Viết&Đọc
Đặc San 2021 Viết&Đọc Đặc San 2021 1
Viết & Đọc Đặc San 2021
mục lục
Năm thứ 21 Ngỏ Ban Thực Hiện Lời Hiệu Triệu đầu Năm Mới 2021 của Đức Vua Harald Nguyễn Văn Thà Trâu ơi, ta bảo trâu này... Hoài Mỹ Thơ: Phận nguời như nhau Khánh Hà Thơ: Khung Trời Bình Yên, Xếp Lá, Góp bài Đêm thánh, Con Suối Mùa Đông Nguyệt Minh Hoài Mỹ, Tâm Thanh, Khánh Hà, Cung Vĩnh Viễn, Góp nhặt niềm tin Đoàn Mai Tâm Đoàn Mai Tâm, Dương Kiền, Thơ: Cung Vĩnh Viễn Cung Vĩnh Viễn Phạm Tín An Ninh, Minh Hồng, Nguyễn Văn Thà Phụng Long, Nguyễn Văn Thà, Hoàng Lan Chiều Hoang Nguyệt Minh, Nguyễn Tiến Tưởng niệm thi sĩ Phụng Long Nguyễn Trọng Trí Thành, Chân Nguyên, Phạm Phạm Tín An Ninh Xuân Đài, Ngọc Tuyền , Nguyễn Những Mùa Mưa Trong Ký Ức Trọng Trí, Nguyễn Dũng, Hàn Xin em gọi tôi là anh Nguyễn Dũng Dị Hương. Bức chân dung Tâm Thanh Ốc Đảo Cô Liêu 2 Hàn Dị Hương Bìa Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ Nguyễn Tiến Thành Đặng Văn Tỷ Đoản văn Minh Hồng Minh Hồng Thơ: Thu giã từ, Ai? Hàn Dị Hương Liên lạc Sinh nhật nhớ Bọ Mạ NTV vietdoc.nauy@gmail.com hoặc Câu chuyện những giấc mơ Chân Nguyên Đinh Ngọc Cần Người dắt lạc đà Tùng Duy Hi Ulsholtvn 46E Nguyễn Văn Thực dịch 1053 Oslo, Norway Về tập thơ Ở Đây của Khánh Hà Phạm Xuân Đài Hái lộc đầu năm Ngọc Tuyền Đặc San Viết & Đọc không phải Cuối Đường Chưa Đến Dương Kiền là tiếng nói của đoàn thể hay bất Nhạc Quốc Khanh kỳ tổ chức nào. Phát hành mỗi Ngày vui đã qua Thơ Nguyễn Dũng năm một lần vào tết Nguyên Rồi một ngày Thơ Nguyễn Dũng Nhạc Thảo Hồ Thực hiện Đinh Ngọc Cần Dương Kim Nguyễn Văn Thực Đặng Bản
Đán, mọi chi phí do sự đóng góp của quý thân hữu và bạn đọc. Phát hành trên mạng điện tử từ Đặc san 2021
2 Viết&Đọc Đặc San 2021
3 4 8 15 16 18 21 22 31 36 43 44 47 48 52 57 58 60 70 82 85 86 91 92
Ngỏ
Bạn thân mến
Nhà thơ Cung Vĩnh Viễn đã thốt lên: ”Ta ở quê người thương nhớ mãi/ những mùa xuân cũ đã xa xăm.” Không phải chỉ Cung Vĩnh Viễn mới nhớ Xuân xứ Việt, mà còn nhiều, nếu không nói là tất cả, người Việt xa quê đều thương Xuân, nhớ Tết. Các cây viết của Viết & Đọc tại Na Uy cùng chung nỗi niềm đó, nên cũng như mọi năm, năm mới Tân Sửu, 2021 này, cùng góp bút mực cho ra đời giai phẩm bạn đang có trong máy. Tại sao lại là trong máy? Xin thưa: Theo đà phát triển nhanh chóng của kỹ thuật truyền thông, lần đầu tiên giai phẩm Viết & Đọc đến với quý độc giả dưới hình thức PDF và Ebook. Trước tiên là bài hiệu triệu hàng năm của Đức Vua Harald của chúng ta, đầy những lời an ủi, thăm hỏi, khuyến khích, cũng như củng cố niềm tin cho thần dân của Ngài. Ngày 22.07 năm nay là giỗ mãn tang nhà văn Hoài Mỹ (22.7.2018 - 22.07.2021). Để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn nhà văn uyên bác, tài hoa đã cống hiến cho chúng ta những bài biên khảo sâu sắc mà hóm hỉnh trong suốt nhiều mùa xuân qua, Viết & Đọc đăng lại bài Trâu Ơi Ta Bảo Trâu Này...”, vốn đã được in trong giai phẩm Xuân Kỷ Sửu, 2009. Những bạn bút, đàn em của nhị vị tiền bối: Phạm Tín An Ninh với bút ký chiến trường Những Mùa Mưa Trong Ký Ức; Nguyễn Văn Thà với Hoàng Lan Chiều Hoang điểm về những tang thương dâu bể sau ngày 30/4, nhân kỷ niệm 45 năm ngày đau thương tràn về cho phần còn lại của xứ Việt; Chân Nguyên với Câu Chuyện Những Giấc Mơ, những giấc mơ về những tan tác, đoàn viên cũng sau ngày đổi đời ấy; Trương Duy Hi lại tiếp tục về những thống khổ ấy trên đất Trung Cộng với truyện Người Dắt Lạc Đà, qua ngòi bút dịch thuật vững chãi và tài hoa Nguyễn Văn Thực; Đoàn Mai Tâm Góp Nhặt Niềm Tin trong một chuyến về thăm quê; Tâm Thanh, nhà văn quá cố của chúng ta, để lại cho chúng ta truyện Bức Chân Dung, một truyện lạ lùng, bút pháp chín mùi, thượng thừa, lại cùng một đề tài đất nước thống khổ như những tác giả viết truyện kể trên. Thật không dễ gì quên, lại càng không thể quên khi Xuân về, Tết đến. Rồi những đoản văn khi đời thường, khi lạ lùng của Minh Hồng. Nguyễn Tiến Thành phân tích ”Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” Nguyệt Minh: ”Vòng đời trôi thật lẹ/ Đông, xuân, hạ rồi thu/ Tuyết, mưa, nắng, sương mù /Ngẩn ra đầu đã bạc” Không phải chỉ bạc tóc, mà còn có người nằm xuống như anh Phùng Long, tức nhà thơ Phụng Long của chúng ta. Nguyễn Trọng Trí có bài tưởng niệm thi sĩ. Dương Kiền tiếp tục một chương khác trong truyện dài Cuối Đường Chưa Đến. Dòng thơ lạ của Hàn Dị Hương, nhẹ nhàng nhỏ bé của Nguyệt Minh, già giặn kiếp nhân sinh của Cung Vĩnh Viễn, Khánh Hà. Tranh bìa với màu sắc rực rỡ mà làm cho lòng người thưởng ngoạn bình an ngày Xuân của Đặng Văn Tỷ. Cuối cùng, hai ca khúc ngắn Ngày Vui Qua của Quốc Khanh, và Một Ngày của Thảo Hồ, cả hai bài, lời là thơ của Nguyễn Dũng. ”Con sầu ăn cội cánh hoa tim” như Hàn Dị Hương đã viết? Cánh hoa tim không cằn, chẳng cỗi mà vẫn nở hoa giữa những ngày đông giá trong lòng người dân Việt ở Na Uy. Cuối cùng, Viết & Đọc cũng không quên kính chúc quý thân hữu, quý độc giả một mùa xuân Con Trâu Cui an lành, an trong tâm, lành xác thể giữa những tháng ngày đầy lo lắng vì đại dịch Vũ Hán.
Ban Thực Hiện Viết&Đọc Đặc San 2021 3
Lời Hiệu Triệu đầu Năm Mới 2021 của Đức Vua Harald
Bản Việt ngữ: Nguyễn Văn Thà
Tối nay, trước hết Trẫm muốn gửi lời chào đến tất cả những người bị ảnh hưởng bởi tai nạn sạt lở đất ở Gjerdrum. Đối với tất cả chúng ta, đây là một biến cố rất khủng khiếp.
quyền, cả các cơ quan cứu trợ khẩn cấp lẫn các hội đoàn đã nỗ lực hết mình trong những điều kiện thật khó khăn. Các bạn vẫn còn rất nhiều công việc nặng nhọc phải làm đang trải ra trước mặt. Và một lần nữa chúng ta thấy đồng bào đang vận động Trẫm đồng cảm với những nạn nhân đang bước nhau để giúp đỡ những đồng bào đang lâm vào sang năm mới với nhiều muộn phiền và bấp bênh. cảnh khốn đốn. Điều này làm Trẫm vừa tự hào vừa Với những người đã mất nhà mất cửa và những cảm động. người hiện đang tuyệt vọng và không biết mình Thảm họa ảnh hưởng đến rất nhiều người này đã sẽ ra sao. xảy ra vào cuối một năm vốn dĩ là một năm khó khăn cho tất cả chúng ta. Đồng thời Trẫm muốn khen ngợi cả các cấp chính 4 Viết&Đọc Đặc San 2021
khi nhìn về tương lai: Trẫm rất cảm thông với các ngàn bức vẽ và lời chúc từ học sinh thủ đô - vì bạn. các em không thể diễu hành qua Dinh Vua trong Lễ Quốc Khánh năm nay. Một số các em đã viết Năm rồi là một năm với những thất vọng, những ra được những cảm xúc y như nhiều người trong chương trình phải huỷ bỏ, những việc phải hoãn chúng ta cảm thấy trong lòng: lại. Một năm mà chúng ta đã phải cố gắng rất nhiều. Nhưng rồi chúng ta vẫn hy vọng rằng chính «Cháu nhớ những cuộc gặp nhau chơi đùa. Dịch vì thế mà chúng ta có rất nhiều điều để hướng tới! bệnh thiệt là ác nhơn ác đức.» , một cháu học lớp 3 viết. Chúng ta đang cùng nhau sống trong một cơn đại «Cháu có thể nướng bánh một mình, nhưng cháu dịch – nhưng nó đã ảnh hưởng đến chúng ta mỗi cần có một người bạn để ăn chung», một cháu người một cách. Đối với một số người, đó là năm khác viết. vỡ mộng, mất việc và đã khổ giờ lại khổ thêm. Và Trẫm tin rằng chúng ta tất thảy đều có thể đồng Nhưng những người khác lại nhận ra rằng gia đình ý với cháu Alva 8 tuổi, rằng: «Cháu mong có một mình trở nên gắn bó hơn và rằng chúng ta học ngày mọi thứ sẽ lại trở nên bình thường.» được cách trân trọng cái đời sống bình thường ở ngay đây, trong thời khắc hiện tại. Và biết đâu đây Ngày 17 Tháng Năm đối với nhiều người, dù gì đi là chuyện trong họa có phúc. nữa, vẫn là một ngày vui toàn quốc. Chúng ta hầu như không dám hy vọng vào điều đó. Chính xác là Tối nay, Trẫm thành tâm cảm tạ tất cả mọi người. năm nay, có đầy đủ lý do để ăn mừng lớn hơn một chút, vì chúng ta đánh dấu kỷ niệm 75 năm, ngày Trẫm cảm tạ những người đã phải bỏ những tiệc Na Uy được giải phóng khỏi chế độ Đức Quốc Xã. sinh nhật trong gia đình và lễ hội mừng ngày chấm Và rồi các giá trị của chúng ta, mọi thứ chúng ta dứt 12 năm đèn sách, tiệc cưới, những vòng tay đã từng xây dựng và cùng nhau tạo nên, đã bị thử ôm ấm nồng, những ngày lễ truyền thống mà mình thách một cách quyết liệt sau khi Đệ nhị thế chiến dấu yêu. chấm dứt. Cảm ơn các người đã hát khuyến khích từ ban Bây giờ chúng ta đã chứng minh được rằng chúng công, đi chợ cho cha mẹ già và tự cách xa nhau – ta có một chính quyền dân chủ, một chính quyền chỉ vì lo cho sức khoẻ của người khác. lèo lái hữu hiệu một quốc gia lâm vào khủng hoảng, một chính quyền được xây dựng trên sự tin Hoàng Hậu và Trẫm, như những ông bà nội, ông tưởng lẫn nhau giữa chính quyền và người dân - và bà ngoại khác, cũng nhớ những lúc được ôm con, giữa người dân với nhau. ôm cháu mình. Nhưng thôi, Hoàng Hậu và Trẫm hi vọng sẽ được ôm bù cháu con thật nhiều trong Chúng ta đã thấy lòng dũng cảm và tài kinh bang Năm Mới. tế thế trong những tình huống buộc phải lựa chọn những quyết định khó khăn. Vào Tháng Giêng năm 2020, kỷ niệm 30 ngày đăng quang của Hoàng Hậu và Trẫm. Trong suốt Chúng ta đã thấy được tầm quan trọng trong việc thời gian 30 năm này, chúng tôi đã từng tuần du quản trị và điều hành các giá trị của chúng ta một vòng quanh Na Uy và được gặp gỡ mọi người, đây cách khôn ngoan và thận trọng, Chuyện điều hành là điều đã mang lại cho Hoàng Hậu và Trẫm niềm và quản trị như thế đã tạo cho chúng ta một cột vui lớn hơn hết. Hoàng Hậu và Trẫm nhớ trong xương sống kinh tế vững chắc khi chúng ta thực lòng những cuộc gặp gỡ loại này với thần dân đáng sự đem nó ra dùng. lẽ sẽ diễn trong năm nay. Nhưng thay vào đó, giống như những người khác, chúng tôi vẫn giữ liên lạc Chúng ta đã từng có ý chí đáng khâm phục, biết với thần dân bằng cách khác. Trong số những cách sáng tạo và biết suy nghĩ để những giải pháp mới khác đó, chúng tôi đã nhận được rất nhiều thư. khi toàn thể ngành công nghiệp bị tê liệt gần như chỉ sau một đêm. Một vài lá trong những lá thư cảm động nhất chúng tôi nhận được vào Ngày Quốc Khánh 17 Tháng Chúng ta đã chứng tỏ rằng chúng ta sẵn sàng hy Năm. Vào dịp này, chúng tôi đã nhận được hàng sinh nhiều thứ của bản thân vì lợi ích của cộng Viết&Đọc Đặc San 2021 5
đồng. Và vì nhau. Chúng ta đang lâm vào một tình huống nghiêm trọng - cả ở Na Uy và trên thế giới. Nhưng khủng hoảng buộc phải thay đổi, những thay đổi vừa tốt vừa cần thiết - ngay cả khi có những thay đổi làm cho chúng ta đau đớn. Lịch sử đã cho chúng ta thấy như thế lần này đến lần khác.
các em: huấn luyện viên, giáo viên, cha của một người bạn…
Bây giờ chúng ta phải là «một» của nhau. Có người dừng lại và nhìn xem có chuyện gì không, cũng có người nhấc điện thoại hỏi thăm ai đó. Có rất nhiều người ở đất nước của chúng ta hiện nay cảm thấy rằng cuộc sống dường như đang rời xa họ. Cả già lẫn trẻ đều nghĩ rằng họ đang trải qua một khoảng Trong một thời gian ngắn, chúng ta đã thấy bầu thời gian tồi tệ. trời xanh và nước trong ở một số nơi ô nhiễm nhất trên trái đất. Chúng ta mang theo hình ảnh này Đối với những người trẻ tuổi, khoảng trống không trong tâm trí chúng ta. Hình ảnh này mang lại hy có sự tiếp xúc với xã hội là hoàn toàn không tự vọng cho chúng ta, cho chúng thấy cơ hội cải thiện nhiên. Đối với người già, mỗi ngày đều đáng quý. - và cũng trao cho chúng ta trách nhiệm. Trong khi chờ đợi, khi chúng ta tiếp tục chịu đựng Vì vậy, hỡi các thần dân thân mến – Chúng ta sẽ đi và cố sống những ngày tháng, tốt nhất theo năng theo con đường nào? lực tối đa của chúng ta, Trẫm chắc chắn rằng chúng ta sẽ học được một điều quan trọng mà chúng ta Chúng ta có lẽ phải chuẩn bị cho một năm mới đối có thể mang theo ngay cả khi cơn đại dịch đã kết mặt với những bất trắc và khó khăn, nhưng chúng thúc: ta cũng có lý do chính đáng để lạc quan. Vắc xin mang lại hy vọng cho toàn thế giới. Nhiều người trong chúng ta đã nhận ra cuộc sống hàng ngày thực sự tốt đẹp như thế nào. Há không Đồng thời, đây vẫn sẽ là thời điểm khó khăn đối phải là tất cả những điều vốn dĩ bình thường mà với phần lớn sinh hoạt của các đoàn thể và doanh chúng ta nhớ nhất hay sao? nghiệp của chúng ta. Chúng ta vẫn sẽ có một cuộc sống hàng ngày không bình thường. Đã là người, Chúng ta nhớ công ăn việc ổn định, tốt lành và chúng ta được phép vừa sợ hãi, vừa buồn bã và những sinh hoạt mà chúng ta vốn coi là đương tuyệt vọng. nhiên. Nào là tụ tập cùng bạn bè, đồng nghiệp và gia đình. Nào là tiếp xúc với nhau và hào hứng với Chúng ta phải rộng lượng với nhau - và với chính nhau trong những lúc cùng nhau tham dự một sinh mình. Vì nơi tất cả chúng ta, cả những ngày này, hoạt trong nhà văn hóa hoặc trên khán đài bóng đá cả tính khí lẫn lòng dũng cảm, chúng khi lên khi trong một cuộc thi đấu. Chúng ta nhớ những lúc xuống. Âu cũng là chuyện tự nhiên. tạm nghỉ: trò chuyện bên máy pha cà phê, những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên trong cửa hàng. Thường Tuy nhiên, hỡi các thần dân thân mến: Chính khả thì trong những lúc giải lao ấy thường diễn ra năng cùng nhau đạt được điều gì đó đã giúp chúng những cuộc gặp gỡ có giá trị giữa chúng ta với ta vượt qua những khó khăn - cả hiện tại và trong nhau. quá khứ. Bây giờ chúng ta phải cố gắng bung ra những sức mạnh mới mà chúng ta có thể chưa biết Chúng ta cũng học được một điều quan trọng rằng chúng vốn nằm sẵn trong chúng ta - trong bản khác: Chúng ta chịu đựng được nhiều hơn những thân và trong một xã hội biết đoàn kết. gì chúng ta nghĩ. Điều nhận thức này sẽ cho chúng ta sức mạnh và sự an ổn trong tâm hồn – cho cả cá Chúng ta phải chăm sóc lẫn nhau. nhân cũng như quốc gia. Chúng ta sẽ ghi nhớ điều này khi lần kiểm tra sức mạnh kế tiếp sẽ đến. Trẫm đặc biệt quan tâm đến con cái của chúng ta và các thanh niên thanh nữ. Một khi phải đứng Các thần dân quý mến của Trẫm, gác quá lâu, thì sẽ có nhiều đau khổ và cô đơn có thể lọt khỏi tầm nhìn. Những người trẻ dễ bị tổn Trẫm không thể nói rằng mọi thứ sẽ ổn và mọi thứ thương càng dễ bị tổn thương khi họ mất đi những sẽ như trước. chỗ quen thân - hoặc những người đã từng gặp gỡ Một cậu bé đã hỏi Trẫm trong một bức thư: «Thưa 6 Viết&Đọc Đặc San 2021
Ngài, Ngài đã được một trăm tuổi chưa?» Trẫm có thể trả lời cho cậu bé: Không, Ta không già đến thế đâu. Nhưng Ta đã tham gia vào rất nhiều việc trong suốt một cuộc đời dài, và Ta có thể hứa với con:
hội của chúng ta, trong nền dân chủ của chúng ta. Chúng ta phải tự biết rằng chúng ta đã vượt qua bởi vì chúng ta không bao giờ từ bỏ hy vọng. Vì hy vọng là một cách sống. Hy vọng là ý chí, hy vọng là hành động. Hy vọng là tập trung vào điều gì đó có ý nghĩa đối Đại dịch chúng ta đang gặp phải bây giờ sẽ qua đi với chúng ta - và làm theo nó. thôi. Hy vọng sẽ mang tất cả chúng ta vào năm 2021. Chúng ta đã từng trải qua những thử thách lớn trước đây. Trẫm cầu chúc mỗi mỗi một người được một năm Một ngày nào đó chúng ta sẽ nhìn lại và hỏi nhau: mới hạnh phúc, khang an! Trời đất, làm thế nào mà chúng ta đã vượt qua được cơn đại dịch này? 31.12.2020 Lúc ấy, chúng ta sẽ tự biết rằng chúng ta đã vượt qua được nó bởi vì chúng ta đã sử dụng tất cả những gì tốt nhất - trong mỗi chúng ta, trong xã
Viết&Đọc Đặc San 2021 7
Trâu ơi, ta bảo trâu này... Hoài Mỹ
Tống Tí: Từ Hán-Việt ”tống” có nghĩa là tiễn đưa, nghe êm tai, chứ không như tiếng Nôm, ”tống” là đuổi đi, nghe ”lạnh lùng sương gió” quá. Là một dân tộc vốn trọng nhân nghĩa, người Việt mình mỗi lần ”tống” con Giáp cũ đều có những nghi thức linh đình với cỗ bàn, cúng bái cho dù năm vừa rồi không ”ngon lành” như đã khấn vái từ đầu tân niên. Năm Mậu Tí vừa qua, con chuột gây nhiều tai họa cho dương gian hơn là mang lại hạnh phúc. Trong nước, dân Việt vẫn phải sống dưới ách thống trị của chế độ độc tài sắt máu. Những hoạt động tranh đấu dân chủ, những cuộc biểu tình phản đối đảng Việt cộng dâng đất, hiến biển Việt Nam cho Trung quốc, những buổi ”thắp nến cầu nguyện” đòi nhà nước trả lại tài sản cho Giáo Hội, những vụ khiếu kiện của dân oan... tiếp tục diễn ra quyết liệt nhưng vẫn không được lắng nghe, trái lại còn bị chính quyền thẳng tay đàn áp dã man hơn nữa. Trên thế giới, chiến tranh vẫn ”mệt không nghỉ”, nào tại Iraq, Afghanistan, nào ở Trung Đông, Phi Châu... Trong khi đó, con cháu Mohammed liên tục ”vô tư” mà ”ôm bom tự sát” ở những chỗ đông người, tạo nên mối đe dọa khủng bố thường xuyên. Thêm vào đó, thiên tai như được chuột hỗ trợ mà ”thừa thắng xông lên”, hết giông bão lại lũ lụt, hết tuyết lở lại động đất... Gần cuối năm Tí, nhân loại còn ”ngất ngư con tàu đi” trong cơn khủng khoảng tài chánh bi đát chưa từng thấy trong lịch sử kể từ sau vụ suy sụp chứng khoán năm 1939. Chuột ra đi mà còn để lại bao hậu quả 8 Viết&Đọc Đặc San 2021
đầy huyết lệ cho con Giáp mới thừa kế. Ấy vậy khi tiễn đưa chuột về dĩ vãng, theo phong tục cổ truyền, người Việt vẫn có những cử chỉ đẹp, nào hoa trái tươi rói, nào thức ăn nóng hổi vừa thổi vừa cúng. Thế nhưng, không hiểu có phải vì bất mãn với lối cai quản trần gian xìu xìu ển ển của chuột không mà cũng vào thời điểm năm tàn, trời xui đất khiến cho chuột gặp ”sao quả tạ” chiếu mệnh, xui tàn canh. Số là vào ngày 19 tháng 10 dương lịch, nhằm 21 tháng 9 Mậu Tí, giáo sĩ Hồi Giáo Muhammad al-Munajid đại diện hoàng gia Saudi Arabia đã tuyên đọc trên các hệ thống truyền thanh, truyền hình quyết định kết án ”fatwa”, tức tử hình chú chuột Mickey Mouse. Toàn thể tín đồ đạo Hồi được chỉ thị ”thánh chiến” với loài chuột nói chung, với Mickey Mouse nói riêng. Nguyên nhân? Theo lời giải thích của giáo sĩ kiêm học giả al-Munajid, chiếu theo luật Hồi giáo, chuột, bất phân ”chủng tộc”, đều là ”quân sĩ của quỉ Satan” (soldiers of Satan). Bởi vậy, tiên tri Mohammed dạy giết chuột là chính nghĩa, ăn ý với đức Allah cao cả. Kẻ nào khi chiến đấu với chuột mà bị chuột cắn chết hoặc lây cho bệnh dịch hạch, đương nhiên trở thành ”thánh tử đạo”. Nghinh Sửu: ”Nghinh” cũng là một từ HánViệt, nghĩa là đón, rước chứ không phải ”nghinh” hay ”nghênh” tiếng Nôm chỉ thái độ nhìn ngang, ngửa và chẳng kiêng nể ai cả. Dĩ nhiên đón, rước còn quan trọng hơn tiễn đưa, bởi thế người Việt có tục lệ ”nghinh tân” với những câu đối, pháo đỏ, với ”thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh” đồng thời tổ chức đình đám, hội hè, ăn chơi trong 3 ngày
liền, vì quan niệm những gì mình làm trong thời gian đầu năm mới sẽ mang lại điều may, vận đỏ trong suốt năm. Bởi thế già trẻ lớn bé đều tạm dẹp tất cả sự đời đen bạc để ”vui như Tết”. Năm nay Kỷ Sửu, người Việt đón rước con TRÂU. Trâu còn được quen gọi là ”ngưu”, tuy nhiên đúng ra, ngưu chỉ con bò; trâu phải là ”thủy ngưu”. Dân gian có câu ”ngưu đầu mã diện” hay ”đầu trâu mặt ngựa” để nói về quỷ sứ dưới âm phủ hoặc phường hung tợn, bọn tay sai của nhà giầu gian ác trên trần thế. Con của trâu mang tên khác: Nghé - tuyệt nhiên chẳng ai gọi là ”trâu con”. Nghé chưa giúp được việc gì, hoàn toàn lệ thuộc vào đàn và phải có người chăn: - Xẩy đàn, tan ghé. - Công anh chăn nghé đã lâu, Bây giờ nghé đã thành trâu ai cầy! - Trâu anh con cưỡi con dòng Lại thêm con nghé, cực lòng thằng chăn! Bình thường bản tính trâu hiền, trừ khi bị khiêu khích quá độ, trâu trở nên hung dữ, dùng đầu húc, sừng chém tứ tung, khủng khiếp lắm - ”sợ trời, sợ đất, không bằng sợ trâu điên”. Thế nhưng không hiểu sao, thiên hạ lại hay dùng tên trâu để chửi mắng hay mỉa mai: ”Đồ trâu”, ”dại như trâu”, ”đánh như đánh trâu”, ”khỏe như trâu”, ”đờn khẩy lỗ tai trâu”, “hùng hục như trâu”... Lại nữa, trâu là loài gia súc, lớn con, chỉ có một hàm răng, hai sừng to, dài, hơi dẹp và cong đều; lông thì “lơ thơ tơ liễu buông mành”, móng chẻ. Trâu thuộc giống nhai lại, thích nước, khoái dầm nơi ẩm ướt nên bị chê là ”lấm như trâu vùi” hay ”bẩn như trâu dầm”. Trong số gia cầm, trâu khỏe nhất. Ngay cả bò, đối thủ được xem là tương đương về vóc dáng, nhưng theo nông gia chấm điểm, bò vẫn thua xa trâu về sức lực: - Trâu gầy cũng bằng bò giống. - Yếu trâu cũng bằng bò khỏe. Bởi to xác nên tên trâu thường được đặt kèm với vật hay sự gì lớn khác thường, chẳng hạn: Cá chim trâu, hành trâu, rau cần trâu, sống trâu (chỗ gồ ghề trên đường đi), chửa trâu (mang thai quá kỳ hạn mà chưa đẻ) … Ngoài ra cũng vì thân hình vĩ đại mà trâu còn mang ngụ ý chỉ ”lòng tham lam” như câu chuyện cổ tích sau đây: ”Xưa đồn có một quan huyện rất thanh liêm, không bao giờ nhận của đút lót bao giờ. Bà huyện biết tính chồng nên cũng từ chối mọi quà cáp. Một làng nọ muốn nhờ quan huyện bênh cho thắng kiện, nhưng không dám mang lễ vật đến nhà, sợ quan gạt đi. Họ bèn năn nỉ ỉ ôi bà huyện khiến bà xiêu lòng. Nể tình, bà bày cách: ”Quan huyện nhà tôi tuổi Tí. Dân làng đã có ý như vậy thì cứ về đúc một con chuột... bằng vàng, mang đến đây, rồi tôi sẽ cố nói giùm cho, họa may được chăng!” Dân làng nghe lời, về gom góp tiền của, đúc một con chuột cống to, toàn bằng vàng, đem
đến lén lút đưa cho bà huyện. Một hôm, quan huyện chợt thấy con chuột vàng trên tủ thờ, mới hỏi ở đâu ra. Bà huyện liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, quan huyện mắng: ”Sao mà ngốc quá vậy! Lại đi bảo tuổi Tí! Cứ bảo tuổi Sửu có được không?” Mạn phép nhắc quí ông có vợ hay người yêu tuổi Sửu, năm nay chớ tặng nàng món quà nào mang hình dáng... ”sửu” nhé, e sẽ bị nghi ngờ là có ngầm ý chê nàng thứ đồ ”to như trâu” hay ”béo như con trâu trương”. Hoặc nếu nàng ngỏ ý muốn có món trang sức bằng kim cương hay ngọc thạch giống... con trâu thì phải khéo léo gạt phắt đi, kẻo gặp ”khủng khoảng tài chánh” dễ như chơi đấy! Đệ nhị Giáp: Trong 12 con Giáp, chuột đứng đầu. Đáng lý to lớn như trâu phải giữ chức thủ quân chứ, đàng này chỉ đứng hạng nhì. Ấy cũng bởi trâu quá chất phác đến độ ngờ nghệch nên bị chuột bé xíu qua mặt mà không hay. Số là khi muốn chọn 12 con vật để thay phiên nhau cai quản trần gian, Ngọc Hoàng đã cho mở một cuộc thi bơi qua dòng Thiên Giang. Tất cả động vật, bất kể ác thú hay gia súc hoặc sâu bọ... đểu được ứng thí. 12 con nào về tới đích trước, sẽ trúng tuyển. Biết mình nhỏ bé lại yêu ớt, chuột ranh mãnh đã lợi dụng lúc trời còn nhá nhem tối, nhẩy lên nấp sau tai của trâu. Vốn khỏe phi thường, trâu bơi nhanh nhất. Khi trâu vào gần bờ bên kia sông, chuột phóng mình lên trước, chạy ba chân bốn cẳng đến trình diện trọng tài Thiên Lôi. Rồi lần lượt mới tới trâu, cọp, mèo, rồng... Nhưng rồi mánh mung của chuột cũng bị lật tẩy, tuy nhiên trâu cũng chẳng khiếu nại, kiện cáo. Vì thế trâu bị các con Giáp khác chọc quê: ”Dại như trâu”. Lời chê bai ấy bay cả xuống dương gian, truyền tụng cho tới tận thế Cũng nhân nói về ”to”, ”nhỏ” giữa chuột và trâu cũng như ”khôn” và ”dại” trên đây, thiết tưởng không vô ích khi nhắc lại một câu hỏi của phần đông dư luận, thế tại sao trâu ”bự”, người ”bé” mà trâu vẫn thuần phục người, phải chăng trâu ”dại”? Câu trả lời đã nằm sẵn trong câu chuyện ngụ ngôn này: ”Ngày xưa, một người đi cày, thường quát tháo, đánh đập con trâu đến thế nào đi nữa, trâu cũng phải chịu. Một con hổ lúc đó ngồi trên bờ, thấy lạ, lựa lúc người nghỉ tay, mới mom men đến gần trâu, hỏi: ”Này trâu, mày to lớn thế này, trong khi người chỉ bằng bắp chân của mày, cớ sao mày lại để người đối xử tàn nhẫn như vậy?” Trâu nhếch môi nửa như muốn cười, nửa chế giễu, đáp: ”Người bé, nhưng trí khôn người lớn”. Hổ ngạc nhiên, xưa nay chưa từng nghe nói trí khôn, hỏi lại thì trâu cũng chẳng biết cắt nghĩa thế nào. Hổ bèn tra vấn người: ”Người kia! Trí khôn của người đâu, đưa ta xem! Người thong thả trả lời: “Trí khôn ta để ở nhà”. Viết&Đọc Đặc San 2021 9
Hổ hách dịch: “Về lấy ra đây, ta muốn xem thử!” “Ta về rồi ở đây mày ăn trâu của tao thì sao? Hay là… Nếu mày đồng ý để tao trói mày lại thì tao mới an tâm về nhà lấy trí khôn cho mà xem”. Hổ quá tò mò, thuận để người lấy thừng trói lại. Trói xong, người lấy bắp cầy vừa phang vào lưng hổ vừa nói: “Trí khôn của tao đây! Này, trí khôn của tao đây!” Sau đó, người châm lửa đốt hổ. Nóng quá, hổ lăn lộn để thoát thân, nhưng cũng từ đó nó mang những vết rằn ri là do dây thừng cháy xém, để lại những dấu tích trên lông hổ. Trên đường từ ruộng về làng, cứ nghĩ đến sự dại dột của hổ, trâu lại cười ngất, chẳng may vấp phải ụ đất, ngã lăn xuống ruộng, gẫy mất một hàm răng. Và cũng từ đó loài trâu chỉ còn một hàm răng mà thôi”. Xuất xứ của trâu?: Đọc sử sách, người ta được biết ở trên trời cũng có trâu, dưới gian trần này dĩ nhiên cũng có, nhưng không thấy viết đâu là nơi xuất xứ đầu tiên của trâu. Mà nếu trâu là ”người nhà trời” như phần đông con thú khác thì không hiểu vì nguyên nhân hay phạm lỗi lầm nào mà trâu bị đày xuống dương thế? Ngược lại, nếu trâu sính quán ở cõi đời ô trọc này thì nhờ đâu mà vượt biên lên được thiên đình để định cư? Cổ nhân ta chỉ kể lại một yếu tố đã có sẵn ở trên trời, ấy là nghề chăn trâu qua hai sự tích Ngưu LangChức Nữ và Thằng Cuội. Theo đó, Ngưu Lang, con nhà nghèo làm nghề chăn trâu; Chức Nữ, con gái Ngọc Hoàng. Đôi trai tài gái sắc say mê nhau đến độ chàng thì bỏ bê cả việc học hành và chăn trâu, nàng quên cả việc quay tơ. Ngọc Hoàng giận lắm, bèn ”rẽ thúy chia uyên” bằng cách bắt mỗi người ở một bên bờ sông Ngâu và chỉ cho gặp nhau một năm một lần mà thôi, vào mồng 7 tháng 7 âm lịch. Vào ngày này đàn chim ô thước thương tình, xây thành cây cầu bắc ngang sông cho Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau nhanh chóng chứ không phải chạy vòng vòng tìm đò chuyên chở. Gặp nhau, chàng và nàng khóc sướt mướt; nước mắt ngập xuống cả dưới trần thế. Dân gian mới gọi đó là Mưa Ngâu. Còn về Thằng Cuội, ca dao có câu: ”Thằng Cuội ngồi gốc cây đa, Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời! Cha còn cắt cỏ trên trời, Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên”. Cuội vốn người trần gian chính cống, nhưng là một kẻ đi nói dối cha, về nói dối chú, suốt đời chỉ những nói dối và đánh lừa người. Sau cùng, Cuội lừa được một lão trượng hiền lành để lấy một cây đa thần. Vì vợ Cuội đã phạm điều tối kỵ là đái vào gốc cây linh thiêng ấy khiến cây bật gốc bay lên trời. Cuội vừa từ ruộng về, sẵn tay có cái cuốc, liền móc vào cây, mong giữ cây lại được. Nào ngờ, cây đa cứ bay cao mãi, kéo cả Cuội theo, lên tới cung Quảng (mặt trăng) thì dừng lại. Nơi đây đã có sẵn trâu để Cuội chăn hầu có kế sinh 10 Viết&Đọc Đặc San 2021
nhai, nhưng đặc biết nhất là có cả Hằng Nga xinh đẹp tuyệt vời. Trâu ĐÃ biết nói: Truyện cổ tích của bất cứ nước nào cũng xác quyết là ”ngày xửa ngày xưa, tất cả loài vật đều biết nói tiếng người”. Sau vì các ”sự cố” xẩy ra khác nhau mà từng loài đã mất đi khả năng phát ngôn ấy. Như trường hợp của trâu sau đây: ”Thuở trước, trâu may mắn được vào ở trong nhà một ông chủ tốt bụng. Ông thường khuyên răn đứa ở phải chăn cho trâu ăn thật no. Mỗi chiều trâu từ đồng về, ông lại đích thân hỏi trâu ăn no hay không. Một ngày kia, đứa ở quá mê chơi, để trâu đói đến độ hai cái hông hõm vào thật sâu. Đứa ở sợ chủ la, bèn lấy hai mo cau lót hai bên hông trâu rồi bên ngoài lấy bùn đắp lên, trông không thể biết; ai cũng tưởng trâu vùi bùn nên lấm cả mình mẩy đó thôi. Như thường lệ, ông chủ thấy trâu về, ân cần hỏi trâu no hay không. Đứa ở vội cướp lời: ”Thưa ông, trâu no lắm rồi ạ!” Không ngờ trâu cãi lại: ”No gì mà no! Trong mo ngoài đất. Không tin, lật coi!” Chủ khám, quả thấy lòi mo với đất ra. Ông liền đánh đứa ở một trận thật đau. Nó chạy ra ngoài đồng ngồi khóc thảm thương. Chợt lúc đó có một ông thần đi ngang, thấy vậy dừng lại hỏi nguyên do. Đứa ở kể hết sự thật. Ông thần bảo nó rằng: “Mày về lấy một nén hương, đốt lửa mà châm dưới hàm trâu là tự khắc nó không nói được nữa”. Đứa ở làm y như lời thần dạy. Từ bấy giờ, quả thật trâu không những chẳng còn biết nói nữa mà dưới hàm trâu còn nổi lên một cục thịt dư to bằng hạt nhãn”. Không hiểu sự kiện loài vật không nói được tiếng người nữa là điều đáng tiếc hay điều may mắn. Thử tưởng tượng ta mang một con chó hay con mèo chẳng hạn… từ Việt Nam qua Mỹ hay ngược lại, chắc hẳn ta cũng phải lo sao cho nó học ngoại ngữ để nó có thể hội nhập môi trường mới hay ít ra khi dẫn đi đâu, cũng phải làm thông dịch viên cho nó. Thú thật, chết còn sướng hơn! Lịch sử loài vật chỉ ghi lại việc chúng không nói được tiếng người nữa, nhưng chúng vẫn duy trì được ngôn ngữ của chúng - mà ngôn ngữ loài vật thuộc loại quốc tế đấy nhé, nghĩa là dù khác “chủng tộc” hay địa phương, chúng hiểu nhau hết trơn. “No problem!”. Câu chuyện “trí khôn” trên đây là một minh chứng hùng hồn. Tiếc rằng thời nay không còn cụ Hồ Sinh trong thi phẩm Trinh Thử nữa, người duy nhất trên đời thông thạo tiếng loài vật . Trâu với các loài vật khác: Loài vật có tâm lý không? Có chứ! Chúng cũng mang đủ tình cảm “hỉ, nộ, ái, ố…”. Riêng với trâu, những đặc tính nổi bật hơn cả là “an phận”, “tủi thân” và “ghen tị”; bởi thế mới có thành ngữ: “Trâu cầy ghét bò buộc” hay ca dao: “Trâu buộc thì ghét trâu ăn. Quan võ thì ghét quan văn dài quần”.
* Đặc tính “an phận” của trâu phản ảnh rõ rệt nhất là trong cuộc “hội ngộ” giữa trâu nhà và trâu rừng: “Một hôm, người cầy ruộng thả trâu lên núi cho ăn cỏ. Bỗng có một đàn trâu rừng đến dỗ dành trâu nhà rằng: “Chúng tôi thấy anh cũng ngon lành, to lớn, khỏe mạnh, oai dũng với đôi sừng vênh ngược lên thế kia. Thế mà chẳng hiểu tại sao anh lại để thằng bé cỏn con nó xỏ dây vào mũi, bắt đi cầy, bừa dù mưa lạnh hay nắng gắt cũng phải chịu, lại lắm khi đói khát cũng không dám kêu than!... Hãy xem chúng tôi đây, ăn ở với nhau từng đàn, từng lũ trên rừng xanh, núi rậm, muốn ăn thì ăn, chơi thì chơi, chẳng bị ai quản thúc mà cũng chẳng sợ kẻ nào… Lấy tình đồng loại, chúng tôi mới bày tỏ lẽ phải cho anh nghe. Hãy theo chúng tôi về rừng cho có bàu, có bạn. Anh ạ, theo chúng tôi thì khôn; không nghe thì chết đấy”. Trâu nhà đáp lại: “Thank you! Các anh nói vậy cũng phải, nhưng tôi lại nghĩ khác: Tôi ở dưới này, khi ăn, lúc uống thì có một thằng chăn; lúc ngủ, lúc nằm lại có một nhà riêng. Kể ra như vậy cũng phong lưu chứ. Còn ngày nếu phải cầy, bừa thì âu cũng là công báo ân nghĩa người đã nuôi mình, chăn mình, có chi là khổ sở… Còn các anh ở trên rừng xanh, núi biếc tuy tự do thật đấy nhưng phải dầm sương, dãi gió, ăn không chắc bữa, uống chẳng chắc hơi, thất thường lắm. Ấy là tôi không nói khi gặp cọp, beo, các anh sức mấy được an toàn, dễ dàng bị chúng sơi tái… Thôi thì cảm ơn các anh, xin để mặc tôi; đường các anh, các anh cứ đi; đường tôi, tôi theo!” Trâu nhà nói đoạn, mỗi bên đi về một hướng, không chuyện trò với nhau nữa, nhưng dường như bên nào cũng không khỏi có điều… suy nghĩ”. * “Tủi thân” vốn là tinh cảm của những kẻ mang nhiều mặc cảm tự ti, yếu đuối. Trâu tuy to xác nhưng lại thường nghĩ mình bị thua thiệt, không được đối xử công bằng. Tâm sự này chính trâu đã giãi bày với voi: “Một hôm, trâu đang trên đường lên rừng để kéo gỗ thì gặp một con voi lững thững đi tới. Trâu bèn kéo voi dừng lại, trước phàn nàn, sau than thở: “Trời đã cho anh một thân hình vĩ đại, lại còn ban cho anh cái số thong dong yên ổn, ngày ngày chỉ vui chơi chốn rừng xanh, muốn ăn chi thì ăn, đi đâu thì đi. Anh tu bao kiếp mà được sung sướng thế!... Còn tôi, đấy anh xem, cái tính tôi đã nhút nhát lại thân phận vất vả. Người ta bắt tôi hết cầy lại bừa, hết kéo xe lại chở gỗ cả ngày… Ứơc gì tôi cũng được lực lưỡng như anh, mạnh bạo như anh để làm bạn với anh cho vui…” Voi nghe xong, cười vang cả rừng núi, bảo rằng: “Anh phát biểu lạ lùng! Trời cho ai kiếp nào, được kiếp đó, cho to thì đuợc to, cho sung sướng thì được sung sướng, chứ ai dám nói cầu mà được”. Câu nói của voi không ngờ lại càng làm trâu tủi thân thêm khiến trâu buồn rười rượi; nước mắt chẩy đầm đìa.
Từ nẫy, người chủ thấy trâu đứng nói chuyện với voi, trước còn sợ sệt nấp ở phía xa, sau đánh bạo leo lên một cành cây gần đó, nói to xuống có ý giễu con voi: “Đầu con voi như đít con chuột!” Chợt hiểu ra, voi xấu hổ, bỏ chạy vào rừng. Sau đó người chủ lại gần trâu, xoa tay vào mình nó mà rằng: “Mày gàn lắm! Can chi mà buồn! Có voi thì voi nhớn, không voi thì trâu nhớn, kém cóc gì con nào mà suy tị!” Trâu nghe dỗ dành, cảm thấy vui trong bụng. Và cũng từ ngày đó, trâu lại càng gia công giúp cho chủ… * Tình cảm “tủi thân” dễ đưa tới “ghen tị”. Nếu trâu ghen với trâu hay với bò như các câu thành ngữ, ca dao trên đây đã chứng minh, âu cũng là “chuyện nhỏ”, nhưng ghen tị với những con vật khác nhất là với các con vật nhỏ hơn thì quả thật “hết ý”, như đã xẩy ra vụ trâu ghen tị với chó mà lịch sử loài vật còn lưu truyền: “Một hôm trâu bảo với chó rằng: “Mày được chủ nuôi nấng ân cần, cho ăn cơm với cá, thịt, nhưng tao thấy mày ngày đêm chẳng làm nên việc gì ra hồn cả. Trong khi tao đây, cầy bừa khó nhọc biết bao mà chỉ được nắm cỏ khô, chút nước đục. Trách thay cái con người ăn ở tệ bạc, bất công quá chừng!” Chó nói lại, “anh trâu ơi, anh thấy vậy chứ không phải vậy đâu; thật tình tôi nào sung sướng gì; cơm thì cũng cơm thừa, canh cũng canh cặn và chỉ vài miếng xương mà họ đã gặm hết thịt mới quẳng xuống đất. Còn công việc, tôi vốn bốn chân mềm yếu, không cầy cấy được như anh. Nhưng tôi ở nhà cũng không phải vô ích đâu. Bao nhiêu gia tài của gia đình này đều phó thác cho mình tôi giữ cả. Anh trâu biết không, đây chính là hình ảnh thật sự của tôi: “Đêm năm canh, con mắt tráo trưng; Đứa đạo kiếp thấy oai cũng sợ. Ngày sáu khắc, nằm ngồi giữa cửa; Kè gian tham vào thấy cũng kinh!” Thôi, tôi xin anh đừng “vạch lá tìm sâu, bới lông kiếm vết” làm gì cho mệt thêm cái đầu; thân phận ta cùng là tôi đòi con người cả”. Cổ nhân kể câu chuyện trên không cho biết phản ứng ra sao của con trâu trước “triết lý vụn” của chó, nhưng cho tới nay người ta vẫn thấy đôi mắt trâu thường… ươn ướt. Trâu ở với người: Chẳng cần giới thiệu, người nào cũng biết, trâu ở với ai rồi. Đó là những nông dân. Nơi ở, dứt khoát phải là chốn đồng quê. Không thể khác! Chẳng thế mà trâu đã trở thành tiêu chuẩn để xác định giá trị và vị thế của một người ở trong làng. Kẻ nào có “ruộng sâu, trâu nái” hay “chín đụn, mười trâu” ắt hẳn là người giầu có và vì vậy nhiều thế lực. Đối với cuộc đời nhà nông, 3 việc được đánh giá là khó khăn nhất; khó về tốn kém đã đành mà nhất là chọn lựa: “Mua trâu, cưới vợ, làm nhà Cả ba việc ấy đều là khó thay!” Viết&Đọc Đặc San 2021 11
Riêng trong việc mua trâu, nếu sơ xuất, nghĩa là không chọn được con trâu đúng tiêu chuẩn, kể như mất tiêu con trâu này: “Lộn con toán, bán con trâu”. Người xưa đã ví việc mua trâu quan trọng ngang với việc cưới vợ. Khi cưới vợ, người ta phải chọn con nhà hiền đức thế nào thì mua trâu cũng vậy, phải lựa giống tốt, to con để kéo cầy giỏi hay thịt nhiều. Song song với ba việc khó khăn kể trên, cổ nhân còn nêu ba thứ tai họa, trong số đó loại trâu chậm chạp, “xìu xìu ển ển” cũng là một thủ phạm, khả dĩ gây cho cuộc sống của người dân quê “ngất ngư con tàu đi”: “Thứ nhất vợ dại trong nhà, Thứ hai trâu chậm, thứ ba rựa cùn”. Nói về màu sắc của trâu; tuyệt đại đa số trâu mầu đen, họa hiếm mới có con trắng. Nông dân Việt Nam chẳng phải vì kỳ thị đen, trắng mà không ưa bạch ngưu, nhưng chỉ bởi ”trâu trắng đến đâu, mất mùa đến đấy”. Ngoài ra khi mua trâu, phải biết xem tướng trâu. Người bình dân cũng chê thứ trâu có đốm ở đuôi chẳng những yếu mà còn lười, nên khuyên là ”lang đuôi thì bán, lang trán thì cầy”. Nói tóm lại, người ta kén trâu qua đuôi, đùi, chân và các khớp chân: Đuôi tròn, đùi dài, chân ngắn, khớp dẻo dai. Thêm nữa, hàm trâu phải thuộc loại “hàm nghiên”, nghĩa là đen như nghiên mực. Tục ngữ định nghĩa một con trâu lý tưởng phải là “cao vây, sa ức, kín sườn, bụng cheo”. Thông thường, dân quê “tháng tư thì tậu trâu bò, để ta sắm sửa làm mùa tháng năm”. Trong những ngày tháng làm mùa này, đồng ruộng nhộn nhịp liên tục từ suốt canh sáng tới chiều tà, nhất là mối liên hệ giữa người với trâu thật keo sơn: “Lao xao gà gáy rạng ngày, Vai vác cái cầy, tay dắt con trâu. Bước chân xuống cánh đồng sâu, Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cầy. Ai ơi, bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Và trong quang cảnh “chung vai sát cánh” lao động ấy, vật như đã được đồng hóa với người: “… Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Có lẽ hiểu tâm lý của trâu vốn hay “tủi thân”, “ghen tị” và ưa hờn mát nên nông phu thường dùng những lời ngon ngọt, chiêu dụ và dỗ dành khi chuyện trò với trâu, đặc biệt trong những lúc cầy bừa: “Trâu ơi, ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng, trâu cầy với ta. Cấy cầy vốn việc nông gia, Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công. Khi nào cây lúa có bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”. Ngoài việc đồng áng, trâu cũng được tham dự vào chuyện cưới xin của người bình dân. Để nhắc nhở những chàng trai nào nuôi mộng ”hướng ngọai”, nghĩa là có ý định kiếm vợ ở địa phương khác, cổ nhân khéo ví von: ”Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy” và khuyên chớ quên rằng: ”Trâu ta ăn cỏ đồng ta, 12 Viết&Đọc Đặc San 2021
Tuy rằng cỏ cụt, nhưng mà cỏ thơm”. Trong khi đó, người con gái cũng biết ra ”giá” về cá nhân mình: ”Ầu ơ... Anh về bán đất cây da, Bán cặp trâu già mới cưới đặng em”. Nếu người con trai đã dạm cưới, nhưng vì bất cứ lý do gì mà rút lui dù có ”trật tự” hay không, phong tục làng xã xưa cũng phạt nặng, đền danh dự cho nhà gái: ”Vào một gà, ra phải ba trâu”. Tóm lại, theo quan điểm về hôn nhân của người nhà quê xưa, ”vô ngưu bất thành phu phụ”, nghĩa là không có trâu, đừng mong thành vợ chồng: ”Trăm năm còn có gì đâu, Miếng trầu liền với con trâu một vần”. Sau nữa, theo tổ chức xã hội xưa, lập gia đình rồi nhưng con cái với dâu, rể vẫn sống chung một nhà cùng cha mẹ. Bởi thế có mẩu đối thoại ngộ nghĩnh sau đây - trâu cũng được lôi vào cuộc: Chị: -”Của chua ai thấy cũng thèm, Em cho chị mượn chồng em vài ngày”. Em: - ”Chồng em nào phải trâu cầy, Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm”. Ngoài ra, thiết tưởng cũng cần nêu thêm hình ảnh cưỡi trâu của các danh nhân vốn có tính khí ngạo đời. Bên Trung quốc có triết gia Lão Tử, ở Việt Nam mình có thi sĩ Nguyễn Công Trứ; cả hai ông sau khi đã thoát khỏi vòng danh lợi, nếm đủ thứ thăng trầm, theo đó lên voi thì ít mà xuống chó thì vô số kể mà nguyên nhân gây nên những hậu quả ”đen như mõm chó” ấy hầu hết bởi những lời thị phi ganh ghét của người đời; thành ra hai ngài cay cú, bèn lấy chiếc mo cau cột sau bộ mông khổng lồ của con trâu mà các ngài ngất ngưởng cưỡi bên trên để rong chơi khắp nơi với ý ví sự xấu xa của miệng lưỡi thiên hạ không khác gì... hậu môn của trâu. Trâu và hội hè, đình đám: - ”Lễ Thần Nông”: Thần Nông tức là vị hoàng đế Trung Hoa đầu tiên đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cầy bừa. Lễ Thần Nông là tế lễ vua Thần Nông để cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt. Tục lệ này đã đuợc truyền qua nước ta từ thời Bắc thuộc. Trên các quyển lịch hàng năm của người Hoa cũng như của ta thường có vẽ một mục đồng với ý chỉ vua Thần Nông dắt một con trâu tượng trưng nghề nông. Lễ Thần Nông hàng năm được cử hành vào ngày Lập Xuân, tại gần cửa Đông Ba. Quan Khâm Thiên Giám (tiên đoán thời tiết, mùa màng năm đó tốt hay xấu) đã cho lập ở đây một cái đài hướng Đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới với sự hiện diện của các quan mặc lễ phục, có lính vác gươm dáo, tàn lọng, cờ quạt đi theo. Một nghi lễ đơn giản được cử hành như có ý để trình với thần linh tượng và trâu. Tiếp theo là đám rước. Khi đám rước đi ngang cung vua, một quan Thái Giám vào tâu vua biết. Sau đó, đám rước tiếp tục diễn hành và khi đi ngang bộ Lễ, một viên chức đánh vào mông trâu 3 roi, có ý thôi thúc trâu phải rán sức lao động. Cuộc rước kết thúc ở lễ đài sau khi các quan đồng tế Thần Nông.
Tại các tỉnh, trong ngày Lập Xuân cũng tổ chức tế Thần Nông và do các quan tỉnh hành lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đem chôn sau buổi lễ như tại kinh đô. - ”Cờ lau tập trận”: Vua Đinh Tiên Hoàng mồ cô cha từ thuở nhỏ, sống với mẹ ở quê nhà, hàng ngày chăn trâu cho chú. Ông thường rủ các trẻ chăn trâu lấy bông lau làm cờ, tập trận đánh nhau. Câu hát quen thuộc thời hiện đại: ”Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ; ngồi mình trâu phất ngọn cờ lau và miệng hát nghêu ngao” nhằm nhắc lại sinh hoạt thuở thiếu thời của cậu bé họ Đinh. Khi thắng, ông bắt chúng bạn khoanh tay làm kiệu cho ông ngồi. Lớn lên, Đinh Tiên Hoàng đã được sứ quân Trần Minh Công tin cẩn mà giao trọn binh quyền. Sau khi sứ quân Trần Minh Công qua đời, Đinh Tiên Hoàng đã bình định được đất nước, dẹp hết ”loạn 12 sứ quân”. Năm 968, ông lên ngôi, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Để nhớ lại công đức nhà vua, hàng năm dân làng vẫn mở hội từ 15 đến 20 tháng Hai âm lịch tại làng Trường Yên, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Nơi đây xưa chính là Hoa Lư, đế đô nhà Đinh. Ngoài các cuộc tế lễ, rước xách, trong thời gian hội, dân làng còn tổ chức nhiều trò vui: Thi thơ, rước chèo, chọi gà, bơi thuyền, múa Mường, uống rượu cần... Và sau hết là diễn tích ”Cờ lau tập trận”. Cuộc diễn này do các trẻ em trong làng và hàng tổng thực hiện. Các em chia làm hai phe; một bên đóng vai vua Đinh Tiên Hoàng và bạn bè, còn một bên đóng trẻ chăn trâu các làng lân cận. Cũng cưỡi trâu, cũng cầm cờ lau trong tiếng reo hò, tiếng kèn trống inh ỏi. Chiến cuộc thắng lợi, cậu Đinh Tiên Hoàng được chúng bạn công kênh giữa những cờ quạt sặc sỡ bằng lá cây hoặc tết bằng rơm rạ... - ”Hội Chọi Trâu”: Ca dao nhắc nhở: ”Dù ai buôn đâu, bán đâu, Mồng 10, tháng 8, chọi trâu thì về”. Chọi trâu được tổ chức ở một khoảng đất rộng, trước ngôi đền chung của 3 xã Đồ Sơn, Đồ Hải và Ngọc Xuyên, tọa lạc trên địa phận xã Đồ Hải. Để dự cuộc chọi trâu này, mỗi xã trong tổng phải có trâu chọi; cả thảy 14 con. Dĩ nhiên trâu dự chọi phải được kén chọn kỹ lưỡng, nhưng chỉ có trâu đực mới được chọn để... chọi thôi. Loại trâu chọi thường ở trong lứa từ 8 đến 10 tuổi. Ngay từ tháng Ba đầu năm, dân làng đã biệt phái các tay chuyên môn về trâu đi lùng trâu ở khắp Bắc Việt. Khi mỗi thôn đã chọn được trâu, dân hàng tổng làm lễ trình trâu với đức tôn thần cùng với lễ vật như hương đăng, trà quả, rượu trầu. Trong thời gian chờ đợi ngày hội Chọi Trâu, thôn nào thôn nấy phải tuyển cử người chăm sóc trâu sao cho khỏe mạnh và nhất là tinh khiết. Người được trao nhiệm vụ thường là một thanh niên độc thân, rảnh việc. Trong khi nuôi trâu, chàng trai này cũng phải chịu mọi sự kiêng khem, như chẳng những không được giải quyết sinh lý mà còn phải giữ ”tâm vô tà”, không được tính việc hôn nhân, phải tránh các hành động mánh mung như trộm cắp, cờ gian bạc lận cũng như không được lui tới
những nơi ”dơ dáy”, chẳng hạn thăm đàn bà đẻ, dự đám táng... đồng thời không được đụng tới các món ăn bị coi là ô uế: Thịt chó, giả cầy, hành tỏi sống, thịt trâu bệnh. Cỏ rơm cho trâu ăn phải rửa sạch sẽ, đôi khi phải cho trâu bồi dưỡng bằng thóc, nhất là thóc nếp con. Quan trọng nhất là phải gìn giữ không để ”ứng viên” trâu chọi này ”quan hệ tình dục” với trâu cái. Tục đồn rằng nếu trâu phạm điều này sẽ bị tôn thần vật chết ngay. Trước ngày hội, đã có những cuộc đấu vòng loại trong những ngày 8 và 9 tháng 6 rồi lại tiếp tục vào ngày 30 tháng 7 âm lịch, chỉ lưu lại 6 con trâu xứng đáng nhất. Trước và sau mỗi trận đấu, dân các thôn phải làm lễ báo cáo với thần linh. Ngày 10 tháng 8, tất cả 14 con trâu đã dự đấu vòng loại đều phải ”trình diện” để tham dự lễ cáo thần linh trước giờ khai mạc các trận chính thức. Sau đó là cuộc rước rất trọng thể những cặp trâu tranh giải; có người che lọng cho trâu, với đủ đồ lễ bộ bát bửu và cờ quạt, lại thêm tiếng trống liên hồi. Giờ đấu bắt đầu. Vải che mắt trâu được lấy đi, đôi trâu diện đối diện. Có trâu trước đó đã được dân xã cho uống rượu. Cặp mắt đỏ ngầu; chúng đưa cặp sừng nhọn hoắc lên, xông vào húc nhau, chém nhau như có một mãnh lực thiêng liêng thúc đẩy. Cuộc chiến đấu hết sức tàn bạo, dữ dội khiến khán giả nhiều người phải rợn mình, rú lên kinh hoàng... Hai con trâu chọi nhau cho tới khi một con thua chạy hoặc bị đối thủ húc chết tại ”võ trường”. Trong lúc đó, tiếng trống vẫn vang lên. Dân chúng hò hét để cổ võ cho trâu nhà. Xong cặp này tới cặp khác. Bán kết rồi chung kết. Con trâu thắng được dân làng ”của mình” mang cờ lọng ra rước trịnh trọng. Nhưng kết thúc ngày hội, cả trâu được lẫn thua cùng với những con sống sót ở các vòng loại đều bị mổ thịt tế thần. Thịt trâu chia cho hàng tổng, những người có công nuôi trâu cũng như đã tham gia việc tổ chức hội Chọi Trâu nghĩa là tất ai đã dính máu trâu đều được ăn phần. Tranh Tết: Trong những năm gần đây, hầu hết tranh Tết cổ truyền đã được in lại nhân dịp năm hết Tết đến. Nhiều gia đình Việt Nam ở trong nước lẫn hải ngoại vẫn sắm những tranh này để treo trong nhà, bên cạnh những cây mai, cành đào hay câu đối. Thiết tưởng đây cũng là một sinh hoạt văn hóa dân tộc mình. Theo niềm tin bình dân, tranh Tết không chỉ để tranh hoàng nhà cửa trong những ngày vui Xuân mà còn để xua đuổi tà ma. Tranh Tết năm Sửu phổ thông nhất gồm có những bức: - Tranh ”nông phu”: Vẽ hình một nông dân ngồi dưới gốc cây với chiếc cầy bên cạnh và con trâu nằm trước mặt. - Tranh ”Vua Đinh Tiên Hoàng”: Vẽ vua (hồi còn nhỏ) cưỡi trâu cầm cờ lau nhưng lại mặc giáp trụ (thay vì cởi trần mới thực tế), tức là hình ảnh nhà vua sau khi đã dẹp loạn ”thập nhị sứ quân”. Ngoài ra tranh Tết về vua Đinh Tiên Hoàng còn hai bức nữa nhưng không vẽ trâu, thành ra không cần được nhắc đến ở đây. - Tranh ”Ngưu Lang - Chức Nữ”: Vẽ chàng Ngưu Lang ngồi dưới gốc cây, có con trâu nằm trước mặt Viết&Đọc Đặc San 2021 13
trên bờ sông Ngân; đàn quạ đang bắc cầu ô thước; còn nàng Chức Nữ ở bên kia sông ngồi dệt vải, tay đưa thoi. Bói năm Sửu: Đây cũng là mục không thể thiếu nhân dịp xuân về. Ấy cứ như khoa bói toán bắt mạch thì Kỷ Sửu niên cũng chẳng khá lắm so với Mậu Tí, vẫn không thiếu những vụ ”trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết” trên trường quốc tế. Cơn khủng khoảng kinh tế, đặc biệt thị trường địa ốc tuy ngoi lên được chút đỉnh, nhưng theo các chuyên gia nhận định, vẫn ”dai như trâu đái”. Riêng những người tuổi Sửu, nhất là phái nam, cần thận trọng về mặt tình cảm, kẻo lâm vào cảnh: ”Ba vợ, bẩy nàng hầu; đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi”. Việc cưới hỏi tốt đấy! Ai đã dự định, nên tiến hành hôn nhân trong năm nay đi, bởi vì: ”Trâu kia ăn cỏ bờ ao, anh kia không vợ, đời nào có con!”. Nữ lại càng nên kỹ lưỡng vô cùng trong việc tuyển lựa người phối ngẫu tương lai, kẻo sau hối hận thì ván đã đóng thuyền: ”Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại - tiếc bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu!”. Ngoài ra, vợ chồng mới cưới mà sinh con gái thì sớm muộn cũng giàu có ”chín đụn, mười trâu”, nhất là sau này được nhờ, bởi vì ”ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng”. Những cuộc tình duyên tan vỡ, năm Sửu có cơ hàn gắn với điều kiện phải làm theo lời mách nước sau đây của cổ nhân: ”Lạc đường, nắm đuôi chó. Lạc ngõ, nắm đuôi trâu”. Những gia súc này vốn nổi tiếng trung thành với chủ, ắt sẽ dẫn đường cho mà trở về tổ ấm. Trong gia đạo, vợ chồng cần hỗ trợ nhau, như thể ”trâu béo kéo trâu gầy”, không nên ích kỷ ”thân trâu, trâu lo; thân bò, bò liệu” hoặc ”trâu chết mặc trâu, bò chết mặc bò, củ tỏi giắt lưng”, trái lại phải nhớ là ”bụng trâu làm sao, bụng bò làm vậy”; vả lại ”trâu chết, bò cũng lột da”. Tình cảm của đôi bên cần tránh cảnh ”đặt cái cầy trước con trâu”, nhưng phải được hâm nóng, làm mới luôn, bằng không cũng giống ”lâu ngày cứt trâu hóa bùn”. Những ai trong cảnh làm dâu, làm rể năm Sửu dễ bị xui xẻo: ”Đi sông, đi biển không chết; chết vì lỗ chân trâu”, bởi thế cần khôn ngoan, học hỏi: ”Làm rể chớ xào thịt trâu” (nếu không khéo xào, thịt trâu sẽ dai nhách như bánh xe vậy) - ” Làm dâu chớ đồ xôi lại” (xôi chỉ được một lửa thôi, hấp lại thì nhão, mất ngon). Về mặt công ăn việc làm, người tuổi Sửu năm nay nếu biết ”nhịn thuốc mua trâu; nhịn trầu mua ruộng” ắt có đồng ăn, đồng để. Gặp cơ hội làm ăn, hãy tóm lấy liền, đừng sợ ”trâu leo cây muỗm” (điềm gở) rồi chần chừ, cuối cùng chịu số phận ”trâu chậm uống nước đục”, trái lại phải hiểu là ”trâu tìm cọc chớ cọc không tìm trâu”, hơn nữa ”có ăn có chọi mới gọi là trâu” chứ. Cuộc đời bao giờ cũng lắm cảnh ”xúm xít như đám xẻ thịt trâu toi”; vả lại ”trâu lành không ai mặc cả, trâu ngã lắm kẻ cầm dao”. Bàn về số giầu, nghèo thì cổ nhân đã dựa vào trâu mà phán, quả không ”trật đường rầy” chút nào. Này nhé: ”Số giầu, tay trắng cũng giầu, Số nghèo, chín đụn, mười trâu vẫn nghèo!”. 14 Viết&Đọc Đặc San 2021
Hay: ”Số em giầu, lấy khó vẫn giầu, Số em nghèo, dẫu chín đụn, mười trâu cũng nghèo!” Nói xa nói gần chẳng qua nói thật thế này: Từ ngày ra ngoại quốc dường như người Việt mình nói chung dù sinh năm nào, cầm tinh con Giáp nào, cuối cùng cũng mang kiếp trâu cả với nhau. Bởi hàng ngày ai cũng phải tất bật ”cầy” chết bỏ, ”từ chết đến bị thương”. Giống trâu! Bạn bè mời nhau ly rượu, thường không được đáp ứng: ”Hổng dám đâu, mai phải dậy sớm đi ”cầy!”. Gặp lại bạn cũ, chưa kịp hỏi thăm, đã nghe than đủ sáu câu: ”Dạo này sức khỏe xuống dốc ”can không nổi”! Lại gặp lúc ”rách” như tổ đỉa. Phải ”cầy” hai ”job” thôi! Tối nào lên giường, mụ vợ cũng bắt ca bản ”người cầy có ruộng”. Chịu đời sao thấu!” Hơn nữa, đêm đêm vợ chồng không còn hứng thú cám dỗ nhau đánh ”cờ người”, sợ hôm sau bị suy giảm khả năng ”cầy”, v.v.. Thôi thì đầu năm Kỷ Sửu, thành tâm chúc nhau thiết tưởng không gì ”ép-phê” bằng mượn lời của người xưa để nhắc nhở nhau vậy: ”Trâu chết để da; người ta chết để tiếng!”. Hoài Mỹ
(In lần đầu vào dịp Tết Kỷ Sửu, Viết&Đọc 2009)
Thơ Khánh Hà
Phận nguời như nhau Nửa đêm Na Uy, ăn một trái táo ngon từ tấm lòng hiếu thảo của đứa con thường mua thực phẩm cho mẹ già mang đặt truớc cửa nhà mẹ con chỉ đuợc nhìn nhau qua cửa kính Trái táo được nhập từ nuớc Ý xa xôi nơi đất đai trù phú, khí hậu ôn hòa có những vườn nho táo chạy xa mút mắt những quả chanh vàng to như quả bưởi bao nhà nông chăm chỉ, cần cù Rồi bỗng nhiên cơn đại dịch qua đây trăm ngàn nguời nhiễm bệnh chục ngàn người chết con số này tăng dần mỗi ngày cũng vậy ở Tây Ban Nha, Pháp, Mỹ... Cả thế giới đứng trước kẻ thù vô hình đã cuớp đi mạng sống bao sanh linh làm thay đổi sinh hoạt toàn thế giới bao nhiêu thành phố, đường xá vắng tanh công tư sở, trường học tạm thời đóng cửa Tưởng tượng thế giới sẽ ra sao nếu thiếu sự tiến bộ lớn lao của ngành y học đã và đang cố gắng không ngừng và nếu không có tinh thần phục vụ cao cả các thiên thần áo trắng giúp ta qua cơn nguy nan Nhân loại đang chia sẻ một đại nạn kinh hoàng mọi con nguời cùng chung số phận từ lãnh tụ uy quyền tới thường dân bé mọn con Covid-19 nhắc nhở một điều chúng ta sinh ra vốn bình đẳng và chỉ là cát bụi Khánh Hà
Viết&Đọc Đặc San 2021 15
Thơ Nguyệt Minh
Xếp Lá
Khung Trời Bình Yên
Ta chơi trò xếp lá Trên thảm cỏ còn xanh Nào ai người xếp nhanh Đua cùng thời gian nhé
Một khung trời bé nhỏ Nơi gió cũng bình yên Nơi xóa tan mệt mỏi Diệu xoa những ưu phiền
Vòng đời trôi thật lẹ Đông, xuân, hạ rồi thu Tuyết, mưa, nắng, sương mù Ngẩn ra đầu đã bạc
Nhắm mắt nghe chim hót Mở mắt thấy trời xanh Sắc màu ru giấc ngủ Mộng mị rời hư hanh
Trong mênh mông bát ngát Vũ trụ vẫn xoay vòng Bao giờ mình đứng lại Hư không về hư không?
Một khung trời bé nhỏ Mang lại những an lành Mặc cuộc đời bão tố Mặc kiếp người mong manh
Lá úa vẫn đỏ hồng Vẫn vàng ươm rạo rực Như ắp đầy ký ức Của một thuở còn xanh
Một khung trời nhỏ bé Nhỏ rất nhỏ mà thôi...
Ta xếp lá nhanh nhanh Mà nhủ lòng chậm lại Biết đời không mãi mãi Hãy tự tại, bình an
- Nguyệt Minh-
Xung quanh tạo hóa ban Thiên nhiên trong lành lắm Ai người người nhìn ngắm Tìm tĩnh lặng trong tâm Xếp chiếc lá âm thầm Xếp luôn lòng mình đó Không ham đời xanh đỏ Mong yên ắng mà thôi -Nguyệt Minh16 Viết&Đọc Đặc San 2021
Đêm thánh Đêm nay là đêm thánh Nơi con ở lạnh căm Gió giờ mang buốt giá Sao thì thật xa xăm Chúa ơi, biết ai kẻ Giờ mỏi gối lang thang nép bậc thềm nào đó buồn tủi đến mênh mang Hay nơi xa xôi lắm người tựa vách trại giam bồi hồi thầm khấn nguyện câu vẹn toàn Nước Nam Đêm nay nơi máng cỏ Chúa cũng vẫn đơn sơ Ban thanh bình nhân thế Cho những người bơ vơ.... - Nguyệt Minh-
Con Suối Mùa Đông Có con suối nhỏ Chảy giữa mùa đông Âm thầm lặng lẽ Giữa đời mênh mông Dẫu trời giá buốt Suối vẫn bình yên Một mình róc rách Giai điệu thật hiền Ơi con suối nhỏ Mãi chảy về đâu nhẹ nhàng êm ả mặc lòng nông sâu Có con suối nhỏ Chảy giữa mùa đông Để mây khe khẽ Nghiêng trôi bềnh bồng... - Nguyệt Minh-
Viết&Đọc Đặc San 2021 17
Góp nhặt niềm tin
Những ngày đầu sống chung với con cháu “Bác Hồ”, radio là phương tiện duy nhất để biết về thế giới bên ngoài. Thời gian sau Thành bị gom vào trại tập trung, trong đó radio được nối với những cái loa, mình không còn được tự chọn đài mình thích mà phải nghe theo kẻ có quyền. Hệ thống loa tra tấn lỗ tai Thành bằng những bản tin, bản nhạc ca ngợi chém giết đến nhức óc. Cho mãi đến những ngày gần áp tết năm ấy, Xuân Bính Thìn mới có bản ca ngợi mùa xuân, Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao:“...Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về / Mùa bình thường mùa vui nay đã về / mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên / Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông / một trưa nắng cho bao tâm hồn/… /Người mẹ nhìn đàn con nay đã về / Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên …” Thành cảm nhận lời bản nhạc không chỉ hay và đẹp từ một tâm hồn yêu quê hương nồng nàn gởi đến biết bao tâm hồn đã bao năm phải sống trong cảnh quê hương cách ngăn, họ như những người 18 Viết&Đọc Đặc San 2021
Đoàn Mai Tâm
yêu nhau phải sống xa nhau, gặp lại nhau ôm lấy nhau mà khóc: “Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh / Niềm vui phút giây như đang long lanh / Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên / Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.”; mà đồng thời ca từ còn hàm ý cảnh giác những kẻ vừa thâu gọn đất nước về một mối: “Từ đây người biết quê người / Từ đây người biết thương người / Từ đây người biết yêu người …”. Mấy ngày sau đang lúc bọn Thành lắng tai chờ để được nghe lại những rung động từ một tâm hồn đồng cảm thì loa phóng thanh vụt tắt, thay vào đó là thông báo cho tất cả trại viên mang theo đồ dùng cá nhân tập trung trước sân trại. Và đồng thời lực lượng vũ trang bao vây quanh trại với một đoàn xe đậu dài từ ngoài vào trong sân. Bọn Thành được lệnh ngồi yên tại chỗ, ai được kêu tên thì bước ra khỏi hàng. Từng người bước ra khỏi hàng được một người bảo vệ với súng AK cầm tay kèm lên một trong những chiếc xe đang đậu trước sân.
Cuộc phân loại kéo dài đến lúc bóng đêm bao trùm tưởng chừng đã bị lỡ chuyến bay, cử chỉ và hành đoàn xe, và cũng là lúc lực lượng vũ trang theo động của cô tiếp viên đã làm Thành an tâm. đoàn xe lăn bánh di chuyển ra khỏi sân trại. Sau khi đổi chuyến bay ở Moscova, Thành được xếp ngồi cạnh một người đồng hương. Qua một Thành thuộc nhóm người còn ở lại, bị trừng trị vài câu chào hỏi xã giao, Thành được biết anh là bằng miếng ăn không đủ no, mà bỏ đói không đủ người Việt buôn bán quần áo ở Ba Lan. Càng trao chết để cưỡng bức lao động. Để sống còn Thành đổi qua lại câu chuyện càng thêm sôi nổi, anh kể đã áp dụng chính sách của Phùng Quán: “có những anh được gởi đi du học ở Đông Đức từ năm 17 phút ngã lòng, tôi níu câu thơ mà đứng dậy”. Thành tuổi, từng sáng tác truyện ngắn bằng Đức ngữ đoạt hát nho nhỏ“...Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về / giải. Cũng vẫn theo lời anh, anh có bằng tiến sĩ Mùa bình thường mùa vui nay đã về / mùa xuân toán, thành thạo bốn ngôn ngữ. Trong thời chiến mơ ước ấy đang đến đầu tiên / Với khói bay trên tranh Việt Nam anh được Quân Đội Nhân Dân sông, gà đang gáy trưa bên sông / một trưa nắng trưng dụng với quân hàm thiếu úy chuyên lấy khẩu cho bao tâm hồn…” vừa đủ cho một thính giả là cung các phóng viên nước ngoài bị bắt. Anh tự hào chính mình nghe, (vì lúc ấy bản nhạc Mùa Xuân nhờ anh mà nhiều phóng viên nước ngoài thoát Đầu Tiên của Văn Cao đã bị cấm hát). chết, vì bộ đội tưởng tất cả người nước ngoài đều là lính Mỹ. Khi được thả về, qua liên lạc với gia đình của các bạn bị lùa lên xe ngày ấy, Thành được biết bạn Mới đầu Thành bị sốc vì gốc rễ và thành tích của mình đang ở trong các trại lao động cải tạo ngoài anh, Thành chỉ nghe mà chẳng có ý kiến gì, nhưng Bắc. Nhiều năm sau thỉnh thoảng gặp lại người để giải tỏa phần nào sự nghi ngờ về những điều trong đám bạn bị áp giải lên những chuyến xe anh kể, nhất là cái bằng tiến sĩ toán, Thành tìm câu ngày ấy được thả về, Thành được biết nhiều bạn hỏi để trắc nghiệm, vì nếu anh là người chuyên không đủ sức đương đầu với cái đói, cái rét núi về toán hẳn phải biết vị giáo sư danh tiếng trong rừng niềm Bắc, với lao động cưỡng bức đã nằm lãnh vực này, liền hỏi: “Anh có biết giáo sư Hoàng lại đó không về nữa. Từ đó niềm tin vào bản tính Tụy?”. Anh trả lời ngay: “Giáo sư Hoàng Tụy là thiện của con người trong lòng Thành bị sụp đổ. thầy dạy tôi toán”. Và anh kể thêm một vài chi Thành sinh ra nghi ngờ cả người lẫn phương tiện tiết về các đức tính của vị giáo sư này. Mặc dù có dính dáng đến chế độ. anh kể khá chính xác về vị giáo sư toán vừa nêu, nhưng Thành vẫn nghi ngờ hỏi thêm với giọng sỗ Cho đến nay, dù Thành đã định cư ở Nauy gần sàng chẳng khác điều tra: “Với bằng tiến sĩ toán và bốn mươi năm mà mỗi lần có việc cần phải liên thành thạo bốn ngôn ngữ, tại sao anh lại sinh sống lạc với Tòa Đại Sứ Cộng Sản ở đây Thành rất ngại bằng buôn bán quần áo hiện nay?”. Anh điềm tĩnh ngùng; và vẫn không cảm thấy an toàn khi phải kể: “Sau chiến tranh, tôi trở lại làm nghiên cứu chọn chuyến bay của hãng hàng không Aeroflot sinh ở Ba Lan. Khi Ba Lan đổi chế độ, tôi ở lại, của Nga; Thành phải chọn vì không còn chuyến bị Việt Nam lên án và bị khai trừ nên tôi phải tự bay nào sớm hơn để kịp về thăm mẹ đang trong tìm cách mưu sinh. Năm 1989, Việt Nam thay đổi cơn bệnh ngặt nghèo. chính sách, tôi không còn bị kết án nữa, nhưng lúc ấy buôn bán sinh sống quen rồi, tôi không muốn Thành đến điểm khởi hành, phi trường Kastrup, thay đổi nữa.” København nơi Thành đang nghỉ hè, khi quày check-in và gởi hành lý chưa mở mà hành khách Người trò chuyện tình cờ vì được xếp ngồi cạnh đã đứng xếp thành hai hàng dài bên những kiện nhau trên phi cơ tưởng sẽ theo gió bay đi như bao hành lý kềnh càng (vì không tự check-in). Thành chuyện gặp giữa đường. Nhưng không, khi anh đã đã đứng chót, mà nhân viên chỉ có hai người, lại nhận hành lý và đang cùng gia đình đẩy ra, anh giải quyết công việc chậm, Thành nóng lòng chờ thấy Thành vẫn còn đứng nhìn đường băng vận đợi vì giờ đóng cổng ra phi cơ mỗi lúc một cận chuyển hành lý trống trơn quay ngang qua trước kề. Khi làm xong thủ tục, Thành vội chạy đến mặt, anh bỏ xe đẩy của anh lại đó cho gia đình nơi, cổng ra phi cơ đã đóng; cô tiếp viên từ trong và ngoắc Thành theo anh đến cuối đường băng ở nhìn thấy chạy ra, xách dùm hành lý cho Thành và sát bờ tường. Anh chỉ cho Thành đống hành lý bị cùng chạy vào qua lối dành riêng. Đang lúc bối rối rớt ra khỏi đường băng, và anh đã giúp Thành tìm Viết&Đọc Đặc San 2021 19
thấy va-li hành lý của mình nằm ở đó. Trong lúc kéo cái va-li ra, anh ghé tai Thành nói nhỏ: “Chúng nó lười không chịu lượm đưa lên đường băng, rồi lại tìm cách vòi tiền người không biết”. Nhờ anh giúp Thành không mất thêm thời gian chờ đợi, lại qua khỏi những mánh mung vụn vặt không đáng có của nhân viên ở sân bay. Điều này hẳn nhiên là quí, và còn điều quí hơn là niềm tin vào bản tính thiện của con người đang được nhen nhúm lên trong lòng Thành. Ngày ra về, Thành chuẩn bị vào sân bay sớm, vì theo tin đồn rất có thể các con đường vào sân bay bị kẹt xe, do các cuộc biểu tình chống Đặc Khu đang liên tiếp diễn ra. Thành suy nghĩ không biết mấy giờ mình phải rời nhà để khỏi bị lỡ chuyến bay như bao hành khách trong mấy ngày qua, rồi Thành nhấn số điện thoại hẹn taxi. Trong lúc anh tài chất hành lý lên xe và nhất là khi ngồi trong xe, Thành không thấy đồng hồ tính tiền, không thấy bảng hiệu taxi Thành sinh nghi liền hỏi: “Hãng taxi này mới phải không anh tài”. Anh nói: “Không mới đâu chú, hãng này mua lại của Uber”. Anh tài quay sang hỏi Thành, hỏi lan man qua lịch sử, rồi xã hội Nauy, anh rất thích thú nghe Thành trả lời. Xe đã tới sân bay rồi mà anh vẫn còn muốn hỏi thêm. Anh nói anh có duyên được gặp Thành, được nghe những chuyện chưa hề được biết. Xe ngừng hẳn, Thành hỏi: “Bao nhiêu vậy anh tài?”. Anh bấm iPhone hiện lên số tiền 71000. Thấy Thành không có tiền lẻ, anh bảo: “70 ngàn cũng được, chú”. Thành suy nghĩ chẳng có tiền cho tài xế thì thôi, chứ sao lại trả thiếu tiền cho người ta, Thành đưa tờ 100 ngàn cho anh tài bảo: “Khỏi thối, biếu anh tài”. Anh tài lại đưa tờ giấy bạc ra trước mặt Thành nói: “Chú không có tiền lẻ sao”. Thành nhắc lại, “biếu anh tài”. Còn anh, anh nhắc lại, “cháu có duyên được gặp chú”. Sự thật thà, chất phác của người trẻ lái taxi khiến Thành tin tưởng - điều Thành quí nhất, vì dù có “bị chém với giá cắt cổ” cũng vẫn là mất ít, mất niềm tin vào nhau mới mất nhiều, mất tất cả. Những điều tốt lành nho nhỏ muôn hình vạn trạng gặp tình cờ trong cuộc sống làm Thành nghĩ không biết bao nhiêu lần đến những người không quen mà qua cuộc sống, họ nối với Thành bằng sợi dây vô hình. Sợi dây vô hình ấy mách bảo cho Thành biết giữa bao điều chưa tốt vẫn còn nhiều điều tốt; giữ bao vụ lừa đảo vẫn còn anh tài xế taxi thật thà; giữa bao nhiêu bài ca hô hào chém giết đào sâu hận thù, vẫn có bản Mùa Xuân Đầu Tiên ca ngợi 20 Viết&Đọc Đặc San 2021
mùa xuân tình tự dân tộc sau bao năm đất nước chia đôi. Thành góp nhặt tất cả những điều tốt lành ấy dù bé nhỏ để phòng khi niềm tin vào bản tính thiện của con người trong lòng Thành bị sa sút, còn có chỗ bám víu vào đó mà đứng dậy.
Đoàn Mai Tâm
Thơ Cung Vĩnh Viễn TẾT QUÊ HƯƠNG MỘT NGÀY Ở SKJETTEN Buổi sáng một mình ra ngồi quán chọn góc bàn nơi chỗ lộ thiên nhìn quanh không thấy giàn hoa tím có thế mà ta đã phát phiền.
Buổi trưa nấu đại tô mì gói cái mùi vô vị bắt buồn nôn đổ đi vặn nước ra rửa bát lòng bát lòng ta cũng trống trơn.
Chiều ra bến vắng nhìn mây nước tâm trí lơ mơ chuyện có không ném hòn đá xuống dò sau trước nỗi buồn đen đúa cả giòng sông.
Buổi tối trầm ngâm ly rượu mạnh định tâm lừa giấc ngủ cho yên khi kéo tấm chăn chùm kín mặt mới biết rằng đêm giục nhớ em.
Cung Vĩnh Viễn
Em về ăn tết ở quê hương giao thừa có đi lễ Lăng Ông nhớ hái giùm ta nhành lộc mới gửi vào trong đó những thầm mong.
Bữa cơm mồng một trong đầm ấm nhớ xắn dùm ta miếng bánh chưng thêm gắp dưa hành cho đủ vị miếng thịt kho tầu mỡ thật trong.
Nhớ nhắp giùm ta ly rượu đỏ dù có làm cho ửng má hồng sẽ yêu từng cánh hoa mai nhỏ vạt nắng hanh vàng gây nhớ mong.
Chia hộ ta ván bài tam cúc mải ngắm bàn tay nhỏ dịu hiền dẫu bài xấu tốt ta chui hết để nhịn cho em kết tốt đen.
Nhón hộ giùm ta miếng mứt gừng như là để chịu đắng cay chung ta ở quê người thương nhớ mãi những mùa xuân cũ đã xa xăm.
Cung Vĩnh Viễn Viết&Đọc Đặc San 2021 21
Hoàng Lan Chiều Hoang Nguyễn Văn Thà
De la ira a la ternura: ”Từ sự giận dữ tới sự dịu dàng.”, Oswaldo Guayasamín, nước Ecuador Tháng tư đi vào trong núi Tìm con ngựa trận năm nào Yên cương bây giờ mục nát Hỏi chàng, chàng bặt âm hao (TRẦN MỘNG TÚ, Ngày tháng ngậm ngùi, 1994)
Trong thành phố Sài Gòn, sau mấy năm bị đổi tên thành thành phố của người đã giết mình, nay đã bắt đầu thoang thoảng những câu hát như “Ngày rời Paris, anh đã để quên con tim.” từ hải ngoại bay về. Đương khi trong những xứ sở mà người Việt đã lại bắt đầu để quên con tim lại cho người mình thương một cách ỡm ờ dễ thương đến như vậy như những ngày Sài Gòn chưa bị bọn CS bóp họng, thì ở trong các trại tù dưới cái mỹ từ đểu cáng “trại cải tạo” có nhiều sĩ quan, viên chức của VNCH vẫn bị cộng đồng quốc tế hờ hững bỏ mặc, nhưng những bà mẹ, những bà vợ không quên con, chồng họ. Họ là lực lượng đáng kính nể nhất, đáng ghi vào sử sách nhất của xã hội miền Nam. Họ bương chải, họ ngược xuôi, họ nuôi con và chăm sóc bố mẹ già, và họ thăm nuôi. Cơ cực không thể tả xiết. Lan là một người vợ cũng như họ, nhưng nàng chỉ thăm nuôi chồng mình được mấy lần rồi đành dứt; nàng ray rứt khôn nguôi vì nàng không còn tiền để thăm 22 Viết&Đọc Đặc San 2021
chứ đừng nói chuyện nuôi. Cũng vào những tháng ngày này tôi từ Hàm Tân chạy vào Sài Gòn trốn vượt biên và ở trọ trong nhà của đứa em gái họ của tôi, mà chồng là một tay anh chị lại quen biết nhiều với công an khu phố ở Khánh Hội, quận Tư, nơi mà các công an khu phố người địa phương lẫn gốc Bắc Kỳ biết ngậm miệng ăn tiền hoặc an phận thủ thường, không dại gì mà sinh sự một cách không cần thiết trong một khu chuyện đâm chém xảy ra hằng ngày. Tôi được ở trọ trong một nơi có thể nói là hang ổ tương đối an toàn, tôi lại có đủ tiền, tiền của cha mẹ gởi cho tôi, để trả tiền trọ, tiền ăn. Tôi ăn kham khổ để còn dư chút đỉnh để mua ít cuốn sách mình thích. Ngoài ra, tôi còn dành ra chút ít để học cho mình một nghề: nghề may trong một trường dạy may của một ông người Bắc luống tuổi, đeo kiếng gọng vàng, mặt thớt nhưng ăn nói văn vẻ,
tự xưng và cả viết trên biển treo trước “trường”: tốt nghiệp trường cắt may Paris, với chữ Pháp kèm theo: L’École de la Chambre Syndicale de la Couture Parisienne, trên bảng đỏ chữ vàng như bao nhiêu tấm bảng hừng hực khí thế cách mạng CS lúc ấy mà tôi quá chán, quá ghét, nhưng hàng chữ Pháp ấy vẫn đủ mê hoặc để cho tôi ghi danh (hay còn gọi là đăng ký, một chữ mới xâm lăng miền Nam) học vì hàng chữ với màu vàng loe loét một cách đáng ghét ấy dẫu sao vẫn gợi lại cho tôi tất cả những ấn tượng tốt đẹp về văn hóa Pháp mà tôi biết qua sách giáo khoa, báo chí, điện ảnh: tháp Eiffel, sông Seine, Montmartre, những nàng Helène, những chàng Pierre, những nam thanh nữ tú trong trang phục đặc thù, sang trọng, thanh nhã Paris…, nhưng qua một tuần học trong một căn phòng chật hẹp, nhốn nháo, tôi mới thấy đây là một lớp hỗn hợp, chỉ chú tâm lấy tiền, và dạy cho có cho những người đã có biết may căn bản rồi, còn những người mới bắt đầu như tôi, ông thầy bỏ mặc. Tôi không phải là người đủ bản lãnh để chửi, để làm dữ với ông thầy Bắc kỳ ló mòi đểu thấy rõ. Ông thầy đeo kiếng vàng, mặt to bè, lẻo mép bất cần, những người phụ ông hướng dẫn học viên cũng bất cần. Lan là một trong những người phụ đạo đó, nhưng không bất cần. Khi thấy tôi lớ ngớ, chép miệng chán ngán, mồ hôi nhể nhải trong căn phòng nóng bức, bèn lợi dụng lúc tôi ra ngoài mua nước mía uống giải khát ở chợ chồm hổm trên hè đường, ngay trước lớp học may, nàng lén đi theo và kéo nhẹ ống tay áo tôi vào một góc rồi thì thào với tôi: “Anh ơi, lớp này dạy không ra chi đâu và cái lão thầy chẳng có tốt nghiệp trường Paris gì ráo trọi. Ông ta không biết một chữ tiếng Pháp nào mà tốt nghiệp trường dạy may Paris sao được!” Tôi ngạc nhiên một cách thích thú: ”Vậy là chị biết tiếng Pháp?” Nàng mỉm cười: ”Thì ít nhất cũng biết hơn ông ta, kẻ không biết lấy một chữ. Thôi, tôi phải vào ngay, kẻo lão ta lại nghi tôi trốn đi đâu.” Nàng nói nhanh và đi như chạy trở lại lớp may. ”Chán quá,” tôi than. Cái niềm vui được nói chuyện với một người nữ có học và phải nói là đẹp và chân thật biến mất, nhường chỗ cho một sự tức tối vì bị lừa một số tiền khá bộn mà chẳng thể đòi lại được. Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo khổ, cha mẹ phải chắt chiu từng đồng để khi xưa nuôi tôi ăn học học cũng như bây giờ khi tôi gặp hoạn nạn, nên khi bị lừa mất số tiền ấy, tôi rất xót ruột. Rồi tôi bỏ đi, không vào lớp may nữa.
trong phòng trọ mái tôn, chật chội, nóng mướt mồ hôi, tôi lại đạp xe lòng dòng đến những khu còn có cây cỏ xanh còn sót lại, ít những tấm bảng, những biễu ngữ hừng hực lửa thù, lửa ngạo mạn đã ứ đầy trong thành phố. Khu phố gần lớp dạy may là một khu như thế. Có bữa tôi đạp xe qua thì thấy xa xa bóng một người đàn bà mặc áo bà ba lụa vàng đứng dưới bóng cây xanh, cỏ dưới chân nàng cũng xanh, hàng dậu sau lưng nàng cũng xanh. Đạp sát lại hơn nữa, thì thấy có một cuốn sách dựng cạnh chân nàng, dưới gốc cây. Tôi nhận ra đấy là Lan, người đàn bà phụ đạo tiệm may. Có lẽ nàng nhận ra tôi trước vì đằng xa đã thấy nàng cười. Tôi thắng xe lại: ”Chào chị.” ”A, lại là anh. Anh đang thất nghiệp lang thang?” ”Còn chị? Sao không phụ dạy may nữa?” Nàng trả lời: ”Không phụ được nữa.” Rồi nửa nhẫn nhục, nửa cương quyết: ”Không cách chi phụ được nữa.” Tôi chỉ xuống cuốn sách và hỏi, hỏi cho có hỏi: ”Chị bán sách à?” ”Vâng.” Cuốn sách có cái tựa đề Thép đã tôi thế đấy với cái tên tác giả tiếng Nga dài ngoằng tôi không thể nhớ nỗi, mãi mãi không thể nhớ, hay nói đúng hơn, không muốn nhớ những cái tên đã gián tiếp giết dân Việt, giết hơn ba triệu người, Trời ạ! ”Chị chỉ bán cuốn này?” ”Không đâu anh, tôi còn cả xắc sách trong bụi đằng kia.” Và nàng đưa tay chỉ về một hàng dậu đan bằng cây bụi, khá xa nơi nàng đứng, nhưng vẫn nằm trong tầm theo dõi của nàng. Cườm tay trắng muốt liền với bàn tay ngà hiển linh dưới nắng trong trong trời trong làm tôi choáng, ngộp. ”Anh sao vậy?” Nàng hỏi. Tôi lấy lại cái vẻ trượng phu, hỏi về cuốn sách mà bấy nay tôi rất thích, gần như bị nó ám ảnh, và tới nay vẫn chưa được đọc: ”Chị có cuốn Đường vào hiện sinh của Krishnamurti, Trúc Thiên dịch?” ”Thưa tôi có, nói đúng ra chồng tôi có, có cả bản tiếng Anh.” ”Commentaries on living?” ”Vâng.” Tôi chợt cảm thấy mình giàu hẳn lên, túi bỗng đầy tiền. ”Thế thì ngày mai chị đưa sách đến đây nhé.” Nàng nói có vẻ gấp gáp: ”Anh có thể có cuốn sách ngày hôm nay. Ai biết chuyện gì sẽ xảy ra cho ngày mai.” ”Là sao…?” Ban ngày chẳng có gì làm và chẳng thể đọc sách ”Anh có thể chở tôi đến đó lấy ngay.” Viết&Đọc Đặc San 2021 23
”Ở nhà chị?” ”Vâng. Được không anh?” ”Được gì?” ”Chở tôi.” Rồi nàng ngồi xốc lên sau yên xe cho tôi chở. Đạp một quãng, nàng hỏi: ”Anh đạp có thấy nặng không? Cũng gần đây thôi.” Tôi nói ẩu, lời vọt ra từ cửa miệng trơn tru, tự nhiên như bất cứ người nam nào được sa vào cảnh tiên này: ”Nặng cũng hóa nhẹ. Xa cũng hóa gần.” Tôi không nghe nàng nói gì trong một giây, rồi: ”Chồng tôi tuy là dân nhà binh, nhưng rất yêu sách.” và như có tiếng thở dài rất nhẹ mà rất nghẹn. Quãng đường xa hay gần trong thực tế, lúc này tôi không còn biết nữa, chỉ biết là một thoáng đã có tiếng nàng thốt sau lưng: ”Anh ngừng ngay cái nhà có cội hoàng lan lá xanh non đó.” Những cuốn sách được nhét trong bao phân u rê bỏ nằm ngổn ngang bơ vơ trong một căn phòng nhàn nhạt ánh buồn bã và thoang thoảng mùi mốc; cái cửa sổ nhỏ để lọt những làn sáng nhỏ chẻ song song qua song cửa mà trong đó những con muỗi, những con mằn hăn bay bay trong vương quốc thầm lặng của chúng, và rọi lên tượng thánh giá treo rầu rĩ đầu chõng. Nàng nói nàng mới thồ sách từ nhà mẹ nàng về, khi tình hình đã có vẻ bớt căng thẳng về chuyện ”sách vở văn hóa đồi trụy.” ”Cuốn ấy nằm trong bao cái bao đặc biệt này, bao tôi cột hai vòng bằng sợi dây xanh.” Nói rồi, nàng mở dây bao rồi đổ lên chiếc chõng kê sát. Trên chõng nằm lăn lóc những cuốn sách đã có màu nhọc nhằn. Toàn là những sách tôi thích. Tôi xem qua cuốn Commentaries on living trước, rồi tò mò giở vài trang đầu mấy cuốn khác. Trên trang đầu mỗi sách đều có viết tên Lê Chính Danh và in dấu son khắc bằng triện thư chữ : tâm hư. Còn có mấy cuốn thơ Đường Trần Trọng San soạn, có lời đề tặng sách kèm với chữ ký của Tâm Hư cho người yêu rồi vợ là Hoàng Lan, và nhất là cuốn Toàn Đường Thi mà theo lời đề tặng thì chồng Lan mua ở Đài Bắc, nhân chuyến du lịch của ông Danh được TT Nguyễn Văn Thiệu thưởng cho các quân nhân chiến đấu xuất sắc trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, tặng cho ”cô đồ non” họ Hoàng. Một lúc sau thấy cứ tò mò mãi như thế là bất nhã, tôi quay lại để xin lỗi thì thấy Lan đã lẻn đi từ lúc nào không hay. Tôi cầm cuốn sách cuốn Commentaries on living ra phòng trước, thấy Lan đang ngồi một mình trên ghế. Lan đang cúi đầu, có vẻ nghĩ ngợi, nghe tiếng chân tôi bước ra, nàng ngẫng đầu lên 24 Viết&Đọc Đặc San 2021
mỉm cười tươi sáng như thể đã tìm ra câu giải đáp cho vấn đề nan giải, và tôi chưa kịp nói gì thì nàng đã lên tiếng: ”Thôi, anh cứ cầm về mà đọc. Không phải tiền nong gì cả.” ”Tôi không dám nhận. Xem ra chị đang cần tiền trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay.” ”Khó thì khó đấy. Nhưng khi thấy anh cầm sách mà xem, tôi như thấy lại anh Danh đang nâng niu chúng trên tay. Tôi coi anh như anh Danh. Thôi, anh cứ lấy những cuốn sách mà đọc dần, cứ như tôi thay mặt anh Danh cho anh mượn.” Rồi nàng cười: ”Xin phép cho Lan hỏi: ’Anh không phải người ở đây?’” ”Thưa không. Tôi vào đây học cái nghề gì đó kiếm ăn, chứ làm nông mà lại làm nông hợp tác xã thì cực quá.” ”Bữa thấy anh học may, tay chân luýnh quýnh như thế thì học được cái gì! Mà anh ở ngoài Trung? Nghe tiếng của anh tôi đoán vậy.” ”Vâng, không hẳn ở Miền Trung, chính ra tôi gốc người Quảng Bình, nhưng ở Hàm Tân, Bình Tuy.” ”A, anh Danh có đóng ngoài đó một năm. Tôi có ra thăm và có tắm biển ở đó. Biển thật đẹp, bãi cát trắng tinh khôi hàng mấy chục cây số, lại còn phi lao xanh dài ngút mắt. Chúng tôi còn thuê người chèo thuyền thúng ra Hòn Bà. Người chèo thuyền thúng chèo dễ như chơi. Anh Danh tưởng bở, thử chèo, thuyền thúng cứ xoay lòng mòng, không nhích được một gang.” Nàng cười vui và nói giọng trong trẻo, đầy màu vui, như những ngày nắng ấm ấy, hạnh phúc ấy vẫn còn chờ nàng ngoài song cửa. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, nàng nhíu mày, buông xuống giọng thầm: ”Mà anh này, ngoài ấy chắc dễ vượt biên lắm…” Tôi giật mình, cái giật mình không xứng đáng với người nữ đang gặp khốn khó nhưng vẫn tin tưởng và muốn cho không tôi những cuốn sách quý giá; nghĩa cử ấy trôi vào lòng tôi như giòng nước ngọt từ một con suối hiền mới đây thôi mà giờ đã cạn vào cõi hoang sơ, huyền thoại. ”Hồi trước thì dễ thật. Giờ thì không còn dễ nữa. Tôi đi mấy lần, không lọt, giờ tạm lánh vào đây.” Tôi thấy ngồi lâu không tiện, tính ra về dù rất muốn rốn lại. Cuối cùng, tôi moi trong túi áo ra một số tiền kha khá, đưa cho Lan và nói: ”Xin cho tôi nói thật lòng: Đây không phải là tiền mua sách, mà là tiền tôi muốn muốn góp một phần để chị mua đồ mà thăm nuôi anh ấy. Nhờ những người như anh ấy mà tôi được yên tâm học hành trong những năm chiến tranh khốc liệt, và bây giờ các anh ấy phải sa vào vòng tù tội. Còn
chuyện sách, thì thỉnh thoảng tôi đến mượn vài cuốn để đọc tạm, rồi trả lại cho anh ấy, chứ tôi đang ở trọ chui, nay đây mai đó, mất đi thì uổng.” Lan ứa nước mắt, những giọt nước mắt đẹp lăn trên mặt đẹp. Những tuần sau đó, tôi gặp Lan nhiều lần nữa, gặp để đổi sách và biếu thêm ít tiền. Càng ngày nàng càng thuận lòng đưa tay ra nhận tiền hơn. Chuôi tay ngọc, bàn tay ngà đã có màu xanh xao và gầy guộc dần. Bẵng đi một thời gian không còn thấy Lan đứng bán sách chỗ cũ và khi gặp lại, nàng cho biết với số tiền của tôi biếu góp nhặt lại, nàng đã đi thăm được chồng nàng đang ”cải tạo” ngoài Yên Bái. Nàng kể anh ấy bảo Lan không cần phải thăm anh ấy nữa, mà hãy dành chăm lo cho các con. Lúc đó tôi mới hỏi: ”Vậy anh chị có mấy đứa con.” ”Hai anh ạ. Cháu gái lớn năm nay mười bảy tuổi, ở với tôi, đang học lớp mười một. Thằng em kém hai tuổi, đang ở với bà ngoại. Chúng nó đều học giỏi cả, nhất là cháu gái, mà chắc là chẳng đi tới đâu với cái ’chế độ tuyển sinh’ ’hồng hơn chuyên’ của họ.” ”Vâng, tôi hiểu.” Rồi có một ngày, trước Tết, mẹ tôi vào thăm và tiếp tế gạo, tiền cho tôi ăn Tết và cho biết mấy đứa em tôi có rẫy dưa ven biển đang tổ chức chôn dầu vượt biên, móc được ghe giả cào ba lốc đầu xanh; khoảng ”Tháng Ba bà già đi biển” sẽ đi; mấy đứa em cần tôi đi vì thương tôi đã đành mà còn vì để thông dịch cho chúng khi tàu ngoại quốc họ vớt. Có lẽ nhờ cái đầu óc đã đọc vô số tiểu thuyết lồng đủ loại bẫy đời mà những nhân vật trong truyện đã tìm đủ cách, đủ kiểu thoát ra được, tôi bỗng nói trơn tru như đã sắp sẵn từ lâu: ”Mẹ à, mấy tháng trốn trong này con có quen một đứa con gái mười bảy tuổi. Con nhỏ xinh đẹp, hiền lành. Con muốn đưa cô ta đi luôn, rồi qua bên đó cưới.” Nói xong tôi mới thấy mình nói ẩu, nói liều, và đang hơi hoảng thì bà mẹ của tôi đã cười tươi, đôi mắt nheo, đỏ, kèm nhèm vì lông quặm cũng cười theo: ”Trời đất. Mẹ mong con lập gia đình đã lâu, vậy thì tốt quá. Còn mấy tháng nữa mới đi, không việc gì phải qua bên đó mới cưới, cứ cưới ở đây rồi đưa đi vừa chắc ăn, vừa ba mẹ có dịp ăn cưới con trai trưởng, và con nhỏ đó phải chính thức là vợ con, thì mẹ nghĩ đứa em mới chịu cho nó đi… Mà không phải là nghĩ, mà là phải như vậy.” Tôi chưng hững, vì chuyện tôi tự nhiên dựng lên lại dẫn tới những nẻo mới có khuôn có phép như vậy, nhưng cái miệng của tôi vẫn cứ phải phóng
theo lao vì cái động lực cứu nhân độ thế trong tôi lúc này đang lấn át tất cả: ”Vâng, mẹ nói phải, mẹ cứ về ngoài đó đi, nói lại với các em dành thêm một chỗ cho vợ tương lai của con. Con sẽ hỏi lại chuyện cưới hỏi với người yêu của con và mẹ của nó…” Khi không người con gái tôi chưa từng gặp một lần và chỉ được mẹ cô nàng nhắc qua như một danh mục, trở thành người yêu và sẽ là vợ tôi. Ôi, cái động lực thúc đẩy con người cứu nhân độ thế mạnh mẽ biết bao như Somerset Maugham từng nói: Cái đam mê lớn nhất của con người ấy là ham mê cứu nhân độ thế, có thế mới có những người một đời xả thân vì nước, phụng sự xã hội, khoa học, những chiến sĩ liều chết vì nước. Mẹ tôi hỏi vặn: ”Ủa, con nói là con hỏi lại mẹ nó, vậy nó không có cha hả?” ”Dạ có, nhưng cha bị đi ’cải tạo’ rồi mẹ à.” ”Ừ, mẹ hiểu. Tội nghiệp. Mà con của mấy ông sĩ quan chắc biết lễ nghĩa, cương thường. Được đó con. Không gì bằng cương thường lễ nghĩa con à!” ”Dạ, con cũng nghĩ vậy,” tôi trả lời, và dung nhan Lan hiện ra trong đầu tôi, tôi bồi thêm: ”Mà con nhỏ đẹp gái lắm mẹ à. Da trắng như bông bưởi, tóc đen như mun, môi hường…”, toàn những khái niệm về vẻ đẹp con gái mà những người dân quê như mẹ tôi hay dùng. Mẹ tôi cười, vẫn nụ cười tươi từ cái miệng móm mém: ”Ừ, mấy ông lớn lấy vợ đẹp, thời con phải đẹp thôi, nhất là con gái. Vậy thì được lắm. Con vậy là tốt số. May mà con không lấy con Trang mà mẹ cứ nằng nặng đòi con lấy. Giờ nó bỏ ông chồng thầy giáo, cặp thằng dân ba đờ ghe ở dưới xóm cửa, vượt biên với nó mất tiêu rồi.” Tôi lại giở cái giọng bà già trầu để mẹ tôi khỏi nói thêm chi cái chuyện nghĩ mà bắt mệt đó: ”Dạ, con người có cái số, mẹ à.” ”Con nói phải đó: Con người có số.” Tôi lại gặp Lan nơi cội cây, chỗ ấy. Lan lúc này không còn bán sách mà bán thuốc tây nhập mà dạo đó Vietnam Diffusion, nhóm trí thức ở Pháp thân CS Hà Nội, nhận tiền thân nhân của ”bọn đĩ điếm chạy theo đế quốc ăn bơ thừa, sữa cặn” mua thuốc tây bên Pháp, gởi từng thùng nhỏ về cho thân nhân của họ trong nước, vì lúc ấy trong nước dân cũng như cán bộ CS cần sống chết thuốc tây thiệt, thay vì cho phép việt kiều gởi ngoại tệ về vì một chính phủ CS thửa ấy còn chưa sạch sình lầy, tăm tối và dã man đã ghen tức, không muốn thân nhân với những tệ tính kể trên mà họ gán gởi ngoại tệ về cho bọn thân nhân trong nước ngồi mát mà ăn bát Viết&Đọc Đặc San 2021 25
vàng, tuy rằng bát vàng ấy là của thân nhân ở nước ngoài đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được chứ không phải của CS. Tôi nói với Lan cái ý tôi muốn đưa con gái của Lan đi vượt biên với tôi. Nàng vui hẳn lên, nhưng không hân hoan quá mức như những người khác khi được nghe về cơ hội may mắn cỡ này trong một Đất Nước mà cột đèn nó cũng muốn đi (vượt biên), nàng nói: ”Khi biết anh người ở ngoài ấy, tôi cũng nãy ra cái ý là xin anh: nếu có cơ hội đi được, thì anh cứu con bé, thì tôi rất đội ơn anh. Nhưng anh biết đấy, gia đình tôi chỉ có sách, chứ không có tiền có vàng, mà tôi lại nói cái ý ấy ra với anh thì tôi sợ anh khinh.” Rồi khi tôi nói cái ý của mẹ tôi muốn tôi cưới hỏi con bé đàng hoàng trước khi đi vượt biên, Lan tái mặt, ấp úng gần như cà lăm: ”Chuyện mẹ anh buộc anh muốn cưới con gái tôi, thì mới cho nó đi, nó nhỏ tuổi, tôi không biết nó có chịu không. Tôi phải hỏi ý nó.” Tôi nhìn chăm vào Lan và nói: ”Dĩ nhiên rồi, nhưng trước khi chị nói với con chị, chị để cho nó gặp tôi cái đã.” Lan cúi đầu ra chiều cam phận: ”Vâng, anh nghĩ thế cũng phải.” Tôi gặp Huệ, con gái của Lan, hôm sau, trong khu vườn có cây hoàng lan vừa có những nụ hoa vừa hé mở, và hương toả ra còn rất thoảng. Huệ có cái nhan sắc, vóc dáng của Lan. Có thể nói là cả hai đều từ một khuôn đúc mỹ lệ của Tạo Hóa, nhưng trên nhan sắc không có cái tươi vui, phơi phới đáng có vì những phẩm tính này đã bị cuộc đời quá tàn nhẫn cướp mất đi, nhưng, như một nụ hoa đang ngã màu ủ ê vì gió độc nắng gắt, nụ hoa ấy xem ra chỉ cần một làn mưa nhẹ cũng đủ làm cho tươi tắn lại. Tôi nhìn Huệ rồi nhìn mẹ của Huệ, nhìn qua nhìn lại, nhìn lại nhìn qua. Tôi, trong một thoáng, nhớ tới bức tranh chợ bán những nữ nô lệ xinh đẹp Ả rập da trắng ở Ba Tư mà tôi có lần ngắm trong cuốn đại từ điển La Rousse. Những người đàn bà đẹp đẽ nhan sắc, rắn lượn thân hình. Tôi xua ngay cái hình ảnh man rợ mà gây nuốt nước bọt đó. Tôi quay qua Lan nói: ”Hay là chị cho phép tôi đưa em Huệ đi ra ngoài quán cà phê vườn gần đây nói chuyện chúng ta bàn lúc nãy trước khi chị nói với Huệ. Như thế thì tiện hơn.” Lan lại có vẻ cam chịu như vẻ mặt của một ả nô lệ nhỉnh tuổi hơn các ả khác trong bức tranh kể trên khi đứng trước sự đổi ý của tôi: ”Vâng, như thế cũng được.” Huệ mím môi hỏi mẹ: ”Chuyện gì vậy mẹ?” 26 Viết&Đọc Đặc San 2021
”Chú là người quen của ba. Chú ấy muốn giúp con. Chú muốn nói chuyện riêng với con trước khi quyết định giúp.” ”Vâng.” Huệ xin phép đi vào nhà sửa soạn một chút. Khi trở ra, thấy Huệ bận quần áo tươm tất: áo sơ mi trắng, quần jeans xanh bạc, tóc mây buông lơi và môi có một chút son, son thiệt vì cái màu son bóng lưỡng và trải mượt trên môi, những thứ còn sót lại từ một thời hoa lệ thành đô, đủ để cho ”Ngày rời Paris, anh đã để quên con tim.”, nếu Huệ đang ở Paris chứ không phải ở trong thành phố khốn khó này. Tôi đi trước, Huệ đi sau, chúng tôi im lặng không nói gì. Khi đã ngồi vào bàn, tôi mới bắt đầu nói với Huệ, nói lại nội dung của cuộc nói chuyện lẫn bàn bạc giữa mẹ tôi với tôi và giữa mẹ của Huệ với tôi. Và cuối cùng tôi nói và hỏi một câu gút từ miệng đấng cứu nhân độ thế lẫn mồm con dê xồm trong tôi: ”Kết hôn giả để qua mặt mấy đứa em để chúng nó cho Huệ đi cũng được mà kết hôn thiệt thì anh càng mừng. Ý Huệ thế nào? Mà Huệ cũng chẳng cần phải trả lời ngay. Tuần sau cũng được.” Mặt Huệ như bừng sáng lên, tuy có một chút bẻn lẻn, nói liền một hơi: ”Dạ, cưới thiệt và cưới ngay cũng được. Huệ được mẹ cho biết là anh đã mượn mà như mua tủ sách của ba mẹ em. Toàn sách tốt, sách hay. Bạn hãy nói cho tôi bạn đọc sách gì, tôi sẽ nói bạn là loại người nào, em có đọc đâu đó trong một tạp chí. Và anh cũng cao ráo, đẹp trai, mới nhìn, em nói thật: em đã có cảm tình rồi, thì có gì đâu mà phải ngần ngại; và chúng mình cũng đâu có nhiều thời giờ nữa đâu.” Cái thằng tôi mừng quá sức vì quyết định của nàng Huệ làm thoả mãn cả đấng cứu chuộc lẫn cái gã dê húc trong tôi một cách không ngờ đến như vậy. Chúng tôi rời quán. Chúng tôi đi bên nhau, đi nhanh, đi sung sướng đi về nhà. Khi chúng tôi về đến nhà thì thấy Lan đang còn đứng chờ dưới bóng cây hoàng lan. Nàng Huệ đi ngay vào nhà trong không nói năng chi. Tôi đến bên Lan và nói ngay về quyết định của Huệ và kể lại nội dung cuộc nói chuyện với Huệ, Lan cười cười và lại nói lại câu nói cũ: ”Vâng, như thế cũng được.” Có một lễ cưới như dự tính, trang trọng trong nhà thờ, trang trọng một tiệc cưới. Trang trọng chứ không sang trọng. Mọi người khen chúng tôi xứng đôi vừa lứa vì thực ra tôi chỉ hơn cô dâu tròm trèm 10 tuổi, mà theo tiêu chuẩn Việt Nam, như thế thì
đâu đến nỗi nào, và tôi, thật tình mà nói, có vóc dáng cao ráo, đô con, cái mặt, nhìn vào gương, không bảnh cho lắm nhưng cũng coi được, lại có cái vẻ hiền dịu của một kẻ đọc sách nhiều, (một hiền nhân Tàu đã nói thế hẳn hoi), xin cho phép tôi nói như vậy. Sau khi tan tiệc cưới, ba mẹ và anh em tôi về quê ngay vì không muốn bọn công an ở quê chúng nó nghi nhất là khi ngày vượt biên đã gần kề. Bên đằng gái đa số ở thành phố ”Bác” cũng đã ra về. Thằng em trai của Huệ, muốn ở lại, nhưng không được, phải về với bà ngoại. Bấy giờ trong nhà chỉ có hai chúng tôi và mẹ Lan. Phòng động phòng với chiếc giường, chiếc chiếu, tấm chăn, đôi gối sạch sẽ, tươm tất trong một thời bát nháo, phủ đầy bụi đời đỏ, chờ đợi cô dâu chú rễ. Huệ đã nằm sẵn trong đó. Tôi bước vào phòng và thoáng thấy có ánh mắt Lan trông theo, và đôi môi mỉm cười như một lời cầu chúc hạnh phúc – tôi nghĩ vậy. Khi bước tới giường, tôi vén mùng thì thấy Huệ đang nằm quay mặt vào trong tường. Chàng hiệp sĩ cứu khốn phò nguy trong tôi bị dê sừng húc văng không còn manh giáp, tôi sà vào ôm nàng, nàng quay ngoắt mặt ra nói: ”Em xin lỗi anh. Em xin lỗi anh rất nhiều. Hôm nay, xui xẻo, em có kinh anh à. Chúng ta không yêu nhau được đâu. Anh thông cảm cho em.” Rồi nàng ngồi lên ôm tôi và hôn thật lâu. Tôi lịm người trong cái hôn tha thiết, ép sát vào thân thể mềm mà căng mà tròn lẳn như thân thể bức tượng cẩm thạch nữ thần Diane, phiên bản phương Nam, nhan sắc gái trinh tân hôn, hương thầm lan toả, tôi ngây ngất, tôi muốn điên, tôi nói cuồng, tôi van xin: ”Kệ mẹ kinh với kệ. Chơi có máu thì càng hấp dẫn. Em cho anh đi! Em cho anh đi! ” Nàng lắc đầu, đẩy tôi ra, đẩy một lúc không được thì ôm mặt khóc. Máu kinh nguyệt tôi không thua, nhưng nước mắt đàn bà, nhất là nước mắt đẹp của nàng Huệ đẹp thì tôi thua ngay. Tôi đi ra phòng ngoài thì thấy mẹ vợ tôi còn ngồi viết viết gì đó trên cuốn vở, viết mà ngọn bút cứ dí lên dí xuống, vạch ngang vạch dọc tờ giấy vốn đã nhàu nát. ”Mẹ chưa ngủ hả mẹ?” Lan nói nhỏ như tiếng thầm: ”Còn sớm mà, và Lan rất ít ngủ.” ”Huệ mệt, khó ở, nó muốn ngủ một mình.” Lan ngước đầu lên ngay và nói: ”Cũng thường tình thôi. Hồi Lan với anh Danh, phải cả tuần sau mới ổn.” ”Vậy hả mẹ? Chắc con phải kiếm cái chiếu trải dưới hiên mà ngủ. Trời nóng như thế này!” Lan cười nhẹ: ”Ừ, thôi để Lan lấy cái ghế bố nhà binh, căng
mùng cho Nam ngủ ngoài hiên cho mát.” Tôi không nói gì. Lan vào phòng trong bưng ra chiếc giường bố nhà binh, tôi đứng dậy giúp, Lan gạt ra. Lan trải giường, phủ lên giường một lớp ra trắng và căng chiếc mùng còn khá mới mà dày sợi cũng màu trắng. Dọn xong, Lan gọi vói vào, giọng diễu cợt thấy rõ: ”Mời chú rễ bất phùng thời ra nằm. Thôi chúc ngủ ngon. Biết đâu cô dâu đổi ý, ra với chàng. Huệ nó rất thích hương hoàng lan về đêm.” Tôi cảm thấy được an ủi và chui vào mùng, nhưng lòng vẫn cứ ấm ức từng chặp. Nửa đêm, ngọn đèn đường yếu ớt nãy giờ như con mắt bệnh đổ ghèn, giờ tắt hẳn. Bóng tối, tối như mực và yên ắng, chỉ có tiếng muỗi bay thiệt hăng hái và mùi hoàng lan toả đầy mái hiên và chui luôn vào mùng vờn quanh thân thể tôi. Lại ấm ức, ấm ức tùm lum, nhưng rồi tôi cũng thấm mệt, và trời mát dần xoa dịu cơn nóng trời đất và xoa luôn cơn nóng trong lòng tôi, tôi nằm thiu thiu. Khoảng hai giờ sáng, có tiếng gà gáy đầu canh (chắc là gà nuôi ’cải thiện’ của ai đó). Tôi nghe có tiếng mở cửa rất khẽ và tiếng chân cũng bước rất khẽ bước về phía giường tôi và rồi có bóng người nữ vén mùng, chui nhanh vào chiếc giường bố nhà binh nhỏ bé, và nằm vồ ngay trên người tôi, tôi đang ú ớ, thì đôi bàn tay người nữ đã bịt miệng tôi và ”suỵt, suỵt”, và hôn tới tấp lên môi tôi, bịt chặt miệng tôi. Mùi son, mùi nước hoa này tôi vừa ngửi từ Huệ trước khi bị đày ra đây. Tôi không nhìn được mặt, được hình, nhưng có hề gì, cô vợ nhỏ bé bày đặt làm cao làm điệu đây mà! – Tôi reo trong lòng. Tôi sướng quá thể. Tôi vật Huệ nằm dưới, tôi cố trườn lên thân nàng trên chiếc giường hẹp. Tôi sướng quá chừng chừng mà nàng cũng vậy. Sung sướng bên nàng, sung sướng bên tôi xướng hoạ ăn khớp, nhịp nhàng, dù rất dữ dội. Chiếc giường nhà binh chân giường bằng nhôm chắc chắn, bằng vải bố nhà binh được thiết kế cho lính Mỹ, có sức chịu đựng trên hai trăm ký, dư sức chịu được mọi chấn động từ hai thân thể chúng tôi. Máu vọt và dầm dề trong âm hộ nàng. Máu ấm và tanh tanh mùi thú hoang. Tôi đã hết sức, đã một cách dã man. Uống khi biết đang có sẵn trong bình đông thì không thể sướng bằng giòng nước uống được sau khi tuyệt vọng vì khát trong sa mạc. ”Em chơi ác quá.” ”Suỵt, suỵt.” Ngọn triều sướng lên tuyệt đỉnh rồi cũng chuồi xuống. Người vợ thanh xuân của tôi cũng chuồi ra khỏi giường. ”Em nán lại với em chút nữa đi.” ”Suỵt! Suỵt!” Rồi nàng biến mất sau cánh cửa. Tôi còn thèm thuồng nhưng cũng có đủ sung sướng để chìm vào giấc ngủ sung sướng. Sáng thức dậy, tôi vào ngay phòng với Huệ. Nàng đang còn ngồi sơn móng tay trên giường. Viết&Đọc Đặc San 2021 27
Tôi tính ghẹo nàng một câu chuyện đêm qua, nhưng tôi sững người, sởn da gà khi thấy những móng tay nàng cắt ngắn, ngắn sát da đầu ngón tay, trong khi bàn tay cấu vào vai tôi đêm qua có móng tay dài, cấu đau buốt lưng tôi. Móng tay của Lan, chứ không thể của ai khác, lúc này tôi mới nhớ ra. Tôi vốn đãng trí, lúc đó sướng quá lại càng không nhớ được. Người thường cũng vậy, huống gì tôi. Nhưng tôi vẫn hỏi Huệ cho chắc ăn: ”Em mới cắt móng tay rồi mới tô?” Huệ vẫn không nhìn tôi: ”Lâu nay em vẫn thích để móng tay ngắn cho sạch sẽ và trẻ trung.” Rồi tôi kiếm cớ đi ra khỏi phòng, tìm chỗ kín vặt bộ phận tôi ra xem, và không thấy một vệt máu lem nào. Khi tôi trở lại phòng, thấy Huệ cúi đầu và vẫn không nhìn tôi, Huệ nói: ”Mẹ đi mua thuốc tây ở trạm phát của Vietnam Diffusion rồi. Mẹ bảo là anh với em ăn cơm tiệm hôm nay một bữa cho sang. Mẹ nay có nhiều mối bán, lẫn mối mua, nên rất bận.” Khi Huệ ngước lên, thấy mặt Huệ có vẻ tái và môi cứ mím. Tôi hơi lo, hỏi cho có hỏi: ”Em còn mệt không?” ”Còn, vụ này cả tuần mới hết, có khi lâu hơn.” Tới tối mới thấy Lan về. Tôi lựa lúc Huệ đi đâu đó, kéo Lan vào một góc khuất trong nhà nói: ”Tối qua Lan ra với anh! Liều vậy!” Lan ngượng chín người, đứng im cúi đầu, cười mím. Tôi thì thào sát tai mẹ vợ: ”Trời đất, hai mẹ con giống nhau như đúc. Tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh, huống chi cả hai đều là nhà ngói!” Rồi chỉ vào tay nàng: ”Những móng tay dài này bấu vào lưng anh đau muốn chết.” Nàng tát yêu vào má tôi, rồi ôm choàng lấy tôi, gục vào ngực tôi, cười khúc khích: ”Giống như đúc rồi còn trời tối đen, son, nước hoa dùng chung, cùng thả tóc thề thì có thánh mới biết được, ai ngờ mấy cái móng tay làm lộ tẩy hết.” ”Thì sáng tỉnh dậy, anh mới nhớ ra mấy cái móng tay của em, chớ lúc ấy, thánh thần gì cũng mụ mị hết.” Nàng ép sát vào tôi, hôn tôi, cấu cấu thật sâu vào lưng tôi. Rồi nàng chững lại: ”Mà giờ anh tính sao đây?” Tôi chẳng biết tính sao, tôi yên lặng, rồi tôi nghe nàng nói trong nước mắt: ”Cuộc đời em bây giờ chỉ toàn những chuỗi buồn phiền, mệt mỏi.” Tôi vẫn im lặng. Nàng nói tiếp, giọng van vĩ: 28 Viết&Đọc Đặc San 2021
”Nhưng, gì thì gì anh vẫn hãy cứu con em. Tình mẹ, duyên con. Dù sao đi nữa, em vẫn yêu anh. Xin cứu con em. Cứu con em thì cũng như cứu em, dù em...” Guru đẹp trai Kristnamurti hiện lên trong đầu tôi, giải tội cho nàng qua cái miệng chữa cháy của tôi, dập lửa ân hận và đồng thời khơi rộng thêm vết thương của thú đau thương vừa mở nơi nàng: ”Chắc em cũng biết là Kristnamurti nói nhiều, giảng dạy rất nhiều, nhưng chủ đề xuyên suốt những tác phẩm của ông đó là sự kêu gọi con người hãy giải trừ kiến thức. Và mọi con đẻ của kiến thức như phong tục, lễ giáo, tôn giáo, luật lệ trong xã hội…, chúng ta phải dẹp bỏ hết để phục sinh lại cái hiện sinh của chính mình. Vì tất cả những thứ đó là sản phẩm của quá khứ. Quá khứ đồng nghĩa với sự chết. Không ai muốn chết cả, chỉ trừ những người điên.” Xem ra cái kiến thức ba rọi của tôi về Krishnamurti đã trở thành cái phao trôi giữa biển bão tố lòng nàng, nàng chụp ngay và nàng hổn hển: ”Cảm ơn anh. Cảm ơn anh đã hiểu em. Em yêu anh. Người như thế này mà sao không yêu cho được!” Chỉ mấy ngày sau, khi Huệ vẫn chưa hết kinh, thì có người nhà của em trai tôi vào đưa tôi và vợ mới cưới của tôi đi vượt biên, đi sớm hơn dự định vì nơi chôn dầu bị động ổ. Lan tiễn biệt chúng tôi đi. Nàng dúi vào tay tôi một lá thư và dặn qua được bên đó hẵng đọc. Chắc lại dặn dò gì đây – tôi nghĩ. Ghe chúng tôi, vì có người hoa tiêu là một sĩ quan hải quân và có máy tốt nên chạy năm ngày đêm đến thẳng tới cảng Terengganu, Malaysia mà không bị trở ngại gì. Khi được đưa lên bờ tạm trú trong một trại tạm trú mấy ngày trước khi đưa ra đảo Bidong, Huệ kéo tôi ra sau một lùm cây rậm, tôi cứ tưởng bở đưa tay bóp vú nàng. Nàng hất mạnh tay tôi ra, hằn học khá lớn tiếng: ”Ông không được phép khai tôi là vợ ông. Tôi biết là ông đã ngủ với mẹ tôi ngay trong đêm động phòng. Tôi bất cần đếm xỉa chuyện đó, miễn sao tôi đi được là được… Và khi ông ngỏ lời cưới tôi, tôi quyết định cho ông cưới tôi ngay là vì tôi muốn lợi dụng ông, và tôi không muốn vì sĩ diện hảo mà giả vờ bắt ông chờ vì tôi không muốn có trục trặc nào, dù nhỏ, xảy ra trong thời gian anh chờ câu trả lời của tôi, và sẽ đánh mất đi cơ hội thoát khỏi địa ngục. Ông thì già khú đế, lại quê mùa, bộ ỷ đồng tiền là mua gì cũng được à! Chuyện kinh nguyệt chỉ là cái cớ trì hoãn. Kinh nguyệt xong lại có cái cớ sa tử cung… Đàn ông khôn ngoan mấy cũng bị bị lừa, huống gì con người khờ khạo như ông.”
Tôi bị chấn động vì chuyện Huệ đã biết chuyện đêm động phòng bên cội hoàng lan giữa tôi với Hoàng Lan, mà vẫn tĩnh bơ, nhưng tôi bị chấn động hơn nhiều, rất nhiều, chuyện Huệ sổ toẹt một cách trắng trợn vào mặt tôi cái cơ mưu lợi dụng tôi, nhưng nói thật, tôi phải phục mưu trí và ý chí của Huệ, một cô gái mới lớn. Huệ được một anh bác sĩ trẻ ở Mỹ bảo lãnh qua Mỹ theo diện hôn thê; anh này có người chị đi cùng thuyền với tôi giới thiệu. Huệ đẹp quá mà. Hoa khôi của đảo Bidong chớ đâu có ít. Mấy đứa em tôi nói: ”Cái con nớ cao cơ hè! Còn anh thì khờ bỏ mẹ.” Đúng quá, chơ còn gì nữa. Phần tôi, tôi qua Na Uy, lo làm ăn và yên phận mình. Rồi có một ngày đầu Tháng Tư có người đàn ông từ bên Mỹ gọi sang cho tôi. (Kiếm số điện thoại của người ở khác nước bằng internet cũng dễ thôi.) Ông xưng tên là Lê Chính Danh, và cho biết ông mới qua Mỹ theo diện HO được mấy năm. Ông nói là vợ ông, bà Lan, cũng ngồi cạnh đây và xin phép tôi cho ông được bấm nút khuyếch đại cho bà cùng nghe có được không. Tôi trả lời: ”Dĩ nhiên là được, thưa ông. Tôi nay tâm hư rồi.” Ông cười khoái trá, tưởng như sẽ cười bất tận, nhưng tiếng cười bỗng đứt, và ông thả giọng xuống thật nhẹ, buồn buồn, mà lại giọng Huế thì càng buồn hơn: ”Trước hết, tôi và nhà tôi xin lỗi anh ngàn lần về chuyện con Huệ nó đã phụ rẫy anh. Anh yêu thương nó, lại đưa nó qua được bến bờ tự do mà nó lại tệ như rứa tê!” Trái tim tôi mềm nhũn ra như múi mít ướt khi nghe cái từ ’rứa tê’ kéo dài thê thiết từ một sĩ quan đã từng chỉ huy hàng mấy trăm quân xông pha những mặt trận ác liệt nhất. Tôi nói, nói thật lòng: ”Dạ, Huệ được hạnh phúc thì tôi cũng mừng.” ”Cảm ơn anh mà tôi cũng cảm ơn sự giúp đỡ đúng lúc của anh cho chính tôi. Nếu không có sự giúp đỡ đó có lẽ tôi đã chết ở trong trại giam vì thiếu ăn, thiếu thuốc chữa bệnh, vào lúc tôi được thăm nuôi, tôi bị kiết lị gần chết. Mà anh lúc đó đâu có giàu có gì! Tôi xin được gọi anh là ân nhân và xin được kết bạn với anh.” ”Dạ thưa anh Tâm Hư em không dám. Cứ coi em như đàn em của anh là em mừng rồi.” ”Thôi gì thì gì, chúng ta cứ coi nhau như người nhà.” Có tiếng Lan: ”Thì chú ấy là con rể mà không là người nhà thì là người gì?” Ông Danh cười:
”Biết rồi... Nhưng tui cứ sợ anh Nam còn giận, tui không dám.” ”Sao cũng được, thưa anh chị.” Im lặng một lúc, rồi lại nghe tiếng của ông Danh, nghe khào khào, nghẹt nghẹt: ”Thôi, tôi để anh nói chuyện với nhà tôi. Tôi mỗi năm cứ vào cái Tháng Ba – Tháng Tư lại lên cơn đau đầu, đau tim, khó thở. Tôi xin phép anh cho tôi kiếu, tôi phải ra ngoài vườn đi dạo một chút cho đỡ mệt.” Một lúc sau có tiếng Lan, nhỏ và nhẹ như ngày nào: ”Nam đã đọc thư Lan của chưa?” Tôi nói dối với nàng là chưa và hỏi trớ: ”Thư có chứa gì trong đó?” ”Mở ra thì biết. Mà sao anh lại không đọc?” Tôi lại nói dối: ”Tôi không dám mở vì tôi muốn sống an phận.” Nàng lại năn nỉ. Tôi chiều nàng. Tôi lấy lá thư tôi lồng trong khung kiếng đặt trước bàn viết, mở ra, và đọc cho nàng nghe, và cho cả tôi nữa. Đấy là một bài thơ Đường sai luật, sai vần và có thể là của một người làm thơ Đường luật chưa rành, nhưng cũng có thể là của một người làm thơ giỏi nhưng cố ý phá luật để làm nhẹ đi cái kỹ xảo và làm cho bài thơ chân thật với ý thơ hơn. Bài thơ không có tựa đề, không có tên tác giả, như sau: 自君之出矣, 須折黃 黃蘭 。 願作落花飛, 隨風入郎手。
Tự quân chi xuất hỹ, Tu chiết hoàng hoàng lan. Nguyệt tác lạc hoa phi Tuỳ phong nhập lang thủ. Tôi xin dịch nghĩa: Từ lúc anh ra đi, Em ngắt nụ hoàng lan. Nguyện làm cánh hoa rụng bay đi, Theo gió đậu vào tay anh. Chúng tôi lặng đi một lúc lâu. Nàng không nói gì, còn tôi, tâm hồn lâu nay đang yên tĩnh, bỗng bấn loạn lên, bấn loạn còn hơn khi đọc lần đầu bài thơ nầy khi tới được Malaysia, cuối cùng tôi nói: “Thôi, bữa khác chúng ta nói chuyện tiếp, được không?” “Dạ được.” Lan nói, hình như nói trong nước mắt. Mấy tháng sau nữa nàng cho biết là ông Danh, thiếu tá Danh, đã mất, sau những vật vã trong điên Viết&Đọc Đặc San 2021 29
loạn vì hội chứng Tháng Tư Đen kéo dài cả sau Tháng Tư, rồi qua đời. “Vật vã ra làm sao?” “Anh Danh cứ nguyền rủa mãi đủ thứ chuyện về sự VNCH thua CS Bắc Việt: từ chuyện tại sao một Trịnh Công Sơn có thể viết được những tình khúc ngọt ngào, thơ mộng và có thể nói là siêu việt đến thế mà lại có thể thô bỉ, trắng trợn, đểu giả lên đài kêu gọi quân cán chính của VNCH buông súng đầu hàng CS; họ là những con người của một chính thể đã bao dung, đã biết kính trọng tài năng của anh ta, tới cuộc triệt thoái bi thảm mà nhục nhã của một đoàn quân kiêu hùng, mà anh Danh là tiểu đoàn trưởng, từ tiền tuyến sông Mỹ Chánh vào Đà Nẵng…” “Và từ đó tan nát bao nhiêu ước mơ…” “Vâng, còn phần anh Nam, bây giờ anh ước mơ gì?” “Ước mơ cây hoàng lan giả anh mua chưng cả chục năm nay nở bông…” “Chao ui, anh nói chi mà ác độc rứa tê!” Tôi bỗng nghe tiếng của một thằng nhóc: “Mẹ ơi, bà ngoại khóc đó!” Có tiếng một đàn bà khác vẳng lại từ một nơi nào đó trong nhà: “Cu Tý hỗn nghe! Để cho bà ngoại khóc; khóc đâu có sao!” “Vậy sao con khóc, mẹ lại bắt nín?” Trời đất, tiếng của Huệ, tiếng nói ấy tôi làm sao mà quên được. Tiếng của Lan vẫn còn sụt sịt mà có vẻ vui: “Thằng con trai của Huệ, đó Nam. Nó giống Nam y như đúc.” ”Ầy, nói bậy!” “Thiệt mà. Lan có đọc: Nếu khi có thai mà người mẹ ghét cay ghét đắng ai, hoặc yêu say yêu đắm ai, thì đứa con sẽ giống người mà người mẹ ghét hoặc yêu đó.” “Vậy thì Nam rơi vào trường hợp thứ nhất rồi.”
30 Viết&Đọc Đặc San 2021
“Cứ chờ một thời gian rồi biết.” Và thời gian “rồi biết” ấy không lâu. Tuần sau tôi nhận một gói hàng rất lớn, được đóng thùng rất cẩn thận. Mở ra thì thấy một bức tranh lớn của Oswaldo Guayasamín, một hoạ sĩ nổi tiếng, người Ecuador, mà, thưa quý độc giả, tôi có chụp lại và đưa lên phía trên đầu bài này, và cái tựa đề của bức tranh bằng tiếng Tây Ban Nha là De la ira a la ternura: Từ sự giận dữ tới sự dịu dàng. Và kèm theo tranh là một tấm thiệp ghi gọn lỏn ”Từ Huệ”, và lá thư của Lan: ”Huệ nó mua bức tranh này đã lâu để gởi tặng anh mà nó chưa dám, mãi tới nay mới dám. Không nói ra anh cũng biết: quan trọng là không phải ở chỗ số tiền, theo em biết, rất lớn, mà Huệ chi cho bức tranh có tầm cỡ này, mà ở ý Huệ muốn gởi gắm cho anh. Hôm mua bức tranh nó xin ông hoạ sĩ tác giả ghi thêm dấu hỏi vào tựa đề của tranh thành De la ira a la ternura? Câu này em hiểu nghĩa từng chữ rồi, nhưng dịch cho trơn tru ra tiếng Việt thì ra làm sao, anh?” Đọc tới đây tôi lầm bầm trả lời thầm cho Lan: ”Thì nhất định phải dịch là ’Anh còn giận em nữa không anh ơi?’, chứ dịch sao nữa? ’Anh anh em em’ rồi còn thòng thêm chữ ’ơi’ ngọt lịm thì chữ ternura: sự dịu dàng e còn thua xa.” Chết chưa, bây giờ tôi còn ”ngộ” ra là câu hỏi mà đầy van xin này còn dành cho Lan và tôi nữa, chỉ cần đổi đại danh từ nhân xưng cho thích hợp cho mỗi trường hợp! Như tôi đã kể trên: Tôi khâm phục mưu trí của Huệ, nhưng mũi tên lần này của Huệ bắn một phát mà trúng ba chim. Oslo, cuối Tháng Tư, 2020
Nguyễn Văn Thà
Tưởng niệm thi sĩ Phụng Long
Nguyễn Trọng Trí
Nhà thơ Phụng Long, tên thật là Phùng Long sinh ngày 14 tháng 3 năm 1958 tại Cần Thơ vừa mới qua đời lúc 13g45, ngày 24.12.2020. Tôi có tham dự buổi ra mắt tập thơ đầu tiên Biển Đời của anh, đêm 25.01.2014. một đêm tuyết phủ nơi nơi. Qua những lượt anh ngâm, đọc thơ của anh một cách say mê, tôi thấy nơi anh là một nhà thơ thực sự, làm thơ và mê thơ, và lại là thơ hay, đã gây được hào hứng cho cả trăm người nghe đêm ấy. Cái hào hứng như thế khó mà thấy trong bất cứ cuộc ra mắt sách nào mà tôi đã từng tham dự, hào hứng thực sự, huống hồ là hào hứng vì thơ. Lần đầu tiên tôi gặp được Người Thơ đúng nghĩa. Lần đầu tiên tôi cảm được hơi ấm của Thơ. Như đã nói trên tập thơ đầu tiên của nhà thơ Phụng Long là tập Biển Đời. Vì là Biển Đời nên chủ đề trong các bài thơ là những tình yêu, tình người, tình dành cho cha mẹ, tình dành cho quê hương. Qua tập thơ thứ hai là tập Tơ Trời Mong Manh. Thoạt nhìn qua tên và bìa nền màu xanh da trời với làn mây mong manh của tập thơ, tôi nghĩ đây chỉ là tập thơ thơ mộng thường tình, tả tình, tả cảnh, nhưng khi đọc lời tựa của thi sĩ tôi sững sốt vì tư tưởng cao kỳ hướng thượng về một cõi trời, hướng hạ uẩn khúc với những suy nghĩ, những cảm nghiệm về kiếp người mong manh.
Viết&Đọc Đặc San 2021 31
Lời tựa ấy như sau:
32 Viết&Đọc Đặc San 2021
Viết&Đọc Đặc San 2021 33
Và sau đây là những bài thơ phần nào minh hoạ cho lời tựa của tập thơ
34 Viết&Đọc Đặc San 2021
Anh vốn là một người Công Giáo, con chiên thuộc giáo xứ Phú Cam; anh cũng đã đi tu dòng Thánh Phan Xi Cô. Ấy vậy mà thơ anh đẫm hương vị Thiền, đẫm sâu xa, đẫm thuần nhã. Phải chăng tiếng chuông nhà thờ Phú Cam rung, tiếng vang vọng của đại hồng chung từ những ngôi chùa cổ kính xứ Huế, cả hai đã thấm vào lòng anh, đã nuôi dưỡng anh và tạo nên một tâm hồn Việt đúng nghĩa nơi anh, và bấy giờ nâng anh, đưa anh về Miền Xanh Biếc trên kia. Pourquoi verte, l’ Éternité? Thiên Thu ơi, sao ngươi xanh màu lá? (Pierre Emmanuel)
Xin vĩnh biệt anh Oslo, 14.01.2021
Viết&Đọc Đặc San 2021 35
Những Mùa Mưa Trong Ký Ức Phạm Tín An Ninh
Dường như mỗi khi trời đổ những cơn mưa thường làm cho người ta dễ thấy chạnh lòng, thiết tha nhớ tới một điều gì - một cuộc tình đã lỡ, một người thân đã chia xa, hay một quê hương đang cách biệt đến nghìn trùng. Với tôi, mỗi lần nhìn mưa rơi, nhất là những ngày mưa tầm tã, tôi da diết nhớ tới đơn vị xưa, hình dung từng khuôn mặt đồng đội, bạn bè, đã chết hay đang lưu lạc tha phương, và hồi tưởng tới các cuộc hành quân trong những mùa mưa thuở ấy. Trong hơn mười năm binh nghiệp chỉ phục vụ ở những đơn vị tác chiến, tôi đã tham dự biết bao cuộc hành quân, nhưng không hiểu vì sao tôi chỉ nhớ thật nhiều đến những cuộc hành quân trong mưa thuở đầu đời lính chiến. Có lẽ đó là thời điểm vừa giáp mặt với thực tế chiến trường, và với chức vụ thấp nhất của một sĩ quan: trung đội trưởng – sát cánh với đồng đội, và thường phải cùng chiến đấu với họ như một khinh binh. Tháng 3 năm 1965, rời khỏi quân trường, tôi được bổ nhậm về một Sư Đoàn Bộ Binh. Khi trình diện Bộ Tư Lệnh có bản doanh đặt tại thành phố Ban Mê Thuột, tôi cứ ngỡ cuộc đời mình rồi sẽ gắn liền với vùng núi rừng cao nguyên đất đỏ, gió bụi mưa bùn này. Nhưng cùng với ba thằng bạn 36 Viết&Đọc Đặc San 2021
cùng khóa, tôi được bổ sung cho một tiểu đoàn lưu động, được Quân Đoàn tuyển chọn, sử dụng làm lực lượng tiếp ứng cho cả Quân Khu. Để trấn an và khích lệ tinh thần cho bốn thằng lính mới, ông Đại Tá Tư Lệnh hết lời ca ngợi tiểu đoàn này - là một đơn vị đánh đấm có tiếng, đã lập nhiều chiến công hiển hách, mà mới nhất là chiến thắng Đa Ngư Phú Lạc và Vũng Rô Đá Bia hơn ba tháng trước. Ông còn bảo: “các chú còn trẻ, về đơn vị này sẽ có dịp được rong chơi khắp các tỉnh từ duyên hải đến cao nguyên của Vùng 2 Chiến Thuật mà lại có cơ hội kiếm được nhiều huy chương.” Đưa tay lên tấm bản đồ lớn treo trên vách với đầy hình những mũi tên xanh đỏ, ông chỉ cho bọn tôi vị trí tiểu đoàn hiện đang hành quân tảo thanh, truy kích địch tại một khu vực thuộc Tỉnh Lâm Đồng, sau khi vừa tiếp ứng, giải vây cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch phục kích và cầm chân trong một khu đồn điền trà khá lớn. Sau thủ tục trình diện vị Tư Lệnh, bọn tôi được ông Đại úy Trưởng Phòng Nhất đưa ra Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, nằm ở trung tâm thành phố, tạm nghỉ ngơi ở đây để chờ theo phi cơ quân sự đáo nhậm đơn vị. Thời ấy, phương tiện tương đối khó khăn nên mãi đến ba tuần sau, nhân có chuyến bay C-47 đưa vị Tư Lệnh Sư Đoàn đi họp ở Nha Trang, bọn
tôi mới được tháp tùng. Và cũng chính lúc ấy, chúng tôi mới biết là tiểu đoàn của chúng tôi đã từ Lâm Đồng vừa mới di chuyển về Nha Trang ngày hôm qua, để tham dự một cuộc hành quân đặc biệt, giải tỏa áp lực địch nhằm tái chiếm một khu vực tại Quận Diên Khánh thuộc tỉnh Khánh Hòa, địch quân đã lợi dụng tình trạng mưa lụt khá lớn, đánh chiếm hai ngày trước. Một số cán bộ xã ấp bị bắt, giết, một đại đội Địa Phương Quân phải rời khỏi vị trí sau khi bị tổn thất khá nặng. Số tử thương chưa lấy được xác và khoảng mười binh sĩ hiện còn đang thất lạc. Ông Đại úy Tiểu Đoàn Trưởng đón chúng tôi tại phi trường. Thay vì đưa về đơn vị, ông chở chúng tôi đến Hotel Phụng Hoàng, nằm trước ga xe lửa Nha Trang. Thời ấy, Tiểu Khu nào được tăng phái một tiểu đoàn chủ lực thiện chiến là điều rất đáng mừng, nên ông tỉnh trưởng đã ưu ái dành cho tiểu đoàn chúng tôi bốn phòng ngủ lớn trong hotel này để các sĩ quan sinh hoạt, họp hành. Ông tiểu đoàn trưởng giới thiệu chúng tôi với tất cả sĩ quan trong đơn vị, đặc biệt trình diện đại đội trưởng của mình. Cả bốn anh đại đội trưởng đều mang cấp bậc trung úy, lớn tuổi nhất là anh tốt nghiệp Khóa 8 Thủ Đức, và trẻ nhất là một anh tốt nghiệp khóa 16 Võ Bị Đà Lạt. Tôi về Đại Đội 3, đại đội trưởng là một trung úy tốt nghiệp Khóa 13 Thủ Đức. Anh là đại đội trưởng ít thâm niên nhưng xuất sắc nhất của tiểu đoàn, đã đánh thắng nhiều trận và thăng cấp khá sớm, đều được đặc cách tại mặt trận. Các sĩ quan đàn anh còn lại, có ba anh cùng Khóa 19 Võ Bị, một anh Khóa 4 Đặc Biêt Đồng Đế gốc Thiếu Sinh Quân và các huynh trưởng Thủ Đức, tốt nghiệp các Khóa 14, 15, 16, chỉ có anh Sĩ Quan Trợ Y, Khóa 17. Nghi thức ra mắt vừa xong, tất cả tháp tùng ông tiểu đoàn trưởng đến Quân Y Viện Nguyễn Huệ để dự tang lễ của một ông thượng sĩ vừa qua đời do bị trọng thương trong cuộc hành quân tại Lâm Đồng tuần trước. Tôi bất ngờ và có cảm giác xốn xang khi biết ông thượng sĩ này là Trung đội trưởng Trung Đội 3/3 (còn được gọi là Trung Đội 33) mà tôi là người đến thay thế ông. Ông là người hạ sĩ quan cao cấp nhất của đơn vị được tất cả mọi người nể trọng.Trước kia là Thường Vụ Tiểu Đoàn, nhưng vì thiếu trung đội trưởng nên ông đã tình nguyện tạm ra nắm trung đội này mới hơn một tháng. Nhìn thấy vợ và đàn con nhỏ dại của ông kêu gào, khóc than thảm thiết ai cũng thấy chạnh lòng. Riêng tôi thêm một chút ưu tư bởi ngày đầu ra nhận đơn vị lại là ngày phải tiễn đưa người tiền nhiệm mà mình chưa hề biết mặt ra nghĩa trang, nên ít nhiều nghĩ tới phần số của mình trong nay mai và sớm bị ám ảnh bởi tiếng khóc than của người góa phụ. Lễ truy thăng và an táng xong, theo lệnh vị tiểu
đoàn trưởng, tất cả chúng tôi cùng về đơn vị. Cả tiểu đoàn trú đóng dưới những vòm cây dương nằm dọc theo bờ biển, ngay phía bên ngoài Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Lần đầu tiên tôi tận mắt chứng kiến sinh hoạt của một đơn vị tác chiến. Hình ảnh kham khổ của họ lại càng tội nghiệp hơn khi tương phản một trời một vực với hình ảnh và sinh hoạt của một quân trường chuyên đào tạo sĩ quan của một quân chủng có tiếng là “sang trọng, lịch lãm”. Tôi còn biết tiểu đoàn đã hơn ba năm chưa lần đươc trở về hậu cứ và trại gia binh, nằm ở tận Ban Mê Thuột. Anh đại đội trưởng đưa tôi đến Trung Đội 3 và ra lệnh cho anh Trung sĩ nhất trung đội phó tập họp trung đội để trình diện tôi. Trung đội với quân số chưa kịp bổ sung, tất cả chỉ 29 người, gần một nửa là người Thượng, trong đó có một trung sĩ tiểu đội trưởng. Anh trung đội phó hướng dẫn tôi đến từng người để được nghe trình diện với họ tên và cấp bậc. Đứng trước những thuộc cấp chưa hề quen nhưng từng dạn dày trong lửa đạn, tôi không biết phải nói lời gì. Cuối cùng tôi chỉ lên tiếng chia buồn và thương tiếc khi trung đội vừa mất đi một vị thượng sĩ trung đội trưởng rất thâm niên, có nhiều kinh nghiệm chiến trường, để tôi cũng mất đi cơ hội được học hỏi nơi ông. Nói xong, tôi có cảm giác dường như chính mình lại là người xúc động nhất, có lẽ tất cả những người lính đứng trước mặt tôi đều đã quá quen cái cảnh kẻ mất người còn sau các cuộc hành quân. Cũng có thể, họ đã nuốt niềm đau ấy trong lòng để rồi thể hiện thái độ trên nòng súng của chính họ. Anh trung đội phó đưa một binh sĩ trẻ đến trình diện và bảo chú này là “ô- đô”, người sẽ giúp tôi trong việc ăn uống, sai bảo khi cần thiết. Tôi rất ngạc nhiên, vì lúc còn trong quân trường tôi chưa hề được nghe nói tới người lính “ô-đô” này. Anh lính mang đến cho tôi cây súng Carbine M2 với bốn băng đạn, đã được lau chùi, dầu mỡ cẩn thận. Biết tôi chưa có võng, anh đi tìm và mang đến cho tôi một cái võng ni-lông hai lớp còn mới. (Hai ngày sau, khi đang hành quân, anh trung đội phó cho biết, cả khẩu súng Carbine M2 và chiếc võng này là của người thượng sĩ tiền nhiệm quá cố, tôi giật mình, nhưng cũng chỉ biết cầu nguyện xin ông phù hộ.) Buổi chiều, trở về lại khách sạn. Sau khi tham dự một cuộc họp, bốn thằng chúng tôi được những vị đàn anh chiêu đãi khá niềm nở, thân tình nên thằng nào cũng bị ép uống đến say mèm, lăn ra ngủ lúc nào không biết. Khoảng 4 giờ sáng, đang còn ngái ngủ, bọn tôi được đánh thức, và vội vàng mang vũ khí, ba-lô lên xe chạy về đơn vị. Khi chúng tôi đến nơi thì tất cả quân sĩ đã ngồi sẵn trên xe. Một đoàn Viết&Đọc Đặc San 2021 37
xe GMC hơn 20 chiếc chở đầy những người lính trận kham khổ, xếp hàng dài dọc theo con đường biển đẹp đẽ nhất của thành phố Nha Trang. Trời chưa sáng hẳn, nhìn không thấy mặt nhau. Tôi chỉ kịp nắm tay anh đại đội trưởng hỏi tôi phải làm gì. Anh bảo đi theo anh, và chỉ cho tôi chiếc xe chở Trung Đội 33 của tôi. Đến nơi, tôi hỏi: - Có phải Trung Đội 33 đây không? Một anh lính ngồi phía sau xe lên tiếng: - Đúng rồi, Trung Đội 33 đây! Tôi cố leo lên xe, nhưng vì bửng sau đã đóng, không trèo vào được, nên tôi đưa cánh tay lên bảo: - Anh nào giúp kéo tôi lên với. Một anh lính vừa chòm xuống kéo tay tôi lên vừa chửi thề: - Đ.m thằng khỉ nào mà bây giờ mới bò lên xe. Vừa lên xe, tôi hỏi tìm anh trung đội phó. Nhận ra tôi, anh bảo tôi phải lên ngồi trên cabin với tài xế, chứ không phải ngồi phía sau. Tôi hơi ngượng, đem bài học “di chuyển trên xe” trong quân trường ra bào chữa, nhưng tất cả đồng thanh bảo tôi phải lên ngồi ở ghế trước. Anh tài xế phải kéo tấm bạt cho tôi chui vào cabin. Không ngờ cuộc hành quân đầu tiên trong đời lại xảy ra ngay trên chính quê hương tôi. Tôi sinh ra và lớn lên ở đây. Thành phố biển này vẫn còn chôn giấu biết bao hang động của tuổi thơ và cả dấu tích những mối tình học trò của tôi ngày trước. Tất cả ngỏ ngách đều quá quen thuộc, nên dù trời chưa sáng và đang đổ mưa, đoàn xe di chuyển đến đoạn đường nào tôi đều nhận ra. Qua Phú Vinh, Cây Dầu Đôi, đến Thành (Diên Khánh) đoàn xe rẽ về hướng Phú Lộc rồi dừng lại đổ quân xuống bên đầu cầu. Đầu cầu bên kia sẽ là tuyến xuất phát. Cơn lụt lớn đã ngưng từ hôm qua nhưng nước vẫn còn tràn qua mặt cây cầu gỗ khá dài. Mưa vẫn dai dẳng, dù không lớn lắm. Tôi nhớ lại lời của ông tiểu đoàn trưởng trong buổi họp chiều hôm qua: - Đáng lẽ tiểu đoàn phải vào vùng ngay sau khi đến Nha Trang, nhưng vì lụt quá lớn, nước ngập mênh mông, nên phải chờ cho nước rút xuống bớt mới có thể mở cuộc hành quân được. Lệnh cho binh sĩ tản ra, ăn sáng 30 phút, trong lúc các đại đội trưởng đến nhận lệnh của ông tiểu đoàn trưởng, cùng bản đồ và đặc lệnh truyền tin về phân phối cho các trung đội trưởng. Mục tiêu là khu Đại Điền Đông (trong Tứ Thôn Đại Điền).Tiểu đoàn chia làm ba cánh. Cánh A là Đại Đội 3 của tôi, đi riêng, làm lực lượng án ngữ và tiếp ứng khi có lệnh. Xuất phát trước, di chuyển dọc theo bờ sông bên trái để rồi vòng theo khúc quanh về bên phải, 38 Viết&Đọc Đặc San 2021
đến án ngữ phía sau, cách mục tiêu chỉ một dòng sông và mấy khu ruộng còn sũng nước. Cánh B là Đại Đội 1, nỗ lực chính, đánh thẳng vào mục tiêu. Cánh C gồm Đại Đội 2 và Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ cùng BCH Tiểu Đoàn đi bọc theo bên phải mục tiêu, vừa nghi binh vừa đánh dồn vào bên hông, bao vây không cho địch thoát. Tất cả đều di chuyển khá chậm, vì phải lội nước bì bõm, có chỗ lên đến háng và trên đầu thì mưa rơi không dứt. Nhưng cũng nhờ mưa nên hạn chế tầm quan sát của địch. Gần 12 giờ trưa, đại đội tôi mới đến vị trí án ngữ. Phía trước mặt là dãy núi Hòn Ngang, sào huyệt một đơn vị địa phương của địch. Sau lưng là dòng sông tràn ngập nước tiếp giáp với mục tiêu, nơi địch quân đã chiếm ba ngày trước và đang cố thủ. Khoảng hơn một giờ sau, tiếng súng nổ dồn dập từ hướng mục tiêu. Anh đại đội trưởng cho biết Tiểu Đoàn (-) đang chạm địch, và nặng nhất lại là cánh C, gồm Đại Đội 2 và BCH Tiểu Đoàn. Địch quân có nhiều lợi thế, vì chúng đã chuẩn bị sẵn trận địa, đào hầm hố trong các vườn cây nằm cao hơn đồng ruộng chung quanh, vừa không bị ngập nước lại vừa có xạ trường tốt. Địch khai hỏa trước bằng đại liên và trong tầm khá gần nên bên ta có một số tử thương ngay trong loạt đạn đầu tiên. Tôi nghe tiếng nổ của Pháo Binh yểm trợ, nhưng không có phi cơ quan sát bao vùng vì thời tiết rất xấu. Đại đội tôi có lệnh vượt sông sang tiếp ứng, đánh từ phía sau lưng địch để giảm bớt áp lực cho cánh Đại Đội 2 và nhất là BCH Tiểu Đoàn. Các trung đội có lệnh ăn cơm gấp trước khi vượt sông. Khi tôi và anh lính mang máy truyền tin cùng anh “ô-đô” đang ngồi ăn bên một bụi cây thì mấy tràng trung liên từ trên núi bắn xuống ngay trước mặt, làm bay mất hai lon guigoz thức ăn, nhưng may mắn đến kỳ lạ là không ai bị thương. Lần đầu tiên trong đời, nghe đạn địch bắn mình, âm thanh chát chúa, tôi không biết làm gì chỉ kịp chụp lấy cây súng Carbine lăn mình xuống cái hố bên cạnh. Điều ngạc nhiên là mỏm đá, nơi địch đặt cây trung liên lại rất gần vị trí của Trung đội 1 đã được phối trí để giữ cao điểm này, nhưng chẳng hiểu vì sao chúng không phát hiện được, nên sau đó không lâu, tôi nghe nhiều tiếng súng và cả lựu đạn nổ. Trong hệ thống vô tuyến, tôi nghe anh Trung đội trưởng Trung Đội 1 báo cáo đã tiêu diệt được tổ hậu cần của địch, tịch thu một số vũ khí và lương thực, trong đó có khẩu trung liên chúng vừa bắn xuống chúng tôi. Đây là trung đội khá nhất của đại đội, do một anh Thiếu úy Khóa 19 Võ Bị chỉ huy. Có lẽ thông cảm cho một đàn em mới ra trường, anh đại đội trưởng cho Trung đội 3 của tôi vượt sông với Trung đội Vũ Khí Nặng cùng Ban Chỉ
Huy Đại Đội. Trung đội 2 sang sông trước để yểm trợ , Riêng Trung đội 1 ở lại và sẽ vượt sông sau khi chúng tôi đến bờ bên kia. Bờ sông bên kia không có bạn, nên anh đại đội trưởng đã gọi Pháo Binh tác xạ dọn đường. Con sông khá lớn và tràn ngập nước, nên dù đã chọn khúc hẹp nhất tôi cũng thấy lo âu, không biết làm thế nào để có thể vượt qua. Không ngờ những người lính Thượng bơi lội rất tài tình và có nhiều kinh nghiệm qua sông. Họ còn giúp dìu cả tôi và một số anh em khác. Khi tất cả đã vượt sông xong, đại đội chia làm 3 cánh, vừa tiến đến mục tiêu vừa yểm trợ cho nhau. Tiểu đoàn cho biết tọa độ chính xác của địch, hỏa lực mạnh nhất của chúng từ một vườn thơm (dứa), đặc biệt có hai khẩu đại liên, đặt phía trước hai ngôi nhà ngói mái đỏ. Lợi dụng đúng lúc một tràng Pháo Binh vừa phủ lên mục tiêu, Trung đội 2 do anh Thiếu úy Khóa 15 Thủ Đức chỉ huy đã nhanh chóng đột nhập vào khu nhà ngói, để làm đầu cầu cho toàn bộ đại đội âm thầm xâm nhập vào vườn thơm mà địch không hề hay biết. Nhận được tín hiệu, tiểu đoàn lệnh cho cánh C đồng loạt nổ súng vừa đánh lạc hướng địch vừa để chúng tôi có thể phát hiện vị trí hai khẩu đại liên của địch, khi nghe chúng tác xạ. Hai anh lính Thượng tình nguyện bò tới ném mấy quả lựu đạn. Hai khẩu đại liên im bặt, nhưng tiếng địch la hét nhốn nháo. Chúng tôi có lệnh đánh bằng lựu đạn, đồng loạt tung vào các gốc thơm có hầm hố của địch, trước khi dàn hàng ngang xung phong. Một số địch chết, hơn mười tên bị thương chúng tôi bắt sống. Số còn lại thoát sang khu vườn bên cạnh rồi cùng với đám địch bên ấy bám vào bờ con mương nhỏ, quay lại tấn công bên sườn phải chúng tôi. Lúc này đại đội tôi đã bắt tay được cánh C. Đại Đội 2 có lệnh bung rộng ra bao vây. Cánh B của Đại Đội 1 do anh trung úy Khóa 16 VB chỉ huy bất ngờ đánh tập hậu, nên địch không còn đường thoát thân. Chiến trường im tiếng súng. Tiểu đoàn thắng lớn, tiêu diệt hai đại đội địa phương của địch, gần 80 tên bị giết, hơn 20 bị bắt sống, trong đó có một tên đại đội trưởng, tịch thu cả trăm vũ khí đủ loại. Tiểu đoàn chúng tôi có tám chiến sĩ hy sinh, một số bị thương trong đó có hai người bạn cùng khóa với tôi ở Đại Đội 1 và Đại Đội 2, nhưng chỉ bị nhẹ ở cánh tay. Lần đầu tiên tôi tận mắt nhìn thấy mặt mũi của kẻ thù và chứng kiến sự chết chóc của chiến tranh. Đại Đội 1 nhận lệnh ở lại vị trí, lục soát tìm những người lính Địa Phương Quân mất tích ba hôm trước, chờ một đơn vị của Tiểu Khu đến thay thế, bàn giao vị trí vào ngày mai. Tiểu Đoàn (-) tiếp tục truy kích đám tàn quân địch về hướng bờ sông, trên lộ trình trở lại tuyến xuất phát. Không có phi cơ tản thương, nên đơn vị phải võng
theo những thi thể của anh em tử trận và cả những thương binh không đi được. Khai thác một số tù binh, được biết địch chủ quan, không ngờ có một tiểu đoàn chủ lực tiếp ứng nhanh chóng trong khi trời còn mưa lụt, đặc biệt chúng càng bất ngờ hơn khi có một lực lượng vượt sông đột nhập đánh từ phía sau lưng. Đơn vị vừa tạo được một chiến thắng vẻ vang, nhưng nhìn một đoàn quân ướt sũng, võng theo một số tử thi và thương binh, lội bì bõm dưới cánh đồng ngập nước và trên đầu là những cơn mưa giăng kín cả bầu trời, lòng tôi xao xuyến lạ thường. Chỉ mới ngày đầu tiên tham dự hành quân, tôi đã thấy thương cảm, tội nghiệp cho những người lính chiến, và thương cho cả chính bản thân mình, khi nghĩ cuộc chiến này rồi sẽ còn phải kéo dài cho đến bao lâu? Tiểu Đoàn (-) di chuyển bộ ra đóng quân dọc theo vòng đai Cổ Thành, từ Cửa Đông đến Cửa Tây. Đây là thành lũy được Chúa Nguyễn Phúc Ánh xây từ thế kỷ 17 và lần lượt do các tướng Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh trấn thủ. Hôm sau Đại Đội 1 về đóng ở Thanh Minh, ngoài Thành. Nghỉ ngơi được ba ngày thì cả tiểu đoàn nhận lệnh di chuyển ra Lạc An (thuộc quận Ninh Hòa) để mở cuộc hành quân vào Mật khu Đá Bàn. Tin tức tình báo cho biết, có một tiểu đoàn chủ lực địch vừa thành lập xong từ Liên Khu Năm mới xâm nhập tăng cường cho lực lượng địa phương. Hơn một tuần leo núi, cũng dưới những cơn mưa. Ban ngày mà trong rừng tối mịt. Nhưng nhờ vậy mà chúng tôi lại tạo được một chiến thắng bất ngờ. Không đánh mà thắng. Một buổi chiều tối, dừng quân, đào hầm hố đóng quân đêm xong, hai giờ sau, ông Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh tất cả im lặng rời khỏi vị trí, di chuyển lên đóng quân trên triền núi cao hơn, cách đó chừng 500 m, vì nghi ngờ có địch theo dõi. Khoảng 3 giờ sáng, tất cả chúng tôi thức giấc vì ngay phía dưới triền núi có nhiều tiếng súng nổ và cả tiếng hò hét xung phong. Những viên đạn lửa làm chúng tôi nhận rõ mục tiêu hơn. Hỏi lại một lần nữa, Tiểu Khu xác nhận ngoài tiểu đoàn tôi, không có bất cứ một đơn vị bạn nào khác trong vùng. Anh sĩ quan Đề-lô đi theo tiểu đoàn phản ứng rất nhanh nhẹn, gọi Pháo Binh tác xạ nhiều tràng và rải đều rất chính xác vào khu vực nổ súng. Pháo Binh dứt lúc trời vừa mờ sáng, chúng tôi nhận lệnh tràn xuống lục soát. Cả một khu núi rừng tan hoang vì bom đạn. Một số tử thi không toàn thây, hơn 30 địch quân bị thương chúng tôi bắt được. Có thể một phần do đạn của Pháo Binh và một phần do chính đạn của chúng. Đại Đội 2 có lệnh truy kích, bắt thêm được một số thương binh khác của địch. Sau khi khai thác tù binh, chúng tôi được biết đó là đơn vị địch đi hai cánh nhằm Viết&Đọc Đặc San 2021 39
tấn công tiểu đoàn tôi, nhưng vì mưa gió, trời quá tối, bọn chúng lầm tuởng chúng tôi vẫn đóng quân đêm ở vị trí cũ, dưới thấp, nên đã ngộ nhận và bắn lẫn nhau. Đó chính là tiểu đoàn chủ lực tân lập của địch đã bị khai tử sớm, mà không phải tốn một viên đạn nào của đơn vị chúng tôi. Từ Đá Bàn, chúng tôi hành quân về hướng Tây Nam, xuống Phú Gia, để giải giao tất cả tù binh cho một đơn vị của Tiểu Khu. Sau đó, mở rộng sang tảo thanh chung quanh vòng đai Huấn Khu Dục Mỹ rồi kéo qua Trường Lộc, cuối cùng về đóng quân ở Phú Hòa, một ngôi làng trù phú của quận Ninh Hòa. Ba ngày sau, cả tiểu đoàn nhận lệnh di chuyển về vị trí dưỡng quân cũ, khu vườn dương bên bờ biển Nha Trang. Sáng hôm sau, tập trung ngay trên bãi cát để làm lễ chiến thắng, khao quân do Tỉnh/Tiểu Khu Khánh Hòa tổ chức, có cả hai vị Tư Lệnh Quân Đoàn và Sư Đoàn tham dự, gắn cấp bậc và huy chương tưởng thưởng cho nhiều quân nhân hữu công. Cá nhân tôi, một thằng trung đội trưởng mới toanh, không làm nên tích sự gì cũng được hưởng lây, nhận một ADBT với Ngôi Sao Bạc. Ngay tối hôm đó, cả tiểu đoàn xuống tàu Hải Quân, ủi bãi ngay trước Trung Tâm Huấn Luyện HQ. Sau một đêm hải hành, chúng tôi đến bờ biển Tuy Hòa. Tàu cặp vào phía trước căn cứ một Duyên Đoàn để chúng tôi lội vào bờ. Đích thân Thiếu tá Tỉnh/TK Trưởng Trưởng Phú Yên ra đón. Tiểu đoàn nhận lệnh tăng phái dài hạn ở đây do yêu cầu của Thiếu tá Trần Văn Hai, khi ông vừa mới về nhậm chức Tỉnh/Tiểu Khu Trưởng. Tình hình ở Phú Yên lúc ấy khá nặng nề, do lực lượng địch nằm vùng của Liên Khu Năm để lại, hầu hết những làng mạc nằm xa thị xã đều bất an. Tiểu đoàn tôi có nhiệm vụ hành quân tảo thanh, truy lùng địch. Khu vực đầu tiên khá nặng nề và rộng lớn mà tiểu đoàn nhận trách nhiệm là Bàn Nham - Bàn Thạch thuộc Quận Hiếu Xương, trải rộng từ mười cây số phía Bắc cầu Bàn Thạch đến tận giữa Đèo Cả, giáp ranh Tỉnh Khánh Hòa. Bốn tháng trước tiểu đoàn tôi đã chiến thắng hai trận lớn ở đây: Đa Ngư Phú Lạc và Vũng Rô Đá Bia. Cuộc hành quân lần này nhằm truy tìm và tiêu diệt một đơn vị chủ lực địch vừa xâm nhập vào khu vực núi Hảo Sơn, cách Vũng Rô Đá Bia không xa, và tái chiếm làng Thạch Tuân vừa bị một lực lượng địa phương địch chiếm giữ. Phú Yên đang trong mùa mưa. Mưa dầm dề cả ngày đêm, ngoài trời không nơi nào khô đất. Thời tiết xấu nên không hy vọng có Không yểm, chỉ có Pháo Binh 105 ly. Sau khi được tiếp tế lương thực và đạn dược, tiểu đoàn trở lại Thạch Tuân, ngôi làng nhỏ cực Nam Phú Yên, nằm dưới chân Đèo Cả, nơi đơn vị tôi 40 Viết&Đọc Đặc San 2021
đã từng đóng quân nửa năm trước. Chiếm lại ngôi làng này rất dễ dàng, cả đơn vị tiếp tục tiến quân vào Hảo Sơn, một khu vực núi non hiểm trở. Địch quân đã chiếm ngự một số cao điểm trọng yếu. Trung đội tôi được tăng cường một tổ đại liên, nhận lệnh mở đường dọc theo thiết lộ, nằm sâu giữa hai vách núi, để chiếm một ngọn đồi, đặt đại liên yểm trợ cho đơn vị còn lại bung ra hai triền núi phía trước. Con đường độc đạo hoàn toàn bất lợi, nhưng không còn cách nào khác. Nhờ Pháo Binh bắn dọn mục tiêu, nên trung đội tôi dễ dàng chiếm lĩnh ngọn đồi, ngay sau khi một toán địch quân vừa bỏ chạy, không kịp mang theo nồi cơm đang nấu và mấy cái võng ni-lông còn cột chặt trên cây, một số hầm hố bị phá hủy. Cả tiểu đoàn tiếp tục tiến quân hai bên triền núi. Trận chiến khá quyết liệt, vì địch quân đã có sẵn mấy cái chốt trên các hốc đá nằm cao trên núi, bắn trung liên và ném lựu đạn xuống quân ta phía dưới. Trời mưa như trút nước. Đại đội 1 của anh Trung úy Khóa 16 VB là mũi tiến công chính. Dù ở thế bất lợi, nhưng nhờ tài chỉ huy và điều quân gan dạ của chàng trai Đa Hiệu, với sự yểm trợ hữu hiệu của tổ đại bác SKZ 57 ly, cuối cùng cũng đã chiếm được mục tiêu đầu tiên, làm bàn đạp để tiến công. Địch quân tháo chạy, bỏ lại một số xác chết và mấy khẩu súng. Bên ta, hai binh sĩ tử thương và vài người bị thương nhẹ. Trời tiếp tục mưa không dứt. Bóng tối đã bắt đầu phủ kín khu vực hành quân. Có lẽ lo ngại địa thế bất lợi cho một cuộc đóng quân đêm và địch quân có thể được tăng cường phản kích, nên cả đơn vị có lệnh khẩn cấp rút quân ra, mang theo tử sĩ và thương binh. Riêng trung đội tôi phải nằm lại để yểm trợ và đề phòng địch quân tập hậu. Khi được lệnh rút ra sau cùng, tôi xin Pháo Binh bắn chặn, để trung đội chia làm hai cánh yểm trợ nhau rút nhanh ra. Lệnh cho anh trung đội phó dắt một tiểu đội và tổ đại liên đi theo triền thấp bên trái, địch khó phát hiện.Tôi đi với cánh quân có lộ trình nguy hiểm hơn, nhưng rất cần thiết để bảo vệ tổ đại liên: đi theo con đường sắt. Phân tán từng toán nhỏ 3 người, nép sát vào vách núi, di chuyển rất nhanh, nhưng chỉ năm phút sau thì nhiều loạt đạn từ trên triền núi phía sau bắn xuống, có cả tiếng B-40, Đạn địch xối xả xuống đường xe lửa, chát chúa ngay sát dưới chân tôi, tóe lên nhiều đốm lửa. Tôi nghe vài tiếng la đau đớn. Anh trung sĩ tiểu đội trưởng và một người lính đi sau lưng tôi trúng đạn. Anh trung sĩ bị bắn vào chân, còn anh lính kia bị thương nặng ở vùng bụng, ruột đổ ra ngoài. Cho người băng vội vết thương bằng các băng cá nhân, tôi vừa gọi xin tiếp ứng và xin Pháo Binh tiếp tục bắn dọc trên triền núi phía sau lưng, rồi cõng anh lính bị thương rất nặng chạy nhanh ra khỏi vùng
nguy hiểm. Người tôi ướt đẫm máu, nước mưa, và cả nước mắt (cho người đồng đội thương binh không có chút hy vọng sống còn). Trên đường trở lại làng Thạch Tuân đóng quân đêm, cả tiểu đoàn dàn hàng ngang lội bì bõm dưới những đám ruộng ngập đầy nước. Du kích lại bắn ra. Chúng tôi bám theo các bờ ruộng xâm nhập vào làng, nhanh chóng bao vây tứ phía, mấy tên du kích không chạy kịp, trốn dưới hầm bị chúng tôi bắt. Xe tải thương không thể đến được vì không có an ninh lộ trình. Khuya hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăng đứt đoạn, nhờ tôi chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên người nhạc sĩ sáng tác bài Dư Âm mà tôi thường hay hát. Và sau này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc này, tôi lại nhớ đến anh. Năm tháng sau, bàn giao vị trí lại cho Trung Đoàn 47 BB biệt lập từ Bình Tuy chuyển ra để sáp nhập vào Sư Đoàn 22BB, Tiểu đoàn tôi được tăng phái một chi đoàn Thiết Quân Vận, do Đại úy Bùi Thế Dung chỉ huy, xuống tàu Hải Quân vào tăng cường cho Tiểu Khu Bình Thuận để hành quân giải tỏa Mật khu Lê Hồng Phong. Một mật khu khá rộng lớn với địa thế hiểm trở mà địch đã tăng cường hoạt động từ khá lâu, làm gián đoạn lưu thông trên Quốc Lộ 1, và gây bất an cho cả khu vực mà lực lượng của Tiểu Khu chưa giải quyết được. Giải tỏa áp lực địch và khai thông quốc lộ xong, chúng tôi tiếp tục hành quân tảo thanh và giữ an ninh cho Công Binh thiết lập hai căn cứ Nora và Mara để bàn giao lại cho lực lượng Địa Phương Quân cùng một trung đội Pháo Binh diện địa. Ba tháng sau, tiểu đoàn được không vận từ Phi trưởng Sông Mao lên tăng cường cho Tiểu khu Quảng Đức, khi có tin tức một đơn vị chủ lực của địch vừa mới xâm nhập từ biên giới Lào-Việt. Lại đúng vào giữa mùa mưa. Mưa triền miên nhưng chỉ lất phất giống như mưa phùn. Những mục tiêu trong lệnh hành quân mà tiểu đoàn chúng tôi phải tiến chiếm đều nằm trên những ngọn núi với toàn là đất đỏ nhão nhoẹt, các lối mòn dẫn lên núi đều trơn như mỡ, nên di chuyển vô cùng khó khăn, chẳng có ai không bị té ngã. Áo quần, ba lô và cả vũ khí đều dính đầy bùn. Những binh sĩ vác các nòng súng cối 81 ly hay 60 ly rất to con, khỏe mạnh, nhưng đều bị té ngã, và đôi khi nòng súng lăn xuống triền núi, phải cử cả một trung đội đi
ngược xuống tìm để vác trở lên. Cuộc hành quân phải chậm lại. Có khi di chuyển chỉ một cây số đường chim bay phải mất cả một ngày. Rất may là không đụng trận. Ba ngày sau, tình trạng không khá hơn, nên ông tiểu đoàn trưởng yêu cầu Tiểu Khu tạm ngưng cuộc hành quân trong khu vực ấn định để tìm một kế hoạch khả thi hơn. Cả tiểu đoàn xuống núi, từ quan tới lính đều dính đầy bùn đỏ, từ đầu xuống chân. Mưa rơi liên tục, nhưng không rửa được bùn bám chặt trên người. Tiểu đoàn được lệnh di chuyển về nghỉ quân tại Phi trường Nhơn Cơ, bên ngoài một trại Lực Lượng Đặc Biệt. Mãi gần tối, chúng tôi mới đến vị trí đóng quân đêm. Tất cả đều phải ngủ với nguyên hình hài như thế. Không thể nấu nường được, tất cả đều phải nhai sống lương khô. Hôm sau, từng đại đội luân phiên ra suối tắm rửa và giặt áo quần. Trời vẫn mưa và lạnh căm căm. Trông họ và nhìn lại chính mình, tôi cảm thấy tội nghiệp vô cùng. Ngày trước, tôi cũng biết là người lính bộ binh tác chiến sẽ khổ sở và vất vả, nhưng không thể ngờ được sự thê thảm đến tội nghiệp như hôm nay. Điều gì đã làm họ có thể chịu đựng và chiến đấu trong những hoàn cảnh như thế. Tôi bỗng nghĩ đến những người thanh niên thành phố, nhất là đám sinh viên thường hô hào biểu tình, phản chiến, họ hiểu gì về những người lính chúng tôi như hôm nay. Trong lòng tôi cũng dấy lên nỗi oán hờn, khi nghe những ông lớn chia phe kết phái cấu xé lẫn nhau, tranh chức đoạt quyền, mua quan bán tước. Tất cả đều không xứng đáng sống nhởn nhơ trên nỗi thống khổ và chết chóc của những người lính tội nghiệp này. Sau này, theo thời gian và chiến công, chúng tôi lần lượt được thăng cấp, giữ những chức vụ cao hơn. Chúng tôi cũng tham dự nhiều trận đánh lớn, không còn ở cấp Tiểu Đoàn như lúc trước, mà đến cấp Trung Đoàn hay cả Sư Đoàn, chúng tôi cũng đã tạo những chiến tích lẫy lừng, như Tết Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Chính đơn vị tôi đã góp phần rất lớn để tạo nên một “Kontum Kiêu Hùng”. Trong hơn mười năm cùng chiến đấu trong đơn vị Bộ Binh rất đỗi tầm thường này, chúng tôi chưa hề một lần bại trận, nhưng rồi cuối cùng, trong bất ngờ tất cả đành phải buông súng, tù tội, tức tưởi, oan khiên. Những đồng đội cùng đơn vị ngày tôi mới ra trường đã lần lượt hy sinh, hay bị thương tích, giải ngũ về sống hẩm hiu ở một nơi nào đó. Đến tháng tư 1975 cũng chẳng còn bao nhiêu người sống sót. Anh Trung úy đại đội trưởng đầu tiên của tôi đã tử trận tại Phan Thiết đúng một năm sau đó. Anh Thiếu uý Khóa 19 VB, Trung đội trưởng Trung đội 1, sau này trở thành người bạn thân thiết của tôi, được đặc cách lên thiếu tá tại mặt trận, cũng Viết&Đọc Đặc San 2021 41
đã tử thương tại Kontum năm 1972. Bốn thằng bạn cùng khóa với tôi lúc ấy, sau này một thằng hy sinh cũng vào mùa Hè 1972 tại Kontum khi đang là tiểu đoàn trưởng nổi danh của Sư Đoàn, một thằng giải ngũ vì cận thị quá nặng, một thằng bị chết trong tù tận ngoài Nghĩa Lộ, còn tôi thì đang lưu lạc tha phương. Mỗi lần nhìn mưa rơi, tôi bùi ngùi nhớ tới họ, nhớ tới các cuộc hành quân ướt sũng, lầy lội, lạnh lẽo và khổ nhọc, lòng tôi thắt lại. Mới đây, một số huynh đệ chúng tôi lưu lạc tìm nhau, quy tụ về Cali họp mặt, để nhìn lại nhau sau bao nhiêu năm dâu biển, đặc biệt cùng tưởng niệm những đồng đội đã hy sinh. Trong lễ truy điệu, một cựu sĩ quan CTCT của đơn vị (tốt nghiệp Khóa 1 Trường Đại Học CTCT Đà Lạt), đã thay mặt anh em, đứng trước bàn thờ đọc bài truy niệm, gói ghém nỗi niềm chung, làm tất cả đều rưng rưng giọt lệ: “Chúng tôi đứng quanh đây, lòng hồi tưởng bây giờ còn lưu đọng, chuyển về cố hương xa, đang còn vọng tiếng bi thương. Hơn bốn ngàn năm rồi, cớ sao mà dân tộc còn cứ mãi đoạn trường? Hồn tiên tổ đã về đây chưa hỡi? Mấy vạn dặm, bôn đào nơi đất khách! Than ôi, giấc mộng buồn thay! Nhớ thuở xa xưa, Thần Ưng(*) tung cánh bay, Gươm Thiêng cao nguyên trấn ải, để Nam bình Bắc phạt.(**) Gót chinh nhân đã bao nhiêu lần giẫm nát triền cát mênh mông của Mật Khu Lê Hồng Phong bát ngát, của Bá Ghe, xương trắng quân thù phơi thây, của núi rừng Ga Lăng mịt mờ tử khí. Nay Lâm Lộc, nắng cháy da, gió rát, xuôi về Sông Lũy. Mai về Lại An ruộng đồng bát ngát Qua Bằng Lăng rồi về Hà Thủy Ruộng dở, đất lở khô cằn, Bầu Sẻ nghèo nàn, nứt nẻ Rồi Diên Khánh, Phú Yên mưa lầy mưa lội. Quảng Đức nhuộm đầy bùn đỏ. Qua Phú Nhang. Dừng chân Phú Hội. Đêm Tân Nông, Ma Lâm Thiện Giáo, pháo cầm canh vang dội. Từ chiến thắng Đèo An Khê, Man Yang Bình Định đến Kontum vang dội Kiêu Hùng, rồi kéo về Phước An, nhằm giải vây Đắc Lắc. Rồi bi tráng trong khoảnh khắc – Rồi lịch sử sang trang - Rồi đố nát, điêu tàn… Rồi bẽ bàng, gãy cánh, tan hàng. Đông Kontum vỡ toang màu máu. Các vị Tiểu Đoàn Trưởng: Trung Tá Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Thiếu Tá Trần Công Lâm, Đỗ Bê, Dương Đình Chính. Đại úy Nguyễn Văn Pho tự sát trên 42 Viết&Đọc Đặc San 2021
đường di tản. Nhiều chiến hữu tăng phái thuộc Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh, Thiếu Tá Công Binh Mai Văn Trường, Pháo Binh Lê Hữu Chí và hàng hàng lớp lớp chiến sĩ Trung Đoàn 44 giã từ vũ khí, đem máu xương tô điểm màu cờ. Sống và Chết – Hai nẻo đường chọn lựa. Đem chí trai, dù phải dặm nghìn da ngựa. Lòng ước mơ gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Miễn mưu cầu làm sao, cho sông núi trường tồn. Gương hy sinh đó ngàn đời sáng ngời trong quân sử. Vì nước quên mình – Sá chi bèo bọt công hầu khanh tướng. Sá chi đất lạnh – Mộ bia tàn Sá gì nghiệt ngã nét thời gian Cỏ vàng, cây héo, bóng tàn tà dương Người nằm xuống cho quê hương. Công ơn đó mênh mông như biển rộng, Nghĩa hy sinh cao trọng tràn đầy Dân tộc này ghi khắc mãi nghìn thu Trong ánh nến lung linh, trong không gian yên ắng, lòng người sâu lắng, khiến nỗi nhớ thương và lòng truy niệm này thêm ngập nỗi sầu. Nến rồi cũng tàn – Xác thân rồi cũng tan – Đời người rồi cũng qua – Tổ Quốc rồi cũng rời xa. Nhưng có một điều vĩnh hằng, bất tử. Đó là Nhân với Dân Tộc, Thành với Tổ Quốc.” Bài truy niệm đã chấm dứt, nhưng tất cả đều đứng im, bất động, chỉ còn nghe những tiếng sụt sùi. Thì ra, những cơn mưa trong các cuộc hành quân lầy lội ngày nào dường như vẫn còn đang rơi mãi trong lòng những thằng lính chiến khốn khổ chúng tôi. Phạm Tín An Ninh Chú thích: (*) “Thần Ưng” = danh hiệu của đơn vị. (**) “Nam Bình - Bắc Phạt - Cao Nguyên Trấn” = phương châm của SĐ23BB
Thơ Nguyễn Dũng
CHỦ NHẬT BUỒN Con đường nào vui cho anh đi qua Giữa bao ngổn ngang của đời người Xanh xao, tàn phai màu má phấn Còn tiếng ai cười trong hôm nay.
XIN EM GỌI TÔI LÀ ANH
Còn con đường nào nữa không em? Đường xưa nắng xuân trải trên hè Anh chờ bước chân em dạo phố Phố vắng em rồi gió chẳng reo.
Xin gọi tôi là anh em nhé Gọi anh đi vì tim còn yêu đời Anh cũng không gọi em là bé Biết yêu rồi, nay mai sẽ có chồng.
Phố đợi chờ ai, thành phố buồn Trong veo giọt nắng ngỡ ngừng rơi Ghế đá công viên nằm phiền muộn Có ai chờ ai cuối con đường.
Ở bên chồng em đừng quá mơ mộng Hãy cùng nhau giữ hạnh phúc, tương lai Tình đã trao không một lần ân hận Dẫu cuộc đời trong bão tố phong ba.
Nắng đã tắt dần trên phố nhỏ Thưa bóng người đi, bước chân qua Phố buồn lặng im, hoàng hôn xuống Ngõ vắng, đường xưa tóc ai bay...
Đừng nghe trăng, nghe gió quên lời thề Tình một đời nhớ trọn nghĩa phu thê Siết vòng tay cho đất trời hoa nở Hãy là em như sen toả hương đêm. Em có biết tình yêu cần gì không? Là cảm thông, chia sẻ lúc gian nan Lúc bệnh tật cũng như khi hoạn nạn Là rộng lượng tha thứ những lỗi lầm....
Viết&Đọc Đặc San 2021 43
Bức chân dung
Người ta gọi ông bằng ’thầy Sọ’, vì ông có thể chỉ cần coi đầu lâu mà vẽ ra chân dung một người. ”Y hệt”, nhiều người quả quyết. Thầy Sọ làm ăn khấm khá là nhờ gặp thời buổi nhiều Việt kiều cần xây mồ mả, đặt bàn thờ, trang trí phòng khách, in gia phả, viết hồi ký v.v. mà ông bà cha mẹ lại ra đi vội vã, chưa kịp chụp một tấm hình để lại cho con cháu. Như gia đình tôi chẳng hạn, thiếu hình mẹ tôi. Tôi nhớ hồi tôi còn bé, trên bàn thờ gia đình có hai hình vẽ ông bà nội. Thợ vẽ thế nào mà ông nội có đôi mắt gườm gườm trông dễ ngán, nếu một mình lảng vảng gần bàn thờ thì tôi không dám nhìn lâu. Có đông người thì khác, một lần vào ngày Tết, trong lúc cúng gia tiên, tôi nhìn kỹ thấy đôi mắt ông nội gườm gườm nhưng miệng lại tủm tỉm, tự nhiên tôi phì cười, bị bố tôi cốc một cái nhẹ vào đầu. Ngoài ra còn có mấy tấm hình bố tôi lên tỉnh chụp, một kiểu giắt xe đạp đứng một mình, một kiểu chụp chung với một ông khác, cả hai ông cùng gác chân lên một hòn đá giả, khom người cầm điếu thuốc lá. Mẹ tôi không có hình riêng, chỉ có hình chụp chung với đại gia đình, người nào người nấy nhỏ bằng con kiến, nhận không ra. Bố tôi không theo đảng phái nào cả, mà chết vì tội ngứa tay chân. Khi Việt Minh nổi dậy, họ có kẻ trên tường nhà thờ một khẩu hiệu ”Hồ Chí Minh muôn năm”, bố tôi lấy vôi ngoặc thêm hai cái dấu thành ”Hồ Chí Minh muốn nằm”. Cộng sản vào nhà lục soát, bắt được thùng vôi trắng, bèn trói nghiến cả bố lẫn mẹ giải ra tòa án nhân dân ngoài sân đình. ’Nhân dân’ đánh ông bà bằng đòn xóc, 44 Viết&Đọc Đặc San 2021
Tâm Thanh
ném đá, rồi lôi bỏ vào chuồng trâu làng. Nửa đêm hai chị tôi giắt tôi ra tìm, thì bố mẹ chết rồi. Lúc đó tôi mười tuổi, em gái út tôi, Triệu, mới sanh được sáu tháng. Sau cuộc đấu tố, và qui thành phần, chị em tôi bị đuổi xuống ở gian nhà ngang dành cho tá điền. Mấy năm sau, người ta trả lại nhà cho chúng tôi, thì không còn một món đồ đạc nào. Các anh các chị tôi cầm tờ quyết định của ủy ban hành chánh huyện đi khắp làng tìm những người hôi của để đòi, chỉ tìm được một cái cối đá, nhưng người chủ nhà nói nhà tôi có quyền lấy cái chày, còn cái cối hồi đó bể đôi, chồng chị ta phải vá lại, bây giờ ai muốn lấy thì chờ chồng chị ta đi nghĩa vụ về đập ra rồi mới được rước đi. Gạch đá mà như thế, thử hỏi hình hài còn gì? Em Triệu sống nhờ bú sữa chị Cả và ăn cháo với đường bổi. Nó không biết mặt mẹ. Còn tôi, lưu lạc sang Lào rồi sang Pháp, tại đây tôi gặp lại bác bạn của bố và xin được tấm hình bố. Thời gian trôi qua, hình ảnh mẹ phai mờ dần cho tới khi tôi không còn hình dung được gương mặt mẹ như thế nào nữa. Trong mơ thỉnh thoảng tôi thấy mẹ như thật, nhưng thức dậy, mẹ trong ký ức tôi chỉ còn là một khung trắng không mắt không mũi, vấn khăn nhung đen. Mỗi khi có dịp xem một cô đào trên sân khấu vấn khăn nhung, mặc áo tứ thân, tôi chỉ sợ khuôn mặt cô xâm chiếm hết cái khung trắng kia, và như thế không bao giờ tôi hy vọng nhớ lại được mặt mẹ nữa. Tôi đau đớn về việc này, như mất mát vĩnh viễn một mảnh thân thể, một phần linh hồn.
Phong trào xây mồ mả lên cao, tôi về Sài Gòn rồi cùng bà chị Nhì, nay đã già yếu, ra Bắc cải táng bố mẹ. Anh chị Cả tôi mất rồi. Anh em khác qui tụ gần đủ. Triệu, nay đã có cháu nội cháu ngoại, bàn với tôi trong ngôi nhà xưa:
”Còn mẹ mất lúc bốn mấy, hai ngài ngồi bên nhau trên bàn thờ, coi không cân xứng. Đó là một nhẽ. Còn nhẽ khác là tôi muốn thử coi ông thầy Sọ vẽ có giống thực không. Ông ta không biết mặt bố, nếu ông ta vẽ bố mình giống thì có thể tin được ông ta vẽ mẹ cũng giống.”
”Nhà mình có hình bố mà chưa có hình mẹ. Chi bằng nhân dịp cải táng, mình nhờ thầy Sọ vẽ tấm ”Bác định như vậy khéo lắm, chúng em xin theo. hình mẹ để thờ cho cân đối. Anh nghĩ có phải Em chẳng biết mặt mẹ ra sao, ước ao biết lắm.” không cơ ạ?” Triệu xì mũi quệt vào tảng đá đen bóng bên cạnh. Sự cân đối trên bàn thờ không quan trọng đối với Chỉ có tôi và Triệu được vào ’xưởng vẽ’ của thầy tôi bằng sự cứu vãn một hình ảnh trong ký ức. Tôi Sọ, một cái am cất trên cái ao con, đi ra bằng một gật đầu: cây cầu gỗ cong cong khá mỹ thuật. Tôi lần lượt bưng sọ cha mẹ đặt trên bàn thờ, rồi thắp nhang, ”Đó cũng là ý của anh.” vái lạy. Thầy Sọ cao lêu khêu, mặt lưỡi cày, mắt Ăn sáng xong, tôi mượn xe Honda của chồng Triệu sâu sáng quắc, trông có vẻ một nhà... cách mạng chở Triệu đi gặp ông thầy Sọ và hẹn giờ. Ông hỏi hơn là một ông thầy bói kiêm họa sĩ truyền thần. Ông từ tốn thắp nhang, vái lạy, cắm nhang, rồi lui ngày sanh ngày tử của mẹ tôi. xuống, ngồi kiết già trước cái giá vẽ thấp giống cái ”Tôi tò mò muốn hỏi, thầy cần ngày sanh tử để kệ kinh trong chùa. Ông nhắm mắt nhập định lâu làm gì?” tôi hỏi. lắm. Tôi và Triệu nín thở chờ ông ra tay, nhưng ”Tử vi có thể bổ túc thêm về dung mạo, thần sắc ông vẫn bất động. của cụ,” ông nghiêm nghị trả lời. Tôi bắt đầu tê chân, đổi thế ngồi, hết ngồi bệt, lại Tôi nghe mà thêm tin tưởng. Khi rửa xương cha mẹ trong cái vại rượu, tôi thấy nhiều chỗ gãy, nhiều chỗ giập nát, sọ bố và mẹ cùng bị bể, do cuộc tra tấn năm xưa, tôi bật khóc nức nở, không nín được. Bà con xa gần thấy một người già nua khóc, cũng bật khóc theo, mặc dầu không hiểu thấu nguyên do nỗi đau đớn trong tôi.
ngồi xổm, rồi ngồi trên gót chân, có lúc tôi mượn cớ tiếp nhang để duỗi chân... mà ông họa sĩ vẫn chưa khai bút. Tôi phải giải trí bằng cách nhìn qua một cái khe xuống hồ chờ một con cá hớp bóng hay một con chuồn chuồn rửa đít, hình ảnh quen thuộc hiếm hoi còn sót lại trong thế giới đã thay đổi hoàn toàn. Có lúc tôi nhìn sang em gái và tự hỏi không biết nó có giống mẹ không. Tôi vẫn cố gợi lại hình ảnh mẹ một cách tuyệt vọng.
Tỉnh cơn đau, tôi khều vợ chồng Triệu ra chỗ vắng để bàn một việc. Trời nắng bốc khói trên các vuông Cuối cùng, chiều xuống, tôi thấy mắt ông thầy Sọ mộ đất. Tôi chưa kịp vào đề, Triệu đã vuốt lên tấm he hé mở, tôi hồi hộp nhìn theo, thấy một tia nắng bia ngôi mộ cao bên cạnh: yếu ớt xuyên qua một cái lỗ đặt miếng kính bát quái ”Mộ Việt kiều đấy!” nó nói với vẻ nửa dè bỉu nửa trên nóc am, chiếu xuống sọ cha tôi. Lúc đó ông mới cầm cây bút chì huơ trên tờ giấy trắng. Ông vẽ thèm muốn. bùa cả chục vòng mới quệt được một nét trên giấy. Tôi không hiểu người nằm dưới mộ là Việt kiều Ông phác cái sọ trước, rồi đắp thịt da vào sau, con hay là thân nhân Việt kiều, nhưng không buồn hỏi mắt, lỗ mũi v.v. Thỉnh thoảng ông lại liếc nhìn tôi lại, mà nói: và Triệu, rồi lại nheo mắt nhìn vào sọ bố chúng tôi, phết thêm một nét, tẩy đi một nét khác, cuối cùng ”Cô chú à, tôi đề nghị ta thỉnh cả bố và mẹ sang thành một chân dung sơ phác. Nắng chiều tắt, lúc cho ông thầy Sọ vẽ.” chạng vạng là lúc ông vẽ say sưa hơn, hối hả hơn. ”Tại sao vậy, bác? Mình có hình bố rồi mà, anh Đã thấy một bộ mặt người trên giấy. còn giữ...” chồng Triệu ngạc nhiên hỏi. Thầy Sọ mời chúng tôi sang nhà khách, thắp đèn, ”Cô chú cũng biết là hình bố chụp lúc còn trẻ, pha trà. Ông hỏi vài câu về tóc tai, y phục của cha khoảng băm mấy,” tôi nói. mẹ chúng tôi. Một người bà con tới hỏi tiền mua thêm rượu và vài cái bàn chải. Đưa tiền xong, tôi tiếp: Viết&Đọc Đặc San 2021 45
”Ông cụ tôi húi tóc ngắn, thời đó gọi là cắt ca-rê.” điểm nhãn là lúc linh thiêng nhất, ông phải làm một mình, không được ai quấy rầy. Triệu xen vào: Chồng Triệu, theo lời bàn của trưởng ban thông ”Xin thầy cứ vẽ các cụ chúng tôi sang sang một tí, tin văn hóa, bày một màn ra mắt hình vẽ trước lúc áo gấm, thẻ bài, giầy Gia Định...” khai tiệc giỗ. Tôi được vinh dự lột tấm khăn điều ”Không cần!” Tôi vội gạt đi ”Thầy cứ cho ông phủ hình ra. Mọi người có mặt, và vài người quen cụ chúng tôi mặc âu phục như sự thực giùm cho. tự nhận là nhớ mặt bố mẹ tôi như in, cùng ồ lên Bộ đồ vía của cụ là bộ tit-so mầu ngà. Bà cụ thì một tiếng: áo nhung đen... khăn nhung đen, vấn thế này trên ”Y hệt!”. đầu.” Tôi quay sang em gái ”Có vẽ chân đâu mà cần giầy...” Chị Nhì nheo mắt một lúc, rồi ứa ra một giọt nước, gật gù: Nói thêm một số chi tiết khác và giao hẹn giá cả xong, ông thầy Sọ tiễn khách: ”Giống, giống lắm.” ”Được. Mai mời ông bà trở lại, chúng ta tiếp tục Mọi người cùng hô ”giống” để chuyển sang mục với cụ bà.” kế tiếp, mục quan trọng duy nhất: nhập tiệc giỗ. Họ ăn uống hể hả, ngồm ngoàm. Tôi đạp máy xe Honda, Triệu ngồi lên yên sau, bá vai tôi hỏi: Giữa tiệc, chị Nhì ghé tai tôi nói: ”Em thấy ông bà người ta, ai cũng oai lắm, có ”Năm xưa có lần cậu nói cậu muốn biết mặt con người đeo mề đai, sao anh để bố mẹ mình... bình mẹ đã chụp váy lên đầu bố mình trong đêm đấu dân như vậy được?” tố... Nó hiện có mặt ở đây, răng lợi chẳng còn, nhưng vừa nuốt nguyên một cái móng lợn. Cậu có muốn nhìn mặt nó không?” Chồng Triệu gọi thợ xây một ngôi mộ theo tinh Tôi nhìn quanh đám người đang ăn uống nhốn thần ’sống cậy nhà già cậy mồ’. Có phần vượt tiêu nháo trong rạp cất ngoài vườn, nói: chuẩn: Mộ xây bằng đá rửa ba tầng; bia bằng đá cẩm thạch hồng cao hơn ngôi mộ cao nhất trong ”Thôi quên đi, chị ạ. Bà ta chắc cũng đã quên mới nghĩa địa một tấc rưỡi; nếu tính cả cái đuôi rồng có thể nuốt được một cái móng lợn.” chổng lên thì thành cao hơn thiên hạ ba tấc. Một Tôi nhìn lên hình bố mẹ, chỉ thấy hai khuôn mặt ngôi mộ làm nở mặt người sống. méo mó, không giống bố trong hình và mẹ trong Trong lúc thợ xây mộ, ông thầy Sọ tiếp tục vẽ mẹ ký ức tôi. Hình bố tôi từa tựa như tôi, và hình mẹ tôi, cùng một cách như vẽ cha. Tôi bắt chước ông, tôi từa tựa Triệu. Nét sống động duy nhất là vẻ đau nhìn vào sọ mẹ tôi và vận dụng trí tưởng tượng để đớn trong nụ cười của hai ngài. Như thế, ông thầy đắp da thịt vào, và có lúc, trong làn khói nhang, Sọ ít ra cũng nhìn thấy cuộc đời khổ sở của bố mẹ tôi thấy mờ mờ hình dáng mẹ, lúc mẹ cúi xuống tôi? Hay là trí tưởng tượng của tôi đã vẽ ra nụ cười chăm sóc tôi lần tôi lên sởi, lúc mẹ đi chợ về tới đau đớn kia? đầu làng, lúc tôi giả vờ ngủ trên sân lúa và mẹ ”Em hỏi thật chị, hình vẽ đó có giống bố mẹ bế vào giường nói ”Nặng như cái cối đá!” Nhưng không?” tôi không giữ được quá một phút, hình ảnh mẹ lại biến mất trong sự níu kéo tuyệt vọng của ký ức tôi. ”Chị cũng giả nhời thật: chị quên mặt mũi bố mẹ Trên bàn thờ chỉ còn cái đầu lâu. ra sao rồi. Cậu nhớ rửa cho chị tấm hình thật của bố mà cậu tìm được.” May mà trời không mưa, chiều nào cũng có tia nắng chiếu vào bàn thờ. Khi cả hai chân dung vẽ ”Em nhớ... Sao ban nãy chị... khóc và bảo giống?” chì và tô mầu gần xong, tôi vẫn không thấy hình bố tôi giống với hình chụp tôi giữ; còn hình mẹ ”Chị khóc bố mẹ chết thảm... chứ có khóc cái hình thì đương nhiên vẫn mờ mịt, không có gì để đối đâu?” chiếu. Một tuần lễ trôi qua, ông thầy Sọ vời chúng ”Thế mình thờ cái hình giả?” tôi lại sau khi ông đã điểm nhãn rồi. Hỏi sao không chờ chúng tôi chứng kiến lúc điểm nhãn, ông nói Chị dụi đôi mắt kèm nhèm, thở dài: 46 Viết&Đọc Đặc San 2021
”Giả với thật, ai mà biết được? Đời sau con cháu cũng phải có cái gì mà thờ chứ, cậu.”
ĐẢO CÔ LIÊU 2
Hai tấm hình được sao ra phân phát cho bà con, một tấm được tráng men sứ, gắn ngoài mộ. Mộng ước sao chìm...trong chén rượu thương Trên máy bay về Pháp, tôi buồn tình định lấy tấm đau ’hình thật’ của bố ra coi, không thấy đâu cả. Tôi nhớ Để được say anh... qua phép màu nhiệm ấy lúc xếp va-li đã nhét tấm hình quí vào túi ngực áo Nguyện trọn yêu theo...tiếng tơ đàn run rẩy Canh cánh riêng mình... em úp đậy từ lâu sơ-mi cùng với tờ giấy ghi hành trình. Mà có ai hay... than thốt khổ tình sầu Lục xuống đáy túi một lần nữa, chỉ thấy xác một Cả vía hồn em...đã hằn sâu nỗi nhớ con chuồn chuồn kim màu xám tro. Muốn thiếp quên đi...lại nghe lòng chẳng nỡ Trăng hận trăng tàn... đêm nức nở từng đêm Tựa đóa hoa Tim...chết bên thềm lặng lẽ Tâm Thanh Bởi cớ duyên gì...Đơn lạnh tẻ Bằng Lăng Vừa chớm xuân thôi...chao,nước mắt y rằng Ngỡ quá thu tàn...hỏi người năng nào biết Dạ Lý hương ơi,....nhắn giùm câu giã biệt Cười lấy cho vui...da diết ngại ngùng nhiều Sóng nhẹ đỡ thuyền... neo ốc đảo cô liêu Men ngọt thơ thanh...xóa hải triều mặn đắng Hà Dị Hương.
Viết&Đọc Đặc San 2021 47
Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ Nguyễn Tiến Thành
Khổng Tử (Nguyen 2017) là người thông kim bác cổ nhưng lại chưa bao giờ tự nhận mình là người hiểu biết nhiều, ông biết rằng tri thức của một người chỉ là hạt cát so với kho tàng kiến thức của nhân loại. Khổng Tử nói «Ta có nhiều hiểu biết ư? Không! Ta không hiểu biết nhiều. Có một nông dân hỏi ta một vấn đề mà lúc đầu ta không biết tí nào cả nhưng ta đem hai mặt của vấn đề lật đi, lật lại, suy nghĩ tìm hiểu, rồi giải thích tường tận cho người ấy hiểu rõ». Trong sách Đại học có câu “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Chúng ta thử làm theo cách của Khổng Tử, «đem hai mặt của vấn đề lật đi lật lại» để hiểu thêm về tư tưởng mang tính cách nền tảng này. Người ta cho rằng, sách Đại Học do Tăng Tử, học trò của Khổng Tử viết trong khoảng thời gian từ thời Chiến Quốc đến thời Tần Hán, sách ghi chép lại các lời dạy của Khổng Tử. «Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” là bốn trong 8 bước cương lĩnh của Nho giáo nhằm giúp người có chí lớn, có thể học được đạo trị quốc mà ổn định thiên hạ. Tám bước đó là: 1. Cách vật: quan sát và nghiên cứu kỹ sự việc để nhận thức thực chất phải trái của sự việc đó. 2. Trí tri: tư duy để thấu hiểu hơn về nhiều
48 Viết&Đọc Đặc San 2021
góc cạnh sự việc mình đã nhận thức được. 3. Thành ý: chân thật, không gian manh. 4. Chính tâm: suy nghĩ và hành động ngay thẳng, chính trực và tự chủ. 5. Tu thân: sống theo nguyên tắc, sửa chữa những thiếu sót nhằm hoàn thiện bản thân. 6. Tề gia: chỉnh đốn gia đình, gia đình sống có nề nếp, có gia phong. 7. Trị quốc: chăm lo việc nước, việc dân, cai trị đất nước theo kỷ cương, phép nước. 8. Bình thiên hạ: khiến cho thiên hạ thái bình, lòng người quy thuận.
Khổng Tử cho rằng: phải “tu thân” trước thì mới có thể “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Vậy phải tu thân ra sao? Khi nhìn sự việc hay nhận xét về người khác, con người dễ bị cảm xúc chi phối, những cảm xúc đó làm sự nhận xét dễ mang tính thiên vị (Bjørndal 2017). Chỉ khi nào có sự cân bằng giữa cảm tính và lý trí, “Cố hảo nhi tri kỳ ác, ác nhi tri kỳ mĩ giả, thiên hạ tiên hĩ”, nghĩa là mặc dù yêu thích ai nhưng vẫn nhìn thấy được nhược điểm của người ấy; và ngược lại, mặc dù ghét bỏ
ai nhưng mà vẫn tìm thấy được ưu điểm của người ta, đấy là điều hiếm có trong thiên hạ, Khổng Tử cho đó là phẩm chất đạo đức và cũng là tiêu chuẩn để “tu thân” của một người. Người “tu thân”, ngoài ra còn lấy chữ “hiếu” làm đầu. Phải yêu quê hương thì mới yêu được Tổ quốc; tận hiếu thì sẽ tận trung. “Tu thân”, vì vậy, là nền tảng cơ bản của “bát mục”, khi người ta “cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm” thì họ đã có những phẩm chất giúp họ ngày càng hoàn thiện. Chỉ có “tu thân” tốt thì mới nói đến “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được. Và như vậy, tu thân là điều kiện cần thiết để trở thành một người trị quốc giỏi. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mang tính cách hàng dọc, từ cá nhân, nhân rộng ra đến gia đình, đất nước, và sau đó là cả và thiên hạ. Và ngược lại, hàng dọc từ trên xuống, thế giới có được hòa bình là vì những quốc gia yên bình, thịnh vượng, các gia đình có nề nếp, kỷ cương, các cá nhân đặt lợi ích Tổ quốc lên hàng đầu. Người xưa nhìn cách tu thân như vậy, người ngày nay thì sao? Trước khi đi vào phần chi tiết, chúng ta thử đọc thêm một vài định nghĩa: •
Lương tâm: là những nhận thức cá nhân về những điều đúng và sai.
•
Đạo đức: là những phản ứng có hệ thống về những điều đúng và sai trong cách cư xử với mọi người trong xã hội.
Lương tâm và đạo đức bắt nguồn gốc từ phong tục, tập quán và tôn giáo (Kvalnes 2020). Trước đây, lương tâm và đạo đức được xem là từ gần đồng nghĩa với nhau, nhưng trong thời gian gần đây người ta định nghĩa hai từ này rõ hơn. Chúng ta có thể nói rằng lương tâm là thái độ, hành động bộc lộ ra ngoài, và đạo đức là sự biện minh của những thái độ, hành động bộc lộ ra ngoài đó. Lương tâm không phải là một môn học, lương tâm học qua cách cư xử với người khác. Ngược lại, Đạo đức là một môn học, được trình bày qua các nghiên cứu và được đào tạo trong việc học và áp dụng các khái niệm và những nguyên tắc mang tính đạo đức. Nghĩa là, môn đạo đức được coi là những suy xét lý thuyết về đạo đức. Trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta luôn phải đối diện với những con người, những sự việc làm ta khó xử. Có khi giải quyết xong một vấn đề, mặc dù chẳng phạm luật gì cả, nhưng sao ta lại bị lương tâm cắn rứt; hay sau khi lựa chọn giải pháp hợp với lương tâm của mình thì giải pháp đó có vài
điểm đi ngược lại văn hóa xã hội... Trong thời đại ngày nay, chúng ta thấy có xu hướng giải quyết các vấn đề, đặt trọng tâm nơi pháp luật. Mọi thứ hợp pháp về mặt pháp lý đều được coi là được phép. Cách nghĩ này vừa hạn hẹp vừa sai lệch. Dựa theo những tiêu chuẩn đạo đức, xã hội mong đợi các thành viên có thể biện minh cho cách hành xử của mình dựa trên nhiều khía cạnh khác nữa. Theo Øyvind Kvalnes (2020), khi quyết định một vấn đề, người ta có sáu khía cạnh cần duyệt xét: 1. Jus - luật pháp 2. Identitet - căn tính 3. Moral - lương tâm, liêm sỉ 4. Omdømme - danh dự, uy tín 5. Økonomi - lợi ích 6. Etikk - đạo đức Về đạo đức, mỗi người chúng ta đều có những nhận thức đạo đức căn bản riêng biệt. Và khi hành động, chúng ta chọn lựa cách hành xử, quy chiếu theo những nhận thức đạo đức đó. Người ta thực hành đạo đức trong ba cấp bậc: 1. Đạo đức thánh hiền: không bao giờ vì lợi ích cá nhân mà làm điều sai trái về mặt đạo đức. 2. Đạo đức thường ngày: Không muốn làm điều sai trái về mặt đạo đức để đạt được lợi ích cá nhân. 3. Đạo đức lưu manh: không ngần ngại làm điều sai trái về mặt đạo đức để đạt được lợi ích cá nhân. Ví dụ, về khía cạnh lợi ích cá nhân, có thể chúng ta làm việc đó vì: 1. có thể ngày trước họ đã làm gì đó cho ta, giờ thì ta «bánh ích đi bánh quy lại», 2. có thể vì ta cảm thấy mình rớt vào thế «cờ triệt», buộc phải làm việc đó, 3. có thể vì ta mong đợi sẽ có lợi về sau, vì người đó có «giá trị lợi dụng». Ở mức độ thấp nhất, người ta hành xử đạo đức vì sợ bị quở phạt. Cao hơn một chút, người ta hành xử vì lợi ích cá nhân, kiểu «bánh ích đi bánh quy lại» . Mức độ cao hơn nữa, người ta hành xử vì danh dự, vì gia đình và xã hội mong đợi người ta hành xử như vậy. Mức độ cao hơn, người ta hành xử theo những quy tắc, những quyền lợi và những nghĩa vụ mà xã hội nhân văn đòi hỏi. Ở mức độ cao nhất, người ta hành xử vì lòng bác ái, tính công bình, mọi người đều có cùng nhân vị và bình đẳng như nhau. Viết&Đọc Đặc San 2021 49
Người ta hành xử từ thấp đến cao hơn, từ những ảnh hưởng bên ngoài như: lời dị nghị, hay sợ bị quở trách, sợ bị ảnh hưởng đến danh dự... đến ảnh hưởng đến từ bên trong, như: lương tâm, lòng trắc ẩn, tính công bằng... Vậy những lời bàn về đạo đức trong thế giới ngày nay có liên quan gì đến những điều Khổng Tử đã nhắc đến trong câu “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”? theo tôi thì có. Người ta đã từng đem vũ lực, áp đặt lối suy nghĩ và cách sinh hoạt kiểu tự do dân chủ lên những nước bên Trung đông hay bên Phi châu, nhưng các xã hội ở những nước đó đã nhanh chóng quay trở lại thể chế độc tài vì người dân ở những nước đó không quen sống kiểu tự do dân chủ. Hay những đất nước đó rơi vào cảnh nội chiến, vì hai đường lối chính trị chính thống, thiên tả hay thiên hữu được hai nhóm lớn nhất đất nước ủng hộ. Xã hội dân chủ giải quyết những vấn đề qua bàn thảo, đối thoại và biểu quyết theo đa số. Những người theo dõi chính trường đều biết rằng, có sự trao đổi, mua bán qua lại giữa những đảng phái. Nhưng đây là luật chơi nơi chính trường, các đảng phái thường không chiếm đủ đa số khi biểu quyết thông qua một quyết định. Ở đây, chúng ta cần phân biệt giữa các hệ tư tưởng, đường lối chính trị và cách sinh hoạt xã hội dân chủ. Chúng ta có nhiều hệ tư tưởng khác nhau như: chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản... Trong các nước theo chủ nghĩa tư bản, người ta thường tổ chức xã hội theo kiểu dân chủ, nhà cầm quyền được đa số dân tín nhiệm. Ngược lại, các 50 Viết&Đọc Đặc San 2021
nước theo Cộng sản chủ nghĩa, xã hội được cấu trúc theo chế độ độc tài đảng trị, nhà cầm quyền không do dân bầu lên, nhưng cướp chính quyền bằng bạo lực. Các chính quyền do dân bầu lên ở các nước dân chủ, có thể do các đảng phái đối lập lần lượt lên nắm, nhưng chính quyền tiếp nối có quyền chọn theo đuổi những đường lối chính trị do chính quyền trước vạch ra, hoặc chọn đi theo một đường lối chính trị khác, phù hợp với cương lĩnh do đảng mình vạch ra hơn. Ngày nay, có phải người ta không cần phải «tu thân» như thời của Khổng Tử khi làm chính trị ở những nước dân chủ? mà người ta chỉ cần thông hiểu «luật chơi» nơi chính trường, làm sao tạo được sự hậu thuẫn đa số khi bỏ phiếu cho một quyết định mới? Biện luận như vậy cũng chưa được chính xác lắm, vì như đã nêu ở phần trên, mặc dù những nước bên Trung đông đã được chỉ cho cách tổ chức xã hội theo kiểu dân chủ, nhưng người dân những nước đó vẫn không sống và thực hiện được cách tổ chức xã hội kiểu này. Vì vậy, khi người dân một nước có được một số nhận thức về đạo đức nhất định, có khả năng «đem hai mặt của vấn đề lật đi lật lại», đa số người dân «hành xử theo những quy tắc, những quyền lợi và những nghĩa vụ mà xã hội nhân văn đòi hỏi» thì xã hội mới hội đủ những điều kiện cần thiết để có thể tổ chức theo thể chế Dân chủ. Đạo đức ngày nay không mang tính hàng dọc, từ trên xuống, hoặc từ dưới lên, Đạo đức ngày nay mang tính hàng ngang, hành xử bình đẳng giữa người với người. Thể chế Dân chủ đòi hỏi (đa số) các thành viên sống dưới thể chế đó biết tôn trọng nhân vị và
quyền lợi của mọi người chung quanh, kể cả các người không cùng quan điểm, không cùng chính kiến. Tôi không muốn chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu về «Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ» và môn đạo đức ngày nay, chúng ta còn một hệ lụy mà tôi muốn nói tới nữa, đó là con đường Tự do Dân chủ cho Việt nam. Có những người đi theo lý tưởng «khai dân trí», làm và đăng chiếu những video hay viết những bài bình luận, phân tích các sự kiện xã hội, lịch sử, mà theo tôi, chưa đạt được ý nguyện «khai dân trí» này. Khi áp đặt ý tưởng của mình cho những người dân trong nước, những người mà họ muốn «khai dân trí», họ đã vô tình cướp đi khả năng tự tư duy của họ, khả năng tự tìm ra cho cuộc đời mình một hướng đi (Bjørndal 2017). Ví dụ, như khi tấn công những ý tưởng không được họ ủng hộ, người nghe sẽ thấy ý tưởng của họ bị khập khễnh, thiếu cân bằng và cực đoan. Cái này cộng sản gọi là «kiểu suy nghĩ bầy đàn». Hay khi cảm thấy «đã ngứa», sau khi nghe họ chửi cộng sản bằng tất cả những lời tục tĩu nhất, người dân trong nước tự hỏi, rồi tôi phải làm gì để có thêm ý tưởng và sống theo phong cách tự do dân chủ? Họ đã không giúp người dân tìm ra được một hướng đi, vô tình, họ đã gieo rắc tư tưởng phi dân chủ, kiểu «có ta thì không có nó», và «ta sẽ tiêu diệt hết bọn cộng sản ở Việt Nam» khi có cơ hội... Cộng sản đã cướp chính quyền, giành quyền cai trị mà không có sự ủng hộ của đa số người dân. Và sau khi cướp được chính quyền, người cộng sản đã bắt giữ và giết những người không cùng chính kiến với họ, tàn ác hơn, họ còn giết cả những người thân trong gia đình của những người bất đồng chính kiến với họ (RFA 2020). Tôi thấu hiểu và đồng cảm với những đau thương mà người dân nước Việt Nam Cộng Hòa chúng ta phải gánh chịu sau khi bị bọn cộng sản cướp nước. Nhưng cũng như bọn cộng sản tàn ác, đấu tố dân Việt, giết hại gia đình những người không cùng chính kiến, vậy chúng ta phải sử dụng từ gì để gọi sự kiện chúng ta «giết hết bọn cộng sản ở Việt Nam» trong đường lối «khai dân trí» của chúng ta? Tự Do dân chủ không phải hoặc trắng, hoặc đen. Trong một gia đình năm anh em, có thể ba anh em không cùng tư tưởng với hai người anh em kia, nhưng không phải vì là thiểu số hai người mà lập luận của hai người trở thành vô lý; và cũng chưa chắc lập luận của hai người họ yếu hơn lập luận của ba người kia, có khi lập luận của họ lại còn vững hơn lập luận của ba người kia. Khi thấy chúng không đồng ý với nhau, bậc làm cha mẹ không xúi chúng đánh nhau, xem trong năm đứa nó, bên nào thắng, bên nào thua. Trong một cuộc
bầu cử tự do dân chủ, đấy cũng không phải là sự chọn lựa giữa thiên đường hoặc địa ngục, chung quy người ta bầu theo hệ tư tưởng, những đường lối chính trị khác nhau, hay đơn giản hơn, họ bầu theo quyền lợi cá nhân của họ. Vì vậy không thể nào định nghĩa những người bất đồng tư tưởng như những người đồng lõa với quỷ sứ, hay là kẻ thù của nhân loại. Xúi giục thiểu số chống lại đa số thì không dân chủ; xúi giục đa số giết thiểu số là độc tài; xúi giục hai bên đánh nhau là bất nhân; xúi giục lấy thủ đoạn để thắng cử là gian trá... Bản thân tôi, khi không tìm được đảng nào mà tôi đồng ý với đường lối của họ, tôi bầu cho đảng mà tôi ít bất đồng với họ nhất, hay bỏ phiếu trắng. Khi chính những người làm công việc «khai dân trí» hay đấu tranh vì Dân chủ và Tự do cho Việt Nam không hiểu được nguyên tắc này, mà dấy lên kiểu suy nghĩ hoặc trắng hoặc đen, thì thử hỏi, họ sẽ hướng dẫn người dân trong nước đi về đâu?
Nguyễn Tiến Thành
Tài liệu tham khảo và trích dẫn: Bjørndal, C. R. P. (2017). Det vurderende øyet : observasjon, vurdering og utvikling i pedagogisk praksis. Oslo, Gyldendal akademisk. Bjørndal, C. R. P. (2017). Konstruktive hjælpesamtaler : mestringsfremmende perspektiver og redskaber i vejledning, rådgivning, mentoring og coaching. Aarhus, Klim. Kvalnes, Ø. (2020). Etikk og bærekraft. Oslo, Universitetsforlaget. Nguyen, T. (2017). Tìm hiểu về tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Ánh Dương. https:// tiengtrunganhduong.com/tim-hieu-ve-tuthan-te-gia-tri-quoc-binh-thien-ha.htm. RFA (2020). “Cải Cách Ruộng Đất.” from https://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/ landreform.
Viết&Đọc Đặc San 2021 51
ĐOẢN VĂN MINH HỒNG Na Uy, bạn sẽ thấy bình lặng với tất cả sự quyến rũ rất lạ. Hãy để làn gió xuân réo rắc mọi vẻ đẹp của mùa xuân. CHÀO XUÂN 2021 Mùa xuân chắc chắn là một bức tranh tràn đầy sức sống và thịnh vượng. Nếu mùa xuân là mùa tươi vui, thì nắng xuân là niềm hy vọng. Hoa nở như gấm, ánh nắng xuân dịu dàng, để làn gió nhẹ thoảng qua. Chan hòa yêu thương và hạnh phúc.
NGƯỜI LÍNH TRỞ VỀ SAU CHIẾN TRANH
Anh ấy ngồi trong xe với những người đồng đội. Trên các ô cửa sổ xe, sương mù dày đặc. Ngoài trời lạnh quá, bên trong, mùi khét ngột ngạt. Tất cả những người lính này có vẻ như kiệt sức. Mùi bụi Tại Vương Quốc Na Uy, nắng xuân vẫn lạnh. Khi bẩn của chiến hào hòa với mùi máu từ những vết tôi dạo bước trong nắng xuân, gió xuân nhè nhẹ vỗ thương đã bị dập nát. Những vết thương được điều trị kém ở đó trên chiến trường, hoặc vết thương tái vào mặt tôi. “Gió ơi, hãy thổi, để tóc bay bay và khuôn mặt tươi phát trong cuộc hành trình. cười của tôi nở ra trước trái tim tôi.” Đột nhiên tôi cảm thấy như mình đã được tắm trong ánh nắng Anh ta ngồi ở phía trước, trên chuyến xe trở về nhà. Anh ngồi phía trước để dễ dàng nhìn thấy này từ lâu rồi… người vợ của mình khi chiếc xe chạy ngang qua Cũng giống như nhiều người ca tụng rằng mùa nhà thờ làng, nếu cô ấy đứng ở đó. xuân lộng lẫy như thơ, êm dịu như rượu và đẹp Sau ngần ấy năm và anh đã hoàn thành nghĩa vụ, như mơ… Tuy nhiên gió xuân có lúc rất lạnh, mưa xuân cũng và anh đang trở lại. Anh đã tưởng tượng khoảnh có lúc rất lạnh. Đối mặt với hoa rơi, nước chảy, có khắc này rất nhiều lần, hàng đêm. người chọn cách mạnh mẽ, có người chọn cách co Anh sẽ ôm cô ấy vào lòng, ngắm nhìn lại đôi mắt đẹp của cô, vuốt ve những lọn tóc dài xõa xuống ro… Thực ra, chặng đường dài của cuộc đời đầy chông lưng cô. gai và thăng trầm, đừng chọn nản chí lúc này. Hãy nâng cao lồng ngực, mở rộng vòng tay và tắm Hiện giờ, anh ấy rất lo lắng. Khi chiếc xe đã ra khỏi mình trong tia nắng xuân! Tắm nắng xuân, trong khu rừng và đang chạy dọc theo cánh đồng trước lòng có nắng ấm, cho hành trình cuộc đời có thêm khi đến thẳng quảng trường trung tâm. Anh nhìn thấy nhà thờ làng đang đến gần, anh như ngừng niềm tin và hy vọng. thở. Anh cảm thấy trái tim mình rất hồi hộp, nhưng Tôi thích đi trong mùa xuân đầy hương thơm và anh phải giữ lấy bình tĩnh. cảm nhận vẻ đẹp của cái Tết Nguyên Đán Tân Sửu Sau ngần ấy thời gian, anh đã rời xa ngôi làng. 2021 đang cận kề. Ngắm nhìn cuộc đời với tấm lòng thuần khiết, tôi Ngôi làng của anh ấy! thấy nhiều cánh hoa hồng đang trò chuyện với Phía trước của chiếc xe ở quảng trường, vô số phụ mùa xuân. Và những hy vọng đang vươn lên theo nữ, trẻ em, người cao tuổi, đối mặt với anh ta. Tất cả họ đều ở đó, trong một bức tranh tĩnh lặng đầy ánh sáng mùa xuân êm dịu. Xuân nở nụ cười ấm áp cùng ánh sáng hạnh phúc, ấn tượng… kỳ ảo như chốn thần tiên, nét dịu dàng trong suốt. Xuân Na Uy bình yên và vẻ đẹp của mùa xuân Na Khi chiếc xe đến gần, anh nhận ra một vài khuôn mặt. Anh nhận ra ông cụ hàng xóm ốm yếu chống Uy thật huyền ảo! Biển nơi đây cũng nở nụ cười hạnh phúc, không gậy, dựa vào thân cây cổ thụ ở quảng trường. Một một chút gợn sóng. Hướng mắt về một vùng biển số ít trẻ nhỏ chơi đùa bẽn lẽn trên bậc thềm của 52 Viết&Đọc Đặc San 2021
nhà thờ, vợ của một người bạn cũng đứng ở đó. với cái miệng bị hỏng của người đàn ông quá đẹp Còn vợ của anh đang ở đâu? Anh ngơ ngác tìm trai, mạnh mẽ, với cái đầu kiêu kỳ và chinh phục, kiếm… mà cô đã từng yêu say đắm, người mà cô đã cầu nguyện rất nhiều để trở về với cô. Cô mở rộng Mọi người đứng dậy khỏi ghế, tìm kiếm người vòng tay của mình, cô ôm anh ấy và thì thầm với thân của họ. Những cánh cửa xe cuối cùng mở ra. anh, đôi mắt cô sáng lên với tình yêu: Anh lao xuống, theo sát những người bạn đồng hành từ chiến trường về. Anh tiến tới, cắt ngang – Em đã chờ đợi anh rất lâu rồi. Em luôn cầu đám đông, trong tuyệt vọng tìm kiếm vợ mình, nguyện cho anh và cuối cùng anh đã trở về với người mà anh luôn muốn tồn tại dù cho có bất cứ em. Em sẽ chăm sóc anh tận tình. Chúng ta về nhà điều gì xảy ra. anh nhé. Anh gọi tên cô.
GHÉP LẠI MẢNH VỠ
-Em ở đây - Cô trả lời.
Trong sự im lặng của màn đêm, một tiếng vỡ làm gián đoạn bước đi của dòng nước dọc theo bờ Một người phụ nữ tóc xõa buông dài xuống lưng, sông. Tiếng thở dài buồn bã của một kẻ cô độc với với ánh mắt thẳng thắn và mạnh mẽ đang tiến lại trái tim chứa đầy tro cốt của tình yêu. gần. Cô ấy không hề sợ hãi, không ghê tởm. Cô hỏi: Trong bầu trời đêm, những đám mây không cho phép nhìn thấy một vầng trăng sáng mượt, nhưng – Bạn là ai? Người đàn ông với khuôn mặt bị rách xuyên qua một khoảng trống, vầng trăng chiếu vào một nửa dưới da thịt này là ai? một người đàn ông đã mất đi niềm hy vọng. Anh khao khát sự chăm sóc, sự dịu dàng và tình Anh ấy trả lời: yêu chân thành của một người phụ nữ. – Anh là người đàn ông của em. Anh là chồng của Khi anh còn là một chàng trai trẻ, anh đã chạm vào em. trái tim của một người phụ nữ trẻ đẹp. Anh cảm thấy hạnh phúc trong niềm đam mê tuổi trẻ, ngọt Giọng nói này. Giọng nói mà cô luôn mong đợi để ngào, trong những cử chỉ ân cần, những nụ hôn được nghe. chân thành và say đắm. Những khoảnh khắc tuyệt vời mà họ đã dành cho Cô nói trong nước mắt: nhau, có thể nói “tình yêu đầu đời” tỏa sáng còn hơn mặt trời. Anh tin tưởng vào tình yêu của đời – Em là người yêu của anh, em là vợ của anh. mình, anh ước mơ được kết hôn với cô ấy. Nhưng, cuối cùng là một tiếng thở dài, đau khổ… Người phụ nữ cắt ngang qua đám đông để bước Nghiền nát. đến gần anh. Khi hạnh phúc không còn, tinh thần anh tan vỡ, những đêm buồn mất ngủ. Anh nhai lại cuộc đời Một đám đông đứng dạt ra hai bên. Một bên là phụ mình… nữ, một bên là binh lính. Bây giờ, anh nhận ra mình không còn có thể chiến Họ đứng yên, im lặng để không làm phiền hai đấu, vì anh không còn là một chàng trai trẻ ham người này và chờ đợi phần tiếp theo. muốn. Anh không còn muốn yêu cô ấy nữa vì anh cảm thấy mình thấy đam mê là giá trị. Anh không Sự im lặng đã bị phá vỡ bởi giọng nói nghẹn ngào còn muốn lập gia đình nữa, anh không cần người và đau đớn của anh ấy: bạn đời. Anh khao khát được tự do. Thất bại đã – Anh đã đợi rất lâu cho ngày này, để về với em. nghiền nát tâm hồn vốn đã dày vò của anh, và anh tin rằng một ngày nào đó anh có thể thức dậy vào Ngay lập tức anh quay lưng về phía cô ấy, vì anh một buổi sáng với ánh mặt trời. nhớ ra gương mặt của mình đã bị hỏng một bên. Ra đi. Anh ra đi. Cô ấy bị tổn thương bởi sự chia ly và bị Cô bước đến và đứng trước mặt anh. Cô cảm nhận dằn vặt vì hối hận. Cô biết mình đã làm tổn thương một cơn chấn động truyền từ lưng đến cổ, vai cô chàng trai trẻ khi cô từ chối lời cầu hôn của anh ấy. từ từ chùng xuống. Sau đó, cô ngước lên đối mặt Cô yêu một chàng trai trẻ từ một gia đình giàu có. Viết&Đọc Đặc San 2021 53
Họ bắt đầu gặp nhau và giữa họ có một tình cảm sâu đậm. Thật không may, gia đình của chàng trai trẻ đã phản đối mối quan hệ này. Họ đe dọa sẽ gửi con trai của họ đến Mỹ và sống ở đó. Đó là lý do tại sao cô từ chối lời cầu hôn của anh ấy.
cửa, dường như anh chạy vội vã từ bên trong chính mình, và thích thú để gió thổi bay đi mọi thứ.
Anh là một học sinh trung học nghèo, nhưng anh là một người hùng của cô. Anh ấy đã cứu cô thoát khỏi một vụ sàm sỡ của một gã thanh niên ở thời Cô đã nhận thấy rằng tình yêu của anh chân thành trung học. Và họ yêu nhau từ đó. và thuần khiết, nhiều lời nói tử tế, những cái ôm mà cô tin tưởng, không gì khác hơn là một hình Sau đó, cuộc hẹn hò của họ tăng dần mặc dù gia ảnh đẹp, ngọt ngào, in sâu đậm trong tâm hồn của đình cô không chấp nhận anh ấy. Bố mẹ của cô đã một người phụ nữ! hứa gả cô cho một người con rể giàu có, không phải là một người nghèo khổ như anh. Cô không Nước mắt cay đắng rơi ra từ tiếng khóc đau đớn có quyền hẹn hò với bất cứ ai, ngoài chàng rể giàu của cô, những lời tự trách móc mình đã tích lũy, và có kia. điều này một lần nữa làm trái tim cô đang trổi dậy trong hạnh phúc, để chờ đợi một ngày được hội Sau khi anh ấy được học bổng du học tại Mỹ và ngộ cùng anh ấy. Và thời gian kéo tấm màn ra khỏi quyết định ở lại nơi đây lập nghiệp đã hơn 20 năm, thực tại tồi tệ, cô thấy mình già hơn trước. Trong để quên đi mọi thứ. tuyệt vọng, cô vẫn cố gắng cứu vãn mối quan hệ của họ. Có lẽ thế giới tuyệt vời đó vẫn chưa sụp đổ. Những ngày gần đây, trên một cây cầu cũ thường xuất hiện một người đàn ông. Người đàn ông đứng Một buổi chiều. Bỗng dưng tiếng chuông cửa reng lặng yên trên cây cầu, không biết anh ấy đang chờ lên, cô ra mở cửa. Trái tim cô đập mạnh khi anh đợi ai? Anh ta đứng ở đây trước khi trời tối, cho ấy đang hiện diện trước mắt cô, trên tay anh cầm đến khi hoàng hôn buông xuống trên cây cầu. một bó hoa hồng đỏ. Cô bắt đầu nhận được những tín hiệu tuyệt vời của cơn lốc tình yêu. Định mệnh Chạng vạng luôn cảm thấy ngắn ngủi, nhưng mặt đã chỉ ra một ngày đẹp trời cho họ hội ngộ nhau. trăng dường như chậm lại. Đằng sau một khoảng im lặng nhiều lần tình yêu Cho đến khi nào hoàng hôn luôn sinh ra những sự bị che giấu. Họ đã im lặng, im lặng và chờ đợi, im kiện kịch tính? Cho đến khi nào cây cầu cũ này trở lặng mà không xúc phạm gì nhau. Và cuối cùng họ thành một sân khấu luôn chứa đầy kỷ niệm. kết hôn cùng nhau. Họ sẵn sàng làm tất cả mọi thứ, mọi thứ cho tình yêu, cho cuộc sống mới hoàn hảo Ôi! Cây cầu lạnh lẽo, trên dòng sông yên tĩnh. Một hơn. Và giá trị tình yêu tăng lên khi họ vượt qua cặp thiên nga trưởng thành đang di chuyển. chướng ngại vật để giành chiến thắng. Một người phụ nữ đi qua cây cầu, cô bắt gặp anh HOÀNG HÔN TRÊN CÂY CẦU CŨ ta đứng ở đây vài lần. Cô suy nghĩ: Lạ thật! Tình yêu là điều kỳ diệu. Tình yêu không “Tại sao anh ta đến nơi đây?” có ranh giới, năm tháng, thời gian và địa điểm. Người ta không chọn tình yêu, tình yêu chọn Người đàn ông đứng ở trên cây cầu cũ này, trước người. khi trời tối. Anh ấy luôn đến đúng giờ. Mặc dù anh biết rằng không ai chờ đợi anh. Chỉ có hình bóng Tình yêu làm cho kẻ ngốc trở nên khôn ngoan, và của những bức tượng, ánh sáng cổ điển, tất cả đều hiền nhân trở thành ngu ngốc. Nó thúc đẩy đam tạo ra bóng tối, là sự im lặng đẹp nhất đối với anh mê, phá hủy lý trí. Trong tình yêu đảo ngược mọi ta. thứ. Tình yêu là hương vị đích thực của cuộc sống. Nếu bạn có kinh nghiệm về thiên đường tình yêu, Cô bước đến, cô tò mò hỏi: thì bạn đã thực sự sống! “Tại sao anh luôn đến đây?” Nhưng thế giới của anh ấy không thuộc về quan điểm này. Anh muốn kết thúc và rời đi. Những Anh trả lời: bước chân không đủ để trở về phía trước vĩnh viễn, và cũng không muốn quay lại phía sau. Ở bên cánh “Tôi thích đến đây để nhớ về ký ức, tôi mặc kệ cho 54 Viết&Đọc Đặc San 2021
hoàng hôn di chuyển.”
“Không. Làm sao tôi có thể hiểu được. Tôi không thể nhìn thấy hoàng hôn, hay sự ra đi của người tôi Cô im lặng một lúc. Mùi của lá cây, mùi gỗ và yêu trong quá khứ.” - Cô nói. không khí mát lạnh của gió từ dòng sông khiến cô có cảm giác dễ chịu. Người đàn ông áp hai tay vào phía lan can của “Anh có kỷ niệm gì ở đây?” - Cô tiếp tục trò cây cầu. Anh cúi đầu về phía dòng sông, với tất cả chuyện. những ký ức chảy ra từ đôi mắt anh. Anh gỡ chiếc kính mắt ra và quay về phía cô. “Có, kỷ niệm với một người phụ nữ, đức hạnh và xinh xắn.” - Anh nói. Người phụ nữ sững sờ khi nhận ra anh ấy chính là người yêu cũ của mình. Cô không biết rằng anh Cô nhắm mắt lại trong vài giây, cô thoáng buồn. ấy đã trở về nước và âm thầm tìm kiếm cô. Anh đã nhìn thấy cô mấy lần đi ngang qua cây cầu kỷ Anh ấy hỏi cô: niệm này. “Cô có ký ức nào ở đây không?”
Chừng nào hoàng hôn còn tiếp tục di chuyển, cây cầu cũ này sẽ luôn là mối liên kết giữa ký ức và ký “Câu hỏi của anh, tôi không nhất thiết phải trả ức. Và hôm nay, hoàng hôn đã thực sự rơi vào hai lời.”. cặp mắt đó. Anh mỉm cười chua chát:
Cô bậc khóc, anh bước đến vài bước nhưng khựng lại:
“Tôi biết, mọi người đến đây đều phải có ký ức nào đó. Ký ức thực sự là vũ khí phi thường để giết “Em có hạnh phúc không?” thời gian nằm ngoài vòng tròn của quá khứ. Và cô có muốn chia sẻ kỷ niệm với tôi không?” Cô gật đầu và nói trong nước mắt: “Nhưng em vẫn luôn nhớ anh.” “Một lần nữa câu hỏi của anh có vẻ sáo rỗng đấy.” Người đàn ông có vẻ bối rối. Anh ngước nhìn lên Trong một khoảnh khắc, người đàn ông im lặng, bầu trời và cố nén cảm xúc. nhưng người phụ nữ đột nhiên cười vui vẻ: Cô nín khóc và hỏi anh: “Không cần phải quá cứng nhắc như thế. Chúng ta chỉ cần một mảnh hoàng hôn để hiểu nhau về một “Anh lập gia đình rồi phải không?” ký ức.” “Anh có gia đình rồi.” - Anh cười nhẹ và trả lời. “Đừng quá kịch tính.” Họ chia sẻ sự ấm áp dưới buổi tối thân thiện. Có Và họ cười lớn, với một giọng điệu khác. Ngay một con chim vỗ cánh, rồi bay đi. Ánh đèn trên lập tức họ trông rất quen. Giống như một cặp tình cây cầu cũ này cũng tạo ra ánh sáng, tăng thêm sự nhân vừa mới tái hợp sau tất cả thời gian dài bị ấm áp cho hai người yêu nhau gặp lại. chia cách. Có phải hoàng hôn sắp kết thúc? Có lẽ em phải đi Và họ tiếp tục trao đổi với nhau, chia sẻ ý kiến, về. Người phụ nữ nói. cho đến khi hoàng hôn đến. Người đàn ông trả lời: “Tất nhiên.” Nhưng anh “Để biết nhau, chúng ta không cần biết tên. Hay ta vẫn bối rối: “Tại sao hoàng hôn kết thúc nhanh nhìn chằm chằm vào nhau. Nhu cầu duy nhất của như vậy?” chúng ta là ngôn ngữ.” - Anh ấy nói. Họ đứng nhìn nhau thêm giây lát. Người phụ nữ “Có vẻ như cô vẫn thực sự chưa hiểu ?” - Người bước đi, bỏ mặc người yêu cũ đứng lặng yên nơi đàn ông nói. cây cẩu cũ đầy kỷ niệm. Trước khi hoàng hôn bắt đầu kết thúc. Viết&Đọc Đặc San 2021 55
có một người là bạn. BỨC TRANH HÔN NHÂN Có những giọt nước mắt mê đắm không dứt, luôn có người là những vần thơ mờ mịt mà bạn không Một số người nói rằng hôn nhân là mồ chôn của thể đọc hết, và luôn có người là những vần thơ ân tình yêu. Nếu hôn nhân là mồ chôn tình yêu, tại sao tình mà bạn viết không xong. nhiều người bước vào căn phòng hôn nhân? Nếu hôn nhân là mồ chôn của tình yêu, làm sao chúng Và sau hàng ngàn, hàng trăm vòng quay, bạn sẽ ta có thể giải thích quá nhiều cuộc hôn nhân hạnh trở thành cơn gió trong nút thắt trái tim này, bạn sẽ phúc? Tất nhiên, những cuộc hôn nhân không may ngập tràn trong nước mắt mê đắm, bạn sẽ là người mắn không thể loại trừ. trong giấc mơ si tình. Bạn nhìn qua làn nước mùa thu trong bài thơ mờ Tôi luôn nghĩ rằng: Hôn nhân là tình yêu phát triển mịt, bạn đang lưu luyến một hình dáng. Có lẽ đến một giai đoạn nhất định của sự trưởng thành chính những dấu vết chân thực theo năm tháng để của quá trình, đó là mùa thu hoạch của tình yêu. lại vẻ đẹp bình dị khó tìm trên đời, đã khiến người Tình yêu không có hôn nhân có thể là một bức ta như thế này, không thể không động lòng? tranh mơ hồ, trong khi hôn nhân là vẻ đẹp bức tranh thực sự. Có lẽ bạn sẽ không phiền lòng để Tuy nhiên, có hàng vạn bông hoa trong mắt, và xem BỨC TRANH HÔN NHÂN tôi vẽ ngày hôm chỉ có hai hoặc ba trong số chúng đang nở rộ. Trên nay? đời này, có bao nhiêu người có thể gặp được người mình muốn gặp trong số hàng ngàn người? Không Kỷ niệm ngày cưới: người chồng mua hoa hồng có sớm hơn một bước, cũng không có chậm một và hoa lily tặng cho vợ, người vợ rất hạnh phúc. bước, cứ như vậy tình cờ. Mỗi ngày cô ấy đều nhớ thay nước và chăm sóc thật cẩn thận! Có nhiều người đàn ông và phụ nữ, nhiều số phận Một tuần trôi qua, hoa hồng đỏ nhạt dần, nhưng đã bị thời gian phung phí một cách tàn nhẫn. Quá hoa lily đã nở ra rất đẹp. Nhìn vào một bức tranh nhiều người vô duyên đứng lặng lẽ trong ánh đèn như vậy, bạn nghĩ gì? mờ ảo, bất chợt nhìn lại, nhưng không ai đợi ai. Năm tháng nhìn lại, có những thứ không cần nhặt Hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu, đầy lãng nhưng đã nằm sâu trong lòng, có người không cần mạn và đam mê! nhớ nhưng lại lưu luyến… Thỉnh thoảng nhớ lại Lily bách hợp nhạt dần theo năm tháng … Thực tế, thì cũng chỉ còn là ký ức. đó là một hiện tượng bình thường! Bởi lẽ hoa bách Chân đi trên đất, dưới chân là mặt đất, ở đâu cũng hợp đã nở ra, tình yêu và đam mê được chuyển có con đường. Chúng ta phải đi, có thể gồ ghề, có thành trách nhiệm và tình cảm! Trách nhiệm, gia thể bằng phẳng. Gồ ghề như kinh nghiệm. Bằng đình, hạnh phúc sẽ luôn ở đó! phẳng như hạnh phúc. TÌNH LÀ MỘNG LUÔN NGỦ QUÊN
Nhìn thành phố trên trời mây trôi, như có câu chuyện của chúng ta ẩn hiện trong từng đám mây? Tình là mộng, luôn ngủ quên, mộng muộn màng… Câu chuyện của chúng ta, có phải nó cũng đang ở Cảm xúc là một thứ rất lạ, bạn đến, người ấy đi. trên mây? Ngủ yên và bị phong ấn. Tình là mộng, Bạn đã đi rồi, nhưng anh ấy lại ngốc nghếch chờ luôn ngủ quên, mộng muộn màng. đợi bạn mãi mãi… Trong cuộc đời này, có thể sẽ có một người không luôn đồng hành với bạn, nhưng bạn lại thực sự muốn sống cùng với người ấy, đến nỗi ta thường phải trả giá đắt trong tâm hồn. Thế mới có cảm giác “Nếu đời chỉ như tiên cảnh, gió thu buồn quạt.” Nghĩ lại, trong thế giới con người này, trong thế giới rộng lớn này luôn có người là nút thắt trái tim bạn mà bạn không thể tháo gỡ, luôn có người là vầng trăng cao mà bạn không thể nhìn đủ, luôn có một người là ước mơ tình yêu bất tận của bạn, luôn 56 Viết&Đọc Đặc San 2021
Thơ Hàn Dị Hương
Thu giã từ Gió lạnh rơi sau màu nắng hạ Em về đan áo đợi chờ thu Vàng thêu ánh nguyện xuyên hồn lá Bìm bịp kêu sương buổi giã từ Hồng nhan phai sắc rụng bên thềm Con sầu ăn cội cánh hoa tim Bằng lăng một bóng hồn cô quạnh Mộng điệp si hương mỏi cánh tìm Anh về rót rượu chan niềm nhớ Mượn gió heo may đến ngút ngàn Vạn lý tơ vương tình vướng nợ Thương lòng thu rụng rữa tim ngan Tâm trí buông lơi hồn phiêu lãng Lìa xa thân xác của con người Nếm chén dư hương màu hoa nát Nuốt cùng châu lệ đắng chưa nguôi Ai đem nhung nhớ từ đâu đến Ai về khung cửi bắc cầu tơ Ai gửi cho ai niềm thương mến Ai đợi ai đến bao giờ Gió lạnh rơi sau màu nắng hạ Em về đan áo đợi chờ thu Hàn châu tuyết phủ tim hóa đá Từ lúc thu rơi buổi giã từ. Hàn Dị Hương
Ai? Ai lững lờ trên quãng vĩ mô Ai vào đêm mộng nhiệm màu mơ Hồn ai say sẩm tim ai điếng Cảm giác lòng ai chợt sững sờ Và ai sóng sượt giữa làn thơ Ai người đoản hậu cứng như đơ Đàn ai ghê lạnh giao âm hưởng Tiếc nuối đồng ca tiễn ai giờ Nán lại ai ai, tớ muốn thâu Cả đời mông muội, kiếp ai đau Với trăng với gió giờ ai khóc Với cả ai khôn xiết hận sầu Linh linh, ai rót rượu hòa châu Ai từ môn vấn đến trời sâu Thương thương ai hóa vàng cung phụng Nhớ nhớ ai dâng lễ đồng cầu Hời ai bán chết giá bằng vinh Hoán trả ai thôi chút nợ tình Ai hoài trót lỡ yêu cho đặng Ai nỡ xa tầm mắt đoan trinh... Hàn Dị Hương
Viết&Đọc Đặc San 2021 57
SINH NHẬT NHỚ BỌ MẠ NVT
Mạ và cháu con của đứa em gái
Bọ và các cháu con bà chị
nỗ lực nuôi mình ăn học tới mức kha khá, so với Hôm nay là ngày sinh nhật của mình. dân thường ở Việt Nam, so với dân nghèo xứ đạo mình. Hôm được tin mình đậu tú tài 1, bọ mình Theo lời mạ mình kể: sung sướng nói cho mọi người bọ gặp: «Thằng T đậu tú tài rồi!» dù ông ngày thường là một người Mạ mình sinh mình trên một chuyến ghe chở mắm rất kín đáo, khiêm tốn. Mạ mình cứ mỉm cười suốt từ làng Mỹ Hòa, Quảng Bình, mà bọ mình chèo ngày, lăng xăng nấu nướng ăn mừng. ngược lên mạn ngược Sông Gianh, vào lúc gà gáy canh hai, đêm 16, Tháng Giêng, Năm Giáp Ngọ, Mạ (bọ) mình sẵn sàng cho mình tiền để mua sách, tức 2 giờ sáng, đêm 9.01.1955. Nhưng khi trốn CS nên hồi đó mình có mấy tủ sách khá lớn, khoảng mà vào Nam, mấy ông làm hộ tịch miền Nam ghi 300 cuốn, sách giá trị tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng đại là 02.10.1954. Anh, tiếng Tàu. Mình có tất cả các tác phẩm của Theo bọ mạ mình kể thì hôm đó là ngày 16 trăng Giáo sư triết gia Kim Định, có cả cuốn Bible de rất sáng và đêm trăng thì rất lạnh. Mạ mình tự sinh. Jerusalem in trên giấy quý, mà mãi tới bây giờ Sinh được mình là con trai đầu, sau 3 chị gái, bọ 2021 ở Na Uy, mình chưa mua nổi vì mắt quá; mạ mình mừng quá sức. Khi về tới bến, bà nội lấy cuốn Khang Hi Đại Từ Điển, có ghi tên sở hữu mền chạy ra trùm cho cháu mới lọt lòng mẹ và chủ là Nguyễn Hiến Lê vì mình có thấy tên cụ và bồng vào nhà. Cả nhà đều mừng. triện son trên trang nhất mà mình mua được ở chợ trời; sách tiểu thuyết Pháp cũng cả trăm cuốn, và Có lẽ vì mình được sinh trên sông trăng, nên suốt còn nhiều nữa... đời, tới nay, mình vẫn cứ hay mơ mộng, nhưng vì là sinh ra trên một chiếc thuyền chở mắm, chèo Có chuyện vui về đọc sách: Bọ mình là người tốt ngược, có lẽ vì thế mà mình phải cố gắng rất nhiều hết cỡ, nhưng nỗi nóng dữ dội khi đụng tới chuyện để có cái ăn, cái mặc, để làm người, để có chút ít cày cấy làm không đúng ý ông. Ông la lớn tiếng thời giờ làm văn làm thơ. mấy chị. Mấy chị rất sợ. Mỗi lần như thế, mấy chị lại thì thầm với mình: «Mi lấy sách ra mà đọc đi.» Mình cảm ơn bọ mạ mình, nhà nghèo, nhưng vẫn vì mấy chị biết là mình lấy sách ra đọc là ông dù có 58 Viết&Đọc Đặc San 2021
lớn tiếng đến mấy, cũng im ngay. Trọng chữ nghĩa anh em mình cần có mạ để rải cá phơi trên cát, đến cỡ đó! vì mạ có tài rải cá cơm rất đều. Hôm đó bọn tôi trúng lớn cá, được tới một tạ cá cơm sau khi đã Mạ mình không biết chữ, vậy mà rất thích khi phơi khô. Có cá, bán được tiền để mua thêm cả nghe mình ôm đàn hát bài Huế, Sài Gòn, Hà Nội; tháng gạo, dù chúng tôi là cũng là dân nhà nông, Lại gần Với Nhau của TCS, cứ bảo mình hát lại làm ra lúa, tính ra dư sức ăn, nhưng bị bọn cường cho bà nghe lần nữa. hào đỏ bóc lột bằng cách định mức thuế rất cao, nếu không cho chúng nhậu; bọ mạ mình thì không Một chuyện khác về mạ: làm được chuyện này. Trong những năm sau vụ «phạm tội» làm việc ngày Lễ Phục Sinh, mạ cứ Hồi đầu thập niên 60, biển làng Bầu Dòi mình có than: «Tau nghe lời mi, e Chúa phạt chết.» Mình rất nhiều cá, nhiều vô số kể như thửa khai thiên lập nói đến chuyện Chúa Lòng Lành cho mạ yên lòng, địa, đến độ có khi cá bị sóng đánh dạt cả vào bờ. nhưng mạ cứ áy náy mãi. Dân làng họp nhau làm những vàng lưới rùng (có lẽ lưới dài và khi kéo có dáng như con rồng) kéo Và biết bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu hi sinh cho cá ven bờ biển. Đánh được rất nhiều cá, dân làm đàn con mười đứa, và đặc biệt cho mình. ngư được nhiều tiền. Mạ mình được bạn lưới rùng nhờ làm thủ quỹ giữ tiền. Đến ngày chia tiền cuối Ông bà, suốt thời gian từ lúc mình có trí khôn cho mỗi mùa nồm, mùa bấc, họ họp nhau mổ lợn ăn tới lúc lớn, mình không hề thấy ông bà cãi nhau mừng tại nhà mình, rượu thịt phủ phê, rồi trước khi một lần, xin cho phép mình nhấn mạnh, một lần. ra về nhận phần tiền mà mạ mình đã tính toán, sau Do đâu mà được như thế? Do thương nhau, do khi trừ các chi phí như tiền mua lưới, tiền mua dây truyền thống đạo đức ngàn đời có nhiều trong lòng chạc kéo lưới và tiền mua lợn ăn mừng. Ai cũng bọ mạ mình? vui vẻ nhận mà không thắc mắc chi, lại còn cảm ơn mạ mình. Có một lần, hồi mình mới học lớp ba, Hôm bọ mất, hôm mạ mất, mình không về được, biết tính toán cộng, trừ, nhân, chia, mạ có vẻ sung thiệt buồn hết sức, khóc cả một ngày, đến nay còn sướng và tin tưởng giao cho mình tính toán phần khóc, khóc trong lòng mỗi ngày. chia của mỗi người vì, đối với mạ mình, mình là người có chữ có nghĩa hơn mạ. Khi giao cho mạ Người xưa có hai câu thơ thật đẹp: bảng kết quả, mạ có vẻ không tin vào đáp số của mình, nhưng mạ không nói gì, mạ bốc ra nắm bắp Đêm đêm thắp sáng sao trời khô, rồi tính tính toán toán bằng cách châm vào Cầu cho cha mẹ sống đời với con các ô khác nhau những hạt bắp khô đó, rồi lấy ngón tay khẩy khẩy các hột bắp qua lại các ô; mạ Mình làm thơ tình cho/về các «ẻm» thì có số trăm, tính ra phần chia cho mỗi người còn nhanh hơn nhưng thơ về bọ mạ thì không có lấy một bài. mình tính với giấy bút. Rồi mạ giao tiền chia cho những người bạn lưới rùng. ”Con tính sao mà thiệt Thiệt là tệ! Oslo, Tết Con Trâu 2021 phần của họ vì tính như con, sau khi phát, tiền còn dư.” Mình chẳng xấu hổ chút nào, mà còn vui vì mạ mình giỏi quá dù mạ mù chữ (nhưng biết đọc tiền). Lại một chuyện khác về mạ: Hôm trước Lễ Phục Sinh của một năm xưa, sau 1975, đói nghèo quá sức, dân lưới trủ ở ấp Bầu Dòi bỗng trúng lớn cá cơm. Hôm sau là lễ Phục Sinh, lễ buộc phải nghỉ ngơi, ai đi làm sẽ mắc tội trọng, mà lệ thường cá cơm áp bãi phải mấy ngày mới rút, thế là mình rủ các em ngày Lễ Phục Sinh cứ đi đánh lưới trủ, các em nghe lời anh T ngay, nhưng mạ mình cứ sợ tội, không dám đi, nhưng Viết&Đọc Đặc San 2021 59
CÂU CHUYỆN NHỮNG GIẤC MƠ
Chân Nguyên
Tôi không phải là người có ”Giác quan thứ sáu”hay ”Thần giao cách cảm”mà dường như tôi là người có tánh linh, giống như một ”Người biết trước”. Gia đình tôi gốc Bắc, di cư vào Nam khi đất nước chia đôi. Bố mẹ tôi có 5 người con: Bà chị cả, ông anh kế, tôi, cô em gái và thằng em út. Bố tôi đi làm ăn xa, ít khi có mặt ở nhà, chỉ thi thoảng mới về thăm. Cuộc đời tôi kể từ lúc còn ở tuổi thiếu niên đến nay cũng đã xấp xỉ sáu mươi, tôi đã trải qua những giấc mơ lạ lùng và chiêm nghiệm được sự ứng hiện của nó đến kinh ngạc. Những giấc mơ đó có liên quan đến vận mệnh chung của đất nước cũng như những may mắn xảy ra trong đời sống gia đình cá nhân tôi, nên trong bài viết này tôi sẽ chia ra làm hai phần: Phần một kể về những giấc mơ định mệnh và phần hai là những giấc mơ may mắn. Phần 1: NHỮNG GIẤC MƠ ĐỊNH MỆNH Giấc mơ định mệnh là những giấc mơ cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra trong cuộc nội chiến kéo dài suốt hai mươi năm trên đất nước Việt Nam. Trong giai đoạn này tôi đã mơ thấy những điềm báo trước về biến cố Mậu Thân 1968 và ngày Quốc Hận 30.04.1975. A - Biến cố Mậu Thân 1968: Năm 1968 Việt Cộng đã hai lần Tổng công kích vào Sài Gòn: Lần thứ nhất vào rạng sáng mồng hai Tết Nguyên Đán năm Mậu Thân và lần thứ hai vào tháng 6 dương lịch. Hai đợt tấn công này tôi đều có giấc mơ báo trước. • Tổng công kích đợt 1: Năm ấy tôi mới 12 tuổi. Một hôm gần cuối tháng Chạp, nhằm ngày đưa ông Táo về trời; tôi nhớ rõ vì sáng hôm đó tôi còn đi chợ mua ”Cò bay ngựa chạy”về cho mẹ tôi cúng ông Công. Đêm ấy tôi nằm mơ, một giấc mơ thật là sợ: ”Tôi mơ thấy một 60 Viết&Đọc Đặc San 2021
con Khủng Long xuất hiện trong thành phố, nó đi đến đâu phun lửa đến đó tạo thành những vệt lửa bay vèo vèo trong không gian, và phía dưới đường phố là cảnh tượng dân chúng gồng gánh, dắt díu nhau, bồng bế ôm con mà chạy. Nó đang từ hướng sân bay Tân Sơn Nhất lừ đừ tiến dần xuống khu vực chợ Phú Nhuận gần chùa Vĩnh Nghiêm là nơi nhà tôi ở”. Tôi sợ quá thức giấc, toát cả mồ hôi mặc dù trời đang se lạnh. Nhìn đồng hồ mới 4 giờ, tôi không dám ngủ lại mà nằm thao thức chờ sáng. Sáng ra tôi kể cho mẹ tôi nghe về giấc mơ, mẹ tôi mắng rằng: - Mày cứ hay xem phim khủng long, không chịu học hành rồi mơ chuyện gì đâu. Năm nay thi vào đệ thất, phải ráng học mà thi cho đậu (đệ thất là lớp 6 hiện nay). Tôi cũng cho là chuyện mộng mị vớ vẩn nên cũng chóng quên, hơn nữa chỉ còn mấy hôm nữa là Tết. Bà chị cả tôi có hứa sẽ dẫn chúng tôi đi đình Phong Phú ở Thủ Đức vào ngày mồng Một Tết. Ngôi đình này được tiếng là linh thiêng nên hàng năm cứ vào ngày đầu Xuân chị hay dẫn chúng tôi đi lễ đình. Tôi rất thích được đến nơi đây, vì đó cũng là dịp chúng tôi được ra ngoại ô thành phố để hít thở không khí trong lành của chốn thôn quê. Mấy năm trước thời còn con gái, năm nào chị cũng dẫn tôi đi. Năm nay chị đã có gia đình, lại đang mang thai đứa con đầu lòng nên ngại ngần không muốn đi lễ đầu năm, nhưng nghe chúng tôi năn nỉ quá, chị hứa sẽ dẫn đi; nhất là cô em gái và cậu em trai: năm nay là lần đầu tiên được đi nên thích lắm. Chúng tính từng ngày và chờ đợi.... Rồi giao thừa cũng đến. Sáng mồng Một Tết, chúng tôi dậy thật sớm, thay quần áo chỉnh tề, chúc Tết bà và mẹ; được mẹ lì xì cho mỗi đứa một phong bao đỏ. Chúng tôi ra đường đón xe đi đình Phong Phú - Thủ Đức. Vào thập niên 60, Thủ Đức chỉ là một quận ngoại thành miền quê. Dân cư thưa thớt và đất đai còn
rộng mênh mông. Từ Sài Gòn đến Thủ Đức xe phải chạy qua cầu Xa lộ bắc ngang sông Sài Gòn. Khi xe lên đến giữa cầu, chúng tôi thấy một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện ra trước mắt: giòng sông uốn khúc nẻo xa xa, lấp lánh sắc vàng của mặt trời đang hé dần trong sương sớm. Những cánh đồng trải dài chỉ còn trơ gốc rạ sau mùa gặt cuối đông; và rải rác đó đây bên cạnh những đụn rơm cao ngất, dăm nếp nhà tranh nằm im lìm dưới hàng cau thưa, như vẫn còn đang say ngủ sau một đêm thức khuya để đón giao thừa. Đường gần tới đình càng lúc càng đông khách thập phương. Đến nơi chen vào lễ lạy thật gian nan, vất vả. Chị tôi dắt một lũ trẻ mới là khổ, chỉ sợ hơ hỏng một chút thì chúng tôi bị lạc mất, biết tìm đâu ra giữa cả rừng người; nên khi lễ xong, dắt nhau ra về chị nói: ”Đây là lần cuối cùng chị đi đình Phong Phú, mai mốt không bao giờ đi nữa!”. Trưa nắng chang chang, chị em tôi về đến nhà mệt ngất ngư, lăn ra ngủ một giấc cho tới xế chiều. Cơm tối xong, nghe mẹ tôi bảo: ”Ngày mai cả nhà đi lễ Lăng Ông để xin xâm”. Sáng mồng Hai Tết, tôi thức giấc trong tiếng súng vọng về và tiếng thì thầm giữa mẹ tôi với chị tôi về việc Việt Cộng đã tấn công vào Sài Gòn đêm qua. Nghe mẹ bảo: chúng đánh vào Bộ Tổng Tham Mưu, sân bay Tân Sơn Nhất và khu vực đường rầy xe lửa phía Tổng Y Viện Cộng Hòa hướng Ngã ba Chú Ía - quận Gò Vấp (đường rầy này kéo dài đến cổng xe lửa số 11 - thuộc quận Phú Nhuận có gia đình chú tôi đang ở). Lính VNCH đang phản công lại và lệnh giới nghiêm được ban hành. Đến xế trưa thấy có vài người trong xóm ra đường lớn để xem, tôi cũng lò dò theo họ. Đường xá không còn xe chạy vì lệnh cấm, nhưng trên đường người dân đang chạy giặc. Họ từ hướng Bộ Tổng Tham Mưu, Tân Sơn Nhất chạy xuống khu Phú Nhuận. Họ bồng bế, gồng gánh tài sản, dắt díu nhau mà chạy.... Chiều hôm ấy gia đình chú tôi cũng ôm quần áo, đồ đạc lỉnh kỉnh chạy xuống nhà tôi. Chú cho biết Việt Cộng đã đánh vào khu vực phía sau nhà nên khi lệnh di tản được ban hành, gia đình chú vội chạy xuống đây. Tối hôm ấy tôi đứng trong nhà nhìn ra đầu ngõ. Bầu trời đêm đen thui không trăng, âm thanh tiếng súng nghe vọng về từng chập, chiến tranh đang hiện diện giữa lòng Sài Gòn; thỉnh thoảng những tầm đạn pháo từ xa bắn vào thành phố tạo nên những vệt lửa dài in rõ trên nền trời đen... Hốt nhiên! Tôi chợt nhớ đến giấc mơ: ”Hình ảnh người dân chạy loạn và từng vệt lửa xé màn đêm hiện rõ trong tâm tưởng”. Hình ảnh ấy và khung cảnh hiện
thực bây giờ thật giống nhau. Có khác chăng là trong giấc mơ có con Khủng Long xuất hiện; còn thực tế chỉ có cảnh người dân chạy loạn hãi hùng lẫn trong âm thanh tiếng súng và lằn đạn lửa rực trời. Nhưng chẳng bao lâu, khi báo chí đăng tin cuộc tấn công của Việt Cộng vào Sài Gòn cũng cùng lúc xảy ra tại Huế đúng vào 2 giờ 33 phút rạng sáng mồng Hai Tết, chúng đã giết hàng ngàn người dân Huế. Tội ác này kinh khủng biết bao nhiêu! Bọn Cộng Sản dã man tàn ác gấp trăm nghìn lần con khủng long trong giấc mơ mà tôi đã thấy (năm 2008, đọc trong cuốn Biến Động Miền Trung của tác giả Liên Thành* đã cho biết con số chính xác là: trong 26 ngày chiếm giữ thành phố Huế, Việt Cộng đã giết chết 5.327 người dân vô tội và bắt đi mất tích hơn 1.200 người không để lại một dấu vết nào cả). Thật là khủng khiếp!! Mấy hôm sau tình hình lắng dịu, gia đình chú tôi và mọi người lại thu xếp khăn gói quay về mái nhà xưa. Sau này tôi mới biết đình Phong Phú là một trong những căn cứ quan trọng của bọn Việt Cộng nằm vùng, chúng dùng nơi này để cất dấu vũ khí. Khi chúng tôi đến lễ đình vào ngày đầu Xuân, bọn chúng đã ém quân chung quanh để chuẩn bị tấn công vào Sài Gòn đêm ấy. Từ đó về sau không bao giờ chúng tôi trở lại đình Phong Phú nữa, đúng như lời chị tôi đã tuyên bố. Bọn VC sau lần thất bại này, chúng chuẩn bị cho trận công kích đợt 2 xảy ra vào tháng 6 năm đó. Và với trận tấn công lần thứ 2 này, tôi cũng có một giấc mơ báo trước tuy rằng rất nhẹ. • Tổng công kích đợt 2: Vào khoảng tháng 3 năm 68, một đêm tôi nằm ngủ: ”Chợt mơ mình leo lên sân thượng nhà mình, nhìn về hướng tây nam phía sau chùa Vĩnh Nghiêm thấy sáng đỏ một vùng”. Giấc mơ ngắn ngủi chỉ có thế. Thức dậy tôi kể với mẹ tôi. Lần này bà không mắng tôi là mơ chuyện lăng nhăng mà chỉ chép miệng thở dài rồi nói: - Chiến tranh không biết còn kéo dài đến bao giờ? Chỉ khổ cho người dân! Ba tháng sau lần nằm mơ, đến ngày 21.06.1968: Việt Cộng mở trận tấn công đợt 2 vào hướng Chợ Lớn, khu vực Trường Đua Phú Thọ. Lệnh giới nghiêm 24/24 được ban hành. Sở dĩ tôi nhớ rõ ngày 21.06 vì đó là sinh nhật cháu tôi. Đêm ấy chị tôi trở dạ sinh đứa con đầu lòng, mà do lệnh giới nghiêm cấm mọi người ra đường; không có cách nào để đến nhà thương nên chị tôi đành sinh cháu ở nhà vào lúc 2 giờ sáng. Bà và mẹ tôi trở thành Viết&Đọc Đặc San 2021 61
những người hộ sinh bất đắc dĩ! Nhờ trời thương, chị cũng được ”mẹ tròn con vuông”. Tính đến nay cháu tôi cũng đã được 46 tuổi. Sau khi chị sinh xong, tôi giúp mẹ tôi dọn dẹp và giặt giũ quần áo rồi đem lên sân thượng phơi. Khi nhìn về hướng tây nam phía sau chùa Vĩnh Nghiêm tôi thấy đỏ rực cả một vùng. Tôi chỉ cho mẹ xem và nói: ”Hình ảnh này giống hệt trong giấc mơ mà con đã thấy”. Mẹ tôi cười rồi bảo: ”Mày nằm mơ linh thật!”. Tôi trả lời mẹ: ”Con có tánh linh mà!” B - Biến cố 30.04.1975: Nếu năm 68 tôi chỉ là một đứa trẻ con 12 tuổi thì đến năm 1975 tôi đã là một thanh niên 19 tuổi, đang học lớp 12, chuẩn bị thi Tú Tài toàn phần và ôm ấp giấc mộng đi du học Mỹ. Đó là ước mơ mãnh liệt, là mục tiêu duy nhất mà tôi và đứa bạn thân học chung trường đang nhắm đến; vì thế chúng tôi nổ lực học đêm, học ngày... mong sao đạt được ước vọng ở tương lai. Một đêm khoảng đầu tháng 2 năm 1975, tôi mơ một giấc mơ lạ: ”Tôi thấy mình bước vào căn nhà nhỏ nằm bên cổng chính ra vào của Trường Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng - Sài Gòn, căn nhà này có lẽ là nhà của người bảo vệ trường. Tôi đứng giữa gian phòng trong nhà, nhìn qua khung cửa sổ lớn thấy toàn cảnh sân trường. Lúc ấy đang là giờ chào cờ, học sinh đứng nghiêm chỉnh xếp hàng từng dãy, bất động, trông như những pho tượng sáp. Lá cờ được từ từ kéo lên. Nhưng lạ quá: Đó không phải là lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ mà chúng tôi thường kéo lên để chào vào mỗi buổi sáng thứ hai nơi trường chúng tôi học, mà lá cờ này có hai màu: nửa xanh dương nhạt, nửa đỏ, có một ngôi sao vàng ở giữa. Tôi chưa hề trông thấy lá cờ này bao giờ. Nhìn nó đang được kéo lên, bay phần phật trong cơn gió giữa khung cảnh lặng lẽ, ảm đạm đến thê lương. Tôi quay nhìn chung quanh phòng, mắt dừng lại nơi tấm lịch treo trên tường; tờ lịch ở ngày 19.03. Bất chợt một luồng hơi lạnh chạy dọc theo sống lưng, tôi rùng mình rồi thức giấc”. Sáng dậy tôi đem giấc mơ kể lại cho cả nhà nghe, chẳng ai đoán được điều gì. Duy chỉ có ông anh rể tôi (đang làm ở Bộ Chiêu Hồi) lúc ấy đến chơi nhà, anh ấy bảo: - Lá cờ hai màu xanh đỏ, có ngôi sao vàng ở giữa mà cậu thấy trong giấc mơ là cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cờ ấy thuộc phía bên Cộng Sản. Tôi bảo: - Em thỉnh thoảng có theo dõi tin tức chiến sự trên các báo thì chỉ biết cờ đỏ sao vàng là của Việt Cộng, chứ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là cái quái quỉ gì thì em chẳng biết. 62 Viết&Đọc Đặc San 2021
Tuổi học trò chúng tôi chỉ lo ăn với học nên chẳng biết gì nhiều về thời cuộc. Vậy mà sau đó chẳng bao lâu, ngày 10.03.1975 Việt Cộng khởi đầu tấn công Ban Mê Thuộc, mở màn cho cuộc triệt thoái Tây Nguyên. Chiến cuộc lan tràn nhanh như vũ bão. Dân chúng miền Trung chạy vào Sài Gòn bằng đủ mọi phương tiện. Dân Sài Gòn lại rục rịch ra đi, di tản đến Hạm Đội 7 của Mỹ đang đậu ở ngoài khơi vùng biển Việt Nam. Gia đình thằng bạn thân của tôi (đứa bạn đã cùng tôi ước ao đi du học Mỹ) do có người nhà làm trong phủ Tổng Thống nên biết được địa điểm và thời gian Mỹ bốc người di tản, nó rủ tôi cùng đi (lúc ấy đã là ngày 16.03). Tôi về nhà chuẩn bị hành trang thật gọn nhẹ và nói với mẹ tôi: - Ngày 19.03 sắp tới, Việt Cộng sẽ chiếm miền Nam, con đã nằm mơ như vậy nên nay con theo bạn con di tản qua Mỹ. Mẹ tôi bảo: - Mẹ nghe các chú, các bác nói quân ta sẽ đánh bật cộng sản ra, làm sao chiếm miền Nam được. Còn con sao lại bỏ mẹ mà đi! Đừng tin vào chuyện mộng mị. Thấy mẹ tôi buồn, vả lại nhà nghèo không có tiền bạc trong tay; đi theo gia đình người bạn không biết sẽ ra sao nên tôi đành bỏ cuộc. Gia đình bạn tôi ra đi, là một trong số người tỵ nạn cộng sản đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, mở đầu cho trang sử tỵ nạn bi thương cả hàng chục năm sau. Bạn tôi đã đạt được giấc mơ ”đi du học Mỹ”, sau này nó trở thành kẻ khoa bảng làm vẻ vang cho cộng đồng người Việt tại xứ Cờ Hoa. Trở lại với miền Nam Việt Nam trong cơn binh lửa. Ngày 19.03.1975 cũng qua đi lặng lẽ. Việt Cộng vẫn chưa vào đến Sài Gòn, quân đội VNCH vẫn chống trả quyết liệt; tuy rằng theo dõi tin chiến sự hàng ngày: các vùng đất miền Nam đang rơi dần vào tay cộng sản từ quân khu 1, rồi quân khu 2..v..v.. Ngày 08.04.75 chúng tôi đang thi môn Toán thì máy bay Việt Cộng ném bom dinh Độc Lập, nhà trường cho học sinh ra về. Quân đội được tăng cường để phòng thủ Sài Gòn, không khí chiến tranh căng thẳng đến cao độ. Ngày qua ngày, tình hình càng lúc càng xấu. Mẹ tôi lo cuống lên: phần vì cộng sản không bị đánh bật ra, phần vì anh tôi là lính VNCH. Trước đây anh là học sinh trường Cao Thắng, sau tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, do lệnh tổng động viên, anh gia nhập quân đội, thụ huấn Khóa Sĩ Quan Trừ Bị. Ra trường anh chọn ngành Công Binh và mang cấp bậc Chuẩn
úy; đơn vị anh đóng ở Hội An - Đà Nẵng. Tháng 2.1975 bác sĩ phát hiện anh bị nám phổi nên được phép về Sài Gòn điều trị, do đó anh đã có mặt trong gia đình để cùng chứng kiến những giây phút cuối của miền Nam. Tối 28.04 có cậu tôi đến nhà và hẹn hôm sau sẽ dắt chúng tôi di tản ra hạm đội Mỹ bằng tàu vì cậu có người bạn là một hạm trưởng của Hải quân VNCH. Trưa ngày 29.04 anh tôi, tôi, em gái và em trai tôi theo cậu rời nhà ra đi. Cậu đưa bốn anh em tôi đến ở tạm tại một ngôi biệt thự trên đường Bà Huyện Thanh Quan; ở đó cũng có hai gia đình khác chờ đi. Đợi đến chiều sẽ có người đến dẫn xuống nơi tàu đậu. Chúng tôi thơ thẩn trong sân biệt thự, suýt chút nữa em gái tôi chết ở nơi này. Nó đang đứng giữa sân chơi, tôi từ trong gian nhà để xe bước ra gọi nó. Nó bước về phía tôi; vừa đi khỏi thì một mảnh đạn pháo 122 ly chẳng biết từ đâu bay đến, rớt ngay chỗ nó vừa đứng; mảnh đạn thật to còn nóng đỏ như vừa rời khỏi nòng súng, nổ tung trên trời rồi rơi xuống. Hú vía! Nếu em tôi không di chuyển thì chết mất toi rồi. Chúng tôi sợ không dám ra sân đứng nữa. Chờ quá nửa đêm vẫn không thấy ai đến đón, chúng tôi đoán là mình bị bỏ lại, đành ngồi suốt đêm mong trời sáng. Đến 8 giờ sáng ngày 30.04 thì người con trai của cậu tôi đến cho biết là gia đình cậu cũng bị kẹt lại vì người hạm trưởng không kịp liên lạc. Tàu Hải quân đã rút hết đêm qua nên bây giờ ai về nhà nấy. Tôi nhờ người con cậu tôi chở em gái tôi về nhà trước, còn chúng tôi sẽ tự túc. Ba thằng con trai dễ lo hơn. Chúng tôi ra đường đi đến tòa nhà gần ngôi biệt thự, đây là môt tòa nhà cao tầng dành cho Mỹ ở. Thiên hạ đang ùa vào hôi của. Chúng tôi thấy hai chiếc xe đạp vô chủ vất ngoài đường, có lẽ chủ nhân của nó đã bỏ chạy, nên mấy anh em dùng hai chiếc xe ấy chạy xuống bến Bạch Đằng hy vọng còn kịp chuyến tàu nào. Đến bến Bạch Đằng, khung cảnh còn hỗn loạn hơn. Người ta đang chen nhau xuống một con tàu mà có lẽ nó không bao giờ tách bến. Trên bến thì biết bao nhiêu xe cộ bỏ lại: Xe gắn máy, xe đạp nằm la liệt khắp nơi. Dân hôi của tha hồ đi lượm. Chúng tôi đang đứng nhìn thì có mấy bà Sơ đi tới và chợt nghe họ reo lên: ”Lạy Chúa tôi! Hết chiến tranh rồi!”. Anh tôi nhìn đồng hồ: Mười một giờ ba mươi phút ngày 30.04.1975 Biết không còn hy vọng gì, chúng tôi buồn bã
đạp xe về. Đến ngã tư Hai Bà Trưng - Lê Thánh Tôn chợt thấy người đi đường nhốn nháo... hỏi họ thì họ cho biết xe tăng Việt Cộng từ hướng công xưởng Ba Son gần Sở Thú đang chạy đến. Lúc ấy chúng tôi đang đứng trước tòa nhà của Bộ Giáo Dục VNCH tọa lạc ngay góc đường Hai Bà Trưng - Lê Thánh Tôn. Anh tôi có người bạn tên Phú học chung ở trường Cao Thắng mà bố anh ấy làm bảo vệ tại đây. Anh tôi bảo: - Mình ghé vào đây để tránh xe tăng cộng sản, nhân tiện thăm gia đình thằng Phú. Lúc ấy những người đi đường biến đâu mất. Chúng tôi cũng đi vào cổng bên hông của tòa nhà. Tôi nấp phía sau một bức tường và nói với anh tôi: - Để em xem mặt mũi Việt Cộng ra làm sao? Tôi nghe tiếng xe tăng chuyển động từ xa chạy đến, bánh xích của nó rít trên mặt đường. Khi nó chạy ngang nơi tôi nấp, tôi nhìn thấy chiếc xe bụi đỏ dính đầy, được ngụy trang bằng bao nhiêu cành lá, có lẽ nó từ hướng mặt trận Xuân Lộc chạy về. Pháo tháp đóng kín mít nên không thấy thằng Việt Cộng nào, vì chúng ngồi trong xe. Và trời ạ! Trên xe phất phới một lá cờ: Lá cờ có hai màu xanh đỏ với ngôi sao vàng ở giữa. Lá cờ mà tôi đã thấy trong mơ từ dạo tháng 2 nơi sân trường Cao Thắng; và hôm nay đây đúng vào ngày 30.04 nó thực sự xuất hiện ngoài đời trước mắt tôi. Lá cờ tung bay trong gió như vẫy chào lần tái ngộ. Tôi bàng hoàng nhớ lại từng chi tiết trong giấc mơ, rồi mơ hồ cảm nhận rằng: có một điều gì đó thật ghê gớm sắp xảy đến khi lá cờ này xuất hiện. Xe chạy qua chỗ tôi đứng, hướng về phía chợ Bến Thành rồi mất hút. Anh tôi vào thăm anh Phú thì nhà đóng cửa, có lẽ gia đình đã di tản. Chúng tôi buồn bã về đến nhà, vừa đói vừa mệt vì qua một đêm thức trắng. Mẹ tôi cứ chép miệng than thở: - Không một đứa nào đi thoát được! Còn bà tôi vừa khóc vừa nói: - Sống với cộng sản khổ lắm các cháu ơi! Bà đã sống qua nên bà biết. Trong đợt cải cách ruộng đất thời Việt Minh mới cướp chính quyền năm 1954, ông tôi đã bị bọn chúng đấu tố cho đến chết. Mẹ tôi dọn cơm cho chúng tôi ăn qua loa để còn nằm lăn ra đất mà ngủ. Nằm xuống là hai mắt cứ muốn díp lại; lờ mờ nhìn lên tấm lịch treo trên bức tường đối diện. Tờ lịch xé đến ngày 30.04.1975, nhưng ngày âm lịch ở dưới là ngày 19.03 năm Ất Mão. Tôi tỉnh ngủ, bật dậy như cái lò xo rồi chỉ tấm lịch mà nói với mẹ tôi cũng như nói với cả nhà: Viết&Đọc Đặc San 2021 63
- Thấy chưa! Con đã nói ngày 19.03 Việt Cộng sẽ chiếm Sài Gòn. Con đã nằm mơ thấy như vậy. Mẹ tôi thở dài: - Ai lại nghĩ đó là ngày 19.03 âm lịch. Nếu biết trước thì lo đi cho sớm, đâu có đợi nước đến chân mới nhảy không kịp. Tôi nhớ lại giấc mơ: Trong căn phòng dành cho người bảo vệ ở trường Cao Thắng. Lá cờ nửa xanh nửa đỏ có ngôi sao vàng được kéo lên trong buổi chào cờ. Tấm lịch ghi ngày 19.03. Rồi so sánh với thực tại xảy ra: Vào thăm người bạn học chung trường Cao Thắng với anh tôi, có bố làm bảo vệ ở văn phòng Bộ giáo Dục. Lá cờ nửa xanh nửa đỏ có ngôi sao vàng cắm trên chiếc xe tăng chạy trên đường Lê Thánh Tôn và tấm lịch ghi ngày 19.03 âm lịch..... Chao ơi! Giấc mơ đã được ứng nghiệm đúng với sự thật đến lạ lùng! Những giấc mơ định mệnh. Những giấc mơ báo trước vận mạng tối đen của đất nước và thân phận bi thảm của người miền Nam VN. Có người đã hỏi tôi: ”Có giấc mơ nào về Cờ Vàng chưa?” Xin thưa là Có! Nhưng giấc mơ về Cờ Vàng có những chi tiết rất lạ lùng, mà sự việc chưa xảy đến nên tôi không thể lý giải ra đây được. Hơn nữa ”Thiên cơ bất khả lậu”. Duy chỉ có hình ảnh trong mơ còn in đậm trong tâm trí tôi là: ”Tôi trông thấy lá cờ vàng treo trên ngôi nhà trắng giữa một thảo nguyên xanh ngát, có hoa vàng lấm tấm dưới chân”. Giấc mơ ấy thật đẹp nên tôi đã tỉnh giấc trong một trạng thái an lạc, sảng khoái; không giống như hai giấc mơ trước đã khiến tôi toát mồ hôi vì sợ, hay rùng mình ớn lạnh khi thức giấc. Mà giấc mơ về Cờ Vàng! Không chỉ riêng tôi là người có những giấc mơ linh ứng, nhưng còn hàng triệu triệu người Việt ở hải ngoại và người dân trong nước cùng mơ về giấc mơ ấy. Vì Cờ Vàng giờ đây không những chỉ tượng trưng cho lịch sử dân tộc, mà nó còn tượng trưng cho Tự Do - Dân Chủ - Nhân quyền. Bao nhiêu người dân trong nước đã xuống đường đấu tranh với bọn cộng sản độc tài để đòi tự do nhân quyền; dù chỉ là quyền được tự do tỏ bày lòng yêu nước, chống ngoại xâm phương Bắc như Việt Khang, Nguyễn Phương Uyên..v..v..và còn biết bao người nữa. Họ đã bị bắt bớ, đánh đập, tù đày với những bản án thật nặng nề vô lương. Bao nhiêu người Dân Oan nghèo khổ cùng cực, bị cướp đất mất nhà đã xuống đường để đòi lại tự do công lý. Hàng triệu người VN với triệu con tim đều chung một tấm lòng: mong ước Việt Nam sẽ 64 Viết&Đọc Đặc San 2021
có Tự Do - Dân chủ và Nhân quyền thực sự được biểu trưng qua lá Cờ Vàng chính nghĩa. Nếu trước đây sự ứng nghiệm giấc mơ về lá cờ xanh đỏ sao vàng của ngày 30.04 là một định mệnh nghiệt ngã đau thương, thì không lâu nữa giấc mơ về lá Cờ Vàng tung bay trên quê hương Việt Nam báo trước một tương lai tươi sáng sẽ được hiển linh. Bởi đó chính là Thiên mệnh, bởi vì ”ý dân là ý Trời”. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Chúng ta hãy chờ xem! * Liên Thành: Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia - Thừa Thiên - Huế Ông là người trực tiếp đối đầu với Việt Cộng trong cuộc thảm sát MậuThân, tại Huế nên số liệu ghi nhận khả tín Phần 2: NHỮNG GIẤC MƠ MAY MẮN Sau ngày 30.04.1975, Việt Cộng áp đặt một chế độ cai trị vô cùng tàn nhẫn và khắc nghiệt đối với miền Nam. Tất cả những sĩ quan quân lực VNCH đều bị bắt buộc phải ra trình diện và đưa đi cải tạo với án tù không biết đến bao giờ. Anh rể và anh tôi trở thành những người tù cải tạo suốt mấy năm trời. Đất trời không dung cho những kẻ vô lương cai trị nên ”Thiên không thời - Địa không lợi”. Bị mất mùa liên tiếp, cộng thêm với chế độ xiết chặt quản lý nguồn lương thực trong dân chúng một cách ngu xuẩn, miền Nam rơi vào tình trạng đói nghèo thê thảm. Gia đình tôi cũng như bao nhiêu người phải lâm vào cảnh khốn cùng. Tôi bỏ học tìm kế mưu sinh giúp gia đình. Ở đây tôi xin nhắc đến bố tôi. Sau khi di cư vào Nam, bố tôi xin được việc làm trong một hãng tàu buôn của Pháp. Ông theo các chuyến tàu đi nhiều nơi trên thế giới. Và chỉ khi nào tàu đến vùng Đông Nam Á ghé Việt Nam, ông mới có dịp gặp gia đình. Ngày 30.04.75 tàu ông đang ở Pháp, từ đó về sau sự bang giao giữa Pháp với VNCH chấm dứt; ông không về VN nữa mà gia đình tôi cũng mất liên lạc với ông trong mấy năm dài. Khi bà tôi mất, ông không biết. Mãi đến năm 80 mới được tin tức của ông và ông đã bảo lãnh cho mẹ cùng hai đứa em tôi qua Pháp vào năm 1982. Cuộc sống khốn khổ sẽ làm người ta trưởng thành hơn. Tôi: một cậu học sinh lớp 12, vừa rời ghế nhà trường trong cuộc đổi đời đau thương của đất nước, đã có dịp thấm thía nỗi uất ức đến tột cùng khi thấy tự do của mình bị tước đoạt, đó là điều mà
ở miền Nam trước đây chưa bao giờ xảy ra chuyện ấy. Hôm ấy mẹ tôi kêu người đến bán chiếc bàn ăn còn khá tốt. Đồ đạc trong nhà mẹ tôi đã phải bán dần để có tiền mua gạo sống qua ngày, vì đã lâu rồi không nhận được tin tức của bố tôi cùng sự chu cấp của ông. Lúc người mua đến khiêng chiếc bàn đi, mẹ tôi khóc mếu máo mà nói: ”Bàn ơi! Mày ở với tao mấy chục năm trời, nay vì cái đói, tao phải đành lòng bán mày đi”. Tôi nghe mẹ khóc mà lòng chùng xuống nặng nề. Mẹ bán chiếc bàn được 300 đồng (vừa đủ mua 30 kg gạo). Mẹ đưa tiền cho chị em tôi về Gò Công mua gạo vì tôi có người quen ở vùng này. Chúng tôi đi Gò Công bằng ba chiếc xe đạp. Lộ trình đi vào Chợ Lớn, qua Cần Giuộc, Cần Đước, sang phà Mỹ Lợi là đặt chân lên đất Gò Công. Ngủ lại một đêm, nhờ người mua gạo. Sáng hôm sau chúng tôi trở lại Sài Gòn. Ba chiếc xe đạp; mỗi chiếc chở bịch gạo 10kg được bỏ vào túi đệm như đi chợ. Đến bến phà Mỹ Lợi, chúng tôi bị chặn lại tra xét và bọn Công an Kinh tế - Quản lý thị trường đã tịch thu hết tất cả số gạo, vì lệnh ”ngăn sông cấm chợ”của chính quyền Cộng Sản không cho phép được tự do mua gạo từ nơi này chở sang nơi khác. Chúng xách hết mấy bịch gạo của chị em chúng tôi vào trụ sở và trả lại mấy cái giỏ không. Tôi nghe chúng bàn tán chia chác cho nhau. Đúng là bọn ăn cướp! Tôi nhớ đến cái đói của gia đình, nhớ tiếng khóc của mẹ tôi lúc bán chiếc bàn và số tiền 300 đồng mua được 30 kg gạo giờ đây mất trắng. Một nỗi căm hận dâng lên. Cái chế độ Cộng Sản cùng những con người này thật là tàn nhẫn! Bây giờ mà có súng trong tay tôi sẽ bắt bọn chúng phải trả gạo lại cho tôi, rồi muốn ra sao thì ra. Uất ức đến căm hờn!! Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là mất Tự Do. Chị em tôi ra về, những chiếc xe nhẹ tênh mà hồn nặng trĩu. Tôi chợt nhớ đến hai câu thơ thời đi học: Áo nhẹ tênh mà hồn tôi vừa nặng Bóng cây dài đổ xuống cũng chao nghiêng. Vâng! Tâm hồn chúng tôi đang mang nặng nỗi uất hận đớn đau vừa trải, nên trên con đường về Sài Gòn mịt mù xa tít, tôi thấy hàng cây hai bên đường dường như cũng âu sầu đổ bóng chao nghiêng. Về đến nhà gặp lại mẹ, chị tôi vừa khóc vừa nói: ”Mẹ ơi! Tụi nó tịch thu hết gạo rồi”. Mẹ tôi lặng người đi một lát rồi bảo: ”Thôi các con, vận nước điêu linh chúng ta đành chịu vậy. Nhà có đói một chút cũng được, nhưng còn các anh con đang bị tù đày, biết làm sao đây. Lấy gì thăm nuôi?”. Nói đến đó mẹ tôi cũng nghẹn lời.
Thời gian sau tôi theo chúng bạn tập tành buôn bán ngược xuôi. Bôn ba lăn trải theo cuộc đời, khổ sở biết bao, không thể nói hết bằng lời. Đôi khi ngồi nhớ lại ước mơ đi du học Mỹ của mình. Nhớ người bạn học năm xưa đang ở nơi phương trời xa thẳm, rồi nhìn lại thực tại của đời mình. Lại bất chợt nhớ đến giấc mơ về lá cờ nửa xanh, nửa đỏ nơi sân trường Cao Thắng. Chao ơi! Niềm linh cảm ghê gớm của tôi về lá cờ này, khi tôi nhìn thấy nó ngoài đời vào trưa ngày 30.04.1975 đã trở thành nỗi thống khổ điêu linh úp chụp xuống cả miền Nam. Năm 1979 tôi xin vào làm công nhân trong một hãng gỗ, và cũng trong năm này một mối lương duyên tốt lành đã đến với tôi. Tôi lập gia đình. Vợ tôi là một cô giáo nhà trẻ. Thời gian này phong trào vượt biên đang bùng phát vì người ta không sống nổi với chế độ hà khắc của Việt Cộng. Tôi cũng bị cuốn hút theo giòng đời đẩy đưa này. Tôi cũng đã đi vài chuyến qua sự môi giới giữa những người có tiền với chủ ghe để mình được phần ăn theo, nhưng không thành công. Có lần tôi đã bị bắt ở tù đến hai năm. Đó là năm 1980. Vợ tôi khăn gói thăm nuôi, cho đến khi tôi được thả về vào năm 82 thì chuyện vượt biên thôi hãy quên đi để cho vào dĩ vãng. Rồi chúng tôi có con đem lại chút niềm vui theo tiếng cười thơ trẻ, để vơi đi nỗi mệt nhoài trong cuộc sống nhưng sự vất vả nhọc nhằn sẽ gia tăng vì manh quần tấm áo và tương lai của hai đứa con. Miền Nam vào khoảng thập niên 80 nở rộ phong trào sổ xố. Không những tại Sài Gòn mà ở các tỉnh cũng có xổ số. Mỗi ngày đều có đài ở Sài Gòn và một đài ở các tỉnh như: Cần Thơ, Tây Ninh, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre..v..v.. luân phiên theo các ngày trong tuần. Do việc sổ xố của nhà nước nên nảy sinh ra việc đánh ĐỀ trong dân chúng. Đánh ĐỀ là sự kiện mà mình chỉ mua 2 con số cuối của lô trúng đầu tiên ( gọi là SỐ ĐẦU), hay mua 2 con số cuối của lô Độc Đắc, cũng là lô trúng cuối cùng (gọi là SỐ ĐUÔI) - trong cuộc sổ xố diễn ngày hôm đó và tại địa phương nào. Đánh ĐỀ nếu trúng sẽ thắng rất lớn (1 đồng ăn được 70), nên làm giàu rất nhanh mà cũng sẽ tán gia bại sản lẹ làng vì nó. Tôi là người không thích đỏ đen, nhưng có vài người bạn thích chơi đánh ĐỀ nên cũng am tường chút ít. Và một trong những Câu Chuyện Về Giấc Mơ May Mắn là giấc mơ đánh Đề. 1- Giấc mơ đánh đề: Một đêm tôi nằm mơ: ”Tôi thấy mình đến một Viết&Đọc Đặc San 2021 65
ngôi chùa ở vùng Châu Đốc. Vào vãn cảnh chùa một lúc, trở ra định về thì gặp cô em tôi hỏi rằng: ”Anh đã xin xâm chưa?”. Tôi nghe lời quay trở vào và xin được lá xâm mang số 59. Cầm lá xâm trên tay, tôi giật mình thức giấc”. Sáng ra tôi đem giấc mơ kể lại với vợ tôi và lý giải: - Anh vào Chùa ở miền Tây, đi lòng vòng một hồi sau cùng mới vào xin được thẻ xâm số 59. Vậy nếu đánh đề, mình sẽ không mua số ở Sài Gòn mà mua số ở miền Tây. Hôm nay có đài Sài Gòn và đài Bến Tre. Như vậy mình sẽ đánh con SỐ ĐUÔI 59 – đài Bến Tre là chắc trúng. Tôi cười cười rồi nói tiếp: - Bây giờ nếu dốc hết vốn liếng trong nhà được một ngàn đồng để mua đề, khi trúng sẽ được bẩy mươi ngàn, anh sẽ dẫn mẹ con em đi chơi một chuyến. Vợ tôi bảo: -Vậy thì anh đánh số đó đi. Tôi trả lời: - Nói chơi vậy thôi, chứ anh không có máu đỏ đen mà! Tuy nói vậy, nhưng chiều hôm đó sau khi các đài đã phát xong cuộc sổ xố; muốn chiêm nghiệm lại giấc mơ của mình, tôi bế thằng con trai út đi ra đầu chợ Phú Nhuận, đến nơi bày bán vé số để xem kết quả. Và kìa! Trên chiếc bàn con để kết quả sổ xố của đài Bến Tre, lô trúng độc đắc có hai con số cuối cùng là 59. Đúng như trong giấc mơ mà tôi đã bàn với vợ tôi ban sáng. Nếu tôi đánh con số này thì tôi đã trúng rất lớn. Số tiền trúng có thể mua được mấy cây vàng thời đó. Lúc ấy tôi không cảm thấy hối tiếc trong lòng, mà chỉ nhớ lại lời nói của mẹ tôi trên sân thượng vào một sớm mai nào của năm Mậu Thân 1968: ”Mày nằm mơ linh thật!”. Để rồi tự lẩm bẩm với chính mình: ”Ừ! Mình nằm mơ linh thật”. 2- Giấc mơ vượt biển: Cuộc sống khó khăn với sự đói nghèo luôn rình rập. Nhìn tương lai hai đứa con mịt mờ trước mắt. Đất nước như một nhà tù khổng lồ giam hãm mọi người dân. Người ta bỏ nước ra đi bất chấp những hiểm nguy sóng gió trên đường vượt biển; mong đến được bến bờ tự do. Tôi cũng đã từng vượt biển, từng bị tù đày. Đứng trước hiện tình bi thảm của đất nước, nghĩ đến tương lai các con... có một cái gì thôi thúc tôi ra đi. Nhưng hoàn cảng gia đình chưa cho phép, thôi đành chờ đợi. Khoảng tháng 10 năm 1988, có một đêm tôi nằm mơ: ”Tôi thấy mình ngồi trên một hòn đảo. Trước mặt tôi là đống lửa cháy bập bùng, bên cạnh có hai 66 Viết&Đọc Đặc San 2021
người: một cậu thanh niên và cô con gái nhỏ độ 10 tuổi. Phía dưới xa kia, trong vùng biển xanh đen đang đậu một con tàu thật dài và lớn, giữa thân tàu có 6 tầng cao với nhiều ô cửa sổ; ánh sáng từ các ô cửa tỏa ra một màu xanh dịu lung linh trên mặt biển. Thật xa cuối chân trời, ánh hoàng hôn còn hắt sáng lên những vệt nắng cuối ngày trên vòm trời đang chuyển sang màu xanh thẩm, trong vắt không một gợn mây. Nhìn đồng hồ thấy kim chỉ 9:40 tối. Tôi hỏi. ”Đây là đâu?”. Có tiếng ai đó trả lời:”Jakarta”. Nghe câu trả lời tôi giật mình thức giấc. Sáng ra tôi đem giấc mơ về con tàu kể lại cho vợ tôi nghe rồi kết luận: - Nếu anh đi vượt biên có lẽ sẽ được tàu vớt ở vùng Nam Dương, vì Jakarta là thủ đô của Nam Dương mà. Ngày mồng 3 Tết năm Kỷ Tỵ ( tháng 02.1989) có một người đến nhà tôi tên gọi ông Sáu. Tôi quen biết ông trước đây vì ông đã từng tổ chức đưa người vượt biên nhiều lần trót lọt. Nhưng lần này chính ông sẽ đưa gia đình ông đi, nên ông đến nhờ tôi tìm thêm người hợp tác. Ghe thuyền vượt biển đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần có người chịu chi thêm tiền bạc. Thời gian gấp rút trong 5 ngày, tôi đã tìm được người hợp tác với ông, và bù lại ông đã cho tôi một chỗ ngồi trên con thuyền ấy. Ghe đón người vượt biên tại bến phà Mỹ Lợi (là nơi tôi đã bị cướp mất số gạo năm xưa). Chiếc ghe trang bị như một tàu chở khách hợp pháp nên không bị nghi ngờ. Và ghe đã tách bến phà vào một sáng tháng 02 năm 1989 mang theo 48 thuyền nhân, xuôi theo dòng sông rồi đổ ra cửa biển Soài Rạp. Thấy tôi là thanh niên mạnh khoẻ nên người tài công xin với chủ tàu cho tôi lên để phụ giúp ông. Vả lại ông Sáu với tôi cũng là tình quen biết. Tối hôm đó thuyền ra đến cửa, chạy đến sáng hôm sau thị bị hai tàu quốc doanh pha đèn rượt bắn mấy loạt đạn. Ghe mở máy chạy tối đa và thoát cuộc rượt đuổi sau gần cả tiếng đồng hồ. Đây là ngày thứ hai sau khi rời bến. Tôi nghe người tài công nói với ông Sáu là sẽ bẻ lái hướng về Singapor để nhập vào hải phận quốc tế vùng biển phía dưới nam Việt Nam. Chạy suốt ngày đêm hôm ấy, đến sáng ngày thứ 3 thì gặp tàu Thái Lan đang thả lưới (nhìn bằng ống nhòm thấy rất rõ). Tiếp tục chạy cho đến tối thì chúng tôi biết mình đã đến hải phận quốc tế, vì thấy nhiều tàu buôn qua lại trên hải trình này. Ghe rọi đèn đánh tín hiệu cầu cứu, nhưng có lẽ vì ban đêm nên không có chiếc tàu nào để ý. Cả ngày hôm sau, chúng tôi cũng gặp rất nhiều
tàu lớn và đều đánh tín hiệu xin cứu giúp, nhưng không được đáp ứng. Có những chiếc tàu cũng giảm tốc độ, nhìn chiếc ghe vượt biên một hồi, rồi họ cũng bỏ đi. Thêm một ngày lênh đênh trên biển là thêm một ngày thấm mệt với nắng gió và say sóng. Người tài công lái tàu suốt đêm ngày (mặc dù có người phụ), nhưng ông cũng đã hướng dẫn cho tôi cách nhìn bản đồ và hải bàn; cách cầm lái theo định hướng..v..v.. để tôi có thể giúp những lúc ông quá mệt. Màn đêm đang buông xuống dần, đại dương đen thẳm mênh mông. Tôi không biết định mệnh sẽ đưa con thuyền chúng tôi về nơi đâu? Tàu Berge Helene ở Stavanger - Na Uy Rồi ánh bình minh lại lóe sáng trên biển Đông, một ngày mới lại bắt đầu: ngày thứ 5 của cuộc hải trình. Sáng hôm ấy, chúng tôi bỗng thấy từ chân trời xa xuất hiện một con tàu. Con tàu chạy với vận tốc khá nhanh nên chỉ khoảng 30 phút sau nó đã đến ngang tầm gần bên chiếc ghe bé nhỏ của chúng tôi. Con tàu khổng lồ với thân tàu thật dài, có 6 tầng cabin với những ô cửa to lớn trên mỗi tầng. Tôi đứng trên mui ghe bên cạnh người tài công và ông Sáu, nhìn thấy rõ trên hành lang cabin ở tầng cao nhất có nhiều người đứng đó nhìn xuống; một lúc sau họ lấy ống nhòm để xem, có lẽ để nhìn cho kỹ. Vì đã nhiều lần đánh tín hiệu cầu cứu mà không được, nên lần này người tài công không đánh nữa. Ông cũng như mọi người trên ghe đều đứng nhìn con tàu chạy ngang qua trước mắt. Riêng tôi, tôi đứng sững sờ nhìn con tàu. Vì trời ơi! Đây chính là con tàu trong giấc mơ mà tôi đã thấy từ tháng 10 năm trước:”Con tàu to lớn với 6 tầng cao ở giữa thân tàu, có nhiều ô cửa sổ tỏa ánh sáng chói ngời”. Hình ảnh đó giờ đây đang sống động hiển bày trước mắt. Tôi không thể nói với người tài công rằng con tàu này sẽ cứu chúng ta bởi vì tôi đã nằm mơ thấy nó. Ai mà tin vào chuyện mộng mị, vớ vẩn. Vả lại trên suốt hải trình vừa qua, ông đã nhiều lần xin cầu cứu nhưng đều vô vọng. Có lẽ thế giới đã ngán ngẩm về gánh nặng thuyền nhân và các Trại tỵ nạn đã sắp đến thời gian đóng cửa. Tàu đã đi qua khỏi chiếc ghe chúng tôi. Ôi! Con tàu trong mơ của tôi. Con tàu cứu tinh của tương lai hai đứa con tôi! Nó đang dần dần rời xa để lại niềm tuyệt vọng trong tôi đang dâng đầy lên mắt. Bỗng ngay lúc ấy có một thanh niên cầm chiếc can nhựa trắng đưa lên vẫy vẫy. Tôi thấy con tàu giảm tốc độ và rẽ sang bên trái. Người tài công bảo rằng có lẽ nó chạy về hướng Thái Lan. Nhưng không! Nó quay lại phía chúng tôi. Và khi đến gần, họ thả
một chiếc thang dây xuống; tôi mới biết là họ vớt chúng tôi. Tính theo tọa độ trên địa cầu, nơi ấy gần quần đảo Natuna nằm trong hải phận Nam Dương. Sau khi đặt chân lên tàu BERGE HELENE của Na Uy, ngồi ôn lại giấc mơ với hình ảnh con tàu này đang đậu trong vùng biển xanh đen, tôi đã hiểu vì sao trong mơ tôi đã nghe ai đó nhắc đến chữ Jakarta - bởi chính chữ này đã báo trước cho tôi biết nơi tôi được vớt. Tuy nhiên còn có hai điều trong giấc mơ mà tôi chưa lý giải được: Đó là hình ảnh tôi ngồi bên đống lửa cùng với một cậu thanh niên và cô con gái nhỏ. Thuyền nhân được vớt lên tàu đến 48 người (kể cả người lớn và trẻ con). Tại sao trong mơ tôi chỉ thấy có hai người bên cạnh? Và nhất là hình ảnh của bầu trời về đêm trong giấc mơ. Lúc ấy đã chín mười giờ tối mà tại sao chân trời vẫn còn ửng vàng vệt nắng hoàng hôn, và nền trời vẫn mang sắc màu xanh đậm, chưa đen tối hẳn. Nơi nào trên trái đất này có sắc màu bầu trời về đêm như thế? Tàu Berge Helene đang trên đường chở hàng đi Nam Phi, nên sau khi vớt xong họ liên lạc với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc để đến Singapore và chuyển chúng tôi qua tàu MARY KINGTOW của Pháp. Con tàu này sẽ đưa chúng tôi về trại tỵ nạn Palawan ở Philippin chờ ngày đi định cư. Đến đây tôi xin được ghi nhận ân đức của ông Bjørn Olafsen: Kỹ sư trưởng tàu Berge Helene. Chính ông đã đề nghị Thuyền trưởng cho tàu quay lại vớt chúng tôi khi nhận được tín hiệu cầu cứu từ chiếc can nhựa đưa lên vẫy vẫy. Sau này khi tôi định cư tại Na Uy, ông có gửi tặng tôi một tấm hình chụp vợ chồng ông ở nơi cư trú tại Lillehammer. Đã hai mươi mấy năm qua, nhưng hôm nay đây ngồi viết lại câu chuyện này, tôi xin gửi đến ông cùng thuyền trưởng và thủy thủ đoàn tàu Berge Helene tấm lòng tri ân chân thành sâu xa của chúng tôi. Nhất là đối với ông Bjørn Olafsen (dù không biết ông còn hay mất). Vì nếu không có ông thì chúng tôi có may mắn đến được đất nước tự do, bình yên, hạnh phúc này. Xin cám ơn ông! Chúng tôi tạm cư tại Palawan hai năm rồi lần lượt định cư tại nước thứ 3. Trong số 48 thuyền nhân được tàu Berge Helene vớt, chỉ có tôi và cậu Mạnh cùng với con gái cậu ta định cư tại Na Uy. Tôi ở Bergen, còn cha con cậu ấy ở Stavanger. Tôi đến Na Uy vào ngày 09.04.1991, nhằm mùa lễ Phục Sinh. Ở Trung Tâm Tiếp Cư độ hơn tháng, tôi được xã hội giúp đỡ ra nhà riêng, ổn định dần cuộc sống. Vào một ngày đẹp trời khoảng tháng 5, sau lễ Quốc Khánh của Na Uy, có vài người bạn rủ Viết&Đọc Đặc San 2021 67
tôi đi câu cá ngoài ven biển. Cả bọn đốt lửa nướng thức ăn mang theo và cũng để nướng cá khi câu được. Mải mê câu cá nên khi nhìn đồng hồ thì đã gần 10 giờ tối; nhưng chân trời vẫn còn sắc nắng và bầu trời vẫn mang mầu xanh thẫm. Tôi đứng ngắm đất trời cao rộng, rồi bất chợt nhận ra rằng: Đây chính là bầu trời mà tôi đã thấy trong mơ khi còn ở tại quê nhà mấy năm về trước. Đến đây thì tất cả những điều trong giấc mơ đã được hóa giải: Tôi mơ thấy con tàu to lớn với những ô cửa sổ trên 6 tầng cabin....thì thật đúng với hình ảnh tàu Berger Helene. Tôi mơ thấy mình ngồi bên đống lửa cùng với hai người... thì trong số 48 thuyền nhân được vớt chỉ có tôi và cha con cậu Mạnh đến đất nước này. Bốn mươi lăm thuyền nhân kia đã định cư tại Mỹ, Úc, Canada vì có thân nhân nơi đó. Còn bầu trời trong mơ: Đó là màu sắc của đất trời Bắc Âu, nơi có nửa năm nghiêng về ngày và nửa năm nghiêng về đêm. Vào thời điểm ngày dài hơn đêm, chỉ có vùng đất này mới có bầu trời sáng về đêm như thế. Tạo hóa có những điều thật kỳ diệu mà khoa học tân tiến chưa lý giải nổi. Tôi không thể hiểu vì sao trong mơ tôi lại có thể nhìn thấy con tàu Berger Helene trước khi thấy nó ngoài đời thực sự. Vì sao giấc mơ đã cho tôi biết trước chỉ có 3 người chúng tôi đến đất nước này. Và nền trời với sắc màu sáng về đêm, đã cho tôi biết nơi mình sẽ đến; mà kể từ lúc nằm mơ cho đến khi đặt chân lên vùng đất đó mãi đến hơn hai năm sau. Có phải cuộc đời của chúng ta đã được xếp bày theo một lập trình của Tạo Hóa mà chúng ta thường cho là Định Mệnh. Nhưng theo cách nhìn của Đạo Phật đó chính là Nhân Quả. Anh rể và anh tôi sau mấy năm tù đày cải tạo mới được tha về. Rồi anh tôi lập gia đình và cũng phải bương chải, bôn ba kiếm sống để nuôi con. Mãi mấy năm sau có chính sách HO, gia đình các anh mới được đi Mỹ. Tính ra thành viên trong nhà tôi lưu lạc ba nơi: Bố mẹ và hai em tôi ở Pháp. Anh chị tôi ở Mỹ. Chỉ riêng tôi trôi dạt đến xứ này. Phải chăng Tạo Hóa đã an bày cho cuộc đời tôi như thế? Cũng bởi tôi đã thấy trước những gì sẽ xảy đến, cho nên tôi phải có mặt khi sự kiện diễn ra, do vậy mà: - Tôi không thể đi Mỹ với gia đình người bạn, vì trong mơ tôi đã thấy lá cờ nửa xanh nửa đỏ vào ngày 30.04.75 (19.03 â.l), nên tôi phải ở lại VN để chờ điều đó xảy đến. - Tôi không thể được những con tàu nào khác vớt, mà phải chờ đúng con tàu Berge Helene giống như trong giấc mơ đến cứu. 68 Viết&Đọc Đặc San 2021
- Tôi cũng không thể đi định cư ở một đất nước nào khác, mà phải đến Na Uy cùng với hai thuyền nhân chung chuyến vì định mệnh đã an bày trong mơ như vậy. Sau này tôi có liên lạc được với thằng bạn ngày xưa. Nó rất mừng, nó mời tôi qua chơi nhiều lần. Vậy mà không hiểu tại sao cho mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa một lần đặt chân lên đất Mỹ dù không thiếu điều kiện. Hay là tôi lại phải một lần nằm mơ đến Mỹ, thì mới thực hiện được ước mơ ”đi Mỹ” của mình từ 40 năm về trước. Ngoài những ”Giấc mơ may mắn”, tôi còn có những ”Giấc mơ xui xẻo” rất linh ứng.Và mặc dù biết trước sự xui xẻo như vậy vẫn không sao tránh được. Như vậy thì giấc mơ về Lá Cờ Vàng mà tôi đã kể trong phần 1, với những điều tôi đã thấy chắc chắn sẽ xảy đến, chỉ còn đợi thời gian mà thôi. Thế mới biết Nhân Quả của đất trời thật vi diệu lắm thay! CHÂN NGUYÊN
Viết&Đọc Đặc San 2021 69
NGƯỜI DẮT LẠC ĐÀ TÙNG DUY HI Nguyễn Văn Thực dịch từ tiếng Hoa
LND: Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện trong Lời Nói Đầu của tập thơ Hạt Máu Thơ có viết: ”Sự tàn bạo man rợ của Cộng sản tôi hiểu. Thế mà khi đọc truyện ngắn ’Người dắt lạc đà’ của Tùng Duy Hi người Trung Quốc viết về Cách mạng Văn hóa, về tội ác của chế độ Mao, của Hồng vệ binh, tôi vã mồ hôi trán vì xúc động, vì phục tài người viết.” Cũng cần nói thêm, theo sự tìm tòi của người dịch, và nhờ sự chỉ dẫn của trưởng ban Hán, Hàn, Nhật, thuộc NXB Nhã Nam, thì truyện này chưa từng được dịch ra tiếng Việt. Điều này có nghĩa là Nguyễn Chí Thiện biết cả tiếng Hoa, biết thành thạo. Người dịch giữ lại lối chấm câu của tác giả.
*1*
Mồng 3 tháng 3, chùa mở cửa. Cái thị trấn nhỏ bị bụi, khói sa mạc bao phủ, đột nhiên trở nên sống động khác thường. Khách đến thắp hương vãn chùa chân nối chân, du khách, du khách lũ lượt. Người thổi kẹo đường, phướn trên đỉnh sào tre, người bán kẹo bông đường, những màn trò khỉ, trống thì thòm, những tay bán ma tuý rong, tất cả tụ tập trước sân Chùa Lạt Ma của thị trấn nhỏ. ”Con phe” từ phương Nam tới treo bán xung quanh sân chùa những cái áo khoác ngắn đủ màu, đồ lô can cũng có, đồ nhập cũng có, đồ nửa lô can nửa nhập cũng có luôn. Bán những đồ đại loại như thế mỗi năm một lần ở hội chợ chùa và đi 70 Viết&Đọc Đặc San 2021
lòng dòng trong đó, thì thiệt là không thích hợp với chốn tôn nghiêm, nhưng màu sắc và lạc thú của sức sống thì tràn trề và tuyệt vời. Mồng 3 tháng 3 Âm lịch, tức ngày 18 tháng 4 Dương lịch, phía bên kia Vạn Lý Trường Thành khói liễu đã mông lung, khó mà thấy được đầu ngọn của những hàng liễu cát, khói giống như một tấm vải dệt màu xanh pha màu vàng nhạt. Giống gai lạc đà trổ mầm trên lớp da đất hoang dại, khô cằn; đây là trang sức duy nhất của mùa xuân trên sa mạc mênh mông. Ngoài màu vàng rồi lại màu vàng, chỉ có những đụn cát tô son môi ngoài xa xăm – vầng mặt trời đã mọc nơi xa xăm ấy. Hồng Đức Chương là một người dắt lạc đà dắt con lạc đà hai bướu, chạy nhanh xuyên qua khoảng cách 18 dặm (8,5 km) tới chợ phiên Chùa. Gà gáy canh hai, nhóm bếp; gà gáy canh ba, lên đường. Đường trên cát mềm như lót bông; thật khó cho một người chạy nhanh muốn vượt quá tốc độ. Hồng Đức Chương đã quen chạy lúp xúp với lạc đà, nay bước theo nhịp cố định, không vội, không chậm, thật ung dung. Đây là một con lạc đà già sống bên kia Trường Thành. Trên cần cổ có túi thịt, lông lạc đà mọc dựng đứng, trên lưng có hai bướu, một cao, một thấp, hói như ngọn núi một tấc cỏ cũng không mọc được, phô ra lớp da sần sùi nâu xanh giống như
màu đá. Đó là vì những gánh nặng trên đường dài hay không. Mỗi khi ông ta dắt con lạc đà ra khỏi bất tận, những vết tích của cuộc đời, còn lưu lại. nơi trú ẩn trong sa mạc, ông ta gieo 3 đồng tiền cắc loại 2 hào lăn tròn trên đất 6 lần. Chiều tối hôm Mặc dầu con lạc đà già đã tới tuổi mừng kim khánh, qua ông ta lôi mạnh con lạc đà trở lại Trương Gia ngọc khánh, nhưng, với trang sức trên mình, vẻ Khẩu, người buồn ngủ, lạc đà mệt, nhưng nghĩ tới quyến rũ của nó vẫn còn đó. Dây cương bằng ny ngày mai là ngày mồng 3 tháng 3, ngày chợ phiên lông, vải trùm đầu làm bằng len dệt màu xanh lam, chùa, ông ta lại lấy tiền cắc thay vì tiền cổ, gieo 64 giữa miếng trùm đầu có treo một giải lụa màu đỏ, quẻ thì trúng quẻ thứ 60, quẻ tượng Trung Thiên giống như màu cao lương đỏ rực. Ở bên kia Vạn đoán định là ngày 3 tháng 3 là ngày hoàng đạo, Lý Trường Thành người ta gọi giống lạc đà này ngày tốt, bèn dắt lạc đà đạp cát chạy băng băng tới là ”thuyền sa mạc”, nó gần như chỉ làm công việc Chùa Lạt Ma. nặng nhọc, nhàm chán, và cũng chẳng phải là con lạc đà ”dẫn đường”. Hồng Đức Chương có sáng Đi mua gì vậy? Không mua gì hết. kiến trang sức cho nó thành nàng ”Hoa Đán” (một nhân vật nữ trong tuồng cổ Trung Quốc), thậm Đi mua gì vậy? Không mua gì hết. chí cái chuông treo thòng nơi cổ cũng khác những con lạc đà khác, những con lạc đà này chỉ có một Hồng Đức Chương đi qua sa mạc đến Trương Gia chuông đơn nơi cổ, còn nó lại được đeo chuông Khẩu, nơi một thời ông từng là phu dắt lạc đà cho đôi. Chuông làm bằng đồng thau sáng bóng, tiếng một công ty ở thị trấn chuyên buôn bán da thuộc, chuông thật trong, thật ngọt. Một bước, một lắc, trong khi thay phiên làm việc ở Trương Gia Khẩu một tiếng chuông…. Tiếng chuông, tiếng hát từng mới đây, đầu cầu của trung tâm thị trấn, ông đã có chuỗi lan xa tới nhưng con đường cổ xưa trong lần gặp một đám nam nữ người tây phương tóc sa mạc, tạo thêm một chút niềm vui cho những vàng, tròng mắt xanh đứng chặn đường, ông đứng chuyến lữ hành cô đơn. chết trân, không biết phải xử rao sao. Người thông dịch nói cho ông ta biết là mấy người Tây này Người chủ của con lạc đà Hồng Đức Chương và không có ý xấu, họ chỉ muốn luân phiên chụp hình con lạc đà già trông giống nhau. Ông ta, tay nắm cùng ông ta và con lạc đà ở Cầu Lớn. Hồng Đức dây mũi đi trước con lạc đà, và mắt thì khi nhắm Chương, thực lòng mà nói, không biết là người ta khi mở; thỉnh thoảng ông kéo dây mũi thúc con lạc muốn chụp hình màu ông ta và con lạc đà, ông ta đà đi cho nhanh. Đi được một lúc, ông ta lại lấy không lắc đầu từ chối, cũng không gật đầu đồng một tay che một mắt, ngóng nhìn bức tường màu ý, ông chỉ là một chút ”gia vị” trong một tấm ảnh đỏ thắm của Chùa Lạt Ma mờ mờ ảo ảo, rồi đỡ lấy chụp làng Hồ, xứ Hồ, cách cách một tiếng, có một cái lưng cong như cây cung của mình, vươn thẳng cô gái ngoại quốc rất đẹp đang đứng, lúc đó chưa lên một chút, và dường như có một chút hi vọng chi mà từ trong máy ảnh cô ta cầm trên tay đã chạy nào đó nơi chợ phiên ở chùa, đôi môi ông run rẩy, ra một tấm ảnh và tặng ông tấm ảnh ấy. Thoạt đầu như đang tụng thầm trong lòng một loại kinh nào tấm ảnh còn lờ mờ; nhìn lại lần nữa ông ta và con đó, niệm đi niệm lại: lạc đà cả hai chầm chậm phô ra. Ông ta vội vàng móc túi, lấy ra hai đồng tiền cắc, tiền ăn đi đường, người thông dịch không nói gì, cầm lấy tiền ấy và Quá khứ xa vàng mất sắc nhét vào túi lại cho ông ta, ông người Tây lúc nãy Tương lai gậy, trượng mọc mầm ngáng đường ông, ép ông nhận một tờ giấy bạc có Vàng trăng tốt thiệt nào sai in đầu một ông Tây. Cho tới khi đến quán bán đồ Tiền tài vào nhà rầm rầm da, ông hỏi dòng dòng, lúc đó ông mới biết đó là một tờ mỹ kim 10 đồng. (Viễn khứ hoàng kim thất sắc Thái lai bổng, chuỷ xuất nha Khi về tới được nhà, lòng cứ như hủ ngũ vị chua, Nguyệt kim cực hảo vô sai ngọt, đắng, cay, mặn bị đổ: sợ sợ, mừng mừng, Chiêu tài tiến bảo phát gia) mừng mừng, sợ sợ. Ông nhìn vào tấm ảnh màu chụp ông và con lạc đà, đôi môi khô héo thoang thoảng một nụ cười, vì trong phạm vi gần như Ông ta không biết giờ nào của năm nào, không biết trong vòng mười dặm (5 km), có 10 người dắt lạc mạng ông và quẻ kim tiền sẽ tương hợp với nhau đà, không có lấy một người dắt lạc đà tải hàng hóa Viết&Đọc Đặc San 2021 71
làm cái nghề như vậy; lại nhìn cái tờ giấy bạc 10 Chàng ta la. mỹ kim, vành môi nở một nụ cười lúc nãy, giờ mím lại thành chữ nhất (一). Thứ tiền này ông đã Chàng ta hét. gặp khi đi lính ở Triều Tiên, chúng cùng mấy anh chàng Tom nước Mĩ đều đã trở thành chiến lợi Chàng nhảy choi choi chửi bọn lính Mỹ coi tù. phẩm và được chuyển lên cho cấp trên. Một khi chàng ta hoàn toàn không thể xả được Những chuyện này đã xảy ra lâu lắm rồi, đã giống những phẫn nộ trong lòng như thế, anh ta cảm thấy như những vì sao mờ mờ mà ta đứng dưới đất là mình bị tà hỏa và anh thích được ở tù mà bị tà nhìn lên bầu trời: năm ấy ông vừa mới ngoài đôi hỏa như thế – Lý Quảng, thông dịch viên cao ráo, mươi, lúc đó đang biểu diễn trò ”cỡi ngựa bắt dê”, đẹp trai nhìn chằm chằm vào hai vết tát còn in dấu được đại đội trưởng trong đồn yêu mến, nhập ngũ rõ ràng ràng trên má của Hồng Đức Chương. Thế chưa được nửa năm, rồi hát bài ”lòng anh dũng, là cái anh chàng đẹp trai này lợi dụng giờ tù binh chí hiên ngang” qua cầu, vượt sông Áp Lục. Hồng được ra ngoài hóng mát, và nhân gặp được Hồng Đức Chương tới nay vẫn còn nhớ ngày ấy là ngày Đức Chương tại cầu tiêu, thì lấy cái giọng tử tế 25.10.1950. Anh công tác ở ban hậu cần. Mỗi ngày khuyên anh ta phải coi chừng, đừng ách giữa đàng anh dắt lừa, ngựa mang lò bếp, dụng cụ nấu ăn, mà quàng vào cổ... tiến quân theo toán bộ đội đi đầu. Ngày đó cũng không đến nỗi nào: vừa hồi hộp vừa thoả chí, vượt Ký ức chết đã lâu, chuyện ông nắm trong lòng bàn sông rồi, chưa quá ba tháng, súng chưa bắn một tay tờ mỹ kim lại hiện lên trong trí. Ông ta, vốn phát thì bộ đội đã đến được Hán Thành. Sau đó, bị bệnh hay quên, mí mắt khô làm thốn cả mắt... anh và các chiến hữu gặp chuyện không may, khi Trong những ngày ấy ông ta từng gặp các chiến rút lui khỏi Hán Thành bộ đội và hậu cần chạy hữu lấy đô la làm đích bắn cho súng, hay cuốn làm thoát thân trước tiên, các toán xe tăng của Mỹ cắt điếu thuốc lá. Cái ông lớn trên tờ giấy bạc để cho ngang con đường rút lui, nhiều chí nguyện quân bị người ta đội tóc giả đó là ai, giờ lại theo điếu thuốc bắt làm tù binh. lá thành tro tàn? Cả trong giấc mộng Nam Kha hơn 30 năm, chưa thấy Hồng Đức Chương với vết tát Bị nhốt tại trại tù binh chằng chịt hàng rào điện. và anh thông dịch viên đẹp trai hội ngộ với nhau Nhập vào Triều Tiên đã mấy tháng, anh vẫn chưa một lần. Theo như lời của người ở trạm mua bán bắn súng lần nào; bị bắt làm tù binh anh ta trở hàng da nói cho ông, thì cái tờ bạc đó, đổi chợ đen thành một con ngựa non bất kham, háu đá, hung thì cũng được ít nhất 5 đồng “đại đoàn kết”, thế hăng. Vào đêm lạnh, trời tối thui, gió lớn, chàng ta rồi có một tiểu sư phụ trẻ tuổi giộng quầy một cái đã hai lần trốn trại tù, cả hai lần đều bị bắt lại. Thế rầm và đưa ra 50 đồng, Hồng Đức Chương không rồi lính canh tù, để phòng ngừa chàng ta trốn tù lần muốn mất đi một món hời, chụp ngay tờ giấy bạc nữa, bèn tìm cách thử xem chàng ta có làm gì được 50 đồng ấy và bỏ vào túi áo, hoàn thành cuộc đổi nữa không: Họ dùng thuốc mê gây mê chàng ta, và chác một cách bạo dạn không ngờ. dùng kim bằng thép nhúng vào thuốc có hóa chất châm trên cánh tay trái chàng ta bốn chữ: ”反共到 Ông ta là một con ma cô độc trong mồ, nhưng cũng 底: Phản Cộng Đáo Để: Chống Cộng Tận Cùng”. có cái ăn cái mặc. Giữa thập niên 50, có người đàn Khi anh ta tỉnh dậy, hành động phản đối thứ nhất là bà câm ưng ông ta, một anh chàng đã quá 30, đến tuyệt thực một tuần, sau đó lén lút kiếm một miếng năm 1984, thì xuống suối vàng trước ông ta, nằm đá làm dao nhọn, như chuyện Quan Vân Trường xuống trong sa mạc và làm bạn với gai lạc đà, chỉ cho phép thần y Hoa Đà vì mình mà nạo xương còn con lạc đà già đó là bầu bạn với ông ta, kẻ bị trị độc, chàng ta kêu các chiến hữu của mình dùng ngã gục và bị bỏ mặc, muốn làm gì thì làm trong miếng đá nhọn đó nạo cho mất vết sỉ nhục trên nơi heo hút. Người ta không biết rằng Hồng Đức cánh tay mình. Chàng ta cắn chặt răng, không rên, Chương cũng đã đi kiếm nơi gởi gắm tình cảm của không la, cái chỗ bị nạo đó máu thịt bị thối. Chăn mình, vì tại nơi đầu cầu Trương Gia Khẩu, mộng đắp bị nhuộm đỏ. Nhưng điều làm chàng ta thất ước vẫn còn đó, và dù gì đi nữa thì vợ ông cũng vọng là sau khi vảy vết thương tróc ra, cái hàng đã chết, ông ta dùng hết tinh lực mà trang sức cho chữ chàng ta căm thù trong tận xương tủy, cái hàng con lạc đà già, chải bờm, chải đuôi cho nó, mua chữ ấy vẫn nằm chần dần trong da thịt anh như cũ. vải trùm đầu, cột chuông nhỏ. Nhưng điều làm cho ông chán nản đó là chuyện xảy ra ở đầu cầu 72 Viết&Đọc Đặc San 2021
Trương Gia Khẩu, du khách không còn đến thăm nữa. Hạn hán lâu, không mưa, đồng* khô cỏ cháy, Hồng Đức Chương cúi xuống, ngẫng lên nhìn sống cho nên ông ta đành phải dắt lạc đà tới chợ phiên lưng cong của con lạc đà, hai mắt nheo hi hí, giống trước chùa Lạt Ma. như con mèo ngủ thiu thiu dưới ánh mặt trời gay gắt, lúc nó có vẻ chẳng đoái hoài gì đến chuyện bắt *2* chuột. Chợt tỉnh lại, ông nắm lấy dây cương, vung tay, và tung dây cương lên đầu con lạc đà thúc nó chạy nước kiệu. Ông ta hết đi đằng đầu, lại quay lại đi sau lạc đà, chạy theo sau bước chân lạc đà, nới lỏng tay khấu, và dường như mồ hôi lại đổ ra cả người thêm một ít. Ông ta kéo lạc đà, vươn vai mấy cái, đấm đấm vào cánh tay, rồi lại cúi đầu đi. Chạy. Chạy. Lạc đà rất cao. Ông ta lùn tịt. Gai lạc đà
Tục ngữ: Nhìn núi, phi ngựa chết
Nếu ông ta không mặc bộ đồng phục bốn túi “thẻ xanh lam”, không đội một chiếc mũ xanh lam dân thường Trung Quốc mặc, không đi trên con đường cổ trong sa mạc màu vàng, thì ông trông như một cây liễu cát chết khô, hoặc như một hạt cát trong vũ trụ vô cùng lớn. Ông sợ cái màu vàng khô khốc, không phải chỉ vì sa mạc nghìn trùng lượn cát, làm cho người dắt lạc đà đau đầu; và còn hơn thế, ông sợ cái vận mạng của mình đa phần ngoài tầm tay mình, bắt đầu từ ngày khoác quân phục màu cỏ úa nhập Triều Tiên. Chuyện “nạo xương trị độc” trong trại tù binh, mặc dầu đau đớn vô chừng, nhưng trong lòng không kết thành vết sẹo nào; sau cuộc thương thuyết ở Bản Môn Điếm*, chàng lại tiến qua cửa ải về nước, suối lòng lại bắt đầu rỉ máu. Nhớ lại hồi ấy khi đi tàu lửa ra khỏi nước, suốt con đường hoa tươi thắm, suốt đường lệ rơi, xe, cứ mỗi ga, dân chúng reo hò long trời lở đất; đến khi trở lại cố quốc như tù binh trong đoàn tàu đặc biệt bít bùng như xe tăng chở tù binh, thì chỉ có tiếng rầm rầm của bánh sắt nghiến lăn trên đường ray phát ra, chỉ còn lại một bầu không khí im như chết. Không ai đợi ai, có người tù binh vừa thầm thì vừa khóc, vừa đọc thơ:
Vòng tường màu đỏ thắm của chùa Lạt Ma, mặc dầu hiện ra trước mắt, nhưng tính theo bước đi theo “nhịp bốn bước chậm” của con lạc đà già, thì con đường còn dài lắm! Ông ngừng lại, muốn quất roi con lạc đà, thúc nó đi nhanh, cứ tung dây cương lên, rồi giật lại. Hồng Đức Chương không tìm ra được lý do gì để đánh nó. Sau cuộc “Cách mạng văn hóa” cũng là lúc dân-chính-sảnh cởi giùm ông chiếc mũ “gián điệp” bằng thép mà ông bị chụp bấy nay, và giúp ông một chút tiền, ông mua con lạc đà tải hàng này. Lương thực cũng nhờ nó, áo quần cũng nhờ nó, rồi ngay khi chôn cất vợ mình, thì cả cái quan tài mỏng làm bằng liễu đỏ màu son môi cũng nhờ nó, cũng nhờ nó mà kiếm ăn được. Lại nữa, cái tờ giấy bạc mười mỹ kim, không có con lạc đà thì làm gì mà thằng cha Tây mũi lớn ấy cho ông. Người ở sa mạc nói: lạc đà trắng là lạc đà thần, trong mắt của Hồng Đức Chương thì chẳng có thần ngựa, thần lạc đà nào trong sa mạc, ông, kẻ cầm cương gắn nơi đỉnh đầu lạc đà, xoa bóp làn da trời cho của nó, Xe qua sông Áp Lục Trông như bay một giòng chính là thần lạc đà vậy. Tổ quốc – con đã về Cát thì rất mềm (Xa quá Áp Lục giang Hảo tượng phi nhất dạng Đường thì rất xa
Viết&Đọc Đặc San 2021 73
Tổ quốc – ngã hồi qui) Mẹ ơi! Nhưng tiếng kêu cô đơn này đã như tiếng kêu não nề ve thu, mà nào có vang vọng được gì. Các chiến hữu của anh nằm kiệt sức ngổn ngang trong toa, dường như một ngày mai lành, dữ ra sao đã được biết trước; bởi vì vào cái ngày ở Triều Tiên đợi về nước, người chỉ huy của nhóm bảo vệ đặc biệt đã phân phát giấy bút cho mỗi người, cuộc điều tra nghiêm khắc đã bắt đầu, sau ánh mắt ôn hoà, ẩn tàng sự xa xách, trong lời nói ân cần đã ẩn chứa sự lạnh nhạt. Vừa ra khỏi “Cửa Bắc”* chuyện ôm nhau khóc lóc tơi bời đã không còn diễn ra nữa, con tim cháy bỏng của các tù binh bắt đầu sương rơi, tuyết đổ...
Ở đây là ga trung chuyển ”Tại sao anh lại đòi về nước?” ”Tôi sinh trưởng tại Trung Quốc mà!” ”Những điều anh viết trong bản tự khai có trung thực không vậy?” ”Vâng, rất trung thực.” ”Ở trong trại tù binh, anh mạnh khoẻ như vậy, vì cớ gì anh lại giơ tay đầu hàng là sao?”
”Bùn do đạn đạn bác bắn đã chụp lấy tôi, trùm lấy Hồng Đức Chương nhớ lại là anh ta vừa run vừa cả người tôi, khi tỉnh dậy được thì thấy mình bị viết tới bốn tờ khai báo, về chuyện bị bắt làm tù bắt.” binh và cả chuyện phản kháng trong trại tù, thành thật khai báo đầy đủ trên giấy. Anh ta tự giác, ”Chớ không phải vì sợ chết à!” không có gì phải thẹn với lòng, thái độ đàng hoàng và lương tâm trong sáng. Nhưng, anh đã nộp tờ ”Không phải.” khai báo xong đâu vào đó, mà chẳng nhận được sự trả lời nào, chuyện im lặng như thế làm lòng anh tê ”Vậy có ai làm chứng cho anh về vụ này không?” tái, do đó sau khi ngồi nơi cửa toa anh ta lại lui vào một góc toa xe lửa bít bùng, lòng bồn chồn như có ”Vâng, có anh thông dịch viên tên là Lý Quảng, lửa đốt, bất an như thể có mèo cào cào trong tim. anh ta với tôi cùng bị chôn vùi với nhau. Chỉ có anh chàng đẹp trai này, tôi tin là còn sống, cuối cùng khi chúng tôi phải chọn ”Cửa Nam” hay “Tới đâu rồi?” Có người hỏi nhỏ. chọn ”Cửa Bắc” thì anh chàng này đi về phía ”Cửa Nam”. Trước khi chúng tôi rời xa nhau, thằng chó Chẳng ai trả lời. đẻ đó từng đến bên tôi và khuyên tôi cùng đi con đường hắn chọn, tôi cắn một miếng vào mu tay của “Dám là đã tới Tứ Bình.” hắn một cái để cho hắn nhớ đời. Những điều này “Tính toán mà làm gì không biết! Bộ đang trông tôi đã viết trong tờ khai cả rồi cơ mà.” chờ chổi chà của bà mẹ ghẻ đập cho sưng đầu chắc!” Chàng không biết ai lên tiếng ghẹo người ”À há! Lấy một người không trở về nước mà làm nhân chứng, thì đó là một trò siêu láu cá. Chúng tôi đọc thơ. không có ngốc như vậy đâu, chúng tôi không thể ”Có thể không có ai đâu!” Hồng Đức Chương nói căn cứ trên bản khai báo mà bỏ qua cái quyết định chen vào.” Tất cả những kẻ không muốn thăm bà quỳ gối đầu hàng ở chiến trường của anh. Ngoài mẹ ghẻ đều là bọn đã chọn ’Cửa Nam’ rồi. Còn ra anh còn chứng cớ nào mạnh mẽ hơn để biện hộ chúng ta, chúng ta đều ghét cái vùng đất màu vàng cho anh không?” ở Trung Quốc ngoài kia.” Hồng Đức Chương hét lên ”Cái lương tâm của tôi ”Hừm!” Người trả lời tránh không nói, chỉ ngoáy trong Trời Đất!” ngoáy lỗ mũi. Những người lính khác đứng đó không thét lên được nỗi bi phẫn của mình như Hồng Đức Xe lửa đến bến trong lặng câm. Chương, nhưng họ đã mất đi lòng kính trọng vào Bánh không còn lăn, các chiến hữu phải rời nhau cái uy nghiêm, phong độ của sĩ quan phân xử vụ này. Họ không giận cũng không cười, người ta chỉ đi về các hướng Tây, Nam, Bắc, Trung tại đây. 74 Viết&Đọc Đặc San 2021
cần nhìn vào cái vẻ mặt của họ cũng thấy. Thế rồi vị sĩ quan đóng hồ sơ lại, rồi xướng tên một tù binh khác, Hồng Đức Chương đứng đó như chết trân – một túi đã mở sẵn, trong đó có quần áo, tiền đi đường, giấy đi đường, trong giấy đi đường có ghi là anh phải trong nội 3 ngày đến trình diện với chính quyền của khu tự trị x.
bịu hơn. Hồng Đức Chương đã gian khổ đến nơi hoang dã đã tới ngày thứ ba, đã biết, do người lái xe ngựa nói, đây không phải là một xưởng sa thạch thực thụ, đúng ra đây là một đại đoàn bị cuỡng chế lao động, gồm những đàn ông, đàn bà từ những thành thị vùng Tây Bắc đến, người nào người nấy đều có khăn trùm đầu, đều có tiền án – còn anh, anh là tù binh đương nhiên trở thành một con dòi Đàn ông không dễ gì mà khóc. Hồng Đức Chương, trong hũ tương. khi anh chạy ra giữa phòng xây bằng gạch đỏ, nước mắt anh chảy ngập hai lổ mắt. Mới lúc nãy anh đã Từ lúc đó trở đi Hồng Đức Chương tránh như tránh thét lên như sấm động, tuôn trào ra hết những gì tà màu vàng. Anh đưa chiếc quần đùi nhà binh về cuộc đời mình. Từ ngày hôm nay mà đi, anh màu vàng cỏ úa vá chằng vá đụp cho một người biết rằng có nói năng chi thì cũng bằng thừa. Cùng đàn bà câm vốn có kim chỉ để làm dây cương cho ngày hôm đó anh leo lên chiếc xe chạy đường súc vật vận tải vá giùm. Người đàn bà câm hơn trường hướng về vùng Tây Bắc. Hai ngày sau anh anh 3 tuổi, là vợ của một trung sĩ Quốc dân đảng trình diện với cơ quan chính quyền địa phương: ở lại lục địa Trung Hoa, do đó cái cơ duyên là có viết, ký tên và đóng dấu, cho anh một tờ giấy giới cái áo bông rách bươm, chị ta trong đêm lén lút thiệu, trong đó có nội dung là anh sẽ được bố trí lẻn vào ngủ một mình tại cái ổ rơm của Hồng Đức làm tại một xưởng sản xuất đá sa thạch. Chương nơi lán ngựa. Hồng Đức Chương lúc ấy không muốn giao tiếp hoài với người đàn bà này, Đó là một bãi sông ở một nơi không ra thành phố, anh tung chăn ra và đẩy bà ta ra ngoài. Chị ta thầm không ra thị trấn. Do sa mạc hút không ngừng thì ”được, được”, rồi dùng ngón tay trỏ chỉ không nguồn nước của sông, lòng sông rộng trở nên khô ngừng vào trái tim mình, ra dấu muốn tỏ cho Hồng cạn từ lâu. Những hòn đá lớn như đầu người hay Đức Chương biết rằng chị ta nhất quyết theo anh nhỏ như trứng bồ câu, nằm dày đặc trong lòng sông ta. Hồng Đức Chương chồm dậy và tống chị ta ra phủ bùn khô kết lớp. Đây là công ăn việc làm cho ngoài, chị ta cuộn người lại trước mặt anh, trước những người lang thang vô nghề vô nghiệp. Nói rõ tiên thì quỳ sát Hồng Đức Chương, sau thì bò trên ra là họ đào những cục đá này lên từ lòng đất cát, đất làm như ngựa, bò tới bò lui, muốn biểu lộ là chị phân loại to nhỏ bỏ qua từng bên, vận chuyển dọc muốn suốt đời làm thân trâu ngựa cho Hồng Đức đường ray tới một ga nhỏ. Chương cỡi, Hồng Đức Chương lòng run rẩy, anh nâng người đàn bà câm lên, và để cho chị ta ở lại Trên bờ sông có hai hàng lán sơ sài cho công trong lán qua hết đêm. nhân. Một hàng cho đàn ông, một hàng cho đàn bà. Không có bếp, để che gió thì chỉ có một mái Dưới ánh đèn chuồng ngựa, Hồng Đức Chương che mà không có tường bốn phía, mái lợp rơm qua dùng bút chì thay miệng, rạch ba chữ lớn trên mặt quýt, phía dưới có một cái xửng hấp bằng tre và đất: ”Này chị, tại sao chị lại muốn ở đây vậy?” một cái nồi sắt to bự chảng, được coi như là nhà bếp. Ở đây không có nhà cầu, may thay có hai bờ Người đàn bà vừa điếc vừa câm, so với Hồng Đức sông hoang vu chẳng ai ngó ngàng tới. Khắp nơi là Chương, cũng viết được chữ đâu ra đấy: ”Tại vì những đụn cát dựng đứng, khuất mắt, tại đó người anh là người câm.” ta giấu mình trong một góc mà đái bậy hoặc ỉa đồng. Có phải vì Hồng Đức Chương có thể cưỡi Hồng Đức Chương bây giờ mới thình lình hiểu ra: ngựa hay là bị ghi sẵn trong hồ sơ, anh cũng không Anh ta đến đội cưỡng bức lao động đã nhiều ngày, biết, mà ngày thứ hai anh bị phân công đến chuồng mà chớ có nói với ai một câu. Chị ta là một người ngựa cho ngựa ăn. Chuồng ngựa tuy xập xệ mà coi câm thực sự, còn anh ta, anh là người không câm ngon lành hơn nơi người ở, với tường ván, máng mà trở thành câm; chuyện này dẫu sao đi nữa cũng gỗ, mái che bằng vải bạt. Bên cạnh có một cái lán nhắc nhở anh: anh là một kẻ cư xử như một người lớn kết thành bởi những nhánh cây mục, một nửa câm, làm việc mà cứ nín thinh, để tránh gây rắc chứa thức ăn tinh chất, nữa bên kia là nơi người rối. chăn ngựa Hồng Đức Chương ở. Nhờ thế mà so với việc này, việc kéo đá, chuyển đá thập phần bận Người đàn bà câm này duyên dáng và linh lợi, biết Viết&Đọc Đặc San 2021 75
Hồng Đức Chương không ưa màu vàng đã đổi được bộ quân phục màu vàng cỏ úa đã rách với ”Cái con lạc đà già này đi với anh rất thân thiết.” một người đàn ông, lấy 3 gói thuốc lá cho anh. ”Cái con lạc đà già này có cùng linh tính với em Được hai năm thì họ lấy nhau. đó! Có một ngày, anh dẫn lạc đà đi ra ngoài lượm củi, nó chết sống gì cũng không muốn ra khỏi Chỉ có hai tờ kết giấy hôn, một cái giường gỗ. cổng. Anh cứ nghĩ nó bị mệt sao đó, anh tròng vào cổ nó sợi dây thừng, tay cầm một cái liềm, anh chỉ Chẳng có khách khứa, chẳng có bạn hữu – Chỉ vì vừa mới ra khỏi cổng, nó đang nằm cuộn người ”lừa què xứng với thớt xay vỡ.” dưới đất, nó trỗi dậy, dùng miệng cắn đứt hai chiếc nút trên bộ đồng phục bốn túi của anh. Anh chửi nó, bảo nó buông ra, thế là anh phải quay lại ổ rơm của anh mà đính lại mấy cái nút. Vào mùa này bão *3* cát mù trời mù đất đã qua rồi. Em yêu, con lạc đà nó yêu anh thắm thiết y như em yêu anh vậy!” ”Em yêu, gom đủ tiền, anh sẽ dựng bia mộ cho em. Được không em?” Hồng Đức Chương nghiêng cổ, nhìn về hướng có cây liễu cát nhánh khô thân kiệt lẩm bẩm. Ông cảm thấy đau đau nơi cần cổ, bèn ôm hai má, vặn qua vặn lại mấy cái, cúi lưng, cúi đầu xuống, vươn người lên, rồi dẫn lạc đà đi ra phía trước.
Liễu gai Từ sau khi ông mua con lạc đà già này, thì ông đã đốt trên mông lạc đà 3 chữ ”Hồng Đức Chương” rõ lớn, thứ nhất ông ta sợ mất, thứ hai ông cảm thấy cuộc đời của ông ta và con lạc đà giống nhau ở chỗ cả hai cũng đều có cuộc đời của những con thú tải hàng nặng. Khi đi sau lạc đà, chuyện luôn luôn thấy được ba chữ ”Hồng Đức Chương” làm cho lòng ông sầu khổ bội phần. Do đó vừa đi gần được 2 bước, ông ta lại chạy lòng vòng đến phía trước lạc đà. Nghiêng nghiêng cổ nhìn mặt trời, mặt trời đã lên cao một con sào; ngóng đầu nhìn Chùa Lạt Ma, lúc này khoảng cách cũng đã rút ngắn. Rõ ràng đây là cái cổng quái dị của vợ anh, ông chạy trước lạc đà, cố vứt đi khỏi tâm trí những chuyện ”lừa què” ”thớt xay bể” mà không vứt được. Đột nhiên ông giải thoát được muộn phiền: Vợ ông linh hiển! Vợ ông còn nằm bên cây liễu cát, vào lúc này, vợ ông đang nhìn ông chồng của mình đang dẫn lạc đà tới, vì cớ gì bà ấy lại không thể nói chuyện câm với chồng? ”Anh sống một mình được lắm.” 76 Viết&Đọc Đặc San 2021
Con đường dưới gót chân ông, ông vốn biết quá rõ. Nơi này trước kia chính là bờ sông mà ông đã bới móc cát, đá, đào xong một bận lại chuyển tới lán chung một bận, nếu ”Văn hóa đại cách mạng” không đóng cửa xưởng sản xuất đá sa thạch thì dám là phải đào cho tới tận chân trời lận! Năm đó đã đào đến thôn ổ trong sa mạc rồi, hồng vệ binh sợ hụt, đã nhanh chân đến trước móc cho được ”con chó sói” ra. Đồng thời một số đã dùng xe jeep chạy tới nguyên quán để vả mặt, để đấu tố gia đình nạn nhân; Hồng Đức Chương vốn không có thân nhân ở nguyên quán, nên họ tiến hành điều tra ông tại nơi ông trú ẩn trong sa mạc. ”Mày là cái thằng khốn nạn làm gián điệp cho đế quốc Mĩ!” Hồng Đức Chương quỳ dưới đất không nói một lời nào – ông ta đã hơn chục năm nay là một gã câm. Vợ ông dạy ông dùng tay mà nói chuyện, cơ năng của miệng và lưỡi dần dần đã bị thoái hóa. ”Cái thằng khốn nạn, mày có khai hay không khai đây này!” Dây trói da và gậy gộc đã chuẩn bị sẵn.
Hồng Đức Chương thì thào như tiếng muỗi bay: bằng cách lấp liếm hai từ phản cách mạng đó mà ”Tôi chỉ từng là một tù binh thôi mà.” được à? Tao báo cho mày biết rằng cái tập hồ sơ của mày sẽ theo mày suốt đời. Nói đi! Mày đang ”Mày có tham gia tổ chức phản cách mạng nào hoạt động bí mật ở đây, mấy đã nhận nhiệm vụ không?” gì?” Hồng Đức Chương lắc đầu nhè nhẹ, vẻ thoi thóp “Tránh võ dưa lại gặp vỏ dừa. Mày cứ nghĩ rằng như như quả lắc đồng hồ sắp ngừng. mấy khoét hai cái chữ phản cách mạng ấy là mầy che giấu được cái bản mặt gián điệp của mày hay ”Xăn tay áo lên!” sao? Tao nói cho mày biết. Cái lý lịch của mày sẽ theo sát mày suốt đời. Khai mau! Mày mai phục Hồng Đức Chương không thể ngờ rằng hồng vệ ở đây, và cuối cùng mầy được giao cho nhiệm vụ binh biết được cả cái bí mật trên cánh tay ông. gì?” Vào những lúc trời nóng như thiêu như đốt trên bãi sông đào đá, cả hơn mười năm ông không một lần “Cho ngựa ăn.” mặc áo cụt tay. Vợ ông hiểu rõ mối đau khổ thầm kín của chồng mình, tại mỗi cổ tay áo của chiếc áo Gậy gộc, thắt lưng da túi bụi quất xuống. Hồng bó sát thân, chị đính một cái nút, phòng khi ống Đức Chương ngã chúi xuống đất. Ông mơ hồ nghe tay áo bị gió thổi bốc lên, tai hoạ sẽ ập tới. Năm hồng vệ binh bàn bạc cần phải chặt một cánh tay 1963, người ta treo trên hai lán của chuồng ngựa của ông. Sau khi tỉnh dậy, ông thấy rằng mình nằm khẩu hiệu: ”Mọi người không được quên cuộc đấu trên mặt đất, thân còn nguyên vẹn, mặc dù toàn tranh giai cấp.”, ngay cả trên những máng ngựa, thân ông đau đớn không chịu nổi, cánh tay vẫn người ta cũng gắn đầy những khẩu hiệu hoa hòe. còn đó trên cơ thể ông. Một người lái xe bò kéo Vào lúc này, có một lần Hồng Đức Chương gọi bà đá sa thạch như ông, nói với ông ta rằng người vợ câm của mình lại, biểu dùng than đang cháy đàn bà câm của Hồng Đức Chương đã giải thoát đỏ rực thui cho tiệt hàng chữ ấy, bà vợ già không chồng mình khỏi hiểm nguy, đúng lúc những hồng muốn xuống tay, Hồng Đức Chương chụp lấy cục vệ binh sắp sửa cắt gân cốt của ông thì bà ta tóc than hồng đang cháy rực, gồng mình nghiến răng xỏa như một con ma nữ đột nhập vào phòng thẩm lăn cục than hồng trên cánh tay của mình, ông kêu vấn, “Đây này, đây này!”, khua tay khua chân một lên: ”Ối!”, trên cánh tay làn khói như khói cháo lượt, lôi trong túi ra một tờ giấy, trong đó viết là bà cháy bốc lên thịt người ông. Hồng Đức Chương ta biết một số người phản cách mạng tối nay sẽ sử đau đến ngã xỉu xuống đất, khi tỉnh dậy, bà vợ dụng chất nổ đánh sập tổng hành dinh của bộ chỉ câm, giống y như mèo liếm cháo, lấy đầu lưỡi liếm huy chống tạo phản, hồng vệ binh vứt một Hồng vết thương chồng mình; ông nhìn chằm vào cánh Đức Chương ngất đi lúc nãy, bồng lấy người đàn tay máu thịt tơi bời, một chữ bị cháy tiêu là chữ bà câm nhét vào xe jeep rồi chạy vù trở lại thành ”Phản”, cắn răng, với quyết tâm ”một là làm, hai phố. là dẹp”, ông ép bà vợ gắp cục than hồng đốt luôn chữ thứ hai: ”cộng”, còn lại hai chữ ”đến cùng” Khi người đàn bà câm này trở lại ổ rơm của mình thì chúng chẳng bao hàm ý nghĩa chính trị gì ráo, trong sa mạc, ống tay áo lẫn miệng, cả hai đầm đìa người vợ bất cần biết, bà nhất quyết không làm, máu tươi vì hồng vệ binh đã trừng phạt bà, không ôm lấy chồng, lật qua lật lại một cánh tay nát như phải dùng gậy gộc dùi cui đánh cho chết mà cắt tương, rồi khóc mãi cho tới khi trời rạng đông. đứt năm ngón tay viết được chữ của bàn tay phải, Thật là cái bọn gian ác. Cánh tay, không dùng một làm cho bà phải trở lại người đàn bà câm nguyên loại thuốc chống viêm nào, nhưng thật bất ngờ, thủy, tàn phế lại làm cho tàn phế thêm, nhưng gai dần dần phục hồi, chỉ còn lại hai lỗ sẹo đen tối. góc của những bụi cây gai lạc đà, thật không ngờ, Bây giờ, hồng vệ binh bắt ông xăn tay áo lên xong, lại bảo toàn được thân xác bà cho đến ngày tàn ông tự biết khổ nạn của kiếp người sắp đến, chỉ của phong trào Hồng Vệ Binh. Xưởng đá sa thạch biết phó cho Trời Đất, cho định mệnh, thế rồi ông giải tán doanh vụ. Ai có nơi nào để đi, thì đã đi rồi, chậm thật chậm vén cổ tay áo lên, cánh tay lộ ra. còn lại là một số thợ đào đá an cư nơi những thôn ổ trong sa mạc. Hồng Đức Chương và người vợ “Chạy trời, chẳng khỏi nắng! Mày có nghĩ rằng câm bị cắt năm ngón tay vừa kết thúc cuộc sống mày có thể che giấu chuyện làm gián điệp của mày lang thang năm này qua năm khác. Trong mắt của Viết&Đọc Đặc San 2021 77
Hồng Đức Chương, người đàn bà câm ấy là hiện thân của một nữ bồ tát, chưa chi đã bỏ ông mà lên thiên đường. Tưởng không cần phải nói rằng sự đau buồn của Hồng Đức Chương, những người làm ăn chung với ông lúc trước ở thôn ổ sa mạc, lần đầu tiên là sau hơn một thập kỷ, đã tổ chức một lễ tang cho bà vợ ông.
Đoàn xe chạy ra xa và nhỏ dần như những hộp diêm. Hồng Đức Chương kéo con lạc đà và quẹo vào con đường xưa cũ. Nó bỗng rảo bước nhanh hơn trước nhiều. Ông bỗng nhớ tới ẩn dụ trong câu “Tương lai gậy, trượng mọc mầm”, và ông không hãm được sự xao xuyến, ông cứ sợ sẽ có một người dắt lạc đà thứ hai trong chợ phiên trước chùa, và kẻ Vào ngày đưa đám tang, sa mạc tuyết lông ngỗng ấy sẽ chộp, chộp khỏi ông cái gì đó – cái đó là cái đổ dày. Họ kéo một chiếc xe có sàn phẳng mà họ gì thì ông cũng chưa được rõ. dùng để chở đá lúc trước và đặt trên đó chiếc quan tài mỏng dính, Hồng Đức Chương kéo chiếc xe và Cuối cùng như thuở còn trẻ phóng lên lưng ngựa, những người bạn cũ kẻ kéo trước, người đẩy sau. ông xoay người và nhảy lên lưng con lạc đà. Cái Con đường sa mạc cát vàng xe khó lăn bánh, ẩm đà phóng nhẹ nhàng, đúng lúc và dáng dấp đang đi ướt, nhầy nhụa, lại dài gần cả chục dặm. Người đàn của một con lạc đà cổ đang rụt cổ, cả hai có một vẻ bà câm được kéo tới xưởng đá, nơi mà Hồng Đức gì đó chỏi nhau. Con lạc đà già rất trung thành với Chương hồi ấy được giao cho công việc cho ngựa ông chủ, lúc đầu nó chạy chầm chập, lắc ít ít, rồi ăn trong một chuồng ngựa, và bà được chôn ở đó sau đó nó chạy như phóng. Bây giờ thì nó dồn hết – Đó là nơi mà người đàn bà câm đã trao thân cho cái sức già của nó, hào hển chạy bay tới bức tường Hồng Đức Chương. Ở trong sa mạc không có hoa đỏ tía. Hồng Đức Chương, ngồi trên lưng con lạc tươi đỏ thắm, cũng không có bờ cỏ xanh, cho nên đà, vươn cổ hối hả ngóng nhìn: Adiđà Phật, trên sau đó một vài người bạn đã đào bứng một số cây chợ phiên trước chùa không có người dắt lạc đà gai lạc đà và chuyển tới trồng quanh mộ. Có một thứ hai nào. vài cây gai lạc đà vì không quen thủy thổ nên đã bị chết khô, có một vài cây sống sót được, tới mùa hạ thì mọc lan quanh ngôi mộ và chúm tay dâng những đóa hoa xanh lam nho nhỏ. Hồng Đức Chương coi những đóa hoa xanh là hóa kiếp của linh hồn vợ mình, rồi ông còn mua một bộ đồng phục xanh lam công nhân mà mặc. Ông nghĩ bộ đồ cùng màu với những đóa hoa lạc đà gai, và đồng xương đồng lòng với vợ. Chiếc chuông lạc đà bỗng nhiên bị vỡ. Con lạc đà, bỗng nhiên, chân cũng chững lại, làm cho Hồng Đức Chương, tay đang kéo cương con lạc đà, thân phải chúi lại phía sau. Ngẫng đầu lên nhìn, thì thấy bay lên trước mặt một con rồng khói vàng, và nó lượn theo con đường xưa cũ dẫn tới Chùa Lạt Ma, bay lướt theo cả bốn chiếc xe, biển màu trắng trên nóc xe. Ông đã đi qua nhiều phố thị ở Miền Tây Bắc, và ông biết rằng những chiếc xe này là xe tắc xi. Xe bị một lớp bụi phủ dày. Ông đoán chắc là trên những xe ấy hẳn có người Tây ngồi trong đó, vì những tay mục tử, cả già lẩn trẻ, đã thuê xe chở súc vật đến chợ phiên trước chùa để bán, xe họ không có biển cho thuê trên chóp xe. Có lẽ tại chợ phiên trước Chùa Lạt Ma, những may mắn trong quẻ sẽ được ứng nghiệm, và chuyện tốt đẹp như chuyện tiền tự trời rơi xuống ở cầu lớn Trương Gia Khẩu sẽ tái diễn. 78 Viết&Đọc Đặc San 2021
Ông ta chậm rải cho con lạc đà nằm xuống. Những người bu quanh ông đầu tiên là những người đến từ 3 Châu từ Miền Nam: những người bán rong quần áo từ Ôn Châu, Phúc Châu, Quảng Châu. Có lẽ đây là lần đầu tiên bọn này thấy một con lạc đà cao phương bắc. Khi Hồng Đức Chương trèo khỏi con lạc đà xuống, bọn họ bắt đầu nhao nhao với ông: «Bác ơi, cho tôi mượn con lạc đà chụp hình được không vậy, bác.” «Chụp một tấm thì ông cho tôi bao nhiêu tiền đây?” Hồng Đức Chương không nói quanh co.
“Chà lão ngố này còn đòi tiền trao cháo múc nữa đấy. Cái lão già bần tiện này đang giở trò kiếm chác rồi đây.” Gã nam man cười he he và chế diễu lão bắc quốc hai má lấm lem cát bụi.
tóc vàng, có cả đầu tóc đen, không biết đó là người ngoại quốc hay Hoa kiều trở về nước du lịch, máy chụp hình treo nơi cổ thòng xuống tới ngực, thần kinh của Hồng Đức Chương đang chùng liền căng lên cái một, từ chân bức tường, hét lên một tiếng rồi bật dậy, nghĩ là cứ chạy đến mà nói với họ một tiếng, nhưng rồi thiếu cái mặt dày của bọn “con phe”, ông bỗng nghĩ ra một kế, ông đưa tay hướng về cái cổ của con lạc đà, ông lắc leng keng leng keng cái chuông lạc đà
«Rồi sao! Thế các người không bôn ba hơn 18 ngàn dặm tới đây buôn bán thì không vì tiền là vì gì?” Hồng Đức Chương chỉ dám chửi thầm trong lòng. Để bù lại chuyện thua cơ, ông ta cười: “Vào lúc mà bố của tụi bay đây này phải vượt 18 ngàn dặm, ôm súng vượt sông ra trận, thì tụi bay ở nhà ôm đéo vợ người ta.” Cái chiêu này thì thập phần linh nghiệm, nhóm du khách quay cổ lại và đi về phía con lạc đà. Hồng “Này bố già ơi, đến đây mà mua một cái khăn trùm Đức Chương nắm ngay cơ hội, trước tiên chỉ vào đầu cho vợ bố. Nhìn riết cát sa mạc, rồi có lúc cũng con lạc đà, rồi giơ hai tay lên tầm lông mày, và làm mờ mắt. Mở to mắt ra mà nhìn, đây là hàng Hồng một cử chỉ chụp hình; mấy người tóc vàng lẫn tóc Kông nghe bố!” đen quay về phía ông cười cười rồi chạy về phía con lạc đà. Hồng Đức Chương bỗng nổi nóng: «Lấy cái giẻ trải lưng ngựa mà nhét vào kẻ háng bà cố nội Đúng là thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Phần dưới gốc mầy!” Nói rồi, ông dắt lạc đà mà đi. của cây bách cổ thụ trồi ra một cục bướu to thiệt là to, dùng nó làm bệ để trèo lên lạc đà thiệt là Một đám con phe từ phương Nam tới đây mà dám tốt, trên có nhánh cây bách tươi xanh, hậu cảnh nói về người vợ quá cố của ông khơi khơi như vậy lại có bức tường đỏ thắm của chùa, với một góc sao? Hay là vì Hồng Đức Chương, giữa những cái nhắm rộng, có thể chụp được cổng Chùa Lạt Ma đầu của đám người tụ tập nhốn nháo này, không lọt vào trong bối cảnh, cho nên nhóm du khách thể kiếm ra người có tóc vàng? Gì thì gì đi nữa, này trở thành khách hàng của Hồng Đức Chương. mặt ông mỗi lúc mỗi sa sầm, như đám mây đen leo Du khách, kẻ trước người sau cởi máy chụp hình lên bầu trời sa mạc. ra khỏi cổ, chuẩn bị chụp kỷ niệm một tấm với giống lạc đà sống phía bên kia Vạn Lý Trường Bốn chiếc xe tắc xi với biển trắng trên vòm xe rõ Thành. Nhưng vì nhiều người mà lại ít lạc đà, một ràng ràng đang đậu ở góc quảng trường. Ông dáo số du khách ngoại quốc ngỏ ý muốn chụp hình con dác tìm, mà vẫn không tìm được người ngoại quốc lạc đà trước, nên cô hướng dẫn tóc dài xỏa xuống mà ông muốn tìm. Thất vọng, ông bỗng thấy toàn vai đành phải đứng ra làm vai người “hướng dẫn thân kiệt sức và ông dắt con lạc đà tới một cây chương trình trên sân khấu” : Cô dùng cái giọng bách phía ngoài cửa chùa và cột ở đó. Ông dựa vào ngọt ngào của cô trước tiên cho du khách trèo lên chân tường đỏ thắm, lôi một nhúm thuốc rê, cuộn lạc đà theo thứ tự, sau đó nói với du khách là cô sẽ một điếu, đưa lên miệng mà hút. chụp giùm hình cho họ. Ông tự trách mình đêm qua lắc xăm mà lòng không thành. Ông nhớ rất rõ lúc đó ông vừa ngậm điếu thuốc rê trong miệng, vừa thầm lặng niệm kinh cầu xin trong lòng, nhưng không thành tâm. Lòng không thành, tất quẻ không linh, người mà trêu chọc với thần thánh, thần thánh sẽ trêu chọc lại người. Chuyện này người ta gọi là quả báo, đi 18 dặm đường cát bụi thì cũng là đáng đời. Thấy trời đã đứng bóng, ông vứt đi tàn thuốc, than lên một tiếng dài, vừa chỗi dậy, bỗng nhiên thấy từ phía trong cổng chùa đi ra một số nam nữ quần áo kỳ dị, màu mắt khác thường, Adiđà Phật, có cả đầu
Chuyện chụp hình lạc đà lại sinh ra tùm lum chuyện khác, khách cỡi trên lưng lạc đà trăm kiểu, nghìn cách, làm vỡ những tràng cười to hết cỡ. Hồng Đức Chương đứng bên cạnh như một cây khô bị sét đánh, mất cái niềm vui mời khách hàng. Những du khách biết điều, họ dúi vào lòng tay ông một tờ đồng nguyên họ đổi được hay ngoại tệ, ông hững hờ không nhìn vào tờ bạc để biết là bao nhiêu, mà nhét tiền vào túi một cách máy móc. Ông, thần sắc hoảng hốt, nhìn chăm vào một du khách Hoa kiều, vì cô hướng dẫn tóc dài ngang vai sắp xếp du khách cho có thứ tự xướng lên tên của một vị đáng kính gọi là Lý Quảng. Cái tên này vừa lạ vừa quen, Viết&Đọc Đặc San 2021 79
trước hết nó làm cho tim ông run lên, rồi ông như mặt trên đã rách bươm, đồng thời hai chân cứ bối chết sững. rối đổi qua đổi lại: Ông mở to hai con mắt khô kiệt của mình rồi cẩn thận nhìn chăm chú vào vị có đầu tóc hoa râm ấy. Nước da trắng và chiều cao trung bình, tất cả ăn khớp với con người cách đây 30 năm trước; chỉ khác cái bụng trong lớp tây phục kia, có hơi nhỉnh, trên má đã có nhiều đường nhăn, trên mũi lại đeo một cái kiếng gọng vàng. Đã là người, ai cũng phải già. Có thể nào đây là anh chàng đẹp trai ngày ấy đã chạy đến “Cửa Nam”?!
“Họ hàng.” “Ồ!” Trong khi Hồng Đức Chương ngẫng đầu lên và nhìn lén ông già, thì ông ta đã ngồi đâu vô đó trên lưng lạc đà. Ông ta gom lại mái tóc trắng bị gió thổi bay tơi bời, sửa dáng theo ống kiếng máy ảnh đang kéo ra cho thích hợp, rồi cười vui vẻ, thoái mái, an nhàn thôn dã, ông còn giật giật giây cương trong tay; rồi còn làm ra cái vẻ đang nhàn du trên lưng lạc đà. Du hành với những người bạn du lịch đầu vàng lẫn đầu đen, trận nói xôn xao, sóng cười cao vút. Mượn cơ hội này, Hồng Đức Chương nhìn chăm chú vào mu bàn tay của ông già đang nắm cương, lòng Hồng Đức Chương chìm xuống, chìm xuống trong mỗi trận cười, và trong một thoáng rơi xuống thung lũng sâu vạn trượng…
Ông du khách già chẳng biết là Hồng Đức Chương đang nhìn lén mình, ông đang đứng trên một ụ đất, vươn cổ như đang ngóng nhìn sa mạc bao la. Một lúc sau ông rút khăn mù soa lau tròng kiếng, nhìn chái cong của Chùa Lạt Ma. Chẳng bao lâu tới phiên ông leo lưng lạc đà, ông chậm rãi bước về phía Hồng Đức Chương. Hồng Đức Chương, theo bản năng, cúi đầu chào ông ta, và nói thầm trong miệng: Không phải là hắn ta, đây không phải là hắn ta, chắc chắn là vì con mắt ta vốn đã khô kiệt Ông cảm thấy trời xoay mòng mòng, đất sụm lại còn có mộng mà thôi. xống, rồi ông ngồi bệt dưới chân tường Chùa Lạt Ma, nghĩ ngợi âm thầm: Ông Trời Già có mắt mà Một đôi giày bóng lộng, bước lên cục u tròn tròn không có tròng, vì cớ gì đã cho tôi, Hồng Đức trên thân cây, vừa khi ông ta xoay người để cỡi Chương, được đến tận chỗ chợ phiên này, dắt lạc đà, thì cũng là lúc bàn chân ông ta đột nhiên lạc đà kiếm tiền, họ cỡi lạc đà họ cho tiền, rồi lại bíu chặt trên u cây, không động đậy. Hồng Đức dính tới chuyện hàng chữ Hồng Đức Chương, chữ Chương ngóc đầu nhìn nhìn, nói lắp bắp, nguyên lớn, đốt trên mông lạc đà, lúc này đang bị ép dưới lai là vì ông du khách già hai mắt cứ nhìn chăm đít của lão già Hoa kiều kia. Ông muốn khóc to vào hàng chữ đốt trên mông con lạc đà. Tim Hồng mà không nhỏ lệ, muốn hét nhưng khó mà thành Đức Chương đập như trống đánh, đập thình thịch tiếng, lục phủ ngũ tạng như đang bốc cháy, ông, từ loạn cả lên. Ông già vỗ vỗ lên trán, như thể để nhớ trên xuống dưới, cảm thấy như thiêu như đốt, đau lại điều chi đó mà ông quên đã lâu. Đôi má trắng đớn không thể nào chịu đựng được nổi. Ông sợ ửng hồng lên, ông ta từ từ quay đầu lại. Ánh mắt tóc vàng lẫn bọn tóc đen, nhìn cái vẻ lạ lùng trên phóng trên bộ đồng phục màu xanh lam, rồi lượn khuôn mặt ông ấy, ông cầm lấy mép mũ kéo xuống lờ trên đó, và với giọng khàn khàn hỏi: che lấy mi mắt, rồi như người bị đau tim, ông nằm co dưới chân bức tường của chùa, bất động. “Lạc đà này là của ông?” “Tiền… tiền…” Hồng Đức Chương cảm thấy đầu căng ra như đang đấu trí: Hồng Đức Chương không đưa bàn tay ra. “Lạc đà mượn.”
“Này chú dắt lạc đà, tôi có vài điều muốn nói với chú.” Ông già cúi cái vành bụng hơi nhỉnh của “Người chủ lạc đà ở đâu?” Trái cấm của ông già cứ mình. “Chú có thể nói cho tôi biết người chủ con chao lên chao xuống trên cổ. lạc đà ở chỗ nào được không?” “Người chủ lạc đà là bạn của ông?”
Hồng Đức Chương trơ như tượng đất.
Hồng Đức Chương nhìn xuống đôi giày đế mủ với “Xin lỗi chú, thế ông ấy công tác ở đơn vị nào 80 Viết&Đọc Đặc San 2021
vậy?”
chùa, chủ nó lặng thinh cầu nguyện…
Hồng Đức Chương, giòng nước mắt cay đắng Tùng Duy Hi bỗng trào ra khỏi hốc mắt, gục đầu mình vào giữa Sửa chữa xong 22 III 1988 hai đầu gối. Chú thích của dịch giả: Có tiếng nói ngọt ngào của cô hướng dẫn viên du *板門店: Bản Môn Điếm chứ không phải Bàn lịch: Môn Điếm. «Này đồng chí dắt lạc đà, ông Lý ấy muốn hỏi ông *Trong nguyên bản dùng chữ 心田: tâm-điền: tấm điều gì đó! Đồng chí trả lời đi chứ, ông kiều bào lòng; không ăn nhập gì ở đây; có thể là lỗi đánh này muốn gặp người chủ của con lạc đà đấy.” máy. Hồng Đức Chương bị dồn vào chân tường trước *Khi trao đổi tù binh, tù binh Trung Cộng được chuỗi lời này. Đột nhiên ông lấy cổ tay áo che hốc phép chọn “Cửa Bắc” về lại tổ quốc Trung Cộng, mắt lại, từ chân tường nhảy dựng lên như một trái hoặc “Cửa Nam” về phía Phe Tự Do. banh da, hét to tới khàn cả giọng: Nguồn:https://www.99lib.net/book/2666/ «Tôi là một kẻ mù…” index.htm “Tôi là một thằng câm...»
Hồng Đức Chương kiệt sức, không chịu đựng được nữa, lại ngồi xuống chân bức tường của chùa. Tiếng ồn ào không đập vào tai nữa, mọi sự lại trở về trong thinh lặng. Đã lâu lắm rồi, ông mới nghe tiếng chim kêu phảng phất trong cây bách. Hồng Đức Chương mở mắt ra. Bóng cây đã nghiêng, chợ phiên cũng vừa vãn. Sau khi đã tỉnh giấc khỏi cõi hỗn độn nửa mơ nửa tỉnh, ông cảm thấy đói bụng. Nơi bức tường chùa, ông chống tay, loạng choạng đứng dậy, thấy quầy bán bánh rán vẫn chưa dọn, bèn tính mua 2 cái để ăn, ông chỉ cần bước 2 bước, mà ông vẫn đứng trơ ra đó. Nguyên do ông ta dựa vào bức tường là vì bị choáng váng, một ít tiền ông kiếm được và ngoại tệ mà du khách đã cho ông, tất cả đã bị “bọn móc túi” thọc vào túi ông lấy mất đi rồi. Ông to họng chửi lung tung một trận nơi đường chính. Sau đó, ông lại tự chửi mình sao lại đến nơi này cho khổ. Khi ông cảm thấy miệng khô, lưỡi rộp, tới lúc đó ông mới nhớ con lạc đà đứng bên đường. Quay đầu nhìn qua, con lạc đà vẫn chưa bị ai đó dắt đi. Nó đứng nhìn vào bức tường, nhắm mắt, trơ như gỗ, không yêu, không ghét, không buồn, không vui, cũng như thế, nhìn bức tường thắm đỏ của Viết&Đọc Đặc San 2021 81
Về tập thơ Ở Đây của Khánh Hà Phạm Xuân Đài
Khánh Hà giống như câu thơ của Huy Cận: Một chiếc linh hồn nhỏ Mang mang thiên cổ sầu
Chiếc linh hồn nhỏ của Khánh Hà đã đi vào biết bao là mang mang thiên cổ, và quần tụ vào một nơi chốn và một thời điểm gọi là Ở Đây.
Ở đây một góc trong đời «Sầu» không hẳn là buồn, mà là sự rung động của Nhìn ra hình tướng cõi người lao xao thi nhân. Và cái «mang mang thiên cổ» chính là Nhìn lên trăng vẫn nguyên màu những khoảnh khắc không-thời-gian mà tâm hồn Cõi hư, cõi thực, cõi nào, cõi ta? thi nhân nắm bắt được, những chiều kích đặc biệt chỉ có cảm hứng thi ca thỉnh thoảng thấy ra và diễn «Góc trong đời» có thể là mảnh đời tị nạn của tác tả bằng ngôn ngữ riêng của mình. Nói một cách giả ở Na Uy vùng Bắc Âu, hoặc rộng hơn, là chỗ khác, hai câu thơ trên của Huy Cận chính là định đứng ở bất cứ đâu đó của một người giữa cuộc nghĩa của sự làm thơ. Ít ra đối với tập thơ này của đời này. Sống với những hình tướng của đời sống Khánh Hà. chung quanh và của chính mình, đồng thời tâm hồn cũng vươn tới những cõi xa xôi, mang tính chất 82 Viết&Đọc Đặc San 2021
vĩnh cữu «vẫn nguyên màu» mà dấy lên những thắc mắc siêu hình. Bốn câu thơ ấy có thể xem là bản tổng kết những gì chiếc linh hồn nhỏ của chúng ta đã sầu với mang mang thiên cổ. Tình yêu quê mẹ là một mảng sầu không lúc nào nguôi nơi Khánh Hà. Từ Việt Nam vượt biên ra đi sống đã nhiều năm tại Bắc Âu, cuộc đời tị nạn đã ổn định từ lâu, tâm hồn bà ví như một mặt hồ, tưởng rất bình an trong cuộc sống mới, nhưng không, vẫn hay cuộn lên những đợt sóng rào rạt của hoài niệm. Nhớ quê. Quê miền Nam, êm đềm, nên thơ, những vườn cây, sông nước, ruộng đồng đã làm nên tâm hồn của người con gái bé nhỏ mấy mươi năm trước. Các bài thơ rất trong sáng, mang hình ảnh và tình cảm đẹp, khiến chúng ta liên tưởng đến những bài thơ về tình quê của Đoàn Văn Cừ hay Tế Hanh ngày xưa đã được đưa vào chương trình học trong nhà trường của miền Nam trước đây. Ngày nay nếu cần dạy cho học sinh biết các hình ảnh của quê hương miền Nam và tình cảm của một người xa xứ nhớ thương quê nhà thì những bài thơ trong tập này như Những Mùa Xuân Qua, Giữa Vọng Các Nhớ Sài Gòn, Tháng Chạp Quê Nhà, Qua Cầu Mỹ Thuận... hoàn toàn xứng đáng được tuyển chọn cho công việc giáo dục đó. Từ Thái Lan vọng nhớ về quê hương vừa gần mà vừa xa diệu vợi Hàng dừa ngả nghiêng theo gió lay Bên kia bờ có gió chiều nay Mái nhà xưa còn ai thắp lửa Chiều tà thăm thẳm vết chim bay Hoặc: Sầu riêng thơm một góc đường Mơ hồ tiếng gió trong vườn Lái Thiêu Chôm chôm má thắm yêu kiều Dưới tàn măng cụt màu chiều rất xanh
nhiều chuyện, chỉ có thi nhân lặn lội trong ấy thì mới hy vọng thấy được và nói ra «lắm điều hay.» Khuynh hướng triết lý, siêu hình nơi Khánh Hà rất mạnh, có thể một lúc nhìn suốt con đường của loài người từ thuở ý thức về chính mình vừa bừng sáng Con họa mi lên tiếng buổi bình minh Socrate thức dậy nghe logos thì thầm cầm chén thuốc độc cụng ly chân lý. Dưới chân Hy mã lạp sơn Thích ca Mâu ni chiếu tuệ giác... đến thời hiện đại khoa học kỹ thuật mở ra một quả đất không biên cương mọi người có thể cùng lúc gởi cho nhau lời chúc tụng có thể hát ca bằng tiếng nói chung từ trái tim nhân loại. Cũng có thể từ những sự, việc cụ thể ở đời, tác giả nhìn ra cái phần bên kia của hình tướng. Thời gian với Khánh Hà không phải chỉ là chiếc đồng hồ với thời khóa biểu của đời sống xã hội, mà là sinh ra từ nhật nguyệt em tên là thời gian giữa trời đất mang mang chảy một dòng bất tận Khánh Hà cảm nhận thời tiết bốn mùa không chỉ với nỗi vui buồn thông thường với cảnh vật, mà còn nhìn ra một quy luật nào đấy bàng bạc trong đất trời Lửng lơ vòng thời gian Không khuyết cũng không tàn Mái tây mặt trời lặn Phương đông rực ánh vàng
Trăm ngàn năm trôi qua Trời đất vẫn giao hòa Thu rụng một hạt giống Những bài thơ về quê hương đều có hình thức quen Xuân nở một cành hoa. thuộc, hoặc lục bát, hoặc thất ngôn, thích hợp để diễn đạt các hình ảnh cùng tình cảm thuộc loại cổ Nói gì đến kiếp người! Khánh Hà nhìn cuộc đời điển như dòng sông xưa, ngôi làng cũ... Đó chắc với con mắt đầy nhân ái, thương cảm từ trường hẳn là một lựa chọn đầy ý thức của tác giả. hợp một em bé gái Việt Nam bị lừa đi làm điếm ở nước ngoài đến cái cảnh «những đứa trẻ Sudan Tình cảm của người tị nạn vọng tưởng về quê chỉ còn da bọc xương ngồi lê lết ngoài đường.» hương thì là điều tự nhiên, nhưng nói được điều Nhưng khi đối diện với dòng sông Hằng ở Ấn Độ ấy ra bằng vần điệu như nỗi nhớ thương chung buổi sớm tinh sương đầu thiên kỷ mới, tác giả mới cho cả một lớp người thì không phải ai cũng làm hình như cảm nhận được toàn vẹn nỗi vô thường được. Những bài thơ ấy sẽ từ một nỗi niềm rất của mọi sự trước «mặt sông rực rỡ bình minh, lòng riêng tư của một người thành tài sản chung cho sông thăm thẳm, chuyên chở kiếp nhân sinh» nhiều người. Người về đây làm hạt bụi ban sơ Nhưng cái cõi mang mang thiên cổ nó mông lung chìm vào bát ngát thẳm sâu lắm, không chỉ dừng ở tình quê hương Ngàn vạn năm qua vốn là một cái gì cụ thể và trực tiếp. Kiếp người rất Giòng sông chảy mãi Viết&Đọc Đặc San 2021 83
Hạt bụi còn là
chết và thản nhiên với nó thì hẳn rất yêu đời sống. Những bài thơ trong tập Ở Đây là những cái nhìn ngắm đầy âu yếm và chí tình với những gì vẫn xảy ra chung quanh, từ việc cỏn con như một cái cây nở hoa cho đến những biến chuyển lớn lao của thời đại, từ cái Tết xa xưa thuở nhỏ ở quê nhà cho đến tứ thời bát tiết của xứ Na Uy tị nạn. Đọc thơ Khánh Hà chúng ta cảm thấy được chia sẻ nhiều. Những gì ta ấp ủ trong lòng, tác giả nói dùm hộ, thật và hay hơn chúng ta tự bộc lấy. Những gì ta chưa có trong lòng, tác giả mách cho chúng ta biết. Giác quan của thi nhân khác người phàm, họ có thể thấy và cảm nhận nhiều cái chúng ta không tự biết được. Thơ của họ cho chúng ta rất nhiều ý nghĩa từ những cái ta vẫn tưởng chẳng có ý nghĩa gì, vì quá thông thường chung quanh.
Đã chạm đến những ban sơ, bát ngát, đã nhận chân hình tướng của mình cũng chính là hạt bụi, Khánh Hà chẳng còn sợ hãi gì khi nói đến cái chết. Khi đang sống thì việc gì nói về chết, thế mà Khánh Hà cảm nhận ra nó luôn, nhắc nhở đến nó như đó chẳng qua là một phần của nhân sinh. Người ta có thể nói đến cái chết như là thái độ giận lẫy với cuộc sống, dùng cái chết như một sự thách đố, như một giả thiết để nhắc nhở một chuyện gì đấy (Khánh Hà hình như cũng thế), nhưng Khánh Hà cũng biết nhìn cái chết như một kết thúc nếu không đầy tích cực thì cũng chẳng có gì để sợ hãi hay phiền hà, thỉnh thoảng cần nhắc đến để mọi người không quên rằng dù sao thì cuộc sống của chúng ta cũng có một giới hạn. Về một chuyến xe buýt thường ngày thôi, sau khi tả người đi xe và phố xá, tác giả Ở Đây của Khánh Hà mang lại cho chúng ta cả kết thúc bài thơ: một thế giới muôn điệu, chúng ta nợ tác giả nhiều. Nhưng ngẫm lại, tác giả cũng nợ chúng ta, người Xe chạy qua thời gian đọc. Vì chia sẻ và được chia sẻ phải là một hành Qua một nghĩa trang vi tương tác, trong đó người chia sẻ và người được Có những vuông mộ chí xếp hàng. chia sẻ đều hạnh phúc như nhau. Diễn Đàn Thế Kỷ
Hệt như chuyến xe buýt ấy biểu tượng cho cả một cuộc nhân sinh vậy. Một người ý thức được cái
HÁI LỘC ĐẦU NĂM
Em nhớ giao thừa phút Xuân sang Hoa mai rực rỡ sắc tươi vàng Cơ trời nhè nhẹ vần xoay chuyển Theo tiếng pháo Xuân nổ rền vang
Lễ Phật xong rồi ra vườn sau Muôn hoa, muôn vẻ với muôn màu Nhưng em thích nhất loài hoa đẹp Gọi Nhất Chi Mai - đỏ sắc mầu
Giao thừa mẹ cúng cũng vừa xong Em thay áo mới dệt tơ hồng Năm mới xuất hành đi lễ Phật Sau rồi sẽ hái lộc đầu năm
Mẹ ngắt một cành hoa xinh xinh Đem về cắm trong chiếc độc bình Bảo : «Xem hoa đến khi nào héo .... Đoán vận trong năm đến với mình»
Ngôi chùa em vẫn đến nơi đây Vĩnh Nghiêm đêm ấy người đông đầy Trầm hương nghi ngút dâng lan tỏa Chuông ngân thánh thót vang xa bay
Riêng em không nghĩ lúc hoa tàn Là thôi ... may mắn sẽ mau tan Vì Xuân tuy hết nhưng còn mãi Một cành mai nở với thời gian * Ngọc Tuyền
84 Viết&Đọc Đặc San 2021
Cuối Đường Chưa Đến Dương Kiền
12 Sài Gòn sau Tết Nguyên Đán là mùa khô, nóng. Như bất cứ người dân xứ nóng nào, người Sài Gòn sau bữa cơm trưa là phải ngủ một giấc, kể cả những người đạp xích lô cũng tìm bóng mát của một gốc cây làm một giấc ngon lành. Đường Charner, đường Bonard, đường Catinat nhộn nhịp là vậy, nhưng buổi trưa lâu lâu mới có một chiếc ô tô chạy qua vội vã hay vài người đạp xe uể oải. Khi nắng tắt, những con đường trung tâm ấy lại bừng lên sức sống, Từ ngày đến Việt Nam tháng 7 năm ngoái nhận chức vụ Tổng tư lệnh, tướng Navarre ở tại một biệt thự to lớn kiểu thuộc địa đã do tướng Leclere trưng thu làm đại bản doanh. Sau một ngày bận rộn với các buổi họp, các báo cáo, các buổi tiếp tân, ông lui về đây ẩn náu trong các suy tư riêng của mình, chắp nối lại những sự kiện rời rạc để có một toàn cảnh của cuộc chiến mà ông có trách nhiệm chỉ huy. Là một quân nhân, một tướng lãnh, khi đã nhận nhiệm vụ chỉ huy không ai lại cam chịu trước sự thất bại nhưng chỉ sau một thời gian ngắn ông cay đắng nhận thấy gần như không một ai dành cho ông cơ hội thành công, từ thượng cấp của ông, đồng minh của ông, đồng bào ông ở chính quốc, bọn thực dân lõi đời, bọn con buôn, các tay nhà báo, các ”chính khách” bản xứ lăm le cơ hội, các
tướng cướp vùng lục tỉnh Nam kỳ hay xứ Mèo, xứ Thái... Nhưng là một cấp tướng, nếu không có một ý chí sắt đá thì ít ra ông cũng có ý chí để đứng vững, để đã nhận trách nhiệm thì không thoái lui, để làm cái gì tốt nhất có thể làm được trong điều kiện ông có. Với những tin tức tình báo, với những phân tích của các phòng, ban, ngành, binh chủng chuyên môn, ông làm việc với các phụ tá của ông để có ”kế hoạch Navarre” đệ trình về chính phủ đáp ứng cái mà, bằng một cách nào đó, ông được người ta làm cho hiểu nếu không ”thắng” thì cũng chứng tỏ cho Việt Minh hiểu họ cũng không thể đánh bại nước Pháp và cần phải nhân nhượng. Nhưng với cái giá bao nhiêu? Rẻ mạt! Không tăng quan, không tăng kinh phí, chỉ nói chung chung ”kêu gọi sự giúp đỡ của nước Mỹ” trong khi địch thủ của ông không còn là đạo quân nông dân của năm, bảy năm trước mà là các đại đoàn được trang bị đầy đủ, được huấn luyện tốt, chỉ huy tốt, có tinh thần tốt, có cả một dân tộc tự nguyện hay bị bắt buộc bằng một cách nào đó, hỗ trợ. Những đêm lui về nơi trú ẩn kiên cố của ông, ông tạm thời trốn thoát những âm mưu, những kèn cựa để hưởng không khí thoáng mát về đêm thoang thoảng hương ngọc lan trong khu vườn rộng, mùi hương mà ông ưa thích biết bao. Chỉ mùi hương ấy Viết&Đọc Đặc San 2021 85
có thể làm dịu thần kinh căng thẳng của ông. Chính trong mùi hương ấy ông thấy bừng sáng lên trong cái rối rắm của những cuộc thảo luận liên miên với Bộ tham mưu: chiến dịch Đông-Xuân năm nay của địch không phải là châu thổ sông Hồng mà là hướng Tây Bắc nhằm chiếm Thượng Lào rồi dọc theo sông Mê-kông uy hiếp Nam Đông Dương. Ông phải chặn họ lại trước khi quá muộn, không phải ở Vientien hay Luanbrabang là những nơi không có điều kiện cố thủ, mà ở ngay trên đường tiến quân của họ, ở Điện Biên Phủ. Nếu họ chấp nhận giao chiến, lần đầu tiên quân Pháp có cơ hội phát huy ưu thế mà đối phương không có, đó là không quân. Điện Biên Phủ sẽ là tập đoàn cứ điểm không-bộ binh lớn nhất trên chiến trường Đông Dương từ trước đến nay. Nếu họ không chấp nhận giao chiến, quân Pháp cũng nhẹ thở được một thời gian. Nhưng không phải ông không băn khoăn nơi ấy là một lòng chảo không có lối thoát, bao quanh bởi những cao điểm quân Pháp không thể kiểm soát hết được, nếu Việt Minh có khả năng pháo binh hơn điều mà ông được biết, nếu phi đạo vì lý do gì không sử dụng được...Ông nghĩ đ ̣ến bức tường lửa pháo binh và người sĩ quan pháo binh đến tìm nhưng không gặp trước khi ông lên đường sang Đông Dương, để lại lời nhắn ”tình nguyện theo đại tướng sang phục vụ tại Đông Dương”, đại tá Piroth, nổi tiếng trong các chiến dịch hồi chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 20 tháng 11 ba tiểu đoàn dù nhảy xuống Điện Biên Phủ, chỉ trong bốn ngày tăng lên thành sáu tiểu đoàn, một tiểu đoàn pháo binh, sân bay đã sửa xong, đường bay đã mở. Mũi tên đã bắn đi, không quay trở lại được nữa. Lông nhọn của con nhím đã xù ra, hầu hết các tướng tá dưới quyền ông đều lạc quan, chỉ có một số chi tiết nẩy sinh mà họ nghĩ có thể giải quyết được. Cả những nhân vật dân sự và quân sự tai mắt đến viếng Điện Biên Phủ cũng không ai tỏ ý gì lo ngại đặc biệt. Tinh thần lạc quan còn biến thành cả sự nôn nóng mong Việt Minh tấn công đến nỗi khi tin tình báo cho thấy dấu hiệu Việt Minh sẽ tấn công ngày 25 tháng 1 nhưng rồi điều ấy không xảy ra, có người đã tắc lưỡi tiếc rẻ.
biết một cách lờ mờ qua những cuộc nói chuyện riêng cho ông cảm tưởng đây cũng chỉ lại là một đòn chính trị để xoa dịu dư luận quần chúng. Chẳng ai hỏi ý kiến gì ông, hình như cả ông Tổng cao ủy De Jean cũng vậy, trong khi chuẩn bị cho hội nghị Genève với sự tham dự của Việt Minh và các đồng minh thân thiết của họ, Nga Sô và Trung Quốc. Mãi giữa tháng 3 ông mới được biết về tầm cỡ của hội nghị Genève thì Điện Biên Phủ đã nguy ngập lắm rồi.. Cái tin về hội nghị Genève đem đến cho ông, Navarre, và những người đang chống giữ ở Điện Biên Phủ, hai tâm tṛạng trái ngược kỳ lạ: thất vọng và hy vọng. Đối với ông giờ đây đã rõ, Việt Minh vào những ngày cuối năm 1953 đầu năm 1954 tuy bao vây Điện Biên Phủ nhưng vẫn còn làm bài tính hơn thiệt trong quyết tâm đánh chiếm, không chắc lắm họ chịu một tổn thất nặng mà không có tính cách quyết định cuộc chiến. Nhưng khi chính phủ Pháp chấp nhận một hội nghi quốc tế mà họ sẽ ngồi ngang hàng để mặc cả thì cái giá cao bao nhiêu họ cũng sẵn sàng trả để đổi lấy một chiến thắng vang dội. Khi chiếm đóng Điện Biên Phủ, tuy không phải là một cú tháu cáy, ông chỉ mong chặn Việt Minh tiến sang Thượng Lào và họ sẽ từ bỏ kế hoạch của họ hơn là một trận quyết chiến chiến lược mà dần dần ông không tin chắc ở chiến thắng nữa. Ông không dự trù sẽ sớm có một hội nghị quốc tế tầm vóc hội nghi Genève khiến đối phương, từng chứng tỏ luôn luôn phối hợp các hoạt động quân sự với chính trị, dồn mọi nỗ lực cao nhất cho một chiến thắng bằng mọi giá. Còn những người ở Điện Biên Phủ? Khi Béatrice và Gabrielle mất, cụm cứ điểm Dominique cũng không giữ được, chỉ còn cụm Ellian, cụm Huguette và phân khu trung tâm bây giờ đang bị bóp nghẹt dần vì các bãi thả dù không sử dụng được nữa, chỉ còn cách liều lĩnh nhảy ngay xuống phân khu trung tâm trong đêm tối thì hội nghị Genève là tia hy vọng, mơ hồ đấy nhưng ngoài ra còn biết trông mong vào đâu. Phá vây theo kế hoạch Albatros ư? Chẳng mấy ai tin tưởng có thể thoát thân được. Mùa mưa khiến Việt Minh phải khựng lại ư? Chưa thấy dấu hiệu gì như vậy. Không quân Mỹ can thiệp ư? Tia sáng bừng lên rồi lại tắt đi nhanh chóng. Khi tin hội nghị Geneve sẽ đi vào thực chất cuộc thảo luận ngày 8 tháng 5 thì người ta cầu mong một cuộc ngưng bắn sớm sủa, nếu Điện Biên Phủ vẫn còn cầm cự được tới ngày ấy.
Ngày 25 tháng 1 cũng là ngày họp hội nghị tứ cường Mỹ, Nga, Anh, Pháp tại Berlin. Trong hội nghị này phái đoàn Pháp yêu cầu mở một hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề hòa bình ở Đông Dương. Tin này chắc chắn được Nga thông báo ngay cho Việt Minh với đầy đủ chi tiết trong khi Navarre chỉ Người ta hy vọng. Người ta nghe tin đài Con 86 Viết&Đọc Đặc San 2021
Nhạn ở Hà Nội. Người ta hỏi đại úy Pouget, tùy viên của tướng Navrre, từ nhiệm để cùng tiểu đoàn dù số 1 của mình nhảy xuống Điện Biên Phủ. Pouget trả lời nước đôi để ai muốn hiểu ra sao thì hiểu. Mà thật sự thì Pouget có hiểu gì ̣đâu. Quá khứ một trăm năm, cuộc chiến chín năm mà người ta có thể vừa ngồi lại với nhau đã có thể đồng ý ngưng bắn sau vài giờ hay vài ngày mặc cả ư? Nhưng người ta cứ hỏi người mới tới về hội nghi Genève, dù anh ta chỉ là một anh đại úy trong khi chủ của anh, người mà anh từng cắp cặp theo hầu, cũng chỉ được Paris hỏi ý kiến như một thủ tục. Đầu tháng 5 trời miền Nam chuyển mưa nhưng không mưa được càng oi bức nhưng hương ngọc lan thì vẫn dịu dàng trong khu vườn của viên tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh, ở đó không phải ông chỉ lẩn trốn những phiền toái không dính dấp đến nhiệm vụ chiến đấu của ông mà còn lẩn trốn những bội bạc không cần che dấu của những người từng ca tụng ông, những cái quay lưng của những người từng tự nhận là bạn ông. Chỉ có hương ngọc lan vẫn tỏa thơm trong những đêm oi nồng không ngủ của ông. Ông biết không bao lâu ông sẽ từ giã nơi đây và cũng biết điều gì ông sẽ nhớ lâu hơn cả.
13 Sau khi chạy thoát khỏi Béatrice trong đêm 13 tháng 3, nhóm Neron được ghép vào một đại đội của tiểu đoàn dù lê dương 1 B.E.P và được đưa lên cứ điểm Éliane 2, là một trong năm ngọn đồi ở bên tả sông Nậm Rốm án ngữ mặt phía đông phân khu trung tâm. Éliane 2 là ngọn đồi đá duy nhất ở Điện Biên Phủ, sườn đồi hiểm trở, nhìn xuống một giải đất bằng, nơi mà người ta đặt cho nó cái tên ”Công trường Champs Élysées” nằm giữa hai ngọn đồi thấp hơn là đồi Hói và đồi Giả và mỏm đông nam của Éliane 2. Nơi đây trước kia từng có dinh thự viên công sứ Pháp, giờ đây đã đổ nát tan hoang, chỉ còn lại cái hầm được củng cố thành chỉ huy sở của cứ điểm.
được. Mà đêm nào không có tiếng động, tiếng đào đất nghe rõ mồn một, gần đến nỗi như nghe thấy cả hơi thở của người đào đất. Trong giây phút như thế Neron và đồng đội không suy nghĩ gì, không sợ hãi, chỉ sẵn sàng một trái lựu đạn để nổ tung cùng kẻ địch nếu họ đào đ ̣úng ngay hướng ”cái chuông”. Chỉ sáng hôm sau, khi được ngủ vùi trong đường hào an toàn của mình họ mới nghe thấy cả tiếng đào đất trong giấc ngủ, choàng tỉnh dậy, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Ở Điện Biên Phủ có những điều không ai ngờ nhất cũng có thể xảy ra, Neron nhận được thư của mẹ, có cả tấm hình của bà và đứa em gái khác cha. Phải nói quân bưu của Pháp chu đáo, họ gói những bao thư giao cho máy bay không thả dù mà ném thẳng xuống trung tâm, và những tay chơi trò đánh đáo từ trên cao này cũng cừ lắm nên ít khi bị lạc sang trận địa đối phương. Bà viết câu mở đầu bằng tiếng Pháp, làm như chàng đi lính cho Pháp thì đã trở thành người Pháp :”Cher mon fils”, sau những câu thăm hỏi thông thường, bà viết :”Mẹ không thể nào tưởng tượng nổi con đang ở đâu, làm gì, có nguy hiểm lắm không, liệu rồi sẽ ra sao. Tất nhiên mẹ đọc báo, hàng ngày người ta viết về Đông Dương, về Điện Biên Phủ, về hội nghị Genève nhưng mẹ vẫn không làm sao hiểu nổi cuộc chiến tranh xa cách mẹ hàng chục ngàn cây số mà trong đó lại có con của mẹ đang cầm súng bắn giết hay bị người ta bắn giết. Những người Việt Nam thế nào hả con? Họ có tàn ác lắm không? Nghe nói họ là những con người nhỏ bé nhưng nhanh nhẹn và lắm mưu mẹo lắm phải không?
Con biết không, mẹ vẫn luôn luôn tự hỏi liệu có phải vì mẹ mà ngày nay con đến nông nỗi này không? Nhưng mẹ cũng không chắc là nếu trở lại năm 1941 ấy mà dù biết hậu quả ngày nay mẹ sẽ khước từ tình yêu của ông Gunter? Hình như con cũng đâu có ghét ông Gunter, con chỉ không yêu ông ấy như cha con thì là điều tất nhiên rồi, mà con cũng đâu nhớ nhiều về cha con phải không? Tội nghiệp con trai bé bỏng của mẹ, con chẳng Khi mới tới, đại đội của Neron phải vội vã khơi sâu được bao nhiêu tuổi thơ hạnh phúc! đường hào nông choèn mà bọn lính Maroc đào, đá cứng làm đổ mồ hôi và chảy máu tay nhưng À, con biết không, ông Gunter vẫn còn sống. Binh còn hơn phơi mình cho pháo thủ Việt Minh. Ngoài đoàn của ông ở Nga bị đánh lui dần về Ba Lan ra là luân phiên làm nhiệm vụ ”cái chuông”, đêm trong mùa thu năm 1944, ở đấy ông bị thương và đêm từng tổ ba người bò xuống đồi Hói nằm phục bị thất lạc đơn vị. Ông được một người đàn bà trong bất cứ hố đạn hay một đoạn đường hào nào Ba Lan dấu ông trong hầm nhà bà, băng bó vết đó để báo về chỉ huy sở tiếng động khả nghi nghe thương, nuôi ông ăn cho đến khi nước Đức đầu hàng. Ông ra trình diện, bị đưa vào trại tù binh, Viết&Đọc Đặc San 2021 87
hơn một năm sau thì được phóng thích. Bằng một cách nào đó không biết ông đã trở lại được Ba Lan, cưới người đàn bà ấy (chồng bà chết từ đầu chiến tranh) và đưa bà ta về Đức. Cuộc đời ông thật kỳ lạ, ông được những người đàn bà của những đất nước thù địch thương yêu và hình như ông cũng thương yêu những đất nước mà ông phải cầm súng chống lại như chính nước ông vậy. Ông viết cho mẹ: ”Anh thấy hạnh phúc nhưng không lúc nào không yêu em!”. Phần mẹ, mẹ có trách ông không trở lại với mẹ? Không, mẹ không trách, người đàn bà kia đã hy sinh cho ông đáng được ông đền đáp. Mẹ thì sau những tháng, những năm đầu tủi nhục, lao đao, bây giờ mẹ đứng vững rồi, mẹ cũng có hạnh phúc của mẹ, hạnh phúc không lúc nào không yêu ông! Ông cũng có nhắc đến con, ông viết ông mong con được sống trong hòa bình (ông không biết con đăng vào lê dương) trên một đất nước ”đẹp đến thế, những vịnh ấy, núi ấy, những con suối cá hồi lội ngược dòng mỗi năm ấy, những đêm trắng mùa hè, những đêm đông có ”tia Bắc cực” diễm ảo.” Con ơi, nơi ấy vùng nhiệt đới làm gì có ”tia Bắc cực” con nhỉ, chỉ có rừng già đầy đe dọa, chỉ có bom rơi đạn nổ. Ôi, khốn khổ thân con, Neron thương yêu của mẹ! Bà viết một đoạn kể chuyện đứa em gái của chàng mà Neron không còn hình dung được ”nó tô màu những trái trứng Phục Sinh đẹp lắm, giá mà gửi được cho con” rồi kết thúc bức thư bằng cách nhắc chàng :”Con ơi, đã sắp đến mùa Phục Sinh rồi. Mùa Phục Sinh là mùa của sự sống, của hy vọng. Con nhớ chứ, cứ đến mùa Phục Sinh thì tuyết tan, những cây huệ Phục Sinh từ dưới mặt đất còn giá lạnh bỗng vươn lên, nở những bông hoa vàng tươi vui, đẹp đẽ đến thế. Không biết ở nơi con có loài hoa này không nên mẹ và em chụp cạnh cụm hoa mới nở trong vườn nhà với hy vọng chan chứa của mẹ vào sự bình an của con, của thể xác con và nhất là của tâm hồn con. Mẹ cầu nguyện cho con, tất cả đều ở trong tay Chúa, con ạ!”. Bức thư Neron nhận được đúng ngày chủ nhật lễ lá 11 tháng 4, Éliane 2 vẫn còn đứng vững như một phép lạ sau đợt công kích năm quả đồi của Việt Minh đêm 30 tháng 3 mà chính Langlais vào lúc nửa đêm không liên lạc điện đài được với chỉ huy sở tưởng cứ điểm đã bị địch tràn ngập, toan ra lệnh cho pháo binh xóa sổ thì Bigeard can thiệp kịp thời, quát vào trong máy là Éliane 2 vẫn còn đang cầm cự. Phải chăng mẹ chàng đã cầu nguyện cho 88 Viết&Đọc Đặc San 2021
chàng, cái đêm mà Neron không bị một vết chày sướt nào trong khi đồng đội chàng lần lượt ngã gục và chàng không bao giờ nghĩ rằng bình minh còn có thể tới nhưng khi phía chân trời bắt đầu nhợt nhạt vang lên tếng xe tăng từ Mường Thanh chạy ra, tiếng máy bay bearcat gầm rú nhào xuống thả bom, chàng mới biết là mình còn sống. Chung quanh chàng không phân vuông nào không bị đạn cày xới, xác chết hai bên lẫn lộn với nhau, ôm lấy nhau, đè lên nhau, khi nắng lên cao thì ruồi nhặng bắt đầu bu lại. Dù đói, dù khát đến đâu người ta cũng khó lòng nuốt được cái gì trong mùi xác chết bắt đầu bị phân hủy. Ngày 30 tháng 4 là ngày lễ Cameron, ngày lễ truyền thống của binh chủng lê dương kỷ niệm chiến thắng Cameron, cứ điểm Éliane 2 được bốn chai rượu vang của De Castries gửi tặng để mừng lễ, mỗi trung đội được một chai, nghĩa là mỗi người được một ngụm. Một ngụm thì sao gọi là lễ được trong khi mà, do sự nhầm lẫn nào đó khi thả dù, một thùng đựng rượu vang đông lạnh rơi xuống Champs Elysées giờ đây là no man’s land, chỗ không người. Lính lê dương đâu có thể bỏ cả một thùng rượu vang như thế vào đúng ngày lễ Cameron nên cuối cùng thì thiếu tá Coutant cũng đành làm ngơ để cho một tiểu đội trong đêm tối mang về được thùng rượu không sứt mẻ người nào mà còn làm nổ tung được một lô cốt của địch. Tin này được bộ chỉ huy điện ngay về Hà Nội nhưng không nhắc đến thùng rượu vang và chỉ ngày hôm sau đã lên trang nhất các nhật báo tại Paris. Trong suốt tháng 4 Éliane 2 còn bị tấn công nhiều lần nữa nhưng nó cái gai ương ngạnh Việt Minh cố nhổ không được, mà quân Pháp cũng không đủ sức đánh bật họ ra nửa đồi phía nam mà họ chiếm được. Hai bên chấp nhận một lằn ranh thay đổi mỗi ngày nhưng bên vây hãm chưa làm sao vươn tới được hầm ngầm cố thủ của Pháp trên đỉnh đồi đất đỏ, các cuộc tấn công giảm cường độ nhưng bên bị vây hãm tin rằng đối phương ̣đang ”làm một cái gì đó” mà không ai biết là cái gì nhưng chắc chắn không phải là điều đáng mong đợi. Tuy suốt ngày đêm chui rúc trong các đường hào và lô cốt cố thủ, những người lính lê dương trên Éliane 2 cũng có những giây phút ”giải trí” đáng tiền, họ quan sát những trận đánh giành giật Éliane 1 khi lọt vào tay Việt Minh, lúc bị quân Pháp lấy lại. Chính là trong đêm chủ nhật lễ lá ấy, sau suốt một ngày chiến đấu để giành lại quả đồi trong tay Việt Minh, hai đại đội của tiểu đoàn 2/1 R.C.P
được điều tới giữ quả đồi ấy chống lại trung đoàn 98 của đại đoàn 316 phản kích để chiếm lại. Đến nửa đêm thì tình thế trở nên tuyệt vọng cho đám quân chống giữ, hai sĩ quan đại đội trưởng đều bị thương, quân Pháp chỉ còn những nhóm nhỏ cô lập. Thiếu tá Bigeard, người chỉ huy các cuộc phản kích của Pháp tại Điện Biên Phủ, dùng máy kêu gọi các tiểu đoàn dù khác còn lực lượng dự bị hỗ trợ và đã có ngay hai đại đội với 100 binh lính hưởng ứng. Muốn đến Éliane 1 họ phải vượt quãng phân cách giữa Éliane 4 và Éliane 1, và, vừa tiến lên, họ vừa cất tiếng hát. Những tiếng hát đột ngột cất lên này, lính lê dương Đức hát tiếng Đức, lính dù Pháp hát tiếng Pháp làm cho trận giao chiến lắng đi một lúc. Trong cái đêm tối khủng khiếp ấy những tiếng hát làm cho khoảng không gian sặc mùi tử khí bỗng như có cái không khí vui vẻ của một quân trường, đôi bên ngừng tay súng để lắng nghe, cả người hát lẫn người nghe đều biết có thể đây là lần cuối cùng mình hát hay nghe người khác hát.
bị một cơn địa chấn. Từ 17 giờ 30 Éliane 2 bắt đầu bị các loại pháo khác bắn chuẩn bị mãnh liệt, trong khi chờ đợi cuộc tấn công người ta không thể làm gì khác hơn là chui rúc vào các hầm hố, lô cốt nào còn có thể chui rúc được. Trong những giây phút ấy Neron cố nghĩ đến cái gì tươi vui, chàng nghĩ đến mẹ, lá thư của bà, mùa xuân tràn trề sức sống ở Na Uy, ngày Quốc Khánh 17 tháng 5 nhộn nhịp... Tiếng pháo vừa ngừng thì Việt Minh từ dưới đất vùng lên hò hét xung phong. Pháo Pháp từ phân khu trung tâm đã được chuẩn bị từ trước đồng loạt bắn chặn phía tây nam là sườn đồi trống trải Việt Minh đang tiến lên. Làn sóng xung phong đầu tiên bị đẩy lui. Nhưng pháo của phân khu trung tâm như bó đuốc bùng lên lần chót để lụi dần, pháo đủ loại của Việt Minh trút đạn vào trung tâm loại khỏi vòng chiến nếu không phải là các khẩu pháo thì là các pháo thủ, trong trường hợp này là cả hai. Những làn sóng xung phong lại tiếp diễn, cách nhau khoảng nửa giờ hoặc bốn mươi lăm phút. Trong ánh pháo sáng ma quái, hai đại đội dù quần nhau với trung đoàn 174, bóng cây đa cổ thụ tô điểm cho dinh thự cũ của viên công sứ Pháp vẫn sừng sững trên bàu trời. Nó đã nhận nhiều quả đạn pháo nhưng vẫn đứng đó như một chứng nhân cô độc.
Nhưng những ”ngày vui” như thế không nhiều, miếng da lừa Điện Biên Phủ mỗi ngày một co lại, quân tiếp viện nhảy xuống không bù đắp được một phần nhỏ số chết và bị thương, các cứ điểm bị ”bóc vỏ” dần, những người đang chống giữ các cứ điểm vòng ngoài hiểu rằng nếu bị tấn công thì hoặc đầu Khoảng 11 giờ đêm quân cố thủ bỗng thấy đối hàng, hoặc chiến đấu đến cùng, không hy vọng gì phương đột ngột ngưng tấn công rồi bỗng đất rung được tiếp cứu. chuyển gây nên một luồng sóng chấn động lan đi khắp sườn đồi, tiếp theo là một tiếng mổ lớn làm Cuối cùng thì ”ngày phán xét” cũng tới. Quân báo đất đá tung lên, đỉnh đồi vỡ ra và tất cả phần còn Pháp, bằng sự xâm nhập nào đó vào hàng ngũ Việt lại của đại đội Edme đột ngột biến mất vào một cái Minh, báo cho tập đoàn cứ điểm là đợt tổng công gì đó lúc ấy chưa ai hiểu. Chỉ sau vài phút người kích thứ ba sẽ nổ ra vào xẩm tối ngày 6 tháng 5. ta mới định thần để đoán rằng có lẽ Việt Minh đã Lúc này trên Éliane 2 có hai đại đội dù mới nhảy cho nổ một khối thuốc nổ cực lớn trong một hầm xuống do đại úy Pouget chỉ huy, một do trung ngầm Việt Minh bằng một cách nào đó đã đào sâu úy Edme giữ phía đông nam, còn Pouget thì giữ vào lòng đồi mà họ đã nghe thấy tiếng đào đất từ ngay đỉnh đồi. Neron là lính không đơn vị, được gần một tháng qua. Cay đắng vì không khuất phục bổ xung cho đại đội của Pouget. Những cái gọi được A1, số hiệu mà họ gọi Éliane 2, họ quyết là ”đơn vị” ở Điện Biên Phủ bây giờ như thế, họ định phá tung quả đồi có hầm ngầm cố thủ trên là những người lính không biết nhau, cấp chỉ huy đỉnh từng chặn đứng các đợt xung phong mà dù bị không biết họ và họ cũng chẳng biết cấp chỉ huy. đạn pháo cũng vẫn cứ trơ trơ, họ bí mật đào một Vào lúc mặt trời còn chiếu sáng bỗng có tiếng đương hầm dài hơn 40 mét để phá tung nó bằng gầm rú không phải của đạn pháo hay đạn cối mà là gần một tấn thuốc nổ. Nhưng đường hầm đã đi tiếng nổ đồng nhịp của một dàn hòa tấu chết chóc chệch mất 20 mét so với vị trí hầm ngầm cố thủ khổng lồ, đó là cây ”đàn oóc của Staline”, lần đầu nên mặc dù mất nguyên một đại đội và choáng tiên được Việt Minh đưa vào sử dụng, dàn tên lửa váng vì tiếng nổ, những người lính dù còn lại vẫn sáu ống phóng đi cùng một lúc gây nên sự tàn phá kháng cự, từng thước giao thông hào, từng ụ súng, ghê gớm và nhất là sự chấn động thần kinh của từng lô cốt. Nhưng đến bốn giờ sáng thì không còn những người không biết núp vào đâu, lấy gì để che tiếng súng trên A1 nữa, vì hoặc họ đã chết, đã bị chở vì cả những hầm sâu nhất cũng rung lên như thương hoặc giản dị là không còn đạn để bắn nữa.
Viết&Đọc Đặc San 2021 89
Neron không chết, không bị thương cũng không hết đạn. Khi khối thuốc nổ làm nổ tung một khối lượng đất đá chôn vùi bất cứ ai trong vòng bán kính hai mươi thước thì Neron vừa đủ ở ngoài tầm đó để không bị chôn vùi nhưng hai tai bỗng im bặt không nghe thấy tiếng gì nữa. Chàng rõ ràng nhìn thấy các đồng đội mình đưa súng bắn, các bộ đội Việt Minh vừa chạy vừa ném lựu đạn nhưng những hình ảnh ấy hoàn toàn như một khúc phim câm. Trong đầu Neron bỗng như có tiếng nói bảo chàng hết rồi, thôi đi, đừng bắn nữa nhưng không phải là lời bảo chàng đầu hàng, lính lê dương trong những ngày qua cũng có người chạy sang hàng ngũ địch nhưng chàng thì không, chàng chỉ muốn thôi đi, chấm dứt đi, tìm một chỗ nào đó đọc bức thư của mẹ hay nếu có một mảnh giấy thì viết thư cho bà. Vì vậy chàng rời chỗ núp, đứng dậy, hai tay không, lững thững đi về phía chân đồi. Chàng thấy đồng đội mình quát lên điều gì đó và những người lính Việt Minh chạy ngang mà không bắn, cứ thế chàng lững thững đi với tấm lòng thanh thản vì không nghe thấy tiếng động gì, ngước nhìn bầu trời đêm lấp lánh ánh sao êm mượt như nhung.
Neron vừa đi vừa nhìn quanh như một đứa trẻ tò mò, ngạc nhiên thấy mình mới rời trận địa không bao xa mà nơi đây sao lại có thể vắng lặng đến thế. Chàng vẫn nhìn thấy những tia lửa bùng lên từ Éliane 1, Éliane 2, phân khu trung tâm nhưng chung quanh chàng không một bóng người. Họ đã biến đi đâu một cách kỳ bí. Chàng đi hướng về phía sông Nậm Rốm vì lúc này chàng chỉ có một ao ước duy nhất là được ngâm mình xuống dòng sông sau mấy tuần không tắm, mùi xác chết và phân người bám vào chàng hôi thối không sao chịu nổi. Cho đến khi một bàn tay kéo chàng ngã dúi vào một bụi cây, chàng thất vọng thấy mình bị bắt làm tù binh mà chưa kịp tắm. Nhưng người kéo chàng không phải là bộ đội Việt Minh mà là một người đàn bà.
Còn tiếp...
Giới thiệu ca khúc Việt, từ Na Uy Nhạc sĩ Minh Thao, Bergen, vừa mới ra một số ca khúc rất hay phổ thơ ý lạ, đầy ẩn dụ của nhà thơ Mộc Lan, như: * Thiên Mã Hành Không *Mai Anh Hứa *Hành Trình Tìm Lại Ngoài ra, còn có bài *Ngày Mình Yêu Nhau tình tứ, nồng nàn phổ thơ của Nguyễn Văn Thực, Oslo. Đã có 10 531 views Và còn nhiều bài khác của Minh Thao trên YouTube. Xin giới thiệu cùng quý độc/thính giả người Việt ở Na Uy.
Nguyễn Trọng Trí 90 Viết&Đọc Đặc San 2021
Viết&Đọc Đặc San 2021 91
92 Viết&Đọc Đặc San 2021