể. Đây là ý nghĩa của tƣ tƣởng "Phật pháp tức phi Phật pháp thị danh Phật pháp" trong kinh tạng và luận thƣ Đại thừa. C- Các mối quan hệ của Tàng thức Nhƣ đã trình bày, một nhận thức bao giờ cũng đƣợc nhận diện khi có sự giao tiếp giữa chủ thể nhận thức, và đối tƣợng nhận thức và biểu hiện ra một hệ quả của nhận thức đó. Vì thế trong Tàng thức, đặc biệt là ở khái niệm Nhất thiết chủng thức, (tất cả hạt giống trong Tàng thức) đã nói lên các mối quan hệ cơ bản nhƣ: khổ-vui, mê-ngộ, phàm-thánh, chung-riêng, v.v... Do đó, ở đây chúng ta cần xét đến một số quan hệ cơ bản trong diễn tiến của Tàng thức. Trong Mahàyàna - Satadharma - Vidyàdvara - Sàstra (Đại thừa Bách pháp minh môn luận), ngài Vasubandhu đề cập đến những quan hệ của Tàng thức nhƣ sau:
1/ Tàng thức và ba cảnh Ba cảnh là: Tánh cảnh (The realm of things in themselves), Đới chất cảnh (The realm of representations) và Độc ảnh cảnh (The realm of mere images). Ba cảnh này là đối tƣợng của nhận thức (Visaya) cũng gọi là tƣớng phần (Nimittahaga) hay sở duyên (Alambhaga). Nói theo triết học phƣơng Tây, ba cảnh là đối tƣợng (Object) của chủ thể (Subject) nhận thức. a) Tánh cảnh: là tự thân của thế giới thực tại khách quan, cái mà Kant gọi là "ding un sick" (La chose en soi, hay Thing in itself) và J.P. Sartre gọi là "être en soi" - hiện hữu chính nó. Tánh là bản chất, cảnh là đối tƣợng; nhƣ vậy Tánh cảnh có nghĩa là bản chất của đối tƣợng hay bản chất của thế giới thực tại khách quan. Ở đây, chúng ta không thể đạt đến hay lãnh hội đƣợc bản chất của thực tại khách quan. Tỉ dụ, tự thân của đỉnh Lanbiang thì hoàn toàn khác với cái tri giác của chúng ta về nó. Đỉnh Lanbiang trong thực tại và trong tri giác không thể giống nhau vì bản thân tri giác của con ngƣời thƣờng bị méo mó và rất sai lầm. Do đó, tri giác thƣờng nghiệm của con ngƣời không thể đạt đến Tánh cảnh (The realm of things in themselves). b) Đới chất cảnh: là ảnh tƣợng đƣợc nƣơng gá vào và hiện sinh bởi Tánh cảnh. Có thể nói hình ảnh về một thực tại nào đó trong tri giác của ta là Đới chất cảnh (cảnh đƣợc mang theo, đƣợc phản ánh từ thực tại). Tỉ dụ, khi ta thƣơng ghét một mẫu ngƣời nào đó, thì hình ảnh của mẫu ngƣời đó là hình ảnh đƣợc sáng tạo bởi tâm thức chứ không phải là hình ảnh của ngƣời đó trong thực tại. Có thể ngƣời mình ghét trong thực tại thì rất dễ thƣơng và ngƣợc lại v.v...; do đó, con đƣờng thiền quán trong Phật giáo chính là con đƣờng buông bỏ mọi Đới chất cảnh (ảo ảnh) để thể nhập vào Tánh cảnh (thực tại) của tự thân và thế giới. Dƣới ánh sáng của Duy thức học, sự sống của con ngƣời hầu nhƣ là sống với Đới chất cảnh nhiều hơn là với Tánh cảnh; và đây là nguyên nhân tác thành khổ đau, dục vọng... c) Độc ảnh cảnh: là thế giới ảnh tƣợng chỉ có trong tâm thức chứ không có trong thực tại; đó là hình ảnh của ý thức trong mộng, một biểu hiện của Tàng thức Alaya. Ở đây cần ghi nhận rằng cái mà chúng ta gọi là Phật trong tâm và cho rằng mình đã từng sống với Phật v.v... thực chất đó chỉ là Phật của Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh. Và chỉ khi nào con ngƣời thật sự giác ngộ mới có thể đạt đến Phật trong Tánh cảnh, tức là Phật tánh. Tuy nhiên, cả Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh đều là những hình ảnh vay mƣợn hay đƣợc sinh khởi từ Tánh cảnh. Cả ba cảnh này đều là biểu hiện của Tàng thức Alaya. Do đó, trong quan hệ giữa Tàng thức và ba cảnh, thì Tàng thức chỉ quan hệ hay duyên với Tánh cảnh. 2/ Tàng thức và ba tánh Ba tánh trong triết học Duy thức là thiện (good), bất thiện (bad) và vô ký (neither good nor bad) tức không thiện, không ác hay là trung tính. Trong ba tánh (tính chất) này, Tàng thức chỉ quan hệ với vô ký (Avyàkrta). 3/ Tàng thức và ba lƣợng Lƣợng (Pramana) là hình thái của nhận thức (Valuable source of knowledge) bao gồm ba lƣợng:
a) Hiện lƣợng (Direct perception): là sự nhận thức trực tiếp hay trực giác (Direct cognition) về một đối tƣợng nào đó mà không cần phải đi qua suy luận hay logic. Tỉ dụ, khi nhìn thấy cây viết thì biết rõ là cây viết chứ không cần suy luận mới nhận diện ra cây viết... b) Tỷ lƣợng (Inferance): là sự nhận thức phân biệt gián tiếp (Indirect perception) hay dùng đến suy luận để nhận diện một đối tƣợng nào đó. Vì thế, nếu suy luận tốt, chính xác thì có thể đạt đến sự thật, nhƣng phần nhiều là sai lầm. Tỉ dụ, đứng bên này đồi ta thấy bên kia đồi có một làn khói, ta suy luận có khói tức có lửa. Nhƣng khi leo qua đồi thì sự thật là có khói mà không có lửa, vì đó là khói mây chứ không phải khói lửa. Trong trƣờng hợp này, Tỷ lƣợng sai; do đó nó đƣợc gọi là tợ tỷ lƣợng (the wrong perception). c) Phi lƣợng (Apramana): Tỷ lƣợng sai và Hiện lƣợng sai thì gọi là Phi lƣợng (Wrong perception). Nhƣ vậy trong hai lƣợng: Hiện lƣợng (Pratyaksa) và Tỷ lƣợng (Anumana), trừ Phi lƣợng (Apramana), đƣợc chia thành hai loại: nếu đúng thì gọi là chân hiện lƣợng và chân tỷ lƣợng, nếu sai thì gọi là tợ hiện lƣợng và tợ tỷ lƣợng. Nhƣ thế, trong ba lƣợng Tàng thức chỉ quan hệ với Hiện lƣợng. 4/ Tàng thức và ba thọ Thọ (Vedana) là cảm thọ (feeling). Trong Duy thức đề cập đến ba thọ (khổ thọ, lạc thọ và xả thọ) hay năm thọ (khổ thọ, lạc thọ, ƣu thọ, hỷ thọ và xả thọ). Trong các thọ trên, Tàng thức chỉ quan hệ hay tƣơng ƣng với xả thọ. 5/ Tàng thức ba cõi và chín địa * Giới (Dhatu) là cõi của tâm thức (States of mind), gồm có ba cõi: a) Cõi dục (realm of desire): thế giới của con ngƣời và các loài sinh thú (dục là dục vọng khát vọng, ham muốn, thèm khát...) b) Cõi sắc (realm of form): thế giới vật chất nhƣng nhẹ nhàng và tinh tế hơn cõi dục. c) Cõi vô sắc (realm of no form): thế giới phi vật chất, vật thể (matters) hay thế giới của năng lƣợng (energy). Tâm thức cũng là một dạng năng lƣợng (mental energy). * Địa (Bhumi) là thế giới tâm, bao gồm chín địa: a) Dục giới: 1- Ngũ thú tạp cƣ
b) Sắc giới: 2- Sơ thiền 3- Nhị thiền 4- Tam thiền 5- Tứ thiền c) Vô sắc giới: 6- Không vô biên xứ 7- Thức vô biên xứ 8- Vô sở hữu xứ 9- Phi tƣởng phi phi tƣởng xứ 6/ Tàng thức và chín duyên Thức này chỉ có 4 duyên: a) Căn (Mạtna), b) Cảnh (căn thân, thế giới và chủng tử, c) Tác ý, d) Chủng tử. - Thế gian (The world) đƣợc chia thành 2 loại là Khí thế gian (vô tình chúng sinh) và Tình thế gian (hữu tình chúng sinh) hay các loài sinh thú - hàm thức (sentient beings) - Khí thế gian (non-sentient beings) nhƣ: sông, núi, không khí, trái đất, tầng ozone, thực vật v.v... - Tất cả giới, địa và thế gian đều là biểu hiện của Tàng thức. Ở đây, trong ba cõi và chín địa Tàng thức đều quan hệ tùy theo nhân duyên. Tuy nhiên, khi đạt đến Bát địa (Bất động địa), hành giả đã đoạn trừ câu sinh pháp chấp, không còn cảm thọ sinh tử. Do đó tên gọi Dị thục thức không còn nữa mà đƣợc gọi là Vô cấu thức và chuyển thành Đại viên cảnh trí (tuệ giác vĩ đại) Trên đây chúng ta vừa khảo sát đại cƣơng về các mối quan hệ duyên sinh của Tàng thức, giờ đây chúng ta đi vào tìm hiểu hình thái của Tàng thức. D- Hình thái của Tàng thức Nhƣ vừa trình bày, Tàng thức quan hệ đầy đủ ba cõi và chín địa, tùy theo nhân duyên, nghiệp lực (Volitional force). Tuy nhiên, hình thái cơ bản của Tàng thức là vô hình, vô tƣớng (vô sắc); hình thái của Tàng thức và các thức khác nói chung là phi vật thể (non-form), nó là một dạng của năng lƣợng (energy) - năng lƣợng tâm lý (mental energy). Theo quan điểm của khoa học hiện đại, "Vật chất là sự cô kết của năng lƣợng và năng lƣợng là sự pha loãng của vật chất". Tỉ dụ, về vật chất nhƣ một gram Uranium, khi biến thành năng lƣợng nguyên tử (atomic energy) sức công phá và tiêu diệt của nó không thể tƣởng tƣợng đƣợc. Hay mặt trời chẳng hạn, ánh sáng của nó cũng là một dạng năng lƣợng, do ánh sáng năng lƣợng mặt trời mà muôn loài phát sinh.
Nhƣ vậy, hình thái của thức có thể ví nhƣ sự chuyển động của vật chất và năng lƣợng, của sóng và nƣớc..., nó vừa là phi vật thể vừa là vật thể. Tuy nhiên, hình thái cơ bản của nó là năng lƣợng - tức phi vật thể; do đó, năng lƣợng vừa thuộc về sắc lại vừa là vô sắc. Ở đây cần ghi nhận rằng, mọi sự phân biệt đều là tƣơng đối. Đây là ý nghĩa của chân nhƣ - Duyên khởi (của Bồ tát Mã Minh), tức là Chân nhƣ = hiện tƣợng, và hiện tƣợng = Chân nhƣ; và, Chân nhƣ và hiện tƣợng không hai, không khác. Trên đây là phần trình bày đại cƣơng về các khái niệm cơ bản của Tàng thức, cũng gọi là A-lạida-thức, thức thứ tám, Dị thục thức hay Nhất thiết chủng thức. Đoạn trên đƣơc trich từ Tâm Lý Học Phật giáo/Thich Tâm Thiện/Bản in lần thứ hai/NXB Tp.HCM) Đâu là ba tánh , ba thọ, ba lƣợng, chín duyên..? Hảy trở lại với F=ma. Hai đặt tính rất quan trọng của Tàng thức là dung chứa và duy tri chủng tử. Thử tìm hiêu công dụng Phần cứng của máy diên toán, có chức năng dung chứa các sự kiện, tƣ liệu, hình ảnh,.. của một cá nhân trong không gian thời gian nào đó. Ở bất cứ thời điểm nào, không gian nào, khi máy điện toán xử dụng, ta cũng có thể thay đổi nội dung của một tâp tin nhở chƣơng trình ứng dụng( ms word, notepad, painter, photoshop, audiotorium..) Và nếu không may, máy điện toán bi hƣ hỏng, ta vẫn có thể lấy lại tất cả dƣ kiện chuyển sang máy điện toán mới, hoặc dùng lai hard drive này. Ở đây không nhấn mạnh phần cứng bị cháy, nghĩa là phẩn cứng bi hƣ hỏng.. Tạng thức trong khái niện phần cứng máy điện toán, chắc hẳn cũng tìm đƣợc những gì muốn tìm. Truy lùng một tính gian phi, tinh bƣơng bỉnh, thông minh, ngu đần, tháo vát, biếng nhác siêng năng, lệ thuộc, tƣ lập, bác sĩ, kỷ sƣ, buôn bán, trung hậu, nhân đạo, qua các tinh sao ân quang thiên quý, không kiêp, kinh đà, hao, hinh,.. Chƣơng trình ứng dụng ở đây chính là hàm Tử vi. Cũng trong khái niệm phần cứng dung chứa và duy trì, ngày nay kỷ thuật cất giữ tâp tin rất khả quan trong hình thành dĩa CD, DVD, hế thống Back up. Nhƣ vậy, chúng ta đã đi qua ba thức quan trọng (Ý thức, Mạc na thức, Tạng thức) trong Duy thức học. Còn lại năm thức (Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức.) sẽ trở lai sau phần nguồn gốc âm dƣơng.
Nguồn Gốc Âm Dương (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 3) Xin tham thảo thêm Vi diệu Pháp, Lô trình Tâm, Nghiệp, có thể qua trang Thƣvienhoasen, Quãng đức, zencomp.com
(Xin Tìm đọc Vi diêu pháp Toát yêu / Nārada Mahā Thera do cụ Phạm Kim Khánh chuyển dịch) Lộ trình Tâm Lộ trình tâm là tiến trình sanh diệt của tâm. Tùy theo trƣờng hợp sanh khởi lộ trình tâm đƣợc phân ra lộ dài, lộ ngắn, lộ lớn, lộ nhỏ. Tùy theo nơi chốn sanh khởi, lộ trình tâm đƣợc phân biệt làm hai loại: lộ trình qua ngũ môn và lộ trình qua ý môn. Ðơn vị đo lƣờng trong lộ trình tâm đƣợc gọi là tâm Sát Na. Tâm Sát na Trong trạng thái thụ động, khi tâm không bị kích thích bởi đối tƣợng, đƣợc gọi là tâm Hộ kiếp (Bhavaṅga). Khi bị kích thích bởi đối tƣợng thì một tâm sẽ khởi lên trên mặt tâm Hộ kiếp, rồi chìm xuống để một tâm khác khởi lên (thông thƣờng chúng ta không thể giữ mãi một tâm không cho chìm vào tâm Hộ kiếp). Nhƣ vậy, đời sống của một tâm bao gồm 3 giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ (Ṭhiti) và Diệt (Bhaṅga). Ðời sống đó đƣợc gọi là tâm sát na (Cittakhana). Duy Thức Tông phân biệt có 8 Tâm Vƣơng và 51 Tâm Sở. Hoạt động của Tâm Vƣơng là hoạt động chủ đạo. Hoạt động Tâm Sở là hoạt động phụ thuộc của Tâm Vƣơng. Vƣơng nghĩa là vua, còn sở là sở hữu. Tâm Sở có nghĩa là những pháp sở hữu của Tâm Vƣơng. Gọi là tâm sở vì đó là những thành phần phụ thuộc vào tâm, nƣơng vào tâm để sanh khởi lên. Nói cách khác, tâm sở là pháp luôn luôn phối hợp (sampayoga) với tâm. Tâm và tâm sở hòa trộn vào nhau, nhƣng phải hòa vào tâm nhƣ sữa hòa vào nƣớc, tất cả những điều ấy là tính chất của tâm sở. Tuy tâm sở nƣơng theo tâm sinh lên, nhung không phải tâm sinh trƣớc rồi tâm sở sinh lên sau, mà nƣơng sanh theo cách đồng “hiện hữu‟, trong bộ Patthāna (Đại Xứ luận) có gọi cách trợ sanh này là hājātapaccaya (Đồng sanh duyên), nghĩa là tâm làm năng duyên trợ sanh cho tâm sở là sở duyên bằng cách đồng sanh. Ví nhƣ ngọn lửa vừa sanh lên, ánh sáng hiện ra ngay và ngƣời ta gọi “ánh sáng của ngọn lửa”, ngọn lửa ví nhƣ tâm còn ánh sáng ví nhƣ tâm sở. Thí dụ tâm sỡ Sân: "Do sa (sân) xuất nguyên từ ngữ căn Du là khó chịu, buồn rầu. Theo quan niệm thông thƣờng “sân” là cách thức “nóng nảy” của tâm. Thật ra, “phẩn nộ” hay “nóng nảy” chỉ là trạng thái thô thiển của tâm sở sân, trạng thái trung bình của tâm sở sân là buồn rầu (soka), khóc than (parideva), khó chịu (domanassa), đau đớn xác thân (dukkha) và trạng thái vi tế của tâm sở sân là “không hài lòng”, “không an lạc”, “không thích thú”, “không hân hoan”. Những từ ngữ chỉ cho tâm sở sân là: hiṃsa (sát hại), palāsa (ác ý hay thù oán), kodha (phẫn nộ), soka (buồn rầu), parideva (than khóc – than thở, khóc), domanassa (khó chịu), dukkha (khổ )." Nghiệp Do Nghiệp mà con ngƣời tái sanh, vậy Nghiệp là gì? Theo từ nguyên, nghiệp, tiếng Sanskrit gọi là karma, Pàli gọi là kamma có nghĩa là hành động có tác ý (volitinan action). Nói cách khác, nghiệp luôn luôn đƣợc bắt nguồn từ những tạo tác của tâm(y) thông qua những hoạt động của thân, miệng, và ý, gọi chung là tam nghiệp. Do đó, một hành động (tạo tác), nếu không phát sinh từ tâm thì không thể gọi là nghiệp, mà hành động chỉ đƣợc gọi là hành động hay hành động duy tác (kriyà). Và nhƣ vậy, định nghĩa của nghiệp là: hành động có tác ý, hay hành động đƣợc phát sinh từ tâm. Cái mà gọi là nghiệp ở đây là những gì thuộc pháp hữu lậu (nghiệp hữu lậu), tức là những gì thuộc thiện - ác, khổ đau - hạnh phúc
v.v...nó găn liền với đời sống đạo đức, luân lý của con ngƣời, với những cảm thọ vui buồn - khổ lạc, mà không phải là những gì thuộc vô lậu - giải thoát. Do đó, trong một số trƣờng hợp, khi các kinh văn đề cập đến nghiệp và lậu, chúng ta cần hiểu rằng đó là một lối diễn đạt nhằm phân biệt giữa cái thiện, ác và cái đã thoát ly mọi ý niệm về thiện, ác. Chẳng hạn, Tham - sân - si là nghiệp bất thiện, nghiệp ác; nhƣng tự thân không tham - không sân - không si là cái nghiệp thiện, hay cái nghiệp thanh tịnh - giải thoát. Bởi lẽ,thanh tịnh - giải thoát tự bản thân nó đã thoát ly mọi khái niệm thiện - ác, hữu - vô. Do vậy, khi bàn đến nội dung của nghiệp , ở đây chúng ta chỉ thuần túy nói đến nghiệp thiện và nghiệp ác, tức là nghiệp hữu lậu mà không nói đến nghiệp vô lậu. Cố nhiên, định nghĩa "Nghiệp là hành động có tác ý, hay hành động đƣợc phát sinh từ tâm" chỉ đƣợc dùng cho tất cả nghiệp hữu lậu., tức là mọi vấn đề liên quan đến thiện và ác. Nghiệp có thiện tánh, ác tánh, vô ký tánh. Tuy nhiên chỉ có ác và thiện tánh mới là nghiệp, chứ vô ký tánh không đủ sức mạnh tạo thành quả nên không gọi là nghiệp. Đức Phật dạy : "Nầy các Tỳ Kheo, Nhƣ Lai xác nhận rằng chính tác ý là nghiệp. Có ý muốn làm mới có hành động bằng thân, khẩu hay ý" (Anguttara Nikãya iii 415). Thế nhƣng tất cả những ý nghĩ Lời nói việc làm đó đều phát xuất từ căn bản thức tức là Thức Thứ Tám còn gọi là tâm, tất cả do tâm tạo và giữ gìn những hạt giống thiện ác. "Không kềm chế tâm tức nhiên không kềm chế đƣợc việc làm, lời nói và tƣ tƣỡng. Kềm chế tâm tức là kềm chế thân, khẩu, ý. Chính tâm dẫn dắt thế gian. Chính tâm lôi kéo thế gian. " (Atthasãlini tr. 68; The Expositor, phần I tr. 91). Kinh Hoa Nghiêm cũng đã minh định "Nhất thiết duy tâm tạo" Dƣới mắt Tử Vi Nghiệp Quà khi mà "tự thân không tham - không sân - không si là cái nghiệp thiện, hay cái nghiệp thanh tịnh - giải thoát. Bởi lẽ, thanh tịnh - giải thoát tự bản thân nó đã thoát ly mọi khái niệm thiện - ác, hữu - vô" là rũ Nghiêp và không là đối tƣợng nghiên cứu Tử vi. Hình Đồ bát quái và Duy thức học. Dƣới mắt Tử Vi Nghiệp Quà, do Nghiệp có thiện tánh, ác tánh, vô ký tánh, hỉnh thái của hệ tám thức bây giờ là vân hành của tƣ duy theo nguyên tắc Thiện, Ác và Vô ký, tuy nhiên vì Vô Ký, nhƣ trên đã nói, không đủ sức mạnh tạo quả và đối tƣợng Tử vi chỉ là con ngƣời còn Tham sân si, chƣa rủ bỏ nghiệp. Và nhƣ thế sự vân hành Tƣ duy theo nguyên tắc Thiên Ác là hỉnh thái của hệ tám thức . Nhìn qua hình đồ bát quái Thái cực đồ, ta có thể thấy ngay đƣợc sự vận hành Tâm Thiên và Tâm Ác hay hình thái của 3 tâm thức ( Ý thức, Mat na thức, tàng thức, 5 thức còn lại sẽ nói sau) - Hai dấu châm (mắt cá) là Ý thức Thiên / Ý thức Ác ( Ta không biết mắt cá nào là Thiên hay Ác) - Hai con cá nằm ngƣợc nhau là Mạt na Thức Thiên / Mạt na thức Ác( Ta không biết cá nằm xuôi hay ngƣợc là Thiên hay Ác) - Phía sau Mạt na thức là Tàng thức. Thấy đƣợc qua đƣởng tròn giới hạn của Mạt na thức. Vì Thiên tâm và Ác tâm thay đổi theo không gian thới gian, có lúc, có nơi Thiên Tâm đƣợc xem là Ác tâm hay ngƣợc lại. Sự biến đỗi do quan niện Thiên-Ác qua không gian thới gian đó chinh là lẻ Biến Dịch (Dich). Ở Không gian thới gian này hành đông này đƣợc xem là Thiện một hành động này" ở không gian thời gian kia lại là Bất thiện. Ở Không gian thới gian "A" hành đông "SAT" đƣợc xem là Ác và cũng một hành động "SAT" ở không gian thời gian "B" lại là Thiện. Thiên tâm Ác tâm cũng chỉ là giả lập. Chính tâm dẫn dắt thế gian. Chính tâm lôi kéo thế gian.
Do đó, ta không biết "con cá" nào là Mạt na Thiên hay Ác cũng nhƣ Ý thức nào là Ác hay Thiện. (Tìm đọc Vi diêu pháp Toát yêu / Nārada Mahā Thera do cụ Phạm Kim Khánh chuyển dịch) Tiến Trình Tâm Phát Sanh Xuyên Qua Năm Căn Môn Sáu loại tâm thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Tùy theo các môn, những tiến trình tâm là: 1. Tiến trình liên quan đến nhãn môn, 2. Tiến trình liên quan đến nhĩ môn, 3. Tiến trình liên quan đến tỷ môn, 4. Tiến trình liên quan đến thiệt môn, 5. Tiến trình liên quan đến thân môn, và 6. Tiến trình liên quan đến ý môn. Hoặc, tùy theo loại thức, những tiến trình tâm là: 1. Tiến trình liên quan đến nhãn thức, 2. Tiến trình liên quan đến nhĩ thức, 3. Tiến trình liên quan đến tỷ thức, 4. Tiến trình liên quan đến thiệt thức, 5. Tiến trình liên quan đến thân thức, và 6. Tiến trình liên quan đến ý thức. Thi dụ tiến trinh tâm qua nhãn thức Tâm, chủ thể, tiếp nhận đối tƣợng từ bên trong hay bên ngoài. Khi đang ngủ mê, tâm đƣợc gọi là an nghỉ, hay nói cách khác là ở trong trạng thái Bhavaṅga. Chúng ta luôn luôn có một trạng thái tâm tiêu cực nhƣ thế khi tâm không tƣơng ứng với ngoại cảnh. Luồng Bhavaṅga (Hộ Kiếp) ấy bị gián đoạn khi có một đối tƣợng nhập vào tâm. Lúc ấy tâm Bhavaṅga rung động trong một sát na (chặp tƣ tƣởng) và tan biến. Kế đó Ngũ Môn Hƣớng Tâm (Pañcadvārāvajjana) khởi sanh và diệt. Ðến giai đoạn nầy dòng trôi chảy tự nhiên bắt đầu bị kiểm soát và chuyển hƣớng về đối tƣợng. Tức khắc sau đó nhãn thức khởi sanh và diệt, nhƣng không hiểu gì hơn ngoài sự thấy đối tƣợng. Tiếp theo tác hành nầy của giác quan có một chặp tƣ tƣởng tiếp thâu đối tƣợng đã nhận (Sampaṭicchana) gọi là Tiếp Thọ Tâm. Rồi đến khả năng dò xét (Santīraṇa, Suy Ðạc Tâm) trong chốc lát quan sát đối tƣợng đã tiếp thâu. Sau đó đến giai đoạn nhận định gọi là Xác Ðịnh Tâm (Voṭṭhapana) phân biện lựa chọn. Ðây là giai đoạn mà ý chí tự do góp phần của nó. Sau đó là giai đoạn tâm lý cực kỳ quan trọng -- giai đoạn Javana, Tốc Hành, hay Xung Lực. Chính ở giai đoạn nầy mà hành động đƣợc xét là thiện hay bất thiện. Nghiệp đƣợc tạo ở giai đoạn nầy. Nếu nhận định chân chánh (yoniso manasikāra, có sự chú ý chân chánh) Javana trở nên thiện. Nhận định sai lầm (ayoniso manasikāra) luồng Javana trở nên bất thiện. Trong trƣờng hợp một vị A La Hán luồng Javana nầy không thiện, cũng không bất thiện, mà chỉ thuộc về cơ năng, hành (kiriya, duy tác, chỉ có tác hành mà không tạo hậu quả). Giai đoạn Javana nầy thƣờng trôi chảy trong bảy sát na tâm (chặp tƣ tƣởng). Lúc lâm chung chỉ có năm chặp. Toàn thể tiến trình chỉ tồn tại trong một thời gian cực nhỏ. chấm dứt bằng tâm ghi nhận, hay Ðăng Ký Tâm (Tadālambana), kéo dài hai chặp. Tức khắc sau tiến trình xuyên qua năm căn môn dòng tâm chìm biến vào Bhavaṅga. Kế đó phát sanh xuyên qua ý môn một tiến trình tâm lấy đối tƣợng của nhãn quan đƣợc thâu nhận trong tâm, nói trên, làm đối tƣợng. Tiến trình nầy phát sanh xuyên qua ý môn, trôi chảy nhƣ sau: Ý môn hƣơng Tâm ---> Javana (7 sát na tâm) ---> Đăng ký tâm. Luồng tâm chìm biến vào bhavaṅga trở lại, và hai tiến trình phát sanh nhƣ vậy trƣớc khi đối tƣợng thật sự đƣợc hay biết. Một gạch (___), Dƣơng thay cho Tâm Thiên / Tâm Ác, Một vạch đứt (_ _ ) cũng thay cho Tâm Thiên / Tâm Ác Ý môn hƣơng Tâm ---> Javana (6 sát na tâm + 1 sát na tâm) ---> Đăng ký tâm. sát na tâm thứ 7
dùng để đăng ký hay tên quẻ dich, nó mang ý nghỉa toàn quẻ, ý nghĩa tông quát cua Javana ý môn hƣớng tâm -->Javana (6 hào + tên quẻ)---> Đăng ký tâm Nhƣ vây Âm dƣơng là Tâm Thiên / Tâm Ác, Dich là Lộ rinh Tâm qua Ý môn. Chú Ý: Âm và Dƣơng không có nghĩa Ác hoặc Thiện mà TÙY vào Không Gian Thời Gian mà có nghĩa Thiên Hoặc Ác : TÙY KHÔNG THỜI GIAN Sinh Trụ Diệt (3 hào) là một lô trinh Sát na tâm mất một thành phân Sinh hoặc Tru hoặc Diệt sẽ không là Tâm sát na nũa. Có vân hành thì có SINH và đó cũng ý niêm Động Tỉnh trong Từ vi. Trong khái niêm Tâm theo thời gian tâm(Sát na tâm, Sinh Tru Diêt) vá Lý nhân duyên qủa thì lộ trình tâm Javana (Sống, cận tử) có thề viết lại: Sát na tâm (Nhân) + Duyên (những tâm tƣơng ứng liên kết vào, n sat na tâm) ---> Sát na Tâm (Quả) (Sinh Trụ Diệt) + Duyên (những tâm tƣơng ứng liên kết vào, n sat na tâm) ----> (Sinh Trụ Diệt) (Háo 1,Hào 2,Hào 3) + Duyên (những tâm tƣơng ứng liên kết vào, n sat na tâm) ----> (Hào 4, Hào 5, Hào 6) Mỗi chặp tƣ tƣởng bao gồm ba thì, gọi là tiểu sát-na : Khởi Sanh, hay điểm xuất phát (một hào) ; Trụ, tịnh, hay phát triển (một hào); Diệt chấm dứt, hay tan rã (một hào) và nhƣ thế một quẽ đơn đƣợc lâp thành. ( 8 quẻ đơn) Mỗi đơn vị tâm hoại diệt tạo điều kiện cho một đơn vị khác khởi phát và cùng lúc, chuyển tất cả năng lực cho đơn vị kế nối ấy. và đây là sự hình thành quẻ Kép, là lý do và là căn nguyên của sự chồng quẻ.(64 quẻ kép), cũng đã giải thích ở trên. Qua "hàm Tử vi" mà Thiện hay Ác đƣợc nhận diện đâu là Thiên đâu là Ác; đƣợc nhân biết, xác định qua tính lý, sự đắt hãm, tính khí của "sao". Cũng nhƣ thế, Thiên Ác qua "Lăng Kính Dich", Thiện hay Ác đƣợc nhận diện đâu là Thiên đâu là Ác mà quân tữ hay lành và tiêu nhân hay dữ. Bàn thân Thiên Ác trong "bát quái đồ" thì không xác đinh. nhƣng qua Hàm Tƣ vi thì đƣơc nhân diên, qua lăng kính Dich thì đƣợc nhân diện. Chính nhờ Hàm Tử vi mà hành trình hƣớng thiên hƣớng thiện đƣợc chỉ rõ cho định mạng dù hẳn hiu hay ƣu đải, chính nhờ lăng kinh Dich mà Tâm Đạo, đạo của tâm đƣơc chỉ rõ cho Thiện nhân lẫn Ác nhân trên bƣớt ngoặc thăng trâm khúc khuỷ đƣờng đời lẫn ở nơi đỉnh cao danh vọng mà chỉ ra hanh, trinh, chính, trung, cát hung, tiến, lùi, đứng, ở, lợi, hại, ngƣời trên, kè dƣời .. không gì mà không dung chứa trong lộ trinh tâm Dich.
Nguồn Gốc Âm Dương (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 3) Xin tham thảo thêm Vi diệu Pháp, Lô trình Tâm, Nghiệp, có thể qua trang Thƣvienhoasen, Quãng đức, zencomp.com (Xin Tìm đọc Vi diêu pháp Toát yêu / Nārada Mahā Thera do cụ Phạm Kim Khánh chuyển dịch) Lộ trình Tâm Lộ trình tâm là tiến trình sanh diệt của tâm. Tùy theo trƣờng hợp sanh khởi lộ trình tâm đƣợc phân ra lộ dài, lộ ngắn, lộ lớn, lộ nhỏ. Tùy theo nơi chốn sanh khởi, lộ trình tâm đƣợc phân biệt
làm hai loại: lộ trình qua ngũ môn và lộ trình qua ý môn. Ðơn vị đo lƣờng trong lộ trình tâm đƣợc gọi là tâm Sát Na. Tâm Sát na Trong trạng thái thụ động, khi tâm không bị kích thích bởi đối tƣợng, đƣợc gọi là tâm Hộ kiếp (Bhavaṅga). Khi bị kích thích bởi đối tƣợng thì một tâm sẽ khởi lên trên mặt tâm Hộ kiếp, rồi chìm xuống để một tâm khác khởi lên (thông thƣờng chúng ta không thể giữ mãi một tâm không cho chìm vào tâm Hộ kiếp). Nhƣ vậy, đời sống của một tâm bao gồm 3 giai đoạn: Sanh (Uppāda), Trụ (Ṭhiti) và Diệt (Bhaṅga). Ðời sống đó đƣợc gọi là tâm sát na (Cittakhana). Duy Thức Tông phân biệt có 8 Tâm Vƣơng và 51 Tâm Sở. Hoạt động của Tâm Vƣơng là hoạt động chủ đạo. Hoạt động Tâm Sở là hoạt động phụ thuộc của Tâm Vƣơng. Vƣơng nghĩa là vua, còn sở là sở hữu. Tâm Sở có nghĩa là những pháp sở hữu của Tâm Vƣơng. Gọi là tâm sở vì đó là những thành phần phụ thuộc vào tâm, nƣơng vào tâm để sanh khởi lên. Nói cách khác, tâm sở là pháp luôn luôn phối hợp (sampayoga) với tâm. Tâm và tâm sở hòa trộn vào nhau, nhƣng phải hòa vào tâm nhƣ sữa hòa vào nƣớc, tất cả những điều ấy là tính chất của tâm sở. Tuy tâm sở nƣơng theo tâm sinh lên, nhung không phải tâm sinh trƣớc rồi tâm sở sinh lên sau, mà nƣơng sanh theo cách đồng “hiện hữu‟, trong bộ Patthāna (Đại Xứ luận) có gọi cách trợ sanh này là hājātapaccaya (Đồng sanh duyên), nghĩa là tâm làm năng duyên trợ sanh cho tâm sở là sở duyên bằng cách đồng sanh. Ví nhƣ ngọn lửa vừa sanh lên, ánh sáng hiện ra ngay và ngƣời ta gọi “ánh sáng của ngọn lửa”, ngọn lửa ví nhƣ tâm còn ánh sáng ví nhƣ tâm sở. Thí dụ tâm sỡ Sân: "Do sa (sân) xuất nguyên từ ngữ căn Du là khó chịu, buồn rầu. Theo quan niệm thông thƣờng “sân” là cách thức “nóng nảy” của tâm. Thật ra, “phẩn nộ” hay “nóng nảy” chỉ là trạng thái thô thiển của tâm sở sân, trạng thái trung bình của tâm sở sân là buồn rầu (soka), khóc than (parideva), khó chịu (domanassa), đau đớn xác thân (dukkha) và trạng thái vi tế của tâm sở sân là “không hài lòng”, “không an lạc”, “không thích thú”, “không hân hoan”. Những từ ngữ chỉ cho tâm sở sân là: hiṃsa (sát hại), palāsa (ác ý hay thù oán), kodha (phẫn nộ), soka (buồn rầu), parideva (than khóc – than thở, khóc), domanassa (khó chịu), dukkha (khổ )." Nghiệp Do Nghiệp mà con ngƣời tái sanh, vậy Nghiệp là gì? Theo từ nguyên, nghiệp, tiếng Sanskrit gọi là karma, Pàli gọi là kamma có nghĩa là hành động có tác ý (volitinan action). Nói cách khác, nghiệp luôn luôn đƣợc bắt nguồn từ những tạo tác của tâm(y) thông qua những hoạt động của thân, miệng, và ý, gọi chung là tam nghiệp. Do đó, một hành động (tạo tác), nếu không phát sinh từ tâm thì không thể gọi là nghiệp, mà hành động chỉ đƣợc gọi là hành động hay hành động duy tác (kriyà). Và nhƣ vậy, định nghĩa của nghiệp là: hành động có tác ý, hay hành động đƣợc phát sinh từ tâm. Cái mà gọi là nghiệp ở đây là những gì thuộc pháp hữu lậu (nghiệp hữu lậu), tức là những gì thuộc thiện - ác, khổ đau - hạnh phúc v.v...nó găn liền với đời sống đạo đức, luân lý của con ngƣời, với những cảm thọ vui buồn - khổ lạc, mà không phải là những gì thuộc vô lậu - giải thoát. Do đó, trong một số trƣờng hợp, khi các kinh văn đề cập đến nghiệp và lậu, chúng ta cần hiểu rằng đó là một lối diễn đạt nhằm phân biệt giữa cái thiện, ác và cái đã thoát ly mọi ý niệm về thiện, ác. Chẳng hạn, Tham - sân - si là nghiệp bất thiện, nghiệp ác; nhƣng tự thân không tham - không sân - không si là cái nghiệp thiện, hay cái nghiệp thanh tịnh - giải thoát. Bởi lẽ,thanh tịnh - giải thoát tự bản thân nó đã thoát ly mọi
khái niệm thiện - ác, hữu - vô. Do vậy, khi bàn đến nội dung của nghiệp , ở đây chúng ta chỉ thuần túy nói đến nghiệp thiện và nghiệp ác, tức là nghiệp hữu lậu mà không nói đến nghiệp vô lậu. Cố nhiên, định nghĩa "Nghiệp là hành động có tác ý, hay hành động đƣợc phát sinh từ tâm" chỉ đƣợc dùng cho tất cả nghiệp hữu lậu., tức là mọi vấn đề liên quan đến thiện và ác. Nghiệp có thiện tánh, ác tánh, vô ký tánh. Tuy nhiên chỉ có ác và thiện tánh mới là nghiệp, chứ vô ký tánh không đủ sức mạnh tạo thành quả nên không gọi là nghiệp. Đức Phật dạy : "Nầy các Tỳ Kheo, Nhƣ Lai xác nhận rằng chính tác ý là nghiệp. Có ý muốn làm mới có hành động bằng thân, khẩu hay ý" (Anguttara Nikãya iii 415). Thế nhƣng tất cả những ý nghĩ Lời nói việc làm đó đều phát xuất từ căn bản thức tức là Thức Thứ Tám còn gọi là tâm, tất cả do tâm tạo và giữ gìn những hạt giống thiện ác. "Không kềm chế tâm tức nhiên không kềm chế đƣợc việc làm, lời nói và tƣ tƣỡng. Kềm chế tâm tức là kềm chế thân, khẩu, ý. Chính tâm dẫn dắt thế gian. Chính tâm lôi kéo thế gian. " (Atthasãlini tr. 68; The Expositor, phần I tr. 91). Kinh Hoa Nghiêm cũng đã minh định "Nhất thiết duy tâm tạo" Dƣới mắt Tử Vi Nghiệp Quà khi mà "tự thân không tham - không sân - không si là cái nghiệp thiện, hay cái nghiệp thanh tịnh - giải thoát. Bởi lẽ, thanh tịnh - giải thoát tự bản thân nó đã thoát ly mọi khái niệm thiện - ác, hữu - vô" là rũ Nghiêp và không là đối tƣợng nghiên cứu Tử vi. Hình Đồ bát quái và Duy thức học. Dƣới mắt Tử Vi Nghiệp Quà, do Nghiệp có thiện tánh, ác tánh, vô ký tánh, hỉnh thái của hệ tám thức bây giờ là vân hành của tƣ duy theo nguyên tắc Thiện, Ác và Vô ký, tuy nhiên vì Vô Ký, nhƣ trên đã nói, không đủ sức mạnh tạo quả và đối tƣợng Tử vi chỉ là con ngƣời còn Tham sân si, chƣa rủ bỏ nghiệp. Và nhƣ thế sự vân hành Tƣ duy theo nguyên tắc Thiên Ác là hỉnh thái của hệ tám thức . Nhìn qua hình đồ bát quái Thái cực đồ, ta có thể thấy ngay đƣợc sự vận hành Tâm Thiên và Tâm Ác hay hình thái của 3 tâm thức ( Ý thức, Mat na thức, tàng thức, 5 thức còn lại sẽ nói sau) - Hai dấu châm (mắt cá) là Ý thức Thiên / Ý thức Ác ( Ta không biết mắt cá nào là Thiên hay Ác) - Hai con cá nằm ngƣợc nhau là Mạt na Thức Thiên / Mạt na thức Ác( Ta không biết cá nằm xuôi hay ngƣợc là Thiên hay Ác) - Phía sau Mạt na thức là Tàng thức. Thấy đƣợc qua đƣởng tròn giới hạn của Mạt na thức. Vì Thiên tâm và Ác tâm thay đổi theo không gian thới gian, có lúc, có nơi Thiên Tâm đƣợc xem là Ác tâm hay ngƣợc lại. Sự biến đỗi do quan niện Thiên-Ác qua không gian thới gian đó chinh là lẻ Biến Dịch (Dich). Ở Không gian thới gian này hành đông này đƣợc xem là Thiện một hành động này" ở không gian thời gian kia lại là Bất thiện. Ở Không gian thới gian "A" hành đông "SAT" đƣợc xem là Ác và cũng một hành động "SAT" ở không gian thời gian "B" lại là Thiện. Thiên tâm Ác tâm cũng chỉ là giả lập. Chính tâm dẫn dắt thế gian. Chính tâm lôi kéo thế gian. Do đó, ta không biết "con cá" nào là Mạt na Thiên hay Ác cũng nhƣ Ý thức nào là Ác hay Thiện. (Tìm đọc Vi diêu pháp Toát yêu / Nārada Mahā Thera do cụ Phạm Kim Khánh chuyển dịch) Tiến Trình Tâm Phát Sanh Xuyên Qua Năm Căn Môn Sáu loại tâm thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Tùy theo các môn, những tiến trình tâm là:
1. Tiến trình liên quan đến nhãn môn, 2. Tiến trình liên quan đến nhĩ môn, 3. Tiến trình liên quan đến tỷ môn, 4. Tiến trình liên quan đến thiệt môn, 5. Tiến trình liên quan đến thân môn, và 6. Tiến trình liên quan đến ý môn. Hoặc, tùy theo loại thức, những tiến trình tâm là: 1. Tiến trình liên quan đến nhãn thức, 2. Tiến trình liên quan đến nhĩ thức, 3. Tiến trình liên quan đến tỷ thức, 4. Tiến trình liên quan đến thiệt thức, 5. Tiến trình liên quan đến thân thức, và 6. Tiến trình liên quan đến ý thức. Thi dụ tiến trinh tâm qua nhãn thức Tâm, chủ thể, tiếp nhận đối tƣợng từ bên trong hay bên ngoài. Khi đang ngủ mê, tâm đƣợc gọi là an nghỉ, hay nói cách khác là ở trong trạng thái Bhavaṅga. Chúng ta luôn luôn có một trạng thái tâm tiêu cực nhƣ thế khi tâm không tƣơng ứng với ngoại cảnh. Luồng Bhavaṅga (Hộ Kiếp) ấy bị gián đoạn khi có một đối tƣợng nhập vào tâm. Lúc ấy tâm Bhavaṅga rung động trong một sát na (chặp tƣ tƣởng) và tan biến. Kế đó Ngũ Môn Hƣớng Tâm (Pañcadvārāvajjana) khởi sanh và diệt. Ðến giai đoạn nầy dòng trôi chảy tự nhiên bắt đầu bị kiểm soát và chuyển hƣớng về đối tƣợng. Tức khắc sau đó nhãn thức khởi sanh và diệt, nhƣng không hiểu gì hơn ngoài sự thấy đối tƣợng. Tiếp theo tác hành nầy của giác quan có một chặp tƣ tƣởng tiếp thâu đối tƣợng đã nhận (Sampaṭicchana) gọi là Tiếp Thọ Tâm. Rồi đến khả năng dò xét (Santīraṇa, Suy Ðạc Tâm) trong chốc lát quan sát đối tƣợng đã tiếp thâu. Sau đó đến giai đoạn nhận định gọi là Xác Ðịnh Tâm (Voṭṭhapana) phân biện lựa chọn. Ðây là giai đoạn mà ý chí tự do góp phần của nó. Sau đó là giai đoạn tâm lý cực kỳ quan trọng -- giai đoạn Javana, Tốc Hành, hay Xung Lực. Chính ở giai đoạn nầy mà hành động đƣợc xét là thiện hay bất thiện. Nghiệp đƣợc tạo ở giai đoạn nầy. Nếu nhận định chân chánh (yoniso manasikāra, có sự chú ý chân chánh) Javana trở nên thiện. Nhận định sai lầm (ayoniso manasikāra) luồng Javana trở nên bất thiện. Trong trƣờng hợp một vị A La Hán luồng Javana nầy không thiện, cũng không bất thiện, mà chỉ thuộc về cơ năng, hành (kiriya, duy tác, chỉ có tác hành mà không tạo hậu quả). Giai đoạn Javana nầy thƣờng trôi chảy trong bảy sát na tâm (chặp tƣ tƣởng). Lúc lâm chung chỉ có năm chặp. Toàn thể tiến trình chỉ tồn tại trong một thời gian cực nhỏ. chấm dứt bằng tâm ghi nhận, hay Ðăng Ký Tâm (Tadālambana), kéo dài hai chặp. Tức khắc sau tiến trình xuyên qua năm căn môn dòng tâm chìm biến vào Bhavaṅga. Kế đó phát sanh xuyên qua ý môn một tiến trình tâm lấy đối tƣợng của nhãn quan đƣợc thâu nhận trong tâm, nói trên, làm đối tƣợng. Tiến trình nầy phát sanh xuyên qua ý môn, trôi chảy nhƣ sau: Ý môn hƣơng Tâm ---> Javana (7 sát na tâm) ---> Đăng ký tâm. Luồng tâm chìm biến vào bhavaṅga trở lại, và hai tiến trình phát sanh nhƣ vậy trƣớc khi đối tƣợng thật sự đƣợc hay biết. Một gạch (___), Dƣơng thay cho Tâm Thiên / Tâm Ác, Một vạch đứt (_ _ ) cũng thay cho Tâm Thiên / Tâm Ác Ý môn hƣơng Tâm ---> Javana (6 sát na tâm + 1 sát na tâm) ---> Đăng ký tâm. sát na tâm thứ 7 dùng để đăng ký hay tên quẻ dich, nó mang ý nghỉa toàn quẻ, ý nghĩa tông quát cua Javana ý môn hƣớng tâm -->Javana (6 hào + tên quẻ)---> Đăng ký tâm Nhƣ vây Âm dƣơng là Tâm Thiên / Tâm Ác, Dich là Lộ rinh Tâm qua Ý môn. Chú Ý: Âm và Dƣơng không có nghĩa Ác hoặc Thiện mà TÙY vào Không Gian Thời Gian mà có nghĩa Thiên Hoặc Ác : TÙY KHÔNG THỜI GIAN Sinh Trụ Diệt (3 hào) là một lô trinh Sát na tâm
mất một thành phân Sinh hoặc Tru hoặc Diệt sẽ không là Tâm sát na nũa. Có vân hành thì có SINH và đó cũng ý niêm Động Tỉnh trong Từ vi. Trong khái niêm Tâm theo thời gian tâm(Sát na tâm, Sinh Tru Diêt) vá Lý nhân duyên qủa thì lộ trình tâm Javana (Sống, cận tử) có thề viết lại: Sát na tâm (Nhân) + Duyên (những tâm tƣơng ứng liên kết vào, n sat na tâm) ---> Sát na Tâm (Quả) (Sinh Trụ Diệt) + Duyên (những tâm tƣơng ứng liên kết vào, n sat na tâm) ----> (Sinh Trụ Diệt) (Háo 1,Hào 2,Hào 3) + Duyên (những tâm tƣơng ứng liên kết vào, n sat na tâm) ----> (Hào 4, Hào 5, Hào 6) Mỗi chặp tƣ tƣởng bao gồm ba thì, gọi là tiểu sát-na : Khởi Sanh, hay điểm xuất phát (một hào) ; Trụ, tịnh, hay phát triển (một hào); Diệt chấm dứt, hay tan rã (một hào) và nhƣ thế một quẽ đơn đƣợc lâp thành. ( 8 quẻ đơn) Mỗi đơn vị tâm hoại diệt tạo điều kiện cho một đơn vị khác khởi phát và cùng lúc, chuyển tất cả năng lực cho đơn vị kế nối ấy. và đây là sự hình thành quẻ Kép, là lý do và là căn nguyên của sự chồng quẻ.(64 quẻ kép), cũng đã giải thích ở trên. Qua "hàm Tử vi" mà Thiện hay Ác đƣợc nhận diện đâu là Thiên đâu là Ác; đƣợc nhân biết, xác định qua tính lý, sự đắt hãm, tính khí của "sao". Cũng nhƣ thế, Thiên Ác qua "Lăng Kính Dich", Thiện hay Ác đƣợc nhận diện đâu là Thiên đâu là Ác mà quân tữ hay lành và tiêu nhân hay dữ. Bàn thân Thiên Ác trong "bát quái đồ" thì không xác đinh. nhƣng qua Hàm Tƣ vi thì đƣơc nhân diên, qua lăng kính Dich thì đƣợc nhân diện. Chính nhờ Hàm Tử vi mà hành trình hƣớng thiên hƣớng thiện đƣợc chỉ rõ cho định mạng dù hẳn hiu hay ƣu đải, chính nhờ lăng kinh Dich mà Tâm Đạo, đạo của tâm đƣơc chỉ rõ cho Thiện nhân lẫn Ác nhân trên bƣớt ngoặc thăng trâm khúc khuỷ đƣờng đời lẫn ở nơi đỉnh cao danh vọng mà chỉ ra hanh, trinh, chính, trung, cát hung, tiến, lùi, đứng, ở, lợi, hại, ngƣời trên, kè dƣời .. không gì mà không dung chứa trong lộ trinh tâm Dich.
Nguồn Gốc Ngũ Hành 1 (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.1) Trở lai với hệ tám thức (Trich từ Tâm Lý Phật giáo / Đại Đức Thích Tâm Thiện) Tụng ngôn viết rằng: [15] "Nƣơng vào thức Căn bản [A-lại-da], năm thức tùy duyên hiện, hoặc chung hoặc chẳng chung, nhƣ sóng nƣơng vào nƣớc". A- Khái niệm chung về năm thức giác quan Trong Duy thức thƣờng nói đến sáu thức cảm quan (mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân, ý thức); ở đây, tiếp theo phần Ý thức, sẽ trình bày về nội dung của 5 thức giác quan (The five consciousness), cũng gọi là năm thức trƣớc (tiền ngũ thức), bao gồm: 1. Nhãn thức: sự nhận thức của thị giác - mắt.
2. Nhĩ thức: sự nhận thức của thính giác - tai. 3. Tỷ thức: sự nhận thức của khứu giác - mũi. 4. Thiệt thức: sự nhận thức của vị giác - lƣỡi. 5. Thân thức: sự nhận thức của thân giác - cơ thể. Năm thức này nƣơng tựa vào Căn bản thức (Tàng thức) hay nói chung là tâm thức (bao gồm cả ý thức) mà hiện khởi (originate) và vận hành (operate). Về chức năng hoạt động, năm thức này liên hệ trực tiếp đến ý thức hay hiện hành trên căn bản của dòng ý thức. Trong năm giác quan nếu cùng hoạt động với ý thức thì gọi là hoạt động chung. Tỉ dụ, công việc dịch của ngƣời làm ở phòng truyền hình, cùng lúc anh ta vừa nghe, vừa nhìn, vừa hít thở, vừa ngậm kẹo và vừa biên chép v.v... Làm việc nhƣ thế thì ý thức của anh ta cùng hoạt động chung và cùng phân tán đều cho cả năm thức cảm quan; đây là hoạt động chung. Tuy nhiên, nếu làm nhƣ thế, năng lƣợng ý thức bị phân tán, không thể tập trung, và do đó hiệu quả nhận thức bị yếu đi. Ngƣợc lại, nếu năng lƣợng ý thức chỉ tập trung vào hoặc nghe (nhƣ nghe TOEFL) hoặc nhìn (nhƣ mèo ngó chuột)... thì hiệu quả của nhận thức sẽ tốt hơn; đây gọi là hoạt động riêng; tức là, mỗi thức cảm quan chỉ tập trung hoạt động cùng với ý thức, mà không phải cùng hoạt động một lần. Ở đây, cần ghi nhận rằng sự hoạt động của 5 thức cảm quan trên dòng ý thức đƣợc ví nhƣ sóng và nƣớc: nƣớc là dòng tâm-ý thức và sóng là 5 thức cảm quan. Đây là mối liên hệ mật thiết của tâm - ý thức và năm thức trƣớc. B- Các đặc tính và sự liên hệ của năm thức - Trong ba cảnh: 5 thức này chỉ có Tánh cảnh - thấy biết nhƣ thật hiện hữu nhƣ là chính nó (To their appearances as they are). - Trong ba lƣợng: 5 thức này chỉ có Hiện lƣợng - nhƣ nhìn bình trà biết đó là bình trà... - Trong ba tánh: 5 thức này có đủ thiện, ác và vô ký. - Trong 5 thọ: 5 thức này chỉ có khổ thọ, lạc thọ và xả thọ. - Trong ba cõi: a) Cõi Dục: 5 thức này có mặt đầy đủ. b) Cõi Sắc: chỉ có 3 thức: nhãn thức, nhĩ thức và thân thức; tỷ thức và thiệt thức không hiện hành. (Nhãn, nhĩ, thân, tam nhị địa cƣ). - Trong chín địa: 5 thức này chỉ hiện hành trong hai địa: Ngũ thú tạp cƣ địa - tức là cõi Dục; và Ly sanh hỷ lạc địa - tức là cõi Sắc - thuộc Sơ thiền - trong Nhị địa. Ở Sơ thiền thì có đủ năm thức, đến Nhị địa chỉ còn 3 thức (nhãn, nhĩ, thân). Vì rằng, từ Nhị địa trở lên, hành giả dầu có tỷ và thiệt nhƣng nó không vận hành.
- Trong 51 tâm sở: 5 thức này chỉ tƣơng ứng với 34 tâm sở: 5 tâm biến hành, 5 tâm biệt cảnh, 11 tâm thiện, 3 tâm căn phiền não, 2 trung tùy và 8 đại tùy (phiền não thứ yếu). - Trong chín duyên: * Nhãn thức có đủ: 1) Hƣ không, 2) Ánh sáng, 3) Căn, 4) Cảnh, 5) Tác ý, 6) Phân biệt y, 7) Nhiễm tịnh y, 8) Căn bản y, 9) Chủng tử y. * Nhĩ thức chỉ có 8 duyên (giống nhƣ trên) trừ ánh sáng. * Tỷ, thiệt và thân thức chỉ có 7 duyên (giống nhƣ trên) trừ hƣ không và ánh sáng. Theo triết học Duy thức, cho đến khi Tàng thức chuyển thành Đại viên cảnh trí thì 5 thức này biến hành "Thành sở tác trí". Năm thức lại đƣợc chia thành hai, loại đó là tịnh sắc căn và phù trần căn. Tịnh sắc căn là hệ thống thần kinh cảm giác. Tịnh sắc nghĩa là vật chất (sắc) ở dạng tinh tế (tịnh). Tỉ dụ, con mắt là căn, nhƣng nó là phù trần căn, vì sự thô kệch của vật chất biểu hiện ra bên ngoài. Còn tịnh sắc căn là phần vi tế (vi mô) liên hệ, vận hành qua trung khu thần kinh cảm giác. Tóm lại, trong hệ thống tám thức, sự lƣu chuyển từ chủng tử (hạt giống) sang hiện hành hoặc từ hiện hành, (current) vào chủng tử của tất cả hiện hữu từ thế giới của các hiện tƣợng tâm lý cho đến thế giới thực tại khách quan của mỗi hiện tƣợng sự vật (The world of phenomena), tất cả đều phải tùy thuộc vào các điều kiện sau, bao gồm: Nhân duyên (Hetu pratyaya) - hạt giống trong Tàng thức; Sở duyên (Alambanapratyaya) - đối tƣợng của nhận thức; Tăng thƣợng duyên (Adhipatipratyaya) - các điều kiện (hoặc thuận hoặc nghịch) tác động vào nhân duyên; và Đẳng vô giác duyên (Nisyandapratyaya) - sự trôi chảy tƣơng tục của nhân duyên. (hết đoạn trich) Trở lại với chìa khóa ngƣời sáng tạo đễ lại cho chúng ta, danh từ vƣợt thới gian, chìa khóa "Bác Sĩ". không gì khác hơn lật lại kinh điên nghành Y- Học Đông phƣơng. Tham khảo thêm tại : http://www.yhoccotruyen/ (Trích)
THỦY KHÍ A.- ĐẠI CƢƠNG - Nhìn vào đồ Thái cực, Phƣơng Bắc, Mùa Đông, buổi tối khuya là dấu hiệu của Thái âm, âm khí ngự trị hoàn toàn, trời đất u tối, lạnh lẽo, cảnh vật điêu tàn, thê lƣơng, tất cả đang đi vào cõi chết, trong khi đó, mọi sinh vật đều lo ẩn núp, trốn tránh cái lạnh lẽo giá buốt của âm khí để cố duy trì và bảo tồn dƣơng khí còn lại, tránh khỏi bị tiêu diệt, để chờ đợi mùa xuân (khởi đầu Thiếu Dƣơng) để phát triển Dƣơng khí đem lại sức sống. Dƣơng khí ở nơi ngƣời chính là Thủy khí. - Thủy khí là nguồn năng lực tàng trữ trong con ngƣời, nhằm duy trì sự sống trong tình trạng Thái âm hủy diệt.
- Thủy khí tƣơng ứng với Thái âm, là do nguồn năng lực phát xuất từ Thận, do đó Thận có liên hệ nhiều đối với Thủy khí. B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA THỦY KHÍ a) Về cơ thể 1. Tóc - Thiên "Thƣợng Cổ Thiên Chân Luận" (TVấn 1) ghi : "Thận suy, tóc rụng". - Về già, Thủy khí suy, tóc ngƣời trở nên bạc, rụng, mất vẻ bóng láng, do đó, giữa tóc và Thủy khí có liên hệ với nhau. - Huyết do tinh sinh ra, tinh tràng trữ ở Thận, tóc là sản phẩm "thừa ra" của huyết, đƣợc huyết nuôi dƣỡng, Thận suy không sinh đƣợc huyết, tóc sẽ rụng... do đó Thận là căn nguyên của tóc. - Tóc xanh, óng, dầy, đen huyền, tóc mây... là dấu hiệu Thủy khí sung mãn. - Tóc khô, rụng, bạc là dấu hiệu Thủy khí suy kém. - Theo H.Roenigk (Mỹ), hiện nay, số ngƣời bệnh rụng tóc trên thế giới rất đông, chỉ riêng ở Mỹ đã tới 20 triệu ngƣời, nguyên nhân chủ yếu là do họ hay sợ hãi (sợ mất công ăn việc làm, sợ bị hủy diệt bởi vũ khí hạt nhân...). Theo Nội Kinh, sự sợ hãi làm hại Thận (Khủng thƣơng Thận), Thận suy làm tóc bạc, rụng. Tục ngữ cũng có câu : "Lo bạc râu, Sầu bạc tóc". - Có nhiều trƣờng hợp đặc biệt, 1 số ngƣời trải qua những biến động kinh hãi, thủy khí suy sụp nhanh chóng, tóc và lông mày của họ trở nên bạc trắng trong 1 thời gian ngắn. Trong cuốn "Chúng tôi sẽ chết nhƣ sống" do NXB Cầu Vồng, Maxcơva, xuất bản năm 1985, tác giả Anatoli Gôlubếp có kể rằng : bạn ông, ông Tơsurin bị bạc trắng tóc trong 1 đêm, khi vƣợt qua trận tuyến Satarƣigugiơ. A. Caren, trong cuốn : "L? homme cet inconnu" (Con ngƣời, 1 đối tƣợng chƣa hiểu đƣợc) kể : Trong trận thế chiến 1914 - 1918, 1 ngƣời đàn bà ngƣời Buổi, bị quân Đức kết án tử hình, đêm hôm trƣớc ngày bị xử bắn, tội nhân bỗng trắng xóa mái tóc. Trong "Đông châu liệt quốc" cũng kể : Ngũ Tử Tƣ, 1 đêm lo nghĩ cách trốn thoát qua cửa ải nƣớc Sở, đã bạc cả mái tóc đến nỗi lính canh ải không nhận ra. 2. Tai và thính giác - Thiên "Ngũ Duyệt Ngũ Sứ "(LKhu 32) ghi : "Thận khai khiếu ở Tai". - Thủy khí sung mãn thì thính giác tinh, có thể nghe đƣợc những âm thanh nhỏ và xa. - Thủy khí suy yếu thì thính giác sút giảm : nghe không rõ, ù tai, lãng tai, điếc, tai kêu nhƣ ve, lùng bùng trong tai... - Uống thuốc lợi tiểu, đi tiểu nhiều thấy mệt, tai lùng bùng. (Thủy suy).
- Những ngƣời già, ngƣời bệnh nặng, sốt rét... Thủy suy thƣờng thấy ù tai. 3. Xƣơng và răng - Thiên ?Tuyên Minh Ngũ Khí? (TVấn 23) ghi : "Thận chủ cốt", và "Phần thừa của xƣơng là răng". - Về già, vào mùa lạnh, ngƣời ta thƣờng thấy đau nhức trong xƣơng, ê ẩm trong răng, răng long, rụng... Do đó, giữa xƣơng răng và Thận có liên hệ với nhau. - Thận ố hàn (Thận ghét lạnh), ngƣời đang đau nhức răng và xƣơng, uống nƣớc đá vào thấy đau và nhức hơn. - Nhức, lạnh trong xƣơng, lạnh cột sống trong chứng sốt rét, cảm giác nhƣ kiến bò, giòi bọ rúc trong xƣơng... của những ngƣời ghiền xì ke ma túy, là dấu hiệu của những ngƣời Thủy khí suy. - Nóng trong xƣơng, viêm xƣơng là Hỏa của Thận vƣợng. - Những ngƣời gẫy xƣơng, trong thời gian chờ xƣơng lành lại, nếu giao hợp nhiều, mất tinh dịch làm Thận thủy suy sụp. Thận suy, không sinh đƣợc xƣơng rất lâu lành. - Thận chủ sự phát dục, Thủy khí suy làm sự phát dục của cơ thể giảm sút gây ra hiện tƣợng chậm mọc răng, chậm lớn, xƣơng mềm yếu, tóc thƣa... - Răng chắc, to, bóng láng là dấu hiệu Thủy khí sung mãn. - Răng long, đen đục, ê nhức ... là dấu hiệu Thủy khí suy. - Những ngƣời tiếp xúc nhiều với hàn khí (nƣớc đá, nƣớc lạnh...) làm cho Thủy khí suy (Thận ố hàn) dễ sinh ra hƣ, gẫy, rụng răng... - Các nhà nghiên cứu trƣờng đào tạo bác sĩ nha khoa ở Philađenphia (Mỹ) cho rằng : "Stress" (khủng hoảng, sợ hãi, cảm xúc...) mãn tính có khả năng gây hỏng răng. Khủng thƣơng Thận, do đó, sợ hãi... có thể làm hỏng răng đƣợc. Bác sĩ Stanley Cobb chuyên gia về thần kinh, cho rằng, sự lo âu, sợ hãi, liên quan mật thiết với các triệu chứng gây ra bệnh thấp khớp. - Theo Tạp chí Prirôda (Ý), sau khi nghiên cứu 340 ngƣời từ 40-80 tuổi thấy rằng, ngƣời hút thuốc lá loãng xƣơng mạnh hơn (hút thuốc làm kim suy, Kim suy không sinh đƣợc Thủy). 4. Nƣớc tiểu -Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Nƣớc tiểu là dịch của Thận". - Nơi ngƣời già Thủy khí suy yếu, vào mùa đông, buổi tối, những ngày mƣa các cụ thƣờng đi
tiểu nhiều, do đó, nƣớc tiểu và thủy khí có liên hệ với nhau. - Đi tiểu nhiều lần, nhất là tiểu đêm, nƣớc tiểu nhiều và trong là dấu hiệu Thủy của Thận suy. - Ít tiểu, nƣớc tiểu đỏ, tiểu ít nƣớc, tiểu ra máu là dấu hiệu Hỏa của Thận vƣợng. - Bí tiểu vì bọng đái không co thắt là dấu hiệu Mộc của Thận suy. - Đái gắt, (Tiểu nhiều lần, mỗi lần ra ít nƣớc tiểu) do sự quá co thắt của Bàng quang là dấu hiệu Mộc của Thận vƣợng. - Ngƣời Thận Thủy bình thƣờng, uống nƣớc vừa đủ khi khát, không đi tiểu quá 4 lần 1 ngày. - Bác sĩ Bedrich Nejedly, khoa hóa sinh tỉnh Klando (Tiệp Khắc) cho biết : có sự liên hệ giữa việc uống ít nƣớc và bệnh thận. Uống quá ít nƣớc, độ đậm đặc của nƣớc tiểu trong Thận tăng lên và nếu tình trạng này kéo dài sẽ gây viêm nhiễm đƣờng tiểu. Đây là dấu hiệu hỏa của Thận vƣợng do Thủy khí của Thận không đầy đủ do thiếu nƣớc cung cấp. - Tại Thƣợng Hải, các nhà nghiên cứu đã chiết từ nƣớc tiểu ra 1 loại men có tên là Urokinaza (chống đông máu) để trị bệnh huyết khối, tắc mạch máu Phổi. Nhồi máu cơ tim. Nó còn có tác dụng hòa tan những cục máu nghẽn là vật cản trong hệ thống tuần hoàn. Dùng nƣớc tiểu (biểu hiện của Thận Thủy để điều trị bệnh ở Tâm hỏa là áp dụng luật tƣơng khắc, Thủy khắc Hỏa). 5. Tinh dịch - Thiên Bản Thần (LKhu 8) ghi : "Thận tàng tinh". - Tinh khí thật ra do tinh hoa 5 khí của Ngũ hành kết lại chứ không phải chỉ do 1 mình Thận, dù Thận giữ vai trò chủ yếu, do đó, nếu tổng trạng suy nhƣợc, tinh dịch không thể sinh ra nhiều đƣợc. - Ngƣợc lại, đa dục (ham mê tửu sắc quá độ) làm mất tinh dịch quá nhiều, sẽ có thể làm cho cơ thể suy nhƣợc. - Làm mất nhiều tinh dịch hoặc tinh dịch không đủ, có thể gây nên các chứng bệnh bất lực, hiếm muộn con cái. - Theo các nhà nghiên cứu : Tắm ngồi lâu trong bồn nƣớc nóng, âm nang nóng liên tiếp, lƣợng tinh trùng sẽ giảm xuống gây ra tình trạng vô sinh (đây là hiện tƣợng của Hỏa (nƣớc nóng) làm hại Thủy (tinh dịch). Muốn sản sinh tinh trùng, dịch hoàn phải có nhiệt độ 3505 - 360 nghĩa là thấp hơn thân nhiệt bình thƣờng 1 - 105. Y học phát hiện rằng, khi âm nang nóng lên sẽ gây trở ngại cho việc tạo ra tinh trùng. - Theo các nhà nghiên cứu, ngƣời nghiện thuốc lá nặng cũng giảm số lƣợng tinh trùng. Mỗi ngày hút khoảng 30 điếu thuốc lá thì 51/100 lƣợng tinh trùng bị tiêu diệt. Đây là nguyên tắc tƣơng sinh của Ngũ hành : Hút thuốc nhiều làm Kim suy, Kim suy không sinh đƣợc Thủy.
- Mộng tinh : Xuất tinh trong lúc ngủ mộng. chứng này tuy do Thận Thủy suy (tinh tiết ra) nhƣng thƣờng chủ yếu do Tâm hỏa vƣợng. Cơn mộng trong giấc ngủ là dấu hiệu Hỏa của Tâm vƣợng (vì Tâm tàng thần) Tâm hỏa vƣợng phản khắc Thận Thủy gây ra. Nếu mộng tinh quá nhiều lần, tinh dịch sẽ hao mòn, đƣa đến toàn thể các tạng suy yếu, nhất là Thận Thủy, sinh ra chứng Di tinh hoặc Tiết tinh (Tảo tinh). - Di tinh : Tinh dịch chảy ra tự nhiên, đây là dấu hiệu Thủy của Thận suy trầm trọng. Ở những ngƣời bệnh nặng, nếu tinh tự xuất ra là dấu hiệu ngƣời bệnh sắp chết vì Thủy của Thận suy kiệt hoàn toàn, không giữ tinh đƣợc. - Tảo tinh : Tinh tiết quá sớm khi giao hợp. Thƣờng do Thủy của Thận suy, nhƣng cũng có khi do Hỏa của Tâm vƣợng phản khắc lại Thận thủy khiến xuất tinh sớm. - Liệt âm, liệt dƣơng : Triệu chứng suy nhƣợc hoặc bất lực của bộ phận sinh dục nam nữ, đó là dấu hiệu Thủy của Thận suy, chủ yếu là Mộc của Thận suy, đồng thời còn là dấu hiệu của sự suy nhƣợc toàn bộ. - Ngƣời Thận thủy vững vàng, không bị tình dục chi phối và khi giao hợp thì lại hoàn tất 1 cách tốt đẹp. Trái lại ngƣời Thận thủy suy, Tâm hỏa vƣợng thì luôn luôn bị tình dục ám ảnh và thƣờng thất bại khi giao hợp nhƣ liệt dƣơng, liệt âm, tảo tinh, lạnh cảm... để rồi sinh ra nhiều tật xấu nhƣ thủ dâm, thị dâm, loạn dâm, bạo dâm... làm mất cả phẩm cách. b) Về chức năng 6. Trí nhớ - Khi còn trẻ, trí nhớ mạnh mẽ, đầy đủ, ngƣợc lại, đến tuổi già, thủy khí suy yếu, trí nhớ cũng từ đó trở nên tồi tệ, vậy giữa thủy khí và trí nhớ có sự liên hệ với nhau. - Các nhà nghiên cứu cho là trí nhớ con ngƣời giảm từ từ và đều đặn từ 50 - 60 tuổi, bác sĩ Albert, bệnh viện tâm thần Massachusetts nhận thấy : ngƣời ở 60 tuổi trở đi, thƣờng gặp 2 khó khăn : + Khó khăn về ngôn ngữ : khó gọi đúng tên ngƣời muốn gọi. + Khó khăn về trí nhớ : khó nhớ 1 lúc 2 việc cần làm trở lên. - Các nhà khoa học ở đại học thành phố Berkeley cho rằng ở tƣ thế nằm dễ nhớ hơn, lý do là do máu dồn lên não. - Theo tuần báo Liên Xô, tại Nhật, theo các số liệu thống kê của cục đƣờng sắt cho thấy : Trong những tháng oi bức, ngƣời ta hay bị quên hơn cả. Từ đầu tháng 5 hành khách bắt đầu dễ quên, vào tháng 8, thời tiết nóng bức đến độ mức đồ vật bỏ quên nhiều gấp 2 lần tháng giêng (nóng bức là biểu hiện của Hỏa vƣợng, Hỏa phản khắc lại Thủy làm Thủy suy, ảnh hƣởng đến trí nhớ).
- "Khủng thƣơng thận (sự sợ hãi làm hại Thận), theo New Scientist số 3-1983, các nhà nghiên cứu đại học Washington (Mỹ) phát hiện thấy Shốc tâm lý (đặc biệt là sự sợ hãi) là nguyên nhân gây ra mất trí nhớ. - Tại Liên Xô, 1 số trƣờng học đã dùng bóng đèn màu tím, vì ánh sáng màu tím đƣợc coi là có lợi cho sự phát triển trí tuệ của học sinh. 7. Ý chí - Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí " (TVấn 23) ghi : "Thận chủ ý chí". - Trong châm cứu huyệt vị, ngang với huyệt Thận du là huyệt Chí thất (chí là ý chí, Thất là chỗ chứa nhỏ), vậy giữa Thận và ý chí có liên hệ mật thiết. - Ngƣời điềm Tỉnh, hành động vững vàng trƣớc những biến động hiểm nghèo là ngƣời có Thủy khí sung mãn. - Ngƣời Thủy khí suy yếu, thiếu hẳn ý chí : không thể quyết định dứt khoát, không có lập trƣờng. 8. Sự sợ hãi : - Nội Kinh : "Ở chí của Thận là sự sợ hãi". - Ngƣời Thận thủy suy thƣờng hay sợ hãi. - Khủng thƣơng thận (sự sợ hãi làm hại Thận), những biến động hăm dọa tính mạng đời sống con ngƣời, làm thủy khí suy. - Alexis Carel, trong "Con ngƣời, 1 đối tƣợng chƣa hiểu hết", có kể lại 1 trƣờng hợp phụ nữ, vì quá hãi sợ và từ lúc đó, bà không thấy lại kinh nguyệt hàng tháng của mình nữa. (Kinh nguyệt có liên hệ với Thận, thận suy, ảnh hƣởng đến kinh nguyệt). 9. Lạnh - Thiên Ngũ Duyệt Ngũ Xứ' (LKhu 37) ghi : "Thận ố hàn" (thận ghét lạnh). - Về mùa đông, đêm khuya (thời điểm của Thái âm), ngƣời ta cảm thấy lạnh. Vậy giữa lạnh và thủy khí có liên hệ với nhau. - Sờ ngoài da thấy lạnh là Thủy của Thận ở phần Biểu suy (Biểu là phần bên ngoài). - Ngƣời bệnh cảm thấy lạnh nhất là 2 bàn chân, lạnh trong cột sống, lạnh từ trong lạnh ra, dù sờ ngoài da không thấy lạnh là dấu hiệu Thủy của Thận suy ở lý (phần bên trong thuộc Lý).
- Tùy theo cảm giác lạnh ở vùng nào có thể suy ra cơ quan, cục bộ có rối loạn. + Thấy lạnh vùng lƣng, chân... là dấu hiệu Thủy của Thận suy. + Thấy lạnh vùng trán... là dấu hiệu thủy của Tâm suy... Thận ố hàn do đó, để bảo vệ thận, thƣờng xuyên tránh tiếp xúc của Hàn khí (thời tiết lạnh, nƣớc đá lạnh...). Mặc ấm chống lạnh để bảo vệ Thủy khí của cơ thể. 10. Sự run rẩy -Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Ở sự biến động của Thận là run rẩy". - Khi lạnh quá hoặc khi sợ hãi quá ngƣời ta thƣờng run rẩy, vậy run rẩy có liên hệ với thủy khí. - Ngƣời hay run rẩy tung biến động là ngƣời có thủy khí suy. 11. Tiếng rên rỉ, hắt hơi - Thiên Ngũ Duyệt Ngũ Sứ (LKhu 32) ghi : "Rên rỉ, hắt hơi là tiếng của Thận". - Những ngƣời bị rét hoặc đang lên cơn kinh hãi thƣờng hay run rẩy và rên rỉ. - Ngƣời ta thƣờng hay hắt hơi vào những ngày mƣa, thời tiết lạnh, gió lạnh vào sáng sớm... là dấu hiệu Thủy của Phế suy (vì chứng này thƣờng gây ra kéo dài, mãn tính, do đó, thƣờng là do kim suy kéo theo Thủy suy và Mộc vƣợng). 12. Sắc đen - Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận ghi : "Sắc của Thận là sắc đen". - Sắc của Thái âm, buổi tối, mùa đông là sắc đen. - Sắc đen sáng, bóng là dấu hiệu thủy khí sung mãn. Thực tế cho thấy những ngƣời da đen, da bánh mật là những ngƣời thủy khí sung mãn, khả năng tình dục của họ rất caop. - Sắc đen u ám là dấu hiệu của thủy khí suy, thƣờng gặp nơi những ngƣời bệnh lâu ngày, sốt rét, ghiền xì khe, ma túy... - Quan sát khuôn mặt nơi đồ hình Thái cực ta thấy : + Cằm có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Thận suy. + Trán có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Tâm suy. + Mũi có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Tỳ suy.
+ Má trái có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Can suy. + Má phải có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Phế suy. - Bệnh viện Axiaphânphao (CHDC Đức) thấy rằng những ngƣời hay bị đau đầu và co thắt mạch (dấu hiệu của Hỏa vƣợng) bao giờ cũng thích lựa chọn màu xanh đen và 60% ngƣời bị bệnh Cƣờng tuyến giáp (bệnh bƣớu cổ lồi mắt - Badơđô (Basedow) đặc biệt ƣa thích màu tím. - Da đen bóng, phản ảnh Thủy khí sung mãn, ngƣời có sắc da đen bóng là ngƣời thủy khí sung mãn. Thận thủy có liên hệ đến sinh dục, vì thế dân tộc da đen thƣờng mạnh về tình dục. 13. Hàn khí và thủy khí - Sách Y Tông Kim Giám : Trên trời là Hàn dƣới đất là Thủy, ở ngƣời là Thận, ở thể là cốt, Hàn khí thông với thận, do đó, những bệnh do Hàn khí gây ra đều liên hệ với Thận. - Hàn khí là khí lạnh, hay gặp vào mùa đông, phƣơng Bắc, tối khuya và trong kỹ nghệ lạnh. - Hàn khí là nguồn năng lực cần thiết để chống lại Hỏa và Nhiệt khí làm cho mát dịu. Tuy nhiên, nếu hàn khí quá mạnh thì sự mát mẻ dễ chịu sẽ nhƣờng chỗ cho sự lạnh lẽo, khó chịu.- Thủy khí là nguồn năng lực của cơ thể chống lại Hàn khí, nếu thủy khí suy, không chống lại đƣợc Hàn khí sinh ra lạnh lẽo. - Nƣớc là biểu hiện của thủy khí, có tính Hàn, dùng để chống lại Hỏa khí và Nhiệt khí, tuy nhiên, vì tính hàn của nó nên cũng có thể làm cho Thủy khí suy (Thận ố hàn), nhất là nƣớc đá lạnh. Uống nhiều nƣớc, gây đi tiểu nhiều vì Thận phải làm việc nhiều dẫn đến tình trạng Thủy khí suy. Do đó, chỉ nên uống nƣớc khi cần thiết và khát thôi. Xem tiếp (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.2)
Nguồn Gốc Ngũ Hành 2 (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.2) MỘC KHÍ (trích từ http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/) 1.- ĐẠI CƢƠNG - Phƣơng Đông, Mùa Xuân, Buổi sáng là biểu hiện của Thiếu dƣơng khí (theo đồ hình thái cực). - Tính chất của Thiếu dƣơng là khởi sinh, khởi động. Thiếu dƣơng khí ở ngƣời chính là Mộc khí.
- Mở đầu truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du viết : "Ngày Xuân con én đƣa thoi", mùa Xuân báo hiệu Mộc khí phát động, biểu hiện bằng hình ảnh nhộn nhịp của chim én. - Theo tổ chức Y Tế thề giới (OMS) sự phát triển sinh lý của trẻ em, có thể phát triển nhanh vào mùa Xuân hoặc vào mấy giờ đồng hồ sau khi thức giấc (buổi sáng), nhƣ vậy, mùa Xuân và buổi sáng có liên hệ với Mộc khí. - J. G Henrotte và các cộng tác viên, trong "Revue de la société Francaise d?hydrologie" 2è Trimettre, 1972, nhận xét rằng hàm lƣợng Cholesterol trong máu rất cao vào những tháng đầu năm (Cholesterol là 1 dấu hiệu quan trọng trong việc đánh giá chức năng của gan). Nhƣ vậy, mùa Xuân có liên hệ với Mộc khí. 2.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA MỘC KHÍ - Về Cơ Thể a) Mắt và thị giác - Thiên 'Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận' (TVấn 5) ghi : "Can khai khiếu ở mắt". - Tại Sietle (Mỹ) các nhà nghiên cứu nhận thấy : nhiều ngƣời bị sƣng Gan sau khi trích lấy máu ở dái tai (Các nhà nghiên cứu cho là vì nhiễm trùng, tuy nhiên, nếu trích máu cũng ở tai nhƣng vào vùng Thuyền tai hoặc Luân tai... thì không thấy Gan sƣng, nếu có nhiễm trùng thì chỉ vùng đó viêm, sƣng thôi, không ảnh hƣởng gì đến Gan. Ngành Nhĩ châm (châm ở loa tai) cho thấy : dái tai là vùng phản chiếu của Mắt, Mắt tổn thƣơng, gây ảnh hƣởng đến Gan vì Can khai khiếu ở mắt. Nhƣ vậy giữa Gan và mắt có sự liên hệ với nhau. - Sự khởi động của Thiếu dƣơng là mở mắt (mở mắt chào đời, bừng mắt thức dậy...), do đó, Mộc khí liên hệ với mắt và thị giác. - Năm khí (ngũ hành) của Can đều ảnh hƣởng đến mắt. + Mắt đỏ, viêm, xung huyết đáy mắt... là dấu hiệu Hỏa của Can vƣợng. + Chảy nƣớc mắt nhiều, nƣớc mắt sống... là dấu hiệu Thủy của Can suy. + Mắt mỏi, cơ mắt suy yếu cận thị là dấu hiệu Mộc của Can suy. + Mắt giật, mắt lồi, mắt nở lớn là dấu hiệu Mộc của Can vƣợng (Trƣơng Phi, tƣớng nhà Thục trong Tam quốc chí, là ngƣời rất nóng tính (biểu hiện Mộc của Can vƣợng) mắt của ông lúc ngủ cũng mở lớn nhƣ ngƣời đang thức). + Mắt có mộng, có hột là dấu hiệu Thổ của Can vƣợng. 2. Nƣớc mắt
- Thiên Tuyên Minh Ngũ Khí (TVấn 23) ghi : "Nƣớc mắt là dịch của Can". - Nƣớc, thuộc Thủy, Mắt thuộc Can, vì vậy, nƣớc mắt là Thủy dịch của Can. - Nƣớc, thuộc Thủy, Mắt thuộc Can, nên nƣớc mắt là Thủy dịch của Can. - Thủy dịch ở mắt đầy đủ khiến mắt trong sáng là dấu hiệu Thủy của Can sung mãn. - Hay chảy nƣớc mắt (nƣớc mắt sống) là dấu hiệu Thủy của Can suy. - Khi khóc xong mắt thƣờng thấy đỏ là biểu hiện Thủy của Can suy, Hỏa của Can vƣợng. Khóc làm cho nƣớc mắt chảy ra (Thủy suy), Thủy suy làm Hỏa vƣợng gây nên mắt đỏ. Nếu khóc nhiều quá, Thủy của can quá suy kiệt, làm Hỏa bùng mạnh lên, không những làm đỏ mắt mà còn gây nhức đầu. - Khi căng thẳng thần kinh (Hỏa và Mộc vƣợng) làm nhức đầu, mắt đỏ... Nƣớc mắt sẽ làm dịu bớt các tình trạng trên (Thủy khắc Hỏa). Bác sĩ Eniangopski (Viện hàn lâm y học Liên Xô), khi nghiên cứu về Nƣớc mắt của những ngƣời đƣợc thí nghiệm ở trong tình trạng thần kinh căng thẳng nhận thấy : Khoảng 75% đàn ông và 95% đàn bà đƣợc thí nghiệm cho biết, họ cảm thấy dễ chịu hơn sau khi khóc, cũng theo ông, những ngƣời rất ít khóc thƣờng hay bị những chứng bệnh liên hệ đến cảm xúc bị bức bách nhƣ : Loét bao tử... (Bao tử loét là 1 hình thức của chứng Can khí phạm vị, Can Mộc vƣợng lên khắc Tỳ Thổ). 3. Gân cơ - Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Can chủ gân cơ". - Trong cơ thể, các sợi gân cơ liên kết với nhau thành hệ vận động. Khởi động là đặc tính của Thiếu dƣơng, do đó Mộc khí và sự vận động có liên hệ với nhau. - Can huyết đầy đủ, gân cơ đƣợc nuôi dƣỡng tốt, vận động tốt. Can huyết kém sẽ gây các chứng tê bại, co quắp, run rẩy... - Trong cơn động kinh, co giật, các gân cơ co quắp... là dấu hiệu Mộc khí vƣợng. - Tùy biểu hiện tƣơng ứng, có thể tìm ra dấu hiệu vƣợng suy của Mộc khí ở các cơ quan Tạng phủ. Thí dụ : + Bao tử co thắt là dấu hiệu Mộc của Tỳ vƣợng. + Lƣỡi khó cử động là dấu hiệu Mộc của Tâm suy. 4. Móng tay, móng chân - Thiên ?Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận? (TVấn 5) ghi : "Hoa của Can là Trảo". (Vẻ đẹp của Can là móng) và "Ở mức đầy của Can là móng, vấu".
- Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành (TVấn 10) ghi : "Can vinh ra ở trảo". - Móng tay, móng chân (cũng nhƣ ngón tay, ngón chân), giống nhƣ những đọt lá cây, những chỗ khởi sinh, tƣơng ứng với Thiếu dƣơng, do đó, Mộc khí liên hệ với các móng tay, móng chân. Trong châm cứu, các Tỉnh huyệt luôn khởi ở đầu các ngón tay, ngón chân. - Móng tay, móng chân mềm, là dấu hiệu Mộc khí suy (hay gặp nơi ngƣời ít lao động). - Móng tay, móng chân dầy, cứng là dấu hiệu Mộc khí vƣợng (hay gặp nơi những ngƣời lao động chân tay). - Nơi ngƣời bệnh phổi, kim khí suy, không khắc đƣợc Mộc, Mộc vƣợng lên làm cho móng tay dầy lên có hình dạng khum nhƣ móng chim. - Móng chân, tay đỏ thắm, dấu hiệu của Hỏa của Can vƣợng. - Móng chân tay nhợt nhạt, dấu hiệu Hỏa của can suy. - Móng tay xanh tím, dấu hiệu Thủy của Can suy. b) Về chức năng 5. Tàng huyết Thiên Bản Thần (LKhu 8) ghi : "Can tàng huyết". - Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành (TVấn 10) ghi : "Ngƣời ta khi nằm thì huyết dồn về Can". - Mộc sinh Hỏa, do đó, Mộc khí sung mãn làm cho tuần hoàn (Tâm Hỏa) đƣợc lƣu thông tốt, máu huyết đầy đủ. - Can huyết không đầy đủ, huyết không lên trên đƣợc, gây hoa mắt, chóng mặt, gân cơ không đƣợc huyết nuôi dƣỡng gây bại xụi, mềm yếu, huyết không đủ gây kinh nguyệt ít, bế kinh... - Can khí bị kích động (cảm xúc, giận dữ...), không giữ đƣợc huyết, huyết đi lạc đƣờng gây ra hiện tƣợng xuất huyết. - Mộc khí quá vƣợng, mạch máu sẽ bị co thắt quá độ làm áp huyết gia tăng, có thể gây vỡ mạch, xuất huyết... thƣờng gặp trong các chứng tai biến Não do cao huyết áp. - Theo nhà Tâm lý học J.Lynch : Nói nhiều (biểu hiện của Mộc vƣợng) làm cho huyết áp tăng từ 10, 20 đến 50%. Khi trẻ em khóc hoặc thét, huyết áp của chúng cũng tăng. 6. Sự tức giận, phẫn nộ - Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Ở chí của Can là Nộ".
- Ngƣời thƣờng hay nổi cơn giận dữ, phẫn nộ dù nhiều khi chẳng có lý do hoặc lý do rất tầm thƣờng, là dấu hiệu của Mộc khí vƣợng. - Khi tức giận, hệ vận động bị kích thích dữ dội khiến ngƣời ta nắm tay lại, vung lên, la hét, mắt trợn, phát hung quang... đôi khi đi đến hành động tàn bạo... là dấu hiệu Mộc khi vƣợng. - Nếu Mộc khí quá vƣợng mà không phát tiết ra ngoài đƣợc qua hành động (la hét, phẫn nộ...) làm cho Hỏa và Mộc vƣợng lên, gây xuất huyết Não, nôn ra máu, xuất huyết tử cung... thƣờng gặp ở phụ nữ hậu sản vì ghen tuôn. - Theo các nhà nghiên cứu Palestine, vào mùa Xuân, số ngƣời tự sát gia tăng cao nhất. Theo họ, không phải mùa xuân gây ra thời tiết xấu, nhƣng những ngƣời bị bệnh tâm thần (biểu hiện của Tâm Hỏa) cảm thấy khó chịu hơn (mùa xuân thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa). - Quá uất giận, Mộc khí bị huy động quá độ có thể gây co cứng gân cơ lại, dân gian quen gọi là "chết sững". Trong "Đoạn trƣờng tân thanh", Từ Hải bị Hà Tôn Hiến lừa, tức quá mà chết đứng (gân cơ co rút). - Nội Kinh : "Nộ thƣơng Can". Sự giận dữ hại Can. - Khi phẫn nộ, Mộc khí bị kích thích mạnh, nhƣng sau khi sự kích thích chấm dứt. Mộc khí bị mất đi phần lớn, đƣa đến tình trạng mệt mỏi rã rời (Mộc khí suy). - Khi điều trị bệnh các bà, nhất là phụ nữ sau khi sinh, có máu ghen, dễ uất (Mộc khí vƣợng) ngƣời ta thƣờng dùng thuốc Bình Can, giải uất. - Dƣơng sinh dƣơng, sự phẫn nộ giận dữ sẽ sinh ra vô số sự giận dữ và phẫn nộ khác, Âm khắc Dƣơng, do đó muốn tiêu diệt sự giận dữ, phẫn nộ, phải Âm hóa chúng bằng cách hƣớng tinh thần về cực âm là sự bất phân tranh, sự dịu ngọt, sự hiền lành, hoặc dẫn đến những chỗ yên Tỉnh, thoáng mát, thoải mái... 5. Hay nói - Thiên Tuyên Minh Ngũ Khí (TVấn 23) ghi : "Can sinh ra chứng hay nói". - Ngƣời Mộc khí vƣợng, trong lúc tức giận thƣờng hay nói. Nói nhiều là 1 tác động làm tiêu hao Mộc khí, do đó, nếu nói đƣợc nhiều thì họ sẽ nguôi đƣợc cơn giận. Nếu không nói đƣợc, Mộc khí xung vƣợng làm Hỏa khí vƣợng theo, có thể gây xuất huyết, hôn mê thậm chí có thể chết vì tức. Trong truyện Tam quốc chí có kể : Vƣơng Lăng, quân sƣ nƣớc Ngụy bị Khổng Minh là quân sƣ nƣớc Thục thuyết phục đến nỗi tức giận không nói lại đƣợc, thổ huyết ra mà chết. - Lúc sốt cao, ngƣời ta thƣờng hay nói "sảng" là dấu hiệu của Hỏa và Mộc vƣợng (Hỏa vƣợng làm Mộc vƣợng).
- Kim khắc Mộc, Kim suy không khắc đƣợc Mộc làm Mộc vƣợng lên : Một xã hội đầy những sự buồn phiền (dấu hiệu Kim suy). Mộc khí nhân đó vƣợng lên, sinh ra chứng nói nhiều, sinh ra nhiều cuồng sĩ uất ức chửi bới. - Uống rƣợu vào mạch máu nở ra, tuần hoàn máu gia tăng ( Hỏa vƣợng) làm cho Mộc khí vƣợng theo gây ra nói nhiều, đập phá... (tửu nhập ngôn xuất). - Bác sĩ Duan Kromhout và đồng nghiệp ở đại học Leiden (thành phố Zutphen) chế tạo ra 1 máy "Giải uất". Máy này có dạng hình ống loa ở miệng những ngƣời thần kinh căng thẳng, kê miệng vào đó tha hồ mà nói, máy có bộ phận hãm thanh, không để âm thanh lọt ra ngoài, do đó cứ yên tâm mà nói. Sau 1 thời gian áp dụng, các nhà nghiên cứu nhận thấy, số ngƣời dùng máy này, cảm thấy thần kinh bớt căng thẳng ngay sau khi nói vào máy xong. 6. Tiếng la hét - Thiên ?Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận? (TVấn 5) ghi : "Tiếng của Can là tiếng hét". - Tiếng khóc của trẻ lúc mới sinh ra, tiếng ngƣời rộn rã gọi nhau lúc sáng sớm, tiếng hót kêu của các loại chim... là dấu hiệu Mộc khí phát động. - Để bắt đầu làm 1 công việc gì, thƣờng ngƣời ta hô lên : Nào một, hai, ba... - Lúc quá giận dữ, ngƣời ta thƣờng hét to lên, biểu hiện của Mộc khí phát động cùng độ, gân cơ bị kích thích đến độ khẩn trƣơng khiến ngƣời ta làm đƣợc nhiều việc phi thƣờng, kể cả những việc tàn bạo. - Ngƣời bệnh hay bực dọc, kêu la, bất bình là dấu hiệu của Mộc khí vƣợng. - "Vật cùng tắc phản, âm quá hóa dƣơng, dƣơng quá hóa âm, sau sự kích thích tối đa, Mộc khí trở nên hao hụt dẫn đến tình trạng mỏi mệt rã rời. 7. Sự nắm tay - Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Ở sự biến động của Can là nắm, níu". - Can chủ vận động, Mộc khí bị kích thích, ngƣời bệnh thƣờng nắm tay lại (hay gặp nơi ngƣời bị sốt cao, bị kích thích mạnh, giận dữ...). - Khi giận dữ quá độ (Mộc khí bị huy động quá) tình cảm biến thành hành động, khiến ngƣời ta nắm tay lại hoặc bóp cổ địch thủ. - Để biểu lộ quyết tâm hành động, ngƣời ta thƣờng nắm tay lại và vung lên. Thề hứa làm việc gì, ngƣời ta cũng nắm tay lại và vung lên. - Ngƣời Mộc khí sung mãn thƣờng có 1 cách bắt tay mạnh mẽ, nồng nàn, thân thiết. Ngƣợc lại,
ngƣời Mộc khí suy kém thƣờng bắt tay 1 cách rụt rè, ơ hờ. c) Về Ngoại Giới 8. Sắc Xanh - Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Sắc của Can là sắc xanh". - Mô tả mùa xuân, Nguyễn Du trong "Đoạn Trƣờng Tân Thanh" ghi : "Cỏ non xanh tận chân trời". - Sắc xanh của ngƣời chính là sắc xanh của Tĩnh mạch dƣới da, do đó, Tĩnh mạch có liên hệ với Mộc khí. - Tĩnh mạch trƣơng nở, máu huyết lƣu thông trì trệ là dấu hiệu Mộc khí suy yếu. - Mửa ra chất xanh là dấu hiệu Mộc của Tỳ vƣợng. - Ho ra đờm xanh là dấu hiệu Mộc của phế vƣợng. - Màu xanh bóng, sáng là dấu hiệu Mộc khí sung mãn, trái lại màu xanh tối đục là dấu hiệu Mộc khí suy kém. - Ở bệnh viện Axiaphânphao (Cộng Hòa Dân Chủ Đức), ngƣời ta thấy rằng ngƣời đang khỏi bệnh bao tử loét, dần dần trở nên xa lánh màu xanh lục (màu xanh thuộc Can Mộc, Can Mộc khắc Tỳ Thổ gây nên chứng bao tử loét, do đó, khi Thổ khỏe mạnh lên, sợ sắc của Mộc). - Theo tạp chí Quid, năm 1984, những ngƣời có mụn nhọt đã đóng vẩy thì vảy sẽ bay nhanh nếu tiếp xúc luôn với màu xanh. - Tại Mỹ, tính đến tháng giêng năm 1986, đã có gần 30.000 trẻ sơ sinh mắc bệnh vàng da (do thừa nhiễm sắc tố mật - dấu hiệu của Thổ vƣợng) đã đƣợc chữa khỏi bằng cách tắm ánh đèn màu xanh da trời (màu xanh là màu của Can, Can Mộc khắc Tỳ Thổ). 9. Vị chua Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Vị của Can là vị chua" - Thiếu dƣơng, mùa xuân là mùa cây trái mới trổ, chƣa chín, còn chua. - Nôn ra nƣớc chua là dấu hiệu Mộc của Tỳ vƣợng. - Lƣỡi cảm thấy chua là dấu hiệu Mộc của Tâm vƣợng. - Muốn cho thuốc đi vào (quy kinh) Can, ngƣời ta thƣờng tẩm thuốc với dấm (vị chua).
9. Phong khí - Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Bệnh của mùa xuân là bệnh của Phong". - Theo sách Y Tông Kim Giám : trên trời là phong, dƣới đất là Mộc, ở ngƣời là Can, ở thể là cân. - Phong khí có thể kết hợp với các tà khí khác gây ra Phong hàn (cảm lạnh), Phong nhiệt (cảm sốt)... - Phong khí thông với Can khí vì thế nên phong khí gây bệnh đều ảnh hƣởng đến Can Mộc. - Nội Kinh : "Can ố Phong" và "Phong thƣơng Can" (Can không thích gió và gió làm tổn hại Can). - Tiến sĩ Felix Sulman, khoa sinh khí hậu học (Bioclimatologie) đại học Hadassah (Giêrusalem) nhận thấy : + Một số ngƣời cho rằng, họ thấy khó chịu và căng thẳng, rất dễ giận dữ khi có gió to (Phong khí làm Mộc khí phát động). + Gió có thể làm cho 1 số ngƣời đang bệnh, ban đêm không ngủ đƣợc. (Can tàng huyết, ban đêm huyết trở về Can, nay Mộc khí phát động, Can khí vƣợng lên, không tàng đƣợc huyết, gây khó ngủ). + Ở những vùng thƣờng có gió mạnh thƣờng xảy ra nhiều tai nạn xe hơi khi gió đó thổi tới. Trong thời kỳ có gió ấy, cũng thƣờng xảy ra nhiều vụ tội phạm hơn, thậm chí có 1 số đi đến tự sát. (Mộc khí sinh Hỏa, Mộc khí gia tăng sự hoạt động). - Mộc khí là nguồn năng lực của cơ thể để kháng lại với gió (Phong khí) gặp gió nhiều, Mộc khí sẽ bị suy yếu (mất sự đề kháng) sẽ gây bệnh. - Ngƣời sợ gió là ngƣời có Mộc khí suy yếu. - Can khí bất thƣờng, Mộc khí gia tăng làm phong khí khởi phát sinh ra chứng Can phong nội động gây lác mắt, miệng méo, chân tay run giật ... - Nơi ngƣời Mộc khí suy, sẽ thấy dễ chịu vào buổi sáng, mùa xuân (thời điểm của Mộc khí vƣợng) và khó chịu vào buổi chiều, mùa thu (thời điểm của Mộc khí suy). - Nơi ngƣời Mộc khí vƣợng sẽ thấy khó chịu vào buổi sáng, mùa xuân (thời điểm Mộc khí vƣợng) và dễ chịu vào buổi chiều, mùa thu (thời điểm Mộc khí suy). HỎA KHÍ (trích từ http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/)
A.- ĐẠI CƢƠNG - Phƣơng nam, mùa hè, buổi trƣa là biểu hiện của Thái dƣơng (theo đồ Thái cực). Tính chất rõ rệt nhất của Thái dƣơng là Nhiệt khí. Ở ngƣời đƣợc gọi là Hỏa khí. - Theo A. Reinberg, trong "La Nouvelle Presse Médicale" tập 2, số 5, ngày 3-2-1973 thì các cực số liên hệ đến những trƣờng hợp tử vong vì Tim và huyết mạch đều ở trong khoảng tháng tƣ, năm, sáu (thời điểm của mùa hè) tƣơng ứng của Thái dƣơng, hỏa khí, do đó, mùa hè và Hỏa khí có liên hệ với nhau. - Tạp chí Y học Liên Xô "Kochmicheskaia Biologia I Meditsima" số 1, năm 1972 ghi : " Trong ngày đêm, trên máy ghi biểu đồ tiếng Tim, tính động lực của mạch và phƣơng diện chu kỳ biên độ đạt mức tối đa giữa khoảng 11-13g (giờ Ngọ, giữa trƣa, cao điểm của Thái dƣơng, đồng thời là giờ vƣợng của Tâm kinh, do đó, buổi trƣa và Hỏa khí có liên hệ với nhau. B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA HỎA KHÍ a) Về cơ thể 1. Lƣỡi và vị giác - Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Tâm khai khiếu ở lưỡi". - Lƣỡi thƣờng thƣờng có sắc đỏ, biểu hiện Hỏa khí 1 cách rõ rệt. - Lƣỡi lở, dộp, nứt nẻ, viêm (sƣng)... là dấu hiệu Hỏa của Tâm vƣợng. - Tùy theo màu sắc của lƣỡi, có thể suy ra tình trạng vƣợng suy ngũ hành của Tâm. - Lƣỡi hồng nhạt là dấu hiệu Hỏa của Tâm suy. - Lƣỡi xanh tối là dấu hiệu Mộc của Tâm suy. - Lƣỡi vàng tối là dấu hiệu Thổ của Tâm suy. - Lƣỡi đen bẩn là dấu hiệu Thủy của Tâm suy. - Miệng có vị đắng (lƣỡi đắng) là dấu hiệu Hỏa của Tâm vƣợng. - Miệng có vị chua là dấu hiệu Mộc của Tâm vƣợng. 2. Mồ hôi - Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí" (TVấn 23) ghi : "Mồ hôi là dịch của Tâm". - Khi trời nóng, lúc bị sốt, thƣờng thấy có hiện tƣợng xuất mồ hôi, do đó, Hỏa khí và mồ hôi có
liên hệ với nhau. Mồ hôi là Thủy dịch dùng để chế ngự Hỏa khí. - Sốt mà có mồ hôi là dùng hiệu tốt : Thủy khí còn vững mạnh để chống lại với nhiệt tà. - Sốt mà không có mồ hôi là dấu hiệu nhiệt tà mạnh hơn chính khí. - Khi bị cảm, sốt nóng, không ra đƣợc mồ hôi, ngƣời ta dùng nồi xông cho đổ mồ hôi để ức chế nhiệt tà, ngƣời ta sẽ bớt sốt. - Không nóng sốt mà xuất mồ hôi (Mồ hôi lạnh hay gặp ở những ngƣời thần kinh suy nhƣợc) là dấu hiệu Thủy của Tâm suy. - Tự ra mồ hôi (tự hãn) hoặc ra mồ hôi ban đêm (mồ hôi trộm, đạo hãn) là dấu hiệu Thủy của Tâm suy. 3. Chủ thần minh - Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí" (TVấn 23) ghi : "Tâm tàng thần". - Thiên " Thiên Niên" (LKhu 54) ghi : "Còn Thần thì sống, mất thần thì chết", tuần hoàn còn thì sống, tuần hoàn ngƣng thì chết, do đó Tâm và thần có liên hệ với nhau. - Với ngƣời bệnh : ngƣời có thần, biểu hiện bằng nét mặt tƣơi sáng, ánh mắt nhanh nhẹn, nói cƣời đứng đắn, ý tƣởng phân minh thì bệnh có chiều hƣớng tốt, dễ điều trị. Ngƣợc lại, gọi là hiện tƣợng mất (thất) thần, dấu hiệu của bệnh trầm trọng, nguy hiểm. - Tinh thần căng thẳng, thần trí bị xúc động sinh ra hoạt náo, nóng nẩy, hằn học, lăn lộn, mất ngủ, nằm ngồi không yên, kích động, phá phách mọi ngƣời chung quanh (điên cuồng). - Tâm trí suy nhƣợc, Thần không có chỗ dựa, ngƣời bệnh sinh ra ngớ ngẩn, hay quên, lo lắng, hồi hộp, sợ hãi thất thƣờng. - Vẫn bác sĩ tại Massachusetts, sau khi nghiên cứu 1.000 ngƣời cho thấy; sự căng thẳng tinh thần có thể gây đau tim. Khi thí nghiệm, những ngƣời này đƣợc gặp những tình trạng nhân tạo tƣơng tự các trƣờng hợp gây sự căng thẳng tinh thần trong đời sống hằng ngày của họ. Điều đáng chú ý là những ngƣời này trông có vẻ khỏe mạnh và điềm Tỉnh trong suốt thời gian trắc nghiệm. Nhƣng sau đó sự căng thẳng tinh thần đã gây ra 1 số tai nạn trong tim và huyết quản của họ. Một số ngƣời tim bắt đầu bơm mạnh hơn và với một số ngƣời khác thì tim lại bơm máu ít hơn. Ở một số ngƣời, huyết quản nở ra, số khác lại co vào làm tăng huyết áp. Trƣờng hợp nặng hơn, áp huyết lên cao và Tim bơm thêm máu vào nhƣng huyết quản lại co lại và trở thành nhỏ hẹp hơn giới hạn sự lƣu thông của máu làm tim phải làm việc rất mệt để đẩy máu vào động mạch. 4. Phát nhiệt -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Phƣơng Nam sinh nhiệt".
- Viêm nhiệt là dấu hiệu Hỏa vƣợng. - Tùy theo vùng và vị trí phát nhiệt, có thể suy ra dấu hiệu Hỏa vƣợng. + Phát nhiệt ở vùng Tâm là dấu hiệu Hỏa của Tâm vƣợng. - Sờ đầu mặt, trán, ngực thấy nóng là dấu hiệu Hỏa ở Biểu của Tâm vƣợng. - Nóng trong đầu, cảm thấy nóng trong ngực... nhƣ dấu hiệu Hỏa ở lý của Tâm vƣợng. + Phát nhiệt ở vùng Thận (lƣng nóng, lòng bàn chân nóng...) là dấu hiệu Hỏa của Thận vƣợng. + Phát nhiệt ở vùng Can (Mắt sƣng đỏ, đau...) là dấu hiệu Hỏa của Can vƣợng. + Phát nhiệt ở vùng Tỳ (Miệng lở, môi nứt...) là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vƣợng. 5. Tâm chủ huyết -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Ở thể của Tâm là mạch". - Xung huyết liên hệ mật thiết với sự phát nhiệt, do đó, huyết mạch và hỏa khí có liên hệ với nhau. - Xung huyết, xuất huyết là dấu hiệu Hỏa khí vƣợng. - Tùy vùng xung huyết hoặc xuất huyết, có thể biết đƣợc tình trạng Hỏa khí ở vùng nào gia tăng. + Xuất huyết não, đau bƣng cả đầu là dấu hiệu Hỏa của Tâm vƣợng. + Xuất huyết đáy mắt là dấu hiệu Hỏa của Can vƣợng. + Xuất huyết bao tử là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vƣợng. + Xuất huyết Phổi là dấu hiệu Hỏa của Phế vƣợng. + Xuất huyết đƣờng tiểu là dấu hiệu Hỏa của Thận vƣợng. 6. Sự vui mừng -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Ở chí của Tâm là vui mừng (Hỷ)". - Khi ngƣời ta gặp điều gì vui mừng, Hỏa khí bùng lên, da mặt đỏ, hồng, mạch nhảy nhanh hơn, Tim đập mạnh hơn... do đó, sự vui mừng và Hỏa khí có liên hệ với nhau. - Sự vui mừng do ngoại giới đƣa đến, làm Hỏa khí bùng lên, Tâm khí biến đổi theo 2 giai đoạn :
+ Giai đoạn đầu : Tâm Hỏa vụt mạnh lên, vì bị huy động (cƣời hả hê, mặt hồng hào hoặc đỏ bừng, tim đập nhanh). + Giai đoạn hai : Tâm Hỏa suy yếu, vì bị kích thích, (mặt nhợt nhạt, vã mồ hôi, lạnh ngƣời trụy mạch, tim đập chậm, yếu... + Nhiều ngƣời bất ngờ trúng số độc đắc, quá vui mừng (Tâm Hỏa bùng lên) có thể ngất hoặc chết (Tâm Hỏa suy). - Nhƣ vậy có 2 hình thức vui mừng : + Vui mừng do ngoại giới đƣa đến, làm cho Tâm Hỏa chỉ bùng lên một thời gian rồi bị suy yếu, đó là nguyên nhân lớn lao của sự đau khổ. + Vui mừng của những ngƣời hiền triết, của các nhà cách mạng là sự vui mừng biết làm chủ đƣợc mình, không bị ngoại cảnh chi phối, sự vui mừng làm cho tâm hồn thoải mái, đem lại vui tƣơi, hạnh phúc. 7. Tiếng cƣời -Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Tiếng của Tâm là tiếng cƣời". - Trong các buổi tiệc, hoàn cảnh náo nhiệt, vui mừng, hội hè, say sƣa, tiếng cƣời luôn nổi bật. - Rƣợu uống vào, kích thích Hỏa khí làm ngƣời ta cƣời. - Nơi ngƣời điên dạng hƣng phấn, Hỏa khí vƣợng lên, làm ngƣời đó cƣời luôn miệng. - "Tâm tàng thần", nếu Tâm suy kém, không tàng đƣợc thần ( Trong trƣờng hợp bệnh về não, bệnh tâm thần) ngƣời ta không làm chủ đƣợc tiếng cƣời, có khi mất hẳn nụ cƣời. - Nếu ta thƣờng xuyên có những nụ cƣời thoải mái, chân thành, ta sẽ luôn vui mừng cƣờng tráng. - Theo giáo sƣ Uphrai, đại học Standford (Mỹ) và các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha, khi cƣời thoải mái nhất, các cơ ngực khỏe ra, và tim đƣợc vận động tốt. Vì thế ngƣời ta vẫn thƣờng ví : "Nụ cƣời là liều thuốc bổ". b) Về Ngoại Giới 8. Sắc đỏ -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Sắc của Tâm là sắc đỏ". - Sắc của các chứng viêm nhiệt, xung huyết là sắc đỏ. - Tùy theo vị trí có sắc đỏ, có thể biết đƣợc trạng thái viêm nhiệt, xung huyết của các cơ quan
tạng phủ tƣơng ứng. + Lƣỡi đỏ là dấu hiệu Hỏa của Tâm vƣợng. + Mắt đỏ là dấu hiệu Hỏa của Can vƣợng. - Giáo sƣ Halôtunônfat, đại học Abôđôn (Canada) cho biết, trong môi trƣờng có nền là ánh sáng đỏ, nhịp tim và huyết áp ngƣời tăng thêm 17%. - Bệnh viện Berlin (CHDC Đức) nghiên cứu qua 3.000 ngƣời và nhận thầy là những ngƣời bệnh về chức năng Tim đều khó chịu với màu đỏ. - Mac Luyxiê, nhà tâm lý học Thụy Sĩ cho rằng : ngƣời bệnh Tim theo bản năng đã cự tuyệt trƣớc màu đỏ, một màu có tính kích thích, gây nguy hại cho Tim của họ. - Da đỏ, biểu hiện Hỏa khí vƣợng, các dân tộc da đỏ thƣờng biểu hiện Hỏa khí của mình bằng sự vui mừng nhẩy múa, hò hét rất cuồng nhiệt. 9. Hỏa khí và Nhiệt khí -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Nhiệt sinh Hỏa". - Sách Y Tông Kim Giám ghi : "Trên trời là Nhiệt, dƣới đất là Hỏa, ở ngƣời là Tâm, ở Thể là mạch". - Hỏa khí và Nhiệt khí thông với Tâm, do đó, các bệnh về Hỏa khí và nhiệt khí đều liên hệ với Tâm. - Hỏa khí ở ngƣời là khả năng đề kháng lại với nhiệt khí bên ngoài. Khi gặp Nhiệt khí, Hỏa khí bị kích thích, xung vƣợng để rồi sau đó bị suy yếu. Nếu Hỏa khí bị xung động thái quá, sẽ suy kiệt 1 cách đột ngột, dễ rơi vào trạng thái mất đề kháng gây ra trúng nắng, say nóng... - Hỏa khí ứng với Thái dƣơng, Phƣơng Nam, Mùa hè buổi trƣa, nên cũng vƣợng lên trong không gian và thời gian trên. - Ở ngƣời Hỏa vƣợng, bệnh trở nên trầm trọng vào buổi trƣa, mùa hè (là thời điểm Hỏa vƣợng). - Với chứng Hỏa suy, bệnh thuyên giảm vào buổi sáng và trƣa (thời điểm của Thiếu dƣơng và Thái dƣơng). (Xem Tiếp Tử vi dƣới mắt Nghiệp quả bài 4.3)
Nguồn Gốc Ngũ Hành 3
(Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.3) KIM KHÍ (trích từ http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/) A.- ĐẠI CƢƠNG - Phƣơng Tây, mùa Thu, buổi chiều tối là biểu hiện của Thiếu âm (theo đồ Thái cực). - Kim khí là nguồn năng lực phát xuất từ Thiếu âm. B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA KIM KHÍ a) Về cơ thể 1. Mũi và Khứu giác -Thiên "Ngũ Duyệt Ngũ Sứ" (LKhu 32) ghi : "Phế khai khiếu ở mũi, Phế khí thông lên mũi". - Mũi là cửa của bộ hô hấp, nên có liên hệ đến Kim khí. - Lông mũi là Thủy của Phế. Lông mũi dầy, dậm là dấu hiệu Thủy của phế vƣợng. Lông mũi ít, thƣa là dấu hiệu Thủy của Phế suy. - Mạch máu ở mũi là biểu hiện Hỏa của Phế, do đó, mũi nóng đỏ, sƣng, chảy máu mũi là Hỏa của Phế vƣợng. - Gân cơ ở mũi là biểu hiện Mộc của Phế, nơi ngƣời viêm, lao phổi... Kim suy khắc đƣợc Mộc khiến Phế Mộc vƣợng lên, làm cánh mũi phập phồng (có thể dựa vào dấu hiệu này để chẩn đoán bệnh về Phế 1 cách chính xác). - Cơ nhục là dấu hiệu của Thổ, trong mũi mọc thịt dƣ sau khi viêm là dấu hiệu Thổ của Phế vƣợng. (Hỏa sinh Thổ). - Khứu giác có liên hệ đến mũi : Mũi hoàn hảo, có khả năng phân biệt đƣợc mùi vị 1 cách chính xác và hoàn hảo. Một số dân tộc thiểu số có khả năng phân biệt đƣợc mùi vị của từng loại vật vừa đi qua. - Mũi bị rối loạn, (viêm nhiễm, có tật...) ảnh hƣởng đến khứu giác, làm khứu giác giảm, có khi không còn cảm giác, mùi vị gì. - Các chuyên gia Đại Học Tổng Hợp Pensylvania (Mỹ) điều tra 1955 ngƣời từ 5-99 tuổi cho thấy : lứa tuổi từ 20-40 (thời gian vƣợng của Thiếu âm Kim khí) có khứu giác nhạy hơn cả. Tuổi 65-80 (thời gian Thiếu âm và Thái âm suy) hầu nhƣ mất khả năng phân biệt mùi đến 1/4. 2. Nƣớc mũi - Thiên Tuyên Minh Ngũ Khí (TVấn 23) ghi : "Nƣớc mũi là dịch của Phế". - Mũi có liên hệ đến hô hấp, nƣớc là biểu hiện của Thủy dịch, do đó, nƣớc mũi là dấu hiệu Thủy của Phế. - Sổ mũi, nƣớc mũi nhiều và trong là dấu hiệu Thủy của Phế suy. - Vào mùa đông, buổi sáng khí lạnh, đi mƣa về lạnh làm thủy khí suy ngƣời ta hay bị sổ mũi. 3. Họng, Thanh quản, Giọng nói (âm thanh) - Thiên Ngũ Duyệt Ngũ Sứ (LKhu 32) ghi : "Phế chủ âm thanh". - Họng là 1 phần của bộ hô hấp, nơi đây có thanh quản, tuyến Amidal, Vòm họng... đều chịu sự chi phối các khí của Phế. - Họng, Amidal sƣng, lở loét... là dấu hiệu Hỏa của Phế vƣợng. - Thanh quản bị viêm, các dây rung phát âm sƣng, gây ra khan tiếng là dấu hiệu Hỏa của Phế vƣợng (làm Mộc vƣợng gây co rút thanh quản làm khản tiếng).
- Khi phải la hét, nói nhiều, Mộc khí bị huy động quá, sau đó suy sụp làm khản tiếng, tắc tiếng là dấu hiệu Mộc của Phế suy. - Ngƣời Mộc khí vƣợng thƣờng nói lớn tiếng, âm thanh mạnh, do đó, qua giọng nói, không những biết đƣợc phần nào tình trạng của Phế khí mà còn biết đƣợc phần nào nội lực dựa trên đặc tính của âm thanh. - Tiếng la hét thuộc Can, ngƣời có tiếng hét to, vang là ngƣời có Mộc khí của Can vƣợng. - Tiếng la yếu, khàn là dấu hiệu Mộc của Can suy. - Tiếng cƣời thuộc Tâm, cƣời vang , to... là dấu hiệu Mộc của Tâm vƣợng. - Tiếng hát thuộc Tỳ, tiếng khóc thuộc Phế, tiếng rên thuộc Thận... có thể dựa vào cƣờng độ to nhỏ, mạnh yếu để chẩn đoán đƣợc tình trạng vƣợng suy của các tạng phủ liên hệ. 4. Tuyến giáp - Quanh vùng tuyến giáp có những cơ quan liên hệ mật thiết với chức năng hô hấp, gọi là xoang cảnh, rất nhạy cảm với các biến thiên của áp lực không khí và tuyến cảnh phản ứng rất mẫn cảm mỗi khi hóa tính không khí, do đó, giữa tuyến giáp và phế khí có liên hệ với nhau vì "Phế chủ hô hấp". - S. Herbute và 2 cộng sự viên thuộc nhóm sinh học Montpeellier ngày 22-1-1972 đã công bố kết quả : Hoạt động tuyến giáp đến độ tối đa giữa 2-3g sáng là giờ của Phế khí vƣợng (giờ Dần từ 35g) do đó, tuyến giáp và Phế có liên hệ với nhau. - Bƣớu cổ đơn thuần (tuyến giáp suy) là dấu hiệu Thổ của Phế suy. Bƣớu cổ lồi mắt (BASEDOW, tuyến giáp cƣờng) là dấu hiệu Thổ của Phế vƣợng. 5. Da lông - Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí" (TVấn 23) ghi : "Phế chủ da lông (Bì mao)". - Da lông là phần trực tiếp tiếp xúc với không khí (Kim khí) do đó, giữa da lông và kim khí có sự liên hệ với nhau. - Theo Eaton : Da lông và tóc ở ngƣời mọc rất nhanh vào các tháng 7, 8 và nhanh nhất vào tháng 9 (tức vào mùa thu, là mùa kim khí vƣợng), do đó, giữa lông tóc và Kim khí có sự liên hệ với nhau. - Da khô, viêm, nóng, xuất huyết dƣới da là dấu hiệu Hỏa của Phế vƣợng. - Cơ nhục của da phì đại (bƣớu, mô mỡ...) là dấu hiệu Thổ của Phế vƣợng. - Khi tức giận Mộc khí gia tăng làm cho lông tóc dựng lên là dấu hiệu Mộc của Phế vƣợng. - Lông tóc là biểu hiện Thủy của Phế, vì thế lông măng xanh nhiều là dấu hiệu Thủy của Phế vƣợng, ngƣợc lại, ít lông, lông khô, rụng là dấu hiệu Thủy của Phế suy. + Da trắng đục, trắng bạch là dấu hiệu kim khí suy. Ngƣời có nƣớc da này hay buồn hay lo (thƣờng gặp nơi ngƣời lao phổi). Những vần thơ, khúc bi kịch não nề nhất, những chuyện tình sử thảm thƣơng nhất nhƣ : Roméo Juliette, chuyện tình Love Story... đều xuất phát từ dân tộc da trắng. b) Về chức năng 6. Hơi khí - Nội Kinh : "Bao nhiêu khí đều thuộc về Phế". - Tính chất của thiếu âm là bốc hơi, liên hệ đến thể hơi, khí. - Tùy theo biểu hiện suy vƣợng của hơi, khí ở vùng nào, có thể suy đoán bệnh ở vùng ấy. + Tức hơi trong phổi là dấu hiệu kim của Phế suy. + Tức hơi dội lên phía trên là dấu hiệu kim của Tâm suy. + Tức hơi vùng bụng là dấu hiệu kim của Tỳ suy. + Tức hơi vùng bụng dƣới là dấu hiệu kim của Thận suy. 7. Hô hấp
- Thiên "Ngũ Tạng Sinh Thành" (TVấn 10) ghi : "Phế chủ hô hấp". - Cơ năng hô hấp liên hệ đến không khí, do đó chịu sự chi phối đặc biệt của kim khí. - Cơ năng hô hấp có nhiệm vụ trao đổi khí : hít thanh khí vào và thải trọc khí (khí dơ, xấu ra). + Thở vào : Đƣa không khí từ ngoài vào (tức từ Biểu vào Lý) là dấu hiệu Mộc của Phế ở Biểu (tức là liên hệ đến Mộc của đại trƣờng) chính nhờ Mộc của Phế ở Biểu làm cho bắp thịt, lồng ngực nâng lên, gia tăng thể tích lồng ngực, làm không khí vào phổi. Phổi thở vào khó khăn, hơi không đầy phổi là dấu hiệu Mộc của Đại trƣờng suy. + Thở ra : Đẩy không khí từ trong ra ngoài tức là từ Lý ra Biểu là biểu hiện Mộc đó Phế ở Lý. Mộc khí này liên hệ với cơ năng của cơ hoành và các cơ bụng, làm thể tích lồng ngực thu hẹp, đẩy không khí ra, làm thở ra. Ngƣời bệnh thở ra dồn dập (nhƣ trong bệnh suyễn, Tâm phế mãn... là dấu hiệu Kim của Phế suy làm Mộc vƣợng lên, gây ra suyễn, khó thở. + Thở dốc : Ngƣời bị xuất huyết nhiều, khí huyết hao hụt, Phế kim suy kiệt làm Mộc của Phế vƣợng lên gây nên thở nhanh và gấp trong giai đoạn đầu (biểu hiện qua cánh mũi phập phồng) và khí Mộc của Phế bị huy động quá trở nên suy thì ngƣời bệnh lại thở yếu, thở dốc trong giai đoạn sau. - Theo "FAMILY SAFETY" của Canada, tại Hiệp hội về môn học bệnh phổi ở Mỹ các nhà nghiên cứu thông báo : uống 1 ly rƣợu hoặc nƣớc giải khát có pha rƣợu trƣớc khi đi ngủ có thể có những hậu quả đáng tiếc với việc hô hấp trong lúc ngủ. Số ngƣời uống rƣợu, 1 số bị 110 lần ngƣng thở, ít nhất mỗi lần trong 10 giây, còn không uống rƣợu khi đi ngủ thì chỉ bị có 20 lần ngƣng thở (uống rƣợu vào làm Hỏa vƣợng, ban đêm thuộc Thái âm, Thủy suy, Thủy suy làm Hỏa bùng lên mạnh hơn, Hỏa khắc kim, gây ra ngƣng hô hấp). - Nữ tiến sĩ tâm lý học S. Harx, Trƣờng đại học Newyork cho rằng hô hấp và tính cách có liên hệ với nhau. + Ngƣời hô hấp sâu và chậm (kim khí sung mãn, đầy đủ) thì tính tình thƣờng kiên định, kiên quyết, thích mạo hiểm, suy nghĩ và hành động nhanh nhẹn biết cách sắp xếp cuộc sống riêng mình (dấu hiệu Thủy khí sung mãn, do kim sinh Thủy). + Ngƣời hô hấp nhanh và nông (dấu hiệu kim suy) thì tính tình thƣờng hay ngƣợng nghịu, hiền lành, nhút nhát, rụt rè, sống quen dựa vào ngƣời khác (dấu hiệu Thủy suy, kim suy làm Thủy suy). 9. Ho -Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Ở sự biến động của Phế là ho". - Ho là 1 tác động ly tâm(từ trong ra ngoài tức từ lý ra biểu) nhằm mục đích đƣa hơi thở, đàm nhớt... từ trong ra ngoài, có liên hệ đến Mộc của Phế. Trên lâm sàng thƣờng gặp 2 loại Ho : + Ho khan (khái) : Ho không có mục đích loại đờm nhớt là dấu hiệu Mộc của phế vƣợng. + Ho đàm (khái thấu) : Tiếng ho có kèm theo sự thải trừ đàm nhớt ra ngoài cũng là dấu hiệu Mộc của phế. - Theo Colome vào lúc sáng sớm (cuối giấc ngủ) lúc đó máu tụ lại trong phổi làm gây nên các cơn ho buổi sáng sớm nơi ngƣời bị viêm phổi (Hỏa vƣợng làm Mộc vƣợng - buổi sáng là thời điểm Mộc khí vƣợng). 9. Hen suyễn - Theo Reinberg, cơn hen suyễn thƣờng gặp cao điểm nhất từ 24-4g tức là lúc phế khí thịnh (giờ Dần 3-5g) nhƣ vậy giữa suyễn và phế khí có liên hệ mật thiết. - Thiên "Bản Thần" (LKhu 8) cũng ghi : Khí nghịch lên gây ra chứng suyễn, cũng theo Nội Kinh : ' Phế chủ khí, Thận nạp khí?, do đó suyễn cũng liên hệ với Thận. - Theo Frank, thời gian cơn hen suyễn trùng hợp với thời gian bài tiết Cocticoit ra nƣớc tiểu
xuống tới mức thấp nhất, do đó giữa suyễn và Thận có mối liên hệ với nhau. - Phân tích 1 cơn suyễn ta thấy : Suyễn một hợp chứng gồm 5 triệu chứng : + Tức trƣớng trong phổi, khó thở là dấu hiệu kim của Phế suy. + Đờm tiết ra nhiều là dấu hiệu Thổ của Phế suy. + Nhớt ra nhiều, nghe tiếng phổi thấy ran ẩm là dấu hiệu thủy của Phế suy. + Khí quản co thắt, thở dồn dập, nghe phổi thấy tiếng rít là dấu hiệu Mộc của Phế vƣợng. + Khí quản viêm là dấu hiệu Hỏa của Phế vƣợng. Hội chứng này là do Kim suy làm Thủy suy (Tƣơng sinh), Thổ suy (Phản sinh), Mộc vƣợng (Tƣơng vũ), Hỏa vƣợng (Tƣơng thừa). - Theo các nhà khoa học màng nhày của khí quản và cuống Phổi dễ nhạy cảm bởi không khí ô nhiễm vì đủ loại... Sự nhạy cảm đó gây ra co rút (Mộc vƣợng) làm ho hoặc suyễn. (Kim suy) : Tạp chí Nature ngày 23-3-1983 công bố 1 kết quả cho thấy chất Capsaicin chất cay của ớt (cay thuộc Kim) có tính làm cho màng nhày bớt nhạy cảm (Kim khắc Mộc), có thể dùng để trị chứng phù của màng nhày (Kim sinh Thủy) của những ngƣời có khí quản nhạy cảm (Mộc vƣợng) và ngƣời bị suyễn (Kim suy). 10. Đàm - Đàm là chất bài tiết rà bộ hô hấp, do đó có liên hệ đến Phế. - Tùy theo tính chất và màu sắc của đàm, có thể đoán biết sự rối loạn bệnh lý từ đâu. + Đàm có lẫn máu, đàm khô quánh là dấu hiệu Hỏa của Phế vƣợng. + Đàm có màu xanh (hay gặp nơi ngƣời ho nhiều do cảm nhiễm), dấu hiệu Mộc của Phế vƣợng. + Đàm màu vàng đặc, (hay gặp trong trƣờng hợp hội nhiễm tụ cầu), dấu hiệu Thổ của Phế vƣợng (tăng cƣờng Thổ khí chống lại môi trƣờng ẩm thấp, là môi trƣờng tạo nên các tụ cầu khuẩn). + Đàm trong, loãng và nhiều dấu hiệu thủy của Phế suy. 11. Buồn sầu - Lo âu -Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Chí của Phế là ƣu (lo âu)". - Nơi Đồ Thái cực, Thiếu âm Kim khí là trung gian của sự vui mừng quá độ (Thái dƣơng) đã chấm dứt và sự sợ hãi chết chóc (Thái âm) sắp bắt đầu. Giữa 2 trạng thái này, con ngƣời đâm ra lo âu, buồn sầu, buồn cho cái vui đã qua và lo cho cái tàn tạ sắp đến. - Mùa thu, cây cối thay lá, lúa mùa chín tới chờ gặt... làm cho lòng ngƣời cũng vì thế mà buồn. - "Ƣu thƣơng Phế" (sự lo âu hại Phế) : Những nguyên nhân bên ngoài gây sự lo buồn làm Kim khí suy và ngƣợc lại ngƣời Kim khí suy thì hay buồn. - Để biểu hiện sự buồn rầu về cái chết trong tang chế. Ngƣời Á Đông thƣờng dùng tang phục, khăn tang, vải liệm... màu trắng (Sắc trắng là sắc của Kim). c) Về ngoại giới 12. Kim khí và Táo khí -Thiên Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Táo sinh Kim". - Y Tông Kim Giám : "Trên trời là Táo, dƣới đất là Kim, ở ngƣời là Phế, ở thể là Bì". Kim khí thông với Phế khí, do đó, các bệnh do Táo khí gây ra đều thuộc về Phế Kim. - Triệu chứng của Táo là khô cổ, khát nƣớc, bón, tiểu ít, da khô, tróc vẩy, Tân dịch hao hụt... - Thiếu âm ứng với phƣơng Tây, buổi chiều tối, mùa thu là thời điểm Táo khí vƣợng lên, Kim khí ở ngƣời cũng theo đó vƣợng lên. - Ngƣời Kim khí suy, sẽ dễ chịu vào buổi chiều tối, mùa Thu (là thời điểm Kim khí vƣợng) và nặng hơn (khó chịu hơn) vào buổi trƣa, mùa hè là thời điểm của Hỏa khí vƣợng (Hỏa khắc Kim). THỔ KHÍ (trích từ http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/)
A.- ĐẠI CƢƠNG - Nơi đồ Thái cực, Thổ nằm ở giữa (trung ƣơng), là nơi kết tụ tinh hoa của thức ăn rồi phân phối cho toàn cơ thể. - Trong thiên nhiên, đất đai đƣợc ví nhƣ Thổ khí, là nguồn nuôi sống tất cả sinh vật, là Mẹ của muôn vật. B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA THỒ KHÍ a) Về cơ thể 1. Miệng môi - Thiên "Ngũ Duyệt Ngũ Sứ" (LKhu 32) ghi : "Tỳ khai khiếu ở miệng". Thiên Ngũ Tạng Sinh thành? (TVấn 10) ghi : "Tỳ Vinh nhuận ra ở môi". - Trong hình Thái cực, miệng ở vùng giữa, thuộc Tỳ Thổ. - Tùy theo dấu hiệu màu sắc, có thể biết đƣợc trạng thái bệnh của các cơ quan tạng phủ liên hệ. + Môi dầy, tốt, đầy đặn là dấu hiệu Thổ của Tỳ vƣợng. + Môi khô, nứt nẻ, lở, dộp là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vƣợng. + Môi đen, thâm là dấu hiệu Thủy của Tỳ suy. + Trong miệng lở dộp, viêm nhiễm là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vƣợng. + Nƣớu chân răng sƣng là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vƣợng. + Hàm cứng, co giật là dấu hiệu Mộc của Tỳ vƣợng. + Liệt mặt, miệng méo là dấu hiệu Mộc của Tỳ suy. + Râu ria rậm rạp, bóng láng là dấu hiệu Thủy của Tỳ sung mãn. 2. Nƣớc miếng Thiên Tuyên Minh Ngũ Khí (TVấn 23) ghi : "Nƣớc miếng là dịch của Tỳ". - Nƣớc là biểu hiện của Thủy dịch, từ miệng chảy ra. Miệng ở giữa, thuộc Tỳ, do đó nƣớc miếng có liên hệ với Tỳ. - Nƣớc miếng tự trào ra, ra nhiều là dấu hiệu Thủy của Tỳ suy (hay gặp nơi ngƣời có giun hoặc ngƣời mất trí nhớ do di chứng não). - Nƣớc miếng khô, ít nƣớc miếng, nƣớc miếng đục là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vƣợng. - Bác sĩ Nakamura và cộng tác viên tại đại học Nagasaki (Nhật), sau khi thí nghiệm trên súc vật cho thấy, nƣớc miếng có khả năng làm lành vết thƣơng nhanh chóng. (Các vết thƣơng ở da, liên hệ với Phế Kim, vì theo Nội Kinh, da lông thuộc Phế dùng nƣớc miếng, biểu hiện của Tỳ Thổ để điều chỉnh cho Phế Kim (da lông) chính là áp dụng nguyên tắc Dĩ thổ sinh Kim (Hƣ bổ mẫu vì Tỳ thổ sinh Phế Kim). 3. Cơ nhục - Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành (TVấn 10) ghi : "Tỳ sinh cơ nhục". - Thổ khí là nguồn năng lực chuyển hóa thực phẩm ]điều3 đi khắp nơi trong cơ thể để nuôi dƣỡng và sinh ra cơ nhục (thịt). - Ngƣời ăn nhiều chất bổ dƣỡng mà vẫn gầy yếu là dấu hiệu Thổ khí suy, ngƣợc lại, với thực phẩm đơn giản nhƣng lại to béo là dấu hiệu Thổ khí sung mãn, nhƣ vậy, Thổ khí càng sung mãn thì khả năng chuyển hóa thực phẩm càng mạnh, ngƣợc lại Thổ khí suy yếu thì dù thực phẩm đầy đủ chất bổ dƣỡng cũng không đƣợc chuyển hóa thành tinh chất đem đi nuôi toàn cơ thể. - Thổ khí suy kém làm cho thịt mềm, trƣơng lực cơ giảm gây ra tứ chi mỏi mệt, bao tử sa, trực tràng sa, tử cung sa... - Tùy theo vị trí vùng, cục bộ bị teo nhão, có thể biết đƣợc cơ quan tạng phủ liên hệ bị suy kém. + Chân hoặc tay trái bị teo nhão, mềm, liệt... là dấu hiệu Thổ của Tỳ và Can suy.
+ Chân, tay phải teo nhão, liệt yếu là dấu hiệu Thổ của Tỳ và Thận suy. - Nếu có sự đột biến, phì đại cơ nhục ở 1 cục bộ... là dấu hiệu Thổ khí của vùng cục bộ đó vƣợng. Thí dụ : Bƣớu cổ lồi mắt (cƣờng tuyến giáp trạng), Tuyến giáp có liên hệ đến Phế, vậy trƣờng hợp này là do Thổ của Phế vƣợng. b) Về chức năng 4. Tiêu hóa - Thiên Linh Lan Bí Điển (TVấn 8) ghi : "Tỳ là chỗ cơ bản của hậu thiên - Tỳ chủ tiêu hóa". - Cơ năng tiêu hóa gồm : Tiêu hóa, hấp thu và vận chuyển các chất dinh dƣỡng đi nuôi toàn cơ thể. - Mọi triệu chứng về tiêu hóa đều có liên hệ đến Tỳ khí : Tỳ tiêu hóa tốt thức ăn đƣợc tinh lọc thành tinh chất nuôi cơ thể, Tỳ vận chuyển tốt, thức ăn đƣợc đƣa đến mọi chỗ trong cơ thể, Tỳ hấp thu tốt thì các dƣỡng chất biến thành sức sống nuôi cơ nhục. Ngƣợc lại nếu Tỳ suy kém sẽ gây nên các chứng biếng ăn, mệt mỏi, tiêu chảy... - Đƣa thực phẩm vào (hƣớng tâm - từ Biểu vào Lý) là động tác của Tỳ Biểu tức là vị khí. - Chuyển hóa thực phẩm thành tinh chất nuôi cơ thể là chức năng của Tỳ Lý tức Tỳ Khí. - "Tỳ ố thấp" (Tỳ không ƣa sự ẩm ƣớt), Tỳ khí yếu không vận hóa đƣợc Thủy thấp, thủy thấp đọng lại ở ruột gây ra ỉa lỏng, tiêu chảy, khó tiểu, Thủy thấp đọng lại ở phần da thịt gây ra phù. 5. Thống huyết - Sách Nội Kinh : "Tỳ thống huyết, Huyết đi lên xuống chỉ nhờ ở Tỳ, Tỳ tƣới khắp bốn bên". - "Máu đƣợc tạo nên do tinh chất đƣợc chuyển hóa từ thức ăn, máu lại vận chuyển khắp nơi để nuôi dƣỡng cơ thể, do đó, Thổ khí có liên hệ đến sự vận hành khí huyết. - Tỳ khí hƣ, không quản lý đƣợc huyết, huyết ra ngoài gây ra xuất huyết : Rong kinh, đại tiện ra huyết lâu ngày... - Thổ khí suy yếu, sự lƣu thông huyết bị trì trệ sẽ gây ra chứng tê, mỏi. 6. Suy tƣ Thiên "Bản Thần" (LKhu 8) ghi : "Ở chí của Tỳ là sự suy tƣ". - Tƣ là nhớ đến, nghĩ đến. - "Tƣ thƣơng Tỳ" (sự ƣu tƣ làm hại Tỳ). - Khi ăn uống mà phải nghĩ ngợi đến công việc gì, việc ăn uống kém phần ngon. - Ngƣời hay suy nghĩ, tƣởng nhớ đến 1 đối tƣợng nào quá nhiều, thƣờng bị hao gầy 1 cách nhanh chóng (hay gặp ở những ngƣời tƣơng tƣ...). - Hao gầy cơ nhục là dùng hiệu Thổ khí suy, hay gặp nơi ngƣời lao phổi. Hoặc những ngƣời bệnh lâu ngày, không ăn uống đƣợc. - Những ngƣời đƣợc gọi là "vô tƣ" (không ƣu tƣ) thƣờng mập mạp, tròn trĩnh và ngƣợc lại, ngƣời mập, tròn thƣờng hay vô tƣ (vô lo). 7. Tƣ tƣởng - Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí "(TVấn 23) ghi : "Tỳ tàng ý". (Tỳ chứa ý nghĩ, tƣ tƣởng). - Theo Science News, số 37/1983, các nhà nghiên cứu đại học tổng hợp Nên Mexico theo dõi 260 ngƣời ở lứa tuổi 64-94 (40% trong số họ đã tốt nghiệp cao đẳng và tất cả có sức khỏe bình thƣờng). Mục đích thí nghiệm là để kiểm tra giả thuyết cho rằng những ngƣời lớn tuổi có trình độ văn hóa cao, điều kiện vật chất dồi dào và đƣợc ăn uống bình thƣờng, lại bị bệnh vì thiếu 1 số chất dinh dƣỡng, do đó, ngƣời ta phát hiện thấy ở họ có sự rối loạn trí nhớ, 5-10% ngƣời thử nghiệm có tình trạng dinh dƣỡng thấp đã thực hiện Test tồi hơn so với 90% ngƣời còn lại. Sau khi thí nghiệm, các nhà nghiên cứu thống nhất nhận định là dinh dƣỡng ảnh hƣởng đến khả năng trí nhớ và tƣ duy. - Ngƣời Thổ khí sung mãn thƣờng có khả năng tập trung tƣ tƣởng rất cao, suy nghĩ vững chắc và
minh bạch. - Ngƣời Thổ khí suy yếu, khó tập trung ý tƣởng vào công việc, mau chán. - Khi nghe nhạc, khi ăn uống đầy đủ, ngƣời ta thƣờng cảm thấy làm việc đƣợc nhiều hơn, mang hiệu quả hơn. Trái lại, khi bụng đói, rất khó mà làm việc đạt hiệu quả. 8. Tiếng hát -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Tiếng của Tỳ là tiếng hát". - Các nhà nghiên cứu nhận thấy, cho súc vật nghe nhạc chúng ăn nhiều và đẻ nhiều hơn. Cây cối, khi nghe những loại nhạc êm dịu, mức độ tăng trƣởng và ra hoa nhiều hơn nhƣng khi nghe những loại nhạc mạnh, kích động, chúng tàn lụi và héo đi nhanh chóng, do đó, giữa Thổ khí và ca nhạc có liên hệ với nhau. - Ca nhạc làm cho Thổ khí vƣợng lên, ngƣợc lại khi Thổ khí vƣợng, ngƣời ta thƣờng hát. - Lúc đói, Thổ khí bị kích động ngƣời ta hát hay hơn, khi ăn no Thổ khí bị suy sụp (vì phải huy động để làm chức nằng tiêu hóa), khi đó, ngƣời ta cảm thấy nặng nề, tiếng hát èo uột, không có hồn. - Bệnh viện Luân Đôn của Anh, tháng 10 năm 1984, trong 1 buổi báo cáo cho biết, họ đã dùng âm nhạc thay thuốc tê khi tiến hành mổ các sản phụ. Phƣơng pháp mổ nhƣ sau : cho các sản phụ khó sinh vừa nghe bản giao hƣởng số Năm của Bethoven vừa tiến hành phẫu thuật. Các sản phụ không thấy đau và ca mổ thành công. Các bác sĩ kết luận rằng phƣơng pháp này chỉ thích hợp với phụ nữ dịu dàng. Có thể hiểu nhƣ sau : Khi nghe nhạc (Thổ vƣợng lên) làm kim vƣợng (Thở đều), Hỏa vƣợng (tuần hoàn tốt), Mộc suy ( các cơ bớt co thắt), Thủy suy (không trƣớng nƣớc). 9. Mùi thơm -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Mùi của Tỳ là mùi thơm". - Thổ khí sung mãn thì hơi thở và da thịt tỏa mùi thơm, ngƣợc lại Thổ khí suy yếu, da thịt, hơi thở tỏa ra mùi hôi thối (hay gặp nơi những ngƣời bệnh lâu ngày, ăn uống suy kém). - Để cho thuốc vào Tỳ vị, ngƣời ta thƣờng sao vị thuốc cho thơm. - Khi gặp những mùi vị đắng, hôi thối (ngƣợc với mùi vị của Tỳ), ngƣời ta thƣờng có cảm giác buồn nôn hoặc muốn ói ra. 10. Vị ngọt -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Cam (ngọt) sinh Tỳ, và Vị của Tỳ là vị ngọt". - Miệng có cảm giác ngọt ngào là dấu hiệu Thổ của Tâm sung mãn. - Miệng có cảm giác nhạt nhẽo là dấu hiệu Thổ của Tâm suy. c) Về ngoại giới 11. Sắc vàng -Thiên "Âm Dƣơng Ứng Tƣợng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Sắc của Tỳ là sắc vàng". - Màu vàng bóng, sáng là dấu hiệu Thổ vƣợng. - Màu vàng đục tối là dấu hiệu Thổ suy. - Da vàng là dấu hiệu Thổ khí vƣợng, Tỳ tàng ý, Tỳ chủ sự suy tƣ, do đó, các dân tộc da vàng thƣờng thiên về suy tƣ, vì thế, hầu hết các tƣ tƣởng vĩ đại, những truyền thuyết cao siêu của nhân loại đều phát nguồn từ giống da vàng. Các bộ sách lớn : Nội Kinh, Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh... là những bộ sách đƣợc cả thế giới công nhận. - Muốn cho thuốc thấm nhanh vào Tỳ, ngƣời ta thƣờng "sao vàng hạ thổ". 12. Thổ khí và Thấp khí - Sách Y Tông Kim Giám : Trên Trời là Thấp, dƣới đất là Thổ, ở ngƣời là Tỳ, ở Thổ là Nhục. - Thấp khí là khí ẩm thấp, có nhiều hơi nƣớc.
- Thổ khí ở ngƣời là khả năng đề kháng lại với Thấp khí, thấp khí nhiều sẽ làm Thổ suy. - Nội Kinh : "Tỳ ố thấp và Thấp thƣơng Tỳ". - Nếu thấp khí nhiều quá, Thổ khí không đủ sức chống lại, thổ khí sẽ bị suy kém làm cho máu huyết không lƣu thông đƣợc gây nên Tê mỏi, vì Tỳ có chức năng thống huyết. - Huyết bị ứ đọng lại sẽ gây nên đau nhức vì "Thông tắc bất thống, thống tắc bất thông", (lƣu thông thì không đau, đau là không thông). - Tỳ có chức năng vận hóa Thủy thấp nếu thổ khí suy yếu, thấp khí đọng lại ở cơ nhục sẽ gây nên chứng Thủy thũng với cảm giác tê mỏi, nặng nề. - Chứng Cổ trƣớng (bụng sƣng to) là dấu hiệu Thổ khí suy trầm trọng. - Thổ khí ứng với Trung ƣơng, buổi chiều, nên vƣợng lên trong thời gian đó. Ngƣời thổ khí suy sẽ thấy thuyên giảm vào buổi chiều, nhƣng sẽ trầm trọng vào buổi sáng, mùa xuân (thời điểm của Mộc khí vƣợng, Mộc khắc Thổ).
Nguồn Gốc Ngũ Hành 4 (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.4) Theo Duy Thức: 1. Nhãn thức: sự nhận thức của thị giác - mắt. 2. Nhĩ thức: sự nhận thức của thính giác - tai. 3. Tỷ thức: sự nhận thức của khứu giác - mũi. 4. Thiệt thức: sự nhận thức của vị giác - lƣỡi. 5. Thân thức: sự nhận thức của thân giác - cơ thể. Thức thuộc phi vật thể (năng lƣợng, KHÔNG) khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí (vật chất, SẮC), tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các khiếu mà ta nhận đƣợc khi kết hợp Thận, Tỳ, Can, Tâm Phế (Đông Y)và Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân. (Duy Thức) -"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy -"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ -"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc -"Tâm khai khiếu ở lƣỡi". Tâm thuộc Hỏa -"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim 1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc 2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy 3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim 4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lƣỡi". Tâm thuộc Hỏa 5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ Chú ý ---- Tâm vƣơng và Tâm sỡ
---- Các đặc tính của năm thức. ---- Tám thức cùng xuất hiện mất 1 thức mất tất cả Tám thức. Do Tâm mà Thiên Ác đƣợc giả lập, Vì Thiện Ác mà con ngƣời tái sinh, cùng một lúc sự vân hành của tám thức cũng bắt đầu,không trƣớc không sau Âm Dƣơng, Ngũ hành đƣợc hình thành và con ngƣời tiếp tục trôi nỗi trong vòng sanh tử. Tâm ---> Thiện Ác --->[Vận hành của Tám Thức --->Lộ Trinh Tâm] ---> Bát Quái(Âm Dƣơng) Ngũ Hành Tâm ---> Thiện Ác ---> Mat Na Thức(Thiện/Ác) / Ý Thức(Thiện/Ác) ---> Bát Quái (Âm Dƣơng) Ngũ Hành Tâm --->Lƣơng Nghi ---> Tứ Tƣợng ---> Bát Quái(Âm Dƣơng) Ngũ Hành Điều đáng chú ý là không một danh từ nào có thể thoát ra khỏi sự bao hàm của Âm và Dƣơng. Để phân tách hai hóa chất tƣơng tự hóa tính hay lý tính ngƣời ta dủng phƣơng pháp Sắc ký, sự trôi chảy qua cột sắc ký hay sắc ký trên giấy mà lần lƣợt thâu lƣơm lai từng hóa chất, và đó cũng là phƣơng tiên duy nhất để tách rời "Âm-Dƣơng" và "Thiện-Ác" là qua sự vận hành của hệ tám thức trên dòng trôi nỗi nghiêp lực.. Đến đây ta có ba bản đồ 1-- Tử vi 2-- Bát quái Thái cực đồ 3-- Y hoc Đông phƣơng. Đƣợc nối liền nhau qua hệ tám thức. Mặc dù thới điễm xuất hiện các bộ trên không đồng niên đại, không cùng một soạn gia. Nhƣng, nếu liên tƣởng tới phƣơng pháp truy tầm kho tàng của Tây phƣơng. Bản đồ 1 Tử vi có Tàng Thức, Mạc Na Thức, Ý thức (ngũ hành chỉ kết hợp sau khi tìm đƣợc bản đồ 3, và danh từ vƣợt thới gian "Bác Sĩ" Bản đồ 2 cũng tìm ra ba chử Tàng Thức, Mạc Na Thức, Ý thức Bản đồ 3, qua danh từ vƣợt thới gian "Bác sĩ" mà tìm lại đƣơc Ngũ hành, do 5 Thức đƣợc Khí hóa. "Bác sỉ "chỉ tới Bản đồ thứ ba mà Hệ tám thức mới có khả năng nối liền các mảnh (bản đồ) thành một, nói khác Thời điểm xuất hiện của bản đồ xƣa cũ nhất là Thời diễm chung cho cả ba (bản đồ), ngƣời sáng tạo cũng chỉ là MỘT NGƢỜI duy nhất. Trần Đoàn Tiên Sinh Là Ai? Nếu Đại Lạt Ma có thể là một hoá thân của 5000 ngàn năm trƣớc thì Trần Tiên Sinh cũng là một hoá thân,(Qua quá trinh dựng nƣớc, nhiếu hóa thân của Lac việt lần lƣợt xuất hiện để bảo vệ, dẫn dắt dân tộc chúng ta qua những thời kỳ hung hiễm, gần nhƣ bị đồng hóa, từ Tàu Mông cổ, Thanh, Tây.. Lý do tại sao sẽ nói ở chƣơng sau.) với nhiệm vụ bảo vệ phát huy, gìn giữ Tƣ vi, một trong ba bộ kinh điễn: Y-học (Hoàng đế nội Kinh), Dich Lý, Tử Vi. Theo ngƣời viết thì còn một cuốn nũa, mà ngƣời viết đang tìm hiểu, theo thiễm nghỉ , có lẽ về Luyện khí (nội công)?
Giải Mã Huyền Sử (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.5) Chử Đồng Tử Ngƣời lảnh đạo Lac việt sẽ phải làm gì trƣơc cái xã hội lúc bấy giờ, khi mà tự do ngôn luân, tƣ tƣởng bi giai cấp khống chế ngăn cấm, tham vọng đồng hóa từ phong tục tập quan của giai cấp thống trị áp đạt lên ngƣời dân Lạc việt. Gần một ngàn năm dƣới ách thống trị của ngƣời Trung quốc chắc chắn sẽ không bỏ qua một hình thức nội dung chất chứa hình ảnh con dân Lạc việt, Thử nghĩ, với 30 năm ,với chủ nghĩa Mác Lê-nin (1945-1975),sử sách, văn chƣơng phải phục tùng chế độ.. thì 1000 năm Bắc thuộc, khi mà khác giông khác nói thì cái ách gông xiềng nhƣ thế nào.?? nếu không là: Trăm năm bia đá thì mỏn ngàn năm bia miêng hảy còn trơ trơ. và Huyền sử đƣợc hình thành chất chúa sữ liệu ẩn dấu bên trong. Linh mục Dominique Luong Kim Đinh trong Kinh Hùng có đoạn: "Huyền thoại chính là tự truyện của một dân tộc bao hàm những kinh nghiệm tích luỹ từ không biết bao đời tiên tổ kết tinh lại. Xuyên qua đó thƣờng đƣợc kể lại bằng những nét lung linh cái sứ mệnh của dân tộc, nên đó quả là những di bảo thiêng liêng chứa chấp những giá trị thâm sâu nằm giáp miền tiềm thức. Có thể nói tác giả đã dựng nên những huyền thoại cũng chính là tiềm thức cộng thông của tất cả tiên tổ đã góp phần vào việc kiến tạo dân nƣớc. Nói đến tiềm thức là nói đến sự vƣợt biên cƣơng lý trí phân minh, nên trở thành âm u. Vì thế những niên đại, những địa danh, cũng nhƣ các nhân vật phải đƣợc hiểu một cách co dãn chập chờn, vì đó chỉ là những mảnh vụn của lịch sử đƣợc huyền sử dùng nhƣ tiêu biểu để nói lên những tƣ tƣởng hƣớng dẫn cuộc sống của dân tộc, nên mang tên này hay tên khác, xảy ra nơi nọ hay nơi kia đều không quan trọng. Huyền sử thuộc vòng trong tiềm ẩn không nhằm ghi chép sự kiện hay biến cố ngoại diện nhƣ sử kýmà cốt nhằm phác họa những hình ảnh văn hóa, những mẫu mực chung của lối sống, nghĩ, cảm, là những dạng thức có liên hệ mật thiết với hoàn cảnh nơi ấy, nên khi nào con cháu muốn tìm ra những làn sóng ngầm của lịch sử dân tộc cùng những cái nhìn soi dọi vào đời sống hiện đại để tìm ra những mẫu mực căn bản thì cần phải mở một cuộc hội thoại thâm thiết với những di bảo nọ. Việc đó có thể gọi theo tiếng nói ngày nay là làm triết lý. Nhƣ thế triết lý ở đây là một cuộc đào sâu kinh nghiệm sống của tiên tổ để lấy chất liệu tạo dựng những dạng thức canh tân hợp cảm quan thời đại. " Sử Thần Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ đã xếp phần này vào Ngoại Kỉ, dù là phân ngoại kỳ nhƣng vân mang ngụ ý, ông vẫn thiết tha ngày kia từ huyền sử, một trang sử sẽ đƣợc viết lại, những ẩn dụ sẽ đƣợc phơi bày, trã lại cho lịch sử Việt những trang sữ bị xáo nhòa trong
qúa khứ. Lỉnh nam Trích quái: Chừ Đồng Tử Hùng Vƣơng truyền ngôi đến vua cháu ba đời, có sinh đƣợc một ngƣời con gái tên là Tiên Dung Mỵ Nƣơng, tuổi vừa mƣời tám, dung mạo tú lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích ngao du thiên hạ. Vƣơng chiều mà nghe theo. Mỗi năm khỏang tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh ngòai biển, vui chơi quên cả ngày về. Lúc bấy giờ ở làng Chử Xá có ngƣời tên là Chử Vy Vân sinh đƣợc một ngƣời con trai tên là Chử Đồng Tử, hai cha con tính vốn hiền lành, nhà ngheo lại gặp nhà cháy, của cải khánh kiệt tận chỉ còn một cái khố vải, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già, cha bảo con rằng:- Ta chết thì chôn lộ thể cũng đƣợc, để cái khố lại cho con mặc kẻo xấu hổ. Cha chết, ngƣời con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn. Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, đói rét khôn xiết, mới cầm cần câu đi đến bờ sông câu cá, trông thấy thuyền buồm đi qua, đứng dƣới nƣớc mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên Dung bỗng đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn sáo, thấy những nghi trƣợng cờ xí, Đồng Tử sợ hãi, không biết trốn vào đâu, trông thấy trong bãi phù sa có chòm lau sậy, lơ thơ năm ba gốc, bèn ẩn thân vào đó, đào cát thanh huyệt để giấu mình, lại lấy cát vùi lên trên. Giây lát, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín cả chỗ lau sậy để tắm. Tiên Dung vào trong màn, cởi áo múc nƣớc dội tắm; cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra, hồi lâu Tiên Dung biết là con trai. Tiên Dung nói:- Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp ngƣời này cùng lộ thân với nhau trong một huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng? Thôi ngƣơi hãy dậy mà tắm rửa đi. Rồi ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan lạc; ngƣời trong thuyền đều cho là mộtsự gặp gỡ tốt lành xƣa nay chƣa từng có. Đồng Tử nói rõ sự tích cho Tiên Dung nghe; Tiên Dung thƣơng xót, bảo làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ. Tiên Dung nói:- Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà từ chối? Những ngƣời tháp tùng vội đem việc ấy tâu lên với Hùng Vƣơng; Hùng Vƣơng giận bảo rằng:Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của ta, đi chơi giữa đƣờng lại hạ giá, lấy ngƣời nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa, từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nƣớc nữa. Tiên Dung nghe tin, sợ không dám trở về mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu dịch, dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn (nay là chợ Hà Lõa); thƣơng nhân ngọai quốc qua lại buôn bán, kính sự Tiên Dung Đồng Tử làm chủ. Có một nhà đại thƣơng đến nói với Tiên Dung rằng:- Quý nhân xuất ra một thoi vàng, năm nay cùng với ngƣời nhà buôn ra ngòai biển mà mua vật quý, sang năm sẽ lời đƣợc một thoi.Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:- Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho, bây giờ nên lấy một thoi vàng cùng với ngƣời nhà buôn đi ra biển mà mua hàng đem về làm kế sinh nhai. Đồng Tử bèn cùng đi với ngƣời nhà buôn; ngòai biển có một hòn núi tên là Quỳnh Viên Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, ngƣời đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nƣớc; Đồng Tử lên chơi trên am, có một tiểu tăng tên là Phật Quang truyền phép cho Đồng Tử.
(Ánh sáng phát ra từ Đức Phật : Phật Quang) Đồng Tử mới lƣu lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho ngƣời đi buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về thì ghé lại am để cho Đồng Tử về. Nhà sƣ mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:- Linh thông tại đây đó. Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết với Tiên Dung, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chƣa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đƣờng, cắm gậy úp nón lên trên để che. Đêm đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu son đền báu, đài các lăng miếu, kho tàng miếu xà, vàng bạc châu ngọc, chiếu giƣờng, mùng màn, tiên đồng ngọc nữ, tƣớng sĩ thị vệ la liệt đầy ở trƣớc mặt. Sáng ngày ai trông thấy cũng lấy làm kinh dị, tranh nhau đem những vật hoa hƣơng, ngọc thực đến dâng hiến và xƣng thần. Văn võ bá quan phân quân túc vệ, biệt lập thành một nƣớc. Hùng Vƣơng hay tin cho là con gái mình làm loạn mới phát binh đi đánh; quan quân đến rồi, quần thần xin phân quân án ngữ. Tiên Dung rằng:- Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun gửi; sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điều chính, chờ lệnh chém giết. Lúc bấy giờ những ngƣời mới tập họp, sợ hãi mà chạy tán loạn, chỉ còn bọn ngƣời cũ ở lại với Tiên Dung. Quan quân kéo đến đóng doanh ở bãi Tự Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn; ngày sắp tối nên
chƣa kịp tiến binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại loạn; bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày, dân gian không trông thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đƣờng, thời thƣờng đến tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chợ ấy là Hà Lõa Thị. [ ---- Sau đến thời Nam Đế, binh nhà Lƣơng sang xâm chiếm nƣớc ta, vua sai Triệu Quang Phục làm tƣớng đem binh ngăn giữ. Quang Phục điều động dân chúng tàng ẩn ở trong đầm, cái đầm ấy sâu rộng bùn lầy, khó bề tiến lui; Quang Phục cỡi chiếc thuyền độc mộc qua lại cho tiện, thƣờng nhân đêm tối, dùng thuyền mà đột xuất đánh phá cƣớp lấy lƣơng thực, làm kế trĩ cửu cho giặc kiệt quệ. Ba bốn năm trƣờng giặc không đánh đƣợc. Bá Tiên than rằng:- Đời xƣa gọi là đầm nhất dạ thăng thiên, ngày nay lại là cái đầm nhất dạ đạo kiếp. Gặp lúc Hầu Cảnh tác loạn bên Trung Hoa, vua Lƣơng triệu Bá Tiên về, ủy quyền cho tỳ tƣớng Dƣơng Sằn thống lĩnh quần chúng. Quang Phục trai giới thiết đàn ở trong đầm, đốt hƣơng cầu đảo. Thóat thấy thần nhân cỡi rồng giáng xuống giữa đầm, bảo Quang Phục rằng:- Ta lên trời nhƣng linh dị còn ở đây, ngƣời có lòng thành cầu đảo, ta đến để giúp bình loạn tặc.Rồi cởi vuốt rồng đƣa cho Quang Phục bảo giắt vào đầu đâu mâu, hễ đánh đâu là đƣợc đó. Nói đoạn lại bay lên trời. Quang Phục y nhƣ lời dặn đem binh đột kích, binh Lƣơng đại bại, chém đƣợc tƣớng Dƣơng Sằn ở trận tiền, binh Lƣơng lui chạy. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập lên làm Triệu Vƣơng, đóng đô ở quận Vũ Ninh núi Trâu Sơn. ] Chử Hiếu "Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại loạn; bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày, dân gian không trông thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đƣờng, thời thƣờng đến tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chợ ấy là Hà Lõa Thị. " và: "Tiên Dung rằng: Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun gửi; sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điều chính, chờ lệnh chém giết." Kết hơp hai đoạn trên : 1- "bay lên trời" Trời = Thiên = quẻ Càn = Cha2- "chờ lệnh chém giết."3- "chỉ còn bọn ngƣời cũ ở lại với Tiên Dung. " Nhu vây Tiên Dung trở về với phụ vƣơng cùng với Đông tử và gia nhân củ, không có gia nhân mới. "ngƣời mới" chỉ là hƣ cấu, không thật, làm nội bật sự trở về với Phụ vƣơng, lúc đi và lúc vể. Chử hiêu của Tiên Dung củng đƣợc nhấn mạnh qua câu nói. Chúng ta sẽ thấy cái nghi kỵ của câp lảnh đạo và hành xử của cấp thuộc hạ là một ám ảnh của dân tộc.(xin đoc lại chủ đề Chu Nguyen Chƣơng / Mai Thôn / TuviLySo.net) Ý nghĩa của Gậy và Nón
"Nhà sƣ bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái cái nón, vừa bảo: "Các việc linh thông đều ở đó rồi!." Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết với Tiên Dung, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chƣa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đƣờng, cắm gậy úp nón lên trên để che. "gậy" và "NÓN" có nghĩa : 1 - Gây = rắn / Ác nhân --------- "NÓN" = che chở /Thiên nhân ---> Thiện /Ác 2 - Gậy = có hình dáng số 1 ----- "NÓN= có hình dáng Zero ----> nhi phân . Cách tính toán dựa vào nhị phân. Có lẻ bàn tính là một trong ứng dụng nhị phân. Và dĩ nhiên không thể bỏ qua chử viết vì một khi đả có con số, bài tình, con toán, thì nền văn minh phải đả xuất hiện. Sự phát triễn của văn minh này, nền văn minh dựa trên Tâm lý Phật giáo và Lộ trình Tâm (Đạo Tâm / Dịch), mà ngƣời Trung quốc thời du mục khởi lòng tham chiêm đoạt. và cũng chính vì thấy đƣợc hiễm họa ngƣời Trung Quốc, hiễm họa 1000 năm mất nƣớc mà các bộ kinh đƣơc an bài rất tế nhị, kín đáo qua hệ tám thức, bí mật cũa huyền sử, với danh từ vƣợt thời gian "Bác sĩ" và chỉ có thể mỡ ra bởi ngƣời Lạc việt. 3 --------"cắm gậy úp nón lên trên " có nghỉa sự phối hợp của Gây và Nón hay 1 và Zero,3a -----là nói đến sự xữ dụng Âm Dƣơng qua Dich hay Lộ trình tâm3b ------ là nói đến sự xử dụng của 1 và Zero trong phép nhị phân mà ngƣời phƣơng Tây nhìn thấy qua quẻ dich. (Xin đọc Từ vi dƣới mắt Nghiệp quả / nguồn gốc Âm Dƣơng Ngũ Hành ; Tuvilyso.net, Nhớ Huế.Org) 4 - "Gậy và Nón", khi đi chung với nhau thì mang nghỉa luật pháp. Gậy là dùng sửa sai Ác nhân, "Nón" che chở ngƣời vô tội, nhân dân,... nghĩa là cơ cấu nhà nƣớc, hành chính, luật pháp đã hình thành. Một cơ cấu đƣợc dụa trên căn bản "Tâm lý Phật giáo" xuyên qua hệ tám thức và Lộ trình tâm, Đạo của tâm. Một sự hài hòa tất yếu, đƣợc minh chứng qua thới đại Hùng vƣơng, ngƣời dân Lac việt đã có 2622 năm yên bình, một văn minh chảy dài 2622 năm, trong lich sử của cà thế giới không một quốc gia nào có thể so sánh và chỉ một triều đại, trƣớc sau nhƣ một: Hùng Vƣơng. Tách riêng Dich (lộ trình tâm) chỉ dẫn tới Lảo tử, Không tử, Trang Tử , Mạnh Tử...nghĩa là vẫn "đi bên cạnh" dòng lich sử Trung quốc. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ, 18 đời vua Hùng: 2879-258 TCN Trải qua 18 đời 1, Kinh Dƣơng Vƣơng, Lộc Tục 2, Lạc Long Quân, Sùng Lâm 3, Hùng Quốc Vƣơng, Lân Lang 4, Hùng Diệp Vƣơng, Bảo Lang
5, Hùng Hy Vƣơng, Viên Lang 6, Hùng Huy Vƣơng, 7, Hùng Chiêu Vƣơng 8, Hùng Vi Vƣơng 9, Hùng Định Vƣơng 10, Hùng Úy Vƣơng 11, Hùng Chinh Vƣơng 12, Hùng Vũ Vƣơng 13, Hùng Việt Vƣơng 14, Hùng Ánh Vƣơng 15, Hùng Triều Vƣơng 16, Hùng Tạo Vƣơng 17, Hùng Nghị Vƣơng 18, Hùng Duệ Vƣớng 18 đời Hùng Vƣơng : nếu đọc con số 18 nhƣ sau "Mƣời" viết 10 , đọc con số "Tám" viết 8 và "18 đời" bây giờ là 108 đời, do đó trung bình một đời Vua Hùng khoảng 24 năm. Với ngƣời phật tử thì con số 108 có ý nghĩa là chuổi Tràng Hạt. Tràng hạt xuất hiên có nghỉa Phập Pháp xuất hiện, và đây cũng là đất nƣớc của Phật, đất nƣớc đƣợc lảnh đạo bởi chánh pháp, Tâm lý phật Giáo và Đạo của Tâm.. Nếu nhƣ Do Thái với Thiên Chúa là tổ phụ của họ.(??? ngƣời viết không rành về Thiên Chúa giáo, xin đính chánh nêu sai sót) . Khi liệt kê 18 đời Hùng Vƣơng thì lại có nghĩa 18 vị A la Hán của chúng ta, của ngƣời Lac việt. 18 vị A la hán cùng với Phật tử sẽ theo lich sử dƣng nƣớc mà lẩn lƣợt xuất hiện bảo vệ, thông lảnh, dẫn dắt ngƣời dân Lạc việt vƣợt gềnh vƣợt thác, vƣợt chông gai hiểm nguy.. Nam quốc sơn hà Nam đế cƣ Tiệt nhiên định phận tại thiên thƣ Nhƣ hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hƣ Thời đại Hùng vƣơng có từ lúc nào ? Nói đền Dich, nói đến Tử vi, ... bói toán nói chung, ta không thề tách rời hệ thống lich pháp. Không có lich pháp làm căn bản cho Ngũ hành nạp âm thì không một môn, gọi là huyền bí- bói toán đƣơc hình thành. Lịch Pháp Việt Nam (Trich Luc Độ Tâp Kinh/ Ts Lê Manh Thát) Lục độ tập kinh ngày nay có cả thảy 91 truyện. Trong số các truyện này có một số truyện ta có thể truy về thời các vua Hùng còn nắm giữ quyền hành, nghĩa là trƣớc biến cố năm 43sdl, khi cuộc kháng chiến vệ quốc do Hai Bà Trƣng lãnh đạo thất bại. Cơ sở cho một việc truy tìm nhƣ vậy dựa trên một hiện tƣợng khá đặc thù của những truyện này. Đó là hiện tƣợng sử dụng lịch pháp. Trong Lục độ tập kinh có 10 truyện đề cập đến đơn vị thời gian, tức các truyện:
Truyện 9, ĐTK152, tờ 4b19, cl và c9:"Một thời 90 ngày" (nhất thời cửu thập nhật), "hai thời 180 ngày" (nhị thời bánh bát thập nhật), "thỉnh ở lại ba thời" (thỉnh lƣu tam thời). Truyện 14, tờ 9a13 "Hai mƣơi mốt ngày thì đến núi Đàn Đặc" (Tam thất nhị thập nhật nãi chí Đàn Đặc sơn) Truyện 24, tờ 14c23: "Bố tát thấy Phật, vui vẻ qui y, thỉnh Phật và Tăng ở lại nhà mình bảy ngày cúng dƣờng trọn lễ" (Bồ tát đồ Phật, hân nhiên tự quy, thỉnh Phật cập Tăng thất nhật lƣu gia, dĩ lễ cúng dƣờng); cùng truyện tờ 15a2: "Bảy ngày nhƣ thế, đều không lƣời mõi" (thất nhật nhƣợc tƣ đô vô giải) Truyện 25 tờ 15c27: "Ở thai mƣời tháng" (Xử thai thập nguyệt). Truyện 61, 34a2: "Mƣời ngày sau" (thập nhật chi hậu) Truyện 76 tờ 40b12: "Bé trong bụng mẹ... ba tam tuần ngày, thân thể thành hình" (Nhi tại mẫu phục.. tam thập bát thất nhật, thân thể giai thành) Truyện 79, tờ 42b9-12: "... rồng vui vẻ làm mƣa gió bảy ngày bảy đêm. Đức Phật ngồi ngay không động không lay, không thở, không hít. Bảy ngày không ăn thì đƣợc thành Phật. Lòng vui, không còn tƣởng. Rồng rất vui mừng, cùng bảy ngày không ăn, mà không có niệm đói khát. Hết bảy ngày, mƣa gió tạnh" (... Long hỉ, tác phong vũ thất nhật thất dạ. Phận đoạn tọa, bất dộng bất dao bất suyễn bất tức. Thất nhật bất thực, đắc Phật. Tâm hỉ, đô vô hữu tƣởng. Long đại hoan hỉ, diệc thất nhật bất thực, vô cơ khát niệm. Thất nhật tốt, phong vũ chỉ) Truyện 83, tờ 44c17: "Vua vui vẻ bày tiệc, rƣợu nhạc bảy ngày" (Vƣơng hỉ, thiết tửu vi nhạc thất nhật); cùng truyện tờ 45a8: "Bẻ trúc để ghi thì đi đƣờng bảy ngày mới về tới vƣơng quốc" (dĩ trúc vi soán hành đạo thất nhật, nãi chí vƣơng quốc); tờ 46a14-16: "Vua nói: Hãy ở lại bảy ngày nữa [...] sau bảy ngày có đại thần vƣơng đến chỗ vua trời chúc mừng" (Vƣơng viết "Thả lƣu thất nhật [...], thất nhật chi hậu, hữu đại thần vƣơng chỉ thiên vƣơng sở hạ viết...); tờ 45c1 "Bố thí bảy ngày; không ai thiếu thốn mà không đƣợc đầy đủ" (bố thí thi thất nhật, vô phàm bất túc). Truyện 88, tờ 50b13-23: "Trong một trăm năm, phàm có ba trăm mùa xuân, hạ đồng. Mỗi mùa có một trăm. Lại trong 1200 tháng, các tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, mỗi thứ bốn trăm thánh. Trong ba vạn áu ngàn ngày, xân một vạn hai ngàn ngày. Hạ nóng, đông lạnh, mô4i thứ một vạn hai ngàn ngay. Trong một trăm năm, một ngày hai bữa... Trong 100 năm, đêm ngủ trừ năm mƣơi năm... Con ngƣời thọ 100 tuổi chỉ vui có mƣời năm" (Bách tuế chi trung phàm cánh tam bách thời, xuân hạ đông nguyệt các cánh kỳ bách dã. Cánh thiên nhị bách nguyệt xuân hạ đông tiết các cánh tứ bách nguyệt. Cánh tam vạn lục thiên nhật, xuân cánh vạn nhị thiên nhật, hạ thử đông hàn, các vạn nhị thiên nhật. Bách tuế chi trung, nhất nhật tái phạn... Bách tuế chi trung, dạ ngọa trừ ngũ thập tuế... Nhân thọ bách tuế, tài đắc thập tuế nhĩ). Ta thấy truyện 98 này ghi nhận một năm có 360 ngày, chia thành ba mùa [thời], mỗi mùa có 120 ngày, ậy mỗi mùa có 3 tháng: "Trong một trăm năm phàm lại có 300 mùa, xuân hạ đông mỗi mùa có 100, tức 1200 tháng, xuân hạ đông tiết, mỗi tiết có 400 tháng, tức 36.000 ngày, mùa xuân lại có 12.000 ngày, mùa hạ nóng, mùa đông lạnh, mỗi mùa 12.000 ngày". Rõ ràng, một ghi nhận nhƣ thế bộc lộ quan điểm lịch pháp của Phật Giáo Ấn Độ, mà ta ngày nay còn tìm thấy trong Xá đầu luyện thái tử nhị thập bát tú kinh, ĐTK1501 tờ 419c1-2 & b4-6 và Phạn bản Sàradùlakarnàvadàna của nó hiện còn bảo lƣu: "Ba mƣơi ngày là một tháng, kể 12 tháng là một năm", và một năm chỉ có ba mùa là dông, xuân và hạ. Điểm lôi cuốn là Xá đâu luyện thái tử nhị thập bát tú kinh do Trúc Pháp Hộ dịch vào khoảng những năm 265-313, thì trƣớc đó hơn nửa thế kỷ", Trúc Luật Viêm và Chi Khiêm lại thực hiện một bản dịch sớm hơn dƣới tên Ma đăng già kinh gồm hai quyển thƣợng hạ. Ngoài chuyện ghi nhận ở quyển hạ ĐTK1500 tờ 409a13-4 là "ba mƣơi ngày đêm gọi là một tháng, 12 tháng này gọi là một năm"; còn nói ở tờ sau [410a18-9]: "Hễ năm thì có 365 ngày... tháng có 30
ngày". Dầu sao đi nữa, việc chia một năm có 360 ngày thành 12 tháng và ba mùa của Lục độ tập kinh có vẻ là một phản ảnh khá trung thành quan điểm lịch pháp của Phật giáo vào những thế kỷ trƣớc và sau dl. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu tiếp, ta thấy truyện 9 của Lục độ tập kinh 1 ĐTK152 tờ 4b19 và 4c1& c9 lại nói đế "một mùa 90 ngày" (nhất thời cửu thập nhật) và "hai mùa 180 ngày" (nhị thờ bách bát thập nhật). Thế cũng có nghĩa một năm có tới bốn mùa, chứ không phải ba mùa. Lịch pháp Ấn Độ thời tiền Phật giáo của giai đoạn Vệ đà tiền kỳ, tức khoảng những năm 1500-100tdl, thƣờng chia 12 tháng cuả một năm thành 6 mùa là lạnh ['sarad] và rét [vasanta], hạ [grìsma], mƣa [varsa], thu ['sarad] và rét [hemanta], nhƣ Rigveda x.90; 6; i.131, 4 v.v... đã ghi. Đến giai đoạn Vệ đà hậu kỳ [1000-300tdl], sáu mùa vừa kể trên rút gọn lại còn ba mùa là đông, hạ và mƣa, và xếp đặt các tháng còn lại cho phù hợp, mà ta có thể thấy trong Taittiriya samhità. Việc rút gọn lại còn ba mùa này sau đó đã đƣợc nền lịch pháp Phật giáo chấp nhận, nhƣ đã nói trên. Vậy, rõ ràng sự kiện truyện 9 nói tới bốn mùa dứt khoát không liên hệ với lịch pháp Ấn Độ và Phật giáo. Thế phải chăng nó chịu ảnh hƣởng của lịch pháp Trung Quốc?. Đúng là lịch pháp Trung Quốc từ thời Ngũ đế [2550-2140tdl] đã đề cập tới bốn mùa xuân hạ thu đông, nhƣ Nghiêu điển trong Thƣợng thƣ chú sở 2 tờ 5b10-6b3 dã viết [vua Nghiêu] bèn sai hai họ Hy, Hòa xét chuyển vận của trời, trăng và sao, để thế mệnh trời, mà báo cho dân biết thời tiết [...] Khi ngày dài nhất, sao là Hỏa, thì là giữa hạ [...]. Khi đêm dài nhất, sao là Hƣ, thì là giữa thu [...] Khi ngày ngắn nhất, sao là Mão, thì là giữa đông [...]. Tuy vậy, nó cũng viết tiếp: "Vua nói: Này các ngƣơi Hy, Hòa năm quay lại sau ba trăm với 6 tuần và 6 ngày, lấy tháng nhuận đặt đúng bốn mùa, để nên năm". Viết như thế, không những lịch pháp Trung Quốc từ xa xưa đã xác định mỗi năm có 365 ngày, mà còn dùng chế độ 10 ngày là một tuần. Chế độ 10 ngày một tuần này đƣợc sử dụng rất là phổ biến. Đọc Tả truyện chú sở 43 tờ 2b11 và 44 tờ 2b5 các năm Lỗ Chiêu Công thứ 5 và 7, ta thấy nói "số của ngày là mƣời" (nhật chi số thập), "trời có mƣời ngày" (thiên hữu thập nhật). Thiên Chu quan của Lễ Ký cũng ghi nhận : "Họ Phùng tƣớng giữ các việc 12 năm, 12 tháng, 12 giờ, 10 ngày (thập nhật), 28 ngôi sao". Đặc biệt, hệ thống 10 ngày đây không chỉ tồn tại trên sách vở hiện lƣu truyền, mà còn thấy trên các văn tự giáp cốt mới khai quật, nhƣ Quách Mạt Nhƣợc_1 đã chứng tỏ. Nói cách khác đi, lịch pháp Trung Quốc chỉ dùng hệ thống 10 ngày, để chia ngày của tháng, mà thời Nghiêu Thuấn đã gọi là tuần. Hệ thống này Lục độ tập kinh 6 ĐTK 152 tờ 34a2 trong truyện 61 chỉ sử dụng một lần, và chỉ dùng chữ 10 ngày trơn, tức "sau mƣời ngày", mà không dùng đến chữ tuần. Ngƣợc lại, hệ thống tuần ngày đƣợc nói đến một cách rộng rãi. Cụ thể là các truyện 14 tờ 9a13, 24 tờ 14c23, 54 tờ 31b12, 79 tờ 42b9-12 và 83 tờ 44c17, tờ 45a8 & c1 và tờ 46a15. Đặc biệt, truyện 76 tờ 40b12 để tính thời gian thai nhi ở trong bụng mẹ, đã dùng số 38 bảy ngày [tam thập bát thất nhật]. Điều này có nghĩa dù truyện 9 có nói tới hệ thống bốn mùa, hệ thống ấy không nhất thiết phải xuất phát từ lịch pháp Trung Quốc. Kết luận đây hoàn toàn phù hợp với một báo cáo của Lƣu An [? - 122tdl] về quan hệ lịch pháp giữa Trung Quốc và Việt Nam thời cổ đại còn ghi lại trong Tiền Hán thƣ 64 thƣợng tờ 2a10-b1 nói rằng: "Việt là đất phƣơng ngoài, là dân cắt tóc xăm mình, không thể lấy phép tắc của nƣớc mủ đai mà xử lý nó. Từ thời Tam đại hƣng thịnh, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc, chẳng
mạnh không thể phục chúng, chẳng uy không thể ngăn chúng, cho là đất không thể ở, là dân không thể chăn, không đáng làm phiền Trung Quốc". Bảo là "từ thời Tam đại, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc", Lưu An muốn xác nhận rằng từ những triều đại nhà Hạ (2140-1711tdl), nhà Thương (Ân 1711-1066tdl) và nhà Chu (1066256tdl), người Việt ta đã không "chịu chính sóc", tức đã không dùng lịch pháp Trung Quốc. Do thế, việc truyện 9 chia 360 ngày của một năm thành 4 mùa, mỗi mùa 90 ngày, phải nói là xuất phát từ lịch pháp Việt Nam thời Hùng Vương hậu kỳ, nếu không phải là tiền kỳ cùng lúc với thời Ngũ đế (2550-2140tdl) bên Trung Quốc. Xác định này càng đƣợc củng cố thêm, khi ta phân tích lịch pháp Ấn Độ, để xem thử tình trạng sử rộng rãi hệ thống 7 ngày có xảy ra, nhƣ đã xảy ra trong Lục độ tập kinh hay không. Đúng là ngƣời Ấn Độ từ xa xƣa rất thích con số 7, mà chứng cớ có thể tìm thấy dễ dàng trong Rigveda i.62,7 [nói đến phần của thế giới, 7 rặng núi, 7 tiên nhân], i.63,7 [7 suối, 7 đại cƣơng, 7 thành phố], i.72,6 [7 ngọn lửa, 7 âm, 7 lễ, 7 bƣớc lên trời..] v.v... Tuy nhiên trong lịch pháp của họ không dùng tới hệ thống tuần 7 ngày. Mahàbhàrata 1.1.35 sau khi kể về sự hình thành thế giới và mọi vật sinh xuất, đã viết: samvatsarartavo màsàh paksàhoràtrayah kramàt / yac cànyad api tat sarvam sambhùtam lokasàk sikam / 35 năm, mùa, tháng, tuần, ngày, đêm cũng lần lƣợt xuất sinh và đó là sự sinh của tất cả mọi vật đƣợc biết trên thế gian này. Chữ mà chúng tôi dịch là tuần, trong tiếng Phạn là paksa. Và chữ paksa thực tế không có nghĩa là tuần, nhƣ ta thƣờng hiểu theo dạng 10 ngày cuả tuần Trung Quốc hay dạng 7 ngày của tuần hiện nay. Ngƣợc lại, trong lịch pháp Ấn Độ nó dùng để chỉ đơn vị 15 ngày, mà trong lịch pháp tiền kỳ gọi là nguyệt tiền [pùrva/apùryamàna-paksa] và nguyệt hậu [apara/apa-ksìyamàna], rồi sau đó gọi là bạch nguyệt ['sukla/'suddha] và hắc nguyệt [krisna/tàmisra], nhƣ có thể thấy trong Áo nghĩa thƣ Kausìtaki upanisad, các kinh Kausika, Kàtyàyanasrauta, 'Sankhàya nasrauta, bộ luật Manu v.v... Đặc biệt lối chia hắc nguyệt bạch nguyệt này đƣợc sử dụng rất phổ biến trong lịch pháp Phật giáo, để qui định các lễ tiết của mình, cụ thể là lễ bố tát [posadha] trong Luật tạng và các lễ khác trong mật giáo. Văn-thù-sƣ-lợi Bồ-tát cập chƣ tiên sở thuyết cát hung thời nhật thiên ác tú diệu kinh, quyển thƣợng ĐTK 1299 tờ 393a 1-2, viết rất rõ: "Hễ tháng thì có hai phần hắc và bạch. Từ ngày mồng một đến ngày 15 là bạch nguyệt. Từ ngày 16 đến ngày 30 là hắc nguyệt". Thế rõ ràng trong lịch pháp Ấn Độ và Phật Giáo rất ít sử dụng hệ 7 ngày. Cần chú ý ngay trong tạng kinh Nam truyền bằng tiếng Ba lỵ, thời gian thai nhi nằm trong bụng mẹ cũng chỉ dùng hệ 9 hay 10 tháng [M.i.4.u. Mahàtanhà sankhayasuttam: màtà nava và dasa và màse gab- bham kucchinà pariharati...], chứ không dùng hệ 7 ngày. Còn tuần của lịch pháp Trung Quốc thì dứt khoát có 10 ngày, nhƣ câu trong Nghiêu điển dẫn trên cho thấy. Nói tóm lại, theo chúng tôi, hệ thống lịch chia năm ra làm 360 ngày, rồi phân bổ thành bốn mùa, mỗi mùa gồm có 3 tháng, mỗi tháng có 30 ngay cùng với việc dùng hệ 7 ngày làm tuần là một di sản của lịch pháp thời Hùng Vƣơng còn đƣợc bảo lƣu trong Lục độ tập kinh qua 10 truyện đã dẫn trên, trừ truyện 88 phản ảnh hệ thống lịch pháp của Phật giáo Ấn Độ. Và để bảo lƣu đƣợc một hệ thống lịch sử nhƣ thế, các truyện ấy phải lƣu hành vào thời hệ thống lịch đó đang còn hiệu lực, tức đang còn sử dụng chính thức và công khai. Đối cách nói, chúng phải xuất hiện tại
Việt Nam trƣớc biến cố năm 43 sdl, khi nhà nƣớc Hùng Vƣơng bị quân đội nhà Hán dƣới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại. Nếu xuất hiện sau, khi bộ máy cai trị đàn áp của Mã Viện đã thiết lập, thì dứt khoát một bảo lƣu nhƣ thế không thể nào xảy ra, vì Viện đã cố tình thực hiện một chính sách huỷ diệt tàn bạo chƣa từng thấy trong lịch sử, nhƣ bắt đày những ngƣời lãnh đạo chính trị và tinh thần [cừ soái>, điều tấu lại Việt Luật "hơn mƣời việc" và thu gom trống đồng, ngoài việc giết sạch những ngƣời chống đối vũ trang và xây dựng thêm đồn canh để bảo vệ cho bạo quyền do Viện mới thiết lập. Xác định đƣợc một phần nào hệ thống lịch pháp thời Hùng Vƣơng nhƣ vậy không những giúp ta sửa sai một quan niệm lƣu hành khá phổ biến trƣớc đây là "Nay không thấy dấu tích gì giúp ta biết cách xếp đặt ngày tháng của dân Lạc Việt xƣa", mà còn giúp khẳng định lời đoán của Hoàng Xuân Hãn rằng "văn hóa Trống đồng của nƣớc Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lƣợt 29-300 ngày cũng không hẳn là vô lý"_1. Nhƣng quan trọng hơn đối với chúng ta là việc xác định đƣợc hệ thống lịch vừa nói đƣa ta đến một nhận thức mới không những về Phật giáo nƣớc ta, mà còn về thời đại Hùng Vƣơng cùng những thành tựu nhiều mặt của nó, trong đó có cả tƣ tƣởng, văn học và khoa học kỹ thuật. Riêng đối với Phật giáo nhờ xác định hệ thống lịch, ta cũng xác địhnh đƣợc những kinh truyện nào đã truyền vào và lƣu hành ở nƣớc ta, khi triều đại Hùng Vƣơng đang còn tồn tại. Và do việc nghiên cứu các kinh truyện ấy, ta sẽ biết học thuyết nào của Phật giáo đƣợc nhân dân ta chấp nhận và sinh hoạt Phật giáo vào giai đoạn ấy ra sao. Hiện có 7 truyện nhƣ thế đang có mặt trong Lục độ tập kinh và chúng tất phải lƣu hành, khi hệ thống lịch Việt Nam đang có hiệu lực, nghĩa là trƣớc năm 43 sdl, lúc triều đại Hùng Vƣơng còn thực hiện chức năng quản lý đất nƣớc của mình." (Hết đoạn trich) Theo TS Lê mạnh Thát, ta có thể suy rằng hệ thống lịch pháp TQ với 365 ngày một năn không thỏa mãn diều kiện “Lục thập hoa giáp” ma chỉ con số 360 của lich pháp Lạc việt mới thỏa điều kiện “Lục thập hoa giap” qua ngũ hành nạp âm. Thiếu cơ sỡ này không một môn khoa hoc “Huyền bí” nào có thề hình thành và ứng dụng. Bảo là "từ thời Tam đại, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc", Lƣu An muốn xác nhận rằng từ những triều đại nhà Hạ (2140-1711tdl), nhà Thƣơng (Ân 1711-1066tdl) và nhà Chu (1066256tdl), ngƣời Việt ta đã không "chịu chính sóc", tức đã không dùng lịch pháp Trung Quốc. Nói khác Lich Pháp Lạc việt chắc hẳn đã xuất hiên rât lâu trƣớc nhà Hạ, nói xa Ngũ đế [25502140tdl]. Và như thế xác định đươc một phần nào thới đại Hùng vương như sử sách đã ghi 2879-258 không gi sai trái.
Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.6)
Âm nhạc là gì? Là sự kết hợp có nghệ thuật của Động và Tỉnh . Ở một khoảng nào đó, tiếng động có tần số 64HZ-23,000HZ, con ngƣởi thu nhân đƣơc qua thính giác và gọi sự kết hợp có nghệ thuật đó là âm nhạc của loài ngƣời. Với súc vật dao động trong khoảng 16HZ(voi) 150.000 HZ (một loại cá heo, porpoise), ngoài khả năng “nghe thấy” của loài ngƣời chắc hẳn cũng mang nhịp điệu âm nhạc. Nghệ thuật ở đây là môt sự kết hợp khéo léo tài tình những phƣơng tiên tạo âm kèn, trống, sáo, .., để diễn đạt một trạng thái tâm ý, vui buồn, trầm tƣ, nỗi loạn,.. Âm thanh dùng trong âm nhạc thƣờng có bốn đặc tính: cao độ, trƣờng độ, cƣờng độ và âm sắc, (tiếng ca, đàn dƣơng cầm, đàn vĩ cầm, đàn ghita, sáo, kèn, đàn tranh, đàn bầu,.. cùng tấu lên một đoạn nhạc ở cùng một độ cao, do sắc thái khác nhau mà tai ta phân biệt đƣợc tiếng của từng nhac sĩ, nhạc cụ … Đặc tính này gọi là âm sắc.) Tuy nhiên, từ khi phim (bộ) xuất hiện thì thâm chí tiếng chó sủa, mèo cào, bom rơi, đạn bay ... cũng đƣợc lồng theo dòng nhạc chính,(Do Re Mi Fa Sol La Si , / Họ Xữ Xàng Xe Cống Liêu,/Cung Thƣơng Giốc Chủy Vũ) , tạo nên một phong cách mới trong hỉnh thức soạn nhạc. Không một tiếng động nào không thể xử dụng nhƣ là một nhạc khí nhằm diễn đạt một cách sống động một trạng thái tâm ý vui buồn, trầm tƣ, nội loạn ... Nói khác nhà soạn nhac phim bộ đã đem lại "chiều thứ ba" cho âm nhac thuần túy, hay âm nhạc vũ trụ thu hẹp. Tiến xa hơn, bên ngoài khoảng thu nhận thính giác, Động -Tỉnh của vũ trụ hay âm nhạc của vũ trụ mang tinh cách vỉ mô nhƣ sự va chạm của vẫn thạch, tiếng chuyển mình của một ngôi sao vừa tạo lập, tiếng gảo thét của vật chất đang cuốn về lỗ đen, ở thế giới vi mô tiêng rít lên của năng lƣơng, alpha, beta, gamma… đƣơc phóng thich từ phân tử Uranium 238, Thorium 234, C14… đang tự hủy hoại, hay nhịp điệu sóng điên từ từ các ngôi sao xa gần… Trờ lại phần âm nhạc thuần túy loài ngƣời
http://hailinhquehuong.net/Nhacly_canban/nhacly_qh_4caodo.html (Trích) 1- Quãng nhạc là khoảng cách âm thanh giữa 2 dấu nhạc. Tên quãng đƣợc gọi bằng số. Từ dấu nhạc đầu tiên đến dấu nhạc cuối có bao nhiêu bậc cơ bản thì là quãng bấy nhiêu. Thí dụ : Đô-Mi : Có 3 bậc là đô, rê, mi, nên gọi là quãng 3. Tính chất các quãng : Ngoài tên gọi bằng số, các quãng nhạc còn có tính chất đúng, trƣởng, thứ, tăng, bội, giảm tuỳ theo số nửa cung đƣợc thêm hay bớt trong cùng một quãng nhạc. 2- Thang âm là chuỗi các âm thanh liên tiếp nhau trong vòng một quãng 8. Có nhiều loại thang âm khác nhau tuỳ theo số lƣợng các bậc cơ bản (chẳng hạn thang ngũ âm có 5 bậc cơ bản, thang thất âm có 7 bậc cơ bản) và tuỳ theo khoảng cách độ cao giữa các bậc cơ bản (chẳng hạn thang ngũ âm thông thƣờng và ngũ âm ngoại thƣờng, thang thất âm trong bình ca và thất âm trong nhạc cổ điển). Khoảng cách về cao độ tƣơng đối giữa các bậc không đồng đều nhau. Khoảng cách nhỏ nhất trong thất âm gọi là nửa cung : Mi - Fa và Si - Đô. Khoảng cách lớn nhất giữa hai bậc cơ bản đi liền nhau gọi là nguyên cung : Đô - Rê, Rê - Mi, Fa - Sol, Sol - La, La – Si Nhƣ vậy khoảng cách âm thanh giữa Đô thấp và Đô cao kế tiếp gồm 12 nửa cung, hoặc 6 nguyên cung. Nói cách khác, quãng tám (Đồ - thấp và Đố - cao) gồm 12 âm cách nhau đều đặn từng nửa cung một. ++ theo GS Trần văn Khê : Trong thang âm Việt Nam hoàn toàn chỉ có ngũ cung ( 5 nốt nhạc trong một bát độ) Có 5 thang âm không bán cung căn bản : 1. Do – Re – Mi- Sol – La – Do 2. Do – Re – Fa – Sol – La – Do 3. Do – Re – Fa – Sol – Sib – Do 4. Do – Mib – Fa – Sol – Sib – Do 5. Do – Mib – Fa – Lab – Sib – Do Ngoài ra còn có những thang âm đặc thù nhƣ : thang âm vọng cổ Do – Mi b+ - Fa – Sol – La – Do
Thang âm Sa Mạc Do – Mib+ - Fa – Sol – Sib – Do Trong nhạc sắc tộc Gia Rai , Ba-Na vùng Cao nguyên Trung phần có một thang âm ngũ cung có bán cung Do – Mi – Fa – Sol – Si – Do ++ Theo Âm Nhạc Cổ Truyền Huế Và Âm La Chuẩn Quốc Tế A=440 cps, Nguyễn Đức Mai Nhạc ngũ âm Việt Nam: Thật ra hệ thống ngũ âm là hệ thống chung của cả nhạc tây Phƣơng lẫn nhạc Việt Nam . Bài hát tạm biệt Auld Lang Syne (Ce n'est qu'un au revoir) mà cả thế giới đều biết là một bài hoàn toàn ngũ âm giống hệt nhạc cổ Việt Nam . Should our ac - quaint - ance be for - got and ne - ver brought to mind ? C F F F A G F G A F A A C D Họ Xàng Xàng Xàng Cống Xê Xàng Xê Cống Xàng Cống Cống Liu Ú Should our ac - quaint - ance be for - got and days of auld lang syne D C A A F G F G A F D D C F Ú Liu Cống Cống Xàng Xê Xàng Xê Cống Xàng Xự Xự Họ Xàng For auld lang syne my dear for auld lang syne D C A - F G F G D C A - C D Ú Liu Cống Xàng Xê Xàng Xê Ú Liu Cống Liu Ú We'll take a cup of kindness yet for days of auld lang syne F C A A F G F G A F D D C F Xáng Liu Cống Cống Xàng Xê Xàng Xê Cống Xàng Xự Xự Họ Xàng Âm nhạc phát xuất từ tiếng nói và mọi ngƣời Việt Nam dù muốn hay không, có ý thức hay hoàn toàn không hay biết, đều mang sẵn nhạc ngũ cung trong huyết quản của mình . Nhiều nhạc sĩ đã viết lên những ca khúc đƣợm tình dân tộc đƣợc mọi ngƣời ƣa chuộng và còn tồn tại mãi mãi với dân tộc là chính vì viết theo ngũ cung mà chính ngƣời sáng tác cũng không biết . Các bài Em Bé Quê của Phạm Duy, Hòn Vọng Phu I và III của Lê Thƣơng và rất nhiều bài thành công khác nữa đều viết theo nhạc ngũ cung . Năm 1971, Linh Mục Đỗ Bá Công và tôi đã thành lập Ca đoàn Hợp Xƣớng Sinh Viên SÔNG HƢƠNG . Chúng tôi mời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, lúc đó ở Huế tham gia sinh hoạt với ca đoàn với tƣ cách là cố vấn nghệ thuật . Trong một lần sinh hoạt, bạn Sơn sáng tác ngay tại chỗ một ca khúc ngắn cho các sinh viên trong ca đoàn cùng hát . Bài hát rất dễ thƣơng, mang tính chất triết lý sâu sắc Phật giáo mà về sau ai cũng nhớ, trở thành rất đƣợc ƣa thích và phổ biến tại Huế thời đó . Chính Trịnh Công Sơn cũng không biết là mình viết theo nhạc ngũ cung Huế - cũng nhƣ bài Nối Vòng Tay Lớn viết theo điệu nhạc chầu văn Huế - cho đến khi đƣợc tôi cho biết và chứng minh cụ thể . Bài đó nhƣ sau (tôi không biết về sau này bạn Sơn đặt tên bài đó là gì): Đâu có đâu em nầy, đâu có cái chết đầu tiên F A G F - D C F A A A F G Xàng Cống Xê XàngXự Họ Xàng Cống Cống Cống Xàng Xê Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng F A G F - D C F A A A G F Xàng Cống Xê XàngXự Họ Xàng Cống Cống Cống Xê Xàng Tự mình biết riêng mình C F A - G F D - C Họ Xàng Cống-Xê Xàng Xự-Họ Và ta biết riêng ta C F A G - F F Họ Xàng Cống Xê-Xàng Xàng
Nhạc ngũ âm Việt Nam và âm chuẩn quốc tế A=440cps Có ngƣời nói rằng mọi ngƣời Việt Nam từ lúc sinh ra đều đã là bậc thầy về thẩm âm . Ðiều này có cơ sở vì tiếng Việt có sáu thanh, mà ngƣời Việt nào cũng phân biệt đƣợc rõ ràng không nhầm lẫn . Một giáo sƣ ngôn ngữ học ngƣời Mỹ đã phải mất gần sáu tháng trời mới phân biệt chính xác các từ sau đây trong một bài tập về thẩm âm : Ma (Ghost) - Mà (But) - Má (Cheek) - Mạ (Young rice plant) - Mả (Tomb) - Mã (Horse) . Do ƣu điểm này về thẩm âm mà trong âm nhạc, ngƣời Việt Nam không cần có âm chuẩn . Họ có thể chơi và thƣởng thức ca nhạc ở bất cứ cao độ (pitch) nào cũng đƣợc trong khi nhạc Tây phƣơng chỉ có 12 bậc trong thang âm bán cung (chromatic scale) . Với những ngƣời đã quen nghe nhạc mới và nhạc Tây phƣơng với âm chuẩn A=440cps, thì khi nghe nhạc cổ truyền Việt Nam, khó lòng thƣởng thức nổi . Vì nhận ra điều này và cũng vì mục đích nghiên cứu, muốn tiện ghi lại bằng ký âm pháp Tây phƣơng, tôi đã dùng nhiều phƣơng cách để đƣa các tài liệu nhạc cổ Huế về đúng âm chuẩn. Trong các cuộc trình diễn, tôi luôn luôn yêu cầu các nhạc công lên dây đàn đúng theo âm chuẩn, thƣờng là bằng cây hắc tiêu (clarinet) mà tôi có . Hai bậc thiệt dùng trong cổ nhạc là Họ 1, tức là Họ = C và Họ 5, tức Họ = G Bậc thiệt (không thăng, không giáng): Họ Xự Xàng Xê Cống Họ 1 C D F G A ( 1 ((11/2(( 1 (( 1 ( Họ Xự Xàng Xê Cống Họ 5 G A C D E ( 1 ((11/2 (( 1 (( 1 ( Bậc Họ 1 có thể sử dụng cho các ban nhạc không có đàn Tranh . Khi có đàn Tranh thì nên sử dụng bậc Họ 5 vì dây số 1 là dây thấp nhất của đàn Tranh là dây G thấp . Khi có Sáo, thƣờng là Sáo Ðô, thì đàn nên lên dây Họ 1 và không dùng đàn Tranh . Có đàn Tranh thì phải dùng Sáo Xôn . Ðối với ngƣời thổi sáo bậc (nhƣ đã nói đến trong bài "Tôi và Chiếc Sáo Tre Việt Nam" đăng ở TK21 số 118 & 119 Xuân Kỷ Mão) mà ngày nay không thấy còn ai, thì đàn lên dây theo bậc nào cũng đƣợc . Nhờ lối lên dây đàn theo âm chuẩn này mà nhiều ngƣời bỗng thấy nhạc Huế do tôi tổ chức trình diễn nghe hay hơn nhiều. Trong số những ngƣời nói cho tôi biết điều này có Ông Ngô Khắc Tỉnh - lúc đó là Tổng Trƣởng Giáo Dục và nhạc sĩ dƣơng cầm Jacob Feurring. Ðối với các tài liệu đã thu băng sẵn mà không theo âm chuẩn, tôi dùng các máy chạy băng từ có phần điều chỉnh cao độ (pitch control) để chỉnh lại cho đúng âm chuẩn và in lại sang băng mới để dùng cho nghe và nghiên cứu. Tóm lại nhạc Huế có toàn bộ 36 bậc, nhƣ sau : Bậc thiệt (không thăng, không giáng):
Họ Xự Xàng Xê Cống Họ 1 C D F G A ( 1 ((11/2(( 1 (( 1 ( Họ Xự Xàng Xê Cống Họ 5 G A C D E ( 1 ((11/2 (( 1 (( 1 ( Thang bậc bán âm: Bậc 1 C D F G A Bậc 2 C# D# F# G# Bb Bậc 3 D E G A B Bậc 4 D# F G# Bb C Bậc 5 E F# A B C# Bậc 6 F G Bb C D Bậc 7 F# G# B C# D# Bậc 8 G A C D E Bậc 9 G# Bb C# D# F Bậc 10 A B D E F# Bậc 11 Bb C D# F G Bậc 12 B C# E F# G# Cọng thêm 24 bậc phụ với các khoảng sai biệt 1/4 và 3/4 nốt . Khi chỉnh theo âm chuẩn quốc tế A=440 cps, ta nên dùng 12 bậc chính nhƣ sau: Bậc 1 C D F G A Bậc 2 C# D# F# G# Bb Bậc 3 D E G A B Bậc 4 D# F G# Bb C Bậc 5 E F# A B C# Bậc 6 F G Bb C D Bậc 7 F# G# B C# D# Bậc 8 G A C D E Bậc 9 G# Bb C# D# F Bậc 10 A B D E F# Bậc 11 Bb C D# F G Bậc 12 B C# E F# G# ++ Tìm hiều thêm tại http://viet-guitar.vn/forum/index.php?showtopic=18204 Hợp âm (Chord) là sự tập hợp các âm theo quy luật nhất định. Nền tảng để tạo nên hợp âm là các quãng 3. Có 2 loại quãng 3 là quãng 3 trƣởng (ký hiệu 3T) và quãng 3 thứ (ký hiệu 3t). Quãng 3 trƣởng có nội hàm là 2 cung. Quãng 3 thứ là 1,5 cung. Lấy ví dụ trên hợp âm Đô trƣởng (gồm 3 nốt Đồ Mi Sol): Âm Đồ đƣợc gọi là âm gốc (bậc 1) Âm Mi gọi là âm giữa (bậc 3 tính từ Đồ) Âm Sol gọi là âm ngọn (bậc 4 tính từ đồ) Ta thấy khoảng cách từ âm Đồ (bậc 1) tới âm Mi (bậc 3) là quãng 3 trƣởng (= 2 cung ) Khoảng cách âm Mi tới Sol (bậc 5) là quãng 3 thứ (= 1,5 cung). Nhƣ vậy ta thấy tập hợp các âm theo quãng 3 (tính từ âm gốc bậc 1) theo nguyên tắc 3 trƣởng+ 3 thứ
(3T + 3t) đó chính là công thức để xác định tất cả các hợp âm trƣởng. 4. Cấu tạo của hợp âm: Trƣởng: +2+1.5 (C: Đồ-mi-sol) Thứ: +1.5+2 (Am: La-si-đô) Bảy: +2+1.5+1.5 (G7: Sol-si-rê-fa) *Cách phối âm lạ: Cách này nghe có vẻ giống nhƣ cách trên nhƣng thật ra có khác chút ít. Bởi vì cách phối âm ở đây mang nghĩa rộng lớn hơn việc sử dụng hợp âm nghịch rất nhiều. Trong trƣờng phái nhạc ấn tƣợng (impressionism), một số nhạc sĩ nhƣ Ravel, Glinka, Debussy đã sáng tác ra một thang âm của riêng họ. Trong nhạc của Grieg đôi khi cũng thấy xuất hiện âm hƣởng này. Theo đó thang âm này gồm: C-D-E-F#-G#-A#-C. Điểm khác biệt lớn nhất của thang âm này so với thang âm cổ điển đó là các cao độ luôn cách liền nhau 1cung, hoàn toàn không có những nửa cung nhƣ mi-fa hay si-do. Khi thang âm này đƣợc sáng tạo ra, thời ấy nó đã bị phản đối rất dữ dội. Bởi vì ngƣời ta cho là nó làm thoái trào tinh hoa của hòa âm cổ điển vốn đã tồn tại mấy trăm năm. Nhƣng đến giờ ngƣời ta đã công nhận cái hay của nó nhƣ một trƣờng phái: trƣờng phái ấn tƣợng. Một số nền văn hóa trên thế giới có những thang âm rất riêng biệt mà nó làm ra tính đặc trƣng của mỗi dân tộc. Nền âm nhạc của Hội Thánh Công Giáo La Mã, mà nhất là trong thể bình ca (Gegrolian) phát triển thịnh đạt vào thời trung cổ, ngƣời ta sử dụng những cách phối âm rất kỳ lạ, ngƣời ta sử dụng cách chuyển từ một hợp âm thứ qua một hợp âm thứ tƣơng ứng. (vd: Em-->Am hay C#m-->F#m). Cách chuyển này thật sự đã tạo ra một cảm xúc rất khác. Bởi vì tính chất của hợp âm nghịch đó là sự xung đột và mâu thuẫn. Nhƣng ở đây, ngƣời ta không dùng hợp âm nghịch mà chuyển từ thứ qua thứ là có một ngụ ý riêng. Cho nên nó làm cho giai điệu nghe hết sức hài hòa, thanh thản, bình an... Nhƣ vậy hợp âm có tuân theo một quy tắc nhƣ hợp âm bình thƣờng không ? hay nó đƣợc tùy sử dụng ở ngƣời nhạc sĩ ? Câu trả lời là: “ Nó không tuân theo một quy luật hay một nhạc sĩ nào hết. Tất cả đều phụ thuộc vào kinh nghiệm và sự sáng tạo của mỗi người. 2 yếu tố quan trọng này sẽ quyết định bản nhạc được hòa âm hay hoặc dở. Kinh nghiệm càng nhiều sẽ giúp người hòa âm xử lý bản nhạc tốt hơn. Đến những đoạn quan trọng, nếu biết vận dụng đúng hợp âm có thể tạo ra hiệu quả biểu cảm rất cao. Nhưng nếu cứ làm y như công thức thì sẽ làm cho bản nhạc trở thành một mớ hỗn độn, người nghe không còn thấy đâu là điểm nhấn. Nói chung, chỉ có kinh nghiệm và thời gian mới dạy cho bạn cách đặt chúng sao cho phù hợp.”
Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 1 (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.7)
(trích từ Quán Âm Bồ Tác / Thich Viêm Lý) "" Hiện tƣớng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu ngƣời biết đƣợc trò chơi này, là ngƣời nắm đƣợc thực tại trên mƣời đầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm đƣợc thực tại trên mƣời đầu ngón tay, kẻ đó không biết đƣợc hòa âm vũ trụ trong trò chơi này. Nói thế không có nghĩa là bản thể vũ trụ ở trong tình trạng phân sáp làm đôi vàđối lập nhau; nhƣng nó chỉ là một. Tuy thế, về mặt tùy thể, chúng ta nhìn bản thể vũ trụ nhƣ là một phức thể, tùy theo kiến giác của mỗi chúng ta. Vì tùy thể này, nói lên đƣợc sự hiện hữu của duyên nghiệp trong mỗi chúng ta đang ở trong tình trạng sinh khởi, nối tiếp và ràng buộc vào nhau, mà hiện ra các khổ tƣớng báo thân có sai khác. Nhƣng về mặt nhất thể , thì hiện tƣớng chính là bản thể, và bản thể chính là hiện tƣớng.
Do đó, cuộc đại hòa âm, hay bất đại hòa âm trong vũ trụ, cũng tùy theo đó mà hiện hữu nhƣ một thực tại giữa chúng ta, không thể không chấp nhận. Vì kẻ biết đƣợc hay không biết đƣợc trò chơi cùng đang nằm trong quỹ đạo của ý niệm, nhƣng khi ý niệm vừa khởi lên, liền sau đó phát hiện ra âm thanh hoặc tƣơng đồng hoặc tƣơng khắc với với thế giới âm thanh bên trong hay bên ngoài. Tuy nhiên trong thế giới ngũ trƣợc này, hầu hết chúng sanh đã mang vào trong mỗi tƣớng thể một khổ quả nào đó, cùng nằm trong một cộng nghiệp không thể tránh khỏi luật tắc luân hồi, đã mang và sẽ đƣa chúng sanh vào con đƣờng khổ. Chính vì khổ ngiệp của chúng sanh đang vây khổn mà các đức Phật Thế tôn cùng các vị Bồ tát xuất hiện ra thế gian này, với hạnh nguyện đại từ, đại bi, ban vui cứu khổ cho mọi loài. Cùng ở trong hạnh nguyện đó, sự xuất hiện của Bồ tát Quán Thế Âm đƣợc các kinh công nhận là độc đáo nhất trong hạnh nguyện của các vị Bồ tát. Ngài đã chứng ngộ bằng âm thanh qua nhĩ căn viên thông, và lấy âm thanh là tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sanh. Với danh hiệu Đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồt tát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa hạnh nguyện đó. Trong nhiều bộ kinh, có nói về đức Quán Thế Âm Bồ tát; nhƣng chúng ta không thấy đề cập đến phƣơng pháp chứng ngộ của Ngài. Duy bộ kinh Lăng Nghiêm có đề cập đến sự chứng ngộ ấy, kinh Lăng Nghiêm trực chỉ ghi rõ rằng: Sau khi đức Thế tôn gạn hỏi chỗ sở chứng của 24 Thánh đệ tử xong, đến lƣợt Bồ tát Quán Thế Âm bày tỏ chỗ sở chứng của mình nhƣ sau: " Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: Tôi nhớ là: hà sa số kiếp về trƣớc, có một vị Phật hiệu là Quán Thế Âm; vị Phật đó dạy tôi muốn vào chánh định thì phải theo nghe-nghĩ-tu. Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyên biến mất và con đƣờng vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tƣớng động và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên nhƣ vậy, thì nghe và đối tƣợng bị nghe đều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tƣợng của bị giác đều không khi không giác đã tròn đầy, thì không và đối tƣợng .không đều diệt. Khi sinh và diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trƣớc mắt." Thế giới phơi mở trƣớc chúng ta nhƣ là một hiện hữu, vƣợt khỏi không gian thời gian. Cảnh giới này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vô vi. Cảnh giới này trên đồng với Nhƣ Lai một từ lực, dƣới hợp với tất cả chúng sanh trong sáu đƣờng, và đồng với chúng sanh một lòng bi ngƣỡng. Đến đây, chúng ta thấy hạnh nguyện của Quán Thế Âm trong kinh Lăng Nghiêm cùng kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, gặp nhau trong lòng bi ngƣỡng đối với chúng sanh đại thể. Nhƣng về ý nghĩa danh từ có sự khác nhau. Trong kinh Lăng Nghiêm ý nghĩa luôn luôn ở trong chiều hƣớng phản phục cái nghe nơi tự tánh. Nhƣ vậy, cái nghe ở trong chiều hƣớng nội. Một khi tâm đã phản phục, thời cảnh sở quán sẽ không còn, nên không có sự đối đãi giữa năng và sở nữa. Lúc đó Nhƣ lai tạng tâm sẽ hiển bày ra trƣớc mắt. Lúc đó tâm năng văn và cảnh sở văn sẽ tiêu tan dung hội. Nhƣ vậy kinh Lăng Nghiêm lập cứ trên nhân hạnh mà gọi là Quán Thế Âm. Ngƣợc lại trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn lại lập cứ trên quả đức để hiển nghĩa, thì Âm chính là tiêu đích của văn tầm cứu. Dù là tịch thinh hay là động thinh, nghe của Quán Thế Âm Bồ tát cũng thấu suốt tất cả. Âm thinh từ trạng thái tâm lý đến lúc phát ra ngoài, phải qua một tiến trình chuyển động của cơ thể. Có sự liên hệ giữa một ý niệm khi phát khởi, và các sợi thần kinh liên hệ chuyển động để thoát ra ngoài cửa miệng, lúc đó mới tạo thành âm thanh thật sự. Âm thanh này sẽ dàn trải ra vô tận, và sẽ tạo thành âm thanh sống của vũ trụ. Trong những biến động tiếp giao này, cùng với những âm thanh khác, sẽ tạo ra những điệu hòa âm, hay bất hòa âm, tùy theo lối dung nạp của mỗi âm thanh từng ngƣời, từng loại chúng sanh. Ở đây trạng thái tịch thanh không tự hữu, mà chỉ hiện hữu trong mỗi ngƣời, mỗi sự vật, chính ngay trong ý niệm, trong mặc thức, không phát
ra bên ngoài, hay chƣa khởi phát ra ngoài, nhƣng nó có tác động của tâm thức can thiệp vào. Ở đây, còn gọi là tâm thanh, là tiếng nói của tâm. "" Trở lại hệ tám thức: 1. Nhãn thức: sự nhận thức của thị giác - mắt. 2. Nhĩ thức: sự nhận thức của thính giác - tai. 3. Tỷ thức: sự nhận thức của khứu giác - mũi. 4. Thiệt thức: sự nhận thức của vị giác - lƣỡi. 5. Thân thức: sự nhận thức của thân giác - cơ thể. Thức thuộc phi vật thể khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí, tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các “KHIẾU” mà ta nhận đƣợc khi kết hợp Thận, Tỳ,Can,Tâm Phế và Nhãn, nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân. "Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy "Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ "Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc "Tâm khai khiếu ở lƣỡi". Tâm thuộc Hỏa "Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim 1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc 2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy 3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim 4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lƣỡi". Tâm thuộc Hỏa 5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ Khi qua các KHIẾU, một âm thanh đươc vang lên như con sáo diều vi vu trong chiều lộng gió , cái khác biệt là âm thanh sáo diều là sự thay đội nhanh chóng áp suất trong ngoài Lỗ thổi tạo nên dao dông "không khí" qua Lỗ Thổi và chỉ một chiều từ trong ra ngoài Khi các thức trước, Nhãn, Nhĩ, Tì, Thiệt, và Thân thức( Phi vật chất, KHÔNG) xuyên qua các Khiếu đươc khí hóa mà thanh Mộc Thủy, Kim, Hỏa, Thổ (Vật chất, SẮC) hay ngược lại, âm thanh do sự biến đổi thuận nghịch này, chỉ có thể nghe qua pháp môn Quán thế Âm, , là "Lắng Nghe" cái "Tự Tâm" và từ cái "Tự Tâm" đó mà Nghe được mọi âm trên thế gian. "Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyên biến mất và con đƣờng vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tƣớng động và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên nhƣ vậy, thì nghe và đối tƣợng bị nghe đều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tƣợng của bị giác đều không khi không giác đã tròn đầy, thì không và đối tƣợng .không đều diệt. Khi sinh và diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trƣớc mắt." Thế giới phơi mở trƣớc chúng ta nhƣ là một hiện hữu, vƣợt khỏi không gian thời gian. Cảnh giới này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vô vi."
Nói nhƣ vậy, để đạt tới sự "lắng nghe" cao diệu đó đòi hỏi sự tu tập dài lâu không những trong hiện tại mà còn do sự tích lũy Công Đức trong quá khứ qua vô lƣợng kiếp tu tập Bổ Tát Đạo. Điễm quan trọng không phải là "lắng nghe" vì chỉ "Lắng nghe" đơn thuần thì kết quả chỉ là "nghe-thấy" đƣơc "tự tâm" nhƣ các đạo sƣ Thiền thƣờng nói "Trực chỉ chơn Tâm", hay "Kiến Tánh ". Vƣợt qua nội tại đó đòi hỏi ngƣời tu tập còn phải qua quá trình tu tập Từ Bi Hỷ Xả hay Tứ Vô Lƣợng Tâm. Vì chỉ có Tứ Vô Lƣợng Tâm mới có thể "Thanh-Tịnh" cái "Tánh","Chơn Tâm", mà "Tâm Nhƣ Lai" hiển lộ. Vì Tứ Vô Lƣợng Tâm mới có thề dung chứa, hàm chứa mọi chúng sinh, nói khác, là có thể dung chứa tâm chúng sinh vào tâm mình mà "Tri Huệ Bát Nhả" nãy sinh. Để hiểu rõ hơn "Tâm Nhƣ Lai","Tri Huệ Bát Nhả", chúng ta hãy đơn giãn quay trở lại lƣợc sử Đức Phật (Xem tiếp Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 2, TVDMNQ bài 4.8)
Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 2
Ðức Phật giáng sinh, theo truyền thuyết vào ngày 8 tháng 2 lich Ân Độ tại vƣờn Lâm tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ. Song thân Ngài là quốc vƣơng Tinh Phạm và hoàng hậu Ma Da, thuộc dòng dỏi Thich Ca. Một hôm hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà khai hông phải mà chui vào, không bao lâu sau đó, hoàng hâu thụ thai. Các chiêm tinh gia đều cho rằng Hoàng hậu sẽ hạ sanh một hoàng từ tài đức song toàn. Theo ngƣời viết thì Bạch tƣợng tƣơng trƣng cho tinh thần Dân chủ, nó không mang ý nghĩa cũa một thể chế chinh trị, mà là tinh thân bỉnh đẳng mọi chúng sinh, về trí thức, đạo đức và tâm linh, là cởi trói mọi xiềng xích, sáu ngà là sáu mủi nhọn tiến công, khai thị chúng sanh trên con đƣơng tiến về Giác Ngô. Theo tục lệ hoàng hậu sẽ phải về quê ngoại, ở nƣớc Câu Ly chớ ngày sinh nỡ. Trên dƣờng đi Hoàng hậu ghé vào vƣờn Lâm Tỳ Ni. Vƣờn Lâm tỳ ni nằm dƣới chân Hy mã lạp sơn, cách thành Ca tỳ la vệ khoảng 25 km về hƣơng Tây, Lúc bấy giờ đang vào mùa trăm hoa đua nỡ, khoe sắc khoe hƣơng thơm ngạt ngào, chim chóc hót vang một vùng trời nhƣ khát khao chờ đợi, xa xa tiếng róc rách con suối nhỏ chảy về hối hả, bên kia rặng rừng già vang vọng tiêng kèn gã voi già nhƣ thúc dục muôn thú. Hoàng hậu Maya đang nghỉ chân dƣới tàng cây vô ƣu, nhìn lên những cụm mây trôi lựng thửng trên bầu trới trong xanh, bà thấy ẩn hiện các chƣ thiên đông đủ quy tụ quanh vƣờn Lâm tỳ ni, đúng lúc dó cơn chuyển bụng cũng vừa tới. Hoàng hâu Ma Da hạ sanh hoàng tử Tất Đat Đa.
Lẫn trong đám đông, có Đạo sĩ A-tƣ-đa vái chào Thái tử với thái độ rất cung kính, rồi cƣời và lại khóc. Ðƣợc hỏi, đạo sĩ trả lời: ông cƣời mừng là vì Thái tử có 32 tƣớng tốt, với lòng từ thƣơng xót chúng sanh mà truyền bá chánh pháp trên thế gian này. «. Thái tử này sẽ chứng Tối thƣợng quả Bồ đề Sẽ chuyển bánh xe pháp Thấy thanh tịnh tối thắng Vì lòng từ thƣơng xót Vì hạnh phúc nhiều ngƣời Và đời sống phạm hạnh Ðƣợc truyền bá rộng rãi... (Sutta-Nipata, Kinh tập, 101) Và ông khóc là vì tuổi đã quá cao, không còn sống đƣợc bao lâu nữa để trực tiếp đƣợc giáo hóa bởi Ðức Thế Tôn tƣơng lai này. «... Thọ mạng ta ở đời Còn lại không bao nhiêu Ðến giữa đời sống Ngài Ta sẽ bị mệnh chung Ta không đƣợc nghe pháp Bậc tinh cần vô tỉ Do vậy ta sầu não Bất hạnh và khổ đau.... (Kinh tập, 103) Lời tiên đoán làm Vua Suddhodana lặng lẽ không vui. Trong lễ đặt tên, vua đặt tên con là Siddhattha (Sĩ Ðạt Ða-Tất Ðạt Ða), họ là Gotama (Cồ Ðàm), với hàm ý là kẻ phải giữ chức vụ mà mình phải giữ; còn có nghĩa là ngƣời đƣợc toại nguyện, mọi việc đều thành tựu. Ý nhà vua là muốn gởi gắm tất cả vƣơng quyền của mình vào đứa con yêu quý này. Hoàng hậu Màyà qua đời sau 7 ngày hạ sanh Thái tử; vì thế, sự nuôi dƣỡng đều đƣợc chăm sóc trực tiếp bởi dì Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, em ruột của Hoàng hậu Ma Da. Khi một thánh nhân xuất hiện sẽ có nhƣng hiện tƣợng báo trƣớc, cũng nhƣ nhƣng sự kiên lạ lùng đƣợc phát hiện, là nhƣng kinh nghiêm tích lủy từ vô lƣơng kiêp chợt trợ lại. Điễm nỗi bật nhất của Phật giáo là lới Thề nguyện, Hạnh nguyên hay Đại nguyện, đó là chủng tử Thân Khẩu Ý đƣơc gieo vào A Lai da thức mà một khi khi hội đủ nhân duyên sẽ cùng với công đức tich lủy mà hiển hiện trong kiếp hiên tại. Sự phát hiện "điễm lạ lùng ấy" chỉ là một thể nghiệm cần thiết cho một hiện thực bƣớt vào giai đoạn mới hay một thử thách hạnh nguyện phát nguyện trƣớc đó. Thái tử Siddhattha đƣợc nuôi nấng và dạy dỗ một cách toàn diện cả hai lãnh vực văn chƣơng và võ thuật; những thầy giáo giỏi nhất trong nƣớc đƣợc mời đến hoàng cung để dạy cho Thái tử các môn học đƣơng đại nhƣ Thanh minh (ngôn ngữ, văn học), Công xảo minh (công kỹ nghệ học), Y phƣơng minh (y học), Nhân minh (luận lý học) và Nội minh (đạo học); lúc ấy, Ngài vừa tròn 7 tuổi. Về đạo học, Thái tử đã đƣợc học 4 thánh điển Veda. Kinh ghi lại rằng, chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn học trên.
Về thời niên thiếu của hoàng tử kinh sách có ghi chép lời chính Đức Phật thuật lại nhƣ sau: "Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vƣơn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dƣới ánh nắng ban mai. Trầm hƣơng của ta dùng đều là loại thƣợng hảo hạng từ xứ Kāsi mang đến. Khăn đóng, khăn choàn và y phục, tất cả đều từ xứ Kāsi. Ngày nhƣ đêm, mỗi khi ta bƣớc chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sƣơng đỡ nắng. "Phụ hoàng cũng kiến tạo riêng cho ta ba tòa cung điện. Một để ở mùa lạnh, một mùa nóng và một, mùa mƣa. Trong suốt bốn tháng mƣa ta lƣu tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ. Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng đƣợc ăn sung mặc sƣớng chớ không phải nhƣ ở các nhà khác, gia đinh chỉ đƣợc ăn cơm hẩm và thức ăn cũ." - (Tăng Nhứt A Hàm, phần I, trang 145) Và chúng ta điều biết, thái tử Tất Đạt Đa từ chối cái định mệnh ngai vàng, cung diện nguy nga, cung tần mỹ nữ, "đời sống tế nhị, vô cùng tinh vi đó" khoác lên mình tấm y vàng, Có phải chăng, trong sâu thẳm tâm thức, bùng lên lời thề nguyên năm xƣa, Ngài cùng nô bộc Xa Nặc lên con tuấn mã Kiền Trắc vƣợt thành ra đi. Lúc đó Ngài đƣợc 29 tuổi. Vào lễ hạ điền, tất cả mọi ngƣời, giàu nhƣ nghèo, sang nhƣ hèn, ăn mặc tốt đẹp để vui chơi hỉ hả một bữa, trƣớc khi bắt tay vào công việc ruộng nƣơng đồng áng. Sáng ngày, đức vua cùng quần thần, áo mão chỉnh tề, ra tận nơi hành lễ. Hoàng Tử Siddhattha cũng đƣợc cung phi mỹ nữ đặt trong một cái kiệu, màn che sáo phủ, khiêng ra để dƣới bóng mát một cội cây trâm. Hôm ấy đức vua chủ tọa buổi lễ. Thấy mọi ngƣời vui vẻ theo dõi cuộc vui, các cung phi có phận sự trông nom hoàng tử cũng lén chạy xem. Trái hẳn với cảnh nhộn nhịp tƣng bừng của buổi lễ, tàn bóng mát mẻ dƣới cội trâm và khung cảnh êm đềm nhƣ mời mọc suy niệm. Hoàng tử tuổi tuy còn nhỏ nhƣng tâm trí đã thuần thục. Khác với những ngƣời chỉ biết tìm thích thú trong cuộc lễ, hoàng tử ngồi tréo chân theo lối kiết già, niệm hơi thở, định tâm và đắc Sơ Thiền. Giữa lúc mọi ngƣời vui vẻ thƣởng thức, các cung phi bỗng sực nhớ lại hoàng tử, vội vã trở về với phận sự. Khi thấy hoàng tử ngồi trầm ngâm hành thiền thì họ lấy làm ngạc nhiên, đến tâu lại tự sự cho vua. Đức vua hối hả đến nơi, thấy hoàng tử vẫn ngồi tham thiền liền đến trƣớc mặt hoàng tử, xá chào con và nói, "Hỡi này con yêu dấu, đây là lần thứ nhì phụ vƣơng đảnh lễ con". Thái Tử Siddhattha rời hoàng cung tiếp xúc với sanh, già, bệnh, chết, yêu, chia ly, đắt đƣơc, hận, oán,... nỗi đau khổ của nhân loại ... và mỗi lần trở lại hoàng cung là với băn khoăn ,với lòng trắc ẩn, và cùng tận trong tâm thức, một "chất liệu vô hình" thúc dục Thái Tử không để yên cho Thái Tử an hƣởng những lạc thú tạm bợ của đời vƣơng giả khi bên ngoài hoàng cung vang vọng tiếng nhân loại đang trầm luân trong đau khổ. "chất liệu vô hình" đó, một cách nôn na, lòng từ bi vô lƣợng vô biên hay đúng hơn: Tứ Vô Lƣợng Tâm đã đến thới kỳ viên mãn. Nhƣ ngƣời lang thang bất định, Thái từ Tất Đạt Đa đến học đạo với đạo sĩ Alarama Kalama, bằng trí thông minh xuất chúng, ý chí sắc đá, thái tử đạt tới cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Thiền,
nhƣng đạo sĩ Gotama, trong tận cùng thâm tâm vẫn chƣa thỏa mãn đáp án cởi bỏ xiềng xích của xâu chuôi nhân duyên, đau khổ, sinh lão bệnh tử, phiền não, ô nhiễm. Thái từ Tất Đạt Đa đến thọ giáo với một vị đạo sƣ trứ danh khác tên Uddaka Ramaputta. Không bao lâu, vị đệ tử thông minh xuất chúng Gotama đã thấu triệt giáo lý của thầy và chứng đắc đệ bát thiền Vô Sắc tức là tầng cao nhất của thiền Vô Sắc Giới: cảnh giới Phi Tƣởng Phi Phi Tƣởng, nhƣng vẫn không chứng ngộ đƣợc chân lý cao thƣợng hằng mong mỏi. Với quyết tâm, sáu năm lặn lội tâm sƣ học đạo, với thông minh xuất chúng, thái tử không tìm đƣợc câu trả lời thỏa đáng. Dƣới gốc bồ đề Thái Tử Siddhattha nhập Định, qua bốn mƣơi chín ngảy đêm, rồi cuối cùng trong một niệm, bằng trí Bát Nhã, Thái Tử Siddhattha chứng Vô Thƣợng Bồ Đề. Một sát na then chốt, Thái Tử Siddhattha và Đức Phật không hai không khác. D.T Suzuki trong thiền luận (Tuệ Sĩ dịch) có đoạn : (Trich từ Thiền Luận D.T.Suzuki /Đại đức Tuệ Sĩ chuyển dịch) "Những gì Phật dạy lại các đệ tử chẳng qua chỉ là phần tinh luyện của trí thức Phật nhằm chỉ cho môn đệ thấy và thành những gì Ngài đã thấy và đã thành. Kết quả thuần trí thức ấy, dầu đƣợc trình bày dƣới hình thức triết lý nào, vẫn không lột đƣợc tinh thần của sự tâm chứng ấy của Phật. Bởi vậy, muốn nắm lấy yếu chỉ của Phật giáo - tức nội dung của Giác Ngộ - ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của ngƣời mở đạo, vì do sự tự chứng ấy Phật mới là Phật, và là giáo chủ của một hệ thống đạo mang tên Phật. Vậy thử xem kinh điển ghi chép sự chứng nghiệm ấy nhƣ thế nào, do đâu mà có, và hậu quả (1) ra sao. Trong Trƣờng bộ kinh, phẩm Đại bản (2), có đoạn Phật thuyết về sáu vị Phật quá khứ ra đời trƣớc Ngài. Đại khái tiểu sử các vị Bồ Tát và Phật ấy đều hao hao giống nhƣ tiểu sử của Phật, trừ vài chi tiết phụ thuộc, vì ngƣời ta lập luận rằng chƣ Phật đều giống nhau hệt ở bổn hạnh. Nên khi Thích Ca, Phật của Kiếp hiện tại, thuyết về chƣ Phật kiếp quá khứ, thuật lại sự tự giác của các cổ Phật, Thích Ca thật ra chỉ tổng kết lại cuộc giáng sanh của ngài ở cõi trần, và mọi chi tiết Ngài thuật lại về chƣ cổ Phật đều có thể coi là của chính Ngài, ngoại trừ vài điểm về huyết hệ, giai cấp xã hội, chỗ sanh, thọ mạng, v.v... Nhất là sự tâm chứng của Ngài, gọi là Ngộ (3) càng đặc biệt giống hệt....." "Đến đây nẩy ra câu hỏi đầy ý nghĩa nhất trong lịch sử Phật Giáo. Thật vậy, thử hỏi cái gì trong sự tâm chứng ấy khiến Phật chiến thắng vô minh, gội sạch hết cảm nhiễm? Cái kiến chiếu ấy là gì phóng vào sự vật khiến Phật thấy những cái từ trƣớc chƣa bao giờ thấy? Phải chăng đó là giáo lý “khổ đế” do “ái” và „thủ” mà có? Phải chăng đó là giáo lý “nhân quả‟ mà Phật đã phăng mối đến tận “vô minh”, coi nhƣ nguồn gốc của khổ đau phiền não? Chắc chắn không phải vì vận dụng trí óc nhiều mà Phật ngộ đạo. “Không thể dùng trí suy luận thƣờng mà hiểu đƣợc” là câu nói thƣờng gặp luôn trong văn học Phật giáo, Pali và Phạn ngữ. Sự hoan lạc Phật trải qua lúc ấy thật sâu đậm quá, thâm thía quá, và hậu quả vô biên quá, không thể thuộc phạm vi suy luận. Trí suy luận chỉ đủ sức đƣa đến một sự thỏa mãn thƣờng khi thắc mắc đƣợc đánh tan, nhƣng không đủ cƣơng yếu để đi vào chiều sâu của đời sống nội tâm. Không phải tất cả nhà thông thái đều là thánh, mà không phải thánh nào cũng là thông thái. Sự quán tƣởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định đƣợc sự chiến thắng vô
minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm." Đúng vậy," Sự quán tƣởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định đƣợc sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm". Mà ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của ngƣời mở đạo. Cảnh giới tự chứng đó là vô lƣơng kiếp tu hành Bồ Tát Đạo, thực hiện lời Đại nguyện Từ Bi Hỷ Xã. (Tứ Vô Lƣơng Tâm) (Đoạn sau trích từ http://www.thuvienhoasen.org/tdn-hoanghiem-02B.htm) Chƣơng 53- Bài học do Bồ tát Phổ hiền dạy "Phƣơng Pháp Hành Bồ Tát Ðạo". "Thiện Tài chiêm ngƣỡng thân tƣớng của Bồ tát tỏa ánh hào quang sáng ngời soi tỏa khắp mƣời phƣơng pháp giới, phát ra vô lƣợng hạnh nguyện Ba la mật thanh tịnh. Bồ tát xoa đầu Thiện Tài nói: " Ngƣời có thấy thần lực của ta chăng? Thuở quá khứ, trong nhiều vi trần số kiếp, ta đã thực hành Bồ Tát Ðạo để thanh tịnh tâm Bồ đề và kính thờ vô lƣợng chƣ Phật. Ta ở trong vô số kiếp mà chƣa từng có một niệm nhỏ chẳng theo lời giáo huấn của Nhƣ Lai. Ta chẳng bao giờ có tâm sân hận và trụ vào ngã và ngã sở, không một sát na nào rời bỏ Bồ đề. Ta chỉ an trụ tâm trong đại bồ đề thƣợng và dùng tâm đại bi cứu giúp chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật. Trong nội tâm và ở ngoài cảnh giới đều xả hết, cho đến cả mạng sống của ta cũng không hề tiếc rẻ. Nếu nói những việc ta đã làm thì vô cùng tận. Ðại dƣơng bát ngát còn có thể cạn khô, chứ những hạnh nguyện của ta bình đẳng, thanh tịnh, tùy thuận chúng sinh mà ứng hiện khắp nơi, làm cho ai nấy đều đƣợc an vui, hết khổ. 84.000 pháp môn của Phật dạy, tuy chia ra nhiều bộ phái, tính tƣớng và lý sự khác nhau, dị biệt ở phần tiểu tiết, nhƣng pháp nào cũng chỉ nhằm vào một mục tiêu: cứu khổ chúng sinh, đƣa tới giác ngộ, giải thoát cho mình và cho muôn loài." (BTD ,trang1122) Ðạo Phật là đạo Nhƣ Thật, "chuộng sự thực hành, không ƣa lý thuyết suông, rƣờm rà, trừu tƣợng, chỉ để thỏa mãn óc tò mò của lý trí mà thôi. Ðạo Phật vụ ở hỗ "thân chứng" tức thực nghiệm bản thân, và coi nhẹ những sự hiểu biết qua sách vở, kinh điển, vì HỌC mà không HÀNH thì không thể nào tới đƣợc bờ bến Giác, đạt tới Chân lý… " Và để thực thi "BỒ TÁT ÐẠO, hay Con Ðƣờng Lý Tƣởng" đƣợc viên mãn, chúng ta hãy nhất tâm phát nguyện: Chúng sanh vô biên thề nguyện độ Phiên não vô tận thề nguyện đoạn Pháp môn vô lƣợng thề nguyện học Phật đạo vô thƣợng thề nguyện thành
Mộc đại: Yếu tố thứ năm sau Đất, Gió, Lủa, Nước Tứ Đại hay bốn cái lớn trong vũ trụ, theo kinh điển của Phật Giáo gồm đất, nƣớc, gió, lửa. (Về Thân tứ Đại tìm đọc Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.4)
Mọi sự vật hiện hữu trong vũ trụ đều có một giá trị tƣơng đối, ví dụ khi nói tới kim loại, thì Vàng là kim loại quý phổ biến nhất, ngay chính sự đầu tƣ vàng cũng là một nơi trú ẩn an toàn chống lại bất kỳ cuộc khủng hoảng, kinh tế, chính trị, xã hội hay tiền tệ dựa trên đó, chẳng hạn nhƣ: giảm thị trƣờng đầu tƣ, tiền tệ thất bại, lạm phát, chiến tranh và bất ổn xã hội. Vàng là không giống nhƣ một trái phiếu và vàng không thể trở thành vô giá trị nhƣ một trái phiếu có thể. Và cũng nhƣ thế khi tìm hiểu Mộc đại, chúng ta không thể bỏ qua một loài hoa cao quý đƣơc bàn tới rất phỗ biến trong kinh sách Phật giáo và là biểu tƣợng của sự thuần khiết, tinh thần bất khuất vô nhiễm, là vƣơn dậy trong mọi nghịch cảnh, vƣợt lên trên những bùn lầy trần tục nhƣ sự giải thoát khỏi phiền trƣợc, là tiêu biểu đặc trƣng cho tinh thần bất nhiễm trần của đấng Giác ngộ và cũng tƣợng trƣng cho trí tuệ, cho triết lý cao siêu của Phật giáo, nếu không muốn nói thì khi nói tới hoa sen là nói tới Phật tánh, là bồ tát, là thánh nhân. Hoa sen đã đƣợc ngƣời bình dân tôn quí để ví với những ngƣời có tâm hồn thanh cao, sống nơi bụi trần đầy danh lợi mà không bị những thứ ô uế cám dỗ, ràng buộc: Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng; Nhụy vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. hay trong các bài tán : Nơi hải hội Liên-trì Đức Phật A Di Đà Cùng Quán Âm, Thế Chí Ngự trên đài hoa sen Phát thệ nguyện rộng lớn Tiếp dẫn chúng hữu tình Nguyện mọi loài chúng sinh Đồng vãng sinh Cực-lạc Nam mô Liên Trì Hải Hộ Phật Bồ Tát DocThemTaiDay (còn tiếp)
Trí Tuệ Bát Nhã Tâm Kinh 1.1 Tâm Kinh Bản Anh Ngữ Maha Prajna Paramita Hridaya Sutra The Heart Sutra 1- Maha Prajna Paramita Hridaya Sutra Avalokiteshvara Bodhisattva, when practicing deeply the Prajna Paramita, perceived that all five skandhas in their own being are empty and was saved
from all suffering. 2- O Shariputra, form does not differ from emptiness, emptiness does not differ from form. That which is form is emptiness, that which is emptiness, form. The same is true of feelings, perceptions, impulses, consciousness. 3- O Shariputra, all dharmas are marked with emptiness. They are without birth or death, are not tainted, nor pure; do not increase, nor decrease. Therefore, in emptiness no form, no feelings, no perceptions, no impulses, no consciousness, no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, no mind, no color, no sound, no smell, no taste, no touch, no object of mind, no world of eyes, through to no world of mind consciousness. No ignorance and also no extinction of it, through to no old age and death and also no extinction of it. No suffering, no origination, no stopping, no path, no cognition, also no attainment, with nothing to attain. 4- The Bodhisattvas depend on Prajna Paramita and their minds are no hindrance. Without any hindrance no fears exist. Far apart from every deluded view they dwell in Nirvana. In the Three Worlds all Buddhas depend on Prajna Paramita and attain unsurpassed, complete, perfect Enlightenment. 5- Therefore know: the Prajna Paramita is the great transcendent mantra, is the great bright mantra, is the utmost mantra, is the supreme mantra, which is able to relieve all suffering and is true, not false. 6- So proclaim the Prajna Paramita mantra, proclaim the mantra that says: Gyate, gyate, paragyate parasam gyate, bodhi Svaha!
Skandhas: In Buddhist phenomenology and soteriology, the skandhas (Sanskrit) or khandhas (Pāli, aggregates in English) are any of five types of phenomena that serve as objects of clinging and bases for a sense of self.[1] The Buddha teaches that nothing among them is really "I" or "mine". Bản tiếng Hán của ngài Huyền Trang: QuánTựTại BồTát hành thâm Bátnhã Balamậtđa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai Không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị Không, Không bất dị sắc, sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ tƣởng hành thức diệc phục nhƣ thị. Xá Lợi Tử, thị chƣ pháp Không tƣớng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ tƣởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỵ thiệt thân ý, vô sắc thanh hƣơng vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí, vô đắc, diệc [vô bất đắc]. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tƣởng, cứu cánh niết bàn. Tam thế chƣ Phật y Bátnhã Balamậtđa cố đắc Anậuđala Tammiệu Tambồđề.
Cố tri Bátnhã Balamậtđa, [thị đại thần chú,] thị đại minh chú, thị vô thƣợng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thực bất hƣ. Cố thuyết Bátnhã Balamậtđa chú, tức thuyết chú viết, Yếtđế yếtđế balayếtđế balatăng yếtđế bồđề tátbàha. Trí Tuệ Bát Nhã Tâm Kinh 1- Nương vào công đức vô lượng, Bồ tát Quán Thế Âm, an định, tự tại tiến sâu vào nguồn kinh mạch Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ và rằng khi vượt qua khiếu đó (cỗng, gate) hợp thể năm chất đều là Không, liền thóat khòi mọi khổ ách. 2- Này người con Xá Lợi, hinh tướng cũng là Không, Không cũng là hình tướng, rằng phi vật chất, vật chất là không hai không khác. Thọ Tưởng Hành Thức đều như vậy 3- Này người con Xá Lợi: Hết thảy các pháp đều không. Không sanh cũng không diệt, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Và rằng tánh không, không có hình tướng, cho nên không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nên không có đối tượng của mắt, tai, mủi, lưởi, thân, cũng không có cái biết của sắc, thanh, hương, vị, xúc. Không có vô minh, không có hết vô minh, không có già chết và cũng không có hết già chết. Không có khổ nạn nên không có tập, diệt, đạo, không có tri thức hiểu biết, cũng không có được mất, vì không có gì được hay mất. 4- Giờ đây Đại bồ Tát nương vào trí tuệ Bát Nhã, nên tâm không còn chướng ngại, nên không còn sợ hãi, lìa xa được điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật trong quá khứ, hiện tại, tương lai đều nương theo Trí Tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. 5- Cho nên phải biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã" là đại thần Lực, là vô thượng lực, là lực vô đối vô song có khả năng tiêu trừ khổ nạn, là chân thật, là sự thật không gian dối. 6- Vì thế, nên biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã được tuyên nói trong kinh rằng: "Vượt qua, vượt qua, vượt qua cổng đó, thể nhập vào trái tim vô thượng, Giác ngộ rồi!" ------------------------------------Chú Giải Tâm Kinh 1- Tâm kinh đƣợc mỡ đầu bằng "Nƣơng vào công đức" xác định không một ai có thề chứng đạt, kiến tánh mà không hôi đủ công đức, tiếp liền đó danh hiệu Bổ tát Quán thế Âm đƣợc nêu lên nhƣ một cảnh tỉnh, một nhân mạnh "công đúc viên mãn", mọt điều kiên ắc có và đủ. Vậy Công đức là gì? Tại sao lai cần thiết đề vƣơt qua cổng đó.
------------------------------------Chú thích 1 : Thức thuộc phi vật thể (năng lƣợng, KHÔNG) khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở
thành Khí (vật chất, SẮC), tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các khiếu mà ta nhận đƣợc khi kết hợp Thận, Tỳ, Can, Tâm, Phế (Đông Y) và Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân. -"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy -"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ -"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc -"Tâm khai khiếu ở lƣỡi". Tâm thuộc Hỏa -"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim 1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc 2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy 3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim 4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lƣỡi". Tâm thuộc Hỏa 5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ Đoc thêm (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.4) "Muốn trở về với Chân Tánh Bổn Nguyên Thanh Tịnh thì phải nƣơng vào Thân Xác Thô Kệch này, là hiện tƣớng của vô lƣợng những quang minh đã bị lƣu ngại cô động lại. Phải dựa vào Năm Giác Quan Thô Phù của nó gồm Mắt, Tai, Mũi, Lƣỡi, Thân " (Trích từ DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƢỢC GIẢI / Thích Trí Châu) DuyThucTamThapTungLuocGiai ThíchTríChâu : Click here Nhƣ vậy "hiện tƣớng của vô lƣợng những quang minh đã bị lƣu ngại cô động lại." theo Từ Vi Dƣới mắt Nghiệp Quả là sự cô đọng lại cúa Khí trong tiến trình Tiền Ngũ Thức đƣợc Khí hóa thành Mắt, Tai, Mũi, Lƣỡi, Thân tƣơng tự quá trình hơi nƣớc và nƣớc,.. Chú thích 2 : Dòng hải lƣu là chuyển động trực tiếp, liên tục và tƣơng đối ổn định của nƣớc biển và lƣu thông ở một trong các đại dƣơng của Trái Đất. Các dòng hải lƣu có thể lƣu thông trên một quãng đƣờng dài hàng ngàn kilômét. Chúng là rất quan trọng trong việc xác định khí hậu của các lục địa, đặc biệt ở những khu vực gần biển. Ví dụ nổi bật nhất là dòng Vịnh (còn gọi là hải lƣu Gulf Stream từ tiếng Anh Gulf Stream), dòng hải lƣu này làm cho phần tây bắc châu Âu có nhiệt độ cao hơn bất kỳ khu vực nào có cùng vĩ độ. Một ví dụ khác là quần đảo Hawaii, ở đó khí hậu có tính cận nhiệt đới và mát hơn đáng kể so với các khu vực có cùng vĩ độ nhiệt đới với nó do dòng hải lƣu California gây ra. Tuy nhiên, tầm quan trọng của các dòng hải lƣu cũng đƣợc làm sáng tỏ thêm bởi hiện tƣợng El Niño, trong đó sự đảo ngƣợc tạm thời của dòng hải lƣu sinh ra những sự thay đổi khí hậu có tính khắc nghiệt hơn dọc theo bờ biển phía tây Nam Mỹ. Các hiệu ứng của El Niño trải rộng đến tận nƣớc Úc. Các dòng hải lƣu bề mặt nói chung đƣợc lƣu thông bởi gió và có xu hƣớng chảy theo các xoắn ốc cùng chiều kim đồng hồ ở bắc bán cầu và ngƣợc chiều kim đồng hồ ở nam bán cầu do hiệu ứng Coriolis. Trong các dòng hải lƣu chuyển động bởi gió thì hiệu ứng xoắn ốc Ekman làm cho dòng
chảy tạo ra một góc nào đó so với hƣớng gió. Các dòng hải lƣu sâu đƣợc lƣu thông do các độ chênh lệch (gradient) của mật độ và nhiệt độ. Luân chuyển nhiệt muối, còn đƣợc gọi là "băng tải đại dƣơng", đƣợc dùng để chỉ các dòng hải lƣu sâu chảy trong lƣu vực dƣới đáy các đại dƣơng. Các dòng lƣu chuyển này chảy sâu dƣới đáy biển và do đó khó phát hiện và đôi khi còn đƣợc gọi là các con sông ngầm dƣới đáy biển. Các dòng hải lƣu đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình di cƣ và phân tán của các sinh vật. HaiLuu Chú Thich 3 - Thiên 'Kinh Mạch' ghi: "Kinh mạch có nhiệm vụ doanh cho sự vận hành của khí, nó 'chế' để cho khí trở thành 'độ lƣợng', bên trong nó làm cho khí của ngũ hành vận hành thành thứ tự, bên ngoài nó làm cho lục phủ phân biệt nhau" (LKhu 10, 1). - Thiên 'Hải Luận' ghi : "12 kinh mạch, trong thì thuộc vào tạng phủ, bên ngoài lạc với tứ chi và cốt tiết" (LKhu 33, 1). - Nan thứ 23 Nan Kinh ghi: 'Kinh Mạch là nơi vận hành của khí huyết, là nơi để cho khí Âm Dƣơng thông nhau nhằm làm cho cơ thể tƣơi tốt" (NKinh 23, 6). Nhƣ vậy chức năng của kinh mạch là vận hành khí huyết nuôi dƣỡng toàn thân. Khí tuần hành trong hệ thống kinh lạc gọi là 'Kinh khí'. Dƣới sự thúc đẩy của kinh khí, khí huyết tuần hành không ngừng trong kinh lạc, không ngừng đƣa dinh dƣỡng đến toàn thân, bảo đảm chức năng sinh lý bình thƣờng của các tổ chức trong cơ thể và bảo đảm sự liên hệ ăn khớp giữa các tổ chức đó. Nếu tuần hoàn khí huyết mất điều hoà sẽ gây ra bệnh. YhocCoTruyen Kinh (經 - đƣờng dọc, sợi thẳng) là đƣờng chính đi thông mọi chỗ. Lạc (絡 - đan lƣới, mạng) là những nhánh phân ra từ Kinh.) Kinh Lạc làm thành một mạng lƣới nối tiếp, chằng chịt, phân bố khắp toàn thân. Kinh Lạc liên kết các tạng phủ, các tổ chức lại với nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Năm 1986, bác sĩ Jean Claude Darras và các nhà y học tại viện Neker đã chụp hình đƣợc các đƣờng Kinh Lạc bằng một máy ảnh điện tử đặc biệt. Các nhà khoa học tiêm vào một số huyệt một dung dịch chứa Tecnetic (một hoá chất có tính phóng xạ). Máy ảnh bắt đƣợc những tia Gamma phát ra từ chất này. Qua đó ngƣời ta thấy: Sau khi tiêm vào các huyệt, dung dịch chứa Tecnetic nói trên đã lan tỏa theo các Kinh phần nào trùng hợp với những Kinh đƣợc miêu tả trong các sách châm cứu. Ngƣợc lại, nếu tiêm vào một điểm khác trên cơ thể thì dung dịch chỉ tụ lại một chỗ, không hề lan tỏa. Đáng chú ý nhất là các nhà y học đã xác định đƣợc rằng các Kinh châm cứu đƣợc chụp ảnh hoàn toàn không tƣơng ứng với đƣờng đi của mạch máu, đƣờng gân hoặc đƣờng dây thần kinh. Đó là các Kinh chức năng chạy theo những đƣờng mà cho đến nay khoa học chƣa hề biết đến. Hệ thống Kinh chính gồm 12 đƣờng kinh, xếp theo thứ tự tuần hoàn kinh khí: Thủ Thái Âm Phế Kinh, Thủ Dƣơng Minh Đại Trƣờng Kinh, Túc Dƣơng Minh Vị Kinh, Túc Thái Âm Tỳ Kinh, Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh, Thủ Thái Dƣơng Tiểu Trƣờng Kinh, Túc Thái Dƣơng Bàng Quang Kinh, Túc Thiếu Âm Thận Kinh, Thủ Quyết Âm Tâm Bào Kinh, Thủ Thiếu Dƣơng Tam Tiêu Kinh, Túc Thiếu Dƣơng Đởm Kinh, Túc Quyết Âm Can Kinh.
KinhMach Chú thích 4 Tâm-kinh (Hṛdaya Sūtra, 心經) thƣờng đi một tập với kinh Kim-cang, là kinh duy nhất sánh với kinh Kim-cang trong sự thịnh hành phổ biến. Thật ra, hai kinh này là có kết hợp gần gũi với nhau cả về bản chất và hình thức, nhƣng hoàn toàn không thích hợp để nói về phƣơng diện so sánh cao thấp lẫn nhau, mặc dù Tâm-kinh là một tác phẩm cực kỳ cô động, nội dung chỉ gồm có một trang giấy duy nhất trong hầu hết các bản, hiện nay có hai bản dịch một dài và một ngắn. Hai bản này giống nhau về thân bài, nhƣng bản dài hơn thì có thêm giới thiệu, kết luận và phần tƣờng thuật về nhân duyên Đức Phật giảng kinh. Kinh này thật ra cũng là một cuộc đối thoại, mặc dù chỉ có một ngƣời nói, trong đó hai vấn đề (sắc và không) đƣợc hình thành, tức là hai thái cực mà giữa đó một năng lực đƣợc tạo ra để thiết lập dòng chuyển hoá biện chứng. Nhân vật trong kinh là Bồ-tát Quan-thế-âm (Bodhisattva Avalokiteśvara) là hình ảnh nổi bật nhất trong văn học Bát-nhã Ba-la-mật và ngài Xá-lợi-phất (Śāriputra,). Bồ-tát Quan-thế-âm thuyết giảng cho vị đại đệ tử lớn là Xá-lợi-phất. Ngài đã đƣa ra quá trình tiến triển tâm linh của ngài đã đạt đƣợc Trí tuệ thâm sâu tối thƣợng. Đặc biệt, kinh này là một bản tuyên ngôn của lý Tứ-diệu-đế trong ánh sáng nổi bật của tƣ tƣởng Tánh-không. Nhƣ trong hầu hết các kinh rất ngắn khác, phần lớn những lời kinh đều lấy từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật loại „Lớn‟ (dài). Tuy nhiên, những phần này đƣợc thống nhất với nhau thành một thể khéo léo đầy sức thuyết phục và những nấc thang biện chứng theo tầng bậc cái này tiếp cái khác rất lô-gíc qua pháp thoại của Bồ-tát Quan-thế-âm ban cho tôn giả Xá-lợi-phất. Nhƣ thể thông điệp của Tuệ giác Bát-nhã là chƣa đủ cô động hoàn toàn, bài kinh lại thêm vào một kết luận chính xác của một đoạn thần chú ngắn tạo thành một sự cô động tinh túy thực sự: "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề ta bà ha". „Vƣợt qua, vƣợt qua, vƣợt qua bờ kia, vƣợt qua hai bờ, ôi giác ngộ! (堨諦,堨諦波羅堨諦,波羅增堨諦,菩提薩婆訶).332Âm điệu thích đáng của những thần chú này làm cho tâm tƣ của con ngƣời dƣờng nhƣ mở ra để thâm nhập vào Trí tuệ tối hậu. Bát-nhã Tâm-kinh cũng nổi tiếng và gây ân tƣợng nhƣ Kinh Kim-cang. Bản gốc tiếng Phạn của hai kinh này đƣợc tìm thấy trên lá buông ở Nhật, bản kinh ngắn hơn đƣợc mang đến đó khoảng năm 609 và bản dài hơn đƣợc mang đến vào năm 850. Trong khoảng thời gian sáu thế kỷ, bảy bản dịch của kinh đƣợc ra đời nhƣ của ngài Cƣu-ma-la-thập (Kumārajīva, 摎摩羅什) hoặc đệ tử của ngài (năm 400), Huyền-trang (Hsuan-tsang, 玄莊,năm 649), Pháp-nguyệt (Dharmacandra, 法 月,năm 741), Đại-huệ (Prajñā,大慧, năm 790), Tuệ-nhãn (Prajñācakra, 慧眼,năm 861), Thi-hộ (Fa-cheng, 施護, năm 856) và Đà-na-ba-la (Dānapala, 陀那杷羅, năm 1000). Kinh Bát-nhã cũng đƣợc Vô-cấu-hữu luận sƣ (Vimalamitra, 無垢有) dịch ra tiếng Tây tạng. Có những bản dịch và những bản sớ giải của Mông cổ và Mãn-chu (Manchu). Ở phƣơng Tây có hơn 10 bản dịch tiếng Anh, bên cạnh đó còn có sáu bản dịch tiếng Pháp và một bản tiếng Đức. Điều này cho thấy sự phổ biến của Tâm-kinh.333 Trung-Anh Phật học Tự điển (Dictionary of Chinese Buddhist Terms, 中英佛學辭典) đã định nghĩa nhƣ sau: "Bát-nhã Tâm-kinh có nhiều bản dịch với nhiều tựa đề khác nhau, bản của ngài Cƣu-ma-la-thập đƣợc sử dụng phổ biến, đã nói lên bản chất của các kinh Tuệ giác. Có nhiều sớ giải về bản kinh này."334 Nhìn chung, trung bình cứ mỗi trăm năm có hai bản dịch mới của Bát-nhã Tâm-kinh đƣợc ra mắt
độc giả, mỗi bản có sự cải thiện hơn. Bởi lẽ tính chất cô động và tinh hoa của kinh, nên Bát-nhã Tâm-kinh rất đƣợc phổ biến và phát hành rộng rãi khắp Trung hoa, Việt nam và nhiều nƣớc khác. Bát-nhã Tâm-kinh thuộc đa-hệ phái, bởi lẽ đƣợc tất cả các hệ phái Phật giáo chấp nhận nhƣ là một giáo nghĩa tinh yếu của Đại-thừa Phật giáo, không chỉ bởi các truyền thống nghiên cứu học giả mà còn các truyền thống tu tập của thiền và tịnh độ. Bởi tính chất ngắn ngũi và cô động, bài kinh này thích hợp cho cá nhân hay tập thể dễ nhớ và đọc tụng. Kinh rất phổ biến cả giới xuất gia và tại gia ở các nƣớc nhƣ Việt nam, Trung hoa, Nhật bản, Đại hàn… thƣờng tụng ở cuối mỗi buổi lễ. Sự phổ biến rộng rãi của kinh là một trong những điểm đặc biệt của Phật giáo Đại-thừa ở nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất. Nói một cách khác, tinh hoa của toàn thể kinh điển Đại-thừa đƣợc chứa trong 262 từ của bản Hán dịch Tâm-kinh. Thế nên, ta mới thấy sự quan trọng của kinh này thế nào! TâmKinhDocThem Chú Thich 5 Và khi đạt đến Bát địa (Bất động địa) thì Mạt na chấm dứt câu sinh ngã chấp (sự bám víu vào ngã chấp hay tập khí - ngã chấp, nó có mặt cùng với [together - câu sinh] lúc con ngƣời vừa sinh ra). Sự câu sinh chấm dứt nghĩa là Tàng thức đƣợc giải thoát (release) mọi ràng buộc, bám víu của Mạt na. Vì thế ở đây, Mạt na thức chuyển thành Bình đẳng tánh trí (Samatàjnàna) - tức năng lực thấu thị của tuệ giác có thể nhận thức và thấy rõ toàn chân pháp giới trong một hiện hữu (existence). Đây là nội dung của "Một là tất cả, tất cả là một", hay "trên đầu sợi lông, tôi thấy suốt cả ba đời chƣ Phật ", hoặc "trong một niệm tôi thấy ba đời..." v.v... nhƣ đƣợc trình bày trong Hoa Nghiêm (Gandavyùha), qua sớ giải của ngài Pháp Tạng. Cho đến khi hành giả đạt đến Sơ địa (Hoan hỷ địa) thì sự phân biệt ngã và pháp đƣợc đoạn trừ, nhƣng tập khí câu sinh của ngã và pháp vẫn còn tiềm phục (ngủ yên) trong Tàng thức. Khi đạt đến Thất địa (Viễn hành địa) thì chủng tử Câu sinh của sự chấp ngã đƣợc đoạn tận, dòng vận hành của các pháp đƣợc điều phục, Tàng thức lúc này chỉ thuần vô lậu. Đến khi sắp bƣớc vào Phật vị, chủng tử câu sinh pháp - chấp đƣợc đoạn tận, Ý thức chuyển thành "Diệu quan sát trí" trí tuệ có năng lực quan sát khắp "ba nghìn thế giới". khi đạt đến Bát địa (Bất động địa), hành giả đã đoạn trừ câu sinh pháp chấp, không còn cảm thọ sinh tử. Do đó tên gọi Dị thục thức không còn nữa mà đƣợc gọi là Vô cấu thức và chuyển thành Đại viên cảnh trí (tuệ giác vĩ đại) khi Tàng thức chuyển thành Đại viên cảnh trí thì 5 thức này biến thành "Thành sở tác trí". TamLyHocPhatGiao_ThichTamThien [6] Bốn trí Bồ đề là trí huệ giác ngộ. Những gì bốn? 1) Đại viên cảnh trí: Do công năng tu tập chuyển đệ bát thức, tức tàng thức phàm phu, chứa chủng tử hữu lậu thành Nhất thiết chủng trí, tức tổng thể tất cả Nhƣ Lai công đức. trí này nhƣ gƣơng lớn sáng sạch chiếu soi tất cả sắc tƣớng trang nghiêm, duyên cảnh thanh tịnh, gồm thâu chiếu soi sự lý pháp giới viên dung, nên gọi là Đại viên cảnh trí. 2) Bình đẳng tánh trí: Chuyển thức thứ bảy Mạt na chấp ngã đạt thành lý vô ngã. Đối tất cả
chúng sanh khởi tâm vô duyên trí đại từ bi, không còn nhiễm chấp, nên gọi là Bình đẳng tánh trí. 3) Diệu quan sát trí: Chuyển ý thức thứ sáu la thức bén nhạy quán sát lanh lợi tƣớng của các pháp, đạt thành trí quán sát diệu dụng thuyết pháp đoạn nghi, gọi là Diệu quan sát trí. 4) Thành sở tác trí: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Do tu hành chuyển năm thức này thành thanh tịnh trí, thành trí biến hóa phƣơng tiện quyền xảo làm lợi ích cho tất cả hàng phàm phu Nhị thừa. Nhƣ Đức Nhƣ Lai hiện thân độ, quốc độ và các thần thông độ đều do sở tác diệu dụng của Thành sở tác trí. Tóm lại, tám thức của phàm phu do chuyên cần công phu tu tập mà chuyển tám phàm thức thành bốn thánh trí Bồ đề. ThangMan-ThichDucNiem (còn tiếp)
Vô Minh Là Gì ? "Tuần này con kiếm đƣợc 360 đô', nỗi vui mửng hiên rõ trong mắt Tina. Hằng tuần, vào ngày thứ bảy, chủ nhật học sinh các trƣờng trung học dều có tổ chức thành nhóm làm việc thiên nguyên, việc rất dơn giãn là "Rữa Xe", tiền kiếm đƣơc sẽ gởi tới hội đoàn bảo trợ ung thƣ, trẻ mồ côi,ngƣời già, vô gia cƣ...tuy nhiên không phải các trƣơng đều có tổ chức thăm viếng các nơi nhƣ trên, cho các em có cơ hội tiếp xúc trực tiêp con bệnh, ngƣời già lẻ loi, trẻ em thiếu tình thƣơng, nó có một lợi ich chắc chắn là học sinh cãm nhân đƣơc sự già nua, bệnh tật, cô đơn, sƣ ruổng bỏ của thân nhân, gia dinh, , Với số tiền kếch xù kiếm đƣơc tuần này nhóm Tina đƣơc giải nhất toàn trƣơng "Dakota high" trong tháng 9, 2008. Nỗi vui mừng đó chắc hẳn vì vinh dự giải nhất đoạt đƣợc. Tuy nhiên ẩn sâu trong thâm tâm các em, một thói quen "thiện nguyện" đang đâm chồi nảy lộc. một chủng tử Bồ tát hạnh đang chuyển hóa tâm thức. "Bố ơi ngày mai thứ bảy, minh đi chùa phải không bố?" "Ừ con" "Tuân này bố có good deal nào không" 'Không con ạ, mobo, cpu còn mắc quá, chờ thêm một tuần nữa vậy" An nghỉ thầm "Đi chùa", là một thói quen mà anh đƣợc huấn tập nhiếu năm, xuất phát từ truyền thống gia đình và đƣợc giải thich là để tìm sự thanh tịnh tâm hồn, lắng nghe chƣ Tăng thuyết pháp tìm đƣợc hƣơng đí trong chánh pháp, ngửi mùi trầm mùi nhang, mùi bông hoa cúng Phật để thấy lòng an lạc vƣng tâm trên con đƣờng chánh đạo. Bố thí cúng dƣờng nhƣ đắp lại con đƣờng chông gai, gập gềnh cho chúng sinh bƣớt nhanh hơn vế cỏi Phật. An mỡ ví lấy 5 đồng rồi gọi con " Tina, tiền cúng dƣờng ngày mai con đây" Tina reo lên : "con xin hồi hƣớng công đức này về tất cã chúng sinh" Vâng, ngày mai thứ bảy, Tina sẽ đút 5 đồng vào thùng cúng dƣờng thì thầm khấn nguyện nhƣ một thói quen, một truyền thống đã đƣơc trao truyền. Theo Hồ Ngọc Đức, Free Vietnamese Dictionary Project Thói Quen : Lối, cách sống hay hành động do lặp lại lâu ngày trở thành nếp rất khó thay đổi.
Thí dụ: Thói quen ngủ sớm dậy muộn. Tập cho thành thói quen. Thói quen nghề nghiệp. Rất khó để thay đổi Thói quen, và hình nhƣ thói quen không thông qua tri thức hẩu kiểm tra lại hành đông chính cùa mình ! ví dụ khi viết một nốt nhạc, lới ca lần đầu tiên, nhạc công có thể viết sai một nốt nhạc nào đó , nhƣng bàn tay họ thoăng thoắt không một chút mảy may sai lầm trên phim đàn. Với thói quen ăn cắp, ngƣơi đó cũng không một chút mảy may đắn đo khi tay chạm vào cái vật có giá hay không đó, và đôi khi tài vật đó chỉ ở một xó xỉnh nào đó trong căn phòng chật hẹp.., nói gọn "lấy về chỉ vất đó". Trong nghề nghiệp thói quen đƣơc biểu hiện qua kinh nghiêm nhiều năm thao tác một việc , nhiểu việc khác nhau. Điều suy ngẫm là thói quen không do băn năng mà do thời gian luyện tập mà có, dù xấu hay tốt. Là một tâp khí của Alaida thức, thức thứ tám hệ thông tám thức, có khả năng biến đổi thực tại hôm nay hay xa hơn trong tƣơng lai, một kiếp sống nào đó. Vijja (vijjaa): Clear knowledge; genuine awareness; science (specifically, the cognitive powers developed through the practice of concentration and discernment). Minh (明) :Chử nhật và chử nguyêt đứng chung mà thành Minh. Mặt trời, mặt trăng , chú ý tới chuyển động (biến đổi) Trăng lên thì Trời lặn, Trời lên thì trăng lặn, nói khác là 1 thói quen đƣợc huấn tâp qua nhiêu tỷ năm và nảy sinh ra kỳ tâm (minh). Có thể nào thói quen Bố thí, thói quen yêu thƣơng mọi ngƣời, thói quen Tứ vô lƣơng tâm đƣợc xem nhƣ .. "không là gì cả". Có thể lắm, một mai thức dậy bỗng thây yêu thƣơng mọi ngƣời không một chút đăn do vì ai tôi làm vậy, vì có đối tƣợng hay không. Qua vijjaa và Minh nếu Kinh nghiệm đƣợc xem là hoàn thiện một việc làm, một tƣ duy, một tƣ tƣởng... Nói rộng ra, theo tƣ tƣởng nhà Phật, là hoàn thiện một tác ý (Thân Khẩu Ý) và tác ý đó đƣợc luyên tâp trở thành thói quen, ở đó trung gian của chuổi luận giải này (tác ý này) từng niệm sinh khởi đúng sai, thiên ác đã đƣợc kiểm soát nghiêm nhặt, và Thiện tâm Ác tâm đƣợc xem xét theo tiêu chuẩn Bát chánh đạo. Bootup Flowchart
Trích từ : fixingmycomputer.com/flowcharts/boot-up-flowchart.html Và nhƣ thế Vô minh đƣơc định nghĩa là không có khà năng hoàn thiện một tác ý (thiên tâm/Ác tâm) thành thói quen và nhƣ thế không có ngày mai "Vâng, ngày mai thứ bảy, Tina sẽ đút 5 đồng vào thùng cúng dƣờng thì thầm khấn nguyện nhƣ một thói quen, một truyền thống đã đƣơc trao truyền.", và nhƣ thế không thể có "không một chút đăn do vì ai tôi làm vậy, vì có đối tƣợng hay không". Chúng sanh vô biên thề nguyện độ Phiên não vô tận thề nguyện đoạn Pháp môn vô lƣợng thề nguyện học Phật đạo vô thƣợng thề nguyện thành
-------------------------------------Suy ngẫm 1: Hành là gì ? là Ƣớc muốn hoàn thiện một tác ý mà cứu cánh là Chân Thiên Mỹ Thí dụ: Anh Bê "nói" anh sẽ ăn cƣớp nhà bamk AAA . Cảnh sát vẫn chƣa bắt Bê Anh Bê "nghỉ" anh sẽ ăn cƣớp nhà bamk AAA. Cảnh sát vẫn chƣa bắt Bê Anh Bê đã mua súng, có bản đồ nhà bank AAA, họa đồ hệ thống an toàn của nhà bank AAA và nếu có thêm đồng lõa trong việc cƣớp nhà bank AAA. Anh Bê sẽ bị bắt cùng đồng lõa. Anh Bê có ý muốn cƣớp nhà bank là một sự thật dù chƣa xảy ra hành động
Suy ngẫm 2: Chú ý "không có khả năng hoàn thiện" không có nghĩa 'không có ý muốn hoàn thiện' Do hành, ý muốn hoàn thiện. Có gì liên quan tới sự tiến hóa ???
Trí Tuệ Bát Nhã Tâm Kinh 1.2 1- Nƣơng vào công đức vô lƣợng, Bồ tát Quán Thế Âm, an định, tự tại tiến sâu vào nguồn kinh mạch Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ và rằng khi vƣợt qua khiếu đó (cỗng, gate) hợp thể năm chất đều là Không, liền thóat khòi mọi khổ ách. 2- Này ngƣời con Xá Lợi, hinh tƣớng cũng là Không, Không cũng là hình tƣớng, rằng phi vật chất, vật chất là không hai không khác. Thọ Tƣởng Hành Thức đều nhƣ vậy 3- Này ngƣời con Xá Lợi: Hết thảy các pháp đều không. Không sanh cũng không diệt, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Và rằng tánh không, không có hình tƣớng, cho nên không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nên không có đối tƣợng của mắt, tai, mủi, lƣởi, thân, cũng không có cái biết của sắc, thanh, hƣơng, vị, xúc. Không có vô minh, không có hết vô minh, không có già chết và cũng không có hết già chết. Không có khổ nạn nên không có tập, diệt, đạo, không có tri thức hiểu biết, cũng không có đƣợc mất, vì không có gì đƣợc hay mất. 4- Giờ đây Đại bồ Tát nƣơng vào trí tuệ Bát Nhã, nên tâm không còn chƣớng ngại, nên không còn sợ hãi, lìa xa đƣợc điên đảo mộng tƣởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật trong quá khứ, hiện tại, tƣơng lai đều nƣơng theo Trí Tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thƣợng chánh đẳng chánh giác. 5- Cho nên phải biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã" là đại thần Lực, là vô thƣợng lực, là lực vô đối vô song có khả năng tiêu trừ khổ nạn, là chân thật, là sự thật không gian dối. 6- Vì thế, nên biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã đƣợc tuyên nói trong kinh rằng: "Vƣợt qua, vƣợt qua, vƣợt qua cổng đó, thể nhập vào trái tim vô thƣợng, Giác ngộ rồi!" ------------------------------------Giải nghĩa Tâm Kinh 1- Tâm kinh đƣợc mỡ đầu bằng "Nƣơng vào công đức" xác định không một ai có thề chứng đạt, kiến tánh mà không hôi đủ công đức, tiếp liền đó danh hiệu Bổ tát Quán thế Âm đƣợc nêu lên nhƣ một cảnh tỉnh, một nhấn mạnh "công đúc viên mãn" là điều kiện ắt có và đủ. Vậy Công đức là gì? Tại sao lại cần thiết đề vƣơt qua cổng đó(Kim_Mộc_Thủy_Hỏa_Thổ) (Đọc thêm:Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.5 "Giải mã huyền sử") GiaiMaHuyenSu_ChuDongTu Tƣởng cũng cần nhắc lại vào thời kỳ Hùng Vƣơng thứ ba (2879-258 BC) Chử đồng tử và Tiên Dung đƣơc Đại bồ tát Phật Quang (PHÁP VÂN ĐỊA), truyền lại 4 bộ chân kinh Lộ trình tâm(Dich), Y hoc , Tử vi và Luyên khí .
Bôn chân kinh này liên hệ mật thiết lẫn nhau không thề tách rời nhau đƣơc vì nó là một tiến trinh tu học cứu cánh Giác Ngộ. Ứng xử (Lộ trình tâm), quản trị nhân lƣc (Tử vi), Hành thiện ( Y học), Rèn luyện thân tâm (Luyên khí). Tử vi (Tử là Hạt, Vi là sóng) là hàm lƣơng tử viết lại dòng Nghiệp lực, Tử Vi đã sử dụng hệ tám thức tức là khoảng 3000 năm trƣớc khi ngài Vô Trƣơc và ngài Thế Thân (316 AC hay 860 năm sau khi Đức Phật diệt độ) xiêm dƣơng Duy thứ hoc, duy thức thuộc tông Pháp tƣớng. Nói khác Tử vi nói lên cái Thực Tƣớng của dòng nghiêp lực. Mọi biến hiện hình tƣớng đều xuất phát từ biến động từ Tạng thức. Một biến đổi của dòng Nghiêp lực là một hay nhiểu thay đổi qua 12 cung trên địa bàn Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Tật, Tài, Tử, Phu(Thê), Bào và từ đó tƣơng tác lên bộ vị trên tƣớng, thanh, sắc (màu sắc, bức xạ ánh sáng, sóng), y tƣớng của đƣơng số, nhƣ ta vẫn thƣờng nghe "Tƣớng tùy tâm sanh tƣớng tùy tâm diệt" cũng không ngoài khái niêm này. Biển Thƣớc đi chơi khắp thiên hạ, cứu đƣợc nhiều ngƣời lắm. Một hôm đi đến đất Lâm Tri, vào yết kiến Tề Hoàn công, nói với Hoàn công rằng : Chúa công có bệnh ở thớ thịt ; nếu không chữa thì thành ra bệnh nặng. Hoàn công nói : - Tôi chẳng có bệnh gì cả ! Biển Thƣớc lui ra. Sau năm ngày lại vào yết kiến ; nói với Tề Hoàn công rằng : - Bệnh chúa công đã ở mạch máu, làm thế nào cũng phải chữa. Hoàn công không trả lời. Sau năm ngày nữa lại vào yết kiến, nói với Hoàn công rằng : Bệnh chúa công đã ở trong ruột và dạ dày rồi, phải chữa ngay đi Hoàn công lại không trả lời. Biển Thƣớc lui ra. Hoàn công than rằng : Tệ quá ? Thầy thuốc chỉ nghề hay vẽ trò ! Ngƣời ta không có bệnh mà cứ bảo là có bệnh ? Qua năm ngày nữa, Biển Thƣớc lại vào yết kiến Tề Hoàn công, vừa trông thấy nét mặt Hoàn công đã vội lui ra mà bỏ chạy. Hoàn công sai ngƣời hỏi. Biển Thƣớc nói : - Bây giờ bệnh chúa công đã vào đến tủy rồi ! Bệnh ở da thịt còn xoa thuốc đƣợc, bệnh ở mạch máu thì còn tiêm thuốc đƣợc, bệnh ở ruột và dạ dày còn uống thuốc đƣợc, nay bệnh đã vào đến tủy thì dẫu trời cũng không chữa đƣợc nữa, bởi vậy tôi không nói mà lui ra. Lại qua năm ngày nữa. Hoàn công quả nhiên ốm nặng, sai triệu Biển Thƣớc. Ngƣời nhà Biển Thƣớc nói : - Thầy tôi bỏ đi đã năm hôm rồi ? (Đông châu liệt quốc hồi 32 @ 4phuong.net) Sắc khí là bức xạ phát ra từ kinh mạch bị đồn nén, bế tắt phát ra khi đi xuyên qua da thịt làm thay đổi màu sắc tại đó nhƣ tia laser đỏ để lại vết đỏ khi qua cừa kính. "The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism." Lới phát biều trên của Albert Einstein gây nhiều dĩ ứng tôn giáo " Tôn giáo tƣơng lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ . Nó cần phải vƣợt qua Đấng tạo hóa, tránh giáo điều và thần học. Hàm chứa phi vật chất (tinh thẩn) lẫn vật chất, và (nếu) phải là một tôn giáo thì tôn giáo đó phải bắt nguồn từ
kinh nghiêm về vật chất lẫn Phi vật chất (tinh thần) là một tổng thể đồng nhất đầy ý nghĩa. Phật giáo trà lời cho sự mô tả này và nếu có bất kỳ tôn giáo nào có thể đáp ứng với những nhu cầu khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo." Vũ trụ, thật là đầy ý nghĩa vì không phải chỉ có trái cầu này là hành tinh duy nhất có sinh vật. Theo Tử vi đƣới mắt nghiệp quả thì chúng sinh là kết quả của xâu chuổi Vô minh -Lão tử, là thai tạng của dòng nghiêp lực, là biến hiện của tám thức mà thực tƣớng, hiện tƣớng của nó là tổng thể đồng nhất cũa vật chất và Phi vật chất. (Đoạn sau trich từ :CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT / Đoàn Trung Còn) "Pháp tƣớng tông khi truyền sang Nhật Bản cũng tạo ra rất nhiều ảnh hƣởng tích cực trong đời sống của dân tộc này. Khi nhận biết rằng những giá trị vật chất trong cuộc sống vốn là không thật, họ không rơi vào chỗ bi quan yếm thế hay lƣời nhác, trốn tránh. Trái lại, họ vận dụng đƣợc nhận thức này để rèn luyện sự kiên tâm và một nghị lực vững vàng trƣớc mọi biến động trong cuộc sống. Nhờ vậy, họ có thể chịu đựng đƣợc những cơn động đất, bão tố, nạn đao binh... Trải qua thảm họa, họ thản nhiên xây dựng lại cuộc sống; gặp những mất mát đau thƣơng, họ mỉm cƣời chấp nhận để nỗ lực vƣợt qua. Họ biết rằng không có gì là trƣờng tồn. Những điều tốt đẹp hay xấu xa, thảy đều sẽ qua đi với thời gian. Và nhờ đó, họ không bao giờ đánh mất đi những nỗ lực vƣơn lên hoàn thiện cuộc sống. Họ tin tƣởng rằng, tuy mọi cái đều không thật, đều giả tạm, nhƣng chính phần tâm thức, nghị lực của mỗi con ngƣời là thật có." PhapTuongTong.DoanTrungCon "tuy mọi cái đều không thật, đều giả tạm" và theo Tử vi dƣới mắt nghiệp quả thì Thế giới này chỉ không còn hiện hữu khi chúng sinh cuối cùng trong vũ tru đƣợc giác ngộ.. Có lẽ đây cũng là lý do Đức Phật muốn nhập diệt ngay sau khi thành đạo, Làm sao đây để chúng sinh hiểu đƣợc rằng thế giới này là giã tạm khi mà chúng sinh hiện hữu thì thế giới này còn hiện hữu hay nói khác Vật chất sơn hà địa đại, 12 cung tử vi 12 tƣơng quan Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Tật, Tài, Tử, Phu(Thê), Bào là một thực tại khó bác bỏ. Với con đƣòng tu đạo nếu hiểu đƣợc là giã tạm, là không thực, là hƣ vọng, là do nhân duyên sinh, là không, là giã danh thì sự giác ngô sẽ không còn bao xa. Trở lại với Công đức: Theo Tử vi dƣới mắt nghiệp quả thì khi làm một việc thiên có nghĩa một chủng từ thiện đƣợc gieo vào tàng thức. chủng tử đó đƣợc goi là chủng từ Công đức. Khi hội đủ điều kiện (duyên) thì sẽ trở thành Phúc đức (phƣớc đức) ở hiện kiếp. Nêu việc thiên đó do Tham Sân Si, Ích kỷ thì nó cũng là chủng tử Công đức nhƣng có thêm cái đuôi TSS, IK thí dụ Công-Đức_TSS, CôngĐức_IK, và nhƣ thế khó có duyên để thành Phúc đức, nói nhƣ vậy không có nghĩa là vô phƣơng cứu chữa chỉ cẩn thực hành Tứ vô lƣơng tâm chuyển hóa Công-Dức_TSS, Công-Dức_IK thành Công đức. Nói nhƣ vậy còn có ý nghĩa chỉ cần trong một thoáng giây hành thiện mà tâm tỉnh lặng, không ích kỷ, tâm vi tha, tâm hỹ, tâm xã thì cơ hội chuyển hóa vẫn luôn còn đó. Tâm bồ đề chĩ có thề có khi tạo đƣợc thói quen hành thiện, qua kinh nghiệm hoc tâp, qua hành động dấn thân làm thiện mà tâm bổ đề dẩn hiện rõ. Chuyện kể rằng: Khi Ðức Ðạt Ma Tổ Sƣ đƣợc rƣớc vào Kim Lăng, vua Lƣơng Võ Ðế hỏi rằng: - Từ khi lên ngôi, trẫm cất chùa, chép kinh, độ tăng không xiết kể, thế có Công đức chăng?
Tổ Sƣ nói: - Các việc làm ấy không có Công đức. Ấy là Tổ Đat Ma ấy nói tới công đức khó có thể biến đổi thành phúc đức trong kiếp hiện tai hay tƣơng lai (Công-Đức_TSS, Công-Đức_IK) "Lƣơng Võ Ðế làm vua 48 năm, thọ 86 tuổi, 45 năm quy y đầu Phật, chẳng những thâm tín mà còn thông hiểu giáo lý đạo Phật, ông đã một đời hoằng dƣơng chánh pháp nhƣ độ tăng, cất chùa, xây tháp, giảng kinh, chú sớ, từ bỏ ngai vàng, tránh cuộc chiến tranh. Ngƣời hiểu đạo, mới thấy ông là bậc bồ tát hiện thân, cho nên ông đƣợc ngƣời đƣơng thời xƣng tán là Phật tâm thiên tử." (Đoạn trên trich từ : LuongVoDe) Nhƣ đã nói Tâm bồ đề chĩ có thề có khi tạo đƣợc thói quen hành thiện, qua kinh nghiệm hoc tâp, qua hành động dấn thân làm thiện mà tâm bổ đề dẩn hiện rõ. Với hành trang dấn thân của vua Lƣơng Võ Đế nhƣ trên ông quả xứng đáng là bậc bồ tát hiện thân, Công đức vô lƣợng đáng đƣợc xƣng tán là Phật tâm thiên tử. Và nhƣ thế lời nói của Tổ Đạt Ma chì mang ý nghĩa cùa cây gậy "Thiền" !! Làm thế nào xây dựng một nền tảng công đức vô lƣơng cứu cánh Niết bàn: Theo ngƣời viết thì giữ giới là yếu tố tiên quyết thƣc hành bồ tát đạo nhƣ Đức phật đã dạy: Trong Tăng Chi Bộ kinh, 3B – trang 73, Ðức Phật dạy 10 mục đích hình thành giới bổn nhƣ sau: 1. Ðể Tăng chúng đƣợc cực thịnh 2. Ðể Tăng chúng đƣợc an ổn 3. Ðể chặn đứng các ngƣời khó điều phục 4. Ðể các vị Tỳ kheo tốt đƣợc sống an ổn 5. Ðể chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại 6. Ðể chặn đứng các lậu hoặc trong tƣơng lai 7. Ðể đem lại niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những ngƣời chƣa tin 8. Ðể làm tăng trƣởng niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những ai đã có lòng tin 9. Ðể cho chánh pháp đƣợc tồn tại 10. Ðể cho giới luật đƣợc chấp nhận Với những điều kiện trên, chúng ta thấy mục đích hình thành giới bổn cũng là để ngăn ngừa điều ác, làm và tăng trƣởng điều thiện. Nhƣ Luật tạng nói: "Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là để đƣợc hân hoan, hân hoan là để đƣợc hỷ, hỷ là để đƣợc khinh an, khinh an là để đƣợc lạc, lạc để đƣợc định, định để đƣợc chánh kiến, chánh kiến để đƣợc vô dục, vô dục để đƣợc ly tham, ly tham để đƣợc giải thoát, giải thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trƣớc Niết bàn" Đọc thêm : TamVoLauHoc Giới theo quan điểm Ðại thừa gồm Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập thiện giới cho hàng Phật tử tại gia. Sa di và Sa di ni có 10 giới, Thức xoa ma na ni thêm 6 học giới, Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo ni 348 giới (311? http://en.wikipedia.org/wiki/Patimokkha) Bồ Tát (tại gia và xuất gia) có 10 giới trọng và 48 giới khinh.
Chƣơng 53- Bài học do Bồ tát Phổ hiền dạy "Phƣơng Pháp Hành Bồ Tát Ðạo". "Thiện Tài chiêm ngƣỡng thân tƣớng của Bồ tát tỏa ánh hào quang sáng ngời soi tỏa khắp mƣời phƣơng pháp giới, phát ra vô lƣợng hạnh nguyện Ba la mật thanh tịnh. Bồ tát xoa đầu Thiện Tài nói: " Ngƣời có thấy thần lực của ta chăng? Thuở quá khứ, trong nhiều vi trần số kiếp, ta đã thực hành Bồ Tát Ðạo để thanh tịnh tâm Bồ đề và kính thờ vô lƣợng chƣ Phật. Ta ở trong vô số kiếp mà chƣa từng có một niệm nhỏ chẳng theo lời giáo huấn của Nhƣ Lai. Ta chẳng bao giờ có tâm sân hận và trụ vào ngã và ngã sở, không một sát na nào rời bỏ Bồ đề. Ta chỉ an trụ tâm trong đại bồ đề thƣợng và dùng tâm đại bi cứu giúp chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật. Trong nội tâm và ở ngoài cảnh giới đều xả hết, cho đến cả mạng sống của ta cũng không hề tiếc rẻ. Nếu nói những việc ta đã làm thì vô cùng tận. Ðại dƣơng bát ngát còn có thể cạn khô, chứ những hạnh nguyện của ta bình đẳng, thanh tịnh, tùy thuận chúng sinh mà ứng hiện khắp nơi, làm cho ai nấy đều đƣợc an vui, hết khổ." (trich từ: http://www.thuvienhoasen.org/tdn-hoanghiem-02B.htm) " Sự quán tƣởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định đƣợc sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm" (Trich từ Thiền Luận D.T.Suzuki /Đại đức Tuệ Sĩ chuyển dịch) Mà ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của ngƣời mở đạo. Cảnh giới tự chứng đó là vô lƣơng kiếp tu hành Bồ Tát Đạo, thực hiện lời Đại nguyện Từ Bi Hỷ Xã. (Tứ Vô Lƣơng Tâm). Điếu cực kỳ quan trong ở đây là qua tứ vô lƣơng tâm mà dung chứa đƣơc tất cả chúng sinh vào tâm thức của mình nhƣ ngƣời mẹ dung chứa đứa con một trong tâm thức ngƣời mẹ, mọi vui buồn khổ đau của con chinh là vui buồn khổ đau của mẹ. Lòng mẹ Vào một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bƣớc đến nhà một ngƣời bạn nhờ giúp đỡ. Con đƣờng ngắn dẫn đến nhà ngƣời bạn có một con mƣơng sâu với cây cầu bắc ngang. Ngƣời thiếu phụ trẻ bỗng trƣợt chân chúi về phía trƣớc, cơn đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn đƣợc nữa. Chị bò phía bên dƣới cầu. Ðơn độc giữa những chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lƣợt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa con bé xíu vòng từng vòng giống nhƣ một cái kén. Thế rồi tìm thấy đƣợc một miếng bao tải, chị trùm vào ngƣời và kiệt sức bên cạnh con. Sáng hôm sau, một ngƣời phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bƣớc ra khỏi xe và băng qua cầu, bà nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dƣới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà nhìn thấy một đứa bé nhỏ xíu đói lả nhƣng vẫn còn ấm, còn ngƣời mẹ đã chết cóng. Bà đem đứa bé về và nuôi dƣỡng. Khi lớn lên, cậu bé thƣờng hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đƣa đến mộ ngƣời mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu
nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lƣợt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình. "Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - Cậu sẽ lạnh cóng!". Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi ngƣời mẹ mà cậu chƣa bao giờ biết: "Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?". Và cậu bé òa khóc. Truyện này do bạn Dang Hoang (Email: danghoang@operamail.com) gởi đến Xitrum.net Lời bình của Nguyen Vinh Trung : "Trên đời này không co tình cảm nào thiêng liêng hơn tình mẹ. Mẹ là tất cả, bởi vậy câu chuyện đã làm bạn rơi nƣớc mắt, phải không nào? Nếu bạn rơi nƣớc mằt, có nghĩa là con ngƣời thánh thiện trong bạn vẫn còn. Chỉ sợ những bạn đọc xong câu chuyện này mà vẫn "tỉnh rụi" thì thật đáng sợ." Trich từ: LongMe (còn tiếp)
Từ Thức đến Tâm: Con đường Giới hạnh- Ngõ rẽ Chánh Tà Không phải ngẫu nhiên mà hai câu chuyện sau đƣợc kể tiếp theo nhau mà làm nỗi bật cốt tủy của chuyện đƣơc kể. Sau khi Đức Phật nhập diệt, Theo đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất và những tƣờng thuật trong Ma-ha-tăng-kỳ, Tứ phần và Pāli Đọc thêm tại đây: Chuyện một: "Nhƣng khi nghe tin đức Thế Tôn đã niết-bàn, tỳ-kheo già (mặt chuột) này tỏ vẻ vui mừng và hớn hở nói với các vị tỳ-kheo khác rằng, từ này, ông đƣợc tự do, không bị giới luật do đức Thế Tôn thuyết chế, muốn làm gì thì làm tùy theo sở thích.." +Luật Tạng của Thƣợng tọa bộ tƣờng thuật rằng Ngài A-nan : 1-Không thƣa hỏi đức Thế Tôn cụ thể những giới điều nhỏ nhặt và ít quan trọng. Tôn giả A-nan : vì không lƣu ý nên không thƣa hỏi đức Thế Tôn những giới điều nhỏ nhặt và ít quan trọng +Luật tạng của Đại chúng bộ tƣờng thuật rằng Ngài A-nan : 1-không thƣa thỉnh những giới luật nhỏ nhặt cần bỏ cho phù hợp với từng địa phƣơng Tôn giả A-nan : chấp thuận sám hối +Luật tạng của Pháp tạng bộ tƣờng thuật rằng Ngài A-nan : 6-không thƣa hỏi đức Thế Tôn những giới nào là giới tiểu tiết. Tôn giả A-nan : vì lúc ấy A-nan ƣu sầu, nên không nhớ để thƣa hỏi cụ thể những giới tiểu tiết Ở đây ta thấy rõ sự tƣơng phản của tỳ-kheo già (mặt chuột): " không bị giới luật do đức Thế Tôn thuyết chế, muốn làm gì thì làm tùy theo sở thích" và một A-nan chấp nhận sám hối vì không thƣa thỉnh, dù cho một giới ly ti nhỏ nhặt nhất. Nhƣng tai sao ngài A-nan chấp nhận sám hôi với lý do " vì không lƣu ý" ," vì lúc ấy A-nan ƣu sầu",?? Đơn giản qua mức để tạo sự chú ý cần thiềt ? Có lẽ, là đức Thế Tôn đã trã lời :" Không có gì để thay đổi !" nhƣng ngài A-nan không nói ra, nên Ngài sám hối ?
Đức Phật đã nói ra thỉ không thể sai trái, là tuyệt đối, là chân lý nếu không gọi là chứng đắt làm gì cho mệt ! luc thông để làm gì khi mà môt câu nào dó từ kim khâu là sai trái ???? Vì ngƣời ta không tin nên có phân biệt giới trọng kinh, giới kinh.! Ngài A-nan biết nhƣ thế, biết rõ nhƣ thế. Và đức Thế Tôn cũng đả nhấn mạnh "lấy giới là thầy". Ngài A-nan biết nhƣ thế, biết rõ nhƣ thế. Ngài A-nan chấp nhận sám hối vì một ẩn dụ nào đó ??? (ba dấu hỏi) . dù có nói ra cũng không làm thay đổi các vị tỳ-kheo già mặt chuột. (Mặt chuột ?) Chuyện hai: Trƣớc một ngày chúng Tăng kết tập pháp và luật, Tôn giả A-nan tự nghĩ, ngày hôm sau, chúng Tăng tiến hành yết-ma kết tập pháp và luật, ngài còn là bậc hữu học, mà tham dự đại pháp sự này cùng chúng Tỳ-kheo vô học là không phù hợp. Đêm ấy, Tôn giả nỗ lực tu tập bằng pháp quán niệm thân. Khi trời gần hừng sáng, Tôn giả cảm thấy mệt, định nằm nghĩ, và khởi lên ý niệm “nằm xuống, nằm xuống”, ngay tƣ thế nghiên ngƣời ấy, ngài đoạn tận các lậu hoặc, chứng đạt thánh quả A-la-hán. Nhận xét cử chỉ của ngài A-nan : - Tôn giả nỗ lực tu tập bằng pháp quán niệm thân : Bƣớt vào Thân - Tôn giả cảm thấy mệt, định nằm nghĩ : Bƣớt vào Thọ - khởi lên ý niệm “nằm xuống, nằm xuống”: bƣớt vào Tâm ( do nhân đƣợc các niệm tâm khơi từ dòng tâm thức ) - “nằm xuống, nằm xuống”, ngay tƣ thế nghiên ngƣời ấy : bƣớt vào Pháp ( ngũ uẫn ngài A-nan nằm xuống : Định) và cùng lúc ấy Ngài A-nan chứng đạt Ngã Không Pháp Không. Hai câu chuyên trên cho thấy, do giữ giới dù là nhỏ nhặt và chỉ trong một sớm, một khắc, một sát na.. khi muốn thì, nhƣ ngài A-nan, chỉ một niệm khởi là chứng đắt dễ dàng. và chúng ta, nhửng tỳ kheo già (mặt chuột) đã hơn hai ngàn năm trăm năm qua chỉ, và chỉ quẫn quanh theo đƣờng mê dại của ngôn từ trống rỗng. Sự tƣơng phản của ngài A-Nan nghiêm nhặt trong giới hành và tỳ kheo già mặt chuột đã rõ ràng. Để thấy rõ năng lực của giử giơi thì ta nên quay lai với bát nhã tâm kinh. Bát nhã tâm kinh viết: "Này Bồ-đề, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia." ॥ tadyathā gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā. Điều ấy là nhƣ vầy: “Khi đã đi đến, khi đã đi đến, khi đã đi đến bờ kia, khi đã hội tụ ở bờ kia, phẩm vị Giác Ngộ là vật dâng hiến.” (gá-têêê gá-têêê paaa-rá-gá-têêê paaa-rá-xămmm-gá-têêê bô-đơhí xơ-vaaa-haaa).[6] trich từ : http://www.paliviet.info/Sanskrit/Skrt_BatNha.htm Nói rằng vƣợt qua,vƣợt qua.., đi qua, đi qua.. Qua cái gì? Nói rẳng bờ bên kia.. Bờ gì ? bờ vai, bờ lau sậy này, bờ biễn Thuận an, bờ sông hƣơng? Đã là lời Phật dạy thì và nhƣ vậy, phải vƣợt qua một cái gì đó vô hình vô tƣớng nhƣ một ngôi sao xa tít hàng tỷ năm ánh sáng, chúng ta không thấy nhƣng nhà khoa học đã tìm thấy qua toán, vật ly, thiên văn hoc.., HỌ đã xữ dung phƣơng tiện khoa hoc để thấy trƣớc chúng ta.
Và Đức Phật qua trí huệ bát nhã Ngài chỉ cho ta làm sao đễ thấy cái vô hình đó. Khi đức Thế Tôn sắp nhập diệt, ngài đã tha thiết dặn khuyên các đệ tử phải lấy giới luật làm thầy: “Này các Tỳ kheo! sau khi ta diệt độ phải nên tôn trọng trân kính Ba-la-đề-mộc-xoa (giới luật) nhƣ ngƣời đi trong đêm tối gặp ánh sáng, nhƣ ngƣời nghèo đƣợc của báu. Phải biết: Giới là thầy các ông…” Một vi thầy chắc hẳn không chỉ cho ta phát minh, viết một cuốn truyên, vẽ một bức tranh tuyệt tác, một bản nhạc xuất thế..mà chỉ truyền cho ta những CĂN-BẢN làm hành trang vào đời Giới cũng không khác, là hành trang để nhận ra cái Tâm. Theo Thành duy thức, thì khi đẩy đũ công đức cơ bản (Căn bản là giới hạnh) thì NĂM THỨC TRƢỚC nhãn, nhĩ. tỷ, thiệt, thân bắt đầu chuyển hóa, trở thành Thành sở tác trí. Ở Viễn hành địa ( Dùramgama ) Bồ-tát tuy nói đoạn tận tập khí chấp Ngã, nhƣng chƣa an trú vào vô tƣớng vẫn phải phát triển tâm đại bi cứu độ chúng sinh. NĂM THỨC TRƢỚC nhãn, nhĩ. tỷ, thiệt, thân bắt đầu chuyển hóa. Ở Bất động địa ( Acalà ) hay A-La_hán Bồ-tát đoạn tận tập khí chấp Ngã và chấp Pháp, an trú vào vô tƣớng mà tự tại du hành độ sinh. Bấy giờ NĂM THỨC TRƢỚC nhãn, nhĩ. tỷ, thiệt, thân đƣơc chuyển hóa thành Thành Sở Tác Trí. Ở Thiện Huệ địa ( Sàdhumatì ) Thì đã đũ công đức vƣợt qua vƣợt qua công đó. Ở Pháp Vân Đia (A-la-Hán chánh đẳng chánh giác) thỉ đủ khã năng sáng tạo một lý thuyết làm khời lên con đƣờng mà trƣớc đó chƣa có : " .. này các Tỷ-kheo, ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, làm cho khởi lên con đƣờng (trƣớc kia) chƣa khởi, là bậc đem lại con đƣờng (trƣớc kia) chƣa đƣợc đem lại, là bậc tuyên thuyết con đƣờng (trƣớc kia) chƣa đƣợc tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn nay, này các Tỷ-kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu (đạo)." Nói theo cổ điển thì, Năm con sông nhập lai thành một mà đỗ ra biển cả: NĂM THỨC TRƢỚC nhãn, nhĩ. tỷ, thiệt, thân nhập lại MỘT đỗ vào tâm. Và ta nói "thấy đƣơc tâm", cái vô hình đó chính là khúc sông chảy vào biển cả. Đoạn sông này sóng cồn bể cả là tùy vào nghiệp lực còn sót lại. Vùng nƣơc lợ dĩ nhiên có nhƣng vùng xoáy ốc xiết và căng. Ở bát địa vẫn còn lúng túng vƣơt qua vùng nƣớc lợ. Do vậy Bát nhã tâm kinh phải dùng đến hinh ảnh ấn tƣợng của Bồ tác Quán thế Âm. Nếu không có khúc sông này xuất hiện thì mãi mãi cũng chẳng thấy tâm đâu để mà định đƣơc tâm. (chú ý đoạn này) Nói theo khoa học giả tƣởng Stargate thì gọi là Cỗng bƣớt vào thế giới khác, bên ngoài trái đất. Để mỡ chiếc cỗng StarGate thì phài có Mật Ngôn, những cái chử ngoằng nghèo kỳ dị, do nhƣng nhà sản xuất phim điên ảnh tƣơng tƣợng hoặc vay mƣơn từ các từ ngữ cổ của Iran, Iraq, Campuchia, Thái lan, Miên diên, Nepal,, ... TÂY TẠNG, hay LẠT MA chỉ đạo... Ở đây không một mật ngôn, mật từ, mật chú,.. Mât gì "tùy ý thêm vào", "Name it", nào có thể mỡ chiếc cỗng này, vì mật ngôn này chính là Giới Hạnh, là tự chứng, là phải do chinh bản thân nỗ lực gìn giữ GIỚI HẠNH nghiêm nhặt.
Chỉ một việc ăn Phi Thời, Đức Phật dạy "Ngƣời ăn phi thời, là ngƣời phá giới, là ngƣời phạm giới trộm.." Tại sao ? bởi vì qua nhân qủa luân hồi Ngài biết rất rõ ngƣời đó sẽ từ chổ ăn phi thời, sẽ trở thành tên trộm, rồi tên cƣớp của,.. rồi một gã giết ngƣời,.. và mãi mãi đi vào lục đạo luân hồi sinh tử. Đức Phật, do chứng Tam minh, mà Ngài có thể chỉ ra một vài phép quán tƣởng để tiêu trừ một vài nghiệp lực nào đó cản trở việc thấy tâm, nhƣng Ngài không thể mỡ chiếc cỗng này cho ta. Do vậy Ngài nói "hảy thắp đuốc, hảy tự chứng..". Mặc dù "thấy đƣơc tâm", an định đƣơc tâm (Ngã không, pháp không / A-la-hán, Bất động Địa) nhƣng vẫn phải còn tu tâp đễ có thêm công đức mới có thể "Vƣợt qua Vƣợt qua bờ bên kia". Thức thuộc phi vật thể (năng lƣợng, KHÔNG) khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí (vật chất, SẮC), tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các khiếu mà ta nhận đƣợc khi kết hợp Thận, Tỳ, Can, Tâm, Phế (Đông Y) và Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân. -"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy -"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ -"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc -"Tâm khai khiếu ở lƣỡi". Tâm thuộc Hỏa -"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim 1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc 2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy 3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim 4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lƣỡi". Tâm thuộc Hỏa 5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ Đoc thêm (Tử Vi Dƣới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.4), Nguồn gốc Âm Dƣơng, Ngũ hành Nhƣ thế Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân chập lại còn mang ý nghĩa Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ chập lại và một cái Cỗng (gate): Kim_Thủy_Hỏa_Môc_Thỗ . Và bát nhã tâm kinh đƣợc viết lại theo Pháp tƣớng tông : 1- Nƣơng vào công đức vô lƣợng, Bồ tát Quán Thế Âm, an định, tự tại tiến sâu vào nguồn kinh mạch Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ và rằng khi vƣợt qua khiếu đó (cỗng, gate) hợp thể năm chất đều là Không, liền thóat khòi mọi khổ ách. Một thoáng vẫn vơ: Tai sao Đức Phật lai dùng hơi thở là đề muc ? -- Khiếu-Tai sao không dùng Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân mà thay bằng Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ ? Nói Tử vi là nói Dòng Nghiêp Lực, Nói Tử vi là nói Hệ Tám Thức Nói Tử vi là giải bày nghiep lực, la giải bày hệ tám thức.
Thấy có khác thấy không khác. ? Nói Tử vi là nói Pháp môn, Nghiệp Lực/Tám Thức. Hình nhƣ... Không Khác. Nhật Ly http://tuviduoimatnghiepqua.blogspot.com/2015/04/tu-thuc-en-tam-con-uong-gioi-hanh-ngo.html http://q9a1-thanglong.friendhood.net/t72-topic http://happybank.vn/forum/index.php?threads/m%E1%BB%8Di-quan-%C4%91i%E1%BB%83mv%E1%BB%81-t%E1%BB%AD-vi.398/