Lễ Khai Mạc Hội Ngộ 50 Năm Khóa 17 / SQTB / Thủ Đức
Luu Niem
Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng và Một Số Sỉ Quan Đồng Môn Khóa 17 Cùng Gia Đình
*****
ĐẶC SAN Hội Ngộ Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
THƯ NGỎ Quyển Đặc San “Chào Mừng 50 Năm Hội Ngộ Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức” nầy đến tay quý Bạn Đồng Môn và Thân Hữu trong một hoàn cảnh mà chính chúng ta, những người trong cuộc, những Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 17 Nguyễn Thái Học của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức cách đây đúng 50 năm, không ngờ sẽ có được ngày hôm nay. Năm mươi năm đã lặng lẽ trôi qua, trong đó có gần mười một năm miệt mài bên lằn tên mũi đạn, những tưởng giòng đời vô tình sẽ xóa nhòa đi tất cả những kỷ niệm kể từ ngày chia tay nhau tại ngôi Trường Mẹ trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, để ra đi dấn thân vào cuộc chiến ở khắp Bốn Vùng Chiến Thuật. Biết bao những thay đổi thăng trầm, biết bao những biến thiên nghiệt ngã… kể từ sau ngày tất cả anh em chúng ta đã phải nửa đường gãy gánh, tan tác khắp bốn phương trời. Vậy mà hôm nay, chúng ta đã được ngồi lại bên nhau, để được thấy mặt lại nhau sau đúng nửa thế kỷ, được nói cười bên nhau nhắc lại những kỷ niệm vui buồn, và cũng có thể để được khóc bên nhau cho những mất mát hy sinh của những bạn bè, đã anh dũng nằm xuống trong công cuộc chiến đấu bi hùng của một quảng đời tận trung báo quốc, hay đã vĩnh viễn ra đi trên bước đường lưu vong ở hải ngoại. Chào mừng 50 Năm Hội Ngộ, xin được lắng lòng xuống để tưởng nhớ về một nơi chốn thân thương: Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, nơi mà hơn một ngàn chàng thanh niên tuấn tú của nước Việt đã theo tiếng gọi của quê hương lên đường tòng quân nhập ngũ Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị, để rồi sau đó đã trở thành những cấp chỉ huy ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hiên ngang dấn thân vào cuộc chiến bảo vệ Tổ Quốc thân yêu. Chào mừng 50 Năm Hội Ngộ, xin được cùng nhau hồi tưởng lại một quá khứ kiêu hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà trong đó, những chàng trai xuất thân từ Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức có quyền hảnh diện là đã làm rạng danh ngôi Trường Mẹ bằng những cống hiến tuyệt vời cho Quân Lực, với những tài năng đức độ, với những kiến thức trẻ trung, cùng với lòng hy sinh quả cảm của những người đã tự trang bị cho mình một lý tưởng, một mục tiêu để chiến đấu trước quân Xâm lược Cộng sản Phương Bắc cực kỳ gian ác…. Kính thưa quý Bạn Đồng Môn, Vượt qua tất cả những khó khăn, quyển Đặc san “Chào Mừng Hội Ngộ 50 Năm Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức” đến tay quý bạn như một món quà lưu niệm của những Đồng Môn từng một thời tay cung tay kiếm cùng nhau bảo vệ sơn hà, giờ thì tuy cung đã gãy, kiếm đã chẳng còn, cùng với tuổi đời chồng chất, nhưng với một tấm lòng sắt son với đất nước, chúng ta đã tìm đến bên nhau, ngồi lại bên nhau, trước để ôn lại những kỷ niệm tươi đẹp của một thời son trẻ, sau để được trang trãi những hoài bảo đã từng ấp ủ một thời. Không là những cây viết chuyên nghiệp, chỉ mong được mang đến cho nhau những tâm tình mộc mạc của một người lính QLVNCH, khơi dậy cho nhau những kỷ niệm vui buồn một đoạn đời quân ngũ của một Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 17 SQTB Thủ Đức, do đó xin quý bạn Đồng Môn cũng như quý độc giả Thân Hữu lượng thứ cho tất cả những lổi lầm ngoài ý muốn. Nhân đây Ban biên tập Đặc San cũng xin được gởi lời tri ân đến tất cả những Đồng Môn đã dấn thân đứng ra tổ chức buổi “Họp Mặt 50 Năm Ra Trường Khóa 17 SQTB/TĐ”, không có sự dấn thân đó, Đặc San nầy không bao giờ hình thành, và cũng không có sự dấn thân đó, chúng ta không có được buổi sum vầy họp mặt ngày hôm nay. Và cuối cùng là lời cám ơn chân thành đến các Chiến hữu của Nguyệt San Diều Hâu Florida, đã tận tình yểm trợ phần kỷ thuật để thực hiện quyển Đặc san nầy. Mối dây thân ái của Khóa 17 Thủ Đức đã được liên kết, xin mời quý Đồng Môn hãy cùng nhau thắt chặt, và để cùng hướng về quê nhà với một niềm tin son sắt: một ngày nào đó không xa, Tổ quốc Việt Nam thân yêu sẽ sạch bóng quân xâm lược Cộng sản./. Ban Biên Tập Đặc San “Chào Mừng Hội Ngộ 50 Năm Khóa 17 SQTB/TĐ” ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC5
LƯỢC SỬ KHÓA 17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ĐỨC. những chàng trai ưu tú của đất nước trong những bộ quân phục mới toanh đã bắt đầu một cuộc đời mới của một Sinh viên Tân Khóa Sinh của Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. NHỮNG CÁNH CHIM TRỜI
NHỮNG CÁNH CHIM ĐẦU ĐÀN
Trung tuần tháng Giêng năm 1964, gần một ngàn Sinh Viên Sĩ Quan, trong đó tất cả đều là những thanh niên có ít nhất văn bằng Tú Tài I trở lên, hoặc được lệnh động viên, hoặc tình nguyện dấn thân vào cuộc đời quân ngũ, những người mà trước đây vài tuần còn là những thư sinh bạch diện vừa rời mái học đường của năm cuối trung học hay những năm đầu của đại học, hoặc là những công chức giáo chức, những chuyên viên kỹ thuật, kể cả những sinh viên vừa tốt nghiệp ở ngoại quốc về ….Tất cả đã tụ họp hôm nay đây tại Vũ Đình Trường trên đỉnh đồi Tăng Nhơn Phú để dự Lễ Khai Giảng Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Được quy tụ thành 7 đại đội Sinh viên với quân số trên dưới 120 người cho mỗi đại đội, đánh số từ đại đội đầu tiên là Đại Đội 9, rồi đến 10, 11, 12,13, 14 và 15. Riêng Đại Đội 16 là đại đội của sinh viên sĩ quan Bảo An do Tổng Nha Bảo An gởi đi thụ huấn, đại đội được tuyển dụng qua một cuộc thi tuyển để chọn những thanh niên ưu tú phục vụ riêng cho ngành Bảo An Đoàn, sau nầy được cải danh thành Địa Phương Quân . Các Đại Đội 9, 10 và 11 trú đóng ở những căn nhà gạch khang trang chung quanh có nhiều cây cao bóng mát gần Đại Giảng Đường chánh của quân trường. Còn các Đại Đội 12, 13, 14, 15 và 16 chỉ có văn phòng các đại đội nằm trong dãy nhà gạch, còn các trung đội sinh viên tọa lạc trong các dãy nhà tôn mới cất sau nầy tương đối nhỏ hẹp trên phần đất thoai thoải dốc gần Câu lạc bộ Thanh Hoa. Như những cánh chim non từ khắp bốn phương trời đồ về Tổ Mẹ để cùng nhau mài nanh chọn vuốt,
Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức ngay sau cuộc Cách Mạng 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm thành công, Đại Tá Lam Sơn Phan Đình Thứ đã bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng huyền chức, Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám được chỉ định thay thế chức vụ Chỉ Huy Trưởng. Là một vị Tướng Lãnh cởi mở vui tánh, ông đã đem lại một bầu không khí “dễ thở” hiếm có ở một quân trường nổi tiếng ở Việt Nam. Đó là cái may mắn đầu tiên của Khóa 17 Thủ Đức, một khóa Sĩ Quan Trừ Bị được hình thành ngay sau một biến chuyển cực kỳ quan trọng của Miền Nam Tự Do. Bộ Chỉ Huy của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào đầu năm 1963 của Khóa 17 vào Giai Đoạn I : -Chỉ Huy Trưởng : Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám -Tham Mưu Trưởng : Trung Tá Nguyễn Duy Hinh -Trưởng khối Quân Huấn : Trung Tá Đồng văn Khuyên -Liên Đoàn Trưởng LĐ Sinh Viên : Thiếu Tá Phan Như Hiên -Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3SV : -Tiểu Đoàn Trưởng TĐ4SV : Đại Úy Thái văn Tư Các vị Đại Đội Trưởng Sinh Viên các đại đội : -Đại Đội 9 : Tr/u Trần văn Ba -Đại Đội 10 : Tr/u Nguyễn văn Thọ -Đại Đội 11 : Tr/u Lê Hoàng Hạc -Đại Đội 12 : Tr/u Nguyễn Tiến Mỹ -Đại Đội 13 : Tr/u Lê Mạnh Chung -Đại Đội 14 : Tr/u Nguyễn văn Hồng -Đại Đội 15 : Tr/u Lê văn Viên -Đại Đội 16 : Tr/u Nguyễn Thanh Tòng . Vào giai đoạn II của Khóa 17 , Bộ Chỉ Huy
6ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức có những thay đổi như sau : -Chỉ Huy Trưởng : Chuẩn Tướng Bùi Hữu Nhơn. -Tham Mưu Trưởng : Trung Tá Đào Duy Ân -Trưởng khối Quân Huấn : Trung Tá Đồng văn Khuyên -Liên Đoàn Trưởng LĐ Sinh Viên : Thiếu Tá Hà văn Tấn Ở Giai Đoạn II nầy , gần phân nữa đã được phân phối đi học các binh chủng chuyên môn , nên số sinh viên còn ở lại học tiếp giai đoạn hai đã được phối trí lại như sau : -Đại Đội 1 : Tr/u Lê Mạnh Chung -Đại Đội 2 : Tr/u Nguyễn văn Hồng -Đại Đội 3 : Tr/u Nguyễn Thanh Tòng -Đại Đội 4 : Tr/u Trần văn Ba -Đại Đội 5 : Tr/u Nguyễn văn Thọ LÒ TRUI LUYỆN THÉP Từ một thanh niên vửa bở ngỡ bước vào đời quân ngũ, những chàng trai Tân Khóa Sinh đi từ những ngạc nhiên nầy đến những ngạc nhiên khác cho một cuộc sống tập thể quá mới mẽ tại quân trường. Từ tờ mờ sáng cả đại đội đã được đánh thức, vệ sinh cá nhân thật ngắn gọn. Chạy bộ một vòng quanh Vũ Đình Trường trước khi trở về trung đội ăn điểm tâm sáng bằng một ổ bánh mì bằng cườm tay, một bọc nylon nhỏ đựng chả lụa, một trái chuối già và cuối cùng là một sô lớn cà phê sửa nóng cho cả trung đội. Rồi những môn học quân sự bắt đầu. Trước tiên là những bài học về cơ bản thao diển , trong đó việc tập họp hàng ngang hàng dọc , việc đi đều bước đếm nhịp một-hai-ba-bốn thay vì một-hai như hồi nhỏ lúc còn học tiều học hay trung học. Đi tay không coi bộ đều hàng rồi thì đi đều bước với súng ống trên vai. Ôi! cái khẩu Garant M1 sao mà nặng quá, để trên vai thì lại đau ê ẩm cả bờ vai! Rồi những môn học kế tiếp Tác xạ - Vũ khí - Mìn (TVM), rồi Địa hình , rồi Chiến thuật, trong đó có bài học “ngụy trang” bị phạt lên phạt xuống cũng bởi mang ba lô với đầy đủ súng ống đạn dược cùng với bi đông lưởi lê mà phải nhảy lên nhảy xuống , nhảy tới nhảy lui mà không được vang lên tiếng động, thì làm sao mà không tránh khỏi bị phạt mười lăm hai mươi cái hít đất? Tác xạ thực tập, lấy đường nhắm từ “lổ chiếu môn tới đỉnh đầu ruồi” dưới cái nắng cuối năm âm lịch chang chang ngoài xạ trường, đã khiến mồ hôi tuôn rơi lã chã làm mờ cả những cặp mắt kính cận thị! ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Rồi bia đứng bia bán thân, bia cố định bia di chuyển ….đã khiến những chàng sinh viên Tân khóa sinh ghìm chặt tay súng, nín thở bóp cò, cố sao cho những viên đạn đầu đời xuyên thẳng vào giữa điểm đen. Lại nữa môn Thể dục Quân sự cùng với bài học cận chiến, đã khiến thân thể của những chàng bạch diện thư sinh ngày nào sau những ngày đầu rêm xương rêm cốt, giờ thì đã thấy cứng cáp hơn xưa. Tay không chém chặt, đòn ngữa đòn hy sinh, đoạt dao đoạt súng …rồi báng súng lưởi lê, đâm phải chém trái, tất cả đã làm thân thể những chàng thanh niên từng trói gà không chặt, giờ trở nên rắng chắc. Rồi một ngày đẹp trời, cả 8 đại đội của Khóa 17 cùng tập trung ngoài sân bắn lớn để thực tập một bài học quân sự để đời : “Bò Dưới Hỏa Lực”. Sân bắn để thực tập bò dưới hỏa lực có lẽ được thiết lập từ lâu lắm và đã được tu sửa nhiều lần nên rất hoàn hảo. Trên một bãi đất rộng lớn được giăng trải những hàng lưới kẻm gai dày đặc cách mặt đất khoảng năm sáu tấc. Ở tuyến xuất phát tức điểm khởi hành là một dãy năm sáu ụ ciment trên đó đặt những khẩu đại liên 30 “giải nhiệt bằng nước” để tăng thêm độ an toàn. Đến phiên đại đội được thực tập, tất cả sinh viên sĩ quan của đại đội được trang bị súng trường Garant M, dây nịt TAB có gắn bi đông và lưởi lê dàn hàng ngang phía trước các ụ súng đại liên 30. Khi lệnh xuất phát bắt đầu, sinh viên sĩ quan nằm sắp xuống đất, súng để nằm ngang trên hai cánh tay rồi dùng hai cùi chỏ và hai chân trường tới dưới lớp kẻm gai dày đặc bên trên. Rồi năm sáu khẩu súng đại liên 30 phía sau bắt đầu nhả từng tràng đạn, dù lằn đạn bắn cao cả thước tây cách lớp kẻm gai, nhưng tai sinh viên vẫn nghe được những tiếng veo véo rợn người. Điểm cuối cùng là mức “xung phong” khi dàn đại liên thôi bắn, tất cả sinh viên đồng loạt chui ra khỏi lớp kẻm gai đứng dậy quăng lựu đạn giả và xung phong vào mục tiêu…Tuy nhiên bài học thực tập “bò dưới hỏa lực” nầy có lẽ toàn khóa 17 trình diển dở quá nên bị thượng cấp bắt phải làm lại lần thứ hai vào một ngày khác, làm tất cả anh em chảy dài bộ mặt! Bởi sau cuộc thực tập bò dưới hỏa lực, các “Sinh viên vũ khí” của các đại đội mệt bá thở , vì đại đội nào cũng có những sinh viên phải làm …7 bản báo cáo tổn thất, kẻ thì rớt mất bi đông, kẻ lưởi lê chỉ còn có cái vỏ, có kẻ mất cả bút nịch. Đặc biệt trên thân thể của khẩu súng Garant M1cũng có tổn thất, người thì mất nắp chỉnh hơi phía dưới nòng súng, cũng có sinh viên không biết cớ gì mà làm mất …..nguyên bộ máy cò khi bò hỏa lực! 7 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ĐÊM ALPHA Vậy mà thời gian cũng qua nhanh, mới đó mà đã hơn hai tháng trôi qua. Bộ mặt trắng nhợt yếu ớt của những thanh niên dân sự ngày nào đã biến mất, và giờ đây là những khuôn mặt rám nắng rắn rỏi của một quân nhân dù chỉ mới trải qua tám chín tuần lễ nơi quân trường. Và đêm nay, tại Vũ Đình Trường trên đỉnh đồi Tăng Nhơn Phú, gần một ngàn Sinh Viên Tân Khóa Sinh của Khóa 17 Thủ Đức nôn nao tham dự một nghi thức trọng đại nhất của đời binh nghiệp : “Lễ Gắn Alpha”. Giữa Vũ Đình Trường mênh mông được bao quanh bởi những hàng phi lao vi vút trong ánh sáng mờ nhạt của một buổi chiều tà, hàng hàng lớp lớp sinh viên sĩ quan được xếp thành những hàng dài thẳng tắp. Đầu Vũ Đình Trường, Trung Nghĩa Đài uy nghi với hàng chữ khắc thẳng đứng “Tổ Quốc Ghi Ơn” phủ đầy những vòng hoa với khói trầm nghi ngút được một toán sinh viên sĩ quan Khóa 16 đàn anh nghiêm trang đứng dàn hầu. Ba hồi chiêng trống vang rền giữa một không gian huyền ảo tĩnh mịch dưới hàng trăm ánh đuốc bập bùng. Từ loa phóng thanh, một mệnh lệnh vang vang nhưng sắc gọn của Thiếu úy Hồ Tấn Luy, vị Sĩ Quan chỉ huy buổi lễ : -“Quỳ - xuống - các - ngươi !” Những chàng sinh viên tân khoa trong quân phục số 2 kaki vàng cùng cà vạt đen quỳ chân trái xuống đồng loạt, mũ cát kết được giở xuống để lên đầu gối phải. Xen kẻ giữa hàng của sinh viên sĩ quan tân 8ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
khoa đang quỳ là những hàng dài của sinh viên đàn anh Khóa 16 cũng trong quân phục số 2, đang tiến lên xen kẽ thẳng hàng và từng người một, trao gắn cấp hiệu Alpha bằng đồng sáng chói lên cầu vai cho khóa đàn em. Mệnh lệnh của vị Sĩ Quan chỉ huy buổi lễ ban tiếp : -Đứng dậy các Sinh Viên Sĩ Quan! Trên khán đài chính nhìn xuống Vũ Đình Trường, Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám, Chỉ Huy Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức ban quân lệnh chào mừng các Tân Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 17. Ông nhắc đến câu phương châm “ Quân trường đổ mồ hôi, Chiến trường bớt đổ máu” để nhắc nhở các tân sinh viên sĩ quan cố gắng luyện tập để trở thành những Sĩ Quan ưu tú của QLVNCH, những cấp chỉ huy tương lai của một quân đội đang trên đà phát triển của một quốc gia đang là thành trì ngăn chặn sự xâm lược của Chủ nghĩa Cộng sản tại Đông Nam Á …. Đó là đêm 23 tháng Chạp Âm Lịch năm Quý Mão , tức là ngày Thứ Năm 6 tháng 2 năm 1964 . BUỒN VUI QUÂN TRƯỜNG Khóa 17 Trừ Bị Thủ Đức, như đã trình bày, là một khóa sĩ quan trừ bị được hình thành ngay sau cuộc Cách Mạng thành công “1 tháng 11”, có lẽ vì thế nên được thượng cấp cho hưởng một số đặc ân. Hoặc cũng có thể do tánh tình phóng khoáng cởi mở ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
của vị Chỉ Huy Trưởng vừa mới đáo nhậm là Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám, nên không khí quân trường Thủ Đức từ lúc nhập khóa cho đến hết giai đoạn I, đời sống sinh viên sĩ quan tương đối thoải mái. Trong khoảng thời gian của giai đoạn Tân khóa sinh chưa được gắn Alpha, Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng đã đặc cách cho các sinh viên Khóa 17 được luân phiên đi phép cuối tuần với quần áo thường phục, đó là điều chưa từng xảy ra cho hầu hết những khóa đàn anh trước đây. Vấn đề tóc tai cũng được dễ dãi, sinh viên không bắt buộc phải bị đẩy trọc hay cắt ngắn ba phân mà chỉ được khuyến cáo hớt sao cho gọn đẹp. Vấn đề ăn uống của sinh viên cũng được Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng lưu ý và chăm sóc, nhiều sinh viên đã chứng kiến đích thân Thiếu Tướng CHT đi thanh tra các nhà bếp và phòng ăn của sinh viên. Mỗi lần CHT đến thăm phòng ăn, sinh viên “Kiểm Thực” bị quay tơi bời và ai cũng bị Thiếu Tướng CHT hỏi : “ Hôm nay làm sinh viên kiểm thực, hồi sáng nầy đi chợ Sàigòn chắc cậu được bà Thầu đãi đằng thịnh soạn lắm phải không ?!” . Mà thiệt y chang như vậy. Điều nầy, những bạn từng là “sinh viên kiểm thực” chắc có kinh nghiệm ! Dù được chăm sóc chu đáo vấn đề ẩm thực, nhưng có lẽ vì thân thể vận động quá nhiều nên sinh viên sĩ quan lúc nào cũng cảm thấy đói. Tại bãi tập ngoài phần ăn được mang ra tận bãi, sinh viên còn được tăng cường bởi các gánh sương sâm, các gánh chè đậu đen đậu đỏ, mà những người bán hàng thuộc lòng chương trình huấn luyện, thời khắc biểu cũng như vị trí các bãi tập còn hơn là một ….sĩ quan cán bộ ! Đến tối về, thì khu “xóm nhà tôn” không thua cái chợ đêm với đầy đủ các món “cao lương mỹ vị”, từ phở đến bánh cuốn rồi bún bò Huế, kể cả cháo gà cháo vịt …. Hôm nào kẹt đạn, thì vài trứng hột vịt lộn cũng đủ làm ấm lòng chiến sĩ! Ăn gần riết rồi cũng chán, phải đi xa xa một chút để tìm những hương vị mới mẽ hơn, thì đây những Câu lạc bộ Thanh Hoa, Diệm Song, Xuân Hương với những bửa “cơm phần” hoặc những món “lai rai” khiến những chàng sinh viên chân ướt chân ráo vừa chập chửng vào đời cũng phần nào được nguôi ngoai đi cái cảnh “xa quê hương nhớ …mẹ hiền”. Đặc biệt ở các Câu lạc bộ nầy, các cô tiếp viên xinh quá là xinh, làm cho một số chàng sinh viên mỗi khi trở về phòng bước đi sao mà lảo đảo! Nhưng rồi chim trời cá nước biết đâu mà tìm sau ngày mãn khóa! Rồi những ngày cuối tuần phải ở lại trực gác , thì một địa điểm hấp dẩn khác dù đi bộ hơi mõi chân một ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chút vì ở mãi tận khu gia binh trường Thiếp Giáp. Nơi đây những tô bún bò Huế chỉ có thua …Huế hoặc Đà Nẳng thôi! Vừa cay vừa béo lại vửa thơm, nhất là những khoanh giò heo sao mà khéo nấu quá, mềm mà vẫn giòn cho nên nhai đến đâu thắm thía tới đó. Chưa kể đến việc nổi hứng lên nhờ chị chủ quán làm giùm vài món đồ nhậu, thì cũng xứng đáng cho cái ngày thứ bảy hoặc chủ nhật không được đi phép về Sàigòn phải ở lại quân trường để trực gác. Các bãi học thì có bãi gần có bãi xa. Gần như Vườn Đào phía trước quân trường đối diện với khu Chợ Nhỏ, là một bãi học phủ đầy bóng mát của những cây đào trồng để lấy hạt hay còn gọi là “điều lộn hột”, bãi học nầy dành để dạy môn địa hình như xử dụng địa bàn hay xem bản đồ, do một Sĩ quan huấn huyện viên gốc Pháo binh giảng dạy là Tr/u Tuấn có bộ râu “cá chốt” độc đáo xuất thân Khóa 5 Trừ Bị Thủ Đức. Ông thầy nầy sau trở về binh chủng Pháo binh làm đến chức Trung tá Tiểu Đoàn Trưởng tại Pleiku, sau 75 ở tù 8, 9 năm . Lúc được thả về ông làm nghề thủ công chế tạo kềm, kéo bằng kim loại học …lóm được khi còn ở trại Long Giao. Đến khi hải ngoại thịnh hành nghề “Nail”, ông trở thành triệu phú nhờ sản phẩm “ Kềm Nghĩa” được giới làm nghề Nail ưa chuộng. Ông hiện vẫn còn ở Việt Nam để hưởng lộc….trời cho. Những bãi học xa ngoài tận Ngã ba Long Thạnh Mỹ như Đồi 18, Đồi 25, vườn Cao Su, vườn Thơm cạnh xa lộ Biên Hòa, hầm Sạn, hồ Tự Tin…. Đặc biệt tại bãi học Đồi 25 có một cây duối cao lớn giống như hình một con dã nhơn khổng lồ sừng sửng đứng trên đỉnh đồi, chính tại đây sinh viên thuộc Đại Đội 13 Khóa 17 trong một buổi chiều học chiến thuật đã nghe một tiếng nổ lớn bất thường ở một bãi tập nào gần đó. Sau nầy biết ra là một tai nạn của khóa đàn anh 16 làm chết và bị thương một số sinh viên. Và cũng một lần trên đường ra bãi , Đại Đội 13 của Tr/u Lê Mạnh Chung sau khi di hành ra khỏi cổng Số 9 khoảng gần một cây số về hướng Ngả ba Long Thạnh Mỹ, đã bị một con trâu từ dưới ruộng xông lên rượt, khiến các sinh viên lẫn sĩ quan cán bộ quăng cả súng ống chạy tứ tán….cũng là một trong những kỷ niệm để đời của K17 TĐ. ĐƯỜNG RA BINH CHỦNG Khóa 17 Thủ Đức quả là một khóa có quá nhiều may mắn cũng như ưu đải. Được mặc thường phục đi phép khi chưa gắn Alpha, tóc tai khỏi phải bị cạo ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC9
trọc, chế độ huynh trưởng không hắc ám, đã vậy toàn khóa còn được bốc thăm để hưởng phép sau lễ gắn Alpha : phân nửa đi phép từ 24 âm lịch đến Mùng Một Tết, phân nửa còn lại đi phép từ Mùng Một Tết đến Mùng Sáu, nghĩa là cả hai nhóm của cả khóa đều được hưởng trọn vẹn một cái Tết truyền thống với gia đình. Sau khi khai giảng khóa học độ hơn một tháng, thì toàn thể sinh viên được tham dự một cuộc thi trắc nghiệm do Bộ Quốc Phòng phối hợp với Bộ Tổng Tham Mưu tổ chức để phân định năng khiếu của từng sinh viên sĩ quan, từ đó sẽ phân phối đi các binh chủng và nha sở chuyên môn. Hầu hết tất cả các binh chủng và nha sở như Pháo binh, Truyền tin, Quân nhu, Quân cụ. Quân vận, Hành chánh Tài chánh, Hành chánh Quân Y …..đều có những sinh viên sĩ quan thuộc Khóa 17 được đề cử tham dự các khóa học chuyên môn của mình. Các sinh viên được phân phối đi các binh chủng chuyên môn, sau khi kết thúc giai đoạn I huấn luyện căn bản bộ binh cấp trung đội tại quân trường Thủ Đức, sẽ được chuyển đi các quân trường khác để học phần chuyên môn của binh chủng mình, xa như trường Pháo binh tại Dục Mỹ, và gần như một số trường chuyên môn khác nằm quanh quẩn chung quanh Sài Gòn. Các sinh viên ở lại quân trường Thủ Đức để học tiếp Giai đoạn II phần căn bản bộ binh cấp Đại đội, sau khi tốt nghiệp mang cấp bậc Chuẩn úy, một lần nữa lại được phân phối đi các binh chủng cũng như các binh sở như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Quân Cảnh, An ninh Quân đội, Quân báo, Quân Pháp …Đặc biệt gần 100 sinh viên sĩ quan về trình diện Bộ TTM, tại đây được may quần áo quân phục xuất ngoại và lập thủ tục đi du học khóa Tình báo Chiến lược tại Okinawa, Nhật Bản. Các sinh viên nầy khi trở về nước đều được “giải ngũ” và phục vụ trong đơn vị quân báo Biệt Đoàn 300, là tiền thân của Đơn vị 101sau nầy. Một đặc biệt khác nữa, là có gần 100 tân Chuẩn úy được may mắn về trình diện Bộ Tư Lệnh Nghĩa Quân tại Sài Gòn để tham dự một khóa huấn luyện tham mưu ngắn hạn về việc điều hành và chỉ huy các đơn vị Nghĩa quân thống thuộc các Tiểu Khu. Đa số các sĩ quan nầy sau đó đã trở thành những sĩ quan nồng cốt của các Tiểu Khu, thay thế các vị sĩ quan già trong các chức vụ Trưởng Phòng hoặc Chỉ Huy Trường các Trung Tâm Yểm Trợ và Tiếp Vận của nhiều Tiểu Khu trên toàn quốc. Riêng các binh chủng thiện chiến Tổng Trừ Bị ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 10
của Quân Lực như Nhảy Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt Động Quân, Lực lượng Đặc biệt cũng đã được một số đông các tân Chuẩn úy Khóa 17 vừa tốt nghiệp tình nguyện phục vụ và đã đạt được những chiến công hiển hách sẽ được trình bày ở một phần khác. Ngoài một số lớn ghi danh về phục vụ tại các Sư Đoàn Bộ Binh ở khắp 4 Vùng Chiến thuật, còn có một số tân sĩ quan thuyên chuyển thẳng về phục vụ tại các Tiểu Khu, đa số giữ các chức vụ tham mưu. Tóm lại gần một ngàn sinh viên sĩ quan tốt nghiệp Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, đã cung ứng cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa những sĩ quan ưu tú ở khắp các Quân Binh Chủng , các Nha Sở chuyên môn, các Quân Khu, các Tiểu Khu …..và đã góp phần vào công cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam Tự Do một cách hữu hiệu suốt mười một năm trường kể từ ngày mãn khóa . SẢI CÁNH CHIM BẰNG Ngày 23 tháng 10 năm 1964, sau hơn mười tháng dài huấn luyện gian khổ, Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức chính thức làm lễ mãn khóa . Từ tờ mờ sáng, tất cả các sinh viên sĩ quan đã chuẩn bị mặc vào bộ “Đại bạch phục” màu trắng với gù vai Alpha bằng đồng sáng chói trên nền xanh đậm có phủ tua vàng. Dây nịch đen thắt ngang áo trắng đại lễ với bút nịch lớn hình tròn được đánh bóng, mủ cát kết và găng tay trắng cùng với đôi giày bốt đen sáng bóng như gương….tất cả đã sẵn sàng tiến ra Vũ Đình Trường để đánh dấu một ngày quan trọng nhất trong đời binh nghiệp. Trước đó hai tuần, tất cả các sinh viên sĩ quan được phân phối đi các binh chủng và binh sở chuyên môn đã lần lượt trở về trường mẹ, gặp lại những bạn bè cũ ở Giai Đoạn I với tay bắt mặt mừng. Trong niềm vui rạng rỡ với những bộ đại lễ trắng, gần một ngàn sinh viên sĩ quan Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, từng đại đội, từng binh chủng …với hàng ngủ chỉnh tề lần lượt xếp hàng đều bước ra vị trí hành lễ giữa những tiếng gió vi vu của hàng phi lao chung quanh Vũ Đình Trường. Từ trên khán đài chính , những Tướng lãnh của Hội Đồng Quân Lực, những vị Tư Lệnh của các Quân Binh Chủng, Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn Chỉ Huy Trưởng Trường SQTB Thủ Đức củng các vị Sĩ quan Cao cấp của Bộ Chỉ Huy nhà trường ...tất cả đều trong những bộ đại lễ uy nghi với những hàng huy chương lấp lánh trên ngực. Ngoài ra còn có những vị ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tổng Bộ Trưởng của Nội Các Lâm Thời trong những bộ veston thật trang trọng. Một vị tướng lãnh vừa bước ra khỏi một chiếc xe jeep mui trần tiến lên khán đài khiến mọi người đều chú ý: để đầu trần với bộ đồ bay đen, cổ quấn khăn quàng bằng lụa tím, nước da ngăm ngăm với hàng râu mép đen rậm. Đó là Chuẩn Tướng Nguyễn Cao Kỳ, người vửa nhận chức vụ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam. Ngoài ra, ở hai bên khán đài phụ, là thân nhân của các sinh viên sĩ quan sắp sửa được mãn khóa. Đầu Vũ Đình Trường nơi vị trí của Trung Nghĩa Đài với hàng chữ khắc “Tổ Quốc Ghi Ơn”, phía trước được phủ những tràng hoa tươi với một lư hương lớn đầy hương trầm nghi ngút, một toán Sinh viên Sĩ quan thuộc Khóa 18 đàn em cũng trong những bộ Đại lễ trắng đang nghiêm chỉnh bồng súng dàn hầu. Đúng 10 giờ sáng , Lễ Mản Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức bắt đầu tiến hành khi Đại Đội quân nhạc chấm dứt phần trình diển các bản nhạc quân hành. Chuẩn Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ Huy Trưởng, được mời lên tường trình kết quả của Khóa 17 SQTB/ TĐ, sau đó toàn Khóa 17 được trình diện lên Trung Tướng Nguyễn Khánh, Tổng Tư Lệnh QLVNCH, kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Sau đó Trung Tướng Tổng Tư Lệnh ban Quân lệnh, thay mặt Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạnh đặt tên cho Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức là “ Khóa Nguyễn Thái Học”. Dưới Vũ Đình Trường, hàng hàng lớp lớp Sinh viên Sĩ quan Khóa 17 trong lễ phục trắng đã thẳng tắp hàng ngũ, đặc biệt phía trước và ngay chính giữa hàng quân nhìn về phía khán đài, một Sinh viên Sĩ quan mang kiếm óng ánh mạ vàng ngang thắt lưng đang đứng nghiêm đơn độc với dáng dấp uy nghi như một pho tượng : đó là SVSQ Nguyễn Kim Long, Thủ Khoa của Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Bỗng từ loa phóng thanh vang vang lên một khẩu lệnh sắc gọn nhưng vang rền giữa Vũ Đình Trường : -“ Quỳ- xuống- các- Sinh- viên Sĩ- quan” ! Như những người máy với những động tác nhịp nhàng, tất cả SVSQ đồng loạt quỳ chân trái xuống đất, mũ kết bi được giở xuống đặt lên đầu gối phải. Riêng Sinh viên Sĩ quan Thủ Khoa Nguyễn Kim Long đang quỳ riêng rẽ phía trước hàng quân, được đích thân Trung Tướng Tổng Tư Lệnh cùng Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng từ trên khán đài chính bước xuống tháo gù vai sinh viên sĩ quan, thay vào đó bằng cặp cầu vai mới óng ánh kim tuyến cùng với cặp “lon” Chuẩn Úy sáng chói mạ vàng được đặt trên ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
một chiếc gối nhung đỏ do một sĩ quan khệ nệ mang bằng hai tay đi theo hai vị Tướng lãnh. Từ loa phóng thanh một mệnh lệnh kế tiếp : -“ Đứng- dậy- các-Tân-Sĩ-Quan” ! Các Sinh Viên Sĩ Quan - từ giờ phút nầy đã trở thành những Tân Sĩ Quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - đồng loạt đội mũ kết bi đứng dậy, riêng Sĩ Quan Thủ Khoa Nguyễn Kim Long sau khi đứng lên, đã được hai Sinh viên Sĩ quan Khóa đàn em mang đến một mâm lớn trên có chứa một cây cung lớn dài hơn một sãi tay và một “gùi” hình ống tròn chứa những mũi tên dài. Mang gùi tên lên vai, cầm lấy cây cung, Thủ Khoa Nguyễn Kim Long vói ra sau lưng lấy một mũi tên tra vào rồi xuống tấn giương cung bắn mũi tên bay vút lên khung trời. Lần lượt bốn hướng Đông Tây Nam Bắc đều được Thủ Khoa Nguyễn Kim Long bắn đi mỗi hướng một phát tên, tượng trưng cho chí trai tang bồng hồ thĩ ngang dọc khắp bốn phương trời… Buổi lễ Mãn Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức được tiếp nối với phần trình bày Cơ Bản Thao Diển của Trường Thể Dục Quân Sự, trong đó có tiết mục biểu diển “ Múa Súng” của một Trung Đội Sinh Viên Sĩ Quan đã được quan khách trên khán đài chính cũng như thân nhân của Sinh Viên hai bên khán đài phụ nhiệt liệt vỗ tay hoan hô khen ngợi. Sau khi phần trình diển chấm dứt, toàn thể các Tân Sĩ Quan Khóa 17 trong bộ Đại Lễ trắng của SVSQ, bắt đầu diển hành ngang qua khán đài giữa những tiếng nhạc quân hành rộn ràng của Đại Đội Quân Nhạc Trường SQ/ TBTĐ. Trong lúc đó, trên bầu trời trong xanh của Quân Trường Thủ Đức, hai chiếc khu trục chiến đấu cơ AD6 Skyraider đang bay lượn vần vũ. Khi Đại Đội Sinh Viên cuối cùng vừa diển hành vượt qua khỏi khán đài, hai chiếc khu trục Skyraider từ chân trời phía xa bay thật gần nhau và sà thấp xuống hướng khán đài như để chào mừng quan khách và vị Tư Lệnh Không Quân đang ngồi trên đó. Chợt chiếc phi cơ bay bên tay trái lắc nhẹ chiếc cánh khiến chiếc phi cơ bay sát kế bên bẻ quặc tay lái sang phải để né tránh…. Một tiếng nổ ầm làm rung chuyển cả Vũ Đình Trường, chiếc phi cơ bay bên phải đã đâm sầm xuống đất ngoài cổng số 8! Lễ tốt nghiệp Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức cũng vừa chấm dứt trong sự kinh hoàng nhốn nháo của quan khách cũng như của toàn thể Tân Sĩ Quan K17 và SVSQ Khóa 18 đàn em. Mọi người bảo nhau, vị phi công khu trục vừa tử nạn trong chuyến bay biểu diển vừa rồi, đã chết thế cho anh em SVSQ Khóa 17 Thủ Đức, một khóa có quá nhiều may mắn 11 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
trong thời gian hơn mười tháng học tập và huấn luyện nơi quân trường. ĐƯỜNG VÀO CUỘC CHIẾN Khóa 17 SQTB/TĐ mãn khóa ngày 23 tháng 10 năm 1964, trong lúc ngoài chiến trường tình hình chiến sự đã bắt đầu sôi động dữ dội, chỉ bởi ở tại Thủ đô Sài Gòn , các vị Tướng Lãnh đầu não của Quân Lực đang bận rộn việc ….tổ chức cũng như đương đầu với các cuộc đảo chính hoặc chỉnh lý liên tục kể từ sau ngày lật đổ được Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Các tân Sĩ Quan Khóa 17 Thủ Đức với cấp bậc Chuẩn Úy còn “ nóng hổi”, đã thực sự được tung vào chiến trường ngay sau những ngày đầu vừa trình diện đơn vị. Gần mười một năm trong quân ngũ, có lẽ rất khó để lượng định một SQ tốt nghiệp Khóa 17 Thủ Đức đã tham dự bao nhiêu trận chiến lớn nhỏ khắp Bốn Vùng Chiến Thuật, bao nhiêu SQ thuộc Khóa 17 đã anh dũng nằm xuống cũng như bị thương tật. Tuy nhiên có một điều rõ ràng là Khóa 17 SQTB/TĐ đã cống hiến cho quân đội những sĩ quan ưu tú hiện diện trong khắp tất cả các quân binh chủng và nha sở chuyên môn cũng như các Quân Khu và Tiểu Khu. Trước khi đề cập đến trận đánh lớn đầu đời tiêu biểu cho “đường vào cuộc chiến” của Khóa 17 SQTB/TĐ, Ban Biên Tập xin được nhắc đến một cái chết được coi như là người đầu tiên của K17 đã ngã xuống ngay sau chưa gần một tháng từ ngày ra trường: đó là Chuẩn úy Lê Viết Đạm thuộc Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, cựu SV/Vũ khí của ĐĐ11. Cố Thiếu úy Lê Viết Đạm đã hy sinh trong một cuộc hành quân ven đô tại quận Hóc Môn vào giữa tháng 11 năm 1964. Trong phạm vi nhỏ hẹp của quyển Đặc San nầy , Ban Biên Tập xin được nhắc đến trận đánh Bình Giã khởi sự vào ngày 28 tháng 12 năm 1964 , bởi lẽ trận Bình Giã là một trận đánh “vận động chiến” đầu tiên cấp Trung Đoàn kể từ sau ngày lật đổ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một trận đánh lớn đầu đời mà một số sĩ quan tân khoa Khóa 17 SQTB/TĐ cũng như Khóa 19 VBĐL - ra trường sau K17 TĐ gần hai tháng - của các đơn vị như : TĐ 30 BĐQ, TĐ 38 BĐQ, TĐ 4 TQLC và TĐ 5 ND đã thực sự góp phần xương máu vào trận chiến bi hùng nầy. Trong trận Bình Giã long trời lỡ đất nói trên, chỉ riêng TĐ 4 TQLC con số thiệt hại đã lên đến 112 chiến sĩ tử trận, 71 bị thương và một số đông sĩ quan đã anh dũng hy sinh kể cả nhị vị Tiểu Đoàn Trưởng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 12
và Tiểu Đoàn Phó. Riêng những sĩ quan thuộc Khóa 17 TĐ về TĐ 4 TQLC gồm có các Chuẩn Úy Lê Tấn Tài, Lê Đình Bảo, Lâm Xuân, Trần văn Tín, Nguyễn văn Nư…. một số đã bị thương nhưng không có ai tử trận, điều đó một lần nữa đã nói lên sự may mắn của Khóa 17 SQTB/TĐ. Riêng trong trận nầy, Thủ Khoa của Khóa 19 VBĐL, Thiếu úy Võ Thành Kháng đã anh dũng hy sinh cùng một bạn đồng khóa là Thiếu úy Nguyễn văn Hùng, cả hai đều chưa được lãnh lương Thiếu úy! Cũng cần ghi nhận thêm một chi tiết của trận Bình Giã , mặc dù thiệt hại của các đơn vị tham chiến khá cao vì phải chiến đấu trong một chiến trường hoàn toàn do địch chọn lựa và thiếu sự yểm trợ của không quân và pháo binh, tuy nhiên những chiến sĩ BĐQ và TQLC đã chiến đấu một cách anh dũng can trường. Trong đó có một chiến công mà ít người biết đến, là một Chuẩn Úy của Khóa 17 TĐ trong TĐ 4 TQLC - vì lý do tế nhị nên xin miển nêu tên - đã ra lệnh và hướng dẩn cho một Trung sĩ đang mang khẩu M79, tác xạ vào một bóng người phụ nữ cưởi ngựa đang ẩn hiện sau những gốc cao su. Sau hai quả đạn, người phụ nữ nầy gục ngã. Vài ngày sau đó, đài phát thanh Hà Nội và Mặt Trận GPMN đã ra rã vinh danh một “ nữ đồng chí Tiểu Đoàn Trưởng” đã trở thành….liệt sĩ tại mặt trận Bình Giã! Cường độ chiến tranh sau ngày Khóa 17 TĐ ra trường ngày càng khốc liệt. Các lực lượng Tổng Trừ Bị của quân lực như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt … cùng với những đơn vị yểm trợ đã được điều động đến các mặt trận sôi động nhất khắp Bốn Vùng Chiến Thuật. Riêng tại các Quân Khu, các Sư Đoàn Bộ Binh cũng vào thế lưu động trong các cuộc hành quân truy lùng và tiêu diệt địch, chưa kể đến hai cuộc hành quân ngoại biên vượt ra ngoài lãnh thổ VNCH tại Kampuchia và Hạ Lào. Trong những điều kiện và môi trường đó, những Sĩ Quan tốt nghiệp Khóa 17 SQTB/TĐ đã phát huy khả năng tác chiến hoặc chuyên môn và tài lãnh đạo, để nắm giữ những chức vụ chỉ huy từ cấp Đại Đội hoặc tương đương như Pháo Đội - lên đến cấp Tiểu Đoàn. Ở những Nha sở chuyên môn hoặc Tiểu Khu, hầu hết những SQ Khóa 17 TĐ đếu nắm giữ chức vụ Trưởng Phòng hoặc cao hơn. Chính những đóng góp to lớn đó, những SQ Khóa 17 TĐ đã góp công vào những chiến thắng lẫy lừng của QLVNCH, những thành quả trong công tác bảo vệ an ninh lãnh thổ, cũng như phát triển hiệu năng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
của Nha Sở chuyên môn. Với những chiến công nổi bật, nhiều SQ Khóa 17 đã được tưởng thưởng xứng đáng và đã làm hãnh diện cho Quân Trường Thủ Đức cũng như cho riêng Khóa 17 SQTB . RÕ MẶT ANH HÀO Như đã trình bày, Khóa 17 SQTB/TĐ là một tập hợp của những thanh niên ưu tú thuộc nhiều lứa tuổi cũng như nhiều ngành nghề khác nhau ngoài dân sự trước khi bước vào cuộc đời quân ngũ, cho nên không lấy làm lạ khi biết rằng có quá nhiều nhân vật tiếng tăm ngoài đời, đã trở thành những SVSQ của Khóa 17 SQTB/TĐ, chính điều đó đã là niềm hảnh diện chung cho toàn khóa. Trong khuôn khổ nhỏ hẹp của bài Lược Sử nầy , xin được nêu lên vài nhân sự điển hình. Khi còn ngồi ở hai năm cuối Đệ Nhị và Đệ Nhứt của bậc trung học, hầu hết học sinh đều “mê” những quyển sách Toán của Giáo Sư Phạm Kế Viêm. GS Viêm đã được động viên vào Khóa 17 TĐ, sau khi tốt nghiệp, anh được thuyên chuyển về Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt làm giáo sư Toán trong Khối Văn Hóa Vụ với cấp bậc cuối cùng là Thiếu Tá. Hiện cựu SVSQ Khóa 17 Phạm Kế Viêm đang sống cùng gia đình tại Paris, Pháp Quốc. Trong sinh hoạt thi ca của Miền Nam khoảng giữa thập niên 50-60, những độc giả của Nguyệt San Sáng Tạo đã vô cùng ngưởng mộ những bài thơ của thi sĩ Tô Thùy Yên, lãng mạn nhưng chừng mực, một chút ẩn dụ cổ kính nhưng vẫn mang đầy những hình ảnh mới lạ. Đặc biệt gần 15 năm sau cuộc đổi đời, ở hải ngoại đã phổ biến bài thơ “Ta Về” của Tô Thùy Yên, bài thơ như tiếng đồng vọng đã xoáy vào tim vào óc của hàng triệu người Việt đang lưu vong tị nạn ở khắp bốn phương trời : ……….
“ Ta về như sợi tơ trời trắng Chấp chới trôi buồn với nắng hanh Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng Dừng chân nghe quặn thắt tâm can” ……….
Cái quặn thắt tâm can của Tô Thùy Yên, cũng chính là cái đau thấu tim thấu ruột của hơn ba mươi triệu đồng bào ruột thịt Miền Nam khi quê hương bị lọt vào tay quân rừng rú Cộng sản. Và nhà thơ Tô Thùy Yên, chính là Thiếu Tá Đinh Thành Tiên ngành Chiến Tranh Chính Trị, một cựu SVSQ Khóa ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
17 SQTB/TĐ hiện đang sống tại tiểu bang Texas. Năm 1954, sau khi Hiệp ước Đình chiến Genève được ký kết, hơn một triệu đồng bào Miền Bắc đã di cư vào Nam vì không chấp nhận sống chung với chế độ vô thần tàn ác Cộng Sản, và còn biết bao triệu người nữa vì không có phương tiện cũng như thời gian nên đành phải bị kẹt ở lại. Dù thời gian ấn định cho cuộc di cư đã chấm dứt, và dưới sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ của chính quyền Cộng Sản Miền Bắc, thỉnh thoảng vẫn có những cuộc vượt tuyến xuôi Nam để tìm tự do, kết bè đi bằng đường biển hay đi bộ xuyên qua sông Bến Hải. Trong những người vượt tuyến đó, có Sinh viên Lã Huy Quý, một người mà gia đình đã có hơn ba mươi thân nhân đã bị Cộng Sản Miền Bắc đấu tố giết chết hoặc cầm tù trong công cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Sau khi đến được bến bờ tự do năm 1956, anh đã đi khắp Miền Nam để trình bày về những tội ác gớm ghiếc tàn độc của người Cộng Sản. Sinh viên Lã Huy Quý sau đó đã được động viên trở thành một SQ Hành Chánh Tài Chánh sau khi tốt nghiệp Khóa 17 SQTB/TĐ. Trong QLVNCH, Ngành Quân Pháp có lẽ là một binh sở có quân số khiêm nhường cũng như số sĩ quan phục vụ tương đối ít ỏi, bởi lẽ những chức vụ bên Quân Pháp đòi hỏi phải có bằng Cử Nhân luật trở lên. Khóa 17 TĐ hân hạnh có được SVSQ Nguyễn Hữu Tùng là Thiếu Tá Chánh Công Tố Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng II Chiến Thuật tại Nha Trang , một ông Biện Lý quân sự “Râu kẽm” mà những tên VC đặc công đặt mìn ném lựu đạn giết hại dân lành đều được anh thân tặng cho bản án tử hình. Cũng xin được trình bày thêm một điều trùng hợp khá lý thú là các SVSQ Phạm Kế Viêm, Tô Thùy Yên, Lã Huy Quý và Nguyễn Hữu Tùng tất cả đều xuất thân từ lò…Đại Đội 13 của Tr/u Lê Mạnh Chung. Số 13 trong hoàn cảnh nầy có lẽ không còn được xem là con số “xúi quảy” nữa. Một chức vụ đặc biệt dù có trong Bản Cấp Số của các đại đơn vị nhưng chưa bao giờ được một trường lớp nào huấn luyện, đó là chức vụ Sĩ Quan Tùy Viên hoặc Chánh Văn Phòng của các vị Tướng Lãnh. Sĩ quan được tuyển chọn thường đã chứng tỏ những khả năng đặc biệt của mình và được các cấp chỉ huy trực tiếp đề bạt lên trên. Thiếu Tá Dương Minh Chấn , SQ Tùy Viên sau đó là Chánh Văn Phòng của Thiếu Tướng Đào Duy Ân, Tư Lệnh Phó Quân Khu 3 và Thiếu Tá Pháo binh Nguyễn Xuân Sơn , SQ Tùy Viên của hai thời Tư Lệnh SĐ 9 BB là Thiếu Tướng Lâm Quang Thi và Thiếu Tướng Trần Bá Di. Cả hai 13 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
anh là Cựu SVSQ Khóa 17 TĐ. Có một điều ít ai ngờ được, sau một thời gian dài vào sanh ra tử trong cuộc chiến, rồi đến những tháng ngày khổ ải cùng cực trong lao tù Cộng Sản, một số cựu chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại, sau khi đã ổn định được cuộc sống và gia đình, đã bắt đầu hướng về tín ngưởng tâm linh. Có người tu học tại gia, cũng có vị rời hẳn mái ấm gia đình để phục vụ cho tôn giáo mà mình lựa chọn. Mục sư Tin Lành Đào văn Thương, và Đại Đức phái Nam Tông Thích Hộ Pháp tục danh Nguyễn văn Bảy, chính là hai Cựu SVSQ Khóa 17 TĐ. Nhưng có một điều trùng hợp thật ngẩu nhiên, Mục sư Đào văn Thương, nguyên Trưởng Ban 3 Tiều Đoàn 1 Pháo Binh Dù, Đại Đức Thích Hộ Pháp nguyên là Chỉ Huy Phó Pháo Binh Tiểu Khu Bạc Liêu, cả hai đều là Pháo Thủ “lão thành” của binh chủng. Có lẽ binh chủng Pháo Binh với những quả đạn đại bác nặng tới ….mấy chục ký lô, gấp mấy trăm lần viên đạn M16, nên khiến cả hai vị giác ngộ….sớm và đi tu chăng? Về mặt chiến trận, có lẽ hầu hết đồng bào Miền Nam đều nghe biết đến một đại đơn vị ưu tú của QLVNCH , đó là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mà những chiến công hiển hách đã trở thành những huyền thoại trong trang sử đấu tranh chống quân xâm lược Cộng Sản.
“ An Lộc địa sử ghi chiến tích Biệt Cách Dù vị quốc vong thân …” Hai câu thơ của cô giáo Pha được đồng bào khắc ghi tại nghĩa trang chôn cất những chiến sĩ Biệt Cách NhảyDù hy sinh tại thị xã An Lộc, đã nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân đối với đơn vị kiệt xuất nầy. Đặc biệt trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, một cấp chỉ huy của Biệt Cách Dù đã được lưu danh vào lịch sử khi đơn vị anh được điều động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, chính anh đã tham dự những phiên họp cuối cùng với các vị Tướng lãnh cũng như trực tiếp nói chuyện Đại Tướng Dương văn Minh trước khi được lệnh buông súng giã từ vũ khí . Đó là Thiếu Tá “Hổ Xám” Phạm Châu Tài, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù , một Cựu SVSQ của Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Trong công cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam Tự Do của QLVNCH, Sư đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến là hai đại đơn vị Tổng Trừ Bị đã ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 14
được sử dụng trong những tuyến lửa nặng nề nhứt để ngăn chặn cũng như tấn công quân thù Cộng Sản. Những chiến công hiển hách của hai binh chủng nầy đã được toàn dân ngưởng mộ, thế giới khâm phục và quân thù khiếp đảm. Và để được trở thành những cấp chỉ huy từ cấp Đại Đội lên đến Tiểu Đoàn, tất cả phải đánh đổi bằng kinh nghiệm, thực tài, cộng với máu và nước mắt. Vậy mà trong cuộc lui quân vội vàng rút bỏ Vùng I chiến thuật bởi lệnh của thượng cấp, Sư Đoàn TQLC từng một thời oanh liệt dọc ngang khắp 4 vùng Chiến thuật, giờ đây đành phải chịu cảnh tan nát! Trong đó có Tiểu Đoàn 9 TQLC, với Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá “Tây Đô” Lâm Tài Thạnh và Tiểu Đoàn Phó là Thiếu Tá “Lộc Ninh” Nguyễn văn Lộc, cả hai là đôi bạn cùng xuất thân Khóa 17 SQTB/TĐ với tay nghề trên 11 năm trong binh chủng TQLC, đành phải bó tay thúc thủ! Ngoài ra, hai cựu SVSQ Khóa 17, Th/T Ngô Thành Hữu Tiểu Đoàn Phó TĐ5TQLC, và Th/T Đỗ Trung Giao Tiểu Đoàn Phó TĐ2 Trâu Điên TQLC, cũng đã góp phần hãnh diện cho Khóa 17 ở binh chủng hào hùng nầy. Với Sư Đoàn Nhảy Dù, một binh chủng lẫy lừng mà đa số những cấp chỉ huy đều là dân Võ Bị Đà Lạt, vậy mà một anh chàng Cựu SVSQ Khóa 17 TĐ, sống sót trong bốn Chuẩn Úy được về binh chủng Nhảy Dù từ ngày ra trường, đã “ngoi” lên vai trò chỉ huy cấp Tiểu Đoàn, điều đó đã là niềm hãnh diện chung cho anh em toàn khóa . Đó là Thiếu Tá Nguyễn văn Quý, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Với Pháo Binh Dù, những Sĩ quan tốt nghiệp Khóa 17 SQTB/TĐ đã là thành phần nồng cốt của các Tiểu Đoàn 1, 2, 3 Pháo Binh Dù…trong đó các Thiếu tá Đinh Thành Tấn, Nguyễn Kim Việt, Đào văn Thương, Đào Kim Trọng ….đã làm rạng danh cho Khóa 17. Riêng về binh chủng Bộ Binh, rất nhiều anh em xuất thân Khóa 17 TĐ đã nắm chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng với cấp bậc Thiếu Tá ở khắp các Sư Đoàn Bộ Binh cũng như ở các Tiểu Khu. Nhưng có lẽ các cựu SVSQ Khóa 17 sau đây là những người có cấp bậc cao nhất, anh Nguyễn Năng Chín Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 54 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, một Trung Đoàn thiện chiến của vùng hỏa tuyến. Anh Nguyễn Tấn Bửu, Trung Tá Trung Đoàn Phó mộtTrung đoàn thuộc SĐ21BB, đã cùng hy sinh với vị Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Nguyễn Viết Cần tại mặt trận An Lộc năm 1972, và Trung Tá Nguyễn văn Sĩ, Quận Trưởng quận Giá ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Rai, tỉnh Cà Mau, đã bị Việt cộng đem ra hành quyết sau 3 ngày chiếm được quận lỵ. Những cống hiến và thành quả của những Cựu SVSQ Khóa 17 TĐ cho đại cuộc chống quân xâm lược Cộng Sản phương Bắc, chắc chắn sẽ phải bị thiếu sót, bởi lẽ với một khoảng thời gian dài đăng đẳng của một nửa thế kỷ trôi qua cùng với biết bao vật đổi sao dời, làm sao biết hết được nhớ hết được tất cả những sự việc dưới lớp bụi của thời gian. Tuy nhiên có một điều được khẳng định là, tất cả những Cựu SVSQ Khóa 17 TBTĐ đều hãnh diện những đóng góp của mình cho quê hương trong mười một năm dài kể từ ngày ra trường cho đến ngày tàn cuộc chiến ….. TAN ĐÀN RÃ NGHÉ Cùng trôi theo dòng sinh mệnh nghiệt ngã của dân tộc, các cựu SVSQ Khóa 17 TBTĐ cùng với toàn Quân Lực đành phải nửa đường gãy gánh, vất bỏ kiếm cung, vỡ nát giấc mơ cống hiến cả cuộc đời thanh xuân cho công cuộc bảo vệ giống nòi dân tộc…..tất cả đều chấm dứt trong Ngày Đại Nạn 30 tháng 4 năm 1975, để rồi cam đành nhận lãnh những đòn thù trí mạng từ quân xâm lược Cộng Sản. Một số ít chiến hữu may mắn thoát đi kịp được ra nước ngoài trong tháng tư năm 75 đã lập lại cuộc đời mới dù gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng đa số bị kẹt lại đã phải chôn vùi cuộc đời trong lao tù CS, trong đó những sự trả thù tàn khốc đã diển ra đối với những người thua cuộc, và đã đưa đến biết bao cái chết thê thãm cho những chiến sĩ anh hùng từng một thời liệt oanh ngoài chiến trận. Cái chết oai hùng của Pháo thủ Ngô Nghĩa tại trại tù Trảng Lớn, hoặc cuộc xử bắn Đại Úy Trương văn Lến Trưởng Phòng Nhì Tiểu Khu An Giang tại Cần Thơ, đã nói lên sự tàn ác dả man của quân xâm lược Cộng Sản, cả hai đều là Cựu SVSQ Khóa 17 Thủ Đức. Và còn biết bao cái chết ẩn ức của hàng ngàn, hàng chục ngàn Sĩ Quan QLVNCH trong các trại tù Cộng Sản từ Mũi Cà Mau cho đến những cánh rừng trùng điệp sát biên giới Trung Cộng, trong đó nào ai biết được có bao nhiêu Cựu SVSQ của Khóa 17 SQTB Thủ Đức? Suốt cả trong thời gian tù tội từ trong Nam cũng như khi được chuyển ra ngoài Bắc, mỗi khi nhận diện ra một người bạn tù cùng khóa 17 Thủ Đức, anh em thường cảm thấy gần gủi hơn, tin tưởng hơn và sẵn sàng chia sẻ giúp đở lẩn nhau dù chỉ mới gặp nhau trong tù. Chính cái mối thâm tình đồng môn cùng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Khóa 17 Trừ Bị Thủ Đức đó, đã khiến khi ra đến hải ngoại, anh em đã mọi cách tìm đến bên nhau….. TRÙNG PHÙNG HẢI NGOẠI Ngoại trừ một số thật ít anh em Khóa 17 ra đi được hồi năm 75 phải tốn một thời gian dài để ổn định đời sống, mãi đến giữa thập niên 80 khi phong trào vượt biên tìm tự do lên đến cao điểm, trong số những thuyền nhân hay bộ nhân tị nạn bắt đầu có một số cựu SVSQ Khóa 17 đã đến được bến bờ tự do sau bảy tám năm trời tù tội. Đến đầu thập niên 90, khi chiến dịch nhân đạo H.O của chính phủ Mỹ (Humanity Operation) tiến hành, những cựu tù nhân từng ở trong các “trại cải tạo” rầm rộ được định cư tại Hoa Kỳ, dỉ nhiên trong đó có một số rất đông anh em Khóa 17 TĐ. Tuy nhiên, việc tái hội ngộ của các cựu SVSQ Khóa 17 chỉ đóng khung trong các binh chủng có nhiều anh em cùng khóa phục vụ, vốn có mối liên hệ và tổ chức tương đối chặt chẽ như Pháo Binh, Quân Nhu, Quân Cụ, Thủy Quân Lục Chiến…thông qua những lần họp mặt hàng năm của mỗi binh chủng, từ đó anh em cùng Khóa 17 đã tìm đến nhau, và ước mơ được họp mặt toàn Khóa 17 luôn được nung nấu trong lòng mỗi cựu SVSQ… Mãi đến mùa Hè năm 2005, một cuộc Họp Mặt Khóa 17 SQTB/TĐ “liên binh chủng” lần đầu tiên được tổ chức với sự quy tụ của…13 cựu SVSQ - lại con số 13 định mệnh - gồm có các bạn : -Lê văn Ni (đã mất) -Phạm Trọng Phúc (CTCT- đã mất) -Phạm Châu Tài (LĐ81 Biệt Cách Dù - Santa Ana) -Tô văn Mười (LLĐB/Delta - Santa Ana) -Nguyễn Kim Hiệp (Quân Cụ - Santa Ana) -Lê Viết (Bộ Binh - Arizona) -Nguyễn Thế Đỉnh (BĐQ - Santa Ana) -Nguyễn văn Phúc (Bộ Binh - San José) -Nguyễn văn Kha (Bộ Binh- San José) -Lê Đình Bảo (TQLC) -Đào Kim Trọng (Pháo Binh Dù- Santa Ana) -Trần Đức Thắng (Quân Cụ- Santa Ana) -Và một bạn cùng khóa không nhớ tên . Sau lần họp mặt “bỏ túi” nầy, ý tưởng họp mặt toàn khóa 17 càng thôi thúc trong lòng của nhiều anh em. Những cú điện thoại bắt liên lạc để tìm những bạn bè cùng khóa đã được thực hiện sôi nổi mỗi khi nhận được tin tức của một anh em cùng khóa, những 15 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thư từ trao đổi khi nhận diện ra được một người bạn đồng môn…..Tất cả đều ước mơ đến một ngày đoàn tụ! Trong lúc đó ở binh chủng Pháo Binh, với sự điều hợp của Niên trưởng Cựu Đại Tá Lê văn Trang nguyên CHT Pháo Binh Quân Đoàn III, hàng năm đều có tổ chức họp mặt binh chủng toàn Hoa Kỳ, điều đó đã giúp cho các anh em Khóa 17 ở binh chủng nầy có nhiểu cơ hội để gặp gở và thắt chặt tình gắn bó của các đồng môn. Từ nguồn cảm hứng nầy, tháng 3 năm 2011, các Pháo thủ của riêng Khóa 17 đã có cuộc họp mặt tại một nhà hàng ở Nam Cali quy tụ được gần 20 anh em cựu SVSQ /K17 gốc Pháo Binh từ khắp các nơi quy tụ về cùng với gia đình. Đặc biệt có sự tham dự của NT Bùi Đức Lạc, một Sĩ quan Cán bộ của Trường Pháo Binh QLVNCH trong lúc Khóa 17 Pháo Binh đang thụ huấn tại Dục Mỹ. Giờ chót ông là một Trung Tá của Pháo Binh Dù. Cũng cần ghi nhận thêm về cuộc họp mặt của Khóa 17 Pháo Binh đáng nhớ nầy, cựu SVSQ /K17 Đinh Thành Tấn, nguyên Thiếu Tá Trưởng Ban 3 của TĐ1PB Dù sau khi hoàn tất nhiệm vụ tìm địa điểm họp mặt đã được anh em giao phó, ngay ngày hôm sau vợ chồng Tấn xách xe chạy lên San José không kịp họp mặt với anh em, để tránh ….cơn sóng thần Tsunami mà báo chí tiên đoán sẽ ập vào Nam Cali. Đinh thành Tấn đã mất trong một cuộc giải phẩu tim giữa năm 2013, khi chưa thỏa mản ước mơ từng ấp ủ là được hội ngộ cùng anh em đồng khóa 17 TĐ! Thời gian lặng lẽ trôi qua và giòng đời của người tị nạn vẫn tiếp tục trôi chảy một cách vô tình. Nhưng những ngày tháng cuối năm 2013, những bạn bè Khóa 17 gọi báo cho nhau một nguồn tin vừa mới được loan tải, một số anh em dự định tổ chức một cuộc Họp Mặt toàn Khóa 17 vào năm 2014 nhân kỷ niệm 50 năm ngày ra trường. Nguồn tin sau đó được xác nhận, và các bạn Cựu SVSQ Nguyễn Thiệu Tri, Cao văn Lâm, Lê Tấn Tài, Nguyễn Thế Đỉnh, Nguyễn Hữu Phái, Lâm Tài Thạnh, Nguyễn Kim Sơn…đã đứng tên trong một “Thông Báo” chính thức phổ biến việc hình thành “Nhóm Liên Lạc Khóa 17 Thủ Đức” trên khắp các cơ quan truyền thông và báo chí khắp Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Tiếp theo đó, sau nhiều phiên họp của các anh em Cựu SVSQ/K17TĐ tại Thủ phủ tị nạn Little Sài Gòn Nam Cali, một Ban Tổ Chức đã chính thức được hình thành, và cựu SVSQ Nguyễn Thế Đỉnh thuộc binh chủng BĐQ đã được anh em xa gần tín nhiệm 16 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
bầu vào nhiệm vụ Trưởng Ban Tổ Chức “Buổi Hội Ngộ Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Mãn Khóa 17 SQTB/ TĐ” vào các ngày 18 và 19 tháng 10 năm 2014 tại Thành phố Santa Ana, Miền Nam California…. ĐÔI LỜI TẠM KẾT Năm mươi năm đã trôi qua, những chàng trai trẻ của Khóa 17 SQTB/TĐ ngày nào tưởng chừng như không bao giờ có cơ hội gặp gỡ lại bên nhau - ngoại trừ những nhóm đồng môn nhỏ trong cùng một binh chủng - để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm của một thời chập chửng bước vào cuộc chiến để bảo vệ tổ quốc giang sơn. Giấc mơ từng ấp ủ đó nay đã trở thành hiện thực. Ở lứa tuổi đã ngoài “thất thập cổ lai hy” nầy của tất cả các Cựu SVSQ Khóa 17 SQTBTĐ, có lẽ đây là lần họp mặt đầu tiên mà cũng có thể là lần cuối cùng trước khi anh em chúng ta lần lượt kẻ trước người sau cùng trở về với cát bụi….Xin được một lời cám ơn những bạn đồng môn trong Ban Tổ Chức đã không ngại gian khổ dấn thân để những đồng môn Khóa 17 có được cuộc hạnh ngộ ngày hôm nay. Xin được cám ơn Quân Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức cùng với những Cấp Chỉ Huy và Sĩ quan Cán bộ, đã dày công rèn luyện những SVSQ Khóa 17 Thủ Đức chúng tôi trở thành những Sĩ Quan ưu tú của QLVNCH ở khắp các Quân Binh Chủng, ở khắp Bốn Vùng Chiến Thuật. Xin được cám ơn những Đàn Anh, những Đàn Em, những Thuộc Cấp đã hỗ trợ cho anh em Khóa 17 Thủ Đức chúng tôi trong gần 12 năm quân ngũ, để chúng tôi hoàn thành được trách nhiệm của người Sĩ Quan QLVNCH, và cũng để có được niềm hãnh diện như ngày hôm nay để chuyển đạt đến thế hệ con cháu ở mai sau. Và lời cuối cùng xin được cám ơn đến tất cả những Chiến Hữu và Đồng Bào đã nằm xuống vì lý tưởng Tự Do của Tổ Quốc Việt Nam thân yêu, chính chư vị đã ngã xuống để anh em Khóa 17 Thủ Đức chúng tôi còn được đứng đây với nhau trong ngày “ Họp Mặt 50 Năm” hôm nay…./. Mùa thu năm 2014 Ban Biên Tập Đặc San Khóa 17 SQTB/TĐ.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ử S LỊCH TRƯỜNG SĨ QUAN TRỪ BỊ
Trong một phần tư thế-kỷ, từ 1951 đến 1975, Quân-lực Việt Nam Cộng-hòa có khoảng 55,000 sĩ-quan ngạch trừ-bị, được đào tạo từ hai quân-trường trừ-bị (Ecole d’Officiers de Réserve) Lần lượt mang các tên gọi: 1- TRƯỜNG SĨ-QUAN TRỪ-BỊ NAM-ĐỊNH (1 khóa rồi đóng cửa) 2- TRƯỜNG SĨ-QUAN TRỪ-BỊ THỦ-ĐỨC (69 khóa) - LIÊN TRƯỜNG VÕ-KHOA THỦ-ĐỨC - TRƯỜNG BỘ BINH THỦ-ĐỨC - TRƯỜNG BỘ-BINH TRƯỜNG SĨ-QUAN TRỪ-BỊ THỦ-ĐỨC Sau khi ký Hiệp-ước Pháp-Việt ngày 5-6-1948 tại vịnh Hạ-long, công-nhận Việt-nam là một quốc-gia độc-lập trong khối Liên-hiệp Pháp, Quốc trưởng Bảo Đại đã ký hiệp-ước ngày 8-3-1949 tại điện Elysée với Tổng-thống Pháp Vincent Auriol, theo đó, Pháp sẽ giúp Việt-nam thành-lập quân-đội Quốc-gia. Trường Sĩ-quan Trừ-bị Thủ-Đức bắt đầu thành hình. Ngày 23-12-1950, Pháp-Mỹ-Việt ký hiệp-định hổ-thương, phòng –thủ và viện –trợ quân sự; theo đó, ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Mỹ viện-trợ cho VNCH 2 tỷ Mỹ-kim trong bốn năm, từ 1950 đến 1954 để trang bị cho quân-đội. Cùng ngày, nghị-định thành-lập hai trường Sĩquan Trừ-bị Nam-định và Thủ-đức được ban-hành, nhằm đào-tạo sĩ-quan ngạch trừ-bị cho Quân-lực VNCH. Khóa sĩ-quan trừ-bị đầu-tiên khai-giảng cùng một ngày 9-10-1951 tại Nam-định và Thủ-đức. Trường Sĩ-quan Trừ-bị Nam-định chỉ đào-tạo được một khóa rồi đóng cửa vĩnh viễn năm 1952. Trường Sĩ-quan Trừ-bị Thủ-đức hoạt-động tới cuối tháng 4-1975, lúc đó mang tên là Trường Bộ-binh, đặt ở Long-thành. Tiến trình phát triển của Trường Sĩ-quan Trừ-bị trải qua ba giai-đoạn: Giai-đoạn 1951-1955: Vào ngày khai-giảng, Trường Sĩ-quan Trừ-bị ThủĐức xây cất chưa xong. SVSQ khóa 1 Thủ-Đức phải tạm trú trong các nhà lá. Trường Sĩ-quan Nam-Định chỉ đào-tạo một khóa. Sinh-viên khóa 2 Nam-Định 17 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
được đưa vào Trường Sĩ-quan Trừ-bị Thủ-Đức. Trường tọa-lạc trên khu đồi Tăng Nhơn Phú, cách chợ Thủ-Đức khoảng hai cây số. Chỉ huy trưởng đầu tiên là Đại tá Phạm Văn Cẩm, xuất-thân Trường Thiếu-sinh-quân. Trong giai-đoạn 1951-1954, các sĩ-quan tốt nghiệp mang cấp bậc thiếu-úy và có thể chọn ở lại Bộ-binh hay chuyển sang các quân-chủng Không-quân, Lục-quân hoặc binh-chủng Nhảy Dù. Hơn 4000 sĩ-quan được đào-tạo trong giai đoạn này (từ khóa 1 đến khóa 5, sinh-viên tốt nghiệp với cấp bậc thiếu-úy; từ khóa 6 trở đi, sinh-viên tốt nghiệp với cấp-bậc chuẩn-uý.) Giai-đoạn 1955-1963: Trường Sĩ-quan Trừ-bị Thủ-Đức được đổi tên thành Liên-trường Võ-khoa Thủ-Đức, ngoài sĩ-quan Bộ-binh, trường còn đào-tạo sĩ-quan Thiết-vận, Quân-chính, Quân-cụ, Quân-nhu, Quân-y, Dược, Truyền-tin, Công-binh, Thông-vận–binh (xa binh). Thời gian huấn-luyện: 38 tuần. Từ 1955 đến1961, Liên trường Võ-khoa Thủ-Đức cung-cấp: - 2/3 tổng-số sĩ-quan Bộ-binh. - 80% cán-bộ (sĩ-quan và chuyên-viên Quân-nhu - 89% cán-bộ Quân-cụ - 95% cán-bộ Thiết giáp và Truyền-tin - 97% cán-bộ Pháo-binh - 90% cán-bộCông-binh Tháng 10-1961, một số trường chuyên-môn được tách ra. Liên Trường Võ-khoa Thủ-Đức chỉ còn ba trường là Bộ-binh, Thiết-giáp, Vũ-thuật và Thể-dục Quân-sự. Giai-đoạn 1964-1975: Giữa năm 1963, giữa khóa 15, Liên-trường Võkhoa Thủ-Đức được đổi tên thành Trường Bộ-binh Thủ-Đức. Mỗi năm, Trường có ba khoá huấn-luyện. Sau biến-cố Tết Mậu Thân và sắc lệnh tổng động viên ban hành ngày 19-6-1968, hàng năm Trường Bộ-binh Thủ-Đức đào-tạo 6 đến 8 khóa, do nhu-cầu chiến-trường. Từ năm 1951 đến 1967, mỗi năm chỉ có một khóa, đánh số từ 1 đến 27. Đến năm 1968, một năm có nhiều khóa, nên đánh số theo năm (1/68; 2/68, ...) Chương-trình huấn-luyện chia thành hai giaiđoạn: Trong giai đoạn 1, khóa-sinh được gọi là Tân Khóa-Sinh Dự-bị Sĩ-quan, thụ-huấn tại Trung-tâm Huấn-luyện Quang-Trung. Sau khi hoàn tất giaiđoạn 1, các TKS/DBSQ đủ tiêu-chuẩn được chuyển ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 18
sang Thủ-Đức học tiếp giai-đoạn 2. Về sau, các Tân Khóa-Sinh được huấn-luyện giai-đoạn 1 ngay tại Thủ-Đức. Các sĩ-quan tốt nghiệp được mang cấp bậc chuẩn-uý trừ-bị Trong giai-đoạn này, vì số lượng SVSQ quá lớn, thiếu trường sở và huấn-luyện-viên, nhiều khóa sĩquan trừ-bị đã được đào-tạo tại trường Hạ-sĩ-quan Đồng-Đế. Cuối năm 1973, Trường Bộ-binh Thủ-Đức chuyển sang căn cứ huấn-luyện mới tại Long-Thành. Công tác di-chuyển hoàn tất vào đầu năm 1974. Tháng 4-1975, dưới quyền điều-động của Đạitá Liên-đoàn-trưởng Lộ Công Danh, các SVSQ từ Long Thành di-chuyển về Tăng Nhơn Phú. Pháobinh phòng-thủ nhà trường đã trực-xạ, bắn cháy 3 chiếc thiết giáp của VC và 2 tân khóa-sinh dùng lựuđạn lân-tinh đốt cháy chiếc còn lại. Ngày 1-5-1975, lực-lượng phòng-thủ mới buông súng theo lệnh của TT Dương Văn Minh ban hành ngày 30-4 trước đó. Phù-hiệu Trường Sĩ-quan Trừ-bị Thủ-Đức: Nền xanh da trời biểu-hiện sự thanh-khiết từ tưtưởng đến hành-động, và ý-chí cao-cả của thanhniên đối với quê-hương. Ngọn lửa hồng biểu-hiện lòng dũng-cảm, chí cương-quyết, đức hy-sinh. Thanh kiếm biểu hiện cho cấp chỉ-huy Bốn chữ “Cư an tư nguy” – sống yên (không quên) lo nguy, được ghi thêm vào theo đề nghị của Đại-tá Lam Sơn trong thời gian ông làm Chỉ huy trưởng (1962). Câu này trích từ Hệ từ hạ của Khổng-tử: Nguy gỉa an kỳ vĩ gỉa dã Vong gỉa bảo kỳ tồn gỉa dã Loạn gĩa hữu kỳ trị gỉa dã Thị cố quân-tử an nhi bất vong nguy, tồn nhi bất vong vong Tri nhi bất vong loạn Thị dĩ nhân an nhi quốc gia khả bảo gia Nghĩa là: Người bị nguy là bởi cứ yên vui nơi ngôi phận mình Bị mất là bởi chỉ tới cái hiện có Bị loạn bởi tin cậy cái trị có sẳn, Bởi thế, người quân-tử lúc sống yên không quên cái nguy, còn không quên lúc mất Khi thịnh-trị không quên cảnh loạn suy, như vậy mới yên thân mà giữ được nước nhà Câu từ dài ấy được rút lại còn 8 chữ: “ Cư an lự ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nguy, xử trị tư loạn” và gọn hơn nữa, 4 chữ: “CƯ AN TƯ NGUY” Những Chỉ-huy-trưởng Việt Nam trường SQTB Thủ-Đức - Đại-tá Phạm Văn Cẩm - Thiếu-tướng Lê Văn Nghiêm - Thiếu-tướng Nguyễn Văn Chuân - Thiếu-tướng Hồ Văn Tố - Đại-tá Lam Sơn Phan Đình Thứ - Trung-tướng Trần Ngọc Tám - Thiếu-tướng Bùi Hữu Nhơn - Trung-tướng Trần Văn Trung - Trung-tướng Phạm Quốc Thuần - Thiếu-tướng Lâm Quang Thơ - Trung-tướng Nguyễn Vĩnh Nghi - Trung-tướng Nguyễn Văn Minh - Đại-tá Trần Đức Minh CÁC GIAI-ĐOẠN HUẤN-LUYỆN Chương-trình huấn-luyện quân-sự tại Thủ Đức nhằm đào-tạo sĩ-quan chỉ-huy trung-đội, gồm: - Bộ binh căn-bản (18 tuần): vũ khí cá-nhân, cá nhân chiến-đấu, đội hình tác-chiến, . . . - Bộ-binh trung-cấp (28 tuần): Vũ-khí cộng-đồng như đại-liên, súng cối 60 ly, 81 ly, súng phóng hỏatiễn; vượt sông, chiến-thuật, bản đồ, la-bàn, pháobinh, chiến-tranh-chính-trị, quân-pháp, . . . THÀNH-QUẢ CỦA TRƯỜNG BỘ-BINH TÐ. Theo niên giám của trường, trong 25 năm, các trường sĩ-quan trừ-bị đã đào tạo khoảng 55,000 sĩquan, trong đó khoảng 15.000 nguời biệt-phái về các ngành chuyên môn (hầu hết là giáo chức) Các vị tướng xuất-thân từ các trường Sĩ-quan trừbị: Khóa 1 Nam-Định gồm có: -Trung-tướng Nguyễn Đức Thắng (Bộ Trưởng Xây Dựng Nông Thôn) -Trung-tướng Lê Nguyên Khang (Tư-lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến) -Trung-tướng Nguyễn Bảo Trị (Tổng Cục-trưởng Quân-huấn) -Thiếu-tướng Nguyễn Cao Kỳ, (Tư lệnh Không Quân, Chủ-tịch Ủy-ban Hành-pháp Trung-ương) -Thiếu-tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tư lệnh Cảnh Sát) -Thiếu-tướng Nguyễn Duy Hinh (Tư lệnh SưÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đoàn 3 Bộ-binh) -Chuẩn-tướng Vũ Đức Nhuận -Chuẩn-tướng Phan Phụng Tiên -Chuẩn-tướng Nguyễn Văn Điềm Khóa 1 Thủ-Đức: -Trung-tướng Trần Văn Minh (Tư-lệnh Không-quân) -Trung-tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục trưởng Quân-vận) -Thiếu tướng Nguyễn khắc Bình (Tổng Giám-đốc Cảnh-Sát Quốc-gia) -Chuẩn-tướng Phạm Hữu Nhơn -Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Khóa 2 Thủ Đức: -Chuẩn-tướng Bùi Quý Cảo (Tổng Giám-đốc Tàichánh và Thanh-tra quân-phí Khóa 3 Thủ-Đức -Thiếu-tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư-lệnh Quânđoàn IV, tuẫn-tiết ngày miền Nam lọt vào tay CộngSản Bắc Việt) Khóa 4 Thủ-Đức -Trung-tướng Ngô Quang Trưởng (Tư-lệnh Quânđoàn I) -Thiếu-tướng Bùi Thế Lân (Tư-lệnh Thuỷ Quân Lục Chiến) -Thiếu-tướng Lê Quang Lưỡng (Tư-lệnh Nhảy Dù) -Chuẩn-tướng Hồ Trung Hậu -Chuẩn-tướng Trần Quốc Lịch Khóa 5 Thủ-Đức -Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng (Tư-lệnh phó Quânđoàn IV, tuẫn-tiết ngày miền Nam bị cưởng chiếm bởi Cộng Sản Bắc Việt) Khóa 16 Thủ-Đức -Chuẩn-tướng Cảnh Sát Trang Sĩ Tấn (Chỉ-huytrưởng BCH Cảnh Sát Đô-thành Sàigòn) Với 23 vị tướng và 55 ngàn sĩ-quan (số tử vong khoảng 15,000), các trường đào-tạo sĩ-quan trừ-bị đã đào tạo cho đất nước những chiến-sĩ chĩ-huy xứngđáng với châm ngôn Cư An Tư Nguy, sống yên vui phải biết nghĩ tới lúc khó khăn, muốn hưởng hòabình phải chuẩn bị chiến-tranh. Sau 28 năm bị thua cuộc bởi sự sắp đặt của Hoakỳ và thế giới Cộng-sản, cựu SVSQ các trường sĩquan trừ-bị vẫn đoàn-kết, nhắc nhau hướng về quê cũ trường xưa, vì Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm, chung sức kiến tạo một nước Việt Nam Tự Do, Phú Cường và Không Cộng-Sản.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
19
Thuã Àûác
Goåi Ta Vïì
Ngoảnh mặt lại năm mươi năm ròng rã , Bụi thời gian chửa xóa vết chân xưa . Đêm thức giấc giữa khung trời xa lạ , Thủ Đức người ơi ! nhớ mấy cho vừa !
Quên sao được đỉnh đồi Tăng Nhơn Phú , Rừng cao su muôn thuở phủ cây xanh . Khu Chợ Nhỏ luyến lưu giờ hội tụ , Cổng chánh vang vang nhịp bước quân hành . Đêm Alpha bập bùng muôn tiếng trống , Quỳ xuống các ngươi ! Thỏa chí làm trai . Ngời ánh đuốc Vũ Đình Trường lồng lộng , Tỏa sáng đêm nay rõ mặt anh tài ! Cổng số Chín về ngang chiều bải tập , Nghe đâu đây lời réo gọi “ Diệm Song “ . Bụng còn đói ? - Rẽ vô Khu Thiết Giáp , Tô bún bò cay thỏa dạ ấm lòng . Sương mai động lối về Long Thạnh Mỹ , Súng trên vai rảo bước buổi di hành . Đêm dả chiến xa ánh đèn đô thị , Đường quá dài nên nhịp bước chông chênh ! Bải chiến thuật Đồi Hai Lăm nắng đẹp , Dưới tàn cây tựa bóng dáng dã nhân . Thư em đến hẹn cuối tuần đi phép , Bút nịch – Alpha đánh bóng trong ngần ! 20ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thơ Uyên Sơn
Trưa đứng bóng , rừng thưa chờ thao dợt , Thật mát lòng ly cối nước sương sâm ! Cơm bải tập thịt bò kho xã ớt , Cũng ấm tình , người ở Bốn Một Trăm . Sân hỏa lực luyện đời trai gian khổ , Súng ba lô nặng trĩu chẳng hề than . “ Bò thật sát , thật nhanh ! Mìn sắp nổ ! “ Bởi Cư An , phải nghĩ lúc nguy nàn ! Dây Kinh Dị đưa ta vào chiến trận , Hồ Tự Tin thỏa mộng ước tan bồng . Thôi em nhé ! Có chi mà vương vấn ! Để anh vào cuộc chiến giữ non sông ...... Đang dấn bước sao nửa đường gẩy gánh ? Kiếm cung nào vụng vỡ giữa đường quê ! Tóc đã bạc vẫn ôm sầu cô quạnh , Nhớ thề xưa : Thủ-Đức gọi ta về ! Uyên Sơn Cựu SVSQ 17 TĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
TIỂU SỬ TRUNG TƯỚNG TRẦN NGỌC TÁM CỰU CHỈ HUY TRƯỞNG TRƯỜNG SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ĐỨC NĂM 1964
g***h Trung Tướng Trần Ngọc Tám sinh ngày 12 tháng 3 năm 1926 tại Mỹ Tho, Việt Nam. Mất ngày 4 tháng 8 năm 2011, để lại vợ là Bà quả phụ Elizabeth Lữ thị Phê, sáu người con, 11 người cháu và 4 chắt. Trung Tướng Trần Ngọc Tám phục vụ 26 năm trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hai phần ba cuộc đời quân ngũ, ông cầm quân tại mặt trận, chỉ huy các đơn vị lớn nhỏ từ cấp Trung Đội lên đến cấp Quân Đoàn. Ông được trao tặng nhiều huy chương và huân chương, và đã tham gia trên 20 trận đánh lớn. Ông được tưởng thưởng những huy chương cao quý nhất của Việt Nam Cộng Hòa như Bảo Quốc Huân Chương và Anh Dũng Bội Tinh. Ông cũng được trao tặng hai huy chương cao quý của Chính Phủ Pháp là Anh Dũng Bội Tinh “Croix de Guerre” và Chiến Thương Bội Tinh vì sự dũng cảm của ông trong giai đoạn 1947-1952. Ngoài ra, ông cũng được trao tặng 31 huy chương trong những thành tích chống Chủ nghĩa Cộng Sản từ chính phủ của các quốc gia như Phi Luật Tân, Trung Hoa Quốc Gia, Tây Ban Nha, Thái Lan, Đại Hàn và Hoa Kỳ. Trung Tướng Trần Ngọc Tám cũng được Chính phủ Hoa Kỳ trao tặng Huân chương Bắc Đảu Bội Tinh khi ông giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Quân Viện Thế Giới Tự Do nhờ khả năng quân sự, tài ngoại giao, sự siêng năng và lòng tận tụy của ông từ năm 1965-1972. Trung Tướng Trần Ngọc Tám là Đại Sứ Việt Nam tại Thái Lan từ năm 1972-1975. Ông thông thạo các ngoại ngữ Pháp, Anh và Thái.
Trung tướng Trần Ngọc Tám & Đại tướng Westmoreland ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
21
TIỂU SỬ THIẾU TƯỚNG BÙI HỮU NHƠN CỰU CHỈ HUY TRƯỞNG TRƯỜNG SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ĐỨC
(GIAI ĐOẠN II KHÓA 17 NGUYỄN THÁI HỌC)
g**h 1947- Tốt nghiệp Khóa 1 Trường Võ Bị Liên Quân Viễn Đông Quân Đội Pháp tại Đà Lạt. Theo học Khóa Căn Bản Pháo Binh tại Trường Pháo Binh Pháp Idar Oberstein Đức Quốc. Gia nhập Binh chủng Pháo Binh. 1950-1952- Trung úy Huấn luyện viên Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Trung đội trưởng Sinh viên Khóa Trần Hưng Đạo và Khóa 5 Hoàng Diệu. Theo học Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Hà Nội năm 1952. 1954- Thiếu tá, du học Khóa Pháo Binh Cao Cấp tại trường Pháo Binh Châlons-Sur-Marne Pháp Quốc. Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh tại Cần Thơ. 1955-1956- Chỉ Huy Trưởng Trường Pháo Binh QĐVNCH tại Phú Lợi, Thủ Dầu Một. Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Pháo Binh QĐVNCH. 1956-1957- Du học Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavenworth (Kansas). Lớp Không trợ Cận chiến tại Coronado, San Diego. 1957-1958- Tư Lệnh Phó Đệ Tam Quân Khu. 1958-1960- Đại Tá, Tư Lệnh Đệ Tam Quân Khu (Kontum, Pleiku, Phú Yên, Bình Định và Quảng Ngãi). 1960- Trưởng Phòng Quân Huấn Tân lập Bộ Tổng Tham Mưu QĐVNCH, du học Pháo binh Phòng không tại Fort Bliss, El Paso. 1961- Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Pháo Binh QĐVNCH. 1962- 11/1963- Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Tư Lệnh QĐ IV (4 ngày) 11/1963-2/1964- Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ TTM/ QLVNCH. Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. 1964- Chuẩn Tướng, Chỉ Huy Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. 1965-Thiếu Tướng, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận tân lập Bộ TTM/QLVNCH. Chủ Tịch Ủy Ban Điều Hành Quốc Tế Quân Viện. 1966- Tham Mưu Trưởng Liên Quân QLVNCH. 1967- Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh Thủ Đức. 1968- Chủ Tịch Ủy Ban Điều Hành Quốc Tế Quân Viện - Giải ngũ. Hình chụp khoảng 1952
(Hiện tại, Cựu Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn vẫn còn đầy đủ sức khỏe và đang sống thanh thản tại Miền Bắc Tiểu bang California)
22ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Hònh chuåp nùm 1968
Cựu SVSQ Thủ Khoa Khóa 17 SQTB/TĐ Nguyễn Kim Long : hàng đứng thứ 5 mang kính đen với cấp bậc Trung úy tại quân trường Thủ Đức . SVSQ Nguyễn Kim Long sinh ngày 10 tháng 7 năm 1942 , từ trần ngày 7 tháng 1 tại Úc Đại Lợi . Hình do ái nữ Tố Quyên cung cấp
Vïì núi miïn viïîn
(Bài thơ anh viết trước khi về nơi miên viễn)
Tôi viết vần thơ để tạ từ Thân bằng quyến thuộc khắp nơi nơi Mai này tôi sẽ không còn nữa Để lại trần gian một cõi thơ
Tôi sẽ đi về nơi đã đến Bình an xin để lại cho đời Xác thân cát bụi hoàn tro bụi Còn lại tâm hồn được thảnh thơi
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Dù là trăm nhớ nghìn thương lắm Xin nguyện thiên thu một nụ cười Đã đến rong chơi và trở lại Cám ơn sống trọn một niềm vui
Có khi hồn tan vào gió núi Có khi hồn lẫn với trăng ngàn Dù sao cũng sống đời không uổng Xin vẫy tay chào nghiệp thế gian
Ta lặng thinh trời đất lặng thinh Hình như đã nói biết bao tình Cho tôi nhắn gửi người yêu dấu Thổi mát tâm hồn buổi tái sinh.
Thương Hoài TN 01/2012 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC23
Chiïën Trûúâng Xûa Möåt Thúâi Àïí
Nhúá
MX Lâm Tài Thạnh.
M
ột buổi sáng Chủ nhật , mới 5 giờ sáng mà điện thoại reo vang ! Làm ca đêm về , mới vừa thiếp đi mà bị điện thoại quấy rầy , tôi hơi bực mình nhấc máy : _ Alô , ai đó, có việc gì mà gọi giờ này? _Em đây ông thầy , em là Sơn tiếp liệu Đại Đội 1 của ông thầy đây. Nghe người gọi là Hạ Sĩ Sơn , tiếp liệu Đại đội 1 ngày xưa , tôi tỉnh ngủ ngay, thầy trò cùng nhau nhắc lại chuyện xưa miên man , bao khuôn mặt xưa cũ hiện ra như đang cùng đồng đội hành quân vào Đức Cơ , qua Darkto tiến ra Cồn Tiên , Cầu Bến Hải , Đông Hà , Khe Sanh , ngược về lại Pleiku , Komtum , Cheo Reo , Phú Bổn , Daksut tới Tam Quan , Bồng Sơn , Ba Gia , Mộ Đức v.v.. Sau khi dứt điện thoại với Sơn , tôi ngồi viết chuyện buồn vui về Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên TQLC 1964 - 1972 . Ngày 23 tháng 10 năm 1964, trên 1000 Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 17 Trường Bộ Binh Thủ Đức , làm lễ mãn khóa với cấp bậc Chuẩn úy . Trong buổi lễ mãn khóa , có biểu diễn của Không Quân nhưng chẳng may trục trặc kỹ thuật , một phi cơ rơi và phi công tử nạn ! Sự việc đáng tiếc này làm không khí buổi lễ mất vui , u ám với những dị đoan bi quan về tương lai cho toàn thể tân sĩ quan khóa 17 Thủ Đức . Tại hội trường rộng lớn, các tân sĩ quan tập họp để lựa chọn đơn vị gồm các sư đoàn BB, BĐQ, ND, TQLC. Chưa bao gờ không khí quân trường lại vui và náo nhiệt như thế nhưng cũng không kém phần 24ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
hồi hộp, đó là giờ phút lựa chọn đơn vị. Mong sao lựa được đơn vị mình hằng mong ước, dù sau này khi ra đụng thức tế ngoài chiến trường thì chưa biết “Sẽ ra sao ngày sau”?. Khi ban tuyển mộ TQLC tuyên bố tân sĩ quan nào tình nguyện về phục vụ Binh Chủng TQLC thì cả hội trường ồn ào chuyển động như bầy ong vỡ tổ, chen chúc xô đẩy chạy về khu vực dành riêng cho TQLC để được ưu tiên chọn. Số lượng quá đông, có thể gần 200 tân sĩ quan trong khi nhu cầu tuyển mộ chỉ cần có 37. Cung nhiều hơn cầu nên hai ông sĩ quan tuyển mộ bèn đi đường kén chọn , lựa người cao to , không cần trắng trẻo đẹp trai nhưng vẻ mặt phải “ ngầu ” . Thế là tôi trúng tuyển , dành được một vé trong số 37 vé VIP này . Có những anh bị loại bèn mĩa mai những người được chọn _ “ Cao to thì dễ dính đạn chứ báu gì ”. Thất vọng không được mặc bộ rằn ri thì nói vậy để tự an ủi thôi , chứ ai cũng thừa biết rằng súng AK không có mắt , kẻ cầm AK không có tim , đàn bà , trẻ em thường dân vô tội mà chúng còn bắn giết , tàn sát , thì chúng đâu có phân biệt nhỏ to , đâu cần lựa chọn người cao thấp , xấu đẹp . Sau hai tuần nghỉ phép mãn khóa, chúng tôi về trình diện BCH/TQLC tại trại Cửu Long Thị Nghè. Đại Úy Nguyễn Ngọc Vinh Trưởng Phòng 1 Lữ Đoàn, hướng dẫn chúng tôi vào trình diện Tư Lệnh, Đại Tá Lê Nguyên Khang , ông hiểu thị về danh dự và trách nhiệm của quân nhân TQLC, chúc mọi người thành công trên đường binh nghiệp. Sau đó chúng tôi được phân chia về các Tiểu Đoàn 1, 2, 3, 4 và 5, TĐ 5 TQLC tân lập đang trong giai đoạn huấn luyện, trang bị . Trưa ngày 10 tháng 11 năm 1964, 5 Chuẩn úy chúng tôi gồm : Ninh, Nhẫn, Hân, Dũng và Thạnh ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
trình diện BCH / TĐ2 / TQLC, trú đóng tại Xã Tam Hà thuộc Quận Thủ Đức ( cách chợ Thủ Đức khoảng 2 cây số ) trong căn nhà lầu 2 tang , xây theo kiểu Pháp, nằm chơ vơ giữa những mảnh đất ô vuông , trồng rau muống của các cư dân Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 . Thiếu Úy Nguyễn Văn Diễn và Trung Sĩ Phiên, Ban1 / Tiểu Đoàn , hướng dẫn chúng tôi đến trình diện Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Hoàng Tích Thông ( Khóa 5 Thủ Đức ) . Sau khi ông chỉ thị một vài điều cần thiết, chúng tôi được phân phối về các Đại đội . Tôi , Lâm Tài Thạnh về trình diện Đại Đội Chỉ Huy của Trung Úy Nguyễn văn Khái và làm phụ tá Ban 3 cho Thiếu Úy Đặng Bá Sơ, một niên trưởng K12Thủ Đức . Trong thời gian nầy , Tiểu đoàn 2 TQLC , còn được nghĩ dưởng quân tại hậu cứ , nhờ thế nên tôi mới có cơ hội đi dự đám tang của Cố Thiếu Úy Lê viết Đạm ( SVSQ Lê viết Đạm vốn là Hạ sĩ quan , được nhập học Khóa 17 Thủ Đức, vì đã quen với các loại vũ khí , nên được Trung úy Hạc , Sĩ quan Đại đội Trưởng Đại Đội 11 SVSQ . cử làm SVSQ vũ khí ) là sĩ quan Khóa 17 Thủ Đức , tử trận đầu tiên trong cuộc chiến tại Hốc Môn . Khi ra Trường , Đạm được phân phối về Tiểu Đoàn 4 TQLC, có hậu cứ tại Vũng Tàu , tuy nhiên đang hành quân ở ven đô , giữ an ninh cho Sài Gòn Hai tuần sau , Tiểu đoàn 2 TQLC , nhận lệnh tăng phái cho SĐ22/BB để hành quân vào thung lũng An Lão , Quận Bồng Sơn , Tỉnh Bình Định ( Quy Nhơn ) ( Đối với tôi cuộc chiến thực sự bắt đầu từ cuộc hành quân nầy và kéo dài đến 30 Tháng 04 Năm 1975 ) . Trong lúc chuẩn bị lên đường , bất ngờ một tai nạn do đoàn xe quân vận gây ra khiến cho Thiếu Úy Sơ , bị thương ở phần đầu , ông được chở ngay đi bệnh viện cấp cứu nhưng không may, ông đã từ trần khi đến bệnh viện ! Thế là tôi trở thành Trưởng ban 3 bất đắc dỉ , nhờ vào sự chỉ bảo , hướng dẩn của Tiểu đoàn trưởng và được các Hạ sĩ quan giàu kinh nghiệm giúp , nên mọi việc cũng tạm ổn , cuộc hành quân vào thung lũng An Lão , truy tìm các đơn vị chánh quy Bắc việt không có kết quả vì địch đã tránh né , rút về bên kia biên giới của Cao Miên . Tuy nhiên sau cuộc hành quân này, nhận thấy không thích hợp với vai trò giấy tờ tham mưu , tôi xin ra đơn vị tác chiến và được chấp thuận. Đơn vị đầu đời binh nghiệp mà tôi cầm súng chiến đấu thực sự là Đại Đội 1/TĐ2/TQLC. Đại Đội Trưởng là Trung Úy Phạm Nhã , Đại Đội Phó là Thiếu Úy Phạm Dương Đạt ( K17VB ) anh là « Sư phụ đầu đời binh nghiệp của tôi « . Trận chiến đầu tiên trong đời , thực sự xảy ra là ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đêm 8 tháng 4 năm 1965 tại Ấp Phụng Dư, Xã Tam Quan , Quận Bồng Sơn . Đã nhiều năm trôi qua , mà tôi còn như nghe tiếng gọi của B1 Lâm Khâm, phụ xạ thủ đại liên 30 của Trung đội súng nặng do tôi làm Trung đội Trưởng :( Trung đội súng nặng của TQLC vào thời điểm Năm 1964 gồm có 1 Tiểu đội Súng cối 60 ly , một Tiểu đội Đại liên 30 ly , một Tiểu đội Súng Đại bác không giật 57 ly . Thường khi đóng quân , phòng thủ chu vi các Tiểu đội súng nặng đều được tăng cường cho các Trung đội tác chiến , tùy theo quyết định của Đại đội Trưởng . Quân số Trung đội Súng nặng TQLC từ 30 đến 40 quân nhân ) _ Thiếu úy lấy cho em mấy thùng đạn và kiếm nước giải nhiệt cho « gà cồ « . “Gà cồ” là cây đại liên 30, bắn nhiếu quá lòng súng nóng đỏ lên phải đổ nước vào cho nguội bớt đi thì đạn đạo mới chính xác. Tiếng Việt lơ lớ giọng Miên của Lâm Khâm bị mất hút trong tiếng nổ vang rền , xé gió của AK , của thượng liên Đông Đức, của súng cối 82 ly của VC đang tấn công vào vị trí Đại Đội 1 và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn . Không thấy xạ thủ đại liên đâu , tôi hét lên hỏi B1 Lâm Khâm : _ Hạ Sĩ Mến xạ thủ đâu? _ Nó bị thương đang nằm trong góc giao thông hào kia kìa ông thầy. _ Nhớ bắn từng chặp 3 viên một , khoảng 15 viên thì di chuyển vị trí, tao chạy đi lấy đạn và nước rồi sẽ trở lại ngay. _ Nhận rõ “ Thiếu úy ”. ( ở đơn vị tác chiến , binh sĩ quen gọi Thiếu Úy thay vì là Chuẩn Úy ) . Ấp Phụng Dư là một Ấp nhỏ, lèo tèo vài căn nhà lá nằm dưới các hàng dừa cao vút, nhận thấy địa thế không thuận lợi cho việc phòng thủ , nên ĐĐ.1 đã cố gắng đào giao thông hào làm tuyến phòng thủ. Nửa đêm về sáng VC tấn công với tiền pháo hậu xung, cối 61, 82 ly, xung phong với AK, B40, B41, những loại vũ khí mới đem sử dụng ở chiến trường miền Nam trong khi quân ta còn dùng Garant M1, Trung liên Bar, Đại liên 30, SKZ 57 , Cối 60 và 81ly . Từng đợt, từng đợt xung phong liều chết của bọn thiêu thân Trung Đoàn 2 Sư Đoàn 3 Sao Vàng Bắc Việt , vào vị trí phòng thủ của ĐĐ.1, có những lúc phòng tuyến của Đại đội tưởng như muốn bị chọc thủng ! Nhưng nhờ ý chí chiến đấu dũng cảm với các chiến binh dày dạn kinh nghiệm trong chiến trận , cộng thêm hệ thống phòng thủ với giao thông hào , nên ĐĐ.1 đã cầm cự sau hơn 5 giờ, đồng thời nhờ các Đại đội 2 ,3 , 4 tiếp viện kịp thời cho nên chiến trận nghiêng về thắng lợi tuyệt đối cho Tiểu Đoàn 2 TQLC quân Bắc Việt phải đoạn chiến , chém vè rút lui khi trời sắp ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC25
sang . Tiểu Đoàn 2 TQLC đã chiến thắng vô cùng xuất sắc, , bắt sống tại chổ 10 tên quân Bắc Việt còn rất trẻ , thu hơn 100 vũ khí cộng đồng và cá nhân, hơn 150 xác địch bị bỏ lại ( trích Trận đánh Phụng Dư của NT Hoàng Tích Thông trong tuyển tập 2 TQLC ). Đây là trận chiến thử lửa gay cấn đầu đời binh nghiệp , tôi được ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng ( Cấp Quân Đoàn ) , nhưng điều quý giá hơn là tôi đã học hỏi được nơi Tr/úy Phạm Dương Đạt , kinh nghiệm thực tế tại chiến trường , kinh nghiệm được đổi bằng máu và nước mắt , nhờ vậy tôi có được những đường lối hành động hợp tình, hợp lý khi chỉ huy Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 2 Trâu điên sau nầy . Sau trận Phụng Dư, Tiểu Đoàn 2 có một thay đổi nhỏ là Tr/Úy Nguyễn Xuân Phúc coi Đại Đội 4 thay cho Đ/Úy Ngô Văn Định, ông được thuyên chuyển giữ chức vụ cao hơn. Riêng ĐĐ.1 thì có thêm Ch/Úy Nguyễn Xuân Quang, K19/TĐ. Tôi được lệnh bàn giao Trung đội súng nặng cho Quang , để thay thế anh Đạt , chỉ huy Trung Đội 3 tác chiến ( còn gọi là Trung Đội 16 / Đ Đ 1 ) Bốn tháng sau, ngày 9 tháng 8 năm 1965, Chiến Đoàn A/TQLC, dưới quyền điều khiển của Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng Nguyễn Thành Yên, gồm các Tiểu Đoàn 2 và 5/TQLC, Thiết Giáp, BĐQ tham dự cuộc hành quân giải tỏa địch đang bao vây trại Lực Lượng Đặc Biệt Đức Cơ. Khoảng 2 giờ chiều, khi Tiểu đoàn BĐQ tùng thiết , vừa qua khỏi ngã ba Lệ Thanh thị bị VC chặn viện tấn công, hai chiến xa đi đầu bị B40 bốc cháy, BĐQ phải cận chiến với VC và bị thiệt hại nặng. ĐĐ.1/TĐ.2 được lệnh tiếp viện cho BĐQ , Trung đội tôi được lệnh tiến chiếm và bảo vệ vị trí nơi Thiết Gíáp và BĐQ vừa chạm địch , để đơn vị bạn đến di tản những quân nhân bị tử thương. Mặt trời dần ngả về dảy núi phía Tây , nắng chiều lẩn với khói bom đạn tạo thành một màu vàng úa cả một vùng đồi núi , vang dội ầm ì tiếng bom , đạn , cuộc hổn chiến đang còn tiếp diễn quanh đây. Cầm bịch gạo xấy vừa đổ nước lạnh, trộn thêm hộp thịt ba-lát , vốn dĩ đã không hấp dẫn lại càng khó nuốt khi quanh tôi những tử thi địch và ta không nguyên vẹn nằm bên nhau đủ kiểu !!! Vừa mới vài phút trước đây họ còn là đối thủ , không đội trời chung , chỉ trong chớp mắt một tiếng nổ vô nghĩa nào đó , họ nằm bất động bên nhau , không còn hận thù ! Chừng nào tới phiên tôi đây? Đoạn đường ai có qua cầu mới hay, hay rồi thì không biết gì nữa. chỉ còn cha mẹ vợ con biết đã mất một người thân yêu. 26ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Lúc 1 giờ sáng, VC lại tấn công dữ đội vào tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 2 TQLC , nặng nhất là tuyến Đại Đội 4 , có chi đội thiết vận xa tăng cường, một số tử thương trong đó có Th/Úy Khôi Đại đội Phó và Ch/Uy Sinh. Riêng tôi lại may mắn hơn, vừa khi rời vị trí khẩu 57 ly không giật , để điều động Tiểu đội bên cạnh thì té sấp vì tiếng nổ B40, quay lại nhìn , qua khói bụi mịt mù cũng đủ nhận ra Hạ Sĩ Lâu, khẩu đội trưởng 57ly , nằm bất động không toàn thây, còn B1 Điền và B2 Hạnh thì đang lăn lộn rên la ! Thật là trong chiến trận sống và chết chỉ trong khoảng khắc ngắn ngũi . Tôi được ân thưởng một ADBT với Ngôi Sao Bạc ( Cấp Sư Đoàn ) , sau trận Đức Cơ, chỉ trong một thời gian ngắn,( chưa tới 1 Năm ) một Chuẩn úy vừa nhập cuộc chiến , đã có một ADBT với ngôi sao Vàng và Bạc thì đủ hiểu Tiểu Đoàn 2 TQLC , vất vả vì có số “Sát Cộng ” như thế nào. Nhưng đã chọn đúng đường đi, tương lai “ không xanh cỏ thì đỏ ngực ”, đỏ ngực vì máu hay vì chiến thương bội tinh cũng thế thôi, đường ta ta cứ đi. Tiểu Đoàn 2 TQLC tiếp tục được tăng phái cho Quân Khu 2, nhất là cho Biệt Khu 24, chiến trường luôn sôi động quanh 2 tỉnh Pleiku và Kontum. Những địa danh khó nuốt với trận chiến ác liệt đẫm máu khó quên như Dakto, Daksut, Cheo-Reo, Tân-Cảnh, đèo Mang-Yang, Chu-Pao. Quân CSBV luôn ẩn hiện trong vùng rừng núi ngút ngàn, mây mù bao phủ, gió hú ngày đêm không ngưng nghĩ . Địa thế và thời tiết luôn gây khó khăn cho quân ta về tiếp tế và phi pháo nhưng lại là “đồng minh” của quân BV. Thời gian tham dự hành quân ở QK2 là những thử thách đáng nhớ cho các Trung đội trưởng , đây thực sự mới là trường học về địa hình , địa vật liên quan trực tiếp đến mạng sống đồng đội .Rừng núi chập chùng, đồi cao nhấp nhô, các Trung đội trưởng là những người định điểm đứng đầu tiênkhi di chuyển trong rừng , núi , tiến quân phải đúng hướng theo các mục tiêu đã định trước trên phóng đồ hành quân , sai một ly, đi một dặm, có khi phải trả giá bằng máu và nước mắt chứ không “ à-ơi ” như khi còn học ở quân trường với những địa hình căn bản và đơn giản . Cuộc hành quân giải tỏa quận lỵ Dakto chấm dứt, quân CSBV rút về bên kia biên giới Việt-Lào, lợi dụng thời gian dừng quân đế tái trang bị và nhận tiếp tế, anh em chúng tôi có những buổi vui chơi vội vã nơi phố núi sương mù “phố núi cao, phố núi đầy sương” nhưng “thiếu bóng đàn bà” để rồi lại vội vã lên đường vào rừng núi, vào “nơi gió cát” vùng Bồng-Sơn, Tam-Quan, An-Lão, Ba-Gia, Mộ-Đức ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Nghĩa-Hành, núi Thiên-Ấn, sông Trà-Khúc, đầm Trà-Ổ v.v..Nhiệm vụ vẫn thế, súng đạn lên vai, cơm vắt một ngày, một tuần gạo xấy ! Cấp chỉ huy lần lượt thay đổi. ĐĐT Phạm Nhã trao ĐĐ.1 lại cho Tr/ Úy Phạm Dương Đạt, rồi anh Đạt truyền “ngôi” lại cho bạn đồng khóa 17/VB là anh Trần Kim Hoàng .Tôi nói “ truyền ngôi ” cũng không quá đáng lắm đâu , ở Binh chũng TQLC với đất chật , người đông ( đa số là VBĐL hoặc các đàn anh Thủ Đức khác ) thì cái mộng được làm “ Vua 1 Đại đội tác chiến TQLC ” đối với những “ quan Thiếu Úy ” như tôi , thật là xa vời và chỉ là mơ ước khó vói tới trong một thời gian ngắn . Tháng 10 Năm 1965 . Trong lúc Đại đội 1 , đang hành quân biệt lập cách Tiểu đoàn chừng 5 km và đang phòng thủ chu vi trong một xóm nhỏ thuộc xã Tam Quan , thì một hôm chúng tôi theo dỏi và bắt được một thiếu nữ , trong một căn nhà giáp tuyến đóng quân của Trung Đội 14 và Trung Đội 16 sau khi thẩm vấn và đe dọa sẽ bắt luôn Cha và Mẹ của cô ta , cô này mới khai nhận là đã chuyển sơ đồ vị trí đóng quân của ĐĐ.1 , ra ngoài cho du kích địa phương . Nên nhớ dân vùng Tam Quan thời đó đa số có thân nhân “nhảy núi” ( theo VC ) và sử dụng mỹ nhân kế , để thâu thập tin tức hoặc dụ dổ các quân nhân trong đơn vị lấy vũ khí trốn theo Việt Cộng . Chúng tôi báo sự việc này lên Đại đội trưởng, Trung úy Trần Kim Hoàng cho lệnh các Trung đội kiểm soát lại vũ khí và vị trí phòng thủ , tăng cường gài mìn bẫy tối đa, đặt các toán tiền đồn, mật khẩu , mật hiệu thay đổi hằng ngay và chỉ phổ biến trước giờ các toán tiền đồn xuất phát . Mọi quân nhân ngủ ngay tại giao thông hào trên tuyến phòng thủ, các Trung đội trưởng gồm Th / Úy Chung Văn Nghiêm, Th /Úy Lâm Tài Thạnh , Chuẩn Úy Nguyễn Xuân Quang , Thượng Sĩ Hóa , phải thường xuyên kiểm soát. Với một mớ kinh nghiệm không nhiều nhưng chúng tôi đã khá quen và thuần thuộc về tấn công và phòng thủ, tuy tình hình khá nguy hiểm nhưng tinh thần chúng tôi không căng thẳng, đáng lẽ ra là phải thay đổi vị trí đóng quân ngay, nhưng anh Hoàng và các Trung đội trưởng chúng tôi chọn giải pháp phòng thủ tấn công địch khi chúng tự mò về nạp mạng thay vì mỗi ngày cứ đi tìm và lùng sục khắp nơi mà chẳng thấy bóng dáng bọn chúng ở đâu ! Hiệu thính viên Nguyễn Văn Nở vừa gọi , tôi chưa kịp nói gì thì Trung đội phó là Tr/Sĩ 1 Nguyễn Văn Cương chạy theo giao thông hào đến báo cho tôi biết , toán tiền đồn đã rút về an toàn và báo VC kéo ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
về đông lắm. Tôi liếc nhìn đồng hồ, đúng 2.30 giờ đêm, không chậm trễ tôi báo ngay tình hình lên anh Hoàng và cho các Trung đội khác biết. Tất cả đã sẵn sàng trên tuyến, sẵn sàng mở khóa an toàn , sẳn sàng đương đầu với bọn Bắc phương vô thần . Vẫn thói tiền pháo hậu xung, sau vài đợt “ục-ục” tiếng cối 61 pháo kích , là tới tiếng B40, B41, thượng liên Đông Đức và AK, đó là lúc chúng bắt đầu tấn công, những trái B40, B41 trúng thân các cây dừa trước tuyến , nổ nghe chói tai , điếc óc . Lính tác chiến chuyên nghiệp hẳn hiểu rõ phải làm gì, ban ngày tìm hoài không thấy, nay ban đêm chúng dẫn xác về nạp mạng! Bãi lựu đạn gài trong khu nghĩa trang trước tuyến Trung Đội 16 của tôi liên tục nổ chát chúa, cây trung liên Bar của B1 Phạm Cư cứ theo nhịp 3 viên một , từng chặp , từng chap , lại thêm hỏa lực yểm trợ cận tuyến của pháo đội đại bác 75 ly TQLC , đóng trên Đồi Mười , nên VC đành phải bỏ xác đồng đội lại để rút lui vào lúc gần sáng, tính ra hai bên súng nổ kéo dài chừng 3 giờ đồng hồ. Kết quả là cháu ngoan già Hồ , bỏ lại 20 xác tại bải lựu đạn trong khu nghĩa trang , trước mặt xạ thủ trung liên Bar của Phạm Cư là 9 chú , tổng cộng trên toàn tuyến của Đại Đội 1 đếm được 45 xác và 30 vũ khí đủ loại. “ Nghĩa tử là nghĩa tận ”, Đại Đội Trưởng Trần Kim Hoàng , mĩm cười vuốt sợi râu mọc dài từ nốt ruồi dưới cằm và ra lệnh thu gom xác địch vào sân đá banh kế bên trường học rồi xin xe ủi đất đào hố chôn 45 tên : « Sanh Bắc Tử Nam ” sao cho mồ yên nhưng mã thì không đẹp. Theo đúng bài bản, khi vị trí bị lộ là phải thay đổi ngay, nhưng anh Hoàng và chúng tôi quyết định thử lửa chơi trò “ gậy ông đập lưng ông ” nên mới tóm gọn 45 chú, còn chúng mang đi bao nhiêu thì ai mà biết, chúng tôi lính tác chiến thật sự thì rất ghét cái trò báo cáo “ có hằng trăm xác địch được đồng bọn mang theo ” (!). Không biết chính xác lực lượng địch, nhưng căn cứ trên số xác bỏ lại và vũ khí sử dụng thì ít nhất chúng phải là cấp Tiểu đoàn. Sau trận này các quân nhân của Đại Đội 1 được ân thưởng xứng đáng , anh Hoàng Đ Đ T đề nghị thăng cấp đặc cách mặt trận Thiếu úy cho tôi ( trước thời gian tự động lên Thiếu Úy là 7 tháng ) .Khi về đến hậu cứ nghĩ dưởng quân tôi nhận được quyết định do Ban 1 Tiểu Đoàn trao với chử ký của Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh lúc bấy giờ là Đại Tá Nguyễn thanh Sằng . Tháng 11/1965, Thiếu Tá Lê Hằng Minh thay thế Th/Tá Hoàng Tích Thông , đồng thời TĐ.2/ TQLC được bổ sung 5 thiếu úy Khóa 20 VBĐL gồm ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC27
Nguyễn Quốc Chính, Phạm Văn Tiền, Nguyễn Tuấn Kiệt, Nguyễn Quang Minh và Hòang Như Liêm. Minh và Liêm về ĐĐ.1 với chúng tôi. Hai tuần sau, TĐ2 thay thế Nhảy Dù để bảo vệ vòng đai thủ đô Saigon, trong cuộc hành quân ven đô ở Tân Thuận Đông, xã Long Kiển thì Th/Úy Nguyễn Quang Minh tử trận , trong khi anh còn đi làm quan sát viên trước khi được chánh thức làm Trung đội Trưởng ! Sự ra đi quá sớm của Th/Úy Minh là một nỗi buồn của lớp sĩ quan trẻ cùng trang lứa và thấm thía với câu “ cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ”, bởi vì những ngày tháng sau đó thì Hoàng Như Liêm bị trong thương, trở thành người “ chân thật, chân giả” , rồi giải ngũ , giã từ vũ khí ! Còn Kiệt và Chính thì lần lượt hy sinh vì Tổ Quốc sau nầy ? Chẳng phải ai cũng coi “cái chết nhẹ tựa lông hồng”, nhưng sống chết đối với linh tác chiến , sao mà nhanh thế không ngac nhiên nhưng quá thảm thương, “ kiếm củi 2 năm thiêu một giờ ”, 5 anh thì đi đứt 3, loại khỏi vòng chiến 1, chỉ còn lại 1 ( Phạm văn Tiền Tháng 1 Năm 1975 là Thiếu Tá Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 5 TQLC ) . Khoảng tháng 3/1966, TĐ.2 dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Hằng Minh, hành quân lục soát vùng Tam Quan Bồng Sơn, vẫn lại cái vùng du kích đông và dai như đỉa đói, khi tiến chiếm mục tiêu là ấp chiến lược An Quý thì bị VC bố trí sẵn trong giao thông hào quanh ấp chiến lược, bên ngoài có hàng rào kẽm gai, bắn xối xả vào ĐĐ.3 đi đầu đang dàn quân giữa đồng trống, không còn cách nào hơn là TQLC phải ào ạt xung phong thẳng vào chiếm mục tiêu, nhưng ĐĐ.3 và ĐĐ.2 vẫn bị cầm chân ngay bờ rào ấp chiến lược, Tr/Úy Nguyễn Ngọc Điệp ĐĐT/ ĐĐ.3 ( K17VB ) đã hy sinh ! Đại Đội 1 đang làm trừ bị liền được Tiểu đoàn điều động bọc hông , đánh vào sườn phải của VC, Trung đội 14 của Th/Úy Hoàng Như Liêm và Trung đội 16 của tôi dàn hàng ngang xung phong chiếm đoạn giao thông hào hắc-ám ( mà khi chiếm được rồi mới biết xác VC bị xích chân vào gốc dừa ) khiến Hoàng Như Liêm bị trọng thương ( sau này bị cưa chân ) và 2 binh sĩ tử thương ngay khi vừa xung phong, nhưng những người khác thì cứ hét tướng lên “xung phong” khiến lực lượng VC ở kháng tuyến chính nao núng rồi phân tán, đó là thời điểm “VC bị lưỡng đầu thọ TQLC”, ĐĐ.2 và ĐĐ.3 ào lên như nước vỡ bờ, chiến trường được giải quyết khi trời vừa sập tối. Trong trận này tôi được ADBT với ngôi sao đồng ( Cấp Trung Đoàn ) Tháng 6/1966, sau khi ổn định vụ biến động miền Trung tại Đà Nẵng và Huế, Chiến Đoàn B gồm các 28ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
TĐ.1 và TĐ.2 tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 283, từ Gia Đẳng 1 đến Gia Đẳng 2, dồn TĐ/808 Bắc Việt vào ngã ba sông Vĩnh Định, Bích La thôn, và diệt gọn chúng tại đây, (Th/Uy Nguyễn Tuấn Kiệt tử trận tại Gia Đẳng ). Chiến Đoàn A được đưa về Huế tham dự mừng chiến thắng. Sau đó thì TĐ.1 xuôi Nam tăng phái cho SĐ.22/BB tại Quảng Ngải , TĐ.2 tiến Bắc tăng phái cho SĐ.1/BB tại Quảng Trị . Sáng 29 / 6 / 1966 TĐ2 / TQLC di chuyển ra Quảng Trị bằng quân xa trên QL1 theo thứ tự các Đại Đội 1, 2, CH, 3,4. Khi đến cây số 17 thuộc Quận Phong Điền thì bị phục kích khiến Tiểu Đoàn 2 TQLC bị tử trận 42 người , trong đó có Trung Tá Tiểu đoàn Trưởng Lê Hằng Minh và toàn bộ Trung đội cãm tử hô tống . Sau khi tham dự vào việc ổn định tình hình xáo trộn tại Đà Nẳ và Huế của những kẻ “ buôn thần bán thánh ”, TQLC chịu hai thiệt hại lớn với nhiều nghi vấn như sau : 1/ TĐ.5/TQLC chuẩn bị ngày hôm sau về hậu cứ để bổ sung và tái trang bị thì bị Sư đoàn được tăng phái “ vắt chanh ” thêm một ngày nữa , để hành quân lục soát (!) một xóm làng tại Mộ Đức, Quảng Ngãi. Một đơn vị tổng trừ bị mà dùng chỉ để hành quân lục soát thôi ư ? Đó là nhiệm vụ của địa phương. Và rồi TĐ 5 TQLC bị đưa vào thế trận đã sắp sẵn để cuối cùngTĐ 5 TQLC bị thiệt hại nặng nề khi bị một Trung đoàn Bắc Việt tấn công. Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 5 TQLC tử trận ( có cả 2 Sĩ quan Khóa 17 Thủ Đức ). 2/ Sáng 29/6/1966, TĐ.2 di chuyển bằng quân xa từ Huế ra Quảng Trị và đã bị lọt vào thế trận phục kích xe ngay trên QL1 tại cây số 17, gây cho Anh Cả Lê Hằng Minh tử trận cùng 41 quân nhân các cấp, chưa kể 95 người bị thương. Tiểu Đoàn 2 di chuyển theo thứ tự Đại Đội 1, 2, ĐĐCH, 3, 4. Tôi, Lâm Tài Thạnh, Trung Đội Trưởng Trung Đội 16 Đại Đội1 , đi xe đầu tiên của đoàn xe , ngồi chung với tôi có Tr/Úy Tài ( Khóa 10 Thủ Đức) ĐĐPhó , đi trước xe tôi là chiếc xe Jeep của trưởng đoàn xe quân vận, có nhiệm vụ hướng dẫn và duy trì vận tốc đoàn xe. Khi xe chúng tôi đi qua cầu Phò Trạch khoảng hơn 2 km thì bổng dưng tôi thấy xe Jeep phía trước bật đèn pha và chạy thật nhanh. Tôi quay sang nói với Tr/Úy Tài: “ Coi kìa xe jeep kia mở đèn làm gì ? Tại sao Jeep dẫn đầu mà lại chạy nhanh thế ? Vừa dứt câu thì nghe ì ầm súng nổ, đoàn xe phía sau bốc cháy. Biết là đoàn xe bị phục kích, nhưng Đại Đội1 đi đầu đã lọt ra ngoài tuyến phục kích của VC , nên anh Trần Kim Hoàng ĐĐ Trưởng, ra lệnh tất cả xuống xe , chiếm cao điểm và đánh ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ngược trở lại để tiếp ứng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn . Trong bài viết này tôi không đi vào chi tiết trận Tiểu Đoàn 2 TQLC, bị phục kích ngay giửa ban ngày trên một lộ trình mà quân xa các loại cũng như xe dân sự lưu thông rất bình thường, mà chỉ đưa ra những điều bất thường, đầy nghi ngờ như sau: _Lực lượng VC rất đông, phục kích đoàn xe di chuyển cấp Tiểu đoàn dài gần 3 km, chúng bôn tập di chuyển đến và dào hầm hố ngay sát QL1, tại cây số 17, ở một địa thế trống trải , rất gần với Huế mà tình báo địa phương không hề hay biết ? Đoạn cuối tuyến phục kích nằm gần đồn Nghĩa quân giữ cầu Phò Trạch trên QL1 mà đồn này không hề hay biết ? _ Lệnh di chuyển cho Tiểu Đoàn 2 TQLC, bị hoãn lại một ngày mà không có lý do chính đáng . _ Buổi sáng trước khi TĐ.2 di chuyển ra Quảng Trị , thì đã có một đoàn xe của TQLC Hoa Kỳ và cả đoàn xe của Đại Đội Hắc Báo Sư Đoàn 1 di chuyển từ QT vào Huế trên QL1 này , quân Việt Cộng không đánh mà chỉ chờ đúng đoàn xe Tiểu Đoàn 2 TQLC vào đúng vị trí phục kích, chúng mới nổ súng , « độn thổ « đánh bất ngờ từ các hầm hố bố trí sẳn sát Quốc Lộ 1 _Tại sao xe jeep của trưởng đoàn xe có nhiệm vụ duy trì tốc độ cả đoàn xe lại bật đèn pha rồi bất ngờ tang tốc độ chạy thật nhanh , đúng vào lúc mọi vũ khì cộng đồng của quân Bắc Việt từ các sườn đồi trọc, cao phía Tây Quốc Lộ 1 , khai hỏa vào đoàn xe, rồi quân phục bên đường xung phong lên. Chính tên trưởng xa đoàn quân vận này đã “ bật đèn xanh ” ra lệnh cho VC nổ súng. Nhưng xét cho cùng thì hắn chỉ là một trưởng đoàn xe mà thôi. Đàng sau hắn phải là một thế lực đen tối , một giới chức cao cấp nội tuyến, ly khai đem bán đứng Tiểu Đoàn 2TQLC . _ Trong số các tử thi của VC để lại trên trận tuyến, có một số bị nhận dạng là quân nhân ly khai trong vụ biến động miền Trung với bàn thờ Phật “ xuống đường ” theo lệnh của sư hổ mang Thích Trí Quang. Chỉ trong vòng hơn nửa tháng mà hai Tiểu đoàn TQLC , từng gây nhiều thiệt hại lớn lao cho quân Bắc Việt và Việt Cộng tại Quân Khu 1cũng như dẹp yên , bọn phản loạn miền Trung , bọn chống lại chánh quyền Trung Ương Sài Gòn ( chúng gọi TQLC và Nhảy Dù là Lính Thiệu & Kỳ ) thì cả hai đơn vị này đều bị thiệt hại nặng ,cả hai Tiểu đoàn trưởng đều tử trận , ngay trên chính mảnh đất mà TQLC được tăng phái đến , để giúp giữ trật tự và an bình cho dân chúng trong khu vực . Thật là mỉa mai và đau sót cho những hy sinh vô nghĩa bởi những kẻ « đâm sau lưng chiến sĩ « Trung Tá Lê Hằng Minh là một cấp chỉ huy tài ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đức vẹn toàn, sống hòa đồng cùng thuộc cấp. Chúng tôi, những hậu sinh của Tiểu Đoàn Trâu Điên mãi mãi tưởng nhớ đến Anh, người Anh Cả khả kính của Tiểu đoàn 2 Trâu điên TQLC . TĐ2/TQLC đón nhận vị tân Tiểu đoàn trưởng ngay trong ngày tại mặt trận là Th / Tá Ngô Văn Định ( Cựu Đại Đội Trưởng Đại Đội 4 Tiểu đoàn 2 TQLC Năm 1964 ) và toàn bộ Tiểu đoàn di chuyển về trung tân huấn luyện Vạn Kiếp ( Vũng Tàu ) để tái trang bị , bổ sung và huấn luyện . Sau thời gian đó Tiểu Đoàn 2 TQLC lại tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ tìm và diệt địch xung quanh các căn cứ hỏa lực Cồn Tiên , C1, C2 , C3 , đôi khi hành quân ra tới Vùng phi quân sự vỉ tuyến 17 bên Sông Bến Hải , thuộc Tỉnh Đông Hà trong mùa Đông mưa gió giá buốt, mùa Hè cháy da. Chưa xong thì lại lui về Trường Sơn với địa danh quen thuộc An Lão, Tam Quan, đụng “cố tri” SĐ.3 Sao Vàng BV hoặc tiếp viện khẩn cấp , cho các đơn vị bạn , đang bị đụng nặng trên khắp Bốn Vùng chiến thuật. Là đơn vị tổng trừ bị chúng tôi thật hãnh diện với những nhiệm vụ này, nhưng cũng rất phiền, rất chán khi nơi xin TQLC đến chỉ làm nhiệm vụ lục soát thay cho lực lượng địa phương được nghỉ ngơi ,và những lần như thế thì người “ có chức ”, « có thẩm quyền « nơi địa phương mà TQLC bị tăng phái đến thì họ tha hồ sắn tay áo “ vắt chanh ” cho đã tay, cho cạn kiệt! Sau khi TĐ2 bị phục kích xe tại Phong Điến Huế, ngoài tân Tiểu đoàn trưởng thì còn có sự thay đổi khác: Đại Úy Nguyễn Xuân Phúc ( K 16 VBĐL ) bàn giao ĐĐ4 cho anh Trần Văn Hợp ( K 19 VBĐL ) để lên giữ nhiệm vụ Tiểu Đoàn Phó . Anh Trần Kim Hoàng giữ ĐĐCH và bàn giao ĐĐ1 lại cho anh Nguyễn Kim Đễ ( K 16 VBĐL ) . Một thời gian sau , khoảng 1967, anh Phúc đi nhận nhiệm vụ mới, anh Đễ thay thế chức Tiểu Đoàn Phó . Vậy thì Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 2 TQLC sẽ lọt vào tay ai ? Nếu không phải là TQLC, thì tôi có quyền mơ và sờ vào chức vụ này lắm chứ, bởi vì thâm niên và liên tục sống chết với Đại đội này từ 64 đến 67. Nhưng với Binh Chủng TQLC thì chưa, chức vụ Đại đội trưởng TQLC dù Tiểu đoàn trưởng có thương , muốn nâng đỡ thì vẫn phải chờ Bộ Tư Lệnh «coi giò , coi cẳng ”, thế là tôi « chưa vói « tới được . Chức ĐĐT/ ĐĐ.1 lại về tay một ông “ thâm ” hơn từ ĐĐ 4 qua mà ông vốn là gốc TĐ 5 TQLC bị thuyên chuyển về TĐ 2 TQLC với bút phê không được vui, đó là Tr/ Úy Tô Văn Cấp ( K 19 VB ĐL ) . Để an ủi và tưởng thưởng công lao làm « Trâu Điên húc càng « từ 1964 - 1967 , nên Đại Úy Tiểu đoàn Phó Nguyễn kim Đễ, đề nghị cho “ con gà đá độ” Lâm Tài Thạnh đi học ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC29
khóa Tác Chiến Trong Rừng Rậm ở Mã Lai (Jungle Warfare School Khóa 39 , cuối Tháng 9 Năm 1967 ) trong thời gian 6 tuần lễ. Thực ra thì học chẳng có bao nhiêu, vì những người đi học khóa này , đại đa số là sĩ quan tác chiến của các binh chũng thiên chiến của quân lực VNCH như ND, TQLC, BĐQ, các Sư Đoàn BB, là những sĩ quan đã từng tham dự trận mạc, nhiều năm với thực tế chiến trường, kinh nghiệm đầy mình , nên được thượng cấp thưởng cho đi “ thư giản ” một thời gian ngắn , để họ khỏi “ than dữ ”. Ngày mãn khóa học, trở lại VN, vừa bước chân xuống phi trường Tân Xuân Nhất , thì được sĩ quan hậu cứ báo cho biết TĐ.2 vừa đụng trận nặng tại kinh Cái Thia, Quận Cai Lậy và Tr/úy Nguyễn Quốc Chính ( K 20 VBĐL ) Đại Đội Phó Đại Đội 1 tử trận . Khi tôi được lệnh đi học Mã Lai thì Tr/Úy Nguyễn Quốc Chính, đang là ĐĐP/ ĐĐ 4 được thuyên chuyển qua ĐĐ.1 làm ĐĐP, không ngờ sự việc lại buồn như thế! Nhưng đời lính tác chiến Trời kêu ai nấy dạ có muốn cũng không được. Thế là, Tôi lại trở về Đại Đội 1 làm Đại Đội Phó , kể từ ngày 4 tháng 1 năm 1968, tính cho đúng thì phải hơn 3 năm « trầy di tróc vẫy «tôi mới nắm được chức vụ này. Đối với các Đại đội trưởng trước , thì thâm niên và tuổi tác khá chênh lệch, còn đối với anh Cấp thì chúng tôi sàn sàn tuổi tác và thâm niên nên dễ làm việc hơn, có đôi lúc anh Cấp còn khôi hài nói tôi “ thâm ” hơn anh. Điều này không sai, nếu tính thâm niên Binh chủng , thì tôi hơn anh khoảng 1 tháng vì Khóa 17 Thủ Đức ra Trường về đơn vị Tháng 11 Năm 1964 , trong khi Khóa 19 VBĐL về đơn vị Tháng 12 Năm 1964 . Sau trận kinh Cái Thia, đêm hưu chiến 31/12/1967, TĐ 2 tiếp tục hành quân quanh vùng quận Giáo Đức, Cai Lậy, mở rộng vòng đai an ninh dể cho dân chúng chuẩn bị vui xuân Mậu Thân 1968. Sau khi kiểm soát tuyến đóng quân theo lệnh Đại đội trưởng, tôi nghĩ “ ông này ” có vẻ kỹ lưởng và nguyên tắc , thì đệ tử của tôi là B1 Nghĩa nói với tôi : _ Tr/Úy, tối nay thầy trò mình ngủ trong nhà , có một cái hầm tốt lắm kế bên chổ ngũ . Vùng Cai Lậy Giáo Đức là vùng trũng, đào hầm hố xuống là có nước ngay, nên dân vùng này thường đắp “ tăng-xê ” nổi trong nhà, trên nắp hầm là ván gỗ dầy để nằm, nếu có súng nổ là lăn vào hầm khô tránh pháo. Tôi hỏi lại Nghĩa: _ Tr/úy Đại Đội Trưởng ngủ ở đâu? _ Ổng ngủ ngoài vườn, cạnh bờ mương, ổng chuyên vậy không hà. Tôi mĩm cười nói với Nghĩa, một « ô đô “ cũ , thân tín của tôi: 30ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
_ Này, cậu tính hại tôi hay sao? ĐĐT căng poncho ngủ ngoài vườn còn ĐĐP thì lại ngủ trong nhà! Thôi mang đồ đạc sang ngủ với Trung Đội 16. Lúc này ĐĐ.1 gồm có Th/Úy Nguyễn Xuân Quang (K19TĐ) coi Trg Đội 12, Th/úy Huỳnh Vinh Quang (K22VB) coi Trg Đội 14,Trung Đội 16 là Trung đội cũ của tôi, hiện nay do Th/úy Ngộ K3 đặc biệt nắm, Trung Đội 18 do Ch/úy Hà ( mập ) ( K 20 Thủ Đức) ( Trung đội Phó do Trung Sĩ 1 Lâm Khâm, Lâm Khâm chính là B1 phụ xạ thủ đại liên 30, sai tôi đi lấy đạn trong trận Phụng Dư ) Đêm đó VC pháo kích 61 ly vào vị trí đóng quân ĐĐ.1, chẳng may một trái xuyên mái nhà rớt trúng nắp hầm, ông chủ nhà nằm trên đó banh thây! Đúng ra chỗ đó là nơi mà B1 Nghĩa định dành cho tôi, nhưng tại thấy anh Cấp nằm ngoài vườn nên tôi ngại mà né thôi. Số mạng sống chết trong gang tấc. Sáng 30 cuối năm ( Âm Lịch ), Tiểu đoàn về đóng quân dọc hai bên bờ sông Quận Cai Lậy , để anh em “ kỳ cọ ” đón Xuân. Chiều 30 tết, theo phong tục tập quán của ông bà và nhân dịp “ Một chiều hành quân qua thôn xưa, lúc nắng Xuân chưa nhạt màu ”, anh Cấp và tôi đi thăm các Trung đội và chúc tết. Mừng “ ông thầy ” cũ trở lại , chia vui với ông thầy , vừa né được trái 61 ly, phần các « em út « trong Trung Đội cũ nài ép , cứ hết ly nầy qua ly khác sau cùng tôi “ quá chén ” ! Đêm đó VC lại pháo kích vào vị trí đóng quân , mà tôi có biết trời trăng gì đâu, mọi việc đốc chiến hay phản pháo do một mình ĐĐT xoay sở. Cũng may là VC chỉ pháo chơi thay cho pháo giao thừa, không tấn công nên Đại đội không có thiệt hại gì. Chưa kịp vui Xuân thì lệnh cuốn gói gấp được ban hành, cuộc hành quân trực thăng vận về giải cứu Thủ Đô Saigon, trực thăng Chinook ào ào đến bốc rồi vụt bay đi, để lại nhiều vấn vương lưu luyến với dân địa phương :“Trâu Điên dễ thương quá!” nên sau này đã có một số cô về làm dâu họ nhà Trâu. TĐ 2 đổ quân xuống BTTM, ngay sân cờ trước dinh của Tổng Tham Mưu Trưởng , các Đại đội được chia ra từng mục tiêu riêng lẻ , ĐĐ 1 giải tỏa địch khu vực phòng Tổng Quản Trị, khu ấn loát, Trường Sinh Ngữ Quân Đội , địch chỉ là những tên đặc công cố bám trụ để chờ quân tiếp viện và chờ “ dân chúng tổng nổi dậy ” như VC đã tuyên truyền, vì thế tuy quân số chúng ít nhưng không dễ gì thanh toán. Nhưng cuối cùng thì cũng vẫn bị TQLC diệt gọn hoặc bắt sống. Trong suốt thời gian tết Mậu Thân, các Đại đội TĐ 2 TQLC thường được tăng phái cho Biệt Khu Thủ Đô, Tổng Nha Cảnh Sát v.v, Đại Đội 1 được biệt ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
phái chạy theo xe của ông “ Sáu Lèo ” ( Chuẩn Tướng Nguyễn ngọc Loan ), ông là Không Quân, làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát , nên ông đánh giặc theo lối “ tài tử ”, nghe ở đâu có VC , là ông lên xe jeep phóng đi trước với một ít Cảnh Sát Dã Chiến, còn đại đội TQLC thì chạy theo sau, đến mục tiêu ông cũng nón sát áo giáp ôm súng đi trước trong khi TQLC đang xuống xe thì đã nghe “cắc-bù”, ông bị bắn vào chân trong con hẻm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa cầu xa lộ Phan Thanh Giản và đài phát thanh PĐP. TĐ.2/TQLC là đơn vị hành quân lâu nhất, gần 10 tháng, trong lòng thủ đô SG và vòng đai, gặt hái nhiều chiến công, nhưng điều đáng nói là dân thủ đô phải cảm phục. Phải công nhận một điều là tinh thần chiến đấu và giữ gìn quân phong quân kỷ của quân nhân TĐ.2 trong thời gian tham chiến tết Mậu Thân tại Saigon rất cao, gần như hoàn hảo nên đã tạo được sự quý mến và thương yêu của người dân thành phố mà trước đó thường có ý nghĩ thiếu thân thiện. Riêng ĐĐ.1 được Tiểu Đoàn Trưởng giao cho “trấn thủ ” Bưu điện Trung ương và Đài phát thanh Phan Đình Phùng trong thời gian dài hơn một tháng. ĐĐ Trưởng Cấp dẫn Đại đội ( - ) về phòng thủ giữ đài phát thanh P Đ Phùng , một nơi vắng vẻ , phần còn lại giao cho tôi và 2 Trung đội phải giữ Bưu điện Trung Ương , kế bên Nhà thờ Đức Bà . Xin nghe anh ĐĐT kể lại chuyện xưa: “Bưu điện trung ương ở ngay trung tâm Saigon, sát bên là BTL/SĐTQLC, trước mặt là dinh Độc Lập, cả 2 nơi đều có “Mặt Trời” ngự trị nên thời tiết nóng quá! Nóng quá! Đối diện ngay trước mặt là Vương Cung Thánh Đường, là “ một nơi dễ tìm thấy thiên đường” như tựa truyện của nhà văn Phú-Phét. Điều nguy hiểm hơn nữa là giai nhân dập dìu trên phố, dạo quanh công trường Hòa Bình, ra vô bưu điện cả ngày, nói theo truyện Kiều là “ngổn ngang gò đống kéo lên”, phụ nữ đẹp đi qua trước mặt lại còn nháy mắt khiến các anh Trâu Điên muốn phát điên, toan huýt sáo, nhá tín hiệu hẹn hò nhưng lại sợ! Thân trâu chẳng sợ “ lấm bùn “ nhưng sợ Bộ Tư Lệnh , lỡ tiếng huýt sáo , ghẹo gái lọt đến tai “ các ngài ” thì chỉ có thác ! Thôi thì Trâu Điên ĐĐ.1 , chỉ còn biết ngước mặt lên trời, nhe răng cười cho hạ hỏa , chứ biết làm sao bây giờ! Sau hơn một tháng sống trong vòng lửa của Tướng, Vua, Chúa mà 2 Trung đội của Th / Úy Quang và Ngộ , không có ai “ bị thương ” là nhờ khả năng chỉ huy và tài tâm lý của Trung úy Lâm Tài Thạnh Đại Đội Phó , phần thưởng cho anh là dân chúng quanh vùng thương yêu Mũ Xanh thật lòng ” (trích: NT VK/TQLC của TVC). Tôi đã là Trung đội trưởng của các anh Phạm ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Dương Đạt , Trần Kim Hoàng , Nguyễn Kim Đễ và là ĐĐP cho anh Tô văn Cấp, mỗi anh một vẻ, vui nhiều mà buồn cũng không thiếu, nhưng tất cả chỉ vì công vụ mà không vì cá nhân. Chuyện cá nhân là đi với anh Cấp thì được ăn cà pháo mắm tôm, riêu cua canh rau đay và giả cầy, nhưng “ cờ tây ” thiệt thì tôi chịu thua, bù lại, chuyện tình thời loạn ly Mậu Thân 68 và hôn nhân vào năm 1970 của tôi là kết quả do anh Cấp giao nhiệm vụ trấn thủ bưu điện, một nơi “ khó khan ” cho tôi, mãi đến bây giờ nhắc lại vẫn thấy vui. Đồng thời đồng tuổi nên chúng tôi sống thân mật và bình dân với nhau hơn nên dễ dàng cùng nhau đồng ý trong việc điều quân, thường xin yểm trợ hỏa lực tối đa mỗi khi phải chiếm MT bằng “mọi giá” trong khi cái giá sinh mạng của đồng đội là không có gì so sánh được. Chúng tôi và các Trung đội trưởng luôn tìm chiến thuật ít thiệt hại nhất, một khi không còn cách gì hơn thì anh em cùng nằm chung một tuyến, “ chung lưng đấu địch ”. Sau hơn 9 tháng sàng lọc, tát ao bắt VC, đem thanh bình cho người dân thủ đô SG tiếp tục xập xình với đèn đỏ đèn xanh thì anh Trâu Điên lại tiếp tục lên đường “mười hai tháng anh đi” về rừng núi Tây Ninh, mật khu Hố Bò, Bời Lời, Cầu Khởi, Khiêm Hanh v.v..Tiểu Đoàn 2 TQLC dưới quyền điều động của Tiểu đoàn Trưởng Ngô văn Định , đã đánh tan Trung Đoàn 33 CQBV và Tiểu Đoàn 14D chủ lực Tây Ninh. Trong cuộc hành quân này Đại Đội 1 chúng tôi , có nhiều kỷ niệm đáng nhớ, đáng hãnh điện. Khi còn ở Saigon, trong hơn một tháng, ĐĐ.1 được giữ bưu điện và đài phát thanh, sáng sáng café đen, trưa phờ, tối cơm sườn thì các Đại đội 2,3,4 của các Đại Úy , Trung úy : Đinh Xuân Lãm ( K17 VBĐL ) Trần Kim Đệ ( K10 VKTĐ ) Trần Văn Thương ( K 12 TĐ ) Vũ Đoàn Dzoan ( K19 VBĐL ) phải sắn quần lội sình , đi lùng địch trong khu cù lao Thanh Đa, Bình Quới , đến chiều trở về thì nước đã dâng lên tới cổ ! Sướng khổ khác nhau, cho nên khi từ biệt SG, tới Khiêm Hanh là Đại Đội 1 phải lảnh ấn tiên phong , nhảy « diều hâu « vào vùng Cẩu Khởi Tây Ninh . Lệnh của Tiểu Đoàn , cho ĐĐ.1 trang bị nhẹ, vũ khí nặng để lại , chỉ trực thăng vận với 3 Trung đội tác chiến với khoản 100 quân nhân tham chiến , khi có chạm địch thì cầm cự tại chổ , để phần còn lại Tiểu đoàn 2 , nhẩy xuống tiêu diệt lực lượng địch . Vì là hành quân tìm địch nên không có Bà Già L.19 đi theo, không có Pháo Binh dọn bãi, yếu tố bất ngờ là ưu tiên chiếm thế thượng phong . Bải đáp là 1 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
31
hình chữ nhật, không rộng nhưng khá dài, khi chân vừa chạm đất là Đại Đội 1 xung phong vào bìa rừng ngay, dù có dịch hay không, đó là bài học vỡ lòng của TQLC , mỗi khi nhẩy trực thăng. Bình an vô sự nhưng khi xác định vị trí thì mới biết trực thăng đổ quân sai , mục tiêu đầu bãi , nó lại đổ quân ở cuối bãi ( Trực thăng của Mỹ ) , cách nhau gần 1 cây số , đành phải gom quân ổn định đội hình , tam giác ngược đi trước và men theo bìa rừng tiến về phía mà trên bản đồ có chữ MT khoanh tròn bằng viết chì mỡ màu đỏ, tiến được 2/3 đoạn đường thì súng nổ, hai Trung đội đi đầu dàn hàng ngang bố trí theo từng gốc cây su ngay, và chẳng mấy chốc “ rừng lá thấp ” phía trước rung động và di chuyển, bao vây Đại Đội 1 chúng tôi lại , chúng tôi đang bị TĐ14D chủ lực Tây Ninh bao vây. Như vậy là tin tình báo chính xác, chỉ có trực thăng đổ sai MT thôi, nhưng nhờ đổ sai vị trí , nên anh em ĐĐ.1 đã không lọt vào “ thềm bắn ”, không trở thành những tấm bia di động khi Việt Cộng đã điều chỉnh biểu xích và “ thế bắn nằm , thủ thế ” . Bài viết này không có mục dích diễn tả lại chi tiết các trận đánh , nên tôi chỉ xin lướt qua và mời các độc giả , đọc các gi ng viết của thẩm quyền Đại đội Trưởng ( Trung úy Tô văn Cấp K 19 VBĐL ) vào thời điểm đó như sau : _ “Như vậy là chúng tôi bị lọt vào vòng vây của Tiểu Đoàn 14D Việt Cộng , chúng đang điều động đánh bức ép vào cánh B của Đại đội Phó Lâm tài Thạnh , đang ôm sát các cây cao su tử chiến , khiến các gốc cao su muốn chảy mủ, và chảy thật , đạn hai bên trao đổi qua lại rền vang , đinh tai , nhức óc , chẳng còn phân biệt là loại gì nữa. Tiếng hô xung phong , tiến kèn thúc quân của Việt Cộng . Chúng cố mong trộn trấu , để tránh hỏa lực yểm trợ của ta. Phải thú thật rằng đã có một số vài quân nhân nhấp nhổm , tính gài số “ lui ” ! Nhưng vừa quay lại thì đụng ngay “ Lâm tài cao ”, anh đứng thẳng dậy , móc súng colt bắn “ pằng pằng ” trong lúc miệng thì hô TQLC « Sát , Sát « . Lúc này mà lui thì một mống cũng không còn, , hành động can đãm, kịp thời của Trung Úy Đại Đội Phó Lâm tài Thạnh đã giúp anh em vững tinh thần, vững tay súng, đồng thời Tiểu Đoàn cho hỏa lực yểm trợ tối đa, cả Pháo Binh lẫn Không Quân ( đặc biệt oanh tạc cơ B57 đánh bom cận tuyến ) , nhờ vậy mà dù chỉ còn gần 80 quân nhân , chúng tôi vẫn giữ giữ vững trận địa được , cho tới ngày hôm sau toàn bộ Tiểu đoàn đến tiếp viện ” (trích Từ Cầu Khởi Tới Bời Lời của TVC). Trong trận này, anh em chúng tôi bị loại khỏi vòng chiến hơn 10 người, trong đó có Chuẩn Úy Hóa ( từ Thượng sĩ 1 được thăng cấp ) và một Đại úy cố vấn 32ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Mỹ. Xin nói rõ lại là vào khoảng 11 giờ đêm khi trực thăng đến tải thương thì anh cố vấn tự động leo lên đi luôn, dù anh ta không hề hấn chi cả, có lẽ chỉ bị ướt quần. Ba ngày sau TĐ.2 lại được lệnh trực thăng vận xuống mật khu Bời Lời, vì Đại Đội 1 , vừa mới nhẩy một minh xuống Cầu khởi nên lần này được nhẩy sau cùng. Tiểu đoàn dàn sẵn đội hình để trực thăng xuống bốc , theo thứ tự các đại đội 4, 2, CH, 3,1. Khi trực thăng đang trên đường đến bốc ĐĐ.4 thì gần đó một đoàn xe tiếp tế GMC của Hoa Kỳ bị phục kích, bãi bốc mất an ninh nên Tiểu Đoàn Trưởng , liền thay đổi ngay thứ tự, “ bốc thằng 1 ” trước, rồi tới thằng 3 . Thế là ĐĐ.1 lại được “ ưu tiên ” nhẩy đầu . Khi ĐĐ.3 của NT Trần Văn Thương ( K 12VKTĐ ) vừa xuống xong là đụng nổ lớn ngay, bãi đáp không còn dùng được, Tiểu đoàn 2 TQLC ( - ) bị kẹt lại. Lần này có thêm ĐĐ.3 chia xẻ địch quân , nên chúng tôi an tâm hơn, cả hai Đại đội cầm cự cho tới sáng hôm sau , Tiểu đoàn mới xuống tiếp cứu được. Trận này khá gay cấn, gần sáng chúng còn tấn công lần chót, xác địch đã nằm ngay trên tuyến của ta, H/S1 Thà mang máy cho anh Cấp bị tử thương, H/S Tha, ô-đô của tôi cũng hy sinh ngay trên tuyến! Nhưng kỷ niệm vui lại là chuyện mấy “ông” cố vấn Mỹ . Đại úy Cố Vấn Mỹ , đi với ĐĐT, khi mới đổ xuống súng nổ loạn đã , chi thiên , anh ta « lạnh cẳng» vội gọi xin tải thương, và sinh mạng cố vấn là quý , nên anh ta được toại nguyện. Một Tr/úy cố vấn khác đến thay thế, trực thăng thả lọt anh ta ra ngoài phòng tuyến, anh ta bị thương và đang bị Việt Cộng tìm cách bao vây bắt sống nhưng rất may là ĐĐ.1 gởi ngay một toán cảm tử vượt qua lửa đạn cứu được và tải thương ngay, một Thiếu Tá cố vấn khác lại được gởi tới . Sau khi tải thương xong, tìm kiếm hoài trong vị trí và khu vực chung quanh trong tầm kiễm soát , thì lại phát giác không thấy Th/tá cố vấn đâu cả , làm cho ĐĐTrưởng Cấp lo lắng , phát nổi nóng , cự nự Chuẩn Úy Trần Thành Nghĩa, người có nhiệm vụ “ đưa đón ” cố vấn ( Chuẩn Úy Trần thành Nghĩa ( K27TĐ ) , vốn là thông dịch viên của LLĐB Mỹ , nên trình độ nói và nghe tiếng Anh vào thời gian đó phải nói là rất giỏi , vì ham vui nên đi làm thông dịch, sau khi có Lệnh tổng động viên Năm 1968 đi Thủ Đức K 27 , khi ra Trường tình nguyện xin về TQLC , anh Cấp còn cho đi làm quan sát viên với nhiệm vụ nhận và truyền lệnh của Đại đội trưởng cho cố vấn Mỹ ) . Cuối cùng Chuẩn Úy Nghĩa cũng tìm ra vị cố vấn này , đang co mình nằm dưới một hố bom , sau đó cũng chính nhờ Th / tá cố vấn này, ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
khi thấy lính nhà ta đánh giặc như đang đi dạo phố nên hết sợ , tỉnh trí , xin và điều khiển gunships ( trực thăng võ trang của Mỹ ) bắn phá suốt đêm chung quanh vị trí phòng thủ của chúng tôi , nên chúng tôi bị thiệt hại rất it , còn xác Việt Cộng thì hơi nhiều . Có điều tôi hơi ngạc nhiên là ĐĐTrưởng Cấp , có vẻ không hạp với cố vấn, hai trận thay đổi tới 4 cố vấn Mỹ . Và lần sau cùng khi hành quân Chương Thiện dưới quyền Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc, ĐĐTrưởng Cấp bị “ vạ lây ” , gẫy chân tay vì có cố vấn Mỹ đi bên cạnh, và ông cố vấn nầy cũng bị cụt tay luôn ! (Xin mở dấu ngoặc ở đây để nói một tí về vai trò cố vấn Mỹ đi với TQLC. Mỗi một Tiểu đoàn TQLC khi đi hành quân đều có 2 cố vấn Mỹ đi theo, CV trưởng đi với cánh A (TĐT), cố vấn phó đi với cánh B (TĐP), Nhiệm vụ chính của CV là xin yểm trợ hỏa lực của HK và tải thương. Nếu một đại đội đi riêng với nhiệm vụ khó khăn thì sẽ được tiểu đoàn cho một CV đi theo. Các CV đi với TQLC không bao giờ dám xen vô việc điều quân của các đơn vị trưởng) Ngày 23/2/1969, sau khi dẹp xong bọn Việt Cộng tấn công vào khu Tân Hiệp Biên Hòa trong Đợt 2 tổng công kích . Đại đội đang nghỉ dưỡng quân ở khu Lò Than, Biên Hòa , tôi đang đứng đấu láo với 2 Chuẩn Úy : Sơn-mập và Nghĩa-đui , thì hiệu thính viên Vũ Văn Tám, tự Tám-nhót đến báo: _ Trung Úy, hối lộ em một điếu Salem , có tin giật gân mới ra lò cho Trung úy . _ Muốn hút tao cho một điếu, đừng có ba sạo nghe mầy. Chuẩn Úy Trần Thành Nghĩa xen vào: _ Cho nó một trái mãng cầu đi tiền đồn là hết sạo ngay. _ Thật mà Trung úy, Tiểu đoàn vừa báo xuống. Đ/ Úy Cấp chuẩn bị giao Đại đội 1 lại cho Trung úy để sang coi ĐĐ.3, Ban 1 đang chuyển công điện xuống. Chuẩn Úy Vũ Đình Sơn , giật ngay gói thuốc Salem trong tay tôi đưa cho hiệu thính viên Tám và nói : _ Thưởng cho mày nguyên gói , chừng nào báo tên tao, tao cho một cây. Thế là tôi trở thành Đại Đội Trưởng ĐĐ1 , TĐ2 Trâu Điên , sau 4 năm 3 tháng, một thời gian dài miệt mài cùng đồng đội Mũ Xanh trên khắp bốn vùng chiến thuật. Đối với Binh Chủng TQLC, để có đủ khả năng chỉ huy một Đại đội tác chiến , thật không dễ dàng, tốn khá nhiều máu và nước mắt để có kinh nghiệm thực tế chiến trường. Tôi tiếp tục là Đại đội trưởng ĐĐ.1 dưới quyền chỉ huy của các Tiểu Đoàn Trưởng Tr/Tá Nguyễn Xuân Phúc rồi Th/Tá Trần ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Văn Hợp, tiếp tục sát cánh với đồng đội trên khắp các mặt trận, hành quân vượt biên Căm-Bốt 1970 , Lam Sơn 719 Hạ-Lào 1971 , mùa Hè đỏ lửa 1972 , cho mãi tới tháng 5 năm 1972 được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 8 Ó Biển TQLC nhận chức vụ Tiểu đoàn Phó cho Trung Tá Nguyễn văn Phán ( Khóa 10 Thủ Đức ) Đoạn đường dài 7 năm 9 tháng chiến đấu cùng một Đại Đội , thì có biết bao nhiêu niềm vui và nỗi buồn, vui ứa nước mắt mỗi khi sau chuyến hành quân không thiệt hại, buồn ứa nước mắt khi vừa gặp nhau đó thì đồng đội đã ra đi vĩnh viễn. Tôi xin bày tỏ sự cám ơn các anh Đại đội trưởng đi trước , đã cho tôi kinh nghiệm lãnh đạo , chỉ huy và xử thế . Xin cám ơn các đồng đội của tôi, từ các Trung đội trưởng đến các khinh binh . chúng ta đã đồng cam cộng khổ , để đem lại thành quả tốt đẹp về cho Đại Đội 1 TQLC nói riêng và Tiểu Đoàn 2 TQLC nói chung, từ Binh 2 Cư, đến Binh 1Tám , các HSQ Lâm Khâm, Nguyễn Văn Cương, Trần Tráng, Trần Xịa , Lê văn Môn , Châu văn Khánh , Nguyễn văn Toản v... Các sĩ quan Quang-To, Quang-Nhỏ, Hà-Mập, Sơn-Mập, Ngộ-Ngố, Nghĩa-Đui Kiền khùng , Truyền tài tử v.v.. Xin ghi nhớ đến tất cả các quân nhân Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên , đã tô thắm màu áo binh chủng bằng chính máu của mình để rồi hy sinh hay còn sống với thương tật . Xin nghiêng mình trước anh linh các quân nhân Đại Đội 1 đã ngã xuống cho chúng tôi được tiếp tục đứng lên, các anh đã hy sinh cho tổ quốc và đồng bào. “Tôi viết tên (các) anh trên lá trên hoa , tôi viết tên (các) anh trong trái tim tôi ”. Đa tạ . Mũ Xanh TQLC Tây Đô Lâm Tài Thạnh.
Sơn Lâm còn chạy Trâu Ðiên ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 33
Lính &
NaâNg
th ú
Ôi kỷ niệm một đời người - mới đó mà đã quá xa… Xin thay mặt tác giả tặng tất cả các HUYNH ĐỆ xuất thân từ trường Mẹ Thủ Đức. Germany, 26.03.2014. SVSQ LÊ THANH TÙNG. Thủ kỳ Thủ Đức
Chút tình cho
Thủ Đức
Bỗng như còn nghe thoáng chút dư âm Vang vọng lại từ một thời rất cũ Dòng kỷ niệm chảy về như thác lũ Nhớ trường xưa, ơi Thủ Đức thân thương Nhớ đêm đen, nhớ những sáng mờ sương Hương dạ lý sân tiểu đoàn thoang thoảng Một mùi hương chưa tàn theo năm tháng Ôi Thủ Đức trường tôi! Đã thăng trầm theo mệnh nước nổi trôi Đã đào tạo biết bao chàng tuổi trẻ Những trưa hè gió nhẹ Những buổi sáng tơ mềm Trung Nghĩa Đài sừng sững đứng uy nghiêm Như thúc giục người đi làm lịch sử Quên sao được đồi Tăng Nhơn Phú Chiều cuối tuần trên đại lộ Bình Long Khu tiếp tân vội vã chút tình nồng Và những tối một mình đi gác tuyến Khu Gia Binh có mắt nhìn lưu luyến Của người em đang độ tuổi xuân thì Đã bao lần dõi bước người đi (Có lắm kẻ chẳng bao giờ trở lại) Thủ Đức ơi, lòng ta ghi nhớ mãi Những bãi, sân, doanh trại, lớp, giường đôi Vẫn chưa quên cầu Bến Nọc lẻ loi Đường ra bãi máu đàn anh đã đổ Nhớ mái tôn dấu đạn thù loang lổ Giao thông hào, đêm dã chiến mồ hôi Thủ Đức ơi, trường mẹ mến yêu ơi 34ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Quên sao được những ngày xưa ấm áp Vũ đình trường tiếng chân đi rầm rập Đoàn sinh viên vang khúc hát quân hành Sống oai hùng trọn vẹn tuổi xuân xanh Chí đã quyết đi vào nơi gió cát “Cư An Tư Nguy!” lời vàng ta ghi khắc Trên cánh tay, trên phù hiệu huy hoàng Khăn đỏ, khăn xanh, Khăn tím, khăn vàng Khóa trước khóa sau hàng hàng lớp lớp Quên sao được cuối thời gian huấn nhục Lễ gắn alpha trang trọng, chí tình “Quì xuống Tân Khóa Sinh!“ Khi đứng dậy cầu vai vàng chói sáng Quên sao được đêm cuối cùng thức trắng Lòng nôn nao nghĩ đến buổi ra trường “Quì xuống các ngươi!” Tiếng hô to vang dội đến ngàn phương Hồn tử sĩ đã về đây chứng kiến Những đứa con trên đường ra trận tuyến “Đứng dậy Tân Sĩ Quan!” Lời hiệu triệu âm vang… Trong hàng quân có kẻ lệ đôi hàng Giọt nước mắt buồn vui ngày mãn khóa Rời Thủ Đức bạn bè đi trăm ngả Thằng Pháo Binh, đứa Thiết Giáp, Nhảy Dù Thằng Sư Đoàn, thằng Biệt Động, Chi Khu Bay tản lạc như chim non lìa tổ Chua xót thay! Mộng đầu đời gãy đổ Miền Nam rơi, trường mẹ cũng tan hoang Kỷ niệm xưa nay chép vội đôi hàng Lòng vẫn ước có một ngày trở lại … ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Cánh Dù Bay Xa Nam Thảo
Lời nói đầu : Mẫu chuyện ngắn sau đây được góp nhặt từ những mãnh vụn đó đây trong đời Quân ngũ tầm thường của một cựu Quân nhân QLVNCH. Có chi tiết có thể không đúng một trăm phần trăm. Những lời kể lại trong chuyện hoàn toàn vô tư. Tuy nhiên, nếu câu chuyện đơn sơ có mục đích để giải trí ngắn ngủi nầy có chỗ nào không được vuông tròn, người kể chuyện cầu mong đọc giả bỏ qua và tha lỗi cho. *** Lính Của Người Yêu. Vào khoảng giữa hay gần cuối năm 1963, với cao trào Tòng quân diệt giặc, tôi được trở thành một Sinh viên Sĩ quan Trừ bị khóa 17 Thủ Ðức. Sau những tháng thuộc lòng với bản “Ðường trường xa muôn vó câu bay dập dồn. Ðoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang...” và trận bò hỏa lực cuối cùng của giai đoạn một, chúng tôi được lên giai đoạn hai và có quyền mang lon con cá có đuôi. Nhờ chó ngáp phải ruồi khi thi trắc nghiệm ở trường Võ bị Thủ Ðức, tôi được chọn về ngành Quân Nhu. Vài ngày sau khi được gắn lon đàn anh, ai thuộc Ngành nào được đưa về Ngành đó để tiếp tục học giai đoạn hai. Sáng hôm đó có nhiều chiếc xe GMC của các Quân trường chuyên môn đến chở Sinh viên Sĩ quan được tuyển chọn về thụ huấn. Tôi và một số đông bạn bè về ngành Quân Nhu nên được hai chiếc xe GMC của trường Quân Nhu chở về trường Quân Nhu lúc đó ở Biệt Khu Thủ Ðô trong trại Lê văn Duyệt. Khi xe chạy ra khỏi cổng trường Võ bị Thủ Ðức, tôi bỗng nghe đâu đây tiếng hát khàn khàn của một ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
anh bạn nào ngồi đâu đó. Anh ta ca mấy câu trong bản Người Yêu Của Lính của Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Tiếng hát của anh tuy không ngọt ngào, nức nỡ, nhưng cũng êm êm, nghe không đến nỗi nào : Nếu em không là người yêu của lính. Em sẽ nhớ ai Chủ Nhật trời xinh ?
Quân Nhu Dù
Khóa Sĩ quan Quân Nhu của tôi học năm đó là khóa Sĩ quan căn bản Quân Nhu đông nhất từ trước tới giờ. Khóa nầy có tới 75 Sinh viên Sĩ quan. Tôi nhớ chương trình học có rất nhiều môn : nào là môn Thực phẩm Quân trang, môn Nhiên liệu, môn Chung sự, môn Quân khuyển, môn Tiếp tế thả dù và Tồn trữ dù, v.v... Trong các môn học nầy, tôi thích môn Tiếp tế thả dù nhất. Ngày xưa hình như trước năm 1970, ngành Quân Nhu có hai đơn vị dù : Thứ nhất là Liên Ðội 91 Tiếp Tế Thả Dù và thứ hai là Kho 90 Tồn Trữ Và Sửa Chửa Dù. Sau năm 1970, hai đơn vị nầy sáp nhập lại thành Căn Cứ 90 Tiếp Tế Và Sửa Chữa Dù. Liên Ðội 91 Tiếp Tế Thả Dù đóng ở sát bên trường đua Phú Thọ, bên phải là một đơn vị Truyền Tin và bên trái hình như là Doanh trại của Lực Lượng Biệt Cách Dù trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Liên Ðội 91 Tiếp Tế Thả Dù trực thuộc ngành Quân Nhu, nhưng nhận lệnh hành quân trực tiếp từ Bộ Tổng Tham Mưu. Ðơn vị nầy là một đơn vị Tiếp tế Không vận duy nhất của Quân lực VNCH lúc bấy giờ. Tuy được gọi là lính Quân Nhu, nhưng trước khi được phục vụ tại đơn vị nầy, Quân nhân của Liên ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
35
Ðội 91 TTTD cũng như Quân nhân trực thuộc Kho 90 Tồn Trữ Và Sửa Chữa Dù, đều phải trải qua một khóa Huấn luyện nhảy dù giống hệt những Quân nhân tác chiến Nhảy dù khác. Nhiệm vụ hành Quân chính của Liên Ðội 91 TTTD gồm có : Dùng phi cơ để thả dù lương thực, Nhiên liệu, Vũ khí, Xe vận tải, v.v… cho các tiền đồn và cho các đơn vị tác chiến trong những trận chiến lớn nhỏ. Ngoài ra, Liên Ðội 91 TTTD còn có trọng trách thả hỏa châu ban đêm trên các tiền đồn hay trên những mặt trận đang đánh nhau để Quân lực ta phòng thủ hay tấn công. Nhảy xuống chiến trường thu hồi những chiếc dù thả tiếp tế đem về đơn vị để xử dụng lại ngay trong trường hợp khẩn cấp cũng là một nhiệm vụ hấp dẫn của Liên Ðội 91 TTTD. Trong khi đó, Kho 90 Tồn Trữ Và Sửa Chữa Dù nằm gần Viện Hoá Ðạo ngày xưa, chuyên môn lo công việc tồn trử và sửa chữa dù. Tất cả dù gồm dù nhảy và dù để thả tiếp tế Không vận đều được tồn trữ và sửa chữa tại căn cứ nầy. Cũng như Liên Ðội 91 TTTD, Kho 90 Tồn Trữ Và Sửa Chửa Dù là một đơn vị tồn trữ và sửa chữa dù lớn nhất và độc nhất của Quân lực VNCH ngày xưa. Quân nhân của hai đơn vị nầy được Bộ Tổng Tham Mưu cho đội mũ đỏ và mặc Quân phục Nhảy dù vì nhiệm vụ tiếp tế nguy hiểm có tính cách tác chiến từ trên không của họ. Quân Nhu cũng có hoa Dù. Chín mươi (90) Chín mốt (91) kẻ thù cũng kiên. Nắng chiều giọt ngã nghiêng nghiêng. Dù bay bãi chiến ưu phiền đối phương. Giấc Mơ Làm Cánh Hoa Dù. Lúc bấy giờ, môn Tiếp Tế Thả Dù do Thiếu úy Vinh phụ trách. Thiếu úy Vinh có vẻ mặt lúc nào cũng nghiêm trang và trông rất “chì”, nhưng rất cởi mỡ và dễ dãi. Sau nầy, Thiếu úy Vinh được lên Đại úy và tình nguyện về Sư đoàn dù, tốt nghiệp Nhảy dù điều khiển và đã từng nhảy dù tự do (free fall) biểu diễn trong các buổi nhảy dù biểu diễn. Ðại úy Vinh trước khi Sài-Gòn thất thủ, là một Thiếu tá của Sư đoàn dù tham dự nhiều trận đánh đấm trên khắp 4 miền Chiến thuật. Trong giờ học về môn Tiếp Tế Thả Dù, thấy Thiếu úy Vinh mặc bộ Quân phục Nhảy dù, tôi bỗng nhiên 36ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
có cái cảm tưởng mình có duyên số với bộ Quân phục nầy. Tôi đã có ý định xin về phục vụ tại Liên Ðội 91 TTTD lúc chưa ra trường. Vì vậy lúc mãn khóa, khi Thiếu úy Vinh lên trường SQTÐ chọn Sĩ quan về phục vụ cho Liên Ðội 91 TTTD, Thanh, Vĩnh và tôi đưa tay lên chọn ngành nầy. Còn hai anh Hân và Ninh thì chọn về Kho 90 Tồn Trữ Và Sửa Chửa Dù. Tôi đi làm lính Quân Nhu. Thấy bê-rê đỏ áo Dù lại mê ! Ðưa tay lựa chỗ đi về. Nguyện tình bay thả chưa hề thở than. Lính Mới. Hình như khóa Sĩ quan 17 Thủ Ðức mãn khóa vào khoảng giữa năm 1964. Tất cả chúng tôi được móc cái lon Chuẩn úy vàng khè mới toanh. Tôi được nghỉ phép hình như một tuần lễ trước khi trình diện đơn vị. Bảy ngày nghỉ phép không mấy chốc đã hết. Tôi lên Sài-Gòn để trình diện đơn vị. Sáng hôm đó, với áo quần, giày nón đâu ra đó, chúng tôi ba lính mới tò te đến trình diện Liên Ðội 91 TTTD rất đúng giờ. Chỉ huy trưởng Liên Ðội 91 TTTD lúc đó là Đại úy Tự. Ông Tự là người Huế, dáng người có vẻ ốm nhưng không yếu. Giọng Huế của ông trong ấm và rất Huynh đệ chi binh. Sau mấy phút chào hỏi, Đại úy Tự mời chúng tôi ngồi và ông bắt đầu thuyết trình cho chúng tôi nghe về tổ chức, Quân số và điều hành của đơn vị nầy. Tôi còn nhớ mài mại trong đầu : Liên Ðội 91 TTTD có hai chi đội hành quân và một Trung đội hành chánh. Mỗi chi đội có hai Trung đội. Ðơn vị được đặt dưới quyền Chỉ huy của Đại úy Tự và Chỉ huy phó là Trung úy Hoàn. Ðại úy Tự có lúc được chuyển qua làm Chỉ huy trưởng Kho 90 Tồn Trữ Và Sửa Chữa Dù. Trong thời gian được biệt phái ra Ðà Nẵng, tôi có gặp ông Tự một lần, nhưng lần nầy ông không còn thuộc ngành Quân Nhu dù nữa. Khi Liên Ðội 91 TTTD và Kho 90 Tồn Trữ Và Sửa Chữa Dù được sáp nhập lại thành Căn Cứ 90 Tiếp Tế Và Sửa Chữa Dù vào khoảng năm 1970, Trung tá Nguyễn Ngọc Hoàn đã từng làm Chỉ huy trưởng Căn cứ nầy một thời gian. Trở lại buổi trình diện đơn vị của chúng tôi, tôi nhớ sau khi giới thiệu tổ chức và điều hành của đơn vị, Đại úy Tự cho chúng tôi biết trước khi được bổ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nhiệm chính thức về Trung đội, chúng tôi phải trải qua một khóa học Nhảy dù ở Trung tâm Huấn luyện Nhảy dù nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất. Ðã ngao ngán học hành theo kiểu nhà binh quá lâu rồi, nay lại phải tiếp tục đi theo con đường dồi mài kinh sử nầy nữa, tôi thấy ớn quá ! Tuy nhiên, chúng tôi đã biết trước chương trình học tập nầy rồi, nên trong lòng ngoài mặt vẫn cười vui, hăng hái lên đường. Bắt tay niềm nỡ mời ngồi. “Xếp” trông vui vẻ bổng hồi mã thương : “Anh đi một tháng sương sương. Nhảy dù dễ ợt học đường gần đây” Nhảy Dù Sáng nào chúng tôi cũng ngồi xe GMC lên Trung tâm Huấn luyện Nhảy dù ở Tân Sơn Nhất để học Nhảy dù. Chương trình huấn luyện nhảy dù kể cũng gay go. Trước khi chính thức được trở thành Khóa sinh khóa nhảy dù, chúng tôi phải thử sức và chạy bộ nhiều ngàn thước với đầy đủ trang bị hành quân để chứng tỏ có đầy đủ sức khỏe theo học khóa nầy. Tôi và hai anh bạn Thanh, Vĩnh đều chứng tỏ sức khỏe còn ngon lành mặc dù cả sáu tháng ở trường Quân Nhu chúng tôi không có cơ hội tập luyện leo trèo và bay nhảy. Ở giai đoạn đầu, tôi nhớ chúng tôi phải học cách mang dù, cách nhảy từ phi cơ ra, cách kiểm soát và lái dù, cách đáp thế nào cho khỏi bị thương tích và cách thu lượm dù sau khi đáp xuống đất. Trong giai đoạn nầy, chúng tôi còn học cách nhảy ra khỏi phi cơ để quen cao độ và học cách đáp để quen tốc độ lúc chạm mặt đất với các đài cao 4 thước, 11 thước (Chuồng cu) và 12 thước (Dây tử thần). Chúng tôi cũng phải học qua cách thức làm sao tránh dù lôi khi đáp xuống trong cơn gió. Giai đoạn hai là giai đoạn nhảy dù thật sự. Trong thời gian thụ huấn Nhảy dù ở Trung tâm Huấn luyện Nhảy dù, tôi có hai kỷ niệm khó quên : Thứ nhất là lúc tập té và thứ hai là lúc nhảy chuồng cu. Những bài học tập té nằm ở giai đoạn một trong tuần lễ đầu. Hồi ở quân trường Thủ Ðức, tôi quen tai với những khẩu lệnh như : “Ðàng trước ! Bước !”, “Ðứng lại ! Ðứng !”, v.v… Ngày đầu ở Trung tâm Huấn luyện Nhảy dù, tôi được nghe một khẩu lệnh hơi mới lạ. Ðó là khẩu lệnh : ” Té bên trái ! Té !” Rồi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
mấy ngày sau đó, tôi lại được nghe thêm khẩu lệnh mới : “Té bên phải ! Té !, Té đàng sau ! Té !”. Chúng tôi phải học té thật đúng cách để tránh bị gảy chân khi đáp dù xuống đất lúc có gió mạnh. Chúng tôi tập té hết bên trái qua té bên phải. Hết té bên phải qua té đang trước. Hết té đàng trước đến té đàng sau. Trong thời gian tập té, có một anh bạn mang lon Chuẩn úy vàng khè đứng kế tôi thật là một tổ sư bồ đề. Sao anh ta té cách nào cũng gọn lõn ! Hỏi ra thì tôi mới biết trước khi vào Quân ngũ, anh đã từng là một “Cao thủ võ lâm” tứ đẳng huyền đai môn Nhu đạo. Còn tôi thì cứ phải té lên té xuống, vì mỗi lần té không đúng cách, tôi lại bị mấy ông Huấn luyên viên bắt phải té lại !! Cứ té như vậy mà té suốt ngày từ sáng tới chiều. Ðến tối về, tôi cảm thấy thân thể mình như bị nhừ tử ra từng mãnh ! Nhảy chuồng cu cũng ở giai đoạn một, nhưng có lẽ trong tuần lễ thứ hai. Chuồng cu là một cái đài được xây cất giông giống như phần bên trong của chiếc phi cơ C47. Nhà nầy cao khỏi mặt đất khoảng mười một thước. Trước khi nhảy thật sự từ phi cơ ra ngoài, khóa sinh phải tập nhảy với cái chuồng cu nầy. Tất cả những tác động từ chuẩn bị đến nhảy ra ngoài ở đây đều giống hệt như ở trên máy bay thật. Sau khi khệ nệ với bộ dù giả gồm dù lưng và dù bụng và leo lên mấy chục nấc thang, chúng tôi mới đi vào được cái chuồng cu ác nghiệt nầy. Chúng tôi phải đứng theo thứ tự. Huấn luyện viên kiểm soát dù lưng, dù bụng và dây đay đâu ra đó như đi nhảy thực sự. Rồi khóa sinh đuợc lệnh móc cái móc dù lưng vào một sợi dây cáp to lớn treo trên đầu. Lúc nầy tôi mới thấy ớn vì chuồng cu cao quá, mà mình lại phải phóng đại từ đây xuống đất ! Mặc dù khi nhảy ra, người nhảy được treo chạy theo một sợi dây cáp theo kiểu nhảy dây tử thần ở Thủ Ðức. Tôi nghĩ chơi cái kiểu nầy giống như là mình nhảy để tự vận vậy ! Sau kiểm soát đủ thứ, Huấn luyện viên ra lệnh nhảy. Khi nghe lệnh nhảy, Khóa sinh không được chần chờ, mà phải ôm dù phóng ngay ra khỏi chuồng cu, đầu phải cuối sát ngực, hai chân phải chụm lại. Sau khi phóng ra khỏi chuồng cu, người nhảy dù phải lập tức la to lên : “341 ! 342 ! 343 ! 344 !”. Chúng tôi được dạy, sau khi la đến số 344 mà dù lưng không mở, kẻ nhảy dù phải lo mở dù bụng cho kịp lúc. Nếu dù bụng không được mở đúng cách và đúng lúc, thì cuộc đời của dân Nhảy dù kể như rồi ! ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC37
Ba trăm bốn bốn anh ơi ! Dù lưng phải mở cho đời đong đưa. Nếu dù dây vẫn cù cưa. Mở mau dù bụng để trưa còn về. Tôi còn nhớ hồi xưa kế bên cái chuồng cu nầy có một cái quán bán các thức ăn và uống cho các Quân nhân Khóa sinh Nhảy dù. Hình như quán nầy có một cô gái tuổi vừa đôi chín giúp bán các thức ăn uống. Nhan sắc của cô cũng rất dễ coi. Nhiều khóa sinh hay đến uống La-ve trước khi bước lên chuồng cu. Tôi không biết mấy anh chàng nầy uống La-ve cho đã khát, để thừa dịp chiêm ngưỡng sắc đẹp của cô nàng hay là “Để cho khỏi phải” ngần đi ngại lại khi sắp phóng người ra khỏi chuồng cu ! Ra Đi Khắp Nơi Xa Vời. Sau khi đi học Nhảy dù hình như khoảng một tháng và trải qua sáu lần nhảy ban ngày và một lần nhảy ban đêm, tôi tốt nghiệp bằng… Nhảy dù, rồi trở về đơn vị bắt đầu sống với đời lính thực sự một trăm phần trăm chớ không phải nói chuyện giỡn nữa. Lần bay thả tiếp tế Không vận đầu tiên của ba anh em chúng tôi gồm Chuẩn úy Thanh, Chuẩn úy Vĩnh và tôi. Chuyến bay thả nầy do Thiếu úy Vinh (Thầy của chúng tôi lúc còn ở trường Quân Nhu), lúc đó là Chi đội trưởng Chi đội 2, Chỉ huy và hướng dẫn. Tôi còn nhớ đây là chuyến bay thả cho một đơn vị của quân ta đóng trong vùng Năm Căn ở Cà Mau. Ðúng 5 giờ sáng, chúng tôi chia nhau ngồi trên hai chiếc GMC đầy ấp với những kiện hàng trong đó chứa những thùng đạn 105 ly và hỏa pháo của nó. Xe chạy từ Phú Thọ đến phi trường Tân Sơn Nhất mất khoảng 15 phút. Vào phi trường, Thiếu úy Vinh liên lạc với Sĩ quan Hành quân của Không lực VNCN để biết thêm chi tiết chất hàng. Chúng tôi bay thả với phi cơ C 47 của Không quân Việt Nam. Lúc bấy giờ, Không lực VNCH chỉ có loại phi cơ nầy để chuyên chở Quân nhân và hàng hóa. Sau nầy để Việt Nam hóa chiến tranh Việt, Mỹ mới bắt đầu viện trợ cho quân ta phi cơ loại C 119, C 123 và C 130. Hai loai phi cơ C 47 và C 119 đều được Không quân Mỹ dùng hồi Thế chiến thứ hai, rất cũ. Trong thời gian quân Mỹ được rầm rộ đổ vào Việt Nam, chúng tôi mới được bay thả với phi cơ loại C 123 và C 130. Phi cơ C 47, như đã nói, là phi cơ Vận tải nhỏ, thuộc loại cổ lỗ sĩ. Vì kích thước phi cơ không lớn, 38 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nên hàng hóa được chuyên chở cũng không được nhiều lắm. Sau khi chất hàng lên máy bay xong, tất cả chúng tôi vào chỗ ngồi và nay nịt đâu ra đó. Những kiện hàng đạn 105 ly nằm giữa lòng phi cơ từ trước tới sau, chiếm gần hết chiếc phi cơ. Nhìn những kiện hàng chết người nầy, trong đầu tôi hơi thắc mắc : “Nếu rủi ro một viên đạn vô tình nào của đối phương bắn trúng vào chỗ độc, chắc chiếc C 47 nầy phải tan tành và xác thịt của mình không biết sẽ bay về đâu !” Tôi thấy năm bảy chiếc dù điều khiển nằm gần bên tôi, nhưng không ai màn để ý tới. Chiếc C 47 gầm gừ chạy ra phi đạo, rồi cất cánh trực chỉ về miền Hậu giang, mang theo hơn 15 sinh mạng và một máy bay chứa đầy những viên đạn cùng hỏa pháo 105 ly. Sau gần khoảng một giờ lướt gió tung mây, chiếc C 47 đã đến địa điểm thả hàng. Chúng tôi được lệnh chuẩn bị thả hàng. Mọi người cùng đứng dậy một lượt và riêng tôi thấy hồi hộp trong lòng. Cánh cửa sau đuôi của chiếc C 47 được anh Trung sĩ Cơ khí Không Quân mở ra. Chiếc máy bay vì đang xuống thấp nên cứ chông chênh như không thích nằm yên. Những luồng gió lạnh và rất mạnh thừa dịp nầy thổi thốc vào trong lòng phi cơ làm tôi phải cố gắng để đi đứng được vững vàng. Tất cả chúng tôi kể lính với quan, mỗi người tập trung tư tưởng thi hành nhiệm vụ của mình như một cái máy. Chúng tôi có mang theo dây đay an toàn và trên phi cơ cũng có những dây đay an toàn, nhưng không ai mang vào người, vì để không như vậy chúng tôi xoay trở dễ dàng hơn. Chúng tôi tháo gở dây đai chằng giữ những kiện hàng, kiểm soát những móc dù thả vật liệu trên những kiện hàng lần cuối. Những kiện hàng đạn và hỏa pháo 105 ly sẳn sàng được đẩy ra khỏi phi cơ. Chiếc C 47 nghiêng cánh bay thêm vòng thứ ba. Tôi nhìn xuống đất thấy cây cối, nhà cửa phía dưới cũng nghiêng theo. Tiếng máy bay từ hồi nãy đến giờ vẩn ù ù đều đều liên tục. Tốc lực bay của nó cũng không thay đổi. Nút đèn màu đỏ chuẩn bị thả hàng vẩn còn cháy trên bảng báo hiệu nằm gần đó. Bổng nhiên, dường như bị điện giựt, con đại bàng C 47 gầm to lên, rồi vụt cấm đầu xuống với một tốc lực nhanh khủng khiếp. Sức ép của không khí lúc phi cơ xuống thấp đè nặng vào lồng ngực của tôi. Chúng tôi biết trước đã đến giây phút thả hàng. Chiếc C 47 càng xuống thấp hơn. Tôi thấy dưới đất có làn khói trắng bay lên cao. Con chim sắt C 47 thình lình lại chuyển mình bay bổng trở lên. Một phen nữa tôi bị ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
lộn ruột. Lúc đó tiếng chuông báo hiệu thả hàng reo vang và nút đèn xanh trên bảng báo hiệu nổi lên. Tất cả chúng tôi dùng hết sức mình đẩy những kiện hàng ra khỏi máy bay. Kiện hàng cuối cùng bay ra. Mọi việc xảy ra như chớp nhoáng. Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhìn theo những kiện hàng bay ra khỏi máy bay đang lơ lửng dưới những chiếc dù trắng phao phao. Anh Trung sĩ phụ tá Cơ khí Không Quân nhìn chúng tôi vừa cười toe toét : - May quá ! Lần nầy mình không ăn đạn của Việt Cộng ! Trung sĩ Sáng cười hề hề : - Anh biết tại sao không ? Anh Trung sĩ Không Quân nhìn Trung sĩ Sáng, hai mắt mở lớn : - Tại sao ? Trung sĩ Sáng tỉnh bơ : - Tại vì lần nầy có tôi đi ! Anh Trung sĩ Không Quân đưa ngón tay cái lên : - You’re Number one ! Rồi cả hai anh Trung sĩ cùng cười lớn lên trong tiếng trời gầm của máy bay. Chiếc C 47 bây giờ quay đầu bay trở lại Sài-Gòn. Chuyến thả dù tiếp tế đầu tiên của chúng tôi kể như được hoàn thành. Trên đường về Sài-Gòn, có người ngồi nhắm mắt ngủ gà ngủ gật, có người ngồi hút thuốc lá để quên mệt và quên đời. Thiếu úy Vinh hỏi tôi : - Anh thấy sao trong chuyến thả đầu tiên nầy ? Tôi nhăn mặt : - Tôi thấy hồi hộp lúc máy bay cắm đầu xuống quá ! Thiếu úy Vinh tỉnh bơ : - Nếu nó cắm xuống luôn thì bà xã mình khỏe chớ có gì mà lo ! - Tôi mới có bồ thì làm sao có bà xã ! - Vậy thì còn sướng hơn ! - Tại sao vậy ? Thiếu úy Vinh cười như tiếng máy đuôi tôm bắt đầu chạy : - Có gì đâu ? Sống làm “mẹ” gì trên cái cõi đời ô trọc này cho thêm khổ ! Sau chuyến thả tiếp tế thực tập lần đầu trong cuộc đời của người lính tiếp tế Nhảy dù Quân nhu, tôi thấy rất thích thú bay thả với các anh em Quân nhân trong đơn vị. Tôi thích bay thả ở nơi nào tôi chưa đến dù nơi đó xa hay gần. Hai anh bạn Thanh và Vĩnh của tôi cũng vậy. Hai anh nầy còn bay thả nhiều hơn tôi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nữa. Thật ra trách nhiệm vật thể trong một chuyến thả dù không đòi hỏi sự có mặt của một Sĩ quan. Những Quân nhân Trưởng toán của đơn vị đều có kỹ luật cao, được Huấn luyện Kỹ thuật tiếp tế thả dù một cách cặn kẽ và chu đáo. Họ có thừa hiểu biết và kinh nghiệm để Chỉ huy thành công trong các chuyến thả dù bình thường. Tuy nhiên, sự có mặt của một Sĩ quan trách nhiệm trực tiếp luôn luôn cần thiết trên phương diện Chỉ huy và nâng cao tinh thần thi hành Quân lệnh. Trong những giờ phút nguy hiểm, sự có mặt của cấp Chỉ huy rõ ràng là sự chia xẻ với nhau tình Huynh đệ chi binh đáng quý. Ðường bay dù tận chân trời. Thả dù tiếp tế một đời ra đi. Lon đeo quan đến binh nhì. Cũng bay cũng nhảy cũng “chì” thế thôi ! Số Ba Xui Lắm ! Nói về chuyện bay thả dù với anh em Quân nhân ngày xưa, tôi còn nhớ một mẫu chuyện “Số ba xui lắm”. Vào khoảng đầu hay giữa năm 1970, tôi được đổi ra Ðà Nẳng để phụ trách đơn vị tiếp tế thả dù tại Vùng 1 Chiến thuật. Trong thời gian nầy miền Trung bị một trận bão rất nặng. Việc tiếp tế lương thực cho các nơi bị bão rất khó khăn. Trước khi Trung cộng dùng võ lực chiếm đóng vào năm 1974, hai đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngoài khơi Ðà Nẵng do quân ta trấn giữ vì đây là lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa. Trường Sa và Hoàng Sa lúc đó cũng không tránh khỏi được trận bão nầy. Vì biển động gió lớn, tàu bè không thể nào chạy ra để tiếp tế cho anh em địa phương quân trấn giữ ngoài đó. Trong khi đó, số gạo dự trữ cho binh sĩ địa phương đã tụt đến mức báo động. Chúng tôi được lệnh khẩn cấp từ Quân đoàn 1 bay ra thả gạo tiếp tế cho đảo Hoàng Sa. Sáng hôm đó sau khi chất hàng xong xuôi, tôi có việc định ra về. Tôi mới vừa quay lưng đi thì bổng nghe tiếng Hạ sĩ Lào kêu : - Trung Úy ơi ! Tụi tôi bay ba người. Số ba xui lắm ! Trung Úy đi theo tụi tôi để thành số bốn đi ! Tôi dừng chân quay lại nhìn hạ sĩ Lào, nhăn mặt : - Dân Nhảy Dù mà cũng tin dị đoan nữa à ? Hạ sĩ Lào nài nĩ : - Nhiều khi mình phải tin đó Trung Úy ơi ! ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC39
Tôi thấy chuyện quái gở, im lặng vài giây, rồi nói với hạ sĩ Khanh, người tài xế của đơn vị : - Anh Khanh lái xe về trại chờ tôi. Khi tôi về, tôi sẽ gọi anh. - Trung Úy đi thả với mấy ảnh à ! Tôi nhìn Hạ sĩ Khanh nói giỡn : - Ðúng vậy. Anh Lào nói như vậy mà tôi không đi, rủi ro có chuyện gì thì tôi chịu sao nổi ! Thôi ! Có gì tụi tôi cùng bỏ vợ con lại cho đồng đều vậy ! Hạ sĩ Lào vổ tay : - Hoan hô Trung Úy ! Trung Úy chịu chơi thiệt ! Trời ơi ! Có cái gì mà chịu chơi với không chịu chơi ! Tôi vừa cười vừa nhảy phóc lên máy bay cùng đi thả gạo cho đảo Hoàng Sa với ba anh em Quân nhân trong đơn vị. Thế là tổng số toán thả nầy bây giờ là bốn, chớ không còn là ba nữa. Chiếc C 47 rời Ðà Nẵng hướng về hải đảo Hoàng Sa. Ðây là lần đầu tiên tôi đi thả ngoài biển. Tôi nhìn xuống thấy chỉ có mây mù và nước biển. Không biết vì cơn bão chưa dứt hẳn hay vì có gió mạnh ở ngoài biển khơi, chiếc máy bay C 47 cứ trồi lên sụp xuống, làm tôi thấy lo ngại. Phi cơ đã tới địa điểm thả hàng. Cũng như những lần thả trước, chiếc C 47 bay vài vòng và cuối cùng cắm đầu xuống để cho chúng tôi chuẩn bị đẩy hàng ra khỏi phi cơ. Lần nầy sao tôi thấy máy bay cấm đầu xuống quá thấp. Tôi thấy nhiều hòn đảo nằm gần nhau. Chiếc C 47 bay thật nhanh, nhưng tôi thấy loáng thoáng được nhà cửa và nhiều người đang đứng ở phía dưới. Tôi từ lo ngại sang hơi sợ. Tôi nghĩ chắc nó đi xuống luôn rồi ! Nhưng sau đó đôi giây, nó vọt trở lên. Và chúng tôi đẩy được tất cả những kiện hàng gạo ra khỏi phi cơ. Tôi nhìn chung quanh coi tình hình anh em ra sao. Tôi thấy mặt mày anh nào cũng lo ra. Có lẽ ai cũng tưởng cuộc đời mình đã đi đoong rồi ! Khi về tới phi trường Ðà Nẵng, tôi bước lên phòng lái đùa với anh Trung úy phi công : - Hồi nãy sao anh xuống thấp dữ vậy ? Tôi tưởng tụi mình rồi đời rồi. - Tôi phải xuống thấp. Vì nếu không, sợ những kiện hàng của anh sẽ bay xuống biển hết ! Rồi anh Trung úy nầy bắt tay tôi cười : - Anh về đề nghị Anh dũng bội tinh cho tôi đi ! Tôi làm bộ nghiêm trang : - Ngôi sao đồng hay ngôi sao chì đây ? Chúng tôi siết tay nhau cười như pháo nổ. Bổng Hạ sĩ Lào từ đâu chạy tới cười cười, nói nói : 40 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
- Trời ơi ! Lúc sắp thả tôi tưởng máy bay rớt luôn rồi, Trung Úy ! Gió sao mạnh dữ quá, mà chiếc máy bay lại vừa chồng chềnh vừa xuống thấp quá chừng ! Tôi tưởng nó cắm xuống luôn rồi ! Lần thả nầy thiệt như chết đi sống lại đó Trung Úy ơi ! Nhờ mình đi bốn người, chớ nếu mình có ba người, chắc Ngọc Hoàng đã giũ sổ tụi tôi rồi ! Tôi lập lại lời của Thiếu úy Vinh đã tếu với tôi hồi trước : - Nếu nó cắm xuống luôn thì Bà xã mình khỏe, chớ có gì mà lo ! Tôi vỗ vai Hạ sĩ Lào cười cảm thông, chớ trong lòng không tin có “Chuyện ba-bốn”. Hoàng Sa hải đảo xa xôi. Bạn đi tôi ở bồi hồi lòng nhau. Chuyện đời máu chảy ruột đau. Ta cùng bay thả “anh hào” đệ huynh. Tiếp Tế Không Vận và Người Lính Nhảy Dù Quân Nhu. Trong suốt thời gian phục vụ tại Liên Đội 91 Tiếp Tế Thả Dù ngày xưa, tôi rất ít có dịp liên lạc và tiếp xúc với các bạn đồng khóa sau khi ra trường mặc dù tôi có rất nhiều bạn bè phục vụ tại Sài-Gòn. Nguyên nhân lớn là vì chúng tôi trực thả hành quân cứ một tuần trực và một tuần nghỉ. Trong tuần lễ trực, nếu có lệnh thả hành quân ở bất cứ ở đâu, chúng tôi phải sẳn sàng bay đi thả ngay. Trong tuần lễ không trực, chúng tôi vẫn cũng phải ở vị thế sẵn sàng tăng cường cho Chi đội trực khi chiến trường trở nên nóng bỏng. Cộng thêm vào đó, chuyện cấm trại một trăm phần trăm xảy ra thường xuyên trong đơn vị không phải là chuyện lạ. Phải nói thời gian rảnh rổi của chúng tôi ở đây không có bao nhiêu. Rồi ngày qua ngày, chúng tôi quen với lối sống “Ếch ngồi đáy giếng” nầy. Tôi thích bay thả và đã có dịp bay thả nhiều lần trên nhiều vùng Chiến thuật trong nước và ngoài nước. Quân nhân Liên Ðội 91 TTTD đã từng phụ trách thả tiếp tế cho nhiều mặt trận lớn cũng như những cuộc hành quân đặc biệt và bí mật trên chiến trường Kampuchia và Lào trong cuộc chiến tại Việt Nam ngày xưa. Ðời lính tiếp tế thả dù không phải cầm súng đấu với giặc, nhưng có cái thú giỡn với hồi hộp, với tử thần khi phải bay thả cho các tiền đồn đang bị giặc bao vây hay ngay trên các chiến trường sôi động. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Việc phi cơ thả dù trong các phi vụ tiếp tế Không vận bị đối phương bắn và bị bắn rơi ngay tại chiến trường là chuyện không có gì lạ trong cuộc chiến giữa ta và địch ngày xưa. Trong những lần thả tiếp tế với Không lực VNCH và Không lực Hoa-Kỳ, máy bay tôi đi thả đã bị bắn nhiều lần trên vùng trời Năm Căn - Xuyên Mộc... Máy bay tiếp tế của ông bạn láng giềng Thanh của tôi ngày xưa cũng đã được nếm mùi đạn VC một lần ở Quế Sơn, bắt buộc phải đáp khẩn cấp ở phi trường Ðà Nẵng. Tôi còn nhớ lúc phi cơ bị bắn, tiếng đạn trúng vào thân phi cơ giống như âm thanh của những hòn sỏi được ném chọi mạnh vào thân chiếc xe hơi đang chạy lẹ. Có lần lỗ đạn bắn chơm chởm chỉ cách chỗ Trung sĩ Dậu và tôi đứng khoảng chừng nửa thước. Trong chiến trận mùa Hè đỏ lửa (1972), Quân nhân Liên Ðội 91 TTTD đêm ngày đã thay nhau hết phi vụ nầy sang phi vụ khác, bay thả vũ khí và lương thực cho nhiều đơn vị của Quân lực VNCH bị đối phương bao vây hay trực chiến với kẻ thù. Trong lần tiếp tế thả dù cho một đơn vị ta bị VC bao vây ở Xuân Lộc, một chiếc phi cơ C 123 thả tiếp tế bị đối phương bắn rơi. Trung sĩ Trưởng toán Sáng, Hạ sĩ Ðồng và cả toán tiếp tế thả dù của anh trên chiếc phi cơ nầy đều bị tử trận. Vì hàng ngày cùng chia xẻ với nhau sự nguy hiểm trên trời, chúng tôi rất đoàn kết và thương yêu nhau với tình nghĩa Huynh đệ chi binh. Trong những tháng năm sống xa quê nhà với đớn đau cho dỉ vãng và với bao kỷ niệm u buồn, nhiều khi tôi thấy lòng hối hận vì đã không có cơ hội gần gũi nhiều hơn với các anh em Quân nhân thuộc quyền. Tôi hối tiếc vì đã không hoặc quên để ý đến cuộc sống vất vã của nhiều anh em nầy trong khi cuộc sống của riêng tôi ngày qua ngày cũng không hơn gì họ. Giờ đây thế sự đổi thay. Có kẻ còn người mất. Người còn sống, hầu hết ai cũng đã hay đang trở thành già nua. Mỗi người sống mỗi nơi ở trong một hoàn cảnh “Chẳng đặng đừng”, sướng có, đở khổ có, và khổ cũng có. Thỉnh thoảng tôi nhớ lại những gương mặt, tiếng nói, tính tình của những anh em Quân nhân phục vụ cùng một đơn vị với nhau ngày xưa. Tôi thương những anh em Quân nhân có đầy đủ tác phong đáng kính, tôn trọng kỷ luật và không bao giờ nề hà với công việc nặng nhọc, hiểm nguy. Có những buổi chiều nhạt nắng tôi đứng trên lưng đồi cỏ một mình. Nhìn lên bầu trời xanh có những áng mây trắng lang thang, tôi mơ ước được làm một ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cánh dù bay về một phương trời xa xôi nào đó để được sống lại với những ngày đã qua, với bao nhiêu người thân thương đã từng mặc bộ Quân phục Ka-ki giống như tôi vào thuở xa xưa. Lang thang đồi cỏ một mình. Về đâu khóc hận duyên tình lãng du. Hết rồi lá đổ chiều Thu ! Còn đây giấc mộng cánh Dù bay xa. Nam Thảo
Tïëu TIẾN LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA: Trong chuyến du hí qua Cu Ba , TBTCSVN Nguyễn Phú Trọng (Trọng lú) có buổi thuyết trình tại một đại học ở Havana. Đề tài là “ hai nước chúng ta là tiền đồn XHCN Việt Nam thì ở Á Châu, Cu Ba của các đồng chí thì ở Mỹ Châu. Hai nước chúng ta tiến mạnh tiến nhanh lên XHCN chúng ta đi trước bọn tư bản chủ nghĩa một bước , chúng nó đang đứng trên bờ vực thẫm…” Rồi ông ta hô khẩu hiệu: - “ tinh thần Cu Việt muôn năm, hai nhân dân Việt Cu gắn liền như răng với môi…” SỢ CHỒNG TÔI CHẾT NHƯ CON MÈO Bà vợ trẻ của một đại gia ở Saigon đem con mèo tới bệnh viện thú y khám bệnh, sau hai tiếng đồng hồ khám nghiệm Bs thú y cho biết kết quả : - Con mèo của bà bị ung thư phổi nặng, theo kết quả chụp quang tuyến thì trong phổi nó có chứa nhiều lông trong buồn phổi gây ung thư, Nhà bà có con mèo nào khác chơi với nó không, vì nó thường hay liếm con kia nên mới hít lông chạy vô phổi nó, con mèo sẽ chết nay mai. Bà chủ lăn ra khóc sướt mước, khóc không ngưng nghĩ. Bà hỏi Bs thú y - Thưa BS người có bị bệnh như con mèo này không, tôi sợ chồng sẽ mang bệnh và chết giống y nó vậy. 41 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thủ Đức Một Thời Khó Quên
Chợ Thủ Ðức Trước năm 1975, diện tích quận Thủ Đức khoảng 200 km² với những cánh đồng lúa vàng trĩu hạt, những khu vườn cây ăn trái xum xuê, vườn cao su xanh ngắt và những nhà máy kỹ nghệ lớn nhất thời VNCH như: nhà máy Xi Măng Hà Tiên, nhà máy dệt VIMYTEX, nhà máy làm sửa hộp Foremost, nhà máy nước Đồng Nai, nhà máy nhiệt điện Thủ Đức, nhà máy kim khi VIKIMCO, nhà máy sản xuất tôle VINATON vv...ngoài ra có suối Xuân Trường, những khu nghỉ mát, hồ bơi lớn theo tiêu chuẩn quốc tế... Đầu thập niên 70 Thủ Đức lại có thêm một trung tâm giải trí lớn nữa là khu Đường Sơn Quán bên xa lộ Đại Hàn với sân trượt (patin) nổi tiếng và thu hút rất đông giới trẻ Sài Gòn vào mổi cuối tuần. Thủ Đức vùng đất Văn Hóa gần Thủ đô Sài Gòn, dưới thời VNCH về phương diện giáo dục là đơn vị hành chánh cấp quận duy nhất có đầy đủ các trường từ cấp tiểu học lên đến đại học. Đại Học Khoa Học (Ban Vật Lý Địa Cầu) và Đại Học Kỹ Thuật Bách Khoa. Nếu không có biến cố 30.04.1975, trường Đại Học Kỹ Thuật Bách Khoa là đại học hiện đại có diện tích lớn nhất tại Miền Nam. Những trường trung học công lập: Thủ Đức, Hoàng Đạo, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, còn có thêm trường trung học Kiểu Mẫu là trường dạy theo chương trình tổng hợp đầu tiên tại miền Nam với cơ sở đồ sộ và khang trang nhất. Ngoài ra còn có trường trung học Kỹ Thuật Việt Đức ờ Ngả tư Xa lộ. Giáo Hội Công Giáo cũng có một số trường trung học như trường Lasan Mossard, trường Thánh Phanxicô, và thêm một trường nội trú dành cho nữ sinh. 42 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Chợ Thủ Đức theo lịch sử có từ hành trình xuôi về phương Nam của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào thế kỷ XVII. Người lập ra chợ là một thương gia người Hoa ông Tạ Dương Minh (Tạ Huy), hiệu Thủ Đức, bỏ nước ra đi sau khi phong trào «phản Thanh phục Minh» bị thất bại. Nhân vật lịch sử đã góp phần khai khẩn, lập ấp vùng Linh Chiểu xưa và xây dựng ngôi chợ đầu tiên tại đây mang tên hiệu của ông là chợ Thủ Đức. Thủ Đức là một vùng nữa chợ nữa quê hấp dẫn đối với người dân Sài Gòn, có những chỗ vui chơi giải trí thơ mộng, không ồn ào náo nhiệt. Cuối tuần nếu dân Sài Gòn không đi tắm biển Vũng Tàu thường đến Thủ Đức tắm hồ, tắm suối, ăn nem nướng gói lá vông là một đặc sản nổi tiếng qua nhiều thập niên. Dọc các quán ăn, cửa hiệu ven đường, những chùm nem xanh tròn đầy treo lủng lẳng trông thật hấp dẫn, qua ca dao. «tay cầm bầu rượu nắm nem, mải vui quên hết lời em dặn dò». Tản Đà thích thú khi đến ăn nem và tắm suối Xuân Trường làm thơ hồi tưởng: Thủ Đức- Xuân Trường khách vắng đông Ngồi nhớ người xa thêm nhớ cảnh Xa xôi ai có nhớ nhau cùng... Thủ Đức còn có các quân trường nổi tiếng như: trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (SQTBTĐ), Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG)...Từ ngả tư xa lộ, đi về hướng chợ Nhỏ là làng Phong Phú sau năm 1940 đổi thành Tăng Nhơn Phú. Trường SQTB Thủ Đức (Trường Bộ Binh) nằm trên đồi Tăng Nhơn Phú cách thủ đô Sàigòn 18 cây số về hướng Đông Bắc. Trường SQTB Thủ Đức có những dãy nhà mái ngói ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đỏ san sát dưới những hàng cây um tùm xanh mát. Đi trên xa lộ Biên Hòa nhìn về hướng đồi Tăng Nhơn Phú thấy một phần của trường và Học Viện CSQG có đại giảng đường với huy hiệu Cảnh Sát lớn ở mặt tiền, cổng và sân cờ có nhiều cây tùng xanh, cột cờ cao với cờ vàng tung bay trong gió lộng. Theo tài liệu của Bộ Quân Sử “các diễn tiến trong việc thành lập Quân Đội Quốc Gia VN„ trường Sĩ Quan Thủ Đức là một trong hai trường đào tạo sĩ quan trừ bị do chính quyền Quốc Gia Việt Nam thành lập vào tháng 10 năm 1951 mang tên École d’Officiers de Réserve để đào tạo cấp chỉ huy người Việt cho Quân Đội Quốc Gia VN trong Liên Hiệp Pháp. Trường được xây trên đồi Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức. Năm 1952 Trường sáp nhập với trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định được chuyển từ Bắc vào. Trường Nam Định đào tạo chỉ một khóa sau đó giải tán. Năm 1955 khi QLVNCH thành hình thì Trường Sĩ Quan Thủ Đức lập ra năm ngành (trường) chuyên môn: Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Truyền tin, Quân cụ, Thông vận binh (Quân xa sau này) và Quân chánh. Năm 1961 khi chiến tranh VN ngày càng lan rộng, các trường chuyên môn càng phát triển và trường SQ Thủ Đức với nhiệm vụ đào tạo chung nên trường đổi tên là Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức cho đến nền Đệ Nhất Cộng Hòa thì chấm dứt. Năm 1963 lấy lại tên tên cũ: Trường Sĩ Quan Trừ bị Thủ Đức, chỉ đảm trách việc đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho toàn thể Lục Quân Việt Nam. Ngoài những khóa trên trường huấn luyện các khóa: - Khoá hoàn hảo Sĩ quan Điạ Phương Quân - Khoá Bổ túc Quân sự cho SQ Quân Y - Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các: Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn. (Năm 1969 CSQG thành lập Học Viện tại Thủ Đức cũng trên đồi Tăng Nhơn Phú, Sinh viên sĩ quan được huấn luyện căn bản quân sự tại trung tâm huấn luyện Rạch Dừa Vũng Tàu, sau khi mãn khoá gắn Alpha về Học Viện học chuyên môn, không còn thụ huấn tại trường SQTB Thủ Đức như những khoá đàn anh). Học trình của Trường SQTB Thủ Đức kéo dài 9 tháng. Những khóa đầu điều kiện học vấn cần có bằng trung học, thời gian huấn luyện ngắn hơn. Nhưng sau nầy nhập học (động viên hay tình nguyện) thanh niên từ 18 tuổi phải có bằng Tú Tài I (trước 1974 tại miền Nam trường trung học đệ nhị cấp phải qua 2 kỳ thi Tú Tài I & II). Sau khi ra trường mang cấp Chuẩn ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
úy, sau 18 tháng quân vụ thì thăng Thiếu úy, hai năm sau lên Trung úy. (ngoại trừ những Sĩ quan vi phạm kỷ luật bị «ký cũ» thì khó lên cấp bậc theo quy định). Mỗi đơn vị Quân Đội có một Khu Bưu Chính (hộp thơ). viết tắt KBC, với 4 con số ghi sau chỉ danh đơn vị đó. KBC của Trường Bộ Binh là KBC 4100 trực thuộc Quân Bưu Cục Trung Ương tại Thủ Đô Sài Gòn. Sau Tết Mậu Thân 1968, chính phủ ban hành một sắc luật Quân Sự áp dụng vào học đường, cuối tuần học sinh đệ nhị cấp phải học căn bản về quân sự biết xử dụng vũ khí, tập bắn tại các trung tâm huấn luyện. Nên khi họ vào trường SQ trừ bị Thủ Đức đã có một phần căn bản về quân sự. Các công chức và chuyên viên kỹ thuật các ngành phải được thụ huấn quân sự xong có thể trở về nhiệm sở cũ làm việc, nếu có nhu cầu đòi hỏi của cơ quan ấy. Các giáo chức sau một vài năm trong quân ngũ đa số được trở về trường xưa tiếp tục dạy học. Ngoài những người được biệt phái đa số sĩ quan trừ bị Thủ Đức phải ở lại Quân đội mặc dù nhiệm kỳ trừ bị 4 năm đã qua, nhưng bị lưu giữ lại vì tình trạng chiến tranh. Năm 1972 lịnh tổng động viên (sụt một tuổi) sinh viên cũng như học sinh phải lên đường nhập ngũ, có 15 khóa SQTB thụ huấn tại Nha Trang và Thủ Đức. Kể từ tháng 1-1968 đến tháng 12-1973, trong việc tiếp sức trường SQTB Thủ Đức, trường Hạ Sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang đã đào tạo được 12.000 Sĩ quan trừ bị. Khoá 1/68 Khóa 2/68, Khóa 2/69, khóa 1/72, Khóa 6/72, Khoá 9B/72 Khóa 11/72 học tại Nha Trang. Như vậy tổng số Sĩ quan trừ bị được huấn luyện tại Thủ Đức, Nam Định, và Nha Trang trên dưới 100,000 người trong đó có những danh tướng xuất thân từ Thủ Đức chiến đấu tới ngày cuối cùng như: tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê Văn Hưng...tuẫn tiết không đầu hàng, (còn những hèn tướng ra lệnh cho cấp dưới, binh sĩ tử thủ chiến đấu trong khi họ cùng gia đình bỏ chạy từ 27.4.1975). Thủ Đức còn đào tạo những khoá Sĩ quan đặc biệt, giành cho Hạ sĩ quan có trình độ trung học và kinh nghiệm tác chiến, là một cơ hội tốt để họ tiến thân trong cuộc đời binh nghiệp như cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Tôi thi vào ngành khác không bị động viên vào trường SQTB Thủ Đức. Nhưng bạn bè, người thân trong gia tộc phần lớn được thụ huấn trong trường SQTB Thủ Đức, được học đầy đủ kỹ thuật tác chiến, công tác chỉ huy, tham mưu, tình báo, vũ khí, chiến thuật, chiến lược ... Cuộc chiến đôi khi cao độ đẩm máu, nhiều người hy sinh, bạn thân của tôi trở về 43
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
trong chiếc quan tài bọc kẻm, phủ cờ vàng trong chiều đông gió lạnh! Mẹ già ôm quan tài thương khóc... Trường SQTB Thủ Đức đã đào tạo Sĩ quan trẻ tài năng và đạo đức. Những cuộc hành quân Sĩ quan chỉ huy ra lệnh binh sĩ luôn tôn trọng sinh mạng, tài sản của dân, kính trọng người già, yêu trẻ con và luôn đứng đắn với phụ nữ... đối xử nhân đạo với tù. Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín là năm đức tính người chỉ huy phải rèn luyện hàng ngày. Bởi vậy thời gian huấn nhục 8 tuần là giai đoạn rèn luyện thể lực và tâm lực cho tân Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ). Kiên nhẫn chịu đựng thi hành lệnh không nóng giận, chấp nhận gian khổ nếu bị khóa đàn anh phạt hít đất, nhảy xổm... Những bạn của tôi thời sinh viên sống lè phè, tóc dài nghe nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, nhưng sau thời gian được huấn luyện ra trường trở nên nghiêm trang, nước da đen, tóc ngắn, đi đứng mạnh mẽ, ăn nói đúng tư cách của một cấp chỉ huy. Cuối tuần được đi phép với bộ đồ tiểu lễ kaki màu vàng nhạt, vai đeo dây biểu chương màu vàng, đầu đội cascette, giầy botte de saut, bút nịt sáng chói, có xe GMC chở về gần sở thú, SVSQ đi dạo phố, hẹn với người tình, tận hưởng những ngày đẹp ở thành phố Sài Gòn thân yêu. Ngày ra trường họ sẽ đi khắp các phương trời, đến những đơn vị tác chiến trên núi rừng biên giới, ăn cơm sấy, uống nước hố bom... Làm gì có tô phở hay ly cafe thơm ngon bên người yêu với uớc vọng tương lai! phải chờ 15 ngày phép trong năm mới có thể gặp lại nhau. Cuộc đời của người trai thời loạn phải hy sinh tất cả ra chiến trường để bảo vệ cho miền Nam được tự do, mong ước chiến tranh chấm dứt để trở về mái nhà xưa. Mọi người hy vọng Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở VN (Agre ement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) nhưng chỉ là một giấc mơ! Sau khi Hiệp định Paris được ký kết và có giá trị kể từ ngày 27.01.1973, tất cả quân đội Đồng Minh triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam. Trường SQTB Thủ Đức dời về tiếp quản căn cứ của Sư Đoàn Hổ Mang Thái Lan ở Long Thành. Những cơ sở trường ốc cũ được chuyển thành Huấn Khu Thủ Đức, tập trung các Trường Huấn Luyện của tất cả các ngành lại một chỗ. Gần một phần tư thế kỷ từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1973, trường SQTB Thủ Đức đào tạo Sĩ quan trừ bị cho Quân Lực VNCH. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đào tạo 4.600 Sĩ quan hiện dịch. (Khóa đầu tiên Võ Bị chỉ cần học vấn đến bằng thành chung, nhưng sau nầy phải có bằng Tú Tài 2 và chương trình học 4 năm ra trường cấp Thiếu uý). 44
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ngoài ra còn có thêm: Đại học Quân y; Đại học Chiến tranh chính trị; các trường Không quân; Hải quân… Phần lớn Sĩ quan xuất thân từ Thủ Đức phục vụ Quân Lực VNCH hùng mạnh. Quân đội VNCH không thua trên mặt trận, nhưng chính phủ VNCH thua trên mặt trận chính trị ở Paris Berlin, Washington... Bạn của tôi từ các mặt trận trở về trên thân thể với những vết thương đã lành, nhưng vết thương lòng không thể nào quên, sau khi Quân Đồng minh triệt thoái, quân lực VNCH phải trải mỏng lực lượng bảo vệ lãnh thổ, Hoa Kỳ chuyển giao võ khí quân trang, quân dụng, phi cơ... nhưng cắt viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH và gần như bỏ rơi miền Nam VN. Quân đội không được tiếp liệu đầy đủ, thiếu nhiên liệu cho xe hơi, xe tăng, tàu chiến, máy bay phải bỏ trong ụ vì không có phụ tùng thay thế, thiếu hỏa lực súng đại bác (105-155) đạn bị giới hạn bắn nhỏ giọt yểm trợ cho các cuộc hành quân... Trong khi đó Liên Xô, khối Cộng sản Đông Âu và Trung Cộng viện trợ tràn ngập quân sự cho Hà Nội. Bộ đội Bắc Việt được trang bị đầy đủ vũ khí, xe tăng tối tân. Bộ đội trẻ phải hy sinh rất cao “sinh Bắc tử Nam» đánh theo chiến thuật biển người để tiến chiếm miền Nam. Tinh thần Quân Đội VNCH chiến đấu hăng say tái chiếm An Lộc, cổ thành Quảng Trị, dù bị cúp viện trợ thiếu súng đạn nhiên liệu... Việt Nam Cộng Hòa phải tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CS cho đến biến cố lịch sử 30.4.1975, tan hàng rả đám, Sĩ quan, Công chức VNCH bị tập trung vào các trại cải tạo, nhiều người đã chết trong các trại tập trung ở núi rừng miền Bắc. Số còn lại may mắn sau nhiều năm trong tù đói khổ, thiếu thốn trăm bề sống sót trở về được đi theo diện H.O (Humanitarian Operation) năm 1999 đến Mỹ nhờ sự giúp đỡ, vận động tích cực của Bà Khúc Minh Thơ. Hay những người đi vượt biển được các quốc gia thuộc thế giới tự do cho định cư. Những người còn trẻ đi học tiếp tốt nghiệp đại học, những người lớn tuổi thì con cái có cơ hội làm nên sự nghiệp vẽ vang nơi xứ người, không bị kỳ thị lý lịch. Nhà cầm quyền CSVN trả thù Sĩ quan, Công chức của VNCH đã đành. Nhưng những cựu chiến binh của họ, họ cũng nhẫn tâm bóc lột, lọc lừa...nhiều người mang huân chương đầy ngực đi biểu tình, kêu gọi công lý vì bị cướp đất, cướp nhà nhưng tiếng kêu gào oan ức của họ đi vào hư không! Thời gian qua tài liệu về cuộc chiến tranh VN được giải mã. Lời nói của cố danh tướng của Do Thái (Israel) Moshe Dayan «Muốn thắng cộng sản, phải để cho cộng sản thắng trước». Một người bạn trong ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nước đã nhận xét „Nhận định nầy của tướng Moshe Dayan đến nay vẫn còn có giá trị tuyệt đối. Nhân dân Việt Nam ngày nay đã nhìn thấy rõ bản chất phi nhân bản của cái gọi là CHXHCNVN kinh dị buôn dân, bán nước. Nói theo ngôn từ của triết gia Arthur Koestler thì chế độ CSVN hiện nay giống như một dòng sông bị nhiễm độc, bao nhiêu thứ rác rến hôi thối từ dưới đáy sông lần lượt trồi lên trên mặt nước, đó là những bộ mặt nham nhở của những tên lãnh đạo đảng CSVN.” Cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan nói: «Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau.» Hồi tưởng lại những tháng năm đẹp, nhiều kỷ niệm ở Thủ Đức với mưa nắng năm xưa trong quân trường qua đoạn thơ của Tuý Hà : Tăng Nhơn Phú ta sẽ về thăm lại Đốt nén nhang thơm tạ Đất Trời Đã cho ta một thời hào sảng Đã luyện cho ta thành sắt thành đồng Nhập cuộc chơi có tên Sinh Tử Giữa làn ranh nghiệt ngã chiến trường Đã cho ta ngẩn cao đầu nhạo nghể Thủ Đức làm người không hổ thẹn lương tâm Tăng Nhơn Phú đồi xưa ta trở lại Cắm ngọn cờ vàng rực rỡ trời Nam Ta sẽ về dù nương theo gió Bởi thân tàn chí lớn vẫn còn nguyên (Tăng Nhơn Phú Túy Hà) Thời gian trôi qua gần 39 năm, những người từng tham gia trong cuộc chiến cả hai bên Nam - Bắc đã già yếu, nhiều người đã ra đi về bên kia thế giới vĩnh hằng. Nhắc lại khúc quanh lịch sử không phải để khơi dậy nỗi hận thù mà là nhắc lại nỗi thống khổ, đau buồn của cả dân tộc Việt Nam, để thế hệ mai sau biết được giá trị lịch sử trách nhiệm của mình với dân tộc. Chúng ta cùng đốt nén nhang lòng, tưởng niệm những người đã nằm xuống trong cuộc chiến Việt Nam. Nguyễn Qúy Đại
TẶNG ANH NGƯỜI HÁT BÀI BIỂN MẶN Bài hát mở đầu: “Cao ngất Trường Sơn…” Có phải anh đang hát bài Biển Mặn? Anh ôm đàn, bàn tay không lành lặn. Giọng hát buồn như chở nặng niềm đau. Anh là ai, là người của bên nào? “Bên thắng cuộc” ? Không, là “Bên bỏ cuộc”! Tiếng đàn như nhát dao xuyên gan ruột. Người đâu rồi, sao còn chỉ mình anh? Anh đã đi qua những cuộc giao tranh. Chút tình riêng cũng quên lời hẹn ước. Ngày tàn cuộc, mình anh ngồi nhớ nước. Giữa quán chiều lặng lẽ để mưu sinh. Tôi nghe như đất vỡ dưới chân mình, Niềm thương cảm dâng trào thành lệ ứa. Nghe Biển Mặn với lời ca chan chứa. Sao thấy như biển động ở trong lòng. Tôi ngồi xuống bên anh giữa quán đông, Thật vô lễ nếu cho vài tờ bạc, Anh cũng chẳng quan tâm, anh mãi hát: “…lúc dừng quân bên rừng vừa tiếp thu…”. Cánh rừng xưa nơi có bạn có thù. Anh gửi lại một bàn tay cho đất. Anh trở về, một bàn tay đã mất. Xếp tàn y ngồi hát tựa ru mình. Đêm Sài Gòn đèn xanh đỏ lung linh. Không có biển sao lòng tôi sóng vỗ. Xin mời anh một ly mừng hạnh ngộ. Thêm một ly để nhắc chuyện vui buồn: Chuyện tháng Tư dài cả một đời người Cạn ly nữa cho đầy thương đầy nhớ. Uống đi anh để nguôi lòng kẻ ở, Hờn giận chi, người đi đã lâu rồi. Hát làm chi cho biển mặn đắng môi. Ly nữa nhé! Đêm hãy còn dài lắm! Tôi nắm chặt bàn tay anh còn lại, Anh say chưa sao chẳng nói một lời? Tôi say chưa sao nước mắt cứ rơi? Uống nữa nhé, quên đi, đời biển mặn. KIM CHI
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
45
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
NGÔ NGHĨA : ANH HÙNG HAY DỊ NHÂN CỦA K17 TÐ Bút ký của : Pháo Thủ 17
Ngô Nghĩa , một cái tên chỉ vỏn vẹn có hai chữ ngắn gọn , dù không phải là hiếm hoi đối với người Việt Nam , nhưng cũng dễ dàng cho bạn bè chung quanh , nhất là những chàng pháo thủ cùng Khóa 17 Thủ Đức nhận diện và mường tượng ra dáng dấp một thằng bạn cùng khóa cao lỏng nhỏng gốc Bắc Kỳ , miệng mồm tía lia vui tính hết lòng với bạn bè , nhưng cũng ba gai ba gốc bán trời không mời thiên lôi . Khóa 17 TĐ có gần một trăm SVSQ được đưa đi binh chủng Pháo binh , kiểm điểm lại hình như có bốn năm mạng có cái tên chỉ có hai chữ , đến bây giờ sau hơn năm mươi năm vật đổi sao dời , đầu óc bắt đầu lú lẩn , may ra chỉ còn nhớ được bốn tên là Vũ Lâm , Nguyễn Thơ, Nguyễn Hàm và Ngô Nghĩa. Vũ Lâm và Nguyễn Thơ thì không được tin tức từ ngày ra trường , chỉ còn biết được tin tức về Nguyễn Hàm và Ngô Nghĩa . Nguyễn Hàm dân Huế mặt hồng hào có râu rìa đẹp trai giống như tây lai gốc Khóa 18 Võ Bị Đà Lạt nhưng bị đánh rớt , thay vì bị đưa đi Đồng Đế học khóa đặc biệt , thì được ân huệ chuyển sang Thủ Đức . Sau nầy được bạn bè Khóa 18 ĐL cho biết Hàm học rất giỏi nhưng mang phải căn bệnh để rồi thành tật , là hay đánh cấp đồ vật của bạn bè chung quanh , đó là lý do bị đánh rớt ở Đà Lạt . Khi chuyển sang Thủ Đức rồi ra Dục Mỹ học pháo binh , Hàm lại lấy cấp cái máy chụp hình của SVSQ Đào kim Trọng , bị Trung úy Khiêm của Tiều đoàn Khóa sinh điều tra ra thủ phạm là Hàm . Ngày trở về Thủ Đức để làm lễ ra trường , Nguyễn Hàm lại lấy cái bóp đựng tiền của Nguyễn Thơ rồi cũng bị phát giác. Gần ba tháng sau khi ra trường , lúc đó tôi đang làm Phụ tá Ban 3 TĐ91PB , thì được Th/u Tài trưởng ban I cho tôi xem ké bản sao công lệnh phong cấp Chuẩn úy cho toàn Khóa 17 Pháo Binh , trong đó có kèm một công lệnh đính chính lại cấp bậc Thượng Sĩ cho Nguyễn Hàm thay vì Chuẩn úy. Nghe bạn bè Vùng 1 kể lại , ra trường Hàm 46
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
về SĐ1BB và đi đề-lô cho một tiểu đoàn bộ binh đang hành quân trên vùng Trường Sơn , chỉ được mấy tháng sau thì Hàm tử trận . Ngày Nguyễn Hàm nằm xuống , cái công lệnh nghiệt ngã đính chính cái lon Thượng Sĩ vẫn chưa đến tay , và chắc hẳn ở bên kia thế giới , người bạn của chúng ta , cựu SVSQ Nguyễn Hàm vẫn tin rằng mình là một Chuẩn Úy của QLVNCH đã hy sinh cho Tổ Quốc! Trở lại câu chuyện về Ngô Nghĩa , khi toàn Khóa 17 Pháo binh từ Dục Mỹ trở về Thủ Đức để chờ làm lễ mãn khóa , khoảng thời gian gần hai tuần lễ nầy thật là lý tưởng để nhiều sinh viên dù về Sàigòn ban ngày , trong đó tôi và Ngô Nghĩa là cặp bài trùng . Nghĩa thường rủ rê tôi qua khu gia binh của Trường Thiết Giáp rồi vào một căn nhà quen , phía sau căn nhà nầy có một lối đi xuyên qua hàng rào hướng về khu Chợ Nhỏ , từ đây tụi tôi đi xe lam về Sàigòn đến nhà Ngô Nghĩa ở gần ngã tư Phú Nhuận . Trước khi nhập ngũ , Ngô Nghĩa đã có vợ với một con trong khi tôi còn độc thân , mỗi lần dù về nhà Nghĩa tôi cũng được hưởng ké những bửa cơm thịnh soạn rặc những món ăn Bắc , trong đó tôi bắt đầu làm quen với loại rau kinh giới và mê mẩn cho đến bây giờ . Bà cụ thân mẫu của Ngô Nghĩa thấy thằng Nam kỳ hiền hậu nên cũng cảm tình , thỉnh thoảng vui miệng bà hỏi tôi có muốn làm rễ nhà nầy không , vì Nghĩa có cô em ruột hay em họ gì đó ở chung nhà trông cũng xinh gái lắm . Một bửa khác dù về nhà sau khi ngũ trưa với vợ con và ăn uống xong xuôi , Ngô Nghĩa rũ tôi ra Sàigòn chơi một vòng trước khi trở về trường . Khi đi ngang rạp Đại Nam thấy có một bộ phim mới đang chiếu Nghĩa liền rủ vào xem , tôi không chịu bảo hết tiền rồi nhưng Nghĩa vẫn lôi xệch tôi vào . Trong lúc tôi còn đang đứng lớ ngớ xem các khung hình quảng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cáo của bộ phim , thì Ngô Nghĩa đã vào tận cửa líu lo cái gì đó với ông già soát vé một hồi . Rồi bổng nhiên Nghĩa gọi lớn tôi : “Vào xem ! Vào xem ! Phim hay lắm !” . Nói xong nắm tay tôi kéo ngang qua mặt ông soát vé rồi vén màn vào thẳng bên trong rạp , bửa đó hai đứa tôi coi ciné …chùa ! Mãn khóa ra trường , tôi cùng với sáu tên nữa là Mạc thành Phụng, Trương văn Hữu, Trương Hữu Hùng, Cao văn Long, Vương Xùi Lũy và Huỳnh Chí Thiện về Tiểu Đoàn 91 Pháo Binh đóng tại Sa Đéc… trong khi Ngô Nghĩa về trình diện Tiểu Đoàn 36 Pháo Binh 155 ly tổng trừ bị Quân Đoàn đóng tại Cần Thơ , rồi xuống Trung Đội Cầu Ngang thuộc tỉnh Vĩnh Bình để đi tiền sát cho Trung Đoàn 14 Bộ Binh. Trương Hữu Hùng đi đề lô với Trung Đoàn 13 của Sư Đoàn 9 khoảng chưa đầy năm thì tử trận trong trận đánh ở kinh Thầy Phó, tên của Hùng được đặt tên cho doanh trại của Tiểu Đoàn 91 Pháo Binh tại Sa Đéc . Huỳnh Chí Thiện thì sau Tết Mậu Thân coi Trung đội 2B/91 đóng vị trí ở ngoại ô Vĩnh Bình , tại đây Thiện đã mở cửa cho đặc công vô rồi đích thân ra tay giết lính mình , nã đại bác vô Tiểu khu Vĩnh Bình sau đó vô bưng theo Việt Cộng . Riêng Trương văn Hữu tử trận ở thị trấn Touk Mear khi theo tôi xuống làm pháo đội phó PĐ A/91PB bên Miên giữa năm 70. Riêng về Ngô Nghĩa vẫn với tánh tình ẩu tả cố hữu , mỗi lần đi tiền sát cho các đơn vị của Trung Đoàn 14 mười lần như một , không bao giờ chuẩn bị bản đồ với đặc lệnh truyền tin , chỉ khi vào vùng hành quân mới rà tần số rồi gọi đại một tên nào đó để hỏi chỉ danh của mình . Nếu có đài nào thắc mắc hỏi là ai thì được trả lời là : “ hai lần Non Nước đây !” thì biết ngay là ông thần Ngô Nghĩa đang trên hệ thống . Đi hành quân chung riết rồi nhận dạng được giọng nói của nhau , nên bạn bè không ngần ngại cho Ngô Nghĩa biết chỉ danh của mình trên đặc lệnh hành quân . Một lần tôi đi đề lô cho Tiểu đoàn 43 Biệt Động Quân từ Vĩnh Long xuống phi trường Vĩnh Bình để làm trừ bị cho một cuộc hành quân cấp Sư Đoàn , tại đây tôi đã gặp lại Ngô Nghĩa đi đề lô cho TĐ 1/14 cũng đang trừ bị cho cuộc hành quân . Gặp nhau Nghĩa nói tía lia một hồi , chợt tôi thấy Ngô Nghĩa đang mang một đôi giày “bốt” da đen cổ cao bằng nylon của Mỹ trông đã mắt lắm , trong khi mình đang mang đôi giày bố đen thảm hại. Thấy tôi khen đôi giày , Ngô Nghĩa nói để nó đi kiếm cho tôi một đôi giống như vậy . Nói xong Nghĩa đi bộ xuống cuối phi đạo của phi trường Vĩnh ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Bình , nơi có mấy dãy compound của Mỹ cùng với mấy cái hangar nhỏ chứa phi cơ quan sát L.19 và U.17, nhìn theo thấy bóng Ngô Nghĩa cao lêu nghêu trên phi đạo . Bỗng một chiếc jeep mui trần của Mỹ đang chạy tung bụi về hướng ngược lại , Nghĩa quơ tay chặn chiếc xe ngừng lại , cặp cổ thằng tài xế Mỹ xí xồ xí xào cái gì đó không biết , rồi Ngô Nghĩa leo lên xe jeep cùng tên Mỹ chạy trở lại compound . Khoảng mười phút sau , chiếc xe jeep mui trần chở Nghĩa trở lại chỗ tôi đang ngồi sắp toán trực thăng , Ngô Nghĩa nhảy xuống xe với đôi giày bốt Mỹ cột dính lại với nhau đang quàng tòn ten trên cần cổ . Khi chiếc xe jeep Mỹ vụt chạy đi , Nghĩa tháo đôi giày trên cổ quăng cho tôi rồi nói thử coi có vừa chân hay không. Tôi không biết khi gặp thằng tài xế Mỹ Ngô Nghĩa đã nói những giống gì mà khi trở lại Nghĩa đã “dớt” được đôi giày bốt da của Mỹ thật hiếm hoi lúc đó cho tôi . Sau bảy năm rưởi ở tù ngoài Bắc , cả gia đình tôi vượt biên thành công và định cư ở Mỹ năm 84 , một hôm tình cờ đọc được một bài báo ở hải ngoại nói về cuộc trốn trại của Anh hùng Pháo binh Ngô Nghĩa . Theo bài viết đó , thì Trung úy Pháo binh Ngô Nghĩa đã trốn khỏi trại “ cải tạo” Trảng Lớn thuộc tỉnh Tây Ninh , sau khi bị phát hiện đã giựt súng của bộ đội CS bắn chết hết mấy tên trước khi bị bắt và bị đem ra xử bắn . Cũng theo bài viết đó , thì Ngô Nghĩa còn mang cấp bậc trung úy . Khóa 17 Thủ Đức đến thời điểm 1975 thì tất cả đã mang lon Đại úy từ năm 70 , một số đã lên Thiếu tá , không biết vì lý do gì Ngô Nghĩa đến năm 75 vẫn còn mang cấp bậc Trung úy , có lẽ ba gai ba góc quá sức với ký củ tùm lum nên không lên nổi cái lon đại úy chăng ? Bởi vì sau thời gian đi tiền sát viên, tôi đi làm trung đội trưởng rồi pháo đội phó , pháo đội trưởng…không còn có dịp gặp lại Ngô Nghĩa , nên không biết sau khi rời TĐ36PB ở Cần Thơ Nghĩa thuyên chuyển về đâu , giữ chức vụ gì và ở đơn vị nào . Sống ở tại địa phương nầy , tôi có quen với BS Cao Tấn Phương hiện đang là Chủ tịch Hội Quân Cán Chính VNCH của thành phố Jacksonville phía Bắc tiều bang Florida , nguyên là một Ysĩ của binh chủng Nhảy Dù từng bị đi tù “cải tạo” ở trại Trảng Lớn . BS Phương có kể cho tôi và bạn bè nghe cuộc xử bắn Trung úy Pháo binh Ngô Nghĩa như sau : “ Một buổi sáng sớm trời còn lờ mờ khoảng giữa năm 1976 , tất cả các đội trưởng và tổ trưởng của trại tù Trảng Lớn gần tỉnh Tây Ninh được lệnh ra tập trung tại sân banh của trại nằm cạnh bìa rừng 47 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
để chứng kiến vụ xử bắn Trung úy Pháo binh Ngô Nghĩa , người vừa một mình vượt trại và bị bắt . “ Trung úy Ngô Nghĩa bị bịt mắt trói gô đưa từ trên chiếc xe Dodge xuống rồi được các vệ binh kè vai áp giải đến một cái cọc gỗ lớn được chôn thẳng đứng từ đêm trước . Sau đó thân mình Ngô Nghĩa bị cột chặt vào cây cột gỗ từ cổ đến hai chân . Bản án trốn trại với âm mưu chống phá cách mạng được đọc lên , lệnh hành quyết được ban hành . “ Sáu tên bộ đội ba đứa đứng ba đứa ngồi nhắm súng trường CKC đồng loạt bóp cò sau khẩu lệnh “bắn”. Thân mình Ngô Nghĩa co giật rồi đầu quẹo sang bên . Một tên bộ đội khác có lẽ là trưởng toán hành quyết tiến lên rút súng lục K54 bắn vào đầu Ngô Nghĩa một phát ân huệ . Được hỏi trước khi bị bắn Ngô Nghĩa có phản ứng la lối gì không , BS Phương nói không , có lẽ thân thể đã bị chích thuốc làm tê liệt . “Được hỏi có nghe biết gì về việc Ngô Nghĩa giựt súng bắn lại tụi bộ đội khi trốn trại không , BS Phương cho biết trại tù Trảng Lớn rất rộng nên khó biết được những tin tức chính xác , chỉ nghe được tin chính thức từ bộ chỉ huy trại phổ biến để “học tập” là Ngô Nghĩa đã đánh cắp quân phục bộ đội kể cả nón cối mặc vào rồi giả dạng đi thẳng ra cổng chánh , đến bến xe thì bị phát hiện và bị bắt rồi tử hình …” Ngô Nghĩa , một cựu Sinh viên Sĩ quan Khóa 17 SQTB Thủ Đức , một Trung úy Pháo binh của QLVNCH , một người tù “ cải tạo” khi quân đội đã buông súng tan hàng , dù có giựt súng để bắn lại bọn bộ đội ác ôn Cộng sản hay không , nhưng nội một hành động dám trốn trại tù để tìm lại một cuộc sống tự do bên ngoài , cũng đã là một hành động không ai cũng làm được . Dù cuộc vượt ngục bất thành phải đổi lấy cái chết trước quân thù độc ác , nhưng cũng đã nói lên dũng khí của một Sĩ quan QLVNCH . Nhân ngày Họp mặt “ Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Ra Trường Của Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức” , bài viết nầy như một nén hương lòng để tưởng nhớ đến Ngô Nghĩa , một người bạn đồng môn từng có những giờ phút vui đùa bên nhau , một pháo thủ mà cuộc đời không được binh nghiệp ưu đải , đã can trường ngã gục trước mũi súng của quân thù trong bước đường cùng khi tuổi đời còn ở lứa tuổi trung niên …..….. Pháo Thủ 17 .
gởi lại t
rần gian
mang bầy thơ cũ – từ từ đốt gởi khói hương bay xuống cõi người lật ngược phận đời lỡ rong chơi về xóm ruộng cầm cày thay kiếm theo lỗ chân trâu tìm chỗ trọ khua mái chèo đã bỏ nhiều năm xuôi nước ròng cất vó đêm trăng giăng câu, bắt cá bên chòi vắng sáu mươi năm lạc loài thân thế sóng gió bao phen vất lên bờ mặc kệ đất trời có ngẩn ngơ ta gởi hết có gì bận bịu gởi trần gian, thói đời nhũng nhiễu dăm cuộc tình trăn trở buồn hiu thêm lũ bạn bè vẫn lêu bêu gởi khăn gói trong ngày qua vội gươm giáo một thời chân đã mỏi gởi bút nghiêng mang nặng mà chi dù phố đông người hôm ta đi nhà vắng, dậu thưa thôi gởi lại đập cây đàn, đổ khô vò rượu điếu thuốc tàn đốt sạch niềm riêng ba lạy tạ đời chẳng bình yên có ta bước từ trong quá khứ gởi mặt trời rớt từ mộng dữ bởi mất con trăng trên đường về bởi nhiều năm gác cẳng ngủ mê nên chiều xuống sụt sùi đưa tiễn gởi cái bóng từng đêm im tiếng úp mặt trên tường ốm tong teo gởi người tình cặm cụi đi theo ta gởi hết một đời mai một nguyễn thanh khiết
48 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
AN LỘC CHIẾN TRƯỜNG ÐI KHÔNG HẸN. «Hổ Xám» Phạm Châu Tài.
Tác Giả, Cựu Thiếu Tá Hổ Xám Phạm Châu Tài, cùng 2 cựu Sĩ Quan Võ Bị Dalat. Hình từ trái qua phải: Cựu Thiếu Tá Phạm Châu Tài K17 TÐ, cựu Đại Tá Phan Văn Huấn (Khóa 10 VB, nguyên Liên Đoàn Trưởng LĐ 81 Biệt Cách Dù) và thi văn sĩ Quốc Nam (Khóa 22 VB, Chủ Tịch HĐQT An-Lộc Foundation.
(Viết cho những chiến hữu của tôi đã một thời vào sanh ra tử trên khắp chiến trường sôi bỏng để bảo vệ đất nước). Mùa hè năm 1972 đi qua như cơn ác mộng mà khi tỉnh dậy người ta vẫn còn bàng hoàng như đang mê sảng. Mùa hè đến với những cơn lốc bạo tàn, với những trận cuồng phong kinh hãi, sẵn sàng huỷ hoại tất cả những gì gọi là sự sống của con người, mà những tiếng kêu thương, bi ai thống khổ nhất vẫn còn âm vang cho đến ngàn sau. Mùa hè đến với bão lửa ngụt trời, bão lửa cuồn cuộn vút lên như hoả diệm sơn bao trùm khắp bầu trời Miền Nam Việt Nam, bão lửa hừng hực thiêu đốt muôn vạn sinh linh đang sống an lành, tự do phía Nam vĩ tuyến 17. Ðau đớn thay, ác mộng kinh hoàng ấy, cuồng phong và bão lửa ấy lại do chính con người gây nên, con người mang nhãn hiệu Cộng Sản, lãnh đạo bởi một lũ người cuồng tín đã bán linh hồn cho quỷ đỏ đang ngự trị tại Hà Nội. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Người ta được biết, sau khi tiếp nhận sự chi viện khổng lồ không giới hạn về các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân nhất từ phía Cộng Sản Nga Tàu, Hà Nội điên cuồng tung vào Miền Nam ba cuộc tấn công vũ bão vào Tỉnh Quảng Trị của vùng giới tuyến, vào Tỉnh Kontum của Tây Nguyên và vào Tỉnh Bình Long thuộc miền Ðông Nam Phần. Cuộc chiến bùng nổ khốc liệt chưa từng xẩy ra từ ngày Cộng Sản phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng vào thập niên 60. Lửa, máu, nước mắt hoà với bom đạn đã cầy xới và tràn lan khắp quê hương Miền Nam tự do, tuy nhiên Cộng Sản miền Bắc phải trả một giá rất đắt về hành động điên cuồng, dã man của chúng để nhận sự thất bại đắng cay: Quảng Trị vẫn đứng vững, Kontum vẫn kiêu hùng quật khởi và Bình Long vẫn anh dũng hiên ngang phất cao ngọn cờ chính nghĩa. Trong chiến tranh, tấn công xâm chiếm mà không lấy được mục tiêu, bị thiệt hại nặng nề là thất bại hoàn toàn. Trái lại, phòng thủ quyết tâm chống trả, dù phải chấp nhận ít nhiều tổn thất hy sinh mà vẫn giữ vững phần đất quê hương thì được gọi là chiến thắng. Với lý lẽ căn bản nêu trên, ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào mùa hè năm 1972 trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thì Cộng Sản Việt Nam là kẻ chiến bại, và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà là người chiến thắng. Phát động tấn công xâm chiếm vào đầu tháng 04 49 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
năm 1972, tính đến tháng 09 năm 1972, thiệt hại nhân mạng của Cộng Sản Bắc Việt được ước lượng khoảng 100 ngàn người! 100 ngàn vong linh của những người “sinh Bắc tử Nam” trở thành lũ âm binh lạc loài, vất vưởng tha hương mà gia đình họ không bao giờ biết được. Giành lấy chiến thắng một cách kinh hoàng và oai hùng nhất trong ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà có thể nói là chiến thắng Bình Long, mà trận chiến vô cùng khốc liệt đã bùng nổ tại Thị Xã An Lộc. Một tài liệu chính thức của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà được ấn hành sau mùa hè năm 1972 đã công bố: “Tại mặt trận An Lộc cuộc tấn công đầu tiên của quân Cộng Sản khởi đầu vào ngày 13-04-1972 bằng toàn bộ của các Sư Ðoàn 5, 7, 9 và Sư Ðoàn Bình Long với tổng số vào khoảng 50 ngàn người”. Cộng Sản ước tính sẽ đánh chiếm An Lộc từ 5 đến 10 ngày và dự trù ngày 20-04-1972 sẽ ra mắt chính phủ “Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam” tại thành phố An Lộc. Thật vậy, lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tại Bình Long, ngoài 4 Sư Ðoàn với quân số mỗi Sư Ðoàn là 10,400 người, còn có một Trung Ðoàn Ðặc Công, 2 Trung Ðoàn Pháo Binh và Phòng Không và hai Trung Ðoàn xe tăng. Hơn nữa, sự bổ sung quân số dễ dàng từ Mimot, Snoul bên kia biên giới Miên là nguồn nhân lực chính mà người ta khó ước tính được con số chính xác. NHẬN DIỆN CHIẾN TRƯỜNG
An Lộc là quận châu thành Tỉnh Bình Long, cách thủ đô Sài Gòn khoảng 100 cây số về hướng Tây Bắc, với diện tích bề dài 1,800 thước và bề ngang đo được 900 thước, một Thị Xã nhỏ bé đìu hiu, chung quanh là rừng cao su ngút ngàn đến tận biên giới. Bình Long có ba quận hành chánh, cực Nam là quận 50 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Chơn Thành và cực Bắc là quận Lộc Ninh. Quốc lộ 13, con đường huyết mạch nối liền từ Lai Khê của Tỉnh Bình Dương đi qua các quận lỵ, xã ấp của Tỉnh Bình Long. Cách An Lộc 18 cây số về hướng Bắc là Lộc Ninh và cách An Lộc 30 cây số về hướng Nam là Chơn Thành. Từ Chơn Thành xuôi quốc lộ 13 về hướng Nam khoảng 30 cây số là Lai Khê, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà. Cơ sở hành chánh và quân sự Tỉnh Bình Long đặt ngay trong quận châu thành An Lộc dưới sự điều hành của viên Tỉnh Trưởng là Ðại Tá Trần Văn Nhựt. Trước khi trận chiến bùng nổ, quận Lộc Ninh được tăng cường với Trung Ðoàn 9 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, một khẩu đội pháo binh đặt tại căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha cách Lộc Ninh khoảng 8 cây số về hướng Bắc và một Chi Ðoàn Thiết Giáp thuộc Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà. Tại An Lộc, ngoài một số Ðịa Phươhg Quân, Cảnh Sát, và các cơ sở hành chánh Tỉnh mà nhân số không quá 200 tay súng, còn có pháo đội 105 ly, Chi Ðoàn Thiết Giáp, Trung Ðoàn 7 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân. Ðể đánh chiếm Bình Long, Cộng quân cắt đứt quốc lộ 13 từ Lai Khê đi Lộc Ninh, đồng thời phong toả bầu trời Bình Long bằng một hệ thống phòng không để ngăn chặn sự can thiệp của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà. TRẬN CHIẾN BÙNG NỔ Ba giờ sáng ngày 05 tháng 04 năm 1972 Trung Ðoàn Pháo có bí danh E.6 bắn phủ đầu vào các cứ điểm phòng ngự của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh do Ðại Tá Trần Công Vĩnh chỉ huy bằng hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại, sau đó Cộng quân tung Sư Ðoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt có xe tăng yểm trợ bắt đầu tấn công. Mặt khác, Cộng quân sử dụng Trung Ðoàn 272 thuộc Sư Ðoàn 9 Cộng Sản Bắc Việt phục kích quốc lộ 13 từ An Lộc đi Lộc Ninh để tiêu diệt đường rút lui của quân trú phòng. Mặc dù có sự can thiệp hữu hiệu của Không Quân, căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha, phi trường Lộc Ninh và cứ điểm quân sự của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh bị tràn ngập sau hơn hai ngày chống trả mãnh liệt. Lộc Ninh được ghi nhận hoàn toàn mất liên lạc lúc 19 gìờ ngày 07-04-1972. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh kịp thời nhảy vào An Lộc với hai Tiểu Ðoàn ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
của Trung Ðoàn 8, tăng cường cho mặt phòng thủ phía Bắc Thị Xã ngày 06-04-1972 và tuyên bố tử thủ An Lộc. Hai tiếng tử thủ lần đầu tiên được nhắc nhở nhiều lần trong chiến tranh Việt Nam qua lời tuyên bố của vị Tướng Tư Lệnh chiến trường, biểu lộ ý chí sắt đá của người chiến binh Việt Nam Cộng Hoà, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ, gìn giữ mảnh đất quê hương. Hai tiếng tử thủ như lời thề cùng sông núi, lời hứa hẹn với tiền nhân đã ra công dựng nước và giữ nước. Hai tiếng tử thủ đã làm rung động con tim nhân dân miền Nam và cả nước hướng về An Lộc ! Chiếm xong Lộc Ninh, Cộng quân tiến về phía Nam và bắt đầu tấn kích An Lộc rạng sáng ngày 1304-1972. Thực ra kể từ ngày 08-04-1972, Cộng Sản Bắc Việt đã dùng pháo binh rót vào An Lộc, Chơn Thành và Lai Khê để cầm chân sự tiếp viện của Việt Nam Cộng Hoà.
Ninh với những phi vụ tấn công và yểm trợ xuất phát từ căn cứ không quân Biên Hoà và Tân Sơn Nhất. Hai đơn vị Không Quân của Không Lực Hoa Kỳ có mặt tại Quân Khu III Việt Nam Cộng Hoà là Lữ Ðoàn 7 Kỵ Binh Không Vận và Lữ Ðoàn 1 Không Vận cũng góp phần vào việc yểm trợ cho chiến trường Bình Long một cách đắc lực và hữu hiệu. Với nhiệm vụ cắt đứt quốc lộ 13 ngăn cản sự tiếp viện của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ Lai Khê, Sư Ðoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt được tăng cường pháo binh và phòng không tổ chức chằng chịt các vị trí phục kích, chốt chặn, chốt kiềng, giật sập cầu, phá đường mong biến quốc lộ 13 thành một sạn đạo, có đi mà không đường trở lại. Ngày 12-04-1972, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù mới đặt chân đến quận Chơn Thành sau 7 ngày chạm trán với Cộng quân để giải toả một khoảng đường không quá 30 cây số. MỞ MÀN TRẬN CHIẾN TẠI AN LỘC
LỰC LƯỢNG TĂNG VIỆN CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ Lực lương đầu tiên được tăng viện đến Lai Khê ngày 05-04-1972 là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Ðại Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy gồm ba Tiểu Ðoàn và Pháo Đội Nhảy Dù. Lực lượng tăng viện thứ hai là Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy gồm 4 Ðại Ðội xung kích và 4 toán thám sát. Ngoài ra, Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hoà quyết định sử dụng toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh từ vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng cường cho mặt trận Bình Long, giải toả quốc lộ 13. Ngoài quân bộ chiến nêu trên, Sư Ðoàn 5 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đã yểm trợ cho chiến trường từ những ngày đầu chiến sự bùng nổ tại Lộc ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
“Tiền pháo hậu xung” là một chiến pháp dùng để tấn kích một căn cứ quân sự, một đồn binh hay một trại lính có pháo đài, có công sự chiến đấu, có nhiều lớp rào kẽm gai làm chướng ngại vật và hệ thống mìn bẫy giăng mắc chung quanh. An Lộc không phải là một căn cứ quân sự. An Lộc chỉ đơn thuần là một Thị Xã nhỏ bé, có nhà, trường học, bệnh viện và đường phố tấp nập người đi. An Lộc là một phố thị mà dân cư nhiều hơn lính chiến. Áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” để đánh chiếm An Lộc, Cộng Sản Bắc Việt đã hiện nguyên hình là loài quỷ đỏ điên cuồng bắn hàng ngàn quả đạn pháo 130 ly, 155 ly, súng cối 120 và hoả tiễn 122 ly vào phố thị đông người để sát hại dân lành vô tội. Pháo! Loại đạn vòng cầu có tầm phá hủy kinh khủng nhất đã rót liên tục vào Thị Xã, ngày cũng như đêm, pháo từng hồi, từng phút, từng giờ biến An Lộc bỗng chốc trở thành hoả ngục. Nhà cửa, nhà thờ, chùa chiền, cao ốc, bệnh viện tất cả đều thay hình đổi dạng, sụp đổ hoang tàn. Trú ẩn trong nhà cũng bị thương vong, chạy ra đường cũng chết. Sự chết đau thương và đến bất chợt theo tiếng ầm vang của pháo, theo tiếng gió rít của tầm đạn đi. Sự chết hãi hùng, chết không kịp nhắm mắt, chết không toàn thây, chết vô thừa nhận đầy dẫy khắp nơi trên đường phố. Ngay khi mưa pháo thưa dần và chấm dứt, Cộng quân tung vào trận địa Sư Ðoàn 9 và Sư Ðoàn Bình Long với sự yểm trợ của chiến xa T54.
51
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tuyến phòng thủ phía Tây Thị Xã do Trung Ðoàn 7 Bộ Binh đảm nhiệm và phía Ðông do Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân án ngữ, chống trả mãnh liệt, khi thì dãn ra, lúc co cụm lại, nhưng vẫn đứng vững, trong khi tuyến phòng thủ phía Bắc do hai Tiểu Ðoàn thuộc Trung Ðoàn 8 vừa đến tăng cường đã bị chọc thủng. Ðặc công, xe tăng và quân bộ chiến Cộng Sản Bắc Việt tuôn vào thành phố như nước vỡ bờ. Ác chiến diễn ra trên thành phố, đạn bay súng nổ, thây người gục ngã, dân lành bồng bế, dìu dắt nhau bỏ chạy, chạy đi đâu để tránh thương vong… Nỗi khổ, nỗi lo và niềm hy vọng mong manh để được sống đã đến với người dân An Lộc sao quá bi thương, sao lắm đọa đầy! Xe tăng Cộng quân rú gầm nhiều nơi trong thành phố, chạy ngang chạy dọc, tiếng xích sắt ken két nghiến trên đường tráng nhựa hoà lẫn với tiếng nổ ì ầm bắn ra từ đại bác 100 ly trên pháo tháp nhắm vào các cao ốc, và những bức tường nhà hiển hiện trên hướng tiến của chúng. Trên bầu trời Thị Xã, Không Quân, bất chấp hiểm nguy, nhào lộn và len lỏi qua mạng lưới phòng không, tung ra những tràng đại liên và những quả bom chính xác vào vị trí giặc thù. Bom nổ làm rung chuyển thành phố như cơn địa chấn, từng cột khói đen bốc lên cao cuồn cuộn. Giây phút nao núng ban đầu khi thấy xe tăng Cộng Sản xuất hiện tan biến nhanh chóng trong lòng những người lính tử thủ. Bây giờ đã đến lúc vùng lên bắn hạ những con quái vật đó, phải biến chúng thành những khối sắt bất động, không còn tác yêu tác quái nữa. Một đoàn 4 chiếc tăng T54 từ hướng Bắc theo đường Nguyễn Trung Trực nối đuôi nhau tiến vào phía sau khu Chợ Mới. Một anh lao công đào binh tạo được công đầu bằng một quả lựu đạn tung vào thùng xăng phụ đèo sau đuôi xe tăng T54. Lựu đạn nổ, xe tăng bốc cháy! Việt Cộng từ trong xe tăng mở nắp pháo tháp chạy thoát ra ngoài bị thanh toán ngay tại chỗ, thây nằm vất vưởng bên thành xe. Chiếc thứ hai xuất hiện sát Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Phó liền bắn một quả M.72 vào chiến xa T54. Vì bắn quá sát nên đạn M.72 không nổ, chiếc T54 bỏ chạy liền bị một chiếc trực thăng Cobra từ trời cao lao mình xuống phóng liền hai trái hoả tiễn trúng chiêc tăng đi đầu nổ tung. Ba chiếc tăng còn lại lúng túng, rú gầm trên khoảng đường bề ngang quá hẹp không xoay sở được, dễ dàng biến thành mục tiêu của hoả tiễn cầm tay M.72 được phóng ra từ quân trú phòng. Bây giờ người ta mới biết sức công phá mãnh liệt của loại hoả tiễn 52 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cầm tay M.72, một loại vũ khí chống tăng lợi hại mà bấy lâu nay bị người ta coi thường. Những chiếc tăng T54 đầu tiên bị bắn hạ tạo nên sự phấn khởi dây chuyền trong hàng ngũ quân trú phòng, họ xông vào xe tăng địch như một đợt thi đua lập chiến công. Hai khẩu pháo 105 ly của Thị Xã đặt tại sân vận động cạnh đại lộ Trần Hưng Ðạo hạ nòng bắn trực xạ vào xe tăng Cộng Sản, bắn lật tung pháo tháp xuống đất, bắn đứt xích, gẫy nòng và biến chúng thành những con cua rang muối, hừng hực đỏ lửa. Ðây là hai khẩu pháo cuối cùng của An Lộc đã bắn hết đạn trước khi tắt thở. Và bắt đầu từ đó, sự yểm trợ của hoả lực cơ hữu vào Thị Xã hoàn toàn bất khiển dụng. Trận đánh khởi đầu từ mờ sáng đến xế chiều dưới ánh nắng chói chan của mùa hè vùng nhiệt đới, dưới sức tàn phá kinh hoàng của đạn bom, mà mỗi giờ mỗi phút đi qua đều mang theo hình ảnh của sự huỷ diệt. Sự can thiệp của Không Quân gây ít nhiều thiệt hại cho Cộng quân, nhiều chiếc xe tăng T54 bốc cháy ven rừng trước khi vào thành phố. Ngoài ra, sự xuất hiện của pháo đài bay B.52 được coi như khắc tinh của chiến thuật biển người, đã gây nhiều nỗi khiếp đảm và làm tổn thất nặng nề cho 4 Sư Ðoàn Cộng quân đang bủa vây An Lộc. Pháo đài bay B.52, một vũ khí chiến lược của Không Lực Hoa Kỳ phát xuất từ Thái Lan và đảo Guam đã can thiệp vào chiến trường Bình Long theo yêu cầu của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà thực hiện 17 phi vụ đánh bom, mỗi phi vụ gồm 3 phi cơ bay trên thượng tầng khí quyển mà mắt thường ít khi nhìn thấy, chỉ nghe tiếng ù ù xa xăm của động cơ mà không biết bom sẽ nổ nơi nào. Mỗi phi vụ mang 42 quả bom nặng 500 ký và 24 quả bom nặng 250 ký đồng loạt rơi xuống chính xác mục tiêu đã ấn định. Vài giây đồng hồ trước khi bom nổ, người ta phát hiện tiếng gió rít ghê rợn của hàng loạt bom đang rơi, tiếng rít gió ào ào như trận cuồng phong, như tiếng kêu của tử thần. Bom chạm mục tiêu, nổ hàng loạt, nổ từng chuỗi dài, tiếng nổ làm rung chuyển mặt đất, lửa và khói đen bốc cao, từng luồng khí nóng hừng hực toả ra với vận tốc cực nhanh, 500 thuớc bề ngang và 1,000 thước bề dài trong tầm sát hại của bom rơi, tất cả đều biến thành bình địa. Trong trận chiến An Lộc, B.52 đã đánh bom, có khi chỉ cách tuyến phòng thủ 900 thước, theo tin tức tình báo được kiểm nhận, có cả một Trung Ðoàn Cộng quân bị biến mất trong lúc bao vây thành phố. Sau ba ngày đêm chống trả dữ dội, khu vực phía Bắc thành phố, kể cả đồi Ðồng Long, một cao điểm ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chiến thuật quan trọng đã lọt vào tay giặc. Từ đồi Ðồng Long, Cộng quân quan sát và nhìn rõ mọi hoạt động trong thành phố, hơn nữa nơi dây là cao điểm lý tưởng để tổ chức các vị trí súng phòng không 12 ly 8, đại bác 23, 37 ly và hoả tiễn địa không SA-7 đã khống chế và làm giới hạn sự can thiệp của Không Quân. Tuyến phòng thủ An Lộc càng lúc càng thu hẹp dưới sức ép của pháo binh và tấn công liên tục của Cộng Sản. Quốc lộ 13 chưa được giải toả, do đó sự tiếp viện bằng đường bộ hoàn toàn bị tê liệt. Sự yểm trợ bằng Không Quân cũng gặp khó khăn. Hơn 80% đồ tiếp liệu như đạn dược, thuốc men và thực phẩm được thực hiện bằng phương tiện thả dù đã rơi vào vùng địch kiểm soát. Những đơn vị cơ giới và pháo binh của An Lộc hoàn toàn bất khiển dụng, phân nửa lực lượng phòng thủ bị loại ra khỏi vòng chiến. An Lộc đang hấp hối, nhưng chưa tắt thở. Trong tình trạng chiến đấu tử thủ hôn mê đó, An Lộc vẫn củng cố niềm tin vào kế hoạch giải vây sẽ được bùng nổ vào giờ thứ 25. Không, An Lộc không thể chết tức tưởi như Lộc Ninh. An Lộc cần phải được mở một nút thoát hơi để thở. Các nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam Cộng Hoà đã khẳng định điều đó và đã dự trù một kế hoạch để đối phó trong tình huống xấu nhất xảy ra để cứu nguy An Lộc!
được sử dụng đến là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù. Cả hai đơn vị này đều nhảy thẳng vào An Lộc với hai nhiệm vụ khác nhau, một phía trong và một phía ngoài Thị Xã. Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù sẽ quét sạch hành lang vây khốn bên ngoài chu vi phòng thủ và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù mở đường máu đánh thẳng vào An Lộc tiếp tay với quân trú phòng bên trong, chiếm lại phân nửa thành phố đã mất. Người ta nghĩ kế hoạch này là một ván cờ liều, một kế hoạch đánh xã láng, “thí chốt để tiến xe” và những đơn vị thi hành sẽ là những con thiêu thân bay vào ánh lửa. Ðúng vậy, họ là những con chốt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, những con chốt đã sang sông và đã nhập cung, trở thành một pháo đài sừng sững trước mặt quân thù. Ngày 14-04-1972, từ Chơn Thành, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và một pháo đội được trực thăng vận vào một địa điểm cách An Lộc bốn cây số về hướng Ðông Nam. Từ ấp Shrok Ton Cui, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù chiếm lĩnh cao điểm 176 còn được gọi là Ðồi Gió, đặt 6 khẩu 105 ly dễ yểm trợ cho Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn cùng Tiểu Ðoàn 5 và 8 Nhảy Dù tiến về hướng An Lộc. Linh động và bất ngờ là hai yếu tố quan trọng trong binh pháp được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù khai thắc triệt để trong cuộc hành quân này. Cộng quân đang bao vây An Lộc bị cú bất ngờ khi thấy lính Nhảy Dù xuất hiện phía sau. Yếu tố bất ngờ đã làm địch quân hốt hoảng, trận đánh đẫm máu nổ ra và Nhảy Dù đã chiếm ưu thế, mở được một khoảng trống trong vòng vây kín mít từ phía Ðông Nam hướng về An Lộc. Cùng ngày 14-04-1972, trong khi Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù được trực thăng vận vào An Lộc, thì từ những khu rừng già Ðường vào An Lộc vùng Tây Nam Xa Mát dọc theo biên giớì Miên Việt, Liên Ðoàn THEO CHÂN ÐOÀN QUÂN MA 81 đang hành quân được triệt xuất để trở về Trảng Lớn thuộc Theo kế hoạch giải vây, hai đơn vị thiện chiến Tỉnh Tây Ninh.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
53 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Sáng ngày 16-04-1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù được vận chuyển qua Lai Khê bằng trực thăng Chinook CH-46, 12 giờ trưa cùng ngày, khi kho đạn Lai Khê bị đặc công Cộng Sản phá hoại nổ tung là lúc toàn bộ 550 quân cảm tử của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù sẵn sàng tại phi trường để được trực thăng vận vào An Lộc. Nắng hè chói chan oi bức, ánh nắng lung linh theo cánh quạt của trực thăng tiễn đưa đoàn quân ma đi vào vùng đất cấm. Ðịa điểm đổ quân là những đám ruộng khô cằn nứt nẻ phía Tây Tỉnh lộ 245, chung quanh là những cánh rừng thưa trải dài theo hướng Tây Bắc, khoảng cách một cây số để đi đến Ðồi Gió. Phải cần một hợp đoàn 45 chiếc trực thăng đa dụng HU1D với hai đợt đổ quân mới thực hiện xong cuộc chuyển quân, và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã vào vùng hành quân lúc 4 giờ chiều ngày 16-041972. Mở tần số liên lạc với Tướng Lê Văn Hưng trong An Lộc, liên lạc với Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù để biết vị trí quân bạn và nhanh chóng khai triển đội hình chiến đấu, di chuyển về hướng Tây, len lỏi theo đường thông thuỷ giữa hai ngọn đồi Gió và đồi 169. Âm thầm và ngậm tăm mà đi. Một sự kiện bất ngờ không may xảy đến khi đoàn quân đang di chuyển: một quả bom của Không Quân đánh vào vị trí của Cộng quân lại rơi ngay vào đội hình di chuyển của Biệt Cách Dù, gây thương vong cho một vài binh sĩ, trong đó có Thiếu Uý Lê Ðình Chiếu Thiện. Lập tức trái khói vàng được bốc cao giữa đoàn quân để phi công nhận diện phìa dưới là quân bạn. Phải mất một thời gian ngắn cho việc tản thương. Hai cố vấn Mỹ, Ðại Úy Huggins và Thượng Sĩ Yearta nhanh chóng liên lạc với Lữ Ðoàn 17 Kỵ Binh Không Vận Hoa Kỳ yêu cầu trực thăng cấp cứu và được thoả mãn. Ðây là hai cố vấn thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ vẫn còn chiến đấu bên cạnh Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù khi quân bộ chiến Mỹ đã rút lui khỏi chiến trường Việt Nam theo kế hoạch “Việt Nam hoá chiến tranh” được thi hành vào năm 1970. Sự kiện thứ hai xảy đến là sự xuất hiện của 47 quân nhân thuộc Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân từ đồi 169 chạy tuôn xuống, mặt mày hốc hác vì mệt mỏi và thiếu ăn, bị thất lạc và phải trốn trong rừng. Họ đi theo Biệt Cách Dù để trở lại đơn vị gốc trong An Lộc. Vài tràng súng AK ròn rã nổ ở hướng Ðông, có lẽ địch bắn báo động. Tiếp tục di chuyển, rẽ về hướng Tây Bắc để vào rừng cao su Phú Hoà. Tiếng súng nổ 54 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
liên hồi, đứt khoảng phía trước. Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đang chạm địch. Gặp Tiểu Ðoàn Trưởng Nhảy Dù, Trung Tá Hiếu cười méo miệng, nói như phân trần: “Tụi nó đông như kiến và bám sát tụi “moi” như bày đỉa đói”. “Tụi nó đông như kiến” đã nói lên thực trạng chênh lệch lực lượng quân sự đôi bên mà phần ưu thế về phía Việt Cộng! Nhưng đã là Nhảy Dù thì phải “cố gắng”, cố gắng cho đến lúc tàn hơi. Ðã là Biệt Cách Dù thì phải chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh cho màu cờ sắc áo của đơn vị. Hoàng hôn phủ xuống thật nhanh, bóng tối lần lần bao trùm cảnh vật chung quanh. Súng vẫn nổ rải rác từng đợt, từng hồi trong rừng thẳm. Biệt Cách Dù tiến chiếm ấp Sóc Gòn trong im lặng và an toàn vì địch vừa rút ra khỏi đây. Lục soát, bố trí và dừng quân chung quanh ấp trong những công sự chiến đấu đã có sẵn của Việt Cộng. Bóng đêm dày đặc, im vắng, xa xa về hướng An Lộc, đạn pháo ì ầm nổ như tiếng trống cầm canh. Sự đổ quân ồ ạt của Việt Nam Cộng Hoà về phía Ðông Nam cách An Lộc 4 cây số đồng nhịp với các phi vụ đánh bom B.52 tàn khốc về phía Tây Nam của thành phố đã làm cho Cộng quân hoang mang, hốt hoảng. Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù là lực đối kháng vòng ngoài để thu hút địch quân, đồng thời tạo một lỗ hổng để Biệt Cách Dù xâm nhập vào thành phố sáng ngày 17-04-1972, cùng một thời điểm của Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù tiếp cận ngoại vi tuyến phòng thủ của Thị Xã về phía Nam cạnh quốc lộ 13. Cộng quân không ngờ Biệt Cách Dù đã lọt vào Thị Xã tiếp hơi cho quân tử thủ và mở cuộc tấn kích ngay đêm đó vào các khu phố mặt Bắc. Với kỹ thuật đánh đêm điêu luyện, thần tốc, khi phân tán, khi hội tụ, Biệt Cách Dù đã giáng lên đầu Cộng quân những đòn sấm sét, đánh không có sự yểm trợ của pháo binh hay bất cứ một loại vũ khí vòng cầu nào, đánh bằng súng cá nhân, bằng lựu đạn, đánh cận chiến bằng lưỡi lê. Ðánh nhau từng căn nhà, từng cao ốc đổ vỡ, chiếm lại từng con đường, từng khu phố trong đêm dài dường như bất tận. Sáng ngày 18-04-1972, Biệt Cách Dù đã có mặt hầu hết trong các khu phố phía Bắc Thị Xã và giải thoát gần 100 gia đình cư dân còn kẹt lại trong vùng kiểm soát của Cộng Sản. Từ các căn nhà sụp đổ bên vệ đường, từng toán Việt Cộng tuôn ra tháo chạy thục mạng về hướng Bắc, vì chúng bị đánh phủ đầu ban đêm, sáng ra nhìn chung quanh nơi nào cũng thấy “lính rằn ri”, loại lính đã hơn một lần chặn đánh chúng trên đường Trường ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Sơn heo hút mưa bay. Mặc dù đã chiếm lại toàn bộ khu vực phía Bắc, nhưng vẫn còn một ổ kháng cự mà Cộng quân vẫn cố thủ bên trong, đó là đồn Cảnh Sát Dã Chiến. Biệt Cách Dù tấn công nhiều đợt nhưng vẫn chưa vào được. Hơn nữa, từ đồi Ðồng Long, Việt Cộng dùng đại bác 57 ly, sơn pháo 75 ly và súng không giật 82 ly bắn trực xạ vào Biệt Cách Dù để yêm trợ cho bọn chúng cố thủ bên trong đồn. Cố vấn Huggins của Biệt Cách Dù vào ngay tần số của Lữ Ðoàn 1 Không Quân Hoa Kỳ xin yểm trợ hoả lực. Hai chiếc phi cơ AC.130 Spector bay lượn trên vùng trời An Lộc với cao độ ngoài tầm sát hại của cao xạ và hoả tiễn địa không SA7, bắn từng quả đạn 105 ly hoặc từng loạt 3 quả đạn 40 ly vào mục tiêu yêu cầu được điều chỉnh từ dưới dất. Cuối cùng đồn Cảnh Sát lọt vào tay Biệt Cách Dù vào lúc 4 giờ chiều. Phần nửa thành phố phía Bắc được chiếm lại sau gần 24 tiếng đồng hồ chiến đấu liên tục. Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù yêu cầu Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh điều động quân bạn hai bên cạnh sườn cùng tiến lên ngang hàng với quân Biệt Cách Dù. Sự yêu cầu không được đáp ứng, vì quân số của quân trú phòng đã hao hụt và bất khiển dụng quá nhiều, do đó cạnh sườn của Biệt Cách Dù bị bỏ trống. Lợi dụng sơ hở này, Cộng quân phản công mãnh liệt bằng hai mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trực diện từ hướng đồi Ðồng Long có sự yểm trợ của cối 61 ly, cối 82 ly và sơn pháo 75 ly, mũi thứ hai từ phía Tây đánh thốc vào ngang sườn với quân số khá đông. Trước tình huống phải đối đầu phía trước mặt và phía ngang hông, Biệt Cách Dù phải rút quân về phía khu chợ Mới, tuy nhiên vẫn còn để lại một Ðại Ðội cố thủ trong đồn cảnh sát. Ðồn cảnh sát đương nhiên trở thành một tiền đồn án ngữ lẻ loi phía Bắc Thị Xã, một tiền đồn bất đắc dĩ mà không thể nào bỏ trống được, và nơi đây là một cái gai mà Cộng quân bằng mọi cách phải nhổ đi, do đó muốn duy trì vị trí chiến thuật quan trọng đó, phải đổ máu rất nhiều. Biệt Cách Dù chấp nhận sự lựa chọn này để giữ vững tiền đồn suốt một thời gian dài. Sự tham chiến của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã làm cho An Lộc hồi sinh sau cơn mê dài hấp hối, và sự có mặt của Biệt Cách Dù đã mở màn cho những trận đánh ác liệt xảy ra trong lòng Thị Xã. Ðêm 19-04-1972 Cộng quân sử dụng Trung Ðoàn 141 và Trung Ðoàn 275 có xe tăng yểm trợ tấn công Ðồi Gió sau khi rót vào vị trí này hàng ngàn quả đạn pháo, tiêu diệt 6 khẩu pháo 105 duy nhất của pháo đội Nhảy Dù và tràn ngập Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù của Trung Tá Ðĩnh đang án ngữ tại đây, đồng thời ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
pháo kích dữ dội vào An Lộc để chuẩn bị cho hai mũi tấn công từ hướng Tây và hướng Bắc thành phố. Trận đánh kéo dài suốt đêm, tuyến phòng thủ vẫn đứng vững trước chiến thuật biển người của Cộng Sản. Riêng khu Bắc Thị Xã, Biệt Cách Dù và Cộng quân giao tranh ác liệt, có khi chỉ cách nhau một con đường bề ngang 4 thước trong tầm ném tay của lựu đạn. Mất đồi Gió, một cao điểm quan trọng nằm bên ngoài phạm vi phòng thủ với 6 khẩu pháo 105 ly còn lại duy nhất để yểm trợ, An Lộc càng lúc càng thấy cô đơn trong mênh mông bão lửa. Môt số quân của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Ðĩnh chỉ huy chạy thoát về sông Bé hướng Ðông, và được trực thăng cứu cấp bốc về Lai Khê tái huấn luyện và bồ sung quân số chờ ngày phục hận. Cuộc chiến giảm dần cường độ vì sự thiệt hại của hai bên công - thủ. Bên ngoài phạm vi phòng thủ, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đã là một thành đồng vững chắc án ngữ mặt Ðông Nam, bên trong thành phố, Biệt Cách Dù mở cuộc tấn công đêm liên tục, đánh phá những vị trí Cộng quân chiếm giữ, làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên. Ngoài ra sự oanh tạc của B.52 gần An Lộc đã gây tổn thất rất nhiều cho địch quân, tuy nhiên mức độ pháo kích của Cộng quân vẫn đều đặn rót vào An Lộc khoảng 2,000 quả đạn mỗi ngày. Bên phố chợ, người dân ngậm ngùi nhìn thấy những nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù mỗi ngày một nhiều hơn. Họ đánh nhau hằng đêm và hì hục chôn xác bạn bè hằng đêm trong mưa pháo tuôn rơi, khi mặt trời chưa thức giấc. Sống, chiến đấu bên nhau trong cuộc hành trình gian khổ để tiêu diệt quân thù trên khắp nẻo đường đất nước, lòng thuỷ chung và tinh chiến hữu keo sơn chan hoà thắm thiết khi có người nằm xuống, vĩnh viễn ra đi. Hình ảnh nghĩa trang Biệt Cách Dù đã nói lên điều đó. AN LỘC, CHIẾN TRƯỜNG ÐI KHÔNG HẸN Theo lời cung khai và thú nhận của tù hàng binh Cộng Sản mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt được, có ba thứ mà cán binh Cộng Sản lo sợ khi vượt Trường Sơn để xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Thứ nhất là B.52, thứ nhì là Biệt Kích số 81, và thứ ba là chạm súng với quân Nhảy Dù. Cả ba thứ đó đều hiện hữu và có mặt tại chiến trường An Lộc. Liên Ðoàn Biệt Cách Nhảy Dù, dân Miền Nam thường gọi tắt là Biệt Cách Dù, Việt Cộng gọi là 55 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Biệt Kích số 81, thực ra là đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, với quân số khiêm nhường trên bảng cấp số là 916 người, được đào tạo và huấn luyện thuần thục về chiến thuật phản du kích trong chiến tranh ngoại lệ, nhảy toán, thám sát, đột kích, bắt cóc tù binh, đánh phá vào các cơ sở hậu cần của địch. Nhảy vào lòng đất địch để chiến dấu bằng phương tiện nhảy dù, nhưng phần lớn bằng trực thăng vận, âm thầm hoạt động trong vùng khu chiến, cách biệt xa tầm yểm trợ của pháo binh. Bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù đã lần lượt đi qua các chiến trường sôi động một thời vang danh quân sử. Từ Làng Vei, A Sao, A Lưới, Tà Bạt, Khe Sanh, Lao Bảo quanh năm sương mờ bao phủ của vùng biên giới Việt Lào, vượt lên phương Bắc hoả tuyến với Mai Lộc, Cam Lộ, Ðông Hà, Quảng Trị và xuôi về vùng núi rừng cận duyên của Tam Quan, Bình Ðịnh, Bồng Sơn, An Lão. Ði miệt mài, hành quân không ngơi nghỉ để về Tây Nguyên với Boloven hùng vĩ, đổ xuống Tam Biên, đi Tân Cảnh, Diên Bình và tạm dừng chân, nâng chén quan hà bên bờ sông Dakbla nước chảy ngược dòng của chiến trường Kontum mịt mờ bụi đỏ. Tây Ninh nắng cháy nung người không làm nao lòng chiến sĩ, Bình Giả, Ðồng Xoài nặc nồng mùi tử khí. Khi chiến trường im tiếng xung phong thì bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn còn dong ruổi trong cuộc hành trình vô định. Vào An Lộc, chiến trường nặng độ với trung bình mỗi ngày hơn hai ngàn đạn pháo, chiến trường cô đơn khi tổn thất của quân tử thủ mỗi lúc một gia tăng, đánh đêm đánh ngày, dằng dai khi công, khi thủ ròng rã kéo dài suốt tháng. Cứ mỗi lần Cộng quân gia tăng cường độ pháo kích vào thành phố là để chuẩn bị cho cuộc tấn công bằng bộ binh ngay sau đó. Ðêm 04-05-1972, Cộng quân ồ ạt tấn công vào phòng tuyến phía của Biệt Cách Dù. Ở thế công thì dù sao cũng có ít nhiều sơ hở nhưng khi Biệt Cách Dù ở vào thế thủ thì một con kiến cũng khó lọt qua. Lựu đạn, mìn thi nhau nổ, AK, súng máy rít vang trời. Trận đánh kéo dài đến sáng tỏ trời. Xác địch nằm la liệt, ngổn ngang bên ngoài phòng tuyến. Lần đầu tiên trong trận địa chiến, Biệt Cách Dù tịch thu được 2 khẩu súng phun lửa do Trung Cộng sàn xuất. Trong túi áo của mỗi xác chết đề có mang theo một mảnh giấy nhỏ bề ngang 5 phân, bề dài 20 phân với câu viết ngắn gọn :”Quyết tâm bắt sống Sư Trưởng Sư Ðoàn 5, dựng cờ chiến thắng”. Thì ra bọn này có học tập trước khi lao mình vào tử địa. 56 SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC
Ngày 10-05-1972, Cộng quân bắt đầu pháo kích dữ dội từ 5 giờ sáng, pháo liên tục dòng rã suốt ngày. Người ta đếm có hơn 8,000 quả đạn pháo rơi xuống thành phố. Nhà cửa đã hoang tàn lại thêm hoang tàn. Người ta tiên liệu một cuộc tấn công lớn của Cộng quân sắp xảy ra và trận đánh lớn nổ tung lúc 5 giờ sáng ngày 11-05-1972 với toàn bộ lực lượng còn lại của 4 Sư Ðoàn đang vây hãm An Lộc. Ðịch ồ ạt tiến vào thành phố từ nhiều phía. Tuyến phòng thủ phía Ðông Bắc của Biệt Ðộng Quân bị thủng, một số Cộng quân lọt vào Ty Chiêu Hồi. Xe tăng T54 xuất hiện nhiều nơi trong thành phố, có chiếc tiến lại gần bản doanh tử thủ của Tướng Lê Văn Hưng và bị bắn cháy. Xe tăng và quân bộ chiến của Cộng Quân bị chặn đứng tại phòng tuyến của Biệt Cách Dù. Trời sáng tỏ và trận đánh trở nên ác liệt. Phòng tuyến phía Tây của Trung Ðoàn 7 Bộ Binh bị thủng và co cụm lại thành từng ổ kháng cự chung quanh Tiểu Khu. Không Quân can thiệp kịp thời, dội bom bên ngoài, bắn phá bên trong thành phố. Xe tăng của Cộng Sản và bộ đội không phối hợp chặt chẽ với nhau khi tấn công vào thành phố, do đó nhiều chiếc xe tăng chạy lạc đường, bị lẻ loi, dễ bị tiêu diệt. Quân trú phòng nhảy ra khỏi vị trí chiến đấu để săn đuổi xe tăng như thợ săn đang săn đuổi con mồi. Ðây là lần thứ hai xe tăng địch đã vào thành phố để biến thành những khối sắt bất động. Ðơn vị nào cũng bắn cháy được xe tăng, kể cả một số ít Ðịa Phương Quân còn lại cũng hăm hở diệt tăng với khẩu M.72 lần đầu tiên được sử dụng. Trận đánh tàn dần lúc 3 giờ chiều với sự thiệt hại nặng nề của Cộng quân. Người ta đếm được 40 xác chiếc xe tăng rải rác đó đây trong thành phố và ngoài tuyến phòng thủ, không kể đến hàng loạt thi thể không toàn vẹn của những người lính đến từ phương Bắc xa xôi. Tuy nhiên An Lộc vẫn còn nằm trong khả năng pháo kích ngày đêm của Cộng Sản, An Lộc vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lực lượng bao vây khi quốc lộ 13 chưa được giải toả. Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà với nhiệm vụ giải toả quốc lộ 13, mặc dù tiến quân chậm và vững chắc cũng bị thiệt hại nhiều. Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã lấy lại sinh lực sau lần thất bại tại Ðồi Gió đã trở lại tham chiến, và là đơn vị đầu tiên của lực lượng giải toả tiến về An Lộc sau bao trận đánh phục thù ven quốc lộ 13. Ngày 08 tháng 06 năm 1972 lúc 5 giờ chiều, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đến Xa Cam bắt tay vói Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù do Trung Tá Ðào Thiện Tuyển đang án ngữ tại đây. Xa Cam, cửa ải địa đầu cực Nam An ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Lộc, khoảng 2 cây số nằm ven quốc lộ 13, một đồn điền với rừng cao su ngang dọc thẳng tắp đã trở thành chiến địa mà Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù “nhất kiếm trấn ải” tung hoành trong suốt thời gian gần hai tháng để chiến đấu sống còn với lực lượng địch quân có quân số và hoả lực đông và mạnh gấp nhiều lần. Cái bắt tay của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù với Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù như một tiếng sấm vang trời trong cơn mưa tầm tã báo hiệu trời quang mây tạnh sẽ đến. Những người lính Nhảy Dù truyền hơi ấm cho nhau, mỉm cười với ánh mắt long lanh tin tưởng vào ngày tàn của Cộng quân trong chiến trường An Lộc.
Chiến trận giả đùa nghịch của những đứa trẻ trên T54 bị bắn cháy Ngày 10 tháng 06 năm 1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tung toàn bộ lực lượng quét sạch tất cả các ở kháng cự của Cộng quân trong các khu phố phía Bắc Thị Xã, bắt được một tù binh đang thúc thủ dưới hầm sâu. Ðây là một tên bộ đội thuộc Sư Ðoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt, sau hơn 6 tháng vượt Trường Sơn để bổ sung cho chiến trường với nhiệm vụ “anh nuôi”. Anh nuôi là tiếng của Việt Cộng dùng để chỉ những tên lính chuyên lo việc bếp núc, nấu ăn cho đơn vị. Gương mặt hốc hác vì hoảng sợ, nước da xanh như tầu lá vì thiếu ánh nắng mặt trời và tay chân hơi run rẩy vì thiếu ăn, Tên bộ đội lắp bắp khai: “Ðơn vị hết người chiến đấu vì bị chết quá nhiều, cho nên Thủ Trưởng bắt buộc em cầm súng ra trận. Em chưa bắn một phát nào, đến đây đã được ba ngày cứ lo đào hầm để tránh bom”. Lời cung khai của tên bộ đội khoảng 18 tuổi với gương mặt non choẹt còn phơn phớt nét thơ ngây của tuổi học trò đã nói lên tình trạng tổn thất bi đát của lực lượng Cộng quân sau gần 2 tháng bao vây và tấn công mà không chiếm nổi An Lộc. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ngày 12 tháng 06 năm 1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tái chiếm đồi Ðồng Long, một cao điểm quan trọng nằm sừng sững phía Bắc, cách An Lộc khoảng 500 thước. Lực lượng tấn công tái chiếm đồi Ðồng Long gồm Ðại Ðội 2 Xung Kích do Ðại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Ðại Ðội 3 Xung Kích do Ðại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, và 4 toán Thám Sát do Trung Úy Lê Văn Lợi chỉ huy. Biệt Cách Dù chia làm 3 mũi, bọc trái, bọc phải và chính diện hưóng về mục tiêu trước mặt có cao độ 128 thước. Họ xuất quân và đến lưng chừng đồi lúc nửa đêm, đồng loạt xung phong khi hừng đông vừa ló dạng chân trời. Bị đánh bất ngờ và vô cùng táo bạo, lựu đạn tung vào hầm trú ẩn, đạn bắn xối xả vào công sự chiến đấu, những tiếng hét xung phong vang dội một góc trời. Ðịch quân chủ quan và còn mê mệt trong tình trạng ngái ngủ, trở tay không kịp, hoảng hốt bỏ chạy không có thì giờ xỏ chân vào đôi dép râu, nói chi cầm đến khẩu súng để chống trả. Một số chạy thoát vào rừng để lại sau lưng chiến địa còn nặng mùi khói súng với nhiều xác chết vương vãi đó đây. Ðột kích là phương pháp tấn công vô cùng táo bạo, đánh nhanh, đánh mạnh với hoả lực tập trung tối đa được Biệt Cách Dù áp dụng trong thời điểm bất ngờ nhất làm cho địch không có thì giờ xoay trở. Trung Úy Lê Văn Lợi hãnh diện cắm lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà trên đỉnh đồi Ðồng Long. Quốc Kỳ rực rỡ căng gió phất phới bay trên nền trời xanh biếc của mùa hè vùng bão lửa. Ðám mây mờ bao phủ vùng trời An Lộc bấy lâu nay lần lần tan biến. Trung Tá Phan Văn Huấn, con chim đầu đàn của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, vào tần số liên lạc với các cánh quân Biệt Cách Dù đang có mặt trên đỉnh đồi Ðồng Long, giọng cảm động, ông nói : 57 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
”Chúng ta đã chu toàn nhiệm vụ cao cả nhất mà quân đội đã giao phó, nhiệm vụ phải trả bằng xương máu của các anh em, của các tử sĩ Biệt Cách Dù đã nằm xuống. Tôi thành thật ca ngợi lòng dũng cảm của anh em trong chiến tích hôm nay”. Chiếm xong đồi Ðồng Long, Biệt Cách Dù truy kích, lục xoát xung quanh, và phát hiện một căn hầm sâu ven rừng, có tiếng động khả nghi bên trong. Tất cả họng súng đen ngòm hướng vào miệng hầm chờ đợi như con hổ rình mồi. Có tiếng hét lớn từ trong đám lính: - Chui ra ngay, đầu hàng ngay, tao tung lựu đạn vào chết cả đám bây giờ! - Khoan, dừng tay, coi chừng bắn lầm vào dân! Tiếng nói khẩn cấp của người chỉ huy từ xa vọng lại. Tất cả đều chờ đợi. Bước lại gần miệng hầm, người chỉ huy nói to: - Chúng tôi là lính Việt Nam Cộng Hoà. Ai trốn trong hầm thì chui ra mau. Câu nói được lập lại lần thứ hai. Có tiếng thút thít bên trong hầm vọng ra. - Ra đi, chui ra đi, không sao đâu! Tiếng người lính thúc dục. Tiếng động bên trong rõ dần. Những ánh mắt long lanh của những chiến binh Biệt Cách Dù chùng xuống khi thấy hai em bé gái 9, 10 tuổi lê lết tấm thân tàn, chậm rãi bò ra khỏi căn hầm trú ẩn. - Trời ơi! Hai đứa bé gái! Ba má các em đâu, sao lại như thế này? Còn ai trong đó không? Người chỉ huy nắc nghẹn giọng nói. Hai em bé mặt mũi lem luốc, mắt mờ đẵm lệ, thân mình khô đét như hai bộ xương biết cử động, chỉ lắc đầu sau những câu hỏi dịu dàng của người chỉ huy Biệt Cách Dù. Hai em bé đã tránh bom đạn trong căn hầm này bao lâu rồi, một tháng, hai tháng, lấy gì ăn để sống đến nỗi thân thể phải xác xơ như thế này! Ôi chiến tranh! Chiến tranh tàn khốc mà người Cộng Sản đã mang đến cho dân tộc mình như thế đó. AN LỘC ÐỊA SỬ LƯU CHIẾN TÍCH Kể từ ngày cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Ðồng Long, Biệt Cách Dù bung ra khỏi thành phố và án ngữ trong các khu rừng phía Bắc An Lộc. Thành phố tuy sạch bóng quân thù, nhưng mức độ pháo kích vẫn còn rời rạc, vô chừng. An Lộc đã được giải toả trong điêu tàn và đổ vỡ! An Lộc sụp đổ hoang tàn trong cái hình hài đấy vết đạn bom, nhưng An Lộc đã đi vào huyền thoại của những người tử thủ. 58 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
“An Lộc địa sử ghi chiến tích, Biệt Cách Dù vị quốc vong thân” Trong hoang tàn và đổ vỡ của một thành phố đã chịu đựng sức tàn phá hãi hùng của đạn bom, hai câu thơ của cô giáo Pha được Biệt Cách Dù cứu thoát khi bị thương, được khắc trên đài tưởng niệm trước nghĩa trang bên phố chợ đìu hiu, mà trong đó 68 nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù được chôn vội vã từng đêm khi chiến trận tàn khốc xảy ra đã làm mủi lòng dân cả nước với lòng ngưỡng mộ và niềm xúc cảm vô biên. Sau khi đồi Ðồng Long được tái chiếm, thành phố An Lộc xem như được giải toả, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 lần đầu tiên đến thăm An Lộc và Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, là người đầu tiên được vinh thăng Ðại Tá tại mặt trận. Tác giả Sao Bắc Ðẩu, trong cuốn “Một ngày trong An Lộc”, trang 296 và 297 đã ghi lại việc thăng cấp như sau: “Một ông Ðại Tá mặt trận» Trung Tướng Minh cẩn thận giải thích rằng không phải chỉ riêng Trung Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù là có công, là xứng đáng được tặng thưởng. Sở dĩ ông cẩn thận như vậy là ngại có người sẽ hỏi: “Tại sao chỉ một mình Trung Tá Huấn được thăng cấp tại mặt trận?”. Tướng Minh cẩn thận như vậy cũng phải, nhưng trên thực tế, không ai có ý phân bì với tân Ðại Tá Huấn cả. Những người lính Biệt Cách của ông đã chiến đấu hơn một người lính và đã giúp đỡ dân chúng hơn một cán bộ Chiến Tranh Chính Trị. Chính một binh sĩ của Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù đã xác nhận với chúng tôi rằng đó là “những người lính tuyệt”. Một người khác kể lại rằng nếu không gặp lính Biệt Cách thì hai đứa trẻ nằm trong hầm 70 ngày đã chết vì lựu đạn. Anh này khẳng định: - Miệng hầm trông khả nghi lắm. Lại nghe văng vẳng có tiếng động. Gặp người nhát là phải tung lựu đạn trước khi xuống. Nhưng những anh Biệt Cách của Ðại Tá Huấn đã không tung lựu đạn xuống. Họ kiên nhẫn nằm trên miệng hố rình rập vì họ nghĩ rằng dù có lính Bắc Việt phía dưới thì những người này cũng đói lả không còn sức kháng cự nữa. Cuối cùng họ đã cứu sống được hai em nhỏ, nạn nhân chiến cuộc. Tôi hỏi vị Ðại Tá tân thăng: - Người ta nóí với chúng tôi rằng dân chúng An Lộc lập một nghĩa trang riêng để chôn những tử sĩ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
của Ðại Tá. Xin Ðại Tá cho chúng tôi hiểu rõ vì lý do nào, ngưòi lính Biệt Cách lại có một tác phong đặc biệt đối với dân chúng như vậy? - Tôi thiết tưởng điều này cũng dễ hiểu. Anh nghĩ coi, từ trước đến nay, lính Biệt Cách chúng tôi chỉ nhảy từng toán 5 người vào tác chiến sau lưng địch. Nói một cách khác, chúng tôi đã quen sống với thái độ thù địch của dân chúng trong vùng chiến đấu. Ðây là lần đầu tiên chúng tôi là bạn chứ không phải là thù, dân chúng giúp đỡ chứ không chống lại chúng tôi”. Biệt Cách Dù nhảy vào An Lộc ngày 16-04-1972 và rời khỏi An Lộc ngày 24-06-1972. Tính ra đúng 68 ngày tham chiến. 68 ngày tử chiến với 68 Biệt Cách Dù hy sinh và trên 300 bị thương, trong mưa pháo kinh hoàng, ngày cũng như đêm không tròn giấc ngủ, đục tường, khoét vách, đào hầm để giành lại từng tấc dất trong tay quân thù. Chiến đấu trong từng căn nhà, từng khu phố, từng đoạn đường lỗ chỗ hố bom, vùng lên diệt xe tăng cũng như đồng loạt truy kích khi địch đã tàn hơi, và cuối cùng cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Ðồng Long tượng trưng cho sự chiến thắng, hình ảnh người chiến binh Biệt Cách Dù mãi mãi sống trong tâm hồn người dân An Lộc, hình ảnh dũng cảm, can trường biểu tượng cho sự chịu đựng bền bỉ, sức chiến đấu hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. 48 giờ sau khi rời khỏi chíến trường An Lộc, ngày 26-06-1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã có mặt tại miền hoả tuyến để tham gia chiến dịch “ba tháng vùng lên tái chiếm Quảng Trị”. Còn giặc thù, còn chiến trường, người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn còn xông pha tiến bước, dù một lần sảy chân nằm yên trong nghĩa trang hiu quạnh thì đó cũng là một điều vinh quang cho người chiến sĩ để báo đền ơn Tổ Quốc. Hổ Xám PHẠM CHÂU TÀI (cựu Thiếu Tá Biệt Cách Dù QLVNCH)
“Gúãi em... cö gaái Bònh Long” Thơ rằng :
“Nhớ theo Hổ Xám vào An Lộc Đội pháo trên đầu như đội mưa Múa kiếm đứng ngăn thù cửa Bắc Mà tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa. Trong tiếng đạn reo mù khói trận Bỗng gặp em, cô giáo như mơ Em ngồi rũ tóc trong hầm tối Đọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ». «Lạy Chúa con là người ngoại đạo Nhưng tin có Chúa ngự trên trời Chúa ơi, Biệt Kích là thi sĩ Thi sĩ cầm gươm như đi chơi». «An Lộc địa sử lưu chiến tích Biệt Kích Dù vị quốc vong thân» Lời thơ hôm ấy sao hay quá Nghĩa trang buồn như tiếng lá rơi. Pha hỡi, bây chừ em đâu nhỉ ? Cô giáo hôm xưa đã lấy chồng ? Chúc em hạnh phúc răng long bạc Còn anh hôm nay vào Phước Long. Anh theo quân vào nơi hiểm địa Hét tiếng xung phong đến vỡ trời Bắn cháy xe tăng như uống rượu Mà tưởng em đang rót chén mời. Bóng địch chập chùng nơi cửa ngõ Ba trăm quân đánh một sư đoàn Mãnh hổ nan địch quần hồ bại Anh thối binh về mà thấy oan. Nửa chừng lại gặp cơn bão lửa Toán Delta bị kích giữa đàng Ôi lại Phước Long lưu chiến tích Anh bị trúng đạn giữa rừng hoang. Và chừ giờ đang ngồi bó gối Tay xích chân xiềng trong trại giam Máu bụng vẫn tuôn ra như suối Anh biết mình thôi thế là tan. Nhưng giây phút cuối anh vẫn nhớ Màu áo hoa dù nón mũ xanh Nhớ dáng em xưa cô giáo nhỏ Họa bút thành thơ như tiếng oanh. «Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lại chinh chiến kỷ nhân hồi» Xá gì một cõi đi về đất Biệt Kích lưu danh, Biệt Kích đời». Bao Bất Ðồng
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
59 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Bên Ðời Luôn Có Viết để tưởng nhớ MẸ tôi cùng tất cả các Bà Mẹ Việt-Nam đã sản sinh , nuôi dạy, đào-tạo và dâng-hiến những đàn con trai trẻ , lên đường bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa. Cuối cùng khổ đau triền miên trong nỗi buồn Mất Mát và Vong Quốc .
MẸ
Tùy Bút : Tây-Đô Lâm Tài Thạnh. Lúc bấy giờ là ba giờ sáng của Ngày Thứ Năm giữa tuần, mọi người trong trách-nhiệm và bổn-phận trả nợ cơm áo hằng ngày đều đang trông chờ thời gian qua mau để có được một chút hạnh phúc nhỏ nhoi của cuối tuần nghỉ ngơi, thăm viếng, mua sắm, giải trí rồi lại vật lộn với cuộc sống tha phương vốn dĩ đã có nhiều vấn nạn mà gần 28 năm qua chưa có được một câu trả lời thích đáng. Thế mà giữa cảnh yên-lặng của đêm trở mình chờ sáng, tiếng chuông điện thoại đột ngột vang lên khô-khốc mang âm hưởng của chia ly, cách biệt, tang tóc. Cuộc mạn đàm đối thoại với ngườì nữ âm thọai viên từ bên kia bờ đại dương chưa đầy 30 giây đã khiến toàn thân tôi tê liệt và bất động vì tôi hiểu có việc gì không ổn cho Mẹ tôi. Sau khi ngỏ lời cám ơn, đặt điện thoại xuống, nhấc lên, tay run run bấm từng số một những con số mà trước đây trở thành quen thuộc trong niềm vui mỗi khi gọi về thăm Mẹ tôi nay bổng dưng nặng nề, buồn nản. Đường dây viễn liên được nối liền nhanh chóng và rõ ràng. Âm giọng nức nỡ, sụt sùi của cô cháu gái gọi tôi bằng Chú đã minh-định một thực tế phũ phàng, đau đớn: «Bà Nội đã đi rồi, Chú Ba ơi.» Mẹ già như trái chín cây Gió lay Mẹ rụng con đành mồ côi ( Trích đăng ) Cha tôi vốn là một công chức của Ty Công Chánh Tỉnh Ba Xuyên ( Khánh Hưng – Sóc Trăng ) đã từ giã cõi đời rất sớm sau một cơn bạo bệnh để lại người vợ trẻ với 05 con thơ nhỏ dại, khờ khạo, lúc bấy giờ anh tôi lớn nhất chỉ mới có 09 tuổi. Mẹ tôi với Công, Dung, Ngôn, Hạnh được hướng dẫn dạy dỗ từ Bà Ngoại vốn là một gia-đình có chút tăm tiếng 60 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ở chợ Rạch-Giá. Mẹ tôi đã gượng dậy sau mất mát to lớn bằng tự sức mình với sự hỗ trợ, tiếp tay phụ giúp của các cô tôi . Mẹ tôi đã khắc-phục mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống của một góa phụ trẻ để hòa mình vào công việc của một bậc thầy chuyên hướng dẫn dạy dỗ môn Nữ Công Gia Chánh cho các nữ sinh của hầu hết các Trường Trung Học tại Tỉnh Lỵ đồng thời Mẹ tôi cũng là người luôn được sự ưu ái, tiếp đón nồng nhiệt của các phu nhân Tỉnh Trưởng khi cần thiết vài buổi tiệc khoản đãi quan khách từ Trung Ương đến thanh tra hay mở các phòng triển lãm liên quan đến sự phát triển của Tỉnh nhà hoặc tổ chức hoạt cảnh, thi đua nấu ăn nhân Ngày Lễ Hai Bà Trưng v…v… Anh em chúng tôi được nuôi sống, dạy dỗ và trưởng thành trong hy sinh, cần cù, chắt chiu, chịu đựng với tuổi xuân thì của Mẹ chúng tôi như thế, hiểu một cách khác anh em chúng tôi chưa bao giờ cảm nhận được câu tục-ngử : “Con không cha như nhà không có nóc”. Năm ba bốn Mẹ thành góa phụ Khóc thương ngày vĩnh biệt đấng lang quân Tang khăn trắng dẫu đau tình xót Gạt lệ sầu gượng tiếp bước nuôi con Trên bục giảng phấn buồn không nét Mực nghiêng tràn khép tuổi nửa chừng xuân Lời phụ mẫu Mẹ ghi lòng nhớ Đuốc soi đường dung hạnh quyết không quên Câu tứ đức, tam tòng dạ tạc Tháng Năm dài hết Hạ đến Xuân sang Thân cò lã kiếp tầm Mẹ vẫn Nguyện Đất Trời dạy trẻ sớm thành nhân ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Sau cuộc Cách Mạng 1/11/1963, trong khí thế chung của một đổi đời , mang nhiều di hận về sau cho toàn dân tộc Nam Việt Nam. Buổi cơm chiều đã mất hẳn đi sự vui tươi , giòn giả như thường lệ với trang báo được xếp góc cẩn thận để thấy rõ một thông báo của Bộ Quốc Phòng với nội dung kêu gọi thanh niên tình nguyện ghi danh vào lớp Sĩ Quan Trừ Bị Khóa 17 tại Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. - Con tính ghi danh tình nguyện đi Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Mẹ tôi vội buông đũa: - Không được, muốn đi lính thì phải hỏi ý kiến Anh Hai con ( Mẹ tôi quan niệm: Quyền Huynh Thế Phụ. Lúc bấy giờ Anh Hai tôi đã tốt nghiệp Trường Canh Nông Thực Hành đi làm công chức với ngạch trật là Huấn Sự Kiểm Lâm tại Hạt Hà Tiên, độc thân nên thường hay gởi tiền về phụ Mẹ tôi ). Câu chuyện đi lính thế là tạm thời không bàn đến để chờ ý kiến Anh Hai Tôi. Hôm sau Mẹ tôi cấp tốc gởi điện tín đi. - Không được vào Thủ Đức. Ráng học lấy Tú Tài 2 rồi vào Võ Bị Đà Lạt. Đó là nội dung trả lời của Anh Hai tôi. Chí đã quyết, lòng đã chọn tôi cố gắng thuyết phục Mẹ tôi qua luận cứ: - Sĩ Quan Đà Lạt thì phải ở trong quân đội suốt đời còn Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức chỉ phục vụ có 4 năm sau đó sẽ được cho giải ngũ về đi học lại hoăc chọn ngành nghề khác có tương lai hơn. Đồng thời tôi cũng nhờ Chú tôi (Đại Úy Trừ Bị) nói giúp. Ngày 20 Tháng 12 Năm 1963, Mẹ tôi ký giấy cho tôi tình nguyện gia nhập Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Năm ấy tôi vừa tròn 18 tuổi vào Quân Trường không chút vướng bận, bâng khuâng lại còn mang tâm trạng nhẹ nhàng, thư thái , vì từ nay không còn cảnh hồi hộp lo sợ , những khi vào lớp học , bài vở biết ta mà ta lại không biết nó , đứng ngẩn măt trước tấm bảng đen , sau lưng là các bạn học gái thì quả tình chẳng đẹp mặt và xấu hổ biết bao. Chưa bao giờ tôi đặt cho mình một câu hỏi sẽ có những gì chờ đợi ở phía trước , nơi đầu sóng ngọn gió với những cảnh tử-biệt, sinh ly mất mát. Chưa một lần thắc mắc hoài nghi , bất mãn khi nhìn quanh cảm nhận được vẫn còn nhiều tuổi trẻ chưa nhập cuộc . Tây-Đô Lâm Tài Thạnh.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tïëu ÐÁM MA KỲ LẠ Có một anh chàng kia đang đi ngoài phố thì gặp một đám tang kỳ lạ: Đi trước là 2 quan tài, đi sau là một người đàn ông và một con chó, sau người đàn ông là một hàng dài nhiều người đàn ông khác, già có, trẻ có nhưng tuyệt nhiên không có phụ nữ nào . Anh ta tò mò đến hỏi người đàn ông đi sau quan tài ai là người mới qua đời . Người đàn ông bùi ngùi kể: «Hồi chưa lập gia đình, tôi có nuôi một con pit bull là loại chó rất dữ, sau khi lập gia đình tôi vẫn giữ nó, đã nhiều lần vợ tôi xỉa xói, ức hiếp tôi; một hôm không hiểu sao con chó trung thành nổi giận vì bênh tôi đã cắn chết người đàn bà đó» Anh chàng đi đường suy nghĩ một lúc rồi nói với người đàn ông: «Đám tang xong anh có thể cho tôi mượn con chó vài ngày được không ?» Ngay lập tức đám đông những người đàn ông đi sau nhao nhao phản đối: «Đến sau thì sắp hàng sau đi cha nội !» ÐÁI Ở ÐẦU “LÊ DUẨN” Chuyện kể rằng ở Hà Nội có phố Lê Duẩn (vị trí phía đầu phố) cắt phố Nguyễn Thái Học có nhà vệ sinh công cộng, gần khu vực chợ Cửa Nam. Có 1 người khách vãng lai tức đì cần tiểu tiện, hỏi bà bán rau chỗ đi tiểu tiện ở đâu ? Bà bán rau chẳng biết có phải tiết kiệm lời hay ko mà hất hàm về phía đầu phố, miệng nói: - « Đái ở đầu Lê Duẩn kia kìa».
61 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Lục Quân Việt Nam Cộng Hòa Hành Khúc
Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn, Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang, Đi đi đi lời thề nguyền tung gươm thiêng thi gan tài. Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi, Đây đoàn quân ra đi nhịp nhàng, Mang theo thiên hùng ca thắm tươi trời Nam bốn phương. Ta anh hùng muôn quân phá tan cường binh Chí tang bồng mang theo khắp nơi tung hoành Đường trường xa ta quyết đi cho đến cùng Nhịp trời mây đoàn quân cất bước đi mau Nơi biên cương muôn quân theo loa thét vang Cố chiến thắng thề một lòng chung sức xây Việt Nam quang vinh Phá tan tành ầm ầm đoàn quân xông pha Thét oai linh tung gươm giết tan quân thù Đoàn hùng binh say sưa nhìn trong trời sương Ta anh hùng đời đời Lục Quân Việt Nam Xa nhìn thấp thoáng trong mây Muôn bóng quân Nam chập chùng xây thành vinh quang Tiếng vang muôn đời Lục Quân Việt Nam. Nhạc sĩ: Văn Giang
62 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
TỰ THUẬT CỦA MỘT SVSQ KHÓA 17 TĐ BùiTùng
Cựu SVSQ /K17 Bùi Tùng Nguyên Th/T Tiểu đoàn trưởng TĐ1/4 Sư Đoàn 2 BB. Từ năm 1965 trở đi dưới chính thể Đệ Nhị Cộng Hòa, tình hình bắt đầu sôi động mạnh. Khóa 17 Thủ Đức ra trường đúng lúc ôm trọn gói cuộc chiến tranh: Mỹ đồ quân vào Miền Nam có khi lên đến 500.000 quân gần ngang ngửa với quân số Chủ lực của VNCH. Rồi những trận đánh long trời lở đất khắp 4 Vùng Chiến Thuật: Đồng Xoài, Bình Giã, Đức Cơ, Mậu Thân, Khe Sanh, Chùa Tháp, Lam Sơn 719, Mùa Hè Đỏ Lửa…. Và rồi đến trận chiến sau cùng năm 1975, Cộng Sản Miền Bắc đã xua quân tổng tấn công xâm lăng Miền Nam. QLVNCH đã bị đồng minh phản bội nên không tự vệ nổi, Tổng thống hai ngày Dương văn Minh viện cớ tránh đổ máu nên đã kêu gọi quân nhân các cấp đang chiến đấu phải buông súng đầu hàng. Khóa 17 Thủ Đức với 11 năm ròng rã chính chiến chống cộng sản (1964-1975) có kẻ được lên voi nhưng cũng có người phải xuống ngựa, kẻ còn người mất theo trận mạc vận nước và vận mệnh của cuộc đời không thể kiểm chứng được kể từ ngày toàn Miền Nam bị buộc phải tan hàng. Tỉnh Quảng Ngãi trước kia thuộc Liên Khu 5 do Việt cộng kiểm soát. Các cán bộ Cộng Sản sau khi tập kết ra Bắc theo tinh thần Hiệp định Genève năm 1954, đã để lại các vợ con vừa mới cưới vội vã hay các tình nhân, hứa hẹn hai năm sau sẽ trở về sum họp trong cuộc tổng tuyển cử nhưng đã không thành. Cuộc chiến lại tiếp tục và kéo dài, kéo theo nhiệm vụ của vợ con họ là giao liên, du kích, kinh tài hoặc trở thành các bộ đội địa phương đánh phá Miền Nam ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
theo lệnh của CS Bắc Việt. Tỉnh Quảng Ngãi có đồi núi chạy dài từ Bình Định đến Quảng Tín Quảng Ngãi, ép sát song song với đường rầy xe lửa dọc Quốc lộ Số 1có nơi nhìn thấy bờ biển Thái Bình Dương. Đường biển đường bộ là đường “tiến sát” rất tốt, ẩn núp che dấu an toàn thuận lợi cho Cộng sản chuyển quân tấn công đồn bót của QLVNCH tại các tỉnh Quảng Nam Quảng Tín. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh đóng tại Chu Lai thuộc tỉnh Quảng Tín, vốn là một căn cứ lớn có sân bay với phi đạo dài lót bằng vĩ nhôm do Mỹ bàn giao lại. Sư đoàn nầy đảm trách an ninh, hành quân và phòng thủ cho hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín do Tướng Trần văn Nhựt làm Tư Lệnh sau cùng. Tướng Nhựt, là người từng tử thủ đội pháo lấy xác địch làm thềm bắn đã giữ vững tỉnh Bình Long. Còn Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 4 thuộc SĐ 2 đóng tại Đức Phổ nguyên là một căn cứ Mỹ tên Bronco có sân bay nhỏ được bàn giao lại và đổi tên là Căn Cứ Bình Minh. Hậu cứ của các Tiểu Đoàn 1, 2, 3 và 4 đóng chung với Đại đội Công Vụ của Trung Đoàn. Tôi là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1/4 của SĐ2 sau cùng dưới các thời Trung Đoàn Trưởng Đại Tá Lê Bá Khiếu, rồi Đại Tá Trương Đăng Liêm đến khi mất Quảng Ngãi vào tay giặc Cộng. Tinh thần binh sĩ lúc đó đã giao động mạnh khi nghe tin Ban Mê Thuột thất thủ và Quân Đoàn II di tản. Dân Quân xe cộ súng ống triệt thoái hổn độn về Nha Trang đã làm mồi cho giặc pháo và chúng giết người không thương tiếc. Tiểu Đoàn 1/4 của SĐ2 lúc đó đang tham chiến tại mặt trận Quế Sơn cuối cùng cũng phải bị tan nát theo vết dầu loang. Sau đó Tiểu Đoàn đã triệt thoái 63 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
khỏi Chu Lai cùng với Sư Đoàn rút ra Cù Lao Ré chỉnh trang, đến Bình Tuy lại chỉnh trang tiếp rồi ra Phan Rang cùng với Sư Đoàn lập tuyến mới đứng đầu giới tuyến ngăn chặn Cộng Sản. Nhưng thế giặc đã tiến tới như nước vỡ bờ và Bình Tuy mất ngày 15 tháng 4 năm 1975, Sư Đoàn 2 Bộ Binh của tôi cũng bị xóa tên kể từ ngày đó. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 TT Dương văn Minh đã ra lệnh đầu hàng quân Bắc Cộng, nước Việt Nam được gọi là thống nhất, Nam Bắc sum họp và hòa bình. Nhưng hòa bình không theo đúng nghĩa của nó: kẻ thua cuộc đã bị đầy ải giết chóc, nhân dân đã bị cướp bóc tài sản, phân biệt đối xử tàn nhẩn. Thành phần quân cán chính bị đưa vào các trại tù làm lao động khổ sai, bị đối xử bằng bạo lực như thời trung cổ lạc hậu. Tại sao Cộng Sản lại căm thù những người ngã ngựa một cách độc ác như vậy? Hay họ sợ mất địa vị cầm quyền vì tài năng kém cỏi của mình? Chiếm được nước thì dễ, nhưng giữ được nước, làm cho nước mạnh dân giàu hợp lòng dân, mà lại không tài lẫn đức, thì khó mà ngồi yên cai trị tốt cho được. Đó là yếu tố cần và đủ để họ giữ vững ngai vàng! Tôi đi “cải tạo” tại trại Bình Điền thuộc vùng đồi núi gần căn cứ Bastogne của quân đội Mỹ thông qua Quốc Lộ 9 sang Nam Lào. Trại được xây dựng bằng tranh, tre và bao quanh bằng nhiều lớp kẻm gai cọc sắt, do tù binh bị vệ binh dẩn giải vô rừng đốn cây, tháo gở đốn bót cũ mang về xây dựng. Từng ngày từng ngày bốc từng tờ lịch trong 12 năm thấu xương rát phổi, nhưng tôi vẫn vui vẽ vì đời là vậy, được là vua thua thì phải thế. Tôi luôn cầu nguyện và sống bằng an trong tâm hồn, mặc dù đang ngồi trong con thuyền lắc lư hay trong chiếc xe bít bùng chạy trên đường gập ghềnh ổ gà sỏi đá…Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi và những lời khuyên của Thánh Mahatma Ghandi là kim chỉ nam giúp tôi được sống làm người cao thượng. Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào nơi lỗi lầm. Lạy Chúa đừng để con thất vọng khi con thất bại và xin dạy cho con biết rằng lòng khoan dung là thước đo cao nhất của sức mạnh và ý muốn trả thù là biểu hiện đầu tiên của sự yếu đuối. Lạy Chúa vì quá sức chịu đựng khổ sở nhục nhằn xin Chúa hãy giúp con vượt qua, giúp cho con có con đường sáng con đi. Lạy Chúa, nếu con có quên Chúa thì xin Chúa nhớ đến con – Amen. 64 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Đêm đêm tôi từng mơ về Quân Trường Khóa 17 Thủ Đức, ngày ấy tôi cùng bao nhiêu lớp người trai tráng đã bỏ cả tuổi xuân, bỏ cả học hành tươi đẹp, dâng cuộc đời mình cho chiến tranh. Nhiều đêm tôi đã mơ đến những trận đánh nhau kinh hoàng với Việt Cộng có cùng dòng máu Âu Cơ Lạc Việt với tôi. Nước tôi đã bị 1000 năm nô lệ bởi giặc Tàu, rồi 100 năm đô hộ bởi giặc Tây, nay lại phải gánh một cuộc nội chiến 20 năm đẩm máu tương tàn mà tôi không thể chối từ tham gia: bởi vì tôi muốn sống! Tôi đã từng thấy binh sĩ hai bên chết nằm chồng chất lên nhau, lưởi lê đâm sau lưng đâm trước ngực máu chảy có vòi, cùng với những xác thây của dân chúng lõa lồ bên cạnh các căn nhà cháy trong các trận đánh làng Ngọc Dạ, núi Danh Khương, đèo Eo Gió…thuộc quận Nghĩa Hành; Trận Ba Gia, Dòng Ké, Mỹ Lai thuộc quận Sơn Tịnh; Trận Lạc Sơn, núi Liệt Kiếm, đồi 441 của quận Quế Sơn; Rồi Ba Tơ, Thạch Trụ…quanh quẩn vùng Quảng Ngãi , với vết chân hành quân máu me bạn thù trong hơn mười năm chinh chiến cộng với 4 lần thương tích không ngơi nghĩ của tôi. Những khuôn mặt của Sĩ quan Tiểu Đoàn Phó, của các Đại Đội Trưởng ưu tú từ các quân trường Chiến Tranh Chính Trị, Võ Bị Đà Lạt, Thủ Đức, Đồng Đế…như Đại úy Hoa Tiểu Đoàn Phó, Đại úy Truyền Ban 3, Đại uý Can ĐĐT Chỉ huy, các Trung úy Phúc, Hoa, Tiên, Minh ĐĐT các ĐĐ1,2,3 và 4, cùng các hạ sĩ quan và binh sĩ xuất sắc. Tất cả đều nhiệt tình chống cộng bảo vệ quốc gia, trước mắt là bảo vệ chính mình trên mặt trận đối chọi với quân thù, chỉ có một con đường duy nhất là Cộng Sản hay Quốc Gia, hoặc sống hay chết. Họa ăn ngủ, chiến đấu sát cánh bên nhau để bảo vệ đơn vị trước kẻ thù chung. Binh sĩ của tôi thật dễ thương, tôi rất thương yêu họ. Họ là những người lính đã tử thủ cho tôi khi rút lui, họ là những người đi đầu xung trận để tôi có được Bộ Chỉ Huy an toàn mà gọi phi pháo yểm trợ, bình tĩnh sáng suốt để điều động đơn vị tiến chiếm mục tiêu ít bị thiệt hại nhất. Họ là những người mạo hiểm chun xuống hầm để bắt Việt Cộng cho tôi khai thác tin tức. Họ là những người bị thương tật hay chết, để cho tôi được gắn huy chương tại mặt trận, được lên lon thăng chức. Họ là những người anh hùng mà tôi chỉ là một cấp chỉ huy theo bảng cấp số chức vụ của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH chỉ định….. Tôi ra tù năm 1987 và sau đó được định cư tại Mỹ theo chương trình HO6 cùng với vợ và 5 con vào ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cửa khẩu California. Sự ra đi lần nầy của tôi là lần thứ hai cũng bởi vì Việt Cộng, như sự ra đi của tôi vào nhập Khóa 17 TĐ cũng vì Việt Cộng phá hoại, chứ thật ra tôi nào có điên khùng gỉ bỏ tổ quốc “rừng vàng bạc bể” để ra đi. Hiện tại tôi sống trên đất nước Mỹ, quê hương thứ hai của tôi là Mỹ, một người bạn, một người thù, nhưng cũng là một người có tình với tôi nhất. Năm mươi năm kể từ ngày mản khóa (19642014) đây là lần đầu tiên Khóa 17 SQTB/TĐ họp mặt tại Thủ đô của Người Việt Tị Nạn Little Sàigòn với con số có thể khoảng 200. Con số không phải là khiêm nhường, mà là không còn nữa, vì bởi chiến tranh đã cướp mất hết rồi. Chiến tranh quả thật đáng ghét, bởi vì từ bị thương hay bị chết đều là một hình thức của diệt chủng. Tuy lên án chiến tranh, nhưng vẫn phải bị lập lại bởi những kẻ cầm quyền độc tài khát máu tham sân si, phát động chiến tranh với ý đồ bá quyền ỷ mạnh hiếp yếu. Năm mươi năm tranh đấu với đời, các cựu Sinh viên Khóa 17 Thủ Đức cấp bậc có nhanh chậm, địa vị giàu nghèo tuy có khác…nhưng điều đáng nói là mình đã làm được những gì mà mình đã tuyên thệ với nước non tại Vũ Đình Trường trong ngày mản khóa trước khi ra đi đánh giặc. Bầy chim già bay về tổ khi trời sắp tối. Tổ tan tành. Anh hỏi tôi. Tôi biết hỏi ai? Thôi mình đành tự hỏi lại chính mình …..! Tuổi đời của các cựu SVSQ Khóa 17 TĐ tất cả đều trên 70, rồi đây trong giai đoạn cuối của cuộc đời biết ai may mắn sống dai? Chuông gọi hồn ai, nghĩa tử là nghĩa tận! Một cuốn Đặc san, một DVD Kỷ yếu do Ban Tổ Chức Họp Mặt Khóa 17 Thủ Đức thực hiện để làm kỷ niệm cho hội viên để nhớ lại Quân trường với lời thề sông núi và những bước chân ra đi chiến đấu của mình với nước non. Đây chính là cái “còn lại” sau buổi Họp Mặt, cũng là cái “hồ sơ” cho con cháu biết được nguồn gốc của cha ông, khi con cháu đã trở thành những “Người Mỹ Gốc Việt” tại xứ người, muốn tìm lại nguồn gốc của Tổ Tiên, của Khóa 17 Thủ Đức ở một thời đại nào xa xưa…. Buổi Họp Mặt vào hai ngày (18 và 19 tháng 10 năm 2014), chưa họp mà tôi đã mường tượng ra. Tôi rất vui mừng và hảnh diện. Vui mừng vì được bày tỏ nỗi tâm tình với các bạn bè ngày hôm nay tại California nầy. Tôi đã mất tất cả tuổi thanh xuân vì chiến trận, nhưng cũng đã tìm lại được tất cả tuổi xuân ở các bạn có mặt ngày hôm nay. Tôi đã đánh mất chìa khóa xe ở khu vui chơi Disneyland và tôi đã ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
tìm lại được nó tại quầy Lost&Found ngay cổng ra vào trước khi chuẩn bị ra về. Buổi Họp Mặt hôm nay cũng giống như vậy. Các bạn có thấy tôi vui mừng cở nào không? Tôi không nghĩ về tương lai, vì nghĩ về tương lai là đi tìm về địa ngục. Tôi nghĩ đến quá khứ, vì nghĩ đến quá khứ tức là tìm về tương lai, tìm về tuổi trẻ, tìm về kỷ niệm thời trai tráng, tìm về hy vọng. Tôi thấy lại quân trường huấn luyện Thủ Đức, tôi thấy lại các bạn ở phòng học phòng ăn, phòng ngủ phòng đọc sách, những bải tập bắn đạn thật bắn đạn giả, phục kích đột kích thoát hiểm, ngày thăm viếng, khu tiếp tân, ngày gắn Alpha, ngày ra trường rộn ràng với lời thề núi sông, cũng là ngày bịn rịn buồn bã giã từ mỗi người một phương trời ra đi chiến đấu bảo vệ tổ quốc thân yêu. Tôi thấy lại Trung Tướng Trần Ngọc Tám, Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn, các Sĩ quan Cán bộ, Ban Tham Mưu. Tôi thấy cả phòng kỷ luật 301, kẻ hung thần ác quỷ, người hiền từ đạo đức…tất cả đều là những người tốt, tất cả đều vì công vụ và kỷ luật của quân đội. Tôi cũng thấy cả những bể tắm tràn đầy nước trong veo giữa trời được kín đáo bao quanh bởi các dãy nhà ngũ của sinh viên, với mọi người đều ….ở truồng tắm cho thoải mái, không ai dòm ngó ai! Tôi vốn hay e thẹn, nhưng cá mè một…lũ nên cũng chẳng dấu giếm “của quý” làm gì. Ngày họp mặt vui như ngày Tết. Phải vui mới được, để rũ sạch trần ai! Anh em đoàn tụ, bảo lãnh cho nhau. Bảo lãnh là bảo trợ cho thế hệ mai sau được tốt đẹp hơn. Tôi đã mất đi cái già và tôi rất vui mừng hảnh diện vì tôi xuất thân từ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, một ngôi trường có lý tưởng rõ ràng đã đào tạo hàng ngàn sinh viên lớp lớp ra trường chiến đấu phục vụ tổ quốc an dân, đáp ứng kịp thời khi đất nước lâm nguy. Tôi hảnh diện vì các bạn đã hy sinh đóng góp máu xương và trí tuệ cho công cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Cộng Sản ròng rã trên 11năm trời với lòng trung thành và quả cảm tuyệt đối. Tôi hảnh diện đứng trong hàng ngũ chiến đấu cùng các bạn, là những người đồng môn, đồng khóa, đồng chiến hữu, cùng chung một lý tưởng vì nước vì dân. Cám ơn Ban Tổ Chức, cám ơn sự hưởng ứng đóng góp của chúng ta để có buổi họp mặt ý nghĩa vui vẽ ngày hôm nay. Chim có đàn cùng hót, tiếng hót mới hay. Ngựa có bạn cùng đua, nước đua mới mạnh . Thân chào các bạn…./. 65 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
SÁCH LƯỢCTiểu LẤY LẠI BIỂN ĐẢO luận của Minh Đức. Cựu SVSQ/K17TĐ
Mọi người đều hiểu là sách lược của Đảng Cộng Sản bảo vệ Tổ Quốc đã sai lầm từ hơn nửa thế kỷ nay. Họ đã sai lầm từ khi mà Hồ Chí Minh đã cam tâm làm đệ tử nô lệ tay sai cho Cộng Sản Nga Tàu, cũng bởi vì họ Hồ không nhận ra được ai là bạn ai là thù, ai là bành trướng xâm lược và ai là văn minh nhân bản. Điều nầy dễ hiểu vì Hồ Chí Minh và đệ tử không thuộc lịch sữ Việt Nam và Trung Hoa. Bọn đại hán từ bao đời đã muốn xâm lược và đồng hóa dân ta, họ Hồ vì cam tâm làm nô lệ cho giặc Tàu, nên đã đào tạo những đệ tử cũng làm nô lệ như “Tướng quân” Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc Phòng của Ngụy quyền Cộng Sản Việt Gian. Toàn là một lũ nô lệ, cho nên họ đã quỳ lạy giặc Tàu để tiếp tục bảo vệ nhóm thiểu số cai trị độc tài để vơ vét hút máu đồng bào, như nhà bất đồng chính kiến LS Cù Huy Hà Vũ đã phát biểu: “Trong Đảng CSVN, không có phe theo Trung Cộng, mà cũng không có phe theo Mỹ, mà chỉ có bọn độc tài toàn trị cũng cố quyền lực để vơ vét tài sản của nhân dân và nhà nước.” Vì thế, bọn chúng cam tâm cứi đầu quỳ lạy giặc Tàu để thủ lợi. Lịch sữ đã cho thấy, nhất định nhân dân sẽ không tha thứ. Thế giới ngày nay, ai cũng đã thấy rõ ràng là, Hoa Kỳ và khối NATO đã và sẽ không bao giờ có tham vọng đất đai của bất cứ dân tộc nào. Trái lại Putin của Nga và bọn bành trướng Bắc Kinh, luôn luôn xâm lăng và thôn tính các nước nhỏ chung quanh. Vậy thì các nước nhỏ phải làm gì để bảo vệ đất nước mình? Một điều mà người hiểu biết tối thiểu cũng thấy là phải liên minh với Hoa Kỳ, Nhật và Nato. LS Cù Huy Hà Vũ, trước đây từng là người Cộng Sản đã nhận định “Liên minh với Mỹ để bảo vệ Tổ quốc là mệnh lệnh của thời đại”. Đó là con đường duy nhất đúng đắn. Nhật Bản, Nam Hàn, Philippines đã liên minh với Mỹ, khiến Trung Cộng phải nể vì, không bao giờ dám đụng chạm đến công dân của họ. Còn đối với Việt Nam Cộng Sản hiện nay, bọn Tàu cộng tha hồ bắn giết đánh đập công dân Việt Nam. Thật là một thời đại nhục nhã cho dân tộc. Ông Bùi Tín, một cựu Đại tá bộ đội Cộng Sản, một trong những người đã vào tiếp thu Dinh Độc Lập ngày 30-4-75 sau khi VNCH thất thủ, là người thức thời đã bỏ đảng Cộng Sản và tị nạn ở Pháp, đã bày tỏ cùng quan điểm là phải liên minh với Mỹ mới có đủ khả năng bảo vệ Tổ quốc. Trước tình trạng lâm nguy của Tồ quốc đang bị bọn bành trướng Bắc Kinh xâm lược và đồng hóa, bọn thiểu số cầm quyền bóc lột của đảng Cộng Sản Việt Nam phải làm gì trước sự oán hận câm ghét của toàn dân? Nếu họ còn chút lương tri, sĩ diện và lòng yêu nước, thì họ nên long trọng tuyên bố trước quốc dân: - Thứ nhất: Tổ quốc Việt Nam là của toàn dân, do tổ tiên đã biết bao xương máu dầy công xây dựng, cho nên, không một thiểu số nào được quyền cai trị để tha hồ bốc lột nhân dân. 66 SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thứ hai: Chiến sĩ trong bộ đội Miền Bắc, cũng như những Chiến sĩ trong Quân Lực VNCH, đều là những người yêu nước, đã xã thân chiến đấu chống bọn giặc Tàu xâm lược, đều được an táng chung một nghĩa trang. - Thứ ba: Nhà cầm quyền CSVN hiện nay, phải xin lỗi Quân Cán Chính của chính quyền VNCH và đồng bào Miền Nam đã bị CSVN giết hại, tù đày, sĩ nhục sau ngày 30-4-75, vì Ngụy quyền CS Hà Nội trước đây đã ký Hiệp Định Paris là không bên nào được dùng vũ lực đánh chiếm, giết hại, tù đày bên khác, phải nhận lỗi lầm của thế hệ trước đối với đồng bào Miền Nam. - Thứ tư: Nhà cầm quyền CSVN phải long trọng tuyên bố: Quân Đội, Công an và các Lực lượng Võ trang là để bảo vệ Tổ quốc và nhân dân Việt Nam, chứ không để bảo vệ thiểu số cầm quyền độc tài, bóc lột nhân dân. - Thứ năm: Nhà cầm quyền CSVN phải long trọng tuyên bố, những công đân VN đã rời khỏi nước bằng cách nầy hay cách khác sau ngày 30-4-75, đương nhiên là công dân VN. Không ai có quyền tướt đoạt quốc tịch của họ, vì chính họ và cha ông họ đã dầy công khai phá, xây dựng và bảo vệ Miền Nam VN để hôm nay đồng bào Miền Bắc vào đây có nơi sinh sống ấm no. - Thứ sáu: Những công dân VN chạy khỏi Việt Nam sau ngày 30-4-75 phải được tự do trở về VN phục vụ tồ quốc trong tinh thần dân chủ và bình đẳng. - Thứ bảy: Nhà cầm quyền CSVN phải long trọng tuyên bố: Mở Hội Nghị Diên Hồng cho toàn dân trong nước và hải ngoại tạo sự hòa hợp đoàn kết toàn dân, tự do bày tỏ ý kiến tìm sách lược chống quân xâm lược Trung Cộng. - Thứ tám: Liên minh với Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Phương Tây dân chủ tân tiến văn minh, tạo sức mạnh toàn diện chống kẻ thù truyền kiếp Phương Bắc. - Thứ chín: Theo gương Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, Singapore mà canh tân nước nhà. Nhà cầm quyền CSVN phải thật thà thay đổi sách lược đoàn kết toàn dân, canh tân đất nước cho được hùng cường, phục kích chờ cơ hội Trung Cộng tiến đánh Nhật Bản. Lúc đó, Hoa Kỳ, Nhật Bản và NATO đánh bại Trung Cộng. Vì VN là bạn chí cốt của Hoa Kỳ, sẽ theo chân Hoa Kỳ lấy lại các đảo và đất đai đã mất. Những người cầm quyền CSVN hiện nay làm được những điều nầy, thì nhân dân VN sẽ không truy cứu những tội lỗi trước đây, nhân dân VN vốn với tấm lòng đại lượng sẽ bỏ qua tất cả. Trái lại cứ tiếp tục độc đảng cai trị, tha hồ vơ vét, bán nước cầu vinh, hèn với giặc ác với dân, đến khi tức nước vỡ bờ, toàn dân sẽ nổi dậy, thì bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc ngày nay, nhất định sẽ phải bị đền tội. Để kết luận, xin nhấn mạnh điều nầy:nhà cầm quyền CS Hà Nội hiện nay phải xin lỗi nhân dân Miền Nam, vì họ đã cùng chính quyền VNCH dầy công xây dựng chế độ Cộng Hòa văn minh pháp trị bình đẳng theo mô hình chế độ Cộng Hòa Hoa Kỳ hiện nay. VNCH từng có sách lược đối nội, đối ngoại, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng đắn là đã liên minh với Mỹ và Phương Tây. Đó là sách lược duy nhất và đúng đắn, mà những người cai trị Cộng Sản đã lần mò đi theo sau hơn nửa thế kỷ lầm đường. Xin lỗi những sai lầm là những chuyện bình thường trong đời sống ở các xã hội văn minh. Nó chứng tỏ con người có liêm sĩ, văn minh, mã thượng và lương thiện. Những người Cộng Sản phải làm như vậy thì nhân dân Việt Nam sẽ tha thứ cho. Bằng không, nhân dân sẽ phán quyết tối hậu. Hãy can đảm làm những điều trên để vơi đi những oán hận của đồng bào Miền Nam còn sống hay đã chết. Như thế mới thực sự là “hòa hợp hòa giải dân tộc”, để lại tấm gương tốt cho thế hệ mai sau./. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, mùa hè 2014. Minh Đức Cựu SVSQ/K17TĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
67 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Rồi từ đó, họ Hồ cho mình là trên hết, bảo mọi người gọi y là “Bác Hồ”, “Cụ Hồ” dù biết bao người lớn tuổi hơn ông ta. Đó là một loại đạo đức tự tôn lố bịch của Hồ Chí Minh. Còn nói đến đời sống cá nhân, bọn đồ đệ tuyên truyền lại suy tôn họ Hồ như bậc Thánh, hy sinh cả đời, không vợ không con, thánh Nam Quốc PVT thiện còn hơn Đức Phật hoặc Cựu SVSQ/K17TĐ Chúa Jésus. Nhưng ngày nay thì mọi người đếu biết họ Hồ có rất nhiều vợ. Điển hình là Hồ Chí Minh đã lầy Nồng thị Xuân và sinh ra Nồng Đức Mạnh, đã được băng đảng đưa lên làm Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Để ém nhẹm, con Từ thập niên 1930, Hồ Chí Minh đã cam tâm cuối người gian manh lừa đảo Hồ Chí Minh đã giao Nồng đầu làm nô lệ tay sai cho Cộng Sản Nga Tàu rồi! thị Xuân cho Trần Quốc Hoàn thủ tiêu biệt tích. Đó Ông ta đã cùng băng đảng Trường Chinh, Lê Duẩn, là “đạo đức” ghê tởm của Hồ Chí Minh. Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp chỉ thị đồ đệ ám Suốt hơn nửa thề kỷ, đã tự cho mình là tối thượng, sát khủng bố, gieo rắc kinh hoàng cho toàn dân Việt là “Cha Già”, là vị “cứu tinh của dân tộc”. Bọn đàn Nam. Đến thập niên 40 thì mức độ giết hại đồng bào em Cộng Sản đã ra rã ngày đêm tuyên truyền “Sống của mình đã gia tăng một cách khủng khiếp. và làm việc tho gương Bác Hồ vĩ đại”. Họ Hồ đã Tôi còn nhớ một buổi sáng năm 1945, tôi cùng ba tuyên bố “mười năm trồng cây, trăm năm trồng tôi đi xuồng ghé vào bờ chợ Cờ Đỏ, bây giờ là quận người”, tức là trồng người theo các lối “đạo đức” Cờ Đỏ Cần Thơ, ba tôi đã chỉ cho tôi thấy một cách như trên của Hồ Chí Minh! giết người dả man ghê sợ. Đó là hai anh em ruột Năm Hiện nay tại Việt Nam, từ trung ương cho đến cấp Nghiêm và Sáu Ngọc, cư sĩ của Giáo hội Phật Giáo xã ấp, “đạo đức” của giai cấp cầm quyền Cộng Sản Hòa Hảo, đang bị bộ đội của Hồ Chí Minh dùng bao là: bố đựng gạch đá treo vào cổ hai người, rồi xô xuống -Lừa đảo gian dối: Đảng CS dạy cho thanh thiếu sông từ trên cầu đi qua chợ Cờ Đỏ. niên hãy vào đảng để lừa đảo gian dối để được thăng Vì nước cạn, hai người ấy trồi lên mặt nước thì bị quan tiến chức. Điển hình là bầu cử trên cả nước. bộ đội Hồ Chí Minh dùng “xà búp” từ trên bờ đâm Có dân nào bầu cho chúng đâu! Bọn băng đảng của xuống cho đến chết (Xà búp là một cây tre tầm vông, chúng tự bầu chọn lấy nhau. Đó là sự lừa dối lịch sử loại tre nhỏ được vạc nhọn đầu). Lâu lâu mỗi khi nhớ lớn nhất hơn nửa thế kỷ qua đối với nhân dân Việt lại vẫn còn hãi hùng những điều chính mắt tôi trông Nam. thấy! -Cúi đầu nô lệ: Vì họ Hồ đã cam tâm làm nô lệ Đường lối ám sát khủng bố, phá sạch đốt sạch trên cho Nga Tàu, làm đệ tử cho chủ nghĩa Cộng sản Thế quy mô cả nước từ những ngày ấy cho đến năm 75, giới, làm tiền đồn Vô sản, lấy vũ khí của Nga Tàu thì thử hỏi biết bao nhiêu đồng bào vô tội, nông dân, giết hại dân mình để bảo vệ cho ngoại bang. Chính công nhân, trí thức, đã bị họ Hồ sát hại và nhà cửa bị họ Hồ đã giáo dục cho các đệ tử làm nô lệ như Tố thiêu rụi. Ngày nay, đó là tội ác diệt chủng, diệt nhân Hữu, Phùng Quang Thanh, Hoàng Trung Hải. Những loại, phải đưa ra tòa án quốc tế xét xử. Đó là cái đạo câu thơ của Tố Hữu đã chứng minh điều đó: “Staline đức vô nhân đạo của Hồ Chí Minh. ơi! Staline ơi! - Hởi ơi ông chết đất trời ngã nghiêng Bọn đồ đệ trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, đã tuyên – Thương cha, thương vợ, thương chồng - Thương truyền rằng họ Hồ đã đi “tìm đường cứu nước”, mà mình thường một, thương ông thương mười!” Thật chính ông ta đã ngu muội dốt nát không biết thể chế là nhục nhã! Không thương anh hùng dân tộc mình, nào cai trị tốt, để đưa người dân đến ấm no giàu mạnh mà lại thương tên độc tài khát máu đã giết hàng triệu như Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore… sinh linh con người!
Noái Vúái Veåm
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
68 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Giặc Hồ chưa diệt Quê hương nơi đâu? -Dưới Đại dương sâu Nắm mồ cô quạnh.
Tóc sầu sợi bạc Ngồi hong nắng mai Mười năm lưu lạc, Đời như còn dài.
O LÀ NHÀ
Tuổi trên bảy chục Ngỡ còn thanh xuân Hổ gầm tủi nhục Mơ trở lại rừng.
T CHỖ NA
Giặc Hồ chưa diệt Chỗ nào là nhà? -Trong trại tù đày Sống đời nhục nhã.
CHƯA DIỆ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Giặc Hồ chưa diệt Chỗ nào là nhà? -Mái rạ bên đường Mưa đêm xối xả.
GIẶC HỒ
-Giết hại người yêu nước: Trong những quốc gia mà nền cai trị văn minh nhân bản, có lãnh tụ nào mà giết hại người dân yêu nước của họ đâu. Các Tổng thống Mỹ,Pháp, Anh, Ý, Đức, Canada, Nhật Hoàng… đều tôn trọng ý kiến của toàn dân. Mọi công dân đều sống trong bình an và hạnh phúc. Chỉ có những thể chế cai trị dã man như Tàu, Nga, Việt Nam, Bắc Hàn mới giết hại đồng bào mình. -Độc tài bóc lột: Ở Việt Nam, đảng Cộng Sản tự chọn người cai trị, là con cháu của gia đình họ và thiểu số đảng viên. Họ tiếp tục cai trị từ đời ông đến đời cha rồi đời con từ trung ương đến địa phương, tạo thành một bè lũ bốc lột độc tài khủng khiếp. Người dân chỉ có hai con đường, một là bị giết hoặc vào tù, hai là cam chịu bóc lột. Từ khi Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam, người Cộng Sản vô thần đã đốt phá chùa chiền, đình miếu, nhà thờ. Họ cho tôn giáo là thuốc phiện, làm tai hại xã hội, không có đạo đức gì để giáo dục dân tộc. Họ Hồ tự cho mình là bậc đạo đức vĩ đại, gọi là “Đạo đức Hồ Chí Minh”, nhưng thực tế đã tạo thành một xã hội bị phá sản về đạo đức mọi mặt, đến đổi người ngoại quốc đã cho rằng những người Việt Nam đang đi lao động ở nước ngoài là “không có văn hóa”. Tại Thái Lan và Nhật Bản, nhiều nhà hàng hoặc siêu thị đã kẽ những tấm bảng bằng chữ Việt “Xin đừng ăn cắp” để dành cho những khách hàng Việt Nam. Thật là xấu hổ! Còn tại trong nước, lừa đảo, cướp bóc, chém nhau bằng mã tấu, chạy xe va chạm nhau thì dùng dao gậy thanh toán. Văn hóa và Đạo đức Hồ Chí Minh là như thế đó. Tại vùng Đông Á, trong lúc Hồ Chí Minh cuồng tín ngu muội, thì Nhật Hoàng lại anh minh có viễn kiến. Họ Hồ lại còn thua xa Quốc vương Norodom Sihanouk của xứ Chùa Tháp Kampuchia, bởi vì chính Sihanouk muốn trả thù dân tộc Việt Nam nên đã cho Hồ Chí Minh mược đường để bộ đội Miến Bắc vào Nam gây cuộc chiến huynh đệ tương tàn, giết hại và làm thương vong cho gần 5 triệu đồng bào cả đôi bên. Tiện đây cũng xin lưu ý nhóm thiểu số cầm quyền tham nhũng vô đạo Hà Nội: Quân đội Kampuchia sẽ theo giặc Tàu tấn công và “cáp duồn” (chặt đầu người Việt) một lần nữa. Hởi bọn nô lệ mãi quốc cầu vinh! Hãy thức tỉnh, ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào mặt kẻ thù tuyền kiếp của dân tộc với tinh thần hối cải, để bảo vệ Tổ quốc và Đồng bào./ San José, mùa Hè 2014. Nam Quốc
Thảo Ca Nguyễn Xuân Phần Khóa 17 SQTB/TĐ 69 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
TP SAN JOSE TB CALIFORNIA : Cuộc gặp gở của 8 Cựu SVSQ K17 T Đ . Mục đích phổ biến và thông báo các chi tiết liên quan đến Ngày Họp Mặt kỷ niệm 50 Ngày ra Trường Thủ Đức của K 17 Nguyễn thái Học , trong 2 Ngày 18 & 19 Tháng 10 Năm 2014 . Xin gởi đến quý bạn K 17 tấm hình ghi lại cuộc gặp gở hôm nay . Trong tương lai sẽ có thêm nhiều bạn khác xuất hiện và tham dự . Chúc quy bạn an vui và mạnh khỏe . Thân mến .
70 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thú Xûúáng Hoaå cuãa CỰU SVSQ K17 TBTÐ Gọi Ðàn (Xướng) Bầy nhạn tung bay khắp địa cầu Nghe đàn kêu gọi, cánh nghiêng mau Quê hương khói lửa , mình lâm trận Hải ngoại thanh bình , ta gặp nhau ! Mời chị tham gia Ngày Hội Ngộ , Nhờ anh góp sức việc chung nhau . Năm mươi , kỷ niệm ngôi Trường Mẹ Thủ Đức , Bộ Binh , ngọn lửa đầu ! (1)
HỢP ĐOÀN K17 (Họa 1)
Ngời sáng lửa thiêng bắc nhịp cầu Tin vui chợt đến thật là mau Xưa bao luân lạc còn lưu luyến, Nay lại sum vầy ai biết đâu. Một thuở luôn luôn tình bạn hữu Bao năm mãi mãi nhớ về nhau Không quên Thủ Đức trường tôi thép Nung chí người trai tự thuở đầu
(Họa 2) Ngày tháng qua đi vẫn nguyện cầu Bổng vui đón nhận một tin mau Bao năm lưu lạc đang chia cách, Giờ hẹn xum vầy đẹp tới đâu! Trước đã sánh vai cùng học khóa Sau rồi lặn lội biệt tin nhau Năm xưa Thủ Đức lò nung thép, Nay đã năm mươi lại khởi đầu. Thơ họa của Nguyễn Xuân Sơn May 2014
Thơ của Lê văn Ngô Cựu SVSQ Khóa 17 TBTĐ
April 2014 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
71 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Hổ Xám
Phaåm Chêu Taâi (Một trong những câu chuyện về những “Người lính” thật sự đã làm nên Quân Lực VNCH là bài viết dưới đây của nhà văn Hoàng Khởi Phong, viết về “Hổ Xám Phạm Châu Tài”, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 3 của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, người chịu trách nhiệm trấn cửa cuối cùng tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH).
Đầu năm 1975 vì nhu cầu chiến trường, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù phải chia ra làm hai cánh quân hoạt động cách xa nhau. Đại Tá Phan Văn Huấn và hai Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 1 và Số 2 đang hành quân nhảy toán trong khu vực Bắc Tân Uyên, Biên Hòa. Riêng Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 3 do Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ huy tăng phái cho Sư Đoàn 25 Bộ Binh hành quân tại Tây Ninh. Giữa Tháng Tư 72 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
1975, lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu gọi toàn bộ liên đoàn rút về trấn giữ Saigon, và được trải ra để hoạt động trong một vùng khá rộng chung quanh đô thành Saigon – Chợ Lớn – Gia Định. Ngày 26 Tháng Tư, Đại Tá Phan Văn Huấn – Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn, sau khi nhận lệnh từ Bộ Tổng Tham Mưu, đã ra lệnh cho Thiếu Tá Phạm Châu Tài – Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Chiến ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thuật Số 3 của Liên Đoàn, đem toàn bộ cánh quân do Thiếu Tá Tài chỉ huy, gồm một ngàn quân thiện chiến về phòng thu? Bộ Tổng Tham Mưu. Thiếu Tá Phạm Châu Tài chuyển quân xong thì trời đã về chiều. Tại Bộ Tổng Tham Mưu Thiếu Tá Tài được Đại Tá Tòng Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Bộ Tổng Mưu đón tiếp niềm nở. Kế đó Đại Tá Tòng giao việc phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu lại cho Trung Tá Đức, Chỉ Huy Phó Tổng Hành Dinh phối hợp với quân số tăng phái của Thiếu Tá Phạm Châu Tài. Đó lần duy nhất Thiếu Tá Phạm Châu Tài được tiếp xúc với Đại Tá Tòng, sau đó Trung Tá Đức đưa Thiếu Tá Tài đi quan sát chung quanh bức tường thành bao quanh Bộ Tổng Tham Mưu, và đề nghị toàn bộ đơn vị của Thiếu Tá Tài vào nằm trong vòng thành, để cố thủ bên trong vòng đai của Bộ Tổng Tham Mưu. Thiếu Tá Phạm Châu Tài khựng lại trước đề nghị cố thủ bên trong vòng đai. Dường như cả hai vị sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu mà ông tiếp xúc không một ai nắm vững khả năng của lực lượng Biệt Cách Dù, bởi vì cố thủ hay tử thủ gì đó không phải là chiến thuật sở trường của Biệt Cách Dù.. Từ Mậu Thân cho đến Mùa Hè 72, Biệt Cách Dù nổi danh nhất là đánh đêm trong thành phố. Những trận đánh tại Ngã Ba Cây Thị, khi địch đã tràn vào trà trộn trong dân chúng, hay đã lẩn vào trú ẩn trong các căn nhà dân chạy loạn bỏ trống. Trong tình hình đó lối đánh sát phạt của Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt ĐộngQuân chắc chắn sẽ giải quyết được chiến trường nhưng cũng sẽ làm cho nhà cửa, sinh mạng của dân chúng bị vạ lây không ít. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đã dương danh trong những trận đánh này, tiến chiếm từng ngôi nhà, từng con ngõ, từng khu phố… Nếu bỏ toàn đơn vị của Thiếu Tá Tài vào nằm bẹp trong Bộ Tổng Tham Mưu, thì chẳng khác gì nhốt một con chim vào trong một cái lồng hẹp, sẽ bị dụ vào thế phòng thủ hoàn toàn thụ động, không có chỗ xoay trở. Thiếu Tá Phạm Châu Tài thẳng thắn trình bày ý niệm phòng thủ của ông là tấn công địch trước, và được Trung Tá Đức đồng ý để Thiếu Tá Tài hoàn toàn tự do bố trí,trải quân của Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 3 của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Ngay từ khi mới ngừng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
xe ở trước cổng chính của Bộ Tổng Tham Mưu, Thiếu Tá Phạm Châu Tài đã nhìn thấy một điều, ông phải bung quân ra xa. Phải chặn địch ngay trên những con đường chính dẫn về Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc đó trời đã nhá nhem tối, Thiếu Tá Tài tạm thời cho quân tập trung vào sân banh của Bộ Tổng Tham Mưu, và đó có lẽ cũng là một đêm hiếm hoi mà binh sĩ của ông tạm có thể coi là có dịp nghỉ ngơi, để lấy lại hơi thở cho chính họ, trước khi phải lao vào trận đánh cuối cùng. Trong thâm tâm Thiếu Tá Phạm Châu Tài, ông sinh ra ngay tại đất Gia Định này, lớn lên tại Saigon nên ông có thể nhắm mắt cũng biết, để có thể ngăn chặn địch xung phong vào Bộ Tổng Tham Mưu, đơn vị của ông phải bung ra xa. Phải chặn đánh địch xâm nhập ngay từ khi chúng mới ló đầu ra ở Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả, Trung Tâm Tiếp Huyết, đường Võ Di Nguy… Với một địa bàn quá rộng như thế, phải cần quân số của cả Liên Đoàn, nghĩa là ba ngàn người. Thế nhưng toàn thể Liên Đoàn được đưa về Saigon không phải chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là phòng thủ cho Bộ Tổng Tham Mưu. Rất nhiều nơi quan yếu khác cần đến những người lính Biệt Cách Dù, những người lính chuyên về đánh đêm trong thành phố. Đêm 26 Tháng Tư qua đi trong yên tĩnh, trọn buổi sáng 27, Thiếu Tá Phạm Châu Tài lo bố trí quân tại những địa điểm cần thiết, để có thể chận đánh, tiêu diệt những chiến xa mở đường của địch quân. Sau khi rải quân xong, Thiếu Tá Phạm Châu Tài được lệnh lên trình diện Trung Tướng Nguyễn Văn Minh Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Độ Từ cổng ngoài của Biệt Khu Thủ Đô, một chiếc xe tuần tiễu Quân Cảnh dẫn đường cho
73 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
xe của Thiếu Tá Tài đến văn phòng của ông tư lệnh. Trong lúc này Tướng Nguyễn Văn Minh đang bàn thảo với Tướng Đỗ Kiến Nhiễu, chung quanh hai vị tướng này có vài đại tá. Nhìn thấy Thiếu Tá Tài đi cùng người lính Quân Cảnh, tướng Minh đứng dậy tiến hẳn ra bắt tay rất niềm nở, và nói với Thiếu Tá Tài: “Em về đúng lúc lắm”. Sau một cuộc tiếp xúc ngắn không đầy mười phút,Tướng Minh yêu cầu Thiếu Tá Tài qua thăm phối hợp với Đại Tá Châu Văn Tiên – Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhiều năm sau này Thiếu Tá Tài được biết, ngay sau buổi hội kiến ngắn ngủi đó (ngày 27 Tháng Tư), Trung Tướng Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô biến mất. Buổi chiều 27 Tháng Tư, Bác sĩ Ngô Thế Vinh cưỡi Vespa đến thăm Thiếu Tá Phạm Châu Tài tại Bộ Tổng Tham Mưu. Bác sĩ Ngô Thế Vinh mang từ trong cốp xe ra một cặp rượu cho Thiếu Tá Tài và nói: “Có Hổ Xám về đây tôi thấy ấm lòng”. Thiếu Tá Tài đưa Bác sĩ Vinh lên sân thượng của building số 1, một tòa nhà cao sáu tầng nằm đối diện với cổng số 1 của Bộ Tổng Tham Mưu, ở đó Thiếu Tá Tài chỉ tay ra xa, giải thích cho bạn biết những nơi ông đã rải quân chặn địch. Từ nóc tòa nhà cao nhìn ra tứ phía, bạt ngàn tầm mắt là nhà cửa của dân chúng, kể cả những cao ốc khác nằm đó đây trong lòng Saigon, tất cả như co mình lại, lún xuống thấp để chờ những cơn mưa. Không phải những cơn mưa đầu mùa, mà là những cơn mưa pháo mà Cộng quân đã từng bắn không thương tiếc vào An Lộc, Kon Tum, Bình Long, trên đại lộ kinh hoàng, trên Liên Tỉnh Lộ 7B… Vào lúc này dân khắp nơi đổ xô về Saigon, khiến cho dân số thủ đô của miền Nam gia tăng đến chóng mặt. Dễ chừng có tới bốn triệu con người trong một thành phố chật hẹp. Trên sân thượng này Thiếu Tá Phạm Châu Tài và Bác sĩ Ngô Thế Vinh cùng không nói nhiều, chỉ trao đổi với nhau những câu ngắn và gọn, nhưng dường như họ đồng cảm với nhau về những suy nghĩ. Cả hai đều có điều kiện để cao bay xa chạy, thế nhưng cả hai cùng đứng lại. Bác sĩ Ngô Thế Vinh khi nói với bạn, không bao giờ dùng tên hay cấp bậc. Với ông, Thiếu Tá Phạm Châu Tài là “Hổ Xám”. Danh hiệu này đã thành từ nhiều năm nay do một sự tình cờ, từ khi Thiếu Tá Phạm Châu Tài còn là các toán A trưởng, hoạt động song song với các toán Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ. Các người bạn Mỹ khi phát âm TÀI không chuẩn, nghe như TAI (TIGER), và danh hiệu HỔ XÁM ra đời từ đó. Hổ Xám không phải là một danh hiệu gọi 74 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cho kêu, cho oai. Để có được danh hiệu này, Thiếu Tá Phạm Châu Tài đã cống hiến cho quân đội toàn bộ tuổi trẻ của ông, đã lao mình vào không biết bao nhiêu trận đánh trong suốt mười năm chinh chiến. Và nếu như HỔ XÁM phải nằm xuống, sẽ có rất nhiều máu của địch quân phải đổ ra. Chính vì vậy mà trong những ngày sau cùng, đã có rất nhiều lần Thiếu Tá Phạm Châu Tài được các người quen có thế lực, có tiền của rủ ra ngoại quốc, song chưa bao giờ ông có ý nghĩ bỏ lại anh em, bỏ lại đồng đội. Chẳng những thế từ khi cơn bão lửa dấy lên từ bờ sông Thạch Hãn, thổi dọc theo dãy Trường Sơn, thổi xuôi theo Quốc Lộ 1 xuống phía Nam, Hổ Xám Phạm Châu Tài chưa bao giờ có ý nghĩ đầu hàng, ông toàn chỉ nghĩ đến cách nào để chiến đấu với quân địch ở ngay trước mắt. Ông cũng không có thời giờ để nghĩ đến vợ con, ngay cả lúc đã được đưa về trấn cửa Bộ Tổng Tham Mưu, chỉ cách nơi vợ con ông trú ngụ trên đường Trương Minh Giảng gần Đại Học Vạn Hạnh không đầy ba cây số. Ngày 27 Tháng Tư rồi cũng qua đi, nhìn chung không khí Saigon cực kỳ sôi động. Vì phải đôn đốc binh sĩ dưới quyền, nằm rải rác chung quanh Bộ Tổng Tham Mưu, trong ngày 27 Tháng Tư, có đôi lần Thiếu Tá Phạm Châu Tài ghé ngang cổng Phi Long của phi trường. Ông nhìn thấy những đoàn người tìm cách chạy trốn ra ngoại quốc qua ngả phi trường. Không mấy hứng thú trước cảnh này, Thiếu Tá Phạm Châu Tài quay về với các binh sĩ của ông. Trong đêm 27 Tháng Tư, ông cảm nhận được bầu không khí thoi thóp không phải chỉ của Saigon mà thôi. Những tiếng động ầm ì từ phi trường Tân Sơn Nhất, những tiếng súng đại bác bắn đi từ Phú Lâm vọng về, thỉnh thoảng những ánh đèn nhấp nháy của những chiếc máy bay đơn lẻ vụt qua trên nền trời tối sẫm. Sáng ngày 28 Tháng Tư, trong lúc đang thị sát binh sĩ tại những ổ kháng cự, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nhận được điện thoại của một sĩ quan Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, tự xưng là Đại Úy X (đã quá lâu nên Thiếu Tá Phạm Châu Tài quên mất tên của vị sĩ quan này). Qua điện thoại vị sĩ quan này lớn tiếng: - Tôi báo động cho thiếu tá biết, thằng Cao Văn Viên đã bỏ đi rồi. Thiếu Tá Phạm Châu Tài ôn tồn nói với vị sĩ quan này: - Đại úy không nên dùng những ngôn ngữ đó. Dù sao Đại Tướng Viên cũng là Tổng Tham Mưu ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Trưởng của toàn thể quân đội, và việc bỏ đi của Đại Tướng Cao Văn Viên thuộc về lịch sử. Để lịch sử sau này sẽ phán đoán việc làm của đại tướng. Tôi sẽ tới Phòng 3 ngay bây giờ, chuyện đâu còn có đó. Khi Thiếu Tá Phạm Châu Tài quay trở lại Bộ Tổng Tham Mưu, ông không gặp vị sĩ quan đã gọi điện thoại cho ông. Hầu như Phòng 3 trống trơn, Thiếu Tá Tài không còn tin vào cặp mắt của mình. Xe cộ chạy dọc ngang, các sĩ quan cao cấp có xe Jeep chở đầy đồ đoàn trên xe. Người ta chạy tứ tung, kêu gọi nhau ơi ới. Nhìn ra ngoài cổng chính cũng như cổng phụ của Bộ Tổng Tham Mưu người ta ra vào lũ lượt. Vẫn còn những toán lính Quân Cảnh mang sắc phục hành sự tại hai điếm canh, song hình như họ cũng đứng đó bất lực như Thiếu Tá Phạm Châu Tài. Trong buổi sáng 28 Tháng Tư tại Bộ Tổng Tham Mưu, văn phòng của Đại Tướng Cao Văn Viên trống trơn. Các phòng, ban của Bộ Tổng Tham Mưu chỉ vài tháng trước nhộn nhịp kẻ ra người vào, quân nhân các cấp ra vào áo quần thẳng tắp, giờ đây sáng ngày 28, Thiếu Tá Phạm Châu Tài thấy cơ quan đầu não của Quân Lực VNCH vắng lặng như tờ. Ông chua chát nhận chân được thế nào là một đoàn quân không có tướng cầm đầu. Ông nghiệm lại từ lúc về trình diện tăng phái về trấn cửa cho Bộ Tổng Tham Mưu, được Đại Tá Tòng – Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh, tiếp vào lúc xế chiều của ngày 26 Tháng Tư, tới bây giờ là 10 giờ sáng của ngày 28 Tháng Tư, chưa một lần nào Thiếu Tá Tài nhìn thấy bóng dáng ông Đại Tướng Cao Văn Viên. Không hiểu trong những giờ phút thập tử nhất sinh như thế này, ông đại tướng ở đâu, làm gì. Ngay cả ông Đại Tá Tòng cũng biến mất không thấy tăm hơi. Trong sân Bộ Tổng Tham Mưu, quân nhân các cấp người chạy lên, kẻ chạy xuống như là những quân đèn cù. Xe Jeep, xe Dodge phun khói mờ trời đất. Nhiều chiếc xe còn kéo theo cả móc hậu, bên trong đầy đồ đạc, dụng cụ. Ai nấy đều như mê sảng. Trong hoàn cảnh đó, Thiếu Tá Phạm Châu Tài cho dù muốn xin một cái lệnh của cấp trên, cũng sẽ không tìm ra một sĩ quan cao cấp nào để ban hành lệnh. Khoảng 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Tư, Thiếu Tá Phạm Châu Tài gọi điện thoại liên lạc với Đại Tá Phan Văn Huấn, lúc đó đang đóng quân ở Suối Máu – Biên Hòa, để trình bày tình hình ở Bộ Tổng Tham Mưu. Trong khoảng hai, ba tiếng đồng hồ liền Bộ Tổng Tham Mưu như là cảnh tan chợ chiều. Vào khoảng 3 giờ chiều, Đại Tá Phan Văn Huấn đích thân lái xe từ Suối Máu về gặp Thiếu Tá Phạm Châu Tài, ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thì tình hình ở Bộ Tổng Tham Mưu đã dịu xuống, những ai muốn TAN HÀNG khi chưa có lệnh TAN HÀNG đã không còn hiện diện tại đơn vị. Hai vị chỉ huy của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù trao đổi với nhau vài câu ngắn ngủi, rồi chia tay để mỗi người quay về với nhiệm vụ của mình. Khoảng 4 giờ rưỡi chiều, một nhân viên của Tổng Hành Dinh Bộ Tổng Tham Mưu liên lạc với Thiếu Tá Tài, mời lên gặp Đại Tá Trần Văn Thăng, một sĩ quan thâm niên của Cục An Ninh Quân Đội, không hiểu do lệnh của ai, đã được đưa về thay thế cho Đại Tá Tòng trong chức vu. Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Bộ Tổng Tham Mưu. Khi hội kiến xong trở ra, Thiếu Tá Tài nhận thấy Đại Tá Thăng có lẽ là người phúc hậu, một cấp chỉ huy đàng hoàng tử tế, chứ không phải một sĩ quan tác chiến dầy kinh nghiệm. Thật tình mà nói thì Đại Tá Thăng không phù hợp với tình thế dầu sôi lửa bỏng trong lúc này. Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 Tháng Tư, trong lúc Thiếu Tá Phạm Châu Tài đang đứng trên nóc một cao ốc gần Bộ Tổng Tham Mưu, nơi bố trí của một toán Biệt Cách Dù thì thấy một phi đội A37 bay vụt qua trên đầu, Thiếu Tá Tài nghĩ là phi cơ của Không Quân đi oanh tạc ở đâu về.. Bốn chiếc A37 bay thật thấp xẹt qua các nóc cao ốc, rồi hướng về phía phi trường Tân Sơn Nhất. Thế rồi Thiếu Tá Tài thấy những cụm lửa, khói bốc lên ở phi trường. Té ra không phải là máy bay của phe ta mà là phi cơ địch bỏ bom xuống phi trường. Phản ứng đầu tiên của Thiếu Tá Tài là ra lệnh cho binh sĩ của ông phòng thủ trên các cao ốc chĩa hết súng, kể cả súng cá nhân lên trời đề bắn hạ các phi cơ này, nếu chúng quay lại bỏ bom vào Bộ Tổng Tham Mưu là nơi mà ông chịu trách nhiệm phòng thủ. Tất cả chỉ xảy ra trong vòng vài phút, chỉ một pass bom, song phi đạo chính của phi trường Tân Sơn Nhất đã bị hư hại nặng. Mãi mấy tiếng đồng hồ sau, qua làn sóng của đài phát thanh VC, Thiếu Tá Phạm Châu Tài mới biết được mấy chiếc A37 đó là của Không Quân VNCH, bị bỏ lại ở ngoài TrungAQ khi các đơn vị ở đó triệt thoái xuống phía Nam. Các phi cơ này do tên phản bội Nguyễn Thành Trung hướng dẫn, bay từ phi trường Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất. Sau khi Đại Tá Thăng nhận nhiệm vụ, lệnh đầu tiên và có lẽ cũng là lệnh duy nhất của ông ban ra trong tư cách Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh là kể từ giờ không một ai được phép RA khỏi Bộ Tổng Tham Mưu, còn người VÀO, thì có lẽ trong giờ thứ 25 này, 75 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
mấy ai còn nghĩ đến việc quay trở lại một địa điểm sắp làm mồi cho lửa đạn. Sau khi phi trường bị mấy chiếc A37 bỏ bom bất ngờ, vào khoảng 6 giờ chiều, Tướng Nguyễn Văn Chức từ Bộ Tổng Tham Mưu lái xe Jeep ra ngoài, bị lính Quân Cảnh chặn lại, nhưng ông Chức vẫn muốn lái xe ra ngoài, thấy vậy các binh sĩ Biệt Cách Dù can thiệp, và yêu cầu Tướng Chức quay trở lại. Suốt đêm 28, tiếng súng lớn nhỏ ở khắp nơi vọng về, song tại khu vực phòng thủ của Thiếu Tá Phạm Châu Tài tình hình lắng dịu. Ngày 29 Tháng Tư, Bộ Tổng Tham Mưu đã có một Tổng Tham Mưu Trưởng khác: Trung Tướng Vĩnh Lộc. Vì Tướng Cao Văn Viên đã chuồn, cho nên không hề có lễ bàn giao giữa hai ông tân và cựu Tổng Tham Mưu Trưởng. Dầu sao thì sự hiện diện của một ông tướng cũng vãn hồi phần nào bộ mặt của Bộ Tổng Tham Mưu, khiến cho cơ quan đầu não này có một chút sinh khí. Thiếu Tá Phạm Châu Tài thấy một số tướng lãnh khác cũng tới cùng với khá nhiều sĩ quan cấp đại tá. Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư, Tướng Vĩnh Lộc và một số tướng lãnh hội họp với nhau ngay tại phòng khánh tiết của Tổng Tham Mưu Trưởng. Buổi họp giống như một buổi tiếp tân nhiều hơn là một cuộc họp trong tình thế cực kỳ khẩn trương. Hầu như không một vị sĩ quan nào ngồi trên ghế, có tới vài chục vị đứng quây quần với nhau thành nhiều nhóm. Thiếu Tá Phạm Châu Tài được gọi lên tương kiến trong buổi họp kỳ lạ này. Cùng đi với Thiếu Tá Tài là bốn người lính cận vệ, và cả Thiếu Tá Tài ai nấy đều trang bị vũ khí khắp người. Thiếu Tá Tài được giới thiệu như là một người hùng. Ông ghi nhận được trong buổi họp này ngoài Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham Mưu Trưởng còn có sự hiện diện của Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, và một chuẩn tướng nữa có bảng tên là Hỷ (không có họ) và sau cùng có chừng mười mấy vị phần lớn là đại tá. Sau khi được các sĩ quan cao cấp bắt tay khích lệ, Thiếu Tá Tài được Trung Tướng Có hỏi thăm về tình trạng đơn vị, và nhắn nhủ: - Em ráng giữ Bộ Tổng Tham Mưu cho tới sáng ngày mai. Ráng giữ nguyên vẹn cho tới ngày mai. Đã có giải pháp. Thiếu Tá Phạm Châu Tài ngửng mặt lên nhìn thẳng vào mắt các tướng lãnh trong phòng họp rồi 76 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
bằng một thái độ quả quyết, một giọng nói tự tin trả lời cho Trung Tướng Nguyễn Hữu Có: - Tôi xin cam đoan với quý vị tướng lãnh và các vị sĩ quan trong phòng họp này, là trong đêm nay sẽ không có một con kiến, một con ruồi nào lọt được vào Bộ Tổng Tham Mưu chứ đừng nói tới một thằng VC. Kế đó Trung Tướng Có hỏi Thiếu Tá Tài có cần ông giúp đỡ gì không. Thiếu Tá Tài nhân đó xin rút một biệt đội của ông đang phải nằm án ngữ tại Lục Quân Công Xưởng về, để tăng cường cho quân số phòng thu? Bộ Tổng Tham Mưu, vì cả đơn vị có một ngàn người còn phải chia mất một phần tư lực lượng, bị xé quá mỏng không có được một đại đội làm tuyến phòng thủ cuối cùng trong Bộ Tổng Tham Mưu. Nghe vậy Trung Tướng Có bốc điện thoại gọi và cho kết quả ngay. Buổi họp cấp kỳ tại Bộ Tổng Tham Mưu diễn ra không lâu, sau khi các sĩ quan cao cấp rời khỏi phòng khánh tiết, cái không khí đìu hiu của buổi sáng lại diễn ra. Tuy nhiên buổi chiều đó biệt đội phòng thủ tại Lục Quân Công Xưởng được trả về cho Thiếu Tá Tài. Đêm 29 Tháng Tư súng nổ ở nhiều nơi vọng về chỗ đóng quân của Thiếu Tá Tài. Binh sĩ dưới quyền ông chạm súng lẻ tẻ với địch ở nhiều nơi, nhưng các đứa con được bung ra không bị một thiệt hại nhỏ nhoi nào. Thiếu Tá Phạm Châu Tài cảm nhận được một điều là tinh thần chiến đấu cũng như hàng ngũ của đơn vị ông vô cùng vững chãi. Cho dù trên cái vòm chỉ huy của quân đội, các ngôi sao cứ tuần tự băng trong bóng tối của trận chiến sau cùng. Ông vững lòng với binh sĩ thuộc hạ, không hề có một ổ kháng cự nào bị bỏ ngỏ. Đêm 29 Tháng Tư năm 1975, có thể là một đêm dài vô tận với hầu hết mọi người quân như dân, ai nấy đều co mình lại chờ sáng, thậm chí mắt căng ra không ngủ được, nhưng với Thiếu Tá Phạm Châu Tài thì khác, ngoại trừ những lúc phải đi kiểm soát binh sĩ dưới quyền, ngoại trừ những lúc phải chỉ huy, ông đã ngủ rất ngon trong những giờ trống. Sở dĩ Thiếu Tá Phạm Châu Tài ngủ ngon, vì ông đã xác định hẳn cho cá nhân mình cũng như toàn đơn vị một ý chí duy nhất: Giữ cho được Bộ Tổng Tham Mưu không phải chỉ một đêm nay, mà là nhiều đêm sau nếu cần, cho tới khi nào có được giải pháp cuối cùng cho miền Nam. Tờ mờ sáng ngày 30 Tháng Tư 1975, Cộng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Quân tiến vào Saigon qua nhiều ngả. Thiếu Tá Phạm Châu Tài thầm nhủ với mình là giờ phút cuối cùng đã điểm. Ông liên lạc với các thuộc cấp, dặn dò họ những khẩu lệnh cuối. Qua các máy truyền tin, ông biết bộ binh của CS đã được các xe tăng dẫn đầu bứng các chốt kháng cự một cách nhanh chóng. Phía trước của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, những khóa sinh chưa kịp ra trường đã tiến ra mặt trận, mà mặt trận đâu có xa xôi gì. Bên ngoài vòng đai trung tâm huấn luyện chính là nơi trận chiến cuối cùng đang diễn ra. Thế những những người lính chưa kịp ra lò này đã có một bài thực tập tốt về chống chiến xa. Hai chiến xa của địch đã bị bắn hạ tại đây, thế nhưng những chiếc khác vẫn cứ thẳng đường tiến về Saigon. Núp theo sau những chiến xa này, là những chiếc xe vận tải chuyển quân, trên đó chất đầy những cán binh CS, với quần áo còn có lá cây ngụy trang trên nón. Tới Ngã Tư Bảy Hiền, cánh quân này bắt đầu đụng độ với Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 3 của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, do Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ huy, và bị bắn hạ một chiếc dẫn đầu tại Ngã Tư Bảy Hiền. Những chiếc sau vẫn tuần tự tiến tới, thậm chí Cộng quân cũng không hề ngừng lại phản công tại những địa điểm có ổ kháng cự của những người LÍNH cuối cùng. Cánh quân này lướt qua để tiến về trung tâm thủ đô. Các binh sĩ Biệt Cách Dù vừa đánh vừa rút theo với đà tiến của địch. Hai chiếc tăng khác của Cộng Quân bị bắn hạ ở cổng Phi Long, một chiếc bị bắn hạ ở Lăng Cha Cả. Và bây giờ thì Cộng Quân đã có mặt tại vòng đai của Bộ Tổng Tham Mưu. Hai chiếc tăng nữa bị hạ ngay gần cổng Bộ Tổng Tham Mưu. Các binh sĩ Biệt Cách cũng đã rút về, tập họp khá đầy đủ chung quanh cấp chỉ huy của họ, và tuyến phòng thủ cuối cùng cũng đã thiết lập xong. Mấy trăm người LÍNH hờm súng về phía trước, mắt căng ra chờ địch quân tiến vào. Vào khoảng hơn 9 giờ sáng của ngày 30 Tháng Tư 1975, qua tần số của máy truyền tin, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nhận được lệnh của một sĩ quan Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu ngưng bắn. Ông đã khước từ tuân hành lệnh này, và trả lời cho vị sĩ quan này là ông chỉ nhận lệnh trực tiếp với ông Tổng Tham Mưu Trưởng mà thôi. Những người lính Biệt Cách Dù vẫn giữ nguyên vị trí phòng thủ trong vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Vào khoảng mười giờ, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nghe trên đài phát thanh truyền đi lệnh của Đại Tướng Dương Văn Minh, yêu cầu tất cả quân nhân ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
các cấp của Quân Lực VNCH buông súng. Thiếu Tá Tài bỏ phòng tuyến trở vào một văn phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, đích thân gọi điện thoại lên Dinh Độc Lập và được Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tự nhận là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH.. Thiếu Tá Phạm Châu Tài cho biết là bây giờ ông muốn được nói chuyện với Đại Tướng Dương Văn Minh, vi. Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội. Khoảng chừng 15 phút chờ đợi dài như một thế kỷ, bên kia đâu dây điện thoại mới nghe giọng nói của Đại Tướng Dương Văn Minh cất lên: - Đại Tướng Dương Văn Minh tôi nghe. - Thưa đại tướng, tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài đang chỉ huy Biệt Kích Dù phòng thu? Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi được ủy thác phòng thủ tại đây cho tới khi có giải pháp cuối cùng. Cách đây một giờ chúng tôi được lệnh ngưng bắn gọi qua máy siêu tần số, và vừa mới rồi được nghe lệnh của đại tướng trên đài phát thanh kêu gọi ngưng bắn. Chúng tôi xin hỏi lại cho rõ về ngưng bắn là thế nào. Sau một khắc ngần ngừ, Đại Tướng Minh nói: - Mình không còn một cái gì để đánh cả. Em chuẩn bị bàn giao cho phía bên kia. - Thưa đại tướng, thế có nghĩa là đầu hàng vô điều kiện. Đầu dây bên kia lại một phút im lặng nặng nề trôi qua, Thiếu Tá Tài nói tiếp vào điện thoại: - Thưa đại tướng, chúng tôi được lệnh là cố thủ tại đây, và từ sáng tới giờ chúng tôi đã ngăn chặn được các mũi tấn công của địch. Chúng tôi đã bắn cháy 6 chiếc tăng của CS trong khu vực này, mà không hề hấn gì cả. Thưa đại tướng, chúng ta không thể đầu hàng được. Công lao của Quân Lực VNCH trong bao nhiêu năm sẽ… - Tùy các em. - Thưa đại tướng, nếu đầu hàng đại tướng có bảo đảm cho sinh mạng của hai ngàn người đang tử thủ tại Bộ Tổng Tham Mưu không. Lại một phút nặng nề nữa trôi qua. Sau cùng Tướng Minh nói: - Xe tăng của địch quân sắp tiến vào đây. Tùy các em. Và rồi điện thoại bị cúp. Thiếu Tá Phạm Châu Tài buông điện thoại xuống, quay trở lại với phòng tuyến của mình. Ông đã đi qua những hành lang rộng, những văn phòng khang trang của Bộ Tổng Tham Mưu, song ông không bắt gặp một tướng lãnh nào, một sĩ quan cao cấp nào. 77 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Khi nghe câu nói cuối cùng của Đại Tướng Dương Văn Minh cho biết là xe tăng của Cộng quân đang sắp tới Dinh Độc Lập, Thiếu Tá Tài đã định trình bày cho Đại Tướng Minh biết, là nếu cần ông sẽ mang quân về cứu đại tướng, vì không thể đầu hàng vô điều kiện được, mà phải có một giải pháp nào đó cho quân đội, cho những người lính. Quay trở ra phòng tuyến của mình, Thiếu Tá Phạm Châu Tài thấy toàn thể đơn vị của ông vẫn còn súng lăm lăm trong tay, mắt hướng ra ngoài chờ địch quân tiến tới. Đúng vào lúc đó thì tiếng Đại Tướng Dương Văn Minh lại vang lên trên làn sóng phát thanh. Bây giờ không phải là lệnh ngưng chiến tại chỗ, chờ bên kia tới bàn giao, mà lệnh đầu hàng vô điều kiện. Các cánh quân CS từ xa vẫn tiếp tục xít chặt vòng vây quanh Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng dường như súng thì đã ngưng nổ, và tất cả chìm trong một sự im lặng ngột ngạt. Khoảng 15 phút sau dân chúng cư ngụ ở gần Bộ Tổng Tham Mưu kêu gọi rối rít: - Các ông ơi, đừng đánh nhau nữa. Hòa bình rồi. Đi về nhà đi thôi. Dân chúng ùa tới mang rất nhiều quần áo dân sự, đặc biệt là những áo thun, đưa cho các binh sĩ Biệt Cách Dù: - Thôi đừng mặc quân phục nữa, thay đồ đi. Thiếu Tá Phạm Châu Tài tập họp binh sĩ dưới quyền lần chót. Ông không còn ra lệnh cho thuộc hạ nữa, mà nói với những người anh em không may mắn của ông một lần cuối cùng: - Chúng ta là Biệt Cách Dù, không có vụ đầu hàng. Thôi tan hàng, và lặn cho kỹ. Không có vụ đầu hàng…. Biệt Cách Dù không thể đầu hàng… Hoàng Khởi Phong
VÙNG LÊN Thơ Lê văn Ngô “Để kính tặng những Anh hùng Liệt nữ đang làm nên lịch sữ” Vùng lên toàn quốc hát ca vang, Cơ hội trăm năm đã rõ ràng. Hãy đứng lên giành quyền tự chủ, Cùng tràn tới đạt vết dầu loan. Bá quyền Hán tặc cùng đường chạy, Đảng cộng Việt gian hết dọc ngang. Người Việt vang danh lừng thế giới, Quê hương rực sáng góc trời Nam. *Để ghi nhớ ngày 11/5/2014 toàn quốc biểu tình chống quân Trung Cộng đặt giàn khoan HĐ981 trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam.
BẢN CHẤT CỘNG SẢN 1/-Cộng Sản Tàu Trung cộng gian tham quá lạ lùng, Láng giềng bất tín khó hình dung. Bản đồ, tự vẽ chiếm trời biển, Biển đảo, xua quân thả độc trùng. Quả ác theo chân quân Cộng phĩ, Tam tai không thứ lũ tàn hung. Nói hay làm tệ, quân Tàu cộng, “Mười sáu chữ vàng” nghĩ thẹn thùng! 2/-Cộng Sản Việt Gian Việt Cộng toàn bầy láo lạ lùng, Ăn gian nói dối khó hình dung. Bắt giam kẻ sĩ không cần tội, Hút máu dân lành tựa độc trùng. Với giặc câm mồm, đố chết nhác, Với dân hiếp đáp. Lũ tàn hung. Tập đoàn cán bộ, toàn tham nhũng, Ăn cướp của dân, sống thẹn thùng. Lê văn Ngô. Cựu SVSQ K17 TBTÐ
78 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
TRÒ CHUYỆN VỚI
Hổ Xám Phạm Châu Tài TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG NGÀY 30-4-1975 CỦA LIÊN ĐOÀN 81 BIỆT CÁCH NHẢY DÙ QLVNCH. LTS: Nhằm ghi lại một số sự kiện lịch sử, Ký giả Trần Ngọc đã tiếp xúc thâu băng anh Phạm Châu Tài, Thiếu tá Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, cựu Sinh viên Sĩ quan Khóa 17 SQTBTĐ, về trận đánh cuối cùng của QLVNCH tại Bộ Tổng Tham Mưu, trước khi Tướng Dương văn Minh cho phát thanh lệnh đầu hàng. Đặc san Chào Mừng Hội Ngộ 50 Năm Khóa 17 SQTBTĐ hân hạnh trích đăng lại kể cống hiến quý Đồng Môn, như một niềm hãnh diện chung của tất cả anh em Cựu SVSQ Khóa 17 chúng ta.
T.N.: Thưa anh, chúng tôi được biết anh là một trong những quân nhân của Binh chủng Biệt Cách Dù 81 oai hùng của QLVNCH. Anh đã có cơ may và quyết tâm chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của Sài Gòn, ngày hôm nay chúng tôi xin anh cho biết một số chi tiết về trận đánh cuối cùng đó. Thưa anh, một tuần lễ trước khi Sài Gòn mất, anh đang ở đâu? Th/T Phạm Châu Tài: Chúng tôi đang hành quân ở Tây Ninh để giải tỏa áp lực địch ở núi Bà Đen cũng như quanh thị xã Tây Ninh trong một cuộc hành quân có tên là Thần Phong I của LĐ81BCND phối hợp với Sư đoàn 25 Bộ binh của Tướng Lý Tòng Bá. Chúng tôi đang hành quân thì được lệnh của Bộ TTM rút về, triệt xuất khỏi chiến trường Tây Ninh để về Biên Hòa ngày 24 tháng 4 năm 1975. Chúng tôi ở phi trường Biên Hòa đến ngày 26 tây thì được lệnh về Bộ TTM trong những giờ phút xáo trộn của Sài Gòn. Chúng tôi về đến Sài Gòn ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chiều ngày 26 tháng 4. Nhiệm vụ của chúng tôi là bằng mọi cách bảo vệ Bộ TTM, cơ quan đầu nảo của QLVNCH trong những giờ phút xáo trộn về chính trị tại thủ đô Sài Gòn lúc bấy giờ. Khoảng 5 giờ chiều ngày 26 tháng 4 năm 1975 chúng tôi đến Bộ TTM. Người mà chúng tôi liên lạc đầu tiên là Đại tá Tòng, có nhiệm vụ hướng dẫn về vị trí phòng thủ và bảo vệ Bộ TTM cho Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Nhảy Dù của chúng tôi. Khi gặp ĐT Tòng rồi, ông bảo ông rất bận, ông giới thiệu cho chúng tôi một vị Trung tá tên là Đức, Chỉ huy phó Tổng Hành Dinh của Bộ TTM. Thái độc cũa ĐT Tòng cũng như Tr/T Đức cho chúng tôi thấy một cái gì đó bất thường. Sau một buổi chỉ dẫn, Tr/T Đức cho chúng tôi tạm thời đóng quân sát kề Bộ TTM, tức là sân vận động Bộ TTM. Tôi có hỏi Tr/T Đức như thế nầy: “Tại sao Bộ TTM cho chúng tôi vào trong nầy? Đây không phải là một vị trí tốt để bảo vệ Bộ TTM. Muốn bảo vệ Bộ TTM thì chúng tôi phải rãi quân ra bên ngoài, khắp các ngã đường dẫn đến Bộ TTM, bởi vì Bộ TTM là vị trí cuối cùng để chiến đấu”. 79 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Sau đó, Tr/T Đ mới nói: “Anh tạm thời ở đây, tôi sẽ trình lên Đại Tướng Tổng TMT để di chuyển các anh ra chỗ khác”. Tôi mới bực mình nói với ông: “Tốt hơn là cho chúng tôi vào Sở Thú là hay nhất”. Tr/T Đức thấy tôi bực mình nên ông chạy đi một hồi lâu rồi trở lại đồng ý cho chúng tôi rãi quân khắp chung quanh Bộ TTM, và chúng tôi lấy building số 1 đối diện với Bộ TTM làm Bộ Chỉ Huy Hành quân của Chiến đoàn. Building số 1 là một tòa nhà 6 tầng lầu và có chừng khoảng 100 phòng, trước đây cho các nhân viên cố vấn Mỹ mướn, nhưng họ đã rút đi cả rồi nên lúc nầy là một tòa nhà trống nhưng đầy đủ tiện nghi. Sau khi chúng tôi biết vị trí và nhiệm vụ của mình như thế nào rồi thì Tr/T Đức mất dạng luôn. Một vài ngày sau đó, tôi biết Tr/T Đức đã bỏ chạy, chạy trốn trước. T.N.: Thưa anh, Tr/T Đức có cho anh biết thêm về nhiệm vụ nào khác của Chiến đoàn anh không? Làm những gì? Th/T Phạm Châu Tài: Không. Tr/T Đức nói nhiệm vụ của Chiến đoàn là bảo vệ Bộ TTM chỉ có thế thôi. Nhưng tôi đã nói với Tr/T Đức là bảo vệ Bộ TTM không phải là ở bên trong Bộ TTM. Với gần 1000 quân, là phải rãi ngoài xa Bộ TTM. Bộ TTM chỉ là vị trí cuối cùng để chiến đấu mà thôi. Có lẽ cái lý lẽ của tôi đầy đủ như vậy nên Tr/T Đức đã chạy đi lãnh một cái lệnh khác. Qua ngày hôm sau 27 tây, Trung Tướng Nguyễn văn Minh Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô đã gọi tôi đến gặp ông tại BTL/BKTĐ là trại Lê văn Duyệt. Tôi vào gặp Tr/Tướng Nguyễn văn Minh, sau khi được giới thiệu tôi là Chỉ huy trưởng Chiến Đoàn 3 BCND, Tr/Tướng đứng dậy bắt tay niềm nở, nói có 81 Biệt Cách Dù thì yên tâm hơn. Sau đó Tr/Tướng Minh giới thiệu tôi với Chuẩn Tướng Đỗ Kiến Nhiễu và Chuẩn Tướng Hỷ ở miền Trung vào, cả hai vị đang ngồi ở bàn khách. Tôi nhìn thấy gương mặt của hai ông rất buồn và không nói một lời nào hết. Sau đó Tr/Tướng Minh vội vã ra đi, tôi tưởng Tr/Tướng Minh đi họp ở đâu đó, nhưng không ngờ sau giây phút đó là Tr/Tướng Minh rời Sài Gòn để bỏ chạy. T.N.: Thưa anh, tình hình của Việt Cộng vào ngày đó họ đã tiến tới ngang đâu? Th/T Phạm Châu Tài: Vào ngày nầy, VC đang giao tranh ở Xuân Lộc mà thôi, chưa có tiến gì vể 80 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Sài Gòn. Nhưng tình hình Sài Gòn rất xôn xao, giới quân sự cũ như dân sự, mọi người đều âu lo, chưa biết tình hình gay go ra làm sao. Lúc chúng tôi về Sài Gòn, chúng tôi thấy từng đoàn phi cơ vận tải Mỹ bay đi, kể cả những tướng lãnh và những người đào thoát đi trước. Vào ngày 28 tây, sau khi tiếp xúc với Tướng Minh và Tướng Minh nói rằng việc bảo vệ Bộ TTM rất là cần thiết, do đó Tướng Minh cần xử dụng một biệt đội của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù đóng trong vòng thành Lục quân Công xưởng. Tôi thấy điều nầy rất vô lý, bởi vì Biệt Cách Dù là một lực lượng chiến đấu thiện nghệ, nhưng không thể chiến đấu trong vòng thành, mà phải ra ngoài. Tuy nhiên Tướng Minh nói tôi nên liên lạc với Đ/T Tiên, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng Gia Định để biết rõ thêm lệnh. Sau đó tôi không tới Đ/T Tiên mà trở về Bộ TTM. Biệt khu Thủ Đô biệt phái cho tôi 4 chiếc GMC để chở quân tới Lục quân Công xưởng phía ngay gần nghĩa trang Quân đội Gò Vấp. T.N.: Thưa anh, xin cho chúng tôi biết quân số một Chiến đoàn Biệt Cánh Nhảy Dù tương đương với bên bộ binh như thế nào? Th/T Phạm Châu Tài: Một Chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù gồm có 4 Biệt đội, Biệt đội tức là một Đại đội đặc biệt. Một Biệt đội có quân số 189 người. Do đó 4 Biệt đội và Bộ chỉ huy Chiến đoàn có quân số gần 900 người. T.N: Thưa anh, vào thời điểm nầy ngoài Chiến đoàn của anh đang ở Sài Gòn, Biệt cách Nhảy Dù còn có những Chiến đoàn nào khác ở đâu nữa? Th/T Phạm Châu Tài: Lúc Chiến đoàn 3 ở Sài Gòn, thì ở Căn cứ Suối Máu Biên Hòa còn 2 Chiến đoàn tức 8 Biệt đội xung kích của Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy Dù cùng với Bộ chỉ huy Liên đoàn đang đóng ở đó. Chiến đoàn 1 do Tr/T Vũ Xuân Thông chỉ huy, Chiến đoàn 2 do Th/T Nguyễn Sơn chỉ huy. Chiến đoàn 1 đã nhảy vào Phước Long và đã gặp một thiệt hại nặng nề, do đó đang tạm thời dưởng quân tại Căn cứ Suối Máu. T.N.: Thưa anh, Liên đoàn Biệt cách Nhảy Dù chỉ có ngần ấy quân số? Th/T Phạm Châu Tài: Cho đến năm 1975, Liên đoàn Biệt cách Nhảy Dù có đến 3400 quân nhân chia làm 3 Chiến đoàn. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
T.N.: Như vậy, ngoài Chiến đoàn 1 thiệt hại ở Phước Long, vị CHT Lực lượng Biệt cách Nhảy Dù đang đi theo cánh quân nào? Th/T Phạm Châu Tài: Liên Đoàn Trưởng LĐ 81 BCND là Đ/T Phan văn Huấn và BCH/Hành quân của Đ/T lúc đó đang ở Suối Máu, nơi 2 Chiến đoàn đang trú quân và cũng đang hành quân xâm nhập ở phía bắc Tân Uyên. T.N.: Trở lại vấn đề phòng thủ Bộ TTM của Chiến đoàn anh, xin anh cho biết tiếp những chi tiết. Th/T Phạm Châu Tài: Cách bố trí để bảo vệ Bộ TTM, sau nầy Đ/T Tiên yêu cầu cho một Biệt đội trấn ở Lục quân Công xưởng thì y như lời của Tướng Minh. Tôi tạm thời cho Biệt đội 811 do Đ/u Lâm chỉ huy đi vào Lục quân Công xưởng. Biệt đội 812 do Đ/u Ánh chỉ huy rải dọc quân ở phía sau Bộ TTM và phía trước Tổng Y Viện Cộng Hòa. Còn một Biệt đội 813 do Đ/u Thạch chỉ huy rải quân từ Ngã tư Bảy Hiền đến Trại Phi Long, riêng Biệt đội 815 do Đ/u Lợi chỉ huy gồm một phần chúng tôi dùng làm quân trừ bị cho Chiến đoàn, một phần rải dọc chung quanh những dãy building trước vòng thành Bộ TTM. T.N.: Thưa anh, tôi được biết một người bạn của chúng tôi là nhà văn Tưởng Năng Tiến cũng ở trong lực lượng Biệt Cách 81, thưa anh vào lúc đó anh Tiến ở đâu và có thuộc quyền chỉ huy của anh không? Th/T Phạm Châu Tài: Lúc đó Chuẩn úy Tưởng Năng Tiến thuộc Biệt đội của Đ/u Ánh và dưới quyền chỉ huy của tôi. T.N.: Biệt đội ấy đóng ở đâu? Th/T Phạm Châu Tài: Biệt đội đóng phía trước Bệnh viện Cộng Hòa và sân Golf để bảo vệ phía sau Bộ TTM. T.N.: Thưa anh cho biết tiếp hoạt động của anh sau đó? Th/T Phạm Châu Tài: Sáng ngày 28 tây, sau khi chúng tôi liên lạc với Bộ TTM thường xuyên và báo cáo về BCH/HQ của LĐ 81 BCND tại Suối Máu Biên Hòa, thì một cú điện thoại reo lên. Ở đầu kia tôi nghe xưng danh là một Đ/u của TTHQ Bộ TTM, anh cho chúng tôi biết rằng Đại tướng Cao văn Viên đã bỏ chạy, đi theo Đại tướng là Đ/T Tòng Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh. Tr/T Đức Chỉ huy phó Tổng Hành Dinh cũng biến mất sau đó. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tôi báo cáo tình hình tại Bộ TTM lên cho Đ/T Huấn ở Suối Máu biết, và yêu cầu Đ/T nếu có thể được về ngay Bộ TTM bàn kế hoạch để đối phó với địch quân và tình hình lộn xộn ở đây. Chiều hôm đó, Đ/T Phan văn Huấn đã từ Biên Hòa về tiếp xúc với tôi tại Bộ TTM. Tôi đã trình bày tình hình xáo trộn ở thủ đô và các Tướng lãnh đã bỏ chạy như Tr/Tướng Minh Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô, Ch/Tướng Đỗ Kiến Nhiễu, kể cả Đại tướng Cao văn Viên. Tôi hỏi Đ/T Phan văn Huấn bây giờ mình phải hành động như thế nào. Đ/T Huấn bảo rằng tướng lãnh đã bỏ chạy nhưng tinh thần quân sĩ rất cao, chúng ta không thể nào bỏ quê hương cho Cộng Sản. Do đó, trong bất cứ tình huống nào Liên đoàn 81 Biệt cách Dù vẫn phải chiến đấu. Đ/T Huấn nói thêm rằng ở An Lộc, đã mất ¾ chỉ còn một góc của Tiểu khu thôi mà Liên đoàn chúng ta đã vào, đã lấy lại được. Huống hồ ở Sài Gòn chưa có cái gì hết, chưa xây xát một mảy may nào cả, thì mình không thể nào không chiến đấu cho được. Sau khi Đ/T Huấn đi rồi, khoảng chừng 4, 5 giờ gì đó, có hai chiếc A37 vần vũ trên bầu trời Tân Sơn Nhứt và Sài Gòn, sau đó chúng bắn phá vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Lúc đó chúng tôi định dùng các súng phòng không, nhưng không biết chắc quân mình hay quân địch, nếu biết là quân địch thì chúng tôi đã bắn rồi. Lúc đó có tin đồn là quân của ông Kỳ đã lấy máy bay uy hiếp Sài Gòn nên chúng tôi không có bắn, do đó sau khi chúng xạ kích phi trường Tân Sơn Nhứt rồi chúng ung dung bay đi. Từ giờ phút đó phi trường đóng cửa, không một chiếc máy bay nào lên xuống nữa và tình hình Bộ TTM lúc bấy giờ không còn tướng chỉ huy. T.N.: Xin anh cho biết vào lúc bấy giờ, tổng số quân sĩ trong vòng rào Bộ TTM có khoảng bao nhiêu? Th/T Phạm Châu Tài: Theo tôi nghĩ, chỉ có một Tiểu đoàn phòng vệ Bộ TTM với quân số rất ít ỏi, chỉ toàn là lính để canh gác mà thôi, không phải lính tác chiến, ngoài ra có một số Quân cảnh ở trong đó. Quân số ở Bộ TTM lúc bấy giờ tôi nghĩ không quá 200 người có thể cầm súng được, nhưng không phải là dân tác chiến, càng không phải là dân thiện chiến như LĐ 81 Biệt cách Dù. Do tình hình tại Bộ TTM như vậy, tôi ra lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, không ai được ra vào nữa. Vì sau khi Đại tướng Viên đi rồi thì tất cả 8188188 81 ÐẶC SAN81 K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
mọi người nào nhanh chân cũng có thể lọt ra khỏi Bộ TTM vì không có ai làm việc trong đó hết. Họ bỏ đi một cách vội vã, đó là hậu quả của việc Tướng Viên và Đ/T Tòng bỏ đi. Đ/T Tòng là người liên lạc trực tiếp với Chiến đoàn 3 BCD của chúng tôi đã bỏ đi như vậy, chúng tôi biết liên lạc với ai bây giờ. Tình hình của thủ đô lúc đó giới nghiêm 24/24, tuy nhiên xe cộ vẫn chạy và người ta vẫn đi như thường bất chấp lệnh giới nghiêm. Thiên hạ chạy để chạy trốn. Một số xe hơi đầy nhóc người chạy tuôn vào Tân Sơn Nhứt, nhưng phi trường đã đóng cửa, họ đậu xe dài dài dọc theo con đường Võ Tánh Phú Nhuận trước Bộ TTM nên chúng tôi phải dọn dẹp tất cả. Vị trí đặt BCH của chúng tôi là building số 1, từ nơi đây chúng tôi có thể quan sát bao quát một vùng từ Bà Quẹo tới ngã tư Phú Nhuận, những cuộc di chuyển lớn nào chúng tôi cũng có thể quan sát được hết, Sau khi Đại tướng Viên đi rồi thì không có ai chỉ huy hoặc ra lệnh gì trong Bộ TTM, người đang có quân trong tay có thể giữ Bộ TTM là tôi. Lính của Chiến đoàn 3 Biệt cách Nhảy Dù là những người lính thiện chiến đã đi khắp các chiến trường Nam Trung Bắc, do đó họ không ngần ngại gì ngay cả hy sinh chiến đấu để bảo vệ Bộ TTM. Đến ngày 29 tây, tôi được Đ/T Trần văn Thăng mời đến. Đ/T Thăng là quyền Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội, được lệnh của chính phủ Dương văn Minh cử đến Bộ TTM giữ chức Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh để tiếp xúc trực tiếp với tôi. Đ/T gặp tôi tại văn phòng và nói rằng: “Từ xưa đến nay tôi không có tác chiến, tôi chỉ ở văn phòng, do đó mọi chuyện điều quân và tác chiến tôi tin tưởng vào em”. Sau đó Chỉ huy trưởng của Chiến đoàn Lôi Hổ đến cùng với một sĩ quan Ban 3. T.N.: Anh còn nhớ tên của vị chỉ huy Lôi Hổ không? Th/T Phạm Châu Tài: Tôi chỉ nhớ tên của sĩ quan Ban 3 đó là Th/T Kiều. Đại tá Thăng nói tôi phối hợp với Lôi Hổ để giữ Bộ TTM. Tôi và Th/T Kiều sau đó liền phân chia khu vực trách nhiệm của mình. Vào chiều ngày 29 tây, Đ/T Thăng gọi tôi một chút nữa đi vào văn phòng TTM Trưởng để gặp Tân Tổng Tham Mưu Trưởng là Tr/tướng Vĩnh Lộc. Khi bước vào văn phòng, tôi đã thấy Tr/tướng Vĩnh Lộc tóc hoa râm, cao, mặc áo bỏ ngoài, mặt trầm ngâm. T.N.: Ông mặc quân phục hay thứ gì khác? 82 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Th/T Phạm Châu Tài: Mặc quân phục mang ba sao. Bên cạnh đó là Tr/Tướng Nguyễn Hữu Có. Ngoài ra còn có Chuẩn tướng Hỷ, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Tôi đã yêu cầu Tr/Tướng Có với tình hình như vầy, một Biệt đội BCDù đang phải ở trường Lục Quân Công Xưởng, lẽ ra phải đem án ngữ ở mặt Nghĩa trang quân đội Gò Vấp thì mới thích hợp. Tr/Tướng Có sau đó đã liên lạc với một Đ/T ở Lục quân Công xưởng để đưa đại đội này đi. Điều mà tôi hết sức ngạc nhiên là sự có mặt của Tr/ Tướng Nguyễn Hữu Có trong văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Theo tôi biết, trước đây Tướng Có đã giải ngũ về làm Phó Tổng Giám Đốc cho Tín Nghĩa Ngân Hàng của ông Nguyễn Tấn Đời. Tại sao lúc nầy mang 3 sao với quân phục trịnh trọng và đang nói chuyện với tôi xưng là Tổng Tham Mưu Phó QLVNCH? Sau khi Tướng Nguyễn Hữu Có nói chuyện bằng điện thoại với một Đại Tá ở Lục Quân Công Xưởng, tôi đứng kế bên Tr/Tướng Có, ông nói với tôi như thế nầy: “Mọi chuyện quân sự đều giải quyết vào ngày mai, nghĩa là không có đánh nhau nữa, quân ở đâu ở nguyên đó”. Sau đó Tướng Có hỏi tôi rằng có thể bảo vệ Bộ TTM nội trong đêm nay được không, vì lúc đó quân Cộng Sản đã chiếm được Trường Bộ Binh ở Long Thành và trên đường tiến vào Sài Gòn. Trong lúc đó, những căn cứ của QLVNCH trên đường từ Củ Chi đến ngã tư Bảy Hiền đều bỏ ngõ, ngay cả Căn cứ Hoàng Hoa Thám của BTL Sư Đoàn Nhảy Dù cũng bỏ ngõ luôn. Sở dĩ tôi biết như vậy vì ngay buổi chiều ngày 29 tháng 4, các xe tăng CS theo QL 1 tiến về Sài Gòn. Hậu cứ Liên đoàn 81 BCD lúc đó có khoảng 2 trung đội đã chống cự mạnh mẽ và sau đó rút vể chỗ tôi đang chỉ huy để báo cáo tình hình thực sự ở Ngã tư An Sương, ở Hóc Môn. Tôi mới nói với Tướng Có Tổng Tham Mưu Phó rằng: “ Tôi cam đoan với tất cả Tướng lãnh ở đây, với một đơn vị và khả năng chiến đấu cũng như phương tiện vũ khí như thế nầy, chúng tôi hứa không có một con ruồi lọt vào Bộ TTM chớ đừng nói đến một thằng Việt cộng!” . Tôi thấy Tướng Có rất vui lòng và cả Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh cũng đến vỗ vai tôi nữa. Sau đó phiên họp chấm dứt, tôi ra về lại building số 1 để họp với các cấp chỉ huy của Chiến đoàn. T.N.: Thưa anh, hồi đó anh có ý nghĩ gì về Tướng Hạnh không? Một con ruồi trâu đã lọt vào ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
QLVNCH? Th/T Phạm Châu Tài: Khi tôi gặp Tướng Hạnh đầu tiên đêm 29 tháng 4 tại Bộ TTM, tôi không có ý nghĩ gì về một ông Tướng phản quốc như vậy. Do đó tôi coi tất cả các Tường lãnh có mặt ở Sài Gòn vào giờ phút đó là những con người can trường. Đại tá Trần văn Thăng đã nói với tôi như thế nầy: “ Đây là những ông Tướng đã hy sinh ở lại với anh em chúng ta, khác với Nguyễn văn Thiệu, đã tuyên bố là một tay súng chiến đấu với anh em quân sĩ mà bỏ chạy”. Tôi cũng nghe trên đài phát thanh Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham Mưu Trưởng nói chuyện và chửi Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu “bỏ chạy như con chuột”. “Quân Đội là một tập thể có kỷ luật, có tổ chức, chứ không phải ai muốn làm gì thì làm…” . Đó là ý của Tướng Vĩnh Lộc chửi TT Thiệu là con chuột, riêng tôi cũng tin tưởng những vị tướng lãnh nầy là những người can trường ở lại. Sáng ngày 30 tháng 4, qua một đêm thật là yên tỉnh. Yên tỉnh đối với khu vực Bộ TTM, trại Phi Long Tân Sơn Nhứt và ngã tư Bảy Hiền. Tuy nhiên tất cả những chiến sĩ BCD đếu đặt trong tình trạng ứng chiến 100%, nghĩa là đối phó với tất cả các cuộc chuyển quân nào của bất cứ đơn vị nào của VC tiến vế Bộ TTM. Qua một đêm yên tỉnh như vậy thì sáng ngày 30 tháng 4, Th/Tá Lê Minh thuộc Chiến đoàn Lôi Hổ đến nói chuyện với tôi, anh nói: “Đâu có cái gì đâu mà mấy cha đó lo quá. Nếu có mình vẫn đánh như thường, nhưng mà không có cái gì hết” . Vừa nói như vậy thì một trái pháo rơi ầm ngoài vòng thành Bộ TTM, tiếp theo ba bốn trái nữa rơi trên đường Võ Di Nguy làm dân chúng bị thương và chết rất nhiều. Ở bên Biệt đội 2 của Đ/u Ánh, biệt đội có Ch/u Tưởng Năng Tiến, báo cáo với tôi bây giờ làm sao, dân bị thương và chết rất nhiều, xin cho xe qua chở vào Bệnh viện Cộng Hòa ngay. Tôi ra lệnh cho hai xe GMC chạy qua đường Võ Di Nguy chở dân bị thương vì đạn pháo kích của VC. Liên tiếp ngay sau đó là VC pháo kích ào ạt bừa bãi cường độ càng lúc càng tăng trong đó có những trái đạn lọt vào Bộ TTM. Tôi ra lệnh cho tất cả những đơn vị sẵn sàng chiến đấu, nhất là những trục lộ từ Củ Chi xuống và những trục lộ từ Long Thành đi qua đường Chi Lăng. Đầu tiên một chiến xa của VC xuất hiện tại ngã tư Bảy Hiền và bắn ngay một trái pháo vào hướng Bệnh viện Vì Dân, nhưng không trúng bệnh viện mà trúng ngay vào xóm nhà dân kế đó có lẽ vì ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thấy thấp thoáng có một số lính mặc quân phục nhảy dù lấp ló trong đó. Ngay khi chiếc xe tăng Cộng sản bắn phát đầu tiên nầy thì nó bị ngã gục ngay sau đó, vì chúng tôi xử dụng súng đại bác 90 ly không giựt, có ống ngắm hồng ngoại tuyến để có thể tác xạ ban đêm. Bắn phụt thêm một chiếc T54 nữa. Hai chiếc xe sau chạy lên, một chiếc quẹo qua đường Nguyễn văn Thoại, bị toán quân của Đ/u Thạch “phụt” một cái nữa. Một chiếc chảy thẳng lên phía Tân Sơn Nhất, kèm theo một chiếc PT76 bị chúng tôi đánh cháy luôn. Trong vòng khoảng 15 phút đồng hồ thì đã có 6 chiếc chiến xa của VC bị đạn rải rác trên các con đường gần Bộ TTM. Trong lúc đó, một ổ đại pháo phòng không của VC có bánh xe dùng để di chuyển cũng tiến vào khu vực đó, và trận cận chiến đã xảy ra. Chúng tôi đã dứt điểm, bắn banh càng khẩu phòng không của VC đã kéo vô tận Ssài Gòn. Trong lúc đó, doàn quân xung kich của VC chết rất nhiều rải rác trước bệnh viện Vì Dân, ngã tư Bảy Hiền, và những lính tùng thiết chiến xa của VC đến trước cổng Bộ TTM bị bắn tỉa khoảng chừng mười mấy tên. Sau nầy tôi mới biết đó là những tên đặc công của VC tiến trước để chỉ điểm những vị trí quân sự của mình. Đang đánh nhau liên hoàn như vậy thì tự nhiên đến chừng khoảng 9 giờ thì được lệnh ngưng bắn, lệnh đó xuất phát từ Trung tâm Hành quân Bộ TTM. Tôi mới biết lệnh đó đã được quay băng và phát ra cho các đơn vị. Tôi lấy làm ngạc nhiên hết sức, trong lúc mình đang đánh như vậy, VC vẫn tiến như vậy thì lệnh ngưng bắn phát ra. Tôi cũng ra lệnh ngưng bắn để coi tình hình như thế nào, thì VC vẫn tiến vô, tôi quyết định sang liên lạc với Bộ TTM. Tôi lấy xe chạy sang Bộ TTM vào ngay văn phòng đêm hôm trước. Các người lính gác cổng nói Trung tướng Vĩnh Lộc đã bỏ chạy lúc 6 giờ sáng. Tất cả các Tướng lãnh cũng như các Đại tá họp với tôi ở Bộ TTM đêm hôm 29 đều không ai có mặt. Tôi liền bốc điện thoại quay số của văn phòng Tổng Tống Phủ để gặp Tổng Tống Dương văn Minh. Tôi hết sức ngạc nhiên, lúc điện thoại reo đầy giây bên kia được bốc lên và xưng danh là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Tôi nói tôi muốn gặp Tổng thống Dương văn Minh. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh hỏi tôi là ai? Tôi mới nói: “ Tôi là Thiếu tá Phạm Châu Tài, Chỉ huy trưởng Biệt Cách Dù ở Thủ đô”. Có lẽ Tướng Hạnh đã biết tôi vì đêm 29 đã gặp nhau rồi, cho nên khoảng 1 giây sau là TT Dương văn 83 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Minh lên máy. Dương văn Minh xưng là: “Đại tướng Dương văn Minh tôi nghe đây, có chuyện gì đó?” . Tôi mới trình bày với TT Dương văn Minh: “ Tôi là Chỉ huy trưởng cánh quân Biệt Cách Dù đang tử chiến với Việt cộng ở Bộ TTM và đang bảo vệ Bộ TTM. Tôi liên lạc với Bộ TTM thì lệnh ngưng bắn tại chỗ đã xảy ra. Nhưng VC vẫn tiến về phía trước. Tôi đã qua Bộ TTM thì không còn một tướng lãnh nào còn ở đó, họ đã bỏ chạy hết. Do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống, là vị Tư Lệnh Tối Cao của QLVNCH để xin quyết định cuối cùng. Dương văn Minh trả lời: “ Các em chuẩn bị bàn giao đi”. Tôi mới ngạc nhiên hỏi: “Bàn giao là như thế nào, thưa Đại tướng?- Có phải là đầu hàng không?”. TT Dương văn Minh trả lời: “Đúng như vậy! Ngay bây giờ xe tăng của Việt cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập”. Tôi mới nói rằng: “ Nếu mà xe tăng Việt cộng tiến vào Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống!” Ông Dương văn Minh suy nghĩ trong một phút chốc, tôi nói tiếp: “Nếu thật sự Tổng thống ra lệnh đầu hàng, thì Tổng thống có chịu trách nhiệm với hơn 2000 quân cảm tử đang tử thủ ở Bộ TTM hay không?”. TT Dương văn Minh trả lời: “Tùy các em!” rồi cúp máy. Câu chuyện nầy, sau nầy khi đi tù tôi có gặp Trung tá Võ Ngọc Lân, lúc đó đang là Liên Đoàn Trưởng Liên binh Phòng vệ Tổng Thống Phủ, ở trong tù ông Lân nói với tôi như thế nầy “ Lúc đó moa đứng kế bên ông Tướng Minh và moa có nghe nói toa sẽ đến cứu Tổng thống” . Võ Ngọc Lân nói tiếp: “Sau khi Dương văn Minh cúp máy độ 5 phút sau là VC tràn vô bắt tất cả dơ tay lên. Không có ai là tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng gì cả, tất cả đều là tù binh!”. T.N.: Kể từ đó anh có còn dịp nói chuyện với Dương văn Minh lời nào nữa không? Th/T Phạm Châu Tài: Không, tôi không còn có dịp nói chuyện với ông được nữa. Sau nầy trong tù tôi gặp lại Đại Tá Hồ Tiêu. Đại Tá Hồ Tiêu nói lại với tôi rằng, Dương văn Minh nói : “Rất ngợi khen sĩ quan của anh”, bởi vì ông Minh nghĩ rằng Th/T Tài là sĩ quan dưới quyền của Đ/T Hồ Tiêu. Đ/T Hồ Tiêu là cựu Tư Lệnh Lực lượng Đặc biệt. Đ/T Tiêu còn nói cụ thể hơn là “Dương văn Minh rất khen ngợi anh” . 84 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
T.N.: Đại tá Hồ Tiêu có cho anh biết ông Dương văn Minh lúc đó có còn ý chí chiến đấu nữa hay không? Hay là họ đã sắp sẵn kế hoạch để đầu hàng Cộng Sản? Th/T Phạm Châu Tài: Ông Hồ Tiêu chỉ nói với tôi như vậy thôi, nhưng qua những diển tiến lịch sử thì mình thấy ông Dương văn Minh đã sẵn sàng đầu hàng Cộng Sản. Ý đồ của Dương văn Minh mọi người đều biết ngoại trừ quân nhân tác chiến chúng tôi ở xa về không có biết, chúng tôi không biết những vấn đế chính trị ở Sài Gòn như thế nào, mình chỉ biết tuân lệnh của quân đội là đánh giặc mà thôi. Ngay đêm 28 tây, tôi có một người bạn là giáo sư Nguyễn văn Lễ đến gặp tôi và bảo tôi rằng anh đi, và khuyên tôi cũng nên đi vì “ thằng Minh nó sẽ bán nước này cho Cộng sản”, nhưng tôi quyết định ở lại. Người thứ hai bảo tôi đi là Th/T Võ Đại, mộ cựu sí quan của binh chủng Lực lượng Đặc biệt Liên đoàn 81 BCD, Th/T Võ Đại sau làm quận trưởng ở Ban Mê Thuột. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Võ Đại đi đướng số 7 về Sài Gòn. Võ Đại đã vào gặp tôi ở Bộ TTM và bảo tôi chuẩn bị vợ con gia đình và ra đi với “anh Du”. Anh Du mà Võ Đại nói tức là Trung tướng Ngô Du, Đại nói thêm là anh Du sẽ bảo đảm công ăn việc làm bên Thái Lan cho tôi, nhưng tôi từ chối. T.N.: Thưa anh, trong trận đánh nẩy lửa ở ngã tư Bảy Hiền và trước Bộ TTM, lúc đó anh có biết anh đang đụng độ với đơn vị Việt Cộng nào không? Th/T Phạm Châu Tài: Không, tôi không biết đâu vì lúc đó tình hình thật lộn xộn, tuy nhiên điều lý thú là về sau tôi tìm được một cuốn sách của VC ở trại cải tạo Xuân Lộc. Trong cuốn sách nầy có một đoạn cho biết trận đánh ngày 30 tháng 4 ở ngã tư Bảy Hiền là do trung đoàn trưởng một trung đoàn VC tên Tài chỉ huy. Cuốn sách nầy cũng ghi lại những thiệt hại của VC trước khi lấy được Bộ TTM. Tôi có đưa cho Đại tá Huấn xem, và sau khi kiểm điểm lại thành quả của hai bên, chúng tôi biết được rằng trong trận nầy mình thắng lớn chớ không có thua. T.N.: Trong trận Bộ TTM, tình hình thiệt hại của phía anh như thế nào? Th/T Phạm Châu Tài: Chúng tôi không có thiệt hại hay tổn thất nào cả. Quân số của Biệt Cách Nhảy Dù còn nguyên vẹn 100%. Bởi vì trận địa chúng tôi đã dành sẵn đầy đủ với những chỗ ẩn nấp kiên cố an toàn. Ta thấy địch mà địch không thấy ta! ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
T.N.: Anh có theo dõi cái anh Tài Việt Cộng nầy không? Dỉ nhiên là qua báo chí Việt Cộng. Th/T Phạm Châu Tài: Điều ngạc nhiên hết sức là sau khi ở tù ra gần chẳn 10 năm, tôi đọc báo VC biết tên Tài nầy vào năm 1984 là Trung tướng Tư lệnh phó Quân khu 7, tức là vùng Sài Gòn Biên Hòa. T.N.: Anh Tài Việt cộng nầy không tìm cách tìm hiểu về anh Tài Quốc Gia? Th/T Phạm Châu Tài: Không, hơn nữa lúc tôi ở tù tôi chỉ cho VC biết tôi thuộc đơn vị Nhảy dù. Nếu tụi nó biết tôi thuộc Biệt Cách Nhảy Dù 81 chắc tụi nó đã đối xử với tôi một cách “đặc biệt” hơn (!), dỉ nhiên là khó nghĩ tới ngày ra tù. T.N.: Anh có bao giờ nghĩ tới ngày nào đó đụng độ lại với tên Tài Việt Cộng nầy không? Th/T Phạm Châu Tài: Dĩ nhiên trên con đường giải phóng đất nước, tôi không ngần ngại đụng độ lại với bất cứ một hay mười tến Tài Việt Cộng nào khác. T.N.: Xin anh tiếp tục về trận đánh 30 tháng 4, sau khi tiếp xúc với Dương văn Minh, tình hình sau đó tiếp diển ra sao, thưa anh? Th/T Phạm Châu Tài: Sau khi tiếp xúc với Dương văn Minh, tôi trở ra quan sát chiến trường: Việt cộng vẫn tiến vô và anh em chúng tôi vẫn tiếp tục đánh cho đến nửa giờ sau, đến khi trên Đài phát thanh Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng thì anh em binh sĩ vẫn còn đánh. Nhưng mà tôi đã nghe lệnh đầu hàng rồi, do đó tôi mới gọi máy cho các cánh quân thông báo là chúng ta đã có lệnh đầu hàng. Bên kia đầu máy, các cánh quân của tôi lên tiếng “ Ai đầu hàng, chớ Biệt Cánh Ngảy Dù không đầu hàng!”. Tôi mới trình bày là lệnh của Tổng thống, là Tổng tư lệnh Tối cao của QLVNCH, đã đầu hàng vô điều kiện. Các sĩ quan chỉ huy các cánh quân nhanh chóng chạy về ngay bộ chỉ huy của tôi để họp, trong lúc đó các quân nhân trong LĐ81BCD vẫn tiếp tục chiến đấu. Trong buổi họp khẩn cấp đó, tôi tuyên bố tôi là một quân nhân, một sĩ quan chỉ huy được đào tạo trong một môi trường kỷ luật, do đó nếu chúng ta tiếp tục chiến đấu trong trường hợp không có tiếp tế, không có đơn vị nào yểm trợ cả, chiến đấu đơn độc, các anh em nghĩ sao, trong lúc tất cả các đơn vị khác đều buông súng hết? Các sĩ quan Biệt đội trưởng đều tỏ ra ngậm ngùi. “ Nếu vậy chúng ta sẽ có một giải pháp. Chúng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ta không đầu hàng. Chúng ta bỏ súng mà đi. Người nào người nấy muốn đi đâu thì đi. Muốn chiến đấu thì tự ý mình chiến đấu” . Sau khi tất cả đã đồng ý hết như vậy rồi, các Biệt đội trưởng trở về ra lệnh lại cho các anh em. Mặc dầu ở vị trí chúng tôi, chúng tôi có thể chiến đấu trong 2 tháng, vì chúng tôi dụ trữ lương thực và phương tiện cho 2 tháng. Tất cả anh em binh sĩ tỏ lộ buồn ra mặt, một số sau đó bỏ súng, một số vẫn còn chiến đấu lẻ tẻ. Một số lần lượt rút về Hóc Môn, một số bỏ về nhà, một số bỏ đi về một phương trời vô định nào đó. Riêng cá nhân tôi, sau khi tuyên bố không còn chỉ huy Chiến đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dủ ở Sài Gòn nữa, tôi cố liên lạc với cánh quân của Đại tá Phan văn Huấn ở Suối Máu Biên Hòa, nhưng không bắt liên lạc được. Trong giờ phút đó, chính Đại tá Huấn cũng dẫn hai Chiến đoàn chiến đấu ở Biên Hòa, vượt sông Đồng Nai, về đến Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa thì nghe lệnh đầu hàng của Dương văn Minh. Đại tá Huấn họp anh em lại và cũng nói là một quân nhân phải nghe lệnh của Tổng thống, là Tổng tư lệnh Quân đội, nên không còn đánh nữa. Sau đó Đại tá Huấn cũng ra lệnh tan hàng ở Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Sau khi lần lượt tan hàng ở Bộ TTM, một số các toán thám kích nhỏ nhỏ của Chiến đoàn vẫn tiếp tục chiến đấu, nghĩa là gặp các đoàn xe của Việt cộng thì họ xả súng bắn và sau đó họ tự tử bằng lựu đạn. Riêng tôi sau khi rã ngũ, tôi trở về hậu cứ của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, nhưng nhà tôi đã bị VC bao vây rồi. Thế là tôi bắt đầu đào thoát sang phía Tây, nhưng đã gặp trở ngại lớn. Tôi sẽ có dịp khác tường thuật về thời gian nầy trở đi. Đó là tất cả những chi tiết mà tôi còn nhớ vế trận chiến cuối cùng của Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù ở Sải Gòn, và cũng có thể nói là lực lượng chiến đấu cuối cùng của Quân Lực VNCH trong ngày đen tối 30-4-75./. Ký giả Trần Ngọc
85 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
DÒNG SUY NIỆM REMEMBERING
vIŒt nam
Cựu SVSQ/K17TĐ Trần văn Hên ĐĐT/ĐĐ Duyên Hải Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ TQLC Tôi chỉ là một con người có một cuộc sống bình thường như bao nhiêu người đang sống trong xã hội. Tôi không phải là một nhà văn hay là một nhà sử học. Tôi chỉ là một người lính xuất thân là một quân nhân trừ bị , nhưng đã chọn binh nghiệp . Tôi đã sinh ra trong chiến tranh , lớn lên trong chiến tranh và đã đi vào chiến tranh với hoài bảo để sớm thấy chiến tranh được chấm dứt cho đất nước được thái hòa , cho mọi người được an cư trong yên bình . Những điều mong ước đó đã không đến với tôi , không đến với người dân Việt Nam . Bởi vì nguyên nhân nào ? – Bởi do ai và vì sao ? – Sự thật như thế nào ? – Nỗi uất hận và đau thương đến mức độ nào ? … Có rất nhiều câu hỏi tự nơi tấm lòng của bao người . Có những câu hỏi cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp . Nhất là thuộc về thân phận của dân tộc Việt Nam , về sự tồn vong của Tổ Quốc Việt Nam . Những ngày cuối cuộc đời sống tha phương nơi xứ người . Sau 37 năm kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Tôi có được một khoảng thời gian dài suy niệm về quá khứ . Tuổi đời đã cao cho tôi có những nhận thức chuẩn mực hơn . Cùng những phần tài liệu mà tôi có dịp tìm hiểu tuy không được nhiều , nhưng là những gì rất quý giá mà trước đây tôi chưa được biết hoặc có biết nhưng không được rõ ràng . Những trang bút ký nầy tôi muốn ghi lại trước là để cho chính tôi , sau là lưu lại cho gia đình . Tôi muốn được ôn lại một 86 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
phần đời trong quá khứ lần sau cùng … Xin thành tâm tri ơn các niên trưởng , các bạn cùng khóa , các chiến hữu đã cùng tôi chung sức phục vụ cho quê hương trong suốt thời gian quân ngũ của tôi . Xin thành kính tri ơn anh linh các chiến hữu đã nằm xuống trên chiến trường trong những ngày đã cùng tôi phụng sự Tổ Quốc . Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Tôi là một người thua cuộc . Trở thành một tù nhân vì đã chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc . Một tù nhân không có bản án , không có số tù , không biết được ngày về . Đây là một loại tù nhân “ cải tạo “ chỉ có dưới chế độ cộng sản không còn nhân tánh . Tôi giờ đây chỉ là một người lính già chưa giải ngủ . Một thuyền nhân mang thân phận tị nạn nơi xứ người không biết đến bao giờ mới trở lại quê hương . Một điều đau đớn nhất cho tôi là phải sống trên một đất nước mà tôi không biết phải suy nghĩ sao cho dúng với lương tâm của một con người : “ bạn hay thù “ . Một câu hỏi từ trái tim tôi đến nay vẫn chưa có câu trả lời … Giữa chính sách của chính trị hiểm ác và tình người trong nghĩa cử nhân ái xen cài nhau thật khó mà phân định . Trước đây tôi là một con chốt thí trên một ván cờ , dân tộc tôi , quê hương tôi bị người ta đưa vào vòng sinh tử của một cuộc cờ . Kẻ chơi cờ chính là những siêu cường không công chính , là những con người làm chính trị có thủ đoạn tráo trở không lành thiện . Họ là những con người nhân danh chính trị , hành xử chính trị , nhưng không bao giờ hiểu được ý nghĩa thâm sâu cùng mục đích cao quý của thuật ngữ chính trị trong xã hội con người . Bây giờ tôi là người lính già, mang thân phận của ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
một con cá nhỏ bé được vớt lên từ dưới vũng nước lầy lội vứt lên bờ . Đang nằm dãy dụa quằn quại với thời gian chờ đợi cái chết đang đến từng ngày . Đang nằm trên sự băng hoại dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời , khi niềm tin bị thiêu đốt từng ngày qua từng hơi thở . Đang tuyệt vọng trên mặt đất khô cằn , khi hạt giống tương lai không thể nẩy mầm vươn cao sức sống … Có lẽ con đường vượt thoát sẽ không thấy được một lần nữa trong đời tôi … Hồi tưỡng lại những ngày đen tối nhất trên quê hương Việt Nam . Đơn vị tan rã tại bãi biển Non Nước Đà Nẳng vào ngày 29 tháng 3 năm 1975 . Tôi đã len lỏi vượt thoát vòng vây của kẻ thù . Rời Đà Nẳng ngày 3 tháng 4 năm 1975 tìm về Phương Nam trên chặng đường bộ hành hơn 700 cây số trong suốt 12 ngày đêm . Tìm sinh lộ trên từng cây số trong cuộc bộ trình . Niềm vui không thể nào diễn tả được bằng lời khi về đến vùng đất tự do , được nhìn lại lá cờ vàng ba sọc đỏ , được gặp lại gia đình . Sau ngày 16 tháng 4 năm 1975 , về lại căn cứ Sóng Thần, tái lập lại Đại Đội Huyên Hải … Nhưng tôi đã phải đối diện với một bối cảnh hỗn loạn , tan vở , rã rời , đang diễn ra chung quanh … Niềm hy vọng được tiếp tục cùng đơn vị chiến đấu đến với tôi không được lâu . Những cấp chỉ huy cao hơn tôi đã ra lệnh cho chúng tôi tử thủ bảo vệ căn cứ , ai rời vị trí sẽ ra tòa án quân sự … sẽ bị xử bắn tại chỗ … Nhưng chính họ đã bỏ chúng tôi ra đi thật xa sau khi ra lệnh … Phải chi họ cứ lặng lẽ ra đi theo sự lựa chọn của bản , thì điều nầy theo tôi nghĩ cần được tôn trọng và chẳng có gì để nói đến . Trong thời điểm nầy , mỗi người có quyền lựa chọn con đường giữa sự sinh tồn của bản thân và trách nhiệm của một quân nhân , nhất vai trò và lương tâm của một cấp chỉ huy . Vấn đề là tùy vào lương tâm hành xử của mỗi người … Chỉ có lương tâm tự vấn và tự phán xét . Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Trên tuyến phòng thủ của Đại Đội Duyên Hải , nằm trong hệ thống vòng đai phòng thủ của căn cứ Sóng Thần , chúng tôi phát hiện một lực lượng cộng sản đang di chuyển áp sát tuyến phòng thủ … Cũng là lúc trên đài phát thanh đã phát lời tuyên bố đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh và kêu gọi các đơn vị hạ vũ khí , sẵn sàng bàn giao … Thật không thể ngờ những điều nầy lại phát ra từ một Tướng lãnh cao cấp của Miền Nam . Trên chiến trường Vùng I . Từ cửa Thuận An ở Thừa Thiên Huế cho đến bãi biển Mỹ Khê , Non Nước ở Đà Nẳng . Giữa vòng vây ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
của cộng sản Bắc Việt những chiến binh Thủy Quân Lục Chiến chưa hề hạ vũ khí và chờ bàn giao đơn vị với cộng sản … Chúng tôi đã có những sự chọn lựa tùy vào tình huống : mở đường máu vượt thoát khỏi vòng vây tái lập thế trận , hoặc bám vị trí chiến đấu đến hơi thở cuối cùng , hoặc là tự sát chọn cái chết trong danh dự… Nếu như Tướng Minh ø biết được về những chiến binh Thủy Quân Lục Chiến đã dũng cảm chiến đấu đến viên đạn sau cùng và vĩnh viễn nằm xuống trên bãi biển Thuận An , trên bãi biển Mỹ Khê , trên bãi biển Non Nước … thì ông sẽ nghĩ gì khi tuyên bố những lời nầy … Vào khoảng 2 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Từ vị trí phòng thủ của Đại Đội Duyên Hải nhìn về hướng rừng “ Cò Mi “ các lực lượng cộng sản đang di chuyển . Xem lại tại tuyến chỉ còn hai mươi quân nhân đang sẵn sàng tại vị trí … Đây là lần thứ hai , sau lần đơn vị tan rã ở bãi biển Non Nước Đà Nẳng , tôi đang đối diện với một tình huống hoàn toàn bất lực trước thực cảnh và tinh thần trách nhiệm của một người chỉ huy với những đồng đội đang ở lại cùng tôi … Mỗi một nhân mạng liên quan đến một gia đình … Tôi nghĩ trong giờ phút nầy không cần phải hy sinh xương máu thêm nữa , vì tất cả mọi sự hy sinh trong giờ phút nầy đều trở thành vô nghĩa và vô ích … Những người đồng đội đang ở lại cùng tôi , trên suốt chặng đường chinh chiến họ đã “ vượt thoát bao nỗi chết không rời “ trong từng giây phút , trên từng đoạn đường chiến đấu gian khổ … Tôi nghĩ giờ đây họ đã anh dũng hoàn thành trách nhiệm của một quân nhân đối với Tổ Quốc , không có lý do gì để họ phải hy sinh xương máu vào “ giờ thứ 25 “ … Cuối cùng , tôi đã ra lệnh phá hủy tất cả vũ khí và quân dụng cơ hữu của đơn vị . Chúng tôi ngậm ngùi chia tay về với gia đình … còn thân phận của kẻ chiến bại sẽ là chuyện của những ngày sắp đến … Khoảng 3 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Tôi cùng Đại Úy Ninh Đại Đội Trưởng ĐĐTL / TĐYTTB gặp lại Thiếu Tá Quách Ngọc Lâm , Thiếu Tá Mai Văn Tấn BCH / LĐ 258 trước BCH căn cứ Sóng Thần . Sau vài phút trao đổi tình hình chúng tôi cùng nhau rời căn cứ … Ra khỏi cổng căn cứ Sóng Thần , trong nỗi đau tận cùng sâu thẩm tôi ứa nước mắt xác định một điều : trong giờ phút nầy tôi thật sự là người bại trận trong cuộc chiến … Trần văn Hên
87 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
CHIẾN TRƯỜNG BÌNH GIẢ ( tóm lược )
Từ ngày 28 tháng 12 năm 1964 . Trung Đoàn 271 chính quy Bắv Việt và Đại Đội 445 địa phương của cộng sản tập trung tấn công và bao vây khu vực làng Bình Giả thuộc tỉnh Bà Rịa ( Phước Tuy ) . Ngày 29 tháng 12 năm 1964 . Các đơn vị thuộc Tiểu Đoàn 30 , Tiểu Đoàn 33 và Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân Việt Nam được trực thăng vận tham chiến giải toả áp lực cộng sản ở chung quanh khu vực làng Bình Giả . Đã bị lực lượng cộng sản tiềm phục , dùng trận địa pháo kết hợp với chiến thuật biển người tấn công và bao vây gây thiệt hại nặng . Trong trận chiến nầy có một chiếc trực thăng CH.34 của Hoa Kỳ bị bắn rơi , cả phi hành đoàn đều bị tử thương .
Các quân nhân thuộc Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân bị thương vong trong ngày 29 tháng 12 năm 1964 đang chờ trưc thăng vận chuyển sau khi chiến trường Bình Giả được giải tỏa . Ngày 2 tháng 1 năm 1965 Sáng ngày 30 tháng 12 năm 1964 . Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng vận đổ quân xuống khu vực bên ngoài làng Bình Gỉa , tấn công vào lực lượng cộng sản , giải tỏa vòng vây bắt liên lạc với 3 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân . Lực lượng cộng sản triệt thối về hướng Đông Bắc Bình Giả . Đến trưa cùng ngày Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến tái chiếm lại khu vực làng Bình Giả . Nhưng đến chiều tối lực lượng cộng sản trở lại tấn công làng Bình Giả , gây thiệt hại nhẹ .
88 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam được trực thăng vận tiếp viện chiến trường Bình Giả . Ngày 30 tháng 12 năm 1964 . Sáng ngày 31 tháng 12 năm 1964 . Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến nhận lệnh di chuyển đến khu vực đồn điền cao su Quảng Giao để tìm chiếc trực thăng đã bị bắn hạ vào ngày 29 tháng 12 . Sau 2 giờ truy tìm , đơn vị tiền sát của Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đã tìm thấy vị trí chiếc trực thăng . Thiết lập bải đáp cho trực thăng tải thương . Chiếc trực thăng tải thương đầu tiên đã vượt qua hỏa lực phòng không an toàn đáp xuống bãi và bốc đi thi hài của 4 nhân viên trong phi hành đoàn trực thăng của Hoa Kỳ . Trong khi chờ những phi vụ trực thăng khác đến , khoảng 4 giờ chiều , lực lượng cộng sản cấp Trung Đoàn cộng đã tiềm phục trước , bất ngờ tấn công bao vây bằng trận địa pháo và tấn công biển người . Ngay từ phút đầu Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn bị tấn công Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Nho bị tử thương . Các đơn vị thuộc Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến phải đánh cận chiến với lực lượng cộng sản để mở đường máu , tổn thất nặng về nhân mạng .
Đây là một trong 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam tham chiến giải tỏa áp lực cộng sản ở Bình Giả . ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ngày 1 , tháng 1 năm 1965 . Khi lực lượng Nhảy Dù được điều động đến Bình Giả . Lực lượng cộng sản đã triệt thối trong đêm 31 tháng 12 năm 1964 ... Từ ngày 1 tháng 1 năm 1965 . Một đơn vị Nhảy dù tùng thiết với đơn vị Thiết Giáp tham chiến giải tỏa Bình Giả . Ngày 1 tháng 1 năm 1965 . Trong thời điểm nầy , Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đang trong thời gian nghỉ phép dưỡng quân . Cho nên chỉ có khoảng 426 quân nhân tham chiến . Trong suốt 2 ngày giao tranh ác liệt ở Bình Giả, Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đã bị tổn thất : Tử Thương : 122 quân nhân các cấp . Trong số nầy gồm có Tiểu Đoàn Trưởng , Tiểu Đoàn Phó , Y Sĩ của Tiểu Đoàn , cùng nhiều sĩ quan chỉ huy khác của Tiểu Đoàn bị tử thương Bị thương : 71 quân nhân các cấp . Mất tích : 13 quân nhân các cấp . ( Trong toán Sĩ Quan Khoá 17 Thủ Đức thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến : Lê Đình Bảo , Lê Tấn Tài , Lâm Xuân , Vũ Đình Đạm ( tử trận 1 ngày sau khi đáo nhậm đơn vị ) … trong trận Bình Giả có một số bị thương , không có ai tử thương )
lực lượng cộng sản dùng mã tấu chặt ra làm nhiều phần , nên không thể nhận dạng và xác định tên họ . Chỉ xác định được là Thủy Quân Lục Chiến vì trên cánh tay có xăm : TQLC SÁT CỘNG . ( đây là một truyền thống của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến). Tôi còn nhớ, trước ngày Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến tham chiến tại Bình Giả khoảng 4 ngày , Tiểu Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến được lệnh ứng chiến tại hậu cứ ở suối Lồ O Àđể xuống tàu di chuyển ra Phú Quốc . Khi Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đang giao tranh ác liệt với lực lượng cộng sản ở Bình Giả , Tiểu Đoàn 5 nhận lệnh hành quân trực thăng vận tiếp viện Tiểu Đoàn 4 , các Đại Đội sẵn sàng đội hình nơi sân cờ Tiểu Đoàn , nhưng sau một ngày lệnh nầy bị hủy bỏ . Chúng tôi không hiểu vì sao …
CHIẾN TRƯỜNG ĐỨC CƠ 1965 Vào khoảng trung tuần tháng 7 năm 1965 . Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến đang đồn trú ở Kontum . Gồm có Tiểu Đoàn 2 , Tiểu Đoàn 5 và một Pháo Đội 75 ly sơn pháo . Chúng tôi được lệnh di chuyển về Pleiku tham dự cuộc hành quân khai thông Quốc Lộ 19 , trục lộ nối liền Pleiku và Qui Nhơn . Các dơn vị Thủy Quân Lục Chiến trách nhiệm lộ trình từ Pleiku đến đèo Mang Yang . Các đơn vị Nhảy Dù trách nhiệm lộ trình từ Mang Yang đến Qui Nhơn . Chúng tôi bảo vệ trục giao thông để Quân Đoàn II vận chuyển hàng hóa cùng quân dụng tiếp tế cho Tỉnh Kontum và Tỉnh Pleiku theo định kỳ . Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 5 trách nhiệm giữ khu vực đèo Mang Yang , Trung Đội 3 của tôi được phối trí phòng thủ trên đỉnh đèo Mang Yang .
Trong ảnh là khu mộ an táng 90 quân nhân thuộc Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đã bị tử thương vào ngày 31 tháng 12 năm 1964 trên chiến trường Bình Giả . Trong khu nghĩa trang nằm phía sau Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp Bà Rịa . Tháng 5 năm 1965 . Các quân nhân nầy đã tử vong trong các khu rừng bên ngoài làng Bình Giả , sau nhiều ngày mới thu gom được , tử thi bị sình và hầu hết đã bị lực lượng cộng sản cỡi lấy quân phục , có một số tử thi đã bị ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
89 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cho biết thêm tình hình đang diễn tiến trong vùng sắp hành quân : Trại Lực Lượng Đặc Biệt đang bị bao vây , một Chiến Đoàn Nhảy Dù đã trực thăng vận vào Đức Cơ . Đức Cơ là một cứ điểm chiến thuật của Biệt Khu 24 thuộc Quân Đoàn II . Cách biên giới Việt Miên khoảng 13 cây số về hướng Tây và cách Thành Phố Pleiku khoảng 55 cây số về hướng Đông Bắc . Ở đây có dơn vị chiến thuật là Trại Lực Lượng Đặc Biệt Biên Phòng Đức Cơ với quân số khoảng 400 quân nhân dân sự chiến đấu người Thượng , dưới sự chỉ huy của Toán Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam . Vị trí của trại nằm ở đoạn cuối của Quốc Lộ 19 nối dài và ở ngoài tầm yểm trợ của pháo binh chiến thuật .
Quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn với Pleiku . Đoàn xe vận chuyển quân dụng tiếp tế đang di chuyển quốc lộ 19 từ Qui Nhơn lên Pleiku sau khi quốc lộ đã được đơn vị Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù Việt Nam khai thông . Ngày 19 tháng 7 năm 1965 . Sau một thời gian khoảng 3 tuần lễ , cuộc hành quân chấm dứt . Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến di chuyển trở lại Kontum . * * * Ngày 5 tháng 8 năm 1965 . Tiểu Đoàn 5 nhận lệnh chuẩn bị di chuyển về Pleiku tham dự cuộc hành quân kế tiếp . Ngày 6 tháng 8 năm 1965 . Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến được không vận từ Kontum về phi trường Cù Hanh – Pleiku . Sau đó Tiểu Đoàn 5 được di chuyển bằng quân xa đến một khu vực bên ngoài thị xã Pleiku gần Biển Hồ phòng thủ qua đêm . Đến thời điểm nầy chúng tôi nhận một lệnh hành quân ngắn gọn là chuẩn bị một ngày cơn vắt , ngày mai Tiểu Đoàn hành quân trực thăng vận vào Đức Cơ . Khi hợp tại Ban Chỉ Huy Đại Đội nhận bản đồ hành quân , Trung Úy Đại Đội Trưởng Võ Trí Huệ còn 90 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Sơ đồ khu vực Đức Cơ – Pleiku Ngày 7 tháng 8 năm 1965 . Toàn bộ Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến được di chuyển bằng quân xa đến khu vực đồn điền trà Catecka để ứng chiến chờ trực thăng vận . Cũng trong lúc nầy thời tiết bất ngờ thay đổi trở nên rất xấu , kế hoạch hành quân trực thăng vận bị hủy bỏ sau đó . Ngày 9 tháng 8 năm 1965 . Chiến đoàn A Thủy Quân Lục Chiến vượt tuyến xuất phát tiến quân vào Đức Cơ bằng đường bộ dọc theo Quốc Lộ 19 nối dài. Ngày 9 tháng 8 năm 1965 Theo đội hình di chuyển Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 5 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
di chuyển phía sau cùng vừa giữ an toàn mặt sau và bảo vệ một Pháo Đội 105 ly vừa di chuyển đến tăng phái cho cuộc hành quân .
Một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang di chuyển trên Quốc Lộ 19 nối dài Trong thời gian nầy tôi là Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 của Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến . Trung Đội 3 của tôi giữ nhiệm di chuyển đầu . Theo lệnh Đại Đội di chuyển trên các quân xa của Pháo Đội 105 ly , và được Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn cho biết trên đường di chuyển đã có các đơn vị giữ an ninh tuyến đường … Sau khi xuất phát , quan sát địa thế , tôi thấy đây là một khu vực hiểm trở là một con đường đá nhỏ hẹp , độc đạo , chạy dọc theo lưng chừng triền núi hoặc đồi cao , một bên là vách đá , một bên là vực thẳm , có nhiều lợi thế cho lực lượng cộng sản phục kích tấn công bất ngờ ... Tôi có trình bày nhận xét nầy với Đại Đội Trưởng và xin lệnh cho Trung Đội 3 xuống xe di chuyển dọc theo hai bên đường luc soát về phía trước , nhưng không được chấp thuận . Đến khoảng 12 giờ trưa , di chuyển đến một đoạn đường đèo , tại đây có một đoàn xe gồm nhiều chiếc đủ loại , trong số nầy có vài chiếc bị đốt cháy , số còn lại bị phá nát thân xe mang nhiều dấu đạn … đang nằm dọc theo lề đường về phía bờ vực thẳm hướng về phía đồn điền Catecka … Tôi nghĩ có lẽ đây là đoàn xe của chánh quyền địa phương đã bị tấn công , thời gian xảy ra khoảng hơn một tháng trở lại vì những vết tích còn rất mới . Nhận thấy đây là một đọan đường nguy hiểm , tôi xin lệnh Đại Đội Trưởng cho Trung đội tôi xuống xe di chuyển bô lục soát hai bên đường phía trước , nhưng cũng không được chấp thuận . Đoàn xe tiếp tục di chuyển rất chậm . Đến khoảng 2 giờ chiều , được tin các cánh quân phía trước chạm súng với lực lượng cộng sản , bị thiệt hại nặng . Đoàn quân xa được lệnh dừng lại , ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
xuống xe di chuyển bộ , lục soát hai bên đường . Lúc nầy chiếc xe của tôi dẫn đầu đoàn xe đang nằm trên một thế đất yên ngựa . Ngay sau khi đoàn xe dừng lại , tôi cho lệnh Trung Đội xuống xe bố trí dọc theo hai bên đường . Tôi mở cửa xe bước xuống mặt đường cùng hiệu thính viên đứng gần đầu xe xem bản đồ xác định vị trí , báo tình hình về Ban Chỉ Huy Đại Đội đang ở phía sau … Thì một loạt đạn súng AK từ đồi phía trước bắn về phía tôi , tôi bổng thấy cánh tay trái bị giật mạnh , nhói đau và bản đồ trong tay tôi rơi xuống đất , tôi nhìn vào ca bin xe , thì thấy tài xế bị trúng đạn ở đầu gục chết trên tay lái . Khi tôi vừa cúi xuống định dùng tay phải để nhặt bản đồ , thì có một tiếng nổ lớn phá bun đầu xe GMC và hất tung tôi vào lề đường , xác của hiệu thính viên trung đội nằm cạnh tôi đã bị mất phần đầu , trên lưng chiếc máy truyền tin PRC.10 bị bể nát . Lúc bấy giờ tôi cảm thấy chân trái và tay trái của tôi bị tê cứng không cử động được , máu ở đầu và mặt tôi chảy ra rất nhiều , tôi nhìn về phía trước , thấy lực lượng cộng sản rất đông đang từ trên đồi xung phong tràn về phía chúng tôi . Tôi vừa dùng tay phải chóng xuống đất cố nhốm người để đứng lên , nhưng ngay lúc đó một viên đạn AK đã trúng vào đùi chân trái , một lần nữa tôi lại bị hất vào lề đường … Cùng lúc ấy Trung Đội 1 của Thiếu Úy Đàm Đình Loan ( K19 VB ), Trung Đội 2 của Chuẩn Úy Hoàng Công Khanh ( K 17 TĐ ) tiến lên mở đội hình tiếp ứng ngăn chận từng đợt xung phong của lực lượng cộng sản với sư điều động của Đại Đội Phó Thiếu Úy Trần Xuân Bàng ( K 19 VB ) Trung Đội 3 của tôi có một số bị tử thương và một số bị trọng thương . Khoảng 10 phút sau , một phi tuần chiến thuật của Không Quân Việt Nam vào vùng với 2 chiếc chiến đấu cơ Skydrider , oanh kích ngăn chận và tiêu diệt lực lượng cộng sản đang ở trên đồi . Nương theo tình thế lúc nầy , Trung Úy Huệ cho lệnh Đại Đội 1 lui về ngọn đồi phía sau , phòng thủ trên đỉnh đồi … Khi trời vừa tối lực lượng cộng sản bao vây và tấn công Đại Đội 1 nhưng không thành công . Chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn tôi đã bị trúng đạn 3 lần . Tôi được di chuyển về phía sau với Ban Chỉ Huy Đại Đội . Một điều may mắn là chúng tôi chưa lọt vào tuyến phục kích , địch đã khai hỏa trước khi chúng tôi tiến quân lục soát … Sau khi di chuyển lên ngọn đồi phía sau , tôi được y tá Đại Đội băn lại các vết thương , lúc nầy hai mắt của tôi hoàn toàn không còn trông thấy vật gì , tôi chỉ còn nghe được tiếng nói , tiếng súng đang giao tranh 91 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chung quanh … Sau đó một khoảng thời gian không biết là bao lâu tôi thiếp đi lúc nào mà tôi hoàn toàn không hay biết …. Đến một lúc khi tôi cảm thấy như là tôi vừa thức dậy sau một giấc ngủ , tôi trở mình nghe toàn thân đau nhức , trước mắt là một màu đen … Tiếp theo là tôi nghe tiếng người nói lao xao , có tiếng chân người đến bên tôi , tay họ chạm vào các vết thương … Tiếp theo sau đó tôi được cho biết đây là bệnh viện dã chiến Pleiku , tôi đang được khám và chăm sóc các vết thương . Tôi được cho biết khi tải thương về đây tôi ở trong tình trạng hôn mê , hôm nay là ngày thứ hai tôi vừa hồi tỉnh . Vài ngày sau đó vị bác sĩ điều trị cho tôi , đã nói với tôi , nếu tải thương tôi trể khoảng một giờ thì không thể nào cấp cứu được , hiện giờ con mắt trái của tôi đã bị bể con ngươi hoàn toàn bị mù , con mắt phải của tôi một thời gian ngắn có thể bình phục … Điều trị ở Bệnh Viện Pleiku khoảng 3 tuần lễ, sau đó tôi được di chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa . Ngay ngày đầu nhập viện , khi y tá trực hướng dẫn tôi xuống phòng ngủ , vừa bước vào phòng thấy Nguyễn Công Khanh ( K 17 TĐ ) Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến nằm trên giường , một chân bị gảy đang “ kéo tạ” , trên chiếc giường thứ hai là một người bạn ( K 19 VB ) , còn tôi là chiếc ghế bố nhà binh kê sát tường . Trong thời gian nầy thương binh từ các nơi chuyển về quá nhiều , nên mỗi phòng có 3 thương binh . Sau 3 tháng điều trị , ra hội đồng y khoa phân loại 2 thuộc thành phần thặng số . Phòng Tổng Quản Trị Thủy Quân Lục Chiến thông báo cho tôi nếu muốn trở về Thủy Quân Lục Chiến phải có quyết định của Bộ TTM . Tôi gởi đơn về Bộ TTM , 3 tuần lễ sau có quyết định chấp thuận cho tôi trở về đơn vị cũ theo ý nguyện . Tôi về lại Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến , lúc nầy Tiểu Đoàn 5 đang tham chiến ở Kontum … Toán Khóa 17 Thủ Đức thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 5 Thủy quân Lục Chiến . Tháng 10 năm 1964 : . Ngô Thời Hữu , Nguyễn Văn lộc , Trần Văn Hên , Lương Văn Cường , Hoàng Công Khanh , Lê Quang Vinh ( tử trận 1968 tái chiếm thành phố Huế), Phan Ngọc Viếng (tử trận năm 1971 ở Khe Gió Quảng Trị), Nguyễn Văn Hưởng ( tử thương trong lúc di tản ở Vùng I chiến thuật tháng 3 năm 1975 ) … Cựu SVSQ/K17TĐ Trần văn Hên ĐĐT/ĐĐ Duyên Hải Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ TQLC 92 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tïëu CHUYỆN CƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Sưu tầm của Trần Ngọc Sinh Cựu SVSQ Khóa 17 TBTĐ
TIỆC MỪNG SINH NHẬT CON GÁI THỦ TƯỚNG CSVN PHẠM VĂN ĐỒNG. Thủ tướng Phạm văn Đồng tổ chức tiệc mừng sinh nhật cho con gái cưng tên là Nhất Hồng. Bữa tiệc có mời tất cả các quan tai to mặt lớn trong đảng và chính quyền, các văn nhân thi sĩ, các cơ quan truyền thông báo chí. Trong không khí vui vẽ náo nhiệt, nhà thơ Tố Hữu cao hứng cầm micro xướng lên một câu đối, gọi là chúc mừng sinh nhật cho cô Nhất Hồng, câu đối có ba vế như sau: Hoa thơm thì không đẹp Hoa đẹp thì không thơm Nhất Hồng vừa đẹp vừa thơm! Đọc xong câu đối, ông kêu gọi mọi người tham dự bữa tiệc hôm đó xướng họa một câu khác có ý nghĩa hoàn chỉnh để thân tặng cho cô con gái cưng của Thủ tướng. Tất cả mọi người đồng loạt vỗ tay hoan hô, xen lẫn một vài tiếng cười khẽ nhưng tất cả đều im lặng. Bỗng có một người trẻ tuổi ngồi ở phía dưới cùng gần cửa ra vào đứng lên nói: - “Tôi xin mạo muội góp một câu đối để đáp lễ thi sĩ tiền bối.” Tất cả mọi người vỗ tay hoan hô. Sau đó anh nhẩn nha đọc lên câu đối: Rấm kêu thì không …thối Rấm thối thì không kêu Địt xì…vừa thối vừa kêu! Tất cả quan khách tuy trong bụng rất lấy làm thích thú, nhưng không ai dám vỗ tay chỉ ngoái đầu nhìn chàng trai trẻ với một vài tiếng cười khẽ. Sau khi bữa tiệc chấm dứt, không nghe nói anh chàng trai trẻ tác giả của câu đối kia được chuyển đi “công tác” ở Phong Quang hay…Ba Sao! ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
NĂM MƯƠI NĂM MỘT GIẤC MƠ Cựu Thiếu Tá Nguyễn Kim Việt Cho những bạn cùng Khóa 17 Thủ Đức
rồi.
Ngày xửa ngày xưa, cách nay cũng đã….50 năm
Một buổi sáng đẹp trời ngày 23 tháng 11 năm 1963, tôi và một số thanh niên nữa trình diện Quân Vụ Thị Trấn Sài Gòn để gia nhập Khóa 17 SQTBTĐ. Có thể đây là những người đầu tiên của Khóa 17, vì toàn là dân Gài Gòn tình nguyện nộp đơn đi lính chứ chẳng ai bắt bớ hay gọi gọc gì hết. Tuổi đời ai cũng trên dưới 20 trẻ măng và phút đầu tiên nhìn nhau cũng hơi lạ lẫm nhưng đầy thân thiện. Nộp giấy làm thủ tục xong thì đến trưa cũng khá đông, sau đó cả đám được chở xuống Trung Tâm 3 Tuyển Mộ và Nhập Ngũ dưới Quang Trung bằng xe GMC. Thôi tạm biệt Sài Gòn, thôi giã từ cuộc sống dân sự, tôi và các bạn bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống Quân trường. Trung Tâm Nhập Ngũ cũng có vòng rào kẽm gai và lính gác, những chàng lính mới tò te nhìn nhau cười cười và chỉ trong một buổi đã trở nên thân thiện và “mày tao” loạn cả lên. Không có anh, tôi, cậu, tớ…mà tất cả coi nhau như ngang cơ cứ mầy tao thân chi lạ! Cả toán được ở gian nhà ngói kế bên phòng ăn, bửa cơm nhà binh bạn còn nhớ không? Có tiếng kẻng khi đến giờ ăn, các sinh hoạt khác bắt đầu có giờ có giấc. Nhà bếp đã nấu ăn sẵn, cơm nhà binh được đựng trong những chiếc khay có chia ngăn, ngăn to nhất đựng cơm, ba ngăn nhỏ đựng đồ ăn… Nhớ lại xem nào…bửa cơm nhà binh đầu tiên gồm những gì nào….? Nhớ rồi, thịt heo kho hột vịt, mấy con tôm xào mặn với lại canh bí. Các khay cơm đã dọn sẵn trên bàn dài có ghế ngồi đàng hoàng. Phòng ăn có cửa lưới nhưng ruồi bay quá trời, có khay ruồi chết nổi trong ngăn chứa canh. Phần nào cũng giống nhau, mạnh ai nấy lựa phần mình, tất cả bưng ra ngoài hành lang đứng ngồi thoải mái. Có người thấy ruồi trong canh, lắc đầu chê cơm nhà binh và bỏ xuống câu lạc bộ. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ngày nào cũng có xe GMC chở các tân SVSQ đổ xuống sân cờ. Ở có mấy ngày mà đâm ra cuồng cẳng, chì mong được mau xuống Thủ Đức để được sống đời lính thực sự. Cuộc sống mới chung đụng tại đây cũng có một vài cái va chạm, tôi thì quên mất, nhưng ông bạn Trịnh Hiếu Chánh ở Texas gọi qua, nhắc lại chuyện xưa và bảo có màn “pạt-co” tay đôi giữa ông Phạm Châu Tài với một ông nào đó. Chuyện nhỏ, tuổi trè quýnh nhau có gì lạ, nhưng lại mau quên, sau đó lại lôi nhau xuống Câu Lạc Bộ làm hòa. Muốn chính thức vào Thủ Đức phải qua màn khám sức khỏe. Mấy ngày sau, cái đám nhập trại đầu tiên được gọi tên lên xe về Bệnh viện Cộng Hòa khám, cũng cân đo đong đếm xét nghiệm gì đó không biết. Lúc đó mình cũng hồi hộp lắm, chỉ sợ bị loại. Đường đường một đấng anh hào tình nguyện đi lính mà bị Thủ Đức chê thì còn mặt mũi nào mà nhìn ….em gái hậu phương! Cũng may, qua hết. Qua xong lại phải chờ những đợt kế tiếp cho đủ quân số mới về trường. Chờ đợi lại buồn, lại nghe lời súi …dại của mấy tên đi trước chỉ bảo, là nơi cổng sau Bệnh viện có cái nhà xác luôn luôn mở và không có lính gác. Thế là hàng ngày rủ nhau quá giang xe của đám đi khám sức khỏe ngoài Bệnh viện. Trong khi người ta khám, thì mình cứ tự nhiên ra cổng sau, bắt xe buýt vọt về nhà. Canh giờ lại trở vào bệnh viện theo xe trở về Quang Trung chẳng ai hay biết. Nghĩ lại cái thời tuổi trẻ đó thấy mình thật ẩu. Mới xa nhà xa Sài Gòn có mấy ngày mà làm như cả năm không bằng! Rồi cũng được về Thủ Đức, nôn nao kéo nhau lên mấy xe GMC, những chàng SVSQ đầu tiên của khóa 17 bắt đầu nhập trường. Thủ Đức đây rồi. Qua khỏi cổng, đoàn xe hướng về mấy dãy nhà gần Đại Giảng Đường, được mấy ông Sĩ quan cán bộ ân cần tiếp đón và ngõi lời khen vĩ đa số đã tự động hớt tóc ngắn hai phân gần như trọc lóc từ mấy ngày trước, còn ai chưa 93
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
hớt được nhắc nhở phải….xuống tóc ngay!
Đây là Đại Đội 9, đại đội đầu tiên của Khóa 17, vì lúc đó Khóa 16 đang học có 8 đại đội và Đại Đội 9 là đại đội kế tiếp của Liên Đoàn Khóa Sinh. Sĩ quan Đại Đội Trưởng ĐĐ 9 là Trung úy Trần văn Ba, bốn Trung đội trưởng, TrĐ 33 Thiếu úy Tú, TrĐ 34 Chuẩn úy Vẹn, TrĐ 35 Thiếu úy Chính, TrĐ 36 Thiếu úy Ngộ. Ân cần lúc đầu thôi, sau khi phân chia quân số về 4 trung đội là bắt đầu hò hét, Lính mà em! Ngay buổi chiều thì đi lãnh quân trang. Đầu tiên mỗi chàng lãnh một cái túi vải lớn, sau đó thì quần áo, nón sắt, nón nhựa, mùng màn, bi đông, gà men… thôi thì đủ thứ hầm bà lằng được dồn tất cả vào trong cái túi dể về phòng soạn lại. Nhớ lại ngày đó, lần đầu tiên khoát lên người bộ quần áo lính thật lúng túng và ngượng ngùng. Chơi thêm đôi giày “bôte de saut” và chiếc mũ lưởi trai nữa rồi nhìn nhau cười muốn chết! Ai được bộ quần áo vừa với khỗ người còn đở, còn không thì rộng thùng thình phải đem đi sửa. Rồi cũng xong, ra tập họp xếp hàng để đi xuống nhà ăn. Đại đội chia ra làm hai khối, TrĐ 33 và 34 đi đầu, mỗi trung đội xếp hàng 3 theo thứ tự cao trước thấp sau, tiếp theo là TrĐ 35 và 36. Cũng được chỉ bảo sơ sơ nhưng lần đầu tiên đi chung làm sao tránh khỏi lộn xộn. Rồi những ngày kế tiếp phải tập đi, tập chào kính, thôi thì đủ thứ cái gì cũng phải học. Chỉ sau mấy ngày là mọi việc đều ngon lành, đi đứng cũng đều bước, lại vừa đi vừa ca nữa mới ngon chứ! Bạn còn nhớ không, cứ thường là … “Đường trường xa, muôn vó câu bay dập dồn, đoàn hùng binh trong sương lót gió reo vang – Đi đi đi, lời thề nguyền, tung gươm thiêng, quyết chiến đấu, thề một lòng, đoàn quân ra đi …..!”. Bài ca thật có hồn, khiến những bước chân thêm vững mạnh và những cánh tay vung lên cũng nhịp nhàng. 94 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Nhưng mà có được học ngay đâu, tại là những người đàu tiên vào trường nên phải đợi những anh hùng tứ xứ khắp 4 Vùng chiến thuật về hội ngộ đông đủ mới khai giảng. Thật nản hết sức, tưởng vào trường được học bắn súng hay học cái gì cho ngon lành, ai dè cứ bị lùa đi làm tạp dịch, hết rào kẽm gai lại đi khuân vác đồ đạc từ chỗ nầy sang chỗ khác. Có một điều đặc biệt cho Khóa 17, theo thông thường mỗi khóa phải sau 8 tuần huấn nhục rồi gắn Alpha mới chính thức trở thành Sinh viên Sĩ quan và mới được đi phép. Nhưng Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng Trần Ngọc Tám chịu chơi, chưa gắn Alpha đã cho đi phép liền. Mừng hết lớn, được khoác bộ đồ civil với cái đầu trọc lóc tíu tít về Sài Gòn. Đợt đầu trưa thứ bảy đến sáng chủ nhật, đợt hai từ sáng chủ nhật đến chiều tối. Đi phép kiểu nầy cho đến ngày chính thức khai giảng. Bây giờ thì tập tành mệt nghỉ, những đôi bàn chân tội nghiệp giờ mới thấy thấm đòn. Đau quá trời mà vẫn cứ phải lết, nhất là những hôm phải đi bãi. Người nào cũng được lụi cho một mũi T.A.B., nghe nói thuốc nầy trị bá bệnh, chẳng biết có phải nhờ nó hay tại mình sức còn trai, mà nắng mưa như thế nào cũng chẳng hề hấn gì. Còn gì cực hơn khi ngồi dưới nắng chang chang để nghe giảng ….chiến thuật. Tai thì nghe nhưng mắt cứ nhắm và ngủ gục ngon lành. Có một điều tôi ấm ức bao nhiêu năm nay, giờ mới tiết lộ ra cho quý bạn nghe cho vui. Số là những lần mình đi bãi, nhà bếp chở cơm ra ăn tại chỗ, thường là bánh mì với ragou bò hoặc gà. Hôm đó sinh viên nào trực thì phải lãnh phần chia đồ ăn, phải nói là bị làm cái công việc nầy chớ ai mà ham. Mệt muốn chết, chỉ lo ăn xong rồi chui vào bụi rậm nào đó ngũ một chút cho khỏe, chớ chia xong cho mọi người rồi mới được ăn thì ham cái nổi gì…. Trở lại với trường Thủ Đức, lúc đó Khóa 16 đang học và cũng có nể nang mấy đàn anh, nhưng đến nỗi bị đì hay bị ốp. Sau khi Khóa 16 ra trường, Khóa đàn em 18 vào cũng thân thiện chớ không phân biệt hay kiếm cớ phạt nhau như những khóa sau nầy. Ngoài giờ học hay đi bãi tập chiều về thì làm gì? Nằm phè ra hay rũ nhau xuống các Câu lạc bộ, tôi còn nhớ có Diệm Song, Xuân Hương, Thanh Hoa… và nếu chịu khó cuốc bộ qua bên trường Thiết Giáp cũng thiếu gì hàng quán. Các Câu lạc bộ trong trường có cái đặc biệt là cho ăn ….thiếu chịu. Không phải ghi sổ mà là cho mượn một tập phiếu trị giá 300 đồng, cứ việc ăn và cứ việc xé phiếu trả, và cuối tháng Phòng kế toán cứ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
việc trừ vào lương của mình chứ họ đâu cần đòi. Ôi! tiền lính tính liền, mình đã hiểu ra câu đó từ ngày lãnh tháng lương đầu tiên, hết thì lại ký sổ mượn. Mà những ngày làm SVSQ thì chỉ được lãnh lương Trung sĩ thôi chư đâu có dư giã gì. Rồi cũng gắn Alpha, cũng hiên ngang diện bộ đồ vàng đi phép, rồi lại trở về trường thay lại bộ đồ trận tập bò xấp bò ngữa đổ mồ hôi tiếp. Hôm nào học trong trường thì khỏe re, mấy lớp học ở phía Phòng Quân Huấn. Từ đại đội phải đi ngang Vũ Đình Trường và phải xếp hàng đều bước là cái chắc. Bạn còn nhớ không, quân phục xanh với mũ bérêt, vai đeo túi vải đi đều bước theo nhịp đếm của cha Tuần sự Đại đội. Cứ 1234, 1234…lâu lâu lại “Đếm nhịp…Đếm!”, thế là cả đại đội lại hét lên 1234, 1234…Chưa hết, hứng lên lại còn bắt nhịp để hát “Đường trường xa, muôn vó câu bay dập dồn…”. Đổi tông thì … “Này bao hùng binh tiến lên…!”. Đi trong hàng, mình không đếm không hát cũng không được, bởi vậy nó mới tạo nên một âm thanh hùng tráng dễ thương mà đến bây giờ tôi vẫn không quên.
Tập ngoài bãi thì phải chuẩn bị lỉnh kỉnh, giầy vải nón sắt, ba lô súng đạn và cả một bi đông nước. Tập bãi thì lội bộ làm chuẩn, ra cổng Số 8 tức là cổng sau của trường cứ thế mà tiến về Đồi 30 hay các sân tập hay sân bắn khác. Một lần tập ném lựu đạn, lý thuyết xong thì đến thực hành bằng lựu đạn thật. Tới phiên tôi, cũng vào hố ciment có đấp bao cát chung quanh, cũng làm đúng thủ tục, cũng nắm mỏ vịt, cũng rút chốt và ném. rồi cuối đầu xuống cũng nghe nổ một cái “ình”…Tưởng xong, ai dè thằng cha Thượng sĩ Huấn luyện viên xanh mặt và xài xể tôi “Ông làm cái gì vậy! Chút xíu nữa tôi với ông nát bét rồi!”, rồi hắn đuổi tôi ra để nhận người khác vô. Đến bây giờ tôi cũng chẳng hiểu tôi làm sai chỗ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nào, từ đó tôi đâm ra ….ớn lựu đạn, cũng may sau mười mấy năm lính, tôi không hề phải….chơi thứ đó! Khóa 17 tụi mình còn gì đặc biệt nửa không… để coi…Ờ mà không phải khóa mình, tai nạn đáng buồn xảy ra cho Khóa 16 vào buổi thực tập súng cối. Chết và bị thương cả chục mạng chớ ít đâu! Đang thụ huấn chung một mái trường, coi như nỗi buồn chung, chưa mãn khóa đã lên chức “cố”, mà không biết gọi là “cố” gì nữa! Gần hết Giai đoạn I, đang tập tành ngon lành thì có lệnh thi trắc nghiệm để chọn Binh Chủng. Trắc nghiệm thì trắc nghiệm, bảo làm thì làm chớ có chuẩn bị gì đâu. Bài trắc nhiệm thì có những ô những số, cứ gạch đại và khoanh số tùm lum chả biết trúng hay trật. Rồi cũng chẳng hiểu dựa vào tiêu chuẩn nào mà tôi thì được về Pháo Binh, các bạn khác thì đứa đi Thiết Giáp, đứa Công Binh, đứa đi Quân Nhu Quân Cụ….đủ thứ ngành. Số còn lại thì…”Muôn đời Lục quân Việt Nam”! Lại bắt đầu cái màn bịn rịn kẻ ở người đi, riêng tôi thật chẳng khoái chút nào vì trường Pháo Binh ở mãi tuốt ngoài Dục Mỹ, Nha Trang. Mới có tí tình yêu, niềm vui là cuối tuần về bát phố với em, mà giờ phải bị đày đi xa cả mấy tháng….phải cho tôi buồn chứ! Nhưng mà cũng phải đi, hy vọng những lá thư ngàn trùng vẫn có thể an ủi được. Rồi lại nghe xì xào, Pháo Binh là binh chủng thông thái, những người được chọn đi Pháo Binh toàn là những người …..giỏi toán! Ờ , vậy là mình cũng ngon lành lắm chứ đâu phải đồ bỏ! Buồn cười vậy đó bạn. Binh chủng nào cũng có cái lý do để đề cao mình. Xem nào, Đại đội 9 đi Pháo binh có những ai… TrĐ 33 có Nguyễn văn Định, TrĐ 34 có Đào Kim Trọng, Tô Tô Hà, Nguyễn văn Toàn (thằng cù lần nầy không hiểu sao binh chủng “thông thái” lại chọn nó!), TrĐ 35 có tôi, TrĐ 36 có Bành Minh Trí, Đặng văn Kiên (cũng lại thêm một ông nội nữa được chọn lộn)..Còn mấy anh em nữa nhưng lâu quá tôi quên. Những nhà thông thái của đại đội tôi hợp với những nhà thông thái của các đại đội khác cũng gần 100 mạng được gởi ra Dục Mỹ để học Pháo Binh. Trường Pháo Binh ở xa nên các nhà thông thái phải đi trước, tưởng đi máy bay ai dè xe chở ra Bến Bạch Đằng có chiếc tàu Hải quân đợi sẵn. Đứng ló ngớ nhìn nhau với túi quân trang chẳng biết bao giờ mới lên tàu. Chợt nhận ra có Tô Tô Hà đứng bên cạnh tôi liền bảo nó: “Mày coi chừng túi đồ giùm tao, tao phải đi có chút việc gấp!” . Rồi chẳng đợi nó đồng ý hay không, tôi ngoắc ngay chiếc Taxi hối 95 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
gấp chạy về nhà em. Xe chạy như rùa bò, rồi cũng tới nhà, cũng gặp, cũng có màn bịn rịn chẳng khác nào…tuồng cải lương. Lại ngoắc Taxi chạy ngược ra bến tàu, tới nơi thấy dưới bến trống trơn, nhìn lên tàu thì quân nhà mình đang đứng lố nhố, may mà cầu tàu chưa kịp kéo lên. Tìm gặp Tô Tô Hà, nó chửi tôi quá trời, đành phải…cười trừ, dù gì cũng là bạn học cũ, giúp nhau một tí có gì mà phải….cám ơn! Tàu rời bến, mát mẻ với sông nước được một lúc, nhưng tới tối qua khỏi Nhà Bè một khoảng xa thì sóng bắt đầu nhồi, anh hùng cũng bắt đầu….thấm mệt, bò lê bò càng ói mửa. Đã vậy nửa đêm lại mưa, tầu có mái che nhưng thấm gì với sóng gió. Nằm thì không được vì sàng tàu ướt nhẹp, ngồi thì lại chóng mặt, đúng là ngất ngư con tàu đi. Chịu trận như vậy cả một đêm một ngày. Chiều hôm sau đến Nha Trang, vào gần bờ hết sóng thấy khỏe lại và cũng nhờ có gió biển nên quần áo khô lúc nào không biết. Tàu ủi ngay bãi biển, đặt chân xuống bờ cát là thấy ngay mấy chiếc GMC đã đậu sẵn với một ông Thiếu úy mặt khó đăm đăm. Sau đó mới biết là Thiếu úy Bùi Đức Lạc Khóa 7, Sĩ quan Cán bộ của Trường Pháo Binh ra đón. Tuy làm nghiêm thế chứ ổng cũng thông cảm cho đoàn xe rẽ vào một con đường gần đó, ở đây có mấy tiệm phở và thế là quân ta nhào vô lấp đầy những cái bụng đang đói lã.
Niên Trưởng Bùi Đức Lạc Riêng tôi thì lại khác, tôi có một ông anh ở Không quân từ Sài Gòn mới đổi ra, có địa chỉ nhưng không biết ở đâu, tôi cứ nhẩy đại lên một chiếc cyclo bảo chở tới số 25 đường Hồng Bàng. Cũng tới, anh chị tôi mừng rỡ, chỉ cần gặp và báo là tôi đã ra Dục Mỹ và biết nhà để sau nầy còn ra đi phép. Sau đó tôi hối ông anh chở tôi trở lại tiệm phở gấp, ông anh chở đi hỏi đường nào lúc đó tôi mớ ngớ ra không nhớ tên đường, chỉ nhớ đại khái là gần bờ biển. Loanh quanh một lúc cũng tìm ra, giờ để ý mới biết đó là đường Độc Lập. 96 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Lúc đó tại các quán phở quân ta đã ăn xong rồi, có người đã leo lên xe ngồi, riêng tôi giờ mới thấy đói nên hối nhà hàng làm gấp. Đang ăn thì ông Thiếu úy Lạc đi vào, có người điểm danh thấy thiếu một mạng nên đi tìm. Thấy tôi ngồi chung với ông anh nên người không nỡ la mà chỉ trừng mắt: “Ăn lẹ lên đi tía!”. Tôi liền làm một cái ào cho xong, rồi chạy ra leo lên xe, hú hồn!
Dục Mỹ học Pháo Binh Dục Mỹ thì chắc đa số ai cũng biết, ở đó có Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân nổi danh với những khóa Rừng Núi Sình Lầy. Trường Pháo Binh thì lại sát hàng rào chớ có đâu xa. Cả khóa được chia ra làm 3 trung đội ở riêng ba dãy nhà, cũng giường tầng với một cái tủ xài chung hai người. Đở một cái là ở đây kỷ luật không khắc khe như hồi còn ở Thủ Đức, trường nhỏ nên các phòng học gần ngay các phòng ngủ. Cũng tập họp đi đều bước đến lớp nhưng không phải đếm nhịp hay vừa đi vừa hát, vì chỉ đi mấy trăm bước đã tới lớp còn hát nổi gì! Khỏe một cái là học ngoài bãi hay ra xạ trường không phải lội bộ mà có xe đưa đến tận nơi. Lại mỗi người có một cái ghế bố xếp…..ngồi cho êm, chớ không phải ngồi xệp xuống đất như ở Thủ Đức. Súng Garant với Carbine bây giờ là ….đồ bỏ. Pháo Binh nên phải học súng lớn gọi là đại bác, và phải học đủ thứ trên trời dưới đất. Học vậy thôi chớ có nhớ gì đâu! Một vị tiền bối trong binh chủng nhớ có nói: “Học mười, nhớ ba, áp dụng có một”. Nghĩ lại cũng đúng, học cho đã ra đời cũng chỉ có Cộng, Trừ, Nhân, Chia! Quân trường học cho nhiều rốt cuộc cũng chỉ có bóp cò súng. Sau nầy ra đơn vị tự nhiên nghề dạy nghề, trăm hay không bằng tay quen, và rành nghể lúc nào cũng không biết nữa. Học tàng tàng như vậy ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nhưng vẫn cảm thấy cực, chỉ mong được mau tới thứ bảy để được ra Nha Trang nghỉ xả hơi. Ít lâu sau thư từ qua lại được biết ở Thủ Đức Khóa 18 đã vô và Khóa 17 đã được lên Alpha một gạch. Thế là mọi người lại tự động kiếm một gạch gán vào Alpha của mình cho nó oai chứ chẳng có lễ lạc gì cả. Giai đoạn 2 Pháo Binh có một người bị đánh rớt, thực ra đang học đã thi tốt nghiệp đâu mà đậu với rớt. Có điều bị gọi vê Thủ Đức chắc vì lý do an ninh hay gì đó, anh chàng nầy tên Anh người Đà Nẵng ở cùng Trung đội 3 với tôi. Giai đoạn 2 tôi nhờ hình như học năm sáu tháng gì đó, các binh chủng khác chắc cũng vậy, học xong lãnh bằng rồi về Thủ Đúc làm lễ mãn khóa chung. Giai đoạn học Pháo Binh cũng nhiều khuôn mặt thân quen với nhiều kỷ niệm nhưng nhớ không hết. Chỉ nhớ thi cuối khóa xong rồi lãnh bằng, cũng có tiệc mãn khóa và náo nức trở về Sài Gòn. Lúc ra Nha Trang bằng tàu thủy bá thở, lúc trở về bằng máy bay ngon lành. Về lại trường cũ nhưng ở riêng trên các dãy nhà ngói. Các bạn ở lại cũng hết học đang tập dượt làm lễ mãn khóa. Bộ đồ Đại lễ màu trắng hồi lễ mãn khóa ngoài Dục Mỹ đã mặc, giờ chuẩn bị lấy ra để mặc nữa. Trở về thăm mấy ông thần nước mặn ở Đại đội 9, mới xa có mấy tháng mà trông em nào em nấy cũng lớn hẳn ra, đen đúa chắc nịch chớ không còn thư sinh ẻo lả như hồi mới nhập trường, ăn cơm nhà binh gần cả năm rồi, chớ ít sao? Giờ không còn là Đại đội 9 mà đổi lại là Đại đội 4, các trung đội cũng đổi nhưng vẫn những khuôn mặt cũ. Những chàng bộ binh nầy coi vậy mà cũng hăng lắm, một số đã tình nguyện về những thứ dữ dằn. Phạm Châu Tài, Trương văn Trí, Tô văn Mười về Biệt Kích Dù. Lê Tấn Tài về Thủy quân Lục Chiến, Thạch Thành Đô về Nhảy Dù, còn Nguyễn Thế Đỉnh nhỏ con như vậy mà cũng nhất định đi Biệt Động Quân. Mà những thứ nầy đâu phải ai muốn đi thì đi, người ta phải coi giò coi cẳng mới nhận chớ chơi sao! Số còn lại thì 4 Vùng Chiến Thuật đang chờ đợi, mà giờ thì muốn đi đâu cũng được, học gần cả năm trời ai cũng ê càng, chỉ mong được sớm ra đơn vị. Đại đội 9 Trung đội 35 của tôi có Nguyễn Kim Long, tên nầy hiền khô vậy mà cũng bắt được cái Thủ Khoa ngon lành. Mới về lại trường có mấy ngày mà đã thấy cuồng chân cuồng cẳng, phải đợi đến cuối tuần mới được đi phép, lâu quá! Cũng lại nghe mấy ông bạn vàng xúi dại, muốn dọt về Sài Gòn dễ ợt. Ở phía trường Thiết Giáp có lối mòn bí mật, chui rào. Có ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
mấy người đi rồi, thành công, đã lắm! Tuổi trẻ bồng bột, chả suy nghĩ gì hơn thiệt chỉ biết bốc đồng, và thế là tôi cũng liều mạng thử. Đúng như rĩ tai, ban ngày phía Thiết Giáp không gác, cũng có lối mòn ra phía ngoài chứng tỏ có ngiều người xử dụng. Nhìn quanh không có ai, tôi khom mình trường bò giống như bò hỏa lực, cũng hồi hộp lắm chớ….Rồi cũng ra tới ngoài và làm bộ tỉnh lần ra Chợ Nhỏ đón xe lam về Sài Gòn. Đi phép với bộ đồ vàng còn hiên ngang đi đây đi đó, chớ về với cái kiểu nầy nào dám đi đâu. Cũng qua một đêm, sáng hôm sau lại leo lên xe lam về Thủ Đức. Cũng theo lời chỉ dẩn, bao xe lam vòng ra cổng sau tức cổng số 8. Tới đây thì nhục chí nam nhi! Theo đúng kịch bản thì phải rụt rè năn nỉ chú lính gác. Bị xài xể hay nạt nộ cũng phải….cười cười. Hay thiệt! Nhìn bộ dạng chắc chú lính cũng thương tình nên rồi cũng xong, nghe tiếng quát “Vô đi!” là mừng hết lớn không dám cự cãi gì! Nghĩ lại hồi đó quá dại, gặp chú lính dễ thì hên như vậy, rũi gặp tên nào khó thì….đời sẽ ra sao?! Mà đâu phải ai xa lạ, hai con chim bị trúng đạn của Pháo Binh 17 là ông Nguyễn văn Định và Đặng Tiến Hải, cả hai bị rớt ra Trung sĩ! Ở trường Pháo Binh đã lãnh bằng rồi, về Thủ Đức là chờ gắn lon thôi, ai dè đâu mắc nạn! Rớt vì kỷ luật, không biết có phải chui rào cái kiểu của tôi rồi sui sẽo bị Quân Cảnh 301 bắt, hay vì lý do gì khác? Dầu sao thì tôi cũng tai qua nạn khỏi, không dám giỡn mặt nữa mà ngoan ngoản tập dượt mãn khóa. Và ngày ra trường cũng “Quỳ xuống các Sinh viên Sĩ quan” rồi “Đứng dậy các Tân Sĩ Quan” theo cái khẩu lệnh uy nghiêm của buổi lễ ngày ra trường. Cũng ngày hôm đó bạn còn nhớ không, ngoài quan khách ngồi trên khán đài, ông Kỳ đến sau cùng bằng trực thăng, rồi trong lúc gắn lon, ông cho máy bay biểu diển và chẳng biết biểu diển bằng cách nào mà một chiếc khu trục AD6 rrớt ngoài cổng số 8. Đấy, khóa mình có một ông Không Quân hy sinh một cách lãng xẹt đúng ngày mình mãn khóa. Trong buổi lễ nầy, tôi nhớ mãi một câu trong bài diển văn của Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn Chỉ Huy Trường trường. Ông nói: “Yếu tố may mắn là yếu tố quan trọng nhất, chúc các anh trong tương lai sẽ gặp được nhiều điều may mắn”. Bạn gẫm lại đi….50 năm đã trôi qua, biết bao thăng trầm mà bây giờ mình vẫn còn liên lạc được nhau, so với những cảnh đời khác không may mắn….thì là gì? Riêng tôi không phải khoe khoang nhưng tôi 97 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
tự hào là mười mấy năm lính tôi đã đi khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Trận chiến lớn nhỏ nào cũng tham dự và sống được đến bây giờ thì kể cũng thật là may…. Để nhớ lại coi…. sau khi mãn khóa, cả đám Pháo Binh về trình diện Bộ Chỉ Huy Pháo Binh để được phân chia đi các đơn vị. Không phải đậu cao mà được ưu tiên, danh sách phân chia từng nhóm nhỏ và người đầu nhóm được chọn vùng trước. Tới phiên tôi còn được một chỗ Vùng 3, gần Sài Gòn, tôi OK liền. Sau mấy ngày phép, hình như 10 ngày thì phải, tôi và các bạn Nguyễn Thanh Vân, Đinh Quang Tuyên và Nguyễn văn Bảy nhận Sự vụ lệnh về trình diện Tiểu Đoàn 30 Pháo Binh. Đối với tôi, được về Vùng 3 là mãn nguyện rồi, giờ Tiểu Đoàn 30 Pháo Binh lại ở ngay Gò Vấp nữa, không “đã”sao được! Đã toan tính hốt phần hụi mua chiếc xe gắn máy để đi làm…Nào dè, trình diện Tiểu Đoàn Trưởng xong thì 3 ông thần kia về Pháo đội B với Pháo đội C, còn tôi được chuyển về Pháo đội A. Trung úy Nhữ Đình Đạt Pháo Đội Trưởng bắt tay bắt chân tôi xong bèn phán một câu xanh dờn: “Anh về chuẩn bị ngày mai xuống Cao Lãnh gấp!”. Tôi lùng bùng lỗ tai tưởng mình nghe lầm. Cao Lãnh là Vùng 4 chớ đâu phải Vùng 3? Hỏi thì được giải thích, TĐ 30 PB là Tiểu đoàn Tổng Trừ Bị của Quân Lực không thuộc Sư Đoàn nào, Tiểu đoàn đóng ở Vùng 3 nhưng được tăng phái cho Sư Đoàn 9 ở Vùng 4. Sau đó còn được căn dặn thêm: “Nhớ chiều nay ra mua vé xe đò đi chuyến sớm, nhớ mặc đồ civil vì ….Việt cộng hay đắp mô, còn đồ lính cho vào túi xuống bến xe hãy mặc!”…Thật nãn chí anh hùng, nhưng điều đó không quan trọng bằng rỗng túi, còn ít tiền đã xài láng hôm mấy ngày phép, giờ đã…. làm quan rồi chẳng lẽ còn xin tiền nhà! Chuyện nầy nhà binh giải quyết cái một, làm đơn và được mượn ngay một tháng lương Trung Sĩ. Đấy, có bạn nào mà ngày…vu quy ngon lành như tôi không? Trưa hôm sau cũng xuống tới Cao Lãnh, tên mới là Kiến Phong. Chưa dám thay đồ lính, vẫn còn đồ civil vác balô hỏi thăm đường đến tiền trạm của Pháo Đội. Đưa sự vụ lệnh xong tôi mới thay bộ đồ lính với cặp lon quai chảo “thượng sĩ gân” mới cáu cạnh. Tiền trạm có mấy người lo việc tiếp liệu cho 3 trung đội. Hỏi thăm sơ sơ được biết Trung đội 1A đóng ở quận Hồng Ngự, Trung đội 2A ở Mỹ An và Trung đội 3A ở quận Kiến Văn. Mới ăn được bửa cơm ở chợ Cao Lãnh thì chiều lính đi tìm, tiền trạm đã liên lạc với Tiểu Khu xin được ca nô và theo lệnh tôi 98 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
phải vào Kiến Văn gấp. Vùng 4 thì sông rạch chằng chịt, đường bộ chắc không suông sẽ nên đi ca nô cho chắc ăn. Cũng có hai chú lính hộ tống, oai hết cở! Tới Kiến Văn trời cũng nhá nhem tối, vào Trung đội 3A gặp Thiếu úy Trần văn Thả Khóa 9 Thủ Đức làm Trung đội trưởng. Nhìn thằng em mới ra trường còn ngơ ngơ ngáo ngáo đàn anh chắc tội nghiệp nên cũng ân cần săn sóc. Được biết Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 15 đóng gần đó đang thiếu Sĩ quan Tiền sát Pháo Binh. Nhiệm vụ quan trọng như thế đấy nên tôi mới phải từ Sài Gòn đi xe đò xuống gấp, lại còn được ca nô có hộ tống đưa vào tận nơi! Thiếu úy Thả chịu chơi bảo: “Tối nay cứ ở đây, mai tính”. Ngày mai thì tơi bắt đầu nghiệp “đề lô”. Như bạn biết đó, đơn vị bộ binh nào cũng phải có một toán Tiền sát viên Pháo Binh và nhiệm vụ chỉ để gọi pháo binh yểm trợ khi cần thiết. Trong trường học rồi, biết rồi, nhưng chỉ là lý thuyết và bây giờ mới là thực hành. Chỉ đi theo Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn nên cũng đỡ. Nhưng như cảnh làm dâu trăm họ, gặp ông Tiểu Đoàn Trưởng nào hiền thì nhờ, còn không thì cũng vất vã lắm. Bắt đầu lội cứ băng đồng lội ruộng, người ta đi tới đâu mình theo tới đó, Vùng 4 toàn sình lầy nên quần áo ít khi khô. Hết Đồng Tháp Mười có lần tăng cho Sư Đoàn 21 mãi dưới Chương Thiện cũng xong. Trong những dịp nầy lâu lâu gặp lại những thằng cùng khóa vui kể gì, hết gặp thằng Trinh đi tiền sát cho Trung đoàn 16 lại gặp Mạc Thành Phụng đề lô cho Trung đoàn 14. Cũng may, ít đụng trận nào nặng dù cũng nhảy trực thăng vận hết mấy lần… Nếm mùi sình lầy hết mấy tháng thì có lệnh trở về Vùng 3. Tiểu đoàn 30 Pháo binh giờ cải danh thành Tiểu đoàn 252 trực thuộc SĐ25BB và Pháo đội A của tôi được rút về vùng trách nhiệm của Sư đoàn. Thoát lội ruộng chưa kịp mừng thì có lệnh di chuyển vào vùng. Trung đội 3A của Thiếu úy Thả ở Kiến Văn vào Đồng Xoài, tôi giờ về Trung đội 2A vào Phước Thành, muốn Vùng 3 có Vùng 3 hết còn than thở. Nhưng bạn còn nhớ địa danh Chiến Khu D không? Đấy, cái tỉnh Phước Thành nó nằm gọn trong cái tên hắc ám đó. Nhiệm vụ của tôi vẫn là đề lô, trung đội kéo về đồn Bố Lá gần Phước Thành, còn tôi được lệnh xuống xe vào gặp Tiểu Đoàn 31 Biệt Động Quân đang nằm mở đường và an ninh lộ trình cho Tiểu Khu. Nhận bàn giao với ông đề lô cũ, tưởng ai hóa ra cái ông Thạc cũng Khóa 17 nhà mình. Hồi xa xưa đó không có thông lệ…. bắt tay, chỉ nhe răng cười ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nói vài ba câu là nó lên xe về Biên Hòa còn tôi ở lại. Biệt Động Quân hồi đó còn mặc đồ xanh chớ chưa có đồ rằn ri, chỉ có điều cả Tiểu đoàn đội bề rê nâu nên trông rất ngầu. Tới chiều thì có lệnh rút, rút về đồn Bố Lá. TĐ31BĐQ đóng ở đây với 3 đại đội, còn một đại đội tăng phái cho Chi khu Phú Giáo. Trục lộ Biên Hòa - Phước Thành không an ninh nên mỗi lần tiếp tế là phải mở đường. Đường đi bị đấp mô thì phải đi phá, rồi cũng phục kích, đột kích như mèo vờn chuột. BĐQ đi đâu tôi theo đó, giờ không lội ruộng mà băng rừng, khô ráo nhưng khát nước muốn chết, bi đông nước mang theo chả nhằm nhò gì. Được cái hành quân chỉ trong ngày tối còn phải về giữ đồn. Lâu lâu cũng lội tới Sông Bé và có lần hành quân chung với Tiểu khu vớ được một kho gạo chở cả chục xe GMC mới hết. Ít lâu sau thì TĐ31BĐQ đổi đi, TĐ36BĐQ vào thế, nhiệm vụ tôi vẫn như cũ và đề lô vẫn là nghề của chàng. Rồi trận Đồng Xoài nổ ra, cả đồn Bố Lá cũng xôn xao thì tôi có lệnh về Sài Gòn gấp. Đâu có mở đường, xe đưa tôi lên Phước Thành để tiền trạm xin phương tiện, lúc đó Phước Thành có một trại Lực lượng Đặc Biệt và mỗi ngày đếu có một chuyến Caribou về Biên Hòa. Tiền trạm hay thiệt, tới Phước Thành là kịp chuyến, khi tới Biên Hòa là ông Pháo đội trưởng và Cố vấn Mỹ đã đợi sẵn tức tốc chở tôi về Lái Thiêu. Trên xe ổng bảo: “Thằng Thả bị rồi, không biết chết hay bị bắt, cậu vào coi rồi báo về ngay cho tôi.” Tôi thấy như mình sắp vào chảo lửa, thì Đồng Xoài sau nầy chả nổi danh là gì! Lái Thiêu là phi trường nhỏ, tôi vào Đồng Xoài bằng trực thăng H34 chất đầy Poncho để đựng xác. Chắc xác đã chở ra một chuyến rồi nên bây giờ trở vào để chở tiếp. Xuống tới phi trường Đồng Xoài mùi tử khí đã nồng nặc, vào tới quận nơi Trung đội 3A đóng bên cạnh còn tang hoang hơn. Lính trung đội biết tôi khi còn ở Kiến Văn nên súm lại mừng rỡ. Trung đội có hai khẩu thì một khẩu đã bị dội bom cháy nằm cong queo, thượng sĩ Thạch Phương thường vụ kiêm khẩu trưởng chết, mấy người nữa chết với bị thương đã được đua ra từ sáng nay. Hỏi về Thiếu úy Thả thì mỗi đứa nói một cách, nhưng tóm lại đến giờ không thấy xác, chắc là bị bắt. Cho đến sau nầy, biết bao nhiêu năm tôi vẫn không có tin tức của anh, chắc anh đã chết trong tù hay nằm đâu đó trong rừng cao su Quản Lợi. Tội nghiệp chị Thả, lúc đó anh chị đã có hai cháu gái nhỏ. Gần ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ngày sập tiệm tôi có gặp lại chị, chị vẫn chờ, vẫn hy vọng anh trở về. Lính tráng còn lại gom được hơn mười mạng, còn Đài tác xạ và nhân viên truyền tin, còn một khẩu cũng vẫn bắn. May mà Vici chạy xa rồi, các đơn vị đổ vào tăng viện cũng chỉ để thu dọn chiến trường. Lâu lâu Chi khu cũng xin bắn vào các điểm nghi ngờ lẹt đẹt năm mười trái. Rồi mấy hôm sau có một Trung đội Pháo binh của SĐ5 vào thay thế. Dù tham dự khi tàn trận nhưng cũng được nếm mùi Đồng Xoài. Khi tôi rút nửa trung đội ra Biên Hòa thì cũng là lúc Trung đội 2A ở Bố Lá Phước Thành cũng được lệnh rút ra. Bây giờ Bình Dương và Phước Thành thuộc SĐ5, còn SĐ25 lo hai tỉnh Tây Ninh và Long An. Tôi lại vào Trung đội 2A và theo trung đội vào Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Trung Hòa ở Củ Chi thuộc tỉnh Tây Ninh, được mấy ông BĐQ gọi là hấp, vì Tiểu đoàn BĐQ nào bị sức mẽ cũng về đây tái trang bị và huấn luyện lại. Lại gặp mấy ông thần Mũ Nâu, có lần gặp thằng Nguyễn Thế Đỉnh lức TĐ33BĐQ của nó về đây hấp. Mặt mày non choẹt, còn sửa quá mà giờ cũng đeo lon Thiếu úy nắm Đại đội. Ở đây không phải lội, chỉ khi nào thực tập hành quân cấp liên đội hay tiểu đoàn khi cuối khóa mới phải đi, cũng đi lòng vòng gần đó chứ không xa. Đường từ trung tâm ra quốc lộ Sài Gòn- Tây Ninh cũng chỉ mấy cây số nhưng tiếp tế cũng phải mở đường. Bị đắp mô hay bắn sẽ là chuyện thường tình vì ở đó thuộc Mật khu Hố Bò. Sau nầy thằng ông nội Trinh khóa 17 tụi mình bị bắn què giò rồi giải ngũ cũng ở khúc đường nầy chứ đâu! Lúc đó tôi đi lâu rồi, nó ở Vùng 4 mới đổi về Tiểu đoàn 250 Pháo binh và đang coi hai khẩu 155 ly đóng ở Trung Hòa. Một lần nó về hậu cứ trở lên hơi trể, đơn vị mở đường rút về rồi nhưng nó không hay cứ ỷ y phóng xe ào ào. Tới khúc quanh có vũng lội thì bị nguyên một băng AK, cũng may nó chỉ bắn trộm, thằng VC bắn xong cũng bỏ chạy. Tài xế không sao nhưng nó bị vỡ đùi, may mà lết về tới Trung tâm và tản thương kịp. Không chết nhưng đi cà nhắc và giải ngũ. Cũng ở Trung Hòa, đang an phận với Biệt Động Quân thì lại có lệnh về Pháo đội gấp. Tưởng gì, Tiểu đoàn 2/46 nổi tiếng nghiêm khắc, sĩ quan với lính tráng sợ một phép. đề lô nào về đó cũng ớn, nhưng tới ông Đinh Quang Tuyên khóa 17 mình thì có chuyện, chàng nhất định bỏ về và không chịu đi nữa! Vậy là tôi bị trắm chỗ. Cũng nghe nói tính tình nóng nảy của Đ/u Di Tiểu đoàn trưởng nên chuẩn bị 99 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
tinh thần…nhưng không, ổng lại hợp và khoái tôi. Lâu lâu có dịp về Sài Gòn ông ngoắc tôi đi theo, một điều mà các sĩ quan khác không được ưu ái. Có lẽ nhìn tướng tôi cũng hơi “cao bồi”, một phần nữa vì vùng Cần Giuộc, Cần Đước là vùng đống bằng dễ chấm tọa độ, mấy lần ổng kêu bắn tôi hên bắn ngay chóc thế là ổng khoái. Nhớ nhất là lần đổ bộ ở Tân Trụ, vửa lên bờ bằng Giang Đoàn là bị đụng nặng, có 3 ĐĐT tác chiến thì hai đã bị thương, ngay cả ĐĐT Chỉ huy cũng bị bắn bể gối, Sĩ quan Truyển tin bị thương sau rồi cũng chết. Tôi thì bị rách áo, cũng may thật, đúng là đạn tránh người chứ người không tài nào tránh đạn. Tôi nằm kế ông ấy, kêu pháo binh bắn thật đã, vì mục tiêu thấy rõ và dễ điều chỉnh. Nghĩ lại hồi đó tôi cũng hơi ba gai, mới ra trường được mấy tháng mà tôi đã tự động gắn lon Thiếu úy. Trừ những khi phải về đơn vị liên lạc hay lãnh lương, còn ra ngoài cứ mang lon Thiếu úy cho oai. Các đơn vị tăng phái cũng chẳng ai hỏi, nếu có ai thắc mắc tôi đều nổ “lên đặc cách”! Nhưng cũng có một lần bị tổ trác, lần đó ở Long An tính trốn về Sài Gòn chơi, mới tới Phú Lâm thì bị Quân cảnh chặn lại hỏi giấy tờ vì đang có lệnh cấm trại mà đâu có biết, cũng tại khẩu sóng Colt nhét trong bụng lòi ra nên mới sanh chuyện rắc rối. Bị Quân cảnh “mời” lên xe chở về Quận vụ Thị trấn, giấy tờ thì chỉ có thẻ SVSQ màu đỏ choét với hàng chữ Khóa 17. Hết dám nổ, đành gọi về hậu cứ Pháo Đội cầu cứu, may mà gặp được ông Pháo Đội Trưởng, ổng tới liền, xài xễ cho một hồi rồi cũng bảo lãnh cho ra, nhưng thu lại khẩu súng Colt không cho mang nữa, ổng còn chở ra tận bến xe đò bắt trở về ngay đơn vị. Sau lần đó tưởng bị ký củ và cái lon Thiếu úy coi như xong nhưng chờ mãi không thấy giấy phạt. Rồi như đâu đầu năm 66 cả Khóa 17 của mình lên thiếu úy. Các bạn được lên lon chắc mừng, tôi thì không, vì như tôi nói đó tôi đã mang nó từ…. lâu rồi, chỉ có điều được lãnh lương “rappel” hơi khẳm thì khoái chí thôí. Rồi cũng tới lúc phải hết lội, các khóa đàn em ra đã nhiều và tôi phải nhường cái nghiệp đề lô cho họ. Tôi được thuyên chuyển về Pháo đội B làm Trung đội trưởng Trung đội 3B đóng tại quận Bình Phước Long An. Đối với Pháo Binh, đang phải lội giờ được ở một chỗ coi hai khẩu pháo, có lính tráng lại có xe jeep chạy vòng vòng trong quận thì còn gì hạnh phúc hơn nữa. Việc bắn chác cũng dễ, như thiên lôi, ai chỉ đâu bắn đó. Lâu lâu Chi khu gọi qua xin bắn cho đồn nầy mấy trái đồn kia mấy quả, hoặc khi những cuộc 100 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
hành quân nào có mấy đàn em đề lô xin tác xạ thì cũng yểm trợ hết mình. May lúc đó lại có một đơn vị Mỹ về đóng gần Quận, vấn đề tiếp vận của Mỹ thì khỏi nói, dư thừa đủ thứ, và khéo ngoại giao thì xin cái gì nó cũng cho. Thôi thì cọc sắt kẽm gai, sơn, ván ép…tôi cho lính qua chở về đầy sân. Lại còn ciment xin về tráng nền nhà cho trại gia binh, tráng đâu hết, thì bán! Sãn có vật liệu lại rãnh rang tôi cho tu bổ doanh trại, sơn phết, rào chắn và ít lâu sau bộ mặt Trung đội trông sáng hẳn ra. Phái đoàn nào vào thăm cũng khen, ai xin gì cũng cho, của chùa mà. Chỉ có thế thôi mà ít lâu sau nhân dịp Ngày Quân Lực hay lễ gì đó, tôi được Tiểu Đoàn chạy đặc cách lên Trung úy, cùng lên với tôi có Nguyễn Thanh Vân cùng Khóa 17 đang làm Trung đội trưởng Trung đội 2C ở Đức Hòa. Hai thằng được gọi về Tiểu Đoàn gắn lon, rồi hùng tiền rửa lon ngay tại BCH/TĐ. Nhắc đến Nguyễn Thanh Vân lại nhớ năm 2010 gặp nó ở Santa Ana nhân dịp Đại Hội Pháo Binh, giờ nó ngồi xe lăn. Nhìn nó nhắc lại chuyện xưa, nó chỉ gật gật không biết có nhớ hay không, ngày đó mày đẹp trai lắm, giờ trông thương quá Vân ơi! Còn một tên nữa, Trần Đức Thắng ở cùng Trung đội 35 Đại đội 9 với tôi sau đi Quân Cụ, mấy năm trước gặp lại cũng ngồi xe lăn. Vân bị Stroke còn Thắng bị tai nạn….còn ai nữa không? Trở lại chuyện của tôi, bắt cái Trung úy ngon lành lẽ ra an phận hưởng nhàn, nhưng nghĩ lại cái quy chế của Quân đội mình ngày đó cứ 4 năm phải thuyên chuyển đổi vùng, tôi ở Vùng 3 từ ngày ra trường, nghĩ tới việc bị đổi ra Vùng 1 Vùng 2 nản quá…Đúng lúc đó nhận được văn thư Sư Đoàn Nhảy Dù đang thành lập thêm Pháo Binh và cần những sĩ quan tình nguyện, mà SĐ Nhảy Dù đóng ngay tại Sài Gòn, ngon lành, làm đơn liền và ít tháng sau thì có lệnh thuyên chuyển. Trước khi đi được Tiểu Đoàn thông cảm cho 7 ngày phép thường niên, tờ giấy phép đầu tiên và cũng là cuối cùng của đời lính, vì từ trước tới giờ cả sau nầy có bao giờ tôi còn cầm nó được nữa đâu. Hết phép, Trung úy hiên ngang vào Trại Hoàng Hoa Thám của Nhảy Dù ở Bà Quẹo để trình diện Tiểu Đoàn Pháo Binh. Mới về buổi sáng thì buổi trưa có lệnh tháp tùng quân xa ra Bà Rịa. Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đang huấn luyện ở Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp. Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Khoa Nam và Tiểu Đoàn Pháo Binh cũng đang ở ngoài đó để tham dự hành quân mãn khóa. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ra tới nơi trình diện Thiếu tá Huỳnh Long Phi Tiểu đoàn trưởng. Mới về chưa có chức vụ gì, ổng cho ngồi trực ở TOC để làm quen. Hôm sau TĐ3ND nhảy xuống bãi nhảy ở chân núi Thị Vãi, trước đó Pháo binh cũng bắn ầm ầm nhì ciné. Rãnh việc tôi qua Pháo đội để thăm dân cho biết sự tình. Gặp thằng Đào Kim Trọng cùng Khóa 17, nó còn thiếu úy đang làm Sĩ quan Tác xạ của Pháo đội B Nhảy Dù. Thằng nầy đâu có chịu thua ai, thấy tôi đeo lon Trung úy nó kênh kênh “Mày phe đảng hay chạy chọt mà lên sớm vậy mậy?”. Chỉ cười thôi chớ cãi với nó làm chi cho mệt. Trước đó nó ở Pháo Binh Sư Đoàn 7, ba gai còn hơn tôi, không xuống Chuẩn úy còn may chứ ở đó mà đòi lên Trung úy! Nó còn bảo: “Thằng Đào văn Thương làm Sĩ quan Tác xạ cho Pháo Đội A đang hành quân ngoài Dakto, khóa 17 của mình có mày vể nữa là 3 thằng…”. Cũng thấy ấm lòng vì gặp lại hai thằng bạn. Hành quân xong kéo về Sài Gòn được đi học nhảy dù. Không phân biệt quan lính gì cả, cũng chạy, cũng bò chung với tân binh và cũng nhảy đủ 4 saut ngày và một saut đêm rồi được gắn bằng Nhảy dù. Giờ mới biết lương của Nhảy dù cao hơn Bộ binh cũng nhờ cái bằng nầy, cũng gần một ngàn chớ ít sao? Đầu năm 68 gần tới ngày Tết thì được lệnh ra Huế làm Sĩ quan Liên lạc cho Chiến Đoàn 1 ND đang hành quân ngoài đó. Trình diện Thiếu ta Lê Quang Lưỡng ở Hải Lăng gần Quảng Trị, lúc đó chưa đổi thành Lữ Đoàn và Thiếu tá Lưỡng mới giữ chức Chiến Đoàn Trưởng. Chiến đoàn cũng mới xong một cuộc hành quân và nghĩ chỉnh bị. Tôi qua PĐ C Nhảy dù đóng ở gần đó để thăm một người “quen”, ông Thiếu úy Bùi Đức Lạc ở trường Pháo Binh ngày xưa chư ai! Ngài bây giờ là Pháo đội trưởng Pháo đội C và vẫn còn mang lon Trung úy. Ngày còn là SVSQ thì ngán ổng chứ tôi cũng là Trung úy đâu có ngán! Nói vậy chứ gặp ổng cũng phải chào và gọi Trung úy đàng hoàng chớ đâu có dám giởn mặt, nhất là lại đang ở Nhảy dù! Cuối năm Chiến đoàn và Pháo đội C kéo về cây số 17 gần An Lỗ. Cây số 17 trở thành địa danh vì cách Huế 17 cây số. Các đơn vị chuẩn bị ăn Tết vì có lệnh hưu chiến 3 ngày. Ngày 30 yên chí không có hành quân, tôi và mấy tên nữa rũ nhau về Huế. Có quen biết ai đâu, cứ đi vòng vòng ngắm thiên hạ sắm Tết với không khí thật an bình, có ngờ đâu ngày hôm sau, Huế và những thành phố khác bị tấn công đồng loạt. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Mùng 2 Tết tôi theo Chiến đoàn cùng với TĐ 2 và TĐ 7 ND vào Huế. Vào bằng cửa An Hòa không được, phải vào bằng cửa hậu thành Mang Cá, mấy ngày sau Pháo đội C trực thăng vận vào và đụng một trận tơi bời hoa lá. Hai tuần sau có Thủy quân Lục chiến ra thay thế và Nhảy dù được bốc về Sài Gòn. Tôi được chuyển về làm Pháo đội phó cho thầy Lạc và cũng yểm trợ tối tăm mặt mũi trong dịp VC tấn công đợt hai. Pháo binh Dù không có Trung đội, đi đâu cũng kéo cả Pháo đội 6 khẩu, nên mỗi lần tác xạ là bắn rầm rầm, đã lắm! Sĩ quan chỉ có Trưởng, Phó và Sĩ quan Tác xạ, nếu cần chỉ có hai người cũng xong. Sau Tết Mậu Thân, Pháo binh Dù thành lập thêm 2 tiểu đoàn, lại thêm một số sĩ quan được bỗ sung. Khóa 17 về lần lượt có Đinh Thành Tấn, Bành Minh Trí, Nguyễn văn Toàn, Nguyễn Kim Minh cộng lại 7 mạng và bây giờ ai cũng Trung úy hết. Đào Kim Trọng đi học Khóa 1/68 Pháo Đội Trưởng rồi tới tôi học khóa 2/68. Học xong đầu năm 69 tôi bắt cái chức Pháo đội trưởng Pháo đội C1 do Đại úy Bùi Đức Lạc bàn giao để người đi nhận chức Tiểu Đoàn Phó. Khoảng thời gian tôi làm Pháo đội trưởng thật vất vả, nhận PĐ xong thì kéo xuống Tây Ninh. Lúc nầy Nhảy Dù hành quân phối hợp với SĐ 1 Không Kỵ Hoa Kỳ. Gọi là không kỵ vì họ chuyên trực thăng vận, các căn cứ luôn đóng trong rừng và di chuyển luôn luôn bằng trực thăng. Vùng hành quân được chỉ định xong, BCH Tiểu đoàn với một Đại đội và một Pháo đội nhảy xuống lập căn cứ hỏa lực để yểm trợ cho các đại đội hoạt động bên ngoài. Lâu lâu lại đổi căn cứ, Bộ binh thì dễ, chỉ có ba lô súng đạn thật nhẹ nhàng, còn pháo binh súng ống đạn dược phải bó lưới hay dây cột gọn gàng để trực thăng câu đi. Đầu năm 70 tôi bị một cú đặc công, lúc đó đóng chung với TĐ2ND ở căn cứ Caroline, các Căn cứ đều lấy tên người đẹp! Pháo đội của Đinh thành Tấn ở Sandra, Đào văn Thương ở Vicky, Nguyễn văn Đương ở Dianna (tên nầy sau trở thành Anh Hùng Mũ Đỏ tên….Đương). Chẳng hiểu sao nó nhắm căn cứ của tôi, nhưng may nhờ lính Pháo đội tôi phát giác kịp thời và hạ được 3 tên ngay trong khẩu đội, nhờ đó toàn căn cứ báo động kịp thời nên hạ thêm được 16 tên nữa, cùng bắt sống 1 tên. Tôi bị phá mất một khẩu với 2 nhân viên khẩu đội bị thương. Sau đó tôi được lên Đại úy và Mỹ gắn cho cái Bronze Medal. Ít lâu sau lại nhảy qua Kampuchia với TĐ9ND trong cuộc hành quân của Quân Đoàn 3. Nhảy xuống đồn điền cao su Mimot 101 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tiểu đoàn 9 đụng nặng và Pháo đội cũng bắn tơi bời hoa lá. Một lần đang bắn thì bị đạn nổ trong nòng, tai nạn nghể nghiệp mà chỉ có Pháo Binh mới hiểu, có lính chết và bị thương, trường hợp nầy bị đau và thảm còn hơn bị địch pháo kính. May được Pháo đội A1 CỦA Đinh thành Tấn vào thay và Pháo đội tôi được bốc về Sài Gòn để nghỉ.
Vận Chuyển Pháo qua Hạ Lào Đầu năm 71 lại ra Quân Đoàn I để tham dự cuộc Hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào, lần nầy Nhảy Dù hành quân cả Sư Đoàn, mỗi Tiểu đoàn Pháo Binh yểm trợ cho một Lữ Đoàn, và mỗi Pháo đội đi theo một Tiểu đoàn. Trận nầy nhiều người viết và các bạn cũng đã đọc rồi, chỉ xin nói thêm về mấy thằng Khóa 17 mình cùng tham dự cuộc hành quân bi thảm nầy. Theo phối trí lúc ban đầu, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù thiết lập 3 căn cứ phía Bắc để án ngữ. Căn cứ 30 với TĐ2ND và Pháo đội C3 của Bành Minh Trí. Kế tiếp là Căn cứ 31với BCH/LĐ3, TĐ3PB và Pháo đội B3 của Nguyễn văn Đương yểm trợ cho TĐ3ND. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 102
Sau đó TĐ6ND và Pháo đội Ả của Đào Kim Trọng sẽ nhảy xuống Căn cứ 32. Tại phía Nam, Lữ Đoàn 1 Thiết Giáp, LĐ1ND, TĐ1PB và Pháo đội A1 của Đinh Thành Tấn sẽ là nổ lực chính theo đường số 9 tiến đánh Chépone. Sau khi chiếm Chépone xong, TĐ8ND và Pháo đội C1 của tôi sẽ nhảy vào và cứ thế tiến sâu hơn. Nguyễn văn Toàn lúc đó là Pháo đội trưởng PĐCH của TĐ2PB đóng ở Tà Bạt Làng Vei để làm trừ bị. Đào văn Thương lúc đó đang làm Trưởng Ban 3 của TĐ3PB đóng ở căn cứ 31 với Nguyễn văn Đương PĐT/PĐB3. Mấy ngày đầu thì suông sẽ nhưng càng về sau thì càng bi đát, khởi đầu là căn cứ 31 hứng pháo, căn cứ bị tê liệt và tràn ngập. Đại tá Thọ LĐT/LĐ3, Trung tá Châu TĐT/TĐ3PB, TĐPhó và Đào văn Thương bị bắt, còn Nguyễn văn Đương thì trở thành huyền thoại. Hết 31 tới căn cứ 30 bị pháo dữ dội, TĐ2ND và PĐ của Bành Minh Trí phải phá súng rút về phía sau rồi được bốc về Khe Sanh bằng trực thăng. Tại đường số 9, Đinh thành Tấn và Bộ Chỉ Huy Hành quân đóng tại căn cứ A Lưới giờ bị địch dồn hỏa lực pháo và dần dần cũng bị tê liệt. Tình hình như thế nên PĐ C1 của tôi và A3 của Đào Kim Trọng cứ dậm chân tại Khe Sanh. Không có việc gí làm, Pháo đội của Trọng bị cân hồ đi hộ tống đoàn xe đạn tiếp tế cho các căn cứ của TĐ2PB đóng dọc theo đường số 9. Nó còn được bước qua Hạ Lào chứ tôi chỉ đến Lao Bảo những ngày đầu để yểm trợ cho Chiến Đòn vượt biên, còn sau đó về Khe Sanh để hồi hộp nằm chở. Tuy không nhảy qua Lào, nhưng tôi phải xé lẻ pháo đội tăng cường 3 khẩu đội cho Đinh thành Tấn vì pháo đội của nó bị thương nhiều. Sau trận Hạ Lào, Khóa 17 tụi tôi giờ trở thành thâm niên và lần lượt bàn giao pháo đội cho các khóa đàn em. Đinh Thành Tấn lên làm SQ Ban 3, tôi nắm PĐ/CH để chờ đi học Khóa Pháo Binh Cao Cấp tại Mỹ. Đào Kim Trọng làm SQ Ban 3 cho TĐ3PB, còn Bành Minh Trí thì giải ngũ vì lý do gia cảnh. Riêng tôi thi Anh Ngữ xong xuôi chờ gọi đi học thì xảy ra Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72 nên khóa học bị cúp luôn. Lúc đó, LĐ1 và LĐ3ND ở An Lộc còn TĐ1PB và LĐ2ND ở Kontum. Trận nầy căn cứ Charlie với anh Nguyễn Đình Bảo bị mất, rồi căn cứ Tân Cảnh với BTL/SĐ22BB cũng mất. LĐ2 sau đó rút về Kontum, ít lâu sau bàn giao cho SĐ23BB và được bốc về Sài Gòn để rồi lại trở ra Vùng I để chặn địch tại sông Mỹ Chánh. Rồi cả hai SĐ Dù và TQLC cùng đổ ra ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Huế sát cánh với SĐ1BB để giữ Huế và tái chiến Cổ Thành Quảng Trị. Trận chiến khốc liệt nầy quý bạn cũng đã biết, khỏi cần phải mô tả lại. Tôi giờ lãnh nhiệm vụ hàng ngày ra Phi trường Phú Bài để bay L19 vào Cổ Thành quan sát và bắn pháo binh. Bay tuốt trên cao vì sợ phòng không nhưng ngìn xuống Cổ Thành vẫn rõ, nhất là mỗi lần bắn khói bụi bốc lên thật dễ điều chỉnh. Mỗi lần có tôi ở dưới đều mừng lắm, cứ nhờ điều chỉnh chỗ nầy chỗ nọ, thì bắn! Có lần tôi chơi TOT một lúc cả mấy Pháo đội nổ chẳng thua gì B52, có người gọi là B53. Cũng trong trận nầy lâu lâu gặp các ông Khóa 17 nhà mình, bây giờ người nào cũng già dặn chiến trường. Gặp Lê thanh Phụng ở Hải Lăng nó làm PĐT pháo đội 175 ly đang bắn ầm ầm ra phía Ái Tử, súng của nó vừa to vừa dài, bắn tới 30 cây số chớ ít đâu. Rồi Phạm Châu Tài vừa gắn lon Thiếu Tá ở trận An Lộc, nó tìm tôi và Đào Kim Trọng để khoe lon mới. Gặp nhau trong cảnh khói lửa mịt mùng chỉ bắt tay rồi cười chứ đâu có hàng quán nào để mà cụng ly! Rồi lại gặp thêm thằng Ngữ mắt kiếng giờ đang làm Pháo Đội Trưởng Pháo đội Rada, đồ nghề của nó chuyên hướng vào núi tìm pháo địch. Một lần ra Huế lại gặp Nguyễn Năng Chín tự Ba Lém, trước ở Trung đội 33 ĐĐ9. Tên nầy mới ngon, lúc đó đã là Thiếu Tá TĐT của Trung Đoàn 54/SĐ1BB. Những ngày cuối cùng nó còn bắt cái lon Trung Tá, và có lẽ là người mang lon Trung Tá đầu tiên của khóa mình. Rồi hòa đàm Ba Lê xảy ra, có ngưng chiến nhưng ND và TQLC vẫn chôn chân ngoài Vùng I. Tôi giờ đổi về BCH/PBSĐ ngồi chơi xơi nước và giữa năm 74 thuyên chuyển về TĐ2PB làm Trưởng Ban 3. Rồi VC lại vi phạm hiệp định, lấn chiếm Phước Long và tấn công quận Thường Đức. Nhảy Dù lại di chuyển về Đà Nẳng, LĐ3ND lại một phen chơi xã láng, các Tiểu đoàn Dù 1, 2, 3, 5, 8, 9 thay nhau tái chiếm Đồi 1062 và TĐ2PB của tôi cũng yểm trợ mệt nghỉ. Đầu năm 75 tôi lên Thiếu Tá, cũng tưởng cuộc đời binh nghiệp rộng mở nào dè địch lại tấn công Ban Mê Thuột và cuộc di tản của QĐ2 trên Tỉnh lộ 7 đầy khốc liệt. Giữa lúc đó lại có lệnh Nhảy Dù được rút về Sài Gòn, các đơn vị khác được không vận, riêng BCH/LĐ3, TĐ2PB và các Tiểu Đoàn 2, 5, 6, 7 lại đi bằng tàu thủy. Đi bằng gì cũng được, miển là được rút về Sài Gòn. Nhưng có như vậy đâu, tới Nha Trang thì có lệnh đổ bộ lên Nha Trang. Cũng tại bãi biển nầy giữa năm 64, tôi cùng Khóa 17 Pháo binh vào đây để lên xe về trường Pháo binh Dục Mỹ. Giờ đơn vị tôi lại cùng Lữ đoàn 3 ND ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
xuống tàu đi qua trường Dục Mỹ và hướng về Khánh Dương để ngăn chặn địch đang tử Ban Mê Thuột tràn xuống. Những ngày tháng đó tin tức thật bất lợi, hết Ban Mê Thuột lại tới Đà Nẳng mất. Ba Tiểu đoàn Nhảy Dù dàn hàng ngang trên đèo M’Brak Khánh Dương không chịu nổi cơn cuồng phong ập tới. BCH/LĐ3ND kịp rút về đèo Rọ Tượng, còn các Tiểu đoàn 2, 5, 6 và 3 Pháo đội A2, B2, C2 bị tràn ngập và đành thúc thủ. Từ đèo Rọ Tượng tôi ra lệnh cho 3 pháo đội phá súng bằng lựu đạn MK5, ra lệnh mà muốn chảy nước mắt. Sau nầy gặp lại những người về kể lại, thật bi thảm…Hàng ngày tôi và Trung tá Khôi LĐ Phó bay ngược về Khánh Dương để tìm các đơn vị thất lạc. Tr/T Khôi gọi được Trung tá Bùi Quyền TĐT/TĐ5ND, còn 3 pháo đội của tôi chẳng gọi được ai. TĐ5ND sau đó được bốc về Phan Rang với quân số còn gần 200 người, còn TĐ2, TĐ6 và pháo binh coi như thất lạc. Bây giờ Phan Rang là tuyến đầu, LĐ3ND được lệnh tử thủ cùng với SĐ6KQ. Tử thủ gì được nữa khi tàn quân chỉ toàn là lính văn phòng với lính tiền trạm của các đơn vị. Sự thực chỉ là để làm nút chặn để đón những lính thất lạc đang trà trộn theo đoàn dân chúng di tản đang nườm nượp đổ về. Một lần tôi ra đứng ở Tháp Chàm cùng với toán Trinh sát của Lữ Đoàn nhìn đoàn xe đang xuôi Nam, thì có một người đàn ông lưng cõng một đứa bé tách đám đông nhào tới gọi tên tôi mừng rỡ. Tưởng ai, Thiếu tá Phương TĐPhó TĐ2ND mặt mũi bơ phờ nói như muốn đứt hơi….: “Thấy mầy như chết đi sống lại! Lữ Đoàn ở đâu?....” Tôi vội chở Phương vào phi trường gặp ĐT Phát LĐT. Chuyện của nó dài dòng và bi thảm lắm, dù sao thì cũng đã tìm về được đơn vị. Sau đó tôi cũng nhận được Trung úy Ly Pháo đội phó PĐ/C2 của tôi cùng mười mấy người lính nữa. Mỗi người mỗi cảnh ngộ, bị tràn ngập rồi mạnh ai nấy tìm đường tẩu thoát… Được hai tuần thì LĐ2 của ĐT Nguyễn Thu Lương với 3 TĐ 3, 7, 11 ND và TĐ1PB ra thay thế. Đây mới là lực lượng chính để tử thủ và rồi tất cả cũng không cứu vãn gì được, tất cả cũng bị cuốn trôi như mọi người đã biết. Riêng Tiểu đoàn tôi khi về đến hậu cứ Nguyễn Huệ đối diện với Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa thì nhận được lệnh tái thành lập đơn vị. Lúc nầy đúng là lúc dầu sôi lửa bỏng, mọi nguyên tắc tham mưu với sách vỡ kể như bỏ, mà tất cả chỉ có lệnh và phải thi hành. Được lãnh ngay 18 khẩu đại bác 105 ly mới, lính thì chỉ có một số ít lính cũ, còn toàn là lính 103 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
văn phòng với quân phạm được bổ sung cho đủ bảng cấp số. Như các bạn đã biết, Pháo binh là đơn vị chuyên môn kỷ thuật. Ngày trước huấn luyện một pháo đội cũng phải ra trường Pháo binh Dục Mỹ, mà bây giờ nguyên một Tiểu đoàn tái thành lập và huấn luyện ngay trong sân hậu cứ thì thử hỏi làm sao khá được. Tiểu đoàn trưởng thì mắc chạy chỗ nầy chỗ kia xin xỏ dụng cụ tác xạ, nên tôi được giao toàn quyền tự biên tự diển. Rồi cũng xong, cũng hình thành 3 Pháo đội Tác xạ. Huấn luyện chưa đâu vào đâu thì ngày 29 tháng 4 năm 1975 có lệnh rút về Sài Gòn. Hai PĐ sẽ về đóng tại Trường đua Phú Thọ và một PĐ đóng tại sân vận động Cộng Hòa. Ông TĐT của tôi về BTL họp vẫn chưa về, tôi phải tự quyết định, và khi đoàn xe của Phòng 4 Sư đoàn xuống mới hởi ơi, không phải xe GMC kéo súng mà toàn là xe 18 bánh dùng để chở đạn. Xe cơ hữu chỉ có ít cái, thôi thì ngộ biến thì phải tòng quyền, phải dùng xe cần cẩu câu 2 đại bác lên một xe và rồi cũng đủ cho cả một Tiểu đoàn Pháo binh 18 khẩu kéo về Sài Gòn. Lúc nầy xa lộ Biên Hòa cũng kẹt cứng các đơn vị dồn về, mãi đến 3 giờ chiều mới đến cầu Phan Thanh Giản. Tại đây lại gặp rắc rối, một chiếc thiết giáp M48 chắn ngay giữa cầu với những vòng kẽm gai Concertina ngăn chặn không cho ai vào Thủ Đô. Lại phải liên lạc, phải chờ đợi và cuối cùng thì Tiểu đoàn tôi cũng được cho vào. Sân banh Cộng Hòa và Trường đua Phú Thọ cũng gần nhau. Chỉ đường cho PĐ/C2 của Trung úy Lập vào chiếm đóng vị trí ở sân Cộng Hòa, còn tôi và hai Pháo đội A2 và B2 vào Trường đua Phú Thọ. Tại đây có BTL của SĐ 106 BĐQ, lại gặp mấy ông BĐQ. Trường đua rộng mênh mông, trước chỉ đứng trên khán đài nhìn ngựa chạy, giờ thì thay ngựa đứng giữa sân. Chỉ kịp thả súng xuống, gióng hướng súng rồi vội cho xe chạy đi Gò Vấp lãnh đạn vì cả Tiểu đoàn mà chỉ có mấy chục quả cơ hữu. Xong rồi thì chẳng liên lạc được với ai, mất liên lạc với BCH/PB/ SĐND dù khoảng cách từ đây đến Trại Hoàng Hoa Thám cũng không xa lắm. Chỉ bắt liên lạc hàng ngang được với một vài đơn vị bạn nhưng hệ thống của ai cũng bận rộn thành ra cũng chẳng biết nhiệm vụ của mình giờ phải làm gì. Bộ Chỉ Huy TĐ giờ ngoài tôi chỉ còn có Tr/u Tính SQ Trợ Y và Nguyễn văn Toàn PĐT/PĐCH. Ông nội Toàn Khóa 17 nhà mình theo tôi chạy từ Dục Mỹ về đến Phan Rang rồi bây giờ về tới Sài Gòn. Cả đêm 104 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
29 thật sốt ruột sốt gan, TĐT của tôi bị kẹt ở đâu đó vẫn chưa về, tôi bây giờ độc diển, cũng tưởng cờ tới tay bây giờ sắp được phất. Hết ra lệnh cho 3 Pháo đội tác xạ, lại tới ông Toàn vào hỏi đủ thứ, khi thì nó gọi tôi bằng Thiếu Tá, khi thì nó mày tao cứ loạn cả lên. Đêm 29 là cái đêm không ngủ, có lẻ không phải mình tôi mà cả Sài Gòn ai cũng đang lo lắng bồn chồn. Không liên lạc được với ai nên giờ chỉ còn biết rà máy theo dõi các tin tức từ các đơn vị bạn để rồi chỉ được nghe những báo cáo hổn loạn. Từ Trường đua nhìn về hướng Bà Quẹo thấy một chiếc Hỏa Long C119 đang quần quần khạc đạn lửa xuống và ở dưới phòng không bắn lên thấy rõ mồn một, như vậy địch đã vào gần lắm rồi. Buổi sáng ngày 30 tháng 4 các xe đi lãnh đạn vẫn chưa về, lo vì lỡ bây giờ có lệnh bắn không biết phải làm sao? Đang lo thì Đào Kim Trọng từ BCH/ PB/SĐND trong Trại Hoàng Hoa Thám chạy ra, nó cho biết từ chiều qua bị pháo tê liệt và Bộ Tư Lệnh đã di tản, hèn chi tôi không liên lạc được. Lát sau bên Bộ Tư Lệnh SĐ 106 BĐQ cho người mời tôi qua họp, Bộ Tư Lệnh đặt ngay dưới gầm khán đài trường đua. Buổi họp chỉ có Đại Tá Lộc Tư Lệnh và Đại Tá Ủy TLPhó. Đại Tá Lộc yêu cầu tôi bắn cho BĐQ vì 3 Liên đoàn của ông ở Bà Hom đang đụng nặng mà không có ai yểm trợ. Tôi thật bất ngờ, về đây tưởng bắn cho Nhảy Dù nào dẻ bây giờ BĐQ lại yêu cầu. Tới giờ phút nầy mà tôi còn giữ nguyên tắc tham mưu, tôi từ chối vì tôi còn phải hỏi về Bộ Tư Lệnh SĐND đã, nhưng thực sự thì từ hôm qua tới nay tôi có liên lạc được với ai đâu mà hỏi. Ông sai lính pha cà phê sửa cho tôi uống, trong đời lính dễ gì được một ông Tư Lệnh o bế như vậy. Được uống cà phê nhưng tôi vẫn từ chối vì không…. có đạn. Tưởng thế là xong, ai dè ông bảo: “Đạn dược anh khỏi lo” rồi ông chỉ tay về cuối Trường đua, cả một núi đạn Pháo Binh mà từ hôm qua tôi cứ tưởng là đạn súng cối. Khoảng cách từ chỗ đó về vị trí Pháo đội cũng khá xa nên tôi lại từ chối vì lính của tôi ít quá không đủ người vác về. Ông lại bảo: “Anh cũng khỏi lo luôn, lính tôi sẽ vác đạn cho anh”. Ông liền ra lệnh cho một ông Đại úy huy động cả trăm lính đi vác đạn cho Nhảy Dù, thật hết đường từ chối! Nhưng tôi lại chợt nổi lòng tham vì thấy các thùng đạn còn mới quá: “Tôi bắn cho Đại Tá nhưng thùng gổ tôi lấy”- “Anh cứ lấy!” Xin các bạn thông cảm cho tôi, Pháo binh chỉ sống nhờ thùng gỗ đạn, nhờ đó mới có tiền cà phê cà ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
pháo, trong số kia nếu có đuôi đồng nữa thì kể như tôi vớ được khẳm. Thế là lính BĐQ túa ra vác đạn về cho Pháo Binh. Tôi ra lệnh cho hai Pháo đội chuẩn bị tác xạ, cũng là dịp cho lính mới của tôi thực tập. Mấy Liên Đoàn BĐQ ở Bà Hom vào hệ thống tác xạ và chỉ ít phút sau đạn nổ rầm rầm. Hai Pháo đội 12 khẩu từ Trung tâm Sài Gòn cứ hướng ra ngoại ô vùng Bà Hom mà bắn liên tục. Tới gần trưa, đống thùng gỗ chất khá cao nhìn …đã con mắt! Đang bắn ngon lành thì thật ngỡ ngàng, trên Đài phát thanh, Tổng Thống Đương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Tôi không còn nhớ tâm trạng của tôi lúc đó ra sao. Chỉ nhớ trước đó Trường đua Phú Thọ còn nhộn nhịp lính tráng đi lại sinh hoạt, đạn pháo của tôi còn nổ rầm rầm mà chỉ ít phút sau trở nên náo loạn và tan biến.
Khóa 17 Thủ Ðức Hội Ngộ Sáu ba nhập ngũ cũng như ai Thi hành nghĩa vụ chí làm trai Tôi vào Thủ Đức khóa mười bảy, Học ngành Quân Nhu giai đoạn hai. Chín tháng luyện kinh sữ miệt mài Sáu tư mản khóa “nón tung bay” Buổi lễ ra trường long trọng đó, Tôi còn mãi nhớ đến ngày nay.
Cuối cùng thì tôi, Đào Kim Trọng và Nguyễn văn Toàn ba thằng Khóa 17 đành “giã từ vũ khí” và chia tay nhau tại Trường đua Phú Thọ. Năm mươi năm rồi đấy bạn ! Có phải đúng như một giấc mơ không?
Rời quân trường anh đó tôi đây Cuộc chiến tàn theo bước lạc loài Tưởng sẽ chẳng bao giờ tương ngộ, Ai ngờ mình có được hôm nay!
California, 30 tháng 4 năm 2014 Nguyễn Kim Việt Trung Đội 35 Đại Đội 9 Khóa 17 Thủ Đức
Anh em đồng khóa chuyển tin hay Hội ngộ đầu tiên sắp đến ngày… Ôi ! bao ký ức nơi Trường Mẹ Chia sẻ buồn vui kỷ niệm đầy! Thơ Phạm Trung Hân Cựu SVSQ/K17TĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 105
Lính
&
Thảo Ca Nguyễn Xuân Phần Khóa 17 SQTB/TĐ
Thơ
DI CHÚC
HÁT KHÚC “LỤC QUÂN VIỆT NAM” NHỚ QUÂN TRƯỜNG CŨ. Bao người trẻ nay về đâu ai biết Tháng năm dài biền biệt những đêm sương. Hồn vất vưởng nơi rừng sâu núi thẳm. Hay xác thân vùi dưới đáy đại dương! Anh phương nào hởi người trai Thủ Đức? Quân trường xưa giờ đã mất lối về Anh nằm xuống hay vẫn còn lẩn khuất…. Bên cuộc đời oan nghiệt giữa quê hương? “Này bao hùng binh tiến lên !”…… Lời ca trầm hùng các anh từng hát Nhịp bước chân vang vọng Vũ Đình Trường Nung chí cả quyết giữ yên Quê Mẹ Mà ngờ đâu chim gãy cánh giữa đường! Nơi xứ lạ buổi thu về hội ngộ Mắt dõi nhìn tìm lại bóng hình quen… Đâu còn nữa, tóc sầu nay bạc trắng Mắt lệ hoen mờ thương nhớ cố hương !
Đất nước kể từ lập quốc Trải qua nhiều cuộc bễ dâu Ông cha quật cường tranh đấu, Giữ yên Quê Mẹ tươi màu. Trên chặng đường dài Nam tiến Đổ bao nước mắt mồ hôi Tiền nhân chung lòng xây đấp, Sao không ra sức tô bồi? Giờ đây lũ người hèn nhát Cúi đầu thần phục ngoại bang. Cắt dâng rừng vàng biển bạc, Còn đâu hùng khí ngang tàn ! Quên mất ngàn năm nô lệ Sử xanh bia đá còn ghi Kiếm thiêng chém đầu giặc Bắc Sông Hồng chôn xác quân thù .
Huyïìn Thoaåi
Mẹ xưa dẫn con lên núi Đâu ngờ con biến vượn rừng Ngày về đồng bằng tàn bạo Mẹ buồn mắt lệ rưng rưng. Cha xưa dắt con xuống biển Lần mò tìm kiếm tương lai Nay kẻ lạc loài đất khách Đứa chôn thân xác đảo ngoài. Trăm con giờ đây lý tán Vọng về đất nước thương cha Khóc Mẹ một đời ai oán Hắt hiu bóng xế tuổi già.
Thaão Ca ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 106
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Họp mặt Liên Binh Chủng Cựu SVSQ/K17TĐ lần đầu tiên Mùa Hè 2005 tại Nam California, thứ tự từ trái sang phải : - Một bạn không nhớ tên, Lê văn Ni (chết), Nguyễn văn Kha (BB-San José), Phạm Châu Tài (BCDù-Santa Ana), Lê Viết (BB-Arizona), Trần Đức Thắng (Ngồi xe lăn-QCụ-Santa Ana), Lê Đình Bảo (TQLC-Cali, Nguyễn Thế Đỉnh (BĐQ-Santa Ana), Bà xã anh Phúc, Bà xã anh Hiệp, Nguyễn Kim Hiệp (QCụ-Santa Ana), Nguyễn văn Phúc (BB-San José)
Họp mặt Liên Binh Chủng cựu SVSQ/ K17TĐ lần đầu tiên Mùa Hè năm 2005 tại Nam California, thứ tự từ trái sang phải: - Lê văn Ni (chết), Một bạn không nhớ tên, Phạm Trọng Phúc (CTCT-Chết), Phạm Châu Tài (81 BCD, Tô văn Mười (LLĐB/Delta), Nguyễn kim Hiệp (QCụ), Lê Viết (BB), Nguyễn Thế Đỉnh (BĐQ), Nguyễn văn Phúc (BB), Nguyễn Kha (BB), Lê Đình Bảo (TQLC), Đào Kim Trọng (PB)
ng Văn phò 3 àn Tiểu Đo ồm các ng Sinh viê 1 và 12 0-1 ĐĐ 9-1 Sinh hoạt SVSQ bên trong Đại Giảng
Đường
Huấn Luyện Viên và SVSQ
Di hành thực tập Chiến thuật ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 107
ÂM BA TIẾNG SẤM VŨ NINH Nghĩa Quân Kinh Bắc Nguyễn Đình Liêm Cựu SVSQ Khóa 17 TBTĐ “Thủa trời đất nỗi cơn gió bụi……” Chinh Phụ Ngâm Nhân ngày Lễ Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ năm nay, các đài TV Mỹ cho trình chiếu lại những hình ảnh của người lính đồng minh đã hào hùng hy sinh cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong ký ức của dân Việt tỵ nạn Cộng Sản, bỗng dưng bị làm sống lại những hình ảnh đẹp của một thời hàng hàng lớp lớp “thanh sĩ phu” Việt Nam cởi áo sinh viên - với ít nhiều màu sắc “híp pi”- của những năm 62-63 để lên đường: “ (Đông vô số kể !) Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt Xếp bút nghiên theo việc binh đao …..” Trong một thoáng suy tư, tôi nhớ tới trời Sài Gòn một ngày nào vào cuối tháng 11 dương lịch năm 1964 bắt đầu vào mùa khô…Mùa nầy là mùa nhiều tang tóc suốt trong năm: giặc Cộng đột phá khắp nơi, bao vây đồn bót, ngăn chặn, đào lộ, cắt đứt giao thông, ám sát dân sự, khủng bố công chức và cán bộ xã ấp khắp nông thôn. Như hầu hết các bà mẹ Việt Nam, me tôi có sẵn linh tính nhạy bén về tình hình bạo động của Cộng Sản. Phương tiện quan sát thời cuộc của bà rất…bình dân. Cứ mỗi buổi sáng, xách cái giỏ đi chợ Xóm Chiếu - nhà tôi ở Quận Tư Khánh Hội - chỉ cần thăm hỏi những bạn hàng quen thuộc ở các hàng rau, hoa quả, trái cây tươi từ các nơi đem về…là bà thâu thập được khá đầy đủ về tình hình an ninh và chiến sự các 108 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nơi, đang trở nên ngày càng khốc liệt. Như mọi buổi sáng, sau khi chuẩn bị xong bửa cơm cho gia đình, mẹ tôi ngồi nghỉ tay ở bộ sa lông, giải lao bằng tách trà trong ấm pha sẵn từ ban sáng cho ông cụ tôi điểm tâm trước khi đi làm. Bỗng có Cô ruột của tôi là Cô Cương đến thăm với dáng điệu không được bình tỉnh như mọi khi: -Này mợ Thường! Mợ có đến thăm viếng nhà ông Cụ H. ở trong xóm không? -Có! Tội nghiệp! Thằng con của ông cụ H. , Chuẩn úy mới ra trường cùng Khóa 17 với thằng Liêm nhà nầy!.. -Sao tôi thấy thằng Liêm vẫn còn nhong nhong ở Sài Gòn trong khi thằng con của ông cụ H. đã hy sinh ngoài mặt trận? Nghe đâu nó chỉ mới đi trình diện đơn vị được có một tuần lễ! Thì ra mẹ tôi đã dấu tôi cái “hung tin” nầy. Nhà thằng bạn cùng khóa nầy ở cuối đường Đỗ Thành Nhân, quận Tư, gần góc đường Tôn Đản. Vì có sự chênh lệch tuổi tác nên ít thân với nhau mặc dù cùng xóm, cùng quân trường, cùng khóa….Sau nầy tôi mới biết là nó đã trình diện đúng ngày ấn định, nhận chức Trung đội phó một đơn vị. Ngay ngày đầu tiên nhận lệnh, nó dẫn quân đi phục kích ban đêm, đã đụng trận và tử thương. Thật đúng là số trời! Cô tôi là con gái út của cụ Phán Túc, ông Nội tôi. Tuy quê quán là Xã Công Cối, Huyện Võ Giang, nhưng làm việc tại công sở Đáp Cầu, Bắc Ninh. Ông tôi là con trai thứ hai của cụ Xuân Đình Tướng Công Nguyễn Đình Nhuận, đời thứ 9 của giòng họ Thuận Đức, được sáng lập bởi cụ Thủy Tổ Phúc Nghi, được triều đình thời Vua Trung Tôn nhà Hậu Lê (1613) cho đến ở đất Công Cối, đến đời tôi là đời thứ 12. Nguyên do là vào khoảng năm 1939, tôi mới được ba tháng tuổi, Bố mẹ tôi được lệnh của gia tộc ngoài Bắc gọi phải mang ngay tôi về ra mắt họ hàng để ghi tên vào bản đồ Tộc phả Họ Thuận Đức. Khi được bế bồng cháu, cô tôi thấy kháu khỉnh dễ thương quá, bèn tình nguyện theo me tôi vào xứ Campuchia, vừa đi chơi một chuyến vừa có thời gian mặc sức ẵm bồng và trông nom cháu cho thỏa lòng… Thế rồi không ngờ đâu do duyên tiền định: một ông bạn công chức ở Bộ Công Chánh Nam Vang làm việc chung với ba tôi “phải lòng” ngay và xin cưới làm vợ. Sau biến cố 1945, ông dượng và cô tôi di tản về Sài Gòn lập nghiệp. Ông dượng mở trường Tiểu học Tư thục “Minh Tâm” tại đường Lê văn Linh cạnh chợ Xóm Chiếu, Khánh Hội - một trường Tư thục được Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH chấm điểm cao, hoạt động liên tục qua luôn 1975, đến hơn mười ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
năm sau mới tự động giải tán. Cô tôi là người thương yêu tôi nhất sau cha và mẹ. Chính cô đã gọi tôi về Sài Gòn học, sau khi đậu bằng Trung học Pháp, vì lý do trên Nam Vang chưa có mở trường lớp dạy Ban Tú Tài Pháp. Khi nghe tin tôi bị động viên vào Thủ Đức bà bắt đầu lo lắng…. Chợt khi nghe hung tin đứa con trai của cụ H. cũng quen trong xóm cùng khóa Sĩ quan với thằng Liêm, bà chưng hửng!...Bà vội vàng vào tìm me tôi để hỏi đầu đuôi ra sao. Sau khi nghe rõ, me tôi giải thích về tình trạng đặc biệt của tôi: may mắn được chọn trong số 120 tân Sĩ quan đi học một khóa Căn bản Tham mưu ở Sài Gòn - ngành “Nghĩa Quân” mới thành lập – đã mãn khóa cả hai tuần lễ nay! Mẹ tôi than phiền với cô Cương: -Sau lễ mãn khóa ở Bộ Tư Lệnh Nghĩa Quân, tụi nó gồm ba đứa được chọn đưa về Gò Công, được cấp phép 3 ngày để tự lo liệu phương tiện tự túc…. Nhưng chã thấy thằng nào lo lắng gì cả, còn rũ nhau “dzù” thêm vài ngày ở Sài Gòn chơi cho đã! Cô tôi ngồi tư lự vài phút…có lẽ cô thông cảm hoàn cảnh của tuổi trẻ Việt Nam lao đao lận đận… sự học hành gián đoạn, sự nghiệp kể như bắt đầu bằng “zéro” ! Nhất là sau ba năm liền, biết bao biến cố động trời vừa xảy ra trên đất nước. Nào là Phật Giáo bị pháp nạn, Tổng Thống bị giết, Tướng Tá đảo chánh nhau, phe phái xuống đường làm loạn…Tấm lòng khoan dung vô bờ bến hiện ra trong ánh mắt, cô tôi ôn tồn lên tiếng như để bênh vực cho cháu như thường lệ: -Thôi kệ! Cho chúng nó được vui vẽ thêm vài ngày, cũng là dịp may…có thời giờ chia tay cùng bạn bè ghệ gộc! Me tôi cắt ngang: -Nhưng khổ một nỗi là chúng nó phải tự túc tìm phương tiện đáo nhậm đơn vị! Không có máy bay, không có an ninh hộ tống đường bộ gì cả! Bắt buộc phải đi xe đò, mà xe đò dạo nầy dân chúng hay bị Việt Cộng chặn bắt. Hên thì cho đi học tập vài tiếng đồng hồ rồi thả, còn không may thì bị giữ vài ba ngày, tình hình hết “động” rối mới cho về, chưa kể nếu bị tình nghi thì giam giữ mút mùa !... Cô tôi hốt hoảng: -Thế thì mợ dự tính phải làm gì? -Tôi có bàn với tụi nó rồi! Hôm nào tụi nó quyết định chắc chắn từ giả Sài Gòn, đích thân tôi sẽ đi cùng với chúng nó, bắt mặc thường phục, giả dạng thường dân, theo mẹ về “thăm đám” bà con ở Gò Công…Ba cái “vali” đựng quần áo nhà binh tôi sẽ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
trông coi “lơ” xe chất lên mui xe đò. Còn tôi, tôi mua vé ngồi cạnh tài xế để tùy cơ ứng biến!.. *** Rồi vào một buổi sáng sớm, đúng y như mẹ tôi đã sắp đặt: hai bà mẹ Việt Nam nữa cùng đến có mặt tại Bến xe đò Chợ An Đông Sài Gòn, vui mừng ủy quyền và phó thác sinh mạng của hai đứa con trai mới được đeo lon Chuẩn úy cho mẹ tôi bảo hộ giùm. Tất cà hành khách đã mua vé rồi của chuyến xe đò “nhất”, từ Sài Gòn đi Gò Công qua ngã Long An Cần Đước, phải qua một chuyến phà Mỹ Lợi trên sông Vàm Cỏ rất rộng, phải chờ đợi rất lâu. Xe đã qua phà nhưng vẫn còn dậm chân tại chỗ, chưa ai dám lên xe ngồi chờ…Toàn bộ hành khách tại bến phà còn ngong ngóng hồi hộp chờ đợi tin tức do chuyến xe “nhất” từ Gò Công mang đến: đường có lưu thông được hay không? Mặt trời đã lên cao, nắng bắt đầu gay gắt mới có tin báo: đường hôm nay lưu thông! Mọi người reo lên truyền nhau, vui như trẻ con được quà …! Quang cảnh nầy có lẽ rất khó quên đối với những ai đã từng sống dưới thời mà bọn giặc Cộng vô nhân đạo nổi lên cướp phá, khủng bố dân lành ở Miền Nam. Có lẽ chúng còn độc ác gấp bội lần Giặc Ân thời cổ trên đường tràn xuống Vũ Ninh…Bọn giặc Cộng nầy còn đáng kinh tởm hơn, vì là Giặc Ân “nội hóa”, tệ hại gấp trăm lần hơn. Đến trưa, khoảng 1- 2 giờ, chiếc xe đò lỡ cũ kỹ năm xưa thường thấy mang nhản hiệu “Renault” của Pháp từ từ tiến vào phố chợ với nhà cửa, đường sá được kiến thiết rất lâu đời, chật hẹp, nhưng còn nét gọn ghẽ, sạnh sẽ duyên dáng kiểu cổ. Đích thân mẹ tôi cầm ba tờ Sự vụ lệnh của ba thằng con “giả dạng thường dân” bước vào Tòa Hành Chánh tỉnh Gò Công dọ hỏi. Một thoáng bà trở ra, gọi chúng tôi vào trình diện: -Ông Đại úy Trưởng Ban Chỉ Huy Nghĩa Quân tỉnh Gò Công nầy hiền lành dễ thương…..cũng người Bắc! Tôi hiểu ngay cái tính “yêu quý đồng hương” của bà trở nên sâu đậm trong suốt gần 30 năm xa quê hương. Bà đã từng đóng góp công sức quy tụ một số đồng hương đủ thành lập một “làng Bắc Kỳ” ở thành phố Bông Thơm (Kompongthom) trên đất Campuchia khi xưa. Cho nên “ông Đại úy cũng người Bắc” kia làm tăng sự tin tưởng của bà trong ngày mở đầu một sự nghiệp mới cho ba đứa, mà bà vẫn xem như là ba thằng “nhóc” . Đại úy C. rất đổi ngạc nhiên, lần đầu tiên thấy ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 109
một bà mẹ Việt Nam chưa già lắm, đã can đảm làm một hành động trợ giúp cho Quân Đội VNCH vốn còn thiếu thốn quá nhiều phương tiện: -Tôi sẽ cho nhân viên đưa quý vị ra khách sạn tạm trú nghỉ ngơi. Khoảng 10 giờ sáng mai có mặt tại đây để tôi đưa vô trình diện Trung tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Viết Thanh, vì sáng sớm nào ông cũng rất bận giải quyết công việc bên Tiểu Khu trước. Trước khi chào từ giã ông Đại úy C., mẹ tôi còn lưu ý ông lần chót: -Mong ông cố gắng hết lòng giúp đở cho việc trình lên cấp trên: căn cứ theo giấy tờ của Bộ Tổng Tham Mưu, mấy Sĩ quan mới ra trường nầy chỉ được phép làm việc tại văn phòng, địa phương không có quyền sữ dụng vào công việc tác chiến! -Xin bà cụ cứ yên tâm trăm phần trăm! Chúng tôi đã đề nghị lên thượng cấp đúng như vậy: tờ trình của chúng tôi đã được Trung tá Tỉnh Trưởng chấp thuận, với sự phối trí như sau: ông Chuẩn úy Đức trước là gốc công chức (Đức mắt kiếng) lớn tuổi nhất, làm việc tại đây với tôi. Ông Chuẩn úy Liêm nguyên Giáo sư Ngoại ngữ, được làm ở quận Châu Thành, sát bên Tiểu Khu, đối diện ngay bên kia đường. Còn lại ông Chuẩn úy Đức trẻ tuổi (Đức cao giò) còn “độc thân vui tính” xin cho đi xa một chút, làm việc tại Quận Hòa Đồng, cách đây chừng 15 km, trên tỉnh lộ 24 đường về Mỹ Tho….Như vậy bà cụ yên chí nhé! Cầu chúc cụ thượng lộ bình an! Sau khi ra khỏi Tòa Hành Chánh tỉnh, mẹ tôi tươi tỉnh hẳn lên, việc làm của bà có kết quả tốt, một là xe đò không bị “VC” chận, hai là công việc trình diện nhiệm sở nhà binh của ba tên “nhóc” tương đối suông sẽ. Còn ba đứa chúng tôi đều cố gắng làm cho bà vui, chứng tỏ tinh thần “Tổ quốc-Danh dự-Trách nhiệm” cao, cùng với lòng biết ơn sâu xa, thắm thiết nhất khi đưa tiển cụ lên xe trở về thủ đô. Về tới Sải Gòn, mẹ tôi gọi tắc xi về thẳng nhà cô Cương, diển tả chi tiết mọi việc cho cô nghe, để hai bà cùng yên tâm, dẹp bớt nỗi lo âu ám ảnh của chiến tranh. * Rồi từ đó, tôi bắt đầu lao mạnh vào cuộc đời binh nghiệp đầy bất trắc. Chỉ có những lúc mà hình ảnh của mẹ tôi hiện ra với những lời ru con bằng tất cả những đoạn văn chương bất hủ mà bà thuộc lòng từ nhỏ ở Quê Lim, những đoạn trong Gia Huấn Ca, Chinh Phụ Ngâm…đều được mẹ tôi “phổ nhạc” lại theo đủ thể loại, thể điệu của văn chương Quan Họ Bắc Ninh… Nhớ đến câu; “Thủa trời đất nổi cơn gió bụi” …..dài đến câu: ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 110
“Chàng từ đi vào nơi gió cát”…. Tôi không ngờ chính đó là những thông điệp vô cùng quý giá và mầu nhiệm, đã làm cho tinh thần người chiến sĩ vừa bình an, vừa phấn khởi…Đúng vậy! Chẳng phải chỉ có cỡi ngựa dong ruỗi sa trường, chiến y mới lấm bụi cát! Với cánh tay nối dài của Phù Đổng Thiên Vương, truyền phương tiện cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày hôm nay…, những cánh quạt của những chiếc trực thăng “UH.1B” thân quen hàng ngày phục vụ cho chiến trường, luôn luôn ép gió, thổi tung cát bụi mịt mùng khi cất cánh cũng như khi đáp xuống! Ai bảo chiến y có bao giờ…chẳng phủ bụi sa trường? Công đức của mẹ tôi thật bao la như bài hát thân quen thương yêu ca ngợi lòng Mẹ như Biển Thái Bình, và còn hơn thế nữa …! Chỉ cần nghe lóm một câu nói của những ai thường tiếp xúc với mẹ tôi, họ trao đổi với nhau: -Bà Thường thật “giỏi”…. Ý rất bình dân nhưng bao hàm một đức tính đảm đang, thủy chung trước sau như một, sẵn sàng giúp đở mọi người. Tôi trộm nghĩ chính là do thừa hưởng phần lớn gia tài đạo đức gia phong, cũng như danh giá của gia tộc bên ngoại. Ông ngoại tôi là Cụ “Hoa Kiếm” - một nho gia danh giá sống dật cư ở làng Nội Duệ. Cụ có một người con trai làm Hiệu Trưởng trường Hàn Thuyên - cậu Trang anh kế mẹ tôi - đã từng lặn lội vào Nam Vang mừng một đứa cháu trai vừa sinh ra đời. Về sau nầy, chính một người con gái của cậu đã nối nghiệp cậu Trang làm Hiệu Trưởng trường Hàn Thuyên. Có điều đáng ghi nhớ nhất là, sau ngày 30 tháng 4 “đen” 1975, bà chị nầy tên Quỳnh Như, đã thay mặt họ hàng, vội vã đến thăm tôi đang tù “cải tạo” tại Đồng Tháp Mười. Thật đáng khâm phục biết bao tình ruột thịt keo sơn gắn bó, đậm đà và bền vững như núi Sóc Sơn cao vời linh diệu ! Vì thương mẹ, nghĩ đến mẹ là tôi liên tưởng ngay đến phẩm chất và giá trị tuyệt vời của những người dân - nhất là con gái - Bắc Ninh ! Nghĩa Quân Kinh Bắc Đại Việt* Nguyễn Đình Liêm K17/KBC 4100 * Biết đâu có ngày sẽ được ghi là “Cộng Hòa Đại Việt” ?
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ñŒ Tam Chu Niên SÓ 02 - Ngày 15/7/2013
Người lính
đ
ÇÎa phÜÖng quân
..................................................... Tôi gặp Anh một chiều vàng rất đẹp Tuổi trăng non chưa hề biết mộng mơ Học trường xa ngày nghỉ mới trở về Con đường vắng chốt lính canh xuất hiện Anh chận tôi:“Giờ này về bất tiện Giặc về làng quậy phá tối hôm qua Đơn vị Anh quần thảo đến canh ba Giặc rút chạy, toán quân nhà vô sự” Tôi gặp Anh, tuổi xuân thì thiếu nữ Rất bình thường không mơ mộng, kiêu sa Tan trường về biết mong ngóng Người ta Rồi tự nhủ : chắc đang hành quân gấp đó!
...................................................... Anh người Lính : Niềm tin và Hy vọng Ngăn giặc thù giữ thôn xóm bình an Ngày hành quân ven biên giới Tỉnh-Làng Đêm đi kích cũng ruộng hoang, gò mả. Địa phương quân-Lính con Rùa nhưng vất vả Sống giữa lòng dân mà nguy hiểm bội phần Đang nói cười, lựu đạn nổ- thây phân Đường sinh tử đếm thời gian tích tắc Quán cà phê có thể là trạm giặc Thằng bé qua đường có thể “giao liên” Cô bé xinh xinh trông rất nhu hiền Nào Ai biết là “đặc công Cộng sản"? Tôi gặp Anh giữa chợ Trời lam lũ Tấm thân gầy phủ mảnh áo vá vai Áo rách vá, làm sao vá đời trai, Bị tơi tả sau tháng ngày nghiệt ngã? Tôi gặp Anh đang mong manh hơi thở Thân phận con người trăn trở giựt giành Cuộc chiến sau cùng đã định sẵn lằn ranh. Nhưng Người Lính đó vẫn trong tôi mãi mãi Lê Thị Hoài Niệm
CHUYỆN TRĂM NĂM MỘT LẦN TRỞ LẠI TRÊN “ĐÁM LÁ TỐI TRỜI” XÃ GIA THUẬN , TỈNH GÒ CÔNG NGHĨA QUÂN ĐẠI VIỆT KBC 4100/K17SQTBTĐ Lại một lần nữa, tinh thần hào hùng của “Nghĩa Quân Đại Việt” bừng bừng sống dậy. Kể từ ngày Đức Bình Tây Đại Tướng Quân TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH tuẩn tiết tại khu vực “Đám Lá Tối Trời” thuộc Xã ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Gia Thuận tỉnh Gò Công, tính ra đúng 100 năm sau (Đức Bình Tây Đại Tướng Quân Trương Công Định được đánh dấu Ngày Giỗ là 20-8-1864), là ngày tôi trình diện vị Trung tá Tỉnh Trưởng kiên Tiểu Khu ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 111
Trưởng Tiểu Khu Gò Công (24-11-1964 ?.... không nhớ rõ lắm). Người viết bản “báo cáo” nầy đã ghi nhận ngay tức khắc lúc đó, một ấn tượng sâu sắc vế chân dung của một cấp chỉ huy hoàn toàn khác lạ: giản di, uy nghiêm, nhưng đầy lòng bác ái! Thật đúng y như lời đồn trong hàng ngũ các chiến hữu tại địa phương: ông “ Mặt Trời” (theo cách gọi của ám danh đàm thoại quân sự) không bao giờ biết cười! Nhưng đặc biệt nhất là không bao giờ chửi thề! Ngôn ngữ lúc nào cũng trịnh trọng, hòa nhã, rõ ràng và chính xác! *** Sau nửa thế kỷ trong cuộc sống với biết bao nhiêu là biến động lịch sữ, huy hoàng trộn lẫn với đắng cay, tôi vẫn còn nhớ đến giây phút đầu tiên của ngày trình diện thượng cấp trình sự vụ lệnh “nhận nhiệm sở” . Ông chỉ hỏi ba đứa chúng tôi , ba Sĩ quan của Trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức biệt phái đến Tiểu Khu Gò Công: -Đại Tá Xương dặn dò gì các anh? -Kính thưa Trung Tá, Đại Tá Trương văn Xương, Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Nghĩa Quân, đã ân cần nhắn nhủ chúng tôi một câu “điều quan trọng nhất mong các anh làm được là “ mang ánh sáng” đến cho người lính Nghĩa Quân! -Như thế đủ rồi! Tôi biết ông ấy, rất tốt! Ngày mai Chuẩn úy Liêm bắt đầu đi với tôi! Lệnh là lệnh. Kẻ thừa hành chỉ biết tiến về phía trước! Guồng máy nhà binh bắt đầu chuyển động, trong tim tôi, mọi sự đều cần phải được thay đổi. Không còn gì để ưu tư, vương vấn hoặc thắc mắc về các thứ “quyền lợi”, “quy chế Sĩ quan Chủ lực quân biệt phái”, “văn phòng không tác chiến”…Thậm chí có khi đợi đến ba tháng vẫn chưa có ngày phép để về Bộ Chỉ Huy Nghĩa Quân để lãnh lương. Đây là cơ hội đúng thời điểm để chiêm nghiệm những lời vàng son vang danh lịch sữ của vị Đại Anh Hùng Dân Tộc Đại Việt nghìn năm vẫn sáng chói, mầu nhiệm: “Việc nhân nghĩa cốt ở Yên Dân, “Quân điếu phát chỉ vì Khử Bạo. “Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, “Song Hào Kiệt thời nào cũng có…..” Công việc xếp bút nghiên theo việc binh đao kể ra cũng dài dòng, nào là quân trường 10 tháng, lễ 112 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
“đeo lon”, thụ huấn Khóa đặc biệt Tổ chức và Tham mưu điều hành Nghĩa Quân tại Bộ Tư Lệnh Nghĩa Quân cũng vừa ra đời trước đó chừng một năm, với sự tham gia đóng góp của 120 Tân Sĩ Quan của Khóa 17 Thủ Đức mang tển Nguyễn Thái Học còn nóng hổi. Nhưng giây phút “hốt nhiên giác ngộ” nhà binh trong tâm thức chỉ xảy ra trong chớp nhoáng: mọi sáng kiến điều hành tham mưu, tác chiến, tâm lý chiến, tình báo chiến…tuôn chảy ra trong đầu chỉ sau lần “tao ngộ” với vị chỉ huy quân đội nầy. Tự nhiên tôi có cảm quan rất ư là hứng thú trong khi phục vụ Tổ quốc, Quân đội dưới phong cách chỉ huy trầm lặng nhưng oai hùng của một Vị Tướng hiện còn đang đeo lon Trung tá. Và may mắn thay, Trời đã không phụ lòng người mang chính nghĩa trên vai. Sự dấn thân vì đại cuộc của tôi đã được ân thưởng xứng đáng: trong lúc cuộc chiến còn đang diển ra khốc liệt, có hai sự kiện lịch sữ vô cùng trọng đại đã nổ ra, mang dấu ấn hiển linh của lịch sữ dân tộc: 1/-Phong Trung Tướng đặc cách cho Cố Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh tử nạn phi cơ trực thăng khi đang bay chỉ huy trên bầu trời biên giới Việt Nam-Kampuchia! 2/-Truyền tụng như một tấm gương cao cả trong Quân đội: “Tướng Sạch đã Vị Quốc Vong Thân!”. Và câu tuyên dương “sống” vẫn còn được vinh danh cho đến ngày hôm nay: “Việt Nam có 4 Tướng Sạch Nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng” , tất cả đều có ghi trong hồ sơ tài liệu Quân sử Mỹ . Hằng ngày tôi phải làm việc ở văn phòng Nghĩa Quân quận Châu Thành, nằm cạnh Bộ Chỉ Huy Chi Khu Châu Thành. Cách một con đường, bên kia phố là doanh trại của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Gò Công, chạy dài đến cuối đường là khuôn viên của Tòa Hành Chánh, văn phòng Tỉnh Trưởng, kế bên là khu dinh thự của Tư dinh Tỉnh Trưởng, thời Pháp gọi là Tòa Tham Biện. Nếu tôi còn nhớ rõ, thì trong khoảng gần cả năm trời, tôi không bao giờ phải đi bộ từ văn phòng đến Tòa Hành Chánh hay Tiểu Khu để cùng ông đi công tác, luôn luôn ông cho tài xế đến tận nơi đưa rước đủ hai chuyến đi về, do đó lúc nào tôi cũng phải sẵn sàng…Nghe bác tài vừa ngừng xe trước cổng là tôi phóng lên xe jeep của “Mặt trời” liền, chẳng để cho chú vệ sĩ có đủ thời giờ lễ nghi quân cách chào tay mời lên xe…Đến nổi các nhân viên thuộc hạ của tôi còn chế diểu để vui; “Ông Chuẩn úy làm việc ở quận, ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
mà tối ngày được đi theo “Mặt trời” cũng đủ no rồi! Đâu cần về Bộ Tư Lệnh lãnh lương chi cho mệt….” Nhưng ở đời, trong cái cực cũng có cái vui: mùa Xuạn năm 1965 đang trở về trên quê hương. Trong một chuyến đi công tác Xã Ấp trở về, “Mặt trời” bỗng nhiên ngoái cổ về phía ghế sau xe hỏi: “Anh ấy ơi !” - Dạ, thưa Trung Tá …? – “ Ngày mai anh qua Tiểu Khu lấy giấy phép đặc biệt về thăm gia đình…!” Thật quả là ông “Mặt trời” có mắt! Ngay xế chiều hôm sau, tôi đã được leo lên chiếc trực thăng của Cố vấn Mỹ cho quá giang về tới Tân Sơn Nhất, gọi gấp một chiếc taxi chạy qua chợ Bến Thành, đại lộ Lê Lợi, qua Hàm Nghi để vế Quận Tư ăn Tết. Bổng nhiên tôi cảm thấy hình như nước mắt trào tuôn hồi nào đầy hai bên má và mờ hoen lấm cả cặp mắt kiếng… Một phút định thần lại tôi mới hiểu rõ: sự tương phản khủng khiếp và tàn nhẫn của hình ảnh máu đổ thịt rơi của chiến tranh, và khung cảnh tưng bừng đón xuân của Đô Thành muôn màu tràn ngập âm thanh của nhạc Rock, Cha Cha Cha, Twist… “Đem Đại Nghĩa mà thắng hung tàn Lấy Chí Nhân mà thay cường đạo…” (Bình Ngô Đại Cáo) Mùa khô năm 1964, gió bấc lành lạnh đã hiu hiu thổi về trên quê hương Gò Công “miền gió chướng”… tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch Bình Định mở màn: bất kể ngày đêm, 24 trên 24 tiếng, chiếc xe jeep đơn độc của “Mặt trời” tung hoành khắp bốn hướng chiến thuật đúng theo kế hoạch tấn công ưu tiên: Bình Xuân, Cầu Nổi, Tân Phước, Rạch Già, Tân Hòa, Bình Ân, Thành Công, Tân Thành..v..v.. Điểm đặc biệt là không bao giờ ông cần xe hộ tống, trong chiếc xe jeep kiểu cũ chỉ có ba người lính, một tài xế, một mang máy truyền tin, một hộ vệ, và cá nhân người viết bài nầy. Mỗi ngày ông sắp xếp một kế hoạch chi tiết đầy đủ để thị sát hoạt động của từng đồn Nghĩa quân nhằm xác định tình hình, thay thế vũ khí cũ kỹ. Tiếp tế thêm từng viên đạn, từng quả lựu đạn, từng cây cọc sắt, từng cuộn kẽm gai . (Ít ai biết chi tiết nầy của kế hoạch viện trợ quân sự Mỹ: không có gì Free cả! Mà tất cả sự gia tăng viện trợ đều căn cứ vào hiệu quả cụ thể - giết được một VC, lấy được một khẩu súng – tính thành điểm, đổi ra thành của cải tài nguyên, nhân lực, vật lực và tài lực !). Trong khi phần lớn tại vùng nông thôn, các Xã Ấp còn chấp chứa một số đông du kích VC, khi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
phân tán, khi tập trung, khi ồ ạt cưởng bách nông dân đi “công tác” đắp mô, đào lộ, đặt giăng mìn bẫy…. Nhưng chiếc xe jeep của “Mặt trời” ngang nhiên phom-phom chạy vượt bao chướng ngại. Ông đã tính toán kỹ lưởng những điểm giờ giấc then chốt mà VC hoàn toàn bất ngờ, không kịp trở tay để chuẩn bị phục kích, ám sát… Vào những lúc nắng chang chang sau bửa cơm trưa, hoặc là buổi xế chiều chạng vạng tối, hoặc có khi vì tình hình quá khẩn trương dù là 9, 10 giờ đêm… ông cũng có thể đến kiểm tra bất thần đốn bót nào có dấu hiệu bất thường, nhằm ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu nội tuyến đánh phá đồn bót của giặc Cộng. Rất nhiều lần - riết rồi cũng quen - chiếc xe jeep của “Mặt trời” chạy trở về tỉnh lỵ với năm người hoàn toàn “tay không”, có nghỉa là còn có súng mà không có viên đạn nào: ông đã rút hết ra để phân phát “thân tặng” các chiến hữu Nghĩa Quân anh hùng, chịu chơi..luôn cả băng đạn súng colt, carbine, cộng thêm cả lựu đạn của anh chàng vệ sĩ cận vệ của Trung tá Tỉnh Trưởng. Đức độ của “Mặt trời” lúc nào cũng hiển lộ ra trên gương mặt trầm tỉnh, điềm nhiên, với vầng tráng cao trong sáng oai nghiêm. Giọng nói của ông luôn luôn ôn hòa, dù ra lệnh trực tiếp hay nói qua máy vô tuyến, lúc bình thường hay trong trường hợp khẩn cấp lúc nào cũng vậy, gọn ghẻ, chính xác đầy uy lực. Mặc dầu thế giới đã tiến sâu vào cuối thế kỷ 20 đưa con người vào mặt trăng, quốc gia đồng minh lớn nhất của Việt Nam là nước Mỹ hiện có một kho vũ khí hiện đại nhất. Nhưng hoàn cảnh độc đáo của người lính Nghĩa Quân Việt Nam, tay cầm cần câu, tay cuốc tay cày, tay cầm súng giữ nước, tay đùm bọc vợ con, xem đồn bót là nhà, chiến hào đã thay thế ao làng, tình trạng vũ trang tuy được hiện đại hóa nhưng vẫn còn nghèo nàn… Ông “Mặt trời” rất quan tâm vấn đề đó, và ông đã quyết tâm cải thiện sự nghèo khó tạm thời của họ vì tinh thần chiến đấu rất cao, tinh thần hy sinh vì nước của họ chẳng bao giờ thua sút, so với những thời oanh liệt của cao trào Lam Sơn, Tây Sơn khởi nghĩa, của Bà Trưng Bà Triệu nổi lên diệt quân Đông Hán Tây Hán… Hoặc gần đây nhất, nhân dân toàn vùng Gò Công đã tham gia kháng chiến chống Pháp theo lời kêu gọi của Bình Tây Đại Tướng Quân Trương Công Định. Mỗi khi ngắm nhìn ông tiếp xúc, khuyên nhủ chiến sĩ Nghĩa Quân, động viên tinh thần họ, người viết đã cảm thấy “ấm lòng” và hoàn toàn cảm phục tác phong 113 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
lãnh đạo của Người, theo đúng tôn chỉ của các danh nho thời trước: “Sinh vi anh - Tử vi thần….” Để tưởng niệm công lao của một người đã cống hiến cho địa phương Gò Công, xin được tóm lược vài dữ kiện đánh dấu tiến trình thực hiện kế hoạch bình định và xây dựng tỉnh như sau: 1/-Tình hình: Từ 1961 đến 1964, hầu như quê hương “Khổng Tước” hoàn toàn lọt vào vòng kiểm soát toàn bộ của Du kích quân Cộng Sản tại các vùng quê: “Ban đêm giải phóng, ban ngày quốc gia”. Mặc dù tại đây không phải là trụ điểm đóng quân của những đơn vị lớn chủ lực hay địa phương cấp Tiểu đoàn hay Trung đoàn, nhưng nhờ sự quậy phá của bọn du kích xã, ấp, giao liên….bọn chúng thường tự do di chuyển qua lại từ Long An, Mỹ Tho, Kiến Hòa bằng đường bộ hay bằng đường sông. Hầu như mỗi ngày, các Tỉnh lộ 5 Sài Gòn - Gò Công hay Liên tỉnh lộ 4 nối liền Mỹ Tho, Gò Công, Tân Thành đều bị gián đoạn vì VC đấp mô, đào lộ, bắn sẽ, giật mìn, đón xe cướp của bắt người… 2/- Lực lượng an ninh Tỉnh: Hoạt động mở màn cho công cuộc bình định xây dựng chỉ dựa vào lực lượng cơ hữu sẵn có của hai quận Châu Thành và Hòa Đồng, rất đúng với câu: “vạn sự khởi đầu nan” . Lực lượng Địa Phương Quân có 4 Đại đội cộng với khoảng 20 Trung đội Nghĩa Quân, phần lớn bị chia năm xẻ bảy; tăng cường gác cầu, biệt phái canh gác các doanh trại, các cơ quan quân sự tại Chi Khu, Quận Lỵ và Tiểu Khu mới thành lập. Hai Trung đội Pháo Binh của Tiểu đoàn 72 Pháo Binh; -02 khẩu 105 ly tại xã Tân Niên Tây. -02 khẩu 105 ly tại quận lỵ Hoà Đồng (xã Vĩnh Bình) Tuy Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh đặt hậu cứ tại tỉnh lỵ Gò Công, nhưng chỉ hiện diện một Tiểu đoàn luân phiên về nghỉ dưởng quân. Sau mỗi đợt tham dự hành quân cho Sư Đoàn khoảng 2 tuần lễ, một Tiểu đoàn được di chuyển về dưởng sức tại những địa điểm trọng yếu khác nhau, đãm trách luôn nhiệm vụ phòng thủ để bảo vệ Tỉnh hoặc tham chiến hành quân cấp Tiểu Khu. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 114
Đại khái với tình hình sơ lược về Ta và Địch được tóm lược như trên, Trung tá Tỉnh Trưởng Gò Công vẫn không nao núng, vận dụng tối đa những ưu điểm có sẵn trong tay để xông xáo tấn công đồng loạt vào địch quân trên các Xã Ấp nào xem ra nguy hiểm nhất, ngõ hầu ngăn chặn sự bành trướng của Cộng sản địa phương, giành lại sự kiểm soát các trục lộ giao thông huyết mạch của tỉnh. Có những yếu tố “chiến lược” mà ông đã nắm vững như sau: a/-Thiên Thời: yếu tố nhân dân thuận lợi , vững vàng nhất. Lập những đoàn Cán bộ Hành chánh Lưu động đến các Ấp Tân Sinh, triệu tập và huy động các thành phần thân hào nhân sĩ Xã thôn, để bầu chọn gấp những Hội đống Nhân dân Cơ sở nồng cốt từ Ấp, Xã, Quận lỵ lên đến Tỉnh Từ đó, việc thông tin kêu gọi đồng bào đông đảo trong tỉnh tham gia với chính quyền. Nhờ lòng yêu nước sẵn có từ thời Trương Công Định đã được nung nấu trong bao thời kỳ chống Pháp với tinh thần “Nghĩa Binh” tự động tự nguyện đứng lên đánh đuổi quân giặc Cộng sản tàn bạo, vô thần vô tổ quốc, đi ngược lại đường lối sinh sống an bình theo truyền thống dân tộc của Miền Nam Tự Do… b/-Địa Lợi: Triệt để lợi dụng hình thể “bán đảo” của tỉnh Gò Công có sông sâu biển rộng bao quanh: phía Bắc có sông Soi Rạp, phía Đông có biển Tân Thành Vàm Láng, hai con sông lớn Cửa Tiểu và Cửa Đại ngăn chặn phía Nam. Kế hoạch ưu tiên của Tiểu Khu là không ngừng đẩy mạnh nhiều mũi tấn công càn quét và thiết lập đồn bót then chốt kiên cố dọc theo các xã duyên hải và biên phòng: Tân Phước, Rạch Già, Gia Thuận, Vàm Láng, Tân Bình Điền, Bình An, Vĩng Hựu, Thanh Nhựt, Cù lao Phú Thạnh Đông…Với mục tiêu nhằm cắt đứt và triệt hạ những con đường di chuyển qua lại của những đơn vị Việt cộng. Còn lại, nhiệm vụ chính yếu của Tiểu Khu, Chi Khu là nỗ lực gia tăng và liên tục mở những cuộc hành quân lớn nhỏ ngày đêm càng quét. Lớn thì xữ dụng oanh tạc bằng những phi cơ của Không Quân QLVNCH và kết hợp những phi vụ đặc biệt của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ. Nhỏ thì tung cùng một lúc nhiều toán biệt kích cơ động của tỉnh, Cảnh sát Quốc gia, Trung tâm Chiêu Hồi..v..v.. Truy quét Việt cộng đến đâu, Chính quyền tỉnh cho tập trung thành lập hoặc tái lập các hạ tầng cơ sở Xã Ấp và hoạt động ráo riết để phục vụ nhân dân thôn quê về các mặt y tế bảo sanh, giáo dục, giao ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thông, canh nông…và cũng không quên chiến dịch Chiêu hồi! c/-Nhân Hòa: Chiến thuật “Phản Du Kích Chiến” với ba mũi giáp công của Bộ TTM/QLVNCH đề ra đã thành công mỹ mản. Về mặt nầy, xin được nhắc nhở lại để làm bằng: Đích thân Trung Trướng Trần Ngọc Tám, có một lần đã đến Tổng thanh tra Tỉnh Gò Công và đã công nhận là địa phương xuất sắc nhất cũng như đã tuyên dương. 3/-Thành quả: Kết quả cụ thể được đánh giá thành công vượt bậc so với các tỉnh khác trong Vùng 4 Chiến Thuật cùng thời kỳ. Từng năm một, tình hình an ninh tại Gò Công trở nên ngày càng sáng sủa ra. Mỗi người dân trong tỉnh đều chứng kiến thành quả đó. Mọi người đều hoan nghinh, mọi công dân đều trực tiếp được san sẻ, tiếp thu và thụ hưởng nhiều quyền lợi thiết thực của một đời sống an bình thực sự, tự do và công chính. Để thay lời kết, người viết xin phép quý độc giả xa gần được kính trình một đôi lời tâm niệm, hằng bấy lâu nay đã ấp ủ trong lòng: -Trước hết, xin được kính cẩn nghiêng mình trước Bàn thờ Tổ Quốc đã từng ghi công ơn của bao anh linh các vị Đại Anh Hùng Dân Tộc trong quá khứ, cũng như của Chư Liệt Vị vừa mới nằm xuống trong cuộc chiến vừa qua. -Cung kính khẩn cầu Hồn Thiêng Sông Núi giải thoát cho tất cả mau được về quy tụ nơi cảnh Giới Cao Siêu của Chính Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, cứu cánh duy nhất để đến bến bờ giải thoát, tiêu diêu nơi Miền Cực Lạc. -Cầu mong có được một đền thờ bên cạnh Lăng Trương Công Định, Lăng Võ Tánh tại Gò Công, để tôn thờ một vị Danh Tướng đã nằm xuống, nhưng khi còn tại thế đã từng đóng góp cho quê hương “Khổng Tước”, một thập niên An Bình, Thịnh Vượng, mà khả năng phát triển thượng thừa đã vượt qua luôn biến cố 30-4-75, và còn tiếp tục mãi mãi để vun bồi sức sống cho các thế hệ mai sau. -Gò Công vẫn giữ được mãi truyền thống, nề nếp, phong tục, văn minh, văn hóa…của một nơi chốn được gọi là “Địa Linh Nhân Kiệt”./. Nghĩa Quân Đại Việt KBC 4100/K17SQTBTĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
HỒI KÝ CỦA MỘT “SĨ QUAN NGHĨA QUÂN” Cựu SVSQ/K17 Chu Quang Anh Dũng Nguyên Th/T Trưởng Phòng Tổng Quản Trị TK Lâm Đồng. Cuộc đời binh nghiệp của tôi xem ra cũng có vẻ đơn giản lắm, ít có chuyện để nói vì chỉ có một việc làm tại một đơn vị duy nhất, nhưng đã phải trải qua đến bảy đời Tỉnh trưởng trong mười một năm, từ Chuẩn úy sau ngày ra trường đến Thiếu tá trước ngày tan hàng. ĐÁO NHẬM ĐƠN VỊ - TRÌNH DIỆN BCH NGHĨA QUÂN TỈNH Qua khóa hướng dẩn cấp tốc 10 ngày tại Bộ Tư Lệnh Nghĩa Quân đường Chi Lăng Gia Định, 110 Tân sĩ quan Khóa 17 Thủ Đức nhận được lệnh bổ nhiệm đáo nhậm đơn vị mới với ấn ký của Đại Tá Trương văn Xương Tư Lệnh Nghĩa Quân đề ngày 13 tháng 11 năm 1964. Ngày 13 lại nhằm ngày thứ sáu nữa mới chết chứ! Anh em chúng tôi mặt thằng nào thằng nấy ai cũng méo xẹo như cái bị một lượt, ngoại trừ những anh được chọn làm việc tại trung ương. Một Sĩ quan trẻ tuổi mà phải về hoạt động tại xã ấp thật không còn gì nản cho bằng. Tất cả các bạn cùng khóa họ hiên ngang tung hoành khắp nơi: nào Nhảy dù, nào Thủy quân Lục chiến, nào Thiết giáp, nào Pháo binh…Giá chót cũng Sư đoàn nọ Sư đoàn kia. Chỉ còn lại 110 mạng chúng tôi bị gạt một phát xuống…xã ấp coi Dân vệ. Anh Nguyễn Ngọc và tôi về tỉnh Lâm Đồng.Sáng thứ hai ngày 23 tháng 11năm 1964 chúng tôi cùng đến Ban Chỉ Huy Nghĩa Quân tỉnh để trình diện. Đại úy Toàn văn Phương niềm nở tiếp đón hai đứa chúng tôi. Ông nói: “Tôi đang trông chờ các anh về đây tiếp tay với tôi. Đơn vị mới thành lập, mọi thứ đều thiếu thốn….” Ông nói rất đúng, liếc qua phòng làm việc tôi thấy chỉ có hai ba anh Hạ sĩ quan và một ông Sĩ quan an ninh, Thiếu úy Thiềm Bửu Cảnh, Ban chỉ huy được bảo vệ bằng một Tiểu đội Nghĩa quân. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 115
Sau phần thủ tục thăm hỏi xã giao, Đại úy Phương đã truyền lại cho chúng tôi những kinh nghiệm đời chiến binh của mình. Khuyên nhủ chúng tôi cố gắng học hỏi và chu toàn mọi việc hết khả năng. Ông cũng nói nhiều về việc phải cải tổ hàng ngũ Nghĩa quân, quan trọng hàng đầu là phải tận diệt nạn “Nghĩa quân ma” trong toàn Tỉnh. Nhiệm vụ nầy phải được xúc tiến càng sớm càng tốt vì Trung ương đã chỉ thị gắt gao về việc nầy. Cuối cùng ông dõng dạc kết luận: “Tôi là người chịu trách nhiệm trước Trung ương, các anh chịu trách nhiệm trước tôi. Chúng ta hăng hái bắt tay vào việc”. Trước khi ra về, ông cho một cái hẹn đưa chúng tôi lên trình diện Trung tá Tỉnh trưởng vào ngày hôm sau. TRÌNH DIỆN TRUNG TÁ TỈNH TRƯỞNG Trung tá Tỉnh trưởng bận tiếp Phái đoàn Cố vấn Mỹ, thầy trò chúng tôi phải chờ cả tiếng đồng sau mới được gặp. Dinh Tỉnh trưởng sang trọng lắm, ngồi chờ mất năm ba phút nữa, ngài Tỉnh trưởng mới ló dạng. Chúng tôi lần lượt đứng thẳng người xưng tên và đọc số quân, trình diện Trung tá Tỉnh trưởng và đợi lệnh. Ông bắt tay và cho chúng tôi ngồi. Ông người miền Trung, khi ông nói cứ “hỉ” tới “hỉ” lui cũng đủ hết giờ, và coi như ông nói hết mà nói về phần mình không! Ông khoe khoang cùng mình về những công trình, kế hoạch đang tiến hành tại Tỉnh. Tôi lắng nghe xem ông có nói gì về việc bài trừ “Nghĩa quân ma” hay không, thì tuyệt nhiên không thấy gì. Có lẽ ông nói quá nhiều về mình nên quên bẵng đi chăng? TRÌNH DIỆN ĐẠI ÚY QUẬN TRƯỞNG Sau đó hai đứa chúng tôi nhận sự vụ lệnh về làm việc tại các quận, anh Ngọc quê ở Tân Xuân Dinh Linh nên về quận Dinh Linh, còn tôi ở Tân Hà nên về làm việc tại quận Bảo Lộc. Đại úy Võ thanh Nhàn Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng vui vẽ giới thiệu tôi với ông Lê Hiển Đạt, Phó quận Hành chánh và các viên chức hành chánh của quận. Sang phần quân sự, ông giới thiệu tôi với Thiếu úy Nguyễn Nhâm Chi khu phó và mấy vị Sĩ quan tham mưu. Tôi cảm thấy mình không giống ai, chỉ vì lúc đến trình diện tôi mặc đồ vàng đeo cà vạt đội mũ kết pi, đeo lon Chuẩn úy - quen đùa gọi là Thượng sĩ gân - trong khi tất cả những sĩ quan khác đều mặc đồ trận. Cũng có tiếng xầm xì mỉa mai rằng “ai chả biết ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 116
ông là Chủ lực!”. Ngày hôm sau tôi mới được gặp các Chuẩn úy Lê Quốc Uy và Nguyễn Đức Thành khóa 16 đàn anh đã về các quận đảm trách Chương trình Xây dựng Nông thôn. Lúc nầy tôi mới thực sự cảm thấy hết cô đơn. BẮT TAY VÀO VIỆC Nhận bàn giao chức vụ Sĩ quan Phụ trách Nghĩa quân Quận Bảo Lộc thay thế Thượng sĩ Vũ văn Cấp trong bầu không khí hài hòa đầy tình anh em tại Phòng Nghĩa quân tuy chật chội nhưng ngăn nấp, bốn bề vây quanh bằng tôn, dỉ nhiên mái cũng được lợp bằng tôn. Các Ban lần lượt trình bày tất cả những sinh hoạt của Ban mình. Đến Ban Tiếp liệu và Ban Tinh thần, tôi được dẫn sang phòng bên cạnh để chỉ cho tôi biết qua về vụ súng ống đạn dược và một số nhu yếu phẩm do Tỉnh tài trợ như sữa bột, bột mì, dầu ăn… THANH TRA THĂM VIẾNG Như đã được dặn dò của thượng cấp, ưu tiên hàng đầu luôn luôn vẫn là việc bài trừ tận gốc “Nghĩa quân ma”, nên tôi cho phổ biến lịch trình thanh tra thăm viếng đến các Trung đội Nghĩa quân trong Quận. Trong đầu tôi lúc nào cũng nghĩ đã là những người cầm súng thì phải mặc quần áo giống nhau, nhưng thực tế không phải thế. Họ là những thanh niên tại Xã Ấp được cấp phát vũ khí để bảo vệ an ninh, và chỉ có thế thôi. Khi đến thăm một vài Trung đội ngày đầu rồi đến những ngày sau, ở đâu cũng vậy, họ được đoàn ngũ hóa theo một cách lạ lùng, mà lạ lùng thật. Thứ nhất là áo quần lộn xộn có gì mặc nấy, tây ta, đồ đen, đồ xanh, đồ rằn ri…, một vài Trung đội người Thượng có anh còn đóng khố nữa. Vũ khí cũng lộn xộn lắm, súng Mousqueton, súng Mauser, súng săn loại Shotgun nòng 16. Riêng anh Trung đội trưởng mặc đồ đen đeo súng lục P38, có dăm ba anh còn đeo thêm lựu đạn có khía, còn anh liên lạc viên thì mang máy vô tuyến HT1. Những anh em người Việt hiểu được tầm quan trọng của thanh tra thăm viếng nên họ lên tinh thần, một số đề nghị và thắc mắc đượi giải quyết thỏa đáng. Riêng với người Thượng thì có phần hơi khó khăn vì ngôn ngữ bất đồng và phong tục tập quán cũng khác. Quen như mấy Trung đội người Việt, tôi bày tỏ niềm vui và khuyên nhủ anh em nâng cao tinh ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thần đồng đội. Tôi cũng có hỏi một anh trong Trung đội người Thượng rằng anh có thích tôi đến thăm anh như thế nầy không? Anh ta cười cười và nói: “ờ ghịt”. Anh Trung đội trưởng K’Ngéo ( Cà Nghéo !) thông dịch lại “ờ ghịt” là “không biết”. Sau cuộc thanh tra tôi cũng cảm thấy hơi thất vọng, nhưng kết quả lớn lao nhất là đã mang lại cho tôi một danh sách trên 30 “Nghĩa quân ma”, nghĩa là có tên nhưng không có mặt tại đơn vị. Được biết họ đang làm nhiều nghề khác nhau như dạy học, hớt tóc, chạy xe, sửa xe… DỌA QUẤT CỦ Suốt một tuần lễ đi thăm các Trung đội, tôi đã thấy được cái hay cái dở, như Nghĩa quân có nhiều người trùng tên nhau thường gây trở ngại cho việc quản trị nhất là trong việc phát lương, tôi cấp phát ngay cho mỗi người một “số quân” bắt họ phải học thuộc lòng, muốn lãnh lương phải đọc đúng số quân đó. Kết quả rất khả quan, cụ thể là đã chận đứng được ngay cái nạn nghĩa quân đã đào ngũ nhưng không chịu báo cáo để xóa tên. Danh sách trên 30 Nghĩa quân với lý do biệt phái, tôi đã gởi văn thư đi các cơ quan trong tỉnh yêu cầu cho về trình diện Ban Nghĩa quân Quận trong thời gian ấn định, trễ hạn sẽ báo cáo đào ngũ và xóa tên. Hầu hết các Ty Sở trong tỉnh đều có Nghĩa quân biệt phái để làm việc mà chẳng thấy người đâu cả. Hỏi kỹ ra mới biết họ là con cháu mấy ông lớn hoặc giã có sự xin xỏ chạy chọt qua cửa sau. Vì “điếc không sợ súng”, nên cơ quan nào tôi cũng “yêu cầu phải cho về trình diện”! Thiếu úy Hồ Quảng Hưng Trưởng Phòng 1 Tiểu Khu gọi tôi lên trình diện, mắng phủ đầu về việc gởi văn thư vượt hệ thống chỉ huy, không những thế lời lẽ lại càng thiếu nhã nhặn mang tính cách “ra lệnh”. Ông Hưng nói ngày mai lên trình diện ông Tỉnh trưởng rồi sẽ hay. Hôm sau tôi vào trình diện Thiếu tá Nguyễn Thanh Văn Phó Tỉnh trưởng Nội an thấy mặt ông hầm hầm. Mất một vài giây choáng váng, tôi nghĩ ngay đến những việc chẳng lành đang đến. Mặt ông vác hất lên, nhìn thẳng vào tôi ông nói bằng một giọng tức tối hách dịch : “Anh phải về dạy chú mày bữa nay- ra tường được bao lâu- viết văn thư như thế mà cũng đòi viết à!- anh là cái thá gì mà dám cả gan ra lệnh yêu cầu Tỉnh cho nghĩa quân về trình diện anh?- anh ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
có muốn tôi quất củ bao nhiêu ngày đây thì bảo!....” Ông nói một hồi lâu xem ra cũng hả dạ, sau đó ông cho phép tôi được trình bày. Việc đầu tiên tôi cảm ơn ông “rất khéo” về những sự chỉ giáo. Tôi xin lỗi đã có những lời văn không đúng cách của cấp dưới đối với cấp trên. Sau đó ông cho tôi ngồi và bắt đầu khuyên tôi lúc mới vào đời thì phải học đời. Riêng tôi không thể hiểu nổi tại sao ông lại đối xử với tôi khác lúc ban đầu, tôi nhớ mãi cái câu ông “dạy” tôi như thế nầy: “Có những cái chướng tai, có những cái gai mắt nó đâm vào mắt mình mà mình vẫn phải để yên…” Sự việc nầy tôi đã trình bày lại cặn kẽ với Đ/u Phương cấp chỉ huy trực tiếp của tôi, nhưng ông chỉ ừ hữ cho qua, chắc ông cũng thừa biết phép vua thua lệ làng. Sau tôi mới biết là ông Tỉnh, ông Phó, ông Ty, ông Quận…ông nào cũng có nuôi nghĩa quân dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy ngài Phó đánh phủ đầu tôi xong rồi vuốt. Đúng ra, việc rút nghĩa quân biệt phái trở về tôi phải trình lên Đ/u Phương mới đúng nguyên tắc tham mưu. Dẫu sao, đây cũng là một bài học quý giá, một kỷ niệm nhớ đời đối với tôi. NGUỒN GỐC NGHĨA QUÂN Trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, lực lượng bảo vệ an ninh thôn ấp do Dân vệ đảm trách. Trước năm 1954, các làng Tề ngoài Bắc thường gọi là Hương Dũng với đồng phục đen được trang bị bằng vũ khí cũ sau Thế chiến thứ 2. Càng về sau, nhu cầu an ninh xã ấp càng đòi hỏi cho nên những thanh niên từ 18 tuổi đến 45 được kêu gọi đoàn ngũ hóa lấy tên là Thanh niên Chiến đấu. Lực lượng Dân vệ sau đó được đổi thành Nghĩa quân hoạt động song hành với Thanh niên Chiến đấu. Khoảng năm 64-65, Thanh niên Chiến đấu lại được cải tuyển thành Nghĩa quân. Nghĩa quân không có cấp Đại đội, mà chỉ có từ cấp Trung đội trở xuống, dưới có cấp Tiểu đội và Nghĩa quân viên. Trung và Tiểu đội trưởng do Tỉnh trưởng ký quyết định bổ nhiệm và được hưởng lương phụ cấp chức vụ, do ngân sách Tỉnh đài thọ. Ngoài lương hướng hàng tháng, Nghĩa quân còn được cấp phát thêm bột mì, dầu ăn, sửa bột và mở trừu… CẢI TỔ CƠ CẤU TIỂU KHU Để phù hợp với tình hình chiến sự, cơ cấu tổ chức Tiểu khu được biến cải qua nhiều giai đoạn, tạm thời có thể chia ra làm 3 giai đoạn: 117 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
-Giai đoạn I khởi sự vào năm 1965 Ban Chỉ Huy Nghĩa quân Tỉnh va Ban Chỉ Huy Địa phương quân Tỉnh được giải thể và sát nhập vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu lấy tên chung là BCH Địa Phương Quân- Nghĩa Quân Tiểu Khu. Tiểu khu thống nhất chỉ huy và Bảng cấp số mới được chính thức áp dụng từ đấy. Trong thời gian chuyển tiếp, dĩ nhiên cũng có gặp nhiều trở ngại lúc ban đầu. Riêng tôi được điểu động về Phòng 1 Tiểu khu đặc trách quân số Nghĩa quân. -Giai đoạn II vào năm 1968 Sang giai đoạn nầy, Bảng cấp số được tu chỉnh lại cho phù hợp với hiện trang nhu cầu. Riêng về việc điều hành nhân viên, Phòng 1 Tiểu khu được tách ra một số nhân viên để thành lập Trung đội Quản trị Nhân viên đặt trong doanh trại của Trung tâm Yểm trợ Tiếp vận hầu trực tiếp với Ban Quân lương. Riêng Phòng 1 lo về tham mưu quản trị chỉ số và nhiều kế hoạch tham mưu khác. Trung đội Quản trị Nhân viên quản trị chỉ danh, thuyên chuyển bổ nhiệm, huy chương thăng thưởng, hồ sơ cá nhân…Sau khi tốt nghiệp Khóa Sĩ quan Căn bản Tổng quản trị, tôi trở về nắm Trung đội trưởng Trung đội Quản trị Nhân viên. Hơn một năm sau, Trung đội nầy được nâng lên Phòng Tổng Quản trị, đặt ngay trong Bộ Chỉ Huy Tiểu khu. -Giai đoạn III vào năm 1975 Bảng cấp số mới một lần nữa lại được ra đời. Tiểu Khu được tổ chức thành ba Khối. Khối Hành chánh Tiếp vận gồm Phòng 1 Tổng Quản Trị và Phòng 4, Khối Hành quân&Huấn luyện gồm Phòng 2 Phòng 3 và Phòng Truyền Tin, riêng Khối CTCT vẫn giữ nguyên nhưng có sát nhập của Đại đội CTCT. PHƯƠNG THỨC QUẢN TRỊ VÀ SỬ DỤNG NGHĨA QUÂN Nghĩa quân chưa có Sắc lệnh ấn định quy chế, nhưng được cải tổ toàn diện, vũ khí quân trang quân dụng được trang bị đầy đủ của một chiến binh. Họ được cấp phát số quân mới, lập hồ sơ cá nhân, chụp hình lăn tay khám sức khỏe. Lương bổng do ngân sách quốc phòng đài thọ, không còn lệ thuộc vào ngân sách Tỉnh hạt như trước nữa. Nghĩa quân không phải thi hành Quân dịch, nhiệm vụ chính yếu vẫn là bảo vệ an ninh thôn xóm. Đôi khi nhu cầu an ninh đòi hỏi, Nghĩa quân cũng tham gia một vài cuộc hành quân tăng phái như an ninh lộ trình, canh gác cầu cống… ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 118
KẾT LUẬN Trong suốt 11 năm, qua bảy đời Tỉnh trưởng với một đơn vị, một việc điều hành nhân viên tại Tỉnh Lâm Đồng, tôi cảm thấy trách nhiệm cùng mình, lúc nào cũng bận bịu như nuôi con mọn. Chăm lo cho một người lính từ lúc họ nhập ngũ, dẫn họ đi huấn luyện rồi bổ sung cho các đơn vị. Lo hồ sơ thăng thưởng, chạy huy chương, lập hồ sơ hưu bổng khi đáo hạn tuổi. Những chiến sĩ đền nợ nước, việc hậu sự được lo liệu rất chu đáo. Hồ sơ truy thăng truy tặng, hồ sơ tử tuất, hưu bổng chuyển quyền….lúc nào cũng chu đáo và mau lẹ. Tôi tự hào đã làm đầy đủ bổn phận của một sĩ quan quản trị nhân viên với một tấm lòng trong trắng, không vướng mắc, không nợ nần bất cứ với một chiến binh nào./. Chu Quang Anh Dũng Cựu SVSQ Khóa 17 TĐ
Bài cho người tình Văn Khoa Ta gặp gỡ nơi cổng trường Văn Khoa đó Anh Kaki, em áo trắng học trò Ngỏ lời quen anh chỉ biết: thưa cô Em cú mặt cắn môi cười mắc cỡ Rồi cũng qua phút ban đầu bỡ ngỡ Em mộng mơ anh khắc khoải mong chờ Viết thư tình anh ngỏ ý đơn sơ Tim rộn rã đón tình vừa chớm nở Em trễ hẹn để lòng anh nhung nhớ Thoáng nao nao trong những phút mong chờ Tập tễnh yêu nên hay sợ vu vơ Vẫn biết nếu mình yêu mình sẽ khổ Chiều chủ nhật giáo đường ta khấn nguyện Xin Chúa thương dẫu năm tháng có dài Lạy Chúa cao, Chúa ngự trị ba ngai Xin Chúa giúp chúng con yêu nhau mãi Trần Quốc Sĩ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
MỘT CÁNH HOA DÙ TRONG VÒNG GAI THÉP ĐỎ Mũ đỏ Lệ Nhân “Để tưởng nhớ đến Thiếu Tá Trần văn Châu - Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù Cựu SVSQ Khóa 17 SQTB/TĐ” Tốt nghiệp Khóa 17 SQTB/TĐ, Trần văn Châu được tuyển về Nhảy Dù với vài người bạn đồng khóa. Mới đầu Châu phục vụ ở TĐ1ND rồi TĐ6ND, theo đơn vị hành quân ở khắp bốn vùng chiến thuật với chức vụ Trung Đội Trưởng. Năm 1967, sau chiến thắng lẫy lừng ở Đồi 1416 ở Dakto Vùng 2 chiến thuật, Châu bị thương rồi được thuyên chuyển về làm Phụ tá Ban 2, rồi Trưởng Ban 2 cho Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Khoa Nam. Ngày Đại Tá Nam lên Tướng và đi nắm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, có ý muốn kéo Châu đi theo nhưng Châu từ chối vì không muốn rời bỏ Nhảy Dù. Sự thực chỉ với một vài người bạn thân Châu mới tâm sự: “Ổng khó bỏ mẹ, lúc nào cũng rếch-lô, làm việc với ổng còn hơn làm công chức”. Mà có ở với Tướng Nam rồi mới biết, trực Trung tâm Hành quân cũng phải để nón sắt bên cạnh, bi đông nước luôn phải đầy, và dĩ nhiên súng ống luôn kè kè bên mình. Châu cao ráo trắng trẻo, lại có hàm râu quai nón dù luôn cạo nhưng vẫn lấm chấm màu xanh nhìn cứ như Tây lai. Một thời gian dài ở với Tướng Nam có lẽ cũng bị ảnh hưởng tình cẩn trọng của vị chỉ huy khả kính mà Châu cũng trở thành mẫu mực. Trải qua thêm mấy đời Lữ Đoàn Trưởng, Châu vẫn được tín cẩn. Chả thế mà năm 1972 sau chiến thắng An Lộc, Châu được thăng cấp Thiếu tá. Mùa Hè Đỏ Lửa tại Quảng Trị, Nhảy Dù gần như đóng đô tại Quân Khu I. Đại tá Trương Vĩnh Phước về làm Tư Lệnh Phó, giao Lữ Đoàn 3 ND cho Đại tá Văn Bá Ninh rồi Trung tá Lê văn Phát, và Châu vẫn giữ chức Trưởng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ban 2 Lữ Đoàn. Năm 1974, Nhảy Dù kéo vào tăng cường cho mặt trận Đà Nẳng. Lữ Đoàn 1 Dù trực chiến tại Đồi 1062 Thường Đức, còn Lữ Đoàn 3 nằm tại Phước Tường. Phi trường Đà Nẳng luôn bị pháo kích, Bộ Tư Lệnh giao trách nhiệm cho Lữ Đoàn 3 ND đặt đài quan sát tại đồi 750, một cao điểm có thể quan sát khắp vùng để phát hiện vị trí súng địch. Đài quan sát trực thuộc Ban 2, Châu rất khổ tâm vì có đài quan sát rồi mà phi trường vẫn bị pháo kích và luôn bị cấp trên trách móc. Với tinh thần trách nhiệm và với tính xông xáo, Châu xin Tr/T Phát cho lên đài quan sát để: “xem tụi nhỏ làm ăn ra sao, chứ cứ ngồi đây chờ báo cáo với chờ bị chửi rầu quá!”. Sau năm ngày lên sống và làm việc với các đệ tử, Châu trở về râu ria mọc ra tua tủa. Châu vào trình diện Tr/T Phát rồi trở ra thở dài: “Có thấy mẹ gì đâu! Mang tiếng là Đài quan sát mà chỉ có hai mạng với một máy PRC 25 và một cái ống nhòm mà bắt trực 24/24 thì chịu gì nổi. Ở trên đó lạnh muốn chết, gió thổi lồng lộng, đứng ngoài chừng 10 phút là chảy nước mũi, ở đó mà quan sát. Mà tụi VC chỉ pháo lén như thằng ăn trộm, lâu lâu nó xịt một quả rồi lặng mất tiêu chứ có bắn nhiều đâu mà phát hiện!”. Mà quả đúng như vậy, một lần thấy điểm pháo, phản pháo rồi đổ quân xuống, chỉ thấy mấy ống tre được dựng làm giàn phóng, còn địch chẳng thấy dấu vết gì. Đầu năm 1975 Ban Mê Thuột bị thất thủ. Sư đoàn Nhảy Dù được lệnh về Sài Gòn, nhưng riêng Lữ Đoàn 3 ND với các Tiểu đoàn 2, 5, 6 đi tàu hải quân ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 119
về Nha Trang rồi trực chỉ Khánh Dương. Chỉ được ít lâu Nha Trang hổn loạn, BTL Quân Đoàn II di tản và Khánh Dương bị tràn ngập, BCH Lữ Đoàn 3 ND bay về Phan Rang, thành phần còn lại do Châu chỉ huy rút bằng đường bộ về Cam Ranh. Lệnh là về Cam Ranh để lên tàu vô Sài Gòn, nhưng phải khó khăn lắm mới tới được Cam Ranh vì đường bị kẹt cứng bởi các đơn vị, các quân trường với đủ loại xe cộ dành nhau tháo chạy. Cam Ranh đóng cửa không vào được, đoàn quân như rắn mất đầu không còn liên lạc được với ai. Các đơn vị bạn kéo về đóng la liệt chung quanh Ba Ngòi, cũng mất liên lạc và cũng chẳng có ai chỉ huy tổng quát, nên mạnh ai nấy lo và cùng nháo nhác. Không đơn vị nào dám đi tiếp vì nghe nói đường về Phan Rang bị cắt, cầu bị giật sập và có đóng chốt, nên thị trấn Ba Ngòi càng bị dồn cục. Tới chiều, Châu họp các đơn vị còn lại của Lữ Đoàn và quyết định đi về Phan Rang, đụng đâu đánh đó chứ không lẽ nằm đây chịu chết. Phải nói là Châu đã có quyết định đúng vì lúc đó Châu mang cấp bậc lớn nhất. Đúng vì nếu không đi cứ nằm lại tại đây, Cam Ranh sẽ trở nên hỗn loạn và thảm cảnh Đại lộ kinh hoàng ngoài Quân Khu I và mới đây tại Tỉnh lộ 7 của Quân Khu 2 chắc chắn sẽ xảy ra. Tàn quân của Lữ Đoàn 3 Dù do Châu chỉ huy phải lòn lách mãi mới ra được khỏi Cam Ranh và hướng về Phan Rang. Các đơn vị nằm hai bên đường nhao nhao mừng rỡ: “Nhảy Dù mở đường! Nhảy Dù mở đường!”. Tất cả phóng lên xe nối đuôi chạy theo.
Nhảy Dù, hai tiếng đó tạo niềm tin cho các đơn vị. Nhảy Dù đi trước làm cho họ phấn khởi. Nhảy Dù làm một việc mà không ai dám làm, nhất là trong lúc thập tử nhứt sanh. Họ đâu có biết rằng Nhảy Dù lúc đó chỉ là lính văn phòng của Lữ Đoàn 3 với các toán ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 120
tiền trạm và tăng phái. Châu đã liều lĩnh và có quyết định đúng. Đoàn xe về tới Phan Rang chẳng có biến cố gì. Nhìn lại đàng sau đoàn xe dài dằng dặc vẫn chưa ra hết thị xã Ba Ngòi và cả đêm vẫn tiếp tục đổ dồn về Phan Rang. Nhưng mọi người đã biết, ngày 30 tháng 4 đen tối ập đến. Sau những ngày kinh hoàng và lo lắng, Châu cùng những người còn kẹt lại vác ba lô đi trình diện “học tập”. Tôi gặp lại Châu ở Long Giao rồi Suối Máu Tam Hiệp. Đứng trong vòng rào kẽm gai nhìn ra ngoài, mắt Châu buồn vời vợi. Một lần Châu thì thầm với tôi: “Trốn mầy!”. Tôi lạnh xương sống, hiểu rằng Châu gợi ý, nhưng lúc đó không dám nhận mà cũng không dám từ chối. Rồi xảy ra việc ba anh Nguyễn Hào Thịnh, Trần văn Tư và một anh nữa tên Em trốn trại và bị bắt. Riêng anh Tư bị chúng bắn chết ngay ngoài hàng rào, còn anh Thịnh và anh Em bị đem ra xử. Chỉ có các láng trưởng được đại diện đi xem phiên xử, còn lại thì nghe bằng loa phóng thanh. Mọi người hồi hộp theo dõi, chỉ nghe chúng đọc cáo trạng xỉ vả còn hai anh chẳng được nói một lời. Cuối cùng chúng tuyên án tử hình rồi nghe hai tràng AK nổ, nghĩa là xử xong chúng lôi ra bắn ngay ngoài phòng xử. Trời hôm đó đang quang đảng nhưng bỗng nhiên mây đen kéo đến tối sầm lại. Các anh em ở trại Suối Máu năm 1976 chắc còn nhớ thời điểm bi thảm và hiện tượng bất thường đó. Tôi thấy Châu khóc, chẳng biết nói gì ngoài việc bóp nhẹ vai Châu như chia sẻ và cũng ngầm nhắc Châu cẩn thận. Ít lâu sau đến ngày 19/6/1976 thì tất cả bị lùa xuống tàu Sông Hương đậu ở Tân Cảng Sài Gòn để ra Bắc. Sau mấy ngày khốn khổ lênh đênh trên biển thì tới cảng Hải Phòng vào buổi chiều thời tiết âm u. Rồi lại bị lùa lên tàu hỏa đi Yên Bái và thất lạc Châu từ ngày đó. Tôi về Sơn La còn Châu về trại nào không rõ. Ở Sơn La được khoảng một tháng thì tôi lại chuyển trại về nông trường trà Trần Phú ở Nghĩa Lộ. Ngày đến trại mới thì thấy xôn xao, nhìn ba người tù đang bị trói và bị đánh té lên té xuống. Hỏi ra là ba anh trốn trại bị bắt lại và bị gởi qua nhập chung trại, chưa biết là ai vì cả ba sau đó bị nhốt xuống hầm tối mấy tháng trời. Tới khi ba anh được thả trở về mấy láng để đi lao động như mọi người, thì mới biết họ tất cả bốn người, ba người bị bắt lại và một người bị chết, mà người chết lại là “Châu Nhảy dù” ! Một lần nữa tôi lại lạnh xương sống, chợt nhớ tới câu gợi ý của Châu ngày còn ở Tam Hiệp. Châu đã nuôi ý vượt ngục từ lâu lắm và khi mới ra tới đây ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
là thực hiện liền. Mãi mới có dịp gặp lại một trong ba đồng cảnh của Châu để hỏi. Gặp Phong, một Đ/u thuộc Tiểu Khu Cao Lãnh, người có vẽ lì lợm nhất. Phong cười buồn: -Anh Châu rủ tụi tôi, bốn ngưới nhắm hướng Tây tính đi qua Lào rồi tìm đường xuống Thái Lan, đi mấy ngày đói lã vì hết lương thực. Tính vào được rừng rồi sẽ tìm kế mưu sinh, nhưng rừng miệt nầy toàn là gay góc chẳng có thứ gì là ăn được. Anh Châu lại bị đau không đi nổi, tụi tôi cố dìu anh nhưng đói quá nên bàn nhau để anh nằm lại, đi tìm lương thực đã rồi trở lại đón. Anh Châu cũng đồng ý và bảo tụi tôi nếu cần cứ đi đừng nghĩ tới ảnh. Ảnh nói vậy chứ ai nỡ bỏ. “Tụi tôi tìm được một xóm người Mán, có mấy thứ quý giá như đồng hồ với một ít vàng đưa cho họ, chỉ xin đổi ít gạo hay thứ gì ăn được. Họ nhìn tụi tôi như dò xét nhưng rồi cũng đổi cho mấy đấu gạo và cho thêm một miếng thịt heo rừng nữa. Ra ngoài xa nấu ăn một bụng rồi tìm lại chỗ anh Châu nằm tính cho ảnh ăn rồi đi tiếp. Trở lại chỗ cũ không thấy ảnh, cũng không thể lạc được vì khi đi tụi tôi có làm dấu và về đúng chỗ cũ mà sao không thấy ảnh. “Ba đứa túa nhau đi tìm, vừa lo cho ảnh mà cũng lo cho mình, nếu không ra khỏi chỗ nầy thì nguy hiểm lắm. Biết thì biết vậy nhưng chưa kịp tính gì thì tụi nó ập đến. Lẫn trong đám dân quân có cả người Mán mà chúng tôi đã đổi gạo, thôi rồi, nó đi báo cho dân quân chứ ai! Bọn nó trói tụi tôi lại rồi hành hạ đủ điều. Tôi nghĩ chắc anh Châu đã bị bắt trước rồi, chứ ảnh yếu làm sao đi khỏi chỗ ấy xa được. Nhưng tới nay về đây được mấy tháng rồi chả thấy ảnh đâu. Chắc chết rồi…mà chết như thế nào cũng không biết nữa! Phong chấm dứt bằng những cái lắc đầu. Tôi về láng nằm lịm để nghĩ về Châu. Không phải mấy tháng đó biệt tin Châu, mà cả mấy năm sau nầy chuyển đi nhiều trại cũng không có tin tức gì thêm. Chắc hẳn Châu đã chết vào những ngày tháng đó. Núi rừng Việt Bắc nổi tiếng là rừng thiêng nước độc chắc đã vùi lấp thân xác Châu rồi. Đã hơn hai mươi năm trôi qua, năm nay nhân dịp Xuân về lại thắp lên một nén nhang để tưởng nhớ về Châu, một chiến sĩ Mũ Đỏ, một cựu SVSQ Khóa 17 Thủ Đức, đã chọn cho mình một cái chết hào hùng bất khuất. Lệ Nhân Khóa 17 TBTĐ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
* Đôi dòng viết thêm: Đại úy Phong thuộc Tiểu khu Cao Lãnh người cùng trốn trại với Châu thật có duyên với Nhảy Dù. Chuyển trại về Tân Kỳ Nghệ Tỉnh, một lần nữa vào năm 1980 Phong lại trốn trại, và lần nầy anh cùng trốn trại với một Nhảy Dù khác, Thiếu tá Trương văn Vân TĐPhó TĐ 2 ND. Nhưng lần nầy cũng thất bại, cả toán bốn người đã bị bắt và lại bị những đòn thù tơi tả.
thư xuân em gái hậu phương em là cô bé mắt đen môi thơm ôm những chiếc răng ngọc ngà cho em mặc sức cắn ta càng sước nhiều vết thiết tha càng nồng em là cô bé má hồng có hai cái lúm chờ trồng thi ca ta mơ màng được lân la tỉa lén từng nụ tình ca bốn mùa em là cô bé thích mưa mùi hương mít ướt sáng trưa thơm lừng không cần dây buộc vào chân ta bước không khỏi chéo sân quê tình em là cô bé thông minh cánh tay áp sát thân hình lưng ong ta đi không biết mấy vòng để rồi quị gối vào lòng bao dung thư em từng chữ bọc nhung từng câu bọc lụa khiêm cung thật thà ta là “lính trận miền xa” nhưng hồn đang quẩn hiên nhà của em chỉ nhìn không dám đọc tên đã vang từng tiếng nhịp tim nồng nàn đêm nay chắc được mơ màng ngay trong phiên gác rừng hoang sao trời Luân Hoán 121 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
LÊN NÚI TÌM CHỒNG Trần Thị Đông Phương Hiền Thê của một Cựu SVSQ/ K17TĐ
“Chuyện đã xưa, nhưng xin viết lại để không quên mối thù nầy” Sau sáu năm dài, ngày nầy qua ngày khác tôi mong ngóng tin tức của chồng nhưng vẫn biệt mù, không một ai trong tất cả những người đàn bà có chồng đang ở các trại tập trung cải tạo, biết chồng mình sống chết ra sao, khỏe yếu thế nào, tất cả đều mù tịt. Họa hoằn tôi mới nhận được một mảnh giấy với vài dòng như công thức định sẵn. Bao giờ cũng là… anh đang học tập tốt, lao động tốt…em yên tâm… Tôi đang giữ trong túi 4 miếng giấy, cũng chỉ có bấy nhiêu chữ. Hôm nay tôi thu xếp hàng đem gởi nhà người quen để về sớm hơn thường lệ. Trong nổi khốn cùng, tôi cũng gặp được điều may - Chị Liệu vợ anh Lượng, họ là bạn của gia đình tôi - Anh chị Lượng trước 304-75 có tiệm buôn bán xe đạp, xe gắn máy và đồ phụ tùng, thuộc loại lớn ở Ngã Bảy ngay đầu đường Minh Mạng. Từ lúc 9 giờ sáng ngày 30-4-75, anh Lượng cũng là quân nhân, chạy ra bến Bạch Đằng và biệt tích cho đến bây giờ, thoát hay chết không ai biết được. Chị Liệu là bạn học với tôi ở lại với 6 đứa con, tiếp tục bán đồ xe đạp, chỉ là đồ xe đạp thôi, vì nhà cửa kho hàng bị tịch thu. Liệu đã thương tình nhường lại cho tôi một số đồ phụ tùng để bán lẻ nơi lề đường. Hai chị em mỗi sáng trải chiếc poncho của chồng để lại, bày trên đó những thứ phụ tùng xe đạp. Trời cũng còn thương kẻ khốn cùng, nên những chú Bắc Kỳ vào Sài Gòn vẫn thích tìm mua, nhờ vậy nên mẹ con tôi vẫn còn được ngày hai bửa cơm. Tôi về sớm vì đứa con lên chỗ bán hàng cho hay: “Mẹ! Có thư của Bố kèm phiếu thăm nuôi, Bố dặn cách xin giấy đi thăm, Mẹ về coi thì mới biết được”. Sau sáu năm xa cách, tuy chẳng hề được nhìn mặt nhau một giây, nhưng dù vài chữ tôi cũng đủ thấy ấm lòng. Nhìn nét chữ của anh, tôi hình dung ra khuôn ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 122
mặt yêu dấu của chồng, nhất là khi nghe thằng con út đọc thư oang oang, tôi cũng vui được đôi chút và cầu nguyện xin ơn trên che chở cho chồng, cho đồng đội của anh được sống sót trở về. Lần nầy thì đúng là thư thật vì được viết dài hơn một trang giấy, tuy không được kể lễ tâm tình, nhưng bù lại anh hướng dẫn tôi phải làm những gì để được chấp thuận cho đi thăm nuôi. Việc đầu tiên là tôi phải mang thư và giấy thăm nuôi của trại gởi về, kèm theo hộ khẩu, đến phường để được xác nhận giấy tờ mang theo là đúng, tình trạng cư trú hợp pháp và là vợ chính thức của anh ấy. Phường chứng thật xong rồi viết thêm mấy chữ giới thiệu lên Quận để được chính thức cấp cho giấy đi đường, cho phép đến trại cải tạo thăm chồng. Lên đến Quận lại thêm một lần may mắn, trong lúc ngồi chờ duyệt xét giấy tờ, tôi gặp được các chị cũng xin giấy đi thăm nuôi chồng. Hỏi ra thì được biết các chị ấy là vợ anh Tâm KQ, vợ anh Bình BĐQ, vợ anh Đỗ văn Nhĩ thuộc SĐ18BB, và cô Tuyết đi thăm hai người anh ruột là anh Lê Hoàng Nghi cùng trại Lam Sơn Thanh Hóa, sau đó đi tiếp ra trại Ba Sao để thăm anh hai là Tướng Lê Minh Đảo. Dù chưa lên đường nhưng chúng tôi đã thấy mối cảm thương dành cho Tuyết sẽ phải lặn lội cơ cực đi thăm cùng một lúc hai người anh đang trong lao tù cộng sản. Sau vài phút làm quen vì cùng cảnh ngộ, nên chúng tôi thân nhau nhanh chóng, hẹn nhau mua vé xe lửa để được đi cùng chuyến và cùng toa xe, để được trò chuyện hàn huyên, hy vọng quên đi vất vả dọc đường. Có giấy phép cho đi Thanh Hóa thăm nuôi chồng rồi, tôi bắt đầu lo tiền để mua sắm thức ăn, vì ở nhà chẳng còn gì mấy lon gạo và vài ký khoai mì hợp tác xã vừa bán theo hộ khẩu. Vật dụng thì còn cái tủ lạnh, biết bán nó cho ai bây giờ? Nhìn quanh tôi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đang trơ trọi một mình, gia đình chồng thì chưa liên lạc được, suy nghĩ đến đau cả óc, cuối cùng tôi phải cầu cứu đến mẹ: -Mợ ơi! Tuần sau con đi thăm chồng ở Thanh Hóa, con chỉ còn đúng có 30 đồng và mấy lon gạo, con phải làm gì bây giờ hở mợ? - Mẹ tôi im lặng suy nghĩ giây lát rồi nói: -Con xem có còn cái gì bán được thì bán đi, Mợ sẽ nói các em mày nó phụ mỗi đứa một chút. Cố gắng đi con ạ! - Bố tôi nghe được, ông thở dài và quyết định thật nhanh; -Đừng lo, cậu còn cái máy chụp hình Canon, bây giờ cũng chẳng cần đến nữa, Cậu cho con, đem lên nhờ cô Liệu quen biết nhiều bán giúp, lấy tiền mà đi thăm nó. Tủi thân thế đấy! Lấy chồng làm quan bao nhiêu năm, giờ lại vẫn phải dựa vào vòng tay cha mẹ để nương nhờ. Bán chiếc máy ảnh, tôi bán luôn chiếc nhẫn cưới một chỉ vàng đang đeo trên tay. Tạm đủ để mua vé xe lửa và ít đồ khô, theo sự ấn định cho phép của “cách mạng”. Riêng các em tôi được mẹ tôi hô hào, đã xúm nhau mỗi đứa cho một ít đồ ăn khô và chút tiền. Tôi đã tưởng tượng thật nhiều về chuyến đi tìm chồng lần đầu, bao nhiêu ngày đêm mòn mõi nhớ thương, lẫn hận thù oán ghét kẻ đã giam cầm chồng tôi. Tuy suy đoán, gặp nhau chắc anh mừng lắm, tôi sẽ được sờ lên mặt, cầm tay chồng, dù chỉ chốc lát nhưng cũng đã cho tôi niềm an ủi và yên tâm tần tảo nuôi con chờ anh về. Đã sáu năm, cà hai chúng tôi đang bắt đầu vào tuổi già, chúng tôi đã cùng ngoài bốn mươi. Đúng 5 giờ sáng một ngày chủ nhật, tôi và thằng con trai thứ ba, mang đồ đạc ra ga xe lửa. Thật ra đồ thăm cũng chỉ có trong hai cái giỏ đệm và mộttúi nhỏ đựng vật dụng riêng của hai mẹ con được cháu đeo sau lưng. Tới nhà ga, tôi gặp đủ những chị đã gặp ở quận khi đi xin giấy, ngoài ra còn có các chị đi thăm chồng ở các trại khác như Thanh Cẩm, Thanh Lâm, Kỳ Anh (Nghệ Tĩnh)… Có lẽ đây là lần đầu, nên số người đi ra Bắc tìm thăm chồng khá đông. Chúng tôi không đủ tiền để mua vé tàu suốt, nghĩa là chạy thẳng không ghé các ga nhỏ, chúng tôi mua vé tàu chợ, thời gian đến sẽ kéo dài hơn vì tàu ngừng lại ở nhiều ga nhỏ để khách buôn lên xuống. Chúng tôi chen chúc lên tàu vô cùng vất vả, trong toa kẻ nằm người ngồi ngổn ngang, đủ các loại hàng từ thú vật gà vịt đến cả heo con cũng được bỏ rọ mang đi. Mùi phân thú, mùi mắm, mùi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
người nồng nặc cả toa, mỗi lần bị đụng chạm hay xô lấn, lũ gà vịt kêu réo oang oác, hai con heo cũng la eng éc phụ họa. Từ thủa bé tôi chưa được đi xe lửa lần nào, nay là lần đầu tiên nên cảm thấy khó chịu, nhưng rồi tự an ủi “Có chỗ cho mình đi là may rồi”. Chị vợ anh Nhĩ thì thật nhanh nhẹn và mau mắn, chị vượt lên trên trước, loay hoay thế nào mà kiếm được một chỗ trong góc toa. Chị gọi chúng tôi mang đồ vào để chung một chỗ cho dễ canh chừng. Chị Nhĩ căn dặn: “Chị em mình có ngủ thì chia làm hai, một nửa thức giữ đồ đạc, lơ đểnh là chúng nó lấy mất”. Tiếp theo chị ghé tai từng người nói thật nhỏ: “Nếu có tiền hay vàng phải giữ thật kỹ coi chừng bị cắt túi, mấy thằng móc túi nó lẹ và ma mãnh lắm”. Chúng tôi cố thu xếp cho nhau để mỗi người có được một chỗ ngồi, lúc ngũ thì dựa người trên mấy gói đồ hoặc gục trên hai gối mình. Nhưng có lẽ không ai ngủ đúng nghĩa, mà chỉ thiếp đi trong cơn mõi mệt, hoặc chập chờn theo âm điệu của các bánh sắt nghiến trên đường ray. Con trai tôi thì quên cả chật chội, chẳng quan tâm đến mùi hôi hám trên tàu, len ra chỗ hai toa tàu nối nhau có chỗ cho người đứng, dõi mắt nhìn say mê cảnh vật hai bên đường. Chỉ đến lúc thật mỏi mắt mới trở vào chỗ, tội nghiệp cháu, nó sợ tôi đói và mỏi mệt nên thỉnh thoảng lại nhắc chừng; “Mẹ ăn gì chưa? Mẹ có khát nước không?....” Hành trình khởi sự từ ga Hòa Hưng Sài Gòn đến ga Thanh Hóa vừa mất đúng 3 ngày 3 đêm, tàu vào ga Thanh Hóa lúc 9 giờ sáng. Chúng tôi vội vàng giúp nhau khiêng vác đồ thăm nuôi xuống đặt cạnh đường ray. Tất cả đều ngơ ngác nơi chốn lạ quê người, chúng tôi lấy thư của chồng ra coi lại trong đó có chỉ dẫn của trại tù viết trên giấy. Chúng tôi đi về cuối nhà ga, gặp hai người tù hình sự do một công an có súng đứng đợi sẵn. Một trong hai anh tù hỏi: “Các chị có phải ‘nà’ người đi thăm cải tạo trong trại ‘lăm Nam Sơn (5, Lam Sơn) không?”. Chúng tôi trả lời đúng, lúc đó người công an mới lên tiếng: “-Bọn tôi đợi ở đây để giúp các chị chở tiếp phẩm vào trại. Hai thằng nầy sẽ đánh xe trâu đến đây để xếp đồ lên, chỉ chở đồ đạc thôi nhé, người đi bộ theo sau. Đường khá xa và qua phà nữa đấy. Để tranh thủ, bây giờ là 10 giờ, đúng 10 giờ 30 ta sẽ về trại. Các chị vào trong lều gần xe trâu nghỉ đi.” Khoảng đường từ Thanh Hóa vào đến trại 5 Lam Sơn xa thăm thẳm, qua đồng qua ruộng, hết ruộng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 123
đến núi lại rừng. Nàng chinh phụ trong Chinh Phụ Ngâm, má hồng truân chuyên như thế nào, chỉ đọc chỉ nghe mà không thấy. Bây giờ, chúng tôi, những người vợ lính đi lên núi, vào đến rừng tìm chồng, có lẽ cơ khổ và truân chuyên hơn bà vợ hào kiệt của Chinh Phụ Ngâm Khúc gấp mấy lần. Dọc đường ai cũng phải ngồi xuống xoa bóp chân mình nhiều lần. Tôi có cảm giác như mấy chục mũi gai đâm vào lòng bàn chân. Chị Nhĩ khóc mếu máo: “ Cha ơi Mẹ ơí! Sao lúc nhỏ cha mẹ không tập cho con đi bộ?!” Cũng may, chúng tôi ai cũng đi giày vải Bata, nếu đi giày khác chắc chết. Cả bọn ai cũng lặc lè sắp quỵ, duy nhất có con trai tôi vì tuổi nhỏ mong được gặp bố lại được đi xa lần đầu, thỉnh thoảng cháu liều lĩnh đu lên sau xe trâu ngồi đở vài phút cũng không bị quở trách, vì thế cháu có vẻ chưa đau chân và mỏi mệt. Cố gắng cách mấy chúng tôi cũng không thể nào đến trại Lam Sơn kịp trong ngày. Đường đi khá xa, có lẽ cũng vài chục cây số, mặt trời đã tụt sau mấy dãy núi phía Tây xa xa. Những dãy đồi thấp và rừng cây hai bên đường bắt đầu nhòa bóng, thỉnh thoảng mới gặp hai ba người đi thồ hàng, đạp xe vội vã vượt qua hoặc ngược ra Thanh Hóa. Chúng tôi đi thêm được chừng hai cây số đến một khu phố buôn bán có ngôi chợ nhỏ đã họp xong buổi sáng. Người lính công an áp tải cho lệnh hai “tài xế xe trân” dừng lại nghỉ, đường xa đi không kịp. Họ chỉ cho chúng tôi khu nhà trọ và dặn dò: “Các chị thuê chỗ ngủ trọ, sáng mai tập trung tại quán nước chè ta sẽ đi tiếp”. Mẹ con tôi đã trải qua một đêm chưa bao giờ khiếp hãi đến thế. Bộ ván, chiếc chiếu ước chừng đã khá lâu không được làm vệ sinh giặt giũ. Thật mệt, nhưng giấc ngủ vẫn không đến với chúng tôi vì nhiều lý do. Nỗi sơ ám ảnh cùng với phải đối phó với hàng trăm hàng ngàn con rệp, khiến chị em đành ngồi kể chuyện cho nhau nghe chờ sáng. Khoảng hơn 12 giờ trưa hôm sau thì chúng tôi tới trại 5 Lam Sơn. Con đường ngoằn nghoèo vòng qua dãy núi đá không cao lắm xuyên qua một khu đất rộng đang canh tác. Nhìn từ xa không ai biết, tới gần mới nhận ra một đoàn tù, toàn là nữ tù, chia thành nhiều tốp kẻ trồng đậu phọng, người đang cấy lúa. Đám người nầy khá đông, nhưng dường như họ là những bộ máy lạnh lùng làm công việc của mình âm thầm như những chiếc bóng, đầu phủ kín bằng những tấm khăn vải để chống nắng. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 124
Người cuốc đất, người nhổ cỏ hoàn toàn lặng lẽ, đến cả hai giám thị công an một nam một nữ, như hai pho tượng ngồi kế bên nhau trên bờ đường. Trên lưng áo vải mỗi người tùđề có in hàng chữ “Lam Sơn 5”, chúng tôi còn gặp thêm hai toán người đang đập để nung vôi. Nhận ra chúng tôi, một vài anh lên tiếng hỏi “Các chị đi thăm ai?”, nhưng chỉ có thế vì các anh buộc phải im tiếng. Sau khi làm những thủ tục của trại tù xong thì đã vào buổi chiều hết giờ thăm nuôi, chúng tôi phải chờ qua ngày hôm sau. Người cán bộ phụ trách thăm nuôi dẫn chúng tôi đi vòng ra sau căn “nhà việc” (văn phòng) để đến nhà vãng lai. Sáu người ở chung một gian nhà, vách ván mái ngói, kê ba chiếc giường tre tương đối sạch với chiếu mới, họ cho mượn mùng nếu ai không có. Chúng tôi rũ nhau xuống bếp ngay đầu nhà có sẵn củi, nồi. Củi phải mua mỗi người 5 đồng, nồi thì cho mượn. Vợ anh Bình BĐQ đem lon mắm ruốc xào thịt ra xào lại , tôi cũng xào lại lon gà kho gừng cho khô thêm. Thời gian chờ đợi dằn vặt, xao xuyến trong lòng chúng tôi không ít. Mỗi lần có một anh “cải tạo viên” đến, chúng tôi lại rướn cổ nhìn, nhưng vẫn là chồng người ta. Mấy ông tuy là mặc đồ lành lặn sạch sẽ, nhưng nhìn bóng dáng đi, dù có ưởn ngực thẳng lưng, vẫn chẳng dấu được cái vẻ tiều tụy tàn tặ trên thân thể. Ai cũng giống nhau, sự hành hạ qua năm tháng đã làm họ mất thật nhiều phong độ, cố giữ cho thẳng mà vẫn thấy xiêu vẹo. Giờ nầy qua giờ khác, lại mất một ngày nữa đợi chờ. Chúng tôi an ủi nhau, mình tới trại sau nên được gặp sau chắc chắn ngày mai sẽ đến lượt mình. Ngày thứ ba kể từ khi chúng tôi bước vào khu thăm nuôi của trại 5, chừng 10 giờ sáng, một cán bộ thăm nuôi đến gọi chị Tâm KQ và cô Tuyết em anh Lê Hoàng Nghi lên phòng thăm nuôi, mọi người vui hẳn lên và hồi hộp. Mười lăm phút sau việc thăm nuôi xong, chị Tâm và Tuyết trở lại mặt đỏ vì vừa khóc xong. Tuyết vội vàng thu xếp đồ đạc và nói: “Em chào các chị, em phải đi ra trại Ba Sao ngay bây giờ. May quá có xe của trại ra Thanh Hóa họ cho em quá giang”. Nhìn theo Tuyết quảy đồ ra cửa, chúng tôi không ngăn được xúc cảm. Tội nghiệp cho cô bé phải lặn lội tất tả đi thăm hai anh ở cách xa nhau hàng trăm cây số. Cuối cùng rồi cũng đến phiên mình, sáng ngày thứ tư ở trại (thật ra mới có ba ngày rưởi), vợ Bình, ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
vợ anh Nhĩ và tôi, cùng được gọi lên nhà thăm nuôi một lượt, ba người ngồi một bàn, đứa con trai ngồi sau lưng tôi. Chừng 10 phút sau thì một tên công an bước vào phòng, anh cán bộ thăm nuôi vội đứng dậy chào rồi nói: “Báo cáo anh, các chị ấy đã tập họp đủ”. Chúng tôi chưng hửng tự hỏi: sao lại thế nầy, chồng tôi đâu? thằng quỷ dịch nầy là đứa nào? Bước vào chẳng chào hỏi ai, mặt lạnh ngắt như âm binh, một lát sau hắn mới lên tiếng: “-Chào các chị. Các chị đi đường chắc vất vả lắm, nhưng nghỉ mấy ngày chắc cũng khỏe rồi. Tôi là Bắc, cán bộ chấp pháp trại, hôm nay đến đây có mấy điều quán triệt với mấy chị - Hắn ngừng lại, nhìn mặt chúng tôi thật chậm và làm oai - Tôi cũng nhìn lại hắn quan sát và nghĩ thầm, hèn chi nó làm chấp pháp (an ninh) là đúng, mặt tái xanh, mắt như hai lằn chỉ, môi dầy và đen như hai miếng thịt trâu phơi nắng Tên Bắc chợt hỏi: “-Chị nào là vợ cải tạo viên Bình? Chị nào là vợ cải tạo viên Đỉnh? Chúng tôi dơ tay, lại im lặng và hồi họp. “-Thật là quá đáng, từng ấy năm học tập cải tạo, uổng công cách mạng quan tâm giáo dục, chư nói tốn cơm tốn của. Chồng các chị thuộc loại không thể cải tạo, cách mạng rồi sẽ phải xử lý. Tôi và chị X. rụng rời nghẹt thở, há miệng mà không thở được. Giọng tên Bắc lại cất lên chì chiết: “-Một bọn phản động ngoan cố cấu kết với nhau ra sức chống phá cách mạng cách nầy cách khác. Bọn phản động ấy có chồng hai chị, tập họp lại bày đặt tuyệt thực yêu cầu cải thiện, cho nên trại đã tạm thời kỷ luật các tên nầy để tạo cơ hội hối lỗi cho bọn họ. Các chị không tin lời tôi nói à? Đây, để chứng minh, tôi đọc cho mấy chị nghe lệnh tạm giam những tên phản động, cấm thăm nuôi bốn lần, rồi hắn đọc tên từng người: Nguyễn Xuân, Hồ văn Phước, Phan Nhật Nam, Hồ Công Bình và chồng tôi, có tất cả trên 10 người. Nhưng tới lúc nầy thì tôi mắt hoa đầu váng, mọi vật quay như chong chóng. Vẫn giọng tên Bắc: “-Đấy , phản phản động nguyên cà một buồng, các chị hiểu không? Giờ phút nầy rồi, còn gỉ nữa đâu mà vọng động. Các chị về viết thư động viên chông hối cải, lao động học tập cho tốt để còn về chứ! Trại lần nầy họp, các đồng chí lãnh đạo đã nhất trí để hai chị đi về, lần sau sẽ thăm nuôi. Tôi cố chỏi tay để đầu không gục xuống bàn, rồi đưa tay trái véo nhẹ lên tay vợ Bình - cần phải can đảm - Lát sau vợ Bình hỏi: -Trại không cho gặp, vậy xin cho chúng tôi gửi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thuốc và chút đồ ăn cho chồng tôi có được không? -Không được! Đã là kỷ luật thì phải cấm hết, mang về đi các chị. Trại đã lo đủ cả, thuốc men ăn uống không lo. Biết là vô ích khi mình đang nói với một xác ướp, nên chúng tôi càng im lặng. Tên Bắc đãi bôi: -Các chi yên tâm, động viên chồng học tập cho tốt, biết đâu chừng sau lần kỷ luật nầy, các anh tiến bộ lại được tha về sớm. Tôi có ý muốn trở thành người đanh đá, chửi vào mặt thằng xác ướp nầy vài câu, nhưng nghĩ lại làm vậy là dại - Thôi! Liếc qua vợ Bình cười nửa miệng. Muôn vàn cơ cực đến được đây mà không gặp mặt chồng, niềm đau nổi buồn đã đóng băng trong lòng hai người chúng tôi. Tên Bắc hướng qua chị Nhĩ giọng trở nên dịu dàng: -Chào chị Nhĩ, hết mệt rồi phải không? Vất vả quá đấy nhỉ! Chị vui lòng cho tôi xem thư và giấy thăm nuôi từ trại gởi về cho chị nào! Liếc đọc lá thư và tờ giấy thăm nuôi, tên Bắc hỏi tiếp: -Chị nhận được thư này lúc nào? -Tháng 8, cán bộ! Trong thư đề tháng 3 nhưng tới tháng 8 tôi mới nhận được, có sao không cán bộ? Tên Bắc thở dài, có làm ra vẽ trang nghiêm: -Tiếc quá, chị nhận thư anh Nhĩ hơi muộn, sớm hơn thì chị đã gặp chồng, bây giờ thì quá muộn. -Trời! Sao vậy cán bộ? Chồng tôi làm sao, anh ấy bị cái gì? Anh Nhĩ làm sao rồi? -Chị bình tĩnh nghe tôi nói, như chị đã biết, anh ấy có hai ba thứ bệnh từ thời “Ngụy”, vừa suyển vừa cao máu. Trại đã chữa hết sức rồi, đồng chí y tế đã tận lực nhưng anh Nhĩ đã chết hồi giữa tháng 6. Anh ấy là người cải tạo tốt sắp được tha về. -Trời ơi là trời! Chồng tôi sao lại chết! Ba mẹ ơi! Chồng con chết rồi! Anh ơi! Tưởng ra đây gặp anh, bây giờ anh đã đi mất, bỏ mẹ con em, bỏ ba má sao anh! Chồng tôi mới có 32 tuổi, làm sao mà cao máu? Anh ơi! Anh chết oan rồi! Hai chúng tôi cùng chồm qua ôm lấy vai chị Nhĩ, cố kềm nhưng rồi cũng khóc theo. Vợ anh Bình mếu máo khuyên: “Chị nín đi, chị nín để hỏi cán bộ anh ấy chôn ở đâ chứ!” Chị Đỗ văn Nhĩ rũ xuống như tàu lá, toàn thân lạnh và mềm oặt, hơi thở đứt quảng. Chị Nhĩ đã mê đi trong cơn đau mất chồng. Vợ Bình vội lần trong túi áo bà ba lấy ra chai dầu gió thoa lên trán lên thái dương cho chị Nhĩ, miệng vẫn gọi liên hồi: “Tỉnh đi! Dậy đi để đi tìm mộ chống chớ! Tỉnh dậy đi chị Nhĩ!” Im lặng một lúc khoảng 125 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
năm mười phút, tên cán bộ Bắc lại nói: -Thôi, để tranh thủ, trại sẽ giao lại cho chị những vật dụng của chồng chị và giấy chứng nhận anh Nhĩ đã chết bệnh. Sau đây tôi bận công tác, đồng chí Cận (tên cán bộ phụ trách thăm nuôi) sẽ đưa chị ra chỗ mã anh ấy. Tôi và vợ Bình cũng xin đi theo nhưng không được chấp thuận. Mấy chị em tôi quay về Sài Gòn lúc mờ sáng ngày hôm sau. Ngày thứ năm ở trại cải tạo của chồng, nhìn những dãy nhà cũ kỹ khóa kính cửa, tôi tưởng tượng là chồng tôi đang phải bị giam nhốt trong những ngôi mộ đó, gần ngay kế bên mà cách biệt muôn trùng. Ngày nào đi náo nức, mong ngóng hy vọng bao nhiêu, nay trở về với cỏi lòng tan nát, sự thất vọng chiếm hết mọi suy tư. Chúng tôi đi trong vô thức, tội nghiệp chị Đỗ văn Nhĩ, nếu không có bạn đồng hành chúng tôi phụ giúp, không hiểu có còn đủ sức đủ nghị lực để về với các con không. Điều an ủi là ngày về, nhân chuyến xe trâu đi không, họ đặc ân cho chúng tôi quá giang, với giá 10 đồng một người đến ga Thanh Hóa. “Phải chăng những người đàn bà Việt Nam chúng tôi, những người vợ lính VNCH, là những người bị đọa dày hơn tất cả mọi người của thế gian?” Trần thị Đông Phương.
Tïëu BÊN NÀO CŨNG ĐƯỢC Trong 1 trận bóng đá, trên khán đài, một cổ động viên gào to: “Chơi cùi chỏ gãy hết răng bọn nó đi”. Người ngồi kế bên thắc mắc : - Anh nói bên nào thế? - Bên nào cũng được. Tôi là nha sĩ mà! TIỂU XẢO Một ông đi công tác xa chẳng may mắc bệnh phải nằm viện. Ông nhờ cô y tá điện gấp cho vợ : “Anh mắc bệnh phải vào nhập viện. Bệnh viện này hoàn hảo, các y tá ở đây trẻ trung, xinh đẹp...” - Ông nói tới chúng tôi làm gì vậy? - cô y tá ngạc nhiên. - Cô thông cảm, tôi nói thế bà ấy mới cấp tốc lên thăm... BẢN LĨNH ĐÀN ÔNG Chồng vừa dắt xe ra ngoài đã nghe thấy vợ quát to: “Vào nhà ngay”. Chồng mạnh mồm hét lên: -Sợ gì không vào. LO XA Người chồng hấp hối trên giường bệnh dặn dò vợ. - Bây giờ anh đang gần đất xa trời, em có thể thú nhận về mối quan hệ với tay hàng xóm được không? Lúc này mọi thứ chẳng còn ý nghĩa gì, song anh vẫn muốn biết sự thật trước khi nhắm mắt xuôi tay. Cô vợ ngần ngừ một lúc rồi hỏi lại: -Thế nhỡ anh không chết thì sao? CƠ HỘI SỬA DI CHÚC Một cụ ông ngoài 80, nặng tai đã lâu, quyết định nghiêm túc theo đuổi bác sĩ và... được chữa khỏi. Vài tháng sau, ông già quay trở lại phòng khám để cám ơn. Bác sĩ hỏi thăm: - Chắc gia đình ông vui mừng lắm nhỉ? Ông già đáp: - Suỵt ! Tôi chưa báo cho con cháu biết BS đã chữa được tai, hôm nay tôi đến cám ơn BS, nhờ BS tôi nghe được các câu chuyện của chúng nó ... và tôi đã sửa lại di chúc ba lần rồi!
126 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Lính &
NaâNg
th ú
Ta Vïì
Ta về một bóng trên đường lớn Thơ chẳng ai đề vạt áo phai Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu Mười năm mặt sạm soi khe nước Ta hóa thân thành vượn cổ sơ Ta về qua những truông cùng phá Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ Nghe tàn cát bụi tháng năm bay Chỉ có thế. Trời câm đất nín Đời im lìm đóng váng xanh xao Mười năm, thế giới già trông thấy Đất bạc màu đi, đất bạc màu Ta về như bóng chim qua trễ Cho vội vàng thêm gió cuối mùa Ai đứng trông vời mây nước đó Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ Một đời được mấy điều mong ước Núi lở sông bồi đã mấy khi Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động Mười năm, cổ lục đã ai ghi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tô Thùy Yên Cựu SVSQ/K17TĐ Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cảm ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ nỗi lẻ loi Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa Làng ta ngựa đá đã qua sông Người đi như cá theo con nước Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng Ta về như lá rơi về cội Bếp lửa nhân quần ấm tối nay Chút rượu hồng đây xin rưới xuống Giải oan cho cuộc biển dâu này Ta khóc tạ ơn đời máu chảy Ruột mềm như đá dưới chân ta Mười năm chớp bể mưa nguồn đó Người thức mong buồn tận cõi xa Ta về như hạt sương trên cỏ Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt Tội tình chi lắm nữa người ơi Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ Mười năm người tỏ mặt nhau đây Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi Đành uống lưng thôi bát nước mời Ta về như sợi tơ trời trắng Chấp chới trôi buồn với nắng hanh 127 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng Dừng chân nghe quặn thắt tâm can Lời thề buổi ấy còn mang nặng Nên mắc tình đời cởi chẳng ra Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ Mười năm ta vẫn cứ là ta Ta về như tứ thơ xiêu tán Trong cõi hoang đường trắng lãng quên Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách Nhện giăng, khói ám, mối xông nền Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ Nhà thương-khó quá sống thờ ơ Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ Khách cũ không còn, khách mới thưa Ta về khai giải bùa thiêng yểm Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi Hãy kể lại mười năm chuyện cũ Một lần kể lại để rồi thôi Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở? Mười năm, cây có nhớ người xa? Ta về như đứa con phung phá Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu Mười năm, con đã già trông thấy Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu Con gẫm lại đời con thất bát Hứa trăm điều một chẳng làm nên Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên Ta về như tiếng kêu đồng vọng Rau mác lên bờ đã trổ bông Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng Chờ anh như biển vẫn chờ sông Ta gọi thời gian sau cánh cửa Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu Ta nghe như máu ân tình chảy Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 128
Ta về dẫu phải đi chân đất Khắp thế gian này để gặp em Đau khổ riêng gì nơi gió cát Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà Tình xưa như tuổi già không ngủ Thức trọn, khua từng nỗi xót xa Ta về như giấc mơ thần bí Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi Bé ơi, này những vui buồn cũ Hãy sống, đương đầu với lãng quên Con dế vẫn là con dế ấy Hát rong bờ cỏ giọng thân quen Ta về như nước Tào Khê chảy Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ Thân thích những ai giờ đã khuất Cõi đời nghe trống trải hơn xưa Người chết đưa ta cùng xuống mộ Đâu còn ai nữa đứng bờ ao Khóc người ta khóc ta rơi rụng Tuổi hạc ôi ngày một một hao Ta về như bóng ma hờn tủi Lục lại thời gian kiếm chính mình Ta nhặt mà thương từng phế liệu Như từng hài cốt sắp vô danh Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời Ai đó trong hồn ta thổn thức Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi Ta về như hạc vàng thương nhớ Một thủa trần gian bay lướt qua Ta tiếc đời ta sao hữu hạn Đành không trải hết được lòng ta Tô Thùy Yên ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
T
HĂM CHỒNG
“Thương tặng chồng và các con tôi, những người đã chung góp đau khổ với tôi trên quê hương bất hạnh nầy….”
Nguyễn Ngọc Bạch Tuyết Hiền thê Cựu Thiếu Tá TQT Nguyễn văn Cẩn Cựu SVSQ/K17TĐ. Chúng tôi yêu nhau khi còn ở Trung học, mãi đến sáu năm sau mới làm đám cưới, khi đã có tới năm đứa con, chưa bao giờ chúng tôi phải xa nhau quá một tuần. Vậy mà khi đất nước được gọi là “giải phóng”, vợ chồng chúng tôi phải chia tay, không biết đến bao giờ mới được gặp lại. Đứng trước cổng trường trung học Pétrus Ký, chỉ ngăn cách có cái cửa rào, nhưng tôi sao cảm thấy đã có sự cách chia vời vợi, một sự cùng cực của chia ly, rồi nhìn theo bóng chồng tôi xa dần…xa dần… Bao nhiêu đau khổ của một người đàn bà bơ vơ với năm đứa con thơ dại - đứa lớn nhất 11 tuổi và nhỏ nhất mới biết nói bập bẹ - ngày qua tháng lại sống trong đợi chờ thương nhớ và tuyệt vọng…càng nghĩ đến tôi càng hận thù Cộng sản bấy nhiêu. Khi nhận được lá thư đầu tiên của chồng gởi về từ miền Bắc, tôi quyết định phải đi thăm anh. Không rành đường đi, không biết nơi đến, trong tay chỉ vỏn vẹn có một bao thư viết bằng ám số với chữ Vĩnh Quang (Vĩnh Phú), tôi cùng người Dì chồng quảy gần 100 ký lô đồ thăm nuôi ra đi sáng ngày Mồng 4 Tết mùa Xuân năm 79. Tôi không biết phải tả làm sao cho hết nổi sơn trường của một người đàn bà mang trong tay 7 giỏ hành lý nặng. Phương tiện chuyên chở không có, đến nổi khi mệt mõi quá, tôi và dì tôi phải mang mỗi lần từng giỏ một và đi trở lại xách tiếp…thành ra quảng đường dài gấp ba lần. Vậy mà chúng tôi lại đi lạc đường, thay vì Vĩnh Phú Tam Đảo gần hơn, chúng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
tôi lại đi Vĩnh Phú Ấm Thượng, chúng tôi phải lui trở lại 70 cây số! Đến ngày thứ 6 chúng tôi mới tới trại Vĩng Quang A, sau khi trình giấy tờ xong hồi hộp đợi chờ…Rồi thấy hai người cán bộ cộng sản đang kè hai bên một người trẻ tuổi có gương mặt sáng láng, nhưng không đi được vì thiếu dinh dưởng. Tôi rụng rời….nhưng không phải chồng tôi, đó là một sĩ quan trẻ ở Sài Gòn có thân nhân miền Bắc thăm nuôi. Còn tôi, cán bộ trại cho biết là trại Vĩnh Quang A không có tên anh ấy, phải đi thêm 5 cây số nửa đến trại B. Chúng tôi lại phải quảy gánh leo núi tới trại B, lúc đó đã là 3 giờ chiều. Nhưng lại thêm một thất vọng nữa, người cán bộ cầm phong thơ trả lại: “Anh ấy không có ở đây!”. Sau sáu ngày đêm chỉ uống nước và ăn vặt với ba lần đi lạc, tôi chán nản muốn khóc thốt lên với dì tôi: “Nếu không tìm ra được ảnh, con quăng đồ đạc nầy xuống hố và nhảy theo…chứ không về nhà khi chưa gặp mặt chồng”. Người cán bộ nghe thấy vậy cũng động lòng, một lần nữa cầm bao thơ trở vô trại tìm. Dì cháu tôi đứng ngay ngoài cổng chờ đợi. Khoảng nửa tiếng sau tôi bỗng nhìn thấy chồng tôi từ đàng xa đang đi ra - bốn năm trời mới thấy được mặt!- anh mặc bộ đồ bà ba, khi đến gần nhận ra tôi anh cười. Tôi la lên: “Dì ơi! Anh Cẩn kìa!...Tìm được rồi, Dì ơi!”. Sau đó chúng tôi được vào ngồi nói chuyện ở phòng “tiếp tân” ngăn cách bởi cái bàn dài, người cán bộ ngồi ở đầu bàn chính giữa, vợ chồng tôi ngồi đối diện hai bên, theo sự chỉ dẩn của cán bộ, chớ không được ngồi gần. Câu đầu tiên anh nói với tôi: “Anh thật không ngờ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 129
được, em là người đầu tiên từ Sài Gòn ra thăm ở trại nầy!”. Sau đó anh chỉ ngồi nhìn tôi mĩm cười nghe tôi nói. Còn tôi thật bình tĩnh vì tôi rất ghét khóc trước mặt kẻ thù, tôi muốn cho họ biết rằng dù tôi bị mất tất cả: mất chồng mất của cải, mất niềm tin, mất tự do…tôi vẫn tươi cười trước mặt họ. Tôi nói thao thao bất tuyệt chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con cái ngoan ngoản và học giỏi (thật sự các con tôi rất ngoan và học giỏi, đó cũng là niềm tự hào để tôi sống đến ngày hôm nay). Tôi muốn níu thời gian ngừng lại, chồng tôi chắc cũng đang nghĩ như tôi. Anh không hề ăn uống gì cả mặc dù thức ăn đang bày ra cả bàn và tôi biết anh đang thiếu ăn từ năm nầy sang tháng kia. Anh chăm chú nghe và đắm đuối nhìn tôi như muốn nuốt trọn hình hài tôi vào tim óc của anh. Đúng nửa giờ sau người cán bộ chấm dứt câu chuyện của chúng tôi: “Thôi anh thu xếp đồ đạc để trở vô trại”. Chồng tôi đứng dậy nắm lấy tay tôi và hôn phớt nhẹ lên trán tôi một cái. Tôi rụng rời… không phải vì xúc động bởi cái hôn mà vì thương chồng quá…lo sợ anh ấy phải bị nặng nhẹ , kiểm điểm. Chồng tôi gánh quà vô trại, tôi đau xót ngậm ngùi đứng nhìn bóng dáng anh từ từ khuất dần. Bây giờ tôi mới bật khóc, bao nhiêu nổi uất hận chất chứa bấy lâu nay, giờ đây tuôn tràn ra. Tôi khóc như bao giờ được khóc…Chiều xuân ở vùng Tam Đảo thật ảm đạm với mưa bay lất phất, chung quanh tôi là đồi núi chập chùng cao ngất… Dì cháu tôi ở lại trại một mình với cây đèn bão leo lét, tôi khóc suốt đêm đó. Từ Nam ra Bắc, sáu ngày đi đường vất vả, dù được gần nhau trong gang tấc mà chỉ nhìn nhau có nửa tiếng đồng hồ. Bây giờ người trong ngục tối, kẻ ở ngoài trại…biết đến bao giờ mới được gặp lại nhau đây? Tiếng kiểng đổ rùng rợn buổi sáng, chỉ có ở với Cộng sản mới thấm thía tiếng kiểng nầy, nó báo hiệu cho một ngày nô dịch lê thê của dân tộc Việt Nam. Chúng tôi từ giã núi đồi, từ giã trại tiếp tân lạnh lẽo… từ giã người yêu quý nhất đời…ngậm ngùi đau xót xách túi nhẹ tênh ra về. Mười lăm ngày sau tôi mới về tới nhà gặp lại các con tôi. Tôi bị mất ngủ sau khi đi thăm chồng về, nhắm mắt là chập chờn hình ảnh chồng tôi, nhắm mắt là thấy lờ mờ hình ảnh người sĩ quan trẻ không đi được vì thiếu ăn…chập chờn từng đoàn người tù binh đang làm khổ dịch ngoài ruộng hay dưới chân núi, họ lặng lẽ âm thầm như những bóng ma…. Tôi thấy xót xa đau đớn và thương cảm cho tất cả 130 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
những sĩ quan đang cùng hoàn cảnh với chồng mình. Họ phải sống nhục nhằn đói khát, đọa đày trong chốn lao tù miền Bắc. Tôi cố gắng buôn bán trở lại và sống thật tiện tặng để có tiền đi thăm nuôi nữa. Ba tháng sau tôi lại tiếp tục đi thăm nuôi chồng tôi…cứ như vậy kéo dài hơn bảy năm. Và ngày trở về của anh ấy cũng là một kỷ niệm đẹp khó quên trong đời tôi, nhưng mà có nghĩa lý gì khi được “tự do” với Cộng sản? Chồng tôi tiếp tục ở vào ngục tù thứ hai, dù được gần vợ gần con, anh vẫn bị quản chế tại nhà thêm 6 năm nữa. Bây giờ tất cả gia đình tôi được định cư ở C.T theo chương trình H.O. Chúng tôi sống là để chờ đợi cái ngày con cái mình được sống, được hít thở cái không khí tự do nầy! Nhưng chúng tôi rất ngở ngàng và e ngại…Phải khó khăn lắm mới lèo lái con thuyền cho vững, vì cái bến bờ tự do nầy có quá nhiều cám dỗ cho những kẻ thơ ngây, non dại như con chúng ta. Các con tôi đã lớn, đã biết là sau lưng nước Việt Nam thân yêu, gia đình tôi đã bỏ lại tất cả trong đó có những tình cảm thiêng liêng chân thật của những người còn ở lại…Chúng ta phải hiểu rằng vì sao lại phải bỏ nước ra đi. Cầu xin ơn trên gia hộ cho đám con chúng ta, những người H.O bạc phước nầy, phải sống cho thành người, phải làm việc cho xứng đáng. Đừng để mang tai tiếng, làm tủi hổ vong linh những người đã bỏ mình trên quê hương, trong chốn lao tù Cộng sản, tủi hổ cho những bậc cha mẹ đã trót mang cái “nghiệp” H.O. nầy. Nguyễn Ngọc Bạch Tuyết.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
MỘT CÁNH HOA DÙ RƠI RỤNG
Quản Dù Cựu SVSQ Khóa 17 TBTĐ Từ Việt Nam, một người bạn gọi qua báo tin Mũ Đỏ Bành Minh Trí đã ra đi vào cuối tháng 3 năm 2007, làm Quản Dù tôi thương nhớ ngẩn ngơ. Bành Minh Trí, một pháo thủ Mũ Đỏ đã từng tham chiến nhiều trận lẫy lừng, trên ngực năm sáu cái huy chương, ba bông mai vàng từng phai màu với thời gian, giờ nằm xuống với cơn bệnh bất ngờ: nhồi máu cơ tim. Bành Minh Trí tốt nghiệp Khóa 17 Thủ Đức, một trong những sinh viên sĩ quan xuất sắc của Trường Pháo Binh Dục Mỹ, ra trường cuối năm 1964 lúc chiến tranh đã bắt đầu sôi động. Trình diện Tiểu Đoàn 28 Pháo Binh tại Dĩ An Biên Hòa, sau đó Trí cũng như các sĩ quan mới ra lò của ngành Pháo Binh, đi tiền sát viên cho các đơn vị thuộc Sư Đoàn 25, Sư Đoàn 5 Bộ Binh hành quân khắp Vùng 3 Chiến thuật. Năm 1969 làm Trung đội trưởng coi hai khẩu 155 ly là quá khỏe, nhưng rồi Trí xin thuyên chuyển về Nhảy Dù vì khoái màu Mũ Đỏ. Lúc đó Pháo Binh Nhảy Dù đang bành trướng. Tiểu Đoàn 2 rồi Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù được thành lập, Trí về Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh của Thầy Cò Châu. Về Nhảy Dù hết được ngồi một chỗ coi súng mà lội mệt nghỉ. Hết làm Sĩ quan Liên lạc cho Lữ Đoàn nầy lại làn Sĩ quan Liên lạc cho Lữ Đoàn khác. Năm 1970, Trí được đề cử giữ chức vụ Pháo Đội Trưởng Pháo đội C3 Nhảy dù, thay Đ/u Đào văn Thương cũng là người bạn cùng khóa. Cũng thời gian nầy, anh hùng Mũ Đỏ tên Đương tức Đ/u Nguyễn văn Đương cũng lên làm Pháo Đội Trưởng Pháo đội B3 Nhảy dù. Rồi năm 1971, cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
sang Hạ Lào khai diển. Lữ Đoàn 3 ND cùng TĐ 3 PB Dù được phối trí đóng các căn cứ phía Bắc đường số 9 (Căn cứ 30, 31) để Lữ Đoàn 1 ND cùng TĐ 3 PB Dù làm nổ lực chánh đánh vào Schépone. Pháo Đội C3 ND của Trí được trực thăng vận đầu tiên vào Căn cứ 30 cùng với TĐ 2 ND và một Pháo đội 155 ly của TĐ44PB thuộc QĐ 1 tăng phái. Trận địa đã được địch điều nghiên và chuẩn bị, Căn cứ 30 chưa thành hình thì đã được dàn chào bằng những tràng pháo thăm dò điều chỉnh. Pháo đội C3 vừa củng cố vị trí vừa yểm trợ cho quân bạn không kịp thở. Ngay sau đó Lữ Đoàn 3 ND, TĐ 3 PB, TĐ 3 ND cùng PĐ B3 của Nguyễn văn Đương cũng được thả xuống Căn cứ 31 ở phía Tây để hai căn cứ hỗ tương yểm trợ. Trận chiến pháo mỗi ngày một dữ dội, Căn cứ 30 và 31 bị pháo liên tục. Cái khổ của con nhà pháo là vừa bị ăn pháo địch vừa phải gồng mình ra yểm trợ cho quân bạn cũng đang chạm súng ác liệt. Một lần Trí chửi thề với vẻ thất vọng: - Biết hướng bắn của tụi nó, nghe tiếng départ của tụi nó mà tức quá không làm gì được! Bị pháo thì phản pháo, nhưng ở Hạ Lào phản pháo gì nổi. Tại đây địch dùng toàn loại đại bác 130 ly với tầm bắn 30 km, trong khi Pháo binh Dù chỉ có 105 ly với tầm bắn 10 km. Mặc dù có thêm đơn vị 155 ly bên cạnh, nhưng cũng chỉ vói tới 15 km là hết cỡ. Mọi sự diệt pháo chỉ trông cậy vào không quân Mỹ, nhưng phòng không địch cũng phối trí dầy đặc làm hạn chế khả năng của Không quân. Lúc Không quân rời vùng là các căn cứ lại ăn pháo, mọi sự tiếp 131 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
tản thương cũng lại trông cậy nơi trực thăng Mỹ. Nhưng lúc nầy, bãi trực thăng lại là mồi ngon cho pháo địch, nên cả hai căn cứ gần như bị tê liệt. Bị pháo như thế, nhưng PĐ C3 của Trí vẫn phải vừa củng cố vị trí vừa yểm trợ cho quân bạn, nên số thương vong tăng cao. Rồi chuyện phải đến đã đến, căn cứ 31 thất thủ, Đại tá Thọ LĐT/LĐ 3 ND cùng toàn bộ BCH/TĐ3 PB Dù bị bắt, Mũ đỏ Nguyễn văn Đương đi vào huyền thoại. Tin xấu của chiến trường làm rúng động các Mũ Đỏ đang chiến đấu. Căn cứ 30 giờ bị địch tập trung hỏa lực để biến thành địa ngục. Chiến xa cùng bộ binh địch tháp tùng bò lên tấn công Căn cứ 30 ngay chính diện. PĐ C3 giờ như đứa con mất mẹ, đôi lúc Bành Minh Trí la thất thanh trong máy gọi về TĐ 1 PB ở căn cứ A Lưới xin tăng cường yểm trợ. Kể từ lúc nầy, PĐ C3 vào hẳn hệ thống chỉ huy của TĐ 1 PB để nhận lệnh và báo cáo. Bốn trong 6 khẩu đại bác của PĐ C3 đã bị hư hại, Pháo đội 155 ly cũng không khác gì. Còn lại hai khẩu, Bành Minh Trí vẫn cố trực xạ, cũng bắn hạ được 2 chiến xa của địch ở gần bờ rào, nhưng rồi Trí cũng phải la: - Bắn không nổi nữa! Nó pháo dữ quá….! Cũng may, Bộ Tư Lệnh SĐND thấy tình trạng nguy ngập của Căn cứ 30 nên cho lệnh phá súng và triệt thoái khỏi căn cứ để tránh bị rơi vào tình trạng bi thảm như Căn cứ 31. Toàn bộ Mũ Đỏ và đơn vị tăng phái tại Căn cứ 30 rút về phía Nam nơi có TĐ5ND đang án ngữ và sau đó được trực thăng bốc về Khe Sanh. Gặp Quản Dù tại Khe Sanh, câu đầu tiên của Bành Minh Trí là chửi thề: - ĐM cho tao bộ đồ thay coi mầy! Tao chỉ còn có mỗi một bộ nầy, mặc từ hôm vào căn cứ tới giờ có kịp tắm rửa thay đồ gì đâu…bỏ mẹ nó lại hết rồi! Hỏi về lính tráng, Trí gật gật: - Ra được hết, mấy thằng bị thương và cả mấy cái Poncho (xác chết) cũng đem ra được…hên quá (!) . Tính nó vẫn vậy, dân Nam Kỳ, quê hương bản quán của nó ở ngay Bà Quẹo nên nói năng bộp chộp và chửi thề vui chi lạ. Trí còn có một người anh tên Bành Minh Đúc khóa 7 Thủ Đức và cũng là dân Pháo Binh kỳ cựu. Anh Bành Minh Đức bị thương sau đó giải ngũ. Còn Trí năm 1974 vì hoàn cảnh gia đình cũng xin được giải ngũ. Năm 1988, anh Đức chết vì bệnh gan, tại người buồn, mà dân Bà Quẹo nữa nên cứ Đế Hóc Môn nhậu cho quên đời, gan gì chịu nổi! Lâu lắm không gặp nhau, năm 1988 sau khi ra tù ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 132
gặp lại, Trí vẫn bô bô: - Hên quá, tao giải ngũ nên không bị đi ở tù như tụi mầy. Nhưng rồi sau đó khi chương trình HO rộ lên, gặp lại Trí lại nghe chửi thề: - ĐM xui quá! phải chi tao ở thêm lính một năm nữa…đi tù, thì giờ nầy cũng…. Lúc đó, Quản Dù thấy Trí lắc đầu rồi thở dài. Đi không kịp từ biệt Trí, nhưng sau đó thư từ và hình ảnh của Trí vẫn gởi qua cho tôi, mới mấy năm mà nhận không ra vì râu tóc giờ bạc phơ. Râu lại còn để dài hơn râu cáo Hồ trông mà thấy sợ. Trí ơi! Thôi bây giờ nhà ngươi hết còn được chửi thề. Hết còn “Hên-Xui” nữa. Dù sao, khi nhắc đến Bành Minh Trí các Mũ Đỏ và các Pháo Thủ ngày xưa vẫn còn nhớ đến thằng Trí cao nghều và móm sọm. Yên nghỉ, Trí nhé! Quản Dzù. Cựu SVSQ/K17TĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
HÀNH TRÌNH VÀ SUY TƯ CỦA MỘT CỰU SVSQ/K17 THỦ ĐỨC Cựu Th/T Dương Minh Chấn Nguyên Chánh văn phòng Thiếu Tướng Tư lệnh Phó QĐ III Tháng 11 năm 1963 một bước ngoặc lịch sử của đất nước Việt Nam và cũng là một biến cố của đời tôi. Cuối năm nầy tôi cùng bốn người bạn Trung học Ngô Quyền Biên Hòa, xếp bút nghiên, tình nguyện tòng quân nhập ngũ. Các bạn Nguyễn Đức Hiền và Nguyễn văn Cữu đầu quân vào Binh chủng Không Quân. Nguyễn văn Tơ, Nguyễn Tấn Phước và tôi cùng gia nhập vào Khóa 17 SQTB Thủ Đức. Anh Hiền sau là Pilot F5, còn anh Cữu trước lái H34, sau lái trực thăng VIP cho Cố Đại tướng Đỗ Cao Trí và các vị Tư lệnh QĐ III kế tiếp cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Năm mươi năm qua, tôi luôn nhớ đến cảnh cũ nơi bắt đầu đổi xác, nhớ đến những dãy nhà tôn, nhớ đến những hàng cây bã đậu. Làm sao quên được những ngày thứ bảy chủ nhật với tâm trạng đợi chờ…Buồn ơi là buồn! Nhất là đối với những chàng trai vừa mới bị “đào đá”. Nhưng tôi cũng nghĩ đối với những chàng trai đang có tình yêu và đã được yêu, phải xa người mình yêu mới là buồn nhiều hơn! Nhìn trên thân những cây bã đậu, những hình trái tim, những tên của các giai nhân…được anh em chiếu cố khắc đầy. Để rồi sau đó anh em lên GMC có xe Quân Cảnh hướng dẩn trực chỉ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, nơi rèn luyện thể xác lẫn tinh thần để đào tạo chúng tôi trở thành những Sĩ quan ưu tú của QLVNCH. Ngồi trên xe lòng tôi bồi hồi cảm động dù nơi đây tôi đã đi qua hàng ngày. Đây Ngã ba Hàng Xanh, đây xa lộ Biên Hòa, đây cầu Sài Gòn đây cầu Rạch Chiếc. Đây Nhà máy ciment Hà Tiên và đây Ngã tư Thủ Đức…Rồi đoàn xe rẽ phải vào Chợ Nhỏ ngang qua Cư xá Kiến Thiết, qua khỏi Ngã ba rẽ vào đình Phong Phú và hãng dệt Liên Phương. Đoàn xe chạy vào cổng trường và thẳng đến văn phòng Liên Đoàn Sinh Viên, sau đó anh em được các Sĩ quan cán bộ nhận lãnh và hướng dẫn vào doanh trại. Làm sao tôi quên được khi Sĩ quan cán bộ hướng dẫn đến kho quân trang quân dụng, và cũng tại nơi nầy tôi mới thấy rằng anh em đã thật sự mới ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
là “lính” khi ngồi vào ghế để được hớt “cua” theo kiểu nhà binh. Chiếc túi “Sac Marin” nặng trĩu trên vai được anh em khệ nệ vác về doanh trại. Cảnh ăn mặc lượm thuộm rộng thùng thình của những chàng trai lính mới tò te, quân phục phát sao mặc vậy. Lúc đó trong hàng quân, mình cũng như anh em và anh em cũng giống như mình…nhưng sau nầy khi trở thành Sĩ quan cán bộ rồi nhìn thấy lính mới tò te mới tội nghiệp làm sao! Cái vui nhất là Khóa 17 được đi phép cuối tuần với bộ đồ dân sự khi chưa được gắn Alpha. Trước ngày khai giảng, Thiếu tướng Chỉ Huy Trưởng Trần Ngọc Tám tuyên bố chỉ “giữ” SVSQ/K17 trong vòng 4 tuần lễ đợi ngày gắn Alpha, sau đó sẽ tiếp tục đi phép như thường lệ. Giai đoạn I đã qua, các SVSQ đã chọn được ngành và rời trường Mẹ đi vào học chuyên môn. Giai đoạn II bắt đầu, ĐĐ 11 bị giải tán và tôi được bổ sung vào ĐĐ1 khu dãy nhà tôn gần căn cứ Pháo binh. Trong thời gian nầy, văn phòng Liên Đoàn Trưởng là căn nhà nhỏ nằm bên phải Vũ Đình Trường mà Thiếu tá Hà văn Tấn là Liên Đoàn Trưởng. Gối đầu là dãy nhà văn phòng Tham Mưu Trưởng của Trung tá Nguyễn Duy Hinh. Khi Chuẩn tướng Bùi Hữu Nhơn làm Chỉ Huy Trưởng thay thế Thiếu tướng Trần Ngọc Tám thì Trung tá Đào Duy Ân làm Tham Mưu Trưởng. Các ĐĐ sinh viên khi đi học ngang qua hai dãy nhà VIP nầy phải đi đều bước, ngay hàng thẳng lối, nhất là phải có Sĩ quan cán bộ hướng dẫn. Sinh viên phải hát thật to, hô thật lớn…nếu ĐĐ nào bê bối đêm đó khó tránh khỏi bị phạt dã chiến. Ra trường tháng 10 năm 1964, tôi ở lại trường và phục vụ trong Ban Thể Dục Thể Thao thuộc Liên Đoàn Sinh Viên do Thiếu úy Lê văn Hưởn làm trưởng ban với vỏn vẹn chỉ có 4 người: Thiếu úy Hưởn, Chuẩn úy Nguyễn Thanh Trang, Chuẩn úy Lương quan Mỹ và tôi. Nhiệm vụ của Ban nầy- trừ thứ bảy và chủ nhật- lúc 6 giờ sáng tập trung cả hai khóa tại Vũ Đình Trường, cùng các Sĩ quan trực ĐĐ chạy theo Đại lộ Bình Long trước tư dinh Chỉ Huy Trưởng đến khu cư xá Sĩ quan cấp Tá…cùng hô to “ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 133
Sinh Viên- Khoẻ !” Sau các cuộc chỉnh lý ở Sài Gòn, vì thiếu Sĩ quan cán bộ, nên Ban Thể Dục Thể Thao của Liên Đoàn Sinh Viên phải giải tán, tôi được chỉ định đi xuống nhận nhiệm vụ Sĩ quan cán bộ của các Khóa 20, 22, 24, 26 và 4/68. Tháng 8 năm 1968, Trung tướng Đỗ Cao Trí đang làm Đại Sứ tại Nam Hàn được lệnh về nước giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn III- Quân Khu III, Đại tá Đào Duy Ân được điều về làm Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn. Đối với tôi, những ngày phục vụ tại Trường Bộ Binh Thủ Đức là những ngày vàng son trong đời binh nghiệp. Trực 1 ngày, hướng dẫn chính 1 ngày, hướng dẫn phụ 1 ngày, 1 ngày được tự do….. Làm Sĩ quan cán bộ ở Thủ Đức lúc nầy rất có giá, lại được thêm nếu có mã đẹp trai sẽ có khối cô mê (?). Tôi từ bỏ tất cả để về Quân Đoàn III làm tùy viên cho Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn, làm tùy viên mà chủ tướng của mình là một vị sĩ quan thanh liêm chính trực, không lo tư lợi, chỉ biết có công việc. Khi Quân Đoàn cấm trại 100% vị Tham Mưu Trưởng nầy cùng nhân viên ngũ lại tại nơi làm việc. Khi Cố Đại tướng Đỗ Cao Trí tử nạn trên bầu trời Tây Ninh, Trung tướng Nguyễn văn Minh Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh QĐ III - QK III, Thiếu tướng Đào Duy Ân vẫn giữ chức vụ Tư lệnh Phó QK III đặc trách các Tiểu khu, Đặc khu thuộc Vùng 3 Chiến Thuật. Trong đó Chuẩn tướng Lê văn Hưng giữ chức Tư lệnh Phó QĐ và sau cùng là Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Sau 50 năm nhìn lại, sau 7 năm trong lao tù Cộng Sản, sau cùng thì gia đình tôi cũng được định cư tại Hoa Kỳ, Tiểu bang California, tôi là một trong những hàng triệu người được “đẻ bọc điều”. Năm 2010 tôi được đồng hương Biên Hòa đề cử điều hành Hội Ái Hữu Biên Hòa tại California, tôi đã không quên vị Tướng, người anh hùng của QLVNCH, người con ưu tú của Xứ Bưởi: Cố Đại tướng Đỗ Cao Trí đã bỏ mình vì đất nước. Chiếc quan tài phủ Cờ vàng ba sọc đỏ được đặt trên chiếc Thiết Vận Xa M113 tiến về Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa để ông an giấc ngàn thu cùng các binh sĩ thuộc hạ, nhưng sau năm 75 bọn Cộng Sản cũng chẳng để yên. Buổi Họp mặt năm Canh Dần 2010, Hội đã vinh danh để tưởng nhớ đến Cố Đại Tướng với sự tham dự của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Đại tá Ngô văn Minh, Đại tá Lê văn Trang, Trung tá Bình và các Sĩ quan thuộc BTL/QĐIII. Năm 2011 tôi vẫn là Hội trưởng, Xuân Tân Mão tôi đã cùng 300 đồng hương đã vinh danh Cố nhà văn Bình Nguyên Lộc, một nhà ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 134
văn lớn đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho nền văn học nước nhà. Năm 2012 Xuân Nhâm Thìn, tôi cùng Hội đã vinh danh Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Cố Giáo sư đã ra đi, nhưng đã để lại cho hậu thế, cho thế hệ trẻ một gương tranh đấu không mệt mõi, với lý tưởng mong làm sao cho tương lai một đất nước Việt Nam được sáng lạn hơn. Tôi là Cựu học sinh trường Trung học Ngô Quyền Biên Hòa, để tưởng nhớ đến người đồng môn trẻ tuổi có nhiều tài nhưng mệnh yểu, năm 2013 Hội đã cùng đồng hương tổ chức buổi họp mặt mừng Xuân để nhớ đến nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên. Và ngày 19 tháng Giêng năm 2014 cũng nhân dịp Xuân về, Hội cũng không quên tưởng nhớ đến Cố Nhân sĩ Lương văn Lựu, người đã ghi lại trang lịch sữ của Biên Hòa từ khi mới lập quốc. Suốt bốn năm trời, tôi đã được đồng hương Biên Hòa và thân hữu xa gần khắp năm châu, yểm trợ giúp đở cũng như động viên tinh thần, nên tất cả anh em đã cùng tôi đem hết nhiệt tâm nhiệt thành ra phục vụ đồng hương. Tôi quan niệm Hội là nơi nối kết bền vững tình đồng hương sống nơi đất khách quê người. Chúng tôi đã thực hiện chương trình “đền ơn đáp nghĩa, trã món nợ ân tình” đối với những thương phế binh QLVNCH còn kẹt ở quê nhà trong phạm vi hạn hẹp của tỉnh Biên Hòa. Sau buỗi Họp Mặt kỷ niệm 50 năm ngày Khóa 17 SQTB/TĐ mãn khóa, tôi đề nghị anh em trong khóa đang sống nơi hải ngoại khắp năm châu- với tinh thần lá lành đùm lá rách- kẻ ít người nhiều cùng nhau đóng góp và tìm lại những bạn bè cùng khóa kém may mắn còn sống vất vưởng tại quê nhà. Giúp đở, an ủi những anh em nầy mà 50 năm qua chúng ta đã quên lãng. Tôi cũng hy vọng anh em chúng ta mà đa số là HO, với tình Huynh đệ Chi binh, mọi tị hiềm thắc mắc nên cho vào dĩ vãng nếu có. Anh em chúng ta có sự suy nghĩ phải hướng tới sự tồn vong của đất nước, tương lai của dân tộc, mà anh em chúng ta đã hy sinh cuộc đời son trẻ, đã chiến đấu quên mình, nhưng nay vì hoàn cảnh nên đành phải trôi nổi theo vận nước, sống tha hương nơi đất khách quê người. Anh em Khóa 17 Nguyễn Thái Học chúng ta phải có sự suy nghĩ và phải làm gì để đất nước Việt Nam sớm thoát khỏi ách Cộng Sản./. Kỷ niệm một đêm trong bệnh viện Bakersfield. California 24 tháng 3 năm 2014 Dương Minh Chấn ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
LƯU ĐÀY MIỀN BẮC Hồi ký của Luca Luân Cựu SVSQ/K17TĐ
Sống trong cảnh cá chậu chim lồng, chung quanh nhà ở kẻm gai rào bọc một con chó nhỏ cũng chui qua không lọt. Sáng trưa chiều đều nghe đi nghe lại giọng hát the thé của ‘ca sĩ gái’: “Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay- Đất nước thanh bình lòng ta mê say….” Nghe hoài, anh em chúng tôi muốn phát điên lên và muốn kéo chiếc loa xuống đập nát, để khỏi phải nghe những lời mâu thuẩn cho bản thân hiện tại. Tôi ngồi phơi nắng nhìn lên trên những tàn cây bã đậu trồng phía trước cổng trại, vài cặp chim rất an nhàn đang rỉa lông tắm nắng. Đúng như lời đồn của anh em, chiều hôm đó cả trại được ăn cơm sớm hơn mọi khi và được lệnh mang tư trang ra tập họp ở sân trại. Tên bộ đội trực trại gọi tên từng người mang tư trang ra xe đậu sẵn phía trước trại. Cũng giống như các lần di chuyển trước, xe đều di chuyển kín trong đêm. Đoàn xe lăn bánh chạy ra xa lộ đến thẳng New Port. Anh em chúng tôi gồng gánh tư trang leo lên tàu thủy neo ở bờ sông. Lên tàu tên gọi Sông Hương Lênh đênh mặt nước dặm trường về đâu? Hải trình không biết bao lâu Con tàu định mệnh u sầu thế nhân. Trong số tù chúng tôi, các anh em sĩ quan Hải Quân quan sát nhìn sao biết rõ chắc chắn theo hải trình nầy ra miền Bắc, không biết tàu sẽ cặp ở bến cảng nào? Thời gian trôi nổi tương đối sóng lặng biển êm, anh em tùy theo tôn giáo thầm kín cầu nguyện đến nơi bình an. Tàu đi mất bốn ngày đường Thời gian trôi nổi tưởng chừng một năm Hầm tàu địa ngục trần gian Đến nơi cặp bến chứa than Hải Phòng ……………… Lên toa xe lửa đón mời ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Toa xe bít kín cuộc đời tối tăm Về nơi hoang vắng xa xăm Bến phà Yên Bái cạnh nằm bờ sông. Lộ trình đến nơi là vùng núi non hiểm trở bao quanh. Những dãy núi hình rẽ quạt lúc học môn địa lý về Miến Bắc, bây giờ mới có dịp chứng kiến tận mắt. Đây cũng là trại tù cũ xưa kia do thực dân Pháp cất để lưu đày các nhà Cách mạng nổi lên chống Tây thập niên 30-40, nay chỉ còn là những bức tường loang lỗ rêu phong hoang phế, cây cối mọc um tùm. Vùng nầy là Liên trại 3,tôi ở trại 3, lúc đầu ở tạm trong các nhà lều. Sau đó chúng tôi đi rừng đốn gỗ làm khung nhà, cắt tranh làm mái. Rồi lắp ráp vào các bức tường cũ thành khu nhà, lấy tre vầu làm hàng rào. Chính mình làm trại làm hàng rào để nhốt…. mình. Phúc Yên thuộc tỉnh Sơn La Núi cao hiểm trở trại Ba giam tù Dân tình huấn luyện hận thù Để cho thù hận bọn tù bơ vơ. Gần trại tù là người đồng bào thiểu số Thái Trắng, họ sống cuộc đời rất cơ cực vất vả. Quanh năm cuộc đời chỉ biết làm ruộng và làm rẩy chân lấm tay bùn suốt ngày, cơm không đủ ăn phải ăn độn bắp khoai. Áo quần không đủ mặc, bệnh tật không thuốc men, trẻ em không có trường học. Dân đây thiều số thật thà Sống vùng sơn cước tên là Mường Thai Quanh năm ruộng lúa nương khoai Cuộc đời cơ cực, oằn vai chiếc “guồi”. Vùng đồi núi vực sâu Sơn La có rất nhiều trại tù, tại trại Ba chúng tôi, có một bạn tù lớn tuổi, lao động quá cực nhọc vất vả ăn uống lại thiếu thốn, cơ thể già ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 135
yếu bệnh tật. Lại không thuốc men điều trị cộng với khí hậu khắc nghiệt nên đã bị kiệt sức…và vĩnh biệt anh em. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã tù đày, thân xác các anh được bó chiếu đem chôn dập vùi nơi chân Đèo Ban không một nén hương. Khai hoang, đốn củi mắt mờ Tù già sức yếu cuộc đời hắc hiu Đèo Ban an giấc ngàn thu Tiếc thương số phận bạn tù ra đi… Trong những đêm trăng sáng tôi thường trằn trọc khó ngủ vì nhớ gia đình. Tôi nhìn xuyên song sắt của nhà giam thấy vầng trăng tròn thật đẹp. Tôi liên tưởng cũng vầng trăng đó vợ tôi nhìn thấy, nhưng hai người mở hai phương trời cách biệt, cùng một tâm nguyện mong sao được sớm thả về lo cho đứa con nhỏ vô tội phải xa cha mẹ từ mới ba tháng tuổi, sống côi cút thiếu vắng tình thương. Đây là vết thương lòng cho hai vợ chồng chúng tôi đã kéo dài từ khi vào tù cho đến nay. Tôi nghĩ nếu VC xử án 10 hay 20 năm rất tốt. Tôi sẽ tình nguyện ở thay cho vợ tôi, để vơ tôi được về trước lo cho gia đình. Chúng tôi ở Sơn La cho đến khi Trung Cộng “dạy bài học thứ nhất” cho VC dọc theo các tỉnh biên giới, nên mới chuyển cho công an giam giữ. Vội vàng di chuyển tù nhân Ba Sao nổi tiếng là Tân Đầm Đùn Chung quanh cò lát um tùm Khó mà trốn thoát trùng phùng vợ con. Đây là trại giam rất lớn của tỉnh Hà Nam Ninh thuộc Bộ Công An. Tù nhân bắt đầu được phép gởi thơ về gia đình và được gặp thăm nuôi. Danh từ “thăm nuôi” bị bọn cai tù không cho phép dùng. Vì với luận điệu xảo trá “Nhà nước không nuôi các anh được hay sao mà phải để gia đình thăm nuôi?”. Nhưng vợ con gia đình tù nhân đi thăm đều mang theo các thứ gần bằng một tiệm tạp hóa nhỏ ở thôn quê, để nuôi chồng con. Riêng tôi không hy vọng thăm nuôi, chỉ mong biết được tin tức vợ con ra sao? Sau khi nhận được thư hồi âm mới biết rõ là vợ còn bị giam giữ ở Long Thành, và con gái được bà Ngoại dẫn đi thăm mẹ ba lần. Tôi vô cùng vui sướng còn hơn được quà thăm nuôi. Sống ở trại nầy anh em đi làm lao động tương đối đở hơn, phần được tiếp tế thăm nuôi nên sức khỏe và tinh thần dần dần hồi phục đôi chút. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 136
Gần năm năm trôi qua trong các trại tù, nhóm chữ “học tập cải tạo” gần như vô nghĩa. VC chẳng có giáo dục cái gì, chỉ là những trò lừa bịp của bọn người “đỉnh cao trí tuệ”. Chúng đã để những người tù sống trong cái chết lần mòn, như ngọn đèn dầu lụn tim trước gió. Chúng tôi sống đến giờ phút nầt cũng là phép lạ, và niềm tin nghĩ đến gia đình đã giúp anh em chúng tôi vượt qua những thống khổ tủi nhục tù đày. Giết tù kiểu mới tinh vi Vắt cho kiệt sức còn chi ngày về Nửa đêm tiếng hét não nề, Bạn tù vĩnh biệt tứ bề sót thương…. Chúng tôi bị giam tại trại Đầm Đùn Ba Sao Hà Nam Ninh khoảng ba năm. Tuy không lâu lắm, nhưng “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Nhưng tại sao VC lại chuyển anh em chúng tôi sau đó về Nam? Vì Đặng Tiểu Bình của Trung Cộng đã hăm dọa sẽ cho VC một bài học thứ hai, lần nầy có thể đánh đến mấy tỉnh gần Hà Nội. Nếu không có sự hăm dọa đó, chắc chắn VC sẽ tiếp tục lưu đày anh em cho đến khi vĩnh biệt người thân. Bằng chứng cụ thể là khi anh em chúng tôi đến miền núi rừng Sơn La, đã gặp một số anh em thuộc Quân đội Quốc gia bị kẹt lại sau Hiệp Định Genève năm 1954 không kịp vào Nam, đã bị lưu đày biệt xứ lên vùng này từ ngày đó đến nay. Một bằng chứng khác là bà Đại Tá Trần Cẩm Hương, con chim đầu đàn của Đoàn Nữ Quân Nhân QLVNCH sau 11năm tù, VC đã không cho trở về sống trong căn nhà cũ ở Tân Định, phải đi về sống ở vùng quê Hậu Nghĩa. Sau đó bà bị bệnh đau màn óc không thuốc men chửa trị phải qua đời, để lại sự tiếc thương cho chị em Nữ Quân Nhân. *** Những năm tháng khó quên, tôi viết lại sau ngày rời khỏi ngục tù Cộng Sản. Đây là những sự kiện sống thực chính bản thân tôi đã trải qua. Bài viết ít khi đề cập đến miếng ăn manh áo, cái mà bọn cai tù đã dùng như một loại vũ khí sắc bén để dễ bề điều khiển. Khi đã sống trong cảnh cá chậu chim lòng, cái cao quý nhất là Tự Do, thì đã bị tướt đoạt rồi, đâu còn diều gì để nói. Câu nói bất hủ của Patrict Henry “Hãy cho tôi Tự Do, nếu không hãy giết tôi” đã rất thấm thía cho thân phận những người tù. Một khúc quanh lịch sử đã minh họa thảm kịch bi đát nhất chưa hề xảy ra trong ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
quốc sử Lạc Hồng, mặc dù đã từng bị 1000 năm đô hộ bởi giặc Tàu, cũng như một trăm năm dưới ách cai trị của giặc Tây. Nay đã bị một tập đoàn “tam vô” cùng một màu da, cùng một dòng máu, xé nát đất nước, cũng chỉ vì tham vọng thực thi chủ nghĩa ngoại lai quốc tế Cộng Sản, gây nên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn suốt hơn một phần tư thế kỷ, mà ngày kết thúc là tiếng khóc than kinh hoàng của sinh ly tử biệt, của gia đình tan nát, của vợ chồng con cái xa cách nhau…. Tháng tư cay đắng đời tôi Đau thương dân tộc đổi đời Miền Nam Mười năm trong chốn giam cầm Hận thù chan chứa âm thầm khó quên Sống còn phó thác ơn trên, Nỗi lòng uất hận kêu rên thấu trời Thập niên đốt hết tuổi đời Đắng cay tủi nhục vạn lời xót xa…. Người đem nắng ra phơi Luca Luân. Viết lại sau khi được phóng thích 1985 Vườn Bà Lớn Sài Gòn. *Chú thích của Ban biên tập ĐS/K17: Cựu SVSQ/ K17TĐ “Luca Luân” đồng cấp Thiếu Tá với Hiền thê là một Sĩ quan Nữ Quân Nhân QLVNCH, cả hai phải rời đứa con gái mới sinh ba tháng để lên đường “học tập cải tạo”.
Mùa Xuân Dân tộc giữa hồn ta Tôi tỉnh giấc, sao còn đây tiếng khóc Dù đăng trình tôi vẫn quyết tâm đi. Ba mươi năm không mỏi gót, chỉ vì Nghe tiếng trống Hà Hồi vang thúc giục. Xuân Đống Đa, dù tay nghèo gậy trúc Cũng lừng danh vạn thuở giống Rồng Tiên. Tôi sẽ về - tìm dáng mộng trinh nguyên Tranh thủy mạc ngày xưa - : Em xỏa tóc Bên bờ sông - sắc Xuân vờn châu ngọc Nụ cười em nhung mượt một đời Thơ. Tôi không còn thân lữ thứ bơ vơ Khi quỳ ôm chân Mẹ. Được hôn lên từng nếp da nứt nẻ Vì lịch sử oan khiên Vì nửa đàn con quên cả hịch truyền Dựng xây Mùa Xuân Dân Tộc. Tôi thành trẻ thơ nhoài ôm Tổ Quốc Như con tìm Mẹ, thơm ngủ mơ vàng. Mẹ dẫn con đi, cuốc lại đồng hoang Cho lúa mọc lừng hương trời Đông Á. Bầy em con không còn ai trả giá Bán buôn nô lệ da vàng. Cho con khỏi nhục khi nhìn cảnh suy tàn Vì giống Việt đang cằn khô Đạo Lý. Bạo lực vùi chôn Nhân Vị Đường hầm heo hút tương lai. Đời tạm dung, trong mê-tỉnh đêm dài Tôi vẫn thấy đẹp trời Xuân Dân Tộc. Xuân giữa hồn tôi, hồi sinh Tổ Quốc, Nhạc bừng reo, hoa tỏa ngát hương nồng. Hồn sông tôi trôi chảy, vẫn xuôi giòng Len sỏi đá, về Biển Đông tìm Mẹ. Xin chờ con - dù hành trang gánh nhẹ Nhưng nặng lòng vì Lẽ Sống Quê Hương. Em hãy chờ tôi , bóng nước soi gương Hồng lên má, nụ cười xưa giấu thẹn. Tôi sẽ về ! - Không quên lời ước hẹn Giữa triều dâng bừng dậy sắc Xuân sang. Xuân của đời tôi là Xuân của Vinh Quang Toàn Dân Tộc, - nắng Xuân hồng phơi phới. Trời Việt Nam lụa là thay áo mới Trẩy hội lên đường, vui đón TỰ DO ! Hoàng Phong Linh - Võ Đại Tôn
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 137
KẺ PHẢN BỘI HUỲNH CHÍ THIỆN Nỗi đau của K.17 TÐ Pháo thủ Tiền Giang Cựu SVSQ/K17TĐ Khóa 17 SQTB/TĐ Binh chủng Pháo binh được phân phối về Tiểu Đoàn 9 Pháo Binh đồn trú tại Sa Đéc - sau nầy đổi tên thành TĐ 91 PB sau khi Tiểu Đoàn 9 Súng Cối giải tán - tổng cộng 7 tân Chuẩn úy. Ngoại trừ tôi và Mạc Thành Phụng được giữ lại BCH Tiểu Đoàn, còn lại tất cả xuống các Pháo đội Tác xạ để đi tiền sát viên. Tôi được cử giữ chức Phụ tá Ban 3 cho Thiếu úy Lê Thơm, còn Phụng thì làm Sĩ quan Địa hình Tiểu đoàn. Tên chức vụ thì nghe oai lắm, nhưng mỗi khi có cuộc hành quân cấp Sư Đoàn hay Trung Đoàn, thì hai đứa tôi cũng cặp nách bản đồ đi “đề lô” như ai, nhưng có điều là chỉ đi cho những đơn vị lớn hoặc trừ bị cho Sư Đoàn như các Chi đoàn của Trung đoàn 2 Thiết giáp, Tiểu đoàn 43 Biệt động quân hay Đại đội Trinh sát 9 Sư đoàn. Huỳnh Chí Thiện, Trương Hữu Hùng và Cao văn Long về Pháo đội A hậu cứ đồn trú tại Vĩnh Long để đi tiền sát cho Trung đoàn 13 đóng tại Ngã Tư Long Hồ. Trương văn Hữu về Pháo đội B đồn trú tại Vĩnh Bình để đi tiền sát cho Trung đoàn 14, chỉ riêng có Vương xùi Lũy mặc dù về Pháo đội C có hậu cứ đang đóng cạnh BCH Tiểu đoàn ở Sa Đéc, nhưng Lũy phải xuống nằm với Trung đội 1C của Thiếu úy Nguyễn Công Lý ở quận Đức Tôn cũng để làm đề lô trừ bị. Ở BCH Tiểu đoàn được một thời gian sau khi đã lên Thiếu úy, tôi xin thuyên chuyển xuống Pháo đội A ở Vĩnh Long, mặc dù lúc đó tôi đã thay thế Thiếu úy Lê Thơm đã lên Trung úy đang nắm PĐT/PĐA, làm quyền Trưởng Ban 3 Tiểu đoàn và đang được chạy đặc cách lên Trung úy nhiệm chức. Lý do vì Tr/u Trần Hữu Vạn K6/TĐ đang làm PĐT/PĐ Chỉ huy, trước đây chơi rất thân với tôi, nhưng có một lần anh làm đơn xin đi du học Mỹ, Ban 3 tôi chuyển lên, nhưng không được Tiểu Đoàn Trưởng chấp thuận, giận cá chém thớt, nhiều lần anh kiếm chuyện với tôi ra mặt. Thấy làm việc trong không khí như vậy, nên tôi xin ra Pháo đội Tác xạ. Xuống PĐ/A của Tr/u Lê Thơm, tôi tình nguyện ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 138
đi tiền sát viên thường trực cho TĐ43BĐQ, và cùng mướn một căn nhà gần Tòa Hành Chánh Vĩnh Long ở chung với Tr/u Nguyễn văn Thửa đang làm Quan sát viên phi cơ, và Huỳnh Chí Thiện đang đi đề lô cho Trung đoàn 16 BB (Trung đoàn 13 cũ). Những ngày không có hành quân, ba đứa chúng tôi tà tà đi ăn đi chơi thân thích với nhau.Trong lúc tôi với anh Thửa ăn mặc tương đối chải chuốt, thì Huỳnh Chí Thiện lúc nào cũng lè phè bê bối với quần áo dân sự cũ mèm. Đồ trận thì lãnh sao mặc vậy không cần sửa lại. Lúc đó tôi có thì giờ để đưa đón “cô em gái bé bỏng” của tôi nhiều hơn là lúc còn BCH/TĐ ở Sa Đéc - mà sau nầy đã trở thành “đấng bề trên” của tôi - Còn anh Thửa hôm nào không có giờ bay hành quân, thì cũng đến “bao vùng” nhà ông Trung Tá Lý Đ., nơi có cô con gái tên Lý thị X.H. nho nhỏ dễ thương, mà sau nầy cũng là “Tư lệnh” của anh. Ca sĩ tí hon Viviane Huỳnh ở San José chuyên hát những bản nhạc đấu tranh, chính là cháu ngoại của đôi uyên ương nầy. Riêng Huỳnh Chí Thiện thì chỉ mê có… đánh phé, căn nhà của Tr/u Ch. Đại đội trưởng Đại đội Quân vận Vĩnh Long là nơi Thiện thường lui tới đấu trí sát phạt trong những canh phé. Năm 67 tôi lập gia đình, rồi trở về Trường Pháo Binh học Khóa 1 Sĩ quan Tu Nghiệp Cấp Pháo Đội, ra trường xuống quận Minh Đức coi đơn vị 3A/91PB. Huỳnh Chí Thiện thuyên chuyển qua Tiểu đoàn 92 Pháo Binh của Thiếu tá Nguyễn Thiện Cường - Tiểu đoàn nầy trước đây là TĐ67PB nay sáp nhập vào SĐ9BB vừa được cải danh - xuống coi một trung đội pháo binh thuộc PĐA/92 đóng ở ngoại ô tỉnh Vĩnh Bình. Anh Thửa sau khi toán Quan sát viên Phi cơ giải tán, trở về Sa Đéc làm Trưởng Ban 3 TĐ91PB, ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
sau đó xuống nắm PĐB/91PB cũng đóng ở Vĩnh Bình. Sau trận Mậu Thân 1968, tình hình các nơi đã trở lại yên tỉnh sau khi VC bị tổn thất nặng nề. Một buổi sáng chủ nhật vào khoảng gần cuối năm 68, tôi lái xe chở bà xã cùng với một xe GMC chở toán đạn dược hộ tống, về hậu cứ pháo đội tại Vĩnh Long trước để nhận tiếp tế, sau để bà xã tôi thăm nhà, thường những lần như vậy sáng đi chiều trở về đơn vị. Khi xe jeep của tôi ra khỏi hương lộ quận Minh Đức đến tỉnh lộ Vĩnh Long – Vĩnh Bình thì cũng vừa lúc gặp chiếc xe jeep của Huỳnh Chí Thiện do tài xế lái chạy ngược đường xuống Vĩnh Bình. Gặp nhau chúng tôi ngừng xe lại đấu hót, lúc đó Thiện mặc bộ đồ bà ba đen của Xây Dựng Nông Thôn, ngang bụng mang dây nịt TAB với khẩu súng Rulô xề xệ. Trông thấy Thiện, vợ tôi buộc miệng nói: -Anh Thiện mặc bà ba đen mang súng giống Việt Cộng quá! Thiện cười hì hì. Tướng Thiện lớn con với nước da ngâm đen, miệng rộng với cặp môi dày, lại cộng thêm cái càm bạnh nửa, nên quả tình là dù bạn bè cùng khóa, anh em vẫn hay gọi đùa là “Thiện Việt Cộng”, mỗi lần như vậy Huỳnh Chí Thiện chỉ cười hề hề không giận, không phản đối. Trong lúc chuyện vãn, Thiện cho biết vừa đi phép về Long Xuyên hôm nay trở xuống Vĩnh Bình, riêng tôi đòi Thiện đưa cây súng Rulô cho tôi như đã hứa trước đây. Thiện không chịu, bảo rằng khi nào Đ/u Lê Thơm, lúc đó đang làm Quận trưởng Quận Chợ Lách, cho nó cây súng khác thì nó mới đưa khẩu súng nầy cho tôi. Giởn hớt một hồi sau đó hai đứa chia tay, Thiện chạy xuống Vĩnh Bình, còn tôi và bà xã tiếp tục chạy về Vĩnh Long. Khoảng năm giờ sáng thứ hai ngày hôm sau, điện tín viên gỏ cửa phòng tôi báo có công điện thượng khẩn của Tiểu Đoàn. Trong công điện cho biết hồi 1 giờ khuya nay, Việt Cộng đã tấn công tràn ngập Trung đội 2A/92 đóng vị trí tại ngoại ô tỉnh Vĩnh Bình, và đã bắt dẫn đi mất tích Trung úy Huỳnh Chí Thiện Trung đội trưởng. Công điện còn ra lệnh các đơn vị kiểm soát lại hệ thống an ninh, phòng thủ và phản pháo, đề phòng một đợt tấn công tương tự vào các đơn vị pháo binh tại Vùng 4. Tám giờ sáng thứ hai, sau khi tập họp chào cờ, tôi thông báo cho đơn vị biết tin tức VC tràn ngập Tr/ Đ2A/92PB và Tr/u Thiện đã bị VC bắt, đồng thời ra lệnh cấm trại 100% quân số. Lúc đó trong túi tôi có mấy tờ vé số Kiến Thiết mới mua ở Vĩnh Long hôm ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
qua, mà mai nầy là thứ ba sẽ xổ, tôi nói với anh em nếu ngày mai tôi trúng số độc đắc, tôi sẽ bỏ tiền ra để chuộc Tr/u Huỳnh Chí Thiện được thả về. Còn đang bàn tán xôn xao trong sân đơn vị, chợt Hạ sĩ nhứt Tuấn điện tín viên hớt hải từ Đài tác xạ chạy ra tay cầm sổ công điện đưa cho tôi: -Trung úy! Trung úy Thiện không có bị bắt, ổng theo Việt cộng! Cầm lấy sổ công điện mở ra đọc, mở đầu là “Tên Huỳnh Chí Thiện….”chớ không còn gọi là Trung úy nữa. Đại khái công điện cho biết lúc 1 giờ khuya nay, Huỳnh Chí Thiện mặc bộ đồ bà ba trắng đã bắn chết lính gác, mở cổng căn cứ cho Việt Cộng tràn vào trong số đó có 2 nữ cán binh VC, rồi chạy đến từng hầm ngủ bắn lính của trung đội. Riêng Thiện đã chỉa súng vào một Trung sĩ khẩu trưởng, bắt nạp đạn bắn vào hướng Tiểu Khu Vĩnh Bình trước khi cùng những đặc công Việt cộng rút lui vô mật khu. Sau nầy, khi tôi thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 92 Pháo Binh, sau một thời gian làm Trưởng Ban 3 TĐ, tôi xuống làm Pháo đội trường PĐA/92, tức là pháo đội trước đây có trung đội bị Huỳnh Chí Thiện tàn sát, được Hạ sĩ quan truyền tin pháo đội, khi trước từng là điện tín viên của trung đội Thiện, vì ở trong hầm tác xạ nên thoát chết, sau chạy sang được Đại đội ĐPQ kế bên, đã kể lại chi tiết như sau: - Vào buổi chiều, Thiện đã ra lệnh làm yếu tố tác xạ cho một khẩu đại bác nhắm vào Tiểu Khu với lý do có tin tức VC sẽ tấn công Tiểu Khu, sẵn sàng yếu tố để yểm trợ. Nhưng ông trung sĩ khẩu trưởng nầy dưới khẩu súng của Huỳnh Chí Thiện, trước khi nạp đạn giật cò, đã lén quay nhẹ tay quay biểu xích, khiến những viên đạn nổ ngoài Tiểu Khu Vĩnh Bình. Trung sĩ khẩu trưởng nầy sau đó đã bị Huỳnh Chí Thiện dùng khẩu Rulô bắn ngã gục nhưng may mắn không chết. Sở dĩ tin tức được xác nhận sớm, nhờ Thượng sĩ Thạch Khâu, thường vụ trung đội và một số ít anh em lính tráng pháo thủ liều chết phá hàng rào chạy thoát sang Đại đội Địa Phương Quân kế bên báo cáo lại, nên mới biết rõ sự việc phản bội và tàn ác của Thiện. Sau khi tàn sát anh em lính tráng trong đơn vị xong, Huỳnh Chí Thiện cùng các cán binh Việt cộng chạy vô vùng mật khu Dừa Đỏ gần quận Càn Long. Sau đó có tin đồn là Việt cộng đã phong cấp bậc Thượng tá cho Huỳnh Chí Thiện. Sự việc một sĩ quan Quốc Gia phản quốc, rời bỏ hàng ngũ theo Cộng sản chống lại QLVNCH, cũng là chuyện bình thường và đã xảy ra nhiều nơi. Nhất ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 139
là sau khi Miền Nam hoàn toàn sụp đổ, những tên nội tuyến nằm vùng trong thời gian chiến tranh đã lộ ra nguyên hình, chúng đã từng mai phục trong quân đội, các cơ sở hành chánh, kể cả truyền thông báo chí. Nhưng trường hợp của Huỳnh Chí Thiện thì có lẻ hiếm hoi. Hiếm hoi ở chỗ đã có cái “can đảm” cầm khẩu súng bắn thẳng vào thân thể của từng thuộc cấp của mình, đã một thời phục vụ và chia sẻ những gian lao khổ cực, là một điều không phải ai cũng có thể làm được. Nếu đã chủ tâm làm nội tuyến cho Việt cộng, đến giờ phút phải xuất đầu lộ diện vô bưng, thì thiếu gì cách làm tê liệt phản ứng của đơn vị, cần gì phải tàn sát anh em lính tráng thuộc quyền của mình, cần gì phải “lấy điểm” với VC đến như vậy? Chỉ có người Cộng sản mới làm được việc sắt máu đó. Sau biến cố nội tuyến của Huỳnh Chí Thiện, các đơn vị pháo binh đồn trú ờ các vị trí quận lỵ để yểm trợ lãnh thổ, đã bị địa phương nhìn với cặp mắt nghi ngại. Tại quận Minh Đức tỉnh Vĩnh Long, Đ/u Quận trưởng Trần Đình Hòe gốc BĐQ đã “nói đùa” với tôi: “Sơn ơi! Tối ngủ nhớ đừng bao giờ mặc pyjama trắng nghe toa!”. Ngay lúc đó mới thấy tiếc rằng sáng nay mình đã có ý nghĩ dùng tiền trúng số để “chuộc lại” Huỳnh Chí Thiện. Câu chuyện nội tuyến VC và giết lính dã man của Thiện rồi cũng nhạt dần với thời gian, duy chỉ có những anh em Pháo binh gốc Khóa 17 TĐ, cũng như các bạn bè ở các Tiểu đoàn Pháo Binh thuộc SĐ 9 BB trước đây, thỉnh thoảng gặp nhau vẫn còn nhắc lại sự việc đau buồn nầy. *** Bỗng một buổi trưa cách đây hơn một năm, tôi nhận được điện thoại từ Niên trưởng P.V.Q ở Virginia, nguyên Tiểu Đoàn Trưởng TĐ92PB (kế nhiệm Th/T Nguyễn Thiện Cường). Ông hỏi tôi có nhớ Huỳnh Chí Thiện không? Tôi trả lời ông là làm sao quên được thằng bạn cùng khóa phản bội giết lính theo VC. Ông cho biết Thiện đang ở Mỹ, sáng nay nó đi ăn sáng với một người bạn gốc H.O ở Maryland và hỏi thăm những người gốc binh chủng Pháo Binh, biết được số điện thoại của ông nên Thiện gọi thăm. Sau đó ông hỏi tôi có muốn nói chuyện với nó không để ông cho số điện thoại. Và tôi đã gọi nói chuyện với Huỳnh Chí Thiện trên đất Mỹ nầy. Quả tình thì tôi thực sự xúc động khi nghe lại giọng nói của Thiện, vẫn còn trong và mạnh dù Thiện cho biết đã vào lứa tuổi 76, 77 rồi, và xúc động hơn nữa là ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 140
mình đang nói chuyện với một cán bộ Việt Cộng! Được biết Thiện cùng vợ, cưới hồi sau năm 75, đi du lịch sang Mỹ hơn tháng nay, sau khi rời vùng Washington DC sẽ đến Nam Bắc Cali trước khi trở về Việt Nam. Sau khi hỏi thăm nhau về gia đình vợ con, Thiện hỏi tôi về những bạn bè hồi ở chung Tiểu Đoàn 91 Pháo Binh ai còn ai mất. Sau một hồi chuyện vãn, đã đến lúc tôi phải nhắc lại chuyện xưa với Thiện, những điều mà không phải chỉ riêng tôi là thằng bạn cùng khóa từng ở chung một căn nhà lúc còn độc thân, mà là nhiều người, nhứt là cùng binh chủng Pháo Binh, muốn biết về việc làm tàn ác của Thiện đối với lính tráng của mình. Dỉ nhiên tôi không muốn dùng những lời lẽ hằn học đối với một thằng bạn cùng khóa từng có nhiều kỷ niệm với nhau, dù nay đã đứng bên kia chiến tuyến và từng có những hành động tàn ác đối với anh em thuộc cấp,sau hơn bốn mươi năm trời mới nói chuyện lại dù chỉ qua điện thoại. Tôi chỉ ôn tồn nói với Huỳnh Chí Thiện rằng: “ Anh em ở hải ngoại vẫn ‘oán trách’ việc làm của mầy ở Vĩnh Bình…”, tôi không nở dùng chữ ‘hận thù’. Khi nghe tôi nhắc đến chuyện nầy, Thiện đã cắt ngang: “Thôi! Thôi! Đừng nhắc đến chuyện đó nữa Sơn ơi! Trong chiến tranh có nhiều chuyện đau lòng lắm. Tao chỉ làm những việc cấp trên của tao ra lệnh, cũng như tụi mình trước đây phải tuân hành lệnh của thượng cấp giao phó. Thôi bỏ qua đừng nói lại chuyện đó nữa, Sơn!...”. Tôi cũng không nở nói gì hơn, sau khi qua loa vài câu thăm hỏi, tôi và Thiện chấm dứt. Kể lại nội dung cuộc nói chuyện điện thoại cùng Huỳnh Chí Thiện với gia đình và nhiều bạn bè, ai cũng hỏi tôi, đặc biệt là con trai tôi, là có cảm thấy Thiện có vẻ gì là ăn năn hay hối hận về việc làm tàn nhẩn của mình đối với anh em lính tráng thuộc cấp trước khi vô bưng theo VC không?..Quả tình là tôi không cảm thấy Thiện có mặc cảm hối hận gì cả, mà chỉ là những chống chế biện bạch. Sau đó tôi gọi sang Cali và vài nơi khác để báo cho bạn bè cùng Khóa 17 Pháo Binh cũng như các bạn ở cùng chung TĐ91PB khi trước, biết việc Huỳnh Chí Thiện sang Mỹ du lịch, và cho số điện thoại của nó nhưng không ai muốn nói chuyện với Thiện hết. Thằng Th. Khóa 15 ở cùng 91PB nói: “Dẹp! Không có nói chuyện với thằng VC đó! Muốn qua Mỹ nầy làm một trận Mậu Thân nữa phải không?!”. Thằng L. ở San José thì mắng tôi: “Mầy đừng có nói chuyện ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
với thằng đó! Hồi ở tù về, gặp nó ở Long Xuyên tao sợ thấy mẹ!”. Chỉ có V. ở Pháo Binh Dù là bản lãnh: “Để tao nói chuyện với nó, sợ đếch gì! Nó sợ mình thì có!”. Và cũng giống như tôi, khi V. đề cập đến việc giết lính vô bưng theo VC, Huỳnh Chí Thiện cũng cắt ngang và nói y như đã nói với tôi là thôi hãy bỏ qua chuyện cũ đi…Độ tuần lễ sau đó Thiện gọi lại tôi nói là đang ở Cali, cho biết chỉ có nói chuyện được với V. mà thôi, ngoài ra không có ai. Nhân đó tôi lại khơi màu lại chuyện cũ, là có lẽ anh em vẫn còn “giận” mày về vụ ở Vĩnh Bình - tôi cũng không xài chữ “thù”- và Huỳnh Chí Thiện vẫn tiếp tục gạt ngang nói chuyện khác. Những lời chót mà Thiện nói với tôi là: “Mầy và anh em bạn bè đã may mắn được sống và thành công dân của một quốc gia hùng cường nhứt thế giới, con cái được học hành thành đạt, như vậy là hạnh phúc hơn biết bao nhiêu người đang còn ở Việt Nam. Chiến tranh là tàn ác, và tụi mình là những con chốt trên bàn cờ của những siêu cường…” Tôi không biết đó có phải là một câu nói bộc lộ một chút lòng hối hận, hay chỉ là một câu ngụy biện chạy tội thường vẫn có ở những con người điêu ngoa Cộng sản? Sau đó độ vài tuần, có lẽ đã đến thời điểm vợ chồng Huỳnh Chí Thiện sắp sửa rời Mỹ trở về Việt Nam, Thiện có gọi cho tôi nhiều lần chắc là để từ giã, nhưng tôi không bắt điện thoại, bởi vì cũng chẳng còn gì để nói với nhau nữa. Sự kiện Trung úy Huỳnh Chí Thiện, một Sĩ quan Pháo Binh QLVNCH đã tàn sát lính mình rồi vô bưng theo Cộng sản, cả Vùng 4 ai cũng biết đến hành động kinh tởm đó. Đối với thân nhân của những binh sĩ đã chết dưới bàn tay của Huỳnh Chí Thiện, đến nay chắc chắn vẫn là một mối hận ngút trời. Đối với Khóa 17 Thủ Đức nó vẫn còn là một niềm đau chưa nguôi. Đối với Binh chủng Pháo Binh nó là một cái gai nhức nhối, và đối với riêng tôi đến nay, còn là một nỗi mất mát ngậm ngùi./. Mùa Hè 2014. Pháo Thủ Tiền Giang.
óc Thề T em mang giọt nắng hồng gieo giữ đời mênh mông em mang tình nắng ấm cho đời nhiều bâng khuâng em buông giòng tóc mềm lời tình chưa dám trao bàn tay chưa dám nắm măt nhìn đã nhớ nhau em mang tim cỏ dại tóc thề rũ ngang vai mùa thu rơi đầy lối nắng vàng theo áo bay em mang hồn tình nồng cho đời thêm nỗi sống xin em giọt nắng đầy ru tình vừa cơn say em buông giòng tóc mềm con đường tình nắng lên miên man hồn gío mới tóc dài xõa trong tôi em gieo giọt nắng hồng cho đời đầy hương thơm thư hồng vừa mới nhận mà tình đã mong manh tóc thề, tóc thề ơi sao em còn ngại cho lòng này bối rối cho hồn này chơi vơi cho tình mình xa xôi tóc thề ơi tóc thề của tôi ơi khê kinh kha Lời Nhạc “Tóc Thề”
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
141 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
142 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
BẢN ĐỒ TRƯỜNG SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ĐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 143
Thao trường đổ mồ hôi - Chiến trường bớt đổ máu
Bùçng hûäu vaâ kyã niïåm quên trûúâng Cựu SVSQ Nguyễn Xuân Phần Tr/Đ33-ĐĐ 9-K17TĐ Sau khi thi đậu kỳ thi Tú Tài I Ban A vào mùa Hè năm 1963, tôi tình nguyện nhập ngũ Khóa 17 SQTB Thủ Đức tháng 12 năm 1963. Thời gian nầy quân trường còn danh xưng là Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. Trong khi chờ đợi lệnh gọi nhập ngũ, tôi vẫn tiếp tục học lớp Đệ Nhất A trường Trung học Công lập Duy Tân Phan Rang với thái độ thờ ơ như một kẻ rong chơi nhàn hạ, thường trong tay không sách vỡ. Các bạn học đều nghĩ chắc tôi đang thất tình một bóng hồng nào đó, vì tôi giữ kín việc tình nguyện vào quân đội, ngay cả mẹ tôi, vì sợ mẹ buồn ngăn cản việc tôi bỏ học. Với tình thế của Miền Nam lúc đó bóng dáng chiến tranh đã cận kề, thì lớp người trẻ như tôi chắc phải dấn thân vào binh lửa để làm tròn bổn phận công dân. Chung tâm trạng ấy, hai bạn cùng lớp là Nguyễn văn Dụ gốc Bắc di cư, nhà ở sau Tòa án Phan Rang, và Trần Vinh Quy quê ở thôn Hòn Thiên phía Bắc thành phố Phan Rang cũng tình nguyện vào Thủ Đức khóa 17 như tôi. Cả ba chúng tôi đều giữ kín chuyện của mình. Gia đình Dụ ở sau lưng tỏa án vì cha của Dụ làm nhân viên tòa án. Tôi và Dụ thân nhau từ lớp Đệ Thất bên trung học bán công Nguyễn Công Trứ. Cha mẹ Dụ rất mến tôi, mỗi lần đến nhà Dụ ôn bài cuối tuần, tôi thường được dịp ăn cơm chung với gia đình Dụ. Món ăn chính là rau muống luộc với canh cua đồng, món ăn dù đơn sơ đạm bạc nhưng rất ngon miệng. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 144
Đầu tháng 12 năm 1963, khi đang học trong lớp, vị Giám thị trường cầm lệnh nhập ngũ đọc tên tôi, Dụ và Quy, trước sự ngạc nhiên của các bạn, vì lúc ấy học sinh tình nguyện vào quân đội rất ít. Sau khi về quê nhà từ giả mẹ, tôi lên lại thành phố Phan Rang đến từ giả người chị tinh thần rất đổi thương tôi. Chị rất buồn cầm tay tôi tiển đưa trong nghẹn ngào, rồi dúi vào tay tôi một số tiền gần hai ngàn làm lộ phí lên đường. Số tiền của chị, cộng với số tiền ba ngàn đồng của mẹ cho, tôi đã tiêu sạch cho một đêm ăn kem cùng các bạn học tại tiệm kem Tuyết Sơn góc đường Thống Nhất và Ngô Quyền thành phố Phan Rang, và một bửa tiệc tưng bừng sau đó để ngày mai lên trình diện Trung Tâm 2 Tuyển Mộ và Nhập Ngũ Tháp Chàm. Tại đây tôi gặp và quen các bạn khác ngoài Dụ và Quy như Dương Trọng Hòa nay đã chết, Nguyễn văn Lào, Lê văn Kiệt nay còn ở lại quê nhà. Phan văn Sự, anh Minh, anh Diệu nay chẳng biết tông tích nơi đâu. Anh Minh gốc cán sự Y Tế Bệnh viện Phan Rang bị động viên, là người lớn tuổi nhất trong đám anh em chúng tôi, sau vào Thủ Đức cùng chung Trung đội 33 Đại Đội 9 với tôi, và anh là tay thiện xạ Garant M1 trong đại đội Sau khi trình diện quân trường, tất cả các tân khóa sinh được lãnh quân trang, cắt tóc ngắn còn ba phân, y phục rộng thùng thình, xách mang đủ thứ hướng về khu nhà tiền chế cạnh Vũ Đình Trường. Tôi về Trung đội 33 Đại đội 9 do Tr/u Trần văn Ba làm Đại đội ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
trưởng. Ông gốc giáo chức bị tái ngũ, là Sĩ quan cán bộ cần mẫn, khắc khe về kỷ luật, nên Đại đội của tôi là ĐĐ gương mẫu của Khóa 17. Quân số đại đội khoảng 120 người gồm 4 trung đội, Trung đội 33 do Th/u Cao Ngọc Tú làm Trung đội trưởng, Trung đội 34 do Ch/u Nguyễn Hữu Vẹn, Trung đội 35 Ch/u Ông văn Chính và Trung đội 36 Thiếu úy Lê Kỳ Ngộ. Ngày mãn khóa 23 tháng 10 năm 1964, đại đội tôi danh dự có được sĩ quan tốt nghiệp Thủ Khoa, đó là bạn Nguyễn Kim Long. Nay bạn Long đã qua đời cách đây mấy năm sau khi được định cư bên Úc. Suốt hai Giai đoạn 1 và 2, các bạn cùng đại đội tôi còn nhớ được như Nguyễn văn Phúc có nốt ruồi bên mũi trái, đã gặp bạn tại San José. Bạn Trương Cảnh Đôn ra trường về Lực lượng Đặc Biệt, đã tự tử chết trên đường công tác. Nguyễn Thế Đỉnh BĐQ định cư ở Nam Cali với đầu bạc trắng có biệt danh “Đỉnh Đầu Bạc”. Bạn Tô văn Mười LLĐB nay ở Nam Cali. Bạn Phạm Châu Tài đại diện Sinh viên Khóa sinh, cùng với bạn Lê Tấn Tài đại diện Vũ Khí. Phạm Châu Tài đã chiến đấu kiên cường anh dũng trong LĐ 81 Biệt Cách Dù nay cũng định cư ở Nam Cali. Trương Đăng Định về Pháo Binh nay không biết ở đâu. Bạn Lê văn Ni về Quân Cụ, sau đó bị đưa ra bộ binh đã qua đời tại San José. Bạn Nguyễn văn Nư biệt danh trâu nước nay định cư ở Tiểu bang Minesota. Bạn Trần khắc Thịnh biệt danh Thịnh Đen, giày bóng như gương, ra trường về SĐ22 nay bán chợ trời ở San José. Bạn Lê Đình Bảo ra trường đi TQLC nay định cư ở thành phố Irvine Nam Cali . Bạn Đào Kim Trọng lanh lẹ hay chọc phá anh em, đi PB Dù nay cũng ở Nam Cali. Riêng Trung đội 33, tôi nhớ hơi nhiều vì có vài kỷ niệm khó quên. Tr/đ 33 nằm gần văn phòng Đại Đội do Th/u Cao Ngọc Tú làm Trung đội trưởng. Sinh viên lớn tuổi gồm có anh Minh cán sự y tế, anh Thành gốc Bắc Kỳ, anh Hạng gốc giáo sư. Hạnh trẻ nhất mới 18 tuổi và Nguyễn xuân Hùng biệt danh Hùng con nay đã chết. Nguyễn Hữu Hiếu đi Quân Nhu có nhiểu kỷ niệm với tôi. Ra trường gặp lại Hiếu ở Quân Nhu SĐ22, khi tôi thuyên chuyển về Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn ở Dục Mỹ có gặp Hiếu đi thanh tra Quân Nhu tại đây. Có một lần tôi được đề cử làm Bồi Thẩm tại tòa án Quân sự Nha Trang, ghé lại nhà Hiếu nhậu say một đêm, hôm sau ngồi ghế xử ở Tòa án mà mặt tôi còn đỏ gấc vì men rượu. Nay Hiếu trôi giạt về đâu, hỏi các bạn Quân Nhu không ai rõ. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Trung đội 33 từ cửa phòng bước vào bên phải có Hiệp lùn nay ở Illinois nhưng gọi phôn hoài không liên lạc được. Tỉnh lùn hay ra vào phòng Thiếu úy Cao Ngọc Tú mỗi lần đi phép về. Nguyễn Hạng da đen hiền hòa hay coi bói chỉ tay, thường bị Hùng con chọc phá, anh Hạng đã chết gục trong trại tù Cũng Sơn vì bệnh gan vào năm 1978 có tôi chứng kiến tận mắt giờ phút lâm chung của anh tại Bệnh xá 54 thuộc Tổng trại 5 Tuy Hòa nơi quê anh, thân xác bị vùi dập sau trạm xá, vợ con không ai hay biết. Nguyễn văn Xên người Nam cao trắng, cùng anh Nguyễn Ngọc Bửu quê Ninh Hòa da đen bóng đẹp trai, cả hai cùng cầm quốc quân kỳ trước hàng quân đại đội. Xên không rõ mất còn, còn Bửu đã hy sinh tại chiến trường Miền Tây trước năm 1975, tôi có gặp vợ con anh tại San José. Bạn Lâm Tấn Phước nằm trên tầng hai giường kế, tầng trên của giường kế bên là tôi, nên cả hai rất thân nhau kể cả lúc ra bãi tập, xa cách nửa thế kỷ không biết anh về đâu. Nhân đọc danh sách các bạn cùng khóa thấy tên anh cùng địa chỉ và điện thoại, tôi vội gọi ngay, cũng là lúc anh đang dự đám cưới tại một nhà hàng gần San José, cách chỗ tôi ở 15 miles vào một buổi chiều đầu tháng 6/2014 này. Cả hai xúc động vui mừng, nhắc lại bao kỷ niệm năm xưa, từng tên các bạn, nào Sinh cao hầu kỳ, nào Hiệp lùn. Trịnh Hiếu Chánh da ngâm đen hay đi khom về trước. Nào Thành ca hay đàn giỏi, hay cầm guitar đờn vang những bản tình ca khi cả trung đội nghỉ ngơi tại phòng. Nào Mai văn Việt Hùng cưòi vui rạng rỡ, nào Hảo nào Mừng nay biền biệt nơi đâu? Bạn Hứa Thanh Hiệp da trắng có vẻ như lai tàu, một Hoàng Hữu Thuận gốc Bắc Kỳ di cư, nóng nảy nhưng chân thật, mỗi lần giận dữ anh hay lớn tiếng om sòm, bạn bè ít ai dám chọc anh giận, nay Thuận hiện định cư tại Orange County, Nam Cali. Bên trái có Liểu Hùng Dũng biệt danh Dũng lèm bèm, vì đến giờ ngủ, trung đội có ai ồn ào to tiếng là anh hay quát lớn: “Im đi! Nếu không sẽ lên trình báo văn phòng Đại đội!”. Có Hạnh con nhỏ nhất đại đội, tánh tình trầm lặng như ông cụ, ít chơi thân với ai, ra trường về ngành An ninh Quân đội. Có Nguyễn Thới Dưởng, biệt danh Dưởng lé, ra trường về BĐQ, thăng cấp sớm nhất và hy sinh cũng sớm nhất. Cạnh Dưởng có Cầu cùng về BĐQ và cũng đã hy sinh. Lê Tấn tự Tấn lắc, nay đã từ Mỹ trở về sống tại Nha Trang. Phan văn Trước tự Trước cà lăm nay còn ở lại Việt Nam. Kế đến có Nguyễn Năng Chín gốc ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 145
Bắc Kỳ di cư và Nguyễn Xuân Căn cũng Bắc di cư, Căn là em rễ của Chín. Mỗi lần nhận cơm ở bãi tập cả hai gọi nhau ơi ới, sắp hàng nhanh nhất để ưu tiên lãnh trước. Ra trường Chín về Quân Cụ, còn Căn về Quân Y do có phe cánh chớ không phải do kiến thức chuyên môn. Về cuộc thi “Trắc nghiệm Tâm Lý” theo tôi, rất chính xác đến 95%, sự việc nầy tôi còn nhớ rõ như sau, tôi có hỏi một số bạn bè cùng khóa nhưng đều không nhớ được. Đó là đầu Giai đoạn I có cuộc thi Trắc nghiệm Tâm lý để chọn đi ngành chuyên môn. Tôi ngồi giữa, bên phải tôi là Nguyễn Tấn Nhym (Y dài chớ không phải I ngắn) bên trái là Trần Vinh Quy. Các câu hỏi trong bài trắc nghiệm có các câu như sau: -Các ca sĩ, anh thích ca sĩ nào nhất? -Các nhạc sĩ, anh thích ai nhất? Tôi trả lời thích ca sĩ Thanh Thúy nhất, về nhạc sĩ tôi thích Trúc Phương. Nhìn xem các bạn phải trái chưa thấy ai ghi. Đến câu tiếp là bài làm về ghép hình, tôi làm cho có lệ thôi, Quy cũng thế. Riêng Nhym làm rất kỹ lưởng gạch từng vạch ngang dọc vào hình. Cuối là đề thi toán có 6 câu, tôi làm được 4 câu, Quy làm mạch lạc đúng cả 6 câu. Kết quả Nhym được chọn về Công Binh Kiến Tạo, Quy về Pháo Binh, còn tôi học tiếp Giai đoạn 2 ra trường về Bộ Binh. Các bạn thấy kết quả chính xác không, vì cả ba không có ai thân thích trong quân đội cả. Qua Giai đoạn 2 có một số đi ngành, một số các bạn ở các đại đội khác dồn lại. Đại đội 9 nay đổi thành Đại đội 4, Trung đội tôi nhận người mới vào, tôi chỉ còn nhớ 4 bạn đó là Hoàng Hạp về TQLC, bạn Hiền, bạn Ngọc, anh Dục gốc Không Quân. Nguyễn văn Ngọc tự Ngọc lùn ra trường về SĐ22BB sau biệt phái Cảnh sát. Cuối cùng về làm Quận Trưởng An Nhơn, Bình Định với cấp bậc Thiếu Tá, nay Ngọc định cư ở San José. Giờ đây thời gian mịt mù lước qua, bước vào tuổi trên “thất thập”, cảm thấy mình đã già quá đổi nhưng lòng vẫn còn đầy ấp những kỷ niệm năm xưa. Hình ảnh các bạn hữu vẫn còn in đậm trong ký ức, nhớ bạn Trần Thúc Vũ nhà văn, tức cựu SVSQ Bùi Kim Đính, thường hay ghé đại đội thăm tôi và các bạn văn nghệ khác vào những lúc rảnh rang việc học tập, nay đã qua đời tại Bệnh viện Anaheim Nam Cali vào năm 2005. Nhớ bạn Lữ Đắc Quảng, tức nhà thơ Hoài Lữ, em ruột Trung Tướng Lữ Lan khóa 18 TĐ, ra trường về Tiểu khu Gia Định, đã hy sinh tại đồn Bà Tà sau ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 146
đó vài tháng, để lại người vợ trẻ và một con thơ tại Mỹ Tho. Ngồi viết lại những dòng chữ nầy, dỉ vãng đã qua đúng nửa thế kỷ. So với thời gian vô tận thì quá ngắn, nhưng so với một đời người thì quá dài. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 cùng chung vận nước trong cái đau ngút ngàn oan trái, chúng ta đã mất tất cả, gia đình ly tán, bạn hữu cách xa. Nay có bạn may mắn thoát được đến bến bờ tự do, có bạn còn kẹt lại nơi quê nhà, có bạn đã vỉnh viễn ra đi. Việc tổ chức “Họp Mặt Kỷ Niệm 50 Ra Trường”, chính là điều ấp ủ và mong mõi của toàn thể anh em Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 17 Nguyễn Thái Học của chúng ta…./… Nguyễn Xuân Phần Tr/Đ 33- ĐĐ 9- K17TĐ
Tïëu CÁI “KIM ĐỒNG HỒ” Một ông tuổi cuối thu mới sắm được một đôi giầy rất ưng ý. Vừa bước vào nhà, cụ liền khoe với cụ bà: - Này bà! Bà có nhận ra điều gì khác lạ trên người tôi không? Cụ bà nhìn sơ rồi đáp: - Tôi chẳng thấy gì khác lạ cả! Vẫn cái áo ông mặc từ tuần trước. Cái quần vẫn cáu bẩn như vậy! Bực mình, cụ ông vào phòng cởi bỏ hết quần áo, đi ra hỏi bà vợ: - Thế nào, bây giờ bà có thấy điều gì khác lạ trên người tôi chưa? - Tôi chẳng thấy điều gì khác lạ cả! Vẫn là cái “kim đồng hồ” lúc nào cũng chỉ sáu giờ rưỡi! - Cụ bà thở dài. Cụ ông hớn hở: - Phải rồi! Nó chỉ sáu giờ rưỡi bởi vì nó đang nhìn xuống đôi giầy mới của tôi đây này! Cụ bà bỗng tươi tỉnh hẳn lên: - Vậy hả! Vậy ngày mai ông nên đi mua cái mũ mới đi nhé! cho cái kim đồng hồ chỉ ngược lên.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thuúã Chinh Chiïën Cuä
GIẢ TỪ ĐÀ NẲNG ĐẦU THÁNG 4 NĂM 1975
Cựu SVSQ/K17TĐ Trần văn Hên ĐĐT/ĐĐ Duyên Hải Tưởng niệm anh linh các chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến Đã anh dũng hy sinh trên bãi biển Thuận An ở Huế , trên bãi biển Mỹ Khê , bãi biển Non Nước ở Đà Nẳng năm 1975. NHỮNG NGÀY ĐẦU THÁNG BA NĂM 1975 TẠI QUẢNG TRỊ VÀ HUẾ Khoảng tháng 7 năm 1973 . Từ Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến , tôi được điều động về Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ tiếp nhận Đại Đội Duyên Hải từ niên trưởng Hiếu Khóa 12 Thủ Đức . Đại Đội Duyên Hải là một đơn vị thành lập cho riêng Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến . Nhiệm vụ chính là một đơn vị được xử dụng để lập đầu cầu đổ bộ cho những cuộc hành quân thủy bộ từ ngoài khơi vào đất liền . Nhưng sau năm 1973 , theo nhu cầu thực tế Đại Đội Duyên Hải phải phân tán thành nhiều toán tăng phái cho các đơn vị khác đang tham chiến trên tuyến Quảng Trị . Những ngày đầu tháng 3 năm 1975 . Hằng ngày theo dõi tin tức chiến sự , cùng những biến cố đang xảy ra chung quanh vị trí phòng thủ của đơn vị . Tôi cũng như các quân nhân trực thuộc giữ vững tinh thần trách nhiệm và chờ lệnh . Chúng tôi không thể nào biết trước được những gì sẽ đến với chúng tôi trên đoạn đường đen tối đang ở trước mặt … Trong thời điểm nầy , những ngày đầu của tháng 3 năm 1975 . Tôi không thể hiểu được các cấp lãnh đạo ở Trung Ương , các cấp chỉ huy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa , các Tư Lệnh chiến trường đã có những nhận định gì , những giải pháp gì để đối ứng với hoàn cảnh đất nước hiện nay không ? Đây chỉ là một số điều suy tư của bản thân tôi trước cuộc diện . Là một quân nhân ở cấp chỉ biết thừa hành nhiệm ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
vụ , chỉ biết những việc mà mình phải thi hành hằng ngày trong phạm vi đơn vị của mình . Những vấn đề chiến thuật , chiến lược , đối sách , thật sự là ngoài khả năng hiểu biết và nhiêm vụ của tôi . Ở vị trí một Đại Đội Trưởng , tôi chỉ điều động được những sinh hoạt của đơn vị mà tôi trực tiếp chỉ huy theo lệnh của cấp chỉ huy trên tôi . Tôi có thể hiểu biết thêm một số sinh hoạt trong nội bộ của Tiểu Đoàn mà tôi được cho biết . Đây cũng là tâm trạng chung của những người đồng cấp như tôi . Tuy nhiên không hẳn sự nhận biết của tôi về những biến cố bên ngoài xã hội sẽ bị đóng khung trong sinh hoạt thường ngày của đơn vị mà tôi đang phục vụ . Những ngày đầu tháng 3 năm 1975 có thể nói là những ngày dài đen tối nhất trong cuộc chiến đã kéo dài gần 20 năm . Giữa những người cộng sản cuồng vọng và những người Việt Quốc Gia quyết tâm bảo vệ Tổ Quốc trên mãnh đất còn lại của Miền Nam Việt Nam . Hằng ngày thu thập tin tức trên báo chí , trên đài phát thanh Sài Gòn , cùng những bản tin trên đài phát thanh ngoại quốc như đài BBC ở Luân Đôn , đài VOA ở Mỹ … Những bản tin về chiến sự , những bản tin bình luận về tình hình chính trị của Miền Nam Việt Nam đã nói lên những biến cố dồn dập, hoàn toàn bất lợi và nguy hiểm cho tình thế Miền Nam trước áp lực chiến tranh của cộng sản Bắc Việt và sự quay mặt lạnh lùng của thế giới . Trong khoảng thời gian nầy , có thể tóm lược tình thế qua những gì mà tôi nhận thấy : . Chiến sự đã bộc phát trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật , áp lực nặng nề là Vùng II . Nhất là các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên như Kontum , Pleiku , Buôn Mê Thuộc đã có những cuộc di tản của dân chúng về khu vực biển như Nha Trang theo quốc lộ 21 và Qui Nhơn theo quốc lộ 19 . Kế đến là Vùng I cũng có chung tình trạng như Vùng II , dân chúng từ Quảng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 147
Trị , Huế , Quảng Ngải bắt đầu di tản về Đà Nẳng . Từ những biến động trong sinh hoạt của dân chúng ngoài xã hội . Các đơn vị hành chánh cũng như các đơn vị quân sự địa phương ở những vùng địa đầu chiến tuyến đã âm thầm bỏ nhiệm sở , rời vị trí theo làn sóng di tản , tạo thành những vùng đất bỏ ngỏ không người . . Từ Trung Ương các cấp lãnh đạo hình như chưa có giải pháp gì để đối kháng với kẻ thù ngoài kế hoạch di tản chiến thuật ở Vùng II . TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ Ở TÂY NGUYÊN Ngày 11 tháng 3 năm 1975 . Tôi nhận lệnh di chuyển Đại Đội Duyên Hải vào Đà Nẳng tiếp nhận bàng giao căn cứ Non Nước với một đơn vị Nhảy Dù . Khi tôi nhận được lệnh nầy , thì tình hình chiến sự theo tôi nhận thấy là đã đi đến giai đoạn vô cùng nghiêm trọng . Bản tin từ đài BBC Luân Đôn loan tin : Buôn Mê Thuộc đã bị thất thủ vào ngày 11 tháng 3 năm 1975 . Dân chúng cùng các lực lượng Quân Đội đang mở đường máu di tản chiến thuật dọc theo Quốc Lộ 21 để về hướng biển Nha Trang . Còn Kontum và Pleiku dân chúng và các lực lượng Quân Đội cũng đang mở đường máu di tản chiến thuật theo Quốc Lộ 19 để về vùng biển Qui Nhơn . Về mặt lãnh thổ thì vùng Tây Nguyên là một điểm trọng yếu về chiến lược nhưng nay không còn giữ được nữa , thì Vùng II chiến thuật sẽ khó mà duy trì trong những ngày sắp tới . Theo tin tức được loan trên hệ thống phát thanh Sài Gòn có một Lữ Đoàn Nhảy Dù đang án ngử tiếp ứng ở Khánh Dương . Trong khi đó tình hình ở Vùng I cũng trở nên nghiêm trọng . Cư dân ở Quảng Trị và Huế ồ ạt di tản vào Đà Nẳng . Cảm nhận đầu tiên của tôi là cuộc chiến ở Miền Nam đang đi vào chung cuộc . Vùng I đang trong tình thế bị chia cắt cô lập với Sài Gòn . Con đường về lại phương Nam trước mắt tôi hình như đang từ từ khép lại , tôi thấy chỉ còn một hướng đi vô vọng thâm thẩm không có điểm đến sau cùng . Và tôi không loại bỏ ý nghĩ sẽ có một ngày di tản chiến thuật đang diễn ra như ở Vùng II Chiến Thuật . TÌNH HÌNH TẠI THỪA THIÊN HUẾ VÀ CỬA THUẬN AN Trong thời điểm nầy , tình hình sinh hoạt tại thành phố Huế và khu vực ở cửa Thuận An bắt đầu xáo trộn bất an . - Một số đông quân nhân địa phương và gia đình , cùng dân chúng đang tập trung về đây để tìm cách di tản bằng đường biển . Có cảnh trả thù cá nhân ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 148
thanh toán lẫn nhau tại bến phà Thuận An . Có những cuộc chạm súng trong đêm giữa các lực lượng quân sự của chi khu Phú Vang với các đơn vị cộng sản địa phương . - Ngoài ra có nhiều gia đình từ Quảng Trị và Huế chọn con đường di tản bằng đường bộ , bằng mọi phương tiện di chuyển kể cả việc phải đi bộâ trên Quốc Lộ 1 để vào Đà Nẳng . Tôi có tiếp xúc hỏi thăm với vài gia đình di tản từ Quảng Trị vào Huế thì được nghe nhiều câu trả lời , tựu trung có hai ý làm tôi luôn ghi nhớ : “ Chúng tôi không thể sống với cộng sản “ và “ Thủy Quân Lục Chiến ở đâu chúng tôi ở đó “ . Tôi đã đưa ý kiến với Tiểu Đoàn Trưởng trình về Bộ Tư Lệnh , xin rút các toán Duyên Hải tăng phái cho các Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn trở về để có đủ quân số và dễ dàng điều động , nhưng không được chấp thuận .
Cư dân Huế di tản vào Đà nẳng trên Quốc Lộ 1 . Tháng 3 năm 1975 NHỮNG NGÀY GIỮA THÁNG BA NĂM 1975 TẠI CĂN CỨ NON NƯỚC Ngày 13 tháng 3 năm 1975 . Đại Đội Duyên Hải chúng tôi di chuyển từ Huế vào Đà Nẳng để nhận bàn giao phi trường Non Nước từ một đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn Nhảy Dù . Đơn vị nầy sẽ di chuyển về Sài Gòn . Thành phần quân số của chúng tôi lúc nầy gồm có Ban Chỉ Huy Đại Đội , Trung Đội Xuồng máy và một Trung Đội Duyên Hải . Căn cứ Non Nước còn gọi là Phi Trường Non Nước hay là phi trường Nước Mặn . Theo như tôi được biết , trước đây phi trường nầy là một căn cứ quân sự do một đơn vị đặc biệt của Mỷ thiết lập và điều hành , nhằm để thực hiện những chuyến công tác đặc biệt xâm nhập của các toán Lôi Hổ và Biệt Hải vào lãnh thổ Bắc Việt . Sau năm 1966 thì ngưng hoạt động . Hiện tại không có đơn vị nào đồn trú , đây là một khu vực rất rộng , nên chúng tôi chỉ có ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
khả năng bảo vệ khu vực trú đóng của đơn vị và cổng vào phi trường . Vài ngày sau , toàn bộ Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ di chuyển từ Huế đến căn cứ , trú đóng chung với Đại Đội Duyên Hải ở khu vực gần cổng phi trường . Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng di chuyển từ Hương Điền đến căn cứ , vị trí Bộ Tư Lệnh được thiết lập cạnh bãi biển . Hậu trạm của các Tiểu Đoàn cũng tập trung trong căn cứ . Còn lịch trình di chuyển của các Tiểu Đoàn từ Quảng Trị vào Đà Nẳng để thay thề các đơn vị Nhảy Dù tôi hoàn toàn không được biết . Chỉ nghe nói lại một cách tổng quát từ đơn vị trưởng trực tiếp của tôi mà thôi . Theo những gì tôi ghi nhận trong khoảng thời gian nầy thì có mấy điểm chính liên quan đến việc điều động các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến như sau : Ngày 16 tháng 3 năm 1975 : Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến từ Quảng Trị di chuyển về Đại Lộc – Đà Nẳng . Ngày 18 tháng 3 năm 1975 : Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến từ Mỹ Thủy di chuyển về đèo Phước Tường để giữ trục di chuyển chiến thuật trên Quốc Lộ 1 – thuộc vùng phía Bắc đèo Hải Vân . Lữ Đoàn 468 Thủy Quân Lục Chiến cũng đang trách nhiệm tại khu vực đèo Hải Vân . Từ thời điểm nầy và những ngày sau đó , toàn cảnh thành phố Đà Nẳng đã có nhiều biến động bất ổn . Dân chúng cùng quân nhân thuộc nhiều binh chủng từ Quảng Trị , Huế đã di tản vào thành phố Đà Nẳng rất đông . Bối cảnh mỗi ngày thêm hổn loạn vô cùng phức tạp .
Trên Quốc Lộ 1 – Từ Huế vào Đà Nẳng – Người dân di tản phải đi bộ dưới hỏa lực của cộng sản bắc việt – Đang được các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến giải thoát và chăm sóc thương tích . ( ảnh trích trong tập san Sóng Thần TQLC )
Một số đơn vị địa phương đã tự rời bỏ vị trí phòng thủ , tạo nên một bối cảnh nguy hiểm bất an ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cho toàn khu vực chung quanh Đà Nẳng và những vùng phụ cận . Diễn tiến sinh hoạt trong dân chúng tại thành phố Đà Nẳng mỗi ngày càng tăng mức loạn động nhiều tệ trạng xã hội đã xảy ra , không kiểm soát được an ninh trật tự , thành phố gần như bỏ ngỏ … NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG BA NĂM 1975 TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẲNG NGÀY 25 THÁNG 3 NĂM 1975 - Từ những ngày giữa tháng 3 đến 24 tháng 3 năm 1975 , người di tản từ các nơi đến Đà Nẳng mỗi ngày một đông , mọi sinh hầu như đều bị xáo trộn , bất an . Từ mấy ngày hôm trước đến ngày 26 tháng 3 năm 1975 tôi ghi nhận được một số tin tức từ những người di tản : . Khoảng thời gian 23 , 24 tháng năm 1975 : Quảng Trị hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của cộng sản bắc việt . Các đơn vị địa phương đã tự rời bỏ vị trí từ nhiều ngày trước . . Khoảng thời gian 25 , 26 tháng 3 năm 1975 : Thừa Thiên – Huế nằm trong sự kiểm soát của lực lượng cộng sản Bắc Việt và đang lập chánh quyền . . Khỏang thời gian 23 , 26 tháng 3 năm 1975 Quảng Ngãi và một phần lớn lãnh thỗ của tỉnh Quảng Nam đã bị cộng sản chiếm đóng , chỉ còn lại khu vực Đà Nẳng và một số vùng phụ cận . Một số các đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 Bô Binh từ Quảng Ngãi di tản về Đà Nẳng . Những điều tôi ghi lại trên đây là những nguồn tin mà tôi thu thập được vào những ngày cuối tháng 3 năm 1975 ở vị trí của một người quân nhân cũng là một chứng nhân . Hơn 10 năm sau , tôi vượt biên bằng đường biển đến tị nạn tại Hoa Kỳ , được xem lại những thước phim tài liệu ghi lại hình ảnh của những cuộc di tản chiến thuật của vùng II trên Quốc Lộ 19 và Quốc Lộ 21 , của Vùng I trên Quốc Lộ 1 từ Quảng Ngải về Đà Nẳng và từ Huế về Đà Nẳng không khác gì cảnh tượng giết hại kinh hoàng người dân vô tội đã diễn ra trong những ngày mùa hè đỏ lửa năm 1972 trên Quốc Lộ 1 từ Quảng Trị đến Mỹ Chánh . Cộng sản Bắc Việt luôn cố tâm bắn giết để mong ngăn chận làn sóng di tản , họ có thể làm chủ tình thế nhưng không ngăn chận được ý muốn của người dân . Khi được xem những thước phim nầy tôi xác định với một câu ngắn gọn : “ cộng sản lúc nào cũng khát máu , vô nhân đạo , là những con người không có nhân tính “ . Tại thành phố Đà Nẳng trong những ngày nầy , có thể ghi nhận tổng quát như sau : . Dân chúng từ các nơi di tản về Đà Nẳng quá ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 149
đông , sống lây lất khắp đường phố , lâm vào cảnh đói lạnh , không có sự chăm sóc y tế . . Các đơn vị hành chánh và quân sự địa phương đã rời bỏ nhiệm sở từ nhiều hôm trước . . Có nhiều quân binh chủng từ các nơi đổ dồn vào thành phố Đà Nẳng không theo tổ chức đơn vị , không có hệ thống chỉ huy , thật vô cùng phức tạp . . Từ căn cứ Non Nước có thể quan sát về hướng phi trường quân sự Đà Nẳng , phi cơ lên xuống tấp nập để thực hiện những phi vụ di tản , tạo thêm sự hoang mang cho cư dân trong vùng . . Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I gần như bỏ trống , chỉ còn vài bộ phận nhỏ làm việc , tất cả hầu như bất lực không còn khả năng điều động .
Cảnh di tản trên một bãi biển vùng duyên hải miền Trung . Ngày 9 tháng 4 năm 1975 Trong thời điểm nầy , theo tôi được biết thì chỉ có các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến là không bị giao động, giữ vững vị trí và đánh bật những cuộc tấn công của lực lượng cộng sản Bắc Việt . NGÀY 26 THÁNG 3 NĂM 1975 VỚI LỮ ĐOÀN 147 NƠI CỬA THUẬN AN Sáng ngày ngày 26 tháng 3 . Tôi được tin Lữ Đoàn 147 tan tại bãi biển Thuận An . Sư Đoàn đang nổ lực tìm cách bốc những toán quân nhân tản mác trong vùng bằng đường biển, dùng trực thăng thả lương khô và nước uống cho nhiều toán còn tản mác trên bãi biển . Nhưng số quân nhân về được rất ít . Sau khi được hậu trạm tái trang bị , một số quân nhân rời căn cứ đi ra ngoài , có thể là để về với gia đình , hoặc tìm đường di tản . Khi nhận được tin nầy , tôi vừa sửng sốt , vừa nghe chua xót khi nghĩ đến sự sống còn của các đồng đội . Tôi không hiểu vì sao Lữ Đoàn lại chọn bãi biển Thuận An làm điểm triệt thối . Vì nơi đó kể từ sau ngày 11 tháng 3 trở đi đã không còn an toàn . Đâây 150 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
là khu vực có căn cứ Trần Ba của Thủy Quân Lục Chiến trong phi trường Thái Dương Hạ , Đại Đội Duyên Hải của tôi có trách nhiệm bảo vệ căn cứ nầy . Tôi thường xuyên theo dõi tình hình và tìm hiểu địa thế . Nhận định về toàn cảnh chung quanh khu vực bãi biển Thuận An , về mặt địa hình thì đây là một vùng đất rất hẹp , giống như cồn cát nằm giữa hai cửa biển , phía bắc là cửa Thuận An , phía nam là cửa Tư Hiền . Mặt ngoài là biển , mặt phía trong là đầm lầy nước mặn . Sơ đồ Huế và bãi biển Thuận An Riêng cửa biển Thuận An là điểm hợp lưu của hạ lưu sông Hương với một đầm nước mặn rộng lớn tạo thành một túi nước khổng lồ trước khi chảy ra biển Đông , người dân địa phương thường gọi là Phá Tam Giang . Để dễ dàng nhận định về địa thế cửa biển Thuận An , có thể lấy cửa biển làm tâm điểm : - Bờ phía bắc là Thôn An Dương - Thái Dương Thượng , một bãi cát rất hẹp , phía ngoài là biển , phía trong là đầm nước mặn chạy dài từ cửa Thuận An lên đến quận Hương Điền , từ bờ Bắc có một con đường đất rất hẹp thông với bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ở Hương Điền . Tại bờ Bắc là một xóm làm nghề biển với khoảng trên hai trăm ngôi nhà với một số lớn ghe lưới cá hằng ngày ra vào cửa biển Thuận An . - Bờ phía Nam là Thôn Thái Dương Hạ , có phi trường Thái Dương Hạ do người Mỹ thiết lập đã bỏ hoang phi đạo hư hỏng hoàn toàn , không còn sử dụng được nữa . Nơi đây cũõng là một bãi cát chạy dài về phía Nam , phía ngoài là biển , phía trong đầm nước mặn , có một xóm lưới đông đúc hơn xóm lưới bờ bắc , nằm bên ngoài vòng đai phi trường . Trong phi trường có hai đơn vị đồn trú : một đơn vị là của Đại Đội Duyên Hải Thủy Quân Lục Chiến thuộc Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ và một là xưởng sửa chữa tiền phương của Hải Quân Vùng I , chịu trách nhiệm phòng thủ tổng quát toàn khu vực phi trường . Từ thành phốâ Huế đi xuống cửa Thuận An chỉ có một con đường nhựa hỏ hẹp , ra khỏi quận Phú Vang , bên phải là một khu đầm lầy rộng lớn chạy dài theo trục lộ cho đến bến phà , bên trái là sông Hương . - Khoảng cách giữa bờ phía Bắc và bờ phía Nam , khi mực nước lên cao ước tính gần cây số , khi mực nước hạ xuống thấp thì tại cửa rất cạn có cồn cát ở giữa cửa nên tàu lớn không thể qua cửa để vào bến phà khi nước thủy triều xuống thấp . - Về phía mặt biển , bờ biển có nhiều cồn cát nhỏ , nên có chỗ sâu chỗ cạn , biển thường bị động , nếu tàu ủi bãi không được hướng dẫn từ trên bãi có thể ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
gặp nhiều trở ngại . - Cơ xưởng sửa chữa tiền phương chỉ sử dụng để tu bổ và sửa chửa cho các giang đoàn khinh tốc đỉnh loại nhỏ khoảng hơn một chục chiếc , chỉ sử dụng tuần tiểu trong đầm Thủy Tú và dọc theo sông Hương . Ngoài ra không có một lực lượng tàu biển nào của Hải Quân Vùng I trú đóng ở đây . - Toán Duyên Hải thuộc căn cứ Trần Ba được Quân Vận Vùng I biệt phái một chiếc LCM8 , trách nhiệm điều hành để chuyển vận người , quân xa , quân dụng của Thủy Quân Lục Chiến từ bến phà Thuận An sang bờ bắc để đi lên Hương Điền , bờ Nam để qua căn cứ Trần Ba . Bến phà Thuận An là do địa phương thiết lập nằm ở phần cuối của hương lộ Phú Vang , trên bờ phía Nam của đầm nước mặn . Tôi nêu lên một số điểm căn bản và thực tế trên địa hình để mỗi người đều có thể thấy rằng : Nếu chọn bãi biển Thuận An để tập trung một lực lượng lớn dù là bờ Bắc hay bờ Nam trong tình huống đang chịu áp lực nặng nề của đối phương , để triệt thối bằng đường biển thì đây là một địa điểm hoàn toàn bất lợi , vì nơi đây là một ngỏ cụt của độc đạo . Đặt trường hợp không có tàu , hoặc có tàu nhưng không ủi bãi được vì một lý do nào đó , đơn vị triệt thối chuyển sang đường bộ trong khi đã bị lực lượng cộng sản khóa chặt ở Phú Vang hay Hương Điền thì coi như là ở vào thế triệt lộ . Không thể nào vượt phá Tam Giang và cũng không thể nào vượt qua đầm lầy một cách dễ dàng dưới hỏa lực của địch quân … Không hiểu là các vị chỉ huy chiến trường có nắm vững được phương tiện vận chuyển của của lực lượng Hải Quân ở vào thời điểm nầy hay không ? Suốt một chiều dài dọc theo duyên hải của Vùng I và Vùng II Chiến Thuật , khả năng của Hải Quân có đáp ứng được nhu cầu di tản chiến thuật không ? Nếu các vị nầy đã nghĩ đến thì sẽ có ngay câu trả lời … Những gì tôi nhận định trên đây chỉ là sự ghi nhận từ tầm nhìn của một người Đại Đội Trưởng , đang ở một vị trí rất thấp trong Quân Đội . Tôi thật sự chua xót khi nghĩ rằng các vị chỉ huy chiến trường có thể không nắm vững tình thế và địa hình thực tế nên đã có những quyết định có nhiều điểm không thuận lợi về mặt chiến thuật . Ngay lúc nầy tôi có ý nghĩ là tại sao không chọn giải pháp di chuyển bằng đường bộ theo Quốc Lộ 1 về Đà Nẳng . Nếu có biến cố nào xảy ra đi nữa , thì dù sao cũng còn rộng đường ứng phó với tình huống còn hơn là phải sa lầy trên bãi cát nhỏ hẹp . Phải chăng có sự sai lạc nào đó trong điều động chiến thuật ? - Những điều tôi ghi nhận trên đây chỉ là cảm nghĩ theo nhận thức của cá nhân , tôi hoàn ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
toàn không có ý chỉ trích hay phê phán trước một biến cố quá lớn và đau đớn đã bị xảy ra trên mạng sống của những người đồng đội của tôi . Và tôi tự hỏi : “ Phải chăng đây là một quyết định sai lầm hay là một cuộc “ bán đứng có kế hoạch “ đã đưa những người lính Thủy Quân Lục Chiến vào cái “ rọ “ để làm bia cho kẻ thù … Tôi còn nhớ rõ một biến cố đã xảy ra vào tháng 6 năm 1966 , cũng tại Vùng I nầy , Tiểu Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến ( lúc đó tôi là Trung Đội Trưởng của Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 5 ) bị “ bán đứng “ ở Mộ Đức - Quảng Ngải và sau đó vài ngày là Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến cũng lại bị “ bán đứng “ tại Triệu Phong - Quảng Trị . Tất cả đều đã xảy một cách không minh bạch , không ai trách nhiệm mà chỉ có những cô nhi và quả tử sĩ nhận lấy hậu quả đau thương sau cái chết của một người cha , của một người chồng … đời sống người lính trận là như vậy đó ! Tôi chợt nghĩ đến một điều : “ là hình như trên những cánh sao cài nơi bâu áo , trên những hàng huy chương cao qúy mang nơi ngực của các vị tướng lãnh chỉ huy chiến trường , đều có dính một chút nào đó máu , mồ hôi và nước mắt của những người lính trận và gia đìng của họ “ . Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến gồm có : Tiểu Đoàn 3 , Tiểu Đoàn 4 , Tiểu Đoàn 5 , Tiểu Đoàn 7 , Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh , 1 Đại Đội Viễn thám , 1 toán Duyên Hải của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến … Ngày 26 tháng 3 năm 1975 : Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đã tử chiến với cộng sản Bắc Việt trong một trận chiến sau cùng tại bãi biển Thuận An . Tôi được biết chỉ có hơn 300 chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến về đến Đà Nẳng , biến cố nầy quả thật là một sự mất mát to lớn , chua xót cho những người lính trận đã nằm xuống và cũng có một chút gì nhẫn tâm nơi những vị chỉ huy chiến trường … NHẬN LỆNH LẬP ĐẦU CẦU DI TẢN . Chiều ngày 26 tháng 3 năm 1975 nhận lệnh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn : Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ chuẩn bị lập đầu cầu triệt thối cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tại bãi biển trong căn cứ Non Nước vào sáng ngày 29 tháng năm 1975 . Đại Đội Duyên Hải phụ trách bãi và phương tiện cấp cứu trên biển ( áo phao , xuồng máy , an toàn bãi ) . Còn những vấn đề khác tôi hoàn toàn không được biết . - Theo lệnh : . Vào 9 giờ sáng các đơn vị bắt đầu xuống tàu dưới sự điều động của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn . . Sau khi tất cả các đơn vị an toàn xuống tàu , 151 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
khi tàu rút ra khỏi bãi , tôi cùng một toán Duyên Hải phá hủy tất cả quân dụng để lại trên bãi và hai ụ đạn trên phi đạo . Triệt thối sau cùng bằng xuồng máy để ra tàu trong khoảng 20 phút theo dự trù ( tôi và Tiểu Đoàn Trưởng đã nhận lệnh trực tiếp tại Bộ Tư Lệnh / Hành Quân của Sư Đoàn . Tôi chỉ có thể ghi lại những điểm ở trên , còn một số chi tiết quan trọng khác , tôi nghĩ không thể ghi ra … ) KHO ĐẠN DƯỢC PHẾ THẢI Có một điểm quan trọng mà tôi luôn ghi nhớ . Khi nhận bàng giao căn cứ , điều làm cho tôi quan ngại nhất là hai ụ đạn lộ thiên khổng lồ nằm trên phi đạo , không có đơn vị nào trách nhiệm canh giữ . Đây là hai ụ đạn dược thu hồi sau cuộc chiến mùa hè năm 1972 như : hỏa tiển Tow , đạn pháo binh 105 , 155 , đạn súng phóng lựu M . 79 , súng chống chiến xa M . 72 , lựu đạn , mìn đủ loại , cùng đạn dược các loại đạn của vũ khí cá nhân … Theo nhận định của tôi , nếu 2 ụ đạn nầy phát nổ chắc chắn là không thể dập tắt được và hậu quả thiệt hại rất nặng nề , căn cứ Non Nước , thành phố Đà Nẳng và vùng phụ cận có thể thành bình địa . Nên khi nhận lệnh phá hủy tôi rất phân vân giữa quân lệnh và trách nhiệm về sự sống còn của những người còn lại trên bờ . khi tàu rút ra khỏi bãi . NGÀY 28 THÁNG 3 NĂM 1975 Chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975 . Để an toàn công việc , chỉ có tôi và một sĩ quan của Đại Đội thực hiện gày chất nổ ở hai ụ đạn với loại dây cháy chậm thời gian kích nổ dự trù chỉ trong vòng 10 phút ( đây là thời gian tối thiểu để chúng tôi rời bãi ). Khi phá hủy thì do tôi và vị sĩ quan nầy , mỗi người một ụ . tôi phân thời gian , chúng tôi có 3 phút từ ụ đạn đến bãi có sẵn xuồng máy, chỉ có 7 phút để rời xa bãi , với sóng mạnh như vậy tôi nghĩ chỉ có thể cách bờ vài trăm mét, còn những gì sẽ xảy ra sau đó là chuyện ngoài dự tính, có thể nói là phó thác cho định mệnh. Đây là kế hoạch theo lệnh hành quân còn chuyện ngày mai bối cảnh có thể thực hiện được hay không và lương tâm trách nhiệm của tôi sẽ phải ứng xử như thế nào, với tôi lúc nầy quả thật là một trọng trách nan giải giưã quân lệnh và lương tâm con người hành xử với con người. Có lẽ những cấp chỉ huy cao hơn tôi, trong thời điểm nầy không để ý đến sự việc để có một cái nhìn xa hơn về hậu quả bởi cái lệnh của mình. Tôi phải trải qua một đêm suy nghĩ thật nhiều để tìm câu giải đáp … 152 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT . Từ chiều ngày 28 , phi trường Đà Nẳng không còn phi cơ nào đáp xuống hay cất cánh . . Vào khoảng 8 giờ tối ngày 28 , một phi vụ phản lực oanh kích đài Rada trên đỉnh núi Sơn Chà , tôi không biết xuất phát từ đâu và của ai … . Ngoài vòng rào căn cứ Non Nước dân chúng tập trung rất đông , nhưng chưa vào được bên trong căn cứ . . Tình hình biến động ở thời điểm nầy thật sự là không thể nào lượng định được, có thể nói là vô vọng … MẤT LIÊN LẠC VÔ TUYẾN . Sau 12 giờ đêm ngày 28 , cho đến sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975 , chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn . . Nhưng chúng tôi vẫn thực hiện nhiêm vụ của chúng tôi theo như lệnh đã nhận . . Không liên lạc và tiếp tế được cho các toán Duyên Hải tăng phái cho 3 Lữ Đoàn . NGÀY 29 THÁNG 3 NĂM 1975 TẠI BÃI BIỂN CĂN CỨ NON NƯỚC Khoảng 6 giờ sáng - Khoảng 6 giờ sáng chúng tôi đã chuẩn bị xong bãi . Sau đó tôi có đến khu Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn . Giờ đây chỉ có hai quân nhân truyền tin với một máy 25 . Tôi hỏi qua về tình trạng , mới được biết là tất cả đã xuống tàu , còn hai quân nhân nầy ở lại là để giữ nhiệm vụ liên lạc với các đơn vị . Có một sự việc mà tôi ghi nhận được là khoảng 11 giờ đêm ngày 28 từ vị trí trú đóng gần cổng vào căn cứ , tôi thấy tại khu vực Bộ Tư Lệnh có đốt lửa làm tín hiệu , sau đó có tàu ủi bãi , những gì đã diễn tiến tôi hoàn toàn không biết được … Khi hai quân nầy trình bày xong . tôi chán nản thật sự … Và tôi chỉ nói với họ : - Còn gì nữa mà liên lạc , hai đứa hãy lo lấy thân không nên ở lại đây lâu . - Khoảng 7 giờ sáng . Tôi thấy có một chiếc tàu Hải Quân từ ngoài khơi đang tiến dần vào bãi . Lúc nầy gió lớn , biển động rất mạnh . Khi thấy tàu tiến vào , dân chúng cùng các quân nhân thuộc nhiều quân binh chủng tập trung quanh rào căn cứ đã phá rào tràn vào , đồng thời tại cổng vào phi trường chiến xa M. 48 ủi các chướng ngại vật , rào cản , băng ngang phi đạo tiến đến bãi do chúng tôi thiết lập , một đoàn chiến xa M . 48 cùng thiết vận xa M . 113 trên 10 chiếc , cùng dân chúng chen lấn nhau tại bãi , tạo thành một ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
khung cảnh hổn loạn . Toán Duyên Hải với 30 quân nhân phụ trách bãi chúng tôi đành bó tay . Đây là chiếc tàu loại HQ 400 . Khi còn cách bờ khoảng 300 mét , tàu mở cửa đổ bộ chuẩn bị ủi bãi . Biển đang động mạnh , gió lớn , sóng rất cao … . Thì ngay trên bãi biển , tôi không hiểu những quân nhân Thiết Giáp nghĩ gì , họ cho chiến xa chạy xuống nước để bắt cầu xuống tàu . Tôi ngăn lại và cho họ biết là không nên vì bãi biển sâu chỉ cần ra xa bờ khoảng 10 mét là xe bị chìm và đây là loại tàu đổ bộ có thể ủi sát bờ , hãy chờ … Nhưng họ không nghe , cho xe lao xuống nước gồm chiến xa và thiết vận xa khoảng 5 chiếc , tất cả mấy chiếc đầu đều bị chìm trong nước , sóng phủ cao , không có kết quả … Ngay lúc đó tàu đang tiến vào bãi chỉ còn cách bờ độ 200 mét thấy tình trạng như vậy thì dừng lại … Trong nhóm quân nhân Thiết Giáp có người nói thật to : “ Tàu nó không vô (âchửi thề) bắn cho tụi nó chìm luôn “. Tôi thấy một chiếc chiến xa M. 48 đang nằm trên bãi quay pháo tháp hướng nòng đại bác về phía tàu , và súng dưới tàu quay hướng vào bờ … Chúng tôi chỉ bó tay chờ đợi … Không hiểu bên Thiết Giáp đã nghĩ gì , sau vài phút họ lùi chiếc chiến xa M. 48 về phía sau quay pháo tháp sang hướng khác … Cùng lúc ấy một số người rất đông tràn vào chỗ để phao cấp cứu , cướp lấy phao tôi ra lệnh hãy để yên cho họ lấy , để tránh cảnh xung đột , một số mặc vào nhào xuống biển , nhưng bị sóng dập đẩy giạt vào bờ . Có một số cướp xuồng máy đẩy xuống biển , không biết kỷ thuật lái , chỉ rời bãi vài chục mét thì bị sóng đánh lật úp , một số chìm mất dạng , tất cả hầu như không ai sống sót . Nếu có thì cũng chỉ là một rất ít ỏi là số người đã lội ra tàu khi tàu đang tiến vào bãi , còn khi tàu rút ra tôi không thấy ai lên được tàu , một số đang bị sóng dập ra ngoài , rồi dần mất dạng , hình như không có ai sống sót . - Đến khoảng 9 giờ . Bãi biển càng đông người , quang cảnh càng hỗn loạn , có những vụ cướp giựt , có những cảnh thanh toán nhau bằng vũ khí . Nhiều đợt pháo kích vào phi trường , vài quả phát nổ trên phi đạo , vài quả rơi xuống biển , tàu Hải Quân lui dần ra khơi . . Cũng trong thời gian nầy Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng ngồi trên xe jeep , do tài xế lái , có thêm 2 quân nhân tùy tùng cùng quân trang và vũ khí , xuống tại bãi gặp tôi và nói ý định của ông : là ông đi ra ngoài căn cứ , xuống khu Sơn Chà , tìm ghe để đưa anh em ra tàu , tôi thay ông điều động Tiểu Đoàn . Đây là nội dung mà ông ấy truyền đạt cho tôi . Tôi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
hiểu ông muốn gì , tôn trọng quyền chọn lựa cá nhân nên tôi không có ý kiến về việc làm của ông và trách nhiệm thay ông điều động là bổn phận của tôi trong giờ phút gian nguy nầy . Vì khi nhận Đại Đội Duyên Hải tôi còn phải kiêm một nhiệm vụ là sĩ quan phụ tá Tiểu Đoàn Trưởng ( một chức vụ không có trong cấp số nhưng trên thực tế như là một tiểu đoàn phó hành quân , còn tiểu đoàn phó chính thức thì đang điều hành hậu cứ ) - Đến khoảng 9 giờ 30 . Chiếc tàu Hải Quân càng ra xa , Tôi vẫn không bắt được liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh . Coi như cuộc triệt thối không thành và đến lúc phải chọn cách giải quyết ngay trên thực tế : Một toán Duyên Hải tiếp tục ở tại bãi . Một toán Duyên Hải theo tôi trở lại vị trí của Tiểu đoàn YTTB ( khu nhà ga chứa phi cơ ) để phá hủy các quân xa , máy truyền tin và quân dụng của Tiểu Đoàn . Khi chúng tôi di chuyển gần đến khu vực của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn , tôi thấy có 3 người đang ở trong nhà ga chứa phi cơ nơi dùng làm Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn , lục tung các quân dụng , nhìn kỷ tôi xác định không phải là quân nhân trong Tiểu Đoàn , họ không biết là có chúng tôi ở bên ngoài . Tôi cho cả toán dừng lại , tôi và 3 quân nhân Duyên Hải len lõi theo mấy chiếc GMC tiến sát vào khu nhà ga , tôi thấy họ mặc quân phục Thủy Quân Lục Chiến nhưng không có bản tên , điều nầy xác định là họ đã lấy trong số qquân trang cấp phát cho các hậu trạm để tái trang bị cho các quân nhân từ Thuận An trở về , sử dụng vủ khí cá nhân AK.47 , chân mang dép râu . Tôi ra dấu nổ súng , cả 3 ngả gục ngay loạt đạn đầu , tiếp theo loạt đạn an toàn thứ hai , chúng tôi tiến vào lục soát tử thi , bên ngoài mặc quân phục Thủy Quân Lục Chiến , bên trong là bộ đồ đen , cổ quấn khăn rằn . Xác định họ có thể là du kích địa phương hoặc là đặc công . Sau khi phá hủy tất cả quân dụng và mấy quân xa của Tiểu Đoàn , chúng tôi di chuyển trở lại bãi biển . Khoảng 11 giờ 30 sáng - Khoảng 11 giờ 30 . Trên đường trở lại bãi , khi đi ngang phi đạo , tôi thấy Tiểu Đoàn 9 đang di chuyển vào căn cứ , gặp Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Lâm Tài Thạnh , còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc Tiểu Đoàn Phó chỉ huy cánh B trên đường di chuyển về khu vực gần cầu Trình Minh Thế , cả ba chúng tôi cùng tốt nghiệp Khoá 17 Thủ Đức . Khi vừa gặp nhau Thạnh hỏi tôi : - Có liên lạc được với Sư Đoàn không Hên ? Tôi trả lời ngay cho Thạnh : - Mất liên lạc từ khuya đến giờ . Thạnh nói : 153 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
- Vậy là mình bị bỏ rơi rồi ! . Tôi đáp : - Sự thật có thể là như vậy . Chúng tôi 3 đứa nhìn nhau cười trong niềm vui hội ngộ với một trạng thái điềm tỉnh , tuy cùng binh chủng , mỗi đứa một đơn vị , mấy năm nay chưa có dịp gặp nhau . Thạnh cười nhìn tôi và nói : - Duyên Hải mà mắc cạn là chuyện lạ! Tôi nhìn Thạnh cười và đáp : - Lạ nhưng mà không lạ, chuyện hôm nay cũng gần giống những ngày ở Hạ Lào năm 1971 . Bổn cũ soạn lại … Những ngày tham chiến trong cuộc hành quân Lam sơn 719 . Khi các đơn vị nhận lệnh triệt thoái . Bộ Tư Lệnh Hành Quân đã rời Khe Sanh di chuyển ra Đông Hà . Trong khi còn rất nhiều chiến binh của Thủy Quân Lục Chiến , Nhảy Dù , Biệt Động Quân , Sư Đoàn 1 , Thiết Giáp , Pháo Binh … còn đang mở đường máu trên đất Lào , đang vượt thoát trên thảm lửa của B.52 … Trong thời điểm nầy tôi là Đại Đội Trưởng Đại Đội Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến . Tiểu Đoàn chúng tôi là đơn vị nhận lệnh triệt thoái sau cùng . Khi từ một vị trí chiến thuật sát biên giới Lào di chuyển xuống căn cứ Khe Sanh thì nơi đây hoàn toàn hoang vắng , quân dụng đạn dược vứt ngổn ngang , trời đã về chiều . Chúng tôi nhanh chóng phối trí phòng thủ , cũng vừa lúc đó khoảng 10 trái hỏa tiển rơi ngay vào khu vực phòng thủ , nhờ vào hệ thống phòng thủ kiên cố sẵn có , sau đợt pháo kích chỉ có 1 quân nhân tử thương và một số bị thương nhẹ . Chúng tôi nghĩ sẽ có một cuộc tấn của lực lượng cộng sản trong đêm , nên các Đại Đội cho thu nhặt đạn dược các đơn vị đồn trú trước đây đã bỏ lại , dự trử ở các vị trí phòng thủ để xử dụng . Suốt đêm chỉ có vài đợt pháo kích không có đợt tấn công nào , chúng tôi thức suốt đêm tại giao thông hào . Sáng sớm hôm sau các phi tuần chiến thuật của Không Quân Hoa Kỳ vào vùng yểm trợ , liên tục oanh kích chung quanh căn cứ để các trực thăng Chinook của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ bốc toàn bộ Tiểu Đoàn 9 ra phi trường Đông Hà . Hôm nay ngày 29 tháng 3 năm 1975 . Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến cũng lại nhận lệnh di chuyển sau cùng . Nhưng lần nầy thì không còn may mắn nữa , chúng tôi đã thật sự bị “ mắc cạn “ trên bãi biển Non Nước . Chúng tôi đã trao đổi một số chi tiết tình hình và nhận định về những điều sẽ phải tự giải quyết cho đơn vị . Chúng tôi có chung một số quan điểm : 154 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
. Lịch trình triệt thoái coi như đã tan vở . . Mất liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh trong bối cảnh chưa có giao tranh , chưa có tổn thất , đây là một điều không thể xảy ra nhưng lại đã xảy ra thật khó hiểu … . Phải rời khỏi căn cứ Non Nước , tìm một vị trí khác , một phương cách khác … Sau đó tôi trở lại bãi , ngay lúc nầy , pháo kích liên tục . một loạt đạn pháo nổ ngay trên bãi , một chiếc M113 bị bốc cháy , nhiều người ngã rạp lăn lộn trên bãi cát . Kiểm điểm lại sau loạt pháo nầy , Đại Đội Duyên Hải có 3 quân nhân tử thương , 4 bị thương , Đại Đội Bảo Toàn có 2 tử thương . tôi bị một mãnh đạn ghim vào cánh tay trái . Thấy tình hình vô cùng bất lợi , tàu không ủi bãi , phương tiện ra khơi không có . Tôi cho lệnh tập trung về vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn , kiểm lại quân số , còn khoảng 40 quân nhân , hầu hết là của Đại Đội Duyên Hải . Sau khi băng bó tạm thời cho 4 quân nhân bị thương . Lúc bấy giờ tôi có quyết định : . Trước một tình thế không còn cách nào xoay chuyển được nữa . Vấn đề ở đây và ngay lúc nầy không phải là sự đề kháng hy sinh xương máu vô ích , cũng không thể đầu hàng , cũng không thể để cho kẻ thù bắt . Chúng tôi chọn giải pháp tạm chia tay , sau những ngày đồng cam cộng khổ bên nhau , chúng tôi không thể cầm được nước mắt , những giây phút chia tay vô cùng cảm động trong một thời gian ngắn ngủi . ( nhưng hình ảnh nầy vẫn còn giữ trong tim tôi dù đã 38 năm trôi qua, dù cuộc đời phải trải qua bao thăng trầm ) . Tùy hoàn cảnh và sự chọn lựa của mỗi cá nhân , các quân nhân có thể trở về với gia đình hay thân nhân cứ trú trong vùng , hoặc tự tìm cách đào thoát về trong Nam … . Trước khi rời căn cứ tất cả vũ khí và trang bị cá nhân đều được tháo rời , phá hủy cơ phận để không còn sử dụng được … . Tôi quyết định không phá hủy hai ụ đạn dược trên phi đạo , lúc nầy tôi nhận thức một cách rõ ràng về sự tác hại thảm khốc , cá nhân tôi không thì hành còn nếu vì một nguyên nhân nào đó hai ụ đạn nổ là ngoài dự tưởng của tôi . Nếu về được trong Nam tôi có phải ra tòa án quân sự vì không chấp hành lệnh , đối với tôi là một chuyện rất bình thường không đáng kể . . Sau khi chia tay , tôi đi trở lại xuống bãi , quang cảnh vô cùng hỗn độn , người thì đông nghẹt mà tàu thì đã ra ngoài khơi rất xa , những đợt pháo kích liên tục , trên bãi biển số người tử thương rất nhiều … Tôi đem xác 5 quân nhân thuộc Tiểu Đoàn lên khỏi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
bãi cát , đặt nằm chung một chỗ, tôi nghĩ bây giờ phải rời khỏi nơi đây rồi sẽ trở lại sau . Lúc nầy vết thương trên cánh tay máu ra nhiều , tôi thấy đau rát , nên tôi trở lại vị trí của Đại Đội tìm một băng cá nhân băng lại vết thương rồi tiếp tục đi ra cổng phi trường . Căn cứ tiếp tục chịu thêm từng đợt pháo kích , hầu hết nổ trên bãi biển và trên phi đạo … Khi tôi đến cổng phi trường , thì có hai quân nhân Duyên Hải thuộc trung đội Xuồng Máy đã đứng ở đó . Tôi rất ngạc nhiên và hỏi : - Sao giờ nầy hai đứa chưa đi ? Thì một trong hai trả lời : - Tụi em chờ ở đây là muốn đi theo Đại úy . Tôi hỏi lại : - Vậy hai đứa không sợ nguy hiểm sao ? Cả hai trả lời tôi một câu ngắn gọn : - Dạ , không ! Lúc nầy tôi xúc động không nói thành lời chỉ gật đầu , vài giây sau tôi mới thốt nên lời : - Thôi mình đi . - Khoảng 1 giờ 30 , tôi cùng hai quân nhân Duyên Hải rời căn cứ Non Nước , vẫn mặc quân phục , di về hướng Sơn Chà vì một trong hai quân nhân đi theo tôi có gia dình đang cư trú ở đó , mọi sự việc sẽ tính sau … Trên đường phố tôi thấy quân trang quân dụng vứt ngổn ngang . Nhiều người nhặt súng vừa bắn lên trời vừa reo cười xem như không có việc gì đang xảy ra , có nhiều tiếng súng nổ trong các khu phố , một tình huống hổn loạn phức tạp . Vào thời điểm nầy , cuộc triệt thoái của Thủy Quân Lục Chiến tại bãi biển Non Nước đươc xem như đã kết thúc . Nhưng đơn vị nào , tình trạng ra sao , tôi hoàn toàn không được biết . Tôi chỉ biết rõ ràng nhất là Tiểu Đoàn 9 và Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến là 2 đơn vị không xuống tàu triệt thoái theo kế hoạch . Còn như có quân nhân nào xuống tàu được là do cá nhân họ tự cứu , họ rời đơn vị , tự tìm phương cách để tự cứu bản thân . điều nầy rất đúng , không có gì để nói trước một bối cảnh tuyệt vọng không còn lối thoát nào khác . Vì sao trong những giờ phút sau cùng , trước khi chúng tôi chia tay lúc 1 giờ trưa . Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ chỉ còn lại khoảng 40 quân nhân , chỉ có ha ïsĩ quan và binh sĩ , còn những người khác đi đâu ? – Thực ra thì có những người đã rời đơn vị từ mấy ngày trước , và có một số ngay từ sáng sớm ngày 29 tháng 3 năm 1975 đã tự rời bỏ đơn vị . Tôi biết trước là hiện tuợng nầy sẽ xảy ra và mọi người có sự lựa chọn . Tôi chỉ nghĩ một điều duy ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nhất là sống chết với người ở lại chứ không cần giữ lại những người muốn ra đi . Bởi vì tôi là một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến suốt thời gian quân vụ phục vụ trong binh chủng , tôi không thể bỏ những người đồng đội của tôi để ra đi một cách vô trách nhiệm . Tuy là một cấp chỉ huy rất thấp , tôi luôn ghi nhớ và hãnh diện với những dòng chữ đã ghi trên huy hiệu Thủy Quân Lục Chiến là : Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm . Nay tôi ghi lại những dòng nầy không nhằm chỉ trích một ai . Mà chính là tôi muốn nó nói cùng lương tâm tôi lời xin lỗi chân thành với các quân nhân của Tiểu Đoàn đã nằm lại trên bãi biển Non Nước : “ Tôi thành thật xin lỗi cùng các bạn , vì tôi đã không đem các bạn về lại với gia đình , tôi đã bỏ rơi các bạn , tôi đã không làm đúng với điều tâm niệm của một người chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến là “ không bỏ rơi đồng đội “ . Tất cả đều ngoài ý muốn và khả năng của tôi … - Khoảng 5 giờ chiều . Một đơn vị cộng sản đi vào khu Sơn Chà , đang di chuyển về hướng đài Radar trên núi , có 2 xe thiết giáp , khoảng một trung đội bộ đội chánh huy tùng thiết đi dọc theo hai bên đường , cùng với một số người mặc thường phục trên cánh tay mang băng , có trang bị vũ khí … Tiếp theo sau toán quân nầy khoảng chừng vài trăm mét là một chiếc xe jeep mui trần của quân lực VNCH , cắm cờ mặt trận giải phóng , trên xe một vị sư đầu cạo trọc mặc đạo phục màu nâu , thắt lưng mang K54 đứng phía bên phải tài xế , một tay vịn vào kín trước , một tay cầm máy phóng thanh không ngớt phát lời tuyên truyền với nội dung như : thành phố Đà Nẳng đã được quân đội nhân dân giải phóng – Kêu gọi dân chúng an tâm ở trong nhà – Kêu gọi ngụy quân ngụy quyền hãy ra đầu hàng .. v.. v .. Ngồi phía sau xe có hai tay súng mặc thường phục mang băng đỏ … sau mỗi lần dứt phần phóng thanh thì phát một bài nhạc giải phóng … Để tránh cho gia đình thân nhân những điều phiền toái có thể xảy ra , chúng tôi thay quần áo dân sự rời Sơn Chà đi trở ra thành phố Đà Nẳng . Trước khi rời căn nhà tạm trú tôi hỏi người quân nhân có gia đình đang cư trú ở đây : - Sao em không ở lại với gia đình ? Tôi được câu trả lời : - Em không ở lại vì sợ gia đình sẽ bị liên lụy . Em cũng muốn theo về trong Nam để tiếp tục . Tôi hỏi lại : - Em muốn tiếp tục cái gì ? Tôi lại nhận được một câu trả lời : - Để được sống với binh chủng . 155 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tôi lại hỏi tiếp : - Em nghĩ là sẽ được như vậy sao? Một câu trả lời ngắn gọn : - Em tin là sẽ được “ Tôi hoàn toàn không có ý kiến gì thêm . Trên đường đi tôi đã suy tư rất nhiều về những câu trả lời vừa rồi . Trong lòng tôi vô cùng cảm động và thán phục . Nhưng người chiến sĩ đang đi bên tôi không biết có hiểu được “ là chúng ta đang bị bỏ rơi , vận nước đang hồi tan nát . đường về phương Nam mịt mù không thấy điểm đến … và cả ba đang đi trên tử lộ giữa vòng vây của kẻ thù . Khoảng 6 giờ 30 chiều - Khoảng 6 giờ 30 . Chúng tôi đến cầu Trình Minh Thế bắt ngang sông Hàn để vào thành phố , nhưng cầu bị đóng chốt , không cho ai được qua cầu , lực lượng cộng sản di chuyển vào thành phố rất đông . Chúng tôi phải quay lại phía sau , tìm đến cô nhi viện An Bình nằm gần vòng đai phi trường Non Nước để xin tạm trú qua đêm … Toàn khu vực Đà Nẳng có lệnh giới nghiêm từ 7 giờ tối đến 6 giờ sáng . - Khoảng 7 giờ tối . Chúng tôi vào trong cô nhi viện , được gặp vị nữ tu viện trưởng . Sau khi thăm hỏi chúng tôi , vị viện trưởng rất vui vẻ cho chúng tôi tạm trú , lo cho chúng tôi bữa ăn tối . Sau bữa ăn , để giữ an toàn cho chúng tôi , vị viện trưởng cùng vài vị nữ tu khác đưa chúng tôi lên tầng lầu hai , khu vực vừa là nơi sinh hoạt vừa là nơi ngủ của hơn một trăm cô nhi khuyết tật , rất ngăn nấp … Trong khi tôi đang lặng người trong xúc động nhìn các em cô nhi , thì một nữ tu chỉ cho tôi một bé gái khoảng 9 tuổi đang đứng cạnh tôi và nói : - Đây là một trong số mấy mươi cháu cô nhi , đã được các anh Thủy Quân Lục Chiến giúp trên đường chúng tôi đưa các em di tản từ Quảng Trị vào Huế vì không có xe nên một số phải đi bộ . Khi đến Hải Lăng , có một số em đã bị thương vì đạn pháo kích , có em bị ngất xỉu vì mệt và đói , mấy anh đã băng bó vết thương cho các em , giúp cho thức ăn , đồng thời nhờ chúng tôi lo cho một số em thất lạc gia đình , cha mẹ đã chết mà các anh đã gặp trên đường di chuyển . Các anh ấy chận mấy xe đang di tản , giúp cho các em lên xe an toàn để vào Huế . Chúng tôi nhớ hoài việc nầy … Thật ra vị nầy đã nói rất nhiều với tấm lòng tri ơn . Tôi nhìn cháu gái đang chóng nạn đứng cạnh tôi , chân trái không còn , mắt trái bị mù , trên hai cánh tay mang nhiều vết thẹo . Tôi ôm em thật chặt trong vòng tay , cố ngăn nước mắt . Tôi muốn chia sẻ cùng em những nỗi đau thương mất mác quá nhiều trên 156 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thân xác bé nhỏ của em . Cũng như của chính tôi với nhiều mảnh đạn còn trên người , của mọi người với bao điêu linh đã mất người thân , của dân tộc với bao nhiêu xương máu đã rơi xuống trong tủi nhục mà không có một cuộc sống thanh bình , của một quê hương với những chuổi ngày tan nát bởi những tàn phá tàn nhẫn , phi lý trong chiến tranh . Do chính con người đã gây ra cho con người , vì những sai lầm ngu xuẩn , vì những tham vọng đen tối … Sau trận chiến nầy tuổi thơ Việt Nam sẽ ra sao dưới chế độ vô thần của những con người cộng sản … Bản thân tôi không có câu trả lời và tôi chỉ có thể nghĩ đến một ngày mai đầy bất trắc vô cùng đen tối cho các em , cho tôi và cho rất nhiều người … “ Cứ điểm cuối cùng Đà Nẳng không còn nữa trong ngậm ngùi lẫn uất hận . Chúng tôi là những người quân nhân đang chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc , đang bị phản bội , đang bị trói tay bán đứng cho kẻ thù . Quê Hương tôi đã và đang bị bức tử “ . Vào khoảng 8 giờ tối . Tôi nghe có tiếng súng đủ loại nổ thật nhiều về phía biển , ở vào thời điểm đang giới nghiêm không có ai ra ngoài đường nên chắc chắn là không có chuyện nhặt súng bắn bừa bải . Tôi nghĩ chắc đây là một cuộc giao tranh lớn nhưng không biết rõ đơn vị nào . Tiếng súng kéo dài đến khoảng nửa đêm thì thưa dần . Đến chiều ngày 31 tháng 3 gặp lại Thạnh và Lộc , tôi mới biết là Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến đã giao chiến với lực lượng chính quy cộng sản trong một trận thư hùng cuối cùng trên khu vực bãi biển Mỹ Khê .
Bãi biển Mỹ Khê Đà Nẳng sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975 THÀNH PHỐ ĐÀ NẲNG ĐÃRƠI VÀO TAY CỘNG SẢN NGÀY 30 THÁNG 3 NĂM 1975 - Vào khoảng 7 giờ sáng , tôi rời cô nhi viện , đi trở vào căn cứ , xuống tại bãi do chúng tôi chuẩn bị ngày hôm qua . Với ý định thu lượm thẻ bài cùng giấy tờ của 5 quân nhân Tiểu Đoàn đã bị tử thương dể mang ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
về cho gia đình họ , lúc nầy quang cảnh hoang vắng , nhiều xác người nằm chết trên bãi do hoả lực pháo kích hôm qua , dưới nước một số xác người đã sình thối bị sóng dập lềnh bềnh . Tôi chợt nhớ đến cách đây mấy hôm có nguồn tin từ những người di tản từ Huế vào Đà Nẳng cho biết là có một số tàu đánh cá và xà lan chở người di tản đã bị chìm ngoài khơi Đà Nẳng vì biển động mạnh … Tôi không thể đến gần nên không thực hiện được ý định , vì có nhiều toán bộ đội đang đi lục soát trên bãi , lục soát từng tử thi có mặc quân phục và tập trung dân chúng đi dọc theo bãi biển gom xác chết . Tôi đứng xa lấy mắt mà nhìn rồi lặng lẽ đi trở ra về lại cô nhi viện . Để tránh những liên lụy cho cô nhi viện , chúng tôi đến từ giả vị viện trưởng cùng các vị nữ tu . Chúng tôi quyết định rời nơi đây để ra thành phố Đà Nẳng . Lúc nầy có rất nhiều đồng bào di tản đến xin tạm trú trong viện . - Khoảng 10 giờ , chúng tôi vào thành phố Đà Nẳng , thành phố đang bao trùm một bầu không khí lo âu , hoang mang lẫn sợ hải … Lực lượng cộng sản đã chiếm giữ khu vực hành chánh , nhiều toán kiểm soát xuất hiện khắp trên đường phố . Trên các khu phố , trước mỗi Trang . 23 nhà hầu hết đều có treo cờ một bên là cờ mặt trận giải phóng , một bên là cờ phật giáo . Nhiều xe phóng thanh chạy khắp đường phố khi thì đọc thông báo của ủy ban quân quản , khi đọc lời kêu gọi hợp tác với chánh quyền cách mạng , khi thì phát lời kêu gọi đầu hàng giao nộp vũ khí … xen lẫn tiếng nhạc giải phóng … thật là ồn ào … tạo cho đời sống dân chúng thêm căn thẳng , hoang mang ... - Chúng tôi đến khu chợ Hàn , không ai còn tiền , tiền lương tháng 3 chưa lãnh coi như sạch túi . Tôi vào một tiệm bán và sửa đồng hồ để bán chiếc đồng hồ đeo tay hiệu citizen , phải năn nỉ lâu lắm người chủ tiệm mới chịu mua với gía chỉ có 1050 đồng . Chúng tôi vào bên trong chợ Hàn mua ít thức ăn khô ( loại mì ăn liền ). Mua cho mỗi người một tấm vải bằng nỉ mỏng để làm tấm đắp , một tấm nhựa nylon vừa để lót ngủ vừa làm áo đi mưa , cũng là để gói xác nếu không may mắn trên lộ trình vượt thoát . Chúng tôi đến trường trung học Phan Chu Trinh , có rất đông gia đình di tản tạm trú . Chúng tôi lẫn vào đám đông để tạm trú qua đêm … NGÀY 31 THÁNG 3 NĂM 1975 - Khoảng 10 giờ sáng . Chúng tôi rời khu vực trường Trung học Phan Chu Trinh , đi trở lại khu vực ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chợ Hàn với ý định tìm hiểu về tình hình và hy vọng có thể gặp lại các quân nhân cùng đơn vị … - Tại khu chợ Hàn , chúng tôi gặp lại Trung úy Quân thuộc Đại Đội Bảo Toàn , rất vui và xúc động , sau vài phút trao đổi tin tức anh em trong đơn vị , Trung úy Quân cho biết là sẽ đưa chúng tôi về tạm trú trong ngôi nhà của một quân nhân thuộc Đại Đội Bảo Toàn , cả gia đình đã di tản vào Sài Gòn . - Mấy ngày rồi không uống giọt cà phê nào nên ai cũng cảm thấy thèm hương vị cà phê lắm . Không cần biết những gì đang xảy ra chung quanh , chúng tôi đồng tình kéo nhau đến quán cà phê vĩa hè gần chỗ chúng tôi gặp nhau . Tại đây có hai chiếc bàn với khoảng mười chiếc ghế gỗ nhỏ kê sát chân một bức tường cũ đầy rêu . Chủ quán là một bà lão khoảng bảy mươi tuổi . Tôi thấy trên nét mặt của bà không có vẻ gì vui khi mời chúng tôi ngồi vào bàn , qua giọng nói của bà tôi nghĩ bà là người ở địa phương nầy . Tôi đáp lại lời mời của bà là lời cám ơn và nhờ bà pha cho chúng tôi mỗi người một ly cà phê phin sữa thật nóng . Sau khi nghe giọng nói miền Nam của tôi bà liền hỏi chúng tôi có phải là lính Sài Gòn không , tôi gật đầu trả lời bà là phải . Nét mặt bà như có một điều gì thương cảm chợt đến , bà bắt đâu vui và trao đổi cùng chúng tôi một số tâm tình của bà , trong đó bà cho biết bà cũng có hai người con phục vụ ở Sư Đoàn 1 , đơn vị đóng ngoài Quảng Trị , đến hôm nay vẫn chưa về với gia đình . Tôi chỉ có thể nói lời an ủi để cho trong lòng bà vẫn còn nhiều hy vọng … dù là rất mong manh … Còn trên thực tế làm sao biết được định số sẽ xảy ra trên từng con người … - Thời gian cũng đã quá trưa , chúng tôi cảm thấy đói bụng , tiền thì còn lại không bao nhiêu , nên chúng tôi quyết định vào trong chợ Hàn , mỗi người một dĩa cơm bình dân kèm một ly trà nóng . Sau khi thanh toán tiền cơm , còn lại ít tiền , chúng tôi đủ để mua được ít lương khô . - Khoảng 2 giờ chiều , chúng tôi gặp lại Thạnh và Lộc trên một con đường gần khu chợ Hàn . Thật là một sự bất ngờ vì sau khi Tiểu Đoàn 9 rời căn cứ Non Nước , trước tình thế tuyệt vọng , tôi nghĩ là sẽ không thể nào gặp lại . Tôi được biết vào tối ngày 29 tháng 3 Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến đã giao chiến với lực lượng cộng sản Bắc việt ở khu vực bãi biển Mỹ Khê , đến gần sáng đơn vị tan rã cả hai bị bắt làm tù binh đưa về giam giữ ở Hòa Cầm . Sáng nay cả hai vượt trại ra khu vực chợ Hàn chúng tôi đã găp lại , trong bầu không khí vui vẻ , Thạnh vừa cười vừa hát : “ Mình có 3 thằng , rơi rớt chốn binh đao , biết tìm nơi phương nào , cho thoát đám quân 157 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
gian … “ ( cả 3 thằng chúng tôi cùng khóa 17 , cùng về một binh chủng , gặp lại nhau trong vòng vây của kẻ thù ) . Sau khi trao đổi với nhau một số tin tức , tôi được biết Thạnh cũng tìm được nơi tạm trú ở tư gia của một quân nhân thuộc Tiểu đoàn 9 , cùng khu vực với nơi mà chúng tôi trên đường đi đến , đó là xóm Đạo Thanh Bồ thuộc Thành phố Đà Nẳng . Cả hai nhóm chúng tôi kéo nhau về nơi tạm trú sau mấy ngày sống trong căn thẳng , mệt mõi từ thân xác đến tinh thần … Khi đến nơi chúng tôi mới biết là nhà Thạnh , Lộc tạm trú cách căn nhà tôi tạm trú chỉ có vài căn thật là thuận lợi . Vì là xóm Đạo nên tương đối không ồn ào , hầu hết cư dân ở đây đã di tản . Căn nhà nhóm chúng tôi vào tạm trú là một căn nhà lầu hai tầng chỉ có ba gia đình từ Huế di tản vào tạm trú , họ đang chờ hồi cư về lại Huế , nhân số vừa người lớn vừ trẻ em gần hai mươi người . Sau khi tắm giặt , chúng tôi mỗi đứa một gói mì ăn liền để dằn bụng , bên ngoài trời đã về chiều . Trong hoàn cảnh nầy , tôi chợt nghĩ mệnh số nếu có thì cũng đã định rồi chi bằng phút giây nào an hưởng thì cứ thoải mái . Nằm trên sàn nhà tôi thiếp vào giấc ngủ lúc nào không hay … Khi chúng tôi thức giấc thì ngoài trời bắt đầu sáng , sinh hoạt trong nhà lúc nào cũng ồn ào vì trẻ em nô đùa . Sau một ngày bình yên , một ngày mới đang chờ chúng tôi ở bên ngoài khung cửa … - Chúng tôi có chung một sự chọn lựa : Dứt khoát là phải tìm cách vượt thoát bằng đường bộ để về trong Nam . NGÀY 1 , 2 , 3 THÁNG 4 NĂM 1975 TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẲNG Ngày 1 Tháng 4 Năm 1975 - Sáng ngày 1 tháng 4 năm 1975 . Cả hai nhóm chúng tôi có chung ý định là trở ra thành phố Đà Nẳng khu vực chợ Hàn để thăm dò tin tức . Chúng tôi không đi chung để tránh sự chú ý của các toán kiểm soát , mỗi nhóm một khu vực . Nhóm của tôi rời nơi tạm trú lúc 9 giớ sáng . Ra đến khu vực chợ Hàn , việc đầu tiên cả bốn người vào một tiệm phở , mỗi người một tô phở lớn với 1 ly cà phê phin nóng , cứ hưởng những gì đang có trong phút giây nầy , ngày mai sống chết ra sao không phải bận tâm … - Rời quán phở tiền chỉ còn hơn hai trăm đồng , chuẩn bị lộ phí cho những ngày vượt thoát , tôi vào một tiệm nhỏ chuyên bán và sửa nữ trang , để bán chiếc nhẩn TQLC Mỹ bằng vàng 14 , lại một lần năn nỉ rất lâu người chủ tiệm mới chịu mua với 250 đồng … Chỉ có thế ! - Xế chiều chúng tôi trở lại nơi tạm trú , đúc kết 158 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
những gì đã thu thập được : . Những tin tức về tình hình của các tỉnh thành trên lộ trình chúng tôi sẽ đi qua thì có , không nhiều và cũng không rõ ràng . Nhưng dù thế nào chúng tôi cũng phải thực hiện ý định . Toàn bộ trên các khu phố , trước cửa mỗi nhà cờ phật giáo đều bị tháo xuống , chỉ còn lại cờ mặt trận giải phóng . Sáng nay khi chứng kiến sự việc nầy , làm tôi nhớ lại biến cố trong phong trào xuống đường của phật giáo , từ miền Trung cho đến miền Nam để chống đối chánh phủ . Vào thời điểm đó tại các khu phố ở Huế , Đà Nẳng , Quảng Ngãi hầu như nhà nào cũng treo cờ phật giáo , không một ai dám đụng đến lá cờ nầy . . Xe phóng thanh chạy qua các khu phố đọc thông báo của ủy ban quân quản với nội dung : tất cả quân nhân vàviên chức thuộc chánh quyền cũ phải tra trình diện với ủy ban quân quản kể từ ngày 2 tháng 4 dến ngày 5 tháng 4 năm 1975 , có 3 ngày để trình diện . Ngay khi nghe đọc bản thông báo nầy tôi liên tưởng đến nhưnõg ngày thảm sát vào Tết Mậu Thân ( 1968 ) ở Huế . Tôi thầm đặt câu hỏi : “ mấy thằng việt cộng nầy định làm gì đây ? “. Tôi nghĩ đến việc phải bàn thảo với nhóm của Thạnh trước khi quyết định . - Khoảng 8 giờ tối cả hai nhóm chúng tôi hợp lại tham khảo lấy ý kiến chung . - Chúng tôi đã đi đến quyết định : Sáng ngày 2 tháng 4 tất cả đi trình diện để lấy giấy trình diện . Dù biết là rất nguy hiểm nhưng cũng phải đánh liều vì cần giấy tờ hợp lệ khi di chuyển trên một chặng đường dài . Sau khi trình diện chúng tôi có 2 ngày để vược thoát ra khỏi khu vực Đà Nẳng bằng mọi giá . Ngày 2 Tháng 4 Năm 1975 - Sáng ngày 2 tháng 4 . Chúng tôi rời nơi tạm trú đi trình diện tại nơi đã được ấn định , phân ra cấp tá trình diện một khu vực , cấp úy trình diện một khu vực , Hạ sĩ quan và binh sĩ một khu vực . Tôi chỉ mất khoảng hai giờ là lấy được giấy trình diện , không bị hạch hỏi gì cả , thấy có vẻ êm xuôi . Tiếp tục lang thang ngoài đường phố Đà Nẳng tìm hiểu thêm tin tức … cũng có ý dò xem có gặp lại bạn hữu nào không … - Đến chiều ngày 2 tháng 4 , trở về nơi tạm trú tôi gặp lại Thạnh và Lộc , cả hai cũng đã lấy giấy trình diện . Mọi việc coi tạm ổn bước đầu . Căn nhà tôi tạm trú lại có thêm 3 gia đình khác đến tạm trú , số lượng người quá đông . Chúng tôi cùng dùng bữa ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cơm chiều đạm bạc . Sau bữa cơm cũng đã hơn 6 giờ chiều , tôi có nói với Thạnh và Lộc về cảm giác bất ổn đã đến với tôi , tôi nói nên cẩn thận , nếu được nên đổi chỗ ngủ ở nhà khác … Trung úy Quân sang ngủ ở nhà kế bên , tôi ở lại và tìm chỗ ngủ dưới gầm cầu thang , bên cạnh là gia đình môït vị Thiếu Tá Pháo Binh gồm bảy người hai vợ chồng với 5 đứa con , đứa nhỏ nhất được sáu tháng , giăng ba cái mùng che khuất gầm cầu thang . Hồi chiều nầy tôi có tiếp chuyện với ông , rất vui vẻ , ông là người sinh ra ở Huế , tốt nghiệp Khóa 11 Thủ Đức . Tôi không hỏi nhưng ông không ngại đã cho tôi biết về ông , nên tôi mới biết về đơn vị và cấp bậc của ông , ông còn cho biết có gia đình một vị Trung Tá Bộ Binh cũng đang tạm trú trên lầu … Tôi chỉ nghe ông nói và không hỏi ông một điều gì liên quan về ông , vì tôi muốn tôn trọng sự an toàn cho ông trong lúc vàng thao lẫn lộn . - Vào khoảng 1 giờ khuya , có tiếng nhiều chiếc xe gắn máy dừng lại trước nhà , có tiếng đập cửa thật mạnh rồi tiếng người tiếp theo : “ ban quân quản , mau mở cửa kiểm tra “ . Vị Thiếu Tá ra mở cửa , tôi nghe có tiếng nhiều người bước vào nhà ( từ chỗ tôi nằm không nhìn thấy được cửa chính ) . - Tiếp theo là một giọng nói miền Bắc : “ Ở trong nhà nầy ai là Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh , Thiếu Tá Nguyễn Văn lộc , Đại úy Trần Văn Hên lính thủy đánh bộ chúng tôi cần kiểm tra “ . Tôi nghe vị Thiếu Tá trả lời : “ Dạ hồi chiều thì có ba ông nầy dùng cơm ở đây , sau đó họ nói đi ra phố giờ chưa thấy trở lại “ . Sau câu trả lời , họ ập vào nhà thật nhanh rọi đèn , vợ ông Thiếu Tá quay vào phía tôi nói thật nhỏ : “ ông nằm yên để tôi “ . Từ trong tối nhìn ra , tôi thấy có ba tên mặc đồ bộ đội hai tên mang AK. 47 rọi đèn lục soát và một tên mang K . 54 tiến về phía cầu thang rọi đèn vào ba cái mùng của gia đình ông Thiếu Tá pháo binh , lúc đó tôi thấy bà để lộ cả ngực đang cho con bú , thấy vậy tên nầy không rọi đèn nữa quay lại đầu cầu thang đi lên lầu … Họ rọi đèn lục soát khắp nhà khoảng 10 phút , tất cả kéo ra ngoài , nổ máy xe rời căn nhà tôi đang tạm trú . Sau đó ông Thiếu Tá Pháo Binh nói cho tôi biết là có 6 người đi trên 3 chiếc xe Honda , 3 tên măc đồ bộ đội , 3 tên mặc thường phục đeo băng đỏ . Nghe xong , tôi chợt nghĩ , chúng tôi trình diện hai nơi khác nhau , hai địa chỉ cư trú khác nhau , chỉ có ăn cơm chung hồi chiều nầy mà sao họ biết rõ như vậy … Tôi tự hỏi có nên tìm hiểu nguyên do hay không ?. Đây đúng là một màn “ bắt ngụi , thủ tiêu “ cố hữu của những con người cộng sản . Trong thời điểm nầy tôi thấy không cần thiết và cũng không còn ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thời gian . Việc chúng tôi cần làm ngay là chuẩn bị sáng sớm ngày mai phải rời khỏi khu vực nầy , sau đó là lên đường vượt thoát về trong Nam . Ngày 3 Tháng 4 Năm 1975 - Sáng sớm ngày 3 tháng 4 , Tôi đến nhà tạm trú của Thạnh và Lộc tôi thuật lại chuyện xảy ra trong đêm . Sau đó chúng tôi chia tay rời khu vực tạm trú . Nhóm của tôi rời nơi tạm trú , theo sự hướng dẫn của Quân chúng tôi di chuyển đến chỗ tạm trú mới gần bến xe khách chạy đường Đà Nẳng – Quảng Ngải . Đây là nhà của một quân nhân thuộc Đại Đội Bảo Toàn , chúng tôi được toàn gia đình tiếp đón rất là vui vẻ ân cần . Trong khi dùng cơm trưa , thân phụ của người quân nhân nầy góp ý với chúng là tôi và Quân nên lấy giấy trình diện binh sĩ , vì trên đường vào Quảng Ngải ông nghe nói nếu là sĩ quan thì bị các trạm kiểm soát bắt giữ lại , qua lời đề nghị của ông , tôi thấy là một điều cần thiết . Sau bữa cơm trưa tôi ra khu vực gần đài phát thanh Đà Nẳng trình diện với cấp bậc hạ sĩ thương phế binh của Sư Đoàn 2 , không gặp trở ngại nào . Còn Trung úy Quân sẽ sử dụng giấy trình diện của người con của ông chủ nhà cũng cấp bực hạ sĩ . Ngoài ra ông còn ghi cho tôi địa chỉ cùng lời giới thiệu chúng tôi với một người em của ông ở tại thành phố Quảng Ngải , để chúng tôi đến đó tạm trú . Chúng tôi an tâm ngủ lại đây một đêm và dứt khoát sáng mai sẽ rời Đà Nẳng … - Ngày mai rời Đà Nẳng là chúng tôi bắt đầu “ tìm sinh lộ trên từng cây số “ . Cũng có nghĩa là chúng tôi vĩnh viễn chia tay với Quân Đoàn I , là một vùng chiến trường mà binh chủng Thủy Quân Lục Chiến luôn có mặt từ năm 1966 cho đến tháng 4 năm 1975 . - Chúng tôi sẽ mang theo hào khí của hai trận chiến cuối cùng của Thủy Quân Lục Chiến trên đường vượt thoát về phương Nam : . Trận tử chiến của Lữ đoàn 147 của Thủy quân Lục Chiến tại bãi biển Thuận An vào ngày 26 – 27 tháng 4 năm 1975 tại Thừa Thiên – Huế . . Trận chiến của Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến tại bãi biển Mỹ Khê – Đà Nẳng vào ngày 29 tháng 3 năm 1975 . Ngày mai , chúng tôi sẽ âm thầm vĩnh viễn giả từ những đồng đội của chúng tôi đã anh dũng nằm lại trên hai bãi chiến : “ các bạn hãy yên nghỉ trên bãi biển của quê hương … “ NGÀY 4 THÁNG 4 NĂM 1975 VĨNH BIỆT ĐÀ NẲNG - Sáng sớm ngày 3 tháng 4 năm 1975 , ông chủ nhà và người con trai cùng đi với chúng tôi đến bến 159 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
xe . Chúng tôi được cho biết là xe chỉ chạy đến cầu Châu Ổ , vi cầu bị sập , phải qua đò , rồi chuyển đi xe khác để vào Quảng Ngải . Trước khi lên xe tôi định trả tiền cước phí nhưng ông không cho , ông nói với tôi : “ Anh an tâm lên đường , tôi đã thanh toán xong
xe và xe bắt đầu rời bến , để lại phía sau những hình ảnh thân thương mà chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại … Những dòng bút ký nầy chỉ là một hạt bụi rất bé nhỏ trên dòng chiến sử của quê hương . Hạt bụi nầy đã được hình thành bởi máu và nước mắt từ trong khói lửa chiến chinh . Nó có thể đã đi vào lãng quên trong ký ức của bao người . Nhưng đối với chúng tôi là những người lính trận , đã đi vào cuộc chiến là chứng nhân , không bao giờ quên cho đến phút cuối đời .
160 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cước phí , là xe quen “ . Tôi không biết nói gì hơn ngoài lời cám ơn chân thành . Khi bắt tay từ giả mọi người quá xúc động đều rưng rưng nước mắt . Ông nói trong xúc động gần như muốn khóc : “ Anh nhớ cái địa chỉ , chúc các anh may mắn ! “ . Chúng tôi lên
TRẦN VĂN HÊN ( SVSQ KHOÁ 17 THỦ ĐỨC ) ( Trích trong Bộ Bút Ký VƯỢT THOÁT ) ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
NHỮNG TÂM TÌNH CỦA CỰU SVSQ KHÓA 17 THỦ ĐỨC Tạp ghi của MX Lế Tấn Tài Cựu SVSQ/K17TĐ Một tuần lễ chờ đợi rồi cũng trôi qua nhanh, thế là tôi tháp tùng theo các Mũ Xanh TQLC từ thành phố Houston TX, đến Atlanta của Tiểu bang Georgia nằm về phía Tây Nam Hoa Kỳ, nơi tổ chức Đại hội Kỷ Niệm 60 Năm Thành Lập Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam, một trong những đơn vị Tổng Trừ Bị nổi tiếng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước ngày 30/4/1975. Vì đã chọn Binh chủng Mũ Xanh TQLC sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1964, chúng tôi dù tuổi đã trên 70, trên 80…nhưng vẫn cố gắng tham dự kỳ nầy, vì biết đâu….không còn hy vọng cho bản thân mình có thể tham dự được cho lần họp mặt năm tới (!)…với suy nghĩ như vậy, nên chúng tôi quyết tâm lên đường. Trời đất hình như cũng đồng lòng với chúng tôi, đã làm nắng chói chan hòa, không còn cái không khí oi bức của những ngày qua. Xin cám ơn trời đất đã ưu đãi chúng tôi trong suốt lộ trình di chuyển, cũng như trong suốt thời gian trú ngụ tại Thành phố Atlanta. Tại đây cùng có sự tham dự của các Cựu Mũ Xanh như Trần văn Hên của Georgia, Lê Đình Bảo của California, Nguyễn văn Nư của Florida, tất cả đều là Cựu SVSQ của Khóa 17 Thủ Đức. Thật là vô cùng hạnh phúc khi gặp lại các bạn Đồng môn với tay bắt mặt mừng, chuyện trò râm rang như pháo nổ, tiếu lâm dài dài trong những câu chuyện. Những tiếng cười vang vang như thưở nào trong quân trường Thủ Đức, khi chúng tôi còn là những Sinh viên Sĩ quan, vẫn chia nhau những điếu thuốc chuyền tay, dù rằng trong túi áo các “quan” hộp thuốc lá vẫn còn đầy. Chúng tôi thăm hỏi nhau về gia đình, về những sự thành công của các con cái, nhưng cuối cùng vẫn là…..“mầy thương tích mấy lần rồi và mặt trận nào vậy…?” Tất cả câu trả lời đều gần giống như nhau: “Bình ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Giã 1964 một lần lãnh hai viên…, Đức Cơ 1965 quá nhiều thương tích trên thân thể để trở thành biệt danh ‘độc nhản đại nhân’, dù đã bị Loại 2, vẫn ra đánh giặc với Việt Cộng và lập nhiều thành tích vẽ vang…”. Và còn biết bao nhiêu là câu chuyện huyền thoại trong khi tham dự quá nhiều trận chiến, từ Cà Mau đến Quảng Trị, từ Hạ Lào về đến Trường Sơn..v..v.. Câu chuyện về các trận chiến trước 30/4/75 mà các bạn Đồng Môn chúng ta tham dự, hầu như không bao giờ chấm dứt. Biết bao tâm sự lai láng tuôn ra như những dòng thác lũ tràn về từ tâm tư, từ tận đáy lòng, để nhớ về khoảng thời gian của tuổi thanh xuân mà chúng ta đã từ giã gia đình, học đường, người yêu bé nhỏ…tất cả đã xếp lại để nghe theo tiếng gọi của Non sông Tổ quốc, lên đường tòng quân nhập ngũ. Với một hoài bảo rất bình thường, nhưng không một thứ nào trên đời nầy có thể so sánh được. Biết bao những bạn Đồng Môn đã hiến mình cho Tổ Quốc, đã “Vị Quốc Vong Thân” để bảo vệ đống bào, chống quân xâm lược Cộng Sản phương Bắc… *** Thời gian lại chậm chạp trôi qua… Một sáng thứ năm hạ tuần tháng 6, 2014, chúng tôi gồm những người bạn cùng xuất thân Khóa 17 Quân trường Thủ Đức như anh Trương Quang Hoàng PB, một huynh trưởng Khóa 11 và môn đệ Huy PB Khóa 2/68, cùng đi thăm anh Quan văn Kế cùng Khóa 17 ngành Công Binh Kiến Tạo. Chúng tôi gặp anh Kế tại Trung tâm Sinh hoạt Người già ở gần khu Bellaire và Wilcrest của thành phồ Houston. Anh Kế rất vui mừng khi thấy anh em chúng tôi đến thăm anh, anh rất cảm động và bày tỏ sự sung sướng qua giòng lệ ngỏ dài xuống má với cử chỉ thật vui lòng. Anh Kế vừa thoát khỏi “stroke” nên giọng nói vẫn chưa bình thường. Lúc chúng tôi đến thăm anh Kế, vào giờ hội viên của Trung tâm đang gọi nhau chơi “Bingo”, một loại trò chơi như “Loto” của Việt Nam, chúng tôi thấy có hội viên được trúng giải thưởng. Anh Kế nói sau phần chơi Bingo nầy, sẽ là tới phần tập thể dục và ăn cơm trưa, rồi đến phần giải trí cá nhân như cờ tướng, pingpong…. Riêng anh Kế vì không lái xe được, nên anh phải đi về nhà con anh bằng xe bus của Trung tâm vào lúc 2 giờ trưa mỗi ngày. Anh Kế nhiều lần mời chúng tôi ở lại ăn cơm trưa với anh, mỗi phần ăn trưa giá là $3:25. Chúng tôi bàn với nhau và nói với anh Kế, là sẽ trở lại thăm anh vào một dịp khác và sẽ ở lại sinh 161 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
hoạt với anh lâu hơn lần nầy, mới gặp lại bạn Đồng môn mà bấy giờ đã hơn 11 giờ trưa rồi. Chúng tôi từ giả anh Kế và hẹn ngày tái ngộ, đặc biệt lần nầy khi trò chuyện với anh em Khóa 17 chúng tôi, anh Kế có bàn đến chuyện tham dự Buổi Hội Ngộ của Khóa 17 tại Nam Cali, và anh cũng xin đóng ủng hộ $60 cho đại hội. Chúng tôi thật cảm động trước quyết định của anh, đó là vì anh Lâm Tài Thạnh TQLC tại Bắc Cali đã đề nghị chuyện nầy, chúng tôi thấy cũng có lý nên ủng hộ luôn. Hình ảnh của anh Kế, một cựu SVSQ của Khóa 17 Thủ Đức, một cựu Thiếu tá của ngành Công Binh QLVNCH, một cựu Sĩ quan lanh lợi tháo vát ngày nào, giờ đang phải sống trong một Trung tâm Sinh hoạt của Người già, hình thức của một Viện Dưởng lão, một Nursing Home, dù đầy đủ những phương tiện, nhưng cũng khiến cho lòng anh em chúng tôi không khỏi xao xuyến khi từ giả anh ra về. Vợ anh Kế đã mất cách đây mười năm, trong những chuổi ngày còn lại nầy, ngoài tình thương của con cháu dành cho anh, có lẻ anh chỉ còn lại tình đồng đội là một nguồn an ủi vô biên cho anh….. *** Tháng 8 trời Houston nóng hâm hấp, chợt nhớ đến những mùa hè trên quê hương Việt Nam một thời mịt mùng khói lửa, nên ghi vội vài hàng…. Chúng ta lớn lên trong một xứ sở chiến tranh triền miên, có thể có những bà mẹ Việt chuyển bụng sinh con, mà đạn pháo kích của quân Cộng sản bên ngoài bảo sanh viện đang nổ vang rền, dó là muôn một trong những hình ảnh của cuộc chiến tranh tại xứ Việt. Nhưng rồi lại có một câu hỏi lại được đặt ra trong tôi, tại sao Miền Nam chúng ta lại không đem những sự việc giống như vậy xảy ra ở Miền Bắc, ở Hà Nội, ở Thanh Hóa, ở Nghệ An ..v...v.. Viết ra như vậy, có người sẽ bảo tôi rằng…thôi bỏ qua đi tám, chuyện xưa chuyện cũ rồi. Vâng, quả thật là chuyện xưa chuyện cũ, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Trong chiến tranh Việt Nam đã có biết bao anh hùng đã nằm xuống, chỉ đơn giản bởi vì hai chữ Tự Do cũng như sự vẹn toàn lảnh thổ. Nhưng rồi tất cả đã đi vào quên lãng không được ai nhắc nhở đến. Thật buồn! Khi chúng tôi đến đây vào năm 75, được gặp những người Mỹ địa phương trong các nhà thờ bảo trợ người Việt tị nạn Cộng sản, nhiều câu hỏi đã được họ đặt ra với chúng tôi: tại sao các gia đình Việt lại 162 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đến sống tại đây? Câu trả lời của chúng tôi thường ngắn gọn là: chúng tôi định cư nơi đây vì lý do chính trị, và không còn nơi nào an toàn hơn cho gia đình chúng tôi. Nhưng sau đó khi về nhà riêng, nằm một mình hay kể cả khi kế bên bà xã, nước mắt cứ chảy dài mà không sao dừng lại được, vì biết rõ mình đã nói dối với chính lòng mình…Bà xã an ủi bằng câu, thôi ráng ngủ đi, mai còn đi cày nữa mà anh… Làm sao mà quên được, quân thù thì có đủ cả súng to súng lớn, mà mình thì chẳng còn lấy một viên đạn. Rồi bọn người chiến thắng đã dùng luật rừng đuổi mình ra khỏi nhà mà ông bà cha mẹ đã dày công xây dựng từ bao đời nay. Rồi gian dối cho đi học 10 ngày đối với những người thất trận…Bọn người từng sống trong rừng hay trốn dưới hầm hố, giờ đây đòi dạy lại những người có ăn có học, những vị giáo sư, bác sĩ.. Vậy mà chúng ta vẫn phải nghe, bởi vì chúng có súng và xài luật rừng. Bởi vậy riêng chúng tôi, đã phải khóc cho số phận nghiệt ngã, khóc cho đất nước điêu linh, dân tộc sẽ còn rất lâu mới sống trong hạnh phúc trong tự do, bởi vì bọn người rừng rú đó vẫn còn lãnh đạo đất nước Việt Nam. Lại quay qua đất nước Nhật, một lần nữa thế giới lại kính nể dân tộc nầy. Trong giải bóng đá thế giới World Cup vừa qua tại Brazil sau khi đội banh Nhật bị loại, trước khi toàn đội đấu thủ Nhật ra về, tất cả đều đứng ngay hàng quay mặt về khán đài nơi có những ủng hộ viên từ xa xôi đến, cùng nhau cuối đầu “tạ lỗi” các ủng hộ viên nầy..Thật là một cử chỉ học thức, khiêm nhường. Và đặc biệt trên khán đài nơi có các ủng hộ viên người Nhật, một loạt hình ảnh đã làm ngạc nhiên toàn thế giới: Tất cả những người Nhật hiện diện đã tự động lấy những bao nylon mang theo trong người, đi gom nhặt tất cả những rác rến, chay nước…chung quanh những nơi họ đã ngồi trong im lặng vui vẽ trước khi ra về. Dân Nhật thì như vậy, còn đất nước ta thì sao, dưới ách thống trị của quân rừng rú Cộng sản? Một chút tâm sự nhỏ gói ghém trong những giòng Tạp ghi mộc mạc nầy, xin thân gởi đến những Đồng Môn Khóa 17 trong ngày Hội Ngộ 50 năm của chúng ta. Houston Mùa Hè 2014 Lê Tấn Tài Cựu SVSQ/17TĐ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Lê Tấn Tài Cựu SVSQ/K17/TÐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
163 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tïët Mêåu Thên
ĐẠI ĐỘI 3/33 BĐQ TẠI TRẬN ĐÁNH NGHĨA ĐỊA TRIỀU CHÂU Bút ký của Thiên Lôi Cựu SVSQ/K17TĐ Trận đánh xảy ra tại Nghĩa địa Triều Châu vào lúc Tiểu Đoàn 33 BĐQ được giao nhiệm vụ vào thay thế Tiểu Đoàn 3/7 Hoa Kỳ vừa rút đi, trao trả Khu vực Hành quân Khu F được sáp nhập vào Khu D do Biệt Động Quân Việt Nam trách nhiệm. Dường như VC đã bám sát vào lực lượng Mỹ từ lâu nhưng tránh đụng độ, khi lực lượng ta tới, tưởng ngon ăn chúng đánh liền. TĐ33BĐQ, do Đ/u Nguyễn văn Thiệt chỉ huy, có danh hiệu truyền tin độc đáo là “Tử Thần”. Phóng viên chiến trường của VN/TTX trong những trận đánh giải tỏa Khu vực Bình An của Quận 7 trước đây, thường đi theo bám sát cánh quân của ĐĐ3/33, trong trận Nghĩa địa Triều Châu nầy cũng vậy. ĐĐ3/33 do Tr/u Đồng một sĩ quan trẻ tuổi chỉ huy, là mũi nhọn tấn công địch, và trận đánh đã diển tiến như sau: Vào khoảng 12giờ 30 trưa ngày Mồng Ba Tết Mậu Thân, tại chỗ đóng quân Bình Thới, Tr/u Đồng đang sắp sửa ăn cơm thì có máy gọi từ BCH/TĐ. TĐT Tử Thần ra lệnh chuẩn bị sẵn sàng hành quân, vì có tin chính xác VC đang tập trung rất đông quanh Nghĩa địa Triều Châu. Nhìn trên bản đồ, thì nơi địch xuất hiện chỉ cách sân bắn Bình Thới không quá 200 mét theo đường chim bay. Địa điểm ghi nhận có địch nằm trong khu tam giác cạnh Tân Hóa, ngang Tân Hội, cách Cầu Tre 1km và trại Phú Bình không quá 2km. Bửa ăn đành dẹp lại, cả Tiểu Đoàn xuất phát hành quân khẩn cấp. Tr/u Đồng ĐĐT đã điều động đại đội: 164 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
-Tr/Đ 1 do Trung Sĩ I Trần Xoòng, một hạ sĩ quan thâm niên và thiện chiến, mang 40 binh sĩ tạt qua cánh đồng trồng rau muống, băng thẳng vô khu gò mã phía tay mặt. -Tr/Đ 3 do Trung Sĩ I Tăng Ly bảo vệ Ban chỉ huy ĐĐ, đi phía trái cũng nhắm mục tiêu khu gò mã. -Tr/Đ 2 của Chuẩn úy Út và Tiểu đội Thám báo, gồm toàn những chiến sĩ gan lì đã được tuyển lựa kỹ, nhiệm vụ đánh ngay chánh diện. Không lâu sau khi BĐQ vừa rời khỏi hương lộ 14, tức đường Phú Thọ kéo dài, tạt qua chùa Giác Viên và vừa ló vào gần Nghĩa địa Triều Châu là chạm súng. Địch khai hỏa ào ạt như vãi sạn. Trung đội của TS I Trần Xoòng đang ở vào thế giữa đồng trống, chần chừ là chết, Trần Xoòng liền quyết định thật nhanh hô xung phong thẳng vào ngay các ổ súng địch. Tuyến bố trí thứ nhất của VC bị đánh thủng, chúng lui về tuyến thứ hai. Cùng lúc đó toàn Trung đội I vội nhào ngay xuống các giao thông hào do địch đã đào sâu tới ngang cần cổ. Thế trận tiếp tục diễn ra trong cách nhả đạn vào từng gò mã từng ngôi mộ. Sau đó ta lấn chiếm từ cái nầy qua cái khác, VC đã dựa vào các vị trí có sẵn là các ngôi mộ xây kiên cố, chóng đào hố phòng thủ sát kế bên gò mã. Trận ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chiến gần đến độ VC ngó thấy ta, ta cũng nhận mặt từng tên địch. Chúng mặc quần áo đồng phục mầu xanh lợt, mà người ta có thói quen gọi là vãi xanh Kaki Nam Định, giây đạn đeo đầy người với túi đạn B40 trước ngực đang thập thò sau các chướng ngại vật. Lợi dụng địch đang dồn hỏa lực hòng đốn ngã Trung đội 1, ĐĐT Tr/u Đồng liền đẩy Trung đội 3 cùng Ban chỉ huy ĐĐ xung phong ào lên chiếm căn nhà có lò bún bên mặt của khu rau muống. Nhưng xui xẻo là đối diện với điểm tựa nầy, phía bên kia là hai cây đại liên và một tổ B40 địch, chúng bắn tới tấp về phía ta khiến 4 binh sĩ BĐQ bị thương nặng, nhưng Tr/u Đồng đã nhanh tay dùng M79 nhanh tay làm tê liệt ổ kháng cự nầy. Điều gây thắc mắc cho anh em BĐQ, dù bị bắn như thế và đã im tiếng súng, nhưng sao vẫn không thấy những tên VC còn sống rút chạy hay ra hàng? Ta dự đoán có lẽ những xạ thủ đã bị khóa chân vô súng. Muốn dứt điểm nhanh chóng ổ kháng cự, Hạ sĩ thám báo Trần Đắc Hiệp đã đứng lên khơi khơi chỉa nòng M79, và cùng lúc đó một tên VC cũng giơ lên cây AK47. Chợt nhận ra nhau, cả hai cùng một giây đã bóp cò, một bên trúng viên đạn AK lũng nón sắt, tên VC thì ôm trọn trái M79 thân xác tanh banh, kéo theo cả ổ súng mai phục tại đây cùng về cỏi âm. Trước đó một giây, Tr/u Đồng ĐĐT chỉ kịp hét lên “Hiệp coi chừng!”, nhưng chưa hết câu thì Hiệp đã ngã bật về phía sau, đầu tựa lên bờ rào, máu từ trán đổ xuống đỏ cả không mặt và ướt hai vai. Xót xa uất ức vì cái chết của đứa em gan lì, Tr/u Đồng đứng lên hét lớn “Xung phong ! Xung phong!”, đồng thời HS Luật định nhảy ra kéo xác Hiệp, nhưng VC cũng đeo sát tử thi nầy, bắn xối xả chung quanh chỗ Hiệp nằm, Luật thoát chết trong gang tấc. Đang phân vân thì có một người đàn ông cùng với người mẹ đang kẹt trong chỗ giao tranh, bò tới ẩn núp phía sau Tr/u Đồng rồi kề tai nói: “Tụi nó canh súng, anh em lên nó bắn liền, nguy hiểm lắm. Để tui giúp mấy anh”. Nói xong anh ta cởi áo thung trắng quơ quơ lên rồi bình tỉnh đứng thẳng lưng đi tới chỗ Hiệp nằm. Nhưng VC cũng không tha nhắm hướng người đàn ông bắn tới tấp. Thấy qúa nguy hiểm, anh em BĐQ dồn hỏa lực tối đa yểm trợ cho anh. Người đàn ông quả thật anh hùng, ông nằm ngửa kê xác Hiệp trên tay, dùng hai chân chòi trên mặt đất kéo lê xác Hiệp từng đoạn một về tuyến BĐQ. Hỏi ra mới biết ông tên Hai Néo, làm nghề thuộc da bên Phú Bình, Tết về thăm mẹ bị kẹt luôn. Để đền đáp ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
sự hy sinh và lòng can đảm của ông Hai Néo, Tr/u Đồng quyết định giao nhiệm vụ bảo vệ mẹ con ông Hai Néo cho Hạ sĩ Tân “Điếc”, một chiến sĩ thám báo liều lĩnh nhanhngẹn. Trời càng về trưa trận chiến càng trở nên quyết liệt. Nhờ có công sự phòng thủ tốt là những ngôi mã xây kiên cố và các căn nhà tôn, địch đã làm trì hoản sức tiến của ĐĐ 3. Ngược lại bên cánh phải, ĐĐ4/33 tương đối dễ hơn vì địa thế thuận lợi cho sự tấn công. ĐĐ4 đã “nhô” cao hơn bên trái. Từ BCH Tiểu Đoàn trên con lộ đất đỏ phân chia nghĩa địa Triều Châu, cách tuyến đầu chừng 70 mét, thẩm quyền Tử Thần cầm máy gọi ĐĐT đại đội 4: -Vinh Quang đây Tử Thần, anh hãy cho con cái ngưng lại. Vịt con còn đang ở giữa anh và Đống Đa. Cho mấy đứa nhỏ lui xuống bọc hông bên phải tiếp thằng 3, để nó bẻ cổ con gà đang gái ở gốc trái. Nghe rõ?”. -Đáp nhận Tử Thần 5/5. Lúc nầy ĐĐ3 đang gặp sức kháng cự rất mạnh của địch từ quần thể các ngôi mộ gần lò bún. Nên Tử Thần quyết định cho 3 chiếc M113 tăng phái lên tiêu diệt hỏa lực địch. Chiết thiết quân vận thứ nhất vừa lừ đừ tiến lên thì một loạt 3 trái đạn chống chiến xa của địch phóng ra, xe bị trúng đạn bốc cháy như cây đuốc. Nhưng anh em BĐQ không nao núng phản ứng thật gan dạ và bình tĩnh. B1 Châu di sát bên Tử Thần và một đồng đội, đã nhảy xe thiết giáp, người lo chửa cháy, người dùng cây đại liên 50 trên pháo tháp bắn xối xã vào tuyến địch. Lửa được dập tắt, con cua bị cháy nầy đã biến thành một pháo đài bắn yểm trợ cho hai con cua còn khỏe cùng các chiến sĩ Mũ Nâu tiến lên thanh toán địch. Trận chiến càng lúc càng quyết liệt, con cua thứ hai vừa gầm thét tiến lên được chừng 5 mét lại bị trúng đạn bốc cháy. Với quyết tâm phải thanh toán mục tiêu trước khi mặt trời xuống, hai chiếc thiết giáp nữa được lệnh tiến lên thay thế hai chiếc đồng bạn. Hỏa lực của ba chiếc cua đồng cùng với sự phối hợp của đoàn beo đen đã nhịp nhàng tiễn chân bày vịt con chết chồng chất lên nhau. Đồng thời Tử Thần gởi gởi Đ/u Tiểu Đoàn Phó cấp tốc về BCH/LĐ5BĐQ dùng trực thăng C&C bay quan sát trên vùng giao tranh để theo dõi, nhận định về tình hình địch để có những quyết định chính xác. Khoảng cách hai bên đã quá gần, trận ác chiến đã lên tới mức cao vượt bực, trực thăng C&C đã đến cùng với hai Gunship bay theo. Trên trực thăng Đ/u Tiểu Đoàn Phó TĐ33BĐQ đang theo sát từng chuyển 165 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
động của địch, nhưng đồng thời phòng không địch bắn lên cũng trúng một trực thăng của Pháo bing Hoa Kỳ đang bay quá thấp, trực thăng bị cháy phải rời vùng. Hai Gunship vần vũ trên đầu địch theo sự hướng dẫn của C&C. Rocket, minigun xả xuống như những đường chỉ kẻ thẳng, hỏa tiển phá tung từng hầm hố, đạn đại liên đuổi theo từng nhóm địch đang cuống cuồng đào tẩu. Về phần mình, BĐQ đã không bỏ qua cơ hội, bắt đầu đứng thẳng lưng bắn hàng loạt đủ loại mọi đạn mà họ đang có trên tay về hướng địch. Khoảng 3 gìờ 40 chiều, VC thật sự khôngchịu thấu sức tấn công mãnh liệt của BĐQ với sự hỗ trợ của thiết giáp, trực thăng võ trang, địch bỏ nghĩa địa lui vào khu lò bún. Đến đây mới đúng là lúc tiển đưa ….bày con của quỷ. ĐĐ3 và ĐĐ4 được lệnh lập thành một vòng cung cùng đánh ép vào một mục tiêu cuối cùng. Từng nhà, từng con hẽm, thậm chí có căn nhà địch ở dưới ta ở trên đánh xuống, vì các Mũ nâu đã leo từ balcon nhà nầy chuyền sang nhà khác. Những trái M72, M79, được gởi chính xác vào từng cửa sổ, đại liên M60, súng cá nhân M16 chờ sẵn, những tên sống sót bung chạy, được đón tiếp dứt điểm. Đến lúc nầy thì những tên VC sống sót lại dở trò gian ác tàn nhẩn: chúng đốt nhà dân chúng để lợi dụng lửa cháy đặng lũi trốn. Do đó một số tên đã chạy thoát được về hướng bưng Vĩnh Lộc, Bình Trị Đông, Bình Chánh. Bây giờ là đúng 5 giờ chiều, mặt trận coi như đã được thanh toán xong, các trung đội được lệnh bung rộng để lục soát và thanh toán chiến trường. Đứng trên một gò mã Tr/u Đồng ĐĐT báo cáo chiến tích và thiệt hại của đại đội ông. Cách đó khoảng gần 100 mét, ĐĐ4 cũng đang thu nhặt chiến lợi phẩm, ĐĐT cũng đang kiểm điểm lại quân số, báo cáo thành tích và thiệt hại. Tổng kết trận đánh Nghĩa địa Triều Châu như sau: số VC chết tại chỗ trong các hầm hố, trong những đống gạch ngói hoang tàn, nằm chồng chất lên nhau tại bãi đất ngăn cách khu nghĩa địa và lò bún đếm được 206 tên, trong đó có 17 phụ nữ, 11 tên bị bắt sống trong đó có tên Chính ủy tiểu đoàn và một nữ giao liên cư ngụ ngay tại Phường Bình Thới. Quần áo của đơn vị nầy màu xanh đọt chuối, tức quân chính quy của chúng. Toàn bộ vũ khí tịch thu được gồm có 42 khẩu AK47, 9 súng B40 và B41, 2 đại liên phòng không 12 ly 7, một súng cối 61 ly, một đại bác không giật 166 SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC ÐẶC
75 ly, 312 quà lựu đạn và một số gói bộc phá…một số vũ khí bị cháy khi chúng đốt nhà để thoát chạy. Đặc biệt ta tịch thu hơn 200 mặt nạ chống hơi ngạt do Trung cộng sản xuất làm bằng nylon mỏng màu xanh có ống dưởng khí màu xanh lợt, trông có vẽ xấu xí, không “ngầu’ như mặt nạ được trang bị cho QLVNCH.. Thiệt hại về phía ta có 28 hy sinh, trong đó có 3 HSQ, 2 sĩ quan, một là Chuẩn úy Trung đội trưởng BĐQ Trương công Út, và Chuẩn úy Thạch Chi Đội Trưởng Thiết Giáp. Thạch còn quá trẻ bị chết cháy, tay vẫn còn siết chặt trên cò súng, với kế bên là tài xế Võ Đình Chi chết ngồi trong buồng lái. Về số bị thương có 38 BĐQ và 4 Thiêt Giáp. Hai thiết quân vận hư hại nặng, một trực thăng quan sát OH6 trúng đạn đáp khẩn cấp xuống trường đua Phú Thọ. May mắn phi cơ không cháy và phi hành đoàn an toàn. Qua điều tra sơ khởi theo lài liệu địch bỏ lại chiến trường, TĐ33BĐQ đã cùng với Thiết Giáp dưới sự yểm trợ của trực thăng võ trang đã tiêu diệt hoàn toàn Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 272 của Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt, cộng thêm 1 đại đội với bí số 45 Đặc công Cộng Sản. Tin chiến thắng được báo về BCH Hành quân LĐ5BĐQ, dù đã là 7 giờ tối, Tiểu đoàn nhận được lệnh “Clear” thật kỹ chiến địa để đón tiếp thượng khách đến thăm viếng và khen thưởng. Tưởng thượng cấp chỉ là Đại Tá Trần văn Hai, CHT binh chủng BĐQ và Liên Đoàn Trưởng LĐ5BĐQ Trung Tá Đào Bá Phước hoăc tối đa là Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, không ngờ ngoài những vị trên, thượng cấp lại là Phó Tồng Thống VNCH, Chủ Tịch Thượng Viện VNCH, Thủ Tướng Chính Phủ VNCH, Tổng Giám Đốc Dược Viện OPV tháp tùng…Quả là một cuộc thăm viếng bất ngờ của Thượng cấp. Trung tá Đào Bá Phước, Chỉ huy Mặt trận Khu vực D, Đ/u Tiểu Đoàn Trưởng TĐ33BĐQ đã hướng dẫn thượng cấp đi thăm các đơn vị Đại đội, Trung đội, và quan sát chiến trường còn ngỗn ngang xác giặc và chiến lợi phẩm. Sự khen ngợi đã được gởi đến quân nhân các cấp của TĐ33BĐQ và các đơn vị tham chiến thật nồng nhiệt …../…. Thiên Lôi Cựu SVSQ/K17TĐ
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
BÀI HÀNH CHO TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN Pine Bùi Cựu SVSQ/K17TĐ LTS: Tác giả sinh năm 1943 tại Huế, cựu Thiếu Sinh Quân, nhập học Khóa 17 SQTBTĐ, 10 năm lính, chức vụ: Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng tác chiến với 12 năm tù bại trận. Đến Mỹ 28-2-91 theo chương trình HO. Hiện tại nghỉ hưu và đang theo học Art về vẽ và điêu khắc tại Golden West College. Giải thưởng viết về nước Mỹ năm đầu tiên của Việt Báo Daily News… Trường tôi ở Vũng Tàu Gần non gần biển Vi vu gió lộng nghe sóng vỗ bờ Cột cờ cao hùng tráng Toàn trường chào cờ mỗi sáng thứ hai Trường cao mát mẻ Tường đá bao quanh Mặt nước thoáng long lanh Phía dưới tường đá xanh, Song sắt nhọn phía trên trông đẹp mắt Lính gác đêm ngày, Khung cảnh trường rộng mở tươi vui. Ba tòa nhà lớn ngót hai trăm phòng Lầu ăn ngủ, lầu học hành Sân banh đúng cở, mịnh màng xanh cỏ. Tập họp, học hành, diển binh, khí thế Thể thao thể dục, thi đấu rộn ràng, Lễ lộc tưng bừng, nhạc hùng kèn trống, cờ hoa lộng lẫy! ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Trường tôi đẹp nên thơ hùng vĩ Đẹp từ cổng ra vào cho đến cổng hiệu uy nghi Đẹp đến tình cảm, đến trang hoàng tổ chức. Đến học hành, đến kỷ luật, đến lý tưởng Tự Do. Thiếu sinh quân cùng chung hoàn cảnh Xa gia đình nghèo khổ có bên nhau Tình thương mến như anh em một Mẹ Tôi yêu trường tôi lắm Mỗi khóa Thiếu Sinh Quân Đúng 18 tuổi ra trường tác chiến Xe lăn bánh, người trên xe kẻ ở lại Vẫy tay chào, ôi giây phút chia tay! Cuốn theo vết xe lăn Đi vào cuộc đời gay góc Có sóng gió gian truân Có máu thắm hòa tan trong nước mắt. 167 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Kẻ Thủy Quân Lục Chiến, người Biệt Động Quân Kẻ Biệt Kính, Nhảy Dù, người Không Quân, lính Biển… Kẻ Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh Người văn phòng Ban 1, 2, 3, 4…. Kẻ Quân Xa, Quân Cụ, Truyền Tin Người Quân Y, Quân Nhu, Quân Báo Rồi Quân Khuyển, Quân Vận, Quân Bưu…. Mỗi kẻ một ngành nghề, mỗi người một binh chủng… Nhưng chung một con đường cùng đi bảo vệ quê hương Chiến tranh xây xác sa trường Nên lỡ hẹn trường xưa lớp cũ. Ba mươi tháng Tư Bảy Lăm Miền Nam không kham nổi Nên mặt trận Bốn Vùng Chiến Thuật lạnh tanh! Khắp góc biển chân trời Tiếng nổ ì ầm vang dội trong tim Thiếu Sinh Quân bé bỏng vẫn im lìm Ghì tay súng thề hy sinh cho chính nghĩa. Nguyện chết giữ trường Tuổi lớn nhất chưa đầy mười tám. Ôm mộng đời, đào núi lấp sông Vững niềm tin thề chiến đấu chung lòng Kết hợp lại lập vòng đai tử chiến . Giặc bên ngoài bắt loa kêu gọi “Hàng sống, chống chết” ôi dập dồn! Nhưng các ụ súng bên trong trả lời khẳng khái: Bắn! Bắn lũ xâm lăng! Bắn không ngừng tay nghỉ! Dân chúng mất hồn chạy loạn Đất nước tan tành, củi đậu hòa tan. Xác chết không mồ, da beo loang lổ Đường đi dài dẫn đến những mộ hoang. Tiến không được, rút chẳng xong Người lính bé con cùng nhau họp lại Trước khi quân địch tràn vào Ta hạ cờ trong cuộc lễ nghiêm trang Ôm lá cờ vào lòng rồi ngưởng mặt… Mất đất mất cờ, đành tạ lỗi với non sông!
168 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
………………… Các bạn hỡi! Có nghe chăng? Vi vu gió núi Vũng Tàu Sóng biển vỗ dạt dào non nước Việt Trường Thiếu Sinh Quân vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Trung học Thắng Tam vẫn mãi mãi còn đây Chợ Vũng Tàu vẫn quyến rũ mê say Đèo Ô Quắn quanh quanh nhô mé núi. Phố chợ biển hàng dừa ven cát Đường đi Sài Gòn, đường đi Bà Rịa, đường xuống Bạch Dinh Đường lên núi Lớn, đèn biển với rừng mai Đường ra hải cảng với khoan dầu, lưới cá Ngẫm lại một thời vàng son , thương quá! Mòn gót chân, chai những kỷ niệm năm xưa. Mùi hương cũ hiện về Rờn rợn con tim Chiếu sáng vùng Viển Đông Hòn Ngọc. Ôi Sài Gòn rực rỡ Nơi mối tình đầu Cô bé học trò chẳng dám nắm tay nhau Bởi chiến tranh đành chia ngang xẻ dọc. Nay đất nước đã đổi thay Tên nước, tên phố, tên đường… Sao tai nghe lạ hoắc! Trước cảnh cũ, trường xưa Ta thành người lạc lõng. Sóng dậy Biển Đông Bãi trước bãi sau.. Ốc hến nghêu sò tanh mùi lửa nướng! Hình Lưỡi Bò bản đồ mới vẽ Của quân thù chiếm biển đảo nước ta. Lịch sữ cũ của một ngàn năm nô lệ Lập lại rồi trên đất mẹ quê cha…… Pine Bùi Cựu SVSQ/K17TĐ.
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
KỶ NIỆM 50 NĂM RA TRƯỜNG Nguyễn Hữu Phái Cựu SVSQ/K17TĐ (1964-2014)
NGÀNH QUÂN CỤ
Cuối tháng 5 năm 1964, một buổi sáng đẹp trời… Chúng tôi khoảng 70 Sinh viên Sĩ quan được chọn đi ngành chuyên môn Quân Cụ, vác túi quân trang ra tập trung ở Vũ Đình Trường, chớ đơn vị ngành lên đón về quân trường chuyên môn để học Giai đoạn 2. Phút chia tay cùng những bạn bè đã chung sống với nhau qua bốn tháng Giai đoạn 1 thử thách đời chiến binh với bao kỷ niệm thân thương, những cái siết tay bịn rịn như không muốn buông ra, lòng rộn lên bao nổi thương cảm cho những bạn còn ở lại. Khóa 17 SQTB/TĐ nhập ngũ trong giai đoạn tăng cường quân số cho quân đội, do đó số Sinh viên sĩ quan đi ngành chuyên môn rất nhiều, gần phân nửa tổng số khóa sinh, có Trung đội chỉ còn vài người. Riêng ngành Quân Cụ khóa 17 là đông nhất, mấy khóa đàn anh và cả đàn em sau nầy chỉ vài ba chục sinh viên cho mỗi khóa. Từ khi được gọi tên đi ngành Quân Cụ, tôi cũng không hình dung ra loại lính nầy làm gì? Mà chỉ hiểu thoáng ra đây là “lính già” có thằng bạn cùng Trung đội tên Huỳnh văn Phong cũng về ngành Quân Cụ. Hắn giải thích sơ qua cho tôi về nhiệm vụ của ngành, đại khái là sửa chửa các loại quân cụ như xe cộ, vũ khí…Rồi hắn cười về học rồi biết, đừng nóng ông bạn! Sau nầy tôi mới biết, Phong từng là Hạ sĩ quan phục vụ tại Trường Quân Cụ nên hắn rành rọt về ngành như vậy. Tôi đã mang ơn Phong vì hắn đã giúp tôi khỏi làm 4 bản báo cáo và những ngày tù vì làm mất đuôi chồn cước thông nòng súng trong một buổi đi bãi tập về, dù rất mệt mõi nhưng mọi người vẫn phải lau súng. Trong lúc đang bày đồ nghề ra làm, một anh bạn ở Trung đội khác sang chơi, mải mê nói chuyện, khi thu hồi đồ nghề cất vào bao vội vàng có thể đã bỏ sót đuôi chồn cước. Hôm sau lau súng mới biết đã mất kiếm không ra, tôi lo lắng bị phạt nên than thở với Phong, hắn nói nhỏ với tôi “đừng cho ai biết để hắn tính cho” và hẹn khi đi phép cuối tuần sẽ kiếm cho cái khác. Đúng hẹn, khi về phép tôi gặp Phong là hỏi liền, ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
hắn làm bộ trả lời “Kiếm người quen nhờ vã nhưng không gặp”! Bao nhiêu hy vọng nơi tôi tan biến và trở lại niềm ưu tư lo lắng, thấy tôi buồn rầu, hắn mới móc trong túi ra một gói giấy đưa cho tôi và nói “đây ông bạn”. Mở ra tới 3 chiếc thay vì một, mới tinh còn sáng màu đồng, hắn còn dặn cất đi lỡ mất có cái thay thế. Để tạ ơn Phong tôi phải đãi hắn ăn trưa tại Câu lạc bộ Xuân Hương hai tuần lễ. Sau nầy về ngành Quân Cụ, thứ đồ ma đó xuống kho lấy bao nhiêu không có! Vị trí trường Quân Cụ nằm trên đường Ngã Năm Chuồng chó đi Xóm Mới, khu vực định cư của đồng bào Miền Bắc di cư năm 1954, chung quanh là khu vực hoạt động của “chị em ta”, cho nên các bạn từ Miền Trung hay Miền Tây không đi phép cuối tuần có thể ra giải khuây chung quanh trường lúc nào cũng có…Và sáng thứ hai một vài bạn lên Tiểu Đoàn Khóa Sinh lấy sổ đi khám bệnh vì bị “nổ ống khói’, đó cũng là đặc điểm địa lý của trường Quân Cụ. Như các trường chuyên môn khác, chúng tôi được hướng dẩn về nội quy của trường cũng như giới thiệu Sĩ quan Kỷ luật của khóa là Thiếu úy Nguyễn văn Thanh Khóa 6 TĐ, và hai Hạ Sĩ Quan kỷ luật là Th/sĩ Kỳ và Th/sĩ Lân, là ba vị hành hạ chúng tôi suốt khóa học. Hai tuần lễ đầu là nghe thuyết trình vể tổ chức và nhiệm vụ của ngành Quân Cụ. Cấp Cục Trung ương, cấp Liên Đoàn Vùng Chiến Thuật và các Đại Đội Quân Cụ yểm trợ diện địa. Ngoài ra ngành Quân Cụ còn phân chia ra hai loại ám số chuyên nghiệp: Loại 2&4 gồm Quân xa, Chiến xa và Vũ khí, Trọng pháo. Loại 5 gồm Bom, Mìn, Đạn dược, Chất nổ và Hóa học. Chúng tôi được hướng dẫn tổng quát về nhiệm vụ sửa chửa và tiếp liệu theo phân cấp của ngành: Cấp 2 Binh Đoàn, Cấp 3 Đại Đội Quân Cụ, Cấp 4 Tiểu đoàn Trung hạng, Cấp 5 Căn cứ Tân trang…Sau đó thi trắc nghiệm phân ngành theo ám số chuyên nghiệp nêu trên. Sau khi thi được phân chia như sau: Quân xa 30 sinh viên, Vũ khí&Trọng pháo 28 sinh 169 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
viên và Đạn dược 13 sinh viên. Từ giai đoạn nầy, các lớp học riêng theo chuyên ngành, đi sâu vào lý thuyết và thực hành, sửa chữa các loại quân dụng trách nhiệm yểm trợ. Thường buổi sáng học lý thuyết tại trường, chiều sang thực tập tại Căn cứ 80 Tân trang Quân cụ (cấp 5 cao nhất) cùng chung doanh trại với trường. Riêng lớp Đạn dược thực hành tại Kho 531 đồn trú tại Gò Vấp hoặc Căn cứ 50 Tồn Trử Đạn Dược tại Cát Lái. Chương trình theo thời gian kết thúc vào khoảng giữa tháng 9, các lớp thi mãn khóa gồm hai phần lý thuyết và thực hành, để đầu tháng 10 trở về trường mẹ tham dự Lễ mãn khóa toàn trường.Đây có thể là thời gian thoải mái nhất, sáng tập diển hành, chiều tối là bài bạc…Vì sự giám sát của các sĩ quan trường mẹ tương đối dễ dãi với đám con rơi nầy, còn Sĩ quan hướng dẩn của Trường Quân Cụ chỉ giữ vai trò liên lạc. Rồi ngày mãn khóa cũng tới, dưới sự chủ tọa của Trung Tướng Nguyễn Khánh Chủ tịch Hội Đồng Tướng Lãnh kiêm Thủ Tướng Chính Phủ, Chuẩn Tướng Nguyễn Cao Kỳ Tư Lệnh Không Quân, Chuẩn Tướng Bùi Hữu Nhơn, Chỉ Huy Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Buổi lễ đã diển tiến tốt đẹp, duy có một kỷ niệm mà tất cả sinh viên trong khóa không thể nào quên, đó là màn biểu diển của Không Quân vì bay xuống quá thấp cất lên không kịp, nên một chiếc lao xuống thửa ruộng phía cổng số 8
khiến cho phi công bị thiệt mạng. Lúc đó có người nói là điềm sui cho khóa, lại có người nói “sinh dữ, tử lành”…chẳng biết ai trúng ai sai, như là kỷ niệm buồn vì có một chiến hữu phi công chết lãng xẹt. Sau đó chúng tôi trở lại Cục Quân Cụ để chọn đơn vị, từng nhóm 5 sĩ quan theo kết quả thi tốt nghiệp, mục đích để các vùng có sự đồng đều các chuyên viên giỏi, trung bình và kém. Do đó anh đậu hạng 4, 5 của nhóm 1, thua anh hạng 6, 7 của đầu nhóm 2… Sau màn chọn đơn vị, cũng có vụ thương lượng đổi chác cho nhau, như anh ở Vùng 1 lại chọn phải Vùng 4 và ngược lại, nên đổi cho nhau nhưng phải làm đơn đồng thuận của hai bên. Kết thúc, mỗi người nhận lãnh Sự vụ lệnh thuyên chuyển và 15 ngày phép mãn khóa học. Trước khi chia tay đi 4 Vùng Chiến Thuật, anh em Khóa 17 Quân Cụ có buổi tiệc họp mặt tại Nhà hàng Á Đông tại Chợ Lớn. Nhiều bạn cho đến hôm nay Kỷ niệm 50 năm ra trường, mà vẫn chưa một lần được gặp mặt lại nhau, trái đất tròn mà sao…khó thế! Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày Miền Nam hoàn toàn sụp đổ, khóa chúng ta chỉ khoát áo lính được 11 năm, nhưng riêng ngành Quân Cụ tất cả đều mang cấp bậc Đại Úy thâm niên. Riêng hai bạn mang cấp bậc Thiếu Tá là Trịnh Ngọc Toản (SĐ Dù), Bùi Thiện Lộc (Cục Quân Cụ) và Trung Tá Nguyễn Năng Chín (SĐ 1BB).
Một số bạn đảm nhận chỉ huy các đon vị như: -Nguyễn văn Khôi ĐĐT/ĐĐ813YTTT/QC (hy sinh tại Quảng Trị 72) -Hồ Diển ĐĐT/ĐĐ812YTTT/QC tại Đà Nẳng -Phan Quang Dinh ĐĐT/ĐĐ814YTTT/QC tại Quảng Ngãi -Lê Xuân Hy ĐĐT/ĐĐ822YTTT/QC tại Phan Rang -Nguyễn văn Như ĐĐT/ĐĐ852YTTT/QC tại Nha Trang -Nguyễn Phi Phụng ĐĐT/ĐĐ837YTTT/QC tại Bình Dương -Lâm văn On ĐĐT/ĐĐ844YTTT/QC tại Cần Thơ -Nguyễn văn Tâm ĐĐT/ĐĐ846YTTT/QC tại Mỹ Tho -Nguyễn Hữu Hiệp ĐĐT/ĐĐ5QC Sư Đoàn 5 BB -Cao văn Lâm ĐĐT/ĐĐ Quân Cụ SĐ/TQLC. Ngoài ra, một số khác giữ các chức vụ tham mưu trong một chiến trường khốc liệt tại Việt Nam, thì then chốt tại cấp Liên Đoàn Vùng Chiến Thuật hoặc những bom đạn vô tình không phân biệt được ai. Vì tại trung ương Cục Quân Cụ. Nhìn chung, theo đánh thế một số bạn đã hy sinh. Sớm nhất là Nguyễn văn giá của Niển Trưởng của ngành Quân Cụ thì đa số sĩ Quý tử trận tại Đại Đội 851 YTTT/QC tại Đà Lạt quan của Khóa 17 là giỏi. Tuy nhiên bên cạnh những trong Tết Mậu Thân năm 1968, rồi Nguyễn văn Khôi ưu điểm cũng không tránh khỏi một ít cá nhân khả Đại Đội Trưởng 813 YTTT/QC tại Quảng Trị năm năng kém có thành tích xầu trong ngành. 1972, Huỳnh văn Phong SĐ15BB tại Hậu Nghĩa. Có quan niệm cho rằng vào lính đi ngành chuyên Riêng Nguyễn Tiến Cảnh và Nguyễn xuân Thân ra môn là có bùa hộ mạng chữ thọ dán lên trán, nhưng Bộ Binh không rõ thuộc SĐ22BB hay SĐ23BB, tử 170 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
trận tại Miền Trung. Sau ngày Miền Nam sụp đổ như chim lạc đàn tan tác, kẻ vào tù người lưu lạc bốn phương, đến nay chúng ta không điểm danh danh được số bạn đã ra đi vì thiếu thông tin liên lạc. Tuy nhiên cũng xin liệt kê ra những bạn được biết chính xác đã giã từ chúng ta vì tuổi già bệnh tật gồm có: Nguyễn văn Chất, Hồ Diển, Nguyễn văn Tâm, Nguyễn Năng Chín, Vũ Đình Chi, Lê văn Hiền, Tường Duy Lợi, Nguyễn Phi Phụng và Đoàn Đức Thoại..v..v..và những bạn khác mà chúng ta không biết được tin tức. Năm mươi năm, một mốc thời gian không là bao với sử học nhưng rất dài so với một đời người, để hồi tưởng lại một quãng đời hoa niên trai tráng đã hăng say gia nhập vào Quân đội để bảo vệ Miền Nam Tự Do chống lại tập đoàn Cộng sản Miền Bắc xâm lược. Nhưng vì quyền lợi của các siêu cường đã bức tử QLVNCH, dập tắt những hoài bảo hào hùng của bao người trai trong thời loạn, chúng ta đã trở thành “bên thua cuộc” trong tủi hận lao tù… Không hoàn thành được trách nhiệm giao phó, có lẽ linh ứng với nhà Cách mạng Nguyễn Thái Học, mà tên ông đã được đặt cho Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Xin nhắc lại câu danh ngôn của ông: “Không thành công, cũng thành nhân”…như một lời an ủi cho tất cả anh em chúng ta. Nam Cali Hè 2014. Nguyễn Hữu Phái
Tïëu
THẾ MÀ TAO CỨ TƯỞNG ..
Hai cha con cùng đi dự thi «Cuộc thi tìm hiểu về Phụ nữ». Kết quả, người con đậu, người cha rớt. Thế là người cha bực mình hỏi con: - Tao lớn hơn mày mấy chục tuổi, lẽ nào lại không hiểu phụ nữ bằng mày hả? Mày hãy nói tao nghe mày đã trả lời các câu hỏi thi như thế nào. Người con từ tốn lặp lại từng câu hỏi của cuộc thi và câu trả lời của cậu ta : 1. Tóc của người phụ nữ ở đâu quăn nhất? Con trả lời ở Châu Phi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Người cha la lên: - THẾ MÀ TAO CỨ TƯỞNG. 2. Cơ quan nào của người phụ nữ mạnh nhất? Con trả lời : Hội Phụ Nữ Thế Giới. Nguời cha lại la lên: - THẾ MÀ TAO CỨ TƯỞNG. 3. Cái gì của người đàn ông mà người phụ nữ cần nhất. Con trả lời: Túi tiền. Người cha thở dài: - THẾ MÀ TAO CỨ TƯỞNG MỤ NỘI MÀY… Đã gần 3 giờ sáng, giờ này không còn xe buýt, cả xe điện ngầm, chỉ còn độc nhứt chiếc Taxi tôi đang bon bon trên đường vắng. Một cô gái tóc xõa dài, mặc trên người nguyên bộ đồ trắng vẫy tay ngoắc xe tôi... - Thưa cô, đi đâu? - Bác tài, chở tôi về Cảnh Mỹ... Chiếc taxi tôi đang chạy thật nhanh, đồng hồ lên xuống 90-100 cây số giờ. Suốt một khoảng đường dài yên ắng, tôi cảm thấy đàng sau không một tiếng động mới ngẩng đầu nhìn vào kính chiếu hậu, không thấy cô gái đâu cả, toát cả mồ hôi, tôi vội thắng gấp xe và quay đầu ngó ra băng ghế sau. Cô gái ngồi đó đang trừng trừng cặp mắt nhìn vào mặt tôi. Tôi lại quay đầu chúi mũi vọt xe, một đỗi sau lại ngó lên kính chiếu hậu. Quả thật kinh hãi, cô gái không còn thấy ngồi đằng sau nữa. Tôi thót cả người, mồ hôi rướm đầy ra trán, lại một cú thắng thật gấp, quay đầu nhìn lại thì cô gái còn ngồi đó cứ cặp mắt trừng trừng ngó tôi. Xe tiếp tục chạy...cô gái lại biến đâu mất không thấy trên kính chiếu hậu. Tôi lại thắng, cú này đôi chân tôi đạp thắng thật mạnh lút pê đan, vừa quay đầu định ngó ra sau thì thấy nguyên một bộ mặt chần dần của cô gái mà máu mũi đang phún ra trên nệm ghế xe tôi. Cô ta chồm người lên, hai bàn tay móng sơn tím xiết lấy cổ tôi rồi gầm lên: - Mụ nội mày... tao với mày có thù có oán gì, mà hễ tao cúi đầu xuống cột dây giày thì mày lại thắng xe chúi nhủi, để đến nỗi tao bị dập cái mũi mới sửa? Mụ nội mày, phen này thì bà giết mày rồi có đi tù cũng được. Tôi vội chụp lọ pepper spray, xịt một phát cứu nguy rồi tông cửa vọt ra ngoài, móc phone kêu cảnh sát và xe cứu thương. 171 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Chiïën Trûúâng Xûa
Trêån chiïën sau cuâng
TĐ9TQLC - MX Đoàn Văn Tịnh
Lời tác giả: Sau gần 20 năm ngày tàn chiến cuộc, tôi mới có dịp viết về Tiểu đoàn để tưởng nhớ nhũng người bạn và em út cùng đơn vị đã nằm xuống... Sự đóng góp xương máu cùng sự sống của các bạn cho một vùng quê hương qúa đỗi bất hạnh, có lẽ là niềm đau xót trong suốt cuộc đời còn lại của tôi. Thực tế, những câu đàm thoại giữa các đơn vị đều ngụy hóa. Nhưng tại đây đã đươc chuyển sang bạch văn với mục đích để đọc giả có thể đọc và hiểu dễ dàng. Chiều ngày 27 tháng 3 năm 1975, Thiếu tá Lâm tài Thạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9/TQLC và tôi Trưởng ban 3 Tiểu đoàn được gọi về dự buổi họp bất thường tại BCH-Lữ Đoàn 369, bản doanh đặt tại huyện Đại Lộc, Quảng-Nam. Vẫn như thường lệ mỗi khi về BCH/LĐ để họp hành quân, chúng tôi chào hỏi, tay bắt mặt mừng với Trung tá Nguyễn xuân Phúc, Lữ Đoàn trưởng và Trung tá Đỗ Hữu Tùng, Lữ Đoàn phó. Từ ngày 16 tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 9 TQLC được lệnh của Lữ đoàn 369 từ giã chiến trường Quảng-Trị, bàn giao nhiệm vụ và tuyến đóng quân cho các đơn vị Bộ Binh và Địa Phương Quân, theo Lữ đoàn di chuyển vào Quảng-Nam. Tới QuảngNam, Tiểu đoàn 9 TQLC chia làm hai cánh. Cánh A gồm Đại đội 4, Đại đội 2 phòng thủ dài trên dãy núi Sơn Gà do Tiểu Đoàn trưởng chỉ huy. Cánh B gồm Đại đội 3, Đại đội 1 phân tán trên những dãy núi chạy dài xuống núi Đất và bên kia bờ sông Vu-Gia cách Tiểu đoàn chừng cây số, thay thế vị trí cho những đơn vị Nhảy Dù đã di chuyển vào 172 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Nam. Lữ Đoàn có nhiệm vụ chính là đánh chiếm lại đỉnh núi 1062 mà trước đó các đơn vị Biệt Động Quân, Nhảy Dù đã thay nhau giao tranh ác liệt, đẩm máu với quân Bắc Việt. *** Ngày 16 tháng 3 năm 1975. Trong suốt cuộc đời chiến trận, đơn vị di chuyển từ nơi này đến nơi khác vẫn là những chuyện bình thường. Tuy nhiên lần này nhìn vào sự chuẩn bị quá vội vàng của Bộ Chỉ huy Lữ Đoàn 369/TQLC, từ việc bàn giao lại nhiệm vụ hành quân, phòng thủ cho đơn vị bạn nơi vùng tuyến đầu Quảng-Trị, cũng như lệnh cho các Tiểu Đoàn tác chiến, Pháo binh TQLC, cùng các đơn vị yểm trợ khiến chúng tôi có nhiều suy nghĩ và cảm nhận ra một điều gì đó vô cùng bất ổn và nguy hiểm: Lúc 12 giờ khuya hôm qua, đêm 15 rạng ngày16 tháng 3 năm 1975, chúng tôi nhận lệnh từ Lữ Đoàn, cho đơn vị chuẩn bị và sẵn sàng di chuyển lúc 7 giờ sáng, nếu những đơn vị bạn không đến kịp để bàn giao thì cũng bỏ vị trí cho binh sĩ lên xe nhanh chóng đến điểm tập trung trên Quốc lộ 1 trước làng Cọp Biển, gần cầu Bến Đá. Từ giã bãi biển Gia Đẳng nơi Tiểu Đoàn nghỉ ngơi gần một tháng trong dịp tết về, thực sự có chút chi đó vướng víu trong lòng chúng tôi. Trên bãi cát trắng trải dài và phẵng phiu vào một sáng mùa Xuân, có chút sóng vỗ và ánh nắng tươi mát ban mai chiếu lên những con Nuốt trong vắt bị sóng xô mằm phơi trên bãi cát, tỏa ra đủ sắc màu long lanh như những viên ngọc quí hoàn hảo, cảnh vật thực bình yên, xinh đẹp. Song cũng chính nơi vùng biển trời xinh đẹp này lại là vùng chiến trường đẩm máu với nhiều trận đánh khủng khiếp của Tiểu đoàn 9 TQLC vào những ngày tháng cuối 1972 và đầu năm 1973, vùng chiến trận kéo dài từ Gia Đẳng qua Chợ Cạn, đập Linh Quang ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đến tận Cửa Việt. Có lẽ đây là điểm mốc thời gian cực thịnh sau hết của TĐ9/TQLC dưới thời Trung tá Nguyễn Kim Đễ với hệ thống SQ, Cán bộ cũ kể từ ngày thành lập đơn vị vào tháng 4 năm 1970 cho tới trước khi anh được bổ nhiệm về đảm trách chức vụ Trưởng Phòng 3/SĐ/ TQLC.
*** Rời Vùng I chiến tuyến địa đầu đất nước về Quảng-Nam. Vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975, đoàn xe theo thứ tự gồm TĐ6/TQLC, TĐ2/ TQLC, BCH/LĐ369, Pháo binh TQLC trên xe đầy cả các loại vật dụng, vợ con, gia đình, sau hết là TĐ9/ TQLC. Rồi thêm một cái đuôi dài lòng thòng lôi thôi lếch thếch tội nghiệp đằng sau là dân chúng bồng bế chạy theo với hàng chục chiếc xe dân dụng, tiếng trẻ con khóc la, tiếng kêu réo gọi nhau ơi ới thất lạc, với dáng mặt thất sắc kinh hoàng. Ra đi với nhiều âu lo thắc mắc trong lòng mọi người. SQ và binh sĩ thuộc cấp trong đơn vị đã nhiều lần hỏi tôi điều này, nhưng tôi đã không thể trả lời họ một cách rõ ràng như mọi khi. Trong tôi chỉ có linh cảm sẽ mất đất, mất tất cả Vùng I. Vào Đại Lộc vài ngày sau đó tôi còn nhớ rõ, chiều 26 tháng 3 chúng tôi theo lệnh Lữ Đoàn tiếp nhận thêm một số đơn vị Đia Phương Quân và Bộ Binh di tản từ chiến trường Quảng-Trị về. Anh Thạnh bảo tôi giao những đơn vị này cho Thiếu tá Lộc phối trí phòng thủ ở núi Đất. Trong suốt ngày 26, 27 tháng 3 năm 1975, chúng tôi đã nhận được rất nhiều tin tức đáng buồn về các đơn vị bạn Tiểu Đoàn 3, 4, 5, 7 /TQLC, TĐ2/PB và ĐĐ Viễn Thám, bị cắt đứt ở Thuận An. Cố Thiếu tá Nguyễn Tri Nam, người bạn đồng khóa 22 Võ Bị đã tử trận trên đường lui quân tại bờ biển Thuận An, Thiếu tá Đinh Long Thành, K19, TĐT/TĐ4/ TQLC mất tích và một số bạn bè, thuộc ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cấp trong những đơn vị cũng đã vĩnh viễn từ giã chiến trường. Một số đơn vị khác đang cố gắng tránh lưới đạn pháo trong khi triệt thoái để xuống tàu trước sự tấn công dồn dập của quân Bắc Việt. Tôi hình dung ra một vùng chiến trận tơi bời, thê thảm của những “Hùm thiêng sa cơ, thất thế”. Một thời nào đó, chúng tôi đã tự nguyện hiến dâng tuổi trẻ và đời mình cho đất nước, nhiệt tình hăng hái nung nấu cùng nhau tìm vào nơi gió cát với ý chí “quyết chiến, quyết thắng”, nhưng trước những mất mát quá đỗi to lớn và bất ngờ trên quê hương hôm nay, tôi không sao ngăn được tiếng thở dài chua xót, cố nén giòng nước mắt đau thương đang chảy xuống với nỗi uất hận cuả một người lính trận. “Như vậy Quảng-Trị và Huế đã mất!” Trong buổi họp, vị Trưởng ban 3 Lữ Đoàn và Trung tá Lữ Đoàn trưởng thuyết trình về tình hình địch và bạn trong vùng trách nhiệm của Lữ Đoàn, cùng một số tình hình của các đơn vị TQLC ở Huế, bãi biển Thuận An. Ra khỏi phòng họp, tôi hỏi anh Tùng : - Số đạn dược mà tôi xin Lữ Đoàn thì bao giờ có? Anh Tùng trả lời: - Chiều nay hay ngày mai, yên tâm. Còn bây giờ thì uống tí rượu, ông Tướng vừa mới xuống thăm có cho mấy chai Napoléon đây. Mỗi người một vài ly nhỏ rồi sau đó chia tay. Từ giã các anh, trên đường về chúng tôi ghé lại cái quán nhỏ bên đường ăn tô mì Quảng và uống ly cà phê, nhân tiện nhìn sơ tình hình sinh hoạt của dân chúng chung quanh. Nơi đây cũng như ở Quảng-Trị, đời sống của dân chúng nghèo nàn, thiếu thốn quá nhiều. Trong căn nhà lá nho nhỏ tạm đặt BCH/TĐ, cạnh con đường đất đỏ trên sườn núi Sơn Gà, từ đó chúng tôi có thể nhìn bao quát quận Đại Lộc và con sông Vu-Gia. Anh Thạnh và tôi ngồi hút thuốc nói chuyện, những câu chuyện Sài gòn, Huế, Quảng trị. Trong lòng thì lo lắng, song chúng tôi cũng không biết nên làm gì. Lữ Đoàn cho lệnh tiếp nhận đạn dược. Tôi gọi cho Thiếu tá Lộc chuẩn bị đón nhận và phân phối cho các Đại đội, báo cho biết khi xong xuôi. Anh Lộc trả lời trên máy và hỏi: - Chúng ta sắp làm gì Tân an? - Có lẽ chiếm lại ngọn đồi 1062. Anh Lộc vui vẻ tâm sự: “Ông Thiếu úy Hùng mới ra trường mà anh đưa lên cho tôi, trông tướng tá ngon 173 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
lành và đẹp trai quá. Anh là người Huế, gia đình ở ngay trên đường phố Phan bội Châu, Hùng nói rằng từ ngày ra trường chưa kịp đi phép đã phải ra trình diện đơn vị ngay, bây giờ cũng không biết gia đình ra sao...” Phải, sáng nay có một Sĩ quan về bổ sung cho Tiểu đoàn, anh tốt nghiệp khóa 27 Trường VBQGVN. Tôi bận rộn quá chỉ giữ Hùng lại ở BCH/ Tiểu đoàn có 1 tiếng đồng hồ, hỏi thăm người đàn em vài điều về trường cũ, nhờ người lính nấu cho Hùng một tô mì gói, rồi vội vàng đưa Hùng về Đại đội 3 thuộc cánh B. Tôi nghĩ sau này có thì giờ sẽ nói chuyện và hỏi thăm Hùng về gia đình và anh em nhậu với nhau vài chai bõ nhớ. Nhưng có ai biết những bất ngờ đến với một người lính trận: gặp mặt, chia tay để rồi sau đó tôi không bao giờ có dịp gặp lại người đàn em tội nghiệp đó nữa. Anh chưa hề biết chiến trường nơi đâu, chiến trận là gì, địch quân như thế nào, cho đến khi xuôi tay nhắm mắt. Hùng tử trận vào lúc 5 giờ chiều ngày 29 tháng 3 năm 1975 trên bờ biển Mỹ-Khê .
Trên đường di tản *** 4 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975 Người Sĩ quan phụ tá bảo tôi vào máy gặp Đại Bàng Thái Dương (danh hiệu của Trung tá Đỗ hữu Tùng), anh Thạnh theo tôi tới phòng máy. - Thái Dương đây Tân An tôi nghe. - Tân An đó hả, nghe tốt không ? - Trình Đại Bàng, 5 trên. - Lệnh cho Tiểu đoàn 9: Số đạn dược được tải đến hôm qua trang bị đầy đủ cho mỗi cá nhân, đạn XM16, đạn phóng lựu, đại liên ..., còn lại bao nhiêu 174 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chôn xuống tại chỗ; khi nào xong xuôi Tân An cho biết. - Đáp nhận Đại Bàng. Tôi bỏ ống liên hợp xuống và nhìn anh Thạnh, anh im lặng một lúc rồi cầm máy gọi anh Lộc: - Lộc Ninh đây Tây Đô. - Lộc Ninh nghe Đại Bàng. Anh Thạnh cẩn thận dặn dò Thiếu tá Lộc những điều cần thiết, sau đó lệnh cho anh Lộc thực hiện lệnh của Đại Bàng Thái Dương. Anh Thạnh bỏ máy xuống và hỏi tôi: - Như vậy là sao Tân An? Tôi cười một cách tự tin: - Có lẽ chúng ta phải lui quân mấy cây số, chờ đánh bom xong là tái chiếm đồi 1062, Đại Bàng yên tâm, số đạn dược trang bị chúng ta đã dư dùng, đánh lên xong sau đó trở lại lấy để tái trang bị và phòng thủ, phải không? Anh Thạnh nghe thì nghe vậy, cũng như tôi khi nói thì nói vậy, nhưng trong lòng chúng tôi có quá nhiều thắc mắc và nghi ngờ. Anh Thạnh vô cùng lo lắng, mà tính anh ấy là như vậy. Thiếu tá Lâm tài Thạnh nhận được lệnh chỉ định về đảm nhiệm chức Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 9 TQLC thay thế Trung tá Huỳnh văn Lượm, và tôi được thuyên chuyển về để đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban 3/TĐ. Thoạt đầu tôi do dự không muốn, vì chức vụ này tôi đã qua từ lâu rồi. Tuy nhiên sau khi suy nghĩ về lại Tiểu Đoàn của chính mình đã thành lập từ ngày đầu, tôi lại có cảm giác thích thú và tự nghĩ rằng chỉ một thời gian ngắn nữa thôi thì thế nào cũng sẽ phải có sự thay đổi. Từ giã Lữ đoàn 258 để về lại Tiểu Đoàn 9/TQLC, lúc đó đang đóng quân ở Chợ Cạn, quận Mai Lĩnh, Quảng Trị., tuy nhiều bạn bè đã thuyên chuyển qua những đơn vị khác như Trí, Cự, Tuấn ... song tôi cũng còn tìm lại được những người đàn em dễ thương như: Phán mập, Công, Quang và Ba Gà...cùng những người thuộc cấp cũ của tôi. Thiếu tá Thạnh còn trẻ lắm, anh xuất thân từ khóa 17 trường Bộ binh Thủ Đức, tính tình ít nói, hiền lành nhưng nghiêm-nghị. Trong vấn đề chỉ huy đơn vị, tôi phụ giúp anh một cách hiệu quả, tâm đầu ý hợp. Thực ra đối với tôi thì các Đại đội trưởng là cấp dưới đồng thời cũng là những người đàn em rất thân thiết và dễ thương, nên vấn đề điều đông chỉ huy cũng dễ dàng êm đẹp. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Anh Thạnh thường giao cho tôi thu xếp hầu hết những công việc nội bộ của Tiểu Đoàn như điều động, hành quân hay tổ chức giải trí cho đơn vị. Anh Thạnh không yên tâm, anh hỏi lại tôi : - Tân An nghĩ có đúng không ? Tôi cười : - Không chắc, cả hai chúng tôi cùng cười vui vẻ thoải mái. Lo chi, tất cả chuyện gì rồi cũng OK thôi. Mọi lệnh lạc của Lữ Đoàn, chúng tôi đã thi hành xong và báo cáo về Lữ Đoàn lúc 6 giờ chiều. *** 6 giờ 30 chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975 - Tân An đây Thái Dương, - Tân An nghe Đại bàng. - Tôi muốn gặp Tây-Đô. Anh Thạnh đưa tay cầm máy và ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên cạnh. - Tây Đô nghe Đại Bàng. - OK, Tây Đô lật tấm bản đồ và nghe cho kỹ. Tôi giở tấm bản đồ đẩy tới trước mặt anh Thạnh. - Sẵn sàng rồi Đại Bàng. - Khi có lệnh, cánh B từ chỗ đóng quân di chuyển xuống và theo chân dãy Sơn Gà tiến về sông Túy Loan, cánh A di chuyển xuống Đại Lộc gặp BCH/Lữ Đoàn và nhận lệnh tiếp. Tất cả sẵn sàng khi có lệnh sẽ thi hành. Tây Đô có gì cần hỏi không ? - Tây Đô đáp nhận 5, không Đại Bàng. - Tân An anh cho mời Thiếu tá Lộc xuống đây . - Vâng. Sau đó tôi gọi anh Lộc tới họp gấp. Tiếng nói của Trung tá Đỗ hữu Tùng lạnh lùng và sắc như dao cắt, mặt anh Thạnh thoáng vẻ lo âu vì cái lệnh hành quân kỳ lạ này. Lần đầu tiên trong đời lính tôi nghe một cái lệnh lạ lùng và khủng khiếp. Ôi ! Sao lại rút lui, rút về đâu, không lẽ kéo xuống Đà Nẵng lập phòng tuyến ngay giữa thành phố như Tết Mậu Thân hay lại chạy ra biển vội vàng lên tàu như các Tiểu Đoàn TQLC ở Huế, lại tiếp tục bỏ Quảng Nam, Đà Nẵng? Suốt thời gian đợi chờ thi hành lệnh chúng tôi có cảm tưởng đang chờ lên đoạn đầu đài. Bữa cơm chiều đã sắp sẵn trên bàn gần chổ ngủ của anh Thạnh. Các anh Thạnh, Lộc và tôi vừa ăn cơm, vừa nói chuyện, vừa ra lệnh vừa dặn dò kế hoạch chuyển quân, chúng tôi đã thu xếp xong mọi việc. Từ giã anh Thạnh và anh Lộc trở về phòng máy làm việc với Phán và Quang, hai anh này đã có mặt đang ngồi chờ tôi. Chào nhau xong Phán hỏi : ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
- Có tin gì vui không anh Ba? - Có, chuẩn bị dọt. Phán thực dễ thương miệng luôn cười hề hề: - Tấn công đồi 1062 phải không, anh Ba? Tôi nhìn Phán rồi nhìn Quang, cảm thấy tội nghiệp hai người đàn em, tôi bảo họ ngồi xuống. Tôi chỉ những tấm bản đồ mà Trung úy Sơn đã dán lên tường từ mấy hôm trước, những nét bút màu xanh, đỏ, đen ...dấu hiệu cuả trục tiến quân, điểm kiểm soát, Đại đội, Trung đội, Tiểu đội, chi chít : - Vẽ vào bản đồ cẩn thận như Sơn đã vẽ trên bảng, sau đó tôi sẽ nói chi tiết, OK. Quang và Phán lật bản đồ vừa vẽ vừa thì thầm nho nhỏ với nhau: - Xong rồi anh Ba! Dặn dò xong mọi chuyện tôi thở dài nói với Phán và Quang: - Không biết có phải vội vàng triệt thoái như những Tiểu đoàn kia không, sao tôi nghi quá. - Sao anh Ba nói nghe thê thảm quá vậy? - Phán và Quang nghe đây “hãy cẩn thận lo cho anh em trong đại đội, các chú phải nhớ rằng, khi họ ra lệnh lui quân theo kiểu này có nghĩa là nước đến cổ rồi. Cầu mong sao cho Tiểu Đoàn chúng ta may mắn, an toàn”. Tôi bắt tay Quang, bắt tay Phán: - Về đi, nhớ cẩn thận. Cho xe đưa các anh về lại tuyến đóng quân đại đội, còn một mình tôi ngẩn ngơ nhìn lên dãy núi Sơn Ga, những dãy núi chập chùng nối tiếp nhau chạy về cuối chân trời xa, giữa bóng chiều quạnh hiu. Tôi trở về lều nằm lên võng đu đưa và nghĩ ngợi. Hình như có điều gì đó không ổn hay một thứ gì đó sắp mất mát, tôi mơ hồ cảm nhận như vậy và miên man trong giấc ngủ quên. *** 12 giờ 10 khuya 28 rạng 29 tháng 3 năm 1975. Cuối cùng lệnh cũng đã tới, lúc đó 0 giờ 10 phút đêm 28 rạng ngày 29 tháng 3 năm 1975. Anh Thạnh đứng lên anh cố vươn vai hít một hơi dài để có thêm chút sức mạnh và thở dài nói với tôi: -Tân An, anh điều động và lệnh cho Tiểu Đoàn Zulu, bảo Đại đội trưởng chỉ huy lên gặp tôi. -OK! Tôi gọi Thiếu tá Lộc: - Lộc Ninh đây Tân An. - Lộc Ninh nghe Tân An. - Lộc Ninh cho con cái sẵn sàng chưa? ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC 175
- Sẵn sàng rồi Tân An. - Cho Zulu, và báo cáo, kế hoạch không thay đổi. - Nhận Tân An 5. - Sơn, cho gọi ĐĐT chỉ huy lên gặp Thiếu tá. Cánh B dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Lê văn Lộc men theo chân của dãy núi Sơn Gà và vùng làng mạc bên trái của trục lộ tiến về sông Túy Loan. Còn cánh A gồm Đại đội 4 của Trung úy Lưu minh Quang dẫn đầu, đoạn hậu có Đại đội 2 của Trung úy Lưu văn Phán, di chuyển xuống chợ Đại lộc để gặp Lữ Đoàn. Đúng 1 giờ khuya, cánh A đến điểm hẹn. Trước mắt tôi là một bãi đất trống, trong đêm đen tôi vẫn nhìn thấy rõ lỗm ngỗm cây, dây, poncho, thùng đạn, thùng gỗ pháo binh. Tại vị trí cũ của Lữ Đoàn không một bóng người, chỉ chừng nấy thôi tôi cũng đã hiểu ra tình cảnh của chúng tôi trong hiện tại. Anh Thạnh hỏi tôi: - Sao vậy Tân An ? Tôi buồn bực: - Tôi không hiểu. - Thái Dương đây Tân An. - Thái Dương nghe. Trong suốt đoạn đường di chuyển, cũng như tôi, dường như anh Tùng luôn luôn cầm ống liên hợp để điều động các đơn vị để cho đơn vị trưởng rãnh rỗi giải quyết các tình huống cấp bách. - Thái Dương ở đâu vậy, ở đây không còn ai hết? - Đúng rồi, anh cho tiến về sông Túy Loan sẽ gặp tôi. - Đáp nhận. Trong những lần di chuyển quân, tôi vô cùng thận trọng, lệnh cho Trung úy Quang chia thành 3 cánh. Trung đội cánh phải tiến trong bìa làng, Trung đội cánh trái dàn rộng về phía núi để tránh những tổn thất do địch quân phục kích. Phán gọi máy cho tôi biết: - Trình anh Ba, sau lưng chúng ta là Bộ Binh, Địa Phương Quân tùm lum chúng ta phải làm sao? Tôi dứt khoát: -Cố gắng điều động Đại đội của anh vững vàng, tuyệt đối không cho bất cứ ai xen lấn vào hàng quân. Cho Trung đội đi sau giữ khoảng cách xa Đại đội hơn. Hãy tiếp tục di chuyển, để cho các đơn vị bạn theo sau mà thôi. Dù không nhìn, chúng tôi cũng dư biết một cái đuôi vô cùng luộm thuộm của các đơn vị bạn và dân 176 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chúng bồng bế chạy theo. Song biết làm sao hơn là cố gắng giữ vững chủ lực để khi cần lâm trận. Trong đêm tối, mũi tiến quân vẫn vững vàng. Không biết mình tới sông Túy Loan để làm gì, nhưng trong lòng chúng tôi vẫn luôn tin tưởng vào sức mạnh tuyệt đối của một Tiểu Đoàn TQLC thiện chiến, cho nên trên đoạn đường tiến quân thỉnh thoảng gặp những ổ phục kích việt cộng, các Trung đội bên cánh dập tắt lẹ làng. Cuối cùng chúng tôi đã tới bờ sông Túy Loan. Trời vừa sáng, có chút nắng hồng ở phương Đông, chung quanh vẫn yên tỉnh, cái yên tỉnh cần cảnh giác nguy hiểm. Tôi cho lệnh các Đại đội bố trí và cẩn thận cho các trung đội yểm trợ nhau vượt sông an toàn, chỉ có những tiếng súng nổ từ thật xa của địch, tận trong các thôn xóm với vài viên đạn bắn xẽ, chẳng nghĩa lý gì. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn vượt qua cầu Túy Loan, tạm chiếm trường học bên trái đường lộ và bố trí quân. Nơi đây chúng tôi vẫn không thấy bóng dáng cuả Lữ Đoàn. Anh Thạnh bảo tôi gọi Lữ Đoàn, tôi bốc máy gọi Trung tá Tùng: - Thái Dương đây Tân An. - Thái Dương nghe. - Chúng tôi đến sông Túy loan rồi, Thái Dương ở đâu? - Yên tâm, bây giờ tôi và Lữ Đoàn đang ở bên bờ sông, phía trên cầu De Lattre. Tân An nói với Tây Đô chỉnh đốn lại đơn vị và kiếm bất cứ loại xe nào, đem Tiểu Đoàn đến bờ sông Hàn tại tọa độ X. - Thái Dương, tôi muốn hỏi. - Tân An cứ hỏi. - Thái Dương, chúng ta đi đâu vậy, ra tới bờ sông ai đón chúng tôi? - Tân An yên tâm, khi ra tới đó sẽ có người đón. Chúng ta sẽ lên tàu về Cam Ranh. - Trời ơi! Như vậy là chúng ta bỏ Đà nẵng, là mất đất phải không? - Tân An nghe đây, bình tỉnh và làm đúng lời tôi dặn. - Nhận rõ Đại Bàng trên 5. Tôi nhìn anh Thạnh, chúng tôi lặng thinh, trong phút chốc kinh dị đó, tôi thấy hình như đất trời sắp vỡ vụn, hết rồi tất cả . *** 7 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975. Người lính mệt mỏi tuột 2 cái dây đai khỏi vai và đặt chiếc Balô trên cái bàn nhỏ của học trò, móc ra mấy hộp thịt “ba lát”, mở nắp và một bịch nylon đựng cơm, sắp vội tất cả lên bàn thầy giáo, xong đưa ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cho anh Thạnh và tôi mỗi người một cái muỗng sắt: - Mời Thiếu tá và Đại uý ăn sáng. Chúng tôi mỗi người cầm một hộp thịt và dùng muỗng xúc cơm trong bọc nylon, nuốt vội vàng qua bữa. Anh mời tôi điếu thuốc. Anh Thạnh và tôi hội ý, anh sẽ ra bờ sông Hàn trước để gặp Lữ Đoàn, còn tôi tìm xe và điều động các Đại Đội ra sau. Anh Thạnh bắt tay tôi với vài lời dặn dò rồi lên xe đi trước. Trời càng sáng, cảnh vật chung quanh càng rộn ràng, và mọi sự di động của người cùng xe cộ càng vôi vàng, không biết đi đâu, về đâu nhưng người ta cứ đi, cứ chạy. Tôi bảo Hạ sĩ Hoàng hiệu thính viên cho mời ĐĐT/ĐĐ 4 và 1 lên gặp tôi. Trung úy Quang, Trung úy Công vừa lên tới, Công chào và hỏi tôi : - Mình đi đâu đây anh Ba? - Ra Đà Nẵng, bây giờ Công và Quang cho đặt hai trạm gác trên đường chận tất cả các loại xe cộ và giữ lại, sau đó cho tôi biết có bao nhiêu xe, còn dân chúng cứ để người ta đi tự nhiên luôn cả các đơn vị bạn. Nhưng kiểm sóat canh gác cẩn thận, coi chừng VC lẫn lộn. Công và Quang chào và trở lại Đại đội. Cùng lúc đó, một cánh quân hỗn loạn vừa Bộ Binh vừa Pháo Binh từ Duy Xuyên chạy xuống. Đại đội 4 chận lại ngoài tuyến, ĐĐT chỉ huy đưa vào gặp tôi là một vị Đại tá (Tôi không nhớ tên, nhưng ông là Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn BB đóng ở Duy Xuyên), Trung Đoàn phó là Trung tá Khai và một Thiếu tá Sĩ quan Tham mưu. Trung tá Khai chào và hỏi: - Anh là Đơn vị trưởng? - Không, tôi là Trưởng ban 3. - Tôi là Tr/tá Khai, Trung Đoàn phó, bây giờ các anh đi đâu, có thể cho chúng tôi tháp tùng được không? Tôi nhìn các anh, gật đầu, tôi biết anh là niên trưởng của tôi: - Vâng. Ông Đại tá Trung Đoàn trưởng tỏ vẻ giận dữ: - Xin lỗi anh nghe, “đ… mẹ” chúng nó bỏ hết chúng ta rồi. - Đại tá không nhận được lệnh gì sao? - Xin lỗi Đại uý, lũ khốn nạn chẳng có lệnh lạc gì cả. Tôi trấn an các ông: - Đại tá và các anh yên tâm, theo chúng tôi. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
- Bằng tàu hay máy bay? - Tôi không rõ lắm, nhưng chắc là tàu thủy. - Cho chúng tôi tháp tùng với. - Vâng. Chúng tôi đã dùng đoàn xe của Trung đoàn Bộ Binh, gỡ súng PB, rờ mọt để lại bên đường, tận dụng tất cả mọi loại xe, điều động các đại đội lên xe thẳng tiến về bờ sông Hàn mang theo những người lính đơn vị bạn. - Tây Đô đây Tân An. - Tây Đô nghe Tân An. - Trình Đại Bàng, tất cả Tiểu Đoàn đã sẵn sàng trên xe, cho zulu được chưa? - Cánh B có đủ xe không? - Trình Đại Bàng, đầy đủ tất cả. - OK, Tân an cho lệnh di chuyển, cẩn thận vì ở ngoài này vô cùng lộn xộn và đông người cũng như xe cộ trên đường; tôi đang ở ngang ngã 3 Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm. - Đáp nhận 5, Đại Bàng yên tâm, tôi sẽ đi trước dẫn đường. - Lộc Ninh đây Tân An. - Lộc Ninh nghe đây, Tân An cho qua. - Tôi bắt đầu di chuyển, Lộc Ninh cứ để Ba Xuyên bố trí sau đó chừng nữa giờ cho lên xe và tiếp tục di chuyển. Khi bắt đầu khởi hành Lộc Ninh cho biết, OK. - Nhận Tân An trên 5. Đoàn xe di chuyển vô cùng khó khăn trước cảnh hỗn loạn của dân chúng, các đơn vị của Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, và Thương phế binh ở Bệnh viện Duy Tân. Gần 11 giờ trưa Cánh A mới tới được bờ sông Hàn. Tôi và anh Thạnh gặp nhau ở đây. Anh Thạnh bảo: - Chẳng gặp ai hết, không ai đón, chẳng ai đưa, Tân An hãy liên lạc với Lữ Đoàn xem. Đến giờ này tôi đã hiểu ra mọi chuyện, chúng tôi cho lệnh các Đại đội bố trí rộng bên bờ sông để tránh đạn pháo kích của địch đổ xuống từ phía Ngũ Hành Sơn, cũng như ngăn chặn địch tấn công từ phía sau. Cường độ pháo kích của địch càng lúc càng gia tăng và tương đối chính xác. Tôi dục anh Thạnh qua sông trước để điều động Đại đội 4 tiến lên bờ bên kia, vì ở đây quá sức nguy hiểm. Có một điều may mắn là chưa ai bị thương. Một số anh em binh sĩ của Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thuỷ Bộ TQLC còn ở lại điều hành những chiếc 177 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
xuồng máy đưa chúng tôi lần lượt qua sông. Chúng tôi tận dụng thêm tất cả thuyền máy, và luôn cả ghe thuyền trên sông để làm phương tiện vượt sông Hàn. Tôi gọi Trung tá Tùng; - Thái Dương đây Tân An. - Nghe Tân An tốt, tới đâu rồi? - Trình Đại Bàng chúng tôi tới được bên này sông Hàn. - Tốt, anh có gặp một tiểu đội của Hà Nội (danh xưng của Thiếu tá Hợp) đón ở đó không? - Không. Tôi nghe tiếng nói của anh Tùng trong ống liên hợp và chiếc loa nhỏ gắn trên máy PRC25 không được rõ ràng, lẫn lộn với một loại âm thanh thực quen thuộc - hình như tiếng cánh quạt của trực thăng hay tiếng sóng biển vỗ vào mạn tàu. - Thái Dương đang ở đâu, trên máy bay hay tàu thủy? - Sao Tân An lại hỏi vậy? - Vì tôi nghe có tiếng quạt đập gió hay tiếng oằm oặp của sóng. - Không tàu cũng chẳng máy bay, đó là tiếng sóng vỗ bên bờ biển. Tôi nghe tiếng la rất lớn cuả Trung tá Phúc: - Cho Tân An ngay tần số của Hợp và Hợp có bổn phận đón Tiểu đoàn 9. - OK, OK. Tân an đây Thái Dương - hảy ghi xuống tần số này và liên lạc với Hà Nội, để Hà Nội thu xếp đón Tiểu Đoàn 9 lên tàu.. - Đáp nhận Đại bàng 5. - Chúc may mắn... Ầm,.. bỗng tôi nghe trong máy một tiếng nổ rất lớn, cắt ngang tiếng nói của anh Tùng...và chấm dứt cuộc đối thoại. Đó là lần nói chuyện sau hết của chúng tôi với Trung tá Đỗ hữu Tùng, (trên đọan đường di chuyển từ Đại Lộc đến bờ sông Hàn, thỉnh thoảng Trung tá Phúc cũng có lên tiếng, nhưng rất ít chắc anh qúa bận rộn). Các anh là những cấp chỉ huy trực tiếp từ ngày đầu tôi về đơn vị (Tiểu Đoàn 5/TQLC với danh hiệu Hắc Long), và cũng là những người Niên trưởng khả kính cùng xuất thân từ trường Mẹ, Trường Võ Bị Đà lạt. Trong suốt những năm tháng chiến trận, chúng tôi có nhiều thời gian sống gần gũi, tôi cũng đã nhiều lần là thuộc cấp của anh Tùng từ lúc làm Trung đội trưởng thì anh Tùng là Đại đội trưởng. Khi về làm Trưởng ban 3 /LĐ 258, anh Tùng là Lữ Đoàn phó. 178 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Ngoài cuộc sống thứ tự cấp bậc, tôi và anh có nhiều dịp tâm sự về đời sống và gia đình. Nên tuy là Đơn vị trưởng, song anh xử sự với tôi như người anh, nhất là thời gian chúng tôi cùng ở LĐ-258 của Đại tá Ngô văn Định. Tôi đã liên lạc được với Thiếu tá Trần văn Hợp danh hiệu Hà Nội, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2/ TQLC, xuất thân từ khóa 19 Đà Lạt. Anh cho biết hiện anh đang ở trên Đại hạm 810 của Hải quân, chỉ huy toàn bộ TQLC đang ở trên đó, còn người hạm trưởng thì tôi không biết tên nhưng anh Hợp cho biết tần số của máy và danh xưng là Nam Hổ, tôi ghi xuống cẩn thận những chi tiếc này. Tôi báo cho Tây Đô biết điều này và hẹn với anh Hợp chúng tôi sẽ cố chiến đấu. Anh Hợp hỏi chúng tôi: - Liệu được bao lâu, Tân An? - Có thể 2, 3 ngày hay lâu hơn. Tôi trả lời một cách tin tưởng. Anh Hợp bảo: - Cố chiến đấu, chừng 9 giờ tối Clear bãi và pick up. - OK, cám ơn Hà nội. Đó là một sự hẹn hò vô cùng quan trọng trong đời tôi, nhưng tiếc thay sự hẹn hò này đã không đến và chẳng bao giờ đến cả. Chúng tôi đã mất hẳn liên lạc với anh Hợp từ lúc 3 giờ trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975. Sau đó tôi qua tần số của Nam Hổ, nhưng cũng không nhận được một tín hiệu nào cả. Sự thật, mọi chuyện đã và đang xẩy ra trước mắt, nỗi hy vọng đưa đơn vị lên được con tàu để ra khơi hay tìm một lối thoát nào đó, để đơn vị được vẹn toàn là điều vô tưởng, không thể làm được. Tôi linh cảm rằng trong tình cảnh này, không còn ai muốn bị ràng buộc bởi cái quyền chỉ huy, lãnh đạo nữa mà có lẽ người ta đang chọn việc đào thoát cho bản thân là chính. Tôi nghĩ vậy và lấy lại sự bình tỉnh. Sự bình tỉnh bây giờ là một yếu tố rất cần thiết cho đơn vị. Những nóng giận, lo lắng, căm hờn trong lòng đã chìm xuống bởi vì trước sau rồi cũng chỉ một lần. Tôi đã lựa chọn con đường cho tôi, suốt hơn 7 năm quay cuồng trong chiến trận, từng phút từng giây giữa hiểm nguy chết chóc vây quanh, giờ đây chẳng cần phải nghĩ vẫn vơ cho mất thì giờ. *** 12 giờ trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Đại đội 4 qua sông trước, Trung úy Quang báo cáo: - Trình anh Ba không có một đơn vị nào đón Tiểu Đoàn mình hết. Thực ra đến giờ phút này chúng tôi đã cảm thấy thấm thía mọi vấn đề. Tôi bảo Quang cứ tiến quân lên khỏi bờ sông chừng 500 mét và bố trí, chờ chúng tôi qua sông. Trong lúc đó, pháo của Việt cộng điều chỉnh vào vị trí bờ sông tương đối chính xác, những quả đạn pháo kích từ hướng Non Nước rót xuống liên tục. Giữa khoảng trống mênh mông này, có tránh cũng vậy mà không tránh cũng rứa thôi, chỉ làm rối loạn thêm hàng ngũ. Anh Thạnh qua sông trước và ngồi chờ chúng tôi. Tôi vừa lên bờ, anh nói : - Tân An, không có ai ở đây hết. Anh hãy gọi Lộc cho biết đã tới đâu và tình hình như thế nào? - Vâng. Anh Lộc gọi cho biết: - Vừa tới bờ sông với Đại đội 3 đang cho bố trí, địch quân lợi dụng vào dân chúng để tấn công vào đằng sau, chúng tôi không thể qua sông được. - Thẩm quyền cho củng cố vị trí và phản công, không cần qua sông vội, bên này chúng đang pháo kích. - Đáp nhận Tân An. Lần lượt Đại đội 4, 1, 2 và BCH Tiểu Đoàn đã qua sông. Từ bến sông vừa lên tới lộ nhựa, chúng tôi thấy ngay cảnh hỗn loạn của một số binh sĩ của Đại đội 4 đang chạy ngược trở lại, trên đầu không nón sắt, vai không balô. Trung úy Quang cho biết phía trước địch quân pháo kích dữ dội, dân chúng cùng một số đơn vị khác đang chạy hỗn loạn. Tôi bảo Quang : - Chấn chỉnh ngay hàng ngũ, không được tán loạn, cho dàn phòng tuyến rộng về bên kia đường, bố trí mặt Đông và Nam. Anh Thạnh và tôi hội ý: 1- Kể từ giờ phút này không còn trông chờ vào một sự tiếp ứng nào khác. 2- Tìm một vị trí tốt phòng ngự để bảo toàn đơn vị. 3- Thiếu tá Lộc và Trung úy Ba, lo điều động Đại đội 3. Thực sự, trên khắp đất nước từ biển đến núi và những vùng quê xa xôi hẽo lánh, cho đến miền đầm lầy tận cùng Cà Mâu, Năm Căn … gần như bước ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chân chúng tôi không thiếu nơi nào, nhìn vào tấm bản đồ thành phố, chúng tôi cảm thấy xa lạ bởi chiến trận thực hiếm khi xảy ra tại nơi thành thị như lần này. Sau khi định hướng và xác định điểm đứng, chúng tôi đồng ý kéo quân lên phía Bắc của phi trường Non Nước, ở đó có nhiều khu nhà đồ sộ, cạnh bờ biển. - Phương Dung đây Tân An. - Phương Dung nghe anh Ba. - Phương Dung kiểm điểm con cái xong, cho di chuyển tới điểm X, bố trí, mặt quay ra biển hướng Đông. Hãy báo cáo cho biết khi bắt đầu di chuyển. - Đáp nhận. Sau khi chấn chỉnh đội hình một cách nhanh chóng, Đại đội của Phán bắt đầu di chuyển, kế tiếp tới Đại đội 1 của Trung úy Công, BCH/TĐ và Đại đội 4 của Trung uý Quang bao chót. Khi tới nơi, chúng tôi mới biết đây là khu Chủng viện Thiên Chúa và những nhà nuôi trẻ em rộng lớn. Chủng viện Sơn Trà là 1 khu kiến trúc đồ sộ, có khoảng 4, 5 dãy nhà lầu liên tục, nằm thành hình chữ nhật chung quanh có hàng rào cao, cột đúc kiên cố, căng lưới chống B40. Trong thế trận cấp bách như hiện tại, không thể nào tìm được một vị trí tốt hơn được. Phía Đông quay ra bãi biển, cách bờ nước chừng 200 mét, phía Nam là khoảng trống mênh mông tiếp giáp với phi trường Non Nước, phía Bắc là khu dân cư chài lưới, công sở đằng xa về phía Tây. Toàn bộ khu vực là đất pha cát, việc đào hầm hố và giao thông hào tương đối dễ dàng mau lẹ với xạ trường rất lý tưởng. Thiếu tá Thạnh đồng ý tổ chức phòng ngự trên vị trí này. Hệ thống phòng thủ như sau : 1- Đại đội 2: Phòng thủ phía bãi tắm, quay mặt về biển Đông, quan sát tàu bè. 2- Đại đội 1 và 4 lập thành hình chữ L quay về phía Nam và Tây. Chúng tôi dự tính: phía Nam và Tây sẽ phải đối đầu chính diện với địch. - Chúng tôi vừa tiếp nhận một số quân nhân của Tiểu Đoàn 6/TQLC do Đại úy Hồ ngọc Hoàng dẫn đầu. Tôi sắp xếp để toán quân của anh Hoàng tạm phòng thủ về mặt Bắc. Riêng Đại đội 3 của Trung úy Trương văn Ba (chúng tôi gọi đùa là Ba Gà) và Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Lê văn Lộc bị kẹt bên kia sông Hàn, không thể qua được. Trong những giây phút sau cùng anh Lộc và Ba đã 179 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cho chúng tôi biết rằng Đại đội 3 đang phòng thủ bên bờ sông thì địch tấn công và pháo kích dữ dội. Anh Lộc bảo: - Nằm ở đây chỉ làm bia cho chúng bắn và pháo, lưng dựa vào bờ sông kẹt qúa ... Anh Thạnh cho lệnh: - Lộc và Ba tự lo liệu lấy, cố gắng chiếm vị trí tốt để giảm thiểu thiệt hại cho đơn vị. Chừng nữa giờ sau, anh Lộc đã gọi tôi: - Tân An đây Lộc Ninh. - Nghe thẩm quyền. - Chúng tôi đang lui dần về phía cầu De Lattre, không thể tiến được nữa vì bị những con sông nhỏ, không qua được. - Tân An, Tân an ... Tôi nghe những tiếng kêu la vội vàng trên máy và từ đó mất liên lạc với cánh quân này. (Sau này, khi các anh được địch thả ra từ Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, tôi gặp lại anh Lộc và Ba. Các anh đã kể lại cho tôi nghe những biến cố xảy ra trong ngày hôm đó như sau: Đại đội 3 không thể chịu nổi sức tấn công của địch vì tuyến phòng thủ tạm thời của Đại đội quá chênh vênh không thế dựa, lại nữa pháo của địch rót xuống liên tục trong khi đó binh sĩ không nơi trú ẩn tránh pháo kích, các anh đã cho lệnh rút dọc theo bờ sông về hướng Đông, phía cầu De Lattre, nhưng kẹt phải mấy con sông, một số binh sĩ đã chết đuối. Cuối cùng, Đại đội 3 đã tan hàng). Tại Chủng viện Sơn Trà, các Đại đội đã thiết lập xong hệ thống phòng thủ. Chúng tôi cảm thấy rất vừa ý sau khi đi kiểm soát một vòng chung quanh. Có lẽ đây là một vị trí chiến đấu lý tưởng. Chúng tôi đã chọn sẵn sàng cho mình một trận địa để sửa soạn cho một cuộc chiến đấu cuối cùng của những người lính trận. Là cấp chỉ huy, chúng tôi thừa biết rằng từ giây phút này tứ bề là địch, cuộc chiến đấu của chúng tôi sẽ là đơn độc, tuyến phòng thủ không đường triệt thoái, không có bất cứ một sự tiếp ứng hoặc yểm trợ hỏa lực nào của các lực lượng bạn. Chúng tôi sẽ phải chiến đấu cho đến khi bị tiêu diệt. Có một điều chắc chắn rằng địch cũng sẽ phải trả một giá rất đắt khi chúng tôi còn hơi thở và ý chí chiến đấu. Ban Chỉ Huy ngồi rải rác chung quanh, tôi ngồi trên bậc cấp cuối của Chủng viện, còn anh Thạnh tựa lưng vào chiếc cột đúc nghỉ ngơi. Thói quen trong những giây phút gay go chỉ có 180 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
khói thuốc làm cho tâm trí tỉnh táo và sáng suốt ra; hai chúng tôi ngồi hút thuốc liên tục. - Thưa Đại úy, có Bác sĩ Túy xin trình diện. Tôi quay lại nhìn người lính truyền tin, Hoàng quay mặt về phía cổng vào, tôi nhìn theo thấy BS Túy đang đứng ở đó, tôi đưa tay ra hiệu cho anh tiến về phía chúng tôi: - Thiếu tá, có BS Túy muốn xin trình diện. Anh Thạnh gật đầu, tôi chỉ BS Túy lại trình diện Thiếu tá Tiểu Đoàn trưởng. Bác sĩ Túy, người Bác sĩ quân y mới thuyên chuyển về Tiểu đoàn được hơn 1 tháng, dáng anh nhỏ và hiền lành, ít nói. Anh có vẻ khép nép, chậm chạp tới trước mặt anh Thạnh đưa tay chào và trình bày hoàn cảnh của anh: «Quê anh ở quận Duy Xuyên. Anh có người mẹ già, vợ và hai đứa con nhỏ, không biết bây giờ gia đình ra sao và lưu lạc về đâu. Anh vô cùng lo lắng và muốn xin phép chúng tôi được trở về quê tìm me, vợ và các con».
Tại cửa biển Thuận An Nhìn cảnh hỗn loạn của dân chúng từ những ngày trước còn ở Đại Lộc, cũng như trên trục tiến quân cho đến hôm nay chúng tôi đã hiểu rất rõ tâm trạng vô cùng hoang mang, đau khổ của thuộc cấp. Chúng tôi rất thông cảm hoàn cảnh của họ, nhất là dối với những người có gia đình, cha mẹ, vợ con, anh chị em ở vùng này. Không, chúng tôi không trách gì BS Túy, không trách anh thiếu tinh thần trách nhiệm, bởi vì những người đáng lẽ có trách nhiệm hơn anh, trách nhiệm to lớn hơn anh cũng đã im hơi lặng tiếng trốn chạy, bỏ lại những đại đơn vị to lớn cấp Quân đoàn, Sư đoàn, không chút tiếc thương, không xấu hổ, ngại ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ngùng, huống gì anh. Tuy nhiên chúng tôi cũng không muốn hình ảnh của anh có thể gây nguy hiểm cho đơn vị trong giờ phút hiện tại, nên tôi nói với anh Thạnh: - Chấp nhận đi Thiếu tá, Anh Thạnh bảo với BS Túy : - Tùy anh. Nhưng BS Túy lộ vẻ sợ hải, vì có thể anh đang mang mặc cảm phạm tội qúa lớn, tội này có thể bị bắn bỏ ngay ngoài mặt trận. BS Túy cúi nhìn xuống đất. Tôi biết rất rõ về người Tiểu Đoàn trưởng của chúng tôi. Sau dáng mặt lạnh lùng đó, anh rất hiền lành và nhân đạo, đôi khi vì giầu tình cảm khiến anh trở nên yếu đuối. Tôi biết trong phút giây này anh Thạnh đang có quá nhiều âu lo, buồn phiền. Tôi quay lại nói với BS Túy : - Anh Túy cứ yên tâm đi đi, hãy cẩn thận khi ra khỏi hàng rào, ngoài đó là chỗ loạn quân, hỗn quan. Chúng tôi mong anh tìm lại được gia đình. BS Túy chào anh Thạnh và tôi cùng giã từ những người đồng đội quân y và anh đi về phía khu làng chài lưới. Từ đó chúng tôi không bao giờ còn gặp lại người đồng đội đó nữa. Anh Thạnh ngồi xuống bậc cấp và đưa tay nắm dây 3 chạc của tôi kéo xuống ngồi bên cạnh anh và móc gói thuốc mời tôi và nói nhỏ: - Bây giờ trong đơn vị mình đa số là người miền Nam, họ có gia đình ở trong Nam, còn một số anh em miền Trung cũng tội nghiệp như BS Túy. Chúng ta có nên gọi họ lên đây để nói như đã nói với BS Túy không Tân An? - Thiếu tá nói cũng đúng. Trận đánh sắp tới đây đương nhiên là một mất một còn, có thêm một số anh em hy sinh nữa cũng vậy thôi. Theo tôi cho tập họp tất cả Đại đội trưởng, Trung đội trưởng, Tiểu đội trưởng, chúng ta ra lệnh và các anh ấy về phổ biến lại. - Đồng ý. Anh Thạnh gật đầu. Tôi gọi Trung úy Sơn, người Sĩ quan phụ tá : - Sơn cho gọi toàn thể các cấp từ Tiểu đội trưởng đến Đại đội trưởng lên họp khẩn cấp; giao tuyến phòng thủ cho các cấp phó, hãy cẩn thận. Trung úy Phán tập họp các cấp cán bộ, trình diện lên tôi. Sau khi kiểm soát lại xong xuôi tôi trình diện cho anh Thạnh. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Anh Thạnh đứng trên bậc cấp của Chủng viện, anh cúi đầu thực lâu, hai vai anh rung lên. Cuối cùng anh ngẫng lên nhưng anh không nói được. Sự tủi nhục và đau đớn làm anh uất nghẹn, anh cố nuốt xuống, nhưng trên đôi mắt đã tràn đầy nước mắt, anh bước thật nhanh về phía cột trụ và úp mặt lên hai bàn tay, anh lắc đầu, giọng nói đầy nước mắt : - Tân An, tôi không nói được. Toàn thân tôi rung động, những cảm giác chai lì của chiến trận bổng phút chốc tan biến. Đầu óc tôi thực mơ hồ và bồng bềnh, tôi nghiến chặt hàm răng, cố nuốt những giọt nước thật mặn chạy xuôi về sâu trong lòng. Tôi bước tới trước hàng hiên, ngẫng đầu lên thật cao, vì tôi biết rằng khi tôi cúi thấp xuống, tôi sẽ không dấu được những giòng nước mắt đau đớn như anh Thạnh. Hơn nữa Tiểu đoàn này là đứa con do chính chúng tôi đã cưu mang từ ngày 20 tháng 4 năm 1970, từ ngày thành lập cho đến hôm nay vừa đúng 5 năm. Tôi hít một hơi dài và nói lớn : - Tất cả anh em Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Binh sĩ nghe đây, chúng tôi không còn dấu diếm bất cứ một điều gì nữa. Từ Đà Nẵng đến Quảng Trị tất cả mọi đơn vị đã tan hàng, Tiểu Đoàn 9 TQLC chúng ta là đơn vị duy nhất còn lại, và trận đánh sắp tới đây là trận tử chiến, chẳng thể lùi bước để về đâu được nữa. Do đó, nhờ các bạn về thông báo lại cho tất cả anh em binh sĩ, ai muốn tình nguyện chiến đấu hãy ở lại, còn ai muốn về với gia đình, không chiến đấu cứ yên tâm rời khỏi nơi này chúng tôi không ép buộc. Riêng bản thân chúng tôi quyết ở lại chiến đấu, sống chết với Tiểu Đoàn 9 TQLC đến phút cuối cùng. Tôi cố nói tiếp để khỏi bị xúc động khi ngừng lại: - Bảo anh em trung đội quân y chia riêng cho mỗi cá nhân một bịch nylon trong đó gồm thuốc đau đầu, đau bụng, thuốc sốt rét, băng cá nhân, băng keo … cùng những thứ nào các bạn thấy cần thiết cho anh em binh sĩ trong khi thoát hiểm mưu sinh. Cuối cùng tôi hét lên: - Hết! Tôi định quay mặt đi nhưng Phán mập đã tiến tới trước tôi, anh đưa tay gỡ chiếc kính cận, cũng như tôi, nước mắt anh đã đong đầy trên mắt kiếng, anh chỉ nói được vài tiếng nho nhỏ: - Anh Ba, anh Ba! và anh quay lại hàng quân đưa cao tay hô lớn: - Tiểu đoàn 9 quyết tử thủ! Và tất cả anh em la lớn: 181 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
- Chúng tôi quyết tâm ở lại chiến đấu. - Thôi cho anh em trở về lo tuyến phòng thủ và sửa soạn tất cả mọi chuyện chúng tôi đã căn dặn. BCH/Tiểu đoàn di chuyển lên lầu 1 để dễ quan sát và điều động các đơn vị chiến đấu. Ban lệnh cho mọi người ăn cơm, nước cho mau để còn sẵn sàng đối phó với đợt tấn công của địch. *** 2giờ 40 ngày 29 tháng 3 năm 1975 Từ Đại đội 1, Trung úy Công báo cáo về Tiểu Đoàn : - Xa xa về hướng phi trường chiến xa địch xuất hiện cùng với cờ mặt trận giải phóng. Từ Đại đội 4 Trung úy Quang cũng cho biết: - Thiết giáp địch đang tiến về phía chúng ta. Anh Thạnh cầm máy nghe và bảo tôi: - Tân An lên lầu quan sát thử coi. Tôi nắm cây XM.16 và dẫn theo một người lính truyền tin đi thẳng lên sân thượng của chủng viện rộng lớn để quan sát rõ hơn. Đưa ống nhòm về hướng phi trường những cuộn bụi và khói kẻ thành từng hàng bốc lên cao, đoàn thiết giáp địch chừng 5, 6 chiếc giăng hàng ngang chậm chạp tiến về phía chúng tôi. Tôi cười thầm trong bụng: “Cuối cùng thì chúng mày cũng tới”. Chưa bao giờ tôi thấy vui và tỉnh táo như lúc này. Nhìn vòng tuyến phòng thủ từ trên cao thật vững vàng, tôi yên tâm xuống gặp anh Thạnh, anh Thạnh hỏi: - Tân An thấy sao? - Trình Đại Bàng chiến xa địch có treo cờ mặt trận đang tiến về phía chúng ta, không còn xa . Anh Thạnh gọi cho các Đại đội sẵn sàng chiến đấu. Tôi vui vẻ thấy dáng mặt nghiêm trang của anh có chút ít xúc động. Có lẽ từ ngày về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9/TQLC đây là trận đánh đầu tiên của anh. Nhưng chúng tôi không ngờ đó cũng là trận chiến sau cùng của anh Thạnh trong chiến trận. Anh đứng lên, tay nắm cây súng phóng lựu M.79 đi tới đi lui trong phòng; các đại đội 4, và 1 báo cáo về tới tấp. Tôi bảo: - Vững tâm, thấy VC thì nhắm bắn từng đứa cho chính xác. Còn thiết giáp tới gần dưới 50 mét ống phóng hỏa tiển và đại bác lo liệu. Chúng khó có thể xông vào đây được. Thực ra, tôi cũng như anh Thạnh, chúng tôi có cùng cảm giác và sự nghĩ ngợi. Trong những giây 182 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
phút ngắn ngủi đó, biết bao ý niệm phức tạp dấy lên trong đầu về đơn vị, gia đình, người thân và người yêu, nhưng rồi cuối cùng cũng chẳng giải quyết được gì. Cuộc chơi nào rồi cũng đến lúc kết thúc, kết thúc bất cứ bằng cách nào. Có lúc tôi và anh Thạnh nhìn nhau cùng cười, cái cười thú vị của những con người đã chai lì đang tìm ra được một lối đi, một cái cười chấp nhận. *** 3 giờ 15 ngày 29 tháng 3 năm 1975 Những loạt đạn nổ đầu tiên khai mào trận đánh, những loạt đạn địch bay qua lưới sắt đục lỗ lên tường, kẽ những vạch vô hình trong không khí, những quả đại bác phóng đi từ thiết giáp nổ ầm ầm chung quanh, như pháo tết. Ngoài tuyến phòng thủ bắt đầu chống trả. Chung quanh tôi vang dội những tiếng reo hò trên trận tuyến, tiếng reo hò qua những chiếc loa máy truyền tin PRC-25, cùng với tiếng la hét của những người dân vô tội với vô số trẻ con đang kẹt trong chủng viện vì những trái đạn lớn rơi và nổ ngay giữa sân chủng viện. Chính những tiếng khóc, tiếng réo gọi nhau thất thanh, chính những âm thanh này đã khiến chúng tôi nao núng. Trên trận tuyến với khả năng chiến đấu của đơn vị, tôi nghĩ có thể giữ nổi, dù rằng không thể được lâu dài, nhưng ít ra cũng được vài ba ngày. Từ lúc đó, đạn pháo cỡ lớn, đổ xuống sân Chủng viện dày đặc hơn. Sau những tiếng nổ long trời lở đất là tiếng la hét và khóc thét của đàn bà và trẻ con, tôi vội phóng lên sân thượng, nhìn tình hình chung quanh thầm nhủ: “không sao hết, chúng mày còn lâu mới chiếm được”. Thỉnh thoảng hai Đại đội trưởng Công và Quang báo cáo. Cuộc chiến đấu vẫn tốt đẹp. Những đợt tấn công của bộ binh địch bị đẩy lui dễ dàng, trên bãi cát mênh mông, những xác người gục ngã và chưa có một chiến xa nào của địch xông vào được ngoại trừ vài chiếc đã bốc cháy, bốc khói đen mù mịt vì đạn M72 và đại bác của ta. Trận đánh tiếp tục, đạn pháo binh và đạn đại bác từ chiến xa dập vào càng lúc càng dày đặc hơn, tiếng la khóc vang trời từ dưới những căn nhà đồ sộ của Chủng viện. Người truyền tin đưa máy cho tôi và bảo: - Anh Ba, Trung úy Phán muốn gặp. - Phương Dung, Tân An nghe đây . ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
- Trình anh Ba, có 2 chiếc tàu lớn xuất hiện ngoài khơi, anh Ba có thấy không? Tôi bảo Phán chờ, tôi đi về cuối hành lang của dãy lầu, qua khoảng trống nhìn ra biển đông mênh mông tận chân trời, trên cái mặt thảm phẳng mà xanh đó, tôi thấy có 2 chấm đen xuất hiện tận chân trời, tôi bảo người lính cho tôi cái ống nhòm, tôi nói nhỏ: “Đúng 2 chiếc tàu có lẽ đang di chuyển về hướng chúng tôi.” - Phương Dung đây Tân An, đúng là 2 chiếc tàu lớn. - Anh Ba có cho lệnh gì không ? - Chờ đó! Tôi trở lại căn phòng chỉ huy, hỏi ý kiến anh Thạnh, anh Thạnh xúc động mạnh, anh nói với tôi: - Anh cứ nói với Phán quan sát và theo dõi kỹ lưỡng và báo cáo. - Vâng. Tôi lập lại với Phán ý kiến của anh Thạnh, sau đó gọi Đại đội 1, 4 cho biết tình hình, Công và Quang đều cười và trả lời dứt khoát: - Anh Ba yên tâm lớn, mấy con chuột này chưa làm gì được đâu. Tôi thở dài! Không biết trong giây phút này Công và Quang có hiểu gì về thế trận này không? Ôi thực buồn lòng, những người chiến hữu thuộc cấp cũng là những thằng em thân thương như ruột thịt, họ đã sống với tôi trong chiến trận từ ngày đầu mới ra trường về lập đơn vị cho đến những cuộc vui chơi thâu đêm suốt sáng sau ngày hành quân trở lại phố thị, kéo nhau đi nhảy đầm, nghe nhạc, nhậu nhẹt, chúng tôi quây quần sống với nhau qua hết buồn vui cuộc đời lính trận. Giờ này đây là sự sống và cái chết - niềm mơ ước hay nỗi tuyệt vọng, tất cả đang quay cuồng trước mắt. Chung quanh đây chẳng còn ai, chẳng còn ai liên lạc với chúng tôi, và có lẽ cũng chẳng còn ai biết được tận miền trung xa xôi này còn có một đơn vị đang cố chiến đấu, dĩ nhiên là tìm cái sống song cũng là cuộc chiến đấu để “định nghĩa” cho người ta hiểu thế nào là trách nhiệm của người lãnh đạo chỉ huy, thế nào là trách nhiệm đối với đất nước và đối với thuộc cấp. Tôi không hề bi quan, tôi không được bi quan, vì chẳng còn gì nữa để mà bi quan? Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng. Nhưng trong tình cảnh này mưa sẽ chẳng bao giờ dứt, khi mà sự chiến đấu của chúng tôi còn tiếp tục - nó chỉ dứt khi con Mãnh Hổ chịu nằm yên, không còn hơi thở. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thứ chiến đấu của người lính chiến đang làm tròn sứ mạng đối với đất nước. Họ biết một cách chắc chắn rằng không bao giờ và chẳng bao giờ có bổng lộc nào cho cá nhân họ như cấp bậc, chức vụ, thăng thưởng. Họ đang chiến đấu lần cuối cùng với đầy ý nghĩa của một đời làm lính trận.... Tôi cầm ống liên hợp gọi trên tần số mà anh Hợp đã cho: - Nam Hổ, Nam Hổ đây Tân An. - Hà Nội đây Tân An. Chẳng có ai trên tần số này nữa, tại sao? Họ đã đi đâu? Về đâu? Trên mặt biển xanh, hai chiếc tàu lớn dần, cho đến lúc chúng tôi có thể nhìn thấy buồng lái và cột cờ. Phán mập dồn dập xin lệnh, tình hình trở nên căng thẳng. Liên tiếp mấy tiếng đồng hồ súng nổ, pháo dập, chiến xa địch tấn công, không làm cho chúng tôi lúng túng. Nhưng bây giờ nhìn thấy hai chiếc tàu này xuất hiện một cách lạ lung mà mình vẫn không bắt liên lạc được trên máy truyền tin đã khiến đầu óc chúng tôi rối tung. Anh Thạnh và tôi bàn tính: - Không lẽ hai chiếc tàu đã bị địch chiếm chạy vào đây dẫn dụ mình? - Còn nếu sự thực tàu vào đón tại sao lại không liên lạc được? - Mà lỡ tàu vào đón thiệt và chúng tôi bỏ qua cơ hội này thì tai hại biết chừng nào! Tôi kiên nhẩn gọi Hà Nội và Nam Hổ thêm mấy lần nữa, nhưng tuyệt nhiên không một tiếng trả lời. Càng về chiều địch quân càng tấn công dữ dội. Anh Thạnh hỏi tôi: - Tân An coi được chưa, ra lệnh cho Phán! Tôi nhìn anh Thạnh và thầm nói với mình: - “Có bao nhiêu lần như thế này trong cuộc đời chúng ta?” Tôi nhìn ra hành lang, hai chiếc tàu lớn chỉ còn cách bờ nước chừng gần cây số, tôi nghiến chặc răng và gật đầu đồng ý với anh Thạnh: - Phương Dung đây Tân An. - Phương Dung nghe anh Ba. - Cho con cái chuẩn bị, khi có lệnh sẽ rời Chủng viện và phóng nhanh ra tàu. - Nhưng còn cái hàng rào vững chắc này thì làm sao? - Phương Dung cho tất cả binh sĩ leo lên dằn nó xuống. Nghe rõ không? - Đáp nhận anh Ba ! 183 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Và chiếc tàu chỉ còn cách bờ khoảng vài trăm mét, tôi gọi Phương Dung: - Hạ ngay hàng rào và phóng ra tàu. - Đáp nhận anh Ba, thi hành ngay. Từ trên tầng lầu hai của Chủng viện, giữa tiếng đạn pháo của địch, lẫn tiếng reo hò của quân ta, chúng tôi còn nghe một tiếng Ầm...thực lớn, hàng rào của Chủng viện đã bị Đại đội 2 đạp sập. Sự điều động của Phán không còn hiệu quả, binh sĩ di chuyển không còn hàng ngũ, chẳng yểm trợ, thi nhau chạy nhanh về bãi nước. - Hồng Hà đây Tân An . - Hồng Hà nghe thẩm quyền. - Hồng Hà, anh cho con cái xuống tàu. - Đáp nhận thẩm quyền. Đại úy Hồ ngọc Hoàng, người niên trưởng khóa 19 Đà lạt - Anh nhanh nhẹn đáp nhận và xua quân về biển nước. (Riêng Hồ ngọc Hoàng thời gian trước khi mất nước anh được thuyên chuyển về Tiểu đoàn 6 với chức vụ Trưởng ban 3. Nhưng tôi không có dịp để hỏi anh tại sao trong những giờ phút sau cùng này anh lại dẫn một toán quân khoảng một Đại đội của TĐ 6 đi về phía phi trường Non Nước. Bất ngờ khi đứng trên sân thượng của Chủng viện Sơn Trà để quan sát, nhìn ra xa tôi thấy một đoàn quân TQLC đang di chuyển, cố liên lạc thì được biết đây là một đon vị của TĐ6/TQLC và người chỉ huy là anh Hoàng, nên tôi gọi anh vào trám vào phòng tuyến phía Bắc, chịu sự chỉ huy của chúng tôi. Chúng tôi cũng không có dịp nói chuyện với nhau, cho đến gần 6 giờ chiều là lệnh cuối cùng mà chúng tôi cho anh. Và cũng từ đây chúng tôi không còn biết anh đã lưu lạc về đâu nữa. Theo sự nói lại của một số binh sĩ của TĐ 6 thì Anh Hoàng đã chết trên biển khơi khi lội ra tàu. Xin cho tôi có một phút giây tưởng niệm về người Niên trưởng không may mắn này và xin lỗi Niên trưởng). Đại đội 1, đại đội 4 liên tục gọi về Tiểu đoàn xin lệnh, tôi gọi Công và Quan nghe đầu máy : - Cho giữ vững phòng tuyến, chờ Đại đội 2 lên tàu xong các anh sẽ có lệnh. Vì tôi nghĩ cứ cho chạy bừa ra bãi biển thì có thể cuối cùng sự thiệt hại sẽ lớn lao vô cùng: Thứ 1: Chắc gì những chiếc tàu này đến đón chúng tôi, có thể do địch đánh lừa. Thứ 2: Khi mà Đại đội 1, 4 đang lâm trận nặng nề; thực vô cùng nguy hiểm khi bỏ tuyến lúc này. Cùng lúc đó 3, 4 quả đạn lớn bay qua khoảng trống nổ ngay giữa chủng viện, anh Thạnh la lớn: 184 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
- Tân An, ra lệnh cho các Đại đội rời khỏi phòng tuyến và chúng ta đi ngay. Chẳng còn suy nghĩ gì được nữa, tôi ra lệnh: - Đại đội 1, 4,và Đại đội Chỉ huy bỏ tuyến, phóng nhanh về hướng con tầu. Trong tình cảnh bối rối đó thực quá sức nguy hiểm, thực tình tôi không hề nghĩ ra có ngày hôm nay: “Chúng ta bỏ tuyến trận ngay giữa thành phố để bỏ chạy”. Theo anh Thạnh xuống tầng dưới, ngang qua cửa sổ cuối hành lang, tôi nhìn thấy các đại đội vô cùng hỗn lọan phóng nhanh về phía 2 chiếc tàu lớn. Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi chiếc tàu đầu chỉ còn cách bờ chừng hơn 100 mét , tự dưng họ dừng lại và bỏ số de, trong khi trên bờ những binh sĩ TQLC đang chuẩn bị để xuống tàu, thật lạ lùng, tàu càng lúc càng rời ra xa. Trời chiều đang xuống thấp, giữa cảnh hỗn loạn đó, tôi thấy những người lính TQLC vứt bỏ Balô, súng đạn, lội ra biển, càng lội càng xa tàu vì nó đang rời xa khỏi bờ biển. Khi xuống tới sân Chủng Viện, tôi và anh Thạnh lạc nhau. Trên tay tôi còn cây súng XM.16, tôi cũng chạy ra phía biển, những chiếc tàu chỉ còn là những bóng mờ trên mặt biển sẫm tối. Tôi la lớn: - Đừng, đừng lội theo tàu nữa. Trời ơi, chúng ta đã bị lừa. Những người lính chạy gần tôi đứng lại ngạc nhiên hỏi: - Đại úy nói gì? Chúng ta đã bị đánh lừa, tôi đưa tay chỉ về phía Bắc, nơi đó có khoảng 6, 7 chiếc tàu nhỏ mà chúng tôi gọi là Alpha đang đậu cách bờ nước chừng 50 mét. Tôi chỉ cho tất cả anh em còn lại tiến nhanh về bãi biển Mỹ Khê. Nhưng khi sắp tới vị trí của mấy chiếc Alpha, thì một đơn vị Việt cộng đã phục sẵn ở đó, chúng từ dưới cát đứng lên và chỉa súng vào chúng tôi. Những toán quân phía trước dừng lại vừa nổ súng vừa la lớn: “Việt cộng, Việt cộng!” Tôi vội vàng quay hướng về phía làng mạc cùng với toán quân còn lại phóng nhanh, vượt qua một khu làng và tiến đến một nghĩa trang (sau này chúng tôi mới biết đây là Nghĩa trang An Hải) rộng mênh mông, nhiều bụi xương rồng, gai góc và nhiều mồ mã xây, nơi đây có thể tổ chức để phòng thủ. Chúng tôi ẩn nấp trong đó, tiếp tục bố trí chiến đấu với số súng đạn còn lại ít ỏi của mình. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Đêm tối phủ xuống thực nhanh trên nghĩa trang, chẳng còn nhìn thấy nhau nữa. Hỏa châu của địch lơ lững trên cao, và những quả đạn súng cối rớt xuống nghĩa trang, chưa có dấu hiệu địch tấn công. Thất trận, đói khát, mệt mõi và nhất là đau xót ê chề về sự tan rã của đơn vị đã làm tê liệt ý chí trong tôi... Tôi đã ngủ quên bên một bia mộ. Thời gian qua không biết bao lâu, tôi nghe bên tai tiếng rì rào nói chuyện, giật mình tôi la lên: - Chưa đủ hay sao mà còn lớn tiếng dẫn đường cho Việt cộng? Một người lính bò lại bên tôi thì thầm: - Đại úy, Đại úy. - Hoàng hả, chi vậy ? - Dạ em đây, VC bò vào hỏi bọn em: ”cấp chỉ huy đâu?”, chứ không phải bọn em nói chuyện.
Tôi tỉnh hẳn người sau câu nói của Hoàng, giờ thì tôi đã hiểu rằng tôi đã mất tất cả. Chúng tôi âm thầm vượt qua hàng kẻm gai, lợi dụng những vồng rau lan cao lớn, bò về phía ánh đèn xa xa. Sự trốn chạy kỳ lạ này giống như trò chơi cút bắt của những ngày thơ ấu. Chúng tôi còn lại bốn thầy trò, mò mẫm trong đêm tối trở lại bờ sông Hàn, tới bờ sông nhìn qua bên kia thấy có ánh điện đường, tôi với hai người lính tuột áo quần lội qua sông, còn một người không biết lội ngồi lại bên bờ này giữ quần áo. Đồng hồ trên tay chỉ 1 giờ sáng, tôi quyết định vượt sông. Khi tới gần bờ bên kia tôi lặn một hơi dài và âm thầm nhú đầu lên mặt nước, bỗng nghe tiếng la lớn của tên VC gác trên cầu: - Ai đó? Và hắn nổ súng. Hoàng vội vàng quá nên đã bị lộ, tôi la lớn: - Trở lại bên kia bờ! Tôi lặn một hơi dài ra tới giữa giòng sông và lội trở lại bờ bên kia. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
May mắn không ai bị gì và cũng không thất lạc nhau. Mặc áo quần xong chúng tôi rời khỏi bờ nước tìm đến một căn nhà có đèn còn sáng và gõ cửa xin vào. Người đàn bà mở cửa, thấy chúng tôi trong quân phục TQLC, bà ta có vẻ sợ hải, tôi hiểu và trình bày ngắn gọn, người đàn bà mời vào, đóng cửa cẩn thận. Trong nhà có thêm một cô gái chừng 16, 17 tuổi. Họ cho chúng tôi ăn uống, sau đó chúng tôi nhắm mắt trong giấc ngủ chập chờn... *** 9 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1975 Từ trong căn nhà qua đêm ngủ đỡ ở An Hải, chúng tôi đi về hướng cầu De Lattre, với ý định trở lại vùng chiến trận hôm qua coi có ai còn nằm ở đó nữa không để yên tâm trước khi từ giã nơi này. Nhưng khi ra khỏi nhà chừng nữa cây số thì một nhóm người khoảng năm sáu đứa trên chiếc xe jeep, dừng lại vội vã trước mặt tôi và những người thuộc cấp. Chúng chỉa súng ngay vào người tôi và bảo đưa tay lên đầu. Thực lạ lùng, tôi không còn môt chút ý niệm về cái sống và sự chết. Đầu óc tôi như đang vẩn vơ trong giấc mơ, hai chân bước đi nhẹ nhàng như trên sương khói, tôi cứ tiếp tục đi, bên tai hình như tôi còn nghe tiếng la hét: - Đứng lại, đứng lại, anh có phải đơn vị trưởng không? Tôi mơ hồ: - Phải rồi. Chúng vội vàng có đứa nắm tay định làm dữ. Những người lính của tôi chận lại và xô họ ra: - Các ông muốn gì cứ nói, đừng đụng tới ông thầy tôi ... Cuối cùng chúng mời tôi lên xe ... Lúc đó vào khoảng 9 giờ hơn. Tôi bị bắt. *** Tôi muốn đi về phía bãi cát dài, nơi cuộc chiến vừa xảy ra hôm qua để một lần được nhìn lại dấu vết sau cùng của một đời chiến trận - và được nhìn ra biển Đông - nơi mà những chiến hữu của tôi đã chọn lựa để gởi gấm thân xác - và nói với Biển rằng : “Xin cảm ơn, Biển là nơi chốn trong sạch nhất để tiếp nhận các bạn vào cõi Vĩnh Hằng - Hởi những người con thân yêu đáng trân trọng của Tổ Quốc.” Tân An Đoàn Văn Tịnh 185 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Lính &
NaâNg
Minh Quang Lê văn Thẩm Cựu SVSQ/K17TĐ
ĐẾM LẠI ĐI !
Năm mươi năm gặp lại Đếm đi! Coi ai còn ai mất…? Nói cho văn hoa chữ nghĩa Đền nợ nước, với Tổ Quốc Ghi Ơn! Ba ông Trung Tá dung dăng dung dẽ Đã rũ nhau đi vào cỏi Hư Vô. Rồi ông Thủ Khoa cũng vẫy tay chào Đi vào vùng Miên Viễn… Còn thằng nào đui què, mẻ sứt… U trán, rách vai, tay khều, chân quẹo… Còn thằng nào mảnh đạn giữ làm kỷ vật trong người, Ông nào từng cắm cờ trên Cổ Thành Quảng Trị… Qua đến đây rồi cũng bỏ cuộc ra đi! 30 tháng Tư, ai bám trụ chiến đấu cuối cùng Giữ vững Tổng Tham Mưu linh hồn của Quân Lực Rồi cũng phải tan hàng khi Big Minh năn nỉ… Em ơi em! Ráng buông súng giùm “qua” ! Còn ai xương trắng nằm trong lòng biển cả Thú dữ nhai thịt bạn mình như những miếng mồi ngon! Thằng nào đến trước, kẻ nào qua sau? Ai còn bên đó, ai ở bên nầy? 186 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
th ú
Ôi! Năm mươi gặp lại Đại bác bên tai, tưởng giọng ai đang hát… Mặt trời chói chang, ngỡ hỏa châu đêm! Mười Bảy đó, Anh hùng Nguyễn Thái Học. Đêm bồng súng truy điệu Nghĩa Trung Đài, Ngày quỳ xuống nhận cặp lon Chuẩn Úy! Có đàn quạ đen đậu trên Đài Nghĩa Tử, Súng lệnh vang rền như tiếng gọi củaTiền Nhân. Đàn quạ kinh hoàng vụt bay nhanh về rừng núi Để Khóa 17 đứng lên, Một Ngàn người vào cuộc chiến dấn thân! Năm mươi năm gặp lại, thử đếm đi! Vỏn vẹn còn ba trăm, non bảy trăm phiêu lãng về đâu? Thương tiếc lắm những bạn Đồng Môn 17 ! Dẫu đại cuộc không thành Nhưng tinh thần Nguyễn Thái Học mãi vẫn còn đây! Không thành công, nhưng cũng đã thành nhân, Để trọn nghĩa với quê hương Nước Việt ! Mùa Hội Ngộ 2014 Công Binh Lê văn Thẩm ĐĐ15/TrĐ59 GĐ1/K17TĐ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
VỀ NHỮNG VỊ TƯ LỆNH *** Lời tác giả : Trong hơn mười năm trong quân ngũ với biết bao vui buồn lẫn lộn, sống chết cận kề, có lẽ nó sẽ là một hành trang đầy lý thú của một người lính già ngoài tuổi thất tuần ngồi kể lại chuyện xưa tích cũ. Chuyện lính thì dông dài kể hoài cũng khó mà hết, tuy nhiên kể chuyện lính mà quên không nhắc những vị Tư Lệnh từng chỉ huy những đại đơn vị mà mình từng phục vụ trong đời binh nghiệp, thì có lẽ là một thiếu sót. Với ý nghĩ đó, người viết xin được mạo muội phát họa lại hình ảnh những vị Tư Lệnh mà mình có dịp, may mắn thì được trực tiếp tiếp xúc - có khi bị khiển trách - hoặc nhận lệnh, không may thì đứng xa mà nhìn rồi thấy sao viết lại vậy. Tuy nhiên trong loạt bài nầy, tuyệt đối sẽ không có bất kỳ một sự phê phán nào, bởi vì cái cảnh “dậu đổ bìm leo” không nên tái diển ở hải ngoại nầy. Đối với những vị Tư Lệnh đã vĩnh viễn ra đi, xin được thắp lên một nén hương lòng để tưởng niệm. Đối với những vị Tư Lệnh còn sức khỏe, xin được kính gởi đến như một lời chúc trường thọ của một thuộc cấp từng phục vụ dưới quyền…. Bút ký của Pháo Thủ Tiền Giang Cựu SVSQ/K17TĐ
Chuêín Tûúáng Vônh Löåc Khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức của chúng tôi ra trường năm 1964 , là một khóa động viên đông đảo đầu tiên sau ngày “ Cách Mạng” lật đổ TT Ngô Đình Diệm với số sinh viên sĩ quan trên 900 người và vớí gần một phần ba được chọn đi đủ các binh chủng ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chuyên môn như Pháo binh, Thiết giáp, Truyền tin, Quân nhu, Quân cụ…Và cũng vì quá đông đảo nên các đơn vị Tổng Trừ Bị như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân tha hồ tuyển lựa các chàng chuẩn úy tướng tá ngon lành về các tiểu đoàn của mình. Ngoại trừ số còn lại được phân phối về các Sư đoàn Bộ binh, còn có 100 tân chuần úy đã được chuẩn định an ninh từ trước, trình diện Bộ TTM lập thủ tục xuất ngoại du học Okinawa về ngành tình báo, để sau đó hình thành đơn vị quân báo Biệt Đoàn 300, tiền thân của Đơn vị 101 sau nầy. Riêng tôi được may mắn tuyển chọn đi binh chủng Pháo binh cùng với hơn 90 anh em SVSQ khác di chuyển ra Trường Pháo binh Dục Mỹ. Sau sáu tháng học hành cam go của Khóa Căn bản SQPB, ngày ra trường tôi chọn về Tiểu đoàn 9 Pháo binh đồn trú tại Sa Đéc cùng với 6 anh em khác, cộng với các bạn cùng khóa về Tiểu đoàn 9 Súng Cối tại Quận Đức Tôn, tính ra cũng được mười mấy tân chuẩn úy Pháo binh. Hai tiểu đoàn nầy, sau đổi thành TĐ 91 và 92 Pháo binh xữ dụng đại bác 105 ly, còn TĐ súng cối 187 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
106 ly giải tán và giao súng cho các Tiểu Khu. Ngày các tân chuẩn úy Khóa 17 Thủ Đức thuộc đủ loại binh chủng trình diện Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh tại Sa Đéc, đến nay sau 50 mươi năm, anh em cùng khóa cùng đơn vị nhắc lại cũng còn đôi chút… xót xa trong lòng. Gần 60 tân chuẩn úy tập họp tại Hội Trường Bộ Tư Lệnh để chờ trình diện lên vị Tư Lệnh SĐ là Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc vừa mới được vinh thăng. Nhìn đám chuẩn úy tò te mới ra trường, quả thật chính anh em chúng tôi cũng thấy ….nản chí ! Ngoại trừ mười mấy chuẩn úy Pháo binh được lệnh của Thiếu tá Trần Thái Hân, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn ra lệnh phải mặc quân phục tiểu lễ ka ki vàng thắt cà vạt đen và đội kết bi, tất cả chuẩn úy còn lại lếch tha lếch thếch với bộ đồ trận bạc màu, tội nghiệp có anh bạn còn đội cái bề rê xanh gắn phù hiệu quân trường Thủ Đức. Cả khóa chúng tôi được Đại úy Giỏi, Trưởng Phòng I Sư Đoàn hô nghiêm, đứng lên và trình điện với Chuẩn tướng Tư Lệnh đang ngồi trên bục cao phía trước hội trường, đại khái : -Khóa 17 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức gồm 59 chuẩn úy thuyên chuyển về Sư đoàn 9 Bộ binh, hiện diện 58, vắng mặt một ! Trình diện Chuẩn Tướng Tư Lệnh ! Sau đó ông hỏi lại cho rõ, được biết một tân chuẩn úy bộ binh đã đến trình diện nhưng vắng mặt trong buổi hôm nay, Chuẩn tướng Vĩnh Lộc nói lớn : -Tôi, Tư lệnh Sư Đoàn sẵn sàng ngồi đây đến nửa đêm để chờ diện kiến với vị Tân Chuẩn Úy! Anh em chuẩn úy mới ra trường chúng tôi như những con nai vàng ngơ ngác, ngồi lặng thinh nhìn nhau trong một hội trường im phăng phắc. Sau đó độ mươi mười lăm phút, xe quân cảnh SĐ chở anh bạn cùng khóa vô hội trường với bộ đồ trận bạc màu xốc xếch, mặt mủi còn ướt đẫm mồ hôi mồ kê , đứng nghiêm tay run run trình diện Chuẩn tướng Tư Lệnh. Từ trên bục cao, Chuẩn tướng Vĩnh Lộc đập bàn : -Các anh bỏ cái bằng cấp Tú tài, bỏ cái bằng cấp Cử nhân của các anh ở bên kia Bắc Mỹ Thuận đi ! Ở đây không ai cần những thứ đó hết ! Ở đây quân đội chỉ cần những người biết kỹ luật, hăng say làm việc và hết lòng chiến đấu ! Biết chưa ! Nói xong ông cầm can đứng dậy bỏ đi , và buổi trình diện của các “ông” tân chuẩn úy khóa 17 chúng tôi kết thúc trong không khí bẽ bàng của những ngày đầu đời binh nghiệp. Sau nầy được biết thêm về ông bạn chuẩn úy bộ binh “hại bạn” nầy như sau, sau khi trình diện Sư đoàn được cấp chỗ ngủ ở phòng vảng 188 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
lai sĩ quan và quên phứt ngày giờ trình diện tập thể vị Tư lệnh , nên buồn tình ra phố chơi. Lúc xe quân cảnh Sư đoàn chạy ra Sa Đéc để tìm xúc anh về, thấy anh còn đang… phạch ngực thục bi da ngoài phố Sa Đéc ! Nhưng câu chuyện về việc trình diện vị Tư Lệnh Sư Đoàn đến đây chưa chấm dứt, bởi vì vài tháng sau đó, Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt ra trường, và riêng tôi không biết được vị Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 91 Pháo binh coi giò coi cẳng sao đó, nên được giữ lại làm Sĩ quan Phụ tá Ban 3, trưởng ban là Thiếu úy Lê Thơm, sau nầy là Thiếu tá Quận trưởng Quận Chợ Lách, Vĩnh Long. Vì là sĩ quan thuộc ban tham mưu Tiểu đoàn, nên sau đó tôi được chứng kiến buổi trình diện vị Tư Lệnh Sư Đoàn của các tân thiếu úy Khóa 19 VBĐL trong một phiên họp tham mưu cũng tại Hội trường SĐ. Hôm đó tại hội trường, thay vì được sắp xếp ngồi những hàng ghế đầu để đứng lên trình diện vị Tư Lệnh như khóa 17 TĐ trước đây, thì gần hai mươi tân thiếu úy tốt nghiệp Khóa 19 VBĐL ngồi hàng ghế sau cùng cuối hội trường. Sau khi Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc ngồi vào ghế chủ tọa trên bục cao, các ông tân thiếu úy từ hai hàng ghế cuối hai bên hội trường, với lễ phục ka ki vàng bốn túi, cầu vai đen óng ánh một bông mai vàng cùng với cát kết sáng ngời kim tuyến, đồng loạt đứng lên từ từ đi nhập vào hàng một rồi đều bước rầm rập thẳng tới trước hội trường. Khi người đi đầu bước đến trước hàng ghế đầu tiên của hội trường thì tự động bẻ gốc quẹo phải đi thẳng chiếc ghế cuối hàng, rồi người thứ hai tự động bẻ gốc quẹo trái ….lần lượt như vậy cho đến người sau cùng. Bây giờ đội hình của các tân thiếu úy Khóa 19 ĐL trở thành một hàng ngang với phân nửa quay về hướng phải phân nửa quay về hướng trái cách nhau một lối đi giữa hội trường. Bỗng có một khẩu lệnh nhỏ nhưng chắc nịch từ hàng các tân thiếu úy vang lên : -Tất cả ! Trái , phải quay ! Thao diển , nghỉ ! Sau khẩu lệnh, tất cả các tân sĩ quan ĐL như những người máy đều đồng loạt dậm chân quay mặt về phía trước hội trường nơi có Chuẩn tướng Vĩnh Lộc đang ngồi chủ tọa trên bục cao, và cả hội trường tiếp tục im lặng theo dõi những diển tiến ngoạn mục của buổi trình diện . Rồi từ trong hàng quân của các tân thiếu úy ĐL , phát lên một khẩu lệnh rền vang cả hội trường , nhớ đại khái : -Tất cả ! Nghiêm ! Chào tay , chào ! Sau đó là ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
phần trình diện : -Chúng tôi ! Mười tám (?) thiếu úy tốt nghiệp Khóa 19 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt được vể phục vụ Sư Đoàn 9 Bộ Binh, đồng trình diện lên Chuẩn Tướng Tư Lệnh và chờ lệnh ! Thật oai phong lẫm liệt , chẳng bù với Khóa 17 Thủ Đức của chúng tôi trước đây…trông thật rầu ho mà còn bị giũa thảm thiết nữa ! Cả hội trường có lẽ không kềm hãm được nên vỗ tay vang rần . Sau đó Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc đứng lên chào đáp lại, rồi đến bục thuyết trình cầm micro ông nói : -Đây là những Kỹ Sư của Quân Đội ! Những cấp chỉ huy tương lai của QLVNCH ! Sau đó ông phủ dụ và khen ngợi thêm một hồi nữa trước khi buổi lễ trình diện …để đời của các tân thiếu úy thuộc khóa 19 VBQGĐL tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh bế mạc. *** Tình hình lúc bấy giờ tại Khu 41 Chiến Thuật gồm 3 tỉnh Vĩnh Long, Sa Đéc và Vĩnh Bình là vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 9 Bộ Binh tương đối yên tỉnh , chỉ có những cuộc hành quân nhỏ do các Trung đoàn 13, 14 và 15 thực hiện lòng vòng trong ba tỉnh nói trên . Tuy nhiên cũng có một lần các quân nhân thuộc hai Trung đoàn 13, 15 và các đơn vị yểm trợ đứng tim trong đó có Bộ Chỉ Huy Nhẹ của Tiểu đoàn 91 Pháo binh tụi tôi, khi cùng Bộ Tư Lệnh Nhẹ của Sư Đoàn được lệnh tiến về Sài Gòn để tham dự một cuộc chỉnh lý hay đảo chánh gì trên đó. Khi đoàn quân đến bến Bắc Mỹ Thuận phía Vĩnh Long để chuẩn bị qua phà thì Sư Đoàn 7 đang dàn quân bên bờ bên kia hướng Mỹ Tho không cho qua và giữ tất cả các chiếc phà bên đó. Sau hai ngày đóng quân dã chiến trên tỉnh lộ Vĩnh Long – Sa Đéc , có lẽ được mấy ông tướng ở Sài Gòn giàn xếp sao đó nên cả chiến đoàn được lệnh giải tán quay trở về đơn vị. Ai nấy mừng khấp khởi vì khỏi phải tham dự cảnh quân ta đánh quân mình, để rồi không biết tương lai sẽ trôi nổi về đâu… Thời gian nầy, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Vĩnh Lộc quen biết thân mật với nữ ca sĩ Minh Hiếu, nên tại Hội Quán Sư Đoàn cạnh bờ sông Sa Đéc hàng tháng có tổ chức “ Bửa cơm đoàn kết” cho tất cả các sĩ quan của các đơn vị đồn trú tại Sa Đéc đến ăn tiệc, nghe ca sĩ Minh Hiếu hát và sau đó là …nhảy đầm. Đám sĩ quan trẻ tụi tôi không mê cái màn cơm đoàn kết nầy cho lắm, vì vừa tốn tiền vừa mất nguyên buổi tối cuối tuần có nhiều tiết mục khác ….hấp dẩn hơn, ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nên thay vì mỗi tháng tất cả đều phải tham dự theo lệnh của Sư Đoàn, thì ông Tiểu Đoàn Trưởng chúng tôi chia sĩ quan làm hai toán luân phiên tham dự. Tuy nhiên mỗi lần tham dự “cơm đoàn kết” nầy , đám sĩ quan trẻ Tiểu Đoàn 91 PB tụi tôi cũng không lỗ lã cho lắm. Bàn tiệc của đám pháo binh chúng tôi ngồi luôn luôn chọn sát cửa sổ, mà muổng nĩa chén bát của Hội Quán Sư Đoàn đều là thứ mắc tiền , ăn xong chỉ việc quăng nhẹ qua cửa sổ xuống sân cỏ , ngoài đó có chú tài xế của chúng tôi chực hờ sẵn thu dọn chiến trường chất lên xe jeep đem về trang bị cho Câu lạc bộ Tiểu Đoàn. Có lần Đại úy Nguyễn Mỹ Quang TĐT/TĐ 91 PB trong bửa cơm trưa hỏi : -Ở đâu mà câu lạc bộ của mình có chén bát muỗng nĩa đẹp quá như vầy ? Tụi tôi ngồi êm re , chỉ có Thiếu úy Lê Thơm cười cười trả lời : -Dạ…. “đề mẹt” bên Sư Đoàn Đại Úy ! Ông TĐT lắc đầu : “Hết biết mấy cậu !” Tôi không biết Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc theo tôn giáo nào, nhưng ông không tin dị đoan. Có một cái Tết không còn nhớ rõ năm nào, ngay ngày Mùng Ba Tết ông ra lệnh cho Phòng 3 SĐ triệu tập phiên họp tham mưu để lập kế hoạch hành quân ngày Mùng Năm Tết vào vùng Đất Sét giáp ranh hai tỉnh Cao Lãnh và Sa Đéc. Vị Trưởng Phòng 3 và một số sĩ quan tham mưu SĐ đề nghị dời cuộc hành quân đầu năm của Sư Đoàn sang ngày Mùng Sáu Tết, nhưng ông không chấp thuận. Trong cuộc hành quân nầy, tôi đi làm “ Tiền sát viên” cho Đại đội 9 Trinh Sát Sư đoàn, sau khi ủi bãi đổ bộ lên bờ bằng tàu Hải quân của một Giang Đoàn Xung Phong khi chưa kịp dàn đội hình, thì đại đội bị dàn chào bằng hai cây đại liên Đông Đức bắn chéo góc với lằn đạn xanh dờn, đồng thời tiếng tiểu liên Tiệp Khắc nổ dòn tan cùng với những lằn đạn CKC cắc bùm…chéo, cắc bùm…chéo xối xả vào đại đội. Tụi tôi vừa bắn trả vừa thối lui xuống bờ sông nhờ hỏa lực trên tàu bắn yểm trợ, nhưng rồi một chiếc tàu cũng bị một quả 57 ly bắn trúng pháo tháp lùi ra và trôi dật dờ trên sông Cửu Long. Sau đó nhờ mấy chiếc Cobra Mỹ tới yểm trợ mới yên cho Đại Đội Trinh Sát leo ngược trở lên tàu. Cũng may sau khi kiểm điểm lại Đại đội hoàn toàn vô sự, nhưng anh em lính tráng thì cằn nhằn “Mùng năm mà khai quân thì …có ngày ôm đầu máu !” . Có một lần, tất cả sĩ quan các đơn vị đồn trú tại Sa Đéc cùng tham dự lễ chào cờ đầu tháng tại Bộ Tư Lệnh SĐ. Sau lễ chào cờ, Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc 189 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
gắn huy chương tượng trưng cho một vài quân nhân trong sư đoàn, để rồi sau đó là phần ….lột lon một ông Trung úy. Sau khi lệnh giáng cấp được một sĩ quan Phòng Tổng Quản Trị xướng đọc, hai bông mai vàng trên cổ áo của ông trung úy bị Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc giựt mạnh quăng xuống đất và chiếc lon mới với một bông mai đơn độc được gắn thế vào. Mấy năm sau, khi tôi xuống Quận Minh Đức coi TrĐ 3A 91 PB, thì được gặp lại vị sĩ quan bị “lột lon” , đó là Thiếu úy Khải, vừa mới thuyên chuyển xuống đây làm Đại Đội Trưởng ĐĐ 160 ĐPQ tân lập. Ông tốt nghiệp Khóa 1 SQTB Nam Định, những vị sĩ quan đồng khóa với ông đã là những ông Tướng trong guồng máy lãnh đạo quốc gia, riêng ông chưa bao giờ lên đến cấp bậc đại úy, chỉ bởi vì ông mang tội hút …á phiện. Tội nghiệp, chính cái lần ông bị Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc lột lon trước sân cờ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, cũng là do cái tội hút á phiện mà ra. Đó là những hình ảnh tôi còn nhớ lại được với vị Tư Lệnh Sư Đoàn 9 BB , Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc, của những ngày đầu đời binh nghiệp. Sau nầy ông làm Tư Lệnh Quân Đoàn II vinh thăng Trung tướng và được tôn vinh là “ Anh cả Trường Sơn” với những hình ảnh đặc biệt của báo chí khi có một năm ông về Sài Gòn khoát tấm áo choàng của người Thượng , cởi voi trắng “ Bạch Tượng”đi diển hành trong Ngày Quân Lực.
Chuêín Tûúáng Lêm Quang Thi Tôi không nhớ Đại Tá Lâm Quang Thi về làm Tư Lệnh Phó SĐ9BB vào thời gian nào , vì mỗi lần tất cả nhân viên Ban 3 của Tiểu Đoàn 91 Pháo Binh sang Bộ Tư Lệnh SĐ để làm phóng đồ cho các cuộc 190 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
hành quân cấp Trung Đoàn và Sư Đoàn , gồm phụ bản “C” yểm trợ hỏa lực và phóng đồ các hỏa tập tiên liệu, chúng tôi ít gặp ông hơn là Chuẩn Tướng Tư Lệnh Vĩnh Lộc. Cho đến khi CT Vĩnh Lộc thuyên chuyển , ông chính thức nắm Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh , từ đó chúng tôi mới được thường xuyên nhìn thấy ông tại Bộ Tư Lệnh SĐ. Đại Tá Lâm Quang Thi gốc người Nam cao trên một thước bảy với nước da ngâm ngâm và khuôn mặt luôn rắn rỏi nghiêm nghị , suốt thời gian ông ở Sư Đoàn 9 chưa bao giờ chúng tôi thấy ông cười , kể cả trong những buổi tiệc “ Cơm Đoàn Kết” rộn ràng không khí ăn uống tươi vui cùng với âm nhạc xập xình dưới thời Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc. Ông gốc pháo binh , từng nắm chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Pháo Binh , rồi Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn I . Cũng có thời gian ông làm Chỉ Huy Trưởng Trường Pháo Binh QLVNCH và Quyền Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng Pháo Binh . Chính vì ông là gốc sĩ quan pháo binh về làm Tư Lệnh Sư Đoàn nên anh em pháo thủ chúng tôi ở Sư Đoàn 9 ….. mới bị kẹt đạn ! Số là sau các cuộc hành quân có chiến thắng lớn , hai Tiểu Đoàn 91 và 92 Pháo Binh thường lập bản đề nghị huy chương cho các sĩ quan pháo binh có tham dự trận đánh , nhưng tất cả bản đề nghị có đi mà ….không có về ! Bởi vì ông Tư Lệnh gốc pháo binh không muốn ban huy chương cho các pháo thủ vì ngại tiếng đời dị nghị là thiên vị cho sĩ quan cùng binh chủng ! Cho nên sau đó tụi tôi ….rút kinh nghiệm , không để Tiểu Đoàn của mình lập danh sách chạy huy chương nữa , mà theo ngả các đơn vị mình đi yểm trợ như Trung Đoàn bộ binh , Thiết Giáp hoặc Biệt Động Quân , nên kết quả ăn chắc hơn . Kể từ ngày Đại Tá Lâm Quang Thi nắm Tư Lệnh , Sư Đoàn 9 Bộ Binh có một bộ mặt khác với những cuộc hành quân Diều Hâu mà nghe nói ông đem ra ứng dụng từ Sư Đoàn 7 Bộ Binh bên Khu Chiến Thuật Tiền Giang . Với chiến thuật Diều Hâu nầy , thường xử dụng những đơn vị gọn nhẹ nhưng tinh nhuệ như Đại Đội 9 Trinh Sát Sư Đoàn , hoặc các Đại Đội Thám Báo (về sau cũng đổi tên thành Đại Đội Trinh Sát) của ba Trung Đoàn 13 (sau đổi thành 16) , 14 và 15 . Các Đại Đội nầy được trực thăng vận xuống những mục tiêu nghi ngờ để tìm địch, nếu gặp và chạm địch, Đại Đội sẽ cố gắng chiến đấu cầm chân địch, để rồi ngay tức khắc sau đó nổ lực chính gồm các Tiểu Đoàn Bộ Binh hoặc Tiểu Đoàn 43 BĐQ đang xếp toán ngoài các phi trường Vĩnh ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Long hoặc Vĩnh Bình sẽ ùn ùn nhảy vào mục tiêu để bao vây và tiêu diệt địch. Thời gian nầy , những cuộc hành quân cấp Sư Đoàn mang tên Long Phi của Sư Đoàn 9 BB đã có tiếng vang , đặc biệt hai chiến thắng lớn là Long Phi 954 tại Cầu Ngang tiêu diệt hoàn toàn Tiểu Đoàn VC Cơ Động 514 của tỉnh Vĩnh Bình , và cách đó chưa đầy một tuần lễ là Long Phi 955 tại Ấp Giồng Riềng quận Kiên Bình thuộc tỉnh Rạch Giá đánh tan nát Trung Đoàn U Minh của Việt Cộng , đã đưa tên tuổi Sư Đoàn 9 Bộ Binh lên hàng Sư Đoàn thiện chiến ngang ngửa với Sư Đoàn 7 và Sư Đoàn 21, và cũng là lúc Đại Tá Lâm Quang Thi được vinh thăng Chuẩn Tướng. Trong kế hoạch phát triển Sư Đoàn 9 Bộ Binh , ba Trung Đoàn 14, 15 và 16 mỗi Trung Đoàn thành lập thêm một Tiểu Đoàn bộ binh thứ tư , đồng thời Tiểu Đoàn 91 Pháo Binh cũng thành lập thêm một Pháo Đội tác xạ đầy đủ 6 khẩu đại bác 105 ly mang tên là Pháo Đội D/91 PB dành để lưu động yểm trợ hành quân cấp Sư Đoàn . Thời gian nầy (1967) tôi còn mang lon thiếu úy và đang đi “tiền sát viên” cho Tiểu Đoàn 4/16 tân lập do Đại Úy Hoàng Trọng Cân làm tiểu đoàn trưởng , chính trong thời gian nầy , tôi đã được “ mặt đối mặt” với vị Tư Lệnh Sư Đoàn trong một hoàn cảnh …éo le ngoài chiến trường . Số là trong một cuộc hành quân bình định vùng Nha Mân do Tiểu Khu Sa Đéc tổ chức ( Tiểu Khu Trưởng là Trung Tá Lê Thọ Trung ), Tiều Đoàn 4/16 tăng phái cho cuộc hành quân nầy xuất phát từ xã Bình Tiên , một xã ngoại ô trù phú bậc nhất của tỉnh lỵ Sa Đéc . Khi Tiểu Đoàn 4/16 đang di chuyển đội hình ngang qua khu vực xã Phú Long thì bỗng có nhiều tiếng “départ” của súng cối cạch …cạch…, sau đó vài giây hàng loạt đạn súng cối 81 ly nổ ngay giữa đội hình của Tiểu Đoàn khiến lính tráng tung chạy tán loạn , một số bị thương vì miểng súng cối . Sau khi chạy nhào tới núp vào bờ đê , tôi chụp máy kêu đơn vị 1C/91 Pháo binh tại quận Đức Tôn bắn yểm trợ một quả đạn khói vào tọa độ vừa phát ra tiếng “départ” súng cối , dự tính sau đó sẽ bắn đạn nổ để tiêu diệt mục tiêu súng cối của địch đang pháo kích vào TĐ4/16. Khi quả đạn khói trắng xóa nổ bụp trên mục tiêu thì trên tần số pháo binh xen vô một giọng la hoảng hốt: -Pháo binh ngưng tác xạ ! Pháo binh ngưng tác xạ ! Việt cộng ngoài ruộng sao không bắn mà lại bắn vô đồn tụi tui ! ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tôi cầm ống liên hợp hỏi lại : -Anh là ai ? Đồn anh ở đâu ? -Tụi tui là “Hai lần Đống Đa 834” đang xây đồn Phú Quốc- Lê Lai đây ! Thì ra đây là Đại Đội 834 ĐPQ của Tiểu khu Sa Đéc đang xây đồn Phú Long , vậy mà trên phóng đồ hành quân hoàn toàn không có ghi chi tiết nầy . Khi thấy Tiểu Đoàn 4/16 đang di chuyển lao xao ngoài ruộng chắc tưởng lầm là Việt cộng bèn lấy súng cối 81 ra thục . Tin tức sau đó được trình báo về Sư Đoàn và Chuẩn Tướng Lâm Quang Thi bay trực thăng xuống thị sát …”chiến trường” , với kết quả gần một chục quân nhân Tiểu Đoàn 4/16 bị thương trong đó có Đại Úy Hoàng Trọng Cân Tiểu Đoàn Trưởng , cũng may không có ai bị chết vì loạt đạn súng cối rớt vào những mảng ruộng ngập nước nên miểng đạn cũng ít đi. Chiếc trực thăng C&C vừa đáp xuống thì Chuẩn Tướng Lâm Quang Thi mặt hầm hầm rời trực thăng bước xuống ruộng , khi Đ/u Cân đến chào trình diện ông tức giận định quơ “baton” đập , chợt thấy cần cổ Đ/u Cân máu me tùm lum vừa mới được băng bó xong nên ông bỏ tay xuống. Chưa hết giận , ông nhìn quanh và hỏi lớn : -Pháo binh đâu ? Sao để Tiểu Đoàn đi như vầy ?! Tôi đang đứng kế bên đó nên vội chào ông và trình bày : -Thưa Chuẩn Tướng, trong bản đồ và phóng đồ hành quân hoàn toàn không có ghi đồn Phú Long cũng như Đại đội Địa Phương Quân nầy . Ông im lặng vài giây rồi ra lệnh : -Đưa mấy đứa bị thương nặng lên trực thăng ! Tiểu Đoàn tiếp tục chiếm hết các mục tiêu ! Tiểu Đoàn 4/16 bắt đầu gom quân lại và tiếp tục di chuyển về hướng Nha Mân cùng với các quân nhân bị thương nhẹ , nhưng dù bị thương nhẹ cũng phải băng bó tùm lum . Tội nghiệp Đ/u Hoàng trọng Cân bị thương ngay cần cổ , cũng ráng khọt khẹt chỉ huy cuộc “lui binh” không dám leo lên trực thăng của Chuẩn Tướng Tư Lệnh để tản thương ! Riêng Thiếu úy Trợ Y Nguyễn văn Nghị , vua tiếu lâm của Tiểu đoàn , vừa chống gậy lội bì bõm dưới ruộng vừa lãi nhãi : -Đúng là Bảo An quánh tan Chủ Lực ! Đó là lần chót tôi gặp vị Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh Chuẩn TướngLâm Quang Thi . Sau đó tôi đi “đề-lô” thêm vài tháng nữa rồi trở về Trường Pháo Binh thụ huấn Khóa Tu Nghiệp , khi trở về xuống quận Minh Đức coi đơn vị 3A/91 Pháo binh tại đây, 8188188 191 ÐẶC SAN81 K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cho đến giữa năm 69 thì đơn vị di chuyển đi Ba Thê tham dự chiến dịch ngăn chận các đơn vị Việt cộng xâm nhập vào vùng U Minh từ biên giới Việt Miên . Đầu năm 70 sau khi thăng cấp Đại úy tôi ra nắm pháo đội lưu động rồi sang hành quân bên Kampuchia . Với những chiến thắng lớn liên tiếp của Sư Đoàn 9 Bộ Binh , Chuẩn Tướng Lâm Quang Thi được vinh thăng Thiếu Tướng và sau đó ông rời SĐ9BB để thuyên chuyển đi nơi khác , và chức vụ sau cùng của ông là Trung Tướng Tư Lệnh BTL/Tiền Phương Quân Đoàn I .
Thiếu Tướng Trần Bá Di trong Ngày Lễ Quân Lực 19/6 tại Orlando, Florida
Chuêín Tûúáng Trêìn Baá Di Có thể nói vị Tư lệnh gắn bó với Sư Đoàn 9 Bộ Binh lâu nhứt là Chuẩn Tướng Trần Bá Di . Tôi không nhớ chính xác ngày tháng ông về Sư Đoàn , chỉ nhớ khoảng năm 1965 ông về thay thế Trung tá Khưu Ngọc Tước giữ chức Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn . Thời gian nầy , SĐ 9 BB ngoài phần lãnh thổ trách nhiệm của Khu 41 Chiến Thuật gồm ba tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long và Vĩnh Bình , còn phải cáng đáng thêm các cuộc hành quân dọc theo biên giới Việt Miên của các tỉnh Kiến Phong, Châu Đốc, vì lúc đó Biệt Khu 44 chưa thành lập, đôi lúc còn tăng cường cho Khu 42 Chiến Thuật của SĐ 21 BB ở các mặt trận thuộc tỉnh Rạch Giá . Khi còn ở Ban 3 Tiểu Đoàn 91 Pháo Binh , trước khi mở các cuộc hành quân lớn cấp Sư Đoàn , toàn Ban 3/91PB chúng tôi phải sang Phòng 3 SĐ để phối hợp với BCH Pháo Binh SĐ thiết lập Phụ Bản C cũng như các phóng đồ yểm trợ hỏa lực . Những dịp đó , chúng tôi thường được gặp mặt hầu hết các cấp 192 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chỉ huy cao cấp của Sư Đoàn như Tư Lệnh, Tư Lệnh Phó , Tham Mưu Trưởng hoặc Giám Đốc Trung tâm Hành quân Sư Đoàn là Trung tá Huỳnh văn Chính . Riêng Đại tá Trần Bá Di lúc đó đang là Tham Mưu Trưởng , thường xuyên chúng tôi gặp ông tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn . Dáng dấp ông cao trên một thước bảy , giống như ông Cụ thân sinh là Thầy Trần văn Vạn , nguyên Tổng Giám Thị trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho , mà tất cả cựu học sinh xuất thân từ ngôi trường nầy ở thập niên 50 , 60 đều gọi một cách thân thương là “Bác Ba Vạn” , dù dáng cao và to lớn nhưng Đại tá Tham Mưu Trưởng Trần Bá Di lại rất vui vẻ hiền hòa . Ông thường xuyên đến thăm hỏi toán Pháo binh của chúng tôi đang cặm cụi làm các phóng đồ yểm trợ hỏa lực , một công tác chuẩn bị tỉ mỉ công phu cần sự chính xác , nhứt là các tọa độ của các hỏa tập tiên liệu trên mục tiêu cũng như trên các trục tiến quân , có khi anh em chúng tôi phải thức đến hai ba giờ sáng để hoàn tất công tác . Các phóng đồ hỏa yểm nầy sau đó sẽ được chuyển đến tận tay các tiền sát viên pháo binh đi theo các đơn vị được yểm trợ trong cuộc hành quân . Riêng tôi sau thời gian rời Ban 3 Tiểu Đoàn 91 Pháo Binh tình nguyện đi tiền sát viên thường trực cho các Tiểu Đoàn thuộc các Trung Đoàn bộ binh, hoặc Tiểu Đoàn 43 Biệt Động Quân hay các Chi Đoàn 3/2 , 2/2 Thiếp giáp …khi sắp sửa được lên trung úy , tôi trở về Trường Pháo Binh học Khóa Tu Nghiệp , mản khóa trở về Tiểu Đoàn rồi xuống quận Minh Đức tỉnh Vĩnh Long coi đơn vị 3A/91PB , cho nên ít được dịp gặp lại các vị sĩ quan cao cấp của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn , trong đó có vị Tham Mưu Trưởng là Đại Tá Trần Bá Di. Rồi trận Mậu Thân xảy ra , trong khi tôi đang cùng Đại úy Trần Đình Hòe Quận trưởng Minh Đức và Phó Quận Hành Chánh Lê Công Nghiệp ra sức chống trả các cuộc tấn công của VC vào quận lỵ , thì tại tỉnh Vĩnh Long VC đang dồn nổ lực từ nhiều ngã tấn công mạnh vào trung tâm thành phố với lửa khói ngất trời cùng người chết la liệt , lúc đó Đại Tá Trần Bá Di đang là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 9 Bộ Binh . Theo những quân nhân từng cố thủ tại Tiểu Khu Vĩnh Long trong trận Tết Mậu Thân , trong đó có một người bạn tôi là Đại úy Mạc Hồng Quang cho biết , lúc đó Tỉnh Trưởng Vĩnh Long là Đại Tá Huỳnh Ngọc Diệp đã bị thương , Trung Tá Dương Hiếu Nghĩa Tân Tỉnh Trưởng thì đang trên đường đáo nhậm đơn vị , chính trong thời điểm nguy ngập ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
như rắn mất đầu nầy , Đại Tá Trần Bá Di Tư Lệnh Phó SĐ 9 BB đã từ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn tại Sa Đéc lên Vĩnh Long rồi tìm cách vượt vòng lửa đạn vào được Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để điều động các đơn vị đánh đuổi quân VC ra khỏi thành phố . Khoảng giữa năm 1968 , khi cuộc tổng công kích Mậu Thân của VC trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật đã bị hoàn toàn bẻ gãy , toàn thể Miền Nam từ Quảng Trị đến Cà Mau gần như không còn một trận đánh lớn nào vì quân CS từ bộ đội xâm nhập cho đến các lực lượng địa phương hầu hết đều bị tan rã. Một hôm khoảng 10 giờ sáng , trong lúc toàn thể quân nhân pháo thủ trong đơn vị 3A/91 PB của tôi người thì đang lau chùi đại bác , kẻ thì đang cắt cỏ hay tu bổ các ụ súng …thì có một chiếc xe jeep với anten “ cần câu” của máy truyền tin VRC 47 chạy ngang qua vị trí sang Bộ Chỉ Huy Chi Khu . Chưa đầy 5 phút sau chiếc xe jeep quay trở ra và quẹo vô sân đậu trước Đài tác xạ của đơn vị, bước xuống xe là một dáng người cao lớn , thì ra là Đại Tá Trần Bá Di , Tư Lệnh Phó SĐ 9 BB của chúng tôi cùng với người tài xế và hai quân nhân hộ tống ngồi phía sau , đến thăm Chi khu Minh Đức và đơn vị pháo binh của tôi . Sau khi chào kính , tôi mời Đại Tá Tư Lệnh Phó vào phòng khách trong đài tác xạ nhưng ông từ chối, với một phong thái thật bình dị thân tình , ông bảo đứng ngoài sân nói chuyện cho mát . Dưới tàn cây trứng cá trước đài tác xạ , ông vui vẻ hỏi tôi tình hình chiến đấu hồi Tết Mậu Thân cũng như đời sống của anh em trong đơn vị trong thời gian quận lỵ bị bao vây và tấn công trên hai tuần lễ . Tôi kể cho ông nghe việc trước Tết , với mục đích làm sạch sẽ vị trí , anh em trong đơn vị bị tôi “chia đất” đồng đều bắt buộc mọi người kể cả tôi , mỗi ngày từ 4 đến 5 giờ chiều , phải xách cuốc ra cuốc đất trồng trọt hoa mầu rau cải , nhờ vậy vô tình đến Tết Mậu Thân khi quận lỵ bị bao vây chợ búa bị VC phong tỏa , anh em pháo thủ đơn vị tôi kiếm cũng bộn tiền nhờ ….bán rau cải cho dân chúng trong quận . Ông cười vui bảo nếu đơn vị có nuôi thêm gà thêm vịt chắc Tết Mậu Thân vừa rồi anh em pháo thủ giàu to ! Đầu năm 70 trước Tết Âm Lịch, tôi kéo đơn vị ra khỏi núi Ba Thê trở về Vĩnh Long để thành lập Pháo Đội lưu động . Sau khi thăng cấp Đại úy , tôi giữ chức Pháo Đội Phó rồi Pháo Đội Trưởng . Độ hai tháng sau , Pháo Đội di chuyển vô Mộc Hóa rồi được trực thăng vận vào chiến trường trong cuộc hành quân đánh chiếm mật khu Ba Thu , đầu nảo ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trên đất Miên . Sau đó Pháo Đội tôi , khi thì trực thăng vận , khi thì được thiết vận xa M113 kéo súng tham dự các cuộc hành quân giải tỏa tỉnh Tà Keo và các quân lỵ chạy dài lên đến thủ đô Phnom Penh. Lúc nầy Đại Tá Trần Bá Di đã nắm giữ chức vụ Tư Lệnh SĐ9BB thay thế Thiếu Tướng Lâm Quang Thi cách đây hơn một năm , sau khi đem SĐ9BB vượt biên đánh sang Miên với những chiến thắng liên tiếp , vài tháng sau ông được vinh thăng Chuẩn Tướng . Một lần ông bay đến thăm Pháo Đội tôi vừa được thiết vận xa kéo đến một vị trí ở ngoại ô tỉnh Tà Keo , thấy anh em pháo thủ vất vả quá vì hết yểm trợ chiến đoàn bộ binh nầy , thì lại chuyển sang yểm trợ cho các Thiết Đoàn của Lữ Đoàn 4 Thiết Kỵ gần cả năm nay , nên ông hỏi tôi có muốn đưa Pháo Đội trở về Việt Nam nghỉ dưởng quân không , tôi cám ơn và thưa không , chỉ xin ông cho đoàn xe của Pháo Đội hiện đang tập trung tại tiền cứ Núi Sam Châu Đốc sang đây để giúp việc di chuyển hành quân dễ dàng hơn . Hai hôm sau , đoàn xe của PĐ được qua Miên để nhập vào chiến đoàn hành quân , từ đó mỗi lần di chuyển yểm trợ hành quân , pháo đội dùng xe cơ hữu của mình nên anh em pháo thủ đở phải vất vả trăm bề như trước đây , kể cả việc chợ búa nuôi ăn quân nhân pháo đội cũng dễ dàng , được như vậy cũng nhờ sự chăm sóc lo lắng đến đời sống binh sĩ của vị Tư Lệnh SĐ Chuẩn Tướng Trần Bá Di . Sau khi kéo pháo đội tham dự cuộc hành quân giải tỏa nhà máy ciment tại tỉnh Kampot với Trung Đoàn 16 Bộ Binh của Đại Tá Huỳnh văn Chính , tôi được lệnh thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 92 Pháo Binh đồn trú tại Ngã Tư Long Hồ và giữ chức vụ Trưởng Ban 3 để tổ chức Ban tham mưu TĐ vì tiểu đoàn nầy vừa mới được sáp nhập vào SĐ9BB từ TĐ67PB tân lập . Tại đây Chuẩn Tướng Tư lệnh Trần Bá Di thỉnh thoảng hay vào ăn cơm tối với Thiếu Tá TĐT/92PB Phạm văn Quan cùng với các sĩ quan tham mưu tiểu đoàn . Trong những bửa ăn như vầy , có lẽ với bản tính hiền hòa phúc hậu , ông ít nói đến chuyện hành quân mà thường chỉ bàn đến việc phát triển đời sống của quân nhân trong đơn vị . Khoảng sáu tháng sau , sau khi hoàn tất việc tổ chức ban tham mưu tiểu đoàn , tôi lại xuống giữ chức Pháo đội trưởng PĐA/92PB hành quân lưu động xuống vùng U Minh Chương Thiện , rồi sau đó kéo sang Quốc Lộ 4 để yểm trợ cho Trung Đoàn 14 Bộ Binh của Đại Tá Lê Trung Thành và Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh . Tại đây có một ngày tôi bị “tổ trát” , số 193 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
là một buổi sáng nọ thấy tình hình yên tỉnh nên tôi giao công việc pháo đội cho Pháo Đội Phó là trung úy Nguyễn Bá Tòng rồi xách xe vào Mỹ Tho ghé tạt qua nhà thăm ba má tôi . Độ một tiếng đồng hồ sau thì Chuẩn Tướng Tư Lệnh đáp trực thăng xuống Căn cứ Long Định thăm BCH Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh rồi qua thăm vị trí pháo đội , Tr/u Tòng thưa với ông là tôi vừa vào liên lạc với …Tiểu Khu Định Tường ! Ông nói với Tòng : “Cậu nói với đại úy mấy cậu , gặp pháo đội trưởng còn khó hơn gặp Tổng thống ! Nói với ổng coi chừng tôi !”. Cũng may , sau đó Chuẩn Tướng Tư Lệnh bỏ qua luôn . Cuối năm 72 , pháo đội tôi được trực thăng vận vào quận Mỹ An nằm giữa Đồng Tháp Mười thuộc tỉnh Kiến Phong để tham dự cuộc hành quân phối hợp giữa SĐ7 và SĐ9 nhằm đánh đuổi quân Cộng sản ra khỏi vùng chiến lược của Quân Đoàn IV , nhằm bẻ gãy kế hoạch lấn đất giành dân của VC . Trước Tết Âm Lịch vài ngày , cũng là ngày Hiệp định Paris có hiệu lực , Chuẩn Tướng Tư Lệnh SĐ Trần Bá Di bay vô căn cứ hỏa lực Mỹ An thăm pháo đội tôi và mang theo một bó lớn quốc kỳ , ông bảo tôi cắm cờ chung quanh căn cứ và dặn dò : “ Thật cẩn thận nghe Sơn ! Nhứt là đề phòng đặc công của tụi nó !” . Đó là lần chót tôi gặp ông ở vùng hành quân , vì giữa năm 73 tôi thuyên chuyển ra Sư Đoàn 3 Bộ Binh trước khi về trường học khóa Pháo Binh Cao Cấp. Chuẩn Tướng Trần Bá Di , sau đó ông thăng Thiếu Tướng , nhờ ở tấm lòng hiền hòa đức độ nên được thuộc cấp kính trọng và thương mến đã đành , nhưng có lẽ anh linh những chiến sĩ SĐ 9 BB đã hy sinh cũng về phù hộ cho ông . Một lần đặc công VC tấn công vào BCH Nhẹ Hành Quân tại Căn cứ Vĩnh Nhi gần quận Giáo Đức , lần khác chúng phục kích gần bải đáp trực thăng tại quận Hàm Long thuộc tỉnh Kiến Hòa , nhưng cả hai lần ông đều thoát hiểm trong đường tơ kẻ tóc. Chỉ danh đàm thoại của các vị Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 Bộ Binh như Trung Đoàn 14 của Đại Tá Lê văn Năm , sau nầy là Đại Tá Lê Trung Thành là “Bạch Hổ” , Đại Tá Bùi Xuân Lãng của Trung Đoàn 15 là “Bạch Yến”, Đại Tá Huỳnh văn Chính của Trung Đoàn 16 là “Thái Dương” , riêng chỉ danh đàm thoại của Thiếu Tướng Tư Lệnh Trần Bá Di là “Chí Công” . Có lẽ chữ Chí Công nầy đã gắn liền với sự nghiệp làm Tướng của ông , nên ngày ông rời khỏi Sư Đoàn 9 Bộ Binh , quân dân tỉnh Vĩnh Long đã giăng những biểu ngữ khắp đường phố trong tỉnh lỵ để tỏ lòng thương mến và luyến tiếc . 194 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Trung Tûúáng Nguyïîn Àûác Thùæng Sau Tết Mậu Thân , tình hình toàn Miền Nam tương đối yên tỉnh . Riêng tại quận lỵ Minh Đức thuộc tỉnh Vĩnh Long , nơi đơn vị 3A/91 Pháo binh chúng tôi đang đồn trú để yểm trợ lãnh thổ thuộc các Chi khu Châu Thành, Minh Đức, Vũng Liêm và Chợ Lách, các pháo thủ chúng tôi cũng được ngơi nghỉ phần nào. Không còn những cảnh bắn ngày bắn đêm để yểm trợ cho trên một trăm đồn bót thuộc 4 chi khu nằm trong tầm tác xạ, rồi những lần phản pháo dồn dập khi địch từ nhiều hướng đặt súng cối pháo kích vào chi khu . Cũng may lúc đó, mặc dù hệ thống giao thông tiếp tế hoàn toàn bị gián đoạn, nhưng đơn vị 3A/91PB vẫn còn đầy đủ đạn dược để tác xạ yểm trợ các đồn bót bị tấn công, cũng như yểm trợ các cuộc hành quân tái chiếm các xã ấp bị VC đánh chiếm, cũng bởi trước đó tôi đã …báo cáo ăn gian , nâng cao số đạn tiêu thụ để được bồi hoàn trội hơn , với gần 3 ngàn quả đạn các loại trong kho, đơn vị pháo binh của tôi đã giúp giữ vững được chi khu cũng như các đồn bót trong vùng . Đặc biệt trong thời gian gần một tháng trường tôi được Đại tá Dương Hiếu Nghĩa Tỉnh trưởng Vĩnh Long chỉ định chức vụ Xữ lý thường vụ Chi Khu Trưởng CK Minh Đức thay thế Đ/u Trần Đình Hòe bị thương phải di tản. Một hôm đang đứng trong sân vị trí để điều động việc chuyển đạn từ trong kho lớn ra các khẩu đội thì chiếc xe jeep mui trần của toán cố vấn Mỹ ngừng ngay cổng vị trí, Thiếu tá Silvers cố vấn trưởng chi khu lấy hai tay làm loa nói vọng vô : -Ê Trung úy Sơn ! Ông Tướng đến ! Nói xong , chiếc xe jeep chạy vụt đi ra bãi đáp trực thăng nằm phía sau chi khu khoảng hai trăm mét. Nghe thiếu tá Silvers báo tôi cứ tưởng Chuẩn tướng Tư lệnh SĐ9BB, đến khi chiếc xe jeep chạy trở vô ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ngang qua vị trí pháo binh thì tôi nhận ra Tr/u Huỳnh văn Huỳnh Sĩ quan tùy viên đang cầm khẩu M18 quơ quơ lên ra dấu chào , tôi mới biết ông Tướng đang ngồi trước ghế trưởng xa cạnh Th/tá Silvers là Thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng , tân tư lệnh Quân Đoàn IV thay thế Thiếu tướng Nguyễn văn Mạnh thuyên chuyển về làm Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu . Thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng tốt nghiệp Khóa I Sĩ quan Trừ bị Nam Định và từng đậu thủ khoa ở các trường pháo binh tại Pháp cũng như tại Hoa Kỳ . Trong binh chủng , ông là một người có rất nhiều huyền thoại , trong đó có vụ ông đi phép thường niên bằng cách sống liên tục một tuần lễ trong một cái “ trailer” đặt trong sân Tiểu đoàn chứa đầy sách vở cùng với thức ăn khô , khi còn là Tiểu đoàn trưởng TĐ1PB tại Huế , đã được hầu hết các pháo thủ lưu truyền trong binh chủng . Là một trong bốn ông Tướng được báo giới khi đó đánh giá là trong sạch với câu vè “ Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng” và nổi tiếng ngồi trên càng súng đại bác của các đơn vị pháo binh “ gặm” bánh mì thịt uống nước bi đông khi đi thăm các đơn vị hành quân hay lãnh thổ gặp đúng vào giờ ăn trưa , thay vì vào ngồi các bàn tiệc thịnh soạn do các đơn vị trưởng hoặc Tỉnh trưởng hay Quận trưởng khoản đải theo thông lệ . Chiếc xe jeep do Th/T Silvers lái chở Thiếu tướng Tư lệnh QĐ và Đại tá Cố vấn Mỹ Quân đoàn chạy thẳng vô hai căn nhà gỗ của toán cố vấn chi khu vì Đ/u quận trưởng Trần Đình Hòe bị thương vẫn còn nằm bệnh viện chưa về , hiện chi khu Minh Đức đang do tôi xữ lý thường vụ , có lẽ để được Th/T Silvers thuyết trình tình hình chi khu trong thời gian qua. Độ hai mươi phút sau , Thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng , Đại tá cố vấn QĐ , Th/T Silvers và Tr/u Huỳnh văn Huỳnh SQ tùy viên từ hướng chi khu đi bộ qua vị trí đơn vị pháo binh của tôi . Trong đoàn bốn người đi vào vị trí , chỉ có Th/T Silvers là nhỏ con nhứt , ba người còn lại là Thiếu tướng Thắng , Đ/T cố vấn Mỹ Quân đoàn và Tr/u Huỳnh văn Huỳnh SQ/TV đều to lớn như nhau . Người ta bảo quần áo trận ông mặc không cần phải may sửa , quân nhu phát như thế nào ông cứ để như vậy mà mặc và cũng không bao giờ ủi hồ cứng ngắc…điều đó hôm nay tôi mới chứng kiến khi đứng trước mặt và chào trình diện ông . Có lẽ đã biết được chi tiết tình hình Chi khu trong những ngày qua , nên sau đó Thiếu tướng TL/QĐ ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Nguyễn Đức Thắng nói với tôi : -Cố vấn Mỹ ở đây cũng như trên Tiểu khu Vĩnh Long cho biết cậu đã hoàn thành xuất sắc để bảo vệ quận Minh Đức trong thời gian qua , tốt lắm ! – Sau đó ông cười cười và nói tiếp – Nhưng tôi hỏi cậu ai cho phép cậu để râu coi thấy ghê quá vậy ? Bị hỏi bất ngờ về cái vụ để râu nầy , tôi thật lúng túng nên trả lời ú ớ : -Thưa Thiếu tướng …mắc bận điều động các đơn vị ở đây ….và còn lo các vụ tác xạ yểm trợ nữa … nên…chưa cạo râu ! Sau khi quay qua hai cố vấn Mỹ nói lại những điều ông và tôi nói qua nói lại về bộ râu của tôi , ông cười nói tiếp với tôi : -Hồi ở ngoài Bắc khi tôi còn là Trung úy như cậu , Việt Minh càng đánh dử tôi càng cạo râu ria sạch sẽ cho lính tráng lên tinh thần , để râu như cậu coi bê bối mà lại ảnh hưởng đến tinh thần lính tráng . Lần sau tôi đến thấy cậu còn để râu nữa , tôi phạt , cậu nghe rõ không ? -Dạ thưa Thiếu tướng nghe rõ ! Trung úy Huỳnh văn Huỳnh và hai cố vấn Mỹ đứng phía sau ông Tướng mím môi cười . Sau đó ông nói thêm vài lời rồi cùng cố vấn và SQ/TV lên xe jeep do Th/T Silvers lái ra bãi đáp trực thăng bay đi . Sau khi trở vô chi khu , khi đi ngang vị trí pháo binh của tôi , Th/T Silvers ngừng xe lại nói với tôi : -Mọi việc OK hả Tr/u Sơn ? Nhưng nhớ cạo râu của you nha ! Nói xong cười hề hề chạy xe vô compound của toán cố vấn . Cũng nên nói thêm về cái ông Th/T cố vấn Silvers nhỏ con nầy . Ông người Mỹ nhưng gốc Úc , nói tiếng Anh chậm rãi rất dễ nghe , mà lại cũng biết chút đỉnh tiếng Pháp nữa , tánh tình rất hiền dịu thâm trầm như người Á Đông , hay cùng với sĩ quan phụ tá là Đ/u Douglas Ladd qua vị trí pháo binh để tán gẩu với tôi mọi thứ chuyện . Có một lần , không biết lấy tin tức ở đâu ra , trong lúc tôi còn đang loay hoay trong đài tác xạ thì Th/T Silvers và Đ/u Douglas cùng bước vào với một thùng carton dài trên tay và nói lớn : -Happy birthday ! Tr/u Sơn ! Tôi ngã ngửa ! Thì ra hôm nay đúng là ngày sinh nhựt của tôi mà tôi nào có nhớ và để ý tới . Báo hại tôi làm tỉnh cám ơn lia lịa khi nhận thùng quà rồi cũng làm bộ lịch sự mời chiều nay hai ông sang vị trí pháo binh mừng tiệc …..sinh nhựt của tôi . Sau đó tôi bảo bà xã tôi báo cho mấy bà vợ lính trong đơn vị xúm nhau đi chợ mua đồ làm chả giò và mua năm sáu 195 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
con gà về nấu cháo làm gỏi đải cả đơn vị kể cả Th/t Silvers và Đ/u Douglas . Riêng thùng quà , mở ra coi thì là một bộ cần câu máy đầy đủ bộ phận với một hộp mồi giả đủ loại để dành…câu cá Mỹ . Số là một hôm Đ/u Douglas lái xe ra bờ sông Măng Thít tại chợ Minh Đức chơi, thấy vợ chồng tôi đang ngồi câu cá bằng cái lon sửa bò quấn dây gân coi bộ lạ quá , nên nhân ngày sinh nhựt hai ông chọn món quà là cần câu cá tặng tôi . Thân tình với nhau như vậy , nhưng hôm Tết Mậu Thân khi tôi thế Đ/u Hòe xữ lý thường vụ Chi khu trưởng Minh Đức , tôi và Th/T Silvers đã cải vã to tiếng và ông còn đòi đưa tôi ra tòa án quân sự. Sự việc là trong những ngày biến động Mậu Thân, quận Minh Đức cũng bị bao vây cô lập như các nơi khác. Bên kia bờ sông Măng Thít đối diện với khu chợ quận là một ngôi chùa tường gạch lợp ngói có ghi ước hiệu địa thế trên bản đồ, khoảng một năm trở lại đây bị bỏ phế vì thường ban đêm bị VC về núp sau chùa bắt loa nói vọng sang quận Minh Đức để tuyên truyền. Đặc biệt trong những ngày Mậu Thân, VC đặt một khẩu súng cối 61 ly trong sân chùa lai rai pháo kích sang chợ Minh Đức bất kể ngày đêm, khiến người dân trong quận không ai dám họp chợ. Nhiều lần trung đội thám kích thiện chiến của chi khu bơi xuồng qua đột kích, lần nào cũng bị VC trốn trong chùa phát hiện và bắn dội ngược trở về. Vì vị trí ngôi chùa quá gần, nên hai khẩu đại bác 105 ly của tôi không bắn được vì bị “tà giác bức chắn” ( những vật có góc độ cao che chắn trước đại bác ). Phó quận Nghiệp cùng một số sĩ quan chi khu đề nghị tôi kéo đại bác ra sân banh quận bắn trực xạ sang ngôi chùa bỏ hoang, nhưng tôi không đồng ý vì sợ dân chúng hoang mang giao động. Sau khi quan sát và đo đạc chính xác “tà giác bức chắn”, tôi quyết định kéo lùi một khẩu đại bác ra khỏi ụ cố định khoảng 20 mét, cho gióng hướng về ngôi chùa. Sau khi đặt “dĩa ngắm nòng” vào buồng súng và “dây chữ thập” trước nòng súng để kiểm soát đạn đạo, biết chắc rằng viên đạn khi ra khỏi nòng ở biểu xích của tầm xa từ súng đến ngôi chùa sẽ đi lòn giữa hai sợi dây điện cao thế, nghĩa là an toàn, nên tôi ra lệnh chuẩn bị tác xạ, riêng tôi sẽ leo lên đài quan sát trên nóc dinh quận để trực tiếp điều chỉnh . Tất cả những công việc chuẩn bị tác xạ để san bằng ngôi chùa hoang nầy tôi không cho toán cố vấn chi khu biết. Khi tôi sắp sửa leo lên cầu thang bắt lên đài quan 196 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
sát thì Th/T Silvers chận tôi lại hỏi : -Ê ! Trung úy Sơn , ông kéo đại bác ra khỏi ụ súng chi vậy ? -Tôi bắn cái toán VC bên kia sông đang pháo kích vô quận ! -Ở tọa độ nào vậy ? Tôi đành phải nói thật : -Ở cái chùa hoang đối diện chợ . Vừa nghe tôi nói xong, Th/T Silvers khoát hai tay lên trời lia lịa và la lớn lên : -Không ! Không ! Ông không được bắn vào ngôi chùa ! Đó là nơi của tôn giáo ! Ông biết chưa ! Nhưng tôi cũng lớn tiếng lại : -Nhưng đó là ngôi chùa hoang không người ở ! Và VC đang ở trong đó pháo kích vào quận ! Tôi phải triệt hạ nó để bảo vệ dân tôi ! -Ông không được bắn ! Tôi sẽ đưa ông ra tòa án quân sự ! -OK ! Ông cứ go-ahead ! Nhưng tôi phải san bằng cái hang VC đó trước khi ra tòa . Nói xong tôi leo nhanh lên đài quan sát và ra lệnh giật cò . Từ trên đài quan sát đặt ống dòm tôi thấy viên đạn đại bác nổ cách bức tường của ngôi chùa chừng hai ba mét phía bên trái , tôi liền cho khẩu đội điều chỉnh độ giạt sang phải . Quả thứ hai rớt ngay chính giữa ngôi chùa khiến cát bụi bay lên mịt trời che lấp cả mục tiêu , tôi liền cho bắn “hiệu quả” đủ 10 trái . Khi lệnh chấm dứt tác xạ vừa ban và bụi mù còn che phủ thì một tiểu đội thám kích chi khu dùng xuồng máy phóng nhanh sang đột kích vào ngôi chùa . Sau khi bươi đống gạch vụng còn nóng hổi của ngôi chùa hoang vừa bị san bằng hoàn toàn , toán thám kích chi khu lôi ra được 3 xác VC còn kẹt trong hầm với một khẩu súng cối 61 ly đầy đủ đạn dược với mấy khẩu súng cá nhân cùng với cả chục đòn bánh chưng bánh tét. Tin được báo về chi khu , sau đó Th/T Silvers cùng một số sĩ quan chi khu đi xuồng máy qua quan sát và chở xác xác 3 tên VC cùng các chiến lợi phẩm về sân banh quận Minh Đức. Sau “chiến thắng” nầy , chợ Minh Đức đã họp lại vì không còn bị pháo kích quấy rối nữa , và Th/T Silvers cũng không còn hậm hực với tôi và đòi đưa tôi ra tòa án quân sự vì dám bắn pháo binh vào nơi chùa chiềng tôn giáo . Trở lại câu chuyện về Thiếu tướng Nguyễn đức Thắng, sau khi thăm viếng đơn vị pháo binh của tôi với lời cảnh cáo về bộ râu trái phép , tôi yên chí lớn rằng sẽ không có hoặc ít nhứt cũng còn lâu lắm, vị Tư lệnh Quân Đoàn mới đáo lại thăm quận Minh Đức ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
và đơn vị pháo binh của tôi . Sau đó Đ/u Hòe quận trưởng sau hơn một tháng nằm nhà thương đã trở về coi lại quận , với lời cằn nhằn về vụ kho gạo gần hai chục bao của ông bị tôi đem ra phân phát cho dân chúng và các đơn vị đồn trú tại quận trong thời gian quận Minh Đức bị cô lập bao vây không buôn bán tiếp tế gì được . Chưa đầy một tháng sau , một hôm đang trong giờ làm việc, bổng hai chiếc xe jeep của Đ/u Hòe và cố vấn Mỹ chạy ngang qua vị trí của tôi và Đ/u Hòe la lớn : -Sơn ơi ! Ông Tướng Quân đoàn tới ! Nghe Đ/u Hòe báo tin ông Tướng đến tôi như bị trời giáng hạ khi rờ lên miệng lên càm bộ râu lởm chởm rậm rạp vẫn còn y nguyên quanh mồm. Chạy vội vô phòng ngũ lấy dao cạo râu rồi thắm nước quanh miệng đến trước tấm kiếng lớn để cạo phăng bộ râu. Bên ngoài tiếng phành phạch của chiếc trực thăng đáp xuống phía sau dinh quận càng làm tôi quính quáng , vì bộ râu quá dài và quá dầy mà không được cắt ngắn trước nên rất khó cạo , tôi phải vất vả lắm mới cạo sạch được bộ râu . Sau khi thoa nước “after shave” lên , chung quanh miệng tôi đau rát khủng khiếp . Khi tôi vừa chạy ra sân , cũng là lúc Tr/u Huỳnh SQ tùy viên ngồi trên xe jeep cố vấn Mỹ chạy ngang vị trí pháo binh nói nhắn với lính gác cổng : -Nói với ông thầy tụi bây cạo râu ngay ! Không thì chết với ông Tướng ! Sau đó chiếc xe jeep của ông quận Hòe chở Thiếu Tướng Tư Lệnh QĐ Nguyễn Đức Thắng chạy ngang qua vị trí pháo binh vào thẳng văn phòng Bộ Chỉ Huy Chi Khu Minh Đức . Khoảng hai mươi phút sau , có lẽ đã được Đ/u Hòe thuyết trình xong nên phái đoàn đi đầu gồm Th/tướng Nguyễn Đức Thắng , Th/ tá Cố vấn Silvers , Đ/u Hòe quận trưởng , phía sau có Đ/u phụ tá cố vấn Ladd đi cùng Tr/u SQ tùy viên Huỳnh văn Huỳnh , tất cả cùng đi bộ sang vị trí pháo binh , lần nầy đã được tôi chuẩn bị cho một khẩu đội 7 pháo thủ đứng giàn chào trước cổng vị trí . Sau khi tôi chào trình diện , ông bắt tay tôi và nói : -Ông quận và cố vấn Mỹ đã nói rất tốt về cậu , tôi khen cậu và chúc mừng cậu . Đặc biệt là bộ râu cậu đã được cạo sạch sẽ …như vậy mới làm gương được cho binh sĩ thuộc cấp - Rồi ông cười cười hỏi tiếp Mà cậu mới cạo phải không ? -Dạ….! Tôi ấp úng trong khi Tr/u Huỳnh đứng phía sau nín cười đỏ mặt . Sau đó ông Tướng quay sang Th/T Silvers nói tôi ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
vừa mới cạo râu , Th/T Silvers nhìn tôi gục gặc đầu cười : -I know !! Khi Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng lên trực thăng bay khỏi quận Minh Đức , tôi chạy vô nhà nhìn vào tấm kính lớn thấy chung quanh miệng và dưới càm ngang dọc những vết cắt của lưởi dao cạo râu đã bắt đầu rướm máu . Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng sau đó trở lên Sài Gòn làm Bộ Trưởng Bộ Xây Dựng Nông Thôn , và hình ảnh một ông Tướng pháo binh gồ ghề bậm trợn lớn con hơn Mỹ , mặc quần áo không bao giờ may sửa và ủi hồ ….có lẽ khó phai nhạt trong cuộc đời pháo thủ của tôi./. Pháo Thủ Tiền Giang Cựu SVSQ/K17TĐ
“trời kêu ai nấy dạ” riêng ta chắc chỉ ừ nên chắc ông trời ngán không thèm gọi thằng hư ... thôi thì thay mũ sắt bằng nón vải nghiêng nghiêng nhẹ đầu tóc không xẹp lại ra vẻ thẩm quyền ... ta ngồi kéo lon bia điếu pall mall cố hữu cằm nhẵn không râu ria chẳng ra thằng lính bụi ... còn chưa dạn miệng chửi thề là chưa dẫn lính hành nghề được đâu ta học văng tục được rồi thành công một nửa cuộc đời chỉ huy Thơ Luân Hoán (trích) 197 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH Tác Giả: Đại tướng Louis C. Wagner Jr Lời giới thiệu: Đại tướng Louis C. Wagner Jr., khi còn là sĩ quan cấp tá, giữ chức vụ cố vấn trưởng các đơn vị Bộ Binh và Thiết Giáp Việt Nam Cộng Hòa tại Vùng 1 Chiến Thuật trong hai nhiệm kỳ, ông có cái nhìn về Quân lực Việt Nam Cộng Hòa rất rõ-ràng. Trong Lời Nói Đầu của cuốn STEEL and BLOOD, South Vietnamese Armor and the War for Southeast Asia do Naval Institute Press xuất bản vào tháng 102008, Tướng Wagner đã hết lời ca ngợi các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và thẳng thắn nhận định về khả năng tác chiến của quân đội Nam và Bắc Việt Nam, đồng thời ông cũng khách quan kể lại những gì ông đã ghi nhận được trong thời gian phục vụ tại Nam Việt-Nam. Hà-Mai-Việt, sọan-giả Steel and Blood. Đại-tướng Wagner nói: Hầu hết các cuộc chiến-tranh đều được một số sách, nhiều bất-tận, theo sau, bàn về những kỳ công và hùng khí của những người đã từng vào sinh ra tử. Chỉ cần nhắc đến trường hợp Thế Chiến II: Số sách liên quan đến cuộc chiến tranh này hiện vẫn được 198ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Tướng Wagner và bìa sách. tiếp tục viết ra theo một tốc độ kinh-ngạc. Nhưng trường hợp cuộc chiến của chúng ta, lâu dài nhất tính đến nay, là chiến-tranh Việt-Nam, thì lại không như vậy. Tuy đã có một số sách viết về vai-trò của Quân Lực Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh này, nhưng chính vì cái bản chất thất nhân tâm của cuộc chiến mà phần lớn tác phẩm đã không thể hiện chính xác được thực tại chiến-tranh, như hàng triệu nam nữ quân nhân Hoa Kỳ đã cảm nhận rõ vì họ đã phục vụ tại đó. Kể ra đã có hàng triệu người Việt Nam luôn nêu ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
cao danh dự, phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa suốt cả thời chinh chiến, nhưng số người viết thì không nhiều, mà lại viết quá ít về quân vụ của chính họ. Hậu quả là hiện có nhiều kẻ vẫn tin rằng quân sĩ Việt Nam đã không quyết tâm chiến đấu để bảo vệ tự do cho quê hương. Nhận thức tai hại này vẫn tồn tại ngay cả trong số đông các cựu chiến binh Hoa-Kỳ có mặt trong chiến tranh Việt Nam, nhưng đã không cùng hoạt động song hành hoặc phục vụ bên cạnh các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đại tá Hà Mai Việt đã viết xong một cuốn lịch sử tuyệt vời, đề cập đến thành phần quan trọng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đó là lực lượng Thiết Giáp. Việc sưu tập tài liệu và viết ra một cuốn sách không dễ dàng. Bởi lẽ chỉ có một số ít sử liệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa liên quan tới cuộc chiến tranh lâu dài trước kia còn sót lại sau khi Bắc Việt đã xâm chiếm Nam Việt-Nam. Do đó, Đại tá Việt đã phải bỏ ra tám năm trường, làm việc cực nhọc, đi hàng ngàn dặm, để truy tầm tin tức và phỏng vấn nhiều người, cố công phục hoạt cho bằng được một cuốn lịch sử nói về các đơn vị Thiết Giáp thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tác phẩm của ông độc đáo ở chỗ này: Nó không những chỉ trình bày khía cạnh tốt đẹp, mà còn nói cả đến những cái yếu kém của đơn vị Thiết Giáp, và của cấp chỉ huy Thiết Giáp. Ông thuật chuyện điềm nhiên, trung thực. Khi đơn vị hoặc cấp chỉ-huy thi hành tốt đẹp, thì ông kể lại rõ ràng và còn giải thích tại sao; khi họ thất bại, ông cũng mô-tả ra. . . Quả thực họa hoằn lắm mới thấy được tính cách ấy trong một cuốn lịch sử chiến tranh. Sở dĩ tôi có được cái nhìn bao quát về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà nhiều người khác không sao có được, vì chính tôi đã từng phục vụ qua hai nhiệm kỳ với tư cách cố vấn trưởng cho các đơn vị tác chiến Việt Nam. Trong giai đọan 1964-65, tôi làm cố vấn trưởng cho trung đoàn 5, thuộc sư-đoàn 2 Bộ-Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai-đoạn này, trung đoàn 5 liên miên đụng trận nặng nề với các đại đơn vị được huấn luyện và trang bị tốt của Việt-Cộng tại mấy tỉnh ở phía Bắc. Khu vực này kể từ năm 1965 về sau, là vùng hành quân của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Trung đoàn 5 lúc ấy được chỉ huy tốt, nhưng trang bị kém vì phải xử-dụng các loại vũ khí cũ rích, và gần như không có hỏa lực pháo binh yểm trợ. Nhưng bất kể tình huống đó, quân sĩ của Trung đoàn này chiến đấu giỏi mặc dù phải chịu ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
đựng nhiều thương vong. Trong những năm 1971-72, tôi đã làm cố vấn trưởng cho trung đoàn 51 bộ binh và lữ đoàn 1 kỵ binh, và cũng ở tại mấy tỉnh phía Bắc. Vì đã có kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh kể từ năm 1969, cả hai đơn vị này đều được trang bị vũ khí và quân dụng ngang hàng với các lực lượng Hoa Kỳ, ngoại trừ pháo binh và không-quân. Sự kiện nâng cấp này đã tạo ra một khác biệt lớn lao xét về hiệu năng tác chiến. Lớn lao đến nỗi khó tưởng tượng được trừ phi đã từng phục vụ với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong cả hai giai đoạn kể trên. Tôi sẽ không xoáy sâu vào cuộc tấn công mùa Phục Sinh của Bắc Việt năm 1972, bởi lẽ trận chiến này đã được gói ghém, trình bày đầy đủ trong cuốn sách này rồi. Tôi chỉ muốn nói thêm rằng đại đa số các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa mà tôi đã phục vụ đều đã chiến đấu giỏi. Luôn luôn bị địch quân đông gấp bội tấn công, họ vẫn ngăn chặn và sau cùng đánh bại cái đội quân trang bị và huấn luyện tốt của Bắc Việt. Không lực Hoa Kỳ, được các sĩ quan cố vấn Lục quân và Thủy quân Lục chiến Hoa-Kỳ phối hợp, đã giữ một vai trò chủ chốt trong sự thành-công. Bù đắp cho những khiếm khuyết về trang bị trong ngành pháo binh và không quân Việt Nam. Điều này nói lên đặc tính của các đơn vị tác chiến thuộc Nam Việt Nam thời bấy giờ. Buồn thay, chính vì cái tình cảm phản chiến tại đất nước chúng tôi mà Quốc Hội đã cắt giảm viện trợ dành cho Nam Việt Nam giữa lúc Liên Sô đang chỉnh trang và tiếp vận ồ ạt cho Bắc Việt. Quân Bắc Việt được bồi dưỡng xong xuôi, đã xâm chiếm và đánh bại Nam Việt Nam vào năm 1975. Nhiều chiến hữu Nam Việt Nam của tôi đã chết trong cuộc chiến đó hoặc đã bị giam-cầm suốt nhiều năm dài, độc ác tại những nơi được gọi là các «Trại Cải tạo». Đó là thời gian thuộc về lịch sử của quê hương chúng tôi, mà tôi không thể hãnh diện được. Câu chuyện trong cuốn Thép và Máu là câu chuyện cần được kể ra. Tôi hy vọng nó sẽ gây cảm hứng cho nhiều cựu quân nhân khác lên tiếng thêm và trưng ra thêm bằng chứng nhằm chống lại những huyền thoại hiện hữu, tai ác, xúc phạm đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi hãnh diện về thời-gian mà tôi đã trải qua, phục vụ cánh sát cánh với các chiến sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. T.D.B. dịch theo nguyên bản . 199 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
“ Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu gắn Bảo Quốc Huân Chương cho TQLC Đỗ Trung Giao, Tiểu Đoàn Phó TĐ2TQLC trong Ngày Quân Lực 19/6 năm 1973”.
200 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Diễn Ðàn
Vúå Lñnh Tôi quen biết chàng khi anh ấy đã là lính. Cái lon Chuẩn úy chẳng là cái gì với tôi, một người con gái đầy nam tính. Tiếng nói miền Trung lơ lớ khó nghe, mặt chẳng đẹp trai và nhìn qua là biết chẳng phải con nhà giàu. Mấy cái đó và cả con người đó đáng lý ra chẳng dính dáng gì với tôi. Thế nhưng, trời bất “dung gian” cái tên Chuẩn uý người Huế đó không biết bằng cách nào lại có thể xin vào dạy giờ ở cái trường Trung học tư tôi đang dạy. Tôi thì phớt tỉnh Ăng lê, tới giờ dạy, hết giờ về không chuyện trò tào lao với người khác phái. Cái nhược của tôi bây giờ tôi mới biết là ở chỗ này. Thế là cứ tới giờ tôi đang dạy thì “hắn” lại sai học trò sang mượn khăn lau bảng, mà dạy toán thì lau bảng thường xuyên. Lại qua mượn phấn, hết phấn thường xuyên. Hết giờ lại tới chào và xin lỗi. Ngày khác lỗi vẫn hoàn lỗi, lại mượn phấn, mượn khăn. Từ đó tôi ghét “hắn”. Mấy đứa học trò cũng biết tôi không thích “hắn”. Thế là tôi bảo học trò để sẵn một mớ phấn trong cái hộp và một cái khăn lau bảng. Học trò “hắn” qua mượn, tôi đưa luôn hộp và nói hãy giữ lấy tôi tặng luôn, khỏi trả. “Hắn” tìm tôi xin lỗi và xin chở tôi về sau giờ dạy. Tôi từ chối, mặt lạnh như tiền đi thẳng. Buổi chiều, “hắn” tìm tới nhà để xin lỗi. Hôm sau không giờ dạy, “hắn” lại tới nhà mượn sách và ngồi lì nói chuyện không đâu ra đâu. Cứ hễ có dịp là “hắn” tới nhà tôi ngồi đồng, “hắn” nói đủ thứ chuyện bằng âm hưởng miền Trung nặng trình trịch. Một thời gian sau, cái giọng khó nghe. Không tới trả sách thì lại thấy thiếu vắng một cái gì .Cái chiến thuật “mưa lâu thấm đất”, “Nói hay không bằng ngồi dai” đã khiến tôi phải lên xe hoa về nhà “hắn” và làm vợ “hắn” cho tới bây giờ. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
EVA
Nguyễn Thị Thêm
Ông xã tôi là con trai một trong một gia đình hiếm hoi con trai. Cha chồng tôi là con trai một và đã mất sớm khi mẹ chồng tôi mới hơn 30 tuổi. Một nách 3 đứa con côi và cha mẹ chồng già yếu, mẹ chồng tôi đã ở vậy một nắng hai sương làm tròn nhiệm vụ làm dâu và làm mẹ. Do đó cái ao ước và hoài bảo của bà là có người thừa tự. Tôi cô gái miền Nam tánh tình bộc trực, lại là một nữ Hướng Đạo hội họp, đi cắm trại liên miên, không nằm trong danh sách những người bà lựa chọn. Thế nhưng khi cậu con trai đã quyết thì bà phải bằng lòng. Vì trong thời buổi chiến tranh, người lính không thể biết trước ngày nào bỏ thây ngoài trận chiến. Và thế mẹ chồng tôi đã bỏ cái làng quê chôn nhau cắt rốn vào miền Nam để cưới vợ cho con, hầu mong tìm một mống cháu nội sau này. Thế nhưng sau 3 năm cưới nhau tôi vẫn trơ trơ cho mẹ chồng tôi ngày đêm không yên giấc. Tôi biết trong tận cùng bà buồn lắm. Đôi khi bà nhìn tôi với đôi mắt thiếu tin tưởng. Câu “Cây độc không trái, gái độc không con” mà một lần tôi tình cờ nghe từ miệng bà khiến tôi buồn không ít. Thế nhưng là lính, vợ chồng không gần gũi nhau, làm sao có con được Thế là bà bỏ Biên Hoà theo con trai ra Đà Nẵng và tuyên bố sắp đặt chỗ ở để tôi phải thuyên chuyển theo chồng. Kỳ nghỉ tết năm 73, sau buổi họp cuối cùng, tôi đón xe đi Sài Gòn và lên chuyến bay đi Đà Nẵng thăm chồng. Đến đón tôi không phải mẹ chồng mà là người lính tùy tùng của anh Thế là chiều hôm đó tôi có mặt ở nơi đóng quân của anh. Một ngọn đồi cao của vùng núi Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên tôi chính 201 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
thức sống đời vợ lính nơi tiền đồn. Chúng tôi trú ngụ trong căn hầm chỉ huy đầy súng đạn và trang bị truyền tin. Tôi đang đan dang dở một tấm khăn trải bàn. Thế là tôi phải hoàn tất gấp tấm khăn đó để làm chiếc màn cách ly Cuộc sống vợ chồng trong đồn lính thì có nhiều chuyện không thể cười mà cũng không thể khóc của một cô giáo kín đáo, nghiêm túc với cuộc sống xô bồ lính tráng ở đây. Tôi chỉ biết những ngày ở đó tôi thương lính hơn, tôi thông cảm nỗi cô đơn của chồng hơn và nhất là thật sự biết lo sợ cho chồng trong cuộc sống mà nơi đâu cũng có tai mắt của kẻ thù rình rập. Hết ngày lễ, chồng tôi giao đồn cho Đại đội phó đưa tôi về Đà Nẳng thăm mẹ chồng và ngay chiều đó tôi lên máy bay về lại Sài gòn vì ngày mai đã bắt đầu niên học mới. Thế là tôi có mang đứa bé đầu lòng và tôi phải làm đơn xin thuyên chuyển để thật sự bắt đầu một cuộc đời mới. Mùa hè năm đó miền Trung đã thật không yên. Nhà tôi ở gần Phi Trường nên hàng đêm pháo dội về từng chập. Mẹ chồng tôi về lại Biên Hoà để lo cho con gái sinh nở. Tôi mang cái bụng bầu chui hầm thường xuyên. Mỗi lần có tin từ tiền đồn là tôi lo lắng hồi hộp. Những cuộc đụng độ xảy ra liên tiếp. Đại đội phó, Hạ sĩ Quan, rồi lính bị thương liên tục Cuối cùng người Đại đội phó mới đổi về cũng bị thương. Tôi như ngồi trên lửa nóng. Nỗi cô đơn, lo sợ, hồi hộp, mất ngủ khiến tôi xuýt bị sẩy thai. Thế rồi mẹ chồng tôi cũng về kịp trước ngày tôi sinh nở Con tôi mở mắt chào đời ở một nhà hộ sinh tư . Tôi mệt nhoài sau cơn vượt cạn, mẹ chồng tôi đón con bé với nụ cười gượng gạo. Bà chỉ mong là trai để nối dõi tông đường. Còn anh, được tin tôi đã sinh con, anh về cùng người lính tùy tùng. Vào nhà thương, xoa đầu tôi, bồng con hôn vài cái là xe hậu cứ đã chờ để đưa anh lên lại đơn vị Ngày đầy tháng con bé, họ hàng, bà con đầy nhà. Anh bươn bả bước vào, chào mọi người rồi tới bên tôi cười cười. Bồng con bé lên hỏi tôi “Sao mặt nó như dài ra” hôn con, ăn vội vã vài miếng. Xe hậu cứ trờ tới và anh lại lên đường. Tôi ứa nước mắt, không thể giận anh, mà cũng không thể không trách anh. Chẳng nói gì được với tôi một câu ngọt ngào khi tôi vật lộn trong cơn đau đẻ, lại chịu sự chăm sóc cực kỳ quái đản của mẹ chồng tôi trong những ngày nằm cữ. Tôi nhắm mắt lại, thương con và thương mình quá đỗi. 202 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Thế là cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt. Anh được đổi về làm ở Trung tâm Hành quân. Tôi nghe thôi chứ cũng không biết ở đâu? Chỉ biết ít nguy hiểm hơn ở Đại đội. Chồng tôi là một người sống chân thành và tốt với bạn bè, đồng đội. Tôi nhớ có một lần anh dẫn về nhà một người lính và một người phụ nữ. Anh nói với tôi đây là lính trong đơn vị, vợ nó tới thăm. Anh cho nó nghỉ phép và nói nhỏ với tôi lo ăn uống cho tươm tất Đến tối, anh bảo tôi ôm con xuống nhà sau ngủ, nhường giường chúng tôi cho hai vợ chồng kia. Anh nói: - Tội nghiệp tụi nó, gặp nhau như vầy nó mừng lắm. Hãy để nó trọn vui. Đời lính không biết sống nay, chết mai. Và như vậy, sáng hôm sau anh lên đơn vị, người lính cùng vợ có 3 ngày phép đoàn tụ tuyệt vời Một lần thấy anh không còn bộ đồ civil nào cho ra hồn, tôi bảo anh đi may một bộ đồ mới. Anh vốn là người khó tính và kén chọn. Mãi sau mới chọn được màu vải vừa ý mà may. Lấy đồ về chỉ một lần mặc thử cho tôi ngắm rồi mãi bận hành quân không có dịp mặc Đại đội phó của anh gia đình ở tận miền Tây, anh ta lại phải lòng cô gái Đà Nẵng. Thế là một hôm anh về bảo tôi mở tủ lấy bộ đồ mới may, tặng cho anh chàng Đại đội phó của mình. Anh nói với tôi : - Nó cũng trạc với anh. Nó mặc vừa đó em. Thôi tặng cho nó đi hỏi vợ. Hỏi vợ chỉ một lần chứ may đồ thì mình còn nhiều lần khác. Tội nghiệp gia đình nó ở xa, không có bộ đồ civil nào mặc cho ra hồn để coi cho được trong ngày quan trọng. Tôi vừa tiếc vừa phục tấm lòng tốt của chồng. Không còn lời nào để nói tôi đành gói lại đàng hoàng, bỏ trong túi xách và bảo đem cho chú ấy. Ngày Đà Nẵng sắp mất, 1974, người người bỏ chạy ra ngoài bến tàu để thoát vào Sài gòn. Chồng tôi ở Trung tâm hành quân, biết sự sụp đổ đã đến, không liên lạc được với đại đội cũ của mình. Anh cấp tốc lên tận nơi trú đóng và kéo lính về trong làn sóng di tản khổng lồ của Đà Nẵng. Chúng tôi, mẹ già, con dại chờ đợi anh mỏi mòn. Trông thấy anh về với đoàn quân tan tác mà muốn xỉu. Chồng tôi ruột để ngoài da. Lúc nào anh cũng lo cho bạn bè, đồng đội, anh em, ít khi nào lo lắng chuyện nhà. Mọi thứ mẹ chồng tôi cáng đáng điều khiển và tôi là người tuân lệnh thi hành Có lẽ nói ra không ai tin, nhưng đối với tôi, tôi chưa hề cầm trong tay một đồng lương lính. Ngày ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
chưa theo anh, tôi đi dạy, có lương, có nghề nghiệp, tiền ai nấy xài. Mà tiền lính thì tính liền anh cũng chẳng có gì dư dã Theo chồng ra Đà Nẵng tiền lương anh có đưa cho mẹ chồng tôi không thì tôi không biết, còn tôi chẳng hề nghe nói đến tiền bạc. Ngày Đà Nẵng mất lẽ dĩ nhiên anh không có lương và anh đi cải tạo suốt 8 năm trời chấm dứt một thời kỳ lính tráng. Như vậy thì làm vợ lính vui hay buồn, sướng hay khổ? Thưa các anh, người vợ lính chịu mọi thiệt thòi. Có chồng mà cũng như không trong suốt thời kỳ chinh chiến cũng như hoà bình. Những ngày tù tội đã đành không thể trách ai Các anh trong bốn bức vách lao tù, số phận ai cũng như ai. Nhưng người vợ lính ở nhà cái vòng đai rộng hơn, bẫy rập nhiều hơn, con người tàn ác quỷ quyệt hơn đe doạ thân phận đàn bà. Tôi có những người bạn vì thương chồng, lo lắng chạy chọt để lo cho chồng về, để rồi sụp bẫy. Cả cuộc đời danh tiết, hạnh phúc bị mất tất cả. Có người lạc bước khi bươn chải kiếm đồng tiền lo cho con, lo cho chồng cải tạo. Thương tâm lắm, đau đớn lắm cho những cánh hoa trong biển lửa tàn ác của chiến tranh ý thức hệ. Xin lỗi các anh cho tôi nói thật. Khi ở tù về, các anh thật sự quên đi tất cả, đem hết sức mình cùng sát vai vợ mà lo cho gia đình không? Đàn bà chúng tôi, ăn trắng mặc trơn, học hành trí thức, nhưng đến lúc phải lo miếng ăn cho con, cho chồng thì bất chấp sự cực khổ. Bán chợ trời, chạy hàng xuôi ngược Bắc Nam, bán hàng rong, cày thuê, cuốc bẫm, bán thuốc tây, thuốc hút, làm công nhân… Bất cứ nghề nghiệp nào lương thiện để kiếm ra tiền thì không quản ngại khó khăn. Các anh nhận những món quà đơn sơ, nhưng biết đâu rằng trong hoàn cảnh cả nước cùng đói, chúng tôi phải tính toán muốn bạc tóc mới đem được đến tay các anh một ít quà, nhưng là một biển yêu thương, một trời thương nhớ. Khi các anh được về nhà sau những tháng ngày bán đời mình cho đói khát, bệnh tật. Các anh không biết là đã mang theo trong mình một nỗi chán chường, một tâm hồn đầy bất mãn và nghi kỵ mọi thứ. Các anh lính hào hoa, yêu đời, coi thường sinh mạng đã mất. Các anh bây giờ đã bỏ lại trên núi đồi Việt Bắc phân nửa cuộc đời hùng tráng của mình. Chồng tôi cũng vậy, anh chán đời, bất mãn và tự ái với vợ, với con và chính bản thân mình. Tôi đã khóc nhiều đêm, nhiều ngày mà không biết làm sao kéo anh ra khỏi cái ám ảnh tàn khốc đó. Tôi công ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
nhận bọn Cộng sản thật quỷ quyệt, những bài học nhồi nhét cho các anh, nó như con ma kéo trì những chí hướng phấn đấu của chồng tôi. Người lính của tôi đã thật sự thất trận thảm thương! Khi được sang Mỹ đinh cư, mẹ chồng tôi mang nhiều bệnh tật. Chồng tôi vui buồn, khoẻ mạnh hay suy nhược theo căn bệnh của mẹ chồng tôi. Anh có cảm giác mình phải làm cái gì trả hiếu cho mẹ mà bất lực. Ngày mẹ chồng tôi mất, chồng tôi như thân cây không còn mầm sống gục xuống đau đớn. Anh bị trụy tim, bị strock và đầu óc càng ngày càng suy nhược theo căn bệnh Parkinson. Bây giờ sau 38 năm chồng tôi không còn làm người lính, nhưng tôi vẫn làm người vợ lính hằng ngày theo từng sinh hoạt của chồng. Anh đang sống trong hồi ức những ngày bên anh em, bạn bè, đồng đội. Có món gì ngon là anh bảo “kêu mấy đứa tới ăn”. Đừng tưởng anh kêu bầy cháu tôi. Không đâu, bạn bè lính tráng của anh đó. Khi thì kêu tôi “chuẩn bị đồ nhậu, mấy thằng em tới chơi”. Khi thì bảo thay đồ cho anh để “anh đi họp Tiểu đoàn”. Khi thì vui cười kể chuyện huyên thuyên như có người trước mặt. Và như vậy tôi mãi mãi là người vợ lính, vui buồn chung với những suy tư và cảm giác của chồng. Những người chỉ huy, đồng đội của chồng dù không ở trước mặt, nhưng là những người bạn vô hình đem lại niềm vui cuối đời cho chồng tôi. Mỗi buổi sáng lạy Phật tôi đều nguyện cầu bình an cho chồng, cho con cho tất cả mọi người xung quanh tôi. Cầu nguyện cho những anh hùng chiến sĩ đã nằm xuống được nhẹ nhàng siêu thoát. Tôi rất ái mộ những chị cầm Cờ Vàng theo chồng trong những cuộc biểu tình chống Cộng, hay sát cánh bên anh trong những lần sinh hoạt đơn vị. Màu áo các chị tung bay xinh xắn, gương mặt các chị rạng ngời hạnh phúc, đôi mắt các chị rực lửa đấu tranh. Những người vợ lính ấy đã làm đẹp cuộc đời cho chồng, cho xã hội. Tôi không được may mắn ấy, chồng tôi bây giờ là một thương binh thật sự. Anh không thể sát cánh cùng đồng đội sinh hoạt, nhưng trái tim anh và đầu óc anh đầy ắp tình đồng đội và quê hương. Và tôi dù gì và cho thế nào đi chăng nữa tôi vẫn mãi mãi là người vợ lính không bao giờ thay đổi. Nguyễn Thị Thêm
203 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Hoaâng Sa Nöå Khñ Phuá Ngựa cũ quen đường, Đĩ già lậm nết. Việc phế hưng mỗi thuở khác nhau, Mộng bá chủ bao đời y hệt! TA THẤY NGƯƠI, Từ Đông Chu bị họa Thất Hùng, Đến Hậu Hán bị xiềng Tam Quốc. Đất Trường An thây chất chập chùng, Bờ Vô Định xương phơi chất ngất! ĐÃ BIẾT, Hễ gieo chinh chiến là kín đất đau thương, Nếu động can qua thì mịt trời tang tóc. VẬY MÀ SAO, Chẳng lo điều yên nước no dân, Lại quen thói xua quân chiếm đất? NHƯ NƯỚC TA , Một dải non sông, nam bắc chung giềng, Trăm triệu anh em, trước sau như nhất. Hoàng Liên, Tam Đảo, Hồng Hà, Cửu Long , là máu là xương, Phú Quốc, Côn Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa là da là thịt. Máu xương đâu lẽ tách rời, Thịt da dễ gì chia cắt? Mà là liền tổ quốc phồn vinh,
204 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Mà là khối giang sơn gấm vóc. Người trăm triệu nhưng vốn một lòng, Tim một trái dẫu nhiều sắc tộc! Nữ nhi chẳng thiếu bậc anh hùng, Niên thiếu cũng thừa người kiệt xuất. Mười năm phục quốc, gươm Lê Lợi thép vẫn sáng ngời, Ba lượt phá Nguyên, sông Bạch Đằng cọc còn nhọn hoắt. Thùng! Thùng! Thùng! Liên hồi giục, trống Ngọc Hồi hực bước tiến quân. Đánh! Đánh! Đánh! Luôn miệng thét, điện Diên Hồng, vang lời sát thát. Ải Chi Lăng, Liễu Thăng chết còn lạc phách kinh hồn, Sông Nhị Hà, Sĩ Nghị chạy còn đứng tim vỡ mật. Thoáng thấy vó câu Thường Kiệt, Khâm Châu ngàn dặm, không còn bóng quỉ bóng ma,(1) Chợt nghe tiếng sét Đống Đa, Quảng Đông toàn tỉnh chẳng tiếng con gà con vịt. (1) Hùng khí dù dậy trời Nam, Nghĩa nhân lại tràn đất Bắc: Thương ngươi binh bại, tàn quân về còn cấp xe ngựa rình rang (2) Trọng kẻ trung can, hổ tướng chết vẫn được khói hương chăm chút.(3) Mạc Cửu đem quân lánh nạn, chúa ta vẫn mở dạ đón người, Hoa kiều mượn đất ở nhờ, dân ta vẫn chia cơm xẻ thóc. Phúc cùng hưởng khi mưa thuận gió hòa, Họa cùng chia lúc sóng vùi gió dập. Giúp các ngươi như kẻ một nhà, Thương các ngươi như người chung bọc! THẾ MÀ NAY, Ngươi lại lấy oán trả ơn, Ngươi lại lấy thù báo đức! Ăn đàng sóng, nói đàng gió, y như đĩ thúi già mồm. Lộn bề ngược, tráo bề xuôi, khác chi điếm già bịp bạc. Kéo neo tuần hạm, ào ào đổ bộ Hoàng Sa, Quay súng thần công, ầm ỉ tấn công Đá Bắc. Chẳng chấp hải qui, Chẳng theo công ước. Quen nết xưa xấc láo, giở giọng hung tàn, Lậm thói cũ nghênh ngang, chơi trò bạo ngược. ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
205 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
NÓI CHO NGƯƠI BIẾT; DÂN TỘC TA: Từng đánh bọn ngươi chỉ với ngọn giáo dài, Từng đuổi bọn ngươi chỉ bằng thanh kiếm bạc. Từng đánh Tây bằng ngọn tầm vông, Từng đuổi Nhật với thanh mác vót! Vì khát tự do mà uống nước đìa, Vì đói độc lập mà ăn cơm vắt. Sá chi tóc gội sa trường, Đâu quản thây phơi trận mạc. HÃY LIỆU BẢO NHAU, Nhìn thây Gò Đống mà liệu thắng liệu thua, Thấy cọc Bạch Đằng mà nghĩ sau nghĩ trước! Đừng để Biển Đông như Đằng Giang máu nhuộm đỏ lòm, Đừng để Hoàng Sa là Đống Đa xương phơi trắng xác! Nếu ngươi dựa vào hỏa tiển, phi cơ, Thì ta cũng có tuần dương, đại bác. So vũ khí, thì kẻ nhược người cường, Đọ trái tim, coi ai gang ai sắt? Thư hãy xem tường, Hoàng Sa hạ bút. Kha Tiệm Ly-Thái Quốc Tế (*)
Chú thích: (1) Sử ghi: Khi Lý Thường Kiệt đem quân qua Khâm Châu, Liêm Châu, cũng như khi quân Thanh bại trận Đống Đa chạy về, thì dân Tàu vùng biên giới kinh hoàng chạy theo. “Từ Nam Quan về bắc hàng trăm dặm vắng tanh, không thấy bóng con gà, con vịt” (2) Sự kiện Lê Lợi cấp ngựa và lương thực cho tù binh quân Minh về nước (3) Sự kiên dân ta lập miếu thờ Sầm Nghi Đống hạ tướng của Tôn Sĩ Nghị)
206 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Đối diện quân Thù Phú Bắc biên địa, hận cũ chẳng nguôi ngoai Đông lãnh hải, lại giở trò lếu láo. Kéo dàn khoan ỷ thế nghênh ngang, Bày thế trận vẫn thói quen hung bạo! THAN ÔI! Đau lòng biết mấy, giặc nuốt rồi mấy dặm Nam Quan, Ôm hận bao năm, thù chiếm trọn Hoàng Sa hải đảo! Ngông cuồng vẽ đường chín khúc, không kiêng công ước rạch ròi, Nghênh ngang kéo cả dàn khoan, để lộ mặt mày ngổ ngáo. Ỷ mạnh kéo tàu to tàu nhỏ, hiếp ngư thuyền không súng không gươm , Thẳng tay dùng cây ngắn cây dài, nện ngư dân chẳng giày chẳng áo! Thảm sát Đồng Chúc, phụ nữ mang thai mà chúng giết như giết lợn giết bò, Đánh chiếm Gạc Ma, chiến sĩ tay không mà chúng bắn như bắn cò bắn sáo! Niềm uất hận chất kín gầm trời, Biển tang thương đỏ tươi màu máu! Cho vợ khóc chồng lệ xót lâm li, Để mẹ nhớ con canh dài áo não! Câu “Bốn tốt” đã thành lời lẽ yêu ma, “Mười sáu chữ vàng” nay lòi tim gan chồn cáo! THẾ MỚI HAY, Vì mộng bành trướng mà mắt cú láo liên, Bởi thói bá quyền nên lòng lang trơ tráo. “Không có đối thủ nào trọn kiếp thù hằn, Chẳng có hữu bằng nào trăm năm vĩnh hảo” Mất lòng dân, thì dù tấc đất khó gìn, Được lòng dân, sợ chi quân thù trở giáo!
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
207 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
TỪ XƯA: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” “Giang sơn mất thì nhà tan cửa nát” CHO NÊN: Chớ xui hào kiệt lên rừng đốt củi làm than, Đừng đẩy sĩ phu ra đường bán rong hát dạo! Nếu lúc bình thời mãi dùng củi mục làm quan, Thì cơn quốc loạn lấy ai bảo toàn cương thổ? Lũ vô tài vô đức, chỉ biến nhân dân thành chó thành dê, Người đại trí đại nhân mới giúp giang sơn hóa rồng hóa hổ. HỠI QUÂN THÙ! Mi xua tàu chiến, chồn ló mặt chồn, Mi kéo dàn khoan, cáo lòi đuôi cáo! Miệng lằn lưỡi mối khác gì trôn đĩ thối tha, Khẩu Phât tâm xà nên ló mặt mo vênh váo! Dân ta lòng gang dạ sắt, chớ bày trò nhát khỉ rung cây, Bọn mi mắt chột mắt mù, chớ lấy tơ trói hùm trói báo! Giang sơn li loạn, trăm sông ta liền hóa Như Nguyệt, Bạch Đằng, Tổ quốc lâm nguy, triệu dân ta đều trở thành Ngô Quyền, Hưng Đạo. Trải bao binh lửa, Cửu Long Giang luôn chín khúc hào hùng, Qua bấy phong ba, Hoàng Liên Sơn vẫn nghìn mây vời vợi. Thử lửa đi! Chiến sĩ ta đạn đã lên nòng, Xung phong đi! Nhân dân ta gươm chờ tuốt vỏ! Thắng trăm trận cũ, Đại Cồ giữ nước nghìn năm, Thắng một trận nầy, Việt Nam lưu danh vạn thuờ. ANH EM ƠI! Giặc đã đến rồi! Giặc đã đến rồi! Ta nhân nhượng cũng có mức có chừng Chúng hung hăng ngày tự tung tự tác. Thương giống nòi, chân mạnh bước hiên ngang, 208 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
Vì tổ quốc, máu sôi lòng bất khuất. “Đánh cho để răng đen, Đánh cho luôn dài tóc”. Đống Đa gươm khua chan chát, máu thù dơ bước chân voi, Đằng Giang sóng cuộn ầm ầm, xác giặc còn tanh mũi cọc. Diên Hồng vang rền “Sát Thát”, quyết bảo toàn hải phận, biên cương, Như Nguyệt sang sảng lời thơ, không để mất ngọn rau, tấc đất. Lao thân đạn lửa, mới biết ai dũng ai hèn, Đối diện quân thù, mới rõ ai vinh ai nhục! Dù máu đỏ loang lòng biển, quyết bảo toàn hạt cát quê hương, Dù xương trắng chất đầu non, không để mất bờ cây tổ quốc. HỠI ANH EM! Vung tay lên, trăm triệu chung lòng! Trước giặc thù, một còn một mất!
KHA TIỆM LY
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
209 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ĐÔI LỜI CẢM TẠ Kính thưa quý bạn Đồng Môn và Thân Hữu độc giả, Quý vị và các bạn vừa thưởng ngoạn xong quyển Đặc San “CHÀO MỪNG 50 NĂM HỘI NGỘ KHÓA 17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ĐỨC”, nơi đã chứa đựng những tâm tình, những kỷ niệm của những chàng trai cách đây hằng nửa thế kỷ, đã cùng nhau quy tụ lại dưới một mái quân trường, để rồi sau đó ra đi biền biệt khắp bốn phương trời đáp đền ơn sông núi. Quý vị và các bạn cũng đã cảm thương tâm sự của những “Nàng dâu 17 Thủ Đức” đã gánh chịu biết bao gian truân thống khổ khi anh em chúng ta đã phải gãy gánh nửa đường, cũng như đã thưởng thức những tài liệu, những đoản truyện súc tích từ những cây viết bạn bè thân hữu bốn phương. Chúng ta đã được một món quà đầy ý nghĩa để đánh dấu ngày Hội Ngộ hôm nay, đồng thời cũng là một kỷ vật lưu niệm lại cho con cháu ở mai hậu. Thay mặt Ban Tổ Chức “ Năm Mươi Năm Hội Ngộ Khóa 17 SQTB/TĐ”, chúng tôi xin được chân thành cảm tạ: -Tất cả quý Đồng Môn đã yểm trợ tài chánh để thực hiện quyển Đặc San nầy. -Tất cả quý Đồng Môn, quý Phu Nhân ‘17’, quý bạn bè thân hữu đã đóng góp bài vỡ, hình ảnh, tài liệu thật phong phú và hữu ích cho quyển Đặc San. -Nhà in “Five Stars” tại Garden Grove đã giúp ấn loạt quyển Đặc San với giá yểm trợ. -Các bạn trẻ Nguyễn Việt Sơn, Lê thanh Liêm tại Nam FL, đã giúp thực hiện các nhu cầu về Photoshop. -Đặc biệt Chiến hữu Vũ Hồng, Chủ Nhiệm NS Diều Hâu Florida, đã giúp phần trình bày, layout cho Đặc San được muôn phần mỹ thuật. Xin tất cả quý vị hãy nhận nơi đây lời cảm tạ chân thành của anh em chúng tôi. Thay mặt Ban Tổ Chức “Hội Ngộ 50 Năm Khóa 17 Thủ Đức” Cựu SVSQ Nguyễn Thế Đỉnh.
210 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
MỤC LỤC ThÜ NgÕ .................................................................. 5 LÜ®c Sº K17 Sï Quan TrØ BÎ Thû ñÙc .................. 6 LÎch Sº TrÜ©ng Sï Quan TrØ BÎ Tñ ...................... 17 Thû ñÙc G†i Ta VŠ - ThÖ Uyên SÖn .................... 20 Ti‹u Sº Trung Tܧng TrÀn Ng†c Tám ................. 21 Ti‹u Sº Thi‰u Tܧng Bùi H»u NhÖn ................... 22 VŠ NÖi Miên ViÍn - ThÖ NguyÍn Kim Long ....... 23 M¶t Th©i ñ‹ Nh§ - MX Lâm Thånh Tài ............. 24 Chút Tình Cho Thû ñÙc - ThÖ Lê Thanh Tùng ... 34 Cánh Dù Bay Xa - Nam Thäo .............................. 35 Thû ñÙc M¶t Th©i Khó Quên-NguyÍn Quš ñåi .. 42 T¥ng Anh NgÜ©i Hát Bài Bi‹n M¥n ThÖ Kim Chi.....................45 Ngô Nghïa: Anh Hùng Hay DÎ Nhân cûa K17 Pháo Thû K17..... 46 Gªi Låi TrÀn Gian - ThÖ NguyÍn Thanh Khi‰t ..... 48 An L¶c Chi‰n TrÜ©ng ñi Không HËn H° Xám Phåm Châu Tài ................ 49 Gªi Em Cô Gái Bình Long-ThÖ Bao BÃt ñÒng ... 59 Bên ñ©i Luôn Có MË -Tây ñô Lâm Tài Thånh ... 60 Løc Quan C¶ng Hoà Hành Khúc NS Væn Giang ......................... 62 T¿ ThuÆt cûa m¶t SVSQ/K17 - Bùi Tùng ............ 63 Sách LÜ®c LÃy Låi Bi‹n ñäo- Minh ñÙc ............. 66 ñåo ñÙc HÒ Chí Minh - Nam QuÓc ..................... 68 Gi¥c HÒ ChÜa DiŒt Ch‡ Nao Là Nhà Thäo Ca NguyÍn Xuân PhÀn .................. 69 ThÖ Xܧng Hoå - ThÖ Lê Væn Ngô ...................... 71 H° Xám Phåm Châu Tài -Hoàng Khªi Phong ..... 72 Trò ChuyŒn V§i H° Xám Phåm Châu Tài Kš Giä TrÀn Ng†c ............ 79 Dòng Suy NiŒm - TrÀn Væn Hên .......................... 86 50 Næm m¶t GiÃc MÖ-NguyÍn Kim ViŒt ............. 93 K17 Thû ñÙc H¶i Ng¶ - ThÖ Phåm Trung Hân .. 105 Hát Khúc ‘Løc Quân ViŒt Nam’ Nh§ quân TrÜ©ng CÛ - ThÖ Thäo Ca ............. 106 Âm Ba Ti‰ng SÃm VÛ Ninh Nghïa Quân Kinh B¡c NguyÍn ñình Liêm .... 108 ChuyŒn Træm Næm M¶t LÀn Trª Låi Nghïa Quân ñåi ViŒt .................. 111
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
HÒi Kš cûa M¶t Sï Quan Nghïa Quân Chu Quang Anh DÛng ................ 115 Bài Cho NgÜ©i Tình Væn Khoa ThÖ TrÀn QuÓc Sï ....................... 118 M¶t Cánh Hoa Dù Trong Vòng Gai Këm ñÕ MÛ ñÕ LŒ Nhân ........... 119 ThÜ Xuân Em Gái HÆu PhÜÖngThÖ Luân Hoán ............. 121 Lên Núi Tìm ChÒng-TrÀn ThÎ ñông PhÜÖng ..... 122 Ta VŠ - ThÖ Tô Thuÿ Yên .................................. 127 Thæm ChÒng - NguyÍn Ng†c Båch Tuy‰t .......... 129 M¶t Cách Hoa Dù RÖi Røng - Quän Dù ............ 131 Hành Trình và Suy TÜ - DÜÖng Minh ChÃn ....... 133 LÜu ñày MiŠn B¡c - Luca Luân ......................... 135 Mùa Xuân Dân T¶c Gi»a HÒn Ta Hoàng Phong Linh - Võ ñåi Tôn ............. 137 KÈ Phän B¶i Huÿnh Chí ThiŒn Pháo Thû TiŠn Giang......................... 138 Tóc ThŠ - L©i Nhåc Khê Kinh Kha .................... 141 B¢ng H»u và K› NiŒm Quân TrÜ©ng NguyÍn Xuân PhÀn ................. 144 Giã TØ ñà N¤ng - TrÀn Væn Hên ....................... 147 Nh»ng Tâm Tình Cûa C¿u SVSQ K17/Tñ MX Lê TÃn Tài ......... 161 T‰t MÆu Thân ññ 3/33 BñQ - Thiên Lôi .......... 164 Bài Hành Cho TrÜ©ng Thi‰u Sinh Quân Pine Bùi ................ 167 K› NiŒm 50 næm Ra TrÜ©ng Ngành Quân Cø NguyÍn H»u Phái ......... 169 TrÆn Chi‰n Sau Cùng - MX ñoàn Væn TÎnh ...... 172 ñÃm Låi ñi - ThÖ Minh Quang Lê Væn ThÄm ... 186 VŠ Nh»ng VÎ TÜ LŒnh - Pháo Thû TiŠn Giang ... 187 NhÆn ñÎnh VŠ Quân L¿c VNCH ñåi Tܧng Louis C. Wagner Jr. ........... 198 V® Lính - NguyÍn ThÎ Thêm .............................. 201 Hoàng Sa N¶ Khí Phú - Kha TiŒm Ly ................ 204 ñÓi DiŒn Quân Thù Phú - Kha TiŒm Ly ............ 207 ñôi L©i Cåm Tå .................................................. 211
211 ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC
ÐẶC SAN K/17 SĨ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC