danh ná duyên anh
danh ná duyên anh
bìa: Đinh Tiến Luyện trình bày: anywhere nguồn: Internet
danh ná duyên anh
Chỉ còn mỗi cậu chích chòe chót vót trên ngọn cây mận già véo von khúc nhạc diễm ảo. Mặt trời đã nhô lên quá bờ trúc. Các sắc chim ánh ỏi chào đón bình minh giây lát rồi vỗ cánh bay đi, để lại một buổi sáng mùa hè tĩnh mịch cho thôn ổ. Cậu chích chòe chưa chịu rời chỗ đậu. Như Danh ná chưa chịu mở mắt. Chích chòe say mê ngắm những giọt sương khiêu vũ. Và tạm biệt nhau, hò hẹn sớm mai. Cuộc tình của sương nắng gây bâng khuâng tâm hồn cậu chích chòe. Cậu cảm xúc và giọng hót của cậu thiết tha, trải rộng, lan tỏa, bao trùm bầu trời quê hương. Nhưng Danh ná, tại sao nó chưa chịu mở mắt?
Chiếc chiếu trải giữa sân đất. Danh ná nằm ngửa, tay vắt ngang trán. Bên cạnh nó là đồ đệ Chơn Chơn đạo nhơn. Con gà trống tre khôn ngoan không dám gáy, đứng bất động ngoài mép chiếu. Bỗng ngứa cổ
Anh
quá, nó gáy vang. Danh ná vụt thức. Nó mở bừng mắt. Đúng lúc nhà nghệ sĩ chích chòe từ giã cây mận. Vẫn nằm tư thế cũ, Danh ná thấy một đoàn phi cơ ruồi xanh xếp thành đội hình rất ngoạn mục. Ruồi xanh chẳng được cái tích sự gì. Chúng vo ve điếc tai và gây bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Nhưng chúng có biệt tài. Là xòe cánh bay quá tầm đầu người, y hệt một đoàn phi cơ biểu diễn nghệ thuật. Danh ná vốn ghét ruồi. Nó thề không bắn chim vì chim giúp vui cuộc sống, giúp ích nhà nông. Ở Chắc Cà Đao đã hết cú vọ. Những con cú vọ đem tin buồn đến, đều bị Danh ná hạ gục. Bây giờ, Danh ná giải sầu bằng cách bắn cá dưới nước. Để tiến xa hơn trong nghề súng cao su, Danh ná tập bắn mối, bắn nhện. Danh ná thửa 2 một kiểu ná nhỏ xíu. Giàn thun là hai sợi thun gói đồ với loại đạn bé tí cơ hồ viên thuốc cốm.
Danh ná vươn tay, ngáp dài. Giọng ngái ngủ, nó hỏi Chơn Chơn đạo nhơn: – Mày thức chưa, Chơn? Chơn Chơn đạo nhơn đáp: – Rồi.
– Vậy nằm im. Nhìn các bạn ruồi xanh đùa bỡn chứ? – Dạ. – Phi cơ giặc đó. Chúng sắp bỏ bom vi trùng. Đưa ná thửa đây, tao cho chúng hết đường gieo bệnh. Chơn Chơn đạo nhơn móc túi lấy ná thửa trao tay Danh ná. – Mày tiếp tế đạn đều đều, nghe! Chơn Chơn ngoan ngoãn: – Dạ. Danh ná dùng ngón tay quệt quệt cục ghèn khô vướng ở đuôi con mắt trái: – Thằng gà tre sẽ thưởng thức bữa điểm tâm ngon ơ... Danh ná lắp đạn. Giương súng. Nhắm. Nó nhấn “cò”. Một phi cơ ruồi rớt. Danh ná nghiêng đầu “bập bập” kêu chú gà tre. Nó ra lệnh: – Gáy!
Anh
Chú gà tre vỗ cánh, vươn cổ gáy te te. Danh ná chỉ chỗ xác phi cơ rơi: – Ăn!
Chú gà tre mổ xác kẻ thù, nuốt trửng. Đây là con gà tre phi thường, rất xứng đáng đóng trò cạnh con Toto của Hưng mập và không thua gì con vượn đốm của Spirou. Nếu Toto của Hưng mập lợi hại ngang Milou của Tintin thì con Cà Đao của Danh ná cũng xấp xỉ tài ba con vượn đốm của Spirou [2]. Người ta đã huấn luyện được khỉ, cọp, sư tử, sáo, yểng, chó làm theo ý người ta. Danh ná, theo đó, đã huấn luyện gà tre. Con gà tre của Danh ná có một “dĩ vãng” chào đời rất mịt mù, ảm đạm. Mẹ nó đẻ được mười ba trứng thì lên ổ ấp. Cha nó lủi thủi một mình. Gà tre là giống gà nhỏ. Trong xã hội loài gà, gà tre chỉ to hơn gà ngũ trảo, còn gọi là gà ác. Gà ác trông dị hợm làm sao! Đã da đen thủi, đen thui, lại “chơi” sơ-mi [3] trắng bốp. Bốn ngón chân đủ đứng vững trong trời đất rồi, thế mà gà ác dư một ngón! Được cái gà ác bổ. Nấu với vài vị thuốc bắc càng bổ âm, bổ dương, bổ tì, bổ phế, bổ năm châu, bốn bể. Gà tre tuy nhỏ nhưng bộ mã tuyệt vời. Nó có thể bay được. Dáng dấp của nó như công tử hào hoa, thông minh và tán gái siêu đẳng.
Vậy thì bố của Cà Đao là chàng trai phong lưu, mã thượng và rất chung tình, khác hẳn lũ gà trống to con, vũ phu, thô bạo và năm thê mười thiếp. Khi mẹ Cà Đao lên ổ, bố nó cô đơn lắm. Nếu biết làm thơ, bố nó đã làm thơ rồi đấy. Đằng này, để tìm quên nỗi buồn vợ ấp, bố nó anh dũng nuốt dây thun. Bố nó được lũ gà nhóc hoan hô nhiệt liệt, được phong làm anh hùng gà tre. Say máu anh hùng, tưởng bở, bố Cà Đao nuốt dây thun hung hăng hơn. Và bố Cà Đao chết thảm, chết y hệt người bị bệnh suyễn. Vận xui đến với gia đình Cà Đao rồi. Hễ buổi chiều mẹ nó xuống ổ thì bọn chuột mò tới, cõng trứng dần dần. Trận dịch gà, đột nhiên, ào ào tràn nhập làng xóm. Loài gà khoác áo tơi, mào tái, miệng chảy dãi và chết. Mẹ Cà Đao cũng chết. Danh ná chợt nhớ ổ trứng đang ấp, gỡ xuống. Nó ngạc nhiên thấy mười ba trái đã bị chuột cõng mười hai. Còn mỗi một trái. Danh ná lấy trấu, rang ấm, vùi kín trái trứng thứ mười ba. Cứ hai tiếng đồng hồ nó lại thay trấu mới. Nhờ được mẹ ấp sắp đủ ngày nên chỉ bốn hôm công phu của Danh ná là Cà Đao líp nhíp trong vỏ. Danh ná bóc nhẹ vỏ trứng, lôi Cà Đao ra cuộc đời. Danh ná chăm chút Cà Đao từng ly từng tý. Nó cho Cà Đao ăn tấm. Lớn hơn một chút, Cà
Anh
Đao được ăn mối. Danh ná ngủ chung với Cà Đao. Đi chơi thì Danh ná bỏ Cà Đao trong túi. Cà Đao quấn quít cạnh Danh ná. Nó khôn vô cùng. Đến nỗi hiểu được cả ý muốn của cậu chủ tốt bụng. Và nó làm bất cứ điều gì Danh ná bắt bó phải làm. Ấy, những kẻ có dĩ vãng ấu thơ u ám thường trở nên những con người khác lạ. Như Cà Đao.
Gà tre Cà Đao không những biết diễn trò mà còn biết chiến đấu. Nó đã mổ mù mắt, lòi cổ họng vô số kẻ thù chuột và bẻ gãy, đá thủng diều tất cả đối thủ của nó ở Chắc Cà Đao. Bọn gà nòi Cao Lãnh phải nể nang nó. Cà Đao chưa đụng với gà nòi trận nào. Chủ của nó không thích chọi gà. Bắt loài gà đá nhau, giết nhau để đứng cổ võ và cáp độ [4] ăn tiền là bất nhẫn. Danh ná chỉ cho Cà Đao đấu giao hữu khi bị khích bác, chịu hết nổi.
Danh ná “tia” từng chiếc phi cơ ruồi. Và Cà Đao thổi kèn chiến thắng lia lịa. Một lát, đoàn phi cơ chở bom vi trùng bị nằm gọn trong cái diều Cà Đao. Chấm dứt trò chơi giải khuây. Chẳng biết còn những trò gì mới cho mùa hè này? Năm ngoái vui quá. Vui ơi là vui. Năm ngoái, bọn thằng Dzũng Đakao, Chương
còm, Hưng mập, Bồn lừa về đây, làm sôi động vùng trời quê hương êm ả. Tưởng chừng nghe rõ Dzũng Đakao gọi nhỏ “Hạ ơi ” và tưởng chừng tiếng “ơi “ vỗ về, mơn trớn, tiếng “ơi ” ngọt ngào, tiếng “ơi “của một đời thương nhớ chưa tan loãng. Danh ná nhớ bạn, những thằng bạn đã tặng cho nó thật nhiều kỷ niệm khó quên của tháng năm đẹp nhất đời nó. Danh ná biết hãnh diện làm người Việt Nam, biết mộng mơ làm đẹp Việt Nam nhờ Dzũng Đakao, Chương còm. – Này Chơn … – Dạ – Mày có tin bọn Dzũng Đakao sẽ về nghỉ hè nữa không?
– Em tin. – Tao nghi quá. – Anh nghi nỗi gì?
– Quá mười ngày rồi. Con nhà Thảo xa lộ ba đía hết sức. Nó rủ tao lên Sài Gòn hôm trước, hôm sau nó lén đi một mình. Tao tập con Cà Đao là để cho thằng Chương Còm. Nó khoái gà tre lắm.
Anh
– Thì anh nhờ ông Hội đồng gởi lên Sài Gòn.
– Tao đã nghĩ vậy. Giá chúng nó về Long Xuyên, mày nhỉ! Mình sẽ phiêu lưu khắp kinh rạch. Này Chơn… – Dạ. – Mà thôi…
Danh ná buồn bã ngồi dậy. Nó ôm đầu hồi tưởng mùa hè đã qua. Một mùa hè rực rỡ. Một mùa kè cậu bé Chắc Cà Đao cảm thấy quê hương Long Xuyên của cậu tuyệt diệu, rạng ngời. Như nước Việt Nam của cậu! Nhờ tình bạn thắm thiết, cậu hiểu rằng, ở bất cứ đâu, trên giải đất mến yêu của tổ tiên cậu, mọi người đều dễ thương và mọi người đang thương yêu nhau. Cậu hiểu thêm, người quê hương cậu hào hùng và độ lượng nhất thế giới. Dân tộc cậu anh dũng, kiêu hùng, không chịu khuất phục thiên nhiên và kẻ thù truyền kiếp. Dzũng Đakao và các bạn nó đã dạy Danh ná bài học tin yêu. Và Danh ná đã trở nên phi thường trước đám đông. Danh ná đã khóc sung sướng. Danh ná đã chôn vùi cái tinh thần cho mình nhỏ bé, thua kém thiên hạ. Không, Danh ná không thua thiên hạ. Những đứa trẻ con Việt Nam không chịu thua thiên
hạ, trong tương lai. Vì chúng nó được tôn thờ Quang Trung bách chiến bách thắng. Danh ná chớp mắt.
– Chơn…
– Anh kêu hoài!
– Mùa hè này buồn ghê, hé?
– Buồn thí mồ.
– Ba má tao qua Lấp Vò thăm ngoại tao, nửa tháng mới về lận.
– Rồi sao?
– Một mình tao ở nhà buồn chứ sao! À, Chơn nè…
– Lại kêu!
– Hồi Tết, tao nghe ông Tư Beo nói tụi giặc Tàu nó chiếm đảo Hoàng Sa của mình. Radio đòi đuổi giặc Tàu xâm lăng.
– Hoàng Sa tận đâu?
– Phía Bắc của mình.
Anh
– “Bắc” Vàm Cống hay “bắc” Mỹ Thuận?
– Mày cù lần vừa vừa thôi.
– Em đâu biết phía “bắc” nào!
Danh ná thộp áo Chơn Chơn đạo nhơn, lôi môn đệ dậy. Nó lượm mảnh sành, “địa dư thực hành” một cái bản đồ hình chữ S, giảng giải:
– Đây là nước ta, hình cong tựa chữ S, hai đầu phình ra, giữa thót lại y hệt cái đòn gánh hai cái thúng. Chơn Chơn đạo nhơn cười: – Anh vẽ đúng không? Danh ná khẽ bợp tai môn đệ: – Đúng sơ sơ. Mở rộng tai nghe cho rõ: Dzũng Đakao bảo, người miền Bắc, ở đầu nước, viết chính tả chuyên môn sai chữ đầu, ‘tr’ thành ‘ch’, ‘s’ thành ‘x’, ‘r’ thành ‘d’ ; người miền Trung ở giữa thì viết sai chữ giữa, dấu ‘hỏi’ thành dấu ‘ngã’, ‘ô’ thành ‘o’ ; người miền Nam, ở cuối, viết sai chữ cuối, thừa ‘g’, thiếu ’g’ lu bù … Phía đầu nước mình là miền Bắc. Đông, Tây, Nam, Bắc chứ hổng phải “bắc” [5] qua sông nghe, mày!
Nó vạch một đường cắt đôi hình chữ S, kéo dài về bên tay phải:
– Chỗ này mình gọi là biển Đông vì nó ở miền Đông của xứ mình…
Chơn Chơn đạo nhơn gãi đầu:
– Sao nãy anh nói là ở phía Bắc mờ?
Danh ná trừng mắt đệ tử, rồi cúi xuống khoanh một vòng nhỏ:
– Nghe nói và nhìn đây nè …Hoàng Sa ở đây. Mình ở miền Nam dưới cái đường này, nên tao mới nói là Hoàng Sa ở phía Bắc của mình. Hoàng Sa thuộc nước ta như Phú Quốc, Côn Sơn ấy.
– Tụi giặc Tàu ở đâu?
– Nó ở trên đầu mình.
– Mẹ, nó chơi cha mình, hả? Tưởng nó ở Chợ Lớn thôi chớ.
Chơn Chơn đạo nhơn gật gù:
– Anh rành dữ!
Anh
Danh ná khoái chí:
– Tao học địa lý mà, mày. Cứ học là biết đủ. Lười thối thây như mày, biết cái khỉ mốc gì.
Chơn Chơn đạo nhơn hỏi:
– Bộ anh muốn chiếm lại đảo Hoàng Sa, hả?
Danh ná tảng lờ:
– Tại sao Dzũng Đakao không về thăm tụi mình?
Chơn Chơn đạo nhơn bí lù. Nó gãi đầu soàn soạt. Rồi vỗ bụng!
– Cà Đao ăn no nê, giờ tới phiên anh em mình chứ?
Danh ná vỗ vai môn đệ, gạ gẫm:
– Mày dám phiêu lưu không?
– Dám.
– Đi lâu cơ.
– Đi lâu càng khoái. Mà đi đâu?
– Sài Gòn.
Chơn Chơn đạo nhơn thộn mặt ra. Nó liếm mép:
– Giỡn à?
Danh ná vuốt mặt: – Thiệt. – Tiền đâu mua vé xe đò?
– Đi bằng bè chuối.
Chơn Chơn đạo nhơn há hốc miệng. Danh ná giải thích:
– Mày biết đó, chúng ta chưa hề bơi xuồng ra khỏi cái rạch Chắc Cà Đao nhỏ bé này. Mày chỉ nghe nói kinh Ông Cò, kinh Ông Đề chứ đã biết kinh đó ở đâu, ra sao chưa? Tao cũng vậy à… Chúng ta đóng bè chuối phiêu lưu. Chúng ta ra sông lớn, ra biển. Chúng ta sẽ qua biết bao làng mạc, bờ bãi, cù lao. Bọn nhãi sẽ phục chúng ta sát đất, sẽ lạy chúng ta cho chúng nó phiêu lưu. Mày sẽ là thuyền phó, tao sẽ là thuyền trưởng. Chúng mình đàn hát kiếm ăn. Hề hề, mùa hè này may ra có hát đình, mày ơi! Chúng mình neo bè, lên bờ xem hát, coi đá gà.
Anh
– Anh ghét coi đá gà mà?
– Thì mày coi.
– Có lên tới Sài Gòn không?
– Bắt buộc. Bọn Dzũng Đakao sẽ đón chúng ta. Mày sẽ vô sở thú chọc khỉ. Nếu mày thích, mình sẽ đi xa nữa, thật xa Sài Gòn.
Chơn Chơn đạo nhơn sướng mê con ông cụ. Nó quên đói. Bụng nó căng no một phương trời xa lạ. Hồn nó dựng cột buồm. Gió viễn du thổi phần phật. Nó nắm chặt tay Danh ná:
– Bao giờ phiêu lưu?
Danh ná mỉm cười, thỏa mãn. Như một thủy thủ lâu ngày sống trên đất liền khao khát chuyến ra khơi, Danh ná hạ lệnh:
– Ghép cái bè đã.
[1] Thửa: vật gì được làm theo đúng ý mình.
[2] Spirou, Milou, Tintin: các nhân vật trong tuần báo của các truyện hình vẽ “Spirou” của Pháp-Bỉ.
[3] Sơ-mi: từ tiếng Pháp ‘chemise’ ; áo có cổ Tây, cài cúc và có cánh tay.
[4] Cáp độ: đánh cá
[5] ‘Bắc’: từ tiếng Pháp ‘bac’ ; phà, đò ngang.
Đến gần trưa hai thằng nhóc mới chỉ mang về sân nhà vài khúc tre đực. Thế là tiêu mất mấy bát cơm nguội rồi. Cơ sự này phải mất cả tuần mới đủ tre làm cọc ghép bè. Chưa kể thân chuối nữa. Chơn Chơn đạo nhơn buồn hiu. Mặt nó ỉu xìu như bánh tráng nhúng nước. Cột buồm trong tâm hồn nó, tâm hồn ông nhãi khao khát “ra khơi biết mặt trùng dương” khuỵu xuống. Gió viễn du hết thổi phần phật vào cánh buồm tưởng tượng. Nó ngồi dựa lưng vào gốc cây vú sữa, cảm khái đi một đường vọng cổ:
– Than ôi, nước mắm mặn không tiền mua dấm…
Chẳng kịp để kép Chơn Chơn đạo nhơn “dzô” xa và “dzô” sâu mùi mẫn, Danh ná hét lớn:
– Im đi! Chơn Chơn im ngay. Danh ná dọa:
Anh
– Mày ngán phiêu lưu rồi, hả?
Nó bồi tiếp:
– Nếu mày ngán, mày cứ nằm xó nhà mà than “nước mắm mặn không tiền mua dấm”, tao sẽ kiếm thằng khác thế mày. Xời ơi, khối thằng lạy tao, tao chưa cho theo đó. Mày đừng ngỡ mày ngon, nghe Chơn.
Chơn đứng dậy:
– Em có nói gì đâu. Danh ná át giọng nó:
– Mày không nói mà mày ca! Mày xỏ ngọt tao chứ gì! Ông biết tỏng. Mày tưởng ghép bè ngon ăn à? Bè ra sông, ra biển chứ bộ bè đi kinh, đi rạch sao mày.
Danh ná tả cái bè sẽ hoàn thành:
– Bè của mình hai tầng, rộng, dài, dư sức trải chiếu lên nằm ngủ khò khò…
Không cần Danh ná vẽ vời thêm, Chơn Chơn hoa tay:
– Em biết, em biết. Em nhất định theo anh.
Danh ná cười:
– Nước mắm còn mặn không?
Chơn Chơn tít mắt: – Có chanh ớt đường rồi! Nhưng mà…
– Gì nữa?
– Bao giờ xong?
Danh ná đang kiếm câu trả lời thì mấy thằng nhóc ngoài chợ đi ngang qua. Mấy ông nhóc này ham bắn chim lắm. Mỗi ông đeo một giàn ná chạc [6] ổi. Danh ná chợt nẩy một sáng kiến… táo bạo. Nó gọi mấy thằng nhóc vào nhà chơi. Mấy ông nhóc chỉ đợi thế. Được Danh ná mời là một vinh dự. Chúng đã vội nghĩ rằng thể nào Danh ná cũng dạy chúng nó một vài đường bắn ná. Vài đường thôi. Là khối thằng phục tít thò lò rồi. Cu Tâm sún ngỏ lời:
– Có việc chi vậy, Danh?
Danh ná không trả lời. Tâm sún vội vã hỏi:
– Hạ mấy chú chim rồi.
Anh
Hai cò – thằng này gầy nhom như cò bợ – nhanh nhẩu đáp: – Trượt hoài à…
Danh ná hóm hỉnh: – Xém trúng chứ gì?
Hai cò ngạc nhiên: – Sao mày rõ vậy?
Danh ná còn lạ chi mấy cậu mới ra nghề chơi giàn ná. Hai sợi dây cao su vỏ xe hơi đàng hoàng, cắt thẳng tắp. Cái chạc ổi đẹp, đều, gọt bằng mảnh thủy tinh láng coóng. Miếng da nạp đạn lý tưởng. Đồ nghề rất bảnh nhưng hành nghề rất bết. Mấy cậu lom khom vào bụi rậm thì quan trọng lắm. Lúc kéo giàn thung càng quan trọng hơn. Phịch một phát, con mồi bay trước khi viên đạn đất sét tới. Vậy mà vẫn vỗ tay vào mông, tiếc rẻ “xém trúng, tí nữa là gục”… – Hồi trước tao chuyên môn xém à…
Tư thẹo – thằng này có cái sẹo ở má bên phải –hỏi:
– Rồi nhờ ai mày bắn chim giỏi, hết xém?
Danh ná nhún vai: – Nhờ thầy. Không thầy đố mày làm nên.
Tâm sún tò mò: – Thằng này là ai, Danh?
Danh ná phịa: – Dzũng Đakao sư phụ. Hai cò hỏi: – Mất tiền không?
Danh ná khoan khoái đáp: – Sư phụ tao tốt lắm. Ổng “đâu thèm tiền”. Có điều ổng thử thách tao khiếp lắm.
Ba ông nhóc say mê nghe Danh ná kể chuyện “tầm sư [7] học… bắn ná”. Sáu con mắt long lanh những ước muốn. Ôi, nếu chúng nó đã gặp sư phụ thì đâu đến nỗi ngày nào cũng phải tốn cả túi đạn đất sét nung mà chỉ … xém trúng.
Anh
– Sư phụ tao kỳ thấy mồ. Ổng bắt tao làm những việc đâu đâu, chả ăn nhằm gì cả. Ví dụ, khi ổng biểu tao xuống sông lấy cho ổng một rổ bùn. Tao hì hục lặn vét bùn đem lên, ổng khen tao khá rồi đổ bùn xuống sông. Rồi ổng sai tao lượm mảnh sành. Tao phải lượm thôi. Ổng lại ném hết. Đâu đã hết, ổng bắt tao kiếm đủ một trăm sợi râu dế. Tao hì hục đào hang tóm gọn năm mươi con dế. Tao nạp ổng, ổng quẹt lửa đốt chơi.
– Mày có hỏi ổng câu gì không?
– Tao vừa ngạc nhiên vừa ấm ách cái bụng. May mà tao không hỏi, không nói gì. Nếu tao hỏi, sức mấy tao là Danh ná, vô địch bắn giàn thun.
– Ủa!
– Ủa chi? Về sau sư phụ tao vỗ vai tao nói: Mày kiên nhẫn quá, vì mày có chí học nên tao sẽ dạy mày.
– Ổng thử mày…
– Chứ còn gì nữa.
Danh ná gỡ cái súng cao su khỏi cổ Hai cò. Nó vất cho Chơn Chơn đạo nhơn:
– Đệ tử, trổ chút tài coi.
Chơn Chơn đạo nhơn đỡ giàn ná. Nó xin Tâm sún một viên đạn. Rồi nạp và nhắm cuống trái vú sữa “tia”. Chơn Chơn đạo nhơn, tay ném giàn ná trả Hai cò, tay đỡ trái vú sữa lìa cuống rơi. Chơn Chơn cười toe:
– Khá chưa, sư phụ?
Ba ông nhóc nuốt nước miếng thèm khát chút tài còm của Chơn Chơn. Hai cò gạ:
– Danh, mày dạy tụi tao nhé!
Tâm sún phụ họa:
– Mày muốn gì tụi tao cũng cho.
Chơn Chơn đạo nhơn đâu hiểu nổi “sáng kiến” của Danh ná. Nó đuổi tụi nhóc:
– Thôi, bước đi, chúng tao đang bận rộn.
Danh ná nghiêm mặt nhìn Chơn Chơn đạo nhơn:
– Cấm mày nói nghe, Chơn.
Nó vỗ vai Hai cò:
Duyên Anh
– Dạy tụi bay thì dễ rồi. Có điều tao cũng cần thử thách chút xíu.
Tư thẹo sướng rơn:
– Thử thách ngay đi, làm gì tao chịu hết.
Danh ná lắc đầu nghi ngờ: – Sợ tụi bây bỏ cuộc nửa vời. Hai cò cương quyết: – Không bỏ cuộc.
Nó thề: – Đứa nào bỏ cuộc…
Danh ná kéo tay Hai cò: – Được rồi, bây giờ, mỗi thằng nạp cho tao mười thân chuối dài, mập? Nhớ phải là chuối hạ quầy rồi nghe, chuối chưa trổ hoa tao không lấy.
Tâm sún hỏi:
– Nạp chuối xong còn nạp gì nữa?
Danh ná trợn mắt:
– Cấm hỏi. Hai cò đấm Tâm sún một quả: – Đồ heo mập, dọt lẹ!
Ba ông nhóc rời khỏi sân nhà Danh ná để chạy đua trong cuộc thử thách. Mỗi ông chắc đều nghĩ rằng vác chuối về nạp sớm nhất sẽ được sư phụ Danh ná truyền nghề nhiều nhất.
Danh ná xoa tay, thong thả trả lời câu hỏi của Chơn Chơn đạo nhơn:
– Mai ghép bè, sáng mốt xong, chiều lên đường.
Hồn Chơn Chơn lại dựng cột buồm. Gió viễn du thổi phần phật. Thổi mạnh hơn lúc ban đầu. Nó phục
Danh ná quá. Bất giác, Chơn Chơn nói một câu rất hỗn:
– Ba thằng mọi chặt chuối đã đời nhé!
Danh ná không mắng đệ tử. Nó định bụng sẽ dạy bọn Hai cò bắn ná trứ danh sau chuyến phiêu lưu mùa
Anh
hạ này. Danh ná chẳng thích chơi cái trò xí gạt ai. Có điều không phịa chuyện thì không sớm có bè viễn du. Đã hứa là phải làm, Danh ná tin chắc nó đủ tài dạy bọn Hai cò chơi súng cao su. Nó sẽ nói thật với bọn Hai cò để bọn này khỏi thù ghét nó. Không nên để ai thù ghét mình. Mà Danh ná, đã ai thù ghét nó đâu.
– Mày nấu cơm trưa, tao chẻ tre vót cọc. Cơm nước xong, ngủ một giấc là sân nhà mình đầy cây chuối. Chơn Chơn ngoan ngoãn vâng lời sư phụ. Nó vừa nhận ra sự khác lạ trong Danh ná. Từ mùa hè năm ngoái đến mùa hè năm nay, Danh ná thay đổi hơi nhiều. Vẻ bình thản quê mùa trên khuôn mặt Danh ná đã biến. Danh ná, bây giờ, háo hức, thiết tha và mơ mộng. Trước đây, Danh ná biết gì mà giảng dạy cho Chơn Chơn đạo nhơn. Danh ná ít nói. Như tất cả trẻ con nhà quê, Danh ná luôn luôn nghĩ là nó không thể sánh bằng trẻ con thành phố. Sự “nghĩ là” của Danh ná chính là vết thương muôn đời của dân tộc này. Chẳng ai biết vết thương ở đâu, do đâu mà cũng chẳng ai muốn mổ xẻ, chữa trị vết thương ấy. Vết thương âm ỷ tạo thành nỗi cam đành vô lý, tạo thành bức tường ngăn cản niềm thông cảm giữa thành thị và thôn ổ. Và
rồi, những đứa trẻ con thôn ổ đâm ra sợ hãi trẻ con thành phố. Và khi một ngọn gió độc khốn kiếp nào đó tìm cách lùa vào tâm hồn trẻ con thôn ổ, sự sợ hãi biến thành căm thù. Danh ná chưa căm thù. Danh ná không hề căm thù. Mùa hè năm ngoái, mùa hè tuyệt vời. Mùa hè năm ngoái, mùa hè thương yêu. Những đứa trẻ con thành phố đã về cái làng Chắc Cà Đao này và tha thiết nói với Danh ná rằng, không có trẻ con thành phố, trẻ con thôn quê, tất cả đều là trẻ con Việt Nam. Mà trẻ con Việt Nam đều sẽ phi thường nếu chăm chỉ học hành, chịu khó làm việc và biết mơ mộng làm đẹp quê hương. Chơn Chơn “nhận ra” sự khác lạ trong Danh ná nhưng nó đâu hiểu cái gì đã tạo sự khác lạ trong Danh ná, cái gì đã khiến Danh ná hãnh diện là người Việt Nam. Và, kỳ ảo thay, thằng bé khù khờ, ít nói của làng Chắc Cà Đao lại còn dậy bất bình khi hay tin kẻ thù Trung Hoa xâm lăng đảo Hoàng Sa của tổ quốc nó.
– Đục tụi nó chứ anh? Chơn Chơn đạo nhơn vọng hỏi.
– Đục tụi nào?
– Tụi Tàu đó.
Danh ná cười:
– Thử lớn coi, ngán gì tụi Tàu. Coi chừng cơm khét đấy. Im lặng. Chơn Chơn đạo nhơn ngồi xổm chụm lá
trong bếp. Ngọn lửa reo vui. Ngọn lửa khiêu vũ trong đôi mắt Chơn Chơn. Nó đâu biết, ngày nào đó, ngọn lửa còn thôi thúc tâm hồn nó, còn làm cho trái tim nó nóng bừng và mạch máu nó sôi sục. Vẫn chỉ là ngọn lửa thôi, nhưng ngày nào đó ngọn lửa thay đổi vũ điệu và hình ảnh. Thay đổi theo nhịp bước xa, bước dài của thằng bé Chắc Cà Đao.
Trong khi Chơn Chơn đạo nhơn “tụng kinh” nấu cơm thì Danh ná hăng say chẻ tre, vót cọc. Thỉnh thoảng, Danh ná dừng tay. Để nghĩ về mùa hè năm ngoái và Dzũng Đakao, Chương Còm, Hưng mập, Bồn lừa. Yêu bọn này biết mấy! Dzũng Đakao đã dẫn dắt Danh ná đi vào vùng mật ngọt niên thiếu, đi trên đường hoa mộng thơm ngát tình nghĩa, đã thả vào hồn Danh ná những ước mơ đơn giản mà người Việt Nam nào cũng có thể thực hiện nếu người ta biết ước mơ. Dzũng Đakao, Chương Còm cho Danh ná thật nhiều
kỷ niệm. Chúng cho Danh ná sách học, đồ chơi, trò chơi. Thứ mà Danh ná khoái nhất, Danh ná không ngờ là bọn Dzũng Đakao đã quả quyết với nó rằng, nó chẳng thua kém đứa trẻ Việt Nam nào, hơn là đằng khác và sẽ hơn cả nhóc con thế giới. Bởi vậy, mùa hè năm nay, Danh ná lớn vượt. Nó đã dám ghép bè phiêu lưu. Nó đã dám đi xa những kinh rạch hèn mọn, quen thuộc. Nó muốn ra sông, ra biển.
– Danh ơi! Danh ná giật mình. Hai cò đã đứng trong sân từ lúc nào. Trên vai nó một cây chuối vừa dài vừa mập. Vai bên phải Hai cò trĩu xuống. Cây chuối nặng ra phết. Hai cò hất cây chuối rơi ầm trên mặt đất. Nó hớn hở: – Tao nạp đủ mười cây rồi mới về ăn cơm.
Hai cò gạ gẫm:
– Tao nạp mười hai cây nhé! Mà mày đừng nói tụi nó là tao dư hai cây nghe, Danh.
Anh
Danh ná bắt thương Hai cò. Thằng nhóc này khôn lỏi, nó lập công riêng đây.
– Mười cây đủ rồi. Còn thử mày nữa đấy, Hai cò ạ!
– Mày dạy tao thêm chút xíu, nghe.
– Tao nói còn thử thách, rõ chưa?
Hai cò nín khe, quay bước. Danh ná nhìn theo, mỉm cười. Lát sau, Tư thẹo rồi Tâm sún vác thân chuối toát mồ hôi. Không thằng nào tỏ vẻ buồn bã cả. Tư thẹo, Tâm sún sợ sư phụ nổi giận, chẳng dám hỏi han gì, cứ quăng thân chuối xuống sân rồi vội vàng đi vác tiếp. Khi mỗi ông nhóc kiến tha về tổ được năm thân cây chuối thì Chơn Chơn cũng đã dọn cơm. Danh ná bỗng phát mông mình cái đét:
– Chết, chết, tao quên mất tiêu!
Chơn Chơn đạo nhơn ngạc nhiên:
– Quên chi?
– Không biểu mày nấu cơm tụi nó ăn luôn.
– Rồi, sư phụ. Em nấu đầy nhóc nồi à…
Danh ná mời bọn Hai cò ăn cơm. Năm ông nhãi ngồi giữa sân “dự tiệc” rất hồn nhiên. Ở thôn quê miền Nam, ăn uống dễ dàng. Mời chí tình và ăn cũng chí tình. Bữa cơm chỉ có cá lóc kho tiêu và xoài chín. Đang mùa xoài mà. Xoài chín vàng lấn mầu xanh của lá. Mùi xoài thơm ngát vườn quê. Xoài đầy bếp, đầy buồng. Xoài xanh. Xoài chín. Đến mùa xoài, tha hồ mà ăn. Ăn xoài thay rau sống. Cơm nước xong, Danh ná giục bọn Hai cò đánh một giấc ngủ. Nhưng ba ông nhóc nhất định không chịu ngủ. Chúng nó đang ao ước đổi biệt danh: Tâm ná, Hai ná, Tư ná. Sư phụ Danh ná thấy dậy trong lòng đợt sóng lăn tăn hối hận. Nó không thể xí gạt bọn Hai cò. Danh ná dõng dạc nói:
– Vác chuối xong, tao dạy tụi mày bắn ná. Hai cò hí hửng:
– Thử thách vậy thôi à?
Đến lượt Tâm sún trả đũa bạn:
– Đồ heo mập, dọt lẹ!
Bọn Hai cò lao vội vào cuộc thử thách duy nhất. Chơn Chơn đạo nhơn ỉu xìu:
Duyên Anh
– Vậy bao giờ mới phiêu lưu?
Danh ná quả quyết:
– Chiều mốt.
Nó thêm: – Nhưng mày phải kiếm ít cọc nữa.
Chơn Chơn đạo nhơn lắc đầu. Nó nghĩ thầm, giá sư phụ Danh ná bắt bọn Hai cò “thử thách” thêm cái màn đẵn tre làm cọc thì đỡ biết mấy.
[6] Chạc (ổi): cành (ổi) nơi chĩa ra thành hai nhánh, để làm ná.
[7] Tầm sư: tìm thầy, tìm người giỏi để theo học.
Những thân chuối được chặt bớt gốc và ngọn, thẳng tắp và đều đặn. Những chiếc cọc tre nhọn hoắt một đầu, như lưỡi kiếm, đầu để chịu những nhát vồ đóng xuống lá chuối. Mỗi khúc tre dài hơn xải tay Danh ná và to bằng cổ chân nó, chẻ đôi, vót đủ hai cọc. Bè ra sông lớn, biển rộng cơ mà. Sợ bè có thể rã, Danh ná còn kiếm ít dây dừa, sẽ buộc ngang, buộc dọc. “Đồ nghề” đã đầy đủ, nằm ngổn ngang giữa sân. Danh ná chẳng còn lo ngại gì nữa. Nó ngồi trên thân chuối nhìn xuống con kinh Chắc Cà Đao. Từ con kinh này, Danh ná sẽ ra đi. Đi tới những bờ bến nào của quê hương yêu dấu, Danh ná chưa biết. Nhưng Danh ná phải ra đi. Nó thèm đi xa lắm rồi. Làng Chắc Cà Đao càng ngày càng
Anh
nhỏ bé, Danh ná càng ngày càng lớn khôn. Quê hương Việt Nam đẹp đẽ vô cùng. Dzũng Đakao đã nói thế. Có lần, Dzũng Đakao nắm chặt tay
Danh ná, thủ thỉ: “Mày thử nghe tao đi, Danh ạ, mày là thằng nhóc số một tỉnh An Giang, mày mà đi xa, tụi nhóc khắp nơi sẽ bu quanh mày, khen ngợi mày. Chúng nó sẽ yêu mày hết tả. Và mày cũng sẽ yêu chúng nó. Lúc ấy, mày sẽ tin tao.”
Danh ná vùng dậy, nó lăn những thân chuối sát gần nhau. Nó chia khúc để đóng cọc. Tính toán xong xuôi, “kỹ sư đóng tàu” Danh ná gọi Chơn Chơn đạo nhơn tiếp tay. Hai ông nhóc say sưa làm việc. Mồ hôi chẩy đầm đìa trên hai khuôn mặt chất phác. Mồ hôi bóng nhẫy mình mẩy hai đứa bé quê mùa. Mồ hôi, luôn luôn phải có mồ hôi. Thiếu mồ hôi, mọi việc mất hết ý nghĩa. Nắng buổi sáng hiền hòa. Và gió đầu hạ mát rượi. Nắng gió đồng nội tăng sức mạnh cho hai đứa bé. Danh ná đưa tay vuốt mặt: – Nếu mình cố gắng, sáng mai là phiêu lưu được rồi.
Chơn Chơn phấn khởi:
– Cố gắng chứ, anh.
– Sáng mai mình đi thật sớm.
– Đi sớm chi vậy? Em khoái đi trễ để tụi nó nhìn anh em mình, tụi nó nhễu nước miếng thèm … phiêu lưu.
– Mày ngu lắm. Dzũng Đakao bảo rằng, không nên ồn ào, khoe khoang. Mình khoe khoang, nhỡ mình hỏng việc, mắc cở chết.
Chơn Chơn đạo nhơn nín khe. Mặt trời lên cao khoảng một cây sào thì cái bè ghép xong. Bè rộng bằng cái chiếu lớn, dài gấp rưỡi. Cọc đóng cả hai bên, nghĩa là, mỗi bên đều có đầu nhọn và đầu bằng, nên chắc lắm. Cứ tưởng tượng cái cọc giống cái đinh đi.
– Mới xong một nửa nghe, mày. Nửa sau, mình ghép chuối lớn hơn. Rồi mình đặt nửa nhỏ trên nửa lớn. Thế là có cái bè đôi vững vàng.
Chơn Chơn đạo nhơn hỏi:
Duyên Anh
– Tại sao mình không phiêu lưu bằng xuồng?
Danh ná bĩu môi:
– Mày đóng nổi xuồng à? Cái gì do tay mình làm được mới khoái. Phiêu lưu trên bè chuối là số một! Tụi nhóc sẽ hỏi ai ghép bè giùm mình, mày sẽ ưỡn ngực đáp, tao đấy. Chơn Chơn đạo nhơn cười: – Dzũng Đakao dạy anh, hả?
Danh ná thản nhiên: – Ừa. Hai ông nhóc lại hì hục khiêng chuối, đóng cọc. Có sẵn chuối và cọc, ghép bè cũng nhanh thôi. Đến trưa, Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn đã loay hoay bê bè nhỏ đặt lên bè lớn. Chơn Chơn đạo nhơn vươn vai: – Xong. Danh ná lắc đầu: – Hỏng rồi!
– Hỏng à? Hỏng cái nỗi gì?
– Cái nỗi ngu. Bây giờ phải đào hầm mới đóng cọc được.
Chơn Chơn vẫn chưa hiểu “cái nỗi ngu”. Nhưng mà đào hầm thì ghê quá sức:
– Mày đói chưa?
– Em nhịn nổi.
– Vậy làm lại.
Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn lấy hai thân chuối còn dư làm đồ kê. Chúng khiêng bè nhỏ đặt lên. Rồi bè lớn lại đặt lên trên bè nhỏ. Sửa sang cho thẳng hàng, đúng lối, Danh ná đóng cọc gắn ghép hai bè thành một. Chơn Chơn đạo nhơn đã hiểu “cái nỗi ngu”.
– Đóng bè nhỏ xuống bè lớn là đóng luôn xuống đất, nghe chưa? Có nhổ được lên thì bè cũng lung lay như răng ông lão. Rồi kéo xuống rạch làm sao? Mũi cọc sẽ cầy đất, bè tiêu liền à…
– Dzũng Đakao dạy anh, hả.
Duyên Anh
– Tao dạy tao. Dzũng Đakao đâu biết ghép bè!
– Giờ xong chưa?
– Chưa. – Vậy làm tiếp.
– Còn bụng tính sao?
– Bụng không bằng bè!
– Mày hăng dữ?
– Em thèm phiêu lưu, thèm đi liền, đợi lâu thấy mồ luôn …
Danh ná liếm mép:
– Sáng sớm mai đi.
Chơn Chơn sướng rên:
– Cho nó biết tay.
Danh ná không chú ý câu nói của Chơn Chơn. “Nó” mà Chơn Chơn vừa dọa “cho biết tay” là con bé Ba. Chả là, tối qua, con nhà Chơn
Chơn đạo nhơn trót khoe với bé Ba rằng nó sắp rời Chắc Cà Đao, đi phiêu lưu sông nước. Bé ba nhạo Chơn Chơn, bảo Chơn Chơn phiêu lưu xó bếp. Đạo nhơn ta lầm lũi bỏ về, lòng đau lắm. Tưởng “người đẹp” mếu máo can ngăn, ai ngờ “nàng” lại nhe răng sún cười nắc nẻ. Chơn Chơn mím môi kéo rít những sợi dây dừa. Bè của hai ông nhóc thật chắc và đẹp. Thế mà Danh ná còn khăng khăng “chưa xong”. Hai đứa nghỉ tay, tính chuyện ăn uống.
Buổi chiều, nhớ hẹn, bọn thằng Hai cò lần mò tới. Công việc ghép bè tạm hoãn. Danh ná dạy thêm bọn Hai cò vài đường súng cao su. Chơn Chơn đạo nhơn hậm hực mà không dám nói gì. Chừng thấy màn “thực tập” kéo dài quá, Chơn Chơn ngứa miệng:
– Học nhiều làm sao nhớ hết bài!
Hai cò bắn hoài không trúng bia cú nào, vội đồng ý ngay với Chơn Chơn đạo nhơn:
– Đúng. Mai học tiếp.
Chơn Chơn đạo nhơn vênh váo:
Duyên Anh
– Mai à! Mai tụi tao đi phiêu lưu rồi. Bay chẳng nhìn cái bè kia sao!
Danh ná cáu lắm rồi. Nó lườm, nguýt Chơn Chơn đạo nhơn. Hai cò ngơ ngẩn:
– Phiêu lưu tận đâu lận?
Chơn Chơn cao hứng:
– Ra sông lớn, biển cả. Đi bốn phương trời, muôn phương đất.
Tâm sún nhìn Danh ná:
– Chặt chuối ghép bè đấy. Nhất mày, Danh ạ! Cho tao phiêu lưu với hé!
Tư thẹo, bỗng nhiên, dậy hồn viễn xứ, quên béng giàn ná:
– Tao nữa.
Hai cò hùa theo:
– Cả tao nữa!
Danh ná xua tay:
– Bè nhỏ xíu à, chỉ chứa nổi hai thằng tao thôi. Tụi tao đi lâu, bay không theo được. Ba má bây sẽ rầy đó.
Ba ông nhóc nhao nhao:
– Tao trốn nhà.
Danh ná vẫn xua tay:
– Phiêu lưu khổ thấy mồ. Bọn Dzũng Đakao của tao bảo rằng phiêu lưu thường bị nhịn đói, nhịn khát, có khi phải ăn xin, nằm sân đình, xó chợ, phải đi ở đợ, chăn bò, đẩy xe.
Danh ná phịa thế. Con nhà này bi thảm hóa chuyện phiêu lưu, cố tình làm bọn Hai cò nhụt chí khí. Quả nhiên, ba ông nhóc Chắc Cà Đao thộn mặt. Danh ná hứng chí, bồi thêm:
– Cù lao đầy cá sấu, biển đầy cá mập. Tao chưa kể những đêm mưa lạnh, ma quỷ đầy sông. Ấy, người chết đuối hóa thành ma trêu chọc khách thương hồ!
Ba ông nhóc nổi da gà. Danh ná nhún vai:
Duyên Anh
– Chưa chắc tao đã dám phiêu lưu. Bay về đi, mai vô học bắn ná.
Hai cò nói: – Phiêu lưu về mày dạy hết tài bắn nghe, mày Danh. Ông biết mày sẽ phiêu lưu.
Nó tha thiết: – Cần “thử thách” gì, tao giúp?
Danh ná cầm tay Hai cò: – Cần mày về.
Ba ông nhóc bị đuổi khéo, đành lủi thủi bước khỏi sân nhà Danh ná. Chơn Chơn đạo nhơn ở lại chịu trận:
– Mày giữ mãi cái tật khoe khoang hả, Chơn?
Chơn Chơn đạo nhơn lúng túng:
– Em lỡ miệng.
– Mày ngứa miệng thì có. Mẹ, cứ khoe không rồi hổng làm nổi, chúng chửi thúi đầu. Từ nay ngậm miệng lại.
– Em hứa.
Mặc dù Chơn Chơn đạo nhơn đã hứa nhưng Hai cò, Tâm sún, Tư thẹo không hứa hẹn gì với Danh ná cả. Do đó, hầu như, tất cả trẻ con trai gái ở cái làng Chắc Cà Đao nhỏ bé này đều biết Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn ghép cái bè khổng lồ phiêu lưu sông biển. Tin tức loan truyền thật nhanh, thật xa. Con nít giống hệt loài kiến, thông tin mau lẹ, và chính xác. Thậm chí, trẻ con bên kia tỉnh lộ thuộc làng Trà Ôn cũng kháo nhau Danh ná sắp phiêu lưu. Danh ná ghép bè phiêu lưu trở thành một biến cố quan trọng làm xáo động vùng quê. Rồi lan vào thị xã Long Xuyên. Cũng may, bây giờ, mùa hạ, hoa phượng nở đỏ ối, rụng tơi tả xuống sân các trường và cửa lớp đóng kín mít. Chứ không, học trò thị xã Long Xuyên lại có đề tài bàn tán về chuyến đi của Danh ná như, năm ngoái, chúng đã bàn tán cái tài đá bóng và bắn súng tuyệt vời của hoàng tử Danh ná. “Danh ná sắp đi phiêu lưu”. Sáu tiếng này gây ra bao nhiêu xao xuyến, rạo rực. Khu chợ mò vào. Xóm trên kéo xuống. Xóm dưới lần ra.
Duyên Anh
Trẻ con háo hức đi xem cái bè của Danh ná. Tự nhiên, sân nhà Danh ná biến thành sân chợ triển lãm ồn ào, náo nhiệt. Danh ná kẹt cứng, không còn thì giờ tô điểm cái bè và sửa soạn chuyến đi, ngày mai. Danh ná, thoạt đầu, giận Chơn Chơn đạo nhơn, chỉ muốn đá Chơn Chơn đạo nhơn một cái té nhào. Nhưng khi thấy nhô con trẩy hội sân nhà mình, đứa nào đứa ấy đều tỏ vẻ cảm tình và thán phục chuyện ghép bè phiêu lưu thì Danh ná lại khoan khoái. Danh ná sực nhớ, năm ngoái, cũng mùa này, nhô con đã tụ tập ở đây, nghe Chương Còm thổi ác-mô-ni-ca [8], nghe Dzũng Đakao hát và cùng hát theo vui vẻ, hồn nhiên. Có sao đâu? Trẻ con tìm đến nhau. Người lớn kiếm cách xa nhau. Trẻ con cho nhau trọn vẹn tình yêu mến. Người lớn cho nhau trọn vẹn sự đố kỵ, lòng thù hận. Người lớn, tệ hại hơn, còn cho nhau cả nỗi ganh ghét sự may mắn của nhau. Người lớn vô tích sự. Người lớn chẳng bao giờ ngồi gần nhau được, huống chi là tặng nhau những chân tình. – Mai mày đi hả, Danh ná?
Một ông nhô niềm nở hỏi. Danh ná âu yếm
đáp:
– Ừa, mai tao đi.
Cuộc “họp báo” xảy ra thật hấp dẫn. Ký giả là quý vị nhô con, tới tấp hỏi. Danh ná, vị hoàng tử, trả lời liên miên:
– Bè thế này thôi à?
– Còn nhiều thứ nữa tao chưa làm xong.
– Mai mày đi lúc mấy giờ?
– Lúc gà gáy.
– Đợi mặt trời mọc hãy đi, Danh ạ! Tao muốn tiễn mày, tội cái tao thức trễ.
– Đi muộn đi Danh.
– Ừa, đi muộn.
– Mày cần thêm món gì, tụi tao đem cho?
– Cho gì tao cũng nhận hết.
Một “ký giả” tung một câu hỏi rất… lão thành:
Anh
– Chú mày tính tới đâu rồi mới… hồi hương?
Danh ná bốc đồng: – Đảo Hoàng Sa. Tất cả nhô con há hốc miệng, trợn mắt:
– Hoàng Sa à? Gần cù lao ông Chưởng không? Ồ, có lẽ xem tới Làng Gù.
Chơn Chơn đạo nhơn nửa cười hãnh diện: – Hoàng Sa phía Bắc nước ta. Bọn Ba Tàu nó chiếm mẹ nó rồi.
Danh ná giải thích thêm:
– Hoàng Sa xa lắm. Đây là hòn đảo thuộc tổ quốc Việt Nam. Bọn Tàu nó mới ăn cướp.
Lại “hội nghị Diên Hồng” diễn ra sôi nổi tại sân nhà cậu bé Chắc Cà Đao.
– Mày tới đảo Hoàng Sa đục bọn Tàu, hả? – Đục chứ bộ, nó ăn cướp nước mình là mình phải đục.
– Ông sẽ ra Hoàng Sa. – Tao cũng đóng bè.
– Lát ông đục thằng Tàu già bán chạp phô ở chợ. – Cướp cái hũ xì dầu của nó!
Danh ná đợi quý vị nhô con bớt hăng máu mới nói: – Mình còn bé, chưa đục nổi Tàu đâu. Hễ lớn khôn là mình đục. Từ mai đến khi bè tao trôi ra biển là tao lớn rồi.
Những ông nhóc, mắt rực sáng, tóc lộng bay, gió chiều, lòng cồn cào chuyện khôn lớn. Trẻ con ở đâu, không biết, trẻ con ở Chắc Cà Đao đã nóng ruột chiếm lại Hoàng Sa. Danh ná sướng đến lịm người. Nó nhắm mắt, mường tượng Dzũng Đakao. Nơi nào đó, chắc chắn, Dzũng Đakao, Chương Còm cũng đang bàn chuyện đánh giặc Tàu, chiếm lại Hoàng Sa với bao nhiêu đứa trẻ con khác. Buổi chiều như đứng im. Buổi chiều không muốn đi vội. Trẻ con Chắc Cà Đao níu kéo chặt
Anh
chân chiều. Và chiều yêu trẻ con, bảo bóng tối khoan hãy trở lại hoàng hôn. Danh ná cảm khái, rút kèn ác-mô-ni-ca chơi bài Viễn du [9]. Tiếng kèn của Danh ná, chưa điêu luyện bằng Chương còm nhưng vẫn thừa sức thu hút những tâm hồn ngọc Chắc Cà Đao. Danh ná ngưng chơi kèn, nó cất giọng hát: – “… Hãy ghé bến bờ Có những khóm dừa Chiều nhuộm vàng làn tóc ngây thơ| Viễn xứ ước thề Xóa hết lối về Để đẹp lòng người bước chân đi …”
Bọn nhóc vỗ tay ca ngợi Danh ná. Chúng nó thay phiên nhau hát. Rồi cả làng hát. Danh ná thổi kèn phụ họa. Rồi chiều phải đi. Chiều đi rất bâng khuâng. Bóng tối về. Giọng hát vẫn rộn ràng một xóm quê. Chuyện phiêu lưu sẽ bị lãng quên nếu một ông nhô không hét:
– Thôi tụi mình về cho thằng Danh sửa soạn mai đi.
Nó dặn dò:
– Mai tao sẽ tới tiễn chân mày, Danh ạ!
Từ từ, bọn nhóc rời khỏi sân nhà Danh ná. Bóng tối đã tràn ngập lối mòn. Trăng đầu tháng còn yếu ớt quá. Danh ná đứng im, thẫn thờ cây kèn trong tay. Chỉ còn một mình nó. Nó ngó quanh quẩn. Đệ tử Chơn Chơn đạo nhơn đang chia tay ai đầu ngõ…
– Tin chưa, hả?
– Rồi.
Danh ná bước vào nhà. Chơn Chơn đạo nhơn hỏi: – Còn cười không?
– Hớt.
– Đã biểu thằng này ghét nói xạo mờ!
– Thì nói thiệt.
– Mai thằng này phiêu lưu sớm đấy. Đi lâu à, mấy năm lênh đênh lận.
– Dữ vậy!
– Phiêu lưu mờ lỵ.
– Mai tiễn chân.
– Nhớ nghe.
– Nhớ. Thôi, “dzìa”…
“Nàng” về. Chơn Chơn đạo nhơn trông theo. Bóng “nàng” xa dần và chìm vào bóng tối. “Nàng” sún bé Ba của Chơn Chơn đạo nhơn đó. Đêm nay, thể nào đạo nhơn cũng mớ!
[8] Ác-mô-ni-ca: từ tiếng Pháp ‘Harmonica’; kèn cầm tay.
[9] “Viễn du”, nhạc và lời của nhạc sĩ Phạm
Duy.
Chiếc bè hạ thủy từ khuya. Lúc ấy trăng hơi hơi tỏ nhưng vẫn không đủ sức xuyên qua những cành lá rậm rạp, xanh rì. Hai thằng nhóc kéo bè xuống rạch, chẳng thèm cúng kiếng lôi thôi. Đi sông, đi biển giỏi là do tầu bè tốt, người lái hay, chứ đâu phải do thần thánh áp tải. Hưng mập chả từng ghi hồi ký đó sao. Không có ma quỷ chi sốt cả. Người ta yếu đuối, đâm ra sợ ma. Hễ sợ ma là sợ đủ mọi thứ. Suốt đời sợ hãi thì còn làm nên trò trống gì. Ấy, thùng nước lèo Hưng mập đã triết lý vậy. Danh ná nghe xuôi tai. Nó bèn không sợ ma quỷ, không tin có ma quỷ. Nó chỉ sợ lười biếng thôi. Lười biếng hóa thành hèn yếu. Hèn yếu hóa thành nhút nhát, sợ hãi. Sợ hãi hóa thành an phận. An phận hóa thành
Anh
ngu dốt, chịu để thiên hạ bắt nạt mình. Cho nên, lúc sắp cho bè hạ thủy, Chơn Chơn đạo nhơn gạ thắp nhang khấn vái thủy thần, Danh ná đã gạt phắt. Danh ná còn hứa “tia” mù mắt thủy thần nếu con nhà thủy thần dám ló ngó gần bè của nó. Chơn Chơn đạo nhơn lây chất can đảm của sư phụ, huýt sáo gió lia lịa.
Khi bè đã neo chắc bên bờ rạch, hai ông nhãi khuân “đồ nghề” cần thiết cho chuyến đi xa. Rồi “triển lãm” trên bè. Đến khoảng năm giờ sáng, nếu một cậu học trò lớp nhì khá luận văn, quan sát lè chuối của Danh ná, sẽ miêu tả như sau: “Chiếc bè hình chữ nhật. Mặt bè cách mặt nước một gang tay. Phía đầu bè, ở giữa, đóng một cái sào cao hai thước. Cái sào này, từ trên xuống dưới, đóng nẹp tre, cái thứ nhất dài chừng cánh tay tôi, cái thứ hai ngắn chút chút, cái thứ ba ngắn thêm vân vân. Ai giỏi hình học thì bảo đó là cái hình tam giác cân, do sự đóng nẹp rất cân bằng. Đường đáy của tam giác là cái nẹp tre dài đầu tiên. Ai dồi dào trí tưởng tượng thì bảo đó là hệ thống ăng-ten [10]! Vẫn phía đầu bè, gần sát hai mép bè, hai cọc ngắn nhô lên buộc hai sợi
dây dừa lớn, dài. Bao nhiêu mét, tôi không rõ vì nó cuộn cả đống, y hệt những cuộn dây cáp buộc tầu mà tôi đã thấy ở căn cứ Hải quân An Giang. Chung quanh bè, cách ba gang tay lại nhô lên một cái cọc. Đó là cọc ghép hai bè với nhau. Tôi bảo là đinh bù loong. Trên những cọc ngắn này, tôi nhìn rõ một cái nồi nhôm có nắp đàng hoàng, một cái chảo mà đít đen thui lọ nghệ, máng toòng teng. Cái bếp dầu hôi thì buộc sát ghì vào cọc. Trên mặt bè, ngổn ngang cái giỏ ni-lông trong đựng nhiều chai lọ, chắc là nước tương, nước mắm, mỡ, hành tỏi, tiêu, ớt ; cái bao cát căng phồng, chắc là gạo. Lại còn cái mền, cái chiếu, hai cục gạch, hai cái bơi chèo, một cái sào dài. À quên, hai con dao nữa chứ! Bây giờ, tôi quan sát cái sào đóng giữa phía đầu bè. Ở nẹp tre cao nhất, một bên chú gà tre đậu, dáng điệu hiên ngang dễ ghét ; một bên treo cái quần xà lỏn còn ướt sũng, nước nhỏ giọt tanh tách. Nẹp tre thứ nhì, máng hai giàn ná thưa. Nẹp thứ ba máng cái đèn bão, đèn này, những mùa đốt đồng dùng để bắt chuột đem về rô-ti [11] và những mùa mưa dùng để bắt ếch đem về chiên bơ nhậu lai rai. Đứa nào là chủ
Duyên Anh
cái bè lạ đời này? Nó ghép bè tính đi đâu? Làm sao tôi biết. Nhưng tôi cứ khen vu vơ, cứ gửi lời khen của tôi bay trong gió: Tuyệt, tuyệt, cái bè đẹp nhất thế giới!”
Bắt buộc phải khen thế. Cái bè của Danh ná đẹp nhất thế giới. Thử truy tầm lịch sử hàng hải từ cổ chí kim xem đã có cái bè nào giống bè của Danh ná? Thử truy tầm lịch sử loài người xem đã có ai dám ghép bè vượt biển với mộng ước cướp lại đất của tổ tiên mình từ tay kẻ thù hung hãn? Chỉ có trẻ con Việt Nam mới dám ghép bè chuối phiêu lưu và vẽ vời hoài bão trên chiếc bè sáng tạo. Vì lịch sử Việt Nam có những chiến thắng long trời lở đất trên những dòng sông. Và, hôm nay, Danh ná tiếp tục làm lịch sử. Từ một cái bè chuối đơn giản, tầm thường. Mọi chuyện phi thường đều khởi đầu bằng sự tầm thường. Để xem Danh ná và bạn bè của nó làm lịch sử ra sao. Con gà tre ngạo nghễ đậu cạnh lá cờ… quần xà lỏn, cờ hiệu của bè chuối. Nó đập cánh gáy ran. Tiếng gáy của nó như một điệu kèn thúc quân. Nó cũng chẳng sợ hãi gì. Cứ anh dũng trên cao,
trông coi bè giúp chủ. Chủ của nó, sau một ngày vất vả, đang nằm trên ván gỗ, ngủ rất ngon lành. Mặc kệ gà tre Cà Đao báo thức, chủ nó bất động. Họ hàng nhà chim thức giấc hết cả rồi. Chúng đang hợp ca những bản nhạc chim ngợi ca trời đất, cỏ cây và loài người. Trời vỡ dần. Sương sớm mùa hạ tan rất nhanh. Mặt trời nhú dần từng tấc. Ghe, xuồng qua lại dòng rạch Chắc Cà Đao tấp nập. Ba cái xuồng đuôi tôm bắng nhắng nhất. Chúng kêu reo phành phạch khua động nước, quấy rối tôm cá và người ngủ trễ.
Chơn Chơn đạo nhơn vụt thức. Nó đạp nhẹ
Danh ná: – Dậy lẹ đi, anh!
Danh ná lăn qua lăn lại, giọng ngái ngủ:
– Còn sớm mà.
Chơn Chơn đạo nhơn kéo tay Danh ná:
– Cả xóm dậy rồi. Mình đi trễ, tụi nó bu lại hỏi han vớ vẩn thì mai mới phiêu lưu lận.
Danh ná ngồi dậy một cách uể oải. Nó đưa tay dụi mắt: – Ừa, muộn dữ đa. Và nó đứng lên, vươn vai: – Mình lên đường.
Hai thằng nhóc chạy nhanh ra bờ rạch rồi trườn xuống bè, quên cả rửa mặt, đánh răng. Chơn Chơn đạo nhơn gỡ dây neo bè. Danh ná dùng bơi chèo đẩy bè ra giữa rạch. Con Cà Đao vỗ cánh gáy te te. Nó bay xuống, đậu trên vai chủ rồi lại bay lên chỗ của nó. Chiếc bè chưa lấy được sự thăng bằng thì, trên bờ rạch, bọn trẻ con tối hôm qua đã ào ào kéo tới. Chúng nó nhìn chiếc bè của Danh ná vừa phục sát đất vừa cười nghiêng ngửa. Trong tay bọn nhóc, đứa nào cũng có một món quà. Cuộc vấn đáp, kẻ dưới nước, kẻ trên bờ xảy ra tíu tít.
– Danh ơi, đi chớ quên tụi tao nhé!
– Sức mấy mà quên.
– Nhớ về nghe.
– Về chứ bộ, đi xa cách mấy tao cũng mò về Chắc Cà Đao.
– Chúng tao mang quà cho mày đây.
Bọn nhóc thay phiên nhau liệng bánh tét, bánh ú, chuối chiên, đậu phộng, bắp luộc xuống bè. Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn đỡ muốn hụt hơi. Mèng đét ơi, quà cáp nhiều thế này thì khỏi cần nấu cơm cả tuần lễ. Chơn Chơn đạo nhơn mở căng mắt nhìn lên. Chẳng thấy con bé Ba đâu. Con này xạo rồi. Đúng là Ba…xạo. Đạo nhơn hơi hơi buồn. Lúc này, nước sông lớn dâng cao, ùa vô kinh rạch. Đoạn đường Danh ná sắp đi, xuôi dòng. Nước chẩy không mạnh nhưng Danh ná phải vất vả chèo chống để bè đứng im. Còn Chơn Chơn đạo nhơn tạm vất nỗi buồn xuống rạch, lượm quà tiễn đưa, máng dưới cái đèn bão. Thế là cột buồm – cứ coi vậy – trên thì quần xà lỏn tung bay, gà tre khoe mã, dưới thì bánh tét, bánh ú toòng teng! – Tụi tao đi nhé!
Anh
– Ừa, đi đi cho sớm.
Những bàn tay vẫy những bàn tay tạm biệt. Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn, thằng ngồi mép đầu, thằng ngồi mép cuối, điều khiển chiếc bè xuống dòng rạch ra kinh. Chiếc bè nặng, dòng nước chẩy yếu nên bè trôi thong thả. Đã chào giã từ mà bọn nhóc vẫn đi trên bờ hỏi chuyện này nọ. Miền Nam tuyệt diệu ở cái chỗ mỗi bờ rạch, bờ kinh thường là một con đường nhỏ xe lôi chạy phăng phăng.
– Mày cần nhắn gì nữa không, Danh?
– Lát về qua nhà tao, đóng giùm tao cái cổng, buộc chặt. Lâu lâu ghé xem có đứa nào phá vườn không nhé!
– Yên chí.
– Ba má tao về có hỏi, mày biểu tao đi phiêu lưu rồi nghe.
– Mày có mang hộp quẹt theo không?
– Có.
– Nước uống?
Danh cười vang:
– Bộ sông thiếu nước, hả?
Thằng vừa hỏi cũng cười. Bọn nhóc đi theo bè một quãng khá xa thì lần lượt chia tay thật sự. Chỉ còn Hai cò và Tư thẹo chịu khó lẽo đẽo đi tiếp. Chơn Chơn đạo nhơn buồn thêm tí nữa, tí nữa, tí nữa. Khi sắp thêm một tí nữa, nó ngoảnh mặt về phía sau. Trên bờ rạch, con bé Ba hớt hơ hớt hải chạy tới. Chơn Chơn đạo nhơn nhấc bơi chèo, đứng lên. Nhưng đạo nhơn bỗng ngượng điếng người. Đạo nhơn nín khe. Con bé Ba cũng mắc cở “muốn chớt”. Hai đứa nhìn nhau. Hai cò ngứa miệng hỏi: – Mày tiễn ai đó, Ba sún?
Bé Ba tức lắm. Lúc khác là Hai cò khốn khổ rồi. Nhưng lúc này sự chanh chua của con bé biến đâu mất tiêu. Nó chỉ nguýt lại Hai cò một cái dài ơi là dài. Dài đến nỗi mắt nó có đuôi. Danh ná nhìn lên bờ. Nó liếm mép rồi ngó Chơn Chơn đạo nhơn:
Duyên Anh
– Tối qua mày nói chuyện với nó ngoài ngõ, hả?
Chơn Chơn chối lia:
– Đâu có.
Và nó ngồi xuống, lặng lẽ chèo bè. Mặt nó ỉu như banh bao chiều. Con bé Ba đứng khựng. Giây lát, nó rẽ sang một lối mòn. Tội nghiệp bé Ba. Nó mang tặng Chơn Chơn đạo nhơn ve dầu Nhị Thiên Đường mà không dám tặng.
– Mày muốn về hả, Chơn?
– Ai biểu anh vậy?
– Cái mặt mày biểu chứ ai. Mày muốn về thì tao thay thế Hai cò!
– Em muốn đi hoài hủy.
Chơn Chơn đạo nhơn ông ổng ca:
– “… Ra khơi, biết mặt trùng dương, biết trời mênh mông…[12] “
Ca ong ỏng nhưng đạo nhơn vẫn không rũ sạch được nỗi buồn. Nó đâm ra cay thằng Hai cò. “Ông phiêu lưu về, mày sẽ biết tay ông, đồ cò bợ.” Bây giờ, bè trôi thật ngoan. Hai cò và Tư thẹo chúc Danh ná phiêu lưu bình an. Bè trôi miết, khuất bóng hai đứa. Danh ná tặc lưỡi:
– Giờ còn có ba thằng mình.
Chơn Chơn đạo nhơn hỏi: – Ở đâu ra ba thằng?
– Tao, mày và con Cà Đao.
Cà Đao hứng chí gáy te te. Mặt trời lên khá cao. Nắng còn dịu dàng đưa hai ông nhóc thoát khỏi con rạch nhỏ bé, nông hoẻn của làng mình. Bây giờ là con rạch khác, hai bên không có bờ lớn và cây cối chi chít vươn cành lá che lấp ánh trăng và ánh mặt trời. Chỉ có những cây bằng lăng mọc lác đác, hoa mầu tím nhạt trông đẹp mắt vô cùng. Danh ná say mê ngắm hoa bằng lăng. Lần đầu tiên nó ra khỏi con rạch Chắc Cà Đao. Nó phóng mắt nhìn cảnh tượng phía trước, bên trái, bên phải. Lúa đã sa nhưng chưa cao mấy. Năm
Anh
nay mưa trễ, mới chỉ có vài trận dáo đầu tưởng sẽ mưa ủng đất, vậy mà cả tháng rồi, trời nắng chang chang.
– Ra ngoài, gió lộng quá hé, anh!
– Ừa. – Nắng bạo à… – Mày mệt chưa?
– Chưa. – Chừng nắng ác, tụi mình neo bè dưới cây bằng lăng.
Chiếc bè từ từ trôi. Một mình Chơn Chơn đủ sức giữ lái cho bè không đâm vào bờ. Chống bè, chèo xuồng là nghề của các ông nhãi ở những miền quê nhiều kinh rạch. Bọn nhóc thành phố lái xe máy giỏi thế nào thì bọn nhóc miền quê chèo xuồng giỏi thế ấy. Danh ná bỏ bơi chèo lên bè. Nó đứng dậy. Thiếu cái ống nhòm để thuyền trưởng Danh ná quan sát. Dòng rạch thẳng tắp, hun hút. Danh ná chưa thấy gì khác. Hai bên
rạch là cánh đồng. Nắng đầm đìa trên mặt nước. Nước ngập nắng, gió thổi gợn sóng lăn tăn. Con rạch ngoài làng sạch sẽ và đẹp gấp mấy lần con rạch chạy qua làng. Có lẽ, đến trưa chiếc bè mới dẫn Danh ná đến ngọn Tầm Vu. Nó định bụng khi mặt trời lên bẳng đỉnh đầu, sẽ neo bè nghỉ ngơi, ăn uống.
– Anh Danh à… – Chi mày? – Đêm nay mình ngủ trên bè, hả? – Đã đêm đâu mà lo. Tụi mình sẽ vô làng Vĩnh Trạch ăn hủ tíu. Mày biết chợ Ba Bần không? Chơn Chơn đạo nhơn ngơ ngác. Nó đâu biết gì ngoài Chắc Cà Đao, Trà Ôn và thị xă Long Xuyên. – Không. – Tới ngã Ba Bần, mình sẽ tính đi đâu.
Anh
Chơn Chơn đạo nhơn “dạ dạ” ngoan ngoãn. Giá mùa hè năm ngoái nó chịu khó học hỏi bọn Dzũng Đakao, chắc nó cũng bớt đần độn. Danh ná ham học nên nó cừ quá.
– Anh có bản đồ hả, anh Danh?
– Tao có cái miệng thôi. Muốn biết thì hỏi. Hỏi thì nghe. Nghe xong thì nhớ.
– Anh hỏi ai, địa lý miệt mình?
– Ông Tư Beo. Ổng nói, đi hết con rạch này sẽ tới ngã Ba Bần. Chỗ con rạch này gặp với kinh lớn là ngọn Tầm Vu.
– Còn gì thêm?
– Đến chợ Ba Bần hỏi nữa. Đường đi ở miệng nghe, mày.
Chiếc bè vẫn êm ả trôi. Bỗng, từ trên cây bằng lăng, một thằng nhóc núp đợi đã lâu “bông nhông [13]” xuống nước. Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn chưa hết ngạc nhiên thì thêm thằng nhóc nữa, ở cây bằng lăng khác nhẩy cái ùm. Chúng bơi về phía bè. Thằng nhóc thứ
nhất với tay bám vào mạn bè, nhe răng cười toe toét: – Tao nè, sư phụ ơi!
Đó là Tâm sún và bạn nó là Nghĩa lồi. – Để hai đứa tao kéo bè tới ngã Ba Bần tiễn mày, sư phụ nhé!
Danh ná nói: – Mệt lắm. Tâm sún ngún nguẩy: – Miễn là, khi về mày dạy tao hết nghề bắn ná. Hai ông nhãi, mỗi ông bơi vào một bên bờ rạch. Danh ná ném dây lên. Tâm sún và Nghĩa lồi chộp lấy. Chiếc bè được kéo đi vững hơn, nhanh hơn, êm hơn. Danh ná gối đầu lên cục gạch, nằm ngửa ngắm… mặt trời. Nó búng ngón tay. Cà Đao gáy vang rồi bay xuống. Cảm khái, Danh ná rút ác-mô-ni-ca, dạo bản nhạc quen thuộc. Chơn Chơn dừng tay chèo, hát theo:
– “… Giòng An Giang cây xanh lá thắm Giòng An Giang sông sâu sóng biếc
Lờ lững về qua Thất Sơn, Châu Đốc giòng sông uốn quanh Đã mấy mùa Xuân thái bình …” [14]
Tiếng kèn, tiếng hát lan tỏa trên mặt nước, bồng bềnh theo bè chuối. Nắng đã chói chang. Nắng càng chói chang, mầu hoa bằng lăng càng đẹp. Và gió càng mát. Chiếc quần xà lỏn no gió, phồng căng, bay phần phật. Tâm hồn Danh ná cũng đang bay …
[10] Ăng-ten: từ tiếng Pháp ‘antenne’; nhánh câu điện sóng.
[11] Rô-ti: từ tiếng Pháp ‘rôtir’; quay thịt, nướng, lụi, thui.
[12] “Viễn du”, nhạc và lời của nhạc sĩ Phạm Duy.
[13] Bông-nhông: từ tiếng Pháp ‘plongeon’, nhẩy từ trên cao xuống nước.
[14] “Giòng An Giang”, nhạc và lời của nhạc sĩ Anh Việt Thu. ‘Giòng’ được giữ như trong bản chính, thay vì sửa thành ‘dòng’.
Bè neo dưới gốc cây bằng lăng, giáp ranh con kinh lớn. Những người thành phố, bọn Dzũng Đakao, Chương Còm, chẳng hạn, sẽ tưởng đây là dòng sông nếu họ tới lần đầu. Kinh gì mà lớn vậy? Ai đã đào con kinh này? Cà Đao gáy liên miên, gáy say sưa. Nó cũng có vẻ khoái giang hồ lắm. Buổi trưa trên kinh rạc thật êm vắng. Bên kia, chợ Ba Bần, không còn người nào. Bọn nhóc về nhà ngủ cả rồi. Chắc lát nữa, chúng sẽ kéo ra đứng vỗ tay hoan hô và chiêm ngưỡng chiếc bè chuối qua kinh. Chơn Chơn đạo nhơn nghĩ thế. Nó cởi quăng quần xà lỏn, nhẩy xuống nước, ngụp lặn. Danh ná làm theo. Hai đứa mặc sức bơi lội. Nước làm tươi mát thân thể chúng, tâm hồn chúng. Bơi lội thỏa thuê, hai đứa leo lên
Duyên Anh
bè, gỡ bánh tét ăn căng bụng. Cà Đao được xơi những miếng mỡ ngon lành. Bữa cơm “giang hồ” đầu tiên của thầy trò Danh ná có điểm tâm… chuối chiên. No nê rồi, chúng đi tìm bóng mát của bằng lăng nước, nằm ngủ thoải mái. Cuộc đời lấy “trăng gió làm nhà, nước mây làm bạn” thật sự bắt đầu. Chiều nay, chiếc bè chuối dạt về đâu, ghé bến nào, không cần biết. Đêm nay, ngủ nơi nào, không cần biết. Tuổi nhỏ chưa quen tính toán. Chưa quen tính toán nghĩa là chưa quen toan tính. Hạnh phúc thay, tuổi nhỏ!
Giấc ngủ của hai ông nhóc thần tiên quá. Sẽ chẳng đứa nào nằm mê thấy cái gì hết. Mấy ngày đêm vất vả ghép bè, bây giờ, được ngủ, chúng ngủ kỹ, ngủ trả nợ. Đến khi tiếng xuồng máy, ghe máy khuấy động trên ngọn Tầm Vu, Danh ná mới thức. Chơn Chơn đạo nhơn vẫn ngủ lịm. Danh ná đứng dậy. Giấc ngủ trần truồng, giấc ngủ … thiên nhiên của nó, tạo thêm sức mạnh cho nó để sắp chèo chống chiếc bè chuối nặng chình chịch qua kinh. Con kinh dài ra phết. Chỗ ngã ba, gió mạnh và nước chẩy không phải đùa. Đã thấy lác đác vài thằng nhãi đi lại bên kia bờ
kinh! Chợ Ba Bần thì im vắng hoàn toàn. Danh ná bước tới chỗ Chơn Chơn đạo nhơn nằm ngửa tênh hênh. Nó mỉm cười. Và liền đó, nó nẩy ra một trò chơi. Danh ná lặng lẽ xuống rạch. Nó mò mẫm ở bờ cỏ. Mò mãi mà chẳng được như nó muốn. Nó nghển lên. Chơn Chơn đạo nhơn vẫn không cục cựa. Con nhà này ngủ như chết. Danh ná lại hí hoáy mò. Nó đã thộp được cái gì trong tay. Đôi mắt nó thật ranh mãnh. Danh ná lom khom lên bờ. Nó bước nhẹ đến chỗ Chơn Chơn đạo nhơn, bỏ khẽ “cái gì trong tay nó” đúng vào rốn của đạo nhơn. Rồi nó nhanh chân về phía neo bè. Chơn Chơn đạo nhơn thấy nhồn nhột ở bụng. Nó đưa tay gãi. Bỗng nó hét lớn, ngồi vùng dậy, hất tay thật mạnh. Con cua đực màu đá văng ra. Danh ná vờ vịt: – Chi vậy, Chơn? – Con cua. Danh ná cứ vờ vịt: – Con cua mà la bự quá xá!
Chơn Chơn đạo nhơn đã tỉnh ngủ:
– Nó kẹp tay em, suýt nữa nó…
Danh ná phá ra cười:
– Suýt nữa mày thành gà thiến, hả?
Chơn Chơn đạo nhơn mím môi. Nó bỗng nhớ kẻ thù. Nó ngó quanh quẩn tìm kiếm. Nhưng kẻ thù của nó đã chuồn mất hút. Chơn Chơn đạo nhơn nhẩy ùm xuống nước. Danh ná làm theo đệ tử. Ngủ trưa xong mà nhảy xuống sông rạch ngụp lặn thì tuyệt vời. Tưởng không còn gì sung sướng hơn.
– Mày đói chưa, Chơn?
– Còn no căng rốn.
– Vậy cho bè sang chợ Ba Bần thôi.
Hai đứa leo lên bè, cởi dây cột và bắt đầu sang bên kia bờ kinh. Kinh sâu không thể chống sào được, hai đứa phải chèo. Lúc này, nắng bớt chói chang nhưng con kinh tưởng phẳng lặng mà lại chẩy khá mạnh, hai đứa chèo cong cả lưng, bè
vẫn chẳng chịu trôi theo ý muốn. Cuộc phiêu lưu khó nhá rồi. Từ đầu con rạch ra gần giữa con kinh, nhờ nước đẩy nên bè đi thẳng. Bây giờ, bè ở chính giữa ngã ba, kinh sâu không chống sào nổi, bơi chèo không đủ sức, bè muốn trôi theo dòng nước hai ông nhóc chỉ đủ sức giữ bè đứng im một chỗ. Bên kia bờ kinh, đã có một thằng nhãi phát hiện chiếc bè chuối kỳ cục. Và rồi thằng nhãi la lối um sùm. Bọn nhãi chợ Ba Bần kéo ra đầy nhóc. Chúng cười nói, hò hét. Danh ná nghe rõ mồn một. Nó nóng máu quá sức.
– Để bè xuôi dòng đi anh ạ! Cho nó muốn trôi đâu thì trôi.
– Không phải sang bờ.
Chơn Chơn đạo nhơn buột miệng “triết lý” giang hồ:
– Phiêu lưu thì đâu chẳng là phiêu lưu, cần quái gì phải sang bờ…
– Chèo đi, đừng có lải nhải!
– Nó không nhúc nhích, chèo phí sức.
Danh ná ra lệnh:
– Tao cấm mày nói. Sao mày lắm ý kiến vậy? Ông chúa ghét những thằng hay ý kiến. Chèo đi, gắng sức đi! Phiêu lưu là khó ăn nghe, mày!
Bọn nhãi đứng trên bờ hò hét kỹ hơn. Một thằng gào thật bự:
– Chúng nó mà qua được thì tụi bay gọt đầu tao. Cá mười ăn một nè…
Thằng khác:
– Chúng nó qua … rạch chứ qua sao nổi kinh! Cá trăm ăn một cũng hổng thèm. Bộ ngu à … Mèn đét ơi, xuồng qua khúc này còn khó, nữa là bè chuối.
Danh ná nghe không sót tiếng nào. Nó hỏi Chơn Chơn đạo nhơn:
– Mày ghe rõ chứ, Chơn?
Chơn Chơn đạo nhơn đáp:
– Rõ.
– Vậy gắng sức đi.
– Sang tới nơi em phải đục vài thằng.
– Hãy cố sang được cái đã. Sang được là tụi nó mắc cở rồi.
– Tụi nó quê … mười cục lận!
Bọn nhãi Ba Bần mỗi lúc mỗi chế nhạo tàn tệ hơn. Hãy nghe trận võ miệng tự do trong … vô trật tự: – Hai thằng này dân xứ nào vậy cà?
– Dân xứ khùng đó!
– Ờ, chúng nó khùng dữ.
– Đúng là khùng nặng cối đá rồi. Nhìn bè của chúng nó mà xem. Ối trời ơi là trời, đất ơi là đất. Cờ quần xà lỏn, gà tre, bánh tét, bánh ú, nồi, chảo, chiếu, mền, bếp, gạch tùm lum tà la …
– Ê, hai đứa trần truồng như nhộng!
Danh ná chột dạ. Nó vội ngưng chèo, mặc vội quần xà lỏn và giục Chơn Chơn đạo nhơn
Anh
mặc quần. Dòng nước lợi dụng lúc hai nhà phiêu lưu mặc quần, đưa chiếc bè nhích một quãng. Trên bờ, bọn nhãi Ba Bần được dịp la lối:
– Chúng hết tô hô rồi. Mặc áo vô đi!
– Mặc áo vô là bè trôi tuốt luốt à …
– “Mợt” thí mồ. Đớp bánh tét, bánh ú cho đỡ “mợt” cái đã. Lát tấp vô, tao mời ăn cơm cá rô kho tộ!
– Thưởng chúng mày cháo vịt đó.
– Thêm hai xị đế. Chơn Chơn đạo nhơn muốn điên tiết. Chưa bao giờ nó bị chọc quê như thế này. Nó nghĩ thầm: Ông mà táp được vô bờ, không có cơm cá rô kho tộ, cháo vịt, đế là tụi bay thê thảm. Nhưng chiếc bè chuối vẫn ì cái thân xác, chẳng chịu đi thẳng. Đôi tay mỏi nhừ rồi. Cơ sự này đến … mang hận ngàn đời thôi. Nắng đã dịu hẳn. Trên bờ, bọn nhãi Ba Bần chưa dịu sự chê nhạo. Chơn Chơn ỉu xìu. Khuôn mặt nó thảm thương lắm. Nó buồn bã:
– Liệu qua nổi không, anh?
Danh ná quả quyết:
– Dư sức. Chơn Chơn đưa tay vuốt mồ hôi đầm đìa mặt mũi: – Anh có mẹo, hả?
Danh ná lắc đầu: – Có công mài sắt có ngày nên kim.
Chơn Chơn chán nản: – Có công chèo mà bè không đi.
Danh ná mắng át:
– Mày ưa nản lòng quá. Phải kiên nhẫn chứ.
Bọn nhãi Ba Bần, lâu lâu, gặp trò chơi thú vị, thả ga niềm vui, niềm vui độc ác, niềm vui làm đau nhói hai quả tim của hai nhà phiêu lưu Chắc Cà Đao.
Anh
– Ê, hai thằng dưới bè kia, cá gì không? Tao cá hai chú vịt xiêm lấy con gà tre nè, nếu tụi mày táp vô bờ.
– Tao cá hai con cá lóc lấy cái bánh tét.
– Tao cá bốn tô hủ tíu lấy … cục gạch thôi! Tụi bay mà táp vô bờ, ông lạy trăm lạy.
– Ông thắp nhang.
– Ông mang trái cây cúng kiếng.
Không thể để bè trôi theo dòng nước được. Không thể để bọn nhãi Ba Bần chế nhạo mãi được.
Nếu không táp vô bờ, Danh ná sẽ bỏ bè chuối, bơi vào bờ và lần theo bờ rạch… hồi hương. Thế là hết phiêu lưu. Là chẳng còn gì kể cho bọn Dzũng Đakao nghe. Là chẳng bao giờ dám nghĩ chuyện đi đâu nữa. Là suốt đời cam đành sống mù mịt ở vùng thôn ổ Chắc Cà Đao. Danh ná suy nghĩ giây lát. Nó hỏi Chơn Chơn đạo nhơn: – Mày cò đủ sức chèo một lúc nữa không? Chơn Chơn đạo nhơn đáp:
– Em chỉ còn đủ sức chèo tới lúc mặt trời lặn.
– Vậy là mày dư sức. Giờ, một mình mày chèo, tao vô bờ nhé!
– Làm chi, anh?
– Tao nhận lời cá. Tối nay, anh em mình ăn cháo vịt tẩm bổ.
Chơn Chơn đạo nhơn lại vui vẻ: – Chắc ăn hả, anh?
Danh ná gật đầu: – Chắc như bắp.
Bây giờ, một mình Chơn Chơn đạo nhơn chèo lái chiếc bè. Tự nhiên nó chèo nhanh vô cùng. Chiếc bè không tiến vào được nhưng cũng không bị đẩy trôi. Danh ná gỡ dây ở hai mép bè ra. Nó nối thành một sợi dài. Sợ còn ngắn, Danh ná lấy thêm mấy sợi dây dừa “sơ-cua [15]” nối tiếp. Rồi nó buộc dưới “cột buồm” giữa bè. Danh ná “bông-nhông” xuống nước, bơi vào bờ. Bọn nhãi Ba Bần ngạc nhiên chưa hiểu chuyện gì
Anh
sắp xảy ra. Chúng ngưng hẳn sự la lối, chế nhạo. Danh ná bơi thật nhanh. Nó chỉ là thằng bơi giỏi. Con kinh này chỉ khó với cái bè chuối chứ đâu có khó với Danh ná. Nó đã vào đến bờ, không leo lên mà đứng dưới nước. Như một tay phiêu lưu chuyên nghiệp Danh ná chào hỏi thật lễ độ:
– Chào các bạn, tui là Danh ná, người làng Chắc Cà Đao, bạn tui đang ở trên bè giữa ngọn Tầm Vu này là Chơn. Vì có người tự xưng mình là Chơn Chơn đạo nhơn chuyên bày trò đoán số đề, ra thai tầm bậy tầm bạ nên tụi tui gọi Chơn là Chơn Chơn đạo nhơn cho bõ ghét cái ông đạo nhơn số đề…
Bọn nhãi Ba Bần trố mắt nhìn Danh ná. Giá gặp lúc khác, Danh ná đã cà kê dê ngỗng, ngặt lúc này Chơn Chơn đạo nhơn sắp rã tay rồi nên Danh ná đơn sơ vài hàng thôi. – Tui bơi vô bờ để nhận lời cá của các bạn. Bạn nào cá vịt xiêm lấy gà, cá lóc lấy bánh tét, hủ tíu lấy cục gạch, thì cá hết.
Bọn nhãi Ba Bần thộn mặt ra. Danh ná cười:
– Lúc nãy các bạn “kiêu ngạo” tụi tui quá xá mấu.
Danh ná quen nói “kiêu ngạo” thay vì bỏ chữ “kiêu” đi.
– Vậy các bạn không dám cá nữa, hả?
Bọn nhãi, bây giờ lại nhao nhao:
– Năm ròm, cá vịt lấy gà đi mày!
Năm ròm ngó Danh ná: – Gà tre của mày đá dữ hôn?
Danh ná quảng cáo gà: – Gà của tui chuyên móc mắt gà địch thủ. Hễ nó đá là đá bể diều gà khác.
Năm ròm bĩu môi:
– Dóc tổ.
Danh ná nói: – Bạn không dám cá nữa chứ gì? Hai vịt xiêm của bạn đâu đáng ăn gà tre Cà Đao. Thôi, khỏi
Anh
cần cá, tụi tui sẽ cho bè táp vô bờ. Vịt xiêm, cá lóc, hủ tíu là thứ tầm thường. Bè chuối qua ngọn Tầm Vu rồi ra sông, ra biển nới đáng kể.
Danh ná bỏ mặc bọn nhãi Ba Bần ngơ ngác trên bờ. Nó kéo nhanh cho dây dừa căng rồi, từng soải tay, Danh ná lôi bè chuối. Đứng dưới nước không đủ sức vì không có thế đứng, Danh ná đành leo lên bờ. Nó đặt sợi dây lên vai cong lưng bước vào phía chợ Ba Bần. Chơn Chơn đạo nhơn có quyền nghỉ tay chèo. Chiếc bè không trôi nữa mà chậm chạp tiến vô bờ. Năm ròm thở phào. Xém mất tiêu hai con vịt xiêm. Vài ông nhãi thấy Danh ná kéo bè vất vả quá, vội chạy tới kéo giúp. Thêm sức người, chiếc bè rẽ nước, khinh thường ngọn Tầm Vu. Danh ná quay lại nhìn mấy ông nhóc. Mấy ông nhóc nhe răng cười. Chẳng mấy chốc, chiếc bè chuối kỳ cục, chiếc bè chuối duy nhất của ngành hàng hải cổ kim, đông tây, đã vào bến Ba Bần. Chơn Chơn đạo nhơn kiêu hãnh ra lệnh: – Cà Đao, gáy mừng chiến thắng!
Cà Đao vỗ cánh gáy ba hơi liền. Nó bay lên bờ, chạy về phía Danh ná. Mới trổ hai đường nghề thôi, mà Cà Đao đã chinh phục bọn nhãi Ba Bần rồi. Chơn Chơn đạo nhơn gọi vọng: – Anh Danh, anh buông dây ra để em kéo xuống.
Chơn Chơn đạo nhơn, hơn cả một ngư phủ, dĩ nhiên, nó là thuyền phó, cuộn dây bằng hai cánh tay rất nghề. Nó đặt cuộn dây dừa trên bè rồi nhẩy phóc lên bờ. Bọn nhãi Ba Bần bu quanh Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn và Cà Đao. Chơn Chơn đạo nhơn hất đầu ngạo mạn:
– Thằng nào lúc nãy bảo anh em tao ngu? Thằng nào lúc nãy bảo sẽ cho gọt đầu nếu bè của anh em tao vô được bờ? Thằng nào lúc nãy bảo anh em tao khùng? Thằng nào lúc nãy bảo bè chuối không qua nổi ngọn Tầm Vu?
Chơn Chơn đạo nhơn hỏi tội kỹ quá. Nó hung hăng quên béng rằng nó đang đứng giữa đám đông cả hai chục ông nhãi. Mà sao bọn nhãi Ba Bần hiền thế! Hẳn là chúng nó phục bọn
Danh ná nên không ăn thua. Danh ná sợ Chơn Chơn đạo nhơn gây phiền phức và làm mất cảm tình với bọn nhãi. Khi ta bỏ nhà đi giang hồ đây đó, ta đừng dại dột gây phiền phức và làm mất cảm tình với những ai ta gặp gỡ. Ta đến đóng đất xứ người, ta chớ huyênh hoang, dẫu ta bị xử ức và ta đành chịu lép vế, nhưng ta cốt phải biết giữ lấy niềm tự trọng và đừng bao giờ để ai có lý do để oán ghét, khinh bỉ mình, vì khinh bỉ mình là chà đạp lên danh dự mình và danh dự của tất cả những gì làm nên mình. Ấy, cái thế giới mênh mông của loài người vẫn nhỏ hẹp khi chứa đồng loại. Những bài tập đọc trích từ những tác phẩm vĩ đại của các vị văn hào bất hủ về ‘tình yêu nhân loại’ nghe nó thiết tha và ấm áp tình người. Nhưng trong Lịch sử của Nhân loại, đã bao lần cái tình yêu nhân loại ấy đã chỉ là ảo tưởng, loài người còn thiếu tình đồng loại hơn cả súc vật. Danh ná ơi, dù có phiêu lưu đến chân trời nào đi nữa, đừng bao giờ quên cội nguồn, quê hương cậu, nghe chưa? Hiện giờ, cậu cứ giang hồ trên quê hương cậu. Vì, cậu thấy chưa, chỉ giang hồ
trên quê hương cậu, cậu mới được thương yêu, được cảm thông và được trau giồi. Chơn Chơn đạo nhơn đó, nếu nó cứ tiếp tục cái tội hoạnh họe của nó cũng đủ cho nó sưng quai hàm rồi. Ở Ba Bần thì không sao đâu. Nó vẫn được tha thứ và thiếu điều… cảm phục.
Danh ná vỗ vai Chơn Chơn đạo nhơn:
– Thôi mày. Chơn Chơn đạo nhơn im liền. Danh ná ngó Năm ròm: – Bạn biết tài nghệ Cà Đao của tui chưa? Năm ròm cười cầu thân:
– Số dzắt. Nè, Danh ná, mày đừng giận tụi tao, nghe. Tụi tao giỡn chút cho vui thôi.
Danh ná nói:
– Tôi không giận các bạn nhưng trách các bạn đó. Các bạn biết tụi này khó lòng vô bờ, vậy mà các bạn chẳng chịu giúp đỡ, lại còn nỡ lòng chế
Anh
giễu tụi này. Nếu hôm nay gặp dòng nước chảy xiết, tụi này không biết bơi, tụi này chết đuối thì sao? Các bạn có hối hận không? Bọn nhãi Ba Bần nín thinh. Một đứa dụi mắt: – Hối hận chứ. Mà bỏ qua đi, Danh ná. Tên tao là Quới, bọn nó quen gọi Quới cù lần. Tao chèo xuồng giỏi lắm. Danh ná bắt tay Quới cù lần: – Các bạn hối hận là điểu tốt. Bây giờ tụi mình là bạn. Tui nói đặng các bạn rõ: Mùa hè này tụi này buồn quá, bèn ghép bè đi phiêu lưu. Tụi này sẽ đi khắp nơi, kiếm thật nhiều bạn để vui chơi và tìm hiểu quê hương mình. Rồi tụi này ra tận đảo Hoàng Sa.
Ai chà, đến đây lại rắc rối. Danh ná phải “địa lý giáo khoa thư” thực hành và nhắc tới nhắc lui vụ quân Tàu xâm lăng đảo Hoàng Sa. Anh em Ba Bần say mê nghe. Chúng nó vừa mới biết đảo Hoàng Sa bị quân Tàu đánh chiếm và cần phải đuổi quân Tàu ra khỏi Hoàng Sa, đảo của tổ tiên
chúng nó. Không khí bất bình dâng lên ngùn ngụt. Mải nghe lịch sử và địa dư, anh em Ba Bần quên mất rằng mặt trời đã lặn. Rồi anh em cũng phải về ăn cơm. Vài đứa hẹn tối sẽ trở lại “mạn đàm” với Danh ná trên bè chuối.
– Mày học được hai bài học phiêu lưu rồi. Một là phải kiên nhẫn. Hai là phải cố hết sức mình vượt khó nhọc.
Hai đứa xuống bè.
[15] Sơ-cua: từ tiếng Pháp ‘secours’; phụ tùng, để dự trù, để phòng chừng.
Xóm chợ Ba Bần đã thắp đèn. Những ngọn đèn hoa kỳ chỉ làm tăng thêm nỗi buồn đêm tối của thôn ổ Việt Nam. Điện chưa về đây. Điện còn ở mãi xa tít tắp. Bóng tối ngu dốt, lạc hậu, nghèo hèn, an phận vẫn dầy đặc. Chiếc bè chuối của Danh ná mới chỉ là một ngọn nến. Và hai tiếng phiêu lưu hé mở một chân trời không giống ngọn Tầm Vu quen thuộc. Bọn nhãi Ba Bần vừa cảm thấy cái gì khang khác. Cái gì ấy, chắc chắn, chúng nhận ra đã táp vào bờ. Chiếc bè chuối do hai thằng bé, bằng tuổi chúng chèo lái. Và, lạ chưa, hai thằng bé muốn ra sông, ra biển, ngược lên phía Bắc tổ quốc, đánh đuổi quân xâm lăng Trung quốc khỏi đảo Hoàng Sa.
Tin Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn ghép bè phiêu lưu sông nước ghé bến Ba Bần đã vang vọng tới làng Vĩnh Trạch. Những ông nhô thuật chuyện xảy ra ở ngọn Tầm Vu mặc sức thêu dệt. Riêng chú Cà Đao đã trở thành niềm bí ẩn ghê gớm của con nít Vĩnh Trạch. Nghe, chỉ mới nghe sơ sơ, con nít Vĩnh Trạch đã muốn tung mình tới Ba Bần để tận mắt ngắm nghía hai nhà phiêu lưu và con gà tre bất hủ. Lúc ấy trên chiếc bè chuối, Danh ná ngồi bó gối nhìn về phía nhà mình. Chả thấy gì cả. Gió thêm thổi vun vút trên mặt kinh. Lạnh thí mồ. Chiếc bè trống tung. Sóng tuy nhỏ nhưng nó xô vào bờ nghe ồm ộp và đong đưa bè chuối. Trời lưa thưa mấy vì sao. Hồi chiều, nắng còn hứa hẹn tháng sau chưa mưa. Thế mà, chập tối, trời đổi ý, sấm dậy, ì ùng phía xa, chớp lòe loằng ngoằng trước mặt. Cái cảnh này khó mà vui. Danh ná xích gần Chơn Chơn đạo nhơn:
– Mày lạnh không, Chơn?
– Chút chút. Em sợ đêm nay mưa.
– Vài hôm nữa mới mưa. Trời dọa mưa thôi. Hễ mưa mình lên chợ ngủ. Phiêu lưu là không sợ cái con mẹ gì cả. Mình đã vượt ngọn Tầm Vu, mình sẽ vượt hết mọi chỗ!
Danh ná với tấm mền. Nó choàng cho Chơn Chơn đạo nhơn và cả nó nữa. Hai nhà phiêu lưu khoác chung một cái mền trên bè chuối trong cảnh tượng im vắng hãi hùng của sông bến cũng đã chán chê là cảm xúc rồi.
– Mai mình nhổ neo hả, anh?
– Còn tùy.
– Tùy ai?
– Tùy mình. Tao khoái lên bờ, đi sâu vào trong xem trỏng có gì lạ.
– Giờ rít một điếu thuốc lá anh nhỉ!
– Bậy mày, nhóc con đã bầy đặt hút thuốc. Để tao chơi một bản nhạc cho ấm áp.
Danh ná rút ác-mô-ni-ca. Nó lướt đi lướt lại trên môi năm bẩy lượt. Rồi thổi bài hành khúc …
đường biển. Danh ná đánh “tông” [1] còn dở ẹc nhưng Chơn Chơn đạo nhơn vẫn khoái. Tiếng kèn của Danh ná bắt tiếng sóng vỗ mạn bờ im bặt. Bến nước chỉ còn tiếng kèn phấn khởi, thôi thúc viễn hành. Chơn Chơn đạo nhơn hát:
– “… Ra khơi sóng dâng dạt dào
Mênh mông sóng vang thân tầu
Nghe âm u ù ù ù Át tiếng máy ầm ầm Quân ca theo trầm trầm
“Bè” nhấp nhô Mờ mờ xa mây núi Đi cho quên bến bờ
Chờ xa khơi trùng dương bát ngát Ngày về “lại” Chắc Cà Đao …”[2]
Chơn Chơn đạo nhơn cảm khoái quá, đổi “tầu” thành “bè” và “tổ quốc ghi tên” thành “lại Chắc Cà Đao”. Nếu tác giả Hải quân Việt
Nam nghe được, chắc sẽ cười thôi. Chơn Chơn đạo nhơn hát điệp khúc hai lần. Nó thấy rằng khi
mình buồn mình hát thì nỗi buồn nó biến đâu mất trơn. Danh ná ngừng tiếng kèn. Chơn Chơn cũng ngừng luôn tiếng hát. Sự im lặng chưa kịp trả lời lại, những tiếng vỗ tay đã nổi lên. Hai nhà phiêu lưu quay lưng. Trên bờ, nhóc con cả lũ. Chúng đến lúc hai nhà phiêu lưu đang mải mê kèn hát. Và chúng đứng yên thưởng thức! Quới cù lần vọng xuống:
– Tụi tao ra chơi, có cả bạn bè Vĩnh Trạch, đông quá xá mấu, bè hổng chứa hết đâu. Tụi mày lên chợ, nghe. Mình vui suốt đêm. Rồi chúng ta tính chuyện cái đảo gì đó tao quên mất tiêu rồi. Chơn Chơn đạo nhơn hỏi:
– Có thằng Năm ròm không?
Quới cù lần đáp:
– Có đủ mặt.
Cái thằng Quới cù lần cứ làm như mình đã quen hung lắm! Trẻ con dễ quen và dễ thân nhau. Cuộc đời sẽ chẳng bao giờ có chiến trường, có thanh toán, có nô lệ, có thù hận, nếu chỉ có con
Anh
nít. Hãy là con nít! Đâu được. Vậy hãy giữ trong trái tim mình một chút con nít, một chút thánh thiện làm người. Danh ná bỗng yêu Quới cù lần quá. Nó gấp mền, đập mạnh tay vào lưng Chơn Chơn đạo nhơn: – Lên chơi, mày!
Hai nhà phiêu lưu theo bọn nhóc lên chợ. Dũng sĩ Cà Đao ở lại coi bè. Danh ná ngạc nhiên thấy, trong chợ, còn khối nhóc con đã tụ tập sẵn. Quới cù lần làm cuộc giới thiệu chẳng … cù lần tí ti ông lão nào.
– Đây là Năm ròm, hai thằng mày đã rõ, đứa đòi cá hai vịt xiêm lấy gà tre. Đây là Bẩy vẩu, thằng đòi cá cá lóc lấy cục gạch. Đây là Sáu xạo, thằng đòi… Danh ná xua tay:
– Khỏi đòi cá, đòi cá với kiếc lôi thôi… Cứ tên là đủ, mình bạn rồi mà.
Quới cù lần hơi cù lần chút xíu: – Còn đây rặt Ba Bần mí lỵ Vĩnh Trạch.
Quới cù lần rất quan trọng nhắc tên Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn với những thằng không có mặt trên bờ kinh, buổi chiều.
– Hai đứa đã chèo bè qua ngọn Tầm Vu, chúng mày ớn chưa? Xứ mình có ai chơi bè đâu? Ngọn Tầm Vu là đồ bỏ, hai đứa này còn dám ra sông, ra biển, ra đảo…
Quới cù lần cầu cứu Danh ná: – Đảo gì, Danh? Danh ná đáp: – Đảo Hoàng Sa.
Quới cù lần tiếp: – Ra đảo Hoàng Sa nữa. Cho bay rõ, ở biển, sóng lớn bằng mấy căn nhà lận. Nội tao biểu vậy đó. Đã ai dám cho bè ra biển? Buổi chiều, tụi tao tận mắt thấy hai đứa đưa bè qua ngọn Tầm Vu ngon hơn ăn hủ tíu. Thoạt đầu, tụi tao “kiêu ngạo” hai đứa, sau tụi tao mắc cở muốn độn thổ à… Tao xin làm đệ tử Danh ná.
Con nhà Quới cù lần này có máu phường tuồng. Nó đủ khả năng theo Sơn đông mãi võ. Nhưng nó dễ thương lắm, rồi những điều nó nói toàn là sự thật. Nó không nói dối. Càng dễ thương hơn, nó không ghen ghét với tài năng của những thằng bằng tuổi nó. Quới cù lần hất đầu ra hiệu. Năm ròm nói: – Tụi tao mắc cở thiệt tình. Danh ná đã dạy tụi tao một bài học: Thấy ai hoạn nạn phải xả thân giúp đỡ, không được chế nhạo. Tụi tao nghe Danh ná dạy, tự học thêm được bài học số hai: Đã hứa điều gì thì phải giữ đúng. Tao nè, Quới cù lần, Bẩy vẩu nè, Sáu xạo nè đã thách thức cá, tụi tao thua cá, vậy tụi tao bắt vịt nấu cháo, làm gỏi nạp hai đứa. Sáu xạo hết xạo rồi, nó mang một xị đế!
Danh ná cảm kích quá. Ôi, bước đường giang hồ còn hứa hẹn dài ơi là dài và nỗi gian nan hồ còn hứa hẹn khổ ơi là khổ, thế mà mới ở chặng đầu, nhờ phấn đấu qua nổi ngọn Tầm Vu, nó đã được đền đáp xứng đáng cái sức người con nít của nó. Làm việc, cố gắng làm việc sẽ được yêu
thương. Danh ná đã được anh em của nó ở Ba Bần, Vĩnh Trạch yêu thương. Nó không còn sợ làm việc nữa. Chơn Chơn đạo nhơn muốn khóc. Nó lại phục Danh ná. Không nghe Danh ná, để mặc bè trôi theo dòng nước thì ai thèm kết bạn, ai thừa vịt nấu cháo mời ăn!
Hai nhà giang hồ thổn thức đến nỗi cứ đứng im lặng … chào cờ. Chơn Chơn đạo nhơn thầm nhủ: Hồi hương lần này sẽ nhờ anh Hưng mập dạy viết ký sự. Chứ, cái đoạn đời lừng lẫy ở chợ Ba Bần mà không ghi chép thì đời sau ai biết để ngậm ngùi. Còn Danh ná làm tính cộng đầu nhóc. Hai mươi thằng tất cả. Rồi sẽ biết tên từng thằng. Không khí đang nồng nàn cảm xúc, bỗng nhiên, Bẩy vẩu ném vô cục đất sét:
– Sáu xạo à, mày chưa hết xạo đâu.
Sáu xạo cãi:
– Hớt rồi mờ. Bẩy vẩu bĩu môi vẫn cứ vẩu:
Duyên Anh
– Chắc hôm, mày? Mày nói nghe coi mày lấy đế của ai?
Sáu xạo cười: – Của ba tao. Sợ ổng uống nhiều say bét, tao ẫm đỡ một xị.
Bẩy vẩu phân trần:
– Đó, đó, vậy mà hồi nãy mày biểu mày mua đãi hai đứa. Mày hai lần… ba xạo! Sáu xạo vẫn cười: – Lâu lâu xạo chút xíu cho “dzui”!
Nó luýnh quýnh: – Ậy, nhậu chứ, cháo nguội ngắt bi giờ.
Danh ná nói:
– Thiệt tình, tụi bay đã làm hai đứa tao muốn khóc. Lúc bè chuối còn đang trôi dạt, nghe tụi bay chế nhạo, Chơn Chơn đạo nhơn ức sôi gan, dọa sẽ đục tụi bay khi lên bờ. May quá chừng, chẳng
có gì xảy ra. Hai đứa tao đã tưởng, đêm nay ngủ ngon trên bè chuối, mai sớm ra đi, không dè được tụi bay thương yêu, mời ăn cháo vịt. Ăn thì ăn, sợ gì, nhưng tụi bay có mang theo đủ chén, muỗng cho hai mươi thằng không?
Năm ròm nói: – Tụi tao ăn no cả. Hai đứa mày cứ tự nhiên ăn đi. Danh ná lắc đầu: – Vậy hai đứa tao từ chối. Tao chưa từng uống rượu. Tao nghĩ một xị đâu nhiều. Hai mươi thằng uống, cao lắm, mỗi thằng một hớp gọi là rượu giang hồ Ba Bần gặp gỡ. Nếu cả làng ăn uống thì vui nơi, chứa chan kỷ niệm phiêu lưu. Bằng tụi bay từ chối, hai đứa tao xuống bè ngủ, mai lên đường sớm. Ôi cha, cái giọng giang hồ lạc phách của Danh ná xôm tụ quá trời. Mới rời con rạch Chắc Cà Đao nửa ngày mà cậu bé Danh ná đã trang trải gớm. Thế mới hay, cách ngôn dạy đúng: “Đi một
Anh
ngày đàng học một sàng khôn”. Bọn nhãi Ba Bần, Vĩnh Trạch đành phải chiều ý Danh ná. Cuộc ăn uống xảy ra tưng bừng. Danh ná cầm xị đế tu một hớp. Rồi đến lượt Chơn Chơn đạo nhơn, Năm ròm, Quới cù lần, Bẩy vẩu, Sáu xạo vân vân. Các bạn giang hồ thay phiên nhau dùng muỗng, chén, đũa húp cháo, gắp gỏi. Sau hết, gặm xương vịt! Nhân loại chưa từng có một bữa tiệc giang hồ nào đầy đủ ý nghĩa như bữa tiệc giang hồ Ba Bần gặp gỡ. Anh em yêu cầu Danh ná biểu diễn ác-mô-ni-ca, Chơn Chơn đạo nhơn hát. Tiếng kèn, tiếng hát thắp sáng ngôi chợ. Ánh sáng tỏa ra ngoài. Tiếng vỗ tay, tiếng cười ran ran pháo Tết. Danh ná dạy anh em bài hát thương yêu quê hương, dân tộc, tổ quốc. Xen lẫn với những sáu câu vọng cổ, thủ phong nguyệt, xàng xê rất đồng nội, nhưng hơi uể oải, sầu oán, nỉ non, tuổi thơ đã hưởng ứng hơn với các hành khúc, phấn khởi bước trên đường dẫn tới tương lai hoa mộng, hạnh phúc và yêu thương. Buổi văn nghệ đêm khuya nơi quán chợ quê thật là tuyệt vời. Hai nhà phiêu lưu, hai nghệ sĩ du ca Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn đã đem hơi thở của mình phà khắp
ruộng nương, sông nước, vườn rẫy… Tưởng như mỗi giọt sương khuya ngoài trời ngừng lại, chưa muốn rơi, để ngậm những ca khúc đôn hậu của tuổi thơ ngọc ngà.
Bây giờ, trăng đã tỏ, gió bớt lộng. Bầu trời thôn dã đẹp hoa gấm. Bọn nhãi chỉ sợ trời mau sáng. Tiếng kèn, tiếng hát rồi cũng ngưng. Những trái tim vẫn đập rộn rã. Bất giác, Quới cù lần hỏi: – Danh ná, sao mày hay vậy? Danh ná khiêm nhường:
– Nhờ Dzũng Đakao dạy đó. Nó cho tao thật nhiều sách, bắt tao học, đọc, viết. Nó kể cho tao nghe biết bao chuyện anh hùng trong lịch sử Việt Nam. Nó biểu tất cả trẻ con Việt Nam đều giỏi nếu chịu khó học hỏi và làm việc.
– Dzũng Đakao là thằng nào cà?
– Dzũng Đakao ở Sài Gòn. Mùa hè năm ngoái, nó và bọn Chương Còm, Hưng mập, Bồn lừa về chơi miệt quê tao. Nhờ nó tao mới hiểu trẻ con quê mùa không thua trẻ con thành thị, quê
hay thành đều là trẻ con Việt Nam. Và đã là trẻ con Việt Nam thì không thua bất cứ trẻ con nào trên thế giới.
– Thua trẻ con Mỹ không?
– Nhiều trẻ con Mỹ cũng ngu như bò nếu tụi nó sống ru rú xó nhà hay ho gì.
– Dzũng Đakao dạy mày những gì nữa?
– Nó dạy tao thương yêu nước Việt Nam, dạy tao đừng làm điều xấu, dạy tao không sợ hãi kẻ mạnh, dạy tao phải tin chắc rằng nước Việt Nam sẽ hùng cường vì dân tộc ta có lịch sử lập quốc vĩ đại và rực rỡ nhất thế giới.. Dzũng Đakao dạy tao nhiều lắm. Nó dạy tao biết tự trọng, sống cao thượng, không ích kỷ, biết tha thứ. Nó bảo rằng, một trẻ con Việt Nam chỉ cần vui vẻ, làm việc và yêu thương là sẽ có tất cả những gì mình muốn khi lớn khôn. – Sao nó giỏi dữ vậy?
– Nó đi học, thầy giáo nó dạy nó. Nó đọc sách, nó nhớ, nó hiểu. Đừng lười biếng, cứ chăm
chỉ học hành thì không có thằng nào ngu cả, nó bảo thế. – Mày hên ghê, Danh ná. Làm cách nào tụi tao gặp nổi thằng như Dzũng Đakao?
– Đi phiêu lưu đây đó, sẽ gặp bạn tốt và giỏi. Danh ná đảo mắt nhìn khắp lượt. Ba cái đèn bão chẳng sáng mấy nả, vẫn đủ để anh em thấy khuôn mặt hồn nhiên rạng rỡ của Danh. Hình như chúng nó nhìn nhau bằng đèn con tim.
– Tụi mày cũng đã dạy tao nhiều bài học và cho tao nhiều kỷ niệm. Tao cám ơn tụi mày.
Anh em Ba Bần ngẩn ngơ, không hiểu đã dạy Danh ná bài học gì. Danh ná giải thích: – Tụi mày rất cao thượng.
Một người anh em Vĩnh Trạch phá tan sự nghiêm trang:
– Tao là Tám, vì tao lưới cá tài tình nên tụi nó kêu tao là Tám lưới. Mai mày đừng đi vội, vô Vĩnh Trạch chơi. Mày sẽ mặc sức … ăn cá!
Danh ná nói:
– Rất tiếc mai tao phải lên đường.
Tám lưới hỏi: – Tụi tao theo mày được hôn?
Danh ná sảng khoái:
– Được, được, nhưng tụi mày phải có xuồng hay bè. Bọn nhóc reo hò sung sướng. Chúng nó chia tay hai nhà phiêu lưu, về chuẩn bị xuồng, mai sớm làm cuộc phiêu lưu. Danh ná kéo Chơn Chơn đạo nhơn ra kinh. Đạo nhơn thắc mắc:
– Bữa nọ anh từ chối bọn Hai cò, sao nay anh chịu bọn Ba Bần?
Danh ná vỗ vai Chơn Chơn đạo nhơn:
– Mày ngu ghê nơi, bọn Ba Bần mới xứng đáng phiêu lưu.
Chơn Chơn đạo nhơn “à” một tiếng, ra điều mình vỡ lẽ.
[1] tông: từ tiếng Pháp ‘ton’ ; nhịp điệu.
[2] “Bài ca Chiến sĩ Hải Quân ”, nhạc và lời Văn Cao, một thời gian đầu được dùng làm Hải
Quân Hành Khúc cho Hải Quân Quốc Gia và Hải Quân VNCH.
Khi Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn thức giấc, sinh hoạt ở ngọn Tầm Vu đã náo nhiệt rồi. Ghe chở lúa gạo từ kinh Bốn Tổng xuống, xuồng chở rau trái từ kinh Ông Cò vào, nhộn nhịp bến nước. Chợ Ba Bần mỗi lúc một đông. Đồng quê miền Nam nhiều sinh khí là nhờ nhiều kinh rạch. Mỗi con sông có hàng trăm cánh tay. Mỗi cánh tay lại có hàng trăm cánh tay khác. Tay của sông là kinh, là rạch. Tay của kinh rạch là rạch nhỏ, là mương. Nói cho rõ ràng, mỗi dòng nước chảy trên quê hương miền Nam đều là một ông Phật trăm tay. Tay sông ôm lấy đất. Đất nuôi dưỡng người. Tay sông như tay đời, thiết tha, độ lượng. Vì tay sông độ lượng nên dân miền Nam thường cư ngụ dọc theo những con kinh, những con rạch, nhất định không định cư
Anh
thành làng có lũy tre bao bọc chung quanh. Dân quê miền đồng bằng sông Cửu Long, già trẻ, lớn bé đều biết chèo xuồng, chèo ghe. Phương tiện đi lại trên kinh rạch là xuồng chèo hay xuồng máy đuôi tôm. Tưởng tượng một đám cưới hàng trăm chiếc xuồng đuôi tôm đi trên kinh rạch. Đẹp quá, dân tộc quá. Tưởng tượng chiếc xuồng nhỏ chở đôi người nhẹ trôi trên dòng mương hẹp dưới ánh trăng xuyên qua lá cành. Thơ mộng quá. Dễ thương quá. Sông nước miền Nam đấy. Thiếu những cánh tay như thiếu hơi thở của đời sống. Hơi thở ấy đang dồn lên chợ Ba Bần. Danh ná ngồi nhìn cảnh tượng ở ngọn Tầm Vu, nghe tiếng nói, tiếng cười, tiếng máy khuấy nước, tiếng sóng vỗ vào bờ một cách thích thú. Phải chi Danh ná là nhạc sĩ, nó sẽ sáng tác một bản nhạc hay hơn “Giòng Sông Xanh” [3]. – Anh Danh!
– Gì?
– Tối qua anh biểu mình cần đi sâu vô trỏng xem có gì lạ.
– Ừa, mà tao đổi ý. Đây gần nhà mình, tao sợ mày trốn về rờ vú mẹ.
– Em đi không về cũng được nhưng đã nói là làm, đàng này anh thay đổi xoành xoạch.
– Mày ngu quá. Phiêu lưu là … tự do, thích chi làm nấy!
Hai nhà phiêu lưu đang càu nhàu nhau, quên khuấy mất rằng, từ con rạch nhỏ xuyên ra lối kinh Bốn Tổng, ba chiếc xuồng gỗ réo riết chào và đã xuất hiện trên kinh để gặp bè chuối. Không đông, chỉ có Năm ròm, Quới cù lần, Bẩy vẩu, Sáu xạo và Tám lưới. – Danh ná!
Danh ná quay lại. Tám lưới vẫy tay:
– Đi thôi. Lẹ lên không chị tao đuổi theo thộp cổ tao về đó.
Danh ná giục Chơn Chơn đạo nhơn gỡ dây neo. Thoáng cái, chiếc bè đã được chống đẩy xa khỏi bờ. Tám lưới hỏi:
– Vô kinh Bốn Tổng hả?
Danh ná đáp lớn:
– Kinh Ông Cò mới có đường ra sông. Chiếc bè ra giữa dòng. Nước buổi sáng chảy xuôi về phía vào kinh Ông Cò. Bọn nhóc Ba Bần, Vĩnh Trạch đã lố nhố trên bờ, vẫy tay lia lịa. Danh ná vọng vào, dặn dò:
– Nhớ nhé, vui vẻ, làm việc và yêu thương. Nó giục Cà Đao: – Gáy chào tạm biệt!
Dũng sĩ Cà Đao vỗ cánh gáy ba hồi. Bọn nhóc trên bờ bùi ngùi tiếc nhớ. Ba chiếc xuồng chèo thật nhanh như thể ba chiếc tầu khu trục mở đường cho chiến hạm bè chuối. Bè không cần chèo cũng trôi nhưng Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn vẫn cứ chèo. Chẳng mấy chốc, bè chuối đã khuất hẳn chợ Ba Bần, nơi Danh ná nhớ suốt đời nó. Kỷ niệm không bao giờ có, nếu ta nằm ì xó nhà. Muốn có kỷ niệm làm rạo rực
tâm hồn ta, làm xao xuyến trái tim ta, ta phải phiêu lưu. Nhưng một nhà phiêu lưu có tâm hồn cao quý như Danh ná khác hẳn những tên phiêu lưu tìm đất thuộc địa. Nhà phiêu lưu Danh ná đi tìm cái ‘Đẹp’ trong trời đất bao la, bọn phiêu lưu đi tìm đất thuộc địa chỉ thích kiếm lợi lộc, gây bao cảnh chém giết thê thảm cho loài người. Đó là bọn đi tìm cái ‘Xấu’. Bọn phiêu lưu đi tìm cái xấu thì sức mấy có kỷ niệm làm xao xuyến tâm hồn. Bọn đó không hề có kỷ niệm. Vì bọn nó không có tâm hồn. Những ai có tâm hồn mới có kỷ niệm. Và, những ai có tâm hồn thì sống bất cứ nơi nào người ta cũng quý mến, gặp bất cứ nghịch cảnh nào cũng được cứu rỗi. Còn những đứa không có tâm hồn, sống ở Mỹ, ở Pháp, ở Gianã-đại, ở Anh, ở Đức hay ở ngay trên quê hương mình, vẫn bị khinh bỉ, nguyền rủa và khai trừ. – Anh Danh! – Gì? – Em phục anh. – Thôi mày, chèo đi.
Duyên Anh
Ba chiếc xuồng đã chậm tay chèo, có ý chờ bè tới gần. Ba Bần ơi, thật xa rồi.
– Anh Danh!
– Hỏi hoài!
– Khi về mình có về lối này không?
– Không. Về lối sông Long Xuyên bọc Trà Ôn, băng qua cầu Đúc vô làng mình.
Bè đã gặp xuồng. Xuồng ép sát mạn bè. Danh ná hỏi Tám lưới:
– Mày rành miệt này chứ?
– Rành. – Vậy trưa nay chúng mình ghé ở đầu kinh Ông Cò.
– Tụi tao tới trước, nghe. Tao sẽ lưới cá, trưa nay ăn cơm.
Chơn Chơn đạo nhơn cười tít. Nó thèm cơm muốn ứa nước miếng. Cả ngày hôm qua, hai đứa chỉ ăn bánh tét, bánh ú, chuối chiên và cháo
vịt. Đạo nhơn, chắc chắn, khó sống nổi ở Mỹ, ở Pháp… Ăn bánh mì suốt đời nó sẽ điên mất. Ăn cơm với thịt kho nước dừa, dưa giá là tuyệt cú mèo. Con nhà Chương Còm, mùa hè năm ngoái, ăn cơm ở nhà ông Tư Beo, nó khen bà Tư Beo kho thịt ngon nhất nước. Má nó cũng thường kho thịt nước dừa mà nước không quánh. Chơn Chơn đạo nhơn mê canh chua cá bông lau vô cùng. Ối dào, cái bụng cá bông lau béo thế, không mê sao nổi! Mới thiếu cơm một ngày mà Đạo nhơn đã ngỡ xa quê đi xứ đất Mỹ mười năm lận. – Chơn ơi! – Dạ!
– Mày chèo một mình cho anh ngủ nhé!
– Dễ mà.
Danh ná buông chèo xuống mặt bè, nằm gối đầu lên cục gạch ngủ. Nó vừa nhắm mắt là đã ngủ ngon. Chơn Chơn đạo nhơn chỉ cần lái bè giữ đúng đường đi. Nước chảy dư sức làm bè trôi. Khoảng mười một giờ, chiếc bè tới đầu kinh Ông Cò. Bọn Tám lưới đã neo xuồng, biến đâu
Anh mất. Chơn Chơn đạo nhơn nghi bọn này đi lưới cá. Nó cho bè áp vào bờ, neo chắc. Danh ná vẫn ngủ. Chơn Chơn đạo nhơn cởi quần áo, nhảy ùm xuống nước. Nó ngụp lặn, bơi lội thả giàn. Nước mát ơi là mát. Bơi lội chán, Chơn Chơn đạo nhơn leo lên cây bằng lăng, bắt chước Tâm sún “bôngnhông”. Rồi nó hát inh ỏi. Một lát, bọn Tám lưới từ phía trong xóm ra, mỗi đứa bưng một món đồ. Chơn Chơn đạo nhơn đánh thức Danh ná. Tám lưới bi bô: – Ngỡ dừng bước nơi đâu, chứ đây là Vĩnh Phú, nhà cô tao trỏng kia kìa. Tao vô bắt mấy chú cá lóc nướng trụi, xin bánh tráng, làm nước mắm, rau sống, bún, tụi mình mặc sức ăn. Chơn Chơn đạo nhơn thất vọng: – Không có cơm à?
Năm ròm nói: – Tối ăn cơm. Bảy nhà phiêu lưu dùng bữa. Các món ăn bầy trên bờ cỏ. Bữa ăn của những tay giang hồ
lúc nào cũng ngon. Đạo nhơn ngốn thật kỹ. Tám lưới sành sõi thật. Đi phiêu lưu có nó, còn sợ gì đói nữa. Dũng sĩ Cà Đao nuốt bún một cách vất vả. Quới cù lần bắt tội nghiệp Cà Đao, nó nhúng bún vô nước cho Cà Đao dễ nuốt. Ăn xong, Tám lưới gạ:
– Chiều nay vô Vĩnh Phú nghe, tụi bay. Trỏng có đá banh. Đội banh của anh tao đá với đội Phú Hòa. Thiên hạ cá lớn lắm.
Danh ná thấy ngứa cẳng rồi. Nó bẻ bão tay: – Vô thì vô. Tám lưới nói: – Anh tao biểu cứ neo xuồng ngoài này, đứa nào xớ rớ anh tao đập chết.
Sáu xạo cười:
– Ngủ cái đá. Tao bao rửa chén đũa. Ngủ dậy tao thanh toán cái rụp.
Bảy nhà phiêu lưu bèn ngủ. Dũng sĩ Cà Đao có dịp dạo quanh đây đó, thưởng thức chú cào
Anh
cào, mợ châu chấu, cậu dế… phiêu lưu hoặc vài nhánh cỏ non. Chàng chạy đuổi săn mồi cho đỡ cuồng cẳng. Rồi vỗ cánh gáy ỏm tỏi khiến Tám lưới cứ mở mắt hoài. Con nhà Tám lưới ngắm nghía Cà Đao. Nó thầm nghĩ, mửng này mà cáp độ là có đường. Chiều nay Tám lưới sẽ cáp độ đá banh. Nó cá hội Vĩnh Phú chấp hội Phú Hòa một trái vì nó tin tài “làm bàn” của anh họ nó. Nghe nói, dân đánh cá chợ Phú Hòa vô Vĩnh Phú khá đông. Sẽ khối kẻ trầy trụi. Nếu Tám lưới “ăn” số tiền còm của nó tăng gấp đôi và cuộc phiêu lưu với Danh ná sẽ… “long trọng” hơn. Vẩn vơ suy nghĩ, Tám lưới không ngủ được. Khi nó vừa chợp mắt chút xíu, nó đã mớ, hét inh “Sút [4], dứt, dzô” … Cả bọn bị đánh thức. Quới cù lần cự nự: – Dứt, dứt… lông gà hả, Tám! Tám lưới mắc cở. Nó đánh trống lảng: – Anh tao có vẻ hồi hộp đây. Ổng biểu Phú Hòa nó mướn hai thằng ở thị xã. Năm ròm nói:
– Mình vô thôi. Có thằng Tám nấu nồi chè tổ chảng. Bọn nhóc theo bờ ruộng vào Vĩnh Phú. Cũng có con rạch, cánh tay của kinh Ông Cò, chẩy vô lòng, nhưng cho bè vô vừa chậm vừa tốn sức nên bọn nhóc thả bộ. Những nhà phiêu lưu này không hải bàn, ống nhòm, địa đồ và đồng hồ nên mới tính toán đều trật lất, nhất là giờ giấc. Chúng vào tới đầu làng đã thấy sân banh đông đầy khán giả. Tám lưới hốt hoảng: – Chết mồ, đã ba giờ rồi cà!
Nồi chè được tạm quên. Bọn nhóc phóng ra sân banh. Sân banh! Đó là miếng đất vừa dài vừa rộng, cấy lúa mùa mưa và bỏ hoang mùa nắng. Mùa mưa ai thèm đá banh. Có muốn đá cũng chẳng làm gì có sân. Sân ngập nước, toàn ễnh ương, cóc nhái, tôm tép, vá lòng tong, cua rắn… Dân thể thao bóng tròn – môn thể thao duy nhất – nhà quê hoạt động mùa nắng. Nếu cấy lúa mùa mưa thì gặt hái, đốt đồng, bắt chuột, xong xuôi, người ta xúm nhau sửa chữa mặt “sân” cho nó tàm tạm phẳng phiu. Rồi người ta trồng cột
Anh
gôn [5]. Dĩ nhiên là không hề có lưới, dù đấu giao hữu hay là đấu ăn giải. Cột gôn mùa mưa trông thảm lắm cơ. Y hệt những cành cây khẳng khiu trụi hết lá trong những bức tranh mùa đông xứ tuyết lạnh ấy. Nếu mùa mưa, “sân” bỏ hoang, không nghe lời ca dao khuyến nông “Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang, Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”, thì đến mùa nắng, người ta cũng sửa chữa, giẫy cỏ, thay cột gôn mới. Và quả da bơm căng vờn vẽ trên sân, tung bay trên không, tíu tít, ồn ào, sinh động một làng quê suốt mùa nắng. Người lớn đá banh. Trẻ con đá banh. Con trai đá banh. Con gái đá banh. Sân banh chỉ rảnh rỗi ban đêm không trăng sao. Đá banh không cần trọng tài, không có đấu pháp vì không có ai làm huấn luyện viên cả. Đá lung tung beng. Ham làm bàn, hàng hậu vệ ồn ào xông lên thế chân hàng tiền đạo sút banh vung vít. Hàng tiền vệ, có khi, rút về giải cứu những pha [6] bóng nguy hiểm. Cái đấu pháp bóng đá nhà quê Việt Nam này mới chính là cha đẻ của nền túc cầu tổng lực hôm nay mà hội tuyển Hòa Lan vừa thi triển tài nghệ ở Tây Đức năm 1974 làm bàng hoàng nền túc cầu
chi bảo Nam Mỹ. Huấn luyện viên Stefan Kovac đừng tưởng ông đã khai sinh ra đấu pháp tổng lực. Trận đấu giữa Phú Hòa và Vĩnh Phú, chiều nay, sắp khai diễn trên sân bóng vừa được diễn tả ở trên. Sân này, chắc chắn, chỉ hoạt động chừng tháng nữa. Hiện nay, nó rất lý tưởng nhờ mấy trận mưa rào đầu mùa mưa. Đất mềm, các cầu thủ có ngã, đỡ sứt máu tay, chẩy máu chân, trầy đầu gối, toét cùi chỏ và đỡ tốn dầu cù là, mật gấu, rượu thuốc cắc kè thoa bóp mình mẩy lúc mãn cuộc giao tranh. Các cầu thủ vườn thường chơi chân không nên, nếu sân banh nhiều mô đất, có lỡ sút cả bóng lẫn mô đất thì mô đất bay theo bóng bay sang vùng cấm địa đối phương luôn một lượt. Bóng và đất đau chứ chân êm ru bà rù!
Khán giả đã bu kín quanh sân. Trời nắng gay gắt. Mũ nón, ô dù rất khan hiếm ở những sân banh này. Dân cổ võ và đánh cá từ Phú Hòa tới bằng xuồng đuôi tôm. Họ neo xuồng ngoài rạch. Dân cổ võ hội nhà đông lắm. Quý vị khán giả con nít chiếm tỷ lệ cao. Đàn bà không thích coi đá banh. Thiếu nữ đếm được hơn chục cô, chắc
Anh
là người yêu của các cầu thủ hội nhà. Trên danh nghĩa, trận bóng này là trận giao hữu nhưng dưới… danh nghĩa, nó lại là đá cá. Mà dân đánh cá Phú Hòa chỉ cá hội Phú Hòa thắng, còn Vĩnh Phú thì cá hội mình thắng, huề kể như thua. Lúc đó, giao hữu biến thành ăn giải. Giải được chia cho cầu thủ nên cầu thủ quyết bảo vệ mầu cờ sắc áo một cách chính nghĩa rạng ngời!
Những nhà phiêu lưu ham bóng đá đã có mặt trong đám khán giả. Tám lưới thoắt biến mất. Nó đi đánh cá. Khán đài trung ương được dựng vội vã bằng tre lợp lá dừa, kê mấy cái “băng [7]”. Nơi đây các chức sắc làng Vĩnh Phú và Phú Hòa và các tay chuyên … cá vừa ngồi chủ tọa vừa thu tiền đánh cá, ghi tên người đánh cá. Hai đội bóng đang dợt bóng mỗi bên sân. Hội chủ nhà Vĩnh Phú mặc áo may-ô [8] ba lỗ, ngực và lưng viết số mực đỏ, quần xà lỏn đen. Thủ môn cởi trần. Hội khách Phú Hòa mặc áo may-ô một lỗ, áo may-ô có tay ngắn, ngực và lưng viết số mực đen, quần xà lỏn xanh dương. Đá banh bằng chân, bắt banh bằng tay, ai đá, bắt bằng áo bao giờ. Nghệ thuật dân gian, luôn luôn, đơn giản và trong sáng.
Khi công việc cáp độ đã ổn thỏa. Người ta đuổi khán giả giãn rộng ra chung quanh sân. Trọng tài xuất hiện. Ông thổi một chập tu hít. Cả làng im lặng. Trông ông oai ghê đi ấy. Nghe nói ban tổ chức mướn ông hai ngàn bạc công thổi còi. Ông từ Chợ Mới sang lận. Trọng tài mang giầy Bata [9] thông dụng, mặc cái “xoọc” [10] đen, cái “sơ-mi” đen. Ông ra giữa sân. Thổi còi nữa. Nghề của ổng mà. Ông sẽ thổi lia chia. Hai đội banh xấp thành một hàng dọc, thủ quân mỗi đội đi đầu, tiến sát trọng tài. Không chụp hình, trao cờ kỷ niệm gì hết trọi. Các cầu thủ chào khán giả. Khán giả vỗ tay chào lại. Trọng tài cho rút thăm chọn sân. Ông bẻ cọng cỏ dài ngắn ra sao mà hai thủ quân cùng phản đối mấy lần. Giận quá, ông phá lệ, cho hai thủ quân “tay trắng tay đen”. Thủ quân Phú Hòa “oẳn tù tì” [11] ra cái bao. Thủ quân Vĩnh Phú ra cái búa. Bao bọc búa. Búa không đập vỡ nổi bao. Phú Hòa chọn bên sân không bị mặt trời chiếu nắng.
Mỗi đội banh chạy về phía sân mình. Đội hình sắp xếp thật lẹ. Cầu thủ đôi bên đều thuộc tuổi mười bẩy, mười tám. Anh thằng Tám lưới
Anh
là thủ quân Vĩnh Phú, chỉ cao hơn Danh ná cái đầu. Quả da nằm thỗn thện giữa sân. Trọng tài coi đồng hồ. Ông thổi tu hít. Phú Hòa giao banh. Phút hồi hộp bắt đầu…
[3] “Giòng Sông Xanh”: Le Beau Danube Bleu/ The Blue Danube, của nhạc sĩ Áo, Johann Strauss II, sáng tác năm 1866. Lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy viết ‘Giòng’, thay vì ‘Dòng’.
[4] sút: từ tiếng Pháp: shooter, do tiếng Anh shoot; đá mạnh quả bóng vào khung thành trong trận bóng đá.
[5] gôn: từ tiếng Anh ‘goal’; đích.
[6] pha: từ tiếng Pháp “phase” ; trạng thái của/ trong một thời điểm nhất định.
[7] băng: từ tiếng Pháp ‘banc’ ; ghế gỗ dài.
[8] may-ô: từ tiếng Pháp ‘maillot’ ; áo thun ; may-ô ba lỗ: áo thung không cổ áo, không hai cánh tay áo.
[9] giày Bata: giày thể thao thông dụng của hãng giày Bata.
[10] xoọc: từ tiếng Anh ‘short’ ; quần đùi ngắn.
[11] oẳn tù tì: từ tiếng Anh, ‘one, two, three’(một, hai, ba) mà trẻ con kêu lên trong trò chơi ‘bao, kéo, búa’.
Mặc dù được cổ võ tận tình, các cầu thủ Vĩnh Phú vẫn để mất banh hoài hủy. Lâu lâu lên áp đảo khung thành Phú Hòa thì chuyên sút bổng và sút trệch. Trung phong Vĩnh Phú rất dở. Đã thế còn hay té nữa chứ. Các cầu thủ Phú Hòa bị khán giả “chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng” la lối, khủng bố tinh thần khiếp lắm. Mà họ cứ khơi khơi, tỉnh queo dẫn banh, chuyền banh và dứt vô khung thành Vĩnh Phú. Báo hại thủ môn Vĩnh Phú bắt banh lia lịa. Danh ná ngồi xem muốn phá ra cười. Nó nghĩ thầm: một mình Bồn lừa hay Dzũng Đakao cũng dư sức cho lọt lưới Phú Hòa hoặc Vĩnh Phú mười phút một trái. Sút bổng qua xà ngang. Sút trệch trụ thành cả hai ba thước chán chê mê mỏi. Rồi hí hoáy
Anh
mãi. Phú Hòa đã tống vào gôn Vĩnh Phú một quả dưa hấu ba ký lô! Khán giả Vĩnh Phú điên lên. Cầu thủ Vĩnh Phú điên theo. Những màn huých cùi chỏ, đá cẳng đối thủ xảy ra liên tiếp. Trọng tài phạt một, tha chín. Ban tổ chức Vĩnh Phú trả hai ngàn và còn được chia tiền cá chứ đâu phải Phú Hòa phát lương. Nhóc con Vĩnh Phú chửi thề, văng bậy tía lia. Cầu thủ Phú Hòa biết thân biết phận, giả đò điếc. Lớ ngớ dám bị ăn đòn à. Phú Hòa đàn áp Vĩnh Phú thật lực. Banh cứ lởn vởn bên sân Phú Hòa. Và rồi, Vĩnh Phú lượm thêm trái dưa hấu bốn ký lô năm trăm gờ-ram! Trên khán đài trung ương, các vị chức sắc, các tay tổ đánh cá méo mặt, mồ hôi chẩy như tắm. Còn hai vị Phú Hòa thì tươi rói. Khán giả bắt đầu chửi bới cầu thủ nhà. Bởi vì họ quá tin chân cẳng hội nhà nên cũng đánh cá chút chút.
Tám lưới mò mẫm nơi nào chẳng hiểu, bây giờ chạy tới chỗ Danh ná, chân tay run lẩy bẩy, quýu giọng: – Chết … mẹ … Cá lớn lắm. Cả … trăm … ngàn. Tao thua một trăm hai chục đồng.
Danh ná trấn an bạn: – Còn đang chơi mà.
Tám lưới lắc đầu lia lịa: – Vô phương cứu chữa. Họa có Phật đá giùm mới gỡ huề. Huề vẫn thua. Nó nghiến răng ken két: – Đã biết nó mướn cầu thủ tỉnh mà còn ham chấp. Nhục ghê, nhục ghê… Dượng tao tổ chức đó. Dượng tao cá cả chục ngàn. Mày thấy chưa, hai thằng sút banh vô lưới hội mình là hai thằng hội tỉnh đá mướn. Quê ăn sao nổi tỉnh!
Anh em giang hồ đã bu quanh Tám lưới, chia sẻ nỗi đau đớn của bạn. Chơn Chơn đạo nhơn nói: – Nó mướn cầu thủ tỉnh thì mình khiếu nại quận.
Tám lưới thở dài: – Bọn Phú Hòa đánh cá ăn chia cho thằng quận.
Duyên Anh
Sáu xạo bực dọc:
– Mẹ, tiếc ông không có tài đá banh.
Danh ná nhìn Chơn Chơn đạo nhơn rồi vỗ vai Tám lưới rất nhẹ, rất êm:
– Nghe anh mày là thủ quân, hả?
– Ừa, sao?
– Anh mày thương mày không?
– Thương chứ.
– Tin mày không?
– Tin chứ.
– Mày biểu anh mày đổi tao và Chơn Chơn đạo nhơn thay thằng số 7 và thằng số 9.
Tám lưới há hốc miệng:
– Mày biết đá banh, hả?
Danh ná không thể cà kê, dê ngỗng, nó phóng một trái đấm vào không khí:
– Tao sẽ sút thủng lưới bọn gian lận. Tao ghét những đứa ăn gian, ỷ quyền. Nó chẳng cần khiêm tốn nữa:
– Tao là trung phong đội Thị xã, vô địch giải thiếu niên toàn tỉnh năm ngoái. Cho tao đá hiệp nhì, tao sẽ san bằng tỷ số rồi nâng lên mấy hồi.
Anh em giang hồ mừng rỡ. Tám lưới chết đuối vớ được phao, nhẩy cỡn. Nó chạy biến. Vừa lúc, hồi còi nổi lên, chấm dứt hiệp một. Phú Hòa hạ Vĩnh Phú hai quả. Cái không khí bại trận nào cũng buồn bã. Vùng trời Vĩnh Phú, tự nhiên, thê lương, ảm đạm. Chẳng có trận đá bóng nào quyến rũ, say mê, bồi hồi, thổn thức bằng trận đá bóng của hội nhà đấu với hội khách. Ta gửi linh hồn ta, sự hiếu thắng của ta, tự ái của ta vào chân, vào đầu, vào tay cầu thủ của ta. Ta rạn tim, vỡ phổi vì những đôi chân ấy. Ta vui ngất trời, buồn thấm đất vì những đôi chân ấy. Phải đi theo hội nhà tham dự các trận đấu với các hội đối thủ, dù hội nhà là hội học trò chân đất hay hội đá giầy hạng bét, mới hiểu nổi lòng yêu mến túc cầu, mới có được cảm giác đê mê tột độ của lòng yêu mến đó.
Duyên Anh
Chứ, xem đội Ba-tây đấu với đội Á-căn-đình, ta cũng thích đấy nhưng lòng dửng dưng.
Tám lưới lại xuất hiện. Nó kéo cả bọn theo nó. Anh họ nó, thủ quân Vĩnh Phú, tên là Hoa, vỗ vai từng đứa rồi hỏi:
– Thằng nào là Danh ná?
Danh ná lễ phép: – Thưa anh, em đây.
– Em biết đá banh, hả?
– Dạ. Em đã từng đá hội tuyển thiếu niên thị xã. – Em chắc gỡ nổi không?
Danh ná quả quyết: – Chắc.
Anh Hoa nghĩ đằng nào cũng thua rồi, gỡ huề cũng thua, mà đã chắc gì gỡ được. Vậy phó mặc cho số mệnh… nghệ thuật đá banh cho Danh ná. Anh giục:
– Hai em vô thay quần áo!
Danh ná khoác áo hội tuyển vườn Vĩnh Phú. Áo thung, quần xà lỏn không rộng mấy đối với Danh ná nhưng khá rộng đối với Chơn Chơn đạo nhơn. Trông đạo nhơn giống hề quá xá. Hồi còi của trọng tài nổi đậy, thôi thúc. Hai đội bóng lại ra sân. Vì hội vườn chủ trương giản dị nên số 7, số 9 cởi áo, thay quần tại chỗ giải lao nhường cho Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn. Danh ná mang số 9. Khán giả hội nhà, thêm một phen điên tiết. Họ la lối:
– Bộ hết người rồi hay sao mà đưa cầu thủ… vú sữa vô đá!
– Cho hai đứa về bắn bi!
– Đuổi cổ nó ra.
Danh ná bình tĩnh. Kệ, ai chưa hiểu mình cứ để họ nói xấu. Chừng hiểu mình, họ sẽ thương mình, sẽ mắc cở.
– Biết cơ ngơi này, ông đã chả thèm cá.
– Tối nay thiếu ngàn bạc là vợ ông nó giết ông đấy. Khán giả và dân đánh cá tha hồ chửi rủa. Còi đã nổi. Vĩnh Phú giao banh. Danh ná trổ tài. Nó lừa banh qua ba cầu thủ Phú Hòa, chuyền cho Chơn Chơn đạo nhơn. Chơn Chơn lướt bóng đi. Với những cầu thủ trứ danh như Bồn lừa, Dzũng Đakao, Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn thì đá banh với cầu thủ vườn cũng như làm xiếc trên sân cỏ. Sân banh im lặng rồi vang động. Người ta vỗ tay, hò hét cổ võ hai cầu thủ mà người ra mới đòi tống cổ ra. Cái xã hội người lớn bao giờ và ở đâu cũng giống nhau ở điểm quyết đoán vội vã và ngu xuẩn và vô liêm sỉ. Danh ná đã bàn với Chơn Chơn đạo nhơn trước khi vô sân. Là chơi tài nghệ cá nhân. Giao banh cho cầu thủ vườn là hết gỡ. Vậy thì Chơn Chơn đạo nhơn đang lướt banh trong niềm hy vọng to tổ bái của khán giả Vĩnh Phú. Nó dẫn banh lên xa, lên sâu. Xuống góc phải. Đưa gần vùng cấm địa đối phương. Chơn Chơn đạo nhơn qua mặt hai hậu vệ Phú
Hòa. Nó tạt banh vào giữa. Danh ná, như con hãn huyết[12], câu, phóng tới, dùng chân trái dứt mạnh. Trái banh chọc thủng gôn-không-lưới bay mãi ra ruộng! Tất cả đều ngạc nhiên. Thủ môn Phú Hòa chạy đi nhặt banh sũng nước. Một vùng trời quê chấn động. Tiếng vỗ tay hoan hô kéo dài. – Tuổi trẻ tài cao!
– Bắn banh mạnh hơn bắn đại bác! – Nó nã cái rầm!
Banh đặt giữa sân. Phú Hòa chuyền bóng. Bóng mê Danh ná rồi. Các cầu thủ kể luôn hai cầu thủ tỉnh đá mướn, mải suy nghĩ về thằng số 9, bị mất bóng đều đều. Cầu thủ Vĩnh Phú lên tinh thần, phá banh hay đáo để. Banh lại nằm dưới chân Danh ná. Thác người cổ võ đổ xuống, lan tràn. Danh ná, một mình dẫn banh, lừa đảo, qua mặt sáu, bẩy cầu thủ Phú Hòa, đem trái đạn đại bác cách khung thành mười thước. Phơ [13]! Ầm. Trái đại bác một trăm bẩy mươi lăm ly phá vỡ gôn-không-lưới đối phương. Lần này nó bay
Anh
tận giữa thửa ruộng. Và, cứ vậy, đến mãn hiệp, thằng số 9 và thằng số 7 bắn qua lưới địch mười hai trái, nâng tỷ số 12 – 2 cho Vĩnh Phú.
Những gì xảy ra về phía người lớn, người đánh cá chẳng thèm nhắc tới. Những lời tán tụng, khen ngợi thật nhàm chán, chẳng thèm nghe. Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn thay quần áo cầu thủ, trả anh Hoa, mặc lại quần áo của mình. Thừa lúc mọi người hân hoan mừng chiến thắng, Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn lẻn ra bờ kinh, cởi phăng quần áo, nhẩy xuống nước ngụp lặn. Dũng sĩ Cà Đao gặp chủ, gáy um sùm. Tắm đã rồi, hai đứa lên bờ, kiếm chỗ vắng gió, nhớm lửa nấu cơm. Bọn Quới cù lần bám sát Tám lưới đi lãnh tiền ăn cá, quên mất hai nhà phiêu lưu. Bọn nó cũng ngỡ rằng Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn đang được hội tuyển Vĩnh Phú o bế và chia … tiền cá. Nhóc con Vĩnh Phú ngơ ngác đi tìm gặp Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn. Hai thằng số 9, số 7 đã trở thành thần tượng của chúng nó. Nhưng số 9, số 7 đâu rồi cà?
Ngọn lửa cứ tạt về phía sau vì gió thổi. Gió thổi thì cơm lâu sôi. Hai nhà phiêu lưu vừa bẻ cành cây mục lùa vào bếp, vừa nhìn lửa bập bùng cháy. Chơn Chơn đạo nhơn có điều thắc mắc, bây giờ mới dám hỏi: – Tại sao anh em mình phải “trốn” ra đây?
Danh ná nhẩn nha đáp:
– Anh Dzũng Đakao hay thiệt. Mình ở lại, nó sẽ cho mình tiền thắng cá sau khi nó đòi tống cổ mình. Mắc cở thiệt!
Danh ná mở nắp nồi cơm để nhựa khỏi trào: – Cơm chín, mình đem xuống bè. Rồi mình gỡ bè đi xa khỏi chỗ này. Ta ăn cơm trên bè. Mày nướng con cá sặt lớn tí, nghe.
Chơn Chơn đạo nhơn lựa cá, nướng. Cá chín, cơm chín luôn. Hai đứa thu dọn đồ nghề, xuống bè. Chiếc bè chuối ra khỏi bờ, lờ đờ trôi theo dòng nước chiều. Mặt trời đã ở trên ngọn tre. Danh ná cảm khái, rút kèn chơi một bản nhạc buồn. Chơn Chơn đạo nhơn hát.
– “… Chiều ơi,
Lúc chiều về gặp những nương khoai
Trâu bò về giục mõ xa xôi
Hỡi chiều…
Chiều ơi, nóc nhà sàn toả khói âm u
Cô nàng về để suối tương tư
Hỡi chiều…
Chiều ơi, chiều ơi, chiều ơi, ơi chiều…” [14]
Tiếng kèn, tiếng hát im bặt. Mặt trời khuất sau trùm tre. Từ phía trong Vĩnh Phú, khói bếp bốc lên, lan tỏa. Buổi chiều thôn ổ vừa êm đềm vừa cô quạnh. Chơn Chơn đạo nhơn hỏi:
– Vô bờ chưa, anh?
– Đi quãng nữa.
– Bọn Tám lưới, Quới cù lần tìm mình ở đâu?
– Nếu nó ham phiêu lưu, nó sẽ bơi nhanh kiếm mình.
Lúc này, chuyện nạp tiền thua cá và chung cho những tay chơi nhỏ đã xong xuôi. Tám lưới hốt trăm mấy. Nó và bọn Quới cù lần đi kiếm Danh ná. Nhiều người đi kiếm Danh ná. Trưởng ban tổ chức trận đá banh đi kiếm Danh ná. Để khen nó, cám ơn nó và cho nó tiền. Nhưng nó đâu còn ở đây. Tám lưới ra cái điều hiểu biết lắm, dẫm đám đông ra đầu kinh Ông Cò. Chiếc bè chuối đã rời bến. Còn trơ đó, ba chiếc xuồng neo chắc. Tám lưới vò tóc: – Hai đứa đi rồi!
Mọi người nhao nhao: – Tụi nó đi đâu?
Tám lưới dậm chân: – Ai mà biết. Anh Hoa hỏi: – Liệu hai đứa có trở lại không?
Tám lưới lắc đầu:
Anh
– Không, Danh ná không trở lại nữa. Nó và bạn nó ghép bè đi phiêu lưu. Nó biểu sẽ đưa bè ra sông, ra biển, ra đảo Hoàng Sa, đuổi giặc Tàu. Danh ná giỏi đủ thứ. Nó có con gà tre số dzắt. Chúng em bỏ nhà theo nó phiêu lưu. Thôi, chúng em dọt lẹ mới kịp Danh ná. Mọi người dúi tiền cho Tám lưới, dặn dò: – Gặp hai đứa, nói chúng tao tặng ăn quà chơi, nghe. Năm ông nhãi nhảy xuống xuồng, gỡ dây theo, chèo gấp theo dòng nước xuôi vào kinh Ông Cò. Bọn nhóc Vĩnh Phú đứng thộn mặt ra. Bỗng mấy ông, nhắm xóm mình, chạy miết. Những người còn lại lục tục kéo về, ai cũng ca ngợi Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn. Mặt trời đã lặn. Trời nhá nhem. Bóng tối sắp bao trùm sông nước, đồng ruộng. Bọn Tám lưới bơi xuồng không bao lâu thì gặp Danh ná và Chơn Chơn đạo nhơn đang ăn cơm trên bè. Tám lưới mừng quýnh: – Nè Danh, tính bỏ rơi bọn tao, hả?
Quới cù lần trách móc:
– Tìm hai đứa muốn hụt hơi.
Sáu xạo… xạo ke:
– Hổng kiếm ra hai đứa, ông sẽ trầm mình tự vẫn à! Năm ròm pha trò: – Tao không tự vẫn. Bộ ngu sao! Ông về Ba Bần ghép bè phiêu lưu một mình.
Bẩy vẩu tiếc rẻ:
– Phải chi hai đứa ở lại thì đêm nay vui biết mấy!
Đợi bạn rỉa rói chán chê, Danh ná nói:
– Tao biết bọn mày sẽ đi kiếm nên tao mới đợi ở đây. Nếu bỏ rơi bọn mày, tao đã rẽ vô con rạch bên trái rồi.
Tám lưới khoe:
– Người ta cho hai đứa khối tiền đấy. Tao giữ nè…
Danh ná đặt bát cơm xuống bè, buông đũa: – Tao không cần tiền. Phiêu lưu không cần mua gì cả. Nếu đói, đi làm mướn ăn công.
Tám lưới cụt hứng. Nó rẽ sang chuyện khác: – Mày kỳ ghê, khi không bỏ đi.
Danh ná cười: – Sẽ có lần mày bỏ đi như tao, khi mày… đọc nhiều sách! Chơn Chơn đạo nhơn hỏi: – Nếu tụi bay chưa ăn gì thì lấy bánh tét ăn đỡ. Có tiếng xuồng đuôi tôm khuấy nước rộn rã. Rồi tiếng xuồng đuôi tôm tới gần, kéo sau chiếc xuồng chèo. Ba ông nhóc lạ trên xuồng đuôi tôm cho xuồng táp gần chiếc bè chuối. Một ông nhanh nhẩu: – Chúng tao mê số 9, số 7 quá. Cho chúng tao phiêu lưu với. Tao là Bình, tức Bình bể vì tao
ưa làm bể bình của ba tao. Hai bạn tao là Vui và Tến. Danh ná nói: – Phiêu lưu cực thí mồ, chịu nổi chứ? Bình bể cởi phăng áo: – Nổi. Vậy là Danh ná kết thêm ba bạn phiêu lưu. Xuồng buộc quanh bè. Những ông nhóc thắp đèn bão, nói chuyện huyên thuyên…
[12] Hãn huyết: “Hãn huyết bảo mã” – loài ngựa quý ra mồ hôi đỏ như máu này là một giống ngựa có nguồn gốc từ Turkmenistan, nơi chúng được tôn vinh làm biểu tượng quốc gia.
[13] Phơ: từ tiếng Pháp ‘feu’: lửa ; bắn.
[14] “Nương Chiều”, nhạc và lời của nhạc sĩ Phạm Duy.
Bây giờ, đám phiêu lưu đã lên tới mười đứa. Giá không dính cái vụ đá banh ăn tiền bạc, Danh ná ngủ một đêm ở Vĩnh Phú, “đăng đàn diễn thuyết” về ý nghĩa chính đáng của sự phiêu lưu và mưu chuyện ra đảo Hoàng Sa đánh đuổi giặc Tàu xâm lược, vô khối nhóc con sẽ theo Danh ná với ghe, xuồng. Chỉ mới mến mộ tài lừa bóng và nghe Tám lưới nói sơ sơ, thế mà Bình bể đã cõng chiếc xuồng đuôi tôm và Vui, Tến đã đẩy xuồng gỗ bắt kịp bè của Danh ná. Đêm qua, những tay giang hồ ngủ trên xuồng, trên bè! Sáng nay họ lại chuyển bến. Đến một cánh tay của kinh Ông Cò, Danh ná hỏi Bình bể: – Mày rành miệt này chứ?
– Rành. – Con rạch này có lối khác dẫn ra kinh Ông Cò không. – Có. – Trong kia là gì? – Vĩnh Hưng. – Vĩnh Hưng vui không? – Có chợ, có tiệm cà-phê, hủ tíu. – Vô Vĩnh Hưng. Bình bể dắt bè chuối. Những chiếc xuồng gỗ buộc gần nhau, chiếc nọ nối đuôi chiếc kia và chiếc đầu thì buộc sát cuối bè. Xuồng đuôi tôm ròng[15] bè chuối thật gọn, đỡ mất công chèo chống. Chẳng mấy chốc, xuồng bè đã ghé bến Vĩnh Hưng. Bọn nhóc neo cách xa chợ rồi nhẩy lên bờ. Cà Đao theo chủ. Chơn Chơn đạo nhơn ôm nó y hệt tay đá gà chuyên nghiệp. Tám đứa vào chợ. Thấy dán quảng cáo gánh hát Sông Hồ diễn vở tuồng “Kinh Kha sang Tần” tại đình. Vậy
là có hát đình rồi. Cúng kiếng chi đây. Ban ngày nhiều trò vui lắm. Ban đêm thì có cải lương hồ quảng. Mười ông nhóc mò vào đình.
Một đám đá gà đang diễn ra sôi nổi, ở một góc sân. Tham dự trận đá gà này toàn là nhóc. Ít nhất cũng có hai chục chủ gà nhi đồng. Võ sĩ thượng đài rặt gà tre, “đồng bào thân mến” của Cà Đao. Danh ná vốn ghét đá gà. Nhưng vì muốn tìm hiểu “phong tục tập quán quê người” nên Danh ná cùng bạn bè sáp vô xem nó ra sao. Giữa sân đấu, võ sĩ tre-lai-nòi đương tung những cú đá quyết hạ địch thủ. Chủ của nó, một thằng nhãi lớn nhất đám đá gà, mặt mày hiu hiu tự đắc. Bu quanh nó là mấy thằng em nhấp nhổm theo từng đường bay, cú đá của gà đàn anh. Mấy thằng này trông dễ ghét hơn đàn anh nó nhiều. Thỉnh thoảng, chúng nó lại nhìn chủ gà địch thủ, nói năng trêu chọc, khích bác. Đúng là cái giọng nịnh thần. Con nít đá gà còn say mê, nồng nhiệt hơn người lớn song điều lệ lại đơn giản. Con nít lúc nào chả đơn giản. Chúng giao hẹn với nhau không cần đơn từ, chữ ký và xác nhận của …
Anh
chủ tịch Hội đồng xã! Vậy mà trước sau như một, chẳng bao giờ chạy làng, ăn quỵt.
Võ sĩ gà tre lai gà nòi xứng đáng là gà chiến đấu. Bộ lông nó đen nhánh. Cái mào bằng trái ớt đỏ ối. Mỏ nó như mỏ diều hâu. Mắt nó long lanh dễ sợ. Đôi chân của nó giống hai thỏi chì. Nó có dáng dấp con ó. Cựa của nó khá dài, được vót nhọn hoắt. Chủ nó khích lệ nó. – Dứt đi, dứt lẹ đi! Dường như, hiểu ý chủ, nó phóng mình đá địch thủ một cú. Cú đá của nó thật chính xác. Địch thủ của nó, một con gà tre có bộ mã khá đẹp, lao đao. Đám cổ võ gà tre lai trầm trồ khen ngợi … gà nhà. Đích thị gà nhà nhé! Nạn nhân của cú đá hiểm có vẻ suy nhược rồi. Mào nó tả tơi, máu chảy ròng ròng. Bọn gà có mào dựng đứng trông đẹp mắt và hiền hòa lắm, nhưng chỉ nuôi để làm cảnh chứ không nên dùng để tranh chức võ sĩ vô địch. Võ sĩ người cần trọc đầu. Võ sĩ gà cần có mào tẹp dí, u một cục như trái ớt. Gà có mào dựng đứng dễ bị địch thủ đánh nát. Võ sĩ nhu đạo tóc dài dễ bị địch thủ tóm lấy mà quật té
nhào. Chủ gà tre mào dựng thấy gà mình bị đá te tua, đá rụng lông cánh, đá xác xơ lông mình mẩy bèn treo cờ trắng.
– Tao chịu thua.
Chủ gà tre lai không chịu, giọng lưỡi xỏ xiên:
– Mày là gà hay sao mà chịu thua? Chưa thua, nó còn … ngắc ngoải.
Thằng chủ gà này ác quá. Nó thích nhìn con gà tre của đối thủ giãy chết tại đấu trường. Đối thủ của nó thương gà mình quá, không nỡ nhìn gà mình chết thảm, xin thua, nó khước từ. Chịu không nổi, chủ gà tre mào dựng nhào vô ôm lấy gà mình. Nó bị thằng chủ gà mào tẹt đá một phát đau điếng. – Buông ra! Chủ gà mào dựng lép vế, đành buông gà mình ra. Con gà tre lai lại vội nhào tới đá địch thủ không thương xót. Gà thì biết thương xót gì. Nó là gà mà. Bọn gà ngu muội, dốt nát làm quái chi hiểu nổi tình nghĩa trứng ấp ra gà! Cái giống
Anh
đã có diều lại còn có mề, nó lú lấp, u mê vậy đó. Nó lấy sự đau khổ của nòi giống nó làm niềm kiêu hãnh của nó. Nó đá, nó mổ… Con gà tre mào dựng khốn nạn ngã chưa kịp đứng đã bị bồi thêm cú đá mới ác liệt, tàn bạo.
– Dứt đi, đá thủng diều nó đi!
Gà tre lại đá cú cuối cùng. Địch thủ của nó nằm ngửa. Chân quơ quơ giây lát rồi thân hình nghiêng một bên, bất động. Gà tre lai chứng tỏ mình còn đầy đủ phong độ, vỗ cánh gáy vang. Chủ của nó và đám đàn em cười ngất. Chủ gà tre chiến bại vào ôm xác gà mình, móc túi lôi ra năm chục bạc vất trước mặt chủ gà lai, nước mắt đầm dìa, lách đám đông, bước vội. Nó tới ngồi dưới gốc cây sứ cùi – cây đại – khóc sướt mướt.
– Tiếp tục thôi! Đá chết bỏ. Thua nạp năm mươi đồng, thắng ăn năm mươi đồng.
Chủ gà lại rao điều lệ. Lại thằng khác tung gà vô. – Đá đến chết đấy, nghe. Không có làm gà, phun nước gì hết trơn. Đá một lèo.
Hai võ sĩ đang gầm ghè, xù lông cổ, rình nước hớ của nhau. Danh ná theo dõi trận đấu ít mà theo dõi chủ con gà vừa chiến thắng và đàn em của nó nhiều. Nó tạm bỏ cuộc đá, đi ra chỗ thằng chủ gà chiến bại. Chơn Chơn đạo nhơn ẫm Cà Đao theo. Ngồi cạnh chủ gà chiến bại như bạn thân thiết, Danh ná vỗ vai nó:
– Chết rồi, hả?
Thằng chủ gà chết nước mắt nhễ nhãi trên khuôn mặt sầu thảm, cứ tưởng Danh ná là bạn thân mình từ lâu, sụt sùi:
– Chết rồi. Mẹ, nó ác quá!
– Tại mày giao ước thế?
– Nó bày ra luật chứ tụi tao đâu có bày đặt.
– Tên mày là gì?
Bây giờ, chủ gà chết đưa ống tay áo quệt nước mắt, nhìn Danh ná. Nó nhìn cả Chơn Chơn đạo nhơn và dũng sĩ Cà Đao. Ngơ ngác:
– Ở xa tới hả?
– Ừa. – Tên tao là Hiền. Mày kêu chi?
– Danh ná. Danh ná chỉ Chơn Chơn đạo nhơn: – Bạn nhỏ của tao, Chơn Chơn đạo nhơn.
Hiền không khóc nữa. Danh ná khoác tay lên vai Hiền: – Mày bị nó ăn hiếp, hả?
Hiền gật đầu: – Nó ỷ nó là con ông Hội đồng, ăn hiếp tụi tao hoài. Tên nó là Minh, Minh tàng, nó làm tàng dễ ghét. Danh ná nói:
– Thôi, quên nó làm tàng đi. Tao cho mày mượn gà, đá bại gà nó, mày bằng lòng không?
Hiền lắc đầu:
– Không.
Chơn Chơn đạo nhơn xía vô:
– Đá bỏ mẹ gà của nó đi. Gà của bọn tao vô địch Chắc Cà Đao.
Hiền nhỏ nhẹ:
– Gà của thằng khốn Minh tàng không đời nào chết cả. Danh ná ngạc nhiên:
– Gà thần à?
– Đâu phải. Hễ gà nó gần bại, nó chụp vội gà chạy biến. Còn gà mình bại, nó bắt mình phải để gà nó đá đến chết. Nó đi đá gà luôn luôn có năm đứa. Nó cậy đông. Tụi tao có một đứa thôi à…
Chơn Chơn đạo nhơn cười:
– Tụi mày sao lại một đứa?
Hiền đáp:
– Thì đi đá gà mỗi đứa một gà.
Danh ná đứng dậy. Nó cầm cánh tay Hiền lôi thằng này đứng lên.
Anh
– Theo tao, tao cho gà nó giãy chết.
Hiền do dự: – Gà nó khỏe lắm, đá từ sáng lận, nó ăn khối tiền rồi. Gà mày coi bộ yếu xìu, sẽ chết thôi. Danh ná xoa đầu Hiền: – Chết bỏ. Hiền ái ngại: – Tội nghiệp gà mày, Danh ná ạ! Nhưng Danh ná đã kéo Hiền đi theo mình.
Hiền ôm con gà chết, vừa bùi ngùi vừa phấn khởi. Con gà lai của Minh tàng lại đá bổ ngửa địch thủ. Nó xông tới mổ tàn nhẫn, mổ tới tấp cổ địch thủ. Địch thủ của nó chết thê thảm. Minh tàng nhặt năm chục bạc thắng lợi. Thằng này ác như con gà của nó. Bố nó làm Hội đồng chắc cũng ác. Giòng họ nhà nó dễ chừng ác luôn. Nó huênh hoang:
– Còn thằng nào muốn ăn cháo gà chết mình không?
Danh ná đã dặn dò anh em giang hồ. Bọn Quới cù lần, Tám lưới, Bẩy vẩu … đứng sau đàn em Minh tàng, sẵn sàng đối phó cái màn chụp gà chạy. Danh ná ôm gà bước vào đấu trường: – Còn tao. Minh tàng ngó gà của Danh ná, cười ngất. Chơn Chơn đạo nhơn sôi máu quá, nó muốn nhào tới, đá cho Minh tàng một phát. Minh tàng ngạo mạn: – Mày ở đâu lại vậy, mày? – Tao ở nước Việt Nam.
Minh tàng hết cười nổi. Nó mím môi, ngắm nghía Danh ná từ đầu xuống chân, tác phong rất… con Hội đồng. Máu cường hào ác bá râm ran khắp thân thể nó. Nó nhổ toẹt bãi nước miếng:
– Ông hỏi mày ở làng nào tới đây, ông đâu hỏi mày ở nước nào!
Danh ná nhấm nhẳng:
Anh
– Ông đáp ông ở nước Việt Nam vì nước Việt
Nam gồm nhiều làng.
– Mày kiếm chuyện, hả?
– Không, đá gà thôi.
– Độ này hai trăm, đá cho tới khi gà chết, mày chịu chứ?
– Mày có bao nhiêu tiền ông đá hết.
Minh tàng ngỡ trúng mối, mừng quýnh. Nó móc hết tiền trong túi ra đếm.
– Năm trăm.
Đã bàn nhau rồi, Tám lưới đưa hết tiền dân làng Vĩnh Phú tặng Danh ná và Chơn Chơn, trước lúc bọn Tám lưới chặn hậu bọn Minh tàng.
Danh ná rút tờ năm trăm cho Minh tàng thấy. Nó nhìn Minh tàng:
– Đá đúng luật, nghe.
Đấu trường sôi nổi vô cùng. Các chủ gà còn chần chừ chưa dám tung gà vào đá với gà vô địch
gian ác của Minh tàng bỗng quên khuấy rằng mình đi đá gà. Chúng nó biến thành kẻ đi xem đá gà, dù gà nòi của mình kè kè trên tay. Những đứa đi xem đá gà thì háo hức chờ đợi độ đá ăn thua lớn. Tất cả đều mong gà của thằng lạ mặt tiêu diệt gà của Minh tàng. Chúng nó căm tức thằng khốn Minh tàng lắm. Có đứa cầu Trời khấn Phật cho gà lạ đá chết gà gian ác Minh tàng. Chúng nó chờ xem cái bộ mặt đáng ghét của Minh tàng nhăn nhó, đau đớn. Đồng thời, chúng nó vẫn sợ gà lạ chết thảm hay Minh tàng ôm gà chạy, quỵt luôn tiền thua độ.
Dũng sĩ Cà Đao đã được đẩy vào đấu trường. Khán giả tự động giãn vòng vây quanh. Một vị chủ gà nhô con, tay ẫm gà nòi, tay xỉa xói: – Hai mươi đồng gà lạ đá nhào gà Minh tàng đây! Thằng đàn em của Minh tàng nghiến răng ken két: – Năm mươi đồng mới ngon. Vị chủ gà gật đầu:
– Bắt liền. Cà Đao chưa trổ miếng nghề nào mà đã được năm mươi đồng gửi gấm. Nó đứng bất động. Trông nó khù khờ vô cùng. Tuy nó cũng có cái mào dựng rất bất lợi trong chiến đấu, nhưng đã chiến đấu mua vui nhiều lần, địch thủ của nó chưa hề dám cạp cái bông hoa mồng gà đỏ chói mà nhay chảy máu. Con Minh tàng – cứ gọi thế vì nó cũng làm tàng như chủ nó – đúng là thằng võ sĩ nhà nghề. Cái giống võ sĩ nhà nghề nó ngu lắm cơ. Nó khoái lao mình vào chỗ chết một cách vô tích sự. Nó thích làm đau đớn đồng loại để chủ nó kiếm tiền ăn nhậu. Nó chẳng phong lưu mã thượng tí nào cả. Nó kìa, con Minh tàng, dáng điệu nghênh ngang, dưới mắt mình không còn ai là gà nữa. Thật đúng chữ nghĩa thánh hiền: mục hạ vô… kê [16]!
Nó khinh bỉ Cà Đao rõ rệt. Nó chưa thèm xáp vô mà đứng rỉa lông chơi. Rồi nó co một cẳng lên rất ngạo mạn. Nó chấp Cà Đao một cẳng đấy. Làm trò… gà chán, nó hạ cẳng, xuống tấn. Những móng chân của nó làm lủng cả mắt
đất. Minh tàng dư thì giờ dọa nạt Cà Đao. Nó vỗ cánh, gáy râm ran. Chủ nó và đám phò bá khoái chí ra mặt. Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn thản nhiên. Chỉ bạn Tám lưới, các chủ gà và khán giả là hồi hộp. Dũng sĩ Cà Đao vẫn bất động. Quan sát kỹ và phải là nhà sinh vật học chuyên khảo cứu về loài gà mới thấy Cà Đao ung dung tự tại. Nó đã thấm nhập cái dũng của thánh nhân chăng? Minh tàng dọa Cà Đao khá lâu mà vô hiệu quả thì tức lắm. Nó vươn cổ dài nghêu, xù lông, mắt ngầu đỏ mầu máu tanh hôi gian ác. Nó nhử, vờ như sắp tung mình đá địch thủ. Cà Đao vẫn tỉnh bơ. Minh tàng hơi hơi lạ. Trong một quá trình chiến đấu ăn tiền cho chủ của nó, nó chưa hề gặp một địch thủ nào … quái lạ như con gà đứng trước mặt nó. Nó ức phao câu rồi. Nó điên đầu cánh rồi. “Nhất phao câu, nhì đầu cánh”! Khi một kê võ sĩ đã ức phao câu điên đầu cánh thì địch thủ chỉ còn những cách sau đây để chọn lựa: luộc xé phay, rô-ti, xối mỡ, đút lò, hấp rượu, nấu miến hoặc nấu cháo. Con Minh tàng phóng mình đá thật sự. Cà Đao nhếch nhẹ sang bên phải một chút. Minh tàng đá
Anh
không khí. Nó bị hụt hẫng, té bổ ngửa. Nó đứng dậy, phóng mình đá cú thứ hai. Cà Đao lại nhích nhẹ sang bên trái. Minh tàng lại hụt hẫng.
Khán giả bắt đầu tin tưởng Cà Đao. Một vị chủ gà khác cao hứng:
– Sáu mươi đồng gà thằng Minh xé phay đây. Vị khác phụ họa: – Sáu mươi đồng năm cắc rưỡi, gà lạ cho gà thằng Minh vô nồi đây!
Bọn Minh tàng giận dữ, hất hàm bắt cá. Nó hạ lệnh gà nòi: – Chơi bạo đi!
Con Minh tàng nhào vô địch thủ. Cà Đao cứ né tránh. Nhào nữa, nhào hung hăng, nhào tới tấp, nhào rụng tứ tung lông, nhào sùi nước mép … Danh ná đợi con Minh tàng thấm mệt và tức tối cực độ mới giục Cà Đao:
– Trả đòn nó.
Cà Đao thôi tránh né. Nó thật sự đương đầu. Nó cũng tung mình một lượt với Minh tàng nhưng nó bay cao hơn và, đã thừa kinh nghiệm chiến đấu, lại là gà phi thường hiểu hết lời dạy bảo của chủ, nó khép hai cẳng giáng một cú đá trứ danh vào đầu địch thủ. Con Minh tàng bật về phía sau. Cà Đao đặt chân xuống đất là khai triển khinh công, bồi thêm cú đá nữa. Địch thủ của nó né không kịp, lãnh đủ miếng đòn thâm hậu của dũng sĩ. Võ sĩ không thể sánh với dũng sĩ. Dũng sĩ trên võ sĩ ngàn bậc. Võ sĩ là bọn bị thịt, thô lỗ, đầu óc rỗng tuếch. Dũng sĩ là tài tử, là đấng thượng phu trong thiên hạ, là kẻ vì việc nghĩa dám làm tất cả và chẳng mưu lợi lộc gì. Khán giả cổ võ Cà Đao quá đỗi. Sự ghét bỏ thằng Hội đồng lỏi tì Minh tàng được dịp trút xuống gà của nó:
– Đá bể diều nó đi, gà lạ thân mến!
– Trả thù cho gà chúng tao, gà lạ!
Nhóc con Hiền cởi mở tấm lòng. Nó cúi xuống, nói vào tai con gà yêu dấu của nó vừa tử trận:
– Mày được trả thù rồi, em ơi!
Cuộc đánh đá không người bắt ồn ào hơn lúc nào: – Hai trăm ăn hai cắc, gà lạ thắng đây. – Ăn một cắc thôi!
– Nửa cắc!
Thằng Minh tàng đã đứng dậy. Mặt nó hầm hầm. Đàn em nó nắm những trái đấm giận dữ. Cà Đao đàn áp Minh tàng tơi bời. Nó không để Minh tàng trả đòn. Nó đá liên tiếp vào đầu, vào diều, vào cổ Minh tàng. Minh tàng điêu đứng rồi. Đời võ sĩ của nó thấm nhục rồi. – Đá văng phao câu nó đi, gà lạ! – Cho nó rụng mỏ!
Cà Đao chiến đấu, không, nó trừng phạt một tên gà gian, tên gà tay sai của Minh tàng cường hà ác bá nhóc con. Nó vừa đá tung Minh tàng. Cú đá năm ký lô công lực làm con Minh tàng rơi cái bịch. Minh tàng nhịn hết nổi. Nó nhào vô đấu
trường cướp gà. Danh ná cũng nhào vô nắm chặt tay Minh tàng: – Buông gà ra, đá đúng luật. Nhóc con Hiền lên tiếng: – Lúc nãy ông giữ đúng luật.
Các chủ gà tử trận nhao nhao:
– Chơi đúng luật. Đàn em Minh tàng muốn chơi bẩn nhưng chúng nó đã bị anh em giang hồ kìm chặt. Anh em giang hồ đông hơn lại được khán giả ủng hộ nên bọn Minh tàng hết… tàng. Minh tàng đành buông gà xuống đấu trường, năn nỉ:
– Tao nộp thêm trăm bạc nữa, cho gà tao sống đi. Chơn Chơn đạo nhơn quát:
– Để gà mày sống rồi mày bắt nó đá chết hết gà của anh em sao? Không, gà gian ác của mày phải chết.
Minh tàng xun xoe:
– Tao sẽ bỏ luật đá đến chết.
Danh ná đẩy Minh tàng ngã bổ nhào:
– Này, ông nói cho mày rõ, ông được đi học, ông đọc được sách nên ông biết luật do nhà nước đặt ra chứ không phải do mày. Mày lạy ông may ra ông mới tha gà của mày, đừng cậy đông ăn hiếp.
Khán giả bầy tỏ thái độ:
– Đừng tha gà nó, cho gà nó chết đi!
Danh ná hỏi Minh tàng:
– Nghe rõ chưa, Hội đồng con?
Minh tàng đáp lí nhí:
– Rõ, rõ. Tao…
Nó mắc cở, chưa dám lạy. Danh ná đạp thêm Minh tàng cái nữa. Bọn nhóc con Vĩnh Hưng hả hê lắm. Chúng nó chưa biết Danh ná là thằng nào, con cái nhà ai mà không sợ Minh tàng.
– Tiếp tục đá, đá đến chết, đúng luật của nó. Trận đấu tiếp tục. Cà Đao trổ tài nghệ và nhóc con Vĩnh Hưng reo hò.
[15] Ròng: kéo theo trên nước.
[16] Mục hạ vô… kê: trích từ “Mục hạ vô nhân”, tên bài thơ của cụ Nguyễn Khuyến (1835-1909); có nghĩa là “Nhìn xuống không ai [bằng mình]” với ý ngạo mạn. Ở đây, nhân (người) được thay bởi kê (gà).
Dũng sĩ Cà Đao đá mềm địch thủ Minh tàng rồi. Một thằng gà võ sĩ ngu như thằng gà này rất xứng đáng chết. Nhưng Danh ná bắt tội nghiệp cả gà lẫn Minh tàng quá. Nó muốn gà của Minh tàng sống. Nó bước vào giữa đấu trường, ra lệnh cho Cà Đao ngưng đánh địch thủ. Bọn nhóc con Vĩnh Hưng ngơ ngác. Có đứa bất mãn. Minh tàng vội ôm gà mình. Nó ngồi yên lặng, khuôn mặt sợ hãi.
Danh ná nói:
– Thưa các bạn Vĩnh Hưng, tui xin lỗi các bạn, tha tội chết cho con gà gian ác của con ông Hội đồng. Tui cam đoan với các bạn rằng, con gà gian ác này đã hết gian ác. Từ nay, nó không thể
Anh
gian ác nổi, bất cứ gà nào cũng dư sức đá nó chết. Các bạn thử lại xem mắt nó đi, nó đã bị dũng sĩ Cà Đao mổ mù một mắt rồi. Gà mù thì đấm đá chi nữa. Con gà Minh tàng mù một mắt thật? Nhóc con tin luôn, khỏi cần xem xét. Thực ra nó chưa mù. Danh ná phịa để nhóc con vui lòng. Nó cầm năm trăm thắng cuộc, giơ cao và dõng dạc: – Bạn nào thua Minh tàng, xin vô lấy lại tiền. Tui ‘hổng’ thích cá tôm sò ốc, cũng ‘hổng’ cần tiền.
Tám ông nhóc hân hoan nhận lại tiền đã nộp cho Minh tàng. Vậy là đã có tám võ sĩ gà tử trận. Tỷ lệ chết chóc này khiếp đảm ghê. Còn dư trăm bạc thuộc tiền vốn của chủ gà Minh tàng, Danh ná vất trả Minh tàng:
– Cầm lấy!
Minh tàng bẽn lẽn cất tiền. Danh ná làm nhóc con Vĩnh Hưng chới với trong sự ngạc nhiên, chả hiểu mê ngủ hay tỉnh ngủ, chả biết mình bị thôi miên hay bị bùa ngải mà Danh ná hô thế nào
là, như cái máy, thực hiện thế ấy. Nhà phiêu lưu trầm giọng: – Thưa các bạn, tui là Danh ná, bạn tui là Chơn Chơn đạo nhơn. Hai anh em tui đã ghép bè chuối, rời con rạch nhỏ của làng mình đi phiêu lưu sông nước. Tụi tui ghé các bến và sẽ còn ghé nhiều bến, càng nhiều càng khoái, càng mở mang trí óc. Tụi tui đã ghé Ba Bần uống rượu giang hồ kết bạn, ghé Vĩnh Phú đá bóng cứu thua cá cho dân làng và hôm nay ghé Vĩnh Hưng. Đã có tám bạn kia, …
Danh ná chỉ bọn Tám lưới đứng sau bọn Minh tàng: – … cùng hai anh em tui, mang xuồng chèo, xuồng đuôi tôm đi phiêu lưu.
Danh ná ngừng một chút, lên giọng: – Phiêu lưu đây đó để hiểu biết quê hương mình mà thương yêu quê hương mình. Cần quái gì phải đi Tây đi Mỹ mới là phiêu lưu, các bạn nhỉ?
Nhà phiêu lưu Danh ná chuyển bài vở: – Tui không thích đá gà. Đá gà ăn tiền tui càng không thích. Có hàng nghìn trò vui lành mạnh, bổ ích, đá gà ăn tiền là cờ bạc. Cờ bạc là gian lận. Như thằng Minh tàng là thằng gian lận, gà của nó là gà gian ác. Tui không hiểu tại sao các bạn thích đá gà ăn tiền. Đá gà đã chả ra gì rồi, đá gà ăn tiền còn tệ hại hơn nữa. Con gà đẹp như vầy, gáy hay như vầy mà các bạn nỡ bắt nó chịu đòn đến chết ư? Gà nó cũng đau đớn như người ấy. Bây giờ, có kẻ mạnh hơn bạn, đến đá bạn vào đầu, vào bụng hàng chục quả, bạn có đau đớn không? À, gà cũng thế thôi. Các bạn nỡ cười nói, hò hét khi gà rụng lông, chảy máu, bể diều, ngắc ngoải ư? Tình thương của các bạn đâu? Đá gà ăn tiền còn sinh ra ăn lận, ức hiếp, gây tội lỗi. Tui có con gà vô địch, đá thắng bất cứ gà nào, mà tui đâu thèm chơi đá gà. Đá banh, tụ tập đàn ca, chèo xuồng, bơi lội, bắn ná hoặc phiêu lưu giải trí như anh em tui chẳng thú vị sao? Những thằng ham đá gà không làm nên tích sự gì cả. Bọn nhóc lắng tai nghe. Danh ná tiếp tục diễn thuyết:
– Tại sao tui cho dũng sĩ Cà Đao hạ gà thằng Minh tàng? Vì tui ghét nó, tui ghét những đứa thích ăn hiếp người khác. Nó ngỡ nó là con ông Hội đồng thì được quyền ăn hiếp các bạn à? Hội đồng đi đến đâu? Bạn tui, Dzũng Đakao ở Sàigòn, biểu tui rằng: “Mình thật thà, lương thiện, chăm chỉ học hành, làm việc, ngoan ngoãn, không chọc phá ai, không trộm cắp thì Tổng thống cũng cóc sợ nữa là Hội đồng”. Danh ná lôi Minh tàng dậy. Bọn Tám lưới đẩy đàn em của Minh tàng ra đấu trường. Năm thằng đứng “triển lãm”, cúi đầu nhìn… chân, mắc cở hết sức. Nhà phiêu lưu xoa đầu Hội đồng nhóc rất kẻ cả: – Mày tỉnh ngộ chưa?
Minh tàng ấp úng: – Tui tỉnh ngộ rồi.
– May là mày tỉnh ngộ rồi, chứ không, anh em Vĩnh Hưng sẽ hầm mày nát bấy. Chúng nó hết sợ mày vì chúng nó đã biết đoàn kết. Mày chống nổi trăm thằng không?
– Dạ, không. Danh ná nhìn anh em chứa chan tình cảm: – Xin các bạn tha thứ thằng Minh tàng và đàn em của nó. Nhóc con Vĩnh Hưng thấy Minh tàng hèn quá đâm ra thương hại. Tất cả đồng ý tha. Minh tàng được tha, mừng húm, ôm gà chạy biến. Đàn em của nó không theo nó nữa. Mà ở lại. Danh ná nói thêm mục đích cuộc phiêu lưu của nó và giảng giải thêm vài bài học lịch sử đã xảy ra trên các dòng sông Bạch Đằng, sông Nhật Tảo … Nhóc con Vĩnh Hưng mê mẩn nghe. Tám chủ gà tử trận quyết định khao anh em giang hồ một bữa gà phủ phê. Chúng kéo nhau ra bờ rạch, nhóm bếp làm lông gà, mổ rồi luộc chấm muối. Bữa tiệc… gà chết tràn trề ý nghĩa. Rất nhiều đứa đòi theo Danh ná đi phiêu lưu. Danh ná bằng lòng. Đêm ấy, Danh ná và anh em ngủ tại làng Vĩnh Hưng, xem hát cải lương hồ quảng, thăm viếng đình chùa, đền miếu, uống cà-phê, ăn hủ tíu và ca hát.
Sáng hơm sau, đoàn xuồng phiêu lưu nhổ neo. Thêm hai chục chiếc xuồng với bốn mươi ông nhóc cảm khái tinh thần nghĩa hiệp của Danh ná, chuẩn bị lương thực, theo Danh ná đi giang hồ. Thế là chiếc bè chuối chỉ huy hai mươi nhăm chiếc xuồng. Bình bể lại ròng bè chuối dẫn đầu. Xuồng theo sau, chèo khua nước rạch vòng ra kinh Ông Cò. Tiếng cười, tiếng nói, vang vang mặt nước. Đến kinh Ông Cò, đoàn người rẽ tay phải. Cứ dọc theo kinh này, có thể đi Rạch Giá, nếu Danh ná muốn. Đoàn xuồng đi được một khúc kinh khá xa thì một chiếc xuồng đuôi tôm chạy nhanh đuổi theo. Minh tàng một mình điều khiển xuồng. Nó bắt kịp Danh ná, cho xuồng chạy sát bè chỉ huy:
– Tao xin đi phiêu lưu, được không?
Danh ná vui vẻ:
– Còn gì thích hơn là kết bạn với mày?
Minh tàng hỏi:
– Mày còn ghét tao không?
Danh ná đáp:
– Không, Minh ạ, tao thề không ghét mày, không ghét ai cả.
Minh tàng cảm động lắm. Nó bảo Danh ná: – Tao muốn xin lỗi bọn Vĩnh Hưng.
Danh ná cười thân mật:
– Khỏi, khỏi, anh em hiểu bụng mày rồi. Minh tàng kiếm Hiền, gọi ơi ới: – Hiền ơi, sang xuồng của tao.
Hiền nhờ bạn ép xuồng Minh tàng, bước sang. Chẳng đứa nào nhớ trận đá gà trưa hôm qua nữa. Đoàn xuồng bè xuôi dòng kinh. Con kinh mát như tâm hồn những đứa trẻ. Minh tàng đề nghị xuồng của nó và của Tám lưới ròng bè chuối dẫn đầu. Còn các xuồng khác, cái nọ buộc nối đuôi cái kia rồi buộc vào bè, không cần chèo tổn sức. Anh em đồng ý. Thế là hai xuồng đuôi tôm mở máy kéo bè và hai mươi bốn chiếc xuồng gỗ chạy giữa kinh. Các ghe xuồng của người lớn
ngược chiều đều phải nhìn đoàn xuồng phiêu lưu. Họ không hiểu bọn nhóc chơi trò gì. Còn quý vị nhóc trên bờ kinh bắt gặp đoàn phiêu lưu ngang qua, chạy theo reo hò. Quý vị này khoái chiếc bè chuối nhất vì nó rất đỗi kỳ cục.
Danh ná không ngờ chuyến đi của nó tốt đẹp như thế. Nó càng tin Dzũng Đakao nói đúng. Mùa hè năm ngoái, đã có lần Dzũng Đakao bảo nó rằng: “Mày phải đi đây đi đó, phải rời khỏi cái làng Chắc Cà Đao với con rạch đen thui, nhỏ hẹp của mày, mày mới thấy, những nơi mày đặt chân tới, mọi người đều thương mày. Và, điều này thích thú nhất, quý vị nhô con, ở bất cứ nơi nào trên quê hương mình, đều yêu mến những tâm hồn hiệp sĩ vì mỗi vị đã là một hiệp sĩ rồi.” Ờ, tại sao trẻ con dễ gần gủi, dễ thân mật thế nhỉ? Vừa mới ghét nhau đã hòa nhau. Vừa mới làm cho nhau khóc đã làm cho nhau cười. Trẻ con không biết thù dai, thù vặt. – Anh Danh. – Gì?
– Em có tí ti ý kiến nhé!
– Ừa. – Mỗi cái xuồng phải có một cái cờ.
– Ý kiến của mày hay đấy.
– Nói thiệt, phiêu lưu kiểu này, em đi suốt đời được. Ngỡ phải chèo chống phờ râu ông cụ, ai dè có xuồng kéo.
– Hết xăng mày sẽ chèo.
– Còn khuya. Minh tàng chở theo một can xăng đầy nhóc. Túi thằng Tám lưới rủng rỉnh tiền.
Đoàn xuồng phiêu lưu đã tới một ngã ba. Đi thẳng theo kinh Ông Cò thì vô Cái Sắn. “Ai về miền Cái Sắn xinh tươi, Ai về miền đất nước quê tôi… ” Bài hát nào có câu này hay gớm. Rẽ phía trái sẽ vào Vĩnh Chánh. Kinh Vĩnh Chánh nhỏ hơn và ngắn hơn kinh Ông Cò. Mục đích của Danh ná là ra sông Hậu, nó không muốn vào Rạch Giá. Sông Hậu cũng có ngả thông ra biển.
Ngả này lên phía Bắc gần hơn. Vào Rạch Giá, ra đảo Phú Quốc phải vòng lại, xa thấy mồ. Danh ná quyết định rẽ vô Vĩnh Chánh. Nó ra lệnh cho Tám lưới, Minh tàng: – Quẹo tay trái nghe, tụi bay! Đoàn xuồng bỏ kinh Ông Cò, vào con kinh mới. Thuyền trưởng Danh ná cho bè xuồng ép hết bên bờ kinh. Khúc này trống vắng, bờ phẳng phiu, “hạ trại” nấu cơm ăn rồi nghỉ ngơi thật tiện. Bốn mươi chú thủy thủ cùng thuyền trưởng lên bờ. Cuộc “đổ bộ” rất ồn ào, vô trật tự nhưng không hề bị “cà nông [17]” của địch ngăn cản. Quân ta đi chặt cành cây, lá dừa dựng lên che nắng. Tám lưới đem lưới hành quân quét cá. Chơn Chơn đạo nhơn theo để học nghề. Bọn Năm ròm, Quới cù lần, Minh tàng … kiếm củi nấu cơm. Các thủy thủ, mỗi người một việc. Sinh hoạt vui vẻ, phơi phới. Trong lịch sử phiêu lưu của nhân loại, chưa hề thấy ghi chép cuộc nào vừa hào hùng vừa buồn cười và vừa thơ mộng như cuộc này. Để một ngày nào đó, có những đứa trẻ Việt sống ở Tây, ở Mỹ, ở Áo, ở Ý lâu ngày,
Anh
quên mất cả tiếng mẹ đẻ, lõm bõm đọc truyện phiêu lưu của Danh ná và anh em nó, có thể sẽ chê bai đủ lối. Rằng, làm quái gì có bè chuối phiêu lưu. Rằng, sức mấy thằng nhóc Danh ná dám mơ chuyện chiếm lại đảo Hoàng Sa. Nhưng, biết đâu sẽ lại chẳng có những đứa ước ao được cái hạnh phúc của Danh ná, được sống theo lý tưởng của mình như Danh ná? Biết đâu, ngoài kia, còn bao nhiêu tâm hồn những đứa trẻ muốn được như Danh ná, được làm người Việt Nam thuần phác, người Việt Nam nhân hậu, người Việt Nam chấp nhận mọi gian khổ cho tương lai, người Việt Nam không biết thù hận nhưng không đồng lõa với bạo quyền, người Việt Nam ưa cái hay, cái đẹp, cái tân tiến nhưng không quên gìn giữ cái thuần túy, cái phẩm chất của dân tộc, người Việt
Nam yêu chuộng tình thương, lẽ phải và tự do. Như trong lời bài hát mãi mãi vang vọng trong đầu Danh ná:
“Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời
Việt Nam hai câu nói bên vành nôi
Việt Nam nước tôi.
Việt Nam Việt Nam tên gọi là người
Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời
Việt Nam đây miền xinh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự do công bình bác ái muôn đời
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường tương lai, Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tình yêu đây là khí giới, Tình thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người
Việt Nam! Việt Nam!
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn đời…” [18]
Biết đâu… một khi tìm hiểu Danh ná và chuyến đi phiêu lưu vĩ đại nhất loài người của nó… sẽ còn thêm nhiều những “đứa trẻ con không muốn lớn” như nó …
Danh ná sừng sững. Danh ná biểu tượng của con nít thôn quê miền Nam. Nó đang đứng trên bờ kinh Vĩnh Chánh mà đã mộng sẽ đứng trên đảo Hoàng Sa, dưới lá cờ tổ quốc Việt Nam phần phật bay theo gió biển khơi. Hiệp sĩ Danh ná, chàng thiếu hiệp nghìn lần yêu mến của quê hương nghìn năm bất hạnh, chàng thiếu hiệp sẵn sàng cứu khốn phò nguy, mà không đòi hỏi công lao. Danh ná, nhô con Việt Nam, rực rỡ với “triết lý sống”… con nít: Làm việc, vui vẻ làm việc và yêu thương. Không làm việc là lười biếng. Không vui vẻ sẽ buồn bã, ốm đau. Không yêu thương sẽ bị ghét bỏ. Danh ná, nhô con Việt Nam, tuyệt vời trong cách sống cao thượng, biết tha thứ và thương hại cả … gà. Danh ná, nhô con Việt Nam, khởi sự lên đường, để phấn đấu can đảm không để dòng nước cuốn trôi, và đã vượt qua ngọn Tầm Vu quá sức mình. Sau hết Danh ná, nhà thiện xạ, cầu thủ với đôi chân vàng, cây kèn ác-mô-ni-ca chưa biết đánh “tông”, thằng bạn mà bất cứ nhô con nào gần gũi cũng khoái.
Nó đấy, Danh ná ấy mà, con một gia đình nông dân nghèo, hiền lành ở làng Chắc Cà Đao.
Nó trưởng thành theo bông lúa vào mẩy, theo dây khoai mọc mầm, theo cây xoài bói trái, theo đàn gà xuống ổ, theo những giọt mồ hôi năm tháng của cha mẹ nó. Nó đấy, tâm hồn nó thấm đượm hương đồng gió nội, tiếng chim ca ngợi trời đất, nụ cười được mùa no ấm, câu ca dao à ơi ru em trưa hè ‘thôn ổ’. Tuổi thơ của nó, cùng những đứa trẻ bằng tuổi nó, lênh đênh trên con rạch êm ả. Nó chẳng làm hại ai, cũng chẳng ai làm hại nó. Nó hãnh diện là người Việt Nam. Ngày kia, nó ghép bè phiêu lưu để chứng minh niềm hãnh diện đó. Dù ngày mai, nó quay bò trở lại Chắc Cà Đao, hay không biết ngày mai nào nó đứng trên đảo Hoàng Sa, tóc lộng gió, mắt rạng ngời, Danh ná vẫn phi thường. Chỉ cần một ý nghĩ vượt biển tới Hoàng Sa đã đủ phi thường rồi. Còn tới được hay không là chuyện khác. Chỉ cần một ý nghĩ chiếm lại Hoàng Sa, đã yêu nước nồng nàn. Cần gì phải ôm súng lao vào lửa đạn ở cái tuổi còn phải được ăn học. Cũng như Bồn lừa, chỉ cần mơ ước làm đẹp quê hương bằng đá bại hết các đội bóng đá thế giới, đã yêu nước thiết tha. Cần gì phải gài mìn, giăng bẫy giết giặc. Chỉ những hạng người
Anh
lớn khốn nạn mới đòi hỏi tuổi thơ quá đáng, mới khai thác lợi dụng tuổi thơ triệt để. Hãy để tuổi thơ hồn nhiên trong thế giới ngọc ngà.
– Danh ná!
– Chi đó?
Nhóc con Hiền mắt đỏ hoe vì khói bếp, vừa đi vừa dụi mắt.
– Rồi bọn mình có về không?
Danh ná mỉm cười:
– Về chứ. Mình sẽ về quê hương mình. Đi đâu, dù vui cách mấy, cũng có ngày phải về.
Hiền nói:
– Tao khoái đi luôn.
Danh ná đá khẽ nhóc con Hiền:
– Má mày sẽ khóc hết nước mắt. Hiền ạ, bạn tao là Dzũng Đakao dạy tao điều này: “Không có nơi nào bằng nhà mình”. Nó bảo đó là lúc ta còn nhỏ. Khi ta lớn khôn thì không có nơi nào bằng quê hương mình. Bạn tao thí dụ đúng lắm cơ. Nó
bảo: “Mày hãy quan sát cuộc sống của lão Tàu già bán chạp phô ở chợ Chắc Cà Đao mà xem. Lão ấy buồn thí mồ. Ai cũng chưởi lão được. Đấy, nếu người Việt mình sống ở nước lạ, tụi nó sẽ khinh mình như mình khinh ba Tàu.”…
Nhóc con Hiền ngơ ngác:
– Mày nói xa xôi quá, nói gần chút chút coi.
Danh ná nhìn Hiền thân mến:
– Thí dụ đêm mai mình ghé bến nào đó, má mày có ra đón mày không?
– Không.
– Và hôm nữa mày về, gặp má mày, má mày có khóc không?
– Má tao khóc chết ấy chứ!
– Mày có khóc không?
– Tao cũng khóc.
– Đó đó, vậy mình sẽ về nghe, mày. Đi mãi cũng mỏi cẳng chứ bộ.
Anh
Tự nhiên, nhóc con Hiền khóc nức nở. Nó nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ anh chị nó. Nó ôm chầm lấy Danh ná:
– Tao hết ham phiêu lưu rồi.
– Hết ham thì về. Ăn cơm xong hãy về.
– Tao về ngay đây.
Nhóc con Hiền buông Danh ná ra. Nó chạy tới chỗ xuồng neo, nhảy xuống. Nó khuân hết “lương thực” bỏ sang xuồng kế cạnh, gỡ dây neo, ngược về Vĩnh Hưng. Nó nói lớn, giọng sũng nước mắt:
– Tao về đây tụi mày ơi! Danh ơi, tao thương mày nhất, tao nhớ mày suốt đời. Ngày về, nhớ ghé chơi nhà tao nhé!
Danh ná vẫy tay từ biệt bạn. Các thủy thủ chê bai nhóc con Hiền hèn nhát, phản phé tưng bừng. Bữa cơm ê hề các thứ cá tươi kho và nấu, và các thứ chuyện làm mọi người quên hẳn nhóc con Hiền. Nhưng Danh ná không quên Hiền. Không bao giờ quên Hiền ôm gà tử trận ngồi dưới gốc
cây đại khóc sướt mướt. Nó vừa chợt nhớ mẹ. Tâm hồn Danh ná nao nao …
[17] Cà nông: từ tiếng Pháp “canon” ; súng đại bác.
[18] Bài hát “Việt Nam! Việt Nam!”, nhạc và lời của nhạc sĩ Phạm Duy.
Kinh Vĩnh Chánh chỉ rộng và quang đãng ở khúc ngã ba kinh Ông Cò. Vào sâu, kinh hẹp lại. Bờ kinh bên phải là con đường phẳng phiu, xe hơi chạy được. Đình, chùa, công sở, quán cà-phê, hủ tíu, chợ búa nằm trên bờ kinh bên phải. Bên trái, cách năm mươi thước, lại có căn nhà sàn lớn, khang trang. Thỉnh thoảng cũng thấy căn nhà gạch mái ngói rất bề thế. Điện nông thôn đã về đây. Dân làng Vĩnh Chánh khá giả nên nhiều nhà sắm tủ lạnh, vô tuyến truyền hình. Chỉ cần nhìn hệ thống ăng-ten trên nóc nhà đã đủ đánh giá sự trù phú của dân làng Vĩnh Chánh. Vì kinh hẹp nên có nhiều cầu tre bắc ngang qua kinh. Từ chợ Phú Hòa vô Vĩnh Chánh, còn có cây cầu đúc, xe du lịch vượt sang yên ổn. Hai bờ
Anh
kinh, sát nước, cây cối mọc chi chít. Cây nghiêng ra giữa kinh, che lấp ánh nắng. Nhiều cây tủa xuống những cái rễ mọc từ cành! Những cái rễ to bằng cổ tay, cổ chân cách mặt nước chừng hơn thước. Dân chúng qua lại buôn bán, thăm nhau bằng những cây cầu tre chênh vênh.
Bọn nhóc phiêu lưu đã nhổ neo sau một đêm ăn ngủ ngoài trời. Chúng đã nằm ở ngã ba kinh Ông Cò – Vĩnh Chánh, thả mắt về phía núi Sập. Núi không phải là mục đích đi tới, chứ không, Danh ná đã đẩy bè chuối tiến vào. Trời muốn mưa rồi. Không khí thật oi nồng. Chuồn chuồn ớt xuất hiện cơ man, bay là đà.
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm
Chuồn chuồn dự báo thời tiết đúng lắm chứ bộ. Không khí ngậm hơi nước đè cánh các chàng, các chàng không bay cao được. Mưa hay nắng có nhằm nhò gì với những tay phiêu lưu. “Ra đi khắp nơi xa vời, Gió bốn phương kìa gió bốn phương ào ào cuốn lá rơi…” [19] mà. Đoàn xuồng đã vô
kinh Vĩnh Chánh. Bây giờ, mỗi chiếc xuồng đều được cắm một cành tre dài máng đầy hoa bằng lăng. Riêng bè chuối chỉ huy vẫn là cái quần xà lỏn cạnh dũng sĩ Cà Đao.
– Chơn ơi!
– Dạ. – Mày biết Vĩnh Chánh là quê đứa nào chứ?
– Em không nhớ.
– Quê ngoại thằng Chương Còm đấy.
– Còn quê nội nó ở đâu?
– Mãi tận Bắc Kỳ!
Nhóc con Vĩnh Chánh đã phát hiện đoàn xuồng phiêu lưu. Chúng reo hò, la lối. Người lớn theo con nít túa ra hai bờ kinh. Có lẽ, lần đầu tiên, từ khai thiên lập… Vĩnh Chánh, từ trời đất sinh ra dòng kinh này, mới thấy hiện tượng kỳ cục xuồng đuôi tôm kéo bè chuối, bè chuối kéo xuồng gỗ chở rặt nhi đồng trên kinh nước. Mặc trẻ già, lớn bé, đàn ông, đàn bà ngạc nhiên, đoàn
Duyên Anh
xuồng phiêu lưu cứ trôi một cách nhàn tản. Đoàn xuồng đang chui vô… hang tối. Khúc này, cây cối rậm rì. Nhóc con Vĩnh Chánh men theo bờ kinh chạy theo đoàn xuồng. Phía bên phải, xe lôi, xe lam, xe hơi dừng hết. Khách đòi xuống thỏa mãn sự tò mò. Chơn Chơn đạo nhơn hứng chí:
– Mình đắt khách quá. Cứ như gánh hát lưu diễn ấy.
Một nhóc con Vĩnh Chánh vọng hỏi: – Đâu tới “dzậy”?
Danh ná vui vẻ đáp: – Xa tới. – Cải lương hay hát bội?
– Tân nhạc.
Vậy là nhóc con Vĩnh Chánh tưởng ban tân nhạc lưu diễn.
– Tối nay hát ở đình, hả?
Chơn Chơn đạo nhơn trổ tài giễu:
– Hát ở nhà … – Nhà ông Hội đồng, hả?
– Không, nhà bè!
Đi quãng nữa, anh em giang hồ phải dừng lại vì chiếc ghe chở lá khẳm [20] đậu ngang dòng kinh. Danh ná hạ lệnh ép xuồng vào bờ. Nhóc con Vĩnh Chánh, phía trái kinh, được dịp tới gần xem xét, làm quen. Danh ná không hiểu tại sao chiếc ghe chở lá khẳm ăn vạ chỗ này, khiến đoàn xuồng của nó mắc kẹt. Tại sao người ta không cho ghe áp sát dọc mạn bờ? Nó quan sát chiếc ghe chở lá. Mặt ghe xấp xỉ mặt nước gang tay. Người đàn ông đứng ở đầu ghe có vẻ nóng ruột. Ông ta nhìn căn nhà trước mắt. Căn nhà trống tung mái. À, ghe chở lá lợp nhà chờ bốc lên đây. Thì phải ép sát bờ mới bốc lá được chứ? Người đứng đầu ghe, ý chừng là chủ ghe, lớn tiếng hỏi: – Tính sao đây, không lẽ chờ hoài! Một người đàn ông khác trong nhà bước ra cùng với ông già. Ông già tóc bạc phơ, mặc bộ bà
Duyên Anh
ba đen, cổ khoác cái khăn rằn, miệng ngậm điếu thuốc rê. – Tính sao đây, bác Chín?
Ông già trả lời, điếu thuốc rê vẫn dính môi dưới:
– Qua cho đi kêu rồi, sắp nhỏ chắc cà phê cà pháo ngoài Phú Hòa. Em rán chờ chút nữa.
– Bác biểu chở vô sớm, tui chở vô sớm. Còn mối khác dặn ngoài tỉnh, về trễ họ chửi tui mục mả …
– Qua nóng ruột hơn em chớ. Mưa đêm nay à …
– Nóng ruột mà bác hổng lo? Việc gấp chẳng tính còn ham cà-phê cà pháo.
– Thì sắp nhỏ ngỡ em vô muộn.
– Ngỡ, ngỡ, tui hổng đợi đâu. Đợi cả tiếng đồng hồ lận. Cơ sự này tụi nó lại táp vô đá gà hay nhậu rồi.
Ông già thổi mẫu thuốc rê văng khỏi môi, dậm chân kêu trời. Danh ná bắt tội nghiệp ông già. Ông giống ông nội Danh ná quá. Danh ná nhẩy phóc lên bờ, bước vào sân, đứng cạnh ông già, lễ phép: – Ông Chín, ông cần bốc lá lên, hả?
Ông già gật lia: – Ừa, ừa. Danh ná nói: – Tụi con có bốn mươi chín thằng, ông Chín cho phép tụi con bốc giúp nhé! Ông Chín mừng rỡ: – “Dzậy” còn gì bằng.
Danh ná hô anh em giang hồ làm việc nghĩa. Bọn nhóc nhất loạt lên bờ. Chiếc ghe chở lá ép sát bờ kinh. Danh ná và anh em kéo nó đậu dọc bờ để nó hết cản trở lưu thông. Rồi, như bầy kiến, bọn nhóc khuân lá. Chúng xếp hàng một, đứng gần nhau, làm thành dây chuyền, chuyền
Anh
từng bó lá. Chủ ghe hết sốt ruột, ngồi trước mũi ghe, hút thuốc lá. Ông Chín qua lại trên sân, chỉ chỗ cho bọn nhóc sắp xếp lá. Ông Chín chẳng cần biết bọn nhóc là con cái ai, ở đâu tới. Ông cũng chưa thấy chiếc bè chuối lạ lùng nhất thế giới của Danh ná và đoàn xuồng phiêu lưu. Bọn nhóc Vĩnh Chánh đứng ngó bọn nhóc lạ mặt đâm ra ngứa chân tay, nhào vô khuân lá luôn cho vui. Bốc hết lá, bọn nhóc khiêng những miếng gỗ đã bào nhẵn nhụi. Sàn nhà đấy. Chắc ông Chín muốn thay ít ván mọt hư hỏng. Chiếc ghe đã hết khẳm, nó nổi hẫng khỏi mặt nước. Chủ ghe thở phào. Danh ná hỏi:
– Còn nữa không, ông Chín?
Ông Chín đang vấn điếu thuốc rê mới, ngừng tay, hoan hỉ đáp:
– Hết rồi, các cháu ạ!
Danh ná ra hiệu cho anh em giang hồ xuống xuồng. Các thủy thủ chuẩn bị nhổ neo. Danh ná khoanh tay:
– Vậy tụi con xin phép ông Chín đi đây ạ!
Ông Chín bập bập điếu thuốc muốn tắt:
– Đi đâu, đi đâu, ở chơi uống nước đã. Ông chưa cám ơn các cháu, đi đâu vội.
Danh ná vẫn khoanh tay:
– Thưa ông Chín, chúng con đi phiêu lưu. Bây giờ ông Chín mới kịp nhìn xuống bờ kinh. Chiếc bè, những chiếc xuồng khiến ông căng đôi mắt già nua. Ông níu chặt cánh tay Danh ná: – Không đi đâu vội, ở đây bắt vịt làm cơm ăn đã. Chủ ghe chở mướn đã tếch ra tỉnh kiếm mồi khác. Và đám con ông Chín cũng đã kéo về đông đủ. Ông Chín mắng con cháu:
– Tụi bay hại tao, để thằng chủ ghe xài xể tao quá xá. Nhờ sắp nhỏ này bốc lá giùm nè … Ông Chín nải nỉ:
– Nghe các cháu, ở lại bắt vịt làm cơm ăn rồi đi đâu thì đi.
Anh
Tám lưới nói nhỏ với Chơn Chơn đạo nhơn:
– Điệu này lại ăn cháo vịt nữa. Chơn Chơn đạo nhơn đã hiểu cái ý nghĩa giúp người không đợi hưởng đền công lao mà Danh ná mới giảng giải cho nó, nó bảo Tám lưới:
– Không hề ăn cháo vịt đâu, mày tin tao đi.
Nó đem câu nói của Danh ná “dạy” lại Tám lưới. Vua lưới cá thấm thía và phục lắm. Ông Chín dụ Danh ná:
– Với lại, ông còn muốn nhờ các cháu …
Danh ná thành khẩn:
– Nếu ông nhờ chúng con việc gì, chúng con sẵn sàng mần, những nhất định chúng con không ăn cơm của ông.
Ông Chín thân thiết:
– Cái thằng kỳ cục, mần giúp ông, ông đãi cơm, có sao mà mày từ chối hoài!
Danh ná mỉm cười thật dễ yêu:
– Thưa ông nội, chúng con đi giang hồ, tập tành tự lo lấy miếng ăn.
Danh ná lại giục anh em lên bờ. Bọn nhóc chia từng toán làm việc thiện. Toán đưa lá lên làm mái nhà. Toán chẻ thêm dây lạt. Toán giẫy cỏ sân sau. Toán quét sân trước. Chúng nó bới việc ra làm. Có đứa vun gốc đu đủ. Có đứa đóng đinh sửa chuồng gà. Đám nhân công này đông và tháo vát quá. Ông Chín thương bọn nhóc vô kể. Không nghe đứa nào chửi thề cả. Danh ná nấu cám cho heo ăn. Nó tắm bầy heo sáu bẩy con của ông Chín. Danh ná bảo nhỏ Tám lưới và Minh tàng đi lưới cá. Còn Chơn Chơn đạo nhơn, Quới cù lần, Bẩy vẩu, Năm ròm lo nấu cơm. Buổi trưa, mọi người ngừng việc. Ông Chín ngạc nhiên thấy mấy chục ông nhóc đã dọn cơm cá ăn ngon lành. Dù trách móc chúng nó chê cơm của ông, ông Chín vẫn thầm khen ngợi bọn nhóc. Ông nói với đám con cháu của ông: “Con cái nhà ai ngoan thiệt!” Cơm nước xong, nghỉ một lát, tất cả lại tiếp tục lợp nhà. Đến chiều thì công việc hoàn tất. Mái nhà đẹp, sân nhà sạch, vườn nhà hết cỏ. Danh ná xin phép lên đường. Lúc này, sân nhà
Anh
ông Chín đầy nhóc con nít Vĩnh Chánh hai bên bờ kinh. Ông Chín đem xoài ra khao. Nể tình ông Chín, mỗi nhà phiêu lưu ăn một trái cho ông Chín vui lòng.
– Các cháu sắp đi đâu?
– Thưa nội, chúng con đi xa lắm. Chúng con ra sông, ra biển.
Chơn Chơn đạo nhơn tiếp lời thuyền trưởng: – Nội à, nội có biết đảo Hoàng Sa ở đâu không?
Ông Chín và con cháu ông cũng ngơ ngác. Chơn Chơn thực hành bài học địa dư mà Danh ná đã dạy nó:
– Thưa nội, đảo Hoàng Sa ở phía Bắc biển Đông mình. Giặc Tàu đã chiếm mất đảo Hoàng Sa của tổ quốc mình rồi. Chúng cháu sẽ ra đảo Hoàng Sa đánh đuổi giặc Tàu.
Danh ná nói thêm:
– Lớn khôn hơn, chúng con sẽ đánh tan giặc
Tàu, chúng con không sợ giặc Tàu, không sợ giặc nào hết trọi. Xưa ông Ngô Quyền đã đánh tan giặc Tàu ở sông Bạch Đằng bằng cọc tre.
Ông Chín lặng người. Ông hồi tưởng thuở nào, mới đây thôi, ông cũng đánh giặc Pháp bằng gậy tầm vông. Cánh tay già vung mạnh:
– Phải, phải, lớn khôn, các cháu sẽ đánh tan các thứ giặc. Danh ná và anh em nó sung sướng tột độ. Ông Chín đã bảo chúng nó sẽ đánh tan các thứ giặc, một mai… Ông Chín không chế nhạo chúng nó. Ông Chín khích lệ chúng nó. Ông Chín tin tưởng trẻ con Việt Nam phi thường.
– Các cháu ngoan ngoãn lại ham làm việc nghĩa, ông cam đoan các cháu không sợ thứ giặc nào. Các cháu can đảm hơn ông ngày xưa.
Danh ná cúi đầu chào ông Chín:
– Ông nội cho phép chúng con lên đường. Ông Chín muốn giữ bọn nhóc ở lại một đêm nhưng bọn nhóc nằng nặc đòi đi. Ông tặng chúng
Duyên Anh
nó ít tiền, Danh ná không nhận. Cuối cùng để cho ông Chín vui lòng, bọn nhóc chỉ dám lấy cặp vịt. Anh em giang hồ xuống xuồng. Bọn nhãi
Vĩnh Chánh nhao nhao:
– Cho tao theo mí.
– Tao không sợ giặc Tàu.
– Tao có xuồng đuôi tôm.
– Tao bơi xuồng gỗ.
– Tao không đòi về đâu…
– Tao không biết chửi thề.
– Tao lặn giỏi như Yết Kiêu [21].
Danh ná giơ cả hai tay lên trời:
– Nếu các bạn khoái phiêu lưu, cứ việc theo bọn tui.
Thằng cháu nội của ông Chín xin ông nó cho theo Danh ná. Ông nó bằng lòng ngay, gửi gấm Danh ná:
– Các cháu nè, cho ông gửi thằng Kỳ đen. Đêm nó ngủ nó đái dầm đấy, các cháu thương nó, nghe. Kỳ đen – thằng nhóc này vừa cao vừa đen –nhẩy cẫng. Nó đã sửa soạn chiếc xuồng hồi trưa lận. Nếu ông nội và ba nó không cho phép, nó sẽ trốn theo Danh ná. Đoàn xuồng phiêu lưu rời bến nhà ông Chín. Lại có thêm mười tám “chiến sĩ” với mười hai “chiến hạm”. Bây giờ, chiếc bè chuối chỉ huy ba xuồng đuôi tôm, ba mươi nhăm xuồng gỗ, trừ thuyền trưởng Danh ná và thuyền phó Chơn Chơn đạo nhơn, tổng số “thủy thủ” là sáu mươi lăm thằng. Danh sách “thủy thủ” nổi tiếng: Quới cù lần, Năm ròm, Bẩy vẩu, Sáu xạo, Tám lưới, Minh tàng, Bình bể. Hai chú vịt cột chân, máng dưới dũng sĩ Cà Đao. Tám lưới, Cà Đao chỉ huy hai chú vịt lùn mập mạp. Đoàn xuồng đi trên kinh Vĩnh Chánh. Lại chui vô “đường hầm”. Cây cối hai bờ kinh, khúc này, vừa lớn, vừa mọc khít. Cành dài vươn ra đụng nhau như bàn tay người tình bên đây kinh bắt tay bàn tay người tình bên kia kinh thắm thiết. Những cái rễ kỳ quái tua tủa, đong đưa. Thủy thủ nói chuyện ồn
Anh
ào. Vịt bị dựng ngược, kêu càm cạp inh ỏi. Danh ná thương vịt, gỡ xuống, lấy dây buộc một chân từng con rồi thả cho bơi theo bè…
Mặt trời đã lặn nên kinh Vĩnh Chánh càng âm u. Bất chợt, từ phía trước, một ông nhóc trên cây nhẩy ùm xuống nước. Rồi ngói lên, rướn người, dùng cả hai bàn tay chụp lấy cái rễ tòong teng giữa kinh. Nó leo cao, đu đưa cái rễ như đu đưa sợi dây lớn, chuyền sang rễ khác, chuyền tới bè chuối y hệt con khỉ. Nó nhe răng nhìn Danh ná cười khì. Và nó xoay mình chuyền lại cái rễ cũ. Nó lại nhẩy xuống nước. Anh em giang hồ không hiểu thằng này trổ tài gì. Nhưng mà, quả thật, nó hấp dẫn cả Danh ná. Tất cả đợi thằng nhóc ngoi lên. Nó lặn lâu ghê. Nó ngoi lên kìa! Nó rướn người, lần này nó dùng bàn tay phải chụp cái rễ, còn bàn tay trái tóm gọn chú cá mè trắng hếu. Nó chờ bè trôi tới, nhẹ nhàng tụt, ngồi êm giữa bè. Thằng nhóc tự giới thiệu: – Tên tao là Hườn, bạn bè kêu là Hườn cá vì tao bắt cá số dzắt. Nó nhìn Danh ná:
– Tao biết mày là “sếp [22]”, cho tao theo mày đi phiêu lưu nhé!
Danh ná cười: – Không thằng nào là “sếp” cả, anh em hết à … Mày khoái thì cứ đi thôi.
Hườn cá đứng dậy chào hết lượt. Nó nói: – Còn thằng bạn tao sắp “ra mắt” mày đấy. Đoàn xuồng vẫn đi. Bỗng một ông nhóc
“bông-nhông” từ trên cây xuống bè chuối. Nó “căn” rất giỏi, không trúng đứa nào. Thằng này ôm cái lưới túm một mớ quần áo bên trong. Hườn cá giới thiệu với Danh ná:
– Nó là Hiệp mập, lưới cá tài lắm. Tám lưới gặp Hiệp mập rồi. Kỳ phùng địch thủ gặp nhau, cá tha hồ mà chết. Hiệp mập nói:
– Bọn tao có mặt ở nhà ông Chín, rình tụi mày lâu rồi, tao chắc tụi mày cho theo.
Danh ná xổ nho:
Anh
– Tứ hải giai huynh đệ mà. Bốn bể đều là anh em. Càng đông, phiêu lưu càng vui. Bóng tối đã phủ kín dòng kinh. Đôi bờ, nhà nhà lên đèn. Tiếng hát từ máy thu thanh đua nhau oang oang làng Vĩnh Chánh trù phú. Ánh sáng điện nông thôn không đủ sức xuyên qua cành lá chi chít hai bên bờ kinh. Nó mờ mờ ảo ảo. Đoàn xuồng êm lặng trôi. Cảnh tượng thật nên thơ. Một vài chiếc xuồng đã thắp đèn bão. Những con đom đóm vàng khè ấy nhấp nhô trên kinh, dưới cành lá âm u chỉ làm sợ tôm cá. Danh ná hạ lệnh ép xuồng vào bờ. Nó biết sắp tới chợ Phú Hòa. Phải đậu cách xa bến chợ vì, sáng mai, ghe xuồng tấp nập tới lui buôn bán, đoàn xuồng phiêu lưu sẽ làm cản trở lưu thông. Bọn nhãi neo xuồng bè chắc rồi, rủ nhau đi chơi hoặc ngồi tụ tập nói chuyện về gia đình, làng xóm mình cho nhau nghe. Ba Bần, Vĩnh Trạch, Vĩnh Phú, Vĩnh Hưng, Vĩnh Chánh, với những đứa trẻ con này, chỉ còn là một nơi chốn. Bởi vì, từng nấy hay cơ man địa danh đọc bằng tiếng Việt, viết bằng tiếng Việt đều nằm trên nước Việt Nam yêu dấu.
Danh ná ngồi dựa lưng vào một gốc cây. Nó nghĩ tới chuyến đi ngày mai và những cơn mưa sắp tới.
[19] Lời trích từ bài hát “Đoàn Lữ Nhạc” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
[20] khẳm: (Thuyền chở) đầy và nặng, khiến cho chìm xuống mặt nước tận mạn thuyền.
[21] Yết Kiêu (1242-1301) là anh hùng chống giặc ngoại xâm vào đời nhà Trần, người có công giúp Nhà Trần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII với biệt tài thủy chiến. Ông là người bơi lặn giỏi, đã sử dụng tài của mình để đục thuyền của quân xâm lược Nguyên Mông.
[22] sếp: từ tiếng Pháp ‘chef’ ; chỉ huy, cấp trên.
Danh ná ngủ một giấc ngon lành. Nó không biết chuyện gì xảy ra khi nó co quắp nằm giữa trời sương. Danh ná chỉ thích làm việc nhiều, càng nhiều càng dễ mệt, để đêm ngủ thẳng giấc tới sáng, khỏi thao thức nhớ nhà. Danh ná có nhà, có cha mẹ, nó cũng nhớ nhà, nhớ cha mẹ, chứ bộ. Những đứa trẻ con có nhà, có cha mẹ, có anh em để đi đâu xa thì nhớ là những đứa trẻ con hạnh phúc. Bất hạnh thay là những đứa trẻ con bơ vơ trong cuộc đời, không cha mẹ, không nhà cửa. Danh ná không ghét thằng nhóc con Hiền tí nào. Hiền dễ khóc quá. Dễ khóc nên nó mới dễ nhớ nhà. Bây giờ, con nhà Hiền lại tiếc chuyến phiêu lưu dang dở của nó đây. Ối dà, còn khối đứa bắt chước thằng Hiền. Danh ná ngửa mặt nhìn trời. Những vì sao
Anh
muộn chưa kịp lặn. Mặt nước đã xốn xang tiếng xuồng máy đuôi tôm. Dũng sĩ Cà Đao gáy tíu tít và hai chú vịt kêu nhặng xị.
Chơn Chơn đạo nhơn đã thức. Nó ngồi cạnh Danh ná. Hơn Danh ná, nó biết chuyện gì xảy ra đêm qua. Đêm qua, Tám lưới, Hiệp mập, Hườn cá và một số nhóc con đã thi nhau bắt cá. Và chúng nó càn quét được mẻ cá đủ cho anh em giang hồ vào chợ Phú Hòa ăn hủ tíu điểm tâm. Hiệp mập và Hườn cá đã đem cá đi bán rồi. Chơn Chơn đạo nhơn sảng khoái vô cùng. Nó mong đi thật xa, về thật nhanh đặng nó ngồi dưới giàn mướp đầy hoa vàng vườn nhà nó, kể cho bọn nhóc Chắc Cà Đao nghe chuyện phiêu lưu. Chắc chắn, Chơn Chơn đạo nhơn sẽ phịa thêm, sẽ tự nhận nó đã đóng những vai hiệp sĩ khắp miền đất nước.
– Chơn. – Dạ. – Mày nhớ nhà không?
– Không, phiêu lưu là cóc nhớ nhung gì hết trọi. Bộ, anh nhớ nhà, hả?
– Ừa.
Chơn Chơn đạo nhơn cụt hứng. Nó sợ sư phụ nhớ nhà, mò về thì cuộc phiêu lưu chả còn quái gì hào hùng.
– Anh muốn về, hả?
– Ừa. – Bao giờ về?
– Bao giờ ra sông, ra biển.
Chơn Chơn đạo nhơn thở phào. Vậy chứ, chưa ra sông, ra biển đã về thì chỉ là phiêu lưu kinh rạch.
– Chơn à!
– Em nghe nè…
– Đi đâu rồi cũng phải về nhà mình. Nhà mình mới có cha mẹ mình thương yêu mình suốt đời. Dzũng Đakao đã bảo rằng chỗ quê hương mình là đẹp nhất. Làng Chắc Cà Đao là đẹp nhất. Rồi nước Việt Nam đẹp nhất. Dzũng Đakao bảo:
“Đứa nào không yêu làng là không yêu nước, đứa nào không yêu gia đình mình là không yêu dân tộc mình.” …
– Tại sao anh Dzũng Đakao biết nhiều dzậy?
– Vì nó học giỏi. Nó còn bảo với tao điều này dễ sợ lắm …
– Điều gì mà dữ vậy?
– Nó bảo mình có bỏ xứ sở mình đi nơi nào, đi tới xứ sở nào đi chăng nữa, thì mình cũng không thể sung sướng như ở xứ mình.
– Vậy ngu sao bỏ xứ.
– Đúng, ngu sao bỏ xứ. Nhưng phải nhớ, biết đâu số mình đưa mình đi lưu lạc xứ người, thì ở đâu đi chăng nữa, đừng bao giờ quên mình là người Việt Nam, đừng quên cội nguồn, quê hương mình. Dzậy thôi.
Danh ná vươn vai:
– Vài hôm nữa là trăng sáng, mình đi cả ban đêm.
Chơn Chơn đạo nhơn nói:
– Đi cả ban đêm, mình sẽ chóng ra biển. Anh đã nhìn thấy biển bao giờ chưa?
Danh ná buồn bã:
– Chưa. Tao chưa nhìn thấy nhiều thứ. Rồi anh em mình sẽ nhìn thấy tất cả.
Nó đứng dậy, làm vài động tác thể dục. Bọn nhóc, nhiều đứa còn ngủ, nhiều đứa đã thức và đang kháo chuyện. Dzũng Đakao, có thể giỏi hơn
Danh ná, nhiều tài hơn Danh ná, nhưng Dzũng Đakao chưa từng tổ chức nổi chuyến phiêu lưu nào đông nhô con tham dự như chuyến phiêu lưu bè chuối xuồng gỗ này. Nói chi Dzũng Đakao, trên thế giới chưa từng có nhóc con nào cỡ Danh ná quyến rũ được nhiều đứa bằng tuổi nó vào cuộc chơi kỳ diệu của nó. Vậy thì Danh ná là thằng nhóc vô địch quốc tế, thằng nhóc không giống bất cứ thằng nhóc nào trên trái đất. Mai này, lịch sử viết về những đứa trẻ con phi thường, tên nó phải ở trang đầu. Người ta sẽ viết về nó như viết về một vĩ nhân. Và thời niên thiếu của
Anh
nó, chắc chắn, sẽ nằm trong sách giáo khoa thư: “Danh ná, thằng nhóc Việt Nam phi thường”. Nó dõng dạc ra lệnh:
– Dậy hết cả đi, tụi bay ơi. Một ngày đẹp đang chờ đợi chúng ta. Hiểu ý chủ, Cà Đao vỗ cánh gáy râm ran. Nó bay từ xuồng này qua xuồng khác, gáy đánh thức những tay giang hồ. Bọn nhóc dậy hết. Hiệp mập và Hườn cá ở chợ Phú Hòa ra. Hai đứa khoe ầm ỹ là bán được mấy trăm bạc cá. Anh em đề nghị vô chợ ăn hủ tíu, uống cà-phê. Danh ná gạt đi: – Mình có bè xuồng máy đuôi tôm, chúng ta lại còn đi xa, để dành tiền mua xăng và làm việc khác. Phiêu lưu là không cần ăn hủ tíu. Danh ná nói là đúng. Không đứa nào cãi. Tất cả xuống xuồng, nhổ neo lên đường. Đoàn xuồng lặng lẽ rời bến Phú Hòa khi mặt trời chưa mọc. Chẳng hiểu nhóc con Phú Hòa có thằng nào phát hiện đoàn xuồng phiêu lưu và biết được mục đích phiêu lưu đồn đãi nhau mà, không cần xin phép
Danh ná, mười chiếc xuồng gỗ vẫn cứ neo sẵn từ đêm, lẽo đẽo nhào theo. Danh ná thích thú hỏi: – Phú Hòa, hả? Một nhóc Phú Hòa đáp: – Ừa – Chúng tao đi xa, đi lâu lắm. – Đi đến Tết là cùng chứ gì! Mùa hè này buồn thấy mồ, tụi tao khoái rời nơi đây. Ru rú xó nhà nản quá rồi.
Lại những tâm hồn giang hồ gặp những tâm hồn giang hồ. Thế này thì khi ra tới biển, sợ có hàng nghìn chiếc xuồng. Danh ná mơ mộng ghê nơi. Mùa hè này mới tuyệt diệu. Tiếc rằng thiếu Chương Còm, Dzũng Đakao… Xuồng ơi… Hồn bay bổng. Nhóc con làm thay đổi cảnh vật trên kinh nước. Cảnh vật chiêm ngưỡng nhóc con. Ngày nào đó nước Việt Nam sẽ có một hạm đội lẫy lừng. Và người viết lịch sử hải quân sẽ không quên ghi chép rằng, hạm đội lẫy lừng ấy khởi sự từ cái bè chuối ghép bằng hồn đào mơ ước của
Anh
cậu bé Chắc Cà Đao. Mặt trời đã lên cao. Mặt trời sẽ lên cao nữa. Khúc kinh này quang đãng. Đoàn xuồng đi dễ dàng. Chiếc xuồng đuôi tôm của thằng nhóc Vĩnh Chánh mở đường. Nó chạy trước. Tên nó là Liêm. Nó bị lé nên nhóc Vĩnh Chánh tặng nó biệt danh Liêm lé. Bọn nhóc chèo xuồng trên kinh gặp đoàn xuồng phiêu lưu thì ngừng chèo, ngẩn ngơ. Có thằng chở chuối đến chợ Phú Hòa bán, quên luôn nhiệm vụ bán chuối, quay xuồng lại, nhập bọn phiêu lưu. Có thằng đi trên bờ kinh thấy nhóc con chơi trò lạ, chạy vội về nhà mình, lén lấy xuồng bơi theo. Đây là những thủy thủ không được tuyển mộ, nhóc con quyến rũ nhóc con, chẳng cần ai bắt ép, mời mọc.
Liêm lé cho chiếc đuôi tôm quay lại, bi bô:
– Cây cầu tre bị ghe chở gạch đụng sập rồi. Ghe xuồng hết qua được.
Danh ná nói:
– Bọn mình sẽ sửa lại, mấy hồi.
Đoàn xuồng cứ đi. Đến gần chỗ cây cầu bị
đụng sập, Danh ná bảo anh em ép sát tất cả vô bờ. Nó xem xét tình trạng cây cầu rồi nói với những người lớn đang loay hoay kiếm cách sửa chữa.
– Phải tháo bỏ cây cầu này thôi.
Người lớn đã nghĩ cách đó nhưng không ai chịu mất công. Người nào cũng muốn ghe xuồng chóng qua và người nào cũng cứ đứng ì trên xuồng ghe của mình.
– Để tụi cháu gỡ bỏ được chứ?
Một ông chủ ghe giục:
– Gỡ đi, qua chịu trách nhiệm.
Anh em giang hồ bắt tay vào việc. Không đầy nửa tiếng đồng hồ, cây cầu sập bị tháo gỡ hết. Danh ná cho xếp tre mục trên bờ kinh. Khúc kinh đã được giải tỏa, ghe xuồng qua lại dễ dàng. Nhóc con vừa dạy người lớn một bài học. Người lớn chuyên môn ích kỷ, bì tị và khó bảo nhau. Nếu anh em giang hồ không ra tay, người lớn sẽ khó bảo nhau. Nếu anh em giang hồ không ra tay, người lớn sẽ cắm ghe xuồng chờ đợi hoặc quay
Anh
về. Lại một việc hữu ích nữa trên bước đường giang hồ của Danh ná.
Liêm lé càu nhàu: – Ủa, không ai nào biết cám ơn mình cả!
Danh ná cười: – Khỏi cần ai cám ơn, mày ơi! Mình muốn qua thì mình phải vất vả.
Tám lưới hỏi: – Mình cóc thích vất vả thì sao?
Danh ná đáp: – Làm việc tốt cho mọi người, cóc cần được đền bù gì hết trọi. Bạn tao bảo, thế mới là cao thượng. Không đứa nào cằn nhằn nữa vì nghĩ rằng mình cao thượng quá rồi, vì tin rằng Danh ná nói đúng. Danh ná bao giờ chẳng đúng. Đoàn xuồng nhổ neo tiếp tục đi. Chơn Chơn đạo nhơn chép miệng:
– Giá đừng gặp những chuyện vớ vẩn, mình ra biển sẽ mau hơn, anh há?
Danh ná không trả lời. Đến trưa, anh em giang hồ dừng bước để nấu cơm. Hôm nay, ăn xong là nhổ neo liền. Lệnh của Danh ná. Nhóc con chia từng nhóm nấu nướng. Có nhiều nồi mang theo mà cơm giang hồ phiên phiến thôi, tiệc tùng chi đâu mà bầy vẽ. Giang hồ nhiều khi, phải nhịn đói. Con kinh Vĩnh Chánh, từ ngã ba kinh Ông Cò ra sông Long Xuyên dài lắm. Danh ná sẽ phải đi hết con kinh này. Nếu la cà ở các rạch nhỏ, vui chơi này nọ, cả tuần mới xuất hiện trên mặt sông. Kinh Vĩnh Chánh thật nhiều cánh tay. Mà cánh tay nào của nó cũng dẫn vào xóm làng trù phú. Đoàn xuồng lại lên đường. Bây giờ, trên bè chỉ huy, ngoài Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn còn thêm Tám lưới và Quới cù lần. Đây là bộ tham mưu! Đoàn xuồng qua bến nào là ồn ào bến đó. Nhóc con đổ xô tới xem, rồi hỏi chuyện, rồi làm quen, rồi gạ gẫm nhập bọn. Dễ dàng quá. Đứa nào muốn phiêu lưu, cứ việc phiêu lưu. Có xuồng thì mang xuồng theo, không xuồng thì nhẩy đại xuống xuồng của đoàn. Thường thì các
Anh
vị nhóc đều hân hoan chở xuồng theo vì, ở miền Tây, mỗi nhà, ít nhất, cũng có vài chiếc xuồng lớn, nhỏ. Thuyền trưởng Danh ná không thích “kiểm soát lực lượng” của mình nữa. Đông đến nỗi, nó không nhớ tên hết. Nhiều ông nhóc không cần biết tên “chủ soái” của mình. Đi theo niềm vui, chẳng theo ai. Niềm vui quyến rũ trẻ thơ. Ngoài niềm vui, mọi thứ quyến rũ tuổi thơ chỉ là xảo trá, ép buộc. Chiều hôm nay, tự nhiên, trời thiếu nắng. Chuồn chuồn túa ra cơ man bay la đà trên mặt nước. Trên bờ, cóc nghiến răng kèn kẹt. Trời nổi gió. Mây trôi vun vút. Sấm ì ùng phía núi Sập. Đêm nay sẽ mưa. Danh ná cho anh em ăn cơm sớm, sợ bất chợt trời mưa, nấu nướng khó khăn. Cơm nước xong thì trời tối um. Gió thổi mạnh hơn. Cây cối hai bên bờ kinh chuyển mình. Cành chạm lá rì rào. Cây đụng cây cọt kẹt. Sấm nổ tung trời. Chớp lòe dữ dội. Trên dòng kinh, đoàn xuồng phiêu lưu vẫn đi. Tám lưới hỏi Danh ná: – Ép vô bờ núp gió chứ, mày?
Danh ná đáp:
– Lúc nào mưa hãy hay.
Mưa rồi. Gió ngừng thổi một lát là mưa. Thoạt đầu, mưa nhỏ, dần dần mưa nặng hạt và đổ xuống ào ào liên tục. Gió lại thổi rít từng hồi ghê rợn. Sấm chớp hãi hùng. Mưa gió trên dòng kinh Vĩnh Chánh như mưa gió ngoài biển khơi đối với những tay giang hồ con so [23]. Trận mưa trả thù những ngày đại hạn trút nỗi giận hờn xuống bọn nhóc:
– Ép vô bờ chứ, Danh?
– Không, cứ vững tay chèo mà lướt.
– Phải nghỉ ngơi, Danh ạ!
– Tao ra lệnh đi.
Danh ná đứng vững trên bè, quay mặt về phía sau, dõng dạc nói:
– Chúng mình tập bơi xuồng trong mưa gió xem sao. Nếu không tập cho quen, ra sông lớn mình không biết chống đỡ. Mình sẽ bị sóng lật úp xuồng, mình sẽ chết đuối.
Bẩy vẩu thét lớn át tiếng gió:
– Mưa này ăn nhằm gì, cứ đi đi. Đi nắng hoài thì đi mưa cho nó vui. Quới cù lần ngáp được một câu “danh ngôn phiêu lưu”: – Giang hồ là cóc sợ mưa gió.
Các ông nhóc reo hò inh ỏi, ra cái điều khinh thường gió bão. Bẩy vẩu nói đúng, mưa này ăn nhằm gì. Nhờ dòng kinh hẹp mà bờ lại cao nên gió không đủ sức làm lật xuồng. Mưa gió chỉ làm các ông nhóc giá lạnh. Nhưng các ông nhóc chống chọi mưa gió chí tình nên chẳng cảm thấy rét tí ti nào. Như vậy là trận mưa thứ nhất đã phải đầu hàng các ông nhóc. Nước bây giờ dâng cao và chẩy xiết. Đoàn xuồng bơi ngược dòng. Danh ná đã chiến đấu ở ngọn Tầm Vu, nó thừa kinh nghiệm. Ở ngọn Tầm Vu chỉ có nó và Chơn Chơn đạo nhơn. Chiếc bè chuối kềnh càng nặng nề mà ngã ba Ba Bần bát ngát, trống trải. Chứ, ở kinh Vĩnh Chánh này, nước chẩy xiết cách mấy, Danh ná cũng không ngán. Nó buộc ba chiếc
xuồng máy đuôi tôm vào đầu bè chuối, ra lệnh cho Bình bể, Minh tàng, Liêm lé chạy hết sức. Phía sau, các “ thủy thủ” chèo xuồng gỗ liên tục, dòng nước khó mà cản đoàn xuồng phiêu lưu tiến lên. Bè ra sông, ra biển. Danh ná có thể cho ép xuồng bè vào bờ, cột chặt. Thì gió bão làm gì nổi? Nhưng nó muốn “tập trận”, đề phòng khi gặp gió bão giữa sông rộng, sẽ biết cách chống đỡ. Cái gì cũng phải thực tập, chứ bộ. Mưa đến nửa đêm thì ngớt và tạnh hẳn. Gió ngừng thổi. Chớp vẫn lòe sáng nhưng sấm bớt ồn ào. Đoàn xuồng bình yên, không bị va chạm và không chiếc nào bị lật. Có điều, nước chảy xiết nên xuồng chẳng đi xa được mấy nả. Danh ná hạ lệnh neo xuồng nghỉ ngơi. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên đã mệt mỏi rồi, cần dưỡng sức. Anh em giang hồ “đổ bộ”, cởi quần áo vắt khô nước rồi lại mặc vào người. Danh ná hoan hỉ: – Chúng mình dư sức ra sông lớn. Chơn Chơn đạo nhơn nói:
Anh
– Ra biển luôn.
Danh ná bẻ bão tay răng rắc:
– Phải “chơi” với mưa bão một trận trên sông xem sao cái đã. Hễ “thắng” thì mình ra biển ngon lành.
Nó hỏi Chơn Chơn đạo nhơn: – Mày hiểu chưa?
Chơn Chơn đạo nhơn ngơ ngẩn: – Hiểu gì?
Danh ná bợp yêu đệ tử một cái:
– Đã vượt nổi ngon Tầm Vu, sẽ vượt hết mọi gian khổ, sẽ tới đảo Hoàng Sa.
Chơn Chơn đạo nhơn nhe răng cười. Trong bóng tối, hàm răng nó trắng ớn. Anh em giang hồ kiếm chỗ ngủ. Thiếu một đống lửa vì mưa to quá, củi ướt không thể đốt nổi. Đã gọi là giang hồ, ngủ bờ ngủ bụi vẫn là giấc ngủ tuyệt vời. Và, với tuổi nhỏ, giấc ngủ nào cũng tuyệt vời,
ngủ ở đâu cũng tuyệt vời khi đã có một ước mơ. Danh ná đợi anh em ngủ hết, nó mò xuống bè, gối đầu lên viên gạch, quơ cái chiếu đắp mình, nằm nhìn trời. Trăng đã nhú ra. Ánh sáng còn yếu ớt vì mây chưa ngừng trôi. Vài đêm nữa thôi, Danh ná và anh em nó sẽ được hưởng trọn vẹn mùa trăng trên sông nước quê hương. Lạy trời đừng mưa vào những đêm trăng sáng. Danh ná không muốn nhắm mắt. Nó đang nghĩ tới Dzũng Đakao, Chương Còm … Nó đang nhớ những lời Dzũng Đakao dặn dò nó. Và rồi, nó nhớ ba nó, nó nhớ má nó. Nó nhớ con rạch nhỏ hẹp Chắc Cà Đao, nhớ căn nhà lá, nhớ mảnh sân đất. Đi đâu xa mấy, vui mấy cũng phải về nhà mình. Nơi ấy, có những người thân yêu chờ đợi. Để ôm gọn mình trong vòng tay mà khóc.
Danh ná rơm rớm nước mắt. Nó đưa cánh tay quệt nhanh và, để khỏi nghĩ ngợi vẩn vơ, nó rút cây kèn ác-mô-ni-ca kỷ niệm, thổi bản nhạc thương nhớ quê hương:
“…Đất nước tôi mầu thắm bên bờ đại dương
Bắc với Nam tình nối qua lòng đại dương
Dân nước tôi làm gái toàn là Trưng Vương
Làm trai rạng hồn Quang Trung …” [24]
Danh ná ngừng thổi kèn. Nó khe khẽ hát một câu trong bài nhạc khác: “… Quê nhà tôi, hàng dừa xanh in bóng thiết tha …”
Một vì sao nhấp nháy trong mắt Danh ná. Tình yêu quê hương của nó đã tỏa lên trời. Một lát, Danh ná ngủ thiếp. Chiếc bè chuối bập bềnh…
[23] ‘con so’: đứa con đầu lòng ; ở đây có nghĩa là lần đầu tiên, thiếu kinh nghiệm.
[24] “Bên Bờ Đại Dương” nhạc và lời của nhạc sĩ Hoàng Trọng.
Sau cơn mưa đại hạn, quang cảnh có nhiều thay đổi. Dòng kinh đục ngầu và ngổn ngang những cành khô mục lềnh bềnh trôi. Một vài cây cầu tre cũ nát bị mưa gió đánh sập. Thê thảm nhất là căn nhà lá phía trái con kinh bị gió cuốn mất cả nóc, tường phên trống tung. Hai vợ chồng và ba đứa con nhỏ đứng nhìn sự đổ vỡ, chưa biết xoay sở ra sao. Đây là một gia đình nghèo, cả hai vợ chồng đều đi làm mướn. Ba đứa con còn nhỏ. Đứa lớn nhất chừng mười tuổi. Đứa bé nhất mới lên ba. Chắc chắn cả đêm qua, gia đình bất hạnh này ướt như chuột và rét run. Danh ná bảo anh em lên bờ giúp đỡ gia đình nghèo khổ này, xây dựng lại căn nhà vừa bị mưa gió tàn phá.
Anh
Cái đám nhân công nhô con đầy nhiệt tình bắt tay vào việc ngay. Người chủ nhà chỉ huy bọn nhãi. Danh ná bắt Kỳ đen và Minh tàng cho xuồng máy trở lại nhà ông Chín xin lá cũ. Bọn nhãi, chia từng toán, làm việc. “Vui vẻ, làm việc và yêu thương”. Đó là “cách ngôn” của Danh ná. Nói to tát thì đó là triết lý sống của con nít. Tất cả đều hăng hái trừ Chơn Chơn đạo nhơn lẩm bẩm một mình. Nó không khoái cái trò lặt vặt. Nó thích đi một lèo ra sông lớn cơ. Cứ nay việc này, mai việc khác, biết bao giờ mới ra sông. Còn ra biển, ra đảo Hoàng Sa nữa, chứ bộ. Rồi còn trở về. Nó thầm trách Danh ná thích xía vô chuyện người khác. Làm sao nó hiểu nổi một tâm hồn như Danh ná. Thằng nhóc này chỉ xứng đáng làm đệ tử của Danh ná thôi.
Danh ná ghép bè ra biển. Ra biển, ra đảo Hoàng Sa là chuyện ngày mai khôn lớn. Sức mấy bè chuối ra được đảo Hoàng Sa. Chỉ có tâm hồn Danh ná bay ra nổi, thừa sức bay ra. Hôm nay, nếu ra biển được càng tốt không thì đi tìm hiểu đồng đất quê hương mình, kết bạn khắp nơi, đem những điều mình hiểu biết giảng giải cho bạn và thu nhận
những điều hay ở bạn. Thế đã chẳng đạt cái mục đích phiêu lưu ư? Và thấy ai hoạn nạn, ta đem sức giúp đỡ, không đòi hỏi công lao. Ấy, còn nhỏ, sống được vậy là cao thượng rồi. Lớn khôn sẽ làm được nhiều việc to tát hơn, hữu ích hơn:
– Chơn!
– Dạ – Dưới bè còn gì ăn không?
– Hết trơn. – Mày đi nấu cơm, nướng sặt khô cho ba đứa nhãi ăn. Tụi nó đói ngấu rồi.
Chơn Chơn đạo nhơn đành ngoan ngoãn nghe lời. Nó xuống bè, lấy nồi, gạo, cá khô đem lên bờ. Cơm chín, nó chọn cho ba đứa nhãi ăn. Chúng ăn nhanh, ăn ngon lành. Chơn Chơn đạo nhơn ngồi nhìn cũng thấy ấm lòng. Nó thôi lẩm bẩm và lại phục Danh ná. Đến chiều, căn nhà dựng lại xong xuôi. Danh ná biếu vợ chồng người chủ nhà cặp vịt. Rồi hô hoán anh em rời bến thật nhanh. Đoàn xuồng vẫn lênh đênh trên kinh
Duyên Anh
Vĩnh Chánh. Con nít mỗi lúc theo mỗi đông. Dễ chừng đã có đến ngót một trăm chiếc xuồng.
Chơn Chơn đạo nhơn vỗ vai Danh ná:
– Thôi nhá!
Danh ná tròn xoe mắt: – Thôi gì?
– Thôi dỡ lá, cất nhà linh tinh…
– Mày ngu lắm. Dzũng Đakao bảo: “Mỗi ngày làm được một việc tốt thì lòng mình sung sướng hơn được vàng bạc”.
– Nhưng lâu ra biển…
Danh ná cáu: – Đếch cần ra biển vội. Mày nghĩ kỹ đi, nếu đêm nay mưa, vợ chồng con cái người ta khổ biết bao!
Chơn Chơn đạo nhơn cãi:
– Mình cũng khổ, mình ngủ ngoài trời mà…
Danh ná túm tóc Chơn Chơn đạo nhơn:
– Nghe đây, đồ heo: Mình là những tay giang hồ, mình là hiệp sĩ, mình phải biết cứu giúp người nghèo khổ, cô thế. Tuồng cải lương đã diễn hoài, mày coi mà quên sao?
Chơn Chơn đạo nhơn nín khe. Danh ná bồi tiếp:
– Chỉ có mình mày ưa càu nhàu, tụi nó có đứa nào bết như mày đâu!
Quới cù lần “gỡ tội” cho Chơn Chơn đạo nhơn bằng câu nói vu vơ:
– Hôm nay đã mười ba rồi đó.
Tám lưới phụ họa: – Mười rằm là mặt nước kinh trắng bạc.
Không đứa nào nói gì thêm. Đoàn xuồng phiêu lưu ồn ào đi. Các “thủy thủ” trò chuyện oang oang. Con nít trên bờ kinh chạy theo, reo hò. Thằng nào thằng nấy thèm nhỏ dãi. Mưa xong là nắng, cái thứ nắng thật khó chịu nhưng
Anh
nó làm mấy xuồng chở cành cây mục chóng khô. Đêm nay lại hứa hẹn mưa nữa. Không khí rất oi nồng. Danh ná cho neo xuồng bè cẩn thận, ngủ một đêm rồi mai ra sông Long Xuyên. Gần đến ngã ba kinh Vĩnh Chánh vào sông Long Xuyên. Kinh Vĩnh Chánh chỉ là một trong những cánh tay của sông Long Xuyên. Anh em giang hồ đã lên bờ. Nơi hạ trại cách chợ không xa mấy. Cơm nước xong, anh em chuẩn bị đón mưa. Nhiều chiếc đèn bão đã thắp sáng. Nhưng trời chỉ dọa mưa thôi. Sấm chớp một phát, gió thổi mạnh một lát rồi im bặt. Danh ná cho gom củi, rưới chút xăng làm mồi, đốt “lửa trại”. Củi mục khô rơm cháy tưng bừng. Bãi rộng, anh em giang hồ quây quần vui vẻ. Danh ná đứng dậy. Ánh lửa bập bùng. Ánh lửa làm rực rỡ khuôn mặt hiên ngang và dễ thương của Danh ná. Nó lớn tiếng hỏi:
– Có thằng nào nhớ nhà không?
Cả bọn nhao nhao:
– Không, không, mới đi mà nhớ gì!
Danh ná lại hỏi:
– Có thằng nào muốn về chưa?
Cả bọn nhao nhao:
– Đi vui thấy mồ, về chi, ngu sao mà về.
Danh ná đưa tay vuốt mái tóc ngắn:
– Ngày mai chúng ta ra sông. Chúng ta sẽ qua cầu Đúc, qua chợ Long Xuyên, ra sông lớn, qua bắc An Hòa, qua bắc Vàm Cống, qua Cần Thơ, ra biển.
Nhóc con vỗ tay thích thú.
– Sông không phải là kinh rạch nữa. Gặp mưa gió là xuồng lật như chơi. Thằng nào sợ hãi thì về đi, tao không giận đâu.
Chẳng đứa nào trả lời.
– Bọn nhóc thị xã là ưa chế nhạo lắm, chúng ta sẽ không để bọn nó chế nhạo. Vậy ra tới sông, mình sắp xếp xuồng thành đội hình cho bọn nó ngán chơi.
Danh ná ngưng giây lát. Bước tới bước lui quanh đống lửa, ra cái điều suy nghĩ. Rồi nó hỏi:
– Chúng mày thuộc bài “Trên Sông Bạch Đằng” không?
– Không. – Không ai dạy cả.
– Nó ra sao?
– Vậy chứ thuộc bài gì?
– Vọng cổ… tầm bậy tầm bạ…
– Thủ Phong Nguyệt …
– Lý Ngựa Ô, nữa…
– Tao sẽ dạy chúng mày bài anh hùng ca “Trên Sông Bạch Đằng”. Mẹ ơi, đi đánh giặc Tàu mà ca vọng cổ thì sầu thúi ruột, chưa hết sáu câu nó đã chìm xuồng! Hà hà hà…
Danh ná rút kèn ác-mô-ni-ca thổi dạo bài hát “Trên Sông Bạch Đằng”. Bọn nhóc im phăng phắc. Tiếng kèn và tiếng củi nổ nghe lạ lùng sao!
Lạ lùng nhất thế giới. Thế giới, có thể, có những giàn nhạc vĩ đại với những nhạc trưởng, nhạc công lừng lẫy nhưng thế giới không thể có Danh ná, tay kèn ác-mô–ni-ca chưa sành đánh “tông”, đứng bên đống lửa bập bùng, trên bờ kinh quê hương Việt Nam, giữa đêm khuya, gởi hồn mình vào lịch sử xa xăm. Hồn tuổi thơ gặp hồn lịch sử. Lịch sử sống dậy, tưng bừng ngạo nghễ… Này đấy, xác Hán quân rồi xác quân Nguyên lều bều trên mặt sông Bạch Đằng. Này đây, xác quân Thanh như bèo trôi trên mặt sông Nhị Hà. Này đó, bọn Thái Lan chới với thê thảm dưới dòng Rạch Gầm. Ngày đó, chiến hạm thực dân Pháp cháy phừng phừng trên sông Nhật Tảo. Và kia, xác tầu của bọn Tây mắt xanh chìm nghỉm ngoài khơi. Những con người làm cho những dòng sông mang tên tuổi, làm cho những dòng sông bất hủ. Những con người làm lịch sử chói sáng hào quang ấy, mà ta gọi là anh hùng, đang lần lượt trở về bên đống lửa bập bùng, trên bờ kinh Vĩnh Chánh, nghe tiếng kèn thôi thúc đuổi giặc chiếm lại đất nước của tổ tiên. Tiếng kèn mộc mạc, tiếng kèn chân tình của đứa trẻ quê mùa
Anh
Việt Nam đang rót nhạc đấu tranh vào tâm hồn bạn bè nó. Tiếng kèn của Danh ná, thế giới đã có chưa, loài người đã có chưa?
“… Trên sông Bạch Ðằng
Quân Nam ầm reo …” [25]
Danh ná dạy anh em từng câu, từng câu hát. Khi anh em đã thuộc, nó thổi kèn, anh em hát. Cái lâu đài âm thanh này, không, cái cánh đồng âm thanh bao la này tỏa lan bốn hướng. Sông nước, mây khói, cỏ cây, trăng sao, hoa lá đều ngẩn ngơ nuốt hơi nhạc. Trẻ con xa gần thức giấc, tung chăn chiếu chạy tới nhập bọn. Một đêm không ngủ trên bờ kinh quê hương. Để nghe hát, để hát. Để nghe lịch sử những dòng sông, những người làm nên những dòng sông và những người sắp làm nên những dòng sông. Danh ná thật tuyệt diệu. Trẻ con Việt Nam thật tuyệt diệu. Vì chúng nó đang làm cuộc phiêu lưu ra sông, lên phía Bắc biển Đông chiếm lại đảo Hoàng Sa. Sáng hôm sau, Danh ná cho nhổ neo sớm. Thêm ba mươi chiếc xuồng theo nó đi phiêu lưu.
Danh ná xếp thành đội hình đàng hoàng, không thể ô hợp như đi trong kinh rạch được. Đoàn xuồng sắp ra sông Long Xuyên. Chỉ còn xuồng đuôi tôm của Minh tàng kéo bè chuối chỉ huy. Hai xuồng đuôi tôm của Bình bể và Liêm lé chạy hai bên hộ tống. Các xuồng khác gỡ hết dây buộc vào nhau bơi riêng từng chiếc, theo sau bè. Hàng năm, hàng ba. Một. Rồi lại hàng năm. Và hàng một, cái nọ cách cái kia ba thước. Sông Long Xuyên rộng hơn kinh Ông Cò, tầu ghe qua lại tấp nập. Đoàn xuồng phiêu lưu khiêm tốn chạy bên mé sông. Nhóc con bên sông chỉ có việc há hốc miệng kinh ngạc. Chúng nó hò reo ơi ới. Nhiều thằng khoái quá, gỡ xuồng bơi theo, chẳng cần biết bơi theo với mục đích gì. Từ ngã ba, tức là cuối con kinh Vĩnh Chánh tới cầu Đúc còn xa, kiểu đi tà tà thế này phải chiều mới chui qua cầu.
– Danh ná!
– Gì?
– Trưa nay, cơm nước ra sao?
Anh
Quới cù lần thắc mắc chuyện cơm nước. Nó thắc mắc rất đúng. Bây giờ, đâu phải chỉ có mấy thằng. Đông lắm rồi. Nhiều thằng nổi hứng theo, không mang lương thực và nồi niêu. Bỏ chúng đói không được. Danh ná thản nhiên: – Trưa này, nhịn đói.
– Chiều… – Chiều mình ghé cù lao nấu nướng. Đoàn xuồng trôi trên sông Long Xuyên đẹp mắt quá. Danh ná xếp đội hình ấm a ấm ớ mà cừ ghê. Chơn Chơn đạo nhơn hỏi:
– Dzũng Đakao dạy anh xếp đội hình xuồng chạy trên sông hả?
Danh ná hơi hơi mắc cở:
– Tao đấy, chim dạy tao đấy. Tao thấy chim nó bay từng đàn, nó đổi đội hình hoài à… Tiếc là mình thua chim. Chơn ạ, mình phải học cả chim mông lẫn loài vật.
Chơn Chơn bắt sang chuyện khác:
– Tụi nhóc theo anh đông hết sức. Anh có gì mà chúng nó mê dữ vậy?
Danh ná cười rất tươi:
– Tụi nó mê phiêu lưu, nó khoái vui chơi. Chứ, tao có con khỉ gì mà tụi nó mê.
– Anh có cái bè chuối.
– Ừa, có cái bè chuối.
– Bè chuối, bây giờ, em ngắm nghía mới thấy tức cười.
– Thì mày cười đi.
Chơn Chơn đạo nhơn không cười. Nó thả mắt nhìn sang bên kia sông. Bên kia sông, những rặng cây cao xanh ngắt sau cơn mưa đêm qua. Đằng sau những rặng cây ấy là những xóm làng, có thể, có cả xóm làng Chắc Cà Đao thân mến. Giá không vướng những rặng cây cao, Chơn Chơn đạo nhơn sẽ thấy một chút xíu quê nhà mình. Chút xíu thôi, cũng đã nỗi nhớ nhung của kẻ giang hồ…mới được vài ngày! Ở mãi làng
Anh
mình sao buồn thế, quanh đi quẩn lại chỉ một con đường mòn, dòng kinh hẹp, cái chợ còm cõi, đám bạn ngớ ngẩn. Vậy mà rời khỏi làng mình, dù chưa bao nả, đã nhớ con đường mòn, dòng kinh hẹp, cái chợ còm cõi, đám bạn ngớ ngẩn. Kỳ thiệt! Ở thì chán mà đi thì nhớ!
– Anh Danh ạ!
– Mày chưa cười à?
– Em không cười nổi. Em ở quê mình hoài phát ngấy, mà đi mới có vài hôm lại nhớ, thế là thế nào? Dzũng Đakao nói sao?
– Thế là cái tình của mày đối với quê nhà. Đứa nào thiếu cái tình đó, đi xa nó quên luôn quê nhà nó. Nó sẽ bĩu môi chê bai quê hương nó nghèo khổ, xấu xí.
Chơn Chơn đạo nhơn hết thắc mắc. Nó nhớ quê là nó có tình yêu dấu quê hương. Phải, quê hương Chắc Cà Đao của nó đáng nhớ lắm, chứ bộ. Nơi đó, cha mẹ nó sinh ra nó…Ui da, kể lể thì dông dài, nó biết mình yêu quê mình là đủ rồi. Đứa nào ghét bỏ quê hương mình là đứa đó
đồ bỏ, đứa mất gốc gác, không xứng đáng làm người.
Đoàn xuồng vẫn men bờ sông bên phải đi. Nước chẩy lờ đờ nên chẳng cần gắng sức chèo. Danh ná dặn anh em: – Nhớ nghe, đội hình giữ thiệt đẹp cho bọn thị xã lé mắt chơi.
Quới cù lần khôi hài: – Cho chúng nó biến hết thành thằng Liêm!
Liêm lé cười khì. Nhẩn nha, đoàn xuồng đi, chẳng việc gì phải vội vã. Qua mỗi bến, thằng nhóc nào có xuồng là vội nối đuôi đội hình theo Danh ná. Niềm vui lôi kéo niềm vui. Hãy để niềm vui thánh thiện lôi cuốn không sợ mất mát gì. Bất quá là một trận đòn kỷ niệm thời thơ ấu nếu bố mẹ giận dữ. Còn thì nguyên vẹn, chả bị mất mát tí ti ông cụ nào. Vui nhất vẫn là mấy ông nhãi chuyên nghề chờ xuồng rước khách qua sông, thấy đoàn xuồng trên mặt nước, khoái quá, bỏ luôn nghề nghiệp, cho xuồng đi phiêu lưu luôn.
Anh
Xế trưa, đoàn xuồng cách cầu Đúc năm trăm thước. Danh ná hạ lệnh cho đội hình ra giữa sông. – Chui hết qua gầm cầu ở giữa nghe, tụi bay! Danh ná đứng dậy. Thiếu cái ống nhòm. Thuyền trưởng thiếu cái ống nhòm. Nó đã thấy, trên cầu Đúc bắc ngang con sông nhỏ chia thị xã Long Xuyên thành hai khu vực – khu thương mại và khu hành chánh – lố nhố con nít và người lớn. Tất cả đứng ở một hành lang ngó xuống đoàn xuồng. Xe đò Sàigòn, Cần Thơ, Rạch Giá chạy về Châu Đốc hay xe đò từ Châu Đốc chạy lên, qua cầu đều ngưng tốc độ, mở hết cửa sổ nhìn một hiện tượng dưới sông. Một vài ông nhóc thị xã đã nhận ra Danh ná. Ôi, Danh ná, ngôi sao sáng chói trên sân cỏ mùa hè năm ngoái, Danh ná, thần tượng của nhóc con Long Xuyên, quên nó sao được: – Danh ná! – Danh ná! – Danh ná!
Danh ná vẫy tay rối rít. Dũng sĩ Cà Đao gáy liền tù tì nhiều hơi. Cái quần xà lỏn phần phật bay. Chỉ tiếc bánh tét, bánh ú đã ăn hết nên bè chỉ huy kém sự ngộ nghĩnh ban đầu. Thiên hạ ngắm đoàn xuồng một cách say mê. Mỗi xuồng một cột tre nhỏ quấn đầy hoa bằng lăng tím nhạt. Đội hình… Chắc Cà Đao mà cứ như là hạm đội số 7 biểu diễn trên mặt Thái Bình Dương.
– Mày đi đâu đó, Danh ná?
– Mày đi đâu dzậy, Danh ná?
– Mày đi đâu đấy, Danh ná?
Danh ná ngước mắt lên, nói thật lớn:
– Chúng tao đi phiêu lưu.
Chơn Chơn đạo nhơn hét thật sự:
– Chúng tao ra đảo Hoàng Sa đánh đuổi giặc Tàu.
Ra đảo Hoàng Sa đánh đuổi giặc Tàu! Anh dũng ghê nơi… Nhóc con thị xã vỗ tay hoan hô.
Anh
Và một trận mưa bắp rang, đậu phộng luộc, kẹo lạc, kẹo dừa rơi xuống xuồng khi chui qua hầm cầu. Người lớn liệng cả tiền nữa.
– Cho chúng tao theo với nhé!
– Tao quyết theo đánh Tàu!
– Phải cho ông ra Hoàng Sa!
Bọn nhóc thị xã chạy vào khu chợ. Chúng hô hoán sao mà, bè chuối chỉ huy chưa tới cầu Mới, nhóc con đã tụ tập đông đầy với đủ các thứ quà bánh. Quà bánh trút xuống xuồng. Nhiều thằng nhẩy xuống xuồng luôn. Đoàn xuồng qua cầu Mới. Trên hò hét, dưới vẫy tay. Niềm hân hoan một đời, dễ chừng, chỉ có một lần:
– Danh ná, đêm nay chúng mày nghỉ ở đâu?
– Cù lao, bên kia sông lớn.
Đoàn xuồng ra sông lớn, ra khỏi một cánh tay của dòng An Giang. Ngã ba này gay go hơn ngã ba Ba Bần. Nhưng đoàn xuồng sang cù lao
bên kia yên ổn. Ngọn Tầm Vu đã vượt rồi, không còn sợ những ngọn Tầm Vu ác liệt sẽ phải vượt. Danh ná cho neo xuồng, lên bờ nghỉ ngơi…
[25] “Trên Sông Bạch Đằng”: nhạc và lời của nhạc sĩ Hoàng Quý.
Sau mấy ngày phiêu lưu trên những kinh rạch, anh em giang hồ đều thấm mệt. Danh ná quyết định nghỉ ngơi ít bữa rồi tiếp tục chuyến đi. Cù lao này, mùa hè năm ngoái, Danh ná và Thảo xa lộ đã dẫn bọn Dzũng Đakao sang chơi. Có cả mấy con nhỏ xí xọn trong đội bóng nữ thị xã Long Xuyên nữa. Những ngày ở cù lao, Danh ná nghĩ tới lương thực mang theo đã vơi. Cần có thêm gạo và cá khô. Tám lưới, Hiệp mập, Hườn cá và một số tay nghề khác sẽ đi lưới cá đem qua chợ bán rồi mua gạo. Còn bao nhiêu, làm mướn công việc lặt vặt trên cù lao kiếm tiền đổi dầu, cá khô, mắm muối. Nhiều đứa tình nguyện sang chợ làm mướn hoặc chở xuồng khách. Tất cả đều vui vẻ làm việc, miễn được ra đảo Hoàng
Anh
Sa, dù là Hoàng Sa trong tưởng tượng, Hoàng Sa trong mộng mơ của hồn đào niên thiếu. Bọn nhóc thị xã kéo qua cũng khá đông. Chúng nó không có xuồng như nhóc nhà quê nhưng chúng nó hứa, nếu Danh ná cho theo, sẽ mang nhiều gạo. Danh ná không cần nhiều gạo. Chỉ cần đủ ăn hai ba ngày thôi. “Triết lý sống” của nó: Làm việc, vui vẻ làm việc và yêu thương. Đến bến nào, hễ đói, lăn xả vào việc làm mướn là có cơm ăn. Lười biếng mới đói. Không ai tiếc cơm gạo với những kẻ ngoan ngoãn, chăm chỉ. Bởi vậy, anh em giang hồ say mê làm việc hai ngày thì Danh ná ra lệnh nghỉ: Để vui chơi, lấy sức ra sông lớn. Cuộc phiêu lưu còn nhiều thử thách. Anh em giang hồ tổ chức những trận đá banh, đi câu, bắn ná với nhóc con ở cù lao. Mọi người trên cù lao yêu mến anh em giang hồ vì anh em không phá phách gây tổn hại cho ai. Anh em cũng rủ nhau chèo xuồng sang thị xã chơi, thăm phố xá, công sở, cầu cống, xe cộ… Những anh em Ba Bần, Vĩnh Phú … nếu không nhờ phiêu lưu, có lẽ cả đời không ra tới thị xã. Ấy, nỗi buồn bã, thiệt thòi của con nít nhà
quê là thế đó. Quê hương Việt Nam sao lắm nỗi buồn vậy? Chiến tranh tang tóc, trường học thì ít, bom đạn lại nhiều. Con nít nhà quê, khi đi học, toàn bị học các ông thầy khoái ngủ gật hơn là nói những chuyện hấp dẫn như chuyện của Dzũng Đakao. Danh ná sẽ chỉ là thằng nhóc cù lần, nhút nhát, lép vế, ngớ ngẩn, nếu nó không may mắn gặp bọn Dzũng Đakao. Bây giờ, Danh ná khá rồi, vì nó biết tin nó chẳng thua đứa trẻ con nào. Nếu còn có điểm nó thua là tại gia đình nó nghèo, quê nhà nó nghèo. Bù lại, nó giầu mơ ước, nó dám ghép bè chuối phiêu lưu.
Nó đang nằm trên bè. Cạnh nó là Tám lưới. Chơn Chơn đạo nhơn đưa bọn Vĩnh Phú qua thị xã chơi. Những đứa trẻ khác la cà trong các gia đình ở cù lao. Mấy hôm ở cù lao nhàn nhã quá. Nhàn nhã đâm ra nhụt… chí giang hồ. Tám lưới thủ thỉ tâm sự với Danh ná:
– Nghe nói mày chơi ná hay lắm phải không?
– Ừa. – Sao không thấy mày chơi nữa?
– Không bao giờ tao chơi nữa.
– Chán rồi à?
– Một hôm tao bắn trúng con sáo mẹ. Tao đâu biết nó đang nuôi con nó. Con sáo bố xà xuống chỗ con sáo mẹ rớt, muốn cõng xác vợ bay đi mà không cõng nổi. Nó bay sát qua đầu tao rỉa rói rồi bay mất. Tao về hỏi má tao, má tao mắng tao đã làm tụi sáo con mất mẹ, không ai nuôi sẽ chết đói. Tao buồn quá, khóc hoài. Từ đó, tao không bắn chim, chỉ bắn cú, bắn ruồi, bắn mối thôi.
Tám lưới lảng chuyện:
– Đêm nay trăng sáng mày ạ!
– Ừa, rằm mà.
– Chúng mình chèo xuồng chơi dưới trăng nghe, mày.
– Ừa.
– Cam đoan không mưa đâu. Tao ngắm trăng đêm qua rồi, nó có cái quầng. Còn lâu mới mưa nữa. Năm nay hạn mà.
Im lặng. Một lát, Tám lưới nhỏ nhẹ:
– Phiêu lưu xong rồi, mình đi đâu?
Danh ná đáp:
– Tao về Chắc Cà Đao với ba má tao, mày về Vĩnh Trạch với ba má mày.
– Lớn lên chúng mình còn chơi với nhau không?
– Chắc chắn là còn, mày ơi. – Còn phiêu lưu nữa không?
– Còn chứ. Nhưng lái tàu thủy cơ. Mà mày lo lớn khôn làm quái gì. Lớn khôn sẽ tính theo kiểu lớn khôn. Mày nhớ nhà chưa?
– Rồi. – Nhớ nhiều không?
– Nhớ nhiều lắm. Tao nhớ má tao, em tao, bà ngoại tao.
– Không nhớ ba mày à?
Anh
– Ba tao chết trận lúc tao còn bé tí…
Tám lưới nhìn ra xa… Danh ná bỗng thấy thương Tám lưới lạ lùng.
– Ba mày còn sống chứ?
– Còn. Kỳ thấy mồ, Tám lưới à! Ở nhà ba tao ưa đục tao dễ sợ, mỗi lần bị đục, tao chỉ muốn bỏ đi. Bây giờ đi xa, tao nhớ ba tao cũng dễ sợ luôn. Về lần này, tao sẽ bị đòn nhưng tao lại khoái bị đòn.
– Tao với mày bơi xuồng vòng quanh cù lao, nghe.
– Ừa.
– Mày bỏ cái bếp dầu hôi, cái nồi với mắm, muối, mỡ qua xuồng tao.
– Làm gì?
– Rồi mày rõ…
Hai nhà giang hồ sợ tâm sự lâu hơn thì cái nỗi hoài hương nó đùn lên to bằng cái cù lao mất.
Mặt trời vừa mới lặn. Cái cảnh hoàng hôn trên sông nó cũng dễ khiến người ta bỏ cuộc lắm, bỏ phiêu lưu về chịu trận đòn ê ẩm của cha, để mẹ xoa dầu cù là an ủi… Cho nên, Tám lưới mới rủ Danh ná đi dạo xuồng. Danh ná ngồi yên ngắm cảnh trời chiều bảng lảng. Tám lưới chèo xuồng. Nó cho xuồng men theo cù lao về phía bên kia. Rồi nó neo xuồng. Danh ná chẳng cần hỏi tại sao Tám lưới neo xuồng. Lòng nó đang ngổn ngang đầy ý nghĩ. Nó đã nhận ra nó may mắn hơn bạn nó và điều này làm Danh ná càng nhớ nhà hơn… Không hiểu bọn nhỏ Chắc Cà Đao có buộc chắc giùm cổng nhà nó không. Không hiểu tụi nó có năng tới coi sóc nhà giùm Danh ná không. Không hiểu ba má nó về, biết nó ghép bè đi giang hồ có nổi giận không. Không hiểu, không hiểu… – Danh ná! – Gì? – Đợi trăng lên cao chút nhé! – Ừa. – Nè…
– Gì?
– Mà thôi.
– Nói đi, mày!
– À, giá có xị đế, hé!
– Bậy!
– Người ta biểu hễ buồn chơi tí đế là hết buồn.
– Mày buồn à?
– Buồn thí mồ… Cứ nằm mãi cái xó cù lao này, tao nhớ nhà lắm.
– Mai đi, đêm nay đi…
– Mai đi, nghe.
– Ừa.
Trăng đã lên. Ánh sáng tỏa ngập dòng sông.
Dòng sông như tráng bạc. Tám lưới chèo xuồng rời thật xa mép cù lao. Nó cho xuồng ra giữa sông.
– Mày giữ cái bếp cho chắc nhé!
Tám lưới giơ bơi chèo đập xuống mặt nước. Nó nghiêng xuồng. Đám cá rào rào phóng lên, nhẩy toán loạn vào xuồng. Dưới ánh trăng, những con cá linh to bằng ngón tay, trắng hếu, y như những thỏi bạc nhẩy vào lò. Tám lưới tiếp tục đập bơi chèo, nghiêng xuồng. Cá linh hoảng sợ nhảy tán loạn vào xuồng hết. Tám lưới nói: – Đủ nhậu rồi. Mày đốt bếp đi.
Danh ná quẹt diêm châm bếp dầu hôi. Nó bắc cái nồi lên bếp. Một lát lửa làm nóng nồi, khô rom. Danh ná đổ chút mỡ. Mỡ kêu réo chừng phút đồng hồ thì im miệng. Danh ná bốc một nắm cá linh ném vô nồi. Mỡ lại léo nhéo như mụ đàn bà cằn nhằn chồng. Vài chú cá linh còn sức, giãy choi choi. Nhưng rồi cũng nằm yên đợi chết…chín. Danh ná dùng đũa đảo mẻ cá qua lại. Nó bắc xuống. Ngọn lửa bếp vẫn cháy. – Ném vô tí muối, Danh ná! Tiếc là thiếu hành, tỏi, tiêu…
Anh
– Vừa vừa thôi, Tám lưới! Giang hồ mà mày đòi đủ thứ. Tám lưới buông bơi chèo. Chiếc xuồng tự ý muốn dừng thì dừng, muốn quay thì quay, muốn trôi thì trôi. Hai nhà giang hồ bốc cá ăn ngon lành. – Mày hiểu chưa, Danh? – Hiểu gì? – Có xị đế mới là “dzua” trên sông. Phải, chỉ thiếu rượu. Nhóc con không được uống rượu, chưa biết thưởng thức rượu. Đến tuổi nào đó, chúng nó sẽ biết uống rượu, sẽ được gọi là tửu đồ, sẽ hiểu có rượu để nhậu với cá tươi trên chiếc xuồng lênh đênh trên sông, dưới ánh trăng bạc là tuyệt, tuyệt vô cùng. Đến tuổi nào đó, có thể Danh ná và Tám lưới sẽ biết làm thơ, sẽ biết đau khổ và sẽ giống những con chim én nhả máu cống hiến cuộc đời sầu muộn những bài thơ bất hủ! Ích gì đâu, cái tuổi nào đó, Danh ná và Tám lưới chẳng còn là nhô con. Người lớn
uống rượu tiêu sầu vì thương tiếc tuổi thơ đôn hậu đã mất. Người lớn uống rượu để quên những vết roi đời tàn bạo quất tím thể xác, quất buốt tâm hồn mình. Người lớn uống rượu để ngây ngất say và tưởng như mình lênh đênh trên chiếc thuyền nan, lạc vào vùng sương mù dĩ vãng, tìm về quê hương tuổi nhỏ, tìm lại thiên thai ấu thời. Nhưng rượu đã bất lực. Mọi thứ đều bất lực khi người lớn muốn cầu cứu để thoát cái hiện tại ê chề, cái địa ngục tanh hôi thủ đoạn, ganh ghét và thù hận. Rốt cuộc, rượu chỉ làm người lớn be bét, đốn mạt thêm.
– Mày khoái thành bợm nhậu hả, Tám? – Có ít đế, cá nó bớt tanh, mày ơi!
– Thôi, dẹp chuyện đế. Mày còn nói thèm đế, tao liệng mẹ nó bếp xuống sông đó nha.
Tám lưới không dám “thèm đế” nữa. Hai nhà giang hồ bốc từng chú cá linh nhấm nhá. Cá linh ngon và ngậy quá. Những tửu đồ cỡ Lý Bạch, Cao
Bá Quát, Tản Đà chưa từng được thưởng thức món nhắm tuyệt diệu này.
– Mày còn buồn không, Tám?
– Đi thì tao hết buồn, tao thích đi hoài, đi hết sông, hết kinh rạch miền Nam.
– Đi thế cả đời mới hết. Mày có khoái môn học địa lý không?
– Tao học hành mẹ gì đâu!
– Uổng thiệt. Thằng Dzũng Đakao cho tao cuốn “Địa lý Việt Nam” nhiều bản đồ lắm. Tao thấy nước mình bao nhiêu là núi, bao nhiêu là sông, bao nhiêu là rừng, bao nhiêu là tỉnh lỵ, thành phố! Nếu được đi ngao du sông núi quê hương mình, khoái biết mấy. Mà phải sống năm trăm tuổi mới đi hết! Nước mình cũng có tuyết mày ạ!
– Nước mình đẹp nhất thế giới hả, mày?
– Chớ sao.
– Hèn chi thằng nào cũng muốn chiếm nước mình.
– Sức mấy chiếm nổi.
– Thì mày nói nó chiếm đảo Hoàng Sa đó.
– Mình sắp tống cổ nó ra. Chúng mình sắp tống cổ nó ra, ba cái thằng Tàu nhằm nhò mẹ gì!
Danh ná kể cho Tám lưới nghe lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Những gì Dzũng Đakao đã kể cho Danh ná nghe và những gì Danh ná đã đọc trong sách lịch sử. Danh ná nhớ rành rọt. Tám lưới say mê nghe. Tưởng chúng nó đang sống ở dĩ vãng xa vời.
– Mày biết ông Nguyễn Trung Trực không?
– Biết, ở núi Sam có đền thờ ổng, ngoại tao thường vô núi Sam khấn vái ổng.
– Biết có vậy thôi à?
– Ừa.
– Ông Nguyễn Trung Trực hồi còn nhỏ cũng chơi trò phiêu lưu như tụi mình.
– Vậy hả?
– Mày biết ổng chơi ở đâu không?
– Chắc ở kinh Ông Cò.
– Nhảm mày, hồi đó chưa có kinh Ông Cò. Ông Tư Beo ở làng tao năm nay chín mươi tuổi lận. Ổng nói ông Cò là thằng Tây, nó làm cò ở Long Xuyên, nó chiếm đất mình nhiều lắm, nó bắt dân mình đào kinh dẫn nước vô ruộng nó nên kinh ấy mình quen gọi là kinh Ông Cò. Còn ông Trực là người Việt mình, ổng đánh Tây vì Tây nó chiếm nước mình.
– Ông Trực phiêu lưu ở dâu?
– Ở sông Nhật Tảo, mày.
– Rồi sao?
– Rồi lớn lên ổng đốt cái tàu Tây thiệt bự gần cầu Bến Lức. Ngon không mày? Xuồng gỗ mà đánh chìm tầu sắt nghe, mày. Ổng đốt tầu Tây bằng gì mày biết không? Bằng rơm nghe, mày.
– Ông Nguyễn Trung Trực số dzắt. Vậy tụi mình học đòi ổng sẽ đốt cháy tàu Tàu.
– Ừa.
Tám lưới chép miệng tiếc rẻ:
– Chả đứa nào kể chuyện này cho tụi tao nghe cả. Toàn là đá gà, cáp độ, ông địa, múa lân…
Danh ná an ủi bạn.
– Mày thích nghe chuyện lịch sử là tốt rồi. Khi về nhà, tao sẽ cho mày cuốn “Lịch sử Việt Nam”, mày chịu khó đọc thì còn biết cả ngàn ông ngon lành hơn ông Trực.
Tám lưới không thiết ăn cá linh chiên mỡ nữa. Nó nhấc bơi chèo, chèo xuồng thật nhanh. Nó bốc máu anh hùng Nguyễn Trung Trực rồi. Danh ná để mặc Tám lưới cho xuồng lướt nhẹ trên mặt nước đầy ánh trăng. Danh ná cũng dẹp bếp và đồ nghề nấu nướng. Dzũng Đakao, Danh ná ao ước, giá thằng Dzũng Đakao có mặt trong chuyến phiêu lưu này, nó sẽ kể nhiều chuyện anh hùng đánh Tàu đuổi Tây cho bọn nhóc nghe. Con nhà Dzũng Đakao biết cơ man chuyện anh hùng. Nó lại kể thật hấp dẫn. Nó khoa chân múa tay những đoạn quyết liệt cứ như là nó làm anh hùng múa kiếm đấu gươm với quân thù ấy. Danh
Duyên Anh
ná nghe nó, mê tít chuyện lịch sử. Từ đó, Danh ná ưa kể chuyện lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
– Danh ơi!
– Gì?
Sớm mai khoan đi nghe, mày. Tao muốn gom tụi nhóc ở cù lao lại, nói chuyện ông Nguyễn Trung Trực đốt tàu Tây cho tụi nhóc nghe. – Tùy mày. – Mày để cho tao nói, nghe. – Ừa. – Đừng chọc quê tao, nghe. – Ừa.
– Nói chuyện ông Nguyễn Trung Trực tao kể, bọn nhóc Vĩnh Trạch sẽ tôn tao làm sư phụ. Tao mong về quá mày à!
– Mình sẽ về chứ mày.
– Về, mày nhớ cho tao cuốn sách mày hứa nhe. – Ừa. Chiếc xuồng đã cách cù lao khá xa. Danh ná bảo Tám lưới quay lại. Đêm khuya, trăng càng tỏ. Dòng sông đẹp như những dòng sông đã chôn vùi tầu giặc và xác giặc thù. Dòng sông còn đẹp hơn vì hai ông nhóc đang mơ làm lịch sử thả xuồng trôi lênh đênh. Những người đã làm nên những trang sử lẫy lừng của nòi giống mình đều có những tâm hồn như tâm hồn Danh ná, Tám lưới. Đất nước ta đâu phải chỉ rặt một bọn quấy hôi bôi nhọ lịch sử của một giai đoạn, bọn bù nhìn ăn cắp, bọn lưu manh chữ nghĩa, bọn trí thức bất lương, bọn gây ra đầm đìa tội lỗi bạo tàn với chính đồng bào mình, nhưng lại hèn mạt quỵ lụy trước quan thầy ngoại bang. Không, đất nước yêu dấu của ta còn triệu triệu tâm hồn rạng ngời Danh ná. Chỉ cần một tâm hồn Danh ná, thế giới đã hết dám khinh bỉ tổ quốc ta, dân tộc ta. Những quân vô liêm sỉ bị người ngoại quốc khinh bỉ cũng là đúng, vì ở đâu ngay đồng bào
Anh
của chúng cũng đã khinh bỉ chúng rồi. Đó là bọn
Việt gian ghẻ lở, những kẻ, bất cứ ở nơi nào trên trái đất, vẫn tiếp tục mánh lới ăn cướp, hãm hại đồng bào mình, chà đạp lên danh dự dân tộc, để đạt lợi tư của chúng.
– Danh ná ạ, tao lạ lắm.
– Lạ gì?
– Bọn mình cả trăm thằng mà không gây gổ, chửi thề, đánh lộn. Ở nhà, tụi tao chỉ có vài đứa chơi với nhau một lúc là y rằng chửi nhau, uýnh nhau. – Ừa, tao cũng lạ.
– Mày biết tại sao không?
– Không.
– Tại tụi nó thương mày đó. Tụi nó biểu mày dễ thương, mày hiền lành, mày cao thượng. Thằng Minh tàng thương mày nhất.
Danh ná sung sướng lịm người. Chưa hẳn đúng như Tám lưới nghĩ đâu. Bọn nhóc không
gây gổ, chửi thề, đánh lộn vì chúng nó đi làm lịch sử. Những người đi làm lịch sử đều giống bọn nhãi phiêu lưu này. Và, điều này chẳng hiểu có đúng không, những người chân chính đi làm lịch sử đều ngây thơ hoặc đều ôm ấp giấc mộng rất hồn nhiên. Từ những giấc mộng rất hồn nhiên, lịch sử được làm nên. Và, tất cả những vị anh hùng, lịch sử được làm nên. Và, tất cả những vị anh hùng dân tộc đều đã có những đoạn đầu đời sôi nổi, mộng mơ, khờ khạo, chân thành như những cậu Danh ná, Chơn Chơn đạo nhơn, Tám lưới, Quới cù lần…
Chiếc xuồng gỗ đã ép sát mép cù lao. Tám lưới buộc xuồng thật chặt. Hai đứa trẻ lên bờ. Chúng đi bên nhau, dưới ánh trăng quê hương. Kỷ niệm đã nhen nhúm. Ngày nào đó, trên bãi chiến trường, Danh ná sẽ ôm súng nằm cạnh Tám lưới. Biết đâu chừng, cả hai đứa sẽ leo lên ngọn đồi cao nhất giữa đảo Hoàng Sa, cắm lá cờ huy hoàng của tổ quốc.
Đoạn kết
Hôm nay, trời mây u ám. Đêm qua, trăng sáng vằng vặc, nhà dự đoán thời tiết cho xuồng bè phiêu lưu Tám lưới quả quyết còn lâu mới mưa lại, vậy mà trời có vẻ muốn mưa. Mặt trời ẩn trong mây. Không khí oi nồng thật khó chịu. Dẫu mưa hay nắng, đoàn xuồng vẫn nhổ neo hoặc chiều hoặc tối. Danh ná thích nhổ neo buổi tối. Anh em bằng lòng. Từ giờ đến tối còn đủ thì giờ để ông trời quyết định mưa, nắng. Trên cù lao rộng rãi, mượn được nhiều nồi lớn, anh em giang hồ làm bữa cơm trưa rất xôm tụ. Với những bữa cơm phiêu lưu sông nước này, nhóc con thành phố đành bó tay, trừ khi chúng nó vào Hướng đạo. Nhóc con thị xã kéo sang cù lao mấy chục đứa. Nhóc con ở cù lao cũng cả năm mươi tên. Giang hồ càng đi, bạn bè càng đông. Cái câu “tứ hải giai huynh đệ” thiệt đúng,
Anh
bây giờ. Chỉ cần một Danh ná nói, anh em nghe rầm rặp. Mà Danh ná thì chả khi nào nói láo, nói sai, nói bậy. Danh ná không đọc sách “Học làm người”, không biết “Nghệ thuật nói trước công chúng”, nhưng nó đã chinh phục hết công chúng… nhô con.
Anh em giang hồ quây thành một vòng tròn lớn. Cơm canh đã dọn xong xuôi. Hình như… tiệc ly ấy, bữa tiệc biệt ly cái cù lao hiền hòa thơ mộng trên dòng sông An Giang. Danh ná bước ra đứng giữa vòng tròn. Anh em ngồi chờ lệnh ăn. Danh ná vỗ tay và nói:
– Tất cả im lặng để Tám lưới có chuyện gì đó… Tám lưới đứng dậy rời chỗ mình, tiến gần Danh ná. Nó ngượng nghịu, lúng túng. Cái vẻ anh dũng của nó đêm qua, trên xuồng dặn dò Danh ná đã tiêu đâu mất. Nó bẻ bão tay, vê mép áo chán chê, rồi ngó Danh ná: – Thôi, mày nói đi. Danh ná lắc đầu:
– Đâu được, tao đâu biết chuyện gì nói!
Anh em giục giã:
– Nói đi Tám lưới, đừng mắc cở, mày.
Tám lưới thu hết can đảm. Nhưng vẫn cảm thấy tay mình thừa thãi. Ngẩn ngơ một lúc, nó mới hỏi anh em những câu mà Danh ná đã hỏi nó, thay vì nó diễn thuyết ào ào:
– Tụi bay biết ông Nguyễn Trung Trực là ai không?
Anh em tíu tít trả lời:
– Biết, biết, có đền thờ ổng.
– Có đường mang tên ổng.
– Trong cù lao Ông Chưởng có trường
Nguyễn Trung Trực.
Tám lưới bình tĩnh rồi, ngon lành rồi. Nó biết dùng tay để vẫy lia chia rồi.
– Biết vậy thì đi đến thế giới nào! Nghe cho rõ nè… Ông Nguyễn Trung Trực hồi còn nhỏ đóng
Anh
xuồng, ghép bè phiêu lưu như tụi mình nè… Ổng hay lắm. Khắp kinh rạch, sông lớn, sông nhỏ, ông phiêu lưu hết trơn. Lớn lên, gặp hồi nước Việt Nam bị giặc Tây đánh chiếm, ông giận ứa gan, tụ tập anh em giang hồ ngày xưa, đánh đắm một cái tầu chiến thiệt bự của giặc Tây trên sông Nhật Tảo gần cầu Bến Lức tỉnh Long An. Ổng đốt tầu Tây bằng rơm, bằng cỏ khô. Tàu giặc cháy bùng, rồi chìm nghỉm. Tụi giặc chết thui luôn. Đó, ông Nguyễn Trung Trực đó. Đứa nào không tin cứ hỏi thằng Danh ná. Danh ná khoác tay lên vai Tám lưới:
– Đúng vậy, anh hùng Nguyễn Trung Trực đã đốt cháy tàu giặc Tây. Xưa, còn nhỏ, ổng như tụi mình thôi à. Xưa, ổng đốt tầu Tây, nay chúng mình dám đốt tầu của giặc Tàu không?
Quới cù lần nhẩy cỡn: – Dám chứ, sợ gì, đánh đắm hết tầu giặc ba Tàu! Kỳ đen hét:
– Tiến ra đảo Hoàng Sa ngay, anh em ơi!
Sáu xạo điên tiết, hát… chính khí ca:
– Anh em ơi, đừng sợ ba Tàu
Nó có súng mình có gươm dao …
Năm ròm nóng nẩy: – Ăn cơm đi, ăn lẹ rồi lên đường đánh Tàu. Bẩy vẩu huých Năm ròm một cái cù chỏ: – Mày chỉ ham ăn!
Danh ná cảm khái:
– Tao hỏi lại, có đứa nào dám đi đánh Tàu không? Nhóc con hò reo muốn thủng phổi “Dám, dám, dám”. Cù lao nổi sóng chứ chưa phải trùng dương nổi sóng. Nhóc con phục Tám lưới quá. Con nhà Vĩnh Trạch này giỏi đa, biết chuyện ông Nguyễn Trung Trực. Nhiều thằng nhóc thị xã đi học đàng hoàng mà cũng chẳng biết rõ vị anh hùng đốt tầu Espérance trên sông Vàm Cỏ
Anh
Đông. Ấy, vì chúng nó chán môn lịch sử. Muốn yêu nước phải yêu môn Lịch sử, Địa lý. Tám lưới sáng giá quá. Nó hứa sẽ theo sát Danh ná, bắt Danh ná kể cho nó nghe thêm nhiều chuyện anh hùng Việt Nam nữa.
Danh ná nói: – Ăn cơm đi rồi tối nhổ neo.
Anh em giang hồ vừa ăn vừa nói chuyện đánh giặc Tàu. Nói chuyện nhiều, ăn ít. Khí thế đuổi giặc Tàu khỏi đảo Hoàng Sa chỉ sôi nổi trên cù lao nhỏ bé này. Còn mọi đả đảo, phản đối, mít-tinh, tuần hành ở Sàigòn, lũ nhóc hoàn toàn không hề biết đến. Đang say sưa tranh giành nhau xem nhóc nào đặt chân lên đảo Hoàng Sa trước thì có tiếng gà con kêu thảm thiết. Một tên diều hâu gian ác vừa sà xuống đàn gà con. Sau cuộc chiến đấu ngắn ngủi nhưng dũng mãnh, gà mẹ đành chịu để thằng diều hâu bắt một đứa con của mình. Danh ná bảo Chơn Chơn đạo nhơn đưa giàn ná thửa. Chơn Chơn đạo nhơn lòng chưa thấm… đạo nên lúc nào cũng kè kè giàn ná. Nó liệng cho Danh ná với viên đạn nạp sẵn.
Tên diều hâu gian ác chộp được con mồi, kiêu hãnh lắm, còn lượn một vòng trên không, ghẹo sự đau khổ của gà mẹ. Danh ná lợi dụng tên gian ác biểu diễn sự gian ác của nó, kéo căng giàn ná, căn đường bay diều hâu. Nó buông tay kéo súng, viên đạn vút bay. Tên gian ác bay đúng tầm đạn đã tính toán. Viên đạn thần sầu quỷ khốc của đại thiện xạ Danh ná trúng ngay cổ tên diều hâu gian ác. Viên đạn mạnh đến nỗi, khỏe như diều hâu mà cổ nó ngoẹo và từ trên cao nó rớt xuống đất, chân còn quặp chặt con mồi. Nhờ thế, chú gà con sống sót, chỉ hết hồn thôi.
Nhóc con bỏ bữa cơm, chạy đi kiếm xác diều hâu. Chúng xuýt xoa, trầm trồ ca ngợi Danh ná. Xạ điểu anh hùng Danh ná cười rất dễ thương. Một nhóc con hỏi nhặng xì ngầu:
– Thằng tướng Tàu, tên là gì, hả?
Nhóc con khác đáp bừa:
– Mao Trạch Đông!
Nhóc con vừa hỏi, giật con diều hâu, giơ cao:
– Danh ná sẽ bắn gẫy cổ Mao Trạch Đông!
Tám lưới nói:
– Treo xác con diều hâu lên cột cờ bè chuối. Hề hề, chưa xuất quân đã hạ gục tên diều hâu gian ác này. Mình sẽ đánh Tàu như mình đập muỗi!
Quới cù lần phụ họa:
– Sẽ đánh ba Tàu như đuổi cào cào. Nhóc con tha hồ mà bịa ra các kiểu đánh, đuổi, hạ, tống cổ giặc Tàu khỏi Hoàng Sa, hòn đảo vẫn còn mơ hồ trong trí óc của nhiều ông nhãi nhà quê chưa được đi học nhiều. Mọi ồn ào rồi cũng lắng dịu. Anh em giang hồ thu dọn nồi niêu, chén bát, chờ đêm nay nhổ neo lên đường. Chiều nay không ăn cơm, Danh ná nói thế. Nếu đêm đói, sẽ ăn bánh tét, bánh ú, quà tặng của nhô con thị xã. Xuồng bè chuẩn bị kỹ càng. Đèn bão được châm dầu đầy. Chơn Chơn đạo nhơn mới mua thêm quẹt. Minh tàng, Liêm lé, Bình bể lo đủ xăng chạy xuồng máy. Trời nổi gió một chập, tưởng mưa lại không chịu mưa. Gió ngừng, mây
đứng ngẩn ngơ. Mưa thì mưa phứt đi để đêm tạnh cho trăng mọc. Đằng này, trời cứ ấm a ấm ớ. Con diều hâu đã được căng hai cánh, buộc rất đẹp mắt trên cột cờ của bè chuối chỉ huy. Dũng sĩ Cà Đao vẫn đậu chót vót. Nhiều nhóc đã xuống xuồng nằm ngủ hoặc ngồi tán gẫu hoặc kể chuyện quê nhà mình cho nhau nghe.
Chậm chạp cách mấy, bước chân của buổi chiều cũng phải tới. Buổi chiều của một ngày u ám rất mau tối. Danh ná hạ lệnh số một:
– Tất cả xuống xuồng, chuẩn bị nhổ neo. Đội hình sắp xếp như cũ.
Chơn Chơn đạo nhơn nhắc lại:
– Chuẩn bị nhổ neo. Đội hình sắp xếp như cũ.
Lệnh số hai:
– Thắp hết đèn treo cao.
Chơn Chơn nhắc lại lệnh số hai:
– Thắp hết đèn treo cao.
Nó thêm… lệnh dọa:
– Thằng nào không thắp đèn sẽ bị ở lại. Đèn đã thắp và máng ở giữa “cột cờ”, dưới những bông hoa bằng lăng héo. Đèn của bè chỉ huy treo trên xác con diều hâu. Đêm nay, chắc chắn không có trăng. Còn hứa hẹn mưa to gió lớn là đằng khác. Đoàn xuồng nhổ neo tiến về phía bắc Vàm Cống. Chơn Chơn đạo nhơn dẫm mạnh lên mặt bè: – Phải tóm cổ thằng trăng, bắt nó chiếu sáng đường ta đi. Ui da, cái chí của đạo nhơn miền Chắc Cà Đao này khiếp thật. Bọn nhóc không hiểu cái chí của nó, cười ầm ỹ. Đoàn xuồng, thoạt đầu, đi hơi lộn xộn. Mãi mới đúng đội hình. Gần nửa đêm, đoàn xuồng đến Vàm Cống. Bắc Vàm Cống thường xuyên vắng vẻ, nhất là ban đêm. Đoàn xuồng của Danh ná hiên ngang giữa dòng sông lớn. Hai cái “bắc” cổ lỗ xĩ, chậm rì, nằm im lìm như hai xác chết. Danh ná rút kèn ác-mô-ni-ca, quay lại, thổi bài “Trên sông Bạch Đằng”. Nó giục anh em hát. Hàng trăm giọng trổi dậy:
Trên sông Bạch Ðằng
Quân Nam ầm reo
Sóng nước vang đưa
Bao con thuyền mành trôi theo
Cờ bay chiêng trống khua, quân tràn lên
Làm cho quân Nguyên chết tiêu tan
Làm cho quân Nguyên hết khoe khoang
Ðến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Ðằng
Thì anh em ta ơi ca rằng… ”
Những giọng hát chí tình bắt trời nổi gió, sông nổi sóng. Bờ bãi rộng bao la, vậy mà nhà nhà hai bên bờ sông bị đánh thức hết. Đoàn xuồng vẫn trôi trên sông lớn theo đội hình.
“… Con sông Bạch Ðằng
Êm trôi triền miên
Có biết đâu bao năm qua là mồ quân Nguyên
Còn ai không nhớ xưa quân nhà Nam
Làm cho quân Nguyên hết khoe khoang …”
Danh ná ngưng thổi kèn. Tất cả vẫn còn say sưa hát, say sưa sống với chiến thắng lẫy lừng Bạch Đằng Giang. Hát không mệt mỏi. Hát bắt trăng phải lú ra và mặt trời phải mọc. Danh ná nhìn đội hình xuồng thắp đèn di động trên sông. Nó đã ra sông lớn. Cậu bé Chắc Cà Đao đã cho cái bè chuối từ rạch nhỏ ra sông lớn. Cậu mê mải ngắm hàng trăm chiếc xuồng gỗ thắp đèn. Cậu đang đứng trên chiếc bè chuối. Cậu không nghe rõ tiếng hát nữa. Tâm hồn cậu lao đao. Cậu mơ hồ thấy những chiếc cọc gỗ bọc sắt cắm chặt dưới đáy sông. Thủy triều rút. Chiếc thuyền quân ta tiến công. Giặc chạy, chạy dài. Thủy triều rút nhanh. Thuyền giặc đụng cọc bọc sắt, thủng vỡ, chìm nghỉm. Xác giặc trôi lềnh bềnh trên sông. Dòng sông đỏ ngầu máu quân thù. Dòng sông lại êm đềm chảy vào lịch sử. Và lịch sử vẫy gọi, mời mọc những con người làm lịch sử, làm nên những dòng sông bất hủ.
Cậu bé Chắc Cà Đao tên là Danh. Anh em yêu mến quen gọi cậu là Danh ná. Cậu đang đứng trên chiếc bè chuối. Không, lịch sử đã đưa cậu đi xa bằng tâm hồn mơ mộng của cậu, cậu đang đứng trên một hàng không mẫu hạm. Chung quanh cậu là những hộ tống hạm. Sau cậu là lớp lớp chiến hạm dũng cảm. Danh ná nghe tiếng nói từ đâu vọng đến, giục giã, ân cần rót vào tai: – Danh ná, ngươi sẽ trở thành Đề Đốc và ngươi sẽ đem hạm đội Việt Nam ra chiếm lại đảo Hoàng Sa…
Sài Gòn, tháng 7 năm 1982