VÔ THƯỜNG
HỌC TẬP
ĐÔNG Y TRUYỀN THỐNG
2011 - 2013 1
LỜI NÓI ĐẦU Truyền thống Đông Y là Đạo học - Khí Hóa, Khoa học tự nhiên này đã được Kinh Dịch diễn tả từ nhiều ngàn năm nay :
ĐẠO HỌC : là học tận nguồn về lý sự chân thật của sự vật bao gồm gốc bản chất là Âm Dương thống nhất (tuyệt đối) và ngọn hiện tượng là Âm Dương đối lập (tương đối).
KHÍ HÓA : là nhận định tính biến hóa [sinh - trưởng – thâu – tàng] của Âm Dương nơi sự vật với năng lực nội tại và môi trường của chúng là khí.
Cụ Việt Nhân Lưu Thủy khi thuật các BẢN NGHĨA của hai sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận đã cảm khái 3 câu bất hủ : Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị ĐẠO Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị KHÍ Tam Âm Tam Dương Chi Vị KINH Luận Đạo là theo Dịch Tiên Thiên mà Thuận TỰ NHIÊN, luận Khí là theo Dịch Trung Thiên để Hòa LỢI HẠI, luận Kinh là theo Dịch Hậu Thiên để quyền biến Tùy SINH HOẠT.
Y giới hiện nay thường tự hào về các sách Đông Y truyền thống là NỘI – NẠN – THƯƠNG – KIM [Nội Kinh , Nạn Kinh, Thương Hàn Luận, Kim Quỹ Yếu lược tức Tạp Bệnh Luận] nhưng không được những nhà khoa học chấp nhận vì Nội Nạn thì rời rạc không hệ thống còn Thương Kim thì khó hiểu. Nhưng vấn đề khó hiểu này đã được Cụ Việt Nhân Lưu Thủy giải bày đầy đủ nơi hai tác phẩm Thương Hàn Luận Bản Nghĩa và Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa với đề xướng Chấn hưng Đông Y. Chúng tôi nguyện tiếp nối và học hành Đông Y truyền thống như Cụ Việt Nhân Lưu Thủy đã đề xướng. Xuân Quý Tỵ 2013 Huỳnh Hiếu Hữu
.
2
PHẦN 1
TRÊN ĐƯỜNG HỌC TẬP 1. ĐỌC SÁCH Tiếp bước học Đông Y, tôi trở thành người đọc sách . Tôi đọc sách với tham vọng tìm hiểu đầy đủ ngành học tập của mình.Trãi suốt gần 40 năm ,bước vào tuổi 60 tôi mới có được một vài kinh nghiệm như vầy : A. SÁCH CÓ LỢI HẠI: Lúc đầu đọc sách tôi chủ quan chỉ thấy mặt lợi của sách , sau nầy khi hiểu biết thêm về Âm Dương tôi mới thấy sách cũng là một phương tiện tất nhiên cũng có hai mặt lợi và hại :
Sách có lợi : nói được chân lý, dẫn con người đi đến sự thật, thêm sáng suốt và tăng trưởng tình thương .
Sách có hại : thêu dệt ảo tưởng đưa con người vào đam mê lầm lạc, trở nên mù quáng và nuôi thêm thù hận.
Người đọc sách phải sáng suốt nhận định, chẳng những không bị cám dỗ bởi lợi hại mà còn phải tỉnh thức làm chủ chính mình. B. PHÂN LOẠI CÁC SÁCH: Dù là đọc sách để học tập ngành nào trong xã hội cũng nên phân loại như sau:
Đạo học : loại này rất hiếm , thường không có danh mục sách tham khảo , gồm các kinh điển , các truyện và luận tiếp theo kinh điển , các sách chú giải kinh điển . Kinh điển như : Kinh Dịch ,Đạo đức kinh,Nội kinh ..v..v…
Các truyện và luận như Kinh Dịch Thập truyện của Khổng Tử , Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Trọng Cảnh . Các sách chú giải như Vương Băng chú Nội Kinh Tố Vấn , Thành Vô Kỷ chú Thương Hàn Luận , Vưu Tại Kỉnh chú Kim Quỹ Yếu Lược cũng được xếp vào loại này. Nhưng các sách còn lại như Dịch Trình truyện, Dịch bản nghĩa của Chu Hy đời Tống và các sách chú giải kinh Dịch, Thương Hàn
3
,Tạp Bệnh đời sau ,nếu xếp vào loại này cũng chỉ miễn cưỡng vì hầu hết các nhà đều dùng cái trí thức hạn hẹp để đo cái lòng cao rộng của Thánh Nhân . Các di cảo của Cụ Việt Nhân Lưu Thủy tất nhiên được xếp loại này vì chỉ là Bản nghĩa Âm Dương Hàn Nhiệt của hai sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Trọng Cảnh .
Khoa học : loại này rất nhiều, thường là sưu khảo hoặc ứng dụng các sách đã viết trước đó, thường có danh mục sách tham khảo nhằm giúp người đọc dễ xem xét .
Linh tinh: các sách không đủ đặc tính để xếp loại Đạo học và Khoa học .
C. TRAU DỒI TRÌNH ĐỘ: Người đọc cần biết sách là một công trình của người viết, đúc kết một quá trình học tập hoặc bày tỏ tư tưởng của mình nên :
Có khi khó vì trình độ người đọc chưa tới .
Có khi dễ vì trình độ người đọc cao hơn.
Khi người đọc có trình độ [gồm cả tri thức và đạo đức] tương ưng thì sự thật nơi sách sẽ hiện bày và không còn khó dễ.
Cho nên khi thấy sách khó hiểu người đọc nên xét lại và trau dồi thêm trình độ của mình. D.
SÁNG SUỐT LÒNG TIN :
Trong đọc sách người đọc thường mắc phải tính mù quáng cả tin vào sách,hoặc ngược lại không tin. Cả hai mặt này đều là khuyết điểm cho nên cần phân hiểu : Mê tín : Đặt trọn lòng tin nơi sách hoặc người viết . Chánh tín : Tin nơi chơn lý tự nhiên sự thật . Tôi rút được một kinh nghiệm bản thân khi gặp được các di cảo của Cụ Lưu Thủy ,rất mừng thấy ngay là một bí kiếp trong Đông Y. Và tôi liền đặt hết tin tưởng nơi Cụ Lưu Thủy, không ngờ đó là mê tín khiến cho sự học tập thiếu sáng suốt và trì trệ .Sau này khi đã thấy được vài điều Cụ chưa nói ,mà tôi vẫn tin tưởng thì mới rõ là Chánh tín.
4
.
2. HỆ TỪ VÀ CHÍNH DANH A. HỆ TỪ: Văn hóa Phương Đông nổi bật là nền Triết học dựa trên học thuyết Âm Dương được mô tả rất sớm nơi Kinh Dịch từ khi chưa có chữ viết. Ngày nay người phương Đông dễ dàng nhận biết các hiện tượng Âm Dương như ngày đêm, sáng tối, cao thấp, nam nữ, đực cái .v.v.. Nhưng hời hợt là vậy, còn sâu rộng đến trình độ hiểu được các sách kinh điển thì rất hiếm. Do đâu mà có trở ngại như vậy ?, đó là thói quen của người ngày nay đọc sách xưa chỉ hời hợt hiểu theo nghĩa chữ, không chịu biết người xưa diễn đạt mọi vấn đề đều là nhận thức tự nhiên, mỗi từ được dùng đều phù hợp với sự vật chân thật, mà trước khi có chữ viết những nhận thức này đã được truyền khẩu dính liền (Hệ) với hình tượng và số đếm. Sau này khi có chữ viết thì hầu hết các thuật ngữ được dùng đều là Hệ Từ. Cho nên, người học tập sách xưa không biết về Hệ Từ tất nhiên không thể thấu triệt. 1. ĐẶC TÍNH CỦA ÂM DƯƠNG : Người học tập lý luận cơ bản về Âm Dương, ai cũng biết chúng nó có 3 đặc tính cần và đủ là tương đối, hổ căn, bình hành: a. Tương đối: là Âm Dương đối lập qua Tâm của một vòng tròn. b. Hổ căn: cùng có một gốc là toàn thể sự vật (Thái Cực), cùng song sinh, cùng tồn vong nơi sự vật. Không nên cố chấp là Dương sinh Âm, hoặc Âm sinh Dương (nghĩa trắng là chồng sinh vợ, hoặc vợ sinh chồng) mà chỉ có thể hiểu đúng với sự thật là cha sinh con gái, mẹ đẻ con trai, trai gái thành đôi vợ chồng. c. Bình hành: nhiều người cố chấp với nghĩa ngang bằng nhau nhưng không thể hẹp hòi như vậy dù cho Âm Dương có đồng là 2 bán của 1 đường kính, thì 2 chiều thuận nghịch của Âm Dương cũng diễn đạt 2 chiều hướng tâm và ly tâm (Dương bình hướng tâm, Âm hành ly tâm).
Nhấn mạnh các chữ cần và đủ là ngụ ý chỉ với 3 đặc tính này là cần để diễn đạt về Âm Dương và đủ để thấy rõ Đạo Tam Cực gồm cả Âm Dương thống nhất tại Tâm và Âm Dương đối lập qua Tâm.
5
.
3 ĐẶC TÍNH CỦA ÂM DƯƠNG TƯƠNG ĐỐI
+
HỔ CĂN DƯƠNG
BÌNH HÀNH DƯƠNG BÌNH
= -
TRUNG HÒA
ÂM
HÀNH ÂM
2. VAI TRÒ CỦA HỆ TỪ: Từ là lời lẽ (lý luận) dùng làm thuật ngữ trong các sách lưu truyền xưa nay; cận đại thì việc dùng Từ có nghĩa gần với Khoa học (ngọn) nhưng xa với Đạo học (gốc); còn các kinh sách cổ truyền thì trái lại dùng Từ dính liền (Hệ) với Tượng Số. Cho nên có thấu được Hệ Từ thì mới hiểu được cội nguồn văn minh Phương Đông. Người xưa tạo lập chữ viết (chữ Nho) hầu hết là theo Tượng Số (tượng hình, tượng thanh, tượng số .v.v…). Ví dụ: chữ Nhơn là người gồm tượng 2 nét, nét phết bên trái tượng Dương, nét chấm bên phải tượng Âm; chữ Nhất là một có 1 nét ngang; chữ Nhị là hai có 2 nét ngang; chữ Tam là 3 có 3 nét ngang. a. Tượng :
Hình tròn: Tượng Vô Cực, Thái Cực, toàn thể sự vật.
Hình tam giác: Tượng Tam Cực, Tam Tài, Tam Vận.
Hình hai tam giác đối đỉnh: Tam giác có đỉnh trên (màu đỏ) tượng Tam Dương, Tam Cực Tiên Thiên. Tam giác có đỉnh dưới (màu đen) tượng Tam Âm, Tam Cực Hậu Thiên.
Hình vuông: Tượng Tứ Kinh, Tứ Khí, Tứ Kỳ Kinh.
Hình tròn có hình vuông nội tiếp: Tượng Thái Cực nhi Tứ Tượng (sự tích bánh chưng bánh dầy, lời chúc mẹ tròn con vuông trong văn hóa Việt Nam).
.v.v…
b. Số:
6
Về các số thủy chung, Âm Dương đã nhiều lần trình bày nên không lập lại; nơi đây chỉ nhắc lại các số dùng chung với Hào được gọi là Hệ, trình bày nơi Kinh Dịch:
Hệ 1 Hào: Tượng Lưỡng Nghi có 2 quẻ là Âm và Dương.
Hệ 2 Hào: Tượng Tứ Tượng có 4 quẻ là Dương Nhiệt, Âm Hàn, Dương Hàn, Âm Nhiệt.
Hệ 3 Hào: Tượng Bát Quái có 8 quẻ là Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Hệ 4 Hào: Tượng 16 Tứ Trung Hào cũng là 16 Tạng Tượng nơi thân người.
Hệ 5 Hào: Tượng 32 quẻ chưa Hệ tên (ngờ là 32 Tướng tốt của Phật).
Hệ 6 Hào: Tượng Vạn Vật có 64 quẻ đã được Hệ tên.
3. SỰ TIẾN HÓA CỦA NHÂN LOẠI: Hiện tại loài người đang tiến theo xu thế toàn cầu hóa, Phương Tây với sở trường Khoa học Thực Nghiệm đã hướng về Phương Đông để phát triển kỹ thuật; Phương Đông với sở trường Đạo học Khí Hóa cũng tương ứng hướng tới Phương Tây để củng cố pháp tắc. Khoa học hổ trợ Đạo học, Đạo học giúp đỡ Khoa học; Gốc và ngọn vốn không thể rời, tương giao tốt càng thêm tươi đẹp.Từ là ngôn ngữ liên tục phát triển theo kịp Khoa học, Tượng Số là những biểu tượng để lưu truyền Đạo học, muốn nối liền Khoa học với Đạo học hoặc ngược lại không thể chỉ riêng biết về Từ hoặc về Tượng Số mà phải kết hợp, đó là sử dụng Hệ Từ. Văn hóa Việt Nam có truyền tụng lâu dài hai câu thơ lục bát: Mười phần hết bảy còn ba Hết hai còn một mới ra thái bình Nhiều người bàn đến gọi là Sấm Trạng Trình, có người thay chữ hết là chữ chết hoặc chữ mất nhưng hầu hết có luận bàn tiên đoán là một cuộc tang thương sẽ xảy đến cho dân tộc với thảm họa mười phần chỉ còn một. Có hành giả tu Phật lại nói hai câu thơ này ngụ ý chỉ ra con đường tiến hóa của nhân loại. Con đường này là vui bỏ tánh phức tạp của chúng sanh để nuôi dưỡng tính giản dị của người hành Đạo Tam Cực (mười phần hết bảy còn ba); kế tiếp là hành pháp không hai (xuất gia) rời lối sống tương đối hướng tới đích tuyệt đối (hết hai còn một mới ra thái bình). Một nhà Khoa học muốn nắm vững nguồn gốc, một nhà Đạo học muốn hiện đại hợp thời tức nhiên không thể không biết vai trò của Hệ Từ là Trung Đạo, con đường tiến hóa của nhân loại. B. CHÍNH DANH: 7
Vạn vật trong Vũ trụ sinh hoạt bình thường với một thể trật tự, tự nhiên là Âm Dương thống nhất không rời Âm Dương đối lập. Nơi luận Đông Y với Truyền thống Đạo học Khí Hóa tôi đã mở đầu bằng Chương Dẫn Nhập, vắn tắt chỉ ra con đường cho người muốn tìm hiểu Đông Y truyền thống:
Hệ Từ: cách thức truyền tải của người xưa.
Chính Danh: dùng chữ xác thực để diễn đạt.
Chánh Tín: Lòng tin chân thật của người học tập.
Bản Nghĩa: Nghĩa gốc của Nội dung tác phẩm.
Hệ Từ và Bản Nghĩa là 2 phần sẳn có của tác phẩm không cần phải bàn thêm, nhưng Chính Danh và Chánh Tín còn tùy thuộc Tri Thức và lòng tin của người học. Thiết tưởng cần nói thêm về Chính Danh nơi Thương Hàn Luận Bản Nghĩa để giúp thêm cho các bạn muốn học tập. 1. CHÍNH DANH TẠI NGUYÊN VĂN: Đức Trọng Cảnh làm sách Thương Hàn Luận kéo dài hơn ngàn năm nay không có người hiểu thấu, phải chăng Cụ Lưu Thủy hiểu được cũng có phần nhờ biết rõ cách dùng chữ Chính Danh của Ngài. Thương Hàn Luận có Nội dung Bản Nghĩa là Tứ Bộ Âm Dương Hàn Nhiệt:
Biến Hóa: Hai thuộc tính căn bản của Âm Dương, hóa trình Dương chuyển sang Âm gọi là Biến, quá trình Âm chuyển sang Dương gọi là Hóa. Nói gọn là Âm Dương Biến Hóa.
Truyền Chuyển: Hai Kinh Dương Hàn đối giao với Âm Nhiệt. Dương Hàn từ Biểu vào Lý gọi là Truyền,Âm Nhiệt từ Lý ra Biểu gọi là Chuyển.Nói gọn là Hàn Nhiệt Truyền Chuyển.
Hệ Thuộc: thường thấy mô tả liên quan của Âm Kinh dùng chữ Hệ (Hệ tại Thái Âm), mô tả mối liên quan của Dương Kinh dùng chữ Thuộc (Chuyển Thuộc Dương Minh).
Chi Vi: Bản Nghĩa giải là Kinh Khí làm bệnh dễ có cố chấp cần mở rộng với hai mặt của một sự vật gồm Âm Dương, Tiêu Bản, Hàn Nhiệt, Biểu Lý thì có thể suy rộng thêm.
Can ẩu: Trước đây tôi cứ theo gót người trước dịch là ụa khan; Sau này mới biết là lầm vì ẩu là ói, còn uế mới là ụa. Ẩu với Thổ là một cặp Âm Dương, ẩu là ói (vừa có tiếng, vừa có vật); Thổ là mửa (không có tiếng chỉ có vật); Uế là ọe (có tiếng không có vật). Can ẩu là một chứng ói liên tục không dứt, lúc đầu có tiếng có vật rồi đến không còn vật mà vẫn còn ói.
8
Thiêu châm: Sau khi Châm đốt mồi ngãi cứu nơi đuôi kim, trước đây tôi hiểu lầm nó là Ôn pháp để trị lạnh; không ngờ Thiêu châm là Hàn pháp để trị Nhiệt chứng (châm để trị Nhiệt, đốt ngãi nơi đuôi kim để Nhiệt từ trong theo ra với Nhiệt này).
Câu đình: Hai chữ này nói về mạch tại Tấu hoặc Âm hoặc Dương đều cùng như nhau (cùng Phù cùng Trầm .v.v.. ) vì Âm Dương Hàn Nhiệt đều tập trung tại Tấu.
Vô Dương: Không có Dương chủ tại Biểu tức là không bệnh tại Biểu chứ không phải là không Nhiệt khí.
Phù Khẩn và Phù nhi Khẩn: Hai mạch này khi khám bệnh không phân biệt vì Phù Khẩn là mạch kép nhưng Đức Trọng Cảnh rất chu đáo thêm chữ nhi vào giữa hai chữ Phù Khẩn để lưu ý đây là mạch tượng của cả hai KInh Âm Dương. Cách dùng hư tự của người xưa như để nói một quá trình của Đạo (Vô cực nhi Thái cực).
2. CHÍNH DANH TẠI BẢN NGHĨA: Cụ Lưu Thủy khám phá được Nội dung làm sách của Đức Trọng Cảnh, làm Bản Nghĩa và đề xướng chấn hưng Đông Y bằng cách học tập 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận. Bản Nghĩa của 2 sách và đề xướng này là một cuộc cách mạng trong Y Giới Đông Phương đã ngàn năm nay chìm đắm trong lý luận Âm Dương (hiện tượng của Tiên Thiên), Ngũ Hành (hiện tượng của Hậu Thiên); không chịu biết cơ cấu giao tế của nó mới là bản chất. Cuộc cách mạng thực tế này chắc chắn sẽ thành công nhưng phải có thời gian và tùy thuộc kết quả tiếp nối các di cảo của Cụ. Tuy Kinh Dịch đã có Đạo Tam Cực với Bát Quái là 8 quẻ 3 hào (Thượng – Trung - Hạ) và 64 thành quái 6 hào (2 lần Đạo Tam Cực); có 16 Tứ Trung Hào với 2 hào Bản Mạt cũng thành 64 quẻ nhưng người học Dịch đã quen biết Kinh Dịch với các hiện tượng Âm Dương và 2 Thời loại Tiên Thiên và Hậu Thiên thì dù cơ cấu của Dịch có thực tế đến đâu, muốn đề cập đến Thời loại Trung Thiên cũng phải có thời gian suy gẫm. Tuy Đông Y đã có Nội Kinh ưu tiên trình bày về Kinh Lạc nhưng ngàn năm nay người học đã quen với lý luận Âm Dương Ngũ Hành, mọi bệnh chỉ chia 2 phần Biểu Lý thì dù Nhân Thân Khí Hóa thực tế đã sẳn màn lưới Kinh Lạc thì Bộ Vị Tấu phần với các sự thật Truyền biến của bệnh tật , Chuyển hóa của điều trị muốn được tiếp thu cũng phải có thời gian và đề xướng của Cụ Lưu Thủy cũng phải được tiếp nối. Do đó Bản Nghĩa của Cụ Lưu Thủy cũng cần Chính Danh cho phù hợp với thời đại:
Tấu Lý: là Bộ Vị đã có tên gọi từ Nội Kinh, chữ lý theo Hán Tự nghĩa là văn lý khác hẳn với chữ Lý là Bộ Vị đối lập với Biểu nhưng theo tiếng Việt thì 2 chữ này không khác, dễ nhầm lẫn nên xin phép chỉ dùng 1 chữ Tấu hoặc 2 chữ là Tấu phần để gọi Bộ Vị này.
Trung Kiến - Trung Hiện: Hiện nay chữ hiện 现 viết có bộ Vương 王 bên trái dễ phân biệt với chữ kiến 见. Ngày xưa thì 2 chữ này đều đồng là chữ kiến nên dễ đọc nhầm lẫn, 9
Trung Kiến là Âm Dương tuy tại 2 cực đối lập hội ngộ tại Tâm để trao đổi; còn Trung Hiện là hiện sẵn tại Tâm có nhiệm vụ nối kết 2 cực Âm Dương.
Bản Khí - Tiêu Khí: Mỗi Kinh đều chia Thủ Túc, hễ Túc là Bản Khí thì Thủ là Tiêu Khí và ngược lại.Bản là Gốc, Tiêu là Ngọn, hễ Gốc là Hàn thì Ngọn là Nhiệt và ngược lại. Cho nên Bản Khí của 1 Kinh đồng với Tiêu Khí của Kinh đối giao với nó và ngược lại.
Bản Hàn – Bản Nhiệt – Tiêu Dương – Tiêu Âm: Nội Kinh chủ trương Sinh Lý nên có Âm Dương ứng tượng đại luận gọi Bản là Âm Dương. Thương Hàn Luận chủ trương Trung Chuyển, làm bệnh do Truyền Biến từ lành đến bệnh, điều trị theo Chuyển Hóa từ bệnh trở lại lành; mọi năng lực điều là Khí nên đổi lại dùng Bản Hàn – Bản Nhiệt là 2 khí Gốc, Tiêu Dương - Tiêu Âm là 2 khí Ngọn.
Tứ Bộ Bệnh: là 4 bệnh làm nên từ 2 Kinh Dương Nhiệt và Âm Hàn, của Kinh Dương Nhiệt là Ôn Bệnh –Phong Ôn, của Kinh Âm Hàn là Hàn Thấp – Phong Thấp.
Tứ Kinh – Tứ Khí: là cốt lõi luận Bệnh lý và Pháp điều trị của 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận. Đời sau không chịu hiểu lý do còn xuyên tạc là trái với Nội Kinh và Dịch Tiên Thiên, không phù hợp với thực tế Lục Kinh Lục Khí, Ngũ Hành và Dịch Hậu Thiên. Sự thật không như vậy, có lý do rõ ràng là 2 sách này đã dùng Cơ Truyền Chuyển (Trung Thiên) để luận 1 Bộ Bệnh Lý học, không chấp Gốc cũng không chấp Ngọn mà chỉ dựa Trung Đạo, phải chăng là chân lý đời đời của Vũ trụ.
Khí – Kinh – Lạc: là mô tả Đạo Tam Cực của 1 Kinh. Xưa nay Đông Y chỉ chức năng Khí Hóa thường nói Kinh Khí, chỉ hình tích đối giao thường nói Kinh Lạc. Kinh có Âm Dương là tượng Nhân Thân đồng với Bộ Vị Trung và Khí Phong (giao khí giữa Hàn Nhiệt); Khí có tượng Trời gồm cả 2 mặt Bản (Gốc) và Tiêu (Ngọn); Lạc có tượng Đất tùy thuộc Kinh Khí (đối lập Hàn Nhiệt với Khí, tùy thuộc liên hệ với Kinh đối giao).
Chính Danh tại Nguyên Văn và Bản Nghĩa có lẽ còn nhiều chưa kể hết nhưng 1 vài thí dụ như vậy thiết tưởng cũng đã đủ để người học tập suy gẫm.
3. Y THỐNG Y Thống là y học truyền thống, nghĩa này Cụ Lưu Thủy đã nói ở sách THGK. Đông Y có truyền thống là Đạo Học Khí Hóa cũng không khác Nho giáo có nền tảng (gốc)từ Kinh Dịch.Ngày nay người học Đông Y trước hết học Lý luận cơ bản gồm có Âm Dương và Ngũ Hành .Âm Dương là gồm có 3 đặc tính là Âm Dương tương đối,Âm Dương hổ căn và Âm Dương bình hành .Ngũ Hành 10
thì gồm cả 5 Hành trên một vòng tròn để dễ dàng tóm gọn cả 2 qui luật Sinh và Khắc .Như vậy là rất xa rời truyền thống . Đạo học là học các qui luật về Âm Dương (Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo)gồm có :Đạo Trú Dạ,Đạo Tam cực và Đạo vuông tròn.Cả 3 đều có chữ Đạo dẫn đầu,đó là nói Âm Dương là một thể bất dịch thể hiện nơi đời sống của vạn vật là Âm Dương thống nhất (Đạo):
Đạo Trú Dạ:Trú Dạ là nói thêm qui luật Âm Dương đối lập như ngày đêm, trời đất, thời thế.
Đạo Tam cực:Nói tánh giao dịch,biến hóa của Âm Dương gồm 2 qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập.Âm Dương thống nhất tại tâm, tâm là cực Trung hòa.Âm Dương đối lập qua tâm,nằm trên vòng tròn là cực Dương và cực Âm.
Đạo vuông tròn: Nói tánh hữu dụng dù có mở rộng đến 2 cặp Âm Dương.v. v… (Thái cực như Tứ Tượng)thì vẫn ở trong thuộc tính của Âm Dương là giản dị.
Khí Hóa là nói Vạn vật (Âm Dương) biến hóa trong một trường gọi là Khí (Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị Khí). Đức Trọng Cảnh làm sách THL tuân thủ truyền thống Đạo Học Khí Hóa, dùng 4 chữ Âm Dương Hàn Nhiệt để thể hiện tứ Kinh tứ Khí bằng tứ Tượng là vận dụng lý Trung Đạo trong Hệ Dịch Trung Thiên.Người đời sau không chịu hiểu cho là Ngài luận trái ngược với Nội kinh .THLBN ca tụng Đức Trọng Cảnh tóm lược lục Kinh thành tứ Kinh làm cho người đời sau thêm hiểu lầm,sự thật không như vậy lục Kinh vẫn đầy đủ nơi sách TH, Ngài chỉ phân hiểu lục Kinh thành tứ Kinh (2 cặp Âm Dương đối lập, Táo Thấp, Hàn Nhiệt) và nhị Kinh(1 cặp Âm Dương Trung hiện, Phong Hỏa).
Nội kinh làm Nhiệt Bệnh Luận bàn về Kinh Thiếu Âm, chủ trì Vinh Huyết có chức vụ dưỡng nuôi để nêu ra Sinh lý.
Trọng Cảnh làm Thương Hàn Luận bàn về Kinh Thái Dương chủ trì Vệ Khí có chức vụ bảo hộ để nêu ra Bệnh lý.
Rõ ràng là Trọng Cảnh làm cho tròn đầy 1 cặp Âm Dương đối lập, đâu có thể cho là trái ngược với Nội kinh Hải Thượng Lãn Ông nói : ”Lĩnh Nam không có Thương Hàn” là không chịu hiểu về Thương Hàn, những người Việt Nam tôn thờ ông làm Y Tổ, cũng hùa theo đó không chịu học Thương Hàn Luận, làm Đông Y thêm mai một bởi cái cực đoan phủ nhận này . B/s Nguyễn văn Ba, sau khi mời Cụ Lưu Thủy về dạy tại Đông Y học viện, đã cố chấp một tâm đắc viết thành bài ’bệnh cảm lạnh’ truyền lại cho nhiều học trò, là dẫn họ vào cực đoan chấp nhận. 11
Người đọc ‘Thương Hàn Luận Bản Nghĩa’ cần tỉnh táo nhận định sách chỉ có tên theo luận đề còn nội dung Bệnh lý học nơi sách không hề thiên về Hàn hoặc thiên về Nhiệt là một đặc tính Âm Dương bình hành hằng hữu trong đời sống của vạn vật . Từ lúc còn đi học, tôi đã thích thi ca và thuộc lòng những bài thơ của 2 thần tượng là Tố Hữu và Vũ Hoàng Chương nhưng khi thấy được 2 ông này chỉ giỏi dùng thơ ca tụng bè đảng, tôi không còn thích làm thơ và đọc thơ. Đến khi học Phật tôi cũng rất ái mộ Trúc Thiên nhưng cũng lại thấy ông này giỏi về Lý hơn là Sự, hình dung câu Thi sĩ và Đạo sĩ chỉ là giao lưu trong hệ vọng tưởng trái với đời sống thực tại. Đầu năm 2006 bổng nhiên vào mấy ngày Tết, tôi lại nảy ý làm thơ và sắp xếp 1 bài thơ ngắn võn vẹn 4 câu 7 chữ với 4 chữ đầu là Việt Nhân Lưu Thủy.Các câu dùng toàn chữ Hán người Hoa không phải dịch , người Việt cũng dễ hiểu vì là chữ thường dùng, tôi lại nhớ nhiều về Cụ Lưu Thủy và đề tựa cho 4 câu này là Y Thống Y Thống Việt Nam độc lập hội Y minh Nhân loại tự do nhập Thái bình Lưu Bản Nghĩa Thương Hàn, Tạp Bệnh Thủy triều Y Dịch khải Tâm linh Nhìn lại bài thơ tôi giật mình vì thấy cũng là ca tụng. Nhưng tôi lại an lòng khi ca tụng Lưu Thủy 1 người có Đại Dục,chỉ muốn đến với Tâm Đại Bi của Đức Trọng Cảnh mà thôi . Tôi ghi lại quá trình này để chia xẻ tư tưởng học tập với các anh em trong nhóm.
4. Y GIA YẾU CHỈ Y Gia Yếu Chỉ là sách tóm gọn những hướng dẫn cốt yếu để giúp người thầy thuốc trị bệnh đại loại như Y Kinh Tinh Nghĩa trong bộ Trung Tây Hối Thông của Đường Tôn Hải, như Y Trung Quan Miện và Châu Ngọc Cách Ngôn trong bộ Y Tôn Tâm Lĩnh của Hải Thượng Lãn Ông .v.v...Trong phạm vi của bài này, không bàn dài dòng các điều đã nói trước đây, chỉ bàn hai yếu tố căn bản của cơ thể con người mà các Y gia từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây đều dùng. Ngày nay ai cũng biết Tây y sở trường về giải phẩu cơ thể nhưng trong nghiên cứu lại rất chú trọng đến Hệ Thần kinh thể Dịch (nước, máu) và Nội Tạng; Cũng không khác, ngày xưa Đông Y rất chú trọng đến Hệ Kinh Lạc và 12
Lục Phủ Ngũ Tạng, bằng chứng cụ thể ‘Nội kinh’là sách kinh điển đầu tiên đã có Linh khu chuyên bàn về Kinh Lạc và Tố vấn chủ luận về Lục Phủ Ngũ Tạng. 1. KINH LẠC: Đông Y vốn có truyền thống là Kinh Lạc và Phủ Tạng, là hai bộ phận chủ yếu của Nhân thân; tuy vậy trong hệ thống học và làm Đông Y hiện nay, việc học Kinh Lạc rất sơ sài, thậm chí Phái dùng thuốc thì không hề nói đến Kinh Lạc, Phái Châm cứu thì chỉ học qua loa, điều này đã làm cho Đông Y bị đánh giá thấp và trở nên mai một. Kinh Lạc trong thân người gồm có:
Kỳ kinh có 8 (còn gọi là Bát Mạch). Chính kinh có 12 (ứng với 12 Phủ Tạng). Lạc có 365 (gồm cả các Lạc nối liền các Kinh Âm Dương và Mạch máu toàn thân).
Phái Châm cứu hiện nay chỉ học 12 Chính Kinh và 2 Kỳ Kinh Đốc Nhâm gọi là 14 Kinh và chỉ biết 15 Lạc gồm có 14 Lạc của 14 Kinh kể trên và 1 đại Lạc của Tỳ tổng cộng là 15. Họ cố chấp thuyết Kinh đi dọc (Tung), Lạc đi ngang (Hoành) nên không chấp nhận sự thật là tại Biểu Kinh đi Hoành (ra vào) tại Lý Kinh đi Tung (lên xuống); Không chịu biết Lạc còn là Mạch máu, điều này Nội kinh đã nói rõ các Lạc chia nhỏ thành Tôn Lạc, Vi Lạc(các mạch máu nhỏ) đi khắp thân người, cũng không chịu biết văn hóa Việt Nam vốn nắm chắc điều này nên thường ghép 2 từ ‘Mạch Lạc’ dùng trong Phép xem Mạch; Trong Thương Hàn Luận khi nói đến Lạc, Đức Trọng Cảnh thường nói về Mạch . Như vậy không còn gì phải nghi ngờ Lạc chính là Mạch máu vì 3 chữ Khí, Kinh, Lạc cụ thể tương ứng với Tam Tài(Trời, Người,Đất), Khí thuộc Trời, Kinh thuộc Người và Lạc thuộc Đất.(Ý nghĩa của chữ Lạc sẽ luận tiếp trong phần Tạng Phủ phía sau). 12 Chính Kinh đã được nhiều sách trình bày nơi đây không bàn thêm, chỉ xin nói cho rõ hơn về Kỳ Kinh Bát Mạch. Gọi là Kỳ Kinh vì Kỳ là khác lạ,có ý nói các Kinh này khác lạ hơn 12 Chính Kinh. Gọi là Bát Mạch vì tổng số các Kinh này là 8 và gọi Mạch để phân biệt với 12 Chính Kinh.Thông thường Y giới hay nói ghép cả 4 chữ ’Kỳ Kinh Bát Mạch’ nhưng xét ra chỉ nói riêng Kỳ Kinh hoặc là Bát Mạch cũng đủ hiểu rồi. 12 Chính Kinh thuộc Hệ biến dịch là Lục Khí Ngũ Hành gắn liền với Lục Phủ Ngũ Tạng, còn Kỳ Kinh (Bát Mạch) thuộc Hệ bất dịch trong thể Âm Dương. Cũng do tính bất dịch này mà Bát Mạch ứng với 8 quẻ chỉ tương Thác trong Hệ Kinh Dịch 64 quẻ 6 Hào đó là Bát Thuần Càn, Bát Thuần Khôn, Bát Thuần Ly, Bát Thuần Khảm, Trạch Phong Đại quá, Sơn Lôi Di,Lôi SơnTiểu quá,Phong Trạch Trung phu .Trong thân người Kỳ Kinh có những chức năng bất dịch tóm lược như sau :
13
TÊN KỲ KINH
QUẺ DỊCH
CHỨC NĂNG CHỦ TRÌ
HUYỆT THÔNG
ĐỐC
BÁT THUẦN
THỐNG ĐỐC CÁC CHỨC NĂNG
HẬU KHÊ
CÀN
DƯƠNG
(TIỂU TRƯỜNG)
BÁT THUẦN
NHẬM LÃNH CÁC CHỨC NĂNG
LIỆT KHUYẾT
KHÔN
ÂM
(PHẾ)
NHÂM
ĐÁI
XUNG
DƯƠNG DUY
ÂM DUY
DƯƠNG KIỂU
ÂM KIỂU
BÁT THUẦN
HOÀNH – NHẬP – GIÁNG (DẪN DƯƠNG GIAO ÂM)
TÚC LÂM KHẤP
LY
VỆ - KHÍ – THỦY
(ĐỞM)
BÁT THUẦN
TUNG – XUẤT – THĂNG (DẪN ÂM GIAO DƯƠNG)
CÔNG TÔN
KHẢM
VINH – HUYẾT – HỎA
(TỲ)
TRẠCH PHONG
NUÔI DƯỠNG CÁC CHỨC NĂNG
NGOẠI QUAN
ĐẠI QUÁ
DƯƠNG.
(TAM TIÊU)
SƠN LÔI
NUÔI DƯỠNG CÁC CHỨC NĂNG
NỘI QUAN
DI
ÂM.
(BÀO LẠC)
LÔI SƠN
ĐIỀU CHỈNH CÁC CHỨC NĂNG
THÂN MẠCH
TIỂU QUÁ
DƯƠNG
(BÀNG QUANG)
PHONG TRẠCH
ĐIỀU CHỈNH CÁC CHỨC NĂNG
CHIẾU HẢI
TRUNG PHU
ÂM
(THẬN)
Sách Thương Hàn Luận nói Dương số 7 vì bệnh phát ở Dương mà có 6 Kinh nên sau khi tuần hành muốn giải phải ra Biểu và Tái Kinh tại Thái Dương.Nói Âm số 6 vì bệnh phát ở Âm sau khi tuần hành theo 6 Kinh thì giải ở Lý không cần ra Biểu và không có Tái Kinh. Bệnh Tái Kinh giải ở Biểu là 13 ngày (7+6).Còn như Phong gia là bệnh phát ở Âm, Biểu đã giải mà còn chưa khoan khoái thì 12 ngày lành (6+6).Còn như các tạp bệnh mãn tính kinh niên như hen suyễn,cao huyết áp,phong thấp thì thuộc các Kỳ Kinh có chu kỳ 15 ngày (một thời trăng tròn hoặc khuyết, một thủy triều lên xuống) nếu dài hơn thì nếu giải cũng theo tháng theo năm. Kinh Dịch mô tả Dịch Tiên Thiên là Đại Diễn từ 1 thành 2,thành 4,thành 8, thành 16,thành 32, rồi thành 64 quẻ 6 hào. Ngày nay khoa học cũng xác định cái gốc sinh thành của con người là như vậy. Cho nên Kỳ Kinh thuộc Hệ Âm Dương là sinh trước và chủ trì Hệ Lục Phủ Ngũ Tạng, tham 14
gia mọi quá trình biến đổi lớn của cơ thể như phát triển tuổi dậy thì hoặc khi các kinh hiệp bệnh. Ví dụ: Trong tuổi dậy thì, thì Nam giới phát triển Xung Mạch mạnh hơn nên có râu quanh miệng và có lông hơn ở hậu môn, còn Nữ giới thì phát triển Đới Mạch mạnh hơn nên có bộ ngực to hơn và vòng mông cũng to hơn. Trong bệnh Thượng mã phong là tinh thoát không ngừng do Dương chủ mở ra (Khai) Âm chủ đóng lại (Hạp) chỉ vì Đốc Mạch là Dương không giao với Nhâm Mạch là Âm nên người xưa thường truyền cho con gái cấp cứu bệnh này là dùng trâm cài đầu (một vật nhọn) châm mạnh vào Lạc huyệt của Đốc Mạch là Trường Cường. Tại 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận, Đức Trọng Cảnh chỉ đề cập đến 4 Kỳ Kinh, phải chăng đã bảo thẳng với người học là 4 Kỳ Kinh +12 Chính Kinh = 16. Noi theo Ngài, Cụ Lưu Thủy khẳng định câu Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị Khí ,chẳng những chỉ dạy người học phải ngưỡng mộ ngọn núi cao là Trọng Cảnh (Cao sơn ngưỡng chỉ) mà còn cho thấy danh hiệu ẩn cư của người là ‘ Thập Lục cư sĩ ’. Kết hợp các điều này với sự quan trọng của Tứ Trung Hào của 64 quẻ 6 hào được Đức Khổng Tử nêu tại Hệ Từ Truyện thì Hệ Dịch Trung Thiên đã lộ rõ gồm Hệ quẻ Tứ Tượng, 16 Tạng Tượng và 64 quẻ 6 hào trong đó có 16 Tứ Trung Hào (4-16-64 = 4-4.4-4.4.4) Như vậy Hệ Dịch Trung Thiên và 16 Tạng Tượng đã có sẳn nơi Kinh Dịch đâu phải là bày đặt mà chỉ là một sự nhận biết nó mà thôi. Trong Châm Cứu sử dụng 12 Chính Kinh có 60 huyệt Ngũ Hành có phép Tý Ngọ lưu trú, còn sử dụng 8 huyệt của Kỳ Kinh thì dùng phép Linh Qui Bát Pháp (xem thêm các sách của Trung Quốc hoặc của Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã soạn dịch).Thông thường trong điều trị thường 8 huyệt (Bát Pháp)cặp đôi như Hậu Khê,Thân Mạch để trị Dương; Liệt Khuyết,Chiếu Hải để trị Âm; Ngoại Quan,Túc Lâm Khấp để trị Biểu; Nội Quan,Công Tôn để trị Lý. 2. LỤC PHỦ NGŨ TẠNG: Người xưa nói Lục Phủ Ngũ Tạng với ngụ ý chỉ rõ con đường quan hệ của Âm Dương trong Trời Đất là Lục Khí và Ngũ Hành nhưng sau này có cố chấp cho là Phủ có 6 còn Tạng chỉ có 5. Sự cố chấp này đã tạo ra một nền Đông Y ngày càng xa rời truyền thống. Sự thật thì có 12 Chính Kinh gắn liền 12 Phủ Tạng. Nói về Chức năng (Lục Khí) thì có 6 Phủ và 6 Tạng,nói theo Hình thể (Ngũ Hành) thì có 5 Phủ 5 Tạng Chức năng hơn Hình thể một cặp Phủ Tạng là Phủ Tam Tiêu và Tạng Tâm Bào Lạc. Trải qua hơn 1000 năm Y giới Đông Phương không rõ Tam Tiêu và Bào Lạc là gì. Chỉ khi B/s Đường Tôn Hải phát hiện được Tam Tiêu là con đường của Thủy Khí trải khắp châu thân còn Bào Lạc thì ông không dám quyết là gì. Giới Đông Y thường hiểu Tâm Bào là bao tim không có chức năng gì trái với Nội Kinh đã khẳng định là sứ thần của Tâm (Quan Thần Sứ). Ngày nay Tây Y đã nói rõ Hệ Tim Mạch, chẳng lẽ ngày xưa Đông y không biết Tâm Bào Lạc là Động Mạch xuất phát từ Tâm đi khắp châu thân .Khuyết Âm là Âm Trung Hiện gồm có Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc chủ trì Động mạch đưa máu đỏ nuôi dưỡng toàn thân, Túc Khuyết Âm Can chủ trì Tĩnh mạch dẫn máu đen trở về Tim để đưa lên lọc tại Phổi. Các hiện tượng khám phá 15
của Tây y về tầm quan trọng các Tĩnh mạch của gan, dân gian thấy các Tĩnh mạch gọi là gân xanh chắc cũng đủ kết luận là kinh Túc khuyết Âm Can chủ trì Tĩnh mạch. Như vậy chức năng của Tứ Trung Hiện đã rõ ràng. Xem lại bản đồ Nhân Thân Khí Hóa chúng ta thấy rõ tại Biểu Âm Dương chưa giao (Vị tế) nên vẫn là ngoài Dương trong Âm, ngoài Hàn trong Nhiệt còn tại Lý thì Âm Dương đã giao (Ký tế) nên Tạng ở trên,Phủ ở dưới và Nhiệt đã ở trên,Hàn đã xuống dưới. Nói về Nội Tạng, các sách Đông Tây đã nói rõ ràng, không cần bàn thêm, chỉ nói đến hai Phủ Tam Tiêu và Tạng Tâm Bào Lạc thiết tưởng đã đủ bổ chính cho giới Đông Y .
5. CHẤN HƯNG ĐÔNG Y Đông y là một khoa Y học phát xuất từ phương Đông có nguồn gốc từ triết học Đông phương, nền tảng là kinh Dịch điển hình là học thuyết Âm Dương .Nếu Đông Tây là hai vị trí Âm Dương thì Đông Y và Tây y cũng là một cặp Âm Dương .Học về Âm Dương ai cũng rõ 3 qui luật Âm Dương tương đối ,Âm Dương hổ căn và Âm Dương bình hành .Tại sao có hiện tượng :
Nhà nước không có kế hoạch đào tạo Đông Y có chất lượng (Đông Ychỉ có trường trung học và chỉ đào tạo B/s Đông Y có trình độ ngang bằng một chuyên khoa của Tây Y)
Các Lương Y chỉ là người được các địa phương bồi dưỡng,công nhận và không thấy được đó chỉ là phát triển về lượng ,không phát triển về phẩm.
Đông Y không có Dược Sĩ chuyên ngành và Phương Dược chỉ được phát triển trong giới hạn của một hội Tây Dược .
Trải qua nhiều thế hệ người có tâm huyết đều tỏ ra lo sợ Đông Y sẽ có một ngày bị tiêu diệt,vừa hô hào đấu tranh,vừa khuyến khích phát triển nhưng chỉ thấy có đề xướng của Cụ Lưu Thủy là đúng đắn hơn cả. A. TRÁCH NHIỆM KHÔNG CỦA RIÊNG AI : Âm Dương là qui luật muôn đời xưa nay không đổi,Đông Tây không khác .Lịch sử đã chứng minh: Đông Y có sở trường Đạo học Khí Hóa (Gốc). Tây Y có sở trường Khoa học Thực Nghiệm.(Ngọn).
16
Đúng theo lẽ thường, một cây không thể xanh tươi nếu chỉ tốt gốc xấu ngọn hoặc chỉ là tốt ngọn xấu gốc .Khi Đông Tây còn cách biệt thì mâu thuẩn này chưa dể thấy ,nhưng đã đến khi toàn cầu hóa thì một nền Y học thống nhất phải đủ mạnh cả hai mặt Đông Tây cũng như một người phải đủ khõe đôi chân phải trái. Cho nên trách nhiệm “ Chấn hưng Đông Y “ không của riêng ai mà là của cả nhân loại với đại diện là cơ quan Y tế thế giới .Đối với từng quốc gia là của nhân dân và đại diện là chính phủ .Nếu có chủ trương tiêu diệt Đông Y cũng chẳng qua là trái Đạo ,chẳng những không thực hiện được mà còn tự làm thiệt hại chính mình. B. ĐÔNG Y CẦN TỰ KHẲNG ĐỊNH: Cụ Việt Nhân Lưu Thủy đề xướng giới Đông Y phải cấp tốc học tập hai sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận, người đã để lại một di cảo quí giá gồm có Thương Hàn Giáo Khoa,Thương Hàn Luận Bản Nghĩa,Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa và đề xướng “Chấn hưng Đông Y ”.Đông Y không phải mất công đấu tranh hoặc đòi hỏi trước khi đóng góp có hiệu quả bằng cách tự khẳng định. Như vậy,Đông Y nếu bị mai một,không nên trách ai, chỉ nên trách mình. Sách của Đức Trọng Cảnh là một bộ Bệnh lý học gồm đầy đủ cả Lý Pháp Phương Dược của Đông Y. Học tập theo Ngài là toàn diện chứ “Chấn hưng Đông Y ” không thể chỉ phát triển Phương Dược hoặc Phương Huyệt. C. MỘT CÔNG VIỆC LÂU DÀI: Đông Y từ hơn ngàn năm nay đã không phát triển trên chính đất nước Trung Hoa là cái nôi của Nho giáo, một nền văn minh của Nhân Loại. Nho giáo đã bị bá quyền từ chủ nghĩa phong kiến và CNXH xuyên tạc khiến cho không còn chính thống, Đông Y cũng cùng chung số phận. Vì vậy, muốn phục hưng Đông Y cần phải dùng nhiều công sức và kiên trì thực hiện các bước :
1. Phục hồi truyền thống Đạo học Khí Hóa. 2. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ . 3. Đúc kết thành quả hợp tác với Tây Y và lợi ích với nhân dân. Để làm được ba bước vừa kể cần có thời gian và trí tuệ của một tập thể.
.
17
6. TÂM SỰ CỦA NGƯỜI THUẬT ĐÔNG Y VỚI TRUYỀN THỐNG ĐẠO HỌC KHÍ HÓA Tôi từng nghe thầy Minh kể lại những câu chuyện chữa bệnh tài tình của Cụ Lưu Thủy. Đến khi thầy Minh qua đời,tôi mới đọc được các tác phẩm của Cụ, tiếp đó tôi có tìm hiểu qua những người biết về Cụ tại Sài gòn, tôi càng thấy Cụ là bậc tài đức xuất chúng ,có một không hai của người Việt Nam trong thế kỷ 20. Tôi cũng như thầy Minh ca tụng hết lời và muốn phổ biến cho nhiều người và cả thế giới biết đến những tác phẩm của Cụ nhưng sau đó tôi đã suy nghĩ lại.Tôi có thắc mắc tại sao Cụ không để lại Y án hoặc sách viết về các bài thuốc tâm đắc mà Cụ chỉ để lại có 3 bản thảo Thương Hàn Giáo Khoa, Thương Hàn Luận Bản Nghĩa và Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa? Phải chăng Cụ không muốn chúng ta mãi mê ca tụng để rồi sau đó chỉ có một Lưu Thủy mà Cụ cũng như Đức Phật muốn có nhiều người tiếp nối đi theo con đường Cụ đã đi để cho tương lai truyền thống này được phục hưng .Từ suy nghĩ này tôi đã dừng lại giai đoạn mê tín tác giả và tác phẩm để chuyển sang giai đoạn ra sức học tập các tác phẩm của Cụ .Kết quả tôi thấy được thế nào là Chánh tín và ghi lại những dòng sau đây: Tôi đã đúc kết quá trình của nhóm học tập Đông Y Hán Việt bằng cuốn’ Đông Y với truyền thống Đạo Học Khí Hóa’, cụ thể có những Chương: 1- Chương 1 Dẫn nhập – Tóm tắt con đường của người học Đông Y phải đi để đạt được kết quả. Con đường này tôi đã đi và thấy rõ người trước tôi đã đi và sau tôi cũng phải đi. 2- Cụ Lưu Thủy đã nói tại Bản Nghĩa 3 câu: - Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo - Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị Khí - Tam Âm Tam Dương Chi Vị Kinh Tôi nhờ đọc 3 câu này để biết được Kinh Dịch có 3 Thời loại: - Câu 1 nói Dịch Tiên Thiên là Đạo, là nhất thể bất biến dạy người học hành phải thuận tự nhiên. - Câu 2 nói Dịch Trung Thiên là Khí, là nhị thể biến hóa dạy người học hành phải hòa lợi hại (không cố chấp). - Câu 3 nói Dịch Hậu Thiên là Kinh, là tam thể gồm Âm Dương thống nhất mà đối lập, một sự thật hằng có trong đời sống, dạy người học hành phải tùy sinh hoạt. 18
Từ 3 câu này tôi đã đúc kết thành 3 Chương Đạo học (chương 2), Khí hóa (chương 3), Kinh Lạc (chương 5). 3- Cụ Lưu Thủy nói về Kinh Khí tại sách Thương Hàn Giáo Khoa rất rõ,lại cho thấy Đức Trọng Cảnh chủ trương 4 Bộ Bệnh với 4 Kỳ Kinh tại Thương Hàn Luận ,đã giúp tôi kết hợp các điều này với 4 Tượng, 16 Tượng quẻ 4 hào chưa có tên và 16 ‘Tứ Trung Hào’ của 64 quẻ 6 hào nơi kinh Dịch để thấy rõ hệ này là Dịch Trung Thiên và từ đó tôi đã tiến hành hệ tên Tạng Tượng (chương 6). 4- Tại chương 4 tôi trình bày Bộ Vị của Nhân Thân Khí Hóa thay vì giới Đông y chỉ nói Âm Dương và chia Bộ Vị chỉ có 2 phần là Biểu và Lý: tôi nhờ Cụ mới thấy sách Thương Hàn đã trình bày đúng theo đạo Tam cực, còn có Tấu Lý trải suốt và nối liền 2 phần Biểu, Lý. Tấu Bán Biểu có 3 phần Bì, Cơ và Tấu;Tấu Bán Lý cũng có 3 phần Thượng, Trung và Hạ. 5- Chương 7 nói về Truyền Kinh. Sơ lược lý do Truyền Kinh là phần Biểu do kinh Thái Dương làm chủ,(phần Lý do kinh Thiếu Âm làm chủ ) Con đường Truyền Kinh là hệ Kinh Lạc tập trung gọi là Tấu Lý . Do kinh Thái Dương tuy chủ phần Biểu nhưng trải dài khắp cơ thể, liên quan đến tất cả bộ phận và Phủ Tạng của cơ thể cho nên có sự truyền của Thái Dương bệnh. Người học Đông Y không biết về Kinh Lạc khó chấp nhận Bộ Vị Tấu Lý cũng như không thể thông đạt chương này 6- Chương 8 nói về Phương Dược .Người học Đông y ngày nay có thói quen tuân thủ thuyết ‘Quân Thần Tá Sứ ‘ ,một tệ nạn bị đầu độc bởi các triều đại phong kiến .Thực tế sách Thương Hàn Luận không lập Phương theo thuyết này mà trái lại dùng 4 Bộ Kinh Khí để lập Phương luận Dược .Đây cũng là một điều cần suy gẩm và tiếp nhận . Tôi thuật cuốn “Đông Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa “ là kế thừa sau khi đọc Bản Nghĩa của sách Thương Hàn Luận ,chớ đâu có gì thêm bớt và làm cho mới lạ. Tôi có suy nghĩ dù cho mất thời giờ ca tụng Cụ Lưu Thủy tài giỏi đến đâu cũng không bằng học tập cho thông đạt các di cảo của Cụ và xây dựng được những thế hệ tiếp nối theo đề xướng của Cụ.
7. TIẾP NỐI BƯỚC ĐI CỦA CỤ LƯU THỦY Từ ngày đọc được các tác phẩm của Cụ Lưu Thủy đến nay,tâm trạng của tôi trên bước đường học tập Đông y đã trải qua khá nhiều thay đổi .Xét lại những thay đổi này tôi thấy có thể chia thành hai giai đoạn là Mê tín và Chánh tín.Mê tín khi tôi mới thoáng đọc chưa thấy hết vấn đề,Chánh tín khi tôi đã học và so sánh với Nguyên văn của Đức Trọng Cảnh .Khi còn mê tín tôi cố công tìm kiếm Y án và những chuyện kể về tài chữa bệnh của Cụ ,tôi muốn phổ biến tác phẩm của Cụ cho nhiều người cùng đọc ,tôi còn muốn phổ biến cho tất cả thế giới biết nước Việt Nam đã may mắn có một người lỗi lạc là Việt Nhân Lưu Thủy nhưng khi đã học hiểu và so lại với Nguyên văn thì tôi thấy biết rõ ràng hơn Đức Trọng Cảnh làm hai sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận 19
rất cụ thể là một bộ sách Bệnh lý học thể hiện tính thừa kế tuyệt vời từ Kinh Dịch tiếp sau hai sách Nội kinh và Nan kinh.Tôi hoàn toàn tán trợ đề xướng của Cụ Lưu Thủy là Y giới muốn chấn hưng Đông y phải tự khẳng định mình bằng cách học tập hai sách này .Nếu không nhờ có Bản Nghĩa của Cụ tôi không thể hiểu được Cụ Trọng Cảnh ,từ đó tôi thông cảm được Y giới Trung Hoa từ sau khi được truyền tụng đã tôn Đức Trọng Cảnh làm Y Tổ mà đến nay vẫn chưa có người thấu hiểu ,hoặc vì Nho giáo và Kinh Dịch đã bị giới cầm quyền phong kiến và bạo lực xuyên tạc không còn chính thống ,hoặc có quá nhiều màn vô minh che lấp trí tuệ của các con cháu xứ này .Từ khi tiếp cận được Nguyên văn của Đức Trọng Cảnh ,tôi biết được Bản Nghĩa của Cụ Lưu Thủy chưa hoàn toàn ,còn có một vài lời chú chưa phù hợp với Nguyên văn nhưng tôi vẫn tin là sau khi Đức Trọng Cảnh làm sách chỉ có duy nhất một người Việt Nam là Việt Nhân Lưu Thủy thấu hiểu hơn cả.Tôi thấy như vậy mới là Chánh tín .Tôi không còn muốn háo hức muốn phổ biến các tác phẩm của Cụ cho khắp thế giới mà chỉ có ước mong người trong nước tiếp nối đề xướng chấn hưng Đông y ,ra sức học tập hai sách Thương Hàn và Tạp Bệnh thông qua Bản Nghĩa của Cụ .Tôi thấy các thế hệ sau Cụ phải tiếp nối làm cho Bản Nghĩa của Cụ ngày một hoàn chỉnh và trong sáng hơn . Tôi đã cụ thể chứng minh bằng cách đúc kết quá trình học tập của nhóm Đông Y Hán Việt tại Sài gòn bằng cuốn’Đông y với truyền thống Đạo học Khí hóa’ Tôi đã nêu rõ nhờ học tập Bản Nghĩa với 4 chữ Âm Dương Hàn Nhiệt kết hợp với Tứ Bộ bệnh mà tôi đã nhận ra một loại Dịch Trung Thiên có cơ cấu là Truyền chuyển biến hóa của Âm Dương gồm có Tứ Tượng, 16 Tạng Tượng,16 Tứ Trung Hào của 64 quẻ 6 hào. Bản Nghĩa ca tụng Đức Trọng Cảnh ước tóm Lục Kinh còn Tứ Kinh .Điều này không có lợi và dễ bị xuyên tạc bởi kẻ xấu,cũng không phù hợp với câu Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị Khí, chẳng qua việc phân hiểu này chỉ là trở lại Hệ Tứ Tượng bằng chủ ý Khí Hóa mà thôi . Sau khi nói Tứ Kinh Tứ Khí là Dương Nhiệt ,Dương Hàn ,Âm Nhiệt ,Âm Hàn ,Cụ còn nói Thiếu Dương là Dương Nhiệt ,Khuyết Âm là Âm Hàn ,điều này đã gợi ý cho tôi tiếp nối Thiếu Dương là Dương Trung hiện gồm có Túc Thiếu Dương Đởm thuộc Kinh Dương Nhiệt và Thủ Thiếu Dương Tam tiêu thuộc Kinh Dương Hàn ;Khuyết Âm là Âm Trung hiện gồm có Túc Khuyết Âm Can thuộc Kinh Âm Hàn và Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc thuộc Kinh Âm Nhiệt .Các Kinh này thuộc Hệ Tấu Lý có chức năng điều hòa Tứ Bộ Kinh Khí ,chỉ thọ bệnh mà không có Khí làm bệnh. Bàn về 3 mối quan hệ của Tam Âm với Tam Dương ,sách Nội kinh Tố vấn chỉ nêu một mối quan hệ là Khí Hóa và gọi là Trung Kiến nhưng còn ghi chép nhầm lẫn Thiếu Âm là Khu làm cho Y giới sau này rối bời .Cụ Lưu Thủy không như vậy ,đã từ Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận hiểu chính xác hơn mối quan hệ Khí Hóa của Tam Âm Tam Dương .Tôi tiếp nối Bản Nghĩa với Đồ hình 3 cặp tam giác Âm Dương đối đỉnh ,nhận ra rằng ngoài mối quan hệ Khí Hóa còn có hai mối quan hệ được hình thành là Truyền Kinh tôi tạm gọi là Trung chuyển và mối quan hệ Bộ Vị tôi tạm gọi là Trung hiệp. 20
Sở trường của Đông y là Khí hóa.Mọi biến hóa của vạn vật đều nhìn thấy bằng một trường năng lực gọi là Khí .Con người là một ‘Tài ‘ trong Tam Tài (Thiên Nhân Địa )cho nên Đông Y cũng không khác với Tây y .Ngày nay Y học hiện đại đánh giá sức khõe của nhân loại bằng Hệ Thần Kinh và Nội Tạng thì từ xưa Đông y đã có truyền thống nêu lên Hệ Kinh Lạc và Ngũ Tạng Lục Phủ .Hai hệ này có mối quan hệ không rời cũng như Đông Y khi gọi tên một Kinh Lạc thường dính liền với Phủ Tạng . Ví dụ như Kinh Túc Thái Dương Bàng Quang thuộc Bản Hàn ,Kinh Thủ Thiếu Âm Tâm thuộc Bản Nhiệt .Như vậy khi luận về Tạng Phủ ,Đông Y không chú trọng đến Tạng hình mà chỉ chú ý đến chức năng của nó gọi là Kinh Khí .Vai trò của Kinh Khí đã được Cụ Lưu Thủy nói rõ tại sách Thương Hàn Giáo Khoa nơi các bài Kinh Khí và Mạch pháp, đã gợi ý cho tôi tiếp nối công việc Hệ tên 16 Tạng Tượng (đã nêu tại Hệ Dịch Trung Thiên). Bệnh lý học của Đông Y đều luận Âm Dương theo từng cặp,theo thời luận Khí Hóa làm bệnh và truyền bệnh thì cũng luận theo Vị là Bộ Vị thọ bệnh .Từ khi không có người thấu hiểu các sách của Ngài Trọng Cảnh ,các thời Y không luận Khí Hóa, còn Bộ Vị chỉ luận Biểu và Lý bỏ xót Bộ Vị Tấu Lý đã từng được thuật tại sách Nội kinh là một Bộ Vị cốt lõi hàm chứa toàn bộ Hệ Kinh Lạc của Nhân Thân Khí Hóa ,điều này là một sai lầm rất lớn chẳng những trái với Đạo Tam cực mà còn đánh mất con đường truyền chuyển và biến hóa của Âm Dương ;đã được trình bày tại chương Bộ Vị. Do không học Kinh Lạc nên không hiểu nỗi Thương Hàn Luận và cũng không biết đến Khí Hóa,cho nên Thời Y cũng không chấp nhận được các lý do làm bệnh và truyền bệnh của Hệ Kinh Lạc đã được trình bày tại Bản Nghĩa . Do không có Lý Pháp chính thống nên các Thời Y cũng lập Phương dụng Dược theo thuyết Quân Thần Tá Sứ ,một tệ nạn trong thời phong kiến ,đánh mất truyền thống Đạo học Khí Hóa của Đông Y .Chỉ còn cách học tập sách Thương Hàn Luận với Bản Nghĩa của Cụ Lưu Thủy thì mới mong giác ngộ được . Tóm lại ,nhờ học tập theo đề xướng và tiếp nối bước đi của Cụ Lưu Thủy tôi mới nhận thức được Đông Y có truyền thống Đạo học Khí Hóa .Tôi ghi lại sự thật này để các bạn tùy nghi tham khảo trong công tác thừa kế và phát huy các di huấn của Cụ.
.
21
8. LUẬN KINH LẠC Cụ Việt Nhân Lưu Thủy đề xướng chấn hưng Đông Y với lời khuyên ‘Học thuốc trước hết phải học Kinh Lạc’ vì nó là cơ sở Khí Hóa điều hành sự sống trong thân người, vấn đề này đã được khẳng định rất sớm tại Nội Kinh Linh Khu, sách này nói rất rõ về màn lưới Kinh Lạc. Đông Y hiện nay tuy đề cao học thuyết Âm Dương nhưng chỉ chú trọng Ngũ Hành mà xem nhẹ Lục Khí và cơ sở của nó chính là hệ thống Kinh Lạc. Đồng với Kinh Dịch, Đông Y truyền thống cũng phát hiện Kinh Lạc như Kinh Dịch đã mô tả. Kinh Dịch có hệ Tiểu Thành là Lưỡng Nghi – Tứ Tượng – Bát Quái thì Kinh Lạc trong thân người cũng có Âm Dương - Tứ Bộ - Bát Mạch… ; hệ này đã gồm đủ 3 Thời loại:
1 Âm 1 Dương [Lưỡng Nghi] gọi là Đạo (Thái Cực) = Tiên Thiên. 2 Âm 2 Dương [Tứ Tượng] gọi là Khí (Tứ Khí) = Trung Thiên. 3 Âm 3 Dương [Bát Quái] gọi là Kinh (Bát Mạch) = Hậu Thiên.
A. 8 Kỳ Kinh [Bát Mạch]: Gọi là Kỳ Kinh vì chúng khác lạ với 12 Chính Kinh, lại gọi nó là Bát Mạch vì tổng số chúng có 8. Bát Mạch vừa thuộc Thời loại Tiên Thiên [2], vừa tồn tại trong Thời loại Hậu Thiên [8] gồm có:
Đốc: Thống đốc các chức năng Dương của toàn thân[tương ứng với quẻ Bát Thuần Càn]. Nhâm: Nhậm lãnh các chức năng Âm của toàn thân[tương ứng với quẻ Bát Thuần Khôn]. Đái: Chủ quản các năng lực Hoành(ngang), Nhập(vào), Giáng(xuống) của toàn thân [tương ứng với quẻ Bát Thuần Ly]. Xung: Chủ quản các năng lực Tung (dọc), Xuất (ra), Thăng (lên) của toàn thân [tương ứng với quẻ Bát Thuần Khảm]. Dương Duy: Duy trì các chức năng Dương(sinh hoạt)của toàn thân.[tương ứng với quẻ Trạch Phong Đại Quá]. Âm Duy: Duy trì các chức năng Âm(dưỡng nuôi)của toàn thân.[tương ứng với quẻ Sơn Lôi Di]. Dương Kiểu: Điều chỉnh các năng lực Dương(động) của toàn thân. [tương ứng với quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá]. Âm Kiểu: Điều chỉnh các năng lực Âm (tĩnh)của toàn thân. [tương ứng với quẻ Phong Trạch Trung Phu].
Đức Trọng Cảnh ứng dụng tuyệt vời hệ Dịch Trung Thiên, chủ trương 16 Tạng Tượng tương ứng với 16 quẻ 4 hào và cũng là 16 quẻ Tứ Trung Hào nên chỉ đề cập Tứ Kỳ Kinh là Đốc, Nhâm, Đái, Xung (đồng với 4 tượng Tứ Trung Hào của Bát Mạch): 22
Đốc: Kinh Dương Nhiệt, Khí Dương Nhiệt (thuần Dương Nhiệt). Nhâm: Kinh Âm Hàn, Khí Âm Hàn (thuần Âm Hàn). Đái: Kinh Dương Hàn, Khí Dương Hàn (thuần Dương Hàn). Xung: Kinh Âm Nhiệt, Khí Âm Nhiệt (thuần Âm Nhiệt).
B. 12 Chính Kinh: Đông Y trình bày mỗi Kinh trong 12 Kinh đều có con đường riêng nhưng tương ứng với chức năng khí hóa của Lục Khí – Lục Kinh và Phủ Tạng liên hệ không chia lìa [12 Kinh tương ứng với 6 Phủ + 6 Tạng cũng đồng với Tứ Kinh –Tứ Khí và 3 Thời loại Tiên –Trung - Hậu]. Lục Kinh gồm Tam Âm Tam Dương tương ứng với Lục Khí; lại chia ra Thủ Túc Kinh thành 12 tương ứng với 6 Phủ và 6 Tạng trải dài suốt Biểu suốt Lý và được kết nối với Tứ Kỳ Kinh thành một màn lưới trung chuyển từ sinh lý đến bệnh lý lúc thọ bệnh và ngược lại khi trị lành là một cơ cấu tuyệt vời về bệnh lý học mà Đức Trọng Cảnh đã để lại cho đời sau trong hai tác phẩm Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận. 12 Chính KInh gồm có: 1. Tứ Kinh Tiên Thiên (Âm Dương Hàn Nhiệt): Kinh Túc Thái Dương Bàng Quang [Phủ] [Kinh Dương Hàn, Khí Âm Hàn]. Kinh Thủ Thái Dương Tiểu Trường [Phủ] [Kinh Dương Hàn, Khí Dương Nhiệt]. Kinh Thủ Thiếu Âm Tâm [Tạng] [Kinh Âm Nhiệt, Khí Dương Nhiệt]. Kinh Túc Thiếu Âm Thận [Tạng] [Kinh Âm Nhiệt, Khí Âm Hàn]. 2. Tứ Kinh Hậu Thiên (Âm Dương Táo Thấp): Kinh Túc Dương Minh Vỵ [Phủ] [Kinh Dương Nhiệt, Khí Âm Nhiệt). Kinh Thủ Dương Minh Đại Trường [Phủ] [Kinh Dương Nhiệt, Khí Dương Hàn]. Kinh Thủ Thái Âm Phế [Tạng] [Kinh Âm Hàn, Khí Dương Hàn]. Kinh Túc Thái Âm Tỳ [Tạng] [Kinh Âm Hàn, Khí Âm Nhiệt]. 3. Tứ Kinh Trung Thiên (Âm Dương Hỏa Phong): Kinh Túc Thiếu Dương Đởm [Phủ] [Kinh Dương Nhiệt, Khí Âm Hàn]. Kinh Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu [Phủ] [Kinh Dương Hàn, Khí Âm Nhiệt]. Kinh Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc [Tạng] [Kinh Âm Nhiệt, Khí Dương Hàn]. Kinh Túc Khuyết Âm Can [Tạng] [Kinh Âm Hàn, Khí Dương Nhiệt]. C. 15 LẠC: Đông Y truyền đến hôm nay, có tất cả 15 Lạc [12 Lạc của Chính Kinh + 2 Lạc của 2 mạch Nhâm Đốc + 1 Đại Lạc của Tỳ]; không nêu rõ 2 chức năng vốn có của Lạc là thực hiện vai trò đối lập mà thống nhất của các Kinh Âm Dương thuộc 8 Kỳ Kinh và 12 Chính Kinh nơi thân người. 23
D/ Tổng Luận: Kinh Lạc và Tạng Phủ do Đông Y chính danh truyền thừa từ Nội KInh, trước là Linh Khu sau đến Tố Vấn tuy 2 mà 1. Kinh Lạc là cơ sở Khí Hóa có chức năng rất tự nhiên, phù hợp với Tam Tài [Trời, Người, Đất], thân người cũng có 3 vật loại là Thần [trời],Khí[người],Tinh[đất]; Kinh Lạc có 3 thành phần là Khí [trời], Kinh[người], Lạc[đất]. Luận Kinh Lạc theo chức năng Khí Hóa thì Đông Y thường dùng từ ‘Kinh Khí’ vì Kinh thuộc Người,Thần Khí thuộc Trời; còn khi luận về hình chất Tạng Phủ thì dùng từ ‘Kinh Lạc’ vì Kinh cũng là thuộc Người, Lạc thuộc Đất. Người xưa tôn thuận Dương nên luận 12 Chính Kinh tương ứng 12 Phủ Tạng và 4 Kỳ Kinh tương ứng Tứ Bộ [12+ 4 = 16 Tạng Tượng] cũng đều đặc biệt nói rõ Kinh Khí. Y giới hiện nay có lẽ chưa rõ ràng nhận thức Kinh Lạc nên còn xem nhẹ vai trò của Lạc và 2 Phủ Tạng Tam Tiêu - Tâm Bào Lạc ?
9. ĐẠO HỌC KHÍ HÓA ĐẦY ĐỦ HƠN ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH Hiện nay tại một số trường trung học Đông Y hoặc các lớp bồi dưỡng Đông Y đều có lưu hành một giáo trình ‘Lý luận cơ bản ‘có nội dung dạy,học Âm Dương và Ngũ Hành .Tại sao tôi lại còn viết ‘Đông Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa’ ? Có gì giống và khác giữa hai vấn đề này như thế nào ? 1. CHỖ ĐỒNG DỊ GIỮA ĐẠO HỌC VÀ ÂM DƯƠNG : Âm Dương là một phạm trù cốt lõi của Triết học Đông phương. Người học Đông Y cần dùng nó để lý luận nhưng tôi thường thấy người dạy và học chỉ triển khai theo hiện tượng,bỏ quên bản chất là cơ cấu giao dịch và biến hóa của Âm Dương trong đời sống. Khi trình bày Âm Dương cũng nêu 3 qui luật :Âm Dương tương đối ,Âm Dương hổ căn ,Âm Dương bình hành nhưng chỉ qua loa làm cho lấy lệ. Trái lại ,Đạo học cũng nói về Âm Dương nhưng rất chú trọng đến bản chất và cơ cấu giao dịch biến hóa của Âm Dương trong đời sống vạn vật với hai qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập không lúc nào rời nhau.Ví dụ nói : Âm Dương tương đối thì luận rõ hai thế đối lập của nó như: Đối lập qua Tâm: Cặp Âm Dương trong trường hợp này gọi là Thác (biến hóa)(ở phía bên kia Tâm Dương biến thành Âm ,hoặc ngược lại Âm hóa thành Dương như Càn Khôn Ly Khảm). 24
Đối lập qua trục thẳng đứng: Cặp quẻ trong trường hợp này gọi là Tổng (tổng số hào Âm Dương không đổi,chỉ đổi theo Dụng tại Thượng thành Hạ hoặc ngược lại tại Hạ thành Thượng như Đoài Tốn, Chấn Cấn). Đối lập qua Tâm là thể hiện Dịch loại Tiên Thiên (Âm Dương thống nhất) Đối lập qua trục (lìa Tâm)là thể hiện Dịch loại Hậu Thiên (Dụng Thượng dụng Hạ đối lập). Vạn vật có đối lập mới có phát triển nhưng lìa Tâm cũng tức là bỏ Đạo thì bệnh, loạn ắt phải xảy ra . Âm Dương hổ căn thì nói rõ gốc của nó là một Thái Cực thị sinh Lưỡng Nghi. Âm Dương bình hành thì phân tích Bình thuộc Dương, Hành (làm) thuộc Âm. Bình Hành không phải là ngang bằng nhau mà phải là Dương cho ra Dương ,Âm cho ra Âm. Dương phải tùy theo Âm ;Âm phải thuận với Dương vì Đạo là như vậy. 2. CHỖ ĐỒNG DỊ GIỮA KHÍ HÓA VÀ NGŨ HÀNH: Ngũ Hành thuộc Đất, chủ Vị. Đối lập với nó có Lục Khí thuộc Trời, Chủ Thời .Nếu chỉ bàn về Ngũ Hành thì tức là bỏ xót một thể của cặp Âm Dương lớn nhất là Càn Khôn, nguồn gốc sinh thành vạn vật. Trái lại Khí Hóa chẳng những nói đủ Lục Khí và Ngũ Hành mà còn mô tả con đường tương giao để Ngũ Hành hóa thành Lục Khí và ngược lại Lục Khí biến thành Ngũ Hành. Chẳng những gọi năng lực biến hóa của Âm Dương là Khí mà còn nêu rõ Khí giao và Khí xung hòa nơi thiên Ngũ Vận Lục Khí của Nội kinh.
10. LUẬN ÂM DƯƠNG TRUYỀN THỐNG Học thuyết Âm Dương là tự hào của người phương Đông, đặc biệt đối với người học Đông Y và Kinh Dịch; Nhưng cũng là tai hại lớn nếu có sự cố chấp và sai lệch trong việc học. Không ai có thể ngờ một đại gia như Trần Tu Viên, một người có đến 27 đầu sách (nhị thập thất chủng) mà khi luận về Nhân Sâm còn cố chấp thuốc này là Âm Hàn (thay vì là Dương Hàn). Cũng không ai ngờ một nhà cách mạng lỗi lạc như Cụ Phan Bội Châu mà còn phân loại quân tử là Dương, tiểu nhân là Âm (thay vì quân tử là người hiểu Đạo gồm cả Âm Dương). Việc nhầm lẫn này phải chăng vì những người này chỉ dựa theo Âm Dương tương đối mà quên mất tự nhiên là sự vật lúc nào cũng gồm đủ hai mặt Âm Dương đối lập và Âm Dương thống nhất (Đạo Tam Cực gồm 2 cực Âm Dương đối lập và 1 cực Âm Dương thống nhất). Đành rằng phân nhánh là chia Âm Dương hai mặt nhưng để tránh lầm lẫn, người xưa chỉ gọi Âm Dương tổng quát 1 lần (Thái cực thị sinh Lưỡng Nghi), còn sau đó 25
tuy cũng là thuộc Âm thuộc Dương nhưng đều có tên gọi khác, nếu còn dùng 2 chữ Âm Dương thì là từ ghép với 1 thể khác; Ví dụ chỉ dùng từ đơn hoặc Âm hoặc Dương, còn như các cặp Hàn Nhiệt, Khí Huyết, Thủy Hỏa thì đã thuộc Tứ Tượng nên phân định Âm Dương rõ ràng như loại Hàn thì có Dương Hàn - Âm Hàn, loại Nhiệt thì có Dương Nhiệt – Âm Nhiệt; loại Khí thì có Dương Khí – Âm Khí, loại Huyết thì có Dương Huyết – Âm Huyết; loại Thủy thì có Dương Thủy – Âm Thủy, loại Hỏa có Dương Hỏa – Âm Hỏa. Chỉ có bấy nhiêu mà suốt từ Trọng Cảnh đến Lưu Thủy không có người hiểu thấu, thử hỏi làm sao mà người học về Âm Dương lại không cố chấp? Trong tự nhiên sự vật nào cũng có 2 mặt Âm Dương hình thành 1 bản chất không thể chia lìa với hiện tượng như Thời có ngày đêm; Không có trên dưới, trong ngoài; Giống có đực cái, trống mái; .v.v…. . Cơ cấu của Dịch Lý là Đạo tự nhiên hằng có giữa các cặp Âm Dương kể trên. Vì thế luận Âm Dương chỉ dựa theo mặt đối lập suốt từ sau Trọng Cảnh đến Lưu Thủy thì sai lệch kéo dài; luận Đạo Âm Dương phải tuân thủ Đạo Tam cực mà tự nhiên đã biểu hiện bằng các khiếu nơi mặt mỗi người; trên là mắt, giữa là tai – mũi, dưới là miệng. Thuận tự nhiên Kinh Dịch cũng ‘Tiểu Thành’ 8 quẻ Bát Quái bằng 3 hào trên - giữa – dưới. Thời gian cũng có 3 là quá khứ - hiện tại – tương lai. Không gian cũng có 3 là trên – giữa – dưới hoặc ngoài – giữa – trong. Cơ đốc giáo cũng có Chúa 3 ngôi; Phật giáo cũng có Tam Bảo; ..v..v.. . Đạo tự nhiên đâu đâu cũng biểu hiện có 3 cực, vì sao giới Đông Y còn cố chấp chỉ có Nghĩa Âm Dương đối lập mà bỏ đi cái Đạo Âm Dương thống nhất kéo dài bằng lập luận về Biểu - Lý mà bỏ quên một màn lưới Kinh Lạc gọi là Tấu hằng có nơi thân người. Âm Dương là hiện tượng nhưng cơ cấu liên kết thành một thể mới là bản chất; Đạo chính là những đường liên kết này cho nên không hiểu Đạo Lý thì tất nhiên luận Âm Dương sai lệch. Đọc luận “Đốn ngộ nhập Đạo yếu môn”, thấy rõ lời dạy Đạo của vị Tổ này là Đạo tuyệt đối không thể tách rời Đời tương đối :
Chân lý có thể đốn ngộ để Thông.
Sự thật cần phải tiệm giác mới Đạt.
Cụ Lưu Thủy ưu tư đề xướng hậu thế trở lại truyền thống Đông Y tiếp nối Trọng Cảnh bằng cách học tập Bản Nghĩa 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận. Truyền thống Đông Y được truyền thừa từ Nội kinh với chương Nhiệt Bệnh Luận (luận bệnh thuộc Kinh Thiếu Âm Nhiệt khí) sau đó ngài Trọng Cảnh bổ khuyết bằng Thương Hàn Luận (luận bệnh thuộc Kinh Thái Dương Hàn khí) cho đủ cặp Âm Dương, có đâu sai lệch? Cốt lõi của Đông Y truyền thống là Đạo học – Khí hóa; Đạo học chẳng những luận Âm Dương đối lập mà còn luận Âm Dương thống nhất của sự vật biến hóa theo hai Nghĩa – Dụng mà tồn tại trong một Đạo -Thể; Khí hóa là mô tả mọi sinh hoạt của sự vật bằng một sức gọi là Khí, lý này đã có ở Nội kinh với luận chức năng của Phủ Bàng Quang có câu ”Khí hóa xuất yên” với ý nói máu từ Tâm đến Thận để lọc cặn bả thành nước tiểu rồi xuống bọng đái mà bài tiết ra ngoài. 26
Do không hiểu đến truyền thống nên sau Trọng Cảnh đến Lưu Thủy phần nhiều luận Âm Dương sai lệch là nguyên do kéo dài làm mai một Đông Y. Tôi học Đông Y bắt đầu từ sách ‘Đông Y Học Khóa Toát Yếu’ của Đông Y sĩ Phạm văn Điều, sau đó tiếp tục bằng các sách chữ Việt đã từng in trước và trong thế kỷ 20, chú ý các sách thuốc trước 1954 xuất bản tại Hà Nội đặc biệt là các sách của Cụ Nguyễn An Nhân (Tử Siêu) trong đó có sách dịch ‘Nội Kinh Tố Vấn’; tại Miền Nam tôi tìm đọc rất nhiều sách Đông Y và thuốc Nam đặc biệt hâm mộ các sách của Lương Y Nguyễn Văn Tám (Việt Cúc) xuất bản tại Gò Công. Sau khi gia nhập Nam Dương học phái và khi thầy Minh qua đời, nhờ sự giúp đỡ của Tu sĩ Thích Thanh Đức tôi tiếp nhận được một số lớn sách của Thầy, tôi bắt đầu tập đọc các sách chữ Hán này. Tôi cũng như nhiều người đồng học Đông Y lúc đó rất mê tín Trung Y; mặc dầu trong thời gian trước 1975 miền Nam không có giao thương với Trung Hoa nhưng tôi đã cố công tìm hiểu nền Y học cổ truyền này qua Đài Loan và Hồng Kông; Tôi rất hâm mộ bộ sách ‘Trung Tây Hối Thông’ ngũ chủng của Bs Đường Tôn Hải, nhiều sách Trung Y xuất bản trong thập niên 1960 và đặc biệt lưu ý đến bộ giáo trình của Trường Đại học Trung Y Nam Kinh mà bạn đồng học với chúng tôi thường gọi tắt là bộ sách giảng nghĩa hoặc là bộ sách xanh ( vì hầu hết các sách này đều có 2 chữ giảng nghĩa và in bìa màu xanh). Tôi nhận thấy tuy là cái nôi của Đông Y nhưng đúng như lời của Cụ Lưu Thủy, hiện tại người Trung Hoa không thừa kế được truyền thống đã có từ sau đời của danh Y Trọng Cảnh nên tôi rất quan tâm tiếp nối đề xướng của Cụ. Trước 1975 tôi đã tập dịch để tự học các sách ‘Y Kinh Tinh Nghĩa’ và ‘Bản Thảo Vấn Đáp’ (trong bộ Trung Tây Hối Thông). Sau khi cải tạo về, tôi đã liên tục học hành Đông Y, tiếp tục học tập các sách ‘Thương Hàn Luận Bản Nghĩa’ và ‘Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa’, thành lập nhóm Học Tập Đông Y Hán Việt, mãi đến đầu thập niên 2000 mới có được vài tâm đắc và năm 2008 tôi đã đúc kết thành luận ‘Đông Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa’ . Việc luận Âm Dương theo truyền thống này là quá trình học hành các di cảo của Cụ Lưu Thủy được truyền thừa từ Nội Kinh tiếp đến Đức Trọng Cảnh.
11. Y DỊCH TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẠO HỌC - KHÍ HÓA Học Dịch và học Phật là tiếp nối bước đi của Cụ Lưu Thủy. Tôi đã từng suy gẫm bút hiệu của Cụ, Việt Nhân là vượt lên kiếp người phàm, đắc Đạo thì tự nhiên thuyết Giáo như Lưu Thủy; võn vẹn chỉ 1 bút hiệu 4 chữ mà đủ ngầm chỉ bảo 2 giai đoạn tu hành. Đức Trọng Cảnh làm hai sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận, sau Ngài hơn ngàn năm chưa có người hiểu thấu, bỗng nhiên tại Việt Nam có Cụ Lưu Thủy làm thành Bản Nghĩa hai sách này; Cụ đã truyền thụ cho các học trò và Nam Dương học phái nhưng rất tiếc đương thời và sau Cụ gần 40 năm vẫn chưa thấy có 27
ai tâm đắc. Trong học tập các di cảo của Cụ, khi chưa hiểu được tôi không khỏi có chút nghi ngờ (hai Cụ có gì không đúng hoặc là chúng tôi chưa đủ kiến thức để hiểu). Bây giờ thì tôi rất tin vì đã hiểu và đã soi tỏ với tự nhiên. Những điều các Cụ biết rất hợp lý và thuận tự nhiên nhưng cuộc cách mạng này cần có đủ thời gian để ăn sâu vào đại chúng. Tôi cố gắng tiếp nối bằng cách làm trong sáng hơn di cảo của các Cụ. Dịch là một khoa học tự nhiên, cơ cấu của nó có tính năng không thể tách rời với tình trạng (thể-tướng-dụng) của muôn vật:
Thể thì bất dịch (toàn thể sự vật có hai mặt Âm Dương đối lập mà thống nhất). Tướng thì biến dịch (hai thành phần Âm Dương của sự vật biến hóa không ngừng suốt các thời kỳ sinh trưởng thu tàng hoặc thành trụ hoại không). Dụng thì giản dị (thuộc tính biến hóa của Âm Dương là Dương biến Âm - Âm hóa Dương, dụng giản là dùng hào Dương Cương để trị nguy hiểm, dụng dị là dùng hào Âm Nhu để trị trở ngại, hai tính dụng này đã biểu lộ rõ ràng nơi Bát Quái).
Ngày nay người học Dịch thường tự hào với tính năng của Dịch là bất dịch và biến dịch nhưng lại chủ trương dùng Dịch để giảng nếu như nhầm lẫn tính dụng giản dị của nó với việc giảng dịch thì sự sai lầm này sẽ đưa hướng học Dịch về đâu? Huống chi Đạo Tam Cực đã bày tỏ rất sớm nơi Bát Quái (8 quẻ 3 hào):
Càn: 3 hào thượng trung hạ đều là Dương, tượng cha.
Khôn: 3 hào thượng trung hạ đều là Âm, tượng mẹ.
Chấn: 2 hào trên là thể Âm, hào dưới là dụng Dương tại hạ, tượng trưởng nam.
Khảm:2 hào trên dưới là thể Âm,hào giữa là dụng Dương tại trung,tượng trung nam. Cấn: 2 hào dưới là thể Âm, hào trên là dụng Dương tại thượng, tượng thiếu nam.
Tốn: 2 hào trên là thể Dương, hào dưới là dụng Âm tại hạ, tượng trưởng nữ. Ly: 2 hào trên dưới là thể Dương, hào giữa là dụng Âm tại trung, tượng trung nữ.
Đoài: 2 hào dưới là thể Dương, hào trên là dụng Âm tại thượng, tượng thiếu nữ. Học Dịch mà từ lúc đầu đã không phân hiểu được thể dụng ngay nơi Bát Quái thì thử hỏi luận Dịch phức tạp với các quẻ 9 - 12 hào có ích lợi gì ? Cơ cấu Dịch lý đã biểu hiện rõ ràng nơi tự nhiên, thời gian có 3 là quá khứ - hiện tại - vị lai, quá khứ tức là Tiên Thiên, vị lai tức là Hậu Thiên còn hiện tại là gì nếu không phải là Trung Thiên. Không gian có 3 là trên – giữa – dưới hoặc ngoài – giữa – trong, nếu như giữa không phải là trung thì là gì ? Bát Quái có 8 quẻ 3 hào là thể hiện rõ nét về Đạo Tam Cực (thượng – trung – hạ); tuy Kinh Dịch chỉ luận Âm Dương nhưng cơ cấu của nó là trung đạo (đường nối giữa hai cực Âm Dương) gồm đủ Đạo Tam Cực với 3 đặc tính gắn liền với 3 tình trạng thể - tướng – dụng của vạn vật. Bước đầu hiểu Dịch như vậy để luận Y, phức tạp thêm để khó hiểu thì cũng chẳng lợi gì!
28
Âm Dương Đối lập là hiện tượng của sự vật; Âm Dương Thống nhất là bản chất của sự vật. Trung Đạo (đường nối giữa hai cực Âm Dương) là cơ cấu của toàn thể sự vật. Học Y tất yếu phải thông đạt cơ cấu này. Đặc tính của Dịch rất tự nhiên phù hợp với tình trạng thể-tướng-dụng của muôn vật: Thể: bất Dịch phù hợp với hệ Dịch Tiên Thiên. Tướng: biến Dịch phù hợp với hệ Dịch Trung Thiên. Dụng: giản dị phù hợp với hệ Dịch Hậu Thiên. Cơ cấu của Y Dịch là Dịch Trung Thiên gồm có 3 hệ: Tứ Tượng: 4 quẻ 2 hào (tượng các Kinh Khí Dương Hàn- Dương Nhiệt-Âm Hàn- Âm Nhiệt). Tạng Tượng: 16 tượng quẻ 4 hào (gồm tượng 12 Tạng Phủ và 4 Kỳ Kinh; cũng là 16 tượng quẻ Tứ Trung Hào). Tượng Vạn Vật: 64 quẻ 6 hào (mỗi Tứ Trung Hào hợp với 4 tượng quẻ 2 hào Bản Mạt). Tóm lại, phát hiện 16 Tạng tượng không phải là ý chủ quan mà là thuận tự nhiên có cơ sở biểu hiện Khí Hóa nơi thân người và các quẻ thuộc hệ Dịch Trung Thiên. Học tập Kinh Dịch không nên vội vàng đi vào Quái Hào thuộc hệ Dịch Hậu Thiên mà phải kiên trì tìm hiểu cơ cấu của nó bằng các truyện của Đức Khổng Tử, đặc biệt là hai truyện Hệ Từ Thượng Hạ. Bói Dịch chẳng qua là một ứng dụng đối với công năng rộng lớn của Dịch nhưng nếu mê tín nó thì người học rốt cuộc cũng chỉ tự nhốt mình trong lãnh vực cầu may không thể hiểu Dịch một cách khoa học. Nhà cầm quyền đương thời đã dùng việc này để xuyên tạc Kinh Dịch ngầm làm giảm sức đấu tranh của dân bị trị và thu hẹp công dụng của Dịch trong vòng mê tín. Nếu học Dịch và phát triển nó theo hướng này thì không khỏi vô tình đã dùng hệ Kinh Dịch đã bị xuyên tạc. Công năng của Dịch rộng lớn như tự nhiên, đã được phương Đông ứng dụng trong Y Dược, kính mong các nhà khoa học quan tâm thừa kế và phát huy tinh hoa của nó trong xã hội tương lai.
12. KHÍ HÓA VÀ SỰ SỐNG TRONG THÂN NGƯỜI Y học hiện nay, Tây cũng như Đông trong trị liệu đều dùng 2 phương pháp chính là dùng thuốc và không dùng thuốc. Nếu chỉ quan sát theo hiện tượng thì 2 phương pháp này rất khác nhau, nhưng bản chất của nó có nhiều chỗ giống nhau, cả hai có cùng 1 đối tượng là người bệnh và cùng một cơ sở là Khí Hóa [năng lực chuyển hóa cơ thể từ lành đến bệnh và ngược lại]. Nhân loại Đông cũng như Tây đều có nói đến Âm Dương nhưng dùng nó để lý luận trong Y học thì rõ ràng Đông áp dụng chủ yếu hơn Tây. Quá trình trao đổi từ Dương đến Âm gọi là BIẾN và từ Âm đến Dương gọi là HÓA. Tây Y ngày nay rất quan tâm đến Thần Kinh và Nội Tạng, ngày xưa Đông Y cũng không khác đã chú trọng đến Kinh Lạc và Tạng Phủ, điển hình là Nội Kinh Linh Khu nói rất rõ về Kinh Lạc và Nội Kinh Tố Vấn nói rất rõ về Tạng Phủ. Tuy nhiên có chỗ rất khác nhau là Tây Y phân biệt thần kinh giữa các cơ quan ngoại vi và Nội Tạng trong khi đó Đông Y lại có cái nhìn hệ 29
Kinh Lạc toàn diện , ngoài là giác quan, giữa là Kinh Lạc, trong là Tạng Phủ đều thống nhất, trải suốt và dính liền. Điều trị không dùng thuốc là những tác động trực tiếp đến hệ thần kinh cũng không khác với hệ Kinh Lạc để chuyển đổi từ bệnh đến lành. Dùng thuốc cũng vậy tức là nhờ vào sức thuốc gián tiếp sau giai đoạn hấp thu để chuyển hóa cơ thể. Tóm lại dù cho dùng thuốc hay không dùng thuốc cũng đều phải tạo ra một năng lực gọi là Khí để biến đổi gọi là Hóa cơ thể từ bệnh đến lành. Từ Khí Hóa đã được Đông Y dùng tại Nội Kinh Tố Vấn, ‘Bàng Quang là quan Châu Đô khí hóa xuất yên’ có nghĩa Phủ Bàng Quang [kinh Túc Thái Dương] coi sóc đất-nước toàn thân và có chức năng Khí Hóa để bài tiết nước tiểu. Đông Y truyền thống rất chú trọng cơ sở khí hóa nơi thân người và gọi nó là Nhân thân khí hóa. Cơ sở này là màn lưới Kinh Lạc toàn thân đã được Nội Kinh gọi là Tấu gồm tất cả Kinh Lạc nơi thân người (12 kinh và 8 mạch), màn lưới này trải suốt Biểu, suốt Lý và nối kết giúp cho Biểu Lý tương giao không rời. Đông Y hiện tại chỉ luận hiện tượng Âm Dương nên trình bày 2 Bộ vị đối lập là Biểu Lý, còn thuận Đạo Âm Dương thống nhất là cơ cấu biến hóa của Âm Dương nơi thân người là tại Bộ vị Tấu thì bỏ sót. Từ xưa đến nay Đông phương có học thuyết Tam Tài (Thiên Nhân Địa), thân người cũng có 3 thành phần là Tinh – Khí -Thần (Thần thuộc Trời, Khí thuộc người, Tinh thuộc Đất); Khí do Thần ngự gọi là Hồn, Khí do Tinh hóa gọi là Phách, toàn thể Khí lực nơi người gọi là Vía. Năng lực sinh hoạt nơi thân người tóm tắt gọi là Khí Hóa, cơ sở của mạn lưới này được gọi là Kinh Khí (có quan hệ với Trời) và cũng được gọi là Kinh Lạc (có quan hệ với Đất); do đó Kinh Lạc nơi thân người cũng có 3 thành phần là Khí Kinh Lạc (Khí là vật thuộc Trời, Kinh là đường nơi thân, Lạc là chất thuộc Đất). Đông Y truyền thống gồm Y Dược là một, trị liệu không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp…) và dùng thuốc (thang phương và cao đơn hoàn tán) là hai mặt Âm Dương trị liệu có cùng một cơ sở Khí Hóa là Kinh Lạc. Đông Y ngày nay phân biệt 2 phương pháp dùng thuốc và không dùng thuốc đều xem thường Kinh Lạc mà chỉ chú trọng công dụng của huyệt và của thuốc, đánh giá rất thấp 4 vấn đề cốt lõi của Đông Y là Lý Pháp Phương Dược (trong dùng thuốc) và Lý Pháp Phương Huyệt (trong điều trị không dùng thuốc). Người trước thường nói: ‘Học Y mà không biết Kinh Lạc như người đi trong đêm tối không có đèn đuốc trăng sao’, tiếp lời đó cụ Việt Nhân Lưu Thủy đã cổ súy ‘học Y thì trước hết phải học Kinh Lạc’ và dẫn chứng điều này bằng 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận. Vai trò Khí Hóa của Kinh Lạc vốn quan trọng không thể kể hết bằng đôi dòng ngắn ngủi này. Hơn ngàn năm nay vai trò của Kinh Lạc trong học thuật của nền Đông Y, cụ thể là người học thuốc chỉ chú trọng 2 mặt Âm Dương Ngũ Hành, còn lục Kinh lục Khí thì rất xem nhẹ, nhất là không tìm hiểu thấu đáo chức năng của Lạc làm cho Đông Y phải mai một. Nếu đã biết Kinh Lạc có 3 thành phần (Khí Kinh Lạc) tương ứng với học thuyết Tam Tài thì cũng cần xét đến Lạc có 2 thể loại 30
theo Đạo Tam Cực là Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập; tùy theo Kinh là Lạc có chức năng thống nhất, đường liên kết thống nhất 2 Kinh Âm Dương đối giao của một thân (2 mà 1); tùy theo Khí là Lạc có chức năng đối lập, đường phân nhánh của 1 kinh thành 2 thể (1 mà 2), Lạc là mạch máu (thuộc Đất) đối lập với Khí (thuộc Trời). Nếu như vậy thì chức năng của Phủ Tam Tiêu và của Tạng Tâm Bào Lạc đã rất rõ ràng không còn phải câu nệ với ý tưởng 2 Tạng Phủ này không có hình (Tam Tiêu là hệ giao thông của Khí và Thủy, Tâm Bào Lạc là hệ giao thông của Huyết và Hỏa). Cố chấp thân người chỉ có 2 phần Biểu Lý và truyền thừa Đông Y chỉ có Âm Dương Ngũ Hành là một chủ trương thiên lệch trọng Âm khinh Dương mà bỏ sót vai trò của lục Kinh lục Khí làm chủ sự sống nơi thân người. Cũng bởi sự thiên lệch bỏ quên này mà hơn ngàn năm nay Đông Y không biết đến vai trò của Bộ vị Tấu và 2 cặp Kinh Âm Dương Trung hiện là Thiếu Dương và Khuyết Âm gồm có Túc Thiếu Dương Hỏa Khí [Đởm], Thủ Thiếu Dương Thủy Khí [Tam Tiêu] & Thủ Khuyết Âm Hỏa Huyết [Tâm Bào Lạc], Túc Khuyết Âm Thủy Huyết [Can] ; cũng như vai trò của Tâm Bào Lạc là Động Mạch và của Can là Tĩnh Mạch, và Tam Tiêu kết hợp với Đởm là đường xá của Thủy Khí. Chẳng những như vậy Đông Y hiện nay còn không cảm nhận được mỗi người dù có phân thành Âm Dương đối lập, lục Kinh, lục Khí, lục Phủ, Ngũ Tạng thì cũng là một thể Âm Dương thống nhất (có sự sống bằng năng lực gọi là Khí). Nếu như Đông Y chỉ được truyền thừa giới hạn như hiện nay thì không xác minh được cội nguồn truyền thống Đạo học Khí Hóa của nó (bỏ sót bộ vị Tấu, vai trò của Lạc và hai mặt Âm Dương vừa thống nhất vừa đối lập trong một thân người có sự sống bởi một năng lực sinh động gọi là Khí Hóa) và không xứng đáng kết hợp với Tây Y để xây dựng một nền Y học toàn cầu./.
13. ĐỌC SÁCH THƯƠNG HÀN LUẬN BẢN NGHĨA (THLBN) BẰNG 3 ĐỒ HÌNH Sau khi dịch THLBN tôi đã đúc kết được Bản Nghĩa của Cụ Lưu Thủy thành 3 đồ hình : 1. Tứ bộ Sinh lý Bệnh lý (là một đồ tổng hợp gồm đủ Khí Hóa, Kinh Lạc,Tạng Tượng ). 2. Ba mối quan hệ của Tam Âm Tam Dương (gồm 3 cặp tam giác đối đỉnh mô tả 3 mối quan hệ Khí Hóa gọi là Trung kiến , Truyền Kinh gọi là Trung chuyển , Bộ Vị gọi là Trung hiệp). 3. Nhân Thân Khí Hóa [gồm 3 phần Biểu ,Lý và Tấu], trước đây khi vẽ lần đầu tôi trình bày trên một mặt phẳng nên Tấu Lý nằm giữa Biểu và Lý ; Sau này tôi thấy không phải như vậy và đã vẽ lại 3 phần này với hình dung trên không gian 3 chiều , cho thấy Tấu Bán Biểu đi Hoành suốt phần Biểu và Tấu Bán Lý đi Tung suốt phần Lý ; Phần Biểu có 3 phần Bì phu, Cơ Nhục và Tấu;
31
Phần Lý có Thượng chủ Nhiệt có 3 Tạng , Trung chủ Phong có 3 Phủ 3 Tạng , Hạ chủ Hàn có 3 Phủ). Những người đọc THLBN thấy khó hiểu, khi có được các hình đồ này liền thấy dễ hiểu, nhưng đa số có ý kiến nếu được tôi trực tiếp giảng giải thì còn hay hơn ; Cho nên , tôi viết tiếp tập sách Đông Y với truyền thống Đạo Học Khí Hóa để thỏa mãn yêu cầu này . Tôi ghi lại quá trình này để tiếp sức các anh em đọc Thương Hàn Luận Bản Nghĩa.
14. VẼ CÁC ĐỒ HÌNH ĐỂ ĐỌC SÁCH THLBN BẰNG 4 MÀU ĐEN, ĐỎ VÀ XANH TÍM. Trước đây, tôi đã ghi bài đọc sách THLBN bằng 3 đồ hình, nay viết thêm bài này để bổ sung. Đạo học Khí Hóa cho thấy Bản Nghĩa của tứ bộ Âm Dương Hàn Nhiệt: Sinh lý chú trọng Đạo học là Âm Dương. Bệnh lý chú trọng Khí Hoá là Hàn Nhiệt. Dùng màu theo Đạo Tam cực và Tứ bộ Âm Dương Hàn Nhiệt như sau : Màu đen tượng Âm, Hàn Màu đỏ tượng Dương, Nhiệt. Màu xanh là hiện tượng Âm Dương đối lập. Màu tím là bản chất tượng Âm Dương thống nhất. 1. ĐỒ HÌNH TỨ BỘ SINH LÝ BỆNH LÝ: a. Các hình vuông tròn: Hình tròn lớn tượng Thái Cực (Nhân thân Khí Hóa) màu xanh gồm nửa trái (ngoài) chủ Vệ (Dương Hàn) ; nửa phải (trong) chủ Vinh (Âm Nhiệt). 4 hình tròn nhỏ, tượng tứ kinh gồm trên tượng Dương Nhiệt vẽ toàn đỏ,dưới tượng Âm Hàn vẽ toàn đen; Trái tượng Dương Hàn toàn xanh chủ Biểu. Phải tượng Âm Nhiệt toàn tím chủ Lý.
32
Hình vuông, tượng tứ Kinh, tứ Khí toàn đen gồm có cạnh trên là Dương Nhiệt, cạnh dưới là Âm Hàn, cạnh trái là Dương Hàn, cạnh phải là Âm Nhiệt. b. Các Tạng Tượng: Tượng liền là Dương, Nhiệt. Tượng đứt là Âm, Hàn. c. Các tên chữ: Các chữ Dương Minh Táo toàn đỏ, Thái Âm Thấp toàn đen, Thái Dương Hàn thì Thái Dương đỏ Hàn đen,Thiếu Âm Nhiệt thì Thiếu Âm đen Nhiệt đỏ. Các chữ Táo, Nhiệt, Ôn, Phong, Trúng Phong màu đỏ. Các chữ Thấp, Hàn, Bệnh, Thương Hàn màu đen. Tứ bộ Trung Hiện thì Đởm màu đỏ, Can màu đen, Tam Tiêu màu xanh, Bào Lạc màu tím. 2. ĐỒ HÌNH 3 MỐI QUAN HỆ TAM ÂM TAM DƯƠNG: a. Tổng quát:
Vòng tròn ngoại tiếp 2 tam giác đối đỉnh màu xanh tượng Thái Cực,Hậu Thiên Bát Quái, cũng là tượng lục Kinh.
Tam giác đỉnh trên tượng Tam Dương Kinh toàn màu đỏ gồm Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương.
Tam giác đỉnh dưới tượng Tam Âm Kinh màu đen gồm Thiếu Âm, Thái Âm, Khuyết Âm.
b. Quan hệ Khí hóa: (Nội kinh gọi là Trung kiến)
Đường kính nối liền 2 đỉnh Thái Dương Hàn - Thiếu Âm Nhiệt màu tím.
Đường kính nối liền 2 đỉnh Dương Minh Táo - Thái Âm Thấp màu tím.
Đường kính nối liền 2 đỉnh Thiếu Dương Hỏa - Khuyết Âm Phong màu tím.
c. Quan hệ Bộ Vị (tạm gọi là Trung hiệp):
Đường kính nối liền 2 đỉnh Thái Dương Hàn khí - Thái Âm Bì phu màu đen.
Đường kính nối liền 2 đỉnh Dương Minh Cơ nhục - Khuyết Âm Phong khí màu tím. 33
Đường kính nối liền 2 đỉnh Thiếu Dương Táo phần - Thiếu Âm Nhiệt khí màu đỏ.
d. Quan hệ Truyền Kinh (tạm gọi là Trung chuyển)
Đường kính nối liền 2 đỉnh Thái Dương - Khuyết Âm màu tím.
Đường kính nối liền 2 đỉnh Dương Minh -Thiếu Âm màu tím.
Đường kính nối liền 2 đỉnh Thiếu Dương -Thái Âm màu tím.
3. ĐỒ HÌNH NHÂN THÂN KHÍ HÓA: Đồ hình này gồm các Bộ Vị Khí Hóa nơi thân người và Tạng Phủ với tên chữ và Tượng Âm Dương : BIỂU :
Biểu [Hàn] màu đen.
Bộ Vị và Kinh Lạc chủ Bộ Vị màu đen, Khí Hóa và Kinh Lạc chủ Khí Hóa màu đỏ.
Các Bộ Vị Bì Phu hiệp Khí Hóa Hàn màu đen, các Bộ Vị Cơ Nhục hiệp Khí Hóa Phong màu tím, các Bộ Vị Tấu Biểu hiệp Khí Hóa Nhiệt màu đỏ.
Các Kinh Lạc chủ Bì Phu và Hàn Khí Dương màu đen nhạt, Âm màu đen đậm. Các Kinh Lạc chủ Cơ Nhục và Phong Khí Dương màu xanh, Âm màu tím. Các Kinh Lạc chủ Tấu Biểu và Nhiệt Khí Dương màu đỏ nhạt, Âm màu đỏ đậm.
Các chữ Tấu Bán Biểu thì chữ Tấu màu tím, Bán Biểu màu đen, chữ Hoành và mũi tên ra vào màu đen.
Lý [Nhiệt] màu đỏ.
Thượng phần chủ Nhiệt Khí màu đỏ, Trung phần chủ Phong Khí màu tím, Hạ phần chủ Hàn Khí màu đen.
Các chữ Tấu Bán Lý thì Tấu màu tím Bán Lý màu đỏ, chữ Tung và mũi tên lên xuống màu đỏ.
LÝ:
CÁC TƯỢNG KINH LẠC :
Dương màu đỏ, Âm màu đen.
34
15. KHÍ, KINH, LẠC Đức Trọng Cảnh (Hán) viết bộ sách Bệnh lý học gồm 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận là tuân thủ sự truyền thừa có hệ thống từ Nội Nạn. Nội kinh có sách Linh khu mô tả Hệ Kinh Lạc, bộ máy truyền chuyển biến hóa linh hoạt nơi con người; Tố vấn luận về Phủ Tạng liên hệ chặt chẽ với Lục Khí và Ngũ Hành. Bản Nghĩa khuyên người học Đông y phải học Kinh Lạc, lại nói (nơi sách Thương Hàn Giáo Khoa) rất rõ về Kinh Khí còn nói Khí, Kinh, Lạc khi không bệnh thì một mạch quán thông, khi có bệnh thì mỗi mỗi phân biệt. Những cách nói này không khỏi làm cho người mới học phân vân không hiểu tại sao ! Kinh Lạc là nương theo hình tướng để mô tả, Lạc là ống dẫn máu (huyết) khắp châu thân thuộc Ngũ Hành của Đất. Kinh Khí là nói đến chức năng, Khí là luồng năng lực khắp châu thân thuộc Lục Khí của Trời. Khí, Kinh, Lạc là gồm cả Đạo Tam cực, điển hình là Tam Tài, là Thiên Nhân Địa (Trời, Người, Đất) có đủ và làm nên sự sống nơi con người: Khí thuộc Trời. Kinh thuộc Người. Lạc thuộc Đất. Ngày nay người học Đông y chỉ nắm hiện tượng là 2 cực Âm Dương nên không biết đến Kinh là Trung Đạo (bản chất) nối liền sự chuyển hóa giữa cặp Âm Dương của thân người là Khí Huyết Cũng không biết ý nghĩa khi nào nói Kinh Lạc, khi nào nói Kinh Khí. Cách nói này không khác với cách nói của Phật Giáo khi diễn đạt danh hiệu của Phật là bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác:
Vô Thượng ngụ ý chỉ cái Tâm duy nhất (Vô tượng Tâm đối với hữu tượng vòng tròn, Thượng tượng Tâm đối với Hạ tượng vòng tròn).
Chánh Đẳng và Chánh Giác: Giác hướng Tâm là Dương, Đẳng ly Tâm là Âm, 2 lần dùng chữ Chánh để chứng tỏ chữ Chánh là trung đạo nối liền giữa cái Tâm tuyệt đối và vòng tròn tương đối [Thái cực tuyệt đối sinh Lưỡng nghi tương đối là Giác và Đẳng]. Theo như trên thì đều là trình bày Đạo Tam Cực, một trật tự sinh hóa của vạn vật.
.
35
16. ĐỒNG ỨNG DỤNG Vận dụng luật Đồng Ứng,một qui luật khoa học tự nhiên,để tìm một điểm trên thân người bệnh gọi là huyệt và dùng thủ pháp là một nghệ thuật của khoa điều trị không dùng thuốc.Gọi là nghệ thuật vì không hoàn toàn lệ thuộc những nguyên tắc định sẳn.Nó tùy thuộc sở trường của người điều trị khi lâm sàng (khám và điều trị bệnh );Có thể với trình độ học và làm của mỗi người mà có kết quả khác nhau .Xét tính Đồng để tìm chổ Ứng rồi dùng,là trật tự muôn đời đã được Đông Y áp dụng từ lâu,thể hiện trong Ngành Châm Cứu và Day Bấm với các tên huyệt A thị và Thiên ứng:
A thị huyệt là tên một huyệt hoặc trên đường kinh,hoặc trùng hợp,hoặc không trùng hợp với các huyệt,hoặc ngoài đường kinh đã có. A thị là tiếng thốt cảm xúc của người điều trị khi tìm thấy nó ‘À đây rồi !‘.
Thiên Ứng huyệt cũng là một tên khác của A thị huyệt.Mọi sự không biết của người xưa đều quan niệm do Trời làm ra nên điểm Ứng hiện này được gọi là Thiên Ứng .Quan điểm này không khác với hộp đen của môn Điều khiển học .
Ngày nay khoa điều trị không dùng thuốc,vận dụng phương pháp này là thừa kế và phát huy một vốn quý cổ truyền chớ không hoàn toàn mới sáng chế. Tìm chổ Đồng của vạn vật tất yếu không rời hai mặt Thời và Vị(Thế):
Huyệt có thể tìm thây đồng thời với bệnh phát sanh trong trường hợp bệnh cấp,hoặc chỉ có thể tìm thấy sau khi bệnh đã hình thành trong trường hợp bệnh mãn.
Huyệt có thể tìm thấy nơi vị trí tương ứng với chổ bệnh,thường được tìm thấy do óc nhận xét và tính diệu quan sát của người sử dụng các chổ Đồng như: Đồng hình thể, Đồng vị trí, Đồng thứ tự, Đồng Kinh Lạc, Đồng Tạng Phủ, Đồng động tịnh…v.v…
1. ĐỒNG HÌNH THỂ: Dò tìm huyệt trên một vùng hoặc một cơ quan có hình thể tương đồng với chổ bệnh.Ví dụ:Trị các chứng đau và các bệnh liên quan đến cảm giác,dinh dưỡng thì tìm nơi mặt vì mặt có hình quả tim trùng hợp với kinh nghiệm của người xưa ‘Tâm là ngôi quân chủ thống lãnh mọi sinh hoạt của con người‘.Tai có hình hạt đậu tương đồng với Thận làm chủ sức đề kháng,bảo vệ cơ thể nên các huyệt ở đó được dò tìm để điều trị các bệnh có liên quan. 2. ĐỒNG VỊ TRÍ: Dò tìm huyệt nơi các bộ phận tương đồng vị trí hoặc cùng tên với chổ bệnh.Ví dụ:Chích lễ các đầu ngón tay,ngón chân để cứu cấp bệnh ở đầu như nhức đầu dữ dội,tai biến mạch não.Dò 36
tìm các huyệt điều trị dựa theo hai đồ hình Âm Dương của môn Diện chẩn phần lớn là dựa theo tương đồng này. 3. ĐỒNG THỨ TỰ: Dò tìm huyệt tương quan với chổ bệnh theo thứ tự của vùng.Ví dụ:Nơi mặt dùng huyệt ở trán để trị bệnh phần trên cơ thể như bệnh tại đầu não và tâm thần;dùng huyệt giữa mặt để chữa bệnh tại trung tiêu; dùng huyệt dưới miệng để chữa bệnh tại hạ tiêu.Dò tìm huyệt nơi bàn tay để trị phần trên,nơi cánh tay dưới để trị phần giữa,nơi cánh tay trên để trị phần dưới,các vị trí khác cũng tương tự như vậy. 4. ĐỒNG KINH LẠC: Người nắm vững học thuyết Kinh Lạc của Đông Y thì rất dể tìm những huyệt trên mặt có tương quan với các huyệt nằm trên hệ này.Ví dụ:Nơi đường thẳng đứng giữa trán và đường dọc trên sóng mũi là phản ánh cột sống với những huyệt của Đốc mạch như Ấn đường trùng với Đại trùy,huyệt số 1 của môn Diện chẩn trùng với Huyền xu..v.v.. .Theo đồ hình Âm của môn Diện chẩn thì Nhơn trung trùng với Trung quản,Thừa tương trùng với Khí hải .v..v…Căn cứ theo đó để phát huy phối huyệt. 5. ĐỒNG TẠNG PHỦ: Người nắm vững học thuyết Tạng Phủ của Đông Y tất nhiên thấy rõ mối quan hệ này.Ví dụ: Điểm giữa trán là trùng hợp với Cân súc của Đốc mạch,cũng là đỉnh đầu cho nên trị nhức đỉnh đầu dò tìm huyệt tại giữa sóng mũi hoặc các huyệt trên Kinh Can như Thái xung, Đại đôn .v.v..Bệnh tại Dạ dày dùng các huyệt ở mặt như Nghinh hương,Nhân trung,Thừa trấp. 6. ĐỒNG ĐỘNG TỊNH: Dùng các huyệt phản chiếu tương quan với sự vận động của cơ thể .Ví dụ:Dùng các huyệt trên chân mày có vận động nhiều để trị các đau nhức nơi tay;Dùng các huyệt theo rãnh mũi má quanh miệng có vận động nhiều để trị các chứng đau ở chân. Người ứng dụng pháp Đồng Ứng thường gặp những đặc điểm nơi huyệt chọn tìm:
Một Tâm điểm cực nhỏ không đau(Kim châm không cảm giác).
Hình tròn quanh Tâm điểm đường kính khoảng 2 đến 5 ly có điện trở thấp,nhạy cảm với nóng lạnh hoặc ấn đau.
Nơi huyệt có mụn đỏ tương ứng với bệnh trong trường hợp viêm cấp.
Dưới huyệt có chổ cợm cứng trong trường hợp dùng bệnh có ứ trệ. 37
Nơi huyệt có tàn nhang,nốt ruồi trong trường hợp bẩm sinh hoặc kinh niên.
..v..v….
.
.
17. THÂM Ý NGƯỜI THUẬT DÙNG KINH HUYỆT Trước khi học tập các bản nghĩa của Cụ Lưu Thủy và tiếp xúc với 2 nguyên văn Thương Hàn Luận,Tạp Bệnh Luận của Đức Trọng Cảnh để thấy được nguồn gốc của Đông Y là Đạo học Khí hóa thì tôi cũng học Đông Y với Lý luận cơ bản ‘Âm Dương – Ngũ Hành ‘ như mọi người. Tôi viết bài ‘Dùng kinh huyệt‘với thâm ý nhắc về Đạo.Người xưa thường dùng chữ Đạo trong 3 loại:
Đạo Trú Dạ: Ý nói sự vật có 2 ngọn (Âm Dương)và cùng 1 gốc (Đạo).
Đạo Tam cực: Ý nói toàn thể sự vật gồm cả 2 ngọn (2 cực Âm Dương) và 1 gốc (1 cực Trung Hòa ).
Đạo Vuông tròn: Ý nói quan trọng nhất nơi mọi sự vật là Trung Đạo (đường nối giữa 2 cực Âm Dương,giữa đường nối này là cực Trung Hòa).
Ngày nay tuy chú trọng Âm Dương nhưng chỉ xem nặng Ngũ Hành (Âm),xem nhẹ Lục khí (Dương) thì còn đâu là Âm Dương tương đối; chỉ tìm hiểu sự vật theo hiện tượng Âm Dương mà bỏ qua bản chất Trung Đạo thì còn đâu là Đạo Tam cực. Từ 3 chữ ‘ Dùng Kinh Huyệt ‘ , nhiều người đã hiểu Kinh Huyệt là 1 từ với nghĩa của 1 chữ Huyệt và sẽ có phân biệt dùng Huyệt theo Âm Dương và dùng Huyệt theo Ngũ Hành. Sự thật KinhHuyệt là 2 chữ có ý nghĩa khác nhau, như đã nói Người là 1 bầu Trời Đất nhỏ ,thân Người có Kinh Lạc hoặc Thần Kinh với 3 thể Khí (Trời) – Kinh (Người) - Lạc (Đất).Vậy thì Huyệt là ngọn,Kinh là Trung Đạo (đường nối liền các Huyệt),chức năng của Huyệt là gốc(Khí). Nội dung bài ‘Dùng kinh huyệt‘có nhắc đến Lục Khí Lục Kinh với ý nói Lục Khí là Dương tương đối với Ngũ Hành là Âm; rồi lại nói Tứ Kinh Tứ Khí để nhắc nhở Trung Đạo là tâm đắc (bí chỉ) làm sách Bệnh Lý học của Đức Trọng Cảnh. Nhân thân Khí Hóa không chỉ có 2 Bộ Vị Biểu Lý (hiện tượng) mà còn có Bộ Vị Tấu (bản chất,con đường tương giao biến hóa của Âm Dương).Kinh Lạc, Tấu Lý, Truyền Kinh là cốt lõi truyền thống Đạo học Khí Hóa của Đông Y. Lưu Thủy là nước chảy không dừng. Vô Thường là hiện có rồi cũng mất đi. 38
Cả hai danh hiệu này đều nhắc nhở người đời sau tiếp nối liên tục Người tiếp nối không thể bỏ quên căn bản là Đạo Tam Cực và trị liệu là làm cho Âm Dương – Hàn Nhiệt nơi sự vật thăng bằng và điều hòa.
18. KẾT HỢP ĐÔNG TÂY Y Thế giới nhân loại đang bước vào thời đại toàn cầu hóa, mọi ngành khoa học phát triển trong xu thế này, trong đó có Y học; xưa có cổ truyền,nay có hiện đại, Đông có Đông Y, Tây có Tây Y. Với giao thông cao tốc, vận dụng tia la-de phổ cập, màn lưới tin học trùm khắp, Đông Tây không còn cách biệt, vấn đề kết hợp Đông Tây Y không những trở thành xu thế tất yếu mà còn lộ rõ là trách nhiệm của cả nhân loại, điển hình là ngành Y thuộc các quốc gia trên thế giới. 1. XU THẾ TẤT YẾU: Đông Tây là một cặp Âm Dương, không nên chỉ bàn về đối lập vì đó là kỳ thị, chia rẽ mà còn phải luận về thống nhất thì mới là kết hợp, dung hòa. Đông Y có sở trường là Đạo học – Khí Hóa, Tây Y có sở trường là Khoa học- Thực Nghiệm. Đạo học Khí Hóa là gốc, Khoa học Thực Nghiệm là ngọn; Gốc ngọn cùng tồn tại nơi mọi sự vật cho nên Đạo học cần có Khoa học để phát triển, Khoa học cần có Đạo học để định hướng. Đông Tây Y phải kết hợp để xây dựng một nền Y học toàn cầu là đương nhiên và là xu thế tất yếu. 2. CHỖ GIỐNG VÀ KHÁC GIỮA ĐÔNG TÂY Y: Đông và Tây Y giống nhau ở chỗ cùng khảo sát thân người và cùng phục vụ sức khỏe loài người nhưng lại khác nhau về phương pháp luận, nếu cùng hiểu được phương pháp luận của cả 2 mặt thì việc kết hợp sẽ không còn trở ngại: Đông Y có sở trường Đạo học Khí Hóa, từ chẩn đoán đến luận bệnh dựa theo môi trường tạo ra nguyên nhân khởi phát với lý luận Âm Dương Ngũ Hành nên đối với hiện đại thì mơ hồ, khó hiểu thấu. Tây Y có sở trường Khoa học Thực Nghiệm, từ chẩn đoán đến định bệnh dựa theo chứng tích làm nên kết quả bệnh tình với cụ thể đo đạc, kỹ thuật chứng minh bằng máy móc nên đối với cổ truyền thì mới mẻ, khó theo kịp. Đông Tây, kim cổ dù có khác cũng chỉ là hiện tượng, còn sự lý chân thật thì chỉ là một, nếu có lòng tìm hiểu ắt sẽ cảm thông phương pháp luận của nhau. 3. NỘI DUNG KẾT HỢP: Kết hợp Đông Tây Y là xây dựng một ngành Y Khoa học, Dân tộc và Đại chúng để phục vụ tốt cho nhân loại. Kết hợp Đạo học với Khoa học, Khí Hóa với Thực Nghiệm là nội dung chủ yếu. Một nền Y thống nhất ví như một thân cây nếu có gốc không ngọn ắt không thể phát triển tươi tốt; trái lại chỉ 39
tốt ngọn xấu gốc thì cũng chẳng vững vàng. Cụ thể là từ nửa thế kỷ trước,Tây Y đã biết Sinh tố (Vitamin) D kết hợp với Canxium để bổ xương mà còn biết sinh tố D được cơ thể tổng hợp do ánh sáng mặt trời;mãi đến gần đây một vài Bác sĩ mới thấy được sinh tố D góp phần phòng ngừa và hổ trị được nhiều bệnh như cảm cúm ….., ung thư. Vấn đề này tương tợ như Đông Y đã khẳng định từ lâu là Thận chủ ‘Cốt’ (xương), Thận là quan ‘Tác cường’ (trợ sức khỏe),chủ trì Vệ khí (bảo vệ và ngừa trị bệnh tật không khác với Tây Y ngày nay dùng Cortison và Interferone). Lại nói Thận Biểu Lý với Bàng quang thuộc Kinh Túc Thái Dương; Kinh này gọi đủ là Thái Dương Hàn Khí, gọi tắt là Dương Hàn (ánh mặt trời chiếu xuống các mặt biển hình thành một loại khí bao quanh quả đất cũng như Vệ khí nơi thân người) cho nên nếu sớm có sự kết hợp thì hiệu năng của sinh tố D có lẽ được suy gẩm sớm hơn. 4. KHẮC PHỤC TRỞ NGẠI: Khó khăn lớn nhất hiện nay là cả Đông lẫn Tây đều kỳ thị và chia rẽ vì không chịu nhận biết Đông Tây là một cặp Âm Dương có sự phát triển không rời 2 qui luật Đối lập và Thống nhất.Phủ nhận Đối lập hoặc từ chối Thống nhất đều là trái qui luật. Song song với những tiến bộ khoa học kỹ thuật,Tây Y đang lãnh đạo Y tế thế giới và sẽ lãnh đạo ngành Y thống nhất. Nếu như trong cương vị lãnh đạo Tây Y muốn dìm hoặc muốn diệt Đông Y thì không khác tự chặt đứt một cánh tay của mình. Lịch sử cận đại đã chứng minh tại các nước tiên tiến đã thuận theo nhu cầu của đại chúng, mở các khoa Đại học Đông Y, nghiên cứu Châm cứu và trị liệu bằng Dược thảo …….. . Tuy nhiên Đông Y truyền thống có đủ 4 vấn đề là Lý Pháp Phương Dược thì các nhà khoa học chỉ khởi sự thừa kế 2/4 đó là Phương Huyệt trong Châm cứu và Phương Dược trong dùng Thuốc; còn Lý Pháp thì tuyệt đối không chịu biết với 2 lý do thực tế như sau:
Đông Y hiện nay với chủ trương xuyên tạc của các nhà cầm quyền phong kiến và độc tài,đã không còn đầy đủ truyền thống Đạo học- Khí Hóa,một Lý Pháp vốn có của chính mình.
Tây Y trong cương vị lãnh đạo đã không khỏi tự tôn,độc quyền,thừa kế và phát huy theo ý mình.
Người hiểu biết tất nhiên không phủ nhận vai trò khoa học và lãnh đạo của Tây Y,nhưng cũng không chối bỏ được những sự thật vốn có của Đông Y. Vấn đề cần giải quyết hiện nay không phải là tiêu diệt để 2 trở thành 1 hoặc là độc quyền lãnh đạo,thừa kế; mà chính là ngành Y thừa kế được đầy đủ vốn quý cổ truyền và Đông Y sẽ đóng góp thế nào trong cuộc xây dựng 1 ngành Y Khoa học-Dân tộc-Đại chúng trong tương lai. Muốn được như vậy trước hết Đông và Tây Y phải thực sự hiểu nhau (tuy đối lập mà thống nhất), vì cả 2 cùng có 1 đối tượng phục vụ là sự sống nơi thân người. 5. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO: Trách nhiệm khắc phục những khó khăn hiện có không phải riêng của Tây Y hay Đông Y mà do từ tổ chức Y tế thế giới và ngành Y của các quốc gia.Lãnh đạo không thể thiếu chuyên môn, 40
cũng không có óc bè phái,phải cầu thị và có tinh thần phục vụ Đại chúng. Mặc dù kết hợp đang là xu thế tất yếu nhưng kết quả chậm hay mau để hoàn thành đoạn đường này còn rất tùy thuộc sự lãnh đạo của ngành. 6. NHẬN ĐỊNH: Kết hợp Đông Tây Y là yêu cầu đương nhiên và thiết yếu để xây dựng một nền Y học toàn cầu. Tất cả nhân loại đặc biệt là những người đang học hành Đông Y và Tây Y chẳng những tự khẳng định mình mà còn phải hiểu thấu mối quan hệ không thể chối cãi giữa Đạo học – Khí Hóa (tự nhiên) và Khoa học - Thực Nghiệm (kỹ thuật) để mưu cầu lợi ích cho đại chúng.
Hết phần 1 41
PHẦN 2
TIẾP NỐI ĐỀ XƯỚNG CỦA CỤ LƯU THỦY LÀM TRONG SÁNG THÊM BẢN NGHĨA CÁC SÁCH THƯƠNG HÀN LUẬN VÀ TẠP BỆNH LUẬN Việt Nhân Lưu Thủy (1887- 1964) sinh quán tại Quảng Nam đã để lại cho các thế hệ sau một di cảo vô cùng quý giá trong đó có 2 sách Thương Hàn Luận Bản Nghĩa và Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa với đề xướng chấn hưng Đông Y bằng cách học tập 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Đức Trọng Cảnh.Tôi nhờ học tập Bản Nghĩa mà biết được Đông Y có Truyền thống Đạo học Khí hóa nhưng xét kỷ các Bản Nghĩa tuy có lợi ích to lớn vẫn còn chổ khó hiểu đối với nhiều người không quen văn pháp cổ và nhất là các nhà khoa học.Vì vậy việc tiếp nối Cụ Lưu Thủy và làm trong sáng thêm các Bản Nghĩa này là nhiệm vụ thừa kế và phát huy của các thế hệ sau.Tôi gợi ý và đề nghị như vầy:
Trước nội dung sách cần có bài Ý nghĩa tên sách Thương Hàn Luận.Kế tiếp là bài Ý nghĩa nội dung sách.
Trước mỗi thiên luận có bài luận của mỗi Kinh.
Trước mỗi Chương có luận lý do và nội dung Chương được phân.
Trước mỗi Tiết có tóm lược thích nghi.
Lời chú giải các phân đoạn Nguyên văn sát thực tế và dễ hiểu (nếu cần thêm bớt hoặc bổ chính).
Công việc này tất nhiên lâu dài và cần góp sức của những người thông hiểu.Sau đây là một vài gợi ý của cá nhân:
Ý NGHĨA TÊN SÁCH THƯƠNG HÀN LUẬN Tiếp nối Nội kinh và Nạn kinh Đức Trọng Cảnh làm một bộ Bệnh lý học gồm 2 sách,chủ bệnh tại Biểu là Thương Hàn Luận,chủ bệnh tại Lý là Tạp Bệnh Luận.Người đời sau không hiểu đầy đủ ý nghĩa 2 tên sách này nên có hiện tượng tuy ngưỡng mộ Tạp Bệnh Luận và tôn Đức Trọng Cảnh làm Y Tổ cũng đổi tên Tạp Bệnh Luận thành Kim Quỹ Yếu Lược;còn đối với sách Thương Hàn Luận thì chú giải mơ hồ lại còn có ý kiến cho là Ngài chuyên chủ bệnh do lạnh trái với Nội kinh.
42
Nội kinh nói Nhiệt Bệnh Luận là chủ trương luận bệnh của kinh Thiếu Âm,chủ bệnh tại Lý,chủ về Huyết và Hỏa để dinh dưỡng thân người.Khí Thiếu Âm(Nhiệt)làm bệnh do Nhiệt khí của kinh này thái quá(Thực)hoặc bất cập(Hư). Kinh Thiếu Âm thống lãnh các kinh Âm chủ bệnh tại Lý do Nhiệt khí,đó là Nội kinh mới nói một nửa,còn Dương kinh thống lãnh và chủ bệnh tại Biểu do Hàn khí thì thế nào? Thương Hàn Luận mở đầu bằng luận bệnh của kinhThái Dương,chủ bệnh tại Biểu do Hàn khí là bổ khuyết cho đầy đủ một cặp Âm Dương tương đối,nào có luận gì trái ngược với Nội kinh. Một danh Y nói câu”Lĩnh Nam không có Thương Hàn“ khiến cho người sau ông lầm chấp Thương Hàn là do khí lạnh từ ngoài,trái với thực tế Thương Hàn là 1 trong 2 bệnh của kinh Thái Dương nơi thân người. Tên sách Thương Hàn là một luận chủ đề,mọi bệnh phát khởi tại Biểu đều do kinh Thái Dương Hàn khí làm ra,cho nên luận kinh này trước hết. Kinh Thái Dương đối lập với Kinh Thiếu Âm có đủ tính Âm Dương Hàn Nhiệt và có đủ 3 chức năng làm bệnh,thọ bệnh,truyền bệnh.Tất nhiên bệnh của Kinh Thái Dương gồm có: lưỡng nghi bệnh là Thương Hàn(Dương kinh Hàn khí)và Trúng Phong( Âm kinh Nhiệt khí) và tứ tượng bệnh là Ôn bệnh,Phong Ôn(Nhiệt loại);Hàn Thấp,Phong Thấp(Hàn loại).Nào có thiên luận về Âm Dương Hàn Nhiệt như đã bị xuyên tạc. Tiếp sau luận bệnh Kinh Thái Dương là luận bệnh Kinh Dương Minh Táo khí,Kinh Thiếu Dương Hỏa khí,Kinh Thái Âm Thấp khí,Kinh Thiếu Âm Nhiệt khí,Kinh Khuyết Âm Phong khí. Cho thấy Thiếu Dương là Kinh trung chuyển từ Dương sang Âm [Dương Nhiệt trung chuyển Âm Hàn và Dương Hàn trung chuyển Âm Nhiệt]; Khuyết Âm là Kinh trung chuyển từ Âm sang Dương [Âm Hàn trung chuyển Dương Nhiệt, Âm Nhiệt trung chuyển Dương Hàn]. Người cố chấp Thương Hàn Luận chỉ là luận bệnh cảm lạnh có lẽ chưa đọc kỹ sách này.
Ý NGHĨA NỘI DUNG SÁCH THƯƠNG HÀN LUẬN Thương Hàn Luận gồm có 7 quyển, 8 thiên và 397 Tiết. Trình bày bệnh chứng của 6 Kinh theo thứ tự Thái Dương,Dương Minh,Thiếu Dương,Thái Âm,Thiếu Âm,Khuyết Âm là ngụ ý tuân thủ truyền thống của Nội kinh và nhắc nhở người học đó là chu kỳ tuần hành theo ngày của 6 Kinh nơi thân người. Là sách chủ đề luận bệnh tại Kinh Thái Dương,có tên là Thương Hàn Luận nên Kinh Thái Dương mở đầu và có bệnh chứng 180 Tiết gần phân nửa luận,chia thành 3 thiên Thượng,Trung,Hạ giúp cho người đọc thấy biết một sự thật về Âm Dương đó là Đạo Tam cực gồm cả 2 qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập.Nếu như Thái Dương Hàn khí chủ bệnh tại Biểu thì hẳn có Thiếu Âm Nhiệt khí chủ bệnh tại Lý và còn có 1 Bộ Vị là đường tương giao của 2 Kinh này đó là Tấu.Thân người chia 2 phần Biểu và Lý theo hiện tượng của Âm Dương nhưng còn có 43
Tấu (mạng lưới tương giao tuần hoàn)là bản chất của Âm Dương.Việc phân chia này làm cho thấy rõ thân người có 3 Bộ Vị,tại Lý có Thượng Trung Hạ theo chiều dọc(Tung) thì tại Biểu cũng có 3 Bộ Vị là Bì phu,Cơ nhục,Tấu Biểu theo chiều ngang(Hoành). Kinh Thái Dương Hàn khí làm bệnh và thọ bệnh đầu tiên thì tại Biểu Bộ Vị,Cơ nhục nơi phát xuất bệnh chứng Trúng Phong cũng được luận trước hết (Tiết 12). Tiếp nối 2 Yếu chỉ của Nội kinh là Kinh Lạc và Tạng Phủ,người làm sách Thương Hàn không thể thiếu xót.Mỗi Kinh có 3 phần Khí(Trời), Kinh(Người), Lạc(Đất);Điều này giúp chúng ta thấu hiểu thuật ngữ Kinh Khí là để nói chức năng hoạt động(Dương) của Kinh và Kinh Lạc là để nói hình chất dinh dưỡng(Âm) của Kinh. Tấu là mạng lưới Kinh Lạc,con đường truyền chuyển của Âm Dương Hàn Nhiệt;6 Kinh đều nằm trên Tấu nên đều có chức năng thọ bệnh. 6 Kinh chia thành 3 cặp:
Cặp Thái Dương(Dương Hàn)đối giao với Thiếu Âm(Âm Nhiệt)là cặp Âm Dương Hàn Nhiệt,có đủ 3 chức năng làm bệnh,truyền chuyển bệnh,thọ bệnh.
Cặp Dương Minh(Dương Nhiệt,thuần Dương)đối giao với Thái Âm(Âm Hàn,thuần Âm) là cặp Âm Dương Táo Thấp,không tự có 2 chức năng làm bệnh và truyền chuyển bệnh,thừa nhận 2 Kinh Khí Dương Hàn và Âm Nhiệt để có 2 chức năng trên.
Cặp Thiếu Dương(Dương Trung hiện)đối giao với Khuyết Âm(Âm Trung hiện)là cặp Âm Dương Trung hiện,nền tảng của Tấu Lý không có 2 chức năng làm bệnh và truyền chuyển bệnh,chỉ thọ 2 Kinh Khí Dương Hàn và Âm Nhiệt để tự bệnh mà thôi.
Người đời sau không hiểu Đạo Tam cực,không biết đến Bộ Vị Tấu nên không thể cảm nhận được Đạo lý truyền chuyển bệnh,lại do Bản Nghĩa tuân thủ truyền thống ngàn xưa chỉ nhấn mạnh Hàn truyền(Dương),không chịu đọc đến Nhiệt chuyển(Âm) đã vội bài bác Nội dung Truyền Kinh của sách Thương Hàn. Y gia cần phải nắm vững Kinh Lạc và Khí chủ trì của nó vì Kinh Lạc là đường truyền chuyển Sinh lý và Bệnh tật.Hiểu biết Kinh Lạc tức là nắm vững cơ chế Sinh Bệnh Lý nơi thân người.Thương Hàn Luận từ đầu đến cuối thuyết minh Truyền kinh bệnh và Đạo lý của nó là Tấu,Kinh Lạc; nên cuối sách dùng 2 chương Hoắc loạn nói về Kinh, Âm Dương dịch nói về Lạc để kết thúc thâm ý này.Lẽ ra 2 chương Hoắc loạn và Âm Dương dịch hiệp thành 1 thiên riêng không để chung nơi thiên luận Kinh Khuyết Âm. Nguyên văn chỉ có 8 thiên luận bệnh chứng của 6 kinh với 397 Tiết không có đại ý;Cụ Việt Nhân Lưu Thủy làm Bản Nghĩa chia thành 47 Chương,mỗi Chương đều có chủ đề và mỗi Tiết đều
44
có đại ý là 1 tâm đắc vô cùng quý giá giúp cho người sau hiểu rõ Nội dung của sách Thương Hàn Luận.
LUẬN KINH KHÍ Kinh Lạc là cơ sở Khí Hóa nơi thân người, là cốt lõi của Đông Y điển hình đã được Nội Kinh - Linh Khu diễn đạt. Người xưa thường thấy như in Thuyết Tam Tài và nói mỗi người là một bầu trời rất nhỏ (Trời - Người - Đất) nên Kinh Lạc nơi thân người cũng có 3 thành phần là Khí (Trời), Kinh (Người), Lạc (Đất). Tuy nhiên để dùng từ gọn gàng, dù rất chú trọng cơ sở khí hóa vẫn thường gọi là Kinh Lạc mà chức năng của nó (thuộc Dương) là Khí thì không bỏ sót nên sau này người học thấy chữ Khí liền với mỗi Kinh, còn ý nghĩa chữ Lạc đã lu mờ. Tuân thủ truyền thống trước 6 Kinh có luận Kinh Khí, và sau 6 Kinh luận thêm về Lạc cho đầy đủ. Thân người có 6 Kinh hành 6 Khí là:
Kinh Thái Dương hành Hàn Khí.
Kinh Thiếu Âm hành Nhiệt Khí.
Kinh Dương Minh hành Táo Khí.
Kinh Thái Âm hành Thấp Khí.
Kinh Thiếu Dương hành Hỏa Khí.
Kinh Khuyết Âm hành Phong Khí.
6 Kinh chia Thủ Túc thành 12 ứng với 6 Phủ 6 Tạng nơi thân người. 3 Kinh Dương thành 6 Phủ là Túc Thái Dương Bàng Quang, Thủ Thái Dương Tiểu Trường - Túc Dương Minh Vỵ,Thủ Dương Minh Đại Trường – Túc Thiếu Dương Đởm, Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu; 3 Kinh Âm thành 6 Tạng là Thủ Thiếu Âm Tâm, Túc Thiếu Âm Thận – Thủ Thái Âm Phế, Túc Thái Âm Tỳ - Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc, Túc Khuyết Âm Can. Âm Dương vừa đối lập lại vừa thống nhất là Đạo của mọi sự vật nơi vũ trụ, thân người cũng không ngoại lệ nên 6 Kinh có đối lập là Tam Âm Tam Dương nhưng lại thống nhất thành 3 cặp là:
Thái Dương-Thiếu Âm: Âm Dương Hàn Nhiệt.
Dương Minh-Thái Âm: Âm Dương Táo Thấp.
Thiếu Dương-Khuyết Âm: Âm Dương Trung Hiện.
12 Tạng Phủ Kinh Khí Âm Dương Hàn Nhiệt - Táo Thấp - Phong Hỏa chia thành 3 Tứ Bộ: 45
4 Tạng Phủ Kinh Khí Âm Dương Hàn Nhiệt Tiên Thiên: Tâm-Bàng Quang–Tiểu Trường-Thận.
4 Tạng Phủ Kinh Khí Âm Dương Táo Thấp Hậu Thiên: Vỵ - Phế - Tỳ - Đại Trường.
4 Tạng Phủ Kinh Khí Âm Dương Phong Hỏa Trung Thiên: Đởm–Can–Tam Tiêu – Tâm Bào Lạc.
Kinh Lạc họp thành màn lưới là một Bộ Vị nơi thân người gọi là Tấu. (Người xưa nói Kinh Lạc tập trung tại Tấu). Bộ Vị Tấu tại Biểu là Kinh Lạc tại Biểu gọi là Tấu Bán Biểu, Bộ Vị Tấu tại Lý là Kinh Lạc tại Lý gọi là Tấu Bán Lý. Ngày nay học hành Đông Y chỉ đề cập 2 Bộ Vị Biểu Lý, không nhấn mạnh đến Tấu là chỉ còn Nghĩa Âm Dương đối lập (Biểu - Lý) mà thiếu Đạo Âm Dương thống nhất (Tấu) thì còn đâu là truyền thống ?
LUẬN KINH THÁI DƯƠNG Thái Dương là tên gọi Kinh,gọi đủ Kinh Khí là Thái Dương Hàn Khí,gọi theo Tượng là Kinh Dương Hàn (tóm lược mà đầy đủ ý nghĩa).Chỉ 3 Kinh Dương mà có 6 Phủ nên mỗi Kinh chia thành Thủ Túc:
Túc Thái Dương Bàng Quang là Kinh Dương Hàn Dương Bản Hàn(Bản Dương Hàn).
, Khí Âm Hàn
Thủ Thái Dương Tiểu Trường là Kinh Dương Hàn Thái Dương Tiêu Dương(Tiêu Dương Hàn).
, Khí Dương Nhiệt
gọi là Thái
gọi là
Bàng Quang và Tiểu Trường đồng Kinh Thái Dương(Dương Hàn) mà khác Khí(Bàng Quang là Khí Âm Hàn, Tiểu Trường là Khí Dương Nhiệt). Túc Thái Dương Bàng Quang(Bản Hàn)lại đồng Khí Âm Hàn với Túc Thiếu Âm Thận(Tiêu Âm), đồng hành Thủy, đồng Hệ bài tiết cặn bả, đồng chủ trì Vệ Khí bảo vệ toàn thân. Thủ Thái Dương Tiểu Trường(Tiêu Dương)lại đồng khí Dương Nhiệt với Thủ Thiếu Âm Tâm (Bản Nhiệt), đồng hành Hỏa, đồng Hệ hấp thu dưỡng chất, đồng chủ trì Vinh Huyết nuôi dưỡng toàn thân. Một Kinh Thái Dương chia 2 Phủ đủ tính Hàn Nhiệt Thủy Hỏa: Túc Thái Dương Bàng Quang)làm bệnh Thương Hàn(Hàn); Tiêu Dương(Thủ Thái Dương Tiểu Trường)làm bệnh Trúng Phong(Nhiệt) rất phù hợp 46
với Bản Nghĩa Âm Dương Hàn Nhiệt của sách Thương Hàn. Kinh Thái Dương là Dương Hàn,Dương là Vệ,Hàn là Khí.Kinh Thái Dương bệnh chỉ 1 nguyên nhân duy nhất là Âm Dương,Hàn Nhiệt bất hòa mà thôi.Có người chỉ dựa theo Thái Dương,cố chấp chỉ có Hàn Khí là thủ phạm làm bệnh,không chịu biết đối lập với Thái Dương Hàn Khí là Thiếu Âm Nhiệt Khí. Nơi thân người Thái Dương là Kinh dài nhất, nhiều Huyệt nhất,bao bọc khắp phần Dương từ đầu đến chân,có nhánh thông với Đốc Mạch và mọi cơ năng Tạng Phủ.Cho nên,Kinh này chủ bệnh tại Biểu còn là truyền bệnh đến các Kinh.Sách Thương Hàn Luận Bản Nghĩa nói về Truyền Kinh và Hàn Khí là đại thủ phạm,là do thực tế này;không nên hiểu lầm chỉ có Hàn làm bệnh,còn Nhiệt thì không làm bệnh. Kinh Thái Dương chủ Hàn Khí truyền đến Kinh Dương Minh Táo Khí(Dương Nhiệt),Táo Khí hiệp với Hàn Khí làm bệnh Ôn(Ôn bệnh là Dương Nhiệt thọ Dương Hàn,Phong Ôn là Dương Nhiệt thọ Âm Nhiệt);Truyền đến Kinh Thái Âm Thấp Khí(Âm Hàn),Thấp Khí hiệp với Hàn Khí làm bệnh Thấp(Hàn Thấp là Âm Hàn thọ Dương Hàn,Phong Thấp là Âm Hàn thọ Âm Nhiệt);Truyền đến Kinh Thiếu Âm Nhiệt Khí (Âm Nhiệt),Nhiệt Khí hiệp với Hàn Khí làm bệnh Phong(Phong Ôn là Dương Nhiệt thọ Âm Nhiệt,Phong Thấp là Âm Hàn thọ Âm Nhiệt).Hai Kinh Thiếu Dương và Khuyết Âm là cặp Âm Dương Trung hiện không có khả năng tự làm bệnh cũng không hiệp với Kinh khác để làm bệnh,chỉ có chức năng Trung chuyển và thọ bệnh từ 4 Kinh Âm Dương Hàn Nhiệt.(Kinh Thiếu Dương Hỏa Khí là chuyển các Khí từ Dương sang Âm,Kinh Khuyết Âm Phong Khí là chuyển các Khí từ Âm sang Dương). Kinh Thái Dương Hàn Khí đối giao Kinh Thiếu Âm Nhiệt Khí.Mỗi Kinh đều có 2 Hành Thủy Hỏa,đồng thống lãnh các Kinh,đồng Hệ trao đổi quân bình Âm Dương Hàn Nhiệt Khí Huyết Thủy Hỏa nắm giữ Sinh Bệnh Lý nơi thân người. Hai Kinh Dương Hàn và Âm Nhiệt là cặp Âm Dương Hàn Nhiệt có đủ 3 chức năng làm bệnh,truyền chuyển bệnh,thọ bệnh.(thọ bệnh là chức năng chung của cả 6 Kinh,sau này không bàn riêng). Hai Kinh này đồng làm bệnh gọi là Lưỡng cảm,ở Túc Kinh Khí thì là Hàn chứng, ở Thủ Kinh Khí thì là Nhiệt chứng, hoặc Bản Hàn Bản Nhiệt giao tranh một mất (tiêu vong) một còn thì sự sống cũng không thể tồn tại với qui luật Âm Dương Hổ Căn nên Bản Nghĩa gọi là Lưỡng cảm, Nhiệt thì khó trị mà Hàn thì không khỏi chết. Thái Dương được gọi là Cự Dương vì nó là Kinh Khí rất lớn và có chức năng thống lãnh; còn được gọi là Khuyết Dương vì nó là Dương khiếm khuyết, Dương ẩn tàng Âm gọi là Kinh Khí Dương Hàn. .
47
LUẬN KINH DƯƠNG MINH Dương Minh là tên gọi Kinh,gọi đủ Kinh Khí là Dương Minh Táo Khí,gọi theo Tượng là Kinh Dương Nhiệt (tóm lược mà đầy đủ ý nghĩa).Chỉ 3 Kinh Dương mà có 6 Phủ nên mỗi Kinh chia thành Thủ Túc:
Thủ Dương Minh Đại Trường là Kinh Dương Nhiệt Dương Minh Tiêu Dương(Tiêu Dương Nhiệt).
Túc Dương Minh Vỵ là Kinh Dương Nhiệt Bản Nhiệt(Bản Dương Nhiệt).
, Khí Dương Hàn
, Khí Âm Nhiệt
gọi là
gọi là Dương Minh
Đại Trường và Vỵ đồng Kinh Dương Minh(Dương Nhiệt)mà khác Khí (Đại Trường là Khí Dương Hàn, Vỵ là Khí Âm Nhiệt). Thủ Dương Minh Đại Trường(Tiêu Dương)lại đồng Khí Dương Hàn với Thủ Thái Âm Phế(Bản Hàn) đồng Hành Táo Kim(TáoThổ sinh Kim),đồng hệ quân bình Táo Thấp. Túc Dương Minh Vỵ(Bản Nhiệt)lại đồng Khí Âm Nhiệt với Túc Thái Âm Tỳ(Tiêu Âm)đồng Hành Thấp Thổ (Thấp Hỏa sinh Thổ)đồng hệ quân bình Thấp Táo. Dương Minh(Dương Nhiệt,thuần Dương)không tự làm bệnh,chỉ làm bệnh khi thọ Dương Hàn hoặc Âm Nhiệt,thọ bệnh,truyền bệnh. Tiêu Dương(Thủ Dương Minh Đại Trường)thọ Dương Hàn làm Ôn Bệnh. Bản Nhiệt(Túc Dương Minh Vỵ)thọ Âm Nhiệt làm bệnh Phong Ôn. Hai Khí Táo Thấp đều thọ 2 Khí Hàn Nhiệt để điều hòa là Chân Lý muôn đời của sự vật,nhưng Thủ Thiếu Âm Tâm tuy là Kinh Âm Nhiệt,Khí lại là Dương Nhiệt nên nói Dương Nhiệt là Bản Khí của Thiếu Âm. Nguyên văn nói Dương Minh cư Trung Thổ là ngụ ý nói Vỵ, bệnh Ôn không truyền mà chuyển(Nhiệt chuyển), xem kỷ nơi thiên Dương Minh các thuật ngữ chuyển thuộc,chuyển hệ thì rõ. Kinh Dương Minh đối giao với Kinh Thái Âm thành cặp Âm Dương Táo Thấp.Dương Minh là Dương Nhiệt chủ Táo Khí,muốn có được chức năng quân bình Táo Thấp phải thừa nhận cả 2 Kinh Khí Dương Hàn và Âm Nhiệt. Cặp Âm Dương Táo Thấp này không tự có 2 chức năng làm bệnh và truyền chuyển bệnh phải thừa nhận 2 Kinh Khí Dương Hàn và Âm Nhiệt để có 2 chức năng trên. .
48
LUẬN KINH THIẾU DƯƠNG Thiếu Dương là tên gọi Kinh,gọi đủ Kinh Khí là Thiếu Dương Hỏa Khí,gọi theo Tượng là Kinh Dương( Dương Nhiệt + Dương Hàn )Trung hiện.Chỉ 3 Kinh Dương mà có 6 Phủ nên mỗi Kinh chia thành Thủ Túc:
Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu là Dương Hàn Trung Hiện chủ Dương Thủy, là Kinh Dương Hàn Khí Âm Nhiệt (Trung hiện dẫn Dương Hàn giao Âm Nhiệt).
Túc Thiếu Dương Đởm là Dương Nhiệt Trung Hiện chủ Hỏa Khí,là Kinh Dương Nhiệt ,Khí Âm Hàn (Trung hiện dẫn Dương Nhiệt giao Âm Hàn).
Tam Tiêu và Đởm tuy đồng Kinh Thiếu Dương nhưng là Trung Hiện giữa Dương Hàn và Dương Nhiệt nên Tam Tiêu là Kinh Dương Hàn Khí Âm Nhiệt, Đởm là Kinh Dương Nhiệt Khí Âm Hàn. Thiếu Dương Hỏa Khí có thâm ý mô tả Dương Trung hiện là đường giao lưu dẫn Dương Hỏa đến Âm Thủy để điều hòa.Thiếu Dương Khí là khí xung hòa hiện giữa Dương Hàn và Dương Nhiệt chứ không thuần là Dương Nhiệt; Cho nên phải hiểu thêm cho đủ với Sinh Lý Thiếu Dương là Dương(Dương Nhiệt + Dương Hàn) Trung hiện; Chỉ trong trường hợp bệnh lý do giao thông bế tắc mới có bệnh chứng thiên về Dương Nhiệt nơi Kinh Túc Thiếu Dương Đởm; và có bệnh lý thiên về Dương Hàn nơi Kinh Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu. Kinh Thiếu Dương đối giao với Kinh Khuyết Âm là 1 cặp Âm Dương Trung hiện chủ Bộ vị Tấu, điều hòa 4 Kinh Khí Âm Dương Hàn Nhiệt, đồng Hành Mộc,đồng Hệ chế hóa điều hòa Khí Huyết - Thủy - Hỏa toàn thân (phải chăng nhìn thấu chức năng này nên Bản Nghĩa nói Thiếu Dương là Kinh Bán Âm Bán Dương) (Túc Thiếu Dương là Dương Mộc,Đởm thông với Vỵ để chế Toan điều Thấp Khí).Cặp Âm Dương Trung hiện này không tự có 2 chức năng làm bệnh và truyền chuyển bệnh và cũng không thừa nhận Kinh Khí khác để có;chỉ thọ 2 Kinh Khí Dương Hàn,Âm Nhiệt để tự bệnh mà thôi. Kinh Thiếu Dương là Trung Chuyển của 3 Dương sang 3 Âm(Thiếu Dương vào Thái Âm).
.
LUẬN KINH THÁI ÂM Thái Âm là tên gọi Kinh,gọi đủ Kinh Khí là Thái Âm Thấp Khí,gọi theo Tượng là Kinh Âm Hàn (tóm lược mà đầy đủ ý nghĩa).Chỉ 3 Kinh Âm mà có 6 Tạng nên mỗi Kinh chia thành Thủ Túc:
49
Thủ Thái Âm Phế là Kinh Âm Hàn Hàn(Bản Âm Hàn).
Túc Thái Âm Tỳ là Kinh Âm Hàn Hàn).
,Khí Dương Hàn
,Khí Âm Nhiệt
gọi là Thái Âm Bản
là Thái Âm Tiêu Âm(Tiêu Âm
Phế và Tỳ đồng Kinh Thái Âm(Âm Hàn)mà khác Khí (Phế là Khí Dương Hàn,Tỳ là Khí Âm Nhiệt). Thủ Thái Âm Phế(Bản Hàn)lại đồng Khí Dương Hàn với Thủ Dương Minh Đại Trường (Tiêu Dương) đồng Hành Táo Kim( Táo Thổ sinh Kim),đồng hệ quân bình Táo Thấp. Túc Thái Âm Tỳ(Tiêu Âm) lại đồng Khí Âm Nhiệt với Túc Dương Minh Vỵ (Bản Nhiệt) đồng Hành Thấp Thổ(Thấp Hỏa sinh Thổ) đồng hệ quân bình Thấp Táo. Thái Âm(Âm Hàn,Thuần Âm)không tự làm bệnh chỉ làm bệnh khi thọ Âm Nhiệt hoặc Dương Hàn,thọ bệnh,truyền bệnh. Bản Hàn [Thủ Thái Âm Phế] thọ Dương Hàn làm Hàn Thấp. Tiêu Âm [Túc Thái Âm Tỳ] thọ Âm Nhiệt làm bệnh Phong Thấp. Hai Khí Táo Thấp đều thọ 2 Khí Hàn Nhiệt để điều hòa là Chân Lý muôn đời của sự vật;nhưng Túc Thái Dương Bàng Quang tuy là Kinh Dương Hàn,Khí lại là Âm Hàn nên nói Âm Hàn là Bản Khí của Thái Dương. Kinh Thái Âm đối giao với Kinh Dương Minh thành cặp Âm Dương Táo Thấp.Thái Âm là Âm Hàn chủ Thấp Khí muốn có được chức năng quân bình Thấp Táo phải thừa nhận cả 2 Kinh Khí Âm Nhiệt và Dương Hàn.Cặp Âm Dương Táo Thấp này không tự có 2 chức năng làm bệnh và truyền chuyển bệnh phải thừa nhận 2 Kinh Khí Dương Hàn, Âm Nhiệt để có 2 chức năng trên. .
LUẬN KINH THIẾU ÂM Thiếu Âm là tên gọi Kinh,gọi đủ Kinh Khí là Thiếu Âm Nhiệt Khí,gọi theo Tượng là Kinh Âm Nhiệt (tóm lược mà đầy đủ ý nghĩa).Chỉ 3 Kinh Âm mà có 6 Tạng nên mỗi Kinh chia thành Thủ Túc:
Thủ Thiếu Âm Tâm là Kinh Âm Nhiệt Nhiệt(Bản Âm Nhiệt).
Túc Thiếu Âm Thận là Kinh Âm Nhiệt Âm(Tiêu Âm Nhiệt).
, Khí Dương Nhiệt
50
,Khí Âm Hàn
gọi là Thiếu Âm Bản
gọi là Thiếu Âm Tiêu
Tâm và Thận đồng Kinh Thiếu Âm(Âm Nhiệt)mà khác Khí (Khí của Tâm là Dương Nhiệt, Khí của Thận là Âm Hàn). Thủ Thiếu Âm Tâm(Bản Nhiệt) lại đồng Khí Dương Nhiệt với Thủ Thái Dương Tiểu Trường(Tiêu Dương) đồng Hành Hỏa, đồng Hệ hấp thu dưỡng chất,đồng chủ trì Vinh Huyết nuôi dưỡng toàn thân. Túc Thiếu Âm Thận(Tiêu Âm)lại đồng Khí Âm Hàn với Túc Thái Dương Bàng Quang(Bản Hàn), đồng Hành Thủy,đồng Hệ bài tiết cặn bả, đồng chủ trì Vệ Khí bảo vệ toàn thân. Một Kinh Thiếu Âm chia 2 Tạng đủ tính Hàn Nhiệt Thủy Hỏa: Bản Nhiệt [Thủ Thiếu Âm Tâm] hiệp Dương Nhiệt làm bệnh Phong Ôn. Tiêu Âm [Túc Thiếu Âm Thận] hiệp Âm Hàn làm bệnh Phong Thấp.Rất phù hợp với Bản Nghĩa Âm Dương Hàn Nhiệt của sách Thương Hàn. Kinh Thiếu Âm là Âm Nhiệt, Âm là Chất,Nhiệt là Vinh.Kinh Thiếu Âm bệnh chỉ 1 nguyên nhân duy nhất là Âm Dương,Hàn Nhiệt bất hòa mà thôi. Có người chỉ dựa theo Thái Dương, cố chấp chỉ có Hàn Khí là thủ phạm làm bệnh, không chịu biết đối lập với Thái Dương Hàn Khí là Thiếu Âm Nhiệt Khí. Âm Nhiệt bất cập thái quá thì cũng làm bệnh như Dương Hàn;Nếu Hàn truyền từ Biểu thì Nhiệt lại chuyển từ Lý,người học thuốc không thể thiên lệch đối với cặp Âm Dương Hàn Nhiệt tương đối này.Nếu thấy nhấn mạnh về Hàn truyền thì chẳng qua Thương Hàn Luận là chủ đề luận Kinh Thái Dương làm bệnh và truyền bệnh từ Biểu. Đừng quên đối lập với Hàn truyền là Nhiệt chuyển do Kinh Thiếu Âm làm bệnh và chuyển bệnh từ Lý. Kinh Thiếu Âm Nhiệt Khí đối giao Thái Dương Hàn Khí.Mỗi Kinh đều có 2 Hành Thủy Hỏa,đồng thống lãnh các Kinh, đồng Hệ trao đổi quân bình Âm Dương Hàn Nhiệt Khí Huyết Thủy Hỏa nắm giữ Sinh Bệnh Lý nơi thân người. Hai Kinh Âm Nhiệt và Dương Hàn là cặp Âm Dương Hàn Nhiệt có đủ 3 chức năng làm bệnh,truyền chuyển bệnh,thọ bệnh. Hai Kinh Âm Nhiệt và Dương Hàn đồng làm bệnh gọi là Lưỡng cảm,ở Thủ Kinh Khí là Nhiệt chứng,ở Túc Kinh Khí là Hàn chứng, hoặc Bản Hàn Bản Nhiệt giao tranh một mất (tiêu vong) một còn thì sự sống cũng không thể tồn tại với qui luật Âm Dương Hổ Căn nên Bản Nghĩa khẳng định là Lưỡng cảm không khỏi chết.
51
LUẬN KINH KHUYẾT ÂM Khuyết Âm là tên gọi Kinh,gọi đủ Kinh Khí là Khuyết Âm Phong Khí,gọi theo Tượng là Kinh Âm( Âm Hàn + Âm Nhiệt )Trung hiện.Chỉ 3 Kinh Âm mà có 6 Tạng nên mỗi Kinh chia thành Thủ Túc:
Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc là Kinh Âm Nhiệt ,Khí Dương Hàn (Nhiệt) Trung hiện chủ Âm Hỏa(Trung hiện dẫn Âm Nhiệt giao Dương Hàn).
Túc Khuyết Âm Can là Kinh Âm Hàn ,Khí Dương Nhiệt gọi là Âm (Hàn) Trung hiện chủ Phong Huyết(Trung hiện dẫn Âm Hàn giao Dương Nhiệt).
gọi là Âm
Tâm Bào Lạc và Can tuy đồng Kinh Khuyết Âm nhưng là Trung Hiện giữa Âm Nhiệt và Âm Hàn nên Tâm Bào Lạc là Kinh Âm Nhiệt Khí Dương Hàn, Can là Kinh Âm Hàn Khí Dương Nhiệt. Khuyết Âm Phong Khí có thâm ý mô tả Âm Trung hiện là đường giao lưu dẫn Âm Thủy đến Dương Hỏa để điều hòa.Khuyết Âm Khí là Phong Khí điều hòa hiện giữa Âm Hàn và Âm Nhiệt chớ không thuần là Âm Hàn;Cho nên phải hiểu thêm cho đủ với Sinh lý Khuyết Âm là Âm(Âm Hàn+ Âm Nhiệt)Trung hiện;Chỉ trong trường hợp Bệnh lý do giao thông bế tắc mới có bệnh chứng thiên về Âm Hàn. Kinh Khuyết Âm đối giao với Kinh Thiếu Dương là 1 cặp Âm Dương Trung hiện chủ Bộ vị Tấu, điều hòa 4 Kinh Khí Âm Dương Hàn Nhiệt, đồng Hành Mộc, đồng Hệ chế hóa điều hòa để quân bình Khí Huyết Thủy Hỏa (phải chăng nhìn thấu chức năng này nên Bản Nghĩa nói Khuyết Âm là Kinh Bán Biểu Bán Lý) (Túc Khuyết Âm là Âm Mộc,Can thông với Đại Trường để hóa Thủy hòa Táo Huyết).Cặp Âm Dương Trung hiện này không tự có 2 chức năng làm bệnh và truyền chuyển bệnh,cũng không thừa nhận các Kinh Khí khác để có;chỉ thọ 2 Kinh Khí Dương Hàn,Âm Nhiệt để tự bệnh mà thôi. Kinh Khuyết Âm là Trung chuyển của 3 Âm sang 3 Dương(Khuyết Âm ra Thái Dương).Sở dĩ gọi là Khuyết Âm vì nó là Kinh Âm khiếm khuyết, Kinh ÂmTrung Hiện, Kinh Âm hành Dương Khí (Kinh Âm Hàn Khí Dương Nhiệt, Kinh Âm Nhiệt Khí Dương Hàn).
LUẬN HOẮC LOẠN, ÂM DƯƠNG DỊCH Có người không chịu hiểu,cho rằng người sau thêm 2 Chương này là không thích hợp với sách Thương Hàn Luận;không biết đó là thâm ý của tác giả dùng nó để kết luận;mọi việc làm bệnh,thọ bệnh,truyền bệnh đều do Kinh Lạc và màn lưới của chúng gọi là Tấu.
52
Chứng Hoắc loạn có đặc tính lúc ở Biểu,lúc ở Lý khó lường nhưng dùng Kinh để biết nó thì cũng không khó vì khi ở Biểu thì nó hiện chứng phát sốt,mình đau nhức(tại Biểu Kinh đi ngang gọi là Hoành);Khi ở Lý thì ói mữa,đi tả(tại Lý Kinh đi dọc gọi là Tung). Chứng Âm Dương dịch là nói về Lạc. Dùng 1 bệnh do Nam Nữ giao hợp sanh ra và cách chữa nó để nói rằng mọi vấn đề đều do Âm Dương trao đổi tuần hoàn mà ra. Cần lưu ý 1 cố chấp sai lầm xưa nay đã ngàn năm là nhận thức Kinh đi dọc,còn Lạc đi ngang.Sự thật thì Kinh biểu hiện cả 2 mặt tại Biểu thì đi ngang,tại Lý thì đi dọc. Còn Lạc thì có 2 loại:
Lạc là con đường nối 2 thể Âm Dương như đường nối giữa Tạng Phủ,Nam Nữ thì thấy nó đi ngang cũng có phần đúng.
Lạc là mạch máu khắp châu thân thì không thể cố chấp việc ngang dọc mà phải thấy rõ thực tế
của Hệ tuần hoàn.
LUẬN VỀ LẠC Thân người có Lục Kinh điều hành Sinh lý nhưng giản lược trình bày Bệnh lý có Tứ Bộ Kinh Khí Âm - Dương – Hàn - Nhiệt. Mỗi Kinh Khí có 3 thành tố thể hiện Đạo Tam Cực rất phù hợp với Lý Tam Tài : Khí thuộc Trời, Kinh thuộc Người,Lạc thuộc Đất. Đông Y xưa nay dùng từ Kinh Khí để luận chức năng, dùng từ Kinh Lạc để luận hình chất của Kinh.Trước và nơi Luận 6 Kinh đã có Luận Kinh Khí, còn về Lạc thì sẽ luận thêm nơi đây vì xưa nay ít thấy người bàn đến khiến cho Đông Y phải lu mờ. Việc phân loại và thấu hiểu chức năng của Lạc cần được cụ thể hơn: 1- LẠC TÙY THEO KHÍ: Tùy theo Khí là Lạc có chức năng thực hiện Nghĩa Âm Dương đối lập.Trong Tam Cực, Kinh là cực Trung Hòa, là Đạo Âm Dương thống nhất tại Tâm còn Khí và Lạc là 2 cực Âm Dương đối lập qua Tâm; Khí đối lập với Huyết cho nên Khí đi ngoài Mạch từ Biểu vào Lý thì Huyết đi trong Mạch từ Lý ra Biểu, rõ ràng là Khí thuộc Tam Tiêu còn Huyết hệ Tâm Bào Lạc. Cụ thể hơn, có Khí và Lạc (Lạc có nghĩa là mạch máu) đối lập tại Tứ Bộ Kinh Khí (Âm Dương – Hàn Nhiệt): a. Kinh Thái Dương: Bản Hàn tức Túc Thái Dương Bàng Quang Khí là Âm Hàn Khí đối lập với Dương Nhiệt Lạc. Tiêu Dương tức Thủ Thái Dương Tiểu Trường Khí là Dương Nhiệt Khí đối lập với Âm Hàn Lạc. 53
b. Kinh Dương Minh: Bản Nhiệt tức Túc Dương Minh Vỵ là Âm Nhiệt Khí đối lập với Dương Hàn Lạc. Tiêu Dương tức Thủ Dương Minh Đại Trường Khí là Dương Hàn Khí đối lập với Âm Nhiệt Lạc. c. Kinh Thái Âm: Bản Hàn tức Thủ Thái Âm Phế Khí là Dương Hàn Khí đối lập với Âm Nhiệt Lạc. Tiêu Âm tức Túc Thái Âm Tỳ Khí là Âm Nhiệt Khí đối lập với Dương Hàn Lạc. d. Kinh Thiếu Âm: Bản Nhiệt tức Thủ Thiếu Âm Tâm Khí là Dương Nhiệt Khí đối lập với Âm Hàn Lạc. Tiêu Âm tức Túc Thiếu Âm Thận Khí là Âm Hàn Khí đối lập với Dương Nhiệt Lạc. Lạc đối lập Khí tức là với chức năng phân nhị có 2 Khí Âm Dương (Hàn Nhiệt) đối lập. 2- LẠC TÙY THEO KINH: Tùy theo Kinh là Lạc có chức năng thực hiện Đạo Âm Dương thống nhất. Trong thân người có 6 Kinh chia thành 3 cặp Âm Dương đối giao (Hàn Nhiệt – Thấp Táo – Phong Hỏa).Tứ Kinh Khí Âm Dương Hàn Nhiệt gồm có 2 cặp Âm Dương đối lập,nhưng do luận cả Kinh Khí (mỗi Kinh có 2 Khí) nên 1 Kinh có tên 2 chữ (Dương Hàn Âm Nhiệt, Dương Nhiệt Âm Hàn); Lạc tùy theo Kinh có nghĩa cụ thể Lạc là đường liên kết giữa các cặp Kinh Âm Dương Hàn Nhiệt và Âm Dương Táo Thấp : Thái Dương là Kinh Dương Hàn có Lạc là đường liên kết giữa Dương Hàn - Âm Nhiệt. Dương Minh là Kinh Dương Nhiệt có Lạc là đường liên kết giữa Dương Nhiệt - Âm Hàn. Thái Âm là Kinh Âm Hàn có Lạc là đường liên kết giữa Âm Hàn - Dương Nhiệt. Thiếu Âm là Kinh Âm Nhiệt có Lạc là đường liên kết giữa Âm Nhiệt - Dương Hàn. Lạc tùy theo Kinh tức Lạc là đường liên kết 2 Kinh đối giao. Như vậy, Lạc chẳng những chứng tỏ Tứ Bộ Kinh Khí (Âm Dương Hàn Nhiệt) liên kết không rời mà còn biểu hiện rõ rệt 2 qui luật Âm Dương thống nhất (tùy theo Kinh)và Âm Dương đối lập (tùy theo Khí).
.
54
3- CHỨC NĂNG CỦA LẠC: Từ ngàn năm nay do không hiểu rõ ràng phân loại và chức năng của Lạc nên Đông Y phải mai một. Vấn đề này cần phải xác định khoa học đúng với Đạo Tam Cực là Lạc có 2 loại và 2 chức năng. Để thực hiện 2 chức năng này nơi thân người vốn có 2 loại Lạc tùy theo Khí (mạch máu) - tùy theo Kinh (Trung Đạo) :
Lạc có nghĩa là mạch máu thuộc hệ Tâm Bào Lạc (hành Huyết,Hỏa) tương giao với hệ Tam Tiêu (hành Khí, Thủy).
Lạc là đường liên kết giữa các cặp Kinh Khí Âm Dương Hàn Nhiệt.
Tiếp sau là Bổ chú các Chương Tiết,công việc này cần lâu dài và thận trọng, cần góp sức của các trí thức trẻ trung………
Hết phần 2 55
PHẦN 3
TÂM ĐẮC HỌC TẬP 1. THƯƠNG HÀN LUẬN BỆNH LÝ HỌC Y học xưa gọi là cổ truyền, nay gọi là hiện đại; phát triển tại phương Tây gọi là Tây Y, tại phương Đông gọi là Đông Y . Xưa nay, Đông Tây tuy khác nhưng đồng một đối tượng phục vụ là Người ; Do đó sở trường tuy có khác, đối tượng và mục đích vẫn là một. Người sáng suốt cần phải có nhận định tuy đối lập nhưng thống nhất trong xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay. Người kém hiểu biết về Đông Y thường vội vàng nhận định là Đông Y không có Cơ thể học như Tây Y, chỉ nói qua loa luận lý Âm Dương Ngũ Hành với 2 Bộ Vị Biểu Lý mà thôi. Sự thật không như vậy, Đông Y truyền thống vốn có Cơ thể học và Bệnh Lý học đầy đủ tính Đạo học Khí Hóa hàm chứa tại Nội Kinh, Nan Kinh và phát triển nơi 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Đức Trọng Cảnh. Tây Y xây dựng bằng Khoa học Thực Nghiệm với đối tượng nghiên cứu là Thần Kinh - Nội Tạng – Giải phẩu thì Đông Y cũng nền tảng bằng Đạo học – Khí Hóa với đối tượng nghiên cứu là Kinh Lạc – Tạng Phủ - Bộ Vị. A. KINH LẠC – KHÍ HÓA - BỘ VỊ : Người học Đông Y không chịu biết sự thật này, còn hiểu lầm là Đông Y không có môn giải phẩu Sinh Lý như Tây Y. Đã từ xưa Đông Y hình dung thân người năng động với đầy đủ Kinh Lạc – Khí Hóa- Bộ Vị và gọi là Nhân Thân Khí Hóa. Thân người được chia theo Âm Dương có 2 phần Biểu và Lý, ngoài ra còn có Tấu là màn lưới của 12 Kinh Lạc trải suốt phần Biểu gọi là Tấu Bán Biểu và phần Lý gọi là Tấu Bán Lý. Tại Biểu cũng như tại Lý đều được thể hiện theo Đạo Tam cực. Tại Biểu có 3 Bộ Vị Bì Phu , Cơ Nhục, Tấu Biểu với 3 cặp Kinh Lạc chủ Bộ Vị và 3 cặp Kinh Lạc chủ Khí Hóa tương ứng Hàn Khí tại Bì Phu, Phong Khí tại Cơ Nhục và Nhiệt Khí tại Tấu Biểu. Do Kinh Lạc tại Biểu theo chiều Hoành(ngoài vào, trong ra) nên các Kinh tại các Bộ Vị đều được xếp theo thứ tự Dương ngoài Âm trong [Cặp Thủ Dương Minh Đại Trường, Thủ Thái Âm Phế chủ Bộ Vị Bì Phu; Cặp Túc Thái Dương Bàng Quang, Túc Thiếu Âm Thận chủ Khí Hóa là Hàn; Cặp Túc Dương Minh Vỵ, Túc Thái Âm Tỳ chủ Bộ Vị Cơ Nhục; Cặp Túc Thiếu Dương Đởm, Túc Khuyết Âm Can chủ Khí Hóa là Phong; Cặp Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu, Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc chủ Bộ Vị Tấu Biểu; Cặp Thủ Thái Dương Tiểu Trường, Thủ Thiếu Âm Tâm chủ Khí Hóa là Nhiệt].
56
Lý cũng được chia 3 Bộ Vị trên Cách là Thượng, dưới Đái là Hạ, dưới Cách trên Đái là Trung; Khí Hóa tại Thượng là Nhiệt, tại Trung là Phong, tại Hạ là Hàn. Từ thực tế Âm Dương giao đại, ai cũng thấy được tại Thượng có 3 Tạng là Phế, Tâm,Tâm Bào Lạc; tại Hạ có 3 Phủ Tam Tiêu, Bàng Quang, Đại Trường và tại Trung có 3 cặp Tạng Phủ là Tỳ, Vỵ, Can, Đởm, Thận, Tiểu Trường. Kinh Lạc tại Lý đi Tung theo chiều dọc (trên xuống dưới lên). Từ sự nhầm lẫn lâu dài người học Đông Y chỉ hình dung được thân người chỉ có 2 phần Biểu, Lý. Lúc mới biết về Tấu thường thấy cơ thể có 3 Bộ Vị mà Tấu là Bộ Vị ở giữa Biểu và Lý. Sự thật không như vậy, Biểu Lý vốn liền nhau (không có ngăn cách), còn Tấu là màn lưới của tất cả Kinh Lạc thông với mọi quan năng Tạng Phủ nơi thân người. Không thể nói Tấu là Biểu Lý dù rằng Tấu trải suốt Biểu Lý vì Tấu được xem là một Bộ Vị khác gồm có 2 phần Tấu Bán Biểu là màn lưới Kinh Lạc trải suốt phần Biểu, Tấu Bán Lý là màn lưới Kinh Lạc trải suốt phần Lý. Nếu hình dung Biểu và Lý nằm tại 2 đầu đường đáy của 1 tam giác cân thì Tấu là đỉnh đối đáy của tam giác cân này; Tấu nằm trên đường cao đi qua điểm giữa thẳng góc với cạnh đáy. Ngoài Bộ Vị Tấu, Nhân Thân Khí hóa còn được sáng tỏ bởi các Kinh Lạc được biểu trưng bằng Tạng Tượng. Tạng Tượng là chức năng Kinh Khí của 12 Tạng Phủ và 4 Kỳ Kinh được thể hiện bằng 16 Tượng quẻ 4 Hào,cũng là 16 Tượng ‘ Tứ Trung Hào’ của Kinh Dịch. Tạng Tượng không phải là các ký hiệu bày đặt của một cá nhân mà chính là một phát hiện xác minh Đông Y vốn có truyền thống Đạo học Khí Hóa gắn liền với Kinh Dịch, sẽ có sự đóng góp không nhỏ đối với những nghiên cứu chức năng Nội Tạng của các nhà khoa học sau này. Vai trò truyền thống của Đông Y không chối cãi được Kinh Lạc – Khí Hóa – Bộ Vị - Tạng Phủ đã làm nên Sinh Lý và Bệnh Lý nơi thân người. Rõ được chức năng của Kinh Lạc và Tạng Phủ tất nhiên hiểu được cơ chế Sinh Bệnh Lý nơi thân người là điều cốt yếu của người học và làm Đông Y. Ngày nay thường thấy những khám phá của các nhà khoa học phần lớn đều đúng với các cơ cấu này. B. BỆNH LÝ CỦA 6 KINH: 6 Kinh chia Thủ Túc thành 12 phù hợp với 12 Tạng Phủ. Thuận tự nhiên với Đạo học thì Âm Dương thống nhất không rời Âm Dương đối lập và ngược lại Âm Dương đối lập cũng không rời Âm Dương thống nhất nên Đông Y có chủ trương Bệnh Lý không rời Sinh Lý và Kinh Lạc không rời Khí Hóa – Bộ Vị nơi thân người. Kinh Lạc có 3 thể Khí – Kinh – Lạc thì Sinh Lý cũng có 3 trạng thái Biến hóa – Tương giao – Tuần hoàn, Bệnh Lý tất nhiên cũng có 3 loại Làm bệnh – Thọ bệnh – Truyền Chuyển bệnh. 1. KHÍ LÀM BỆNH: Như đã nói Bệnh Lý không rời Sinh Lý nên Thương Hàn Luận cũng nêu rõ bệnh do 2 Khí đối lập bất hòa: 57
a. Cặp Âm Dương Hàn Nhiệt cụ thể là Kinh Thái Dương (Dương Hàn) đối giao Kinh Thiếu Âm (Âm Nhiệt) có đủ tính Âm Dương Hàn Nhiệt và có đủ 3 chức năng kể trên,đã được sách Thương Hàn gọi là Chủ : Bản Khí đồng với Tiêu Khí đối giao làm bệnh hoặc Hàn hoặc Nhiệt. (Ví dụ: Bản Dương Hàn Khí đồng với Tiêu Âm Nhiệt Khí, đồng Hành Thủy, đồng làm bệnh Hàn). Tiêu Khí đồng với Bản Khí đối giao làm bệnh hoặc Nhiệt hoặc Hàn.(Ví dụ: Bản Âm Nhiệt Khí đồng với Tiêu Dương Hàn Khí, đồng Hành Hỏa, đồng làm bệnh Nhiệt). Bản Hàn Khí chủ Biểu truyền từ Biểu vào Lý, tại Sinh Lý nó chủ trì Vệ Khí nên tại Bệnh Lý nó vừa làm bệnh tại Bản Kinh (Bản Khí làm bệnh Thái Dương Thương Hàn, Tiêu Khí làm bệnh Thái Dương Trúng Phong), lại vừa truyền làm bệnh tại các Kinh Âm Dương Hàn Nhiệt (Dương Hàn truyền Dương Nhiệt làm bệnh Ôn, truyền Âm Nhiệt làm bệnh Phong, truyền Âm Hàn làm bệnh Thấp). Bản Nhiệt Khí chủ Lý chuyển từ Lý ra Biểu, tại Sinh Lý nó chủ trì Vinh Huyết nên tại Bệnh Lý nó chỉ làm Nhiệt bệnh tại Lý,tại các Nhiệt Kinh,các Nhiệt Lạc; còn lại từ Tấu ra Biểu nó chỉ làm bệnh Phong do kết hợp với sự truyền của Dương Hàn mà thôi (tại Tấu Bán Lý Bản Nhiệt chuyển ra kết hợp với Dương Nhiệt làm bệnh Phong Ôn,Tiêu Âm Nhiệt kết hợp với Âm Hàn làm bệnh Phong Thấp; tại Bì Phu làm Thiếu Âm Trúng Phong Nhiệt loại..v..v….). Nhiệt bệnh có nhiều nơi sách Thương Hàn phải dùng các phương như Đại Thanh Long, Bạch Hổ, Đại Hoàng Hoàng Liên Tả Tâm …v..v…. là bằng chứng cụ thể nhưng vì là trong một luận chủ đề nên không có tên bệnh riêng, điều này cũng có phần làm cho người cố chấp hiểu sai Nội dung của sách. b. Cặp Âm Dương Táo Thấp cụ thể là Kinh Dương Minh (Dương Nhiệt) đối giao với Kinh Thái Âm( Âm Hàn); cặp Kinh Lạc này thuần Dương và thuần Âm nên không thể tự làm bệnh, muốn làm bệnh chúng phải kết hợp với Dương Hàn tại Tấu Bán Biểu [Bản Hàn kết hợp với Âm Hàn làm bệnh Hàn Thấp, Tiêu Dương kết hợp với Dương Nhiệt làm Ôn bệnh]; Kết hợp với Âm Nhiệt tại Tấu Bán Lý [Bản Nhiệt kết hợp với Dương Nhiệt làm bệnh Phong Ôn, Tiêu Âm kết hợp với Âm Hàn làm bệnh Phong Thấp]. c. Cặp Âm Dương Trung Hiện cụ thể là Thiếu Dương (Dương Trung hiện) đối giao với Khuyết Âm (Âm Trung hiện); cặp Kinh Lạc này có tính Trung hiện trong hệ Tấu có chức năng điều hòa Khí Huyết Thủy Hỏa giữ gìn thăng bằng cho các Kinh Âm Dương Hàn Nhiệt nên không tự làm bệnh và cũng không thọ Khí của 2 Kinh Dương Hàn Âm Nhiệt để làm bệnh có tên riêng. 2. KINH THỌ BỆNH : Việc Thọ bệnh của 6 Kinh cần xem xét 2 trường hợp : .
58
a. Thọ Khí tự bệnh: Các Kinh đều Thọ Khí của 2 Kinh Dương Hàn Âm Nhiệt để tự bệnh. b. Thọ Bệnh của các Kinh đã làm: Mỗi Kinh đều Thọ 6 bệnh đã được làm là Thương Hàn, Trúng Phong của Kinh Thái Dương; Ôn Bệnh, Phong Ôn của Kinh Dương Minh; Hàn Thấp, Phong Thấp của Kinh Thái Âm. 3. KHÍ - LẠC TRUYỀN CHUYỂN BỆNH: Truyền Chuyển bệnh là vấn đề khó hiểu nhất trong Thương Hàn Luận Bệnh Lý học nhưng cũng rất sáng tỏ khi phân hiểu được mối tương quan giữa 3 thành phần Khí – Kinh – Lạc. Mỗi Kinh được gọi theo Kinh Khí Âm Dương Hàn Nhiệt như Dương Hàn, Âm Nhiệt, Dương Nhiệt, Âm Hàn. Kinh có Bộ Vị Trung giữa 2 Bộ Vị Dương tại Ngoại và Âm tại Nội; lại có Phong là Khí Trung Hòa giữa Hàn và Nhiệt, hể Kinh có Khí Hàn thì Lạc có Khí Nhiệt và ngược lại Kinh có Khí Nhiệt thì Lạc có Khí Hàn. 6 Kinh chia thành 3 cặp đối giao Hàn Nhiệt, Táo Thấp, Trung Hiện gắn kết cũng như 2 hệ Âm Dương thống nhất và đối lập không rời; là nguyên lý Truyền - Chuyển tạo nên Sinh Bệnh Lý nơi thân người. C. TÊN BỆNH TRONG LUẬN: Hầu hết tên bệnh trong Luận đều được gọi theo tự nhiên là Kinh Lạc – Khí Hóa – Bộ Vị. A. GỌI THEO KINH LẠC: Ví như gọi Thái Dương Thương Hàn, Thiếu Âm Trúng Phong, Dương Minh Phong Ôn, Thái Âm Hàn Thấp..v..v…. . B. GỌI THEO KHÍ HÓA: Thường thấy có 6 bệnh là Thương Hàn, Trúng Phong, Ôn bệnh, Phong Ôn,Hàn Thấp, Phong Thấp. C. GỌI THEO BỘ VỊ: Thường dùng từ ‘danh viết’ ví như danh viết Trúng Phong (tại Cơ Nhục), danh viết Thương Hàn (tại Bì Phu), danh viết Tung (Kinh Lạc tại Tấu Bán Lý), danh viết Hoành (Kinh Lạc tại Tấu Bán Biểu), danh viết Cách (tại Cách mô)..v..v…. . Cũng có khi dùng tên thuốc để gọi chứng tại Bộ Vị như Ma Hoàng chứng (tại Bì Phu), Quế Chi chứng (tại Cơ Nhục), Sài Hồ chứng (tại Tấu). Trên đây là sơ lược Bệnh Lý học theo sách Thương Hàn Luận, muốn tìm hiểu chi tiết hơn xin xem nơi Thương Hàn Luận Bản Nghĩa . 59
3 BỘ VỊ - KHÍ HÓA NƠI THÂN NGƯỜI ĐẠO TAM CỰC
3 BỘ VỊ
DƯƠNG
TẤU
TRUNG HÒA
ÂM
BÁN BÁN
BIỂU
LÝ
Cơ sở Khí Hóa nơi thân người cũng như của vạn vật đều không ngoài Đạo Tam Cực. Xưa nay giới Đông Y vì thiếu nhận thức về Kinh Lạc nên cố chấp chỉ có 2 Bộ vị BIỂU – LÝ, không đề cập đến 6 Kinh thuộc Bộ vị Tấu. Khí Hóa có 3 là HÀN – PHONG – NHIỆT thì đối lại Bộ vị cũng có 3, tại Biểu là BÌ PHU – CƠ NHỤC – TẤU BIỂU, tại Lý là THƯỢNG – TRUNG – HẠ; 12 Kinh Lạc Tạng Phủ cũng chia đều từng cặp Âm Dương tương đối rất phù hợp tự nhiên.
.
60
SƠ ĐỒ
NHÂN THÂN KHÍ HÓA BIỂU
LÝ
BỘ VỊ VÀ KINH LẠC CHỦ BỘ VỊ BÌ PHU
TÚC THÁI ÂM TỲ KINH
THỦ THIẾU DƯƠNG TAM TIÊU KINH
THỦ KHUYẾT ÂM T. BÀO LẠC KINH
TÂM NÃO NHIỆT
TÚC DƯƠNG MINH VỴ KINH
TÂM BÀO LẠC
BÁN
CÁCH VỴ
BIỂU
-
TỲ
HOÀNH TIỂU TRG - THẬN
KHÍ HÓA VÀ KINH LẠC CHỦ KHÍ HÓA HÀN
PHONG
NHIỆT ĐỚI
TÚC TÚC THỦ THIẾU KHUYẾT THÁI DƯƠNG ÂM DƯƠNG ĐỞM CAN TIỂU KINH KINH TRƯỜNG KINH
THỦ THIẾU ÂM TÂM KINH
TAM TIÊU
BÀNG QUANG
ĐẠI TRƯỜNG
.
61
HÀN
TÚC THIẾU ÂM THẬN KINH
HẠ
TÚC THÁI DƯƠNG BÀNG QUANG KINH
TUNG
LÝ
ĐỞM – CAN
PHONG
BÁN
TRUNG
TẤU
KHÍ HÓA
PHẾ
THƯỢNG
THỦ THÁI ÂM PHẾ KINH
TẠNG PHỦ
TẤU BIỂU
TẤU
THỦ DƯƠNG MINH ĐẠI TRƯỜNG KINH
CƠ NHỤC
BỘ VỊ
2. TẠNG TƯỢNG VÀ TRUNG ĐỒ Tôi tìm hiểu Kinh Dịch và Phật Pháp song song với việc học tập Thương Hàn Luận Bản Nghĩa. Vừa bước vào ngôi nhà đồ sộ của Kinh sách Dịch, tôi đã nghe truyền thuyết về Cụ Trần Cao Vân (1866 – 1916), quê tại Quảng Nam, 1 người yêu nước phò vua Duy Tân làm cách mạng bị Pháp xử tử, người rất giỏi Kinh Dịch có tâm đắc về Trung Đồ. Tôi rất lưu tâm tìm hiểu vấn đề này nhưng không tìm được dấu vết nào khác hơn là thơ văn của Cụ trong đó có bài thơ Vịnh Tam Tài bất hủ.
VỊNH TAM TÀI Trời Đất sinh Ta có biết không? Chưa sinh Trời Đất có Ta trong Ta cùng Trời Đất 3 ngôi sánh Trời Đất in Ta 1 chữ đồng Đất nứt Ta ra Trời chuyển động Ta thay Trời mở Đất mênh mông Trời che Đất chở Ta thong thả Trời Đất cùng Ta đủ Hóa công.
Bài thơ 8 câu 7 chữ này có đặc điểm câu nào cũng có 3 chữ Trời Đất Ta để khẳng định Tam Tài (Thiên Nhân Địa) đã góp phần giúp tôi tin sâu hơn về Bộ Vị Tấu Lý đã được Cụ Lưu Thủy trình bày nơi sách Thương Hàn Giáo Khoa nhưng có phần còn ngờ vực vì tôi chưa thật hiểu.
Trong thập niên 1980 tại Sài Gòn có Lương Y phổ biến môn ‘ Y Dịch Lục Khí ’, tôi đã dành nhiều thời giờ để tìm hiểu môn này nhưng kết cục vẫn là sản phẩm của tư tưởng trái với tự nhiên.
Trong thập niên 1990 tôi được đọc sách của Giáo sư Govinda mô tả cơ cấu Kinh Dịch theo tinh thần Triết học Tây phương; tiếp theo đó tôi lại được 1 người đồng nhóm mô tả cơ cấu Bát gia theo Triết học Đông phương và tôi rất lưu tâm về chiều hướng này.
Từ đầu thập niên 2000 tôi lại có cơ duyên đọc được sách ’ Chu Dịch Thiền Giải ’ của Thiền sư Trí Húc (Minh), kết hợp với trình độ học tập Thương Hàn Luận Bản Nghĩa có thấm nhuần hơn, tôi dần dần mở ra tâm thức thấy được Đạo Tam Cực nơi Kinh Dịch, với 3 Thời loại đã được Cụ Lưu Thủy ẩn dụ bằng các câu : Nhị Âm nhị Dương chi vị Khí (Trung Thiên, Tứ phân) Tam Âm tam Dương chi vị Kinh (Hậu Thiên, Bát phân). 62
(Từ khi biết được Kinh Dịch Trung Thiên chỉ có 3 hệ là Tứ Tượng [2 hào] 16 Tạng Tượng [4 hào], 64 Tượng Vạn Vật [6 hào]; tôi thật sự nhận ra không hề có Trung Thiên Bát Quái mà tôi đã bỏ công tìm tòi). Tôi dần dà hiểu được Đạo Nghĩa Trung Hòa nơi sách Trung Dung rồi đến Trung Đạo trong hành trì Phật pháp. Tôi tìm thấy Tạng Tượng và Trung Đồ chẳng qua là 1 quá trình phát triển tâm thức tự nhiên, nào phải là cưỡng ép và duy ý chí. Tại Trung Quốc từ sau khi Đức Trọng Cảnh làm 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận đến nay đã gần 2000 năm không có người thấu rõ; Việt Nam may mắn có Cụ Việt Nhân Lưu Thủy hiểu được Bản Nghĩa của 2 sách này và đề xướng chúng ta học tập để chấn hưng Đông Y. Cụ Lưu Thủy thấy được Bộ Vị Tấu Lý nơi Nhân Thân Khí Hóa và nói lên thuyết Truyền Kinh tuy đó là sự thật đã hằng có nhưng vẫn là mới lạ đối với giới Đông Y nên chưa được đón nhận rộng rãi mặc dù không ai có thể phủ nhận tài điều trị đương thời của Cụ. Tiếp nối đề xướng của Cụ tôi đã lưu tâm học tập Thương Hàn Luận, Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa và đã đúc kết được luận Đông Y với truyền thống Đạo Học Khí Hóa với Tạng Tượng – Trung Đồ [theo đó có Tứ Bộ Sinh Lý Bệnh Lý – 3 mối quan hệ Tam Âm Tam Dương…]. Những vấn đề Cụ Lưu Thủy đã trình bày và tôi tiếp nối đều là sự thật hằng có nơi thân người nhưng đối với Y giới vốn quen với lý luận Đông Y đã bị bỏ quên truyền thống không thể nhất thời công nhận. Tôi hy vọng các thế hệ tiếp nối sau này trong tinh thần kết hợp Đông Tây để xây dựng 1 nền Y học toàn diện, các nhà khoa học sẽ dễ dàng chứng minh và làm sáng tỏ những sự thật này.
TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG LUẬN CƠ CẤU BÁT GIA dời THEO VỊ và ĐOẠN THẲNG LY CÀN
TỐN ĐOÀI
KHÔN TỐN
CHẤN LY
ĐOÀI KHẢM CÀN CẤN
CẤN CHẤN KHÔN KHẢM 63
TRIẾT HỌC ĐÔNG PHƯƠNG LUẬN CƠ CẤU BÁT GIA đổi THEO THỜI VÀ HÌNH TRÒN
BÁT QUÁI TIÊN THIÊN TRUNG CHUYỂN HẬU THIÊN Thiên hành thời : Trung chuyển là biến hóa tại thời trung theo 4 qui luật : Kiền Khôn biến hóa tại Trung Tâm. Ly Khảm xuất hiện tùy Thượng Hạ. 64
Âm Dương cùng cực ắt Phản Phục. Âm Dương thuận vị thì Hoàn Quy. TIÊN
DANH
ĐỨC
TRUNG CHUYỂN
TƯỢNG
KIỀN
KIỆN
TRUNG BIẾN
HỎA
KHÔN
THUẬN
TÂM HÓA
THỦY
LY
LỆ
THƯỢNG XUẤT
LÔI
KHẢM
HÃM
HẠ HIỆN
TRẠCH
CHẤN
ĐỘNG
CỰC PHẢN
SƠN
ĐOÀI
DUYỆT
CÙNG PHỤC
PHONG
CẤN
CHỈ
ĐỨC HOÀN
THIÊN
TỐN
NHẬP
NGHIỆP QUI
ĐỊA
HẬU
.
a. TẠNG TƯỢNG LÀ CHỨC NĂNG CỦA KINH LẠC VÀ PHỦ TẠNG PHÁT HUY TỪ Y DỊCH. Hầu hết các phát hiện có tính mới lạ khi chưa có người thực biết đều dễ bị nghi ngờ.Chương Tạng Tượng nơi sách ĐYVTTĐHKH cũng không thoát khỏi thông lệ này.Nếu nó đúng là sự thật thì theo thời gian tự nhiên sẽ phơi bày, không cần phải biện minh.Nhưng thiết tưởng ghi thêm đôi dòng cho người đọc sớm hiểu biết cũng không phải là vô ích. Trong học tập tôi thường tự hỏi:
Trước Newton, có rất nhiều người nhìn thấy trái táo rơi, sao không ai chịu biết là do sức hút của quả đất?
Trước Cụ Lưu Thuỷ, có rất nhiều người đọc sách của ngài Trọng Cảnh, sao không ai biết được Bản Nghĩa của nó?
Khi học tập Kinh Dịch, tôi đã nghe truyền thuyết nói về Cụ Trần Cao Vân có vẽ Đồ Trung Thiên, sao người xưa truyền thừa Kinh này chỉ có 2 loại Tiên Thiên và Hậu Thiên ? 65
Sau khi học tập và dịch các di cảo của Cụ Lưu Thuỷ, tôi có thêm nhận thức về Bộ Vị Tấu Lý trong thân người và kết hợp với Đạo Tam cực (2+1=3),tôi dần dần hiểu được Trung Đạo và tự trả lời được các câu tự hỏi kể trên. Dịch gồm 3 thời loại: Tiên Thiên : cụ thể có Đồ Tiên Thiên Bát quái và Đồ vuông tròn diễn đạt thứ tự Tiên Thiên của 64 quẽ 6 hào truyền thừa từ Phục Hy, nói chung Đạo lý của vạn vật. Ngoài ra, còn có Đồ Đại diễn mô tả các quẻ Tiên Thiên từ hệ 1 hào đến hệ 6 hào (Phân nhị theo Âm Dương). Hậu Thiên: cụ thể có Đồ Hậu Thiên Bát quái và bảng thứ tự Hậu Thiên của 64 quẻ 6 hào truyền thừa từ Văn Vương đời Chu ,nói riêng đời sống của loài người (Thứ tự của 64 quẻ Hậu Thiên đã được Đức Khổng Tử dẫn giải ý nghĩa bằng Tự quái truyện). Trung Thiên: tức là cơ cấu Dịch lý, các hệ quẻ đã có nơi Đồ Đại diễn không đổi hình thể nhưng chỉ đổi thứ tự theo thời loại. Người xưa không nói Trung Thiên vì nó là thực tại người học cần phải biết; tiếc rằng người sau cố chấp không chịu biết .Cũng như Y giới Đông phương sau Trọng Cảnh chỉ cố chấp thân người có 2 phần Biểu và Lý, không chịu biết còn có Tấu Lý trải suốt Biểu suốt Lý là màn lưới của 12 Kinh gọi là Bộ Vị tập trung của Kinh Lạc, con đường truyền chuyển biến hoá làm nên mọi Sinh lý và Bệnh lý của cơ thể. Tạng tượng được nhận thức song song với Dịch Trung Thiên .Dịch Trung Thiên gồm có :
Hệ 2 hào có 4 quẻ gọi là Tứ Tượng. Người xưa nhận thức bằng Đạo Vuông tròn trong Kinh Dịch. Đức Trọng Cảnh nhận thức bằng Tứ Bộ Sinh lý và Bệnh lý với chứng bệnh Tứ Nghịch. Cụ Lưu Thuỷ tiếp nối Ngài Trọng Cảnh có nhận thức Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị Khí, dùng Tứ Tượng để gọi tên Tứ Kinh Tứ Khí.Trong dân gian có thơ 4 chữ, thành ngữ 4 chữ, luận Dưỡng sinh theo 4 mùa, sự tích bánh chưng bánh dầy, lời chúc mẹ tròn con vuông .v.v…
Hệ 4 hào có 16 quẻ chưa được hệ tên (16 Tượng này thấy biết tại Đồ Đại diễn).
Hệ 6 hào có 64 quẻ trong đó có 16 ‘ Tứ Trung Hào ‘trùng hợp với 16 quẻ hệ 4 hào kể trên .
Như vậy Tạng Tượng chính là 16 Tượng quẻ 4 hào,là ngôi trung của Dịch Trung Thiên chẳng những phù hợp với cơ cấu Dịch lý mà còn xác minh được vấn đề trong Thương Hàn Luận, Đức Trọng Cảnh chỉ nói đến 4 Kỳ Kinh (4 kỳ kinh + 12 kinh = 16). Từ rất lâu con số 16 đã đậm nét trong văn hoá Trung Hoa, Phật giáo Thiền tông có tuyên ngôn 16 chữ (Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhơn Tâm, kiến tánh thành Phật).Tịnh độ tông cũng có câu niệm Phật 16 chữ (Nam mô Tây phương,Cực lạc thế giới,đại từ đại bi,A di đà Phật).Ngày nay để cổ vũ cho tình hữu nghị, chánh phủ nước này cũng dùng 16 chữ vàng.Không rõ từ Tâm đắc nào Cụ Lưu Thuỷ khi ở ẩn tại 66
quê nhà cũng có biệt hiệu là Thập lục cư sĩ . Đã quyết định Tạng Tượng là 16 quẻ 4 hào và đã kết luận chức năng của Tạng Tượng là gồm Kinh và Khí .Nhưng trải qua một thời gian khá lâu vì phân vân chưa biết rõ thế nào là Kinh, thế nào là Khí.Chợt loé lên một tia sáng trong lúc học Phật, định hướng bằng một cái Tâm bất biến; Tôi liền có suy tư : Tiên Thiên thuộc Dương phát triển từng một hào,có định hướng từ dưới lên (vì có Tâm ở dưới). Hậu Thiên thuộc Âm phát triển từng 3 hào (hệ 6 hào gồm 2 Bát quái)định hướng từ trên xuống (vì có Tâm ở trên). Thì nhất định : Trung Thiên là cả Âm Dương, có phát triển từng 2 hào và có định hướng lên xuống từ giữa (vì có Tâm tại giữa).Nhờ đó tôi biết được 2 hào dưới là Kinh, 2 hào trên là Khí; Do Kinh có định hướng từ trên xuống, Khí có định hướng từ dưới lên nên mặc dù cùng được gọi tên bằng Tứ Tượng, Kinh và Khí vẫn có thứ tự trên dưới khác nhau.Từ đó công việc Hệ tên 16 Tạng Tượng tham khảo thêm với Nội kinh đã trở nên giản dị,dễ dàng. 16 Tạng Tượng gồm có(phân loại theo 3 thời Dịch Tiên thiên,Trung thiên và Hậu thiên):
4 Kỳ Kinh thuộc hệ thuần nhất tương ứng với Tứ Trung Hào của 4 cặp quẻ chỉ Thác không Tổng thuộc Dịch Tiên Thiên bất biến (Bát Thuần Càn Bát Thuần Khôn, Bát Thuần Ly Bát Thuần Khảm, Trạch Phong Đại quá Sơn Lôi Di, Lôi Sơn Tiểu quá Phong Trạch Trung Phu) :
Đốc: Kinh Dương Nhiệt, Khí Dương Nhiệt (thuần Dương Nhiệt).
Nhâm: Kinh Âm Hàn, Khí Âm Hàn (thuần Âm Hàn).
Đới: Kinh Dương Hàn, Khí Dương Hàn (thuần Dương Hàn).
Xung: Kinh Âm Nhiệt, Khí Âm Nhiệt (thuần Âm Nhiệt).
4 Phủ Tạng Trung hiện thuộc hệ đối lập tương ứng với Tứ Trung Hào của 4 cặp quẻ vừa Thác vừa Tổng thuộc Dịch Trung Thiên chuyển hoá (Địa Thiên Thái Thiên Địa Bỉ, Thuỷ Hoả Ký Tế Hoả Thuỷ Vị Tế, Sơn Phong Cổ Trạch Lôi Tuỳ, Phong Sơn Tiệm Lôi Trạch Qui Muội):
Đởm: Kinh Dương Nhiệt, Khí Âm Hàn.
Can: Kinh Âm Hàn, Khí Dương Nhiệt.
Tam Tiêu: Kinh Dương Hàn, Khí Âm Nhiệt.
Tâm Bào: Kinh Âm Nhiệt, Khí Dương Hàn.
67
8 Phủ Tạng Tiên và Hậu Thiên thuộc các cặp quẻ chỉ Tổng không Thác biểu hiện nơi Dịch Hậu Thiên,Tuỳ Duyên. 8 Phủ Tạng này cũng có tượng 4 hào trong 16 quẻ ngôi Trung của Dịch Trung Thiên nhưng gồm cả 2 luật Tổng và Thác nên xác định được Trung nối liền Tiên và Hậu : 4 cặp theo luật Tổng (tổng số Âm Dương không đổi mà là đảo ngược Kinh Khí)có quan hệ Tiên Hậu:
Tại Bản Nhiệt có cặp Tạng Phủ Tâm,Vỵ. Lao động chân tay thì ăn nhiều mà lười động não, lao động trí óc thì động não nhiều nên ăn ít.
Tại Bản Hàn có cặp Phủ Tạng Bàng quang,Phế.Cảm cúm thì sinh ho, khịt mũi.Nóng lạnh thái quá thì dể bị cảm cúm.
Tại Tiêu Dương có cặp Phủ Tiểu trường và Đại trường. Hấp thụ nhiều thì bài tiết ít sanh táo bón.Hấp thu ít thì bài tiết nhiều sanh tiêu chảy.
Tại Tiêu Âm có cặp Tạng Thận và Tỳ.Thận hư rồi Tỳ cũng hư sinh chứng tiểu đường. Bệnh cao đường huyết làm hư Thận.
4 cặp theo luật Thác (đối lập qua Tâm,là Dương Âm biến hoá) có quan hệ Âm Dương:
Tâm và Bàng quang là một cặp Tạng Phủ Tiên Thiên.Tâm chủ Vinh thì Bàng quang chủ Vệ.
Vỵ và Phế là một cặp Phủ Tạng Hậu Thiên. Vỵ tiêu hoá vật thực (khí) để hấp thu thành huyết thì Phế lọc máu (huyết) thành khí để bài tiết.
Tiểu trường và Thận là một cặp Phủ Tạng Tiên Thiên.Tiểu trường hấp thu dưỡng trấp để thành huyết thì Thận hoá Huyết thành khí (nước tiểu)để bài tiết.
Đại trường và Tỳ là một cặp Phủ Tạng Hậu Thiên.Đại trường bài tiết cặn bả thì Tỳ hấp thu Tinh chất.
(Các nhà khoa học có thể dựa theo các ví dụ kể trên để nghiên cứu và xác
minh thêm). 68
TẠNG TƯỢNG ĐỐC
BẢN NHIỆT
TIÊU DƯƠNG ĐẠI T.
VỴ
TIỂU T.
TÂM BÀO
TIÊU
ĐÁI
CAN
BẢN HÀN
BÀNG Q.
XUNG
ĐỞM
PHẾ
THẬN TỲ
TIÊU ÂM
NHÂM
Cơ cấu Dịch lý, Tự nhiên đã biểu hiện rõ rệt 16 Tạng Tượng là 16 tượng quẻ 4 hào cũng là 16 Tứ Trung Hào của tượng Vạn Vật; bao gồm Tứ Kỳ Kinh Đốc Nhâm Xung Đái, Tứ Kinh Âm Dương Trung Hiện Can Bào Đởm Tam Tiêu và tứ cặp Kinh Tiên Hậu Âm Dương Hàn Nhiệt:
Tại Bản Nhiệt có cặp Tạng Phủ Tiên Hậu gồm Tạng Tiên Thiên Thủ Thiếu Âm Tâm [Kinh Âm Nhiệt Khí Dương Nhiệt]; Phủ Hậu Thiên Túc Dương Minh Vỵ có Kinh Khí đảo ngược với Tâm [Kinh Dương Nhiệt Khí Âm Nhiệt].
Tại Bản Hàn có cặp Phủ Tạng Tiên Hậu gồm Phủ Tiên Thiên Túc Thái Dương Bàng Quang [Kinh Dương Hàn Khí Âm Hàn]; Tạng Hậu Thiên Thủ Thái Âm Phế có Kinh Khí đảo ngược với Bàng Quang [Kinh Âm Hàn Khí Dương Hàn].
Tại Tiêu Dương có cặp Phủ Tiên Hậu gồm Phủ Tiên Thiên Thủ Thái Dương Tiểu Trường [Kinh Dương Hàn Khí Dương Nhiệt]; Phủ Hậu Thiên Thủ Dương Minh Đại Trường có Kinh Khí đảo ngược với Tiểu Trường[Kinh Dương Nhiệt Khí Dương Hàn]. 69
Tại Tiêu Âm có cặp Tạng Tiên Hậu gồm Tạng Tiên Thiên Túc Thiếu Âm Thận [Kinh Âm Nhiệt Khí Âm Hàn]; Tạng Hậu Thiên Túc Thái Âm Tỳ có Kinh Khí đảo ngược với Thận [Kinh Âm Hàn Khí Âm Nhiệt].
b. TRUNG ĐỒ TẠNG TƯỢNG VUÔNG TRÒN. Khi học tập Đông Y tôi đã nghe nói đến Tạng Tượng nhưng đọc sách và hỏi các thầy thì không thấy ai nói, tìm kiếm cũng không thấy dấu vết nên nghĩ phải chăng chỉ là truyền thuyết hoặc chỉ là huyền thoại. Khi học Kinh Dịch tôi cũng nghe nói Trung Đồ nhưng cũng không thấy dấu vết mặc dù tìm tòi đến các di cảo của Cụ Trần Cao Vân. Kịp đến khi tôi kiên trì học tập Thương Hàn Luận Bản Nghĩa và tìm hiểu thuyết Trung Đạo của Phật Giáo tôi mới bừng tỉnh, mới thấy được Âm Dương của sự vật chỉ là hiện tượng, còn bản chất của nó chính là cơ cấu tương giao của Âm Dương. Tôi dần dần thấy được Đạo Tam Cực, thấy được khí hóa nơi Nhân thân từ bài thơ Vịnh Tam Tài của Cụ Trần Cao Vân. Tại sao Dịch có 2 Thời loại Tiên Thiên và Hậu Thiên còn thân người thì chỉ được nêu Bộ Vị Biểu và Lý ? Thời có 3 là Quá khứ - Hiện tại – Vị lai; Vị có ngoài - giữa – trong hoặc là trên - giữa - dưới ? Vậy thì còn có 1 Bộ Vị nơi Nhân thân hoặc 1 Thời loại nơi Kinh Dịch là gì ? Tạng Tượng và Trung Đồ phải chăng là sự thật và có thể tìm thấy ở chỗ này. Thời loại Tiên Thiên của Kinh Dịch có đồ Đại Diễn trật tự phát triển từng hào từ dưới lên, nhị phân Âm Dương thuận theo đạo Trời; Thời loại Hậu Thiên của Kinh Dịch phát triển từ trên xuống dưới thành 64 quẻ có thứ tự tùy nhận thức sinh hoạt của loài người. Như vậy 16 quẻ 4 hào Tạng Tượng có thứ tự như thế nào ? Chúng tôi đã kết luận được 2 hào dưới là Kinh và 2 hào trên là Khí thì thứ tự của Tạng Tượng tất nhiên chia theo 4 Kinh Khí. Đó là thứ tự được trình bày nơi Trung Đồ vuông tròn này.
.
70
TẠNG TƯỢNG TRUNG ĐỒ VUÔNG TRÒN 16 Tạng Tượng tức 16 quẻ 4 hào, tức 16 Tứ Trung Hào. Xếp theo thứ tự Tứ Bộ Kinh Dương Nhiệt – Dương Hàn – Âm Nhiệt - Âm Hàn
.
71
3. CÁC ĐỒ HÌNH TỨ BỘ SINH LÝ BỆNH LÝ & 3 MỐI QUAN HỆ TAM ÂM TAM DƯƠNG
TỨ BỘ SINH LÝ BỆNH LÝ ĐỐC
VỴ
ÔN
TRÚNG PHONG PHONG THẬN
THƯƠNG HÀN
HÀN THẤP
PHẾ
THẤP THÁI ÂM – THẤP
NHÂM .
72
TỲ
PHONG
CAN
THẤP
TIÊU ÂM
XUNG
ĐỞM
THIẾU ÂM –NHIỆT
TÂM
PHONG
ÔN
TAM TIÊU
TIỂU TRƯỜNG HÀN BÀNG QUANG THÁI DƯƠNG- HÀN
ĐÁI
BẢN HÀN
ĐẠI TRƯỜNG
BÀO LẠC
BỆNH
ÔN
BẢN NHIỆT
DƯƠNG MINH -TÁO
TIÊU DƯƠNG
THUYẾT MINH HÌNH ĐỒ TỨ BỘ SINH LÝ - BỆNH LÝ
Hình đồ này gồm có : 1. Vòng tròn ngoài cùng tượng Thái Cực:
Nửa vòng bên trái tượng Dương Hàn chủ Biểu Ngoại.
Nửa vòng bên phải tượng Âm Nhiệt chủ Lý Nội (vốn 1 mà 2, tuy 2 mà 4; 1 thân người có 2 Bộ Vị Biểu Lý, Dương Hàn chủ Biểu là Kinh Dương hành Hàn Khí từ ngoài vào trong, Âm Nhiệt chủ Lý là Kinh Âm hành Nhiệt Khí từ trong ra ngoài, 2 Kinh có 4 tánh Âm Dương Hàn Nhiệt).
Hình trên đây cả vòng tròn cùng màu xanh là tượng bán Âm bán Dương.
2. Hai hình vuông nội tiếp vòng tròn ngoài cùng tượng 4 Kinh Âm Dương Hàn Nhiệt và 4 Kỳ Kinh: Hình vuông 1 tượng Tứ Kinh Âm Dương Hàn Nhiệt, góc trái trên là Dương, góc phải trên là Nhiệt, góc trái dưới là Hàn, góc phải dưới là Âm, có cạnh trái là Dương Hàn(Kinh Thái Dương Hàn Khí) , cạnh phải là Âm Nhiệt (Kinh Thiếu Âm Nhiệt Khí), cạnh trên là Dương Nhiệt (Kinh Dương Minh Táo Khí), cạnh dưới là Âm Hàn (Kinh Thái Âm Thấp Khí). Tượng hình vuông này giúp người học thấy rõ các cạnh ngoài - trong, trên - dưới để thấy được Dương chủ ngoài trên, Âm chủ trong - dưới. Hàn từ ngoài Biểu vào trong Lý gọi là Truyền, Nhiệt từ trong Lý ra ngoài Biểu gọi là Chuyển. Cặp Dương Hàn đối giao Âm Nhiệt có đủ tính Âm Dương Hàn Nhiệt.Dương Hàn chủ Biểu, chủ Vệ có tính năng tự làm bệnh và Truyền làm bệnh khắp châu thân từ Biểu vào Lý. Âm Nhiệt cũng có tính năng tự làm bệnh nhưng chỉ Chuyển làm bệnh tương ứng với Dương Hàn mà thôi. Dương Nhiệt thuần Dương đối giao Âm Hàn thuần Âm không tự làm bệnh, chỉ làm bệnh khi thọ Dương Hàn từ ngoài vào và Âm Nhiệt từ trong ra mà thôi. Hình vuông cũng cho thấy rõ Dương Hàn là ngoài chủ Biểu, Âm Nhiệt là trong chủ Lý, còn Dương Nhiệt và Âm Hàn ở giữa chủ Tấu. Dương Nhiệt chủ Tấu Nhiệt làm đường ra của Bản Nhiệt, Âm Hàn chủ Tấu Hàn là đường vào của Bản Hàn. Hình vuông 2 tượng Tứ Kỳ Kinh, góc trên là Đốc, góc dưới là Nhâm, góc trái là Đái, góc phải là Xung. 4 đoạn đường thẳng màu tím [4 đường chéo của 2 hình vuông 1 và 2] tượng Lạc: 73
Đoạn thẳng dọc nối 2 góc Đốc Nhâm đi qua 2 cạnh Dương Nhiệt Âm Hàn là Lạc của 2 kỳ Kinh Nhâm Đốc, cũng là Lạc của 2 Kinh Dương Nhiệt Âm Hàn. Đoạn thẳng ngang nối 2 góc Đái Xung đi qua 2 cạnh Dương Hàn Âm Nhiệt là Lạc của 2 kỳ Kinh Xung Đái, cũng là Lạc của 2 Kinh Dương Hàn Âm Nhiệt. Đoạn thẳng xiên nối 2 góc Hàn Nhiệt là Lạc của 2 cực Bản Hàn Bản Nhiệt. Đoạn thẳng xiên nối 2 góc Âm Dương là Lạc của 2 cực Tiêu Âm Tiêu Dương. 3. Vòng tròn nhỏ trong cùng tượng Tấu màu tím [bao quát 4 Kinh Âm Dương Hàn Nhiệt và 4 kỳ Kinh]:
Nửa vòng bên Dương tượng Kinh Thiếu Dương Hỏa [Dương Hàn Dương Nhiệt Trung hiện].
Nửa vòng bên Âm tượng kinh Khuyết Âm Phong [Âm Hàn Âm Nhiệt Trung hiện]. Cặp Kinh Thiếu Dương Khuyết Âm gọi là Âm Dương Trung hiện, nền tảng của Tấu (màn lưới của tất cả Kinh Lạc trải suốt Biểu suốt Lý,điều hành giao thông các thể Khí Huyết – Thủy Hỏa nuôi dưỡng và bảo vệ toàn thân) có chức năng khắc chế điều hòa 2 cặp Kinh Âm Dương - Hàn Nhiệt và Âm Dương -Táo Thấp, không làm bệnh và không truyền làm bệnh, chỉ làm đường xá lưu hành Khí Huyết Thủy Hỏa và tự bệnh mà thôi.
4. Bốn vòng tròn nhỏ đường kính bằng bán kính của vòng tròn ngoài cùng tượng Tứ Kinh Dương Nhiệt Âm Hàn có Tâm trên đường kính dọc và Dương Hàn Âm Nhiệt có Tâm trên đường kính ngang của vòng tròn ngoài cùng.Vòng tròn trên, toàn đỏ tượng Kinh Dương Nhiệt; vòng tròn dưới, toàn đen tượng Kinh Âm Hàn; vòng tròn trái toàn xanh tượng Kinh Dương Hàn chủ hướng giao tế vào ra [Hoành]; vòng tròn phải toàn tím tượng Kinh Âm Nhiệt chủ hướng giao tế lên xuống [Tung]. Mỗi vòng đều có 4 điểm tiếp xúc tượng Tứ Khí. Điểm tiếp xúc với vòng tròn ngoài cùng có Khí đồng với Kinh là Tứ Kỳ Kinh, điểm tiếp xúc tại Tâm có Khí trùng với Kinh đối giao là Tứ Kinh Trung Hiện; 2 điểm còn lại là 2 điểm tiếp xúc với 2 vòng tròn nhỏ phải – trái là 2 Khí Tiêu Bản của Kinh; Ví dụ: Tại vòng tròn Kinh Dương Nhiệt tiếp xúc với vòng tròn Kinh Âm Nhiệt là Khí Âm Nhiệt (Bản Âm Nhiệt), tiếp xúc với vòng Kinh Dương Hàn là Khí Dương Hàn (Tiêu Dương Nhiệt). 5. Dương Hàn chủ Biểu, Âm Nhiệt chủ Lý, Dương Nhiệt chủ Tấu Nhiệt, Âm Hàn chủ Tấu Hàn, Dương Trung Hiện chủ Tấu Bán Biểu, Âm Trung Hiện chủ Tấu Bán Lý.
Dương Hàn làm bệnh tại Bản Kinh có Lưỡng nghi bệnh: Thương Hàn: Bản Hàn Khí [Túc Thái Dương Bàng Quang khí] làm bệnh. Trúng Phong: Tiêu Dương Khí [Thủ Thái Dương Tiểu Trường khí] làm bệnh. 74
Dương Hàn truyền làm bệnh tại Dương Nhiệt và Âm Hàn có Tứ Bộ bệnh: Ôn Bệnh là Dương Nhiệt thọ Dương Hàn truyền. Phong Ôn là Dương Nhiệt thọ Dương Hàn truyền đồng thọ Âm Nhiệt chuyển. Hàn Thấp là Âm Hàn thọ Dương Hàn truyền. Phong Thấp là Âm Hàn thọ Dương Hàn truyền đồng thọ Âm Nhiệt chuyển.
(Dương Hàn truyền làm bệnh tại Bản Kinh là Hàn, tại Dương Nhiệt là Ôn [Táo + Hàn], tại Âm Hàn là Thấp (Thấp + Hàn), tại Âm Nhiệt là Phong [Nhiệt + Hàn] ) . 6. Tại 4 góc của hình vuông 1 có 4 cặp Kinh Tiêu Bản; Nơi góc Âm Nhiệt Dương Nhiệt có 2 Kinh Âm Dương Bản Nhiệt là Thủ Thiếu Âm Tâm và Túc Dương Minh Vỵ (Tâm thuộc Tiên Thiên, Vỵ đảo ngược Kinh Khí của Tâm thuộc Hậu Thiên); Nơi góc Dương Hàn Âm Hàn có 2 Kinh Âm Dương Bản Hàn là Túc Thái Dương Bàng Quang và Thủ Thái Âm Phế (Bàng Quang thuộc Tiên Thiên, Phế đảo ngược Kinh Khí của Bàng Quang thuộc Hậu thiên); Nơi góc Dương Hàn Dương Nhiệt có cặp Tiêu Dương (Phủ) là Thủ Thái Dương Tiểu Trường và Thủ Dương Minh Đại Trường (Tiểu Trường thuộc Tiên Thiên, Đại Trường có Kinh Khí đảo ngược của Tiểu Trường thuộc Hậu Thiên) ; Nơi góc Âm Nhiệt Âm Hàn có cặp Tiêu Âm (Tạng) là Túc Thiếu Âm Thận và Túc Thái Âm Tỳ (Thận thuộc Tiên Thiên, Tỳ có Kinh Khí đảo ngược của Thận thuộc Hậu Thiên). Người biết dùng Đồ Hình này để học tập Thương Hàn Luận Bản Nghĩa sẽ thấy được mọi lý luận rất Khoa học và các tên bệnh đều phù hợp Tự nhiên. -
Tứ Kỳ Kinh : Đốc, Nhâm, Xung, Đái. Tứ Kinh Trung Hiện : Đởm, Tam Tiêu, Can, Tâm Bào Lạc. Tứ cặp Kinh Âm Dương Hàn Nhiệt – Tiêu Bản Tiên Thiên Hậu Thiên: Bản Nhiệt : Tâm, Vỵ ; Bản Hàn : Bàng Quang, Phế ; Tiêu Dương : Tiểu Trường, Đại Trường ; Tiêu Âm : Thận, Tỳ.
.
75
ĐỒ HÌNH 3 MỐI QUAN HỆ TAM ÂM TAM DƯƠNG 1. KHÍ HÓA THÁI DƯƠNG HÀN
THÁI ÂM
KHUYẾT ÂM
THẤP
PHONG
TRUNG
KIẾN
THIẾU DƯƠNG
DƯƠNG MINH
HỎA
TÁO
NHIỆT THIẾU ÂM
2. BỘ VỊ
THÁI DƯƠNG HÀN
KHUYẾT ÂM
THIẾU ÂM
PHONG
NHIỆT TRUNG
HIỆP
THIẾU DƯƠNG
DƯƠNG MINH
TẤU
CƠ NHỤC
BÌ PHU .
THÁI ÂM 76
3. TRUYỀN KINH THÁI DƯƠNG
THIẾU ÂM
THÁI ÂM
TRUNG
CHUYỂN
THIẾU DƯƠNG
DƯƠNG MINH
KHUYẾT ÂM
THUYẾT MINH HÌNH ĐỒ 3 MỐI QUAN HỆ TAM ÂM TAM DƯƠNG Sống là tương giao, nói cụ thể hơn là tương giao giữa 2 thành phần Âm và Dương. Tạo hóa thể hiện Đạo Tam Cực nơi thân người có Lục Kinh gồm Tam Âm Tam Dương. Tương giao giữa Tam Âm Tam Dương cũng có 3 mối quan hệ Khí Hóa – Trung Chuyển – Trung Hiệp có thể trình bày như sau:
I.
QUAN HỆ KHÍ HÓA (Nội Kinh gọi là TRUNG KIẾN): Vòng tròn ngoại tiếp màu xanh tượng Nhân thân gồm đủ Âm Dương. Tam giác đều nội tiếp màu đỏ tượng Tam Dương có đỉnh trên là Thái Dương, đỉnh trái dưới là Thiếu Dương, đỉnh phải dưới là Dương Minh. Tam giác đều nội tiếp màu đen tượng Tam Âm có đỉnh dưới đối với Thái Dương là Thiếu Âm, đỉnh trái trên là Thái Âm, đỉnh phải trên là Khuyết Âm. Tất cả tương giao của Tam Âm Tam Dương đều qua Tâm của vòng tròn ngoại tiếp trong quan hệ Khí Hóa gọi là Trung Kiến nghĩa là các Khí đều Trung hòa (= 0) tại Tâm. Thái Dương Hàn đối giao Thiếu Âm Nhiệt bằng đường kính màu tím. Dương Minh Táo đối giao Thái Âm Thấp bằng đường kính màu tím. Thiếu Dương Hỏa đối giao Khuyết Âm Phong bằng đường kính màu tím. 77
Quan hệ Khí Hóa xác minh Lục Kinh chia thành 3 cặp Âm Dương Hàn Nhiệt, Âm Dương Táo Thấp và Âm Dương Phong Hỏa. Tóm lại : Thái Dương Hàn TRUNG KIẾN Thiếu Âm Nhiệt. Dương Minh Táo TRUNG KIẾN Thái Âm Thấp. Thiếu Dương Hỏa TRUNG KIẾN Khuyết Âm Phong.
II.
QUAN HỆ BỘ VỊ (Nay tạm gọi là TRUNG HIỆP): Vòng tròn ngoại tiếp màu xanh tượng Nhân thân. Tam giác đều nội tiếp màu đỏ tượng Tam Dương có đỉnh trên là Thái Dương, đỉnh trái dưới là Thiếu Dương, đỉnh phải dưới là Dương Minh. Tam giác đều nội tiếp màu đen tượng Tam Âm có đỉnh dưới là Thái Âm đối giao với Thái Dương, đỉnh trái trên là Khuyết Âm đối giao với Dương Minh, đỉnh phải trên là Thiếu Âm đối giao với Thiếu Dương. Trong mối quan hệ Bộ Vị gọi là Trung Hiệp nghĩa là Kinh chủ Bộ Vị đối hiệp với Kinh chủ Khí Hóa. Thái Dương Kinh chủ Hàn Khí đối hiệp Thái Âm Kinh chủ Bộ Vị Bì Phu biểu hiện bằng đường kính toàn đen. Thiếu Dương chủ Bộ Vị Tấu đối hiệp Thiếu Âm Kinh chủ Nhiệt Khí biểu hiện bằng đường kính toàn đỏ. Dương Minh Kinh chủ Bộ Vị Cơ Nhục đối hiệp với Khuyết Âm Kinh chủ Phong Khí biểu hiện bằng đường kính toàn tím. Quan hệ Bộ Vị xác minh ngoài Biểu - Lý còn có Bộ Vị Tấu liên kết Khí Hóa với Bộ Vị trong hệ Kinh Lạc của toàn thân. Tóm lại : Thái Dương Hàn TRUNG HIỆP Thái Âm Bì Dương Minh Nhục TRUNG HIỆP Khuyết Âm Phong Thiếu Dương Tấu TRUNG HIỆP Thiếu Âm Nhiệt
III.
QUAN HỆ TRUYỀN KINH (Nay tạm gọi là TRUNG CHUYỂN): Vòng tròn ngoại tiếp màu xanh tượng Nhân thân. Tam giác đều nội tiếp màu đỏ tượng Tam Dương có đỉnh trên là Thái Dương, đỉnh trái dưới là Thiếu Dương, đỉnh phải dưới là Dương Minh. Tam giác đều nội tiếp màu đen tượng Tam Âm có đỉnh dưới là Khuyết Âm đối giao với Thái Dương, đỉnh trái trên là Thiếu Âm đối giao với Dương Minh, đỉnh phải trên là Thái Âm đối giao với Thiếu Dương. 78
Trong mối quan hệ Truyền Kinh gọi là Trung Chuyển nghĩa là Âm Dương liên tiếp giao tế qua Tâm. Thái Dương đối chuyển Khuyết Âm bằng đường kính toàn tím. Dương Minh đối chuyển Thiếu Âm bằng đường kính toàn tím. Thiếu Dương đối chuyển Thái Âm bằng đường kính toàn tím. Quan hệ Truyền Kinh xác minh thứ tự hành Kinh của Lục Kinh đồng thời cho thấy Hàn Truyền từ Biểu vào Lý và Nhiệt Chuyển từ Lý ra Biểu. Tóm lại : Thái Dương – Khuyết Âm TRUNG CHUYỂN nhau Dương Minh – Thiếu Âm TRUNG CHUYỂN nhau Thiếu Dương – Thái Âm TRUNG CHUYỂN nhau
.
GHI CHÚ: Dùng màu dựa theo Đạo Tam Cực vàTứ bộ Âm Dương Hàn Nhiệt như sau :
Đỏ : Dương, Nhiệt = Tượng màu của Tạng Tâm. Đen: Âm, Hàn = Tượng màu của Tạng Thận. Xanh : Hiện tượng Âm Dương đối lập. Tím: Bản chất Âm Dương thống nhất.
.
79
4.
DÙNG KINH HUYỆT
Vai trò của Kinh Lạc trong Y học Đông phương đã luận nơi bài ‘Y gia yếu chỉ’.Bài này chỉ bàn về việc sử dụng Kinh Huyệt với các yếu tố Âm Dương ,Lục Khí và Ngũ Hành. 1- ÂM DƯƠNG: Đạo học Đông phương mở đầu bằng Kinh Dịch, nêu rõ Âm Dương là hiện tượng cốt yếu của vạn vật và bản chất của nó là Đạo Tam cực(Cơ cấu Dịch lý) gồm cả 2 qui luật Âm Dương thống nhất và Âm Dương đối lập.Người học Âm Dương ngày nay thường nói :’Trong Âm có Dương,trong Dương có Âm’, điều này chưa sai hẳn nhưng làm cho Âm Dương trở nên khó hiểu và không thực tế, không bằng như thuyết Đại diễn tại Kinh Dịch:’Thái Cực thị sinh Lưỡng Nghi,Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng,Tứ Tượng sinh Bát Quái..v..v.’.Thái Cực là toàn thể sự vật không hào; toàn thể sinh hệ 1 hào là Lưỡng Nghi (Âm Dương); hệ 1 hào sinh hệ 2 hào có 4 quẻ gọi là Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng; hệ 2 hào sinh hệ 3 hào có 8 quẻ gọi là Tứ Tượng sinh Bát Quát..v.v..Tức là toàn thể (Thái Cực) sự vật (thống nhất) sinh Âm Dương đối lập(Lưỡng Nghi),từ đó Âm lại phân ra Âm Dương(2),Dương lại cũng phân ra Âm Dương(2)..v..v..Để tránh nhầm lẫn,người xưa rất thận trọng chỉ dùng đơn thuần 2 chữ Âm Dương để gọi Lưỡng Nghi,còn những thành phần nhỏ hơn do Lưỡng Nghi phân ra đều gọi theo tên khác như gọi Khí Hàn Nhiệt,Táo Thấp hoặc nếu có miễn cưỡng dùng lại các từ Âm Dương thì chỉ dùng ghép như gọi Khí Dương Nhiệt Dương Hàn, Âm Nhiệt Âm Hàn.Dịch nói ” Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo”với định nghĩa Đạo là Âm Dương thống nhất,cho nên dùng Âm Dương trong trị liệu Đông Y là dùng 8 Kỳ Kinh và 8 huyệt thông của nó: -
Đốc mạch (Bát Thuần Càn Trường).
)quản đốc mọi năng lực Dương, thông huyệt Hậu Khê (Kinh Tiểu
-
Nhâm mạch (Bát Thuần Khôn Phế).
-
Đái mạch (Bát Thuần Ly Đởm).
-
Xung mạch (Bát Thuần Khảm (Kinh Tỳ).
-
Dương duy (Trạch Phong Đại Quá Tam Tiêu).
-
Âm duy (Sơn Lôi Di Lạc).
) nhậm lãnh mọi năng lực Âm, thông huyệt Liệt Khuyết (Kinh
) chủ quản Khí phận và lực Giáng, thông huyệt Túc Lâm Khấp (Kinh
) chủ quản Huyết phận và lực Thăng, thông huyệt Công Tôn
) duy trì năng lực bảo vệ, thông huyệt Ngoại Quan (Kinh
) duy trì năng lực dinh dưỡng, thông huyệt Nội Quan (Kinh Tâm Bào
80
-
Dương kiểu (Lôi Sơn Tiểu Quá (Kinh Bàng Quang).
-
Âm kiểu (Phong Trạch Trung Phu Thận).
) điều chỉnh chức năng Dương, thông huyệt Thân Mạch
) điều chỉnh chức năng Âm, thông huyệt Chiếu Hải (Kinh
Phối huyệt thường được dùng là: -
Trị về Dương: Hậu Khê – Thân Mạch.
-
Trị về Âm: Liệt Khuyết - Chiếu Hải.
-
Trị về Khí và Biểu: Túc Lâm Khấp - Ngoại quan.
-
Trị về Huyết và Lý: Công Tôn - Nội Quan.
Ngoài ra để tăng hiệu năng, người sử dụng còn lựa chọn giờ Vượng của huyệt, kinh nghiệm này lưu truyền tại ‘Linh Qui Bát Pháp‘. 2- LỤC KHÍ: Lục Khí Phong Hàn Nhiệt Thấp Táo Hỏa là Dương thuộc Trời đối lập với Ngũ Hành Mộc Kim Thổ Hỏa Thủy là Âm thuộc Đất. Đông Y tuân thủ truyền thống Đạo Tam cực nên không bỏ xót Lục Khí cùng có mối quan hệ Âm Dương với Ngũ Hành nơi Bát Quái :
Càn là Tam Dương,toàn thể Dương Khí,Dương Kim(tượng Cha).
Khôn là Tam Âm, toàn thể Âm Khí, Âm Thổ (tượng Mẹ).
- Lục Khí chính là Lục Tử (6 con) :
Tốn: dụng Âm tại hạ,là Khí Khuyết Âm Phong, Âm Mộc(trưởng nữ).
Ly: dụng Âm tại trung,là Khí Thiếu Âm Nhiệt, Hỏa(trung nữ).
Đoài: dụng Âm tại thượng,là Khí Dương Minh Táo, Âm Kim(thiếu nữ).
Chấn: dụng Dương tại hạ,là Khí Thiếu Dương Hỏa,Dương Mộc (trưởng nam).
Khảm: dụng Dương tại trung,là Khí Thái Dương Hàn,Thủy(trung nam).
Cấn: dụng Dương tại thượng,là Khí Thái Âm Thấp, Dương Thổ (thiếu nam).
.
81
a. Lục Khí và Lục Dâm: Lục Khí khi bình thường thì có lợi cho sinh lý, khi trái thường (thái quá bất cập) thì là đầu mối của bệnh lý.Giữa sinh lý và bệnh lý Lục Khí không khác mà chỉ khác ở chổ thường và trái thường, nên người xưa rất tế nhị gọi Lục Dâm là Phong Hàn Thử Thấp Táo Hỏa (Chỉ đổi Nhiệt [chánh khí] thành Thử [tà khí] để phân hiểu). b. Lục Khí và Lục Kinh: Lục khí là 6 năng lực Dương thuộc Trời tương ứng với Lục Kinh hành Lục Khí nơi người.Người xưa thường gọi Nội Tạng là Lục Phủ Ngũ Tạng,bao hàm ý tương ứng với Lục Khí và Ngũ Hành, nêu rõ chức năng (Khí Hóa) của Nội Tạng có 6 nhưng hình thể (Tạng Phủ) chỉ có 5. Trong Tam Tài Người là một bầu trời đất nhỏ.Thầy thuốc hiểu Đạo Âm Dương không thể trọng lấy Ngũ Hành mà khinh bỏ Lục Khí . c. Tứ Kinh và Tứ Khí: Đức Trọng Cảnh làm 2 sách Bệnh lý Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận chỉ ứng dụng Tứ Khí Tứ Kinh.Cụ Lưu Thủy thấy được chỗ tuyệt vời này ca tụng Ngài có công ước tóm Lục Khí Lục Kinh thành Tứ Khí Tứ Kinh. Giới Đông Y ngày nay do không hiểu,lại bảo Ngài trái ngược với chủ trương Lục Khí của Nội Kinh nên không chịu học hỏi. Sự thật là Ngài đã mở ra con đường Trung Đạo để luận bệnh bằng cách ứng dụng 3 Thời loại của Kinh Dịch: Tiên Thiên : 1 x 2 = Âm Dương. Trung Thiên : 2 x 2 = Tứ Tượng. Hậu Thiên : 3 x 2 = Lục Khí. Vấn đề này đã được trình bày nơi cuốn ‘Đông Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa’,Tứ Bộ là Cơ biến hóa, chuyển từ bình thường sang trái thường là làm bệnh, chuyển từ trái thường trở lại bình thường là trị bệnh. 3- NGŨ HÀNH: Ngày nay Y giới Đông phương cố chấp lý luận Âm Dương Ngũ Hành là chỉ biết trọng Âm khinh Dương, không hiểu được Bản Nghĩa của 2 sách đã nói ở trên. Dựa theo Ngũ Hành là ứng dụng Hậu Thiên,chỉ để dùng huyệt và thuốc. Còn nắm lấy bệnh Cơ thì phải dùng Trung Thiên (Tứ Kinh Tứ Khí). Sau đây là phép dùng Kinh Huyệt theo lý luận Ngũ Hành:
82
Ngũ Du là 5 huyệt Ngũ Hành trên 12 Kinh có vị trí từ các đầu ngón tay chân đến cùi chõ,đầu gối.Người xưa hình dung đoạn Kinh Huyệt này là một dòng năng lực của trời đất vào thân người, hình dung như một dòng sông có quá trình từ chổ phát nguyên đến biển cả, nên đặt tên 5 huyệt này là Tĩnh(nguồn nước), Huỳnh (nước ra khỏi nguồn đã thành dòng), Du (dòng nước chảy đến chổ đồng bằng), Kinh (dòng nước đã chảy suốt sông), Hiệp (chổ dòng sông nhập vào biển). HUYỆT NGŨ DU 12 KINH
TĨNH
HUỲNH
DU
KINH
HIỆP
Hành tại 6 Kinh Âm
Mộc
Hỏa
Thổ
Kim
Thủy
Hành tại 6 Kinh Dương
Kim
Thủy
Mộc
Hỏa
Thổ
Thiếu Thương
Ngư Tế
Thái Uyên (+)
Kinh Cừ (=)
Xích Trạch (-)
ThươngDương(=)
Nhị Gian(-)
Tam Gian
Dương Khê
Khúc Trì (+)
Thủ Thái Âm Phế
Kim
Thủ Dương Minh Đại Trường Kim Túc Dương Minh Vỵ
Thổ
Lệ Đoài (-)
Nội Đình
Hãm Cốc
Giải Khê (+)
Túc Tam Lý (=)
Túc Thái Âm Tỳ
Thổ
Ẩn Bạch
Đại Đô (+)
Thái Bạch (=)
Thương Khâu(-)
Âm Lăng Tuyền
Thủ Thiếu Âm Tâm
Hỏa
Thiếu Xung (+)
Thiếu Phủ (=)
Thần Môn (-)
Linh Đạo
Thiếu Hải
Thủ Thái Dương Tiểu Trường Hỏa
Thiếu Trạch
Tiền Cốc
Hậu Khê (+)
Dương Cốc (=)
Tiểu Hải (-)
Túc Thái Dương Bàng Quang Thủy
Chí Âm (+)
Thông Cốc(=)
Thúc Cốt (-)
Côn Lôn
Ủy Trung
Dũng Tuyền (-)
Nhiên Cốc
Thái Khê
Phục Lựu (+)
Âm Cốc (=)
Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc Hỏa
Trung Xung (+)
Lao Cung (=)
Đại Lăng (-)
Gian Sử
Khúc Trạch
Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Thủy
Quan Xung (+)
Dịch Môn (=)
Trung Chữ (-)
Chi Câu
Thiên Tỉnh
Túc Thiếu Dương Đởm Mộc
Túc Khiếu Âm
Hiệp Khê (+)
Túc Lâm Khấp(=)
Dương Phụ (-)
Dg Lăng Tuyền
Đại Đôn (=)
Hành Gian (-)
Thái Xung
Trung Phong
Khúc Tuyền (+)
Túc Thiếu Âm Thận
Thủy
Túc Khuyết Âm Can
Mộc
Dùng Huyệt Ngũ Du là áp dụng luật Ngũ Hành tương sinh :
Bổ (+): Trị Chính hư, dùng huyệt có Hành mẹ của Kinh gọi tắt là Bổ Mẫu.Ví dụ: Phế hư, Phế là Tạng Hành Kim thì Bổ dùng huyệt có Hành mẹ là Thái Uyên (Du Thổ).
Tả (-): Trị tà thật, dùng huyệt có Hành con của Kinh gọi tắt là Tả Tử.Ví dụ: Phế thật, Phế là Tạng Hành Kim thì Tả tại huyệt có Hành con là Xích Trạch (Hiệp Thủy). 83
Bình (=): Trị bệnh chứng thường xảy ra vào giờ Kinh Vượng, dùng huyệt đồng hành với Kinh .Ví dụ: bệnh chứng thuộc Kinh Phế thường xảy ra vào giờ Kinh Phế Vượng thì Bình tại huyệt đồng hành với Kinh là Kinh Cừ (Kinh Kim). Sau đây là 4 câu thơ dễ nhớ giờ Vượng của 12 Kinh: Phế Dần Đại Mão Vỵ Thìn cung Tỳ Tỵ Tâm Ngọ Tiểu Mùi trung Bàng Thân Thận Dậu Tâm Bào Tuất Hợi Tiêu Tý Đởm Sửu Can thông
Ngũ Hành là Âm thuộc Đất chủ vị thế, gồm 4 Hành là 2 cặp Âm Dương Kim Mộc,Hỏa Thủy còn lại 1 Hành lẻ là Thổ có vị thế tại trung ương,có công năng điều hòa cả 4 Hành trước. Thuật dùng huyệt dạy ‘bệnh tại Kinh Dương dùng huyệt Hiệp, bệnh tại kinh Âm dùng huyệt Du’. Do tại Ngũ Du 2 huyệt này đều có Hành Thổ.Dưỡng sinh dùng phép cứu huyệt Túc Tam Lý là Bình Vỵ vì Túc Tam Lý là huyệt Hiệp Thổ trên Kinh Vỵ Thổ. Ngoài ra để tăng hiệu năng người sử dụng còn lựa chọn giờ Vượng của huyệt, kinh nghiệm này lưu truyền tại phép ’Tý Ngọ lưu trú ’. 4-
CÁC PHÉP DÙNG HUYỆT KHÁC: a. Dùng các huyệt Nguyên, Lạc, Khích và Bối Du, Phúc Mộ: Các huyệt Nguyên, Lạc, Khích có đặc tính và công năng:
Nguyên: Nơi kinh thông với Tam Tiêu, có công năng điều hòa khí lực tương thông giữa kinh này với Tam Tiêu (Kinh Âm không có Nguyên dùng huyệt Du để thay). Lạc: Nơi Kinh có đường liên lạc với kinh Âm Dương, Biểu Lý với nó;có công năng điều hòa kinh bệnh bằng mối tương quan vừa nói .Ngoài 12 Lạc thuộc 12 Kinh còn có Lạc của mạch Đốc là Trường Cường, Lạc của mạch Nhâm là Hội Âm và Đại Lạc của Tỳ là Đại Bao. Khích: Nơi kinh thông với Tâm Bào Lạc, có công năng điều hòa huyết lượng tương thông giữa kinh này với Tâm Bào Lạc. Các huyệt Bối Du và Phúc Mộ có đặc tính và công năng: Bối Du: Nơi trao đổi khí lực của Nội Tạng với bên ngoài tại lưng (kinh Túc Thái Dương Bàng Quang), có công năng điều hòa chức năng của Nội Tạng. 84
Phúc Mộ: Nơi tụ tán vật thể liên quan với Nội Tạng, có công năng điều hòa hình chất của Nội Tạng.Các huyệt này có vị trí nơi bụng hoặc trên Nhâm mạch hoặc tại các kinh. Ngoài cách dùng điều trị,các huyệt Nguyên,Bối Du và Phúc Mộ còn được dùng để Chẩn đoán. HUYỆT 12 KINH
NGUYÊN
LẠC
KHÍCH
BỐI DU
PHÚC MỘ
Thủ Thái Âm Phế
Thái Uyên
Liệt Khuyết
Khổng Tối
Phế Du
Trung Phủ
Thủ Dương Minh Đại Trường
Hiệp Cốc
Thiên Lịch
Ôn Lưu
Đại Trường Du
Thiên Khu (Vỵ Kinh)
Túc Dương Minh Vỵ
Xung Dương
Phong Long
Lương Khâu
Vỵ Du
Trung Quản (Nhâm mạch)
Túc Thái Âm Tỳ
Thái Bạch
Công Tôn
Địa Cơ
Tỳ Du
Chương Môn (Can Kinh)
Thủ Thiếu Âm Tâm
Thần Môn
Thông Lý
Âm Khích
Tâm Du
Cự Khuyết (Nhâm mạch)
Thủ Thái Dương Tiểu Trường
Uyển Cốt
Chi Chánh
Dưỡng Lão
Tiểu Trường Du
Quan Nguyên (Nhâm mạch)
Túc Thái Dương Bàng Quang
Kinh Cốt
Phi Dương
Kim Môn
Bàng Quang Du
Trung Cực (Nhâm mạch)
Túc Thiếu Âm Thận
Thái Khê
Đại Chung
Thủy Tuyền
Thận Du
Kinh Môn (Đởm Kinh)
Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc
Đại Lăng
Nội Quan
Khích Môn
Khuyết Âm Du
Đàn Trung (Nhâm mạch)
Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu
Dương Trì
Ngoại Quan
Hội Tông
Tam Tiêu Du
Thạch Môn (Nhâm mạch)
Túc Thiếu Dương Đởm
Khâu Khư
Quang Minh
Ngoại Khâu
Đởm Du
Nhật Nguyệt
Túc Khuyết Âm Can
Thái Xung
Lải Câu
Trung Đô
Can Du
Kỳ Môn
85
b. Dùng các huyệt Giao hội: Tùy đặc tính Giao hội của từng huyệt, người sử dụng giản lược các phương huyệt:
Tam Dương Lạc:hội của 3 Dương ở tay (Thủ Thái Dương,Thủ Thiếu Dương, Thủ Dương Minh).
Gian Sử:hội của 3 Âm ở tay (Thủ Thái Âm,Thủ Khuyết Âm, Thủ Thiếu Âm).
Tuyệt Cốt (còn có tên Huyền Chung): hội của 3 Dương ở chân(Túc Thái Dương,Túc Thiếu Dương,Túc Dương Minh).
Tam Âm Giao: hội của 3 Âm ở chân(Túc Thái Âm,Túc Khuyết Âm, Túc Thiếu Âm).
Thần Khuyết (Tề Trung): hội của Nhâm mạch và Đái mạch,an thần trị tiết tả.
Mạng Môn: hội của Đốc mạch và Đái mạch trợ Dương bổ eo lưng.
Đại Chùy: hội của Đốc mạch và 6 Kinh Dương trị sốt cao và suyễn
Quan Nguyên: hội của 3 mạch Nhâm, Xung, Đốc, có tác dụng cường tráng,trị lão suy.
Chương Môn: hội của Tạng,trị nhiều bệnh Tạng một lúc.Có trường hợp suy yếu nhiều Tạng, đọng khí quanh rún,cứu Chương Môn khỏi.
Trung Quản: hội của Phủ,trị bệnh nhiều Phủ một lúc.
Đại trữ: hội của Cốt(xương),dùng trị các bệnh về xương.
Tuyệt Cốt: hội của Tủy,dùng trị các bệnh về Tủy.Ví dụ: Suy Tủy hạ hồng cầu cứu Tuyệt Cốt.
Dương Lăng Tuyền: hội của Cân(Gân),dùng trị các bệnh về Gân,sa trệ,di niệu,bạch đái.
Thái Uyên: hội của Mạch,dùng trị các bệnh của Mạch Máu.
Đàn Trung: hội của Khí,dùng trị mọi bệnh về Khí.
Cách Du: hội của Huyết,dùng trị mọi bệnh về Huyết.
Các huyệt Giao Hội còn nhiều không thể kể hết,người làm chuyên môn tùy nghi tham khảo và áp dụng. c.
Dùng các huyệt đặc hiệu:
Lịch sử dùng huyệt trải nhiều ngàn năm, đã để lại nhiều ca phú kinh nghiệm như Tứ Tổng Huyệt,Ngọc Long Ca,Bá Chứng Phú.v..v..Ghi rõ hiệu năng một số huyệt và phối huyệt: 86
Túc Tam lý: lưu ý dùng trị các bệnh đỗ(bụng trên),phúc(bụng giữa).
Ủy Trung: cầu trị các bệnh yêu (eo lưng),bối(lưng trên).
Liệt Khuyết: tầm trị bệnh ở đầu gáy.
Tam Âm Giao: mưu trị các bệnh tại tiểu phúc (bụng dưới).
Nội Quan:chủ mọi bệnh tại Lý,bệnh của tim,ngực,bụng.
Hợp Cốc:chủ mọi bệnh tại Biểu,các chứng đau ngoài da.
Dũng Tuyền:dán cao,xoa dầu,giữ ấm lòng bàn chân trị nhức đầu và các chứng ho.
Phong Trì,Phong Phủ:Phối huyệt trị mọi chứng Phong Nhiệt tại Biểu,mọi bệnh tại đầu não.
Dương Lăng Tuyền, Chi Câu: Phối huyệt trị mọi chứng đau thần kinh liên sườn, đại tiện khó.
Xích Trạch, Ủy Trung: Phối huyệt trị các chứng đau quặn ruột.
Thái Bạch, Phong Long: Phối huyệt trị mọi chứng đàm ẩm.
Thái Xung,Kiên Tỉnh: Phối huyệt day bấm trị đau vú,tắt tia sữa.
Phong Trì, Kiên Tỉnh: Phối huyệt điều hòa máu nơi đầu não. d. Dùng Kinh Huyệt tại Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận:
Trong chẩn đoán và điều trị, 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận đã biểu lộ một phương pháp dùng Kinh Huyệt rất độc đáo. Bệnh tại Khí dùng thuốc, bệnh tại Kinh dùng Huyệt (Châm Cứu); Khí bệnh hiện chứng nóng – lạnh, Kinh bệnh hiện chứng đau nhức – co giật, Lạc bệnh hiện chứng nơi Mạch Tượng:
Túc Tam Lý: Châm khiến cho bệnh tại Biểu không Truyền Kinh và bệnh khỏi.
Phong Trì, Phong Phủ: Châm trị Thái Dương Kinh Khí Trúng Phong (Trước châm Phong Trì, Phong Phủ để trị Kinh, sau uống thang Quế Chi để trị Khí).
Kỳ Môn: Bản lề (Khu), chỗ giao giới của Âm Dương, châm thích để chuyển thế bệnh.
Quan Nguyên, Thái Khê, Công Tôn: Cứu 7 tráng trị bệnh Kinh Thiếu Âm Thận Truyền Xung Nhâm.
Quan Nguyên, Thái Xung: Cứu trị Tạp bệnh thể lạnh, Phụ khoa Tạp bệnh.
………….. . 87
Muốn tường tận và chi tiết hơn thì xem thêm nơi Thương Hàn Luận Bản Nghĩa và Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa. 5- KẾT LUẬN: Trị liệu Đông hay Tây Y cũng đều không ngoài 2 phép dùng thuốc và không dùng thuốc. Dùng thuốc có Phương Dược, không dùng thuốc có Phương Huyệt, nếu như không nắm được Lý Pháp thì không thể sử dụng linh hoạt,tự giam mình trong kinh nghiệm và bắt chước các phác đồ của người trước mà thôi.
.
88
5.
CÁCH DÙNG THUỐC
Dùng thuốc là một nhu cầu tất yếu trong đời sống “Sinh – Lão - Bệnh -Tử” của loài người. Suốt xưa nay, khắp Đông Tây chưa từng thấy có việc phủ nhận vấn đề này. Nơi đây không có ý kiến và nhận định chủ quan mà chỉ tóm thuật dựa theo diễn biến của cách dùng thuốc trải dài theo dòng lịch sử. Cổ truyền cũng như hiện đại đều chứng tỏ một mối quan hệ không thể tách rời là “Lý – Pháp – Phương – Dược”, và đã thể hiện rõ ràng trong mọi nghiên cứu áp dụng là Dược Lý, Dược Pháp, Dược Phương. 1. DƯỢC LÝ: Lý Sự Chân Thật là pháp tắc của vạn sự vạn vật trong trật tự vũ trụ. Xưa nay chưa từng có khoa học nào nghịch lý, dù hiệp lại một ngành Y Dược (thầy thuốc) hoặc chia hai ngành thì Y và Dược cũng không lìa lý, thực tế thể hiện nơi các từ thường dùng là Y lý, Dược lý. a. Đông Y: Với chủ trương thuận tự nhiên và truyền thống Đạo học Khí Hóa, Đông Y đã có những cách dùng thuốc: - Cây thuốc (thảo dược) được dùng nhiều hơn khoáng chất. - Dùng thuốc toàn phần hoặc bộ phận có dược lực mạnh như hoa trái, thân lá, củ rễ.v.v.. . - Áp dụng toàn diện không tách riêng dược lý, dược pháp và dược phương với mục đích Y Dược nhất quán. - Dùng nguyên lý Thái Cực (toàn diện), Lưỡng Nghi (Âm Dương- Biểu Lý- Hàn Nhiệt- Hư Thực), Tứ Tượng (Dương Hàn – Dương Nhiệt – Âm Hàn – Âm Nhiệt), Ngũ Hành (Mộc – Hỏa – Thổ - Kim – Thủy), Lục Khí (Phong – Hàn- Nhiệt- Thấp- Táo- Hỏa) để xây dựng Y lý nên Dược lý cùng tùy theo đó mà có Tánh (Hàn-Nhiệt-Thăng-Giáng),Vị (Chua-Đắng-Ngọt-Cay-Mặn), Qui Kinh (Can- Tâm- TỳPhế- Thận v.v..). b. Tây Y: Với chủ trương theo tiến hóa và sở trường Khoa học Thực Nghiệm, Tây Y đã có những cách dùng thuốc: - Lợi dụng cơ giới hiện đại có khả năng phân tích dù bắt nguồn từ hóa chất, khoáng chất cho đến thảo mộc đều được phân tích thành hoạt chất để nghiên cứu thực nghiệm. - Tuy những hoạt chất cũng có mùi vị (thơm hôi, đắng ngọt) nhưng do dược tánh của hoạt chất không có dược tính Hàn Nhiệt rõ ràng nên Dược lý Tây Y không luận Hàn Nhiệt khác hẳn với Đông Y (dù vậy, trong phân loại điều trị cũng có khi họ vô tình công nhận về Hàn Nhiệt như nói cảm là cảm lạnh nhẹ hơn cúm có triệu chứng bứt rứt, sốt cao, đau cả người, dễ lây lan thành dịch không khác với Đông Y chia thành Thương Hàn, Ôn bệnh). 89
- Kết quả dùng thuốc phần lớn được thực hiện nơi ống nghiệm kế đến gia súc rồi đến con người nhưng thực tế việc hấp thụ và tác dụng không thể nhất thời thấu hiểu, đặc biệt là những tác dụng phụ. 2. DƯỢC PHÁP: Do chủ trương Dược lý khác nhau nên Đông và Tây Y có những phép dùng thuốc khác nhau: a. Đông Y: Với chủ trương thuận tự nhiên nên cách dùng thuốc của nó có thể sơ lược thành 3 phép: Phép lựa chọn: Tuy sở trường của Đông Y đa số dùng thảo dược nhưng các bộ phận được dùng cũng được lựa chọn tùy thuộc nơi bệnh:
Bệnh tại phần trên (đầu-mặt) thường dùng hoa,ngọn.
Bệnh tại phần giữa (ngực-bụng) thường dùng thân.
Bệnh tại phần dưới (bụng dưới-chân) thường dùng rễ, củ.
Dạng thuốc cũng được lựa chọn: bệnh cấp dùng thuốc sống, bệnh mãn dùng thuốc chín, thông thường dùng thuốc thang để tiện việc gia giảm, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu trị bệnh thì dùng cao đơn hoàn tán .v.v.. .
Ngoài ra để trị ngoài da, khu trùng, các cố tật; Đông Y cũng tạm dùng khoáng chất, động vật có độc. Phép bào chế: Rất nhiều vị thuốc được dùng phải bào chế tỉ mỉ và được phân loại thuốc sống (thảo dược chưa được bào chế), thuốc chín (thảo dược đã được bào chế). Phép bào chế đầy đủ đã được nêu tại sách Lôi Công nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp này chỉ sơ lược một vài ví dụ:
Đốt xém (chích): đưa vào lửa ngọn thiêu cháy phần ngoài da của thuốc ví dụ dùng Cam thảo chích để loại bỏ chất độc dưới da của dược thảo này.
Nấu (thục): như nấu chín nhiều giờ củ Sinh địa (tính mát, màu vàng, nhập Tỳ) thành Thục địa (tính ôn, màu đen, nhập Thận) để cải tạo tánh thuốc.
Phơi: làm cho khô như Sinh khương trị tại Biểu, Can khương thiên về tính ấm để trị phần giữa và phần dưới. 90
Sao: hoặc tùy thuộc mức độ dùng lửa để biến đổi tánh mát thành ấm như sao vàng, vàng cánh dán, sao đen (như sao đen vị Toan táo nhân để dẫn hỏa giao thủy khi dùng để an thần trị mất ngủ); hoặc sao với một loại dẫn dược như Bạch truật sao với cám để dẫn vào Tỳ, Đỗ trọng sao với muối để dẫn vào Thận.
Đốt tồn tính (thiêu): làm giảm chất độc nhưng vẫn giữ tánh thuốc để dùng ngoài da hoặc cầm máu (ví dụ như đốt hạt Tạo giác, Đại phong tử, Bồ hoàng). Phép bảo quản:
Do chú trọng đặc tính toàn diện và luật Khí Hóa nên thuốc Đông Y chỉ được dùng khi việc bảo quản còn giữ được khí vị của thuốc: Thuốc thang: dễ biến chất nên dùng trong ngày và bảo quản như một loại canh trong thực phẩm. Thuốc cao: cần bảo quản như một loại mức. Thuốc viên đơn: có thể dùng lâu nhưng khi bảo quản cần giữ kín. Thuốc hoàn tể: bột thuốc phải khô,đường mật phụ gia phải thắng tới,viên thuốc phải giữ kín. Thuốc tán: bột thuốc phải khô và phải giữ kín vì loại này dễ biến chất chỉ nên dùng trong hạn 3 6 tháng. Phép sử dụng: Chẳng những phù hợp với lý điều trị mà còn rất chú trọng đến cách dẫn thuốc đến chỗ bệnh và đường hấp thụ thuốc theo thủy khí (tam tiêu) hoặc hỏa huyết (bào lạc): Thuốc thang: Cách uống và cách nấu đều tùy bệnh; cốt lấy phần khí thì nước ít, nấu mau; cốt lấy phần chất thì nước nhiều, nấu lâu; cốt điều hòa thì nước và thời gian nấu đều vừa phải, nấu cạn phân nửa bỏ xác rồi lại nấu đến còn phân nửa; hoặc uống nhanh một lần (đốn phục) để trị bệnh tại Biểu hoặc bệnh cấp; hoặc uống chậm, nhiều lần (tần phục) để trị bệnh tại Lý hoặc bệnh hoãn; hoặc chia uống 3 lần/ngày để trị bệnh tại Tấu và là cách thường dùng. Thuốc cao: thường được dùng trị bệnh phần trên. Thuốc viên đơn: thường được dùng trị bệnh phần dưới. Thuốc hoàn tể: thường được dùng để bổ dưỡng. Thuốc tán: thường được dùng để trị khí huyết toàn thân và tạng phủ phần giữa (Nhân Sâm bại độc, Hoắc Hương chính khí, Ngũ Vị dị công, Sâm Linh Bạch Truật .v.v.. ). 91
Phép điều trị: Tùy thuộc khí hóa và bộ vị bệnh mà thực hiện các phép điều trị:
Hãn: phép làm đổ mồ hôi để giải bệnh ở Biểu.
Thổ: phép làm cho mửa để trị bệnh ở trên.
Hạ: phép làm đi ỉa để trị bệnh ở dưới.
Hòa: phép hòa giải để trị bệnh ở giữa.
Ôn: phép làm ấm để trị bệnh lạnh.
Lương: phép làm mát để trị bệnh nóng.
Tiêu: phép làm tiêu tán để trị tích kết.
Bổ: phép xung dưỡng để trị bệnh hư kém.
b. Tây Y: Sau khi thử nghiệm tính năng, các hoạt chất được bào chế làm thành các dạng tiện dụng trong điều trị như: Thuốc uống: - Dạng nước như xirô. - Dạng viên như viên nén, viên nang, viên nhộng. Thuốc tiêm (hoặc tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch hoặc chủng ngừa). Thuốc dùng ngoài: - Thuốc xoa ngoài da. - Thuốc cao để dán trị bệnh hoặc để xoa chống côn trùng. - Thuốc sát trùng da hoặc các vết thương. Thuốc trị giác quan thường dùng nước nhỏ giọt hoặc bơm xịt. Thuốc xông như dùng trong trị bệnh hen suyễn. Thuốc đặt như thuốc dùng trị Trĩ, hạ sốt, trị viêm tử cung .v.v.. .
92
Cách dùng thuốc như vậy nếu chỉ nhìn theo bề ngoài thì rất tinh vi khoa học nhưng xét kỷ còn nhiều thiếu xót nếu chưa được quan sát đến chỗ biến đổi dược tính của thuốc khi có kết hợp với các thể dịch của cơ thể và tính hấp thu thuốc theo hai đường nước và máu của cơ thể (tác dụng trị đau của Aspirin rất cao khi được hấp thu qua đường nước nhưng dễ làm loét dạ dày nhưng nếu dùng nó sau khi ăn no thì thuốc trộn lẫn với thức ăn sẽ được hấp thu theo đường máu và tác dụng trị đau của nó rất kém; một số thuốc tương tợ như thuốc trị thấp khớp cũng vậy; các trường hợp lờn thuốc do điều trị không thích hợp hoặc dùng thuốc kháng sinh không đúng cách). 3. DƯỢC PHƯƠNG: Tùy thuộc chủ trương của Đông Tây mà có mức độ chú trọng dược phương khác nhau: a. Đông Y: Noi theo truyền thống: tuân thủ Đạo học Khí Hóa lập phương có mục đích chỉnh thể gồm đủ tứ bộ Âm Dương Hàn Nhiệt, thể hiện Đạo Vuông tròn (thuốc trị Dương Hàn - Dương Nhiệt Âm Hàn - Âm Nhiệt phối hợp thành các cổ phương dùng trong Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận, hai thời phương tứ quân và tứ vật .v.v…) . Các phương thuốc này thường dùng ít vị thuốc mà có hiệu năng cao nhờ kết hợp đứng đắn lực điều trị của thuốc với sức hấp thụ của từng cơ thể có bệnh tật. Đánh mất truyền thống: không lập phương theo tứ bộ để điều chỉnh toàn diện cơ thể mà chỉ lập theo luận cứ quân thần tá sứ của triều đại phong kiến để đối trị với giặc bệnh; Các phương thuốc này có nhiều vị, không được kết hợp rõ ràng nên công năng kém, còn chưa biết sự dằn co hoặc cản trở nhau giữa các vị thuốc. Lập phương như vậy chẳng những lạm dụng thuốc mà còn không đáp ứng được mục đích điều trị là đem lại quân bình điều hòa Âm Dương cho cơ thể. b. Tây Y: Dựa theo khoa học thực nghiệm nên không chú trọng việc lập phương mà chỉ quan tâm phát huy công năng của từng hoạt chất hoặc dùng đơn phương hoặc có hợp phương thì cũng chỉ theo xu hướng đối trị. Cách làm này nếu thực nghiệm được tận nguồn gốc thì có kết quả rất tốt dẫn đến việc dứt được nhanh chóng cơn bệnh hoặc đem lại cách chủng ngừa; trái lại nếu còn lờ mờ ở chỗ khác nhau giữa các kết quả thí nghiệm với cơ thể đang được điều trị thì tính chỉ định và chống chỉ định của thuốc cũng chưa được rõ ràng. 4. KẾT LUẬN: Trong xu thế toàn cầu hóa, kết hợp Đông Tây để xây dựng một nền Y Dược thống nhất là tất yếu. Cụ thể là cổ truyền cần được phát huy theo kịp với hiện đại, hiện đại phải trở lại thừa kế 93
tận nguồn để cùng nhau có sự thăng bằng và điều hòa giữa các cặp Âm Dương xưa nay, Đông Tây, Đạo học và Khoa học. Ngành Y Dược dù theo đà tiến hóa có chia hai cũng gồm một, công năng của thuốc không nên chỉ dựa theo thí nghiệm mà tách rời tính hấp thu, chuyển hóa nơi thân người. Khoa học dù có tiến hóa đến vai trò lãnh đạo nền Y Dược toàn cầu cũng cần có Đạo học góp phần định hướng để phát triển vững vàng.
.
94
6.
ĐÔNG Y
với đề xướng CHẤN HƯNG của cụ VIỆT NHÂN LƯU THỦY
Đông Y có những nét độc đáo chẳng những về Dược liệu và Kinh Huyệt mà còn về Lý Pháp vốn có là truyền thống Đạo học Khí Hóa của nó; vấn đề này được biết đã có 2 người Việt Nam xác minh là Bs Nguyễn văn Thọ tại ‘Quan niệm Tam Tài với con người’ và Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với ‘Nhà Khoa học nắm tay nhà Đạo học’. Tôi đã cố sức ‘Tiếp nối đề xướng của Cụ Việt Nhân Lưu Thủy’ nhưng cảm nhận với tài hèn trí mọn của cá nhân, tôi chỉ làm được vài bước ngắn ngủi trên con đường dài lâu và nhiều trở ngại này. Tôi đã tạm dịch các di cảo của Cụ Lưu Thủy và phổ biến luận ‘Đông Y với truyền thống Đạo Học Khí Hóa’ và đã thuật lại quá trình học tập các di cảo Thương Hàn Luận Bản Nghĩa và Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa của Cụ. Tôi rất mong có nhiều người tiếp nối đề xướng này, đặc biệt là các Bs, Ds Đông Y những nhà khoa học hiện đại. Trong xu hướng toàn cầu hóa vấn đề kết hợp Đông Tây Y là tất yếu nhưng với tính chất hạn chế hiện nay của nền Đông Y với quan niệm ‘Âm Dương Ngũ Hành’ đã vô tình đánh mất truyền thống Đạo Học Khí Hóa của nó làm cho Y học cổ truyền này không còn tương xứng trong nhu cầu kết hợp để xây dựng một nền Y học Dân tộc Khoa học và Đại chúng. Cho nên, Đông Y hiện nay phải đáp ứng một yêu cầu khẩn thiết là bảo vệ truyền thống vốn có của mình; muốn được như vậy, Đông Y phải khẳng định là khoa học tự nhiên phù hợp với Tam Tài, Nhân Thân Khí Hóa không hề có mâu thuẩn với Y học thực nghiệm vì cả hai cùng có một đối tượng để phục vụ. Ví như : Tây Y chú trọng đến Thần Kinh và Nội Tạng thì Đông Y cũng quan tâm đến Kinh Lạc và Tạng Phủ. Tây Y chú trọng đến Vi trùng và Khuẩn độc thì Đông Y cũng quan tâm đến môi trường sinh hoạt của chúng là Khí (Khí Hóa).v.v.. Tiếp nối đề xướng của Cụ Lưu Thủy không phải chỉ là học tập các di cảo mà chính là thừa kế tinh thần học tập tận nguồn gốc của Cụ từ kinh Dịch cho đến các kinh điển trước đó mà hệ thống Đông Y hiện nay gọi là Nội Nạn Thương Kim (Nội kinh,Nan kinh,Thương Hàn Luận,Tạp Bệnh Luận); từ đó người học hành Đông Y mới có thể nhận thấy nguồn gốc Đạo học Khí Hóa của nó. A. ÂM DƯƠNG: Hiện nay hầu hết người học hành Kinh Dịch và Đông Y khảo cứu học thuyết Âm Dương với một đặc tính tương đối (hiện tượng) còn bỏ quên đặc tính nguồn gốc của sự vật là tuyệt đối (bản chất), mặc dù còn nói được 3 đặc tính của Âm Dương là tương đối – hổ căn – bình hành nhưng phân hiểu chúng chưa đúng truyền thống: 95
a. Âm Dương tương đối: Mỗi sự vật (trong vạn vật) đều có hai mặt đối lập nhau gọi là Âm Dương. Tương đối tức là đối lập nhau trên một vòng tròn biến dịch. b. Âm Dương Hổ Căn: Hai mặt Âm Dương tương đối của một sự vật đồng có một nguồn gốc trong một thể Thái cực gọi là thống nhất. Hổ căn tức là có cùng một gốc tại Tâm bất dịch ( có quan niệm Dương sinh Âm, Âm sinh Dương là chỉ nhìn theo hiện tượng tương đối nhưng thật ra Âm Dương có cùng một nguồn cội là Vô Cực). c. Âm Dương Bình Hành: Bình nghĩa là cân bằng, Hành có nghĩa là giao dịch và biến hóa( đặc tính này thường được lý giải là Âm Dương bằng nhau, như vậy chỉ hiểu được phân nửa là bình còn vai trò giao dịch của Âm Dương là hành thì chưa nói đến). Bình Hành tức là vừa cân bằng tại Tâm bất dịch vừa giao dịch biến hóa trên vòng tròn biến dịch. Âm Dương sinh hoạt, trao đổi, biến hóa trong xu thế cân bằng và điều hòa thì sự vật không loạn bệnh, trái lại trong xu thế mất căn bằng và bất hòa thì loạn bệnh xảy ra. Phân hiểu 3 đặc tính của Âm Dương (cần và đủ) kể trên, chúng ta thấy rõ Âm Dương không chỉ có đối lập mà còn thống nhất trong một sự vật. Cơ cấu của sự vật là đường nối kết 2 Tướng đối lập của Âm Dương thành 1 Thể thống nhất (Trung Đạo). Do cực đoan nơi Âm Dương tương đối nên ngành Đông Y hiện nay cố chấp học Bệnh Lý chỉ có 2 Bộ vị là Biểu Lý (Âm Dương tương đối) còn cơ cấu sinh động của sự vật gồm Bộ vị Tấu với hệ Kinh Lạc trải suốt Biểu suốt Lý là nồng cốt của sinh hoạt nơi thân người là Âm Dương thống nhất lại không nói tới. Cũng từ lý do này mà con đường giao thông toàn thân của Thủy Khí là Tam Tiêu tuy là một Phủ trong lục Phủ cũng xem nhẹ, phải đợi đến Bs Đường Tôn Hải khám phá thì vai trò của Phủ này mới được rõ ràng; còn về Tâm Bào Lạc là đường giao thông toàn thân của Hỏa Huyết thì không ai đề cập; điều này chính là nguyên nhân mai một của Đông Y.
VÔ CỰC
TẤU
NHI
DƯƠNG
THÁI CỰC
BÁN BÁN
ÂM
BIỂU
LÝ
96
Đông Y truyền thống luận Âm Dương thuận Đạo, Kinh Dịch có câu ‘Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo’ nên hiểu là ‘Đường giữa nối liền 1 Âm và 1 Dương gọi là Đạo’. Truyền thống này cũng nhất quán thấy được ‘Vô Cực Nhi Thái Cực’ và hiểu rõ về ‘Thái Cực thị sinh Lưỡng Nghi’, Thái Cực là toàn thể sự vật đã bắt đầu biến hóa và trước hết là sinh Âm Dương và cũng do đó thấy được trong thân người có Bộ vị TẤU. Nhân thân có 3 Bộ vị ứng với Đạo Tam Cực là Tấu - Biểu – Lý; Biểu Lý là 2 Bộ vị Âm Dương đối lập, còn Tấu là 1 Bộ vị Âm Dương thống nhất nên có biểu hiện phân hai là Tấu Bán Biểu và Tấu Bán Lý. Đông Y hiện nay do đánh mất truyền thống nên chỉ luận Âm Dương theo nghĩa cực đoan (không có Tâm giữa 2 cực Âm Dương là cực Trung Hòa ứng với Đạo Tam Cực) nên chỉ nêu có 2 Bộ vị là Biểu, Lý; tuy luận Hàn Nhiệt là Phong Hàn Phong Nhiệt nhưng không thấy được Phong là Khí trung hòa; cũng xem nhẹ vai trò Khí Hóa của Lục Khí và vai trò Bộ vị của Ngũ Hành; lại còn không thể tiếp nhận cái Đạo truyền chuyển của Âm Dương. Văn hóa ngôn ngữ Việt Nam xưa nay vẫn thấy dùng 2 từ truyền biến và chuyển hóa:
Truyền Biến là quá trình Dương vào Âm.
Chuyển Hóa là quá trình Âm ra Dương.
Nhận thức Trung Đạo là 1 đường có 2 chiều ra vào là tương ứng với Âm Dương. Cớ sao tự hào về Âm Dương mà trái lại từ chối cái Đạo Âm Dương như vậy ?
B. LỤC KHÍ – LỤC DÂM – LỤC KINH: -
Lục Khí : PHONG(gió) – HÀN(lạnh) – NHIỆT(nóng) – THẤP(ẩm) – TÁO(ráo) – HỎA(lửa).
-
Lục Dâm: PHONG(gió)– HÀN(lạnh) – THỬ(nắng) - THẤP(ẩm) – TÁO(ráo) - HỎA(lửa). (theo thứ tự thường dùng đối xứng giữa lục khí và lục dâm).
-
Lục Khí: HÀN (lạnh) – TÁO(Ráo) – HỎA(lửa) – THẤP (ẩm) – NHIỆT(nóng)– PHONG(gió).
-
Lục Kinh:Thái Dương–Dương Minh – Thiếu Dương - Thái Âm – Thiếu Âm – Khuyết Âm. (theo thứ tự đối xứng giữa lục khí và lục kinh thường dùng trong 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận).
.
97
a. Phân hiểu Lục Khí và Lục Dâm: LỤC KHÍ
LỤC DÂM
(6 khí bình thường)
(6 khí bất thường)
HÀN
HÀN
THẤP
PHONG
HỎA
TÁO
THẤP
PHONG
HỎA
TÁO
NHIỆT
THỬ
Từ hình minh họa thấy được bệnh Phong Thấp khởi do HÀN, bệnh Táo Hỏa phát do NHIỆT.
Lục Khí là 6 khí bình thường trong vũ trụ cũng như trong thân người cần thiết điều hòa sinh bình. Trái lại Lục Dâm là 6 khí bất thường (hoặc thái quá hoặc bất cập) làm ra bệnh loạn.
Do nhận thức Lục Dâm cũng chỉ là 6 khí bình thường chuyển biến bất thường mà ra nên người xưa chỉ gọi Lục Dâm khác với Lục Khí nơi cặp Nhiệt Thử để phân hiểu.
Đông Y truyền thống có nhận thức bệnh lý không đơn thuần do Lục Dâm của bên ngoài tác động mà chủ yếu là do Lục Dâm bên trong tạo ra, gắn liền với quan niệm Lục Kinh điều hành Lục Khí, Khí làm bệnh và Kinh thọ bệnh.
Đông Y hiện nay trái lại cố chấp chỉ có Lục Dâm bên ngoài làm bệnh mà không biết đến chức năng của Lục Kinh hành Lục Khí trong thân người.
b. Phân hiểu Lục Khí và Lục Kinh: LỤC KHÍ
LỤC KINH THÁI DƯƠNG
HÀN THẤP
PHONG
HỎA
TÁO NHIỆT
THÁI ÂM
KHUYẾT ÂM
THIẾU DƯƠNG 98
DƯƠNG MINH
THIẾU ÂM
Hình đồ minh họa cho thấy Thái Dương hiệp nhất với Hàn, Thiếu Âm hiệp nhất với Nhiệt, Thái Âm hiệp nhất với Thấp, Dương Minh hiệp nhất với Táo, Khuyết Âm hiệp nhất với Phong, Thiếu Dương hiệp nhất với Hỏa. Cách gọi tên Lục Kinh của người xưa rất thuận tự nhiên, không còn gì để nghi ngờ. Nhất quán với quan niệm Lục Kinh hành Lục Khí nên Đông Y truyền thống rất phù hợp với nguyên lý sinh thành được mô tả từ Kinh Dịch truyền thống; trái lại Đông Y hiện nay đã đánh mất truyền thống này và có lẽ do thấy luận theo Kinh Khí không thích ứng nên dần dà bỏ qua luận Lục Khí mà cụ thể là Tứ Tượng – Tứ Khí – Tứ Kinh tại 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Đức Trọng Cảnh. Đông Y hiện nay có thiếu sót chỉ hời hợt luận Âm Dương Ngũ Hành là do ứng dụng Kinh Dịch đã bị các chế độ phong kiến xuyên tạc : KINH DỊCH TRUYỀN THỐNG
KINH DỊCH SAI TRÁI
Gọi Tứ Tượng theo KHÍ (thuận Đạo):
Gọi Tứ Tượng theo NGHĨA (cực đoan):
ÂM DƯƠNG HÀN NHIỆT
ÂM DƯƠNG THIẾU THÁI
:
DƯƠNG NHIỆT
: THÁI DƯƠNG
:
DƯƠNG HÀN
: THIẾU DƯƠNG
:
ÂM NHIỆT
: THIẾU ÂM
:
ÂM HÀN
: THÁI ÂM
Kinh Dịch truyền thống gọi Tứ Tượng theo Khí là thuận Đạo và rất hợp Tự Nhiên. Kinh Dịch sai trái là do bị xuyên tạc nên Tứ Tượng gọi theo Nghĩa chẳng những trái Đạo mà còn dẫn đến nhiều tranh luận ( trong trường hợp gọi Dương Nhiệt là Thái Dương và gọi Âm Hàn là Thái Âm thì do chúng thuần Âm thuần Dương nên không có lẫn lộn, còn khi gọi Dương Hàn và Âm Nhiệt là Thiếu Dương Thiếu Âm thì vì phân vân không quyết được Âm Dương trên dưới nên đã có nhiều tranh luận). Tuân thủ truyền thống gọi Tứ Tượng theo Khí, Đức Trọng Cảnh nhận thức nhất quán có Tứ Bộ Âm Dương Hàn Nhiệt ( gồm cả Tứ Tượng – Tứ Khí – Tứ Kinh) gọi tên Kinh Khí thống nhất theo tượng là Dương Nhiệt - Dương Hàn – Âm Nhiệt - Âm Hàn. Tạng Tượng có 16 là tượng của các quẻ 4 hào đồng với tượng của 16 Tứ Trung Hào; tuy gọi tên giống nhau nhưng do có tâm ở giữa 4 hào nên Kinh ở dưới được đọc từ trên xuống còn Khí ở trên đọc từ dưới lên. Cũng tuân thủ lý nhất quán này, Đông Y truyền thống có quan niệm không bao giờ tách rời Kinh Khí khi gọi tên 1 Kinh (ví dụ: không gọi là Kinh Thái Dương mà gọi đủ là Kinh Thái Dương 99
Hàn Khí hoặc giản lược dùng 2 chữ giữa để gọi theo tượng là Kinh Dương Hàn; nhờ đó không có sự nhầm lẫn Thái Dương là Nhiệt mà còn rõ ràng thêm về Thái Dương Khí là 1 Khí bảo vệ sự sống do ánh Thái Dương [mặt trời] chiếu rọi biển cả rồi nước bốc hơi thành khí). Cụ Việt Nhân Lưu Thủy nhận thức 3 giai đoạn chuyển hóa của tự nhiên mà cảm khái: Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị ĐẠO Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị KHÍ Tam Âm Tam Dương Chi Vị KINH Chứng tỏ trật tự sinh thành từ Đạo đến Khí rồi đến Kinh tức Đạo là Tiên Thiên, Khí là Trung Thiên, Kinh là Hậu Thiên. Tứ Bộ có gốc từ Tứ Tượng, Lục Khí Lục Kinh chẳng qua là Tứ Kinh ÂM DƯƠNG HÀN NHIỆT với Nhị Kinh Trung Hiện giữa chúng, Ngũ Hành chẳng qua là 4 Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa) đối lập với 1 Hành Trung Thổ. Từ đó thấy được chủ trương Tứ Bộ Kinh Khí không những đơn thuần ước tóm mà còn ứng dụng tuyệt vời pháp tắc về Âm Dương Trung Chuyển. C. NGŨ HÀNH: Ngũ Hành là 5 vật loại thuộc Đất (Âm) nhưng chúng là vật chất đã tương giao giữa Âm Dương nên không còn là thuần Âm thuần Dương mà chỉ là Âm Dương tương đối nên khảo sát chúng phải nhận rõ các đặc tính Âm Dương đối lập và thống nhất, chú trọng cốt lõi của chúng là vị trí:
NGŨ HÀNH TRUYỀN THỐNG
________________________________________________________________________________________________________ .
100
NGŨ HÀNH HIỆN ĐẠI TƯƠNG SINH
TƯƠNG KHẮC
(vòng tròn)
(đoạn thẳng)
Ngũ Hành truyền thống trình bày thuận tự nhiên với 2 vòng tương sinh tương khắc có vị trí của Hành Thổ là tại trung ương, có chức năng thống nhất (tại Tâm bất biến) có nhiệm vụ điều hòa 4 Hành còn lại là 2 cặp Âm Dương (tại vòng tương sinh là Thủy đối lập với Hỏa, Mộc đối lập với Kim theo thế tương khắc; tại vòng tương khắc là Kim đối lập với Thủy, Mộc đối lập với Hỏa theo thế tương sinh) biểu lộ tính Âm Dương đối lập. Ngũ Hành hiện đại tự hào là trình bày giản lược 2 thế tương sinh tương khắc chỉ bằng 1 vòng tròn tiện lợi trong việc giảng dạy nhưng vô tình bỏ quên nhiệm vụ cốt lõi của nó là Bộ vị với chức năng của Hành Thổ tại trung ương (1 năm 12 tháng có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông, mỗi mùa có 3 tháng, tháng đầu gọi là Mạnh (tháng đầu mùa), tháng kế gọi là Trọng (tháng giữa mùa), tháng cuối gọi là Quý (tháng giao mùa); dân gian Việt Nam thường gọi 3 tháng là 1 quý và cả năm là tứ quý; vật loại Ngũ Hành qui nạp 4 tháng quý đều thuộc Hành Thổ xác minh rõ ràng Thổ là Hành chuyển tiếp giữa các mùa càng biểu lộ vị trí trung ương của nó. Vấn đề đặt Hành Thổ trên vòng tròn để tiện việc trình bày đã vô tình đánh mất truyền thống và nhiệm vụ chủ Bộ vị của nó phải chăng là một thiếu sót lớn khi hiện đại hóa Ngũ Hành. Đông Y hiện nay chủ trương Âm Dương, còn Ngũ Hành chẳng những xem nhẹ Bộ vị của Thổ mà còn bỏ đi chức năng Khí Hóa của Lục Khí; nếu không khắc phục được thiếu sót này thì đâu còn thích ứng truyền thống để xứng đáng kết hợp với Tây Y ?
D. KHÍ KINH LẠC: Quan niệm Tam Tài là một nhận định khách quan về trật tự vũ trụ vạn vật, trong đó có cơ thể Nhân Thân Khí Hóa của loài người; dân gian thường nói ‘mỗi người là một bầu trời đất nhỏ’; cơ thể khí hóa này sinh hoạt bằng năng lực của một hệ Kinh Lạc gồm 12 Kinh chính và 8 kỳ Kinh; mỗi Kinh có 3 phần là Khí thuộc Trời, Kinh thuộc Người, Lạc thuộc Đất. Vai trò của Khí nơi thân người không trái với Lục Khí trong vũ trụ (Trời); vai trò của Lạc không trái với Ngũ Hành của Đất; vai trò 101
của Kinh nơi thân người là thọ nhận Lục Khí của Trời và Ngũ Hành của Đất để làm nên mọi sinh hoạt gọi là sự sống. Khí Kinh Lạc nơi thân người gồm có 3 Âm và 3 Dương biểu lộ trong trật tự tự nhiên (2 lần Tam Cực) mà Hội Thông Thiên Học đã bày tỏ nơi biểu tượng và dân tộc Do Thái cũng đã bày tỏ nơi quốc kỳ của nước này bằng 2 tam giác đều đối đỉnh. TAM CỰC CÂN BẰNG TRONG TỰ NHIÊN NHIN
+
= Cụ Việt Nhân Lưu Thủy dặn dò học Đông Y phải học Kinh Lạc vì trong thân người nó vừa là cơ sở Khí Hóa vừa là chủ thể nối kết mọi năng lực của Trời Đất thành một khối sinh động. E. LỤC PHỦ NGŨ TẠNG: Người học hành Đông Y không thể cố chấp tiểu đề này mà cực đoan nhận thức là Phủ có 6 mà Tạng chỉ có 5; sự thật thì đây chỉ là cách nói cho phù hợp với Lục Khí thuộc Trời và Ngũ Hành thuộc Đất. Thân người có 12 Kinh tương ứng với 12 Tạng Phủ tức là hễ có 6 Phủ thì cũng có 6 Tạng; nói theo chức năng (Trời) thì Phủ có 6, Tạng cũng có 6 (có cặp Tạng Phủ là con đường giao thông toàn thân của Khí Huyết Thủy Hỏa là Tam Tiêu và Tâm Bào Lạc)tương ứng với Lục Khí, còn nói theo hình thể thì Phủ Tạng cũng chỉ có 5 tương ứng với Ngũ Hành. Xét đến chương Ngũ Vận Lục Khí của Nội Kinh Tố Vấn thì thấy được chỗ cốt yếu của Âm Dương Trời Đất là tương giao mà Vận Khí luân chuyển trong vũ trụ vạn vật chính là Khí Giao; nơi thân người cặp Kinh Âm Dương trung hiện là Thiếu Dương - Khuyết Âm là cơ sở Khí Hóa của Khí Giao tạo thành Bộ vị Tấu. Vị trí của Lục Phủ Ngũ Tạng được TỰ NHIÊN phân phối không ra ngoài 3 Nguyên Lý Âm Dương là Tam Tài, giao thái, tương đối; Bộ vị tại Lý có 3 là Thượng Trung Hạ thì tại Thượng có 3 Tạng, trên cùng là Phế, giữa là Tâm, dưới là Tâm Bào Lạc; đối với Thượng là Hạ có 3 Phủ, dưới cùng là Đại Trường, giữa là Bàng Quang, trên là Tam Tiêu; giữa Thượng Hạ là Trung có 3 cặp Tạng Phủ, trên là cặp Tỳ Vỵ, giữa là cặp Can Đởm, dưới là cặp Thận Tiểu Trường. .
102
F. ĐẠO VUÔNG TRÒN:
Tròn là tượng Thái Cực nhị phân Âm Dương, Vuông là Tứ Tượng; xưa nay Kinh Dịch truyền thừa tượng đồ Thái Cực chính là Đồ Thái Cực nhi Tứ Tượng, cụ thể hơn dân gian Việt Nam có truyện cổ tích bánh chưng bánh dầy cũng chính là nhắc nhớ Đạo Vuông tròn. Cơ cấu của Dịch Lý là Trung Đạo đường liên kết giữa 2 cực Âm Dương và khởi đầu của hệ Trung Thiên nơi Kinh Dịch là Tứ Tượng (tứ tượng – 16 tạng tượng – 64 tượng vạn vật). Đức Trọng Cảnh thừa kế tuyệt vời hệ Trung Thiên này và làm rõ tứ bộ Sinh Lý Bệnh Lý, tiếp nối điều này Cụ Việt Nhân Lưu Thủy cũng có một nhận định để Đời về Khí Hóa bằng câu: Nhị Âm Nhị Dương Chi Vị Khí Bốn chữ Âm Dương Hàn Nhiệt là Tứ Bộ Kinh Khí nơi thân người gồm có Dương Hàn - Dương Nhiệt và Âm Hàn – Âm Nhiệt là cơ chuyển hóa từ Sinh Lý đến Bệnh Lý khi thọ bệnh và ngược lại khi trị lành.
Từ ngàn xưa, Đức Trọng Cảnh đã để lại Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận là một bộ sách bệnh lý học vô cùng quý giá nêu rõ cơ chuyển biến của nó là Khí Hóa có cơ sở là hệ Kinh Lạc và Bộ vị Tấu nơi thân người. Chủ trương Tứ Bộ Âm Dương Hàn Nhiệt với đầy đủ 3 mặt Khí làm bệnh,Kinh thọ bệnh,Lạc truyền chuyển bệnh là một ứng dụng tuyệt vời từ Kinh Dịch truyền thống cho nên từ đó về sau ít có người theo kịp do Kinh Dịch đã bị xuyên tạc. Cụ Lưu Thủy tuy là người Việt nhưng thấm nhuần Nho Giáo và Phật Giáo lại nhờ hiểu thấu Đạo Vuông tròn nên đã để lại cho dân tộc ta các di cảo đề xướng chấn hưng Đông Y vô cùng quý giá cần được quan tâm thừa kế và phát huy. 103
G. KẾT LUẬN: Học tập Bản Nghĩa hai sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Đức Trọng Cảnh là thừa kế một nền Y học cổ truyền phù hợp với KHOA HỌC TỰ NHIÊN có giá trị lợi ích toàn cầu; là vững bước trên CON ĐƯỜNG hạnh phúc của nhân loại, TRUNG ĐẠO nối liền ĐỜI sống nhiều khổ đau với ĐẠO hằng thường an lạc; là SỰ THẬT biến hóa biểu hiện bởi 2 Tướng Âm Dương tương đối và cũng là CHÂN LÝ bất dịch ẩn tàng bằng 1 Thể Âm Dương thống nhất; là SỰ SÁNG rộng lớn soi tỏ hướng tới; là TÌNH THƯƠNG bao la trùm khắp muôn loài. Cụ thể là những bước tiến hóa thích nghi của loài người từ Phàm đến Thánh.
Hết phần 3 Tôi không giữ bản quyền với kỳ vọng thế hệ nối tiếp làm trong sáng và lợi ích hơn các di sản văn hóa của dân tộc Việt./. 104
MỤC LỤC ĐỀ MỤC
LỜI NÓI ĐẦU
TRANG
2
PHẦN 1 : TRÊN ĐƯỜNG HỌC TẬP 1- ĐỌC SÁCH
3
2- HỆ TỪ VÀ CHÍNH DANH
5
3- Y THỐNG
10
4- Y GIA YẾU CHỈ
12
5- CHẤN HƯNG ĐÔNG Y
16
6- TÂM SỰ CỦA NGƯỜI THUẬT ĐÔNG Y VỚI TRUYỀN THỐNG ĐẠO HỌC KHÍ HÓA
18
7- TIẾP NỐI BƯỚC ĐI CỦA CỤ LƯU THỦY
19
8- LUẬN KINH LẠC
22
9- ĐẠO HỌC KHÍ HÓA ĐẦY ĐỦ HƠN ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
24
10- LUẬN ÂM DƯƠNG TRUYỀN THỐNG
25
11- Y DỊCH – TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẠO HỌC KHÍ HÓA
27
12- KHÍ HÓA VÀ SỰ SỐNG NƠI THÂN NGƯỜI
29
13- ĐỌC SÁCH THƯƠNG HÀN LUẬN BẢN NGHĨA BẰNG 3 ĐỒ HÌNH
31
14- VẼ CÁC ĐỒ HÌNH ĐỂ ĐỌC SÁCH THL BN BẰNG 4 MÀU ĐEN ĐỎ XANH TÍM
32
15- KHÍ KINH LẠC
35
16- ĐỒNG ỨNG DỤNG
36
17- THÂM Ý NGƯỜI THUẬT DÙNG KINH HUYỆT
38
18- KẾT HỢP ĐÔNG TÂY Y
39
105
.
PHẦN 2 : TIẾP NỐI ĐỀ XƯỚNG CỦA CỤ LƯU THỦY, LÀM TRONG SÁNG THÊM BẢN NGHĨA CÁC SÁCH THƯƠNG HÀN LUẬN VÀ TẠP BỆNH LUẬN -
Ý nghĩa tên sách Thương Hàn Luận
42
-
Ý nghĩa Nội dung sách Thương Hàn Luận
43
-
Luận Kinh Khí
45
-
Luận Kinh Thái Dương
46
-
Luận Kinh Dương Minh
47
-
Luận Kinh Thiếu Dương
49
-
Luận Kinh Thái Âm
50
-
Luận Kinh Thiếu Âm
//
-
Luận Kinh Khuyết Âm
52
-
Luận Hoắc loạn Âm Dương Dịch
//
-
Luận về Lạc
53
PHẦN 3 : TÂM ĐẮC HỌC TẬP 1- THƯƠNG HÀN LUẬN BỆNH LÝ HỌC
56
2- TẠNG TƯỢNG VÀ TRUNG ĐỒ
62
3- CÁC HÌNH ĐỒ TỨ BỘ SINH LÝ BỆNH LÝ & 3 MỐI QUAN HỆ TAM ÂM TAM DƯƠNG
72
4- DÙNG KINH HUYỆT
80
5- CÁCH DÙNG THUỐC
89
6- ĐÔNG Y VỚI ĐỀ XƯỚNG CHẤN HƯNG CỦA CỤ VIỆT NHÂN LƯU THỦY
95
MỤC LỤC
105 106
106