TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC CẦN THƠ
KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG
Giáo trình GIÁO DỤC và NÂNG CAO SỨC KHỎE
Ngành: BSĐK, BSRHM, BSYHDP, BSYHCT, Dược sĩ, CN Điều dưỡng, CN Xét nghiệm Trình độ đào tạo: Đại học Hệ chính qui
LƢU HÀNH NỘI BỘ NĂM - 2015
MỤC LỤC Bài 1. Đại cƣơng về truyền thông giáo dục và nâng cao sức khỏe......................................3 Bài 2. Hành vi sức khoẻ - quá trình thay đổi hành vi sức khỏe .............................. 14 Bài 3. Các nguyên tắc truyền thông giáo dục sức khỏe ...........................................32 Bài 4. Các nội dung truyền thông giáo dục sức khỏe ..............................................40 Bài 5. Các phƣơng pháp và phƣơng tiện truyền thông-GDSK ............................... 49 Bài 6. Kỹ năng truyền thông giáo dục sức khỏe .......................................................72 Bài 7. Lập kế hoạch và quản lý các hoạt động TT-GDSK .......................................74 Bài 8. Giám sát và đánh giá các hoạt động TT-GDSK ............................................97
Bài 1.
ĐẠI CƢƠNG VỀ TRUYỀN THÔNG – GIÁO DỤC SỨC KHỎE VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE MỤC TIÊU Sau bài học này học viên có khả năng: 1. Trình bày được các khái niệm cơ bản về sức khỏe, truyền thông giáo dục sức khỏe và nâng cao sức khỏe. 2. Trình bày được các vấn đề sức khỏe bệnh tật phổ biến ở các nước đang phát triển. 3. Phân tích được vị trí, vai trò của giáo dục sức khỏe trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. 4. Trình bày được hệ thống tổ chức GDSK trong ngành y tế Việt nam.
NỘI DUNG 1. Sức khỏe và bệnh tật 1.1. Định nghĩa sức khỏe Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã định nghĩa: “Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật”. Như vậy sức khỏe có 3 mặt: -
Sức khỏe thể chất.
-
Sức khỏe tâm thần.
-
Sức khỏe xã hội.
1.2. Các vấn đề sức khỏe phổ biến ở các nước đang phát triển Các bệnh nhiễm trùng, siêu vi trùng và nhiễm ký sinh trùng. -
Các bệnh liên quan đến nước: WHO tổng kết rằng 80% tất cả các loại bệnh tật ở nước đang phát triển có liên quan đến sử dụng nước và vệ sinh môi trường kém. Bệnh dịch đường tiêu hóa mang tính đặc trưng của nước đang phát triển. Ở Việt nam, nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa các yếu tố nước không sạch, vệ sinh môi trường kém với một số bệnh lây nhiễm như tiêu chảy, tả, thương hàn, lỵ trực khuẩn, các ký sinh trùng đường ruột, sốt xuất huyết [1].
-
Bệnh lao, HIV/AIDS, sốt rét, uốn ván, sốt xuất huyết, viêm não vi rút, viêm màng não do não mô cầu, lỵ amíp, bạch hầu, và tả là 10 bệnh 3
-
truyền nhiễm có tỷ lệ chết trung bình 10 năm cao nhất Việt nam giai đoạn 1994 – 2003 [2].
Các bệnh không lây: Các bệnh mãn tính như bệnh tim mạch, đột quỵ, tai nạn giao thông...có xu hướng ngày càng gia tăng. 60 50 Tai nạn
40
Bệnh truyền nhiễm
30
Bệnh không truyền nhiễm
20 10 0 1976
1981
1986
1991
1996
2001
2006
Biểu đồ 1: Sự tiến triển của tử vong [3] Bệnh tật và tử vong ở bà mẹ và trẻ em: -
Tỉ suất tử vong mẹ: vẫn còn ở tỷ lệ cao, trong cuộc điều tra năm 2001, Vụ sức khoẻ sinh sản, Bộ Y tế kết hợp với Tổ chức Y tế thế giới thực hiện cuộc điều tra trên 7 vùng sinh thái của Việt nam, tỷ suất chết mẹ là 130/100.000 trẻ đẻ sống, và thay đổi theo vùng từ 120/100.000 đến 162/100.000 trẻ đẻ sống [4].
-
Nguyên nhân: các nguyên nhân chính là băng huyết sau sanh, sản giật, nhiễm trùng, biến chứng nạo phá thai, vỡ tử cung và chữa ngoài tử cung vỡ.
-
Tỉ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi đã giảm từ 42 o năm 1999 xuống còn 27.5 %o năm 2005. Mặc dù vậy, nhìn chung tỷ suất này vẫn còn cao. Nguyên nhân: do đẻ non, đẻ ngạt, dị tật bẩm sinh, nhiễm trùng hô hấp cấp, đuối nước [5]...
Bệnh nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây lan qua đường tình dục. Tiêm chích ma túy là yếu tố có tác động mạnh nhất tới dịch HIV/AIDS, chiếm 40% số ca, và do có sự liên hệ chặt chẽ giữa tiêm chích ma túy và hoạt động mai dâm, dịch đang lây vào quần chúng thông qua những người có quan hệ tình dục với gái mãi dâm và những người có quan hệ tình dục với người tiêm chích ma tuý [6].
4
2. Khái niệm về thông tin, truyền thông - giáo dục: Thông tin: - Thông tin là quá trình chuyển các tin tức hoặc thông điệp từ nguồn phát đến người nhận để tạo nên và nâng cao nhận thức của đối tượng. - Thông tin là những tin tức, thông điệp được cá nhân, tổ chức phổ biến thông qua sách, báo, tivi, đài phát thanh... gửi đến người nhận mà không quan tâm đến phản ứng của họ. - Thông tin mang tính chất một chiều.
Nguồn tin
Thông tin/Thông điệp
Ngƣời nhận
Sơ đồ1: Quá trình thông tin (thông tin một chiều) Truyền thông: - Truyền thông là quá trình giao tiếp, chia sẻ thông tin giữa người truyền và người nhận nhằm đạt sự hiểu biết nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của đối tượng. - Truyền thông là một quá trình tác động qua lại liên tục giữa 2 người hay nhiều người để cùng nhau chia sẻ các thông tin, ý kiến, thái độ, tình cảm, kỹ năng tạo nên sự thay đổi hành vi của đối tượng. - Đặc trưng quan trọng của truyền thông là tính hai chiều. Thông tin/Thông điệp Nguồn tin
Ngƣời nhận Đáp ứng (Thông tin phản hồi)
Sơ đồ2: Quá trình truyền thông (thông tin hai chiều) Tuyên truyền: Là cách lập đi lập lại các thông tin nhiều lần về cùng một đề tài theo cùng một hình thức khác nhau khiến cho người ta lúc đầu chưa tin, lâu dần cũng phải tin đó là chân lý, là sự thật. Nó mang tính áp đặt và sử dụng nhiều kỹ xảo gây ấn tượng mạnh mẽ. Nguồn tin
Thông tin
Ngƣời nhận
Sơ đồ3: Quá trình tuyên truyền (thông tin một chiều, lập đi lập lại)
5
Mô hình truyền thông có thể tóm tắt bằng những từ sau đây: + Ai nói „Nguồn truyền‟ + Nói gì „Thông điệp‟ + Nói cho ai „Ngƣời nhận‟ + Nhằm mục đích gì „Hiệu quả‟ + Bằng con đƣờng nào „Phƣơng pháp‟ + Làm thế nào để biết hiệu quả „Phản hồi‟ Như vậy mối liên quan giữa GDSK với thông tin, giáo dục- truyền thông và tuyên truyền là mối liên quan giữa mục đích và phương pháp, phương tiện. 3. Giáo dục sức khỏe và Nâng cao sức khỏe 3.1. Khái niệm giáo dục sức khỏe Có rất nhiều yếu tố tác động đến sức khỏe của con người, để đạt được sức khỏe tốt hơn đòi hỏi có sự tham gia tích cực của các cá nhân, các gia đình và cộng đồng vào việc thực hành các hành vi sức khỏe lành mạnh và tạo môi trường sức khỏe lành mạnh. Để mọi người có thể thực hành các hành vi sức khỏe lành mạnh cần đẩy mạnh giáo dục sức khỏe. Có nhiều định nghĩa về GDSK và định nghĩa đầu tiên có từ năm 1943. Giáo dục sức khỏe cũng giống như giáo dục chung đó là quá trình tác động nhằm thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành của con người, phát triển những thực hành mang lại tình trạng sức khỏe tốt nhất cho con người. Green và cộng sự (1980): “GDSK là sự tổng hợp các kinh nghiệm nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người dân chấp nhận một cách tự nguyện các hành vi có lợi cho sức khỏe”. Khái niệm về GDSK được đề cập trong tài liệu giảng dạy Các kỹ năng truyền thông GDSK của Trung tâm Truyền thông GDSK trung ương – Bộ Y tế (2007): “GDSK là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch vào tình cảm và lý trí của con người nhằm làm thay đổi hành vi sức khỏe các cá nhân, các nhóm và cả cộng đồng”. Nói một cách đơn giản GDSK là hoạt động thông tin, giáo dục nhằm giúp cho một người, một nhóm người hay một cộng đồng nào đó có được những việc làm có lợi cho sức khỏe. Nhƣ vậy từ định nghĩa trên ta rút ra: Bản chất của quá trình GDSK là: 1. Là một quá trình truyền thông: -
Gồm các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông (IEC) và tuyên truyền.
-
Tác động qua lại giữa người làm công tác GDSK và đối tượng được giáo dục chứ không phải thông tin một chiều. 6
2. Là quá trình tác động tâm lý. 3. Là làm thay đổi hành vi sức khỏe: -
Nhận thức: về sức khỏe, sự cần thiết phải bảo vệ sức khỏe, và các biện pháp bảo vệ sức khỏe.
-
Thái độ: Sức khỏe của mỗi người là nguồn lợi của bản thân.
-
Lòng tin: chỉ ra cái gì được chấp nhận, cái gì không được chấp nhận.
-
Các hành động có lợi cho sức khỏe
Lĩnh vực tác động của GDSK là: -
Kiến thức: thông tin truyền bá kiến thức mới hoặc làm thay đổi những kiến thức sai lầm.
-
Thái độ: làm chuyển đổi thái độ cũ có hại cho sức khoẻ.
-
Cách thực hành: Hướng dẫn những kỹ năng thực hành mới hoặc làm thay đổi cách thực hành cũ.
Mục tiêu cơ bản của GDSK là giúp cho mọi người: -
Xác định những vấn đề và nhu cầu sức khỏe của họ.
-
Hiểu rõ những điều họ có thể làm để giải quyết những vấn đề sức khỏe và bảo vệ tăng cường sức khỏe bằng những khả năng của chính họ và sự giúp đỡ từ bên ngoài.
-
Quyết định những hành động thích hợp nhất để tăng cường cuộc sống khỏe mạnh.
Định nghĩa trên cũng cho thấy GDSK là một quá trình nên cần tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, bằng nhiều biện pháp khác nhau chứ không phải là một công việc có thể làm một lần là xong. Vì vậy, để thực hiện công tác GDSK chúng ta phải có sự đầu tư thích đáng, hết sức kiên trì thì mới đem lại hiệu quả cao. Mục đích của GDSK - Mục đích của GDSK là cung cấp cho mọi người biết những kiến thức cần thiết để bảo vệ và nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi thọ có ích cho xã hội. - Giới thiệu các dịch vụ sức khỏe để mọi người biết. - Vận động, thuyết phục để mọi người từ bỏ các hành vi lạc hậu có hại cho sức khỏe của họ và thực hiện những hành vi sức khỏe lành mạnh để họ tự tạo ra, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho bản thân, cho gia đình và cộng đồng bằng chính những nỗ lực của họ. - Chăm sóc sức khỏe dựa vào sự tham gia của cộng đồng là một giải pháp mang lại hiệu quả cao. Chính các cá nhân trong cộng đồng được trang bị các kiến thức khoa học về phòng, chữa bệnh, họ sẽ là những người “thầy thuốc” thường xuyên chăm lo sức khỏe cho họ, cho gia đình và cộng đồng họ một cách lâu dài, rộng rãi và có hiệu quả nhất. Đây chính là chức năng của công tác GDSK. 7
Như vậy GDSK cung cấp các kiến thức khoa học về sức khỏe và chăm sóc, nâng cao sức khỏe để đạt được mục đích cuối cùng là làm cho đối tượng được GDSK thực hành những hành vi có lợi cho cho chính sức khỏe của họ cũng như của gia đình và cộng đồng trong đó có họ sinh sống. 3.2. Khái niệm nâng cao sức khỏe Gần đây, quan niệm về GDSK đã được mở rộng ra thành khái niệm nâng cao sức khỏe (NCSK). - NCSK bao gồm một loạt các hoạt động được hoạch định không chỉ nhằm thay đổi hành vi sức khỏe của con người mà còn nhằm cải thiện các điều kiện sống và làm việc của con người thông qua những thay đổi về tổ chức luật pháp và môi trường hỗ trợ cho hành vi dẫn đến việc tăng cường cho sức khỏe. - NCSK bao gồm cả GDSK. - GDSK là thành phần chủ chốt của NCSK. Do đó định nghĩa NCSK thường dùng là GDSK cộng với can thiệp về tổ chức và chính sách có liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những thay đổi về hành vi và môi trường để cải thiện sức khỏe nâng cao chất lượng cuộc sống. Khái niệm về nâng cao sức khỏe được tuyên ngôn Ottawa nêu ra: “Nâng cao sức khỏe là quá trình giúp mọi người có đủ khả năng kiểm soát toàn bộ sức khỏe và tăng cường sức khỏe của họ. Để đạt được tình trạng hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, các cá nhân hay nhóm phải có khả năng xác định và hiểu biết các vấn đề sức khỏe của mình và biến những hiểu biết thành hành động để đối phó được với những thay đổi của môi trường tác động đến sức khỏe”. Như vậy, NCSK tác động rộng hơn GDSK, là kết quả của một chiến lược chung điều hòa giữa người dân và môi trường. NCSK kết hợp chặt chẽ tất cả những giải pháp được thiết kế một cách cẩn thận để tăng cường sức khỏe và kiểm soát bệnh tật. NCSK có thể phân biệt rõ hơn so với GDSK là không chỉ chú trọng đến hành vi lối sống mà bao gồm cả môi trường và đường lối, chính sách lành mạnh tạo điều kiện cho sức khỏe, do vậy nó hiệu quả hơn GDSK. 4. Vị trí, vai trò của GDSK 4.1. Vị trí của GDSK trong CSSKBĐ: Trong những năm gần đây vai trò của GDSK ngày càng có vị trí quan trọng trong CSSK nói chung và CSSKBĐ nói riêng. Từ kinh nghiệm trong thực tế đã chỉ ra rằng: các dịch vụ về chăm sóc sức khỏe sẽ có hiệu quả thấp nếu không có sự hỗ trợ của GDSK và phối hợp với GDSK. Hội nghị Alma_Ata (do WHO và UNICEF tổ chức) năm 1978 đã chỉ ra: sức khỏe bắt đầu từ trách nhiệm của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội cần có đủ sức khỏe để sống cuộc sống lao động có ích cho xã hội. Để có cuộc sống khỏe mạnh mỗi người cần hiểu rõ và phân biệt giữa những thực hành có lợi và thực hành có hại cho sức khỏe, từ đó quyết định lựa chọn những phương thức thực hành có lợi nhất cho sức khỏe [7]. 8
Tổ chức Y tế Thế giới đã nhận rõ vai trò của GDSK và xếp GDSK là nội dung thứ 1, nội dung trung tâm trong 8 nội dung CSSKBĐ [7]. Bộ Y tế Việt Nam cũng đã đưa GDSK lên vị trí hàng đầu trong 10 nội dung của CSSKBĐ ở Việt Nam.
Cung cấp nước sạch và thanh khiết môi trường.
Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở
Dinh dưỡng và vệ sinh thực phấm. Điều trị các bệnh và các vết thương thông thường.
Quản lý sức khoẻ
GDSK
Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em
Tiêm chủng mở rộng
Cung cấp thuốc thiết yếu Phòng chống các bệnh dịch lưu hành
Sơ đồ 4: Vị trí của GDSK trong chăm sóc sức khỏe ban đầu GDSK là một phần của chăm sóc sức khỏe, nó liên quan đến tăng cường các hành vi lành mạnh. GDSK có liên quan đến tất cả các nội dung khác của CSSKBĐ vì tất cả các nội dung của CSSKBĐ đều có nội dung về GDSK. Ví dụ giáo dục phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, vệ sinh dinh dưỡng an toàn thực phẩm,… Làm tốt công tác GDSK sẽ tạo tiền đề vững chắc để thực hiện các nội dung khác của CSSKBĐ. Ngược lại, nếu các nội dung khác của CSSKBĐ được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các chương trình GDSK khác. 4.2. Vai trò của GDSK - GDSK là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi hành vi sức khỏe góp phần tạo ra, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho mọi người. - Các hành vi của con người có thể là nguyên nhân của các vấn đề sức khỏe, nhưng hành vi cũng là giải pháp chính để giải quyết các vấn đề của họ. Thông qua GDSK chúng ta giúp mọi người hiểu được các hành vi của họ có ảnh hưởng đến sức khỏe của họ như thế nào. - GDSK có vai trò to lớn trong việc phòng bệnh. GDSK giúp đỡ đối tượng tự giác thay đổi hành vi sức khỏe ở cả 3 cấp dự phòng. Do đó nếu GDSK đạt hiệu quả nó sẽ giúp làm giảm tỉ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỉ lệ tử vong. - GDSK không thể nào thay thế các dịch vụ y tế khác nhưng nó cần thiết để tăng cường sử dụng hợp lý các dịch vụ y tế này. Trong thực tế nếu không làm tốt GDSK thì 9
nhiều chương trình y tế sẽ đạt kết quả thấp và không bền vững thậm chí có nguy cơ thất bại. So với các giải pháp dịch vụ y tế khác, GDSK là một công tác khó làm, khó đánh giá kết quả nhưng nếu làm tốt sẽ mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí ít nhất, nhất là ở tuyến y tế cơ sở. - GDSK giữ một vai trò quan trọng trong việc vận động nhân dân tham gia vào các chương trình y tế xã hội. 5. Trách nhiệm thực hiện GDSK - Hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) là một bộ phận của hệ thống chăm sóc sức khỏe, của các chương trình y tế, của các cơ sở y tế và mọi cán bộ y tế chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của các cán bộ và tổ chức chuyên trách về GDSK. - GDSK có thể và cần thực hiện tại tất cả các cơ sở y tế, tại những nơi công cộng, các trường học, cơ sở sản xuất, cộng đồng và gia đình. Mọi cán bộ y tế dù công tác tại cơ sở nào, tuyến nào đều có trách nhiệm và các cơ hội thực hiện GDSK. Mỗi cán bộ y tế cần xác định rõ trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ TT-GDSK của mình và lồng ghép hoạt động này vào công việc hàng ngày, thực hiện TT-GDSK linh hoạt phù hợp với điều kiện, phương tiện thực tế. - Cần tổ chức điều phối mọi nỗ lực của cộng đồng nhằm thực hiện tốt mục tiêu chương trình GDSK. - Lồng ghép GDSK vào các hoạt động CSSKBĐ và các chương trình y tế đang triển khai ở địa phương. - Lồng ghép các chương trình GDSK vào các chương trình kinh tế xã hội nhằm tận dụng được sự hỗ trợ của chính quyền, của các tổ chức đoàn thể trong công tác GDSK (xã hội hoá GDSK). 6. Hệ thống tổ chức GDSK ở Việt Nam Hệ thống tổ chức truyền thông GDSK ở nước ta đã được hình thành và phát triển có nhiều đóng góp trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tuyến trung ương có Trung tâm TT-GDSK trung ương trực thuộc Bộ Y tế, tuyến tỉnh có các Trung tâm TTGDSK trực thuộc sở y tế các tỉnh/thành phố. 6.1. Tuyến Trung ương Trung tâm Truyền thông giáo dục sức khoẻ (TT-GDSK) trực thuộc Bộ Y tế Theo quyết định số 1914/1999/QĐ-BYT ngày 28/6/1999 của Bộ trưởng Bộ Y tế, Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe (TT - GDSK) trung ương có những chức nǎng và nhiệm vụ chính sau: Tổ chức thực hiện truyền thông giáo dục sức khoẻ - Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch truyền thông GDSK. - Tổ chức tuyên truyền đường lối của Đảng, các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của Ngành Y tế về chǎm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, biên soạn và sản xuất các tài liệu về truyền thông GDSK. 10
Nghiên cứu khoa học - Nghiên cứu các hành vi sức khỏe của cộng đồng - Nghiên cứu các tài liệu truyền thông GDSK. - Ứng dụng các phương pháp truyền thông GDSK của các nước và các tổ chức trên thế giới vào Việt Nam. Chỉ đạo tuyến về truyền thông giáo dục sức khỏe - Củng cố mạng lưới truyền thông GDSK trong cả nước. - Chỉ đạo các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ cho mạng lưới về TT-GDSK. - Cung ứng các tài liệu truyền thông GDSK cho các đối tượng có nhu cầu. Đào tạo cán bộ - Đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác truyền thông GDSK ở các cấp. - Đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ truyền thông GDSK cho các đối tượng khác có nhu cầu. Hợp tác quốc tế - Hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế về lĩnh vực truyền thông GDSK. - Cử và nhận cán bộ để đào tạo và trao đổi kinh nghiệm về truyền thông GDSK trong nước và nước ngoài. Quản lý đơn vị - Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đơn vị và của các chương trình dự án theo chế độ và chính sách của Nhà nước. - Xuất bản các tài liệu TT GDSK để cung ứng cho các đối tượng có nhu cầu. Phòng chỉ đạo ngành của các viện chuyên khoa đầu ngành ở trung ương: Chỉ đạo hướng dẫn các cơ sở tuyến dưới các biện pháp phòng và điều trị bệnh và giải quyết các vần đề sức khỏe thuộc ngành mình. 6.2. Tuyến tỉnh, thành phố Theo quyết định số 911/1999/QĐ-BYT ngày 31/3/1999 của Bộ trưởng Bộ Y tế, Trung tâm TT – GDSK trực thuộc các Sở Y tế tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan chuyên môn thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo mọi hoạt động TT-GDSK trong phạm vi trên địa bàn [8]. Nhiệm vụ chính của các trung tâm: -
Căn cứ định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, kế hoạch truyền thông - GDSK của Bộ Y tế và của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để xây dựng kế hoạch truyền thông – GDSK và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch sau khi được phê duyệt.
-
Xây dựng, quản lý và chỉ đạo các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của mạng lưới Truyền thông - GDSK trên địa bàn.
11
-
Tổ chức, phối hợp đào tạo và đào tạo lại về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, cộng tác viên và các đối tượng làm công tác truyền thông GDSK.
-
Tham gia và tổ chức công tác nghiên cứu khoa học về TT-GDSK trên địa bàn.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, sản xuất các tài liệu về Truyền thông - GDSK của đơn vị theo đúng qui định của pháp luật. -
Thực hiện công tác hợp tác quốc tế về Truyền thông - GDSK theo chủ trương, đường lối của Đảng và các quy định hiện hành của Nhà nước.
-
Tổ chức việc tuyên truyền giáo dục pháp luật về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân và triển khai các công tác tuyên truyền khác trong lĩnh vực y tế khi được Sở Y tế giao.
Ngoài ra, các Trạm chuyên khoa, Trung tâm Y học dự phòng, các chuyên khoa đầu ngành ở các bệnh viện tỉnh, thành phố cũng tham gia chỉ đạo công tác GDSK theo các chuyên ngành dọc. 6. 3. Tuyến huyện, quận Các cơ quan y tế trên địa bàn huyện bao gồm Phòng Y tế, Trung tâm y tế dự phòng, và bệnh viện huyện cần phối hợp chỉ đạo lồng ghép các hoạt động TT-GDSK với các hoạt động, dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác, Theo quyết định số 20/2005/QĐBYT ngày 9/ 9/2005 về việc ban hành quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế dự phòng huyện trong đó có phòng TT- GDSK [9]. Hầu hết các chương trình, dự án y tế triển khai trên địa bàn quận/huyện đều có hoạt động TT-GDSK cần được tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt. 6. 4. Tuyến xã/phường Trạm y tế xã/phường: Trạm y tế xã/phường là tuyến y tế đầu tiên trong hệ thống y tế nhà nước, trực tiếp tiếp xúc, phục vụ sức khỏe người dân hàng ngày, vì thế các hoạt động TT-GDSK cho người dân rất cần thiết và có ý nghĩa thiết thực trong công tác nâng cao sức khỏe cộng đồng. Trưởng trạm y tế chịu trách nhiệm chỉ đạo công tác GDSK và tất cả các cán bộ y tế trong xã kể cả các cán bộ hành nghề y tế tư nhân cũng cần được động viên tham gia làm công tác GDSK. Cán bộ y tế xã/phường có vai trò quan trọng trong thực hiện xã hội hóa công tác y tế nói chung và TT-GDSK nói riêng. TT-GDSK ở tuyến xã/phường sẽ không thể đạt kết quả tốt nếu không thu hút được sự tham gia của các cá nhân, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và toàn thể cộng đồng. Nâng cao vai trò chủ động của cộng đồng trong giải quyết các vấn đề sức khỏe đòi hỏi cán bộ trạm y tế phải đẩy mạnh các hoạt động TT-GDSK. Để giải quyết một số vấn đề bệnh tật, sức khỏe hiện nay như lao, phong, HIV/AIDS, dân số kế hoạch hóa gia đình….thì TT-GDSK cho cộng đồng vẫn là một trong các biện pháp hàng đầu mà trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này là các cán bộ trạm y tế xã/phường. Cán bộ trạm y tế xã/phường còn có nhiệm vụ trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt động TT-GDSK cho cán bộ y tế thôn bản. Y tế thôn bản: Mạng lưới y tế thôn bản ở nước ta đã được hình thành theo chỉ đạo của Bộ Y tế. Mỗi thôn bản có một cán bộ y tế hoạt động, đây là những cán bộ y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Bộ Y tế đã xác định cán bộ y tế thôn bản có nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm là thực hiện các hoạt động TT-GDSK cho nhân dân về vệ sinh 12
môi trường, vệ sinh cá nhân, phòng chống các bệnh tật, tai nạn, ngộ độc phổ biến thường gặp, phát hiện sớm các bệnh thường gặp, thực hiện sơ cứu ban đầu. Để hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ của mình, các cán bộ y tế thôn bản cần được đào tạo các kiến thức và kỹ năng cơ bản về TT-GDSK và lập kế hoạch cho hoạt động GDSK tại cộng đồng. TÓM LẠI TT-GDSK giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Vì vậy, cần phải được hoàn thiện và phát triển. Các hoạt động này không thể tách rời các hoạt động chăm sóc sức khỏe, các chương trình y tế, các cơ sở y tế và không chỉ là nhiệm vụ của các cán bộ, các tổ chức TT-GDSK mà là nhiệm vụ của mọi cán bộ y tế. TT-GDSK cần phải được thực hiện thường xuyên tại tất cả các cơ sở y tế như các bệnh viện, phòng khám bệnh, trạm chuyên khoa, các trung tâm y tế dự phòng, trung tâm y tế ngành, các khu điều dưỡng phục hồi sức khỏe, các trạm y tế cơ sở xã/ phường, cơ quan, trường học, nhà máy xí nghiệp…. Hệ thống tổ chức TT-GDSK ở nước ta đã từng bước hình thành và phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong hoạt động TT-GDSK cho cộng đồng. CÂU HỎI LƢỢNG GIÁ Câu 1. Trình bày các khái niệm về truyền thông, GDSK và nâng cao sức khỏe Câu 2. Các vấn đề sức khỏe bệnh tật phổ biến ở các nước đang phát triển là gì? Câu 3. Bản chất của quá trình GDSK là gì? Câu 4. Lĩnh vực tác động của GDSK là gì? Câu 5. Mục đích của GDSK là gì? Câu 6. Phân tích vị trí vai trò của TT-GDSK trong công tác CSSKBĐ? Câu 7. Ai có trách nhiệm thực hiện công tác GDSK? Câu 8. Trình bày hệ thống TT-GDSK của Việt Nam. Câu 9. Tại sao tuyến xã/ phường lại có vai trò quan trọng trong công tác GDSK?
13
Bài 2.
HÀNH VI SỨC KHỎE - QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI HÀNH VI MỤC TIÊU Sau bài học này sinh viên có khả năng: 1. Giải thích được các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe. 2. Trình bày được khái niệm hành vi sức khỏe, các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi. 3. Trình bày được các bước của quá trình thay đổi hành vi sức khỏe. 4. Trình bày được các mô hình lý thuyết giải thích hành vi sức khỏe, vai trò và kỹ năng của người làm công tác GDSK.
NỘI DUNG Mở đầu Mục đích của GDSK là cung cấp cho mọi người biết những kiến thức cần thiết để bảo vệ và tăng cường sức khỏe. Ngành y tế dù có đầu tư nhiều đến đâu để phát triển các cơ sở phòng bệnh, chữa bệnh cũng không thể thực hiện hết mọi nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho mọi cá nhân trong cộng đồng. Chăm sóc sức khỏe dựa vào sự tham gia của cộng đồng là một giải pháp mang lại hiệu quả cao. Chính các cá nhân trong cộng đồng mà các kiến thức khoa học về sức khỏe và chăm sóc sức khỏe sẽ là những người “thầy thuốc” thường xuyên chăm lo sức khỏe cho họ, cho gia đình, và cho cộng đồng họ một cách lâu dài và có hiệu quả nhất. Đây chính là chức năng của GDSK nhằm mục đích cuối cùng là làm cho đối tượng được GDSK thực hành các hành vi sức khỏe lành mạnh. Trong nhiều hoàn cảnh khác nhau không chỉ cá nhân cần thay đổi hành vi mà có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của họ. GDSK cần phân tích kỹ lưỡng các yếu tố này khi muốn thay đổi hành vi sức khỏe của con người 1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến sức khỏe Sức khỏe là một lĩnh vực hết sức nhạy bén của cuộc sống. Có thể nói rằng tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống đều tác động đến sức khỏe hoặc chịu tác động của sức khỏe. Các nguy cơ của sức khỏe xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau. Một số nguy cơ có nguồn gốc sinh học trong đó những cái mang tính chất di truyền. Có những nguy cơ là hậu quả của hành vi cá nhân của con người. Lại có những nguy cơ nảy sinh từ môi trường sống của từng cá nhân, bao gồm những tác động tự nhiên và những điều kiện kinh tế xã hội. Những nguy cơ này thường cùng tác động dẫn đến một bệnh nào đó.Việc kiểm soát những nguy cơ sức khỏe không đơn giản, không thể đo được một cách chính xác tác động của từng yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe do tính chất phức tạp của chúng. Tuy nhiên, việc phân loại các yếu tố tác động đến sức khỏe thành các nhóm lớn đã được một số người thực hiện. Để thuận tiện cho việc phân tích mối quan hệ giữa sức khỏe và các yếu tố tác động có thể sử dụng phân loại theo tác giả Last và Wallet (1991) đưa ra. Theo sự phân loại này các yếu tố được xếp thành 4 nhóm chính: 14
1.1. Các yếu tố di truyền Một số bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm (sickle-cell anemia), bệnh đái tháo đường có thể được truyền từ cha mẹ sang con cái. Đối với các bệnh mà yếu tố di truyền có thể là một nguyên nhân nhưng không phải là nguyên nhân duy nhất như đái tháo đường, béo phì, cao huyết áp, thì mỗi cá nhân cần tìm kiếm những lời khuyên về những việc cần làm để giảm nhẹ nguy cơ như thay đổi thói quen ăn uống hoặc cần được kiểm tra sức khỏe thường xuyên. Trong những trường hợp này, vai trò của người làm công tác GDSK rất quan trọng. Mặc khác, vai trò con người ở đây là phải tiếp tục nâng cao sự hiểu biết về những yếu tố đột biến gen do một số nguyên nhân gây ra (Ví dụ các hóa chất có trong môi trường) và cũng nên khuyến khích những người có nguy cơ do tiền sử bản thân hoặc nằm trong nhóm có nguy cơ cao, quan tâm và tìm kiếm tư vấn liên quan đến di truyền giúp họ có quyết định phù hợp với hoàn cảnh riêng của họ. 1.2. Các yếu tố môi trường Môi trường tự nhiên: như nhiệt độ, độ ẩm, mức độ ồn, các chất ô nhiễm, phóng xạ, lụt lội, bão, hạn hán, các thiên tai khác có thể gây thương tích hoặc tử vong nhiều người. Vấn đề môi trường lớn nhất ảnh hưởng đến sức khỏe là sự ô nhiễm môi trường nước và thực phẩm là nguồn truyền các bệnh như tả, thương hàn. Có rất nhiều vụ ngộ độc thức ăn đồ uống kể cả đồ hộp. Các bệnh nhiễm khuẩn và bệnh do ký sinh trùng gây ra vẫn còn phổ biến ở các nước đang phát triển là hậu quả của việc dùng nước không an toàn và việc quản lý rác chưa tốt. Khi con người bắt đầu có những khái niệm về sức khỏe thì cũng nhận ra rằng sức khỏe liên quan mật thiết với một số yếu tố nhất định của môi trường xung quanh. Việc bảo vệ môi trường (cũng là bảo vệ chính bản thân mình) trở thành mối quan tâm lớn và hàng đầu của các cơ quan pháp luật và thông tin đại chúng. Môi trường xã hội: Các nhà dịch tể học đã kiểm tra để xác định những ảnh hưởng của các yếu tố xã hội như thu nhập, học vấn, nghề nghiệp, giới, chủng tộc, tập quán, luật pháp, đạo đức,… đến sức khỏe. Các yếu tố khác có thể là nguy cơ tiềm ẩn gây ra tai nạn như nhà cửa tồi tàn, cống rảnh lộ thiên, đường xá xuống cấp, cháy nổ,...; Những điều kiện khó khăn về nhà ở, sự căng thẳng ở nơi làm việc, trong gia đình và tại cộng đồng có thể dẫn tới các vấn đề sức khỏe tâm thần. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng tình trạng kinh tế -xã hội (được đánh giá dễ nhất qua thu nhập) liên quan chặt chẽ đến tình trạng sức khỏe. Điều kiện kinh tế -xã hội càng tốt thì tỉ lệ tử vong càng thấp. Những người theo cùng một tôn giáo thường có một số thói quen sức khỏe giống nhau ví dụ như việc ăn chay, kiêng rượu bia,… do đó những nhóm người này thường có tỉ lệ bệnh tim mạch và ung thư thấp hơn. 1.3. Các yếu tố thuộc về chăm sóc sức khỏe Hệ thống chăm sóc sức khỏe có ảnh hưởng đáng kể đến trạng thái sức khỏe của người dân. Chất lượng điều trị và chăm sóc, khả năng sẵn có và việc sử dụng các dịch vụ y tế, thái độ của cán bộ y tế đối với người bệnh, trình độ chuyên môn của cán bộ y tế,… đều có thể ảnh hưởng tốt hoặc không tốt đến sức khỏe của người dân và cộng đồng nói chung. Ví dụ, ở Mỹ tuổi thọ được nâng lên từ 47 tuổi (1900), lên 75 tuổi (1990). 15
Nguyên nhân lớn nhất để nâng tuổi thọ là sự giảm tỉ lệ tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn. Các cuộc nghiên cứu cho thấy có 3 yếu tố tác động mạnh nhất đến việc nâng cao sức khỏe: -
Chăm sóc y tế tốt hơn, thuốc tốt hơn
-
Dinh dưỡng được cải thiện
-
Điều kiện lao động tốt hơn an toàn hơn
1.4. Hành vi cá nhân Sự lựa chọn của cá nhân về dinh dưỡng, nghĩ ngơi, thể dục rèn luyện thân thể, nghiện hút, hành vi tình dục,… đều có tác động mạnh đến sức khỏe. Ở các nước đang phát triển, ngoài những những vấn đề sức khỏe lớn là suy dinh dưỡng và nhiễm khuẩn, những vấn đề sức khỏe của ngày nay còn có bệnh tim mạch, ung thư, nghiện hút… .Hút thuốc lá là hành vi có hại nhiều đối với sức khỏe. Hút thuốc lá là một nguyên nhân của ung thư phổi, có liên quan đến bệnh tim mạch, viêm phế quản. Thói quen ăn uống quá nhiều mỡ làm tăng lượng cholesterol, một nguyên nhân gây bệnh tim, béo phì, cao huyết áp. Có những thức ăn chứa chất hóa học gây ung thư như các loại thịt hun khói. Nghiện rượu, tiêm chích ma túy là một vấn đề được y tế công cộng rất quan tâm vì có nhiều người có thói quen này. Nghiện rượu là một nguyên nhân trầm trọng gây tai nạn giao thông và có thể dẫn tới tử vong. Tai nạn, đặc biệt là tai nạn giao thông, đang xảy ra với chiều hướng gia tăng lý do chủ yếu là không tuân theo các luật lệ giao thông và các quy tắc an toàn lao động. Một vấn đề sức khỏe khác liên quan nhiều đến hành vi cá nhân là AIDS. Tệ nạn tiêm chích ma túy gây một nỗi lo ngại cho toàn xã hội nhất là khi đại dịch HIV/AIDS đang hoành hành trên toàn cầu. Nhận xét: 1. Các bệnh di truyền và những ảnh hưởng của thời tiết thường không kiểm soát
được. Tuy vậy, bệnh nhân cũng cần được tham vấn để đương đầu với bệnh tật. 2. Các bệnh do vi trùng gây ra nhờ có kháng sinh, nhờ tiêm chủng đã dần dần bị
khống chế. Nhưng con người vẫn tiếp tục đối đầu với các bệnh do chính nếp sống, hành vi của họ gây ra: rượu, ma túy, có thai ngoài ý muốn, tai nạn giao thông, bệnh do thực phẩm. Ngay cả các bệnh do vi trùng như STDs, bệnh nhiễm HIV/AIDS,… thì cũng có sự góp phần chủ yếu của hành vi. 2. Hành vi sức khỏe 2.1. Khái niệm Hành vi Các nhà khoa học hành vi trên thế giới đã đưa ra khá nhiều khái niệm về hành vi. Theo Green và Kreuter: “Hành vi là bất kỳ phản ứng nào có thể quan sát được của con người. Hành vi đó có ý thức được hay không ý thức được về hành vi của mình”.
16
Theo một số tác giả khác định nghĩa: - Hành vi là cách ứng xử của con người đối với một sự vật, sự kiện, hiện tượng trong một hoàn cảnh, tình huống cụ thể, được biểu hiện bằng lời nói, cử chỉ, hành động nhất định. - Hành vi là một phức hợp những hành động của con người xảy ra một cách thường xuyên có ý thức hoặc vô thức mà những hành động này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong cá nhân (gồm nhận thức) và bên ngoài (phong tục tập quán, thói quen, yếu tố di truyền, môi trường, xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị. Ví dụ: hành vi thực hiện các điều lệ về vệ sinh an toàn lao động; hành vi tôn trọng luật pháp). Nói cách khác, hành vi là những cách ứng xử hàng ngày đối với một sự việc, một hiện tượng, một ý kiến hay một quan điểm. Hành vi sức khỏe - Hành vi sức khỏe là những thuộc tính cá nhân như nhận thức, niềm tin, các hành động và thói quen của con người có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến sức khỏe của người đó và những người xung quanh. - Theo Gochman D.S (1988) định nghĩa: “Hành vi sức khỏe là những thuộc tính cá nhân như niềm tin, sự mong đợi, động lực thúc đẩy, giá trị, nhận thức và kinh nghiệm; các đặc điểm tính cách bao gồm tình cảm và cảm xúc, các loại hình hành vi, hành động và thói quen có liên quan tới sự duy trì, phục hồi và cải thiện sức khỏe”. - Khái niệm hành vi sức khỏe của Trung tâm Truyền thông GDSK – Bộ Y tế (2007): “Hành vi sức khỏe là những thói quen, việc làm hằng ngày ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến sức khỏe”. 2.2. Các thành phần của hành vi Mỗi hành vi của một người là sự biểu hiện cụ thể của các yếu tố cấu thành nên nó, đó là các kiến thức, niềm tin, thái độ và cách thực hành của người đó trong một tình huống hay trong một sự việc cụ thể nào đó. Hành vi = Kiến thức + Thái độ + Niềm tin + Thực hành (Behaviour) (Knowledge) (Attitute) (Belief) (Practice) 2.3. Các loại hành vi sức khỏe Theo ảnh hưởng của hành vi, hành vi sức khỏe có thể được phân thành 3 loại: Hành vi có lợi cho sức khỏe: Những hành vi lành mạnh được người dân thực hành để phòng chống bệnh tật, tai nạn, bảo vệ và nâng cao sức khỏe, hay các hành động mà một người thực hiện để làm cho họ hoặc những người khác khỏe mạnh và phòng các bệnh tật. Ví dụ: tập thể dục, dinh dưỡng hợp lý, thực hành vệ sinh môi trường, nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ ăn dặm đúng cách, giảm các hành vi tổn hại sức khỏe như hút thuốc lá, nuôi con bằng sữa chai, uống quá nhiều rượu. Hành vi sử dụng các dịch vụ y tế đúng như khám thai định kì, chăm sóc sức khoẻ trẻ theo hướng dẫn của thầy thuốc, tiêm chủng cho trẻ, kế hoạch hóa gia đình, thực hiện các chương trình khám sàng lọc bệnh…
17
Hành vi của những người ốm: nhận ra các triệu chứng sớm và tìm kiếm các các biện pháp chẩn đoán, điều trị đầy đủ, hợp lý, ví dụ như bù nước bằng đường uống khi bị tiêu chảy, uống thuốc đúng, đủ theo chỉ định của thầy thuốc… Hành vi có hại cho sức khỏe: Là các hành vi nguy cơ hoặc có tác động xấu đến sức khỏe do một cá nhân, một nhóm người hay có thể cả một cộng đồng thực hành. Một số hành vi có hại cho sức khỏe do cá nhân và cộng đồng thực hành đã lâu và có thể trở thành những thói quen, phong tục tập quán gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của nhiều người. Ví dụ hút thuốc lá, nghiện rượu, quan hệ tình dục bừa bãi; bói toán khi ốm đau; ăn uống không điều độ; dùng sữa đặc có đường thay thế sữa mẹ để nuôi trẻ sơ sinh. Hành vi trung gian: Bên cạnh những hành vi có lợi và có hại cho sức khỏe, chúng ta còn thấy một số cá nhân hay cộng đồng thực hành các hành vi không có lợi cũng không có hại cho sức khỏe hoặc chưa xác định rõ. Ví dụ như đeo vòng bạc ở cổ tay trẻ em để kỵ gió, gia đình có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Với các loại hành vi trung gian này tốt nhất là không nên tác động đến, trái lại có thể lợi dụng việc đeo vòng đó để hướng dẫn các bà mẹ theo dõi sự tăng trưởng của con mình. Trong GDSK, điều quan trọng nhất là tạo ra các hành vi lành mạnh ở trẻ em và làm thay đổi các hành vi có hại cho sức khỏe ở người lớn. Mục đích của TT-GDSK là giúp cho cá nhân và cộng đồng hiểu rõ hành và loại bỏ các hành vi có hại cho sức khỏe và thực hành các hành vi có lợi cho sức khỏe. Khuyến khích thực hành các hành vi lành mạnh có thể ngăn ngừa được nhiều bệnh như Bác sỹ Hiroshi Nakajima, tổng giám đốc Tổ chức Y tế thế giới đã phát biểu: “Chúng ta phải nhận thấy hầu hết các vấn đề sức khỏe chủ yếu của thế giới và những trường hợp chết non có thể phòng ngừa được qua những thay đổi về hành vi của con người với giá thấp. Chúng ta cần phải biết các kỹ thuật giải quyết như thế nào, nhưng các kỹ thuật đó phải biến thành hành động có hiệu quả tại cộng đồng” [10]. 3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới hành vi sức khỏe Con người vẫn khỏe mạnh hay ốm đau thường là kết quả của chính hành động hoặc hành vi của họ. Có nhiều lí do vì sao con người lại ứng xử như cách họ vẫn thường làm. Nếu chúng ta muốn GDSK để thúc đẩy cách sống lành mạnh thì chúng ta phải biết những nguyên nhân đằng sau hành vi gây ra. Trong mô hình lập kế hoạch tổng thể các tác giả Green và Kreuter (1980, 1991, 1999) đã phân ra ba nhóm yếu tố chính góp phần hình thành và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hành vi con người là: nhóm yếu tố tiền đề (predisposing factors), nhóm yếu tố củng cố (reinforcing factors) và nhóm yếu tố tạo điều kiện thuận lợi (enabling factors). Hành vi con người hình thành trong mối quan hệ giữa con người và xã hội.Vì vậy, các chương trình giáo dục nâng cao sức khỏe sẽ trở nên hiệu quả hơn khi có sự thay đổi tích cực của môi trường xã hội. Người ta đưa ra một mô hình “môi trường xã hội” để tìm hiểu và giải thích hành vi sức khỏe, tìm hiểu các yếu tố: cá nhân; các mối quan hệ cá nhân; môi trường học tập, làm việc; luật pháp và cộng đồng có thể hỗ trợ như thế nào trong việc hình thành và duy trì các hành vi có lợi hoặc có hại cho sức khỏe. 18
3.1. Yếu tố cá nhân Con người có những suy nghĩ và tình cảm khác nhau đối với cộng đồng mà họ đang sống. Những suy nghĩ và tình cảm này hình thành trên cơ sở kiến thức, niềm tin, thái độ, kỹ năng và giá trị của mỗi cá nhân và có liên quan đến sức khỏe. Nhóm yếu tố này giúp con người quyết định ứng xử bằng cách này hay cách khác đối với các sự việc diễn ra, hoặc cho ta những suy nghĩ, những cảm xúc với thế giới xung quanh. Kiến thức: Kiến thức phản ánh sự hiểu biết của con người về một vấn đề nhất định và được tích lũy dần trong suốt cuộc đời. Kiến thức được hình thành qua học tập, quan sát và kinh nghiệm. Bắt nguồn từ kinh nghiệm hoặc tiếp thu những thông tin từ thầy giáo, cha mẹ, bạn bè, sách vỡ, báo chí. Ví dụ: đứa trẻ đưa tay vào bếp lửa sẽ hiểu biết về nhiệt và đau. Kiến thức ấy sẽ ngăn đứa trẻ không lặp lại một hành động tương tự. Trẻ em có thể nhìn thấy một con vật nào đó chạy ngang qua đường và bị xe cán phải, từ sự việc này trẻ em học được rằng chạy ngang qua đường có thể nguy hiểm và cần phải cẩn thận khi đi qua đường. Trong GDSK, kiến thức là cần nhưng chưa đủ để thay đổi hành vi. Điều này không có nghĩa rằng kiến thức là không quan trọng trong việc thay đổi hành vi, nhưng chỉ kiến thức không thôi thì chưa đảm bảo là con người có thể thay đổi được những hành vi có hại cho sức khỏe. Lẽ dĩ nhiên khi con người chưa đủ kiến thức họ sẽ không thể nhận biết về tầm quan trọng của những vấn đề sức khỏe và không thể điều khiển được hành vi sức khỏe của họ. Niềm tin: Là sự chấp nhận hay tin tưởng một sự kiện cho là thật hoặc đúng trên cơ sở có hoặc không có kiến thức cũng như những bằng chứng cụ thể. Niềm tin của con người là một sự dẫn dắt tới hành vi. Những hành vi do ảnh hưởng của niềm tin không phụ thuộc trên những gì con người cho là đúng. Ví dụ, người ta biết rượu có thể làm ảnh hưởng đến khả năng lái xe, nhưng họ tin rằng khả năng lái xe của họ không bị rượu làm tổn hại. Các nhà quan sát đã phân loại niềm tin và cho rằng có những niềm tin có lợi cho sức khỏe, có những niềm tin có hại sức khỏe và có niềm tin không ảnh hưởng gì đến sức khỏe (đeo vòng bạc ở cổ tay để kỵ gió; nói “cơm cá” khi trẻ ách xì; hoặc nơi liệng răng sửa khi trẻ thay răng). Niềm tin thường do cha mẹ, ông bà hoặc những người có uy tín trong xã hội truyền cho và con người chấp nhận niềm tin với lòng tự giác, tự nguyện không bao giờ có ý định thử xem nó có đúng hay không. Niềm tin là một bộ phận của cách sống con người, được bảo tồn rất mạnh nên khó thay đổi. Vì vậy, quyết định thay đổi niềm tin không luôn luôn là giải pháp tối ưu, mà cần phải tìm hiểu các biện pháp khác. Do đó, người cán bộ y tế cần nghiên cứu kỹ niềm tin của mọi người, không phải niềm tin truyền thống nào cũng không tốt và cần thay đổi mà chỉ cố gắng thay đổi những niềm tin có hại, có ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Thái độ: Là một khuynh hướng suy nghĩ và cảm xúc của con người về một vấn đề gì đó biểu hiện bằng sự bằng lòng (thích) hoặc sự phản đối (không thích) đối với một 19
vấn đề nào đó. Có những loại thái độ như tích cực, tiêu cực, coi trọng, thờ ơ, coi thường… Thái độ thường bắt nguồn từ niềm tin, kinh nghiệm tích lũy trong cuộc sống, đồng thời thái độ cũng chịu ảnh hưởng bởi những người xung quanh. Những người sống gần chúng ta có thể làm cho chúng ta thay đổi suy nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề, mức độ quan tâm đến vấn đề, từ đó dẫn đến thay đổi thái độ. Thái độ rất quan trọng vì thái độ quyết định phản ứng của con người với những kiến thức mới hoặc những phương pháp thực hành mới.Ví dụ một thanh niên có niềm tin rằng hút thuốc lá là một hành động để làm người lớn. Niềm tin này dẫn đến một thái độ chấp nhận hút thuốc lá để được làm người lớn. Một người không thích mang con đến trạm y tế khám bệnh vì không thích thái độ phục vụ của nhân viên y tế do chị ta đã từng bị gắt mắng. Vì vậy, cần phân tích rõ tại sao mọi người lại có thái độ nhất định đối với các hành vi sức khỏe để có tác động phù hợp nhằm làm chuyển đổi. Trong lĩnh vực GDSK cần quan tâm đến thái độ của đối tượng đến các vấn đề sức khỏe, các thói quen, phong tục tập quán ảnh hưởng đến sức khỏe cá nhân, cộng đồng. Kỹ năng: Là biểu lộ khả năng của một người làm hoặc xử lý tốt một việc gì nhờ tài năng bẩm sinh cộng với việc được đào tạo hoặc thực hành. Kỹ năng và kiến thức có mối quan hệ chặt chẽ mà trong đó kỹ năng đã ứng dụng thực hành của kiến thức. Ví dụ khi con người hiểu được rằng cần làm gì, ăn thức ăn gì hoặc tập bài thể dục gì thì ắt hẳn họ có thể xây dựng cho mình những kỹ năng trong việc thực hiện những hành vi này. Giá trị: Là những ý tưởng, những lý tưởng, thói quen xuất phát từ một đáp ứng thuộc về tình cảm. Giá trị có quan hệ với thái độ và vì vậy liên quan tới hành vi. Ví dụ một người đàn ông biểu hiện giá trị của ông ta đối với gia đình trong những thái độ tích cực hướng về gia đình và quan tâm tới các thành viên trong gia đình. Phát hiện và phân tích các giá trị trong cộng đồng góp phần thúc đẩy thành công GDSK. Giá trị bao gồm giá trị phi vật chất và giá trị vật chất. Một số phong tục tập quán, nền văn hóa có giá trị cao trong xã hội. Một số hành vi làm giảm giá trị cuộc sống ví dụ như: tính lười nhác, ích kỷ, thiếu trung thực v.v... làm giảm giá trị đạo đức. Những giá trị có lợi cho cá nhân và xã hội được hiểu như là các giá trị tích cực và những giá trị có hại là những giá trị tiêu cực. Giáo dục sức khỏe nhằm vào phát hiện và phân tích các giá trị trong xã hội, đưa những tư tưởng mới để duy trì và phát triển các giá trị chung, đồng thời phải tính đến những giá trị về văn hoá tín ngưỡng riêng của từng cộng đồng, tránh sự đối kháng với các giá trị của cộng đồng. 3.2. Các mối quan hệ cá nhân Ảnh hưởng của những người quan trọng là nguyên nhân thứ hai tác động đến hành vi. Khi một người nào đó đối với chúng ta là quan trọng, chúng ta thường lắng nghe người ấy nói và cố gắng làm những điều người ấy làm. Trong số những người quan trọng đó là những người trong gia đình (ông bà, cha mẹ, chồng vợ), những người lãnh đạo, thầy giáo, bạn bè, đồng nghiệp,… và họ có ảnh hưởng rất lớn đến các hành 20
vi sức khỏe. Gia đình là nơi bắt nguồn của rất nhiều hành vi sức khỏe, đặc biệt là các thói quen học được khi còn là một đứa trẻ. Ví dụ: đánh răng, tập thể dục, cách ăn uống. Nhiều đề tài nghiên cứu về hành vi hút thuốc đã chỉ ra những trẻ em trong gia đình có cha mẹ hút thuốc có nhiều khả năng sẽ hút thuốc hơn các trẻ em có cha mẹ không hút thuốc. Ở trường, giáo viên có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với học sinh, nhất là ở lứa tuổi càng nhỏ thì học sinh càng ảnh hưởng bởi các hành vi của thầy cô giáo. Nếu học sinh nhìn thấy thầy giáo rửa tay trước khi ăn chúng có thể bắt chước hành vi này của thầy giáo không có gì khó khăn. Mọi người đều thích có bạn bè và trong nhóm bạn bè chúng ta có thể dễ thấy những hành vi ứng xử của họ tương tự như nhau. Trong nhóm trẻ em vị thành niên thân thiết với nhau, nếu có một em hút thuốc lá, các em khác có thể sẽ hút thuốc lá theo. Như vậy hành vi của cá nhân chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những người sống xung quanh ta. 3.3. Môi trường học tập, làm việc Môi trường học tập, làm việc là rất quan trọng bởi vì mọi người dành ra ít nhất một phần ba thời gian trong ngày ở nơi làm việc hoặc ở trường để học tập. Vì vậy môi trường này ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe và các hành vi bảo vệ sức khỏe hoặc hành vi có hại cho sức khỏe. Ở nơi làm việc, người lao động có thể bị tiếp xúc với các hóa chất độc hại hoặc làm việc trong môi trường có nguy cơ tai nạn hoặc chấn thương, hoặc do áp lực công việc có khả năng bị căng thẳng (stress). Ngược lại, nơi làm việc có thể tạo ra một môi trường hỗ trợ cho việc thay đổi các hành vi có hại thành hành vi có lợi cho sức khỏe. Tại trường học, nơi làm việc có nhà ăn tập thể cung cấp các bữa ăn có đủ chất dinh dưỡng, đồng thời cung cấp thông tin, hướng dẫn các vấn đề về dinh dưỡng cho cán bộ, sinh viên, học sinh; xây dựng các phòng tập thể thao, giải trí cho người lao động hoặc sinh viên…Vì vậy, trường học và cơ quan làm việc là những nơi lý tưởng để thực hiện các chương trình giáo dục nâng cao sức khỏe và các chương trình y tế công cộng khác. 3.4. Yếu tố luật pháp Yếu tố về môi trường luật pháp như các qui định, luật pháp có tác động mạnh đế hành vi cá nhân. Các luật, qui định của luật pháp có thể giới hạn hoặc nghiêm cấm một số hành vi nguy hại cho sức khỏe. Trong môi trường luật pháp con người khó có thể thực hiện những hành vi được coi là không có lợi cho sức khỏe và chính điều này tạo điều kiện cho họ thực hiện và duy trì bền vững hành vi có lợi cho sức khỏe của chính họ và cộng đồng. Ví dụ: quy định đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, đeo dây bảo hiểm khi lái xe ô tô: quy định không hút thuốc lá ở nơi công cộng, không xả rác bừa bãi, xử phạt khi cá nhân bị vi phạm... 3.5. Yếu tố cộng đồng Cộng đồng có thể ảnh hưởng lớn đến hành vi sức khỏe. Yếu tố cộng đồng bao gồm các mối quan hệ xã hội, phong tục, tập quán, văn hóa và truyền thống tồn tại trong các nhóm, tổ chức và cá nhân trong cộng đồng. Văn hóa được thể hiện trong cách sống hàng ngày của các thành viên xã hội, văn hóa là "cách sống” (theo định nghĩa của tác giả Otto Klin Berg). Mỗi nền văn hóa đại diện cho một phương thức mà cộng đồng tìm ra để chung sống cùng nhau 21
trong môi trường của họ.Vì thế trước khi tiến hành công việc chúng ta phải nghiên cứu càng kỹ càng tốt về nguyên nhân của các hành vi của người dân trong cộng đồng, những đặc trưng của văn hoá cộng đồng, điều này sẽ giúp chúng ta được cộng đồng chấp nhận và tiến hành công việc thuận lợi. Sự phối hợp của các tổ chức xã hội cùng nhau thực hiện các chương trình giáo dục nâng cao sức khỏe trong cộng đồng sẽ tạo ra môi trường hỗ trợ hiệu quả cho việc thực hiện hành vi có lợi cho sức khỏe. Vi dụ: Chương trình Dân số- kế hoạch hóa gia đình có sự phối hợp chặt chẽ giữa hội phụ nữ và cộng tác viên dân số xã sẽ giúp nhiều phụ nữ có cơ hội được thực hiện các biện pháp tránh thai. Tóm lại, có nhiều lí do vì sao con người lại ứng xử như họ vẫn thường làm. Vì vậy, cần phải tìm hiểu kỹ những nguyên nhân của các hành vi chúng ta mới có thể có khả năng đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm góp phần giải quyết những vấn đề có liên quan đến sức khỏe của cá nhân hay cộng đồng. 4. Một số lý thuyết, mô hình về hành vi cá nhân Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi nói chung và hành vi sức khỏe nói riêng. Loại yếu tố và cách thức ảnh hưởng đến hành vi thay đổi tùy thuộc vào nhóm đối tượng và hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của đối tượng. Ngành tâm lý học đã đóng góp để giải thích về hành vi sức khỏe bằng nhiều lý thuyết và mô hình. Mô hình giải thích về hành vi là sự đúc kết các loại yếu tố và cách thức các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sức khỏe ứng với một hoàn cảnh nhất định nào đó. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình giải thích về hành vi và hành vi sức khỏe. Tuy nhiên những mô hình sau đây được coi là kinh điển và làm nền tảng cho các phân tích về hành vi cũng như các biện pháp can thiệp đến hành vi. 4.1. Mô hình Niềm tin Sức khỏe (Health Belief Model) Mô hình Niềm tin sức khỏe được phát triển bởi Rosenstock (1966) và Becker hiệu chỉnh (1974), là một trong những nỗ lực nhằm giải thích các hành vi sức khỏe. Ðây là một mô hình thuộc trường phái Tâm lý học nhận thức (Cognitive Psychology) với quan niệm các quá trình nhận thức của con người đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hành vi. Mô hình Niềm tin sức khỏe là mô hình được xây dựng sớm nhất từ những thập niên 50 sau các nghiên cứu về hành vi phòng tránh bệnh cụ thể là các hành vi sử dụng các dịch vụ y tế công cộng như Chụp X-quang phổi để định bệnh và điều trị lao miễn phí. Theo mô hình này con người quyết định thực hiện một hành vi sức khỏe hay không tùy thuộc vào nhận thức về hai nhóm yếu tố: - Thứ nhất là nhận thức về mối đe dọa của bệnh tật đối với bản thân: thể hiện ở các khía cạnh: nhận thức về mức độ trầm trọng của bệnh, về mức độ cảm nhiễm bệnh và cuối cùng là các nhắc nhở (cues) dưới nhiều hình thức như: nhắc nhở của y tế, lời khuyên bảo của người thân, bệnh tật của người thân trong gia đình hay bạn bè, tác động của truyền thông đại chúng. - Thứ hai là nhận thức về những lợi ích của các hành động dự phòng và các trở ngại trong việc thực hiện hành vi.
22
Theo mô hình này, một cá thể sẽ có nhiều khả năng thực hiện hành động hoặc dự phòng bệnh tật hoặc điều trị một bệnh nào đó khi bản thân cá thể này nhận thức được khả năng dễ mắc bệnh, nhận thức về tính nghiêm trọng của vấn đề sức khỏe và nhận thức sẽ có nhiều lợi ích hơn so với những trở ngại có thể gặp phải khi thực hiện hành vi phòng bệnh hay điều trị bệnh. Trong lĩnh vực sức khỏe, mô hình Niềm tin sức khỏe dẫn đến một cách tiếp cận giáo dục sức khỏe dựa trên việc thông tin về mối đe dọa của bệnh và phân tích những lợi ích và những trở ngại trong việc thực hiện hành vi kết hợp việc thường xuyên nhắc nhở. Hoàn cảnh áp dụng: Dành cho đối tượng có trình độ học vấn khá, có khả năng suy nghĩ, lý luận. 4.2. Lý thuyết về Hành động có lý do (Reasoned Action Theory) Lý thuyết về hành động có lý do được phát triển bởi Ajzen và Fishbein (1980). Theo Lý thuyết về Hành động có lý do thì đại đa số hành vi của con người là có dự định trước. Cũng theo lý thuyết này thì dự định bản thân nó lại do nhiều yếu tố ảnh hưởng mà đơn giản nhất là Thái độ đối với hành vi và Chuẩn mực chủ quan. Ðối tượng càng có thái độ tích cực đối với hành vi và chuẩn mực chủ quan phù hợp thì càng có nhiều khả năng thực hiện hành vi trong tương lai. Thái độ đối với hành vi cụ thể được cấu thành bởi 2 yếu tố: Niềm tin rằng hành vi dẫn đến một kết quả nào đó (có thể có lợi hoặc có hại) và sự Ðánh giá kết quả đối với bản thân. Chuẩn mực chủ quan hay cảm nhận chủ quan của một người rằng họ nên hay không nên thực hiện một hành vi bắt nguồn từ các chuẩn mực xã hội khách quan. Chuẩn mực chủ quan được cấu thành bởi 2 yếu tố: Niềm tin rằng một người nào đó trong xã hội muốn đối tượng thực hiện hành vi và Ðộng cơ thúc đẩy đối tượng làm theo ý muốn của người đó (uy tín, ảnh hưởng của người đó đối với đối tượng). Dựa vào lý thuyết này, ta có thể lượng giá khả năng xảy ra của một hành vi trong tương lai bằng cách hỏi về 4 yếu tố cấu thành này. Ví dụ: để lượng giá về hành vi chích huyết thanh kháng uốn ván khi đạp đinh, ta có thể hỏi các câu hỏi: - Khi bị tai nan gây nên vết thương và sau khi săn sóc vết thương tại chỗ ta cần phải làm gì ? (Hỏi về hành vi) - Bạn nghĩ làm việc đó có lợi ích hay không và nếu có thì ở mức độ nào đối với bạn? Không lợi gì/Lợi ít/Lợi vừa/Lợi nhiều (Hỏi về niềm tin về lợi ích của hành vi kết hợp với đánh giá kết quả đối với bản thân) - Bạn biết về thông tin này từ ai? (Hỏi về nguồn thông tin) - Bạn tin tưởng người này đến mức độ nào? Không tin/Tin ít/Tin vừa/Tin nhiều. Hoàn cảnh áp dụng: Mô hình này đặc biệt hữu ích trong việc dự báo chiều hướng phát triển của hành vi cũng như để lượng giá những hành vi xảy ra có điều kiện. Ngoài ra nó cũng hữu ích đối với những đối tượng đã có những định kiến, thói quen
23
hoặc tập quán lâu đời về những hành vi có hại cho sức khỏe vì mô hình này đặc biệt quan tâm đến áp lực xã hội trong việc tác động đến hành vi. 4.3. Mô hình Triandis Ðây là mô hình mở rộng của mô hình Niềm tin Sức khỏe. Theo mô hình này, hành vi đại đa số trường hợp xuất phát từ ý định (intention) còn ý định là kết quả của 2 nhóm yếu tố: - Cảm xúc tình cảm (affective factors) gọi đơn giản là Tình - Nhận thức (cognitive factors) gọi đơn giản là Lý. Tình ở đây là những cảm xúc, tình cảm thúc đẩy hoặc cản trở ý định thực hiện hành vi. Ví dụ một bệnh nhân lao dù yếu mệt, chịu đựng tác dụng phụ của thuốc nhưng vì cái tình đối với sự ân cần, quan tâm của nhân viên y tế đã cố gắng đến trạm y tế để đưọc tiêm chích và uống thuốc. Lý ở đây được chia thành 2 nhóm tạm gọi là Lý bên trong và Lý bên ngoài: - Lý bên trong hay là sự suy xét, cân nhắc lợi hại (perceived consequences) cũng là nhóm yếu tố quan trọng. Nhận thức về kết quả của hành vi bao gồm cả lợi và bất lợi có thể có được do kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm tiếp xúc hoặc kiến thức. Ví dụ, nhận thức về kết quả của việc tập thể dục có thể có sau một số lần tập cảm thấy sảng khoái, cũng có thể do hiểu biết rằng tập thể dục sẽ giúp tim, phổi làm việc tốt hơn dẫn đến tăng cường sức khỏe. Cũng nên nhấn mạnh rằng đây là kết quả mà mỗi cá nhân nhận thức được. AIDS với kết quả là cái chết có thể được nhận thức rất khác nhau. Ðối với người có gia đình hạnh phúc trọng lượng của cái chết sẽ rất khác với một người nghiện ma túy bị gia đình ruồng bỏ, sống tứ cố vô thân không có ngày mai. Nhận thức về kết quả này lại có thể thay đổi theo thời gian khi kinh nghiệm sống nhiều hơn, nhận thức đầy đủ hơn. - Lý bên ngoài hay Yếu tố Xã hội chủ quan (Subjective social factors) là cảm nhận chủ quan của một người rằng họ nên hay không nên thực hiện hành vi, bắt nguồn từ yếu tố xã hội khách quan. Ðó có thể là những chuẩn mực (norms) của xã hội (ví dụ người lớn tuổi thì không được ăn mặc lố lăng) hoặc của nhóm (ví dụ trong nhóm phụ nữ tiến bộ có chuẩn mực chỉ sinh từ 1-2 con). Cũng có thể đó là những niềm tin (beliefs) phổ biến trong cộng đồng, trong nhóm đã được nhập tâm (internalized) ví dụ trẻ bị sởi phải cử ăn. Ngoài ra có thể là những giá trị (values) ví dụ "Sức khỏe là vàng", Công, Dung, Ngôn, Hạnh ở phụ nữ; vai trò (roles) ví dụ cha mẹ phải chăm lo cho con cái, con cái phải vâng lời cha mẹ... Cũng nên nhắc đến một câu nói của Durkheim: “Các chuẩn mực xã hội điều tiết hành vi của các cá nhân thông qua những giá trị mà cá nhân đã nội tâm hóa, chứ không tác động lên cá nhân như những hình thức cưỡng chế bên ngoài.” Phân tích về các yếu tố tác động đến Muốn có lợi trong việc tiếp cận giáo dục sức khỏe: - Tác động vào Tình đòi hỏi một thái độ đúng, một quan hệ có tình hơn là một quan hệ kẻ cao người thấp hoặc đổi chác. - Tác động vào cái Lý bên ngoài đòi hỏi ta phải khơi dậy và liên hệ những yếu tố xã hội chủ quan sẵn có với những hành vi sức khỏe ta muốn nhắm đến (ví dụ như 24
vận động người cha không hút thuốc trong gia đình để tránh cho con cái khỏi sự hút thuốc thụ động, làm tròn vai trò người cha). Thêm vào đó ta lưu ý không chỉ tác động đến một cá nhân mà cả một nhóm, một cộng đồng nhằm tạo ra những chuẩn mực, những giá trị phổ biến của cộng đồng có liên quan. - Tác động vào cái Lý bên trong đòi hỏi một kỹ năng truyền thông tốt, cách tiếp cận chia sẻ, thảo luận, giúp nhận thức đầy đủ hơn về lợi, hại dựa trên cách suy nghĩ của chính từng cá nhân. Nên chú ý rằng không ai giống ai, mỗi người có những tính cách, nhận thức, văn hóa khác nhau đòi hỏi ở người giáo dục viên một sự thấu cảm và hiểu để có thể đạt được cách tiếp cận, nội dung truyền thông thích hợp nhất. Bước chuyển tiếp từ Ý định đến Hành vi cũng rất quan trọng đòi hỏi nhiều điều kiện hỗ trợ cần thiết như: + Ðiều kiện bên trong: - Tình trạng thể chất - Trạng thái cảm xúc: căng thẳng, vui, buồn... - Xu hướng, động cơ, ý chí, nhận thức về khả năng của bản thân (self efficacy)… + Ðiều kiện bên ngoài: - Nguồn lực: tài lực (tiền), vật lực (phương tiện), nhân lực, thời gian. - Ðiều kiện tự nhiên: môi trường sinh thái. - Ðiều kiện xã hội: môi trường pháp lý, văn hóa. Việc tạo những điều kiện bên ngoài thuận lợi để biến Ý định thành Hành động chính là một phần trong hoạt động Nâng cao sức khỏe (Health Promotion). Môi trường xã hội
YẾU TỐ BÊN NGOÀI Kiến thức
Yếu tố xã hội chủ quan
Kinh nghiệm
Suy xét lợi hại
YẾU TỐ BÊN TRONG
Cảm xúc tình cảm
Bản năng Ý định
Thói quen
Trạng thái cơ thể, ý chí Nguồn lực, môi trường (tự nhiên, xã hội) Hành vi
Sơ đồ 5: Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi (Mô hình Triandis đã đơn giản hóa)
25
Hoàn cảnh áp dụng: Đây là một mô hình mang tính tổng hợp nên phạm vi ứng dụng của nó rất rộng. Tùy từng loại hành vi và nhóm đối tượng mà ta có thể đi sâu tác động vào từng nhóm yếu tố chuyên biệt, khi đó có thể phối hợp thêm với các mô hình khác. 4.4. Mô hình phân tích hành vi - BASNEF Dưới đây là một trong số những mô hình “BASNEF”, một mô hình tổng hợp được trình bày. Mặc dù đây là sự đơn giản hóa của một thực tiễn phức tạp, mô hình này được trình bày bởi vì nó giúp chúng ta xem xét hành vi và những bước trong việc ra quyết định về giáo dục y tế. Mô hình về khuynh hướng hành vi và yếu tố có thể tác động đến thay đổi hành vi. Mô hình BASNEF là chữ viết tắt của niềm tin (Believe), thái độ (Attitude), chuẩn mực của chủ thể (Subjective Norm) và yếu tố cho phép (Enabling Factor), là những yếu tố được cho là ảnh hưởng đến hành vi cá nhân. Mô hình BASNEF được tóm tắt theo sơ đồ sau: LÒNG TIN Niềm tin về kết quả/hậu quả của một hành vi
THÁI ĐỘ Đánh giá về hành vi dựa theo lòng tin
THAY ĐỔI HÀNH VI
Ý ĐỊNH VỀ HÀNH VI CHUẨN MỰC CỦA CHỦ THỂ Niềm tin về những người khác có muốn mgười đó thay đổi hành vi và sự ảnh hưởng của những người khác
YẾU TỐ CHO PHÉP (Thời gian, kỹ năng, phương tiện, )
Sơ đồ 6: Mô hình BASNEF và sự thay đổi hành vi 5. Quá trình thay đổi hành vi 5.1. Sự thay đổi hành vi Trong mọi cộng đồng, có rất nhiều hành vi góp phần tăng cường sức khỏe, phòng ốm đau, bệnh tật, tai nạn và điều trị, phục hồi sức khỏe cho những người ốm. Những hành vi này cần được phát hiện và khuyến khích mọi người làm theo. 26
Đồng thời trong cộng đồng cũng tồn tại các hành vi có hại cho sức khỏe, vì hậu quả có hại cho sức khỏe nên người dân có thể tự từ bỏ. Nhưng cũng có nhiều lý do như niềm tin, thói quen, phong tục tập quán, …dẫn đến các hành vi có hại cho sức khỏe vẫn duy trì trong cộng đồng. Việc thay đổi hành vi sức khỏe không giống nhau đối với những cá nhân khác nhau. Có những người luôn sẵn sàng thay đổi hành vi của mình khi họ cảm nhận sự không phù hợp trong cách làm của mình, trong khi đó có những người không muốn hoặc không có khả năng thay đổi hành vi của mình hoặc thay đổi rất chậm. Sự thay đổi hành vi thường xảy ra theo 2 hướng: Thay đổi tự nhiên: Trong cuộc sống, hành vi của chúng ta luôn luôn thay đổi và hành vi có thể thay đổi theo một cách tự nhiên. Thay đổi này là do các sự việc tự nhiên, khách quan. Khi có những thay đổi xảy ra trong cộng đồng xung quanh chúng ta thì chúng ta cũng tự thay đổi mà không cần suy nghĩ nhiều về những thay đổi. Đó là sự thay đổi tự nhiên. Ví dụ: - Mùa hè chúng ta thường mặc quần áo mỏng vì thời thiết nóng, nhưng mùa đông chúng ta phải mặc quần áo dầy, ấm để chống lạnh. - Thường các bà mẹ trong một xóm đưa con đến điểm tiêm chủng gần nhất để tiêm nhưng lần này vì trời mưa to đường đến điểm tiêm chủng gần bị ngập nước nên các bà mẹ phải đưa con đến điểm tiêm chủng xa hơn. Thay đổi theo kế hoạch: Được diễn ra sau khi đã được con người suy tính và lên kế hoạch để làm nhằm mục đích cải thiện cuộc sống. Ví dụ: Một người nghiện thuốc lá nặng, nhưng gần đây anh ta bị ho nhiều, anh đã quyết định sẽ bỏ thuốc lá và anh đã lập kế hoạch bỏ thuốc lá trong một số tuần và bắt đầu chuẩn bị kế hoạch để thực hiện bỏ thuốc. Như đã đề cập ở trên, mục tiêu của giáo dục sức khỏe là giúp mọi người nhận ra và loại bỏ các hành vi có hại cho sức khỏe và tạo ra những hành vi nhằm tăng cường sức khỏe cho mọi người. Có 3 cách có thể sử dụng nhằm làm cho mọi người thay đổi hành vi sức khỏe như sau: - Dùng sức ép buộc mọi người phải thay đổi hành vi sức khỏe. - Cung cấp những thông tin và ý tưởng với hy vọng là mọi người sẽ sử dụng để thay đổi hành vi nhằm tăng cường sức khỏe. - Gặp gỡ mọi người thảo luận vấn đề và tạo ra sự quan tâm hứng thú của họ tham gia vào sự lựa chọn cách tốt nhất để giải quyết vấn đề sức khỏe của họ. Trong 3 cách trên, cách thứ nhất sử dụng trong giáo dục sức khỏe thường không đem lại kết quả hoặc nếu có chỉ là nhất thời không bền vững. Cách thứ hai có thể đem lại kết quả nhưng thấp. Người làm giáo dục sức khỏe khôn khéo nhất là sử dụng cách thứ ba sẽ đem lại hiệu quả cao, kết quả lâu bền. 5.2. Các bước của quá trình thay đổi hành vi Nghiên cứu quá trình thay đổi hành vi người ta thấy rằng hành vi con người có thể thay đổi được, khi thì nhanh, khi thì chậm và do nhiều lí do. Để một cá 27
nhân, một cộng đồng chấp nhận một tư tưởng, một thái độ và một hành vi mới đòi hỏi một thời gian và quá trình thay đổi trải qua một trình tự các bước nhất định. Sau đây là các bước của quá trình thay đổi hành vi: Bƣớc 1: Nhận ra vấn đề Là bước đầu tiên làm cho đối tượng nhận ra được vấn đề gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của họ và cần phải thay đổi. Để thay đổi cách nhìn của đối tượng về hành vi sức khỏe, người cán bộ y tế cần cung cấp thông tin cơ bản (kiến thức); phân tích được cái bất lợi của hành vi cũ và cái lợi của hành vi mới. Bước này có thể thực hiện bằng cách sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, nếu cần có thể gặp gỡ trực tiếp đối tượng để cung cấp thông tin, giải thích bằng các ví dụ minh họa giúp đối tượng hiểu được vấn đề của chính họ, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các bước sau của quá trình thay đổi hành vi. Sẽ rất khó để thay đổi hành vi nếu như cá nhân, cộng đồng chưa đủ kiến thức để nhận ra vấn đề hay nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của họ. Bƣớc 2: Quan tâm đến hành vi mới Khi đối tượng đã có kiến thức, nhận ra vấn đề sức khỏe của họ cũng như đã thấy được những lợi ích thực tiễn của việc thay đổi hành vi thì cần làm cho họ có thái độ tích cực hay quan tâm đến hành vi mới. Ví dụ: làm cho cộng đồng nhận ra bệnh tiêu chảy là bệnh nguy hiểm đối với trẻ em dưới 5 tuổi và làm cho họ tin là nếu họ duy trì các hành vi thiếu vệ sinh thì trẻ em sẽ tiếp tục bị tiêu chảy và ảnh hưởng đến phát triển cả thể lực và trí tuệ của trẻ,... Ở bước này, người cán bộ y tế cần thực hiện các hoạt động giáo dục sức khỏe trực tiếp để bổ sung thêm kiến thức, kỹ năng cho đối tượng; nêu gương người tốt việc tốt; khuyến khích, khơi dậy đối tượng trong việc hướng đến thực hành các hành vi mới. Bƣớc 3: Áp dụng thử nghiệm các hành vi mới Nhờ có đủ kiến thức và thái độ quan tâm đến hành vi mới, cùng với môi trường hỗ trợ thuận lợi, đối tượng có thể áp dụng thử các hành vi mới. Giai đoạn này, đối tượng khi thực hiện hành động có thể gặp khó khăn, rất cần sự hỗ trợ của cán bộ y tế, cán bộ truyền thông GDSK và những người xung quanh về tinh thần, cũng như về vật chất, cùng với các hướng dẫn kỹ năng thực hành nhất định. Bƣớc 4: Đánh giá kết quả thử nghiệm hành vi mới Sau khi áp dụng các hành vi mới đối tượng tự đánh giá kết quả thu được, trong đó có những khó khăn, thuận lợi khi thực hiện hành vi mới và lợi ích từ việc thực hiện hành vi mới. Tuy nhiên, có đối tượng có thể không thấy rõ được kết quả của thực hiện hành vi mới mang lại. Lúc này, nhiệm vụ của cán bộ y tế, cán bộ truyền thông GDSK là thảo luận, phân tích để giúp đối tượng thấy rõ các kết quả đã đạt được và tác động có lợi của hành vi mới đến sức khỏe. 28
Bƣớc 5: Khẳng định Khi phân tích kết quả đạt được của việc thử nghiệm hành vi mới, đối tượng sẽ đi đến quyết định duy trì hành vi mới hay từ chối. Nếu đối tượng thu được kết quả tốt, không có khó khăn gì đặc biệt và được ủng hộ thì họ tiếp tục duy trì hành vi mới. Nếu đối tượng chưa thấy được kết quả của hành vi mới và gặp khó khăn khi thực hiện, thiếu sự hỗ trợ từ bên ngoài thì họ có thể chưa chấp nhận hành vi mới. Với những trường hợp này, cán bộ truyền thông GDSK lại phải tiếp tục có kế hoạch GDSK và biện pháp hỗ trợ thích hợp để đối tượng thực hành lại và khẳng định duy trì hành vi mới. Ở những giai đoạn khác nhau của quá trình thay đổi hành vi sẽ có những tác động hỗ trợ khác nhau. Như vậy, người làm công tác GDSK cần hiểu sâu sắc trình tự các bước thay đổi hành vi của đối tượng để có những can thiệp phù hợp, hiệu quả giúp cho người dân thay đổi và duy trì hành vi mới có lợi cho sức khỏe. Các biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các lý do ảnh hưởng hành vi được tóm tắt trong bảng dưới đây: Các biện pháp hỗ trợ phù hợp trong quá trình thay đổi hành vi Vấn đề
Hoạt động cần thiết
Phƣơng pháp
Thiếu hiểu biết
Cung cấp thông tin
Nói chuyện SK, tư vấn, loa, áp phích,…
Thiếu kỹ năng
Huấn luyện
Trình diễn, hướng dẫn
Thiếu niềm tin
Hỗ trợ thuyết phục
Tư vấn, thảo luận nhóm
Thiếu nguồn lực
Phát triển nguồn lực
Khảo sát cộng đồng, liên kết ban ngành
Mâu thuẫn với các Giải thích rõ các Đóng vai, kể chuyện, trò chuẩn mực chuẩn mực chơi, tư vấn Khi các đối tượng được giáo dục từ chối việc thực hiện các hành vi mới có lợi cho sức khỏe thì người giáo dục sức khỏe phải tìm ra nguyên nhân tại sao, đó là vấn đề kiến thức, thái độ hay thiếu kỹ năng thực hành, thiếu sự hỗ trợ... để tiến hành điều chỉnh các hình thức giáo dục thích hợp. Thường trong một cộng đồng bao giờ cũng có các loại người khác nhau đối với việc tiếp nhận các kiến thức mới, ta có thể phân nhóm như sau [10]: Nhóm l: nhóm người khởi xưởng đối mới. Nhóm này khoảng 2,5% theo tác giả Roger 1983 (Đổi mới - quá trình quyết định). Nhóm 2: Nhóm những người chấp nhận những tư tưởng hành vi lành mạnh sớm. Nhóm này khoảng 13,5%. Họ là những người tiên phong gương mẫu. Họ được gọi là những người “lãnh đạo dư luận”, họ có thể có thẩm quyền không chính thức 29
(vì họ không phải thường xuyên là những người lãnh đạo cộng đồng, nhưng họ có uy tín và được những người khác đến xin ý kiến giúp đỡ. Nhóm này thường có trình độ văn hóa cao hiểu biết rộng, quan hệ rộng. Vì vậy họ có vai trò quan trọng trong cộng đồng. Nhóm 3: Nhóm đa số chấp nhận thay đổi sớm. Nhóm này thường chấp nhận những tư tưởng hành vi mới tiếp theo nhóm 2, thường chịu ảnh hưởng sớm của nhóm 1 và nhóm 2. Nhóm này chiếm khoảng 34%. Nhóm 4: Nhóm đa số chấp nhận sự thay đổi muộn. Nhóm này cũng khoảng 34%, sự chấp nhận hành vi thay đổi, muộn hơn nhưng số người trong nhóm này cũng khá đông, tương đương với nhóm 3, nhóm này chịu ảnh hưởng nhiều của nhóm 3. Nhóm 5: N hóm chậm chạp bảo thủ lạc hậu.Nhóm này chiếm 16%. Tác động vào nhóm này thường rất khó khăn, ít hiệu quả nên phải hết sức kiên trì và dùng các giải pháp thích hợp để cho nhóm này khỏi gây ảnh hưởng xấu đến các nhóm khác vì nhóm này thường có xu hướng chống đối với các tư tưởng đổi mới, tiến bộ và cố gắng để lôi kéo những người khác làm theo họ. Khi tiến hành truyền bá một tư tưởng, một hành vi sức khỏe mới cần chú ý phát hiện và phân loại đối tượng trong cộng đồng để tác động. Tìm ra nhóm những người “lãnh đạo dư luận” có ý nghĩa to lớn trong giáo dục sức khỏe vì họ là hạt nhân sự đổi mới. Chúng ta thường thấy họ là những người có vai trò chủ chốt trong cộng đồng và góp phần quan trọng cho sự thành công của chiến dịch giáo dục một tư tưởng mới, một hành vi lành mạnh. Họ là những người cần tác động trước tiên và thông qua họ sẽ tác động đến các đối tượng khác trong cộng đồng. Như vậy có thể nhận thấy rằng: Thay đổi hành vi sức khoẻ là một quá trình rất phức tạp, đòi hỏi nhiều nỗ lực của chính bản thân đối tượng và sự giúp đỡ tận tình của cán bộ truyền thông giáo dục sức khỏe cũng như của những người khác trong cộng đồng. Trong các chương trình giáo dục sức khỏe thông thường chúng ta mới chỉ giúp đỡ đối tượng chuyển biến đến bước 2 (thuộc về quá trình nhận thức cảm tính), chứ chưa giúp đỡ họ vượt qua bước 3 chuyển tiếp) và hoàn thành các bước 4 và 5 (thuộc nhận thức lý tính) nên kết quả truyền thông giáo dục còn bị hạn chế và hiệu quả chưa cao. Muốn thay đổi được triệt để một hành vi cá nhân phải thể nghiệm đầy đủ 5 bước đó nhiều lần chứ không chỉ một lần là có thể đạt kết quả mong muốn ngay được, do đó phải coi giáo dục bản thân mỗi cá nhân bằng những kinh nghiệm của chính họ là điều quyết định mọi kết quả bền vững. Sức khỏe là một quá trình tự giáo dục bản thân mỗi cá nhân bằng những kinh nghiệm của chính họ là điều quyết định mọi kết quả bền vững. 6. Vai trò của ngƣời làm công tác GDSK Mục đích của giáo dục sức khoẻ là giúp mọi người giải quyết vấn đề của họ bằng sự cố gắng của chính họ. Vai trò của người làm công tác GDSK là giúp đỡ các thành viên của cộng đồng nhận ra được những gì họ có thể làm để tự mình giúp mình và dạy cho họ những kỹ năng cần thiết để thực hiện điều đó.
30
Để đạt được điều đó nhân viên GDSK cần phải: 1. Nói chuyện với mọi người và lắng nghe những vấn đề của họ. 2. Suy nghĩ về những hành vi hay hành động có thể gây ra chữa khỏi và ngăn ngừa được những vấn đề này. 3. Tìm hiểu nguyên nhân của hành vi mọi người (niềm tin, kiến thức, ảnh hưởng của những người xung quanh, thiếu tiền,...) 4. Giúp mọi người tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề. 5. Đề nghị mọi người phát biểu ý kiến về cách giải quyết vấn đề của họ. 6. Động viên và giúp họ nhận ra cách giải quyết thích hợp nhất với hoàn cảnh của họ. TÓM LẠI Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe. Con người cần có những thực hành, hành vi đúng đắn trước những ảnh hưởng của môi trường sống. Người làm công tác giáo dục sức khỏe cần phải có kỹ năng nhận ra và hướng dẫn cộng đồng thực hành những hành vi có lợi cho sức khỏe theo qui trình cụ thể. CÂU HỎI LƢỢNG GIÁ Câu 1: Tại sao cần tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sức khỏe? Câu 2: Có mấy loại hành vi sức khỏe? Cho ví dụ cho mỗi loại. Câu 3: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sức khỏe. Câu 4: Người giáo dục viên cần phải làm gì khi đối tượng giáo dục không thực hành hành vi sức khỏe mới. Câu 5: Người giáo dục viên cần có kỹ năng gì? Câu 6: Quá trình thay đổi hành vi gồm có mấy bước? ở mỗi bước người giáo dục viên cần phải làm gì để giúp đỡ đối tượng giáo dục thay đổi hành vi? Câu 7: Trình bày vai trò của người làm công tác TT-GDSK?
31
Bài 3.
CÁC NGUYÊN TẮC TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE MỤC TIÊU Sau khi kết thúc bài học này học viên có khả năng: 1. Trình bày được những cơ sở khoa học làm nền tảng cho GDSK. 2. Trình bày được các nguyên tắc cơ bản trong chỉ đạo hoạt động GDSK. 3. Vận dụng được các nguyên tắc GDSK vào trong công tác GDSK của mình.
NỘI DUNG 1. Nguyên tắc giáo dục sức khỏe 1.1. Khái niệm Nguyên tắc giáo dục sức khỏe là những nhân tố chỉ đạo mọi hoạt động GDSK. Chỉ đạo việc lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện và cách thức tổ chức GDSK sao cho phù hợp với mục đích và nhiệm vụ GDSK, chúng được ứng dụng trong các khâu của quá trình GDSK. 1.2. Các nguyên tắc Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ, bản chất của GDSK, căn cứ vào những thành tựu y học và các lĩnh vực khoa học khác như tâm lý học, giáo dục học v.v…và thực tiễn, GDSK ở Việt Nam được tiến hành theo các nguyên tắc sau: -
Nguyên tắc tính khoa học;
-
Nguyên tắc tính đại chúng;
-
Nguyên tắc tính trực quan;
-
Nguyên tắc tính thực tiễn;
-
Nguyên tắc lồng ghép;
-
Một số nguyên tắc khác.
1.3. Cơ sở khoa học 1.3.1. Những cơ sở khoa học hành vi Khoa học hành vi nghiên cứu những cách ứng xử của con người và vì sao con người lại cư xử như vậy. Hành vi là một phức hợp những hành động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: môi trường, xã hội, văn hóa, kinh tế, di truyền...Mỗi hành vi bao gồm 4 thành phần chủ yếu: Kiến thức- thái độ- niềm tin và thực hành. Hành vi sức khỏe thể hiện ở:
32
-
Nhận thức của con người về tình trạng sức khỏe và bệnh tật của bản thân và của cộng đồng, các dịch vụ y tế có thể sử dụng được, các biện pháp tự bảo vệ sức khỏe của bản thân và của cộng đồng, các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe,…
-
Thái độ đối với các vấn đề sức khoẻ, các thói quen, lối sống, phong tục tập quán, kể cả niềm tin có lợi và có hại đối với sức khỏe.
-
Những cách thực hành, các biện pháp để tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của bản thân và của cộng đồng, phòng chống được các bệnh tật và các yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe.
1.3.2. Những cơ sở tâm lý học giáo dục Đối tượng của GDSK ở tất cả các lứa tuổi, phần nhiều là người lớn. o Học tập của người lớn dựa vào các nguyên tắc: ─ Nhận rõ mục đích học tập. ─ Được tích cực hóa cao độ. ─ Cá biệt hóa việc học tập. ─ Vận dụng kinh nghiệm sống. ─ Được thực hành những điều đã học. ─ Được biết kết quả hoàn thành. ─ Tự chịu trách nhiệm, tự kiểm soát và tự điều chỉnh mọi hoạt động của bản thân trong học tập cũng như trong thực hành. o GDSK cần tạo điều kiện cho đối tượng học tập đạt được kết quả tốt: ─ Thoải mái về thể chất, tinh thần. ─ Nhận rõ lợi ích thiết thực và mục tiêu học tập. ─ Được khuyến khích để nâng cao tính tích cực chủ động tham gia vào quá trình làm thay đổi hành vi sức khỏe của bản thân và tập thể. ─ Kinh nghiệm cá nhân được khai thác và vận dụng vào thực tế để kiểm nghiệm tác dụng và lợi ích của việc làm. ─ Được biết về kết quả học tập và thực hành của bản thân để không ngừng tự hoàn thiện. 1.3.3. Những cơ sở tâm lý học nhận thức Quá trình nhận thức của con người có thể chia làm 2 giai đoạn: - Nhận thức cảm tính là nhận thức bằng các giác quan và một cách trực tiếp. - Nhận thức lý tính bằng các thao tác tư duy như so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp…
33
Trong hoạt động nhận thức của con người, giai đoạn cảm tính và lý tính có quan hệ chặt chẽ và tác động tương hỗ lẫn nhau. V.I. Lênin đã tổng kết quy luật đó của hoạt động nhận thức nói chung như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. GDSK không những chỉ giúp cho đối tượng nhận thức bằng cảm quan mà quan trọng hơn cả là giúp cho họ chuyển được sang nhận thức lý tính, nhất là tự nhận thức, và cuối cùng là phải vận dụng được vào thực tế giải quyết các vấn đề sức khỏe của bản thân và của cộng đồng mà họ chung sống, nhằm thay đổi hành vi sức khỏe và lối sống, biến thành thói quen có lợi cho sức khỏe. Như vậy, quá trình thay đổi hành vi sức khỏe là quá trình nhận thức từ thấp đến cao. Quá trình nhận thức đòi hỏi: -
Phải có sự chú ý: Muốn tiếp nhận và hiểu được một thông tin thì người ta phải chú ý tới thông tin đó. Nói một cách khác không phải bất cứ thông tin gì đến với các giác quan đều được nhận thức. Như vậy, trong việc tiếp nhận thông tin con người bao giờ cũng có sự lựa chọn và phụ thuộc vào động cơ, nhu cầu của mỗi người.
-
Phải có sự sắp xếp: Sự sắp xếp thông tin, tuân theo các đặc tính: Đồng nhất: lồng ghép những cái giống nhau thành nhóm. Theo vị trí trong không gian: ghép những cái ở gần nhau thành nhóm. Theo vị trí về thời gian: gắn những sự việc hoặc sự kiện gần nhau về thời gian. Theo quan hệ riêng chung: gắn cái đặc trưng toàn thể cho một bộ phận bất kể nào đó và ngược lại. Theo hệ thống hóa: ghép những phần không đầy đủ thành một dạng quen thuộc hoặc có nghĩa nào đó.
-
Tính hiện thực: Nhận thức là một quá trình mang tính riêng biệt của mỗi người, nó phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân, trình độ học vấn, giới tính, kinh nghiệm sống….của người tiếp nhân. Đây là đặc điểm đặc biệt quan trọng đối với người làm GDSK. Nếu chúng ta muốn đối tượng tiếp nhận thông tin để làm thay đổi hành vi sức khỏe của họ thì chúng ta phải đặt địa vị mình vào đối tượng và dự kiến được khả năng họ tiếp nhận vấn đề được giáo dục như thế nào. Nếu sự tiếp nhận ấy khác với dự kiến của chúng ta thì họ sẽ giữ nhận thức ấy cho đến khi chúng ta hoặc những người khác tác động thay đổi được nhận thức ấy.
1.3.4. Cơ sở tâm lý xã hội Nghiên cứu hệ thống nhu cầu động cơ hành động của con người. Động cơ hành động bao gồm những nhu cầu và quyền lợi. Giáo dục nhu cầu và hành động dựa trên cơ sở kết hợp giữa sự đáp ứng nhu cầu và tác động tinh thần để đưa đến hiệu quả việc học. Maslow xác định 5 loại nhu cầu từ thấp đến cao như sau: Nhu cầu sinh vật, sinh tồn Nhu cầu an toàn Nhu cầu xã hội (yêu mến, phụ thuộc) Nhu cầu đƣợc tôn trọng Nhu cầu tự khẳng định mình 34
Nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng, luôn phát triển theo sự phát triển của xã hội, nó được quy định bởi phương thức thỏa mãn nhu cầu và các mối quan hệ xã hội mà con người sống. Khi một nhu cầu thiết yếu được thỏa mãn, con người chuyển sang một nhu cầu khác ở mức cao hơn. 2. Nguyên tắc tính khoa học 2.1. Ý nghĩa của tính khoa học Việc áp dụng tính khoa học trong GDSK để xác định các nội dung GDSK, lựa chọn phương tiện, phương pháp…sẽ làm cho các nội dung này phù hợp với từng đối tượng giáo dục, từng cộng đồng. 2.2. Thể hiện tính khoa học Tổ chức giáo dục sức khỏe phải dựa trên cơ sở khoa học: Khoa học hành vi, cơ sở tâm lý giáo dục học, tâm lý xã hội học, tâm lý nhận thức học và lý thuyết phổ biến sự đổi mới. Nguyên tắc tính khoa học được thể hiện trong việc xác định nội dung GDSK một cách có khoa học dựa trên cơ sở điều tra nghiên cứu toàn diện về xã hội, tâm lý, dịch tễ, kinh tế, chính trị của mỗi cộng đồng để xác định và lựa chọn vấn đề ưu tiên cần giáo dục. Những nội dung GDSK cũng phải thực sự khoa học, đã được chứng minh bằng khoa học và thực tiễn. Trong khi tiến hành GDSK không nên đưa những nội dung mà các nhà khoa học còn đang bàn cãi, chưa rõ ràng, chưa được kiểm nghiệm trong thực tiễn. GDSK cần sử dụng những thành quả nghiên cứu khoa học mới nhất đã được công bố, mang lại hiệu quả thiết thực nhất cho mọi người trong cộng đồng. Nguyên tắc tính khoa học được thể hiện trong việc lựa chọn những phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục sức khỏe khoa học, hiện đại song phải phù hợp với từng đối tượng, từng cộng đồng, từng giai đoạn, và từng hoàn cảnh kinh tế- xã hội nhất định. Nguyên tắc tính khoa học còn được thể hiện trong việc đảm bảo tính hệ thống, logic của lập kế hoạch và triển khai các hoạt động GDSK thành tổng thể từ đơn giản đến phức tạp. 3. Nguyên tắc tính đại chúng 3.1. Ý nghĩa tính đại chúng Giáo dục sức khỏe không những được tiến hành cho mọi người và vì lợi ích của mọi người trong cộng đồng xã hội, mà còn được mọi người tham gia thực hiện. Mọi người vừa là đối tượng của GDSK vừa là người tiến hành GDSK. Đối tượng của GDSK rất đa dạng, không thể cùng một lúc chúng ta có thể làm thay đổi hành vi sức khỏe của tất cả mọi người với mọi vấn đề sức khỏe. Việc nghiên cứu đối tượng trong một đợt hoặc một nội dung là việc làm hết sức quan trọng cho phép chúng ta đạt được mục tiêu và hiệu quả của GDSK. Khi nghiên cứu đối tượng GDSK chúng ta cần chú ý tới những đặc điểm sau: -
Đối tượng GDSK phần đông là cộng đồng sống ở nông thôn, thật vậy có tới khoảng 75% người dân sống ở nông thôn [11]. Nghiên cứu cũng đã chứng minh được rằng các hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe thì khác nhau giữa người 35
-
dân sống ở thành thị và nông thôn. Ví dụ nghiên cứu về các hành vi nguy cơ
-
đối với các bệnh không lây, tỷ lệ người dân hút thuốc lá, ăn ít rau quả, ít vận động thể lực và uống nhiều rượu thì có sự khác biệt một cách rõ rệt giữa những người dân ở hai khu vực này [12, 13].
-
Mỗi cộng đồng mang tính khép kín tương đối và mang bản sắc đặc thù của địa phương.
-
Ngày nay trong cộng đồng nông thôn, địa vị xã hội không còn đóng vai trò quyết định như xưa, nhưng dù sao các vị chức sắc ở địa phương vẫn có tiếng nói quyết định.
-
Yếu tố tôn giáo: mỗi tôn giáo có chuẩn mực đạo đức riêng, có những điều răn, điều cấm kị riêng.
-
Trình độ học vấn, giáo dục khác nhau ở mỗi cộng đồng, khu vực, giới tính. Theo một nghiên cứu của Phạm Hùng Lực và cộng sự, ở khu vực nông thôn trình độ học vấn rất khác nhau giữa nam và nữ [14].
-
Yếu tố dân tộc, chủng tộc: sử dụng ngôn ngữ dân tộc
3.2. Thể hiện tính đại chúng Khi nghiên cứu đối tượng GDSK chúng ta cần chú ý những đặc điểm sau: văn hoá, địa lý, xã hội, kinh tế, tôn giáo, trình độ học vấn và yếu tố dân tộc. Nội dung, phương pháp, phương tiện giáo dục phải mang tính phổ cập phù hợp với từng loại đối tượng. GDSK phải xuất phát từ nhu cầu sức khỏe bức thiết của cộng đồng xã hội và đáp ứng được các nhu cầu đó. Nội dung GDSK phải dựa trên cơ sở của việc chẩn đoán cộng đồng. Phải động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần xã hội, mọi lứa tuổi cùng tham gia thực hiện. GDSK là công tác lâu dài đòi hỏi phát động thành phong trào quần chúng rộng khắp, liên tục trở thành loại hình hoạt động xã hội rộng lớn và không ngừng phát triển. Sử dụng sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội và ngành y tế. Cũng giống như mọi hoạt động khác trong sự nghiệp chăm lo, bảo vệ sức khỏe nhân dân, giáo dục sức khỏe cũng cần đến nguồn lực và sử dụng các nguồn lực đó một cách có hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu của mình. Nguồn lực ở đây là nguồn lực tổng hợp của mọi tổ chức khác nhau trong toàn xã hội. 4. Nguyên tắc tính trực quan 4.1. Ý nghĩa tính trực quan Mọi yếu tố tác động đến con người trước hết tác động trực tiếp vào các giác quan như mắt, tai, mũi…Sử dụng các phương tiện trực quan trong GDSK sẽ gây được ấn tượng mạnh với đối tượng giáo dục làm cho đối tượng dễ tập trung và dễ nhớ.
36
4.2. Thể hiện tính trực quan Để gây được ấn tượng sâu sắc cho mọi người, nội dung GDSK phải được minh họa hết sức cụ thể bằng những hình tượng sinh động, các phương tiện trực quan cần sử dụng trong GDSK là các tranh ảnh, mô hình, vật thật… Sử dụng các phương tiện minh họa cho nội dung GDSK phải nhằm tạo thuận lợi cho đối tượng suy nghĩ và hành động để đạt được những mục tiêu đã định. Tuy nhiên cần tránh lạm dụng bất cứ nội dung gì cũng phải có phương tiện trực quan. Bản thân người cán bộ y tế và cơ sở y tế với toàn bộ những hoạt động của mình phải là những mẫu hình trực quan sinh động có tác dụng giáo dục mạnh mẽ nhất đối với nhân dân. Tấm gương người cán bộ y tế và cơ sở y tế thông qua các hoạt động có thể phản chiếu thành hai mặt tích cực và tiêu cực cho sự hình thành hay thay đổi hành vi sức khỏe nhân dân. Công tác GDSK cần thiết phải chú ý phát huy mặt tích cực của những tấm gương đó. 5. Nguyên tắc tính thực tiễn 5.1. Ý nghĩa tính thực tiễn Mỗi lý luận khoa học về GDSK đều phải góp phần tích cực giải quyết được các nhu cầu và vấn đề sức khỏe một cách thiết thực, mang lại hiệu quả một cách cụ thể thì mới có sức thuyết phục cao. 5.2. Thể hiện tính thực tiễn Các hoạt động GDSK phải bắt nguồn từ các vấn đề sức khỏe của cá nhân, cộng đồng và phải tích cực giải quyết được các vấn đề sức khỏe của cá nhân và cộng đồng một cách thiết thực và có hiệu quả cụ thể bằng việc nâng cao sức khỏe, giảm bệnh tật, tử vong. Phải làm cho cá nhân và cộng đồng hiểu và thấy được vấn đề sức khỏe và bệnh tật của họ để họ chủ động tham gia vào giải quyết các vấn đề này. Chính người dân phải thực sự bắt tay vào, từ việc làm cụ thể nhằm biến đổi hiện thực chất lượng cuộc sống, trong đó có sức khỏe của họ. Lấy thực tiễn của các kết quả hành động đó để giáo dục, đánh giá và cải tiến toàn bộ hệ thống giáo dục sức khoẻ. 6. Nguyên tắc lồng ghép Lồng ghép không những là nguyên tắc quan trọng được áp dụng trong GDSK mà còn là phương pháp công tác trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nói chung và của ngành y tế nói riêng. 6.1. Ý nghĩa của lồng ghép Lồng ghép trong GDSK là nhằm phát huy mọi nguồn lực sẵn có để đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình GDSK, tránh được những trùng lắp không cần thiết hoặc bỏ sót công việc, tiết kiệm nguồn lực, tránh lãng phí và nâng cao chất lượng công tác GDSK.
37
6.2. Thể hiện lồng ghép Lồng ghép trong GDSK là sự phối hợp các mặt hoạt động trong quá trình GDSK. Phối hợp một số hoạt động của các chương trình GDSK có tính chất giống nhau hoặc có liên quan mật thiết với nhau nhằm tạo điều kiện hỗ trợ và tăng cường lẫn nhau để đạt hiệu quả chung tốt hơn. Lồng ghép trong GDSK còn là sự phối hợp các hoạt động của GDSK với các lĩnh vực hoạt động khác của ngành y tế và các ngành khác, các tổ chức, các đoàn thể nhân dân thành một quá trình chung nhằm tạo được những hành vi sức khỏe lành mạnh, từ bỏ được hành vi sức khỏe lạc hậu, có hại cho sức khỏe của mọi người. Lồng ghép GDSK trong ngành y tế có thể được tiến hành trong các hoạt động chuyên môn phòng bệnh, chữa bệnh; hoạt động của các cơ sở y tế từ trung ương đến địa phương; hoạt động của các cơ quan đào tạo cán bộ và hoạt động của từng cán bộ, nhân viên y tế. Lồng ghép GDSK với hoạt động của các ngành khác như ngành giáo dục, cơ quan thông tin đại chúng, tổ chức quần chúng và trong hoạt động của các ngành kinh tế - xã hội khác. Trong khi tiến hành lồng ghép phải đảm bảo các nguyên tắc về giáo dục sức khỏe như đã trình bày. 7. Các nguyên tắc khác 7.1. Nguyên tắc tính vừa sức và vững chắc Nội dung và phương pháp GDSK phải thích hợp với đặc điểm tâm sinh lý của từng loại đối tượng sao cho họ có thể tiếp thu được. Nội dung GDSK phải lập đi lập lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau để củng cố nhận thức và thay đổi dần thái độ, hành động để cho các hành vi mới trở thành thói quen, nếp sống mới hàng ngày của đối tượng, tránh rập khuôn và nóng vội. 7.2. Nguyên tắc đối xử cá biệt và bảo đảm tính tập thể Chọn cách tiếp cận và tác động khác nhau đối với từng cá nhân và từng nhóm tập thể khác nhau cho thật thích hợp. Tận dụng vai trò uy tín của cá nhân đối với tập thể, đồng thời phải biết dựa vào công luận tiến bộ để giáo dục những cá nhân chậm tiến. 7.3. Nguyên tắc phát huy cao độ tính tích cực, tự giác và chủ động sáng tạo Nguyên tắc này nhằm biến quá trình GDSK thành quá trình tự giáo dục sức khỏe để mỗi người không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của chính mình bằng thực hiện những hành vi sức khỏe và lối sống lành mạnh. -
Để mọi người tự giác chấp nhận cái mới, không áp đặt, ra lệnh, gò ép.
-
Thảo luận bình đẳng, tạo ra sự quan tâm hứng thú để họ chủ động tích cực tham gia vào để giải quyết vấn đề sức khỏe của họ. 38
-
Phát huy cao độ mọi kinh nghiệm, tiềm năng sáng tạo của nhân dân để tìm ra và lựa chọn các giải pháp tối ưu cho các vấn đề sức khỏe của chính họ.
TÓM LẠI Các nguyên tắc giáo dục sức khỏe là những nhân tố chính trong việc chỉ đạo việc lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện và cách thức tổ chức sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
CÂU HỎI LƢỢNG GIÁ Câu 1. Liệt kê các nguyên tắc trong TT-GDSK? Câu 2. Trình bày cơ sở khoa học trong TT-GDSK? Câu 3. Trình bày nguyên tắc tính khoa học trong TT-GDSK? Câu 4. Trình bày nguyên tắc tính đại chúng trong TT-GDSK? Câu 5. Trình bày nguyên tắc tính trực quan trong TT-GDSK? Câu 6. Trình bày nguyên tắc tính thực tiễn trong TT-GDSK? Câu 7. Trình bày nguyên tắc tính lồng ghép trong TT-GDSK?
39
Bài 4.
CÁC NỘI DUNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHOẺ MỤC TIÊU Sau bài học này học viên có khả năng: 1. Liệt kê được các nguyên tắc chính để chọn các nội dung TT-GDSK. 2. Liệt kê được 6 vấn đề cần tiến hành GDSK hiện nay. 3. Trình bày được những nội dung cơ bản của từng vấn đề cần GDSK.
NỘI DUNG 1. Mở đầu Có rất nhiều yếu tố tác động đến sức khỏe. GDSK nhằm giúp mọi người biết loại trừ hoặc hạn chế các yếu tố tác hại đến sức khỏe và tạo nên các yếu tố nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe. Như vậy, nội dung của GDSK rất rộng, nó bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và sức khỏe xã hội. GDSK không chỉ bao gồm giáo dục về phòng bệnh, phát hiện bệnh, điều trị bệnh, phục hồi sức khỏe mà còn nhằm nâng cao sức khỏe. GDSK không phải chỉ cho các cá nhân mà cho cả tập thể, cộng đồng, cho cả người ốm và người khỏe. Có rất nhiều vấn đề sức khỏe, bệnh tật cần GDSK. Tuy nhiên, mỗi nơi mỗi lúc chúng ta cần phải chọn những nội dung GDSK cho phù hợp với cá nhân, nhóm hay cả cộng đồng. Lựa chọn nội dung truyền thông GDSK còn phụ thuộc vào lĩnh vực chuyên môn của người thực hiện GDSK. Dưới đây là một số nguyên tắc trong lựa chọn nội dung TT-GDSK [10] Một số nguyên tắc trong lựa chọn nội dung TT-GDSK -
Lựa chọn nội dung TT-GDSK phải đáp ứng các vấn đề sức khỏe ưu tiên
-
Các nội dung cụ thể cần TT-GDSK cho đối tượng phải phù hợp với nhu cầu và khả năng tiếp thu của đối tượng
-
Nội dung phải đảm bảo tính khoa học, thực tiễn
-
Nội dung cần được trình bày rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu
-
Nội dung được trình bày theo trình tự hợp lý
-
Nội dung được chuyển tải đến đối tượng bằng các hình thức hấp dẫn
Các nội dung ưu tiên cần truyền thông giáo dục sức khỏe -
Giáo dục bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em
-
Giáo dục dinh dưỡng
-
Giáo dục sức khoẻ ở trường học
40
-
Giáo dục vệ sinh và bảo vệ môi trường
-
Giáo dục vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp
-
Giáo dục phòng bệnh tật nói chung
2. Giáo dục bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em 2.1. Tầm quan trọng Bà mẹ và trẻ em là hai đối tượng chiếm khá đông trong xã hội (khoảng 60 -70% dân số), nếu như sức khỏe bà mẹ trẻ em được bảo vệ và tăng cường thì cũng có nghĩa là về cơ bản sức khỏe của toàn xã hội đã được tăng cường. 2.2. Nội dung chủ yếu 2.2.1. Theo dõi thường xuyên sự phát triển của trẻ em Dùng biểu đồ theo dõi tình hình sức khỏe trẻ em mà quan trọng nhất là theo dõi cân nặng trẻ em dưới 5 tuổi. Cân nặng phản ánh khá tốt tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe trẻ em nhất là khi được theo dõi liên tục hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Cán bộ y tế và cán bộ GDSK cần hướng dẫn cho các bà mẹ thường xuyên theo dõi cân nặng của trẻ và đánh dấu vào biểu đồ tăng trưởng và biết được thế nào là trẻ phát triển bình thường, khi nào trẻ bị tụt cân phát triển không bình thường để có biện pháp xử lý kịp thời. 2.2.2. Giáo dục bù nước kịp thời bằng đường uống cho trẻ khi bị tiêu chảy Tiêu chảy là bệnh phổ biến ở trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ dưới 1 tuổi và tỉ lệ tử vong vẫn còn cao. Nhờ có biện pháp dùng Oresol và nước cháo muối… tỉ lệ tử vong do tiêu chảy đã giảm rõ rệt. Cán bộ y tế cần hướng dẫn bà mẹ biết pha và sử dụng Oresol đúng cách cũng như các dung dịch uống bù mất nước thay thế khi trẻ bị tiêu chảy. Đồng thời, giáo dục cho các bà mẹ biết được cách phát hiện và xử lý đúng khi trẻ bị tiêu chảy; tránh lạm dụng thuốc; thực hiện các biện pháp phòng chống tiêu chảy là một trong những nội dung giáo dục quan trọng. 2.2.3. Giáo dục nuôi con bằng sữa mẹ và nuôi dưỡng trẻ Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ nhỏ. Cần giáo dục các bà mẹ biết bảo vệ nguồn sữa mẹ, cách nuôi trẻ bằng sữa mẹ, cụ thể là: + Cho trẻ bú ngay sau khi sinh, càng sớm càng tốt. + Cho trẻ bú theo nhu cầu. + Trong sáu tháng đầu chỉ cần cho trẻ bú sữa mẹ là đủ. + Từ tháng thứ 7 trở đi, ngoài sữa mẹ cần phải cho trẻ ăn dặm (ăn sam, ăn bổ sung) + Trẻ ốm vẫn tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ (ví dụ khi trẻ bị tiêu chảy). + Không nên cho trẻ bú chai, nếu vì lý do gì trẻ không bú được thì nên vắt sữa đổ thìa cho trẻ. + Nên cai sữa muộn khi trẻ được 18 tháng trở đi.
41
+ Chế độ ăn của mẹ trong thời gian cho trẻ bú phải đủ chất và cân đối, không nên kiêng khem chỉ cần ăn uống đảm bảo an toàn, hợp vệ sinh. Ngoài việc giáo dục các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ, cán bộ y tế cần hướng dẫn cho các bà mẹ cho trẻ ăn dặm đúng, biết cách lựa chọn, chế biến và cho trẻ ăn các thức ăn bổ sung, thực hiện “Tô màu bát bột”, tránh tình trạng cho trẻ ăn kiêng không cần thiết. Đảm bảo cho trẻ ăn đủ số lượng và chất lượng. Thực hiện tốt vệ sinh ăn uống, vệ sinh cá nhân phòng chống tiêu chảy và suy dinh dưỡng trẻ em tại cộng đồng. 2.2.4. Giáo dục về tiêm chủng phòng bệnh Tiêm chủng là một nội dung dự phòng tích cực, quan trọng trong chăm sóc sức khỏe ban đầu, một biện pháp dự phòng mang tính hiệu quả cao để phòng các bệnh lây truyền nặng ở trẻ em (lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, sởi, viêm gan B, viêm não Nhật bản, viêm màng não và viêm phổi cấp ở trẻ em. Chương trình tiêm chủng mở rộng đã đạt được những thành tích đáng kể, phần lớn nhân dân đã nhận thức được vai trò của tiêm chủng mở rộng. Tuy nhiên, ở một số các vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi tỷ lệ tiêm chủng còn chưa đạt yêu cầu, vì thế chúng ta vẫn phải tiếp tục giáo dục về công tác tiêm chủng để giảm tỷ lệ mắc bệnh và tiến tới thanh toán một số bệnh nhiễm trùng phổ biến và nặng nề ở trẻ em. Cần tập trung giáo dục vào các địa phương có tỷ lệ tiêm chủng còn đạt thấp để các bà mẹ đưa con đi tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch. 2.2.5. Giáo dục cho các bà mẹ các kiến thức về phòng chống một số bệnh khác và các tai nạn thương tích mà trẻ hay mắc Hiện nay, một số loại bệnh tật, tai nạn vẫn còn tỷ lệ mắc cao ở trẻ em cần phải giáo dục truyền thông phòng chống là: -
Nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp.
-
Phòng chống khô mắt và mù loà do thiếu vitamin A.
-
Chương trình phòng thấp tim.
-
Phòng chống sốt rét (ở vùng có sốt rét lưu hành), sốt xuất huyết, phòng viêm não, viêm gan,v.v…
-
Các tai nạn thương tích trẻ em hay mắc như điện giật, dị vật thức ăn và đường thở, đuối nước, tai nạn giao thông, bỏng,…
2.2.6. Giáo dục các kiến thức bảo vệ sức khoẻ bà mẹ Gồm các nội dung chính sau đây: Giáo dục các kiến thức chăm sóc bà mẹ trước đẻ: -
Đăng ký thai sớm (phấn đấu đạt 100% các bà mẹ có thai).
-
Khám thai định kỳ tối thiểu 3 lần trong thời kỳ mang thai và tiêm phòng uốn ván đủ.
-
Phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ, bảo vệ thai nhi.
-
Giáo dục vệ sinh dinh dưỡng trong thời kỳ thai nghén.
42
-
Giáo dục các kiến thức chăm sóc bà mẹ sau khi đẻ:
-
Cho con bú sớm, rửa đầu vú trước và sau khi cho con bú.
-
Mẹ ăn đủ chất, ngủ 8 giờ/ngày, vận động sớm.
-
Theo dõi sản dịch.
-
Hướng dẫn chăm sóc tầng sinh môn.
-
Hướng dẫn theo dõi sức khỏe và ghi chép phiếu theo dõi sức khỏe bà mẹ tại nhà. Giáo dục về dân số kế hoạch hoá gia đình:
-
Tầm quan trọng của sinh đẻ có kế hoạch.
-
Hiểu biết về các biện pháp và các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình hiện có.
-
Lựa chọn và thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình thích hợp.
-
Thực hiện mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con. Các nội dung giáo dục có thể tóm tắt vào chương trình: GOBIFFF G (Growth Chart): Theo dõi sự phát triển của trẻ bằng ghi biểu đồ tăng trưởng. O (Oresol): Bù nước và điện giải bằng đường uống. B (Breath Feeding): Cho trẻ bú mẹ. I (Immunization): Thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng. F (Food Supplement): Cung cấp thực phẩm bổ sung cho trẻ em và bà mẹ khi có thai và nuôi con nhỏ. F (Family Planning): Thực hiện kế hoạch hóa gia đình. F (Female Education): Giáo dục nhằm tăng khả năng hiểu biết chung của phụ nữ.
3. Giáo dục dinh dƣỡng 3.1. Tầm quan trọng Dinh dưỡng là nhu cầu thiết yếu, vấn đề của đời sống hàng ngày, liên quan đến tất cả mọi người. Mặc dù loài người đã đạt được những thành tựu vĩ đại trong mọi lĩnh vực nhưng cho đến nay nạn đói và hậu quả của nó vẫn còn là một thử thách đối với nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta tình hình bữa ăn thiếu về số lượng và mất cân đối về chất lượng đã ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và sức lao động của nhân dân. Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng quốc gia trong những năm gần đây, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân (cân nặng/tuổi) ở trẻ em đã giảm từ 17,5% năm 2010 xuống còn 14, 5% năm 2014 và tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi (chiều cao/tuổi) đã giảm từ 29,3% xuống còn 24,9%. Tuy nhiên, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở nước ta hiện nay vẫn còn cao, đặc biệt là suy dinh dưỡng thể thấp còi và có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ suy dinh dưỡng tại các vùng miền.
43
Tỷ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi năm 2010 là 4, 8%. Tuy ở mức dưới 5% nhưng tỷ lệ này có xu hướng gia tăng. So với năm 2000, tỷ lệ thừa cân-béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi hiện cao hơn 6 lần. Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở phụ nữ mang thai, phụ nữ độ tuổi sinh đẻ và trẻ em tại một số vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa hiện vẫn còn ở trên mức có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Phụ nữ có thai thiếu máu dẫn đến tình trạng suy sinh dưỡng trẻ em, trẻ sinh ra có cân nặng thấp dưới 2500g cũng còn khá phổ biến nhất là ở vùng sâu, vùng miền núi và một số vùng nông thôn. Thiếu Vitamin A hiện nay được coi là một chỉ tiêu tổng hợp về tình trạng đói nghèo và là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng ở tất cả các vùng trong cả nước.Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị khô, nhũn, loét giác mạc đe dọa đến mù lòa do thiếu vitamin A là 0,07% cao hơn 7 lần so với ngưỡng báo động của Tổ chức y tế thế giới. Theo ước tính hàng năm ở nước ta có khoảng 5.000 đến 7.000 trẻ em bị mù lòa do thiếu vitamin A. Ở miền núi và một số vùng đồng bằng số dân bị bướu cổ do thiếu Iod rất cao, ở vùng nặng có tới 66% dân số bị mắc. Ở các vùng tỷ lệ bướu cổ cao thì có tới 2% trẻ em bị đần độn. Bên cạnh đó một số bệnh liên quan đến thừa dinh dưỡng, dinh dưỡng bất hợp lý có chiều hướng gia tăng như thừa cân béo phì, bệnh gout,… Những số liệu trên cho thấy một bức tranh đáng lo ngại về tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của nhân dân đặc biệt với hai đối tượng là bà mẹ và trẻ em. Để giải quyết vấn đề dinh dưỡng phải có chính sách và các biện pháp phối hợp đồng bộ trong đó không thể nào thiếu được hoạt động giáo dục về dinh dưỡng. Hoạt động giáo dục dinh dưỡng phải là công việc tiên phong trong chương trình phòng chống suy dinh dưỡng cũng như trong các nội dung GDSK vì dinh dưỡng là cái nền của sức khỏe. 3.2. Nội dung chủ yếu Nội dung giáo dục dinh dưỡng tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau: -
Giáo dục kiến thức nuôi con cho các bà mẹ.
-
Giáo dục ăn uống của bà mẹ có thai, cho con bú.
-
Giáo dục bảo vệ nguồn sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ.
-
Giáo dục về thức ăn bổ sung cho trẻ.
-
Giáo dục cách cho ăn khi trẻ đau ốm.
-
Cách phòng các bệnh thông thường ở trẻ em dẫn đến suy dinh dưỡng.
-
Tạo nguồn thực phẩm bổ sung cho bữa ăn thông qua việc xây dựng hệ sinh thái VAC.
-
Tăng cường vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh ăn uống, phòng chống ngộ độc thức ăn.
-
Giáo dục phòng chống các bệnh có liên quan đến ăn uống, các bệnh do thừa dinh dưỡng hoặc ăn uống không hợp lý gây ra.
44
- Những nội dung giáo dục dinh dưỡng và nội dung giáo dục bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em gắn liền với nhau. Vì vậy, cần lồng ghép với nhau và với các nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu khác. 4. Giáo dục sức khỏe ở trƣờng học 4.1. Tầm quan trọng GDSK ở trường học là một phần trong toàn bộ chương trình giáo dục chung ở các nhà trường. GDSK ở trường học có tác động rất lớn đến hình thành các hành vi sức khỏe, lối sống lành mạnh cho học sinh, vì thời gian học ở trường của mỗi học sinh thường rất dài. Đây là thời kỳ rất quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của mỗi người. Giai đoạn học sinh là giai đoạn mà con người phát triển toàn diện cả về thể chất và nhân cách, đây là thời gian rất nhạy cảm với việc tiếp thu những kiến thức mới. GDSK ở trường học thường mang lại hiệu quả cao. Nó không những chỉ tác động đến các em học sinh mà thông qua các em học sinh nó có ảnh hưởng lớn đến gia đình học sinh, đến cộng đồng xã hội. Mỗi học sinh có thể trở thành một nhà “giáo dục sức khỏe tự nguyện”. 4.2. Nội dung chủ yếu GDSK trường học không chỉ nhằm tạo khả năng bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho mỗi học sinh mà còn tạo cho các em nhận thức rõ trách nhiệm bảo vệ sức khỏe của những người khác. Các nội dung GDSK ở trường học liên quan đến sự phát triển kiến thức, hiểu biết, thái độ và thực hành của học sinh về các vấn đề sức khỏe: Kiến thức: Các kiến thức cần trang bị cho học sinh như sau: -
Cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản và đại cương về: giải phẫu, sinh lý, phát triển thể lực, tinh thần của người bình thường, các yếu tố liên quan đến sức khỏe, thể lực và bệnh tật.
-
Các bệnh lây nhiễm từ môi trường, các bệnh thường mắc ở tuổi học sinh.
-
Các biện pháp vệ sinh phòng các bệnh thông thường và tăng cường sức khỏe
-
Các vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên
-
Một số luật lệ vệ sinh liên quan đến bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng… Thái độ: Tạo cho học sinh có thái độ:
-
Mong muốn đạt được mức sức khỏe tốt nhất.
-
Sẵn sàng thực hành các biện pháp có lợi cho sức khỏe của mình cũng như của gia đình và cộng đồng.
-
Chấp nhận trách nhiệm bảo vệ sức khỏe cho cá nhân mình và cho những người khác.
-
Sẵn sàng cống hiến quyền lợi cá nhân vì sức khỏe của những người khác.
-
Sẵn sàng thực hiện các luật lệ về bảo vệ sức khỏe và góp phần tăng cường thực hiện các luật lệ đó.
45
Thực hành: -
Thực hành các biện pháp vệ sinh, các thói quen lành mạnh cho sức khỏe ở trường học, ở nhà cũng như ở cộng đồng.
-
Thực hành phòng chống bệnh học đường.
-
Tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, phòng chống các loại bệnh tật.
-
Sử dụng các dịch vụ y tế cần thiết để bảo vệ và tăng cường sức khỏe... Để làm tốt công tác GDSK ở trường học cần chú ý một số điểm sau:
-
Đưa chương trình GDSK vào chương trình chính khóa của các cấp học. Biên soạn chương trình GDSK phù hợp với các đối tượng học sinh.
-
Tạo môi trường sống lành mạnh vì chính môi trường ở trường học hàng ngày tác động đến học sinh, ví dụ như ở trường phải có đầy đủ bàn, ghế kích thước
-
phù hợp với học sinh, lớp học đủ ánh sáng, thông thoáng...Thầy cô giáo có vai trò hết sức quan trọng trong GDSK, họ phải là những tấm gương mẫu mực về thực hiện vệ sinh, bảo vệ sức khỏe để cho học sinh noi theo...
-
Các thầy, cô giáo cần được tập huấn về các kiến thức và kỹ năng GDSK.
-
Có sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan y tế và nhà trường để thực hiện tốt các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho học sinh.
-
Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, các tổ chức xã hội và ban ngành có liên quan trong công tác GDSK cho học sinh.
5. Giáo dục vệ sinh và bảo vệ môi trƣờng 5.1. Tầm quan trọng Bảo vệ môi trường sống là một vấn đề lớn có tính toàn cầu chứ không chỉ ở mức quốc gia. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mọi thành viên trong cộng đồng. Bởi vì nếu chúng ta giải quyết được những vấn đề vệ sinh cơ bản thì sẽ giảm bệnh tật phát sinh từ môi trường, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm dẫn đến thay đổi mô hình bệnh tật ở nước ta và giảm được tỷ lệ mắc bệnh cũng như tử vong. 5.2. Nội dung chủ yếu Ở nước ta hiện nay những vấn đề hết sức cơ bản liên quan đến vệ sinh và bảo vệ môi trường là: -
Giải quyết chất thải bỏ của người và súc vật.
-
Giải quyết các chất thải bỏ trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp.
-
Cung cấp nước sạch cho nhân dân.
-
Khống chế và tiêu diệt các vật trung gian truyền bệnh
-
Vệ sinh an toàn thực phẩm.
-
Vệ sinh nhà ở.
-
Thực hiện các luật lệ về bảo vệ môi trường.
46
- GDSK về môi trường được coi như một trong những hoạt động can thiệp quan trọng trong chương trình bảo vệ môi trường đã được quan tâm nhiều trong những năm qua. Một số những thực hành về vệ sinh hiện nay của nhân dân ta có nguồn gốc từ xa xưa theo các phong tục tập quán và thói quen cũ. Các thực hành cũng rất khác nhau giữa các vùng và các cộng đồng. Các thực hành đó thường khó thay đổi nếu như không có những giải pháp thích hợp và sự nỗ lực của nhiều cơ quan, tổ chức và sự tham gia của cộng đồng. Truyền thông GDSK về bảo vệ môi trường cần phải làm thường xuyên, liên tục một cách có kế hoạch. Đi đôi với GDSK cần phải tạo những điều kiện thuận lợi để mọi người có thể thay đổi cách thực hành giữ gìn và bảo vệ môi trường phù hợp với phong tục tập quán, văn hóa và điều kiện của địa phương. 6. Giáo dục vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp 6.1. Tầm quan trọng Đảm bảo môi trường lao động tốt, không ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động là một trong những nội dung quan trọng của bảo vệ môi trường nói chung. Ngày nay, do sự phát triển của sản xuất dẫn đến một số vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí, nước, các tai nạn lao động, các bệnh nghề nghiệp (bệnh bụi phổi, điếc do tiếng ồn ở nhà máy cơ khí…),vv… Giáo dục vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp sẽ góp phần làm giảm các nguy cơ gây nên bệnh nghề nghiệp và tai nạn lao động. Giáo dục nâng cao kiến thức vệ sinh lao động, bệnh nghề nghiệp và các biện pháp phòng chống tác hại nghề nghiệp cho người lao động là rất quan trọng. Tuy nhiên, người công nhân cũng cần phải biết áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật hiện đại để có thể loại trừ các tác hại của điều kiện làm việc xấu tới sức khỏe. 6.2. Nội dung giáo dục chủ yếu -
Giáo dục công nhân ý thức bảo vệ môi trường lao động.
-
Giáo dục công nhân ý thức sử dụng các phương tiện phòng hộ lao động.
-
Giáo dục ý thức phòng chống các bệnh nghề nghiệp.
-
Giáo dục ý thức sử dụng an toàn các công cụ lao động, phòng chống các tai nạn lao động.
-
Giáo dục cách sơ cứu ban đầu các tai nạn và ngộ độc trong lao động sản xuất.
-
Giáo dục cho người lao động ý thức chủ động tự bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho bản thân và cho những người xung quanh.
Trong công tác GDSK cho người lao động cần có giáo dục định hướng về các bệnh nghề nghiệp và tai nạn lao động của các cơ sở mà người lao động dễ mắc. Nghĩa là dựa vào từng loại ngành nghề cụ thể mà chọn nội dung GDSK cho phù hợp. Để làm tốt công tác giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh tật, tai nạn nghề nghiệp cho người lao động, cán bộ an toàn vệ sinh lao động tại mỗi cơ sở nhà máy, xí nghiệp cần có kế hoạch và thực hiện giáo dục thường xuyên cho người lao động. Ngoài ra,
47
cán bộ y tế cũng cần giáo dục các chủ cơ sở sản xuất tăng cường tìm ra những giải pháp tốt để cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo sức khỏe cho người lao động. 7. Giáo dục phòng chống bệnh tật nói chung 7.1. Tầm quan trọng Cung cấp những kiến thức cơ bản về phòng, chống các bệnh tật thông thường, làm tăng trách nhiệm của cá nhân, cộng đồng trong việc bảo vệ và tăng cường sức khoẻ mà mọi người cần có. 7.2. Nội dung giáo dục -
Giáo dục phòng chống các bệnh lây nhiễm như:
-
+ Các bệnh tật phổ biến theo mùa, thành dịch như: tả, lỵ, thương hàn, cúm,.. + Các bệnh do ký sinh trùng gây ra: giun, sán, amibe, nấm… + Các bệnh xã hội: sốt rét, lao, phong, HIV/AIDS, hoa liễu…
-
Giáo dục phòng chống các bệnh không lây như: + Các bệnh tim mạch. + Các bệnh ung thư. + Bệnh đái tháo đường + Bệnh tâm thần. + Các loại tai nạn.
-
Giáo dục phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp…
-
Giáo dục sử dụng đúng các loại thuốc phòng bệnh và điều trị bệnh, tránh lạm dụng thuốc, sử dụng thuốc an toàn và hợp lý.
TÓM LẠI Sức khỏe con người do nhiều yếu tố ảnh hưởng, mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng có những đặc thù riêng. Vì vậy, cần chọn nội dung giáo dục sức khỏe cho phù hợp nhằm phát huy thế mạnh của giáo dục sức khỏe trong việc nâng cao sức khỏe người dân.
CÂU HỎI LƢỢNG GIÁ Câu 1. Trình bày các nguyên tắc lựa chọn nội dung TT-GDSK? Câu 2. Liệt kê các nội dung chính cần TT-GDSK ở nước ta hiện nay? Câu 3. Trình bày tầm quan trọng, nội dung cơ bản trong TT-GDSK bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em? Câu 4. Trình bày tầm quan trọng, nội dung cơ bản trong TT-GDSK về dinh dưỡng? Câu 5. Trình bày tầm quan trọng, nội dung cơ bản trong TT-GDSK bảo vệ môi trường? Câu 6. Trình bày tầm quan trọng, nội dung cơ bản trong TT-GDSK ở trường học? Câu 7. Trình bày tầm quan trọng, nội dung cơ bản trong TT-GDSK phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp? 48
Bài 5.
CÁC PHƢƠNG PHÁP VÀ PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE MỤC TIÊU Sau bài học này học viên có khả năng: 1. Trình bày được khái niệm về phương pháp, phương tiện TT-GDSK. 2. Trình bày được các phương pháp truyền thông GDSK 3. Trình bày được các phương tiện truyền thông GDSK 4. Trình bày được ý nghĩa, tiêu chuẩn và các bước chuẩn bị tiến hành thử nghiệm phương tiện TT-GDSK.
NỘI DUNG 1. Phƣơng pháp truyền thông giáo dục sức khỏe Phương pháp truyền thông là cách thức chuyển tải các nội dung cần truyền thông đến đối tượng để giúp họ thay đổi hành vi. Có thể chia các phương pháp truyền thông thành 2 loại: -
Phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe gián tiếp
-
Phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe trực tiếp
1.1. Phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe gián tiếp Khái niệm Phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe gián tiếp là phương pháp mà người làm GDSK không tiếp xúc trực tiếp với đối tượng giáo dục và các nội dung (thông điệp truyền thông) được chuyển tới đối tượng thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Ưu điểm của phương pháp truyền thông gián tiếp là có khả năng đưa thông tin đến với mọi người nhanh chóng, trên diện rộng nhờ các phương tiện truyền thông đại chúng. Do đó, nó có khả năng tạo được dư luận và tác động dây chuyền làm chuyển đổi thái độ của người dân góp phần thay đổi hành vi. Tuy nhiên, phương pháp này mang tính chất một chiều do người phát tin không tiếp xúc trực tiếp với người nhận tin, rất khó thu nhận phản hồi ngay và có nhiều khả năng hiểu lầm thông tin vì khán thính giả chỉ xem, nghe qua một lượt không có điều kiện quay trở lại các thông tin trước nên như trong trường hợp phát thanh, truyền hình. Truyền thông đại chúng Thông tin đại chúng giữ vai trò quan trọng trong công tác truyền thông giáo dục sức khỏe, có tính chất chiến dịch thông qua các phương pháp nghe nhìn phong phú và 49
hấp dẫn. Để tăng hiệu quả công tác truyền thông giáo dục sức khỏe, cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan thông tin đại chúng từ trung ương đến địa phương. - Truyền thông đại chúng (mass communication): thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình và gần đây là internet, ta có thể áp dụng nhiều hình thức GDSK để tác động cùng lúc đến rất nhiều người. - Truyền thông gián tiếp qua các tài liệu truyền thông giáo dục sức khỏe bao gồm: tờ gấp, tờ rơi, áp phích, pa nô, sách mỏng, băng cassette, đĩa CD,… - Thông tin cổ động: dùng áp phích, khẩu hiệu, panô, biểu ngữ, xe loa, xe hoa, triển lãm, văn nghệ,… 1.2. Phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe trực tiếp Khái niệm Phương pháp truyền thông trực tiếp là quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng giữa người truyền thông GDSK với một cá nhân hoặc một nhóm người nhận thông tin. Nói một cách khác, phương pháp truyền thông trực tiếp là phương pháp mà người làm GDSK tiếp xúc trực tiếp với đối tượng được giáo dục sức khỏe. o Ưu điểm của phương pháp truyền thông trực tiếp: -
Người phát tin tiếp xúc trực tiếp với người nhận và có thể quan sát phản ứng cũng như nghe ý kiến, thắc mắc, phản hồi ngay lập tức từ người nghe;
-
Có thể điều chỉnh những thông điệp giúp người nhận tiếp nhận đúng thông tin muốn truyền đạt; Có thể áp dụng phương pháp giáo dục chủ động lôi cuốn được sự tham gia của người nhận tin từ đó tác động mạnh hơn đến nhận thức, thái độ, hành vi. o Hạn chế của phương pháp này là:
-
Không đưa được thông tin đến nhiều người trên diện rộng cho nên khó tạo được dư luận và tác động dây chuyền làm chuyển đổi thái độ của người dân.
-
Phụ thuộc nhiều vào kỹ năng của người làm GDSK.
-
Tốn nhiều thời gian Các hình thức truyền thông trực tiếp
1.2.1. Giáo dục sức khỏe cho cá nhân Khái niệm: GDSK cho cá nhân là một tiến trình thông qua đối thoại, giáo dục viên giúp cho đối tượng hiểu rõ về hoàn cảnh và vấn đề sức khỏe của chính họ từ đó có thể tìm ra biện pháp giải quyết thích hợp. Vấn đề sức khỏe trong GDSK cá nhân không mang tính chất chung chung mà là cụ thể cho từng đối tượng. Vấn đề của cá nhân có thể là: -
Những nổi lo âu về bệnh tình (tham vấn đặt đối tượng là trọng tâm),
-
Sự thắc mắc về cách chăm sóc,
50
-
Ra một quyết định (gọi là tham vấn quyết định),
-
Một hành vi cần thực hiện hoặc thay đổi (tham vấn hành vi).
Một điều cần lưu ý là không phải ai cũng ý thức về vấn đề sức khỏe của mình: Có người ý thức được và có nhu cầu cần giải quyết nhưng không biết cách; nhưng cũng có người không ý thức được và do đó không có nhu cầu v.v…Chính vì vậy mà GDSK cá nhân được chia thành 2 dạng: - Đối tượng tìm đến giáo dục viên: ở cơ sở y tế, trung tâm tham vấn, điện thoại, viết thư… Hình thức này còn gọi là tham vấn sức khỏe. - Giáo dục viên tìm đến đối tượng: tiếp cận cộng đồng, vãng gia. Phân tích những thuận lợi khó khăn mỗi dạng GDSK cá nhân: Thuận lợi
Khó khăn
Cách khắc phục
*Đối tƣợng tìm đến giáo dục viên Đối tượng có nhu cầu giải Giáo dục viên chưa Kinh nghiêm bản thân quyết nên rất quan tâm hiểu rõ về hoàn cảnh và có thể giúp đỡ lúng đối tượng túng. Đối tượng có sẵn những thắc mắc, chủ động Chưa chuẩn bị trước về Cố gắng quan sát lắng vấn đề của đối tượng nghe gợi chuyện thăm Giáo dục viên có thể có sẵn hỏi để tìm hiểu. điển hình. Ví dụ đang ở Đôi khi đối tượng quá phòng khám, cơ sở điều trị căng thẳng Bình tĩnh thư giãn để giúp đối tượng cũng Có đủ tài liệu, hình ảnh trực bình tỉnh thư giản. quan *Giáo dục viên tìm đến đối tƣợng GDV có thể tìm hiểu hoàn Có thể đối tượng chưa ý Chân thành nói cảnh của đối tượng trước thức được và chưa có chuyện, tế nhị, cố khi đến nhu cầu giải quyết. gắng phân tích cho đối tượng hiểu. Có thể chuẩn bị trước phần Đối tượng thụ động ít nào về vấn đề của đối quan tâm. Tạo một hoàn cảnh tượng. tiếp cận tự nhiên Ta không có sẵn điển (chọn đúng thời điểm GDV đến với thái độ quan hình không gian). tâm chân thành có thể tạo Tài liệu chỉ là những cái được cảm tình nơi đối ta dự đoán, và cũng tượng. không thể mang nhiều
51
Một số nguyên tắc chung trong GDSK cho cá nhân Tạo mối quan hệ: Điều quan trọng đầu tiên trong GDSK cho cá nhân chính là mối quan hệ. Dù vấn đề chưa giải quyết nhưng đã thiết lập được mối quan hệ tốt thì những lần sau hy vọng có thể giải quyết được. Không áp đặt: Giáo dục viên giúp đối tượng nhận ra vấn đề và giải quyết vấn đề theo cách riêng phù hợp chứ không phải áp đặt một cách giải quyết có sẵn.Nên giúp đối tượng tự khám phá và tự quyết định. Trong đại đa số các trường hợp giáo dục viên không nên áp đặt bởi vì chính bản thân đối tượng thường cũng không muốn người khác dạy đời. Mặc khác cách giải quyết của giáo dục viên chưa chắc là đã phù hợp với hoàn cảnh của đối tượng. Ngay cả khi lời khuyên của giáo dục viên đối tượng nghe theo và thực hiện đạt kết quả thì đó cũng không hẳn là tốt vì có thể tạo sự phụ thuộc và đối tượng sẽ tìm đến ta trong mọi vấn đề. Giúp đối tượng tự khám phá và tự quyết định bằng cách cung cấp những thông tin phù hợp, trên cơ sở đó đặt những câu hỏi dẫn dắt từng bước dẫn đến sự hiểu biết về kiến thức, về tình trạng của mình và sự tự chọn lựa cách giải quyết vấn đề của mình một cách phù hợp. Khơi gợi thích hợp và lắng nghe: là một kỹ năng quan trọng trong GDSK cho cá nhân. Khơi gợi và lắng nghe có tác dụng: -
Giúp đối tượng cảm thấy được quan tâm thúc đẩy ý muốn chia sẻ.
-
Giúp biết được đối tượng đã hiểu biết đến đâu, điểm nào đúng, điểm nào sai, giúp việc đưa thông tin hướng dẫn được xác đáng đỡ mất thời gian và giúp đối tượng liên hệ những điều mới với những gì đã biết làm cho việc tiếp thu được tốt hơn.
-
Khơi gợi và lắng nghe những hồi báo để kiểm lại những hiểu biết của đối tượng giúp cho việc điều chỉnh các thông tin tránh nhầm lẫn.
-
Khơi gợi và lắng nghe những ý kiến, những quyết định của đối tượng giúp đối tượng cảm thấy tự tin hơn làm nền tản cho những quyết định cá nhân và sự thay đổi hành vi.
Các bước tiến hành GDSK cá nhân 1. Trước hết tìm xem người dân đã biết gì rồi 2. Mô tả chính xác những điều cần biết, cần làm 3. Phát hiện được các nguyên nhân tại sao người dân không thay đổi hành vi 4. Giải thích rõ những điểm lợi của hành vi mới 5. Động viên và khuyến khích để đối tượng thực hiện và duy trì hành vi mới 6. Đi đến nhất trí với đối tượng về những gì họ sẽ làm
*TIẾP CẬN GATHER: Greeting - Asking - Telling - Helping - Explaining – Returning
52
Kỹ năng truyền thông GDSK cho cá nhân 1. Chào hỏi thân mật 2. Tìm xem đối tượng biết, tin, và làm gì về vấn đề đó 3. Bổ sung thêm những điều đối tượng cần biết cần làm 4. Đưa ra các thông tin chủ chốt và giải thích những điểm lợi của hành vi mới 5. Tìm ra các lý do vì sao người dân không thay đổi hành vi 6. Nêu các ví dụ cụ thể 7. Dùng từ ngữ quen thuộc 8. Dùng các phương tiện trực quan 9. Khuyến khích đối tượng đặt câu hỏi 10. Động viên và khuyến khích đối tượng thực hiện hành vi mới 11. Đi đến nhất trí với đối tượng về những gì họ sẽ làm 12. Kiểm tra xem đối tượng có hiểu biết đâu bổ sung điểm thiếu
Các giải pháp can thiệp trong tham vấn quyết định 1. Bác bỏ các lý lẽ có vẽ hợp lý mà đối tượng dùng biện minh cho hành động
của mình “Chú tôi hút thuốc ngày 2 gói mà vẫn sống 90 tuổi”; cung cấp thêm thông tin tài liệu thống kê phim ảnh để nâng cao sức thuyết phục. 2. Tình huống giả (sắm vai): Đối tượng sống trong vai diễn sẽ thấy được
những điều mà suy luận không thấy “Còn nhỏ quá mà có con thì việc gì xảy ra” 3. Lập bảng liệt kê lợi hại: Liệt kê trên cùng một bảng các mặt lợi và mặt hại
của vấn đề sẽ giúp đối tượng quyết định tốt hơn. 4. Gieo sự lo lắng về những hậu quả của quyết định sai lầm: “Nếu không ăn
kiêng đúng thì sẽ …” “Nếu không mổ ngay thì sẽ …”. 1.2.2. Giáo dục sức khỏe cho nhóm Khái niệm: Làm việc với nhóm là một trong các hoạt động chủ yếu của GDSK khi mọi người cùng ngồi với nhau để phát hiện xác định và giải quyết một vấn đề. Nhóm nhiều khi có thể làm được những điều mà cá nhân không làm được. Nhóm là một tập hợp gồm 2 hay nhiều người có cùng một mối quan tâm chung. Ví dụ: một gia đình, một câu lạc bộ, xã viên hợp tác xã,… Phân loại nhóm: - Nhóm chính thức: Là nhóm được tổ chức tốt, có đặc điểm là vị thế các thành viên được xác định rõ ràng và được qui định bởi chuẩn mực của nhóm. Ví dụ: một tổ phụ nữ, tổ thanh niên, một nhóm tín dụng,.. - Tập hợp không chính thức: Là nhóm được hình thành một cách tự phát. Các vai và vị thế của các thành viên không được xác định trước.
53
- Ví dụ: tập hợp những người đi cùng trên một chuyến xe, tập hợp các bà mẹ đưa con đến trạm y tế tiêm chủng, …
o Đặc điểm của nhóm chính thức: - Có mục đích mục tiêu mà mỗi người trong nhóm đều biết đều chấp nhận và cố gắng thực hiện bằng cách cùng làm việc với nhau. - Có qui chế điều lệ và các thành viên trong nhóm tuân thủ. - Có người cầm đầu được thừa nhận. - Có những hoạt động có tổ chức như các cuộc họp thường kỳ. - Chú ý đến các quyền lợi của các thành viên o Đặc điểm của các tập hợp không chính thức: - Họ đi và đến tùy tiện - Có thể có một nhân vật quan trọng nào đó có mặt tại buổi tập hợp nhưng không có người cầm đầu đặc biệt. - Không có kế hoạch cho một hoạt động đặc biệt nào - Không áp dụng một điều lệ nào đặc biệt - Thường mọi người chỉ quan tâm đến chính mình ít quan tâm đến quyền lợi người khác Những nguyên tắc trong GDSK cho nhóm - Phát huy tối đa sự chủ động của đối tượng - Lắng nghe mọi người nói và cố gắng nhận ra các nhu cầu khác nhau của đối tượng cũng như những phản hồi từ đối tượng. - Khuyến khích mọi người tự xác định vấn đề và tự đề xuất cách giải quyết. - Không áp đặt các ý kiến các giải pháp mà cố gắng gợi cho đối tượng tự phát hiện bằng các câu hỏi dẫn dắt thích hợp xây dựng điều mới biết dựa trên những gì mọi người đã biết.
54
Một số hình thức GDSK cho nhóm 1.2.2.1. Nói chuyện giáo dục sức khỏe Nói chuyện sức khỏe là một phương pháp giáo dục kinh điển cho đến nay vẫn còn được sử dụng phổ biến. Tổ chức các cuộc nói chuyện sức khỏe giúp mọi người trực tiếp được nghe những thông tin mới nhất về vấn đề sức khỏe liên quan tới họ. Các cuộc nói chuyện sức khỏe có tác dụng chủ yếu là thay đổi nhận thức của đối tượng và giúp đối tượng suy nghĩ hướng tới việc thay đổi thái độ và hành vi. Để một buổi nói chuyện sức khỏe đạt hiệu quả cao cần thực hiện như sau: o Chuẩn bị một buổi nói chuyện GDSK -
Xác định chủ đề sức khỏe.
-
Xác định đối tượng tham dự và thông báo trước.
-
Xác định nội dung, trình tự cần trình bày; thời gian trình bày.
-
Xác định thời gian, địa điểm thích hợp.
-
Chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ thích hợp.
o Trong buổi nói chuyện -
Tạo mối quan hệ tốt với đối tượng
-
Giới thiệu mục đích, ý nghĩa của buổi nói chuyện.
-
Sử dụng từ dễ hiểu, lời nói ngôn ngữ phù hợp địa phương.
-
Trình bày các nội dung thứ tự, logic.
-
Kết hợp sử dụng các ví dụ, hình ảnh minh họa.
-
Quan sát bao quát đối tượng để điều chỉnh.
-
Dành thời gian cho đối tượng hỏi và thảo luận những vấn đề chưa rõ.
-
Giải đáp thắc mắc của đối tượng một cách đầy đủ.
-
Không bao giờ có định kiến với đối tượng giáo dục.
o Kết thúc buổi nói chuyện -
Kiểm tra lại nhận thức của đối tượng.
-
Tóm tắt nội dung chính vừa trao đổi.
-
Chỉ ra những lợi ích khi thực hiện hành động.
-
Yêu cầu đối tượng thực hiện hành động.
-
Cảm ơn sự tham gia của đối tượng để tạo điều kiện khuyến khích họ tham dự những lần sau.
1.2.2.2. Thảo luận nhóm GDSK o Mục đích của thảo luận nhóm GDSK: -Hỗ trợ và động viên các thành viên trong nhóm thực hiện và duy trì các hoạt động có liên quan đến sức khỏe. 55
-Trao đổi kinh nghiệm và kỹ năng để mọi người có thể học tập lẫn nhau. -Thống nhất các giải pháp các hành động để giải quyết một số vấn đề trong những trường hợp nhất định. o Chuẩn bị cho một buổi thảo luận nhóm -Xác định chủ đề mà đối tượng quan tâm và cần giải quyết. -Xác định đối tượng mời vào nhóm thảo luận. Tốt nhất nên mời những người cùng trình độ văn hóa, cùng lứa tuổi, cùng giới tính tham dự. Mỗi nhóm thảo luận mời khoảng từ 6-10 người. -Thu thập thông tin về chủ đề sắp thảo luận. -Chuẩn bị địa điểm, chỗ ngồi, thời gian. + Chọn thời gian và địa điểm thích hợp để mọi người tham dự đầy đủ + Thông báo trước thời gian, địa điểm, chủ đề rõ ràng cho đối tượng chủ động sắp xếp thời gian dự đông đủ. -Chuẩn bị phương tiện, nội dung, câu hỏi cho chủ đề thảo luận Người hướng dẫn thảo luận cần chuẩn bị: + Nội dung thảo luận kỹ bằng các câu hỏi trọng tâm để thảo luận. + Dự kiến các vấn đề có thể nảy sinh trong khi thảo luận. + Phương tiện liên quan để sử dụng hỗ trợ thảo luận như tranh ảnh, mô hình và ví dụ minh họa. Ví dụ thảo luận về một bệnh nào đó chúng ta cần chuẩn bị một số câu hỏi cho đối tượng thảo luận như sau: -
Anh chị hiểu biết gì về bệnh?
-
Tác hại của bệnh là gì? Bệnh có là vấn đề quan trọng ở địa phương?
-
Nguyên nhân của bệnh là gì?
-
Biểu hiện của bệnh đó như thế nào?
-
Bệnh đó lây truyền như thế nào?
-
Ai là những người dễ mắc bệnh? Tại sao?
-
Cá nhân cộng đồng và gia đình có thể làm gì để tránh được bệnh?
-
Sau cùng hỏi họ cần hổ trợ gì để phòng chống bệnh.
o Các bước tiến hành thảo luận nhóm - Giới thiệu người hướng dẫn và tất cả những người đến dự. -Nêu chủ đề sắp thảo luận -Trao đổi tìm hiểu về chủ đề sắp thảo luận: Họ đã biết gì? Đã làm gì? Trong khi thảo luận, người hướng dẫn thảo luận cần: 56
+ Động viên tất cả thành viên đều tham gia ý kiến, chia sẻ kinh nghiệm.
57
+ Tạo không khí vui vẻ, hứng thú, tin tưởng. + Giữ thái độ trung lập, không đưa ý kiến cá nhân, không tra xét ý kiến. + Khen ngợi ý kiến hay. + Sử dụng phương tiện hỗ trợ thích hợp để đối tượng dễ hiểu, dễ nhớ. -Bổ sung thông tin chính xác và đầy đủ. -Tim hiểu xem đối tượng có khó khăn gì khi thực hiện hành vi mới. Nếu có hãy cùng mọi người thảo luận để giải quyết. -Cuối buổi thảo luận: tóm tắt nội dung chính, kết luận và kế hoạch thực hiện - Lưu ý: Người thư ký của cuộc thảo luận cần quan sát và ghi chép lại những nội dung cần thảo luận, những vấn đề thống nhất, chưa thống nhất, một số kinh nghiệm rút ra qua buổi thảo luận. 1.2.3. Thăm hộ gia đình o Mục đích thăm hộ gia đình -Kiểm tra việc thực hiện các lời khuyên mà bạn đưa ra trước đó -Trực tiếp quan sát các vấn đề liên quan đến sức khỏe -Thu thập các thông tin cần thiết -Giúp đối tượng học thêm một số kỹ năng -Tìm hiểu các hành vi ứng xử của các thành viên trong gia đình -Thăm hộ gia đình thường xuyên giúp bạn giữ mối quan hệ tốt với các gia đình o Các nguyên tắc khi đến thăm hộ gia đình -Tôn trọng các qui tắc xã giao và phong tục địa phương -Tạo không khí vui vẻ, cởi mở. Tránh phê bình, chỉ trích -Không nên nói dông dài những điều không cần thiết -Đến thăm gia đình có người ốm trước -Hãy đến thăm các hộ gia đình ít nhất một lần một tháng, trừ những trường hợp bạn cần theo dõi người bệnh thì cần đến thường xuyên hơn. -Khi đến thăm hộ gia đình hãy mang theo túi thuốc và sổ ghi chép thông tin. o Các bước trong thăm hộ gia đình Bước 1: Chào hỏi, giới thiệu bản thân và mục đích của cuộc đến thăm. Bước 2: Quan sát và hỏi thăm sức khỏe của mọi người trong gia đình bắt đầu từ bà mẹ, trẻ em, người lớn. Bước 3: Kiểm tra việc thực hành các lời khuyên bạn đưa ra trước đó.
58
Bước 4: Tiến hành khuyên bảo nếu bạn thấy cần thiết. Bước 5: Chào và cảm ơn gia đình trước khi ra về, nói rằng tháng sau bạn sẽ đến thăm gia đình. 1.2.4. Làm mẫu (Trình diễn) Làm mẫu là chỉ ra cách làm một cái gì đó theo từng bước một. Làm mẫu rất thích hợp để dạy các kỹ năng thực hành giúp cho đối tượng được GDSK vừa hiểu thêm kiến thức, vừa học được kỹ năng, Ví dụ như: Cách pha gói oresol, cách rửa tay sạch, cách sử dụng bao cao su đúng cách, cách chế biến thức ăn cho trẻ ăn dặm... Làm mẫu có thể thực hiện với cá nhân hay với nhóm. Khi quyết định làm mẫu phải xác định rõ đối tượng được GDSK cần học kỹ năng gì. o Chuẩn bị cho một buổi làm mẫu -
Các đồ vật và các nguyên liệu cần thiết cho việc làm mẫu. Các đồ vật và các nguyên liệu này phải quen thuộc với đối tượng.
-
Thực hành thành thạo trước khi làm mẫu cho các đối tượng xem.
-
Địa điểm làm mẫu phải đủ rộng để các đối tượng xem được và thực hành được.
o Các bước tiến hành làm mẫu Bước 1: Giới thiệu nội dung sẽ làm mẫu Bước 2: Tiến hành làm mẫu phải thực hiện từng bước một, làm chậm rãi, vừa làm vừa giải thích đảm bảo mọi người đều nghe và nhìn rõ. Bước 3: Mời một người trong nhóm trình diễn lại, những người khác quan sát và nhận xét. Bước 4: Chia nhóm để các đối tượng thực hành (đảm bảo tất cả các thành viên trong nhóm đều được tham gia thực hành). Người hướng dẫn và các thành viên khác quan sát và nhận xét sau mỗi lần thực hành. Bước 5: Giải đáp các thắc mắc của đối tượng trước khi ra về. 1.2.5. Một số hình thức truyền thông giáo dục sức khỏe khác -
Tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ sức khỏe. Ví dụ như Câu lạc bộ “PC SDD trẻ em”, Câu lạc bộ “Sức khỏe người cao tuổi”, vv…
-
Tổ chức các cuộc thi kiến thức về chăm sóc sức khỏe.
-
Tổ chức văn hóa, văn nghệ lồng ghép với truyền thông GDSK.
Các hình thức trên nếu tổ chức sẽ rất hấp dẫn và thu hút được nhiều người tham dự. Có thể phát huy được tiềm năng văn hóa của cộng đồng, tính giáo dục có thể sẽ rất sâu sắc nhằm khuyến khích mọi thành viên trong cộng đồng quan tâm đến vấn đề sức khỏe liên quan. Tuy nhiên, cần có sự phối hợp chặt chẻ với các cá nhân, tổ chức, ban ngành, đoàn thể liên quan để tổ chức.
59
1. 3. Giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng 1.3.1. Khái niệm Cộng đồng Những người cần chia sẻ những lợi ích chung và cảm thấy phụ thuộc vào nhau hình thành nên một cộng đồng. Cộng đồng là tập hợp những người có cùng chung một quá trình xuất xứ, cùng chung những giá trị, chấp nhận một số hành vi như là điều bình thường. Cộng đồng là những con người chứ không phải đất đai. 1.3.2. Khi nào cần GDSK cho cộng đồng Khi có những vấn đề sức khỏe mang tính cộng đồng ảnh hưởng đến nhiều người hoặc tất cả mọi người trong cộng đồng. Ví dụ: vấn đề nước, bệnh truyền nhiễm,… 1.3.3. Tổ chức một chiến dịch (Cuộc vận động – CAMPAIGN) 1.3.3.1. Tranh thủ sự trợ giúp của các vị "lãnh đạo quan điểm" Trong mọi địa phương thường thấy có những người có ảnh hưởng trong cộng đồng là những người được nhiều người tin cậy, quý mến, thường đến hỏi ý kiến mà ta tạm gọi là những người "lãnh đạo quan điểm". Có người có chức vụ gì đó trong địa phương cũng có thể chỉ là một người bình thường nhưng được mọi người tin cậy. Và cũng không nhất thiết là mọi người đều tin cậy, có thể có nhiều lãnh đạo quan điểm trong cộng đồng, có người được nhóm này tin cậy, có người được nhóm khác tin cậy. Ví dụ: chị A là lãnh đạo quan điểm của phụ nữ, Anh B là lãnh đạo quan điểm của thanh niên. Nếu vận động được những người này tham gia sẽ có tác động đến cộng đồng. Làm việc với lãnh đạo quan điểm: Hỏi thăm về tình hình kiến thức thái độ niềm tin các giá trị của cộng đồng đối với vấn đề sức khỏe liên quan. Trình bày về sức khỏe cần quan tâm và thảo luận về các biện pháp giải quyết. 1.3.3.2. Tranh thủ sự tham gia của các tổ chức địa phương Tổ chức địa phương là những tập hợp người có sẵn tại địa phương có thể có cùng nhu cầu và quan tâm. Tổ chức địa phương bao gồm các chi nhánh của các tổ chức quốc gia (hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội chữ thập đỏ,…), các hội đoàn địa phương, các câu lạc bộ,.. . Các tổ chức này có thể đóng góp ý kiến, hỗ trợ nhau và thực hiện chương trình chung với nhau. 1.3.3.3. Thành lập Ủy ban sức khỏe Thành lập Ủy ban sức khỏe nhằm vận động cộng đồng tham gia trong quá trình xác định vấn đề sức khỏe, lập kế hoạch, thực hiện kể cả việc lượng giá. Các bước cụ thể: -
Đầu tiên phải tìm hiểu xem cộng đồng cần có một ủy ban sức khỏe không. Nếu cần thì có thể thành lập dựa vào một ủy ban có sẵn hoặc thành lập mới. Chú ý: Một ủy ban có sẵn thường bận bịu.
-
Chọn người từ nhiều thành phần để đại diện cho các nhóm khác nhau (có thể xin ý kiến mỗi nhóm về đại diện của họ). Chọn những người được tin 60
-
cậy và muốn làm việc để cải thiện sức khỏe của cộng đồng. Số lượng khoảng 10 người là đủ đại diện các nhóm khác nhau và có điều kiện thảo luận.
-
Tổ chức bầu người lãnh đạo ủy ban sức khỏe lập kế hoạch hành động và định ra lịch thích hợp định kỳ để bàn bạc những vấn đề liên quan và điều hành công việc.
-
Định kỳ báo cáo hoạt động, kết quả, các đánh giá cho lãnh đạo cộng đồng, các nhân viên sức khỏe kể cả các thành viên của cộng đồng.
1.3.3.4. Xây dựng mạng lưới nhân viên sức khỏe cộng đồng Nhân viên sức khỏe cộng đồng là những người gắn bó với cộng đồng được huấn luyện thích hợp để làm vai trò cầu nối giữa cộng đồng và những người có trách nhiệm về y tế. Cụ thể là tiếp xúc với những đối tượng có vấn đề sức khỏe để trao đổi, giải thích, vận động tạo tham gia và đưa họ đến tiếp cận với y tế. Nhân viên sức khỏe cộng đồng được chọn cần có những tiêu chuẩn cụ thể như giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn,.. phù hợp với chương trình sức khỏe can thiệp. 2. Phƣơng tiện truyền thông giáo dục sức khỏe Phương tiện GDSK là công cụ mà người GDSK sử dụng để thực hiện một phương pháp GDSK và qua đó truyền đạt nội dung GDSK tới đối tượng được giáo dục sức khỏe. Các phương tiện GDSK thích hợp sẽ giúp chuyển tải nội dung GDSK thuận lợi. Phân loại phương tiện truyền thông giáo dục sức khỏe: Có nhiều cách phân loại phương tiện truyền thông GDSK nhưng rất khó có một cách phân loại hoàn chỉnh vì các phương tiện GDSK thường được sử dụng phối hợp với nhau trong các chương trình GDSK. 2.1. Phương tiện truyền thông đại chúng Có rất nhiều kênh truyền thông đại chúng khác nhau, phổ biến nhất là Phát thanh, Truyền hình, Báo chí, hiện nay có thêm Internet. Phát thanh Có thể truyền tải các nội dung GDSK dưới nhiều hình thức, rất thích hợp với điều kiện của tuyến cơ sở. Các nội dung GDSK được chuyển tải đến người dân có thể là những bài viết nói chuyện chuyên đề sức khỏe, các cuộc phỏng vấn, hỏi đáp về các vấn đề sức khỏe, câu chuyện truyền thanh, thơ ca, hò vè để nâng cao nhận thức của người dân. Các đài phát thanh thường có một chương trình thường xuyên dành cho nội dung GDSK hoặc phát bổ sung theo chiến dịch mà qua đó các thông điệp GDSK được truyền đi. Yêu cầu nội dung phát thanh phải thiết thực, cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng, phù hợp với nhiều trình độ người nghe. Thời gian phát thanh dài hay ngắn tùy theo nội dung chuẩn bị và kế hoạch định sẵn.
61
Ưu điểm: -
Đưa thông tin đến nhiều người cùng một lúc.
-
Tạo được không khí nhộn nhịp, tạo được dư luận trong nhân dân.
-
Thông tin, thông báo có thể phát lại nhiều lần với chi phí thấp.
-
Giúp đem lại những thông tin cần thiết, để giải trí cho nhiều người kể cả người không biết chữ.
Nhược điểm: -
Thời điểm phát sóng, thời lượng của chương trình.
-
Thông tin chỉ một chiều do đó có thể gây hiểu lầm.
Tuy nhiên, nhược điểm này có thể khắc phục được một phần bằng cách tổ chức những cuộc họp nghe đài nếu bạn biết trước một chương trình về đề tài quan trọng đối với cộng đồng phát trên đài và thông báo cho mọi người biết. Tập hợp mọi người lại một điểm thuận lợi cùng nghe rồi cùng thảo luận với sự giúp đỡ của một hướng dẫn viên đã được huấn luyện. Truyền hình Truyền hình là phương tiện thông tin đại chúng mạnh nhất vì khả năng bao phủ thông tin rộng và tính hiệu quả của nó. Trong lĩnh vực y tế, ở vùng thành thị hay ở vùng nông thôn, truyền hinh được dùng như một phương tiện hỗ trợ rất đắc lực cho các hành vi sức khỏe trong nhiều trường hợp. Theo kết quả nghiên cứu về “Thực trạng công tác Truyền thông GDSK tại 13 tỉnh dự án y tế nông thôn năm 2004” của Trung tâm Truyền thông GDSK Trung ương – Bộ Y tế cho thấy trong các hộ gia đình phương tiện truyền thông chủ yếu là tivi (84.2%), có 47.1% số hộ có đài thu thanh; nguồn thông tin sức khỏe mà người dân thích nghe nhất là từ truyền hình (43.8%)[16]. Ưu điểm: -
Kết hợp hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả năng truyền đạt các nội dung gây ấn tượng, nhớ lâu và có tính thuyết phục cao.
-
Có thể tác động lớn đến mọi người, có thể mở rộng kiến thức, ảnh hưởng đến dư luận công chúng.
Nhược điểm: -
Chi phí thực hiện chương trình truyền hình cao hơn phát thanh.
-
Có thể ảnh hưởng bởi vùng phủ sóng.
Báo chí Báo và tạp chí là một phương tiện tương đối hiệu quả để nâng cao nhận thức của đối tượng về một vấn đề sức khỏe nhất định. Báo và tạp chí tiếp cận được nhiều đối tượng khác nhau như lãnh đạo các ban ngành, cán bộ viên chức, sinh viên học sinh, người lao động,... Báo có thể in những tin tức, tường thuật các sự kiện hoặc viết về một đề tài đặc biệt hoặc các bài xã luận trình bày ý kiến về những vấn đề khác
62
nhau. Ví dụ: một bài tường thuật về việc phát động một chiến dịch tiêm chủng mở rộng, một bài xã luận về y tế có thể động viên mọi người tham gia vào chương trình nước sạch, vệ sinh môi trường. Trong hoạt động GDSK, không thể nào thiếu sự tham gia của báo chí. Ưu điểm: -
Cung cấp các thông tin cập nhật, khoa học về sức khỏe phòng tránh bệnh tật, góp phần quan trọng nâng cao kiến thức y tế cho mọi người.
-
Sử dụng báo/tạp chí rất phổ biến, có thể đọc lại nhiều lần, giữ lại làm tài liệu tham khảo dùng trong các buổi nói chuyện, thảo luận hay buổi họp cộng đồng.
Nhược điểm: -
Đối tượng phải biết chữ, tốn một ít chi phí
-
Khả năng tiếp cận thông tin, thông điệp được thể hiện trên báo ở các đối tượng có khác nhau. Bài viết cần sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, nội dung viết ngắn gọn, súc tích và thích hợp với các đối tượng.
Báo điện tử, Internet Ngày nay, trên thế giới sử dụng internet trong truyền thông GDSK rất phổ biến được xem như là một phương tiện thông tin đại chúng hiện đại. Báo được cung cấp qua mạng internet gọi là báo mạng (báo điện tử). Lượng thông tin rất lớn, đa dạng, cập nhật nhanh. Loại hình này rất thông dụng, đối tượng sử dụng thường là giới trẻ, giới trí thức… với yêu cầu cơ bản là có kiến thức và kỹ năng sử dụng máy tính và internet. Khi sử dụng thông tin từ internet, người sử dụng thường phải chú ý đến người cung cấp thông tin giữa những thông tin thương mại và những thông tin độc lập. Internet có thể sử dụng cho mục đích: -
Thư điện tử
-
Đọc báo qua mạng
-
Cập nhật thông tin và kiến thức
Các ấn phẩm – Tài liệu truyền thông Bên cạnh báo chí, các ấn phẩm cũng là một phương tiện để chuyển tải các thông tin và có một tác dụng đáng kể đặc biệt là tạo sự quan tâm và nâng cao nhận thức người dân trong thực hiện các chương trình sức khỏe. -
Các ấn phẩm nghe nhìn như băng cassette, đĩa tiếng, chương trình phát thanh, bài trình chiếu multimedia,…
-
Các ấn phẩm in trên giấy như sách, sách nhỏ, tờ gấp/tờ rơi, áp phích, tranh lật/tranh tư vấn, v.v…
Các thông tin phản hồi từ các phương tiện GDSK bằng chữ viết thường ít và 63
chậm. Các ấn phẩm bằng chữ viết đòi hỏi phải có nguồn kinh phí để in ấn và phân phát Tờ gấp/Tờ rơi - Tờ gấp là một tờ giấy có thể gấp 2,3 hay 4. Bao gồm phẩn chữ và phần tranh minh họa. Tờ gấp thường chuyển tải nhiều nội dung của một chủ đề. - Tờ rơi có 1 hay 2 mặt có cả phần tranh và phẩn chữ. Tờ rơi có thể là một tranh đơn độc hoặc một bộ nhiều tranh đề cập đến một chủ đề. o Các yêu cầu kỹ thuật chung: - Tranh phải rõ ràng càng đơn giản càng tốt, nên loại bỏ những chi tiết rườm rà không cần thiết để người xem có thể hiểu được. - Tranh vẽ người, vật và cảnh phải phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. - Lời minh họa cho tranh phải ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, có thể viết dưới dạng ca dao, viết ngay phía dưới hay bên cạnh của tranh. - Mầu sắc phải hài hoà, tốt nhất là đen trắng. - Tranh phải mang tính chất khái quát, tính nghệ thuật nhưng không nên quá trừu tượng. - Tranh khôi hài và tranh biếm họa phải dễ hiểu. o Cách sử dụng - Tờ gấp/tờ rơi thường được phát cho từng người tại các buổi mít ting, các cuộc họp, ở nơi công cộng hoặc từng hộ gia đình để mọi người tự đọc, hiểu và làm theo nội dung của tờ gấp/ tờ rơi. - Tờ gấp/tờ rơi còn được dùng trong truyền thông với cá nhân, hoặc trong thảo luận nhóm. Áp phích Áp phích là một tờ giấy khổ lớn, kích thước rộng 60 cm, cao 90cm, với những chữ hoặc hình vẽ (hình chụp) để chuyển tải một nội dung nào đó. Một áp phích đạt được đúng các yêu cầu trên sẽ phục vụ tốt cho mục tiêu truyền thông GDSK. o Yêu cầu kỹ thuật tối thiểu của một áp phích: - Đứng xa 3 m đọc rõ chữ, xa 6 m xem rõ hình. - Ảnh, hình vẽ, lời chú thích phải gọn. - Mỗi áp phích chỉ tập trung vào một chủ đề. o Cách sử dụng áp phích: chủ yếu được treo/dán ở nơi công cộng hoặc sử dụng trong thảo luận nhóm. Treo áp phích - Treo/dán tại những nơi có nhiều người qua lại: chợ , trường học, phòng họp, phòng khám bệnh. 64
- Cần tránh bị mưa gió gây hư hỏng - Treo/dán áp phích ngang tầm mắt để mọi người dễ dàng quan sát - Không để áp phích quá lâu, quá cũ mọi người sẽ chán và không chú ý. - Không nên dán áp phích ở những nơi được coi là thiêng liêng, đặc biệt Tranh lật Tranh lật là một bộ gồm nhiều tờ tranh được trình bày nhiều nội dung của một chủ đề được nối tiếp nhau. Mỗi tờ tranh có hai mặt: Mặt trước là phần hình ảnh minh họa; Mặt sau của tranh là phẩn chữ gồm những nội dung chính cần truyền thông về chủ đề đó. o Cách sử dụng: Tranh lật chỉ dùng trong GDSK với cá nhân hoặc thảo luận nhóm nhỏ. o Bảo quản: Cần nhẹ nhàng khi lật chuyển các trang, tránh bị rách, hỏng. Cất giữ cẩn thận sau khi sử dụng. Sách mỏng Sách mỏng là một loại tài liệu truyền thông thường được sử dụng để cung cấp các thông tin khá chi tiết về một nội dung nhất định nào đó. Sách mỏng rất hữu ích cho những vấn đề nhạy cảm mà đối tượng thường e ngại khi trao đổi trực tiếp. Loại sách này nhẹ, mỏng, có thể cầm và mang theo người dễ dàng. Sách mỏng thường được sử dụng để hỗ trợ các chương trình truyền thông GDSK trực tiếp để cung cấp thêm thông tin và giúp đối tượng đọc thêm hay đọc lại các nội dung đã đề cập. Băng cassette, băng video, đĩa CD Là loại vật liệu truyền thông được sử dụng để ghi âm, ghi hình nội dung truyền thông và được sử dụng với các trang thiết bị đi kèm. Băng cassette, băng video hay đĩa CD là phương tiện nghe nhìn hiện đại, sinh động, hấp dẫn. Loại hình này có thể sử dụng một cách chủ động hơn truyền hình trong công tác truyền thông GDSK. Nó có thể phối hợp với các phương pháp truyền thông trực tiếp như nói chuyện sức khỏe, thảo luận nhóm sẽ đem lại kết quả tốt hơn. o Cách sử dụng: -Sử dụng tốt nhất là trong các cuộc họp đông người tại bệnh viện, trường học, hội phụ nữ, phát trên truyền thông xã (băng cassette). -Mỗi buổi chỉ nên nghe 1 hoặc 2 nội dung trong khoảng thời gian 15 phút. -Băng/Đĩa cần dán nhãn để tiện sử dụng, tránh nhầm lẫn và nên cất giữ trong hộp tránh bụi bẩn. Một số phương tiện nghe nhìn khác Phim đèn chiếu, phim cuộn Cán bộ y tế có thể xây dựng một chủ đề truyền thông GDSK nhất định, có sẵn lời 65
chú thích trên phim với nội dung phù hợp với thực tế địa phương, chiếu trong thời gian 10 - 15 phút, ngoài ra có thể kết hợp sử dụng các phương tiện khác như vô tuyến truyền hình, vi deo.. Kịch, múa rối Cán bộ y tế cần tham gia chỉ đạo về mặt nội dung vở kịch hay múa rối với nội dung nhẹ nhàng, hấp dẫn, dễ đi vào lòng người, nhấn mạnh những điểm cần giáo dục trong khi đạo diễn, diễn viên có thể là người dân địa phương hay cán bộ y tế. Triển lãm Truyền thông-GDSK Người làm công tác truyền thông sử dụng những kết quả đạt được trong công tác GDSK... những kết quả này sẽ được mô tả bằng các loại biểu đồ, hình vẽ, báo cáo để triển lãm nhằm khuyến khích mọi người cùng tham gia. o Tổ chức góc Giáo dục sức khỏe Triển lãm hay góc GDSK là một hình thức GDSK gián tiếp thông qua sự sắp xếp và trình bày các bài viết, hình ảnh, áp phích, vật thật, mô hình, tivi, video hoặc bất cứ vật liệu gì khác nhằm cung cấp thông tin về sức khỏe cho người xem. - Góc GDSK là tổ hợp các thông tin với những mục đích: Thông báo thời sự y tế; Thông tin những điều cần biết về chăm sóc sức khỏe; Thư giãn (các câu đố về sức khoẻ, chuyện vui, thơ, nhạc về chăm sóc sức khỏe; Hộp thư giải đáp thắc mắc và có phản hồi bằng các bài viết trả lời. + Ưu điểm của góc GDSK là không tốn kém nhiều, không cần người có mặt nên là một phương pháp khá tiết kiệm có thể áp dụng rộng rãi. Trong khi một áp phích chỉ trình bày một ý, góc GDSK là sự tổ hợp nhiều thông tin cho một chủ đề. + Nhược điểm vì là hình thức truyền thông gián tiếp nên có thể khiến đối tượng hiểu sai lệch. Vì là gián tiếp không có người giải thích nên các phương tiện GDSK được chọn phải dễ hiểu. Điều kiện thành công của góc GDSK là các vật trưng bày phải hấp dẫn và gây ấn tượng lôi cuốn sự chú ý của người xem. Thực hiện góc GDSK 1) Chọn điạ điểm đặt góc GDSK thường ở những nơi nhiều người lui tới và có thể dừng lại xem. Ví dụ góc chợ, một mảng bức tường ở phòng chờ ở trạm y tế. Điểm đặt cũng cần tránh nơi bị mưa ướt, không bị xé hoặc phá hủy. 2) Chọn các vật liệu phù hợp với khoảng trống đã có để làm nền. Nếu là một khoảng không gian có thể kê bàn để đặt các mô hình. Nếu là bức tường thì có thể sử dụng bảng gỗ hay giấy carton hay bất cứ vật liệu gì khác có thể làm nền. 3) Chuẩn bị vật liệu: áp phích, ảnh, vật thật (Ví dụ: cuộc triển lãm là “Các phương pháp KHHGĐ” có thể trưng bày các dụng cụ tử cung, những viên thuốc tránh thai, bao cao su, vòng tránh thai, các sơ đồ. Nếu cuộc triển lãm là “Thức ăn cho trẻ cai sữa” nên trưng bày các món ăn thực phẩm và các dụng cụ dùng để nấu thức ăn), mô hình (khi không có sẵn hiện vật, ví dụ như một số hoa quả hoặc thức ăn dễ bị ôi thiu; Hiện vật quá lớn hoặc quá bé không thể trưng bày).
66
4) Phải nói rõ mô hình là lớn hơn hay nhỏ hơn so với vật thật. ví dụ cần viết dưới mô hình một con muỗi trong cuộc triễn lãm về bệnh sốt rét “con muỗi sốt rét phóng to 20 lần so với kích thước thật”. 5) Sắp xếp và trình bày các vật liệu theo từng đề mục nhất định. Cố định chặt vào nền. Nếu có tờ gấp/tờ rơi để thêm một hộc nhỏ và thường xuyên bổ sung. Tivi và video nếu có, có thể đặt trong tủ kính hoặc bố trí trên co để dễ theo dõi. 6) Thay đổi hình ảnh, tin bài thường xuyên (mỗi tháng) để phù hợp với tình hình và cũng để tránh nhàm chán. 2.2. Phương tiện trực quan Loại phương tiện này ngày càng phát triển trong GDSK vì nó gây ra các ấn tượng mạnh. Có tác dụng minh họa, bổ khuyết cho lời nói, thích hợp với mọi đối tượng, mọi nơi. Nhưng phải chuẩn bị công phu, sáng tạo, nhiều khi tốn kém. Phương tiện trực quan là những phương tiện truyền đạt thông tin dùng các tín hiệu trực quan (âm thanh thật, hình ảnh, mùi, vị, sờ nắm), không đòi hỏi người nhận phải suy nghĩ trừu tượng. Các phương tiện trực quan thường dùng là: Vật thật Những hiện vật bao giờ cũng có tác dụng mạnh mẽ nhất, có tính thuyết phục nhất, vì người xem có thể cảm thụ được bằng mọi giác quan theo không gian 3 chiều. Mô hình Là bản sao, kích thước thường nhỏ hơn vật thật, có tính hấp dẫn dễ hiểu hơn dùng tranh ảnh, nhưng cũng có mặt hạn chế là dễ làm cho đối tượng truyền thông GDSK hiểu sai về kích thước thật của vật thật. Bảng đen Là dụng cụ rẻ tiền, đơn giản nhất trong các phương tiện trực quan và được sử dụng trong hầu hết các hoàn cảnh. Các ấn phẩm truyền thông: tờ gấp/tờ rơi, áp phích, khẩu hiệu, pa nô,v.v... o Cách sử dụng các phương tiện trực quan: - Các loại phương tiện trực quan GDSK dùng để minh họa làm sinh động các nội dung giáo dục. -
Khi sử dụng các tranh ảnh cần lưu ý là không nên đưa nhiều nội dung vào một hình thức.
-
Việc sắp xếp các hình ảnh cũng cần theo thứ tự hợp lý tạo thuận lợi cho đối tượng tư duy một cách hệ thống.
-
Cần tiến hành thử nghiệm trước các loại phương tiện trực quan trước khi sản xuất hàng loạt để tránh gây lãng phí kinh tế mà không hiệu quả.
67
o Ưu điểm: - Phương tiện trực quan gây ấn tượng mạnh giúp đối tượng dễ cảm nhận, nhớ lâu và hình dung các vấn đề một cách dễ dàng. - Các nội dung giáo dục thường được đưa ra ngắn gọn đơn giản thông qua hình ảnh. Các phương tiện này có tác động đến nhiều người vì thường được sử dụng ở những nơi công cộng. 2.3. Phương tiện bằng lời nói Lời nói là công cụ được sử dụng rộng rãi và rất có hiệu quả trong GDSK nhất là lời nói trực tiếp với đối tượng. Sử dụng lời nói có thể chuyển tải các nội dung giáo dục một cách linh hoạt phù hợp với đối tượng. o Ưu điểm: -
Có thể được dùng trực tiếp hay gián tiếp để chuyển tải các nội dung GDSK
-
Lời nói rất tiện lợi và mang lại hiệu quả cao, có thể sử dụng mọi nơi, mọi chỗ. Lời nói có thể sử dụng với một người, một gia đình, một nhóm nhỏ, hay một số đông người.
-
Lời nói thường được dùng hỗ trợ phối hợp với các phương tiện khác như : tranh ảnh, pa-nô, áp phích, mô hình,...
o Nhược điểm: Sử dụng lời nói đòi hỏi khả năng và năng khiếu của người GDSK. Nếu người nói không nắm chắc nội dung truyền đạt có thể dẫn đến diễn đạt không chính xác, cung cấp thông tin một chiều và gây hiểu lầm cho đối tượng. 2.4. Lựa chọn phương tiện truyền thông giáo dục sức khỏe Mỗi phương tiện truyền thông giáo dục sức khỏe đều có những ưu điểm riêng, nhưng cũng đều có mặt hạn chế là thông tin chỉ có một chiều. Các phương tiện nghe nhìn thường gây sự hứng thú, dễ lôi cuốn sự chú ý tham gia của nhiều người, gây ấn tượng sâu sắc cho đối tượng được giáo dục vì nó tác động lên cả hai cơ quan thị giác và thính giác. Tuy nhiên, sử dụng phương tiện nghe nhìn thường đắt, sản xuất ra các phương tiện này thường tốn nhiều thời gian, kinh phí và phải có những điều kiện bắt buộc khi sử dụng như hội trường, tivi, đầu máy và cần người biết vận hành bảo quản và sử dụng các phương tiện. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy các phương tiện sử dụng trong GDSK rất đa dạng. Không có một loại phương tiện nào là ưu điểm tuyệt đối cũng như không có một loại phương tiện nào là hoàn toàn không có hiệu quả. Vấn đề quan trọng nhất là người thực hiện công tác GDSK nên lựa chọn phương tiện nào cho phù hợp với nội dung giáo dục, trình độ của đối tượng giáo dục, điều kiện thực tế, nguồn lực và phương tiện sẵn có của địa phương. Một vài ví dụ: Đối với người học vấn hạn chế, sử dụng các phương pháp nói chuyện, thảo luận nhóm… sẽ có tác dụng tốt hơn sách, báo…; Sử dụng đài phát thanh, truyền hình sẽ không tiếp cận được với những người không có phương tiện thông tin này. 68
Mỗi phương pháp và phương tiện GDSK đều có điểm yếu và điểm mạnh riêng, khi được kết hợp tốt sẽ phát huy được thế mạnh và hạn chế được điểm yếu của từng loại. Các câu hỏi khi lựa chọn phương tiện 1) Phương tiện nào thích hợp với nội dung và phương pháp giáo dục? (phương tiện có giúp chuyển tải đúng đủ nội dung giáo dục không?) 2) Phương tiện đó có phù hợp với đối tượng giáo dục không? 3) Phương tiện đó có được cộng đồng chấp nhận không? (có phù hợp với phong tục tập quán, văn hoá của địa phương không?) 4) Phương tiện đó có sẵn và có đủ các điều kiện để sử dụng ở địa phương không? 5) Cán bộ GDSK có kỹ năng sử dụng các phương tiện đó không? 6) Giá thành sản xuất và sử dụng các phương tiện đó có chấp nhận được không? 7) Kết quả dự kiến đạt được có tương xứng với nguồn lực đầu tư không? 3. Thử nghiệm tài liệu, phƣơng tiện GDSK Thử nghiệm tài liệu, phương tiện nghe nhìn GDSK là một bước không thể bỏ qua cho dù các bước trước đó có làm tốt hay không. Thử nghiệm trước (pre-test) tài liệu, phương tiện GDSK là để xác định phản ứng của đối tượng với bản thảo tài liệu truyền thông (về nội dung, hình thức, hình ảnh, chữ viết, bố cục, màu sắc…) trên thực địa. Nhờ thử nghiệm chúng ta có thể được đối tượng có hiểu được ý định, nội dung không? Họ có thích và chấp nhận tài liệu không? Và căn cứ vào đó để hoàn chỉnh tài liệu trước khi xuất bản. 3.1. Ý nghĩa của việc thử nghiệm -
Đảm bảo chất lượng của tài liệu: xem tài liệu có đáp ứng được các tiêu chuẩn của một tài liệu truyền thông tốt hay không? Tài liệu chỉ được in ấn và phân phối khi đối tượng hiểu được và ưa thích tài liệu đó.
-
Hiệu quả kinh tế: Nếu không thử nghiệm tài liệu làm ra không có hiệu quả, lãng phí tiền bạc, thời gian, nhân lực và vật lực. Khi in ấn với số lượng lớn mà không thử nghiệm thì lãng phí càng lớn.
3.2. Các phương tiện GDSK cần thử nghiệm Tờ gấp/tờ rơi, áp phích, tranh tuyên truyền, tranh lật, chương trình truyền thanh truyền hình, phim Video… 3.3. Các phương pháp thử nghiệm 3.3.1. Đối tượng thử nghiệm: -
Là đối tượng truyền thông đích và những người sẽ sử dụng tài liệu truyền thông sau này.
-
Số đối tượng thử nghiệm cho một tài liệu: tùy theo câu trả lời. Nếu phần lớn câu trả lời tốt thì nên thăm dò 20-30 người. Nếu ý kiến tản
69
-
mạn quá thì thăm dò đến 50 người. Nếu có khoảng 20 người đều không hiểu như nhau thì nên vẽ lại tranh.
3.3.2. Phương pháp thử nghiệm: o Có 2 phương pháp chính: phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm Lưu ý: Đối tượng phỏng vấn cá nhân không được trùng với đối tượng phỏng vấn nhóm. o Các loại câu hỏi trong thử nghiệm: -
Nên dùng nhiều câu hỏi mở liên tiếp
-
Nên ít dùng câu hỏi đóng
-
Không dùng câu hỏi dẫn dắt
-
Nội dung các câu hỏi thường là: + Câu hỏi về nhận thức: Hỏi nội dung tài liệu nói gì? Làm như thế nào? Khi nào làm? Điều gì không rõ ràng, nhầm lẫn?... + Câu hỏi về sự hấp dẫn: Điều gì thích, điều gì không thích, màu sắc, bố cục, cách trình bày…) + Câu hỏi về sự chấp nhận: tài liệu có phù hợp với kinh tế, văn hóa của địa phương không? Có tin tưởng không? + Câu hỏi về sự khích lệ hành động: Tài liệu nhắc nhỡ làm những điều gì? Có làm theo được không?
o Thử nghiệm tài liệu nào thì phải thiết kế bộ câu hỏi riêng cho tài liệu đó. 3.4. Các bước tiến hành thử nghiệm 3.4.1. Chuẩn bị trước khi thử nghiệm -
Xác định mục tiêu thử nghiệm
-
Xác định đối tượng thử nghiệm
-
Xác định địa điểm thử nghiệm
-
Xác định thời gian
-
Lựa chọn nhóm thử nghiệm + Tùy tài liệu muốn thử nghiệm mà nhóm có thể ít hoặc nhiều người + Là những người tham gia phát triển tài liệu, được tập huấn về thử nghiệm tài liệu. + Nhóm có 2 người: một người hỏi và người còn lại ghi chép câu trả lời
-
Chuẩn bị bản phác thảo tài liệu thử nghiệm
-
Thiết kế bộ câu hỏi thử nghiệm
-
Chuẩn bị phương tiện, kinh phí
70
3.4.2. Tiến hành thử nghiệm tại thực địa -
Giới thiệu các phỏng vấn viên, sau đó trình bày kế hoạch công việc.
-
Phân nhóm đối tượng và địa điểm
3.4.3. Phân tích kết quả thử nghiệm 3.4.4. Báo cáo kết quả thử nghiệm 3.5. Các tiêu chuẩn của một phương tiện trực quan tốt 1) Rõ ràng 2) Dễ hiểu 3) Hấp dẫn 4) Cấu trúc cân đối 5) Màu sắc hài hòa 6) Dễ chấp nhận 7) Thúc đẩy hành động 8) Một chủ đề nhất định
TÓM LẠI Lựa chọn phương pháp và các phương tiện hỗ trợ trong quá trình TT-GDSK phụ thuộc vào những mục tiêu mong muốn đạt được, cũng như phụ thuộc vào đối tượng đích và các nguồn lực có được. Thêm vào đó cần phải xem xét giá cả thực tế, sự phức tạp và khả năng thực thi. Linh hoạt trong chọn lựa các phương pháp và phương tiện TT-GDSK, biết dựa vào cảnh thực tế là một trong các yếu tố quan trọng góp phần cho sự thành công của các chương trình TT-GDSK tại cộng đồng.
CÂU HỎI LƢỢNG GIÁ Câu 1. Trình bày khái niệm về phương tiện và phương pháp TT-GDSK? Câu 2. Trình bày các phương tiện TT-GDSK? Câu 3. Trình bày các phương pháp TT-GDSK? Câu 4. Trình bày các bước GDSK cho cá nhân? Câu 5. Trình bày các bước tổ chức nói chuyện GDSK? Câu 6. Trình bày các bước tổ chức thảo luận nhóm? Câu 7. Trình bày các phương pháp TT-GDSK gián tiếp (thông tin đại chúng)?
71
Bài 6.
KỸ NĂNG TRUYỀN THÔNG - GIÁO DỤC SỨC KHỎE MỤC TIÊU Sau bài học này học viên có khả năng: 1. Trình bày được các yêu cầu cần thiết trong thực hiện GDSK. 2. Trình bày được các kỹ năng truyền thông GDSK. 3. Ứng dụng được các kỹ năng TT - GDSK trong công việc hàng ngày để GDSK cho cá nhân, cho nhóm, cho cộng đồng.
NỘI DUNG 1. Các yêu cầu cần thiết để truyền thông giáo dục sức khỏe có hiệu quả Để thực hiện việc truyền thông -GDSK có hiệu quả, cần thiết phải có một số yêu cầu sau: Người thực hiện truyền thông-GDSK: Trước tiên, để có được kỹ năng truyền thông, người làm công tác giáo dục sức khỏe cần phải nắm được các kiến thức cơ bản sau: - Kiến thức về y học - Kiến thức về khoa học hành vi - Kiến thức về tâm lý học - Kiến thức về giáo dục học nói chung và kiến thức về giáo dục y học nói riêng. - Hiểu biết về phong tục, tập quán địa phương, văn hóa xã hội, kinh tế, chính trị của cộng đồng. Ngoài ra, muốn đạt hiệu quả cao trong truyền thông- GDSK như đã đề cập ở các phần trên người làm công tác giáo dục sức khỏe phải biết chọn: -
Đúng thời gian: ví dụ khi làm việc với nông dân cần biết khi nào họ làm việc, khi nào họ nghỉ. Phụ nữ thường có những thời gian làm việc nhất định ở nhà và ra khỏi nhà. Tổ chức thảo luận hay họp phải tổ chức vào thời gian đối tượng không bận việc.
-
Chọn địa điểm thuận tiện: chọn những nơi mà đối tượng thường tụ họp để giáo dục sức khỏe như ở các câu lạc bộ, trường học, chợ, đình, chùa...
-
Biết lôi kéo cộng đồng tham gia vào các hoạt động.
-
Biết sử dụng các phương tiện truyền thông, thông tin đại chúng có sẵn tại địa phương.
72
-
Thử nghiệm cẩn thận các phương pháp và phương tiện giáo dục sức khỏe trước khi sử dụng rộng rãi.
73
Đối với thông điệp giáo dục sức khỏe Soạn thảo một thông điệp truyền thông GDSK là một việc làm quan trọng, nó chứa đựng ý tưởng của người làm truyền thông GDSK. Như chúng ta đã biết, quá trình chấp nhận ở con người không phải quá trình kỹ thuật mà là quá trình tâm lý. Con người không chấp nhận mọi thứ đang diễn ra xung quanh mình một cách thụ động. Bộ não luôn lựa chọn và hướng sự chú ý đến cái được xem là quan trọng và những điều này sẽ được lưu giữ trong bộ não. Mức độ tiếp nhận thông điệp của đối tượng phụ thuộc nhiều vào một số đặc điểm của thông điệp. Thông điệp chỉ được chấp nhận khi nó phù hợp với thực hành, thái độ, niềm tin và giá trị của người tiếp nhận; Thông điệp đó cần hay có ích lợi cho họ. Bảy nguyên tắc của thông điệp hiệu quả (7C’s) [17]: 1- Thu hút sự chú ý của đối tượng (Command attention) 2- Phù hợp với tâm lý và tình cảm của đối tượng(Cater to the heart & the head) 3- Thông điệp rõ ràng (Clarify the message) 4- Nêu rõ lợi ích (Communicate a benefit) 5- Tạo được sự tin tưởng (Create trust) 6- Đảm bảo tính nhất quán (Consistency) 7- Kêu gọi hành động (Call to action) Khi xây dựng thông điệp truyền thông cần lựa chọn các sắc thái của thông điệp: -
Lựa chọn các thông điệp mang tính tích cực, không nên áp đặt, đe dọa;
-
Thông điệp mang tính hài hước nhưng cũng đi đôi với nghiêm túc, đảm bảo chính xác;
-
Thông điệp tình cảm nhưng cũng đi kèm với lý trí và khích lệ cộng đồng cùng tham gia.
Chọn lựa kênh truyền thông Người làm công tác GDSK phải lựa chọn kênh truyền thông, chuẩn bị kỹ các phương tiện truyền thông để làm cho truyền thông có hiệu quả. -
Kênh truyền thông phải phù hợp với đối tượng.
-
Các phương tiện, thiết bị truyền thông phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ví dụ: phương tiện nghe nhìn phải đảm bảo các hình ảnh, âm thanh rõ, không bị gián đoạn, vv…
-
Chuyển tải thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ.
2. Các kỹ năng thƣờng sử dụng trong TT-GDSK Trong thực tế, chúng ta có thể nhận thấy là khả năng truyền thông-GDSK có hiệu quả rất khác nhau ở người này và người khác. Đó là do mỗi người có những kỹ 74
năng truyền thông - GDSK khác nhau. Để công tác truyền thông -GDSK được thực hiện có hiệu quả, người cán bộ y tế có thể học tập rèn luyện các kỹ năng sau: 2.1. Kỹ năng nói Lời nói là một công cụ giao tiếp diễn ra hàng ngày, mọi lúc, mọi nơi. Trong truyền thông-GDSK, lời nói trực tiếp thường đem lại hiệu quả cao nhất. Rõ ràng, “nói” là việc mà chúng ta thường làm nhưng nói như thế nào để đối tượng dễ nhớ, dễ làm thì lại cần phải rèn luyện. Nói cần đúng lúc, đúng chỗ... Chúng ta có câu châm ngôn rất có ích cho việc rèn luyện kỹ năng nói: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau ...”. Kỹ năng nói là khả năng sử dụng lời nói để truyền đạt thông tin, diễn đạt ý tưởng một cách chính xác, phù hợp, sinh động và có sức thuyết phục. Mỗi người có thể làm cho cách nói có hiệu quả hơn bằng cách áp dụng các nguyên tắc cơ bản khi nói: - Nói rõ ràng - Nói chính xác - Nói đầy đủ - Nói theo hệ thống và logic - Thuyết phục được đối tượng - Giọng nói, cần phải đảm bảo: + Âm điệu: nói với tốc độ vừa phải, tránh nói quá nhanh hay quá chậm + Âm lượng: nói với mức độ to vừa phải, không nói quá to hay quá nhỏ + Âm sắc: ngữ điệu của lời nói. Cần thể hiện điểm nhấn trong lời nói. Tùy theo chủ đề đang nói mà có lúc lên giọng, xuống giọng, ngừng, nghỉ hợp lý khi nói. Không nói đều đều rất dễ gây nhàm chán. Cần tránh các yếu tố gây khó chịu người nghe như: phát âm sai; nói sai văn phạm; dùng từ chuyên môn khó hiểu; nói lan man, dài dòng; nói lầm bầm hay dùng các từ đệm; khịt mũi,… Trong lời nói, cần quan tâm đến nói cái gì, âm lượng, tốc độ giọng nói phải phù hợp. Ngôn ngữ sử dụng khi giao tiếp phải thống nhất, không nên dùng từ một cách cầu kỳ, hoa mỹ mà nên dùng từ dễ hiểu. Nhưng chúng ta cũng có thể thấy là chỉ nói thì không đủ mà cần phải có thông tin phản hồi. Tốt nhất là nên kết hợp nói với làm hoặc chỉ cho người ta thấy được nếu có thể. 2.2. Kỹ năng đặt câu hỏi Trong truyền thông –GDSK trực tiếp, kỹ năng đặt câu hỏi đóng vai trò rất quan trọng. Đặt câu hỏi chính xác sẽ có được thông tin phản hồi, hướng dẫn theo các ý tưởng, lời khuyên, hành động... Cần tỏ thái độ đúng khi hỏi đối tượng.
75
o Mục đích của việc đặt câu hỏi -
Tạo bầu không khí sôi nổi, duy trì và thúc đẩy quá trình giao tiếp theo hướng tích cực, tập trung sự chú ý của đối tượng;
-
Kiểm tra nhận thức và thái độ của đối tượng;
-
Kích thích và định hướng tư duy của đối tượng;
-
Thu thập các thông tin mới và các thông tin phản hồi để đánh giá mức độ hiểu biết thông tin;
-
Thăm dò các phản ứng của đối tượng, tìm ra nguyên nhân để giải quyết, điều chỉnh kịp thời và qua đó cho lời khuyên, hành động;
-
Thu hút mọi người cùng tham gia, chia sẻ kinh nghiệm với nhau;
-
Bản thân tránh được thói quen nói nhiều.
o Các loại câu hỏi - Câu hỏi đóng: + Câu trả lời “Có” hoặc “Không”. Ví dụ: Chị có rửa tay cho con chị bằng xả phòng trước khi cho con ăn và sau khi con đi vệ sinh không? + Câu hỏi đóng đưa lại ít thông tin và đối tượng dễ trả lời theo ý của người hỏi. - Câu hỏi mở: + Là câu hỏi thường dùng các từ như Tại sao? Khi nào? Bao lâu? Như thế nào? Cái gì? Ở đâu? Ví dụ: Theo anh thì hút thuốc lá có tác hại gì? + Câu hỏi mở đem lại nhiều thông tin vì người được hỏi phải suy nghĩ và trả lời theo suy nghĩ và hiểu biết của họ. Cần sử dụng nhiều câu hỏi mở để khai thác thông tin chính xác. - Câu hỏi dẫn dắt: là những câu hỏi định hướng câu trả lời. o Các yêu cầu khi đặt câu hỏi - Câu hỏi phải rõ ràng, súc tích; - Câu hỏi phải ngắn gọn, đầy đủ ý và không cần phải giải thích trả lời; - Phù hợp với trình độ hiểu biết và kinh nghiệm của đối tượng; - Tập trung vào vấn đề trọng tâm; - Kích thích tư duy, suy nghĩ của đối tượng; - Sau khi đặt câu hỏi nên giữ im lặng; - Chỉ nên hỏi từng câu hỏi một; - Nên hỏi xen kẽ giữa câu hỏi đóng và câu hỏi mở; 76
77
- Kết hợp các câu hỏi dễ và câu hỏi khó, câu hỏi chung và câu hỏi cụ thể liên quan đến nội dung TT-GDSK; - Cần tránh các câu hỏi có thể làm cho đối tượng cảm thấy bị xúc phạm. - Tránh đặt các câu hỏi dẫn dắt. 2.3. Kỹ năng lắng nghe Lắng nghe có nghĩa là người ta có thể “nắm bắt và hiểu được các nội dung, dù các nội dung đó được truyền đạt bằng lời hay không lời, một cách rõ rệt hay mập mờ” Đây là kỹ năng rất quan trọng để giúp phát triển các kỹ năng giao tiếp khác, là một nghệ thuật tinh tế để ta hiểu rõ người khác và cũng hiểu ngay cả chính mình. Nhưng người ta lại thường không chịu chăm chú lắng nghe, nên chỉ nghe được những điều mình muốn nghe, từ đó dẫn đến việc hiểu sai lệch các thông tin nhận được. Chúng ta đều biết rằng việc mọi người không lắng nghe sẽ làm nảy sinh khó khăn trong mối quan hệ của họ. Và chúng ta đều biết rằng khi gặp một người lắng nghe tốt, chúng ta thích thú khi ở bên họ. Nghe là tiến trình bị động nhưng lắng nghe là tiến trình chủ động. Lắng nghe tốt là khả năng ngừng suy nghĩ và làm việc của mình để hoàn toàn tập trung vào những gì mà ai đó đang nói. Lắng nghe tốt không đến một cách tự nhiên và dễ dàng. Vì vậy, cần phải rèn luyện kỹ năng lắng nghe thì mới có thể dẫn đến hoạt động tiếp theo trong quá trình giao tiếp. o Lợi ích của việc lắng nghe: - Thỏa mãn và đáp ứng nhu cầu của người nói; - Có được thông tin đúng, đủ để thực hiện hành động đúng; - Có được thông tin phản hồi để biết liệu thông tin truyền đi có được hiểu đúng hay không? - Có thêm nhiều thông tin và ý tưởng; - Giảm nguy cơ bị mất thông tin; - Khuyến khích người được truyền thông nói với ta nhiều hơn. o Các yêu cầu khi lắng nghe: -
Loại bỏ những vật cản giữa bạn và đối tượng;
-
Ngồi ngang tầm với đối tượng;
-
Sử dụng tốt các giao tiếp không lời như giao tiếp bằng mắt, gật đầu, mĩm cười, nét mặt cởi mở, tươi tắn, bằng các câu nói mang tính khích lệ “thế à”, “hay thật”, “thích nhỉ”…
-
Yên lặng, chăm chú lắng nghe để nghe thấu được ý kiến, tình cảm, động cơ của người nói;
-
Đặt câu hỏi và dùng từ ngữ quen thuộc, dễ hiểu;
-
Khi lắng nghe cần tránh:
78
+ Cử chỉ, thái độ lơ đãng với người nói, coi thường câu chuyện của họ; + Cắt ngang lời người nói hoặc giục người nói kết thúc nhanh câu chuyện; + Không làm việc khác hoặc tỏ ra vội vã; + Nói chen vào hoặc tỏ ra sốt ruột, khó chịu với người nói; + Tránh dùng những lời phê phán: những từ như đúng, sai, không tốt, không thích hợp v.v…. Nếu bạn sử dụng những từ này khi hỏi sẽ làm cho đối tượng cảm thấy có lỗi hoặc có điều gì sai sót. 2.4. Kỹ năng quan sát Kỹ năng quan sát là sử dụng mắt để thu thập thông tin. Quan sát là một hình thức khác của lắng nghe, nó đòi hỏi sự chú ý và suy xét. Thông tin thu thập bằng quan sát cùng với kỹ năng lắng nghe cung cấp, bổ sung thêm những thông tin tiềm ẩn bên trong lời nói. Bằng quan sát, người truyền thông có thể thấy được người nhận thông tin có đúng không. Liệu người nhận có yêu cầu thêm thông tin nữa không và liệu họ có sẵn sàng hành động hay không. Quan sát những người truyền thông cũng chỉ ra cho ta thấy liệu họ có rõ điều mà họ muốn nói hoặc họ có cần thêm sự giúp đỡ của người khác hay không. o Những gì cần quan sát khi truyền thông trực tiếp: -
Môi trường và bầu không khí của cuộc giao tiếp;
-
Thái độ tích cực hoặc tiêu cực của đối tượng, có tập trung chú ý hay không;
-
Các hành vi, cử chỉ của từng đối tượng;
-
Các mối tương giao giữa các đối tượng với nhau;
-
Các nội dung và phương pháp giao tiếp có phù hợp hay không;
-
Các thông tin phản hồi thể hiện bằng ngôn ngữ có lời và không lời…
o Các kỹ năng quan sát: - Bao quát tất cả các đối tượng và tập trung vào từng cá nhân; - Phát hiện được những biểu hiện khác thường ở đối tượng để điều chỉnh; - Nhắc nhở, thu hút sự chú ý của đối tượng; - Động viên sự tham gia tích cực của đối tượng; - Giữ thái độ thoải mái, vui vẻ, cởi mở, tôn trọng đối tượng; - Kết hợp nhìn và lắng nghe từ nhiều góc độ khác nhau. 2.5. Kỹ năng hiểu Hiểu có nghĩa là người nhận thông điệp có thể trình bày thông điệp họ nhận được bằng ngôn từ của họ và suy nghĩ của họ. Người nhận thông điệp hiểu rõ điều mong đợi họ cần thiết là vì lý gì, họ cần làm khi nào, làm ở đâu, làm như thế nào. . . Nếu còn nghi ngờ điều gì thì người nhận thông điệp cần phải hỏi thêm cho rõ.
79
2.6. Kỹ năng thuyết phục Thuyết phục cũng là một yếu tố cơ bản nếu người nhận thông điệp cần làm những việc mà người gửi yêu cầu. Cần làm cho người nhận tin tưởng vào người gửi và tin là thông điệp của người gửi là chính xác. Cũng cần lưu ý là người ta thường có khuynh hướng đáp ứng tốt hơn theo hướng các lý do về tình cảm hơn là chỉ có lý do thực hành đơn thuần và vì thế chúng ta cần sử dụng tình cảm đúng đắn để thuyết phục người nhận mệnh lệnh hay thông điệp. o Các yêu cầu khi thuyết phục: - Nắm chắc vấn đề cần thuyết phục kết hợp với giải thích; - Giải thích ngắn gọn, đầy đủ vấn đề; - Sử dụng từ ngữ dễ hiểu; - Sử dụng các ví dụ và tranh ảnh, tài liệu minh họa để thuyết phục nếu có; - Tôn trọng và lắng nghe người đối thoại; - Giải thích tất cả mọi câu hỏi mà đối tượng đã nêu ra; - Cần có thái độ kiên trì khi thuyết phục; - Không nên thuyết phục dài dòng, lan man. 2.7. Kỹ năng giải thích Giải thích là một trong những kỹ năng chính của truyền thông – GDSK. Trong quá trình GDSK, người làm công tác này cần nắm vững các nội dung liên quan đến chủ đề, đến vấn đề sức khỏe mà đối tượng quan tâm; cần có kỹ năng giải thích vấn đề tốt để giúp đối tượng được truyền thông hiểu rõ hơn vấn đề, giúp họ thay đổi hành vi. o Các yêu cầu khi giải thích: -
Tập trung vào giải thích vấn đề được yêu cầu;
-
Giải thích một cách trình tự, logic, đầy đủ, rõ ràng;
-
Sử dụng từ ngữ dễ hiểu, phù hợp với văn hóa địa phương;
-
Sử dụng các phương tiện trực quan để minh họa, giải thích;
-
Dành thời gian để giải thích, trình bày một cách đầy đủ khi có những vấn đề vướng mắc, những câu hỏi đối tượng đặt ra;
-
Luôn thể hiện sự tôn trọng đối tượng khi giải thích hoặc trả lời câu hỏi;
-
Giải thích xong nên kiểm tra lại nhận thức của đối tượng.
2.8. Kỹ năng khuyến khích, động viên, khen ngợi Khuyến khích, động viên, khen ngợi cũng có vai trò quan trọng trong truyền thông GDSK. Mục đích động viên, khen ngợi nhằm giúp cho đối tượng được GDSK tự tin, phấn khởi, tạo sự tham gia tích cực, dễ chấp nhận những lời khuyên và quyết định thực hiện các vấn đề liên quan đến sức khỏe của họ.
o Các yêu cầu khi khuyến khích, động viên:
80
-
Cố gắng tìm những điểm tốt dù là nhỏ của đối tượng để khen ngợi, khuyến khích nhằm động viên, tạo sự tự tin cho họ;
-
Không phê phán những hiểu biết sai, những việc làm chưa đúng hay chưa làm của đối tượng một cách gay gắt;
-
Tạo cơ hội để mọi đối tượng tham gia qua các câu hỏi;
-
Tạo điều kiện tiếp tục hỗ trợ đối tượng thực hiện theo những yêu cầu hay thực hành những kỹ năng cần thiết.
2.9. Kỹ năng sử dụng tài liệu truyền thông GDSK Tài liệu truyền thông không chỉ là phương tiện để hỗ trợ cho người làm truyền thông truyền đạt nội dung một cách cụ thể, hấp dẫn mà còn là công cụ giúp cho đốitượng tiếp cận với các kiến thức, kỹ năng mới. Vì vậy, người làm công tác này cần có kỹ năng sử dụng các tài liệu truyền thông là rất quan trọng. o Các yêu cầu khi sử dụng tài liệu: -
Cần chuẩn bị đầy đủ những tài liệu, phương tiện, vật liệu truyền thông liên quan;
-
Chọn lựa những tài liệu phù hợp với chủ đề, trình độ của đối tượng, phong tục tập quán của địa phương;
-
Sử dụng các tài liệu truyền thông thích hợp để làm rõ nội dung, tăng hiệu quả truyền thông GDSK;
-
Sử dụng các tài liệu, vật liệu truyền thông đã được chính thức lưu hành, có cơ sở khoa học;
-
Để mọi đối tượng nhìn rõ và đọc được tài liệu.
2.10. Chọn thời gian truyền thông - Giáo dục sức khỏe Thời gian cũng là một yếu tố quan trọng góp phần làm cho truyền thông có hiệu quả. - Truyền thông quá muộn: điều này thường xảy ra khi chúng ta quên gửi đi các thông điệp cần thiết do công việc bận rộn hoặc các trở ngại khác. Truyền thông quá muộn có nghĩa là người nhận có ít hoặc không có thời gian để đáp ứng hoặc yêu cầu thêm thông tin của người truyền thông cho việc lập kế hoạch hành động. Hậu quả của truyền thông quá muộn là người nhận không thoải mái dẫn đến công việc không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. - Truyền thông quá sớm: có thể làm người nhận quên hoàn toàn hoặc quên một phần thông điệp. Nếu người gửi muốn truyền đi thông điệp một thời gian dài trước khi muốn có đáp ứng với thông điệp thì phải theo dõi và cần nhắc lại thông điệp đó. 2.11. Chọn đối tượng truyền thông và địa điểm để truyền thông Có rất nhiều nội dung giáo dục sức khỏe nhưng không phải nội dung nào cũng phù hợp với tất cả đối tượng. Người làm công tác GDSK cần phải xác định rõ đối tượng cần truyền thông là ai. Ví dụ: phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, trẻ em vị thành niên, người cao tuổi,… 81
Một điều đơn giản là nếu không chọn đúng người cần truyền thông thì thông điệp sẽ không được thực hiện, vì vậy chọn đúng đối tượng đích để truyền thông sẽ là yếu tố quyết định việc đạt được mục tiêu của truyền thông. Chọn địa điểm Nơi để truyền thông cũng góp phần quan trọng cho việc tiếp nhận các thông điệp dẫn đến phản ứng của người nhận thông điệp. Trong thực tế, đôi khi cùng một thông điệp nhưng nếu chúng ta biết chọn nơi thích hợp truyền thông cho người này sẽ có hiệu quả, nhưng cũng với thông điệp đó, ở nơi đó với người khác chưa chắc đã có hiệu quả. Vì thế, chúng ta cần cân nhắc để chọn nơi truyền thông cho phù hợp. 3. Ứng dụng các kỹ năng truyền thông - GDSK vào một tình huống cụ thể (giao tiếp giữa thầy thuốc và bệnh nhân, thân nhân, gia đình bệnh nhân) 3.1. Tầm quan trọng của việc đào tạo các kỹ năng giao tiếp giữa thầy thuốc và bệnh nhân, thân nhân gia đình bệnh nhân Hàng ngày, chúng ta luôn phải tiếp xúc với bạn bè, đồng nghiệp, bệnh nhân, thân nhân của người bệnh và người dân có nhu cầu chăm sóc sức khỏe trong những hoàn cảnh, tình huống rất khác nhau và những mục đích cũng rất khác nhau,…Trong quá trình tiếp xúc này có sự trao đổi thông tin, giải quyết vấn đề đưa ra các giải pháp để lựa chọn cho sự quyết định, thuyết phục đối tượng,.… Trong tiếp xúc, một lời nói, một cử chỉ có thể tạo ra một ấn tượng tốt đẹp, một sự tin cậy, một cảm xúc tích cực và cũng có thể làm mất lòng lòng nhau, làm tổn hại đến sức khỏe (stress) và khả năng hoạt động của con người. Trong công tác của người cán bộ y tế, việc tự rèn luyện kỹ năng giao tiếp rất cần thiết. Biết lắng nghe người khác nói, biết cách thuyết phục, khuyến khích đối tượng tham gia trong quá trình điều trị,...bất kỳ cương vị nào, trong bất kỳ tình huống nào. Do đó, học các kỹ năng giao tiếp chính là một trong những môn học bắt buộc trong suốt cuộc đời một con người để làm người và để giúp ích cho nhiều người, đặc biệt đối với những người làm công tác trong lĩnh vực CSSK cho mọi người. o Lợi ích từ việc đào tạo các kỹ năng giao tiếp để nâng cao các kỹ năng lâm sàng, kỹ năng ra quyết định…: -
Hội chẩn có hiệu quả hơn
Kỹ năng giao tiếp mang lại các hội chẩn có giá trị hơn cho cả thầy thuốc và bệnh nhân. Giao tiếp tốt có thể giúp khai thác bệnh sử và giải quyết vấn đề một cách chính xác hơn, hiểu rõ hơn những vấn đề bệnh nhân quan tâm. Kỹ năng giao tiếp sẽ giúp chúng ta hỗ trợ bệnh nhân nhiều hơn. Đặc biệt, nhấn mạnh đến việc ứng dụng kỹ năng giao tiếp một cách thích hợp sẽ giúp chúng ta luyện tập kỹ năng ngày càng tốt hơn. Việc cải thiện kỹ năng không thích hợp trong sự thúc ép về mặt thời gian là đều không nên làm. Việc rèn luyện phải gắn liền với việc hành nghề trong thực tế. -
Cải thiện các tác động y tế
82
Giao tiếp có hiệu quả có thể cải thiện các tác động của y tế trên người bệnh. Việc sử dụng các kỹ năng cá nhân để nâng cao các tham số chăm sóc: sự hài lòng, sự kiên định chiến thắng bệnh tật, giảm nhẹ các triệu chứng và tác động sinh lý học. Giao tiếp có thể nâng cao ảnh hưởng của thầy thuốc. Việc sử dụng các kỹ năng giao tiếp phù hợp không chỉ nâng cao sự thỏa mãn của bệnh nhân với thầy thuốc mà còn giúp thầy thuốc cảm thấy ít thất vọng và hài lòng với công việc hơn. -
Sự phối hợp các bên
Các kỹ năng giao tiếp – là phương tiện hữu hiệu trong hệ thống điều trị và chăm sóc sức khỏe nhằm lấy ‘người bệnh làm trọng tâm’. Nâng cao sự phối hợp các bên giữa bệnh nhân và thầy thuốc. Mang lại hiệu quả tốt hơn cho các bên: thầy thuốc – bệnh nhân [người dân]. Phối hợp các bên ý muốn chỉ đến mối quan hệ công bằng giữa bệnh nhân và thầy thuốc và thay đổi cán cân quyền lực từ chế độ gia trƣởng y học thành chế độ y học phụ thuộc lẫn nhau – nghĩa là y học trở thành “dịch vụ chăm sóc y tế có chất lƣợng cao”. Các kỹ năng giao tiếp mà các thầy thuốc có thể thực hiện nhằm nâng cao các khả năng của bệnh nhân để dễ chẩn đoán hơn và tham gia vào mối quan hệ công bằng hơn. Giao tiếp giữa nhân viên y tế và chủ thể khác đều mang tính tích cực. Mỗi cá nhân bao giờ cũng do chuẩn mực, quy tắc xã hội quy định. Có bản sắc tâm lý riêng biệt, có mức độ trưởng thành về mặt tâm lý, xã hội khác nhau. 3.2. Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình giao tiếp giữa thầy thuốc, bệnh nhân Trong quá trình giao tiếp, người bệnh và thầy thuốc luôn ảnh hưởng lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau về kiến thức, thái độ, tình cảm, thực hành. Sự ảnh hưởng tâm lý có thể diễn ra tự phát hay tự giác. Sự ảnh hưởng này có thể diễn ra bằng nhiều cách. Đặc điểm của sự hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp Sự hiểu biết lẫn nhau là một quá trình nhận thức phức tạp chịu chi phối bởi nhiều yếu tố: -
Tính chủ quan trong mỗi người bệnh
-
Trạng thái tâm lý khi nhận thức
-
Ấn tượng ban đầu
-
Mức độ chính xác của tri giác và quan sát
-
Khả năng phân tích, phê phán, đánh giá
-
Trình độ kiến thức
-
Tâm thế nghề nghiệp
-
Quan điểm, cá tính, xu hướng,…
Sự hiểu biết lẫn nhau thường kèm theo sự đánh giá về nhau, tỏ thái độ về nhau và những cảm xúc nhất định. 83
- Sự hiểu biết lẫn nhau phụ thuộc vào quá trình xúc cảm, quá trình ngôn ngữ và hoạt động. - Sự hiểu biết lẫn nhau chỉ ở mức độ nhất định. Những điều kiện thuận lợi cho sự hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp - Khi giao tiếp, lời nói, hành động phải đầy đủ, chính xác, có suy nghĩ chín chắn, khả năng tư duy cao (phân tích, phê phán, đánh giá), biết suy luận. - Vốn từ, vốn ngôn ngữ phong phú, có sự thống nhất về ngữ nghĩa của từ. - Chú ý nghe và muốn nghe thấu đáo, tạo được mối quan hệ thân tình. - Biết cách tìm hiểu lẫn nhau qua quá trình giao tiếp nhất là kinh nghiệm giao tiếp. Vì vậy, áp dụng các kỹ năng truyền thông GDSK là những khả năng của cán bộ y tế trong việc vận dụng phối hợp các phương pháp khác nhau để thực hiện một hay nhiều chương trình GDSK nhằm đạt được mục tiêu tạo ra hay làm thay đổi hành vi sức khoẻ ở từng bệnh nhân, nhóm người trong cộng đồng. Để giúp mọi người phát triển niềm tin và kỹ năng để tự giúp mình, thầy thuốc, người làm công tác GDSK cần phải: + Tạo ra mối quan hệ tốt Để trở thành một người giúp đỡ có hiệu quả bạn cần phải có quan hệ tốt với những người bạn cần giúp đỡ. Nếu mọi người ưa thích bạn, họ sẽ lắng nghe và tin tưởng bạn. Muốn vậy, điều đầu tiên bạn cần phải tôn trọng họ, lắng nghe họ, động viên họ phát triển sức mạnh của chính họ; phải tự nhận biết, xem xét nhân cách và hoạt động của chính mình. Đối với người thầy thuốc cũng vậy, để giúp bệnh nhân điều trị khỏi bệnh, người thầy thuốc có thể coi là những người bạn tận tâm giúp đỡ họ vượt qua bệnh tật. + Giao tiếp một cách rõ ràng Trong mối quan hệ thầy thuốc bệnh nhân hay trong truyền thông -GDSK, kết quả cuối cùng là giúp cho người bệnh khỏi bệnh hay giúp cho cộng đồng thay đổi hành vi. Để làm được điều này, người làm công tác GDSK không chỉ cần phải trau dồi kỹ năng giao tiếp thật tốt (trình bày rõ ràng, lắng nghe, thảo luận làm rõ vấn đề) mà việc tạo môi trường học tập thuận lợi cũng rất cần thiết. Có 3 kỹ năng quan trọng để giao tiếp rõ ràng đó là: o Nội dung và trình bày một cách rõ ràng Bằng cách dùng các từ ngữ phổ biến, dễ hiểu, dùng ít từ chuyên môn, sử dụng các phương tiện kèm theo để minh họa phải phù hợp và quen thuộc với người bệnh. o Lắng nghe và biểu lộ sự quan tâm
Tôn trọng đối tượng bằng cách không ngắt lời, ngăn cản khi đối tượng đang nói. Trong khi lắng nghe không nhìn đi chỗ khác. o Bàn luận và làm rõ vấn đề
84
o Để kiểm tra thông tin có được tiếp nhận một cách chính xác hay không bằng cách đặt câu hỏi làm rõ các vấn đề. Khuyến khích đối tượng tóm tắt các vấn đề chính sau khi đối thoại. + Khuyến khích mọi ngƣời cùng tham gia Sự tham gia có nghĩa là mọi cá nhân bệnh nhân, một nhóm hoặc cả cộng đồng hoạt động một cách chủ động cùng với nhân viên y tế để giải quyết những vấn đề của chính họ. Họ có thể tham gia từng bước một từ bước phát hiện ra, tìm ra các giải pháp, tham gia hành động và tham gia đánh giá. Chúng ta cần sự tham gia bởi vì khi mọi người tham gia họ sẽ quan tâm hơn tới việc tự giải quyết vấn đề của họ. Lí do khác củasự tham gia đó là mọi người chịu trách nhiệm về sức khỏe của họ. Ví dụ: Nhân viên y tế không thể mang đứa trẻ được nuôi dưỡng tồi về nhà nuôi, không thể theo bệnh nhân về nhà và đặt viên thuốc vào miệng họ và cũng không thể cho tiền để họ đào giếng. Vai trò của nhân viên y tế là khuyến khích họ tham gia. Có 3 điểm cần ghi nhớ: -
Phương pháp GDSK thuận lợi để khuyến khích sự tham gia.Ví dụ như họp và thảo luận nhóm.
-
Sự tham gia phù hợp với nền văn hoá địa phương.
-
Động viên các nhà lãnh đạo địa phương bắt tay vào việc.
+ Tránh thành kiến: Mọi người đều có các định kiến. Định kiến là đánh giá một người từ trước chỉ vì họ là thành viên của một nhóm nhất định. Định kiến là những tình cảm mạnh hoặc thiện cảm hoặc ác cảm với một người do tuổi tác, dòng họ, tôn giáo, trình độ giáo dục, nơi sinh. Không nên để định kiến ảnh hưởng đến công việc, không nên ưu tiên cho bệnh nhân này hơn bệnh nhân khác, nhóm này hơn nhóm khác. Trên tất cả mọi điều là đừng để định kiến mang lại những điều có hại cho bệnh nhân, cộng đồng đang phục vụ. TÓM LẠI Hoạt động truyền thông - GDSK muốn đạt được hiệu quả, người thực hiện công tác này phải nắm vững các kỹ năng truyền thông - GSDK. Các kỹ năng này phải được rèn luyện lâu dài trong suốt quá trình hành nghề của cán bộ y tế, cán bộ truyền thông GDSK. Vì mục tiêu của giao tiếp giữa người với người, giữa thầy thuốc với bệnh nhân là xây dựng thông điệp (mã hóa), chuyển nó theo một kênh nào đó tới người nhận. Người nhận giải mã và phản hồi lại thông tin mới nhận. Để quá trình giao tiếp, truyền thông - GDSK thành công cần thiết lập được mối quan hệ tốt với đối tượng (cá nhân, nhóm, cộng đồng), động viên được sự tham gia của đối tượng trong việc giải quyết các vấn đề của họ và cần phải áp dụng tốt các kỹ năng truyền thông - GDSK trong từng tình huống cụ thể.
CÂU HỎI LƢỢNG GIÁ Câu 1. Trình bày các yêu cầu giúp TT-GDSK có hiệu quả? Câu 2. Trình bày các kỹ năng thường dùng trong TT-GDSK? Câu 3. Trình bày việc ứng dụng kỹ năng TT-GDSK giữa thầy thuốc, bệnh nhân và thân
nhân bệnh nhân?
85
Bài 7.
LẬP KẾ HOẠCH VÀ QUẢN LÝ HOẠT CÁC ĐỘNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE
MỤC TIÊU Sau bài học này học viên có khả năng: 1. Trình bày khái niệm về lập kế hoạch và các nguyên tắc cơ bản trong lập kế hoạch truyền thông – GDSK. 2. Trình bày được các bước của quá trình lập kế hoạch truyền thông - GDSK 3. Lập được một kế hoạch truyền thông - GDSK 4. Trình bày các hoạt động quản lý chương trình truyền thông - GDSK
NỘI DUNG 1. Khái niệm về lập kế hoạch giáo dục sức khỏe Lập kế hoạch giáo dục sức khỏe là những công việc được tiến hành trước khi giáo dục sức khỏe. Một số nguyên tắc cơ bản trong lập kế hoạch giáo dục sức khỏe Điều tra trước: Đây là một việc làm thiết thực để có được những số liệu chính xác, khoa học, làm cơ sở cho việc xác định đúng đắn các mục tiêu GDSK và lập kế hoạch hoạt động. Tùy từng điều kiện mà tiến hành các cuộc điều tra. Cách làm thông thường nhất là nghiên cứu sổ sách, thông kê, báo cáo có sẵn tại trạm y tế liên quan đến nội dung GDSK mà chúng ta cần phải xây dựng kế hoạch. Lồng ghép: Kế hoạch GDSK phải được lồng ghép vào việc thực hiện các chương trình y tế, các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội đang triển khai tại địa phương. Cần phải thống nhất trước với lãnh đạo địa phương: -
Thuyết phục được các cấp lãnh đạo tạo điều kiện thực hiện.
-
Tranh thủ được sự giúp đỡ đồng tình, hưởng ứng của mọi người.
-
Động viên được quần chúng tích cực tham gia hoạt động ngay từ đầu và duy trì phong trào được lâu bền.
Phối hợp liên ngành: Cần phải phối hợp với các ngành ngoài y tế như kinh tế, văn hóa, xã hội để chủ động cùng thực hiện. Huy động sự tham gia của cộng đồng: Cần huy động sự tham gia của toàn thể cộng đồng như các tổ chức chính quyền, đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và mọi người dân cùng thực hiện kế hoạch trong đó cán bộ y tế phải làm nòng cốt. Tiến hành thí điểm: Đây là một yêu cầu thể hiện được sự chặt chẽ và nghiêm túc của một kế hoạch. Cần làm thí điểm trước từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ những biện pháp đơn giản đến những biện pháp phức tạp để giúp cho việc xây dựng
86
được một bản kế hoạch GDSK hoàn chỉnh. 2. Các bƣớc lập kế hoạch truyền thông - GDSK 2.1. Bước 1: Thu thập thông tin, xác định các vấn đề cần GDSK
2.1.1.Tầm quan trọng của việc thu thập thông tin Thu thập thông tin là bước đầu tiên của các nhà lập kế hoạch truyền thông giáo dục sức khỏe. Ngay khi bắt đầu chương trình, chúng ta cần có những thông tin chung và những thông tin cụ thể về tình hình sức khỏe và bệnh tật của cộng đồng bởi vì để thực hiện GDSK tốt cần dựa trên sự kiện thực tế. -
Cần phải biết vấn đề lớn đến mức độ nào, nghiêm trọng hoặc nguy hiểm ra sao. Những thông tin rõ ràng về bản chất của vấn đề giúp chúng ta hiểu và đánh giá các vấn đề sức khỏe cộng đồng một cách khá toàn diện và sẽ làm cho việc chọn ưu tiên dễ dàng hơn.
-
Những thông tin cần có từ đầu chương trình để khi kết thúc có thể dựa vào đó đánh giá những thay đổi và cải thiện.
-
Thu thập thông tin sẽ giúp ta lựa chọn được các giải pháp, chiến lược thích hợp để giải quyết vấn đề phù hợp với phong tục, tập quán, nguồn lực của địa phương.
2.1.2. Thu thập các thông tin sức khỏe -
Những vấn đề sức khỏe quan trọng nhất do chính các cá nhân, các nhóm người, hay cộng đồng nhìn nhận thấy; do cán bộ y tế hoặc cán bộ GDSK thấy; và do các cán bộ khác công tác trong cộng đồng nhận thấy.
-
Số lượng những người có vấn đề sức khỏe đó.
-
Những loại hành vi có thể dẫn đến vấn đề sức khỏe.
-
Những lí do có thể có của những loại hành vi này.
-
Những lí do khác của vấn đề sức khỏe.
2.1.3. Thu thập các thông tin về các yếu tố ảnh hưởng hành vi sức khỏe -
Để có được các thông tin này, cần phải tìm hiểu toàn diện về cộng đồng.
87
-
Các thông tin khác cũng cần phải biết: + Niềm tin, phong tục, tập quán, và các chuẩn mực của địa phương có ảnh hưởng đến sức khỏe; + Các loại hành vi được chấp nhận phù hợp với nền văn hoá địa phương; + Những người có vai trò quan trọng ở địa phương và lý do vì sao họ quan trọng; + Người ta đã quyết định như thế nào đối với các vấn đề ở địa phương; + Các dịch vụ CSSK có sẵn tại địa phương kể cả truyền thống lẫn hiện đại; địa điểm của những dịch vụ này; + Các chỉ số kinh tế xã hội khác như mức sống, nghề nghiệp chính, trình độ văn hóa, các hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng điạ phương.
2.1.4. Phương pháp thu thập thông tin Có 3 phương pháp chính để thu thập thông tin: Quan sát -
Quan sát nghĩa là xem xét một vật, một cá nhân, một nhóm người, một sự kiện nhằm mục đích mô tả chúng.
-
Cần chuẩn bị trước các bảng kiểm (checklist) để tiến hành quan sát.
-
Các thông tin quan sát được ghi tóm tắt theo cách ghi chú thực địa.
-
Sử dụng phương pháp quan sát thu thập thông tin cần phải xác định: Thời điểm quan sát Đối tượng quan sát Nội dung quan sát: sự vật hiện tượng (tình trạng vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân, vệ sinh nhà cửa), các thái độ hành vi của con người đối với vấn đề sức khỏe (cách chăm sóc con), lối sống, phong tục tập quán, ....
Phỏng vấn - Là cách thu thập thông tin qua giao tiếp giữa người muốn có thông tin (người phỏng vấn) và người cung cấp thông tin (người được phỏng vấn). - Cần xác định đối tượng và nội dung phỏng vấn. - Cần chuẩn bị bộ câu hỏi kỹ lưỡng, hỏi chính xác và dễ hiểu. - Phải thử nghiệm bộ câu hỏi trước khi phỏng vấn diện rộng để sửa đổi bổ sung cho hoàn chỉnh. - Cán bộ đi phỏng vấn cần phải được tập huấn trước để có được kỹ năng phỏng vấn và thống nhất cách phỏng vấn.
88
Thu thập thông tin qua sổ sách và các tài liệu báo cáo lưu trữ Các cơ sở y tế cũng như các ban ngành đều có các hồ sơ lưu trữ như các bệnh án ở bệnh viện, báo cáo công tác hàng năm ở các cơ quan, các kế hoạch chương trình báo cáo của cơ quan về việc sử dụng thuốc. Bằng cách nghiên cứu các tài liệu này có thể phát hiện ra các vấn đề sức khỏe. Phối hợp cả 3 loại phương pháp thu thập thông tin trên giúp chúng ta có thông tin đầy đủ, chính xác và hiểu rõ các yếu tố nào có liên quan đến vấn đề sức khỏe để có một bức tranh toàn cảnh về một vấn đề sức khỏe nào đó của cộng đồng. 2.2. Bước 2: Tìm hiểu rõ vấn đề và chọn ưu tiên 2.2.1. Tìm hiểu rõ vấn đề -
Tìm hiểu tại sao lại xuất hiện những vấn đề này, từ đó thực hiện những bước thích hợp nhất để tìm ra giải pháp. Lôi cuốn cộng đồng cùng tham gia tìm hiểu vì sao vấn đề này lại xảy ra. Gặp gỡ trao đổi với các cá nhân hoặc nhóm đại diện của cộng đồng, giúp mọi người tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề.
-
Xem xét vai trò của một số hành vi: nếu có lợi thì khuyến khích những thói quen tốt. Nếu hành vi có hại có thể thay thế hoặc chọn những giải quyết khác thích hợp thay cho hành vi có hại.
-
Ai có thể giải quyết được các vấn đề?
-
Cần sự giúp đỡ nào?
2.2.2. Chọn vấn đề sức khỏe ưu tiên cần giáo dục -
Các vấn đề sức khỏe có mức độ ảnh hưởng khác nhau, vì vậy chúng ta cần phải chọn các vấn đề giải quyết theo thứ tự ưu tiên có hệ thống, phù hợp với từng thời điểm và nguồn lực sẵn có của địa phương.
-
Việc chọn ưu tiên không chỉ dựa trên cảm nhận và ý kiến chủ quan của chúng ta mà phải có những lí do một cách hợp lý.
-
Khi xác định ưu tiên cần phải dùng giải pháp tham gia của cộng đồng, nghĩa là thảo luận cùng với cộng đồng để chia sẻ các quan điểm chọn ưu tiên cho đúng với nhu cầu thật sự của cộng đồng.
-
Khi chọn vấn đề sức khỏe ưu tiên cần giáo dục, có thể đặt ra một số câu hỏi trong khi thảo luận với cộng đồng dựa vào các tiêu chuẩn sau: A: Tính phổ biến: Vấn đề nào có liên quan nhiều nhất đến nhân dân? B: Tính trầm trọng: Vấn đề nào là vấn đề nghiêm trọng nhất? C: Tính khả thi: + Nguồn lực hiện có có thể giải quyết được vấn đề đó không? + Được cộng đồng chấp nhận (được xã hội quan tâm) không? + Có biện pháp can thiệp thích hợp không? Nếu giải quyết vấn đề này thì lợi ích lớn nhất trong tương lai cho nhóm đối tượng nào trong cộng đồng? 89
Cách tính điểm ưu tiên: + Tính điểm ưu tiên theo công thức: (A+2B) x C Vấn đề có điểm ưu tiên lớn hơn là vấn đề ưu tiên hơn. + Có thể cho điểm mỗi tiêu chuẩn trên từ 1 đến 5 điểm sau đó cộng dồn điểm. Lần lượt ưu tiên giải quyết từ vấn đề nào có điểm cao nhất. 2.3. Bước 3: Xác định đối tượng, mục tiêu 2.3.1. Xác định đối tượng Cần phải xác định rõ đối tượng GDSK để tiến hành giáo dục sức khỏe cho thích hợp và mới có thể làm thay đổi được hành vi của họ mà ta mong muốn. Mục đích của việc phân nhóm đối tượng để soạn thảo nội dung giáo dục, lựa chọn hình thức và phương tiện giáo dục phù hợp với trình độ, tâm lý, nguyện vọng, đáp ứng đúng nhu cầu sức khỏe, hoàn cảnh thực tế và phong tục tập quán của đối tượng. Có thể chia thành 2 nhóm đối tượng: Đối tƣợng chính (đối tượng phải có): là những đối tượng sẽ thực hiện các hành vi sức khỏe mới (hay còn gọi là những người mà chương trình GDSK nhằm vào để thay đổi hành vi). Đối tƣợng phụ: là những đối tượng có ảnh hưởng tác động đến vấn đề sức khỏe với đối tượng chính. Những đặc điểm của đối tượng cần được phân tích như: -
Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới, nghề nghiệp, học vấn, tôn giáo, thu nhập, nơi ở, thói quen, tập quán,…
-
Kiến thức, thái độ, niềm tin, thực hành liên quan về vấn đề sức khỏe cần giải quyết.
-
Các phương tiện truyền thông sẵn có tại gia đình, ưa thích loại phương tiện nào
-
Các dịch vụ hỗ trợ về y tế, xã hội,…
2.3.2. Xác định mục tiêu Ý nghĩa -
Mục tiêu GDSK là điều chúng ta mong muốn đạt được sau một đợt hay một chương trình GDSK.
-
Những chương trình về GDSK là nhằm cải thiện kiến thức, thái độ hay kỹ năng cho quần thể dân cư trong cộng đồng hoặc một nhóm quần thể đích để rồi cải thiện sức khỏe của họ.
-
Mục tiêu giúp đưa phương hướng hành động can thiệp.
-
Xác định mục tiêu giúp chúng ta biết được chúng ta có thành công hay không dựa vào các mục tiêu đã nêu ra từ đầu chương trình.
Như vậy: Mục tiêu truyền thông giáo dục sức khỏe là những mong đợi về thay đổi kiến thức, thái độ và hành vi sức khỏe cụ thể của đối tượng được giáo dục sức
90
khỏe trong một giai đoạn thời gian nhất định, trong đó mục tiêu thay đổi hành vi ở đối tượng được giáo dục sức khỏe là quan trọng nhất. Các loại mục tiêu o Mục tiêu y tế: là sự cải thiện về mặt sức khỏe cho nhóm đối tượng đích hoặc cho mọi người trong cộng đồng. o Mục tiêu giáo dục: là các hành vi, hành động mà nhóm đối tượng đích hoặc mọi người trong cộng đồng phải thực hiện để giải quyết vấn đề của họ. Mục tiêu giáo dục góp phần đạt được mục tiêu y tế. Có 3 loại mục tiêu giáo dục: Về nhận thức: Ví dụ: “N% bà mẹ kể ra được các lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ” Về thái độ: Ví dụ: “ X% bà mẹ tích cực vận động các bà mẹ trẻ nuôi con bằng sữa mẹ” Về thực hành: Ví dụ: “Y% bà mẹ cho con bú đúng cách”. Thành phần của một mục tiêu GDSK gồm: -
Một hành động hay việc làm cụ thể mà đối tượng giáo dục phải làm;
-
Đối tượng đích;
-
Mức độ hoàn thành;
-
Các điều kiện cụ thể và thời gian để hoàn thành được hành động đó
Cách viết mục tiêu truyền thông theo phương pháp ABCD A (Audience) - Đối tượng: Xác định nhóm đối tượng B (Behaviour) - Hành vi:
Xác định loại hành vi cần thay đổi mà bạn mong muốn
C (Condition) - Điều kiện: Xác định khi nào và trong hoàn cảnh nào bạn mong muốn sự thay đổi đó diễn ra D (Degree)
- Mức độ: Xác định mức độ mà bạn mong muốn thay đổi
Mục tiêu được xem là tốt khi đáp ứng 5 tính chất sau -
Tính chuyên biệt: KABP mà đối tượng cần có
-
Tính đo lường được: biểu hiện bằng con số, tỷ lệ %
-
Tính khả thi: có thể thực hiện được với nguồn lực và khả năng có được
-
Tính thích hợp: phù hợp với vấn đề sức khỏe
-
Tính xác định về thời gian: có mốc thời gian qui định rõ
2.4. Bước 4. Xác định nội dung giáo dục sức khỏe Nội dung GDSK là những thông tin cần truyền đi từ nguồn phát tin đến đối tượng được giáo dục. Việc xác định nội dung GDSK phải dựa vào các thông tin đã thu thập được về kiến thức, thái độ và hành vi của đối tượng. Các nội dung cần giáo dục 91
phải được người thực hiện giáo dục hiểu rõ và chuẩn bị thật kỹ. Nội dung giáo dục cần phải: -
Thể hiện và chuyển tải được các thông điệp chủ chốt của vấn đề sức khỏe.
-
Phù hợp với đối tượng được giáo dục (tuổi tác, tôn giáo, giới tính, trình độ học vấn, tôn giáo, điều kiện kinh tế,...)
-
Đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và tránh dùng các từ chuyên môn khó hiểu.
-
Đáp ứng đúng với mục tiêu đã đề ra.
-
Trình bày theo một trình tự hợp lý, phù hợp với quá trình nhận thức.
-
Thể hiện tính khoa học và thực tiễn
Lựa chọn nội dung truyền thông trước tiên phải nhằm vào các kiến thức, thái độ và cách thực hành mà đối tượng PHẢI biết, sau đó mới đến các nội dung CẦN biết và sau cùng là các nội dung NÊN biết. 2.5. Bước 5: Xác định nguồn lực, phương tiện và phương pháp GDSK 2.5.1. Xác định nguồn lực Khi thực hiện chương trình GDSK cần các nguồn lực nhất định bao gồm: Nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị. Nguồn lực có thể huy động trong cộng đồng và ngoài cộng đồng. - Nguồn lực từ trong cộng đồng: Có nhiều loại nguồn lực chúng ta cần đến như: Nhân lực Một chương trình GDSK tại cộng đồng thành công nhờ vào sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng đó. Sự tham gia của các cơ quan trong ngành y tế và các tổ chức chính trị xã hội, quần chúng ngoài ngành y tế là một sự đảm bảo cho hiệu quả không chỉ về mặt nhân lực mà cả vật lực, tài lực cho chương trình. Nhân viên y tế cộng đồng, một số người có kỹ năng đặc biệt có thể sử dụng vào giáo dục sức khỏe như giáo viên, hoạ sĩ, văn nghệ sĩ,.... Chính những thành viên của cộng đồng là nguồn lực quan trọng nhất để giải quyết vấn đề của họ. Do vậy, cần chú ý việc đào tạo, huấn luyện cho những người tham gia về các kỹ năng truyền thông – GDSK, để họ phối hợp tốt với cán bộ y tế. Vật lực Trong các chương trình y tế nói chung và chương trình GDSK nói riêng, việc huy động được nguồn vật lực như: Điạ điểm phòng ốc để tổ chức họp, thảo luận nhóm, hoặc mở lớp đào tạo; Tiền bạc; Tài liệu; Phương tiện đi lại; Các nguyên vật liệu tại địa phương để phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân vô cùng quan trọng và cần thiết. - Nguồn lực từ ngoài cộng đồng: -
Cách tốt nhất để giải quyết vấn đề của cộng đồng là sử dụng nguồn lực của cộng đồng. Mặc dù vậy đôi khi nguồn lực có sẵn của cộng đồng không đủ đáp ứng cho các chương trình GDSK vì thế mà cần tìm nguồn lực hỗ trợ từ ngoài cộng đồng. 92
-
Một số công ty, bộ ngành có thể hỗ trợ: ngân sách, chuyên môn kỹ thuật, phương tiện và tài liệu cho GDSK.
-
Khi đã có nguồn lực điều quan trọng là phải lập kế hoạch sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý và có hiệu quả cao nhất để đạt được mục đích đề ra.
Các nguồn lực của GDSK -
Các phương tiện truyền thông địa phương và truyền thống: các tục ngữ, truyện ngụ ngôn, bài hát, vở kịch, … lấy ý kiến cộng đồng để chọn cái thích hợp nhất truyền đạt các thông tin y tế.
-
Các phương tiện truyền thông đại chúng: tivi, đài, báo,… các phim ảnh áp phích của Bộ y tế, loa phóng thanh dùng vào các chương trình GDSK ở địa phương.
Tóm lại: Khi thực hiện các chương trình GDSK cần phải tính toán huy động, khai thác được các nguồn lực của cộng đồng và năng động tìm kiếm các nguồn lực từ ngoài cộng đồng. 2.5.2. Lựa chọn phương pháp, phương tiện GDSK thích hợp Tuỳ theo nội dung, các nguồn lực và phương tiện sẵn có mà chúng ta lựa chọn phương pháp giáo dục thích hợp với đối tượng để đạt được mục tiêu. (Xem bài Các phương pháp và phương tiện truyền thông- GDSk) 2.6. Bước 6: Xây dựng chương trình hoạt động cụ thể Phải viết ra tất cả các hoạt động dự kiến đã chọn để đạt được mục tiêu và ghi vào lịch trình thực hiện theo một trình tự chặt chẽ đảm bảo mối liên quan giữa các hoạt động với nhau. Mỗi hoạt động kể trên đều phải được ghi chi tiết hóa vào lịch hoạt động. Có 3 loại hoạt động: -
Các hoạt động chủ yếu: Gồm những hoạt động truyền thông GDSK. Ví dụ vận động nhân dân thực hiện “ăn chín uống sôi”, vận động phát hoang bụi rậm, mở lớp tập huấn GDSK,
-
Các hoạt động hỗ trợ: nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện được các hoạt động chủ yếu. Ví dụ tổ chức cộng đồng tham gia, tìm nguồn kinh phí tài trợ, cung ứng và phân phối các phương tiện,….
-
Các hoạt động quản lý: bao gồm ghi chép, thống kê, đánh giá kết quả định kỳ, báo cáo tiến độ thực hiện cho các nhà quản lý.
Để các hoạt động được thực hiện tốt cần phải nêu rõ: ai làm; làm khi nào; làm ở đâu; kinh phí; kết quả dự kiến (bảng 1). Đối với hoạt động mở lớp GDSK cần phải có kế hoạch cụ thể (bảng 2).
93
Bảng 1: Lịch hoạt động của chƣơng trình GDSK Các hoạt động
Ngƣời thực hiện
Thời gian
Ở đâu
(Bắt đầu
Nguồn lực cần thiết
Kết quả dự kiến
kết thúc) 1. 2. 3. .............
Bảng 2: Kế hoạch hoạt động đào tạo GDSK Chủ đề
: ……………………………………………………
Đối tượng
:……………………………………………………
Số lượng
: ……………………………………………………
Thời gian
: ……………………………………………………
Địa điểm
: ……………………………………………………
Cán bộ phụ trách: …………………………………………………… Nội dung
:……………………………………………………….
Mục tiêu
:1) . …………………………………………………… 2) …………………………………………………… 3) ………………………………………………………
Kế hoạch giảng: Nội dung
Thời gian
Phƣơng pháp
1. 2. 3. …………………….
94
Phƣơng tiện
2.7. Quản lý các hoạt động truyền thông-GSDK 2.7.1. Khái niệm về quản lý hoạt động truyền thông-GDSK Hiện nay, nâng cao công tác quản lý để nâng cao chất lượng các hoạt động chăm sóc sức khỏe được Bộ Y tế rất quan tâm. Những vấn đề yếu kém trong công tác quản lý cũng đã được các chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới đề cập đến, nhất là những công việc như phân tích tình hình để xác định vấn đề ưu tiên cần giải quyết, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch và đánh giá hiệu quả của các chương trình chăm sóc sức khỏe trong đó có TT-GDSK. Quản lý hiệu quả sử dụng các nguồn lực dành cho TTGDSK là một yêu cầu cơ bản của bất kỳ chương trình giáo dục sức khỏe nào. Quy trình quản lý TT-GDSK cũng giống như quy trình quản lý chung. Quy trình bao gồm các bước cơ bản đó là: thu thập thông tin chẩn đoán cộng đồng, phân tích xác định vấn đề ưu tiên, xây dựng mục tiêu, lập kế hoạch các hoạt động trong đó có kế hoạch theo dõi, giám sát tiến độ và đánh giá. 2.7.2. Giám sát các hoạt động TT-GDSK Giám sát hoạt động TT-GDSK là một trong các hoạt động quản lý quan trọng, nhằm nâng kỹ năng thực hiện TT-GDSK cho cán bộ. Giám sát chương trình TT-GDSK cũng như giám sát các chương trình hoạt động y tế công cộng khác là quá trình đào tạo liên tục trên thực địa nhằm giúp cán bộ làm công tác TT-GDSK và nâng cao sức khỏe rèn luyện kỹ năng TT-GDSK, góp phần nâng cao kết quả và hiệu quả của chương trình TT-GDSK và nâng cao sức khỏe. 2.7.3. Lập kế hoạch đánh giá (phần đánh giá chương trình giáo dục và nâng cao sức khỏe) -
Đánh giá là việc đương nhiên và quan trọng với mọi hoạt động y tế trong đó có GDSK.
-
Đánh giá là cần thiết để tiến bộ vì nó cho ta biết những thành công và thất bại.
-
Đánh giá giúp ta thấy được hiệu quả của việc thực hiện kế hoạch, các chương trình và hoạt động y tế bằng các chỉ số đánh giá, đối chiếu với mục tiêu đã đề ra để xác định mức độ hoàn thành cả về số lượng và chất lượng một cách khách quan, trung thực.
2.8. Xem xét lại quá trình lập kế hoạch Chúng ta đã biết những bước khác nhau của việc lập kế hoạch. Ở mỗi bước nhân viên y tế sẽ sử dụng các cách tiếp cận bằng GDSK để tạo thuận lợi và củng cố sự tham gia của cộng đồng vào việc phát triển y tế. Khi xem xét lại quá trình lập kế hoạch, chúng ta cần đảm bảo: 1. Áp dụng công nghệ thích hợp. 2. Phát triển mối quan hệ tốt với cộng đồng. 3. Phối hợp các cấp lập kế hoạch.
95
TÓM LẠI Khi kế hoạch lập xong, phải giải đáp được các câu hỏi sau: 1. Tại sao phải giáo dục vấn đề đó? 2. Giáo dục cho ai? 3. Nội dung giáo dục là gì? 4. Giáo dục bằng những hình thức nào? 5. Dùng phương tiện gì? Tài liệu nào? 6. Ai có thể làm được? Có cần phải đào tạo và huấn luyện lại không? 7. Ngân sách để huấn luyện nhân viên, để sản xuất tài liệu, phương tiện lấy ở đâu? 8. Làm ở đâu? 9. Làm thế nào? Cái nào làm trước? Cái nào làm sao? 10. Đánh giá kết quả ra sao? Và bằng cách nào?
CÂU HỎI LƢỢNG GIÁ Câu 1.
Trình bày các tiêu chuẩn lựa chọn vấn đề ưu tiên TT-GDSK.
Câu 2.
Trình bày tầm quan trọng của xây dựng và các yêu cầu của mục tiêu TT-GDSK.
Câu 3.
Trình bày việc chọn lựa đối tượng, phương pháp, nội dung TT-GDSK.
Câu 4.
Trình bày khái niệm về quản lý hoạt động TT-GDSK.
Câu 5.
Nêu các câu hỏi cần trả lời khi lập kế hoạch TT-GDSK.
96
Bài 8.
GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE MỤC TIÊU Sau khi học tập, học viên có thể: 1. Trình bày được các khái niệm về giám sát và đánh giá một chương trình. 2. Lập được kế hoạch đánh giá một chương trình GDSK. 3. Vận dụng được các bước đánh giá để giám sát và đánh giá một chương trình GDSK đã thực hiện tại địa phương.
NỘI DUNG 1. Những khái niệm giám sát và đánh giá các hoạt động TT-GDSK
Lập kế hoạch Theo dõi & Giám sát Đánh giá
Thực hiện
Sơ đồ 7: Chu trình quản lý
1.1. Giám sát các hoạt động TT-GDSK Giám sát hoạt động TT-GDSK là một trong các hoạt động quản lý quan trọng, nhằm nâng kỹ năng thực hiện TT-GDSK cho cán bộ. Giám sát chương trình TT-GDSK cũng như giám sát các chương trình hoạt động y tế công cộng khác là quá trình đào tạo liên tục trên thực địa nhằm giúp cán bộ làm công tác TT-GDSK và nâng cao sức khỏe rèn luyện kỹ năng TT-GDSK, góp phần nâng cao kết quả và hiệu quả của chương trình TT-GDSK và nâng cao sức khỏe. Đối với TT-GDSK thì hình thức giám sát trực tiếp là hình thức có hiệu quả nhất. Cụ thể là việc theo dõi, giúp đỡ hỗ trợ khi các cán bộ thực hiện các hoạt động TT-GDSK trực tiếp như: nói chuyện chuyên đề sức khỏe, tổ chức thảo luận nhóm, thăm hộ gia đình và tư vấn cá nhân. Tuy nhiên, qua giám sát các hoạt động như viết bài cho truyền thông, sản xuất tài liệu, lập kế hoạch các chương trình TT-GDSK và nâng cao sức khỏe người giám sát cũng có thể đóng góp nhiều ý kiến bổ ích cho cán bộ thực hiện TT-GDSK. 97
Mục đích của hoạt động giám sát TT-GDSK là thực hiện công tác đào tạo cán bộ làm công tác truyền thông giáo dục và nâng cao sức khỏe. Qua hoạt động giám sát người được giám sát biết được các điểm yếu của mình trong hoạt động TT-GDSK và được uốn nắn tại chỗ, vì thế hiệu quả mang lại là rất cao. Người thực hiện giám sát cũng thấy được các điểm mạnh, điểm yếu của người được giám sát và có thể chỉ dẫn ngay cho người được giám sát phát huy, sửa chữa hay có kế hoạch bồi dưỡng giúp đỡ hỗ trợ tiếp theo. Giám sát cũng giúp cho người đi giám sát học được thêm kinh nghiệm, biết được khả năng, năng lực hoạt động giáo dục sức khỏe của cán bộ được giám sát qua đó có kế hoạch giúp đỡ cấp dưới. TT-GDSK đòi hỏi cán bộ phải có kỹ năng giao tiếp vì thế một trong các nội dung giám sát quan trọng là nhằm giúp người thực hiện TT-GDSK rèn luyện kỹ năng giao tiếp. Mỗi cuộc giám sát cần chuẩn bị cụ thể nội dung giám sát, xác định rõ người được giám sát, thời gian giám sát, phạm vi giám sát, địa điểm giám sát. Giám sát có thể tiến hành định kỳ hay đột xuất. Trước mỗi cuộc giám sát người đi giám sát cần báo cho người được giám sát biết trước. Các nội dung giám sát tập trung vào các kỹ năng thực hiện các phương pháp TT-GDSK trực tiếp. Tùy theo yêu cầu của hoạt động giám sát mà xác định các nội dung giám sát cụ thể, nhưng nhìn chung giám sát các hoạt động TT-GDSK tập trung vào kỹ năng giao tiếp, chủ yếu là các kỹ năng sau: - Kỹ năng xác định đối tượng đích - Kỹ năng xác định mục tiêu - Kỹ năng soạn thảo nội dung của chủ đề cần truyền thông giáo dục, tập trung chủ yếu vào các thộng điệp cần chuyển tải tới đối tượng - Kỹ năng lựa chọn phương pháp và phương tiện TT-GDSK - Kỹ năng làm quen - Kỹ năng sử dụng giao tiếp bằng lời - Kỹ năng giao tiếp không bằng lời - Kỹ năng lắng nghe - Kỹ quan sát điều chỉnh - Kỹ năng tóm tắt - Kỹ năng đặt câu hỏi kiểm tra đối tượng - Kỹ năng hỗ trợ giúp đỡ đối tượng Các nội dung giám sát cần được thể hiện đầy đủ trong bảng kiểm (công cụ) giám sát mà người đi giám sát cần xây dựng trước khi thực hiện giám sát. Khi lập kế hoạch cho các chương trình hay dự án, bước cuối cùng của việc lập kế hoạch luôn là đánh giá. Các nhà lập kế hoạch thực hiện chương trình luôn phải xem xét tiến độ, kết quả của chương trình mà họ đang thực hiện đến đâu và đã đạt được cái gì, cần sửa đổi cái gì cho chương trình hoàn thiện để đạt kết quả cao nhất, tương ứng với mục tiêu đã đề ra. Đối với các nhà GDSK cũng vậy, khi lập một kế hoạch hoạt động GDSK họ cũng luôn xem xét có thể ngay từ khi chưa thực hiện chương trình, 98
hoặc lúc đang thực hiện, hoặc ngay sau khi kết thúc chương trình... Những kết quả đạt được để điều chỉnh chương trình sao cho việc thực hiện GDSK đạt kết quả cao nhất nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe của người dân. Việc đánh giá một chương trình GDSK cũng giống như bất kỳ một chương trình, hoạt động y tế can thiệp nào. Trong phần này, chủ yếu trình bày khung đánh giá một chương trình, hoạt động y tế nói chung, từ đó có thể rút ra những điểm phù hợp với nội dung từng chương trình GDSK riêng biệt. 1.2. Đánh giá các hoạt động TT-GDSK Đánh giá được định nghĩa đơn giản là xét đoán giá trị của một việc gì đó. Nói rõ hơn, đánh giá là đo lường và xem xét các kết quả đạt được của một chương trình hoặc một hoạt động trong một giai đoạn nhất định nào đó nhằm cung cấp thông tin cho người quản lý đưa ra quyết định cho tương lai. Mục đích của đánh giá Thực hiện một cuộc đánh giá là nhằm: 1. Xem xét những gì chương trình đã đạt được và quan trọng hơn hết là hiểu tại sao chương trình đạt được như thế. 2. Để đo tiến độ kèm theo mục tiêu của chương trình 3. Để cải thiện hoạt động giám sát sao cho công việc quản lý được tốt hơn. 4. Xác định những mặt mạnh và những điểm còn yếu nhằm cải thiện chương trình. 5. Để xem công việc khác nhau mà chương trình đang thực hiện. 6. Để xem những lợi ích đã đạt được đo bằng kinh phí đã bỏ ra. 7. Để thu thập những thông tin cho việc lập kế hoạch và quản lí các hoạt động của chương trình được tốt hơn. 8. Để chỉ ra những sai sót nhằm ngăn chận tái xuất hiện hoặc để khuyến khích những đồng nghiệp áp dụng các phương pháp đã được sử dụng trong chương trình. 9. Cho phép lập kế hoạch tốt hơn, phù hợp với nhu cầu của người dân. Vì vậy: -
Đánh giá là việc đương nhiên và quan trọng với mọi hoạt động y tế trong đó có GDSK.
-
Đánh giá là cần thiết để tiến bộ vì nó cho ta biết những thành công và thất bại.
-
Đánh giá giúp ta thấy được hiệu quả của việc thực hiện kế hoạch, các chương trình và hoạt động y tế bằng các chỉ số đánh giá, đối chiếu với mục tiêu đã đề ra để xác định mức độ hoàn thành cả về số lượng và chất lượng một cách khách quan, trung thực.
99
2. Những vấn đề cơ bản của đánh giá một chƣơng trình TT-GDSK 2.1. Các hình thức đánh giá Có 5 hình thức đánh giá với những phạm vi áp dụng khác nhau. Đánh giá ban đầu Thực chất là thu thập số liệu cần thiết, xác định điểm xuất phát và mục đích cần đạt được. Đối với một chương trình GDSK, đánh giá ban đầu để xác định nhóm đối tượng đích và hành vi sức khỏe nào cần làm thay đổi ở họ, từ đó xác định đúng đắn các mục tiêu GDSK và các phần khác của chương trình. Đánh giá tức thời Tiến hành trong khi đang triển khai công việc để đo đạc tiến độ, giúp giám sát, điều hành tốt hơn. Đối với quá trình GDSK đánh giá tức thời có thể xác định được đáp ứng của đối tượng để kịp thời điều chỉnh ngay cách làm cho phù hợp hơn (đặc biệt ở thực địa). Đánh giá kết thúc Khi kết thúc một hoạt động, một kế hoạch nhằm xác định kết quả đầu ra đạt được với mục tiêu đề ra. Đánh giá ngắn hạn Tiến hành sau khi kết thúc vài tuần đến một tháng để xác định những thay đổi hành vi sức khỏe thực sự diễn biến ra sao, mang lại hiệu quả gì so với chi phí đã bỏ ra. Đánh giá dài hạn Tiến hành sau vài tháng hay vài năm để xem tác động ảnh hưởng của những thay đổi hành vi sức khỏe của các đối tượng đến trình độ sức khỏe và chất lượng cuộc sống của họ. Đánh giá dài hạn nhằm xác định hiệu quả thực sự của một chương trình đã can thiệp.
Hình 8.1: Các hình thức thu thập thông tin để giám sát và đánh giá
100
2.2. Mô hình tổ chức đánh giá Có ba mô hình đánh giá thường được áp dụng cho những chương trình can thiệp với những nghiên cứu định lượng. Mô hình đánh giá đơn giản: Các thông tin ở giai đoạn kết thúc công việc được đối chiếu với mục tiêu đã đề ra. Thực hiện KH Kế hoạch
Mục tiêu
Thu thập số liệu khi kết thúc Đối chiếu với mục tiêu
Sơ đồ 8: Đối chiếu với mục tiêu
Đây là phương pháp đơn giản nhất dùng để đánh giá định lượng. Người đánh giá cần thu thập số liệu khi kết thúc so sánh với mục tiêu và kế hoạch hoạt động để nhận định mức độ hoàn thành, thông qua quá trình phân tích tìm hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đạt được của chương trình hay hoạt động. Mô hình đánh giá so sánh trước sau Thông tin ở thời điểm trước khi thực hiện chương trình GDSK đối chiếu với cùng loại thông tin ở giai đoạn cuối. Thực hiện KH Kế hoạch
Mục tiêu
Thu thập số liệu khi kết thúc
Thu thập số liệu cơ bản khi chưa thực hiện So sánh với số liệu cơ bản Sơ đồ 9: So sánh trước và sau khi thực hiện 101
Khi sử dụng phương pháp này người nghiên cứu cần thu thập số liệu trước khi can thiệp và sau khi can thiệp GDSK. Phân tích, so sánh số liệu thông tin trước và sau can thiệp giúp cho người đánh giá nhận định được sự thay đổi của chương trình hay hoạt động GDSK trước và sau can thiệp. Mô hình đánh giá so sánh trước sau có đối chứng Được tiến hành ở hai hoặc nhiều địa phương cùng có hoạt động can thiệp như nhau. Hoặc ở địa phương có can thiệp với địa phương không có can thiệp đối chứng trong cùng thời gian đó. Mô hình này ít có ý nghĩa trong đánh giá chương trình GDSK. Nó cho phép kết luận chính xác về kết quả do chương trình can thiệp mang lại. Tuy nhiên, mô hình này không thường xuyên áp dụng do khá tốn kém và đôi khi gặp khó khăn khi lựa chọn cộng đồng chứng cũng như đòi hỏi người đánh giá phải có kinh nghiệm và kỹ năng. Mô hình này tiến hành đo lường số liệu trước và sau can thiệp ở cộng đồng can thiệp và đối chứng. So sánh 4 nguồn số liệu này cho phép người đánh giá nhận định được sự thay đổi về sức khỏe, bệnh tật do chương trình can thiệp GDSK đã triển khai. (cộng đồng can thiệp) Thực hiện KH
Xã A Kế hoạch
Mục tiêu
Thu thập số liệu khi kết thúc
Thu thập số liệu cơ bản khi chưa thực hiện So sánh với số liệu cơ bản (cộng đồng không can thiệp) So sánh 2 xã A và B Xã B Thu thập số liệu cùng thời gian
Thu thập số liệu cơ bản
So sánh
Sơ đồ 10. So sánh trước - sau, có đối chứng với địa phương khác 102
2.3. Ai thực hiện đánh giá Người không trực tiếp thực hiện kế hoạch hành động/ chương trình GDSK đánh giá sẽ khách quan hơn. Người thực hiện kế hoạch hành động cũng có thể tham gia đánh giá. Họ là những người trong cuộc cho nên hiểu rõ chương trình hành động và biết rõ hơn ưu nhược điểm của cách thu thập thông tin. Trong các chương trình GDSK thì đối tượng tự đánh giá là cách tốt nhất để họ tự biết mình đã đạt được mục tiêu đến mức độ nào, còn cần phải làm gì tiếp để hoàn thành mục tiêu, những thông tin phản hồi qua đánh giá của đối tượng là những thông tin ngược bên trong, hết sức quan trọng đối với người lập kế hoạch GDSK. Đối với các hoạt động tầm cỡ lớn (tuyến tỉnh) cần có đội ngũ cán bộ được đào tạo để thực hiện việc đánh giá 1 chương trình sức khoẻ. 3. Các bƣớc cơ bản của quá trình đánh giá 3.1. Xác định mục tiêu và phạm vi đánh giá, chọn các chỉ số đánh giá thích hợp Trước khi đánh giá, cần xác định rõ sẽ đánh giá hoạt động gì, nhằm mục tiêu gì và kết quả đánh giá sẽ được ai sử dụng. Cần đặt câu hỏi: Ai sẽ là đối tượng cần gặp để thu thập thông tin, đánh giá trong thời gian bao lâu. Chọn các chỉ số đánh giá cho phù hợp Những chỉ số này phải đo lường được, ước lượng được và dùng để so sánh, đối chiếu được, những chỉ số đánh đảm bảo 1 số tiêu chuẩn sau: -
Có giá trị: Phản ánh đúng mức độ thành công của hoạt động y tế. Đáng tin cậy, ít bị sai.
-
Độ nhạy: Dễ phát hiện được vấn đề cần tìm.
-
Đặc hiệu: Không nhầm lẫn vấn đề này với vấn đề khác.
-
Có thể dễ dàng thu thập được trong điều kiện cụ thể.
-
Chú ý các chỉ số về chất lượng, các chỉ số cho phép giải thích nguyên nhân thành công/thất bại. Có 3 nhóm chỉ số cơ bản cần xác định trước khi đánh giá: Các chỉ số đầu vào
Bao gồm các con số về các nguồn lực và cũng có thể về nhu cầu GDSK của cộng đồng. Ví dụ: Chỉ số đầu vào cho chương trình GDSK kế hoạch hóa gia đình - Tổng kinh phí nhận được từ nhà tài trợ và khách hàng. - Hàng hóa nhận được (vật tư, trang thiết bị, phương tiện tránh thai). - Nhân viên của chương trình được đào tạo và giúp đỡ về kỹ thuật. 103
- Kinh phí đã sử dụng. - Trang thiết bị và phương tiện tránh thai đã cấp (thống kê đã nhận từ số đã cấp). - Các khoản mục trong kế hoạch làm việc như thuê nhân viên... Các chỉ số về quá trình hoạt động Bao gồm các con số nói lên việc tổ chức một hoạt động (ví dụ 0% số xã đã tổ chức ngày tiêu chảy). Các chỉ số đầu ra Có ba mức độ khác nhau: Đầu ra tức thì (ví dụ, tỉ lệ % trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đủ 6 loại vaccine) -
Các chỉ số về hiệu quả (effect) bao gồm các chỉ số về kiến thức, thái độ và về thực hành. Ví dụ: Tỷ lệ phần trăm các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ trong khu vực được phục vụ., Chỉ số về kiến thức thái độ và thực hành đối với KHHGĐ.
Các chỉ số về thành quả, tác động (impact). Ví dụ: - Tổng số người/cặp vợ chồng áp dụng các biện pháp KHHGĐ - Tỷ lệ sinh thô trong khu vực (nếu có) - Tỷ lệ nạo hút thai trong khu vực - Tổng tỷ suất sinh và tỷ suất sinh đặc hiệu theo tuổi trong khu vực - Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi - Tỷ lệ tử vong mẹ - Tỷ lệ sinh có nguy cơ cao (phụ nữ trên 35 tuổi, nhiều lần có thai...) Ngoài việc chọn các chỉ số còn phải chọn tiêu chuẩn cho chỉ số đó. Ví dụ, tiêu chuẩn của một địa phương thực hiện TCMR đạt yêu cầu là phải có trên 80% trẻ trong diện được tiêm đủ hoặc tỷ lệ mới mắc sởi = 0%, tỷ lệ mới mắc bạch hầu = 0%. 3.2. Chọn phương pháp và kỹ thuật thu thập thông tin Có 3 phương pháp thu thập thông tin cơ bản: Nghiên cứu hồ sơ, sổ sách, tài liệu sẵn có. Phỏng vấn với đối tượng trực tiếp hoặc gián tiếp qua bộ câu hỏi. Cũng có thể bằng hình thức thảo luận với nhóm những người hiểu biết, nhóm trọng tâm. Quan sát trực tiếp (trong đó việc quan sát trực tiếp đối tượng trong khi họ tiến hành một công việc, cũng có thể bằng việc khám, sàng lọc, làm xét nghiệm sàng lọc), ở đây sử dụng các bảng kiểm (checklist). Để thu thập thông tin đánh giá 1 chương trình GDSK thường chọn phương pháp phỏng vấn đối tượng và quan sát trực tiếp khi đánh giá ngắn hạn. Khi đánh giá dài hạn phải thông qua hồ sơ, sổ sách (từ báo cáo định kỳ, báo cáo tổng kết, các công trình 104
nghiên cứu khoa học...). 3.3. Tiến hành thu thập thông tin Trước khi chính thức thu thập số liệu cho đánh giá, các công cụ thu thập số liệu như bảng kiểm, các biểu mẫu thu thập số liệu, các bảng câu hỏi...v...v... cần được kiểm tra lại, nếu cần có thể làm thử nghiệm trước (pre-test) ở diện hẹp để đảm bảo các công cụ thu thập số liệu sẽ thực hiện được trong toàn bộ cỡ mẫu. Nếu số liệu trong điều tra thử đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, sau đó có thể được gộp vào với số liệu điều tra chính thức. Bên cạnh đó, các nghiên cứu viên, giám sát viên cũng cần được tập huấn về sử dụng các công cụ đó để thu thập số liệu được chính xác và đạt được mục tiêu đánh giá. Thông thường, trong các cuộc điều tra lớn, các điều tra viên được chia ra thành từng nhóm, cứ 5 người có 1 người làm giám sát viên. Giám sát viên có trách nhiệm giúp đỡ các điều tra viên tiến hành điều tra, đánh giá đúng kỹ thuật, chính xác, không sai sót cũng như đảm bảo mọi người cùng sử dụng một phương pháp để thu thập số liệu. 3.4. Phân tích và trình bày kết quả đã đạt được Sau khi thu thập được các thông tin/dữ liệu cần thiết, chúng ta phải có trách nhiệm tổng hợp và phiên giải các thông tin dưới các hình thức có thể sử dụng được phục vụ cho mục tiêu đánh giá hoạt động/chương trình y tế đó. 3.4.1. Tổng hợp và phân tích dữ liệu Bản thân các thông tin/dữ liệu thu được trong các phiếu ghi, sổ đăng kí, biểu mẫu hay từ các cuộc điều tra thường rất khó sử dụng. Dữ liệu trong các phiếu ghi của khách hàng hay các phiếu điều tra sẽ cho các thông tin về cá nhân một người nhưng những nhà quản lý chương trình GDSK lại cần một bản tổng hợp những dữ liệu này để có thể đưa ra được những quyết định liên quan đến toàn bộ cộng đồng chứ không phải chỉ từng cá nhân. Những yêu cầu trong quá trình tổng hợp và phân tích dữ liệu: - Xem xét lại dữ liệu thu được để kiểm tra về độ chính xác và tính nhất quán (quá trình làm sạch số liệu). Hệ phần mềm Epi - info là một chương trình phần mêm rất hữu dụng, chương trình này có thể phân tích được các bộ số liệu phức tạp theo nhiều tầng. Nhờ máy vi tính có thể đặt ra các điều kiện, các tiêu chuẩn để phát hiện những sai sót trong quá trình thu thập và nhập số liệu (chương trình check). Các số liệu đưa vào không chính xác sẽ bị phát hiện và loại bỏ. - Trước khi phân tích số liệu, cần xem xét các số liệu đã được mã hoá hết chưa? Những câu trả lời của các câu hỏi mở cũng phải được mã hóa. Để dễ dàng phân tích nên mã hoá bằng các số từ 1-9 cho các tình huống trả lời. Nếu nhiều tình huống hơn 9, có thể mã bằng các chữ cái từ A-Z. Không nên ghi dài dòng các câu trả lời vào máy vi tính, nếu bắt buộc phải ghi, bao giờ cũng mã hoá để phân tích các câu trả lời được dễ dàng. - Tận dụng và khai thác hết những thông tin đã được thu thập (đảm bảo nguyên tắc: “giảm thiểu các thông tin/dữ liệu sẽ được thu thập; khai thác tối đa các thông tin/dữ liệu đã thu thập được”) 105
- Đảm bảo giữ bí mật nguồn thông tin nếu được yêu cầu. Dữ liệu thu thập được sẽ được xử lí và phân tích theo hướng nhằm vào các mục tiêu đánh giá đã được đặt ra. Tùy vào mục tiêu, phạm vi và phương pháp đánh giá, việc phân tích có thể chỉ đơn giản ở mức tích lũy các dữ liệu trên một bảng, xử lí bằng những công cụ thống kê đơn giản hoặc với những cuộc điều tra có quy mô lớn phải dùng các chương trình phần mềm của máy tính để phân tích và xử lí các số liệu như Epi-Info, SPSS, STATA..v...v.... Tùy từng phương pháp thu thập thông tin là định tính hay định lượng và quá trình phân tích và xử lí số liệu sẽ mang các đặc tính riêng. 3.4.2. Phân tích định lượng Phân tích định lượng là phiên giải các kết quả tìm được dưới dạng các con số trong mối tương quan với bối cảnh của chương trình. Trong trường hợp tối ưu, những người thực thi chương trình có hiểu biết tốt nhất về các hoạt động của cơ sở cần phải làm việc cùng với những người đánh giá để cân nhắc xem các con số có ý nghĩa hay không; chúng có phản ánh đầy đủ mục tiêu của chương trình/dịch vụ GDSK không; cái gì có thể giải thích cho các con số mà chúng ta không mong đợi; những kết luận và khuyến nghị nào có thể rút ra từ những con số đó. Sau khi số liệu thu được từ điều tra đánh giá, cần tổng hợp vào các bảng và biểu đồ. Lập bảng trống là khâu đầu tiên, rất quan trọng, vì từ đây số liệu sẽ được phân tích, vẽ thành biểu đồ, đồ thị. Thế nào là một bảng trống? Bảng trống là bảng dự kiến bố trí số liệu mô tả hoặc phân tích. Có những bảng trống đơn (một hàng hoặc một cột) hay chỉ có hai cột hai hàng (bảng 2 x 2), nhưng cũng có bảng phức tạp, nhiều cột nhiều hàng. Các cột dọc và các hàng ngang mô tả mối quan hệ hai dãy số liệu của hai biến số liên quan với nhau. Ví dụ:
(1) Bảng trống đơn: Tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi theo tuổi Cộng
Nhóm tuổi 0 - 12 tháng
1-4
5 - 14
15 - 60
> 60 tuổi
(2) Bảng trống Matrix hai chiều: Tình hình bệnh tật theo tuổi Nhóm tuổi 0-4
5 - 14
15 - 60
1. Viêm phổi 2. Thấp khớp 3. ........ Cộng 106
Cộng >60
(3) Bảng trống nhiều chiều Giới Nhóm tuổi
Nữ
Nam 1-14
16-60
>60
Cộng 1-14 16-60
>60
Tổng Cộng
cộng
1. Viêm phổi 2. Thấp khớp ........ Cộng Việc lập các bảng trống giúp người phân tích số liệu biết những thông tin cần thiết và lập khung dữ liệu thích hợp khi phân tích bằng máy vi tính. 3.4.3. Phân tích định tính Trong đa số các trường hợp cần phải phân tích các số liệu định tính một cách hệ thống. Phân tích các số liệu định tính từ phỏng vấn sâu, ghi chép qua quan sát tại thực địa hoặc thông tin của điều tra bằng các câu hỏi mở có thể xác định được sự tương tự và xu hướng của vấn đề. Các số liệu định tính có thể được phân loại theo sự xuất hiện của các chủ đề, mà những chủ đề này phù hợp để trả lời những câu hỏi đánh giá và để phát triển nhưng giả thuyết mới hoặc kiểm tra những giả thuyết đã được lựa chọn. Cần lưu ý phải tránh một sai lầm rất hay mắc phải khi phân tích các số liệu định tính đó là quá tập trung vào “lượng hóa” số liệu định tính và phiên giải các số liệu này như là các số liệu định lượng. Ví dụ, khi phân tích và phiên giải các số liệu của thảo luận nhóm, một số người đánh giá đã lập bảng các thông tin trao đổi và báo cáo chúng dưới dạng các tỷ số, tỷ lệ phần trăm chứ không phải nhằm vào mục đính khám phá những thông tin sâu về tư tưởng, quan điểm và thái độ,... những thông tin này có thể giúp trả lời các câu hỏi đánh giá “tại sao” và “như thế nào”? Sau khi đã có các bảng số liệu, một lần nữa trình bày cho hợp lý, chọn một số liệu chuyển thành biểu đồ, hình vẽ (thường làm trên phần mềm Window hoặc Excel). Dưới mỗi bảng, mỗi biểu là các nhận xét, các lời bàn để nêu lên những nét chính trong kết quả mô tả những giải thích cho kết quả và nguyên nhân của những hiện tượng phát hiện được trong các bảng số liệu. Độ chắc chắn, độ tin cậy của số liệu đến đâu cũng được nêu ra để người đọc nhận thức được những điều rút ra từ đánh giá tin cậy đến đâu, những điểm nào mới là xu hướng, chưa khẳng định và cần làm tiếp sau khi: -
So sánh kết quả đạt được với mục tiêu.
-
So sánh với điểm xuất phát, so sánh với đối chứng.
-
Rút ra kết luận và những nguyên nhân thành công, thất bại.
3.5. Sử dụng kết quả thu được qua đánh giá để rút kinh nghiệm và hoàn thành chương trình hành động cho giai đoạn tới - Đối với khâu xác định vấn đề, chọn ưu tiên: vấn đề nào, đối tượng nào cần được quan tâm. 107
-
Đối với việc chọn giải pháp khả thi: biện pháp nào có tính thực tế và phù hợp với các nguồn lực của địa phương.
- Đối với quá trình thực hiện kế hoạch: điều chỉnh biện pháp, kỹ thuật để thực hiện đúng tiến độ đảm bảo chất lượng. TÓM LẠI Đánh giá là để biết được công việc đã hoàn thành hay chưa, hoàn thành ở mức nào, có những nguyên nhân nào dẫn đến kết quả đó. Để đánh giá cần dựa trên những thiết kế đánh giá chặt chẽ và sử dụng các chỉ số giá thích hợp. Nhắc lại một số điểm lưu ý khi tổ chức đánh giá : - Cần cân nhắc kỹ khi chọn chỉ số đánh giá thích hợp. - Các danh mục đánh giá cần soạn thảo cẩn thận, đủ chi tiết nhưng không quá dài. - Các bộ câu hỏi, biểu mẫu, bảng kiểm được soạn thảo cùng với tài liệu hướng dẫn nghiên cứu viên, giám sát viên kỹ càng. - Trước khi sử dụng cho đánh giá chính thức, cần đánh giá thử để điều chỉnh các mục và các câu hỏi cho phù hợp với địa phương/cộng đồng. - Người thực hiện đánh giá cần được đào tạo để có kỹ năng cần thiết. - Phải tuân theo các nguyên tắc chọn mẫu. - Số liệu thu được cần xử lý bằng thống kê toán học. Những số liệu và kết luận cần thông qua tập thể, để nhiều ngƣời cho ý kiến trƣớc khi thông báo chính thức. Những việc làm cần thiết khác khi lập kế hoạch đánh giá: Trong quá trình chuẩn bị cho đánh giá, việc lập kế hoạch tài chính, nhân lực, phương tiện cho đánh giá là rất quan trọng. Phân bổ nguồn tài chính cho đánh giá. Tùy theo từng khối lượng công việc, thời gian tiêu tốn, khoảng cách đi lại và các khoản phải chi phí mà phân bổ cho thích hợp. CÂU HỎI LƢỢNG GIÁ 1. Nêu khái niệm đánh giá trong giáo dục sức khỏe? 2. Trình bày các phương pháp đánh giá giáo dục sức khỏe? 3. Nêu đối tượng đánh giá giáo dục sức khỏe? 4. Trình bày các bước đánh giá giáo dục sức khỏe?
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Bộ Y Tế, Xây dựng Y tế Việt nam công bằng và phát triển. 2003, Hà Nội: Nhà xuất bản Y học.
2.
Bộ Y Tế, Chiến lược quốc gia y tế dự phòng Việt nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 2007, Hà Nội.
3.
Bộ Y tế - Vụ Khoa học đào tạo, Tổ chức và quản lý y tế. 2007, Hà nội: Nhà xuất bản Y học.
4.
World Health Organisation, Maternal mortality in Viet Nam 2000-2001- An indepth analysis of causes and determinants. 2005, Ha noi: World Health Organisation.
5.
Bộ Y Tế, Báo cáo Y tế Việt nam 2006: Công bằng, hiệu quả, phát triển trong tình hình mới. 2006, Hà Nội: Nhà xuất bản Y học.
6.
Ministry of Health. HIVAIDS estimates and projections 2001 - 2010 in Vietnam 2005 [cited 2009 20 October]; Available from: http://www.unaids.org.vn/resource/topic/epidemiology/e%20&%20p_english_f inal.pdf.
7.
World Health Organisation, Education for health. A manual on health education in primary health care. 1988, Geneva: World Health Organization.
8.
Bộ Y Tế, Nghị định số 911/1999/QĐ-BYT: Quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khoẻ thuộc Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 1999.
9.
Bộ Y Tế, Nghị định số 26/2005/QĐ-BYT: Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế dự phòng huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh 2005.
10.
Nguyễn Văn Hiến, Giáo dục và nâng cao sức khoẻ - Sách đào tạo Bác sỹ đa khoa. 2007, Hà Nội: Nhà xuất bản Y học.
11.
Woods, L.S., Vietnam: A global studies handbook 2002.
12.
Oanh, T.H.T., et al., The prevalence and correlates of physical inactivity among adults in Ho Chi Minh City. BMC Public Health [NLM - MEDLINE], 2008. 8: p. 204.
13.
Giang, K.B., et al., Alcohol use and alcohol consumption-related problems in rural Vietnam: An epidemiological survey using AUDIT. Substance Use and Misuse, 2008. 43(3-4): p. 481-95.
14.
Luc, P., et al., Prevalence of risk factors for non-communicable diseases in the Mekong Delta, Vietnam: results from a STEPS survey. BMC Public Health, 2009. 9(291).
15.
Bộ Y tế - Vụ Khoa học và Đào tạo Khoa học hành vi và Giáo dục sức khỏe, Sách đào tạo CN. YTCC. Hà nội, 2005.
109
16.
Bộ Y tế- Trung tâm Truyền thông GDSK Trung ương, Kỹ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học hệ Truyền thông GDSK giai đoạn 2001-2010, Nhà xuất bản kỹ thuật Hà nội, 2010 (trang 299-300).
17.
Bộ Y tế- Trung tâm Truyền thông GDSK Trung ương, Khóa học Thiết kế tài liệu truyền thông GDSK. Hà Nội, 2007 (trang 34-35).
110