Tu vi ung dung quyen 1

Page 1

LỊCH SỬ KHOA TỬ VI

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***1***


Nguồn: Trích lục của Yên tử cư sĩ Trần Đại Sỹ Trong thập niên 1960 trở lại đây, Việt Nam ở hoàn cảnh chiến tranh, biến cố diễn ra liên miên. Hôm nay thế này, ngày mai bừng mắt dậy đã khác, nên khiến con người muốn tìm hiểu số mệnh mình bằng các khoa học huyền bí. Trong các khoa học huyền bí, thì khoa Tử Vi được coi là có nhiều tính chất khoa học, giải đoán được mọi sự kiện của cuộc đời và mở rộng. Bởi vậy khoa Tử Vi được nghiên cứu rất nhiều. Từ những người cao niên, học thức uyên thâm, tới những sinh viên học sinh, thi nhau tìm hiểu khoa này. Cho đến năm 1973-1975, một bán nguyệt san được xuất bản với tên khoa học huyền bí do ông Nguyễn Thanh Hoàng sáng lập và làm chủ nhiệm. Tạp chí này mang tên Khoa học huyền bí nhưng gần như là nơi quy tụ những kết quả của các nhà nghiên cứu Tử Vi. Người yêu khoa Tử Vi thì nhiều, mà sách vở ấn hành không được là bao. Tựu trung có các bộ sau đây : - Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Điền Thái Thứ Lang. - Tử Vi Áo Bí của Hà Lạc Dã Phu. - Tử Vi Hàm Số của Nguyễn Phát Lộc. - Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư của La Hồng Tiên do Vũ Tài Lục dịch nhưng chỉ có một phần ngắn. Trong bốn bộ sách Tử Vi trên thì từ tính chất các sao, đến cách an sao, giải đoán hầu như quá khác biệt nhau, khiến cho người nghiên cứu không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là sự thật mà đi theo. Thậm chí có sách đi vào những chi tiết thần kỳ chí quái, hoang đường trái hẳn với khoa Tử Vi nguyên thủy, đó là bộ Tử Vi Áo Bí của Hà Lạc Dã Phu. Hiện (1977) khoa Tử Vi ở Việt Nam, bị coi là một khoa nhảm nhí bị cấm tuyệt, người coi Tử Vi bị kết tội ngang với những tội đại hình. Tuy nhiên trong dân chúng, vẫn nghiên cứu, và các thầy Tử Vi vẫn đông khách. Tại hải ngoại, người Việt lại tiếp tục nghiên cứu khoa này, số người nghiên cứu hầu như đông đảo hơn hồi 1975 về trước nữa.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***2***


Lý do, khi tiếp xúc với văn minh cơ giới Âu Mỹ không giải quyết được lẽ huyền bí của con người với vũ trụ. Hơn nữa khoa Tử Vi nhiều tính chất khoa học hơn các khoa chiêm tinh khác. Lý do thứ ba khiến khoa Tử Vi được nhiều người nghiên cứu là, khi ra ngoại quốc, người Việt không ít thì nhiều đều tìm cách học thêm. Học nhiều thì kiến thức rộng. Kiến thức càng rộng thì việc nghiên cứu càng sâu rộng hơn. Một vài nơi như Pháp, Canada, Úc, Hoa Kỳ, họ đã thành lập những hội nghiên cứu Tử Vi, hơn nữa có nhiều bạn trẻ dùng vi tính lập lá số, giải đoán lá số; thực là một điều đáng khuyến khích. Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, lấy đâu ra sách vở tài liệu để họ nghiên cứu? Sách vở căn bản không có, rất dễ dàng đi đến sai lạc, khiến cho khoa Tử Vi bị mất giá trị, mà mất luôn sự tin tưởng và mất luôn ngày giờ của người nghiên cứu. Bởi vậy chúng tôi mạo muội mở đầu cho phong trào, bằng một bài nghiên cứu về lịch sử khoa Tử Vi, để độc giả có một cái nhìn tổng quát, khiến nó không bị ngộ nhận là nhảm nhí và đồng hóa với những khoa huyền bí thiếu biện chứng khác. Kể từ khi khoa Tử Vi được đắc dụng vào niên hiệu Càn Đức nguyên niên, đời vua Thái Tổ nhà Tống (863), cho đến nay trên một ngàn năm chưa có sử gia nào chép về lịch sử cả. Trên đường nghiên cứu, chúng tôi tìm được một số thư tịch rải rác sau đây, biên tập sơ lược về khoa này. Tôn trọng đúng nguyên tắc sử gia Đông phương, những gì nghi ngờ thì để nguyên, mà cổ nhân gọi là nghi dĩ truyền nghi. 1. Tử Vi Chính Nghĩa Bộ này do Hy Di tiên sinh truyền cho Tống Thái Tổ là Triệu Khuông Dẫn. Bản chúng tôi có là bản chép tay của Hoa Yên tự. Bản này được tàng trữ tại Quốc sử quán triều Nguyên, năm 1955 trong một cuộc chính biến lật đổ Quốc trưởng Bảo Đại chúng tôi sưu tầm được. 2. Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***3***


Chúng tôi có hai bản. Bản chép tay gia truyền, cũng chép từ chính bản của Hoa Yên tự. Một bản nữa của Cẩm Chướng thư cục Thượng Hải ấn hành năm 1921. Hai bản không khác nhau là bao. Bởi gốc của bộ sách này là bộ Tử Vi Chính Nghĩa. Sau khi được Hy Di tiên sinh truyền cho, Triệu Khuông Dẫn và con cháu nhà Tống nghiên cứu rộng ra mới đặt cho một tên mới là Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh. Có nghĩa là họ Triệu giảng giải rõ ràng về bộ Tử Vi kinh. Bộ này được Hoàng Bính truyền sang Việt Nam vào niên hiệu Nguyên phong thứ 7 đời vua Trần Thái Tông (1257), Hoa Yên tự chép lại và lưu truyền tới nay. 3. Đông A Di Sự Bộ này không phải là bộ sách nghiên cứu về Tử Vi, mà là bộ sách chép các học thuật đời Trần, trong đó có phần chép về Tử Vi. Bộ sách do ba người liên tiếp chép, đó là Huệ Túc phu nhân vợ của Trần Thái Tông; Đoàn Nhữ Hài, một vị Tể tướng đời Trần, học trò của Huệ Túc; Trần Nguyên Đán, một vị bác học cuối đời Trần. Bản chúng tôi có là bản do Trần Nguyên Đán khắc bản mộc năm 1388. 4. Tử Vi Đại Toàn Bộ này do các văn thần nhà Thanh nghiên cứu, tổng hợp hết các sách cổ kim về Tử Vi, chép lại. Đây không phải là bộ biên tập, nghiên cứu mà chỉ là bộ sao chép lại mà thôi. Bản chúng tôi có là bản sao, đề rằng do Cẩm Chướng thư cục Thượng Hải xuất bản năm 1921. 5. Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư Do La Hồng Tiên biên soạn rất giản lược, nhưng giống bộ Tử Vi chính nghĩa. Có thể nói đây là bộ Tử Vi Chính Nghĩa yếu lược. Bộ này do Cẩm Chướng thư cục xuất bản năm 1921 tại Thượng Hải. Sau này ông Vũ Tài Lục có dịch nhưng dịch một phần rất ngắn, và không chú giải. La Hồng Tiên sống vào đời Minh.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***4***


Trên đây là 05 bộ Tử Vi được coi là chính thư hay do chính phái biên tập. Ngoài ra còn một vài bộ dưới đây bị coi là tạp thư, tá phái nhưng chúng tôi vẫn nghiên cứu đầy đủ. 6. Tử Vi Âm Dương Chính Nghĩa Bộ này do Lã Ngọc Thiềm và các Tử Vi gia thuộc Bắc phái biên tập, nên thường thêm chữ Bắc Tông để phân biệt với Nam Tông. Bản chúng tôi có là bản chép tay. 7. Tử Vi Âm Dương Chính Nghĩa Do Ma Y biên soạn vào đời Tống, sau được các Tử Vi gia thuộc Nam Phái bổ túc sửa đổi, nên thường thêm chữ Nam Tông để phân biệt với Bắc Tông. Bộ này khắc bản in vào đời Thanh triều Khang Hy, nhưng không ghi rõ năm nào. 8. Tử Vi Thiển Thuyết Bộ tổng luận về Tử Vi do Lưu Bá Ôn, một đại thần khai quốc nhà Minh biên soạn. Bản chúng tôi có là bản khắc in vào đời Thanh triều Khang Hy, nhưng không ghi rõ năm nào. 9. Lịch Số Tử Vi Toàn Thư Bộ này do Hứa Quang Hy đời Minh biên soạn. Bản chúng tôi có là bản chép tay. Ngoài ra chúng tôi sưu tầm được khoảng trên hai mươi bộ sách khác, nhưng tựu trung mô phỏng các bộ sách trên đây cả nên không bàn tới. II. Nguồn gốc khoa Tử Vi Về nguồn gốc khoa Tử Vi thì bộ Tử Vi kinh tức Tử Vi Chính Nghĩa, phần Hy Di tin sinh liệt truyện viết: “Tiên sinh làu thông Dịch Lý, Thiên Văn, Hình Tượng, Lịch Số, Địa Lý. Nhân thấy các khoa đều có uyên nguyên với số mạng nhân sinh, do vậy khải ngộ, soạn ra bộ Tử Vi kinh truyền cho đức Thái Tổ nhà ta.” Vì vậy nguồn gốc khoa Tử Vi, có thể kết luận rằng, đặt cơ sở trên: - Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Dịch Lý. - Từ Thiên Văn học, với những biến chuyển của tinh đẩu.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***5***


- Từ Hình Tượng học, tức khoa nghiên cứu về hình dáng vũ trụ, con người và thú vật. - Từ Lịch Số, tức khoa nghiên cứu từ Thiên Văn, để tính sự tuần hoàn vũ trụ, tính ngày, tháng, năm. - Địa Lý, tức Phong Thủy, nghiên cứu về con người tương ứng với địa phương hướng nhà khí hậu v.v.... 1. Tiểu sử Hi Di tiên sinh Tiên sinh họ Trần húy Đoàn tự Hy Di, người đất Hoa Sơn, ngày nay về phía Nam huyện Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây. Khi ra đời tiên sinh bị đẻ non tháng, nên mãi hai năm mới biết đi, thuở nhỏ thường đau yếu liên miên. Tiên sinh học văn không thông, học võ không đủ sức, thường suốt ngày theo phụ thân ngao du khắp non cùng thủy tận. Thân phụ tiên sinh là một nhà Thiên Văn, Lịch Số đại tài đương thời. Về năm sinh của tiên sinh, không một thư tịch nào chép. Nhưng căn cứ vào bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh, khi tiên sinh yết kiến Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn vào niên hiệu Càn-đức nguyên niên có nói: “Ngô kim nhật thất thập hữu dư”, nghĩa là, tôi năm nay trên 70 tuổi. Vậy có thể tiên sinh ra đời vào khoảng 888-893 tức niên hiệu Vạn Đức nguyên niên đời Đường Huy Tông đến niên hiệu Cảnh Phúc nguyên niên đời Đường Chiêu Tông. Tiên sinh bắt đầu học Thiên Văn năm 8 tuổi. Bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh thuật : “Tiên sinh tám tuổi mà còn thơ dại, lúc nào cũng ngồi trong lòng thân phụ. Một hôm thân phụ tiên sinh phải tính ngày giờ mưa bão trong tháng, bị tiên sinh quấy rầy, mới dắt tiên sinh ra sân, chỉ lên bầu trời đầy sao mà bảo: - Con có thấy sao Tử Vi kia không? Đáp: - Thấy.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***6***


Lại chỉ lên sao Thiên Phủ mà hỏi : - Con có thấy sao Thiên Phủ kia không ? Đáp : -Thấy. - Vậy con hãy đếm xem những sao đi theo sao Tử Vi và Thiên Phủ là bao nhiêu ? Thân phụ tiên sinh tưởng rằng tiên sinh có đếm xong cũng phải trên nửa giờ. Không ngờ ông vừa vào nhà tiên sinh đã chạy vào thưa : - Con đếm hết rồi. Đi theo Tử Vi có năm sao, như vậy chòm Tử Vi có sáu sao. Đi theo sao Thiên Phủ có bảy sao, như vậy chòm Thiên Phủ có tám sao.” Từ đấy tiên sinh được thân phụ hết sức truyền khoa Thiên Văn và Lịch Số. 2. Truyền cho vua Tống Giai thoại kỳ thú mà hầu hết các nhà nghiên cứu Tử Vi đều biết, đó là Hi Di tiên sinh đã dùng khoa Thiên Văn và Tử Vi đoán trước được hai đứa trẻ nghèo đói, sau đều trở thành vua. Bộ Tử Vi chính nghĩa phần Hi Di liệt truyện đã kể giai thoại kỳ thú đó như sau : “Một hôm tiên sinh dẫn đệ tử ra sân xem Thiên Văn, chợt kêu lên rằng : - Kìa quái lạ không ? Đệ tử xúm lại nhìn theo tay tiên sinh chỉ thì thấy sao Tử Vi, Thiên Phủ đi vào địa phận của sao Phá Quân và Hóa Kỵ, mà ánh sáng chiếu xuống núi Hoa Sơn. Tiên sinh noí : - Tử Vi, Thiên Phủ là Đế tượng, tức là Vua. Tử Vi bao giờ cũng đi trước, Thiên Phủ bao giờ cũng theo sau. Đây tức là anh em một gia đình nào đó, đang buổi hàn vi, sau sẽ làm nên sự nghiệp vẻ vang, vị tới đế vương. Phá Quân là hao tinh chủ nghèo đói, Hóa Kỵ chủ bần hàn, kêu xin. Phá ngộ Kỵ thì nghèo đói phải

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***7***


đi ăn mày. Tử, Phủ gặp Phá, Kỵ tức hai vị Thiên tử chưa gặp thời phải đi ăn xin. Tất cả chiếu xuống Hoa Sơn, thì hai vị Thiên tử sẽ qua đất Hoa Sơn ăn xin. Vậy ngày mai các người theo ta xuống núi, giúp cho vị anh hùng vị ngộ, đang gặp lúc cùng khó. Đệ tử thưa : - Đệ tử nghĩ, nhân lúc Thiên tử chưa gặp thời, ta nên cho người vay nợ, để mai đây có dịp đòi nợ cứu giúp dân nghèo. Tiên sinh đồng ý. Hôm sau thầy trò xuống chân núi thấy một đoàn người chạy loạn đi qua. Tiên sinh để ý đến một thiếu phụ gánh hai chiếc thúng, trong mỗi thúng có một đứa trẻ khôi ngô dung quang khác thường. Tiên sinh biết hai đứa trẻ này ứng vào sao Tử, Phủ trên trời đây. Mới hỏi thiếu phụ : - Bà ơi ! Bà có mệt lắm không ? Bà gánh hai vị Thiên tử đi đâu vậy ? Thiếu phụ đặt gánh xuống thưa : - Con tôi đó, đứa lớn tên Triệu Khuông Dẫn, đứa nhỏ tên Triệu Khuông Nghĩa. Từ sáng đến giờ chúng đói không có gì ăn. Tiên sinh bố thí cho chút đồ ăn được không ? Tiên sinh đáp : - Tôi xem thiên văn thấy dung quang hai con bà khác phàm. Bà có nhớ ngày giờ sanh của chúng không ? Thiếu phụ cho ngày giờ năm sinh của hai con. Tiên sinh tính số Tử Vi, thấy cách của Khuông Dẫn là Tử, Phủ, Vũ, Tướng được Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc củng chiếu. Ngặt đại hạn đang gặp Kiếp, Kỵ nên nghèo khó. Số của Khuông Nghĩa là Thiên Phủ lâm Tuất, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền đại hạn cũng đang gặp Kiếp, Kỵ nên nghèo khó. Tiên sinh nói với học trò : - Hai đứa trẻ này là chân mạng đế vương, khi đại hạn đi đến gặp Khôi, Việt, Xương, Khúc, là lúc thành đại nghiệp đấy. Ta phải giúp đỡ mới được, hầu mua lấy cảm tình, lúc thiên tử gặp thời, có thể nhân đó giúp dân vậy.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***8***


Tiên sinh nói với thiếu phụ : - Tôi tính số thấy hai con bà sau đều làm vua. Khi đã làm vua rồi, thì tất cả giang sơn vạn dặm đều của con bà cả. Vậy bà bán cho tôi giải núi Hoa Sơn này lấy tiền mà tiêu. Thiếu phụ tưởng ông đạo sĩ điên khùng mới mua núi. Bà đồng ý bán. Bởi bà không biết chữ, nên xé vạt áo hai con quấn vào đôi đũa, nhét trong một ống đũa, coi như văn tự trao cho Hy Di tiên sinh và nhận mười nén vàng. Năm 960, Triệu Khuông Dẫn thống nhất giang sơn, lên ngôi vua lập ra nhà Tống, sau là Tống Thái Tổ. Niên hiệu Càn Đức nguyên niên (963), quan trấn thủ vùng Hoa Sơn dâng biểu về triều rằng: Có một đạo sĩ tên Trần Đoàn, tự Hy Di bao dưỡng dân chúng không nộp thuế. Đạo sĩ nói rằng: Hoa Sơn là đất riêng của ông, đã được nhà vua bán cho rồi. Tống Thái Tổ không nhớ chuyện cũ, nổi giận, sai bắt Hy Di tiên sinh vào triều trị tội. Nhưng quan địa phương rất kính trọng tiên sinh, không giám trói, còn đưa lừa cho tiên sinh cỡi để lai kinh. Tiên sinh được giải vào triều kiến. Thái Tổ hỏi: - Đạo sĩ cũng phải tuân theo phép nước chứ? Hà cớ phao ngôn nói rằng đã mua đất của triều đình? Tiên sinh đáp : - Năm nay tôi đã trên 70 tuổi đâu dám nói dối. Luật lệ của bệ hạ là: Đời cha mẹ vay nợ, thì đời con phải trả. Trước đây Thái-hậu qua Hoa Sơn, có bán cho bần đạo toàn vùng này lấy mười nén vàng. Văn tự còn đây. Tiên sinh xuất trình ống đũa và vạt áo. Thái Tổ truyền đem vào hậu cung hỏi Thái hậu. Thái Hậu nhớ chuyện cũ vội kêu lên: - Vị thần tiên ở núi Hoa Sơn đây mà, người đã cứu nạn cho nhà ta xưa đây. Thái Hậu kể chuyện xưa. Thái Tổ và triều thần kinh sợ về tài tiên tri của tiên sinh, vội tạ lỗi, lưu tiên sinh lại kinh, kính như bậc thầy. Tống Thái Tổ hỏi tiên sinh về khoa Tử Vi, tiên sinh rút ra

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***9***


trong bọc tập sách nhỏ đề Tử Vi Chính Nghĩa trao cho Thái Tổ mà tâu rằng: - Đây là tất cả những tinh nghĩa về khoa Tử Vi. Bần đạo không phải là người đặt ra khoa này. Nhân người trước đã nói về Tử Vi, bần đạo nhận thấy Dịch Lý, Hình tượng Thiên văn, Lịch Số, Địa Lý đều có uyên nguyên với nhau, mới tước bỏ những rườm rà của người xưa, họp thành khoa Tử Vi mà thần viết trong tập này. Với khoa Tử Vi, bệ hạ có thể biết kẻ trung, người nịnh, thời nào tốt, thời nào xấu mà mưu đại sự. Đó là học tới bậc sơ đẳng. Còn học uyên thâm hơn, có thể nhân số mạng xấu, dùng người nào thì cứu được kẻ bị nạn, và cứu như thế nào ? Thấy kẻ ác thì dùng người nào, cách nào thì trị được, đó là học tới trung đẳng. Còn học tới chỗ uyên thâm cùng cực, có thể làm đảo lộn cả thiên hạ, nắm thiên hạ trong bàn tay. Nhưng bần đạo kính dâng bệ hạ một câu, khi dùng tập sách này, đó là: Chữ Nhân, đừng nên dùng vào những việc ác độc, tổn âm đức. Tiên sinh được các quan xin coi Tử Vi. Họ chỉ việc biên ngày sinh, tháng sinh, năm sinh và giờ sinh, tiên sinh sẽ kêu ra vị đó đang giữ chức vị gì trong triều, cùng sự lập thân ra sao, cuối cùng sự nghiệp sẽ kết thúc như thế nào. Triều thần không ai mà không kính phục. 3. Cái chết của Hy Di Sử Sách không ghi tiên sinh ra đời năm nào, mà cái chết của tiên sinh cũng rất mơ hồ. Bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh viết: “Niên hiệu Khai Bảo thứ ba (972), Thái Tổ sai sứ đến Hoa Sơn thỉnh tiên sinh, thì đệ tử cáo rằng tiên sinh ngao du sơn thủy đã ba năm không thấy trở về”. Sau trên mười năm không thấy tiên sinh trở về, đệ tử tiên sinh cho rằng thầy đã quy tiên. Họ họp nhau bầu lấy người chưởng môn. Nhưng khi sinh thời tiên sinh gặp ai dạy người đó, trình độ học trò không đều nhau, mà họ không biết nhau nữa. Cuối cùng vì trong mười năm xa sư phụ, mạnh ai nấy nghiên cứu thành ra khoa Tử Vi có nhiều dị biệt. Các đệ tử của tiên sinh tự ý

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***10***


thu đệ tử, truyền dạy, người có căn cơ thì dạy hết, người không có căn cơ thì dạy ít, thành ra khoa Tử Vi trở thành một khoa bí hiểm của riêng từng nhà, nhiều nhà còn giữ để làm kế sinh nhai, do vậy mới có nhiều khác biệt nhau. Hai người sinh cùng ngày, giờ, tháng, năm, nhưng lá số khác nhau. Bộ thứ nhì đi vào chi tiết này rất kỹ. - Số người sinh đôi. Trong khi bộ thứ nhì nghiên cứu đến mấy trăm cặp sinh đôi. - Số những người chết tập thể. Như chết chìm đò, chết trong chiến tranh. Bộ thứ nhì lại nghiên cứu kỹ hơn, đưa ra giải quyết v.v... Sau đây chúng tôi trình bày một giai thoại về Tử Vi đời Tống, mà hầu như ai cũng biết, và sử Trung Quốc cũng có chép: Khi còn cầm quân tranh thiên hạ, Tống Thái Tổ có người em kết nghĩa tên là Trịnh Ân. Ân là một võ tướng dũng mãnh, tài ba, vợ Ân là Đào Tam Xuân cũng là một nữ tướng. Cả hai đã giúp cho Thái Tổ thành nghiệp lớn. Thái Tổ phong cho Trịnh Ân tước vương và thay vua trấn thủ ngoài biên trấn. Nhân đầu năm Thái Tổ xem số các tướng sĩ, văn võ quần thần, thấy số Trịnh Ân là Tướng Quân, Thiên Tướng thủ mệnh Đại hạn gặp Kình Dương, Tiểu hạn Thiên Hình. Lưu niên Thái Tuế gặp Kiếp, Kị mới nói với quần thần rằng: - Trịnh Ân do hai ông tướng thủ mệnh. Tướng sợ nhất kiếm và đao, không sợ Hỏa, Linh, Kiếp, Không. Nay đại hạn ngộ Kình là dao, tiểu hạn ngộ Hình là kiếm. Ta e rằng Ân sẽ bị chém mất đầu. Đã vậy lưu niên Thái Tuế gặp Kiếp, Kị thì sẽ do kẻ tiểu nhân ám hại. Hơn nữa Kiếp, Kị lại ngộ Hồng, Đào, thì kẻ hại Trịnh Ân sẽ là đàn bà. Triều đình đề nghị gọi Trịnh Ân về triều để được bảo vệ. Bấy giờ Trịnh Ân đương trấn thủ ngoài xa, nghe lệnh triệu hồi về kinh thì tuân theo. Khi đến kinh thấy một toán quân hầu hộ vệ kiệu vua, tiền hô hậu ủng. Ân tưởng Thái Tổ, vội xuống ngựa

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***11***


phủ phục bên đường tung hô vạn tuế. Nhưng khi ngửng đầu lên không phải là vua, mà là cha của một Phi tần được Thái Tổ sủng ái. Chức tước, địa vị của Trịnh Ân cao hơn nhiều, mà phải lạy phục xuống đất thì nhục quá. Trịnh Ân nổi giận lôi vị Quốc Cữu xuống đất đánh cho một trận về tội tiếm nghi vệ Thiên tử. Vị Quốc cửu bị đòn nhừ tử, về nhà báo cho con gái biết, khóc lóc đòi trả thù. Vị phi thấy cha bị đòn đau, trở vào cung phục rượu cho Thái Tổ say mèm, rồi dâng biểu nói Trịnh Ân làm phản đập phá nghi trượng Thiên tử. Tống Thái Tổ say quá không tự chủ được, phê vào chữ Trảm. Thế là Trịnh Ân bị mang ra chém đầu. Khi Thái Tổ tỉnh rượu được triều đình tâu tự sự, thì chỉ còn biết bưng mặt khóc lớn. Đào Tam Xuân thay chồng trấn ngoài ải, thấy chồng bị thác oan, Tam Xuân truyền quân sĩ để tang, kéo quân về triều hỏi tội. Các tướng phần bất mãn với việc Thái Tổ giết Trịnh Ân, nên không quyết tâm chiến đấu, hơn nữa không địch nổi Tam Xuân nên thua chạy. Tam Xuân vây kinh thành rất gấp. Triều đình tâu giết thứ phi, giết cả nhà Quốc cửu để tạ tội với Tam Xuân. Nhưng Tam Xuân vẫn không lui binh. Tình hình nguy ngập, Triệu Quang Nghĩa tâu với Tống Thái Tổ (Quang Nghĩa là em Tống Thái Tổ, sau được truyền ngôi vua): - Thần xem số Tam Xuân thấy Vũ Khúc, Phá Quân thủ mệnh. Vũ Khúc thì hay giận, Phá Quân thì nhẹ dạ. Tử Vi kinh nói rằng: Chỉ có Lộc Tồn chế được tính ác của Vũ Khúc, Thiên Lương chế được tính điên của Phá Quân. Vậy ở đây có vị văn thần nào Thiên Lương, Lộc Tồn thủ mệnh, đề nghị có thể thuyết phục được Tam Xuân. Thái Tổ chuẩn tấu, tìm ngay ra vị văn thần có tên Cao Hoài Đức có cách trên, sai ra ngoài thành, thuyết phục Tam Xuân. Quả nhiên Tam Xuân lui binh. Từ đấy trong suốt đời nhà Tống, con cháu họ Trịnh được nối tiếp nhau phong tước. Như vậy thì Triệu Quang Nghĩa đã học tới trình độ khá uyên thâm khoa Tử Vi, nên dùng phá cách dữ tợn của Tam Xuân và trợ cách giúp Thái Tổ. Nghiên cứu lá số của Thái Tổ, năm đó Đại

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***12***


hạn ngộ Kỵ, tiểu hạn đi vào cung nô, gặp Thiên Thương, Kiếp. Hạn Thiên Thương gặp Kiếp, Không thường là hạn bị hàm oan nguy đến tính mệnh. Chính Khổng tử bị hạn này, bị vây tại nước Trần, hút chết đói. Số của Cao Hoài Đức, ngoài Thiên Lương, Lộc Tồn thủ mệnh, Đại hạn ngộ Quyền, Khốc, Hư, Xương, Lương, Lộc chỉ chế được Tam Xuân. Nhưng chính Quyền, Khốc, Hư nói Tam Xuân nghe theo, và Văn Xương là sao giải hạn Địa Kiếp vậy. 1. Vòng Thái Tuế Theo Hi-Di có năm sao là: Thái Tuế, Tang Môn, Bạch Hổ, Điếu Khách, Quan Phù. Trong khi Nam phái thêm vào bảy sao nữa là: Thiên Không, Thiếu Âm, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Phúc Đức, Trực Phù. Vị trí chính của sao Thiên Không được thay bằng sao Địa Không (bịa thêm ra). 2. Giải đoán Vận hạn Theo Hi Di tiên sinh thì đại hạn thứ nhất bắt đầu từ cung Huynh đệ hoặc Phụ mẫu. Trong khi Nam phái đổi là khởi từ cung mệnh. Rồi họ thêm những thứ đặc biệt như: Hạn Tam Tai, hạn Huyết Lộ, hạn Ác Thần, rồi căn cứ vào đó coi mỗi vì sao như một ông thần phải cúng vái trừ tà. Người ta quen gọi Bắc phái là Chính phái và Nam phái là phái Hà Lạc. Đời Nguyên khoa Tử Vi bị cấm ngặt, bởi dân Trung Hoa đồng hóa Khoa Tử Vi với nhà Tống, nên Nguyên triều cấm đoán, cũng không có gì lạ. Suốt đời nhà Minh khoa Tử Vi không có gì đặc sắc, chỉ mô phỏng những điều có từ đời Tống. Đến đời nhà Thanh, vua nhà Thanh thấy rằng: Mấy ông thầy Tử Vi thường được lòng dân chúng. Nhiều ông mượn cớ coi Tử Vi để khích động dân nổi dậy chống triều đình. Vua Khang Hy mời các nhà Tử Vi danh tiếng về kinh, phong cho mỗi vị một chức quan để biến các vị thành tôi tớ triều đình. Lại cử một người Thanh đứng ra cai quản các vị này soạn bộ Tử Vi Đại Toàn. Bộ này chưa in thành sách. Trong dịp bát quốc xâm lăng Trung Hoa, thì Pháp, Nhật mỗi nước lấy được một bản.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***13***


V. Tử Vi vào Việt Nam Có hai thuyết nói về khoa Tử Vi truyền vào Việt Nam. 1. Thuyết thứ nhất Nói rằng một nhân viên sứ đoàn Đại Việt thời Lý tên Trần Tự Mai đã trộm được trọn vẹn bộ Tử Vi chính nghĩa và bộ Ngự Giám Tử Vi, rồi đem về nước. Nhưng chính Tự Mai cũng chỉ nghiên cứu rồi truyền cho con cháu. Ghi chú: Từ Trần Tự Mai đến vua Trần Thái Tông gồm 8 đời. Trần Tự Mai sinh Trần Vỵ Hoàng. Trần Vỵ Hoàng sinh Trần Tự Quang. Trần Tự Quang sinh Trần Tự Kinh. Trần Tự Kinh sinh Trần Tự Hấp. Trần Tự Hấp sinh Trần Lý. Trần Lý sinh Trần Thừa. Trần Thừa sinh Trần Liễu, Trần Cảnh tức vua Thái Tông nhà Trần. Nên sau này Hoàng Bính đem Tử Vi cho vua Trần, thì có cuộc tranh luận về Tử Vi giữa Hoàng Bính với Chiêu Minh vương Trần Quang Khải và Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. 2. Thuyết thứ nhì Một thuyết khác nói khoa Tử Vi truyền vào Đại Việt từ niên hiệu Nguyên phong thứ bảy đời vua Trần Thái Tông (1257). Người truyền sang Đại Việt là tiến sĩ Hoàng Bính. Hoàng Bính sinh vào niên hiệu Gia Thái thứ nhì đời Tống Ninh Tông (1203), đậu Tiến Sĩ làm Thị độc học sĩ (chức quan đọc sách và giảng sách cho vua nghe) thời Tống Lý Tông. Năm Bảo Hựu nguyên niên (1253), tiên sinh nhân ở chức vụ Thị độc học sĩ, nên nghiên cứu, hiểu tường tận các bộ sách Tử Vi Chính Nghĩa, Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh, tiên sinh nghiên cứu số Tử Vi của vua, Hoàng Hậu, các vương thần, khanh sĩ, văn võ đại thần, thì thấy số người cũng sắp táng gia bại sản, hoặc chết thê thảm, hoặc gia đình ly tán. Lúc đầu tiên sinh cho rằng có cuộc thay đổi ngôi vua trong triều, nhưng sau xem đến số của các vị trấn thủ đại thần, cũng đều tương tự cả. Tiên sinh cho rằng đó là vận nước sắp mất. Tiên sinh lại xem số mình và vợ con đều thấy thân cư Thiên Di, mệnh lập tại Tý, cung Thiên Di ở Ngọ. Tiên sinh mới giải đoán

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***14***


rằng: Tý là phương Bắc, Ngọ là phương Nam, vậy gia đình mình có số lập nghiệp ở phương Nam. Lại xem thiên văn, thấy tất cả các tinh hoa đều tụ cả ở phương Nam, mới bàn với phu nhân rằng: - Ta xem thiên văn thấy phương Nam sáng rực, tương lai thánh nhân đều xuất hiện ở đó. Nay quân Thát Đát (Mông Cổ) chiếm gần hết giang sơn rồi, mà triều đình trên thì vua hôn ám, các quan thì nhũng lạm, lòng dân đã mất, cái vạ vong quốc không xa cho lắm. Âu là ta cáo quan về hưu, rồi đem tộc thuộc xuống phương Nam lánh nạn. Năm 1257, Hoàng Bính đem tộc thuộc hơn ba nghìn người, đến biên giới Hoa Việt, xin được vào đất Đại Việt làm cư dân. Vua Thái Tông nhà Trần sai người lên tra xét, thấy họ quả thật tình, không có chi giả dối, mới thuận cho Hoàng Bính lập nghiệp ở vùng Yên bang. Hoàng Bính dâng người con gái út 16 tuổi, nhan sắc diễm lệ, làu thông thi thư và thuật số, Tử Vi tên Hoàng Chu Linh. Vua Trần Thái Tông thu nhận, phong làm Huệ Túc phu nhân rất sủng ái. Hoàng hậu, phi tần khóc lóc thảm thiết, chuẩn bị chôn cất, nhân thấy Huệ Túc phu nhân văn hay chữ tốt, có ý nhờ viết bài vị. Vì vậy phu nhân biết ngày, giờ, tháng, năm sinh của Thái tử. Phu nhân bấm số, rồi tâu: - Xin Hoàng hậu đừng lo, Thái tử chỉ mê man thôi, giờ Sửu ngày mai sẽ tỉnh dậy. Vua và Hoàng hậu tin tưởng và hỏi tại sao phu nhân biết? Phu nhân tâu: - Thần tính số Tử Vi của Thái tử thấy Đồng, Âm thủ mệnh tại Tý. Cung phúc tại Dần có Cự, Nhật. Tử Vi kinh nói rằng: “Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ, Do ư Phúc trạch cát hung”. Nghĩa là : Giàu, sống lâu, làm lớn, tiếng tăm, chết non, đau thương, khổ, do cung phúc tốt hay xấu. Đây cung Phúc của Thái tử có Cự, Nhật tại Dần, lại có Tả, Hữu, Xương, Khúc hợp chiếu, thì căn cơ là người thọ lắm. Mệnh lại được Đồng, Âm tại Tý... thế

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***15***


thì Thái tử không chết non, sau còn trở thành vị minh quân anh hùng, tạo sự nghiệp rạng rỡ cho họ Đông A và cho nhà Đại Việt nữa. Hiện Thái tử bị hạn Tang, Hổ, Kiếp, Hình thì đau yếu nặng đó thôi. Vua và Hoàng hậu còn phân vân chờ đến giờ Sửu hôm sau, thì Thái tử tỉnh dần, rồi khỏi hẳn. Sau là vua Trần Thánh tông, một vị vua anh hùng trong lịch sử Đại Việt. Nhân đó vua Thái tông mới hỏi lý do tại sao phu nhân biết, phu nhân mới trình bày khoa Tử Vi. Vua Thái tông triệu Hoàng Bính vào cung, tiên sinh dâng lên hai bộ sách Tử Vi Chính Nghĩa và Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh. Vua Thái tông và hoàng tộc nhà Trần lại đua nhau nghiên cứu Tử Vi, và dùng như một nguyên tắc để cử người giúp nước. 2. Một sự kiện sáng tỏ nhờ Tử Vi Qua những lá số được Huệ Túc phu nhân và vương hầu đời Trần chấm còn để lại, ngày nay chúng ta thấy được nhiều khía cạnh lịch sử. Như hiện trong văn học sử, người ta không biết vị thiền sư đắc đạo Tuệ Trung thượng sĩ đời Trần, bản sư của Trần Nhân tông là Trần Quốc Tung, anh ruột Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, tước phong Hưng Ninh vương hay là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con thứ nhì của Hưng Đạo vương? Căn cứ vào lá số của Huệ Túc phu nhân, người sống đồng thời với Hưng Ninh vương, lại là thím của ngài, là sư phụ của ngài về khoa Tử Vi, thì những gì do phu nhân viết về ngài phải đúng. Hơn nữa phu nhân lại là người tích cực tiến cử Hưng Đạo Vương giữ chức vụ Tiết chế binh mã, tức là Tổng tư lệnh quân đội, thì chắc chắn tình nghĩa thím cháu, vua tôi, thầy trò, phu nhân viết về gia đình Hưng Ninh Vương, Hưng Đạo vương không sai. Phu nhân chấm số cho Hưng Ninh vương có phê như sau:

"... Kinh vân Tử, Tham, Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng. Ngô kim nhật kiến Tuệ Trung chi số: Tử, Tham ư Dậu ngộ Quyền, Đào, tuấn nhã chi lang. Tả, Hữu hợp chiếu thị tất đa tài, đa năng. Đãn hiềm Tử, Tham cư Dậu ngộ Không, Kỵ tất thoát tục vi tăng”.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***16***


Nghĩa là sách Tử Vi kinh nói rằng: người mệnh lập tại Dậu hay Mão, mà có Tử Vi, Tham lang thủ mệnh đa số là người thoát tục đi tu. Nay ta xem số của Tuệ Trung thì thấy mệnh lập tại Dậu, Tử Vi, Tham Lang thủ mệnh, còn gặp Đào hoa, Hóa quyền thì là người đẹp đẽ. Được Tả, Hữu hợp chiếu thì là người đa tài, đa năng. Nhưng tiếc rằng cái số và mệnh lập tại Dậu, Tử Vi, Tham Lang thủ mệnh, gặp Thiên Không, Hóa Kỵ thì thế nào cũng đi tu." Từ sự kiện trên ta tìm được Tuệ Trung thượng sĩ là Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung, chứ không phải là Trần Quốc Tảng. 3. Phá cách, trợ cách Qua các tài liệu còn lại, thì khoa Tử Vi đời Trần có một sắc thái đặc biệt hơn ở Trung Quốc, đó là Phá cách và Trợ cách. Câu chuyện Đoàn Nhữ Hài là một bằng cớ. Nếu Tống Thái Tổ biết Trịnh Ân bị nạn mà cứu không được, thì vua Trần Nhân Tông biết Đoàn Nhữ Hài bị nạn mà cứu thoát. Câu chuyện như sau: Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc tử giám ở Thăng long. Năm 20 tuổi, Hài chuẩn bị để thi Thái học sinh (tiến sĩ), muốn được thi Thái học sinh thì Hài phải qua một kỳ khảo hạch của trường trước, nếu thấy khá thì mới được cử đi thi. Một hôm ra chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) chơi, thấy vị tăng ngồi nhìn trời, Hài hỏi: - Bạch hòa thượng, tiểu sinh nghe rằng người tu hành có thể biết được vận số sau này sẽ ra sao, có đúng không? Hòa thượng hỏi: - Tiên sinh muốn biết điều gì? - Tiểu sinh muốn biết mai sau hoạn lộ ra sao. Tiểu sinh mong sư phụ chỉ giáo cho tương lai. Hòa thượng hỏi ngày, giờ, tháng, năm sinh của Hài rồi nói: - Số của tiên sinh là số tá cửu trùng ư kim điện, nghĩa là số phò tá vua ở sân rồng, tức là số làm tới tể tướng. Mệnh lập tại Mùi, Tả, Hữu thủ mệnh là người đa tài, đa năng. Tử Vi kinh nói,

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***17***


Tả Phụ, Hữu Bật bình tính khắc khoan, khắc hậu nên tính tình từ tốn, hành sự cẩn trọng. Cái cách Nhật tại Mão, Nguyệt tại Hợi chiếu là cách Nhật Nguyệt tịnh minh, nên thì sớm gặp minh quân. Nhưng tiên sinh lại có một cách rất xấu Đào Hoa, Hồng Loan cư Nô, lại gặp Hình, thì tất thế nào cũng vì đàn bà mà tan nát sự nghiệp, đến phải vong mạng. Đáng tiếc, đáng tiếc. Hài mừng lắm trở về lo học hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường Quốc Tử Giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quá. Hài giận lắm, tìm vị hòa thượng hỏi: - Hôm trước đại sư đoán rằng sau này tôi sẽ làm Tể tướng, thế sao tôi thi trượt? Không đậu thì làm sao thi Thái học sinh được? Không đậu Thái học sinh thì sao có thể làm Tể tướng? Vị Hòa thượng cười đáp: - Từ xưa đến giờ có biết bao nhiêu vị Tể tướng mà không đậu đại khoa? Bần tăng đoán tiên sinh làm Tể tướng, chứ có đoán tiên sinh thi đậu đâu? Này năm nay tiểu hạn tiên sinh nhập cung Dậu được Thái Dương miếu địa, Hóa Khoa từ Mão chiếu sang thì thanh vân đắc lộ gặp được thiên nhan. Nhưng Đại hạn đóng ở cung Tỵ. Thiên Mã gặp Đà La tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung Dậu gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân. Vậy khi nào tiên sinh gặp ngưạ cắn hoặc đá là lúc gặp vua, nhưng tiên sinh nhớ một điều: Khi được gặp vua, nếu Hoàng thượng ban thưởng cho bao nhiêu vàng bạc phải nộp cho lão tăng một nữa. Hài mừng lắm, về nhà, đúng ngày mà hòa thượng đoán gặp vua, không thấy linh nghiệm. Hài tìm đến chùa Diên Hựu để hỏi tội Hòa thượng. Nhưng trên đường đi, Hài bị một người cỡi ngựa đụng phải, té lăn vào bụi cỏ. Hài túm lấy dây cương hạch tội: - Nhà ngươi đi đâu mà có mắt như mù đụng phải ta? Người cỡi ngựa, mình chỉ mặc áo lót, mũ đội phía sau ra trước, nhảy xuống ngựa tạ lỗi: - Xin lỗi tiên sinh, tôi đi tìm cha tôi để tạ lỗi. Tiên sinh có biết chữ không? Tôi muốn nhờ tiên sinh một việc đây!

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***18***


Hài bực mình nói: - Ta học trường Quốc tử giám, sắp thi Thái học sinh, thì Bách gia, Chư tử, Cửu lưu, Tam giáo đều thông. Sao lại không biết chữ? Người cỡi ngựa tiếp: - Vậy tiên sinh làm dùm tôi bài biểu tạ tội với cha tôi, tôi sẽ bảo quan Quốc tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng nguyên, được chăng? - Nhà ngươi điên à? Nhà ngươi có biết, chỉ có một người cho Thái học sinh đậu Trạng nguyên, đó là vua. Nhà ngươi là ai mà dám nói lớn lối như vậy? Người kia đáp: - Tôi là Vua đây. Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ người đó, quả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. Người cỡi ngựa chính là vua Trần Anh tông. Nguyên sau khi chiến thắng Mông Cổ, năm 1293 vua Trần Nhân tông nhường ngôi cho con là vua Trần Anh Tông rồi đi tu. Vua Anh Tông thường hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương bồ say quá nằm ngủ, thì Thượng hoàng từ Thiên trường về Thăng Long. Các quan trong triều không ai biết cả. Nhân Tông thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Thái giám dâng cơm. Thượng hoàng không thấy vua đâu hỏi Thái giám. Thái giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh được. Thượng hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan về Thiên trường họp, có ý truất phế Anh tông. Đến giờ Mùi, Anh tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy tâu. Vua sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy tới chùa Từ phúc, thì đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Hai người xuống thuyền về Thiên trường. Dọc đường Đoàn Nhữ Hài làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng Thượng hoàng vẫn còn giận, không cho vào. Hai người phải quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn hay, truyền nhau đọc. Thượng hoàng nghe được hỏi:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***19***


- Văn ở đâu mà hay như vậy? Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng hoàng truyền: - Đưa vào đây! Ý ngài muốn nói rằng đưa bài biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và Đoàn Nhử Hài vào. Thượnghoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp biểu xem, thấy lời văn điêu luyện, thống thiết, bèn xá tội cho vua Anh Tông. Ngài phán rằng: - Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. Nay gặp tiên sinh ở đây thực là may mắn. Hài trình việc gặp Hòa thượng ở chùa Diên Hựu, được hòa thượng đoán trước sự việc. Thượng hoàng phán: - Khoa Tử Vi do Hoàng Bính truyền sang Đại Việt, khoa này đâu có truyền ra ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử Vi cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ Trung Thượng sĩ đó (tức Trần Quốc Tung). Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với hòa thượng thì bị ốm đòn rồi. Bởi Tuệ Trung là một võ học danh gia đời Trần. Thượng hoàng hỏi số của Hài, rồi phán: - Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay. Vua Anh tông tâu rằng: - Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử Vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không? Thượng hoàng bèn xé từ bìa kinh Kim cương viết mấy chữ Tứ Đại Giai Không, miễn tử trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy trong kinh Kim Cương:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***20***


“Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng sinh tướng, Vô thọ giả tướng, tứ đại giai không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, của ta, của chúng sinh, không có cái gì lâu dài cả. Bốn cái đó đều là hư ảo.. Thượng hoàng phán: - Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa Quyền đóng chung ở Tham Lang nữa. Muốn giải hạn Thiên Hình thì dùng đến Không Vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim cương, tức là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh. Trở về Thăng Long, vua Anh Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán, đây là lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 tuổi được phong làm Ngự sử trung tán. Người thời đó ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau: Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa là: Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa. Ba năm sau hạn của Đoàn Nhữ Hài qua cung Tý gặp Đào, Tham, Quyền, Hồng và Thiên thương, triều đình khám phá ra mối tình của Đoàn Nhữ Hài với một cung nữ của vua Anh Tông. Luật triều Trần rất khắt khe với tội ngoại tình. Ngay với thường dân khi ngoại tình xảy ra, gian phu bị tử hình, dâm phụ tùy người chồng tha hay không. Nay tội đó xảy ra giữa một đại thần với một cung nữ. Nên cả hai bị khép tội chém đầu. May nhờ có thủ bút của Thượng hoàng, viết trên bìa cuốn kinh Kim cương nên cả hai được miễn tử. Vua Anh Tông truyền gả cung nữ cho Đoàn Nhữ Hài. Đoạn trên đây chúng tôi tóm lược trong sách Đông A Di Sự, phần Đoàn Nhữ Hài liệt truyện. 4. Tinh hoa khoa Tử Vi đời Trần

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***21***


Hầu hết những bậc vua chúa, vương hầu nhà Trần đều nghiên cứu Tử Vi, để làm chìa khóa biết kẻ trung, người nịnh, biết vận hạn, mưu đồ đại sự. Như khi triều đình phân vân không biết nên hòa với Mông Cổ, cho Mông Cổ mượn đường đánh Chiêm thành, hay nhất định chống lại, vua Thái tông do dự không quyết, Huệ Túc phu nhân chấm số cho tất cả vua, hoàng hậu, vương hầu, tướng sĩ, thấy đa số là những vĩ nhân, làm nên những chuyện kinh thiên động địa. Có một số bị chết thảm nhưng tiếng tăm vang dậy. Phu nhân quyết định rằng: nên đánh. Bởi đánh thì sẽ thắng, có thắng các vương hầu mới có sự nghiệp vĩ đại như vậy. Một vài người tuy tuẫn quốc thật nhưng danh thơm muôn thuở. Có ai ngờ việc quyết định vận số quốc gia như thế, mà do khoa Tử Vi chiếm một phần. Khoa Tử Vi đời Trần cũng dựa theo bộ Tử Vi Chính Nghĩa, rồi nghiên cứu rộng ra về phá cách và trợ cách. Tỷ dụ, Tử Vi kinh nói rằng: Thiên Hình, Thất Sát cương táo nhi cô. Nghĩa là, người có Thiên Hình, Thất Sát thủ mệnh thì tính tình nóng nảy, cứng rắn quá mà hóa cô độc. Muốn khuyên răn, chế ngự bớt sự cuồng táo đó, phải dùng người mệnh có Thái Dương, Thiên Đồng, Thiên Lương, Văn Xương, Văn Khúc, Đào Hoa, Hồng Loan. Bởi các sao này có thể giảm bớt sức nóng nảy của Hình, Sát. Tuyệt đối không dùng người mệnh có Kiếp, Không, Kình, Đà, Tang, Hổ đã đành mà còn tránh dùng người có Tử Vi, Thiên Phủ, bởi Tử, Phủ kỵ Hình, Sát. Như muốn phá người mệnh có Tử, Phủ thì dùng người có Kiếp, Không, Kỵ, Hình thủ mệnh. Tử, Phủ thì ngay thẳng, Kiếp, Không thì gian trá, tiểu nhân vậy dùng những mánh lới hạ cấp sẽ làm cho người Tử, Phủ khốn khổ v.v... Khoa Tử Vi còn đi sâu hơn nữa. Như người có cung Phúc tại Thìn được Thái Dương tọa thủ, tức là được hưởng phúc ngôi mộ ông hoặc bố. Muốn ếm người đó, thì dùng cách ếm mộ ông nội hay cha y, thì y khốn khổ ngay. Lối này trước đây người ta đã dùng để ếm mộ ông nội nhà văn Phạm Quỳnh, sau này ếm mộ nhà Ngô. Khi cố Tổng thống

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***22***


Ngô Đình Diệm còn tại vị, nhiều người thù ghét, sau biết ngôi mộ tổ được cách Long phụng triều thì con trai, con gái, con dâu sự nghiệp đều vĩ đại cả. Người ta đã ếm ngôi mội này. Thành ra khi con long bị đau, nó dẫy lên, lại một người nam bị nạn, khi con phụng dẫy lên thì có một người nữ bị nạn. Cái lối ếm này rất thất đức, nên chúng tôi không trình bày chi tiết vào đây. Tỷ dụ: Nhà Trần đã dùng lối ếm đó để diệt dòng dõi họ Chế ở Chiêm thành. Trần Khắc Chung vì thương yêu Huyền Trân công chúa, mà công chúa bị triều đình nhà Trần gả cho Chế Mân, Khắc Chung tìm biết số Tử Vi của Chế Mân, rồi tìm ngôi mộ cung Phúc Đức ếm, nên chỉ một năm sau Chế Mân chết. Tương truyền Trần Nguyên Hãn, một danh tướng đã giúp vua Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh. Nhưng ông là cháu nội của Trần Nguyên Đán, một vị Tể tướng cuối đời Trần, nên khi đuổi giặc Minh rồi, vua Lê Thái Tổ muốn giết ông. Ông biết ý nói với bạn bè rằng: Ông xem số Lê Thái Tổ là chỉ có thể ở với nhau khi hoạn nạn, lúc đại nghiệp thành thì nhà vua sẽ giết công thần. Vì vậy ông cáo quan về ở ẩn trong dân. Tuy vậy nhà vua vẫn sai 42 vệ sĩ xá nhân về quê bắt ông. Khi đi đường về kinh, ông dùng võ giết các xá nhân rồi trốn đi (sử chép thuyền chìm xá nhân và ông đều chết hết). Ông trốn vào Thanh Hóa ếm ngôi mộ kết long mạch của nhà Lê, nên sau khi vua Lê Thái Tổ băng, tiếp theo vua Lê Thái Tông bị thượng mã phong mà băng lúc 20 tuổi. Con vua Lê Thái Tông mới hai tuổi lên ngôi vua cũng bị anh là Lê Nghi Dân giết chết. Một giai thoại nữa diễn ra dưới triều Lê. Khi Lê Thái Tổ thành đại nghiệp, về quê tế tổ, một ông lão người cùng quê hỏi rằng: - Tôi với bệ hạ sinh cùng ngày, cùng giờ, cùng tháng, cùng năm, cùng quê, thế sao bệ hạ làm vua, mà tôi thì vẫn làm dân? Trần Nguyên Hãn đáp:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***23***


- Đó là cung Phúc cả. Cung Phúc của Chúa tôi với ông đều có Thiên Đồng tọa thủ tại Hợi. Nhưng ngôi mả tổ ông lại không để trúng long mạch, ngược lại ngôi mộ của Chúa tôi để trúng long mạch nên được hưởng mệnh trời. Bởi số giống nhau, nên tướng mạo ông với Chúa tôi tương tự. Tôi nghĩ số ông có phần nào giống Chúa tôi chứ? Ông làm nghề gì nào? Đáp rằng: - Tôi làm nghề nuôi ong, hiện nuôi chín tổ ong. Trần Nguyên Hãn đáp: - Đó tôi nói có sai đâu. Bệ hạ làm Chúa chín châu, thì ông làm Chúa chín tổ ong, tổ nào cũng có vua, có quan, có tướng mà. Sau này ông Lê Quý Đôn đi sứ Trung Quốc mua được bộ Tử Vi Âm Dương Chính Nghĩa, Nam Tông đem về nghiên cứu. Ông có diễn giải ra bằng thơ lục bát khá đầy đủ. Khoa Tử Vi theo Nam Tông truyền vào Việt Nam từ đó. VIII. Dị biệt chính, Nam phái 1.- Sự khác biệt về số sao 1.1. Bộ Tử Vi Chính Nghĩa Được coi như là chính thư. Không nói về số sao. Song trong mục dạy an sao có 93 sao, đó là: 1.1.1. Các chòm: Tử Vi: 6 sao là Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh. Thiên Phủ: 8 sao là Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân. Thái Tuế: 5 sao là Thái Tuế, Tang Môn, Điếu Khách, Bạch Hổ, Quan Phù. Lộc Tồn: 17 sao là Lộc Tồn, Kình Dương, Đà La, Quốc Ấn, Đường Phù, Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân,

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***24***


Tấu Thư, Phi Liêm, Hỉ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ. Trường Sinh: 12 sao là Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai Dưỡng. 1.1.2. Các sao an theo tháng: 7 sao Tả Phụ, Hữu Bật, Tam Thai, Bát Tọa, Thiên Hình, Thiên Riêu, Đẩu Quân. 1.1.3. Các sao an theo giờ: 8 sao Văn Xương, Văn Khúc, Ấn Quang, Thiên Quý, Thai Phụ, Phong Cáo, Thiên Không, Địa Kiếp. 1.1.4. Tứ trợ tinh: 4 sao là Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Kỵ. 1.1.5. Các sao an theo Chi: 17 sao là Long Trì, Phượng Các, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Hồng Loan, Đào Hoa, Thiên Hỉ, Thiên Mã, Hoa Cái, Phá Toái, Kiếp Sát, Cô Thần, Quả Tú, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Khốc, Thiên Hư. 1.1.6. Các sao an theo Can: 5 sao là Lưu Hà, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tuần Không, Triệt Không. 1.1.7. Các sao cố định: 4 sao là Thiên Thương, Thiên Sứ, Thiên La, Địa Võng. 1.2. Bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh Đều ghi có 93 sao, giống như bộ Tử Vi Chính Nghĩa. 1.3. Bộ Tử Vi Đại Toàn Ghi rõ ràng rằng trong lá số phải có 93 sao như Hi Di tiên sinh, kỳ dư an thiếu, đủ hay khác đi đều là tạp thư, ma thư của bọn đạo sĩ bịa đặt để lừa nhau, còn giả đạo đức, tỏ ra là người bác học, song chẳng qua là phường lưu manh! 1.4. Bộ Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư Nói về số sao rất lờ mờ. Phần dạy cách an sao có ghi rõ 85 sao. Các sao cũng giống như ba bộ trên. Duy thiếu các sao sau đây: Đào Hoa, Phá Toái, Kiếp Sát, Cô Thần, Quả Tú, Lưu Hà.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***25***


Nhưng khi đọc bài phú nói về các sao, thì lại thấy nói tới Đào Hoa, Ân Quang, Thiên Quý v.v... 1.5. Bộ Đông A Di Sự Thấy ghi đúng 93 sao như bộ trên, nhưng khi xét các lá số để chiêm nghiệm thì thấy thiếu các sao: Bác Sĩ, Thiên La, Địa Võng, Thiên Thương, Thiên Sứ. Có lẽ các Tử Vi gia đời Trần quan niệm rằng các sao trên đều ở vị trí cố định, nên không cần an vào như sao Bác Sĩ bao giờ cũng đóng chung với sao Lộc-tồn. Sao Thiên Thương bao giờ cũng ở cung Nô, sao Thiên Sứ bao giờ cũng ở cung Tật Ách và sao Thiên La bao giờ cũng ở cung Thìn cũng như sao Địa Võng bao giờ cũng ở cung Tuất. Trên đây là các bộ chính thư, dưới đây là các bộ tạp thư. 1.6. Bộ Tử Vi Âm Dương Chính Nghĩa Bắc Tông Thấy ghi đến 104 sao. Các sao cũng như giống như chính thư về số sao cũng như cách an sao, song thêm các sao sau đây: Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Trù, Thiên Y, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Lộc, Lưu Niên Văn Tinh, Thiên Quan Quý Nhân, Thiên Phúc Quý Nhân. 1.7. Bộ Tử Vi Âm Dương Chính Nghĩa Nam Tông Ghi tới 128 sao, các sao cũng giống như sao Bắc-tông, nhưng thêm 24 sao là: Thái Túc, Niên Xá, Thiên Khôi, Nguyệt Khôi, Niên Thổ Khúc, Nguyệt Thổ Khúc, Thiên Thương (Nghĩa là kho lúa khác với Thiên thương ở cung Nô, như vậy trong lá số có hai sao Thiên Thương). Thiên Phủ Khố, Thiên Tiễn, Hồng Diệm, Địa Không, Phù Trầm, Sát Nhận. Vòng Thái Tuế được thêm vào 7 sao nữa cho đủ 12 sao, đó là các sao: Thiếu Dương, Thiếu Âm, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Phúc Đức, Trực Phù, Tứ Phi Tinh, Thiên Trượng, Thiên Dị, Mao Đầu, Thiên Nhận. 1.8. Bộ Tử Vi Thiển Thuyết gồm 128 sao Giống như bộ Nam Tông nhưng thêm vào 13 sao nữa rất quái dị, không có trong Thiên Văn mà chỉ có trong tiểu thuyết thần kỳ chí quái, ma trâu đầu rắn. Đó là các sao: Nam Cực, Đông

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***26***


Đẩu Tinh Quân, Bắc Đẩu Tinh Quân, Nam Đẩu Tinh Quân, Cửu Thiên Huyền Nữ, Dao Trì Kim Mẩu, Vũ Tinh, Lôi Tinh, Thiên Vương Tinh, Địa Tạng Tinh, Thái Bạch Kim Tinh. 1.9. Lịch Số Tử Vi Toàn Thư Số sao cũng giống như bộ Tử Vi thiển thuyết song dạy an sao ngược với các bộ trên. Như sao Trường Sinh không những chỉ an ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi mà còn thấy ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Vòng Tử Vi an xuôi, vòng Thiên Phủ an ngược. Số sao cũng có 128 mà thôi. 2. Sự khác biệt về sao Lưu Niên 2.1. Chính thư Các sao Lưu niên đều an giống nhau, số sao cũng giống nhau: - Vòng Lộc Tồn với 15 sao không có Quốc Ấn, Đường Phù. (Bộ Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chỉ nói đến hai sao Kình, Đà thôi) - Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Mã, Thiên Khốc, Thiên Hư và vòng Thái Tuế 5 sao, Văn Xương, Văn Khúc. Tất cả 27 sao. 2.2. Tạp thư Vẫn gồm các sao như bộ chính thư nhưng thêm: Hỏa Huyết, Lan Can, Quân Sách, Quyện Thiệt, Bạo Tinh, Thiên Ách, Thiên Cẩu, Huyết Nhận, Huyết Cổ, Ngũ Quỷ và vòng Trường sinh 12 sao. 3. Sự khác biệt về Đại hạn Chính phái an Đại hạn như sau: - Từ lúc sinh ra tới số Cục thì Đại hạn an tại cung Mệnh. - Đại hạn thứ nhất sẽ an vào cung Phụ Mẫu, hoặc Huynh Đệ. Tỷ như: Người Hỏa Lục Cục, thì từ 1 tới 5 tuổi thì Đại hạn ở cung Mệnh. Từ 6 tuổi trở đi thì Đại hạn ở cung Huynh Đệ hoặc Phụ Mẫu.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***27***


- Nhưng Nam Phái lại an ngay Đại hạn thứ nhất ở cung Mệnh, rồi Đại hạn thứ nhì ở cung Phụ Mẫu hoặc Huynh Đệ. Như vậy từ lúc sinh ra tới số tuổi “số Cục” không có Đại hạn. Sự khác biệt này, đã khiến cho Nam Phái phải đi tìm nhiều sao khác, hoặc nhiều thuật khác, để đoán cho đúng, nhất là đoán Vận hạn chết rất quan trọng. Bắc Phái đoán rất trúng, nhưng theo Nam Phái lại khó khăn. Sự khác nhau về hạn, khiến cho Nam Phái không dùng bài phú đoán của Hy Di tiên sinh được. Bởi phú đoán thì an Đại hạn theo Bắc Phái. Những người học theo Nam Phái thường tỏ ý nghi ngờ các bài Phú. Họ phải dò dẫm, tìm hiểu lâu năm mới đưa ra lối giải quyết. Trong khi những người học theo Bắc Phái, thì ngay sau khi học an sao, học có thể học cách giải đoán bằng cách xử dụng phú đoán được. Tỷ dụ: Chính phái đoán số Hạng Vũ, căn cứ vào phú đoán: Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên Không nhi táng quốc. Thạch Sùng hào phú, vận phùng Địa Kiếp dĩ vong gia. Nghĩa là Hạng Vũ anh hùng nhưng hạn ngộ Thiên Không nên mất nước. Thạch Sùng giàu có nhưng hạn gặp Địa Kiếp nên tan nhà nát cửa. Nếu xét theo Nam phái thì câu phú trên không đúng được: - Thứ nhất, theo Bắc phái chỉ có sao Thiên Không, Địa Kiếp đi đôi với nhau, không có sao Địa Không. Sao Thiên Không không đóng ở vị trí sao Địa Không của Nam phái và không có sao Thiên Không trước Thái Tuế một cung. Hạng Vũ, Đại hạn tới Dần gặp Địa Kiếp, Tiểu hạn ở Thân gặp Thiên Không. Đại, Tiểu hạn Kiếp, Không gặp nhau nên táng quốc. Dù đại hạn có Đồng, Lương, Quyền cũng không giải nổi. Bàn về số Thạch Sùng cũng tương tự. Nếu đoán theo Nam phái bài phú trên cũng không đúng: - Đại hạn đang tới cung Mão, gặp Thái Tuế, mà Thiên Không đóng ở Thìn.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***28***


Như vậy không có vụ Hạng Võ chết về Kiếp, Không lâm nạn, Sở vương táng quốc. Mà chỉ có việc Hạng Võ gặp hạn Địa Không ở Thân mà thôi. Hồi còn ở Việt Nam, chúng tôi dạy Tử Vi cho các vị yêu khoa này, thường thì những vị chưa biết gì học mau hơn. Còn các vị học theo Nam phái, học thêm mấy chục bài phú nữa, mất công chỉnh đốn lại. Bởi vậy chúng tôi có lời khuyên: Các vị học theo Nam phái thì không nên học những bài phú của Hy Di, mà học các bài phú của Ma Y thuộc Nam phái mà thôi. Nếu không đầu óc sẽ lộn tùng phèo. 4. Sự khác biệt về an sao Trong 93 tinh đẩu không có sự khác biệt. Nhưng sau này những bộ tạp thư đưa ra an những sao mới, hoàn toàn do họ đặt ra, có sự quái gở khi an vòng Trường Sinh: Họ khởi Trường Sinh ở cả Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Về an Khôi, Việt thì chính thư, tạp thư chỉ khác nhau có tuổi Canh mà thôi: Chính thư Khôi ở Sửu, Việt ở Mùi. Trong khi tạp thư thì cho ở Dần, Ngọ. Về an tứ hóa: Tuổi Canh cũng bị lộn như Hóa Lộc đi với Thái Dương, Hóa Quyền đi với Vũ Khúc, Hóa Khoa đi với Thiên Đồng, Hóa Kỵ đi với Thái Âm. Trong khi tạp thư Hóa Khoa đi với Thái Âm, trong khi Hóa Kỵ đi vối Thiên Đồng. 5. Đối với sách Tử Vi hiện tại Trừ bộ Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư do Vũ Tài Lục lược dịch, một vài đoạn đúng với Chính thư, còn các sách khác, chúng tôi không tiện phân tích xem sách của vị nào ảnh hưởng của phái nào bên Trung-quốc! Vân Điền Thái Thứ Lang là một Đại đức Phật giáo, ông bị tử nạn xe hơi đã lâu, nên chúng tôi có thể bàn về sách của ông: Rất gần với Chính phái. Chúng tôi quan niệm: Dù tất cả Tử Vi gia thuộc phái nào đi nữa, cũng cần có kinh nghiệm. Về phương diện nghề nghiệp, họ phải dùng Tử Vi làm kế sinh nhai là điều bất đắc dĩ, bởi bỏ tâm não ra, an sao, chấm số, giải đoán một lá số Tử Vi không tiền bạc nào trả họ nổi cả. Dù không trả tiền nhưng với tinh thần khoa học, họ cũng say mê nghiên cứu. Chính chúng tôi kiếm tiền rất dễ dàng, nhưng khi thấy một lá số

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***29***


kỳ lạ, cũng chẳng ngần ngại gì mà không bỏ ra cả ngày để nghiền ngẫm cho ra nguyên lý. Khoa Tử Vi truyền vào Đại Việt thời Lý do Trần Tự Mai, hay Hoàng Bính mang vào không cần thiết. Dù Tự Mai hay Hoàng Bính thì Tử Vi đó cũng thuộc Chính phái. Nhưng bí truyền trong dân gian. Đợi mãi đến khi ông Lê Quý Đôn đi sứ Trung Hoa về mang theo bộ Tử Vi của Nam phái, bấy giờ khoa Tử Vi mới được đại chúng hóa. Nhưng cũng chính vì vậy khoa Tử Vi ở Việt Nam có hai trường phái: Một trường Chính phái, học rất mau, theo sát Hy Di tiên sinh. Một trường phái nữa ảnh hưởng Nam phái, vì thất truyền thành ra không có hệ thống nào cả. Những người nghiên cứu Tử Vi cần phân biệt rõ hai hệ thống, để lúc học mới khỏi bị bỡ ngỡ. Tuy nhiên không phải những sách vở nào của Nam phái cũng hỗn tạp, không phải những vị nào của Nam phái đều đoán liều cả. Tử Vi cũng như y học cần đi đến đối tượng là kết quả, ai đoán trúng, người đó đạt được học thuật. Cũng như y học, nói, viết không phải là cứu cánh, mà ai trị khỏi bệnh, người đó có lý. Một vấn đề trước mắt của chúng ta là, làm sao có đủ sách cho các vị nghiên cứu tìm hiểu. Sách vở của cổ nhân chỉ là nền móng lúc đầu. Tại sao xưa kia Hy Di tiên sinh đã tìm ra được nhiều nguyên lý Tử Vi, ngày nay chúng ta không thể đi sâu hơn tìm ra những nguyên lý khác. Cái xe hơi thế kỷ thứ 18 thô sơ, người sau cải tiến dần, nay trở thành những xe tối tân. Tử Vi là khoa học, chúng ta có thể tìm thêm, nghiên cứu rộng, để đưa ra những phát hiện mới. Bấy giờ mới đi tìm vận số con người, lại có thể đi xa hơn, phát triển phá cách, trợ cách, một lối phát huy độc đáo đời Trần, cần được đào sâu để đạt được tuyệt đích khoa học vậy. Viết tại Bruxelles, mùa Đông, Tân Dậu (1981) Trần Đại Sỹ

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***30***


Tài liệu nghiên cứu: Hầu hết bằng Hoa Văn, và vài bộ bằng Việt Ngữ, gồm những bộ ghi trên. LẦN ĐẦN TIÊN. Lần đầu tiên tôi bước chân vào đời. Lần đầu tiên tôi nghiên cứu Tử Vi. Lần đầu tiên tôi gặp người ấy…. Có những cái đầu tiên ta làm, có những nơi đầu tiên ta đến, hoặc các cụm từ như khởi nghiệp có nghĩa là lần đầu tiên khởi nghiệp, hoặc khởi công xây dựng công trình, khởi xướng việc gì đó… Trong truyện Kiều có câu: “Ngẫm từ khởi nghiệp binh đao Đống xương vô định chất cao bằng đầu”… Chính xác là kể từ ngày khởi nghĩa ấy… Nói chung lần đầu tiên, phút ban đầu. Như: “Phút ban đầu ấy, thư xanh màu giấy, viết…” Đây là ca từ chắc bạn đã nghe qua. Lần đầu tiên viết thư tình, lần đầu tiên lên mạng, người tình đầu tiên… lần đầu tiên tôi cầm súng. Cái phút ban đầu ấy là sao gì? Đó là bộ CỰ CƠ. Trên bản đồ sao Tử Vi cư Tý. Cái lần đầu tiên đó có thể tìm thấy tại 3 cung Hợi Mão Mùi, cung tương đối nhẹ hơn là Sửu. Ví dụ trên bản đồ TỬ VI cư Sửu ta lại có tại Tý Ngọ. Hai cung tương đối nhẹ hơn là Dần và Tuất. Hạn đến tại đó, cuộc đời ta có những phút ban đầu đáng nhớ… Lần đầu tiên đáng nhớ. Nếu như phút ban đầu ấy không ấn tượng mạnh thì trên TỬ VI còn có một ngôi sao quan trọng hơn là Khúc Rẽ Cuộc Đời dĩ nhiên đề tài nầy nói trong dịp khác.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***31***


Lần đầu tiên có thể là xấu, có thể là tốt tùy thuộc các Hung, Cát, Trợ tinh tụ tập để luận đoán, ta cũng không nên bận tâm làm chi CỰ CƠ Tý Ngọ hay hơn Sửu Mùi. Nếu tốt đẹp tức là đắc địa đi với một bầy KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH là họa đấy, nó lạc hãm nhưng cát tinh phù trợ còn hay hơn đắc địa mà không có sao trợ lực, tất nhiên hơn hẵn đắc địa bị phá cách. Trong tình huống CỰ CƠ Tý Ngọ cho thêm bộ Tam Ám DIÊU ĐÀ KỴ (chú ý DIÊU chứ không phải là RIÊU, Riêu cũng không chết ai, nhưng người bắc phát âm chữ D không được chuẩn nghe như R). Gặp tình huống đó không còn là Thạch Trung ẩn Ngọc nên gọi là Thạch Trung ẩn Chì. Chì là cái chi? Là viên đạn chì. Lần đầu tiên là CỰ MÔN nếu có thêm THIÊN CƠ càng mạnh thêm, Vậy thì ắt có Lần Cuối Cùng là sao gì? Ờ cũng có đấy. Nhưng chỉ một sao thôi. Chính nó cũng là lần cuối cùng. Ví dụ lần đầu tiên Tôi (tôi lấy tôi làm ví dụ, ngon chưa) ra nằm nghĩa địa. Có phải lần đầu tiên không? Những lần tôi đi viếng mộ tôi đâu có nằm. Lần nầy nằm hơi lâu đấy có thể vài trăm năm mới tái sinh lại. Chắc gì vì… “Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo…” Đã học phải hành thôi. Nhưng rủi ro gặp lâm tặc lại ca rằng: “Kiếp sau xin chớ làm thông Gặp thằng lâm tặc hết mong sống còn” Ta không nên quan tâm đến bước cuối cùng làm chi, thật tế ta có đi đâu. Bước ban đầu, lần đầu tiên, phút ban đầu ấy… lật TỬ VI ra nghiệm chứng có đúng không. Đó là việc nên làm. Bạn có lá số Vua Quang Trung không xem Vua khởi nghĩa năm nào.? Vua Bảo Đại lần đầu tiên được làm dân năm nào nhỉ? Bạn cầm tay người ấy (ê chú ý phải có sao THIÊN CƠ nghe) kiểm tra xem. Kỳ tới Khúc Rẽ Cuộc Đời. Hoặc Người Trên Lá Số TỬ VI. Hoặc Màu Sắc Trên Lá Số TỬ VI …. PHƯƠNG PHÁP HỌC TỬ VI

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***32***


Đây là phương pháp học bài hiệu quả nhất. Áp dụng thành công trên trường học. Ngày ấy các thầy tôi thường dạy như thế nầy. Các em chỉ cần học thuộc cái dàn bài thôi, học thuộc đại khái thôi, đừng bao giờ học thuộc lòng. Khi làm bài viết theo ý mình. Các môn có hình vẽ, phải tự vẽ hình bằng được. Cho nên hiện giờ tôi vẫn còn nhớ tế bào da, bộ phận bài tiết… đó là các môn Vạn Vật (bây giờ là Sinh Học) môn Địa vẽ được bản đồ VN thế là thuộc bài. Sử thì cứ coi như đọc truyện nhưng quan trọng là nhớ bằng được, các năm có biến cố rồi hình dung sự kiện, bối cảnh. Ví dụ Kỷ Dậu 1789 Quang Trung đánh Thanh, bên Tàu là Càn Long, bên Pháp cũng năm ấy cuộc cách mạng Pháp. Nếu hỏi Nguyễn Vương ở đâu, bôn ba trong Nam chứ ở đâu nữa vì 1802 Nhâm Tuất mới khôi phục sơn hà. Áp dụng vào TỬ VI ta chỉ cần thuộc dàn bài mà thôi. Và điều đáng nói chính bạn phải soạn bài mà học. Chính bạn tự mình viết 1 cuốn sách TỬ VI ra mà học. Tự hào viết được sách TỬ VI, in sách để bán nếu có cơ hội. Bằng phương pháp sau đây: Trước mắt bạn cần tìm đọc các cuốn sách TỬ VI nếu không tìm thấy ngoài đời thì cũng tìm được các cuốn sách ấy trên mạng. Đó là cuốn sách hoàn chỉnh rồi, đọc để đối chiếu so sánh, gạn đục khơi trong. Với TV Ứng Dụng bạn làm như sau: Bước 1. Bạn vào blog của quét chọn tất cả bài viết lưu tại ổ cứng. Bước 2: Mở 2 trang Word mới, 1 là TỬ VI. 2 là lá số TỬ VI. Bước 3 Tự soan như sau: Đây là bài TỬ VI chính thức của tôi: Đây là bài mẫu nhưng bạn nên sắp xếp theo ý của bạn. Tự mình tạo ra một khuôn mẫu. NHỮNG TẢNG ĐÁ TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN VỚI TỬ VI TỬ VI không có thầy để dạy ta học.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***33***


TỬ VI không có phòng thí nghiệm để ta cân, đo, đong, đếm. TỬ VI không có báo chí để học hỏi thêm. TỬ VI không có câu lạc bộ để ta thảo luận. Và TỬ VI không có sách hay để ta tìm hiểu. Thôi thì vớ được cuốn sách nào đó ta đọc là may lắm rồi. Còn đòi hỏi chi nữa. Than ôi! đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Bạn là người tập tành nghiên cứu TỬ VI. Đó là con đường tôi từng đi qua, đến nay bao nhiêu năm nhỉ? Tôi cũng giống các bạn thôi. Đọc sách, tin sách thuộc lòng phú như… cháo. Tôi tin rằng cứ 5, 7 năm nghiên cứu bạn đâm ra hoang mang. Mười người bỏ TỬ VI hết chin. Một phần mười số còn lại vẫn tiếp tục đi… nhưng chân còn run lắm. Vì có tới quá nhiều cái không như đã nói trên. Tự mình mầy mò tự mình tìm hiểu, tự mình phát hiện, tự mình nghi ngờ… đến khi hiểu được mất sơ sơ vài chục năm trường. Tức "Tam canh bảo vân nhi song hận". Và đây là những tảng đá trên đường đến với TỬ VI. Có câu: " Một quyển sách hay là người bạn tốt". Với tôi, sách là người thầy tốt nữa cơ!. Mới học thì ta phải tin tưởng vào sách, vào phú TỬ VI là khuôn vàng thước ngọc. Ta càng tin tưởng các bậc tiền bối TỬ VI với 40, 50 năm tuổi nghề, họ phán xét ta phải tin. Có đúng thế không các bạn. Bạn thấy sai không dám sửa, bạn nghi ngờ không dám nói, bạn biết xạo nhưng không đủ trình độ để luận bàn. Nhưng thôi ta đến với những tảng đá trên TỬ VI bất cứ trên sách nào cũng có từ xưa cho đến nay, từ cổ cho tới kim, từ Trung cho đến Việt. TẢNG ĐÁ 1 Tất cả cách sách TỬ VI từ xưa cho đến nay thường chia chính tinh ra làm 4 nhóm (cái nầy thì không sai). Nhóm TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG (sai) Nhóm SÁT PHÁ LIÊM THAM (sai) Nhóm CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG (không sai)

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***34***


Nhóm CỰ NHẬT (không sai) Ta bàn chỗ sai, chỗ đúng bàn làm gì cho mất công. Nếu là nhà nghiên cứu nghiêm túc bạn nên an lá số bằng tay (thậm chí an được trên bàn tay) thuộc cách an sao như cháo. TỬ VI cầm đầu một chòm sao ( chùm sao, chuổi sao ta nên gọi như thế) gồm có 6 chính tinh là TỬ VI, LIÊM TRINH, THIÊN ĐỒNG, VŨ KHÚC, THÁI DƯƠNG, THIÊN CƠ. TỬ VI cầm đầu luôn nhóm sao TỬ VI VŨ KHÚC LIÊM TRINH. Gọi tắt là nhóm TỬ VŨ LIÊM. Từ vị trí TỬ VI trên địa bàn nhìn vào thiên bàn ta luôn luôn có LIÊM bên trái, VŨ bên phải là một nhóm sao không thể chia ly cách rời nhau được, đi đâu cũng đi với nhau mà thôi. Bộ 3 sao nầy rất hay tuy chưa hoàn chỉnh Biểu trưng cho tài năng là VŨ, đạo đức là LIÊM và lãnh đạo chỉ huy là TỬ VI. Đó là 3 điều chúng ta thường nghe. X là người có tài vừa có đức lại lãnh đạo giỏi. Y là người vô tài nhưng có đức, nhờ vậy làm lãnh đạo. Hoặc là hằn chẳng có đức nhưng được cái có tài nên cấp trên tin dùng cho lãnh đạo. * LIÊM là con mắt, là sự theo dõi.. báo cáo về TỬ VI, TỬ VI suy nghĩ đoán định giao cho VŨ giải quyết. * VŨ là tài sản, LIÊM là coi ngó, TỬ VI quyết định chi tiêu việc gì. * LIÊM TRINH là thiếu nữ, TỬ VI là nam nhân đang vui vẻ, múa hát…. Và còn nhiều nữa. Như đã nói bộ sao nầy chưa hoàn chỉnh. Vì sao? Quá thiên về hành động mà thiếu lời nói. Quá thiên về nam nữ mà thiếu mẹ cha. Và nó cần có nhà, có phủ để ở. Vậy thì nó cần gì? đó là cần bộ PHỦ TƯỚNG thế là hoàn chỉnh. Khi đó được gọi là TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM. Không có lý do gì đem vợ mình cho thằng SÁT PHÁ THAM, không có lý do gì đem đạo đức của mình cho người khác… Tại sao người ta không hết lời ca ngợi TỬ VI cư Tý Ngọ, TỬ PHỦ Dần Thân, TỬ TƯỚNG Thìn Tuất bởi nó hoàn chỉnh. Từ

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***35***


đó ta có các bộ sao hay như VŨ PHỦ, LIÊM TƯỚNG, LIÊM PHỦ, VŨ TƯỚNG… Luôn luôn có 1 sao của nhóm SÁT PHÁ THAM đứng gác cỗng tại THIÊN DI cung Và một khi nhóm TỬ VŨ LIÊM giao hội với nhóm SÁT PHÁ THAM tức đôi uyên ương TỬ VI LIÊM TRINH có vấn đề. Cái đạo đức bị ảnh hưởng, địa vị bị lung lay, bất ổn trong cuộc sống… cay đắng trong cuộc đời, nhiều vô số kể. Vô tình hình thành bộ 7 sao kể cả THIÊN DI cung, mà thấy số 7 là thấy sự thất kinh. Chư a có câu phú nào ca ngợi 3 sao TỬ VŨ LIÊM giao hội với 3 sao SÁT PHÁ THAM. Mà chỉ có nói 2 nhóm sao nầy giao hội với nhau là dâm, là khó khăn… “TỬ, PHÁ, THAM LANG vị chí dâm” “VŨ, PHÁ, LIÊM, THAM xung hợp khúc toàn cố quí” (thấy toàn trắc trở) “VŨ KHÚC dữ LIÊM TRINH. THAM LANG cập THẤT SÁT hội họp tiện tác kinh thương” Nên buôn bán đừng nghĩ chuyện công danh, nói chi chuyện lãnh đạo. Nhiều vô số kể. * SÁT PHÁ THAM. Cả 3 sao nầy nằm trong chòm THIÊN PHỦ, chòm THIÊN PHỦ gồm 8 sao là THIÊN PHỦ, THÁI ÂM, THAM LANG, CỰ MÔN, THIÊN TƯỚNG, THIÊN LƯƠNG, THẤT SÁT, PHÁ QUÂN. 3 sao nầy bản thân tự nó đã hoàn chỉnh. Tuy chỉ 3 sao thôi nhưng nó có đầy đủ cả. Biết bao câu phú ca ngợi nào là THẤT SÁT Dần Thân, Tý Ngọ. PHÁ QUÂN Tý Ngọ. THAM LANG Tuất Thìn. Chỉ có 3 anh SÁT PHÁ THAM thôi làm nên chuyện lớn. Nhưng đi với TỬ VŨ LIÊM trở thành bó tay cho cả 2 bộ sao. Như đã nói ở trên. Vậy thì trong chính tinh. Có 4 bộ sao quan trọng. Bộ 5 sao TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM Bộ 4 sao CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG Bộ 3 sao SÁT PHÁ THAM

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***36***


Bộ 2 sao CỰ NHÂT. Khi lá số vào đúng bộ vị thì hay thật là hay. Khi nó xâm phạm lẫn nhau. Y như rằng có cuộc chiến tranh trên lá số. Nếu TỬ VŨ LIÊM và SÁT PHÁ THAM làm khổ lẫn nhau. Thì bên CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG và CỰ NHẬT cũng vậy. Điều đáng nói bước khởi đầu vào TỬ VI đã bị vô tình hay cố ý của man thư nào đó, đã đẩy ta đi chệch hướng. Thật ra cũng chẳng quan trọng gì, thậm chí nói ra cũng chẳng được gì. Tôi tin có nhiều người thấy được điều đó. Nhưng đã nghiên cứu cần tường tận rạch ròi, không thể để yên như vậy được. Bạn nhìn kỷ lên ảnh minh họa. Con đường tôi ở có mang băng rôn “Con đường mang tên em” ngon không?. Hôm nay tải lên bài những tảng đá trên đường đến với TỬ VI 2, bài nầy viết lâu rồi sau tảng đá 1, nhưng ngại bạn đọc không hiểu, Tết nhất kề bên rồi cho nó “xuất đầu lộ diện”. Tức nói theo ngôn ngữ nhà nghề TỬ VI là được TRIỆT LỘ, được lộ ra. Bài viết mà cũng có số phận trời ạ. TẢNG ĐÁ 2 Sao lá số TỬ VI có nhiều sao thế. Mỗi sao lại kết hợp thành bộ 2 sao ví dụ như ĐÀO HỒNG, bộ 3 sao ví dụ VIỆT LINH HÌNH, bộ 4 sao ví dụ LINH XƯƠNG LA VŨ, bộ 5 sao PHI VIỆT HỎA LINH HÌNH. tạo ra hàng ngàn, hàng vạn cách khác nhau. Nhớ không xuể, mà quan trọng là nó mang ý nghĩa gì? Nó có phải là công thức bất di bất dịch không? Có khá nhiều ngôi sao được kể tên trong lá số nhưng sách vở không hề nói đến một câu, chứ đừng nói đến phú TỬ VI liên quan đến sao ấy. Những ngôi sao có cũng bằng không, chỉ làm rối mắt tốn công. Ai nói dùm tôi sao TRỰC PHÙ nghĩa là gì? Ai chỉ dùm tôi THIÊN KHÔNG đứng trước THÁI TUẾ nghĩa là chi? AI biết chi về sao GIẢI THẦN (lại luôn luôn đi chung với PHƯỢNG CÁC thật ra không hiểu sao PHƯỢNG CÁC chế ra sao GIẢI THẦN) xin hãy nói ra… Nếu muốn nghiên cứu tốt ta nên về nguồn thôi. Có người sẽ hỏi nguồn đâu mà về? Về bên ấy cũng man thư đầy rẫy. Vâng đúng vậy.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***37***


* Có một chi tiết lạ lùng. Đạo Phật xuất ra từ Ấn Độ nhưng tại đấy chỉ có 1% số người theo Phật giáo. Cũng vậy Thiên Chúa Giáo cũng hoàn cảnh như nhau. TỬ VI xuất xứ từ Trung Quốc nhưng nó hoằng dương tại Việt Nam. Cha ông ta ngày xưa rất giỏi môn nầy. Vì quan niệm sỹ phu hồi đó là "Tiến vi quan, thối vi sư". Khi tiến thân ra làm quan không được lui về, họ thường chọn lấy các nghề y, bốc, lý, số hoặc dạy học. Và cũng vì quan niệm bí truyền, gia truyền thành ra dễ bị thăng trầm, lại thêm tác động của thời cuộc khiến cho TỬ VI ngày thêm mai một. Một khi không giải đoán nổi có người chế thêm sao nầy, sao nọ làm cho đã khó lại càng khó thêm. Tốt nhất là an theo Đẩu Số Toàn Thư của Vũ Tài Lục. Nhưng không dạy cách an sao đâu nghe, mà khuyên nên bỏ một số sao. Đó là điều tôi tâm đắc nhất. Và nên gọi ĐỊA KHÔNG là THIÊN KHÔNG (xóa đi THIÊN KHÔNG trước THÁI TUẾ) các tên sao được đặt rất hợp lý. Ví dụ: Bên nầy THIÊN LA bên kia ĐỊA VÕNG. Tức bên nầy trời bên kia đất. Bên nầy la bên kia oán. Còn THIÊN KHÔNG ĐỊA KIẾP là bên nầy trời không dung, bên kia đất không tha. Các sao có từ THIÊN hàng đầu còn lại (trừ THIÊN HÌNH) đều là "thiên về". Như THIÊN KHÔI, THIÊN VIỆT. Bên nầy âm bằng, bên kia âm sắc. Văn tinh XƯƠNG KHÚC đều là văn tinh có gốc là văn, bên nầy XƯƠNG bên kia là KHÚC, như TẢ PHÙ bên kia HỮU BẬT (nhưng gọi TẢ PHỤ cũng chẳng hại chi)… tự bạn tìm thêm khỏi mất thì giời. Tất cả điều trình bày trên chung quy là phải gọi chính danh cho đúng là THIÊN KHÔNG ĐỊA KIẾP đây là 2 ngôi sao cực kỳ quan trọng. Có mặt nó ở đâu ta phải đoán theo ý nó. Nó là bộ sao gây phản tác dụng mạnh nhất trên TỬ VI. Trên TỬ VI không có 2 sao trùng tên nhau. Một sao QUAN PHÙ (dấu huyền) luôn luôn đi với LONG TRÌ thành bộ PHÙ TRÌ (giúp đỡ, đồng thời là giấy tờ liên quan đến cửa quan,…) và một ngôi sao QUAN PHỦ (dấu hỏi, nhà quan….) sao nầy hay gặp sao

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***38***


công đường là ĐƯỜNG PHÙ (xung hay tam hợp chỉ có 2 vị trí như vậy mà thôi) Đây là tảng đá lớn. Giữa một bên phức tạp, vô bổ và một bên giản dị nên chọn. Cho nên tôi chọn theo cách ĐÔNG A DI SỰ thà rằng không biết thì thôi. Biết là ngôi sao bịa đặt, không có lấy một câu phú minh chứng, an vào rối tinh, chẳng dám quyết đoán điều gì. Tại sao ta không mạnh dạn bỏ đi. Tuy rằng đồng ý với cách an sao ĐÔNG A nhưng lại không đồng ý về cách ghi đại hạn đầu tiên nằm ở 2 cung HUYNH và cung PHỤ. Lấy ngay ví dụ lá số ĐOÀN NHỮ HÀI gặp Vua. Tức hạn HUYNH ĐỆ ngộ TỬ VI cư Ngọ, tức gặp Vua quá rõ ràng nhưng đẩy qua hạn THIÊN CƠ quá gượng ép. Nếu bạn nào có cơ may gặp Vua tôi tin rằng Đại Hạn của bạn ngộ TỬ VI tốt đẹp, nếu không có chăng là bạn gặp Vua TỬ VI trên lá số TỬ VI mà thôi. Cũng như câu: “Hạng Võ anh hùng hạn ngộ THIÊN KHÔNG nhi táng quóc. Thạch sùng hào phú hạn hành ĐỊA KIẾP dĩ vong gia” Ở đây người ta nói tiểu hạn chết của 2 nhân vật nầy, chứ không nói đại hạn chết. Nếu nhớ không lầm HV chết năm Mậu Tuất 32 tuổi, tiểu hạn tại cung Thân. Đại hạn tại VŨ SÁT Mão, mà VŨ SÁT là gì nhiều ý lắm, trong đó có ý người có tài bị giết. Thế nhưng phe ĐÔNG A đẩy lên hạn ĐỒNG LƯƠNG chết vì….. ĐỊA KIẾP. Điều nầy mâu thuẩn với câu phú lưu truyền xưa nay. Câu nầy ai mà chẳng biết. Chắc chắn đây là hỏa mù tung ra, tội cho người tập tễnh về nguồn thì gặp man thư, tại nhà lại gặp xảo thư. Muốn biết sự huyền bí của bộ máy nhà trời, trước mắt ta đã gặp vô vàn khó khăn của lòng dạ con người. Đi qua rồi nhìn lui lại, thấy thương thương cho lớp đàn em. Đó là lý do tôi viết. Còn bạn tự mình tìm ra một con đường mà đi. Phật nói: TỰ MÌNH ĐỐT ĐUỐC LÊN MÀ ĐI. TỬ VI đâu phải chỉ có một quyển sách

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***39***


của Thái Thứ Lang mà thôi. Lời khuyên cần tìm đọc lịch sử TỬ VI. SỐ PHẬN ĐỊNH ĐOẠT. SỐ Ta thường nghe. Xem số, coi số, số đỏ, số không may, kẻ xấu số, số kiếp, số hên, số kiếp. Đức năng thắng số. Trong truyện Kiều có câu “Đoạn trường là số thế nào, Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia.” Hoặc “Đã sinh ra số long đong, Còn mang lấy kiếp má hồng được sao.” Số là sao THIÊN CƠ nó mang trên mình nó những con số lạ kỳ, những thời kỳ tai nạn, tai họa, vui buồn kéo dài bao lâu… Nhìn sao THIÊN CƠ để quyết đoán số may, số xui, số trời ơi đất hỡi tương đối cũng dễ. Nhưng để biết kỳ hạn, thời hạn người viết cũng đành… bó tay. PHẬN Ta thường nghe. Phận bạc như vôi (bạc tức là mỏng, bạn có bao giờ dùng móng tay gỡ những lớp vôi bong ra từ mảng tường chưa? Bạc như vôi là thế đấy). Thân phận lạc loài. Phận hồng nhan, phận làm anh… Phận lớn phúc dày.Trong truyện Kiều ta lại có: ”Nàng rằng: Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!” Hoặc “Rằng: Tôi chút phận đàn bà, Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.”

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***40***


PHẬN là sao TỬ VI. Chủ địa vị. Sao nầy tốt là phận tốt, sao nầy xấu phận xấu. Phận ta ngồi ở đâu, ta ngồi ở đó đúng chỗ. Phận ta bắt ta cầm cái gì ta cầm cái đó. Phận bắt ta mang cái gì ta mang cái đó. Phận bắt ta bất hiếu, ta đành làm con bất hiếu. Phận bắt ta làm kẻ bất trung, ta đành làm kẻ bất trung. Phận bắt ta làm đồ chơi thiên hạ, ta đành làm đồ chơi thiên hạ. Ta làm khác với phận để dành có được không? Ta cam chịu số phận an bài ư? Ta quyết tâm làm khác. Nhưng kìa nó khó làm sao. Ví như ta quen xài vi tính bắt ta cầm cuốc. Ta quen dùng con dao bắt ta vọc bấm phím. Ta quen sai khiến bắt ta làm nô lệ. Ta quen tôi đòi bắt ta chỉ huy… Dĩ nhiên là ngồi không đúng chỗ. Anh cam phận như vậy sao? Vì phận tôi không tranh đấu. Anh luôn luôn tranh đấu vì sao? Phận tôi phận tranh đấu. Rõ ràng có phận để dành. Vậy thì khi thấy “VÔ PHẬN SỰ MIỄN VÀO” ta phải đi ra thôi. Vào đó ta có biết việc chi để làm. Phận là TỬ VI là dễ hiểu, đoán phận cao thấp, tốt xấu cũng dễ thôi suy nghĩ rồi cũng ra, phận bắt cầm bút hay cầm súng cũng dễ. Phận có vẻ quan trọng phải không? Vậy thì nó nằm ở MỆNH mới hay. Phận nằm ở NÔ cung hóa ra bạn bè tôi tớ quyết định số phận của mình… ĐỊNH Tôi có ý định… tôi định đi…, tôi định làm…, tôi định nói, tôi định viết. Trời định vậy rồi… Tôi nẫy sinh ý định… Tôi định chiếm đoạt…. Vậy định là gì? Định cũng là TỬ VI. Muốn làm gì đầu tiên là ý định nẫy sinh, sau đó thực hiện. Ví dụ tôi nẫy sinh ý định ‘meo’ cho bạn nhưng nghĩ lại tên nầy ăn nói thô bĩ quá đi, không meo nữa. Ví dụ lớn thì quá nhiều. Không phải vô cớ mà nước nầy oánh nước kia. Hôm nay trên mạng, Israel ném bom dải Gaza , thương vong lên tới trên ngàn. Ta không bàn chuyện đúng sai, ta đang bàn ý định nẫy sinh hành động, người viết mượn ví dụ.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***41***


Trong Kiều ta có: “Định ngày nạp thái vu qui, Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong Hoặc Sinh rằng: Giải cấu là duyên, Xưa nay nhân định thắng nhiên cũng nhiều. Ta làm điều gì xấu, ta không làm. Chỉ e không biết điều đó là xấu. Điều tốt ta làm. Chỉ e điều ấy nói được mà làm không được. Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. Thật không? Nếu như sao TỬ VI không nằm trong MỆNH của ta, cung Đại Hạn của ta lấy cái gì để định. Có chăng người khác định, mình có quyền đâu. Vì thế THAM LANG ở Tý Ngọ không hay. Vì ngoài kia TỬ VI quyết định. Cho THAM LANG được ăn thì nó ăn, bắt nó gác thì nó gác, cho nó nghỉ nó nghỉ. THAM LANG muốn suy nghĩ, TỬ VI ngoài kia đã nghĩ dùm mi rồi. Mi khỏi suy nghĩ. Vậy thì lấy đâu THAM LANG tốt ở Tý Ngọ. Lần nữa ta thấy sao TỬ VI quan trọng, nhưng còn cái quan trọng hơn chưa bàn đến. ĐOẠT Định đã ngon rồi nhưng chưa chắc đã ngon bằng đoạt. Vì sao? Ví dụ cha mẹ tôi định đoạt hôn nhân của tôi? Hoặc chúng nó định đoạt với nhau tui biết chi. Có câu ví dụ hay. Không nhớ rõ có lẽ trong Bình Ngô Đại Cáo… nếu không phải không chết ai phải không: “Đoạt sáo Chương Dương độ. Cầm Hồ Hàm Tử Quan…” Đoạt tốt là đoạt được thành trì, đoạt được công danh, địa vị, đoạt được cả mạng sống người khác… đoạt được ngai

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***42***


vàng. Đoạt xấu là gì? Là mất mất cả thành trì, mất cả công danh, mất cả mạng sống, mất cả ngai vàng… Đoạt là gì? Là sao THẤT SÁT. Ví dụ có ví dụ mới tin phải không? Vì TỬ VI không thể cân, đo, đong đếm như ngày nào ta ở trong phòng thí nghiệm để quậy phá thì nhiều, học hành thì ít. Như Vua Quang Trung bên ngoài TỬ VI định nhưng bên trong THẤT SÁT đoạt được. Vua Bảo Đại, Nguyễn Thái Học bên trong ta định nhưng bên ngoài THẤT SÁT quá tốt, đoạt mất kẻ thì mất ngai vàng, kẻ mất mạng sống. Đúng chưa. Phan Thanh Giản với ngôi sao THẤT SÁT (tại Ngọ ngon lành) chủ đoạt, ngộ KÌNH… đã không đoạt được 3 tỉnh miền đông làm mất luôn 3 tỉnh miền tây (trong khi trách nhiệm TỬ VI giao là chuộc lại 3 tỉnh miền đông). Éo le hết chỗ để nói. Đặt bạn vào tình huống ấy, bạn làm sao? (tui không dại đặt tôi vào tình huống ấy, tôi lập luận là phận tui không có cách thương thảo, thương thuyết…) Bạn chú ý khi tốt cần có sao hỗ tương, nếu gặp sao không tương thích chẳng khác gì lạc hãm. Cũng y hệt trình duyệt của bạn tưởng thêm một add on nào đó để lướt Web an toàn, an toàn đâu không thấy… mà trình duyệt hấp hối. Ví dụ như vậy là sống động. Bây giờ bạn lấy lá số của bạn ra. Đề bên sao THIÊN CƠ chữ số, bên TỬ VI chữ định, phận, bên THẤT SÁT đoạt. Rồi bóp đầu ra…. suy nghĩ. Có như thế mới giỏi được. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. NGÔI SAO TỬ VI TỬ VI lục hại luôn có CỰ MÔN, tam hợp luôn có VŨ KHÚC, LIÊM TRINH. Đằng sau luôn luôn có THIÊN CƠ. Đứng đầu chòm TỬ VI gồm có 6 sao TỬ VI, LIÊM TRINH, THIÊN ĐỒNG, VŨ KHÚC, THÁI DƯƠNG, THIÊN CƠ. Chòm TỬ VI di chuyển theo chiều thuận cho nên các sao này điều có dương tính TỬ VI còn có tên riêng là ĐẾ, CỰC MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***43***


“TỬ LỘC đồng cung PHỤ BẬT chiếu quí bất khả ngôn” “TỬ PHỦ toàn y PHỤ BẬT chi công” “TỬ VI QUYỀN LỘC hội DƯƠNG ĐÀ tuy hoạnh cát nhi vô đạo vi nhân tâm thuật bất chính” “TỬ PHÁ THAM LANG vị chi dâm “ “TỬ PHỦ triều viên thực lộc vạn chung” Triều viên tức hội họp tại Mệnh, chầu vào Mệnh được hưởng vạn chung thóc “TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG, TẢ HỮU LONG PHƯỢNG, KHOA QUYỀN LỘC ẤN. Quân thần khánh hội chi cách, gia KIẾP KÌNH loạn thế nan thành đại sự” “Lưu Huyền Đức đạt thừa Hán nghiệp, thi ư TỬ PHỦ, KHOA QUYỀN, HÌNH ẤN, HỒNG KHÔI Mệnh, Thân.” “TỬ VI dữ chư sát đồng cung, chư cát hợp chiếu quân tử tại dã tiểu nhân tại vị” “TỬ VI tu cần Tam HOÁ, nhược phùng Tứ Sát phong bãi hà hoa” Phong bãi hà hoa như đám hoa sen tàn sau cơn gió “TỬ VI, THẤT SÁT, HOÁ QUYỀN. Phản tác tinh tường.” “TỬ VI, VŨ KHÚC, PHÁ QUÂN hội DƯƠNG ĐÀ khi công hoạ loạn” “VŨ, PHÁ, LIÊM, THAM xung hợp khúc toàn cố quí” “TỬ VI mạc phùng KHÔNG KIẾP HỒNG ĐÀO nhập Mệnh giảm thọ” “TỬ VI, VŨ KHÚC, PHÁ QUÂN, hội DƯƠNG ĐÀ. Khi công hoạ loạn.” “TỬ phùng KHÔNG KIẾP hiểm gian. Hoặc là Tứ Sát trong làng gian phi”

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***44***


“TỬ VI, VŨ KHÚC, SÁT diệu phùng. Nhất sinh tăng lại sính anh hùng” “Mệnh cư ĐÀO, HỈ hướng TỬ, DƯƠNG (THÁI DƯƠNG) phú quí khả kỳ. Thân hữu HỒNG, ĐÀO, THAI TOẠ nhi công danh khả tất” Ngoài ra còn một số câu phú TỬ VI liên quan trực tiếp như: TỬ VI Tí Ngọ, TỬ PHÁ Sửu Mùi... Xem các bài liên quan. Xem thêm các bộ sao TỬ VI quan trọng ở dưới CÁC ĐIỂM CHÍNH ĐỂ LUẬN ĐOÁN: Đoạn sau đây là đoạn quan trọng là dữ liệu để luận đoán. Chỉ còn lại tiêu đề nhỏ, tự bạn ưa viết gì trong đó cũng được, trong đó tôi làm mẫu đoạn suy tôn -

Lãnh đạo, chỉ huy. Thuộc nhóm sao chỉ huy.

-

Người Tử Tế.

-

Bí mật, kín đáo, Ẩn.

-

Bí ẩn.

-

Bao bọc. Vây bọc đến bị vây.

-

Hành động, hành vi, cử chỉ.

-

Hoạt động, làm việc. Sinh hoạt

-

Việc làm. Sự nghiệp của một người.

-

Sự việc, sự cố, sự tình.

-

Sống hay Chết.

-

Đoán, dự đoán, luận đoán…

Suy nghĩ. Dám nghĩ dám làm. Nghĩ ra làm được. Chủ suy nghĩ định đoán -

Sum hop, sum vầy chia lìa đứt đoạn.

-

Suy tôn đến suy sụp.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***45***


TỬ VI khi tốt là được suy tôn. Như suy tôn lên làm Phật, Chúa, Hoàng Đế, Chủ tịch, Tổng Giám Đốc,... xuống đến tổ trưởng tổ dân phố, tuỳ theo mức độ như quá tốt, rất tốt, tốt, được kể là tốt. Xấu là suy vi, suy thoái, suy sụp, suy bại, suy đồi đi với dâm tinh, sa sút về sức khoẻ, tinh thần, tài chính, địa vị...xấu nhất là suy vong. Đi với Tam KHÔNG là suy vong. - Phản. - Nhóm sao thuộc nhà cửa. - Nhóm sao ẩn, kín đáo. KHI TỐT và KHI XẤU: Đoạn nầy Copy nguyên văn để làm mẫu bạn tự đánh giá theo cách nhìn của bạn KHI TỐT LÀ Là sum vầy, sum họp đoàn kết, bao bọc lẩn nhau. Được suy tôn kính mến. Tài chính dồi dào, sức khoẻ sung mãn, đau ốm khó mắc phải. Tai ách khó xâm phạm vì TỬ VI có thể tự cứu giải hung nguy khi gặp nạn. Đứng ra gánh vác trách nhiệm lớn được sự trợ giúp đắc lực của kẻ khác Được bao bọc bởi lụa là gấm vóc, tường kín hào sâu, nhất hô bách nặc. Thua kém vài người nhưng đứng trên vạn người. Thân thể vẹn toàn lâu dài. KHI XẤU LÀ Về tình cảm chủ chia lìa đứt đoạn, không bao bọc cho ai chẳng ai bao bọc cho mình. Đi với dâm tinh là suy đồi đạo đức, đi với Hung tinh suy sụp tinh thần. Về tài chính chủ sa sút, suy thoái. Thậm chí áo quần chẳng đủ ấm. Có chăng xung quanh vây bọc nỗi khó khăn, hoặc kẻ thù vây bọc. Nếu làm phản càng mang hoạ, che đầu lòi đuôi. Tình cảm chia lìa đứt đoạn, thân thể chưa chắc đã vẹn toàn. Tạo phản gây loạn, chống đối người trên.Về tai ách dễ bị đứt, bị chia lìa.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***46***


Là thứ vô tích sự, vô dụng dù TỬ VI đóng ở đâu cũng cần nó tốt đẹp. CÁC BỘ SAO TỬ VI QUAN TRỌNG: Có hằng trăm bộ sao quan trọng, sau đây là bộ đầu tiên COPY nguyên văn trong tư liệu: TỬ VI ngộ TUẦN: Bị phê là “Đế vô sở quyền”. Bất Động cách. Bên trong vẫn còn sự sống. Nếu ngộ Tam Không rất dễ chết. TUẦN chủ tuân theo, ngoan ngoãn. Giả thiết ta có lá số TỬ VI cực tốt với TỬ VI toạ thủ tại Mệnh ngộ TUẦN đứng ra lãnh đạo đất nước rõ ràng ông ta phải tuân theo, nghe theo một cách ngoan ngoãn. Như vậy đó là con bù nhìn, con rối bị giật dây. Cho nên TUẦN bất lợi cho TỬ VI làm cho sao này chịu sự sai khiến của kẻ khác. Quyền hạn, hoạt động bị giới han trong vòng cho phép. TUẦN trong tình huống đi với nhiều cát tinh vẫn đánh giá là được trọng vọng, nhân vật quan trọng... Vì thật ra khó tìm thấy yếu tố toàn mỹ. Tuy nhiên nếu có TUẦN thì không nên thấy thêm TRIỆT, vì 1 TUẦN đã mệt rồi ví như bất động tay, cả 2 sao bất động cả chân vậy. Nếu có thêm THIÊN KHÔNG tức ngộ Tam Không coi như đã chết. Hình ảnh là người làm việc trong nhà, hoặc giới hạn trong vòng cho phép ( như bị quản chế) Trọn đời gánh vác lấy trách nhiệm. Tốt là: Trọng trách, trọng sự, địa vị quan trọng, Nội Vụ nếu có cát tinh, quyền tinh. Trọng dụng. Trúng ý. Đoán đúng Xấu là trọng nạn, bắt nguồn từ phía bên trong. Bị vây khổn bên trong, là bị vây giữa muôn trùng. Thụ Nghiệp Cách.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***47***


Ví dụ 2 TỬ VI ngộ LINH HỎA: Hợp cách: chủ Tinh thần và trách nhiệm Hành động khẩn cấp. (Ví dụ các đơn vị cứu thương, cứu hoả, phản ứng nhanh...) Khẩn mật. TỬ VI chủ mật, HOẢ TINH chủ khẩn, kết thành bộ khẩn mật là công việc liên quan đến bí mật quốc gia. Tuỳ thuộc cát tinh và nhóm sao tầm quan trọng mà ta có thể gặp, đó có thể là người đưa công văn, người soạn thảo công văn đến đỉnh cao là người lãnh đạo đất nước. Cần có thêm QUYỀN tinh. Nghề nghiệp có tính chuyên môn TỬ VI cần gặp Bộ PHỦ TƯỚNG TẢ HỮU: đắc lực, ‘Nhất hô bá nặc’ Bộ TỨ LINH. KHÔI VIỆT. XƯƠNG KHÚC. LỘC TỒN và đỉnh cao là bộ TAM HOÁ KHOA QUYỀN LỘC. ĐÀO HỈ: Phú quí khả kỳ LỘC TỒN: Vững bền SÁT TINH Có thể gặp và đồng thời có lợi là HOẢ TINH, LINH TINH TỬ VI kị gặp: SÁT PHÁ THAM. KHÔNG KIẾP TUẦN TRIỆT: Có đủ TAM KHÔNG là chết (TUẦN, TRIỆT, THIÊN KHÔNG)

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***48***


KỊ HÌNH: Gặp tất tù tội. Nếu có nhiều Cát tinh thì cũng sương đọng mây tan TỬ VI qua các cung (tức đủ 12 cung ví dụ sau đây là cung MỆNH) TỬ VI tại MỆNH THÂN cung: “TỬ VI mặt đỏ lưng dày. Vóc người trung hậu diện đầy phương viên.” Thường là con trưởng, hoặc đoạt trưởng. Gánh vác trọng trách trong gia đình. Nếu như không bị phá cách. Cung An THÂN có TỬ VI còn hay hơn là MỆNH (vì MỆNH tốt cũng không hay bằng THÂN tốt) NỮ MỆNH: “Nữ mệnh TỬ VI, THÁI DƯƠNG tinh tảo ngộ hiền phu tín khả bằng” Tảo ngộ hiền phu tức sớm gặp chồng hiền. Nếu như Mệnh có THÁI DƯƠNG hay TỬ VI. “TỬ VI đóng Mệnh người hiền, Vượng phu ích tử lại thêm sang giàu” “...Còn Nữ Mệnh xem tường sau trước. TỬ PHÁ THAM hội ước đa dâm. Hoặc ĐÀO HOA ắt gian truân. Duyên may khó sớm dự phòng phượng loan”... “...Nữ nhân hội Đế toà. Ngộ cát sự quí nhân. Nhược dữ ĐÀO HOA hội. Phiêu lãng lạc phong trần.” Câu nầy ý nói. Nữ Mệnh gặp cát tinh là quí nhân, ví bằng có ĐÀO HOA phiêu bạt phong trần HẠN ngộ TỬ VI: Vận dụng mục các điểm chính để luận đoán. Để viết, viết sao mà chả được. Gánh vác có nổi không? Gánh vác có thành không? TỬ VI là sống hay chết. TỬ VI này là sống hay chết. TỬ VI là bí mật. Bí mật có lộ không? Bí mật cái gì? TỬ VI là bao bọc có thật không? Hay đang bao gái, bao

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***49***


trai, hay ô dù bị thủng… Đang suy tôn hay đang suy sụp… Đại loại là như thế ta có biết bao dữ liệu thậm chí không nhớ nổi, nhớ cái nầy quên cái khác. Chứ không bí rị. Bí cũng là TỬ VI BẠN CHÚ Ý: Trên thuần túy là bài mẫu. Nội dung của nó hoàn toàn mới lạ, không ăn cắp của ai một câu. Với các cụm từ TỬ VI là bí mật, là gánh vác, là bao bọc… chưa hề xuất hiện trong các sách TỬ VI trước năm 2009. Với bài TỬ VI đầy đủ bạn ngộp thở, thấy TỬ VI là sợ luôn. Đó là lý do tôi tà tà nói chuyện cung cấp dữ liệu. Đưa ngay những dữ liệu đầy mẹp vô tình chôn cứng trong đó. Tại một trang Word khác bạn dùng để chứa lá số. Ví dụ những đoạn Quang Trung tôi bình bạn dán vào đó, chính bạn bình lại với quan điểm của bạn, bình qua bình lại lá số ông ấy đầy mẹp chữ, nếu tôi bình liền Vua Quang Trung bạn rất hoang mang. Tại một trang Word khác để dành luận những câu phú. Tự mình chọn lọc, tự mình vừa học TỬ VI vừa soạn sách TỬ VI, tự mình nghiên cứu. Tức cái não nó động tối đa, khi nó động tối đa thì nó nhớ tới đời đời. Từ chỗ học TỬ VI tin vào sách, đến chỗ nghi ngờ sách, đến biên soạn lại cho vừa ý mình là đến đỉnh cao của nghiên cứu. TỬ VI vẫn là mảnh đất còn hoang hóa. Những người giỏi TỬ VI lại không có trình độ để viết, những người có trình độ viết lại thiếu trình độ TỬ VI sao chép, xào qua nấu lại ta lại có một cuốn TỬ VI na ná giống nhau, có dám viết thêm điều gì mới đâu. Chẳng qua có cơ hội in được là in mà thôi. Việc đọc nhiều sách TỬ VI dù có giá trị hay không cũng rất cần thiết, từ đó ta phân biệt đâu đúng, đâu sai. Ta quí mến những cái đúng, không so sánh biết đâu là đúng. Cũng như đến với các Web site để tìm hiểu là điều cần thiết. Tự mình là thầy của mình. Đó là quan niệm sống của tôi đó. Thế thì có gì đâu, ngại gì đâu tại sao bạn lại không soạn

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***50***


ngay cuốn sách TỬ VI cho vừa bạn? Bạn chỉ cần quét chọn ý chính của tôi mà thôi. BÍ MẬT NGÔI SAO TỬ VI Thật ra người viết không muốn tiết lộ ngôi sao nầy vội. Nhưng bài TUẦN và TRIỆT có lúc cần vận dụng đến ngôi TỬ VI để giải thích. A. TỬ VI chủ Bí Mật. Kín Đáo…. Tất cả những gì có liên quan đến từ “Bí” như bí quyết, bí hiểm, huyền bí, bí ẩn nói nhanh mau là chữ bí đứng trước hay đứng sau kể cả bí rị, chiếu bí (trong cờ) đều là TỬ VI. Ngoài trừ quả bí, trái bí. Chúng ta luôn luôn có những bí mật, ngay cả những người bình thường họ cũng có những bí mật. Như bí mật về bệnh lý, bí mật về thân phận, cao hơn bí mật về nghề nghiệp (điệp viên, công an… bạn đang bí mật gì tự biết lấy. Hỡi những ai từng có cơ hội nắm lấy các tài liệu với khuôn dấu đỏ chót đánh vào MẬT, TỐI MẬT, KHẨN, TỐI KHẨN. Chắc chắn rằng trong cung MỆNH bạn, trong Đại hạn mà bạn từng trải qua chình ình một ngôi sao TỬ VI, kể cả những người làm công tác Mã hóa, Mật mã. Quá nhiều người chưa hề, hoặc chưa có cơ hội nhưng chúng ta lại có TỬ VI tại MỆNH hoặc tại ĐẠI HẠN, có nghĩa là chúng ta đang mê hoặc bởi TỬ VI vì TỬ VI là một bản mật mã bí ẩn có nghĩa là chưa đến hạn TỬ VI chưa tin huyền bí, khi đến rồi đâm hoang mang, tự tìm đến TỬ VI nói chung các môn huyền bí khác nói riêng. Một người có duyên nợ với TỬ VI tất sao nầy hội họp tại MỆNH, còn những người khác gặp tại Đại hạn qua đại hạn 10 năm thì có thể tiếp tục hay thôi. Có lúc người ta hay từ bí mật bằng bí ẩn. Như: Bí ẩn trong hôn nhân. Bí ẩn trong gia tộc. Bí ẩn từ những hòn đá biết đi. Người bí ẩn. Cái chết bí ẩn... muôn vàn cái bí ẩn. Như lá số TỬ VI hàm chứa bao điều bí ẩn khó khám

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***51***


phá hết. Một đời người không đủ sức khám phá hết bí ẩn của môn bói toán nầy. Tam hợp phải của sao nầy còn có VŨ KHÚC một ngôi sao của sự u uẩn, uẩn khúc, từng khúc, từng đoạn khiến cho bí ẩn càng thêm rối trí. Có những điều không tiện nói ra, làm cho bí ẩn càng bí ẩn hơn hoặc chuyển qua bí mật như mục dưới đây. Cần sao hỗ trợ. Khi ta có bí mật ta cần gì các bạn? Ta cần khéo che đậy, ta cần vỏ bọc, ta cần ngụy trang. Vậy thì phải cần sao THIÊN PHỦ (xem bài THIÊN PHỦ bài nầy tôi viết quá sớm nhưng vẫn chưa hết) Do TỬ VI là bí mật, kín đáo do đó rất cần thiết phải có THIÊN PHỦ chủ che đậy phối hợp mới hay. Bí mật là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong Quân sự, thành bại do yếu tố bí mật quyết định. Các công việc khác như trong Chính trị, Kỹ thuật, Kinh doanh... bí mật cũng góp một phần quan trọng. Cho nên cách TỬ PHỦ được khen hay nhờ hợp lý, đắc ý chứ không phải là đắc địa. Bí mật là phải che đậy. Vì sao TỬ VI ưa gìn giữ bí mật? Vì phía sau luôn luôn có THIÊN CƠ ngôi sao toan tính riêng tư, lục hại lại CỰ MÔN có thể phản đối (vì chưa làm đã bị phản đối) đến phản bội mấy lúc. Tốt nhất TỬ VI đành bí mật cái đã cho chắc ăn. Nếu chưa làm mà thằng CỰ MÔN chưa chi đã phản đối, thằng THIÊN CƠ đòi xí phần thì còn làm ăn thế nào được. Bí mật sợ gì? Sợ bị lộ còn sợ KHÔNG che đậy nổi. Ai làm lộ. Đó là TRIỆT LỘ vì TRIỆT chủ loài ra, sơ hở. Vì vậy TỬ VI ngộ TRIỆT là hỏng bét, ta chưa hành quân mà địch đã biết, ta chưa mua hàng hóa mà đối phương đã tìm cách ngăn chận từ xa…. Bạn tự suy diễn thêm. Bây giờ nhìn lại lá số Hitler ta thấy TỬ VI bị TRIỆT đương đầu, bao nhiêu mật mã đánh đi Đồng minh biết tuốt. Thế là hỏng.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***52***


TỬ VI còn sợ THIÊN KHÔNG vì có nghĩa không bí mật, không kín đáo, không che đậy nổi. Như ông Nguyễn Thái Học đó qua Lịch sử ta thấy cuộc khởi nghĩa đã lộ rồi cũng ráng liều theo cho đúng định mệnh an bài. Như vậy TỬ VI sợ TRIỆT, sợ THIÊN KHÔNG còn sợ tiết lộ bí mật. Vậy thì ban đang giữ gìn bí mật như bí mật quốc gia. Ví dụ cho vui nè, có bao nhiêu Tiến sỹ giấy, bạn đem tiết lộ ra, các nước láng giềng cười cho thế là “can tội tiết lộ bí mật quốc gia”. Tức TỬ VI ngộ KỴ HÌNH TRIỆT. Bạn thắc mắc cái gì bí mật quốc gia tìm ông nhà nước mà hỏi. Còn tui dễ tính lắm kìa. Cái gì có đóng dấu MẬT mới gọi là bí mật. Người có TỬ VI tại MỆNH thường ăn mặc kín đáo, chỗ ở kín đáo mà ta thường nghe kín cỗng cao tường, TỬ VI càng tốt bao nhiêu càng kín đáo bấy nhiêu. Các Vua ngày xưa ở tận 3 vòng cung cấm Kinh Thành, Hoàng Thành rồi Tử Cấm Thành. Đố bạn tìm thấy ảnh lãnh tụ mặc áo may ô quần đùi, đa phần họ có ngôi TỬ VI tốt, ngay Hiler TỬ VI ngộ TRIỆT chỉ xắn cao tay áo mà thôi (chứng tỏ tui còn khỏe manh!) chứ không phơi bày. Một phụ nữ phơi bày rõ ràng không phải ngôi Mệnh Phụ. Nói đến kín đáo nhớ đến một số ca sỹ luôn luôn ăn mặc kín đáo như Hương Lan chẳng hạn. B.TỬ VI chủ bao, bao bọc. THIÊN PHỦ chủ che chở… TỬ VI chủ sự bao như bao gái, bao trai… đến cao nhất là được dân nhân bao bọc trong thương yêu, dĩ nhiên không ai ép buộc, không dàn dựng. THIÊN PHỦ chủ sự che chở tạo thành bộ bao che. TỬ PHỦ đi với nhau quá hay, quá đắc ý, hợp lý hợp tình. Đúng chưa? Cần gì áp dụng hành Thổ lên cung Mộc tại Dần, hành kim tại Thân lý giải không thể chấp nhận được của một số sách TỬ VI.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***53***


Điều nên bàn là: TỬ PHỦ tốt được sự thương yêu bao bọc nhiều người, đồng thời cũng bao bọc người khác. Từ đó cũng có những TỬ PHỦ trời ơi! Bao che kẻ xấu, bao che cái ác, phủ lấp đi cái tốt, bịt đi những cái hay không sớm thì muộn cũng can tội bao che. Vì sao? Vì như đã nói ở bài TUẦN TRIỆT đã là sao thì nó di chuyển. TUẦN TRIỆT sẽ viếng thăm. Tất cả đều bị lộ, cứ nhìn lại quá khứ. Có người chứng minh rằng ông Lê Lai chết bởi bàn tay… ông Lê Lợi. C. TỬ VI là ý định. Trong bài Số Phân Định Đoạt đã nói qua chuyện nầy. Đây nhắc lại tất cả các từ liên quan đến từ “định” là TỬ VI như nhận định là bộ TỬ PHỦ (Phủ chủ nhận TỬ VI chủ định). Quyết định (quyết là VŨ KHÚC sao nầy luôn luôn bên tay phải TỬ VI). Vì vậy TỬ VI nằm tại MỆNH mới hay, vì tự mình quyết định lấy số phận. Tôi có ý định về quê ăn tết. Ý đinh vô hại, ý định xấu người ta gọi là ý đồ. Từ đó TỬ VI sinh ra hành động. D. TỬ VI chủ hành động, hoạt động, cáng đáng, gánh vác, đảm trách, nhiệm vụ, lãnh đạo, chỉ huy… đến phản động. Tính hành động của TỬ VI cực kỳ mạnh mẽ, vì bên cạnh TỬ VI luôn luôn có VŨ KHÚC một sao chủ thôi thúc, thúc giục, cỗ vũ. Bên trái luôn luôn có LIÊM TRINH một sao chuyên nghề theo dõi và TỬ VI quyết định việc đó nên làm. Qua bài “nói và làm” ta biết biết ĐÀO HOA chủ làm, còn TỬ VI làm (làm và hành động cũng giống nhau phải không? Hành động nghe có vẻ cao sang, hàn nho, bác học. Cho nên thưởng cho TỬ VI xin bạn đừng ganh tị, đối với TỬ VI đó là nhiệm vụ) với nghĩa đó là nhiệm vụ, là trách nhiệm. Có ai ép đâu mà Đức Lê Lợi khởi nghĩa vào năm hạn đến sao TỬ VI. (Vua có cách khởi nghĩa tại MỆNH là CỰ BINH cách). Có ai buộc đâu mà Nguyễn Thái Học rước họa vào thân. Tình hình chưa xấu mấy đâu mà Vua Bảo Đại giã từ nhiệm vụ Hoàng Đế năm Ất Dậu, lại lập lại vào năm Giáp Ngọ giã từ nhiệm vụ Quốc Trưởng. Có thể Cựu Hoàng học lóm bài học Hitler chăng? Vậy thì ta có TỬ VI ngộ TRIỆT là bị lộ, là từ bỏ

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***54***


nhiệm sở, là thở ra, dĩ nhiên là tiếng thở dài, mà không hít vào (xem bài Tuần Triệt viết đồng hành) TỬ VI mà đi với THIÊN KHÔNG là nhiệm vụ không tròn (như Nguyễn Thái Học). TỬ VI đi với TUẦN thì sao? Xem bài TUẦN ta thấy TUẦN là sao ngoan ngoãn, dễ dạy bảo. Vua mà ngoan ngoãn dễ dạy bảo có chăng là Vua bù nhìn. TỬ VI mà đi với KỴ HÌNH tức là vi phạm luật cấm, tức có tội. Không sớm thì muộn không trước thì sau đến nơi mà không muốn đến. TỬ VI ngộ ĐỊA KIÊP thì sao? Tạo ra tai họa cho mình. Như rút chốt quả lựu đạn ra thả xuống… lắng nghe nó nổ có to không. Có những cái chết, tai họa tức cười do mình gây ra là TỬ VI ngộ KIẾP. TỬ VI là ngôi sao dám đứng ra gánh vác trọng trách vào mình, đồng thời có năng khiếu lãnh đạo, chỉ huy có con mắt theo dõi của LIÊM TRINH, có VŨ KHÚC giải quyết công việc. Có đạo đức của LIÊM TRINH, có tài năng của VŨ KHÚC phối hợp với bộ PHỦ TƯỚNG phán xét tương trợ là hoàn chỉnh. Được thì làm vua thua làm phản động rất đúng nghĩa, vì TỬ VI chủ hành động, xấu là hành vi. Không có lý do gì, một người phản đối một điều gì đó chụp cho cái mũ phản động. Nghe phiền. Phản đối là sao CỰ MÔN từ phản đối không được, CỰ MÔN chuyển qua phản bội. Mà phản bội có nghĩa là trước theo nay chống lại mới là phản bội. Còn người khác có theo mình đâu, chống lại mình tức là người chống đối. Vậy thì phản động bằng hành vi tạo phản, phản đối, phản bội, chống đối có một khoảng cách nhất định. “ Lời nói là một đọi (bát) máu” vậy thì cẩn thận khi kết luận một người nào đó. Trên lá số TỬ VI bất kỳ ai. CỰ MÔN và TỬ VI luôn luôn ở thế lục hại. CỰ MÔN nói “TỬ VI mi là người phản động”. TỬ VI nói: “CỰ MÔN mi là thằng phản bội”.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***55***


Cho nên trên lá số Vua Bảo Đại hạn 33-43 gặp cách CỰ NHẬT mà trên bài “ Người trên lá số TỬ VI” THÁI DƯƠNG là đàn ông, CỰ MÔN là phản bội. Có nghĩa CỰ NHẬT là “người đàn ông phản bội. Có nghĩa là Vua Bảo Đại đã gặp một người đàn ông phản bội. Người đó đã tạo ra “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì” một câu nói đến nay tôi còn nhớ. “Cũng may hồi đó thơ ngây quá. Chưa biết cười lên để…. hẹn hò”. Hò bậy dễ chụp mũ lắm. TỬ VI chủ sự sống và cái chết. Tử là chết. Vi là hoạt động tức là sống. Ta thường nghe cụm từ “sự sống và cái chết”, hoặc biến dạng như: Công ty ấy còn hoạt động không hay đóng cửa rồi. Trang Web ấy còn sống không? Nhạc sỹ ấy còn không hay đã mất? Vô hình trung hỏi về sự sống và cái chết. TỬ VI là con tim đang đập trong lồng ngực đại diện cho sự sống, THIÊN PHỦ là lục phủ ngũ tạng trong cơ thể. THIÊN ĐỒNG là bụng, THIÊN CƠ là cơ thể… THIÊN MÃ là tay chân. Có ai cãi THIÊN MÃ là không phải tay chân, tất nhiên là không. Vì các sách TỬ VI đều công nhận điều đó. Vậy thì đừng nghi ngờ gì TỬ VI không phải là con tim, mà phải nói rằng: hôm nay may mắn thay ta được biết thêm TỬ VI là con tim. Ta có thể kiểm tra cả nhịp đập. Mà đập thì sống không đập thì… chết. TỬ VI chủ lãnh đạo chỉ huy, hành động. TỬ VI chủ sự sống và chết. TỬ VI chủ cái phận của mình, nói dễ hiểu hơn là cái phần của mình (như phần của anh ăn một ổ bánh mì mà thôi, phận anh ngồi ở cái ghế kia kìa, tức là địa vị đấy) Chỉ vài yếu tố nầy thôi TỬ VI là ngôi sao quan trọng. Do đó mà các nhà thuật sỹ ngày xưa, nhất trí chọn ngôi sao nầy để đặt tên cho môn bói toán.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***56***


TỬ VI rất cần thiết có tại MỆNH, chú ý tam hợp với MỆNH cũng coi như tại MỆNH, tức dễ hiểu hơn MỆNH có LIÊM TRINH, hay VŨ KHÚC coi như có TỬ VI tại MỆNH. Nếu có tại THÂN cũng có giá trị như tại MỆNH, vì là ngôi sao chủ sự sống và cái chết chẳng khác gì đặt sinh mệnh vào tay kẻ khác. Giống y như đi xe đò với những tài xế đại ẩu, ta sẽ thấy thấm thía câu: Sinh Mệnh của mình nằm trong tay tài xế. Vd TỬ VI nằm ở HUYNH ĐỆ cung, khi đau yếu ta nhờ anh em giúp đỡ, nhưng khổ thay nó lại thua cá độ mất rồi. Như đã nói ở bài TUẦN TRIỆT ngôi TỬ VI rất kỵ Tam Không, nếu đủ Tam Không tức là TỬ VI chết. Tức là có TỬ mà không có VI, không còn cơ hội vi phạm luật pháp quốc gia nữa. Trên bia mộ ghi là tử trận, tử nạn, tử vì đạo… có khi tử vì tình. Có câu “MỆNH suy, HẠN suy hỉ TỬ VI giải hung nguy”. Hỉ tức vui mừng có TỬ VI nhưng biết bao nhiêu người chết vì hạn có TỬ VI nhưng TỬ VI cũng đang ngáp ngáp, lấy đâu mà cứu giải nổi. Đó là các trường hợp TỬ SÁT, TỬ PHÁ, TỬ THAM. Cho dù gặp TỬ VI tốt mà theo sách gọi là đắc địa (theo Bửu Đình là đắc ý) như TỬ PHỦ, TỬ TƯỚNG, TỬ VI cư Ngọ mà gặp Tam Không KỴ HÌNH thì chết vì TỬ VI BÀN VỀ CÁC BỘ SAO TỬ VI QUAN TRỌNG Đây là phần 2 của bài TỬ VI nhằm mục đích giải thích giúp đoán các trường hợp TỬ VI đơn thủ, TỬ PHỦ, TỬ TƯỚNG, TỬ SÁT, TỬ PHÁ, TỬ THAM. TỬ VI TUẦN: Bị phê là “Đế vô sở quyền”. Bất Động cách. Bên trong vẫn còn sự sống. Nếu ngộ Tam Không rất dễ chết. TUẦN chủ tuân theo, ngoan ngoãn. Giả thiết ta có lá số TỬ VI cực tốt với TỬ VI toạ thủ tại Mệnh ngộ TUẦN đứng ra lãnh đạo đất nước rõ ràng ông ta phải tuân theo, nghe theo một cách

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***57***


ngoan ngoãn. Như vậy đó là con bù nhìn, con rối bị giật dây. Cho nên TUẦN bất lợi cho TỬ VI làm cho sao này chịu sự sai khiến của kẻ khác. Quyền hạn, hoạt động bị giới han trong vòng cho phép, phải tuân thủ tuân theo sự sai khiến của kẻ khác. TUẦN trong tình huống đi với nhiều cát tinh vẫn đánh giá là được trọng vọng, nhân vật quan trọng... Vì thật ra khó tìm thấy yếu tố toàn mỹ. Tuy nhiên nếu có TUẦN thì không nên thấy thêm TRIỆT, vì 1 TUẦN đã mệt rồi ví như bất động tay, cả 2 sao bất động cả chân vậy. Nếu có thêm THIÊN KHÔNG tức ngộ Tam Không coi như đã chết. Hình ảnh là người làm việc trong nhà, hoặc giới hạn trong vòng cho phép (như bị quản chế, quản thúc. Như một công nhân làm việc cho chủ nhân, bị giới hạn trong công việc phải làm) Trọn đời gánh vác lấy trách nhiệm. Tốt là: Trọng trách, trọng sự, địa vị quan trọng, Nội Vụ nếu có cát tinh, quyền tinh. Vẫn được trọng dụng. Còn chủ: Trúng ý. Đoán đúng. Xấu là trọng nạn, bắt nguồn từ phía bên trong. Bị vây khổn bên trong, là bị vây giữa muôn trùng. Tất nhiên đi với Hung tinh Kỵ Hình. Thụ Nghiệp Cách. (tức học lấy một nghề nghiệp gì đó vì Tuần chủ sự Giáo Dục, TỬ VI chủ công việc) Nếu từ vị trí TỬ VI thấy Tuần không nên gặp ở thế đồng cung, nên nằm chung với LIÊM hoặc VŨ KHÚC vô hại. TỬ VI TRIỆT: Bị phê là “Đế vô sở quyền”. Bất Động cách. Trừ Bỏ Địa Vị. Bên ngoài vẫn còn sự sống. TRIỆT gặp TỬ VI càng bất lợi hơn TUẦN. Vì TRIỆT chủ từ bỏ, bãi miễn, bị hạ bệ tình huống nào cũng xấu. TỬ VI còn

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***58***


chủ bí mật, kín đáo gặp TRIỆT tức lòi, hở, bí mật bị lộ lấy đâu thành công… Ví dụ: Bị lộ không hoạt động được, bí mật bị lộ. Ta rút khỏi thành phố vì đã bị lộ… TỬ VI là ngôi sao hành động, trừ bỏ hành động lấy đâu thành công. Một là làm vua không thực quyền, hai là khước từ địa vị. Nói là Vua, bạn có thể hình dung đó là một ông Vua, cho đến một ông chủ gia đình bé nhỏ tế bào của xã hội, không hoàn thành nhiệm vụ. Đó là hình ảnh 'nửa đường đứt gánh' từ bỏ nhiệm vụ, bất ổn, bất định, vô định, vô sự, vô vi… Còn chủ vong bản, quên gốc, quên cội nguồn. TỬ VI bị TUẦN TRIỆT đương đầu kỵ nhất là đứng ở giữa TỬ VI và THIÊN CƠ. TỬ VI KHÔNG: Bị phê là “Đế ngộ hung đồ”. Bất Động, Bất Ổn Định. Không Thành Công… Không hoạt động không có nghĩa là chết. (Công ty ấy không hoạt động nhưng nó vẫn tồn tại… nó vẫn ngáp ngáp chưa chết) Không thành công. Nhiệm vụ không hoàn thành. Trách nhiệm, nhiệm vụ, hành động, hoạt động không thành thậm chí còn mang hoạ vào thân, gieo tai hoạ lên đầu TẢ HỮU. Ngoài ra không bí mật, không kín đáo, nếu có bí mật thì không hoàn chỉnh. Đây là số phận những kẻ không may dám đứng ra gánh vác nhưng không thành. Trong một số tình huống là hành vi côn đồ, lừa đảo sai trái tùy thuộc các Hung, Trợ tinh tụ tập. Từ đó quyết đoán. “TỬ phùng KHÔNG KIẾP hiểm gian Hoặc là Tứ Sát trong làng gian phi”

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***59***


Hình ảnh Vua Tướng Cướp, Đại Vương… những tên lừa đảo bằng hành vi. Từ 1 con số không hắn có thể vẽ ra là có. Kỵ gặp thêm HỒNG ĐÀO chủ yểu, tạo ra tai họa cho mình. ‘Không thành công cũng thành nhân’. Đó là câu nói của người tuổi trẻ anh hùng Nguyễn Thái Học, một câu nói định mệnh đã ghi sẵn trên lá số. Còn chủ Không dụng (không dùng con người ấy) TỬ VI ngộ TAM KHÔNG: Tức cùng lúc có TUẦN, TRIỆT, THIÊN KHÔNG. Đây là dấu hiệu chết nếu cái cơ thể không chết thì địa vị, công việc, cơ sở ắt có cái chết. TỬ VI chủ sự sống chết nó là hơi thở, nhịp đập con tim. Ngộ TAM KHÔNG tức có nghĩa không thở ra, không hít vào, tim không đập. Trên lâm sàng người ta kết luận là chết. Vì vậy mệnh có TỬ VI còn kị gặp hạn TAM KHÔNG. Cũng có điều may mắn là bộ TAM KHÔNG khó hình thành, không phải lá số nào cũng có bộ sao này. Các lá số có TỬ VI ngộ Tam Không. Tại cung Phúc Đức là một trong các yếu tố gây ra sự yểu mệnh. TỬ VI KIẾP: Bị phê là “Đế ngộ hung đồ” Chủ: Gánh vác tai họa. Ví dụ như trường hợp NTH. TỬ VI ngộ KIẾP là tai hoạ. Chủ tai hoạ do hành vi, hành động gây ra nhất là hành vi có liên quan đến sự cướp đoạt. Trong một số tình huống ta buộc phải đoán là hành vi côn đồ, ăn cướp nếu như có thêm HÀ SÁT KỴ HÌNH. Kỵ gặp thêm HỒNG ĐÀO chủ yểu, tạo ra tai họa cho mình lâm nạn mà chết. TỬ VI LINH HỎA : TỬ VI LINH TINH

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***60***


Hợp cách: Chủ các điều sau. Mật lệnh. Cho nên hợp cách chỉ có các bậc chỉ huy thật sự mới cần tới mật lịnh. Đương nhiên cần sự hỗ trợ chủa sao Quyền. Tinh thần và trách nhiệm. Cũng là việc làm của TỬ VI nhưng người có LINH TINH làm việc có thinh thần trách nhiệm. Thi hành làm việc theo lịnh. Lãnh đạo và vai trò của nó tức vai trò lãnh đạo. Một cách rất hay, thiếu LINH TINH ví như kém tác phong chỉ huy. LINH làm tăng uy lực của TỬ VI. Linh hoạt trong công việc Linh động. Dĩ nhiên cần có QUYỀN tinh hội họp mới hay. Hành động nhanh nhẹn, hoạt động lanh lợi nhanh nhẹn là yếu tố tất thắng. Ví dụ lực lượng phản ứng nhanh. Tinh vi, tỉ mỉ mọi việc phân tích rất rõ ràng. Như tinh vi trong nghề nghiệp, công việc.. Còn phù hợp với những công việc liên quan đến những cái nhỏ bé như vi trùng, đồ vật siêu nhỏ. Tinh vi trong công việc, kế hoạch tinh vi, thủ đoạn tinh vi... mưu mô tinh vi...Nghề nghiệp có tính chuyên môn. Cũng nghiên cứu TỬ VI nhưng có LINH đương nhiên cao tay hơn. Công việc có tính chuyên môn cao. Vì vậy TỬ VI rất hợp với LINH. Dự đoán linh nghiệm. Ví dụ Em đoán thế nào anh cũng đến. Sao tài vậy ta?. Em linh cảm thế. Đoán định cần đi với linh cảm. Từ linh cảm thành linh nghiệm. Cần sự trợ sức của sao TUẦN vì nó chủ sự đúng. Dĩ nhiên sao LINH cần sáng tỏ, nếu lạc hãm cần có THAM LANG (2 sao nầy ái mộ lẫn nhau. Xem cách nầy ở bài THAM LANG) TỬ VI HỎA TINH:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***61***


Hợp cách: Chủ. Tinh thần và trách nhiệm Hành động khẩn cấp. Ví dụ các đơn vị cứu thương, cứu hoả, phản ứng nhanh trong quân đội và cảnh sát... Khẩn mật. TỬ VI chủ mật, HOẢ TINH chủ khẩn, kết thành bộ khẩn mật là công việc liên quan đến bí mật quốc gia. Tuỳ thuộc cát tinh và nhóm sao tầm quan trọng mà ta có thể gặp, đó có thể là người đưa công văn, người soạn thảo công văn đến những người thi hành nhiệm vụ khẩn mật, đỉnh cao là người lãnh đạo đất nước. Cần có thêm QUYỀN tinh. Ví dụ trong vòng x giờ anh phải chiếm mục tiêu ấy cho tôi. Anh đến đó với phương tiện nhanh nhất, quá thời hạn đó địch sẽ phản công lại. Nghề nghiệp có tính chuyên môn TỬ VI KÌNH: “TỬ VI QUYỀN LỘC hội DƯƠNG ĐÀ tuy hoạnh cát nhi vô đạo vi nhân tâm thuật bất chính” Chủ hành vi, hành động chống đối. Nếu có THIÊN PHỦ lợi cho kinh doanh có cửa hàng buôn bán lớn. Có PHÁ QUÂN thiên về hành vi chống phá, có thêm LINH TINH là tay chọc nước khuấy trời không có gì phải bàn thêm thành, bại tuỳ thuộc hung cát tinh. “KÌNH DƯƠNG, HOẢ LINH tụ.Thử thiết cẩu thâu quần. Tam phương hữu cát củng. Phương tác quí nhân bình. Nhược hoàn vô PHỤ BẬT. Chư ác cộng ẩm lăng. ĐẾ vi vô đạo chủ.” Bản chất TỬ KÌNH là hành động chống đối nhưng không phải hành động chống đối nào cũng xấu xa. Thành bại tốt xấu tùy thuôc các Hung Cát tinh tụ tập. Nhưng do ngày xưa quan niệm chống đối lại vua, thượng cấp là xấu.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***62***


Tốt là nghênh giá, tức đón vua. Nói chung đón quí nhân. Đoán trước. Tiên đoán. Dự báo trước… Là những yếu tố cần thiết cho một số ngành nghề liên quan như Dự báo thời tiết, bói toán… đến cả dân chơi cá độ. Chống chỉ định. Tác dụng ngược khi dùng thuốc. Tiền sự. Thượng vụ, thượng cấp. Đi với Cát tinh. TỬ VI ĐÀ: Đi với bại tinh. Thiên về suy vi, suy thoái,...suy bại, suy vong. Một sao TỬ VI khi xấu chủ suy vi, một sao ĐÀ LA khi xấu chú sa sút vì vậy kị có PHÁ QUÂN lại có thêm bại tinh HƯ PHÁ. Hành vi cản trở, lôi kéo, xâm phạm. Hoặc hành vi bao che và cản trở...Tốt là lôi kéo, cản trở... thành công. Xấu là bị lôi kéo vào, bị dính vào, bị cản trở khi hành động. Đi với KỴ HÌNH can tội về các hành vi kể trên (tức cản trở, lôi kéo, bao che…) Bộ sao nầy thiên về ẩn, âm thầm, không công khai. Bí mật cản trở, bí mật lôi kéo, bí mật hướng dẫn dạy dỗ… Nhưng nói chung ngộ ĐÀ thiên về thuận theo. Hành động theo, làm theo… Cần gặp Cát tinh đễ hành động ấy thành công. Làm theo lời hướng dẫn. Như: Hướng Dẫn Sử Dụng. Cụm từ nầy nghe quen quá ta. Vâng nó luôn luôn có trong thuốc men và đồ dùng, ta tuân theo để sử dụng có hiệu quả, nếu ta làm ngược lại (nói theo ngôn ngữ TỬ VI là TỬ KÌNH) tất có tác dụng ngược, tác dụng phụ. Đoán theo, Dự báo theo… Ví dụ đoán theo TỬ VI là dựa vào nguyên tắc TỬ VI, đoán theo tướng pháp dựa vào phương pháp tướng diện. Dự báo theo dữ liệu đã có trong ngày và các vùng lân cận, từ đó ta có dự báo thời tiết.. Xấu là đoán mò, đoán

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***63***


dựa, đoán lần vách thiếu cơ sở. Vì vậy cần gặp thêm cát tinh nhất là KHOA. Nếu có thêm HÓA KỴ TỬ VI gặp KỊ ĐÀ nhất là có thêm TRIỆT. Đình lại, đình trệ, đình hoãn, đình chỉ, gác lại… gây ra cảnh bế tắc. Còn chủ: * Mắc việc, bận việc (công việc gây ra trở ngại) * Xây dựng địa vị * Hậu sự. Như hậu chiến * Hậu vận. * Hạ cấp. Thôi việc * Tiềm sinh, Tiềm thức. TỬ VI THIÊN HÌNH: * Phương pháp làm việc. Tốt là làm việc có phương pháp (ảnh hưởng sao HÌNH). Xấu cắm đầu làm u u mê mê mất thời gian hiệu quả thấp (ảnh hưởng sao DIÊU Y) * Thủ thuật. * Chủ: Định hình. Định tội... Định tội được hay bị ? Đi với cát tinh, quyền tinh là được quyền định tội kẻ khác. Đi với Hung tinh, sát tinh là bị kẻ khác định tội Định hình, định dạng (format) là gì? Tôi vẽ bức tranh tôi phải định hình to nhỏ, diễn tả cái gì đây, dùng màu sắc nào để diễn tả thích hợp... Với tài liệu bạn đang xem biết bao lần thay đổi, định hình bố cục. * Chủ: Bí quyết, Cẩm nang Trong một chừng mực nào đó, tài liệu nầy là một bí quyết để giúp bạn luận đoán TỬ VI. Ta còn gặp Bí quyết làm

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***64***


đẹp, Cẩm nang làm bếp… Thuật sỹ, thuật toán trong vi tính, Phù thủy, thầy pháp thuật ngoài đời… thuộc dạng nầy. Bí quyết là TỬ VI + THIÊN HÌNH. Nhưng rất kị gặp thêm HÓA KỊ thành cách vi phạm cần gặp là HÓA KHOA. * Hình Sự : Vì vậy cần gặp Quyền. Nếu gặp KỴ là can tội vi phạm pháp luât bằng hành vi. * Hành Pháp. Cần có HÓA QUYỀN * Chế tác như chế tạo, sáng tác. * Sự Việc, Tình Hình, Tình Thế Như tình hình nghiêm trọng, sự việc nằm ngoài tầm kiểm soát… Tình thế có lợi cho ta… Đây là bộ sao rất kị gặp thêm HOÁ KỊ nếu có chủ bị định tội. Tức hình thành bộ TỬ VI KỊ HÌNH chủ vi phạm pháp luật. Rất cần gặp HOÁ KHOA. TỬ VI THIÊN DIÊU Y: * Một sao chủ bí mật, bí ẩn… và một sao chủ mù mờ, mù quáng, không rõ ràng. Cho nên bí mật vẫn còn là bí mật. * Hành vi, hành động mù quáng. Còn là vừa say, vừa làm… rượu chè và làm việc. * THIÊN DIÊU Y có dâm tính và càng phức tạp khi có ĐÀO HOA phạm chủ. Nhất là các tình huống TỬ PHÁ, TỬ SÁT, TỬ THAM * Kỵ gặp thêm ĐÀ KỴ hỏng cách. TỬ VI HOÁ KỊ: Chủ: Kỳ bí, bí ẩn, huyền bí...hành động kì lạ, hành vi bí ẩn. TỬ VI là một môn khoa học kỳ bí. Kì tài, Kì diệu... đi với cát tinh. Làm nên được điều kì diệu. TỬ VI là một ngôi sao tài năng còn hay hơn VŨ KHÚC ở điểm đứng ra gánh vác.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***65***


Nếu đó là cung an Thân tức thân thể có điểm kỳ lạ. Còn chủ là cách nơi thâm nghiêm bí mật, cấm lai vãng như cung Cấm, Tử Cấm Thành. Vô phận sự cấm vào. Rất kị gặp thêm THIÊN HÌNH dù có HÓA KHOA đi chăng nữa thì TỬ KỴ có Hình chủ vi phạm pháp luật, vi phạm điều cấm kỵ bằng hành vi, hành động, bằng cử chỉ. Nếu quyền cao chức trọng cũng bị đổ vỡ, dễ bị tù tội. Cái nhẹ nhất có thể gặp là bị cấm hoạt động. TỬ VI KHOA QUYỀN LỘC: “TỬ VI tu cần Tam Hoá, nhược phùng Tứ Sát phong bãi hà hoa” “TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG, TẢ HỮU LONG PHƯỢNG, KHOA QUYỀN LỘC ẤN. Quân thần khánh hội chi cách, gia KIẾP KÌNH loạn thế nan thành đại sự” “TỬ PHỦ ngộ KHOA QUYỀN LỘC hựu gia TUẦN TRIỆT KIẾP KHÔNG, HÌNH HOẢ. Phú nhi bất quí hữu hư danh” TỬ VI KHÔI VIỆT: Đây là bộ sao làm tăng giá trị cho TỬ VI giúp cho sao nầy nổi bật hơn thiên hạ. Nếu không có bộ KHÔI VIỆT cần có ĐÀO HOA để biến Ý ĐỊNH thành HÀNH ĐỘNG. * Phát động, phát sinh hành động... * Nẫy sinh ý định. * Trách nhiệm lớn. Kẻ lãnh đạo... Cần có thêm nhóm sao quan trọng hỗ trợ và cả Cát tinh… * Phát sinh trách nhiệm khiến ta phải gánh vác. Ví dụ công việc đó phù hợp với chuyên môn, sức khỏe… thế là nhiệm vụ phải làm. Cách đánh giá chung chung nếu gặp bộ KỊ HÌNH có nghĩa tội đứng ra cầm đầu, chỉ huy. TỬ VI TẢ HỮU:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***66***


Cách “Nhất hô bách nặc” “TỬ PHỦ toàn y PHỤ BẬT chi công” Toàn y là hoàn toàn nương nhờ vào 2 sao PHỤ BẬT làm nên công trạng. Đây là một yếu tố quan trọng để đánh giá sự thành công của sao TỬ VI “TỬ LỘC đồng cung PHỤ BẬT chiếu quí bất khả ngôn” Hợp cách và rất cần thiết. Nếu không có TẢ HỮU ví như mà không có quân cũng bó tay. Đó là điều kiện ắt có để đánh giá sao TỬ VI, đồng thời còn hưởng cách “Nhất hô bách nặc” một tiếng gọi trăm tiếng thưa. Trong thực tế ta dễ gặp một tiếng gọi vài tiếng thưa, như vậy cũng là sướng lắm rồi. Nếu Mệnh có TỬ VI gọi chẳng có ai thưa là vì không có PHỤ BẬT. Buồn thay TỬ VI đi với bàng tinh nào xem các bài có liên quan (đi với THÁI TUẾ xem bài THÁI TUẾ, đi với LỘC TỒN xem LỘC TỒN). Phần 3 TỬ VI qua 12 cung và Hạn ngộ THIÊN PHỦ LÀ GÌ? NHÀ TO LỚN, KHO TÀNG * THIÊN PHỦ là đại diện cho các từ như dinh, thự, viện, đền, đài, toà, nhà thờ, chùa, doanh trại, phủ đệ… Nói chung ngôi nhà lớn. Nói THIÊN PHỦ là nhà to lớn là quá dễ nhưng từ THIÊN PHỦ đoán được đó là ngôi chùa, nhà thờ tộc, là cái chợ, là thư viện, là đồn bót… mới khó. * THIÊN PHỦ còn chủ cái kho như Ngân khố quốc gia, Tổng kho đến nhỏ bé như cái rương, cái tủ, cái túi, cái ví thậm chí chẳng có tiền. Tuỳ thuộc Hung, Cát tinh, và nhóm sao tầm quan trọng. * Người có sao THIÊN PHỦ thủ MỆNH, ĐIỀN mà thấy nhà chẳng ra phủ, ra phòng, không có gì để làm kho. Là bị phá cách bởi Tam Không. Vì vậy THIÊN PHỦ cần gặp LỘC TỒN (kho tài lôc) mới hay, dĩ nhiên cần gặp VŨ KHÚC chủ tài lộc, để chỉ đây là

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***67***


cái kho chứa tiền của. Nếu thấy MỆNH ĐIỀN HẠN có sao nầy mà nhà cửa chẳng ra dinh thự thì đừng nghi oan cho ông ấy (tức THIÊN PHỦ xem tiểu mục người già ở dưới) chẳng qua là bị phá cách hoặc bị phản tác dụng mà thôi. PHỦ DỤ, BẢO BAN, VỖ VỀ, AN ỦI, VUỐT VE...: * Hiệu triệu, phủ dụ, báo ban...Nói chung dùng lời nói của kẻ trên để trấn an, bảo ban đến an ủi, vỗ về kẻ dưới có tính tương trợ là THIÊN PHỦ. So sánh với CỰ MÔN chủ phản đối, THIÊN CƠ chủ cật vấn thì THIÊN PHỦ hay hơn nhiều. Một THIÊN PHỦ tốt là ấm áp trong vòng tay, kẻ ôm qua người khoát lại (trông thấy phát ghen tị) hai mắt cùng thấy, hai lòng cùng ưa. Nhưng khi mất tác dụng, phản tác dụng mang ý phũ phàng như “Ai cần mày an ủi?”. Hoặc bị phụ rẫy. Cũng là phủ thôi nhưng chuyển từ dấu hỏi sang dấu ngã, hoặc sang dấu nặng. Từ vỗ về biến thành trái đấm, từ vuốt ve chuyển thành cào cấu, từ êm ái biến thành dọa dẫm… Cũng THIÊN PHỦ thôi, bị phản tác dụng mất rồi. Những lời hiệu triệu không còn giá trị nữa. Những lời phủ dụ không còn phỉnh phờ ai được nữa. QUẢN LÝ TIỀN CỦA, TÀI SẢN * Có năng lực quản lý tài sản hoặc thiếu, hoặc yếu năng lực, hoặc chẳng có năng lực quản lý cũng là đây, tùy thuộc các Hung, Cát, Trợ tinh tụ tập để luận đoán. Vì sao THIÊN PHỦ phải quản lý tài sản vì dễ thất thoát (chạy ra ngoài do sao THẤT SÁT nó dòm ngó, chôm được là chôm liền) do kẻ bên trong, hoặc bên ngoài gây ra. Như vậy THIÊN PHỦ kẻ quản lý trong phạm vi hẹp gia đình là kẻ giữ tiền. Đến đây tôi biết rất rõ có kẻ than rằng: Oan cho tui quá Bửu Đình ơi!. Trường hợp của bạn bị phản tác dụng bị người khác quản lý tiền. Coi chừng nhé không đủ tiền xăng dầu để đi chơi xa, lấy đâu đủ tiền đền bánh tráng (bánh đa). Đúng chưa nào. * Khi nhìn một vấn đề, thì trước mắt cần sự hỗ trợ. Ta đang bàn đến vấn đề 'quản lý' của THIÊN PHỦ tốt là cần sự hỗ tương như có LIÊM TRINH mới hay. Nếu không được hỗ tương còn bị

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***68***


mất tác dụng tức là yếu kém. Còn bị phản tác dụng, tức tác dụng ngược (ngoài ý muốn của người có dễ đâm ra hoang mang TỬ VI sai, đúng chưa?) tức là "bị quản lý" bởi tài sản. Chưa kể phản tác dụng còn là nguy hại vì can tội để thất thoát tài sản (quốc gia, tập thể, công ty, gia đình) nguy cơ đứng trước tòa rất rõ. Ví dụ nhỏ là "Nhịn ăn, nhin mặc mua máy vi tính cho mầy học. Tại sao đem bán tiêu sài?". Ví dụ to đọc trên báo chí thiếu chi. Vấn đề muốn biết làm thế nào để biết mất tác dụng, khi nào bị phản tác dụng. Đúng chưa? Đọc đi rồi sẽ hiểu… còn dài mà. BẢO TRỢ, CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG Bộ PHỦ TƯỚNG là bộ sao chủ bảo trợ, bảo vệ chăm sóc, nuôi dưỡng… Lợi cho sự nuôi trồng, con nuôi, vật nuôi… Dĩ nhiên là phải xét đến mất tác dụng và phản tác dụng. Cho nên nuôi con gà chết theo H5N1, nuôi con tôm chết theo dịch, nuôi con gái… vẫy, vẫy phải Công An. Công An vẫy vẫy chỉ vào trong khám. THẤT SÁT còn là cái khám đấy. * Tốt là nuôi dưỡng (vật nuôi, cây trồng, người…) thành công, hiếu thảo, chăm sóc phụng dưỡng người già, người thân. Gieo trồng ân tình, ân nghĩa là thực dân tốt. (nói đến thực dân, có người nghĩ đến thực dân Pháp, đâm ra ngao ngán, thực dân mà tốt chi). Đó là ta "bị" thực dân còn đây ta đang bàn ta "được thực dân", ta nên gieo trồng ân đức, gieo niềm tin, gieo trồng người. Dĩ nhiên có người gieo trồng việc ác, việc xấu… * Xấu là ta bị thực dân, ta bị ai đó gieo vào lòng ta những tư tưởng tay sai, bao che cho ta làm điều xấu xa, trợ giúp ta làm điều bại hoại, ta sống dưới ô dù kẻ xấu, ta núp dưới cái bóng của kẻ ác, ta tiếp tay, ta tương trợ, ta là kẻ giấu mặt làm điều xấu xa, kẻ bịt mặt gây tội ác. Xấu nữa là gì? Chính bạn là kẻ bao che, còn nặng tội hơn là kẻ được bao che làm việc xấu, việc ác… Mà dù THIÊN PHỦ núp kín ở đâu cũng dễ bị lộ, che kín mít cũng dễ bị loài đuôi, sơ hở vấn đề thời gian mà thôi. * Phức tạp là dễ nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Dễ gặp là chẳng phụng dưỡng người thân cho tròn chữ hiếu. Một vấn đề rất dễ nhưng khó thực hiện.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***69***


Vậy thì nuôi gì được nấy kể cả nuôi chí căm thù, trồng gì gặt nấy như quan niệm xưa nay. Có đúng thế không? Không đâu, xin nhớ cho là nuôi, trồng chắc chi có kết quả. Có kết quả chắc chi đã gặt được. Điều quan trọng nên nuôi trồng cái gì mình thích, vô hại với người khác còn gặt hái không nên bận tâm. MÁI ẤM TÌNH THƯƠNG: Mái ấm là THIÊN PHỦ chủ nhà lớn che chở. Tình thương là THIÊN TƯỚNG chủ trợ giúp, thương yêu. Cả 2 sao còn chủ sự vuốt ve, vỗ về an ủi, trợ giúp lẫn nhau. Cho nên có câu: “PHỦ TƯỚNG triều viên thiên chung thực lộc”. Tức là có ngàn chung thóc để ăn, thật ra có thể đúng với người nầy và sai với nhiều người khác, đó là lối nói thậm xưng. Nói chung là không lo đói có của để ăn, đa phần là nhờ sự trợ giúp của ai đó. Cá biệt bị phá cách mái chẳng ấm, tình chẳng ai thương. Bị bỏ rơi, bị ghen ghét chẳng ai tương trợ. KẺ CHỤP MŨ và bị chụp mũ. * Tốt là chụp mũ người, xấu là bị người chụp mũ. Phức tạp là hôm nay chụp mũ người ngày mai bị chụp lại y như thế, hay là hôm nay bị chụp mũ ngày mai được chụp lại. Nghiên cứu về cách chụp mũ thì nhiều vô số kể. Những cái mũ khó thừa nhận là phản quốc, hại dân, hại nước… Thế nên cuộc đời có lắm vui buồn. Có khi bị gọi là giặc, có thời kỳ lại là gian hùng, có thời là anh hùng, loay hoay lại bị gọi là giặc. Vì THIÊN PHỦ dễ gặp sao Lịch sử đó là VŨ KHÚC và bộ sao nầy hình thành đa dạng, đâu phải đứng yên tại Tý Ngọ để mà có nhận xét nhất quán. KẺ BỊT MẶT: * Do THIÊN PHỦ là sao chủ che đậy và luôn luôn kết hợp với THIÊN TƯỚNG là sao chủ trợ giúp, trong trợ giúp có lúc không muốn ra mặt phải che đậy, phải dấu tên, phải bịt mặt… Tốt là hiệp sỹ Zorro, Long Hình Quái Khách, kẻ dấu tên… Giúp người không cần trả ơn.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***70***


Xấu là Nịna, kẻ nặc danh, kẻ ném đá dấu tay, kẻ đội lốt, bọn 3 chữ K (bên Mỹ)… Gây hại để che tội, làm điều xằng bậy để không ai biết mình. PHÁN XÉT, NHÂN , CÔNG NHẬN, NHẬN XÉT, NHẬN ĐỊNH, NHẬN THỨC… đến PHỦ NHẬN Các từ kể trên đương nhiên mỗi từ có một ý nghĩa khác nhau nhưng có chung một nguồn từ ngôi sao THIÊN PHỦ mà ra, nó biến hóa ư? Không phải đâu. Chẳng qua chịu sự tác động vào của Chính tinh, bàng tinh trở thành khi thì được phán xét, khi bị phán xét, khi OK khi NO. Phiền nhất chỗ OK và NO không đúng nơi, đúng chỗ. Từ chỗ được thừa nhận, mặc nhiên thừa nhận biến thành phủ nhận. Cho nên THIÊN PHỦ là ngôi sao có tính thị phi, ồn ào vì chữ nhận và không nhận. Chính xác chỉ 1 từ thôi, đó là từ "nhận" nhưng lại thêm vào trước từ nhận một số từ (tiếp đầu ngữ) như công trong công nhận, không công nhận… xác như xác nhận. Chán thêm ở đầu thì thêm đuôi (tiếp ngữ vỹ) như xét, trong nhận xét. Định trong nhận định. Thức trong nhận thức… Ví dụ . Và cuối cùng cụ THIÊN PHỦ ừ, nhận thức vấn đề như vậy công nhận là đúng. Một câu văn có 3 từ ừ, nhận thức, công nhận đều là sao THIÊN PHỦ * Chủ nhận, là tiếng 'ừ', thừa nhận, công nhận là OK… Nói chung THIÊN PHỦ chủ nhận xét vừa ý thì công nhận, thừa nhận. Nhưng không vừa ý là phủ nhận, và từ chỗ là 'nhận nhau' chuyển thành 'giận nhau'. (Chú thích thêm, ví dụ nhận nhau là bạn, nhận nhau là vợ chồng, giận nhau thành nợ nần. Cách chơi chữ của người viết) * Nhận định, nhận thức là khi có thêm TỬ VI cao hơn nhận xét (vì ông TỬ VI suy nghĩ đã). Điều muốn nói THIÊN PHỦ hàm chứa sự thị phi bên trong, vì vậy đi với nhóm sao ngôn ngữ, nhóm thị phi tinh tất có

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***71***


chuyện. (Đảm bảo, khi cãi nhau có chữ 'nhận' làm chủ. 2 bên tiếp đầu ngữ cho chữ nhận, và tiếp vĩ ngữ cho chữ nhận.) CHE ĐẬY, CHE DẤU, CHE CHỞ: * THIÊN PHỦ là sao khéo che đậy từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, từ hành động đến lời nói. Vì thế THIÊN PHỦ kị gặp TRIỆT là dấu đầu lòi đuôi, gặp THIÊN KHÔNG là không thể che đậy được. Cho nên sao này được mô tả là cẩn thận như con giao long qua vực. Phú viết: “Nam THIÊN PHỦ giao long vãn uyên.” sao này luôn có THẤT SÁT đang quan sát, nhòm ngó. Vì vậy THIÊN PHỦ phải che, sợ e THẤT SÁT thấy hoặc đoạt. Khi THIÊN PHỦ giương cái gì ra đôi khi lại nhằm che đậy một cái khác. Đây là thủ đoạn thường thấy trong chính trị. Ví dụ: Mỹ tuyên bố khủng bố sắp sửa tấn công. Đôi khi cũng chỉ là láo lếu nhằm che đậy sự kiện khác. Từ vị trí sao THIÊN PHỦ nhị hợp luôn luôn có THÁI DƯƠNG nó chủ công khai, cái cần giương ra. Vậy cái mà THIÊN PHỦ cần che nằm ở đâu? Tại vị trí sao THÁI ÂM. Sao này luôn luôn đằng trước sao THIÊN PHỦ. Do tính chất được che chở, che dấu mà sao THIÊN PHỦ đóng tại cung MỆNH, PHÚC, TẬT rất hay. THIÊN PHỦ ví như được ô dù che chở. Do yếu tố đó mà THIÊN PHỦ cần gặp TỬ VI (chủ bao) tạo thành bộ bao che. Đi với KỴ HÌNH là can tội che dấu. NGƯỜI GIÀ: Chủ người già, bậc cha ông cho nên sao này tại Thân Mệnh còn chủ thọ. Hay nhất là có TẢ PHÙ lại gia thêm KHÔI VIỆT. Vì đã là người già bao giờ cũng cần người giúp đỡ, không phù hợp mấy với HỮU BẬT thiên về tay chân, võ biền. Nhưng nếu có ai đó có THIÊN PHỦ mà không may dạo chơi miền cực lạc, không chịu lên chức ông nội, ông ngoại… chết khi

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***72***


tuổi còn xuân. Tại vì THIÊN PHỦ mất tác dụng. Ngộ THIÊN KHÔNG có nghĩa chẳng phải ông già đâu? LỤC PHỦ trong cơ thể: THIÊN PHỦ chủ về các cơ quan gọi là lục phủ. Là dạ dày, mật, ruột già, ruột non, bong bóng, ba mạng mỡ. Phủ vì vậy không thể lộ càng kỵ TRIỆT. Vì gặp TRIỆT tức là thấy được ruột gan mình (nói cho có vần). Thấy được bao tử, ruột có chăng ông Bác sĩ thấy còn ta đau ốm cũng nặng lắm rồi. Nhiều người cùng thấy ruột gan ta tức ta chết vậy (đổ ra một đống). May ra hạn THIÊN PHỦ ngộ TRIỆT không chết vì cách TRIỆT lộ. Thì chết vì cái điều ta dày công che đậy biết bao nhiêu năm bây giờ phơi bày ra hết. Thế là chết nhưng không chết người mà chết danh giá, chết vì quy chụp bao tội lỗi trên đầu. Nếu là người trọng danh dự thà chết còn sướng hơn. Đến đây bạn mới thấy người xưa tài tình làm sao, giỏi làm sao, đáng phục làm sao. Chỉ 1 câu ngắn gọn. “THIÊN PHỦ tối kỵ KHÔNG VONG ngộ THANH LONG phản vi cát tường” Tức là khi bị lộ cụ THIÊN PHỦ còn cơ ăn nói, giải thích. Nếu không có THANH LONG hết đường ăn nói. Có nghĩa THANH LONG là tiếng nói. THIÊN PHỦ là lời nói, lời nói mà không có tiếng nói cũng như ta nói thầm…. trong bụng, biết mà nói không được. KHI TỐT: Là che lấp như ví dụ: Thế lực sức mạnh THIÊN PHỦ bao trùm toàn cầu, toàn quốc gia lân bang khiếp sợ. Ví dụ như hãng Microsolf công nghiệp của họ che lấp các công ty khác. Lời nói trấn an cả hằng triệu con người. Được sự ủng hộ nhiều người. Nhà cửa nhiều vô số kể, không ai có thể chiếm đoạt.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***73***


Được sự che chở của nhiều người đồng thời che chở cho nhiều người khác. Khi tốt THIÊN PHỦ xem THẤT SÁT là con mắt (camera) là tên lính canh gác nhà cho THIÊN PHỦ KHI XẤU: Là kẻ không nhà, ăn nhờ ở đậu. Bị che, bị lấp, bị vùi, bị phủ lên. Phũ phàng không được thương yêu vỗ về an ủi. Là phủ phục chịu tội. Là chẳng ai ủng hộ mình. Khi xấu là bị THẤT SÁT đoạt, là bị soi mói, nhòm ngó trước con mắt canh gác của sao nầy. LỜI KHUYÊN: Bạn phải học thuộc lòng phú TỬ VI. Dù hiểu hay không hiểu. Nhớ cho rằng từ từ rồi sẽ hiểu. Năm nầy chưa hiểu năm sau sẽ hiểu. Vì phú TỬ VI là vốn liếng để đoán TỬ VI không vốn liếng lấy gì đi buôn đúng chưa? Tôi viết như vậy bạn có hiểu không? Có khác thiên hạ không? Tôi còn che đậy điều gì không? Nếu có chẳng qua điều ấy ít quan trọng. BỘ TỬ PHỦ DẦN THÂN Gồm 2 sao TỬ VI , THIÊN PHỦ, gọi tắt là bộ TỬ PHỦ NHẬN XÉT: Đây là một cách cục hay, hoàn chỉnh. Bên trong là bộ TỬ VŨ LIÊM phối hợp hài hòa với bộ PHỦ TƯỚNG. Bên ngoài THẤT SÁT dòm ngó, quan sát. Nếu bên trong không bị phá cách tất THẤT SÁT trở thành lên lính canh gác bên ngoài, bên cửa ải, biên cương xa xôi. Trái lại bên trong không có trợ cách, lại bị thêm phá cách trầm trọng. Tất bên ngoài trở thành kẻ chiếm đoạt (thế khách mạnh hơn thế chủ). Kẻ bị mất địa vị là đây, thậm chí mất luôn cả sanh mạng. LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***74***


Đây là phần để luận đoán thêm trong trường hợp TỬ PHỦ Dần Thân. Hai bài cần thiết phải đọc kỷ để luận đoán là TỬ VI và THIÊN PHỦ. Phần luận đoán các chi tiết được áp dụng tại đây. HÀNH ĐỘNG và PHÁN XÉT, HÀNH ĐỘNG và PHỦ DỤ. Chúng ta thường xem trong truyện Tàu, sau khi đánh chiếm được thành trì của địch, các vị Tướng quân vào thành đầu tiên là vỗ về an ủi bá tính, để khỏi gieo hoang mang lo sợ cho họ, trấn an dư luận. Hành động là TỬ VI. Phủ dụ vỗ về an ủi là THIÊN PHỦ. Một sự kết hợp hài hòa giữa làm và nói. Cao hơn bộ Đào Hồng cũng nói và làm có tính chất loan báo mà thôi. Vì hành động của TỬ VI là hành động có suy nghĩ, vì trách nhiệm mà làm, sau khi LIÊM TRINH đã dò xét xong, VŨ KHÚC tìm cách giải quyết và TỬ VI hành động theo một lối nào đó, không như Đào Hồng vui thì làm. Vậy bộ TỬ PHỦ là một kết hợp rất hay giữa hành động và lời nói. BAO CHE, BAO BỌC CHE CHỞ. KẺ CHE ĐẬY, TRÁCH NHIỆM phải CHE CHỞ: Một sao chủ bao bọc là TỬ VI. Một sao chủ che chở là THIÊN PHỦ. Một sao chủ bao lại được một sao chủ che, kết hợp thành một bộ, gọi là bộ bao che. Chủ bao che, bảo trợ. Tốt là được sự bao che của người cũng như của thần linh, tiên tổ và có thể bao che cho kẻ khác. Xấu (xem phần Kỵ gặp ở dưới) là không được người khác bao che, bao che không kết quả. Chẳng bao che được cho kẻ khác. Xấu nữa là can tội bao che. Do tính chất kể trên mà có câu: “TỬ PHỦ đồng cung tối vi phúc hậu, thiết hiềm nội trở TRIỆT TUẦN” Chữ phúc hậu đó mô tả sự bao che, bảo trợ cho kẻ khác (được kẻ khác đánh giá là phúc hậu thương người, che chở cho họ) và bị mất tác dụng bởi TUẦN TRIỆT. Vì TRIỆT chủ trừ bỏ và TUẦN chủ sự phong tỏa, đề phòng của kẻ khác. Cả 2 sao đều sợ Tuần Triệt bởi thế có câu:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***75***


“TỬ PHỦ đồng cung ‘đế vô sở quyền’ nan giải tai ương do như TUẦN KHÔNG xâm nhập” ‘Đế vô sở quyền’ Vua không có quyền lấy đâu giải được tai ương cho chính bản thân mình, chứ nói chi cho người khác, một ông vua bị sao TUẦN nó vòng lại trong một vòng tròn khép kín, một ông vua bù nhìn thì có. Vua phải tuân theo, phải ngoan ngoãn còn gì là vua nữa. Còn TRIỆT thì sao, nửa vua nửa dân, Vua chẳng ra vua dân chẳng ra dân. Chắc chắn không sớm thì muộn chẳng còn làm Vua nữa. Một số ví du về bao bọc và che chở: Được bao bọc trong lụa là gấm vóc, được sự che chở của nhân dân. Sống nơi kín cổng cao tường. Chúng nó bao che lẫn nhau, rốt cuộc chẳng ai có tội. Có nhiều trường hợp như là bao gái, có kẻ lại được gái bao. Vấn đề là được sự bao che của ai? Và bao che cho ai? Bao che che cái gì khó luận đoán hơn. BẢO với nghĩa như... Đứng ra gánh vác như: Bảo lãnh, bảo hộ, bảo vệ, bảo chứng, bảo hiểm, bảo kê...Vd: Được bảo lãnh đi ra nước ngoài. Là sao TỬ VI có thêm THIÊN PHỦ. Trong cách TỬ PHỦ còn bao hàm nhiều cách hay khác như Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung. THỪA NHẬN: Được thừa nhận và thừa nhận kẻ khác. Ví dụ được thừa nhận là kẻ kế thừa sự nghiệp tiên tổ, hưởng tước hiệu cha ông để lại. Ví dụ thừa nhận A là con cháu. Xấu là không được thừa nhận, bị phủ nhận. Thừa nhận những công việc, công lao, đóng góp. Xấu là không được thừa nhận, bao công lao công sức bị lãng quên hoặc người khác thụ hưởng. Trong cách Tử Phủ còn hàm chưa nhiều cách hay như:

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***76***


KẾ THỪA, KẾ TỤC, TIẾP NỐI SỰ NGHIỆP… người viết không đi sâu nhưng các bạn cũng thừa hiểu. BẢO MẬT cách. CHE ĐẬY BÍ MẬT. BÍ MẬT phải CHE ĐẬY: Bảo mật gì? Tức che đậy bí mật. Bảo mật là bộ sao TỬ VI THIÊN PHỦ gọi tắt là TỬ PHỦ, trong đó TỬ VI chủ bí mật, THIÊN PHỦ chủ che đậy. Tức bí mật phải che đậy. Thành ra đây là bố cục rất hài hòa, hợp lý. TỬ VI cần được nhìn thấy THIÊN PHỦ đồng cung hoặc tam hợp. Có thế mới tốt. Bảo mật gì? Bảo mật cơ sở, bảo mật tài liệu, tin tức, công việc,... Có nhiều cái chúng ta cần bảo mật, nhất là khi trách nhiệm càng cao, nhiệm vụ càng lớn những chuyện tưởng chừng như đơn giản như đau ốm bệnh tật trong người cũng được bảo mật tối đa, chỉ ngững người có trách nhiệm mới biết. Bảo mật sợ gì? sợ ngộ THIÊN KHÔNG là không kín đáo, không thành. Sợ tiết lộ, sợ khám phá tức nhóm SÁT PHÁ, sợ lộ tức là TRIỆT. Đáng sợ nhất là ngộ Tam KHÔNG, có thể đưa đến chết người, chứ không phải thuần tuý hỏng chuyện mà thôi. Bí mật có thể là bí mật của bệnh tật, bí mật thân thế, bí mật công việc, bí mật tình yêu trai gái, bí mật hợp tác, bí mật trong nghiên cứu...Có muôn vàn bí mật. Đôi khi nó phơi bày lộ liễu trước con mắt chúng ta, nhưng nó kín đáo trước con mắt của kẻ khác. Bí mật với người này nhưng không bí mật với kẻ khác. Nói chung ai cũng có những bí mật không muốn tiết lộ, hoặc chưa phải thời điểm tiết lộ, trong kinh doanh cũng có muôn vàn bí mật, trong quân sự cái gì cũng có thể là bí mật. Tiêu pha cũng là bí mật. Từ đó bộ TỬ PHỦ có nghĩa: Có trách nhiệm phải che đậy. Ví dụ: Anh là một Sỹ quan, anh phải có trách nhiệm che đậy mọi công việc anh làm, anh không được tiết lộ cụ thể anh đang làm cái gì. VÌ SAO phải BÍ MẬT: Bộ TỬ PHỦ luôn luôn có THÁI ÂM hình như có âm mưu phía trước, THẤT SÁT nhòm ngó, khám phá, phanh phui ở cung xung

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***77***


chiếu. Vì vậy bảo mật là thượng sách. Đây là cách bên trong bí mật che đậy kín đáo, bên ngoài tìm cách quan sát, chiếm đoạt. Bên trong tốt tức bên ngoài không thành, bên trong che chắn không tốt tức bên ngoài đoạt được, cướp đươc, quan sát được, khám phá được. Điều quan trọng là bí mật có quan trọng không? Bí mật gì? Thành công hay thất bại. Bí mật bao giờ cũng sợ bị khám phá, bị lộ, bị tiết lộ, hoặc không thể che đậy kín đáo được. Đó là lý do bộ sao này kị gặp Tam KHÔNG. Khi che đậy cái nầy tất phải dương cái khác ra. Cung dương ra là cung THÁI DƯƠNG Tỵ Hợi. Cung có âm mưu là THÁI ÂM tại Mão, Dậu. Để có cặp mắt tinh tường ( phát hiện đối thủ) trong trường hợp nầy cần có HÓA QUYỀN. NHÀ LỚN và NHÀ CHÍNH. "Thâm nghiêm kín cổng cao tường. Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh" Nhìn hình trên. Bức tường thành mà bạn nhìn thấy là Hoàng thành, vị trí đang đứng là nằm bên trong Kinh thành Huế (gọi theo cách dân gian là Nội Thành). Từ vị trí này muốn vào cung cấm phải đi qua Hoàng Thành (qua 4 cổng, tùy nhiệm vụ phải vào theo cổng nào). Muốn vào nơi ở thâm nghiêm nhất Tử Cấm Thành của Vua cũng hình thành 4 cái cổng. Các cung trong Đại nội cũng đều có tường thành riêng, nơi ở, nơi thờ tự đều có các bức tường thành bao bọc. Lại thấy cổng tiền, cổng hậu các cung nhan nhản… Chúng ta cũng chẳng phải là Vua chúa nhưng những người có TỬ PHỦ hội họp không nhất thiết đồng cung như tại đây luôn luôn ưa cuộc sống kín đáo, nhà có tường cao (dạng biệt thự) nhà ngang dãy dọc. Thấp xuống là có phòng riêng, buồng riêng. Khi nói đến các cụm từ: kín cổng cao tường ta phải hình dung ngay đến bộ TỬ PHỦ. Cũng sẽ có một người TỬ PHỦ nào

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***78***


đó, ngữa mặt lên trời than rằng: Ôi! Tử Phủ chi lạ rứa, tôi đang ở trong 1 túp lều cuối một con đường làng hẻo lánh. Thì có gì đâu Tử Phủ ngộ tam Không chưa chết là may rồi. TRONG ĐỊNH, NGOÀI ĐOẠT: Bên trong quyết định (nhận định, ý định, thừa nhận, phủ nhận) nhưng bên ngoài lại đoạt. Có nghĩa là bên trong có ý định, nhưng quyền lại nằm bên ngoài. Muốn vậy thì cái cung xung chiếu phải xấu hơn 1 tí thì cách TỬ PHỦ mới toàn quyền định đoạt. Cho nên cách TỬ PHỦ kém hơn cách TỬ VI cư Ngọ là vì thế (Bên trong quyết đinh bên ngoài mới được tham gia). Tuy nhiên đây là thuộc hạng cách hay, càng hay hơn khi cung chính chiếu là THẤT SÁT yếu hơn một tí, bằng không cung tọa thủ bị uy hiếp nặng nề, có thể đưa đến mất quyền định đoạt như đã nói, đến mất địa vị, mất sự bao che và cho đến mất mạng. Cái khó của cách TỬ PHỦ phải cần thật tốt mới đoạt phía bên ngoài. NHẬN ĐỊNH, NHẬN XÉT: Chủ nhận định tình hình, tình thế, sự tình, sự việc...Tốt là nhận định đúng. Xấu là nhận định sai có thể đưa đến thất bại, khi nhận định sai một tình huống sự kiện. Cách TỬ PHỦ cư Dần Thân cần gặp và kị gặp. CẦN GẶP: TẢ HỮU: ưu tiên hàng đầu để hưởng cách “Nhất hô bách nặc”. Và cần thiết có TẢ PHÙ, HỮU BẬT mới đắc lực. Nói chung có người để trợ giúp. Nếu có thêm LỘC TỒN chỉ ngần ấy thôi không bị phá cách cũng phú quí hơn người. Được phê “Quí bất khả ngôn” Quí không hết lời để mô tả. LỘC TỒN chủ sự trường tồn, tồn tại vững bền. Đồng thời tránh được khó khăn và cản trở của bộ Kình Đà gây ra. KHOA QUYỀN LỘC thành đạt lớn càng lớn hơn khi có thêm các sao dưới đây. Cần có đủ tam Hóa mới hay, Nhị Hóa các bộ KHOA QUYỀN. KHOA LỘC là hay.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***79***


KHÔI VIỆT, XƯƠNG KHÚC… nhóm Văn tinh lợi cho trình độ, tài năng. TỨ LINH : Lợi cho sự kính trọng mến mộ. CÁO PHỤ, QUANG QUÍ… Vẽ vang THAI TOẠ lợi cho sự thanh nhàn…. KỊ GẶP: KỊ HÌNH: Vi phạm pháp luật, sương đọng mây tan. ĐÀO HỒNG KHÔNG KIẾP: yểu. Chỉ có ĐÀO HỒNG không có KHÔNG KIẾP vẫn tốt. “TỬ VI mạc phùng KHÔNG KIẾP HỒNG ĐÀO nhập Mệnh giảm thọ”. Mạc phùng là đừng gặp, nếu gặp là tạo ra tai họa cho mình. TAM KHÔNG: Dễ chết. Gặp THIÊN KHÔNG khó thành, Nhiệm vụ không hoàn thành… TRIỆT bí mật bị lộ, nửa chừng đứt gánh… Gặp TUẦN bị phong tỏa, chịu sự sai khiến của kẻ khác. TỬ VI có thể gặp Tuần hay TRIỆT nếu như 2 sao này đóng ở Tài cung. Có thể gặp HOẢ LINH càng tốt, có tính chuyên môn. Cần có thêm Quyền chủ Lịnh lạc khẩn cấp là yếu tố quan trọng trong lãnh đạo. Nếu thấy LINH Vị có thể gặp cách LINH XƯƠNG LA VŨ. Có thể gặp HOÁ KỊ nhưng đừng có THIÊN HÌNH, như giải thích ở trên. Cần gặp thêm Quyền. Quyền cấm đoán chỉ lãnh đạo cao cấp mới có. THIÊN HÌNH có thể gặp cần có LỘC TỒN hay nói cách khác phù hợp với bộ BINH HÌNH TƯỚNG ẤN. Cần có thêm QUYỀN được quyền trừng phạt. Có LỘC TỒN tức có thể tránh hình thành các bộ HÌNH KÌNH , HÌNH ĐÀ…Có HÌNH kị gặp thêm các sao: KỊ, KHÔI, VIỆT, KHÔNG KIẾP… KHÔNG KIẾP: Đi với THIÊN KHÔNG là nhiệm vụ không thành. Đi với KIẾP là gánh tai gánh họa. Tự làm khổ mình. Đủ bộ

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***80***


là không thành mà còn là tai họa. Nếu có ĐÀO tự mua họa vào mình càng khó tránh. KÌNH DƯƠNG: nếu có tất buôn bán lớn. Nên Kinh thương. ĐÀ LA: là kém sút, thua thiệt ưa thối lui vào hậu trường không ưa đua tranh, dễ bị thua thiệt. MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN: “Lưỡng LỘC Ngọ Dần nhi phùng TỬ VŨ Đinh Kỷ âm nam phú đa danh thọ” TỬ PHỦ cư Dần tuổi Đinh Kỷ được hưởng câu này, tất nhiên không có các sao ở thành phần Kỵ gặp. “Cấn Canh TỬ PHỦ vi phật nhi” Cách TỬ PHỦ Dần Thân có dáng dấp bệ vệ đài các như Phật. Xuất thân trong đền đài dinh thự không cao sang sao được. “TỬ PHỦ đồng cung vô sát tấu. Giáp nhân hưởng phúc chung thân” Đương nhiên không có Sát tinh tụ tập. Sát Tinh đây là ông KHÔNG KIẾP. Nếu có Hỏa Linh Kình Đà tất các sao này quay qua hỗ trợ KHÔNG KIẾP. Chỉ KHÔNG KIẾP thôi là đã hỏng cách rồi. “Trương Tử Phòng thao lược đa mưu phùng TỬ PHỦ KỊ QUYỀN” Chủ quyền biến, được quyền cấm đoán, không cần lịnh Vua. Ở chốn chiến trường các Tướng Quân được toàn quyền quyết định, chờ lịnh Vua thì đã muộn rồi. “TỬ PHỦ triều viên LỘC TỒN phùng. Chung thân phúc hậu chí Tam công” Có LỘC TỒN thôi cũng sung sướng một đời, nhờ tồn chủ tồn tại đi với Liêm chủ dài lâu. Hình thành bộ trường tồn. Nhưng nếu thêm KIẾP vào là trường tồn một tai họa không có thể phá bỏ. “TỬ PHỦ triều viên thực lộc vạn chung”

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***81***


Có vạn chung thóc ăn cả đời không hết. Được bao lại được che mà. “LỘC MÃ được ngồi kề TỬ PHỦ. Ở Dần Thân phú hậu chung thân” “Dần mộc PHỦ VI hữu hội TAM KỲ KÌNH BẬT cư lai. Thân mệnh xuất võ do văn, uy quyền qui phụ chung thân mạc phùng KHÔNG KIẾP hư vô” Câu này mô tả một trường hợp cá biệt nào đó. TỬ PHỦ tại Dần có KÌNH (tức các tuổi BÍNH MẬU, TÂN mà các tuổi kể trên không thể nào có đủ bộ tam Kỳ (KHOA QUYỀN LỘC). Câu phú này còn mở rộng các trường hợp tại Dần cung có Tử Phủ hội họp, như cách VŨ TƯỚNG cư Dần, THẤT SÁT cư Dần… Dù có tam Kỳ, tam lạ gặp KHÔNG KIẾP là ông ấy lắc đầu đành chiều theo ý của ông. Bởi thế Bửu Đình đã phong cho là vị giám khảo cuối cùng. “TỬ VI nam Hợi, nữ Dần cung. Nhâm Giáp sinh nhân phú quí đồng” Câu này nói không rõ ràng. Chỉ thấy Giáp nam hay nữ ở Dần cũng hay. Nếu ở Hợi thì tuổi Nhâm hay. Có LỘC TỒN tại MỆNH khỏi bị rối ren bởi KÌNH ĐÀ. “TỬ VI THẤT SÁT gia KHÔNG VONG hư danh thụ ấm” Có một trong 3 sao Vong (tam Không) là hư danh không thực tài chẳng qua là thụ ấm trạch của cha ông để lại mà thôi. “TỬ VI QUYỀN LỘC hội DƯƠNG ĐÀ tuy hoạnh cát nhi vô đạo vi nhân tâm thuật bất chính” Thực chất, đây là hình ảnh bon chen, đội đạp lẫn nhau trong vòng danh lợi. Quân tử tại dã, tiểu nhân tại vị. “Cái vòng danh lợi loanh quanh. Kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào”.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***82***


Trong cái vòng đó có lắm người bất mãn rút lui thà rằng làm quân tử nghèo nơi thôn dã. Còn hơn vào lòn ra cúi công hầu mà chi. “Lưu Huyền Đức đạt thừa Hán nghiệp, thi ư TỬ PHỦ, KHOA QUYỀN, HÌNH ẤN, HỒNG KHÔI Mệnh, Thân.” Câu này chứng tỏ Hình nằm đúng bộ vị vô hại, tự nó có nơi có chỗ để hình, hình trong việc bắt bẻ trong tác phong, quan phục… ăn mặc như thế nào đi đứng ra làm sao. “TỬ PHỦ ngộ KHOA QUYỀN LỘC hựu gia TUẦN TRIỆT KIẾP KHÔNG, HÌNH HOẢ. Phú nhi bất quí hữu hư danh” Câu này, nếu gặp trường hợp trên, tất thị KHOA QUYỀN LỘC chỉ là ảo vọng mà thôi. Vì tam Hóa ngộ tam Không lo làm giàu danh vọng chi nữa, vào công danh gặp nạn thì có. Hưởng chữ phú chắc chi đã trọn vẹn. Vì THIÊN PHỦ tối kỵ tam Không vì ông nhà giàu mở miệng nói tam Không trong đó chắc chắn có không phải nhà giàu đâu… Bài TỬ PHỦ dừng tại đây. Về sau người viết sẽ tiếp tục thêm vào: TỬ PHỦ qua 12 cung luận đoán LIÊM PHỦ Thìn Tuất cách GỒM 2 SAO LIÊM TRINH, THIÊN PHỦ. GỌI TẮT LÀ LIÊM PHỦ NHẬN XÉT: Hợp cách, đây là sự phối hợp hài hòa giữa 2 bộ TỬ VŨ LIÊM và PHỦ TƯỚNG hình thành bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM hoàn chỉnh cách cục, có sự giám sát của THẤT SÁT từ bên ngoài. Được gọi là cách LIÊM PHỦ, bên trong còn có cách VŨ TƯỚNG, TỬ VI đơn thủ và còn hình thành cách LIÊM SÁT ‘nội LIÊM ngoại SÁT’. Vì vậy cần tìm hiểu tất cả các cách có liên quan để luận đoán được chính xác.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***83***


Nằm ở vị trí LA VÕNG chi địa có nhiều oan khốc, ẩn tình dễ bị vu oan giá họa. Mệnh, Hạn tại vị trí nầy chú ý các tính oan ức của nó. Nhất là vị trí sao KHỐC hội họp tại đây. Nhì là ĐƯỜNG PHÙ. Cần xem lại bài LA VÕNG. Ở vị trí này có thể gặp cách hay “Giáp KHÔI, giáp VIỆT thiểu nhân tri” (trẻ tuổi hiểu biết nhiều). Được đánh giá là một vị trí tốt chỉ kém cách TỬ PHỦ Dần Thân. Có những cách hay như “TỬ PHỦ triều viên thực lộc vạn chung” “PHỦ Ngọ, Tuất hợp cùng cát diệu. Tránh KHÔNG KIẾP tuyệt diệu sang giàu” “Tứ mộ LIÊM TRINH, THẤT SÁT phú quí phong lưu” “THIÊN PHỦ cư Ngọ, Tuất THIÊN TƯỚNG lai triều. Giáp nhân nhất phẩm chi quí” LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU: CHE ĐẬY VÀ THEO DÕI: Che đậy là THIÊN PHỦ, theo dõi là LIÊM TRINH. Vừa che đậy, vừa theo dõi nói lên cái tính đa nghi trong trường hợp nầy, ta cũng biết THIÊN PHỦ có tính rất cẩn trọng tại đây đi với LIÊM TRINH ưa dò xét có phần thái quá. Bởi vì như ta đã biết bên ngoài luôn luôn có THẤT SÁT quan sát, nhòm ngó hoặc muốn chiếm đoạt gì đây. Cho nên có câu: “Thìn Tuất PHỦ TƯỚNG cùng suy. Tính hay chấp nhất đa nghi mọi người” Ta có thể gọi che đậy, theo dõi là cái nghiệp của cách này, nghiệp đó cũng là nghiệp tốt, ví dụ để ý coi thử nó có đủ ăn không để giúp đỡ cho chúng nó, có bị ức hiếp không để che chở cho nó, như con gà mẹ xòe cánh ra che chở cho đàn gà con . Trở thành nghiệp chướng che đậy khi có KỴ HÌNH dễ can tội do bao che mà ra, tức bao che cái xấu, cái ác vi phạm điều cấm kỵ. Trở thành cái nạn, cái họa (KIẾP) hết bao che cái này đến cái khác, hết người này đến người khác. Mất tác dụng thì chính bản thân

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***84***


mình không đủ áo quần che kín còn lấy đâu che chở cho ai, còn bị soi mói vào đời sống. BAO TRÙM... Tốt là thế lực, quyền lực, nhà cửa, sự theo dõi bao trùm nhiều lãnh vực và nhiều nơi, trở thành loại trùm sò. Xấu tức là mất tác dụng bởi Tam KHÔNG, bị người ta bao trùm, bao phủ, bao che, che lấp... Ví dụ khi nói nói đến sức mạnh gia khi nói đến ta chưa nói đên thân

đến nước ngọt ta hay nghĩ đến Coca, Pepsi... quân sự ta nghĩ đến nước Mỹ. Có những quốc cũng không biết nó nằm ở châu lục nào đây, phận một con người.

BẢO MẬT: TỬ VI ở vị trí Tí Ngọ Thìn Tuất Dần Thân và THIÊN PHỦ ở Tí Ngọ Thìn Tuất dĩ nhiên là ở cả Dần Thân được đánh giá có tính chất bảo mật cao. Một sao chủ bao bọc và gặp thêm một sao chủ che đậy hỗ tương lẫn nhau tạo ra cách bảo mật. Quan trọng là. Bảo mật gì? Bảo mật cơ sở, bảo mật tài liệu, tin tức, công việc,... Bảo mật sợ gì? sợ ngộ KHÔNG (THIÊN KHÔNG) là không kín đáo, không thành. Sợ tiết lộ, sợ khám phá tức nhóm SÁT PHÁ, sợ lộ tức là TRIỆT. Đáng sợ nhất là ngộ Tam KHÔNG, có thể đưa đến chết người, chứ không phải thuần tuý hỏng chuyện mà thôi. Bí mật gì? Bí mật có thể là bí mật của bệnh tật, bí mật thân thế, bí mật công việc, bí mật tình yêu trai gái, bí mật hợp tác, bí mật trong nghiên cứu...Có muôn vàn bí mật. Đôi khi nó phơi bày lộ liễu trước con mắt chúng ta, nhưng nó bí mật, kín đáo trước con mắt của kẻ khác. Bí mật với người này nhưng không bí mật với kẻ khác. Nói chung ai cũng có những bí mật không muốn tiết lộ, hoặc chưa phải thời điểm tiết lộ, trong kinh doanh cũng có muôn vàn bí mật, trong quân sự cái gì cũng có thể là bí mật. Tiêu pha cũng là bí mật. Trong lãnh đạo chỉ huy cần bảo mật thật tốt mới thành công. Lên mạng buộc phải bảo mật Mật khẩu.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***85***


THỌ CAO. Tuổi thọ là cách nổi bật của bộ sao này. Đa phần những người này tuổi thọ rất cao vì THIÊN PHỦ là bậc cha ông, kết hợp với các sao THAI PHỤ, THÁI TUẾ tuổi thọ càng tăng cao hơn nữa. Tất nhiên nó sẽ mất tác dụng khi ngộ THIÊN KHÔNG, vì sao THIÊN KHÔNG lúc lắc cái đầu nói rằng: Không phải như thế ạ. Ta phải dành luận theo ông THIÊN KHÔNG vậy. NHÀ CỬA BỀN VỮNG. PHÚ ÔNG cách giàu có lâu dài. Phủ là cửa to lớn, nhiều nhà gộp lại ta gọi là phủ, tất nhiên trong đó có ngôi nhà chính. Mệnh có THIÊN PHỦ tất Điền cung có CỰ MÔN (cửa ngõ) phối hợp với nhau rất hài hòa. Yếu tố này sẽ nổi bật hơn khi có thêm PHƯỢNG CÁC tạo ra khuynh hướng ưa thích chú trọng làm đẹp nhà cửa nhiều hơn. Từ đó, cũng cách LIÊM PHỦ ta luận người này chú trọng nhà cửa nhiều hơn người khác, còn nói chung nó chủ bền vững, nhà to cửa lớn. Nhưng nếu ngộ THIÊN KHÔNG, nhất là TUẦN TRIỆT mang ý nghĩa ngược lại. Chú ý là ngộ tức là đồng cung, đương đầu với TUẦN TRIỆT. Từ vị trí LIÊM PHỦ khó tránh khỏi có TUẦN hay TRIỆT hội họp. Nhóm Tam KHÔNG rất kỵ với bộ sao này. VỖ VỀ, AN ỦI...BẢO BAN, PHÊ PHÁN, HIỆU TRIỆU. THIÊN PHỦ là sao dùng lời nói để trấn an kẻ khác, cũng có khi trấn áp kẻ khác. Theo dõi thời sự chúng ta bết rất rõ điều này. Một THIÊN PHỦ giỏi cần đi với THANH LONG chủ tiếng nói. Đặc biệt THIÊN PHỦ rất ái mộ THANH LONG nếu có TUẦN TRIỆT có cả THANH LONG vẫn luận đoán là tốt. Là bộ sao thiên về văn tinh, cánh tay trái hỗ trợ đăc lực cho cách TỬ VI đơn thủ, phối hợp với cách VŨ TƯỚNG cánh tay phải của ngôi TỬ VI... Ví dụ, thỉnh thoảng ta thường nghe các vị nguyên thủ quốc gia dùng lời nói để trấn an dư luận, nhưng cũng có người hăm dọa cho cuộc đời thêm vui, như là tui sắp thử bom nguyên tử đây, phóng thử tên lửa tầm xa. Một THIÊN PHỦ xấu là cả vú lấp miệng em. Một THIÊN PHỦ tội nghiệp bị bịt miệng, bịt mồm không nói được, thậm chí không ai bịt cũng không dám nói.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***86***


Qua đó ta thấy LIÊM PHỦ cần có HÓA QUYỀN mới hay, được quyền ăn nói phê phán cần có THANH LONG chủ tiếng nói. (Nhưng THIÊN PHỦ đi với TẤU THƯ hay LỘC TỒN, PHỤC BINH ta có hướng luận đoán khác. Như đi với LỘC TỒN là cái kho, là sự dành dụm, cất giữ, dồn cất tức công việc của mình làm có liên quan đến nhà cửa kho tàng. Đi với PHỤC BINH có ĐIẾU KHÁCH thiên về dùng nhà cửa để phục vụ cho khách, đi với TẤU THƯ biên chép liên quan đến văn phòng....) HÌNH TƯỢNG: NGƯỜI GIÀ ĐẠO ĐỨC, LIÊM KHIẾT... Hình tượng của bộ sao là người già liêm khiết, trong sáng, đạo đức. Tuy nhiên sao LIÊM TRINH có đặc tính ham vui nên gọi là Đào Hoa thứ 2. Cùng lúc ấy cung Phu Thê có PHÁ QUÂN là ngôi sao dễ bỏ người này gắn bó với người khác. Vì thế người có cách LIÊM PHỦ vấn đê tình cảm có tính phức tạp, nhất là khéo che đậy. Cho nên khi nói đến vấn đề trong sáng ta phải khoanh vùng nó lại vì tính chất Đào Hoa của sao LIÊM TRINH (và sao này còn là hình tượng của thiếu nữ), MỆNH có ĐÀO HOA càng phức tạp thêm, nếu như không có qua hạn ĐÀO HOA thì cũng bị nó hành. COI NGÓ, TRÔNG NOM NHÀ CỬA, QUẢN LÝ. Bộ LIÊM PHỦ còn giỏi về việc quản lý, giám sát, cai quản, quản thủ... nhà cửa cơ quan, như bảo tàng, thư viện....Tùy thuộc cát tinh nhiệm vụ của nó có thể rất là lớn. Xấu bị mất tác dụng chỉ còn cách ngồi đó trông nom nhà cửa. BIỂU TƯƠNG: Nhà đất, Tài sản, Người... Về nhà đất, tại đây có THIÊN PHỦ chủ nhà to lớn, TỬ VI nhà chính rất hoàn chỉnh Tài sản thì có VŨ KHÚC. Người thì có người già là THIÊN PHỦ, thiếu nữ là LIÊM TRINH. Vỗ về an ủi lẫn nhau (nếu như không có KỊ HÌNH và các phản cách khác.) cuộc sống có vẽ êm đềm, phú quí Cách LIÊM PHỦ cư Thìn Tuất cần gặp và kị gặp Để luận đoán cách LIÊM PHỦ xấu tốt cần gặp và kỵ gặp một số sao sau đây.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***87***


CẦN GẶP: TẢ HỮU: Nếu chỉ có 1 sao cần nhất là TẢ PHÙ thành cách ‘TẢ PHỦ cách tôn cư vạn thặng’ . Bộ TỬ HỮU rất cần thiết để đánh giá thành công của cách LIÊM PHỦ. Đôi khi chỉ có bộ sao này đừng gặp phá cách nghiêm trọng cuộc đời cũng rất dễ chịu. THANH LONG: Cát tường dù có TUẦN TRIỆT vẫn tốt đẹp. TƯỚNG QUÂN: Hợp cách, hợp thành cách lưỡng Tướng. ‘Trọng Do uy mãnh’ LỘC TỒN rất hay, bền vững lâu dài và còn tạo ra nhiều cách hay khác. Như vậy trong chòm LỘC TỒN có 3 vị trí phù hợp với cách LIÊM PHỦ, gia thêm KHÔI VIỆT thật lý tưởng. Chòm THÁI TUẾ nên gặp PHƯỢNG CÁC hội họp lợi cho công danh và nhà đất và kỵ BẠCH HỔ đồng cung, chủ bày tỏ bị tai họa. XƯƠNG KHÚC có tính phức tạp khi đi với LIÊM TRINH. Hợp với THIÊN PHỦ đi với LỘC TỒN là cự vạn chi tứ, có TẢ HỮU là cao đệ ân vinh. Đa tài đa năng nhưng kỵ gặp thêm LINH TINH xem phần kỵ gặp ở dưới. KỊ QUYỀN: Trí túc đa mưu. Hợp can Giáp, Kỷ: “THIÊN PHỦ Tuất cung vô sát tấu. Giáp, Kỉ nhân hoạnh phát danh tài” KỊ GẶP: Tam Vong kị cho THIÊN PHỦ. Rất kỵ các trường hợp đồng cung với THIÊN PHỦ làm cho sao này hoàn toàn mất tác dụng, còn mang ý nghĩa ngược lại. ĐỊA KIẾP chủ nhiều tai lắm nạn hoặc bị áp bức, bị che lấp, che phủ... bởi thế lực khác.

Tử Vi Ứng Dụng Bửu Đình *** Quyển 1 ***

***88***


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.