Xuất khẩu gỗ dăm của Việt Nam: Chính sách, thị trường và sinh kế của các hộ gia đình trồng rừng

Page 1

Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam: Chính sách, thị trường và sinh kế của các hộ gia đình trồng rừng Tô Xuân Phúc (Forest Trends) Đặng Việt Quang (Forest Trends) Trần Lê Huy (FPA Bình Định) Cao Thị Cẩm (VIFORES)

Hà Nội, tháng 7 năm 2016


Lời cảm ơn Báo cáo nghiên cứu Việt Nam xuất khẩu dăm gỗ: Chính sách – thị trường – sinh kế của hộ gia đình trồng rừng được thực hiện bởi Tổ chức Forest Trends, Hiệp Hội Gỗ Lâm Sản Việt Nam và Hiệp Hội Gỗ và Lâm sản Bình Định. Nhóm tác giả xin cảm ơn ông Nguyễn Tôn Quyền, Chủ Tịch Hiệp Hội Gỗ Việt Nam đã hỗ trợ nhóm trong quá trình khảo sát thực địa. Xin cảm ơn các doanh nghiệp xuất khẩu, thu mua và chế biến dăm gỗ và các hộ gia đình trồng rừng tạo nguồn nguyên liệu dăm vì những thông tin đã cung cấp cho nhóm. Thông tin trong báo cáo còn được cung cấp bởi chi Cục Lâm nghiệp, Kiểm lâm, Uỷ Ban Nhân Dân các huyện của một số địa phương của tỉnh Phú Thọ, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định nơi các tác giả thực hiện nghiên cứu thực địa. Báo cáo được hoàn thành với sự hỗ trợ tài chính một phần của Cơ quan Hợp tác Phát triển Vương Quốc Anh (DFID) thông qua Tổ chức Forest Trends và Hiệp hội Dăm gỗ Quảng Ngãi thông qua Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam. Dữ liệu thống kê về tình hình tiêu thụ dăm Trung Quốc được dựa trên nguồn số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, do Lina Scott của Tổ chức Forest Trends biên soạn. Quan điểm thể hiện trong báo cáo là của các tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của các tổ chức tài trợ và các tổ chức nơi tác giả đang làm việc. Các kết quả chính trong báo cáo đã được trình bày tại Hội thảo Việt Nam Xuất Khẩu Dăm Gỗ: Những Thách Thức Mới tổ chức tại Hà Nội ngày 15 tháng 7 năm 2016. Xin cảm ơn các ý kiến đóng góp của các đại biệu tham gia Hội thảo.

i


Mục lục Lời cảm ơn............................................................................................................................................... i Mục lục ................................................................................................................................................... ii Tóm tắt .................................................................................................................................................. iii 1. Giới thiệu............................................................................................................................................ 1 2. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................................... 2 3. Thị trường dăm gỗ thế giới và vị thế của Việt Nam ........................................................................... 3 4. Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam ........................................................................................................ 9 4.1. Việt Nam xuất khẩu dăm gỗ trong những năm gần đây. ............................................................ 9 4.2. Thị trường xuất khẩu dăm gỗ Việt Nam .................................................................................... 10 4.3. Các cảng biển xuất khẩu dăm gỗ Việt Nam thời gian gần đây .................................................. 11 4.4. Suy giảm xuất khẩu dăm gỗ năm 2016 ..................................................................................... 12 4.5. Cơ cấu loài gỗ cho dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam ................................................................. 14 5. Những thay đổi trong chuỗi cung ứng dăm xuất khẩu .................................................................... 15 5.1. Chuỗi cung ứng dăm gỗ xuất khẩu ............................................................................................ 15 5.2. Giá nguyên liệu dăm tại các khâu trong chuỗi cung ứng .......................................................... 16 5.3. Phát triển các cơ sở chế biến dăm quy mô nhỏ tại một số địa phương ................................... 17 5.4. Chi phí và lợi ích của các khâu trên chuỗi cung ứng. ................................................................ 17 6. Thảo luận: Chính sách, thị trường và sinh kế hộ trồng rừng ........................................................... 19 7. Kết luận ............................................................................................................................................ 24 Tài liệu tham khảo................................................................................................................................ 25 Phụ lục .................................................................................................................................................. 26

ii


Tóm tắt Dăm gỗ là một trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ngành chế biến gỗ của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt gần 1,2 tỉ USD, tương đương với 17% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng gỗ. Trong cùng năm này, tổng lượng dăm xuất khẩu đạt gần 8,1 triệu tấn dăm khô, tương đương với 16,2 triệu m3 gỗ nguyên liệu quy tròn. Kim ngạch và khối lượng xuất khẩu năm 2015 lớn hơn các con số này của các năm trước đó, thể hiện sự phát triển của ngành. Tuy nhiên, số liệu thống kê xuất nhập khẩu từ nguồn Tổng cục Hải quan của Việt Nam về kim ngạch và lượng xuất khẩu dăm của năm 2016 cho thấy những tụt giảm nghiêm trọng trong xuất khẩu dăm và điều này đang làm phát sinh những lo ngại sâu sắc trong ngành dăm và các cơ quan quản lý ngành. Theo dữ liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu dăm 5 tháng đầu năm 2016 đạt 248 triệu USD, chỉ tương đương với 58% kim ngạch 5 tháng cùng kỳ của năm 2015 (430 triệu USD). Lượng dăm xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2016 đạt 1,8 triệu tấn, bằng 61% tổng lượng dăm xuất khẩu trong cùng kỳ của năm 2015. Nếu từ nay đến cuối 2016 xu hướng xuất khẩu này không thay đổi, ngành chế biến và xuất khẩu dăm của Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với vô vàn khó khăn và kim ngạch xuất khẩu cả năm 2016 sẽ chỉ đạt ở mức trên dưới 600 triệu USD, chỉ bằng khoảng một nửa kim ngạch năm 2015; lượng dăm xuất khẩu cả năm sẽ chỉ đạt trên dưới 7 triệu tấn, tương đương với khoảng 60% tổng lượng xuất khẩu của 2015. Thông tin từ các doanh nghiệp xuất khẩu cho thấy lượng dăm tồn trong nước hiện rất lớn. Tụt giảm nghiêm trọng lượng dăm gỗ xuất khẩu đang và sẽ tiếp tục đem lại những tác động tiêu cực không phải chỉ riêng cho các doanh nghiệp trực tiếp tham gia chế biến xuất khẩu, mà còn tác động đến hàng trăm nghìn hộ gia đình, bao gồm nhiều hộ dân nghèo, là nguồn cung nguyên liệu đầu vào cho chế biến dăm và hàng trăm nghìn lao động khác tham gia các khâu của chuỗi cung ứng. Tụt giảm về xuất khẩu dăm cũng tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành gỗ, gây ảnh hưởng đến ngân sách quốc gia. Kể từ năm 2012 Việt Nam đã thay thế vị trí của Úc trên bản đồ cung dăm thế giới, trở thành quốc gia xuất khẩu dăm lớn nhất toàn cầu. Ngoài Úc, các nước có nguồn cung dăm lớn, hiện đang cạnh tranh với Việt Nam bao gồm Thái Lan, Indonesia và Chile. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là ba quốc gia nhập khẩu dăm quan trọng nhất của Việt Nam, chiếm trên 90% tổng kim ngạch và lượng xuất khẩu hàng năm, trong đó thị trường Trung Quốc chiếm tỉ trọng lớn nhất, khoảng 60% trong tổng kim ngạch và lượng dăm xuất khẩu của Việt Nam. Báo cáo này cho rằng sự tụt giảm lượng dăm xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2016 có nhiều nguyên nhân, trong đó những nguyên nhân cơ bản nhất là do thay đổi trong cơ cấu nhập khẩu dăm tại thị trường Trung Quốc. Số liệu thống kê của Hải Quan Trung Quốc cho thấy kể từ đầu năm 2016 nguồn dăm gỗ của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường này dần được thay thế bởi nguồn cung từ Úc và Thái Lan. Tại Trung Quốc, Úc đã lấy lại vị trí dẫn đầu của mình về cung dăm cho Trung Quốc. Bên cạnh đó, nguồn cung từ Thái Lan cũng tăng từ đó làm co hẹp thị phần của nguồn cung của Việt Nam tại thị trường này. Báo cáo này cho rằng sở dĩ thị phần dăm gỗ Việt Nam tại Trung Quốc co lại là do có sự cạnh tranh rất lớn với nguồn cung từ Úc và Thái Lan, đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng. Cụ thể, chất lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đang bị mất kiểm soát, hiện đang có dấu hiệu đi xuống. Điều này đã và đang gây ra những tác động tiêu cực cho ngành dăm, gây giảm giá xuất khẩu và co hẹp thị trường tiêu thụ, đặc biệt tại Trung Quốc. Đến nay, đối với các cơ quan quản lý xuất khẩu, dăm vẫn được coi là xuất khẩu nguyên liệu thô, không tạo được giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý và một số ý kiến từ ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu cho rằng sự phát triển của ngành dăm làm mất nguồn cung gỗ nguyên liệu iii


cho ngành chế biến đồ gỗ, kéo dài sự lệ thuộc của ngành chế biến đồ gỗ vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, bao gồm cả việc nhập khẩu từ một số nguồn có rủi ro cao, gây tổn hại đến hình ảnh của ngành chế biến gỗ. Các quan điểm này đã được thể hiện trong định hướng của Chính phủ, bao gồm một số cơ chế chính sách nhằm hạn chế sản xuất và xuất khẩu dăm. Trong nỗ lực nhằm hạn chế xuất khẩu dăm, Chính phủ Việt Nam áp dụng mức thuế xuất khẩu 2% bắt đầu kể từ đầu năm 2016. Tuy nhiên, áp dụng mức thuế này trong bối cảnh nguồn cung dư thừa và thị phần tại thị trường xuất khẩu, đặc biệt tại thị trường Trung Quốc đang giảm sút làm cho ngành chế biến dăm xuất khẩu của Việt Nam đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn. Mức thuế xuất khẩu 2% tương đương với mức tăng 2,5-2,8 USD/tấn dăm trong cơ cấu giá thành dăm xuất khẩu. Thị phần co hẹp và mức giá xuất khẩu giảm buộc các doanh nghiệp chế biến dăm hoặc phải giảm giá thu mua nguyên liệu gỗ đầu vào, chủ yếu từ các hộ gia đình hoặc phải chấp nhận cắt giảm lợi nhuận nhằm duy trì thị trường. Từ khía cạnh của nguồn cung nguyên liệu gỗ, hộ gia đình trồng rừng phản ứng với thay đổi của thị trường theo cách khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện sinh kế cụ thể của hộ. Nhiều hộ gia đình có nguồn sinh kế không lệ thuộc nhiều vào các diện tích rừng trồng quyết định giữ lại rừng của mình, đợi cơ hội tăng giá. Nhiều hộ khác không có nguồn sinh kế thay thế bắt buộc phải bán rừng, chấp nhận mức giảm 30-40% về lợi ích kinh tế so với năm 2015. Những khó khăn hiện tại của ngành chế biến dăm xuất khẩu của Việt Nam không chỉ đơn thuần là về biến động cung-cầu của thị trường tiêu thụ mà còn do những vấn đề nội tại của ngành dăm, đặc biệt có liên quan đến phát triển nóng, phát triển ngoài quy hoạch, chạy theo thị trường và không kiểm soát về chất lượng, hiện nay đang diễn ra tại một số địa phương, đặc biệt là các cơ sở chế biến quy mô nhỏ. Thông báo 76/TB-UBND tỉnh Thanh Hóa ngày 17 tháng 5 năm 2016 phản ánh rõ nét các khía cạnh này, trong đó nêu rõ: “Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 42 cơ sở sản xuất dăm gỗ, trong đó chỉ có 11 cơ sở được chấp thuận sản xuất, với tổng công suất 330.000 tấn/năm, trong khi công suất băm dăm gỗ thực tế của các cơ sở đã lên tới 729.000 tấn/năm, vượt 2,2 lần so với công suất cho phép; đa số các cơ sở sản xuất dăm gỗ đều chưa có phương án đầu tư dài hạn từ khâu trồng, thu mua nguyên liệu đến khâu chế biến […]; tình trạng thiếu nguyên liệu đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, tranh mua, tranh bán gây mất trật tự xã hội.”1 Phát triển không kiểm soát, chạy theo lợi nhuận, không quan tâm đến chất lượng sản phẩm tại các địa phương này đã và đang tác động tiêu cực đến hình ảnh của toàn ngành dăm Việt Nam, làm giảm lòng tin của nhà nhập khẩu, giảm thị phần xuất khẩu, tạo cơ hội cho một số nhà nhập khẩu khác ép giá dăm của Việt Nam. Các yếu tố này thể hiện tính không bền vững của ngành chế biến dăm xuất khẩu. Báo cáo chỉ ra rằng mặc dù chiến lược của Chính phủ trong việc hạn chế xuất khẩu dăm, tạo nguồn gỗ nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ là hoàn toàn đúng đắn, thực hiện chiến lược thông qua giải pháp áp dụng 2% mức thuế xuất khẩu như hiện nay cần được kiểm chứng về mặt thực tiễn về hiệu quả của chính sách này. Khảo sát tại một số địa phương cho thấy tính đa dạng trong thực trạng sản xuất và xuất khẩu dăm hiện nay và các chính sách thuế hiện tại và trong tương lai sẽ có những tác động không đồng đều đến các sơ sở chế biến và các hộ trồng rừng tại các địa phương. Tại các vùng như Bắc Trung Bộ, các cơ sở chế biến gỗ hầu như chưa phát triển và chế biến dăm là giải pháp duy nhất cho nguồn gỗ rừng trồng đầu ra của hộ gia đình. Đối với một số địa phương khác như Phú Thọ, Tuyên Quang nơi sẵn có các cơ sở chế biến thay thế dăm, nguồn cung đầu vào cho dăm là các sản phẩm phụ của quá trình chế biến, 1

ỦBND Tỉnh Thanh Hóa. Thống báo số 76 ngày 17 tháng 5 năm 2016 về Kết luận của Phó Chủ tịch Thường trực UBND Tỉnh Nguyễn Đức Quyền tại Hội nghị nghe báo cáo kết quả kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất của các cơ sở băm dăm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

iv


chiếm 30-40% trong tổng nguồn cung gỗ từ rừng trồng tại các nơi này. Trong bối cảnh thiếu vắng các cơ sở chế biến thay thế cho dăm (ví dụ xưởng xẻ, bóc), và với nguồn nguyên liệu dăm được chế biến từ các sản phẩm phụ của chế biến gỗ, áp dụng chính sách thuế nhằm hạn chế đầu ra của dăm sẽ không đạt được mục tiêu tạo rừng gỗ lớn, thậm chí còn gây lãng phí trong việc sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng. Báo cáo kiến nghị rằng trước khi đưa ra những giải pháp can thiệp về thuế cần có những đánh giá sâu và toàn diện về thực trạng của ngành chế biến xuất khẩu dăm hiện nay của Việt Nam trong toàn bộ chuỗi cung ứng, trong đó cần đánh giá các yếu tố về các loại hình và quy mô của doanh nghiệp và động lực của các loại hình này, khác nhau giữa các vùng nguyên liệu, hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển các loại hình chế biến sản phẩm thay dăm cũng như các điều kiện tiếp cận thị trường đối với các loại hình sản phẩm đó. Bên cạnh đó, cần có những đánh giá khách quan về thực trạng của hộ gia đình trồng rừng, nhằm xác định các yếu tố nội tại của hộ (ví dụ vốn, lao động, trình độ canh tác), cũng nhưng các yếu tố bên ngoài (tiếp cận tín dụng, tiếp cận nguồn giống, khoa học công nghệ) có tác động trực tiếp đến quyết định của hộ gia đình trong việc sử dụng sản phẩm gỗ rừng trồng để làm dăm hay các sản phẩm khác. Chính sách, bao gồm cả chính sách thuế xuất khẩu hiện tại và trong tương lai có mục tiêu tạo nguồn gỗ lớn, làm nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu sẽ không thể phát huy được hiệu quả nếu không được dựa trên nền tảng là từ kết quả của các đánh giá này.

v


1. Giới thiệu Ngành chế biến và xuất khẩu dăm gỗ (sau đây được gọi là ngành dăm) của Việt Nam liên tục được mở rộng trong những năm vừa qua, nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của các nhà máy sản xuất bột giấy tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Năm 2009, Việt Nam có 47 nhà máy dăm với lượng dăm xuất khẩu đạt khoảng 2,3 triệu tấn khô, tương đương với 4,6 triệu m3 gỗ nguyên liệu. Đến 2014, số nhà máy tăng lên 130, với lượng dăm xuất khẩu đạt 7 triệu tấn khô. Kim ngạch xuất khẩu cũng tăng từ 796 triệu USD năm 2012 lên đến 958 triệu USD năm 2014 (Tô Xuân Phúc và Trần Lê Huy, 2013; Tô Xuân Phúc và cộng sự 2015). Phát triển của ngành dăm đã và đang làm nảy sinh những tranh luận trái chiều về tầm quan trọng cũng như mối quan hệ của ngành với các ngành khác có sử dụng cùng nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng đầu vào, như ngành chế biến đồ gỗ và ngành giấy. Ý kiến của ngành chế biến đồ gỗ cho rằng ngành dăm gỗ đã sử dụng một lượng lớn nguyên liệu gỗ đầu vào, từ đó gây ra việc thiếu hụt nguyên liệu để chế biến gỗ, và điều này làm hạn chế về giá trị gia tăng cho nguồn gỗ rừng trồng. Tuy nhiên quan điểm của ngành dăm lại cho rằng phát triển của ngành dăm đã khuyến khích các hộ gia đình trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc và tạo thêm thu nhập cho hộ trồng rừng, góp phần cải thiện sinh kế của người dân trong đó có nhiều hộ dân nghèo đang sống ở vùng cao. Cũng theo ngành dăm, nguồn nguyên liệu đầu vào cho dăm là gỗ tận dụng từ các cơ sở chế biến khác như xưởng xẻ, xưởng ván bóc do vậy sự tồn tại và phát triển của ngành dăm là cơ hội tạo thêm nguồn thu từ nguồn gỗ rừng trồng mà không có sự cạnh tranh về nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào với ngành chế biến đồ gỗ. Theo các nhà quản lý, xuất khẩu dăm là xuất khẩu nguyên liệu thô và không tạo được giá trị gia tăng trong

sản phẩm. Do vậy, kể từ giữa thập niên 2000, Chính phủ đã có định hướng hạn chế xuất khẩu dăm gỗ, nhằm tạo cây gỗ lớn và làm tăng giá trị cho nguồn gỗ rừng trồng. Kể từ đó, nhiều cơ chế chính sách đã được đưa ra nhằm hạn chế sản xuất và xuất khẩu dăm. Các cơ chế chính sách quan trọng bao gồm Quyết định 1565 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) năm 2013 phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, Quyết định 919 của Bộ NN&PTNT phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến giai đoạn 2014-2020, hoặc Quyết định 651 năm 2015 của Bộ NN&PTNT phê duyệt kế hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020. Gần đây nhất là Thông tư 182 của Bộ Tài chính ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2015 đã đưa ra mức thuế xuất khẩu dăm gỗ là 2%, bắt đầu thực hiện từ đầu 2016. Chính sách thuế xuất khẩu dăm gỗ được áp dụng trong bối cảnh ngành dăm có nhiều biến động, đặc biệt sự suy giảm thị phần của nguồn dăm Việt Nam tại thị trường Trung Quốc và sụt giảm về giá xuất khẩu. Số liệu thống kê hải quan cho thấy lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2016 chỉ bằng 61% lượng dăm xuất khẩu cùng kỳ của năm 2015; kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2016 tương đương 58% kim ngạch cùng kỳ của năm 2015. Số doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu năm 2016 là 64, giảm hơn nhiều so với con số 101 doanh nghiệp của năm 2015. Trong khi Số liệu thống kê của Tổng cục Trung Quốc cho thấy nhu cầu đối với mặt hàng dăm tại Trung Quốc vẫn đang tiếp tục gia tăng, trong đó có sự đóng góp quan trọng của nguồn cung dăm liên tục tăng từ Úc và Thái Lan. Điều này phản ánh sự suy giảm thị phần của ngành dăm Việt Nam tại Trung Quốc. Thị phần xuất khẩu bị co hẹp, giá xuất khẩu giảm, ùn tắc trong xuất khẩu là những khó khăn hiện các doanh nghiệp dăm hiện đang phải đối mặt. Thuế xuất khẩu dăm được Chính phủ đưa ra trong bối cảnh ngành dăm đang đối mặt với những khó khăn vô cùng lớn về thị trường xuất khẩu đã làm rấy lên những lo ngại về tác động của việc áp dụng thuế xuất khẩu 2% 1


đối với xuất khẩu dăm gỗ hiện nay của Việt Nam. Các cơ sở chế biến cho rằng áp dụng thuế xuất khẩu làm tăng giá thành sản xuất, giảm lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu và là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm trong xuất khẩu kể từ đầu 2016 đến nay. Nhằm tìm hiểu thực trạng các khó khăn mà ngành dăm đang đối mặt, bao gồm cả tác động về mức thuế xuất khẩu mới được áp dụng kể từ đầu tháng 1 năm 2016, nhóm nghiên cứu thuộc Tổ chức Forest Trends, Hiệp Hội Gỗ và Lâm Sản Việt Nam và Hiệp Hội Gỗ Bình Định đã tiến hành nghiên cứu đánh giá ngành dăm với mục tiêu: •

Tìm hiểu thực trạng của ngành dăm gỗ trong thời gian gần đây, bao gồm thực trạng trong sản xuất và xuất khẩu, các khó khăn và thuận lợi trong các khâu này • Đánh giá tác động do các biến động của thị trường xuất khẩu đến sự vận hành và phát triển của ngành dăm gỗ Việt Nam • Đánh giá tác động của chính sách bao gồm cả chính sách thuế xuất khẩu dăm đến các khâu của chuỗi cung ứng dăm • Đề xuất kiến nghị về chính sách góp phần phát triển bền vững ngành dăm và nâng cao thu nhập cho các hộ trồng rừng. Báo cáo này gồm 7 phần. Phần 2 tiếp theo mô tả các phương pháp nghiên cứu. Phần 3 đưa ra một số thông tin có liên quan đến thị trường dăm gỗ toàn cầu, tập trung vào thị trường Trung Quốc, là thị trường chính tiêu thụ sản phẩm dăm của Việt Nam, từ đó giúp định vị ngành dăm của Việt Nam trên bản đồ cung – cầu dăm thế giới. Phần 4 mô tả thực trạng về sản xuất, xuất khẩu và thị trường tiêu thụ dăm của Việt Nam trong thời gian gần đây. Phần 5 đề cập đến những thay đổi trong chuỗi cung dăm trong những năm vừa qua. Phần 6 thảo luận về chính sách, thị trường và sinh kế các hộ trồng rừng. Phần 7 kết luận báo cáo.

2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu kết hợp nguồn số liệu thống kê và thông tin thu thập từ khảo sát thực địa. Số liệu thống kê được tổng hợp từ nguồn dữ liệu của Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, số liệu tổng hợp của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế (ITC) và Tổng cục Hải quan Trung Quốc. Các số liệu thống kê này giúp tìm hiểu sự phát triển của ngành dăm, thay đổi của thị trường xuất khẩu và tác động đến ngành dăm của Việt Nam đặc biệt là do biến động gần đây của thị trường xuất khẩu. Khảo sát thực địa được tiến hành với một số đối tượng nằm trong chuỗi cung ứng dăm gỗ. Các nhóm này bao gồm các hộ gia đình trồng rừng, các cơ sở thu mua và khai thác rừng, các hộ gia đình và doanh nghiệp chế biến gỗ và dăm gỗ, và các công ty thu mua xuất khẩu. Khảo sát được thực hiện ở một số địa phương thuộc các tỉnh Phú Thọ, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình và Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Đây là các địa bàn có số lượng các cơ sản xuất, chế biến và xuất khẩu dăm lớn. Thông tin thu thập từ khảo sát thực địa góp phần giải thích sự biến động của ngành dăm gỗ trong thời gian gần đây, từ đó giúp đánh giá được một phần ảnh hưởng của thị trường và chính sách thuế đến các khâu trong chuỗi cung ứng dăm gỗ, đồng thời chỉ ra những khó khăn và thách thức trong các khâu của chuỗi.

2


3. Thị trường dăm gỗ thế giới và vị thế của Việt Nam Ngành dăm của Việt Nam liên tục phát triển trong những năm vừa qua. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã tăng từ 2,5 triệu tấn năm 2010 lên mức 6,9 triệu tấn năm 2014 , tăng 176% (Tô Xuân Phúc và cộng sự, 2015). Trong cùng giai đoạn, kim ngạch xuất khẩu dăm gỗ tăng từ 566 triệu USD lên 958 triệu USD năm 2014, tương đương với 70% tăng về kim ngạch (cùng nguồn trích dẫn). Việt Nam hiện đang đứng số một về lượng cung ứng dăm gỗ trên thế giới, và trong những năm gần đây chiếm 82% tỷ lệ gia tăng của lượng cung dăm gỗ trong khu vực Châu Á (Hình 1). Hình 1. Lượng cung dăm gỗ của Việt Nam so với các khác tại thị trường châu Á

Nguồn: RISI, 2016

Hình 2. Lượng dăm gỗ nhập khẩu vào các thị trường tiêu thụ chính và biến động về giá nhập khẩu 5

180 160 140 120

3

100 80

2

60 40

1

20 0

0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Trung Quốc

Nhật Bản

Năm Hàn Quốc

Nguồn: Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC)

3

Đài Loan

Giá dăm gỗ (USD/Tấn)

Giá dăm (USD/tấn)

Khối lượng (Triệu tấn)

4


Tuy nhiên, ngành dăm có nhiều biến động trong thời gian gần đây, đặc biệt là về giá. Nguồn số liệu thống kê của Trung tâm Thương mại Quốc Tế (ITC) cho thấy kể từ năm 2012 giá dăm xuất khẩu từ các nước có lượng cung lớn (trừ Việt Nam) có xu hướng giảm (Hình 2). Giá dăm gỗ của Úc xuất khẩu giảm từ khoảng 150 USD/tấn từ giữa năm 2014 xuống còn 127 USD vào quý 1 năm 2016 (ITC). Hình 3 chỉ ra sự thay đổi về giá dăm xuất khẩu từ một số nguồn cung chính. Hình 3. Giá dăm gỗ xuất khẩu từ các nguồn cung chính 200 180 160 140 120 100 80 60

Australia

Thái Lan

Chi Lê

South Africa

40

Nguồn: Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC)

Theo nguồn thông tin từ ITC, tại Trung Quốc giá dăm giảm từ khoảng 176 USD/tấn từ đầu năm 2012 xuống còn khoảng 168 USD/tấn vào cuối năm 2015. Cũng trong giai đoạn này, giá dăm gỗ của thị trường Nhật Bản giảm từ mức 232 USD/tấn xuống còn 180 USD/tấn và giá dăm tại Hàn Quốc giảm từ 184 USD/tấn còn 160 USD/tấn. Giá dăm gỗ trên thị trường quốc tế có xu hướng giảm. Giá dầu thô trên thị trường quốc tế giảm trong những năm vừa qua có thể là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến giá dăm gỗ trên thị trường thế giới giảm, bởi giảm giá dầu thô làm giảm chi phí vận chuyển. Hình 4 chỉ ra mối tương quan giữa giá dầu thô tại các thị trường lớn và giá dăm gỗ xuất khẩu . Trung Quốc là thị trường tiêu thụ dăm lớn nhất trên thế giới. Thống kê từ nguồn Tổng cục Hải quan của Trung Quốc cho thấy lượng dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc bình quân khoảng 9-10 triệu tấn /năm (Bảng 1), tương đương với khoảng 1,5-1,7 tỉ USD về kim ngạch (Bảng 2). Thị trường tiêu thụ dăm tại thị trường này vẫn tiếp tục được mở rộng.

4


Hình 4. Giá dăm gỗ và giá dầu thô trên thị trường thế giới qua các năm2 180 160

Giá (USD/thùng - tấn)

140 120 100 80 60 40 20 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Năm Giá dầu ở Mỹ (USD/Thùng)

Giá dầu ở Anh (USD/Thùng)

Giá dăm gỗ (USD/Tấn)

Nguồn: Trung Tâm Thương Mai Quốc Tế (ITC) và FXCM market

Con số thống kê của Tổng cục Hải Quan Trung Quốc về lượng và giá trị dăm gỗ nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường này, bao gồm cả các con số từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2016, có sự khác biệt rất lớn đối với con số thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam trong cùng kỳ (xem chi tiết về các con số thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam tại phần 4 của Báo cáo này). Trong phạm vi của Báo cáo này, các tác giả sẽ không đi tìm hiểu nguyên nhân của các khác biệt về các con số thống kê giữa hai nguồn thông tin. Các dữ liệu thống kê trong phần 3 dưới đây sử dụng các con số thống kê của Tổng cục Hải Quan Trung Quốc để phân tích các động thái thay đổi về tiêu thụ dăm tại Trung Quốc và vị thế của dăm gỗ Việt Nam trong bối cảnh đó. Bảng 1. Lượng dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc 2013-2015 (kg) Quốc gia Nguồn khác

2013

2014

2015

421.139.357

346.362.027

272.600.092

24.109.988

110.694.296

378.564.954

Indonesia

1.200.638.528

1.255.420.687

968.160.380

Thái Lan

1.447.634.370

1.049.566.907

1.205.940.848

Úc

1.415.940.959

2.153.428.640

2.707.504.080

Việt Nam

4.632.296.721

3.928.002.331

4.280.245.490

Tổng

9.141.759.923

8.843.474.888

9.813.015.844

Chile

Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends 2 Giá dăm gỗ và dầu thô được tính bình quân qua các năm

5


Bảng 2. Giá trị kim ngạch dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc 2013-2015 (USD) Quốc gia Nguồn khác

2013

2014

2015

73.149.280

67.029.639

51.591.086

5.498.098

24.276.081

78.967.062

Indonesia

209.407.928

228.152.278

167.916.799

Thái Lan

246.765.774

170.970.511

189.975.659

Úc

251.771.951

422.626.374

520.481.220

Việt Nam

757.035.124

622.041.549

681.768.456

1.543.630.168

1.535.098.446

1.690.702.297

Chile

Tổng

Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends

Hình 5. Thay đổi lượng cung dăm vào Trung Quốc từ các nguồn cung khác nhau (kg)

Hình 6. Thay đổi kim ngạch xuất khẩu dăm vào Trung Quốc từ các nguồn cung khác nhau (USD)

Nguồn: Hải Quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends.

Các quốc gia cung cấp nguồn dăm quan trọng cho Trung Quốc bao gồm Việt Nam, Úc, Thái Lan, Indonesia và Chi Lê, với lượng dăm của Việt Nam lớn nhất tính đến hết năm 2015. Tại Trung Quốc, dăm gỗ Việt Nam cạnh tranh trực tiếp với dăm gỗ từ các quốc gia này. Trong khi lượng dăm của Úc nhập khẩu vào Trung Quốc có độ ổn định lớn, dăm từ nguồn Việt Nam, Thái Lan, Indonesia có nhiều biến động, cả về khối lượng và kim ngạch (Hình 5, 6). 6


Trong các tháng đầu năm 2016 thị phần các nguồn cung dăm cho Trung Quốc có nhiều biến động. Trong năm này, lần đầu tiên kể từ năm 2012 lượng dăm gỗ của Úc nhập khẩu vào thị trường này vượt lượng dăm của Việt Nam, kể cả về lượng và kim ngạch (Bảng 3, Bảng 4, Hình 7, Hình 8). Bảng 3. Lượng dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc đến hết tháng 5 năm 2016 (kg) Country

Lượng nhập (kg)

Úc

1.590.988.534

Việt Nam

1.513.148.392

Thái Lan

686.626.790

Indonesia

292.174.730

Chilê

257.035.951

Các nước khác

165.153.552

Tổng

4.505.127.949

Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends

Hình 7. Lượng dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc đến hết tháng 5 năm 2016 (tấn)

Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends

Bảng 4. Kim ngạch dăm gỗ nhập khẩu vào Trung Quốc đến hết tháng 5 năm 2016 Quốc gia

Giá trị (USD)

Úc

282.862.871

Việt Nam

238.942.889

Thái Lan

103.290.145

Chilê

47.798.458

Indonesia

47.107.859

Các nước khác

27.305.869

Tổng

747.308.091

Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends

7


Hình 8. Kim ngạch nhập khẩu dăm gỗ vào Trung Quốc đến hết tháng 5 năm 2016 (triệu USD)

Hình 9 và Hình 10 chỉ ra sự thay đổi lượng và kim ngạch nhập khẩu dăm từ các nguồn khác nhau vào thị trường Trung Quốc từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2016. Hình 9. Thay đổi lượng nhập dăm vào Trung Quốc theo tháng đầu 2016 (kg)

Hình 10. Thay đổi về kim ngạch nhập dăm vào Trung Quốc các tháng đầu 2016 (USD) 180M

Other Chile Indonesia Thailand Vietnam Australia

160M

140M

Import Value (US$)

120M

100M

80M

60M

40M

20M

0M January February

March

April

May

Nguồn: Hải quan Trung Quốc, tổng hợp bởi Forest Trends

Nguồn thống kê của Hải quan Trung Quốc cho thấy (Hình 9, Hình 10) lượng và kim ngạch nhập khẩu dăm của Việt Nam đạt mức cao trong tháng 1-2 của năm 2016, tuy nhiên sau đó (tháng 3, 4) cả lượng và giá trị đều giảm, thay thế bằng nguồn cung từ Úc và Thái Lan. Cũng theo nguồn dữ liệu thống kê này, thị phần của dăm gỗ Việt Nam bị thay thế bởi dăm gỗ Úc và Thái Lan là những tín hiệu quan trọng, đòi hỏi ngành dăm của Việt Nam cần tìm hiểu rõ nguyên nhân và có những phương sách hợp lý nhằm duy trì sự ổn định thị phần của mình tại thị trường này, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh nguồn cung ngày càng trở nên gay gắt hơn. Phần 4 dưới đây sẽ tập trung vào ngành dăm của Việt Nam, với thông tin chủ yếu dựa trên các con số thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam và các dữ liệu thu thập từ khảo sát thực địa. 8


4. Xuấ ất khẩu dăm d gỗ của Việt Nam 4.1. Việt Nam xuất khẩu k dăm gỗ ỗ trong nhữ ững năm gần đây Dựa trên các con số thố ống kê của Tổ ổng cục Hải qu uan Việt Nam m, lượng và giáá trị dăm gỗ Việt V Nam xuấtt khẩu ững năm gần đây đ được thểể hiện qua Bản ng 5 và Biểu đồ đ trong Hình 11. Theo Bản ng 5, lượng dăăm gỗ trong nhữ xuất khẩu u của Việt Nam m năm 2015 đạt đ 8 triệu tấn n, tương đươ ơng với gần 1,17 tỉ USD về kim k ngạch. Cáác con số này đềều tăng nhanh h so với các con c số của năăm 2014. Tro ong 5 tháng đầu đ 2016, tổn ng lượng dăm m xuất khẩu của Việt Nam đạtt 1,8 triệu tấn n, tương đươn ng với khoảngg 248 triệu USSD về kim ngạạch. Các con số s này r nhiều so với v các con số ố cùng kỳ củaa năm 2015 (2 2,98 triệu tấn n, 430 triệu USD). U Cụ thể, lượng nhỏ hơn rất xuất khẩu u của 5 tháng đầu đ 2016 chỉ bằng 61% lượ ợng xuất khẩu u cùng kỳ năm m 2015; giá trịị xuất khẩu 5 tháng đầu 2016 6 chỉ bằng 58% % giá trị xuấtt khẩu cùng kỳ k của 1 năm m trước đó. Điều Đ này phản n ánh sự suyy giảm nghiêm trrọng trong xuấất khẩu dăm của c Việt Nam những thángg đầu năm 2016.

Bảng 5. Giáá trị xuất khẩ ẩu dăm gỗ củ ủa Việt Nam từ t 2013 Năm m

Lượng (Tấn)

Trị giá (U USD)

20133

7.063.461

983.3990.245

20144

6.971.740

958.0444.609

20155

8.076.870

1.166.4000.705

5 tháng đầầu 2016

1.826.295

248.1446.898

Nguồn: Tổng Cục C Hải Quan Việtt Nam, 2013-2016 6

Hình 11. Lư ượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam từ 2013 9

Khối lượng (Triệu tấn)

8 7 6 5 4 3 2 1 3 2013

20 014

2015

Nguồn: Tổng T Cục Hải Qua an Việt Nam, 2013 3-2016

9

5 T 2016


Hình h 12. Giá trị kim ngạch xuấ ất khẩu dăm gỗ của Việt Nam từ 20133 1,400

Trịị giá iá (Triệu ( iệ USD))

1,200 1,000 800 600 400 200 2013

2014

2015

5 T 2016

Nguồn: Tổng Cục C Hải Quan Việtt Nam, 2013-2016 6

4.2. Thị trường t xuấ ất khẩu dăm gỗ Việt Nam Biểu đồ trrong Hình 13 và Hình 14 th hể hiện lượngg và giá trị dăm m gỗ của Việtt Nam được xuất x khẩu đi các c thị trường kh hác nhau trong thời gian gầần đây. Hình 13. Lượng g dăm gỗ xuấ ất khẩu của Việt V Nam theo o thị trường 4.5 Khối lượng (Triệu tấn)

4.0 3.5 3.0 2.5 2.0 1.5 1.0 0.5 0.0

2013

2014

2015

5 T 201 16

Nguồn: Tổng T Cục Hải Qua an Việt Nam, 2013 3-2016

Trung Quố ốc, Nhật Bản n và Hàn Quố ốc là những th hị trường nhậập khẩu dăm gỗ lớn nhất của Việt Nam m, với tổng lượn ng và giá trị nh hập khẩu vào 3 thị trường này n đạt trên 90% 9 trong tổn ng lượng và giá trị xuất khẩẩu của toàn ngàn nh dăm. Chỉ tíính riêng đối với v thị trườngg Trung Quốc, trong năm 2015 2 Việt Nam m xuất khẩu 4 triệu tấn dăm sang s thị trườn ng này, với mứ ức kim ngạch đạt gần 595 triệu t USD. Tro ong cùng năm m, các con số này n từ thị trườngg Nhật Bản là 3,2 triệu tấn, 451 triệu USSD, và từ thị trường t Hàn Quốc Q là 0,43 triệu t tấn, 66,7 7 triệu USD. 10


Hình 14. Giá trị dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường 700 Giá trị (Triệu USD)

600 500 400 300 200 100 -

2013

2014

2015

5 T 2016

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Phụ lục 1 thống kê chi tiết về lượng dăm Việt Nam xuất khẩu đi các thị trường. Phụ lục 2 thống kê chi tiết về kim ngạch.

4.3. Các cảng biển xuất khẩu dăm gỗ Việt Nam thời gian gần đây Dăm gỗ của Việt Nam được xuất khẩu qua hệ thống cảng biển đa dạng, giao động khoảng 30-85 cảng, tùy thuộc vào hình thức xuất khẩu (FOB hoặc CIF) và tùy thuộc theo năm. Trong 2015, dăm gỗ của Việt Nam đã được xuất khẩu qua 61 cảng khác nhau. Trong 5 tháng đầu năm 2016 đã có 29 cảng biển đã được sử dụng để xuất khẩu. Hình 15. Lượng dăm gỗ xuất khẩu theo cảng biển từ 2013

Khối lượng (BDMT)

2,500,000 2,000,000 1,500,000 1,000,000 500,000 -

2013

2014

2015

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

11

5 T 2016


Trong hệ thống cảng sử dụng để xuất khẩu, chỉ có khoảng 10 cảng chủ đạo, với lượng và giá trị kim ngạch lớn. Biểu đồ trong Hình 15 thể hiện sự thay đổi về lượng dăm xuất khẩu, Hình 16 chỉ ra sự thay đổi về giá trị xuất khẩu dăm qua các cảng chính này. Phụ lục 3 chỉ ra lượng, Phụ lục 4 chỉ ra giá trị dăm xuất khẩu qua các cảng. Hình 16. Giá trị dăm gỗ xuất khẩu theo cảng biển, 2013- 5 tháng đầu năm 2016 300,000,000 250,000,000 200,000,000 150,000,000 100,000,000 50,000,000 -

2013

2014

2015

5 T 2016

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Cái Lân là cảng xuất khẩu dăm quan trọng nhất của Việt Nam, tiếp đến là các cảng Nghi Sơn, Quy Nhơn, Dung Quất. Năm 2015 lượng dăm xuất khẩu qua cảng Cái Lân đạt gần 1,5 triệu tấn, tương đương với 211 triệu USD về kim ngạch. Cùng trong năm này, các con số về lượng và kim ngạch của cảng Nghi Sơn là 1,2 triệu tấn, 176 triệu USD và của cảng Quy Nhơn là 1,15 triệu tấn, 163,5 triệu USD về kim ngạch Số liệu hải quan của Việt Nam cho thấy lượng dăm xuất khẩu bình quân trong các tháng đầu năm 2016 qua hệ thống các cảng nhỏ hơn rất nhiều so với con số bình quân các tháng cùng kỳ năm 2015.

4.4. Suy giảm xuất khẩu dăm gỗ năm 2016 Số liệu Hải quan Việt Nam cho thấy lượng và giá trị dăm gỗ xuất khẩu 5 tháng đầu 2016 nhỏ hơn rất nhiều so với lượng và giá trị xuất khẩu của các tháng cùng kỳ các năm trước đó. Số liệu thống kê từ nguồn Hải quan Trung Quốc cũng cho thấy mức độ suy giảm trong xuất khẩu dăm của Việt Nam vào Trung Quốc, tuy nhiên mức độ suy giảm nhỏ hơn nhiều so với con số từ nguồn thống kê của Hải quan Việt nam đưa ra (xem chi tiết các con số thống kê của Hải quan Trung Quốc trong phần 3 của Báo cáo này). Cụ thể, Biểu đồ trong Hình 17 và Hình 18 so sánh tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu của dăm gỗ 5 tháng đầu năm từ 2013 đến năm 2016. Các biểu đồ này cho thấy khối lượng và kim ngạch dăm gỗ xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2014 và 2015 tăng so với năm 2013 nhưng 5 tháng đầu năm 2016 giảm mạnh so với các năm trước đó. Tổng khối lượng xuất khẩu dăm gỗ 5 tháng đầu năm 2016 đạt 1,8 triệu tấn khô, tương đương với 61% lượng xuất khẩu 5 tháng đầu 2015 (2,98 triệu tấn). Giá trị kim ngạch 5 tháng đầu năm 2016 đạt 246 triệu USD, chỉ bằng 58% kim ngạch cùng kỳ của năm 2015 (430,4 triệu USD).

12


Hình 19 và Hình 20chỉ ra sự thay đổi lượng và giá trị dăm xuất khẩu của Việt Nam được thống kê theo các tháng của năm, tính từ 2013. Phụ lục 5 chi tiết lượng xuất khẩu, phụ lục 6 chi tiết giá trị xuất khẩu được chia theo các tháng tính từ 2013. Hình 17. Khối lượng dăm xuất khẩu đến tháng 5 năm 2016 (nghìn tấn)

Hình 18. Kim ngạch xuất khẩu dăm đến tháng 5 năm 2016 (triệu USD)

3,500

500 450 400 350 300 250 200 150 100 50 -

3,000 2,500 2,000 1,500 1,000 500 2013

2014

2015

2016

2013

2014

2015

2016

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Hình 19. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo các tháng từ 2013 (tấn) 1,400,000 1,200,000 1,000,000 800,000 600,000 400,000 200,000 -

2013

2014

2015

5 T 2016

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Hình 19 và Hình 20 cho thấy trong giai đoạn 2014- 2015, khối lượng và kim ngạch dăm gỗ xuất khẩu của các tháng từ tháng 1 đến tháng 5 đều cao hơn các tháng cùng kỳ của năm 2013. Tuy nhiên, đến đầu 2016, lượng và kim ngạch xuất khẩu dăm gỗ trong tháng 1-2 giảm rất nhiều so với các tháng cùng kỳ của các năm trước đó. Cụ thể, khối lượng dăm gỗ xuất khẩu tháng 1 năm 2014 và 2015 đều đạt mức trên 600.000 tấn, trong khi tháng 1 năm 2016 khối lượng xuất khẩu chỉ đạt 175.000 tấn. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của tháng 2 năm 2016 giảm đột biến, chỉ đạt 28.000 tấn, chỉ tương đương 5,4% lượng xuất của tháng 2 năm 2015 và 7,8% lượng xuất của tháng 2 năm 2014.

13


Sang tháng 3 và tháng 4 năm 2016 khối lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trở lại, đạt mức cao hơn cùng kỳ năm 2015 nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu dăm chỉ tương đương. Điều này cho thấy sự tụt giảm về giá xuất khẩu. Đến tháng 5, khối lượng xuất khẩu dăm gỗ đạt 461.000 tấn giảm 30% so với cùng kỳ năm 2015, kéo theo sự suy giảm về kim ngạch (giảm 35%) Hình 20. Kim ngạch dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo các tháng từ 2013 (USD) 200,000,000 180,000,000 160,000,000 140,000,000 120,000,000 100,000,000 80,000,000 60,000,000 40,000,000 20,000,000 -

2013

2014

2015

5 T 2016

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

4.5. Cơ cấu loài gỗ cho dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam Hầu hết gỗ nguyên liệu làm dăm là gỗ keo, tràm, chiếm tỉ lệ trên 90% trong tổng cơ cấu gỗ nguyên liệu dăm. Bảng 6 và Bảng 7 chỉ ra lượng và giá trị của từ loại gỗ nguyên liệu trong dăm xuất khẩu. Bảng 6. Cơ cấu dăm xuất khẩu theo lượng và chủng loại gỗ giai đoạn 2013-2015 Tên gỗ

Lượng (kg) 2013

2014

2015

Keo/tràm

6.608.942

6.719.785

7.469.465

Bạch đàn

367.885

157.200

338.462

86.635

94.755

268.943

7.063.461

6.971.740

8.076.870

Khác (keo, bạch đàn, cao su, thông) Tổng lượng XK Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Thống kê của Hải quan Việt Nam cho thấy xuất khẩu dăm của Việt Nam trong năm 2016 không chỉ giảm về lượng và giá trị mà còn giảm về số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu. Cụ thể, trong 5 tháng đầu năm 2016 chỉ có 64 doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu, giảm sâu từ con số 101 doanh nghiệp của năm 2015. Suy giảm số lượng doanh nghiệp tham giam xuất khẩu dăm phản ánh các khó khăn của thị trường xuất khẩu.

14


Bảng 7 Cơ cấu dăm xuất khẩu theo kim ngạch và chủng loại gỗ giai đoạn 2013-2015 Trị giá (USD)

Tên Gỗ

2013

2014

2015

Keo/tràm

919.511.869

923.801.617

1.081.979.207

Bạch đàn

52.863.364

21.152.500

45.366.800

Khác (keo, bạch đàn, cao su, thông)

11.015.012

13.090.492

39.054.698

983.390.245

958.044.609

1.166.400.705

Tổng giá trị XK Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Dựa trên những thông tin thu thập được từ khảo sát thực địa, Phần 5 dưới đây tập trung phân tích những thay đổi trong các khâu của chuỗi cung, từ các hộ trồng rừng đến khâu xuất khẩu.

5. Những thay đổi trong chuỗi cung ứng dăm xuất khẩu 5.1. Chuỗi cung ứng dăm gỗ xuất khẩu Về cơ bản chuỗi cung ứng dăm gỗ xuất phát từ các hộ trồng rừng đến người thu mua vận chuyển, các cơ sở sản xuất dăm gỗ và cuối cùng là người thu mua để xuất khẩu (Error! Not a valid bookmark selfreference.). Hình 21. Chuỗi cung ứng ngành chế biến dăm gỗ xuất khẩu Cty. Chế biến và XK dăm

Các hộ trồng rừng

Thu mua khai thác

Xưởng xẻ, ván bóc Giá mua rừng

Nhà máy CB dăm

Thu mua dăm và XK

Cty thu mua dăm trung gian

Phế liệu

Giá mua gỗ N/L

Giá mua dăm gỗ

Giá dăm gỗ XK

Thông thường các hộ trồng rừng ít khi tham gia khai thác mà bán rừng trực tiếp cho các cơ sở khai thác và vận chuyển. Sau khi khai thác, gỗ được tuyển chọn, với phần gỗ có đường kính lớn (trên 12 cm) được bán cho các cơ sở chế biến như xẻ thanh hoặc làm ván ép, phần còn lại là gỗ có đường kính nhỏ, được chuyển tới các nhà máy dăm. Ở các địa bàn không có các cơ sở chế biến gỗ thì toàn bộ số gỗ khai thác được bán cho các nhà máy dăm. Dăm gỗ, sau khi được chế biến, được vận chuyển và tập kết tại các điểm tập kết của các công ty/doanh nghiệp thu mua dăm gỗ. Tùy thuộc vào địa phương mà các cơ sở thu mua được đặt tại các bến sông hoặc bến cảng. Những địa phương như Đoan Hùng, Phú Thọ, dăm gỗ sẽ được tập kết, thu mua ở bến sông sau 15


đó được vận chuyển qua đường sông đến cảng biển. Ở những tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Quảng Nam và Quảng Ngãi, dăm gỗ được vận chuyển trực tiếp ra cảng biển. Chính vì vậy, so với chuỗi cung ứng dăm gỗ tại Thanh Hóa, Nghệ An, Bình định và Quảng Nam, chuỗi cung ứng dăm gỗ từ Phú Thọ ra đến Quảng Ninh sẽ qua nhiều khâu trung gian hơn vì thêm khâu trung gian thu mua để vận chuyển bằng đường sông.

5.2. Giá nguyên liệu dăm tại các khâu trong chuỗi cung ứng Theo Thông Tư 182/2015/TT-BTC ngày 16/11/2015 của Bộ Tài Chính đưa ra mức thuế 2% đối với mặt hàng dăm gỗ xuất khẩu. Vào thời điểm thuế xuất khẩu dăm gỗ bắt đầu có hiệu lực cũng là lúc giá dăm trên thị trường thế giới giảm mạnh. Thay vì cắt giảm lợi nhuận của mình, hầu hết các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu dăm đẩy các chi phí có liên quan đến thuế xuất khẩu cho người trồng rừng. Điều này làm cho giá thu mua dăm gỗ trong nước giảm. Bảng 8. Thay đổi giá trong các khâu của chuỗi cung 2015-20163 Giá trong chuỗi cung ứng

Năm 2015

Năm 2016

Tỷ lệ giảm (%)

144

136

-5,6%

Giá thu mua dăm gỗ tại Phú Thọ (Ngàn đồng/tấn khô)

2.500

2.050

-18,0%

Giá thu mua dăm gỗ tại Cái Lân (Ngàn đồng/tấn khô)

2.870

2.420

-15,7%

Giá thu mua gỗ nguyên liệu tại Phú Thọ (Ngàn đồng/tấn tươi)

1.100

850

-22,7%

Giá thu mua gỗ nguyên liệu tại Hoành Bồ (Ngàn đồng/tấn tươi)

1.200

875

-27,1%

Giá thu mua rừng tại Phú Thọ (Ngàn đồng/tấn tươi)

800

550

-31,3%

Giá thu mua rừng tại Hoành Bồ (Ngàn đồng/tấn tươi)

850

525

-38,2%

Giá mua dăm gỗ Thanh Hóa, Nghệ An (Ngàn đồng/tấn khô)

2.700

2.550

-5,6%

Giá mua gỗ nguyên liệu Thanh Hóa-Nghệ An (Ngàn đồng/tấn tươi)

1.210

1.115

-7,9%

675

625

-7,4%

Giá xuất khẩu dăm gỗ Cảng Dung Quất (USD/tấn khô)

138

128

-7.2%

Giá gỗ nguyên liệu tại Núi Thành (Ngàn đồng/tấn tươi)

1.226

1.140

-7.0%

700

600

-14.3%

136

125

-8.1%

Giá gỗ N/L tại Quy Nhơn (Ngàn đồng/tấn tươi)

1.250

1.150

-8.0%

Giá mua rừng Vân Canh (Ngàn đồng/tấn tươi)

750

650

-13.3%

Giá dăm gỗ xuất khẩu (USD/tấn khô) Chuỗi cung ứng: Phú thọ-Quảng Ninh

Chuỗi cung ứng ở Nghệ An, Thanh Hóa

Giá thu mua mua rừng tại Nghệ An (Ngàn đồng/tấn tươi) Chuỗi cung ứng ở Quảng Nam – Quảng Ngãi

Giá mua rừng Núi Thành (Ngàn đồng/tấn tươi) Chuỗi cung ứng ở Bình Định Giá xuất khẩu Cảng Quy Nhơn (USD/tấn khô)

Nguồn: Số liệu khảo sát năm 2016

Năm 2016 ngành dăm đối mặt với sự giảm giá trong xuất khẩu. Giảm giá xuất khẩu tác động trực tiếp đến giá thu mua nguyên liệu đầu vào, và điều này tác động trực tiếp tới các hộ trồng rừng. Mức độ tác động 3 Giá trong bảng là giá mua bán trên thực tế, theo thông tin khảo sát 2 tấn gỗ tươi bằng 1 tấn dăm khô, giá thu

sở thu mua rừng theo năng suất và sản lượng rừng ở từng địa phương

16

mua rừng được quy đổi cùng với các cơ


phụ thuộc vào số lượng các khâu trung gian trong chuỗi cung ứng. Số lượng các khâu trung gian càng nhiều thì các hộ trồng rừng càng bị ảnh hưởng mạnh. Bảng 8 thể hiện mức độ giảm giá trên 2 chuỗi cung ứng trong đó Chuỗi cung ứng ở Phú Thọ-Quảng Ninh với nhiều khâu trung gian hơn bị ảnh hưởng mạnh hơn so với chuỗi cung ở Nghệ An và Thanh Hóa. Tại Quảng Ninh và Phú Thọ giá thu mua dăm gỗ giảm rất mạnh từ 15 đến 18% do vậy giá thu mua nguyên liệu cũng giảm từ 22-27%, giá mua rừng của các hộ gia đình giảm từ 30-40% (Bảng 8). Tại Thanh Hóa và Nghệ An, khi giá thu mua dăm giảm 5,6% thì giá thu mua nguyên liệu và mua rừng từ các hộ gia đình giảm từ 7-8%. Các hộ trồng rừng tại Quảng Ninh và Phú Thọ khi thấy giá nguyên liệu giảm mạnh có xu hướng ngừng bán, không khai thác rừng và chờ đợi giá mua nguyên liệu phục hồi trở lại.

5.3. Phát triển các cơ sở chế biến dăm quy mô nhỏ tại một số địa phương Trong giai đoạn từ 2010 đến 2014 giá dăm gỗ tăng đã tạo lợi thế cho Việt Nam xuất khẩu dăm gỗ sang các nước lân cận như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Từ đó, nhiều cơ sở thu mua dăm gỗ đã được hình thành. Ở một số địa phương như Đoan Hùng - Phú Thọ, tại bến sông Lô, trước năm 2013 chỉ có 3 công ty thu mua dăm gỗ; đến cuối năm 2014 đã xuất hiện 14 công ty trực tiếp tham gia vào thu mua và chế biến dăm. Nhu cầu thu mua dăm gỗ tăng cao tạo ra sự cạnh tranh về nguyên liệu giữa các cơ sở thu mua chế biến. Năm 2014 - 2015, nhiều cơ sở đã không quan tâm đến việc kiểm định chất lượng dăm, thu mua cả dăm tạp, lẫn cả vỏ cây và các loại cây khác như gỗ xoan, gỗ xoài… Điều này dẫn đến sự suy giảm về chất lượng dăm gỗ. Hệ quả là dăm của nhiều cơ sở thu mua không đạt chất lượng và không xuất khẩu được sang các thị trường khó tính như Nhật Bản và Hàn Quốc. Giá dăm gỗ xuất khẩu giảm, kết hợp với chất lượng kém gây ra ùn tắc trong xuất khẩu, với lượng dăm gỗ bị tồn kho tại các bến sông, bến cảng lớn, gây tổn thất cho các cơ sở thu mua, chế biến và xuất khẩu. Chất lượng dăm giảm cũng có một phần là do sự phát triển nhanh chóng, tự phát và nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền đối với các cơ sở chế biến và thu mua dăm tại một số địa phương. Tại một số địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An, nhiều cơ sở chế biến dăm quy mô nhỏ, bao gồm cả các cơ sở quy mô hộ gia đình, với nhiều cơ sở hoạt động trái phép đã được mọc lên trong đó có nhiều cơ sở công suất nhỏ, khoảng 100-150 tấn dăm/ngày. Sự phát triển tự phát, chạy theo thị trường dẫn đến hiện tượng tranh mua tranh bán, bao gồm cả mất kiểm soát về chất lượng dăm, đã gây ảnh hưởng đến hình ảnh của toàn ngành.

5.4. Chi phí và lợi ích của các khâu trên chuỗi cung ứng. Việc giảm giá dăm xuất khẩu đã ảnh hưởng đến hầu hết các khâu trong chuỗi cung ứng dăm. Tùy thuộc vào quy mô kinh doanh và địa bàn hoạt động mà các nhóm tham gia chuỗi cung có mức độ ảnh hưởng khác nhau.

Công ty xuất khẩu dăm Các công ty xuất khẩu hiện đang đối mặt với rất nhiều khó khăn do việc giảm giá xuất khẩu. Giảm giá xuất khẩu, cộng với 2% thuế xuất khẩu làm cho các doanh nghiệp bắt buộc phải mua dăm với giá thấp hơn. Giá xuất khẩu giảm, cầu tiêu thụ dăm của Việt Nam tại thị trường Trung Quốc co lại dẫn đến ùn tắc trong xuất khẩu. Khảo sát thực địa cho thấy lượng dăm tồn tại các doanh nghiệp là rất lớn. Thông tin khảo sát từ một số doanh nghiệp cho thấy trong 6 tháng đầu năm 2016 lượng dăm gỗ xuất khẩu của các doanh nghiệp này giảm từ 40% đến 70% so với cùng kỳ năm 2015. Nhiều doanh nghiệp hiện không xuất khẩu được, điều này dẫn đến tồn kho một lượng dăm gỗ tương đối lớn tại một số cảng xuất. 17


Cơ sở chế biến dăm gỗ quy mô hộ gia đình Các hộ gia đình có xưởng chế biến dăm gỗ thường nằm ở vùng nguyên liệu, mỗi hộ gia đình thường chỉ có từ 1 đến 2 xưởng chế biến với một dây chuyền băm dăm có công suất 100-150 tấn/ngày. Trong thời điểm giá dăm xuống thấp, các cơ sở này ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng vì không thể mua nguyên liệu đầu vào với giá thấp. Thông tin khảo sát thực địa tại một số địa phương cho thấy sản lượng dăm gỗ sản xuất ở các cơ sở chế biến dăm gỗ quy mô hộ gia đình năm 2016 chỉ đạt 10-20% so với cùng kỳ năm 2015. Điều này dẫn đến sự sụt giảm về doanh thu cũng như lợi nhuận của các cơ sở này. Đặc biệt, những cơ sở chế biến dăm mới hình thành từ năm 2015 đã và đang chịu ảnh hưởng nặng nề vì chưa kịp hoàn vốn, có khả năng thua lỗ vì lợi nhuận không đủ để trả lãi suất vay ngân hàng đầu tư vào chế biến. Công ty thu mua dăm gỗ trung gian (ở cảng sông) Các công ty thu mua dăm gỗ ở cảng sông (trước khi dăm gỗ được vận chuyển ra các cảng biển để xuất khẩu) thường không xuất khẩu trực tiếp mà bán cho các công ty xuất khẩu dăm có kho tập kết dăm tại các cảng nước sâu. Do vậy, cũng tương tự các công ty xuất khẩu dăm gỗ, bắt đầu từ cuối năm 2015 và đầu 2016, khi giá dăm xuất khẩu giảm các công ty thu mua dăm gỗ ở cảng sông đã phải giảm khối lượng thu mua và giảm giá thu mua đầu vào nên lợi nhuận cũng giảm theo. Trong năm 2015, vào thời điểm nhu cầu mua dăm gỗ tăng mạnh, để cạnh tranh mua, một số công ty thu mua dăm gỗ tại cảng sông đã không quan tâm đến chất lượng dăm, thu mua cả dăm có gỗ tạp nên bị tồn khi giá bắt đầu giảm. Từ nửa cuối năm 2015 lượng dăm tồn đọng tại bến sông ở các địa phương như Phú Thọ, Thanh Hóa và Quảng Ninh tương đối lớn. Chất lượng dăm kém, bao gồm nhiều tạp chất như vỏ cây, mảnh nhỏ của ván bóc đã làm cho chất lượng dăm giảm rất nhanh, đặc biệt trong các điều kiện dăm phơi mưa gió tại một số bến cảng, nhà kho. Hộ thu mua và khai thác rừng Các hộ tham gia vào khâu mua rừng và khai thác rừng thường thu mua và tổ chức khai thác trong thời gian ngắn, khoảng một tháng để trả lại mặt bằng cho các hộ trồng rừng, nên cũng không bị ảnh hưởng nhiều khi giá xuất khẩu giảm. Thông thường các hộ mua rừng đến định giá rừng và thương lượng với các hộ trồng rừng dựa trên mức giá nhập gỗ nguyên liệu của các nhà máy sơ chế gỗ nguyên liệu hoặc các nhà máy dăm. Tuy nhiên, khi dăm được giá một số hộ gia đình tại Tuyên Quang, Phú Thọ đã mua rừng với diện tích lớn trong năm 2015 nhưng không khai thác hết trong năm. Giá dăm xuất khẩu giảm năm 2016 làm cho các hộ này thua lỗ. Hộ gia đình trồng rừng Hộ trồng rừng đóng vai trò quan trọng trong nguồn cung nguyên liệu cho ngành dăm. Giảm giá dăm xuất khẩu đã có ảnh hưởng rất lớn đến người trồng rừng. Với mức giá thu mua năm 2016, người dân trồng rừng mất 30% doanh thu cho một ha keo trồng sau 5 năm so với mức giá năm 2015. Ví dụ tại Hoành Bồ (Quảng Ninh), với 1 ha keo trồng sau 5 năm, hộ có thể bán được khoảng 50 triệu đồng trong năm 2015; cũng với 1 ha này, với cùng chu kỳ khai thác (5 năm) năm 2016 hộ chỉ bán được 35 triệu. Khi giá thu mua giảm, nhiều hộ không muốn bán rừng mà tìm kiếm các nguồn thu khác để đảm bảo sinh kế. Tuy nhiên, nhiều hộ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và lệ thuộc lớn và nguồn rừng trồng vẫn phải bán rừng của mình để tạo nguồn thu. Ở một số địa bàn thuộc huyện Hoành Bồ, một số hộ sống gần rừng tự nhiên tìm kiếm nguồn thu thay thế từ các hoạt động khai thác truyền thống trước đây như thu lượm củi và thu hái lâm sản phi gỗ trong rừng tự nhiên hiện đang được quản lý bởi các cơ quan lâm nghiệp của nhà nước.

18


Xưởng xẻ và ván bóc quy mô hộ gia đình Nguyên liệu đầu vào của ngành dăm có một phần là các sản phẩm phụ từ các cơ sở chế biến khác như xưởng xẻ và ván bóc. Theo khảo sát thực tế, đối với nguồn gỗ rừng trồng đường kính lớn được sử dụng làm gỗ nguyên liệu chế biến của các xưởng xẻ và ván bóc, chỉ có khoảng 60-70% nguồn gỗ này được sử dụng cho xẻ và bóc. Phần còn lại (30-40%) là các phần như củi, bìa bóc, chỉ có thể sử dụng được làm nguyên liệu dăm.

Giá thu mua nguyên liệu đầu vào giảm cũng ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của các cơ sở xẻ và bóc. Theo ước tính của một chủ xưởng xẻ tại Đoan Hùng, Phú thọ thì 1 xe gỗ 20 tấn nguyên liệu đưa vào xưởng xẻ thì sẽ có 7 tấn sản phẩm phụ (củi, tu, bìa bóc) làm nguyên liệu phục vụ các cơ sở sản xuất dăm. Năm 2015, giá bán sản phẩm phụ là 1,05 triệu đồng/tấn đến 2016 giá bán sản phẩm phụ giảm chỉ còn 750 ngàn đồng/tấn, trung bình giảm 300 ngàn đồng/tấn. Như vậy, năm 2016, 1 xe gỗ 20 tấn nguyên liệu sẽ mất đi 2,1 triệu đồng so với năm 2016.

Người lao động Chuỗi cung dăm xuất khẩu còn có sự tham gia đông đảo của nhiều người dân lao động, đặc biệt trong khâu khai thác rừng, làm công nhân trong các công ty và doanh nghiệp chế biến dăm gỗ. Khi giá dăm xuất khẩu giảm, quy mô của các khâu trong chuỗi cung, từ khai thác đến xuất khẩu giảm. Điều này tác động trực tiếp tới những người lao động làm việc trong các khâu này. Thông tin khảo sát tại Hoành Bồ cho thấy số lượng lao động tham gia khai thác rừng giảm khoảng 80% so với năm 2015. Trong các cơ sở chế biến dăm gỗ, số lượng lao động cũng giảm từ 50% đến 70% tùy thuộc vào quy mô sản xuất.

6. Thảo luận: Chính sách, thị trường và sinh kế hộ trồng rừng Ngành chế biến dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam đang trải qua một giai đoạn vô cùng khó khăn, thể hiện qua các con số tụt giảm nghiêm trọng về cả khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Cụ thể, con số thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy lượng và kim ngạch xuất khẩu dăm của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2016 sụt giảm khoảng 40% so với lượng và kim ngạch 5 tháng cùng kỳ năm 2015. Tụt giảm về xuất khẩu, bao gồm cả giá, đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các khâu trong chuỗi cung ứng. Nhiều hộ trồng rừng với nguồn thu hạn hẹp phải chấp nhận bán gỗ của mình với giá thấp hơn, từ đó dẫn đến suy giảm nguồn thu. Các hộ có điều kiện kinh tế khá hơn thì tạm thời không bán rừng, kỳ vọng mức giá của dăm sẽ tăng trở lại. Nhiều cơ sở băm dăm hạn chế hoặc dừng sản xuất, hoạt động sản xuất kinh doanh co hẹp, điều này không những tác động trực tiếp đến các cơ sở này mà còn gây ảnh hưởng tới hàng nghìn lao động trực tiếp làm việc tại các cơ sở này và tại các khâu khác trong chuỗi ứng. Giá xuất khẩu giảm, việc co hẹp nhu cầu tiêu thụ dăm của Việt Nam tại thị trường Trung Quốc đã gây ra sự ùn tắc trong xuất khẩu, gây thiệt hại cho các công ty trực tiếp tham gia xuất khẩu. Sụt giảm về xuất khẩu dăm làm ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành gỗ. Hiện chưa có bất cứ dấu hiệu nào về tính ổn định của thị trường tiêu thụ dăm, đặc biệt tại Trung Quốc đối với sản phẩm dăm của Việt Nam. Cho đến nay, tại Việt Nam còn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều về sự tồn tại và lớn mạnh của ngành dăm. Trên 90% nguồn nguyên liệu dăm có nguồn gốc từ rừng trồng, chủ yếu là từ keo và tràm, trên 60% trong lượng cung này là từ các hộ gia đình. Các cơ quan quản lý cho rằng xuất khẩu dăm gỗ thực chất vẫn là xuất khẩu nguyên liệu thô, với giá trị gia tăng trong sản phẩm hầu như không có. Cụ thể, 1 tấn nguyên liệu dăm khô, tương đương với 2 tấn gỗ lóng tươi khi xuất khẩu chỉ đem lại 130-140 USD. Với 1 ha keo 5 tuổi, hầu hết gỗ sẽ được cung cấp cho ngành dăm với năng suất từ 70-100 tấn/ha, nếu để keo đến 9-10 tuổi sẽ cho 19


thu hoạch 200 tấn gỗ phục vụ tinh chế xuất khẩu và 200-250 tấn cành ngọn phục vụ ngành dăm cộng với 30-40% từ bìa bóc. Như vậy, với chu kỳ 9-10 năm giá trị xuất khẩu sẽ gấp 4-5 lần xuất khẩu dăm như hiện tại với chu kỳ trồng keo 5-6 năm. Dựa trên quan điểm này, sử dụng hoàn toàn nguồn gỗ rừng trồng để băm dăm không đem lại lợi ích kinh tế thỏa đáng cho các hộ trồng rừng, trái lại làm mất cơ hội cải thiện sinh kế của hộ, bao gồm nhiều hộ dân nghèo sống ở vùng núi. Cùng với các quan điểm này, ngành chế biến đồ gỗ cũng cho rằng ngành dăm hiện đang lãng phí nguồn nguyên liệu, bởi trong bối cảnh ngành chế biến đồ gỗ phải phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu gỗ nhập khẩu, sử dụng gỗ rừng trồng băm dăm làm mất cơ hội trong việc tạo nguồn cung gỗ rừng trồng, đặc biệt là gỗ có đường kính lớn cho ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ. Điều này làm hạn chế việc tạo giá trị gia tăng cho nguồn gỗ rừng trồng, từ đó kéo dài sự phụ thuộc của ngành chế biến gỗ vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, bao gồm cả việc nhập khẩu từ một số nguồn được coi là có độ rủi ro cao về nguồn gốc pháp lý. Quan điểm về các hạn chế của ngành dăm đã được thể hiện trong chính sách của các cơ quan quản lý được đưa ra nhằm hạn chế sản xuất và xuất khẩu dăm. Chiến lược Phát triển lâm nghiệp của Quốc gia đến năm 2020 nêu rõ “giảm dần chế biến dăm giấy xuất khẩu.”4 Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp năm 2013 nhấn mạnh “điều chỉnh cơ cấu sản phẩm gỗ…nhất là các sản phẩm xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng giá trị lâm sản sử dụng nguồn nguyên liệu được gây trồng trong nước…. hạn chế tối đa xuất khẩu sản phẩm thô (bao gồm cả dăm gỗ)”.5 Kế hoạch hành động nâng cao giá trị sản phẩm gỗ qua chế biến giai đoạn 2014-2020 đề ra mục tiêu “duy trì khối lượng dăm xuất khẩu 6 triệu tấn như hiện nay” và “đến năm 2020 chế biến dăm xuất khẩu 3 triệu tấn/năm (giảm 3 triệu tấn, tương đương với 50% so với năm 2015, bình quân 10%/năm.” 6 Kế hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020 của Bộ NN & PTNT năm 2015 nhấn mạnh: “rà soát, sắp xếp các cơ sở sản xuất dăm gỗ gắn với vùng nguyên liệu nhằm đổi mới nâng cao hiệu quả trong sản xuất dăm.”7 Trong Quyết định 5115 của Bộ NN & PTNT về việc Phê duyệt phương án quản lý sản xuất dăm giai đoạn 2014-2020 nêu rõ: “Quản lý chặt chẽ việc sản xuất, chế biến dăm gỗ xuất khẩu, hạn chế tối đa việc sử dụng nguyên liệu gỗ khai thác từ rừng trồng để sản xuất dăm, nhằm nâng cao giá trị sản phẩm chế biến từ gỗ rừng trồng khai thác trong nước.” Bên cạnh đó, Quyết định cũng đưa ra định hướng “không phát triển cơ sở sản xuất dăm gỗ ở các vùng Đồng bằng Sông Hồng, Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng Bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ.” Quyết định nhấn mạnh “hạn chế phê duyệt đầu tư mới các cơ sở sản xuất dăm gỗ, chỉ xem xét trong trường hợp những dự án đầu tư chế biến sau dăm gỗ giai đoạn từ năm 2016-2020, nhưng phải có sự thỏa thuận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.” Quyết định cũng đề nghị Chính phủ ”Tăng thuế xuất khẩu dăm gỗ… lên từ 5-10%. Áp mức thuế giá trị gia tăng là 10% và thuế doanh nghiệp là 25% đối với doanh nghiệp sản xuất dăm gỗ.” Dựa trên các kiến nghị này, Thông tư 182 của Bộ Tài chính ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2015 đã đưa ra mức thuế xuất khẩu dăm gỗ là 2%, bắt đầu thực hiện từ đầu 2016. Thông tin từ các doanh nghiệp dăm cho thấy với mức thuế 2%, chi phí sản xuất cho mỗi tấn nguyên liệu dăm xuất khẩu tăng 2,5-2,8 USD. Theo kế hoạch của Chính phủ, thuế xuất khẩu dăm sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. 4 http://www.moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?itemid=14688

5 Quyết định 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 8 tháng 7 năm 2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành lâm

nghiệp”.

6 Quyết định 919/QĐ-BNN-TCLN ngày 5 tháng 5 năm 2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao giá trị

gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến giai đoạn 2014-2020

7 Quyết định 651/QĐ-BNN-TCLN ngày 27 tháng 2 năm 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt kế hoạch triển khai phương án

quản lý sản suất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020.

20


Thuế xuất khẩu dăm được áp dụng trong bối cảnh cảnh cung – cầu thế giới về dăm gỗ đang có nhiều thay đổi. Đến nay, tại Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn là trung tâm tiêu thụ dăm của toàn thế giới. Giá dầu thô trên thế giới giảm đã làm giảm giá thành vận chuyển. Điều này tạo động lực trong việc giảm giá dăm trên thị trường thế giới. Tại Châu Á, Úc là quốc gia có lượng cung dăm rất lớn, cạnh tranh với lượng cung dăm từ Việt Nam. Bên cạnh đó, dăm của Úc có hàm lượng bột cao hơn nhiều so với chất lượng dăm của Việt Nam (53-57% trong dăm của Úc, so với 40-50% trong dăm của Châu Á) (New Forest, 2015). Trong tương lai, nguồn cung dăm có chất lượng cao, bao gồm cả dăm có chứng chỉ FSC từ quốc gia này sẽ tiếp tục tăng ổn định. Giá dầu thô trên thế giới giảm dẫn đến giảm giá cước vận chuyển. Điều này đã và đang tạo ra lợi thế cạnh cạnh lớn cho nguồn dăm của Úc trong việc chiếm lĩnh các thị trường tiêu thụ dăm trong khu vực Châu Á. Dăm gỗ Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với cạnh tranh rất lớn với nguồn dăm từ Úc. Bên cạnh đó, dăm gỗ từ Việt Nam cũng đang đứng trước sức ép cạnh tranh với nguồn cung dăm từ Thái Lan, bởi các diện tích rừng trồng của quốc gia này bắt đầu đến chu kỳ khai thác và chi phí vận chuyển dăm từ quốc gia này tới các thị trường tiêu thụ trong khu vực không có nhiều khác biệt so với chi phí vận chuyển dăm từ Việt Nam. Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc cho thấy một sự thật đáng báo động cho ngành dăm của Việt Nam – thị phần dăm gỗ Việt Nam tại thị trường Trung Quốc trong các tháng đầu của năm 2016 bị suy giảm, với sự suy giảm này được thay thế bởi sự gia tăng về nguồn cung dăm từ Úc và Thái Lan (một phần từ Chi Lê). Cũng theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, nhu cầu dăm gỗ tại thị trường này không hề giảm mà vẫn đang tiếp tục gia tăng. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn chưa có thông tin nào chắc chắn lý giải được sự co lại của thị phần dăm Việt Nam tại thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, một trong những lý do dẫn đến sự suy giảm có thể là do chất lượng dăm của Việt Nam không ổn định, một phần do chất lượng kém. Giá dăm trên thị trường thế giới giảm cùng với biến động về thị phần giữa các nguồn cung tại Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ dăm lớn nhất trên thế giới đã có tác động trực tiếp tới tình hình sản xuất và xuất khẩu dăm tại Việt Nam. Việt Nam là nước cung dăm lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên vẫn chưa có vai trò quyết định đến việc vận hành của thị trường quốc tế. Nói cách khác, ngành dăm của Việt Nam vẫn chưa tạo được thế chủ động trên thị trường quốc tế. Báo cáo này cho rằng việc áp dụng 2% thuế xuất khẩu dăm kể từ đầu năm 2016 không phải là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tụt giảm lượng và kim ngạch xuất khẩu dăm của Việt Nam. Tuy nhiên, báo cáo cho rằng thuế xuất khẩu 2% làm ngành chế biến xuất khẩu dăm của Việt Nam đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn. Chí phí nguyên liệu tăng (2,5-2,8 USD/tấn) trong lúc nhu cầu tiêu thụ dăm của Việt Nam tại Trung Quốc bị thu hẹp và giá xuất khẩu giảm đã làm cho mức độ cạnh tranh giữa các nguồn cung dăm trên thị trường quốc tế trở nên khốc liệt hơn. Lệ thuộc vào thị trường tiêu thụ quốc tế, các doanh nghiệp dăm của Việt Nam không thể tăng giá bán. Một số doanh nghiệp tìm cách chuyển các chi phí có liên quan đến thuế xuất khẩu xuống khâu đầu tiên của chuỗi cung, là các hộ gia đình trồng rừng. Kết quả là những hộ nghèo không có nguồn thu thay thế bắt buộc phải bán rừng và chịu thua thiệt, với lợi ích kinh tế từ rừng trồng năm 2016 bị giảm 30-40% so với năm 2015. Một số doanh nghiệp khác cắt giảm lãi suất, chia sẻ chi phí gia tăng do thuế với các hộ trồng rừng và các khâu khác trong chuỗi cung. Một số doanh nghiệp thu nhỏ quy mô hoặc thậm chí ngừng sản xuất kinh doanh. Điều này tác động đến hàng trăm nghìn lao động tham gia vào chuỗi cung ứng dăm. Báo cáo này cũng cho rằng giá xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam giảm không chỉ bởi sự giảm giá mặt hàng dăm trên thị trường thế giới mà còn do một số vấn đề nội tại của chính ngành dăm Việt Nam. Ngành dăm Việt Nam hiện nay phát triển chưa đồng bộ, thiếu chiến lược dài hạn, vẫn còn mang nặng tính chạy theo 21


phong trào. Trong ngành dăm đã và đang có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, phát triển mất kiểm soát, đặc biệt là đối với cơ sở chế biến quy mô nhỏ, hộ gia đình ở một số địa phương. Báo cáo gần đây của Ủy Ban Nhân Dân (UBND) tỉnh Thanh Hóa cho thấy trong 42 cơ sở sản xuất dăm gỗ nằm trong địa bàn tỉnh thì chỉ có 11 cơ sở được chấp thuận sản xuất dăm gỗ, với tổng công suất 330.000 tấn/năm, trong khi công suất băm dăm gỗ thực tế của các cơ sở này đã lên tới 729.000 tấn/năm, vượt 2,2 lần công suất cho phép.8 Điều này có nghĩa rằng 74% số cơ sở dăm hiện đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là bất hợp pháp. Bên cạnh đó, 26% số cơ sở hoạt động hợp pháp là các cơ sở hiện có công suất hoạt động vượt xa so với công suất cho phép. Nếu nói theo một cách chặt chẽ thì hầu hết các cơ sở sản xuất dăm tại địa bàn này đều là các cơ sở hoạt động không hợp pháp. Thanh Hóa không phải là địa phương duy nhất đang tồn tại thực trạng này; một số địa bàn khác của tỉnh Nghệ An và Phú Thọ cũng có những vấn đề tương tự. Phát triển tự phát, thậm chí mất kiểm soát của cơ sở chế biến dăm quy mô nhỏ tại một số địa phương đang làm phát sinh một số vấn đề gây tác động tiêu cực đến toàn bộ ngành dăm, trong đó có vấn đề cạnh tranh về nguồn nguyên liệu giữa các nhà máy dăm. Báo cáo của UBND tỉnh Thanh Hóa nhấn mạnh: “Tình trạng thiếu nguyên liệu đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, tranh mua, tranh bán, gây mất trật tự xã hội… Các cơ sở sản xuất dăm gỗ trái phép nhưng không được xử lý kịp thời…” Cạnh tranh không lành mạnh về nguồn nguyên liệu giữa các cơ sở chế biến dăm là một trong những nguyên nhân đẩy giá xuất khẩu giảm sút. Cuộc chạy đua của các cơ sở sản xuất dăm, đặc biệt là các cơ sở quy mô nhỏ có hình hài của một cuộc chạy đua xuống đáy, điều này đi ngược lại với xu thế phát triển trong sản xuất kinh doanh. Phát triển nóng, chạy theo thị trường đặc biệt trong khối các cơ sở sản xuất dăm quy mô nhỏ dẫn đến hiện tượng mất kiểm soát về chất lượng dăm xuất khẩu. Tại một số địa bàn của tỉnh Phú Thọ, một số cơ sở chế biến đã trộn dăm với một số sản phẩm ván bóc, gây hiện tượng mùn hóa dăm trong thời gian ngắn. Một số cơ sở sản xuất dăm của Thanh Hóa trộn dăm lẫn vỏ cây. Chất lượng dăm giảm, gây mất lòng tin khách hàng, đặc biệt là tại các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc. Chất lượng dăm giảm cũng tạo cơ hội cho người nhập khẩu trong việc ép giá dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Điều này ảnh hưởng đến toàn ngành dăm, bao gồm cả những địa phương có chất lượng dăm mảnh cao như vùng Quảng Ngãi, Bình Định. Cho đến nay, hiện chưa có quy định hoặc chính sách nào của các cơ quan quản lý quy định về chất lượng dăm xuất khẩu. Bên cạnh đó, hiện cũng chưa có bất cứ một tổ chức hoặc hiệp hội nào có tiếng nói đại diện cho cả ngành chế biến xuất khẩu dăm của Việt Nam. Thiếu vắng cơ chế kiểm soát chất lượng và liên kết trong ngành dăm là các vấn đề nội tại rất lớn của ngành dăm, tác động đến sự sống còn của ngành hiện tại và trong tương lai. Hạn chế xuất khẩu dăm gỗ nhằm tạo nguồn nguyên liệu gỗ lớn cho ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu, tạo giá trị gia tăng cho nguồn gỗ rừng trồng là định hướng hoàn toàn đúng đắn của các cơ quan quản lý. Thuế xuất khẩu là một trong những công cụ quan trọng của Chính phủ, nhằm hạn chế sự phát triển ồ ạt của ngành chế biến dăm, gây tác động tiêu cực không phải chỉ riêng cho ngành dăm mà còn cho toàn ngành gỗ nói chung. Tuy nhiên, chính sách thuế xuất khẩu chỉ là một trong những điều kiện cần, chưa phải là đủ. Chính sách này chỉ có thể phát huy được tác dụng trong những điều kiện sau: Hộ gia đình trồng rừng có nguồn lực để trồng rừng gỗ lớn. Bên cạnh nguồn lực tiếp cận đất đai, hộ cần có nguồn vốn đầu tư để trồng rừng gỗ lớn. Chu kỳ cây kéo dài đòi hỏi hộ phải có nguồn sinh kế thay thế. Trong bối cảnh này, chỉ có các hộ có nguồn lực kinh tế mới có khả năng tham gia đầu tư. Ngược lại, các hộ 8 Thông báo số 76 của UBND Tỉnh Thanh Hóa ngày 17 tháng 5 năm 2016 về Kết luận của Phó Chủ tịch thường trực UBND Tỉnh Nguyễn Đức Quyền tại Hội nghị nghe báo cáo kết quả kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt độn sản xuất của các cơ sở băm dăm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

22


gia đình hạn hẹp về nguồn thu và nguồn sinh kế thay thế hạn chế, không ổn định sẽ không có nguồn lực thực hiện hoạt động đầu tư này. Hạn chế về sinh kế của hộ gia đình trong việc tham gia đầu tư trồng rừng gỗ lớn có thể được giải quyết nếu có các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài dành cho hộ. Các nguồn vốn này có thể là vốn vay ưu đãi trực tiếp từ Chính phủ và /hoặc vốn đầu tư từ các công ty tư nhân, đặc biệt là các công ty cần nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình (ví dụ công ty chế biến gỗ, xưởng xẻ). Mặc dù đến nay đã có nhiều thảo luận và kiến nghị đối với Chính phủ về các chính sách tín dụng ưu đãi dành cho hộ trồng rừng, hiện vẫn chưa có một chính sách cụ thể nào nhằm giải quyết các khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn lâu dài cho hộ. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư tư nhân vào trồng rừng thông qua hình thức liên doanh liên kết với các hộ có đất đến nay vẫn rất hạn chế, bởi những khó khăn liên quan đến chi phí giao dich (transaction cost), tính không chuyên nghiệp của các hộ trồng rừng khi tham gia vào các hoạt động liên doanh liên kết với công ty. Các hạn chế này có thể được giảm thiểu nếu chính quyền địa phương đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong việc thúc đẩy kết nối hình thành liên doanh liên kết giữa công ty và các hộ trồng rừng. Tuy nhiên, đến nay vai trò của chính quyền địa phương trong những mô hình này hết sức mờ nhạt. Tiếp cận với nguồn vốn dài hạn, ưu đãi chưa đủ để có thể giúp cho hộ gia đình phát triển trồng rừng gỗ lớn. Giống, tiếp cận khoa học kỹ thuật và rủi ro thiên tai đối với rừng trồng đóng vai trò quan trọng cho hộ gia đình trong việc quyết định trồng rừng làm dăm hay làm nguyên liệu chế biến gỗ. Hạn chế về tiếp cận các nguồn giống tốt, chống chịu sâu bệnh và thời tiết khắc nghiệt như gió bão không cho phép các hộ gia đình kéo dài chu kỳ rừng trồng của mình. Trong điều kiện hạn chế này, các hộ gia đình lựa chọn giải pháp trồng rừng làm dăm và không lựa chọn trồng rừng gỗ lớn. Nói cách khác, bên cạnh việc tiếp cận về nguồn vốn đầu tư, các giải pháp về khoa học công nghệ có tiềm năng sẽ góp phần thúc đẩy các hộ gia đình chuyển đổi từ sản xuất nguyên liệu dăm sang nguyên liệu gỗ. Tiếp cận thị trường cho các sản phẩm gỗ đầu ra của các hộ gia đình sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong quyết định của hộ trong việc lựa chọn trồng rừng làm dăm hay làm gỗ nguyên liệu cho ngành chế biến đồ gỗ. Tại các địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An nơi còn thiếu vắng các cơ sở chế biến gỗ nguyên liệu, giải pháp kéo dài chu kỳ cây, tạo nguồn nguyên liệu gỗ lớn phục vụ cho ngành chế biến đồ gỗ không phải là giải pháp tối ưu, thậm chí còn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong việc trồng rừng của hộ. Thiếu các cơ sở chế biến gỗ nguyên liệu bắt buộc các hộ gia đình phải bán gỗ làm dăm. Nói cách khác, trong bối cảnh thiếu vắng các cơ sở chế biến gỗ nguyên liệu cho ngành chế biến thay thế cho ngành dăm, kéo dài chu kỳ cây nhằm tạo gỗ lớn không đảm bảo nguồn gỗ này sẽ được đưa vào chế biến đồ gỗ. Tóm lại, việc trồng rừng làm dăm hay làm nguyên liệu gỗ phụ thuộc vào một tập hợp các yếu tố có liên quan đến nội tại của hộ trồng rừng và các yếu tố bên ngoài, trong đó chính sách của Nhà nước bao gồm cả chính sách thuế xuất khẩu dăm chỉ là một yếu tố trong tập hợp đó. Để tạo được sự dịch chuyển sản xuất dăm sang sản xuất nguyên liệu cho chế biến đồ gỗ cần một gói chính sách, bao gồm cả các chính sách mang tính chất hỗ trợ và bắt buộc. Trong ngắn hạn, xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam vẫn còn là một kênh thị trường quan trọng cho hàng triệu hộ gia đình trồng rừng và người lao động, trực tiếp góp phần vào cải thiện sinh kế, nâng cao độ che phủ của rừng. Vấn đề cần giải quyết trong ngắn hạn là đảm bảo chất lượng dăm xuất khẩu và tạo tiếng nói chung của cả ngành dăm, từ đó góp phần giảm thiểu nguy cơ ép giá từ người mua, gây thua thiệt cho ngành dăm nói riêng và cả ngành gỗ nói chung.

23


7. Kết luận Báo cáo này tìm hiểu thực trạng của ngành dăm gỗ Việt Nam trong thời gian gần đây. Báo cáo đưa ra một số thông tin nhằm định vị vai trò của ngành dăm Việt Nam trên bản đồ cung – cầu của thị trường dăm gỗ thế giới. Bên cạnh đó, Báo cáo chỉ ra một số vấn đề nội tại của ngành dăm, bao gồm các vấn đề có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của ngành dăm trong tương lai. Mặc dù là một trong những quốc gia có nguồn cung dăm lớn nhất trên thế giới, vị thế của ngành dăm gỗ Việt Nam trên bản đồ cung – cầu dăm còn tương đối mờ nhạt, chưa khẳng định được thế chủ động của mình trong việc vận hành thị trường cung – cầu quốc tế. Những tín hiệu cung – cầu của thị trường quốc tế về dăm trong thời gian gần đây cho thấy ngành dăm của Việt Nam đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt với sự canh tranh khốc liệt với các nguồn cung dăm lớn trên thế giới, đặc biệt là từ Úc và Thái Lan (một phần từ Chi Lê). Báo cáo của Công ty New Forest (Úc), là công ty cung cấp dăm lớn nhất của Úc, một năm có lượng cung dăm lên tới 4 triệu tấn/năm chỉ ra một số điểm yếu, thể hiện tính không bền vững của ngành dăm Việt Nam, bao gồm các khó khăn về khía cạnh kinh tế, thiếu tiếp cận nguồn vốn đầu tư và hạn chế trong chính sách xuất khẩu dăm của Chính phủ (New Forest, 2015). Đây là các khó khăn hạn chế sự mở rộng và phát triển của ngành dăm Việt Nam trong tương lai. Khó khăn của ngành dăm Việt Nam không chỉ sản sinh từ các khía cạnh thị trường xuất khẩu, mà còn bởi chính bản thân nội tại của ngành. Phát triển nóng, chạy theo thị trường, mất kiểm soát về chất lượng, cạnh tranh không lành mạnh đã và đang tác động trực tiếp đến hình ảnh của toàn ngành dăm Việt Nam, làm giảm vị thế cạnh tranh của mặt hàng này trên trường quốc tế. Đây cũng chính là những tín hiệu của ‘cuộc đua xuống đáy’ hiện đang diễn ra, đặc biệt trong các cơ sở chế biến quy mô nhỏ, mới được hình thành. Mặc dù còn có nhiều ý kiến trái chiều về sự tồn tại và phát triển của ngành dăm, đến nay ngành dăm vẫn còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo và duy trì sinh kế của các hộ gia đình trồng rừng, trong đó có nhiều hộ dân nghèo. Bên cạnh đó, tồn tại của ngành dăm cũng góp phần quan trọng trong việc nâng cao độ che phủ của rừng. Tuy nhiên, để ngành dăm tồn tại bền vững cần có những giải pháp mạnh mẽ, trong đó đòi hỏi phải tạo ra được tiếng nói chung của toàn ngành và nâng cao vị thế của ngành trên thị trường quốc tế thông qua việc kiểm soát chất lượng sản phẩm và nghiên cứu đánh giá thị trường. Định hướng chuyển đổi từ sản phẩm dăm sang sản phẩm đồ gỗ là định hướng hoàn toàn đúng đắn của Chính phủ. Tuy nhiên, để tạo được sự chuyển đổi cần có những gói giảm pháp về cơ chế chính sách bên cạnh những đánh giá đúng đắn về năng lực của hộ trồng rừng. Thiếu vắng các yếu tố này dẫn đến các hạn chế về hiệu quả của các định hướng hiện tại và trong tương lai.

24


Tài liệu tham khảo Bộ Tài Chính, 2015. Thông Tư số 182/2015/TT-BTC ngày 16 tháng 11 năm 2015 Ban hành Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế. New Forest. 2015. Pulp & Paper: Focus on hardwood opportunities. New South Wales: A Report. Quyết định 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 8 tháng 7 năm 2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp”. Quyết định 919/QĐ-BNN-TCLN ngày 5 tháng 5 năm 2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến giai đoạn 2014-2020 Quyết định 651/QĐ-BNN-TCLN ngày 27 tháng 2 năm 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt kế hoạch triển khai phương án quản lý sản xuất dăm gỗ giai đoạn 2014-2020. RISI. 2016. International Pulpwood Trade Review 2016. At website: http://www.risiinfo.com/product/2016international-pulpwood-trade-review/ Trần Lê Huy và Tô Xuân Phúc, 2013. Ngành công nghiệp dăm gỗ Việt Nam: Thực trạng và xu hướng phát triển trong tương lai. Forest Trends, FPA Bình Định, VIFORES. Hà Nội, tháng 5 năm 2013. Tô Xuân Phúc, Trần Lê Huy, Nguyễn Tôn Quyền, Huỳnh Văn Hạnh, Cao Thị Cẩm, 2015. Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam 2012-2014. Forest Trends, HAWA, VIFORES, FPA Bình Định. Hà Nội, tháng 6 năm 2016.

25


Phụ lục Phụ lục 1. Khối lượng dăm gỗ xuất khẩu của VN theo thị trường, 2013–5 tháng đầu năm 2016 Lượng (Tấn khô) Các nước

2013

Trung Quốc

4.223.510

3.680.632

4.084.667

512.548

Nhật Bản

2.202.691

2.348.872

3.169.567

550.499

Hàn Quốc

455.997

525.235

432.688

98.008

Singapore

71.519

97.000

368.255

800

36.125

293.732

Hồng Kông

2014

Andorra

2015

5 T 2016

32.629

285.241

Đài Loan

90.700

89.106

59.960

Ấn Độ

17.000

21.500

23.300

133.130

20.119

1.244

7.509

1.329

3.254

7.063.461

6.971.740

8.076.870

1.826.295

Zimbabwe Các nước khác Tổng cộng

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Phụ lục 2. Giá trị xuất khẩu dăm gỗ của VN theo thị trường giai đoạn 2013–5 tháng đầu năm 2016 Trị giá (USD) Các nước

2013

2014

2015

5 T 2016

Trung Quốc

600.541.461

510.844.618

594.999.493

67.759.625

Nhật Bản

291.227.360

313.679.429

451.075.789

77.101.499

Hàn Quốc

66.478.547

75.335.636

66.710.335

13.663.676

Singapore

11.101.839

12.478.000

49.850.232

96.800

4.656.764

38.591.487

Hồng Kông Andorra Đài Loan Ấn Độ

4.989.200

38.848.810

11.567.500

10.975.868

7.627.416

2.201.500

3.547.500

3.829.000

20.520.440

3.093.601

175.237

1.017.152

216.260

1.180.378

983.390.245

958.044.609

1.166.400.705

248.146.898

Zimbabwe Các nước khác Tổng cộng

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

26


Phụ lục 3. Khối lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo các cảng biển Lượng (Tấn khô)

Cảng 2013

2014

2015

5 T 2016

Cảng Cái Lân

984.860

895.279

1.472.644

153.443

Cảng Nghi Sơn

293.183

813.160

1.211.014

274.898

Cảng Qui Nhơn

1.068.950

766.050

1.147.758

168.010

Cảng Dung Quất

815.854

477.238

827.256

290.500

Cảng QT Germadept DQ

712.545

523.871

724.229

260.000

Cảng Chân Mây

557.200

493.000

535.996

94.067

Cảng Vũng Áng

493.800

371.691

447.605

100.387

Cảng SITV

288.625

191.300

291.000

34.000

Cảng Cửa Lò

145.654

171.503

286.479

105.270

Cảng Tiên sa

411.605

189.652

260.533

105.000

Các cảng khác

1.291.186

2.078.996

872.356

240.721

Tổng cộng

7.063.461

6.971.740

8.076.870

1.826.295

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Phụ lục 4. Giá trị xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam theo các cảng biển Trị giá (USD)

Cảng 2013 Cảng Cái Lân

2014

2015

5 T 2016

133.610.764

121.750.328

211.124.197

21.387.308

Cảng Nghi Sơn

43.580.619

117.146.717

175.933.904

36.525.825

Cảng Qui Nhơn

159.392.100

106.580.650

163.563.554

21.872.177

Cảng Dung Quất

109.658.666

62.907.020

117.648.688

39.914.500

Cảng QT Germadept DQ

107.203.083

80.960.646

111.852.452

35.890.683

Cảng Chân Mây

73.677.550

64.745.690

78.128.803

13.122.503

Cảng Vũng Áng

68.388.892

50.196.897

64.101.780

13.557.786

Cảng SITV

34.550.760

24.493.484

40.426.200

4.596.000

Cảng Cửa Lò

20.038.090

22.525.398

40.379.577

13.519.840

Cảng Tiên sa

55.240.296

25.273.756

37.000.224

14.593.880

Các cảng khác

178.049.425

281.464.024

126.241.326

33.166.397

Tổng cộng

983.390.245

958.044.609

1.166.400.705

248.146.898

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

27


Phụ lục 5. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo các tháng từ 2013 Tháng

Lượng (Tấn) 2013

2014

2015

5 T 2016

Tháng 1

474.482

615.751

685.356

175.280

Tháng 2

482.061

629.654

532.892

28.827

Tháng 3

564.988

669.874

501.242

525.245

Tháng 4

608.261

629.350

604.780

635.614

Tháng 5

517.763

545.859

659.162

461.329

Tháng 6

643.806

426.723

609.913

Tháng 7

606.104

304.550

673.548

Tháng 8

636.323

734.163

684.846

Tháng 9

714.742

547.516

607.967

Tháng 10

627.083

631.989

675.631

Tháng 11

463.054

574.967

648.645

Tháng 12

724.794

661.343

1.192.889

Tổng XK

7.063.461

6.971.740

8.076.870

1.826.295

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Phụ lục 6. Giá trị xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam theo các tháng từ 2013 Tháng

Trị giá (USD) 2013

2014

2015

5 T 2016

Tháng 1

66.266.621

87.514.966

98.527.799

24.324.371

Tháng 2

67.820.738

87.878.806

77.939.447

4.060.878

Tháng 3

78.978.643

91.918.207

71.548.192

73.332.675

Tháng 4

86.491.514

83.848.556

87.005.955

85.178.053

Tháng 5

75.549.353

73.014.946

95.387.740

61.250.921

Tháng 6

91.472.544

56.705.141

87.121.599

Tháng 7

82.775.978

39.579.112

97.293.801

Tháng 8

86.138.590

97.445.926

99.007.249

Tháng 9

96.732.541

74.585.256

88.315.176

Tháng 10

86.239.386

89.422.273

97.514.535

Tháng 11

63.039.737

81.558.710

94.328.985

Tháng 12

101.884.599

94.572.711

172.410.227

Tổng XK

983.390.245

958.044.609

1.166.400.705

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

28

248.146.898


Phụ lục 7. Lượng dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo loại gỗ giai đoạn 2013 –năm 2015 Khối lượng (BDMT)

Tên gỗ

2013

2014

2015

Keo/tràm

6.608.942

6.719.785

7.469.465

Bạch đàn

367.885

157.200

338.462

86.635

94.755

268.943

7.063.461

6.971.740

8.076.870

Khác (keo, bạch đàn, cao su, thông) Tổng XK Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

Phụ lục 8. Giá trị dăm gỗ xuất khẩu của Việt Nam theo loại gỗ giai đoạn 2013 –năm 2015 Tên gỗ

Trị giá (USD) 2013

2014

2015

Keo/tràm

919.511.869

923.801.617

1.081.979.207

Bạch đàn

52.863.364

21.152.500

45.366.800

Khác (keo, bạch đàn, cao su, thông)

11.015.012

13.090.492

39.054.698

983.390.245

958.044.609

1.166.400.705

Tổng XK Nguồn: Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, 2013-2016

29


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.