CHÂM CỨU CỔ ĐIỂN VÀ HIỆN ĐẠI Tác giả: Giáo sư-Bác sĩ Quan Đông Hoa
Nguồn: Nguyên chủ nhiệm khoa Đông Y Đại Học Cần Thơ Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 1) - Vài nét về khoa châm cứu Nguồn gốc khoa châm cứu Châm cứu bắt nguồn từ Châu Á trên mảnh đất của vùng châu thổ sông Hoàng Hà, cách đây khoảng 25.000 năm. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những kim châm đầu tiên bằng đá gọi là biếm thạch trong một số di chỉ. Đến thời đại đồ đồng người ta làm ra các cây kim bằng đồng gọi là đồng châm. Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc ( 770.221 truớc công nguyên ) con người đã biết dùng sắt để tạo ra các cây kim bằng sắt nhỏ tinh xảo hơn. Thời ký này xuất hiện bộ sách Y Học đầu tiên có ghi chép về châm cứu là bộ Nội Kinh hay còn gọi là bộ “Hoàng đế Nội kinh” bao gồm 2 quyển Tố vân và Linh thu tổng kết tất cả tinh hoa của Y học từ trước. Riêng về châm cứu có một số cống hiến: 1./ Sáng lập ra học thuyết Kinh lạc: mô tả tương đối kỹ nguồn gốc đường đi, hội chứng các kinh lạc. 2./ Đề ra 9 loại châm và cách dùng. 3./ Quy định vị trí và tên các huyệt. 4./ Nêu đuợc một số huyệt chính để chữa bệnh:160 huyệt. 5./ Thảo luận những vị trí cấm châm. Trước năm 1975 có bản dịch của Nguyễn Tử Siêu: Hoàng đế Nội kinh Tố vấn (1954), Nguyễn Đồng Di: Hoàng đế Nội kinh. Hiện nay có các bản dịch của Nguyễn Trung Hòa: Hiểu biết tóm tắt Nội kinh (1986), Huỳnh Minh Đức: Tố vấn Linh khu (1985). Đến thế kỷ thứ IV trước CN, Biển Thước đã viết cuốn Nạn kinh duới hình thức những câu hỏi đáp để giải thích những đoạn khó hiểu trong bộ Nội kinh, trong đó có nhiều đoạn nói về châm cứu. Toàn bộ sách có 81 câu hỏi, có 21 câu nói về châm cứu. -Từ câu 23 – 29 nói về kinh lạc -Từ câu 62 – 68 nói về huyệt -Từ câu 69 – 81 nói về pháp châm Trên cơ sở những sách kinh điển này, sách châm cứu lần lựợt ra đời. Hiện nay có các bản dịch của Huỳnh Minh Đức (1988) Đinh Văn Mông (1988). Năm 282 Hoàng Phủ Mật viết cuốn Giáp Ất Kinh, đây là một quyển chuyên đề về châm cứu tổng kết những kinh nghiệm châm cứu thời cổ. Bộ này gồm 12 quyển, 128 thiên. Bao gồm 4 điểm:
1
1./ Hệ thống hóa các tài liệu về châm cứu từ trước về giải phẫu, sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán, điều trị. 2./ Xác định các huyệt, bổ sung thêm một số huyệt: 349 huyệt phân phối các huyệt theo vùng giải phẫu. 3./ Khẳng định thao tác cấm kỵ thuận nghịch trong châm cứu. 4./ Nêu ra cách lấy huyệt theo từng bệnh. Giá trị: Là quyển sách cơ bản về châm cứu thúc đẩy châm cứu trung Quốc phát triển, nó còn có tác dụng rất lớn đối với nền châm cứu nhiều nuớc khác. Đã dịch ra Pháp, Đức. Năm 652 Tôn Tư Mạo viết quyển Thiên Kim Phương bàn về thuốc và châm cứu trong đó có: -Đề xuất cách lấy huyệt theo đồng thân thốn. -Đề cao vai trò A thị huyệt. -Vẽ 3 bức tranh châm cứu thẳng, trước sau, nghiêng. Năm 1026 Vương Duy Nhất đúc mô hình châm cứu bằng đồng trên có ghi các huyệt và biên soạn cuốn: “Đồng nhân du huyệt châm cứu đồ kinh” bổ sung thêm một số huyệt lên tới 354 huyệt. Năm 1220 Vương Chấp Trung biên soạn “Châm cứu tư sinh kinh” tập hợp 3 cuốn Đồng nhân, Minh đường cứu kinh, Ngoại đài bí yếu. Đặc điểm quyển này là tổng kết kinh nghiệm châm cứu mà hiện nay không còn nữa, đưa vào rất nhiều kinh nghiệm lâm sàng về châm cứu. Đưa số huyệt lên 350 huyệt. Năm 1341 Hoạt Bá Nhân còn gọi là Hoạt Thọ viết quyển “Thập tứ kinh” phát huy trình bày nguồn gốc, đuờng đi, hội chứng của 14 đường kinh, hệ thống hóa và nâng cao thêm một mức giá trị của học thuyết kinh lạc. Quyển sách có giá trị nhất về châm cứu thời xưa phải kể tới quyển “Châm cứu đại thành” của Duơng Kế Châu hoàn thành năm 1601 tổng kết thêm một bước về châm cứu, còn ghi chép được một số tâm đắc về châm cứu viết dưới hình thức ca phú như: Tiên U Phú, Ngọc Long Phú, Thông Huyền Chi yếu Phú v.v.. tất cả là 12 bài ca phú, đã bảo tồn phần tinh hoa của châm cứu thời cổ, có ảnh hưởng rất lớn đến ngành châm cứu. Hiện nay có bản dịch Châm cứu đại thành của Phạm Tấn Khoa (1987). Tất cả sách trên đuợc coi là cơ sở nền tảng của ngành châm cứu.
Năm
Tác Giả
Tác Phẩm
Nội dung
Huyệt
770-221Tr.CN
Khuyết danh Biển Thuớc
Hoàng Đế nội Kinh Nạn Kinh
Học thuyết kinh lạc
160
282
Hoàng Phủ Mật
Giáp Ất Kinh
Hệ thống châm cứu giải phẫu, sinh lý, chẩn đoán và điều trị
349
652
Tôn Tư mạo
Thiên Kim Phương
Thốn đồng thânVai trò A thị huyệtVẽ tranh châm cứu
1026
Vương Duy Nhất
Đồng nhân du huyệt Châm cứu đồ kinh
Kèm theo có tượng đồng mang kinh huyệt
354 2
1220
Vương Chấp trung
Châm cứu tư sinh kinh
Tổng kết lý luận
359 357 359
1341
Hoạt Bá Nhân
Thập tứ kinh phát huy
Nâng cao học thuyết kinh lạc, nguồn gốc, đường đi, hội chứng của từng đường kinh
1601
Dương Kế Châu
Châm cứu đại thành
Tổng kết lý luận
Sách kinh điển châm cứu Châm cứu trên thế giới Trung Quốc: Trung Quốc là cái nôi phát triển châm cứu, nhưng dưới chế độ phong kiến cho rằng châm cứu làm người bệnh phải bộc lộ thân thể phần nào làm tổn thương phong cách, tổn thương lễ giáo, vì cớ đó đến năm 1822 nhà Thanh ra lệnh bãi bỏ khoa châm cứu ở triều đình. Rồi đến năm 1929 chính quyền lúc đó còn định bỏ cả Đông y nếu không có áp lực đấu tranh của quần chúng. Trong giai đoạn này mặc dù vậy, châm cứu nói riêng vẫn được đông đảo nhân dân ưa thích và bảo vệ. Đến năm 1949 cách mạng Trung Quốc thành công, châm cứu được nghiên cứu sâu đem lại nhiều kết quả trong trị bệnh. Từ 1949 – 1959 các nhà châm cứu Trung Quốc cho rằng phải khoa học hóa châm cứu, tây y hóa châm cứu, trường phái này có Chu Liễn, Lý Thiến Hiệp, Vương Tuyết Đài. Họ đã giải thích cơ chế tác dụng của châm cứu là cơ chế phản xạ thần kinh thể dịch, lấy cơ sở giải phẫu làm chính trong việc xác định và sắp sếp các huyệt. Về điều trị thì nguyên nhân triệu chứng lấy tây y, y học dân tộc chỉ dùng huyệt để châm hoặc cứu. Nhưng do nhu cầu nhân dân ngày càng tăng, ngày càng nhiều người đòi hỏi trị bệnh bằng y học dân tộc, thấy sự khó khăn trong sự phối hợp Đông tây y, hạn chế sự đào sâu nghiên cứu y học dân tộc nên dần dần có một sự chuyển hướng trong việc nghiên cứu, đó là hướng phát triển y học dân tộc trên toàn bộ lý luận và thực tiễn của nó. Mở đầu cho hướng này là một loạt bài nghiên cứu của Học Viện Trung Y Giang Tô như:” Tìm hiểu về nguồn gốc kinh lạc” đăng trên Trung y tạp chí năm 1957.Kế đó là chứng minh sự tồn tại của đường Kinh và Huyệt bằng điện sinh vật của Nakatani Yoshi (Nhật) ( Trung cốc nghĩa hùng). Nên tới năm 1950 Y học dân tộc nói chung, châm cứu nói riêng có sự chuyển hướng to lớn: Phê phán hướng Tây y hóa, Y học dân tộc đi sang hướng phát triển Y học dân tộc trên toàn bộ lý luận và thực tiển của nó. Công trình tiêu biểu cho hướng này là bộ Trung y học khái luận và một loạt sách giáo khoa Y học dân tộc của Học Viện Trung Y Giang Tô tập bài giảng của 5 Học viện Trung y Bắc Kinh, Nam Kinh, Quảng Châu, Thành Đô và Thượng Hải. Riêng về châm cứu có hướng đi sâu vào nghiên cứu Kinh lạc ở các học viện, biên soạn ra những tài liệu nghiên cứu về Kinh lạc. Về huyệt trình bày theo hệ thống Kinh lạc, tuy vậy có nêu được phần giải phẫu từng huyệt, là phần cần thiết để hiểu rõ thêm vị trí của huyệt và là cơ sở cho việc liên hệ Đông Tây Y.
3
Và điều trị tôn trọng phép biện chứng luận trị của Y học dân tộc trình bày những nguyên tắc cơ bản về điều trị châm cứu, quy luật dùng huyệt và phối hợp các huyệt trong điều trị. Theo hướng này các nhà nghiên cứu châm cứu đã thừa hưởng toàn bộ di sản quý báu của châm cứu trong các sách vở từ ngàn năm để lại và dễ dàng thừa kế những kinh nghiệm sống của những thầy chuyên về châm cứu. Ngoài ra các nhà nghiên cứu Trung Quốc không ngừng phát huy tìm tòi được những cái mới.Về huyệt phát hiện ra được những huyệt mới gọi là tân huyệt. Trong sách Châm cứu học Thượng Hải xuất bản năm 1974 số tân huyệt đưa lên là 223 huyệt, đưa tổng số huyệt lên là 762 huyệt: Kinh huyệt 361, Kỳ huyệt 178, Tân huyệt 223. Về thao tác châm cứu cổ xưa, nay đã phát triển thành châm kim dài châm sâu, châm xuyên, gài kim, thủy châm, điện châm và cuối cùng là chôn chỉ. Về hình thức châm có phát triển thêm ngoài các hình thức châm xưa gọi là thể châm còn có nhỉ châm ( bổ sung và phát triển thêm Nhĩ châm của Nogier), Mai hoa châm, Đầu châm, Điện châm, Thủ túc châm. Về kết quả châm thì một thành tựu cống hiến lớn nhất là châm tê do các thầy thuốc ở những năm 1959 tìm tòi phát triển từ châm giảm đau cắt Amidan và đến nay là châm thay cho gây tê, gây mê trong mọi loạt phẫu thuật. Tuy vậy trong khoảng 20 năm trở lại đây, do những biến động chính trị của Trung Quốc: cách mạng văn học, chạy theo các nuớc tư bản nên tình hình phát triển của châm cứu có chiều hướng giảm sút. Nhật bản: Châm cứu được truyền vào Nhật Bản từ thế kỷ thứ VI (năm 562 Từ Thông người nước Ngô mang vào đất Nhật quyển Minh đường đồ, Giáp ất kinh và các sách Y học khác). Tại đây châm cứu phát triển có những nét độc đáo. Sau thế chiến thứ hai, nghiên cứu châm cứu Nhật có những tiến bộ rõ rệt. Sawasa Ken (Trạch Điền Kiên) sau đó kế tục là Siroto Fumiaza (Đại Điền Văn Chỉ) đưa ưa điều trị chỉnh thể bằng châm cứu. Sya Kubane (Xích Vũ) tìm ra cách đo ôn độ ở Tỉnh huyệt để châm cứu các du huyệt tương ứng ở lưng. 1957, Nakatami Yoshio (Trung Cốc) áp dụng điện sinh vật chứng minh sự tồn tại khách quan của Kinh lạc và huyệt vị, đồng thời chế tạo ra máy đo điện sinh vật để đo điện trở da của những đường kinh trên cơ thể mà ông gọi là lương đạo lạc và ở trên những huyệt gọi là lương đạo điểm, đó là những máy dó kinh lạc đầu tiên. Hiện nay châm cứu tại Nhật đang phát triển.Ngoài các hội châm cứu nói chung còn có những hội như: Nhật Bản Kinh Huyệt, Ủy viên hội Nhật Bản kinh lạc học hội, Nhật Bản châm cứu lương đạo lạc y học hội, Nhật Bản châm cứu trị liệu học hội, Nhật Bản châm cứu bì điện học hội v.v.. Các Nước Phương tây Pháp: Châm cứu đuợc truyền sang các nước Phương Tây từ thế kỷ thứ XVII. Năm 1683 Ten Rbyne, nhà phẫu thuật Hà Lan xuất bản tại LonDon cuốn luận về thấp khớp trong đó có bàn về cách điều trị bằng châm cứu rồi đến: 1712 Kaemfer 1816 Berlioz 4
1825 Sarlandiere Nhưng có thể nói người đóng góp nhiều cho phong trào châm cứu của Châu Âu và đạt kết quả nhất là G.Soulie’ do Morant. Từ những năm 30 của thế kỷ này, Morant hoạt động cho châm cứu.Tác phẩm tiêu biểu là Traite’ d’ Acupuncture (Đại luận về châm cứu). Quyển này đuợc tái bản nhiều lần, được các nhà châm cứu ở Pháp cho là sách gốc về châm cứu của Phương tây và đến nay vẫn còn giá trị. Khoảng nhhững năm 40 của thế kỷ này được thành lập các cơ sở nghiên cứu về châm cứu: Hội châm cứu Pháp, Hội châm cứu Quốc tế có xuất bản một số sách và tạp chí. Sau Morant phải kể tới R. de La Fuye viết Traite’ d’ Acupuncture 1947, L’ Acupuncture: Moderne pratique (Châm cứu hiện đại và thực hành – 1952). Rồi lần lượt có những nhà nghiên cứu có tiếng khác như: Chamfrault, Niboyet, Nguyễn Văn Nghị, Darras, Bossy và nhất là Nogier có sáng kiến lớn về Nhĩ châm, chính Nogier là người sáng lập ra Nhĩ châm hiện đại. Nhưng thật ra nền châm cứu của Pháp cho đến trước năm 1969 mới chỉ biết 14 đường kinh điều trị chú trọng nhiều đến các huyệt Du, Mộ, huyệt Khích và huyệt Ngũ du chưa biện luận theo Y học dân tộc và còn gắn liền với vi lượng dòng căn (Homeopathie). Đến năm 1969 Chamfrault và Nguyễn Văn Nghị cho ra quyển: Nhân khí trong y học trung Quốc (L’ e’nerge’tique humaine en me’decine chinoise) giới thiệu toàn bộ kinh lạc và quan niệm hiện nay về châm cứu, nên đã làm cho chuyển hướng châm cứu tại Pháp. Thực ra đó là đóng góp của Việt Nam vì những bản dịch trung y học khái luận được 1962 và được đưa sang Pháp. Sau Pháp, một số nước ở Châu Âu cũng có nghiên cứu và thực hành châm cứu như: Anh, Đức,Ý, Ba Lan, Hung, Tiệp … Liên Xô: sau khi học tập về châm cứu, tại Liên Xô có thành lập cơ sở để nghiên cứu mà gọi là phản xạ liệu pháp. Hướng nghiên cứu châm cứu ở Liên Xô là giải thích cơ chế thần kinh thể dịch (Vogralic, Kassil). Khi châm kim hoặc cứu ở huyệt sẽ gây ra phản ứng mà phản ứng này chủ yếu là phản ứng toàn thân tác động tới thần kinh trung ương và thông qua hệ này với hệ thần kinh thực vật gây biến đổi cả về thể dịch và nội tiết mà ảnh hưởng tới các cơ quan nội tạng và mọi tổ chức cơ thể. Các châu khác Châu Mỹ: Qua các tin tức thì Cu Ba đã nghiên cứu thực hành về chân cứu có hội châm cứu và xuất bản các sách về châm cứu. Tại Mỹ, châm cứu được xâm nhập từ 1972 và người mở đầu cho châm cứu tại đây là Felix Mann ở LonDon (Anh) và Nguyễn Văn Nghị ở Marseille (Pháp) (Lester C.Mark: châm cứu tại New York, báo cáo Hội nghị châm cứu Quốc tế lần V Tokyo -1977). Tại Canada, châm cứu cũng đuợc phát triển và những năm gần đây còn thành lập cả Hội đông y nghiên cứu cả thuốc và châm cứu. Canada có những đóng góp đáng kể 1976 Pomerranz, SS Kim thiết lập mối 5
quan hệ giữa châm cứu và Endorphine giải thích cơ chế hoạt động châm cứu qua các mô hình thể dịch thần kinh. Châu Phi, Mỹ Latinh: Châm cứu đang được giới thiệu và đã được nhiều người bệnh ưa thích. Tại các nước Angola, Algérie, Libi nơi có các bác sĩ Việt Nam tới làm việc đã giới thiệu và phát triển châm cứu ở nuớc này. Tóm lại, hiện nay châm cứu không còn giới hạn trong các nước Châu Á, nó đã lan rộng ra nhiều nước ở các châu vì nó đã đáp được một yêu cầu là trị bệnh. Tình hình châm cứu tại Việt Nam Tại Việt Nam trị bệnh bằng châm cứu đã được áp dụng từ rất lâu. Thế kỷ thứ II trước CN đời Thục An Dương Vương một thầy thuốc tên là Thôi Vỹ đã dùng phương pháp cứu chữa bệng lao hạch cho Ưng Huyền. Thế kỷ XIV, một thầy thuốc Châu Canh đã dùng kim châm cứu sống Hoàng Tử Hạo, con Vua Trần Minh Tôn bị đuổi ở Hồ Tây. Nhưng những sách chuyên đề về châm cứu Việt Nam cho đến nay mới phát hiện 3 quyển, đó là: -Châm cứu tiệp hiệu diễn ca của Nguyễn Đại Năng. -Châm cứu thủ huyệt đồ và châm cứu tiệp hiệu pháp của Lý Công Tuân. -Châm cứu tiệp hiệu của vị thái y họ Vũ. Châm cứu tiệp hiệu diễn ca: Năm 1962 cụ Đoàn Quang Võ sưu tầm được ở Hải Hưng 1 tài liệu chép tay về châm cứu, qua giám định văn bản đã xác định đuợc đây là cuốn Châm cứu tiệp hiệu diễn ca do Nguyễn Đại năng đời Hồ (1400 – 1446) biên soạn và Thái y viện đời Lê bổ sung. Cuốn sách đã được cụ Lê Trần Đức chuyên viên viện đông y biên dịch và Nhà xuất bản y học Hà Nội xuất bản năm 1981. Vì vậy nhiều nhà châm cứu Việt Nam chưa biết đến quyển này. Sách chia làm 5 phần: Phần 1: Nói về việc dùng Ngải để châm cứu, tác dụng của phép cứu, kiêng kỵ, cách chia tấc đo lấy huyệt, các huyệt cấm châm, cấm cứu trừ quỷ.Bàn về các huyệt Cao Hoang, Tứ Hoa, Hoan Môn, Trúc Mã, Mỗ Tự. Phần 2: Nói về dùng huyệt điều trị 20 loại bệnh bằng châm cứu. Phần 3: Bàn chung các huyệt để trị bệnh (103 loại) Phần 4: Nói về kinh mạch và các huyệt vị. Phần 5: Phụ lục của Thái y viện đời hậu Lê. Đặc điểm là có nêu một số huyệt đặc biệt khác. Châm cứu thủ huyệt đồ và châm cứu tiệp hiệu pháp của Lý Công Tuân soạn năm 1695 trình bày cách lấy huyệt và trị bệnh theo lối diễn ca. Châm cứu tiệp hiệu của vị thái y học họ Vũ khoảng thế kỷ XVII, gồm: 6
-Tiệp hiệu phú Tổng yếu phú bằng chữ Hán. -Dùng huyệt theo các chứng bệnh -Phép lấy huyệt: 123 huyệt. -Thơ ca cấm kỵ châm cứu. Ngoài 3 cách trên là một số kinh nghiệm và tư liệu lẻ tẻ trong các trước tác y học của các tác giả như: Tuệ Tĩnh, Hải Thượng, Nguyễn Trực, Vũ Bình Phố, v.v.. và một số kinh nghiệm gia truyền châm cứu chép tay bằng chữ Hán hay chữ Nôm ở trong các gia đình nhưng ít được phổ biến. Dưới thời phong kiến thực dân, châm cứu ít đuợc coi trọng nên chỉ có ít người làm nghề cứu hoặc chích lẻ. Từ khi Cách mạng tháng tám thành công, nhờ sự quan tâm của Đảng và Chính Phủ ta đối với công tác bảo vệ sức khỏe của nhân dân nên công tác y nói chung và châm cứu nói riêng có những biến chuyển mạnh mẽ về tư tưởng và quan điểm và đã đạt được những kết quả nhất định trong điều trị. Ở miến Nam trước năm 1975 có Hội đông y dược Việt Nam, Khoa châm cứu đã được các bác sĩ Nguyễn Văn Ba, bác sĩ Hoàn Mộng Lương, đông y sĩ Trần Tiến Hy viết nhiều bài về châm cứu đăng trên tạp chí đông y rồi tạp chí Bách Khoa, Nguyệt san Phương Đông, có các sách châm cứu của các đông y sĩ Khương Duy Đạm, của cư sĩ Thượng Trúc, của Thượng tọa Thích Tâm Ấn và miến Nam sau ngày giải phóng có sách của BS Trương Thìn (Thực hành châm cứu luận trị, Phát triển phương pháp luận đông y và châm cứu), của nhà nghiên cứu Hùynh Minh Đức: Tý ngọ lưu chú, Linh quy bát pháp. Châm cứu của Lương y Hoàng Duy Tân. Châm cứu kinh huyệt đồ và cẩm nang từ vựng châm cứu của Câu lạc bộ Khoa học Châm cứu Sông Bé: Vương Sanh, Hùyng Văn Tâm, Lê Hưng: Nhu Châm, sổ tay chọn huyệt châm cứu tối ưu, và cả tờ tập san Châm cứu Sông Bé v.v.. Ở miền Bắc năm 1957 Viện nghiên cứu đông y (nay là Viên y học dân tộc hà Nội) được thành lập, trong đó có khoa châm cứu. Chủ nhiệm khoa châm cứu đầu tiên là Bác sĩ Phạm Bá Cư (mất năm 1973) Viện trưởng đầu tiên là BS Nguyễn Văn Hưởng, rồi mới đây 1983 Viện châm cứu được thành lập, Viện trường là Giáo sư bác sĩ Nguyễn Tài Thu. Chính từ cở sở của viện đông y này châm cứu được truyền bá rộng rãi, đã lập được nhiều thành tích trong phòng bệnh và trị bệnh. Tính từ năm 1958 đến nay Viện đã cùng hội đông y Việt Nam mở nhiều lớp châm cứu cho các y bác sĩ lương y và từ năm 1960 đã đưa châm cứu vào chương trình y khoa cấp đại học, trung học và sơ cấp. Viện còn giảng dạy châm cứu cho nhiều bác sĩ giáo sư ở nước ngoài tới học. Tính từ thời BS Nguyễn Bá Cư đến nay đã có những thầy thuốc ở các nước Lào, Campuchia, Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung, ý, Cu Ba v.v.. và gần đây cả Pháp và việt kiều tại Pháp về học. Cảm tưởng của họ sau khi học châm cứu tại Việt Nam đều cảm thấy hiểu rõ hơn. Về biên soạn dịch thuật trong vòng 30 năm qua sách châm cứu đã xuất bản nhiều trong đó có một số có giá trị như: Về dịch có: -Trung y học khái luận -Châm tê 7
-Châm cứu tốc hành -Châm cứu tiệp hiệu diễn ca Về biên soạn có: -Châm cứu sơ bộ thực hành của Nguyễn Tử Siêu -Châm cứu đơn giản của BS Lê Khánh Đồng -Sổ tay châm cứu của BS Nguyễn Mạnh Phát -Châm cứu vấn đáp - Tại sao châm cứu khỏi bệnh của Vũ Xuân Quang -Thuốc nam châm cứu của Lương y Lê Bá Cư, Lương y Đào Việt Hà, BS Quan Đông Hoa -Nhĩ châm, Thủy châm, Mai hoa châm của BS Phùng Huy Uyển, Nguyễn Tài Thu, Lê Nguyên Khánh. -Châm cứu thực hành của Nguyễn Hữu Hách -Tân châm và Châm tê của BS Nguyễn Tài Thu -Phát huy truyền thống châm cứu của Nguyễn Đại Năng, Lương y Lê Trần Đức. -Châm cứu học của khoa châm cứu Viên đông y -Điện châm của Lê Quang Nhiếp -Châm tê trong ngoại khoa của Giáo sư Nguyễn Tài Thu, Giáo sư Hoàng Bảo Châu, Bộ giáo trình Bài giảng đông y, tập I và II tái bản thành 3 tập của Giáo sư Trần Thúy, Giáo sư Phạm Duy Nhạc và cộng sự. -Thời châm học tý ngọ lưu chú dưới ánh sáng toán học -Một số vấn đề lý luận của Nhĩ châm của nhà nghiên cứu châm cứu Dược sĩ Nguyễn Xuân Tiến Kết quả phòng bệnh và trị bệnh: Trong những năm có dịch cúm, dịch bại liệt châm cứu đã góp phần trong việc phòng và trị bệnh nhất là đối với di chứng bại liệt châm cứu đã thu được nhiều kết quả đối với những di chứng mới. Bệnh ho gà, ly trực khuẩn có nhiều báo cáo nêu lên trị khỏi bằng châm cứu. Bệnh sốt xuất huyết bịnh dịch xãy ra hằng năm cũng có một số ca giải quyết được bằng châm cứu. Về phòng bệnh chống dịch: nâng cao sức chống bệnh của cơ thể. Năm 1964 tổ Nhĩ châm trong việc phòng bệnh cho hàng trăm cháu, hàng trăm cán bộ công nhân viên chữa bằng cách tiêm một ít giọt Vit B1, B12 vào một số điểm ở loa tai đã có một số kết quả rõ rệt. Đa số những người được châm lên ký, sức khỏe tăng, tỷ lệ ốm giảm. Về tim mạch bệnh cao huyệt áp trị bằng châm cứu có thể giải quyết được tốt một số trường hợp.Cao huyết áp loại 1 và loại 2 kết quả lại càng rõ rệt trong giai đoạn mới phát bệnh. Bệnh hen một bệnh nan giải đuợc tiến hành nghiên cứu bằng nhiều phương pháp châm cứu: châm cứu thường, chích lễ, mai hoa châm, cứu thành sẹo, thủy châm, điện châm, chôn chỉ song song với việc nghiên cứu điều trị bằng thuốc. Một số trường hợp khỏi hẳn tuy tỷ lệ chưa cao, một số lớn giảm nhẹ cơn hen rõ rệt. 8
Bệnh viêm loét dạ dày hành tá tràng cũng được nghiên cứu điều trị bằng châm cứu hoặc nhĩ châm. Đến nay thấy chỉ dùng châm cứu cũng có thể giải quyết được hết những cơn đau dạ dày, trước đó có một số người bệnh hết hẳn vết loét khi kiểm tra bằng X Quang. Các bệnh đái dầm trẻ em, bí đái, di tinh, liệt dương đã được trị khỏi nhiều trường hợp bằng châm cứu. Các bậnh về khớp như thấp khớp cấp, viêm đa khớp dạng thấp đã giải quyết được một số hết sưng đau ở các khớp bằng châm cứu. Năm 1963 Viện nghiên cứu dông y có áp dụng phương pháp chích lễ của Lương y Nguyễn Thế Đuốc trị ổn định một số trường hợp viêm đa khớp dạng thấp và viêm cột sống cứng khớp đã có teo cứng khớp. Về tâm thần kinh việc dùng châm cứu cũng thu được nhiều kết quả. Với các phương pháp châm cứu thông thường, Mai hoa châm, Nhĩ châm, Thủy châm đã giải quyết được nhiều trường hợp: Suy nhược thần kinh, Hystérie mất ngủ nhức đầu chữa khỏi được nhiều trường hợp liệt nửa người, liệt mặt, đau dây thần kinh tọa, đau lưng, những di chứng mới về viêm não, viêm màng não. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, những trường hợp chấn thương tủy sống như bị chạm thương, đụng dập, đứt tủy gây liệt 2 chi dưới, một bệnh không còn hy vọng, với việc tích cực áp dụng châm cứu như châm kim dài tức Tân châm BS Nguyễn Tài Thu đã phục hồi lại được một phần chức năng vận động của một số thương bệnh binh. Thuộc trong hệ Nội khoa còn phải kể tới dùng châm cứu để cai ma túy của nhóm thầy thuốc tại Thành Phố Hồ Chí Minh do BS Trương Thìn phụ trách từ sau ngày Việt Nam hoàn toàn giải phóng.Những người bệnh hay nói đúng hơn là những nạn nhân của xã hội cũ sau khi được trị khỏi đã trở về với gia đình, với cuộc sống lành mạnh học tập lao động và sản xuất. Về Ngoại khoa: Châm cứu giải quyết được những trường hợp bí đái, trướng hơi sau khi mỗ. Nhưng kết quả lớn nhất châm cứu trong Ngoại khoa là dùng cây kim gây tê để mổ mà gọi là châm tê. Từ năm 1968 BS Hoàng Đình Cầu nay là Giáo sư Thứ trưởng Bộ y tế chủ trì công trình nghiên cứu châm tê để tiến hành phẫu thuật lồng ngực. Từ đó đến nay, châm tê đã được áp dụng để mỗ hàng nghìn ca với các loại phẫu thuật thuộc nhiều khoa từ đầu cổ ngực bụng đến chân tay.Châm tê đã tỏ ra rất tốt trong việc giải quyết các chấn thương.Từ cơ sở Viện đông y, Hội đồng y trung ương, châm tê đang được nhày càng áp dụng rộng rãi tới các tỉnh, các địa phương cả miến Bắc lẫn miền Nam.Châm tê Việt Nam còn làm vẻ vang cho ta ở nước ngoài, như những ca mỗ được châm tê tại Pháp, ở Ý của BS Nguyễn Tài Thu, ở Cu Ba của BS Trần Thúy, Lã Quang Nhiếp ở Angôla, Angérie của các BS Việt Nam đã gây được lòng khâm phục ở các nước đó và hướng họ về châm cứu ở Việt Nam. Trong ngành sản phụ những triệu chứng rối loạn kinh nguyệt cũng như những trường hợp dọa sẩy, đau đẻ đã được điều trị bằng châm cứu thường, thủy châm huyệt Tam âm giao, huyệt Bát liêu. Trong quá trình trị áp xe vú Viện đông y đã kết luận châm cứu trị được áp xe vú trong giai đoạn viêm tấy, ngoài ra còn giải quyết được 1 số áp xe đã thành mủ.Những trường hợp thiếu sữa của các sản phụ. Bệnh viện Hà Nam Ninh, Viện bảo vệ bà mẹ vả trẻ em mới đẻ đã xác nhận có thể giải quyết được bằng châm cứu. Một số bệnh thuộc Khoa da liễu như bệnh chàm, viêm bì thần kinh qua báo cáo của một số cơ sở địa phương và trung ương cũng có thể trị được bằng châm cứu hoặc Kim mai hoa.
9
Ngành Tai mũi họng cũng thu được nhiều kết quả trong việc áp dụng khoa châm cứu. Các loại viêm Amidan cấp, viêm họng, viêm mũi dị ứng có thể trị khỏi bằng châm cứu. Bệnh câm điếc bẩm sinh hay câm điếc do di chứng viêm não, một số trường hợp cũng được trị khỏi bằng châm cứu. Ngành Mắt cũng áp dụng nhiều về châm cứu trong việc trị bệnh.Theo báo cáo của Khoa y học dân tộc Viện Mắt: các bệnh lẹo, chắp, viêm kết mạc cấp chữa được bằng châm cứu và chích lễ.Bệnh teo thị thần kinh, phù hoàng điểm, thoái hóa hoàng điểm cũng giải quyết được tốt bằng châm cứu kết hợp với các thuốc bổ thận âm, bổ khí huyết. Tóm lại, nhìn qua các ngành các khoa đếu thấy có áp dụng châm cứu và với kết quả đạt được đã khẳng định rằng châm cứu có tác dụng tốt trong việc phòng và trị bệnh. Kết luận chung: -Châm cứu là di sản quý báu của nền Y học dân tộc Việt Nam đã góp phần bảo vệ sức khỏe cho nhân dân Việt Nam. -Châm cứu ngày càng được nhiều nước trên thế giới nghiên cứu và áp dụng, vì vậy việc nghiên cứu và thực hành châm cứu hiện nay là việc cần thiết hơn lúc nào hết để góp phần kết hợp và thống nhất 2 nền Y học hiện đại và Y học cổ truyền để xây dựng một nền Y học Việt Nam mới. -Nếu trong một thời gian tương đối ngắn nền Y học Việt Nam làm thế nào đuổi kịp nền Y học thế giới thì việc nghiên cứu và thực hành châm cứu của chúng ta có khả năng tiến kịp và còn có thể là một trong những nước đứng đầu về nền châm cứu trên thế giới. Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 1) - Sự phát triển các kỹ thuật châm cứu Trong tập này, chúng tôi chỉ trình bày các kỹ thuật của thể châm, còn các chuyên ngành khác sẽ giới thiệu ở tập sau. Thể châm: Là chuyên ngành chính của châm cứu, Thể châm là dùng những cây kim nhỏ gọi là hào châm dài 1-7cm và dùng những mồi hoặc điếu làm bằng lá ngải khô giả nhỏ rồi châm hoặc hơ nóng trên những vị trí nhất định gọi là huyệt. Vị trí các huyệt này phân bổ khắp cơ thể. Ngoài hào châm một số trường hợp người thầy thuốc còn dùng cây kim to hơn mũi nhọn có 3 cạnh còn gọi là kim tam lăng để chích máu ở một số huyệt. Trong những năm gần đây, các huyệt: vị trí cơ bản để điều trị được nghiên cứu nhiều. Các huyệt đã có từ trước theo sách vở được hệ thống hóa: Nhóm kinh huyệt (các huyệt nằm trên đường kinh) và các huyệt nằm ngoài đường kinh. Dựa theo thực tế trị bệnh các thầy thuốc còn phát hiện được nhiều huyệt mới (Tân huyệt) có những tác dụng độc đáo như những huyệt chữa viêm ruột thừa, chữa sốt rét, chữa đau răng. Nếu số huyệt từ lúc mới đầu trong quyển “Linh khu” có 160 huyệt, quyển “Giáp ất kinh” có 349 huyệt, “Châm cứu đại thành” 359 tên huyệt thì hiện nay số kinh huyệt 361 (theo “Châm cứu giảng nghĩa” 1964) số kỳ huyệt 178 huyệt, số ta6hn huyệt là 223 (“Châm cứu học”, Thượng Hải, 1974) đưa tổng số huyệt lên tới 762 huyệt. Các huyệt đều được xác định về vị trí, giải phẫu cục bộ, tác dụng điều trị của từng huyệt theo ngôn ngũ y học dân tộc và theo y học hiện đại, quy cách châm cứu tại đó. Từ thao tác châm cứu cổ xưa, theo yêu cầu điều trị ngày càng cao nên đã phát triền thành châm kim dài châm sâu, châm xuyên, châm kim ngắn, gài kim, thủy châm, điện châm, và cuối cùng là chôn chỉ. 10
1/ Châm kim dài, châm sâu: Là phát triển từ trường châm trong 9 loại châm cổ xưa để trị bệnh ở sau, bệnh khó. 2/ Châm xuyên: Là kim châm từ huyệt nọ sang huyệt kia như Giáp xa xuyên Địa thương, Nội quan xuyên Ngoại quan, Thái khê xuyên Côn Lôn. Châm kim dài, châm xuyên huyệt 1 nội dung của Tân châm hiện nay, một số thầy thuốc theo trường phái mới hiện nay thường dùng. 3/ Châm kim ngắn: Trái ngược với châm kim dài, có người lại chủ trương dùng những cây kim thật ngắn. Không tính từ cán kim chỉ tính từ thân kim, thì thân kim dài 0,5-1cm và như vậy lúc châm kim mới chỉ xuyên qua da cùng lắm vào tới tổ chức dưới da, chứ không tới lớp cơ sâu ở bên trong. Vậy mà châm vẫn có kết quả. Chúng ta biết kết quả của châm kim là do sự nhạy cảm hay nói rõ hơn nhận biết cảm giác của người bệnh với châm kim ở những người bị liệt 2 chi dưới (bệnh nuy) do tổn thương tủy sống, chân hoàn toàn không lay động và hoàn toàn mất cảm giác thì châm sâu hay châm nông kết quả thu được rất ít. Mà cơ quan cảm giác xúc giác đó phân bổ trên toàn cơ thể chủ yếu tập trung ở lớp da. Chính vì vậy kim khi xuyên qua là có tác dụng tới cơ quan xúc giác đó và chính từ đó phát huy tác dụng. 4/ Gài kim: Là phương pháp gài kim từ huyệt để lâu hàng giờ có khi hàng ngày. Để điều trị những bệnh khó, mà có khi rút kim ra bệnh lại quy trở lại. Kim gài có thể là kim châm thường hoặc là kim mà chuôi là một vòng gọi là chân hoàn. 5/ Thủy châm: Thủy châm hay tiêm thuốc vào huyệt là một phương pháp chữa bệnh phối hợp tác dụng chữa bệnh của châm cứu với tác dụng của thuốc tiêm. Thủy châm ra đời từ khi những thầy thuốc y học hiện đại biết và vận dụng châm cứu chữa bệnh từ khoảng đầu thế kỷ thứ XX. Tại Việt Nam Thủy châm được sử dụng sau ngày thành lập Viện nghiên cứu Đông y Trung ương ( 1957) BS. Phạm Ngọc Thạch là người đầu tiên đề xướng tiêm thuốc vào huyệt Phế du để chữa bệnh lao phổi thuốc là Streptomycine, Filatov, Subtilisn và đã được đưa vào sách “Bài giảng Đông y”,tập 1 (1978). Thuốc tiêm vào huyệt ngoài tác dụng tại chỗ hoặc toàn thân của thuốc tiêm, thuốc còn tác dụng tăng cường và duy trì kích thích của châm kim vào huyệt để nâng cao kết quả chữa bệnh. Ngoài ra, thủy châm so với châm kim thường có tốt hơn là đã gây được lòng tin của bệnh nhân. Thủy châm được sử dụng để điều trị tất cả mọi bệnh cấp hoặc mãn tính nhưng thường được dùng để trị các bệnh suy nhược thần kinh, viêm khớp mãn, đau dạ dày, tăng huyết áp, hen phế quản. Chống chỉ định của thủy châm giống như chống chỉ định của châm kim. Không được dùng các thuốc tiêm dầu, thuốc tiêm mạch máu, các thuốc tiêm bắp thịt mà người bệnh dùng bị phản ứng. Thuốc để làm thủy châm là các thuốc có tác dụng tăng cường dinh dưỡng Vitamin B1, Vitamin B2, VitaminB12, Bécozyme, Terneurine, tinh chất gan, Campolon, Sirepar, filatov, thuốc có tác dụng trị bệnh như nọc ong, Atropin, Novocaine, v.v… thuốc trụ sinh để kháng khuẩn như: Pénicilline, Streptomycine, Ampicilline, Lincocine và cả các loại nước cất, huyết thanh mặn, ngọt đẳng trương. Các huyệt làm thủy châm: Không phải tất cả các huyệt trên cơ thể đều làm được thủy châm. Nơi làm thủy châm nên là ở những huyệt có khối cơ bắp tương đối dầy, tốt nhất là những du huyệt ở lưng. Nên tránh thủy châm ở những huyệt đầu ngón chân, ngón tay, hạn chế thủy châm ở những huyệt đầu mặt. Không nên thủy châm ỡ những huyệt khe khớp như Kiên ngung, Tất nhãn, Độc tỵ, không nên làm thủy châm ở những huyệt nằm trên đường đi củ dây thần kinh chính như: Nội quan, Ngoại quan, những 11
huyệt nằm trên những mạch máu lớn và số huyệt không nên nhiều quá, mỗi lần làm thủy châm chỉ nên từ 1-3 đôi huyệt. Khối lượng thuốc tiêm vào huyệt cũng căn cứ vào tổ chức phần mềm vùng tiêm nhiều hay ít, dày hay mỏng. Nếu huyệt nơi tiêm chỉ có lớp da cơ mỏng như các huyệt vùng đầu, mặt, vành tai chỉ cần tiêm 1 giọt đến vài giọt. Các huyệt nằm trên vùng có khối cơ bắp dày như huyệt ở lưng có thể tiêm vào mỗi huyệt từ 0,5ml đến 5ml. Phương pháp tiến hành thủy châm cũng như chích thuốc thông thường phải đảm bảo hợp vệ sinh, vô trùng. Thời gian điều trị cũng giống như châm cứu nói chung nên chia từng đợt. Và cũng cần phòng ngừa các trường hợp choáng do thuốc có thể xảy ra. 6/ Điện châm: Điện châm là phương pháp chữa bệnh phối hợp tác dụng chữa bệnh của châm cứu với kích thích bằng dòng điện: một chiều, cảm ứng xung đột một pha hay hai pha đều hay không đều. Hiện nay châm điện người ta thường dùng máy phát ra xung điện (Blocking ge’ne’rator) có tần số thất điện thế thấp có nhiều đầu dây kích thích, tính năng ổng định an toàn, điều chỉnh thao tác dễ dàng và đơn giản. Dùng điện trong châm cứu đầu tiên là nhóm châm cứu ở Pháp (S De Morant, R de la Fuye) khoảng năm 1930. Tại Việt Nam điện châm được áp dụng từ năm 1964 tại miền Bắc, được ghi trong các giáo trình “Bài giảng Đông y”, tập I, 1978. Tác dụng của điện châm là tác dụng tổng hợp của châm chữa bệnh và tác dụng kích thích bằng dòng điện. Tác dụng của châm cứu đã nêu trong phần châm cứu. Ở đây chỉ nêu tác dụng của dòng điện kích thích: đó là dòng điện xung tần số thấp và điện thế thấp. Dòng điện xung (Impulse Cireuit) dùng trong điều trị có tần số nhỏ hơn 20.000 Hz điện thế nhỏ hơn 300V, cường độ khoảng một vài mA. Dòng điện xung có nhiều loại, có hình thể khác nhau. Hình gai nhọn (dòng Faradic), hình chữ nhật (dòng Leduc), hình lưỡi cày (dòng Lapique), hình sin (dòng dynamique). Tác dụng sinh lý của dòng điện xung là do biên độ, tần số hình thể của xung.
a/ Biên độ: Khi có xung điện tác dụng trên thần kinh, không kể hình thể xung là gì thì phải đạt được một cường độ nhất định mới gây được phản ứng của cơ thể. Qua cực điện đặt trên da: 12
Với cường độ I < 1mA ta không cảm thấy gì. I = 1mA ta thấy như kiến bò I = 1,5mA có cảm giác rung I = 2mA rung càng mạnh I = 3mA các thớ cơ co cùng nhịp I = 4mA xuất hiện đau. Vùng từ 1 – 4 mA là vùng có hiệu lực, dưới nguồn dòng xung điện không có tác dụng. b/ Tần số: Là số xung điện trong một giây của dòng điện xung. Cơ thể có khả năng phản ứng với một tần số rất rộng từ thất tới cao. Với xung tần số thất ta còn nhận biết được, nhưng với dòng điện xung điện tần số cao tuy ta không còn cảm giác song cơ thể vẫn phản ừng lại bằng những thay đổi vận mạch sinh hóa, sinh lý. Xung 20 Hz cảm giác như một vật gì chạm vô da vận động cơ co từng cái – Thực vật: Kích thích thần kinh giao cảm. Xung từ 20 – 50 Hz: Cảm giác xung liên tục trên bề mặt da. c/ Hình thể: Hình thể xung có ảnh hưởng tới tác dụng đó là độ dốc và bề mặt của xung. Độ dốc của xung lớn sẽ gây kích thích mạnh và ngược lại. Bề mặt của xung rộng có tác dụng nhiều trên chuyển hóa dinh dưỡng và ngược lại. Xung hình gai nhọn: Độ dốc sường lên xuống gần thẳng đứng nên kích thích mạnh. Bề mặt xung hẹp nên tác dụng trên chuyển hóa dinh dưỡng yếu. Xung hình chữ nhật: Độ dốc sườn lên và xuống thẳng đứng kích thích mạnh bề mặt xung có thể kéo rộng ra nên tùy thời gian xung dài hay ngắn mà tác dụng trên dinh dưỡng chuyển hóa mạnh hay yếu. Xung hình lưỡi cày: Sườn lên và xuống thoai thoải phù hợp với tổ chức lành và cả với tổ chức bị thương tổn. Bề mặt xung rộng nên có tác dụng trên dinh dưỡng, chuyển hóa mạnh hơn xung hình gai nhọn. Xung hình sin: Sườn lên và xuống từ từ, diện tích xung rộng có tác dụng như hình xung hình lưỡi cày. Chỉ định và chống chỉ định: Chỉ định: Giống như chỉ định của châm cứu nhưng thường dùng nhất là cắt đứt chứng đau của một số bệnh như đau khớp, đau dây thần kinh, cơn đau nội tạng. -Chữa tê liệt: Liệt nửa người, bạn liệt dây thần kinh ngoại biên. -Châm tê để tiến hành phãu thuật. Chống chỉ định; Cũng như chỉ định của phương pháp châm cứu. 13
Giới thiệu một kiểu máy điện châm.
Máy điện châm BT-701 (Châm tê Thượng Hải-1973) E: Nguồn điện 6v dùng 4 pin 1,5v. R: 2 Kω W2-W5: Chiết áp 10kΩ BG: Tranzitor 3AD6 B: Cuộn dây: L3; L2; L1=L2: L:3, L3, L4, L5, L6, L7 đường kính 0,07mm dây cách điện 1200 vòng, L1 đường kính 0,10mm dây cách điện 300 vòng, L2: đường kính 0,35mm dây cách điện 100 vòng. Lỗi sắt dùng tôn Silic mỗi lá dày 0,35mm cả sấp dày 11mm. Ne: Bóng Nêon
Tính năng Tần số: 120-2400Hz Điện thế: )-70 volt 14
Sóng là loại dao động nghẹt Xung dao động nghẹt
7/ Chôn chỉ: Chôn chỉ là dùng một chất đặc chôn vùi nơi huyệt để duy trì kích thích. Đặt trưng của châm là vấn đề kích thích phải đạt tới mức nhất định và có nhiều trường hợp phải kéo dài kích thích đó. Người ta đã lần lượt dùng nhiều biện pháp để kéo dài kích thích: Thứ nhất là lưu kim trong vài giờ rồi vài ngày. Người ta còn chế tạo ra loại kim đặc biệt Kim vòng (châm hoàn) sau khi kim ấn vô huyệt, chuôi kim là một vòng tròn đặt sát da dùng băng dính dán lên để tránh nhiễm trùng. Nhưng lưu kim thì có lúc phải rút kim ra. Thứ đến là Thủy châm: Là tiêm thuốc vô huyệt để gia tăng và kéo dài kích thích tại huyệt. Thời gian kích thích giảm dần khi thuốc khuye61ch tán và tan dần nơi huyệt chân. Như vậy thời gian duy trì kích thích cũng chỉ được một thời gian ngắn từ 15 phút đến nửa giờ. Chon chỉ là chôn vùi một thứ chất đặt nơi huyệt để duy trì kích thích. Chỉ khi nào vật đó tiêu tan hết thì mới hết kích thích. Người ta dùng loại chỉ Catgut, một loại chỉ dùng trong phẫu thuật tự tiêu được. Như vậy với chôn chỉ Catgut kích thích được duy trì nơi huyệt vài ngày, nó lại không phải bận tâm đến thầy thuốc là phải rút ra như lưu kim. Các sách gốc về châm cứu chưa đề cập tới chôn chỉ. Tính đến sách châm cứu giảng nghĩa của Học viện Nam Kinh năm 1964 cũng chưa đề cập đến chôn chỉ. Chôn chỉ có mạnh như trong thập kỷ 60 của thế kỷ này và đợi tới năm 1974 mới được chính thức ghi trong sách châm cứu của Học viện châm cứu Thượng Hải và cũng trong giai đoạn này chôn chỉ nhập vào Hồng Kông và Việt Nam. Tác dụng của chôn chỉ: Qua thực nghiệm tại huyệt sau khi chôn chỉ Catgut thấy trong khối cơ thành phần chuyển hóa được nâng cao, thành phần hóa giáng giảm thấp. Các chất Myoglobin, chất đường tăng cao, acid lactic creatinine giảm do đó nâng cai được dinh dưỡng và chuyển hóa nơi cơ bắp. Thông qua quan sát so sánh, sau khi chôn chỉ, thấy gia tăng mạch máu vùng đó, có mạch máu mới sinh lưu lượng máu tăng, tuần hoàn máu được cải thiện đồng thời tăng nhiều sợi liên kết làm thành dính kết với nhau, đối với cơ bắp nhão làm tăng trương lực rồi dưới lớp cơ còn phát hiện nhiều tổ chức thần kinh mới. Các hình thức chôn chỉ: Theo châm cứu học (Thượng Hải năm 1974) có 3 hình thái: -Xâu chỉ (Xuyên tuyến) làm dùng một kim phẫu thuật xâu chỉ Catgut qua nơi huyệt cách hai bên huyệt đó vài mm. Khi kim xâu qua và đưa chỉ Catgut vào thì cắt ở hai đầu trên mặt da. 15
-Chô chỉ: (Mai Tuyến) dùng 1 mũi dao chích nhỏ, chích mặt da hơi sâu tới bên dưới rồi vùi chỉ xuống đó. Nếu nơi vạch lớn quá nên khâu lại một mũi cho kín.
(Theo châm cứu học Thượng Hải năm 1974) -Buộc chỉ: (Kết trái) Thao tác giống như xâu chỉ, ở đây khác là có dùng dao mổ rạch một chỗ nhỏ cạnh huyệt rồi dùng pince cầm máu mũi cong thọc qua lỗ chích tới dưới huyệt ấn kích thích tới 40-50 lần rồi sau theo chỗ rạch dùng kim mỗ luồng chỉ Catgut qua huyệt ở tầng sâu dưới tận lớp cơ đi qua một đầu khác rồi đi ra chỗ rạch ban đầu. Buộc hai đầu chỉ với nhau vùi xuống dưới da. Nếu nơi rạch miệng quà rộng thì khâu một mũi. Đắp băng gạc vô trùng lên giữ 5-7 ngày. Như vậy là luồng chỉ Catgut hai lần qua huyệt theo hình số 8 hoặc hình bán nguyệt, hình vòng tròn.
Tại Việt nam ngoài các hình thức trên, thầy thuốc Vương Sanh ở Sông Bé có áp dụng chôn chỉ gọi là nhu châm (Acupuncture tendre) trình bày tại Câu lạc bộ Y học dân tộc Sở Y tề thành phố Hồ Chí Minh ngày 15-8-1985. Cách chôn chỉ của ông Vương Sanh là: Dùng một kim chọc nước não tủy cắt một đoạn Catgut dài khoảng 1cm đặt sẵn trong ống chọc. Sau khi c8a1m kim vào đúng vị trí huyệt có đắc khí mới từ từ đẩy mẫu Catgut vào. Kỹ thuật không phải dùng kim phẫu thuật, không phải dùng dao chích, đơn giản và lạ hơn các biện pháp trên. Phản ứng sau điều trị: 1/ Phản ứng bình thường:
16
-Tại chỗ: Do kích thích của thương tổn của châm kim và của Catgut, từ 1-5 ngày tại chỗ xảy ra phả ứng viêm vô khuẩn: Sưng, nóng đỏ, đau. Một số trường hợp phản ứng tương đối nặng nơi rạch và vùi Catgut, có chảy ra ít nước vàng, đó đều là phản ứng bình thường, không cần phải xử lý. Nếu nước vàng chảy ra quá nhiều, có thể nặng hết nước vàng dùng bông cồn 70o chùi sạch đắp bông gạc vô khuẩn lên. Sau thủ thuật vùi, tại chỗ nhiệt độ cũng có hơi tăng, có thể kéo dài 3-7 ngày. Nói chung có phản ứng như trên là kết quả tốt. -Phản ứng toàn thân: Một số ít người bệnh sau điều trị 4-24 giờ thấy nhiệt độ tăng, thường khoảng 38oC, cá biệt có người bệnh lên tới 39-40oC. Kéo dài từ 2-4 ngày rồi trở lại bình thường. Sau điều trị nói chung tổng số bạch cầu và bạch cầu đa nhân trung tính đều có hiện tượng tăng ở mức độ khác nhau. 2/ Phản ứng khác thường: Đau nhức: Sau khi điều trị miệng vết rạch đau nhức hoặc chân tay đau nhức, nếu buôc chỉ chặt quá, nên cắt đứt chỉ Catgut để nới ra. -Nhiễm khuẩn: Một số ít người bệnh vì trong lúc điều trị vô khuẩn không tốt hoặc bảo vệ vết rạch ra không tốt làm thành nhiễm khuẩn. Thông thường là sau 3-4 ngày thấy lài sưng đỏ, đau nhức tăng, có khi phát sốt. Nên đắp nóng tại chỗ hoặc dùng kháng sinh. -Xuất huyết: Phần nhiều vì kích thích quá mạnh làm rách mạch máu. Nói chung nên băng ép cầm máu, nếu vẫn chảy thì nên khâu cầm máu và rút bỏ Catgut. -Dị ứng: Cá biệt có người dị ứng với thuốc tê hoặc với Catgut. Sau khi điều trị thấy tại chỗ phản ứng ngứa sưng đỏ hoặc toàn thân sốt. Cá biệt có người nơi vết rạch rỉ nước vàng rồi chỉ Catgut đùn ra. Đối với người bệnh có điều trị dị ứng. -Tổn thương thần kinh: Nếu thần kinh cảm giác bị tổn thương thì thấy rối loạn cảm giác thần kinh đó phân bổ, nếu thần kinh vận động tổn thương thì thấy liệt nhóm cơ chỉ phối, nguyên nhân là do thao tác không đúng, kích thích quá mạnh làm tổn thương tới mạch máu, thần kinh nên lưu ý. *
* *
Lượt qua các phương pháp kể trên: Châm cứu dài, châm xuyên, châm kim ngắn, lưu kim, thủy châm, điện châm, chôn chỉ. Người thầy thuốc châm cứu chúng ta nên lựa chọn cách châm cứu nào trong khi hành nghề? Chúng ta có thể sử dụng tất cả hình thức châm trong khi trị bệnh nhưng chúng ta nên theo mộtnguyên tắc: -Đạt kết quả cao -Có ích lợi cho người bệnh và tạo được mối thiện cảm của châm cứu đối với người bệnh. Cụ thể là 1/ Nếu bệnh nhẹ, dễ chữa, không có gì đặc biệt ta nên dùng kim châm cỡ thông thường, châm xong rút kim. 2/ Nếu gặp bệnh lâu năm, khó trị như chứng liệt đã lâu: liệt mặt, liệt nửa người, liệt hai chi dưới, nên dùng kim dài châm sâu, châm xuyên, luồn kim chạy dài dọc theo đường kính, lưu kim gài để tăng cường kích thích nơi huyệt. Chính đó là tân châm mục đích để trị những bệnh khó, những bệnh lâu lành. 17
3/ Nếu bệnh nhân là những trẻ em, những người nhát châm cứu nên dùng kim ngằn để châm nong và có thể châm rút kim ngay hay lưu kim thời gian ngắn. 4/ Hiện tại nhiều bệnh nhân cứ cho rằng kim châm có tẩm thuốc mới trị được bệnh, có nhiều người hỏi thầy thuốc vể những vấn đề đó. Đó là người bệnh mong ước được châm cứu nhưng đồng thời có thuốc. Với yêu cầu như vậy dùng thủy châm rất phù hợp. Thủy châm là biện pháp dùng thuốc, một chất lỏng để kích thích và duy trì kích thích tại nơi huyệt một thời gian nhất định mà lại còn đồng thời đưa thêm được thuốc cần thiết cho người bệnh. Đó có thể nói là kết hợp YHHĐ với YHDT trên một mũi kim trên một huyệt. Như vậy không những chúng ta cân nhắc chọn huyệt dùng để châm, mà còn chọn thuốc cho đúng, cho phù hợp với bệnh tình của người bệnh. -Nếu có sốt, có viêm nên dùng trụ sinh. -Nếu có đau nhức nên dùng thuốc giảm đau: Atrapin, Novocaine, Voltarène… -Nếu có thuốc đặc trị như: Aminophilin để trị hen phế quan thì cũng có thể dùng để thủy châm. -Nếu mệt nhịp tim nhanh có thể dùng thuốc trợ tim mạch. Và ở đây tôi thấy cần nhắc lại chỉ chọn dùng thuốc tan trong nước chích bắp thịt. Không quá gây sốt kích thích nơi tiêm, và nên lưu ý đảm bảo sát trùng kỹ nơi tiêm và dụng cụ tiêm. 5/ Châm kim thường vê tay hiện nay một số ít người bệnh không thích cho rằng kém hiệu quả, mà thực ra vê tay làm thầy thuốc cứ phải khoảng 5-10 phút lại phải vê cho người bệnh một lần để duy trì kích thích. Để giải quyết những mắc mớ này ta phải nhờ cậy đến điện châm. Người bệnh được gài kim và kích thích bằng máy điện châm thì an tâm hơn, tin tưởng hơn. Mà thực tế vê kim bằng điện rất đều, liên tục và muốn nhanh chậm bao nhiêu cũng được. Chính vì vậy, mà đội ngũ châm tê của Việt Nam lúc đầu trong những năm trước là phải tập vê kim mà phải vê kim với tốc độ thất cao mới đạt được cảm giác tê, thì hiện nay với vê kim bằng điện chúng ta muốn đạt tốc độ vê bao nhiêu cũng được, thầy thuốc châm tê chỉ việc đứng coi điện vê kim thay người. Mà lại không vướng víu gì cho phẫu thuật viên khi phải sử dụng những huyệt gần nơi mổ. 6/ Cuối cùng là vấn đề chôn chỉ hau Nhu châm nói theo thầy thuốc Vương Sanh. Có phải bệnh nào chúng ta cũng dùng chôn chỉ không? Tôi nghĩ phương ngôn ta có câu “Giết gà không dùng dao mổ trâu” vậy thì không nên dùng chôn chỉ cho tất cả các trường hợp bệnh. Như trên tôi đã nêu: Chôn chỉ đau hơn, sau khi chôn chỉ còn có những khó chịu cho người bệnh về phản ứng tại chỗ và toàn thân. Đây là không kể những trường hợp chỉ sơ xuất chút ít còn có thể gây viêm tấy, Abces tại chỗ. Vì vậy theo tôi chỉ nên dành chôn chỉ cho những bệnh thật khó trị, những bệnh nan y. Đó là những loại bệnh đã trị nhiều biện pháp mà khôn khỏi, những tổn thương khó hồi phục như thấp khớp đã có biến chứng teo cơ, khớp lệch trục xương, những hen phế quản loại ngoan cố…v…v…những trường hợp này bệnh nhân vui lòng để chúng ta chon chỉ mặc dù biện pháp này có đau hơn, khó chịu hơn. Tóm lại phương pháp châm có nhiều, chúng ta cần lựa họn những biện pháp thích hợp cho từng bệnh và cho từng loại bệnh nhân thì sẽ thu được những hiệu quả cao. Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 1) - Học thuyết kinh lạc Toàn bộ hệ Kinh lạc gồm có: 18
Phần chính của hệ kinh lạc là 12 kinh chính và 2 mạch Nhâm Đốc gộp lại thường gọi là 14 kinh. 1/ Đường đi của Kinh lạc Khí vận chuyển của các đường kinh theo trình tự nhất định. Khí bắt đầu từ trung tâm đi vào kinh Thủ thái âm phế lần lượt đi qua các kinh, cuối cùng tới kinh Túc quyết âm can rồi trở về kinh Thủ thái âm phế.
Năm 1978 Nguyễn Xuân Tiến, nhà nghiên cứu châm cứu đã giới thiệu một sơ đố đường tuần hành khí trong 12 kinh phù hợp với lý thuyết âm dương của Y học dân tộc.
19
Trong riêng từng đường kinh cuộc hành trình củ khí cũng theo một quy tắc nhất định, nhìn tổng quát thì: 3 kinh âm ở tay bắt đầu từ ngực qua phía trong chi tới tay nối tiếp với 3 kinh dương ở tay. 3 kinh dương ở tay bắt đầu từ vùng bàn tay, đi lên mặt dưới cánh tay tới vùng đầu, nối với 3 kinh dương ở chân. 3 kinh dương ở chân bắt đầu từ đầu qua thân mình xuống chi dưới tới bàn chân nối tiếp 3 kinh âm ở chân. 3 kinh âm ở chân từ bàn chân qua mé trong chi dưới đin lên qua bụng tới ngực lại nối tiếp với 3 kinh âm ở tay. Sự chuyển vận khí trong 12 đường kinh theo Y học cổ truyền thực hiện trong 24 giờ tức 1 ngày đêm. Từ 1-3 giờ khởi hành từ kinh Thủ thái âm phế để đến 22-24 giờ kinh Thủ quyết âm can để lại sang ngày sau nối tiếp với kinh phế. Riêng hai đường mạch Nhâm đốc làm một vòng tuần hoàn đặc biệt theo trục đường chính giữa cơ thể. Mạch nhâm từ huyệt Hội âm ở giữa bộ phận sinh dục ngoài và Hậu môn theo đường chính giữa trước của bụng ngực đi lên tận cung ở huyệt Thừa tương giữa rãnh cằm môi, nối tiếp với mạch Đốc. Mạch Đốc từ huyệt Trường cường ở mõm dưới xương cùng theo đường chính giữa lưng đi thẳng lên đỉnh đầu qua phía trước đầu rồi tận cùng ở huyệt Ngân giao nơi hàm trên. 2/ Tác dụng của đường kinh lạc: Tác dụng sinh lý của Kinh lạc là: Vận hành khí huyết, nuôi âm dương, làm mềm gân xương, trơn các khớp (Nội kinh). Bên trong kinh lạc thuộc vào tạng hoặc phủ, bên ngoài liên lạc với các đốt toàn thân, làm lưu thông giữa ngoài (biểu) và trong (lý). Liên hệ toàn thân để duy trì chức năng khớp bình thường của cơ thể con người. Lúc ở trạng thái bệnh, kinh lạc có mối quan hệ với phát sinh và phát triển của bệnh, yếu tố phòng bệnh bên ngoài (Ngoại tả) xâm phạm vào cơ thể, nên sự bảo vệ của kinh lạc bị rối loạn thì tà khí đó có thể theo kinh lạc mà truyền vào tạng phủ. 20
Ngược lại tạng phủ có bệnh cũng có thể dọc theo đường kinh mà phản ánh tới vùng ngoài da tương ứng. Dựa trên đặc điểm này mà người ta đã áp dụng kinh lạc trong chẩn đoán còn gọi là kinh lạc chẩn. Thí dụ đường đi kinh Túc thiếu dương đởm thì người bệnh có triệu chứng đau mạng sườn, váng đầu hoa mắt miệng đắng có thể nghĩ tới bệnh của kinh Thiếu dương, lại căn cứ sự phân bổ các kinh tại đầu thì một chứng nhức đầu có thể phân biệt là: Đau đầu ở trán có liên quan đến kinh Dương minh. Đau bên đầu liên quan đến kinh Thiếu dương, đau ở chẩm gáy liên quan đến kinh Thái dương, đau ở đỉnh đầu liên quan đến mạch Đốc hoặc kinh Túc quyết âm. Nhưng tác dụng quan trọng nhất của kinh lạc là áp dụng để điều trị và đã hình thành môn châm cứu. Trên 14 đường kinh có những điểm kích thích còn gọi là huyệt có tác dụng trị bệnh. Cho tới hiện nay trên 14 đường kinh có tất cả là 361 tên huyệt, kể cả các huyệt đôi thì Tổng cộng là 670 huyệt. 3/ Tác dụng tổng quát trị bệnh là: a/ Nơi kinh lạc đi qua trị bệnh tại nơi đó. b/ Các huyệt phần đầu mặt phần lớn trị bệnh tại cục bộ nhưng có một số huyệt như Bách Hội, Nhân trung, Tố liêu, Phong phủ trị chứng bệnh tâm thần. c/ Các huyệt ở thân mình không những trị bệnh tại chỗ mà còn có tác dụng đối với toàn thân. Như huyệt vùng ngực bụng trị được bệnh tại chỗ, bệnh nội tạng, bệnh cấp. Huyệt vùng lưng trị bệnh tại chỗ, bệnh nội tạng, bệnh mãn tính. Các huyệt như Đản trung, Quan nguyên, Khí hải, Đại chung, Mệnh môn, Thận du còn trị bệnh toàn thân. d/ Các kinh dương ở tay chân: Các huyệt ở mu bàn chân, bàn tay đều có thể trị các chứng bệnh ở đầu mặt, ngũ quan, bệnh sốt và bệnh tâm thần. Các huyệt ở cẳng tay, cẳng chân đều có thể trị các bệnh tạng phủ bao gồm các bệnh ở ngực, bụng, lưng mà phần lớn các huyệt của các kinh dương ở bàn tay còn có thể trị được bệnh ở vai lưng, cổ đầu mặt. Các huyệt ở cánh tay đùi, trị các bệnh tại cục bộ. e/ Các kinh âm ở tay chân: Các huyệt ở lòng bàn tay bàn chân đều trị các bệnh ở họng, ngực, phổi, bệnh tâm thần nhưng một số huyệt ở các kinh âm ở chân còn trị bệnh của hệ tiết niệu sinh dục, bệnh can tỳ thận – các huyệt ở cẳng tay cẳng chân trị bệnh 5 tạng trong đó huyệt của các kinh âm ở tay trị bệnh: tâm phế, tâm bào, huyệt của các kinh âm ở chân trị bệnh can, tỳ, thận, làm chính. Nói chung các huyệt ở cánh tay, đùi trị các bệnh tại chỗ. f/ Các huyệt thuộc tạng phủ ngoài việc điều trị các tạng phủ đó còn có thể trị bệnh các tạng phủ biểu lý tương ứng. 4/ Thực chất hệ kinh lạc: Kinh lạc là một vần đề được tranh luận sôi nổi nhất hiện nay trong các buổi sinh hoạt về châm cứu. Kinh lạc là vấn đề cơ bản của châm cứu cổ xưa, nay ta nhìn nhận và đánh giá thế nào? Hệ kinh lạc là một hệ cơ quan riêng biệt mà cho tới nay khoa học chưa khám phá ra hay nó chính là phản ánh của các Hệ cơ quan đã biết như tuần hoàn thần kinh? Các nhà khoa học thế giới đang nỗ lực nghiên cứu để giải đáp vấn đề. a/ Hệ kinh lạc là một cơ quan mới, riêng biệt:
21
• Năm 1939, tại Liên Xô khi nghiên cứu hiệu ứng Kirlian khi đặt người vào trường điện cao thế thấy xuất hiện hào quang (do ion hóa) trên người tương tự như đường đi của kinh lạc cổ truyền. Đấy cũng là bằng chứng gián tiếp. • Năm 1957, Nakatani Yoshio bằng phương pháp đo dòng điện sinh vật đã thấy có sự thay đổi tại huyệt và đường kinh lạc. Đây là bằng chứng về tồn tại kkha1ch quan của huyệt và kinh lạc, nhưng là bằng chứng gián tiếp. • Năm 1964, Kim Phượng Hán (Triều Tiên) thông báo đã tìm thấy cơ sở vật chất của hệ kinh lạc bằng các bằng chứng trực tiếp: Tiêu bản mô người. Trong đó huyệt là đường kính là những tiểu thể và đường ống chứa đầy Acid Desoxiribonucleic (DNA) v.v… sau đó các nhà khoa học thế giới kiểm tra lại phát hiện này và đã bác bỏ: Bằng kính hiển vi và điện tử cũng không tìm thấy cấu trúc riêng biệt nào là quan hệ của kinh lạc cả. • Năm 1984, J.Claude Darras (Pháp) bơm đồng vị phóng xạ vào các huyệt sau đó dùng máy phát xạ Gama đã chụp được hình ảnh của huyệt và kinh lạc… Qua các nghiên cứu tìm hiểu trên, rõ ràng hệ kinh lạc thực tế là có tồn tại. Nhưng các bằng chứng dã có chỉ là bằng chứng giàn tiếp. Chức năng nào gắn liền với cấu trúc đó. Chức năng của hệ kinh lạc là thống nhất cơ thể, nuôi dưỡng toàn thân, đáp ứng lại các kích thích bên ngoài và bên trong…Phải chăng là phản ánh chức năng của hệ tuần hoàn và thần kinh. Hiện nay khoa học đã nghiên cứu, chụp ảnh phân tích của cơ thể sống dưới mức tế bào (cỡ vài chục A, thì rõ ràng cứ đi tìm cho hệ kinh lạc 1 cấu trúc riêng biệt là hướng đi bế tắc. b/ Hệ kinh lạc là phản ánh của hệ tuần hoàn và hệ thần kinh: - Chức năng của hệ kinh lạc tương đồng với chức năng của hệ tuần hoàn và thần kinh. - Đường đi của các kinh ở chi phần lớn trùng với đường đi của các mạch máu và thần kinh lớn. - Triết học chi phối đồngt y là triết học duy bật cổ đại. Người xưa xây dựng hệ kinh lạc trên sự gợi ý của các quan sát giải phẫu còn thô sơ. Có thể thấy hệ kinh lạc mà y văn cổ mô ta chính là hệ tuần hoàn. + Thiên âm dương ứng tượng đại luận – Tố vấn – nói: “Tâm sinh huyết”. Vi khi cắt qua tim bao giờ cũng thấy có máu ở trong. + Thiên ngũ tạng sinh thành – Tố vấn – nói: “Tâm trữ huyết là khí của mạch”. Vì thấy tim nối với các mạch máu lớn. + Thiên kinh mạch – Tố vấn – nói: “Kinh mạch không hiện ra rõ, mạch hiện ra rõ là lạc mạch”. Vì thấy các mạch máu lớn, động mạch đều đi sâu trong cơ bắp, thân thể, còn tĩnh mạch nông nổi ngay dưới da. + Thiên thủ các âm dương lưu trú luận linh khu “12 kinh đều có lạc mạch giống như sông Trường Giang, Sông Hán có sông Đà, sông Tiền, lạc mạch truyền chạy tới kinh khác”. Nhận xét về mạng lưới tuần hoàn: + Nạn kinh nạn 1: “Trong 12 kinh đều có mạch động” (động mạch) những nơi động mạch đi qua nông như động mạch quay (Kinh phế), động mạch khoeo (Kinh bàng quang), động mạch cánh tay ở hố nách (Kinh Tâm) động mạch chảy sâu trong ống gót (Kinh thận)…
22
+ Châm cứu Đại thành kể: “Thời Vương Măng (thế kỷ I sau Công nguyên) bát được Dịch Nghĩa Đảng, Vương Tôn Khánh sai quan thái y và bọn đồ tể mổ ra cân đo 5 tạng, lấy lạt tre thông đường mạch đề biết nơi tận cùng nơi bắt đầu”. - Sự lan truyền cảm giác đắc khí phần lớn trùng hợp với hướng đi của dây thần kinh: Châm Nội quan lan tới ngón tay giữa, châm Bát liêu lan xuống đùi – gót, Châm Cực tuyền lan xuống mặt trong cánh tay… - Đã xác định được rằng mỗi lần châm cứu sẽ làm tăng tiết Corticoide của thượng thận và Endorphine của não… - Có thể dùng các học thuyết về thần kinh để dịch, và thời sinh học để giải thích được khá nhiều hiện tượng của châm cứu. c/ Giá trị của học thuyết Kinh lạc: Từ gợi ý ban đầu của hệ thống mạch máu, người xưa đã xây dựng nên học thuyết kinh lạc cách đây hơn 2.500 năm. Dần dần được bổ sung thêm vào các đời sau thành dạng như chúng ta thấy ngày nay: Huyệt, đường đi, các kinh mạch, hội chứng bệnh, các thủ thuật điều trị, các phương chọn huyệt…Nhưng nếu muốn tìm cơ sở vật chất của nó thì không ngoài hệ thần kinh và tuần hoàn. Vậy giá trị của học thuyết kinh lạc ra sao: - Nói cơ sở vật chất của hệ kinh lạc nên tìm ở hệ thần kinh mà hệ tuần hoàn không có nghĩa là học thuyết kinh lạc bằng hệ thần kinh + hệ tuần hoàn. Và từ cùng một xuất phát điểm torng hơn hai ngàn (2000) năm qua nền y học đã đi theo hai hướng khác nhau đông y là Lâm sàng, quy nạp; Tây y là thực nghiệm, phân tích. Trong hiện tại và tương lai gần chưa có thể hợp nhất hai nền y học lại được. - Học thuyết kinh lạc được tiếp tục xây dựng trên một nền quan át lâm sàng vô cùng phong phú và tinh tế, trên tác dụng chữa bệnh bằng châm cứu có hiệu quả cao trong hàng nghìn năm qua. - Để có thể kế thừa trọn vẹn hiệu quả chữa bệnh bằng châm cứu không còn cách nào khác là nắm vững học thuyết kinh lạc. Hệ kinh lạc và học thuyết kinh lạc vẫn giữ nguyên giá trị trong môn châm cứu học và nó vẫn tiếp tục đề tài nghiên cứu vô cùng hấp dẫn. Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 2) - Các huyệt thường dùng - 1 Tên
Vị tri
Tác dụng
Thao tác
(1)
(2)
(3)
(4)
Giữa đầu trong 2 cung lông mày
Nhức đầu, hạ sốt
Châm sâu 0,5cmChâm nặn máu
2. Bách hội Mạch đốc
Nhức đầu, ù tai, sa trực tràng, sa sinh dục, trĩ, mất ngủ, cao huyết áp.
Châm nghiêng 0,5cm
3. Dương bạch Kinh đờm
Từ giữa cung lông mày đo lên trên một thốn.
Nhức đầu, liệt dây VII ngoại biên, chắp lẹo, viêm màng tiếp hợp.
Châm nghiêng xuống dưới 0,5-1cm
4. Đại nghinh
Gốc hàm dưới đo ra trước 1,3
Liệt dây VII, đau răng, câm
Châm nghiêng 0,5-
1. Ấn đường Ngoài kinh 2. Bách hội Mạch đốc
23
Kinh vị 5. Đầu duy Kinh vị
thốn phía trước cơ nhai
1cm về phía sau
Góc trán trên, khớp giữa X. trán và X. đỉnh
Nhức đầu, viêm màng tiếp hợp, viêm tuyến lệ.
Châm nghiêng 0,5cm
6. Địa thương Kinh vị
Khóe miệng đo ngang ra 0,4 thốn, trên cơ vòng môi.
Liệt dây VII, chảy nước dãi.
Châm nghiêng hướng ra phía tai sâu 2cm
7. Đồng tử liêu Kinh tam tiêu
Cách khóe mắt ngoài 0,5 thốn tương đương với bờ ngoài ổ mắt.
Viêm màng tiếp hợp, chắp lẹo liệt dây VII ngoại biên
Châm nghiêng 0,5cm
8. Ê phong Kinh tam tiêu
Ấn trái tai xuống là huyệt, ở chỗ trũng giữa X. chũm và ngành lên X. hàm dưới.
Tai ù, điếc, liệt dây VII đau răng, lao hạch, viêm tuyến mang tai,
Châm sâu 1-2cm
9. Giáp Xa Kinh vị
Từ địa thương đo ra sau 2 huyệt trên cơ nhai.
Liệt dây VII, đau răng, đau thân kinh V, co cứng cơ nhai
Châm sâu 0,5-1cm
10. Hạ quan Kinh vị
Hõm khớp thái dương hàm, ngang nắp tai.
Tai ù, điếc, đau tai, đau răng, viêm khớp thái dương hàm
Châm sâu 0,5-1cm
Dưới hạ quan 0,5 thốn.
Hen phế quản, khó thở, đau răng.
Châm sâu 0,5-2cm
12. Hoa Liêu Kinh đại trường
Từ nhân trung đo ra 0,5 thốn.
Ngạt mũi, chảy máu cam, liệt dây VII
Châm sâu 0,50,7cm
13. Liêm tuyền Mạch nhâm
Giữa cổ, giữa đường nối đỉnh sụn giáp với bờ dưới X. hàm dưới.
Viêm họng, suyển , cảm, bướu cổ.
Châm xiêng hướng về cuống lưỡi 0,51cm
14. Nghinh hương Kinh đại trường
Phía ngoài chân cánh mũi 2/10 thốn
Ngạt mũi, chảy máu cam, phù mặt, liệt dây VII
Châm sâu 0,5-1cm
15. Nhân trung Mạch đốc
1/3 rãnh nhân trung.
Sốt cao co giật, động kinh, hôn mê, liệt dây VII
Châm sâu 0,30,5cmChâm nặn máu
16. Nhĩ môn
Ngang trước trên nắp tai
Ù tai, liệt dây VII, đau răng.
Châm sâu 0,30,5cm
17. Ngư yêu Ngoài kinh
Giữa cung lông mày, thẳng đồng tử lên.
Nhức đầu, liệt dây VII ngoại biên, chắp lẹo
Châm sâu 0,5cm
18. Phong phủ Mạch đốc
Khe giữa xuống chấm cổ 1.
Nhức đầu, cứng gáy, chảy máu cam.
Châm sâu 0,5cm
11. Hạ quan hạ Ngoài kinh
24
19. Phong trì Kinh đởm
Từ phong thủ đo ra 2 thốn ở giữa nguyên ủy cơ thang và ức đòn chũm.
Nhức đầu, hoa mắt, đau cổ gáy, sốt cao.
Châm về hướng mắt bên kia sâu 1-1,5cm
20. Quyền liêu Kinh tiểu trường
Chỗ lõm dưới xương gò má.
Liệt dây VII, đau răng, viêm xoang hàm.
Châm sâu 1cm
21.Thái dương Ngoài kinh
Cách đuôi mắt ngoài 1 thốn.
Nhức đầu, đau mắt.
Châm nghiêng 0,5cm
22. Thừa tương Mạch nhâm
Chỗ trũng chính giữa phía dưới môi dưới
Ngất, trụy mạch, liệt dây VII, đau răng
Châm sâu 0,5-1cm
23. Thính cung Kinh tiểu trường
Ngang trước giữa nắp tai.
Ù tai, điếc, viêm tai
Châm sâu 0,30,5cm
24. Thính hội Kinh đởm
Ngang trước dưới nắp tai.
Điếc, đau răng, liệt dây VII
Châm sâu 0,30,5cm
25. Thông thiên Kinh bàng quang
Trước bách hội 1 thốn đo ra ngoài 1,5 thốn
Nhức đầu, hoa mắt, ngạt mũi, chảy máu cam.
Châm nghiêng 0,30,5cm
26. Toán trúc Kinh bàng quang
Dầu trong cung lông mày, thẳng tinh minh lên
Nhức đầu, đau xoang trán, viêm màng tiếp hợp, liệt dây VII.
Châm sâu 0,5cm xiên xuống tinh minh
27. Tinh minh Kinh bàng quang
Cách khóe mắt trong 2mm
Viêm màng tiếp hợp, viêm tuyến lệ, liệt dây VII chắp lẹo.
Châm sâu 0,3cm
28. Ty trúc không Kinh tam tiêu
Tận cùng phía ngoài đuôi lông mày.
Nhức đầu, viêm màng tiếp hợp.
Châm sâu 0,30,5cm
29. Thừa khấp Kinh vị
Từ mi mắt dưới đo xuống 7/10 thốn, trên rãnh dưới ở mắt.
Liệt dây VII, Động kinh, chóng mặt, viêm màng tiếp hợp,viêm tuyến lệ,liệt dây VII.
Châm nghiêng 0,30,5cm tránh châm vào nhãn cầu.
Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 2) - Các huyệt thường dùng – 2
Tên
Vị tri
Tác dụng
Thao tác
(1)
(2)
(3)
(4)
Khúc cốt đo ra ngoài 2,3 thốn
Đau vùng hạ vị, đau tinh hoàn, bể kim
Châm sâu 0,5-1cm
Tận cùng xương sườn 11
Nôn mửa, tieu chảy, đau mạng sườn, viêm tuyến vú,
Châm nghiêng 0,51cm
1. Cấp mạch Kinh can 2. Chương môn Kinh can
25
hen. 3. Cự khuyết Mạch nhâm 4. Cưu vĩ Mạch nhâm
Từ rốn đo lên 6 thốn
Đau vùng tim, nôn mửa ợ chua, ợ hơi, hồi hộp
Châm nghiêng 0,51cm
Trên cự khuyết 1 thốn
Như Cự khuyết
Châm nghiêng 0,51cm
5. Du phủ Kinh thận Huyệt ở bờ dưới xương đòn, cách Hen suyễn, tức ngực khó thở, Châm sâu 0,5-1cm giũa xương ức 2 thốn. nôn mửa. 6. Đại bao kinh tỳ
Khe liên sườn 6 và đường nách giữa
Đau liên sườn, khó thở, mỏi các khớp xương.
Châm nghiêng 0,51cm
Cách ngang rốn 4 thốn
Đầy bụng, viêm đại tràng.
Châm sâu 0,5-1cm
8. Đản trung Mạch nhâm
Giữa xương ức và liên sườn 4
Tức ngực, khó thở, đau vùng dưới tim, viêm tuyến vú, nôn nấc
Châm nghiêng 0,51cm
9. Hoang du Kinh thận
Cách ngang rốn 0,5 thốn
Đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, táo bón.
Châm 0,5-1cm
10.Hội âm Mạch nhâm
Giữa khoảng cách bờ dưới cơ quan sinh dục tới hậu môn
Viêm âm đạo, kinh nguyệt không đều, di tinh, bí tiểu tiện
Châm sâu 0,5-1cm
11. Khí Hả iMạch nhâm
Dưới rốn 1,5 thốn, trên đường trắng giữa
Đau hạ vị, đái dầm, di tinh, cứu để chữa trụy mạch, hạ huyết áp.
Châm sâu 0,5-1cm
12. Kinh môn Kinh đởm
Đầu chốt xương sườn 12
Sôi bụng, tiêu chảy, đau mạng sườn
Châm nghiêng 0,51cm
13. Khúc cốt Mạch nhâm
Khe liên sườn 6 và đòn giữa xương đòn
Bí tiểu tiện, tiểu dắt, đau vùng hạ vị, cơn co tử cung
Châm sâu 0,5-1cm
14. Kỳ môn Kinh can
Khe liên sườn 7 và đòn giữa xương đòn
Đầy bụng, ngực sườn đầy tức, sốt rét, hoa mắt, chóng mặt.
Châm sâu 0,5-1cm
15. Nhật nguyệt Kinh đởm
Thẳng dưới rốn 3 thốn
Đau mạng sườn, ợ hơi, nấc, hoàng đản
Châm sâu 0,5-1cm
16. Quan nguyên Mạch nhâm
Thẳng dưới rốn 3 thốn
Như khí hải
Châm nghiêng 0,51cm
17. Quy lại Kinh vị
Từ trung cực đo ra 2 thốn
Đau vùng tinh hoàn, hạ vị, đau bụng kinh, khí hư, viêm phần phụ
Châm sâu 1-1,5cm
18. Thuần khuyết
Rốn
7. Đại hoành Kinh tỳ
Đầy bụng, sôi bụng, tiêu lỏng Cứu – không châm 26
Mạch nhâm 19. Thiên khu Kinh vị 20. Thiên đột Mạch nhâm 21. Thiên trì Kinh tâm bào 22. Trung phủ Kinh phế 23. Trung quản Mạch nhâm
Rốn đo ngang ra 2 thốn Giữa hõm ức Phía ngoài núm vú 1 thốn, trên khe liên sườn 4
Đầy bụng, sôi bụng, ăn chậm tiêu
Châm sâu 1-1,5cm
Viêm họng, viêm phế quản, Châm nghiêng xuống hen, khó thở, nấc. dưới 1-1,5cm Đau liên sườn, tức ngực
Châm sâu 0,3-0,5cm
Khe liên sườn 2 gặp rãnh đòn tại Ho, hen, khó thở, viêm quanh Châm sâu 0,5-1cm ngực, dưới xương đòn 1 thốn khớp vai, viêm tuyến vú. Từ rốn đo thẳng lên 4 thốn
Đau da đầu, nôn nấc, ợ hơi ợ chua
Châm nghiêng 11,5cm
24. Trung cực Mạch Giữa bờ trên khớp mu (khuc cốt) nhâm đo lên 1 thốn
Di tinh, đái dắt, đau buốt, đau vùng hạ vị.
Châm nghiêng 11,5cm
25. U Môn Kinh thận Từ cự khuyết ngang ra 0,5 thốn
Đau bụng, nôn, tiêu chảy
Châm sâu 0,5-1cm
Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 2) - Các huyệt thường dùng - 3 Tên
Vị tri
Tác dụng
Thao tác
(1)
(2)
(3)
(4)
1. Bát liêuKinh B.quang
Mỗi bên 4 huyệt, 2 bên 8 huyệt Đau thần kinh hông to, đau Châm vào lỗ cùng ứng với 8 lỗ cùng Thượng liêu: lỗ vùng cùng cụt, thống kinh, bí sâu 1-1,5cm cùng 1, giữa khoảng cách từ tiểu đái, táo bón, cơn co tử cung trường du đến cột sống.Thứ liêu: lỗ cùng 2Trung liêu: lỗ cùng 3, hạ liêu lỗ cùng 4
2. Bàng quang duKinh B.quang
Khe đốt sống S5-S3 đo ngang ra Đau đám rối thần kinh cùng, Châm sâu 1-1,5cm 1,5 thốn bí tiểu, tiểu dắt.
3. Cách duKinh B.quang
Khe đốt sống D7-D8 đo ra 1,5 thốn
Nôn mửa, nấc, thiếu máu, ăn Châm sâu 0,5-1cm không tiêu, ho, mồ hôi trộm, sốt âm ỉ.
4. Can duKinh B.quang
Khe đốt sống D9-D10 đo ra 1,5 thốn
Đau lưng, đau mạng sườn, cao huyết áp, đau dạ dày, chảy máu cam, động kinh
Châm sâu 0,5-1cm
5. Cao hoangKinh B.quang
Từ khe đót sống D4-D5 đo ra 3 thốn
Ho, khó thở, ho ra máu, sốt âm ỉ, ra mồ hôi trộm.
Châm sâu 0,5-1cm
6. Chí thấtKinh B.quang
Từ khe đốt sống L2-L3 đo ra 3 thốn
Di tinh, liệt dương, bí tiểu tiện, phù, đau lưng.
Châm sâu 1-1,5cm 27
7. Cự liêuKinh đởm
Giữa gai chậu trước trên và đỉnh cao nhất của mấu chuyển lớn xương đùi
Đau thần kinh lưng, viêm khớp háng.
Châm sâu 1,5cm
8. Dương quanMạch đốc
Giữa 2 gai sau đốt sống L4-L5
Đau thắt lưng, tiêu chảy.
Châm sâu 1cm
9. Đại chùyMạch đốc
Giữa 2 gai đốt sống C7-D1
Sốt cao, sốt rét cảm mạo, đau cổ gáy ho suyển, động kinh
Châm sâu 1cm
10. Đại trữKinh B.quang
Giữa khe đốt sống D1-D2 ra 1,5 thốn
Ho sốt, đau vai gáy
Châm sâu 0,5-1cm
11. Đại trường duKinh B.quang
Khe đốt sống L4-L5 đo ra 1,5 thốn
Đau thắt lưng, đau thần kinh Châm sâu 1-1,5cm tọa, tiêu chảy táo bón.
12. Đốc duKinh B.quang
Khe đốt sống D6-D7 đo ra 1,5 thốn
Sốt, đau vùng tim, khó thở, Châm sâu 0,5-1cm tức ngực, đau lưng, sôi bụng.
13. Đởm duKinh B.quang
Khe đốt sống D10-D11 đo ra 1,5 Vàng da, đắng miệng, sốt rét, Châm sâu 0,5-1cm thốn đau ngực sườn.
14. Kiên tinhKinh đởm
Giữa đường nối đại chùy và kiên Đau cổ gáy, viêm quanh khớp Châm sâu 0,5-1cm ngung vai, viêm tuyến vú.
15. Kiên trinhKinh tiểu trường
Cách tận cùng trên nếp lằn nách sau 1 thốn
Viêm khớp vai, liệt chi trên, điếc.
Châm sâu 1-1,5cm
16. Kiên trung duKinh tiểu trường
Cách đại chùy 2 thốn trên đường nối với kiên tinh
Viêm phế quản, ho suyễn, đau cổ gáy.
Châm sâu 0,5-1cm
17. Kiên ngoại duKinh tiểu trường
Từ đốt sống D1 ra 3 thốn
Đau vai gáy.
Châm sâu 0,5-1cm
18. Khí suyễnNgoài kinh
Từ đốt sống C7 đo ngang ra 2 thốn
Chữa hen suyển
Châm sâu 0,3-0,5cm
19. Mệnh mônMạch đốc
Giữa 2 gai sau đốt sống L2-L3
Đau thắt lưng, đái dầm, di tinh
Châm sâu 0,5-1cm
20. Nhu duKinh tiểu Chỗ lõm đường đầu tận cùng gai Viêm quanh khớp vai, liệt chi Châm sâu 1-1,5cm trường x.bả vai, thẳng nếp nách sau vai trên. 21. Phế duKinh B.quang 22. Phong mônKinh B.quang 23. Quyết âm duKinh B.quang
Khe đốt sống D3-D4 đo ra 1,5 thốn Khe đốt sống D2-D3 ra 1,5 thốn Khe đốt sống D4-D5 đo ra 1,5 thốn
Ho, khó thở, tức ngực, sốt âm Châm sâu 0,5ỉ, viêm tuyến vú, lẹo. 1cmChâm nặn máu Ho, sốt, đau vai gáy
Châm sâu 0,5-1cm
Mất ngủ, hay quên, ho, mộng Châm sâu 0,5-1cm tinh, động kinh, hồi hộp. 28
24. Suyển tứcNgoài kinh
Từ C7 đo ra 1 thốn
Ho suyển, khó thở
Châm sâu 1cm
25. Tâm duKinh B.quang
Khe đốt sống D5-D6 đo ra 1,5 thốn
Mất ngủ, hồi hộp, vật vã, mộng tinh, động kinh.
Châm sâu 0,5-1cm
26. Tam tiêu duKinh B.quang
Khe đốt sống L1-L2 đo ra 1,5 thốn
Đầy bụng, sôi bụng, phù, nôn, đau lưng
Châm sâu 1-1,5cm
27. Thận duKinh B.quang
Khe đốt sống L2-L3 đo ra 1,5 thốn
Di tinh , liệt dương, rối loạn kinh nguyệt, ú tai, đau thắt lưng.
Châm sâu 1-1,5cm
28. Thân trụMạch đốc
Giữa 2 gai sau đốt L3-L4
Ho, hen suyễn, động kinh
Châm sâu 0,5-1cm
29. Thiên tôngKinh tiểu trường
Giữa bả vai, ngang kho đốt sống Đau lưng, viêm quanh khớp D4-D5 vai, viêm tuyến vú
Châm sâu 1-1,5cm
30. Tiểu trường duKinh B.quang
Khe đốt sống S1-S2 ra 1,5 thốn đại trường du xuống 2 thốn
Di tinh, tiểu dắt, khí hư, lỵ
Châm sâu 1-1,5cm
Đầu chót xương cụt
Trỉ, choáng ngất
Châm xiên 0,5-1cm
31. Trường Cường Mạch đốc 32. Tỳ du B.quang
Kinh
Khe đốt sống D11-D12 đo ra 1,5 thốn
Đầy bụng, chậm tiêu, tiêu chảy, vàng da.
Châm sâu 0,5-1cm
33. Vị du B.quang
Kinh
Khe đốt sống D12-L1 ra 1,5 thốn
Đau dạ dày, nôn mửa, ăn kém.
Châm sâu 1-1,5cm
34. Yêu nhãn Ngoài kinh
Chỗ lõm 2 bên thắt lưng, cách L4 Đau thắt lưng cùng, viêm cột 3,8 thốn, đầu trên của khớp cùng sống, dính khớp, đau hạ vị. chậu.
Châm nghiêng11,5cm
Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 2) - Các huyệt thường dùng - 4 Tên
Vị tri
Tác dụng
Thao tác
(1)
(2)
(3)
(4)
1. Bát liêu Kinh B.quang
Mỗi bên 4 huyệt, 2 bên 8 huyệt Đau thần kinh hông to, đau Châm vào lỗ cùng sâu ứng với 8 lỗ cùng Thượng liêu: lỗ vùng cùng cụt, thống kinh, bí 1-1,5cm cùng 1, giữa khoảng cách từ tiểu đái, táo bón, cơn co tử cung trường du đến cột sống.Thứ liêu: lỗ cùng 2Trung liêu: lỗ cùng 3, hạ liêu lỗ cùng 4
2. Bàng quang du Kinh B.quang
Khe đốt sống S5-S3 đo ngang ra Đau đám rối thần kinh cùng, 1,5 thốn bí tiểu, tiểu dắt.
Châm sâu 1-1,5cm 29
3. Cách du Kinh B.quang
Khe đốt sống D7-D8 đo ra 1,5 thốn
Nôn mửa, nấc, thiếu máu, ăn không tiêu, ho, mồ hôi trộm, sốt âm ỉ.
Châm sâu 0,5-1cm
4. Can du Kinh B.quang
Khe đốt sống D9-D10 đo ra 1,5 thốn
Đau lưng, đau mạng sườn, cao huyết áp, đau dạ dày, chảy máu cam, động kinh
Châm sâu 0,5-1cm
5. Cao hoang Kinh B.quang
Từ khe đót sống D4-D5 đo ra 3 thốn
Ho, khó thở, ho ra máu, sốt âm ỉ, ra mồ hôi trộm.
Châm sâu 0,5-1cm
6. Chí thất Kinh B.quang
Từ khe đốt sống L2-L3 đo ra 3 thốn
Di tinh, liệt dương, bí tiểu tiện, phù, đau lưng.
Châm sâu 1-1,5cm
7. Cự liêu Kinh đởm Giữa gai chậu trước trên và đỉnh cao nhất của mấu chuyển lớn xương đùi
Đau thần kinh lưng, viêm khớp háng.
Châm sâu 1,5cm
8. Dương quan Mạch đốc
Giữa 2 gai sau đốt sống L4-L5
Đau thắt lưng, tiêu chảy.
Châm sâu 1cm
9. Đại chùy Mạch đốc
Giữa 2 gai đốt sống C7-D1
Sốt cao, sốt rét cảm mạo, đau cổ gáy ho suyển, động kinh
Châm sâu 1cm
10. Đại trữ Kinh B.quang
Giữa khe đốt sống D1-D2 ra 1,5 thốn
Ho sốt, đau vai gáy
Châm sâu 0,5-1cm
11. Đại trường du Kinh B.quang
Khe đốt sống L4-L5 đo ra 1,5 thốn
Đau thắt lưng, đau thần kinh tọa, tiêu chảy táo bón.
Châm sâu 1-1,5cm
12. Đốc du Kinh B.quang
Khe đốt sống D6-D7 đo ra 1,5 thốn
Sốt, đau vùng tim, khó thở, tức ngực, đau lưng, sôi bụng.
Châm sâu 0,5-1cm
13. Đởm du Kinh B.quang
Khe đốt sống D10-D11 đo ra 1,5 Vàng da, đắng miệng, sốt rét, Châm sâu 0,5-1cm thốn đau ngực sườn.
14. Kiên tinh Kinh đởm
Giữa đường nối đại chùy và kiên Đau cổ gáy, viêm quanh khớp Châm sâu 0,5-1cm ngung vai, viêm tuyến vú.
15. Kiên trinh Kinh tiểu trường
Cách tận cùng trên nếp lằn nách sau 1 thốn
Viêm khớp vai, liệt chi trên, điếc.
Châm sâu 1-1,5cm
16. Kiên trung du Kinh tiểu trường
Cách đại chùy 2 thốn trên đường nối với kiên tinh
Viêm phế quản, ho suyễn, đau cổ gáy.
Châm sâu 0,5-1cm
17. Kiên ngoại du Kinh tiểu trường
Từ đốt sống D1 ra 3 thốn
Đau vai gáy.
Châm sâu 0,5-1cm
Chữa hen suyển
Châm sâu 0,3-0,5cm
18. Khí suyễn Ngoài Từ đốt sống C7 đo ngang ra 2 kinh thốn
30
19. Mệnh môn Mạch đốc 20. Nhu du Kinh tiểu trường
Giữa 2 gai sau đốt sống L2-L3
Đau thắt lưng, đái dầm, di tinh
Chỗ lõm đường đầu tận cùng gai Viêm quanh khớp vai, liệt chi x.bả vai, thẳng nếp nách sau vai trên.
Châm sâu 0,5-1cm Châm sâu 1-1,5cm
21. Phế du Kinh B.quang
Khe đốt sống D3-D4 đo ra 1,5 thốn
22. Phong môn Kinh B.quang
Khe đốt sống D2-D3 ra 1,5 thốn
Ho, sốt, đau vai gáy
Châm sâu 0,5-1cm
Khe đốt sống D4-D5 đo ra 1,5 thốn
Mất ngủ, hay quên, ho, mộng tinh, động kinh, hồi hộp.
Châm sâu 0,5-1cm
Từ C7 đo ra 1 thốn
Ho suyển, khó thở
Châm sâu 1cm
25. Tâm du Kinh B.quang
Khe đốt sống D5-D6 đo ra 1,5 thốn
Mất ngủ, hồi hộp, vật vã, mộng tinh, động kinh.
Châm sâu 0,5-1cm
26. Tam tiêu du Kinh B.quang
Khe đốt sống L1-L2 đo ra 1,5 thốn
Đầy bụng, sôi bụng, phù, nôn, đau lưng
Châm sâu 1-1,5cm
27. Thận du Kinh B.quang
Khe đốt sống L2-L3 đo ra 1,5 thốn
Di tinh , liệt dương, rối loạn kinh nguyệt, ú tai, đau thắt lưng.
Châm sâu 1-1,5cm
28. Thân trụ Mạch đốc
Giữa 2 gai sau đốt L3-L4
Ho, hen suyễn, động kinh
Châm sâu 0,5-1cm
23. Quyết âm du Kinh B.quang 24. Suyển tức Ngoài kinh
Ho, khó thở, tức ngực, sốt âm Châm sâu 0,5ỉ, viêm tuyến vú, lẹo. 1cmChâm nặn máu
29. Thiên tông Kinh Giữa bả vai, ngang kho đốt sống Đau lưng, viêm quanh khớp tiểu trường D4-D5 vai, viêm tuyến vú
Châm sâu 1-1,5cm
30. Tiểu trường du Kinh B.quang
Khe đốt sống S1-S2 ra 1,5 thốn đại trường du xuống 2 thốn
Di tinh, tiểu dắt, khí hư, lỵ
Châm sâu 1-1,5cm
31. Trường Cường Mạch đốc
Đầu chót xương cụt
Trỉ, choáng ngất
Châm xiên 0,5-1cm
32. Tỳ du Kinh B.quang
Khe đốt sống D11-D12 đo ra 1,5 thốn
Đầy bụng, chậm tiêu, tiêu chảy, vàng da.
Châm sâu 0,5-1cm
33. Vị du Kinh B.quang
Khe đốt sống D12-L1 ra 1,5 thốn
Đau dạ dày, nôn mửa, ăn kém.
Châm sâu 1-1,5cm
34. Yêu nhãn Ngoài kinh
Chỗ lõm 2 bên thắt lưng, cách L4 Đau thắt lưng cùng, viêm cột 3,8 thốn, đầu trên của khớp cùng sống, dính khớp, đau hạ vị. chậu.
Châm nghiêng11,5cm
Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 2) - Các huyệt thường dùng - 5 31
Tên
Vị tri
Tác dụng
Thao tác
(1)
(2)
(3)
(4)
1. Âm cốc Hợp Kinh thận
Đầu trong nếp gấp kheo chân, Đau bụng dưới, liệt dương, tiểu Châm sâu 0,5xâu lồi cầu xương chầy ra máu, đau khớp gối 1cm
2. Âm lăng tuyền Hợp kinh tỳ
Vuốt dọc bờ sau trong xương Đầy bụng, phù, hoàng hản, bí chày tới dưới mâm chày, đối đái, tiêu chảy, thống kinh, đau diện với dương lăng tuyền khớp gối
3. Âm bạch Tinh Kinh tỳ 4. Bát phong Ngoài kinh
Cách 2mm góc trong chân móng ngón chân cái
Châm sâu 11,5cm
Đầy bụng, nôn mửa, tiêu chảy, Châm sâu 0,3kinh nguyệt ra nhiều, rong 0,5cm kinh, co giật
Tận cùng kẻ liên ngón chân về Đau khớp bàn ngoài chân, cước Châm nghiêng phía mu chân về phía bàn chân 0,7-1cm
5. Chí âm Tinh Kinh bàng quang
Cách 2mm góc ngoài chân móng ngón chân út
Khó đẻ, rau thai không xuống, nhức đầu, ngạt mũi, chảy máu cam, đau mắt
6. Côn lôn Kinh Kinh bàng quang
Chỗ lõm ngang sau mắt cá ngoài xương
Nhức đầu, đau vùng gáy, hoa Châm sâu 0,5mắt, chảy máu cam, đau thần 0,7cm kinh hông to, khó đẻ
7. Công tôn Lạc Kinh tỳ
Chân đốt bàn chân 1 lùi về phía Nôn mửa, đau thượng vị, đau Châm sâu 0,5gan chân, trên huyệt Thái bạch bàn chân, tiêu chảy, lỵ 0,7cm 1 thốn
8. Dũng tuyền Tinh Kinh thận
Chỗ lõm giữa 2 mối cơ gan Bí tiểu tiện, táo bón, trẻ em co Châm sâu 0,5 – thân trong va gan chân ngoài giật, quyết lạnh 1cm
9. Dương lăng tuyền Hợp kinh đởm
Chỗ lõm giữa đầu trên xương Đau thần kinh tọa, liệt nửa Châm sâu 1chày và xương mác. người, liệt chi dưới, đau ½ bên 1,5cm người, nôn mửa, trẻ em co giật
10. Dương giao Kinh đởm
Từ mắc cá ngoài xương chày đo lên 7 thốn trên đường nối với đương lăng tuyền.
Ngực sườn đau tức, đau khớp gối
Châm sâu 11,5cm
11. Dương phụ Kinh đởm
Từ mắc cá ngoài đo lên 4 thốn Đau ½ đầu, đau vai gáy, đau trên đường nối với đương lăng thần kinh hông to, lao hạch, tuyền. sốt rét
Châm sâu 11,5cm
12. Đại đô huỳnh Kinh tỳ
Chỗ lõm phía trên trong chân Đầy bụng, đau bụng, sốt không Châm sâu 0, ngón các ra mồ hôi 5cm
13. Đại đôn tinh Kinh can
Cách 2mm góc chân ngoài móng cái
Viêm màng tinh hoàn, tiểu ra Châm sâu 0,5máu, tiểu dầm 0,7cm 32
14. Đại chung Lạc Kinh Từ dưới thái khê ½ thốn, đo ra thận sau 0,4 thốn 15. Địa cơ khích Kinh tỳ 16. Độc tỵ Kinh vị
Từ âm lăng tuyền đo xuống 3 thốn Chỗ lõm dưới ngoài xương bánh chè
Ho ra máu, đau bụng, hen
Châm sâu 11,5cm
Tức ngực, tiêu chảy, kinh nguyệt không đều, di tinh, bí tiểu tiện, đau bụng
Châm sâu 0,5cm
Di tinh, bí tiểu tiện, đau bụng, Châm sâu 1cm đau khớp gối
17. Giải khê Kinh vị
Trên lằn chỉ cổ chân, giữa gân Đầy bụng, táo bón, co giật, đau Châm sâu 0,5cơ duỗi chung ngón chân và thần kinh tọa, nhức đầu 1cm duỗi riêng ngón cái
18. Hãm cốc Du Kinh vị
Từ giải khê đo xuống 3 thốn, giữa xương đốt bàn chân 2-3
19. Hành gian Huỳnh kinh can 20. Hiệp khê Huỳnh Kinh đởm 21. Hoàn Khiêu Kinh đởm
Đau răng, liệt dây VII, chảy Châm sâu 0,5máu cam, đầy bụng, tiêu chảy 1cm
Kẻ ngón chân 1 và 2 đo lên 1,5 Đa kinh, viêm niệu đạo, tiểu thốn dắt, cao huyết áp, nhức đầu, viêm màng tiếp hợp Kẻ ngón chân 4-5 đo lên 1,5 thốn
Nhức đầu, hoa mắt, ù tai, sốt, đau màng sườn
Châm sâu 0,51cm Châm sâu 46cm
Lõm phía sau mấu chuyển lớn Đau thần kinh tọa, liệt chi dưới, Châm sâu 1xương đùi, trên cơn mông to đau nửa người, nôn mửa, trẻ 1,5cm em co giật
22. Huyền chung Kinh Từ mắc cá ngoài đo lên 3 thốn đởm trên đường nối với dương lăng tuyền
Liệt ½ người, đau ½ người, ngực đầy tức, đau thần kinh hông to
Châm sâu 11,5cm
23. Huyết hải Kinh tỳ
Góc trong xương bánh chè đo Kinh huyệt không đều, rong Châm sâu 0,5lên 2 thốn kinh, dị ứng, đau khớp gối, đau 1cm thần kinh đùi
24. Kim môn Khích Kinh bàng quang
Sau dưới lồi củ xương đốt bàn Nhức đầu, đau gáy, động kinh, Châm sâu 0,5V co giật trẻ em, thấp khớp 0,7cm
25. Kinh cốt Nguyên kinh bàng
Trước trên lồi củ xương đốt bàn V
Động kinh, nhức đầu, đau lưng, đau bàn gót chân
Châm sâu 0,51cm
26. Khâu khư Nguyên Kinh đởm
Chỗ lõm trước trong mắt cá ngoài xương mác
Đau cổ chân, đau thần kinh tọa, đau ngực, sườn, sốt rét
Châm sâu 0,51cm
Tận cùng nếp gấp trong kheo chân khi gấp cẳng chân 900
Đau, ngứa vùng hạ, vị, viêm, viêm âm đạo, bí tiểu tiện, di tinh
Châm sâu 11,5cm
Từ mắc cá trong xương chày Kinh huyệt không đều, đau h5 đo lên 5 thốn, sát bờ sau trong vị, đau tinh hoàn, bí tiểu tiện
Châm sâu 11,5cm
27. Khúc tuyền Hợp Kinh can 28. Lãi câu Lạc Kinh can
33
xương chày 29. Lệ Đoài Tinh Kinh vị
Cách 2mm góc ngoài chân móng ngón 2
Nhức đầu, liệt dây VII, chảy máu cam, sốt đầy bụng
Châm sâu 0, 3cm
30. Lương khâu Khích kinh vị
Từ góc ngoài xương bánh chè đo lên 2 thốn
Đau dạ dày, tiêu chảy, viêm tuyến vú, đau khớp gối
Châm sâu 11,5cm
31. Ngoại khâu Khích kinh đởm
Từ dương giao đo ra sau 1 khoát ngón tay trỏ
32. Nhiên cốc Huỳnh kinh thận 33. Nội đình Huỳnh Kinh vị
Chỗ lõm phía dưới trước xương Kinh huyệt không đều, di tinh, Châm sâu 0,5sên ho ra máu, tiều chảy, co giật, 1cm đau cổ chân Kẻ ngón chân 2-3 đo lên 0,5 thốn và phía mu chân
Đau răng, liệt dây VII, chảy máu cam, sốt cao, đau bàn chân, tiêu chảy
Châm sâu 0,51cm
Đau lưng, nhức đầu, hoa mắt, chảy máu cam
Châm sâu 11,5cm
Từ túc tam lý đo xuống 5 thốn Đau thượng vị, suyễn, đờm đo ra sau 1 khoát nhiều, đau thần kinh hông to, chóng mặt nhức đầu
Châm sâu 12cm
34. Phi dương Lạc Kinh Côn lôn đo thẳng lên 7 thốn bàng quang 35. Phong long Lạc Kinh vị 36. Phụ dương Kinh bàng quang 37. Phục lưu Kinh Kinh thận
Đau thần kinh hông to, đau vai Châm sâu 1gáy, đau ngực sườn 1,5cm
Côn lôn đo thẳng lên 3 thốn Trên thái khê 2 thốn
Đau lưng, đau đầu, đau gót chân
Châm sâu 12cm
Tiêu chảy, đầy bụng, liệt chi Châm sâu 0,5dưới, ra mồ hôi trộm, bí tiểu 1cm tiện, phù, sốt không ra mồ hôi
38. Quang minh Lạc kinh đởm
Từ mắc cá ngoài đo lên 5 thốn trên đường nối với dương lăng tuyền
Viêm màng tiếp hợp, trẻ em khóc đêm, viêm tuyến vú
Châm sâu 11,5cm
39. Thái bạch Du Nguyên kinh Tỳ
Chỗ lõm phía dưới trước xương Đau bụng, nôn mửa, tê phù, Châm sâu 0,5đốt bàn chân 1 về phía gan cước, đau thượng vị, tiêu chảy 0,7cm chân
40. Thái khê DuNguyên kinh Thận
Chỗ lõm sau mắt trong xương Ù tai, đau răng, hen suyễn, Châm sâu 0,5chầy kinh huyệt không đều, di tinh, 0,7cm mất ngủ, đau thắt lưng
41. Thái xung Du Nguyên kinh can
Kẻ ngón 1 và 2 đo lên 2 thốn về phía mu chân
Đau tinh hoàn, tiểu dầm, bí Châm sâu 0,5tiểu, nhức đầu, cao huyết áp, 1cm viêm màng tiếp hợp mất ngủ, chóng mặt hoa mắt
42. Tam âm giao Kinh Từ mắc cá chân đo lên 3 thốn, Đau bụng, rối loạn tiêu hóa, rối Châm sâu 134
tỳ 43. Thông cốc Huỳnh kinh bàng quang
cách bờ sau xương chày 1 khoát ngón tay
loạn kinh nguyệt, di mộng tinh, mất ngủ, bí tiểu
1,5cm
Chỗ lõm đầu dưới đốt 1 ngón 5
Dộng kinh ,chảy máu cam, nhức đầu, cứng gáy
Châm sâu 0,5cm
44. Thương khâu Kinh Chỗ lõm đầu dưới trước mắc cá Đầy bụng, táo bón, trỉ, đau hạ kinh tỳ trong xương chày vị, đau lưỡi, đau khớp cổ chân
Châm sâu 0,5cm
45. Thừa phù Kinh B.quang
Giữa nếp lằn mông
Đau thần kinh hông to, trĩ
Châm sâu 23cm
46. Thừa sơn Kinh B.quang
Giữa bắp chân, nơi hợp lại cơ sinh đôi
Đau thần kinh hông to, trĩ, chuột rút
Châm sâu 12cm
47. Thúc cốt du Kinh bàng quang
Chỗ lõm đầu dưới xương đốt bàn chân 5 phía ngoài bàn chân
Động kinh, nhức đầu, đau lưng, đau gối
Châm sâu 0,51cm
48. Thùy tuyền Khích kinh thận
Dưới thái khê 1 thốn
49. Túc tam lý Hợp Kinh vị
50. Túc lâm khấp Du kinh đởm 51. Túc khiếu âm Tinh kinh đởm
Kinh nguyệt không đều, thống Châm sâu 0,5kinh, bí đái 0,7cm
Từ độ tỵ đo xuống 3 thốn, cách Đau dạ dày, rối loạn tiêu hóa, mào chày 1 thốn đau thần kinh hông to, liệt dây VII, sốt, làm cường tráng cơ thể
Châm sâu 11,5cm
Kẻ ngón 4 và 5 đo lên 2 thốn Viêm màng tiếp hợp, lao hạch, Châm sâu 0,5đau ngực sườn, viêm tuyến vú, 1cm sốt rét Cách 2mm góc ngoài chân móng ngón 4
Nhức ½ đầu, ù tai, đau thần kinh liên sườn, sốt cao
Châm sâu 0,3cm
52. Trung phong Kinh Từ giữa cổ chân (giải khê) đo Thống kinh, di tinh, đau vùng Châm sâu 0,5kinh can vào trong 1 thốn, trong gân cơ tinh hoàn, bí tiểu tiện 1cm duỗi riêng ngón cái 53. Trung đô Khích Kinh can 54. Uy trung Hợp Kinh bàng quang 55. Xung dương Nguyên kinh vị
Từ mắc cá trong đo lên 7 thốn sát bờ sau trong xương chày Giữa nếp lằn kheo chân
Từ giải khê đo xuống 1,5 thốn giữa xương đốt bàn 2-3
Đau vùng tinh hoàn, tiểu ra máu, cơn đau dạ dày
Châm sâu 11,5cm
Đau thắt lưng, đau thần kinh Châm sâu 0,5hông to, đau khớp gối, liệt ½ 1cm người, nôn mửa Liệt dây VII, đau răng, đau khớp bàn chân
Châm sâu 0,5c
Châm cứu cổ điển và hiện đại (Phần 2) - Thực hành châm cứu - Thể châm I/ Thực hành châm cứu – Thể châm 35
A. Dụng cụ 1/ Kim: Thường làm bằng thép không rỉ, một só ít bằng vàng, ab5c, gồm mũi kim và cán kim. Nhiều kích thước khác nhau. - Kim ngắn: mũi kim dài từ 1,5cm–2cm, ø từ 0,3–0,5mm. Dùng châm vùng đầu mặt và châm cho trẻ em. - Kim vừa: mũi kim dài 3cm–4cm, ø từ 0,5–0,7mm. Dùng châm vùng bụng, ngực, lưng và chi. - Kim hoàng khiêu: mũi kim dài 7-8cm, ø từ 0,7–1mm. Dùng châm huyệt hoàn khiêu, châm xuyên nhiều huyệt… - Kim dài: mũi kim dài 10-15cm, ø từ 1-1,2mm. Dùng châm xuyên huyệt, châm tê phẫu thuật… - Kim tam lăng: dài 3cm, đầu mũi kim mài hình chóp tam giác. Dùng châm nặn máu. - Kim tiêm và Seringue 5ml để thủy châm. 2/ Ngải cứu:Là chất liệu thường được dùng để cứu. Dùng lá ngải cứu phơi khô, vò nát, loại bỏ cành và gân lá, được một thứ ngải cứu rất mịn gọi là ngải nhung. Có thể dùng để cứu lót, gọi là mồi ngải, hoặc cuốn thành điếu để cứu trực tiếp gọi la điếu ngải. 3/ Sát khuẩn: Cận lâm sàn dùng cồn 70 độ. 4/ Khay châm cứu: Để thuận tiện cho việc châm cứu và bảo đảm vô khuẩn cho việc châm, khay châm và khay cứu gồm có: - Khay men hoặc khay nhôm sạch. - Một đĩa lồng bằng thủy tinh đựng kim ngắn và vừa, một ống thủy tinh đựng kim hoàn khiêu và kim dài. Hoặc một hộp nhôm có lót gạc để cắm các loại kim, cắm thành hàng theo thứ tự chiều dài. - Một đãi lồng đựng bông cồn 70 độ. - Hộp nhôm đựng kim tiêm và Seringue 5ml. - 2 pince không mấu, 1 pince có mấu, lọ cắm pince vô khuẩn. - Hộp đựng kim bẩn, dĩa đựng bông bẩn. - Khay cứu gồm một hộp đựng ngải nhung và điều ngài. Một gạt tàn, một dao nhỏ để thái gừng.
B. Thao tác châm cứu 1/ Châm kim ngắn và vừa: để đảm bảo châm nhanh gọn vô khuẩn tốt, tráh đau cho người bệnh cần châm theo các bước sau đây: - Sát khuẩn: sau khi đã xác định được huyệt, dùng pince không mấu cặp bông cồn 70 độ, sát khuẩn vùng định châm. Sát khuẩn theo xoáy trôn ốc, từ trong ra ngoài. - Căng da: tay thuận cầm kim, tay kia căng da. Dùng ngón trỏ và ngón cái căng da vùng định châm theo chiều hay chun dãn của da. Vừa căng da vùng hơi ấn xuống. - Châm kim: hơi ấn đầu mũi kim xuống da, lắc nhẹ cổ tay cho mũi kim đi nhanh qua da. Sau khi kim đã châm sâu vào độ 0,5cm thì xoay nhẹ kim và hướng theo chiều định châm. 36
2/ Châm kim hoàn khiêu và kim dài: Cũng tương tự như trên. Vì kim quá dài không thể cầm ở các, nên phải dùng bông vô khuẩn lót cầm cách đầu kim chừng 1,5cm. 3/ Châm kim tam lăng: Dùng ngón trỏ và ngón cái của 2 tay vuốt da dồn về huyệt định châm, khi nào thấy vùng da đỏ lên là được. Dùng 2 ngón tay véo da đó lên để châm. Châm xong nặn ra vài giọt máu, rồi dùng bông khô thấm đi. 4/ Châm xuyên huyệt: cần nắm được giải phẫu vùng định châm để tránh châm vào mạch máu, thần kinh lớn. 5/ Thủy châm: thao tác tương tự như tiêm bắp. Đâm kim vào sâu từ 1-1,5 cm. Xoay nhẹ pítông xem có vào mạch máu không. Sau đó từ từ bơm thuốc, mỗi huyệt từ 0,5-1ml. 6/Điện châm: trước hết phải châm kim đúng huyệt, đạt đắc khí. Sau đó bật công tắc máy điện châm, kiểm tra lại máy xem có trục trặc không, các đầu dây có điện ra không (để ở cường độ nhỏ nhất, dí hai đầu d6ay vào vùng da mỏng ở mặt, cẳng tay nếu hơi có cảm giác tê là được). Nối các đầu dây vào cán kim, tăng dần cường độ đến khi có kích thích đủ mạnh hợp với bệnh nhân, rồi tăng dần tần số đến mức điều trị lưu kim 15’. Khi rút kim phải hạ dần tần số và cường độ xung điện về không rồi mới tắt máy tháo dây dẫn khỏi kim rồi rút kim. 7/ Cứu lót: thái gừng tươi thành từng lát mỏng độ 2mm, đặt lên huyệt định cứu. Dùng 3 ngón tay dúm ngải nhung thành một mồi ngải hình chóp nón, đặt lên miếng gừng. Dùng hương châm lửa vào mồi ngải. Mồi ngải cháy sẽ truyền nhiệt và tiết tinh dầu xuống huyệt khi bệnh nhân thấy nóng, lót thêm miếng gừng mới xuống dưới. 8/ Cứu gián tiếp: Đánh dấu những huyệt định cứu. Châm điếu ngả, thổi cho cháy đều rồi hơ vào huyệt, cách độ 1,5cm. Khi bệnh nhân thấy nóng thì chuyển sang hơ huyệt khác, cứ như vậy luân phiên cứu các huyệt. Khi thấy vùng da huyệt đỏ lên là được. Tránh để rơi tàn hoặc cứu quá lâu gây bỏng cho người bệnh.
C. Đắc khí Là hiện tượng xảy ra khi châm kim vào huyệt. Thường dựa trên cảm giác của người bệnh. Có hiện tượng đắc khí chứng tỏ đã châm vào đúng huyệt. Và đạt tới ngưỡng kích thích của người bệnh. Nên châm cố gắng đạt được đắc khí thì hiệu quả điều trị mới cao. Gọi là đắc khí, nếu sau khi châm kim xong: - Người bệnh thấy tê tức nặng chướng tại huyệt vừa châm. Cảm giác này có khi còn lan tỏa ra xung quanh hoặc lên trên xuống dưới theo đường kinh. - Thầy thuốc thấy vùng da xung quanh kim đỏ hoặc tái đi, kim như bị mút chặt. Châm kim mà không thấy đắc khí, có thể do: - Châm sai huyệt. - Châm nông hoặc châm quá sâu: rút kim lên hoặc ấn sâu vào một ít làm lại độ vài lần, người sẽ thấy cảm giác đắc khí. - Người bệnh quá yếu hoặc vùng da mất cảm giác thì chũng không thấy đắc khí. 37
D. Thủ thuật tăng tác dụng điều trị Để tăng tác dụng điều trị của châm cứu, có nhiều biện pháp như: chọn huyệt phù hợp với chẩn đoán, phối hợp huyệt theo lý luận cổ truyền, tăng tác dụng của huyệt bằng thuốc, xung điện, xoa bóp…nhưng trước hết cần phân biệt tình trạnh hư thực của người bệnh để có thủ thuật phù hợp. Hư: Tình trạnh của người bệnh mắc bệnh đã lâu ngày, người mệt mỏi suy nhược. Biểu hiện bệnh tại chỗ không dữ dội: sưng đau ít, đau âm ỉ, hạn chế vận động nhiều. Bệnh thường liên quan toàn thân. Thực: Người bệnh còn tương đối khỏe, bệnh mới mắc. Tại chỗ biểu hiện dữ dội: sưng nóng đỏ nhiều, đau dữ dội thành cơn, hạn chế vận động nhiều vì đau… Bệnh thường khu trú tại một vùng hoặc một cơ quan. - Điều trị chứng hư dùng thủ thuật bổ để nâng đỡ chính khí, dưỡng cơ thể để phối hợp với tác dụng của huyệt điều trị. - Điều trị chứng thực dùng thủ thuật tả để xua đuổi tà khí, đuổi tác nhân gây bệnh ra ngoài, dập tắt các phản xạ bệnh lý. - Thủ thuật Bổ tả có nhiều nội dung, nhưng chủ yếu gồm:
Thủ thuật
Điều trị
Thao tác
Châm vào
Hướng kim
Bổ
Hư
Lúc thở ra
Xuôi đường kinh
Tả
Thực
Lúc hít vào
Ngược đường kinh
Rút kim, bịt chặt lỗ kim.Để hở lỗ Kích thích nhẹ thỉnh thoảng kim vê kim
Mạnh, vê kim liên tục.
E. Đề phòng tai biến và xử trí tai biến. Tai biến trong châm cứu rất ít khi xảy ra, tuy vậy cần nắm chắc cách phòng tránh để đảm bảo an toàn cho người bệnh. 1/ Vựng châm: - Triệu chứng: Người bệnh lạnh, da lạnh dần. Vã mồ hôi thành từng giọt. Tinh thần hốt hoảng, sợ hãi. Mạch nhanh nhỏ khó bắt. Có khi người bệnh thấy khó thở, co thắc các cơ trơn, gây đau bụng dữ dội, tiêu tiểu không tự chủ. Đây lả tình trạng sốc thần kinh do châm cứu, có thẩ nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. - Xử lý: rút kim ngay; - Ủ ấm cho người bệnh, - Cho người bệnh uống nước chè đường ấm, - Giải thích cho người bệnh yên tâm. - Có thể tiêm thuốc trợ sức, trợ hô hấp: long não, Caphein,Spartein. 38
Thông thường chỉ cần như vậy là đủ. Nếu tình trạng bệnh nhân tiêp tục nặng lên, cần xử trí tiếp như một sốc thực sự: thở ôxy, tiêm thuốc trợ tim. - Phòng: + Trước khi châm cứu cần giải thích cho người bệnh yên tâm. + Không châm cứu cho người bệnh quá yếu, đanh đói, vừa lao động nặng xong, say rượu. + Thao tác cần nhẹ nhàng, tránh thô bạo. + Cần lưu ý các huyệt dễ gây vựng như: hợp cốc, phòng trì, kiên tỉnh, thái xung, khúc trì… + Khi thủy châm cần bơm thuốc từ từ, lượng vừa phải (0,5-1ml mỗi huyệt). 2/ Nhiễm trùng: Thường xảy ra khi không vô trùng tốt trong châm cứu. Nhẹ có thể gây viêm đỏ nốt châm kim. Nặng có thể gây áp xe vùng châm cứu. Chú ý châm kim có thể gây lây truyền các bệnh vi như: viêm gan SVT, Sida. Để tránh xảy ra nhiễm trùng cần hấp kim lỹ, sát khuẩn vùng da châm cẩn thận, tay thầy thuốc phải sạch, trang phục gọn gàng, buồng châm phải sạch sẽ thoáng mát 3/ Châm vào các cơ quan bên trong: Rất hiếm xảy ra, nhưng để lại hậu quả xấu, châm vào hành não gây ngừng tim đột ngột, châm vào phổi gây tràng khí màng phổi, châm vào ổ bụng gây viêm phúc mạc... 4/ Gãy kim: Xảy ra do dùng kim cũ hoặc do người bệnh dẫy dụa nhiều. Cần tránh bằng cách dùng kim thẳng. Không cong vẹo nhiều, châm cho trẻ em, người hôn mê, người bệnh tinh thần cần châm kim rút ngay, không lưu kim. 5/ Bỏng: do để tàn rơi vào người bệnh hoặc cứu qua lâu, quá nóng tại một huyệt để tránh bỏng cần chế biến ngải nhung thật mịn tàn sẽ đỡ rơi vụn. Tránh động viên người bệnh chịu nóng. 6/ Chảy máu: Thường xảy ra trên da người già, do thao tác thô bạo, làm vỡ tĩnh mạch nông dưới da. Cần châm nhẹ nhàng, nắm được giải phẫu. Dùng kim thẳng, tránh vê kim quá nhiều.
39