WEL - Oxfam Vietnam

Page 1

Bài học kinh nghiệm

Chương trình Phụ nữ làm chủ kinh tế (WEL) tại Việt Nam Hà Nội, 6/2015


Mục lục 01

Giới thiệu chung

Chư ơ ng 1

07

Khả năng ứng dụng WEL tại Việt Nam - đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa với cộng đồng DTTS

Chư ơ ng 2

15

Lựa chọn và phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp nhằm mục tiêu giảm nghèo và tăng quyền cho phụ nữ

Chư ơ ng 3

23

Xây dựng tổ nhóm sản xuất theo định hướng thị trường của phụ nữ DTTS

Chư ơ ng 4

31

Huy động sự tham gia của khối tư nhân trong việc nâng cấp chuỗi giá trị

Chư ơ ng 5

39

Tạo quyền cho phụ nữ dân tộc thiểu số về tiếp cận thị trường và bình đẳng giới

Chư ơ ng 6

47

Xây dựng quan hệ đối tác hiệu quả

Chư ơ ng 7

51

Vận động nâng cấp, nhân rộng các mô hình và phương pháp của chương trình WEL

Các từ viết tắt DTTS HPN HTX NN&PTNT WEL TTKN UBND

Dân tộc thiểu số Hội phụ nữ Hợp tác xã Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Phụ nữ làm chủ kinh tế Trung tâm Khuyến nông Ủy ban Nhân dân

Biên soạn: Đào Quang Minh, Trần Phong


Giới thiệu chung

Oxfam phối hợp cùng các đối tác và người hưởng lợi thực hiện chương trình phát triển Phụ nữ làm chủ kinh tế (Women’s Economic Leadership – WEL) tại hai tỉnh Ninh Thuận và Lào Cai. Chương trình đã mang lại nhiều kết quả rất khích lệ: cải thiện điều kiện sống cho phụ nữ nghèo, nâng cao năng lực và vị thế của phụ nữ đặc biệt là vai trò làm chủ kinh tế cho những phụ nữ yếu thế trong xã hội. Cùng với các kết quả mà chương trình mang lại, các bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chương trình cũng được đúc kết nhằm định hướng cho các chương trình phát triển của Oxfam được tốt hơn, đồng thời chia sẻ với các tổ chức và chương trình phát triển khác để qua đó có thể tiết kiệm thời gian và nguồn lực.

Phụ nữ làm chủ kinh tế (WEL) là gì?

Là tổng thể các quan điểm và phương pháp sử dụng trong thiết kế các chương trình phát triển thị trường và doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp với ưu tiên là tăng cường sức mạnh của phụ nữ trong thị trường và xã hội. WEL hướng tới việc tăng cường năng lực cho đa số phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo tham gia vào các hoạt động kinh tế và khuyến khích bình đẳng giới trong việc ra các quyết định ở cấp hộ, cộng đồng và thị trường.

Tại sao Oxfam áp dụng WEL? WEL ra đời nhằm giải quyết những vấn đề mà Oxfam cũng như các tổ chức phát triển thường gặp, trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam. Cụ thể là: • Các chương trình hỗ trợ phát triển sinh kế truyền thống tại nông thôn thường gắn với phát triển sản xuất hơn là gắn với phát triển thị trường và tiêu thụ sản phẩm ổn định nên khi có sản phẩm thì không có nơi tiêu thụ hoặc không đáp ứng đúng yêu cầu của khách hàng về số lượng và chất lượng sản phẩm. • Tương tự, các dự án hỗ trợ phụ nữ nông thôn thường tập trung xây dựng năng lực cho phụ nữ để sản xuất và bán sản phẩm, tăng thu nhập nhưng thường không thành công trong việc đảm bảo phụ nữ có thu nhập cao và ổn định. Nguyên nhân do thiếu sự liên kết và phát triển hoạt động kinh doanh một cách bền vững, gắn với các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực. Mặt khác các hoạt động can thiệp không tuân thủ đầy đủ theo cách thức thị trường vận hành, do vậy phụ nữ thường bị gạt ra ngoài hoặc làm việc trong khu vực có lợi nhuận thấp. Khung lý luận WEL được tóm tắt ở sơ đồ dưới đây, theo đó có 3 thành tố chính để đảm bảo một chương trình thành công, bao gồm: Nguyên tắc thực hiện; Kết quả trực tiếp về WEL, và Kết quả thay đổi về môi trường xã hội và luật pháp

Nguyên tắc thực hiện • Phụ nữ đóng vai trò là tác nhân quan trọng và giữ vị trí lãnh đạo, dẫn dắt trong quá trình này. • Mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới phải bình đẳng. • Phụ nữ là chủ thể tích cực thực hiện các giải pháp can thiệp. • Áp dụng với hộ sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ nhưng không dừng lại ở sản xuất mà bao gồm cả việc tham gia và thể hiện vai trò lớn hơn trong thị trường.

1

Sinh hoạt tổ nhóm phụ nữ tại xã Lùng Khấu Nhin Ảnh: Lê Thị Sâm

Phụ nữ DTTS tại Lào Cai đang tham gia khóa tập huấn quản lý kinh tế hộ


Kết quả trực tiếp chủ yếu (thực hiện WEL thành công sẽ mang lại) • Nguồn thu nhập đáng kể cho phụ nữ: Nguồn thu nhập này phải đảm bảo nhu cầu cơ bản của cá nhân người phụ nữ và những người phụ thuộc, phụ nữ có quyền tiếp cận và kiểm soát, và quyền sở hữu của phụ nữ với khoản thu nhập này được các thành viên trong gia đình công nhận. (Tại Việt Nam, một căn cứ có thể tham khảo là thông tin điều tra của Tổng cục thống kê về khoản thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người theo từng khu vực địa lý và dân cư) • Tăng cường được năng lực thị trường của phụ nữ: Phụ nữ có sức mạnh hơn trong việc thương lượng với các tác nhân thị trường khác, đặc biệt là thông qua sức mạnh tập thể. Phụ nữ trở nên năng động và tự tin hơn khi tham gia vào các mắt xích khác nhau của chuỗi giá trị, đặc biệt là ở các mắt xích/ các vị trí đem lại thu nhập cao và ổn định, có thể nắm giữ các vị trí có quyền ra quyết định trong các thiết chế xã hội hoặc kinh doanh. • Xây dựng được năng lực tự ý thức và sự tự tin của phụ nữ: Phụ nữ tự ý thức có tính tích cực về bản thân mình (chẳng hạn như quyền tự quyết định của người phụ nữ) và tự tin về năng lực của mình với tư cách cá nhân hoặc là thành viên của một tập thể trong việc thực hiện một công việc nào đó. • Tăng cường được quyền lực, tiếng nói và khả năng ra quyết định của phụ nữ: Phụ nữ có quyền quyết định về các vấn đề liên quan đến bản thân, phụ nữ chủ động tham gia và có quyết định quan trọng trong các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình, cộng đồng. • Tăng cường khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của phụ nữ: Phụ nữ được tạo điều kiện thuận lợi để được tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ gia đình (đất đai, công cụ lao động, nhân lực, vốn…), cộng đồng (rừng cộng đồng, nhà chung cộng đồng…), nhà nước (tín dụng, khuyến nông, mạng lưới chợ…) hay lĩnh vực tư nhân (vốn, kỹ thuật từ doanh nghiệp…) để phát triển kinh tế.

Kết quả thay đổi về môi trường xã hội và luật

(đây là những yếu tố mà chương trình WEL mong đợi sẽ tạo sự thay đổi để hỗ trợ cho quá trình phụ nữ làm chủ kinh tế) • Luật pháp và chính sách: Vận động/thúc đẩy cho việc ban hành và thực hiện các luật lệ, quy tắc chính thống ở tổ chức, thị trường, ở cấp địa phương hoặc quốc gia nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ phụ nữ và nam giới trong việc thực hiện những nhiệm vụ và trách nhiệm liên quan đến công việc được hưởng lương và không hưởng lương theo hướng bình đẳng giới, tăng quyền cho phụ nữ.

• Các cơ cấu/cấu trúc thân thiện với phụ nữ: Một dạng cấu trúc mà phụ nữ muốn xây dựng để đảm bảo sự thuận lợi cho họ trong việc tham gia và thực hiện các hoạt động sinh kế- bao gồm các thiết chế, các điều lệ, cách vận hành các hoạt động. Chẳng hạn chương trình tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi sẽ được tổ chức ngay tại thôn bản vào khoảng thời gian mà phụ nữ có thể thu xếp để tham gia được. • Các chuẩn mực về vai trò và trách nhiệm giới: Sự thay đổi trong cách nhìn nhận về vai trò và trách nhiệm của phụ nữ và nam giới theo hướng tích cực. Chẳng hạn nam giới cũng có vai trò và trách nhiệm như phụ nữ trong việc chăm sóc con cái và người già, phụ nữ có thể là người trụ cột chính trong việc đảm bảo thu nhập của gia đình. • Thái độ và niềm tin về phụ nữ: Niềm tin về mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, về năng lực và khả năng đóng góp của phụ nữ trong gia đình và xã hội. 2


• An toàn về thể chất: Phụ nữ không bị đe dọa bởi bạo lực trên cơ sở phân biệt giới ở gia đình cũng như nơi công cộng khi thực hiện các hoạt động kinh tế cũng như khi tham gia vào các hoạt động cộng đồng. CƠ CH

ÍN

H

T

LU

&

CH

QUYỀN

CẤ

I LỰC, TIẾNG NÓ

UT

NT

HIỆ

NV

ỚI

NGUYÊN TẮC CHỦ ĐẠO

PN

PHỤ NỮ NGHÈO LÀM CHỦ KINH TẾ - Trên thị trường - Tại cộng đồng - Tại doanh nghiệp - Tại gia đình - Bản thân

ĐỘ

N TR MỰ ÁC C V H Ề NH VA IỆ I T M R

ÁI

Ò

TH

&

KẾT QUẢ CHÍNH

& NI ỀM CH

N

UẨ

TI

AN TOÀN

MÔI TRƯỜNG: THUẬN LỢI HOẶC KHÔNG THUẬN LỢI

Nguồn: Oxfam

Lưu ý:

Không phải là tất cả các hoạt động về tạo quyền cho phụ nữ, về kinh tế hay công bằng giới đều là WEL. WEL là một trong số các phương thức mà Oxfam áp dụng để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới trong kinh tế. Bên cạnh WEL, Oxfam cũng áp dụng các cách thức khác cũng không kém phần quan trọng như Chương trình Liên kết và Lồng ghép tăng quyền cho phụ nữ (WEMAN) nhằm hướng tới đổi mới, chia sẻ và vận động bình đẳng giới trong các can thiệp về kinh tế và trong tổ chức; An ninh lương thực; An sinh xã hội và vận động hành lang cho các chính sách kinh tế tập trung vào người nghèo và các nhóm yếu thế trong xã hội…

Đối tác của chương trình WEL tại Việt Nam là ai? Tỉnh Ninh Thuận: Hội phụ nữ (HPN) tỉnh, Ủy ban Nhân dân (UBND) hai huyện Bác Ái và Thuận Bắc Tỉnh Lào Cai: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), Trung tâm Khuyến nông tỉnh, HPN tỉnh

Các can thiệp chính từ chương trình

Chương trình WEL được thực hiện tại mỗi tỉnh dự án có các nội dung và chiến lược can thiệp khác nhau dựa trên bối cảnh phát triển của chuỗi giá trị cũng như bối cảnh văn hóa- kinh tế- xã hội của từng địa phương, từng nhóm dân tộc cụ thể nhưng đều dựa trên các nguyên tắc căn bản và nhằm đạt được kết quả đầu ra mong đợi của WEL: • Thực hiện các nghiên cứu lựa chọn ngành hàng tiềm năng và lập sơ đồ thị trường có nhạy cảm giới để đảm bảo phụ nữ có thể tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển chuỗi giá trị → Các nghiên cứu độc lập về thị trường có nhạy cảm giới đều xác định rằng ngành hàng lợn đen bản địa là sản phẩm tiềm năng đem lại cơ hội về thu nhập và bình đẳng giới ở tại cả hai tỉnh dự án với các nhóm dân tộc thiểu số khác nhau. 3


• Tổ chức hoạt động sản xuất theo mô hình tổ nhóm sản xuất kết hợp với chuỗi giá trị. → Hỗ trợ phụ nữ cùng sở thích chăn nuôi lợn bản địa tổ chức thành các nhóm để họ có thể chia sẻ kinh nghiệm sản xuất và thị trường với nhau, và bước đầu xúc tiến cho những hành động tập thể trong sản xuất và tiếp cận thị trường. • Nâng cấp chất lượng và phát triển số lượng đối với sản phẩm được lựa chọn dựa trên nhu cầu từ thị trường → Hỗ trợ phụ nữ nguồn giống lợn bản địa chất lượng tốt theo hình thức xoay vòng thông qua “ngân hàng lợn” và kỹ thuật chăn nuôi tiến bộ nhằm nâng cao số lượng và chất lượng đàn lợn hàng hóa. • Huy động các nguồn lực hộ gia đình, cộng đồng, các chương trình của nhà nước và tư nhân cho hoạt động chăn nuôi lợn bản địa theo hướng ưu tiên phụ nữ dân tộc thiểu số → liên kết các tác nhân/ các bên liên quan trong cùng một chuỗi, chia sẻ thông tin/ bài học kinh nghiệm, vận động nhân rộng mô hình thông qua các chính sách/ kế hoạch và hoạt động của các chương trình. • Xây dựng và phát triển mối liên kết giữa các bên khác nhau trong cùng chuỗi giá trị ngành hàng lợn bản địa, đặc biệt là giữa các nhóm sản xuất với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng tiện ích và lợi nhuận cho các bên tham gia. • Xây dựng năng lực cho các bên tham gia vào chuỗi về các kỹ năng liên quan đến vai trò của họ nhằm thúc đẩy sự phát triển của chuỗi. • Thực hiện các hoạt động tập huấn, truyền thông nhằm đẩy mạnh vai trò làm chủ kinh tế của phụ nữ và sự chuyển đổi trong quan hệ giới ở cấp hộ gia đình và cộng đồng • Hỗ trợ nhằm cải thiện môi trường chính sách hướng đến việc hỗ trợ nông dân sản xuất quy mô nhỏ, nông dân nghèo dân tộc thiểu số, phụ nữ trong phát triển kinh tế.

Kết quả đạt được là gì? • Tạo được thay đổi mang tính đột phá trong tư duy sản xuất và thị trường cho phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS). o Từ xuất phát điểm là một hoạt động sinh kế phụ của các hộ gia đình người dân tộc thiểu số tại vùng dự án với mục đích truyền thống là làm thức ăn cho gia đình và là nguồn tiết kiệm khi cần, nuôi lợn đen bản địa đang dần trở thành một loại hình sản xuất hàng hóa và là một trong các nguồn sinh kế chính đem lại thu nhập cao và ổn định cho các hộ chăn nuôi. Thu nhập từ chăn nuôi lợn đen hiện nay chiếm khoảng 1/3 đến ½ tổng thu nhập hàng năm của các hộ DTTS tại các xã dự án ở tỉnh Lào Cai. Hoạt động sinh kế bổ sung lẫn nhau (nuôi lợn – trồng chuối) cũng đang hứa hẹn đem lại nguồn thu nhập tăng thêm đáng kể và bền vững cho các hộ DTTS tại các xã dự án ở tỉnh Ninh Thuận. o Từ xuất phát điểm là không có chợ, chợ phiên xã Phước Tiến (huyện Bác Ái) đã được tổ chức và đi vào hoạt động với 4 phiên/tháng tạo thói quen đi chợ, trao đổi, mua bán sản phẩm cho người dân trong vùng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. o Phụ nữ DTTS tại khu vực dự án đã bắt đầu tham gia các hoạt động sản xuất và kinh doanh mà trước kia hầu như chưa bao giờ họ làm: mở cửa hàng kinh doanh bán tại thôn hoặc chợ xã, chế biến thức ăn, may quần áo… để bán tại chợ trong xã hoặc sang các xã khác.

4


• Tăng cường năng lực và sự tự tin của phụ nữ o Bước đầu đã có chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động theo hướng bình đẳng giới. Phụ nữ DTTS đã trở nên tự tin và chủ động thảo luận về vai trò và quyền lợi của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Nam giới cũng đã bắt đầu chia sẻ nhiều hơn với phụ nữ các công việc nhà, tạo điều kiện cho vợ tham gia các hoạt động xã hội o Có 24 tổ nhóm với 629 thành viên là phụ nữ DTTS chăn nuôi lợn đen được thành lập tại Lào Cai và 22 tổ nhóm với 335 thành viên tại tỉnh Ninh Thuận. Các tổ nhóm này sinh hoạt định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý để chia sẻ các thông tin về sản xuất, thị trường, bình đẳng giới, và các chính sách có liên quan…Việc hoạt động theo tổ nhóm và tổ chức sinh hoạt nhóm định kỳ góp phần tạo sự tự tin và nâng cao năng lực cho các thành viên trong sản xuất nông nghiệp theo định hướng thị trường và trong hành động hướng tới sự bình đẳng giới/ tạo quyền cho phụ nữ.

Phụ nữ Raglai đang chăm sóc heo đen Ảnh: Xuân Trường

Khóa tập huấn về quản lý tài chính tại Lào Cai Ảnh: Trung tâm Khuyến nông Lào Cai

• Tăng cường sự tiếp cận và kiểm soát nguồn lực của phụ nữ o Người sản xuất đã bước đầu có kết nối với người thu gom, lò mổ và doanh nghiệp. Tại Thuận Bắc, người sản xuất được kết nối với cơ sở thu gom- lò mổ Chung Liệu. Người sản xuất tại xã Lùng Khấu Nhin (Mường Khương) kết nối với HTX Hưng Thịnh. Tương tự, các hộ chăn nuôi tại xã Trịnh Tường và Mường Hum (huyện Bát Xát) kết nối và tiêu thụ sản phẩm với HTX Hoàng Sơn… o Mối quan hệ đối tác giữa các cơ sở kinh doanh lò mổ và doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm thịt lợn đen với nhau và với dự án được tăng cường. Doanh nghiệp nắm được cách tiếp cận của dự án, hiểu được lợi ích khi cùng cộng tác và chia sẻ lợi ích với cộng đồng.

• Bước đầu tạo môi trường thuận lợi để duy trì và phát triển WEL o Các tổ nhóm phụ nữ sản xuất tiếp cận thị trường và việc phát triển ngành hàng lợn đen bản địa sẽ tiếp tục được duy trì bởi chính những phụ nữ dân tộc thiểu số và chính quyền địa phương thông qua các nguồn lực được huy động tại chỗ. o Sự phối hợp giữa cơ quan chính quyền, doanh nghiệp, dự án, cộng đồng được thực hiện hài hòa mang lại lợi ích cho các bên. Chương trình của tổ chức Oxfam và cộng đồng đã kết hợp chặt chẽ với các chương trình của chính phủ, các nhà tài trợ (như Chương trình Tam Nông, Nông thôn mới, DANIDA…). Một số mô hình được các cơ quan, các chương trình phát triển của chính phủ, tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ tiếp tục thực hiện và nhân rộng (Lợn đen bản địa được xác định là ngành hàng chiến lược của tỉnh Ninh Thuận/ Lào Cai và được Chương trình Tam Nông/ Nông thôn mới, Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc… tiếp tục thực hiện). 5


Phương pháp & công cụ chính để thực hiện chương trình WEL • Kết nối phân tích hộ và phân tích thị trường có yếu tố giới. • Lựa chọn thị trường có yếu tố giới. • Lập sơ đồ thị trường có yếu tố giới. • Xác định ngành hàng ưu tiên có yếu tố giới. • Khảo sát, nâng cấp, thử nghiệm chuỗi giá trị của ngành hàng đã lựa chọn. • Xác định cơ hội thị trường và can thiệp. • Xác định các bên liên quan và chiến lược tiếp cận các bên liên quan. • Đặt câu hỏi để các bên liên quan hỗ trợ WEL. • Dẫn dắt các thay đổi tích cực ở cấp hộ.

Tài liệu này được xây dựng thành các bài học độc lập đáp ứng nhu cầu đặc thù khác nhau như áp dụng các công cụ để thực hiện WEL, xây dựng tổ nhóm sản xuất hay xây dựng quan hệ đối tác và nhân rộng mô hình. Khi gộp lại các bài học này sẽ trở thành một bộ tài liệu hoàn chỉnh theo thứ tự như sau: • Khả năng ứng dụng WEL tại Việt Nam đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa với cộng đồng dân tộc thiểu số. • Lựa chọn và phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp nhằm mục tiêu giảm nghèo và tăng quyền cho phụ nữ. • Xây dựng tổ nhóm sản xuất theo định hướng thị trường của phụ nữ DTTS. • Huy động sự tham gia của khối tư nhân trong việc nâng cấp chuỗi giá trị. • Tạo quyền cho phụ nữ dân tộc thiểu số về tiếp cận thị trường và bình đẳng giới • Xây dựng quan hệ đối tác hiệu quả. • Vận động nâng cấp, nhân rộng các mô hình và phương pháp của chương trình WEL.

6


1 7

Khả năng ứng dụng WEL tại Việt Nam đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa với cộng đồng dân tộc thiểu số


WEL đã được triển khai tại tỉnh Lào Cai thuộc khu vực miền núi Tây Bắc với các nhóm dân tộc khác nhau như Mông, Dao, Tày, Giáy, Nùng…và tại Ninh Thuận, một tỉnh thuộc khu vực Nam Trung Bộ với cộng đồng người dân tộc Raglai. Cả hai tỉnh đều thuộc khu vực khó khăn, nơi nhận được sự hỗ trợ của các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững hay chương trình hỗ trợ các xã huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn của cả nước (Chương trình 135, Chương trình 30a…). Chương trình WEL được thực hiện trực tiếp với các cộng đồng người DTTS, đặc biệt cộng đồng Raglai có truyền thống sản xuất tự túc tự cấp từ lâu đời nên việc triển khai thành công tại các tỉnh này là cơ sở vững chắc để tin rằng chương trình có thể áp dụng được tại các địa phương khác

Những mô hình hay cách làm nào có thể phù hợp tại Việt Nam? • Phân tích chuỗi giá trị và thị trường có nhạy cảm giới để đảm bảo phụ nữ có thể tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển chuỗi giá trị. Thực tế áp dụng trong các chương trình do Oxfam hỗ trợ tại Việt Nam và trên thế giới cho thấy cách tiếp cận này khả thi vì về cơ bản các chuỗi giá trị nông nghiệp đều có sự tham gia của phụ nữ. • Khung lý luận về WEL với những nguyên tắc thực hiện cơ bản và các nhóm kết quả/ đầu ra cụ thể là định hướng tốt khi thiết kế các can thiệp dự án nhằm hướng đến mục tiêu nâng cao vai trò làm chủ kinh tế của phụ nữ. • Tổ chức hoạt động sản xuất theo mô hình tổ nhóm sản xuất kết hợp với chuỗi giá trị. Tổ nhóm là nơi cộng đồng có thể chia sẻ kinh nghiệm sản xuất và thị trường với nhau, và bước đầu xúc tiến cho những hành động tập thể trong sản xuất và tiếp cận thị trường. • Thu hút sự tham gia của khối tư nhân nhằm mang lại sự phát triển bền vững về mặt tổ chức và thị trường cho chuỗi giá trị được lựa chọn. • Nâng cao năng lực và sự tự tin cho bà con DTTS, đặc biệt là phụ nữ thông qua những cách thức tổ chức và hoạt động linh hoạt, phù hợp với bối cảnh địa phương. • Một số mô hình ứng dụng các giải pháp kỹ thuật giúp nông dân tiết kiệm sức lao động, giảm thời gian, tăng hiệu quả sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường (mô hình bếp khí hóa, nuôi giun quế, ủ phân vi sinh, ủ chua thức ăn). • Hình thành thói quen mua bán sản phẩm tại chợ địa phương cho cộng đồng DTTS tại những nơi chưa có chợ hoặc ít có sự trao đổi lưu thông sản phẩm nông nghiệp địa phương thông qua hỗ trợ phát triển sản xuất ở mức độ phù hợp kết hợp tập huấn về kỹ năng kinh doanh/ bán hàng hiệu quả, tổ chức phiên chợ mẫu.

Cách tiếp cận WEL có thể được áp dụng trong chương trình nào? • Trong các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và bình đẳng giới. • Trong các hoạt động chương trình, dự án của các sở, ban ngành đoàn thể của các cấp. Ví dụ: chương trình sinh kế nông thôn, phát triển sản phẩm nông nghiệp và cung cấp dịch vụ công của Sở NN&PTNT, Sở Công Thương, Sở Tài nguyên & Môi trường. • Trong các dự án của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức dựa vào cộng đồng về giới, sinh kế, phát triển cộng đồng v.v..

8


Phụ nữ Raglai chăm chú tham gia hội thảo chia sẻ kinh nghiệm dự án WEL Ảnh: Trần Phong

Hoạt động nào cần điều chỉnh để tăng tính ứng dụng tại Việt Nam? • Cách tiếp cận WEL có thể áp dụng cho bất kỳ chuỗi giá trị nào. Với các chuỗi giá trị có độ rủi ro cao như lợn đen thì cần có sự cộng tác chặt chẽ của các đơn vị kỹ thuật để giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra như dịch bệnh và thời tiết thay đổi. • Thị trường ở vùng sâu, vùng xa của Việt Nam trong nhiều trường hợp đều mới ở mức độ phát triển sơ khai, thiếu vắng hầu hết các tác nhân chính của một chuỗi giá trị như người thu gom, người chế biến, vận chuyển, xuất khẩu và bán lẻ v.v..Do vậy vẫn nên cố gắng thu thập thông tin nhưng không nên cầu toàn sẽ thu thập được thông tin chi tiết cho một sơ đồ thị trường hoàn chỉnh với đầy đủ các tác nhân. • Sự tham gia của khối tư nhân đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo thành công của chương trình vì đây là tác nhân không thể thiếu trong việc phát triển chuỗi giá trị sản phẩm. Tuy nhiên, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và đặc biệt là ở những khu vực miền núi có cơ sở hạ tầng kém, quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Do đó cần có đánh giá ngay từ đầu về tiềm năng đầu tư và mong đợi của khối tư nhân liên quan đến ngành hàng được lựa chọn để cân nhắc chiến lược làm việc với họ. Ở những địa bàn dự án mà không có sự hình thành hoặc hoạt động của các doanh nghiệp thì sự hợp tác với khối tư nhân lúc đầu sẽ chỉ cần là sự hợp tác với các cá nhân hoặc hộ gia đình kinh doanh có tiềm năng tại địa bàn. Trên cơ sở đó sẽ xây dựng năng lực cho các cá nhân/ hộ gia đình và kết nối họ với các bên liên quan khác để họ phát triển dần. • Để các ứng dụng kỹ thuật giúp nông dân tiết kiệm sức lao động, giảm thời gian, tăng hiệu quả sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường (mô hình bếp khí hóa, nuôi giun quế, ủ phân vi sinh, đệm lót sinh học, ủ chua thức ăn) có thể áp dụng được trên quy mô rộng hơn, phục vụ cho đa số người DTTS nghèo thì cần chú ý đến việc giảm giá thành và có vật tư thay thế dễ dàng hơn (nguyên liệu sẵn có tại địa phương, giá rẻ…). Cần có bố trí cán bộ kỹ thuật đôn đốc, hướng dẫn kỹ hơn và có sự sáng tạo trong quá trình áp dụng.

9


Niềm vui trên gương mặt người phụ nữ Raglai cắt chuối về nuôi lợn. Ảnh: Xuân Trường

Lưu ý giúp tăng khả năng thành công • Tăng cường quyền năng cho phụ nữ không chỉ là một mục tiêu mà còn là một quá trình. Trong quá trình thiết kế và thực hiện chương trình cần có chiến lược và phương pháp tiếp cận rõ ràng, cụ thể nhưng đảm bảo sự linh hoạt, sáng tạo dựa trên bối cảnh văn hóa- kinh tế- xã hội của địa phương để xây dựng các nguồn lực hỗ trợ, năng lực, sự tự nhận thức và tự tin cho phụ nữ thông qua việc thực hiện các hoạt động của chương trình. • Một trong những đầu ra của WEL là tạo ra được khoản thu nhập đáng kể cho phụ nữ. Do đó, khi xây dựng mô hình sản xuất và tiếp cận thị trường thì cần phải tính toán đến quy mô sản xuất tối thiểu để đảm bảo mức thu nhập đạt trên chuẩn nghèo.

Ảnh: Xuân Trường

Ảnh: Đào Quang Minh

10


Phụ nữ Raglai tại Bác Ái chăm sóc đàn heo đen Ảnh: Xuân Trường

Kết quả nghiên cứu về hiện trạng sản xuất và kinh doanh heo đen bản địa tại huyện Bác Ái vào tháng 3/2014 cho thấy thị trường tiềm năng của sản phẩm heo đen bản địa tại huyện này là thành phố Đà Lạt. Với thị trường Đà Lạt, sản phẩm được ưa chuộng là heo đen có trọng lượng từ 9- 15 kg/ con. Mức giá thu mua tại tổ nhóm là từ 60.000- 65.000đ/ kg. Như vậy để có thể thoát nghèo từ chăn nuôi heo thì mỗi hộ gia đình với quy mô 4 người cần phải có khoản thu từ chăn nuôi heo ít nhất là 24 triệu đồng/ năm, tương đương với việc cần bán ra tối thiểu là 31 con heo sữa có trọng lượng bình quân là 12kg/ con với mức giá là 65.000đ/ kg. Như vậy, mỗi hộ gia đình cần phải nuôi tối thiểu là 3 con heo nái để có thể sản xuất ra đủ số heo sữa cần thiết và sẽ phải trồng thêm chuối, rau lang, khoai môn để làm nguồn thức ăn cho heo. Ở thời điểm tháng 3/2013, bình quân mỗi hộ gia đình trong các tổ nhóm chăn nuôi heo đen ở Bác Ái mới chỉ có 1,66 con heo nái. Do đó bình quân mỗi hộ cần phải nuôi tăng thêm ít nhất là 1 con heo nái nữa. Đây chính là cơ sở để Chương trình Tam Nông ở Ninh Thuận đã tiếp nối dự án WEL hỗ trợ thêm 2 con heo nái cho mỗi hộ gia đình chăn nuôi heo đen tại tỉnh Ninh Thuận để họ có đủ con giống đầu vào cho phát triển sản xuất. Ở Lào Cai, theo kết quả nghiên cứu sâu về ngành hàng lợn đen bản địa thực hiện năm 2011 thì nuôi lợn đen cắp nách với phương thức truyền thống (nuôi từ 1-2 năm mới đạt trọng lượng từ 15-30kg) hầu như không có lãi và nếu nuôi lợn đen con to (nuôi từ 8 tháng trở lên và đạt trọng lượng khoảng 90kg/con) thì cũng cần phải nuôi với quy mô tối thiểu là 5 con/ lứa thì mới có lãi. Nếu chỉ tập trung nuôi lợn để thoát nghèo thì mỗi hộ gia đình cần phải nuôi và xuất chuồng khoảng 10-12 con lợn/ năm với trọng lượng bình quân là 90kg/con và mức giá là 57.000đ/kg. Qua tham khảo ý kiến của một số hộ chăn nuôi ở huyện Mường Khương thì với nguồn lao động hiện có của hộ gia đình (thường là 2 lao động chính), và nguồn nông sản tận dụng do hộ gia đình sản xuất ra thì có thể vừa nuôi được khoảng từ 6-8 con lợn thịt/ lứa vừa làm được các hoạt động nông nghiệp khác. Do đó, quy mô chăn nuôi tối thiểu được dự án chia sẻ với bà 11

Nuôi giun quế phục vụ chăn nuôi heo đen tại huyện Thuận Bắc Ảnh: Xuân Trường


Hội thảo tổng kết kinh nghiệm về WEL tại Ninh Thuận Ảnh: Đào Quang Minh

con là 5 con lợn thịt/ lứa và quy mô chăn nuôi phù hợp là 6-8 con/lứa. Bên cạnh đó, dự án cũng kết hợp với các chuyên gia về chăn nuôi và các doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng thịt lợn đen để cùng xác định và thống nhất về thời điểm xuất chuồng phù hợp nhằm đáp ứng đúng yêu cầu về chất lượng sản phẩm của thị trường và đảo bảo cho người chăn nuôi có lãi. Chẳng hạn lợn thịt con to giống Mường Khương chỉ cần nuôi từ 6 tháng trở lên và đạt trọng lượng từ 60-80kg/con là đủ tiêu chuẩn xuất chuồng vì khi lợn đạt từ 80kg trở lên bắt đầu tích mỡ và chậm tăng cân. Khi đó người chăn nuôi ít được lợi nếu so với việc bán lợn đi và nuôi quay vòng một lứa khác; và người mổ thịt cũng ít được lợi vì phần thịt xẻ ra sẽ có nhiều mỡ nên bán không được giá. • Khi thành lập nhóm nên bắt đầu với nhóm hỗn hợp với một số thành viên có kỹ năng làm kinh tế, thậm chí là hộ có điều kiện kinh tế khá. Sự tham gia của những thành viên này sẽ giúp những thành viên là phụ nữ DTTS nghèo học được kinh nghiệm phát triển kinh tế và cách làm ăn. Tuy nhiên, cần phải lưu ý để việc hỗ trợ trực tiếp về vật chất hoặc tài chính sẽ phải hướng sự ưu tiên đến các hộ gặp khó khăn hơn. • Luôn chú ý để lựa chọn và đào tạo các thành viên nòng cốt cho tổ nhóm, đặc biệt là những phụ nữ trẻ và biết chữ tại các vùng DTTS là điểm then chốt trong việc đảm bảo thành công của hoạt động tổ nhóm. Nhóm trưởng và các thành viên nòng cốt của nhóm cần được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết để điều hành các buổi sinh hoạt tổ nhóm. Một số các kỹ năng cơ bản cần đào tạo và kèm cặp thường xuyên thông qua thực tế hoạt động của tổ nhóm: điều hành cuộc họp, công cụ để huy động sự tham gia, kiến thức về WEL…

Đại diện tổ nhóm chăn nuôi heo đen chia sẻ bài học kinh nghiệm Ảnh: Đào Quang Minh

12


Trẻ em Raglai theo mẹ ra chợ phiên tại huyện Thuận Bắc Ảnh: Xuân Trường

• Bắt đầu thử nghiệm với quy mô nhỏ, rút kinh nghiệm định kỳ và mở rộng dần. • Đảm bảo có sự tham gia của nam giới để họ hiểu và chia sẻ các hoạt động chương trình với phụ nữ đồng thời để cộng đồng không hiểu lầm đây chỉ là chương trình của phụ nữ. Một số kỹ thuật có thể giúp tăng cường sự tham gia như mời cả nam và nữ tham gia các buổi họp hàng tháng, kết hợp cùng tổ chức với cuộc họp thôn hoặc thiết kế một số chương trình đặc thù dành riêng cho nam và nữ… • Đào tạo đội ngũ cán bộ nguồn về WEL, những người được trang bị kỹ năng cần thiết để giới thiệu và triển khai WEL. • Xây dựng kế hoạch dài hơi để xây dựng mô hình sản xuất và kết nối thị trường. Kinh nghiệm cho thấy sẽ cần từ 3 – 5 năm cho việc xây dựng mô hình và nâng cấp chuỗi giá trị, để liên kết tốt với thị trường sẽ cần khoảng thời gian dài hơn thế. • Thông thường sẽ rất khó để xác định một chuỗi giá trị có sẵn các điều kiện để nâng cao năng lực cho phụ nữ trên cơ sở áp dụng các công cụ lựa chọn và lập sơ đồ thị trường có nhạy cảm giới của WEL. Trong trường hợp này, có thể sử dụng bộ công cụ này nhằm mục đích tìm hiểu về thực trạng của một chuỗi giá trị (chẳng hạn như nhân tố quản trị chuỗi, các vấn đề về giới…) sau đó phát triển các chiến lược và cách tiếp cận cụ thể để giải quyết các vấn đề về người nghèo, tăng quyền năng của phụ nữ trong chuỗi giá trị đó. Một ý tưởng khác là kết hợp các nguyên tắc và công cụ của WEL với WEMAN/ GALS (Một phương pháp tiếp cận và bộ công cụ nhằm thúc đẩy bình đẳng giới do Oxfam đề xuất) vì trong hệ thống công cụ của WEL hiện nay đang thiếu các công cụ thực hành để hỗ trợ và thúc đẩy các bên liên quan của dự án, đặc biệt là phụ nữ DTTS có những hạn chế về trình độ học vấn hoặc khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ phổ thông để họ có những suy nghĩ thật sâu sắc và cụ thể về tầm nhìn, năng lực, cơ hội, và những khó khăn liên quan đến mục tiêu/quá trình thay đổi hướng đến bình đẳng giới, phát triển kinh tế hộ gia đình và qua đó xây dựng được chiến lược và hành động phù hợp để đạt được sự thay đổi. 13


Thông tin cụ thể về WEMAN/GALS xin xem thêm: http://growsellthrive.org/resources/learning-resources#Presentations

14


2 15

Lựa chọn và phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp nhằm mục tiêu giảm nghèo và tăng quyền cho phụ nữ


Cách tiếp cận về chuỗi giá trị đã được sử dụng trong nhiều dự án của chính phủ, các tổ chức quốc tế và trong nước để giúp cộng đồng giảm nghèo, phát triển kinh tế, giảm dần bất bình đẳng giới và tăng cường vị thế của phụ nữ. Tuy nhiên việc phân tích và thiết kế can thiệp không phù hợp sẽ không giúp người nghèo cải thiện giá trị của sản phẩm hoặc dịch vụ. Tương tự, giá trị của sản phẩm có thể được nâng lên nhưng lại không giúp phụ nữ có thêm thu nhập và không giúp cải thiện vai trò, vị trí và khả năng ra quyết định của phụ nữ. Cách tiếp cận WEL với những công cụ được giới thiệu dưới đây sẽ giúp việc lựa chọn sản phẩm/dịch vụ, mắt xích can thiệp phù hợp với phụ nữ, giúp họ có thể tham gia tốt hơn vào hoạt động của chuỗi

Công cụ Lựa chọn các sản phẩm/ngành hàng có nhạy cảm giới Tác dụng của công cụ này là gì?

• Phân tích tiềm năng của các sản phẩm và thị trường tương ứng. • Xác định nhu cầu thị trường nào, cơ hội để tăng thu nhập hoặc tạo ra giá trị gia tăng. • Phân tích khả năng, mức độ tham gia của phụ nữ vào các phần việc, các khâu của sản phẩm và thị trường.

Chuỗi giá trị bao gồm tất cả các khâu từ sản xuất tới tiêu dùng nhưng nhấn mạnh việc tạo ra những sản phẩm dịch vụ theo nhu cầu của người tiêu dùng thay vì sản xuất những gì có thể.

• Phân tích các lợi thế (kỹ năng, sức khỏe, thời gian, điều kiện tài chính, kinh nghiệm v.v..) của phụ nữ khi tham gia các sản phẩm và thị trường. • Phân tích lợi ích và rủi ro phụ nữ có thể gặp phải.

Khi nào nên sử dụng công cụ này?

• Khi bắt đầu thiết kế một chương trình mới: đầu tư thời gian và nguồn lực để nghiên cứu thị trường và sản phẩm trước khi có cam kết với đối tác và đầu tư ngân sách cho một sản phẩm cụ thể; • Khi chương trình sẵn sàng và có khả năng xem xét thay đổi sản phẩm; • Vào giữa kỳ hay khi thiết kế lại một chương trình: thị trường luôn vận động, do vậy cần đánh giá lại tiềm năng và tính phù hợp của sản phẩm đối với phụ nữ mỗi khi có các cơ hội mới hay các sản phẩm/mùa vụ bị tác động tiêu cực bởi thị trường hoặc môi trường

Cách thức tiến hành

Bước 1: Thảo luận với các bên liên quan (cơ quan chính phủ, tổ chức phi chính phủ, các nhà tài trợ, khu vực tư nhân và cộng đồng) để thu thập số liệu sẵn có, nghiên cứu tài liệu để xác định nhu cầu thị trường, bối cảnh nền sản xuất nông nghiệp, môi trường và các tác nhân của chuỗi giá trị sản phẩm tại địa phương. Bước 2: Đánh giá các đặc tính của cơ cấu thị trường đối với các sản phẩm và tiềm năng cho những người sản xuất quy mô nhỏ và sự tham gia của phụ nữ. VD: quy mô, tình trạng hiện tại của các tác nhân thị trường, các quy định về sản phẩm và thị trường, và cơ sở hạ tầng cần có.

Lập kế hoạch phát triển sản phẩm dựa trên công cụ Con đường mơ ước Ảnh: Lê Thị Sâm

16


Tập huấn về hạch toán kinh tế cho phụ nữ Ảnh: Lê Thanh Hương

Phỏng vấn các bên liên quan để thiết lập tiêu chí lựa chọn sản phẩm Ảnh: Trung tâm Khuyến nông Lào Cai

Bước 3: Phỏng vấn và thảo luận với các bên liên quan tại thực địa để thiết lập các tiêu chí cho việc lựa chọn sản phẩm và/ hoặc thị trường.

Tiêu chí lựa chọn sản phẩm và thị trường (gợi ý)

Đối với mỗi vùng và nhóm sản phẩm/ thị trường khác nhau có thể có các tiêu chí và mức độ quan trọng khác nhau. Tuy nhiên, dưới đây là một số tiêu chí có giá trị tham khảo: • Phụ nữ kiểm soát thiết bị/tài sản phục vụ sản xuất. • Phụ nữ có hoặc có thể nắm bắt được các kỹ năng cần thiết. • Cơ hội tạo giá trị gia tăng đem lại lợi nhuận. • Có truyền thống và kinh nghiệm trong sản xuất. • Gia công sản phẩm và đa dạng hóa tạo ra các thị trường mới. • Phụ nữ kiểm soát được nguồn thu từ bán hàng và hoạt động kinh doanh. • Gần với nơi cộng đồng và hộ gia đình sinh sống. Bước 4: Lựa chọn sơ bộ sản phẩm/thị trường tiềm năng dựa trên các tiêu chí đã được xây dựng. Bước 5: Tổ chức hội thảo lựa chọn sản phẩm và thị trường với các bên liên quan chủ chốt để đưa ra lựa chọn cuối cùng. Bước 6: Dự thảo báo cáo và thu thập các góp ý từ các bên liên quan.

Trong thực tế việc lựa chọn sản phẩm phù hợp rất khó khăn, thường xuất hiện xu hướng như sau:

• Sản phẩm truyền thống mang lại ít thu nhập và lợi nhuận thấp nhưng lại có cơ hội để củng cố tổ chức, xây dựng các kĩ năng, đàm phán với khu vực tư nhân và các dịch vụ tiếp cận thị trường… • Tổ chức sản xuất phức hợp (VD: sản xuất hàng hóa xuất khẩu với số lượng lớn), có thể đem lại thu nhập cao hơn, nhưng cơ hội thị trường sẽ chỉ cho một số ít phụ nữ, hay phụ nữ sẽ đối mặt với các rào cản khi nắm giữ các vai trò mới. Do đó khi triển khai chương trình có thể lập kế hoạch để giải quyết cả hai hướng trên hoặc chuyển hướng tập trung từ hướng thứ nhất sau đó chuyển sang hướng thứ hai. WEL (Women’s Economic Leadership): Phụ nữ làm chủ kinh tế - Là phương pháp tiếp cận phát triển sinh kế nông thôn dựa trên chuỗi giá trị có lồng ghép giới do Oxfam đề xuất. Thông tin cụ thể về phương pháp (Tiếng Anh) xin xem thêm tại trang web: http://growsellthrive.org/ 17


Kinh nghiệm lựa chọn chuỗi giá trị tại Lào Cai Tháng 9/2010 một nhóm chuyên gia và đối tác đã tiến hành nghiên cứu tài liệu và sau đó tiến hành thảo luận, phỏng vấn cộng đồng và 21 cơ quan đối tác khác nhau để xác định các nông sản tiềm năng cho phụ nữ DTTS. Phân tích tập hợp được 66 nông sản phẩm khác nhau, trong đó có 19 loại rau, 9 lâm sản, 7 loại thủy sản, 7 loại vật nuôi và 24 loại hàng hóa sơ chế và thủ công. Cộng đồng và đối tác thảo luận và chấm điểm các sản phẩm này căn cứ trên 4 tiêu chí chính: • Phù hợp với người nghèo, đặc biệt với phụ nữ và người dân tộc. • Phù hợp với nguồn lực địa phương, đặc biệt khả năng tiếp cận và kiểm soát nguồn lực của người nghèo và phụ nữ. • Tiềm năng thị trường, đặc biệt khả năng tiếp cận và kiểm soát thị trường của phụ nữ và người nghèo. • Khả năng thích ứng với rủi ro thiên tai, đặc biệt khả năng thích ứng của phụ nữ và người nghèo Những sản phẩm sau được đánh giá cao nhất: lợn đen, thuốc lá, rượu, ngô, chè, trâu, thổ cẩm, rau, cá, gà đen và gạo. Trong số đó, thuốc lá và rượu không được đề xuất vì những sản phẩm này có gây hại đến sức khỏe. Ngô và chè cũng không được đề xuất vì đã có thị trường rõ ràng. Chăn nuôi trâu cũng là ngành hàng tiềm năng nhưng không được chọn do cần có đầu tư lớn. Tương tự, thổ cẩm không được chọn vì có nhiều dự án khác nhau đã hỗ trợ ngành hàng này. Lợn đen, rau, gạo đặc sản, gà đen được đề xuất để nghiên cứu sâu.

Bài học kinh nghiệm Đây là lần đầu tiên Oxfam áp dụng công cụ này tại Việt Nam. Việc lựa chọn thị trường đã tuân thủ theo đúng hướng dẫn, các bước, công cụ và tiêu chí đã được áp dụng chặt chẽ. Tuy nhiên do tình hình chăn nuôi tại Lào Cai vẫn đang ở mức độ hạn chế nên một số tiêu chí và nội dung chi tiết chưa có điều kiện để triển khai. Trong trường hợp không thuận lợi khi năng lực của người chăn nuôi rất hạn chế và thị trường vận hành rất kém (ví dụ trường hợp của huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận) thì sau khi nghiên cứu lựa chọn thị trường có thể vẫn chưa xác định được sản phẩm và đi vào nâng cấp chuỗi luôn mà cần có một giai đoạn bước đệm (từ 6 tháng – 1 năm) để giúp nâng cao năng lực sản xuất và kiểm chứng lại thông tin. Thông thường, tư vấn/nghiên cứu viên thường chuyên về một hoặc hai lĩnh vực, ít tư vấn vừa có chuyên môn về chuỗi giá trị vừa có chuyên môn về giới. Do vậy, nên tuyển nhóm tư vấn với các chuyên môn khác nhau. Trước khi tiến hành nghiên cứu cán bộ của các đối tác hoặc Oxfam nên họp với tư vấn để có hướng dẫn và chia sẻ khung lý thuyết cũng như các kỹ năng cần thiết để có thể áp dụng được. Ở bước này, chương trình mới phân tích căn cứ trên kết quả thảo luận với các nhóm khác nhau nhưng chưa tổ chức được hội thảo lựa chọn sản phẩm/ngành hàng với sự tham gia của đầy đủ các tác nhân. Để kiểm chứng, thu thập thêm thông tin và khuyến nghị, chương trình nên đầu tư nguồn lực để tổ chức hội thảo. Thành phần tham gia bao gồm các tác nhân liên quan đến chuỗi giá trị, sở ban ngành tại địa phương, doanh nghiệp, cơ quan báo chí… Đọc thêm Báo cáo Phân tích thị trường và địa hướng phát triển kinh doanh cho PN dân tộc Raglai: http://oxf.am/ZdPm

18


Công cụ Lập sơ đồ thị trường có nhạy cảm giới Sơ đồ thị trường có nhạy cảm giới là gì?

Lập sơ đồ thị trường có nhạy cảm giới nghĩa là lồng ghép yếu tố giới vào trong phân tích thị trường, phân tích vai trò và sức mạnh của phụ nữ và nam giới trong thị trường và tìm kiếm cơ hội thị trường mới cho phụ nữ. Trong khuôn khổ cách tiếp cận WEL, bất cứ hoạt động kinh doanh nào cũng đều bị ảnh hưởng bởi hệ thống thị trường, hệ thống này bao gồm 3 hợp phần có mối liên hệ qua lại lẫn nhau: các tác nhân trong chuỗi thị trường, môi trường sản xuất kinh doanh và dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh. môi trường (không) thuận lợi Quyền sở hữu đất và tài sản

Cơ sở hạ tầng

Quản trị nhà nước, thực thi luật pháp về thương mại

Các quy tắc thương mại &chính sách cạnh tranh

Cạnh tranh

Môi trường và nguồn lực tự nhiên

Vai trò về giới vàcách cư xử

Các chuẩn mực xã hội & Mạng lưới phi chính thức

Các quy định &tiêu chuẩn chất lượng

Xu hướng tiêu dùng

Các chuỗi thị trường Người sản xuất đầu tiên

Thương nhân

Người xuất khẩu, nhập khẩu

Người chế biến

Người bán lẻ

Người tiêu dùng: - Quốc tế - Trong nước - Địa Phương

Các chiến lược sinh kế thay thế

Đầu vào

Các dịch vụ thị trường Quản lý tài chính

Tiết kiệm

SẢN XUẤT

Khuyến nông

TÀI CHÍNH

Sự công nhận

Thông tin thị trường

Tín Dụng

Bảo hiểm

Tạo thuận lợi Thương mại

Quản lý kinh doanh PHÁT TRIỂN KINH DOANH

Phát triển thương hiệu

VẬN TẢI

Bảo hiểm chất lượng

• Các tác nhân trong chuỗi thị trường: các nhà sản xuất , thương nhân, chế biến, bán buôn và các nhà bán lẻ v.v.. (số lượng và hình thức tác nhân phụ thuộc vào từng chuỗi cụ thể). • Môi trường sản xuất kinh doanh (là những yếu tố bên ngoài có thể ảnh hưởng thuận lợi hoặc không thuận lợi tới sự phát triển của chuỗi): quyền sở hữu đất, cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật, sự cạnh tranh và các quy tắc thương mại v.v.. • Các dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh (hỗ trợ hoạt động của chuỗi giá trị): dịch vụ tài chính, vận tải, hỗ trợ kinh doanh v.v… (Trong thực tế có thể dịch vụ chưa sẵn có)

Công cụ này có điểm gì mới?

• Đi sâu hơn các nghiên cứu thị trường thông thường bằng cách tìm kiếm các cơ hội thị trường mới, các sản phẩm phụ nhưng tạo ra giá trị gia tăng, các vai trò thị trường mới trong việc cung cấp dịch vụ thị trường…Tất cả những hoạt động này có tiềm năng cho phụ nữ đạt được sức mạnh trong thị trường.

19

• Thể hiện sự phân tách về giới (Nam/Nữ) trong việc tham gia ở tất cả các cấp độ và vị trí trong chuỗi thị trường, hoặc trong việc hưởng lợi từ các nhà cung cấp dịch vụ thị trường.


Cách thức tiến hành

Bước 1: Sau khi đã vẽ được sơ đồ thị trường với 3 hợp phần như sơ đồ minh họa. Bước tiếp theo là xác định phụ nữ ở đâu (hoặc không có) trong mỗi khâu của chuỗi thị trường. Nếu có thể, cần thống kê số lượng hoặc phần trăm phụ nữ tham gia ở mỗi khâu. Bước 2: Đặt câu hỏi để làm nổi bật vấn đề giới trong từng khâu của chuỗi giá trị. (VD: Có bao nhiêu phụ nữ/nam giới làm nghề thu gom lợn đen? Phụ nữ có sở hữu đất và tài sản, họ có thể sử dụng chúng thế chấp ngân hàng để vay vốn? Khi cần, phụ nữ có thể sử dụng được dịch vụ thú y hay không? Phụ nữ hay nam giới là người giữ vai trò quyết định trong từng khâu?...)

?

PN có cơ hội để tiếp cận các nguồn vốn không?

môi trường (không) thuận lợi

Phụ nữ có tài sản dùng để trị nhà nước, thực thi thế chấp khi vayQuản vốn không? Cơ sở hạ tầng

Quyền sở hữu đất và tài sản

luật pháp về thương mại

Vai trò về giới vàcách cư xử

Môi trường và nguồn lực tự nhiên

Các chuỗi thị trường Người sản xuất đầu tiên

Người tiêu dùng có nhận thức được vai trò của Các quy tắc thương mại phụ nữ trong chuỗi cung &chính sách cạnh tranh ứng không? Các quy định &tiêu chuẩn chất lượng

Các chuẩn mực xã hội & Mạng lưới phi chính thức

Liệu vai trò về giới, thái độ và niềm tin có ảnh hưởng đến sự tham gia Thương nhân chế của chuỗi Người xuất khẩu, của phụ nữ vào Người các bước nhập khẩu giá biến trị

Các chiến lược

Những gì kế thay thế Bắt đầuthay đổi sinh cần được tạo ra trong kinh tế hộ gia đình?

Tiết kiệm

SẢN XUẤT

Phụ nữ được tiếp cận với những dịch vụ khuyến nông nào? Khi nào và ở đâu? Cơ quan nào TÀI CHÍNH cung cấp dịch vụ này?

Khuyến nông

?

Sự công nhận

Thông tin thị trường

Tín Dụng Tạo thuận lợi Thương mại

DV này có phù hợp với PN không?

Quản lý kinh doanh PHÁT TRIỂN KINH DOANH

Phát triển thương hiệu

Bảo hiểm

?

Người tiêu dùng: - Quốc tế - Trong nước - Địa Phương

Phụ nữ có thể được tiếp cận với các phương tiện vận tải an toàn với giá cả hợp lý không?

Các dịch vụ thị trường Quản lý tài chính

Xu hướng tiêu dùng

Người bán lẻ

Phụ nữ có thể đọc/ viết hay sử dụng máy Vi tính không?

Có bao nhiêu thương nhân là nam giới/ nữ giới? Tại sao?

Cạnh tranh

VẬN TẢI

Bảo hiểm chất lượng

DV này có giúp liên kết PN với bên ngoài không?

Bước 3: Liệt kê cụ thể tên các tác nhân cùng với các sản phẩm và kênh phân phối bằng cách sắp xếp các tấm thẻ màu ghi tên các tác nhân lên giấy A0 và đặt chủ thể (VD: phụ nữ nuôi lợn đen) vào giữa tờ giấy. Hoặc có thể dùng sơ đồ Venn để thể hiện, VD: tác nhân có tầm quan trọng lớn thì kích cỡ thẻ lớn, tác nhân có sự liên hệ hoặc hỗ trợ thường xuyên hơn thì được đặt gần với chủ thể hơn. Làm theo cách này thì sẽ xác định được mối quan hệ và tương tác giữa các tác nhân với chủ thể rõ nét hơn, giúp thiết kế can thiệp sát hơn. Bước 4: Thảo luận với các bên liên quan khác nhau, đặc biệt là phụ nữ về vị trí và vai trò của họ trong chuỗi giá trị sản phẩm, tiềm năng, thuận lợi, và những khó khăn của họ… Bước 5: Tổ chức hội thảo với sự tham gia của nhiều bên liên quan khác nhau để trình bày và tăng cường chất lượng của sơ đồ thị trường. 20


Lợi ích của công cụ này là gì?

• Dễ xác định vị trí hiện tại của phụ nữ trong chuỗi giá trị và mức độ tham gia của họ. • Giúp phụ nữ thấy trước vị trí họ muốn đạt được trong chuỗi giá trị. • Xác định các tác nhân chính và các mối quan hệ trong chuỗi giá trị. • Giúp xác định được các nút thắt, rào cản mà phụ nữ cũng như các tác nhân liên quan đang và có thể sẽ gặp phải khi tham gia chuỗi thị trường (chuỗi giá trị). • Tập trung thiết lập các mối quan hệ giữa các tác nhân và xây dựng lòng tin, phá vỡ quan niệm sai lầm về nhau hoặc về một định hướng công việc. • Cho phép các tác nhân khác nhau có thể hiểu, đánh giá lại, tái tiếp cận, thỏa thuận lại vai trò của họ. • Kích thích việc suy nghĩ vượt ra ngoài chuỗi hiện tại, xác định các cơ hội khác. • Dễ dàng thấy được khu vực có thể sinh ra lợi nhuận. • Cung cấp thông tin cho việc thiết kế chương trình. • Làm cơ cở dữ liệu ban đầu và có liên tục cập nhật để phục vụ giám sát và đánh giá.

Hoạt động nghiên cứu tại Lào Cai đã khuyến nghị cho Oxfam và các đối tác 4 sản phẩm tiềm năng nhất. Bao gồm gạo đặc sản, rau vụ đông, lợn bản địa (thường được gọi là lợn đen), và gà ta. Thông qua tham vấn với các đối tác và cộng đồng, chuỗi giá trị lợn bản địa đã được lựa chọn để khởi đầu dự án vì đây là chuỗi giá trị được xếp thứ hạng cao nhất trong 4 ngành hàng dựa trên tất cả các tiêu chí. Sự phân tích trên chuỗi giá trị lợn bản địa đã chỉ ra các thuận lợi cũng như khó khăn sau cho việc phát triển chuỗi:

Thuận lợi:

• Phù hợp với thực tiễn địa phương: Nuôi lợn bản địa là một hoạt động truyền thống của người dân tộc thiểu số. • Tiềm năng thị trường: Giá lợn bản địa thường cao hơn giá lợn lai. Nhu cầu về thịt lợn bản địa tại các chợ địa phương cũng khá cao. • Tiềm năng đối với quyền làm chủ kinh tế của phụ nữ: Phụ nữ dân tộc thiểu số có kiến thức và kỹ năng cơ bản về chăn nuôi lợn bản địa. Phụ nữ thường giữ tiền từ việc bán lợn để dùng cho chi tiêu trong gia đình nếu khoản tiền này không quá nhiều (thông thường khoản tiền này ít hơn một triệu đồng). Đây là tiềm năng cho việc thương lượng về việc phân công lao động và đưa ra quyết định trong gia đình thông qua các hoạt động làm tăng nhận thức về bình đẳng giới ở cấp cộng đồng. Nuôi lợn không yêu cầu nhiều đất và là hoạt động kinh tế tại nhà. Ngoài ra, Hội phụ nữ cũng có thể tín chấp cho phụ nữ dân tộc thiểu số có thể vay tiền từ Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam. Vì thế, hoạt động nuôi lợn bản địa là cách đem lại thu nhập phù hợp đối với năng lực của phụ nữ dân tộc thiểu số và bối cảnh của địa phương.

Khó khăn:

• Kỹ thuật sản xuất kém: Lượng cung của lợn bản địa còn thấp hơn so với lượng cầu rất nhiều. 21


Ngoài ra, chất lượng và sản lượng của lợn con địa phương cũng thấp hơn do hiện tượng giao phối cận huyết. Thêm vào đó, nhận thức về vệ sinh chăn nuôi còn thấp. • Sự liên kết và niềm tin giữa người chăn nuôi và thương nhân còn yếu: Chi phí giao dịch trong chuỗi giá trị ngành hàng lợn bản địa cao do có nhiều bước trung gian và do hệ thống giao thông kém. • Mô hình đầu tư của hộ gia đình: Phát triển hoạt động nuôi lợn yêu cầu đầu tư về tài chính lớn, đặc biệt là với những người muốn nhanh chóng tăng số đàn và nâng cấp hệ thống chuồng trại. • Năng lực của các dịch vụ công đối với hoạt động sản xuất định hướng thị trường còn thấp. • Rủi ro về tăng lượng công việc cho phụ nữ dân tộc thiểu số: Sự phát triển về hoạt động chăn nuôi lợn có thể làm tăng khối lượng công việc cho phụ nữ dân tộc thiểu số. Với nhận thức về lợi thế và khó khăn trong các can thiệp về thị trường ở tỉnh Lào Cai, đặc biệt là trong chuỗi giá trị ngành hàng lợn bản địa để xây dựng vai trò làm chủ về kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số, dự án đã cung cấp một loạt các can thiệp bao gồm cả phương diện kinh tế và phi kinh tế. Cụ thể là dự án có 4 mảng hoạt động chính: 1. Hỗ trợ phụ nữ chăn nuôi lợn ở các vùng dân tộc thiểu số tổ chức thành các nhóm để cùng nhau tạo dựng vốn con người (lao động, kiến thức), vốn xã hội (các mối liên hệ/ quen biết bên trong và bên ngoài cộng đồng), và vốn tài chính (nguồn sẵn có của gia đình hoặc cơ hội tiếp cận với hệ thống tín dụng) nhằm phát triển hoạt động sản xuất với định hướng thị trường; 2. Tăng chất lượng và sản lượng lợn đen bản địa thông qua việc cải thiện chất lượng con giống, kỹ thuật chăn nuôi; 3. Phát triển thị trường tiêu thụ lợn đen thông qua việc nâng cao kiến thức và kỹ năng cho phụ nữ dân tộc thiểu số về sản xuất nông nghiệp theo định hướng thị trường, tiếp cận và thương lượng thị trường; kết nối các tác nhân trong chuỗi giá trị, đặc biệt là giữa các nhóm hộ chăn nuôi với các doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng lợn đen; 4.Các hoạt động truyền thông và vận động chính sách hướng đến sự thay đổi thái độ và hành vi về bình đẳng giới/ phụ nữ làm chủ kinh tế ở các cấp cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng, xã hội. Đọc thêm Grow Sell Thrive (Tiếng Anh): http://growsellthrive.org/resources/learning-resources

Một buổi sinh hoạt định kỳ của tổ nhóm chăn nuôi lợn đen tại Lào Cai Ảnh: Lê Gia Thắng

22


3 23

Xây dựng tổ nhóm sản xuất theo định hướng thị trường của phụ nữ DTTS


Một sản phẩm thảo luận của tổ nhóm chăn nuôi tại Lào Cai Ảnh: Oxfam

Tầm quan trọng của việc tổ chức tổ nhóm sản xuất Tổ chức sản xuất theo tổ nhóm luôn được Oxfam chú trọng ngay từ các dự án trước đây vì giúp cộng đồng phát huy sức mạnh tập thể trong việc chia sẻ thông tin, phân tích, giải quyết các vấn đề địa phương. Hình thức này giúp cộng đồng tăng cường vốn xã hội. (Vốn xã hội ở đây được hiểu là các nguồn lực xã hội mà người dân cần có để theo đuổi các mục tiêu về sinh kế). Vốn xã hội được phát triển thông qua các mạng lưới và sự kết nối, tham gia vào các hình thức nhóm được tổ chức, các mối quan hệ tin cậy và trao đổi Với chương trình WEL, làm việc theo nhóm giúp chị em phụ nữ DTTS trao đổi thông tin giá cả, nhu cầu thị trường, thông tin về người mua được kịp thời và xa hơn là sản xuất, tiếp thị, đàm phán và mua bán sản phẩm tập thể. Và xa hơn nữa, việc tham gia tổ nhóm tạo cho từng cá nhân phụ nữ cảm thấy an tâm vì luôn có các chị em khác đồng hành, hỗ trợ mình trong từng bước đi để từ đó họ có được sự tin, chủ động phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh của cá nhân, của gia đình mình; và từng bước thương lượng và yêu cầu các quyền lợi chính đáng của họ trong gia đình và xã hội.

Cách thức thành lập và duy trì hoạt động tổ nhóm • Chia sẻ thông tin về định hướng thực hiện dự án và các hoạt động can thiệp sẽ được thực hiện tại cộng đồng (bao gồm những định hướng hoạt động sẽ thực hiện thông qua tổ nhóm) với toàn thể phụ nữ hoặc các hộ gia đình tại địa bàn dự kiến triển khai dự án; • Tiến hành đăng ký tổ nhóm trên cơ sở tự nguyện. • Tổ nhóm được xây dựng với các thành viên quen thuộc trong cùng thôn/bản. • Mỗi hộ gia đình sẽ là một thành viên tổ nhóm (Trong chương trình WEL thông thường phụ nữ sẽ là đại diện của hộ gia đình đăng ký tên thành viên và tham gia chính trong các hoạt động của tổ nhóm. Nam giới sẽ chỉ tham gia nếu người phụ nữ vắng mặt với các lí do chính đáng hoặc được mời). 24


• Các tổ nhóm tổ chức sinh hoạt hàng tháng (hoặc 2 tháng một lần) cho tất cả các thành viên với nội dung chủ yếu xung quanh việc chăn nuôi và kinh doanh lợn đen. Bên cạnh đó, một số chủ đề khác cũng được thảo luận như đa dạng hóa hoạt động sinh kế nông nghiệp (chăn nuôi bò, trồng chuối…), đảm bảo môi trường sống (vệ sinh nhà cửa, thu gom rác thải, ủ phân bằng men vi sinh…) hay chăm sóc sức khỏe, bình đẳng giới v.v.. • Các nhóm trưởng và thành viên nòng cốt của tổ nhóm được trang bị kiến thức và kỹ năng để điều hành các buổi sinh hoạt và hỗ trợ thành viên khác trong quá trình thực hiện hoạt động của tổ nhóm. • Các cơ quan liên quan (Khuyến nông, Hội phụ nữ…) hỗ trợ về mặt kỹ thuật trong xây dựng chương trình sinh hoạt khung để tránh trùng lặp và cạn kiệt đề tài.

Kế hoạch chăn nuôi – kinh doanh heo đen của Thôn Bà Râu 2, xã Lợi Hải Ảnh: Đào Quang Minh

Kết quả • 24 tổ nhóm với 629 thành viên là phụ nữ người dân tộc Hmông, Dao, Tày, Nùng, Giáy… được thành lập tại tỉnh Lào Cai; và 22 tổ nhóm với 335 thành viên là người dân tộc Raglai đã được thành lập tại tỉnh Ninh Thuận với định hướng hỗ trợ nhau trong chăn nuôi và kinh doanh sản phẩm lợn đen bản địa. • Các nhóm đã bắt đầu lập kế hoạch sản xuất và triển khai hoạt động cùng nhau như liên hệ và đàm phán với thương lái, thống nhất giá bán sản phẩm. • Ngoài chăn nuôi lợn đen, các thành viên tại một số nhóm đã cùng rủ nhau phát triển sang những ngành nghề khác như mở các gian hàng bán cố định tại thôn/ chợ (bán rau, bánh mỳ, tạp hóa…) mang sản phẩm nông nghiệp (rau, quả, gà, lợn…) của hộ gia đình hoặc chế biến thành thức ăn (bánh, đậu phụ…), may quần áo để bán tại chợ phiên. • Các tổ nhóm phụ nữ chăn nuôi lợn đen bản địa thu hút được sự tham gia và hỗ trợ của nam giới trong các hoạt động về phát triển kinh tế và bình đẳng giới. • Các tổ nhóm vẫn sẽ được tiếp tục duy trì sau khi kết thúc dự án bằng nguồn lực của chính các thành viên trong cộng đồng và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. 25


Phụ nữ Raglai xã Phước Tiến bắt đầu mang nông sản ra bán tại chợ Ảnh: Xuân Trường

Nam giới Raglai chia sẻ nhiều hơn công việc gia đình với phụ nữ Ảnh: Xuân Trường

Họp hàng tháng của nhóm chăn nuôi heo đen thôn Ma Ty Ảnh: Mai Thế Long

Nhóm chăn nuôi heo đen thôn Ma Ty, xã Phước Tân, huyện Bác Ái có 15 thành viên. Mỗi tháng nhóm tổ chức họp một lần tại nhà nhóm trưởng hoặc tại nhà nhóm phó. Nội dung sinh hoạt không chỉ về kỹ thuật chăn nuôi, bán heo đen mà còn bàn về các chủ đề khác như cách thức trồng lúa. Ngoài ra nhóm còn tổ chức làm việc đổi công để hỗ trợ các thành viên trong nhóm. Nhờ tham gia sinh hoạt tổ nhóm, giờ đây thành viên nhóm đã biết chia sẻ thông tin về giá bán, về người mua, biết cách bán heo theo ký (trước đây chỉ biết bán bằng cách đo gang tay). Nhờ chia sẻ thông tin và được hướng dẫn kỹ thuật nên trước kia nuôi mỗi lứa heo mất 3-4 năm, nay chỉ còn 6-8 tháng. Khi cần bán heo thì các thành viên nhóm đã biết hỏi thông tin và thống nhất giá bán heo. Trước khi có dự án, các thành viên nhóm chẳng bao giờ gọi thú y, nay khi heo ốm đã biết mời thú y và không ăn thịt heo chết do dịch bệnh. “Ngày xưa không biết chích ngừa (thuốc thú y), heo chết thì để ăn thôi. Bây giờ thì phải có thuốc, nếu (heo) chết thì đem đi chôn thôi”. Pi Năng Quyền, Thôn Ma Ty, Xã Phước Tân, huyện Bác Ái 26


Sinh hoạt tổ nhóm chăn nuôi lợn đen tại Lào Cai

Điều gì giúp tổ nhóm hoạt động hiệu quả? • Các thành viên tham gia tự nguyện. • Các hoạt động của tổ nhóm được tổ chức gần nhà (ngay tại thôn/ bản và thường là tại nhà một thành viên của tổ nhóm). • Tổ chức các buổi sinh hoạt và hoạt động tổ nhóm với thời gian linh hoạt (VD: buổi trưa, buổi tối) và ngay tại thôn bản để phụ nữ có thể dễ dàng sắp xếp thời gian tham gia. • Khuyến khích nam giới cùng tham gia các hoạt động tổ nhóm để giúp họ hiểu và chia sẻ công việc gia đình và sản xuất với phụ nữ. • Nội dung sinh hoạt tổ nhóm thiết thực và thú vị, gắn liền với sở thích, truyền thống sản xuất của người dân (chăn nuôi lợn đen) và mang lại thu nhập cho họ. Các nội dung sinh hoạt tổ nhóm thường kết hợp giữa hoạt động chia sẻ/ phổ biến kiến thức với hoạt động văn nghệ, trò chơi. • Sử dụng các công cụ trực quan như vẽ bản đồ, cây vấn đề với những vật liệu sẵn có tại địa phương như sỏi, gạch, cành cây, lá cây, cỏ…để thu hút sự tham gia của người dân. • Khuyến khích sử dụng ngôn ngữ địa phương hoặc dùng phiên dịch trong các cuộc thảo luận, tập huấn tại tổ nhóm. • Tập huấn và kèm cặp thường xuyên dựa trên từng công việc cụ thể của tổ nhóm nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng cho các trưởng nhóm/ thành viên nòng cốt về quản lý và điều hành tổ nhóm. • Lồng ghép sinh hoạt tổ nhóm với các cuộc họp thôn hoặc họp liên ngành cấp thôn. • Có sự hỗ trợ kỹ thuật từ các cơ quan liên quan (chăn nuôi, khuyến nông, hội phụ nữ…) trong xây dựng chương trình sinh hoạt khung để tránh trùng lặp và cạn kiệt đề tài. • Hoạt động gắn với ít nhất một ngành tại địa phương (VD: hoạt động của HPN) để đảm bảo tính bền vững cao kể cả sau khi chương trình rút đi. 27


Sinh hoạt tổ nhóm chăn nuôi lợn đen tại Lào Cai Ảnh: Lê Gia Thắng

Thách thức và hạn chế cho hoạt động tổ nhóm sản xuất? • Thành viên không thấy rõ lợi ích về sự tham gia và hành động theo nhóm. • Thành viên mất quá nhiều thời gian hoặc không tiện cho việc tham gia (thời gian, địa điểm). • Các chuẩn mực xã hội và định kiến phân biệt vai trò và hành vi được chấp nhận của phụ nữ. • Phụ nữ dân tộc thiểu số thường ngại chia sẻ và nói trước đám đông. • Phụ nữ thường phải mang theo con nhỏ đến các buổi sinh hoạt tổ nhóm. • Kỹ năng và kiến thức của nhóm trưởng hạn chế (VD: nói quá nhiều hoặc trình bày các chủ đề thành viên ít quan tâm). • Thành viên bận rộn và có các ưu tiên khác. • Chưa đạt được hành động tập thể theo nhóm một cách rõ ràng trong việc lập kế hoạch sản xuất, đàm phán và bán sản phẩm. • Chưa nâng cấp lên được các hình thức tổ chức chặt chẽ và chuyên nghiệp hơn như HTX.

Cửa hàng trái cây do phụ nữ Raglai mở sau khi tham gia khóa tập huấn kỹ năng bán hàng Ảnh: Xuân Trường

Cơ sở mua bán, giết mổ và chế biến heo đen Chung Liệu Ảnh: Đào Quang Minh

28


Phụ nữ Raglai tập mang nông sản ra chợ bán Ảnh: Xuân Trường

Niềm vui từ những khoản thu thập đầu tiên nhờ bán hàng Ảnh: Xuân Trường

Bài học kinh nghiệm

• Cần làm rõ ngay từ đầu về những quyền lợi và trách nhiệm của thành viên khi tham gia tổ nhóm để tránh những mong đợi vượt ngoài phạm vi của tổ nhóm hoặc dự án; • Luôn chú ý để lựa chọn và đào tạo các thành viên nòng cốt cho tổ nhóm, đặc biệt là những phụ nữ trẻ và biết chữ tại các vùng DTTS. • Thường xuyên tổ chức đào tạo và kèm cặp các kiến thức / kỹ năng cho các trưởng/phó nhóm và thành viên nòng cốt của tổ nhóm thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của tổ nhóm để đảm bảo họ có đủ năng lực và sự tự tin để áp dụng. Các kiến thức và kỹ năng cơ bản cần có bao gồm: kỹ năng thúc đẩy các thành viên nhóm, trình bày/ giảng bài trước đám đông, lên kế hoạch và tổ chức sinh hoạt tổ nhóm, lập kế hoạch tổ nhóm, giám sát và báo cáo. • Kết nối ngay từ đầu các hoạt động của tổ nhóm với các ban ngành đoàn thể và chính quyền cơ sở để đảm bảo huy động/ phối hợp tốt các nguồn lực sẵn có tại địa phương, và duy trì sự tồn tại lâu dài của tổ nhóm ngay cả khi không còn nguồn lực hỗ trợ từ dự án. • Cần có cán bộ của các ban ngành có liên quan (HPN, Khuyến nông…) và chính quyền cấp xã, thôn hỗ trợ và thúc đẩy cho các hành động tập thể của tổ nhóm được diễn ra thường xuyên. • Các cơ quan thực hiện dự án cần phối hợp với chính quyền địa phương và tổ nhóm để lên lịch làm việc nhằm tránh chồng chéo về thời gian, và giảm tải việc thành viên tổ nhóm phải tham gia dồn dập vào các hoạt động từ dự án hoặc từ địa phương trong một thời gian ngắn gây ảnh hưởng đến công việc của cá nhân và gia đình họ.

29

Chị Ka Tơ Thị Nương và tủ hàng tạp hóa tại nhà Ảnh: Đào Quang Minh


Sinh hoạt tổ nhóm tại Lào Cai Ảnh: Lê Gia Thắng

Hội thi kỹ thuật chăn nuôi lợn đen bản địa Ảnh: Trung tâm Khuyến nông Lào Cai

30


4 31

Huy động sự tham gia của khối tư nhân trong việc nâng cấp chuỗi giá trị


Huy động sự tham gia của khối tư nhân trong việc nâng cấp chuỗi giá trị Sự tham gia của khối tư nhân đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo thành công của chương trình vì đây là tác nhân không thể thiếu trong việc phát triển chuỗi giá trị sản phẩm. Nằm ở khu vực nông thôn, miền núi của Việt Nam nên cả Lào Cai và Ninh Thuận đều có rất ít các doanh nghiệp hoạt động tại địa phương đặc biệt doanh nghiệp về chăn nuôi và kinh doanh sản phẩm lợn đen do các trở ngại như vị trí địa lý xa xôi, cơ sở hạ tầng kém, quy mô sản xuất nhỏ lẻ và chất lượng sản phẩm không ổn định. Việc huy động khối tư nhân tham gia cùng dự án trong việc phát triển chuỗi giá trị đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng nên tiêu chuẩn chất lượng và số lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, và đảm bảo nguồn đầu ra cho sản phẩm.

Đối tác dự án và đại diện tổ nhóm chăn nuôi lợn đen bản địa tham gia Hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp tại Hà Nội để giới thiệu sản phẩm và tìm đầu mối tiêu thụ Ảnh: Thân Hoài Nhân

Cách làm từ dự án

• Tìm hiểu và lên danh sách các hộ kinh doanh chủ chốt, các doanh nghiệp tiềm năng có liên quan đến khâu đầu vào và đầu ra của sản phẩm (Các nhà thu gom sản phẩm lợn đen chủ chốt trên địa bàn các xã/huyện dự án, các nhà hàng/cửa hàng/ siêu thị có kinh doanh sản phẩm lợn đen tại những thị trường tiềm năng (Hà Nội, Đà Lạt, Nha Trang…) • Mời doanh nghiệp tham gia các cuộc họp/hội thảo để hiểu về cách tiếp cận, phương pháp làm việc của dự án. • Tổ chức cho doanh nghiệp từ các thành phố lớn như Hà Nội đi thăm thực địa và đối thoại với các hộ nông dân để giới thiệu và tìm hiểu về mong đợi, phương thức hợp tác của hai bên, thảo luận thống nhất về tiêu chuẩn chất lượng và số lượng sản phẩm, giá sản phẩm, các hình thức hỗ trợ có thể có từ phía doanh nghiệp… • Kết nối các doanh nghiệp với nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp địa phương với các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm tại các thành phố lớn (Hà Nội, Nha Trang, Đà Lạt…) • Hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp địa phương trong việc nghiên cứu thị trường, kết nối kinh doanh, xây dựng năng lực kinh doanh. • Hỗ trợ doanh nghiệp kết nối với các sở, phòng ban, ngân hàng phù hợp tại địa phương để tìm kiếm cơ hội hợp tác và tiếp cận nguồn vốn (VD: nguồn vốn nâng cấp lò mổ đạt tiêu chuẩn hay hỗ trợ hoạt động HTX trong khuôn khổ Chương trình Nông thôn mới). 32


• Kết hợp với doanh nghiệp để cùng tham gia hội chợ hàng nông nghiệp tại các thành phố lớn nhằm giới thiệu, quảng bá sản phẩm. • Sở NN&PTNT chủ trì xây dựng thương hiệu tập thể lợn đen cho tỉnh với thông tin giới thiệu về doanh nghiệp cung ứng sản phẩm được đưa lên thương hiệu và nhãn mác

Nhãn hiệu lợn đen bản địa Lào Cai đang được xây dựng và đăng ký

Kinh nghiệm kết nối doanh nghiệp với các tổ nhóm sản xuất để tiêu thụ lợn đen bản địa Với mục tiêu tăng cường các hoạt động kết nối giữa các tổ nhóm chăn nuôi lợn với các doanh nghiệp, nhà hàng thu mua bao tiêu lợn đen bản địa bền vững- Trong tháng 5 và 6 năm 2014 TTKN tỉnh Lào Cai đã tổ chức 12 phiên họp “Hỗ trợ doanh nghiệp và các tổ nhóm phụ nữ ký kết tiêu thụ lợn đen bản địa” với nội dung và kết quả như sau:

Nội dung

• Bàn về các vấn đề kỹ thuật chăn nuôi đảm bảo theo yêu cầu chất lượng doanh nghiệp cần; • Thỏa thuận kế hoạch thời gian, địa điểm và giá cả cung ứng sản phẩm lợn đen; • Hình thành các đầu mối thu gom, kênh tiêu thụ lợn đen bản địa tại các tổ nhóm; • Bàn phương thức đầu tư cho các hộ tham gia ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp; • Đăng ký tham gia ký kết hợp đồng với các chủ lò mổ; • Trao đổi và giải đáp các nội dung trong quá trình thực hiện kết nối thị trường; • Tư vấn của các cơ quan chuyên môn đối với các hộ nông dân tham gia phiên họp.

33


Thành phần

• Khối tư nhân: HTX (Hoàng Sơn, Hưng Thịnh), công ty Hoàng Long và một số nhà hàng; • Cơ quan cấp tỉnh, huyện và xã: TTKN tỉnh, đại diện UBND huyện Mường Khương & Bát Xát, Phòng Nông nghiệp, Trạm Khuyến nông, Trạm Thú y và UBND xã liên quan; • Tổ nhóm sản xuất: Phụ nữ DTTS là thành viên các tổ nhóm chăn nuôi lợn.

Cách thức tổ chức

• TTKN tỉnh và lãnh đạo UBND huyện/xã điều phối các phiên họp. • Thành viên từ các cơ quan liên quan tổng hợp và giải đáp các nội dung liên quan đến chính sách và kỹ thuật. • Đại diện doanh nghiệp trao đổi các quy định, tiêu chí thực hiện các hoạt động liên kết tiêu thụ sản phẩm. • Cộng đồng đặt câu hỏi và đăng ký kết hợp đồng khung với đại diện khối tư nhân. • Ý kiến đóng góp được ban tổ chức ghi chép và tổng hợp.

Thời gian và địa điểm

• Xã Lùng Khấu Nhin: 6 cuộc; từ 12 - 24/5/2014; tại UBND xã và tại nhà Trưởng nhóm. • Xã Mường Hum: 4 cuộc; từ ngày 26/5 - 02/6/2014; tại UBND xã và tại nhà Trưởng nhóm. • Xã Trịnh Tường: 2 cuộc; từ ngày 4 - 06/6/2014 tại UBND xã và tại nhà Trưởng nhóm.

Kết quả

• Tổng cộng 505 hộ nông dân tham gia là thành viên thuộc 24 tổ nhóm phụ nữ chăn nuôi lợn đen bản địa huyện Mường Khương và Bát Xát. • Hộ chăn nuôi nắm được yêu cầu sản phẩm của nhà hàng, doanh nghiệp (VD: Sử dụng giống bản địa. Thời gian nuôi từ 6 tháng trở nên đối với lợn to và 8 tháng trở lên đối với lợn cắp nách. Trọng lượng lợn đối với lợn to phải từ 70kg trở lên; với lợn cắp nách từ 15 - 30 kg. 100% không sử dụng thức ăn công nghiệp mà chỉ được sử dụng thức ăn truyền thống.). • Thỏa thuận được kế hoạch, thời gian, địa điểm và giá cả cung ứng sản phẩm lợn đen bản địa với doanh nghiệp, nhà hàng tiêu thụ: • Hình thành được các đầu mối thu gom, kênh liên kết tiêu thụ lợn đen bản địa tại các tổ nhóm. Doanh nghiệp sẽ ký kết hợp đồng theo hình thức được thỏa thuận giữa các bên liên quan (ký với các hộ, với trưởng nhóm hoặc người thu gom cấp thôn, xã). Người thu gom có trách nhiệm thường xuyên xuống tận các hộ ít nhất một lần mỗi tháng để đi kiểm tra, tư vấn các hộ chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trừ dịch. Người thu gom sẽ được hưởng lợi nhuận từ việc thu gom lợn cho doanh nghiệp. • Thảo luận về các phương thức đầu tư cho các hộ tham gia ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp, chủ lò mổ. • Ký kết hợp đồng với các chủ lò mổ: các hộ chăn nuôi hiểu được quyền lợi và lợi ích khi tham gia kết nối thị trường, một số hộ chăn nuôi tiêu biểu đã mạnh dạn muốn tham gia ký kết hợp đồng với các chủ lò mổ.

34


Ông Nguyễn Văn Đồi, Chủ nhiệm HTX Hoàng Sơn (huyện Bát Xát) đang dùng điện thoại để giới thiệu cho các hộ chăn nuôi về tiêu chuẩn và cách thức mua bán lợn đen bản địa Ảnh: Lê Thanh Hương

Kết quả đạt được

• Tạo thay đổi mang tính bước ngoặt trong cộng đồng DTTS đặc biệt là người Raglai. Từ tập quán chăn nuôi chỉ phục vụ cho nhu cầu gia đình và cộng đồng vào những dịp có việc, lễ hội và ít bán cho thương lái (đặc biệt đối với phụ nữ Raglai), nay người dân đã hiểu và đã bán lợn cho người thu gom hoặc thậm chí tự mổ thịt mang ra chợ bán. Từ chỗ thường bán hàng theo cách ước lượng về cân nặng (đo gang tay) và hay bị ép giá do thiếu thông tin thị trường thì hiện nay các hộ chăn nuôi đã có danh sách các thu gom trong vùng, chia sẻ thông tin về giá bán giữa các thành viên tổ nhóm, biết bán theo kg, biết chọn người mua và biết mặc cả để có giá tốt nhất. Nhờ có dự án mà dân mình đã biết bán heo theo kg, trước đây chỉ bán theo “tay” thôi [đo gang tay phía sau chân trước của heo]. Trước bán thì chỉ được 400.000đ/gang tay, hiện nay bán 1kg đã được 50.000đ rồi. Thảo luận nhóm Thôn Ma Ty, Xã Phước Tân, Bác Á • Khi có sự vào cuộc của các doanh nghiệp, việc chăn nuôi của các hộ gia đình đã tương đối tuân thủ theo quy trình đã được dự án hướng dẫn, tập huấn để đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu. Tổ nhóm chăn nuôi tại hai tỉnh nắm được tiêu chuẩn mong đợi về kích cỡ, tiêu chuẩn thịt vừa có lợi cho nông dân và doanh nghiệp (VD: lợn Mường Khương chỉ nên nuôi tối đa 80kg thì xuất chuồng và lợn đen Ninh Thuận thì chỉ nên nuôi tối đa 30kg). • Doanh nghiệp địa phương hiểu về cách tiếp cận của dự án và tham gia tích cực vào các hoạt động của dự án như hội thảo, thăm thực địa và nói chuyện với các hộ chăn nuôi, tham quan học hỏi kinh nghiệm. Các cơ sở giết mổ cộng tác với dự án phát triển mạnh mẽ về tổ chức và phương thức hoạt động. VD: HTX giết mổ Thành Công đã chuyển đổi thành Công ty cổ phần Hoàng Long chuyên về giết mổ; Lò mổ của ông Nguyễn Văn Đồi (huyện Bát Xát), từ quy mô hộ gia đình đã chuyển đổi sang mô hình HTX với 10 thành viên; Lò mổ của ông Đỗ Hồng Khanh (huyện Mường Khương) đã chuyển đổi thành HTX Hưng Thịnh với hơn 25 xã viên. Hai HTX này đã kết nối với công ty Hoàng Long để bán sản phẩm tại thành phố Lào Cai và Hà Nội. HTX Hưng Thịnh đã bước đầu ký hợp đồng thu mua với 11 hộ chăn nuôi tại xã Lùng Khấu Nhin. 35


Nhờ tham gia hoạt động dự án Oxfam và được chia sẻ bởi các cơ sở trong và ngoài tỉnh, tôi đã quyết định chuyển đổi cơ sở giết mổ của mình sang mô hình HTX với sự tham gia của hơn mười xã viên. Việc chuyển đổi sang mô hình mới giúp chúng tôi mở rộng quy mô, hợp tác với cộng đồng, đổi mới công nghệ và huy động được sự hỗ trợ của chính phủ. Sau khi thành lập HTX Hưng Thịnh, chúng tôi đã ký kết hợp đồng với các hộ dân tại xã Lùng Khấu Nhin và kết nối các hộ này với Ngân hàng Chính sách Xã hội để vay vốn mở rộng chăn nuôi. Ông Đỗ Hồng Khanh, Chủ nhiệm HTX Hưng Thịnh, huyện Mường Khương, Lào Cai

Ảnh: Đào Quang Minh

• Hỗ trợ thành công đối tác địa phương trong việc xây dựng và đăng ký nhãn hiệu tập thể cho lợn đen (VD: thiết kế nhãn mác lợn đen Lào Cai và heo núi Ninh Thuận; tiến hành thủ tục đăng ký nhãn hiệu tại Cục Sở hữu trí tuệ). Hoạt động này tạo động lực cho doanh nghiệp cùng tham gia phát triển chuỗi giá trị. Đồng thời, sự tham gia của doanh nghiệp cũng đảm bảo cho việc khai thác thương hiệu/ nhãn hiệu sản phẩm hiệu quả. • Chương trình đã huy động được sự tham gia của một số doanh nghiệp tại Hà Nội như Rural Food, SECO, EcoMart, Bác Tôm và hàng chục nhà hàng lớn tại Lào Cai. Thông qua hoạt động này các doanh nghiệp đã kết nối và hợp tác để tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ: HTX Hoàng Sơn đều đặn gửi thịt lợn đen về bán cho hệ thống cửa hàng Bác Tôm tại Hà Nội với tần suất 4 lần/tuần, mỗi lần 2 con lợn cắp nách và 30-40 kg thịt lợn đen. Công ty Hoàng Long cũng kết hợp với Rural Food để tiêu thụ sản phẩm tại Hà Nội. Tại Ninh Thuận, cơ sở Chung Liệu (huyện Thuận Bắc, Ninh Thuận) cũng thường xuyên gửi hàng đi cho khách tại thành phố Vũng Tàu; các tổ nhóm tại xã Phước Tiến đã bước đầu có kết nối tiêu thụ sản phẩm với các cơ sở kinh doanh ăn uống lớn tại thành phố Đà Lạt.

Mấu chốt cho sự hợp tác hiệu quả • Các bên cùng có lợi: nông dân bán được sản phẩm với giá thành hợp lý. Doanh nghiệp có nguồn cung ổn định đạt yêu cầu chất lượng. • Tạo dựng lòng tin giữa doanh nghiệp và người chăn nuôi thông qua các chuyến tham quan, hội thảo trao đổi giữa các cơ sở thu gom, giết mổ và doanh nghiệp với các hộ nông dân. • Xác định được các doanh nghiệp phù hợp, quan tâm và cam kết với cách tiếp cận của chương trình. Tùy quy mô, cách làm của các doanh nghiệp mà có các chiến lược phù hợp.

Nhãn hiệu tập thể Heo đen Ninh Thuận đang được xây dựng

• Doanh nghiệp hiểu về cách tiếp cận và thấy được lợi ích khi tham gia vào dự án (có nguồn cung ổn định, chất lượng sản phẩm tốt). Nâng cao năng lực cho doanh nghiệp trong phương pháp làm việc với nông dân, làm quen với cách tiếp cận thị trường bền vững hơn. 36


• Giới thiệu và kết nối với doanh nghiệp trong và ngoài địa bàn tỉnh như Hà Nội, Đà Lạt, TP Hồ Chí Minh, TP Nha Trang và Vũng Tàu để phát triển thị trường cho sản phẩm, phát triển sản phẩm đạt yêu cầu về chất lượng và số lượng theo nhu cầu thị trường • Dự án đã hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường nhằm xác định và phát triển liên kết thông qua các kênh tiêu thụ khác nhau, hỗ trợ xây dựng chiến lược tiếp thị, ký hợp đồng sản xuất với hộ chăn nuôi, tiếp cận nguồn lực (Ví dụ: Dự án WEL tại Lào Cai đã mời chuyên gia làm việc cùng với doanh nghiệp trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 11 năm 2014 nhằm hỗ trợ họ trong việc xây dựng mẫu hợp đồng sản xuất với các hộ chăn nuôi, liên hệ với các siêu thị/ cửa hàng kinh doanh thực phẩm sạch tiềm năng tại Hà Nội để nắm bắt nhu cầu của họ về việc tiêu thụ sản phẩm thịt lợn đen, xác định các kênh tiêu thụ phù hợp với năng lực và đem lại lợi nhuận tối ưu cho cả doanh nghiệp và các tổ nhóm chăn nuôi lợn đen...)

Thách thức/Hạn chế • Trong một số trường hợp, doanh nghiệp và hộ chăn nuôi chưa thống nhất được giá mua bán lợn. Nhiều hộ chăn nuôi chưa tính toán được chi phí và giá thành sản phẩm nên giá bán đưa ra thường theo cảm tính, không có căn cứ theo tính toán hiệu quả kinh tế. Các hộ chăn nuôi mong muốn được ký hợp đồng thu mua với giá cao và ổn định trong thời gian dài, tuy nhiên các cơ sở thu mua khó đáp ứng được mong đợi vì phụ thuộc vào biến động của thị trường. • Phối hợp giữa doanh nghiệp và hộ chăn nuôi để thực hiện vay vốn phát triển sản xuất vẫn chưa thành công. VD: HTX Hưng Thịnh đã

Sản phẩm thịt heo đen hút chân không của cơ sở Chung Liệu, huyện Thuận Bắc, Ninh Thuận Ảnh: Lê Thị Sâm

hỗ trợ 11 hộ chăn nuôi tại xã Lùng Khấu Nhin làm hồ sơ vay vốn từ Ngân Hàng Chính sách Xã hội nhưng không vay được vì không có tài sản bảo lãnh. HTX Hưng Thịnh đã bàn giao hồ sơ lại cho UBND xã Lùng Khấu Nhin để xã gửi lên cho Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện nhưng vẫn chưa được vay do huyện chưa có ngân sách để hỗ trợ lãi suất trong khi các hộ muốn được vay với lãi suất ưu đãi. • Tại Bác Ái, nơi hoạt động của doanh nghiệp còn hạn chế, mới chỉ có các cơ sở buôn bán cá thể và HTX vật tư nông nghiệp, chưa có các doanh nghiệp tham gia nên sự tham gia còn khiêm tốn. • Sự hỗ trợ và phối hợp của các chương trình Chính phủ còn chậm hoặc chưa triển khai được nên chưa tạo được sức mạnh tổng lực. VD: HTX Hưng Thịnh và Hoàng Sơn đều đang chờ đợi hỗ trợ từ chương trình nâng cấp lò mổ của chính phủ nhưng vẫn chưa nhận được vì liên quan đến chủ trương quy hoạch lại các lò mổ tại địa phương. • Trong một số trường hợp, doanh nghiệp còn trông đợi những hỗ trợ không nằm trong thiết kế của chương trình hoặc vượt quá khả năng của chương trình (trực tiếp cho vay vốn, hỗ trợ nâng cấp lò mổ, phát triển trang trại của riêng doanh nghiệp...) nên cảm thấy không được thỏa mãn với kết quả ban đầu đạt được trong sự hợp tác giữa doanh nghiệp với các tổ nhóm sản xuất. 37


Bài học kinh nghiệm Ngoài những kinh nghiệm về cách làm đã nêu trên, để việc hợp tác với doanh nghiệp được thành công thì các chương trình/ dự án cần phải lưu ý thêm: • Cần làm rõ với doanh nghiệp về những mong đợi từ chương trình đối với họ và những hỗ trợ có thể từ chương trình dành cho họ ngay từ khi họ bắt đầu tham gia nhằm tránh cho doanh nghiệp có sự mong đợi về hỗ trợ vượt ngoài khả năng của chương trình, đồng thời để họ có chiến lược và kế hoạch hợp tác với chương trình một cách phù hợp nhất. • Cần mời các cơ quan, tổ chức liên quan đến hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh doanh đồng hành cùng chương trình và doanh nghiệp ngay từ những bước hợp tác đầu tiên giữa chương trình với doanh nghiệp (Ví dụ: Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp, Sở Công thương...) để các bên liên quan này có thể cung cấp cho doanh nghiệp những hỗ trợ cần thiết trong suốt quá trình. • Ở những địa bàn dự án mà không có sự hình thành hoặc hoạt động của các doanh nghiệp thì sự hợp tác với khối tư nhân lúc đầu sẽ chỉ cần là sự hợp tác với các cá nhân hoặc hộ gia đình kinh doanh có tiềm năng tại địa bàn. Trên cơ sở đó sẽ xây dựng năng lực cho các cá nhân/ hộ gia đình và kết nối họ với các bên liên quan khác để họ phát triển dần. • Cần có những phiên đối thoại về các chính sách/ chương trình có liên quan đến quá trình phát triển sản xuất và kinh doanh đối với từng ngành hàng cụ thể ở các cấp cơ sở (huyện/ xã) với sự tham gia của nhiều bên (quản lý nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, người sản xuất...) nhằm giúp doanh nghiệp và người sản xuất giải quyết các vấn đề thực tế của họ.

38


5 39

Tạo quyền cho phụ nữ dân tộc thiểu số về tiếp cận thị trường và bình đẳng giới


Một trong những mục tiêu đầu ra quan trọng của chương trình WEL là tạo được sự chuyển đổi trong thái độ, niềm tin và hành động hướng đến bình đẳng giới, nâng cao vai trò làm chủ kinh tế cho phụ nữ. Để đạt được mục tiêu này tại Việt Nam các đối tác của chương trình WEL đã có những chiến lược rất sáng tạo và linh hoạt dựa trên các bối cảnh cụ thể để từng bước nâng cao sự tự tin và năng lực cho phụ nữ DTTS, tạo môi trường thuận lợi cho họ khẳng định vai trò và vị trí của họ trong gia đình và cộng đồng, thu hút được sự ủng hộ tích cực của nam giới và các thành viên khác trong cộng đồng cho quá trình này.

Nâng cao mức độ tự tin, năng lực cho phụ nữ Bối cảnh

• Phần lớn phụ nữ người DTTS, người nghèo thường có trình độ học vấn thấp. • Cộng đồng và bản thân phụ nữ thường có định kiến phụ nữ luôn gắn với vai trò và chức năng chăm sóc con cái, gia đình và thiếu tin tưởng vào khả năng làm chủ kinh tế của phụ nữ. • Kiến thức, kinh nghiệm làm kinh tế của phụ nữ còn rất hạn chế. • Phụ nữ DTTS thường gặp rào cản về ngôn ngữ (không thông thạo tiếng Việt).

Chương trình đã làm thế nào?

• Tổ chức phụ nữ thích chăn nuôi lợn đen bản địa tại các thôn bản dự án vào trong các tổ nhóm • Thông qua tổ nhóm tổ chức các khóa tập huấn với nội dung đa dạng về kỹ thuật chăn nuôi, thú y, kỹ năng quản lý kinh tế hộ gia đình, kỹ năng bán hàng... • Tổ chức tập huấn với chủ đề linh hoạt với chủ đề dành riêng cho phụ nữ; riêng cho nam giới hoặc cả cho hai nhóm đối tượng căn cứ theo nhu cầu và tình hình thực tế, tránh lấn át quan điểm và khích lệ phụ nữ chia sẻ. • Sử dụng phương pháp tập huấn trực quan sinh động, lấy ví dụ thực tế từ địa phương, cầm tay chỉ việc và có sự tham gia nên tạo được sự tương tác, chia sẻ và khích lệ phụ nữ tham gia đóng góp ý kiến. • Sử dụng phiên dịch người địa phương để đảm bảo phụ nữ hiểu và tham gia tích cực trong các nội dung tập huấn. • Tổ chức tham quan mô hình hiệu quả ở ngay tại địa phương hoặc ở địa bàn tỉnh/ huyện khác để tạo cơ hội cho phụ nữ được giao lưu chia sẻ và tự tin hơn. • Tổ chức thực hành các kỹ năng đã được học, bán hàng thử tại các chợ phiên. • Có hoạt động hỗ trợ sau tập huấn (kiểm tra, tư vấn, hỗ trợ xử lý phát sinh) để đảm bảo những nội dung tập huấn có thể áp dụng. 40


“Nhờ nuôi lợn nên kinh tế gia đình phát triển hơn. Trước đây chồng nó bảo lấy vợ về để làm việc, nấu cơm cho nhà chồng. Đi nhiều nên nó bảo mày đi nhiều lắm để tao đi một lần xem thế nào. Nó đi họp về nó không nói gì nữa, nó để mình đi họp thoải mái Giàng Thị Dua, Nhóm trưởng, thôn Ma Ngán B, xã Lùng Khấu Nhin, huyện Mường Khưởng, Lào Cai “Đi sinh hoạt xong có nhiều chị em về mạnh dạn trao đổi với chồng đấy, không phải nó cãi nhưng nó biết nói cái đúng chứ không im như ngày xưa. Chồng nó thấy mình ăn nói được nên nó phải nghe đấy.” Chi hội trưởng HPN thôn Ki Quan San, xã Mường Hum, huyện Bát Xát, Lào Cai

Đọc thêm Tài liệu quản lý kinh tế hộ gia đình, kỹ năng kinh doanh tiếp cận thị trường: http://oxf.am/ZW4g

Giải quyết các rào cản đối với phụ nữ làm chủ kinh tế Bối cảnh

• Tồn tại định kiến giới về vai trò phụ nữ, không tin tưởng vào khả năng phát triển và làm chủ kinh tế của phụ nữ. • Gánh nặng công việc nội trợ, chăm sóc con và gia đình hạn chế thời gian và cơ hội phát triển kinh tế. • Thiếu các chính sách đặc thù để hỗ trợ và thúc đẩy phụ nữ làm chủ kinh tế.

Chương trình đã làm thế nào?

• Tổ chức sản xuất theo tổ nhóm để thu hút sự tham gia của phụ nữ, chia sẻ các kinh nghiệm và kỹ năng chăn nuôi và các kiến thức xã hội khác để giúp phụ nữ nâng cao sự tự tin và có kỹ thuật cần thiết. • Tổ chức các khóa tập huấn, các buổi gặp gỡ, xem phim, hội thi, thảo luận chia sẻ kinh nghiệm để giúp nâng cao nhận thức về giới và lồng ghép giới; vai trò làm chủ kinh tế của phụ nữ cho các bên liên quan. • Xây dựng các mô hình phát triển kinh tế và bình đẳng giới gắn với mục tiêu thúc đẩy vai trò làm chủ kinh tế. • Thiết kế các dịch vụ nông nghiệp (con giống, thú y…) phù hợp và thân thiện với phụ nữ để họ dễ dàng tiếp cận. • Giới thiệu các máy móc, kỹ thuật phù hợp với phụ nữ để giúp làm giảm thời gian và công sức của họ (Ủ chua thức ăn chăn nuôi, nuôi giun làm thức ăn chăn nuôi, máy thái thức ăn…) • Tìm kiếm, thúc đẩy liên kết thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm theo hướng thân 41


thiện, dễ tiếp cận đối với người DTTS và phụ nữ. • Tổ chức các đối thoại chính sách, diễn đàn, hội thảo, tập huấn chia sẻ bao gồm sự tham gia của cả nam giới nhằm xóa bỏ định kiến giới về vai trò làm chủ kinh tế của phụ nữ và tăng cường chia sẻ của nam giới đối với phụ nữ. • Thiết lập các mô hình phát triển kinh tế gắn với mục tiêu bình đẳng giới, tôn vinh những mô hình tích cực và tiêu biểu. “Giờ thì đàn ông phải để cho vợ đi, đấy là việc của các chị mà. Có ông chồng đi cùng để hướng dẫn cho vợ vì vợ chưa va chạm bên ngoài nhiều.” Nhóm cán bộ xã Lùng Khấu Nhin, huyện Mường Khương, Lào Cai “Trước đàn bà cũng đi họp nhưng nó không nói mấy, nó ngại cứ ngồi dưới mà ôm con, mình có gọi tên hộ nhà nó lên thì nó mới lên tiếng thôi. Bây giờ những bà nào mà đi sinh hoạt tổ nhóm là bạo dạn nói lắm, ý kiến sôi nổi hơn rồi, đi sinh hoạt nó cũng khác thật.” Nhóm cán bộ thôn Ma Ngán B, xã Lùng Khấu Nhin, huyện Mường Khương, Lào Cai

Hướng dẫn kỹ thuật ủ phân bằng men vi sinh Ảnh: Lê Thị Sâm

Tăng cường khả năng tiếp cận và kiểm soát nguồn lực Bối cảnh

• Phụ nữ tham gia các hoạt động tạo thu nhập nhưng nam giới là người quyết định việc đầu tư nên vai trò của phụ nữ chưa được ghi nhận đúng mực. • Phụ nữ tham gia các hoạt động sản xuất quy mô manh mún, nhỏ lẻ, phụ thuộc chủ yếu vào thương lái nên thu nhập thấp và rủi ro cao. • Phụ nữ DTTS thiếu thông tin, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nên tham gia thị trường hạn chế, hay bị ép giá khi bán sản phẩm. 42


Chương trình đã làm như thế nào?

• Xác định và lựa chọn chuỗi sản phẩm phù hợp: “lợn đen”. Phát triển chuỗi giá trị này phát huy vai trò của phụ nữ với tư cách là tác nhân trong chuỗi. • Thúc đẩy các khâu trong chuỗi: dịch vụ vật tư đầu vào, sản xuất, thị trường tiêu thụ nhằm thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ và giúp phụ nữ được hưởng lợi nhiều hơn. • Hỗ trợ phát triển các dịch vụ thân thiện, phù hợp hơn với phụ nữ. • Ở khâu sản xuất: tổ chức sản xuất theo tổ nhóm để thu hút sự tham gia của phụ nữ, nâng cao khả năng tự tin, tiếp cận thị trường dễ dàng hơn. • Ở khâu thị trường: tìm kiếm và thúc đẩy liên kết thị trường và xây dựng thương hiệu sản phẩm để phụ nữ yên tâm sản xuất và tự tin tìm kiếm thị trường tiêu thụ.

Nhờ có dự án mà biết cách phối giống sinh sản trong chăn nuôi. Trước đây khi chưa biết kỹ thuật thì mỗi lứa lợn chỉ đẻ được từ 4-5 con, nay có thể đẻ được 10 con. Biết cách cho lợn ăn mà lợn mau lớn hơn. Lèng Thị Dương, xã Lùng Khấu Nhin (ngồi giữa, trong một buổi thảo luận nhóm) Ảnh: Đào Quang Minh

Xây dựng và củng cố năng lực sản xuất theo định hướng thị trường, kỹ năng kinh doanh Bối cảnh

• Sản xuất của các hộ DTTS tại vùng dự án thường mang tính tự túc - tự cấp, hầu như không hạch toán lỗ lãi. • Bà con thường chỉ bán sản phẩm nông nghiệp làm ra khi thực sự cần tiền để chi trả trực tiếp cho một nhu cầu nào đó. • Bà con không nắm rõ được giá thực tế của sản phẩm trên thị trường nên thường đòi giá quá cao hoặc quá thấp so với mặt bằng chung. • Tại một số địa phương (Huyện Bác Ái, Ninh Thuận), bà con chưa có thói quen mang hàng đi bán; và tại một số xã cũng chưa hề có chợ.

Chương trình đã làm như thế nào? • Thiết kế các nội dung và phương pháp tập huấn phù hợp với thực tế sản xuất, bối cảnh kinh tế- xã hội tại địa phương và trình độ văn hóa của bà con DTTS, đặc biệt là phụ nữ (sử dụng hình ảnh trực quan sinh động, có phiên dịch…). 43


• Hướng dẫn phụ nữ lập kế hoạch sản xuất và kinh doanh, cách tính toán lỗ- lãi đối với từng sản phẩm nông nghiệp cụ thể (Ví dụ như khi nào thì bắt đầu chăn nuôi một lứa lợn mới để kịp bán vào dịp giá thịt lợn tăng cao, nuôi bao nhiêu con lợn trên một lứa thì có lãi…). • Tổ chức thực hành bán hàng ngay tại lớp tập huấn hoặc tại chợ phiên sau đó giảng viên và học viên sẽ cùng rút kinh nghiệm cho những lần bán hàng về sau. • Mở phiên chợ thử nghiệm tại những nơi chưa có chợ và vận động phụ nữ DTTS mang sản phẩm của hộ gia đình đến bán nhằm tạo lập thói quen bán hàng cho họ; • Doanh nghiệp trao đổi với phụ nữ tại các tổ nhóm về cách tính toán trong sản xuất và kinh doanh nhằm có lãi thông qua các cuộc họp liên kết thị trường, các cuộc viếng thăm đến hộ gia đình được tổ chức ngay tại xã và thôn bản. • Tổ chức các chuyến tham quan, các buổi hội thảo nhằm giúp phụ nữ DTTS có cơ hội tiếp xúc và học hỏi từ những cá nhân, địa phương khác. • Doanh nghiệp trao đổi với phụ nữ tại các tổ nhóm về cách tính toán trong sản xuất và kinh doanh nhằm có lãi thông qua các cuộc họp liên kết thị trường, các cuộc viếng thăm đến hộ gia đình được tổ chức ngay tại xã và thôn bản.

Chị Vàng Thị Cú, 25 tuổi, sống với con gái 6 tuổi và con trai 5 tuổi ở xã Lùng Khấu Nhin. Trước đây chị nuôi lợn trắng nhưng từ khi có dự án chị đã chuyển sang nuôi lợn đen vì lợn đen có giá trị cao hơn và phù hợp với điều kiện chăn nuôi của gia đình. Chị cho biết rất nhiều hộ gia đình trong thôn cũng đã chuyển sang nuôi lợn đen và đã biết cách để chăn nuôi và chăm sóc lợn đen hiệu quả hơn. Theo tính toán của chị, mỗi thành viên trong tổ nhóm chăn nuôi lợn đen đã nuôi đến 12 con lợn và đã mạnh dạn bán ra bán ra thị trường. Bây giờ, khi kiếm tiền giỏi hơn, họ có tiếng nói lớn hơn trong công việc của gia đình.

Chị Vàng Thị Cú và hai con Ảnh: Wayne Gum

Trước đây khi cần mua thứ gì chị thường hỏi ý kiến của chồng và khoảng 50% số lần chồng chị đồng ý. Bây giờ anh ấy luôn đồng ý và nói rằng đó là tiền của chị và chị có thể tự quyết. “Trước đây mẹ em bảo đem rau ra chợ bán, em bảo: xấu hổ lắm, không bán đâu, chỉ đi theo mẹ thôi, nhưng bây giờ em không còn xấu hổ nữa, em mua vải, may váy đem ra chợ bán, mỗi tháng cũng kiếm được chục triệu. Em đã học đi xe máy để tiện đi chợ. Sắp tới em sẽ đi thi lấy bằng xe máy để đi được xa hơn, mua hàng rẻ hơn và đi bán ở nhiều nơi hơn”. Vàng Thị Cú, Thôn Sín Lùng Chải A, xã Lùng Khấu Nhin, Huyện Mường Khương

44


Mở phiên chợ mẫu để chị em phụ nữ dân tộc Raglai tại Bác Ái làm quen với bán hàng Ảnh: Xuân Trường

Nếu em làm được, thì ai cũng có thể làm được! Katơr Thị Hồng Đẹp, 22 tuổi, đang sống với chồng và con gái 3 tuổi ở xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc. Trước đây, nguồn thu của gia đình chị khá khiêm tốn – chủ yếu đến từ trồng ngô và lúa (trên diện tích chỉ có 500 m2) và nuôi heo đen - chỉ đủ 50% chi phí sinh hoạt, nên bữa ăn hàng ngày của gia đình rất đạm bạc. Sau khi tham gia hai khóa tập huấn về kỹ năng và tổ chức kinh doanh, tính toán giá cả hàng hóa của dự án, Đẹp mở một quầy bán hoa quả ở chợ thôn. Giờ đây, hàng ngày chị bán hoa quả và đôi khi cả heo đen. Chồng chị vẫn làm nông nghiệp, trong khi vợ bán hàng. Cuộc sống của gia đình chị đã trở nên tốt hơn hơn nhờ thu nhập thêm từ buôn bán nhỏ. “Hàng ngày em bán được nhiều hoa quả và thu được khoảng 100.000đ tiền lãi. Số tiền này giúp gia đình em trang trải chi phí sinh hoạt hàng ngày: 20.000đ để trả tiền học và mua sữa cho con gái, 40.000đ mua thức ăn và 40.000đ để dành cho tương lai.” Đẹp đã xây dựng được các mối quan hệ tốt với những người bán hàng trong chợ. Chị biết cách chọn loại hoa quả tốt và định giá hợp lý cho hàng của mình. Với kinh nghiệm tích lũy được, chị muốn vay thêm vốn để mở rộng kinh doanh. Chị chia sẻ “Em muốn được tập huấn thêm về các loại hoa quả đang bán và muốn đưa ra được lời khuyên cho những người mua – mỗi loại hoa quả có những chất bổ gì và mang lại tác dụng thế nào đến sức khỏe con người.” Đẹp muốn các chị em Raglai khác cũng tham gia dự án như mình bởi chị nghĩ “Nếu em làm được, thì ai cũng có thể làm được! Lúc đầu có thể sẽ khó khăn, nhưng cần biết chọn loại hàng mình muốn bán và tin tưởng vào bản thân”. Nguồn: Oxfam 45


Huy động sự tham gia của nam giới DTTS Bối cảnh

• Nam giới DTTS là người quyết định hầu hết các công việc của gia đình • Nam giới DTTS ít hỗ trợ phụ nữ trong các công việc nhà • Nam giới DTTS thường là người đại diện cho hộ gia đình tham gia các hoạt động hội họp, tập huấn • Nam giới DTTS thường cho rằng mình hiểu biết hơn phụ nữ vì có khả năng sử dụng thành thạo ngôn ngữ phổ thông, có trình độ học vấn nhất định,có cơ hội đi xa hơn, giao tiếp được nhiều hơn • Bản thân nam giới và cộng đồng vẫn cho rằng nam giới là người đóng góp nhiều hơn cho kinh tế của hộ gia đình

Chương trình đã làm như thế nào?

• Mời nam giới cùng tham gia các hoạt động của dự án, tổ nhóm với những chủ đề khác nhau như bình đẳng giới, phát triển kinh tế hộ gia đình, kỹ thuật sản xuất…; • Tổ chức các lớp tập huấn, trao đổi về bình đẳng giới/ phụ nữ làm chủ kinh tế dành riêng cho nam giới; • Vận động nam giới hỗ trợ phụ nữ trong quá trình tham gia các hoạt động dự án và trong công việc nhà. Ví dụ: tham gia tập huấn kỹ thuật để phiên dịch hoặc hỗ trợ phụ nữ tiếp thu kiến thức và thực hành tại chỗ, cùng vợ tham gia các cuộc thi tại tổ nhóm hoặc trong cộng đồng về kiến thức và kỹ năng liên quan đến sản xuất và bình đẳng giới, trông nom con cái và làm việc nhà để chị em đi thăm quan học tập ở ngoài huyện/ngoài tỉnh…; • Tổ chức các hoạt động truyền thông linh hoạt và đa dạng ở cấp tổ nhóm và cộng đồng về bình đẳng giới, phòng tránh bạo lực gia đình như trò chơi, chiếu phim, hái hoa dân chủ, hỏi đáp có thưởng… • Nêu gương những cá nhân nam giới tích cực cho các hoạt động về bình đẳng giới ở tại gia đình và cộng đồng

46


6

Xây dựng quan hệ đối tác hiệu quả

Ảnh: Đào Quang Minh

47


Quan hệ đối tác hiệu quả là chìa khóa cho sự thành công của các chương trình phát triển nói chung và của Chương trình WEL nói riêng. Trong quá trình thực hiện chương trình, các bên đối tác dự án tại từng địa phương đã chủ động phối hợp cùng nhau trong việc đảm bảo tiến độ và tối ưu hóa các mục tiêu đầu ra của dự án, vận động cho việc tạo môi trường thuận lợi và nhân rộng các mô hình/ phương pháp làm việc hiệu quả của WEL.

Bối cảnh chương trình • Chương trình được thực hiện trên địa bàn hai tỉnh Ninh Thuận và Lào Cai với hai dự án riêng biệt. • Mỗi dự án có nhiều đối tác cùng tham gia thực hiện ở các cấp và các nội dung công việc khác nhau. Ví dụ tại Ninh Thuận, UBND và HPN tại các huyện Bác Ái và Thuận Bắc là đối tác thực hiện trực tiếp các hoạt động dự án tại địa bàn của từng huyện. Tại Lào Cai, Trung tâm khuyến nông tỉnh là đối tác chịu trách nhiệm chính trong việc đảm bảo nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm lợn đen, kết nối thị trường; Sở NN&PTNT chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức các nghiên cứu và hội thảo nhằm kết nối các nguồn lực và tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển ngành hàng lợn bản địa; HPN tỉnh là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức các tổ nhóm phụ nữ cùng sở thích chăn nuôi lợn bản địa ,phổ biến thông tin và đào tạo các kiến thức và kỹ năng vận động về bình đẳng giới… • Mỗi đối tác ở từng cấp khác nhau có những chức năng, nhiệm vụ cụ thể. • Các đối tác, trong một bối cảnh công việc cụ thể tại địa phương, đều có liên quan đến nhau trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan/ địa phương/ ngành mình được giao.

Cùng xây dựng quan hệ đối tác • Thành lập một Ban điều phối dự án tại cấp tỉnh có sự tham gia của tất cả các đối tác dự án; • Ban điều phối dự án họp ít nhất một lần mỗi quý hoặc khi có yêu cầu cấp thiết từ dự án. • Các kế hoạch công việc do từng bên đối tác thực hiện hoặc có sự phối hợp với những đối tác khác đều được chia sẻ thông qua cuộc họp của Ban điều phối dự án hoặc trực tiếp giữa các đối tác với nhau. • Các bên đối tác cùng hợp tác xây dựng chiến lược và kế hoạch cho việc vận động nhân rộng

Kết quả đạt được • Các hoạt động dự án diễn ra ở cấp cộng đồng không bị chồng chéo. • Các bên đối tác có cùng tiếng nói chung để vận động các mô hình và phương pháp tiếp cận tốt của chương trình WEL ở những cấp độ và lĩnh vực khác nhau. • Năng lực của đối tác tham gia chương trình được tăng cường trong các kỹ năng làm việc với nông dân, nâng cấp chuỗi giá trị nông nghiệp có nhạy cảm giới, phát triển lãnh đạo nữ. Biết cách vận dụng và đưa vấn đề giới vào trong các hoạt động kinh tế. Ví dụ: tại Lào Cai, Sở NN &PTNT tỉnh Lào Cai đã phối hợp cùng với HPN tỉnh tổ chức hội nghị bàn về việc lồng ghép WEL trong chương trình Nông thôn mới.

48


• Các đối tác chính của dự án cũng phối hợp với nhau trong việc tiếp cận các chương trình mục tiêu quốc gia hoặc các chương trình do các tổ chức quốc tế hỗ trợ (VD: Chương trình IFAD, Chương trình DANIDA) để giới thiệu cách tiếp cận, mô hình và cách làm hay từ dự án. • Huy động thành công một số chương trình và dự án của chính phủ và các nhà tài trợ để đối ứng, nhân rộng. VD: Tại Lào Cai, Chương trình DANIDA đã lồng ghép với hoạt động của dự án thông qua việc phân bổ ngân sách mua lợn đen cho các hộ nông dân tại Bát Xát. Tại Ninh Thuận, Chương trình Tam Nông đã nhất trí trong năm 2015 sẽ điều chỉnh kế hoạch hỗ trợ heo đen phù hợp với đề xuất của Oxfam. • Chăn nuôi lợn đen được xác định trở thành mặt hàng nông nghiệp quan trọng tại tỉnh Lào Cai và Ninh Thuận nhằm hướng đến các vùng miền núi với các nhóm hưởng lợi là người DTTS và phụ nữ nghèo. UBND tỉnh Lào Cai đã phê duyệt Kế hoạch tổng thể chăn nuôi lợn đen 2011-2020 và kỹ thuật chăn nuôi lợn đen đã được đưa vào giáo trình đào tạo nghề nông thôn tại Lào Cai. Sở NN&PTNT Ninh Thuận đã cập nhật thêm chăn nuôi heo đen là một trong 8 chuỗi giá trị chiến lược của tỉnh bên cạnh 7 chuỗi đề xuất ban đầu (táo, nho, tỏi, chuối, dê, cừu, bò) và điều chỉnh cách tiếp cận của toàn bộ các chuỗi này theo phương pháp WEL. • WEL trở thành một thuật ngữ quen thuộc được sử dụng trong các cơ quan tại địa phương.

Chìa khóa cho thành công? • Xác định được đúng đối tác (trong trường hợp này là Sở NN&PTNT, TTKN, HPN, UBND huyện và xã). Tìm được đối tác phù hợp đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo chương trình được thực hiện tốt nhất từ khía cạnh kỹ thuật và quản lý nhà nước . • Bên cạnh việc thống nhất về vai trò và nhiệm vụ cụ thể của từng đối tác, các bên đối tác cũng phải có sự thống nhất về trách nhiệm hợp tác với nhau để đạt được các mục tiêu chung của dự án/ chương trình • Đưa các cơ quan liên quan cấp tỉnh, huyện vào cuộc ngay từ khâu thiết kế dự án. Ví dụ: HPN tỉnh, Sở NN&PTNT được tham vấn và cùng tham gia khảo sát, thiết kế dự án và sau đó thực hiện. • Các đối tác thường xuyên chia sẻ, cập nhật các chiến lược và kế hoạch thực hiện dự án với nhau để đảm bảo việc thống nhất và bổ trợ lẫn nhau trong quá trình triển khai thực hiện dự án • Đảm bảo tiếng nói chung của các bên liên quan của dự án nhưng đồng thời cũng tôn trọng sự đa dạng trong cách tiếp cận của từng đối tác riêng biệt • Thực hiện các chiến lược khác nhau để cải tiến mối quan hệ đối tác. 49

Người dân mang lợn ra chợ bán Ảnh: Đào Quanh Minh


Hạn chế • Quy mô của chương trình còn tương đối hẹp (3 xã tại Ninh Thuận, 3 xã tại Lào Cai). Mặt khác, tại tỉnh Ninh Thuận trong thiết kế dự án ban đầu không chú trọng đến sự tham gia của đối tác cấp tỉnh nên tại tỉnh này các đối tác cấp tỉnh mới dừng ở mức độ cung cấp hỗ trợ kỹ thuật căn cứ theo sự vụ nên tầm ảnh hưởng về chính sách còn hạn chế. Do vậy, cần lưu ý đến việc thu hút sự quan tâm và tham gia của các ngành, cấp có liên quan đến các khía cạnh can thiệp của dự án ngay từ đầu dự án và trong từng nhóm công việc hoặc hoạt động cụ thể, kể cả khi các ngành, cấp này không phải là đối tác trực tiếp thực hiện dự án.

Người dân xã Lùng Khấu Nhin, huyện Mường Khương mang lợn giống ra chợ bán Ảnh: Đào Quang Minh

Đại diện tổ nhóm chăn nuôi và đối tác dự án tham quan học tập mô hình tại Cao Bằng Ảnh: Sở NN&PTNT tỉnh Lào Cai

Đối tác và cộng đồng tại Lào Cai thảo luận các bài học kinh nghiệm của dự án Ảnh: Đào Quang Minh

Lễ ký kết thỏa thuận dự án giữa Oxfam và đối tác tỉnh Lào Cai Ảnh: Sở NN&PTNT tỉnh Lào Cai

50


7 51

Vận động nâng cấp, nhân rộng các mô hình và phương pháp của chương trình WEL


Một trong các mục tiêu của chương trình WEL là vận động việc áp dụng các mô hình và phương pháp thành công trong tiếp cận giảm nghèo vùng DTTS có lồng ghép chủ đề tạo quyền phụ nữ làm chủ kinh tế của chương trình ở quy mô rộng hơn và có chiều sâu hơn. Có nhiều hình thức khác nhau được đối tác và Oxfam áp dụng để nhân rộng phạm vi áp dụng của WEL trong các chương trình khác.

Các mô hình và phương pháp tiếp cận được đánh giá cao của chương trình Các mô hình

• Chăn nuôi lợn đen bản địa theo định hướng thị trường. • Ủ phân bằng men vi sinh. • Chợ phiên.

Các phương pháp tiếp cận

• Nghiên cứu và lựa chọn chuỗi giá trị có lồng ghép yếu tố giới. • Xây dựng tổ nhóm sản xuất theo định hướng thị trường của phụ nữ DTTS. • Xây dựng sự tự tin và năng lực làm chủ kinh tế của phụ nữ. • Huy động sự tham gia của khối tư nhân để phát triển chuỗi giá trị. • Chuyển giao thông tin khoa học kỹ thuật, giới, chính sách hỗ trợ của nhà nước qua hình thức khuyến nông phiên chợ, hội thi… • Tăng cường sự liên kết giữa các tác nhân trong cùng một chuỗi giá trị thông qua các phiên đối thoại trực tiếp.

Cách thức vận động • Lồng ghép giới thiệu WEL vào các cuộc họp, buổi làm việc của các cơ quan quan trọng cấp tỉnh như Tỉnh ủy và UBND.

Hội nghị giới thiệu WEL cho nữ lãnh đạo và quản lý tại tỉnh Lào Cai Nhằm mục đích phổ biến và gây ảnh hưởng với các cơ quan cấp tỉnh tại Lào Cai, Hội phụ nữ tỉnh đã tổ chức nói chuyện về WEL với các nữ lãnh đạo, cán bộ quản lý trong toàn tỉnh. Tổng số có 85 đại biểu nữ đang nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt các cơ quan, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh, huyện/thành phố và 11 đại biểu nam giới là lãnh đạo Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh tham gia. Nội dung buổi nói chuyện tập trung giới thiệu về vai trò phụ nữ trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giới thiệu về cách tiếp cận mà dự án WEL đang triển khai trên địa bàn tỉnh. Đại biểu thảo luận sôi nổi, góp phần xúc tiến, tăng cường, tập trung sự quan tâm của lãnh đạo địa phương tới vấn đề giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Sáng kiến này được đánh giá cao vì có tác dụng trực tiếp đến các cấp lãnh đạo của tỉnh. Thời gian dành để giới thiệu không dài nhưng ý nghĩa lớn, đặc biệt nội dung đề cập đến vấn đề trao quyền 52


cho phụ nữ với những đóng góp của họ trong gia đình, cần thiết phải có sự tham gia tích cực của các cấp ban hành chính sách, triển khai thực thi chính sách để tiến tới sự công bằng, bình đẳng thực sự cho phụ nữ.

Đối thoại về sản xuất và liên kết thị trường tại Lào Cai Ảnh: Lê Thanh Hương

Tổ chức các phiên đối thoại về chính sách và giải pháp kỹ thuật ở cấp cơ sở (xã, liên xã) Nhằm tăng cường sự đối thoại giữa các bên liên quan để giúp tháo gỡ khó khăn cho các hộ dân chăn nuôi lợn đen, TTKN tỉnh Lào Cai đã điều phối tổ chức 3 cuộc đối thoại tại 3 xã dự án với những nội dung như sau:

Nội dung chính

• Giới thiệu chính sách, Quyết định của UBND tỉnh, Trung ương về hỗ trợ phát triển chăn nuôi; Kế hoạch tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Lào Cai đến năm 2020; • Tư vấn, giải đáp khó khăn, vướng mắc về giống, kỹ thuật, thức ăn, dịch bệnh, chính sách, vốn, liên kết phát triển sản xuât và thị trường tiêu thụ sản phẩm từ chăn nuôi lợn.

Cách thức tổ chức

• Trước khi tổ chức các buổi Đối thoại, TTKN tổ chức họp các trưởng phòng chuyên môn để bàn bạc, thảo luận, thống nhất về phương pháp, nội dung cách thức tổ chức. • Lựa chọn các ấn phẩm tuyên truyền để chia sẻ và phát cho các hộ nông dân tham gia buổi Đối thoại. • Chỉ đạo trưởng, phó phòng chuyên môn tham gia trực tiếp các buổi Đối thoại. • Liên hệ và đề nghị lãnh đạo các cơ quan chuyên môn trên địa bàn tỉnh, huyện xắp xếp thời gian tham gia. 53


• Hình thức tổ chức: Các hộ nông dân đặt câu hỏi, giao lưu, trao đổi trực tiếp với nhà quản lý, nhà khoa học và giữa các hộ nông dân với nhau về các nội dung liên quan đến giải pháp chăn nuôi an toàn dịch bệnh và liên kết phát triển chăn nuôi lợn theo hướng bền vững.

Kết quả

• 3 cuộc đối thoại, thu hút 195 đại biểu tham gia (55% nam; 45% nữ; 69% là người DTTS). • Giải đáp trực tiếp trên 150 câu hỏi về giống, kỹ thuật, chính sách, vốn, liên kết phát triển sản xuât, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông lâm nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực chăn nuôi. Các câu hỏi của người sản xuất đều được trả lời nhanh, chính xác, thỏa đáng và có cơ sở pháp lý vì khách mời đều là cán bộ chủ chốt thuộc cấp tỉnh/huyện đại diện cho 4 nhà (nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp, ngân hàng..). • Người sản xuất nắm chính sách của chính phủ về vốn, hình thức vay vốn, lãi suất, cách thức tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi hỗ trợ phát triển sản xuất và kinh doanh. • Tuyên truyền và cấp phát được 2.000 tờ rơi, 150 tờ áp phích, 600 cuốn bản tin khuyến nông, 125 cuốn sách, 120 đĩa hình về các nội dung như: Kỹ thuật chăn nuôi lợn an toàn dịch bệnh, phương pháp chế biến thức ăn, phòng chống nắng nóng cho gia súc, gia cầm; kỹ thuật trồng ngô lại, kỹ thuật gieo cấy lúa chất lượng và kỹ năng kinh doanh... • Nội dung buổi Đối thoại được chia sẻ trên các phương tiện thông tin đại chúng. • Cán bộ các cơ quan tại địa phương được rèn luyện về tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp. • Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhiều vấn đề được giải quyết kịp thời để phục vụ sản xuất tại địa phương. • Có tác dụng tạo hình mẫu: sau đối thoại hầu hết các hộ sản xuất, chính quyền các xã và đại diện các phòng ban đơn vị cấp huyện đều đề nghị các đơn vị lên tăng cường và đẩy mạnh các hoạt động đối thoại với người sản xuất vì đây là hoạt động truyền thông có tác động tích cực đến người sản xuất; góp phần tháo gỡ những bức xúc, khó khăn, vướng mắc về sản xuất cho bà con nông dân, đặc biệt là người đồng bào DTTS.

Phản hồi từ các bên

• Khách mời (như giám đốc Ngân hàng chính sách xã hội) cho biết Ngân hàng sẽ vận dụng hình này để thực hiện các hoạt động tuyên truyền về chính sách vay vốn và sử dụng vốn đúng mục đích cho người sản xuất. • Các hộ nông dân và các cơ quan ban ngành cho biết nội dung, phương pháp tổ chức buổi Đối thoại rất phù hợp với nhu cầu nguyện vọng của người sản xuất, giúp bà con dễ dàng trao đổi và đón nhận thông tin một cách nhanh nhất, chính xác nhất; Đặc biệt một số đối tác tham gia còn hỗ trợ người sản xuất liên kết tiêu thụ lợn đen bản địa với số lượng lợn (với yêu cầu lợn không nuôi tăng trọng);

Thách thức

Chủ đề tập trung vào nội dung chăn nuôi lợn những người sản xuất hỏi rất câu về lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật, lâm nghiệp và các lĩnh vực khác lên ban tổ chức phải liên hệ qua điện thoại với các đơn vị như Chi cục bảo vệ thực vật, Chi cục lâm nghiệp...để giải đáp kịp thời cho người sản xuất.

54


• Tổ chức các chuyến tham quan học hỏi kinh nghiệm, tham gia các diễn đàn đối thoại có liên quan ở trong và ngoài tỉnh cho các bên liên quan của dự án bao gồm nhà làm chính sách, doanh nghiệp, nam và nữ tại địa bàn dự án • Tổ chức các buổi chia sẻ thông tin cho số đông người dân tại địa bàn thực hiện dự án về chương trình WEL cùng với các mô hình và cách tiếp cận thông qua hình thức khuyến nông phiên chợ, hội thi khuyến nông, diễn đàn về bình đẳng giới… • Hợp tác với cơ quan báo chí để giới thiệu và nhân rộng các mô hình. Oxfam và các đối tác đã kết hợp với các cơ quan báo chí khác nhau như VTV1, VTV4, VTC10, Báo Nông thôn ngày nay/Dân Việt, Báo Thời Đại, Báo Ninh Thuận, Báo Lào Cai, Đài phát thanh và truyền Lào Cai, Báo Ninh Thuận…để đến thăm mô hình, đưa tin giới thiệu các mô hình, cách làm hay của chương trình. Bên cạnh đó truyền thông qua mạng xã hội cũng được thực hiện hiệu quả qua blog, trang chia sẻ ảnh của Oxfam và các trang mạng xã hội khác. Đọc thêm Grow Sell Thrive (Tiếng Anh): http://growsellthrive.org/resources/learning-resources Tài liệu Chương trình sinh kế của Oxfam tại tỉnh Ninh Thuận: http://oxf.am/ZPR4

Chương trình WEL được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng

• Đối tác của chương trình chủ động chia sẻ về nội dung, phương pháp tiếp cận và kết quả ban đầu của chương trình với các ngành, các cấp và các chương trình phát triển kinh tế- xã hội có liên quan tại địa phương và trung ương. Chẳng hạn Sở NN&PTNT Lào Cai chia sẻ về Chương trình WEL với Ban quản lý Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc do Ngân hàng Thế giới tài trợ hay Cán bộ Oxfam và Ban điều hành dự án tại Thuận Bắc và Bác Ái chia sẻ với Chương trình Tam Nông tại tỉnh Ninh Thuận. Hoặc Trung tâm khuyến nông tỉnh Lào Cai chủ trì các cuộc họp nhân rộng mô hình tại các cụm xã có sự tham gia rộng rãi của người dân. 55


Hội thảo tổng kết kinh nghiệm dự án WEL tại Ninh Thuận Ảnh: Đào Quang Minh

Kết quả đạt được

• Xây dựng kế hoạch tổng thể về chăn nuôi cho tỉnh Lào Cai: sau khi đi thăm một số dự án Oxfam về WEL tại các địa phương khác lãnh đạo Sở NN&PTNT đã áp dụng để xây dựng Kế hoạch tổng thể về chăn nuôi cho tỉnh giai đoạn 2012-2020, định hướng đến 2030. Trong đó lợn đen được xác định là ngành chăn nuôi quan trọng của tỉnh. Trên cơ sở đó, nhiều chương trình/ dự án đã đưa mô hình chăn nuôi lợn đen vào trong kế hoạch hoạt động của mình. Chẳng hạn Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc tại Lào Cai với 4 huyện Bát Xát, Mường Khương, Sa Pa, Văn Bàn; Chương trình Nông thôn mới tại Lào Cai…Song song với đó, Sở cũng đã lồng ghép để chăn nuôi lợn đen được đưa vào chương trình đào tạo nghề nông thôn • Nhân rộng cách tiếp cận WEL vào hoạt động của ngành khuyến nông tỉnh thông qua hình thức khuyến nông phiên chợ: xuất phát từ thực tế người DTTS ở Lào Cai thường đi chợ phiên để mua sắm, gặp gỡ, ăn uống và giao lưu văn hóa nên TTKN Lào Cai đã tận dụng những dịp chợ phiên này để tổ chức các buổi nói chuyện, chia sẻ kinh nghiệm ngay tại chợ thu hút được sự tham gia đông đảo của người dân. Người dân tham gia không chỉ ở xã có chợ mà còn những người dân sống quanh khu vực đó. Bà con rất thích hình thức này vì họ kết hợp đi chợ và tham gia lễ hội nên không mất thời gian. Hình thức tổ chức kết hợp các trò chơi dân gian có phần thưởng nên cuốn hút người dân tham gia. • HPN tỉnh Lào Cai vận dụng hoạt động của Hội và các dự án được tài trợ bởi các quỹ (Unilever) các tổ chức phi chính phủ (Bánh mỳ thế giới) để giới thiệu và áp dụng WEL trong các dự án này. • Sở Khoa học công nghệ Lào Cai, Đài truyền hình Lào Cai quảng bá về mô hình ủ phân vi sinh rộng rãi trên toàn tỉnh. • Tại tỉnh Ninh Thuận: cán bộ, tư vấn và đối tác Oxfam đã tổ chức nhiều cuộc họp, phiên làm việc với Ban Điều phối Hỗ trợ Chương trình Tam Nông và Sở NN&PTNT, Trung tâm Khuyến nông, Chi cục Thú y, Sở Công thương để chia sẻ các kết quả tư vấn khảo sát ban đầu và đặc biệt là Kế hoạch sản xuất, kinh doanh heo đen. Sau những buổi làm việc này Ban điều hành Chương trình Tam Nông đồng ý sẽ hỗ trợ thêm cho mỗi hộ tham gia chương trình WEL 2 heo nái để tăng quy mô lên 3 heo nái theo khuyến cáo của Kế hoạch Sản xuất kinh doanh của các hộ chăn nuôi để đảm bảo có lãi. Chương trình Tam Nông sẽ tăng cường quảng cáo, quảng bá sản phẩm heo đen bằng nhiều hình thức khác nhau. Sở NN &PTNT và Sở Công thương sẽ tiếp tục điều chỉnh chính sách hoặc ban hành các văn bản pháp quy cụ thể hơn để hỗ trợ các hộ nông dân có quy mô sản xuất nhỏ, các tác nhân liên quan, như nguyên liệu đầu vào, lò mổ, siêu thị...có liên quan đến heo đen. • Chợ Phước Tiến (Xã Phước Tiến- Huyện Bác Ái) được xây dựng và đã đi vào hoạt động thường xuyên góp phần vào quá trình phát triển sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản tại địa phương.

56


Làm sao để tránh các lỗi khi nhân rộng mô hình? • Kết hợp với các chương trình tương đồng của chính phủ và các nhà tài trợ. Tận dụng sự hỗ trợ, tham gia của các cơ quan chính quyền và đoàn thể tại địa phương. • Linh hoạt, sáng tạo trong hình thức nhân rộng. Mỗi tổ chức tùy theo thế mạnh và lĩnh vực chuyên môn của mình có thể có các cách thức khác nhau.

Việc áp dụng WEL rất tốt và cần thiết, đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số, vùng nghèo. WEL giúp mọi người hiểu nhau, chia sẻ công việc, giúp phụ nữ đỡ vất vả hơn và mọi người có sự nhìn nhận đúng về đóng góp của phụ nữ. Để áp dụng tốt cần nhiều hoạt động để tạo không khí thật sự thoải mái cho người dân. Tổ chức đào tạo cán bộ quản lý kỹ càng và chọn lựa những người dân có năng lực để xây dựng hình ảnh toàn diện. Tổ chức tham quan và đầu tư một số trang thiết bị ban đầu cho họ...

Chị Hà (đứng đầu) trong một buổi sinh hoạt tổ nhóm Ảnh: Lê Gia Thắng

Trong quá trình làm cần chú ý đến các đối tượng nghèo, đặc biệt khó khăn, phụ nữ, nam giới đơn thân góa bụa vì đây những đối tượng dễ tổn thương, có mặc cảm, tự ty. Tổ chức sơ kết động viên, khen thưởng cho các cá nhân, tập thể xuất sắc trong cộng đồng để tạo ganh đua, ghi nhận, sẽ cố gắng hơn. Huy động sự quan tâm và vai trò của chính quyền và các ngành trực tiếp liên quan. Không đầu tư dàn trải, quá trình làm cần tuân thủ theo thỏa thuận và mục tiêu đề ra, việc huy động nguồn lực cũng phải ngay từ đầu, phải chủ động nguồn lực. Lê Thị Thu Hà, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Lào Cai

• Trong quá trình chia sẻ nhằm mục đích nhân rộng, cần nhấn mạnh đến những điểm then chốt có thể gặp phải khó khăn/ lỗi khi áp dụng • Thường xuyên cập nhật và tài liệu hóa quá trình lập kế hoạch và thực hiện chương trình, các bài học kinh nghiệm được đúc kết bằng nhiều hình thức khác nhau (bài viết, băng hình…); và kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để chia sẻ kịp thời thông tin

Hội thảo tổng kết dự án WEL tại Ninh Thuận Ảnh: Trần Phong

57

Bài học của Chương trình WEL được tài liệu hóa và chia sẻ trên Oxfam blog


Country Office 22 Le Dai Hanh Hanoi, Vietnam tel: +844 3945 4448 oxfamblogs.org/vietnam www.oxfam.org/vietnam Tài liệu này có sử dụng tư liệu (hình ảnh, số liệu và câu chuyện điển hình) của Tổ chức Oxfam. Các ý kiến, quan điểm, đề xuất trong tài liệu là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm chính sách của Oxfam hay tổ chức và cá nhân được trích dẫn.


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.