1’ .' ^
ịn^~ Ị s-Ị',.-
cĩ
9NQS 3003 9N0U1 ífìn'ì(^fj ln>ífJ
lịlA Õ N
IP H 9 II
0
» P H I
^ríì f^ iờ iề ^ n jfỊj n B IH IN IỈ E ỈE l EJẼ] B ỉc l B ỈẼ l B ỈẼ l E ỈE l B ỈE ] B ỈẼ l B ỈẼ l EHỈcl B ỈE ] BJẼ] C IẼ ] [Híc] B ỈẼ ] B ỈE l B ỈE l E ỈE l B ỈE I
'X>iểẨL ^ h ũ n ạ . 0'íLe TH Ờ CÚNG CỦA NGƯdl V IỆ T (ĩ€ng, ^ u n ạ . TRON G CUỘ C SỐNG và KINH DOANH
KIM QUÝ (Sưu tẩm và hệ thống hóa)
Q ìm
T '
ô lể it
CỦA
NGƯỠI V IỆ T &
KINH DOANH
NHÀ XU Ấ T BÂN LAO ĐỘNG
LỜI NÓI ĐẦU ăn hóa Việt Nam là một nền văn hóa độc đáo, phong phú và đa dạng, bởi đây là một nền văn hóa có sự hỗn dung văn hóa của các dân tộc anh em sống, làm việc trên đất nước Việt Nam và tiếp biến văn hóa Dông - Tây. Tỉnh độc đáo và phong phú của văn hóa các cộng đồng dân tộc Việt Nam, thể hiện â nhiều phương diện, ở nhiều truyền thống; một trong các phương diện ấy là tục thờ cúng. Cộng đồng dân tộc Việt trong từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể, ở trong tâm thể chung hay các tâm thế riêng được quy định bởi những quy định khác nhau đều lưu giữ và hành động thực hiện một cách sốt sắng tập tục mang đậm tỉnh chất tâm linh này trong sự tự nguyện và thành kính. Trong tâm thức họ, luôn xác tín một niềm tin về sự bất tử của các linh hồn và giữa cõi sống (dương) với cõi chết (âm) luôn luôn tồn tại những sự tương tác qua lại. Mặc dù, đối với mỗi hình thức thờ cúng khác nhau sẽ tạo ra những thụ cảm khác nhau trong quan niệm của những người hành lễ. Thế nhưng, trên hết, điều đặc biệt là, thờ cúng đã trở thành một nguyên tắc, một chuẩn mực, là một phần quan trọng không thể tách rời trong đời sống - xã hội của người Việt Nam. TÌM HIỂU PHONG TỤC THỜ CÚNG CỦA NGƯỜI VIỆT - ỨNG DỤNG TRONG CUỘC SỐNG VÀ KINH DOANH là một cuốn sách được chúng tôi biên soạn trên cơ sở sưu tầm, tập hợp có chọn lọc từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, với hy vọng sẽ cung cấp những thông tin cần thiết, hữu ích để người đọc có thể hiểu rõ hơn về một trong những truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc ta và ứng dụng vào trong các hoạt động cụ thể thường nhật của mình, nhằm hướng tới, và đạt được những điều tốt đẹp nhất, nhân bản nhất. Trong quá trình biên soạn, do những điều kiện chủ quan và khách quan, chúng tôi chưa có điều kiện liên hệ với các tác giả - những người mà chúng tôi vô cùng hàm ơn, để xin phép về việc sử dụng tư liệu. Chúng tôi thành thật mong nhận được sự lượng thứ từ quý các tác giả. Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc của mình đến quý các tác giả và xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc. BAN BIÊN SOẠN
Chương một
TÌM HIỂU VỀ TẬP TỤC THỜ CÚNG ở VIÊT NAM
I.
TẬ P TỤC DÂNG HƯƠNG TRONG
VÀN HÓA TÂM LINH CỦA NGƯỜI V IỆT
1. VĂN HÓA HƯƠNG VÀ TỤC DÂNG HƯƠNG Văn hóa hương trong tâm linh người Việt Nghi thức dâng hương là tập quán mà hầu như mọi người dân Á Đông bất kể lứa tuổi nào và sống ỏ nơi đâu đều biết đến. Nén hương đã đi vào đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, gần gũi và thiêng liêng. Dù không mê tín dị đoan, trong tâm thức mọi người Á Đông đều tin rằng nén hương khi đốt lên, cũng như một nhịp cầu vô hình nối kết hai thế giới hữu hình và vô hình với nhau. Tuy nhiên về mặt tâm linh, có người vẫn còn hiểu một cách mơ hồ, nhất là về ý nghĩa dâng hương theo truyền thống của ông bà. Thậm chí ngày nay có người còn không biết vì sao trong nhà mình có một bàn thờ với những pho tượng, hình ảnh Chư Phật Bồ Tát, thần thánh hoặc tổ tiên. ' ' Dâng hương là gì? “Dâng” có nghĩa là đưa lên một cách cung kính, tiếng Anh gọi là “oííering”. Và từ “hương” có nghĩa là mùi thơm, thông thường là một vật dùng đốt lên để cúng các đấng thiêng liêng, cũng được gọi là hương và trầm, tiếng Anh là “incense”. Từ “incense” bắt nguồn từ ngôn ngữ Latin, và động từ “incendere” - có nghĩa là “thắp cháy lên” Sự đặc biệt của nén hương đối với mỗi người dân Việt Chuyện thắp hương trên bàn thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp, lễ Tết. Ngày cuối năm đi sắm Tết, không ai quên mua trăm hương vể thắp cho ông bà, tổ tiên mình. Nén hương được thắp lên mọi người đều cảm thấy ấm lòng. Nén hương lúc này không còn là thứ lễ phẩm bình thường mà nó đã trỏ thành một sản phẩm tinh thần không thể thiếu của người dân Việt. Cùng với những phong tục truyền thống khác, nén hương đã góp phần tạo nên và bảo tồn giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Mùi hương là mùi thơm quen thuộc trong nhà hằng triệu triệu người Á Đông - là mùi thơm đặc biệt của ngày đẩu năm đi chùa lễ Phật. Chúng ta luôn bắt gặp những hình ảnh rất quen thuộc: những cụ ông, cụ bà, nam thanh, nữ tú, tay cầm hương khấn vái cầu mong một năm mới an khang, thịnh vượng, phúc lộc thọ khang ninh... Đây hoàn toàn không phải là hành động mê tín dị đoan, mà là một nét đẹp văn hóa
tổn tại từ lâu đời. Lược sử về hình thức đốt hương Theo lịch sử ghi lại, việc đốt hương xuất hiện ỏ Ấn Độ cách đây khoảng 5700 năm. Đến năm 618, vào đời nhà Tần mới có một vị Tăng đem hương trầm qua Trung Quốc, từ đó hình thức đốt hương được phát triển mạnh mẽ và hưng thịnh nhất vào đời nhà Minh, sau đó được phổ biến đến khắp các nước láng giềng. Có thể nói hình thức đốt hương phổ biến nhất ở Nhật Bản, tại đây họ lại chế thêm nhiều cách đốt hương: sản phẩm quen thuộc nhất là nén trầm hình tròn đầu nhọn vào thế kỷ XVII, ngày nay vẫn còn dùng. Nhiều tài liệu cho thấy việc đốt hương đã có từ thời sơ khai. Trong các đền thờ của vua chúa Ai Cập có rất nhiều những hình vẽ hoặc hình chạm trên tường mô tả nghi thức này. Ngày nay việc đốt hương đã trở thành một tập quán trong các ngày lễ hội như Rằm tháng bảy, lễ Vu lan, Vía Quán Thế Âm, ngày Tết hái lộc đầu năm, Phật đản và những ngày quan trọng trong gia đình như cúng giỗ, đám tang, đám cưới, tân gia... dùng để cúng những vị như Phật Bà Quán Âm, ông Bà, Tam Tiên ông: Phúc Lộc Thọ, Thổ Địa, Táo Quân, Thần Tài... Lợ/ ích và tác dụng của nén hương Từ ngàn xưa, khi mới khám phá ra lửa, con người đã bắt đầu phát hiện ra một điều lạ lùng, đó là khi ngọn lửa cháy lên sẽ tỏa ra mùi thơm đặc biệt tùy theo vật liệu dùng để đốt. Người ta đã biết dùng hương đèn để trị bệnh cho thân thể và cả bệnh tâm lý. Khi đốt hương đèn, khói hương nghi ngút tạo nên không khí thanh tịnh, ấm áp và trang nghiêm hoặc tạo không khí trong sạch trong những căn phòng lạnh lẽo của người qua đời hoặc lâm trọng bệnh. Thông thường, người ta thắp hương là để khẩn thiết cúi đầu mong tấm lòng thành kính của mình sẽ quyện theo làn khói thơm hướng về cõi thiêng liêng hoặc xông lên tận ngai vàng của Đức Chúa Trời hoặc một đấng nào khác.
2. NGHI THỨC DÂNG HƯƠNG Khi thắp hương nên thắp mấy nén? Người Việt Nam đã quen chọn số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) lúc thắp hương, nhưng cũng có trường hợp người ta đốt cả nắm hương chứ không chú trọng vào ý nghĩa con số. Còn theo lý giải của nhà Phật cho rằng, số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh thiêng hơn. Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau: đó có thể là
9
Tam bảo (Phật - Pháp - Tăng), Tam giới (Dục giới, sắc giới và Vô sắc giới), Tam thời (Quá khứ - Hiện tại - Vị lai), Tam vô lậu học (Giới - Định - Tuệ) Nén hương, cũng có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa, đó là thắp hương để nhớ đến sự vô thường. Vô thường là từ Hán-Việt, tức là không vĩnh viễn, cho nên lúc nén hương tắt cháy thì cũng tượng trưng cho đời người tắt cháy, ngắn ngủi vô thường như thời gian của nén hương... Tàn tro của hương nhắc nhỏ chúng ta chớ để thời gian trôi qua, uổng phí tháng ngày. Ý nghĩa của tục dâng hương với nhà Phật và các tôn giáo khác Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong sáu lễ vật dâng cúng, gổm có: Hương, Hoa, Đăng, Trà, Quả, Thực (Hương, Bông, Đèn, Trà, Trái, Thức ăn). Tuy nhiên nhiều người không rõ về ý nghĩa sâu xa của việc cúng Phật nên bày biện đủ thức ăn uống như yến tiệc, làm sai lạc ý nghĩa. Theo quan niệm của Phật giáo, lòng thành thể hiện qua làn khói hương nghi ngút, không cần cỗ bàn yến tiếc tiệc thịt cá, lợn quay linh đình... Đủng ý nghĩa sự cúng Phật thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong là đủ. Phật không phải ở trên bàn thờ, trong những pho tượng, mà là ở trong tâm của tất cả con người. Ngoài những nén hương dùng ngọn lửa nóng để đốt cháy lên, chúng ta còn có thể dùng đức tin của mình thắp lên những nén Tâm hương - tức là hương từ trong tâm. Bỏi vậy mới có năm thứ hương dùng để cúng đường chư Phật: Giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương, Không chỉ Phật giáo, mà cả các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo cũng dùng hương trong các ngày lễ của mình. Người Thiên Chúa giáo xông hương trong các thánh lễ, trước bàn thờ, trước cuốn Kinh Thánh, mình Thánh, rượu Thánh và cả linh cữu của người đã mất... Trước thời Chúa Giê-su (Jesus), những hương liệu như loại trầm “trankincense” có giá trị hơn cả vàng bạc châu báu. Đó là vì cổ nhân tin rằng những loài cỏ cây thơm là do chư Thiên ban cho từ trên cao và đã thấm nhuần hương thơm của Đức Chúa Trời. Những tôn giáo khác như Ấn Độ giáo (Hinduism) thì lại dùng hương để thư giãn và tập trung hơi thỏ lúc ngồi Thiền. Trong khi đó, dạo Phù Thủy (VViccanism) dùng hương để trỏ về với sức sống thiên nhiên để cảm thông với các vị nữ thần như Aphrodite. Trái lại, theo đạo Không (Contucianism) thì khói hương tượng trưng cho Đại Trượng Phu - chỉ bay lên chứ không bao giờ lặn xuống.
10
ở nhiều vùng thuộc Nam bộ, người ta còn thắp hương cho từng gốc cây, góc nhà với quan niệm mọi vật đều có đời sống tâm linh của nó, cũng như là để thần thánh, hoặc vong/ hương linh hút và sức lực để hiển linh. Một điểu chúng ta phải cần ghi nhớ là mỗi lần dâng hương trước bàn thờ: không những dâng hương bằng tấm lòng thành kính của mình, mà còn phải có chính niệm. Nên cắm từng nén hương với hai tay và cắm cho ngay thẳng, tượng trưng cho tấm lòng ngay thẳng để lưu lại tiếng thơm với đời tỏa khắp nơi.
11
II.
NGHI THỨC HÀNH L Ễ TRONG
TẬ P TỤ C THỜ CÚNG ở V IỆT NAM
1. TÌM HIỂU VỀ NGHI THỨC CÚNG, KHẤN, VÁI, LẠY TRONG TẬP TỤC THỜ CÚNG Nghi thức cúng là gì? Khi có giỗ Tết, gia chủ bày hoa (bông) quả, nước, rượu, cỗ bàn, chén bát, đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp hương (hương), thắp đèn, đốt nến (đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn, và cầu phúc lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình thường, cúng là thắp hương (hương), khấn, lạy và vái. Nghi thức khấn là gì? Khấn là lời cầu khẩn lầm rầm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa. Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính cẩn. Người ta thường nói khấn vái là vậy. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ khấn vái trong câu “Lầm rầm khấn vái nhỏ to/ Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra”. Nghi thức vái là gì? Vái thường được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hỢp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2, 3, 4, hay 5 vái. Nghi thức lạy là gì? Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: Thế lạy của nam giới và thế lạy của nữ giới. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hỢp đều mang ý nghĩa khác nhau. Thế lạy của nam nữ khác nhau như thế nào? - Thế lạy của nam giới: Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hổn và thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình. Thế lạy của nam giới là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước 12
ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa vể phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ỏ thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy. Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra. Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng, sỏ dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng vậy. sỏ dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn. Thế lạy phủ phục của các nhà sư rất khó. Các thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất, đồng thời quì hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy các thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các thầy đã tập luyện hằng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh thoảng mới đi lễ chùa, mọi người phải cẩn thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy thầy thì rất có thể mất thăng bằng. - Thế lạy của nữ giới: Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo vể phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ỏ thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần. Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy. Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ỏ thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt. Thế lạy của nam giới có vẻ hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế lạy của nam giới có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên 13
còn áp dụng thế lạy của nam giới, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái. Thế lạy của nam giới và nữ giới là truyền thống rất có ý nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ tiên. Nếu muốn giữ phong tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh niên phải có lòng tự nguyện. Muốn áp dụng thế lạy, nhất là thế lạy của nam giới, ta phải tập dượt lâu mới nhuần nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ thành.
2. Ý NGHĨA CỦA s ố LẦN LẠY VÀ VÁI Số lần lạy và vái đều mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Sau đây chúng tôi xin trình bày vể ý nghĩa của vái và lạy. Đây là phong tục đặc biệt của Việt Nam - Ý nghĩa của 2 lạy và 2 vái: Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời khấn là tấm lòng của người còn sống có thể khấn sao cũng được Hai lạy dùng để áp dụng cho người sống như trong trường hỢp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em ta nên lạy 2 lạy. Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý nghĩa của ba vái này, như đã nói ỏ trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hỢp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quàn, những người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì.... của người quá cố, thì chỉ đứng để vái 2 vái. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái. Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy. - Ý nghĩa của 3 lạy và 3 vái: Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng. Phật ỏ đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chính đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh. Đây là nói vể nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy. Trong trường hỢp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu phục, nếu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật. - Ý nghĩa của 4 lạy và 4 vái: Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (Đông: Thuộc dương, Tây: Thuộc âm, Nam: Thuộc dương, và Bắc: Thuộc âm), và tứ tượng (Thái dương, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm). Nói chung, 4 lạy bao gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ỏ 14
trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú ngụ. Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy. - Ý nghĩa của 5 lạy và 5 vái: Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn phương (Đông, Tây, Nam, Bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng vương, quí vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt. Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy. Phong tục có đươc là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận.
3.
t I m h iể u đ ặ c t r ư n g c ủ a n g h i t h ứ c t ể l ễ
Tế lễ có tỉnh tập thể Tập thể ỏ đây có thể là quốc gia, làng xã; có thể là một cộng đồng hay một hội đoàn. Như vậy, tế cũng là cúng nhưng hình thức và nghi thức to lớn hơn cúng (cho gia đình, họ tộc). Tế thường có âm nhạc và có một ban tế gồm nhiều người, nhiều chức sắc... Tế lễ và cúng có khác nhau? Tế lễ có 2 điểm khác với khấn và cúng; - Tế lễ là cuộc dâng lễ vật một cách long trọng lên những vị Thần lớn như; Trời, Đất, Mùa Màng, Đức Không Phu Tử, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần, Đức Tả quân Lê Văn Duyệt, các vị Thần Thành hoàng của làng xã... - Tế lễ còn được tổ chức một cách trọng thể với cờ xí, nhạc lễ và phẩm phục. Phẩm vật tế lễ là vật tam sinh: bò, dê, heo. Mỗi buổi tế gọi là một diên tế. Thông thường có 2 diên tế; Túc Yết và Đoàn Cả (còn đọc là Đàn Cả): - Túc: Đêm (trực túc: gác đêm); yết; Ra mắt. Túc Yết là “lễ hương chức làng dâng lễ ra mắt các vị Thần trong lúc “Kỳ Yên”. Như thế, đúng ra diên tế Túc Yết phải cử hành về đêm hay ít ra là vào buổi chiều. - Đoàn: Một đám người đông đảo; cả: Lớn, đông. Đoàn cả là sự tề tựu đông đủ dân làng và khách thiện tín để tế lễ Thần. Đoàn cả là diên tế chính trong dịp lễ Kỳ Yên tại các đình làng cũng như trong lễ giỗ của các miếu thờ Thần. Thành phần ban tế - Chủ tế (còn gọi là chủ tế, hay chánh tế); Chủ chủ tế trì nghi lễ là người cao 15
niên có phẩm hàm hay đỗ đạt cao nhất làng hoặc là ông tiên chỉ, ông nhất đám của làng... hay một nhân sĩ có uy tín của hội đoàn. - Bồi tế: Hai (hoặc bốn) người bồi tế giúp chủ tế và cứ trông chủ tế mà lễ sao làm vậy. - Đông xướng, Tây xướng: Hai người Đông xướng và Tây xướng đứng đối diện hai bên hương án xướng (đọc) nghi thức hành lễ. Đây là người giữ vai trò người điều khiển chương trình của buổi lễ. - Nội tán: Hai Nội tán đứng hai bên chủ tế hướng dẫn ra vào và trợ xướng. Nhiều trường hỢp, để cho đơn giản tiện sổ sách, vai trò hai Đông xướng và Tây xướng được hai Nội tán kiêm nhiệm... - Chấp sự: Những người chấp sự đứng hai bên lo việc điếu đóm (dâng hương, dâng rượu, chuyển chúc, đọc chúc...) - Đổng văn; Người lo việc đánh chiêng trống. Nghi thức tế trải qua 4 giai đoạn - Thứ nhất là nghênh thần: Chủ tế lễ 4 lễ. - Thứ hai là hiến lễ: Dâng lễ 3 lần, mỗi lần chủ tế và bồi tế đều quỳ để hiến lễ, đọc văn tế (đọc chúc). - Thứ ba là ẩm phúc và thu tộ: Chủ tế nhận lộc thần linh ban. - Thứ tư là lễ tạ: Chủ tế lễ 4 lễ. Cách thức ăn mặc và động tác trong tế từ lâu đã được cung đình hóa. Vái lạy trong các nghi thức tế lễ “... Từ đời xưa, vua đối với bầy tôi, bố vợ đối với chàng rể, người tôn trưỏng với kẻ ti ấu đều phải lạy đáp lễ... Đến đời nhà Tần mới đặt ra lễ “tôn quân ti thần”, nên thiên tử không đáp lạy bầy tôi nữa... Từ quan khanh sĩ trỏ xuống đều theo cổ lễ mà đáp lễ kẻ ti ấu (bề dưới), nếu kẻ ti ấu chối từ, mới dùng lễ túc bái đáp lại. Còn vái là nghi thức lúc đã lễ xong... Nước ta xưa kia có chốn công đường có lễ tông kiến, kẻ hạ quan, cũng vái bậc trưòng quan. Gần đây những kẻ hiếu sự không biết xét đến cổ điển lại cho là lễ của tôn trưỏng đối với kẻ ti ấu, còn kẻ ti ấu đối với tôn trưỏng không được vái, chỉ lạy xong là cứ đứng thẳng và lùi ra...” (Trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ trang 174). Theo đoạn văn trích dẫn trên ta thấy vái lạy là một phép xã giao, không chỉ vái lạy người trên mà người trên cũng vái lạy đáp lễ. Từ lạy nhau chuyền sang vái nhau trong buổi tương kiến, đến nay ta tiếp thu văn hóa phương Tây vẫn giữ được phép tôn ti (tôn trưởng, ti ấu). 16
Theo phong tục lễ giáo thì bề dưói phải chủ động chào bề trên trước, trẻ chào già trước, trò chào thầy trước. Nếu bề trên không chào lại người dưới, thầy không chào lại trò, tức là không đáp lễ, thì cũng bất lịch sự chẳng khác gì từ chối người khác, làm cho người đưa tay trước ngượng ngùng và bất bình. Không biết vái, chào lại người khác là đã tự làm mất đi phong cách lịch duyệt của chính mình. Theo Đạo giáo (Lão giáo), chủ trưdng “tay trái” là “tay tôn kính” vì theo tập quán “Người nước Sở trọng tay trái, mà Lão Tử lại là người nước sỏ”, ví thế nên “phía bên trái” được coi trọng. Khi cúng tế, người ta dùng tay trái để cắm hưong vào lư hưdng. Khi quì lạy, bàn tay phải nắm lại, bàn tay trái bao nắm tay phải, đưa hai tay lên giữa hai lông mày rổi quì xá xuống đất. Khi lạy xuống thì quì gối phải trước rồi mới tới gối trái. Khi đứng lên thì gối trái co lên trước kế đến gối phải rồi toàn thân đứng lên. Cũng có ndi quì hai gối xuống và lên cùng một lúc. Phật giáo khi lạy thì chấp hai bàn tay lại rồi xá xuống, còn Đạo giáo thì nắm bàn tay như trên, hai bên có hình thức khác nhau. Ngày xưa, người ta lấy hình thức “bốn lần quì thực hiện tám lần xá” gọi là “lễ kính tối cao”. Nữ cư sĩ thì lạy có khác với nam cư sĩ, hai gối quì một lượt, nắm tay chỉ cần đưa ngang cổ rồi xá xuống một cách nghiêm cẩn là được. Tư thế thắp hương lễ bái là, tay phải cẩm hưdng, tay trái bao ngoài tay phải, đưa lên ngang ngực (không cần phải đưa lên tới ngang hai lông mày hoặc lên khỏi đầu). Đầu hưdng hdi nghiêng xéo một chút, nếu xá cao cũng không đưa hưđng quá hai lông mày, nếu xá thấp thì từ ngực xá xuống, giống như vẽ thành một nửa vòng tròn. Nếu không cầm hưđng thì hai tay nắm lại như trên, đưa lên ngang ngực, đầu cúi xuống thành nửa vòng tròn. vể mặt phẩm vật cúng tế, Đạo giáo chọn “tứ hỉ ngũ quả”, cúng đường bốn món, sáu món, bảy món hoặc mười món, không có chủ trưdng giết lợn, mổ dê để củng tế. - Tứ hì gồm: Trà, rượu, mì sỢi, cdm. - Bốn món cúng đường là: Hoa, nước trà, hưdng, đèn sáp. Trong đó, hưđng tượng trưng cho sự “vô vi”, hoa tượng trưng cho “tự nhiên”, nước trà tượng trưng cho “thanh tịnh”, đèn sáp tượng trưng cho sự “thuận hóa, biến hóa theo chiều thuận”, nghĩa là bốn món nêu lên ý niệm cđ bản của Đạo giáo: “thanh tịnh, vô vi, tự nhiên, thuận hóa”. - Bảy món cúng đường là; Hướng, hoa, đèn sáp, nưổc trà, trái cây, cdm, âm nhạc. - Mười món cúng đường là: Hưdng, đèn, hoa, trái, trà, cđm, rau cải, vàng bạc, 17
châu ngọc, y phục. Thủ tục, diễn tiến của buổi tế lễ Diễn tiến buổi tế tương tự như lớp lang của một bản kịch ngắn mà ban tế cần hiểu biết trước thật rỗ ràng; dôi khi phải tập dượt nhiều lẩn cho suôn sẻ, để giữ sự long trọng của buổi tế. Chi tiết diễn tiến thay đổi tủy miền, tủy loại tế. Sau dây xin liệt kê thủ tục diễn tiến của một buổi lễ tiêu biểu (của một dòng họ). Thủ tục sẽ được Đông xướng, Tây xướng (hay Nội tán) đọc lớn từng bước, làm từng giai đoạn một - Ngày nay, chỉ nên đọc (hoặc làm) phần chữ Việt trong ngoặc là đủ): 1. Khởi chinh cổ (Nổi trống chiêng) 2. Nhạc sinh tựu vị (Ban nhạc vào vị trO 3. Củ soát tế vật (Kiểm tra lễ vật cúng) 4. Chấp sự giả các tư kỳ sự (Những người phụ trách cúng vào vị trí của mình) 5. Chủ tế dữ chấp sự giả các nghệ quán tẩy sỏ (Chủ tế và mọi người phụ trách cú no vào chỗ rửa tay) 6. Quán tẩy (Rửa tay) 7. Thuế cân (Lau tay) 8. Bồi tế viên tựu vị (Bổi tế vào vị trQ 9. Chủ tế viên tại vị (Chù tế vào vị trQ 10. Thượng hương (Dâng hương) 11. Nghinh thần cúc cung bái (Chủ tế và bổi tế củng sụp lạy) 12. Hưng (Chủ tế và bổi tế đứng dậy) 13. Bái (Lạy) 14. Hưng (Đứng dậy) 15. Bình thân (Đứng ngay thẳng) 16. Hành sơ hiến lễ (Lễ dâng rượu lần đẩu) 17. Nghệ tửu tôn sở, tư tôn giá cử mịch (Chủ tế đi ra chỗ án để rượu, người chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài ra) 18. Chước tửu (Rót rượu) 19. Nghệ đại vương thần vị tiền (Hai người nội tán dẫn chủ tế lên chiếu nhất) 20. Quỵ (Chủ tế và bồi tế quỳ cả xuống) 18
21. Tiến tửu (Một người chấp sự dâng đài rượu đưa cho chủ tế vái một vái rồi giao trả người chấp sự) 22. Hiến tửu (Những người chấp sự dâng rượu đi hai bên, hai tay nâng cao đài rượu đi vào nội điện. Xong trỏ ra) 23. Hưng, bình thân, phục vị 24. Độc chúc (Hai người chấp sự vào bàn trong kính cẩn bưng văn tế ra) 25. Nghệ độc chúc vị (Người Nội tán dẫn chủ tế lên chiếu trên) 26. Giai quỵ (Chủ tế, bồi tế, hai người bưng chúc đọc chúc đểu quỳ cả xuống) 27. Chuyển chúc (Người bưng chúc đưa cho chủ tế. chủ tế cầm lấy, vái một vái rồi đưa cho người đọc chúc) 28. Độc chúc (Người đọc chúc lần này đọc bản văn tế. Đọc xong văn tế, chủ tế lạy hai lạy rồi ra phía ngoài. Sau đó lại xướng lễ trỏ lại để dâng hai tuần rượu nữa. Tuẩn thứ hai là Á hiến lễ và tuần thứ ba gọi là Chung hiến lễ) 29. Ẩm phúc (Hai người vào nội điện bưng ra một chén rượu và một khay trầu) 30. Nghệ ẩm phúc vị (Người chủ tế đi ra bước lên chiếu thứ nhì) 31. Quỵ (Chủ Tết quỳ xuống, hai người đưa chén rượu, khay trầu cho chủ tế) 32. Ẩm phúc (Chủ tế bưng lấy chén rượu vái, lấy tay áo che mồm uống một hđi hết ngay) 33. Thụ tộ (Chủ tế cầm khay trầu vái rồi ăn một miếng) 34. Tạ lễ cúc cung bái (Chù tế và bồi tế cùng lạy tạ bốn lạy) 35. Phần chúc (Người đọc chúc đem văn tế đốt đi) 36. Lễ tất (tế đã xong) Trong buổi tế lễ này có một số điều cẩn chú ý như sau: - Khi chủ tế di chuyển đổi chỗ trên các chiếu, từ chiếu dưới lên chiếu trên thì phải bước ra khỏi chiếu rồi bước lên về phía bên phải của mình, và khi trở xuống cũng bước ra khỏi chiếu trở về phía bên trái của minh tức là bên phải của bàn thờ. - Hai người bồi tế ngoài nhiệm vụ phụ giúp chủ tế trong việc hành lễ còn có nhiệm vụ thay thế người chủ tế nếu người này vì bất cứ lý do gì không hành lễ được. - Khi đốt sớ, mọi người dự tế đều phải đứng quay mặt và ngó vào chỗ đốt sớ. Văn tế, văn chúc Bài ván Tế thường do chủ tế đọc. Nhưng cũng có thể do một người nào đó 19
trong ban tế đã được chỉ định trước. Ngày xưa, bài văn tế thường viết bằng chữ Hán... Tuy nhiên ngày nay dân gian dùng thẳng chữ Quốc ngữ (tưđng tự như văn khấn của cúng giỗ).
4. TRÌNH Tự CÁC NGHI THỨC CÚNG LỄ Người ta thường cúng lễ vào các dịp giỗ, Tết... Bàn thờ gia tiên nói chung có thể cúng mặn hay chay. Nhưng khi cúng cd bản thường có các đồ lễ như trầu, cau, rượu, thuốc lá, giấy tiền vàng bạc thật và giả, đèn, nến, đĩa muối gạo. Có thêm 3 chén trà, 3 chén rượu, 3 chén nước để tượng trưng cho Tam tài: Thiên: Có Nhật - Nguyệt - Tinh tú. Địa: Có Thủy - Hỏa - Phong. Nhân: Có Tinh - Khí - Thần. Có 9 ngọn nến, 2 ngọn đặt trước tượng trưng cho Nhật - Nguyệt, 7 ngọn để ở hàng sau tượng trưng cho Thất tinh là chòm sao bắc Đẩu - Quê hường, cội rễ của loài người. Trong các lần cúng nên có sớ để tâu trình. *Lưu ý: - Các bát hưdng nên dùng keo dán sắt dán chặt vào bàn thờ để tránh trường hỢp khi lau chùi bị động bát hưđng, khó làm ăn. - Chân hưđng chỉ nên rút bớt vào ngày 23 tháng chạp và hóa cùng tiền giấy vàng. - Bốc bát hương nên dùng tro rơm nếp hay trấu để đổ vào bát hương, không nên dùng cát, vì như vậy cuộc sống sẽ nặng nể, khó ngóc đầu dậy được. - Khi hóa vàng nhớ đổ vài ly rượu vào để khí bốc. Không dùng nước để dập lửa khi đốt vàng mã. - Bình thường nên thắp mỗi bát một nén hương lúc bình thường (cắm vào giữa); Thắp 3 nén hàng ngang khi cầu xin điểu gì. Thắp 5 nén hình chữ thập trong các ngày giỗ, Tết.
5. TÌM HIỂU THÊM VỀ TẬP TỤC THỜ CÚNG, TẾ LỄ Người phương Tây coi trọng ngày sinh còn người phương Đông coi trọng ngày mất của tiền nhân và sùng kính các đấng Thần linh vì họ cho rằng có linh hồn nên chú tâm việc thờ cúng, tế lễ. Song hiểu cặn kẽ về việc này xem ra không phải dễ. Bàn về nguồn gốc Cho đến nay, hiện chưa tìm thấy tư liệu nào chỉ rõ việc thờ, cúng, lễ, bái được 20
bắt đầu từ bao giờ, khdi nguồn từ đâu? Song nhiều nhà nghiên cứu văn hóa suy đoán rằng: Nơi nào có con người sinh sống và được tổ chức thành xã hội thì từ những hoạt động cộng đổng vui mừng tự phát ban đầu dần hình thành những nghi thức. Như vậy, có thể nói nó hiện hữu cùng với sự có mặt của con người ngay từ thuò sơ khai. Tế lễ thờ phụng được hình thành, bổ sung, hoàn thiện, lưu truyền trong lòng dân nên đương nhiên có dị biệt từng vùng miền, dòng họ. Song giống nhau ở mục đích, tác dụng, nơi tiến hành. Với người Việt, đã trở thành “Lễ nghi phong hóa” tức là cách thức bày ra trong sự cúng tế cho được trật tự, trang nghiêm, kính cẩn đã thành phong tục tập quán của cả dân tộc. Đó là vấn đề tâm linh, là điều thiêng liêng thấm vào máu thịt mỗi người. Trong xã hội Việt từ cổ đại đã tồn tại mối quan hệ sâu sắc xây dựng trên cơ sỏ huyết thống. Do vậy, việc thờ cúng, lễ bái đã được chắt lọc từ ngàn đời, được hấp thụ tinh hoa từ các tôn giáo và lân bang trỏ thành một trong những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại mà lớp hậu sinh cẩn coi trọng. Ngoài thờ Tổ tiên những người theo Phật giáo hay không theo tồn giáo nào ỏ ta còn thờ Thần linh; thờ Phật; thờ Thổ công - Thổ địa - Thổ kỳ. Nhưng người hiểu rõ ý nghĩa và giá trị vấn đề thì ít, người hiểu thiếu đầy đủ, lệch lạc, có thể coi thường nhưng cũng có khi thái quá lại nhiều. Với những người xa quê lâu ngày, ông, bà, cha, mẹ mất sớm, trước vốn khó khăn nay mới đủ ăn... thì càng lơ mơ về ý nghĩa, giá trị và cách thức của các “Lễ nghi phong hóa” thiêng liêng này. Và theo trào lưu chung “thương mại hóa” hiện nay thì vấn đề thờ, cúng, lễ, bái dễ mất đi giá trị thực, không tạo được niềm tin vững chắc cho thế hệ trẻ. Do vậy, muốn phục hồi, phát huy giá trị tốt đẹp vốn có của nó, từng người, mỗi gia đình, dòng họ... cần có những hiểu biết nhất định sẽ vừa tránh mất tiền, vừa tránh vô tình làm giảm giá trị truyền thống lại giúp ích được nhiều cho bản thân, gia đình trong cuộc sống, công việc. Mục đích của việc thờ cúng Việc thờ phụng, lễ bái được chăm lo bởi ai cũng tin rằng việc đó mang lại lợi lạc cho đời sống của mỗi người, mỗi gia đình, gia tộc, tôn giáo, làng xã, quốc gia. Suy cho cùng, đó là sự trở về nguồn, để tỏ lòng tri ân, để tu tâm, tích đức và giãi bày khi gặp trắc trỏ của mỗi người. Thờ nghĩa là thể hiện, tỏ bày sự tôn kính của mình với tiền nhân và với Thần, Thánh, Phật, Chúa thể hiện rõ đạo lý “trung, tín, hiếu”. Ngược lại, con mà không thờ tổ tiên là con bất hiếu; dân mà không thờ tổ quốc là kẻ bất trung: tín đồ mà không thờ đức Giáo Chủ của mình là người bất tín. Cúng là dâng lẹ vật lên thần thánh hoặc linh hổn người chết, theo tín ngưỡng 21
hoặc theo phong tục cổ truyền, Gọi đủ là “Cúng đường”, đó là danh từ của Phật giáo, được chuyển ngữ từ hai chữ “Cung dưỡng” của tiếng Hoa. - Cung dưỡng: Nghĩa là cung ứng theo sự nhu cầu về vật chất của những kẻ thiếu thốn và nuôi dưỡng khi họ đói cơm rách áo... - Cúng đường: Nghĩa là dâng hiến những lễ vật lên các bậc tôn kính, mong cẩu ơn trên chứng minh. Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm nhất, nó gần như trỏ thành một tín ngưỡng. Nhưng đó không phải là tôn giáo vì không có giáo lý, không phụ thuộc vào quan điểm chính trị... “Đã nói tới tín ngưỡng dĩ nhiên có vấn đề tin và không tin”. Đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên là sự hiển nhiên, không có nghi vấn tin hay không tin. Sự thờ cúng chính là sự gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ linh thiêng. Đối với người Việt Nam, chết không có nghĩa là chết hẳn, thể xác tuy chết nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn còn lui tới với gia đình. Thể xác thì tiêu tan, nhưng linh hồn thì bất diệt. Giỗ là một buổi lễ, nghi thức theo phong tục tập quán của người Việt quan trọng nhất trong việc thờ cúng tổ tiên, nhằm tưởng nhớ đến những người đã mất. Theo tục lệ, ngày giỗ là “chung thân chi tang” có nghĩa là ngày tang trong suốt cả đời người. Mỗi năm vào đủng vào ngày chết của một người là một lần giỗ thường được tính theo âm lịch cho nên người xưa thường quan trọng ngày cúng giỗ ông bà cha mẹ. Ý nghĩa của giỗ là để nhắc nhở con cháu về những người đã đi trước; gắn kết tình cảm của các thành viên trong cùng một gia đình, dòng họ, đôi khi trong cùng nghề. Trong đó Tổ nghề là một người có công lớn đối với một nghề nào đó hoặc giúp phát triển hoặc sáng tạo ra nghề đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập. Không chỉ ngày giỗ, việc khấn cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mùng một, ngày rằm, và các dịp lễ, tết. Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vỢ gả chổng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử... hoặc gặp điều gì đó trắc trở, người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cẩu tổ tiên phù hộ, che chở, dẫn dắt hậu thế hay để tạ ơn khi công việc thành công. Với tổ tiên và những đấng tối cao vô hình thì sự sinh hoạt ăn uống chỉ bằng “hương hoa” không giống như sự ăn uống của người thường và con cháu cúng đường là đem hương vị của món đồ dâng lên thành kính tưởng niệm để tri ân và báo ân rồi lại “thụ lộc” chứ có mất đi đâu. Nên không cần mâm cao cỗ đầy, bày vẽ tốn kém, cốt là tấm lòng và cách bẩy xếp, khấn cầu. Tác dụng của việc thờ cúng, lễ bái Việc thờ cúng lễ bái nhằm nhớ và báo ơn những đấng sinh thành, những người đã từng hy sinh, đã giáo hóa tạo nên chúng ta cũng như gây dựng nên dòng họ, 22
Tông Môn của mình hoặc tạo cho ta niềm tin trong cuộc sống. Đổng thời việc làm đúng đắn nay giúp giáo dục con cháu về cội nguồn, thiêng liêng hóa Tông Đường để tự hào, tiếp nối sự nghiệp hiển vinh dòng họ, môn phái, quê hương, quốc gia... Việc thờ cúng lễ bái có thể nhận được sự “phù hộ độ trì” của tiên tổ, các đấng Thần, Thánh đối với những người hành lễ. Khi đó đối tượng được thờ cúng sẽ che chở, bảo vệ, chữa trị cho đối tượng hành lễ khi gặp khó khăn, nguy hiểm, mắc bệnh hay ngăn ta làm điều ác, khuyến khích làm việc thiện. Địa điểm thờ cúng, lễ bải - Nhà thờ; Làng xã có Am, Miếu, Đền, Chùa, Nhà Nguyện, Nhà Thờ, Tòa Thánh...; gia đình, gia tộc có nhà thờ họ... là những công trình kiến trúc dùng để thờ cúng và tiến hành việc lễ bái. Với Việt Nam, chúng ta có địa điểm thờ Quốc Tổ chung cả nước đó là quần thể khu vực Đển Hùng. Từ đường là nhà thờ tổ tiên của một dòng họ. Với mỗi gia đình việc thờ cúng ông bà, bố mẹ thường thực hiện tại nhà trưởng nam hoặc người lập tự và thực hiện đúng kỷ niệm ngày mất. Nay do con cái thường ở xa nới sinh thành và bận nhiều việc nên các năm thứ 5, 15, 25... gọi là giỗ chẵn, năm thứ 10, 20, 30... gọi là giỗ tròn sẽ làm lớn hơn, con cháu đông đủ; các năm khác con cháu ở xa có thể thực hiện nghi thức giỗ vọng hay có thể luân phiên từng nhà, từng khu vực để anh em rõ gia cảnh. Nếu chùa, đền, miếu, phủ, am thiên về tính âm, là “vãng sinh đường” cho khách thập phương được đặt ỏ nơi u tịch, thâm nghiêm, cách chỗ quần cư thì từ đường hay gia đường lại mang tính dương, nên dựng nơi gần con cháu. - Gian thờ: Đối với người Việt, nó gần như trở thành một thứ tôn giáo: không gia đình nào không có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Bàn thờ được đặt trong gian thờ. Bản chất trường khí phòng thờ thuộc tính âm, hướng nội, không ưa sự phô trương. Ngay cả trong ngày giỗ hay Tết thì thờ cúng cũng là việc riêng của gia đình đó, người ngoài muốn đến thắp nén hương phải xin phép gia chủ. về Ngũ hành thì bàn thờ thuộc hành Hỏa và Mộc là hai hành hướng lên cao và cần sự chăm sóc mỗi ngày lại mang tính hướng nội, không cần phải đặt ngay trong phòng khách và theo phong thủy tốt nhất là đặt phòng thờ ở tầng áp mái. Hoặc đặt nơi trang trọng và cùng hướng hợp mệnh chủ.
23
III. BÀN THỜ TRONG TẬ P TỤC THỜ CÚNG CỦA NGƯỜI V IỆT
1. CÁCH BÀI TRÍ CÁC BÀN THỜ TRONG NHÀ Thông thường trong nhà người Việt có các bàn thờ: Bàn thờ Phật, bàn thờ Thần linh và gia tiên, bàn thờ ông Địa - Thần Tài, bàn thiêng ngoài trời thờ 9 phương Trời, 10 phương Phật, ngoài ra tùy gia chủ có thêm các bàn thờ Mẫu, ông Hoàng, bà Chúa, các cô, các cậu hay thờ Ngũ ông... Dưới đặc điểm riêng của một số bàn thờ. Bàn thờ Phật Thường được đặt cao nhất trong phòng thờ của gia đình, trên bàn thờ có ảnh của vị Phật mà mình muốn thờ (người thường chỉ thờ ảnh Phật, các thầy hay Sư mới thờ tượng). Chính giữa có bát hương hay lư trầm. Bên cạnh có bình hoa và đĩa hoa‘quả 3 chén nước, cặp đèn cầy hay đèn điện. Tuyệt đối không được đặt đồ lễ mặn và giấy tiền vàng bạc trên bàn thờ Phật. Khi cúng Phật phải dùng đồ chay. Bàn thờ thần linh Thường được đặt chung với bàn thờ gia tiên. Bát hương thờ thần linh đặt chính giữa và cao hơn hai bát hương còn lại. Đằng sau bát hương có bài vị thờ thần. Thường chỉ có một chữ Thần (# ) hay chữ Thần Tiên Linh ứng ( tt jilj M jsi). Thần linh ở đây bao gồm: Quan đương Niên hành Khiển hằng năm, Thành Tào Phán Quan, Ngũ phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền hậu Địa chủ Tài Thần, Thần hoàng bản xứ, Thần hoàng bản cảnh, Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa, Ngài định Phúc Táo quân, Ngài Phúc Đức Chính Thần, Các Ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Long mạch tài Thần, Ngài Bản Gia Táo Quân, Các Ngài Địa Chúa Long mạch Tôn Thẩn và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực... Trước bát hương người ta thường để 3 chén nước trên cùng một cái khay bằng sứ dài. vể cuối năm hay đầu năm, người ta thường cúng một bộ đồ quan Thần linh bao gồm mũ, áo, ủng, ngựa theo Ngũ hành (vàng, trắng, đen, xanh, đỏ) và 1000 vàng hoa theo màu bộ quan Thần linh. Thờ Thần có thể cúng mặn như xôi, gà... Bát hương thờ Cửu Huyền Thất Tổ Cửu Huyền Thất Tổ ( A ^ - tí â ) ở đây là nói tắt. Đúng ra là Cửu Huyền Thất Tổ nội ngoại tôn thân - Tức là tứ thân phụ mẫu nhiều đời nhiều kiếp của cả bên nội và bên ngoại. Không nên chia ra làm bàn thờ bên nội và bàn thờ bên ngoại. Bát hương này thờ tất cả các đời của 4 dòng họ nội ngoại chứ không hẳn chỉ có 9 đời như 24
người ta thường hiểu sai. Thậm chí có nhiều bát hương linh thiêng có thể nối nhịp cầu với vài chục đời, thậm chí hàng trăm đời trước. Bát hương cửu Huyền Thất Tổ nội ngoại tôn thân được đặt ở phía tay phải người đứng lễ, hay tay trái từ trong bàn thờ nhìn ra. Phía sau thường đặt bài vị hay ảnh thờ. Phía trước cũng có 3 chén nước trên cùng một cái khay bằng sứ dài. Bên cạnh người ta đặt một bình hoa tùy ý, thường là hoa có màu sắc vàng, đỏ... Bát hương Bà Cô - ồng Mảnh Tổ Bát hương Bà Cô - ông Mảnh Tổ ía ^ M) dùng để thờ những người chết trẻ, chưa vợ, chưa chồng nhiều đời nhiều kiếp của cả bên nội và bên ngoại. Thông thường trong số đó thường có một vài Bà Cô Tổ hay ông Mảnh Tổ của một vài đời rất linh thiêng, thường theo phù hộ cho con cháu. Bát hương của Bà Cô Ông Mảnh Tổ được đặt ở phía bên tay trái người cúng hay bên tay phải từ trong bàn thờ nhìn ra. Phía trước cũng có 3 chén nước trên cùng một cái khay bằng sứ dài. Bên cạnh người ta đặt một bình bông nhưng ỏ đây bắt buộc là bông có màu trắng, tượng trưng cho sự tinh khiết của họ vì họ chưa có lập gia đình.
2. NHỮNG ĐIỀU CẦN Lưu Ý VỀ BÀN THỜ GIA TIÊN Thờ cúng nói chung và thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp trong đạo lý uống nước nhớ nguồn, chim có tổ người có tông của đồng bào Việt Nam. Bất kể là người Kinh, người Tày người Mông, Dao thì tùy theo những cách thức khác nhau nhưng trung tâm của ngôi nhà, nơi quan trọng nhất chính là bàn thờ và đều có đặt bàn thờ. Nó không chỉ thể hiện sự tưòng nhớ, biết ơn tới người đã mất mà còn là nơi gửi gắm những ước nguyện của người đang sống và giáo dục truyền thống cho con cháu. Một gia đình làm ăn phát đạt thì bao giờ bàn thờ của gia đình ấy cũng khang trang và lộng lẫy, không chỉ bỏi phú quý sinh lễ nghĩa mà còn quan trọng hơn là vì; sống vì mồ vì mả không ai sống vì cả bát cơm. Một câu hỏi đặt ra là bàn thờ và cách thờ như nào cho đủng? cần có bao nhiêu bát hương, những bát hương này nên như thế nào... Dưới đây chia sẻ để bạn đọc cùng tham khảo. Theo như bản dịch Thông thư gia bảo của chi họ Nguyễn Chính Tộc - Hương thôn Trà Khê - Phủ Xuân Trường - tỉnh Nam Định nay là huyện Xuân Trường Tỉnh Nam Định có hướng dẫn chi tiết về việc thờ cúng như sau: Vị trí đặt bàn thờ Tùy theo vị trí ngôi nhà mà bạn có thể đặt bàn thờ theo những cách khác nhau và hướng khác nhau nhưng có nguyên tắc chung là; “Tả cầu tài - hữu bản mệnh" tức là đặt bên trái để cầu tài và bên phải thờ bản mệnh, hiểu rộng ra là đối với các 25
tín chủ thờ đức Thần Tài thì nên đặt bàn thờ bên trái tính theo hướng của ngôi nhà chứ không phải tính từ cửa đi vào. Cũng từ quan điểm này thì bàn thờ gia tiên không nhất thiết phải quay theo hướng nhà mà gia chủ có thể tự đặt hoặc nhờ thầy đặt. Bàn thờ tối kỵ những điều sau: + Lộ thiên cơ tức là phía trên, phía sau bàn thờ có cửa sổ hoặc cửa chính đi hoặc trên nóc bàn thờ có giếng trời hút gió. + Tránh các vật nặng nề như đầu xà nhà hay các vật sắc nhọn như: góc tủ, góc cánh cửa chọc thẳng vào mặt bàn thờ hoặc đầu hồi của nhà hàng xóm. Nếu trường hợp đã bị thì sẽ có cách sửa lại cho phù hợp (sẽ có bài hướng dẫn chi tiết cách làm sau). + Gần những nơi ô uế như buồng tắm, nhà vệ sinh, giường ngủ vợ chồng trẻ... + Tầng dưới đặt bàn thờ, tầng trên đặt bếp hoặc phòng ngủ hay nhà vệ sinh. Bàn thờ không thể đặt tùy tiện mà phải tùy vào gia chủ định chọn chữ gì để đặt cho bàn thờ nhà mình, điều này gia chủ nên nhờ thầy tư vấn. Kích thước bàn thờ Đối với những ngôi nhà lớn bàn thờ thường xây rồi lát bằng gạch hoặc ốp đá nhưng bàn thờ cổ và đủng thường được đóng bằng gỗ sạch nguyên tấm - tránh ghép 2 mảnh làm một vì đây là điều tối kỵ. Gỗ bàn thờ thường làm bằng gỗ mít hoặc vàng tâm... Nếu mua sẵn khán thờ thì cũng nên nhờ thầy chọn kích thước cho chuẩn. Chuẩn là phải theo thước Lỗ Ban. Trên thước Lỗ Ban có các kích thước rộng hẹp khác nhau tương ứng với những cung chữ trên đó như: sinh khí, diên niên hay họa hại, ngũ quỷ, lục sát... Dồ vật trên bàn thờ - Bát hương: Quan trọng nhất của bàn thờ là bát hương. Nó được ví như ngôi nhà để các cụ trong gia đình đi về vậy. Bát hương trên bàn thờ có nhiều cách đặt và thờ khác nhau, nhưng theo Thông thư gia bảo cửa chi phái họ Nguyễn Chính Tộc hương thôn Trà Khê thì bát hương trên bàn thờ thường ứng với các số lẻ: 3 - 7 - 12 vì người sống trải qua: Sinh - Lão - Bệnh - tử sau khi mất đi thì ứng với: Quỷ Khốc - Linh - Thính tức là: mất đi hồn lìa khỏi xác thành Quỷ, chết giờ tốt không bì hung thẩn, chết giờ xấu bị hung thần giữ xác, sau khi chết đi nhờ tiếng Khóc (Khốc) sự thờ củng của con cháu mà thành Linh thiêng (Linh) và hết tuần 49 rồi hết 100 ngày vong sạch sẽ được đưa vào chùa tụng kinh, nghe kinh mà cứu rỗi siêu thoát nên Thính. Bát hương cũng ứng với chữ như thế. Bát hương: Nên mua bát hương bằng gốm Bát tràng, đẹp, bển. Tối kỵ dùng bát 26
hương màu vàng thờ gia tiên vì màu vàng là màu hoàng đế chỉ dành thờ quan, thần hoặc các vị thời trước có tước vị trong hoàng tộc. Trong bát hương nên dùng tro sạch đốt từ rơm rạ thơm phủ đầy lòng bát hương. Quan trọng nhất trong bát hương là cố t bát hương - nó gồm 01 túi giấy nhỏ có ghi tên tuổi, năm mất, nơi mất và những câu thần chủ + chỉ ngũ sắc do thầy phù thủy thụ lý vào - như sổ đỏ của người trần giới vậy. - Cây vàng khối: Là vàng mã có đủ 5 màu dành cho bàn thờ gia tiên nên dùng màu xanh, đỏ, mua về bọc băng dính lại cẩn và cây đặt bên trái bát hương (tính theo hướng bàn thờ) phải cao hơn cây bên phải vì: Tả Thanh Long - Hữu bạch Hổ, lại có câu ca rằng: “Thà cho Long cao ngàn trượng chứ không để hổ ngẩng cao đầu” - Lọ lộc bình: Thường thờ 1 lọ để cắm hoa vào ngày mùng 1 và ngày rằm ngày thường để không, nên xưa gọi là Độc bình. Nay người hiện đại mua 2 lọ thờ đối xứng là không đúng, 2 lọ mua chỉ để chơi trong nhà không được đặt lên bàn thờ. Lọ độc bình thường đặt bên tay trái - hướng đông - theo quan niệm: Đông bình Tây quả. - Giá nến: Thường bằng đồng hoặc gỗ, tốt nhất là bằng đồng. - Khay cốc đựng nước thờ: Nước thanh tịnh được thay vào mỗi lần thắp hương. - Lọ đựng hương: Đặt bên phải bàn thờ, chọn loại làm bằng gốm... Tùy theo kinh tế của gia chủ có những vật thờ khác nhau nhưng nhất thiết trên bàn thờ phải đảm bảo 5 yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. + Kim: Là giá nến + Mộc: Là bàn thờ, ngai hoặc giá nến, bài vị + Thủy: Là bình, chai nước, chén nước thờ. + Hỏa: Là ngọn đèn dầu hoặc nến thờ trên bàn thờ và là hương khi thắp lên. + Thổ: Là bát hương làm từ đất sét nung lên. Bàn thờ gia tiên hay bất kì bàn thờ nào cũng vậy tùy những điểu kiện và thời kỳ khác nhau thì giá trị vật chất của những vật thờ khác nhau nhưng một bàn thờ đúng luôn phải tuôn thủ những quy định trên.
3. BÀN THỜ GIA TIÊN Được BÀI TRÍ NHƯ THẾ NÀO? Bàn thờ kê làm hai lớp: - Lớp trong: 27
Lớp trong kê sát ngay vào tường hậu và gồm: Chiếc rưđng thật lớn, cao khoảng 1m đến 1,2m, dài trên 2 thước và rộng gần 2 thước. Mặt trước chiếc rương có đóng nẹp chia làm ba ô, ở các ô này, có khi là ba chữ đại tự, có khi là những bức tranh được dán vào trong những dịp Tết. Trên những nẹp có đóng những đồng tiền đồng hoặc tiền kẽm tùy theo từng nhà. Trong chiếc rương cất đựng những bát đĩa, nổi đổng, xanh đổng lớn, hằng ngày không dùng đến, chỉ những khi giỗ Tết mới lấy ra. Tại những gia đình sung túc, chiếc rương lớn này được thay thế bằng chiếc bàn to, đúng ra một chiếc sập sơn son thiếp vàng, kê trên mễ (đôi niễng) cao khoảng 1m hoặc 1,2m. Phía trước thường có một tấm màn bằng vải đỏ che giấu những mâm thau đồ đồng cùng bát đĩa, được xếp dưới gầm sập, thay vì để trong rương. ít nhất hai chiếc mâm nhỏ chân quỳ mặt hình chữ nhật: Một chiếc bề dài độ 8 tấc, bề rộng độ 6 tấc kê ở giữa chiếc sập nói trên. Chiếc mâm thứ hai nhỏ hơn, kê đàng sau chiếc thứ nhất. Hai chiếc mâm này cao chừng 4 tấc, giống như hai chiếc bàn nhỏ thấp, dùng để bày đổ lễ trong những ngày sóc, vọng, giỗ Tết. Trong những ngày giỗ Tết có làm cỗ thì cỗ bàn bày trên chiếc mâm thứ nhất, còn hương hoa, trầu nước bày ở chiếc mâm thứ hai nhỏ hơn. Bên trong cùng lớp thứ nhất là Thần chủ đựng trong khảm kê trên một chiếc bệ, chiếc bệ này cao ngang mặt hai chiếc mâm. Có nhiều gia đình không thờ Thần chủ mà chĩ kê ỏ nơi đây một chiếc ỷ hoặc một chiếc ngai, tượng trưng ngôi vị của Tổ tiên. Tại những gia đình sung túc, những đồ thờ này thường được sơn son thiếp vàng rất lộng lẫy. Riêng về chiếc ngai, dù bằng gỗ mít hay sơn son thiếp vàng, hai tay ngai đều mang hình đầu rồng, rồng đứng đầu tứ linh và được dùng trang hoàng cho đồ tự khí. Trên chiếc mâm nhỏ kê bên trong, ở trước thần chủ hay chiếc ngai, ta thường thấy một cái tam sơn, một đồ thờ nhỏ chia làm ba phẩn, phần giữa cao hơn hai phần bên, dùng để đặt đĩa trầu, chén rượu, ly nước, đĩa hoa quả trong những ngày cúng lễ. Cũng có gia đình thay chiếc tam sơn bằng chiếc đài mà công dụng cũng như chiếc tam sơn. Một chiếc đài thường cao 5 phân và nho nhỏ để đặt vừa chiếc ly, chiếc chén hay chiếc đĩa đựng trầu nước, rượu hoa trong khi cúng. Lớp trong được ngăn với lớp ngoài bằng chiếc y môn, tức là chiếc mâm thờ, 28
thường màu đỏ bằng the nhiễu hay vải tùy theo gia cảnh từng gia đình. Chiếc y môn treo từ trên cao thõng xuống, lúc buông thì che kín hết bàn thờ lớp trong, còn khi vén lên thì cũng vẫn đủ ngăn chia hai lớp của bàn thờ. - Lớp ngoài: Lớp ngoài của bàn thờ bắt đầu từ chiếc y môn trỏ ra (Y môn chĩ chiếc màn ngăn cách lớp bàn thờ bên ngoài và lớp bàn thờ bên trong. Y môn bao gồm ỏ phía trên một lớp ngang bằng vải lụa hoặc nhung the màu. Trên lớp ngang này thường có thêu hoặc dán mấy chữ đại tự, giống như những chữ khắc ở hoành phi. Từ lớp ngang trên thông dọc xuống hai cánh bằng vải, the, nhung hoặc lụa màu hồng hay đỏ, có khi viền và thêu chung quanh, có khi chĩ khâu trdn các mép. Hai cánh này thường ngày được vén lên, chỉ buông xuống trong ngày giỗ, lúc gia trưởng đã thắp hUdng cúng khấn và con cháu đã lễ bái xong. Sỏ dĩ y môn buông xuống là vì trong lúc đó tổ tiên thụ hưởng đổ lễ, cẩn phải che màn đi để hUdng hồn các cụ có thể hưởng lễ một cách tự nhiên, cũng như người sống khi ăn uống không muốn kẻ đứng nhìn mồm dù là con cháu). + Trước tiên là một hưđng án cao. + Trên hưdng án này, tại chính giữa là một bình hưđng bằng sứ để cắm hương khi cúng lễ. + Đằng sau bình hương là một chiếc kỷ nhỏ, giống chiếc mâm kê ỏ trước Thần chủ lớp trong, chiều cao độ ba mươi phân, rộng độ hai mươi lăm phân. Đặt trên chiếc kỷ nhỏ này là ba chiếc đài có nắp và trên nắp có núm cầm. Khi mỏ nắp ra, nắp kê xuống dưới, đài đặt lên trên. Đài bằng gỗ đã được tiện rỗng dưới để khi đặt lên nắp đài, đài sẽ ăn khớp với nắp. Hoặc đài bằng đồng cũng vậy. Ba đài này đựng ba chén rượu nhỏ lúc cúng lễ. Thường ngày đài được đậy nắp để tránh bụi bặm và chĩ mỏ ra trong những dịp giỗ Tết, sóc vọng, và trong những dịp này bao giờ chén cũng được rót rượu vào. Hai bên bình hương là hai cây đèn, cao khoảng 4 tấc chân tiện và lưng chừng có vành rộng ra gọi là đĩa đèn. Hai cây đèn này chính ra chỉ là cái đế để đèn, vì không có chỗ đựng dẩu để thắp. Trong những ngày cúng giỗ xưa kia, người ta đặt lên trên hai cây đèn này hai đĩa dầu lạc dùng bấc đốt. về sau này, hai đĩa dầu trên được thay thế bằng hai ngọn đèn hoa kỳ đốt bằng dầu hỏa. ỏ đô thị, từ ngày có điện người ta mắc bóng điện thẳng vào hai cây đèn. Gần hai bên bình hương, ngoài hai cây đèn có khi còn có hai con hạc chầu hai bên. Trên đầu hai con hạc cũng có chỗ để thắp nến. Mé ngoài hai cây đèn, gần hai 29
đầu hương án là hai ống hương, dùng để đựng hương. Hai ống hương này chân tiện, miệng hơi loe. Nhiều gia đình ngoài các đồ thờ trên, còn có một lọ lộc bình hoặc đôi song bình bày trên hương án, để cắm cành đào trong dịp Tết cũng như các cành hoa khác trong những ngày giỗ chạp hoặc sóc vọng. Một số gia đình trong bộ tam sự có chiếc đĩnh đồng thường thay thế cho bình hương. Hai bên đỉnh là hai con hạc đồng trên mỏ ngậm hai bông hoa, trên đầu có chỗ cắm nến. Tất cả những tự khí trên, gia đình càng sung túc càng sắm thứ đắt tiền quý giá. Những gia đình nghèo túng, cũng nên có được một bình hương và đôi đèn nến. Đối với những gia đình giàu có hoặc có chức tước thường có bày thêm giá binh khí, có cắm bát bảo lộ bộ, tức là tám thứ vũ khí của quân sĩ thời xa. Những đổ tự khí được coi là rất thiêng liêng, nghèo thiếu đến đâu cũng không ai dám đem cầm bán, người nào Dất đắc dĩ phải cầm bán đồ thờ đều bị dân làng chê cười.
4. BÀN THỜ HỌ VÀ BẢN CHI TỪ ĐƯỜNG Bàn thờ họ Bao nhiêu con cháu dòng dõi một họ, lập chung một bàn thờ vị Thủy tổ gọi là từ đường của họ, thí dụ nhà thờ họ Nguyễn gọi là Nguyễn tộc từ đường. Tại bàn thờ họ có bài vị của Thủy tổ họ, trên bài vị thường ghi rõ đó là vị Thủy tổ của họ nào, (như Bùi môn lịch đại tổ tôn thân thần chủ, nghĩa là Thần chủ tổ tiên họ Bùi). Bài vị xưa ghi bằng Hán tự. Thẩn chủ này không bao giờ thay đổi nên gọi là bách thế bất diêu chi chủ. Ngày nay, người ta thường dùng chữ quốc ngữ để để bài vị. Có họ không có nhà thờ mà xây một đài lộ thiên, dựng bia đá, ghi tên thụy hiệu các tổ tiên, Mỗi khi có glỗ Tổ hoặc có tế tự của một chỉ họ nào, cả họ hoặc riêng chi họ đó ra nơi đàn lộ thiên cúng tế. Nơi đàn lộ thiên này chỉ dùng để cúng tế, hoặc tổ chức những trò vui như hát chèo, múa rối... trong ngày giỗ Tổ họ, hoặc một chi họ nào. Có nhiều họ làm nhà thờ riêng với bàn thờ Thủy tổ để cho chi trưởng nam đời đời giữ hương hỏa, và chỉ khi nào ngành trưởng không có con trai nối dõi, việc thờ cúng mới truyền sang chi thứ. Bản chi từ đường Nhiều họ ta chia làm nhiều chi, các chi này ngoài việc tham dự ngày giỗ Tổ 30
toàn họ, còn có ngày giỗ Tổ riêng của chi họ, và như vậy các chi đểu có nhà thờ riêng gọi là Bản chi từ đường. Trên bàn thờ này có bài vị của ông Tổ chi họ gọi là Thần chủ bản chi. Thần chủ này cũng như thần chủ của Thủy tổ họ sẽ để thờ đời đời. Người trong chi họ có dành riêng những ruộng để lấy hoa lợi cúng giỗ họ, gọi là Kỵ điền. Những ruộng này có thể là hương hỏa của tổ tôn để lại, có thể là ruộng của hàng họ chung nhau tậu và có thể là của một người trong họ cúng để lấy hoa lợi chi cho việc tế tự. Có họ có những người phụ nữ đi lấy chồng, không có con, họ cúng tiền, cúng ruộng về họ mình. Chi họ nhận những ruộng ấy làm ruộng kỵ, rồi khi người kia chết sẽ được thờ tại nhà thờ họ, ngày giỗ người phụ nữ này sẽ do họ cúng, gọi là giỗ hậu họ. Gia từ Gia từ tức là nhà thờ riêng của từng gia đình, nơi có bàn thờ gia tiên. Những nhà giàu có thì làm riêng một ngôi nhà thờ, còn những gia đình bình thường, bàn thờ được thiết lập ngay tại nhà ỏ. Cũng có những gia đình con thứ không phải cúng giỗ, nhưng vì lòng thành kính đối với tổ tiên, người ta vẫn lập bàn thờ để thờ vọng, và để cúng vọng trong những ngày giỗ, vì lý do người ta không thể tới nhà trưởng được.
5. LựA CHỌN VÀ Bố TRÍ KHÔNG GIAN THỜ CÚNG TRONG NHÀ PHỐ Từ tâm thức đến cách thức bài trí nhà cửa, người phương Đồng nói chung và người Việt Nam nói riêng luôn đặt nơi thờ cúng tại vị trí trang trọng nhất. Trong nhà ở dân gian, bàn thờ cố định tại Trung Cung (khu vực trung tâm của nhà). Bước vào cửa chính có thể gặp bàn thờ và bộ bàn ghế tiếp khách, là một xếp đặt quen thuộc, hài hòa với cấu trúc không gian nhà ở truyền thống vốn có hàng hiên và sân vườn bao bọc chung quanh. Còn nhà ỏ hiện đại với diện tích và cấu trúc không gian khác xưa, điều kiện sống và quan niệm trong sinh hoạt cũng có nhiều thay đổi, cách bố trí bàn thờ trỏ nên đa dạng hơn, và cũng có nhiều vấn đề cần lưu ý hơn. Nhà phố hiện nay phổ biến cách đặt phòng thờ trên tầng thượng, vừa thoáng khí vừa có khoảng rộng sân thượng để tập trung nhiều người vào các dịp giỗ Tết, giảm các va chạm trong sinh hoạt hằng ngày. Nhưng cũng có một số gia đình không muốn đưa bàn thờ lên tầng cao với lý do: Khó khăn cho người lớn tuổi khi chăm lo hương khói, quét dọn bàn thờ và đặt lên 31
cao quá sẽ có cảm giác xa cách. Thực ra mỗi ngày một vài lần đi lên phòng thờ thì cũng như tập thể dục, đồng thời nên giáo dục cho thế hệ trẻ ý thức hướng về tổ tiên, cả gia đình có thể thay phiên nhau hương khói. Trường hỢp nhà neo người, quá khó khăn hoặc nhà trệt, căn hộ chung cư... thì có thể gắn bàn thờ liền với không gian phòng khách nhưng phải có giải pháp thoát khói và chống ố vàng trên trần (như dùng tủ thờ có nóc, dùng tấm kính ngăn phía trên, bàn thờ kề cận cửa thông gió). Đối với bàn thờ Thần Tài và ông Địa nên đặt ngay tại lối vào chính và ở dưới đất vì việc thắp hương, nhất là hương thơm, có tác dụng xua đuổi không khí ẩm ướt, côn trùng vào những buổi sáng sớm hoặc chiểu tối (là khoảng thời gian chuyển tiếp Âm Dương, ánh sáng nhá nhem, vi khuẩn nhiều và độ ẩm tăng) đổng thời theo tín ngưỡng dân gian thì như vậy sẽ “nghinh tiếp Thần Tài” được trực tiếp hơn. Bàn thờ Thiên th) hầu như là lộ thiên hoàn toàn, có thể từ đơn giản là một bệ đá, đến cầu kỳ hơn là một trang thờ có mái. Sân thượng hoặc ban công trước là nơi phù hỢp đặt bàn Thiên, cũng là một điểm thắp hương để xua đuổi âm khí, tạo thêm một nét ấm áp cho sinh hoạt trong ngôi nhà Việt. Bàn thờ nên có độ cao tỷ lệ với người trong gia đình, tránh làm quá cao (phải leo trèo thiếu an toàn) hoặc quá thấp (dễ bị va chạm và thiếu tôn nghiêm). Trường hợp có nhiều tầng thờ thì xếp đặt theo thứ tự từ cao xuống thấp theo ngôi thứ. Tủ thờ thường có phần dưới và bên hông là tủ chứa đồ (gia phả, lịch giỗ kỵ, vàng mã hương đèn...). Nếu bệ thờ làm theo kiểu tấm đan bê tông thì cũng nên kê một tủ nhỏ hay bàn vào khoảng trống bên dưới để thuận tiện sắp xếp vật dụng vào dịp có giỗ Tết. Phòng thờ có thể kết hỢp với thư phòng, tiếp khách hay là nơi trà đàm, sinh hoạt gia đình trang trọng. Tránh bố trí chỗ ngủ hoặc nơi giải trí ồn ào chung với phòng thờ vì thiếu trang nghiêm và không phù hỢp với tính chất trường khí của phòng thờ vốn thuộc Âm. Như vậy tùy theo hoàn cảnh gia đình mà cách bài trí phòng thờ, bàn thờ có thể linh hoạt phù hỢp trên tinh thần trang nghiêm, ít bị ảnh hưỏng bỏi các sinh hoạt khác. Trong ngôi nhà hiện đại - nhất là căn hộ chung cư - còn cần thêm sự giản dị và mỹ thuật, tránh làm bàn thờ theo lối trang trí lòe loẹt cầu kỳ. Bài trí bàn thờ phải nghiêm trang nhưng không u tịch. Không gian thờ cúng, không gian mang tính tâm linh trong nhà ỏ luôn cần đặt 32
yếu tố gần gũi và giáo dục truyền thống lên hàng đẩu để kết nối các thế hệ và giữ vững gia phong nề nếp gia đình.
6. SẮP XẾP BÀN THỜ THẦN PHẬT, GIA TIÊN THẾ NÀO ĐỂ NHIỀU MAY MẮN?
gặp
Trong quan niệm của người Việt, bàn thờ trong mỗi gia đình - nơi thờ cúng gia tiên, tưỏng nhớ tổ tiên là nơi trang nghiêm, tôn kính nhất. Thế nhưng phong tục tốt đẹp từ ngàn đời này có những nguyên tắc sắp xếp, trang hoàng riêng mà không phải ai cũng biết. Nơi thờ cúng ảnh hưởng đến gia vận? Người xưa có câu “ẩm thủy đương tư truyền nguyên đầu, thực mễ đang tư nông canh khổ, hữu tiền đang tư vô tiền thời, kiện khang đang tư phụ mẫu ân”, tức là “khi uống nước thì phải nhớ đầu nguồn suối, ăn cơm phải nhớ lúc cày cấy vất vả, giàu có phải nhớ lúc nghèo khổ, khỏe mạnh phải nhớ đến ân của cha mẹ”. Người ta sinh ra có được sinh mệnh, được sống đến ngày nay là nhờ vào tổ tiên. TỔ tiên giống như gốc cây đại thụ nuôi dưỡng để cành lá khỏe mạnh xanh tươi, tượng trưng cho con cháu phát triển. Vì vậy, nếu không có tổ tiên duy trì nòi giống truyền từ đời này sang đời khác thì cũng không có con cháu ngày nay. Tục thờ cúng tổ tiên chính là sự ghi nhớ công ơn và là cách để chăm chút cho cái gốc của mình, gốc có tốt thì cây mới phát triển ra hoa kết trái. Người ta thường nói, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu là như vậy. Ngoài ra, trong lịch sử tín ngưỡng người Việt, thờ cúng thần linh đã có từ lâu đời, do cuộc sống dựa chủ yếu vào tự nhiên nên người xưa lập đàn kính tế quỷ thần, mong giảm bớt thiên tai đem đến phúc lộc. Dễ dàng nhận thấy ngoài các ngôi đền lớn nhỏ ỏ khắp các địa phương thì ngày nay trong nhiều gia đình vẫn có bát hương thờ thần Phật để tiêu tai nạp phúc, sự nghiệp thuận lợi, hưng vượng nhân đinh, là nơi gửi gắm niềm tin của cả gia đình. Thần Phật được thờ trong nhà giống như người khách quý nên người ta thường đặt bàn thờ thần Phật ỏ sảnh giữa nhà, áp lưng vào tường vững chắc hoặc để chung với bàn thờ gia tiên. Cho dù đặt riêng hay đặt chung với bàn thờ gia tiên thì cũng đều có những nguyên tắc cần tuân thủ: Gia tiên là chủ nhân, thần minh là khách quý, có thể chấp nhận có chủ nhân nhưng không có khách, không được có khách mà không có chủ. Nếu vừa có chủ vừa có khách cùng chung một bàn thờ là lý tưởng nhất. Nhưng cũng không phải tùy tiện thích đặt thế nào thì đặt vl vậy, người xưa cho rằng chỉ cần nhìn vào nơi thờ cúng của gia đình cũng có thể biết gia chủ có tâm hay 33
không. Cái tâm ỏ đây không được đo bằng mâm cao cỗ đầy, vàng mã bao nhiêu mà là ở vị trí đặt bàn thờ, cách sắp xếp bàn thờ ra sao cho phù hỢp, trang nghiêm và sạch sẽ. Quan niệm phong thủy thì cho rằng bàn thờ là nơi linh khí quy tụ, là chỗ để người trên dương thế liên hệ với người đã khuất, người chết thì thành Thần, Thần lại là trung gian giữa trời với người. Từ đó có thể thấy, khí trường của bàn thờ ảnh hưỏng rất lớn đến người trong nhà. Bàn thờ sắp đặt đúng cách không chỉ khiến người đã khuất an định mà ở lại chăm sóc phù hộ gia đình, nên bàn thờ cũng có những quy tắc nhất định.
7. NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ ĐỂ SẮP PHONG THỦY
đ ặ t bàn thờ đ ả m
bảo
- Bàn thờ nên quay ra cửa chính, không nên ngược với hướng nhà có thể gây âm dương tương phản, dễ gây bất trắc, nô bộc phản bội hoặc con cái khồng hiếu thuận, tài vận và gia vận bị ảnh hưởng. Bàn thở Thần Phật thì nên đặt ở hướng chính hoặc quay bên trái, bên phải. Bàn thờ gia tiên tốt nhất nên đặt ỏ tầng một, gian chính giữa nhà, quay ra cửa lớn để khi vừa mở cửa vào đã nhìn thấy gia tiên, tiện bề chăm sóc. - Số lượng Thần Phật thờ phải là số dương, do Thần Phật thuộc dương vì vậy phải dùng số lẻ, không nên thờ cùng lúc quá nhiều Thần Phật, hoặc thờ cùng lúc hai thần xung khắc nhau có thể gây loạn linh khí khiến người trong nhà tinh thần bất an, dễ gặp tai họa. Nếu có đặt tượng Thần Phật mà tượng ấy lại bị nứt thì nên nhanh chóng thay mới do tà khí có thể xâm nhập vào. - Bàn thờ có thờ chung Thẩn Phật và bài vị tổ tiên thì Thần Phật đặt ở bên trái, tổ tiên đặt ở bên phải, nếu đặt ngược lại sẽ gây âm thịnh dương suy không tốt cho phong thủy, trong nhà dễ gặp thị phi kiện tụng, bệnh tật không dứt. Thông thường người ta đặt nơi thờ cúng tổ tiên trước rồi mới đến Thần Phật. - Tổ tiên được coi là chủ, Thẩn Phật được coi là khách quý, nếu mời Thần Phật trước rồi mới mời tổ tiên người xưa cho rằng như vậy khiến tổ tiên nhà mình không dám vào cửa. Bài vị tổ tiên cũng không được đặt cao hơn của Thần Phật. Bàn thờ phải có chỗ dựa lưng, tức kê sát vách tường để linh khí được hội tụ không bị tản mát - Bát hương thờ tổ tiên nên có tay cầm, bát hương thờ Thần không nên có tay cẩm. Vật liệu bát hương tốt nhất là dùng bằng sứ, sau đó đến đổng, không nên dùng đá hoa cương. - Bóng đèn phía trước không nên xung với bàn thờ, không nên dùng đèn chiếu. 34
Bàn thờ cũng không đặt ở vị trí dưới xà nhà, nếu không có vị trí tốt hơn thì phải làm trần, ngoài ra bên trên không được có máy móc như máy điều hòa, máy hút mùi, loa đài. - Số lượng thờ Thần Phật nhiều nhất là 3, không nên quá nhiều dễ gây bất an. Bát hương nên dùng hình tròn không có chân đế, chất liệu bằng sứ là tốt nhất. Bát hương thông thường không nên quá đầy tro, ngày 15 âm hằng tháng có thể rút bớt chân hương cho sạch sẽ. - Bát hương thờ Thần Phật nên cao hơn bát hương thờ tổ tiên, khi cắm hương thì nén hương nên cao hơn mắt người. Khi đốt hương chỉ nên đốt một que, nếu có điều cần khấn nguyện thì đốt ba que, không nên đốt nhiều hơn dễ khiến tà linh theo vào nhà. Vật phẩm thờ cúng cũng cần chú ý một số điểm sau: thờ Phật và Quan Âm chĩ được dùng đồ chay do nhà Phật không ăn đồ tanh; thờ Thần chủ yếu dùng hoa quả và phải là số lẻ 1,3, 5, nếu cúng tổ tiên thì số lượng là hai chữ số. - Bàn thờ không được dựa vào trụ nhà, không được có cửa sổ bên cạnh (do không thể tụ được khí). Bàn thờ cũng không được áp lưng vào nhà bếp vì có thể khiến chủ nhân dễ bị kích động, tính tình thất thường, nóng nảy, có bệnh về cột sống. - Phía sau bàn thờ đặc biệt không được có nhà vệ sinh, nhà tắm do có âm khí và xú khí nặng, theo phong thủy dễ khiến “chư thần thoái vị”, chủ nhà dễ bị trúng phong, gặp ác mộng, đau lưng. Sau bàn thờ cũng không được có thang máy, cầu thang, nếu không chủ nhân dễ bị tán tài, thương tật ỏ lưng. - Bàn thờ không được đối diện với lò, bếp, nhà vệ sinh, kể cả hướng lệch sang bên cũng không tốt. Nếu không cồn vị trí nào khác để đặt bàn thờ thì nên lấy bình phong che lại. Phòng thờ không nên đặt ở nền đất vốn trước đây là nhà bếp, nhà vệ sinh do chất đất không tốt. Trên bàn thờ kỵ đặt các vật linh tinh, dao kéo, thuốc men, không được dùng tủ thờ làm nơi cất giữ đổ đạc hoặc bể cá, vô tuyến, loa đài. - Vật liệu làm bàn thờ nên sử dụng gỗ long não, đàn hương và nên điêu khắc thủ công là tốt nhất do các loại gỗ này tránh mối mọt, có thể sử dụng từ đời này sang đời khác. - Trên bàn thờ không nên đặt chậu cây cảnh mà chủ yếu dùng hoa tươi để thờ phụng, không nên dùng hoa nhựa. Chủ nhà thường xuyên vệ sinh khu vực xung quanh, nên thắp hương vào sáng và tối. Người xưa quan niệm rằng nếu khói hương bay thẳng lên là tốt, nếu cuốn thành vòng tròn hoặc tản mát là có “ngoại linh đang tranh cướp”. Nếu bất hương bàn thờ thần tự nhiên bốc cháy là may mắn, nếu bát hương thờ tổ tiên cháy là điềm báo hung. - Nếu bàn thờ của nhà có thờ cả họ nội và họ ngoại thì họ nội đặt bên trái, họ ngoại đặt bên phải, nhưng phải dùng vạch sơn màu đỏ phân chia rõ ràng hoặc 35
dùng tấm vách ngăn sơn dỏ để tránh tranh chấp nhau. - Bàn thờ không nên treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc trên đường đi. Sỏ dĩ có quan niệm này vì người xưa cho rằng bàn thờ là nơi cần được hội tụ linh khí, khí trường bàn thờ sung mãn có thể khiến toàn gia đình được an lành hạnh phúc. Nếu bàn thờ treo trên không, không có chỗ dựa lưng hoặc ở nơi đi lại dễ khiến người trong nhà bất an, gia vận trồi sụt khó đoán. - Bàn thờ không được xung với đường đi: Bàn thờ bị đường đi đâm thẳng vào dễ gây bất an tổn hại đến cung tài lộc, nhân đinh của gia đình, dễ gây tai nạn ngoài ý muốn hoặc bệnh tật tấn công. - Bàn thờ ngược với hướng nhà dễ khiến người trong nhà bất hòa, dễ gặp bất trắc bệnh tật. Nếu đặt ở vị trí quay sang trái hoặc sang phải nhà thì chủ nhân dễ có tâm sự phiền muộn khó nói ra. Nếu bàn thờ đối diện với nhà vệ sinh thì người trong nhà gặp nhiều bệnh tật đau đớn. - Nếu bàn thờ đối diện với nhà bếp dễ khiến người trong nhà hay tranh cãi những việc nhỏ, tính tình nóng nảy. Nếu phía trên bàn thờ có xà nhà có thể khiến chủ nhân dễ bị đau đầu, cuộc sống vất vả. Nếu đặt đối diện với cầu thang, chủ nhân dễ bị động dao kéo, tai nạn đổ máu. Nếu đặt dưới cầu thang thì người trong nhà khó có cơ hội phát triển. Nếu đặt trên nền đất lồi lõm không bằng phẳng có thể khiến chủ nhân gặp khó khăn trong mọi việc. Nếu phía trên, dưới, trái, phải bàn thờ có cửa sổ thì chủ nhân dễ bị tán tài.
8. NHỮNG ĐIỀU CẤM KỴ CẦN Lưu Ý KHI LẬP BÀN THỜ Người xưa có câu “Độ sâu cửa bàn thờ Phật (khám thờ) nhất định phải dài 1 xích 2 thốn (gần bằng 40cm), độ rộng phải là 3 xích thốn 5 phân (từ 120 - 121cm). Chiều sâu biểu thị 12 tháng, chiều rộng biểu thị 365 ngày. Đó là ngày xưa, khi đất nhà còn rộng rãi và bàn thờ đặt suốt một gian nhà nên có độ rộng và sâu như vậy. Ngày nay, do nhiều yếu tố nên kích thước bàn thờ có sự thay đổi: Loại nhỏ: sâu 40cm rộng 60cm; Loại trung: sâu 60cm rộng 80cm (hoặc 120cm); loại lớn: sâu 80cm rộng 120cm (hoặc 160cm) Về việc đặt bàn thờ, bạn phải chú ý tránh 12 điểu đại kỵ sau: 1. Không đặt bàn thờ sát nhà tắm. Bdi theo quan niệm, tắm rửa là việc trút bỏ ô uế, vì vậy, nếu đặt bàn thờ cạnh nơi này sẽ làm mất đi không khí tôn nghiêm. 2. Không đặt bàn thờ ở lối đi lại. Nếu đặt ở lối đi lại ồn ào sẽ làm mất đi sự thanh tịnh của nơi thờ cúng. Như vậy, gia đình sẽ ít có may mắn và tài lộc. 36
3. Không đặt bàn thờ nhìn ra hướng Ngũ Quỷ: Đông Bắc, hướng Tây Nam. 4. Không đặt bàn thờ ở Tây Nam nhìn hướng Đông Bắc. 5. Không đặt bàn thờ ỏ Đông Bắc nhìn hướng Tây Nam. 6. Không đặt bàn thờ ỏ hướng Đông, Đông Nam nhìn hướng Tây. 7. Không đặt bàn thờ trên nóc tủ. 8. Không lấy gỗ đã qua sử dụng để làm bàn thờ. 9. Bàn thờ Thần và Phật có thể để chung, song không nên để bát hương sát nhau. 10. Bàn thờ tổ tiên không nên đặt ở trung tâm nhà, vì sỢ hung. Tuy nhiên, bàn thờ Phật có thể đặt ỏ trung tâm nhà. 11. Bàn thờ tổ tiên và bàn thờ Phật không nên đặt đối nhau trong một gian phòng. 12. Không nên treo ảnh người quá cố cao hơn bàn thờ.
37
Chưcỉng hai
TỤC THỜ CÚNG THE HIỆN Đ ẠO HIÊ'u T Ố T Đ Ẹ P
TẬP
CỦA NGƯỜI VIÊT
38
I. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG THẦN LINH THIÊN ĐỊA
1. THỜ ĐỘNG VẬT VÀ THựC VẬT Khác với văn hóa phương Tây thờ các con vật có sức mạnh như hổ, sư tử, chim ưng... tín ngưỡng Việt Nam thờ các con vật hiền lành hơn như trâu, cóc, chim, rắn, cá sấu... các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp. Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức biểu trưng như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc họ Hồng Bàng có nghĩa là một loài chim nước lớn, thuộc giống “Rồng Tiên”. Con rồng lần đầu tiên xuất hiện ỗ vùng Nam Á, sau đó mới được phổ biến ỏ Trung Quốc rồi đến các nước phương tây. Con rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp: tổng hợp của cá sấu, rắn; sinh ra ỏ dưới nước nhưng lại có thể bay lên trời mà không cần cánh; có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rổng như Thăng Long, Hàm Rồng,... Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau,...
2. TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI CON NGƯỜI Hồn và vỉa Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh hồn. Một số dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm hồn và vía. Vía được hình dung như phần trung gian giữa thể xác và hồn. Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có bảy vía và nữ có chín vía. Ba hồn gổm: Tinh là sự tinh anh trong nhận thức, Khí là năng lượng làm cho cơ thể hoạt động và Thần là thần thái của sự sống. Bảy vía ở đàn ông cai quản hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng. Chín vía ở nữ giới cai quản bảy thứ như d nam giới cộng thêm hai vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích. Chúng có thể là núm vú có vai trò quan trọng trong nuôi con. Tuy nhiên có cách giải thích khác. Người Việt thường có câu nói nam có “ba hồn bảy vía” còn nữ có “ba hồn chín vía”, cũng là từ các quan niệm trên mà ra. Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hỢp hôn mê ở các mức độ khác nhau được giả thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu phần thần của hổn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hổn nhẹ 39
hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng hơn sẽ bay là là mặt đất rồi tiêu tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như: “hồn xiêu phách lạc” phách tức là vía, ở đây muốn nói trạng thái run sỢ, mất chủ động), “sợ đến mức hồn vía lên mây”... Khi chết là hổn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưỏng tượng có nhiều sông nước như ỏ cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền.
3. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG PHỒN THựC Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nỏ. Để làm được hai điều trên, những trí tuệ sắc sảo sẽ tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực (phồn nghĩa là nhiều, thực nghĩa là nảy nở). Tín ngưỡng phồn thực ỏ Việt Nam được thể hiện ỏ hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và thờ hành vi giao phối, khác biệt với một số nển văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam mà thôi. Thờ cơ sinh thực khỉ Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ỏ hầu hết các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Nhưng khác với hầu hết các nền văn hóa khác là chỉ thời sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ỏ trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Công nguyên. Các sinh thực khí còn được thấy rất nhiều ỏ thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn nguyên dạng đến ngày nay. Ngoài ra nó còn được đưa vào các lễ hội, lễ hội ỏ làng Đồng Kỵ có tục rước cặp sinh thực khí bằng gỗ vào ngày 6 tháng giêng, sau đó chúng được đốt đi, lấy tro than chia cho mọi người để lấy may. Thờ hành vi giao phối Ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt Nam còn thờ hành vi giao phối, đó là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến các mối quan hệ của văn hóa nông nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam Á. Các hình nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống đổng tìm được ỏ làng Đào Thịnh, có niên đại 500 trước Công nguyên. Ngoài hình tượng người, cả các loài động vật như cá sấu, gà, cóc,... cũng được khắc trên mặt trống đổng Hoàng Hạ. Vào dịp hội đền Hùng, vùng đất tổ lưu truyền điệu múa "tùng dí", thanh niên nam nữ cầm trong tay các vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và nữ, cứ mối tiếng trống "tùng" thì họ lại "dí" hai vật đó lại với nhau. Phong tục "giã cối đón dâu" cũng 40
-
-
là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho sinh thực khí nam và nữ. Ngoài ra một số nơi còn vừa giã cối vừa hát giao duyên.
4. NGUYỀN TẮC THỜ PHẬT TẠI GIA Với những người theo đạo Phật thì tín ngưỡng thờ cúng luôn được coi trọng. Cách bài trí tượng Phật cũng có những qui tắc phong thủy nhất định. Hãy tham khảo một góc phong thủy thờ cúng trong gia đình dưới đây để đem lại vận may và sự an lành cho gia đình bạn. Phong thủy thờ cúng đem lại vận may và an lành cho gia đình bạn. Nam đeo Quan âm, nữ đeo Phật Rất nhiều người chọn những mặt ngọc hay mặt Phật mang trên người làm vật hộ thân. Theo như truyền thống của người Trung Quốc thì nam giới sẽ mang mặt Quan âm còn nữ giới mang mặt Phật. Nữ giới luôn mang trong mình nhiều sự phiền muộn, rắc rối. Sự khoan dung, đức độ và tĩnh mặc của Phật sẽ hóa giải những phiền muộn này. Bỏi vậy khi nữ giới mang Phật bên mình sẽ giúp cho tâm hồn thư thái, tĩnh tâm, nhẹ nhõm. Quan âm từ hàng ngàn năm nay chính là hóa thân của từ bi, độ thế, là biểu tượng của Chân, Thiện, Mỹ. Quan âm tâm tính hiền từ, thế thái đoan trang. Khi nam giới mang Quan âm bên mình có thể kìm hãm sự nóng nảy, tránh xa những điều thị phi, hóa giải kiếp nạn, phù hộ bình an. Vị trí và phương hướng đặt tượng Thần, Phật Theo như tập tục hàng ngàn năm nay, khi bài trí tượng thờ cúng nên lưu ý những điểu sau: - Tượng nên hướng thẳng ra cửa chính. Nếu bạn không tin thì hãy chú ý quan sát tượng Thần, Phật được bài trí trong đền chùa, Nhưng không phải bất cứ tượng nào cũng phải tuân theo quy tắc này. Chỉ với những tượng như Quan đế hay Thần Tài địa chủ nên theo quy tắc trên, còn lại những tượng khác trong nhà cũng không nhất thiết phải vậy. - Nôn đặt tượng tại phòng khách tại cửa hàng và nơi ô. Tượng 2 bôn nôn tránh cửa và hành lang để tránh “xung khr. Nếu vị trí xung khí sỗ khiến duyên vợ chổng mỏng manh, sự nghiệp trắc trỏ, sức khỏe suy yếu, lắm điểu thị phi...
41
- Bài vị tổ tiên không được cao hơn tượng Thẩn, Phật. Nếu bài vị tổ tiên đặt cao hơn tượng Thần, Phật sẽ khiến trong nhà “hạ phạm thượng”, “nô phụ chủ”, “thiên địa điên đảo”, “Nữ cường nam suy”. - Không nên thờ cùng một lúc 2 họ trỏ lên. Nhiều người có thói quen thờ cùng một lúc nhiều họ, Tốt nhất chỉ nên thờ họ của gia chủ. Nếu phạm phải điều này gia đình thường loạn, vận may giảm sút. Cách bài trí tượng Quan âm Rất nhiều gia đình, cửa hàng hay nhà hàng đặt tượng Quan âm cùng các tượng khác như Quan đế. Như vậy rất không tốt, bỏi những lý do sau: - Tối kỵ đặt tượng Quan âm cùng các tượng thẩn khác. - Nếu trong nhà hàng, cửa hàng ăn uống thờ Quan âm sẽ không thích hợp bỏi Quan âm vốn thanh tịnh, tinh khiết và ăn chay. Khi dâng đồ cúng Quan âm thường chỉ cần hoa tươi và hoa quả. Bỏi vậy nếu đặt tượng Quan âm cùng các tượng Thần khác sẽ không tốt khi cúng đồ mặn. - Thiên địa nên đặt hướng ra cửa chính còn Quan âm tốt nhất nên “tọa Tây hướng Đôn - 3 hướng không nên đặt tượng Quan âm. + Hướng nhà vệ sinh. + Hướng cửa phòng ngủ. + Hướng bàn ăn. Cách bài trí tượng Phật Thờ Phật tại gia bảo hộ bình an có những quy tắc nhất định: - Tượng Phật đem về nhà không nên coi là đồ cổ hay vật báu mà cất giữ cẩn thận, như vậy sẽ ảnh hưdng tới mọi thành viên trong gia đình. - Không nên đặt tượng trong phòng ngủ. - Không nên mua quá nhiều tượng về nhà. - Không được đặt tượng tại những nơi không sạch sẽ, ẩm thấp. - Tượng nếu đặt trên xe phải quay mặt hướng về phía trước. - Nên đặt tượng trên một chiếc đĩa lót giấy đỏ - Tranh ảnh Phật không nên cuộn tròn lại - Tượng cũ bị mờ mắt hoặc tay nên tô vẽ, lau chùi lại. 42
5. TẬP TỤC THỜ TƯỢNG PHẬT Trong không gian chùa Việt, từ kiến trúc, bài trí, tượng thờ, pháp khí, cho đến cây cối được trồng trong di tích đều ẩn chứa những cấu tứ sâu sắc bỏi ý nghĩa minh triết của Phật giáo hòa quyện với ước vọng cầu mùa của người Việt. Nếu bố cục ngôi chùa theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” là hình thức phổ biến hơn cả thì nhìn chung chùa bao gồm một điện thờ hình chữ “Công”, một dây hành lang bao quanh ba mặt và một sân rộng. Khu trung tâm là điện thờ Phật của chùa, thông thường bao gồm ba ngôi nhà nằm kế tiếp nhau, lần lượt là Tiền đường - Thượng điện - Nhà Tổ, Mẩu.. Bài trí tượng trong tòa Tiền đường Ban Đức ông ở bên trái tòa Tiền đường, tượng có y phục theo lối võ quan, mặt đỏ, râu đen, hai bên tượng Đức ông có hai vị thị giả. Truyện xưa vẫn kể: Đức ông là vị trưỏng giả, thuộc dòng Bà la môn (Bharata) tên là Tu đạt cấp Cô độc. ông là người đã dùng gạch vàng để lát vườn của thái tử Kỳ Đà mà xây nên vườn Lộc Uyển, vườn Nai là nơi Đức Thích Ca giảng đạo và tăng đoàn học tập, nơi các vị Vương, Bà la môn, trưỏng giả, chúng sinh đến tham vấn Đức Thích Ca. Có lẽ vì công đức ấy mà Đức ông được thờ ỏ vị trí trang trọng bên Phật điện. Lễ Phật chỉ cần đồ lục cúng hương, hoa, đăng, nến, trà, quả, thực, không dâng tiền vàng, đồ mặn, đồ mã... Tiền đặt trong chùa là chi phí dầu đèn, tu bổ di tích và nuôi chúng tăng, không đặt tiền lên bàn thờ, đĩa lễ mà bỏ vào hòm công đức ở ban chính. Nếu bỏ tiền lên ban Phật, gài vào tay, thân tượng Phật, thánh là bất kính, vừa trái với giáo lý nhà Phật vừa dễ làm tiền cháy, rơi, bẩn. Ban Thánh hiền ỏ bên phải tòa Tiền đường, tượng mặc áo cà sa vàng, đội mũ Liên hoa Thất Phật, chân dung hiền hòa, tươi tắn, bên cạnh có hai vị thị giả. Thánh hiền là cách gọi dân gian đây là A Nan Đà dịch nghĩa là Hoan Hỉ anh họ và cũng là đệ tử thứ hai của Đức Thích Ca Mâu Ni. Truyện rằng: A Nan Đà thuộc dòng dõi Bà la môn, hoàng gia triều vua Tịnh Phạn. Ngài được mệnh danh là đệ nhất Đa văn thánh giáo Người nghe nhiều lời dạy của Đức Thích Ca Mâu Ni, là người đã cùng với tăng đoàn kết tập kinh điển của Phật sau khi ngài tịch diệt. Trong một lần khất thực, gặp người phụ nữ yêu mình say đắm, ngài đã vượt qua tình ái lứa đôi và xin với Đức Thích Ca cho nàng đó được xuất gia, phát tâm từ bi yêu thương toàn nhân loại, từ đó trong Tăng đoàn xuất hiện hàng Ni. Tượng Bát bộ Kim Cương: Là vị phiếm thần, gồm tám pho tượng đứng hai bên gian tiền đường làm không gian tăng thêm phần uy nghiêm. Các tượng đều mặc áo giáp trụ, mũ kim khôi, đi hia, cầm binh khí song dáng đứng theo các thế tấn, thế tay khác nhau thể hiện tinh thần dũng mãnh và cương quyết. Theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền: “Kim cương biểu hiện cho tâm trong sáng, không hủy hoại, kiên định trong tu hành hay hộ trì Phật pháp nên gọi là Kim Cương Hộ pháp, y phục này 43
là áo nhẫn nhục hay còn gọi là áo tùy hình chống lại ba mũi tên độc tham, sân, si (tham lam, nóng giận và ngu tối)”, ở chùa Việt Bắc bộ, tượng Kim Cương Hộ pháp luôn thể hiện dưới hình dạng võ tướng, có lẽ để thể hiện tinh thần dũng mãnh hay ẩn chứa lòng tôn kính các vị anh hùng dân tộc? Bộ tượng này ỏ chùa Tây Phương (Hà Nội) khá mực thước, cách thể hiện khéo léo, dáng hoạt, tư thế sinh động: bộ tượng ở chùa Mía (Hà Nội) lại có vẻ dân gian, khuôn mặt giống người thực, có cảm xúc... Bài trí tượng trong tòa Thượng điện Tòa Thượng điện còn gọi là Tam bảo hay Đại hùng Bảo điện, gồm nhiều tượng Phật đặt trên các bệ xây từ thấp tới cao, tượng trưng cho sự tu hành và đắc đạo của đức Phật, đồng thời biểu hiện các triết lý của đạo Phật. Nghĩa của Đại hùng: Thắng nhân giả anh, Thắng kỷ giả hùng (thắng được mình mới là bậc đại hùng). - Lớp thứ nhất: Trên cùng là tượng Tam thế, tên đầy đủ là Tam thế tam thiên Phật nghĩa là ba nghìn vị Phật thời quá khứ, hiện tại, tương lai, trong đó Thiên là con số phiếm chỉ không đếm được. Bộ tượng này gồm ba pho, thường có một dáng chung là ngồi kết già, sự khác nhau chỉ là các dáng tay kết ấn, bên trái là Quá khứ thế, bên phải là Vị lai thế, ỏ giữa là Hiện tại thế. Một số bộ tượng mang tính nghệ thuật cao như ỏ chùa Thầy, chùa Ninh Hiệp có phong cách thời Mạc, bộ tượng ở chùa Côn Sơn có tạo hình giống tượng ỏ các chùa Nam Tông, bộ tượng chùa Bút Tháp mang đặc điểm tượng thời Lê Trung Hưng. Với loại tượng này, bệ sen và bệ vuông có trang trí khá tỉ mỉ, nhiều đồ án trang trí ẩn chứa mật nghĩa sâu xa. Đặc biệt là bộ tượng ở chùa Bút Tháp với tán lửa tam muội hình thuyền phía sau tượng có trang trí tinh tế, hoa văn thực vật, mây lửa, mây nước... liên quan đến lực lượng tự nhiên, thể hiện khát vọng hằng xuyên trong tâm thức của người Việt cầu mưa, cầu mùa. - Lớp thứ hai: Bộ tượng Di đà tam tôn mang tính chất tuyên ngôn cho Phật giáo bởi đại diện cho từ tâm và trí tuệ. Trong đó, Phật Adiđà ở giữa thể hiện tám tính (bát đại), phân thân biểu hiện thành Quan thế âm Bồ tát bên trái (bốn tính thuộc từ tâm là đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả) và Đại thế chí Bổ tát bên phải (bốn tính thuộc trí tuệ là đại hùng, đại lực, đại trí, đại dũng). Bộ tượng Di đà tam tôn ỏ chùa Thầy có niên đại thời Mạc với nhiều hoa văn liên quan đến Mật tông như hạt bảo châu, sen Tạng, hoa có kết cấu kim cương chữ, cành san hô... Đặc biệt trên tượng đại thế chí Bổ tát được trang trí 427 cặp hạt tròn tương ứng với 427 câu chú trong Kinh Thủ lăng nghiêm. - Lớp thứ ba: Bộ tượng Thích ca liên hoa, với mô hình nhất Phật nhị tôn giả, Đức Thích Ca ngồi kết già ở giữa, tay giơ đóa sen, Ma Ha Ca Diếp bên trái, A Nan Đà bên phải. Xuất hiện khá d nhiều chùa Việt như chùa Trăm gian, chùa Bà Đá (Hà Nội)..., bộ tượng này được tạc theo sự tích tôn giả Ma Ha Ca Diếp mỉm cười 44
thấu hiểu khi Thích Ca giơ đóa sen lên trước đông đủ tăng đoàn. - Lớp thứ tư: Tượng Tuyết Sơn mô tả quá trình bảy năm tu khổ hạnh không tìm được chân lý của Đức Thích Ca trong núi Hymalaya. Tạo hình tượng khắc khổ, đầu nhô lên hình sọ, mắt trũng sâu, chân tay gầy guộc, hiện rõ các đốt xương. Với tượng này có thể thấy rõ trình độ giải phẫu cơ thể người của cha ông khá vững vàng. Các nếp quần áo đổ dồn xuống dưới, như tăng vẻ tiểu tụy của tượng, nhưng vẫn nhận thấy sự suy tư thanh thản trong ánh mắt xa xăm và toàn thân tĩnh tại, ung dung như ông già người Việt ngồi hóng mát. Tượng này ỏ chùa Tây Phương khá thành công, chất liệu gỗ phủ sơn, tiêu bản của tượng còn có ở chùa Thầy, chùa Trăm Gian. - Lớp thứ năm: Bộ tượng Di Lặc tam tôn, tuy có mô hình nhất Phật nhị Bồ tát nhưng ở mỗi chùa lại có sự khác nhau, ở chùa Tây Phương, bộ tượng này có niên đại thời Tây Sơn với Phật Di lặc ngồi giữa, hai bên là Đại Diệu Tường Bồ tát và Pháp Hoa Lâm Bồ tát. ở một số chùa khác thì hai bên là Đại Hạnh Phổ Hiển Bổ tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, khi thì trong hình tướng nữ, cưỡi mãnh thú, khi thì trong hình tướng tăng nhân như ỏ chùa Hòe Nhai, khi là hai vị Bồ tát cẩm hoa sen hay pháp khí như ỏ chùa Bà Đá. - Lớp thứ sáu: Tòa cửu Long ở giữa, bên trái là Đế Thiên. Indra - Ngọc hoàng: vua của cõi trời sắc giới, cõi có hình tướng và bên phải là Đế Thích. Brama: Vua của cõi trời dục giới, cõi không còn hình tướng nhưng vẫn còn dục vọng, ham muốn. Tòa Cửu Long được xây dựng theo tích Thích Ca sơ sinh một trong bốn tích quan trọng trong đời Phật đản sinh, xuất gia, thành đạo và viên tịch. Trung tâm là Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh trong hình dạng chú bé mũm mĩm nhưng vẻ mặt nghiêm trang, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất. Xung quanh có chín con rồng liên kết tạo thành một hình khum, hướng phía mặt ra ngoài, mô tả các tầng trời, trên đó có các vị Phật ngồi kết già, các vị Bồ tát, Kim Cương Hộ pháp, các nhạc sĩ thiên thần... Cũng có khi đài cửu Long được điêu khắc theo chủ đề là bốn sự kiện quan trọng của Phật Thích Ca như ở chùa Vĩnh Nghiêm. Tượng Nam Tào, Bắc Đẩu: Phía trước tòa cửu Long còn có tượng Nam Tào mũ đỏ, quần áo đỏ, mặt đỏ, Bắc Đẩu có mũ đen, quần áo đen, mặt đen. Sự xuất hiện hai vị tinh quân này trên Phật điện là do tư duy dân gian. Có chùa thờ đủ bốn vị phù trỢ tòa Cửu Long như chùa Mía, chùa Tây Phương, có chùa chỉ có hai vị vua trời như chùa Bối Khê. Bốn vị này có nơi được thay bằng tượng tứ Bồ tát như ỏ chùa Bút Tháp, tạo hình tướng nữ trong dáng đứng, ở chùa Mía, tứ Bồ tát đứng ỏ hai bên Phật điện, phía gian ngoài, ở chùa Dâu, tứ Bồ tát đứng trong gian thờ Đức Pháp Vân, Pháp Vũ. Tượng Thập điện Diêm vương: Hai bên Phật điện còn có tượng Thập điện Diêm vương cai quản mười cửa điện. Tạo hình các vị này theo lối Hoàng đế, mũ Bình 45
thiên, áo cổn, đi hia, tay cầm hốt ngồi trên ngai, ổ chùa Bối Khê, bộ tượng Thập điện có giá trị nghệ thuật cao vởi trang phục trang trí hoa văn khá tỉ mỉ, mũ Bình thiên có rèm châu khá đặc sắc. Chùa Mía, chùa Ninh Hiệp đều có bộ Thập điện được tạc theo lối dân gian. Bộ Thập điện chùa Dâu lại mang chân dung khá thanh thoát, lối vẽ râu tượng trưng. Đặc biệt, đề tài này còn được thể hiện dưới dạng tranh gỗ mô tả cả cảnh xử án như bộ tranh Thập điện ở chùa Trăm gian. Khi tìm hiểu ý nghĩa và sự tích các bộ tượng, chúng ta nhận thấy sự bài trí tượng trong chùa Việt được quy định bởi triết mỹ Phật giáo, vừa thể hiện sự uy nghi của đạo Phật, tạo ra cái thiêng văn hóa, vừa có thái độ tâm tình, chia sẻ trăm đắng ngàn cay bỏi tượng Phật giáo Việt thật gần với hình tướng mang cốt cách người Việt. Mẹ Việt trong hình tượng Quan âm Bồ tát, ông già Việt ngồi hóng mát thống dung trong tượng Đức Thích Ca Mâu Ni, tượng Hộ pháp Kim cương thì to lớn, như biểu hiện sức mạnh của những anh hùng quật khỏi. Trong không gian tĩnh lặng, trong khói hương, ánh nến, người Việt đến chùa để thức dậy tâm mình, tìm chỗ dựa cho thân tâm mệt mỏi, tỏ bày biết bao tâm tư vui buồn của kiếp người trong cõi thế mênh mang.
6. TẬP TỤC LỄ TẾ THẦN NÔNG MONG MÙA MÀNG BỘI THU Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thẩn Nông để cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt. Trên các quyển lịch cổ hằng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề nông. Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hằng năm tùy theo sự ước đoán của Khâm thiên giám về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu. Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào mùa màng bị coi là kém, Thẩn Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con trâu được đổi màu tùy theo hành của mỗi năm, nó có thể có một trong 5 màu vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với các hành Thổ, Thủy, Kim, Mộc, Hỏa. Thời phong kiến, hằng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình cũng như ỏ các địa phương. Nghi thức lễ tế Thần Nông thời Nguyễn Lễ tế Thần Nông hằng năm được cử hành vào ngày Lập xuân, bỏi vậy nên lễ tế Thần Nông còn được gọi là tế xuân. Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, hằng năm sau tiết Đông chí, tòa Khâm thiên giám phải lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau họp để nặn trâu và 46
tượng Thần Nông. Trước ngày lập xuân hai ngày, tại gần cửa Đông Ba (ngày nay là cửa chính Đông), các quan Khâm thiên giám cho lập một cái Đài hướng đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới lưu tại phủ Thừa Thiên để ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ phủ tới Đài. Các quan vận lễ phục, có quân lính mang gươm giáo, tàn lọng, cờ quạt theo hầu. Tới Đài thì một lễ đơn giản được cử hành, ngụ ý trình với Thổ Công về sự hiện diện của tượng Thần Nông và trâu. Sau đó, trâu vả tượng Thần Nông lại được khiêng về kho cất. Hôm tế xuân, tượng và trâu lại được rước ra Đài, nhưng lần này đi rước là các quan bộ Lễ và các quan phủ Thừa Thiên. Khi đám rước đi qua cung vua, một viên thái giám vào tâu để vua biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi và khi đi qua bộ Lễ, một viên quan đánh vào mông trâu ba roi, có ý thôi thúc trâu phải làm việc. Tới Đài, các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác. Tế Thần Nông xong, trâu và tượng Thần Nông được quân lính mang đi chôn sau buổi lễ. Tại các tỉnh, trong ngày Lập xuân cũng có lễ tế Thần Nông và lễ cũng được sửa soạn từ sau ngày Đông chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đem chôn. Hoàng Đế và Thần Nông có phải là một? Có tài liệu cho rằng Hoàng Đế và Thần Nông là một người. Có tài liệu thì lại cho rằng Phục Hi, Thần Nông và Hoàng Đế là ba người khác nhau (gọi chung là Tam Hoàng). Thực ra tất cả chỉ đểu là huyền thoại, không có gì đảm bảo là họ là ba người hay chỉ là một hoặc hai người. Câu hỏi tại sao người Việt nhận là con cháu của Thần Nông, một trong những ông vua đầu tiên của Trung Hoa là vấn đề được nhiều người tranh cãi. Một số nhà nghiên cứu hiện nay, dựa trên các dữ liệu về sử học, thần thoại học, ngôn ngữ học, đã giả thiết rằng Thần Nông là một vị thần có nguồn gốc từ phương Nam (từ phía Nam sông Dương Tử xuống đến hết Việt Nam ngày nay, đó là vùng đất cư trú của cư dân Bách Việt). Sau khi nước Trung Hoa mở rộng từ phía tây sang phía đông (giai đoạn một), rồi từ phía bắc xuống phía nam (giai đoạn hai) thì Thần Nông được người Trung Hoa sát nhập vào văn hóa của họ và được coi là một trong các "ông vua" đầu tiên của họ. Thực ra trước đó, Thẩn Nông đã được coi là "ông tổ" của một số bộ tộc Bách Việt. Và sau này, do ảnh hưỏng của văn hóa Trung Hoa rất mạnh, nhiều người lầm tưởng người Việt nhận một ông vua Trung Hoa làm ông tổ của mình. Các dữ liệu ủng hộ giả thuyết trên: 47
Thần Nông tức là vị thần về nông nghiệp, vị thần này thường được hình dung cưỡi trâu để đi lại nên vị thần gắn liền với văn hóa lúa nước. Thần Nông còn có một tên gọi khác là Viêm Đế (vua xứ nóng - vua phương Nam), và được coi là vị thần cai quản phương Nam. Cách đọc từ Thần Nông là cách đọc của phương nam, người phương bắc sẽ có xu hướng đọc là Nông Thần. Tuy nhiên, điều này bị phản bác rằng từ Thần Nông vẫn hiểu được theo ngữ pháp phương bắc, và có nghĩa là người nông phu - thần linh. Truyền thuyết của một số dân tộc thiểu số của Việt Nam (ít bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa) như dân tộc Mèo cũng coi Thần Nông là ông tổ của nghề trồng lúa nước.
7. TỤC THỜ CÚNG Tổ TIÊN CỦA CÀ DÂN TỘC - CÁC VUA HÙNG Ý thức của người Việt về tổ tiên, về cội nguồn mang giá trị nhân văn sâu sắc, được phát khởi từ mối thiện tâm trong mỗi con người, có sức lan tỏa rộng khắp trong mỗi gia đình, trong cộng đồng xã hội và đã trở thành một phong tục, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam. Từ việc thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình, đến thờ cúng tổ tiên của một chi, họ tại nhà thờ chi, nhà thờ họ, đến thờ cúng ông tổ chung của một làng, một xã tại các đền, đình, miếu... và hơn cả là người Việt thờ cúng tổ tiên chung của dân tộc - các Vua Hùng đã có công khai sơn, phá thạch gây dựng nên bờ cõi, non sông đất nước, lập nên nhà nước Văn Lang độc lập, có chủ quyền của người Việt cổ tạo tiền để cho sự phát triền bền vững cho dân tộc, quốc gia sau này. Đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, là truyền thống có từ lâu đời đã trở thành nét đẹp văn hóa tiêu biểu, thể hiện chữ hiếu, lòng biết ơn và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” là bản sắc văn hóa độc đáo, rất riêng của dân tộc Việt Nam. Từ hàng ngàn đời nay, người Việt đã lập đền thờ và thờ cúng các vua Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngoài ra, còn có rất nhiều đình, đền, miếu... thờ cúng Hùng Vương, vỢ con và các tướng lĩnh thời các vua Hùng ỏ Phú Thọ và nhiều tỉnh thành trong cả nước. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đã ăn sâu vào tâm thức người Việt, dù ở bất cứ đâu, phương trời nào, dù là già hay trẻ, dù là gái hay trai, dù theo tôn giáo hay không theo tôn giáo người Việt không những luôn nhớ về cội rễ, cùng hướng về cội nguồn dân tộc, mà còn khẳng định với bạn bè quốc tế về nguồn cội - Tổ tiên của người Việt. Vì vậy, cộng đồng người Việt Nam sinh sống ở một số nước đã vể Đền Hùng xin đất, nước, chân hương thờ cúng Tổ tiên và lập đền thờ các Vua Hùng như tại thành phố San Jose, 48
bang Caliíornia (Mỹ). Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, người Việt Nam luôn tôn vinh các Vua Hùng là ông tổ của mình và lấy đó làm điểm tựa tinh thần, đức tin vào sự linh thiêng huyền diệu của tổ tiên để chiến thắng thiên tai, giặc ngoại xâm, bảo vệ giang sdn bờ cõi. Truyền thuyết tại Đền Hùng đã ghi lại: Sau khi được Vua Hùng thứ 18 nhường ngôi, Thục Phán đã dựng Cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thề nguyện sẽ trọn đời bảo vệ giang sơn, gấm vóc mà vua Hùng trao lại và đời đời hương khói trông nom lăng miếu Tổ tiên. Sang những năm đầu công nguyên (40 - 43), Hai Bà Trưng phát động cuộc khởi nghĩa chống quân Hán đã đọc lời thề trên cửa sông Hát “Một xin rửa sạch nước thù/ Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng”, các tài liệu sử sách sớm nhất ghi chép về Thời đại Hùng vương là Đại Việt sử Ịượcvà Dại Việt sử ký toàn thưâã khẳng định và lý giải về nguồn gốc, nguồn cội chung của dân tộc Việt Nam - các vua Hùng. Thời Hậu Lê năm Hồng Đức thứ nhất đã cho soạn “Ngọc phả Hùng vương” đã chép “Từ đời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến thểu đại ta bây giờ là Hổng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa (Cổ Tích)”, ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của đấng Thánh Tổ xưa”... Thời nhà Nguyễn kinh đô đặt tại Huế, năm 1823 vua Minh Mạng đã cho rước bài vị thờ Hùng vương vào thờ ở miếu Lịch đại Đế Vương, còn tại Đền Hùng thì cấp sắc để phụng thờ. Ngày 18 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh số 22C NV/CC quy định về những ngày lễ lớn hằng năm, trong đó có ghi giỗ Tổ Hùng Vương được nghỉ 1 ngày. Trong ngày giỗ Tổ Hùng vương năm Bính Tuất (1946) năm đầu tiên của Chính phủ mới được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng - quyền Chủ tịch Nước vể dự giỗ tổ, dâng tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và một thanh gươm nhằm kính cáô với tổ tiên về đất nước bị xâm*lăng và cầu mông tổ tiên phu hộ cho quốc thái, dân an, thiên hạ thái bình thịnh trị, cùng nhau đoàn kết đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ. Ngày 19 tháng 9 năm 1954, sau khi lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm Đền Hùng. Tại đây, Người đã gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên Phong trước khi vể tiếp quản Thủ đô Hà Nội “Các Vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Ngày 2 tháng 4 năm 2007, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghĩ làm việc, hưỏng nguyên lương ngày giỗ Tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch). Nghi lễ tổ chức giỗ Tổ Hùng vương được quy định cụ thể, chặt chẽ thể hiện sự tồn kính của của các triều đại và nhân dân đối với tổ tiên. Trong cuốn “Ngọc phả Hùng Vương” do Trực học sỹ Nguyễn cố soạn năm 1470 đã ghi lạ i:"... Phụng ban hương Trung Nghĩa (Cổ Tích) làm dân Trưởng tạo lệ, cấp 500 mẫu ruộng tại xã Hy 49
Cương, lại cho thu thuế ruộng từ của một vùng trên từ Tuyên Quang, Hưng Hóa, dưới Việt Trì làm hương hỏa phụng thờ”. Đến thời nhà Nguyễn, định lệ 5 năm mỏ hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của thập kỷ), đến năm Khải Định thứ 2 (1917) đã ấn định ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ Tổ Hùng Vương một ngày, còn ngày giỗ 11 tháng 3 âm lịch do dân sở tại làm lễ. Hiện nay, nội dung bia ghi về “Điển lệ miếu thờ Hùng Vương, niên hiệu Khải Định thứ 8 (1923) có đoạn ghi: “Phụng sao văn bản của Bộ lễ định ngày Quốc tế”: Từ nay về sau lấy ngày mùng 10 tháng 3, lĩnh tiền chi vào việc công, phụng mệnh kính trước một ngày so với ngày Quốc tế của bản hạt. Lễ nghi vào ngày hội kỷ niệm hằng năm: chiểu ngày mùng 9 tháng 3 các quan liệt hiến trong tỉnh cùng các quan viên trong các phủ, huyện của tỉnh đều mặc phẩm phục tề tựu, túc trực tại nhà Công Quán. Sáng sớm hôm sau (mùng 10 tháng 3) đến miếu kính lễ. Lễ phẩm dùng cho ngày này gồm: bò, dê, lợn, xôi. Trước kỳ này, vị Hội trưỏng thông báo cho các hội viên trong hội đồng bàn bạc trình tại Phủ đường thẩm xét, trích số tiền lợi tự điền bao nhiêu, cùng số tiền 100 đồng do Nhà Nước cấp mỗi năm, giao cho quan Phủ Lâm Thao nhận lấy mua lễ phẩm và chi tiêu vào các khoản... Ngày nay, giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm là ngày lễ lớn - Quốc Lễ của cả nước và được Chính phủ quy định cụ thể về quy mô tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương theo năm chẵn, năm tròn và năm lẻ (Nghị định số 82/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định về Nghi lễ Nhà nước và đón tiếp khách nước ngoài). Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có văn bản số 796/HD-BVHTTDL ngày 18/3/2009 hướng dẫn Nghi thức tưởng niệm các Vua Hùng trong ngày giỗ Tổ Hùng vương về đối với tỉnh Phú Thọ (nơi có Di tích lịch sử Đền Hùng) và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có đền thờ Vua Hùng, các di tích liên quan đến các Vua Hùng và những địa phương không có đền thờ Vua Hùng tổ chức nội dung và nghi lễ trong ngày giỗ Tổ 10 - 3. Về lễ phẩm (gồm bánh chưng, bánh dầy và hương, hoa, nước, trầu, cau...): quy định trang phục của chủ lễ, các đại biểu dự lễ; nhạc lễ sử dụng trong Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt và thống nhất sử dụng trong toàn quốc... Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong tiến trình lịch sử luôn là yếu tố nội sinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, góp phần hun đúc lòng tự hào và tạo nên tinh thần đoàn kết, yêu nước thương nòi, dân tộc Việt Nam cùng một dòng máu Lạc Hổng, cùng một bọc mẹ sinh ra luôn đươc bảo tồn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: “Con người có tổ, có tông như cây có cội, như sồng có nguồn”, “Cây có cội, nước có nguồn”... Người Việt thờ cúng các Vua Hùng chính là để tôn vinh dân tộc mình. Đền Hùng không phải là gốc của một tôn giáo, các Vua Hùng không phải là giáo chủ, người Việt thờ Hùng Vương không có học thuyết và cũng không hề có giáo hội truyền bá, nhưng từ hàng ngàn đời nay, người-dân ta vẫn hành hương về nơi cội nguồn đất tổ để tri ân các Vua Hùng - những người đã có công 50
dựng nước, giữ nước. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương - thờ cúng ông tổ chung của cả nước, có lẽ hiện nay trên thế giới chỉ có duy nhất dân tộc Việt Nam, đó là bản sắc văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của dân tộc Việt Nam và cũng là di sản văn hóa tiêu biểu của nhân loại. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc, nhưng tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng nhất trong đời sống tinh thần của người Việt, có sức sống lâu bền và ngày càng lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân. Ngày giỗ Tổ Hùng vương (ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm) là ngày lễ trọng, mang bản sắc văn hóa sâu sắc, độc đáo của dân tộc Việt Nam. Trong những ngày giỗ tổ, triệu triệu lượt đồng bào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng dù ở nơi đâu vẫn hướng về đất tổ, cùng hành hương vể Đền Hùng thành kính tri ân công đức các Vua Hùng - Tổ tiên chung của dân tộc Việt Nam thể hiện đức tin về tổ tiên, thắp nén tâm hương tại lăng Hùng Vương cầu mong cho đất nước luôn thái bình, thịnh trị và muôn dân được ấm no, hạnh phúc.
8. TỪ TỤC LỆ THỜ CÚNG Tổ TIÊN ĐẾN TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG HÙNG VƯỚNG Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có từ rất lâu đời. Đó là một phong tục đẹp, giàu bản sắc, có tính chất giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Tự bản thân phong tục thờ cúng tổ tiên đã mang trong nó những giá trị văn hóa nhân bản. Chính vì lẽ đó mà người Việt Nam có thể chấp nhận nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, nhưng phong tục tốt đẹp này được tồn tại và chấp nhận như một lẽ đương nhiên của cộng đồng mà không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng. Chúng ta coi việc thờ cúng tổ tiên cũng chính là việc cầu xin ông bà phù hộ cho gia đình, dòng họ; cho sự trường tồn của quốc gia, cho “quốc thái dân an”. Pháp luật thừa nhận quyền tự do tín ngưỡng của công dân; việc thờ cúng tổ tiên là tự nguyện, không hề có sự áp dặt. Thờ cúng tổ tiên còn là hình thức tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống. Thờ cúng tổ tiên, ông bà là tín ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sỢi dây liên kết để góp phần cột chặt tính thống nhất toàn dân tộc và cũng là cội nguồn của các phong tục, tín ngưỡng khác. Vai trò tổ chức liên kết cộng đồng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn rõ hơn khi ta xem xét vấn đề thờ quốc Tổ. Cả cộng đổng cư dân Việt Nam được củng cố bởi đức tin chung một cội nguồn. Tất cả là “đồng bào”, đều là “con Lạc cháu Hồng”. Đây chính là nguồn sức mạnh tinh thẩn giúp cho dân tộc ta vững vàng trước mọi sự đe dọa của thiên tai và giặc ngoại xâm. Với người Việt Nam tự bao đời nay, ngày giỗ Tổ Hùng Vương là sự tưởng nhớ, 51
là sự trở về với cội nguồn của dân tộc. Từ truyền thuyết bào thai trăm trứng đến sự tích Hùng Vương, tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt hình thành trong tâm thức của mình: Vua Hùng là vị Vua Thủy Tổ dựng nước, là Tổ tiên của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Ghi nhớ và tôn vinh công lao dựng nước của Tổ tiên là một hành vi văn hóa, ý thức đạo đức và bổn phận của mỗi người. Từ trong gia đình đến gia tộc, hàng xóm láng giềng rồi mở rộng ra cả nước với quan niệm: Cùng chung dòng máu Tiên Rồng, cùng là con cháu Lạc Hồng, nên người Việt luôn sống với nhau có nghĩa có tình, có thủy có chung, có trên có dưới, có xóm có làng, có sau có trước, có nước có nhà, có tổ có tông. Đó là điều cốt lõi làm nên giá trị vĩnh hằng của văn hóa cộng đồng Việt Nam, làm nên sức mạnh cố kết cộng đồng, đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, giỗ Tổ Hùng Vương là ngày để cả dân tộc tưởng nhớ, biết ơn tiền nhân đã có công sinh thành nòi giống: khai mở bờ cõi, tạo dựng hình hài đất nước. Đó là ngày giỗ trọng của người Việt Nam. “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm” Câu ca dao này là sự nhắc nhở tự giác về ý thức cội nguồn dân tộc, để mỗi con cháu Lạc Hồng, dù ỏ đâu, đi đâu, vể đâu cũng phải nhớ ngày giỗ Tổ mà tĩnh tâm, lắng lòng về chốn cố hương. Đền Hùng và giỗ Tổ Hùng vương từ bao đời nay là biểu tượng đã ăn sâu vào tâm khảm thiêng liêng của mỗi người dân đất Việt. Đây là điểm hội tụ tâm linh, hội tụ bản sắc văn hóa và tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Từ thời phong kiến đến ngày nay, hằng năm, giỗ Tổ Hùng vương đều được tổ chức với nghi lễ trang trọng. Giỗ Tổ Hùng Vương ngày càng được tổ chức quy mô lổn hơn. Cùng với phần lễ Tổ tôn nghiêm, thành kính, theo đúng phong tục thờ cúng tổ tiên, các hoạt động hội tạo không khí vui vẻ, phấn khởi cho muôn dân. Cả phần lễ và phần hội đều mang đậm chất dân gian và được tiến hành trên tinh thần tự giác, tự quản của cộng đồng, có sự tạo điều kiện của nhà nước, các tổ chức xã hội, người hảo tâm. Các nghi thức thờ cúng tổ tiên truyền thống ngày càng được khôi phục, duy trì và nâng cao trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương, Các hình thức hoạt động diễn xướng, trò chơi dân gian được phục dựng nguyên bản giúp đổng bào về dự hội đền Hùng dược trở lại không gian văn hóa thời Hùng vương. Lễ rước kiệu, hội thi hát Xoan của cư dân quanh vùng Nghĩa Lĩnh được khôi phục, làm cho giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội đền Hùng ngày càng gắn với tín ngưỡng và không gian truyền thống. Từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo đức, văn hóa truyển thống đặc sắc của dân tộc 52
Việt Nam. Những giá trị ấy góp phẩn bồi đắp lòng yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, có trước có sau; xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong thời đại mới. Không gì khác, chính từ những giá trị đó đã làm nên sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam trước bao biến cố của lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.
9. TẬP TỤC THỜ CÚNG ỏ CÁC ĐỈNH, PHỦ Tại các đình, đền, miếu, phủ lớn thường có người thường xuyên túc trực hôm sớm đèn hương phụng thờ thần linh, thành hoàng, thánh Mẫu. Ngoài ra, tại các nơi thì tự như vậy đều có những kỹ lễ hội dâng hương định kỳ vào các dịp tuần, tiết, sóc, vọng. ở các vùng nông thôn, vào dịp cấy lúa cũng có thể làm lễ gọi là “Lễ Hạ điền“ và khi lúa đã bắt đẩu trổ đòng đòng cũng có thể có kỳ lễ dâng hương gọi là "Lễ Thượng điền“: Lại còn có cả lễ Thượng tân vào tháng Chín âm lịch, tức cũng là lễ Cơm mới. Đến với những nơi thờ tự như vậy: trước hết là biểu hiện của một tập tục văn hóa truyền thống, là thể hiện sự tôn trọng, tôn sùng: nhớ ơn của các vị tiền nhân đã có công với cộng đồng làng, xã, dân tộc trong lịch sử. Đó cũng là thể hiện đạo lý của con người Việt Nam "uống nước nhớ nguồn": trong dòng họ gia đình thì công ơn tiên tổ, trong làng xã thì có thành hoàng... là những bậc đã có công khai phá lập làng, đánh giặc, cứu nạn trừ tai. Ngoài các kỳ lễ dâng hương nói trên, thường mỗi năm một lần còn có những kỳ dâng hương lớn, đó là những kỳ dân làng mở hội vào đám. Hội có thể mỏ vào những ngày nhân dịp mùa xuân hay mùa thu nhưng cũng có thể chọn ngày sinh hay ngày mất của thần linh để mồ hội vào đám. Những kỳ lễ dâng hương lớn như vậy thường có thể kéo dài nhiều ngày. Ngoài việc tế thần linh, thánh Mẩu còn có cả việc tổ chức hội hè vui vẻ với những trò vui dân gian.
10. HÌNH THÁI THỜ CÚNG TẬP THE - THÀNH HOÀNG LÀNG TRONG TÂM THỨC DÂN GIAN Nguồn gốc tục thờ Thành hoàng làng Trong phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và một số vị thần như Táo công, Thổ công, Thần Tài... ; ở phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng. Thành 53
hoàng làng (Thành hoàng) là danh từ chung để chỉ vị thần được thờ trong một làng xã Việt Nam. Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chĩ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Nhà văn Sởn Nam cho biết thêm: “ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị ndi thị tứ, sau áp dụng (cả) ndi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh..”. Thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật và gọi ông “Thần hoàng” là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ “đốt tờ giấy vàng”, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ỏ trong Nam bộ không có. Cũng theo sách Việt Nam phong tục, thì mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng: có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, gọi chung là Phúc Thần. Phúc Thần có 3 hạng: - Thượng đẳng thẩn là những thần danh sơn đại xuyên, và các bậc thiên thần như Đông thiên vương, Sóc thiên vương, Sử đồng tử, Liễu Hạnh công chúa... Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thẩn như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... Các vị này khi sinh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bỏi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bậc ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần. - Trung đẳng thần là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng: hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần. - Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bậc chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần. Ngoài ba bậc thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết... Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chứ không được ghi nhận, không được phong tặng gì... Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng chỉ là vài am miếu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha sấu bắt; cúng sơ sài, không tế lễ. 54
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (tổ nghể). Tục thờ Thành hoàng hay Thần hoàng ỏ nước ta là do ảnh hưỏng từ văn hóa Trung Hoa truyền sang từ thời Đường. Tôn thờ Thành hoàng làng chính là một nhu cầu tâm lý, người dân thờ Thành hoàng làng để phục vụ cho hiện thực cuộc sống, là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu được, là phương tiện, là động lực thúc đẩy sản xuất và ổn định cuộc sống. Sử sách cho biết Thành hoàng đầu tiên ỏ nước ta là thần Tô Lịch - Thần Thành hoàng của thành Đại La, trụ sở của phủ đô hộ Đường tại nước ta (thế kỷ thứ IX). Thần Tô Lịch là do Lý Nguyên Gia và Cao Biền tôn vinh là "Đô phủ Thành hoàng thần quân", chữ Thành hoàng bắt đầu có từ đó. Thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất. Họ là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khỏe mạnh. Cho nên sự thờ phụng Thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng. Đã là Thành hoàng làng thì đại bộ phận có một lý lịch ghi thành văn bản gọi là thần tích hoặc thần phả, ngọc phả, phả lục... Những thần tích đó vừa là bằng chứng của tín ngưỡng dân gian, vừa là một thành phần của nền văn hóa dân gian. Nói cách khác, thần tích mà hiện nay còn lại chính là một sỏ hữu đồng thời một sáng tạo văn hóa phi vật thể của dải đất ngàn năm văn vật. Nó là tâm hồn, tư duy, là trí tưỏng tượng, là quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của bao thế hệ cư dân. Đại đa số sự tích về Thành hoàng làng đều là những truyền thuyết, sau này những truyền thuyết ấy được các địa phương chú trọng và trỏ thành văn bản chính thức được Nhà nước công nhận, từ đó đã ra đời các Thần tích, Thần phả, sắc phong. Thành hoàng làng có nhiều nguồn gốc, có thể là nhân thần, có thể là nhiên thần, nhưng đều là các vị thẩn đã được lịch sử hóa hay huyền thoại hóa. Tuy nhiên các Thành hoàng được sắc vua phong (trừ những tà thần, yêu thẩn...) luôn luôn tượng trưng cho làng xã mà mình cai quản là biểu hiện của lịch sử, của đạo đức, phong tục, pháp luật cũng như hy vọng sống của cả làng. Thành hoàng có sức tỏa sáng vô hình như tiềm ẩn quyển uy siêu việt, khiến cho làng quê trỏ thành một hệ thống chặt chẽ. Các vị thần cũng được xét đưa từ thứ vị nọ lên thứ vị kia, nếu trong thời gian cai quản các vị này đã phù hộ, giúp đỡ được nhiều cho đời sống vật chất và tâm linh của dân chúng. Việc thăng phong các vị Thành hoàng căn cứ vào sớ tâu của làng xã về công trạng của các vị thẩn. Sớ này phải nộp về triều đình trong một thời gian quy định. Mỗi lần thăng phong triều đình đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó trong hòm sắc thờ ỏ hậu cung đình làng. Nhưng có khi Thành hoàng chỉ là một người dân mà theo quan niệm, là người được các vị thần ban cho sứ mệnh để sau này thay họ cai quản làng xã, được gọi là Thành hoàng sống.
55
Tục thờ cúng Thành hoàng trong hội làng Ngày nay, lễ hội làng đang phát triển mạnh mẽ và nỏ rộ ở khắp nơi. Tục thờ cúng Thành hoàng, diễn lại thần tích, rước xách, tế lễ đang được phục hồi, vì có như vậy mới ghi nhớ được công lao của các vị tiền bối với nước, với làng. Hằng năm, ngày giỗ Thành hoàng là ngày hội đồng vui nhất của làng, của phố. Trong những ngày hội, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn rất nhiều nghi lễ như diễn lại sự tích về Thành hoàng, tế lễ, rước kiệu hay các trò vui: đấu võ, chọi gà, thổi cơm thi, bơi chải, đánh đu, đánh cờ người, hát chèo, diễn tuồng... Không khí vui vẻ cả ngày lẫn đêm (có nơi hai, ba ngày), từ các lão ông, lão bà đến mỗi cháu bé, và chờ đợi nhất, vui nhất là những trai gái đương lứa, đây là dịp để gặp gỡ, kết bạn, tỏ tình. Cùng với việc thờ cúng tổ tiên thì tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đem lại cho người dân ý thức hướng vể cội nguồn, về quê cha đất tổ bằng những biểu hiện sinh hoạt văn hóa truyền thống. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa là trách nhiệm của mỗi người và cũng là để góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng Thành hoàng thì còn mãi, trỏ thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi. Nơi thờ phụng Giống như Táo công và Thổ công, Thành hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một làng và thường được thờ ỏ đình làng. Do vậy hầu hết ỏ mỗi làng quê hay phố nghề (nơi thị thành) đều lập đình (hoặc đền, miếu) thờ vị Thành hoàng của làng hay phường hội. Theo học giả Nguyễn Văn Tố thì khỏi đầu đình chỉ là cơ ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lệnh và huấn dụ của nhà vua... Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu này còn gọi là “nghè", nơi gìn giữ sắc thẩn. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trỏ về miếu. Để đơn giản hóa, sau nhiều làng chỉ xây một cái đình lớn, phía ngoài làm nơi hội họp (đình), phía trong là miếu... Vai trò, ỷ nghĩa của tục thờ Thành hoàng Thành hoàng có sức tỏa sáng vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trỏ thành một hệ thống chặt chẽ. Chính sự thờ phụng này là sỢi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hòa đồng, đất lề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, các hương chức cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng Thành hoàng để xin phép trước. Dường như sự ngưỡng mộ Thành hoàng của người dân không kém gì sự ngưỡng mộ đối với tổ tiên của họ. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng thường được 56
thể hiện trong các lễ hội xuân hoặc Tết cổ truyền. Lễ hội thờ Thành hoàng làng thực chất là chiếc cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là sự giao lưu văn hóa giữa các làng xóm với nhau, là nét văn hóa đặc trưng trong sinh hoạt văn hóa làng, là sự kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ phụng tập thể - thờ Thành hoàng làng trong tâm thức dân gian, tâm thức truyền thống của người dân. Đình làng là ndi thờ phụng Thành hoàng và trỏ thành một biểu tượng văn hóa tâm linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có đình, có khi mỗi thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ Thành hoàng nhưng đồng thời cũng trở thành ndi hội họp của chức sắc trong làng, hay là ndi sinh hoạt của cộng đồng làng xã. Mọi hoạt động này đểu xảy ra ỏ đình với sự chứng kiến của Thành hoàng. Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức Thành hoàng là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khỏe mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng Thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cđn chìm nổi. Có thể cho rằng, Thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Cho nên sự thờ phụng Thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng. Như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào thl cũng là chủ thể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là hộ nưóc giúp dân ở ngay địa phưdng đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hđn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành... Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trỏ thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng.
11. PHONG TỤC THỜ CÚNG THẦN TÀI VÀ ÔNG ĐỊA Bàn thờ Thần Tài chỉ được lập ỏ những nơi góc nhà, bàn thờ Thần Tài có cách bài trí khác với bàn thờ tổ tiên hay bàn thờ Thổ công. Bản chất trường khí phòng thờ (hay bàn thờ) thuộc tính âm, không ưa sự phô trương, mang tính đối nội, hay ngay cả trong ngày giỗ hay Tết thì thờ cúng cũng là việc riêng của gia đình đó, người ngoài đến muốn thắp nén hương phải xin phép gia chủ. Về Ngũ hành thì bàn thờ thuộc hành hỏa và mộc là 2 hành hướng lên cao và cần sự chăm sóc mỗi ngày. Trừ bàn thờ ông Địa, Thần Tài là tín ngưỡng dân gian mọi nhà giống nhau, đặt gần cửa để nghinh tiếp tài lộc, còn lại bàn thờ gia tiên và tôn giáo riêng của mỗi gia đình (thờ Phật, thờ Chúa...) nên mang tính hướng nội, 57
không cần phải đ ặt ngay trong phòng khách.
Ngoài bàn thờ gia tiên, người ta còn có trang thờ, bàn thờ ông Táo, thờ ông Địa, ông Thần Tài. Trang thờ được bố trí ỏ trên cao, nơi gian giữa. Trên trang thờ có đôi chân đèn nhỏ, lư hương, bình bông, mâm đĩa trái cây, chung rượu, tách nước. Bàn thờ ông Táo được đặt ở sau bếp. Đây cũng chính là vị “nhất gia chi chủ”, có nhiệm vụ coi sóc việc gia cư, định họa phúc, trừ ma diệt quỷ. Cũng có quan niệm cho rằng Thần Tài là một phiên bản của thần Đất là vị thần hộ mệnh của xóm làng, cai quản vùng trời, đất đai, phù hộ con người và gia súc trong xóm làng, mùa màng bội thu. Khi những cư dân từ miền Trung vào khai khẩn vùng đất Nam bộ, họ gặp phải rất nhiều khó khăn (thiên nhiên khắc nghiệt, thời tiết thất thường, thú dữ hoành hành... và ý niệm trông mong vào các vị thần bắt đầu hình thành để giúp họ trấn an trên con đường mưu sinh. Thần Đất cũng là một trong các vị thần bản địa được họ mang vào phương Nam để thờ phụng, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Dần dà vể sau, thương nghiệp phát triển, kinh tế hàng hóa phổ biến, nhu cầu mua bán, trao đổi phát triển, người ta cần vàng và tiển bạc hơn. Lúc đó, vàng, tiền bạc là thước đo của cuộc sống sung túc và nghèo hèn nên Thần Tài xuất hiện. Thần Tài chẳng qua là một dạng thức khác của Thần Đất. Nếu Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu, thể hiện tính lý nông nghiệp thì Thần Tài là vị thần trông coi tiển tài, vàng bạc, là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp. Qua các thời kỳ, hình tượng của Thần Tài có Thẩn Tài đầu đội mũ cánh chuồn, hai tay để trên đảo sen, tay cầm túi vải để đựng tiền. Lại có lúc chân co, chân xếp, tay cầm bó lúa và đầu để trần. cầm xâu tiền hoặc cầm một thỏi vàng xuồng.
ít nhiều thay đổi. Có lúc tượng gối, mặc áo thụng, chân đi hài tượng Thần Tài ngồi với tư thế Sau này có loại tượng Thần Tài
Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của thẩn Đất, nhưng tựu trung, cả hai vị thần vẫn có quyền uy giúp cho con người làm ăn phát đạt, tài lộc tấn. Vì vậy, cư dân Nam bộ hiếm khi thờ cúng Thần Tài một mình, mà thường thờ cúng chung với thổ Địa vị thần cai quản đất đai, nhà cửa. Người ta không chỉ cúng Thần Tài vào ngày Tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán. Người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho vị thần này chu đáo thì ông mới phù hộ. Sáng sớm, khi mở cửa bán hàng người ta thắp hương cầu khẩn Thần Tài “độ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho ồng Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm. Vào ngày Tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thẩn này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đểu ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài. 58
12. CHỌN VỊ TRÍ THỜ CÚNG ÔNG ĐỊA Nguyên tắc đặt bàn thờ Thần Tài và ông Địa là phải từ bàn thờ, ông Địa và Thẩn Tài phải quan sát được hết sự ra vào của khách. Có thể đặt theo hướng tốt của chủ nhà, có thể đặt theo cách hứng lấy dòng khí bên ngoài khi vào nhà. Có thể dùng phương pháp điểm thân sát để tính, chọn lấy các cung thiên lộc, quý nhân để đặt vị trí bàn thờ. Thiên lộc Lộc là phương lâm quan của tuế can, tính của Ngũ hành, lâm quan tới cát. Lâm quan là thời đương thịnh, đang lên phơi phới, là đúng đạo sinh thành, gần tới vượng mà là lộ, bỏi đã vượng thì thái quá. Lộc là cách có lộc ra chính môn. Nhà có cách này là cát khánh, rất tốt. Lộc ra chính môn sẽ đem lại nhiều may mắn vể tiền bạc, gia sản thăng tiến, điền trang vượng. Thường sinh người béo tốt, thông minh, tuấn tú lại khéo léo, tài năng kinh doanh giỏi, làm ăn tiến phát. Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa sinh - vượng lộc, tránh không vong tử, tuyệt. Nếu mộ, không vong, tử, tuyệt thì khí tán, không tụ, là vô dụng. Có lộc cũng như không. Tài sản dù có như nước, rồi cũng tiêu tan hết. Đó gọi là tuyệt lộc. Nếu gặp thai khí thì mặc dù vẫn phát đạt, nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo, con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch. Trong gia đình hay sinh nội loạn, cãi vã, cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên. Lộc cung là cát cung, vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra, còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ, giường ngủ. Tất cả được lộc đều tốt. Tuy nhiên Lộc phải cư đúng cung tài, là lộc cư lộc, mới thật là đắc cách, mới thật sự tốt đẹp. Quý nhân Quý nhân thiên ất là vị thần đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phi phù. Nhà có chính môn ra quý là đại cát khánh, gia đạo bình an, hòa thuận, hỉ khí đầy nhà, luôn gặp may mắn. Quý nhân là sao cứu trỢ, là thần giải tai ách, nên nhà ra quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ, gặp ách có người giải cứu, gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh, công danh thành đạt, dễ thăng quan, tiến chức, học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp. Quý nhân gặp sinh, vượng, thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên, tướng mạo phi phàm, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt, thẳng thắn mà ôn hòa, khôi ngô tuấn tú. Nếu ngộ không vong, tử, tuyệt thì nguồn phúc giảm đi nhiều, hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh, bỏi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn thất, kiện cáo, thị phi. Lại hay sinh người tính tình cố chấp, bảo thủ mà suốt đời vất vả, không nên người. Quý nhân ra thai khí, nếu lại gặp đào hoa thì nam, nữ tuy thông minh, tuấn tú nhưng nam thì hiếu sắc, nữ thì dâm đãng, làm bại hoại gia phong, lại hay mắc bệnh tật và trong 59
nhà dễ có người tự ải, tự vẫn vì tình. Quý nhân là cát khí rất tôn quý, nên gia vào cung nào cũng rất tốt, ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ, giường ngủ đều tốt. Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có âm quý nhân là đại cát khánh, như vậy sẽ được âm linh phù trợ. Không được để phòng tắm, nhà vệ sinh vào cung quý nhân, vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên, nữ nhân thiếu máu, động thai, sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục, làm điếm, cuối cùng phải tự vẫn. Tài sản tiêu tan, yêu ma hoành hành, gia đình có người bị cưởp bóc, chém giết máu me thảm khốc, bệnh tật đau khổ triền miên. Nhưng muốn đặt như thế nào thì trước mặt bàn thờ phải quang đãng, sạch sẽ. Không như nhiều người nghĩ và đặt bàn thờ vào gầm, vào chỗ tối tăm), ông Địa và Thẩn Tài tuy thờ dưới đất nhưng tính rất thích thơm tho, sạch sẽ. Thường nên để sẵn một lọ nước hoa, lâu lâu lại xịt vào bàn thờ cho thơm.
13. CÁCH SẮP ĐẶT BÀN THỜ ÔNG ĐỊA Trong cùng bàn thờ, dán trên vách là một tấm bài vị như đã nói ở phần trên. Hai bên, bên trái (từ ngoài nhìn vào) là ông Thần Tài, bên phải là ông Địa. ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy. Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ là một bát hương, bát hương này khi bốc phải theo một số thủ tục nhất định. Để tránh động bát hương khi lau chùi bàn thờ, nên dùng keo 502 dán chết bát hương xuống bàn thờ. Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát hương gọi là bị 3ộng bát hương, mọi chuyện trở nên trục trặc liền. Theo nguyên lý “Đông binh - Tây quả”, đặt lọ hoa bên tay phải, đĩa trái cây bên tay trái (Nhìn từ ngoài vào). Thường nên cắm hoa hổng, hoa cúc, hoa đồng tiền. Trái cây nên xắp ngũ quả (5 loại trái cây). Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng, người ta có một cái khay xếp 5 chén nước hình chữ Nhất, nên bỏ khay và xếp 5 chén nước thành hình chữ thập, tượng trưng cho ngũ phương, và cũng là tượng trưng cho Ngũ hành phát sinh phát triển, ông Cóc để bên trái từ ngoài nhìn vào, sáng quay Cóc ra, tối quay Cóc vào. Ngoài cùng trên mặt đất, nên chọn một cái tô sứ thật đẹp, nông lòng, đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước. Cái này làm minh đường Tụ Thủy - Một cách giữ tiền bạc khỏi trôi đi.
14. TẬP TỤC THỜ CÚNG THẦN TÀI Người Việt xưa tin rằng Thần Tài là vị thần mang tài lộc đến cho gia đình, nên người ta tin thờ. Mỗi khi làm việc gì, gia chủ thường cầu khẩn Thần Tài. sỏ dĩ người ta thờ Thần Tài ỏ xó xỉnh là do điển tích: xưa kia lái buôn tên là Âu Minh, khi đi qua 60
hồ Thanh Thảo; được Thủy thần cho một nô tì tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chĩ vài năm đã giàu to. về sau, nhân một ngày Tết, Âu Minh đánh Như Nguyện. Sợ hãi Như Nguyện chui vào đống rác rồi biến mất. Tù đó, Âu Mình sa sút dần, chẳng mấy lúc nghèo kiết. Người ta bảo Như Nguyện là Thần Tài và lập bàn thờ để thờ. Từ đó, ngày Tết ta có tục kiêng hót rác trong ba ngày đầu năm, sợ hót mất Thần Tài trong đống rác đổ đi, thì việc làm ăn sẽ không phát đạt. Cũng theo sự tích trên, Thần Tài là một vị nữ thần. Bàn thờ Thần Tài Vì theo điển tích trên mà bàn thờ Thần Tài không được đặt ở, trên cao, ỏ một nơi quang đãng trong nhà, mà thường được thiết lập ở những nơi xó xỉnh - góc nhà hoặc hàng hiên, và bàn thờ cũng không cần to tát, chỉ là một cái khán nhỏ sơn son thếp vàng, có khi chỉ là một thùng gỗ dán giấy đỏ. Bên trong khám dán bài vị của Thần Tài, cũng viết trên giấy đô. Chữ viết thường bằng kim nhũ: Ngũ phương ngũ thổ Long thần: Tiền hậu địa chủ Tài thần. Hai bên bài vị có đôi câu đối: Thổ năng sinh bạch ngọc; Địa khả xuất hoàng kim (Đất hay sinh ngọc trắng, Đất khá có vàng ròng). Đôi câu đối này có thể thay đổi; nhưng bao giờ cũng có một đôi. Trước bài vị là một bát hương kê trên một trăm vàng thoi. Hai bên là hai cây đèn nhỏ đủ thắp (để không bốc cháy lên khám). Gia chủ còn thu xếp để có chỗ đặt mấy chén nước, rượu. Cũng có một mâm bồng để bày hoa quả, phẩm vật khi cúng lễ. Có nhà khắc trên mặt khám mấy chữ đại tự, và ở hai bên có đôi câu đối đại ý xưng tụng sự giúp đỡ của Thần Tài và sự cầu mong của gia chủ. Nghi thức cúng Thần Tài Dân ta chỉ cúng Táo quân trong những ngày sóc vọng và giỗ Tết, nhưng lại cúng Thần Tài quanh năm. Trong những ngày sóc vọng, giỗ Tết, lễ cúng Thẩn Tài có khi cúng mặn, thậm chí là cả một mâm cỗ. Trong những ngày thường, lễ cúng rất đơn giản, chỉ có trầu nước, đôi khi thêm một đĩa trái cây. Mỗi buổi chiểu, bàn thờ Thần Tài được thắp hương lên, có khi gia chủ khấn vái, có khi chỉ khấu thủ trước bàn thờ. Chỉ trong ngày sóc vọng, giỗ Tết, sự khấn vái mới cẩn thiết. Văn khấn Thần Tài cũng như văn khấn Thổ công, chỉ thay đổi chỗ cung thỉnh... Tài thần vị tiền...
15. SINH TÀI VƯỢNG Vị VÀ CÁCH ĐẶT THẦN TÀI Phương vị này còn được gọi là tài vị, nó khác với phương chính thần trong 61
huyền không học. C ó 3 th u yết nói về phương vị n ày kh á c nhau:
- Thuyết thứ nhất là theo trường phái huyền không, chọn phương chính thần làm phương của tài vị. - Thuyết thứ hai là theo phi tinh của huyền không, phương này cho rằng phương của tam bạch phi đến mới là phương của tài vị. Tam bạch chính là: Nhất bạch, lục bạch và bát bạch. - Thuyết thứ ba là chọn phương chéo với cửa ra vào làm phương tài vị: Huyền không phi tinh có nhiều điểm rất hay, nó có thể giải thích các hiện tượng động đất, sụt lở, hỏa hoạn, trộm cướp, chết người, đau bệnh, làm ăn thua lỗ... mà các trường phái bát trạch minh cảnh và dương trạch tam yếu không thể giải thích thỏa đáng. Vì các trường phái kia thuộc tĩnh, các phương vị, an sao đều cố định nên gặp tai nạn thì không thể nói được khi nhà và sao đều vẫn tốt so với mạng gia chủ như lúc đầu. Còn trường phái huyền không thì các phi tinh luân chuyển, khó có được năm tháng ngày giờ trùng sao lại như nhau, năm và tháng còn có thể nhưng thêm ngày và giờ thì rất hiếm hoi. Lại thêm khi các sao đi đơn lẻ thì khác, đi kèm với sao khác thì có thể ý nghĩa biến đổi, hoặc còn ảnh hưởng với sao của trạch vận khác nhau mà cho kết quả khác nhau, thiên hình vạn trạng. Sự huyền diệu của phi tinh là vậy, nhưng không phải lúc nào cũng cứng nhắc các vượng khí, phi tinh vào dương trạch, phải biết lúc nào áp dụng phương pháp nào cho thích hợp. Không phải vô tình mà người ta bố trí bàn làm việc nơi góc chéo với cửa ra vào, bỏi nó là nơi tập trung quyền lực trong một căn phòng. Các điều nên ở tài vị - Nơi phương tài vị nên sáng sủa, quang minh, không thể để tối ám. Sáng là năng lượng dương, thích hợp với dương khí. Sinh khí không ưa nơi tối tăm, nên phương này tuyệt đối không nên để tối, nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thl nên lắp thêm đèn. - Nơi phương tài vị nên có sinh cơ, tức là chỉ nơi đây thiết bày cây xanh là tốt, phải nhớ là trổng loại cây luôn luôn xanh tươi. Nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn (nê thổ), không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên kiếm các loại cây lá to, dầy, lá xanh mãi như cây vạn niên thanh chẳng hạn. - Nơi phương tài vị tốt nhất nên đặt bàn ngồi ỏ đấy, để cả nhà thường xuyên ngồi ỏ đó, hít thở không khí của tài vị hay nói cách khác là được thấm nhuần nguồn tài vị nơi đó, sẽ giúp ích cho vài vận người trong nhà - Nơi phương tài vị nên đặt giường ngủ là rất thích hợp. Đến đây thì có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao các sách bày bán trên thị trường luôn khuyên “đặt giường chéo góc với cửa phòng”, có điều họ không nói rõ ra ý nghĩa bên trong. 1/3 thời gian trong ngày con người nằm ngủ nghỉ nơi đó, thường xuyên hít thỏ nguồn tài khí nơi 62
đó cũng rất tốt cho tài vận vậy. - Nơi phương tài vị nên đặt vật hay biểu tượng lát lành. Bỏi phương này là nơi vượng khí ngưng tụ, nếu ta đặt thêm 1 biểu tượng cát lành thì tốt càng thêm tốt, như gấm thêu thêm hoa vậy. Các điều kỵ của tài vị - Nơi phương tài vị tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách, kệ sắt, máy móc nặng sẽ làm tổn hại đến tài vận của phòng đó. - Nơi phương tài vị tối kỵ thủy. Đấy cũng là lý do vì sao ỏ trên lại bảo nơi đây không thích hợp cho các loại cây trồng trong nước. Vì nơi đây là cát thần tọa vị, nay ta đem nước đến là cát thần lạc thủy. - Nơi phương tài vị phía sau nên có tường che chắn, không thể trổ cửa, trổ cửa sổ, có vậy mới hỢp cách cục “tàng phong tụ khí ” trong phong tục, tài vận mới tụ được. - Nơi phương tài vị tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn, cạnh tủ... sẽ làm tổn hại tài khí nơi đó. - Nơi phương tài vị là nơi cát thần tọa vị nên đại kỵ ô uế, dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế, bụi bậm nơi đây. - Nơi phương tài vị không nên để tối tăm, vì u tối thì sinh khí không sinh sôi được, sẽ ảnh hưỏng đến tài vận, sinh kế.
16. TỤC LỆ THỜ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Ngọc Hoàng Đại Đế, gọi tắt là Ngọc Đế là vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của Thiên đình. Nguồn gốc Từ thượng cổ, người Trung Quốc đã tôn thờ một vị vua trên trời, gọi là Thượng Đế. Tuy nhiên từ đời Thương thì Thượng Đế đã hoàn toàn chỉ là một vị thần, không có quyền năng sáng thế. Vị Vua trời này được cho là sống tại một cung điện tại chính giữa bầu trời, tại Thiên Cực Bắc. Đến các triều đại về sau, vị thần này được gọi dưới nhiều danh hiệu khác nhau: - Hoàng Thiên, Hạo Thiên, Thiên Đế: đời Chu. - Thái Nhất: Thiên quan thư trong Sử ký của Tư Mã Thiên dùng từ này. - Thái Vi Ngọc Đế, Tinh Chủ Thái Vi viên: thời Hán Vũ đế. - Phạm Thiên Ngọc Đế, Đế chủ Thiên Thị Viên: thời Hán Tuyên đế. 63
- Diễm Hoa Thiếu Vi Ngọc Đế, Thiên Tiên Định Vị: thời Hán Ai đế. - Tử Vi Ngọc đế; đời Hán Quang Vũ đế. - Ngọc Hoàng Đạo Quân, Cao Thượng Ngọc Đế: thời Nam Triều. - Hạo thiên Kim khuyết Vô thượng Chí tôn Tự nhiên Diệu hữu Di la Chí chân Ngọc hoàng Thượng đế, Huyền khung Cao thượng Ngọc hoàng Đại đế. - Đến đời Minh, danh hiệu đầy đủ là: Cao thiên Thượng thánh Đại từ Nhân giả Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn Huyền khung Cao Thượng đế. (Nghĩa là Vị thánh tối cao trên đỉnh trời, vô cùng nhân từ, là Vua Ngọc, bậc Thiên tôn vĩ đại, Huyền diệu lớn lao làm chủ trên cao). Ngoài ra Ngọc Hoàng Thượng Đế còn được gọi bằng các tôn hiệu: Thiên Đế, Ngọc Đế, Đế The. Ỳ nghĩa Ngọc Hoàng Thượng Đế còn được gọi với nhiều danh từ khác nhau: Chúa Trời, ông trời, Đại Từ Phụ, Đấng Tạo Hóa, Đức Chí Tôn... (Ngọc Hoàng Thượng đế được gọi với rất nhiều danh từ khác nhau tùy theo mỗi dân tộc và tôn giáo trên thế giới). Theo triết lý của đạo Cao Đài Ngọc Hoàng Thượng đế là đấng tạo hóa sáng lập ra càn khôn vũ trụ và vạh vật, là nguồn cội của các tôn giáo, Ngài là đấng tối cao toàn năng, Ngài làm chủ cả Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ngài vì lòng yêu thưđng vô tận mà biến hóa ra càn khôn vũ trụ và vạn vật. Từ lúc hỗn độn sđ khai trong càn khôn vũ trụ không có gl hết chỉ có khí hư vô (còn gọi là hư vô chi khO, khí ấy mới biến hóa mà sinh ra Ngọc Hoàng Thượng đế ngự tại ngôi thái cực, v) lòng yêu thưđng vô tận Ngài biến hóa từ thái cực sinh lưỡng nghi (tức là âm dưđng hay còn gọi là đạo), rồi lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái biến hóa vô cùng tạ ra càn khôn vũ trụ và vận vật. - Trong càn khôn vũ trụ này có 3.000 thế giới và 72 quả địa cầu, nên có 3.072 vị thiên đế (tức là Phạm Thiên Vưđng) do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hóa thân ra để chưỏng quản, Ngọc Hoàng Thượng đế là chủ của các vị Thiên Đế nên gọi Thượng Đế là Đại La Thiên Đế. - Ngọc Hoàng Thượng đế là nguồn cội của các tôn giáo: Ngày nay trên thế giới có rất nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo có một đặc thù riêng song vẫn có chung một triết lý cd bản, tùy vào mỗi tôn giáo có mỗi bật tu khác nhau gồm có: Nhân Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo. Ngọc Hoàng Thượng Đế trong Dạo giáo Theo Đạo giáo thì Ngọc Hoàng là một vị thần được Nguyên Thủy Thiên Tôn ủy quyền thay mình trông coi thế giới và thiên đình. Hoặc Ngọc Hoàng chính là hóa 64
thân của Tam Thanh. Ngọc Hoàng Thượng Đế trong truyền thuyết dân gian Có truyền thuyết dân gian cho rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế vốn người trần, tên là Trương Hữu Nhân, là trang chủ thôn Trương Gia Loan. Vì tính hay nhường nhịn, ông được gọi là Trương Bách Nhẫn; do hay giúp đỡ, ông được gọi là Đại Quý Nhân. Trương Hữu Nhân có một vỢ họ vương, và bảy cô con gái: Đại Thư, Nhị Thư, Tam Thư, Tứ Thư, Ngũ Thư, Lục Thư và Trương Thất Nữ. Truyền thuyết về Ngọc Hoàng Thượng Đế chịu ảnh hưởng của Phật giáo Theo thuyết này thì Ngọc Hoàng đã tu 1550 kiếp, mỗi kiếp (kalpa) dài 126 nghìn năm, mới lên được ngôi vị Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng và Dương mẫu có duy nhất một người con gái được gọi là công chúa. Bảy nàng tiên theo truyền thuyết là con Ngọc Hoàng, thực chất chỉ là bảy tiên nữ theo hầu hạ Dương mẫu. Ngọc Hoàng Thượng Dế trong tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam Trong đạo Mẩu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mau Liễu Hạnh, là đấng thần chủ tối cao, tuy nhiên Ngài lại không được thờ cúng nhiều.
17. TẬP TỤC THỜ MẪU Có người cho rằng tín ngưỡng thờ Mẩu là một nét đặc trưng của tín ngưỡng bản địa Việt Nam, được bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Mẹ Đất vốn đã có trong thời tiền sử. Trên một đất nước đa dân tộc và tồn tại nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng, khi muốn nhận diện, phân biệt nhất là đối với những hình thức tín ngưỡng bản địa còn mang nhiều dấu vết nguyên thủy của cư dân nông nghiệp, ta không thể tránh khỏi những khó khăn. Với đạo Mẫu cũng vậy, sự nhận diện dễ dàng cũng không thể có được, bỏi những nơi thờ riêng, vì bề ngoài nó cũng giống như một ngôi chùa, một ngôi đình, hay một ngôi đền bất kỳ nào khác. Điện thờ Mau có ỏ khắp mọi nơi trên đất nước, từ đồng bằng lên miền núi, và cả ở trong khu cư trú của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Có nơi nó tổn tại là một đền phủ nguy nga, có nơi nó chỉ là một bàn thờ khiêm tốn đặt tại một góc trong một ngôi chùa, một điện thờ nhỏ trong từng gia đình. Cho nên người ta chĩ nhận 65
diện dược ndi thờ Mẫu khi quan sát từng nét riêng trong từng chi tiết của kiến trúc tổng thể của điện thẩn, và nhất là ỏ sự bày bố điện thờ, và những nghi thức cầu cúng. Chính những nét riêng ấy đã làm nên những đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (xuất phát từ quan niệm nguyên thủy: mọi vật đều sinh ra từ Mẹ) khiến cho tín ngưỡng này là một hình thức tín ngưỡng thuần phác, đặc biệt của dân tộc Việt. Cấu trúc bàn thờ Mẫu Trong tâm thức dân gian của cư dân nông nghiệp, dòng sông, con suối, hồ nước... tức là những nđi có nước mang tính nữ (Âm). Vì vậy hầu hết các điện Mẫu thường được xây dựng cạnh sông, cạnh suối, cạnh hồ, cạnh cửa biển... và các cửa diện Mẫu bao giờ cũng dược đặt quay vể phía nguồn nước, những nơi tụ thủy tụ phúc, những mong làm ăn phát đạt. Cho nên, nếu như không chọn được cái thế đất lành tự nhiên có sông hổ ôm bọc... thì trong khuôn viên dựng điện Mẫu, người ta sẽ phải làm hồ, ao, giếng để dựng lại một không gian cần phải có, ứng với thuật phong thủy của người xưa, Cũng để tạo tính âm, nhiều điện Mẫu ở vùng cao thường được dựng trong các hang động, hoặc xây dựng thêm nhiều các hòn non bộ, với những ngọn đá lô xô mọc lên từ đất hoặc dầm chân trong nước. Cấu trúc không gian trong các điện thờ Mẫu, vị trí chư vị thẩn thánh được bài trí sắp xếp theo ba tầng: tầng trên không, tầng ngang trên ban, bệ thờ và tầng trệt. Đây là một điều rất riêng vì không có tôn giáo tín ngưỡng nào bài trí như vậy. ổ tầng không là sự hiện diện của đôi mãng xà (còn gọi là ông Lốt) tượng trưng cho quan lớn Tuần Tranh. Một con màu trắng, một con màu sẫm quấn trên xà ngang phía trái, bên trên bàn thờ. ở tẩng ngang trên ban, bệ thờ, có khi chỉ có một bàn, có khi là một dãy bàn từ ngoài vào cao dần (tùy từng nơi), là nơi ngự của các thánh Mẫu (cũng có khi chỉ một tượng Mẫu) và các chư vị thánh. ở hạ ban (tầng trệt) bao giờ cũng thờ ông Năm Dinh hay thánh Ngũ hổ tướng quân, với biểu trưng là tượng, hoặc bức tranh hổ; phía trước có đặt một bát hương. Cấu trúc d tầng ngang của nơi thờ Mẫu dơn giản nhất cũng bao gổm các bàn thờ sau: - Hậu cung (nơi đặt bàn thờ Tam tòa thánh Mẫu) chính giữa, ỏ vị trí cao nhất là tượng bà chúa Liễu Hạnh mặc sắc phục đỏ (có nơi màu vàng) đó là Mẫu Thượng thiên. Thấp hơn về bên hữu là Mẫu đệ nhị, sắc phục trắng - Mẫu Thoải Tương ứng về phía tả là Mẫu đệ tam, sắc phục xanh - Mẫu Thượng Ngàn. - Phía trước hậu cung Tam tòa thánh Mẫu là một bàn thờ lớn, bàn thờ này gồm ba lớp thừa tự, tính từ hậu cung trở ra. 66
+ Lớp thứ nhất: Giữa là vua cha Ngọc Hoàng, bên tả là vị Nam tào, bên hữu là vị Bắc dẩu. + Lớp thứ hai: gồm năm quan lớn (gọi là Ngũ vị thái tử). Đệ nhất: áo đỏ, quan Thượng thiên Đệ nhị: áo xanh, quan Giám sát Đệ tam: áo trắng, quan Thủy phủ Đệ tứ: áo vàng, quan Khâm sai Đệ ngũ: áo đen (tím, lam), quan Tuần Tranh. Năm màu áo này tượng trưng cho màu của Ngũ hành: Kim (trắng), mộc (Xanh), thủy (đen), hỏa (đỏ), thổ (vàng). + Lớp thứ ba: gồm hai ông hoàng Bảy và ông hoàng Bơ, với sắc phục thường là màu tím và màu trắng. - Hai bên tả hữu của bàn thờ nói trên là bàn thờ đức thánh Trần Quốc Tuấn (bên tả) bàn thờ Chúa Sơn trang (bên hữu). - Ngoài cùng là những bàn thờ thần hoàng thổ địa, thủ đến tại vị: bàn thờ Cô, Cậu... Nghi thức thờ Mẫu Tại điện Mẫu, người ta tiến hành những nghi thức thờ cúng thánh Mẫu, cùng các chư vị thần thánh để cầu mong lấy phúc, lộc, sức khỏe, tiền tài. ở mặt sinh hoạt này đạo Mẩu đã khẳng định tính đặc thù của mình. ỏ bất cứ nơi thờ Mẫu nào, trước bàn thờ Mẫu bao giờ cũng treo tẩng lớp lớp những dổ vàng mã, nhưng phổ biến và không thể thiếu là nón (tu lờ, quai thao, nón chóp), hài, thuyền rổng, dèn lổng đủ loại dủ màu, với nhiều kích cỡ khác nhau, sỏ dĩ có treo những đồ vật ấy vì trong đạo thờ Mẫu, từ thánh Mẫu tới hàng quan, hàng chầu, ông Hoàng, các Cô, Cậu dểu gổm các vị thẩn linh có gốc gác từ mọi miển đất nước, chốn núi rừng, nơi ven biển. Điểu này cũng thể hiện ngay trong những bộ xiêm y rực rỡ mặc trong những điệu múa thiêng khi làm lễ trước diện. Trước diện Mẫu, không biết từ bao giờ dã ra dời một lễ thức khá dặc biệt, dộc dáo, mà ngày nay nhiểu công trình nghiên cứu dã khẳng dịnh nó là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian gồm âm nhạc, hát văn và múa thiêng, tập trung lại trong một hình thức sân khấu tâm linh dặc thủ, dó là hầu bóng.
67
18. NGUỒN GỐC TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Nho giáo của Khổng Tử, đạo giáo của Lão Tử vốn từ Trung Hoa cổ đại, cùng với Phật giáo do Siddhârtha họ Gotama, thuộc dòng Sâkya từ ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm, tổn tại song song với nhau, trở thành những yếu tố văn hóa không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Ba tôn giáo này hòa hợp với nhau, chấp nhận nhau, không hề xảy ra bất kỳ cuộc mâu thuẫn nào. Điều đó được gọi là “Tam giáo đồng nguyên” nghĩa là ba tôn giáo chung một nguồn, hoặc “Tam giáo đồng quy” nghĩa là ba tôn giáo tụ về một điểm, dạy người ta tìm đến chân, thiện, mỹ, từ bỏ tham, sân si, rèn luyện phẩm hạnh nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Thời Lý, Trần nhà vua tổ chức thi Tam Giáo để chọn người giỏi trong cả ba đạo vào triều đình, làm công việc ngoại giao, nội trị, khai thác tinh hoa của các tôn giáo thành động lực thúc đẩy xã hội tiến lên. Đạo Mấu có nguồn gốc từ đâu? Bên cạnh 3 tôn giáo kể trên, người dân bắt đầu tôn thờ thêm đạo Mẩu. Có lẽ xuất phát từ chế độ Mầu hệ mà hình thành đạo này. Vai trò của người phụ nữ góp phần quyết định sự tồn tại xã hội. ở nước ta, có nhiều địa danh gắn với chữ Bà; Núi Bà Mụ, Núi Bà Đen (Tây Ninh), Bà Chúa Xứ (Châu Đốc) Bà Điểm, mười hai Bà mụ hoặc những từ trỏ người phụ nữ như Thiên Hậu, Cô Hồng, Cô Hạnh, Nữ Hoa, cửu Thiên huyền Nữ, Thất tinh Nương Nương, Lăng Cô, Dinh Cô, Quan âm Thị Kính, Bà Chúa Kho, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu, Công Chúa, Bà Mụ... Người phụ nữ khi siêu thoát, hoặc hiện tượng tự nhiên được tưởng tượng ra, có Mẫu theo người Hóa từ phương Bắc sang, có Mầu tiếp thu từ các cư dân Khmer, Chăm, Sán Dìu, Tày - Nùng hòa nhập vào. Đạo Mẫu là đạo dân gian, không được vua chúa khuyến khích, đỡ đẩu. Người dân tìm đến những nơi phong cảnh kỳ tú, có sông, có suối, có núi, có rừng, càng cheo leo càng tăng thêm khát vọng, để lập đền thờ, ký thác tất cả nỗi niềm tâm sự thầm kín vào sự cầu mong và hy vọng. Người đứng ra hưng công, khỏi tạo chủ yếu là phụ nữ. Họ dốc tất cả niềm thành kính, sức lực và tiền của vâo công việc xây dựng đền Mẩu, phủ Mau thật sự vô tư, khẳng khái Nơi nào không đủ sức, đủ tài để lập được đền riêng, thì người dân kết hỢp luôn vào chùa làng, đình làng. Đằng trước, ỏ đại diện hay chính điện thì thờ Phật, thờ thánh. Đằng sau, hoặc bên cạnh lập một tòa điện nhỏ để thờ Mẫu. Như vậy, việc thờ Phật thờ thần, thờ thánh là có trước, mặc dầu có Phật, thần, thánh đã là phụ nữ. Nhưng nếu chỉ thờ Mẩu, thì thường thường phủ có sau, hoặc đổi tên đổi danh nghĩa sau này. Gọi đền là gọi chung. Gọi phủ mới là nơi riêng để thờ Mẫu.
68
Mâu là những ai? ở nước ta, đạo Mẫu thờ Tứ Phủ, tức là bốn mẹ: Mẹ trời, Mẹ đất, Mẹ nước và Mẹ người. - Mẹ trời gọi là Mẫu Thượng Thiên, Mẩu cửu Trùng, Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ. - Mẹ đất, còn gọi là mẹ rừng, gọi là Mẫu Thượng Ngàn, Lâm cung Thánh Mầu. - Mẹ nước, gọi là Mẫu Thoải do chữ thủy đọc chệch ra, hoặc Thủy cung Thánh Mẫu. - Mẹ người, gọi là mẹ trần gian, chúa Liễu Hạnh hoặc Mẫu Sòng vì thờ ở đển Sòng, Hà Trung, Thanh Hóa. Phụ nữ Vĩnh Phúc dù giàu hay nghèo đều tin tưởng và thành kính với Mẫu. Có người chưa biết định danh Mẫu, nhưng vẫn hết sức sùng bái. Trước hết, Mầu cũng là người phụ nữ, ngồi yên lặng một cách kiên nhẫn để nghe chúng sinh kể lể, giãi bày tâm sự, van lạy tha thứ hoặc cầu xin cho một nguyện vọng. Được chổng hay người yêu chung thủy, được thi đỗ hoặc tìm được việc làm, được sinh con trai hoặc đủ nếp, đủ tẻ, buôn bán phát tài, tai qua nạn khỏi.. - Mầu là hổn của đất. Mẫu cho cdm gạo ta ăn, hoa trái tưđi tốt. Mẩu dạy chim hót, dạy công múa quạt, dạy voi kéo gỗ, dạy hùm thiêng canh giữ núi rừng, dạy con người nhân từ bác ái... Cho nên người dân quan niệm Mẫu là bậc siêu phàm, tượng trưng tinh hoa của trời đất. Dưới các chân núi thuộc sơn hệ Tam Đảo, lập đền thờ Mẫu là hợp lý, chấp nhận được. Các chùa lập thêm gian thờ Mẫu, cung thờ Mẫu cho các bà các chị có nơi giải tỏa tinh thần, cũng là điều cần có. Theo phong tục thì không nên đặt bàn thờ Mẫu ở Đình thờ Thành Hoàng, đàn ông hay lui tới, không có tiện cho mẹ. Lập miếu ỏ nhà riêng, vừa chật chội, vừa ồn ào, vừa hỗn tạp. Mẹ là bậc “Mẫu nghi thiên hạ”, nêu cao tấm gương đạo đức thanh khiết, ép mẹ ỏ lẫn với chúng sinh hôi hám, tanh hôi, vụ lợi, tức là bối nhọ phẩm hạnh của mẹ, hồn thiêng sông núi. Nơi thờ Mâu trang hoàng như thế nào? - Giữa điện, trên cao treo bức hoành phi có 4 chữ “Mẫu nghi thiên hạ” tượng trưng cho đức tính, phẩm cách, quyền lực và vai trò gương mẫu của mẹ. - Quá giang hai bên điện thờ, có 2 con rắn trắng to bằng cổ tay được làm bằng vải, bò theo quá giang, uốn 3 khúc, đầu có mào đỏ chầu vào cửa điện, vừa là ngựa ngài, vừa là vệ sĩ, tượng trưng lực lượng thủy phủ. - Dưới quá giang, móc nón chóp mũi đồng, nón thúng quai thao, tua vàng, tua đỏ, lót hoa vân phượng, xâu hạt cườm, dán chân kính, biểu thị một phẩn trang phục nữ, lộng lẫy uy nghi. 69
- Trên khám thờ có rèm buông, phía trong là tượng Mẫu sơn son thếp vàng, phủ khăn đỏ. Có thể có một tượng Mẫu, hoặc cả 4 tượng Mẫu cho một chỗ đều hỢp iý.
- Phía dưới là hương án, trên bày đỉnh, bình hương, giá nến, đài quả, đài hoa... - Dưới hương án là một vòm cuốn, trong có phù điêu tạc hình Hắc Hổ (Hùm đen = thiêng) ngồi gần kín hang, nhln ra ngoài, tượng trưng cho lực lượng núi rừng, bảo vệ Thánh mẫu. - Bệ dưới, chầu hai bên khám thờ, có tượng 12 cô nàng đứng hầu. Cô cầm quạt, cô cầm hương, cô gảy đàn, cô bưng nước... - Thông thường trước gian thờ Mẫu có một khoảng trống, trải được hai chiếc chiếu cạp điểu, làm nơi cho các bà lễ bái, hầu bóng và “con công đệ tử” ngổi. Dưới chân tượng 12 cô nàng, có bệ ngồi thoải mái cho “Cung văn” đận, hát, kéo nhị, gõ sênh, phách, trống... khi các bà có nhu cẩu lên dồng. Lên đồng là một biểu hiện của đạo Mẫu Đạo Mẫu có khoảng 60 vị thánh, gồm các Mẫu, các chầu Bà, các vị tôn ông, các ông Hoàng, các cô, các cậu. Có nhiều giá đổng khác nhau, song cốt của lên đổng vẫn là bản thể Mẫu. Hầu đồng phẩn lớn là các bà trung niên, mức dộ kinh tế khá giả, hoặc các bà đồng chuyên nghiệp, các cô đồng là đàn ông nhưng có nhiều nữ tính, lông mày nhỏ, nói ỏn ẻn, không bao giờ phải cạo râu vì râu không mọc, sống nương nhờ ở đền phủ. Muốn hầu đổng, phải mua sắm dầy đủ khăn chầu áo ngự tới vài chục chiếc dủ màu. Khăn áo của Mẫu Thượng Ngàn dểu màu xanh lam, thêu kim tuyến lóng lánh, bằng lụa Hà Đông, doạn và gấm rất dắt tiền. Mỗi giá đổng, người lên đồng thay xiêm y ngay trước bàn thờ, rồi mặc một bộ thích hợp với giá đổng đó. Thường thường hẩu 3 giá đồng là đã mất mấy giờ rổi. Trình tự mỗi giá phải trải qua 3 cồng đoạn. - Cầu thánh nhập đồng. - Thánh múa, thánh hét, hú, thánh phán, thánh ban lộc, thánh chữa bệnh. - Thánh thăng và chuyển giá. Ba giá dổng gồm có: Giá Mẫu, giá quan lớn Tuần Chanh, giá Bà chúa. Người nhiều tài lộc, có thể hẩu 4 - 5 giá. Tiền ban lộc thường là tiền lẻ, dể ban phát cho cung văn và các con công dệ tử ngồi chung quanh cùng với kẹo bánh đã chuẩn bị sẵn. Đối với bệnh nhân, giá đồng 70
cho bủa chú, tàn hương nước thải, hoặc bấm huyệt, xoa bóp ngay tại chỗ đau. Người Ốm có ảo tưỏng bệnh nhạ hẳn đi, tin tưởng rồi sẽ khỏi. Tiền và lộc được phát nhiểu lần, như thế cũng để giữ chân người hẩu cận Người lên đồng do khói hương, tập trung tâm trí vào việc tưỏng tượng, lại được cung văn hát dẫn chương trình, được mọi người chung quanh tấu hát, tự thấy bay bổng lửng lơ trong khồng khí êm ái huyễn hoặc, hành động như cái máy, như mộng du, nhẩy nhót, múa máy thoát trần, biến thành đấng siêu phàm, thần thông quảng đại, uy phong lầm lẫm trong bộ y phục cực kỳ xinh đẹp, say trầu, say rượu, say hương khói và âm nhạc dìu đặt, ve vuốt. Những phút thăng hoa, được ca ngợi, được nũng nịu, được ra uy như vậy, người lên đổng thực sự dược hưỏng hạnh phúc. Người chung quanh cũng có những phút giây thư giãn, vợi bớt nỗi cay đắng, vất vả thường ngày. Nếu lên đồng đúng mức độ, đừng lãng phí, không quá mê tín, không để ảnh hưỏng đến chổng con và đạo đức phẩm chất người phụ nữ, biết theo gương hiền đức của Mẫu, tư cách uy phong của ông hoàng bà chúa, thì có thể coi như một hoạt động câu lạc bộ văn nghệ hoặc tâm linh, chống căng thẳng có hiệu quả. Phần lớn, người lên đồng đểu có hoàn cảnh riêng, tâm sự riêng, đáng thương xót, chỉ có Mẫu là thấu hiểu, ta đừng vội phê phán. Nếu lên đồng không hại đến ai, dành cho một số người được sống những giây phút thiêng liêng, gắn bó với nhau, tin nhau và yêu thương nhau, giảm nhẹ mọi phiền muộn thì lên đồng được coi là một hiện tượng văn hóa, cần được hướng dẫn uốn nắn vào mục đích muốn làm điểu thiện, dùng thời giờ nhàn hạ để di dưỡng tinh thẩn, phát huy khả năng âm nhạc, vũ điệu và đoàn kết thân ái với mọi người. Cốt lõi của tục thờ Mấu Mẫu là gọi theo tiếng Hán, tiếng Việt Nam gọi là Mạ, Mệ, Mẹ, tại sao lại có tín ngưỡng thờ Mẹ? Đó là từ thời nguyên thủy con người bắt đầu có ý thức sâu sắc về sự sinh sản, sự sinh sôi nảy nỏ, ỷ thức ấy thường biện lý từ cái cụ thể. Mà cái cụ thể về giá trị sinh sôi nảy nở, không gì khác ngoài người mẹ mang nặng đẻ đau, sinh ra nuôi dưỡng che chở cho những đứa con, và những cái gì sinh sồi, nuôi sống che chở bảo vệ cho con người, chiến thắng thiên tai và thư dữ ấy đều được coi là mẹ. Theo ý nghĩa trên đây, người mẹ biểu tượng đẩu tiên nuôi sống, che chỏ cho con người ấy là Mẹ Cây. Cây cho mầm, cho rễ, cho quả để con người ăn sinh sống ban đầu, cây cho vỏ để người mặc, cây cho cành cho những rễ phụ để con người kết lại thành võng treo mình trên đó qua đêm và tránh thú dữ sát hại. P.Engels trong sách “Nguồn gốc gia đình chế độ tư hữu và nhà nước” đâ viết ý là: ít nhất con người còn sống ở trên cây một phần, thì mới có thể giải thích được rằng họ có thể sinh tồn cùng với thú dữ. 71
Hiện nay ở xã Tiên Nông (khởi thủy nghề nông), bên bờ sông Lô, thị xã Tuyên Quang có đền thờ Mẫu Ỷ La. Nay đền đã quang đãng, nhưng trước đây không lâu, bao quanh đền là cả một rừng cây đa cổ thụ, rễ phụ đan nhau chằng chịt. Cũng ỏ thị xã Tuyên Quang, có một đền Ỷ La khác trên núi La thờ bà chúa Thượng Ngàn. Hoặc như đền Bắc Lệ Hữu Lũng Lạng Sơn, thờ bà chúa Thượng Ngàn, cũng trồng rất nhiều cây đa, cây si đã thành cổ thụ được gọi là cây thiêng, cây bất tử tỏa bóng che cho khách hành hương. Ỷ là dựa, La là lưới là võng, rễ những cây đa cây si được Tết thành lưới thành võng như những cái nôi ru đưa con người nguyên thủy chìm vào trong giấc ngủ qua đêm tránh thú dữ. Bỏi thế Ỷ La trỏ thành biểu tượng đầu tiên về Mẹ thiêng liêng. Theo tác giả Toan Ánh, trong sách “Nếp cũ”, có nói ỏ đền Bắc Lệ, Lạng Sơn treo bức tranh Mẩu Thượng Ngàn ngồi trên chiếc võng giăng giữa hai cây trong rừng xanh, xung quanh có nhiều vườn chim và các cô nàng đứng hầu hạ. Việc thờ Mẫu mang tính chất là thờ Mẹ Cây Mẹ Rừng này còn thấy rõ nét ỏ nhiều nơi. Như ỏ đền Hai Bà Trưng, Đồng Nhân, Hà Nội, trên bàn thờ Mẫu treo bức hoành phi đề “Tam mộc sâm đình”, hay ỏ đầu bàn thờ Mẩu thấy bức hoành phi đề như thế này, ấy là mang tính chất thờ Mẫu ban đầu là Mẫu Sơn Lâm. “Tam mộc sâm đình” là ba cây làm nên rừng lớn. Dân ta có câu: “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Đấy là hình ảnh nói vể sức mạnh đoàn kết cộng đồng bắt nguồn từ thờ Mẫu “Tam mộc sâm đình”. Hoặc như nhiều làng dệt ở vùng Hà Đông cũ mang tên La Khê, La cả thờ tổ dệt là Mẫu La. Mẫu Ỷ La mang tính chất là Mẩu Thượng Ngàn, Mẩu Sơn Lâm được nhân cách hóa thành những huyền thoại như sau: - Vua Hùng Định Vương có bà hoàng hậu thứ ba, tên là bà An Nương, mang thai khá lâu, bà đi chơi giữa rừng xanh, trở dạ đẻ, bà vịn vào gốc cây quế cổ thụ, đau đớn vất vả lắm mới sinh được con gái, nhưng bà kiệt sức mất ngay sau khi sinh con. Con gái được vua cha đặt tên là Mị Nương Quế Hoa. Lớn lên Quế Hoa rất xinh đẹp, nhiều hoàng tử xin kết duyên, nhưng nàng không hề để ý, chỉ hiềm một nỗi nhớ nhung tìm mẹ. Nàng cùng 12 thị nữ, đi khắp rừng xanh tìm mẹ. Trên đường đi nàng gặp rất nhiều dân tình đói khổ vào rừng đào củ mài kiếm ăn, nàng rất xót xa thương dân tình đói khổ. Với lòng nhất mực hiếu thảo tlm mẹ, và lòng bác ái thương dân, nàng đã được tiên ông hiện xuống cho sách quí có phép màu, làm núi sông thông thương trỏ lại, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, cuộc sống dân lành ấm no, yên vui trỏ lại... Đám mây ngũ sắc hạ xuống đón bà và 12 thị nữ về trời... Nhân dân thương nhớ tôn Nàng là Thượng Ngàn Thánh Mẫu, lập đền thờ, nay là đền suối Mơ ở Hữu Lũng Lạng Sơn. Câu chuyện trên đây, tất hình thành nên sau này, như chuyện Tấm Cám có 72
ông Tiên cho phép lạ, nhưng cốt lõi ở đây là bà Mẹ Rừng xanh và Thánh Mẫu Thượng Ngàn. - Thánh Tản Viên sau khi thắng Thủy Tinh, được vua Hùng gả con gái là Ngọc Hoa. Tản Viên và Ngọc Hoa sinh được người con gái hiền thục đặt tên là La Bình (ỏ đây ta lại gặp chữ La là lưới, là võng). La Bình luôn đi theo cha khắp núi rừng săn bắn. Đi đến đâu La Bình cũng quyến luyến với núi rừng, cây cỏ, muông thú. Thấy vậy Thượng đế phong cho nàng là nữ chúa rừng xanh. Từ đó nàng càng gắn bó với núi rừng, dạy bảo muôn loài cầm thú, không gây điều ác. Do công lao ấy thượng đế giao cho nàng cai quản 81 cửa rừng xanh à chốn Nam Giao. Nàng còn có công giúp triều Lý thắng Tống, Trần thắng Nguyên, nhất là giúp quân ông Lê Lợi thắng giặc Liễu Thăng ỏ Lạng Sơn. Vì vậy nàng được tôn là chúa Thượng Ngàn, nhân dân lập đền thờ, nay là đền Bắc Lệ ở Hữu Lũng Lạng Sơn, cách đền Suối Mơ không xa. ở đây câu chuyện có hai ý, một là con người còn sống chung với muông thú trong rừng sâu, và con người đã khuất phục chiến thắng được thú dữ. Hai là câu chuyện được kéo về chúa Thượng Ngàn giúp dân ta chống giặc Bắc, mà Lạng Sơn là địa đầu trong các cuộc kháng chiến ấy, nên Bà lại được qui về thờ ở Bắc Lệ. - Câu chuyện Mẩu Thượng Ngàn hay Mẫu Đệ nhất, là một cô gái người Dao ở Động Cuông, Yên Bái. Khi cô sinh ra, bố mẹ đã già yếu, từ nhỏ đến lớn cô chỉ làm việc thiện, không lấy chồng, khi chết Bà hiển linh giúp đổ dân làng được nhiều điều tốt đẹp, nên Bà được thờ ỏ các tình Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái và Bà cũng báo mộng cho ông Lê Lợi, ông Nguyễn Trải biết được đường tiến quân của giặc Minh để thắng chúng ỏ Lạng Sơn, nên cũng được thờ ỏ đền Bắc Lệ, ỏ Đổng Đăng Kỳ Lừa Lạng Sơn. Cũng với những câu chuyện trên đây, ở việc đồng bóng thường xuyên xuất hiện các mẫu đệ nhất, đệ nhị là các chầu bà người miền núi: Dao, Tày, Nùng nhập đồng, đã phản ảnh đậm nét thời kỳ mẫu xuất hiện gắn với con người còn cư trú trên miền rừng núi. Mà dấu tích của nó là hệ thống các đền thờ Mẩu còn thấy ở trên miền núi. Cùng với các đền Ỷ La, đền Bắc Lệ, đền Suối Mơ giới thiệu trên đây, ta còn biết các ngôi đền khác, như đền Giùm thờ Mẫu Thủy ngàn ở cửa sông Lô đổ vào sông Hồng Yên Sơn Tuyên Quang, đền thờ Mẹ Âu Cơ ỏ xã Hiền Lương bên sông Theo Yên Bái, đền thờ Mẩu bên Thác Bờ Hòa Bình, đền Chợ củi thờ Mẫu Thượng Ngàn ỏ thượng nguồn sông La Nghệ Tĩnh. Như vậy, có thể nói được rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu ỏ người Việt hay ở Việt Nam, khỏi đầu gắn với con người còn cư trú trên các miền rừng núi. Có nghĩa là tín ngưỡng thờ Mẫu khởi nguyên từ miền rừng núi thờ Mẹ Cây và sau này gọi Mẩu Thượng Ngàn, Mẩu Sơn lâm, rổi theo dòng lịch sử, dần đi xuống trung du đổng bằng, bổ sung thêm những Mẩu khác. 73
Khi con người xuống trung du, đồng bằng sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, cây lúa hạt gạo là yếu tố quan trọng hàng đầu nuôi sống con người, rồi các cây hoa màu, cây ăn quả, Mẹ Cây vẫn gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Và con người làm nông nghiệp lúa nước, thì đất và nước là hai đối tượng quan trọng tiếp theo được tôn thờ. Đất và Nước được tôn vinh thành Mẹ Đất Mẹ Nước và cố tên khác Mẫu Địa, Mẫu Thủy gia nhập vào hàng ngũ Mẫu dược tôn thờ. Thế nhưng quyết định có nước lại là mưa từ trên trời rơi xuống, con người chưa hiểu nổi qui luật của mưa là nước bốc hơi lên thành mây mưa, cho dó là trời quyết định, mẹ trời được tôn vinh, Mầu Thiên gia nhập vào hàng ngũ Mẫu. Tín ngưỡng là từ thực tế cuộc sống, con người đặt ra những lực lượng tôn vinh, tồn thờ phù hợp với cuộc sống của mình là thế. Mẹ Cây, Mẹ Rừng (sau này gọi Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu Sơn Lâm). Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Trời (thời tiết, khí hậu), hay gọi theo tiếng Hán là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa, Mẫu Thoải (Thủy), Mẫu Thiên là hệ thống Mẫu cơ bản ban dầu của tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong bốn Mẫu trên đây, Mẫu Sơn Lâm đã được nhân cách hóa như trên. Còn Mẫu Thủy dược nhân cách hóa như sau: - Dị bản từ làng A Lữ kể rằng, thuở trời đất mới mở mang, rừng núi sông hồ hoang vu, kinh Dương vương thường đi chu du khắp nơi, một hôm tới hồ Đông Đình gặp người con gái sắc đẹp tuyệt trần, con vua Long Vương hồ Đông Đình. Kinh Dương Vương lấy nàng làm vợ, sinh ra Sùng Sản, chính là Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nở trăm con, Tổ tiên Lạc Việt, từ Rồng, từ nước. Có truyền thuyết lại nói Mẫu Thoải không phải là một bà mà là nhiểu bà. Các bà đểu là con của Lạc Long Quân, trong đó chọn được ba người, giao cho quản lĩnh sông biển nước Nam, đóng dinh ỏ sông Nguyệt Đức. Một bà có hiệu là Thủy Trinh Động đình Ngọc Nữ công chúa. Bà thứ hai có hiệu là Hoàng Hà Đan Khiết phu nhân. Bà thứ ba là Tam Giang công chúa. Tam Giang nay là ngã ba Sà Yên Phong Bắc Ninh. - Một truyền thuyết khác, do người pháp là Durant sưu tầm, kể rằng ở vùng Tuyên Quang, có một hoàng tử con vua đất là Kinh Xuyên, lấy vợ là con gái Long Vương ỏ hổ Đông Đình, bà rất yêu chồng, Nhưng Kinh Xuyên lại lấy vợ hai tên là Thảo Mai. Thảo Mai ghen ghét vỢ cả, vu cáo vợ cả không chung thủy với chồng. Bực tức, Kinh Xuyên nhốt vợ cả vào cũi, đem bỏ vào rừng cho thú dữ ăn thịt, ở trong rừng, bà vỢ cả không những không bị thú dữ ăn thịt, mà chúng còn mang hoa quả nuôi sống bà. Một hôm có một nho sĩ đi qua, bà nhờ nho sĩ viết thư gửi cho cha là Long vương, bà được cứu thoát. Long vương muốn gả bà cho nho sĩ, nhưng ông từ chối, chỉ nhận là người bạn trung thành của bà. Đề cao đạo đức của bà, người đời tôn bà là Mẫu Thoải hay còn gọi là Mẹ Nước lập đền thờ ỏ Tuyên Quang, gọi 74
đền Giùm, bên hữu ngạn sông Lô như đã giới thiệu. Qua những câu chuyện nhân cách hóa viết vể Mẹ Nước trên đây, ta thấy yếu tố nho giáo ban dầu chưa hội nhập và tín ngưỡng thờ thần. Và Mẫu Thoải vẫn khồng tách khỏi các yếu tố ban đầu của nó, lấy chồng là con gái vua Đất, mẹ Nước bị bỏ vào trong rừng, Ba yếu tố Đất, Nước, Cây vẫn được nhấn mạnh trong ý niệm ban dầu của tín ngưỡng thờ Mẫu. Đến Mẹ Đất, Mẹ Trời thì được nhân cách hóa khi Phật giáo du nhập. Qua câu chuyện Bà Man Nương, làm thủ hộ ở chùa Luy Lâu, do nhà sư Khâu Đà La (người Ấn Độ vô tình bước qua người bà, khi bà nằm ngủ thiếp ỗ hiên cửa trai phòng, bà động thai, sinh bé gái. Bà đem trả con cho nhà sư, nhà sư đem bé gái, đọc thần chú, gửi vào trong gốc cây dung thụ. về sau mưa to gió lớn, cây dung thụ đổ trôi về bên sông Dâu. Em bé gái trước đây nằm trong gốc cây dung thụ biến thành Thạch Quang Phật, cây dung thụ được tạc thành 4 pho tượng, tôn làm bà Pháp Vân, bà Pháp Vũ, bà Pháp Lôi, bà Pháp Điện đây là 4 yếu tố gắn với thời tiết, khí hậu: Mây mưa sấm chớp, thành hệ thống chùa Tứ Pháp thờ ỏ nhiều nơi trên đồng bằng Bắc bộ. ở đây ta thấy Mẹ Trời được triển khai thành Mây Mưa sấm Chớp, cho kết hợp với Phật giáo thành các Bà, vẫn là yếu tố Mẹ. Và đặc biệt sự nhân cách hóa này, Mẹ Trời vẫn là hòa quện với ba yếu tố ban đầu là Đất, Cây là cây dung thụ và Nước là cây dung thụ theo dòng nước chẩy về bến sông Dâu. Việc thờ Mẹ Cây, Mẹ Đất, Mẹ Nước xưa kia phổ biến ỏ các làng quê trung du đổng bằng Bắc bộ. Với bộ ba luôn dí liền nhau với nhau và, giếng làng, Cây đa, cây si hoặc cây đại với bệ bên gốc đa, đặt các bình vôi đã nứt vỡ, từ trong các gia đình dưa ra. - Đến đây một vấn đề đặt ra là tại sao người Việt lại sâu sắc tôn thờ những đối tượng Cây, Đất, Nước và Trời thành các mạ, đó là do nằm trong bản chất văn hóa Việt Nam, mang tính triết học biểu hiện ra như sau: + Một là: Sâu nặng ý thức nhớ về cội nguồn. Qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tín ngưỡng thờ thần là những vị có công dựng làng, giữ nước, thể hiện rất rõ điều đó. Còn đối với người mẹ mang nặng đẻ đau nuôi dưỡng nên những đứa con, thì nghĩa mẹ thật là sâu nặng không cùng. “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, nước trong nguồn chảy ra không bao giờ hết, không bao giờ cạn, thì nghĩa cả ơn Mạ chẳng bao giờ nguôi. Từ ý thức ấy, mở rộng ra tầm nhìn văn hóa, thì những cái gì là yếu tố có ý nghĩa quyết định sinh sôi ra của cải hạt gạo bát cơm, tố chất cơ bản bao đời nuôi sống con người cư dân nông nghiệp lúa nước, thl cũng có thể ví như công ơn nghĩa Mẹ. V) thế Cây, Đất, Nước (thời tiết khí hậu) được tôn vinh như những bà Mẹ văn hóa. + Hai là: Văn hóa Việt Nam nặng triết lý âm sinh dương thành chứ không phải 75
âm thịnh dương suy. Biểu hiện ở văn hóa nông nghiệp lúa nước, nên rất đề cao yếu tố yên tĩnh hòa bình rất coi trọng tình nghĩa xóm làng, để đoàn kết, tạo sức mạnh chống thiên tai địch họa, làm thủy lợi. Và trong ứng xử bang giao thì hiếu hòa hơn hiếu thắng và biết “cúi đầu để giữ nước” cũng là âm tính. Nhưng âm phải vận hành trong sinh sôi phát triển, vì thế “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh”. Bỏi thế văn hóa Việt Nam, mọi trách nhiệm và vinh quang đểu qui về người mẹ, “con dại cái mang”, “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, sông cái, đường cái, trống cái, thúng cái, rồi thì mẹ Quê hương, Mẹ Tổ quốc, Mẹ Việt Nam anh hùng... Từ những điều mang tính triết lý văn hóa trên đây, mà ỏ Việt Nam người mẹ được tôn vinh, người mẹ có riêng một tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ mẹ, gọi theo tiếng Hán là Mẫu. Cũng như chỉ có Việt Nam mói có riêng một bảo tàng về phụ nữ Việt Nam. Từ những dẫn giải trên đây có thể kết luận; cố t lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là tôn thờ bốn đối tượng Cây, Đất, Nước, Trời, những yếu tố cơ bản sản sinh ra của cải vật chất, hạt gạo, bát cơm, tố chất cơ bản bao đời nuôi sống con người cư dân nông nghiệp lúa nước, thành các bà mẹ văn hóa, gọi chung là tín ngưỡng thờ Mẩu. Các Mảu trong xã hội phong kiến được tôn lên như những bà chúa. Mà chúa thì ở phủ, vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu với bốn đối tượng trên đây được gọi là tín ngưỡng Tứ Phủ đó là Mẫu Sơn Lâm gọi Nhạc phủ, Mẫu Địa là Địa phủ, Mẩu Thủy là Thủy phủ, Mẫu Thiên là Thiên phủ.
19. TÍN NGƯỠNG TỨ PHÁP HÌNH THỨC THỜ MẪU Được PHẬT HÓA Tứ Pháp là biểu tượng, là hiện tượng tín ngưỡng của người nông dân Việt cổ cầu xin mưa hòa gió thuận: - Lạy trời mưa xuống. - Lấy nước tôi uống. - Lấy ruộng tôi cày. - Lấy đầy bát cơm. - Lấy rơm đun bếp... ở kinh bắc Tứ Pháp đã trỏ thành trung tâm cầu mua từ thời Man Nương đến thế kỷ XII và sau này sử sách Việt Nam từ Lý - Trần - Lê đều chép rằng: Mỗi khi đại hạn nhà Vua thường đi cầu mua ở chùa Pháp Vân hay rước tượng Pháp Vân từ xứ Kinh Bắc về kinh thành Thăng Long. Và đặt tượng ỏ chùa Một Cột, khi nào mưa 76
mới rước tượng trỏ về xứ Kinh Bắc. Chuyện kể rằng: Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Châu (187 - 226), nhà sư Ấn Độ A Đà La tới trị sỏ của Sĩ Nhiếp ỏ Luy Lâu, được một người mộ đạo mời về nhà mình ở. Cô con gái mang thai, sinh con gái, bế đi tim để trả A Đà La. Su niệm chú cho một cây lớn tách đôi ra, đặt đứa bé vào giữa hai mảnh cây khép lại. Bão giật đổ cây, nước lũ cuốn đến thành Luy Lâu. Sĩ Nhiếp cho kéo cây lên bờ nhưng không được. Man Nương đến đẩy nhẹ, cây tự lăn lên bờ, Sĩ Nhiếp sai lấy gỗ tạc 4 pho tượng Tứ Pháp. Gặp năm hạn hán, ông cho bày 4 pho tượng ra làm lễ cầu đảo. Lễ xong, mưa to gió lớn, sấm chớp. Thời Bắc thuộc trước sự o ép ngoại bang, thần linh bản địa cũng chịu chung số phận với dân Việt. Đạo Phật đã như một cứu cánh, là chỗ dựa của cả Thần và người để chuyên chô, thúc đẩy sự phát triển cho một ý thức và tâm hồn dân tộc còn trong manh nha. Môi cảnh ấy đã cho phép thần linh nông nghiệp Việt được Phật hóa. Người Việt đã có ý thức tiếp thu yếu tố tích cực của văn hóa Trung Hoa và văn hóa Phật giáo, đó là khả năng phân tích tổng hỢp, để một mà hóa thành nhiều. Nhiều là biểu hiện của một. Một là chân như là bản thể là Phật Mẫu, nhiều là biểu hiện cụ thể từng mặt, là hóa thân thích ứng trong từng hoàn cảnh..., là Tứ Pháp. Thực ra không đơn giản chỉ như vậy, cùng với việc thờ Tứ Pháp còn nhiều yếu tố của tín ngưỡng dân gian cổ truyền, khiến chúng ta phải đặt ra nhiều vấn đề: - Một là: Về không gian thờ Tứ Pháp. Dựa trên những hiện vật và kiến trúc còn lại, nếu xét dấu vết từ thế kỷ XVI về trước, thì hiện thấy chùa thờ Tứ Pháp chỉ tìm thấy ở vùng Bắc Ninh cũ, nhu chùa Dâu ở Thuận Thành, chùa Ninh Hiệp ở Gia Lâm, chùa Thái Lạc ở Hải hưng vào các thế kỷ sau việc thờ Tứ Pháp theo chiều hướng phát triển của tín ngưỡng mà mỏ rộng hơn, như ỏ Hải Phòng, ỏ Vụ Bản Nam Định và phần nào Tứ Pháp đồng nhất với Tứ Phủ. Rộng ra, có thể tin được chính Bà Đen ò Tây Ninh cũng là một dạng gần xa của Tứ Pháp. Vậy cho ta nghĩ rằng: Tín ngưỡng Tứ Pháp là một hình thức thờ Mẫu được Phật giáo hóa ỏ giai đoạn đầu thời kỳ khai phá châu thổ thấp của Bắc bộ, là một mốc trên bước đường phát triển của lịch sử văn hóa dân tộc. Tín ngưỡng này được định hình khi ân trí cha đủ sức tiếp thu những ý nghĩa thuộc lĩnh vực hình nhi thượng học của Phật giáo và tinh thần của các hệ triết học lớn khác. - Hai là: Trong kho tàng huyền thoại về người Mẹ, sự tích về Man Nương được tạm coi như sớm nhất. Lược bỏ cái vỏ đời thường th) Man Nương mang tư cách như một mẫu khởi nguyên, từ Bà, mà các mẫu thuộc Tứ Pháp (mây, mua, sấm, chớp) hạ thế để mang ân huệ cho đời. Rồi khi đạo Phật phát triển ỏ nước ta, Tứ Pháp cũng trò thành những hóa thân của Đức Phật, để nhiều ngôi đền thờ các vị trỏ thành chùa. Đó là một biểu hiện văn hóa Phật giáo mang đậm bản sắc Việt Nam (chùa Dâu, chùa Đậu...), nó vượt ra ngoài giáo luật để biểu hiện các ước vọng truyền đời của nông dân. Không những thế, Mầu còn nhập thân vào Phật đài, để nhiều hình tượng Chu Phật, Bồ Tát mang dạng nữ nhân, trong đó nổi lên hơn cả là 77
Quan Âm (ở Ấn Độ mang hình tượng nam) với nhiều dạng khác nhau, nhu bà Chúa Ba chùa Hương. Rồi Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Tống Tử... và gọi chung bằng tên dân dã là Phật Bà. Bên cạnh đó vẫn luôn tồn tại một điện Mẫu riêng, thường được thờ trong khuôn viên của chùa, tại một trong các nhà phụ ở phía sau hoặc một tòa ngang. Nhiều khi cảnh sinh hoạt ỏ diện thờ Mẫu quá sầm uất khiến một số nhà sư nhất là sư nữ cũng xao nhãng cả việc Phật mà tận tâm với Mẫu. Hay đúng ra, cảnh thờ Mẩu có cả một hệ thống thờ đầy đủ từ Tứ Phủ cộng đồng đến Tứ Phủ Thánh Cô, Cậu. - Ba là; Tứ Pháp là ai? Nhiểu người nói là Đức Phật. Điều đó không sai. Song, trước hết phải nhận rằng, đó là các thẩn linh nông nghiệp, các ngài được hình thành khi con người Việt cổ lấy nghề nông làm cơ bản vì Họ đã rời khỏi rừng núi xa dời nghề săn bắt và hái lợn. Trong Tứ Pháp thì Man Nương là Phật Mẫu, mà gốc gác có nhiều biểu hiện là thần nước, thần hạnh phúc..., là bà Mẹ của các thần liên quan, có bóng dáng của Mẹ xứ sở. + Pháp Vân - Thần tạo ra mây. + Pháp Vũ - Thần tạo ra mưa. + Pháp Lôi - Thần tạo ra sấm chớp. + Pháp Phong - Thần tạo ra gió. Đây là các thần vì con người mà được sinh ra. Điều đáng lưu ý những ngôi chùa mà các vị thẩn trên ngự lại mang những tên dân gian là chùa Bà Dâu, chùa Bà Dàn, chùa Bà Tương (tướng) và trong Phật điện của các chùa này ngoài tượng Phật và các tượng Bồ tát.... còn thấy chính giữa có một Phật tượng rất to là hình tượng của cá bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn, bà Tướng. Những tượng này không ngồi trên tòa sen, mà dược đặt trong ngai và đều được sơn màu cánh gián hay nâu sẫm, là màu của đất đai châu thổ Bắc bộ hay cũng là màu áo của những vị tăng ni miền Bắc. Theo các nhà nghiên cứu đây là sự đan xen hay hỗn dung văn hóa giữa Phật giáo và tín ngưỡng nông nghiệp cổ truyền, do vậy, lễ hội các chùa này được tổ chức vào đầu tháng tư lịch trăng, theo tương truyền là ngày Phật Đản 8 - 4 : “Dù ai buôn bán trăm nghề Nhớ ngày mùng tám thì về hội Dâu”. Suy cho cùng, vì ý nghĩa Tứ Pháp trong nhận thức của người dân rất sâu sắc và Ổn định nên các chùa liên quan dã dậm nét về bản sắc văn hóa dân tộc, chúng luồn được quan tâm tu bổ. Chùa Tứ Pháp là một trọng điểm về nghệ thuật tạo hình Phật giáo Việt Nam. - Bốn là: vể chùa tổ của Tứ Pháp. Trong Phật điện chùa Pháp Vân còn thờ một tượng đá trong khám gỗ nhỏ, tương truyền đó là tượng đức Thạc Quang gắn 78
với huyền tích về Man Nương. Sự tích này được chép đầu tiên trong sách Việt Điện u linh (1339) và được kể chi tiết trong sách cổ Châu Phật bản hanh. Theo các sách này thì Man Nương (người Man tức là người bản xứ) là con gái của ông bà Tu Định - tức là các vị cư sĩ tu tại gia tại làng Mân Xá (cách chùa Dâu khoảng 1 - 2 km). Từ lâu người ta đã dựng lên ỏ làng này một ngôi chùa thờ Phật mẫu Man Nương và gọi là chùa Tổ. Lễ hội hằng năm cả 5 chùa cùng mở vào ngày 8 tháng 4. Đám rước 4 chị em vể chùa Tổ bái vọng Mẹ. Dâng hương, cầu kinh xong, đám rước trỏ vể. Lần lượt: Bà Tương về chùa Phi Tương, Bà Dàn về chùa Phương Quan. Bà Dâu về chùa Diên ứng. Cuối cùng, Bà Đậu về chùa Thành Đạo. Cho đến nay chúng ta khó có thể hình dung một cách chính xác vể các ngôi chùa Tứ Pháp Việt cổ. Theo nhà nghiên cứu Phật học Nguyễn Lang cho rằng các ngôi chùa cổ xa của Việt Nam chỉ là các ngôi chùa nhà, nhỏ nhoi khiêm nhường được làm bằng gỗ như sau này ta gọi là Am. Chùa Tổ và hệ thống chùa Tứ Pháp cũng không nằm trong trường hợp ngoại lệ. Hệ thống chùa Tứ Pháp và trốn Tổ còn tồn tại đến ngày nay là một sản phẩm văn hóa lớn của cha ông ta để lại. Tín ngưỡng Tứ Pháp được Phật hóa mang tư cách mở đầu cho một nét độc đáo mới trong một bước đi mới của xã hội và lịch sử Phật giáo Việt Nam. Tứ Pháp đã trở thành một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, một sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa cộng đồng, Phản ánh rõ nét về một khía cạch cụ thể của bản sắc văn hóa dân tộc. Chỉ tiếc rằng chúng ta cha ứng xử xứng đáng với quà tặng của tổ tiên.
20. PHONG TỤC THỜ MẪU THƯỢNG NGÀN Là hóa thân của Thánh Mầu toàn năng trông coi miền rừng núi, địa bàn chính sinh sông của các dân tộc thiểu số. Các đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở hầu khắp mọi nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính được gắn bó với hai truyền thuyết ít nhiều có sự khác biệt là Suối Mỡ và Bắc Lệ. Khác Với mẫu Thượng Thiên. Mẫu Thượng Ngàn xuất thân từ người trần, tuy có là con gái hay cháu Vua Hùng. Đó là sự gắn bó với núi rừng, thiên thiên, cây cò, chim thú... Người có phép tiên có thể mang lại yên vui, ấm no cho dân lành. Họ hiển thánh và trở thành vị thần bảo vệ cho núi rừng, bản lang. ở Tây nguyên, tục thờ Mầu do người Việt mang vào lại được đồng nhất với Mẫu Thượng Ngàn với Âu Cơ, Mẹ Tiên... Mẹ Âu cơ đã trở thành Thánh mẫu cai quản vùng rừng núi. Bới thế, trong các động Sơn Trang trong các đền thờ khu vức Tây Nguyên thường được làm tái hiện sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lâm Cung Thánh Mẫu hay Mẫu Thượng Ngàn hoặc Bà Chúa Thượng Ngàn là một trong ba vị mẫu được thờ cúng tại điện Mẫu, cạnh đình, chùa của người Việt, 79
chủ yếu ỏ miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Bà được tạc thành hình một phụ nữ đẹp, phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp và mang trang phục màu xanh khi được đặt cùng hai vị mẫu kia là Mầu Liễu Hạnh và Mẩu Thoải hoặc được thờ riêng trong một điện. Việc thờ phụng Mẩu Thượng Ngàn là một đặc điểm của tín ngưỡng gắn liền với núi rừng của người Việt. Bà là một nhân vật mang tính truyền thuyết và đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng hầu bóng Tam Phủ hay Tứ Phủ. Truyền thuyết Bà là con gái của Sơn Tinh tức Tản Viên Sơn Thánh và công chúa Mị Nương trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh cả hai cùng cầu hôn Mị Nương, con gái vua Hùng. Khi còn trẻ, Mẩu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là La Bình. Học tập La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền Trung du đổi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản Viên Sơn Thánh cai quản, ông đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp ruộng bậc thang, trồng lúa nước... hay dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa bệnh, ông cũng thường cùng các vị sơn thần, tù trưởng luận đàm thế sự và bàn soạn công việc. Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điểu, vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay. Những lẩn như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc. Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hỢp, ân cần với mọi người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc... Cai quản Khi Tản Viên và Mị Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trỏ về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền Trung du đổi bãi trập trùng của nước Nam. Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, công chúa Thượng Ngàn vẫn luôn luôn chăm chỉ, hằng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của mình. Bà bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hỢp với nhau, dạy chúng đừng ăn những 80
loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối đổ, những cơn lũ quét... Bà dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ. Những gì cha bà đã dạy, bà đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các tù trưởng, bà cũng học thêm ỏ họ được nhiều điều. Thế là bà lại đem những điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi. Bà cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha bà mới chỉ là bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết chạm trổ cho thật đẹp đẽ. ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn, chẳng những chỉ có kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới. Rồi công việc đồng áng, bà dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm. Trong các con vật nuôi trong nhà, bà đem về thêm nhiều giống gia súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về... Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ỏ miền Trung du và núi non hùng vĩ. Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt của công chúa Thượng Ngàn. Cùng với nhiều vị thần thánh khác, công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhiều người gọi bà là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi mà cũng vừa tôn kính. Phù hộ Người ta cho rằng các chiến công quân sự của nhiều triều đại Việt Nam đều có sự phù hộ của bà. Vì thế, các triều đại này, sau khi thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho bà là công chúa. Một truyền thuyết cho rằng hồi đầu thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì quân Minh kéo đến bao vây. Nghĩa quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi. Trong đêm tối, công chúa Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lổn, soi đường cho quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh. Ánh đuốc thiêng của bà, chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn thấy. ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hỢp, phát triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chỏ của công chúa Thượng Ngàn, quân đội của Lê Lợi vẫn ngày một thêm lớn mạnh. Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng đành phải 81
chịu rút về. Từ Chí Linh, quân Lê Lợi tiến vào giải phóng Nghệ An, Thuận Hóa. Sau đó, với những trận thắng oanh liệt ở Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng và cuối cùng, bao vây quân Minh ở Đông Quan để kết thúc cuộc chiến, lập lại hòa bình cho nước Việt. Thờ phụng Công chúa Thượng Ngàn, cũng như nhiều vị thần thánh khác, được nhiều người tôn thờ, và được coi là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn dắt con cháu vững bước đi lên. Bà có mặt ỏ khắp nđi, theo bước chân của dân chúng, khi ở miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng. Vì vậy, ở nhiều ndi người dân lập điện thờ, thờ phụng bà. Tuy nhiên, đại bản doanh của bà vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn được bình yên, vạn sự tai qua nạn khỏi, thường đến cầu xin sự che chở, phù trỢ của bà. Ai muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hưdng, cầu xin để được bà chấp thuận.
21. PHONG TỤC THỜ MẪU
t h ư ợ n g t h iê n
Mẫu Thượng Thiên: Sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, mưa, sấm, chớp. Về phưdng diện vũ trụ quan ta có thể thấy quan niệm về Mẫu nói chung và Mầu Thiên nói riêng, trong quan niệm của dân gian về Tứ Pháp: Pháp vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi, đó là 4 vị nữ thần tạo ra mây, mưa, sấm, chớp vốn liên quan tới Thần Mưa của tín ngưỡng nông nghiệp. Thực ra những huyền thoại và huyền tích của Mẫu Thượng Thiên đều trực tiếp liên quan đến Thánh Mẫu, Liễu Hạnh, là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, vị thần chủ cao nhất và được thờ cúng nhiểu nhất trong đạo Mẫu Việt Nam. Trong điện thần Tứ Phủ, Mẫu Liễu Hạnh là vị thánh xuất hiện khá muộn, theo các nhà nghiên cứu về văn hóa dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện sớm nhất cũng chỉ vào khoảng thế kỷ XVI, thời Hậu Lê, nhưng Bà nhanh chóng trỏ thành vị Thần Chủ của Đạo Mẩu và được tôn vinh hdn tất cả các Thánh mẫu khác. Cũng theo quan niệm dân gian, Mẫu Liễu Hạnh còn có thể hóa thân vào Mẫu Thượng Ngàn trông coi miền rừng núi, hay thành Địa Tiên thánh Mầu Mẹ Đất, cai quản mọi đất đai và đời sống sinh vật. Nếu ai có dịp vào Huế, Ô Huế Thánh Mẫu Vân Cát, Mẫu Liễu Hạnh hoặc là đặt ngang hàng hoặc là đồng nhất với Thánh Mẫu Thiên YaNa nguyên gốc của đồng bào Chăm. Liễu Hạnh Công chúa là một trong những vị thần quan trọng nhất của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hoặc ở nhiểu ndi thuộc vùng Bắc bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẩu. 82
Liễu Hạnh Công chúa được thờ ỏ rất nhiều nơi như phủ Giầy, phủ Tây Hồ và đền Sòng Sơn Vọng Từ ỏ (Hà Nội), đền Sòng và đền Phố Cát, Phủ Giày... trong đó, phủ Giầy ở Vụ Bản Nam Định là nơi quan trọng nhất. Hằng năm, đến ngàý húy của bà, dân chúng đi trẩy hội rất đông, đặc biệt là ỗ hội Phủ Giầy vào tháng 3 âm lịch. Thành ngữ có câu: "Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ", nói về ngày giỗ của hai vị được dân gian thờ cúng: Cha là Vua Cha Bát Hải Động Đình và Trần Hưng Đạo, còn “Mẹ” chính là bà Chúa Liễu. Bà còn được tôn vinh trong hệ thống tứ bất tử. Bà thường được thờ cùng với hệ thống Tam Phủ, nên tạo thành Tứ Phủ. Mẩu Liễu Hạnh còn được thờ trong một tín ngưỡng riêng gọi là Tam Tòa Thánh Mẫu. Đời thứ nhất Mãu giáng sinh tại thôn Quảng Nạp xã Vỉ Nhuế huyện Thái An phủ Nghĩa Hưng trấn Sơn Nam, trong nhà thái ông họ Phạm hiệu là Huyền Viên, thái bà hiệu là Thuần hai người cùng một quê. ổ đời này mẫu cũng luôn giữ chữ Trinh hiếu thảo thờ phụng cha mẹ, sau trở về chốn linh tiêu, mẫu tại thế từ năm Giáp Dần niên hiệu Thiệu Bình nguyên niên năm 1434 cho tới năm Quí Tỵ niên hiệu Hồng Đức thứ 4 năm 1473. Đời thứ hai của mẫu giáng sinh vào nhà thái công họ Lê tại xã Vân Cát huyện Vụ Bản phủ Nghĩa Hưng, thái công họ Lê tên húy là Đức Chinh. Tới tuổi trưỏng thành được gả cho Trần Đào Lang ỏ thôn An Thái sau đổi là Tiên Hương, sinh được một con trai tên là Nhâm, ở kiếp này mẫu tại thế từ năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên 1555 cho tới năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái thứ 5 năm 1577. Đời thứ ba của mẫu giáng sinh tại xã Tây Mỗ huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa, lấy chồng họ Mai là tái hỢp với hậu thân của Đào Lang, sinh được một con trai tên là cổn, được hơn một năm mẫu quay gót trỏ về đế hương. Sau Ngọc hoàng chuẩn cho mẫu được trắc giáng xuống cõi trần thường xuyên tiêu dao khắp nơi, được miễn vòng sinh tử luân hồi. Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyển năng mây, gió,sấm, chớp... Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào khoảng đội hậu Lê, nhưng nhanh chóng trỏ thành vị Thần chủ của Đạo Mẫu Việt Nam và đưoc tôn vinh với tư cách là Mẩu Thượng Thiên, đưoc thờ ở vị trí trung tâm, mặc trang phục màu đỏ. Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thương đế, do lỡ tay làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê ở nơi ngày nay thuộc tỉnh Nam Định vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chổng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân 83
dân đã lập đền thờ bà. Đền Sòng tỉnh Thanh Hóa. Bà đã được thánh hóa và trỏ thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.
22. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
thoải
Thủy cung Thánh Mẫu còn gọi là Mẩu Thoải, chữ thoải là đọc trệch từ chữ thủy là vị nữ thần dân gian Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý các miền sông nước. Quan niệm dân gian Theo quan niệm dân gian Việt Nam, Mẫu Thoải có mặt ở khắp mọi nơi để âm phù. Mẫu Thoải giúp đỡ mọi người mỗi khi đi qua các vùng sông nước. Do vậy, mỗi khi bước xuống đò, qua một khúc sông rộng, người ta thường lẩm nhẩm cầu khấn, xin Mẩu phù hộ độ trì. Mỗi khi có hạn, Mẫu phái tướng sĩ đi lo việc làm mưa. Còn khi bão lụt, Mầu lại hóa phép để gió yên, mưa tạnh. Các loài thủy quái, thủy trặc, do có các thần tướng của Mẩu canh chừng, nên cũng không thể tùy tiện tác oai, tác quái. Trong dân gian, Mầu Thoải là hình ảnh của bà mẹ hiển lành, đảm đang, suốt đời lo lắng cho con cho cháu. Thờ cúng Mãu Thoải được thờ tại hầu hết các đền chùa có bàn thờ Mẫu. Mẫu còn được thờ làm thành hoàng ở một số vùng thời xưa chuyên nghề sông nước. Giỗ !à ngày 12 Tháng Sáu âm lịch khi các con nhang đệ tử làm lễ cúng tế rất lớn. ở điện thờ Mầu, nếu có đặt ba pho tượng nữ, giống nhau ở gương mặt, tư thế ngồi, và chỉ khác ỏ trang phục, thì ỏ bên phải là Mẫu Thượng Ngàn, ỏ giữa là Mẫu Liễu, còn bên trái là Mẫu Thoải. Tại các tượng hoặc ảnh thờ, Mẫu Thoải thường có trang phục màu trắng. Truyền thuyết - Thuyết về vợ vua Thủy Tề Có thuyết nói Mẫu là vị thần lưỡng tính. Lưỡng tính theo nghĩa: Mẫu là phụ nữ, nhưng được Ngọc Hoàng Thượng đế ban cho sức mạnh và tài năng, nhất là tài sông nước, như nam giới. Thuyết này cho rằng Mẫu Thoải là vợ của vua Thủy Tề, là Hoàng hậu ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trông coi các việc ở biển, còn Mẫu trông coi các việc ỏ sông, suối. Do sông suối có ỏ khắp nơi nên Mầu cũng có mặt ỏ khắp nơi, nhất là tại các bến sông lớn. 84
Một ví dụ cho thuyết này: ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Mãu Thoải được thờ là Thành hoàng và có sắc thượng phong đề “Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại vương”. - Thuyết về ba người con gái Lạc Long Quân Cũng có thuyết nói Mẫu, không phải một, mà là ba. Ba mẫu này là con gái của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trong số các con, Lạc Long Quân đã chọn ba người giao cho việc cai quản sông biển nước Nam. + Thủy tinh Động đình Ngọc nữ Công chúa. + Hoàng Bà Đoan khiết Phu nhân. + Tam giang Công chúa. Ba bà đóng dinh cơ ỏ sông Nguyệt Đức và có nhiệm vụ coi sóc các sông nước, luồng lạch, dạy dân chế tạo thuyền bè và đan các thứ lưới bắt cá, chế ngự các vị thần mưa, thần gió mỗi khi các vị này lạm công, xâm hại đến hạ giới. Các Mẫu còn làm mưa và giúp dân chống lụt. Ghi chép trong sử sách Đồng bằng Bắc bộ thường xuyên có nạn lũ lụt. Khi Lý Thái Tổ, vua đầu tiên của nhà Lý, dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, ông bắt tay ngay vào công việc trị thủy. Công việc tiến hành phải đến đời vua sau, đời Lý Thái Tông, mới căn bản xong, các đoạn đê đã được nối vào nhau và có quy mô gần như ngày nay. Trong những năm xây dựng hệ thống đê, nạn lụt vẫn thường xảy ra. Khi đó, Mẩu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven kinh thành Thăng Long để âm phù, giúp dân đắp đê chống lụt. Tại các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ... nay vẫn còn ghi lại các thần tích. Vào thời Lê, niên đại Vĩnh Thọ, có lần nước sông Hổng dâng lên rất cao, tràn cả vào Yên Phụ. Nhà vua phải thân hành làm lễ Nam giao. Các Mẩu Thoải đã lập tức ứng hiệu và âm phù giúp dân chống lụt và xua đuổi thủy quái. Đời Lê Thánh Tông, nhà vua đem quân đi đánh Chiêm thành. Khi thuyền đi qua vùng Phú Xuyên, Kim Bảng, thì một trận cuồng phong nổi lên. Vua sai lập đàn tràng để cầu xin các vị thần thánh. Mẩu Thoải hay tin, phái một tướng đến dẹp yên gió. Khi thắng trận trỏ về, nhà vua nhớ công ơn, phong tặng cho tướng ấy là thượng đẳng thần, lấy hiệu là Nguyệt Nga công chúa.
85
23. TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI Tự NHIÊN Do là một đất nước nông nghiệp nên việc sùng bái tự nhiên là điều dễ hiểu. Điều đặc biệt của tín ngưỡng Việt Nam là một tín ngưỡng đa thần và âm tính trọng tình cảm, trọng nữ giới. Có giả thuyết cho rằng đó là do ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ thời xưa tại Việt Nam. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới, do ảnh hưồng của tín ngưỡng phồn thực như đã nói ỏ trên nên các vị thần đó không phải là các cô gái trẻ đẹp như trong một số tôn giáo, tín ngưỡng khác mà là các bà mẹ, các Mẫu. Thờ Tam Phủ, Tứ Phủ Tam Phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần; Bà Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẩu Thoải). Tứ Phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp, về sau do ảnh hưỏng của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần Mặt Trời là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng. Việc thờ trời ở Việt Nam có trước ồ Trung Quốc. Thờ Tứ Pháp Tứ Pháp là danh từ để chỉ các bà thần hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ truyền thuyết vể Man Nương Phật Mẩu. Tứ
Mây, Mưa, sấm, Chớp, đại diện cho các trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi thần này được biến thành Tứ Pháp với Pháp gồm:
- Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu. - Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu. - Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng. - Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn. Ảnh hưởng của Tứ Pháp ỏ Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa.
24. TẬP TỤC THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN Đền Kiếp Bạc ỏ làng Vạn Yên, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương là nơi thờ Trần Hưng Đạo, còn gọi là đức thành Trần. Năm 1257, khi quân Nguyên Mông sang đánh nước ta, Trần Hưng Đạo được vua cử làm Tiết chế, chỉ đạo cuộc kháng chiến, lập công lớn. Năm 1283, vua lại cử 86
ông làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh toàn quân và đưa sự chỉ huy mưu lược và tài giỏi của ông; quân giặc liên tục bại trận ở khắp nơi. Năm 1288 chúng buộc phải rút khỏi nước ta. Trần Hưng Đạo là danh tướng xuất sắc của nước ta suốt hai ngàn năm nay, để lại nhiều chiến tích hiển hách, ông được phong tước vương nên gọi là Hưng Đạo Vương. Trong tâm thức dân gian, Trần Hưng Đạo trở thành một vị thánh. Đức Thánh Trần được thờ ở nhiều nơi. Vùng Vạn Kiếp, một địa điểm chiến thắng của ông, trỏ thành chốn thờ tự uy nghiêm; hằng năm mỏ Hội đền Kiếp Bạc vào ngày 20 tháng 8. Khách từ khắp nơi đến rất đông. Người đi trẩy hội lấy việc lễ bái hàng đầu, bởi vậy hội ỏ đây chỉ có lễ bái, không có các trò bách hý như ở các hội khác.
25. TẬP TỤC THỜ CÚNG THÁNH sư Thánh sư (Tiên sư hay Nghệ sư) tức là ông Tổ một nghề, người đã truyền dạy nghề đó cho đời sau. Các vị Thánh sư rất được tôn trọng, ở nhiều nơi, những người cùng làm một nghề, cùng buôn một thứ hợp nhau thành phường, có miếu thờ Thánh sư riêng: ngày giỗ của Thánh sư gọi là giỗ phường, cúng giỗ tại miếu và mọi người trong phường cùng tới lễ. Các thành viên trong phường phải cùng nhau góp tiền để cúng giỗ. Những phường to thường có tài sản riêng, có ruộng vườn để lấy hoa lợi dùng trong việc thờ tự Thánh sư. Giỗ phường có khi được làm rất to, có tổ chức các trò vui như một ngày hội: múa rối, hát chèo, đánh đu, đánh cờ... Bàn thờ Thánh sư Người Việt bao giờ cũng biết nhớ ơn những người có công với mình, nên ngoài bàn thờ Thánh sư ỏ miếu phường, mỗi thành viên của phường đều thờ Thánh sư tại nhà riêng. Bàn thờ được thiết lập trên một hương án kê sát tường hậu gian bên. Trong cùng chính giữa hương án là một chiếc bệ, trên có kê bài vị Thánh sư gồm tên họ, nghề nghiệp sáng tạo của Thánh sư. Bài vị này có khi được thay bằng một bức chân dung của Thánh sư. Có nhà thờ cả một pho tượng Thánh sư thay cho bài vị. Trước bài vị là một chiếc bàn nhỏ có kê đài rượu có nắp đậy. Trước bàn này là bát hương hoặc đỉnh trầm với hai bên có đèn nến, ống hương, mâm bồng... Ngoài cùng cũng có một chiếc y môn. Cũng có gia đình đã lập ban riêng để thờ Thánh sư, ở ngoài cửa ban có treo một chiếc mành nhật nguyệt vẽ long phụng chầu hai bên. Nghi thức cúng Thánh sư Vào những ngày Sóc vọng, tuần tiết, giỗ Tết, trong khi cúng gia tiên và Thổ 87
công, gia chủ cũng cúng Thánh sư với đồ lễ tương tự như đồ lễ cúng Thổ công: nhưng lễ cúng Thánh sư quan trọng nhất trong năm nhằm vào ngày kỵ nhật của Thánh sư. Văn khấn Thánh sư cũng như văn khấn Thổ công, chỉ thay đổi cung thỉnh Thổ công thành cung thỉnh Thánh sư, theo như bài vị của từng nghề, mỗi nghề một Thánh sư. Thí dụ, ông trạng Bùng tức Phùng Khắc Khoan dạy dân ta nghề dệt the lụa vào đời vua Lê Kính Tông. Những người hành nghề, mỗi khi gặp việc trắc trỏ, đều làm lễ kêu khấn Thánh sư để được phù hộ gặp sự may mắn.
26. TẬP TỤC THỜ CÚNG TRONG NGHI THỨC LÊN ĐỒNG Lên đồng hay còn gọi là hầu đồng, hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian (dòng Saman giáo) của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam. vể bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các tín đồ Saman giáo (ông đồng, bà đồng). Người ta tin rằng các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đổng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ. ở Việt Nam, lên đồng là nghi thức không thể thiếu trong các thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, (Được gọi là Thanh Đổng)... về hình thức, nghi thức lên đồng hầu về Hội Đồng Thánh Trần mang tính saman nặng hơn khi lên đồng hầu về Tứ Phủ bỏi hầu về Hội Đổng Thánh Trần có các hành động trực tiếp lên thể xác Thanh Đồng (người ở ngoài nhìn đôi khi thấy sợ) như đi trên than hồng, xiên lình (dùng thanh sắt sắc nhọn đâm xuyên qua hai má và xuyên qua quả cau trong miệng thanh đồng), ăn lửa, lên đai (một hình thức thắt cổ,có người được gọi là sát căn, có khi lên 3 đai)... Người đứng giá hầu đổng gọi chung là Thanh Đồng,Thanh Đồng là nam giới và được gọi là "cậu", nữ giới được gọi là "Cô hoặc Bà Đồng". "Cậu" thường mặc bộ quần áo lụa, mặt tô son điểm phấn (tóc có thể để dài như con gái). Thường có hai hoặc bốn phụ đổng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng) đi theo Thanh Đồng để chuẩn bị trang phục, lễ lạt... Trong một buổi lên đồng thì có rất nhiều "giá". Mỗi lần thay giá, người ta lại phủ lên "cậu" một tấm khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và lúc này Thanh Đồng đang ỏ một “giá" mới và phải thay bộ trang phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng... sao cho tương xứng với "giá" này. Khi thì Thanh Đồng hóa thân thành một vị tướng, khi thì là một quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái đang tung tăng nhảy múa... Điệu múa của Thanh Đồng cũng 88
được thay đổi theo đặc điểm của "giá". "Giá" quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích; giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không: giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không,múa cờ : giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa,múa khăn lụa,múa đàn, múa tay không: giá các cậu thường múa hèo, múa lân... Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô và Cậu. số lượng giá trong một buổi lên đồng có khi lên tới 36 giá. Trong lúc Thanh Đồng đang hóa thân thì bốn phụ đồng ngồi quỳ chân ỏ dưới cũng nghiêng ngả và múa may hưỏng ứng Thanh Đồng theo nhịp câu hát. Những nắm tiền lẻ sau khi được Thanh Đồng tung ra, ban phát cho những người xung quanh được coi là tiền lộc và được những người đứng xem xung quanh nhặt lấy cất giữ để lấy may. Nhạc hát thông thường là điệu chầu văn hoặc là hát nói có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần thánh và vẻ đẹp tiên giới. Nhạc khí chủ đạo là đàn nguyệt, bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống... ở miền Bắc Việt Nam có Phủ Giầy là ndi hay tổ chức lên đồng nhiều nhất. Với các giá ông Hoàng thì nhóm đàn hát (được gọi là "Cung văn") sẽ ngâm các bài thơ cổ. Lúc này, Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác thưởng tiền cho Cung văn và dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước... Tới giai đoạn cao trào của Thánh thì người đứng giá thường múa gươm hoặc bơi thuyền. Do vậy, ỏ Việt Nam có câu hát "cậu bắn súng lục, cô bơi thuyền rồng" là để chỉ sự này. Một số dân tộc thiểu số ỏ Việt Nam cũng có nghi thức giao tiếp với thần linh như tín ngưỡng Mỡi của người Mường, tín ngưỡng Then của người Tày, Nùng. Tuy nhiên, khác với nghi thức lên đồng của người Việt, sự giao tiếp với thần linh ỏ Mỡi và Then chủ yếu thông qua hình thức xuất hồn, tức là các ông Mỡi, bà Then có khả năng thoát hổn khỏi xác bay đi gặp gỡ, cầu xin thần linh phù hộ cho dân chúng. Ngày nay, lên đồng vẫn còn là nhu cầu tâm linh, là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của một bộ phận người Việt. Các nghi lễ này thường được tổ chức nhiều lần trong một năm vào các dịp lễ tiết, thường là tại các lễ hội đền thánh, phủ mẫu... Ngoài việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, truyền thống tín ngưỡng Việt Nam còn tin tưởng rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang sống. Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào đồng cô, đồng cậu (người gọi đồng) để trò chuyện vói thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện âm - dương này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân quá cố về mỗ mả để điều chỉnh và cúng xin cho phù hợp. Đồng thời, thông qua cuộc đối thoại này, người sống cũng biết được vận mạng tương lai của mình. Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động lên đổng bị chính quyền xem là hoạt động 89
mê tín dị đoan do nhiều trường hỢp việc lên đổng dã bị nhiều người lợi dụng vào mục đích xấu. Tuy nhiên, nhiều hội thảo khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam, trong đó có lên đồng đã được tổ chức, nhiểu ấn phẩm của các học giả đã được xuất bản.
27. TRÌNH Tự CỦA LỄ LÊN ĐỒNG Đây là nghi lễ nhập hồn nhiều lẩn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác các ông đồng, bà đồng, là sự tái hiện các hình ảnh các vị thánh nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ đạo Mẫu. Nghi thức lên đồng mang những sắc thái địa phương, trong đó có kể đến Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Trong lên đồng, mỗi lần một vị Thánh nào đó nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng (nhập đồng) rồi lại xuất hồn (thăng đồng) thì gọi là một giá đồng. Trong một giá như vậy, đầu tiên là một vị Thánh nhập đổng, thay trang phục, làm lễ cúng Thánh Mau, nhảy múa, ban phúc lộc, phán truyền rồi thăng đồng (xuất đồng). Trong nghi thức hầu bóng, để cho Thánh nhập người hầu đồng phải thoát khỏi trạng thái tâm lý bình thường, họ không còn là họ nữa, mà chỉ là cái xác để Thánh nhập vào, do vậy mà tùy từng vị thánh mà người hầu đồng có những hành động, tư thế nét mặt khác nhau sao cho phù hợp với vị thánh đó. Để tạo lên trạng thái tâm lý như vậy, ông đồng, bà đồng phải đưa mình vào trạng thái ngây ngất này, ngoài bàn thờ và hương khói các màu sắc mạnh của đồ thờ, quẩn áo còn có vai trò của âm nhạc, lời hát, tiếng trống, rượu, trầu, thuốc lá... Nghi lễ mở đầu Trước khi hầu đồng, ông đồng, bà đồng thông qua người chủ đển phải làm lễ chúng sinh và lễ Thánh. Đồ lễ chúng sinh được đặt trên một cái mâm, trên đó có các đồ vàng mã cắt thành hình quần áo, tiền, vàng, thỏi bạc, những bát cháo, bánh trái và thức ăn khác. Có khi trên mâm còn có mấy đồng tiển bỏ vào mâm, chậu nước dành cho những vong hồn chết đuối. Lễ chúng sinh có mặt trong tất cả các nghi lễ của tín ngưỡng Tứ Phủ và các tín ngưỡng dân gian khác, dành cho những vong hồn chết dữ hay không có người thừa nhận, không có người hương khói cúng giỗ. Trang phục Về nguyên tắc mỗi vị thánh nhập đồng thì phải có trang phục riêng, do vậy có bao nhiêu giá thì có chừng ấy bộ trang phục tương ứng.Nhứng trang phục cơ bản không thể thiếu được trong các buổi hầu đồng là khăn phủ diện màu đỏ dùng chung cho tất cả các giá đổng khi Thanh đồng giáng đồng hay thăng đổng, các loại 90
áo dài, các loại mũ, khăn, thắt lưng, dai, thẻ ngà vòng... Điểu dặc biệt là màu sắc trang phục phải phù hỢp với từng Phủ của vị thánh đó như Tiên Phủ - màu đỏ, Nhạc Phủ - màu xanh, Thoải Phủ - Màu trắng, Địa Phủ - màu vàng. Con nhang đệ tử Là tín đồ của đạo Mẫu, con nhang là những người đã làm lễ đội bát hUđng, gửi bản mệnh của mình (bát hương) vào một đền phủ nào đó để thờ thần linh Tứ Phủ che chở. Hằng tháng, cứ ngày mùng một và ngày rằm phải đến đền mà mình gửi bát hương để cúng lễ. Đệ tử có thể là những người chưa gửi bát hương vào đền phủ nhưng có lòng tin vào sự linh thiêng của Thánh Mẫu. Do vậy vào dịp lễ Tết hay lên đồng họ thường tham dự và cầu xin Thánh Mầu ban tài lộc.
91
It. THỜ CÚNG TÔ TIÊN - TÍN NGƯỠNG DẶC SẮC CỦA NGƯỜI VIỆT
1. THẾ NÀO LÀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG Tổ TIÊN? Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, phong tục thờ cúng tổ tiên hay còn gọi được gọi khái quát là Đạo ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là tổ tiên, của nhiều dân tộc Đông Nam Á và đặc biệt phát triển trong văn hóa Việt và văn hóa Trung Hoa. Đối với người Việt đó gần như trỏ thành một thứ tôn giáo; không gia đình nào không có bàn thờ tổ tiên. Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất (còn gọi là “kỵ nhật”) thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là “ngày ta”). Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mùng một (ngày sóc), ngày rằm (ngày vọng), và các dịp lễ Tết. Khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử..., người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau.
2. NGUỒN GỐC CỦA ĐẠO THỜ CÚNG Tổ TIÊN Sự thờ cúng tổ tiên xuất phát từ một tin tưởng người ta có phần thể xác và tinh thần. Phần tinh thần còn lại sau khi phần xác chết đi, thác là thể phách còn là tinh anh. Sự tin tưởng vào linh hồn bất diệt và sống trong thế giới u minh, hay là cõi âm là một tin tưởng có nguồn gốc sâu xa và rất phổ quát trong hầu hết các dân tộc tiền sử. Người tiền sử đối xử với người chết như khi họ còn sống và tin rằng linh hồn họ luôn luôn quanh quẩn cạnh người nhà để giúp đỡ và che chỏ cho những người ruột thịt. Những linh hổn ấy sống trong cõi âm nhưng vẫn quanh quẩn ỏ dương thế dù với mắt người không nhìn thấy được. Tục thờ linh hồn người chết này có rất sớm và tạo nên bản sắc tín ngưỡng truyền thống của Việt Nam. Qua nhiều thời gian, tục này có thay đổi nhưng trên cơ sở tin tưởng vào sự không hủ nát của linh hồn tổ tiên thì vẫn không thay đổi. Có thể nói rằng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng bản địa của dân 92
tộc Việt Nam có cùng với cư dân ỏ khắp nơi, không những từ miền Nam sông Dương tử xuống đến các hải đảo xa xôi ở Đông Nam Á. Khi bị văn hóa Hán, tiêu biểu là Nho, Lão, Phật xâm lấn, bao trùm thì tín ngưỡng này không mất, nhưng lại biến đổi lớp vỏ ngoài và đã làm cho văn hóa Hán phải thích ứng theo tín ngưỡng cổ. Còn những dân tộc ỏ quá xa xôi trong rừng sâu, không có điều kiện tiếp xúc với các nền văn hóa khác thì vẫn còn giữ tục thờ linh hổn nguyên thủy với những nghi thức chôn cất thờ cúng cổ xưa. Từ căn bản, quan niệm duy lý của Nho giáo về siêu hình là công nhận có linh hồn, có quỷ thần, nhưng không đặt nặng trọng tâm suy tư vào đó; kính quỷ thần mà xa ra. Thế mà chuyển sang sinh hoạt thì lại thờ người chết như đối với người sống (sự tử như sự sinh) tức là coi người chết như vẫn còn hiện diện trước mặt với đầy đủ ý thức tâm tình của người sống và nhất là có khả năng làm được nhiều điểu mà người sống bị hạn chế. Biến thái cao nhất của tục thờ cúng tổ tiên là những người đại biểu cho Nho Giáo, hay dùng Nho Giáo làm căn bản xây dựng hệ thống quyền lực cai trị, đã chủ trương việc tôn vinh những người có công có đức lúc sống bằng việc ban tên thụy, tế lễ long trọng trong dịp tang ma, ban tiền bạc, ruộng tế để con cháu thờ phụng. Không thể nói đó là thủ đoạn chính trị để mua sự trung thành của bể tôi, mà phải nghĩ rằng chính triều đình cũng cbia sẻ một đức tin vong hổn của những bể tôi vẫn luôn luôn ở cạnh để vẫn giúp vua như lúc sinh tiền. Nói đến đạo Nho thì phải nói đến chữ Hiếu. Con thờ cha mẹ không những lúc đang sống, mà ngay khi một vị quan dù lớn trong triều đình mà gặp tang cha mẹ, cũng phải xin nghỉ để cư tang, có khi còn làm túp lều bên cạnh mộ để gần gũi vong hồn mới mất của cha mẹ. Ngày nay chúng ta coi là cổ hủ vì chỉ nhìn ỏ hiện tượng: nhưng thực ra đó cũng xem rất giống như đầu mối của tục thờ ma của một số bộ tộc còn sinh sống gần đây trên các vùng thượng du hay cao nguyên, là khi người thân chết, họ đặt vào áo quan làm bằng một thân cây đục rỗng, dựng ỏ góc nhà, như thế để sớm hôm ra vào vẫn như còn gần gũi như lúc còn sống. Một thời gian lâu sau mới đem chôn. Quan niệm người chết đi sang một thế giới khác vẫn sinh hoạt tuy có thể thay đổi vị thế, như khi cón sinh tiển nên thân nhân phải lo cho người chết đầy đủ để cuộc sống ỏ thế giới mới không gặp khó khăn, thiếu thốn. Việc tùy táng do đấy có tính chất phổ quát không chỉ ỏ dân tộc Việt Nam, mà còn có ỏ nhiều dân tộc khác trên thế giới từ rất lâu đời vẫn còn tồn tại đến ngày nay, dù đã có vài thay đổi về chi tiết. Khi đã phát triển thành một xã hội nông nghiệp định cư trên một địa bàn rộng lớn, thì việc thờ cúng gia tiên cũng tiến hành song song với sự thành hình rộng rãi gia tộc. Lúc ấy bắt đầu nảy sinh quyền hạn và bổn phận riêng của gia tộc cũng như cộng đồng. Những sinh hoạt tâm linh cũng thay đổi theo chiều hướng cái nào thích hỢp với xã hội mới thì được chuyển hóa; cái nào không hợp thời sẽ bị đào thải. Tục 93
thờ cúng gia tiên là một chuyển hóa quan trọng từ tín ngưỡng thờ linh hồn, và nó trở thành căn bản cho tổ chức gia đinh, lớn hơn là họ hàng đối với xã hội đã định cư. Tục thờ cúng tổ tiên tuy có nguồn gốc từ tín ngưỡng cổ sơ nhất của loài người, nhưng qua thời gian và địa phương lại có những thay đổi về nghi thức và phạm vi, nó biểu lộ rõ ràng sự tiến bộ trong tổ chức xã hội nông nghiệp. Thông thường việc thờ cúng tổ tiên của chung một họ diễn ra ở nhà thờ tổ và được giao cho một người gọi là thừa tự trông nom săn sóc bàn thờ, đèn hương cúng vái ngày thường và tổ chức ngày giỗ để con cháu tụ họp đông đủ lễ tổ tiên, sau đó thừa huệ cỗ bàn, Ta gọi là trước cúng sau ăn. Giỗ to nhỏ tùy theo ngôi vị trong gia tộc. Gần như người ta không quên một phần tử nào trong gia tộc đã thất lộc. Ngay những người chết trẻ thường được coi là linh thiêng nên thờ gọi là bà cô hay ông mảnh. Từ tín ngưỡng thờ linh hồn sơ khai đã biến ra một thứ phải gọi là Đạo thờ cúng tổ tiên với đẩy đủ đức tin và nghi thức đã làm nên sức mạnh tinh thần cho những thành phần trong gia tộc mà xét về nhiéu mặt tích cực cũng như tiêu cực phải gọi là yếu tố căn bản của văn hóa Việt Nam.
3. Ý NGHĨA CỦA TỤC THỜ CÚNG Tổ TIÊN? Thờ cúng tổ tiên là một bổn phận và nhiệm vụ trọng đại đặc thù của người Việt Nam. Trong quảng đại quần chúng xưa và nay, người ta thường nói “đạo thờ ông bà” là tín ngưỡng sâu sắc, nhưng không là một tôn giáo, “đạo” nói ở đây phải hiểu là dường lối. Thờ cúng tổ tiên là một trách nhiệm có tính cách luân lý, sự phát lộ tình cảm và lòng tin huyết thống được thể hiện trong môi trường gia tộc, không có tính cách thẩn thánh hóa, nhất là không có tu sở như là chùa hay nhà thờ và cũng không cần có người giảng thuyết làm gạch nối liền giữa đạo và đời. Thờ cúng tổ tiên xuất phát từ tâm thành của người sống, thế hệ sau đối với người chết, thế hệ trước. Thờ thì phải có lễ và cúng bái, hành động biểu tỏ lòng tôn kính và nhớ thương. Dân tộc Việt Nam chủ trương Thờ cúng tổ tiên là vì đã từ lâu hiểu rằng “cây có cội, nước có nguồn”, ai ai cũng tưỏng nhớ đến nguồn gốc sinh thành ra mình. Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mạ, cha mẹ sinh ra mình. Người con hiếu thảo phải biết ơn nghĩa sinh thành của bố mẹ, và đã hiếu với cha mẹ phải hiếu với ông bà tổ tiên tức là nguồn gốc của mình. Lúc ông bà, cha me còn sống, con cháu phải phụng dưỡng, phải tuân theo các lời dạy bảo của các người, cũng như thờ các tổ tiên về trước. Thờ cúng tổ tiên nghĩa là lập bàn thờ tại nhà và cúng bái trong những ngày sóc 94
vọng giỗ Tết. Người Việt Nam thường ngoài tôn giáo của mình đều có thờ phụng tổ tiên, kể cả những người theo Thiên Chúa giáo. Thực ra thờ phụng tổ tiên không phải là một tôn giáo, do đó không thể gọi là đạo ông bà được. Là một đạo phải có giáo chủ, giáo điều và việc hành đạo phải qua trung gian tu sĩ. Thờ phụng tổ tiên do lòng thành kính và biết đn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà cụ kỵ đã khuất. Cây có gốc mới nỗ nhành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, thì con người phải có tổ tiên mới có thể có mình được. Bỏ tổ tiên không thờ phụng tức là quên nguồn gốc, huống chi ồng bà đã là những người sinh dưỡng cha mẹ và cha mẹ đã là những người sinh dưỡng mình. Những người theo Thiên Chúa giáo, tuy khồng lập bàn thờ tổ tiên, nhưng không phải là không thờ phụng tổ tiên. Những ngày giỗ chạp họ vẫn làm cỗ và cầu nguyện cho người đã khuất và việc không có bàn thờ tổ tiên là việc chuyển đổi bàn thờ tổ tiên đến bàn thờ Chúa, vậy nghĩa là vẫn có sự thờ phụng tổ tiên thông qua bàn thờ của Chúa. Qua việc thờ phụng tổ tiên tại Việt Nam, người khuất và người sống luôn luôn có một sự liên hệ mật thiết. Sự thờ cúng chính là sự gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ linh thiêng. Đối với người Việt Nam, chết không có nghĩa là chết hẳn, thể xác tuy chết nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn còn lui tới với gia đình. Thể xác thì tiêu tan, nhưng linh hổn thì bất diệt. Dân gian luôn tin rằng, trần sao âm vậy, người sống cần gì, sống làm sao thì người chết cũng như vậy và cũng có một cuộc “sống” ở cõi âm như ỏ trên dưđng thế. Nói cách khác đi, người chết cũng cần ăn uống tiêu pha, có nhà ở như người sống. Tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết, và việc thờ phụng tổ tiên không thể không có được, cổ tục lại có tin rằng vong hồn của những người đã khuất thường luôn ngự bên bàn thờ để được gần con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hằng ngày và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết.
4. NHỮNG D)P CÚNG LỄ GIA TIÊN Trong gia đình, khi có những biến cố vui, buồn... người ta đều cúng gia tiên. Ví như: - Ngày sinh con, - Ngày con đầy cữ, ngày con đầy tháng, - Con cái bắt đầu di học, - Con cái di thi cử, - Ngày dựng vợ, gả chồng cho con cái, - Lập được công danh, 95
- Xây dựng nhà mới,... - Nhà có người ốm đau, bệnh tật, - Nhà có người chết, lúc bắt đầu đưa tang, - Nhà có người đi xa,... Theo Phan Kế Bính, mỗi tuần tiết hoặc ngày kỵ, đều làm lễ cáo gia tiên, hoặc mùa có của mới, gạo mới, hoặc khi có việc hiếu, hĩ. Việc cúng vái gia tiên bao giờ cũng do gia trưỏng làm (trừ khi gia trưỏng có công việc phải đi xa nhà, thì người quan trọng thứ hai trong gia đình thực hiện).
96
III. T Ậ P TỤC THỜ CÚNG TRONG ĐẠO HIẾU
1. NGHI LỄ KHÂM LIỆM Trước đây dùng chữ khâm, liệm - tức là đại liệm và tiểu liệm. Nay chỉ nên hiểu đó là tục quấn người chết bằng tấm vải hoặc chăn mỏng trưởc khi đặt thi thể vào quan tài. Nhân dân ta có tập quán khâm ỏ trên giường và liệm phải hạ xuống đất. Khâm thì để vải dọc, liệm thì để vải ngang. Đồ khâm, liệm được đặt theo thứ tự trước sau trên chiếu: Đại liệm, chăn đại liệm, tiểu liệm, sau hết là chăn tiểu liệm, trên cùng là các đồ lót, đệm đầu và tay chân. Người chết được đưa xuống đặt ngay ngắn trên chăn tiểu liệm. Lót đầu, mình, chân tay cho ngay gọn xong gấp chăn bên trái trước, bên phải sau rồi gấp dưới chân lên và trên đầu xuống. Sau đó, dùng vải tiểu liệm buộc lại theo chiều dọc và chiều ngang. Xong tiểu liệm đến đại liệm cũng tưđng tự như vậy. Cuối cùng đặt người chết lên vải tạ quan, chờ nhập quan. Khi đã liệm xong thì không xem mặt nữa. Trường hỢp thật đặc biệt, sau khi đã khâm liệm, con cháu thân thiết ỏ xa về thl mới mỏ xem mặt. Hiện nay ở các thành phố, quan tài đều có tấm kính trên nắp thiên (ở phía đầu) nên vấn đề này không còn đáng ngại. Tùy theo số vải liệm của gia đình tang chủ chuẩn bị, tiến hành liệm người chết theo các bước sau: - Nếu tấm vải dài 6m (khổ vải 0,80 hoặc 1,2m) thì lấy 4m can thành hình gần vuông, 2m còn lại chia đôi để can vào phía đầu và phía chân thi hài. - Nếu tấm vải dài 8m thì can thành hình chữ nhật (một chiều 4m và chiều kia trên dưới 4m). - Nếu chăn mỏng cũng phải dài tối thiểu 2m. Liệm thi hài: Có hai cách liệm khác nhau (tùy theo tập quán của từng địa phương). + Cách thứ nhất: Đặt thi hài trên vải liệm (hoặc chăn mỏng) theo đường chéo góc từ phía trên đầu tới phía khoảng giữa hai gót chân. Phủ che mặt người chết bằng tờ giấy bản hoặc miếng sô màn mểm, có dây buộc vào phía sau đầu và cổ. Kéo mép vải ỏ hai bên sườn người chết lên trước ngực và bụng ở chéo góc, gấp góc vải phía dưới hai bàn chân lên, buộc một dây vải khoảng bắp chân, một dây ngang hông. Gấp góc vải liệm phía trên đẩu xuống ngực để buộc dây thứ ba ngang 97
vai, sau khi thân nhân đã xem mặt lần cuối cùng. Cách thứ hai: Đặt thi hài nằm chính giữa theo chiều dọc của vải, gấp mép vải hai bên theo chiều dọc thi hài, sau đó gấp mép vả ị phía chân và cuối cùng là gấp mép vải phía đầu, sau đó, buộc dây ở các khoảng như ở cách liệm thứ nhất. Từ xưa đến nay, vải dùng để khâm liệm nhân dân ta thường dùng vải trắng, vải trắng này là loại vải mộc hay vải mộc tẩy trắng, không dùng loại vải pha ni-lông, vì loại vải này khó tiêu hủy. Đối với các già (nữ) theo đạo Phật, vẫn còn giữ tục lệ khi khâm liệm mặc áo “lục thù”. Theo quan điểm của đạo Phật, đây là trang phục thể hiện người quá cố được “ăn mày cửa Phật”, nên khi quy tiên được mặc loại áo này do nhà Phật ban cho. Áo này là loại vải mỏng hoặc vải vuông được may đơn giản, trên áo có in chữ của nhà Phật. Đối với người chết do những nguyên nhân thông thường, thì sau khi tắt thò từ 6 - 8 giờ thì nhập quan. Nếu người qua đời do bệnh dịch, thì nhập quan càng sớm càng tốt. Trường hợp đợi người thân ở xa đang trên đường về cũng không được để quá thời hạn quy định. Trong việc tang, khâu khâm liệm được các gia đình tang chủ hết rất coi trọng, nên thường bố trí những người thân trong tang quyền trực tiếp làm, vừa để thể hiện tình cảm của mình, vừa để đảm bảo khâm liệm chu đáo. Trong tang lễ hiện nay, nhân dân ta vẫn giữ tục khâm liệm và dùng vải trắng để bọc thi hài. Song, khi thực hiện không nhất thiết phải là người trong nhà, có thể nhờ những người quen làm việc này giúp đỡ, hoặc do những người có chuyên môn của các bệnh viện làm cũng được. Thời xưa, người ta đều phải làm lễ phạt mộc trước khi nhập quan. Vì theo quan niệm truyền thống dân ta cho rằng trong chiếc áo quan, cho dù là cỗ hậu sự đã sắm sẵn, hay là áo quan mới mua ỏ cửa hàng về, đểu có “quỷ tinh” lẩn khuất để ám hại người chết và gieo tai họa cho tang gia. Lễ phạt mộc nhằm trừ khử hết lũ ma quái dó đi, bằng cách chém vào áo quan ba nhát. Để thực hiện nghi lễ này, người ta phải nhờ một thầy cúng cầm nén hương đang cháy, “đọc chú” thư phù trên một con dao, rồi dùng con dao này giơ lên chém khẽ ba nhát vào đầu, cuối, cạnh bên cỗ áo quan. Vừa chém, người thầy cúng vừa "niệm chú”, đại ý câu chú là tống khứ các loại thần trùng, quỷ tinh, ma quái và mọi loại tà ma khác ra khỏi áo quan, không cho chúng quấy nhiễu người chết và phá hoại cuộc sống bình yên của người sống, ở bất cứ tuổi nào, hay đi vể phương hướng nào. Người thầy cúng có lúc niệm chú khẽ trong họng, lại có lúc quát tháo như dọa nạt, thị uy. Người này cũng dùng những nén hương để “làm phép” trong lòng cỗ 98
quan tài. Tục lệ cho rằng: Với lễ phạt mộc, thần trùng và ma quỷ sẽ sỢ hãi chạy ra khỏi áo quan.. Người xưa còn giải thích rằng, ngoài việc đuổi thần trùng và ma quái, lễ phạt mộc còn có mục đích đuổi các mộc tinh vẫn thường ẩn nấp trong cây gỗ từ khi ỏ trong rừng cho đến khi cây gỗ bị hạ sau đó xẻ đóng làm áo quan, vẫn còn lẩn khuất trong áo quan. Khi lễ này kết thúc, người nhà tang chủ còn ném một nắm gạo - muối ra đường để tống tiễn hết mọi loại ma quỷ và mộc tinh ra ngoài quan tài.
2. NGHI LỄ NHẬP QUAN Khi đã thực hiện nghi lễ khâm liệm, thân nhân có mặt đứng theo thứ tự gần xa, trên dưới quanh quan tài để chuẩn bị thực hiện lễ nhập quan, cổ tục có quy định cho con trai đứng bên trái, con gái đứng bên phải người chết (cổ tục có nói đến những người “kỵ tuổi” với người chết và giờ chết trong vòng con cháu ruột thịt, phải lánh mặt ra chỗ khác, để ngừa tai họa về sau - người ta tin rằng người chết có thể bắt theo), cổ tục này ngày nay phần lớn đã bị loại bỏ. Nếu gia đình nào đã chuẩn bị tấm vải tạ quan (tấm vải lót ở đáy quan tài) thì những người lo việc nhập quan nâng người chết lên bằng bốn góc của tấm vải tạ quan, sau đó đặt nhẹ nhàng thi thể vào áo quan. Nếu không có tấm vải tạ quan thì người ta dùng 3 đoạn dây luồn ở dưới thi thể, những người thực hiện cầm các đầu dây nhẹ nhàng đặt thi hài vào quan tài. Chú ý không nâng thi hài trực tiếp bằng tay để nhập quan. Khi nhập quan xong, để quan tài đúng vị trí thờ. Quan tài sau khi đã miết kín các mạch hở, đáy quan tài cần phải rải một lớp chè bồm, hoặc gạo nếp rang cháy dày khoảng 3 - 4 phân để hút hđi ẩm từ thi thể toát ra, nhằm giữ cho thi thể luôn luôn khô ráo. Trước đây, theo tập quán của nhân dân ta, sau khi rải lớp gạo nếp rang cháy vào đáy quan tài thì đặt lên một mảnh ván có đục 7 lỗ theo vị trí sao Bắc đẩu - gọi là mảnh ván “thất tinh”, để khí ẩm và hdi nước trong thi thể toát ra, được hút vào gạo rang qua 7 lỗ đó, phong tục đục 7 lỗ là theo sách Thọ Mai gia lễ. Ngày nay người ta có thể thay tấm gỗ bằng những tờ giấy bản có đục lỗ, để ngăn cách phần than tro gạo nếp rang cháy với thân thể người chết để hút ẩm. Có thể đục 7, 9, 11 lỗ là tùy quan niệm của con người. Nhưng phải đục lỗ để có chỗ thoát ẩm và hđi nước, đây là việc làm cần thiết, Khi đặt thi hài vào quan tài, cần dự phòng một số vật liệu để kê, đệm, lót (nếu quan tài rộng), làm cho thi thể cố định thành một khối với quan tài, khi di chuyển quan tài không lắc lư, xê dịch. Đặc biệt phải kê lót phía đầu quan tài thật chu đáo. Vật liệu kê, đệm nên dùng các gối bông nhỏ, hoặc gấp giấy bản hay vải mềm nhiều lớp, dày mỏng tùy theo khi kê, đệm và phần đầu phải cao hđn phần chân. 99
Một số địa phướng có tập quán dùng bát úp để kê đệm phẩn đầu, hoặc dùng vàng thoi (vàng làm bằng giấy màu dán trên cốt nam hình chữ nhật) để kê đệm và chèn hai bên tai vừa đỡ đi những phẩn bông, vải tốn kém, lại vừa’ ‘được về mặt tinh thần. Nếu quan tài còn chỗ trống thì có thể bỏ thêm quần áo, giày dép, đồ dùng thường ngày của người mới qua đời, để khi đậy nắp quan tài phải vừa khít, khi di chuyển quan tài, thi hài sẽ không xê dịch. Một số gia đình vẫn giữ tục lệ khi nhập quan có rắc cỗ bài tổ tôm (đã bỏ đi 4 quân bát sách) trên thi hài, hoặc dùng bùa dán ở phía trong, phía ngoài quan tài; hoặc dùng lịch Tàu, lịch ta, hoặc tàu lá gồi bỏ vào quan tài để “trấn áp” ma quỷ. Nhiều gia đình khi nhập quan đều nhờ thẩy cúng chọn giờ để mong tránh hậu họa về sau. Sau khi nhập quan xong, đậy nắp quan tài (quan tài chưa đóng cá hoặc đóng đinh ỏ ván thiên), nhằm đề phòng có những lúc cần mỏ ra theo yêu cầu của thân nhân; hoặc để phòng có trường hỢp chỉ mới chết lâm sàng. Khi quan tài đã được nhập xác thì được gọi là “linh cữu”. Từ lúc này, những con cháu “kỵ tuổi” phải tránh mặt ra ngoài từ trước đã được phép trở về để cùng với mọi người thực hiện các nghi lễ của việc tang. Quan tài thường được đặt ở gian chính, đầu để ở phía trong, chân phía ngoài. Thời xưa người ta còn để sẵn dây thừng (dây buộc lớn) và đòn khiêng để đề phòng có lúc gặp bất trắc có thể ki.p di chuyển. Cổ lệ còn định rằng: Trong trường hỢp người chết còn cha mạ sống, linh cữu sẽ được đặt ở gian bên cạnh, trên đầu có quàn khăn tang cho cha mẹ. Trong trường hỢp nhà chỉ có một phòng thì linh cữu phải được đặt chệch sang một bên, tránh đặt giữa nhà. Lễ nhập quan cử hành theo những thủ tục nghiêm trang như sau; - Các con cháu vào đứng trước người chết. Người chấp sự xướng: Tự lập. Các con cháu đứng gần vào. Lại xướng: Cử ai, con cháu khóc rổi quỳ xuống. Người chấp sự cũng quỳ theo và khấn: “Nay được giờ lành, xin được nhập quan, cẩn cáo”. - Sau đó, các con cháu lễ theo diệu xướng của người chấp sự rổi đứng ngay ngắn sang hai bên, nam bên tả, nữ bên hữu. Những người giúp việc khiêng thi hài người chết đặt vào chính giữa áo quan. - Nhập quan xong sẽ có lễ thành phục, nhưng trước lễ này con cháu còn được phép lấy vợ, lấy chổng gọi là “Cưới chạy tang”.
100
3. NGHI LỄ PHÁT TANG nt. Thồng thường các giá đình có người bệnh nặng, lúc có dấu hiệu sắp trút hơi thở cuối cùng, gia đình đã kín đáo kiểm điểm số người phải mặc đổ tang, lo may đồ tang trước cho từng người, theo thứ tự quan trọng trước, sau. Gia đình lo sắm đủ tang phục cho con trai, con gái, con dâu, con rể, các cháu nội ngoại, kể cả chút chít và anh chị em các cháu trong họ hàng. Mọi người thân quyền trong gia đình tập trung lại xung quanh linh cữu (người thân nhất đứng gần, rồi tiếp đến con cái, cháu chắt - theo thứ tự từ gần đến xa). Người có thẩm quyền trong gia đình làm lễ phát. Đồng thời, phân phát khăn, áo cho con cháu chịu tang và từ đây con cháu mới được cất tiếng khóc. Cũng theo tập quán dân tộc, chỉ sau lễ phát tang thì mới chính thức báo tang. Từ đấy, mọi người mới đến phúng viếng và từ lúc này mới có tiếng kèn trống. Lễ phát tang cốt giữ sự trọng thể, không nhất thiết phải theo lệ cổ. Kế thừa phong tục tập quán cổ truyền, việc để tang ngày nay, con cháu vẫn chít khăn tang, nhằm thể hiện sự thương tiếc người quá cố và cũng để phân biệt mối quan hệ trực hệ trong tang quyển. Ngày nay, bậc đại tang phổ biến là những người con trai, con gái, con dâu, vỢ chổng dểu chít khăn sô bỏ múi buông hai giải vể phía sau; anh chị em ruột, cháu và những người có quan hệ khác đểu chít khăn gấp vào trong (không bỏ múi); chắt thì chít khăn vàng, khăn đỏ... nhằm biểu hiện lòng tự hào của con cháu đã nuôi dưỡng cha mẹ sống lâu. Đây cũng là tập quán hay cần được phát huy và đây cũng là một thể chế văn hóa truyền thống đã được định hình trong nhân dân ta.
4. NGHI LỄ QUÀN LINH cữu, ĐẶT BÀN THỜ Nếu ỏ bệnh viện hoặc ỏ các nhà tang lễ thành phố, linh cữu được đặt ỏ một phòng dành riêng (gọi là nhà quàn). Nếu người quá cố là cán bộ chCi chốt của cơ quan, xí nghiệp, nhà máy... thì linh cữu có thể được đặt quàn tại hội trường hoặc phòng đại sảnh của cơ quan, xí nghiệp... ấy. ỏ nông thôn, một số địa phương đã xây dựng các phòng dành riêng (gọi là nhà quan) thì linh cữu được đặt tại đây để mọi người đến phúng viếng. Địa phương nào chưa có nhà quàn thì gia đình tang chủ chọn một phòng để quàn linh cữu. Tùy theo tập quán của từng địa phương, nhưng thi hài bao giờ cũng được quàn ở gian trang trọng nhất. ở thành phố, do điều kiện nhà chật hẹp, có nhà cao tẩng, thấp tầng, hành lang chật hẹp, cầu thang dốc, việc di chuyển linh cữu rất khó khăn. 101
Linh cữu ỏ nhà quàn (hoặc phòng quàn) thường đặt theo chiều dọc, đầu quan tài hướng vào phía trong để người đến phúng viếng thắp hương và mặc niệm phía trước quan tài. Khi di chuyển quan tài ra xe tang (chuyển cữu) thì xoay đầu quan tài ra phía cửa để thuận chiểu đi (đầu đi trước). Nhân dân ta có câu “đầu có xuôi thì đuôi mới lọt” cũng là hợp lẽ. Một số địa phương cũng có tập quán đặt linh cữu theo chiểu dọc, nhưng chân thi hài lại hướng vào phía trong. Trường hỢp này thì khi chuyển cữu không cần xoay nữa. Cần lưu ý rằng thường tình, nhiều địa phương chuyển cữu theo tư thế đầu đi trước, nhưng cũng có địá phương lại có tập quán lúc chuyển cữu thì chân lại hướng về phía trước nên cũng tùy tập quán từng nơi mà làm cho thích hỢp. Cá biệt, phòng quàn quá hẹp chiểu dọc, người ta có thể đặt linh cữu theo chiểu ngang để viếng, cũng vẫn được. Ngay từ sau lễ phát tang, linh cữu được định vị nơi quàn thì trên nắp linh cữu liên tục được thắp hương, nến, để tránh sự lạnh lẽo. Người ta cũng quan niệm rằng, còn ánh lửa là sự sống còn được duy trì (đó chính là nguyện vọng của người sống). Nó làm ấm lòng người. Dân ta còn chọn một vài đoạn của cây chuối nhỏ (khoảng bằng cổ tay), cao khoảng 4 - 5 phân để trên nắp quan tài mà cắm hương. Nến cũng được thắp trên nắp quan tài cho đến khi hạ huyệt (thường thắp 7 ngọn theo hình thất tinh). Trên nắp quan tài, dân ta thường cúng “bát cơm, quả trứng". Đây là một lễ thức cổ xưa, quan niệm người chết về thế giới bên kia vẫn cần có thức ăn. Đây là suất ăn đường khi về với tổ tiên. (Người ta xới 2 bát cơm úp vào nhau cho có mu lên. Một bát cơm ta ăn là dương, nhưng hai bát cơm úp vào nhau lại trở thành âm. Quả trứng tròn là dương - vì nếu ấp quả trứng sẽ nở thành con - dương. Việc cúng “bát cơm, quả trứng” bắt nguồn từ thuyết xa xưa vể âm - dương. Có âm - dương mới sinh ra muôn loài, sinh ra con người.* Từ thời cổ đại Trung Quốc, Khổng Tử - nhà triết học lỗi lạc đã nói: “Hữu thiên địa nhiên hậu hữu âm dương, hữu âm dương nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ nhiên hậu hữu phu thê, hữu phu thê nhiên hậu hữu phu tử”. (Có trời đất rồi mới có âm dương, có âm dương rồi mới có nam nữ, có nam nữ rổi mới có vợ chồng, có vỢ chồng rồi mới có con cái). Người ta luộc quả trứng lên, bóc vỏ đặt lên bát cơm thì quả trứng dễ rơi, nên người ta lấy 2 chiếc đũa (một đôi) cắm hai bên sát vào quả trứng, nhằm giữ cho quả trứng không rơi. Nếu lấy đồi đũa bình thường là trần tục, nên người ta vót đôi đũa mới có tua lên (gọi là đũa bông) - việc làm đó đã nâng lên thành văn hóa. Nhưng đũa được vót mấy bông? Sách xưa không thấy đề cập tới, nhưng nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng: Nếu người quá cố có bao nhiêu người con thì được vót bấy nhiêu.bông. Vì vậy, chỉ nhìn bát cơm quả trứng trên nắp quan tài, người ta có thể biết ngay rằng người quá cố có từng ấy người con. 102
Bát cơm phải đơm đầy úp hai bát vào nhau cho có mu lên, tượng trưng cho âm. Quả trứng là dương. Đôi đũa vót có lua tua (gọi là đũa bông) tượng trưng cho cây vũ trụ, cho sự sống, với ý nghĩa: Có âm - dương mói tạo ra sự sống... việc cúng bát cơm quả trứng mang ý nghĩa triết học rất sâu sắc và lại đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người.
5. NGHI LỄ PHÚNG VIẾNG NGƯỜI ĐĂ QUA ĐỜI Đám tang nào cũng có người đến phúng viếng. Bạn bè thân thuộc của người chết, con cháu xa gần sau khi được hung tin và ngay cả những người giao dịch thường ngày quen biết với con cháu, Các gia đình thồng gia, kế tiếp nhau đến chia buồn cùng tang gia và phúng viếng người qua đời. Những đám tang lớn của những nhân vật quan trọng hay các gia đình lớn danh giá, thường có ban nghi lễ chuyên trách việc sắp xếp giờ giấc theo một chương trình nghiên cứu kỹ để tránh sự lộn xộn vì đông người tới cùng một lúc. Xưa, lễ phúng viếng thường là trầu cau trà rượu, nhưng cũng có người viếng những câu đối, những bức trướng trong đó có nhắc lại cách ăn ở hay tính tốt của người vừa qua đời. Hiện nay, người ta lễ với tiền mặt, hương đèn, giấy tiền vàng bạc, tràng hoa cườm hay hoa tươi... Ngày xưa, những bức trướng và câu đối phúng viếng đưộc treo ngay ở xung quanh tường vách nơi đặt linh cữu để hương hồn người khuất có thể nhận thấy được. Đồng thời, cũng để những khách tới viếng có thể đọc thưỏng thức nghệ thuật văn chương với ý hay, lời đẹp. Cùng treo với những câu đối này còn có những đối trướng của con cháu khóc ông bà cha mẹ, viết bằng lơ xanh hoặc chữ đen trên vải trắng. Người ta rất trọng văn nho, đối liễn, cho nên những người con trai, con gái đều có câu đối khóc cha, vợ khóc chồng và cả anh em cũng có thể khóc lẫn nhau nữa. ở thôn quê, người trong cùng thôn xóm khi cúng một số tiền để trực tiếp giúp đỡ tang gia lúc cần thiết. Đây là một việc rất thực tiễn. Mọi món tiền hoặc đổ lễ phúng viếng của đều được ghi rõ ràng và được ghi vào quyển sổ, để về sau tang chủ coi theo mà cảm ơn, trả ơn hoặc khi có người nào lâm vào tình cảnh tang chế như mình thì phúng viếng giúp đỡ lại. Đây là một đặc điểm của tương quan giao tế xã hội mà người Việt đã ý thức có từ lâu trong cuộc sống cộng đồng tập thể. Khách đến viếng lễ trước linh sàng hai lễ rưỡi nếu linh cữu còn quàng tại nhà. Sau khi chôn cất rồi mà khách đến viếng muộn màng thì sẽ lễ bốn lễ rưỡi trước bàn thờ. Khách lễ trước linh sàng, tang chủ hoặc con cháu khác của người chết thay thế tang chủ, phải đứng lên án thờ đáp lễ. Chỉ phải đáp lễ bằng một nửa số lễ khách lễ người khuất. Khách lễ hai lễ, đáp lại một lễ, khách lễ bốn lễ, đáp lại hai lễ. Ngày 103
nay, người ta “lạy trả lễ” cùng lúc và đủ số, hoặc là hai hay ba lạy. Nam trả lễ đối với nam, nữ trả lễ đối với nữ.
6. NGHI LỄ HẠ HUYỆT Khi chuyển linh cữu ra tới huyệt, linh cữu được hạ xuống cạnh huyệt. Ban lễ tang chờ cho mọi người đến đông đủ, mọi người cúi đầu vĩnh biệt người quá cố. Theo tập quán của dân tộc, trước khi hạ huyệt, người ta phải làm lễ cúng thổ thần ở ngoài nghĩa địa. Tang chủ thường chuẩn bị trầu, rượu, vàng hương và đĩa xôi kèm theo miếng thịt lợn hoặc miếng thịt chân giò, để xin phép được an táng người chết tại nơi đây. Các nghĩa địa thường có một cái miếu nhỏ, cũng có nơi chỉ có bàn thờ thổ thần bằng một bệ thờ ngoài trời được xây cẩn thận bằng gạch. Nếu trường hỢp nghĩa địa cũng không có bệ thờ thần thổ địa, thì tang chủ chuẩn bị một cái ghế đẩu, rồi.đặt mâm cúng lên đấy để thực hiện nghi lễ. Cần lưu ý: Để khi hạ huyệt được trang trọng, đủng nghi thức truyền thống, Ban lễ tang hoặc tang chủ cần chuẩn bị 3 chiếc đòn khiêng, mỗi đòn dài khoảng 1,5m bắc ngang miệng huyệt, rồi đặt linh cữu lên 3 đòn đó. Đồng thời, bên cạnh 3 đòn cũng luồn 3 dây thừng tốt, để khi hạ huyệt, người ta cầm các đầu dây thừng nâng linh cữu lên, rút đòn khiêng phía dưới rồi từ từ hạ linh cữu xuống huyệt (như vậy là phải có 6 người hoặc 12 người cầm đầu dây thừng khi hạ huyệt). Để giữ thăng bằng khi hạ huyệt, vẫn cần có người chỉ huy bằng mõ (hoặc trống khẩu) như lúc cất quan và chuyển cữu bằng tay. Khi đặt linh cữu xuống huyệt, nếu thấy linh cữu bị lệch thì phải chỉnh bằng các đầu dây thừng và kê cho bằng phẳng. Trước khi lấp đất, để tỏ lòng thương kính, người thân thiết nhất của người mới qua đời ném những viên đất đầu tiên xuống nắp linh cữu. Tiếp theo, là thân nhân, bà con, bè bạn... mỏ đầu việc chôn cất.
7. NGHI THỨC TANG LỄ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI CHẾT ĐƯỜNG CHỂT CHỢ VÀ NGUỒN Gốc TỤC THIÊN TÁNG Những trường hợp này, nhân dân ta từ lâu đời đã có tập quán kiêng không đưa xác về nhà, thậm chí còn kiêng không đưa xác về làng. Thông thường, người chết được đưa xác đến rìa làng, rồi dừng ở đó để chuẩn bị các thủ tục an táng. Mọi thủ tục khâm liệm đều được thực hiện như đã nói ỏ phần trên, nhưng nhẹ nhàng và đơn giản hơn. Dù là chiều tối hay đêm hôm, lễ an táng cũng được cử hành ngay, vì không thể để thi hài quàn ngoài trời qua đêm được. Ngày nay, nhiểu gia đình gặp trường hợp này đểu thực hiện “nghĩa tử là nghĩa 104
tận”, bỏ những quan niệm xưa, thi hài vẫn được đưa về nhà làm lễ an táng cho thật chu đáo. Đây là những điều rất tiến bộ, dư luận xã hội đều hoan nghênh. Ngày xưa có người đi làm ăn ở xa nhà, dọc đường chẳng may bị cảm nắng, cảm gió mà chết đột ngột, có người cùng đi hoặc người qua đường nhận ra, chỉ kịp đánh dấu chỗ người chết nằm xuống, chưa kịp chôn cất, đến nhà báo cho tang quyền, Khi người nhà đến ndi thì mối đã vùi lấp hết tử thi. Thân nhân cho rằng đó là huyệt đất tốt, trời đã dành cho và chôn giùm nên gọi là “thiên táng”, tương lai gia đình sẽ phát đạt, vì vậy cứ để nguyên mà vun cao lên, không cải táng. Những ngôi mộ thiên táng như vậy, thường ở ven đường cái. Ngày nay dọc đường quốc lộ, lác đác còn nhìn thấy có những ngôi mộ cổ đắp đất, gọi là thảo mộ. Trải qua hàng trăm năm mưa gió dập vùi nhưng vẫn được tôn cao, trong số đó phẩn lớn là những ngôi mộ vô thừa nhận vì chết dọc đường, người nhà không tìm thâ'y. Mộ vẫn được đắp cao, không ngớt hương khói do những cư dân chung quanh và khách buôn bán đi qua về lại chăm sóc thờ cúng. Họ tin rằng những âm hồn đó rất thiêng, phù hộ độ trì cho khỏe mạnh, làm ăn phát đạt...
8. NGHI THỨC ĐÁM TANG TRONG NGÀY TẾT VÀ CƯỚI CHẠY TANG Nghi thức đám tang trong ngày Tết Tết Nguyên đán là ngày vui mừng của mọi người, dân ta còn gọi là Tết cả, vì nó là Tết lớn nhất trong năm. Mọi người, mọi gia đình, mọi cộng đồng, sau một năm làm ăn vất vả được nghỉ ngơi, vui chơi thoải mái, làm cỗ bàn, cúng bái tổ tiên, ăn uống linh đình. Vì vậy, nhà nào có người qua đời vào ngày 30 Tết, thường tang chủ lập tức tổ chức thủ tục nghi lễ khâm liệm, nhập quan rồi an táng ngay, không để đến hôm sau là mùng một Tết. Nếu thời gian quá gấp, tang chủ tính toán không thể nào làm kịp trước thời khắc giao thừa, thì lui lại đến mùng ba (thủ tục khâm liệm vẫn được thực hiện ngay, nhưng chưa làm lễ phát tang). Trong thời gian lưu lại, gia đình tang chủ phải chuẩn bị các phương tiện bảo quản thi thể chu đáo. Nếu không đủ điều kiện thì tạm gửi ở phòng lạnh của bệnh viện hoặc nhà tang lễ. Nếu chết vào ngày mùng một thì dân gian vẫn kiêng không phát tang vào ngày này mà có thể để lại một hai ngày sau đó. Tất cả những trường hợp trên có thể vi phạm đến Quy ước nếp sống văn hóa của làng xã hiện nay. Tuy nhiên, mọi người phải nhận thức rằng, đây là trường hỢp đặc biệt “bất khả kháng”. Như thế nào là cưới chạy tang? Tập quán xưa của dân ta là cấm kỵ con cháu làm lễ cưới trong thời kỳ để tang 10.»Ì
(mà đại tang là 3 năm). Đối với 3 năm trời là thời gian dài, mà đối với người con gái thì “cái tuổi đuổi cái xuân”. Rồi đến khi gần hết tang, lại có tang mới, thì người con gái già mất. Vì vậy, các cụ thời xưa nghĩ ra cách “cưới chạy tang”. Có nghĩa là việc hiếu tạm hoãn, dành cho việc hỷ. Người mới quá đời vẫn nằm trên giường, đắp chăn chiếu, “để đấy”, chưa nhập quan. Cũng có thể gia đình làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ phát tang và trong nhà không ai được khóc và tất nhiên mọi người chưa đến phúng viếng. Một đám cưới như vậy thì được tổ chức rất nhanh gọn, giản lược nhiều thủ tục (như xin dâu, đón dâu, lễ td hồng...). Khách dự chủ yếu là người thân trong gia đình. Sau khi tổ chức xong đám cưới thì mới làm lễ phát tang. Lúc bấy-giờ cô dâu (chú rể) đã là thành viên của gia đình và tùy mối quan hệ mà chịu tang theo tập quán. Ngày nay, việc để tang không ảnh hưởng tới việc cưới vỢ, lấy chồng, việc làm nghĩa vụ quân sự... Các nhà nghiên cứu cho rằng hiện nay cũng không cần phải cưới chạy tang nữa, mà có thể lui ngày cưới lại một thời gian ngắn (nên để hết 49 hoặc 100 ngày là được). Thực tế, hiện nay nhiều đám cưới đã thực hiện như vậy mà vẫn rất vui vẻ, hạnh phúc. Nghi thức tang lễ cho những người chết vì bệnh dịch hoặc chết mất xác Tang lễ cho người chết vì bệnh dịch Những trường hợp chết kể trên thì phải thực hiện khâm liệm ngay, không để lâu trong nhà, không tổ chức nghi lễ viếng tang, không tập trung đông người và phải đưa đám vào ban đêm. Những trường hỢp này, khi an táng, huyệt phải đào thật sâu (khoảng 1 - 1,2m), đổ vôi bột chung quanh (đào sâu, chôn chặt kể cả những địa phưdng có tục cải táng cũng không được bốc mộ) để tránh mầm bệnh và uế khí, giữ vệ sinh môi trường. Những người làm nhiệm vụ chuyển linh cữu và thực hiện an táng phải có khẩu trang và những phưđng pháp phòng ngừa cần thiết. Tang lễ cho người chết mất xác Những trường hỢp rủi ro như: bị chết vì đắm thuyền, đắm tàu ngoài biển cả, chết do tai nạn máy bay rđi ngoài biển mất xác, chết do sóng thần bị cuốn mất xác, chết do bị hổ, báo ăn thịt... sau khi đã tìm kiếm bằng nhiều cách mà không thấy, người ta vẫn đóng quan tài cho người quá cố, đồng thời nhập quan và chôn cất tượng trưng. Thời xưa và ngay cả bây giờ, nhiều ndi người ta vẫn làm hình nhân với xưdng cốt bằng que dâu, đầu bằng gáo dừa. Tất nhiên, tang chủ phải mời thầy về làm lễ “chiêu hồn nhập cốt”, rồi mới tiến hành các nghi lễ của việc tang. Đối với người chết ỏ dưới nước, ngoài các nghi lễ như đã kể ỏ trên, thầy cúng còn làm cầu dẫn bằng một tấm vải trắng, thả từ trên bờ xuống nước, rồi làm lễ “chiêu hổn” từ dưới nước lên. Người ta quan niệm rằng, khi hồn ỏ dưới nước đã lên 106
bờ rồi, thầy phải dùng kéo cắt dứt cầu để hổn hết dường về. Đây là một lễ thức dân gian còn rơi rớt ỏ một số nơi, nhằm biểu hiện tình cảm giữa người sống đối với người chết, đồng thời cũng thực hiện “nghĩa tử là nghĩa tận” mà thôi. Tuy nhiên, lễ thức này dễ dẫn đến những điều huyễn hoặc, mê tín dị đoan, vì vậy nên loại bỏ.
9. NGHI THỨC TANG LỄ CHO NHỮNG NGƯỜI CHẾT DO SÉT ĐÁNH Các nghi lễ an táng trong trường hỢp này cũng không có gì khác với các trường hỢp chết thông thường. Theo quan niệm dân gian thì chết vì sét đánh là không bình thường và gia đình tang chủ rất sợ kẻ gian đào trộm. Dân gian kể rằng, bọn đạo tặc thường tìm cách đào trộm mả người chết vì sét đánh, rồi chặt lấy cánh tay trái (nếu người chết là nam), hoặc chặt cánh tay phải (nếu là nữ) để đi ăn trộm, tránh được sự phát giác của chủ nhà. Vì vậy, mộ của người qua đời do bị sét đánh thường được canh phòng rất cẩn thận tới ba tháng... Ngày nay, tuy không ai tin như vậy, nhưng quan niệm xưa vẫn ám ảnh ở một số người.
10. NGHI THỨC TANG LỄ VỚI NHỮNG NGƯỜI CHẾT VỂU Trẻ em dưới 16 tuổi chết thì không được làm đám tang mà chỉ có một số thân nhân trong họ tộc khâm liệm rồi đưa đi an táng một cách lặng lẽ. Mẹ đứa trẻ không được đi đưa tang. Đám tang trẻ em thường diễn ra vào lúc chiều tối. Trẻ nhỏ dưới 6 tuổi không được dùng ván mà phải bó chiếu chôn. Từ 6 - 15 tuổi được dùng ván nhưng chỉ được dùng ván thồi (ván làm từ gỗ của những chiếc ván đã được cải táng bỏ ra). Trẻ dưới 6 tuổi chết thì thân nhân không được để tang và thờ cúng (không cúng cơm 100 ngày, không có tuần đầu, 49 ngày và cả giỗ cũng khồng có). Dân gian nói “chết mất giỗ” là để chỉ những trường hỢp này. Trẻ chết từ 7 - 15 tuổi thì được giỗ nhưng không có cúng cơm 100 ngày cũng như các lễ cúng tuần đầu, 49 ngày. Bàn thờ được lập riêng chứ không được thờ chung ỏ bàn thờ tổ tiên. Tang phục là thể hiện tình nghĩa, có phân biệt thân sơ “Họ đương 3 tháng, láng giềng 3 ngày”, thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Vì thế, chẳng những thân thích mà người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang. Theo Thọ mai gia lễ thì chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và cụ kỵ cũng để tang hàng cháu, hàng chắt. Thọ Mai gia lễ quy định như vậy nhưng một số địa phương Bắc bộ quan niệm “Phụ bất bái tử” (cha không lạy con), con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là bất hiếu, con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã chốn nỢ đời, chẳng những cha mẹ không để tang con mà khi khâm liệm con còn phải quấn trên đầu tử thi một vòng khăn trắng. 107
Nếu là đàn bà mà tứ thân phụ mẫu còn cả thì phải quấn đến hai vòng, có nghĩa là ở dưới cõi âm cũng để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ đang ỏ trên dương trần. ,
u..
Tử biệt sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, cha npẹ già yếu từ trần, con báo hiếu cha, mẹ, đưa tang bố mẹ là chuyện thường tình. Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, nhiều trường hợp chết non, gây nhiều nỗi đau thương cho bố mẹ. Giờ phút hạ huyệt là giờ phút xúc động, có nhiều ông bố bà mẹ đã bị ngất lịm đi. Đã có nhiều trường hỢp mẹ chết luôn bên huyệt chôn con. Hơn nữa, ngày xưa, phương tiện và thuốc thang cấp cứu khó khăn, không cho cha mẹ đưa tang con để vơi bớt nỗi đau buồn và để tránh nạn trùng tang là đúng. Chẳng những cha mẹ mà các ông già bà cả trong nội thân, sức khỏe đã tàn cũng không được dự đưa tang, sợ vướng đến sức khỏe.
11. TỤC CÚNG LỄ 3 NGÀY Đốl VỚI NGƯỜI MỚI KHUẤT Tục này không thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau khi chôn. Xét trong điển lễ thì không có “lễ ba ngày” mà chỉ có” lễ tế ngu” gồm có ‘sơ ngu”, “tái ngu”, "tam ngu”. “Ngu” nghĩa là” yên”, tức là 3 lần tế lễ cho yên hổn phách. Theo Thọ mai gia lễ thì khi chôn xong, rước linh vị về đến nhà tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp ngày nhu, (tức là Ất, Kỷ, Tân, QuO làm kế tái ngu, gặp ngày cương (tức là ngày Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm) làm lễ tam ngu. Dần dần về sau dân ta giảm lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam ngu, vì thế nên gọi là lễ ba ngày. Vậy là tính ba ngày từ sau khi chôn, theo tục gọi là lễ mỏ cửa mả. Ngày đó con cháu ra sửa lại mổ mả, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước... Theo phong tục cũ thì ít khi chết xong chôn ngay, thường còn để năm bảy ngày trong nhà. Khi chưa chôn làm lễ triêu tịch điện, tức cúng cơm hằng ngày vẫn theo lễ thờ người sống. Vậy tế ngu phải tính từ sau khi chôn, Còn có một lập luận khác: Có 3 điều không yên khiến phải làm lễ tế ngu: - Đang sống hoạt động nay mọi hoạt động bỗng nhiên đình chỉ. - Đang nhìn thấy bóng dáng, khi đã nhập quan không nhìn thấy bóng dáng nữa. - Đang ở trên dương thế, nay xác vể cõi âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm dương hoàn toàn cách biệt từ sau lễ thành phần. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm cho yên hồn phách, vậy phải tế sau khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ thành phần xong. Thời này cũng có trường hỢp sau khi chết 4 - 5 ngày còn để trong nhà lạnh chưa chôn nên không thể làm lễ ba ngày trước lễ an táng. 108
12. TẬP TỤC CÚNG LỄ TRONG NGÀY CHUNG THẤT (49 NGÀY) Theo Thọ mai gia lễ, thì cứ đúng ngày quy định trong gia lễ mà làm, không có sự chùyển dịch tùy tiện theo ìời thầy lễ hay thầy bói nào cả. Chỉ trừ ngày làm lễ an táng và ngày làm lễ trừ phục (hết tang) trong gia lễ có ghi chọn ngày lành. Người ta không ai có thể chọn ngày chết, vậy nên từ xưa tới nay, hằng năm cứ đến ngày mất thì làm giỗ, dù cho có những năm, ngày đó rất xấu, có cả trùng phục, trùng tang, sát chủ, quả tú, cô thần... Theo gia lễ: Lễ chung thất, Tốt khốc, Tiêu tường, Đại tường cứ theo đúng ngày mà làm lễ.
13. TẬP TỤC CÚNG CƠM TRONG 100 NGÀY Gia đình Việt Nam nhà nào cũng vậy, mỗi ngày có hai bữa cơm là giờ phút đầm ấm nhất. Trong nhà có người về muộn, mọi người cũng cố chờ về ăn cơm một lúc cho vui vẻ, đầm ấm. Con cháu cầm bát cơm lên, trước hết mời ông bà, cha mẹ, chờ ông bà, cha mẹ rồi mới bắt đầu mới dám ăn. Có nơi xới bát cơm lần thứ hai còn mời nữa. Nếu có khách, trước khi buông bát đũa đứng dậy còn phải xin phép và mời khách tiếp tục xơi cơm. Cuộc sống gia đình đang vui vẻ, êm đẹp như vậy, vắng mặt trong bữa cơm còn nhắc, huống chi vĩnh viễn đi xa. Do đó, trước bữa ăn người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình thường, nhà ăn thứ gì cúng thứ đấy, thường là tinh khiết, không đòi hỏi cầu kỳ, nhà nghèo thl lưng cơm, đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong, dựng đôi đũa vào giữa bát cơm, có rượu thì rót chén rượu. Khấn vái xong cũng rót chén nước. Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thỏa nguyện tâm linh, Nhưng tại sao lại cúng 100 ngày? - Cũng tùy địa phương, có nơi chỉ cúng 49 ngày (tức là lễ chung thất). Theo thuyết của Phật giáo: qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ỏ âm ty (tức 1 tuần, nhưng không phải tuần lễ theo dương lịch); sau 7 tuần vong hồn đã siêu thoát. Có nơi cúng hết 100 ngày (tức lễ tốt khốc nghĩa là thôi khóc). Theo giải thích của các cụ ngày xưa thì thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa. Phong tục này có căn cứ khoa học: Theo thuyết Thần giao cách cảm, ngoài điện trường vật lý đã được ứng dụng trong thực tiễn, còn có điện trường sinh học. Những cá thể có cùng tần số cảm ứng trong điện trường sinh học, mặc dầu ở cách xa nhau rất xa vẫn nhận được những nguồn thông tin của nhau. Các nhà khoa học đã vận dụng những phát triển đó để giải thích về điềm, về giấc mơ, vể những biểu hiện tâm, sinh lý bất thường khi thân nhân (có thể cách nhau rất xa về không gian) 109
có cùng tần số điện trường sinh học có sự biến bất thường. Người ta bảo chết là hết. Nhưng, chết chưa phải là đã hết khi người chết còn tồn tại trong tâm chí người sống. Sau khi chết, tim ngừng đập, máu ngừng chảy, thẩn kinh cảm giác ngừng hoạt động, vỏ não chưa bị hủy, xung quanh hiện trường phát từ não vẫrf'bhưa ngừng phát sóng. Lớp đất dày không ngăn được sóng điện vật lý hay sóng điện sinh học. Cá thể sống có tần số điện trường sinh học tương ứng vẫn tiếp nhận được tín hiệu, do đó hiện tượng báo mộng chưa hẳn là vu vơ, không đáng tin. Phải chăng vì lẽ đó mà các cụ cho rằng âm hồn còn phảng phất, chưa siêu thoát?
14. TẬP TỤC CÚNG GIỖ Theo phong tục Việt Nam, để tưỏng nhớ sâu sắc và lâu dài công ơn cha mẹ, hằng năm đúng vào ngày qua đời của cha mẹ, ông bà... người ta đều làm giỗ. Mặc dù, dân ta không có tập quán kỷ niệm ngày sinh (sinh nhật), nhưng tập quán làm giỗ lại rất trọng hậu. Khi ông bà, cha mạ “ra đi” thl sự tử cũng như sự sinh, phụng dưỡng người đã chết như người còn sống. Việc cúng giỗ người đã chết không phải là một tôn giáo, mà là một tập tục. Tục này không hề ghi thành phép tắc, song nó lại là một điển lệ trong phong tục. Phong tục nhiều khi ràng buộc hành vi của con người chắc chắn hơn luật pháp rất nhiều. Ngày giỗ là ngày kỷ niệm lúc lâm chung của người quá cố hằng năm, anh em, con cháu, bà con họ hàng thân thích tưởng nhớ đến người đã khuất, ôn lại cội nguồn, giáo dục truyền thống. Nhận thức đúng ý nghĩa của ngày giỗ, thì không nên bày vẽ cỗ bàn linh đình, ăn uống chè chén lãng phí, xa hoa. Trong dịp ngày giỗ, con cháu thường tổ chức ra thăm mộ, đắp thêm đất vào mộ, bù vào những đất thiếu hụt do mưa nắng lâu ngày sụt lở (nếu như mộ chưa xây) và thắp lên mộ những nén hương tưởng niệm. Ngày giỗ cũng là dịp gia đình, thân tộc kiểm lại việc thực hiện di chúc của người quá cố. Nếu có việc gì chưa làm được thì phân công, nhắc nhở nhau làm cho tròn những điều ước vọng của người đã khuất. Thiết tưởng đó là một trong những cách tốt nhất để tưỏng nhớ và trả ơn ông bà, cha mẹ... đã có công sinh thành và nuôi dưỡng mình. Trong tập quán cổ truyền về việc tang, người ta còn phân ra các ngày giỗ như sau: Lễ ba ngày, bốn chín ngày, một trăm ngày, giỗ đầu (tiểu tường), giỗ hết (đại tường) và cuối cùng là lễ đàm (đàm tế). Tất cả các ngày lễ kể trên đều là lễ trọng, không được bỏ qua một loại lễ nào, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào
110
15. TẬP TỤC CÚNG GIỖ TlỂU TƯỜNG “Tiểu tường” có nghĩa là địạ;fn lành nhỏ. Theo tập quán xưa, các cụ thường giải thích rằng, người chết sau một năm thì hương hồn đã được yên vị nơi chín suối, tà ma không dám tới quấy nhiễu nữa. Có người đã thành thần hay đi đầu thai kiếp khác - nếu như trong đời sống trần thế trước đây có công đức và đạo hạnh cao. Cũng trong lúc ấy, ỏ trần thế, sự đau đớn của con cháu đã vơi đi nhiều phần. Giỗ đầu là đúng tròn một năm (theo âm lịch), thân quyến tụ tập để làm giỗ, dù cho những ngày này con cháu có bận rộn đến đâu cũng phải thu xếp mọi công việc để làm giỗ đầu cho thật chu đáo. Từ sau lễ này con cháu mới bỏ các hung phục (tang phục khi người qua đời) như đồ sô gai, mũ, gậy... Ngày nay, nhiều gia đình thường bỏ mũ, áo trong dịp lễ bốn chín ngày hoặc một trăm ngày, mà trong ngày này chỉ còn giữ tục cúng lễ. Theo tập quán xưa, trước ngày giỗ chính thức, con cháu phải làm lễ “cáo giỗ” ngày cáo giỗ còn gọi là ngày “tiên thường”. Ngày này, con cháu báo cáo cho người đã khuất việc cúng giỗ ngày hôm sau. Tất nhiên, trong ngày cáo giỗ, gia chủ phải làm lễ cáo với Thổ công, Thần linh, xin phép cho vong hồn được cúng giỗ về thụ hưỏng. Đồng thòi, cũng xin Thổ công cho phép các linh hồn gia tiên nội, ngoại nhà mình về dự giỗ. sở dĩ có tục này vì người ta tin rằng, những hương hồn muốn về thăm con cháu đều phải xin phép Thổ công vào ngày “tiên thường” - tức là trước ngày giỗ chính. Ngày tiên thường, con cháu phải ra mộ khấn mời vong hồn người chết vể hưỏng giỗ, sửa sang lại phần mộ cho chu đáo (nếu mộ chưa xây th) phát cỏ, đắp đất thêm, dọn dẹp xung quanh...), lau rửa bàn thờ, chuẩn bị các đồ lễ. Tất nhiên, khi cúng cáo giỗ phải khấn Thổ công trước, rồi sau đó mới khấn tổ tiên và người được cúng giỗ. Theo lệ cũ, chỉ có những ngày giỗ lớn mới có cáo giỗ, còn những ngày giỗ nhỏ, con cháu chĩ cúng ngày chính giỗ. Những ngày giỗ lớn là giỗ ông bà nội, cha mẹ, chồng vợ. Tục xưa, trong lễ tiểu tường gia chủ thường sắm đồ mã bằng giấy, biểu trưng những đồ dùng hằng ngày của người đã qua đời ỏ thế giới bên kia cẩn đến như: quần áo, vàng, bạc (ngày nay, người ta còn làm cả tủ lạnh, ti vi, nhà lầu, xe hơi... để đốt gửi cho người chết. Điểu đó phần nào giúp cho người sống bày tỏ lòng thành với người đã khuất. Thời cổ đại, khi chôn cất người chết, người ta thường chôn theo những đồ vật thường dùng (gọi là đồ tùy táng). Có một số đồ vật quá lớn như nhà ở, giếng nước, trâu bò, ngựa xe... không thể chôn theo trong mộ được, người ta làm mô hình nhỏ lại để chôn theo những thứ này gọi là đồ minh khí). Rồi về sau này, do tư duy trừu 111
tượng của con người phát triển, người ta mới làm bằng giấy thay thế cho các đồ tùy táng và đồ minh khí (gọi chung là đồ mã). Đến ngày giỗ, hoặc ngày rằm tháng bảy, sau khi cúng kiếng, người ta đốt đi - để người ở thế-giới bên kia nhận được. Riêng đối với ngày rằm tháng bảy, người ta thường đốt mã trước ngày/14 tháng 7 âm lịch để đổ mã được kịp đưa đến cho người ỏ cõi âm.
16. TẬP TỤC CÚNG LỄ TRONG NGÀY Glỗ HẾT (ĐẠI TƯỜNG) Người ta còn gọi ngày giỗ hết là giỗ đoạn (lành nhiều), giỗ hết tang (hoặc đoạn tang) có nghĩa là đúng hai năm kể từ ngày chết, và là giỗ lần thứ hai, được coi là chấm dứt (hết việc). Mặc dù hết việc, nhưng theo tục lệ, phải 2 - 3 tháng sau, người ta chọn một ngày để làm lễ trừ phục, hay còn gọi là lễ đàm (đàm tế) thì mới thực sự là hết việc. Gọi là lễ trừ phục bỏi vì sau lễ này, tất cả các đồ tang phục đều được đem đốt. Từ đấy, những người để tang trong nhà mặc lại thường phục như trước kia. Cũng trong ngày lễ đàm, người ta rước linh vị vào bàn thờ chính, bỏ bàn thờ tang (thờ vong). Linh vị mới thường phải được chép sẵn từ trước, phủ giấy hay vải đỏ. Khi làm lễ đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ, đốt cả băng đen phủ khung ảnh và văn tế. Sau đó, rước linh vị, bát hương, ảnh chân dung đặt lên bàn thờ chính, đặt ỏ hàng dưới. Thực tế là thời gian từ đại tường tới lễ trừ phục (lễ đàm) chỉ trong vòng 3 tháng trở lại, cộng với 2 năm trước, là hai mưdi bảy tháng. Như vậy, vợ để tang chồng cũng hai mưdi bảy tháng, giống như con để tang cha mẹ. Theo tập quán của nhân dân ta, thì sau khi đoạn tang (lễ dàm), bàn thờ người quá cố mới được hủy bỏ và nhập vào bàn thờ chung. Bát hương sau khi đoạn tang, mới được nhập vào bát hương chung của tổ tiên. Nếu không nhập vào bát hương chung, thì bát hương này phải nhỏ hơn và thấp hơn bát hương chung của tổ tiên. Từ ngày giỗ đầu (tiểu tường), đến các giỗ những năm sau, việc cúng giỗ đều do người con trai trưởng thực hiện, Nếu người này đã chết thì do cháu đích tôn (tức cháu nội - con của anh cả) đảm nhiệm, vì rằng, hai người này là trưởng một chi nhánh trong họ. Những người con thứ, cháu thứ, con gái và cháu ngoại vẫn có bổn phận góp giỗ và không không nhớ ngày giỗ cha mẹ, ông bà. Những người con thứ, cháu thứ, con gái, cháu... trước ngày giỗ đều gửi giỗ bằng tiền mặt hoặc đem lễ vật đến cúng. Con cháu ở xa hay vì một lý do nào đó mà không về được, người ta cũng gửi giỗ, và thậm chí hàng xóm cũng gửi giỗ. Tiền mặt gửi giỗ hoặc lễ vật nhiều hay ít thường do khả năng tài chính của từng gia đình, hoặc do mối quan hệ gần hay xa giữa người sống với /igười chết, ở xa không vể được, dầu có gửi giỗ hay không cũng có thể làm giỗ ở nhà mình, gọi là cúng vọng. Ngày giỗ, ngoài con cháu họ tộc, người ta vẫn mời bà con xóm phố, bè bạn 112
thông gia... Khách khứa đến ăn giỗ luôn mang đồ lễ tới cúng, khá giả thì có nhiều thứ trên một cái mâm, cái đĩa; nếu không thì chai rượu trắng cũng là quý. Ngày nay, một số khách đến đám giỗ còn đem thẻ hương và phong tiền, cũng là góp vào để tùy gia chủ mua sắm cho thiết thực. Tất cả lễ vật này đều được đặt trên bàn thờ trước khi khách làm lễ. Khách thắp hương, lễ trước bàn thờ (có thể lạy hoặc vái). Khi khách lễ, gia chủ phải tự thân đáp lễ. Ngoài tính cách lễ nghi, chuyện này còn có liên quan tới trình độ kiến thức của con người Việt Nam, và cũng là một phép xã giao, phù hợp với hành vi đẹp của thuật đối nhân xử thế. Lễ vật trong ngày giỗ thường bao gồm: rượu, các món ăn, hương hoa, oản quả, đồ mã... Nhiều gia đình còn chuẩn bị các món ăn mà lúc sinh thời, người quá cố ưa thích. Cúng giỗ phải có khấn vái. Người xưa có văn khấn riêng. Lời khấn cho dầu thế nào, hương hồn người chết cũng cảm thông và hưỏng những lễ vật của con cháu dâng lên. Khấn vái do tâm thành mà có. Tâm có thành cả quỷ thần cũng chứng giám. Theo quan niệm dân gian, trong ngày giỗ hết, người ta cũng đốt mã cho người đã khuất và năm nay đốt lại nhiều hơn năm trước. Người ta tin rằng, đốt mã năm trước là mã biếu - vì người nhận đồ dùng của con cháu đốt trong ngày tiểu tường phải đem biếu các ác thần, để tránh những sự quấy nhiễu. Cỗ bàn trong ngày giỗ hết cũng linh đình hơn, vì rằng, sau ngày giỗ này, hương hồn người khuất sẽ thưa về thăm con cháu hơn trước đây. Khi đồ lễ đã bầy đầy đủ lên bàn thờ, người chủ gia đình quần áo chỉnh tể, đốt đèn nến, thắp 3 nén hương dâng cắm lên bát hương (bàn thờ) ông Công ông Táo, rồi vái lạy, xin Thổ công, Thần linh cho phép hương hổn người quá cố về hưởng giỗ. Tiếp đó thắp hương dâng cắm lên bát hương gia tiên, và cuối cùng mới thắp hương dâng cắm lên bát hương ở bàn thờ người quá cố. Sau một tuần hương, người ta lại thắp thêm một tuần hương nữa, khi gần tàn hương thì vái tạ, rồi hóa vàng. Khi hóa vàng, không thể tùy tiện hóa ỏ đâu cũng được, mà phải chọn chỗ sạch sẽ, thuận tiện theo chiều gió. Nếu có chậu chuyên hóa vàng càng tốt, không thì phải chọn chậu nhôm hoặc chậu sắt tráng men (có thể lót tầu lá chuối để khỏi đen chậu). Khi vàng, tiền giấy cháy hết (tro vàng đang còn hồng) thì đổ vào một chén rượu cúng, hoặc phun vào một ngụm rượu (dân gian cho rằng làm như vậy, vàng và tiền ấy mới trồ thành vàng thật và tiền thật ở thế giới bên kia. Như vậy, cõi âm mới nhận được số tiền, vàng và đồ mã, mà cõi dương chuyển đến. Hóa vàng xong, mọi người ăn cỗ hưỏng lộc của các cụ một cách vui vẻ. Trước khi ra về, mọi người được gia chủ gửi quà biếu cho các cháu d nhà, với ý nghĩa cho con cháu ai cũng được hưỏng lộc. 113
17. TẬP TỤC CÚNG LỄ TRONG LỄ TRỪ PHỤC (ĐÀM TẾ) Sau hai năm khi người quá cố mất người ta chọn một ngày tốt trong vòng 3 tháng dư ai để làm lễ trừ phục. Trừ phục gồm 3 lễ; - Lễ sửa mộ: Đắp sửa mộ thành mộ tròn. - Lễ đàm tế: cất khăn tang. Hủy đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính. Bỏ bàn thờ tang. Thu cất các bức trướng, câu đối viếng. - Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, phủ giấy hay vải đỏ, khi đàm tế ỏ bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới. Trường hỢp nhà con thứ không thờ gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để nguyên bàn thờ như cũ, không phải chuyển bàn thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ ở nhà thờ tổ.
18. TỤC ĐỐT MÃ CHO NGƯỜI ĐÃ KHUẤT Tục đốt mã có nguồn gốc từ Trung hoa. Vào thuỏ xa xưa, khi có người thân quá cố, người ta chia đồ dùng để họ "mang theo" về cõi âm, đến ngày kỵ còn dùng đồ bạch ngọc để cũng tế; sau đó thay bạch ngọc bằng tiển cho đỡ tốn. Nhưng tiền sau khi cũng bỏ đi cũng phí phạm, vì vậy người ta thay tiền kim bại bằng tiền giấy và vàng giấy thay cho các thỏi vàng thật, ổ nước ta từ lâu đã có tục đốt vàng mã, tùy theo các tuần cúng, lễ tiết và quan niệm của gia chủ mà mua, sắm vàng mã tương ứng. Ngày Rằm tháng Bảy đầu tiên sau Tiểu tường, làm lễ đốt mã cho vong. Nếu chết trước ngày Rằm tháng Bảy thì chưa đến Tiểu tường đã đốt mã vào ngày Trung nguyên năm ấy; thành ra hai mã. Mã đầu là mã biếu, dâng cho thần linh để chia cho các vong hồn khác; mã đốt kỳ sau mới thực để cho người chết. Nhiều nơi có tục đốt mã ngày giỗ đầu và ngày giỗ hết, không đốt ngày Trung nguyên Đồ mã làm bằng giấy, giống hệt những đồ dùng hằng ngày như áo, quần, khăn, yếm, giấy, dép, ô, nón, chăn, gối, rương, tráp, điếu, hộp trầu, ống nhổ, nồi, niêu, mâm; bát... thậm chí cả con mèo, con chó, con ngựa, con trâu. Có nhà mua sắm hình nhân làm người hầu hạ. Giàu có làm những ngôi nhà bằng giấy dài rộng với đủ cả tủ trà sập khảm, trường kỷ bàn độc, nhà xay giã... : những năm gần đây người ta đặt thợ mã làm những chiếc xe máy, xe ô tô, xe đạp, tiền vàng... để đốt cho người chết dùng, bỏi họ quan niệm "trần sao âm vậy" (?) 114
Đặc biệt trong đốt mã, còn có tục đốt hình nhân. Nguyên trước từ thời đại phong kiến khi một người đàn ông chết thì vỢ cả, vợ lẽ đều tự sát ngay ở mộ. Các con hầu đầy tớ chính là những nô lệ cũng đều bị giết để chôn theo, về sau, bản tính tự vệ của con người đã khiến người ta nghĩ đến cách lấy hình nhân thế mạng. Người ta tin rằng, hình nhân bằng giấy đốt xuống cõi âm theo phép thuật của một Pháp sư sẽ hóa thành kẻ hầu hạ người khuất. Có nhiều con cháu biết tính các ông già quá cố, thường đốt những nữ hình nhân để lấy người hầu hạ và đấm bóp cho các cụ. Nhìn chung, các gia đình đều đốt mã ỏ nhà, nhưng cũng có gia đình đốt mã ở chùa, làm lễ cầu siêu một - vài ngày.
19. TẬP TỤC CÀI TÁNG CỦA NGƯỜI VIỆT Cư dân vùng đồng bằng Bắc bộ thường có tập quán mai táng hai lần; Thời kỳ chôn cất lúc đầu được gọi là hung táng - người chết chôn tạm thời ở nghĩa trang (có nơi còn gọi là ký táng), sau ba hoặc bốn năm cải táng, đưa lên nghĩa trang vĩnh viễn gọi là bốc mộ (cải táng). Khi nhập quan, người ta thường lót ỏ đáy quan tài một tấm ni lông (hoặc loại vải nào khác không mục nát trong khoảng thời gian từ 3 - 5 năm). Chuẩn bị thêm 4 túi ni -lông hoặc túi vải ni-lông để bọc hai bàn tay và hai bàn chân, nhằm khi bốc mộ, các đốt xương tay, xương chân không lẫn với bùn đất khác, mà vẫn nằm gọn trong túi. Tục cải táng có nhiều nguyên nhân, song có một nguyên nhân tâm lý là người ta tin rằng cái huyết mạch của tổ tiên và con cháu có quan hệ với nhau. Nếu hài cốt tổ tiên có ấm, thì con cháu mới mát mặt, nếu hài cốt không yên thì con cháu cũng không yên ổn. Thông thường gia chủ phải chọn ngày, giờ cải táng cho hợp với mùa, với thời tiết và với nhu cẩu của gia đình. Nhân dân vùng đồng bằng Bắc bộ có thói quen cải táng vào mùa đông (từ tiểu hàn đến đại hàn). Giờ giấc cải táng (bốc mộ) chỉ nên làm vào sáng sớm và được tính toán rất chi tiết, làm sao phải hoàn tất trước khi sáng rõ mặt người. (Theo quan niệm dân gian Việt Nam; khi còn trời tối ỏ dương gian, là ban ngày ở âm phủ. Mặt khác, có thể nhân dân ta tránh làm công việc này vào ban ngày cũng là để giữ vệ sinh chung, và cũng không muốn để mọi người xung quanh trông thấy mình đang làm một công việc hệ trọng và thiêng liêng). Mọi người làm nhiệm vụ bốc mộ đều phải đeo khẩu trang, rửa tay bằng rượu, nước ngũ vị (nếu dùng găng tay cao su thì càng tốt). Những người tham dự bốc mộ 115
chỉ nên đứng đầu gió để tránh ô nhiễm. Thông thường trước hôm cải táng, gia chủ phải làm lễ cáo yết tổ tiên. Đêm hôm cải táng phải làm lễ khấn thổ công nơi để mả mới táng. Toàn bộ hài cốt thu được trong quan tài phải rửa thật cẩn thận bằng nước ngũ vị (hoặc rửa bằng rượu), xương sọ được rửa kỹ hơn, nhất là hai hốc mắt. Nhiều người quan niệm rằng: có rửa sạch hai hốc mắt thì con cháu được “phù hộ” làm ăn tinh tường. Sau đó, tất cả được lau khô bằng giấy bản và xếp vào tiểu sành theo đúng vị trí cấu trúc của cơ thể thu nhỏ. Xương sọ được xếp ngay ngắn, đệm bằng những xương nhỏ cho chặt, đảm bảo xương quai hàm dưới ỏ tư thế như được gắn liền. Các xương chân tay được xếp ỏ hai bên (xương bên phải được xếp ở bên phải, xương bên trái được xếp ồ bên trái). Tất cả các xương khác xếp giữa. Tiếp theo, trải các xương sườn úp xuống thành hai hàng bên phải và bên trái. Tuy nhiên, trước khi xếp hài cốt, cần phải lót giấy màu hoặc vải vào trong tiểu sành và hai bên thành tiểu, rồi phủ vải hoặc giấy lên trên. Xong, đậy nắp tiểu bằng những viên gạch đặt nằm ngang một lượt (gạch này được chọn lựa rất cẩn thận - gạch được nung đúng độ lửa, phẳng phiu, độ dày mỏng đều đặn). Sau khi cải táng, hài cốt được chôn vĩnh viễn. Lúc này có thể xây mộ cẩn thận để tránh xói mòn, sụt lỏ do mưa nắng. Kiểu dáng ngôi mộ được xây tùy theo thị hiếu và thiết kế của từng gia đình, nhưng không nên quá cầu kỳ, tốn kém, hoặc quá lớn làm ảnh hưởng đến quy hoạch chung của nghĩa trang. Theo cổ tục và cho đến nay nhiều người vẫn tin là có những trường hợp người ta cho rằng “mả kết” không nên cải táng (thuật ngữ xưa gọi là tường thụy) tức là mả phát, tốt đẹp. Thông thường “mả kết” là người ta căn cứ vào một số hiện tượng sau đây: - Thấy có con rắn vàng sống ỏ mả hoặc có khí vật gì. Chứng tỏ đất nơi đây thịnh, mả kết nên rắn hoặc khí vật mới ỏ trong đó (long xà khí vật). - Khi mỏ nắp quan tài thấy dây leo tơ hồng quấn quýt ỏ chỗ áo quan, hoặc có những giọt nước trắng như sữa ỏ bên ngoài hoặc trong áo quan. Những giọt nước này hơi ấm. Mả như vậy có sinh khí và đã kết. - Một hơi ấm tiết ra ở mộ, trong huyệt lại khô ráo. - Những xương cốt dính liền vào nhau kết thành tượng... - Mặc dù mộ nằm d.ưới đất trũng, đất ruộng, nhưng mả tự nhiên được bổi đất lớn ra, như vậy là mả phát, gia đình con cháu làm ăn phát đạt, giàu có hay đỗ đạt. Khi bốc mộ mà gặp những trường hỢp trên thì người ta làm thủ tục lấp ngay và có cúng kiếng chu đáo. Đây là những trương hợp rất hiếm hoi, thật khó có loại mộ có đủ yếu tố này. Nhưng đó là niềm tin của dân chúng. 116
Một số địa phương, trong những năm gần đây, có những họ tộc lại quy mộ các cụ nhiều đời vào một ngôi mộ lớn, rồi xây thành nhà mồ. Việc đó rất tốt, vừa đỡ được diện tích đất, vừa tập trung vào một khu vực, thuận tiện cho những lúc đi thăm mộ trong những ngày giỗ, Tết... Những nơi không có tập quán mai táng hai lần, thì đào sâu chôn chặt một lần cũng là hợp lẽ. Trường hỢp này phải làm rất cẩn thận. Thường thì trong quan, ngoài quách. Nếu không làm quách có sẵn, thì dùng xi măng cốt sắt kiên cố. Dù đào sâu chôn chặt, hoặc cải táng thì bao giờ nơi mộ cũng phải để lỗ thông thoáng (người ta thường gọi là lỗ thông thiên), cần lưu ý là lỗ thông thoáng có thể trên nắp mộ hoặc bên hông phía trên thành mộ, nhưng phải có lưới sắt bảo vệ, tránh chuột hoặc rắn rết chui vào. Tuy nhiên, cách cải táng như đã nói ở trên, không đảm bảo vệ sinh môi trường, có hại đến sức khỏe của những người trực tiếp bốc mộ. Ngay cách .mai táng một lần (đào sâu chôn chặt) cũng gây ô nhiễm trực tiếp tới các mạch nước ngầm. Xu hướng chung của mọi quốc gia, mọi dân tộc văn minh trên thế giới là thực hiện hỏa táng hoặc điện táng - đó là hình thức mai táng khoa học, văn minh, vệ sinh và lợi ích nhất. Bác Hồ trước lúc đi xa, đã để lại cho nhân dân ta lời căn dặn tâm huyết trong bản di chúc lịch sử: “Tôi mong rằng cách hỏa táng dần dần được phổ biến. Vì như thế, đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao giờ ta có nhiều điện, thì điện táng càng tốt hơn” (Di chúc của Bác Hổ, tr. 37). Trong khi chuẩn bị tiến tới hình thành tập quán mới về “ôhỏaáng, điện táng”, chúng ta vẫn còn phải duy trì tập quán mai táng như đã nói ở trên thêm một thời gian nữa. Vì vậy, việc hoàn thiện lễ tang truyền thống của dân tộc Việt ỏ vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ là việc làm có ý nghĩa tích cực trong xã hội ngày nay.
20. CHỌN LỰA THỜI ĐIỂM
c ả i t á n g t h íc h
HỢP
Chọn lựa thời điểm để cải táng là một việc rất quan trọng. Theo phong tục của người Việt Nam, người mất sau 3 năm thì cải táng, cũng là lúc con cháu mãn tang, tức là hoàn toàn hết để tang vong linh. Vì thế, việc cải tháng thường được tiến hành sau 3 năm chôn hung táng. Tuy nhiên, hiện nay thực tế môi trường địa lý và khí hậu có nhiều thay đổi, các hóa chất được sử dụng nhiều trong đất để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng sau 3 năm xác người chết chưa phân hủy diễn ra khá phổ biến, nên nhiều gia đình lựa chọn giải pháp là để thời gian cải táng lâu từ 4 - 5 năm để tránh hiện tượng trên. Năm để tiến hành cải táng phải lựa chọn theo tuổi của vong, tránh những năm 117
xung sát. Ngoài ra, còn phải căn cứ theo tuổi của trưởng nam trong nhà, vì khi vong đã mất thì mọi sự may rủi đều gánh trên vai của người trưỏng nam. Năm để tiến hành cải táng cũng phải được phù hợp với tuổi của người trưởng nam. Một vấn đề được quan tâm nhiều nhất, đó là trường hợp mộ kết. Theo quan niệm của Phong Thủy, khi được chôn vào huyệt tốt thì sau một thời gian mộ sẽ kết phát. Nếu mộ kết phát thì con cháu sẽ thuận lợi, nhiều thành tựu, may mắn. Nếu mộ kết mà tiến hành cải táng thì không những mộ bị mất kết mà còn gặp nhiều điều rủi ro cho gia đình. Vì thế, cần thẩm định kỹ mộ trước khi cải táng xem mộ có phải là mộ kết hay không. Nhìn mộ có thể đoán định được bằng các đặc điểm sau: - Huyệt đất trước khi tiến hành hung táng là một huyệt đất mới chưa được đào xới. Mộ có đất vững chắc, nếu lấy một cây gậy cắm vào mộ thl đất rất chắc, khó có thể cắm được. Mộ không có nứt lún hoặc các hang hốc do các loài vật làm tổ. - Khí của mộ tươi tốt, cỏ cây trên và xung quanh mộ được xanh tươi - Đất của mộ nổi cao lên rõ rệt, xung quanh và trên mộ đất đùn lên trông thấy kích thước phát triển quá mức ban đầu. Do đó, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thủy tiến hành xem xét cẩn thận trước khi cải táng. Chọn lựa huyệt đất mới Khi đã chọn lựa được thời điểm tiến hành thì người trong gia đình sẽ phải chọn lựa một huyệt đất mới để chuyển hài cốt sang. Ngày xưa, điều kiện đất đai còn rộng lớn thì việc này tương đối dễ dàng. Ngày nay, diện tích đất dành cho người chết cũng rất hạn chế. Thường ở địa phương sẽ tiến hành bố trí cho gia đình một huyệt đất mới ỏ cùng nghĩa trang nơi hung táng. Nếu các gia đình có nhu cầu chọn lựa phải mua đất ở nơi khác rồi chuyển hài cốt về. Việc chọn lựa huyệt đất là tương đối khó khăn, để tìm được vị trí mới tốt lành, cẩn lưu ý các điểm sau đây: - Huyệt mộ là nơi đất mới chưa từng bị chôn lấp, đào xới. Khí đất của huyệt tươi tốt, đất rắn chắc tươi tắn. Nếu là vùng đồng bằng thì đất tươi mịn, có mùi thơm, đào lên phía dưới độ 60 -70cm đất đặc quánh, có màu vàng nhạt hoặc màu nâu đậm. Nếu là miền sơn cước thì đất mịn màng, tuy khô nhưng có màu vàng nhạt. - Kỵ nhất là huyệt là nơi đất tơi xốp, có chứa nhiều rác rưòi, hoặc có nguồn nước thải bị ô nhiễm. Đào lên ở đáy huyệt phải có mạch nước ngầm chảy dưới huyệt. Màu sắc của nước trong xanh, mùi thơm, tránh nước bị ô nhiễm hoặc nước có mùi hôi. Những huyệt ỏ đồng bằng thì kỵ không có nước ở dưới huyệt. - ở các vùng nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiếm, hoặc nằm án ngữ ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hổ hay sông suối là đắc cách. Trường hỢp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước thoáng 118
rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước huyệt mộ. - Quan sát cẩn thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc đâm xuyên sang hai bên thì chủ về phá bại không thể dùng. Đường đi sát ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ chủ tổn hại nhân đinh. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường đi lối lại quanh khu vực mộ. - ở vùng núi non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý chính tông. Huyệt cần được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt, phía sau có cao sơn che chắn, phía trước có minh đường thủy tụ.
21. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH CÀI TÁNG Bước 1: Chọn ngày giờ Hoàng đạo: cần tiến hành chọn lựa thời điểm phù hợp, tháng được chọn nên tránh tháng xung khắc với tuổi trưởng nam, tuổi của vong linh. Trong tháng chọn ra 2 ngày tốt gần nhau để tiến hành việc đào huyệt, xây mộ mới và ngày giờ tiến hành đưa hài cốt sang huyệt mộ mới. Ngày giờ tiến hành xây huyệt mộ mới thường chọn trước ngày bốc mộ khoảng 1 tuần. Những giờ tiến hành bốc thường là các giờ về đêm, theo quan niệm âm dương, hài cốt thuộc âm thì nên tiến hành vào các giờ âm để tránh xung hại. Các giờ này là các giờ Hợi, Tý, Sửu, Dần (11 giờ đêm) Bước 2: Nghi thức tiến hành: Vào ngày tiến hành động thổ xây huyệt mộ mới. Trước giờ khỏi công, trưởng nam cùng gia đình sắm sửa lễ để cúng quan thần linh. Vì theo quan niệm của tín ngưỡng Việt nam, trước khi làm việc gì cũng phải xin phép Thần Linh bản cảnh chứng giám để gia đình tiến hành công việc được thuận lợi. Lễ vật gồm: Hoa quả, tiền vàng, lễ mặn, gạo muối. Sau khi khấn Thần Linh thì tiến hành động thổ xây dựng. Huyệt thường được đào và xây vuông xung quanh huyệt, phía dưới không xây chỉ để lớp đất bằng để hạ quách dựng hài cốt xuống. Lưu ý: Kích thước xây chỉ vừa đủ rộng hơn quách mỗi chiều khoảng 10 - 20cm. Phía dưới không được láng xi măng để tránh bị âm dương ngăn cách. Nếu đất rắn chắc thì không cần xây tường xung quanh huyệt. Độ nông sâu của huyệt cũng cần được xem xét rất cẩn thận, phải đào hết lớp đất mặt, thường đào đến lớp đất thịt khoảng 50 - 60 cm. Tuy nhiên, cần phải nhờ một thầy có kinh nghiệm thẩm định độ nông sâu của huyệt. Công việc chính và quan trọng nhất là tiến hành đưa hài cốt sang huyệt mộ mới. Hài cốt sau khi được bốc, xếp gọn gàng vào tiểu sành sẽ được đưa sang huyệt mới để hạ xuống và lấp đất lên. Sau đó, gia đình sẽ tiến hành hoàn thiện phần xây dựng mộ. Mộ xây dựng bao giờ cũng phải có phần thông thiên, tức khoảng đất trên mặt mộ để dương khí giáng xuống. Bước 3: Hoàn tất, Sau khi mọi việc xây dựng đã hoàn tất, bước cuối cùng là nghi lễ tiến hành lễ tạ phần mộ và cúng cho vong linh được yên ổn, siêu thoát. 119
Theo phong tục truyền thống, lễ vật chuẩn bị bao gồm lễ mặn và lễ chay, ngoài ra còn có đồ mã như ngựa, quần áo, vàng mã. Sau đó, gia đình tiến hành lễ tạ quan Thần Linh, lễ điền hoàn long mạch. Những gia đình có truyền thống Phật giáo thì tổ chức nghi lễ cầu siêu cho vong linh được siêu thoát.
22. TỤC TÀO MỘ c u ố i NĂM Hằng năm, cứ vào khoảng ngày 24, 25 tháng chạp nhiều gia đình người Việt đi tảo mộ. Người ta đi thăm viếng, vun lại những nấm mộ, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh một, sửa sang, tu bổ mộ phần những người quá cố trong gia đình và cả những phần mộ của tổ tiên nhiều đời trước. Để tưỏng nhớ người đã khuất, những người còn sống mỗi năm đều cúng giỗ. Vào mỗi dịp năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến, người ta còn lo sửa sang, thăm viếng mồ mả, làm sạch đẹp nơi an nghỉ của ông bà tổ tiên, người thân của mình. Truyền thống tâm linh người Việt tin rằng, khi năm mới đến tất cả mọi thứ đều phải được chuẩn bị, sửa sang cho mới mẻ, kể cả nơi an nghỉ của ông bà, người thân. Tục ngữ Việt Nam có câu “cao nấm ấm mổ”. Vì vậy, sửa sang nấm mồ cũng là một trong những việc hiếu đạo của con cái, thể hiện lòng kính trọng đối với đấng sinh thành và các bậc tổ tiên đã khuất. Tục tảo mộ cuối năm, ngoài là một phong tục phổ biến của người dân Việt khắp mọi miền đất nước, còn là một hoạt động mang tính dòng tộc rõ nét. Đặc biệt, những dòng tộc lớn thường có những ngày tảo mộ được quy định rất cụ thể, thường ghi trong gia phả như một truyền thống của dòng tộc để con cháu ỏ các thế hệ sau tiếp tục thực hiện. Đồng thời, cũng để thắt chặt tình yêu thương, đoàn kết, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Về quê tảo mộ mỗi dịp xuân về đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đó cũng là việc làm thể hiện của tình cảm hướng về với nguồn cội. Người ta ví: “Cây có gốc mới nỏ cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu”. Đối với cư dân thành thị, những người đã khuất được mai táng trong các nghĩa trang ỏ thành phố, do vậy thường khó duy trì việc những người trong gia đình, dòng họ khi khuất núi được chôn cất gần gũi, đầm ấm với nhau như ở thôn quê. Nhưng cứ mỗi dịp cuối năm, khi sắp đến Tết Nguyên đán, người thành thị cũng luôn sắp xếp thời gian để đi thăm viếng, chăm sóc phần mộ ông bà, cha mẹ, người thân của mình để tỏ lòng hiếu thuận. Thăm viếng phần mộ tổ tiên cũng là nét đặc trưng của ván hóa cổ truyền, một tục lệ trong đạo thờ ông bà của dân tộc ta vốn từ lâu đã trở thành truyền thống. Dù 120
bận rộn trong cuộc mưu sinh, dù cả năm bôn ba làm ăn ỏ nơi xa, nhưng chốn quay về vẫn là gia đình. Nhiều gia đình cho rằng: Mỗi dịp tảo mộ cũng là một dịp giãi bày với ông bà, tổ tiên những chuyện đã xảy đến trong năm với cả gia đình, dòng họ; cũng là để thành tâm mời ông bà tổ tiên chuẩn bị cùng về ăn Tết với gia đình. Do đó, theo sau phong tục này nhân dân có tục rước ông bà vào trưa ngày 30 âm lịch và đưa ông bà, thường là vào trưa mùng 3 hoặc mùng 4, tùy theo tập quán ở mỗi địa phương, cùng với nếp sống của mỗi gia đình. Thường thì ngày tiễn đưa ông bà cũng là ngày cuối cùng của những ngày nghỉ ngơi vui Tết, mọi người trong gia đình lại quay trở về với cuộc sống thường nhật, với những công việc phải làm, cùng với lòng tin là sẽ được tổ tiên phù hộ cho những ngày tiếp sau đó. Tại sao khi cải táng phải cất mộ ban đêm hoặc sáng sớm khi mặt trời chưa mọc hoặc nếu làm bạn ngày thì phải có lán che? Có lý luận cho rằng: Âm dương cách biệt nên phải kiêng không để mặt trời trực tiếp dpi vào. Có nhiều trường hỢp, gặp đất dưỡng thi, hoặc ba điều tường thụy (tức mộ kết phát) không nên cải táng, phải lấp lại ngay. Có những ngôi mộ cỏ do kỹ thuật ướp xác, trải qua hàng trăm năm da thịt vẫn còn nguyên không hoại. Nhưng còn có những ngôi mộ lâu đời da thịt vẫn nguyên do chôn vào đất dưỡng thi. “Đất dưỡng thi” là một môi trường trong đó cả vi khuẩn hiếu khí và yếm khí đều bị hủy diệt. Theo phong tục, sau ba ngày an táng là làm lễ mỏ cửa mả. Trong buổi đó, sửa sang mộ cao ráo, đắp cỏ xung quanh làm rãnh thoát nước, chặt bỏ cây bụi xung quanh để phòng rễ mọc lan, xuyên vào mộ, chọc thủng áo quan. Kể từ ngày đó, con cháu đến viếng thăm, thắp hương chỉ lấy đất xung quanh đắp bổ sung vào những chỗ đất bị sụt lỏ, không được trèo lên mộ, không được động thuổng, cuốc vào. Trong ba năm đó áo quan và thi thể đang trong thời kỳ tan rữa, đã xảy ra những trường hỢp do không biết để phòng mà mồ mả bị sập. Sập mả, động mả mặc dù là hiện tượng tự nhiên cũng gây cho tang gia nhiều điều lo lắng. Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tùy gia cảnh và tùy vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Đây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Ngày giỗ theo âm Hán là húy nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ. Nguyên ngày trước, “Lễ Giỗ” gọi là “Lễ chính kỵ”: Chiều hôm trước lễ chính kỵ 121
có “Lễ tiên thường” (Nghĩa là nếm trước), con cháu sắm một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời thông gia, bà con làng xóm đến mời ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần vì khách đông phải chia ra hai lượt; lại có những nhà hàng xóm mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau, người đi lễ tiên thường, người đi lễ chính kỵ, ỏ nông thôn tùy theo thời vụ, muốn “Vừa được buổi cày vừa hay bữa giỗ”, buổi chiều đi làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ tiện hơn nên có nơi lễ tiên thường đông hơn là lễ chính kỵ. Dẩn dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một vài nhà làm, những người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thành tục của địa phương. Việc cúng ngày sống (tức lễ tiên thường vào chiều hôm trước, nguyên xưa chỉ cúng vào buổi chiều vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu nướng và ra khấn ỏ mộ yết cáo với thổ thần, long mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ giỗ). Cúng ngày sống hay cúng ngày chết, hay nói cách khác lễ tiên thường hay lễ chính kỵ, lễ nào là lễ quan trọng hơn? Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng kể cả chiều hôm đó mới chết. Một số nghi lễ cúng tế khác dành cho người đã khuất Cúng giải tà ma Tục lệ tin rằng, tà ma có thể ám ảnh người và gây nên cảnh hiểm hoi, nhất là cảnh hữu sinh vô dưỡng. Cũng có khi tà ma do có kẻ nào thù hằn nhờ bọn thầy pháp sai khiến ám ảnh. Trong những trường hỢp này cần phải cúng giải sự theo đuổi của vong hồn người khuất. Người ta thường tụng kinh siêu độ cho những người này. Những người hữu sinh vô dưỡng còn cho là bị giặc Phạm Nhan quấy nhiễu. Phạm Nhan là tên tướng giặc Nguyên sang xâm chiếm nước ta, bị giết chết, ma hồn còn theo đuổi, hãm hại đàn bà sinh đẻ. Bị giặc Phạm Nhan quấy nhiễu cũng phải cúng trừ và phải có bùa yểm. Siêu thăng Việc cầu siêu cho những vong hồn người quá cố là lễ siêu thăng, cẩu xin Phật độ cho những vong hồn này thoát khỏi địa ngục. Theo kinh điển nhà Phật thì thành tựu bồ đề chia làm ba bậc: thượng căn (thành Phật ngay); trung căn (sau khi chết mới được siêu thăng), hạ căn (phải đi vào giai đoạn trung ấm mới thành tựu). Vì vậy hạ căn phải cần đến sự tụng kinh siêu độ và những việc công đức của con cháu - vì họ mà thực hiện. Cho nên, nếu thân thuộc người quá cố biết làm việc công đức, sự siêu thăng ắt có, nhưng phải lấy việc tụng kinh niệm Phật làm điều cốt yếu. Người xưa quan niệm rằng: vong nhân sau khi chết phải trải qua nhiều cảnh tượng hãi hùng, cho nên nếu có người niệm Phật, nghe kinh và tự tạo nên hiệu lực 122
vô thường. Trong việc siêu thăng cẩn phải chú ý ba điều: trai giới, thành khẩn và tuyển trạch. Bắc cầu giải oan Lễ cúng những vong hồn vất vưởng, không nơi nương tựa hoặc những người chết do tại nạn bất ngờ. Lễ này nhằm dẫn độ linh hồn từ nơi lâm nạn về nương nhờ cửa Phật. Riêng đối với những người chết đuối, lễ bắc cầu giải oan rất được chú trọng, và cái gọi là “lễ bắc cầu" ở đây có phần thực tế của nó. Một lễ nghi trọng thể được cử hành, với 11 hạng mục đồ thờ sau đây: 1. Đặt 2 bàn thờ. Một bàn thờ Hà Bá, Âm phủ để dẫn hồn sứ giả và chư thần đặt trong một long đình, với 2 chiếc mũ; mũ trắng là mũ Hà Bá; mũ vàng là mũ Âm phủ và một thông điệp cho sứ giả ngũ đạo tướng quân và đương cảnh thổ địa yêu cầu các vị tiếp dẫn vong hổn vào thần phan. Một bàn thờ vong linh nạn nhân, đặt trên một bàn gỗ, có ảnh hay bài vị nạn nhân, 1 đĩa đặt 2 đồng tiền để xin âm dương. Hai bàn thờ này có bày thêm các đổ lễ thông thường khác. 2. Một gương chiếu, đặt trên 1 tấm ván nhỏ, kê trên đòn tay long đình, gương dùng để khai quang. 3. Một cây kim tích tượng, là cây gậy làm bằng gỗ tượng trưng cho dấu hiệu của đức Địa tạng vương Bồ Tát, Bồ Tát dùng cây gậy này làm rung chuyển cõi âm, phá khóa ngục để cứu vong hồn khỏi bị đày ải, nhằm giúp vong linh đi đến đất Phật. 4. Một thần phan (cây phan thần), làm bằng giấy hình chữ nhật, trên đầu có dấu ấn nhà Phật, tức là chữ úm, chia làm 3 phần theo chiều dài, phần giữa ghi tên họ, nghề nghiệp nạn nhân, phần bên phải ghi ngày tháng năm sinh, phần còn lại ghi ngày mất. Phía dưới thần phải chứa các chỗ trống ghi tên 3 vị thần trông coi thể theo thứ tự từ trái sang phải: Bành Cư, Bành Kiêu, Bành Chất. Dưới thần Bành Cư có câu chú: Tam hồn câu chí (ba hồn đều tới). Dưới thần Bành Chất có câu chú: Thất phách câu lai (bảy vía cũng lại), nếu người chết là đàn bà thì câu chú là Cữu phách câu lai (chín vía cũng đến). Thần phan buộc vào cành tre. Khi hồn nạn nhân được giải oan bắc cầu sẽ nhập vào cành phan dưới sự che chở của Bồ Tát được tượng trưng bỏi cây kim tích tượng. 5. Một hình nhân, làm bằng đồ mã dùng để thế mạng cho nạn nhân, trên ngực hình nhân có hàng chữ: Hình nhân nhất tương thế mệnh X quý công húy Y (hình nhân dùng để thế mạng cho ông X húy là Y). Sau buổi lễ, hình nhân được ném xuống sông. 6. Một cầu vải, được gọi là cầu hồn bắc từ sông lên nhưng chưa ch ạm tới nước, đến tấm ván đặt gương khai quang, cầu vải có 6 xà ngang bằng que tre.
m ặt
7. Một chiếc thang bằng dọc lá chuối, bắc vào cầu hồn, nơi xà ngang cuối cùng
123
của cầu vải, chân thang ngâm xuống nước, vong hồn nạn nhân sẽ theo thang này đi lên cầu vải. 8. Bảy lá cờ làm bằng giấy, cắm dọc theo cầu vải vào ngay chỗ có các cọc đỡ xà ngang bằng tre, trên mỗi là cờ ghi một lời chú hay lệnh của Địa tạng vưđng cho Hà Bá và các sứ giả để đi tìm hồn vía của nạn nhân. 9. Một con thần kê, tức là con gà trống nhốt trong lồng đặt bên thần tượng, dưới cầu vải. Pháp sư cho gà nuốt một lá bùa để gà có phép linh tìm được vong hồn nạn nhân; bỏi gà sống có đủ 5 đức tính cao quý; vân, vũ, dũng, nhân và tín. Gà sống nuốt bùa nên đã thành gà thần (thần kê). 10. Một nồi bùa, là nồi đất có đậy vung, ở trong đựng bùa, trên vung chèn một hòn gạch nặng phòng mãnh lực từ trong nồi phát ra để gây tại nạn cho thân nhân người bị nạn. 11. Một chiếc thuyền neo ở bờ sông dùng trong lúc làm lễ; sẽ chở nồi bùa, hình nhân và thần kê ra giữa sông rồi ném xuống động nước. Theo truyền thống thì pháp sư làm chủ lễ. Chủ lễ và 2 phụ tá ngồi trên một chiếc chiếu đặt bên phải bàn thờ, giữa bàn thờ với bờ sông; còn gia chủ và thân nhân nạn nhân ngồi trên một chiếc chiếu khác, quay mặt về cùng một phía với chủ lễ. Vào lễ, pháp sư đọc sớ xin Hà Bá chiêu hồn nạn nhân. Sau khi đọc sớ khấn xin Hà Bá và thần linh thì một phụ tá đọc sớ chiêu hồn nạn nhân và cuối cùng là đọc sớ khấn vong hồn nạn nhân. Trong khi đọc sớ, pháp chủ và phụ tá làm phép và đọc sớ xong thì cho hóa ngay: và sau đó pháp sư dẫn vong hồn nạn nhân nhập vào cành phan. Tiếp nữa là lễ khai quang: rnục đích là với lễ này tấm gương sẽ làm cho hồn phách nạn nhân trở lại sáng suốt. Sau lễ khai quang, pháp sư và những người hành lễ xuống thuyền với hình nhân, nồi bùa và thần kê cho thuyền bơi quanh chỗ nạn nhân lâm nạn, pháp sư cầm thẩn kê niệm chú, phụ tá đánh trống, rồi ném hình nhân và cả thần kê xuống sông, và cuối cùng nồi bùa cũng được ném xuống dòng sông, trong lời khẩn cầu của pháp sư. Lễ bắc cầu giải oan cho nạn nhân hoàn tất. Gọi hồn Muốn gọi hồn cần phải đặt quẻ, và quẻ phải do người lành vía đặt. Người này đưa một cơi trầu và mấy đồng tiền kẽm. Món tiền này chính là để thù lao cho cô hồn, cô hồn thắp hương đặt lên cơi trầu, đoạn bưng cơi trầu trong có đặt tiền quẻ, nâng ngang trán khấn ông Chiêu và Dí để hai vị linh thần này xuống âm phủ tìm linh hồn người đã chết về. Một lát sau, âm hồn nhập vào cô hồn, kể lể khóc lóc, nói lại lúc lâm chung, tả oán cảnh tình ly biệt. Lúc ấy người thân xúm vào hỏi hồn. Hồn sẽ tùy những câu hỏi mà trả lời, và tùy theo người hỏi nhận anh em, vợ con hoặc người khác trong gia đình. Người ta cho rằng, âm hồn có thể nhận đúng ai là cha, ai là mẹ... và nói được 124
nguyên do tại sao mà chết, chết ngày nào, cho người nhà biết hiện ỏ âm phủ làm gì và tình trạng ra sao. Âm hồn có muốn xin gì, người nhà sẽ cúng cho. Những cô hồn nói đúng đểu được người nhà thưỏng tiền, còn nếu có những câu sai thì cô hổn thay lời âm hồn sẽ nói là quá thương xót người sống nên âm hồn đã nhằm lẫn (?!). Âm hồn nhập vào cô hồn một lát, sau khi đã được người nhà hỏi đủ chuyện rồi thăng. Các cô hồn thường là những người sành tâm lý hoặc những người có mục tật không nhìn thấy gì, nhưng rất thính tai và dường như có giác quan thứ sáu để nhận biết mỗi khi nói sai.
23. TẬP TỤC THỜ VỌNG CON CHÁU XA QUÊ Nguồn gốc và ỷ nghĩa của tục thờ vọng Bàn thờ vọng ngày nay khá phổ biến, áp dụng cho con cháu sống xa quê, hướng vọng vể quê, thờ cha mẹ ông bà tổ tiên, hương khói trong những ngày giỗ, Tết. Ngày xưa, với nền kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp, người nông dân suốt đời không rời quê cha đất tổ, chuyển cư sang làng bên cạnh cũng đã gọi là biệt quán, ly hương, vì vậy bàn thờ vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thành phong tục phổ biến. “Vọng bái”, nghĩa là vái lạy từ xa. Ngày xưa, khi triều đình có những điển lễ lớn, các quan trong triều tập trung trước sân rồng làm lễ, các quan ỏ các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết lập hương án trước sân công đường, thắp hương, nến, hướng về kinh đô quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê chịu tang, cũng thiết lập hương án ngoài sân, hướng về quê làm lễ tương tự. Các bàn thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời, sau đó con cáo quan xin về cư tang 3 năm. Các thiện nam tín nữ hằng năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ỏ Vạn Kiếp, đức Thánh Mẫu ở Đền Sòng... dần dần về sau, đường sá xa xôi, cách trỏ, đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập trung, dần dần hình thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp nhau cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến bàn thờ chính xin bát hương về thờ. Bàn thờ vọng ông bà cha mẹ chỉ được tập trung trong trường hỢp sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ giàu nghèo, sang hèn thế nào, nếu ở gần cánh cửa trưỏng trên đất tổ phụ lưu lại thì đến ngày giỗ, ngày Tết, con thứ phải có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến nhà thờ hay nhà con trưởng làm lễ, cho dù cửa trưỏng chỉ thuộc hàng cháu, thì chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại nhà cửa trưỏng. Do đó không có lệ lập bàn thờ vọng đối cửa thứ ngay ở quê nhà. Nếu cửa trưỏng khuyết hoặc xa quê, thì người con thứ 2 thế trưỏng được lập bàn thờ chính, còn bàn thờ ỏ nhà người anh cả ỏ xa quê lại là bàn thờ vọng.
125
Cách lập bàn thờ vọng Khi bắt đầu lập bàn thờ vọng phải vể quê chính báo cáo gia tiên tại bàn thờ chính. Sau đó xin phép chuyển một lư hương phụ hoặc mấy nén hương đang cháy dở mang đến bàn thờ vọng rồi thắp tiếp. Nếu có nhà riêng, tương đối rộng rãi khang trang thì bàn thờ đặt hẳn một phòng riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ỏ phòng khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách. Nếu đặt bàn thờ gia thần riêng thì phải đặt thấp hơn bàn thờ gia thần một ít. Đặt hướng nào? - Hướng về quê chính, để khi người gia trưỏng thắp hương vái lạy thuận hướng vái lạy về quê.
24. TẬP TỤC CÚNG Glỗ Tổ TIÊN TRONG NGÀY CÁT KỴ Theo phong tục cổ truyền của người Việt Nam luôn coi trọng ngày cúng giỗ tổ tiên. Ngày giỗ Thường - Cát Kỵ là ngày kỷ niệm người chết qua đời. Đây là điểu quan trọng nhất trong phụng sự tổ tiên. Con cháu phải nhớ ngày này để làn tròn bổn phận với người mất. Dưới đây là những điều cần lưu ý; - Suốt từ lúc cáo giỗ ngày Tiên Thường cho đến hết ngày hôm sau, bàn thờ lúc nào cũng có thắp hương. - Dùng thủ lợn hoặc thủ bò để thờ Thổ Công trong ngày giỗ. - Khách tới ăn giỗ có thể mang đồ lễ là vàng hương, trầu rượu, trà nến, hoa quả. Khi khách tới, con cháu phải đón đồ lễ đặt lên bàn thờ trước khi khách lễ. - Khách lễ trước bàn thờ: 4 lạy 3 vái. Gia chủ đứng đáp lễ. Lễ bàn thờ xong, khách quay vái người đáp lễ. - Sau khi bày cỗ bàn, thắp hương, gia chủ khăn áo chỉnh tề bước vào chiếu trải trước bàn thờ, chuẩn bị lễ. - Gia chủ đứng thẳng, chắp hai tay nâng cao ngang trán, khom mình cúi xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống hai tay đang chắp (thể thủ phục), cất đầu và mình thẳng lên, đổng thời co chân phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy, hai bàn tay vẫn chắp xuống tì vào đẩu gối bên phải mà đứng lên. - Sau khi gia chủ, con cháu, bạn bè thân hữu, khách khứa khấn lễ xong. Đợi hết ba tuần hương thì gia chủ kế tạ, hóa văn khấn, hóa vàng, rồi xin lộc hạ lễ. - Cuối cùng gia chủ bày bàn, bày mâm cỗ mời họ tộc, khách khứa ăn giỗ, cùng ôn lại những kỷ niệm về người đã khuất và thăm hỏi lẫn nhau.
126
25. TẬP TỤC CÚNG Glỗ - TẾ LỄ Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tùy gia cảnh và tùy vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Đây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình hay dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa "Uống nước nhớ nguồn" việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục. Ngày cúng giỗ Lễ cúng giỗ vào đúng ngày mất hay trước ngày mất một ngày? Có người cho rằng phải cúng vào ngày đang còn sống (tức là trước ngày mất), có người lại cho rằng "trẻ dôi ra, già rút lại", vậy nên chết trẻ thì cúng giỗ đúng ngày chết, còn người già thì cúng trước một ngày. Vậy có câu hỏi; "Người trung niên chết thì cúng vào ngày nào"? Ngày giỗ theo âm Hán là húy Nhật hay kỵ Nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ. Nguyên ngày trước, "Lễ giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ": chiều hôm trước lễ chính kỵ có "Lễ tiên thường" (Nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời thông gia, bà con làng xóm đến mời ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần vì khách đông phải chia ra hai lượt; lại có những nhà hàng xóm mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau, người đi lễ tiên thường, người đi lễ chính kỵ, ở nông thôn tùy theo thời vụ, muốn "Vừa được buổi cày vừa hay bữa giỗ", buổi chiều đi làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ tiện hơn nên có nơi lễ tiên thường đông hơn là lễ chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một vài nhà làm, những người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thành tục của địa phương. Việc cúng ngày sống (tức lễ tiên thường vào chiều hôm trước, nguyên xưa chỉ cúng vào buổi chiều vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu nướng và ra khấn ỏ mộ yết cáo với thổ thần, long mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ giỗ). Cúng ngày sống hay cúng ngày chết, hay nói cách khác lễ tiên thường hay lễ chính kỵ, lễ nào là lễ quan trọng hơn, chẳng qua đó là cách biện hộ cho phong tục từng nơi. Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiểu, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng 127
buổi sáng kể cả chiều hôm đó mới chết. Mấy đời tống giỗ Theo gia lễ "Ngũ đại ,mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tăng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế vào thần chủ ông khảo. Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tăng, tổ, phụ (4 đời trên thân mình) và tử, tôn, tăng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ (cao, tăng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ. Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thủy tổ. Cúng giỗ người chết yểu Những người đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng chết, trỏ thành phạp tự (không có con trai nối dõi). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con cháu người thừa tự đó tiếp tự. Những người chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tùy theo tục lệ địa phưdng) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với tiên tổ. Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cdm, một đôi đũa đặt bên cạnh mâm, coi như người thân còn sống trong gia đình. Điều này khồng có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng vọng đối với người thân nhân đã khuất.
128
Chương ba T Ậ P T Ụ C TH Ờ CÚN G TR O N G NHỮNG D ■ỊP __
L Ễ T Ế T TR O N G Đ A I
129
I. TẬ P TỤ C THỜ CÚNG NGÀY T Ế T
1. NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NGÀY TẾT NGUYÊN ĐÁN Lễ tiết là một bộ phận văn hóa truyền thống Việt Nam. Đó là việc tổ chức những nghi lễ theo một khuôn mẫu nhất định, vào những thời điểm của tự nhiên theo chu kỳ bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Lễ tiết có ý nghĩa cơ bản là thể hiện ý tưởng về sự Trường tồn cuộc sống, khao khát của con người với sự hài hòa Thiên - Địa - Nhân. Ý tưởng vũ trụ, thiên nhiên và con người là một khối thống nhất trong vòng quay của vũ trụ. Lễ tiết là cái mốc phân đoạn chuỗi thời gian vĩnh hằng trong đời sống con người. Lễ tiết gắn liền với khái niệm thời tiết, thời vụ, phản ánh ý niệm của dân tộc về phân đoạn thời gian trong năm. Vì vậy, lễ tiết đã trở thành ý thức hệ dân tộc, thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam. Nguồn gốc Tết Nguyên đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng giêng, nhằm tháng Dần, Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050 - 256 trước Công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày Tết khác nhau. Đến đời Đông Chu, Không Phu Tử ra đời, đổi ngày Tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.
130
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lộn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mùng một cho đến hết ngày mùng bảy.
2. TẬP TỤC TRUYỀN THỐNG TRONG CÁC NGÀY LỄ TẾT Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tiết Thương nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên, Thanh minh, Đoan ngọ, trung thu... Ngày Tết nêu ở đây tức là nói tắt Lễ tiết Nguyên đán (ngày đầu năm). Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như: khai bút, khai canh, hái lộc, chúc Tết, du xuân, mừng thọ... Dưới đây là một vài phong tục đáng được duy trì phát triển. - Tống cựu nghênh tân: Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưòi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng. Nhiều gia đình nhắc nhỏ, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trỏ đi không quấy khóc, không nghịch ngơm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quỏ mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dầu lạ dầu quen. Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xóa hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành. - Hái lộc, xông nhà, chúc Tết, mừng tuổi: Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khỏe tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, đi hái lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ò chốn tôn nghiêm mang về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người “Nhẹ vía” mà mình thích đến xông nhà. Bạn nào vinh dự được người khác mời đen xông thì nên chú ý, không nên sai hẹn sẽ không may mắn cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với bạn. d thành thị thời trước, sáng mùng một, có một số 131
người nghèo gánh một gánh nước đến các gia đình giàu có lân cận và chúc họ “Lộc phúc dồi dào”. Những người này được thưỏng tiền rất hậu. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sỢ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay đổ tại mình “Nặng vía”. Chính vì vậy, đáng lẽ sáng mùng một đông vui lại hóa ít khách, trừ những nhà đã tự xông nhà, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trỏ đi không tính. - Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết: Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điểu đó, chúc sức khỏe là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên húy gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hỢp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc. Chục Tết nhưng người trong năm cũ gặp rủi ro tai họa thì động viên nhau "Của đi thay người”, “Tai qua nạn khỏi”, nghĩa là ngay trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngày đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa. Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đậm đà ý vị: hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức rườm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm. - Quà Tết, lễ Tết: Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, đặc biệt là đi trước Tết càng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cẩu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tỏ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò Tết thầy giáo, bệnh nhân Tết thầy thuốc, con rể Tết bố mẹ vợ... Quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng không nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, “Lời chào cao hơn mâm cỗ”. - Lễ mừng thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần... tính theo tuổi mụ. Ngày Tết, ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui. 132
Cũng vào dịp đẩu xuân, người có chức tước khai ẩn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mỏ hàng lấy ngày: Sĩ, Nông, Công, thương “Tứ dân bách nghệ” của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thôn làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui chơi quá đà. Sau ngày mùng một, dù có mãi vui Tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày “Khai nghề”, “Làm lấy ngày”. Nếu như mùng một là ngày tốt thì chiều mùng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ hoàng đạo bắt đầu không kể mùng một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó. Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân. - Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè. Nhưng trong dịp Tết, đặc biệt là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép vui chơi, có cả trẻ con người lớn những nhà hàng xóm, những gia đình thân cận cùng vui. Tam cúc, cơ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hóa vàng. Tục trong ngày Tết kiêng quét nhà đầu năm Đối với người Việt Nam, Tết Nguyên đán không chỉ là thời khắc giao thừa mà là một khoảng thời gian dài từ 23 tháng chạp ngày ông Táo chầu trời cho đến ngày ngày 8 tháng giêng ngày Cốc nhật được hiểu là ngày sinh ra ngũ cốc. Và tục quét dọn nhà trước Tết và kiêng quét dọn trong 3 ngày Tết là một trong những tập tục chính. - Quét dọn nhà cửa trước Tết là tục lệ cổ nhất: Từ thời cổ đại Tết chỉ được coi là mỏ đầu một chu kỳ và gọi là “tái”. Theo các tài liệu cổ thì “tái” cũng chỉ là một lễ như nhiều lễ khác. Điểm khác biệt là các lễ vật của “tái” phải được chuẩn bị trước và các lễ vật đểu là những sản phẩm săn bắt được. Các tục lệ của “tái” chỉ đơn giản là phải quét dọn sạch sẽ nơi để tế. Vi vậy có thể nói phong tục quét dọn sạch sẽ trước khi tế lễ là tục có nguồn gốc cổ nhất. Trong các chữ giáp cốt còn tìm thấy chữ “trửu” nghĩa là chổi, điều này chứng tỏ trong các lễ cổ đã có chổi để quét dọn. Các tục khác đều xuất hiện ỏ các đời sau. Trước đây sau ngày vọng của tháng chạp thì 15 ngày về sau liên tục, ngày nào cũng được coi là đẹp, nên đều có thể quét dọn. Sau này khi các tục lệ khác đã phát triển thì ngày quét dọn, đặc biệt là dọn bàn thờ thường được tiến hành vào ngày 23 133
tháng chạp là ngày ông Táo lên chầu trời. Điều đáng lưu ý là chĩ được quét dọn đến ngày 30 Tết còn 3 ngày đầu năm thì không ai quét nhà, đổ rác cả. - Vì sao không quét dọn trong 3 ngày đầu năm? Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân như xác pháo đốt trong đêm giao thừa thường là màu đỏ biểu hiện của may mắn, gia đình quét đi sẽ bị xui xẻo. Tục này có nguồn gốc như sau: Theo một điển tích của Trung Quốc ghi trong “Sưu thần ký”: Có người lái buôn tên là Âu Minh, đi qua hồ Thanh Thảo được thùy thần cho một cô gái hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì Âu Minh ăn nên làm ra nhà rất giàu. Một hôm, nhân ngày mùng một Tết, không biết vì lý do gì Âu Minh đánh Như Nguyệt, nó sợ quá chui vào đống rác ở góc nhà. Vợ Âu Minh không đề ý nên vô tình quét nhà hót luôn cả đống rác có Như Nguyệt bên trong đổ đi. Từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Người ta bảo Như Nguyệt chính là thần tài và lập bàn thờ để thờ. (Có lẽ vì vậy mà bàn thờ Thần Tài thường để ở góc nhà). Từ đó có tục kiêng hót rác trong ba ngày đầu năm sợ hót mất thần tài ẩn trong đó đỗ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt. ở Việt Nam lại có chuyện “Sự tích cái chổi” để giải thích tập tục này. Nội dung chủ yếu có thể tóm tắt như sau: Ngày xưa ở trên trời có một người đàn bà nấu ăn rất khéo tay nên Ngọc Hoàng giao cho bà chuyên trông nom công việc nấu ăn ỏ thiên trù. Nhưng bà lại có tật hay ăn vụng và tham lam. Bà ta yêu một lão chăn ngựa cho thiên đình. Đã nhiều phen bà lấy cắp rượu thịt trong thiên trù giấu đưa ra cho lão và cũng nhiểu phen bà dắt lão lẻn vào kho rượu, mặc sức cho lão bí tỉ. Lệ nhà trời những người hầu hạ đều có thức ăn riêng, nhất thiết không được đụng chạm đến ngự thiện, dù là Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy. Một hôm, Ngọc Hoàng mỏ tiệc đãi quẩn thần. Giữa lúc cỗ đang bày lên mâm thì từ đàng xa, bà đã nghe tiếng lão chăn ngựa hát. Bà biết lão tìm mình. Bà lật đật ra đón và đưa giấu lão vào phía góc chạn, Trong bóng tối, trên giá mâm đặt ỏ gần đó có biết bao là mỹ vị mùi hương thơm phức. Đang đói sẵn, lão giỏ lổng bàn sờ soạng bốc lấy bốc để... Khi những người lính hầu vô tình bưng mâm ngự thiện ra thì bát nào bát ấy đều như đã có người nếm trước. Ngọc Hoàng thượng đế vừa trông thấy không ngăn được cơn thịnh nộ. Tiếng quát tháo của Ngọc Hoàng dữ dội làm cho mọi người sợ hãi. Người đàn bà nấu bếp cúi đầu nhận tội và bị đày xuống trần, bắt phải làm chổi để phải làm việc luôn tay không nghỉ và tìm thức ăn trong những rác rưởi dơ bẩn của trần gian. Lâu về sau, thấy phạm nhân bày tỏ nông nổi là phải làm khổ sai ngày này qua 134
tháng khác không lúc nào được nghỉ, Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho nghỉ ba ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết Nguyên đán. Bởi vậy đời sau trong dịp Tết Nguyên dán, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà để cho chổi được nghỉ.
3. CÚNG ÔNG TÁO NGÀY 23 THÁNG CHẠP Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phúc đức cho gia đình, phúc đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Hằng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Quân sẽ lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng Đế (hay ông Trời), nên có nơi gọi ngày này là Tết ông Công. Vị Táo Quân quanh năm chỉ ỏ trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể. Lễ vật cúng Táo Quân gồm có: mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc: hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuổn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy. Những đồ vàng mã này (mũ, áo, hia và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được dốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau dó người ta lập bài vị mới cho Táo Công. Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo Quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cổ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo Quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cổ vậy. Ngoài ra, để ông Táo có phương tiện về chẩu trời, ỏ miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý "cá hóa rổng' nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo vể trời. Con cá chép này sẽ "phóng sinh" (thả ra ao hồ hay ra sông sau khi cúng). ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Còn ở miền Nam thì đơn giản hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy là đủ. Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng...) hay lễ chay (với trầu 135
cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc...) dể tiễn Táo Quân. Biện cỗ cúng ông táo Một mâm cỗ cúng ông Công ông Táo thường bao gồm các lễ phẩm sau: -1 đĩa gạo -1 đĩa muối -1 miếng thịt vai luộc -1 bát canh -1 đĩa xào -1 đĩa giò -1 con cá chép rán (hoặc cá chép sống) -1 đĩa xôi gấc, -1 bát chè kho -1 đĩa hoa quả -1 ấm trà sen - 3 chén rượu -1 quả bưởi -1 quả cau, lá trầu -1 lọ hoa đào nhỏ -1 lọ hoa cúc -1 tập giấy tiền, vàng mã Có thể thay thịt vai luộc bằng một con gà luộc ngậm hoa hồng hoặc chủ động thay đổi các món canh như canh măng, canh mọc, canh bóng... Gà luộc ngậm hoa hồng hay ớt đỏ tỉa hoa và chuẩn bị những món hơi khác nhưng cũng vẫn giữ được tính truyền thống và bản sắc như: bánh chưng gấc, xồi vò, xôi chè, thịt đông, nem rán, cá kho riểng, trám hoặc thịt kho tàu, giò xào, giò nạc, món xào, canh măng, hành muối, gia vị mắm muối, trà, rượu, hoa, trầu cau,. Cúng ông Táo phải đặt trong bếp, khi cúng phải bật bếp lên cho cháy rực, mâm cỗ đề huề, cả nhà quanh năm no ấm. Có người thì vừa đặt một mâm cúng trong bếp và thêm một mâm'khác cúng trên bàn thờ.
136
4. TẬP TỤC TIỄN ĐÓN TÁO QUÂN TRONG DỊP TẾT Người xưa cho rằng ngày Tết hết sức quan trọng do nó quyết định vận thế, sự nghiệp và tài lộc cho cả năm sau.Táo quân cai quản khói lửa ỗ hạ giới, lại thường ỏ trong bếp nên biết hết chuyện hay dỏ của gia đình trong cả năm, sau khi nghe thông báo xong Ngọc hoàng sẽ căn cứ vào đó để định đoạt, có thể là khen thưỏng cũng có thể là quỏ phạt. V) vậy, trước khi Táo quân lên thiên đình người ta bày lễ cúng để Táo quân “nói tốt” cho nhà mình. Tục xưa thường để bàn thờ, bài vị của Táo công treo trên tường nhà bếp, thần vị làm bằng giấy vẽ hình táo quân và một bát hưđng, cúng vào buổi sáng và buổi tối, nhưng ngày nay không còn phong tục này nữa. Đồ cúng táo quân thông thường là các loại kẹo bánh có vị ngọt, hi vọng thần ăn đồ ngọt sẽ không bẩm báo những chuyện nhỏ nhặt với Ngọc đế. Sau khi cúng tế xong đem đồ ngọt bôi quanh miệng bếp, tượng trưng miệng thần quân dẻo ngọt không bẩm chuyện xấu của nhà mình với Ngọc hoàng. Nếu nhà có trẻ nhỏ thì cúng thêm một con gà trống để mong đứa trẻ phát triển khỏe mạnh. Khi cúng tiễn thần bếp, người ta thường phải tắm rửa sạch sẽ, dùng muối, hoa, tinh dầu, lá bưởi hoặc các loại lá thơm làm nước tắm, sau khi tắm xong thay quần áo sạch sẽ rồi mới cúng. Có tiễn thần thì cũng có đón thần, ngày nay khi nghe thấy từ “đón thần”, có lẽ nhiều người liên tưỏng đến đón Thần Tài, nhưng thực ra đón thần ở đây lại là tập tục quan trọng hơn so với tiễn thần. Sau khi Táo quân được tiễn lên trời để bẩm báo với Ngọc hoàng, ngày 25/12 là ngày nghỉ, Ngọc hoàng sẽ dẫn quần thần xuống nhân gian thị sát vì vậy ngày này hết sức quan trọng. Người xưa quan niệm do ngày đó Ngọc hoàng xuống hạ giới nên trong mọi người đều rất cẩn trọng về phẩm cách của mình: Không đánh cãi chửi nhau, không nói bậy, không đòi - vay nỢ, không phơi quần áo... Tuy vậy đây chỉ là quan niệm ngày xưa, ngày nay hầu như không còn nghi thức này nữa. Sau khi tiễn Táo quân xong mọi người mới bắt đầu được quét dọn, tục gọi là “quét tàn tinh” nhưng nếu năm đó nhà có tang ma thì không được quét, kiêng khói bụi bay vào mắt người chết. Việc quét dọn, kê lại đồ đạc lại toàn bộ nhà thường được thực hiện sau khi tiễn ông táo là do lúc này các thần đã về trời bẩm báo công việc, chĩ còn một số thần nhỏ ỏ lại “trực” để duy trì trật tự, nếu có xê dịch làm đảo lộn đồ đạc thì cũng không mạo phạm đến thần. Sau quét dọn mới đến phần lau rửa, ngoài ý nghĩa làm vệ sinh môi trường xung quanh, lau chùi, rửa sạch đồ đạc trong gia đình còn có ý nghĩa quan trọng hơn đó là sự thanh tịnh trong thâm tâm, phản tỉnh những sai lầm trong cả năm. Người xưa cho rằng nếu chỉ chăm chút bề ngoài mà không coi trọng sự thay đổi hướng thiện trong 137
tâm hổn thì hiệu quả trừ bỏ những cái xấu của năm cũ có làm cũng như không. Đặc biệt là những người trong năm ấy gặp nhiều sự cố phát sinh khiến công việc và cuộc sống không như ý muốn, tự cho rằng mình gặp đen đủi, muốn tìm cách để thay đổi tương lai, hi vọng năm mới tốt đẹp hơn sẽ nhân cơ hội này phản tĩnh cũng như tổng kết sai lẩm trong cả năm, rút ra kinh nghiệm để năm mới thuận lợi hơn.
5. TỤC LỆ CÚNG TẤT NIÊN Sau một năm làm ăn vất vả, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày để tổng kết và nhìn lại những thăng trầm của những ngày đã qua. Ngày này được gọi là ngày tất niên. Trong ngày tất niên, mọi người trong gia đình sẽ sửa soạn, quét dọn, trang trí lại nhà cửa, đón năm mới. Cùng với đó, mỗi gia đình người Việt sẽ chuẩn bị một mâm cơm cúng tất niên. Có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu) được gọi là ngày tất niên. Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mùng 1 tháng giêng, giờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó, thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày mùng 1 tháng giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết, đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, được gọi là Giao thừa. Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ỏ trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng ông 30. Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, củng những cô hồn lang thang, không nơi nương tựa. Ngày tất niên, mọi việc quan trọng chuẩn bị cho lễ Tết Nguyên đán gần như đã hoàn tất nhưng thường thì ai cũng tất bật với rất nhiều công việc nhỏ, cố gắng chuẩn bị cho một năm mới trọn vẹn, chu đáo. Tuy vậy, những người chủ chốt trong gia đình vẫn không bao giờ sao nhãng việc cúng tất niên. Từ sáng sớm, người phụ nữ trong gia đình lo làm cơm cúng. Mâm cơm thường phải đầy đủ các vị, các hàng đại diện mặn, chay, thể hiện được sự phong phú trong đời sống hằng ngày của nhân dân ta. Người đàn ông trụ cột trong gia đình sửa soạn nơi thờ tự, thăm mộ rồi trở vể làm lễ cúng tất niên. Bữa cơm tất niên làm thịnh soạn hơn ngày thường. Trong bữa cơm tất niên, tất cả mọi thành viên trong gia đình đểu phải có mặt đông đủ, người ta nói nhiều chuyện vui vẻ đã qua, động viên nhau cố gắng, tạo nên một không khí gia đình đầm ấm trong những ngày se se lạnh. 138
Ngày nay, không chỉ trong gia đình mởi cúng tất niên và ăn tất niên. Rất nhiều các cơ quan, các nhóm hội cũng tổ chức cúng tất niên và mở tiệc tất niên, tổng kết năm cũ. Tất niên cũng được hiểu rộng rãi hơn, ngày ăn tất niên cũng không chỉ là ngày cuối cùng của năm nữa, mà là những ngày giáp Tết, khi các cơ quan bắt đầu được nghỉ lễ.
6. CÚNG GÀ TRONG LỄ GiAOTHỪA Theo quan niệm của người Việt Nam chủng ta con gà là loại tam sinh, đại diện cho trời, đất, nước vì: Đầu giống rồng, mình giống công, đuôi giống tôm. Không những thế gà theo chữ Hán còn gọi là “kê” mà “kê” nghĩa là vàng. Vì lẽ đó nhà ai Tết đến mâm cỗ cúng giao thừa cũng chuẩn bị con gà để cúng. Để có được con gà cúng giao thừa cho vừa ý, cho đẹp việc đầu tiên phải chọn gà rất kỹ. Con gà trống mào phải đỏ tươi (chưa đạp mái người ta vẫn gọi là gà trống cưỡng) gà mào tươi rồi song phải nhú cao đểu nhau, lông mượt nhanh nhẹn, da căng vàng, ức đầy, chân nhỏ (tức là loại gà ri thịt mới thơm) gà nặng từ 1,2 kg đến 1,4 kg là vừa, gà to quá bầy không đẹp, thịt kém ngọt nhiều xương, Trước khi thịt gà nửa ngày phải thả cho nó đi lại thì máu mới lưu thông, nếu thịt gà ngay máu tụ ở giữa các khuỷu chân thì tương truyền nhà năm nay có động mồ mả, nếu đọng máu nhiều ở xung quanh cẳng gà th) cho rằng chú bác, anh em năm nay bất hòa, đấy là chưa kể máu đọng ỏ các kẽ chân gà thì cho rằng năm nay nhà này khuynh gia bại sản. Làm gà cũng phải công phu hơn gà làm các món ăn khác vì đây là gà cúng. Trước tiên vặt lông ỏ dưới tai gà, dùng dao sắc cắt một nhát không quá sâu cho tiết ra hồng rồi hứng vào bát, trong bát cho một chút nước để tiết gà xốp, mịn. Khi cắt tiết không cầm đầu gà chặt quá tránh bị tụ máu, đầu gà dễ bị đen. Khi cắt tiết gà phải để cho chảy hết máu, nếu để gà đập cánh trong chậu nước đun sôi thì dễ gãy cánh, mất đẹp. Cắt tiết gà xong, nhúng gà vào nước nóng khoảng 70 độ c (pha 4 phần nước sôi, một phần nước lạnh) nếu nước ỏ 100 độ c gà non dễ bị rách ra. Sau đó nhổ sạch lông bóc màng chân, bóc vỏ sừng, sát muối toàn thân dể tẩy hết mủi của lông, rửa gà nhiều lần cho sạch. Sau khi làm lông, rửa gà sạch thì đến khâu mổ gà, đây được coi là khâu rất quan trọng. Gà mổ moi chứ không được mổ phanh. Muốn mổ gà moi được đẹp khâu đầu tiên là cắt đứt đoạn da ỏ diều, lôi diểu và cuống họng ra, cắt ngang bụng dưới cách hậu môn 2-3cm (vết cắt dài khoảng 4 cm) lấy nội tạng ra, khoét hậu môn. Sau đó làm lòng sạch để ráo nước. Dùng lạt buộc cổ giữa hai cánh gà định 139
hình như con gà sống cổ vươn cao, hai cánh xòe như hai cánh tiên, đôi chân cài vào trong bụng cho gọn. Luộc gà phải chọn nồi sâu lòng, cho nước vào nồi ước lượng đủ ngập gà (chú ý nước luộc gà phải ở 50 độ c mới cho gà vào để tránh gà tiết ra nhiều nước, giữ được độ ngọt cho thịt). Cho muối, gừng, hành đập dập vào nồi để gà có mùi thơm lâu. Gà phải xấp nước khi chín mới đẹp. Khi đun sôi rồi thì hạ nhiệt đun nước sôi lăn tăn nếu đun lửa to gà dễ bị nứt da. Rồi cho tiết vào luộc, khi gà nổi lên, nước có nhiều váng béo, dùng tăm xiên thử vào đùi gà, thấy nước tiết ra không đỏ là gà đã chín vớt ra nhúng gà vào nước sôi để nguội, rửa sạch da gà, để ráo nước. Xoa một chút mỡ gà tạo cho da gà vàng, béo mọng để lâu da không bị nhăn nheo. Đặt gà lên đĩa to, tháo dây bày ngay ngắn, mỏ cài bông hoa hồng đỏ rực (tiết, lòng bày dưới bụng gà) bày thêm một đĩa muối tiêu, chanh, ớt thái mỏng và một ít lá chanh thái chỉ cho thêm phần hấp dẫn, Làm được con gà như ý cả gia đình rất vui, yên tâm đón một năm mới tốt đẹp.
7. LỄ CÚNG GIAO THỪA NGOÀI TRỜI - Ý nghĩa: Ngày xưa quan niệm rằng mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một người có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: Được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật... Trái lại, gặp phải ông lười biếng kém cỏi, tham lam... thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao, các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Các cụ cũng hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về, không trung tấp nập, vội vã, thậm chí có quan, quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đổ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. V) cứ tưởng tượng thêm thắt các hình ảnh nhà trời theo mình như vậy nên nhiều nhà có của đua nhau cúng giao thừa rất to và nghĩ cách làm mâm cúng giao thừa nổi lên bỏi những của ngon vật lạ, trang trí cầu kỳ để các quan chú ý, quan tâm đến 140
chủ hảo tâm mà phù hộ cho họ với những ưu ái đặc biệt. Nhưng quan điểm chung cho rằng, mỗi năm có một vị hành khiển trông coi việc nhân gian, hết năm thì vị thần năm cũ lại bàn giao công việc cho vị thần năm mới, nên phải cúng giao thừa d ngoài trời để tiễn đưa thần năm cũ và đón rước thần năm mới. có 12 vị hành khiển và 12 phán quan (phán quan là vị thần giúp việc cho các vị hành khiển). Mỗi vị làm một năm dưới dương gian và cứ sau 12 năm thì lại có sự luân phiên trở lại. Vương hiệu của 12 vị hành khiển và các phán quan là: Năm Tý: Chu vữơng Hành Khiển, Thiên ôn hành binh chi thần, Lý Tào phán quan. Năm Sửu: Triệu vương Hành Khiển, Tam Thập lục thương hành binh chi thần, Khúc Tào phán quan. Năm Dần: Nguy Vương Hành khiển, mộc tinh hành binh chi thần, tiêu tào phán quan. Năm Mão: TrịnhVương Hành khiển, thạch tinh hành binh chi thần, liễu tào phán quan. Năm Thìn: sỏ Vương Hành khiển, hòa tinh hành binh chi thần, biểu tào phán quan. Năm Tị: Ngô Vương Hành khiển, thiên hao hành binh chi thần, hứa tào phán quan. Năm Ngọ: Tần Vương Hành khiển, thiên mao hành binh chi thần, ngọc tào phán quan. Năm Mùi: Tống Vương Hành khiên, ngũ đạo hành binh chi thần, lâm tào phán quan. Năm Thân: Tề vương Hành khiển, ngũ miếu hành binh chi thần, tống tào phán quan. Năm Dậu: Lỗ vương Hành khiển, ngũ nhạc hành binh chi thần, cự tào phán quan. Năm Tuất: Việt Vương Hành khiển, thiên bá hành binh chi thần, thành tào phán quan. Năm Hợi: Lưu vương Hành khiển, ngũ ôn hành binh chi thần, nguyễn tào phán quan. Trong các bài văn khấn giao thừa khi dâng hương ngoài trời đểu khấn danh vị của các vị quan hành khiển cùng các vị phán quan nói trên, năm nào thl khấn danh vị của danh vị của quan hành khiển năm ấy. 141
- sắm lễ: Lễ cúng giao thừa ngoài trời gồm hương, hoa, đèn nến, trầu cau, quần áo, mũ thẩn linh và mâm lê mặn. Với thủ lợn luộc, gà trống luộc, xôi, bánh chưng... tất cả được bày lên bàn trang trọng đặt ở trước cửa nhà. Mâm lễ cúng giao thừa giao thừa phải được chuẩn bị chu đáo, trang trọng với lòng thành kính. Vào đúng thời điểm giao thừa, người chủ gia đình phải thắp đèn, nến, rót rượu, rồi khấn vái trước án. Văn khấn có thể viết vào giấy để đọc, sau khi hết 3 tuần hương thì hóa tờ giấy viết văn khấn cùng vàng mã dâng cúng.
8. CÁC TỤC LỆ TRONG ĐÊM GIAO THỪA Lẽ trời đất có thủy khỏi phải có tận cùng, một năm đã bắt đẩu ắt phải có hết, bắt đầu từ lúc giao thừa, cũng lại hết vào lúc giao thừa. Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, giao thừa nghĩa là cũ giao lại, mới tiếp lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hằng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ mới này, có lễ Trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ đi hết những điểu xấu dở cũ kỹ của năm cũ sắp qua để đón những cái mới mẻ tốt đẹp của năm mới sắp tới. Xưa kia người ta cúng giao thừa ỏ đình, ông Tiên chỉ hoặc Thủ từ đứng làm chủ lễ nhưng người ta cũng cúng giao thừa ỏ thôn xóm. Lễ giao thừa ở thôn xóm được tổ chức hoặc tại các văn chỉ nếu văn chỉ làng xây tại xóm, nếu không thì cũng tổ chức ngay ở điểm canh đẩu xóm, ổ đây vị được cử ra làm chủ lễ là vị niên trưỏng hoặc vị chức sắc cao nhất trong thôn xóm. Một chiếc hương án được kê ra, trên hương án có đỉnh trầm hương hoặc bình hương thắp tỏa khói nghi ngút. Hai bên đỉnh trầm hương có hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm cỗ mũ của Đại vương hành khiển. Lễ quý hổ thành bất quý hồ đa, nhưng dù nhiều dù ít, lễ vật bao giờ cũng phải gồm có vàng hương, vàng lá hay vàng thoi tùy tục địa phương và nhất là không quên được rượu, vì vồ tửu bất thành lễ. Đến giờ phút này, chuông trống vang lên, ông chủ tế ra khấn lễ, rồi dân chúng kế đó lễ theo, với tất cả sự tin tưởng ở vị tân vương hành khiển, cầu xin ngài phù hộ độ trì cho được một năm may mắn, bao nhiêu sự không may năm trước sẽ qua hết. Tại đình làng, cùng với lễ cúng ngoài trời còn lễ Thành hoàng hoặc vị phúc thần tại vị. 142
Các chùa chiền cũng có cúng lễ giao thừa, nhưng lễ vật là đồ chay, Đổng thời với lễ giao thừa, nhà chùa còn cúng Phật, tụng kinh và cúng Đức ông tại chùa. ỏ các tư gia, người ta thường lập bàn thờ ỏ giữa sân hoặc ỏ trước cửa nhà, trường hợp những người ỏ thành phố không có sân cũng một chiếc hương án hoặc một chiếc bàn kê ra với lễ vật như trên. Ngày nay trước mọi biến chuyển dồn dập của thời cuộc nước nhà, ở thốn quê, rất ít nơi còn cúng lễ giao thừa ỏ các thôn xóm, ngoài lễ cúng tại đình đền. Và ở các tư gia, tuy người ta vẫn cúng lễ giao thừa với sự thành kính như xưa, nhưng bàn thờ thì thật là giản tiện. Có khi chỉ là chiếc bàn con với mâm lễ vật, có khi lễ vật được đặt trên một chiếc ghế đẩu. Hương thắp lên được cắm vào một chiếc ly đầy gạo hoặc vào một chiếc lọ nhỏ để giữ chân hương. Có nhiều gia đình hương thắp đặt ngay trên mâm lễ, hoặc cấm vào các khe nải chuối dùng làm đồ lễ.
9. CHĂM CHÚT BÀN THỜ GIA TIÊN CÚNG TẾT Chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu kính và tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, vì thế, mỗi độ năm hết, Tết đến công việc này được mọi người chú ý trước tiên. Thờ phụng tổ tiên là một trách nhiệm có tính cách luân lý đối với người Việt Nam, nó thể hiện cho nhu cầu được phát lộ tình cảm và niềm tin huyết thống trong môi trường gia đình. Sửa sang, bày biện bàn thờ tổ tiên Trong gia đình Việt Nam ngoài việc chọn lựa vị trí trung tâm và cao ráo để đặt bàn thờ, người Việt còn chú ý xem hướng của ngôi nhà và tuổi của gia chủ để thấy nên đặt bàn thờ quay mặt về hướng nào là tốt nhất. Việc dọn dẹp hay bày biện bàn thờ vào ngày thường có thể qua loa, sơ sài song vào những ngày Tết, công việc này được yêu cầu có sự chu đáo nhất định. Trên bàn thờ tổ tiên, ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và trên bát hương có cây trụ để cắm hương vòng (tượng trưng cho trục trái đất), hai bát hương khác đặt ỏ bên trái và bên phải tạo nên tư thế tam tài; ỏ hai góc ngoài bao giờ cũng có hai cây đèn dầu (hoặc nến) tượng trưng cho mặt trời bên trái và mặt trăng ở bên phải. Khi cần giao tiếp với tổ tiên (có lúc thỉnh cầu, có lúc sám hối... người ta thường đốt nến (đèn dầu) và thắp hương. Mọi nguyện cầu theo các vòng khói hương chuyển đến ông bà tổ tiên. Lễ vật dâng cúng thường bao gồm vài bộ quẩn áo, giấy tiền vàng mã cho các cụ, một vài cái chung (ly nhỏ, thấp) và một bình trà; đĩa hoa quả lớn đặt ỏ trung tâm bàn thờ, một bình hoa Iđn và một bình rượu ngon. Xung quanh, ta có bày thêm 143
bánh mứt cho cân đối và đẹp mắt. Hoa để thờ cũng có nhiều loại, ví dụ hoa tươi hay hoa làm bằng giấy bạc (một bạc, một vàng biểu tượng cho một âm một dương, âm dương giao hòa) để có thể dùng được lâu. Đối với hoa tươi, người Việt Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa lay ơn, hoa mai, hoa đào trong cúng gia tiên ngày Tết... Khoảng sáng 30 Tết, việc bày biện bàn thờ Tết phải được hoàn tất. Tùy theo điều kiện kinh tế hay văn hóa từng miền mà trên bàn thờ có thêm cặp dưa hấu xanh, gói thuốc lá, cặp bánh chưng hay bánh tét... Việc thắp sáng cho bàn thờ ngày Tết cũng được bắt đầu từ ngày 30. Có nhà sử dụng loại hương vòng, hay hương que loại lớn, cháy liên tục trong nhiều ngày với nhiều ý nghĩa biểu trưng như các vì tinh tú đang tỏa sáng, sự chăm lo ân cần của con cháu... Hương khói còn tạo nên một không khí ấm cúng nơi gian thờ, gắn kết tình cảm và ưổc nguyện hạnh phúc của mọi người trong một gia đình. Hương dùng cho những ngày Tết cũng thường là các loại hương có mùi thơm đặc biệt ví dụ như hương bài, hương trầm, hương nhài... là những loại hương có mùi thơm hết sức đặc trưng cho nhân dân ba miền ò Bắc - Trung - Nam. Giữ bàn thờ sạch bày tỏ lòng hiếu kỉnh Bàn thờ là nơi ngự vị của các bậc tiền nhân trong gia đình, vì thế nó thường được đặt ở vị trí trung tâm và cao nhất trong nhà. Điều này không chỉ để tránh sự va chạm mà còn tránh gió, bụi bặm và côn trùng. Việc lau dọn sạch sẽ bàn thờ là công việc trước tiên và được thực hiện một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Chổi quét hoặc khăn lau bàn thờ thường được dùng riêng, và rất hạn chế sự chung đụng. Nước lau bàn thờ thường được dùng từ nguồn nước sạch sẽ, có người còn dùng nước mưa thậm chí nước nấu từ lá trầu, lá bổ đề để lau. Cách phân chia công việc này theo quan điểm xưa và nay Trong tâm thức người Việt, người đã khuất và người còn sống luôn có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Không gian thờ tự là không gian thiêng liêng trong gia đình, là nơi lưu giữ nhiều ẩn ức tình cảm giữa các thế hệ, chính vì thế việc giữ gìn bàn thờ luôn sạch sẽ, mát mẻ không chỉ thể hiện sự chăm sóc và tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên mà còn là sự chăm sóc đến cái tôi tâm linh ỏ mỗi con người. Công việc quét tước nhà cửa thường là việc của phụ nữ trong nhà vì nó đòi tính cẩn thận, tỉ mỉ. Song việc bày bàn thờ ngày Tết lại được ưu ái dành cho quý ông, đơn giản vì việc ấy nặng nhọc hơn. Hơn thế, người đàn ông là chủ gia đình, phải đại diện chăm lo nơi cư ngụ của tổ tiên để tỏ lòng hiếu kính. 144
Phụ nữ trong nhà thì lo việc bếp núc, nấu nướng và dọn dẹp gian bếp. Đó là cách nhìn từ văn hóa truyền thống xưa kia. Ngày nay, nhất là nơi đô thị, chúng ta không còn biệt rạch ròi việc này như trước. Việc bày biện hay thắp hương (hương) trên bàn thờ không phân biệt nam nữ, tuổi tác như ở thôn quê. Tuy nhiên, để giữ nếp xưa, mọi nhà vẫn mời người lớn tuổi nhất họ hay nhất nhà ra khấn và thắp hương cho ông bà tổ tiên trong những ngày quan trọng như: tất niên, đêm giao thừa, mừng năm mới, cúng tiễn...
10. TỤC THỜ MÂM NGŨ QUẢ NGÀY TẾT Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về Ngũ hành: thủy - hỏa - mộc kim - thổ những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận hành của nó. Thông thường ngũ quả gồm 5 loại quả có các màu khác nhau như chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong ước: Phú (giàu có) - quý (sang trọng) thọ (sống lâu) - khang (khỏe mạnh) - ninh (bình yên). Mỗi một miền lại có một quan niệm riêng về ý nghĩa mâm ngũ quả. Người Nam bộ có cách đọc chại âm hay đơn tiết hóa một số từ, ví dụ chỉ tên trái mãng cầu thì gọi đơn tiết hóa là cầu (mãng cầu: thỏa mãn trong sự cầu xin) - Sung (sung: chỉ sự sung túc, sung mãn) - Vừa (đọc chệch âm là dừa: quả dừa) - Đủ (đơn tiết hóa của đu đủ và xài (là cách đọc chệch của âm xoài). Trong khi đó, người miền Bắc hướng đến ý nghĩa biểu trưng nhiểu hơn, quả Phật thủ hay nải chuối như bàn tay che chỏ của đức Phật cho tất cả mọi người; quả bưỏi, dưa hấu thể hiện cho sự đầy đặn, trọn vẹn căng đầy sức sống: màu sắc thắm tươi của quýt, hổng tượng trưng cho sự may mắn, phồn thịnh cát tường. Ngày nay, mâm quả trên bàn thờ Tết người Việt phong phú hơn về chủng loại bởi sự góp mặt của những hoa quả ngoại nhập. Với tính dung hợp trong văn hóa, người Việt Nam luôn có thể tìm thấy tất cả những yếu tố thích hợp, có giá trị ý nghĩa đối với đời sống tâm linh của dân tộc mình. Cuối cùng, những sản vật đẹp mắt nhất, tinh túy nhất, được dâng bày với những tình cảm hiếu kính, trang trọng và thiết thân nhất. Bàn thờ Tết không chỉ là nơi mà mọi người bày tỏ tình cảm gia đình, huyết thống mà đó còn là nơi chúng ta gửi gắm những lời chúc may mắn và một năm mới an khang, thịnh vượng hơn.
11. CÁCH DỌN BÀN THỜ NGÀY TẾT Phần quan trọng nhất là bàn thờ tổ tiên, do đây là nơi được coi là nơi linh thiêng, ngày thường không được tùy ý động chạm di chuyển mà chĩ lau chùi sạch 145
sẽ, người xưa cho rằng nếu xê dịch sẽ làm kinh động đến chỗ của thần, thần không được an vị thì không muốn ỏ lại lâu, không chăm sóc cho nhà mình được. Ngày nay do thời gian có hạn hoặc một số kiêng kị không được lưu truyền trong dân gian nên không còn nhiều người biết cách dọn bàn thờ theo như phong tục cổ nhân. Trước khi dọn bàn thờ, người xưa thường phải tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị đĩa hoa quả đặt lên, sau đó thắp một nén hương thông báo cho tổ tiên và thần linh biết ngày hôm nay sẽ thu dọn bàn thờ, mời tổ tiên và thần linh tạm lánh sang một bên để con cháu thực hiện công việc, Sau đó gia chủ chuẩn bị một chiếc bàn bên trên trải vải hoặc giấy đỏ để đặt bài vị, nếu bàn thờ có đặt chung bài vị gia tiên với các thần thì phải để ra hai chỗ khác nhau, không được lẫn lộn. Đợi sau khi hương cháy hết rồi mới bắt đẩu công việc. Khi lau rửa bài vị của tổ tiên thì phải dùng nước ấm, không được dùng nước lạnh. Khi làm vệ sinh, nếu có bài vị của Thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Người xưa quan niệm như vậy là bất kính, mạo phạm với Thần Phật, Thần Phật có ngôi vị cao hơn nên dễ khiến tổ tiên bị chèn ép. Sau khi lau bài vị xong mới đến phần dọn bát hương, công việc này cũng rất quan trọng. Ngày nay đa phẩn mọi người đểu rút chân hương rồi cầm bát hương đổ hết tro ra ngoài, theo người xưa như vậy rất dễ gây “tán tài”, vì vậy người ta dùng chiếc thìa nhỏ xúc từng thìa đổ ra ngoài rổi mới rửa sạch bát hương đặt sang một bên. Khi bát hương khô ráo, nếu là bát hương thờ Thần Phật thì dùng bảy tờ tiền vàng, bát hương của tổ tiên thì dùng ba tờ tiển vàng đốt hơ quanh, cháy một nửa thì bỏ vào trong, đợi tiển vàng cháy hết thì đổ tro vào một lần, như vậy gọi là “ra nhỏ vào lớn”, ý là “tiền ra nhỏ giọt, tiền vào như thác đổ”, nếu lúc đầu đổ ra hết sau đó múc từng ít một vào thì gọi là “vào nhò ra lớn”, tức “tiền ra thì nhiều mà tiền vào thì ít”. Ngày nay có nhiều người đem tro bát hương cũ đổ ra sông, thay vào bát hương tro mới, nhưng người xưa thì dùng chiếc rổ mắt nhỏ để lọc tro cũ, lọc xong lại đổ vào bát hương chứ không đổ đì. Việc lọc tro cũng phải bắt đầu từ bát hương thờ Thần Phật. Sau khi lau rửa sạch sẽ, người ta sẽ đem bài vị Thần Phật và tổ tiên đặt lại chỗ cũ và công đoạn này cũng rất phức tạp, Trước hết phải chuẩn bị một chiếc lò nhỏ trong có đốt than hoa, đặt dưới bàn thờ khoảng 15 phút, sau đó đốt bảy tờ tiền vàng làm dấu hơ ở bốn hướng trên dưới trái phải, ý là dùng lửa để khai quang, làm sạch, tiền vàng chưa cháy hết thì bỏ vào lò than hoa. Đốt tiếp bảy tờ tiển vàng làm sạch vị trí muốn đặt tượng/bài vị Thần Phật và bát hương sau đó mới đặt các đồ vật vào vị trí cố định. Sau khi đặt xong thì đốt 12 que 146
hương cắm theo thứ tự hướng thời gian, que thứ nhất cắm ở vị trí 1 giờ, khi cắm thì đọc “niên niên thị hảo niên”, tức mỗi năm đểu là năm tốt; que thứ hai cắm ỏ vị trí 2 giờ, khi cắm đọc “nguyệt nguyệt thị hảo nguyệt”, tức mỗi tháng đều là tháng tốt; cây thứ ba cắm ỏ vị trí 3 giờ, khi cắm đọc “nhật nhật thị hảo nhật", tức mỗi ngày đều là ngày tốt; cây thứ tư cắm ỏ vị trí 4 giờ, khi cắm đọc “thời thời vị hảo thời”, tức mỗi giờ đều là giờ tốt; cứ tuần tự như vậy cho đến thời điểm vị trí 12 giờ. Các vị trí bài vị, bát hương của tổ tiên và bà tổ cô cũng làm như vậy. Trên đây là tập tục của người xưa ghi chép lại trong các thư tịch cổ, những công việc tỉ mỉ khi chăm sóc bàn thờ gia tiên cũng là cách để tăng thêm phần không khí ngày Tết.
12. PHONG TỤC CÚNG TẾT CỦA NGƯỜI THEO ĐẠO KITÔ Dù theo bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ phụng Tổ tiên vẫn không bao giờ thiếu. Trong căn nhà của mỗi gia đình nơi trang trọng ở chính giữa đều có bàn thờ ông bà tiên tổ. Trên bàn thờ bày linh vị, chân dung người đã khuất cùng những đồ thờ. Những nhà khá giả, trên cao treo hoành phi câu đối. Người theo đạo Kitô dưới bàn thờ Chúa vẫn có bàn thờ tiên tổ; ngày giỗ Tết đều hương khói nghi ngút. Người đi xa về nhớ đến tổ tiên thắp nén hương trước bàn thờ tỏ lòng thành kính. Nhà mới sinh cháu bé, con cháu học hành thi cử, thắp hương trình tổ. Ngày giỗ thầy, học trò cũ đến thắp nén hương thơm. Ngày giỗ tổ, con cháu dù ở xa mấy vẫn thu xếp tàu xe kịp về; trường hợp không về được thì ân hận mãi, đành cúng bái vọng. Ngày kỷ niệm thương binh liệt sĩ, thân nhân, tổ chức chính quyển và đoàn thể, đồng bào, đồng chí thắp hương trên đài Liệt sĩ. Việc cúng bái thờ phụng là để thỏa nguyện tâm linh, tri ân cha mẹ, ông bà, tiên tổ, những người xa vắng đã một thời dày công sinh thành dưỡng dục con cháu, xây đắp cơ nghiệp với tâm nguyện “uống nước nhớ nguồn”. Nhờ tổ tiên tu nhân, tích đức mà ngày nay con cháu được hiển vinh. Thờ phụng, cúng bái nằm trong đạo Hiếu. Cúng bái cốt ở thành tâm không bày vẽ, hình thức. Khi cha mẹ, ông bà còn sống đối đãi bạc tình, khi qua đời bày vẽ cúng bái mâm cao cỗ đầy chỉ là giả dối che mắt thế gian! Xưa giầu, cúng thì mổ lợn, bò linh đình, nghèo thì bát cơm quả trứng, đĩa rau, đĩa muối. Ngày Tết, trên bàn thờ trang hoàng không thể thiếu mâm ngũ quả tròn trăn, ngọt thơm, đầy hương vị, màu sắc “Ngũ hành” cầu ước cho một năm no lành, hạnh phúc. Ngày giỗ, cúng hương đèn, trầu, nước, hoa quả, thực phẩm, ngũ cốc, những sản vật làm ra từ đồng ruộng, vườn trái. Cúng của ngon vật lạ, nhưng bao giờ cũng có một mâm cơm canh, một quả trứng luộc để bày tỏ lòng thành. Ngày đầu hè 147
cúng trái chín đẩu mùa. Ngày gặt lúa cúng bát cơm mới. Ngày tuần tiết cúng hương đăng, phẩm quả. Có câu: “giầu một bó, khó một nén”. Ngày giỗ Tết, trước bàn thờ Tiên tổ, khói hương tỏa ngát, con cháu sum họp đầm ấm, lầm rầm khấn vái, hướng về nguồn cội, để lòng tĩnh lặng, suy ngẫm công đức cao dày của tiền nhân, tự vấn lòng minh những ngày tháng qua đã có điểu gì không đúng; tâm nguyện phải sống thế nào cho phải đạo. Giây phút thiêng liêng giao cảm giữa người đang sống và người đã khuất trong cõi tâm linh lắng sâu trong mỗi con người. Như thấy Tổ tiên trên cao chứng giám, dõi theo từng bước đi “họa, phúc” của con cháu, tiếp thêm sức mạnh cho những chặng đường. Dưới bóng tiên tổ, cha con, chồng vỢ, anh em quây quần ôn lại công đức tổ tông, cùng nhau hưởng thụ lộc lễ, chuyện trò vui vẻ, giúp nhau gỡ khúc mắc trong cuộc sống. Gia đình đoàn tụ, già trẻ trên dưới một lòng. Ngày giỗ Tết, ngày hội ngộ giáo dục truyền thống gia đình. Kỷ cương, trật tự, nền nếp gia phong từ đó mà thêm bền chắc. Nên chăng các bậc huynh trưởng trong mỗi gia đình, tộc trưỏng trong mỗi dòng họ duy trì thờ cúng Tổ tiên thành kính, thanh tịnh theo nể nếp văn hóa mới gọn nhẹ mà không giản đơn, chu đáo mà không bày vẽ để những ngày giỗ Tết trỗ thành ngày lễ tri ân Tiên tổ và giáo dục truyền thống gia đình.
13. TẬP TỤC CÚNG TRONG LỄ CÚNG ĐƯA Với quan niệm "Âm dương dị đổng nhất lý" nên đã có mời thì phải có đưa mới đúng lễ. Nếu như lễ cúng vào chiều ba mươi Tết với ý nghĩa là mời tổ tiên về ăn Tết, thì lễ cúng vào ngày mùng ba để tiễn đưa các cụ trỏ lại thế giới bên kia. Lễ phẩm cũng chỉ là những thứ đã từng bày biện trong ba ngày Tết, có nhà thêm đĩa xôi, con gà, còn hương, hoa, trầu cau đều thay mới. Trong lời khấn, gia chủ cần chú ý ba điểu: cảm tạ tổ tiên đã về với con cháu; nay tiễn đưa, mong các cụ phù hộ cho con cháu; trong ba ngày Tết, con cháu có gì khiếm khuyết, xin các cụ tha thứ. Cúng đưa xong là làm lễ hóa vàng mã. Vàng, mã làm bằng giấy, tượng trưng cho đổ dùng của người đã khuất lúc sinh thời. Nhân ngày Tết, dể biểu hiện lòng hiếu thảo của mình, con cháu đã mua sắm những thứ đó để tổ tiên dùng. Người ta hóa vàng ỏ giữa sân hoặc ở một góc vườn sạch sẽ; thắp hương biện lễ, rồi châm lửa đốt cho đến lúc tất cả đều cháy hết là xong. Nhà nào cẩn thận thì mời thầy cúng đến làm lễ trước lúc hóa.
14. TẬP TỤC CÚNG LỄ RAM THÁNG GIÊNG Theo các tài liệu của Trung Hoa thì ngày rằm tháng giêng là tháng đầu năm, 148
nhân trăng sáng, tiết trời ấm áp nhà vua cho mở tiệc mời các quan trạng ngắm trăng, thưỏng hoa, ngâm vịnh thơ ca, dự tiệc nên còn gọi là Tết Trạng nguyên. Tết Trạng nguyên sau được đổi thành Tết Thượng nguyên. Trong ngày này người ta còn tổ chức bơi thuyền có treo đèn, kết hoa, hoặc tổ chức các trò vui dưới đêm trăng sáng. Theo một số sách địa chí của Việt Nam thì từ trưa ngày 14 đến đêm rằm tháng giêng có lệ treo đèn kết hoa thường gọi là hội hoa đăng. Vào dịp này người ta làm đèn đủ các kiểu, có cả đèn kéo quân, đèn “phụng tổ”, đèn “phụng thần”. Trên đèn người ta trổ các dòng chữ phản ánh ước muốn hoặc cầu mong Thánh Thần phù hộ như: “Nhất bản vạn lợi” (một vốn bốn lời), “Phong điền vũ thuận” (mưa thuận gió hòa), “Hải yến hà thanh” (sông trong biển lặng). Cũng có người làm đèn để chúc mừng nhau như: “Nhân khang vật thịnh”. Dân ta có câu: “Lễ Phật quanh năm, không bằng rằm tháng giêng”. Tục ta tin rằng trong ngày rằm tháng giêng, đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng độ lòng thành của các tín đồ Phật giáo. Vì vậy, trong ngày này chùa nào cũng đông người đến lễ bái. Theo đạo Phật, nguồn gốc lễ thượng nguyên như sau; Ngày mùng 1 và ngày rằm mỗi tháng được coi là ngày của Phật, các tín đồ Phật giáo đều rủ nhau đi lễ chùa. Với người Phật tử thì lễ dâng hương này mang ý nghĩa đặc biệt. Vì rằm tháng giêng là ngày vía của đức Phật. Dù nguồn gốc lễ thượng nguyên ra sao, nhưng với dân ta, làm lễ thượng nguyên vì lòng tôn kính đối với các chư Phật, đồng thời có cúng gia tiên, Thổ Công và Thần Tài. Những người gặp năm sao nặng, cũng nhân ngày lễ này làm lễ dâng sao giải hạn.
15. TẬP TỤC CÚNG LỄ DÂNG SAO GIẢI HẠN ĐẦU NĂM Các nhà thuật số thời xưa thì cho rằng rằm tháng giêng là ngày vía của Thiên quan, nên tại các đền, chùa thường làm lễ dâng sao giải hạn đầu năm. Dân gian cho rằng hằng năm mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh, tất cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trỏ lại. Trong 9 ngồi sao thì có sao tốt, có sao xấu, năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật... (người ta gọi là vận hạn). Để giảm nhẹ vận hạn, người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào ngày đẩu năm (rằm tháng giêng) là tốt nhất. Các sao chiếu mệnh gồm: Sao Thái Dương, Thái Âm, Mộc Đức, Vân Hán, Thổ Tú, Thái Bạch, Thủy Diệu, La Hầu và Kế Đô. Tuy nhiên, cùng độ tuổi mà nam và nữ lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Ví dụ 149
ở tuổi 37 thì nam là sao La Hầu, nữ lại là sao Kế Đô. Tuổi 47 nam là sao Thổ Tú, nữ là sao Vân Hán. Tuổi 57 thì nam là sao Thủy Diệu, nữ là sao Mộc Đức. Tuổi 67 thì nam là sao Thái Bạch, nữ là sao Thái Âm... Và như vậy cứ sau 9 năm, sao đó lại chiếu vào mệnh của mình. Nếu nam thì ở các độ tuổi 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82 đều là sao La Hầu, còn nữ cũng ỏ các độ tuổi ấy lại chịu sao Kế Đô. Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày như sau: Sao La Hầu: Ngày mùng 8 hằng tháng Sao Thái Bạch: Ngày 15 hằng tháng Sao Kế Đô: Ngày 18 hằng tháng Sao Thổ Tú: Ngày 19 hằng tháng Sao Thủy Diệu: Ngày 21 hằng tháng Sao Mộc Đức: Ngày 25 hằng tháng Sao Thái Âm: Ngày 26 hằng tháng Sao Thái Dưdng: Ngày 27 hằng tháng Sao Vân Hán: Ngày 29 hằng tháng Tuy nhiên, làm lễ dâng sao giải hạn vào đầu năm và vào ngày rằm tháng giêng là tốt nhất; vì mọi tai ách, mọi sự xui xẻo ta phải giải trừ nó ngay từ đầu năm thì suốt cả năm con người đều yên tâm, vui vẻ và hạnh phúc. Các sao xấu xuất hiện trong tháng vào các ngày khác nhau lại có hình khác nhau nên việc làm lễ phải chọn ngày, dùng số lượng nến, lập bài vị và màu sắc phải phù hỢp, lại phải thiết kế bàn thờ cho đúng hướng.
16. TẬP TỤC CÚNG LỄ TRONG TIẾT THANH MINH Thanh minh là lễ tiết hằng năm trong đời sống văn hóa không chỉ riêng cho người Việt, mà con chung cho người Á Đông. Tiết Thanh minh được tổ chức sau khi lập xuân 45 ngày, sau đông chí 105 ngày (tức là vào ngày 5 tháng 4 dương lịch). Theo âm lịch truyền thống Trung Hoa ngày này thường rơi vào những ngày đầu tháng ba. Nếu nó rơi vào mùng ba tháng ba thì ta gọi đó là ngày Thanh minh đích thực. Theo đúng nghĩa đen thì “thanh” là khí còn “minh” là sáng sủa. Tiết Thanh minh có ý nghĩa đặc biệt đối với người dân Việt. Đó là ngày để nhớ 150
về cội nguồn, nơi bắt đầu của mỗi con người như mỗi năm bắt đầu từ mùa xuân vậy. Ngày Thanh minh còn gọi là ngày tảo mộ. Tiết Thanh minh để truy tư công đức, để nhớ để thương, để bùi ngùi xúc động, để trả ân những người đã khuất. Vì thế, tiết Thanh minh người ta đi tảo mộ. Việc chăm sóc phẩn mộ, cũng như cúng lễ trong tiết Thanh minh đã chứng minh đạo nghĩa của con người phương Đông. Từ xưa dân ta đã có câu: “Sống về mồ mả, Không ai sống về cả bát cơm”. Tiết Thanh minh đối với người Việt Nam gần như đã trỏ thành truyền thống. Nhân ngày Thanh minh, cũng như nhiều dân tộc Á Đông khác. Dân ta có tục đi viếng mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ. Lễ tảo mộ Tảo mộ chính là sửa sang ngôi mộ cho được sạch sẽ. Nhân ngày lễ Thanh minh người ta mang theo cuốc xẻng để đắp lại nấm mồ cho to, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trèo lên mộ có thể phạm tới hài cốt của người thân đã khuất. Sau đó cắm mấy nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa dâng cho vong hồn người quá vãng. Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, săn sóc, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người có lòng nhân đức không khỏi mủi lòng thường cắm một nén hương, đốt nắm vàng mã cho những ngôi mộ này. Tại các nơi tha ma mộ địa còn có lập một cái am để thờ chung những mồ mả vô chủ gọi là Am chúng sinh và mỗi cửa am có một bà đồng sớm tối đèn hương thờ phụng.Trong ngày tảo mộ, bãi tha ma vốn vắng lặng bỗng trỏ nên sầm uất. Mọi người đi tảo mộ đều vui vẻ và ăn vận rất chỉnh tề. Các ông già bà cả thì lo khấn vái nơi phần mộ. Thanh niên nam nữ cũng nhân dịp này mà phô sắc phô tài. Cả trẻ em cũng theo cha mẹ đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là bố mẹ muốn tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trỏ về vào dịp này để tảo mộ gia tiên và xum họp với đại gia đình. Thường người ta đi tảo mộ từ sáng sớm cho đến gần trưa. Tục lệ tảo mộ Thường người ta đi tảo mộ vào tiết Thanh minh trời quang mây tĩnh, và sau đó kính mời hương hồn tổ tiên vể hưỏng cỗ con cháu cúng trong dịp này. Nhưng cũng có nhiều nơi người ta tảo mộ vào dịp trước và sau ngày Tết. Nhiều làng thuộc tỉnh Hà Đông ỏ vào vùng đất thấp, tới vụ nước, ruộng nương và cả bãi tha ma đểu ngập nước, thì người ta đi tảo mộ vào đầu tháng chín, sau khi nước đã rút. Dù đi tảo mộ vào ngày nào thì việc thăm nom mồ mả tổ tiên cũng là việc hay. Nghĩ đến gia tiên 151
tức là nghĩ đến gốc, tưởng đến nguồn. Cúng lễ trong ngày Tết Thanh minh Tết Thanh minh cũng là dịp để con cháu sửa lễ cúng gia tiên sau khi viếng mộ về. Cũng có nhà sửa lễ mang ra mộ cúng, nhưng đó chỉ là cúng riêng một ngôi mộ. Còn sau đó người ta vẫn cúng ở bàn thờ tổ tiên và khấn tất cả gia tiên nội ngoại về phối hưỏng. Người ta thường cúng mặn trong ngày Thanh minh, nghĩa là có làm cỗ, hoặc không làm cỗ thì cũng có đĩa xôi, con gà cùng với hương hoa, trà rượu, vàng mã. Và đổng thời với việc cúng tổ tiên cũng có cúng Thổ Công như trong mọi dịp.
17. TẬP TỤC CÚNG LỄ KHAI HẠ Tết Nguyên đán được kết thúc bằng lễ Khai hạ, cũng đổng thời làm lễ hạ nêu. Lễ được cử hành vào ngày mùng bảy Tết. Theo sách "Chiêm tuế sự thư", tháng đầu năm, mùng một là ngày con gà, mùng hai ngày con chó, mùng ba ngày con lợn, mùng bốn ngày con dê, mùng năm ngày con trâu, mùng sáu ngày con ngựa, mùng bảy ngày con người, mùng tám ngày của lúa. Đây vốn là một lối bói: nghiệm đầu tháng giêng, tám ngày ấy, hễ ngày nào tạnh ráo thì giống thuộc về ngày ấy cả năm được tốt. Cho nên đến ngày mùng bảy thấy trời sáng sủa, không mưa gió, người ta tin rằng, con người cả năm được mạnh khỏe do đó mở tiệc ăn mừng. Sau này dù trời mưa, cứ mùng bẩy là mở tiệc ăn mừng. Lễ vật dâng cúng là cỗ mặn với đầy đủ các món. Đây là bữa ăn Tết cuối cùng nên con cháu tụ tập đông đủ, không khí bữa ăn thật đầm ấm.
18. TẬP TỤC CÚNG LỄ TRONG TẾT HÀN THựC Theo truyền thuyết dân gian, Tết Hàn thực bặt nguồn từ việc kỷ niệm Giới Tử Thôi vào thời Xuân Thu ở Trung Quốc. Nhưng nếu ngược dòng lịch sử, tìm kiếm cặn kẽ cội nguồn, có thể thấy Tết Hàn thực không phải bắt nguồn từ việc kỷ niệm Giới Tử Thôi, mà là bắt nguồn từ tục “Cải Lửa” (mà người ta gọi là ngày Lửa mới theo tín ngưỡng thờ thần Lửa cổ xưa). Thời xưa vào thời gian lễ Tết này người ta dập tắt hết bếp lửa và chỉ ăn đồ nguội. Sau đó tiến hành đốt Lửa Mới. Đây cũng là ngày mùa đốt rẫy mới, ngày hội mùa đầu tiên trong năm, ngày báo hiệu một chu kỳ nông nghiệp mới. Cũng do vì ăn đồ nguội trong dịp này nên có tên gọi là Hàn thực.
152
19. TẬP TỤC THỜ CÚNG TRONG TẾT ĐOAN NGỌ Cũng giống như đầu năm mới, đầu mùa hè theo quan niệm của người phương Đông là thời kỳ giao thời, chuyển tiếp của sinh khí, thời gian luân đổi âm - dương. Vì vậy, lễ tiết mùa hè thể hiện ý nguyện cân bằng thiên nhiên, xua đi những gì bệnh tật, chết chóc, hướng tới một mùa gặt hái bội thu. Ngày lễ tiết đầu tiên và quan trọng nhất của mùa hè là ngày Tết Đoan ngọ. Tiết Đoan ngọ còn gọi là tiết Đoan dương. Đó là thời khắc giữa trưa (giờ Ngọ). Dương là mặt trời, là khí dương. Đoan dương nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh. Theo quan niệm của người xưa, sâu bọ thường ẩn sống trong bộ máy tiêu hóa của con người và nó chỉ lộ diện vào ngày 5/5 âm lịch, nên phải làm lễ giết sâu bọ vào ngày này. Tết Đoan ngọ, với những nghi thức tập tục độc đáo, những lễ vật dâng cúng Gia thần, Gia tiên trong ngày lễ này gắn với mảnh đất, con người nhiệt đới phương Nam: Một quả dưa hấu, quả mít, khế, mận, đào... đầu mùa, cùng các món ăn truyền thống như: rượu nếp, bánh đa, cháo chè kê... là những thứ do người nông dân làm ra, vừa tinh khiết, vừa đậm đà, vừa gắn bó tình người với thiên nhiên, đã làm tăng thêm ý nghĩa nhân văn cho ngày Tết.
20. NHỮNG TỤC LỆ THỜ CÚNG VÀO DỊP TẾT ĐOAN NGỌ Trước ngày Tết, người ta mua rất nhiều trái cây để cúng và ăn. Hầu hết mọi gia đình cũng mua hoặc làm rượu nếp, bánh tro. Tết Đoan ngọ là dịp người ta thường ăn Tết ỏ nhà với gia đình. Buổi sáng sớm ngày Tết Đoan ngọ người ta ăn bánh tro, trái cây, và rượu nếp để giết sâu bọ, bệnh tật trong người. Thường lệ người ta ăn rượu nếp tức thì sau khi họ ngủ dậy. Người ta cúng lễ cho một tiết mới, mừng sự trong sáng và quang đãng. Vì ngày này, theo quan niệm dân gian, khí dương mạnh nhất trong năm, người ta cúng lễ để cầu an. Cũng theo quan niệm đó, các loại cây lá hái trong thời gian này có tác dụng chữa bệnh tốt nhất nên các thầy thuốc Đông Y thường lên núi hái thuốc. Theo học thuyết âm dương Ngũ hành, Ngọ được xếp vào quẻ Ly, thuộc hành Hỏa. Trong một ngày, dương khí cao nhất là giờ Ngọ. Trong một tháng, dương khí cao nhất vào những ngày Ngọ, nhất là ngày Ngọ thượng tuẩn đầu tháng. Trong năm, dương khí cao nhất vào tháng Ngọ. Như vậy, dương khí đạt cực điểm vào giờ Ngọ của ngày Ngọ đầu tiên trong tháng Ngọ. 153
Nhưng tại sao người ta lại chọn ngày 5/5 mà không chọn ngày Ngọ đầu tiên của tháng 5 làm Tết giết sâu bọ? - Thứ nhất là để mọi người dễ nhớ. - Thứ hai là để tưởng nhớ Khuất Nguyên. - Thứ ba, theo lịch cổ thì ngày này xuân vận đã hết, hạ vận chuyển sang. Sự chuyển tiết giữa hai mùa dễ gây bệnh thời khí ỏ con người. Sâu bọ, côn trùng cũng được dịp phát triển, gây bệnh cho người, vật nuôi và cây cối. Bởi vậy vào tiết này, người ta làm lễ dâng hưọng cầu cho sâu bọ có hại bị tuyệt diệt, người tai qua nạn khỏi, được mùa. - Thứ tư, 5/5 là ngày cực dưdng hoặc gần với cực dưdng, con người cũng như mọi vật cần dự trữ năng lượng để chống lại dưđng khí quá cao của trời đất. Họ cần ăn một số hoa quả hay thực phẩm giàu năng lượng như trứng luộc, cái rượu, cháo chè kê, bánh đa, uống rượu xương bồ... để khai mỏ cửu khiếu (9 cái lỗ tự nhiên trên cơ thể), thông dương khí hòa cùng trời đất. Nhiều người còn ăn những hoa quả có vị chua như mận với hàm ý giảm sự mãnh liệt của Can, hạn chế những tác động xấu tới tạng Tâm và hệ thống mạch máu. Nhiều người cho rằng vào Tết Đoan ngọ, cây cối sẽ tích trữ nhiều dược chất để chống lại dương khí khắc nghiệt. Do đó nhiều lương y tổ chức hái thuốc vào trưa 5/5 để mong có hiệu quả cao nhất. Tục hái thuốc mùng 5 bắt đầu từ giờ Ngọ, bởi theo quan niệm dân gian đó là giờ có dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Nhiều địa phương miền Trung còn có quan niệm rằng, đúng vào giờ Ngọ ngày này, hái bất kỳ thứ hoa, lá nào cũng đều là dược thảo, có thể uống để tiêu trừ bệnh tật. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể, nhất là lá ích mẫu, lá cối xay, lá với, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... Cây và lá đủ loại hái về, băm nhỏ trải dài dọc lối đi, mùi nồng thơm thoang thoảng. Lá mùng năm sau khi phơi vài nắng cho khô, sẽ cho vào giỏ hay bao, cất lên giàn bếp, lúc hữu sự mới lấy ra dùng. Đó có thể xem là một tủ thuốc gia đình, một vị lương y đắc dụng trong những cơn đau bụng, ngộ độc thức ăn, đi tả, nửa khuya gà gáy cấp kỳ... Chỉ cần một nắm nhỏ, cho vào om đất, sắc đặc queo, mùi thuốc bay sực nức, uống vào, bệnh sẽ thuyên giảm ngay. Nhiều nhà ưa chuông loại lá này đến mức độ gần đến ngày Tết Đoan ngọ đã háo hức chờ đến ngày này rồi khi vừa bước vào giờ Ngọ là để nguyên mâm cơm 154
cúng còn nghi ngút khói hương, tập trung cả nhà ra vườn và quanh xóm hái thật nhiều lá cây và hoa đem về chờ phơi khô treo lên giàn bếp để dành uống và đãi khách thay nước chè hay trà nhiều tháng trong năm, gọi là uống “nước lá mùng năm”. Tuy vậy, một điều chắc chắn là thông dụng có tác dụng y dược quen những loại hoa lá đã biết chắc là có trường hỢp đặc biệt nào chết người do
mọi người đều hái toàn những loại hoa, lá thuộc trong dân gian, không ai dám thử hái chứa độc tố nên xưa nay hầu như chưa có uống loại nước lá mùng năm này.
Trong ngày này, nhiều người tắm nước lá mùi để phòng bệnh và tẩy trừ sâu bọ. Những địa phương ở ven biển đúng giờ Ngọ thì đi tắm biển, gần sông thì đi tắm sông, gọi là tắm mùng năm. Vào dịp Tết Đoan ngọ, ai bị cảm cúm thường dùng 5 loại lá: Bạch đàn, xương rồng, ngũ trảo, dâu tằm, và sả nấu nước xông để bớt bệnh. Người ta cũng tìm cành xương rồng, ngải cứu treo trước cửa hay trong nhà để đuổi tà ma.
21. TẬP TỤC CÚNG TẾ TRONG TẾT BẢY ÂM LỊCH)
trung nguyên
(15 THÁNG
Dân gian cho rằng sống trên đời khó có ai vẹn toàn. Không tội này thì cũng tội khác chắc khi về cõi âm sẽ vướng phải ngục hình. Nhưng dù tội lỗi gì, thì dịp rằm tháng bảy đều được xá tội vong nhân. Bỏi vậy, trên dương thế, mọi gia đình đều làm cỗ bàn cúng Gia tiên và đồng thời có đốt vàng mã cầu siêu độ trì cho họ. Tiết rằm tháng bảy gọi là Tết Trung nguyên - Tết này còn có tên khác là Tết Vu lan. Ngoài việc cúng Gia tiên, các gia đinh còn bày cỗ ở ngoài sân để cúng chúng sinh (các cô hồn) - là những vong linh không nơi nương tựa. Lễ vật cúng chúng sinh rất sơ sài như: bánh đa, bánh bỏng, ngô rang, khoai lang... và thế nào cũng có một nồi cháo hoa, nên dân ta thường gọi là “cúng cháo”. Cúng cháo thường bày vào nong, nia hay mẹt, tùy theo cỗ nhiều hay ít. Cúng cháo để bố thí cho các vong hồn không nơi thờ cúng, những người chết đường chết chợ, những cô nhi yểu vong không ai cúng giỗ... Tục lệ này mang tính nhân đạo của nhân dân ta. Ngày nay, tục này vẫn phổ biến, người ta sắm cho người thân đã qua đời các đồ hàng mã như; quần, áo, mũ, giầy, tiền, vàng bạc... Cùng với sự hiện đại hóa làm đồ mã như nhà lầu, xe hơi, ti vi, tủ lạnh, máy vi tính... rất tốn kém. Thiết nghĩ, đồ mã chỉ là biểu trưng, chỉ cần thể hiện tốt tâm ý của mình nhớ về cội nguồn là được, chứ 155
lãng phí vô ích thì các cụ chắc cũng chẳng bằng lòng. Nhân dịp này các chùa cũng thường tổ chức dâng hưđng, cầu siêu cho những người đã khuất. Các gia đình Việt Nam thì nhà nào cũng cúng gia tiên tại nhà. Khác với lúc cúng giao thừa trong Tết Nguyên đán. Vì cúng giao thừa thì cúng từ ngoài sân, rồi mới vào cúng trong nhà; còn cúng Tết Trung nguyên rằm tháng bảy lại cúng từ trong nhà trước, rồi mới cúng ra ngoài trời. Có nghĩa là cúng gia thần, gia tiên trước và cuối cùng mới cúng chúng sinh. Cúng chúng sinh là thể hiện đạo đức từ bi của con người nhân dịp xá tội vong nhân. Khi thực thi nghi lễ cúng Tết Trung nguyên cần chú ý: Nếu viết văn khấn ra giấy để đọc, thì ngay sau khi đọc xong thì đốt (hóa) văn khấn. Cuối tuần hương, thắp thêm một tuần hương tiếp rồi hóa các đồ dâng cúng. Các đồ mã cần được chia ra làm nhiều lễ cho mỗi vong linh của gia đình. Nếu để chung thì phải ghi rõ họ tên của mỗi vong linh vào đồ lễ và khấn mỗi lần hóa lễ như sau: “Con xin thiêu hóa vàng, tiền, quần áo... Thỉnh vong linh... nhận chút lễ bạc. Thành tâm kính cáo Tôn Thần, xin rước vong linh lại về âm giới”.
22. NGUỒN GỐC TỤC THỜ CÚNG CỦA LỄ vu LAN BÁO HlẾU CHA MẸ Vu lan hay Vu lan Bồn là phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán Việt là Giải Đảo Huyền, nghĩa là cỏi trói cho người bị treo ngược. Đảo Huyền là hình phạt đau khổ nhất cho loài ngạ quỉ (quỉ đói). Người bị treo ngược không hể được ăn uống nên bị đói khát giày vò suốt ngày rất đau khổ. Vì thế, Ullambana hay Giải Đảo Huyền có nghĩa cứu vớt những vong hổn đang phải chịu những hình phạt đau đớn vì nghiệp chướng do mình gây nên khi còn ở trần gian. Vì thế, lễ Vu lan còn gọi là lễ Xá Tội Vong Nhân. Tương truyền, lễ Vu lan có nguồn gốc từ Đức Phật, khi Ngài chỉ cho đệ tử của Ngài là Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) cách cứu mẹ mình khỏi hình phạt của kiếp ngạ quỉ. về sau, các Phật tử cũng áp dụng phương cách đó để cứu những vong hồn thân nhân của mình. Kinh Vu lan (Ullambanapatra-sutra) chép rằng: Mục Kiền Liên, một trong những vị đại đệ tử của Phật, nổi tiếng nhất về lòng hiếu thảo và về thần thông, sau khi chứng quả La Hán, bèn nhớ đến công ơn cha 156
mẹ và muốn báo đền. Nhờ có đạo nhãn, ông thấy mẹ mình đang bị đạo làm loài ngạ quỉ, thân thể ốm gầy, da bọc xưdng, bụng lớn đầu to, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, ông bèn vận thần thông, bưng chén cơm đang ăn đến chỗ mẹ ở để dâng mẹ. Bà mẹ vì quá đói khát, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sỢ người cướp giật, lấy tay trái che giấu chén cơm, còn tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên vừa đưa cơm vào miệng, thì cơm hóa thành lửa, bà chẳng ăn được chút nào. Mục Kiền Liên hết sức đau khổ, khóc lóc thảm thiết, ông trỏ về bạch Phật, thuật lại câu chuyện và cầu Phật chỉ dạy phương pháp cứu độ thân mẫu. Phật dạy rằng: Này Mục Kiền Liên, mẹ của ông do lòng tham lam độc ác đã tạo ra tội lỗi nặng nề trong nhiều kiếp, nay sinh trong ác đạo làm loài ngạ quỉ, nên không thể một mình ông cứu độ được. Dẫu lòng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng tăng trong mười phương, “thập phương chúng hội” đức lớn như biển, mới cứu độ mạ ông được giải thoát. Ta sẽ chỉ cho ông phương pháp cứu độ mẹ ông. Này Mục Kiền Liên, ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ của chư tăng khắp nơi, sau ba tháng an cư kiết hạ, các chư tăng tiến bộ rất nhiều trên đường tu học. Nhân ngày ấy, ông hãy làm lễ Vu lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông. ỏng hãy sắm sửa đủ các món ăn chay, năm thứ trái cây, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng chiếu chăn, mùng mển quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay... Tóm lại, là đủ bốn món cúng đường quí báu trên đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị đại đức trong mười phương, hoặc những vị thiền định trong núi rừng chứng được bốn quả thánh, hoặc các vị bồ tát thị hiện làm thầy tỳ kheo... ông phải thành tâm kính lễ trai tăng cúng đường và thỉnh cầu chư tăng chú nguyện cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, nhưng có nhiều người khiêng thì dời đi đâu cũng được. Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy làm lễ Vu lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư tăng đến cúng đường, nên vong mẫu của ông thoát khỏi kiếp ngạ quỷ sinh vể cảnh giới lành. Sau đó, Mục Kiền Liên hỏi Phật xem những Phật tử khác muốn cứu độ cha mẹ mình có thể dùng phương pháp đó không. Phật trả lời: Quí lắm! này Mục Kiền Liên, đời sau, nếu có ai vì lòng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, thì cứ ngày rằm tháng bảy làm lễ Vu lan này để cúng đường trai tăng. Nhờ công đức của chư tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng phúc thọ, khỏi những điểu tai họa khổ não, còn cha mẹ bảy đời trước thì 157
khỏi bị khổ ngạ quỉ, được sinh trong cõi Nhân hay Thiên, hưởng phúc vui vẻ không cùng. Từ đó về sau, cứ đến ngày rằm tháng bảy, các hàng Phật tử chí hiếu đều làm lễ Vu lan để đền đáp công ơn cha mẹ dẫu còn sống hay đã mất. Ngoài ra, họ còn tưởng nhổ và chú nguyện cho cửu huyền thất tổ, các ân nhân, thân nhân, bạn bè, những người quen biết đã quá cố sớm được vãng sinh nơi Phật Quốc. Phật giáo chân truyền dạy như thế. Nhưng tín ngưỡng nhân gian có pha trộn nhiều điều khác. Chẳng hạn, do ảnh hưỏng của Đạo giáo, quần chúng cho rằng ngày ấy, ỏ âm phủ, quỉ sứ mở cửa địa ngục cho các vong hồn bay về dương thế để tha hồ ăn hưỏng, rồi sau đó lại phải bay về âm phủ. Vì thế, họ nảy sinh lòng thương xót đối với các vong hồn. Dần dà tục cúng cô hồn tháng bảy trở thành một tập tục dân gian. Mô tả lễ hội Vu lan Đầu tháng 7 âm lịch, Phật tử cũng như nhiều người ngoài Phật giáo, bắt đầu tưỏng nhớ tới tổ tiên, cha mẹ, những người thân quen đã khuất bóng, một cách đặc biệt hơn bình thường. Nhiều người ăn chay, niệm Phật, làm phúc, đến chùa nghe thuyết pháp. Để chuẩn bị cụ thể hơn, người ta để dành tiền, quần áo, thực phẩm, thuốc men để cúng dường kính biếu chư tăng ni vào ngày lễ, đồng thời để mua những đồ cúng tổ tiên trên bàn thờ suốt hai tuần cuối tháng 7. Từ ngày áp lễ (ngày 14 - 7), bẩu khí ỏ các chùa chiền đã bắt đầu nhộn nhịp tưng bừng hẳn lên, Nhiều Phật tử đã đến chùa để đảnh lễ Phật và cầu nguyện. Chung quanh chùa, người ta bày bán la liệt nhang hương, kinh Phật (nhất là kinh Vu lan), các lồng chim (để phóng sinh)... Bầu không khí lễ lạt ở các chùa càng lúc càng làm cho tâm hồn người Phật tử lâng lâng, sốt sắng, như tiếp xúc được với thế giới vô hình. Ngày rằm, chùa càng lúc càng đông người. Tới khoảng 11 giờ trưa: Lễ Vu lan bắt đầu cử hành. Ngoài sân cũng như trong chùa, các trường phương bảo cái (cờ Phật giáo dạng phướn có lọng che) rải rác khắp nơi. Các cột trong chùa cũng treo cờ. Bàn thờ Phật, bàn thờ các Tổ đèn nến sáng chưng, hoa quả, hương khói nghi ngút. Một hồi trống bát nhã nổi lên báo hiệu lễ Vu lan bắt đầu, mọi người im lặng. Trong chùa, ngoài các Phật tử đứng đối diện với tượng Phật ở chính điện, còn có nhiều tăng ni bận lễ phục trang trọng được mời ngồi trên ghế trước mặt các Phật tử. Vị sư trụ trì đứng ra nói vài lời khai lễ, rồi mời một vị thượng tọa trong số các tăng ni có mặt tại đó khai pháp. Vị này giảng ý nghĩa của lễ Vu lan. Sau thời pháp là thời kinh: Mọi người đều cùng nhau tụng kinh Vu lan nói về công ơn cha mẹ và bổn phận phải hiếu thảo đối với cha mẹ, một cách nhịp nhàng theo nhịp mõ. 158
Tụng kinh Vu lan xong, các tăng ni được mời sang phòng Thọ Trai ăn một bữa cơm chay. Bất kỳ ai có mặt tại đó, dù không phải là Phật tử, nếu muốn, đều có thể cùng dùng bữa với các tăng ni. Sau lễ thọ trai, là nghi thức cúng đường còn gọi là lễ Tạ Pháp cũng tại phòng đó. Các tăng ni được các Phật tử cúng đường mỗi người một gói. Trong gói đó có thể là quần áo, mùng mền, thuốc men, thực phẩm, tiền bạc, hay những đồ vật thường dùng. Sau khi vị thượng tọa đại diện cho các tăng ni được cúng đường cám ơn các Phật tử, lễ Vu lan chấm dứt. Tất cả mọi người ra về trong bầu khí tưng bừng vui vẻ. Buổi lễ kéo dài từ 11 giờ trưa đến tới 1 giờ chiểu. Những tăng ni được cúng đường thường là những vị có uy tín, được các Phật tử yêu mến, ở những vùng chung quanh, cũng có khi ỏ những tỉnh xa được mời tới. Những quà tặng đó là do các Phật tử tùy lòng hảo tâm đóng góp. Ý nghĩa của việc cúng đường là để tỏ lòng biết ơn đối với Tam Bảo mà các vị là đại diện. Tại các chùa lớn, số các tăng ni được mời có thể lên tới hàng trăm. Tại các chùa nhỏ, có thể khoảng 20, 30 vị. Sau lễ, các Phật tử đi vãng cảnh chùa, hết chùa này tới chùa khác. Họ có thể đi theo đoàn thể do chùa tổ chức để tham quan các cảnh chùa ỏ xa. Đó vừa là một cuộc hành hương, cầu nguyện, vừa là một cuộc giải trí mang tính cách hội hè. Kể từ ngày rằm tháng 7 cho đến cuối tháng, các Phật tử ngày nào cũng đọc kinh Vu lan tại bàn thờ gia đình hay tại chùa, đồng thời ăn chay niệm Phật, làm phúc bố thí, để tưởng nhớ, chú nguyện, và hồi hướng công đức cho cha mẹ ông bà và tất cả những người quá cố khác, kể cả những vong linh mồ côi vất vưỏng đó đây (gọi là cô hồn). Trong nửa tháng này, bàn thờ Phật trong nhà lúc nào cũng trưng bày hương đèn, bông hoa và ngũ quả (5 loại trái cây). Theo phong tục, gia chủ tùy nghi chọn riêng một ngày nào đó trong nửa tháng này để làm lễ cúng cô hồn ỏ phía trước nhà. Cúng xong, họ thường tung gạo, muối, trái cây, bánh kẹo, tiền bạc...vừa được dùng làm lễ vật để cúng ra bốn phương với ý nghĩa để các cô hồn hưỏng dụng.
23. TẬP TỤC CÚNG LỄ TRONG TẾT TRUNG THU (RAM THÁNG TÁM) Tết Trung thu được tổ chức vào ngày rằm tháng Tám, Lúc này là chính thu, bầu trời trong xanh, tiết trời mát mẻ, không khí trong lành. Cội nguồn của lễ tiết này nó chứa đựng những vết tích của nghi lễ hội mùa. Nhưng đối với trẻ em Việt Nam thì đây là thời gian lễ hội đầy mong ước, thậm chí còn mong ước hơn cả đón Tết, Đối với người Việt, đêm Trung thu, mọi người vừa ăn cỗ vừa kể chuyện về 159
trăng. Trăng là Thái âm, là nơi mát lạnh với nhiều điều tốt đẹp và ỏ đấy, theo sự tích dân gian còn có ngọc thỏ, có cây đa, chú Cuội và có chị Hằng. Trong dân gian, Tết Trung thu ngoài việc cúng Gia tiên, phá cỗ, nghe kể chuyện về trăng, còn có chơi đèn kéo quân, đèn ông sao, đèn cá chép, đèn cầy... Các trò như múa sư tử, hát đúm, hát trống quân... đã trở thành ngày hội, không những của trẻ em mà còn là của mọi người dân.
24. TẬP TỤC CÚNG LỄ TRONG TẾT HẠ NGUYÊN (TẾT CƠM MỚI) Trong dân gian Việt Nam, Tết Hạ nguyên thường được tổ chức vào đầu tháng mười âm lịch (có thể vào ngày mùng một, mùng mười hoặc ngày rằm). Ông bà ta xưa quan niệm rằng: Những ngày này Thiên đình cử thần Tam Thanh xuống hạ giới để xem xét công việc làm nông của dân tình, vể tâu với Ngọc Hoàng. Vì vậy, mọi gia đình đểu phải làm lễ để thần Tam Thanh ban phúc lành, tránh tai họa; đồng thời cũng là dịp” tiến tân” cơm gạo mới đầu mùa, dâng cúng Tổ tiên. Người xưa đã làm thơ về Tết cơm mới như sau: “Mỗi khi gạo mới giã xong Thổi cơm dâng cúng hương linh Thổ thần. Nếu như không biết xa gần, Gốc quên sao dễ hưởng ân sau này”.
25. TẬP TỤC THỜ CÚNG TRONG TẾT MƯA DÔNG ở nước ta vào thời Lý, ngày lễ Phật đản (mùng 8 tháng Tư) được hết sức coi trọng - đó là lễ tắm tượng Phật. Theo sách "An Nam chí lược", người ta mài trầm hương, hòa hương với nước, đem tắm tượng Phật; dùng bánh tròn tinh khiết dâng cúng. Lễ một dục (tắm tượng) không chỉ dành riêng cho tượng Phật, mà cho cả tượng, bài vị thành thần. Tế lễ ăn uống xong, đem chậu nước trầm hương tắm Thẩn Phật lúc trước, theo thứ tự trên dưới, mỗi người nhúng tay vào chậu nước xoa lên mặt một chút, gọi là "quân chiêm thần huệ" đội ơn mưa móc. Còn cái khăn vải đỏ dùng để lau tắm tượng thì xé ra chia cho mỗi người một mảnh để lấy khước, cầu phúc. Lễ mộc dục này, dù đã bị Phật giáo hóa hoặc Đạo giáo hóa, vẫn hé mỏ cho ta thấy cội nguồn xa xưa từ những lễ thức cầu mưa. sử chép: nhiều lần vua Lý làm lễ 160
cầu mưa ỏ đền Hai Bà hay rước tượng Phật từ chùa Dâu về chùa Diên Hựu để cầu mưa. Tiêu biểu nhất cho lễ thức cầu mưa là tục thờ thần Sấm, thần Mưa dông đầu mùa làm ruộng của nông dân Bắc bộ, từ miền xuôi tới miền ngược. Thực chất đây là Tết mưa dông. Sau Tết đó, mùa làm nương, làm ruộng bắt đẩu.
26. TẾT TRÙNG cử u Cũng gọi là Tết Trùng dương, làm vào ngày mùng 9 tháng Chín. Theo "Kinh dịch" th) quẻ Dương gọi là cửu (Dương Cửu) và quẻ Âm gọi là Lục. Ngày mùng 9 tháng Chín trùng cửu nên trùng Dương. Tục truyền, về thời Hán, có một người tên là Hoàn cảnh theo Phi Tràng Phòng học phép tiên. Một hôm Phòng bảo cảnh rằng: "Mùng 9 tháng Chín nhà anh có nạn to, bảo người nhà mang túi lụa đựng thuốc thù du, đeo ỏ cánh tay, rồi lên núi uống rượu thì qua khỏi nạn", cảnh nghe lời, đem hết người nhà lên núi. Tối về nhà, thấy các con vật nuôi chết hết. Phòng nói với cảnh rằng, những con vật ấy chết thay người. Theo tích này, hằng năm đến ngày mùng 9 tháng Chín; người ta làm lễ rồi cùng lên núi bẻ cành thù du, uống rượu cúc. Từ Trung Quốc, lễ Tết Trùng cửu du nhập vào Việt Nam, các văn nbân nước ta cũng vào dịp này đi chơi núi, uống rượu, hái hoa và ngâm vịnh thơ phú.
27. TẾT CƠM MỚI Theo tục cổ còn gọi là Tết Hạ nguyên, Tết Thượng tân. Ổ Việt Nam thời Lý-Trần, sau vụ mùa (tháng Mười), các quan liêu đi thăm ruộng, thu lúa thuế. Và sau đó là mùa săn bắn làm vui. Tết Cơm mới, tiến hành vào mùng một, mùng mười hay rằm tháng Mười là Hạ nguyên. Đạo và Phật quan niệm rằng, ngày đó thiên đình cử ông thần Tam Thanh xuống trần gian xem xét tốt xấu về tâu lại Ngọc Hoàng. Nên tiến hành làm lễ vị thần đó là để cầu phúc, tránh họa, cũng là "tiến tân" cơm gạo mới cúng tổ tiên. Các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên đều có loại Tết Cơm mới này, tổ chức vào những ngày khác nhau sau vụ g ỊTết Cơm mới do từng gia đình làm, lấy lúa mới gặt vể, phơi xong, xay giã làm cơm thổi xôi cúng gia tiên; sau lễ Cơm mới này, người ta mới bắt đầu ăn cơm gạo mới. Cũng nhân Tết này, con cháu mua quà và gạo nếp mới cúng những đặc sản thu đông như chim cu ngói... biếu lễ ông bà, cha mẹ và những bậc được tôn kính. 161
II. TỤC L Ệ THỜ CÚNG GIA TIÊN TRONG V IỆC CƯỚI HỎI
1. LỄ NẠP THÁI Sau khi mai mối tin đi tin lại, hai nhà thấy việc thăm hỏi nhau có thể tiến hành. Nhà trai xin được đặt một cái lễ, gọi là !ễ nạp thái. Lễ này dân gian thường gọi là lễ chạm ngõ. Tuy là một lễ, nhưng lễ chạm ngõ rất sơ sài. Nhà trai có thể đưa sang nhà gái vài bao trà, ít cau trầu để điểm xuyết cho câu chuyện. Đúng ngày, giờ đã thỏa thuận (tất nhiên là ngày, giờ tốt), bà mối dẫn đầu đoàn của nhà trai sang thăm nhà gái. Đoàn thường gồm các bậc cô, dì, chú, bác... của chú rể. Tuy số lượng đoàn không đông, nhưng những người này có óc quan sát sắc sảo, có tài trò chuyện đối đáp với bên nhà gái. Tất nhiên là trong đoàn phải có chú rẽ. Nội dung của lễ này là hai bên gia đình trao đổi, thăm dò. Đúng ra đây là lễ xem mặt. Trong khi hai bên trò chuyện, nhà gái kín đáo cho cô gái mà bên nhà trai ướm hỏi ra chào khách. Thường là cô gái ra mời trầu, nước. Cô gái chỉ xuất hiện một lần rồi lui về buồng riêng. Đó cũng là dịp để cho chú rể tương lai và họ hàng bên nhà trai quan sát cô gái. Thường bà mối yêu cầu cha mẹ cô gái cho trang điểm giản dị, nhưng nhất thiết không được đội khăn vuông mỏ quạ che kín gáy và hai tai. Bởi nhà trai không chỉ xem mặt mà còn xem cả tướng mặt cô gái. Bởi vì xem tướng thì phải nhìn rõ tam đình, ngũ nhạc, tức là mắt, mũi, tai, mồm... Khi mọi người quan sát cô gái từ nét mặt, dáng đi, giọng nói và cử chĩ của cô, thì trong đoàn họ nhà trai cũng có một hai bà ra ngoài quan sát từ sân, ngõ, bếp núc, chuồng lợn, chuồng trâu... Bdi những nơi đó gọn gàng, sạch sẽ hay bừa bãi, nhếch nhác, đủ nói lên tính cách của cô gái. Nếu họ nhà trai được mời ỏ lại dùng cơm, thì đó còn là dịp để nhà gái khoe tài làm bếp của cồ con dâu tương lai. Đây chính là cơ hội để bên nhà trai thẩm định một cách kỹ càng nhất về công - dung ngôn - hạnh của đối tượng chọn lựa. vể bản chất, lễ này là cơ hội để nhà trai xem gia cảnh cũng như gia phong của nhà gái, từ đó đi đến quyết định dứt khoát việc hôn nhân của đôi trai gái. Nhiều trường hỢp sau lễ chạm ngõ, hai nhà trở nên khăng khít và các lễ cứ tuần tự được tiến hành cho tới cuộc “thân nghinh”. Song cũng không ít trường hợp, sau lễ chạm ngõ thì bên nhà trai từ bỏ ý định cầu hôn. Vì vậy, đối với nhà gái, khi đã chấp nhận lễ chạm ngõ là phải qua các bước giáo dục con gái, sửa sang nhà 162
cửa, tập dượt hết sức chu đáo sao cho cuộc ra mắt của con gái mình gây được thiện cảm với người trong đoàn đại biểu họ nhà trai. Việc này bà mối phải ý tứ thăm dò, phải biết cá tính, sỏ trường của từng người để giúp nhà gái có cách cư xử tốt nhất. Ngược lại, bà mối cũng giúp nhà trai khắc phục những nhược điểm để không vì thế mà nhà gái từ chối. Nếu nhà gái bằng lòng nhận lễ, thì chặng đầu tiên của cuộc hôn nhân coi như xong. Tuy nhiên, về lý thì lễ này chưa có tác dụng ràng buộc hai bên (hứa hôn). Thực ra, đây chỉ là cuộc thăm viếng bình thường, chưa có chuyện hôn nhân gả bán gì được bàn tính trong lễ này. Nếu một trong hai bên không bằng lòng tiếp tục, thì chỉ cần nói qua bà mối. Vì rằng: “Cđi trầu chạm ngõ là cdi trầu bỏ đi". Về phưđng diện văn hóa, các nhà nghiên cứu cho rằng lễ chạm ngõ với lễ vật chính là trầu cau, là một lễ khởi đầu trong hệ thống hôn lễ ở Việt Nam, mang đậm nét bản sắc văn hóa của dân tộc.
2. LỄ VẤN DANH Vấn danh là hỏi họ tên, là hai bên trao đổi danh thiếp. Lễ này cũng đdn giản, chưa phải là bước quyết định của hôn nhân. Nhà trai thông qua người mối, cử một đoàn vài ba người với lễ vật gồm chè, rượu, trầu, cau. Chủ yếu của lễ này là nhà trai biết được ngày, tháng, năm sinh của cô gái, để về xem tuổi. Khi nhà trai đến thì nhà gái đưa ra một tờ giấy đã ghi rõ họ, tên, ngày tháng năm sinh của cô gái; dôi khí cả giờ sinh nếu bên nhà trai có yêu cẩu. Như trong truyện Kiều, khi Thúc Sinh gặp Thúy Kiều, có ý định chuộc nàng ra khỏi thanh lâu. Nhưng việc đầu tiên Thúc Sinh làm không phải là thương lượng với Tú Bà, mà là cần biết tên, tuổi nàng. Vì vậy, Nguyễn Du viết: “Hãy đưa danh thiếp trước cầm làm ghi”. Có những trường hỢp, chủ nhân nhà trai là người cẩn thận, có chữ nghĩa còn gửi thư (qua đoàn nhà trai) sang bên nhà gái, bày tỏ lễ nghĩa và lòng thành tâm của mình (xin ghi lại để chúng ta cùng biết phong cách của một thời). Thư rằng: Ngày... tháng... năm... (âm lịch). Kính khải... (tên) tôn ông, tôn bà nhã giám: Nay nhờ ông bà quá rủ lòng yêu, gả lệnh ái cho lệnh nam tôi tên là... Hôm nay tốt ngày kính dâng lễ Tổ, nhân lễ vấn danh, dám hỏi lệnh ái tên là gì và sinh ngày, tháng, năm nào (theo âm lịch), đổng thời quý tính danh, dòng tộc (tên, họ) của lệnh 163
bà (mẹ cô gái). Xin cho biết tường, đội ơn vạn bội. Nay thư. (Họ tên)... Kính khảỉ. Nhà gái tiếp nhận lễ rồi, dâng thư cùng lễ vật lên bàn thờ kính cáo từ đường (có bài cáo). Để ứng lại với phép lễ nhà trai, nhà gái có phục thư, tức là viết thư đáp lại, đưa họ nhà trai và tiễn về. Thư rằng: Ngày... tháng... năm... (Âm lịch). Kính phục... tôn ông, tôn bà nhã giám. ơn nhờ lòng tốt, yêu cây nên dấu đến hoa, hạ cố đến tiện nữ tôi là Thị... để sánh đôi vói lệnh lang thứ... (hoặc trưởng) nhà ngài. Nay đã hỏi đến, dám chẳng vâng lời, xin kê tiện nữ danh thị và ngày giờ sinh niên như sau: Kê: Họ tên... (Âm lịch... ngày... tháng... năm... (Họ tên)... Kính phục. Ý nghĩa của danh thiếp là để so tuổi, xem đôi bên có hợp nhau không. Nếu mệnh hai người tương sinh thì rất hợp. Ví như chồng mệnh Kim, vợ mệnh Thủy; Kim sinh Thủy là tương sinh. Trái lại, chồng mệnh Kim, vợ mệnh Mộc, Kim khắc Mộc là tương khắc. Đây là quan niệm tính tuổi theo Âm dương Ngũ hành. Lại phải tính sự hợp, xung theo hệ Can, Chi nữa.
3. LỄ ĂN HỎI Ỳ nghĩa của lễ ăn hỏi Lễ này còn gọi là lễ nạp cát. Sau lễ vấn danh, bên nhà trai thấy đôi trẻ hợp tuổi, liền đánh tiếng để xin làm lễ ăn hỏi. Tất nhiên phải chọn ngày lành, tháng tốt. Bên nhà trai thường hỏi ý kiến bên nhà gái các chi tiết cụ thể và số lễ vật. Nhà gái nếu muốn lễ to thì nói ý tứ: Họ hàng nội, ngoại đông, bạn bè giao du rộng, nhà trai xem đó mà biện lễ. Ngày xưa lễ này ỗ nông thôn thường có một vài buồng cau to độ ba, bốn trăm quả (đủ số cau biếu, mỗi phần 3 quả, ít đi là 1 quả - không bao giờ 2 quả - vì cho đó là thô tục); dăm chai rượu trắng: niột mâm xôi gấc; một cái thủ lợn. ở thành phố thì xôi gấc, lợn quay, trà, rượu mầu và bánh trái, trầu, cau... Sau này người ta bỏ bớt xôi gấc, lợn quay, mà thay vào đó là các loại bánh dân tộc như: bánh chưng, bánh dầy, bánh cốm, bánh phu thê. Bánh cốm gói lá chuối xanh mướt buộc hai chiếc lạt nhuộm đỏ hình chữ thập rất đạp. Các nhà sang trọng ỏ Hà Nội hoặc các tỉnh thường chuộng bánh cốm Nguyên Ninh - là nhà hàng bánh cốm nổi tiếng. 164
Bánh cốm phải kèm với bánh phu thê làm bằng loại bột lọc, nhuộm màu vàng trong như ngọc. Bánh cốm có hình vuông tượng trưng chọ âm, bánh phu thê tròn tượng trưng cho dương (cũng biểu thị nam và nữ, trời và đất). Bánh cốm, bánh phu thê lại thêm mứt sen, chè cân loại hảo hạng, cau tươi và trầu không, sao cho tương xứng với số bánh trái trên, cùng với dăm ba chai rượu màu. Việc dẫn lễ ngày xưa thường có bà mối, mẹ hoặc cha chú rể. Cũng có thể là chú, bác, những người có tư cách đại diện cho cha mẹ chú rể. Dăm bảy, thậm chí mười cháp quả đựng lễ vật trên phủ vải điều hoặc khăn xatanh đỏ do các cô gái 16 - 17 tuổi mặc áo dài đẹp, đội trên đầu. Các nhà giàu xưa thường thuê xe tay kéo gọng đồng rất sang, cũng có nhà dùng xe song mã. Chú rể đi kèm với vài người bạn trai cùng tuổi, những người này sẽ là người phù rể vào lễ cưới. Bên nhà gái trong dịp này thường mời bà con thân cận nhất đến dự và có làm cơm thiết nhà trai. Lễ vật nhiều nhưng chỉ đặt tượng trưng lên bàn thờ. Khi nhà trai ra về, nhà gái thu xếp trả lại tất cả các cháp quả đựng lễ vật. Trong mỗi cháp quả đều để lại mỗi thứ một ít, gọi là “lại quả” cho nhà trai. Trình tự cúng lễ trong lễ ăn hỏi * Chuẩn bị trước buổi lễ - Hai gia đình sẽ bàn bạc và thống nhất số lượng tráp (thông thường số lượng tráp ỏ miền Bắc là lẻ, từ 3, 5, 7 đến 15 tráp tùy nhà, còn ở miền Nam, tráp lại là số chẵn). Trong tráp phải có lễ đen, là phong bì tiền nhà trai chuẩn bị để thắp hương trên bàn thờ nhà gái. số lượng phong bì lễ đen có thể tùy thuộc vào số lượng bàn thờ của nhà gái hoặc do nhà gái thách cưới. - Tùy số lượng tráp, nhà trai phải chuẩn bị đội nam thanh niên trẻ để bê tráp và nhà gái cũng chuẩn bị đội nữ có số lượng tương ứng để đỡ tráp. - Hai nhà lựa chọn ra một giờ đẹp để làm lễ ăn hỏi tại nhà gái. Tới đúng ngày đã định, đoàn đại diện nhà trai sẽ lên đường tới nhà gái. - Để đảm bảo tới nhà gái đúng giờ, gia đình nhà trai cần tính toán thời gian đi lại cũng như các trở ngại trên đường. Tốt nhất nhà trai nên đi sớm trước giờ làm lễ khoảng 30 phút để tránh tắc đường và có thời gian chuẩn bị. * Chào hỏi và trao lễ vật - Khi tới giờ đẹp, đoàn ăn hỏi nhà trai sắp xếp đội hình theo thứ bậc trong gia đình, đi đầu là ông bà, bố mẹ, chú rể, đội bê tráp và các thành viên liên quan. - Sau khi hai nhà chào hỏi, đoàn bê tráp nam sẽ trao lễ cho đội đỡ tráp nữ để đỡ mâm quả vào nhà. 165
- Đội bê tráp nam và đội bê tráp nữ sẽ trao phong bao lì xì, trả duyên cho nhau. Các phong bao này do hai nhà chuẩn bị, nhà trai sẽ chuẩn bị phong bao và đưa cho đội nam, nhà gái sẽ chuẩn bị số phong bao tưdng ứng đưa cho đội nữ. Số tiền trả duyên nên được hai nhà thống nhất trước. * Mời nước, trò chuyện - Sau khi trao tráp, gia đình hai nhà sẽ cùng ngồi uống nước, nói chuyện. Đầu tiên, gia dinh nhà gái sẽ giới thiệu các dại diện trong buổi lễ. Để đáp lại, nhà trai cũng giới thiệu các đại diện của gia đình. - Đại diện nhà trai sẽ phát biểu lý do và giới thiệu vể các mâm quả mà nhà trai mang đến. - Đại diện nhà gái đứng lên cảm dn, chấp nhận tráp ăn hỏi của nhà trai. - Mẹ chú rể và mẹ cô dâu sẽ củng mỏ tráp. * Cô dâu ra mắt hai gia đình - Gia đình nhà gái cho phép chú rể lên phòng đón cô dâu xuống chào gia đình nhà trai (trước khi chú rể lên đón, cô dâu không được xuất hiện trong lễ ăn hỏi). - Cô dâu sẽ xuống chào hỏi và rót nước mời gia đình chú rể, ngược lại, chú rể cũng sẽ rót nước mời gia dinh cô dâu. * Thắp hương trên bàn thờ của nhà gái - Sau khi cô dâu ra mắt, mẹ cô dâu sẽ lấy từ mâm ngũ quả một số vật phẩm và lễ den dể mang lên bàn thờ thắp hưdng cúng ông bà, tổ tiên. - Bố mẹ cô dâu sẽ đưa cô dâu và chú rể lên thắp hương trên bàn thờ nhà gái. * Bàn bạc về lễ cưới - Sau khi cúng ông bà tổ tiên xong, bố mạ hai nhà sẽ thống nhất ngày giờ đón dâu và lễ cưới. - Trong thời gian đó, cô dâu chú rể mời nước quan khách và chụp ảnh lưu niệm cùng mọi người. * Nhà gái lại quả cho nhà trai - Nhà gái sẽ chia dổ lại quả cho nhà trai và trả lại các mâm tráp. Lưu ỷ, khi chia đổ lại quả không được dùng kéo cắt mà phải xé bằng tay, đồ lại quả phải là số chẵn (thông thường là 10 lễ vật) và khi nhà gái trả lại mâm tráp phải để ngửa nắp lên, không được đóng lại. - Nhà gái trao đổ lại quả cho nhà trai và nhà trai xin phép ra vể. - Sau khi đã kết thúc lễ ăn hỏi, nhà gái sẽ mời tất cả các thành viên có mặt 166
cùng ỏ lại dùng bữa cơm thân mật. Trong trường hợp nhà trai ở xa, nhà gái cũng sẽ mời nhà trai ỏ lại dùng cơm luôn. Tuy nhiên việc này phải được thống nhất từ trước để nhà gái có kế hoạch đặt cỗ và chuẩn bị tiếp đón chu đáo. Thông thường, lễ ăn hỏi diễn ra trong khoảng từ 30 phút đến 1 tiếng đồng hổ. Tuy nghi lễ không quá phức tạp nhưng đây được coi như lễ đính ước truyền thống không thể thiếu trong đám cưới Việt Nam, nên dù cô dâu chú rể hiện đại vẫn cần phải tuân thủ cũng như thực hiện đúng trình tự lễ ăn hỏi để đám cưới được diễn ra suôn sẻ. Quan hệ hai bên sau lễ ăn hỏi Sau lễ ăn hỏi, chàng rể được thừa nhận như con cái trong nhà. Phải thường xuyên thăm hỏi gia đình bên vợ, săn sóc khi có người nhà ốm đau, giúp việc khi nhà có công việc, coi như đây là việc nhà mình. Các nhà nho xưa gọi chàng rể lúc này là “bán tử chi tình” (tình cảm như nửa con trai). Ngày xưa, từ sau lễ ăn hỏi đến lễ cưới kéo dài hằng năm, thậm chí vài ba năm. Đám nào cưới gấp sau khi ăn hỏi người ta cho là khiếm nhã, hoặc thường bị dân làng dị nghị và nghi là phía con gái có chuyện không bình thường. Trong thời gian từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới, người con rể phải theo đủ các lễ sêu Tết trong năm. Tức là mùa nào thức ấy, đủ các tháng trong năm, người rể chưa cưói ấy phải có quà lễ biếu cha mẹ vợ một cách chu đáo, chân thành, cẩn thận, ở vùng đồng bằng Bắc bộ thời ấy thường: tháng 3 sêu vải (theo âm lịch); tháng 5: đậu xanh, ngỗng; tháng 7: na, nhãn lổng: tháng 9: cốm, hồng, gạo mới, chim ngói; tháng chạp: cam, mứt; Tết Nguyên đán thì phong phủ hơn, sang hơn. Cũng có nơi, có nhà hiếm con, bắt chàng trai sau lễ ăn hỏi phải đến ổ rể từ một đến ba năm, rồi mới được cưới. Thời gian ỏ rể cũng là thời kỳ thử thách: từ lao động đến cung cách làm ăn, thái độ đối nhân xử thế... Đây cũng là thời kỳ chàng rể sẵn sàng làm việc không tiếc sức, lại phải khiêm tốn, vui vẻ không chỉ để lọt “mắt xanh” của nàng, mà chính là làm vừa lòng bố mẹ vợ, thậm chí phải bỏ qua nhiều chuyện dù có thấy “chướng ta gai m ắf. Vì thế người ta nói; “ỏ rể như chó nằm gầm chạn” là vậy. Tục ỏ rể phổ biến và chắc gây phiền hà trong mối quan hệ xã hội, trỏ thành hủ tục (thời gian kéo dài, chàng rể bị lợi dụng quá lâu), nên Lê Thánh Tôn (thế kỷ XV) phải ra điều ngăn cấm: "Khi đã có lễ xin cưới rồi, thì cấm không được để đến 3 - 4 năm mới cho rước dâu. Sau khi nhận lễ hỏi phải chọn ngày cưới”.
4. LÊ NẠP CHÍNH Lễ này cũng gọi là lễ nạp tệ. 167
Một vài mùa lúa đã trôi qua, nhà trai sêu Tết đều đặn, chu đáo. Mối quan hệ ràng buộc hai nhà cũng đã khăng khít. Nhà trai xem tuổi, định năm cưới. Tập quán xưa: “Cưới vỢ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. Phải bấm xem tuổi tốt xấu của cô dâu tương lai. Thường chuyện này người ta đã tính từ trước. Khi đã chọn được năm, tháng, ngày tốt, nhà trai nhờ người mối mai tới báo cho nhà gái biết, để xin ý kiến và cùng lo lắng. Cũng trong dịp này, người mối mai cũng hỏi chính thức xem nhà gái cần những gì để “dẫn cưới”. Đúng như tên gọi, “nạp tệ” tức là nộp tiền. Đây chính là kết quả sau cuộc nghị hôn giữa hai bên gia đình. Trong cuộc họp bàn này, nội dung chủ yếu xem bên nhà gái đòi hỏi nhà trai phải nạp những gì. xưa cuộc bàn bạc này gọi là “thách cưới”. Trong đó nhà gái đòi đủ thứ. Từ các đ6 quý về trang sức như: vòng, xuyến, hoa tai, xà tích, quẩn áo mớ ba mớ bảy... Bạc trắng, tiền giấy, rượu, gạo, lợn... Đã gọi là “thách” thì bên nhà gái thường nói đội lên những yêu cầu rất cao về các đồ sính lễ. Nhà trai tùy khả năng có thể mà đáp ứng. Có khi bên nhà gái đòi mười, bên nhà trai chỉ có hai, ba. Có những trường hợp bên nhà trai không có thể đáp ứng được đầy đủ, việc cưới đành phải tạm hoãn. Thường thì đã đến nước này, họ nhà trai phải cố gắng, vì: “Trổng cây đã tới ngày ăn quả”, lo vay mượn ngược xuôi, không nên trì hoãn nữa, nếu không định doãi ra. Những trường hỢp như vậy, dù sao vể tình cảm hai bên cũng có ít nhiều tổn thương. Nếu gặp phải bà mạ chồng khó tính thì, sau này cô dâu “khốn khổ với bà”. Gương cũ để lại chuyện này không hiếm. Cũng có những trường hợp, hai bên đi lại nhiều năm, đã hiểu nhau, thông cảm với nhau, cùng nhau hỢp lực vun đắp cho hạnh phúc lứa đôi, nhưng cũng không thể mang tiếng là “cho không”, ông bố vợ từng trải sẽ nói cho bên nhà trai và chàng rể rõ, lối sống thanh bẩn và mối dây liên kết hai nhà bển lâu mới là chuyện đáng quý. Với ông thì “Giá thú bất luận tài”. Còn đối với nhà nghèo, chuyện lại đơn giản hơn nữa. Người ta chỉ lưu ý đến những cái tối thiểu vể lễ nghi, đạo đức. Thường là cần ba lễ mặn, nhưng là lễ mặn nhà nghèo, không cao lương mỹ vị, không giò, nem, ninh, mọc, mà mỗi lễ chỉ gồm đĩa xôi và con gà luộc, kèm theo trầu, cau, rượu là được. Đây là ba lễ với tổ tiên, không được quên dù nghèo, đó là: - Lễ nhà tộc trưởng bên vỢ; - Lễ tại nhà thờ cậu của vỢ; - Lễ gia tiên tại nhà. Khi cúng xong thl “kiến tự” tức hạ xuống hưởng lộc.
168
5. LỄ THỈNH KỲ Tức là hẹn ngày xin cưới. Sau lễ nạp tệ, tức là các đồ dẫn cưới nhà trai đã đưa sang nhà gái, thì nhà trai xin hẹn ngày, giờ đón dâu với nhà gái. Lễ này diễn ra hết sức đơn giản và không có gì cản trỏ.
6. LỄ ĐÓN DÂU Còn gọi là lễ thân nghinh. Người con gái về nhà chồng là ngày cưới, ngày vui, ngày hạnh phúc nhất của đời người, nên nghi lễ đón dâu rất trang trọng. Người ta còn gọi là “rước dâu” (người con trai phải thân đến nhà gái rước cô dâu vể). Lễ đón dâu phải kiêng kỵ một số điều: - Bản thân cô dâu, chú rể không ở trong thời kỳ đại tang (tức cha mẹ đẻ chết chưa hết tang). - Ngày giờ cưới phải tránh các ngày giờ “không vong”, “sát chủ”... Đồng thời phải tránh “tháng ngâu” - tháng 7 âm lịch. Theo tập quán của dân ta: Tuy gọi là 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông song thực ra ở nước ta chỉ có hai mùa rõ rệt là mùa mưa (ướt, ẩm, từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch) và mùa khô ráo (khô, lạnh, mát mẻ, từ tháng một đến tháng tư năm sau). Thực ra người ta có thể tổ chức lễ cưới vào bất cứ tháng nào nếu tính thấy tốt và không ngại nóng (mùa nắng), không ngại ướt (mùa mưa). Song, có một tháng mà ai cũng phải kiêng - đó là tháng bảy (mưa ngâu). Mưa ngâu nhắc một truyền tích Ngưu Lang, Chức Nữ: Ngưu Lang (Kiên Ngưu) là một ngôi sao, chăn trâu phía Tây sông Ngân, yêu Chức Nữ cũng là một ngôi sao - con gái Thượng đế. Đây là hai ngôi sao nằm trong 28 ngôi sao nổi tiếng (Nhị thập bát tú). Thượng đế nhận Ngưu Lang làm rể. Nhưng từ khi có chồng, Chức Nữ lười biếng nên bị Thượng đế phạt, đầy Chức Nữ sang bờ Đông sông Ngân và lệnh cho mỗi năm hai người chỉ được gặp nhau một lần vào ngày Thất tịch (mùng 7 tháng 7). Bỏi thế, lúc gặp được nhau ấy, hai người khóc rả rích như mưa. Mưa rả rích tháng 7 gọi là mưa ngâu (tức Ngưu). Tình lứa đôi la dỏ như vậy, nên dân ta thường ngại, không tổ chức lễ cưới vào tháng này. Trước ngày cưới một ngày, cả hai nhà đều làm lễ cáo gia tiên và thổ công. Nhà gái xin phép (gia tiên và thổ công) cho con xuất giá, làm con nhà người. Nhà trai xin phép được báo là có thêm người và sẽ có thêm con cháu nối dõi tông đường. Tuy hai gia đình đã thỏa thuận với nhau ngày, giờ cưới rồi, nhưng trước khi lễ đón dâu vài ba tiếng đồng hồ (nếu hai nhà ỏ gần, nếu ỏ xa thì trước một ngày) nhà trai lại cử người đến nhà gái với chút lễ mọn: cơi trầu để “xin dâu”. Cơi trầu này phải 169
xếp đủ 12 miếng trầu cánh phượng, mười hai miếng cau cánh tiên, đến nhà cô dâu báo xin giờ đón dâu. Tại sao phải là 12? Vì các cụ cho hay là 12 tượng trưng cho 12 bà mụ (chăm sóc việc sinh đẻ sau này của cô dâu), 12 giờ trong một ngày, 12 tháng trong một năm và 12 vị thần (quan hành khiển) thay phiên nhau trông nom đời sống con người. Vì sao lại phải đến xin dâu khi hai gia đình đã thỏa thuận rồi? Vì trước đây có những cuộc tình duyên ép buộc, cô gái kiên quyết chống lại, nên thường bỏ trốn vào phút chót; hoặc do tai biến bất thường như ốm đau hoặc tai nạn. Việc xin dâu vào lúc áp ngày, giờ cưới, mục đích nhằm đảm bảo cho lễ cưới suôn sẻ, tránh điều tai tiếng có thể xảy ra đối với họ hàng, quan khách: Đám cưới không có cô dâu. Định xong ngày, giờ đón dâu rồi, chủ hôn cử người mang lá trầu, quả cau đi mời ông cầm hương, ông là người sẽ cầm bó hương dẫn đầu đám rước dâu. Thường người ta chọn người đứng tuổi, phúc hậu, gia đình nền nếp, vợ chổng song toàn, không tang chế, con cháu đông vui, hòa thuận. Như vậy ông là có phúc, có lộc, mời ông giúp đám cưới, ông sẽ chia sẻ phúc lộc cho đôi trẻ sau này. Còn đối với ông, ông tự coi đây là một vinh dự - vì ông là tượng trưng cho sự hoàn hảo, đầy đủ, dân làng quý trọng ông. ông cầm hương, mặc áo dài đỏ, quần tơ tằm vàng (màu đỏ tượng trưng cho sự sống), ồng cầm hương nhai miếng trầu, dùng một tuần trà, chờ đợi thực hiện nghi lễ. Các cụ truyền lại rằng: Hương thơm chứng tỏ đám rước dâu thanh sạch, hương thơm cũng đuổi ma quỷ (theo đám cưới để quấy nhiễu) gặp trên đường.Trình tự lễ đón dâu ngày cưới Một số gia đình nhà trai phải có lễ xin dâu trước lễ đón dâu, còn một số khác lại gộp lễ xin dâu và lễ đón dâu làm một. Cũng giống như lễ ăn hỏi, lễ đón dâu đều có những quy tắc và thủ tục riêng được trình bày cụ thể dưới đây: Lễ xin dâu Trước khi đến giờ đón dâu chính thức, đại diện nhà trai, thường là mẹ chú rể cùng cô hoặc bác thân thiết sẽ mang cơi trầu đến nhà cô dâu trước để làm lễ xin dâu. Mẹ cô dâu sẽ nhận tráp trẩu cau và mang lên thắp hương trên bàn thờ tổ tiên của nhà gái. Đây là nghi lễ truyền thống lâu đời, có ý nghĩa như lời chấp nhận chính thức cho cô dâu về nhà chồng. Tuy nhiên, hiện nay nhiều người thường muốn tranh thủ thời gian trong buổi lễ đón dâu nên thường gộp lễ xin dâu và đón dâu vào làm một, mẹ chú rể sẽ không phải đến nhà gái trước nữa. - Nếu hai gia đình thống nhất nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào làm một thì trước khi đến nhà gái, nhà trai chuẩn bị một cơi trầu để làm thủ tục xin dâu. Khi gộp hai lễ, lễ xin dâu phải diễn ra rất nhanh để lễ đón dâu được tiếp tục. Chào hỏi, tuyên bố lý do 170
- Sau khi lễ xin dâu đã xong, nhà gái cho người mời nhà trai vào nhà, cùng ổn định chỗ ngồi và mời nước các thành viên trong đoàn. - Đại diện nhà trai sẽ giới thiệu thành phần tham dự lễ đón dâu và trình bày nguyện vọng được đón cô dâu mới về nhà chổng. - Đại diện nhà gái cũng sẽ có phần phát biểu đáp lại, đồng ý cho nhà trai đón cô dâu. Cô dâu ra mắt gia đình - Sau khi đại diện hai nhà phát biểu xong, nhà gái cho phép chú rể được lên phòng đón cô dâu xuống chào họ hàng (Cũng giống như trong lễ ăn hỏi, trước khi chú rể lên đón, cô dâu không được xuất hiện). - Chú rể cũng sẽ tặng bó hoa cưới cho cô dâu. Cô dâu chú rể mời nước họ hàng và thắp hưdng tại nhà gái - Sau khi chú rể đón cô dâu, hai người sẽ cùng nhau rót nước mời các thành viên của hai nhà. - Tiếp đến, bố mẹ cô dâu hướng dẫn cô dâu chú rể thắp hưdng trên bàn thờ nhà gái. Tại miền Nam, trong đám cưới còn có một phong tục quan trọng không thể thiếu, đó là nhà trai phải mang một đôi nến to (đèn cầy) có hình long phụng để thắp trên bàn thờ nhà gái, còn nhà gái chịu trách nhiệm chuẩn bị chân nến. Các loại chân cắm và nến này đều phải có cùng kích cỡ với nhau. Nhà gái căn dặn cô dâu trước khi về nhà chồng và lễ đón dâu kết thúc - Mẹ cô dâu sẽ căn dặn con gái một số điều trước khi về nhà chồng và tặng quà hồi môn như kiềng vàng, nhẫn... - Sau khi thủ tục dặn dò, trao quà đã xong, đại diện nhà trai sẽ phát biểu, xin phép được đón cô dâu về nhà. Một số ndi còn có phong tục khi cô dâu bước ra cửa, theo chồng, cô dâu không được ngoái đầu lại nhìn vể nhà mẹ. - Một số thành viên trong gia đình nhà gái cũng sẽ theo đoàn nhà trai đưa cô dâu về nhà mới. Theo tục lệ truyền thống, bố cô dâu sẽ là người đưa con gái về nhà chồng, mẹ đẻ không đưa dâu. Làm lễ ra mắt cô dâu mới và tiến hành lễ thành hôn tại nhà trai - Khi về đến nhà chú rể, đại diện nhà trai sẽ giới thiệu các thành viên tham dự lễ thành hôn. - Đại diện nhà gái cũng giới thiệu thành phần gia đình có mặt trong lễ thành hôn. - Đại diện nhà trai hướng dẫn cô dâu chú rể thắp hưđng trên bàn thờ tổ tiên. 171
- Đại diện nhà trai sẽ tặng quà cưới cho cô dâu chú rể. - Đại diện nhà trai sẽ đưa cô dâu chú rể và họ hàng nhà gái lên xem phòng tân hôn. Ý nghĩa của việc này là nhà trai sẽ cho nhà gái thấy hoàn cảnh, điều kiện gia đình mới mà cô dâu sẽ gắn bó trọn đời. Khi đưa cô dâu chú rể lên phòng tân hôn, một số gia đình còn chuẩn bị lễ trải giường tân hôn cho cặp uyên ương mới trước sự chứng kiến của gia đình nhà gái. Nghi lễ trải giường cưới phải do một người phụ nữ trong gia đình họ nhà trai thực hiện, đặc biệt, người này phải có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và phải sinh được cả con gái, con trai. Theo người xưa quan niệm, những người phụ nữ như vậy sẽ đem đến hạnh phúc và con đàn cháu đống cho đôi uyên ương. Nếu không làm nghi thức này, gia đình nhà trai có thể trải giường, chuẩn bi, phòng tân hôn trước khi đi đón dâu. Có quan niệm, khi đón dâu về nhà, mẹ chồng không nên giáp mặt cô dâu mới, để tránh xung khắc sau này. Cô dâu chú rể mời nước hai gia đình, lễ thành hôn kết thúc - Đôi vợ chồng trẻ sẽ rót nước mời các vị quan khách tham gia lễ thành hôn. - Nhà gái dặn dò cô dâu vể cuộc sống tại nhà chồng sau này. - Nếu hai gia đình tổ chức tiệc cưới chung tại khách sạn, nhà hàng, sau khi lễ thành hôn kết thúc, cả hai sẽ cùng đến tiệc cưới. Nếu hai nhà tổ chức riêng, nhà gái phát biểu, xin phép ra về và cảm ơn nhà trai đã chuẩn bị chu đáo cho cuộc sống của cô dâu mới. 7. Lễ gia tiên trong ngày cưới Lễ gia tiên là thủ tục không thể thiếu trong đám cưới của người Việt từ xưa đến nay. Đây là nghi thức văn hóa, báo cáo trước bàn thờ tổ tiên về việc con cháu đi lấy chồng hoặc đón cô dâu mới về nhà và được coi như lễ ra mắt của cô dâu chú rể đối gia đình nhà chồng, vợ. Trong ngày cưới, nghi lễ này phải tiến hành ở cả hai gia đình nhà trai và nhà gái. Nghi lễ gia tiên tại họ nhà gái Khi nhà trai tới thưa chuyện về hôn nhân của đôi uyên ương và ngỏ ý đón cô dâu mới về nhà, họ nhà gái sẽ đồng ý để con mình đi làm dâu. Trước khi cô dâu về nhà chồng, cả chú rể và cô dâu phải lên làm lễ thắp hương trên bàn thờ tổ tiên. - Thành phần tham gia: Bố mẹ cô dâu hoặc đại diện gia đình nhà gái và cô dâu chú rể. Nhà trai không tham gia vào lễ gia tiên tại nhà gái. - Lễ vật thắp hương: Nhà trai phải chuẩn bị trầu cau để xin dâu, đồng thời cũng 172
để thắp hương trên bàn thờ nhà gái. ở miền Nam, nhà trai bắt buộc phải chuẩn bị một đôi đèn cầy (nến) có khắc hình long phụng để thắp trên bàn thờ nhà gái. Gia đình nhà gái cũng sẽ chuẩn bị hai chân đèn để cắm đèn cầy. Để chân và đèn cầy khớp nhau, hai nhà nên thống nhất trước kích cỡ, để khi làm lễ gia tiên không mắc phải những điều sai sót. Người miền Nam quan niệm, khi thắp đèn cầy (nến) trên bàn thờ như vậy, hạnh phúc của đôi trẻ cũng sẽ hạnh phúc, ấm áp như ngọn lửa đèn cầy. - Nghi thức: Bố cô dâu hoặc đại diện nam giới trong họ nhà gái sẽ là người thắp hương, lên đèn trên bàn thờ, đồng thời cũng là người đọc bài khấn trước tổ tiên. Bài khấn này thường được các gia đình xin tại chùa. Cô dâu chú rể sẽ làm theo sự hướng dẫn của cha mẹ hoặc người đại diện. Lễ gia tiên thường diễn ra nhanh chóng để cô dâu kịp giờ về nhà chồng. Nghi lễ gia tiên tại họ nhà trai Theo đúng nghi lễ truyền thống, trước khi cô dâu lên đường vể nhà chồng, người chủ hôn sẽ đốt hương để xua đuổi những điều xấu không theo chân đôi uyên ương về nhà. Đoàn đưa dâu của nhà gái và rước dâu của nhà trai sẽ cùng nhau về nhà trai để trình diện họ hàng, tổ tiên. ở miền Bắc và miền Trung, mẹ cô dâu sẽ không được đưa con về nhà chồng để tránh nỗi buồn chia cách. Nhưng người miền Nam lại có suy nghĩ phóng khoáng nên nhiều gia đình không kiêng việc mẹ đưa con gái vể nhà chồng. Khi đoàn rước dâu về tới nhà trai, cô dâu chú rể sẽ tiếp tục làm lễ ra mắt tổ tiên tương tự như nghi lễ tại họ nhà gái. - Thành phần tham gia: Một số gia đình chỉ có bố mẹ chú rể và đôi uyên ương tham gia vào lễ thắp hương trên bàn thờ. Tuy nhiên, một số gia đình khác lại sửa soạn một bàn thờ nhỏ đặt trong phòng khách để tượng trưng cho bàn thờ gia tiên và tất cả thành phần đoàn đưa, rước dâu đều được chứng kiến nghi lễ này. - Lễ vật thắp hương: Nhà trai sẽ chuẩn bị sẵn mâm ngũ quả, gà luộc hoặc cầu kỳ hơn, có thể đặt mâm trái cây hình long phụng để bàn thờ thêm đẹp mắt. - Nghi thức: Bố chú rể hoặc đại diện nam giới trong họ nhà trai cũng sẽ là người thắp hương, lên đèn trên bàn thờ và đọc bài khấn báo cáo tổ tiên. Cô dâu chú rể sẽ làm theo sự hướng dẫn của cha mẹ hoặc người đại diện. Sau khi thắp hương trên bàn thờ tổ tiên, cô dâu chú rể sẽ cùng cúi lạy bố mẹ chú rể và mời nước các bậc cao tuổi trong nhà. Để lễ gia tiên diễn ra suôn sẻ nhất, hai gia đình cần chuẩn bị các lễ vật chu đáo và sửa soạn, dọn dẹp bàn thờ cũng như hướng dẫn đôi trẻ thực hiện nghi lễ chỉnh chu, trang trọng nhất. 173
III.
TỤC L Ệ THỜ CÚNG
TRONG NHỮNG NGÀY TRỌNG DẠI
1. TẬP TỤC CÚNG LỄ KHI ĐỘNG THổ LÀM NHÀ Dân gian cho rằng “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”, do vậy những công việc liên quan đến đất đai như: Thiết kế công trình, xây dựng hoặc sửa chữa nhà cửa, xây dựng cửa hàng, cửa hiệu, phân xưỏng... đều có lễ kêu cầu, mong cho công việc được trôi chảy. Tất nhiên người ta phải kén chọn ngày, giờ tốt phù hỢp với tuổi người chủ trì công trình. Phải là những ngày có sao “tốt” chiếu như ngày hoàng đạo, ngày sinh khí, lộc mã, phúc sinh, giải thần... Tuyệt nhiên tránh rơi vào ngày hắc đạo, sát chủ, thổ cẩm, trùng tang, trùng phục.... Còn giờ thì phải là giờ hoàng đạo. Trước giờ khỏi công, gia chủ sắm biện lễ vật, thường gồm: Hương hoa, trầu quả, tiền vàng, rượu, thịt, xôi nếp (nên là xôi gấc, gà trống hoa (gà trống tơ), gạo muối... Đặt lễ lên mâm có kê đôn tại khu đất xây dựng để làm lễ. Sau khi hương đèn đã thắp (hương thắp 7 nén), gia chủ vái 4 phương (mỗi phương 4 vái) rồi quay mặt vào mâm lễ đọc văn khấn. Khi tàn hương (hương chỉ cháy 2/3 là được) hóa tiền vàng, rắc muối, gạo 4 phía, rồi đào, cuốc mấy nhát nơi định làm - gọi là động thổ, mỏ đầu cho việc thi công đào móng. Lễ vật sau khi cúng, xôi và gà được dùng vào bữa ăn chính, rượu cúng sau khi đã phun vào than hồng của vàng mã, gia chủ rót mời mọi người (tham gia xây dựng công trình) cùng uống, rổi cùng ăn hoa quả trong không khí vui vẻ của ngày động thổ. Trường hỢp người chủ gia đình không được tuổi làm nhà, nhưng do thời gian và điều kiện cấp bách không thể lui được thì phải mượn tuổi làm nhà. Khi động thổ, người mượn tuổi thay gia chủ thực hiện nghi lễ khấn và động thổ. Tất nhiên lúc này gia chủ phải lánh khỏi nơi làm nhà xa từ 50m trỏ lên. Sau khi hoàn tất công việc động thổ mới trở về. Nếu là nhà cao tầng, các kỳ đổ mái tầng một, tầng hai... và tầng cuối cùng, người mượn tuổi phải tiếp tục thực hiện nghi lễ cúng khấn. Lúc cúng khấn gia chủ vẫn phải lánh mặt.
174
2. TẬP TỤC CÚNG LỄ KHI NHẬP TRẠCH Lúc xây xong nhà phải làm đủ thủ tục dâng hương cúng lễ. Và khi phải di chuyển nhà ỏ cũng phải đặc biệt chú ý tới một số vấn để dưới đây; - Phải chọn ngày tốt, giờ tốt để dọn đến nhà mới. - Khi chuyển nhà, mọi việc chuyển đồ của mình đến nhà mới phải do chính tay mình hoặc người của gia đình chuyển, toàn gia đình không thể tay không đến nhà ở mới. - Bài vị tổ tiên, thần linh phải được làm trước và phải do gia chủ tự tay cầm đến nhà mới. những người khác trong gia đình di theo sau vào nhà, mỗi người đều phải cầm trong tay một vật mang tính của cải tiền tài của gia đình. - Thời gian vào nhà phải là buổi sáng sớm, buổi giữa trưa, hoặc trước lúc mặt trời lặn. Tránh đến nhà mới vào buổi tối. - Khi vào nhà mới, vật đầu tiên mang vào là cái chiếu (hoặc đệm) mà gia đình đang sử dụng, sau đó là bếp lửa (bếp ga, bếp dầu), không nên mang bếp điện - vì bếp điện có tinh mà không có tướng (tức chỉ có nhiệt mà không có ngọn lửa), chổi quét nhà, gạo, nước... và các lễ vật để cúng thần linh xin nhập trạch và xin phép thần linh rước vong linh gia tiên về nơi ỏ mới để thờ phụng. Lễ vật được để lên bàn hoặc mâm kê vào chỗ nào đó mà có hướng đẹp vói gia chủ, tự tay gia chủ thắp hương vào một bát hương làm tạm thời. Thắp hương và khấn lễ, tiếp ngay sau đấy gia chủ châm bếp và đun nước. Khấn thần linh với nội dung sau: - Xin nhập vào nhà mới. - Xin lập bát hương thờ thần linh. - Xin phép thần linh cho rước vong linh gia tiên nhà mình về nơi ở mới này để thờ phụng. - Nếu chỉ nhập trạch lấy ngày tốt, chưa có nhu cầu ở ngay thì gia chủ phải ngủ một đêm tại nhà mới. - Khi khấn thần linh xong, gia chù làm lễ cáo yết gia tiên rồi mới dọn dẹp đồ đạc. - Sau khi dọn xong, để cầu bình yên, toàn gia phải tổ chức lễ bái tạ tổ tiên và Thần Phật. - Nếu trường hợp nhà có người chửa (mang thai) thì tốt nhất là không nên dọn 175
nhà. Trong trường hỢp cấp bách không thể không dời nhà, nên mua một cái chổi mới tinh, để đích thân người chửa quét qua các đồ đạc một lượt rồi mới chuyển, như vậy mới không phạm tội “Thần thai”. - Những người giúp dọn nhà không được là người cầm tinh con Hổ.
3. LÀM LỄ YẾT CÁO Tổ TIÊN XIN CHO CON VÀO s ổ HỌ Đặt tên cho con vào sổ họ như thế nào? Vấn để này đã có lệ từ xưa, chẳng có gì mới mẻ. “Họ nào đã có nề nếp sẵn thì cứ theo lệ cũ tiến hành”. Đối với những họ mới phục hổi lại việc họ, chưa vào nền nếp thì dưới đây là một vài kinh nghiệm: - Yết cáo tổ tiên: Theo lệ cũ chỉ sau khi đối chiếu gia phả, kiêng kị các trường hợp phạm húy (đặt tên trùng với tên húy của tổ tiên và thân nhân gần gũi nhất, kể cả nội ngoại) mới chính thức đặt tên húy cho trẻ sd sinh, yết cáo tổ tiên và xin vào sổ họ. Ngày nay phải làm thủ tục khai sinh kịp thời, trường hỢp ở xa quê, không kịp về đối chiếu gia phả, nhỡ trùng tên húy tổ tiên trực hệ, thì tìm cách đổi, hoặc tránh gọi thường xuyên trong nhà. Lễ yếu cáo tổ tiên rất đđn giản, nén hương, cơi trầu, chén rượu cũng xong, thường kết hỢp lễ tế tổ hằng năm mà yết cáo chung tất cả con cháu trong họ sinh trong năm cùng một lượt. Lễ vào số họ cũng đơn giản, cốt sao cho gia đình nghèo nhất trong họ cũng không gặp phải điều gì phiền phức. - Vào sổ họ: Thứ tự sổ họ ghi theo năm sinh, ai sinh trước ghi trước, sinh sau ghi sau. Trường hỢp nhiều năm bị phế khoáng nay mới lập lại sổ họ thì phải thống kê theo đơn vị hộ gia đình hoàn chỉnh cả họ, sau đó mới lập số tiếp đối với những trẻ sơ sinh. - Con gái vào sổ họ: Bất cứ trai hay gái, sau khi sinh đều có yết cáo tổ tiên, đã được tổ tiên phù trì phù hộ, nhưng nhiều họ ngày xưa không vào sổ họ đối với con gái, cho rằng “nữ nhân ngoại tộc”, con gái là con người ta, lớn lên đi làm dâu lo cơ nghiệp nhà chồng vì thế không công nhận con gái vào họ. Tuy vậy, điều này nay đã được xóa bỏ.
4. LỄ CÚNG MỤ VÀ LỄ ĐẦY THÁNG Thời xưa sau khi sinh con, người ta đều cho sản phụ nằm ở trong buồng kín gió, ít khi dùng đèn sáng và giữ cho yên tĩnh, Dưới gậm giường bao giờ cũng để một chậu than hồng cho ấm áp. Nhiều gia đình kiêng kỵ ngăn không cho người lạ vào thăm vì sợ người vía dữ. Nếu không may có trường hỢp không ngăn kịp người vào thăm, mà trẻ khóc đêm, hoặc bú vào lại trí ra thì người ta phải “đốt vía”. Thường 176
“đốt vía” bằng cách lấy một vài tờ giấy đốt cháy rồi nhảy qua nhảy lại ở cửa buồng, có khi còn nói một câu lẩm nhẩm trong miệng: “Vía lành thì d, vía dữ thì đi”. Mặt khác, thắp hương khấn thần linh, thổ cồng, thổ địa, ông bà ông vải phù hộ cho cháu tai qua nạn khỏi. Nhiều địa phương ở miền Bắc vẫn dùng một cành xương rồng gai buộc ỏ cửa buổng để tránh tà ma, quỷ quái quấy nhiễu cháu bé. Việc chăm sóc trẻ sơ sinh là cực kỳ quan trọng. Đối với bé sơ sinh thì việc ăn, ngủ và vệ sinh đầy đủ cho bé được đặt lên hàng đầu. Từ xưa dân ta đã nhận thức rằng: Sữa mẹ là thức ăn thiên nhiên đầy đủ, lý tưởng nhất của bé. Nuôi con bằng sữa mẹ là chính. Vì rằng trong sữa mẹ có acid amin (tạo tế bào), có chất sắt (tạo máu), có những men đặc biệt giúp tiêu hóa, có các kháng thể chống bệnh tật, có các sinh tố tươi... cần thiết cho trẻ sơ sinh. Để cho người mẹ có nhiều sữa đáp ứng nhu cầu cho đứa con bé bỏng của mình, người ta thường hầm móng giò với gạo nếp (có thể thêm hạt sen và hạt ý dĩ cho lành và dễ ngủ) ăn xen kẽ vào các bữa cơm chính. Lúc mới sinh con, để cho tuyến sữa của người mẹ thông suốt, người ta thường phải lấy tay day nhẹ vào vú và cho trẻ sơ sinh bú dần dần để kích thích các tuyến sữa chảy đều. Có những lúc trẻ sơ sinh không bú kịp, người mạ bị căng sữa, thường phải nhờ các em bé lớn hơn một chút bú giúp để cho tuyến sữa thông đểu (người ta tránh dùng tay nặn sữa ra, vì làm như vậy vừa đau mà lại không hợp tự nhiên). Dân ta vẫn có phong tục là sau khi đầy cữ em bé thì mới đến “thăm mừng”. Tuy nhiên, đối với những gia đình buôn bán thì còn kiêng kỵ đến hết tháng. Cữ là một định lượng thời gian; 7 ngày đối với bé trai, 9 ngày đối với bé gái (bé ra đời đủ thời gian trên gọi là “đầy cữ”), sở dĩ tính như vậy vì dân ta quan niệm mỗi con người đều có hổn và vía. Ai cũng có 3 hồn: nam và nữ đều giống nhau, nhưng vía thì khác: nam có 7 vía, nữ có 9 vía. Người xưa tin rằng hình hài của thai nhi là do Bà Mụ nặn thành. Vì thế nên khi sinh con trai được 7 ngày, con gái được 9 ngày, người ta làm lễ đầy cữ (lễ cúng Mụ) dể tạ ơn Bà Mụ. Theo tục truyển thì con người hình thành là do các Bà Mụ nặn, Cơ thể con người do 12 Bà Mụ nặn ra, do đó lễ vật khi dâng cúng cũng phải đủ 12 xuất cho 12 Bà Mụ. Ví dụ: 12 bộ quần áo, 12 đôi hài, 12 cái mũ, 12 trái cây, 12 chiếc bánh, 12 nén hương, 12 bông hoa, 12 miếng trầu... Theo quan niệm cổ xưa của dân ta, con người do tạo hóa sinh ra, ai cũng có 7 lỗ (thất khiếu) để hấp thụ vật chất, tinh thần mà trưỏng thành. Bảy lỗ đó là: 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi và 1 mồm. Đàn bà có thêm lỗ vú và lỗ sinh dục, nên thành cửu khiếu. 177
Tuy nhiên, các bé nữ lúc đầu vẫn chỉ có 7 vía, khi nào “có kinh” thì mới thành 9 vía nghĩa là thời kỳ có thể thụ thai và sinh con. Như vậy, khi người phụ nữ hết chức năng sinh đẻ lại trỏ về thất khiếu. Lê Quý Đôn ghi trong Vân Đài loại ngữ: “Tục nước ta sinh con được 3 ngày thì chỉ làm vài mâm cỗ cúng thần dưỡng bà (Bà Mụ). Đến ngày thứ 7, thứ 9, đầy 100 ngày, đầy năm thì làm lễ cáo gia tiên, yến tiệc linh đình; rồi tân khách đem thơ văn, đồ chơi, quần áo đến mừng. Các lễ trăm ngày và đầy năm là trọng hơn cả”. Như vậy là cúng Bà Mụ lúc cháu được 3 ngày, cúng đầy cữ lúc 7 ngày (đối với con trai) và 9 ngày (đối với con gái), rồi lại cúng đầy tháng, cúng thôi nôi, cúng đầy năm. Dân ta có câu: “Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng cò rò mà đi”. Đây cũng chính là sự tổng kết các thang bậc lớn lên của đứa trẻ theo các hoạt động sinh học. Xin tả một lễ thôi nôi để người đọc dễ cảm nhận: Trong tập quán của dân ta, lễ thôi nôi còn gọi là lễ thử. Thực chất đây là một tục thử trẻ, thường có tính ngẫu nhiên, song người xưa không quan niệm như vậy mà cho rằng, hành động này có giá trị thực tiễn, đoán định (gần đúng) khuynh hướng phát triển của trẻ trong tương lai, từ đó mà định ra phương pháp giáo dục con cái. Buổi lễ thôi nôi, ngoài các lễ vật trên bàn thờ Thổ Công, bàn thờ gia tiên, bàn cúng Mụ, người ta chuẩn bị một số thứ cần thiết như: giấy bút, đàn sáo, cung tên (nếu là bé trai), kim chỉ, dao kéo... (nếu là bé gái) và một số thứ đồ chơi khác. Người ta bày tất cả các thứ đó trên một chiếc giường rộng hoặc trên sàn nhà lau sạch. Chuẩn bị cho buổi lễ xong xuôi, đứa bé được tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới, được bố mẹ bế thực hiện các nghi lễ xong, đặt đứa bé trước những đồ vật (kể ở trên). Sau giây phút ngỡ ngàng, háo hức, bé sẽ nhặt lấy một thứ hoặc vài thứ. Người ta căn cứ vào đồ vật mà bé cầm đầu tiên để xác định tương lai “tự chọn” của bé. Mọi người trong nhà: ông bà, bố mẹ, họ hàng, bè bạn đứng quanh nhìn bé rất chăm chú và thích thú (như xem bé biểu diễn vậy). Ai cũng phán đoán rằng bé sẽ thạo nghề văn chương (nếu bé cầm giấy bút), theo đường võ (nếu cầm cung nỏ), còn đàn sáo (có thể bé thích làm nghệ sì), thậm chí nếu bé cầm thúng mủng, đổng tiền thì chắc bé sẽ đi nghề buôn bán (thương mại). Có nhiều gia đình căn cứ vào hành động này trong ngày kỷ niệm mà vun trồng hoặc uốn nắn cho sự phát triển tương lai của con mình, dựa vào hành động đẩu tiên đó. Khi bé đầy tuổi (lễ sinh nhật) không chỉ đánh mốc thời đoạn trong cuộc đời của 178
con người, mà còn là biểu hiện sự chuyển biến về cơ thể và trí não của trẻ. Ngành Y cũng đã xác nhận: Đây là giai đoạn của y sinh học đối với cơ thể em bé. Các cơ quan trong thể xác (lục phủ ngũ tạng) cùng với tứ chi cử động dần dần chính xác, năng khiếu (mũi, tai, mắt) dần dần cảm nhận tinh tường, phát triển, sức để kháng mọi thứ tốt hơn, bệnh tật cũng được khắc phục và có những nhận thức dẩn dần rõ rệt. Thời xưa, những gia đình có ít nhiều chữ nghĩa, khi có người phụ nữ trong nhà ở cữ và đã được “mẹ tròn con vuông”, người ta ghi chép rất chính xác ngày giờ đứa bé ra đời để nhờ thầy tử vi xin cho lá số để suy tư, để tính toán về tương lai của đứa bé. Nếu như lá số tốt lành thì cũng là sự vui mừng của gia đình, nếu lá số có điều xấu thì phải cúng kiếng và tìm cách giải trừ các cung số báo những điều chẳng lành. Ngày nay, nhiều cặp vợ chồng khi sinh con họ cũng đểu nhờ người biết tử vi lấy cho con mình một lá số để xem, để biết, để có thể ngăn ngừa những điểu xấu đã được báo trước. Tuy hầu hết những người xin lá số đều không tin tử vi là bộ môn khoa học, nhưng họ chỉ theo trào lưu và thực chất đây cũng chỉ là “trò chơi văn hóa” mà thôi. Ông cha ta từ xưa đã quan niệm rất sâu sắc về giá trị con người: “Người ta là hoa của đất”, “Một mặt người hơn mười mặt của” hoặc “Người làm ra của chứ của không làm ra người”... nên giá trị của con người có ý nghĩa nhân văn và thẩm mỹ đặc biệt. Chính vì vậy, khi bé mới ra đời cha mẹ phải “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Thời xưa, những người sinh con muộn mằn hoặc hiếm hoi thường “bán khoán”. Đây là một tục đã có từ xưa, nghĩa là bán (sinh mệnh) cho Phật, để đứa bé được yên ổn, bố mẹ bớt lo lắng. Khi đã bán khoán rồi thì đứa trẻ là con nuôi của Phật. Để thực hiện bán khoán phải có những nghi lễ rất chi tiết và cụ thể: Trước hết bé phải được trăm ngày tuổi (là khoảng thời gian đủ để sạch những uế tạp lặt vặt của lúc mới sinh và lúc đó người mẹ cũng đã hết tuần chay gái đẻ. Xưa cũng như nay, thủ tục bán khoán cũng đơn giản và nhẹ nhàng: Muốn bán khoán, gia đình phải chọn ngày tốt, mang lễ vật lên chùa trình bày nguyện vọng của mình với nhà sư trụ trì ngôi chùa đó. Gia chủ nhờ thày viết lá sớ xin bán khoán đứa trẻ vào một tờ khoán (tờ khoán được hiểu là tờ văn tự bán con cho Phật). Tờ khoán được làm hai bản và có dấu ấn của chùa. Nghi lễ được thực hiện nơi Tam bảo: cha mẹ làm lễ trước bàn thờ, bản khoán được để trên chiếc đĩa trang trọng đặt trên bàn thờ, nhà chùa hoặc thẩy cúng đọc sớ. Khi nghi lễ thực hiện xong thì hóa sớ, còn bản khoán được lưu lại tại chùa (một bản) và bản còn lại thì cha mẹ bé mang vể. Có người xem số, lại chỉ hợp với Đức Thánh Trần (Đức Trần Hưng Đạo) thì bán
179
khoán cho đền. Như vậy bé là con nuôi của Đức Thánh Trần. Từ đó, về mặt tâm linh, với thế giới thần linh đứa bé có họ mới, họ của nhà Phật (là Mẫu), họ của Đức Thánh (là Trần). Cho nên trong mọi việc cúng khấn cho bé sau này đều phải khấn theo họ của Phật, của Thánh. Khi đứa trẻ đến tuổi 13 hoặc 16, bố mẹ có thể xin chuộc khoán. Chuộc khoán cũng thông qua một nghi lễ tại nơi trước kia mình đã bán khoán.
5. TẬP TỤC TẾ LỄ TRONG TIỆC KHAO LÃO Lên lão cũng phải khao. “Khao lão” không khó khăn như khao vị thứ đình trung. Lo đủ lệ là đưỢc, có mời thì mời phe giáp hay thôn xóm khắc đến, vì lên lão là quyền đương nhiên không phải câu cạnh. Những nhà giàu có thường nhân dịp bày tiệc mừng thọ tế lễ, ăn uống linh đình. Tế sống cha mẹ, có văn chúc thọ với ban tư văn hành lễ trỢ tế. Cha mẹ ngồi phía trong, con trái, gái, dâu, rể, cháu chắt, phân thứ bậc trên dưới đứng hai bên, nam bên trái, nữ bên phải, làm lễ tế ba tuần rượu, có tấu nhạc trọng thể, vui vẻ. Tế sống cha mẹ mỗi lần hai lạy, khác tế thần, tế tổ mỗi lần bốn lạy. ở đất văn vật, bài văn tế chúc thọ thường là cả một công trình bút mực, có khi người trong vùng nồ nức đến xem tế và nghe đọc văn. Có đám mừng thọ mời bà con họ hàng làng tổng, tiệc tùng hát xướng hai ba bốn ngày. “Phủ quý sinh lễ nghĩa”, có nhiều nhà làm lễ mừng thọ cha mẹ lên lão 70, 80, 90 tuổi... Không phải tục lệ bắt buộc, giàu có bày ra thết đãi mời mọi người đến chia vui với mình, đồng thời làm vui lòng cha mẹ, tưởng cũng là một tục hay, có thể khiến cho những kẻ nhẹ tình hiếu thảo, không lo phụng dưỡng cha mẹ cho được tuổi thọ như người, phải lấy làm suy nghĩ và hổ thẹn. Yến lão "Yến” là tiệc rượu. Nhiều làng có tục yến lão, hằng năm hay hai ba năm một lẩn, thiết tiệc mừng thọ các quan lão. Có thể nói đây là một thịnh điển thời thái bình, không phải là một hủ tục đã gây nên nhiều tệ đoan như tục ngôi thứ hương ẩm. “Sống lâu lên lão làng”, tự nhiên có vinh dự tuổi thọ, không phải tranh dành mới có, chẳng phải có tiển mà mua được, có quyển thế mà tạo nên được. Mỗi năm cứ đến dịp làng mở hội hoặc ngày đại lễ có định kỳ, các quan lão tụ hội ở chùa hay nơi công quán hay một đương cai, làng đem cờ quạt với phường bát âm đến rước ra đình. Những làng trù phú thường sắm đủ võng lọng rước lão, lão 100 tuổi đi võng điều che bốn lọng xanh, lão 90 tuổi đi võng điều hai lọng xanh, lão 80 tuổi vọng xanh (đòn cong) một lọng, lão 70 võng xanh (đòn ống) một lọng. Trai 180
tráng cầm cờ khiêng võng đều nón dấu áo nẹp. Đám rước rất trọng thể. Tại đình làng, nơi giữa thiết lập bàn thờ tiên lão, các quan lão ngồi hai gian bên theo thứ bậc tuổi, có làng yến cả lão bà thì gian trái lão ông ngồi, gian bên phải lão bà ngồi. Tùy theo lệ làng, có nơi lão 90 tuổi hoặc lớn hơn nữa ngồi một mình chiếu nhất, có nơi chưa đến 60 tuổi đã là bậc cao niên nhất, cũng ngồi một mình chiếu nhất. Tế lão cũng đủ nghi thức như tế thẩn, ba tuần rượu với văn tế tiên lão, văn chúc thọ quan lão, có ban tư văn hành lễ, phường bát âm tấu nhạc. Lúc tế, quan lão ngồi trước những mâm cỗ đặt giữa chiếu, chỉ uống rượu suông không ăn, là thủ ý trang nhã, trịnh trọng đối với dân làng, ngồi chứng kiến cuộc lễ diễn hành và chăm chú nghe văn tế, văn chúc thọ. Những mâm cỗ kia sẽ được mang đến từng nhà biếu các cụ. Cỗ yến lão thường là rất thịnh hậu cả vể phẩm lẫn lượng, có nơi mỗi cỗ hai bánh dày, hai bánh chưng với những món giò, nem và nhiều thứ bánh khác làm rất công phu. Chiếu nhất, một cụ ngồi thì được biếu cả một cỗ gọi là cỗ một, chiếu nhì, hai cụ ngồi là cỗ đôi thì được biếu mỗi cụ một nửa cỗ, những cỗ dưới là đồng hạng cứ bốn cụ một cỗ. Từ ngàn xưa, những khi có việc làng, không hể có bóng phụ nữ nơi đình trung. Ngày yến, sự hiện diện của các lão bà đem lại cho dân làng một cảm giác đặc biệt vui về đầm ấm. Mỹ tục yến lão là do đạo hiếu mà ra, một đặc tính dân tộc, có ý nghĩa rất trọng hậu, trẻ vui đạo trẻ, già vui tuổi già, trái ngược hằn với cái thảm cảnh ò mấy nước văn minh cường thịnh cứ đến tuổi già là bị liệt vào hạng người vô dụng, ăn hại xã hội, con cháu ít chăm nom, người đời lạnh nhạt. Lúc vãn niên, tóc bạc da mồi, với cuộc sống buồn tẻ nơi thôn dã năm tháng trôi, các cụ hăn cũng cảm thấy sung sướng đã được cả làng tỏ tình quý trọng quý trọng rât mực trong cuộc rước đón những buổi yến ẩm, con cháu các cụ thì được hãnh diện là gia đình có phúc mới được tuổi thọ, cho nên nhiều nhà, dù ngèo cũng ráng may sắm cho ông bà đi dự yến. Cụ thì mũ ni nhung đen, áo vóc đại hổng, cụ thì khăn nhiễu tam giang, giầy văn hài, cụ thì áo đoạn huyền quần lụa bạch, có những cụ nhà bần han, quanh năm quần nâu áo vải lúc này cũng quần chúc bâu, áo the thâm, áo láng chéo go, dép mới thay quai... Y phục tùy hoàn cảnh mỗi nhà, không có lệ định nào, chì trừ màu vàng của nhà vua, quan dân dều không dược mặc Trước ngực, dưới vòng dây thao quàng cổ là túi gấm màu lam, màu huyền 181
đựng trầu, thuốc, cối, chày... Đám rước quan lão, y phục màu sắc như vậy với võng lọng cờ quạt, vừa gợi cảm. Những nhà từ mấy đời không hề có ông cha được dự, không khỏi bùi ngùi tiếc thương người đã khuất, không khỏi thèm muốn ước mong cho gia đình đời nay và đời sau.
6. CÚNG LỄ TRONG TỤC HƯƠNG Ẩ m Những khi kỳ thần bái xã và những khi công việc gì đồng dân hội tụ ăn uống, gọi là hương ẩm, Hương ẩm sổ, dân gian con trai từ 6 - 7 tuổi đã vào sổ hương ẩm, Khi mới vào phải kiếm giầu rượu, trước lễ thần, sau trình với làng, làm nhận giầu rượu rồi biên tên vào sổ, từ đó được vào chiếu tiệc làng và phải đóng góp. Lớn ít tuổi nữa phải biện thủ lợn mâm xôi vọng tư văn hoặc vọng hàng giáp hàng xã, nơi chiết can một vài đồng bạc, rồi dân làng viết giấy ký kết giao cho người ấy làm bằng. Hai mươi tuổi lại phải biện dăm ba đồng bạc vọng lên lình gọi là hàng lình. Tình nghĩa là đã đến tuổi được vàp chấp lịnh, làm đàn anh cho bọn đó tùy việc tang ma. Các nơi ruộng đầm, đất trồng cây, thường lại lệ vụn vặt như vọng tiền thả cá, vọng tiền trồng cây hoặc một vài quan hoặc một vài tiển kẽm, nghĩa là sắp được theo vào món lợi nào thì trước hết phải vọng lệ ấy. Đến lượt phải giữ tù cửa đình cửa miếu thì gọi là ông từ hoặc gọi là người thủ từ. Năm mươi hoặc năm mươi lăm tuổi thì lên lão hạng. Lão hạng phải vọng đến vài ba chục bạc hoặc phải biện lễ con lợn mâm xôi đem ra đình lễ thần, rồi mời về làng uống rượu. Nơi trọng phong thể thì lên lão hạng cũng gid ra cách ăn mừng mời khách khứa. Sáu bảy mươi tuổi lên đến bậc tứ trụ, hoặc bậc cụ cả, lại phải vọng lần nữa, cũng phải biện lễ lợn rượu để thân mời làng, bấy giờ mới là người hoàn toàn trong làng. Từ lúc mới vào làng cho đến lúc lên tứ trụ, mỗi người tất cả phải cắt lần lượt nhau mà chứa trưởng hoặc là chứa đăng cai một lẩn hoặc nhiều lần, Nơi mỗi người chứa đăng cai một năm. Nơi mỗi người chứa đăng cai vài tháng. Khi chứa đăng cai, bao nhiêu lễ vật tế tự và các khoản nhu dụng ăn uống phải thừa biện cả, nơi lấy tiển công giao cho đăng cai đứng biện, nơi đăng cai biện trước, làng sẽ bổ mà thu vể sau. Nơi đăng cai phải chịu một mình, nơi phần thu biện riêng đồ lễ, đăng cai chỉ phải chịu cái phí tổn dưa tương củi lửa và biện mâm bát, chiếu ngồi mà thôi. Khi việc hội tụ ăn uống thì cứ chiếu ngôi hương ẩm mà ngồi. Ai đương ngồi dưới 182
mà chân chức sắc chức dịch ngồi vượt lên trên thì phải vọng thăng thứ. Lễ ngồi, hoặc tại đình, hoặc tại tư gia bao giờ cũng hàng chức sắc ngồi gian giữa. Làng nào lệ trọng sĩ thì bốn ông tứ trụ cũng được ngồi cùng với chức sắc. Còn một bên thì làng lý dịch, một bên thì làng lão hạng. Hàng phe hàng giáp, phe nào theo hàng dưới phe ấy mà ngồi. Nhiều nđi trọng hức sắc thì xây riêng một cái bệ cao để ông chức sắc tiên chỉ ngồi một mình một chiếu. Nơi xây riêng một bệ chỉ để ai đỗ tiến sĩ hoặc làm quan đến tam tứ phẩm mới được ngồi. Nếu không thì chiếu ấy cứ để không. Đồ tế thần hoặc lễ vật gì, lễ xong cắt ra biếu bán, rổi phá ra làm cỗ, mỗi cỗ bốn người ngồi, cỗ chia ra làm nhiều thứ, cỗ trỢ tế, cỗ quan viên, cỗ hàng phe hàng giáp, ai dự hạng nào thì cỗ ấy. Nhiều người chân nọ, vừa chân kia thì một mình ăn đến ba, bốn phần. Người làm tiêu chỉ, nào cỗ biếu, thịt biếu, nào phần nộ phần kia, khi đến gánh thịt vào nhà.
183
Chương bốn
TỤC LỆ THỜ CÚNG đ Ac s ẩ c củ a ba m iền
184
I. NHỮNG TỤ C L Ệ THỜ CÚNG DẶC SẮC CỦA MIỀN BẮC
1. TÍN NGƯỠNG THỜ TỨ PHÁP ở ĐỒNG BẰNG BẮC
bộ
Nằm ỏ phía Tây Nam đồng bằng Bắc bộ, vừa là vùng đồng bằng, vừa là vùng bán sơn địa, sản xuất nông nghiệp là chính, các cư dân nông nghiệp Hà Nam cho đến nay vẫn còn lưu giữ trong đời sống văn hóa tinh thần của mình nhiều hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ. Đậm nét nhất, có thể nói, là tín ngưỡng thờ Tứ Pháp. Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là tín ngưỡng thờ bốn vị thần tự nhiên có ảnh hưỏng quyết định đến đời sống nông nghiệp đang ở tình trạng lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, Đó là bốn vị: Thần Mưa gọi là Pháp Vũ, thần Mây là Pháp Vân, thần Sấm là Pháp Lôi, thần Chớp là Pháp Điện. Truyền thuyết vể việc xuất hiện tục tờ bốn vị thần này được chép vào sách Lĩnh Nam chích quái với tên truyện Man Nương. Truyện kể rằng ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, có cô gái Man Nương đến chùa Phúc Nghiêm dốc lòng học đạo. Trụ trì chùa này là một nhà sư người Ấn Độ tên là Khâu Đà La. Tình cờ một hôm, do nhà sư vô tình bước chân qua người Man Nương mà nàng có mang. Nàng xấu hổ bỏ về quê. Đến khi sinh con, nàng mang đứa con gái ấy đến trả nhà sư. Nhà sư mang đứa con đó gửi vào gốc cây trao cho Man Nương một chiếc gậy và dặn khi nào hạn hán thì lấy gậy chọc vào đất để lấy nước cứu dân. Khi Man Nương 80 tuổi, cây đa cổ thụ mang đứa con của bà bị đổ, trôi đến bến sông Dâu. Bao nhiêu người cũng không kéo nổi cây lên bờ, chỉ có Man Nương động tay vào thì cây di chuyển. Man Nương cho tạc cây thành 4 pho tượng Phật. Khâu Đà La đặt tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, mang vào chùa thờ tự. Đứa con bà gửi gốc cây nay đã hóa đá, rìu chạm vào bị mẻ hết, rước vào điện Phật để thờ thì tảng đá phát hào quang rực rỡ. Người bốn phương tới đây cầu mưa, không lúc nào không ứng nghiệm, bèn gọi Man Nương là Phật Mẫu. Ngày mùng 8 tháng 4, Man Nương tự nhiên hóa, nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hằng năm tới ngày này, người bốn phương đến tụ tập ở chùa để vui chơi, tưỏng nhớ đến Mẹ Phật, Thoạt đầu, Tứ Pháp chĩ được thờ trong các chùa ỏ vùng Luy Lâu. Dần dần, do tính chất linh ứng của nó mà lan dần ra nhiều vùng quê ỏ châu thổ Bắc bộ, trong đó có một số vùng quê ven sông Đáy của tỉnh Hà Nam. Tương truyền, các làng quê vùng Hà Nam co nghe tiếng Tứ Pháp ỏ Bắc Ninh linh ứng đã lên đó xin rước chân 185
hương để thờ. Từ khi rước Tứ Pháp về thờ thì được mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Hằng năm cứ vào dịp Tết Nguyên đán, rằm tháng giêng, rằm tháng Bảy, đặc biệt là ngày mùng 8 tháng 4, dân các địa phương gần xa lại đến chùa mỏ hội, rước kiệu, cầu nguyện tấp nập. Vào những năm hạn hán hay mưa gió thất thường, các chùa Bà Đanh, chùa Bến, chùa Bầu người ra vào cũng lễ rất đông. Từ năm 1990 đến nay, việc thờ cúng Tứ Pháp ỏ các địa phương Kim Bảng, Thanh Liêm, thị xã Phủ Lý bắt đầu có xu hướng gia tăng cả về quy mô lẫn phạm vi lễ thức. Chùa Quế Lâm, chùa Trịnh Sơn, chùa Bẩu đã được tu bổ tôn tạo lại rất khang trang. Dân địa phương và khách thập phương về cúng lễ cũng ngày một tấp nập hơn. Xét bản chất sâu xa, tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh. Đây là một quan niệm tối cổ của con người trong quá trình sống phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do mà thiên nhiên tạo ra. Quan niệm vạn vật đều có linh hổn, ngưòi nguyên thủy nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên đều có một vị thần. Vị thẩn đó quyết định sự vận hành của vũ trụ, trong đó có đời sống con người, đặc biệt, đối với một vùng đất nông nghiệp trồng lúa nước. Quan niệm về thần Mưa, thần Gió hẳn đã ăn sâu vào tâm thức người dân Việt từ xa xưa, trước khi Phật giáo đặt chân tới mảnh đất này. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, các nhà sư đã nhln thấy rõ điểu đó và nhận thấy nếu Phật giáo muốn bén rễ vào mảnh đất này thì phải có sự dung hòa với tín ngưỡng dân gian. Nhận thức ấy không sai lầm, và đó là nguyên nhân sâu xa của cuộc hôn phối tinh thần giữa một người con gái bản địa (tượng trưng cho tín ngưỡng dân gian) với một vị chân tu thông tuệ (tượng trưng cho một tôn giáo lớn). Kết quả của sự giao thoa văn hóa ấy là hệ thống Tứ Pháp, bốn vị Phật mang đậm tính chất dân gian của người Việt mà có người gọi không sai là Phật giáo dân gian. Người phụ nữ Việt Nam, người có công tái tạo một tôn giáo lớn trong những cơ thể mới mang đậm tính bản địa, rất thiêng liêng, huyền bí mà rất gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân, được tôn làm Mẹ Phật. Đó là sự tôn vinh đối với người có công tái tạo sinh thành một hình thức tôn giáo mới, tôn giáo của người dân cầu mong mưa thuận gió hòa, phong đăng hòa cốc, tôn giáo của sự phát hiện ra sự tương tác mật thiết giữa sự huyền bí của vũ trụ với cuộc sống đời thường. Đó là triết lý sâu xa của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp trong đời sống tâm linh của người dân Việt.
2. MỘT SỐ TỤC THỜ ĐỘC ĐÁO ở ĐẤT THĂNG LONG - HÀ NỘI Bên cạnh phong tục thờ tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Phật, thờ Mẫu... Thăng Long - Hà Nội có những tục lệ riêng không phải nơi nào cũng có.
186
Tục thờ M ặ t trời
Thời nguyên thủy mặt trời được con người suy tôn là vị thần tối linh. Mặt trời đem đến ánh sáng, niềm tin, xua đêm đen, tà khí, hồi sinh sự sống. Nhiều người cho rằng: hình tượng mặt trời với hình dung ngôi sao nhiều cánh được chạm khắc ở trung tâm điểm của mặt trống đồng được phát hiện ở cổ Loa năm 1982, có niên đại cách đây trên hai nghìn năm. Tín ngưỡng thờ mặt trời còn thấy xuất hiện lẻ tẻ trong một số sinh hoạt lễ hội. ở làng Đông Đồ (Đông Anh) có tục hất phết. Quả phết sơn đỏ được chuyền từ đông sang tây. Có người cho đó là lập lại chuyển động biểu kiến của mặt trời và suy tôn mặt trời. Đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm thờ Ngựa Trắng. Truyền thuyết kể rằng thời Lý Công uẩn định đô, ông xây thành mới. Song xây đến đâu lại đổ đến đấy. ông cầu đảo ỏ đền Long Đỗ. Một sáng từ đền bước ra một Ngựa Trắng, ngựa chạy vòng sang phía tây rồi quay lại đền. Vua hiểu ý, cho xây theo vết chân ngựa và quả nhiên thành công. Vua bèn tạ lễ và từ đó đền Long Đỗ có tên là đền Bạch Mã, nay mang biển số nhà 76 Hàng Buồm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Ngựa Trắng là biểu tượng mặt trời đi từ đông sang tây. Phải chăng sau những ngày mưa gió, mặt trời hiện ra, sưởi khô mặt đất, tạo điều kiện thuận lợi cho công việc xây dựng? (Trong tín ngưỡng của người Hy Lạp cổ, mặt trời được coi như cỗ xe, xe này do ngựa kéo. Cho nên ngựa cũng được coi là ánh sáng và hội nhập vào hình tượng mặt trời. Đặc biệt ngựa trắng là hình ảnh của cái dẹp toàn bích, biểu trưng cho sự uy nghi, đi từ đêm sang ngày, đem ánh sáng xua tan đêm tối). Tục thờ đá Đá là vật mà người nguyên thủy suy tôn là thẩn. Đá là công cụ lao động của họ ở thời tiển sử (rìu đá, bàn nghiền đá...). Con người dùng đá tạo ra lửa. Tín ngưỡng thờ đá xuất hiện nhiều nơi. Như đá được chôn quanh mộ người chết của người Việt cổ, nay còn thấy dấu vết ở các mộ người Mường. Một số địa phương còn có tục giữ tại nơi thờ cúng một vật bằng đá làm vật thiêng phù trì cho xóm làng. Như ỏ làng Gióng (Gia Lâm) có thờ tảng đá sau này được giải thích là giường của Gióng. Cạnh giường còn có một hòn đá hình liềm. Sau này bảo đó là liềm mà mẹ Gióng dùng cắt nhau khi sinh chàng. Đó chính là tín ngưỡng thờ đá. Hay như tượng nàng Mị Châu ỏ cổ Loa kỳ thực cũng là khối đá cuội kết. Một loại đá trầm tích có hình dáng giống như một thân người. Còn phiến đá hình người mà xưa kia người ta đào được bên Hồ Gươm và tôn là thần Phật, một thời được thờ ở ngay chính chỗ phát hiện nay là chùa Bà Đá (số 1 phố Nhà Chung) cũng như phiến đá tương truyền là cái “gối đầu” của thánh Linh Lang ỏ đền Thủ Lệ đều thuộc tín ngưỡng thờ đá. 187
Tục thờ cây
Sử thi Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường (gần gũi với người Việt) bảo rằng cây si sinh ra giống người. Tín ngưỡng này cho rằng cây cỏ đểu có linh hồn. Từng đã có câu ngạn ngữ; “Thần cây đa, ma cây gạo”, ở Hổ Tây có truyền thuyết kể rằng xưa hồ là một rừng lim. Gỗ lim cứng như sắt nên thần rừng lim này gọi tên là Thiết Lâm. Thần Thiết Lâm được thờ ở một số nơi như đình Hàng vải (phố Hàng vải), đình Tân Khai (phố Hàng Gà). Phố Hàng Bông có đền cây đa Cô Quyền một thời cũng là nơi thờ tự sầm uất. Ngoài ra ở thôn Phúc Lâm nay là khu vực phố Gầm cầu và cuối Yên Phụ có thờ Mộc Thị. Mộc thì rõ là cây rồi. Thị có phải là tiếng nôm gọi cây thị, kiểu như cây thị trong truyện Tấm cám không. Chỉ biết là đình Phúc Lâm 128 Yên Phụ vốn có tên là đình Gốc Cây Thị. Tục thờ Núi Đến với Thăng Long thẩn núi được người ta nghĩ tới đẩu tiên là Sơn Tinh, chủ núi Tản Viên - Ba Vì. Dãy núi này với ba ngọn núi sừng sững ỏ đỉnh tây châu thổ Sông Hồng được tôn vinh là các tổ sơn. Sau này dân chúng đã nhân cách hóa thành ba anh em con chú con bác là Nguyễn Tuấn, Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiển và gọi chung là Tam vị thánh Tản: Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh. Tản Viên con ông bác, Cao Sơn, Quý Minh là hai anh em ruột con ông chủ. Trong thực tế, chung quanh núi Ba Vì có tới 95 điểm thờ Tản Viên (Sơn Tinh) và hầu hết nơi thờ tự đều đặt ba bài vị. Theo thuật phong thủy, Thăng Long vẫn coi Ba Vì là tổ sơn của mình. Thăng Long gối đầu vào Ba Vì, Ba Vì là bình phong che chở cho Thăng Long. Song vì khoảng cách quá xa nên những nơi thờ thánh vị thánh Tản không nhiều. Giữa phố Hàng Gai, số nhà 44 là đình của phường Đông Hà cũ, thờ Quý Minh. Làng Kim Liên quận Đống Đa thờ Cao Sơn. Làng Đông Thành nay là phố Hàng vải thờ Tản Viên... cả thành phố chỉ khoảng sáu bảy đền như vậy. Tục thờ nước Ông tổ dân Việt là Lạc Long Quân, tức Rồng thần, cũng có nghĩa là một thủy thần. Năm mươi con theo mẹ lên núi trấn giữ chỗ cao trở thành sơn thần, năm mươi con theo cha xuống biển trấn giữ đầu sòng cuối biển trỏ thành thủy thần. Khi nào có sự biến thì đến giúp nhau, đánh đuổi ngoại xâm, tiêu trừ tai họa. Với tư tưỏng như thế nên Thủy thần đă có một vị trí quan trọng trong thần tích Việt Nam. Đặc biệt Thăng Long là thành phố kẹp giữa các sông và ao hồ như sông Hống, sông Tô, sông Kim Ngưu, ngòi Ngọc Hà, ngòi Bích Câu, hồ Tây, hổ Trúc 18h
Bạch, hổ Thiền Quang, hổ Bảy Mẫu, hồ Hoàn Kiếm, hồ Tảo Liên... thì thủy thần lại càng có vai trò quan trọng trong hệ thống thần linh. Thẩn tích trại Thủ Lệ viết rất rõ về một thủy thần Hổ Tây đã đầu thai vào làm hoàng tử vua Lý Thái Tông. Hoàng tử Hoàng Lang đã đánh thắng giặc Tống. Sau khi thắng trận trở về chàng đã không bệnh mà hóa. Truyền thuyết còn nói chàng hóa ra con giao long to lớn bò xuống Hồ Tây. Thần tích giáp Đông phường Hồ Khẩu lại viết: Thời Hùng vương thứ 18 ông bà Lê Tín do cầu xin thần Hồ Tây mà sinh ra một bọc. Bọc vỡ ra thành 2 cậu bé là: Cá Lễ và cống Lễ. Hai cậu lớn lên khôi ngô tuấn tú. Vua Hùng cho làm tướng, sai đi theo thánh Tản Viên đánh quân Thục. Hai vị thắng trận trở vể đến đoạn sông Tô Lịch nhận nước Hồ Tây (nay thuộc phường Hồ Khẩu) thì hóa. Nơi đấy được lập đền thờ gọi là đền Vệ Quốc và đền Dực Thánh. Còn thần sông Tô Lịch một vị thần nổi tiếng đã làm cho Cao Biền kính nể phải lập đền thờ ông. Sách Lĩnh Nam chính quái chép: Một hốm Cao Biền đi chơi bỗng thấy một người tóc bạc hình dáng kỳ dị từ dưới sông đi lên. Cao Biền hỏi ra thì người ấy nói "Ta họ Tô tên Lịch" sau người đó biến mất không thấy đâu nữa. Cao Biền biết đấy là giang thần nên đặt tên sông là sông Tô Lịch, cho lập đền thờ. Thăng Long còn nhiều đình đền thờ các thủy thần khác nhau như đền Đống Nước, đền Voi Phục - Thụy Khuê, đình Võng Thị, Trích Sài... Hình ảnh long thẩn, quy thần, xà thần, ngư thần... cũng là hiện thân của thủy thần, Thủy thần thường là các loài thủy tộc khi thì nhân hóa lúc thì thần hóa để hộ quốc an dân.
3. TỤC LỆ THỜ CHÓ ĐÁ ở HÀ NỘI Phong tục lạ hiếm thấy Bức tượng chó đá ngự uy nghi trên bệ thờ nằm trong quần thể đình chùa của làng Địch Vị, Phương Đình, Đan Phượng, Hà Nội ước tính hơn bốn trăm năm nay. Bức tượng được đục đẽo bằng đá thô sơ, cao khoảng hơn một mét, nặng vài tạ, bên cạnh có 13 con chó con quây quẩn xung quanh ấy được người dân trong làng kính cẩn gọi là “Quan lớn Hoàng Thạch”. Từ bao đời nay, việc thờ cúng, hương khói “ông Hoàng Thạch” cũng trỏ thành tục lệ không thể thiếu của người dân khắp thôn xóm, thậm chí cả các làng xung quanh mỗi ngày rằm, mùng một, hay lễ Tết. Tuy nhiên, không ai biết chính xác bức tượng này có từ khi nào. Dân trong làng, có bất cứ chuyện gì cũng tìm đến “ngài” để cầu khấn, Chẳng hạn, hai người xảy ra tranh chấp hay mâu thuẫn cũng kéo nhau đến đền thờ Quan 189
lớn Hoàng Thạch để thể bồi. Trước mặt Quan lớn, một người sẽ chặt đứt cây chuối hoặc đập vỡ bát và cất lời thể để ngài chứng giám. Nếu lời người thề bồi mà sai trái ắt sẽ bị thần quỏ mà gặp tai ương, tính mạng khó giữ. Chính vì thế, nhiều mâu thuẫn của dân làng cũng nhờ ngài mà được hóa giải. Những người lỡ làm chuyện không tốt cũng tìm đến đền thờ Hoàng Thạch để sám hối, nếu không tâm cũng không yên mà trong lòng áy náy, day dứt rồi sinh bệnh tật. Theo lời kể thì nhiều người dân trong làng mắc bệnh nan y, bệnh viện trả về mà ra cầu khấn với “ông Hoàng Thạch” bỗng chốc lại đi lại bình thường, sức khỏe hồi phục. Chẳng hiểu vì ngài linh thiêng phù hộ cho khỏi bệnh, hay nhờ cầu khấn ngài mà tâm lý người bệnh được thanh thản, tinh thần phấn chấn rồi bệnh tình cũng vì thế thuyên giảm hay không. Tuy nhiên, dân làng cũng lấy những chuyện ấy mà càng trọng vọng, tôn kính “ngài” hơn. Tượng Quan lớn Hoàng Thạch được xây cao, mắt hướng thẳng sang làng Hát Môn (huyện Phúc Thọ, Hà Nội), nhìn về phía Tây, cách khoảng 4km, nằm men theo con sông Hồng. Dân làng vẫn thường đồn rằng, tất cả những nhà nằm chắn hoặc che khuất tầm mắt của ngài đều sẽ gặp vận rủi. V) vậy, ai có phần đất nằm ngang lối ấy khi xây nhà đểu cố gắng xây tránh ra. Truyền thuyết liêu trai Kính cẩn, trọng vọng bức tượng “chó đá” Quan lớn Hoàng Thạch, nhưng những người am hiểu hay biết nguồn gốc của tượng thần trong làng, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguồn gốc thực sự thì không ai nắm được, cũng không có sổ sách nào chép lại, tuy nhiên, dân làng vẫn truyền nhau một truyền thuyết về “ông Hoàng Thạch". Truyền thuyết bắt nguồn từ một gia đình có hai anh em ỏ Hát Môn cách đây đã ngoài 400 năm. Người anh là một vị quan trong triều đình, ở nhà chỉ còn em trai với chị dâu. Ngăn buồng của chị dâu và em trai là một vách đất thủng một lỗ to bằng nắm tay, Đêm đêm, khi ngủ, người em thường thò tay qua bức vách đặt lên bụng chị dâu vì sỢ chị ngoại tình. Thế nhưng, vài tháng sau khi vị quan kia về thì thấy vợ mình có chửa, nghi em trai dan díu với chị dâu, trong lúc nóng giận, vị quan đã sai người giết chết em trai cho hả giận. Người em sau khi chết oan, về báo mộng cho người làng nỗi khổ của mình và yêu cầu nhân dân dựng cho mình một bức tượng. Bức tượng ấy sau khi hoàn thành thì được thả xuôi theo dòng sông. Bức tượng trôi đến địa phận xã Thọ Xuân, nằm đối diện làng Địch Vĩ, ngăn bởi con sông Hồng. Lúc bấy giờ, dân làng mới đổ ra xem pho tượng lạ. Nghĩ hẳn là pho tượng quý, người dân Thọ Xuân cử hàng trăm thanh niên trai tráng ra khiêng tượng về, nhưng không thể khiêng nổi. Bấy giờ, bốn người thôn Địch Thượng mới hò nhau 190
ra khiêng thử, lạ thay, bức tượng bỗng nhẹ bỗng. Biết là tượng đã chọn làng mình, dân Địch Thượng mới mang tượng “chó đá” mà sau tôn làm Quan lớn Hoàng Thạch và thờ cúng cho đến nay. Đôi mắt tượng được dựng hướng vể Hát Môn cũng chính là hướng về quê hưđng cũng là vì lẽ đó.
4. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG T ổ TIÊN ở BẮC
g ia n g
Tín ngưỡng thờ cúng tổ Việt Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sự thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta. Đạo lý này trong đời sống văn hóa dân tộc Việt thể hiện rất rõ và có những đặc trưng rất tiêu biểu được thể hiện ỏ mấy vấn đề sau: - Người dân Bắc Giang từ xưa tới nay vẫn quan niệm và khẳng định tổ tiên người Việt ỏ Việt Nam lả các vua Hùng. Cho nên câu “Giỗ tổ Hùng Vương” đã trỏ thành tâm lý văn hóa về nguồn của các cộng đồng cư dân trong tỉnh. Vào dịp tháng ba âm lịch hằng năm, ai ai cũng muốn về Phú Thọ để thắp hương các Vua Hùng để tỏ lòng kính trọng của mình với tổ tiên khai sáng đất Việt. ở đất Kinh Bắc xưa có nơi thờ các vị liên quan tới tổ Việt, đó là lăng Kinh Dương Vương ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) và ỏ đó còn có đình Á Lữ thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ là hai nhân vật sinh ra các vua Hùng. Cũng ở huyện này còn có đền Bình Ngô ở xã Nghĩa Xá thờ đủ 100 con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Còn ỏ các đền, miếu khác hầu hết là thờ các vị bộ tướng của vua Hùng như Cao Sơn, Quý Minh, Càn Sơn... Gần đây, qua điều tra đã phát hiện ở xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế, tĩnh Bắc Giang có đền thờ bà Âu Cơ. Đền này dân địa phương có ý định đưa tượng Phật vào cùng thờ. Lý do tại sao ở đây lại thờ bà Âu Cơ hiện chưa rõ, nhưng hiện tượng thờ Mẩu trong đó có mẫu Âu Cơ cũng là một vấn để cần quan tâm. Việc tôn thờ Mẫu Âu Cơ (và các mẫu khác: Vua Bà, Thượng Ngàn...) cùng việc tôn thờ các tướng lĩnh thời Hùng Vương, các công chúa thời Hùng Vương đều liên quan tới việc thờ các vua Hùng. Trong các thẩn tích, câu đối, hoành phi đều có những từ, những ý, những đoạn, những câu nói về công lao của các Vua Hùng sau mới nói tới công lao của các vị thánh ấy. Điểu đó cho thấy việc hướng về nguồn, về tổ tiên người Việt mà thờ phụng là rất rõ ràng, truyền từ đời này qua đời khác. Tín ngưỡng thờ củng tổ tiên Tín ngưỡng này cũng rất rõ trong các cộng đồng cư dân người Việt. Từ một số ít bộ phận cư dân, còn hầu hết người Việt ỏ Bắc Giang đều có phong tục thờ cúng tổ tiên tại nhà mình, tại dòng họ mình. Tổ tiên ở đây phải hiểu là tổ tiên của nhà ấy, họ ấy chứ không phải là tổ tiên của dân tộc Việt là Vua Hùng. Việc thờ cúng tổ tiên 191
ở từng nhà diễn ra ỏ hai vấn để: Một là ở các nhà của dòng họ. ở những nhà này mỗi khi làm nhà mới, ra ỏ riêng dù ỏ đất bố mẹ cho thì cũng lập bàn thờ và coi như có thổ công riêng. Trên bàn thờ riêng này coi như đã có các cụ là những người trên đã khuất được gia đình tôn thờ. Vào các ngày mùng một, mười lăm hằng tháng hoặc ngày lễ ngày Tết đều sắp lễ thắp hương cúng các cụ mong các cụ phù hộ độ trì cho con cháu thành đạt. Hai là ở gia đình ông trưỏng họ (hoặc nhà thờ họ), nhà thờ họ thì ít, gần đây mới có phong trào xây dựng nhà thờ họ, còn đa số vẫn sử dụng nhà ông trưởng họ để thờ cúng tổ tiên, ở bàn thờ này các cụ từ thủy tổ trở xuống đều coi như có mặt về dự lễ cúng của con cháu vào dịp giỗ tổ, giỗ các cụ bề trên khác. Ngày giỗ tổ con cháu các nơi về tham dự. ông trưỏng họ phải lo liệu mọi việc trong ngày giỗ chạp. Nhìn chung các nhà về đều có đóng góp để ông trưởng lo việc, đa số là tùy tâm không áp đặt, còn các ngày giỗ khác thì tùy theo, ai về được thì về chứ không bắt buộc. Trong ngày giỗ, các họ có nhắc tới công lao các tổ với dòng họ, với con cháu, mong mọi người cố gắng duy trì và tích cực đóng góp công sức vào việc họ, việc nước, việc nhà để dòng họ rạng danh hơn nữa. Ngoài ra còn bàn thêm những công việc của họ như lập gia phả, tiết lệ cho phù hợp, khuyến học, xây dựng thêm nhà thờ... Trong việc thờ cúng tổ tiên còn có tiết mục chăm lo tới phần mộ các cụ tổ. Nhìn chung ngày nay dân ta làm ăn khá hơn trước nhiều nên việc chăm lo phần mộ các tổ được chú ý hơn xưa. Nhiều dòng họ tổ chức đóng tiền của xây cất mộ các cụ rất khang trang, sân mộ, nhà mộ, mộ đều sạch đẹp. Ngày giỗ chạp nhiều họ đều có con cháu ra thắp hương dọn dẹp để các cụ chứng cho tấm lòng của con cháu ngày nay. Có thể nói rằng việc thờ cúng tổ Việt và tổ tiên bách gia ở Bắc Giang là rất rõ rệt, nó không chỉ được thể hiện ở trong cộng đồng cư dân người Việt mà còn ảnh hưởng tới cả cư dân các dân tộc thiểu số cả về quan niệm và hình thức biểu hiện. Bà con các dân tộc cũng quan niệm vua Hùng là tổ dân tộc Việt, các dân tộc thiểu số là thành viên của dân tộc Việt nên không thể có lý do gì mà quan niệm khác nhau. Do đó ngày 10/3 âm lịch họ cũng đi đền Hùng giỗ tổ, họ cũng nhắc nhỏ con cháu làm theo lời Bác Hồ nói về vua Hùng cho tốt. Còn về hình thức thể hiện thờ cúng thì nhiều gia đình dân tộc thiểu số cũng bài trí đẹp như người Kinh. Cũng cúng tổ tiên như người Kinh, có khác nhau cũng không là mấy. Những đặc trưng tiêu biểu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - Bắc Giang là địa bàn ít có thiết chế văn hóa thờ vua Hùng hay nói đúng hơn là không có nơi nào thờ vua Hùng riêng. Duy nhất chỉ có một nơi thờ Mẫu Âu Cơ là đền thờ Âu Cơ ỏ xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế. Đền này qui mô nhỏ, nằm kề đường tỉnh lộ từ Bố Hạ đi cầu Gồ. Trước đây đổ nát và mới được bà con địa 192
phương tu tạo lại và cho sưu tầm tư liệu, truyền tích dã sử, chính sử viết về mẫu Âu Cơ để mọi người cùng hiểu. Các đình, đền khác là các thiết chế tín ngưỡng thờ Cao Sơn, Quý Minh, Thạch Linh thần tướng, Càn Sơn, Quế Mị Nương, Bảo Nga phu nhân... là các vị tướng và công chúa đời các Vua Hùng. Trong thần tích, trước khi nói công lao của các vị ấy thì đầu tiên phải nhắc tới công lao của các Vua Hùng vì lý do con người phải có tổ tông và phải thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn. - Địa bàn Bắc Giang chủ yếu thờ tổ tiên tại các gia đình trưởng họ là chính chứ không nhiều nhà thờ họ như mọi tỉnh khác ỏ đồng bằng Bắc bộ. ở nhà trưởng họ thường đặt bàn thờ các tổ chung với bàn thờ cha mẹ đã khuất, ít gia đình tách riêng sau khi sang cát. Mặt khác ỏ bàn thờ này cũng không đặt ngai, ỷ, linh vị các tổ mà chỉ chung một nổi hương, nếu có hai nồi hương thì nồi hương thứ hai là chỗ thắp hương các vị thần, Phật. Trong các dịp giỗ chạp, ít có họ qui định sự đóng góp giỗ mà anh em trong họ xa gần về đóng góp tùy tâm theo quan niệm “giàu một bó, khó một nén” để làm sao ngày giỗ họ thực sự là ngày đoàn kết chung của cả họ. Trong họ, ông trưởng họ đều được mọi người quí trọng nhưng không phải vì thế mà ông trưởng họ buộc ai làm gì cũng được, mà phải gương mẫu trong họ ngoài làng để nhắc nhỏ mọi người thực hiện tốt việc họ, việc nhà, việc làng nước. Đến ngày giỗ tổ, anh em con cháu trong họ ai nhớ ngày thì về, ai bận không về được cũng chẳng thể trách cứ. Khi vào giỗ, các cụ trên có trách nhiệm cúng lễ, con cháu tự giác phục vụ lễ xong thì hạ lễ cùng hưởng, cỗ giỗ đóng 6 người một mâm, tuy thế nếu đông có thể lên tới 7, 8 người cũng được. Không nhất thiết phải chờ đủ mâm mới thụ lộc. Lễ và thụ lộc xong, khi về còn có lộc là hoa quả, xôi... cho các cháu. - Việc thờ cúng tổ tiên trong xu thế ngày nay ỏ Bắc Giang khá phát triển, một số dòng họ qui tụ con cháu xa gần lại thành một khối lớn để cùng nhau làm một số việc lớn cho họ như họ Thân, họ Bùi, họ Trần, họ Đặng... Nói tóm lại, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Bắc Giang là một hình thức văn hóa trong kho tàng văn hóa phi vật thể của dân tộc cần được duy trì và phát triển.
5. PHONG TỤC CÚNG Glỗ CỦA NGƯỜI HÀ NỘI XƯA Người Việt Nam có tục thờ cúng tổ tiên. Vào ngày Tết và ngày qua đời của người thân trong gia đình (ngày âm lịch), con cháu đều cố gắng sắm sửa những món ngon vật lạ để dâng cúng những người đã khuất. Đó là phong tục cúng Tết và cúng giỗ. Riêng giỗ, ông cha ta xưa rất coi trọng. Cúng giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, được coi là “báo hiếu”, là ngày con cháu tưỏng nhớ đến công lao sinh thành, xây nếp đắp 193
móng của các vị tiền hiền, và cầu xin vong linh các vị phù hộ độ trì cho. Các cụ chia giỗ làm hai loại: giỗ trọng và giỗ thường. Giỗ trọng là giỗ những người thân mới mất, thường là ông bà, cha me. Còn giỗ thường là giỗ những người d thế hệ xa hơn: cụ kỵ, chú bác, cô, anh chị... Các cụ vẫn truyền cho con cháu câu: “Ngũ đại mai tiền chi” (năm đời không còn chủ), tức là từ đời thứ 5 trở lên (đời kỵ) các cháu chắt không phải cúng giỗ nữa, nhưng những ngày Tết và những ngày giỗ khác, các vị từ đời thứ năm trỏ lên vẫn được tiến chủ (người đứng lễ) khấn, mời về "đồng hưỏng" cùng vong linh những người đã khuất của gia đình. Nhân dân ta mang truyền thống “uống nước nhớ nguồn" nên hằng năm những vị khai sáng ra một dòng họ - được suy tôn là “khỏi tổ” hoặc “ôthủyổ” - vẫn được chắt chút cúng giỗ ở nhà thờ “đại tôn” (nhà thờ của họ). Trong khoảng 20 năm trở lại đây, nhiều nhà thờ họ được xây lại, được tôn tạo sửa chữa tôn tạo và việc cúng giỗ tổ tiên được khôi phục. Giỗ họ là dịp để các chắt chút... của tổ gặp nhau, trước tỏ lòng thành kính với tổ, sau là nhận họ, nhận hàng. Nhiều họ, ngày giỗ tổ còn là ngày động viên chắt, chút... làm những việc tốt, tuyên dương những chắt, chút mới tốt nghiệp đại học, trên đại học, có phần thưởng cho những chút, chít mới đỗ vào đại học hoặc học giỏi, ở Phú Thọ, còn có phong trào “dòng họ tự quản” với những “tộc ước” rất cụ thể. Riêng ngày giỗ trọng thì mỗi gia đình tổ chức một khác. Người Hà Nội có một nếp sống rất đẹp là đám ma đám giỗ thì tùy tâm gia chủ, tổ chức như thế nào do gia đình bàn bạc thống nhất. Các cụ truyền dạy: “Đó là việc hiếu, mọi người đến không phải vì cỗ to, vì miếng ăn, mà là để tưởng nhớ người đã mất, vì họ hàng làng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”. Vì vậy, các đám ma, đám giỗ, không ai buông một lời chê, không có cãi vã, to tiếng, say rượu, cờ bạc... Các cụ rất coi trọng cỗ, chứ không coi trọng cỗ. Ngày giỗ lấy tâm thành là chính chỉ cần “bát cơm, quả trứng” cúng là đủ. Vì vậy, hầu như tất cả các gia đình ở Hà Nội, dù làm giỗ to nhỏ, nhiều ít, mâm cao cỗ đầy như thế nào thì gần cuối buổi lễ đều dâng lên bàn thờ một bát hoặc một liễn cơm và một quả trứng vịt hoặc gà luộc đã bóc vỏ, và bóp vỡ một chút ở chỗ ít lòng trắng để lộ phần lòng thêm một ít muối bên cạnh. Xưa những đám giỗ trọng ỏ đây có hai cách tổ chức gần như là lệ làng: Làm mở rộng đối với những giỗ mới, nhất là giỗ đầu (một năm sau ngày mất và giỗ hết (hai năm sau ngày mất, có nhà làm vào ngày thứ 100 sau hai năm gọi là giỗ bỏ tang hay “bỏ trở” - từ sau ngày đó, con cháu không phải để trỏ). Làm trong phạm vi hẹp (chú bác, anh chị em, con cháu) rượu từ giỗ sau giỗ bỏ tang trỏ đi. Gia chủ có làm rộng cũng ít người đến. Về cỗ, có hai loại, tùy hoàn cảnh gia đình mà chọn: 194
- Làm cỗ bình thường (gọi cỗ “bàn than”): chỉ có mấy món chế biến từ thịt lợn: luộc, rang, lòng, có thể thêm đĩa giò. - Làm cỗ to (gọi là cỗ “đồ Tàu”) có những món cầu kỳ hơn, thường mỗi mâm có có bốn bát và tám đĩa: giò, nem, ninh, mọc, nấm, bóng... Có gia đình khá giả làm cả bò, lợn, gà (hoặc dê) gọi là cỗ “tam sinh”. Những giỗ làm theo phạm vi rộng thường 30 mâm, có nhà tới hàng trăm mâm, trong phạm vi hẹp độ 5-10 mâm (mỗi mâm 6 người). Trước ngày giỗ độ 10 ngày, ông trưởng (con trai đầu) mời tất cả con trai, con gái của người mất đến họ để thống nhất cách làm giỗ và phân công mỗi người một nhiệm vụ; người mua thực phẩm, người mượn bát đũa, mâm nồi, người dựng rạp. Các người con tự nguyện đóng góp, tùy khả năng và tùy tâm, không bổ bán, không chia đều. Sau khi thống nhất, hai vỢ chồng trưỏng nam phải đích thân đi mời từng nhà: “Tiếng chào cao hơn mâm CỖI", có nhà ế hàng chục mâm cỗ chĩ vì sơ suất khi mời. Cũng như các nơi khác, ở đây nhà nào cũng có một bàn thờ gia tiên đặt ở gian giữa - nơi trang trọng nhất, từ hai cột chính đến sát tường sau. Nhà nghèo thì bàn thờ là một tấm gỗ sơn dỏ nối hai cột chính với hai cột sau. Trên tường chính giữa dán một vuông giấy đỏ có viết một chữ Hán to “Phúc" hoặc "Thẩn". Trên tấm gỗ, đặt ba bát hương, bát giữa kê cao hơn thờ thần linh, bát bên phải thờ gia tiên và bát bên trái thờ các "bà cô, ông mảnh" - những người chết chưa vợ, chưa chồng và được gia đình coi là linh thiêng. Hai góc trước của bàn thờ có hai cây nến tiện bằng gỗ. Nhà khá hơn thì bàn thờ là một án thư có trang trí hoa văn, sơn son hoặc sơn then (đen), đèn nến bằng gỗ tiện sơn son. Nhà giàu thì chạm trổ "tứ linh" (bốn con vật thiêng: long (rồng), ly (kỳ lân), quy (rùa), phượng (chim phượng hoàng); mặt trước án thư là một tấm gỗ quý chạm "mai long" (cây hoa mai uốn hình rồng) hoặc chữ "ngũ long" (năm con rồng quây thành một vòng tròn), tất cả đều bằng sơn son thếp vàng. Trên án thư có bộ "tam sự" bằng đồng, có nhà còn thêm bộ đài rượu bằng gỗ sơn son hoặc bằng đồng (gồm ba khối hình ống, đáy cao, có nắp đậy, trên mỗi đáy đặt một chiếc chén hạt mít, khi cúng cơm, gia chủ mở nắp, rót vào chén). Có nhà thêm ống cắm hương chưa thắp, mâm bồng để bày hoa quả... Những năm từ giữa thế kỷ XX, khi kỹ thuật chụp ảnh (hình) phổ cập, thì trên án thư còn đặt ảnh những người đã mất; trên tường sau còn treo một bức hoành, có 3 - 4 chữ Hán to, ghi nguyện vọng, sự cầu mong của gia đình và đôi câu đối phẳng hoặc hình lòng máng nói về công đức của tổ tiên và lòng hiếu của con cháu; tất cả đều sơn son thiếp vàng, ở các nhà thờ “đại tôn", sau án thư là một tấm cửa võng, chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp vàng, phía sau treo hai cánh màn bằng vóc hoặc nhiễu đỏ, ngăn án thư với "hậu cung", khi cúng, gia chủ vén màn sang hai bên, để lộ cung sau. Hậu cung là một cái bục lớn, cao ngang án thư bằng gỗ hoặc xây gạch, sát đến 195
tường sau, trong cùng no một chiếc bàn vuông, trên đặt chiếc ngai sơn son thiếp vàng, trên ngai đặt chiếc bài vị gỗ mấy dòng chữ Hán: họ, chi, quê... Hai bên ngai, đặt hai giá cắm nến; khi cúng, gia chủ thắp nến để chiếu sáng cho cung. Trước ngai có một chiếc mâm gỗ vuông cao để đặt cỗ khi cúng cơm. Thường vào ngày giỗ trong, nhà ông trưởng nam tấp nập từ chiều hôm trước, để hoàn tất việc chuẩn bị và để cúng cơm. Thường vào ngày giỗ trọng, nhà ông trưòng nam tấp nập từ chiều hôm trước, để hoàn tất việc chuẩn bị và để cúng “tiên thường". Hôm giỗ, mọi việc diễn ra khẩn trương từ 2 - 3 giờ sáng dưới ánh đèn đuốc, nhóm giết lợn, giết bò, chuẩn bị thực phẩm, người vo gạo, thổi xôi... Tiếng cóc cách giã giò hòa tiếng lao xao người nọ hỏi người kia, lệnh của ông trưỏng vang vang... tạo ra một không khí nhộn nhịp của một nhà có đám. Khoảng 8 giờ sáng, các mâm cỗ đã xong, một hoặc ba mâm được để lên bàn thờ (hoặc cung sau), ông trưỏng nam, áo the khăn xếp, bước lên chiếc sập trước bàn thờ để thắp hương, đèn nến rồi đứng giữa sập, hai tay chắp giữa ngực, lên gối xuống gối lễ ba lần, đoạn đứng nghiêm, mười ngón tay đan vào nhau và đưa lên ngang trán, miệng lầm rầm khấn. Bài nhấn có ba phần. Mỏ đầu là ngày tháng năm (âm lịch), tại nhà thờ ở thôn, xã, huyện, tỉnh... tiến chủ tên gì, nhân ngày giỗ ai, thành tâm cúng tiến những gì. Phần sau là gia chủ kính mời từ thần linh, thổ địa, táo quân... đến tên họ và hiệu, nơi an táng các vị trong gia đình theo thứ tự từ trên xuống (chỉ khấn nam và dâu họ, nữ không khấn, trừ trường hỢp chết chưa có chồng). Cuối bài khấn là những cầu xin. Khấn xong, ông trưởng nam lễ một lễ và ba vái nữa, rồi rót rượu cúng. Một số họ lớn, khi giỗ tổ họ, tổ chức dâng hương tế tổ và thay bài khấn bằng một bài văn tế, ông trưỏng lễ xong thì đọc bài văn tế, rồi đem ra sân đốt như đốt sớ ở đình chùa. Khi ông trưỏng nam khấn xong, những người đến dự giỗ lần lượt già trước, trẻ sau vào lễ, người nào cũng đem một ít hoa, quả hoặc vàng hương, trầu rượu đặt lên bàn thờ rồi lễ, mỗi người ba lễ một bái, nam thì lễ như ông trưỏng, nữ thì ngồi vào góc sập, chắp hai tay trước ngực, khi cúi thì giáp mặt tận chiếu, hai bàn tay xòe ra đặt hai bên đầu. Những bà gia đình có đại tang (bố mẹ hoặc chồng mới chết) phải lật một phẩn chiếu, ngồi xuống mặt sập, hai tay lật ngửa vòng khăn trắng quấn tóc mà lễ. Thường cháy dỏ tuần hương thứ hai thì cúng cơm và cuối tuần hương thì ông trưởng nam tạ lễ, hóa vàng rồi hạ cỗ cho con cháu xin lộc. Sơ qua phong tục cúng giỗ của người Hà Nội khoảng giữa thế kỷ XX như vậy để thấy ông cha ta rất cẩn trọng khi cúng giỗ. Giỗ là để họp mặt gia đình, để tưỏng nhớ và noi gương tốt của những người thân trong gia đình đã mất, đó là việc hiếu, là một hoạt động tâm linh của người Việt nói chung, người Hà Nội nói riêng. Nó mang 196
nặng tính truyền thống và là một phong tục đậm đà bản sắc dân tộc, cần được duy trì.
6. NGHI THỨC, NGHI LỄ CƯỚI ĐẶC BIỆT CỦA NGƯỜI HÀ NỘI Nghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội so với các vùng khác có quy định nghiêm ngặt hdn, nhưng trải qua một thời gian nghi thức đó cũng đã thay đổi theo tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, dù có thay đổi gì cũng phải giữ 3 lễ: Chạm ngõ là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà trai và nhà gái. Ngày nay, những gia đình ỏ Hà Nội vẫn giữ nguyên nếp xưa, lễ chạm ngõ vẫn được xem là thủ tục cẩn thiết, để giữa hai gia đình thưa chuyện với nhau. Sau lễ chạm ngõ, người con gái được xem như có ndi có chốn, bước đầu để tiến tới chuyện hôn nhân. Sau lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi. Dù là tầng lớp nào thì cũng không thể thiếu được cơi trầu. Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội thì không thể thiếu cốm và hồng. Nếu gia đình khá giả thì ngoài cốm - hồng và trầu cau còn có thêm lợn sữa quay. Đồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của vùng đất Hà Thành, gồm có: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá... Dù lễ vật nhiều, ít nhưng không thể thiếu bánh su sê, ngày xưa gọi là bánh “phu thê”, một số địa phương gọi chệch ra là bánh “su sê” là biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Thông thường lễ ăn hỏi gồm có 3 lễ: lễ đàng nội, lễ đàng ngoại và lễ tại gia. Lễ tại gia thường được chia ra đưa kèm theo người được mời cưới. Thời gian sau khi ăn hỏi đến lễ cưới thông thường là dưới 10 ngày. Lễ rước dâu ngày xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có địa vị trong làng xã, khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng dây, đầu làng hoặc đầu phố (lễ chăng dây đến đầu thế kỷ XX vẫn còn), muốn đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước ngày cưới 1 ngày (bây giờ thường tổ chức ngày trong ngày cưới). Sau khi Hà Nội đô thị hóa, dân cư tập trung chủ yếu ỏ trung tâm thành phố, là khu vực 36 phố phường thì phong tục cưới xin cũng vì thế thay đổi do tiếp thu trình độ văn hóa phương Tây. Đám cưới bắt đầu xuất hiện thiệp báo hỷ, khi đưa thiệp mời cưới phải đưa kèm theo chè và hạt sen (lấy từ lễ ăn hỏi). Đến nay tục này vẫn còn được giữ lại. Nếu là đám cưới của những gia đình khá giả, phải có quả phù tang (dùng để đựng đổ lễ, dài từ 80cm đến 1m) do hai người khiêng, đựng trầu cau, lợn sờn son (tục này vẫn được giữ tfước năm 1945). Sâm banh được mô ra báo hiệu một lễ cưới bắt đầu, rượu sâm banh với bánh sâm ba là hai thứ không thể thiếu trong lễ cưới của những người phong lưu. Nhưng dù là người giàu hay nghèo trong đám cưới cũng chỉ dùng tiệc ngọt (không dùng mặn). Trong khl đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên. Sau lễ thành hôn, hai vợ chổng tân hôn trô về nhà gái 197
mang theo lễ vật để tạ gia tiên gọi là lễ lại mặt. Lễ này hiện nay một số đám cưới bỏ qua, từ sau lễ lại mặt bố mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà thông gia, vì trong lễ cưới mẹ cô dâu không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau lễ cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ).
7. TẬP TỤC THỜ CÚNG CHỮ ĐỒNG TỬ ỏ HƯNG YÊN Chữ Đồng Tử là tên của một vị thánh nổi tiếng, một trong Tứ bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam.Truyển thuyết về Tiên Dung-Chữ Đồng Tử là một trong những huyền sử được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái kể về thời kỳ cổ xưa của nước Việt Nam. Truyền thuyết Tưđng truyền Chữ Đồng Tử sống cùng cha là Chữ Cù Vân tại Chữ Xá (huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ồng gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thưdng cha nên Chữ Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trẩn truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn. Thời ấy vua Hùng vương thứ ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chữ Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chữ Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chữ Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng. Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung-Chữ Đồng Tử làm chúa (Theo "Việt sử Giai Thoại" của Nguyễn Khắc Thuần-NXB Giáo dục). Một hôm có người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chữ Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Tiên (có bản ghi là Quỳnh Vi) Đây là tên một ngọn núi chỉ có trong thần thoại), Chữ Đổng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chữ Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ò lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chữ Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thẩn thông. Về nhà, Chữ Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ 198
việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vỢ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng. Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ỏ bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung - Chữ Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn. Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Thị. Thờ cúng Đển thờ Chữ Đồng Tử bao gồm hai đển chính. - Đền Đa Hòa thuộc thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. - Đển Hóa (nơi Chữ Đồng Tử và nhị vị phu phân hóa về trời) thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên Cả hai đền đều thờ Đức Thánh Chữ Đồng Tử và Nhị vị phu nhân
8. TỤC THỜ BÀ CHÚA KHO ở BẮC NINH Bà Chúa Kho là người phụ nữ nhan sắc tuyệt trần, lại khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076), có công chiêu dân dựng lập làng xóm vùng Quả cảm, cổ Mễ, Thượng Đồng. Giúp mọi người khai khẩn đất đai nông nghiệp... Vùng quê Kinh Bắc cổ kính và văn hiến có không ít những đền thờ thẩn mẫu, trong đó đền thờ Bà Chúa Kho ở làng cổ Mễ ven chân núi Kho, nằm bên bờ sông Cầu (thuộc phường Vũ. Ninh, Thành phố Bắc Ninh) được coi là một ngồi đền thờ Mẫu điển hình trong vùng. Hằng năm, cứ vào dịp đầu và cuối năm, hàng nghìn lượt khách thập phương trong cả nước lại vể vãng cảnh, cầu may ỏ đền Bà Chúa Kho, các hoạt động tín ngưỡng và dịch vụ hành lễ cũng theo đó được mùa làm ăn sôi động. 199
Hình ảnh Bà Chúa Kho được truyền tụng trong dân gian với sự ngưỡng mộ tôn thờ của dân vùng Kinh Bắc và khách thập phương cả nước. Tương truyền, bà Chúa Kho là người phụ nữ nhan sắc tuyệt trần, lại khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076), có công chiêu dân dựng lập làng xóm vùng Quả cảm, cổ Mễ, Thượng Đồng. Giúp mọi người khai khẩn đất đai nông nghiệp... Sau này bà trở thành một vị hoàng hậu (tương truyền vào thời Lý), giúp nhà vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương, bà đã bị giặc giết trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077). Cảm kích đối với tấm lòng bao dung của bà, nhà vua đã có chiếu phong cho bà là Phúc Thần, nhân dân cổ Mễ nhớ ơn và lập đền thờ ỏ vị trí kho lương trước kia. Không ai biết tên thật của Bà là gì, chỉ gọi một cách tôn kính là Bà Chúa Kho. Hằng năm nhân dân địa phương tổ chức ngày tưởng nhớ đến bà rất trang nghiêm trọng thể. Ngôi đền nhìn vể hướng Nam, phía trước là dải đồng trũng, uốn khúc theo triền núi bên dòng sông cầu, quanh năm nước đầy tạo thành hồ lớn - gọi là hồ Đổng Trầm (hiện đã được quy hoạch xây dựng Khu Du lịch). Đền có kiến trúc của thời Lê, được bố trí theo chiểu dọc, chạy từ chân lên sườn núi Kho. cổng tam quan là công trình mở đầu cho cụm kiến trúc này, các công trình chính của đền bao gồm sân đền, hai dải vũ, tòa tiền tế, công đệ nhị và hậu cung, tất cả tạo thành một thể thống nhất, uy nghi. Chị Hồng, quê ỏ TP Nam Định, người có 7 năm liền đến lễ ỏ đền Bà Chúa Kho kể: “Mình đi nhiều nơi song thích nhất kiểu kiến trúc ỏ đây. Mấy năm trước đến đây mình thường bị những người bán lễ, sớ, khấn thuê bám theo, chèo kéo, ép giá nhưng giờ hiện tượng này gần như không còn. Các khu vực bán hàng, dịch vụ hành lễ được quy hoạch rõ ràng, mỗi cửa hàng đều treo bảng giá chi tiết dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cụ trong Ban Quản lý di tích, an ninh trật tự cũng được bảo đảm nên mình thấy rất yên tâm và thoải mái”. Đi lễ Bà Chúa Kho đã trỏ thành thói quen đối với nhiều người, đặc biệt là giói kinh doanh. Cứ vào dịp đầu xuân năm mới hàng ngàn khách thập phương trong cả nước lại đến chiêm bái, thắp hương và dâng phẩm vật kính lễ bà Chúa kho, cầu mong một năm mới an lạc thịnh vượng và hạnh phúc, ông Nguyễn Văn Quân, Trưỏng Ban Quản lý cụm di tích đền Bà Chúa Kho cho biết: “Khách thập phương về ngắm cảnh, hành lễ tại đây năm sau đông hơn năm trước, tập trung nhiều nhất vào 3 tháng lễ hội từ tháng Chạp sang đến Giông, Hai. Có ngày, lượng khách lôn đến hàng nghln người, chúng tôi phải huy động toàn bộ 500 thành viên trong Ban Quản lý ra để trực và phục vụ. Sau mùa lễ hội, tiền công đức được dùng để trùng tu, mua sắm đồ thờ, dụng cụ ngay năm đó. Trung bình mỗi năm tính cả tiền mặt và hiện vật được nhân dân công đức có giá tri khoảng hơn 1 tỳ đổng...". Có thể nói, hiện tượng tín ngưỡng thờ Mẫu ỏ đền Bà Chúa Kho là nét văn hóa dân gian vừa làm thỏa mãn nhu cẩu tín ngưỡng tâm linh vốn có của một bộ phận 200
người dân Việt vừa giúp các hộ dân trong vùng phát triển nghề dịch vụ, tăng thêm thu nhập gia đình. Đổng thời, tạo thêm nguồn kinh phí để trùng tu, tôn tạo các công trình trong cụm di tích ngày càng khang trang, tố hảo. Lại sắp bước vào mùa lễ hội, hy vọng các cơ quan chức năng sớm quan tâm, phối hỢp chặt chẽ bảo đảm an ninh trật tự, văn minh quanh khu vực cụm di tích để vượng khí tốt lành của đền Bà Chúa Kho được ban phát đều khắp cho tất cả dân chúng đến vãn cảnh và hành lễ nhằm giữ gìn nét văn hóa lành mạnh trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân
9. TỤC THỜ MẪU ở ĐỒNG ĐĂNG Đền Mẫu Đồng Đăng còn có tên “Đồng Đăng linh tự”, là nơi thờ Phật và Mẩu Thượng Ngàn. Từ xa xưa, nơi đây là một ngôi chùa. Đồng Đăng linh tự gồm có 5 gian thờ: Phía trong cùng là Tam bảo, nơi thờ Phật Chuẩn Đề và Phật bà Quan Âm gian kế tiếp phía ngoài là Tam tòa Thánh mẫu, nơi thờ Mẩu đệ nhất Thượng thiên, Mẩu đệ nhị Thượng Ngàn và Mẩu đệ tam Thoải phủ; tiếp theo là gian thờ Sơn trang gồm Chúa Thượng Ngàn ỏ niứa, hai bên là Chầu Mười Đồng Mỏ và Chầu Chín; gian giữa chính điện ngoài cùng thờ Chúa Liễu, hai bên là Chầu Bơ và Chầu Lục; gian bên trái thờ Chầu đệ tứ Khâm sai, ngoài ra còn thờ quan Trần Triều Đức Đại Vương, các thánh cô, thánh cậu... Đây là một trong những nơi thờ tự nổi tiếng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam. Ngoài ra, nơi đây còn lưu truyền câu chuyện gặp gỡ cảm động giữa Mẫu Liễu Hạnh (một trong “Tứ bất tử” trong văn hóa tâm linh của người Việt) và Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan, khi ông vừa đi sứ Trung Quốc trỏ về. Tục truyển rằng, Liễu Hạnh là con gái Ngọc Hoàng, tên là Quỳnh Hoa. Do có duyên nỢ với trần gian nên bà thường hiển linh giúp đỡ nhân dân, được triều đình (thời Hậu Lê) sắc phong là công chúa Liễu Hạnh và là Thượng đẳng Phúc thần. Ngoài việc hiển linh giúp đỡ nhân dân, bà còn hay ngao du sơn thủy đến các thắng cảnh của nhiều vùng và đã nhiều lần gặp gỡ, họa thơ với danh sĩ Phùng Khắc Khoan, trong đó có lần hai người gặp nhau tại Đổng Đăng linh tự. Lễ hội đền Mẫu Đồng Đăng được tổ chức vào mùng 10 tháng giông hằng năm, thu hút hàng nghìn lượt du khách trong nước và quốc tế đến đây thưởng ngoạn nét văn hóa đặc sắc của người dân xứ Lạng, Đến với nơi đây, du khách còn được đắm mình trong văn hóa tâm linh, thắp hương cầu mong sức khỏe, cầu tài, cẩu một năm phát lộc, cầu cho quốc thái dân an. Trải qua nhiều thăng trầm của lỊch sử, thời nào dổn Mẫu Đổng Đăng cũng dược nhân dân góp công, góp của tôn tạo. Đến nay, ngôi đền đâ mang diện mạo khác hẳn, tường bao hoa văn đạp mắt; cây cối xanh rì tỏa mát cả sân đền; ghế đá, biển chỉ dẫn được sắp đặt gọn gàng, khoa học. Du khách khi đến thắp hương, vãn cảnh không phải bận tâm, bực mình vì gặp cảnh ăn xin đeo bầm, không có cảnh xem quẻ, bói toán lộn xộn như ở một số dền chùa khác. Thấp thoáng phía sau Tam bảo, 201
một tòa tháp tráng lệ đang được hoàn thiện, như một minh chứng cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa của vùng đất miền biên ải. Ngày nay, đền Mẫu Đồng Đăng còn là một điểm dừng chân trong tua du lịch từ các tỉnh đến Lạng Sơn, đi cửa khẩu Tân Thanh và chợ Đông Kinh...
10. TỤC THỜ THÁNH MẪU
ờ
ĐỀN
hạ tu yên quang
Đền Hạ cổ kính có tiếng từ lâu đời, nằm trên bến Tam Cờ ở bờ phải sông Lô thuộc thị xã Tuyên Quang. Đền thu hút dân cả vùng, khách thập phương trẩy hội vào tháng 2, tháng 7 âm lịch, với những cuộc rước Mầu uy nghi mà náo nhiệt. Nay, hội đền là một điểm nhấn nổi trội du lịch tâm linh trên hành trình du ngoạn Tuyên Quang. Đền Hạ, tên chữ còn khắc trên tháp điện là "Hiệp Thuận linh từ" (đển Hiệp Thuận), là một trong số hiếm hoi công trình kiến trúc tạo dựng từ thời Lê. Sử cũ và thần tích chép huyền thoại rằng, đất này là nơi "hóa" của hai công chúa con vua Hùng là Phương Dung và Ngọc Lân, vào một đêm mưa dông sấm chớp. Dân lập đền thờ phụng. Năm 1738, triều cảnh Hưng, đền được xây lại với quy mô hơn. Sau, dân lại xây thêm đền Thượng bên tả sông Lô, thờ công chúa em Ngọc Lân. Đền bên hữu gọi đền Hạ thờ công chúa chị Phương Dung. Hai bà được tôn làm Thánh Mẩu. Về sau, phòng quân phỉ tràn đến cướp phá, dân chúng đưa tượng và đồ thờ chồn giấu ở thôn Gốc Đa, xã Ỷ La ngày nay. Sau một đêm, nơi ấy thành đống mối đùn lớn như gò nổi. Dân lại xây ngôi đền ngay trên đất ấy, gọi là đền Thần Ỷ La thờ cả hai công chúa. Do tàn phá của nắng, mưa và chiến tranh, các kiến trúc cổ không còn dấu vết. Tuy nhiên, ba ngôi đền thờ Mau ấy được trùng tu, tôn tạo liên tục qua nhiều đời, vẫn bề thế, u tĩnh trong cảnh núi non sông nước hùng tráng. Nhân dân địa phương vẫn giữ được nhiều bảo vật lâu đời, nổi bật là quả chuông đổng, khánh đổng cỡ lớn đúc vào thời Lê ở đền Hạ, cùng 20 đạo sắc phong của các triều Lê, Nguyễn ở cả đền Hạ và đển Thượng, một số bia đá khắc văn bia chứa nhiều tư liệu lịch sử giá trị. Các vua Lê ca ngợi các công chúa đời Hùng "Phẩm hạnh quý như ngọc Quỳnh Dao, phong tư thơm ngát như hoa lan hoa huệ, vững vàng chân chính lớn lao mẫu mực; gương sáng tốt đẹp như băng hồ; ngầm giúp vận lớn như đuốc ngọc âu vàng, linh ứng thần cồng". Từ lâu đời, nay lại khôi phục, những ngày lễ rước Mẫu và vui hội có khi đông cả vạn người. Lễ rước từ đền Ỷ La đến đền Hạ, lại từ đền Thượng về đền Hạ. Văn bia nói tới sự kiện Tổng đốc Lê Văn Đức triều Lê đem quân đi dẹp cát cứ, vào cả đền Hạ và đển Thượng làm lễ cầu Mẫu uy linh phò giúp, nên thắng trận, 202
vua Lê lập tức gia phong các mẫu thêm mỹ tự, lệnh cho dân trong vùng siêng năng hương khói. Nay hội đền Hạ tưng bừng hơn ngày trước, thu hút rất đông khách du lịch trong Nam, ngoài Bắc và khách nước ngoài, kéo dài từ 11 đến 16 - 2 âm lịch. Đoàn rước rực rỡ sắc màu với đội múa lân, cờ, trống, phường nhạc đồng văn, phường bát âm dẫn đầu, tiếp sau là kiệu hượng án, kiệu bát cống, kiệu võng, rồi đến các bô lão, đoàn tế và đoàn người trẩy hội dài dằng dặc. Sức hút của lễ Mau, hội Mẫu thật bển bỉ, sâu xa. Ấy là bởi dân ta từ bao đời thờ Mầu để nhớ về cội nguồn dân tộc, nương tựa khí thiêng sông núi, uy linh tổ tiên, để tâm thái thêm bình yên và mạnh mẽ.
11. TỤC THỜ MẪU ở ĐỀN THÁC BÀ, YÊN BÁI Đền Thác Bà thuộc thị trấn Thác Bà huyện Yên Bình được công nhận là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh theo quyết định số 701/2004 QĐ-UB ngày 28/12/2004. Đền Thác Bà hay đền Mẫu Thác Bà - là tên gọi duy nhất, trước sau không hể thay đổi. Khi chưa có nhà máy Thủy điện, đền Thác Bà định vị tại điểm cân bằng phía Đông xã Minh Phú huyện Yên Bình, cách thị trấn huyện lỵ cũ 15km và thành phố Yên Bái 35 km về phía Đông Nam. Bố cục thiết kế có dạng đặc dị: Lưng quay ra đường 13A (nay là khu vực Nhà máy Thủy điện) nhưng lại giữ vị thế chính môn, nơi Tam Quan bề thế vươn cao, còn tiền diện lại hướng ra sông Chảy có thác đá chảy xiết vào mùa cạn và sóng vỗ ì ầm giáp cửa đền khi mùa lũ. Các cụ địa phương nói rằng, nét đặc dị đó là do phong thủy và dân cảnh tạo nên thế tọa lạc của đền trên dải đất hep. Sân đền sát bờ sông, cổng tam quan kề quốc lộ. Thế đứng của đền vừa hứng thụ khí địa linh ứng của trời đất, vừa tiếp đón khách thập phương chiêm bái thuận tiện. Lý do vừa tiền vừa hậu là như thế, ngẫm cho cùng thì cách phân tích này đều có sự hỢp lý của nó. Do vậy, hậu đền đậm dáng dấp trần tục đơn sơ song lại hướng đông người và xe cộ: thác sông và dãy sơn lâm trùng điệp bên kia tả ngạn khắc họa lên không gian tiền diện đền một cảnh trí hoang dã bóng người. Theo yêu cầu xây dựng nhà máy Thủy điện Thác Bà, tháng 4 năm 1963, nhà đền, thiện nam tín nữ và toàn dân xã Minh Phú tự nguyện rước Mẫu sang xã Vĩnh Kiên bên kia sông Chảy cách vị trí đền Thác Bà 5km để lấy chỗ thi công. Ngoại trừ truyền thuyết "ông Không bà Không" và "Hai ông bà đi buôn" giận dỗi nhau không mấy liên quan hỢp lý tới đển Mẫu, người ta chú ý tới chuyện "Tần nữ được thờ ỏ Thác Bà là con gái vua Hùng thứ 18 với tên Ngọc Hoa Công Chúa". 203
Thần tích Ngọc Hoa không có nhưng mọi người thừa nhận sự kiêng húy danh xưng "Hoa" của bà con địa phưong. Các cụ già còn kể thêm: "Ngày xưa Vua Hùng có ba người con gái lên trông giữ ở ba cửa rừng, một ỏ núi Giùm bên bờ sông Lô (Tuyên Quang), một ỏ Đông Cuông bên bờ sông Hồng (Yên Bái) và một ở Thác Bà bên bờ sông Chảy. Tuy nhiên, thần tích của Đển Đông Cuông và đền Giùm không xác định như vậy. Nữ thần Diệu Minh Đạt là vị duy nhất được nhắc đến trong sắc phong cùng văn chầu và bài khấn. Ngài choàng khăn đỏ, vận áo đỏ. Không rõ thân thế. Ngoài thần Diệu Minh Đạt, đền còn thờ Tam Phủ và các Hoàng Cô Hoàng Cậu như các đền khác. Đầu năm, ngày 8 và 9 tháng giêng âm lịch, Đền Mẫu Thác Bà tổ chức tiệc mẫu: Lễ chay ở hậu cung có bốn bát chè kho đậy kín bằng bống bát úp trên và thanh bông hoa quả. Ngoài cộng đồng bày lễ phẩm mặn; gà trống luộc chín, oản, xôi, hoa quả. Hát chầu văn ca ngợi công đức Mẩu và rước kiệu Mẩu lên đền Đồng Sủng (thuộc xã Văn Chính nay đã chìm ngập dưới lòng hồ). Quanh đền diễn ra các trò chơi: ném còn, đánh yến, chọi gà, vật... Cuối năm, lễ thường vào ngày 10/10 âm lịch. Khách hành hương và con nhang đệ tử phần đông là dân Yên Bình. Có một loại thiện nam tín nữ độc hữu của đền Thác Bà: khách bái vọng gồm các chủ bè, chủ buôn sông nước và chân sào mỗi khi thuyền bè qua đền đều “ném tiền xuống thác" và đốt hương vàng vái với, cầu xin Mẩu và chư thẩn phù hộ bình yên. Đồ thờ trong Đền gồm: một pho tượng gỗ, sơn thiếp, vận sắc phục đỏ, thờ trong hậu cung. Bốn góc có bốn pho tượng nữ gỗ tô mầu tượng quanh tượng Mẫu. Sắc phong có 6 bản gồm: Tự Đức năm thứ 33 (1880) gồm một bản chính và một bản sao phong cho thần nữ Diệu Minh Đạt. Đồng Khánh năm thứ 2(1887) phong cho thần nữ Thục Diệu Minh Đạt. Duy Tân năm thứ 3 (1907) phong lần thứ 2 cho thần nữ Thục Diệu Minh Đạt. Khải Định năm thứ 9 (1924) phong cho thần nữ Huyền Diệu Minh Đạt... Ngoài ra còn có một sắc phong đời Lê cảnh Hưng bị thất lạc. Sau khi được trùng tu tôn tạo, nhìn về xuôi đền Mãu tọa lạc bôn hữu ngạn sông Chảy, nhà máy Thủy điện Thác Bà định vị giữa dòng, khối tượng đài an bài ngay ngã ba sát móp đường bến Cảng và đầu đường đập bên phải nhà máy, làm gạch nối giữa đền Mẫu và nhà máy Thủy điện. Cả ba dang tay hướng về đất Tổ Hùng Vương, tạo sinh một bình tuyến độc hoành, mang trong mình âm hưỏng, ngôn ngữ, tư duy vể quá khứ, hiện tại, vỊ lai. Hiện nay, hậu cung Đển Mẫu có Tông tượng Mẫu Thác Bà; Cung giữa: Thờ Tam Tòa Thánh Mảu; Cung Cộng đông ngoèil*. G\Qa \à Khoang Tứ Phủ, bên phẻi\
(nhìn vào) bày tượng ông Hoàng Bát tức ông Bát Nùng, bôn trái là tượng bà Thủ 204
Đền. ở cung chính tâm; Hàng cao thờ Tam Phủ: Đức Ngọc Hoàng, quan Nam (bên phải nhìn vào, quan Bắc Đẩu (trái); hàng thấp tôn Ngũ Vị Tôn ông với Hoàng Bảy (bên phải) và ông Hoàng Mười (bên trái). Cung hữu (nhìn vào) là thờ Ban Trần Triều có tượng Đức thánh Trần Hưng Đạo. Cung tả thiết lập "Chúa Sơn Lâm"Có 2 tượng cô hầu và 12 cô Sơn Trang.
12. TỤC THỜ THẦN VỆ QUỐC HOÀNG BẨY
Tào ông bàn phủ
ở lào cai
Đây là khu di tích lịch sử văn hóa quốc gia, được xây dựng dưới chân đồi cấm, bên cạnh dòng sông Hồng chảy vào miền đất Việt, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai; cách thành phố Lào Cai khoảng 60km về phía Nam; cách ga xe lửa Bảo Hà khoảng 800m. Đền thờ thần vệ quốc Hoàng Bẩy, một anh hùng miền sơn cước đánh giặc phương Bắc bảo vệ bản làng. Đây là địa chỉ thu hút du khách thập phương đông nhất của huyện Bảo Yên. Theo truyền thuyết kể lại, vào cuối đời Lê niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) khắp vùng Quy Hóa gồm Châu Thủy Vĩ và Châu Văn Bàn (thuộc Lào Cai bây giờ) luôn bị giặc vùng phương Bắc tràn sang cướp phá, giết hại dân lành. Trước cảnh đau thương tang tóc ấy, tướng Nguyễn Hoàng Bẩy được triều đình giao trọng trách khỏi binh dẹp loạn vùng biên ải. Đội quân của ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng Châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến không cân sức với quân giặc, ông đã anh dũng hy sinh, thi thể ông trôi theo sông Hồng tói Bảo Hà thì dạt vào bờ. Nhân dân trong vùng đã vớt, an táng thi thể ông và lập đền thờ tại đây để ghi nhớ công đức to lớn của ông. Đền Bảo Hà có lưng tựa vào núi, mặt hướng theo dòng nước sông Hồng và nơi đây còn có sự kết hợp hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên với kiến trúc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam theo thuyết phong thủy. Hội chính đền Bảo Hà được tổ chức vào ngày 17 tháng 7 âm lịch hằng năm (ngày giỗ tướng Hoàng Bảy), thu hút đông đảo du khách trong và ngoài vùng đến dự. Trong lễ hội có tổ chức rước kiệu, tế thần, dâng hương tưỏng niệm, cùng các hoạt động văn hóa - thể thao khác. Ngoài những ngày lễ hội, những ngày thường (đặc biệt là vào mùa xuân) khách thập phương trong cả nước vẫn thường xuyên tụ họp tại đây để thắp hương tưởng niệm, cầu an, cầu lộc. Hiện nay, đền đã và đang được đẩu tư xây dựng bằng nguồn tiền công đức và ngân sách Nhà nước để địa chỉ du lịch tâm linh này ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng nhu cầu của du khách gần xa.
205
13. TỤC THỜ LÝ CHIÊU HOÀNG ở ĐỀN ĐÔ, BẮC
n in h
Trong quần thể khu Di tích lịch sử - Văn hóa Đền Đô, xã Đình Bảng (Từ Sởn) còn có một di tích nổi tiếng với bể dày lịch sử, hàng nghìn năm như Thọ Lăng Thiên Đức, Đền Rồng, chùa cổ Pháp, chùa Kim Đài, đình làng Đình Bảng... Bà Lý Chiêu Hoàng sinh năm 1216. Tên húy là Lý Phật Kim, còn có tên gọi khác là Thiên Hĩnh. Bà là con gái thứ 2 của vua Lý Huệ Tông và Hoàng hậu Trần Thị Dung nên được phong là Chiêu Thánh Công Chúa. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông lâm bệnh nên đã ra Chiếu nhường ngôi cho Chiêu Thánh khi đó mới tròn 8 tuổi. Chiêu Thánh lên ngôi vua, xưng là Lý Chiêu Hoàng. Lúc này, Trần Thủ Độ, một vị quan có uy tín trong triều bèn đưa cháu trai là Trần cảnh vào cung chơi bời cùng vị vua bằng tuổi. Rồi bằng sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, họ đã nên vợ, nên chồng. Chỉ một năm sau (ngày 11 tháng Chạp năm ất Dậu - 1225), cũng bằng mưu ký của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng đã trút bỏ long bào nhường ngôi báu cho chồng. Ngày tháng trôi qua, vua Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh) chỉ một nỗi băn khoăn vì Hoàng Hậu vẫn chưa một lẩn sinh nd. Thái sư Trần Thủ Độ đã nói với vua rằng: “Hoàng Hậu Chiêu Thánh làm vợ đã hơn 10 năm, nay đã 20 tuổi mà không sinh con thì làm sao có hy vọng nối dõi sau này? Phải trọn một Hoàng Hậu khác!” Ý định của Trần Thủ Độ đã trở thành nghiêm lệnh. Trần Thái Tông dù hết lòng yêu thương vỢ nhưng không thể không thi hành. Từ đó, Chiêu Thánh Hoàng Hậu bị giáng xuống làm công chúa. Nàng sống âm thầm một mình một bóng trong nỗi hưu quạnh khổ đau. Suốt mấy chục năm, Trần Thái Tông vẫn không nguôi ân hận với những việc làm của mình, ông luôn có ý định tìm cho nàng một người chồng để có nơi nương tựa. Người được Trần Thái Tông lựa chọn có tên là Lê Tần, con trai của Thượng tướng Lê Khâm. Hôn lễ được tiến hành, Lê Tần được vua đổi tên thành Lê Phụ Trần và phong chức Ngự sử Đại Phu. Sau đó họ đưa nhau về Bạch Hạc để sống những ngày tốt đẹp nhất của cuộc đời mình. Chỉ một năm sau lễ cưới, Chiêu Hoàng đã sinh con trai, đặt tên là Trần Bình Trọng. Trần Bình Trọng còn có một người em gái tên Khuê được phong là ưng Thụy Công Chúa. Năm 1278, Lý Chiêu Hoàng về thăm quê hương cổ Pháp (Đình Bảng, Từ Sơn, ngày nay). Đây là lần cuối cùng bà trở vể thăm viếng quê Cha đất Tổ. Ngày 23-9 năm đó (Mậu Dần 1278), bà đã qua đời ở tuổi 62. Thi hài bà được an táng tại bìa rừng Báng, phía đông Thọ Lăng Thiên Đức, thuộc làng Đình Bảng quê nhà. Đền Rồng thờ Lý Chiêu Hoàng được khỏi công xây dựng ỏ Đình Bảng từ cuối thế kỷ XIII, nằm trên khu đất rộng 2 mẫu 7 sào Bắc bộ (9.300m2). Đền được kiến 206
trúc gồm nhiều công trình, mỗi công trình có nhiều gian. Cột, sà đểu bằng gỗ lim, lợp ngói mũi hài. Đền có sân rộng, hai bên có hai tòa giải vũ, phía ngoài có hai dãy nhà khách. Trong khuôn viên đền, cây cối quanh năm tỏa bóng. Trải qua những tháng năm thăng trầm, Đền Rồng đã được trùng tu tái dựng nhiều lần. Trên nền đất cũ, nhân dân địa phương đã hằng tâm công đức xây lại ngôi đền thờ phụng bà với tấm lòng thành kính, cổng đền nay được mang dòng chữ “Long Miếu Điện”. Trong khuôn viên đền có tòa Tiền Đường 5 gian bề thế, trên để 3 chữ “Lưu Ly Điện”. Phía sau đền là gian hậu cung, đặt điện thờ Lý Chiêu Hoàng. Tượng bà đầu đội miện Kim Khôi, mình khoác áo long bào. Trước điện thờ có bức hoành phi “Hậu Triều Lý Thị”. Bên cạnh là 2 câu đối được sơn son thiếp vàng rực rỡ, tạm dịch: “Bốn phương tích rõ dài lâu sáng Tám điện đón vua kế tiếp thờ Tám vua triều Lý thơm ngọc quý Miếu Rồng ngàn năm sử vàng ghi”. Lý Chiêu Hoàng vẫn sống mãi trong lòng nhân dân, được nhân dân hết lòng kính trọng và xây dựng đền thờ ở nhiều nơi. Tại Đền Rồng, nơi phụng thờ bà vẫn quanh năm hương hoa lan tỏa. Mỗi năm đến ngày giỗ bà, nhân dân địa phương lại tổ chức nghi lễ long trọng, đón khách thập phương về cùng làm lễ dâng hương, tưởng niệm.
14. NÉT ĐẶC SẮC TRONG TỤC CÚNG CƠM MỚI ở PHÚ THỌ Sau thu hoạch vụ mùa, làng Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ có lệ cúng cơm mới vào ngày mùng mười tháng 10. Trai làng được 18 tuổi phải làm lễ trình diện trước đình làng. Mỗi năm, làng gọi 12 chàng trai đến tuổi, theo thứ tự được sinh ra sớm nhất từ sau Tết âm lịch của năm sinh, đại diện làm lễ trình làng, số còn lại sẽ được gọi vào các di.p lễ Tết tiếp theo. Việc gọi lễ được làng báo trước ba tháng để kịp chuẩn bị. Trong các việc chuẩn bị trình diện có tục thi gà làm lễ. Gia đình nào có con trai đến tuổi này đều nuôi sẵn một bầy gà thiến tròn một tuổi để lựa chọn lấy vài con thật ưng ý. Phải là gà ri thuần chủng, chân vàng, có bộ lông màu hoa mơ lốm đốm, chăn thả bình thường. Khi được báo làm lễ, gà được nhốt hãm vào lổng, mỗi ngày cho ăn ba bữa. Cơm giã nhuyễn quện với cám gạo xay, viên nhỏ bằng quả nhót, dấp nước bón cho gà ăn thật no mỗi bữa, cho uống đủ nước, hãm lồng đủ ba tháng để thúc béo. Việc làm lễ bắt đầu từ việc ngâm gạo, thổi xôi và cắt tiết gà. Dao cắt tiết gà vót bằng cật nứa hình lá trúc, bể ngang chỉ rộng bằng lá lúa là vừa, lưỡi thật mỏng và 207
sắc. Khi cắt tiết, phải có người cầm cánh sát nách gà nếu không gà giãy mạnh có thể bị gẫy xương cánh, gà sẽ bị loại (lệ làng không nhận gà lễ có khuyết tật). Vặt lông gà phải từ từ, nhổ xuôi chiều, không vặt ngược dễ làm xước da gà, lông cánh phải nhổ từng chiếc một, lông mình nhổ từng túm nhỏ thật nhẹ nhàng, thật sạch, dùng nhíp nhổ hết lông kẽ mũi, lông cằm không bỏ sót. Lấy muối và gừng giã nhuyễn, dùng tay xoa nhẹ khắp mình gà sau 15 phút mang rửa sạch. Dùng lông ở mình gà đã vặt ra vò nhầu mềm như bông, lau nhẹ khắp mình gà cho ráo nước, lấy một tờ giấy mỏng đốt lửa hơ nhanh chc cháy hết lông tơ. Rửa lại bằng nước sạch và kiểm tra lần cuối trước khi mổ. Gà được mổ moi, vết mổ càng nhỏ càng được điểm cao, ruột, gan, tim, mề được làm sạch luộc theo tiết, thứ nào cũng phải trọn vẹn, không giập nát, không thiếu sót. Chân gà khônq cắt rời phải uốn theo tư thế gà quỳ gối, nghểnh cao cổ và đôi cánh như cánh phượng, đầu cất cao, mỏ hơi quắp xuống. Nước luộc gà lăn tăn sủi thì dùng lạt giang mỏng tròng sát nách gà thả chìm vào nồi nước, nhúng xuống nhấc lên ba lần liên tiếp rồi nhấc ra, thả gà vào trong chậu nước lạnh, lăn đểu bốn phía, dùng tay xoa đều cho da gà co lại tạo độ săn bóng. Nếu còn lông măng dưới da gà sót lại, dùng nhíp cặp nhẹ rút hết từng chiếc một. Chờ nước sắp sủi tăm trỏ lại, lại nhúng gà vào nồi và nhấc ra rửa vào nước lạnh đã được thay, sau đủ ba lần nhúng với ba nóng và ba lạnh thì da gà căng tròn bóng mượt mà. Sau đó thả vào nồi nước luộc, luồn đũa cả qua dây tròng gà, gác đũa cả trên miệng rồi để giữ gà ỏ phương thẳng đứng. Đun nhỏ lửa, sôi lăn tăn 20 phút, tắt bếp để 20 phút sau, vớt gà ra thả vào chậu nước lạnh, rửa nhẹ tay cho hết mọi gỢn bọt tiết bám trên da gà, uốn nắn lại tư thế đầu, cổ, cánh cho thật đẹp. Treo gà lên chỗ thoáng cho ráo nước. Hớt lấy váng màng sao trong nồi nước luộc gà, hòa với bột nghệ nghiền nhuyễn thành một dung dịch. Lấy lông cánh gà chấm quết đểu lên mình gà để tăng màu vàng và tăng độ bóng, đồng thời tránh gặp gió heo may thổi, da không bị khô xám màu. Đặt gà vào mâm xôi đã chuẩn bị, cài một bông hồng hàm tiếu vào mồm gà và đội ra đình dâng lễ thánh. Sau ba tuần dâng rưou, cúng tế cùng các vật phẩm khác, lễ đưoc hạ xuống đặt trên sạp sân đình. Các cụ bô lão sẽ bình chọn thật kỹ càng, tỉ mĩ. Gà phải tự mình chăn nuôi, lễ phải tự tay làm. Nếu mua gà và nhờ người làm lễ đều bị trừ điểm và đánh thấp một cấp. Các cụ xem kỹ vết cắt tiết gà, con nào có vết dao ỏ hai bên cổ đều nhất và nhỏ nhất là đạt tiêu chuẩn loại A. Kết quả, những chàng trai đạt giải A sẽ được thưỏng bằng chính chiếc đùi gà của con gà mà mình dâng lễ. “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó xếp”, giành được một giải A của làng là cả một điểu ao ước, song cũng không đơn giản. Vì việc đó không những rất cầu kỳ mà còn rất tế nhị. Tế nhị ỏ chỗ những chàng trai đạt giải A hầu hết đều đắt vỢ nhất làng. 208
15. LỄ CÚNG TRONG TỤC RA GÀ - MỘT NÉT VĂN HÓA ỏ CHU HÓA, PHÚ THỌ ở xã Chu Hóa (Lâm Thao), tục ra gà cho các bé trai sinh trong năm có từ thời phong kiến cách đây hàng trăm năm. Đến khi hòa bình lập lại, đình làng trỏ thành nhà kho Hợp tác xã nông nghiệp, tục ra gà tạm thời bị quên lãng. Song 10 năm trở lại đây, đình làng được khôi phục, theo đó tục ra gà được coi trọng và trỏ thành phong tục không thể thiếu trong những ngày đầu năm mới. Tục ra gà được 2 làng; làng Thượng và làng Hạ duy trì và bảo tồn. Thời phong kiến, tục ra gà vào ngày mùng 5 Tết được tổ chức rất công phu: Gia đình nào sinh được con trai (gọi là Đinh) sẽ chọn một con gà trống từ 3 - 4kg (không chọn gà thiến), trước Tết 4 - 5 tháng nhốt gà vào lồng, hằng ngày bón cho gà ăn 3 lần/ngày bằng cơm nóng trộn cám gạo loại 1. Đến ngày 5 Tết, gia chủ mổ gà, thổi xôi làm lễ gánh ra đình làng. Lễ cúng bắt đầu từ 1 giờ sáng, lần lượt từng gia đình nhờ các cụ già thông thạo cúng lễ sau khi cúng xong trời vừa sáng, tổ chức thi xem con gà nhà ai to đẹp nhất. Mọi người tin rằng gà càng to, đẹp thì đứa trẻ sẽ khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn. Sáng ra, dân làng đến xem rất đông và cùng nhau hưỏng lộc ngay tại đình. Ngày nay, các gia đình không tổ chức bón gà được mà chọn con gà trống to cỡ 3,5 - 4,5kg, cúng xong mang về nhà mời anh em nội tộc đến ăn mừng cho dòng họ có thêm 1 cháu trai khỏe mạnh. Không chỉ các cháu sinh ra ở 2 làng trên được làm lễ ra gà mà cả các cháu sống với bố mẹ ỏ mọi miền của đất nước thì ông bà, họ hàng ở quê vẫn tiến hành làm lễ ra gà khi có thành viên mới chào đời. Tục ra gà ỏ 2 làng Thượng và làng Hạ ỏ Chu Hóa mang đậm tính chất tín ngưỡng về phong tục thờ cúng Phật ỏ đình làng của người Việt cổ. Thông qua hình thức này, ngay từ khi sinh ra, con người đã gắn chặn với tổ tiên, cộng đồng. Đây là nét đẹp truyền thống văn hóa của một làng quê cần được bảo tồn để thế hệ con cháu luôn luôn nhớ về cội nguồn, quê hương.
16. TẬP TỤC CÚNG TẾ TRONG LỄ BÁO BẢN ở TÌNH NINH BÌNH Xã Yên Từ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình là xã có phong tục Báo Bản. Thôn Nộn Khê, một trong 6 thôn của xã Yên Từ là chốn chân quê, nơi giữ gìn lâu đời phong tục đẹp này. Nộn Khê hình thành làng từ thời Lê - Hổng Đức, cách đây đã hơn 500 năm. Làng có 8 họ chính: Bùi, Đinh, Phạm, Cao, Mai, Lê, Trần, Nguyễn. Quá trình xây dựng và phát triển, 8 họ chính trên đã mở ra nhiều chi, hiện nay có đến 26 dòng họ. Tục lệ Báo Bản hình thành từ lâu và được phát huy cho đến ngày nay, mà trong 209
thời đổi mới này tục lệ đẹp càng thêm phong phú, đa dạng. Báo là báo công, báo những việc đã làm trong năm qua, bản là gốc. Vậy Báo Bản là tổ chức một cuộc lễ hội để nhớ vể nguồn gốc, nhớ về tổ tiên, những người đã có công lao xây dựng làng xóm ngày nay và sự đóng góp của lớp con cháu sau này. Ngày Báo Bản là ngày hội tụ của con cháu, của tất cả các dòng họ đang công tác, học tập, lao động từ “bốn phưdng” về. Nhiều người từ phía Nam, đông nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh ở phía Bắc, đến ngày Báo Bản là rủ nhau về quê dự lễ hội. Đúng ngày 14 tháng giêng âm lịch, sau Tết, không khí mùa xuân còn đậm nét, làng tổ chức lễ hội. Đầu tiên là lễ rước kiệu, những cỗ Bát cống, Long đình được đặt trên vai các công dân trẻ của làng, trong tiếng trống cái và điệu nhạc du dương của phường bát âm, kiệu được rước quanh làng rồi trở về đình. Một cụ già có uy tín, mũ áo chỉnh tề, hướng lên nơi thờ tổ tiên, trong ánh sáng của các cây nến và hương thơm của những cây hương trầm, trịnh trọng, dõng dạc đọc bài văn tế. Bài văn tế được soạn công phu, có nội dung nói về công ơn của tổ tiên và việc xây dựng làm xóm trong thời đại mới, những tiến bộ, những thành tích của dân làng, những nét đẹp trong tình làng nghĩa xóm, trong việc sản xuất và học hành và xin hứa với người xưa là luôn vun đắp cho cái gốc được muôn đời bền vững. Sau lễ là tổ chức yến lão, mừng các cụ vào tuổi thọ đáng kính, từ 60 tuổi trở lên. Các xóm đứng ra cáng đáng việc này. Không tổ chức ăn uống, mà làm lễ dâng hương, đọc thơ chúc mừng. Nộn Khê có chùa lại có nhà thờ. Bà con theo đạo Phật, đạo Công giáo và nhiều người không theo đạo nào nhưng tất cả vẫn đoàn kết, giúp đỡ nhau trong sản xuất, dựng xây, học hành. Làng này, việc trị an được đảm bảo, nghề phụ phát triển, đan lát, thêu ren, cây cảnh và đặc biệt, việc học hành của các cháu được mọi người chăm lo.
210
II. NHỮNG TỤC L Ệ THỜ CÚNG ĐẶC SẨC CỦA MIỀN TRUNG
1. LỄ HỘI CẦU NGƯ VÀ CÚNG THẦN NAM HẢI ở VEN BIỂN Thường vào mùa xuân người dân ỏ đây thường tổ chức lễ hội cầu ngư miền biển, khôi động cho một năm mới bội thu, qua đó còn nhắc nhỏ bà con cùng nhau đoàn kết khi khai thác trên biển và chung tay xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp hơn... Tục thờ cúng cá ông, còn gọi là thần Nam Hải, bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cá của người Việt các tỉnh Bắc bộ. Trong dòng chảy lịch sử, tín ngưỡng thờ cúng cá Ông được củng cố bởi vương triều nhà Nguyễn. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ, các triều đại vua khác nhau đã ban sắc phong cho thần Nam Hải, chính thức công nhận tục thờ cúng cá ông tại các làng quê dọc ven biển miền Trung. Lăng ông luôn được làng chài thờ cúng quanh năm và đặc biệt vào mùa xuân hay mùa thu hằng năm, lễ hội cúng cá ông theo nghi lễ truyền thống, rất trang trọng. Trong nghi lễ, Chủ tế sẽ thực hiện các nghi lễ cúng cá ông, tư văn đọc văn tế ca ngợi công đức cứu giúp dân chài thoát nạn trên biển sau nghi lễ cúng, đội gươm, chèo làng chài sẽ múa hát Bả trạo. Đây là hình thức diễn xướng dân ca. Các điệu múa và hát Bả trạo khắc họa phong tục tập quán của vạn chài, những hiểm nguy của ngư dân trước sóng dữ ngoài biển đông, và sự cứu giúp của thần Nam Hải khi gặp nạn. Hiện nay nhiều làng chài ven biển Quảng Ngãi vẫn còn lưu giữ các sắc phong thần này. Theo các chuyên gia văn hóa cho biết: Cá ông vốn hóa thân từ những mảnh áo cà sa của Phật Bà Quan Âm quăng xuống biển để cứu vớt sinh linh bị chìm đắm. Truyền thuyết về cá ồng còn được gắn với những ngày đầu lập quốc của vua Gia Long Nguyễn Ánh: Khi bị quân Tây Sơn truy đuổi, thủy quân của Nguyễn Ánh tháo chạy ra biển và gặp phải sóng to gió lớn, trong lúc nguy khốn bỗng có một con cá ông to lớn ghé đưa thuyền vào bờ. Sau này khi thắng quân Tây Sơn và lên ngôi vua, nhớ ơn cứu mạng, Nguyễn Ánh đã phong tặng cá ông là Nam Hải Đại tướng quân và cho dân lập miếu thờ cúng, tín ngưỡng cá ông... Lễ hội cúng cá ông được củng cố trong cộng đồng cư dân ven biển Quảng Ngãi cũng như ỏ miền Trung nhờ 2 yếu tố, thứ nhất là yếu tố tâm linh, nhiều ngư dân thấy thực tế đi biển gặp hoạn nạn. Đồng thời được củng cố tín ngưỡng thờ cá qua các triều đại vua. Lễ hội còn là sự cố kết cộng đồng, không chỉ là nơi cá ông 211
lụy mà còn vạn chài ỏ các làng lân cận cùng chung tay góp sức lo các việc nghi lễ, cùng tham gia vào tế tự, trò diễn dân gian khác tạo nên sự cố kết cộng đồng. Qua lễ hội cúng cá ông các giá trị truyền thống được trao truyền, được bảo lưu. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Lễ hội cầu ngư, thờ cúng cá ông là một hiện tượng văn hóa dân gian tiêu biểu của ngư dân ven biển, đặc biệt là ven biển Nam Trung bộ. Lễ hội cúng cá ông có vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân, đặc biệt là ngư dân các làng vạn chài. Và qua thời gian, lễ hội càng được củng cố trong cộng đồng ngư dân ven biển. Lễ hội cầu ngư hằng năm đã trở thành lễ hội truyền thống của bà con ngư dân. Tất cả mọi người đểu phấn chấn và cầu mong ngày lễ được mỏ ra, tư tưỏng của mỗi người dân sản xuất trên biển đểu cảm thấy yên tâm hđn, tinh thần ổn định hơn để cầu mong một mùa thắng lợi. Vì vậy, tham gia lễ hội cầu ngư ngoài cầu mong sẽ có một năm mưa thuận gió hòa, đánh bắt bội thu, bà con ngư dân vùng biển còn cầu mong cho mỗi chuyến ra khơi được an toàn, mạnh khỏe, chắc tay chèo tay lái, đặc biệt là đánh bắt được nhiều tôm, cá... Mỗi khi Tết đến xuân về, lễ cầu ngư được tổ chức rộn ràng nhưng cũng đầy nghiêm trang với nhiều nghi lễ dân gian ý nghĩa, đầy màu sắc, thể hiện niềm tin và lòng tôn kính của những người lao động biển với ông Nam Hải, đồng thời thể hiện nét đẹp văn hóa của ngư dân vạn chài.
2. LỄ HỘI NGƯ DÂN ĐẦM
p h á t h ừ a t h iê n h u ế
Lễ hội dân gian của một cộng đồng người bất kỳ nào đó bao giờ cũng xuất phát từ quan niệm tín ngưỡng đặc trưng của họ. Nguồn gốc tín ngưỡng của lễ hội dân gian không cho phép chúng ta tách biệt rạch ròi thành hai phẩn tín ngưỡng và lễ hội khi nghiên cứu chúng. Đối với khu vực cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế, ngoài những quan niệm tín ngưỡng và lễ hội mang đặc trưng chung của cộng đồng dân tộc Việt, chúng ta vẫn dễ dàng nhận ra những đặc thù của cư dân sinh sống trên mặt nước bao la của đầm phá. Nó phản ánh rõ thế giới quan và nhân sinh quan của con người ở đây dưới hình thức bình dị, mộc mạc và rất đời thường. Tín ngưỡng và lễ hội dân gian cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế rất đa dạng và cực kỳ phức tạp, dưới đây là những biểu hiện mang tính phổ quát của khu cực cư dân này. Quan niệm linh hồn và lễ cúng cô hồn Thuyết linh hồn là hình thức tín ngưỡng sơ khai nguyên thủy, phản ánh nhận thức của con người trước sức mạnh to lớn của tự nhiên và xã hội. Quan niệm linh 212
hồn hầu như phổ biến ỏ khắp tất cả các cộng đồng người, và tồn tại dai dẳng trong đời sống tâm linh của họ. Quan niệm lễ hội dân gian của cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế gắn liền với những đối tượng quen thuộc ỏ loài cá là cá voi và cá vược, và lẽ tất nhiên là ngay chính bản thân của con người. Linh hồn là cái bất biến, tồn tại vĩnh viễn sau khi thân xác bị thiêu hủy. Linh hồn của một con người khi đã chết thì hoặc là lên trời, hoặc là đọa xuống địa ngục tùy theo âm đức của từng người. Quan niệm của cư dân đầm phá cũng cho rằng con người có đến ba hồn và bảy vía nếu là nam hoặc chín vía nếu là nữ. Cái chết của con người là do hiện tượng hồn lìa khỏi xác, vì vậy khi gặp những tai biến bất ngờ như trúng gió bất tỉnh, bị ngã xuống nước tắt thỏ... thì người ta đều hô hoán để gọi linh hồn quay trỏ về nhập vào thể xác nhằm trả lại cuộc sống cho những người bị nạn. Từ quan niệm linh hồn đó, cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế thường xây dựng các am, cảnh nhỏ nằm rải rác ven bờ đầm để thờ cúng các loại âm linh cô hồn bị chết trên sông nước. Hằng tháng vào các ngày sóc, vọng (mùng một và rằm âm lịch), ngư dân thường mang hưdng hoa lễ vật đến những nơi đó để cúng bái, có khi là những vắt cơm nhỏ, những hạt nổ đủ màu, giấy tiền vàng bạc và hương đèn; có khi họ chỉ thắp hương và khấn vái chứ không có vật phẩm. Lễ vật cúng xong được ngư dân đem thả trên những chiếc bè nhỏ trôi dạt trên sông nước, với ý nghĩa phân phát cho những vong linh cô hồn lang thang không nhà không cửa, không ai thờ cúng, chia nhau hưỗng thụ rồi không quấy nhiễu đến công việc hành nghề của họ. Việc thờ cúng của cư dân đầm phá xuất phát từ quan niệm có linh hồn. Lệ cúng cô hổn từ mục đích ban đầu là “giúp đỡ” những linh hồn trôi dạt lang thang không người thờ phụng, đã được kết hỢp thêm mục đích thứ hai là cầu mong các cô hồn uẩn tử đừng quậy phá để công việc hành nghề của ngư dân tiến hành tốt đẹp. Lễ cúng thờ tổ tiên Việc chôn cất người chết ở cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế quả là một vấn đề hết sức khó khăn. Suốt một đời chỉ chuyên gắn bó cuộc sống với con thuyền, nhưng đến lúc chết lại không có phần đất chôn cất, nên họ phải trình xin hoặc mua ở các làng nông nghiệp ven bờ. Việc xin phép hoặc mua một chỗ đất cho người chết tại các làng ven bờ không phải lúc nào cũng thuận lợi, chính vì vậy cư dân đầm phá thường không có nghĩa địa chung của dòng họ như cư dân nông nghiệp. Hơn nữa, cuộc sổhg chài lưới quanh năm suốt tháng theo đuôi con cá, cái chết lại xảy đến trong nhiều tình huống khó đoán định, nên chết ỏ chỗ nào người ta thường tìm đất ở chỗ đó để mai táng. Sự phân tán mồ mả của người thân trong gia đình, dòng họ là nguyên nhân làm cho con cháu những thế hệ sau hoàn toàn quên hẳn nơi chôn cất của tổ tiên. Tuy nhiên, cũng như đại đa số dân cư Việt ỏ trên toàn quốc, cư dân đầm phá
213
Thừa Thiên Huế vẫn thờ cúng tổ tiên của mình, ngay trên phương tiện cư trú và hành nghề, đó là con đò. Trong các con đò cư trú của các gia đình ngư dân, chỗ trang trọng kín đáo nhất ỏ mũi đò, chính là nơi đặt bát hương thờ cúng ông bà tổ tiên của họ. Ngư dân luôn luôn quan niệm rằng tuy đã chết nhưng linh hồn của những người chết vẫn còn thương nhớ con cháu, và thường xuyên vể thăm nom, phù hộ cho họ được gặp những điều tốt lành. Mặt khác việc thờ cúng ông bà tổ tiên còn thể hiện sự nhớ ơn của con cháu đối với những tiền nhân đã khuất bóng. Lễ cúng tổ tiên ông bà của các gia đình, dòng họ ngư dân đầm phá được thực hiện vào ngày tròn năm của các kỳ giỗ, chạp tùy theo từng trường hỢp cụ thể. Và trong các dịp cúng tế quan trọng khác như lễ mở cửa nước, lễ cúng rào... ngư dân vẫn thường dâng cúng vật thực và hương khói trên bàn thờ tiên tổ một cách chu đáo, đúng như câu tục ngữ ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế hay nói là: “Câu cá mại cũng vái tiên sư”. Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng truyền thống có từ lâu đời của dân tộc Việt, nó thể hiện đạo lý làm người với quan niệm “cây có cội, nước có nguồn” khá rõ nét. Đối với cư dân đầm phá, những lần cúng tế tổ tiên là dịp nhận mặt họ hàng thân thích giữa các thế hệ, cố kết mối quan hệ thân tộc trong dòng họ, củng cố thêm mối đoàn kết gắn bó cùng nhau khai thác mặt nước để sinh tồn. Lễ tế đình vạn Tế đình vạn là một sinh hoạt lễ hội tương đối phổ biến ỏ cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế, nhất là tại các khu vực đầm phá thuộc huyện Phú Lộc. Mỗi vạn chài vùng đầm phá thường có một ngôi đình riêng của vạn, dùng làm nơi tế tự các tổ tiên của những dòng họ trong vạn, hoặc những người có nhiều công đức với vạn chài của họ. Đất dùng để dựng đình vạn có thể do xin được của làng trên bờ, có thể là do mua lại của làng. Đình vạn thường không lớn, cũng không phải là trung tâm sinh hoạt văn hóa xã hội của ngư dân như đình làng của cư dân nông nghiệp. Quy mô và cấu trúc của đình vạn như một cái am lớn của cư dân làm nghề nông, và nó được xem là điểm mốc xác định khu vực cư trú của một vạn chài trên phá. Lễ tế đình vạn được tổ chức hằng năm vào tháng hai và tháng tám âm lịch, gọi là xuân tế và thu tế. Cứ mỗi lần tế đình vạn, ngư dân trong vạn dù hành nghề ỏ đâu cũng cố gắng kéo về tụ tập để chung sức lo việc cúng tế. Khác với tế đình làng ỏ làng nông nghiệp là dựa vào kinh phí trích từ ruộng làng, cư dân đầm phá tiến hành tế đình lại trông cậy vào sự đóng góp của các thành viên của vạn. Việc thu tiền quyên góp để tế đình vạn thường do các ông xâu, ông trùm của vạn đảm trách. Một buổi tế đình vạn của cư dân đầm phá về cơ bản cũng tương tự như một buổi tế đình của các làng nông nghiệp. Người Hội chủ của vạn đứng ra điều hành, 214
chủ trì việc lễ tế, khấn vái tổ tiên các họ, các bậc khuất mặt có công đức với vạn, để cầu mong cho toàn vạn được may mắn, yên lành, làm ăn thuận lợi... Kết thúc cuộc tế đình vạn là sự họp mặt để ăn uống, vui chơi của toàn vạn, nhưng không phải ở đình vạn mà ỏ các con đò đậu sát vào nhau trên mặt nước. Có thể nói đình vạn của cư dân đầm phá chỉ là nơi thực hiện những nghi lễ mang tính cộng đồng, là nơi cất giữ những bản vạn phổ của vạn. Nó không đảm nhận chức năng là pháp đình hương thôn, là trung tâm sinh hoạt văn hóa như các đình làng nông nghiệp. Mọi sinh hoạt chính của cư dân đầm phá đều diễn ra trên những con đò của họ. Nhưng dẫu sao các di.p tế đình vạn cũng là cơ hội cho các thành viên của vạn tề tựu đông đủ, thắt chặt lại mối dây liên hệ cộng đồng vốn rất mong manh, do tình trạng phân tán để theo đuôi con cá của từng gia đình nay đây mai đó trên đầm phá bao la rộng lớn ỏ Thừa Thiên Huế. Lễ cúng Sơn thần và Thủy thần Một trong những loại hình tín ngưỡng dân gian phổ biến ở người dân chài vùng đầm phá Thừa Thiên Huế là thờ cúng Thủy thần và Sơn thẩn. Cuộc sống của người ngư dân gắn liền với mặt nưởc mênh mông của đầm phá, nơi chứa đựng nhiều bí ẩn của thế giới tự nhiên mà con người chưa thể nhận thức hết được. Con người vẫn luôn bé nhỏ trưởc sóng nước bao la được bao bọc chung quanh bởi các dãy núi hùng vĩ từ Trường Sơn đâm ra biển. Khung cảnh đầm phá hết sức kỳ ảo, thơ mộng vào những lúc thời tiết tốt đẹp. Song đến lúc trái gió trở trời, khung cảnh ấy lại trở nên hung hãn, dữ dằn đối với con người, sẵn sàng nhấn chìm con người xuống tận đáy nước quen thuộc của mình. Trong những lúc mưa bão giông tố, ngồi trong lòng một con thuyền bé nhỏ giữa đầm phá mênh mông, ngư dân từ xưa đã nghĩ đến một thế lực siêu nhiên có quyền pháp ghê gớm, một loại thần linh với đầy đủ uy lực trong việc trừng phạt hoặc che chỏ cho con người qua cơn hoạn nạn. Từ việc tưởng tượng hóa thế lực siêu nhiên, ngư dân đầm phá đi đến chỗ thờ cúng Sơn thần Thủy thần với mục đích cầu an cho cuộc sống bản thân và gia đình, cầu mong thánh thần che chở để thoát khỏi những cơn nguy hiểm luôn đe dọa đến tính mạng và mơ ước được thần linh phù hộ cho công việc hành nghề đánh bắt của mình được may mắn. Sự tôn thờ Thủy thần Sơn thần của cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế không chỉ tồn tại trong tâm tưỏng của họ, mà được biểu hiện cụ thể bằng việc xây dựng các ngôi miếu ven bờ đầm phá. Những miếu thờ Thủy thần Sơn thần của cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế còn tồn tại cho đến ngày nay như miếu La khê giữa đầm Đả, miếu Cầu hai nằm ở bền bờ Đá bạc thuộc huyện Phú lộc... Lễ cúng bái Thủy, thẩn Sơn thần thường được tổ chức vào tháng ba và tháng bảy âm lịch, song kỳ thực quanh năm suốt tháng ngư dân vẫn luôn hương hoa thờ cúng không dứt. Lễ cúng Thủy thần Sơn thần không giới hạn vào một hình thức tế
215
lễ nào cả, bỏi vì có thể là cả vạn chài, có thể là chỉ từng gia đình ngư dân tiến hành. Tất cả những cuộc cúng bái Thủy thần Sơn thần đều nhằm mục đích cầu khẩn sự che chở từ phía thần linh đối với con người, cầu mong thẩn linh giúp đỡ con người trong quá trình sinh sống và hành nghề đánh bắt trên mặt nước của đầm phá. Thờ cúng cá voi và cá vược Cũng như ngư dân các làng đánh cá biển, cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế rất phổ biến tục thờ cúng cá ông tức cá voi, nhất là khu vực cửa phá đổ ra biển. Theo lời kể của nhiều ngư dân đầm phá, thuỏ xa xưa cá voi đã từng trôi dạt vào khu vực đầm phá, cư dân ỏ đây tiến hành mai táng một cách trang trọng không khác gì cư dân biển, và họ vẫn thờ cúng rất chu đáo. Mặc dù trong thực tế hiếm có trường hỢp cá voi trôi vào phá, nhưng từ trong tiềm thức cư dân đầm phá, cá voi vẫn là một loại cá biển linh chuyên giúp đỡ người bị nạn, vì vậy họ sùng bái không kém gì dân biển. Tuy nhiên, nếu như thờ cúng cá ông chỉ là một tục lệ có tính chất kế thừa từ đời này sang đời khác, hoặc do ảnh hưỏng từ cư dân nghề biển, thì việc kiêng cữ bắt cá vược và lễ cúng cá vược lại là đặc trưng nổi bật của cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế. Cá vược là một loài cá khá to mà cư dân đầm phá tuyệt đối không bao giờ cố ý tìm bắt. Ngư dân đầm phá quan niệm cá vược là một cái gì đó bất khả xâm phạm, nếu đụng vào cá vược thì chắc chắn phải gánh chịu những hậu quả rủi ro, tai hại vô cùng, không sao lường trước. Do vậy trong cuộc đời hành nghề trên phá, ngư dân bao giờ cũng mong ước mình không đánh bắt nhằm cá vược. Trong trường hỢp chẳng may cá vược đóng lưới, ngư dân đành phải gỡ ra đem về, nhưng không bao giờ bán cho người khác mà giữ lại để ăn thịt. Và đồng thời ngay sau đó họ phải bày biện lễ vật để van xin, cầu khấn tại nơi cá vược bị mắc lưới của họ. Lễ cúng cá vược có thể có nhiều ít vật phẩm tùy theo gia chủ, nhưng có một loại luôn luôn phải có trong lễ cúng, đó là hình ảnh những con cá vược bằng giấy vàng bạc (đồ thợ mã). Sau khi lễ cúng hoàn tất, những con cá vược bằng giấy vàng bạc được thả xuống nước trôi đi tứ phía, và lúc ấy ngư dân mới yên tâm là mình đã trả lại linh hồn cho con cá vược, khỏi lo bị những ám ảnh về mặt tinh thần do đã xúc phạm vật linh của đầm phá. Cá vược là loại cá linh và thường mang đến những tai họa ghê gớm cho người đánh cá theo quan niệm của ngư dân đầm phá Thừa Thiên Huế, vì vậy lễ cúng cá vược bao giờ cũng được tổ chức chu đáo và kính cẩn một khi ngư dân bắt nhằm chúng. Lễ cầu ngư và hội đua thuyền Giống như các làng biển, ngư dân đầm phá Thừa Thiên Huế cũng thực hiện lễ 216
cầu ngư vào dịp cầu an đầu năm hoặc những lúc mất mùa. Tuy nhiên, tại các làng biển ỏ Thừa Thiên Huế, lễ cầu ngư thường diễn ra ở đình làng với cảnh trình nghề tượng trưng vào dịp cầu an đầu năm, hoặc ỏ miếu thờ cá Ông vào dịp cầu ngư mùa hè. Còn đối với dân đầm phá, lễ cầu ngư bao giờ cũng thực hiện trên những con thuyền neo đậu trên mặt nước. Thông thường, lễ cầu ngư của cư dân đầm phá không theo một chu kỳ nhất định nào cả. Năm nào thời tiết không thuận lợi, ngư dân hành nghề không có thu hoạch tốt, nói cách khác là bị mất mùa, thì họ lập tức tiến hành lễ cầu ngư để khắc phục. Vạn là đdn vị tổ chức lễ cầu ngư trên mặt nước đầm phá, là người đứng ra quyên góp tiền bạc từ các thành viên của vạn để mua sắm vật phẩm tế lễ. Tùy theo khả năng quyên góp, ngư dân trong vạn mổ heo, giết gà... để làm lễ cầu ngư cho mình. Lễ cầu ngư của dân đầm phá bao giờ cũng có mâm cđm và lễ vật dâng cúng ngay giữa mặt nước. Và trong khi tiến hành cúng bái, người ta đem thả một số cá tôm tưđi sống đánh bắt được trước đó (hoặc mua lại từ chợ) xuống lại dưới nước. Việc thả tôm cá sống trỏ lại đầm phá không hề mang ý nghĩa như lễ phóng sinh theo quan niệm đạo Phật, mà ỏ đây có mục đích rất rõ ràng là nhằm cầu mong cá tôm sinh sôi nảy nở nhanh chóng và phong phú, để công việc hành nghề đánh bắt của ngư dân gặt hái được kết quả tốt đẹp. Một bên thể hiện lòng từ bi tế độ muôn loài, không sát sinh hại vật, còn một bên nhắm vào mục tiêu giải quyết nạn mất mùa. Như thế, lễ cầu ngư của cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế là một biện pháp tinh thần, dùng để khắc phục những hậu quả xấu về nghề nghiệp do từ phía tự nhiên mang lại. Đây chính là đặc trưng lớn của lễ hội cầu ngư ỏ vùng đầm phá, và trong chừng mực nhất định nó đã khiến cho lễ cầu ngư của cư dân đầm phá có đôi nét khác với lễ cầu ngư của cư dân miền biển. Lễ cầu ngư đầm phá thường gắn liền với việc tổ chức đua thuyền kéo dài từ hai đến ba ngày. Đua thuyền (ghe) là một sinh hoạt vui vẻ của cư dân đầm phá, nhằm tạo ra khí thế lao động phấn chấn, sung sức cho thanh niên trai tráng và những ai còn đủ sức hoạt động nghề nghiệp trên sóng nước. Chính việc đua thuyền đã làm cho ngày lễ cầu ngư trở thành ngày hội văn hóa có tính chất truyền thống của cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế. Thuyền để đua có thể là thuyền rồng, có thể là những chiếc trải dài khoảng 12 đến 15 mét. Chiếc thuyền đua nào cũng được thiết kế thon, gọn và đằm để có sức cd động cao và lướt nhanh trên mặt nước. Thuyền đua thường có mỗi chiếc từ 10 đến 15 người tùy quy định cụ thể của ban tổ chức, trong đó người chèo lái giữ trách nhiệm quan trọng và ảnh hưỏng lớn đến thành công của toàn đội. Trước ngày đua chính thức, những chiếc thuyền đua vốn được bảo quản cẩn 217
thận ở trên khô được đưa xuống nước. Ngư dân đầm phá khi đưa thuyền đua xuống nước thường tổ chức lễ “tiền hạ thủy” nhằm cúng vái trời nước tổ tiên, thánh thần vể phù hộ cho con cháu trong dòng họ được nhiều may mắn. Ngày trước, giải thưỏng dành cho thuyền đua giật giải là mâm trầu rượu, một vài quan tiền, có khi là dải lụa đỏ... Đoạt giải đua thuyền không hề đem lại quyền lợi về mặt vật chất cho vạn của họ, mà chính là đem về cái vinh dự và niềm hãnh diện của một vạn chài. Đua thuyền của cư dân đầm phá ngày trước được gắn liển với lễ cầu ngư mang đặc trưng riêng của họ. Ngày nay các cuộc đua thuyền trên đầm phá thường được tổ chức vào các ngày như Tết cổ truyền của dân tộc, vào những ngày lễ trọng đại của quốc gia, tách xa dần sự gắn bó với lễ cầu ngư có tính chất hoạt động nghề nghiệp của họ. Dầu sao đi nữa, những cuộc đua thuyền luôn tạo nên bầu không khí vui tươi, nhộn nhịp và rất lành mạnh cho tất cả mọi giới trên vùng đầm phá. Từ một lễ hội văn hóa truyền thống của cư dân sông nước, đua thuyền có sức hấp dẫn lôi cuốn không những trong nội bộ cư dân thủy diện, mà còn lan đến cả các làng nông nghiệp cận cư ven bờ. Lễ cúng rào (hay lễ cúng nước) Lễ cúng rào hay có nơi dân đầm phá còn gọi là lễ cúng nước thường được thực hiện tương đối giản dị. Lễ cúng của dân đầm phá cũng tương tự như dân trên bộ làm lễ cúng đất. Mục đích của lễ cúng rào là mong thánh thần che chở để được ăn yên ỏ yên, cô hồn uổng tử không phá phách, mùa màng được thuận lợi, tôm cá tràn đầy để việc hành nghề được tốt đẹp. Ngư dân đầm phá làm lễ cúng rào theo từng hộ gia đình, một năm một hoặc hai lần vào tháng hai hay tháng tám âm lịch, vật phẩm tùy theo khả năng mua sắm của gia chủ chứ không bắt buộc. Lễ đóng cửa nước (hay lễ tạ đầm, lễ tất niên) Đối với cư dân đầm phá, lễ đóng cửa nước thường được tổ chức vào những ngày cuối năm giáp Tết âm lịch. Có vạn gọi đó là lễ tạ đầm hoặc lễ tất niên. Lễ đóng cửa nước của cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế cũng có ý nghĩa như lễ đóng cửa rừng của dân sơn tràng miền núi. Trong ngày lễ đóng cửa nước, tất cả các thành viên của vạn chài tập họp về địa điểm cư trú của vạn để tham gia tế lễ và chuẩn bị nghỉ ngơi ăn Tết. Hội chủ của vạn là người đứng ra thực hiện các nghi thức tế lễ, thay mặt toàn vạn tạ ơn các vị thánh thần đã giúp đỡ độ trì vạn chài một năm làm ăn bình yên hoặc có nhiều may mắn. Sau cuộc lễ, dân vạn tập trung ăn uống vui vẻ để kết thúc 218
một năm làm lụng vất vả cực nhọc do phải theo đuôi con cá. Từ sau ngày làm lễ đóng cửa nước, dân vạn không còn đi xa mà chỉ quanh quẩn trong phạm vi cư trú của vạn, chuẩn bị đón chào một năm mới sắp đến. Lễ mở cửa nước (hay lễ khai niên) Lễ mỏ cửa nước được thực hiện vào đầu năm mới, tùy theo ngày lành tháng tốt do dân vạn chọn lựa. Nhiều vạn chài cũng cũng gọi lễ mở cửa nước là lễ khai niên, tức lễ cúng năm mới. Quy mô lễ mỏ cửa nước thường nhỏ hdn lễ đóng cửa nước, vật phẩm dâng cúng tương đối đơn giản chứ không bày biện linh đình. Thông thường, lễ mở cửa nước có hai mâm cúng tách bạch, gồm một mâm dâng cúng ông bà tổ tiên của gia chủ, một mâm dâng cúng Thủy thần, Sơn thần cùng các cô hồn của sông nước. Mục đích của lễ này là cầu mong thánh thần, tổ tiên phù hộ giúp đỡ cho dân vạn gặp may mắn tốt lành trong công việc sinh sống, làm ăn của năm mới. Cúng xong lễ, dân vạn bắt đầu triển khai kế hoạch làm ăn năm mới của mình. Qua một số lễ hội của cư dân đầm phá Thừa Thiên Huế, chúng ta dễ dàng nhận thấy khía cạnh nguồn gốc tín ngưỡng lổng trong lễ hội. Hiện tại, tuy niềm tin vào thế lực siêu nhiên đã có phần giảm sút, nhưng cư dân đầm phá vẫn cử hành các lễ hội với ý nguyện cầu mong trời đất, thánh thần, tổ tiên, ông bà luôn phù hộ độ trì cho mình vẹn toàn trong cuộc sống lênh đênh trên mặt nước. Lễ hội của cư dân đầm phá trong thực tế là những buổi sinh hoạt cộng đổng từ gia đình đến dòng họ lên toàn vạn, và mỏ ra những quan hệ xã hội lớn hơn nữa. Do vậy, nếu có một tác động nhằm khắc phục những yếu tố dị đoan, lạc hậu, thì lễ hội vùng đầm phá sẽ là những sinh hoạt văn hóa bổ ích cho khu vực cư dân còn gắn liền với cuộc sống sông nước.
3. TỤC CÚNG ĐẤT VÙNG NGŨ QUẢNG Vùng ngũ Quảng bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Quảng Đức nay là Thừa Thiên Huế từ xa xưa đều có tục cúng đất. Tục lệ này diễn ra một năm hai lần vào một ngày tốt trong tháng hai và tháng tám âm lịch, ỏ Huế người dân vẫn còn cúng rộng rãi với tên gọi lễ “tạ thổ kỳ yên”. Cúng đất ngày xưa Mỗi tháng tám âm lịch, không như bao người khác nhớ đến cái Tết Trung thu, thì đối với người dân ngữ quảng lại nhớ mùa cúng đất.
219
Mâm cỗ cúng đất (đơn giản) trên hè phố Cúng đất gia đình nào cũng phải làm cỗ bàn tươm tất. Không thể thiếu con gà trống to. Rồi nem, chả, cá tôm. Thông thường gia đình lựa chọn ngày tốt, sắm sửa lễ vật để cúng đất, còn gọi là cúng thần Hoàng bản xứ. Tùy theo mỗi vùng miền, mà trên bàn lễ sắp đặt khác nhau. Theo các cụ già truyền lại cho con cháu thì trên bàn thờ phải có hai mâm với hai bát hương riêng. Một bàn cúng thần Hoàng Bổn Xứ là các vị thẩn chức lớn cai quản trong địa phương. Bàn kia là cúng mâm hội đồng, bao gồm các vị thần có chức sắc nhỏ hơn và các cô hồn cát đẳng, không nơi nương tựa... Trên bàn cúng đất phải đầy đủ bát hương, chân đèn, chén nước, bài trí theo “thiết kế” của người xưa như “đông bình tây quả”, hương đèn, vàng bạc, giấy tiền, giấy đất, hạt nổ (gạo muối, lương khô)... Phẩm vật thường có cơm, xôi, chè, thịt heo, con gà luộc, cá chiên, các thứ xào, trộn, bánh tráng nương... Bàn hạ còn có thêm một đĩa cua luộc, cá nướng và một bát cháo thánh (cháo trắng)... Mấy món không thể thiếu được là đĩa sắn, khoai, đậu, môn, rau khoai luộc, chén nước ruốc... Ngoài ra, còn có một bộ đồ thần để đốt. Trước khi cúng, gia chủ còn làm một cái “xà lắt” bằng bẹ chuối treo sát chân bàn. Cúng xong, gia chủ bỏ các món ăn vào mỗi thứ một ít. Người nhà sẽ mang ra ngã ba đường cái để treo. Bàn đặt ở trước nhà, gia chủ đứng từ trong nhà lạy ra và khấn vái tên đầy đủ các thiên thần cai quản trời đất, vùng đất cụ thể, nhà cửa của gia chủ... Đặc biệt còn dâng cúng cả những cô hồn người Chăm... từng cư trú trên địa bàn Huế, cũng như những hài cốt tiềm ẩn trong đất. Cũng chính vì có đối tượng là cô hồn người dân tộc thiểu số nên mới bày biện món rau khoai luộc chấm nước ruốc, xâu cá tôm nướng.
4. TẬP TỤC THỜ CÁ VOI ở BÌNH THUẬN Trong dân gian người Việt cũng như người Chăm và người Hoa đều cho rằng: Cá Voi không phải là một loài cá bình thường mà là một loài cá thần. Biểu hiện ỏ đây không phải là sức vóc to lớn và sức chịu đựng khác thường, mà là loài cá biết suy nghĩ, có tình cảm và đặc biệt là sự cảm nhận và tâm linh như con người. Không phải ngày xưa mà cả ngay bây giờ nhiều người vẫn nghĩ thế. Do đó việc tôn thờ và thờ phụng rất tôn nghiêm, ở các vùng biển thường có những câu truyền đồn đại về loài cá Voi thần. Người ta cho rằng có những con cá do thần thánh hiện thân hoặc cứu giúp thuyền bè ngoài khơi phải huy sinh để bảo vệ tính mạng cho con người, hoặc do Ngọc Hoàng hay Long Vương sai phái mà nghé vào bờ. Ai nhìn thấy cá Ông bị lụy (chết) phải chịu tang chế, vạn chài nào được cá Thần ghé đến phải làm lễ tống táng. Cá Thần thuộc loại lớn thì gọi là cá ồng, còn nhỏ thì gọi cá 220
cô, cá cậu. Có người quả quyết rằng trên lưng những con cá ấy có những dòng chữ. Khi sóng biển nổi lên dữ dội, nếu không nghĩ do Long Vương, Hà Bá tức giận thì một số ngư dân lại cho rằng đó là do cá ông phẫn chí quẫy mình. Và vì thế người ta phải lạy lục, rước bóng, làm lễ. Một ngư dân tên là Nguyễn HỢp ở Bình Thuận (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) là người đã từng được “ông” cứu sống kể lại rằng: Trong cơn bảo xuồng câu của ông bị chìm, ông đã cố gắng chống chọi với sóng gió, đến lúc sắp kiệt sức, nghĩ mình không thể thoát được nạn... thì bỗng dưng có một “ ông” linh ứng đã đến cứu nạn, ông Hợp có cảm giác như đang nằm trên một tấm ván dày, cho đến lúc gặp một dòng nước đưa nhanh vào bờ như một dòng gió thổi mạnh hất tung ông lên bờ cát. Đây chỉ là một trường hỢp trong vô vàn trường hỢp khác từ xưa đến nay đã xảy ra ở Bình Thuận và các địa phương ở miền Trung khác. Không thể dễ dàng giải đáp nếu không biết ít nhiều về những đặc điểm của loài cá này. Chỉ khi nào nắm hết được đặc tính khoa học của cá Voi thì chúng ta có thể hiểu được bản chất của những sự việc, hiện tượng mà trong dân gian vẫn cho là linh thiêng đó. Thực ra, cá Voi là động vật có vú và thỏ bằng phổi, những lúc phong ba bão tố, sóng to gió lớn, vì nhu cầu và bản năng sống của loài động vật nên cá Voi thường tìm đến những con thuyền để núp mình và dựa dẫm. Nhờ có thân hình to lớn nên thuyền và cá ông cùng hợp lực, dựa dẫm vào nhau để vượt qua sóng gió. Vượt qua những mối hiểm nguy tưỏng chừng như không thể nào thoát nạn được bỏi những điều vô cùng thiêng liêng và kỳ diệu, con người cảm thấy mình mang nhiều tình sâu nghĩa nặng đối với “ông”, từ đó nảy sinh vấn đề tâm linh, sùng bái cá Ông, đây cũng là một cách trả ơn mang đậm tính nhân văn của con người với cá Voi. Truyền thuyết của người Việt vùng biển Trung bộ thì cho rằng: Cá Voi là thế thân của Thế Âm Bồ Tát. Xưa kia, Đức Phật Quan Âm trong 2 lần tuần du đại hải, do ngậm ngùi đau xót cho số phận của người trần bị chết chìm ngoài biển khơi, nên đã xé chiếc áo cà sa làm muôn ngàn mảnh đem thả trên mặt biển và biến phép thành cá ồng, Đức Phật lấy bộ xương Voi ban cho để cá có thân hình to lớn, lại ban cho phép thâu đường để lội thật mau hầu làm tròn trách nhiệm cứu vớt người lâm nạn. Kể từ đó, cá Voi được coi như là ân ngư của đám thuyền chài ngoài biển. Lúc đầu, vóc dáng cá Voi tương đối nhỏ, không đủ sức chống chọi với sóng to gió lớn bao phủ ghe thuyền. Trước tình trạng ấy, Đức Phật Quan Âm liền cấp tốc mượn bộ xương của ông tượng trên rừng cho đàn cá. Nhờ được xương to, đàn cá có vóc dáng lớn và đủ sức chống chọi bão táp đại dương để cứu người lâm nạn. Từ đó loài cá này mang tên là cá Voi, vì mượn bộ xương voi mà to lớn như voi. Người ta còn cho rằng hài cốt của voi và cá Voi giống như một. Nhờ có sức vóc to lởn, cá Voi mặc sức vẫy vùng ngoài biển cả, tuy nhiên, do to lớn nên chậm chạp. Nhiều lúc biết có thuyền chài gặp nạn, nhưng do ở quá xa, dù 221
cá Voi có bơi đến nhưng cũng không kịp để cứu người. Để giúp cá Voi làm tròn trách nhiệm cứu người, Đức Phật Quan Âm đã ban cho cá Voi phép thu đường, giúp cho cá Voi ỏ bất cứ nơi nào, cần đến nơi đâu để cứu nạn đều ki.p thời. Nhờ có phép thu đường mà cá Voi đã kịp ứng cứu các thuyền lâm nạn không kể ỏ hải điểm nào, xa bao nhiêu. Những truyền thuyết về cá ông đều hướng về mục đích thần thoại hóa, lịch sử hóa 1 đối tượng từ lâu được tôn sùng và ngưỡng mộ. Loài cá nơi biển cả đã được hóa thân thành vị thần thiêng liêng của biển. Cơ sỏ của việc thần thoại hóa và lịch sử hóa ấy là niềm tin của những người sống bằng nghề biển, cốt lõi của huyền thoại ấy chính là đề cao việc cá Voi cứu giúp người gặp nạn ngoài biển khơi và giúp cho ngư dân được mùa biển. Theo kinh nghiệm của ngư dân, khi nhìn thấy 1 vùng biển hóa đỏ là ông xuất hiện, đồng thời hàng đàn cá mòi, cá cơm,...nổi đỏ và dày đặc. Khi ấy các thuyền lớn đổ xô, hối hả đến vùng biển có cá ông xuất hiện và đánh bắt được rất nhiều cá, có mẻ thu được hàng ngàn tấn. Khi đến nơi có ông xuất hiện để thả lưới, ngư dân thường khấn vái hoặc “hú” cho ông biết đi nơi khác để bà con làm ăn. Ví thế ngư dân Bình Thuận rất biết ơn ông, coi như vị thẩn đem lại những điều tốt lành cho con người. Năm nào có ông vào bờ thì năm đó sẽ được bội thu. Dù rằng có nhiều truyền thuyết khác nhau về cá Voi, nhưng trong tâm thức của ngư dân vùng biển đều coi cá Voi là thần. Bởi vậy người dân vùng biển không bao giờ ăn thịt cá Voi. Người gọi cá Voi bằng nhiều tên gọi khác nhau như: ông Khơi, ông Lộng, ông Sứa... Trong sự chuyển hóa từ 1 loại vật nơi biển cả thành 1 vị thần của ngư dân sống bằng nghề biển, có vai trò của vương triều nhà Nguyễn. Nhiều đời vua nhà Nguyễn đã ban sắc phong tặng cho cá Voi là “Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn thần”. Cũng như ngư dân các tỉnh miền Trung và Tây Nam bộ, ngư dân tỉnh Bình Thuận có niềm tin mãnh liệt vào sự linh thiêng của cá ông và coi đây là vị thần cứu trợ luôn ỏ bên cạnh họ trong những chuyến đi biển đầy nguy hiểm. Trong ngư dân Bình Thuận cũng lưu truyền rất nhiều sự tích ca ngợi sức mạnh và sự linh thiêng của ồng Nam Hải: Những sự tích đó được đúc kết dưới dạng những câu thơ, những bài hát và điệu hòa dân gian. Mặc dù, những sự tích đó mang nặng tính huyền thoại nhưng được ngư dân tuyệt đối tin tưỏng. Bởi vì họ là những người bị sóng gió vùi dập, và chính trong sự nguy hiểm đó đã chứng kiến cá Voi cứu mình. Trước đây phương tiện đánh bắt hải sản còn thô sơ, với chiếc thuyền con mộc mạc nhỏ bé, con người phải dùng chính sức mình để chống chọi với những cơn bão ập đến. Và trong cơn hoạn nạn ngư dân tin tưỏng vào và thường khấn vái: “Phục vận Nam Hải sinh thần linh thiêng hiển hách cứu nạn cho chúng dân tai qua nạn khỏi...”. Sau đó thần Nam Hải sẽ linh ứng xuất hiện, tựa thân mình vào thuyền vá dìu dắt vô bờ. Về nguồn gốc thì tập tục thờ cá Voi là nguồn gốc của người Chăm mà nhưng 222
lưu dân người Việt đã tiếp thu trong quá trình giao lưu văn hóa và trỏ thành tín ngưỡng dân gian quan trọng trong đời sống cua nhân dân vùng biển. Cũng chính vì xuất phát từ cội nguồn ấy mà tập tục thờ cá ông và các nghi lễ liên quan hằng năm chỉ diễn ra từ mạn đèo ngang (Quảng Bình) trỏ vào các tỉnh ven biển phía nam, mà khồng có các tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp diễn văn hóa, người Việt đã có những thay đổi biến cải cơ bản, từ nghi thức tổ chức đám tang lấy cốt cá ông, đến việc thờ tụng tế lễ hằng năm. ở đây có hiện tượng hòa đồng với một số tín ngưỡng khác của người Việt như tục thờ ông bà, tiền hiền, hậu hiền, hoặc kết hỢp với 1 số nghi lễ nông nghiệp như lễ cầu mùa, cầu an...Đặc biệt là việc rước xách thì hoàn toàn theo lễ nghi của người Việt, từ trang phục đến cờ, lộng, kiệu, phướn và những động tác hành lễ. Do những hạn chế về kiến thức khoa học, do tâm lý tin vào sự phù trợ của thần, Phật nên những người làm nghề biển gọi cá Voi bằng những tên gọi khác nhau như “ông Nam Hải”, “ông chuông”, “ông lộng”, “ông khdi”, “Ông sứa”,...và họ coi đó là vị thần hộ mệnh giữa biển khơi, và việc thờ cúng ông là việc đền ơn đáp nghĩa theo luật nhân quả của nhà Phật. Niềm tin ấy được phản ánh trong những bài hát bá trạo và các bài văn tế bằng chữ hán nôm, và cả trong một số bài sưu tầm được trong những vùng ven biển, ca ngợi ơn ông đã cứu người cứu thuyền qua cơn sóng gió. Nội dung của các nghi lễ chứa đựng niềm khao khát mộc mạc, chân thành của những người làm biển trên sông nước, hằng ngày phải đối diện với thiên nhiên, biển cả đầy huyền bí và bất trắc. Trong khoảnh khắc của lễ hội thiêng liêng và tin cẩn này, ta thấy khoảng cách giữa thần linh và đời sống dân dã dường như không còn nữa. Tục thờ cúng cá Voi với cội nguồn rất xa xưa, được phủ lên màu sắc Phật giáo và cả đa giáo phù hỢp với cấu trúc đa nguyên trong tín ngưỡng của người Việt, trong quá trình tổn tại và phát triển đã tiếp thu và tôn vinh một số đạo lý truyền thống thắm đượm tính nhân văn sâu sắc. Một đặc trưng dễ nhận thấy ỏ Bình Thuận là, đối với các làng quê làm nghề trồng trọt và chăn nuôi đều có ngôi đình để thờ Thành Hoàng làng và các bậc tiền, hậu hiền có công quy tụ dân cư đến khai hoang, lập làng dựng đình ngày trước. Còn các làng chài làm nghề đánh bắt và chế biến hải sản ven biển thường xây các lăng, vạn hoặc dinh để thờ ông Nam Hải và thực hiện các nghi lễ lien quan đến tập tục, tín ngưỡng thờ cúng cá ông. Theo ngư dân, đây là vị thần cứu giúp họ mỗi khi gặp tai nạn trên biển. Đó là vị thần thủy chung đối với họ nên được ngư dân kính yêu và tôn trọng. Tín ngưỡng dân gian gắn với tín ngưỡng nghề nghiệp từ đời này sang đời khác theo phong tục và truyền thống của ngư dân. Qua khảo sát, nghiên cứu, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng đình làng, dinh, lăng hoặc thờ ông Nam Hải có thể có ỏ những làng chài ven biển, chứ không thể có ở những làng quê nông nghiệp hay những nghề khác, ở Bình Thuận, từ các làng chài ven biển trong đất liền cho đến hải đảo hiện nay còn bảo lưu hàng chục ngôi 223
dinh, vạn, lăng, miếu thờ cá Voi. Hầu hết các lăng vạn được xây dựng vào thế kỷ XVII - XIX gắn với quá trình định cư và hình thành các làng chài ngày trước. Mỗi lăng vạn đểu lưu trữ và thờ phụng từ vài ba chục bộ xưdng cốt cá ông trỏ lên. Vạn Thủy Tú (Phan Thiết) được xây dựng vào năm Nhâm Ngọ (1762) và Vạn An Thạnh (Phú Quý) xây dựng vào năm Tân Sửu (1781) được coi là nhưỡng ngôi vạn được xây dựng sớm, có quy mô và bề thế nhất Bình Thuận. Đặc biệt ở Vạn Thủy Tú có thờ Thủy tổ nghề biển, ỏ đây còn bảo lưu trên 100 bộ xương cốt cá ông, trong đó có hàng chục bộ xương lổn có niên đại 200 năm. Có người kể rằng: “ Sau khi xây xong Vạn Thủy Tú, có 1 con cá Voi rất lớn “lụy” và trôi dạt vào bờ biển phía trước vạn. Ngư dâp^ trong làng và các làng khác của Phan Thiết đã hỢp sức cùng nhau đưa cá ông vào tạng trong khuôn viên của Vạn Thủy Tú. Vì xác ông quá lớn: Chiều dài 20m, sống lưng cao 4m và nặng hàng chục tấn nên mất 2 ngày mới đưa được ông vào khuôn viên Vạn, để đưa được ông vào, người ta phải phá dỡ cổng Vạn. Bộ xương cốt này được bảo quản đặc biệt bằng kinh nghiệm và lòng tôn kính ông của bao thế hệ ngư dân Vạn Thủy Tú mới lưu giữ gần như nguyên vẹn. Hầu hết các lăng Vạn đều được xây dựng trên những khuôn viên đất rộng rãi ỏ gần bãi biển, bốn bề xung quanh có xây tường bao bộc, trang nghiêm. Hướng chính của Vạn thường quay về phía nam hoặc đông nam, tức nhìn về hướng biển đông. Cổng chính dẫn vào Vạn thường chỗ ỏ giữa bức tường thành phía dưới đối diện khung chính điện, cổng được xây phỏng theo kiểu tam quan ở các đình làng, lối đi chính ỏ giữa rộng và hai lối phụ ỏ hai bên hẹp hơn. Trên đỉnh nóc cổng thường trang trí các hình tượng lưỡng long chầu nguyệt, các góc mái điểm xuyến, các phù điêu cá hóa long phù hợp với tín ngưỡng ngư nghiệp. Từ cổng chính của Vạn vào khung chính điện là 1 khoảng sân rộng để thực hiện nghi thức mai táng xác cá ông và thực hiện các nghi thức gắn với tín ngưỡng thờ cúng cá ông và lễ hội cầu ngư trong năm. ở các đình làng cũng có 1 sân rộng phía trước nhưng không rộng lớn như các Lăng Vạn, vì nó không có chức năng mai táng xác cá ông như Lăng Vạn. Qua khỏi cổng chính bước vào sân vạn theo trình tự trên 1 trục thẳng là đến cột cờ, bức bình phong, mặt chính bình phong nổi bằng vôi, vữa các hình tượng cá ông, tôm, mực và các loại cá khác đang vùng vẫy (cũng có 1 số vạn không có bức bình phong). Qua khỏi bức bình phong 1 khoảng là đến nhà võ ca, chính điện và cuối cùng là gian thờ tiền vãng. Phần lớn có hạng mục kiến trúc chính của vạn như võ ca, chính điện và tiền vãng được bố trí song hành kiểu chữ tam theo trình tự từ trước ra sau nối liền nhau là: Võ ca, Chính điện, Tiền vãng như Vạn Thủy Tú, Vạn An Thạnh.... Trong khuôn viên cCia vạn thường bố trí 1 khu vực vừa đủ rộng để mai táng xác ông gọi là Ngọc Lân Thánh Điện, thường được bố trí ở về bên tả hoặc bên hữu phía trước nhà Võ Ca. Phía trước khu mai táng xác ông có xây 1 tiểu am nhỏ gọi là 224
Công Quán hoặc quán mộ tò, trong Công Quán có 1 khám thờ thần Nam Hải ở giữa, đây là khu cúng tế các vị ở nơi nghĩa địa. Nội thất Chính Điện và Võ Ca bài trí nhiều hoành phi, câu đối trạm khắc chữ hán treo trên các xà ngang, dọc theo các vì cột và hoặc khắc trên các khám thờ, nội dung ca ngợi sức mạnh và sự linh hiển của thần Nam Hải, luôn bảo bộc, cứu giúp ngư dân trong những chuyến biển đầy gian nan thử thách, khắc ghi và lưu lại cho hậu thế những điển tích, những truyền thuyết xa xưa liên quan đến ông Nam Hải, và những lời hay ý đẹp nói lên long tôn kính, biết ơn của người dân lao động biển đối với cá ông. Giữa nhà Võ Ca thường xây 1 sân khấu để diễn xướng chèo bả chạo và hát bội vào các kỳ lễ hội hằng năm giống như nhà Võ Ca ỏ các đình làng, chỉ khác nhau là ở các đình làng không diễn xướng chèo bả chạo như các lăng vạn. Nội thất chính điện của các lăng vạn thường bài trí ba khám thờ giống như nội thất chính điện ở các đình làng nhưng nội dung thờ phụng thì hoàn toàn khác nhau, ở đình làng, khám giữa ỏ chính điện thờ Thành hoàng bổn xứ, hai bên tả hữu là 2 khám thờ tả ban và hữu ban. Còn tại các lăng vạn, khám giữa chính điện thờ “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần”, bên tả thờ ông Thủy Long, bên hữu thờ bà Thủy Long và đây là những vị nam và nữ thần cai quản dưới thủy tề. Do có chức năng bảo quản thờ phụng xương cốt ông nên trong các lăng vạn thường xây các tẩm lớn ỏ phía sau nối tiếp với các khám thờ trong Chính điện để làm nơi cất giữ ngọc cốt Ông. Đây cũng là điểm hoàn toàn khác biệt giữa lăng vạn với các đình làng. Còn ở gian thờ tiền hiển (tiền vãng) ở đình làng và lăng vạn hoàn toàn có nội dung thờ phụng tương đồng nhau, đây là nơi thờ phụng các Bậc Tiền, Hậu Hiền và những người có công việc quy tụ dân cư khai khẩn, lập làng, tạo dựng cuộc sống trên vùng đất mới và dựng đình vạn. Điều đáng chú ý là các lăng vạn ỏ Bình Thuận điểu có sắc phong của các vua, triều nguyễn phong cho cá Voi là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần”. Điều đó cho thấy các lăng vạn và tín ngưỡng thờ cúng cá Voi của ngư dân được các vua triều nguyễn công nhận và bảo hộ. Vạn Thủy Tú là nơi được nhận nhiều sắc phong nhất là 24 sắc, trong đó có 10 sắc phong của vua Thiệu trị; Vạn Tả Tân ỏ Phan Rí Cửa có 16 sắc, Vạn An Thạnh ở Phú Quý có 5 sắc... Lăng Vạn là những thiết chế lễ nghi truyền thống lâu đời của ngư dân, là nơi ngư dân thờ phụng các vị hải thần, củng tế các vị tiền bối, tạo dựng ngành nghề khai thác hải sản. Trước đây, mỗi Vạn đều có điều lệ vạn được xem như hương ước quy định những mối quan hệ xã hội trong nội bộ ngư dân khá chặt chẽ. Mục đích của Vạn là thờ phụng ông Nam Hải, giúp đỡ tương trỢ nhau trong việc làm ăn trên sông, trên biển. Ai muốn vào Vạn phải làm đơn khai rõ tên họ và nộp tiền nhập Vạn. Hội đồng trị sự sẽ quyết định cho vào hay cho ra. Khi Vạn nhóm họp thì mọi người trong Vạn phải ăn mặc tử tế, phải dùng lời lẽ lịch sự mà đối đãi với nhau, 225
không được dùng lời lõ lỗ mãng công kích lẫn nhau, không lấy thù riêng và gây gổ và rượu trà say sưa, la lối to tiếng làm mất thể chất trong Vạn. Trước đây, những người vào vạn thì ghe thuyền của mình được treo 1 dấư hiệu riêng để người trong vạn biết mà cứu giúp khi gặp nạn ngoài biển hoặc khi vào của gặp rủi ro. Người trong cùng 1 vạn khi thấy người khác bị rủi ro ở ngoài biển hoặc trong cửa mà không cứu giúp sẽ bị hội đồng trị sự xử trừ theo điều lệ. Một số nội dung điều lệ Vạn tóm tắt như trên được coi là “Luật bất thành văn”, những hương ước được đúc kết từ trong cuộc sống và lao động tồn tại lâu đời ở các vùng biển Bình Thuận bất cứ ngư dân nào cũng chấp hành 1 cách tự nguyện, mãi đến năm 1975 những điều lệ được coi là “Luật bất thành văn” nói trên mới bị mất đi.
5. NGHI LỄ ĐÁM TANG CÁ ÔNG VOI Theo phong tục người dân đi biển miền Trung thì tục thờ cúng vốn có, truyền thống tôn trọng cá ông, xem như một phúc thần cho cư dân vùng biển. Cho nên khi bắt gặp cá ông voi chết, họ cử hành nghi lễ đám tang rất trọng thể. Cá ông voi chết, dân chài gọi là ông lụy hoặc bà lụy, tùy theo cá đực hay cá cái. Gió nổi lên chỉ để đưa cá vào đất liển. Bắt gặp cá ông voi chết, người thấy xác cá ông đầu tiên có nhiệm vụ kéo cá vào bờ biển đề tổ chức lễ an táng. Bấy giờ họ trỏ thành người con trai trưởng của cá ông. Nếu cá Ông nhỏ chết, dân chài gọi là thai sẩy và gọi là ngài để tỏ lòng tôn kính. Người ta cố gắng đưa xác cá vào trong thuyền để chèo vào bờ. Đến bờ, thuyền vẫn giữ nguyên xác cá ông ỏ giữa thuyền, dân chài lấy giấy tiền, loại giấy có in đổng tiền để đốt trong các nghi lễ cúng tế, giấy trắng để bọc toàn thân cá ông, thêm hai cái chốt ở mỗi bên thân cá để giữ tư thế cân bằng. Phía trên đầu cá, người ta thắp nhiều cây đèn sáp và hương. Những dân chài khác lo dựng một ngôi nhà chòi bên cạnh nhà con trai trưởng của ngài để thỉnh cá ông voi đến đặt ỏ đó. Người ta không để cá ông nằm trong thuyền hoặc trong nhà bất cứ một ngư dân nào, ngoại trừ nhà của người đã trông thấy xác cá ông đầu tiên và kéo ông vào bờ. Ngư dân tin rằng, cá ông như cha mẹ cần có vinh dự dược cử hành lễ tang trong nhà của người con trưỏng. Chính người con trưởng phải tổ chức tang lễ và dẫn đầu đám ma, quyết định mọi việc. Các ngư dân khác chỉ có mặt ỏ đó để sẵn sàng giúp đỡ họ và hưỏng các ơn huệ sẽ do thần linh ban phát mãi mãi. Trong khi các ngư phủ làm nhà chòi để thình cá ông thì những viên chức lãnh đạo của hai làng chài viết giấy báo tang gửi đi các làng chài lân cận để thông báo ngày giờ, địa điểm, tham dự lễ đám tang cá ông “lụy”. Cuộc lễ chuẩn bị đám tang diễn ra trong nhà người con trai trưỏng của cá ông, 226
gần với chòi đặt thi thể cá ông đã được rước đến đó một cách kính cẩn. Thi thể cá Ông được đặt nằm trên chiếc chiếu hoa, được bao chung quanh một lớp vải đỏ, trên lớp vải ấy, người ta đặt một xấp giấy trắng. Khói hương nghi ngút chung quanh. Đèn sáp được thắp sáng lên mỗi lúc một nhiều hơn. Dân làng họp để bàn nghi lễ chôn cất cá Ông, địa điểm, chân chất và các nghi thức khác. Cuộc bàn bạc có thể suốt đêm vì tính chất quan trọng của buổi lễ, nhưng ai cũng tỏ ra phấn khích, hân hoan vì họ tin rằng cá ông sẽ phù hộ cho dân làm ăn phát đạt sau khi lo lễ tang chu đáo. Tiếng kèn, thanh la và tiếng trống vang lên suốt đêm lễ. Vì người dân coi cá ông như cha mẹ nên những nghi lễ được thực hiện như một đám tang người bình thường của thân nhân người dân sống ở đó. Đại lễ cá ông được cử hành từng giai đoạn theo Thọ Mai Gia Lễ của Khổng giáo, nhưng rút gọn hơn. Người ta trưng bày các loại cờ đại cổ truyền, cờ quốc gia và các loại phan lớn màu đỏ xung quanh khu vực nhà ông trưởng nam của cá ông. Lúc này người con trai trưỏng được bịt khăn đỏ để tang cá ông, cá ông được đặt vào trong một quan tài loại tốt nhất. Khi liệm người ta dã dùng trà thay cho cát, tro hoặc mạt cưa dùng để liệm người thường. Trà chỉ sử dụng cho người giàu có hoặc để các nhân vật cao cấp. Buổi chiều dân làng tổ chức cuộc đua thuyền. Nơi khởi hành và trở về của các ngư phủ đúng vào vị trí chỗ đặt quan tài của cá ông. Chính người con trai trưởng của cá Ông chủ trì cuộc đua thuyền ấy và phát giải thưởng cho những người thắng cuộc gồm 3 giải. Mỗi giải gồm có một cái phan màu đỏ, dài ngắn khác nhau tùy giải và những trữ đồng tiền cổ. Dân chúng luôn đến xem cuộc đua rất đông đảo. Những người lớn tuổi đứng chật chung quanh nhà chòi đặt cá ông, gẩn nhà người con trai trường. Những người khác thì đứng trên thuyền của họ để theo dõi cuộc đua. Tất cả mọi người đểu nhiệt tình cổ vũ nhiệt tình cho các tay đua. Hai ngày tiếp theo, chương trình giống hệt như ngày trước. Buổi sáng tiếp tục các cuộc lễ cúng bái; buổi chiều dành cho các cuộc đua trải. Phần thưởng cho cuộc đua là những cái phan đỏ mang ý nghĩa may mắn cho cả làng năm đó. Có người từ Quảng Nam ra, có người từ Quảng Trị vào khi nghe tin cá Ông chiếu cố vào hai làng chài này. Đó là những người gốc hai làng hoặc có bà con thân thích, vì kế sinh nhai phải đi làm ăn xa. Chiều hai ngày sau họ lại tổ chức cuộc đua và đây là các cuộc đua cuối cùng để đưa tiễn cá ông. Sự ganh đua sôi nổi, nhiệt tình, có lúc gây ra những cuộc cãi vã. Dân chúng nhiệt liệt tán thưởng những tay đua giỏi, điều khiển trải lộn vè nhanh nhẹn và tới đích đầu, chiếm những giải quan trọng. Các phan đỏ mà trải giật được trong cuộc đua là niềm vinh hạnh lớn của làng. Đó là dấu hiệu năm sắp đến làng sẽ thành công lớn trong công cuộc làm ăn trên biển. 227
Chiều ngày hôm sau đưa cá ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Từ sáng tinh mơ, người ta đã tiếng phèng la, tiếng trống và tiếng của thầy cúng tụng kinh. Trước khi đưa cá ông đi, ngư đua trải cuối cùng. Cuộc đua này có tính cách nghi lễ. Vì vậy, ngoại trừ những người tham gia cuộc đua, không ai chú ý đến cuộc đua mấy, vì tất cả mọi người đang chen nhau tìm cách tham dự vào đoàn đưa đám. ở nơi đặt quan tài cá ông, người ta dẫn ra một chiếc bằng lớn gồm ba chiếc thuyền của các ngư phủ kết lại với nhau. Bên trên bằng người ta trương ra một cái dù màu vàng với những cái phấn mà bóng mát của chúng có thể che được nắng. Toàn cảnh trông thật hùng tráng. Từ chiếc bằng ấy tỏa ra nhiều sỢi dây to để cho những chiếc thuyền phía trước kéo đi. Người ta tuyệt đối không dùng một máy nổ nào, tất cả đều dùng chèo, thuyền kéo đi một cách êm ả. Không một tiếng động để tăng thêm sự long trọng của đám tang bằng chính sự thong thả đó, và cũng để biểu lộ sự tôn kính có thể có được dành cho cá ông voi. Các ngư dân đã nhờ đội quân nhạc của vùng một chiến thuật cử nhạc chào mừng đám rước. Trong đội nhạc có nhiều loại kèn khác nhau thường thổi trong các lễ đưa đám của những nhân vật lớn. Các thầy cúng trong suốt buổi lễ đưa đám không ngừng tụng kinh cầu siêu và vái lạy để cầu nguyện. Khi đến địa điểm chôn cất, người ta đưa quan tài xuống cái huyệt đào sẵn. Việc coi đất, chọn hướng ngôi mộ phải nhờ một thầy địa lý sửa soạn trước. Ba ngày sau khi mai táng là lễ mỏ cửa mả. Khi chôn người ta đắp lên giữa mộ một mô đất nhỏ hình tròn, chung quanh người ta cũng đắp một vòng đất thấp uốn cong hơi dốc. Sau ba ngày, người ta trổ ỏ vòng đất uốn cong ấy một chỗ trống để có thể đi vào bên trong. Sau ba tháng mười ngày thì hết tang, chỉ đến khi đó thì mới có thể cỏi chiếc khăn mà họ bịt trên đầu. Tại sao khăn tang bịt trên đầu trưỏng nam cá ông lại có màu đỏ? Ngư dân đã giải thích, màu đỏ là màu tang của vua chúa và người trong hoàng gia. Nay cá ồng được tham dự vào hoàng gia, vua Gia Long phong cho cá ông tước hiệu "Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng đẳng thần" và các vua triều Nguyễn sau đó cũng sắc phong cá ông với danh nghĩa "Đại Càng Quốc Gia Nam Hải" cho đưa vào lăng thờ. Do ngày trước theo lời truyền tụng trong dân gian, vua Gia Long đã được một con cá voi cứu giúp, khiến tàu của ông khỏi bị lạc đường ngoài biển khơi, khi ông chạy trốn quân Tây Sơn. Chính quyền phong kiến trước kia quy định rằng: Làng nào bắt gặp cá ông chết thì lý trưởng phải báo cho phủ, huyện để quan khám định, cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ quấn đủ bảy vòng và cho khâm liệm, cấp đất xây lăng và ruộng hương hỏa để thờ cúng. Sau 3 năm thì cải táng, lấy xương xếp vào quách, khạp, đưa vào lăng, đình, vạn, đền, miếu xây sẵn để thờ tùy địa phương. Mỗi làng đều có người trông coi hương khói và một hội đồng quản lý làng. 228
Đám tang cá ông voi ỏ làng Phú Tân đúng là một ngày lễ hội tưng bừng của ngư dân vùng biển vùng Thuận An nổi tiếng ỏ Huế. Tục thờ cúng cá ông là tín ngưỡng dân gian, một nết đẹp văn hóa của cộng đồng dân cư ven biển Việt Nam.
6. Sự TÍCH THỜ CÚNG ÔNG HOÀNG MƯỜI Ông Hoàng Mười Ông Hoàng Mười hay còn gọi là ông Mười Nghệ An. ồng là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thẩn tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai Vua Lý Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An. Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lẩn xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mỏ kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mọi người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xun^ quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là ông Hoàng Mười (hay còn gọi là ông Mười củi) không chỉ v) ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vạn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đẩy, viên mân), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thố mà tiôn trôn Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thl thầm thương trộm nhớ. Sau các triểu dại dã sắc phong ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả dểu còn lưu 229
giữ trong đền thờ ông). Cùng với ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bỏi vì ông còn được coi là người được Vua Mẩu giao cho đi chấm lính nhậrf đồng (khác với ông Bảy, những người nào mà sát căn ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đển) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền lO.OOOđ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng dpi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai. Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: Cờ quạt bút sách... để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông. Khi thỉnh ông Mười, văn hay hát rằng: “ông Mười trấn thủ Nghệ An vể huyện Thiên Bản làm quan Phủ Dày” Hay nói vể tài đức của ông cũng có đoạn (cả trong hát văn và những câu hò xứ Nghệ): “Gươm thiêng chống đất chỉ trời Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung Hai vai nặng gánh cương thường Sông Lam sóng cả buổm giương một chèo” “Đất Nghệ An anh hùng hào kiệt Tiếng ông Mười lẫm liệt ngàn xưa Cung gươm lên ngựa đề cờ Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam” 230
“Chí anh hùng ra tay cứu nước Đi tới dâu giặc bước lui ngay Việt Nam ghi chép sử dày Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang” “Năm cửa ô tới Đô Thành Nam Đàn, Nghi Lộc nức danh ông Mười” Rồi có cả đoạn thơ hát khi ông Hoàng Mười “tái đáo Thiên Thai”: “Hoa đào rơi rắc lối Thiên Thai Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi ước cũ duyên xưa có thế thôi” Hay khi dâng ông miếng trầu têm, văn thường hát: “Đất lể quê thói Nghệ An Miếng trầu cau đậu dâng Quan Hoàng Mười”. “Muối đã mặn ba năm còn mặn Gừng đã cay chín tháng vẫn cay Ghế ông tình nặng nghĩa dày Xa xôi đến mấy, ra đây ngự đồng” “Xứ Nghệ vui nhất Chợ Vinh Đẹp nhất Bến Thủy, anh linh ông Mười”.
7. LỄ TẾ ÂM HỔN NGÀY THẤT THỦ KINH ĐÔ Có lẽ chẳng nơi nào trên thế giới cúng âm hổn mà quy mô tổ chức lại có tính cách toàn dân trong một thành phố như ở Huế trong ngày lễ cúng âm hổn 23 tháng 5 âm lịch. Đây là một hình thức cúng tế mà đơn vị tổ chức nghi lễ vừa có tính chất đơn lẻ trong từng gia đình, lại vừa có tính chất cộng đổng trong từng đoàn thể, tổ chức, tập thể những người cùng chung một ngành nghể, cùng ở trong một thôn, xóm, phường. 231
Tai sao toàn dân Huế lại tổ chức cúng âm hồn trọng thể như vậy, và lý do nào tập tục cúng lễ này lại còn giữ được qua bao nhiêu biến động của cuộc sống. Chúng ta hãy giở lại trang sử cũ của đất nước. Ngày 1-8-1883, Pháp nã đại bác vào Thuận An. Tối 20 tháng 8, Thuận An thất thủ; đột phá khẩu vào kinh thành đã mỏ. Triều đình hoang mang lo sỢ, chỉ có Tôn Thất Thuyết cưđng quyết lập trường đánh Pháp. Cuộc chiến đấu tự vệ mà ông và các đồng sự ráo riết chuẩn bị từ lâu đã đến lúc phải bùng nổ. Đêm 4-7-1885, Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc vũ trang chống Pháp. Đánh vào sào huyệt giặc ở Mang Cá và khu Tòa Khâm bên sông Hưđng. Quân ta chiến đấu rất gan dạ. Tôn Thất thuyết bố trí cuộc tấn công rất chu đáo, nhưng vì khí giới kém nên bị thua trận. Địch chiếm thành và đốt phá, hãm hiếp, giết chóc cướp bóc không từ một ai. Một cuộc chạy loạn hết sức đau thưđng và bi thảm xảy ra. Hầu như không có gia đình nào lại không có người bỏ mạng trong biến cố này. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là số dân chúng ỏ trong thành. Ngày 23 tháng 5 âm lịch (5 -7-1885) từ đó trở về sau đã biến thành ngày giỗ lớn, ngày “quẩy cdm chung” hằng năm của cả thành phố Huế. Họ cúng cho tất cả những người tử nạn; Quân sĩ, dân chúng, quan lại, thợ thầy, do nhiều nguyên do: Hoặc bị dày đạp, chen lấn nhau mà chết, hoặc bị đạn Pháp, hoặc bị ngã xuống thành khi tìm cách leo ra khỏi thành, hoặc sẩy chân rdi xuống hồ ao dày đặc trong thành... trong khoảng từ 2 giờ đến 4 giờ sáng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu. Ngày chính cử hành nghi lễ là ngày 23 tháng 5. Nhưng đối với các tư gia thì có thể tùy theo từng gia đình mà tổ chức từ 23 tháng 5 đến 30 tháng 5. Với các tổ chức tập thể và thôn phường trong thành phố, ngày cúng lễ cũng không quy định một cách cứng rắn. Nhưng thông thường ngày chính lễ vẫn là ngày 23 tháng 5. Những tổ chức cúng âm hồn ngày 23 tháng 5 là do nhân dân tự động kết hợp tổ chức ở các thôn, xóm, phường, xã ở trong tỉnh, các người cùng nghề nghiệp, chung sinh hoạt như tiểu thưdng các chợ lớn, nhỏ, các khuôn hội, chùa chiền, các tổ chức từ thiện. Hầu như toàn thể gia đình và tổ chức tập thể d Huế đều nao nức cúng âm hổn do xuất phát từ lòng cảm thưdng những người bị chốt trong biến cố một cách bi thưdng và oan uổng, hổn bđ vđ vất vưỏng, không có ai cúng cấp cho nên cúng âm hổn có ý nghĩa cao đạp là công cho "thập loại chúng sinh” chứ không hẳn cúng cho thân nhân trong gia đình mình. Tính nhân bản rộng lớn vả đạp đẽ là ỏ chỗ đó Từ ngày 23 tháng 5, nếu là một du khách mới đốn Huố lẩn đầu, người ta sỗ ngạc nhiên khi thấy vô số rạp được dựng lôn để cúng âm hổn trong thành phố. Nhạc cúng lễ vang động khắp nđi, hương trám nghi ngút tỏa cả đêm lẫn ngày. Ban đôm các thời củng của từng gia đình được đặt trước mặt nhà, hương đồn được đặt sẵn. Lễ vật cúng ít nhiều tùy gia cảnh nhưng tối thiểu phải có chè, cháo, gạo muối, bông ba hoa quả, hương, hương trầm, hột nổ, áo binh, giấy ngũ sắc cau trẩu rượu. 232
Đặc biệt trong lễ cúng 23 tháng 5 này, từ gia đình cho đến tập thể, phải nhớ có một bình lớn nước hoặc một thùng nước chè đầy và một đống lửa đốt bên cạnh bàn thờ cúng. Người cúng tin rằng các âm hồn sẽ đến uống nước và sưởi ấm bên đống lửa, vì nhiều người trong biến cố đã chết khát, và chết lạnh lẽo dưới ao, hồ, sông suối trong rạng ngày 23 tháng 5. Đó là lòng thương người chết vất vưởng dọc đường, dọc sá nên bàn cúng phải đặt trước sân, nếu là người thân và chết ỏ trong nhà thì mới bày bàn cúng ỏ bàn thờ. Rõ ràng tập tục cúng âm hồn này thể hiện một tấm lòng nhân hậu bao la của người cư dân xứ Huế. Nghi thức cúng âm hồn trang trọng nhất được tổ chức tại các am miếu trong thành phố Huế. Miếu âm hồn được thành lập lâu năm nhất là ngôi miếu ô góc đường Mai Thúc Loan và Lê Thánh Tôn hiện tại, nằm ở phía đông nội thành, cách cửa Đông Ba chừng 300 mét, ngôi miếu này được xây dựng vào năm 1895, sau biến cố thất thủ kinh đô mười năm, trải qua các cuộc đổi thay, nay vẫn còn. Tiến trình nghi lễ cúng tại miếu âm hồn hằng năm như sau: Ngày 22 tháng 5, dựng rạp ngoài trời, trang hoàng khu vực cúng tế ỏ miếu và bàn cúng lễ ỏ ngoài trời. Có năm lại thiết lập đài chiến sĩ trận vong trước miếu. Sáng 23 tháng 5, khoảng 7 giờ sáng làm lễ khai kinh, tụng kinh. Trưa 23 tháng 5, cúng ngọ theo nghi thức tôn giáo. Chiều 23 tháng 5, lúc 14 giờ làm lễ tế cúng âm hồn theo nghi thức tế lễ của Khổng giáo. Quan trọng nhất là ông chủ tế và ông xướng lễ. Tại đài chiến sĩ trận vong thì làm lễ truy điệu. Các người đảm nhiệm việc cúng lễ y phục chỉnh tề theo quy định. Phường bát âm được mời đến để cử nhạc trong buổi lễ. Qua nhiều bản văn tế sưu tầm được, chúng ta thấy người viết văn đã truyền một niềm xúc động vô biên cho người dự lễ: “Lô nhô trẻ dìu già, ông dắt cháu, chân còn di dầu gục lìa vai. Lao nhỏ con khóc mạ, vợ kêu chổng, tiếng chưa ngớt xương đã chất đống. Oan uổng quá mấy ông trôn võng, thinh lình sét đánh, sống chẳng trọn đời. Tội tình thay lũ trồ trong nôi, cắt cớ sao sa, chết dờ trắng bụng. Thương mấy cụ khlông sơn nón đấu, nặng nợ cơm vua áo chúa, được da ngựa bọc thây mới sướng, tức vì sao “tử bất thành danh". Tủl mấy cô áo chít quai trơn, vul nlểm tài tử giai nhân, nỡ vũng bùn chôn ngọc cho cam, uổng cái sổ “sinh nhi vô dụng”. 233
Trước một trận mưa đen mịt tối, tất thảy người mà tự thảy quỷ, một vùng chôn kẻ cực người sang. Sau ba hổi trống dục loa dổn, biết phận là biết đâu duyên, ba thước lấp anh hay chú vụng". Người gây ra thảm cảnh đó là quân đội xâm lược Pháp: “Ai ngờ vận trời năm Ất Dậu, tiết tháng năm còn dưới tuần trăng. Ghê thay luồng sóng ở Tây phương, quân đội Pháp kéo lên bắn tóe, Trận khói lửa đưa người chín suối, mất xác mất thây. Nào sang hèn rồi kiếp ba sinh, hết hồn hết vía” Trước thảm cảnh đó, cẩu mong cho các hồn chóng siêu thoát, xin tinh linh các đấng phò trì cho Tổ quốc trường tồn. Đó là ý nghĩa mà bài văn tế muốn truyền đạt: “Nào hồn đông hồn tây, hồn nam hồn bắc, chẳng đâu không gọi hồn về. Hỡi cô phu, cô phụ, cô tử, cô thần, may hãy còn mình, mình cúng. Cúng cha anh chú bác, thím mợ cô dì ta cả thảy, đau đoàn sau cùng đau đoàn trước, tình nhất sinh nhất tử sơ khác gì thân. Này hương hoa vàng giấy, xôi rượu muối trà, chút gọi rằng nếm lấy hơi, xin nếm lấy lòng, nghĩa đồng chủng đồng bào, thác xem như sống. Hỡi tinh linh các đấng, phòng trì cho Tổ quốc trường tồn. Này quốc ngữ đôi hàng, ao ước những chí thành năng động. Thương ôi! Xin hưởng”. Buổi tối là lễ đăng đàn chẩn tế do các nhà sư đảm nhiệm. Chủ lễ là một vị hòa thượng, tuổi cao đức trọng, đứng dọc hai bên là sáu vị kinh sư. Ý nghĩa của lễ đăng đàn này là cầu nguyện cho các hương linh được siêu thoát. Sau cuộc lễ là hình thức phóng sinh: Chim, lươn, cá... Trong lễ “đăng đàn chẩn tế”, vị hòa thượng chủ lễ thỉnh thoảng lấy tay vốc từng nắm xôi và đổng tiền kẽm đặt sẵn trong một cái khay lớn vất ra sân. Đám trẻ con chen chúc nhau lượm các đồng tiền trên lấy đây đeo cổ để trừ yêu ma quỷ quái. Sau kỳ lễ tế, vào ngày 12 tháng 6 âm lịch có tục đi chạp mộ tập thể những người tử nạn trong ngày thất thủ kinh đô. Địa điểm là nơi gần lăng cụ Kinh Tế, trên đường vào chùa Trà Am, có hai đám mộ tập thể chôn người tử nạn trong biến cố 23/5) tại núi Ngự Bình (những người này được vùi sơ sải, đến khi dọn tử thi trong thành nội, người ta nhận thấy khu vực có nhiều tử thi nhất là vùng sát với miếu âm hổn hiện tại. Có lẽ con đường dẫn đến cửa Chính Đông là con đường dân chúng ào ào chạy loạn, quân Pháp vào thành cũng theo cửa Chính Đông nên sự sát hại thật thảm khốc. Khi đào mộ cải táng, người ta thấy có mũ mang, bài ngà quan lại lân 234
xác ngựa). Tập tục cúng âm hồn bắt đầu những năm từ sau biến cố, kéo dài cho đến bây giờ, không năm nào gián đoạn, dù hơn trăm năm qua, Huế đã trải qua bao biến cố, chịu bao mất mát đau thương. Tuy nhiên, quy mô và hình thức cúng tế tùy theo từng giai đoạn lịch sử mà có sự chuyển đổi. Dưới thời đại quân chủ, vào ngày tế lễ, bà Từ Cung cho lính gánh lễ vật ra cúng tại miếu. Giờ hành lễ, quan lại các bộ trong Thành Nội cũng đến hành lễ. Năm nào phẩm vật và tiền bạc cúng phong phú thì ban tổ chức cho mổ bò, lợn để cúng tế. Tập tục cúng âm hồn là một mỹ tục thắm đượm tình nhân đạo, nghĩa đồng bào, đồng chủng, nó có đầy đủ ý nghĩa của một lễ hội dân gian mang màu sắc dân tộc đậm nét, tiêu biểu cho một vùng đất văn vật.
8. LỄ TẾ TRỜI ở ĐÀN NAM GIAO Ngày xưa, các bậc đế vương coi mình là thiên tử là con trời, mà trời là đấng chí tôn giữ gìn vận mệnh và ban phát hạnh phúc cho muôn dân nên thường năm họ đều tổ chức long trọng lễ tế trời rất. Vì là con trời, thay trời trị dân nên đích thân nhà vua phải đứng làm chủ tế để chứng tỏ hiếu nghĩa của một người làm con. Dưới triều Nguyễn, lễ tế trời được cử hành tại đàn Nam Giao vào trung tuần tháng hai hằng năm. Trước triều vua Thành Thái, lễ được tổ chức một năm hoặc hai năm một lần. Đến năm Thành Thái thứ 2 (1890), ba năm tế một lần, Đàn Nam Giao được xây dựng xong vào năm Gia Long thứ 5 (1806) ở làng Dương Xuân, phía nam Kinh thành Huế, trong một khuôn viên đất dài 390m, rộng 265m, trên một vị thế cao ráo, thoáng đãng. Chung quanh khuôn viên bao bọc bởi một vòng tường thành bằng đá trổ 4 cửa rộng theo 4 hướng Đông - Tây - Nam Bắc, trước mỗi cửa xây một bức bình phong rộng 12,5m, cao 3,2m, dày 0,8m. Đàn gồm 3 tầng: - Tầng trên cùng gọi là Đàn thượng hình tròn nên còn gọi là Viên đàn, đường kính 9 trượng 6 thước, nển cao 7 thước. Bốn phía đều xây bậc lên xuống, mặt nam 15 cấp, ba mặt bắc, tâý, đông đều 9 cấp. Xung quanh Đàn là một vòng lan can màu xanh tượng trưng cho trời, cao 2 thước. - Tầng thứ 2 gọi là Đàn trung có hình vuông nôn được gọi là Phương đàn, vòng lan can màu vàng tượng trưng cho đất. - Tầng dưới cùng gọi là Đàn hạ, cũng hình vuông, vòng lan can màu đỏ tượng trưng cho người. 235
- Bên trái đàn là Trai cung, nơi vua chay tịnh trước khi hành lễ. Bên phải có Thẩn khố là thần coi kho để đồ tế và Thần trù là thần rihà bếp chuẩn bị lễ vật cúng tế. Trước 1 ngày, bắt đầu từ canh 5, cấm binh cờ xí, giáo mác đẩy đủ, dàn bọc xung quanh đàn cả trong lẫn ngoài và các nhà Thần trù, Thần khố, Trai cung. Lính của các quân bộ binh xếp hàng nghiêm ngặt vào vị trí phân định của mình dọc hai bên con đường xa giá của nhà vua đi qua, kéo dài từ trong đại nội đến bến Phu Văn Lâu, qua bến đò bờ nam sông Hương ỏ xã Dương Xuân, cho tới tận đàn Nam Giao. Đồng thời kỳ lão 6 huyện thuộc phủ Thừa Thiên bày hương án hai bên đường từ bến đò bờ nam đó cho tới tận đàn sở, họ phải quỳ đón và quỳ tiễn xa giá của vua cho đến khi nhà vua yên vị tại Trai Cung. Đám rước bắt đầu vào lúc trời vừa tảng sáng, mỏ đầu bằng việc các Thái giám bưng Đổng nhân trong phòng Trai cung điện Cần Chánh bàn giao cho quan Thái Thường tự; Đồng nhân này sẽ được rước lên đặt ỏ Trai cung tại đàn Nam Giao. Một không khí chờ đợi, nao nức sống dậy sau một đêm thiếu ngủ trong hàng vạn binh lính, các kỳ lão và các dân chúng từ mọi vùng đến xem. Cờ xí, giáo gươm dựng lên phấp phới. Thế rồi, phút chốc cờ vàng tung bay trên Kỳ Đài báo hiệu giờ phút vua lên đường đến Đàn Nam Giao để tế trời. Đoàn Ngự đạo tiến về Đàn Nam Giao với 3 đạo: Tiền đạo, Trung đạo và Hậu đạo. Tiền đạo: Dẫn đầu bởi hai thớt voi trang hoàng rực rỡ, trên mình dựng lầu sơn son, mỗi thớt da một viên Quản tượng và 3 tượng binh điều khiển, chúng chậm rãi bước đi với dáng vẻ nghiêm trang. Tiếp theo sau hai thớt voi, tiền đạo được sắp xếp lần lượt như sau: - Hai võ quan cưỡi ngựa cầm cờ Cảnh tất có lính che lọng, theo sau là các võ quan gồm một viên Đô thống và hai viên Chánh quản di hai bên; đến hai toán lính nhung phục, toán bên trái khiêng một cái giá trống, đều che lộng đỏ. - Viên thống chế cưỡi ngựa che lọng cầm loa đồng, chung quanh là một toán lính mặc nhung phục, cầm cờ Ngũ hành (cờ Kim, Mộc ỏ bôn phải, cờ Thủy, Hỏa bôn trái; cờ thổ ở giữa). - Phường trống ngũ lôi (gọl là Ngũ lôl đổng cổ) mang não bạt, thanh la, trống (đánh hai tiếng một). - 60 lính Ngự lâm áo nỉ đỏ cầm cờ Tam tài, Tứ phương, Vân cẩm, Long vân, Thập nhị thời thần, Phong, Vân, Lôi, vũ và 8 lính Ngự lâm cẩm phan Thi huệ, Phu văn, Chấn võ, hành khánh. - 4 cấm binh cầm một lá cờ Bắc đẩu lớn đi ô giữa hai bôn là hai hàng lính cầm 28 lá cờ Nh| thập bát tú. 236
- cỗ x e N g ọ c lộ do m ộ t thớt voi kéo, hai hàng kỵ binh v à 14 bộ binh đi theo hộ
vệ. - Cỗ xe Long đình do 4 con ngựa kéo, hai bên che quạt lá vả thêu rồng, mây, chữ phúc, chữ thọ, 12 bộ binh đi theo hộ vệ hai bên. - Ban Đại nhạc với trống lớn, ken lớn, thanh la, tù và, nhưng không cử nhạc suốt đường đi. - Một toán lính dàn hàng tư cầm cờ Tam tài, Tứ phưdng, 10 cái tàn màu vàng. - Cỗ xe Long đình để rượu, gọi là phúc tửu, được cne bằng hai cái lọng vàng. - Một Long tiễn che bằng 4 lọng vàng, có 20 bộ binh hộ vệ hai bên. - Cuối cùng là kiệu cửu long khúc bính che 2 lọng vàng, 4 bộ binh đi theo hộ vệ. Trung đạo: - Đi đầu là viên Thống chế cưỡi ngựa, hai bên có hai con ngựa đóng bành, theo sau là hai viên Chánh quản đi song song. Hai giá trống, giá chiêng che lọng đỏ do một viên suất đội điều khiển đám lính khiêng, theo sau là một toán các võ quan. - Ban Nhã nhạc với đàn, sáo, hồ, nhị, phách, sênh, tiền. - Cỗ Long đình kim bảo đựng các thứ ngọc quý khi làm lễ do 6 người khiêng, hai hàng lính cầm tờ, quạt dàn hai bên để hộ vệ. Một đoàn lính Hộ vệ, Cảnh tất đi hàng hai, cầm cờ Thanh long, Bạch hổ, Huyển vũ, Chu tước, cờ Bát quái, Long, Phụng, Nhật, Nguyệt. - Cỗ xe long đình che hai lọng vàng, trong đó chở các đổ tế phục của vua. - Hai hàng lính Ngự lâm cầm tàn vàng, quạt vả, gưdng trường hộ vệ kiểu cửu long khúc bính che hai lọng vàng, sau kiệu là các vị tồn tước. - Bốn hàng lính cẩm y mang 4 đèn lồng, 2 lư hưdng, 2 hộp hưđng, 2 phất trần, 2 chiếc gươm tuốt trần chuôi mạ vàng, 2 thanh Ngự kiếm, 16 chiếc gậy Kim ngô, 16 chiếc gậy ngự trượng, 8 cái búa vàng, 8 cái vớt vàng. - Kiệu vua, hai bên che 4 chiếc lọng vàng bằng lụa thêu hoa, mây ngũ sắc; 4 chiếc tàn vàng bằng vóc thêu 9 con rồng; hai bên có 20 lính Thị vệ dàn hầu, đi sau là một ban Nhã nhạc vừa tiến hành vừa cử nhạc. Nhà vua ngồi trên long tiễn, đầu chít khăn vàng, mình mặc áo vàng, im lặng, trang nghiêm. Theo hầu sau kiệu vua là các hoàng thân, hoàng tử, các thái giám. - Bốn người lính khiêng Ngự kỷ (ghế của vua) che 4 lọng vàng, một toán lính Túc vệ vệ cầm búa vàng, vớt vàng theo hẩu. 237
- Xe nhuyễn như che 4 lọng vàng, có lính cầm cờ quạt đi hai bên. - Một cỗ xe Long đình che 4 lọng vàng, chỏ các đồ Ngự dụng (những vật nhà vua dùng) - 20 lính Thị vệ và hai con ngựa đóng bành. - Cuối cùng là một đám lính cờ, quạt phấp phới, đủ màu. Hậu đạo: • Mở đầu là các quan đại thần ban võ như Đô thống, Thống chế, Để đốc, Lãnh binh; theo sau là giá chiêng, giá trống và bốn hàng bộ binh dài cầm cờ Tam tài, Nhị thập thời trẩn, Nhị thập bát tú. - Một cỗ xe Long đình che 2 lọng vàng, 2 quạt vả, bên trong đặt tượng Đồng nhân, tay cầm cái biển ghi hai chữ Trai giói. Theo sau là đông đảo các quan võ tứ phẩm, quan văn ngũ phẩm trỏ xuống, người cưỡi ngựa, kẻ đi võng do lính khiêng, có che lọng. - Phần cuối của Hậu đạo, cũng là phần cuối của đám rước là một đám lính cầm cờ quạt và 2 thớt voi trang hoàng rực rỡ. Đến giờ quy định, Phưong đàn, Hạ đàn các hạng hương, đen, trầm, trà, các lễ phẩm trâu, bò, đèn, lụa, vàng, ngọc, chén, bát, xuôi, rượu... đểu được xếp đặt đầy đủ, tử tế vào các chỗ đã quy định. Các quan phân hiến, Bồi tế, Chấp sự có mặt ỏ vị trí của mình. Các ca công cung kính đứng chờ ỏ hai bên tả, hữu đàn. 30 viên quản cai, quản vệ, cai đội, hiệu úy của Thân binh, cấm binh dàn hàng hai bên Viên đàn. Hai bên bậc cấp Hạ đàn và Phương đàn, mỗi nơi có 8 viên quản vệ, cai đội lính Thân binh, cấm binh giơ cao đèn, đuốc, kiếm chờ đón vua đến làm lễ. Một vùng dèn duốc sáng rực giữa bốn phương dắm chìm trong bóng tối, giữa hơi sương mùa xuân nhẹ buông xuống vạn vật... tất cả tạo thành một khung cảnh vô cùng trang nghiêm, huyền ảo... để chờ Vua từ Trai Cung ra Đàn làm chủ tế. Sau khi lễ tế đã xong, chuông trống tại Trai cung gióng giả nổi lên. Đại nhạc, nhã nhạc, quân nhạc cùng nhất loạt cử hành. Kiệu vua đến cửa Bắc thì chuông trống ngưng tiếng: kỳ lão phủ Thừa Thiên quỳ đón, tiễn vua vể Đại Nội. Đến bến sông Hương, vua ngự lên thuyền, thay lễ phục bằng thường phục. Thuyền ngự vừa cập bến Phu Văn Lâu, lính Thị vệ, Biển binh đã chực sẵn để nghênh đón. Ngự giá theo cửa Quảng Đức tiến về Ngọ Môn. Chuông trống trên lầu Ngũ phụng nỗi lên. Khi ngự giá vào tới điện cần Chánh, Vua lên ngai vàng nhận lại kỳ bài do quan giữ thành đem nộp. Có thể nói, lễ tế Nam Giao là đại lễ quy mô nhất, tốn nhiểu công của nhất trong số các lễ hội triều Nguyễn. 238
9. NGÀY LỄ VU LAN ở HUẾ Vu lan cũng là ngày mà nhiều người dân Huế đi thăm mộ và thắp hương cho người quá cố, dù không đông bằng ngày Tết cổ truyền. Đây là một nét đẹp truyền thống của người Huế. Tháng 7 âm lịch, người Việt ta có một ngày lễ mà giới Tăng Ni, Phật tử thường gọi là lễ Vu lan. Đây là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất, một tập tục đáng quý, đáng trân trọng, thể hiện tinh thần “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Rằm tháng 7 âm lịch cũng là ngày xá tội vong nhân mà dân gian gọi nôm na là ngày cúng chúng sinh. Mọi người đến cửa chùa để tỏ lòng thành với người đã sinh thành ra mình, dù ai còn mẹ hay mất mẹ cũng làm mẹ đưọc vui... Tháng 7 âm lịch còn là tháng mưa Ngâu - gắn với sự tích ông Ngâu bà Ngâu hay còn gọi là tích Ngưu Lang - Chức Nữ. Không phải là ngày lễ của riêng Huế, trong dịp tháng 7 âm lịch này là lễ Thu tế làng Dương Nổ hay lễ hội điện Hòn Chén, nhưng Vu lan là nét riêng không thể nào lẫn vào đâu được, là dịp mà tính cách và tâm hổn Huế được bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Hòa vào cùng thiên nhiên, sự yên tĩnh của chùa Huế đã mang lại những giá trị tâm linh cho người dân Huế lẫn du khách viếng thăm, Từ các cụ già cho đến các em bé, cả gia đình cùng đi chùa, tạo nên một không khí thật ấm cúng nơi cửa thiền. Vu lan cũng là ngày mà nhiều người dân Huế đi thăm mộ và thắp hương cho người quá cố, dù không đông bằng ngày Tết cổ truyền. Đây là một nét đẹp truyền thống mà người Huế còn giữ được. Vu lan cũng là thời gian mà nhiều tổ chức và cá nhân thể hiện được lòng từ bi của mình bằng công tác từ thiện với những món quà ủy lao cho các bệnh nhân nghèo ở các bệnh viện hay những trẻ em nghèo, những người neo đơn, tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng. Ỷ nghĩa ngày lễ Vu lan của người Huế Ngày rằm tháng 7, người Bắc vẫn quen gọi là ngày "Xá Tội Vong Nhân" cúng các chúng sinh không nhà không cửa. Các chùa lớn vào ngày này thường mỏ khóa lễ phá ngục cho chúng sinh và tổ chức đại lễ Vu lan. ở miền Nam, rằm tháng 7 thường gọi là "Vu lan Thắng Hội", ngày để con cái báo hiếu cha mẹ. Sự tích của ngày cúng rằm tháng 7 cũng bắt nguồn từ Phật giáo. Theo đó, Mục Liên không phải tên thật mà chỉ là hiệu. Tên thật của Mục Liên là La Bộc. Chuyện xưa kể rằng... La Bộc là con ông Phổ Tướng và bà Thanh Đề. Vì gia đình túng thiếu, La Bộc phải đi buôn bán ỏ tỉnh Kiên Liên. Khi đã giàu có, La Bộc nhớ tới mẹ già liền cho người về quê biếu tiền mẹ. Bà mẹ ăn xài hết nhẵn số tiền 239
đó rồi, lại sai người giết chó làm nhân bánh biếu sư. Đến lúc La Bộc về thì bà mẹ lại chối và nói rằng bao nhiêu tiền con gửi về cho đã đem cúng cả vào đền chùa miếu vũ rồi. Chẳng bao lâu bà mẹ chết. Chịu tang mẹ 3 năm, La Bộc đi qua nước Ki Đô là nơi Phật ỏ, La Bộc xin ở lại tu luyện. Phật thương tình ưng thuận, sai thầy Kha Na cắt tóc ông và đặt tên là Đại Mục Khiên Liên(Mục Liên) và cho vào tu ỏ chùa Lă Bí trong rừng Quýt Sơn. Muốn đến rừng Quýt Sơn phải đi qua ngôi chùa Thiên Giai là nơi có những âm hổn nghe kinh. Mục Liên chĩ nhận ra người cha là Phổ Tướng còn mẹ là Thanh Để thì không. Mục Liên ôm mặt khóc, Phật hiện lên bảo cho biết là Thanh Đề vì khi sống điêu ngoa gian ác nên bị đầy xuống ngục A Tỳ rồi. Mục Liên nghe vậy liển lặn lội xuống ngục A Tỳ tìm mẹ. Nơi đây bà mẹ Mục Liên phải chịu trăm ngàn cực hình, thấy con tới bà khóc lóc nhờ con tìm cách cứu. Mục Liên thấy mẹ bị như vậy liền lấy bình bát, đem cơm dâng mẹ. Mẹ ngài được cơm nhưng chưa vào miệng cơm đã hóa ra than lửa đỏ hồng. Tôn giả Mục Liên thấy mẹ như thế gào khóc bi thảm, về bạch Đức Phật. Phật dạy phải nhờ tới uy lực mười phương Chúng Tăng, cách cứu độ để những bà mẹ hiện đang đau khổ đều được giải thoát. Ngày rằm tháng 7 là ngày tự tứ của mười phương Tăng, tất thảy đều từ bi, ứng thọ. Ai được cúng đường Thánh Tăng thì tất cả đều vượt ác đạo, ứng niệm giải thoát. Cũng thế chiếc chậu Vu lan đựng những tu lực chứng tâm hậu nhất của những đệ tử Đức Phật có thể chuyển nghiệp ác thành nghiệp lành của con người. Mục Liên làm đúng lời Phật dạy, quả nhiên mẹ ông được giải thoát. Mục Liên theo mẹ bay lên trời cầu xin Đức Phật xóa tội cho bảy đời họ hàng nhà mình. Cũng xuất phát từ tư tưởng “Nhân- Hiếu- Trung- Tín” của Nho giáo và Đạo giáo bên Trung Quốc, ngày rằm tháng 7 còn gọi là "Tết Trung Nguyên" có tục tế lễ tổ tiên. Đạo giáo còn cho rằng Trung Nguyên một trong ba "Nhật Kỳ" của tam cung thần cai quản họa phúc của con người chính là ngày Địa cung xá tội. Theo tín ngưỡng dân gian thì ngày này ở âm phủ khảo chiếu sổ sách để đại xá cho các linh hồn ma quỷ cô đơn ngoài đồng nội. Vì vậy ngày này cùng với cúng tổ tiên nhân dân còn nấu cháo hoa, bỏng ngô, tiền giấy cúng chúng sinh mong họ siêu thoát cũng để tích công đức cho bản thân. Dựa vào tích ấy, vào ngày rằm tháng 7, các chùa đều làm lễ chay chạy đàn, phá ngục cho các tội nhân. Nhà nhà cũng theo đó thành kính làm lễ vỉ tin rằng ngày đó dưới âm vong nhân xá tội cho những người quá cố. Noi gương hiếu thuận của Mục Liên, ngày rằm tháng 7 trở thành ngày Tết Vu lan, con cái báo ân cha mẹ. Ngày rằm tháng 7 năm nào cũng vậy, dường như chẳng có gì thay đổi, trời đổ mưa, những mâm cúng chúng sinh vẫn những đổ ăn thức uống ấy, vẫn những câu chuyện kể sự tích năm xưa nhưng thắp hương. 240
10. PHONG TỤC THỜ CÚNG MA CHAY CỦA NGƯỜI THỪA THIÊN HUẾ “Sinh hữu hạn tử vô kỳ”. Có sinh ắt có tử. Sinh, lão, bệnh, tử là quy luật của tạo hóa. Phong tục ma chay của nhiều địa phương trên địa bàn Thừa Thiên Huế tuy có nhiều nét khác nhau nhưng vẫn giống nhau ở những điểm cơ bản. Khi có người qua đời, nếu chết ở đường xa, quan tài không đem vào nhà, mà làm tang ở ngã ba đường cái. Nếu qua đời trong sự bình thường, quan tài thường được đặt ỏ nhà lớn. Tùy theo địa vị trong gia đình đặt ỏ căn giữa, căn trên hay căn dưới. Người ta truyền miệng cho nhau trong làng cùng biết. “Nhất cận thân, nhì cận lân”, bà con lối xóm tập trung đông đúc, người làm rạp, người trang hoàng, người tẩm liệm. Công việc tất bật trong ngày đầu. Từ chết không ai được dùng đến, mà gọi là mất. Người vừa mất được đặt trên cái giường quay đầu ra ngoài sân. Cơm gối đẩu Liền sau khi mất, người nhà đơm một chén cơm đầy vung, chén cơm để một cái trứng vịt đã lột vỏ và cấm vào chén cơm đôi đũa tre, trên đầu đũa có vót cho tre quấn lại thành cái bông, rồi để chén cơm ấy phía trên đầu người chết. Tẩm liệm Người chết được tẩm liệm bằng nước sôi để nguội, dùng vải sạch lau lên thi thể. Có khi phun rượu để uốn nắn chân tay đã cứng và cong. Thay bộ quần áo cũ bằng bộ quần áo tang vải sô. Mặc thêm bộ quần áo thường dùng còn mới, cắt bỏ khuy nút bằng kim khí, xương, sành, để tránh sau này thi thể thối rữa, nút lẫn lộn với xương. Người ta nhét vào miệng người chết miếng bã trầu và vài hột gạo hoặc cái khâu màu vàng, tục này gọi là phạn hàm. ở tay đặt vào vài đồng tiền xu xưa, hoặc tiền đang lưu hành, mục đích để người chết dùng tiền mà “đi đò” đò âm dương. Theo tục lệ cũ thì từ dương gian sang âm phủ phải qua đò âm dương. Đặt trên bụng một con dao hay cái liềm để trừ tà ma. Lúc khâm liệm, người lớn tuổi tin Phật, đắp thêm trên người chiếc áo Quan Âm. Những người chết oan, giờ xấu thêm vào quan tài là lá bùa do thầy pháp vẽ, hay bỏ thêm bộ bài trùng. Thân thể được vấn lại bằng cây vải thô dài trắng. Chọn giờ tốt mà nhập liệm tránh tương khắc những người thân trong gia đình, nhất là người trưỏng. Quan tài được trét đất sét phía trong, đất nhào thật nhuyễn với nước cơm trát đầy phía trong, ở các góc và các kẽ hở. Dùng lá chuối xanh dán vào lớp đất, lót ở trong đáy hòm nhiều mùn cưa, mun phòng hờ nhiểu năm sau, có thể cải táng mà nhận dạng. Khi làm lễ hạ thổ thi thể đàn ông đưa lên đưa xuống đất 7 lần, đàn bà 9 lần. Nói như vậy nhưng mục đích là để khí dương trong thân thể người chết thoát hết 241