Báo cáo CEDAW lần 7+8 (24-8-2012)
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4 PHẦN I...............................................................................................................................6 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ..............................................................................................6 PHẦN II ...........................................................................................................................10 TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU CỦA CÔNG ƯỚC ...........................................10 ĐIỀU 1 Khái niệm phân biệt đối xử chống lại phụ nữ ………………………12 ĐIỀU 2 Áp dụng các biện pháp nhằm loại bỏ mọi hình thứcphân biệt đối xử chống lại phụ nữ ...............................................................................................................12 2.1. Tiếp tục cụ thể hoá nguyên tắc bình đẳng nam nữ ...................................................12 2.2. Thực thi các biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ16 2.3. Tồn tại và hướng khắc phục ......................................................................................18 ĐIỀU 3 Bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ .........................................19 3.1. Các chủ trương, pháp luật và chính sách ..................................................................19 3.2. Phát triển các tổ chức và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ..................................29 3.3. Lồng ghép giới vào công tác hoạch định và thực thi chính sách ..............................29 3.4.Công tác nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới ....................................................33 ĐIỀU 4 Các biện pháp đặc biệt nhằm thúc đẩy bình đẳng nam, nữ ................................36 4.1. Bổ sung một số biện pháp đặc biệt nhằm thúc đẩy bình đẳng nam, nữ....................36 4.2.Một số biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ người mẹ. ...................................................38 4.3.Tình hình thực hiện và phương hướng trong thời gian tới ........................................40 ĐIỀU 5 Vai trò và định kiến giới .................................................................................................. 42 5.1.Các chủ trương, chính sách ........................................................................................42 5.2.Công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về giới ...................................................43 5.3.Khó khăn và phương hướng khắc phục .....................................................................44 ĐIỀU 6 Phòng, chống mua bán phụ nữ, bóc lột phụ nữ làm mại dâm ................................ 45 6.1. Công tác xây dựng pháp luật.....................................................................................45 6.2. Tình hình thực hiện ...................................................................................................46 6.3. Các vấn đề tồn tại và phương hướng khắc phục .......................................................49 ĐIỀU 7 Thực hiện quyền bình đẳng trong đời sống chính trị và cộng đồng...................... 51 7.1. Bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ ..........................................................51 7.2. Quyền của phụ nữ trong việc tham gia quản lý nhà nước, kinh tế và xã hội ...........54 7.3. Quyền của phụ nữ tham gia các tổ chức chính trị- xã hội ........................................55 7.4. Phương hướng tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong đời sống chính trị và cộng đồng .........................................................................................................................55 ĐIỀU 8 Phụ nữ tham gia các hoạt động quốc tế ........................................................................ 58 8.1. Phụ nữ trong ngành ngoại giao .................................................................................58 8.2. Phụ nữ tham gia các hoạt động quốc tế ....................................................................59 ĐIỀU 9 Vấn đề quốc tịch................................................................................................................. 59 ĐIỀU 10 Bình đẳng trong giáo dục............................................................................................... 62 10.1. Quan điểm và mục tiêu giáo dục.............................................................................62 10.2. Thực hiện bình đẳng về cơ hội và điều kiện học tập cho nam và nữ .....................63 10.3. Kết quả giáo dục và đào tạo cho phụ nữ .................................................................63 10.4. Cán bộ nữ ngành giáo dục và đào tạo .....................................................................65 10.5. Vấn đề định kiến giới trong sách giáo khoa ...........................................................66
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
ĐIỀU 11 Bình đẳng trong lĩnh vực việc làm ...................................................................67 11.1. Chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm ..............................................................................................................68 11.2. Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm ........................................................................................71 11.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm ............................................................................................................................74 ĐIỀU 12 Tiếp cận bình đẳng của phụ nữ tới dịch vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ ............ 75 12.1. Chủ trương, chính sách về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân .......................75 12.2. Cơ chế tổ chức và bộ máy chăm sóc sức khoẻ phụ nữ ...........................................78 12.3. Công tác chăm sóc sức khoẻ phụ nữ và cung cấp các dịch vụ KHHGĐ ................79 12.4. Vấn đề dinh dưỡng ..................................................................................................80 12.5. Công tác phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm cả HIV/AIDS ........................................................................................................................81 12.6. Phương hướng trong thời gian tới:..........................................................................82 ĐIỀU 13 Phúc lợi kinh tế-xã hội và văn hoá .............................................................................. 82 13.1. Các quy định luật pháp, chính sách mới .................................................................82 13.2. Bảo đảm quyền được hưởng các phúc lợi gia đình và xã hội cho phụ nữ ..............83 13.3. Bảo đảm cho phụ nữ quyền được vay tiền, cầm cố tài sản và tham gia các hình thức tín dụng ............................................................................................................83 13.4. Quyền được tham gia các hoạt động giải trí, thể thao và văn hoá ..........................86 ĐIỀU 14 Phụ nữ nông thôn ............................................................................................................. 88 14.1. Vai trò và những thách thức đối với phụ nữ nông thôn .........................................88 14.2. Phụ nữ tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển và hoạt động cộng đồng .........................................................................................................................89 14.3. Về chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình....................................................90 14.4. Về giáo dục, đào tạo và hoạt động khuyến nông ....................................................90 14.5. Vấn đề bảo hiểm xã hội..........................................................................................91 14.6. Cơ hội tiếp cận tín dụng cho phụ nữ nông thôn ......................................................91 14.7. Quyền sử dụng đất của phụ nữ nông thôn ..............................................................92 14.8. Cơ sở hạ tầng và vệ sinh môi trường nông thôn .....................................................93 14.9 Phương hướng trong thời gian tới ............................................................................93 ĐIỀU 15 Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong các quan hệ dân sự trước pháp luật………………………………………………………………………………………95 15.1. Phụ nữ có địa vị pháp lý bình đẳng như nam giới trong các quan hệ dân sự ........95 15.2. Phụ nữ có quyền tự do đi lại và cư trú ....................................................................98 ĐIỀU 16 Quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình ..................... 98 16.1. Pháp luật về hôn nhân và gia đình ..........................................................................98 16.2. Vấn đề kết hôn và ly hôn ........................................................................................99 16.3. Quyền bình đẳng trong thời gian hôn nhân ............................................................99 16.4. Tệ ngược đãi phụ nữ trong gia đình ......................................................................100 KẾT LUẬN ....................................................................................................................102 2
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
CÁC TỪ VIẾT TẮT CEDAW
Công ước Liên hiệp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ GDI Chỉ số phát triển giới LHPNVN Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam VSTBPN Vì sự tiến bộ phụ nữ LĐTBXH Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội UBQG Uỷ ban quốc gia TW VCCI
Trung ương Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
BHXH CLB GER
Bảo hiểm xã hội Câu lạc bộ Tỷ lệ nhập học thô
CSSKSS LTQĐTD BPTT
Chăm sóc sức khoẻ sinh sản Lây truyền qua đường tình dục Biện pháp tránh thai
SKSS KHHGĐ BCHTW APEC ASEM
Sức khoẻ sinh sản Kế hoạch hoá gia đình Ban chấp hành trung ương Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương Diễn đàn hợp tác Á–Âu
UNESCO
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc
3
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC CEDAW CỦA VIỆT NAM (Lần thứ 7 + 8) LỜI MỞ ĐẦU Thực hiện Điều 18 của Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Công ước CEDAW) và hướng dẫn của Uỷ ban về xóa bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Ủy ban CEDAW), Việt Nam đã hoàn thành các Báo cáo định kỳ (từ lần thứ nhất đến lần thứ 6), Báo cáo ghép định kỳ lần thứ 5 và thứ 6 của Việt Nam (CEDAW/C/VNM/5-6) đã được Uỷ ban CEDAW thông qua tại Phiên họp thứ 759 và 760 ngày 07 tháng 01 năm 2007. Được sự đồng ý và theo hướng dẫn của Uỷ ban CEDAW, Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên chuẩn bị Báo cáo ghép định kỳ lần thứ 7 và thứ 8 về tình hình thực hiện Công ước CEDAW tại Việt Nam giai đoạn 2004-2010. Đặc điểm của giai đoạn này là Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế, phải đương đầu với nhiều thách thức to lớn do tác động của thiên tai, lũ lụt, hạn hán ở khắp các vùng trên cả nước, các vấn đề xã hội và môi trường, quá trình hội nhập kinh tế và cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Đây cũng là giai đoạn kết thúc Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, kết thúc một giai đoạn quan trọng thực hiện các chương trình, chính sách lớn của Chính phủ Việt Nam. Tiếp theo Báo cáo ghép lần thứ 5 và 6, Báo cáo này cập nhật tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, con người Việt Nam, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật, những hạn chế, yếu kém và phương hướng khắc phục theo từng điều khoản cụ thể của Công ước trong 6 năm qua tại Việt Nam. Báo cáo cũng thể hiện những thành tựu to lớn mà Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Cương lĩnh hành động Bắc Kinh, thực hiện những cam kết của Hội nghị Bắc Kinh + 5, trên cơ sở tiếp thu, triển khai thực hiện các Khuyến nghị của Uỷ ban CEDAW năm 2007. 4
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Báo cáo gồm các phần chính như sau: - Lời mở đầu - Phần I: Những vấn đề chung - Phần II: Tình hình thực hiện Công ước - Kết luận - Phụ lục Để hoàn thành bản Báo cáo này, Việt Nam đã thành lập Ban soạn thảo gồm 38 thành viên, đại diện cho các Bộ, ngành và đoàn thể tham gia. Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, kiêm Phó Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam làm Trưởng ban soạn thảo. Trong quá trình chuẩn bị và soạn thảo, Ban soạn thảo đã thu thập tài liệu, phân tích các số liệu báo cáo thống kê của các Bộ, ngành, địa phương, các báo cáo quốc gia liên quan. Tổ chức các hội thảo, tham vấn, lấy ý kiến tham gia các Bộ, ngành, tổ chức chính trị -xã hội, đại diện của các tầng lớp phụ nữ, các học giả, các nhà quản lý, các nhà khoa học, cán bộ công tác xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ. Dự thảo Báo cáo cũng đã gửi tới tất cả các Bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương để lấy ý kiến bằng văn bản. Với những quan điểm đã nêu trong các Báo cáo trước đây, báo cáo này Việt Nam vẫn tiếp tục bảo lưu Khoản 1, Điều 29 của Công ước. Tuy nhiên Việt Nam đang nghiên cứu xem xét để bỏ bảo lưu này vào thời điểm thích hợp. Nhà nước Việt Nam đang tiến hành nghiên cứu việc ký Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước CEDAW.
5
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Đất nước và con người Việt Nam Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước nằm trong khu vực Đông Nam Châu Á, có diện tích trên 331.000 km. Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức. Thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010, và bước đầu triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, nền kinh tế Việt Nam đã có mức tăng trưởng khá và tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt khoảng 7,26% trong giai đoạn 20012010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. GDP bình quân đầu người năm tăng từ 1.052 USD năm 2008 lên khoảng 1.168 USD năm 2010 và tăng gấp 3 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2011 là 5,9%. Với mức này, Việt Nam chuyển vị trí từ nhóm nước nghèo nhất sang nhóm có mức thu nhập trung bình thấp. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, Việt Nam đã có sự chuyển biến đáng kể về cơ cấu kinh tế. Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, khai thác các cơ hội thị trường quốc tế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song song với phát triển kinh tế, Việt Nam đặc biệt quan tâm và ưu tiên nguồn lực cho phát triển xã hội và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ về phát triển xã hội. Số người được giải quyết việc làm hàng năm tăng khoảng 1,7 triệu người. Thất nghiệp khu vực thành thị duy trì ở mức 5 - 6%. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng; mạng lưới y tế được củng cố và nâng cấp, hoạt động y tế dự phòng được đẩy mạnh hơn; một số dịch bệnh mới phát sinh được khắc phục nhanh chóng, kịp thời. Cùng với việc duy trì thành tựu phổ cập 6
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
giáo dục tiểu học, việc triển khai phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã đạt được nhiều kết quả, quy mô đào tạo bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tăng gần 20%/ năm. Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người nhiễm HIV/AIDS, người khuyết tật trong đó có các nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam. Với mỗi nhóm đối tượng, Việt Nam đều có các cơ chế, chính sách ưu tiên cụ thể nhằm bảo vệ, hỗ trợ, tạo cơ hội cho từng nhóm phát triển và hoà nhập với đời sống xã hội. Nhờ đó, các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương đã từng bước được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản ngày một tốt hơn; cơ sở hạ tầng ở vùng khó khăn được tăng cường, nhất là đối với vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cuộc sống của đại đa số người dân được cải thiện, nâng cao, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và người dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn 12% năm 2011 theo chuẩn 2011-2015, bình quân mỗi năm giảm khoảng 2% và Việt Nam được ghi nhận là một trong những quốc gia đi đầu về xóa đói, giảm nghèo và thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng từ 72,8 tuổi năm 2009 lên 73,2 tuổi năm 2011. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2008 là 0,733 (xếp thứ 105 trong số 177 nước và vùng lãnh thổ); năm 2011 là 0,728 (xếp thứ 128 trong số 187 nước và vùng lãnh thổ). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đã chú trọng việc xây dựng và nâng cao năng lực của con người cũng như phát huy hiệu quả nguồn nhân lực vào công cuộc phát triển đất nước vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Thực hiện Chiến lược cũng chính là tạo điều kiện thuận lợi để Chính phủ Việt Nam thực hiện có hiệu quả những cam kết của mình đối với Công ước CEDAW. Tuy đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ nhưng quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, đó là các thách thức về 7
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững, tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao thu nhập bình quân đầu người, giảm tỷ lệ nghèo đói, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, phòng chống thiên tai dịch bệnh. Bên cạnh đó biến đổi khí hậu, suy thoái kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống nhân dân cũng như việc thực hiện Công ước CEDAW ở Việt Nam. Cơ cấu chính trị chung Chế độ chính trị ở Việt Nam trong những năm qua luôn ổn định, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Trong thời gian qua, Việt Nam đã đề ra đường lối, chính sách phù hợp, tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế xã hội. Chính phủ cũng như các ngành, các cấp có sự đổi mới trong công tác chỉ đạo, điều hành. Hệ thống pháp luật đã từng bước được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện và ngày càng hài hoà với pháp luật quốc tế, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước. Hệ thống bộ máy cơ quan nhà nước từ Trung ương đến các địa phương tiếp tục được hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ, hoạt động quản lý nhà nước ngày càng có chất lượng, hiệu quả cao. Thực hiện quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Điều 2 của Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó, mọi công dân, không phân biệt giới tính, dân tộc, thành phần xã hội đều bình đẳng trước pháp luật; quyền phụ nữ không bị phân biệt đối xử dưới mọi hình thức tiếp tục được đề cao và được pháp luật bảo vệ. Quốc hội là cơ quan quyền lực và đại diện cao nhất của nhân dân, có vai trò ngày càng được nâng cao trong các lĩnh vực lập hiến, lập pháp và giám sát tối cao. Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do 8
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Các chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được điều chỉnh phù hợp hơn. Các nhiệm kỳ của Chính phủ (2002-2007; 2007-2011) đã có nhiều thay đổi về cơ cấu tổ chức, bộ máy theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ, cơ quan ngang bộ, tránh chồng chéo, giảm tầng nấc trung gian, làm cho bộ máy quản lý nhà nước vận hành hiệu quả hơn. Cơ cấu Chính phủ nhiệm kỳ 2007-2011 gồm 18 Bộ và 4 cơ quan ngang Bộ. Công tác xây dựng chính sách song song với việc đẩy mạnh thực thi pháp luật và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo lực đẩy mới cho việc thực hiện các chủ trương, chính sách ở cấp cơ sở. Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Hệ thống các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật, bảo đảm quyền con người tiếp tục được củng cố và hoàn thiện. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác được tăng cường và xác định rõ ràng hơn, nhằm nâng cao khả năng tiếp cận công lý cho nhân dân, bảo đảm cho việc xét xử được công khai, 9
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
công bằng, khách quan và vô tư. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác bảo vệ pháp luật cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Trình độ, năng lực của các thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên các cấp được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích của công dân, trong đó có phụ nữ. Luật sư, công chứng, giám định, thi hành án, trợ giúp pháp lý – là những cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng bổ trợ tư pháp, bảo vệ quyền lợi của công dân nói chung, đã và đang được kiện toàn từ trung ương đến cơ sở. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Mặt trận tổ quốc gồm các tổ chức thành viên như Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Cựu chiến binh... trong đó Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ. Có thể khẳng định rằng, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước Việt Nam tiếp tục đẩy nhanh quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng tôn trọng và đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền của con người, trong đó chú trọng quyền của phụ nữ và trẻ em.
PHẦN II TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU CỦA CÔNG ƯỚC CEDAW Điều 1 Khái niệm “phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” là một nguyên tắc đã được khẳng định tại Điều 63 của Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc này đã và đang cụ thể hoá và thể hoá trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong việc tổ chức thực hiện, biến nguyên tắc, khái niệm này thành hành động cụ thể của toàn xã hội, của từng người dân. 10
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Luật Bình đẳng giới 2006 là văn bản luật quy định tập trung nhất các nội dung về bình đẳng giới và đảm bảo quyền phụ nữ. Luật đã đề ra “Mục tiêu bình đẳng giới” là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Theo đó, “Phân biệt đối xử về giới” được hiểu là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” (Điều 5 khoản 5 Luật Bình đẳng giới). Khái niệm này được xây dựng trên cơ sở kế thừa khái niệm về “phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” được đề cập tại Điều 1 của Công ước CEDAW và cách tiếp cận “Giới trong phát triển”. Bên cạnh nội dung trên, Luật Bình đẳng giới cũng quy định 8 khái niệm khác về giới như: Giới, Giới tính, Bình đẳng giới, Định kiến giới, Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Hoạt động bình đẳng giới, Chỉ số phát triển giới (GDI). Các khái niệm này là sự tiếp tục thể chế hóa quan điểm, đường lối của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và nam giới; đồng thời khẳng định quyết tâm mạnh mẽ trong việc cụ thể hóa và thực hiện các Điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, trong đó tiêu biểu là Công ước CEDAW. Hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới không ngừng được hoàn thiện, thể hiện được nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử theo quy định của Luật Bình đẳng giới và Công ước CEDAW. Nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về việc bảo đảm bình đẳng giới và xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ đã ngày một sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn. Ở Việt Nam, trong những năm qua, nhận thức về “phân biệt đối xử với phụ nữ” ở cấp hoạch định chính sách, ban hành pháp luật, cũng như trong hoạt động
11
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
của các cơ quan, tổ chức, trong cộng đồng dân cư, gia đình và mỗi cá nhân ngày một đầy đủ và toàn diện hơn. Việt Nam đã thể hiện cam kết của thành viên CEDAW ở mức độ cao nhất trong việc hiểu và vận dụng khái niệm “phân biệt đối xử với phụ nữ” không chỉ tiếp tục nhìn một chiều cho riêng phụ nữ mà hài hòa đối với cả nam giới, trên cơ sở đó mới có thể bảo đảm không phân biệt đối xử với phụ nữ một cách tốt nhất. Đây chính là sự thể hiện sự linh hoạt mang tính dự báo của pháp luật Việt Nam, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của thực tế chuyển từ cách tiếp cận “phụ nữ trong phát triển” sang “giới và phát triển”, đặt vấn đề xoá bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ trong mối quan hệ với những vấn đề chung và các vấn đề của nam giới. Mặc dù vậy, việc áp dụng khái niệm “Phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội vẫn còn chưa đồng đều, chưa vận dụng đầy đủ vào việc xây dựng và thực thi pháp luật để bảo đảm khái niệm này được thực hiện trên thực tế.
ĐIỀU 2 Áp dụng các biện pháp nhằm loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ Việt Nam tiếp tục duy trì các biện pháp pháp luật, hành chính và tư pháp như đã nêu trong các báo cáo trước và bổ sung các biện pháp, tổ chức thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm xóa bỏ tất cả hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. 2.1. Tiếp tục cụ thể hoá nguyên tắc bình đẳng nam nữ Các biện pháp nhằm loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ được Việt Nam coi trọng đặc biệt trong quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia. Hơn sáu năm qua, việc sửa đổi, bổ sung hệ 12
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
thống pháp luật luôn quán triệt nguyên tắc bình đẳng nam nữ, và bảo đảm nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, văn hóa, thể dục, thể thao, y tế và gia đình đã được quy định trong Luật Bình đẳng giới. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ tiếp tục khẳng định trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong những năm qua như: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, Bộ luật Dân sự 2005, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua khen thưởng 2005, Luật Bình đẳng giới 2006, Luật Bảo hiểm xã hội 2006, Luật Dạy nghề 2006, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống ma tuý 2008,. Luật Bình đẳng giới đã quy định các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới gồm: 1) Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; 2) Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới; 3) Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới; 4) Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới; 5) Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật; 6) Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân. Những nguyên tắc này sẽ là yêu cầu ràng buộc trách nhiệm, là kim chỉ nam giúp các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo thẩm quyền được giao. Luật Bình đẳng giới và các văn bản hướng dẫn thi hành: Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04/6/2008 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới, Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới. Thực hiện quy định của Luật Bình đẳng giới về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật, hầu hết các văn bản pháp luật mới được 13
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung đã lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, cụ thể như: Luật Cán bộ, công chức 2008; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008; Luật Người cao tuổi 2009; Luật Người khuyết tật 2010; Luật viên chức 2010; Luật nuôi con nuôi 2010; Luật Thi hành án hình sự 2010; Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó ưu tiên trợ giúp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ và có sử dụng nhiều lao động nữ…Một số văn bản quy phạm pháp luật đang được xây dựng để thực hiện nguyên tắc bình đẳng giới như: Bộ Luật Lao động (sửa đổi), Luật Phòng, chống mua bán người, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22/12/2010. Trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử và thi hành pháp luật, những biện pháp ngăn ngừa, xử lý nghiêm hành vi vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, phạm tội đối với phụ nữ, tiếp tục được thực hiện. Khoản 1 Điều 27 Luật Bình đẳng giới và Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 3/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới đã quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành phải tiến hành rà soát văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để kịp thời sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm mục tiêu bình đẳng giới, các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới và chính sách của nhà nước về bình đẳng giới trong lĩnh vực mà mình quản lý. Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020: là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, là cơ sở nền tảng của chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước. Công tác bình đẳng giới là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức 14
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
kinh tế, đơn vị sự nghiệp, sự tham gia của mỗi cá nhân, từng gia đình và cả cộng đồng đối với công tác bình đẳng giới. Huy động tối đa mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác bình đẳng giới. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước1. 2.2. Thực thi các biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ Để ngăn ngừa, xóa bỏ và trừng phạt những hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, tiếp tục thực thi các biện pháp giáo dục thuyết phục, hành chính, hình sự, dân sự nhằm xóa bỏ việc phân biệt đối xử với phụ nữ. Tăng cường tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi tổ chức, cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2008 - 2012 (tiếp theo Chương trình này các giai đoạn 1999 – 2002 và 2003 – 2007). Kiên quyết xử lý các hành vi cố tình vi phạm, tuỳ theo tính chất mức độ của hành vi vi phạm mà có thể bị xử lý bằng các biện pháp tương ứng. Biện pháp xử phạt vi phạm hành chính: quy định xử phạt hành chính về bình đẳng giới, trong đó xử phạt đối với hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái; quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình; về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp quy định phạt tiền ở mức cao đối với các hành vi môi giới kết hôn bất hợp pháp, lợi dụng việc đăng ký kết hôn nhằm mục đích trục lợi, xâm phạm tình dục, bóc lột sức lao động; quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em quy định xử phạt hành chính đối với hành vi lựa chọn giới tính thai nhi. Các nghị định về xử phạt 1
Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22/12/2010.
15
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
hành chính đã quy định cụ thể các hành vi được coi là có sự phân biệt đối xử với phụ nữ, mức xử phạt, các hình thức xử phạt và thẩm quyền xử phạt. (Xem Phụ lục 1: Danh mục văn bản quy phạm pháp luật kèm theo). Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009, đây là văn bản đặc thù, quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới trong 8 lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa - thông tin - thể thao và gia đình. Tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về bình đẳng giới phải chịu một trong hai hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền theo các mức từ thấp nhất là 200 nghìn đồng đến cao nhất là 40 triệu đồng. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung như: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một trong các biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc khôi phục lại quyền lợi hợp pháp đã bị xâm hại do hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới gây ra, buộc tháo dỡ hoặc xóa sản phẩm quảng cáo có nội dung cổ vũ, tuyên truyền, phổ biến về bất bình đẳng giới, định kiến giới. Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 4/02/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, tại Điều 4 Chương I Nghị định này về “Khuyến khích các hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình”: Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình hoặc các mô hình khác về phòng ngừa bạo lực gia đình và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình ngoài công lập được thành lập và có đủ điều kiện hoạt động theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được hưởng chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường theo quy định hiện hành. Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, sáng tác, công 16
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
bố, phổ biến đối với những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị và chất lượng cao về phòng, chống bạo lực gia đình. Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình quy định các hành vi được coi là bạo lực gia đình. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, cá nhân, tổ chức vi phạm bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình có thể bị phạt tiền ở mức cao nhất là 30 triệu đồng. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung như: Tước quyền sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, Chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Ngoài các hình thức xử phạt trên, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả, đó là: buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra; buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra; buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại; buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu. Việc tăng cường các biện pháp xử phạt hành chính chuyên biệt như trên đã góp phần truyền thông nâng cao nhận thức của người dân, đồng thời răn đe, ngăn ngừa kịp thời các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới. Với việc duy trì các biện pháp tố tụng và tăng cường các biện pháp hành chính, nhiều vụ việc vi phạm pháp pháp luật bình đẳng giới, bạo lực gia đình đã được các cơ quan chức năng xem xét xử lý công minh. Biện pháp xử lý hình sự là biện pháp mạnh mẽ, Nhà nước áp dụng xử lý các hành vi xâm hại các quyền bình đẳng của phụ nữ, bạo lực gia đình, xâm phạm vào các quan hệ mà pháp luật hình sự điều chỉnh. Đây là hình thức xử lý nghiêm khắc nhất để trừng trị các hành vi vi phạm quyền của phụ nữ. 17
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
2.3. Tồn tại và hướng khắc phục Nhận thức về bình đẳng giới và quyền của phụ nữ, định kiến giới còn tồn tại khá phổ biến trong nhân dân; Bất bình đẳng giới trên một số lĩnh vực vẫn còn tồn tại mà sự thiệt thòi chủ yếu thuộc về phụ nữ. Tư tưởng coi nam giới là “trụ cột” còn phụ nữ luôn gắn với vai trò nội trợ, chăm sóc gia đình đã gây ra cách nhìn lệch lạc về vai trò của mỗi giới, dẫn đến thiếu sự chia sẻ trách nhiệm giữa nam giới và phụ nữ trong công việc gia đình và tham gia các hoạt động xã hội. Cán bộ một số cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát) khi xử lý vụ việc còn chưa quan tâm nhiều đến việc áp dụng các quy định của pháp luật bình đẳng giới. Để từng bước khắc phục những tồn tại trên, Nhà nước đang tăng cường các biện pháp như đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và Công ước CEDAW; tổ chức tập huấn kiến thức giới và pháp luật bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ của các cơ quan, tổ chức; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát tình hình thực hiện pháp luật về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ; Áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt điều hành nền kinh tế, tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, mở rộng chính sách an sinh xã hội, trong đó có vấn đề bình đẳng giới. - Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các cơ quan nhà nước và quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ các cấp. - Tăng cường các quy định pháp luật chi tiết về trách nhiệm pháp lý dân sự, hành chính, hình sự để ngăn chặn, xử lý các hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ và bình đẳng giới. - Tăng cơ hội thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của phụ nữ và nam giới khi các quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm, đặc biệt khi vi phạm dựa trên cơ sở phân biệt đối xử về giới tính.
18
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Khuyến khích duy trì phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc, loại bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, cản trở mục tiêu bình đẳng giới như đa thê, tục cướp vợ, tục nối dây (vợ goá, chồng goá phải lấy anh em trai hoặc chị em gái của người chồng, người vợ đã mất)… - Trong những năm qua, Việt Nam tiếp tục chú trọng hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế bảo vệ quyền phụ nữ và bình đẳng giới bằng hệ thống cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và triển khai các chương trình, dự án đào tạo, bồi dưỡng, biên soạn tài liệu, cẩm nang về bình đẳng giới, CEDAW và phòng chống bạo lực gia đình dành cho Thẩm phán, Điều tra viên, Kiểm sát viên. Đồng thời, phối hợp với một số quốc gia tổ chức tham quan, tìm hiểu thực tế việc bảo đảm nhân quyền nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng thông qua hệ thống các cơ quan xét xử, trên cơ sở đó nghiên cứu, vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Phương hướng trong thời gian tới: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra chỉ tiêu cụ thể tại Mục tiêu 6: Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới.: Chỉ tiêu 1: Rút ngắn khoảng cách về thời gian tham gia công việc gia đình của nữ so với nam xuống 2 lần vào năm 2015 và xuống 1,5 lần vào năm 2020. Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015 đạt 40% và đến năm 2020 đạt 50% số nạn nhân của bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn về pháp lý và sức khỏe, được hỗ trợ và chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình. Đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 85% số người gây bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn tại các cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình. ĐIỀU 3 Bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ 3.1. Các chủ trương, pháp luật và chính sách Từ năm 2004 đến nay, kế thừa các quy định của hệ thống pháp luât, chính sách hiện hành, các quy định bảo đảm sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ trên tất 19
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
cả các lĩnh vực đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện ở tầm cao mới, rất nhiều văn bản của Đảng và các tổ chức chính trị- xã hội, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã ban hành, quy định trực tiếp việc bảo đảm quyền bình đẳng và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vấn đề bình đẳng giới trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về bình đẳng giới nói riêng ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ, từng bước hài hoà với pháp luật quốc tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, đó là các văn bản chính sau đây: - Văn kiện Đại hội Đảng XI năm 2011 tiếp tục khẳng định “thùc hiÖn b×nh ®¼ng giíi vµ hµnh ®éng v× sù tiÕn bé cña phô n÷”. - Luật Bình đẳng giới năm 2006 là một đạo luật đầu tiên ở Việt Nam điều chỉnh tập trung nhất các chế định về bình đẳng giới, tạo cơ sở pháp lý thực hiện, thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Với các nguyên tắc bình đẳng giới được xác định cụ thể trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, gia đình và các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, Luật Bình đẳng giới đã đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi thực tế, chuyển từ cách tiếp cận “phụ nữ trong phát triển” sang “giới và phát triển”. - Chỉ thị số 10/2007/TTg ngày 3/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới: quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức trong việc tổ chức thi hành Luật bình đẳng giới, các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ: rà soát các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện Luật, hoạt động quản lý Nhà nước, tổ chức thực hiện Luật, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới. - Chính phủ ban hành 3 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật: Nghị định 70/2008/NĐ-CP ngày 4/6/2008 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật 20
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Bình đẳng giới; Nghị định 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 về Các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới; Nghị định 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 về Quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới. Sự ra đời của Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, thi hành đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới, là công cụ pháp lý hữu hiệu thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình phấn đấu thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam. - Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành ra đời ngày càng thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong gia đình. - Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực. Nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hiệu quả quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương đối với công tác phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới nhằm đạt được các mục tiêu về công tác phụ nữ như Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị đã đề cập, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 01/12/2009 về Chương trình hành động giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị. - Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 07/3/2003 của Chính phủ quy định trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp Hội 21
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
phụ nữ tham gia vào các hoạt động quản lý Nhà nước theo quy định của pháp luật. Hiện nay Hội LHPN VN đang phối hợp với Bộ Nội vụ đánh giá 5 năm thực hiện Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 07/3/2003 của Chính phủ và soạn thảo Nghị định thay thế Nghị định này. - Thông tư số 191/2009/TT-BTC ngày 01 tháng 10 năm 2009 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí hoạt động bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Việc ban hành Thông tư đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của Luật Bình đẳng giới trong việc bảo đảm nguồn lực tài chính cho hoạt động bình đẳng giới. - Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 11/11/2009 về việc thành lập, kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. - Tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, ngày 08/9/2006, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đã thông qua Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 - giai đoạn II của Chiến lược quốc gia 10 năm VSTBPN Việt Nam với mục tiêu tổng quát: “Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của phụ nữ. Tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Kế hoạch này là bộ phận cấu thành của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tới nay hầu hết các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Quy chế hoạt động của Ban VSTBPN nhằm thống nhất lề lối làm việc và phân công trách nhiệm của các thành viên, đặc biệt 29,3% tỉnh, thành phố và 15,3% Bộ, ngành đã ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng trong thực hiện Chiến lược và kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến 2010. - Việt Nam đã nỗ lực tiến hành lồng ghép yếu tố giới trong các văn bản quy phạm pháp luật: Bộ luật Dân sự; Bộ luật Lao động; Bộ luật Hình sự; Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Cán bộ, công chức; Luật Đất đai; Luật Bảo hiểm xã
22
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
hội, Luật Người cao tuổi; Luật Người khuyết tật; Luật Viên chức; Luật Thi hành án hình sự; Luật Trợ giúp pháp lý ... - Chính phủ cũng tích cực triển khai thực hiện các Chương trình, Chương trình Mục tiêu, Chiến lược quốc gia giai đoạn 2011-2015, giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để góp phần “tạo cơ hội cho phụ nữ và nam giới trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực”, cụ thể như: + Quyết định số 336/QĐ-TTg ngày 31/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 2012-2015 + Quyết định 226/QĐ-TTg ngày 22/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 + Quyết định 20/QĐ-TTg ngày 04/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn 2030 + Quyết định 1241/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 + Quyết định 2198/QĐ-TTg ngày 03/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thể dục, thể thao VN đến năm 2020 + Quyết định 2281/QĐ-TTg ngày 10/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao động giai đoạn 2011-2015 - Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ) với các mục tiêu cụ thể đến năm 2010 phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo, tăng thu nhập của nhóm hộ nghèo và giảm số lượng xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. Chương trình đã tập trung vào các đối tượng là người nghèo, hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo; ưu tiên đối tượng hộ nghèo mà chủ hộ là phụ nữ. 23
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010 (Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg ngày 06/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ) đã có những giải pháp quan tâm đến phụ nữ, đặc biệt là nữ lao động ở khu vực nông thôn. - Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 170/2007/QĐ-TTg ngày 08/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ) với 6 dự án chủ yếu của chương trình tác động trực tiếp và gián tiếp đến cả vợ và chồng nhằm thực hiện mục tiêu mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có một hoặc hai con; góp phần nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể chất, trí tuệ và tinh thần, đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa và sự phát triển bền vững của đất nước. - Chương trình Mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo đến năm 2010 (Quyết định số 07/2008/QĐ-TTg ngày 10/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ) đã có một trong những trọng tâm là hỗ trợ học bổng, học phẩm tối thiểu cho học sinh dân tộc ở các trường phổ thông dân tộc bán trú, học sinh dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn, học sinh cư trú tại địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; và tăng cường năng lực dạy nghề, hỗ trợ dạy nghề trình độ sơ cấp và dạy nghề thường xuyên cho đối tượng là lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số và người tàn tật. Trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình, các đối tượng được hưởng quyền lợi như nhau, nhưng đối tượng nữ được đặc biệt quan tâm để giảm thiểu những trở ngại vì lý do giới tính gây ra. Năm 2010 cũng là năm Việt Nam tiến hành đánh giá tổng kết việc thực hiện Chiến lược, Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Đến nay, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược, Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đã đạt, vượt kế hoạch đề ra. 3.2 . Phát triển các tổ chức và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật phát triển các tổ chức và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ, trên cơ sở đó các cơ quan,
24
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
tổ chức từng bước củng cố và hoàn thiện, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Thực hiện Luật bình đẳng giới, Việt Nam đã có cơ quan độc lập, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về bình đẳng giới, đó là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao nhiệm vụ là cơ quan chủ trì giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên phạm vi toàn quốc; Bộ, cơ quan ngang Bộ phối hợp với Bộ LĐTBXH thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong phạm vi Bộ ngành; Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo phân cấp. Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam UBQG tiếp tục được củng cố và kiện toàn tập trung vào chức năng phối hợp liên ngành, giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, phối hợp giải quyết những vấn đề liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là Chủ tịch UBQG. Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là Phó Chủ tịch UBQG. Đến nay đã có 39 Bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ. Số đơn vị bố trí cán bộ chuyên trách cho Ban VSTBPN ngày càng tăng trong thời gian qua. Ngày 11/11/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1855/QĐ-TTg về việc thành lập, kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ ở Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và huyện. Tuy nhiên tới nay Ban VSTBPN mới được thành lập và hoạt động chủ yếu ở cấp TW và tỉnh. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện mọi mặt để thực hiện có hiệu quả phong trào phụ nữ và chương trình hoạt động trọng tâm vì sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ. Hội được thành lập ở các cấp từ trung ương đến cơ sở. Nhà nước giao cho Hội nhiều trọng trách nhằm đảm bảo sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Điều 29 và Điều 30 của Luật Bình đẳng giới quy định Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có trách nhiệm: Tham gia xây dựng 25
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
chính sách, pháp luật và tham gia quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật; Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức; Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới; Tuyên truyền, vận động nhân dân, hội viên, đoàn viên thực hiện bình đẳng giới; Tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới; Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; phụ nữ đủ tiêu chuẩn tham gia quản lý, lãnh đạo các cơ quan trong hệ thống chính trị các cấp; Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái theo quy định của pháp luật; Thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về bình đẳng giới. Bên cạnh đó, Nhóm nữ nghị sĩ Quốc hội Việt Nam được thành lập từ tháng 5/2008, đã hoạt động rất tích cực. Đây là diễn đàn để các nữ đại biểu Quốc hội có những ý kiến đóng góp thiết thực và hiệu quả vào các dự án Luật dưới góc độ giới và bảo đảm quyền của phụ nữ. Từ khi được thành lập đến nay, Nhóm nữ nghị sĩ Quốc hội đã phối hợp với Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội -cơ quan được giao nhiệm vụ thẩm tra việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp luật- tổ chức nhiều diễn về bình đẳng giới và lồng ghép giới vào chính sách, pháp luật chuyên ngành. Hội đồng doanh nhân nữ thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiếp tục duy trì các hoạt động nhằm hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của các nữ doanh nhân. Năm 2010, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã phối hợp với Hội LHPN Việt Nam tổ chức lễ trao Giải thưởng Bông hồng Vàng cho 100 nữ doanh nhân có thành tích xuất sắc trong sản xuất, kinh doanh và đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ban Nữ công của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tiếp tục hoạt động tích cực góp phần nâng cao nhận thức giới, thúc đẩy thực hiện hiệu quả bình đẳng 26
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
giới, giảm sự cách biệt giữa công nhân, viên chức, lao động trong các lĩnh vực: việc làm, tiền lương, thời giờ làm việc, điều kiện lao động, BHXH, trong đó đặc biệt là chế độ thai sản và chế độ chăm sóc bà mẹ, trẻ em. Ngoài các cơ quan, tổ chức trên còn có Ban công tác phụ nữ Công an của Bộ Công an và Ban công tác phụ nữ quân đội của Bộ Quốc phòng. Các hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát động phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Đến nay đã có trên 2,3 triệu phụ nữ đăng ký thực hiện phong trào. Trong năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và Đề án “Truyền thông giáo dục 5 triệu bà mẹ về nuôi dạy con”. Các đề án này nhằm phát huy và xây dựng phẩm chất đạo đức tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam; cung cấp kiến thức, kỹ năng nuôi dạy trẻ nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, bệnh tật, tử vong ở trẻ em; hạn chế tình trạng trẻ em ở độ tuổi vị thành niên vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội... góp phần xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Hỗ trợ Dạy nghề và Tạo việc làm cho Phụ nữ giai đoạn 2009 – 2015”, Đề án sẽ mang lại nhiều hơn các cơ hội đào tạo nghề và việc làm cho phụ nữ cả nước. Các chương trình tín dụng, tiết kiệm dành cho phụ nữ nghèo vẫn ngày càng phát triển, hiệu quả và được ghi nhận, đánh giá cao. Hiện nay nhằm giúp phụ nữ tiếp cận với nguồn vốn để phát triển sản xuất và kinh doanh, Việt Nam đang thực hiện Quỹ Uỷ thác và tín chấp. Tính đến năm 2010, qua hình thức uỷ thác với ngân hàng Chính sách Xã hội, gần 3 triệu hộ được vay vốn với dư nợ vốn hơn 30 nghìn tỷ đồng; gần 0,3 triệu phụ nữ được vay vốn từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với tổng số vốn vay khoảng 3 ngàn tỷ đồng. Tháng 8/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trao Giấy phép thành lập và hoạt động cho Quỹ Tình thương trở thành “Tổ chức Tài chính quy mô nhỏ Tình thương”, góp phần nâng cao vị thế và sự tham 27
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
gia của Quỹ trong công cuộc xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy sự phát triển của ngành tài chính vi mô của Việt Nam. Kể từ năm 2000 đến tháng 8/2010, Quỹ Tình thương đã cho 275.000 lượt phụ nữ vay vốn với số tiền là 1.433 tỷ đồng. Việc hỗ trợ tiếp cận vay vốn và trang bị các kiến thức phát triển doanh nghiệp cho phụ nữ đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ. Đối với phụ nữ là chủ hoặc quản lý các doanh nghiệp, Việt Nam đang triển khai thực hiện định hướng Hỗ trợ Phát triển Doanh nghiệp nữ giai đoạn 20092012 với một số lĩnh vực hỗ trợ như: tác động môi trường luật pháp, chính sách; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý, điều hành doanh nghiệp & tư vấn cho doanh nhân nữ; hỗ trợ tiếp cận tín dụng; hỗ trợ tiếp cận thị trường; cung cấp thông tin; phát triển mạng lưới doanh nhân nữ; hỗ trợ xã hội. Câu lạc bộ “Doanh nghiệp nữ” đã được thành lập ở các tỉnh, thành của cả nước. Tới nay đã có 39 CLB cấp tỉnh, 400 CLB cấp huyện và 4 tỉnh đã thành lập Hội Doanh nhân nữ. Cuộc vận động ủng hộ xây dựng “Mái ấm tình thương” cho phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân, phụ nữ khuyết tật có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từ năm 2008 đã thu hút được sự ủng hộ nhiệt tình của các tổ chức, đơn vị, các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp, cá nhân trong nước và quốc tế, các tầng lớp cán bộ, hội viên, phụ nữ cả nước. Tính đến hết tháng 8/2010, số tiền vận động được là 135.628.560.000 đồng và đã xây mới 7.525 và sửa chữa 1.260 ngôi nhà cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn trên khắp cả nước. Hiện nay, Các Quỹ Giải thưởng Kovalepxkaia và Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam với ý nghĩa tôn vinh và ghi nhận công lao đóng góp của phụ nữ Việt Nam có thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực tiếp tục hoạt động tích cực. Sau 25 năm thành lập, Quỹ Kovalepxcaia đã trao giải cho 34 cá nhân và 15 tập thể các nhà khoa học nữ xuất sắc và Quỹ Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam đã trao giải cho 44 cá nhân và 22 tập thể nữ có thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực kể từ khi thành lập năm 2003. Trong những năm qua, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã cùng với 28
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã tổ chức trao giải và cúp “Bông hồng vàng” cho 144 doanh nhân nữ tiêu biểu xuất sắc trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Trung tâm Phụ nữ và Phát triển sau khi được xây dựng đã có nhiều hoạt động hỗ trợ phụ nữ, đặc biệt phụ nữ yếu thế, thiệt thòi thông qua mô hình Ngôi nhà Bình Yên, nơi tạm lánh cho phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của bạo hành và bị buôn bán. Các dịch vụ Trung tâm hỗ trợ cho các phụ nữ yếu thế là chăm sóc y tế, hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ pháp lý, tư vấn nghề và học nghề, hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng, giới thiệu tới các hình thức trợ giúp khác... Các hoạt động của Trung tâm đã giúp trang bị các kiến thức, kỹ năng sống, giúp phụ nữ tự tin, dễ hoà nhập với cộng đồng. Thực hiện Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 04 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với hội (thay thế Nghị định 88/2003/NĐ-CP: rất nhiều tổ chức phi chính phủ được thành lập ở các tỉnh, thành phố. Các tổ chức này đã tham gia tích cực vào các hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới, bạo lực gia đình, góp phần không nhỏ trong việc tuyên truyền pháp luật, chính sách của Nhà nước tới toàn dân, phản ánh kịp thời tiếng nói của phụ nữ tới các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc của chị em phụ nữ. ngoài ra các tổ chức phi chính phủ tập hợp, phản ánh những nhu cầu và đòi hỏi từ thực tiễn, phát hiện nhũng mâu thuẫn, bất cập trong chính sách, pháp luật, và những yếu kém trong việc thực hiện, từ đó giúp các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và cải tiến các biện pháp và tổ chức thực hiện pháp luật ngày càng hiệu lực và hiệu quả, kịp thời xử lý những hành vi vi phạm quyền của phụ nữ và bình đẳng giới. 3.3 . Lồng ghép giới vào công tác hoạch định và thực thi chính sách
29
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng pháp luật được quy định trong Luật Bình đẳng giới năm 2006 và cụ thể hóa tại Chương III, Nghị định số 48/2009/NĐ-CP về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới. Theo quy định của pháp luật bình đẳng giới, khái niệm “lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật” được hiểu là: biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh (khoản 7 Điều 5). Theo Nghị định số 48/2009/NĐ-CP, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới được yêu cầu áp dụng đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới trong phạm vi điều chỉnh của văn bản. Nghị định này cũng quy định các nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật gồm: 1) Xác định nội dung liên quan đến vấn đề bình đẳng giới hoặc vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới; 2) Quy định các biện pháp cần thiết để thực hiện bình đẳng giới hoặc để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới; dự báo tác động của các quy định đó đối với nam và nữ sau khi được ban hành; 3) Xác định nguồn nhân lực, tài chính cần thiết để triển khai các biện pháp thực hiện bình đẳng giới hoặc để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới. Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; cơ quan thẩm định văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Chế định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật được coi là công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm đảm bảo yếu tố giới được đánh giá, xem xét và lồng ghép trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật. 30
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Để thực hiện quy định về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật, đồng thời để thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 57/NQ-CP về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Nghị quyết số 57/NQ-CP), các cơ quan có thẩm quyền đã và đang nghiên cứu ban hành các văn bản hướng dẫn quy định này, cụ thể như sau: - Bộ Tư pháp đã đưa nội dung đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới và các tiêu chí để đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào trong các báo cáo thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật. - Từ kinh nghiệm thành công của việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong Kế hoạch phát triển - kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2011 - 2015, trong đó có mục riêng về “thực hiện bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ”. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đang trong quá trình nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số phát triển giới của quốc gia, tiêu chí phân loại giới tính trong số liệu thống kê nhà nước để làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách có nhạy cảm giới. - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với UBQG nghiên cứu chỉnh sửa cuốn Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách phù hợp với quy định mới của Luật Bình đẳng giới và tình hình thực tiễn ở Việt Nam; tổ chức nhiều cuộc tập huấn về giới và kỹ năng lồng ghép giới cho cán bộ làm tác bình đẳng giới ở các Bộ ngành, địa phương. Riêng trong năm 2010, Bộ LĐTBXH đã tổ chức được 01 lớp đào tạo cho 30 giảng viên nguồn về lồng ghép giới ở cấp TW; 05 lớp tập huấn lồng ghép giới cho khoảng hơn 200 đại biểu là cán bộ tham gia hoạch định và thực thi chính sách ở các Bộ ngành, địa phương. - Mạng lưới cán bộ tham mưu, tư vấn về giới do UBQG thành lập từ năm 2003 vẫn thường xuyên duy trì, phát huy vai trò hoạt động. Hoạt động của Mạng 31
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
lưới đã tạo nên diễn đàn để các cán bộ làm công tác bình đẳng giới của các bộ ngành trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong triển khai công tác bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ cũng như tham vấn dưới góc độ giới vào các chương trình, chính sách, pháp luật quốc gia. - Nhiều Bộ ngành, tỉnh thành phố đã quan tâm lồng ghép yếu tố giới vào Chiến lược, Kế hoạch phát triển của Bộ ngành, địa phương. Đặc biệt, một số Bộ ngành, cơ sở đào tạo ở cấp quốc gia đã xây dựng và triển khai giảng dạy các chuyên đề về giới và lồng ghép giới như: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Thanh thiếu niên, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường cán bộ phụ nữ Trung ương … Với những nỗ lực nêu trên của các cơ quan chức năng, đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới bước đầu đã có thể áp dụng những công cụ, kiến thức, kỹ năng về lồng ghép giới trong quá trình triển khai nhiệm vụ chuyên môn có trách nhiệm giới. Mấy năm gần đây các Bộ, ngành, địa phương đã thực hiện khá nghiêm túc quy định về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Đặc biệt, một số địa phương đã chỉ đạo việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào quá trình xây dựng và thực hiện các hương ước, quy ước ở cơ sở, góp phần tích cực xóa bỏ dần các phong tục, tập quán lạc hậu và tư tưởng trọng nam hơn nữ. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại, yếu kém cần khắc phục: cơ quan chủ trì soạn thảo chưa đánh giá đầy đủ tác động, cũng như xác định vấn đề giới và các biện pháp giải quyết trong văn bản pháp luật cần điều chỉnh; Chưa dự báo đầy đủ, toàn diện tác động khi văn bản được ban hành và nguồn lực để thực hiện và giải quyết các vấn đề giới phát sinh. Chưa có cơ chế quy định rõ về trách nhiệm các cơ quan chủ trì phải lồng ghép, cũng như cơ chế kiểm tra, giám sát để thực hiện đúng nguyên tắc “Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật”. 32
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
3.4. Công tác nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới Nghị quyết số 57/NQ-CP năm 2009 đã xác định nghiên cứu khoa học về bình đẳng giới là một trong nội dung quan trọng trong giai đoạn từ năm 20102020: - Bộ Khoa học và Công nghệ hàng năm có trách nhiệm tăng cường các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến bình đẳng giới và công tác phụ nữ; - Viện Khoa học xã hội Việt Nam có trách nhiệm xây dựng chương trình nghiên cứu về bình đẳng giới trong các lĩnh vực, trước mắt tập trung nghiên cứu các trở ngại liên quan đến sự phát triển của phụ nữ. - Trung tâm Nghiên cứu lao động nữ và Giới thuộc Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là đầu mối của ngành nghiên cứu vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới phục vụ chức năng quản lý nhà nước của ngành. - Trung tâm Nghiên cứu Phụ nữ thuộc Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương, là đầu mối nghiên cứu của phụ nữ của Hội, giúp hoạt động nghiên cứu khoa học của Hội phụ nữ dần đi vào nề nếp, mang tính chuyên nghiệp ngày càng cao. - Các cơ quan nghiên cứu của mỗi Bộ, ngành cũng đã quan tâm lồng ghép vấn đề giới vào trong các nghiên cứu chuyên môn của ngành mình. Kết quả nghiên cứu được sử dụng để tham khảo trong quá trình xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật. Kể từ năm 2007 đến nay khá nhiều nghiên cứu dưới góc độ giới đã được thực hiện và công bố để phục vụ cho việc hoạch định chính sách như: 1) Đánh giá việc thực hiện Công ước về Phân biệt đối xử trong việc làm, nghề nghiệp và trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho công việc có giá trị ngang nhau; (2) Chính sách pháp luật lao động nhìn dưới góc độ bình đẳng giới; 3) Nghiên cứu về tác động kinh tế - xã hội của việc gia nhập WTO đến phụ nữ nông thôn Việt Nam; 4) Tuổi nghỉ hưu của lao động nữ ở Việt Nam: Bình đẳng giới trong chính sách bảo hiểm xã hội; 5) Giới và biên đổi khí hậu; 6) Bạo lực gia đình; 7) Điều tra gia đình Việt Nam …Đặc biệt, năm 2010 là năm bản lề xây dựng 33
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
các Chiến lược, Kế hoạch phát triển cho giai đoạn mới của mỗi Bộ ngành, địa phương, vì vậy, hầu hết các Bộ ngành, địa phương đều đã tổ chức các nghiên cứu đánh giá thực trạng cũng như việc thực hiện các chính sách chuyên ngành, trong đó có xem xét dưới góc độ giới. Các nghiên cứu này sẽ là cơ sở cho việc xây dựng và ban hành các chiến lược, kế hoạch phát triển cho giai đoạn mới của mỗi Bộ ngành, địa phương. Các Trung tâm nghiên cứu và đào tạo về giới tiếp tục hoạt động, đã và đang tập trung nghiên cứu về vai trò của nam và nữ trong sản xuất; vai trò và địa vị của phụ nữ trong gia đình; sự biến đổi vai trò giới dưới tác động của sự phát triển kinh tế- xã hội; quá trình đô thị hoá và chuyển dịch lao động từ khu vực nông thôn đến đô thị; bạo lực trong gia đình; buôn bán phụ nữ; cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác trợ giúp pháp lý cho phụ nữ... Một số kết quả nghiên cứu nói trên đã được sử dụng trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới.
Khó khăn, hạn chế: - Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở Việt Nam mới hình thành sau khi có Nghị định số 186/2007/NĐ ngày 25 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, quản lý nhà nước được giao cho Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, do đó đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới mới được hình thành, nên thiếu về số lượng, hạn chế kiến thức chuyên môn về giới, kỹ năng lồng ghép giới để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, nhất là ở địa phương cơ sở. Hầu hết đội ngũ cán bộ kiêm nhiệm, mới được tiếp cận với kiến thức giới nên còn lúng túng trong công tác tham mưu, đề xuất và triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới. - Một số Bộ, ngành, địa phương chưa bố trí nguồn lực phù hợp cho hoạt động này. 34
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Việc thực hiện chế định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp luật cũng còn nhiều khó khăn, thách thức như: Hầu hết các cán bộ làm công tác hoạch định chính sách chưa được trang bị kiến thức giới nên thiếu nhạy cảm giới ngay từ quá trình xác định vấn đề tới việc xác định giải pháp chính sách có nhạy cảm giới; Công tác thống kê số liệu có tách biệt giới mặc dù đã được cải thiện nhưng chưa được thực hiện một cách đầy đủ, đặc biệt là còn thiếu số liệu tách biệt giới trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa, gia đình và thể thao; thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi về giới trong từng lĩnh vực chuyên môn. - Công tác tuyên truyền pháp luật về bình đẳng giới chưa được triển khai đồng bộ, rộng khắp. Định kiến giới còn nặng nề, nhận thức về giới của một số cấp uỷ, chính quyền, của xã hội chưa đầy đủ. - Nhận thức và năng lực của đội ngũ cán bộ trong tham gia xây dựng pháp luật, chính sách đảm bảo bình đẳng giới còn nhiều hạn chế. - Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới còn chưa thường xuyên, quyết liệt, hiệu quả không cao. - Tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của phụ nữ. Trình độ năng lực của phụ nữ còn nhiều hạn chế. - Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ nữ còn nhiều bất cập, chưa thỏa đáng. Hướng khắc phục: - Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020: Hoàn thiện tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới từ trung ương đến địa phương; nâng cao năng lực về giới cho đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách; hình thành bộ chỉ số giám sát về bình đẳng giới; Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về bình đẳng giới. 35
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Tiếp tục xây dựng và bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới, tổ chức tuyên truyền bình đẳng giới, tổ chức thực hiện tốt các quy định để làm chuyển biến tình hình, đưa các quy định vào thực tế cuộc sống. - Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với các hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới; thực hiện có hiệu quả lồng ghép giới trong xây dựng luật pháp; đầu tư nguồn lực cho hoạt động bình đẳng giới; Hoàn thiện bộ chỉ số giám sát quốc gia về thực hiện bình đẳng giới. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể tại Mục tiêu 7: Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới: Chỉ tiêu 1: Đến năm 2015 có 80% và đến năm 2020 có 100% dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới. Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015 và duy trì đến năm 2020 có 100% thành viên các Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới được tập huấn kiến thức về giới, phân tích giới và lồng ghép giới. Chỉ tiêu 3: Đến năm 2015 và duy trì đến năm 2020 các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí đủ cán bộ làm công tác bình đẳng giới; hình thành đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên tham gia công tác bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Chỉ tiêu 4: Đến vào năm 2015 và duy trì đến năm 2020 có 100% cán bộ, công chức, viên chức làm công tác bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ ở các cấp, các ngành được tập huấn nghiệp vụ ít nhất một lần. ĐIỀU 4 Các biện pháp đặc biệt nhằm thúc đẩy bình đẳng nam, nữ 4.1. Bổ sung một số biện pháp đặc biệt nhằm thúc đẩy bình đẳng nam, nữ - Việt Nam đã quy định về khái niệm và nội dung của “các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới”. Quy định này được xây dựng trên cơ sở nội luật hóa quy 36
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
định về “biện pháp đặc biệt tạm thời” được nêu trong Công ước CEDAW và phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam. - Theo Luật Bình đẳng giới, “các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới” được hiểu là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được (khoản 6 Điều 5) và “Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới” (khoản 3 Điều 6). Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/05/2009 của Chính phủ quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới: Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm 5 nội dung sau: (1) Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; (2) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam để bảo đảm đạt đủ tiêu chuẩn chuyên môn và các tiêu chuẩn khác theo quy định của pháp luật; (3) Hỗ trợ, tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam để tăng cường sự chia sẻ giữa nữ và nam trong công việc gia đình và xã hội phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới; (4) Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam để thực hiện chính sách ưu tiên trong từng lĩnh vực cụ thể; (5) Quy định nữ được quyền lựa chọn và việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam để bảo đảm bình đẳng giới. Việt Nam đang thúc đẩy các cơ quan chức năng nghiên cứu xây dựng, trình ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo. Trong đó, nổi bật là các biện pháp như: quy định tỷ lệ nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới, chậm 37
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
nhất là sáu tháng trước ngày bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân; quy định tỷ lệ nữ thích đáng để bổ nhiệm các chức danh trong các cơ quan nhà nước; quy định tỷ lệ nữ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan, tổ chức có từ 30% lao động nữ trở lên phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; quy định tỷ lệ nam, nữ thích hợp, nữ được quyền lựa chọn hoặc ưu tiên nữ khi nữ đạt tiêu chuẩn như nam trong tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm; có quy định ưu đãi về thuế và tài chính cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ; Quy định tỷ lệ lao động nam, nữ được tuyển dụng phù hợp với từng loại lao động theo ngành, nghề; tạo điều kiện cho lao động nam nghỉ hưởng nguyên lương và phụ cấp khi vợ sinh con… - Để giúp lao động nữ có cơ hội tiếp cận việc làm, và việc làm có chất lượng cao, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015". Lao động nữ thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người bị thu hồi đất canh tác, lao động nữ bị mất việc làm trong các DN được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 3 triệu đồng/người/khóa học. Ngoài ra, các đối tượng này còn được hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000đ/ngày thực học/người, hỗ trợ tiền đi lại…Những lao động nữ thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo sẽ được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học; đối với lao động nữ khác thì mức hỗ trợ là 2 triệu đồng/người/khóa học. Được sự quan tâm của chính quyền và đoàn thể các cấp, nhiều biện pháp động viên, khuyến khích khen thưởng phụ nữ bằng nhiều hình thức khác nhau đã được áp dụng. 4.2. Một số biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ người mẹ. Bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân, trong đó có ưu tiên cho bà mẹ và trẻ em vẫn là chủ trương nhất quán của Việt Nam. Các biện pháp đặc biệt 38
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
nhằm bảo vệ người mẹ tiếp tục được thúc đẩy thực hiện. Các Chiến lược như: Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2010; Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001-2020; Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-2010 và Chiến lược quốc gia về dân số; Chương trình hành động vi trẻ em 2001-2010 đã được triển khai có hiệu quả trên toàn quốc nhằm đảm bảo việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của nhân dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. - Đến năm 2015, phấn đấu đạt 5 triệu bà mẹ được bồi dưỡng các kiến thức về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, sức khỏe và dinh dưỡng bà mẹ khi mang thai (Quyết định số 704/QĐ-TTg ngày 19/5/2010 về việc phê duyệt Đề án giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi, dạy con tốt giai đoạn 2010 – 2015). - Nâng cao sức khỏe bà mẹ, vào năm 2020 giảm 30% tỷ số tử vong mẹ so với năm 2010, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về các chỉ báo sức khỏe bà mẹ giữa các vùng, miền; Tỷ lệ phụ nữ mang thai trong toàn quốc bị nhiễm HIV/AIDS giảm thấp hơn 0,2% (Chiến lược Dân số sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020). - Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện tại Trung tâm; phụ nữ có thai cũng được tạm đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện tại Trung tâm cho đến khi con đủ ba mươi sáu tháng tuổi (Điều 23, 24 Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/2009 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy). - Phụ nữ có thai được miễn chấp hành phần thời gian còn lại của quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng (Điều 34 Nghị định số 66/2009/NĐ-CP ngày 01/8/2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24/11/2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng). 39
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
4.3. Tình hình thực hiện và phương hướng trong thời gian tới Một vấn đề nổi cộm trong thời gian gần đây có liên quan đến sức khoẻ bà mẹ nói riêng và sức khoẻ sinh sản nói chung là tình trạng nạo phá thai của vị thành niên ngày càng tăng ở mức báo động. Việt Nam là một trong các nước có tỷ lệ phá thai cao, trong đó 20% thuộc lứa tuổi vị thành niên. Đó là chưa kể tới rất nhiều ca nạo phá thai tại những cơ sở y tế tư nhân rất khó kiểm soát và thống kê được. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2010 cho thấy, khoảng 7,5% trong độ tuổi này có quan hệ tình dục trước hôn nhân và thiếu kiến thức về tình dục nên dẫn tới hậu quả phải nạo phá thai. Hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tuy đã được củng cố trong thời gian qua nhưng mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều yếu kém, nhiều trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản tuyến tỉnh được xây dựng nhưng đã xuống cấp. Đối với khoa chăm sóc sức khoẻ sinh sản ở tuyến huyện, nhiều nơi chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Ngoài điều kiện làm việc khó khăn thì đội ngũ cán bộ nói chung ở tất cả các tuyến còn thiếu về số lượng, cơ cấu giữa các cán bộ có trình độ đại học với cán bộ trung cấp và sơ cấp cũng còn bất hợp lý. Việt Nam đã và đang tích cực triển khai các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ để triển khai các quy định của pháp luật về bình đẳng giới, đồng thời để khắc phục những vấn đề còn tồn tại như đã nêu trong báo cáo ghép 5&6, Việt Nam đã và đang triển khai các hoạt động sau: - Bước đầu đã nghiên cứu điều chỉnh chính sách nghỉ hưu ở độ tuổi 60 cho một bộ phận cán bộ nữ là Thứ trưởng và tương đương trở lên ngang bằng với nam giới. Các nhóm lao động nữ còn lại hiện vẫn đang hưởng chế độ nghỉ hưu sớm hơn nam giới 5 năm. Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2012 (có hiệu lực thi hành từ 01/5/2013) đã sửa đổi chế độ nghỉ thai sản theo hướng tăng thời gian các bà mẹ được nghỉ thai sản lên 6 tháng so với quy định trước đây là 4 tháng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang trong quá trình xem xét, điều chỉnh quy định danh mục các ngành nghề cấm và hạn chế đối với lao động nữ. 40
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Để nâng cao chất lượng cán bộ nữ và tăng tỷ lệ nữ tham gia vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, Bộ Nội vụ hiện đang nghiên cứu xây dựng trình Chính phủ 03 đề án gồm: Đề án Tỷ lệ nữ trong cơ cấu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đáp ứng mục tiêu bình đẳng giới; Đề án Hướng dẫn tổ chức thực hiện quy định về quy hoạch tạo nguồn cán bộ nữ, quy định tỷ lệ nữ được bổ nhiệm vào các chức danh trong cơ quan nhà nước; Đề án khảo sát, rà soát kiến nghị về tuổi bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức để đảm bảo bình đẳng giữa nam và nữ; lồng ghép kiến thức về giới và bình đẳng giới trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. - Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực lao động, người có công và xã hội, trong đó có lĩnh vực bình đẳng giới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang nghiên cứu xây dựng, trình Chính phủ quy định về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ, hỗ trợ dạy nghề cho lao động nữ khu vực nông thôn; trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ trong một số nghề, công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại; dự thảo Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020. - Bộ Giáo dục và Đào tạo đang nghiên cứu để ban hành và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách hỗ trợ nhằm tăng nhanh tỷ lệ phụ nữ được đào tạo sau đại học. - Ủy ban Dân tộc đã khảo sát về bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số, đó là cơ sở để xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Luật Bình đẳng giới.
41
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
ĐIỀU 5 Vai trò và định kiến giới 5.1. Các chủ trương, chính sách Luật Bình đẳng giới 2006 quy định khái niệm bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Trên cơ sở quy định về bình đẳng giới nêu trên và các quy định về các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới, Việt Nam đã và đang xây dựng các chính sách nhằm loại bỏ những định kiến giới và thay đổi những vai trò giới truyền thống gây cản trở sự tiến bộ của phụ nữ . Cụ thể như sau: - Các nội dung bảo đảm bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể duc, thể thao, y tế và gia đình. Yêu cầu mỗi công dân có trách nhiệm phê phán, ngăn chặn các hành vi phân biệt đối xử về giới; trong gia đình, phải đối xử công bằng, tạo cơ hội như nhau giữa con trai, con gái trong học tập, lao động và tham gia các hoạt động khác. - Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình: Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; Cưỡng ép quan hệ tình dục… - Các hành vi vi phạm hành chính, hình thức, mức xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới và bạo lực gia đình (Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009; Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009).
42
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Để thúc đẩy nam giới tham gia vào công việc gia đình nhiều hơn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang nghiên cứu xây dựng chính sách tạo điều kiện cho lao động nam nghỉ hưởng nguyên lương và phụ cấp khi vợ sinh con. - Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 cũng đặt ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2020 như: thay đổi cơ bản tâm lý phải sinh con trai của người dân, rút ngắn khoảng cách giữa nam và nữ về thời gian tham gia công việc gia đình… 5.2. Công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về giới - Hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới được coi là một trong số các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới. Nghị định số 48/2009/NĐ-CP quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đã dành một Chương II với 4 điều quy định cụ thể về vấn đề này. - Trong mấy năm qua, Việt Nam đã tiến hành nhiều hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới. Cụ thể: - Hầu hết các Bộ, ngành và địa phương đều xác định trọng tâm công tác bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay là tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới nhằm từng bước nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo, cán bộ, công chức, người lao động và nhân dân về lĩnh vực này. - Các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương đã mở các chuyên mục tuyên truyền về bình đẳng giới, truyền tải những chủ trương, chính sách, pháp luật về lĩnh vực này tới mọi người dân một cách hiệu quả và thuận lợi nhất. - Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai lồng ghép giới vào chương trình đào tạo tại các trường Cao đẳng, đại học, các chương trình giáo dục thường xuyên, sách giáo khoa, tài liệu hướng dẫn giáo viên, băng hình, tranh ảnh nhằm xóa bỏ sự thiên kiến giới từ trong trường học.
43
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Bộ LĐTBXH phối hợp với Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam tổ chức hàng chục cuộc hội thảo, tập huấn mỗi năm cho các đối tượng ở các vùng miền, lĩnh vực khác nhau; In và phát hành rộng rãi hàng vạn tờ rơi giới thiệu về công tác bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ; biên soạn và phát hành “Sổ tay công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ” với mục đích cập nhật, tuyên truyền các văn bản hướng dẫn công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới hiện hành. - Những năm gần đây đã thu hút được sự tham gia của đối tượng là nam giới và các cấp lãnh đạo ở Trung ương và địa phương. Hình thức truyền thông được thực hiện đa dạng, phong phú như: hội thảo, tập huấn, hội thi, hội diễn hay tọa đàm … 5.3. Khó khăn và phương hướng khắc phục Việc loại bỏ thiên kiến giới, thay đổi cách nhìn nhận về vai trò truyền thống của phụ nữ và nam giới chưa được thực hiện triệt để và đồng đều ở các lĩnh vực, các vùng, miền. Nguyên nhân sâu xa là do chưa có các biện pháp giải quyết tận gốc tư tưởng trọng nam, coi thường nữ đã hàng ngàn năm ăn sâu vào nếp nghĩ, hành vi của người dân. Pháp luật Việt Nam quy định trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo cho con cái, cha mẹ... nhưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi là “thiên chức” của phụ nữ. Tính chất bảo thủ của sự phân công lao động truyền thống theo giới ở các mức độ khác nhau vẫn còn được bảo lưu trong một bộ phận gia đình Việt Nam đã làm hạn chế các cơ hội học hành của trẻ em gái, cản trở phụ nữ tham gia hoạt động xã hội và có địa vị, thu nhập bình đẳng như nam giới. Tình hình ngược đãi phụ nữ còn tồn tại ở một số nơi cũng có nguyên nhân chính là tư tưởng trọng nam, coi thường nữ. Bên cạnh đó, ở một số vùng, trong cộng đồng một số dân tộc thiểu số còn tồn tại khá nhiều phong tục tập quán lạc hậu, trong đó có tục kết hôn sớm, chưa dễ dàng thay đổi, đã và đang làm cản trở sự tiến bộ của phụ nữ. 44
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Hướng khắc phục: thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật, chính sách về bình đẳng Các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống mới ở khu dân cư” và phong trào xây dựng gia đình văn hoá theo chuẩn mực “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”; tăng cường công tác tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân xoá bỏ định kiến giới và các tập tục có hại cho phụ nữ và trẻ em gái. Đưa nội dung giảng dạy về giới vào các chương trình đào tạo cán bộ. Các cơ quan truyền thông đại chúng tăng cường truyền thông về bình đẳng giới, góp phần làm thay đổi quan niệm truyền thống trong xã hội về vai trò giới cũng như nâng cao ý thức trách nhiệm của nam giới trong công việc nội trợ gia đình và chăm sóc con cái. ĐIỀU 6 Phòng, chống mua bán phụ nữ, bóc lột phụ nữ làm mại dâm Tình trạng mua bán phụ nữ, bóc lột phụ nữ làm mại dâm vẫn đang là một vấn đề bức xúc và thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định quan điểm kiên quyết loại bỏ tình trạng này ra khỏi cộng đồng, đồng thời yêu cầu các ngành, các cấp phải đặt công tác phòng chống mua bán phụ nữ, phòng chống bóc lột phụ nữ làm mại dâm là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên, nhằm bảo vệ sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của phụ nữ, tiến tới xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng và văn minh. 6.1. Công tác xây dựng pháp luật Về công tác phòng chống tệ nạn mại dâm: Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 và các văn bản dưới luật quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm; áp dụng biện pháp đưa người bán dâm vào cơ sở chữa bệnh và quản lý, giáo dục tại xã, phường, thị trấn; chế độ phụ cấp đối với cán bộ, viên chức làm việc tại cơ sở chữa bệnh; chương trình và quy chế phối hợp liên ngành phòng, chống mại dâm. 45
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Quy định về chế độ, chính sách, tổ chức, cán bộ, hướng dẫn quản lý tài chính, chế độ trợ cấp, tổ chức dạy nghề, hướng dẫn xếp hạng cơ sở chữa bệnh; hướng dẫn thực hiện chương trình phối hợp liên ngành phòng chống mại dâm, thành lập tổ công tác liên ngành. 2 Về công tác phòng chống buôn bán người: Các văn bản quy phạm pháp luật từ Bộ luật, luật và các văn bản dưới luật quy định về các tội buôn bán người, ban hành chương trình hành động phòng chống tội buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2004-2010; quy định về hỗ trợ giúp đỡ nạn nhân, hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về.3 Luật phòng, chống mua bán người đã được Quốc hội xem xét thông qua và sẽ có hiệu lực từ 01/01/2012 đã quy định đầy đủ, toàn diện về định nghĩa mua bán người, các biện pháp phòng, chống, cơ sở hỗ trợ nạn nhân, tái hoà nhập cho nạn nhân, xử lý các hành vi mua bán người, hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống mua bán người, nhất là phụ nữ và trẻ em. Về hợp tác quốc tế: Việt Nam đã hợp tác với các nước trên thế giới, nhất là các nước khu vực Đông Nam á, các nước tiếp giáp biên giới Việt Nam (Lào, Căm phu chia, Trung Quốc), Việt Nam đã ký 2 Hiệp định song phương với Căm pu chia và Trung Quốc hợp tác trong phòng chống buôn bán người. Phương hướng thời gian tới: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra chỉ tiêu của thể tại Mục tiêu 6 có Chỉ tiêu 3: Đến năm 2015 và duy trì đến năm 2020 có 100% số nạn nhân bị buôn bán trở về thông qua trao trả, được giải cứu, số nạn nhân bị buôn bán tự trở về được phát hiện được hưởng các dịch vụ hỗ trợ và tái hòa nhập cộng đồng. 6.2. Tình hình thực hiện Về công tác phòng chống tệ nạn mại dâm:
2
Và 2 Xem Phụ lục về Danh mục văn bản kèm theo
46
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Từ năm 2006 đến 2010, các lực lượng chức năng đã thanh tra, kiểm tra 182.656 lượt cơ sở kinh doanh dịch vụ (tăng 21,17% so với giai đoạn 2000-2005); phát hiện 68.249 cơ sở vi phạm (chiếm 37,4% số cơ sở được kiểm tra); xử lý cảnh cáo 12.563 lượt cơ sở (chiếm 18,4% cơ sở vi phạm), phạt tiền 37.130 lượt cơ sở (chiếm 54,4%), đình chỉ kinh doanh 1.886 cơ sở (chiếm 2,9%), thu hồi giấy phép kinh doanh 397 cơ sở (chiếm 0,05%). Tổng số tiền xử phạt hơn 103 tỷ đồng. Công tác truy quét, triệt phá ổ nhóm, đường dây tổ chức hoạt động mại dâm: từ năm 2006 – 2010 lực lượng công an các cấp đã truy quét, triệt phá 6.109 vụ mại dâm (giảm 13,9% so với giai đoạn 2000-2005), với 19.443 đối tượng (gồm 4.113 chủ chứa, môi giới 9.067 gái bán dâm; 6.263 khách mua dâm). Công tác điều tra, truy tố và thụ lý, xét xử: + Theo số liệu từ năm 2006 đến tháng 6/2010 Viện kiểm sát các cấp đã khởi tố 2.470 vụ án với 3.217 bị can về tội chứa mại dâm, 942 vụ án với 1.307 bị can về môi giới mại dâm, 43 vụ án với 61 bị can về mua dâm người chưa thành niên. Tổng số vụ án khởi tố là 3.455 (giảm 35% so với giai đoạn 2000-2005) với 4.585 bị can về mại dâm (giảm 37% so với giai đoạn 2000 - 2005). + Trong 5 năm, toàn ngành Toà án đã thụ lý 3.884 vụ với 5.345 bị cáo phạm các tội về mại dâm để xét xử theo thủ tục sơ thẩm; đã xét xử 3.542 vụ với 4.866 bị cáo (đạt tỷ lệ xét xử 91,2% về số vụ và 91% số bị cáo). Trong số 4.886 bị cáo đưa ra xét xử có 219 bị cáo (chiếm 4,5%) bị phạt tù từ 7-15 năm, 1.572 bị cáo (chiếm 32,17%) bị phạt tù từ 3-7 năm, từ 3 năm trở xuống là 1.886 bị cáo (chiếm 38,6%). Ngoài việc áp dụng hình phạt tù, các Tòa án còn áp dụng các hình phạt bổ sung như tịch thu nhà, phạt tiền, quản chế,... đối với các bị cáo. Bên cạnh việc xử lý các bị cáo là chủ chứa, môi giới mại dâm, thời gian qua Toà án các cấp đã xét xử 114 vụ án với 178 bị cáo phạm tội mua dâm người chưa thành niên, trong đó số bị cáo là cán bộ công chức ngày càng gia tăng. Công tác chữa trị, giáo dục và tái hòa nhập cộng đồng: Trong 5 năm qua (2006- 6/2010), các địa phương đã tổ chức chữa trị, giáo dục cho 18.778 lượt 47
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
người bán dâm (giảm 26% so với giai đoạn 2000-2005), trong đó số đối tượng ở Trung tâm là 10.227 lượt người (chiếm 54,4%), số ở cộng đồng là 8.551 lượt người (45,5%). Số đối tượng được dạy nghề, tạo việc làm là 12.812, trong đó tại Trung tâm là 7.384 đối tượng, tại cộng đồng là 5.428 đối tượng. Chủ yếu là các nghề phổ thông như may dân dụng, may công nghiệp, thêu, uốn tóc, vi tính, làm vàng mã, đan thảm xuất khẩu,… 4 Về công tác phòng chống buôn bán người Công tác tuyên truyền được triển khai bằng nhiều hình thức, nội dung phong phú như biên soạn, in và cấp phát hơn 200.000 tờ rơi về phòng ngừa buôn bán phụ nữ, trẻ em tại cộng đồng, 15.000 cuốn cẩm nang cung cấp thông tin về các chính sách, chế độ hỗ trợ nạn nhân và địa chỉ liên hệ khi cần giúp đỡ, 5.000 cuốn sổ tay hướng dẫn hỗ trợ tâm lý xã hội cho nạn nhân bị buôn bán trở về tái hoà nhập cộng đồng; 01 VCD vở Cải lương với tựa đề “Những bước chân lầm lỡ”; tổ chức được 5340 buổi tuyên truyền tại các cụm dân cư có 76.016 lượt người tham dự; tổ chức 32 lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ các Sở, ban ngành là thành viên Ban Chỉ đạo phòng chống tội phạm buôn bán người và cán bộ của Trung tâm Bảo trợ xã hội, phòng Nội vụ- Lao động Thương binh và Xã hội các huyện, thành phố, cán bộ cấp xã thực hiện công tác tiếp nhận, hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về; chuyên đề, phóng sự trên Đài truyền hình Việt Nam, Truyền hình Vì An ninh tổ quốc, các báo Nhân dân, Công an Nhân dân, Tạp chí Công an Nhân dân; mô hình sinh hoạt Câu lạc bộ, tổ nhóm phụ. Công tác xác minh, tiếp nhận nạn nhân: đã lập danh sách 7.035 nạn nhân bị bán ra nước ngoài, 22.000 phụ nữ, trẻ em vắng mặt lâu ngày tại địa phương nghi bị buôn bán, 17.217 trẻ em Việt Nam cho người nước ngoài làm con nuôi, 251.492 phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài...
4
Trích Báo cáo 5 năm thực hiện Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2005-2010 của Bộ LĐTBXH năm 2010
48
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Công tác tiếp nhận và hỗ trợ phụ nữ, trẻ em bị buôn bán trở về tái hòa nhập cộng đồng: Theo báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố, tính đến tháng 5/2010 số nạn nhân là phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về là 3.190 trường hợp, trong số đó 60% nạn nhân tự trở về, 25% được giải cứu, 15% tiếp nhận chính thức. Trong số 3.190 nạn nhân trở về có 2.532 nạn nhân được hỗ trợ tâm lý, khám sức khỏe và cung cấp thông tin, chính sách hỗ trợ; có 1.037 trường hợp nạn nhân nhận được kinh phí hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng và hỗ trợ học nghề từ nguồn ngân sách của nhà nước, các trường hợp còn lại đang trong quá trình làm các thủ tục chi hỗ trợ. Ngoài ra, các nạn nhân còn được tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ từ các tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế.5 6.3. Các vấn đề tồn tại và phương hướng khắc phục Về công tác phòng, chống mại dâm: Kết quả phòng, chống mại dâm hiện nay chưa vững chắc. Tệ nạn mại dâm mới giảm ở bề nổi, mại dâm trẻ em và vị thành niên vẫn còn tồn tại, chưa triệt phá dứt điểm được đường dây hoạt động mại dâm liên tỉnh, đưa ra nước ngoài hoạt động mại dâm; tăng số cơ sở lợi dụng mại dâm để kinh doanh dịch vụ; mại dâm nam, mại dâm đồng giới, mại dâm có yếu tố nước ngoài có chiều hướng gia tăng... Hoạt động giáo dục, dạy nghề và hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng hiệu quả thấp. Tại trung tâm, các hoạt động giáo dục hành vi nhân cách còn cứng nhắc, một chiều; việc dạy nghề chưa phù hợp với nhu cầu và khả năng tiếp cận với thị trường việc làm; chưa đạt được mục tiêu nâng cao năng lực cá nhân cho đối tượng. Hiện tượng lây nhiễm HIV/AIDS ra cộng đồng ngày càng cao, đặc biệt với sự xuất hiện của tệ nạn mại dâm nam, mại dâm đồng giới. Người bán dâm không chủ động tiếp cận các dịch vụ xã hội, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế, chưa được tiếp cận với các chương trình can thiệp, giảm tác hại và tình dục an toàn.
5
Nguồn của Cục Phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ LĐTBXH năm 2010
49
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Về công tác phòng chống buôn bán người: Tình hình tội phạm buôn bán người diễn biến phức tạp, nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng, trong khi đó hệ thống pháp luật về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót như việc giải quyết các trường hợp nạn nhân là nam giới, nạn nhân được giải cứu trong nước. Đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tệ nạn xã hội còn thiếu, chủ yếu làm kiêm nhiệm nên việc nắm bắt thông tin và cập nhật số liệu về phụ nữ, trẻ em bị buôn bán và nghi bị buôn bán còn chưa kịp thời, nhiều xã, phường, thị trấn không nắm chắc được tình hình nạn nhân bị buôn bán nên khi phát hiện được các trường hợp nạn nhân trở về thì lúng tứng trong việc thực hiện vận dụng các chính sách hỗ trợ. Công tác tuyên truyền chưa phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi và phong tục tập quán nên chưa phát huy được hiệu quả của công tác này. Mặt khác do thiếu tài liệu tuyên truyền, nhận thức của một bộ phận người dân còn hạn chế nên hiệu quả truyền thông đến người dân chưa cao, chưa kịp thời nhất là đối với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc. Công tác xác minh và tiếp nhận nạn nhân trong thời gian qua mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng nhìn chung công tác xác minh, tiếp nhận nạn nhân, nhất là đối với nạn nhân tự trở về của các bộ, ngành và địa phương còn chậm và lúng túng. Công tác hỗ trợ nạn nhân chưa được một số cấp ủy, chính quyền cơ sở quan tâm, thiếu kiên quyết trong chỉ đạo rà soát và thực hiện các biện pháp hỗ trợ nạn nhân tại cơ sở. Đến nay, nhiều trường hợp nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về, nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu sự quan tâm giúp đỡ của cộng đồng và chính quyền địa phương đã phải đi khỏi địa bàn, một số trường hợp nạn nhân lại trở thành tội phạm để lừa bán phụ nữ, trẻ em sang nước ngoài. Phương hướng khắc phục: 50
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách. Tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa và xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định của pháp luật. Tăng cường nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên trách các cấp. Xây dựng và thực hiện cơ chế lồng ghép với các chương trình về phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, an ninh trật tự. Tổ chức đánh giá, nghiên cứu một cách tổng quan và chuyên sâu. Thực hiện các chương trình, dự án hợp tác quốc tế, khu vực, biên giới. ĐIỀU 7 Thực hiện quyền bình đẳng trong đời sống chính trị và cộng đồng 7.1. Bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của phụ nữ trong việc tham gia vào đời sống chính trị, Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân đã khẳng định quyền bầu cử và ứng cử là quyền chính trị quan trọng của công dân, phụ nữ Việt Nam có quyền bình đẳng với nam giới trong việc bầu cử và ứng cử. “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân” (Điều 53 Hiến pháp 1992); “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật” (Điều 54 Hiến pháp 1992). Dựa trên nguyên tắc bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị được Hiến pháp ghi nhận, các bộ luật, luật liên quan đến quyền lợi chính trị đều không có sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Nam, nữ có cơ hội như nhau trong việc tham gia hoạt động xã hội, tham gia hoạt động quản lý nhà nước, giữ các chức vụ lãnh đạo trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; quyền được tham 51
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
gia hoạt động đối ngoại, hội thảo, diễn đàn trong nước và quốc tế, quyền được thể hiện chính kiến, quyền khiếu nại, tố cáo…theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do sự khác biệt về giới tính, phụ nữ có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý, điều kiện sức khoẻ và gánh vác thiên chức làm mẹ, do đó còn có nhiều thiệt thòi so với nam giới. Chính vì vậy, các chính sách pháp luật quan tâm đến phụ nữ là phù hợp với quy luật và thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, Luật Bình đẳng giới 2006 đã quy định những nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị. Trong đó các kỳ bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, quyền bình đẳng của phụ nữ luôn được các cấp, các ngành tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ tham gia bầu cử và ứng cử bình đẳng với nam giới. Qua các nhiệm kỳ của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội khá cao. Cụ thể: - Quốc hội khoá X: 118 đại biểu Quốc hội là nữ trong tổng số 450 đại biểu Quốc hội, chiếm 26,22%. - Quốc hội khoá XI: 136 đại biểu Quốc hội là nữ trong tổng số 498 đại biểu Quốc hội, chiếm 27,31%. - Quốc hội khoá XII: 127 đại biểu Quốc hội là nữ trong tổng số 493 đại biểu Quốc hội, chiếm 25,76%. - Quốc hội khóa XIII: 122 đại biểu Quốc hội là nữ trong tổng số 500 đại biểu Quốc hội, chiếm 24,4 %. Trong đó, số tỉnh đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội trên 50% là 2 tỉnh; số tỉnh đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội trên 40% là 3 tỉnh; số tỉnh đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội từ 30-39,9% là 18 tỉnh; số tỉnh đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội từ 20-29,9% là 16 tỉnh; số tỉnh đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội dưới 20% là 21 tỉnh; số tỉnh đạt tỷ lệ nữ 0% là 3 tỉnh. Như vậy, so với các nước ASEAN và Châu Á-Thái Bình Dương thì tỷ lệ nữ trong Quốc hội Việt Nam đạt mức khá cao. 52
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cũng tăng lên qua các nhiệm kỳ, cụ thể như sau: 6 Cấp
Nhiệm kỳ 1999 – 2004
Nhiệm kỳ 2004 - 2009
Nhiệm kỳ 2009 - 2014
Cấp tỉnh
22,33%
23,80%
25,7%
Cấp huyện
20,12%
22,94%
24,62%
Cấp xã
16,10%
19,53%
21,71%
Thực hiện quyền bầu cử và ứng cử đối với nữ giới đã được các cấp, các ngành triển khai sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân trên cơ sở thực hiện quy chế dân chủ, công khai trong hoạt động bầu cử. Số lượng và chất lượng của nữ đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng được nâng cao, nhiều chị giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức nữ giữ vị trí quan trọng đã và đang đóng góp vai trò tích cực trong đời sống chính trị và xã hội, cùng tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của quốc gia, cũng như của từng địa phương. Đồng thời giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, kết quả đạt được nêu trên chưa phản ánh hết được khả năng của phụ nữ Việt Nam trong việc tham gia đời sống chính trị và xã hội. Tỷ lệ đại biểu nữ trong các cơ quan dân cử còn thấp so với khả năng và nguyện vọng của phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo và quản lý còn chưa đạt được yêu cầu trong Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Nguyên nhân tồn tại trên là do: - Thiếu nguồn cán bộ, công chức nữ đủ điều kiện để bầu hoặc bổ nhiệm vào các vị trí này, do công tác quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức nữ chưa được các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương quan tâm 6
Văn phòng Quốc hội, 7/2011
53
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
thực sự và có sự phối hợp triển khai đồng bộ hoặc chưa mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ. - Bản thân một bộ phận cán bộ, công chức nữ chưa mạnh dạn khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, còn có tư tưởng tự ti, níu kéo nhau. 7.2. Quyền của phụ nữ trong việc tham gia quản lý nhà nước, kinh tế và xã hội Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội và được thể hiện cụ thể ở các mặt sau: a) Theo quy định tại Điều 87 Hiến pháp năm 1992, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có quyền đề xuất sáng kiến về pháp luật, quyền trình dự án luật, pháp lệnh. b) Luật Mặt trận Tổ quốc 1999 và Nghị định số 50/2001/NĐ-CP ngày 16/8/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc đã xác định Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức thành viên của Mặt trận và quy định cơ chế phối hợp giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm các bên. Tại Điều 9 của Nghị định số 50/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã xác định trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo lấy ý kiến của các tổ chức thành viên của Mặt trận về dự án, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức chính trị-xã hội nói chung và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam nói riêng trong các hoạt động giám sát, kiểm tra. c) Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 7/03/2003 của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Những kết quả đạt được trong 7 năm triển khai, thực hiện Nghị định 19/2003/NĐ-CP đã đánh dấu, khẳng định vai trò của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc
54
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. d) Luật Cán bộ, công chức năm 2008 là cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức nữ nói riêng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, công vụ trong giai đoạn mới; đã cụ thể hoá tạo điều kiện cho mọi công dân Việt Nam, không phân biệt nam, nữ đủ tiêu chuẩn và điều kiện có quyền được tuyển dụng làm cán bộ, công chức; cụ thể hoá thực hiện bình đẳng giới khi xác định nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức (Điều 5), quyền được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo và ra quyết định, quyền được hưởng các chính sách khác theo quy định của pháp luật. 7.3. Quyền của phụ nữ tham gia các tổ chức chính trị - xã hội Quyền của phụ nữ tham gia các tổ chức chính trị - xã hội được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 và Luật Mặt trận tổ quốc năm 1999. Theo đó, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc, có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Hiếp pháp quy định không phân biệt nam nữ, mọi công dân Việt Nam đều có quyền lập hội. Luật Mặt trận tổ quốc đã quy định cụ thể cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với Hội Liên hiệp phụ nữ trong hoạt động giám sát, kiểm tra. Tỷ lệ phụ nữ tham gia các tổ chức chính trị xã hội (Mặt trận tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân) ngày càng tăng. Đã có cán bộ, công chức là phụ nữ đã nắm giữ các chức vụ lãnh đạo quan trọng trong các tổ chức chính trị - xã hội, góp phần cùng các cơ quan nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước. 7.4. Phương hướng tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong đời sống chính trị và cộng đồng
55
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Trên thực tế, sự tham gia của phụ nữ Việt Nam trong đời sống chính trị của đất nước chưa tương xứng với khả năng của họ và chưa đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới, phải khắc phục những tồn tại này: - Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ theo quan điểm, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành từ Trung ương tới cơ sở, đặc biệt là đối với người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ chốt. - Đẩy mạnh bồi dưỡng nâng cao nhận thức giới, quan tâm bồi dưỡng và kết nạp đảng viên nữ, chủ động và quyết tâm thực hiện việc tạo nguồn cán bộ nữ. Mỗi nữ cán bộ lãnh đạo quản lý có trách nhiệm quy hoạch từ 1 đến 2 cán bộ nữ kế cận chức danh mà mình đang đảm nhiệm. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng với nhiều hình thức khác nhau nhằm nâng cao nhận thức của người dân về bình đẳng giới, về vai trò, vị trí của phụ nữ, cán bộ nữ, gương các phụ nữ điển hình tiên tiến tài năng, trong đó chú ý các đối tượng phụ nữ và trẻ em ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số để học tự bảo vệ quyền lợi của mình. - Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm có hiệu quả công tác cán bộ nữ, thực hiện giám sát, đánh giá kết quả việc triển khai Luật Bình đẳng giới, trên cơ sở đó đã kiến nghị và đề xuất với cơ quan có thẩm quyền bổ sung quy chế, chính sách nhằm bảo đảm phát huy vai trò của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước. - Rà soát các chế độ, chính sách đối với nữ công chức, viên chức, người lao động nữ để đảm bảo bình đẳng giới trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng chính sách ưu đãi về đào tạo, cử tuyển, phụ cấp khu vực; Kết hợp giới vào các chương trình đào tạo chính trị và hành chính các cấp; Nâng cao năng lực của bộ máy hành chính và các tổ chức nhằm thực hiện các chính sách vì sự tiến bộ của phụ nữ, bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ một cách có hiệu quả.
56
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện chính sách nhằm tạo điều kiện phát triển đội ngũ cán bộ nữ, bảo đảm phụ nữ được tiếp cận bình đẳng về giáo dục, khoa học công nghệ, đào tạo để được nâng cao trình độ chuyên môn. - Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ theo từng lĩnh vực, từ đó cụ thể hoá kế hoạch về đào tạo cán bộ nữ trong các cơ quan, ban ngành. - Chú trọng công tác xây dựng quy hoạch cán bộ nữ theo tinh thần Nghị quyết của Đảng, các chức danh lãnh đạo, quản lý ở mọi lĩnh vực, từ Trung ương đến cơ sở nhất thiết phải có cán bộ nữ. - Lồng ghép có hiệu quả yếu tố giới vào các chính sách, chương trình hành động quốc gia, các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các cấp, các ngành. - Quy định trách nhiệm rõ hơn của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ tham gia quản lý nhà nước. - Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ; tạo điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống. - Thực hiện giám sát, đánh giá kết quả việc triển khai thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, trên cơ sở đó kiến nghị và đề xuất với cơ quan có thẩm quyền về việc bổ sung cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm phát huy vai trò của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước. Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020 đưa ra mục tiêu cụ thể: Mục tiêu 1: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị: Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 – 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 – 2020 trên 35%. Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ 57
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
chốt là nữ. Chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.7 ĐIỀU 8 Phụ nữ tham gia các hoạt động quốc tế Thực hiện chủ trương chung về mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế, phụ nữ Việt Nam càng có thêm điều kiện tham gia và đóng góp có hiệu quả vào các hoạt động quốc tế. 8.1. Phụ nữ trong ngành ngoại giao Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ trong ngành ngoại giao trong đó xác định các chỉ tiêu cụ thể như: đảm bảo tỷ lệ cán bộ nữ trong toàn ngành là 30%, nâng tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy Đảng từ 15% lên 20%, đào tạo nữ cán bộ, công chức có bằng Thạc sỹ, Tiến sỹ trở lên so với tổng số là 30%. Hiện nay, số lượng cán bộ, công chức, viên chức nữ đang công tác tại Bộ Ngoại giao Việt Nam là 892 người, chiếm 37,84% tổng số cán bộ, công chức của Bộ (vượt 7,84% so với chỉ tiêu đề ra là 30%). Trong đó, có 15 người là Tiến sỹ trong tổng số 62 Tiến sỹ của Bộ (chiếm tỷ lệ 24,19%), 176 người là Thạc sỹ trong tổng số 436 Thạc sỹ của Bộ (chiếm tỷ lệ 40,37%), 548 người có trình độ Đại học trong tổng số 1304 công chức có trình độ Đại học (chiếm tỷ lệ 42%). Số lượng cán bộ nữ đang công tác tại các cơ quan đại diện là 200 người. Từ năm 20042011, số cán bộ nữ là Đại sứ là 4/115 người (3.47%), Tham tán công sứ là 11/73 người (15.07%), Tham tán là 43/243 người (17.7%). Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam hiện này là nữ. Về cán bộ tham gia công tác quản lý, có 5 nữ Vụ trưởng trên 114 Vụ trưởng (chiếm 4,38%); 29 nữ Phó Vụ trưởng trên 193 Phó Vụ trưởng (chiếm 7
Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22/12/2010.
58
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
15,03%), 16 nữ Trưởng phòng trên 69 Trưởng phòng (chiếm 23,19%), 47 nữ Phó Trưởng phòng trên 99 Phó Trưởng phòng (chiếm 47,48%). 8 8.2. Phụ nữ tham gia các hoạt động quốc tế Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cán bộ nữ công tác trong các cơ quan Chính phủ, các tổ chức hữu nghị, xã hội, nghề nghiệp, tổ chức quần chúng đều có cơ hội đại diện cho Chính phủ Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và tham gia vào các hoạt động quốc tế. Có thể nói, số lượng và chất lượng tham gia của phụ nữ trong ngoại giao song phương và đa phương ngày càng tăng. Trong giai đoạn 2004-2011, các hoạt động đối ngoại diễn ra sôi động, đặc biệt là các hoạt động trong khuôn khổ Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong khuôn khổ APEC, ASEM và ASEAN đã huy động sự tham gia đông đảo của đội ngũ cán bộ nữ ngoại giao ngày càng trưởng thành về chính trị, nghiệp vụ và bản lĩnh trong các hoạt động đối ngoại. Số lượng nhân viên nữ người Việt Nam làm việc tại các Tổ chức quốc tế và Cơ quan ngoại giao đoàn ở Việt Nam là 2021 người, chiếm tỷ lệ 59.65% trong tổng số 3388 nhân viên Việt Nam làm việc tại các Tổ chức quốc tế và Cơ quan ngoại giao đoàn ở Việt Nam. Trong thời gian tới, Việt Nam chủ trương tiếp tục tăng cường củng cố sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động quốc tế, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia các Hội nghị, Hội thảo ở trong và ngoài nước, cũng như đảm bảo sự cân bằng nam nữ trong tuyển dụng công chức ngành ngoại giao và trong công tác tại các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài. ĐIỀU 9 Vấn đề quốc tịch - Luật pháp Việt Nam luôn nhất quán, đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ trong vấn đề quốc tịch. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, đã kế thừa và phát 8
Trích Báo cáo của Bộ Ngoại giao năm 2010
59
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
triển những quy định của Luật Quốc tịch năm 1998 về việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong việc nhập, thay đổi hoặc giữ quốc tịch, không có bất cứ sự phân biệt đối xử với phụ nữ. - Trong đó quy định rõ: việc kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài không làm thay đổi quốc tịch Việt Nam của đương sự và con chưa thành niên của họ (nếu có). Việc người vợ hoặc chồng nhập, trở lại hoặc mất quốc tịch Việt Nam không làm thay đổi quốc tịch của người kia (các Điều 9, 10 Luật Quốc tịch năm 2008). - Đồng thời Luật Quốc tịch 2008 cũng có nhiều quy định mới đảm bảo quyền có quốc tịch nói chung cũng như quyền được đảm bảo về quốc tịch, không phân biệt của phụ nữ nói riêng: - Người không quốc tịch cư trú ổn định 20 năm tại Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam: cùng với quy định công dân Việt Nam được đồng thời có quốc tịch nước ngoài, Luật Quốc tịch Việt Nam quy định, công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật. - Theo Luật Quốc tịch người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định. - Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam sẽ được Nhà nước công nhận còn quốc tịch Việt Nam. - Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đương nhiên có Quốc tịch Việt Nam. Để hạn chế tình trạng không quốc tịch, Luật quy định Nhà nước tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này. 60
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Nhiều điều, khoản quy định về quốc tịch của trẻ em như: trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con. - Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thoả thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì có quốc tịch Việt Nam. - Thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã tổ chức thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các quy định của Luật và trên thực tế đã bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong việc nhập, thay đổi hoặc giữ quốc tịch, không có bất cứ sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Trong giai đoạn từ 2004 đến tháng 8/2010, Nhà nước Việt Nam đã làm thủ tục thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài cho 70.255 người, trong đó số phụ nữ xin thôi quốc tịch là 60.700 người, chiếm 86,4%. Có thể nói rằng các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như quá trình tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng đã hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước về vấn đề quốc tịch.
61
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
ĐIỀU 10 Bình đẳng trong giáo dục 10.1. Quan điểm và mục tiêu giáo dục Luật Giáo dục năm 2005 và các băn bản hướng dẫn thi hành đã quy định toàn diện về quan điểm và mục tiêu giáo dục của Việt Nam; quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục; quy định chi tiết thi hành về quản lý hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục; quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục; quy định về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra giáo dục; quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; quy định về dạy nghề;về giáo dục quốc phòng- an ninh; về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường; quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015; quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, trong đó quy định mục tiêu là tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn. Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người giai đoạn 2003-2015 đã coi bình đẳng giới là một mục tiêu ưu tiên với những nội dung cụ thể là "Xoá bỏ bất bình đẳng giới ở bậc tiểu học và trung học vào năm 2005, đạt bình đẳng
62
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
giới trong giáo dục vào năm 2015, chú trọng đảm bảo trẻ em gái được tiếp cận đầy đủ và công bằng cũng như hoàn thành giáo dục cơ bản với chất lượng tốt". Quy định tại các văn bản nói trên tiếp tục tuân thủ nguyên tắc bình đẳng trong giáo dục, đồng thời tạo ra các cơ chế và điều kiện cần thiết cho phụ nữ và trẻ em gái được thụ hưởng quyền bình đẳng của mình trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. 10.2. Thực hiện bình đẳng về cơ hội và điều kiện học tập cho nam và nữ Học sinh nam và nữ trong các cấp học, ở mọi loại trường, từ mầm non cho tới sau đại học, đều học chung một lớp, chung một chương trình với các điều kiện học tập, học bổng, trợ cấp như nhau, không có bất kỳ sự phân biệt nào. Một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng đã được hình thành với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non tới sau đại học. Hệ thống giáo dục đã bước đầu được đa dạng hoá cả về loại hình, phương thức và nguồn lực, mở ra nhiều cơ hội cho người dân, nhất là phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi tham gia học tập. Quy mô giáo dục tiếp tục tăng ở hầu hết các cấp, bậc học, ngành học. 10.3. Kết quả giáo dục và đào tạo cho phụ nữ Nhận thức của xã hội về bình đẳng giới đã có chuyển biến tích cực. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dần được khắc phục, gia đình và xã hội đã quan tâm nhiều hơn và tạo điều kiện cho cả trẻ em trai và trẻ em gái đến trường. Do vậy, tỷ lệ nhập học đều tăng lên ở các cấp học. Ngoài ra, Việt Nam đã cho phép các tổ chức xã hội – nghề nghiệp và doanh nghiệp thành lập các giải thưởng cho trẻ em nghèo vượt khó, trong đó có trẻ em gái, đến nay đã có hàng nghìn em gái nhận được giải thưởng này. 63
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Tỷ lệ biết chữ của phụ nữ đã tăng lên và khoảng cách giới ngày càng thu hẹp. Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy tỷ lệ biết chữ của số dân từ 15 tuổi trở lệ tăng liên tục qua 3 cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở (năm 1989 là 88%, năm 1999 là 90%, và 93,5% vào năm 2009).Tỷ lệ số dân từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết ngày càng tăng (năm 1999 là 90%, năm 2009 là 93,5% - trong đó tỷ lệ biết đọc, biết viết của nữ so với nam là 91,4% trên 95,8%). Phân bổ tỷ lệ biết chữ theo nhóm tuổi cho thấy tình hình giáo dục của nước ta đã được cải thiện một cách đáng kể qua từng giai đoạn. Tỷ lệ biết chữ của nhóm 50 tuổi trở lên là 87,2%. Tỷ lệ biết chữ của nhóm trẻ hơn được tăng dân cho đến mức cao nhất là 98% ở nhóm tuổi từ 15-17 tuổi với cả nam và nữ. Sự chênh lệch về tỷ lệ biết chữ của nông thôn và thành thị cũng rất thấp (97% ở thành thị và 92% ở nông thôn). Ngoài ra kết quả điều tra cho thấy, 8,6 triệu người đã được đào tạo, chiếm 13,4% dân số từ 15 tuổi trở lên. Trong đó, 2,6% đã tốt nghiệp sơ cấp, 4,7% tốt nghiệp trung cấp, 1,6% tốt nghiệp cao đẳng, 4,2 tốt nghiệp đại học và 0,2% trên đại học. Số người trong độ tuổi từ 15 tuổi trở lên được đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm 25,4% ở khu vực thành thị (tăng 8% so với năm 1999) và 8% ở khu vực nông thôn (tăng 4% so với năm 1999). Tỷ lệ người được đào tạo từ trung cấp trở lên khu vực thành thị cao gấp 2 lần khu vực nông thôn, từ trình độ cao đẳng trở lê khu vực thành thị cao gấp 5 lần khu vực nông thôn. Năm 2009, trong số hơn 130 thủ khoa tốt nghiệp tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội, có 60% thủ khoa là nữ. Hiện nay có 7/65 nữ nhà giáo là giáo sư (chiếm 10,76%) và có 133/641 nữ nhà giáo là phó giáo sư (chiếm 20,74%). Cơ hội đến trường được mở rộng cho tất cả mọi người, đặc biệt là trẻ em gái: về cơ bản đã xóa được “xã trắng” về giáo dục mầm non. Hệ thống các trường tiểu học đã được mở tới từng thôn, xóm, trường trung học cơ sở được mở tới từng xã hoặc cụm xã. Các điểm trường lẻ, lớp “cắm bản”, lớp ghép được mở ở hầu hết các thôn bản, buôn sóc vùng cao, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn, tạo cơ hội 64
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
cho trẻ em trai và gái các dân tộc thiểu số được đi học. Bình đẳng giới về cơ bản đã đạt được trong giáo dục mầm non và tiểu học. Tỷ lệ nhập học thô của trẻ em trai và trẻ em gái ở giáo dục mầm non đạt mức cao và có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Điều đó chứng tỏ trẻ em được huy động ra lớp đúng độ tuổi ngày càng tăng. Tỷ lệ nhập học thô của học sinh nữ và nam ở bậc tiểu học đạt mức cao và có xu hướng tăng trong những năm gần đây. 10.4. Cán bộ nữ ngành giáo dục và đào tạo Một đặc điểm của giáo dục Việt Nam là số lượng giáo viên nữ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số giáo viên của ngành giáo dục và tập trung chủ yếu ở các cấp học thấp, đặc biệt ở giáo dục mầm non, tiểu học càng lên cấp học cao, thì tỷ lệ nữ giáo viên càng giảm. Tỷ lệ giáo viên nữ ở cấp tiểu học đạt tỷ lệ khá cao trong tất cả các vùng trong nước. Tỷ lệ này luôn ở mức xấp xỉ 80% tổng số giáo viên cấp tiểu học. Tỷ lệ giáo viên nữ ở cấp THCS có thấp hơn ở cấp tiểu học nhưng vẫn phản ánh xu thế khá cao ở cấp học này trong tất cả các vùng trong nước. Tỷ lệ này luôn ở mức xấp xỉ trên 2 phần 3 tổng số giáo viên cấp trung học cơ sở. Đây có thể là do định kiến của xã hội về vai trò giới, cho rằng phụ nữ cần nhiều thời gian để làm việc nhà và không cần đầu tư nhiều cho việc học của trẻ em gái. Do nhận thức của xã hội về giới và vai trò của phụ nữ đã ngày càng được nâng cao, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho học sinh nữ, tạo cơ hội tiếp cận với giáo dục ở các cấp học cao. Tỷ lệ giáo viên nữ đã tăng lên ở các cấp học cao, đặc biệt tỷ lệ giảng viên cao đẳng và đại học. Bộ Giáo dục-Đào tạo đã chú trọng đến điều kiện làm việc cho cán bộ nữ, đảm bảo bình đẳng mọi chế độ, chính sách, đặc biệt chú trọng đến việc xây nhà công vụ cho giáo viên, mà đối tượng thụ hưởng hầu hết là giáo viên nữ ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn đã tăng lên, đặc biệt ở một số cấp học đã có tỷ lệ giáo viên nữ đạt chuẩn cao hơn tỷ lệ chung của ngành, ở các trường trung cấp 65
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học, tỷ lệ nữ giáo viên, giảng viên có trình độ cao đã tăng đáng kể. Đặc biệt ở giáo dục đại học, tỷ lệ nữ giáo sư đã tăng lên. 10.5. Vấn đề định kiến giới trong sách giáo khoa Sách giáo khoa ở các trường phổ thông trong giai đoạn vừa qua vẫn còn có một số biểu hiện về định kiến giới. Các hình ảnh và quan niệm được trình bày trong sách giáo khoa vẫn khắc họa vai trò truyền thống của trẻ em gái và phụ nữ như làm việc nhà, làm ruộng và các công việc lao động chân tay. Bên cạnh đó, họ thường được mô tả là rụt rè, trông cậy vào sự giúp đỡ của người khác và thấp kém hơn nam giới. Trong khi đó, trẻ em trai và nam giới thường được khắc hoạ thông qua hình ảnh các học giả, nhà thám hiểm hay công nhân kỹ thuật được đào tạo và là những người khỏe mạnh, có lý chí, sử dụng kỹ thuật thành thạo, độc lập, được người khác tôn trọng. Để tiến đến bình đẳng giới trong giáo dục, loại bỏ những thiên kiến giới, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo thực hiện lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào nội dung, chương trình, sách giáo khoa mới ở tất cả các cấp học từ mầm non, đến phổ thông; lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào nội dung và các hoạt động giáo dục trong và ngoài chương trình, cũng như sách hướng dẫn giáo viên về các hoạt động ngoài giờ lên lớp ở cấp học THCS thông qua một số chủ đề như tình bạn và các hoạt động ngoại khoá: giáo dục kỹ năng sống, giáo dục quyền trẻ em, giáo dục phòng chống HIV/AIDS.; lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào chương trình đào tạo tại các trường cao đẳng, đại học sư phạm và lồng ghép giới vào các chương trình giáo dục thường xuyên, sách giáo khoa, tài liệu hướng dẫn giáo viên, băng hình, tranh ảnh. Đặc biệt, đã triển khai lồng ghép giới vào chương trình giáo dục kỹ năng sống cho phụ nữ nông thôn tại các trung tâm học tập cộng đồng. Đặc biệt, trong khuôn khổ Chương trình phối hợp chung giữa Chính phủ Việt Nam và các tổ chức Liên hiệp quốc về bình đẳng giới, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với UNESCO tổ chức rà soát sách giáo khoa dưới góc độ giới. 66
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Kết quả rà soát cho thấy vẫn còn có các định kiến giới trong các tài liệu giáo dục và sách giáo khoa trong việc chia sẻ việc nhà, phân biệt đối xử trong lực lượng lao động và các hành vi mang lại rủi ro cho nam và nữ thanh niên. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cho Viện Khoa học giáo dục Việt Nam tiến hành rà soát chương trình, sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy nhằm loại bỏ hình ảnh, thiên kiến giới. Ngoài ra, để tăng cường lồng ghép giới trong đào tạo giáo viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với UNESCO Hà Nội tổ chức Hội thảo “Tăng cường lồng ghép giới trong đào tạo giáo viên” (5/2010) và xây dựng tài liệu hướng dẫn theo modul nhằm tăng cường lồng ghép giới trong đào tạo giáo viên cho các trường sư phạm được thử nghiệm vào cuối tháng 10/2010. Tuy nhiên, đây là những hoạt động trong khuôn khổ của các dự án, do vậy chưa được triển khai đại trà; mặt khác do nhận thức của một số cán bộ quản lý còn hạn chế, thiếu nhạy cảm giới nên hoạt động này chưa được coi trọng và thiếu kinh phí để thực hiện. Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020 đó đó đưa ra mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể để phấn đấu: Mục tiêu 3: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đạt 90% vào năm 2015 và 95% vào năm 2020. Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 40% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020. Tỷ lệ nữ tiến sỹ đạt 20% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020. ĐIỀU 11 Bình đẳng trong lĩnh vực việc làm Việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm ở Việt Nam đã được cải thiện thông qua chính sách pháp luật của Nhà nước và việc triển khai trên thực tế các biện pháp tích cực để hỗ trợ cho lao động nữ. 67
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
11.1. Chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm Điều 63 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.”. Thể chế hoá Hiến Pháp, Bộ luật Lao động đã thể hiện khá đầy đủ quyền bình đẳng về lao động việc làm cho cả lao động nam và lao động nữ, cụ thể như: Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động quy định: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo”. Điều 13: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”. Điều 20: “Mọi người có quyền tự do lựa chọn nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình..” Khoản 1 Điều 109: “Nhà nước đảm bảo quyền làm việc cho phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới...”. Điều 110: “1- Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm người lao động nữ còn có thêm nghề dự phòng và để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ; 68
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
2- Nhà nước có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối với những doanh nghệp sử dụng nhiều lao động nữ”. Để góp phần tạo nhiều việc làm và đảm bảo quyền làm việc của lao động nữ bình đẳng với lao động nam, Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành có nhiều quy định cụ thể về bảo đảm việc làm cho lao động nữ, chống phân biệt đối xử đối với lao động nữ, ưu tiên tuyển dụng lao động nữ, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, cụ thể: * Bình đẳng nam, nữ trong lao động, việc làm và chống phân biệt đối xử đối với lao động nữ: - Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động. - Nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm danh dự và nhân phẩm phụ nữ. Bên cạnh đó, lao động nữ còn được hưởng các chính sách hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm chung cho mọi người lao động (không phân biệt nam nữ) được quy định trong Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg ngày 6/7/2007 Phê duyệt Chương trình quốc gia về việc làm đến năm 2010, Quyết định số 71/2009/QĐTTg ngày 29/4/2009 phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động như: cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm; hỗ trợ học nghề và cho vay tín dụng xuất khẩu lao động... * Ưu tiên tuyển dụng lao động nữ: Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận lao động nữ vào làm việc khi họ có đủ tiêu chuẩn tuyển chọn vào công việc phù hợp với cả nam và nữ. (Khoản 2 Điều 111, Bộ luật Lao động). * Bảo đảm việc làm cho lao động nữ:
69
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động. Người lao động nữ được tạm hoãn việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kéo dài thời hiệu xem xét xử lý kỷ luật lao động trong thời gian có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; được đảm bảo chỗ làm việc khi hết thời gian nghỉ thai sản theo chế độ và cả trong trường hợp được phép nghỉ thêm không hưởng lương... * Chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ: Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu tiên sử dụng một phần trong tổng số vốn đầu tư hàng năm để cải thiện điều kiện làm việc cho lao động nữ; được giảm thuế lợi tức; được vay vốn từ quỹ quốc gia về việc làm; được lập dự án xin kinh phí hỗ trợ một lần từ quỹ quốc gia về việc làm để điều chuyển lao động nữ ra khỏi công việc cấm trong trường hợp có khó khăn về tài chính... Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg ngày 6/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010, Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động: cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm; hỗ trợ học nghề và cho vay tín dụng xuất khẩu lao động; Hỗ trợ dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú, dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn; Tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; Học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục... Đặc biệt, ngày 26/2/2010 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho phụ nữ giai đoạn 2010-2015” với mục tiêu chung: tăng tỷ lệ lao động nữ được đào tạo nghề và nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của lao động nữ; tạo cơ hội để phụ nữ có thể tìm kiếm việc làm có thu nhập ổn định, giúp xóa đói, giảm nghèo và nâng cao vị thế cho 70
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
phụ nữ; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. 11.2. Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm * Về tạo việc làm và tình hình sử dụng, thực hiện chính sách đối với lao động nữ trong các doanh nghiệp Ưu tiên cho phụ nữ, đặc biệt là mở rộng sự tham gia của Hội Phụ nữ các cấp đã đem lại lợi ích trực tiếp cho phụ nữ, nhất là trong tiếp cận tín dụng và tạo cơ hội và bảo đảm việc làm bình đẳng cho họ. Số lượng lao động nữ được giải quyết việc làm tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Tính chung từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã tạo việc làm cho khoảng 8,065 triệu lao động, trong đó lao động nữ chiếm 48,2%. Tỷ lệ thất nghiệp của nữ ở khu vực thành thị năm 2009 là 4,9% (vượt chỉ tiêu đề ra là dưới 6% vào năm 2010). 9 Nhìn chung nhiều doanh nghiệp, tổ chức đã thực hiện tốt các điều kiện để lao động nữ có việc làm, có thu nhập, ổn định cuộc sống, các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ đều trang bị các phương tiện làm việc phù hợp cho lao động nữ, bố trí công việc phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ. Tỷ lệ lao động nữ và nam ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn không có sự khác biệt, nhưng ở hình thức hợp đồng xác định thời hạn từ 1-3 năm và dưới 1 năm lao động nữ chiếm tỷ lệ cao hơn từ 10-15%. Các doanh nghiệp đều thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, điều kiện an toàn vệ sinh lao động... cũng như các quy định riêng đối với lao động nữ. Phần lớn lao động nữ đang làm các nghề, công việc không thuộc danh mục nghề và công việc cấm sử dụng lao động nữ (99,3%). 10
9
Và 11. Báo cáo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội 2010
71
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Tiền lương, tiền công trả cho người lao động dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đảm bảo được tính công bằng, không có sự phân biệt đối xử về giới. Xu hướng chung những năm qua tiền lương, tiền công và thu nhập đều tăng (thu nhập bình quân tháng của lao động làm công ăn lương khoảng hơn 1 triệu đồng vào năm 2006 đã tăng lên mức 2 triệu đồng vào năm 2009). Một số hạn chế: - Nhận thức về bình đẳng giới còn chậm và quá trình xây dựng, thực thi chính sách chưa đồng bộ. Một số doanh nghiệp chưa có sự đối xử công bằng trong tuyển dụng lao động, chưa tạo điều kiện cho lao động nữ có cơ hội được làm việc vì lý do sức khỏe và thai sản như: đặt điều kiện vào doanh nghiệp sau 2 năm mới được kết hôn hoặc nếu đã kết hôn thì sau 2 năm mới được sinh con... - Chất lượng việc làm chưa cao, tính ổn định, bền vững trong việc làm và hiệu quả tạo việc làm còn thấp, đặc biệt đối với lao động nữ. - Tỷ lệ lao động nữ giữ các chức vụ lãnh đạo và lao động nữ làm việc trong các ngành điện tử, vi tính, máy móc, cơ khí, khoáng sản rất thấp (lao động nữ làm nhà lãnh đạo chiếm 20,8% trong tổng số; lao động nữ làm thợ lắp ráp, vận hành máy móc, thiết bị chiếm 29,9% trong tổng số); lao động nữ chủ yếu làm các nghề giản đơn như dịch vụ cá nhân, bảo vệ, bán hàng (chiếm 64,1% trong tổng số). 11.3. Lao động nữ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Trong một số năm qua, bình quân hàng năm Việt Nam đưa khoảng 25.000 lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài. Cơ cấu ngành nghề: Trong tổng số lao động nữ đi làm việc pử nước ngoài , lĩnh vực sản xuất chế tạo chiếm 42,2%; Ngành nghề làm việc trong gia đình và khán hộ công: 50,98%; Dệt may: 1,08%; Nông nghiệp: 1,1%; Thuỷ sản: 0,13% còn lại là các ngành nghề khác. Thị trường nhận lao động nữ: Theo thống kê từ năm 2000 đến năn 2009, tổng số lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài là 231.708 lao động, trong đó; thị 72
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
trường Đài Loan chiếm 61%, Nhật Bản: 11,05%, Malaysia: 20,9%, Macao: 3,6%. Hàn Quốc: 4,5%, còn lại các thị trường khác. Về thu nhập: Trong cùng ngành nghề công việc, lao động nữ Việt Nam làm việc ở nước ngoài được hưởng cùng mức lương so với lao động nam. Thu nhập trung bình của lao động nữ trong các ngành nghề công việc như sau: - Thị trường Đài Loan: Lao động nữ làm việc trong lĩnh vực chế tạo, làm việc tại trung tâm dưỡng lão: Thu nhập bình quân tháng từ 10 triệu đồng trở lên. Lao động nữ làm việc trong gia đình: Thu nhập bình quân tháng khoảng 10 triệu / tháng, ăn ở được chủ sử dụng đài thọ. - Thị trường Nhật Bản: Tu nghiệp sinh/Thực tập sinh ký thuật nữ có thu nhập khoảng 600 – 700 USD/tháng trong năm đầu tiên; từ 800 đến 1000USD trong năm thứ 2 và 3. - Thị trường Malaysia: Lĩnh vực sản xuất chế tạo tại Malaysia: khoảng 4,5-5,5 triệu đồng/tháng Lĩnh vực làm việc trong gia đình tại Malaysia: Khoảng 4,5 triệu đồng/tháng - Thị trường Macao: Chủ yếu tiếp nhận lao động nữ làm việc trong gia đìnhvới mức thu nhập bình quân của người lao động là 5 triệu đồng/tháng. - Thị trường Hàn Quốc: Thu nhập bình quân của lao động nữ làm việc trong các lĩnh vực là khoảng 900 USD/tháng. Một số khó khăn đối với lao động nữ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Một số qui định đối với lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài được điều chỉnh theo qui định pháp luật của các nước tiếp nhận lao động và trong hợp đồng lao động ký với người sử dụng lao động nước ngoài nên vẫn tạo nên sự bất bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ. Tỷ lệ nữ đi làm việc ở nước ngoài vẫn thấp hơn nam giới do quan niệm xã hội tại Việt Nam vẫn coi trách nhiệm chăm sóc con cái, gia đình là của phụ nữ. 73
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Thu nhập của lao động nữ vẫn thấp hơn lao động nam do lao động nam thường đảm nhận các công việc có thu nhập cao hơn do có chuyên môn và trình độ tay nghề, phụ cấp chức vụ lãnh đạo... Lao động nữ Việt Nam đi giúp việc gia đình thường rất chăm chỉ, tiết kiệm nên số tiền họ gửi về đã cải thiện đáng kể kinh tế hộ gia đình, đóng góp vào nguồn thu quốc gia. Tuy nhiên, đây lại là nhóm đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương do đảm đương những công việc mang tính đặc thù về giới như hộ lý, dịch vụ, giúp việc gia đình… Những lao động nữ thường bị đàn áp như chủ bắt làm việc quá giờ, chế độ ăn uống, vệ sinh cá nhân kém, bị quỵt lương, bị hãm hiếp… Với những phụ nữ trẻ, nếu kết hôn hoặc có thai, sinh con thì sẽ bị chấm dứt hợp đồng. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn có nhiều phụ nữ Việt Nam muốn ra nước ngoài làm giúp việc gia đình. Phần lớn lao động đi làm việc ở nước ngoài xuất thân từ nông thôn và vùng sâu, xa. Đây là những nơi có thu nhập thấp, ít việc làm, thu nhập phụ thuộc vào đồng ruộng nên kinh tế rất khó khăn. Việc đi làm việc ở nước ngoài sẽ giúp họ có thu nhập cao hơn. Thế nhưng, những ngành nghề như sản xuất cũng chỉ tiếp nhận những lao động trẻ từ 18 - 25 tuổi, trong khi các gia đình ở nước ngoài sẵn sàng chấp nhận những phụ nữ trên 30 tuổi với các điều kiện tuyển chọn không khắt khe để làm lao động giúp việc trong gia đình. 11.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm - Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động việc làm: Bộ luật Lao động (sửa đổi), Luật việc làm... và các văn bản hướng dẫn chi tiết đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới - Triển khai thực hiện có hiệu quả các dự án của Đề án “Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho phụ nữ giai đoạn 2010-2015”. - Xây dựng chiến lược ưu tiên về giáo dục, đào tạo và dạy nghề riêng cho lao động nữ trong từng lĩnh vực cụ thể; 74
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Đẩy mạnh tuyên truyền chính sách, pháp luật về lao động nữ, nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới trong các lĩnh vực công tác; - Thực hiện tốt hơn các chính sách ưu tiên cho lao động nữ, tổng kết, đánh giá hiệu quả từng giai đoạn nhất định; - Cam kết chặt chẽ của cấp uỷ và quyền, ngành để thực hiện các chương trình hành động và thực hiện chỉ tiêu về lồng ghép giới trong công việc; - Tăng cường lồng ghép nội dung bình đẳng giới trong thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia nói chung và Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2011-2015. Ưu tiên cho vay vốn giải quyết việc làm đối với các dự án tạo nhiều việc làm cho lao động nữ; - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về bình đẳng giới. Trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã nêu chỉ tiêu phấn đấu: Mục tiêu 2: Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động: Chỉ tiêu 1: Hằng năm, trong tổng số người được tạo việc làm mới, bảo đảm ít nhất 40% cho mỗi giới (nam và nữ). Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đạt 30% vào năm 2015 và từ 35% trở lên vào năm 2020. Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 25% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020. ĐIỀU 12 Tiếp cận bình đẳng của phụ nữ tới dịch vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ 12.1. Chủ trương, chính sách về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân Ngày 23/02/2005, Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Nghị quyết số 46-NQ/TW về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới. Trong đó đưa ra nhiệm vụ và giải pháp: Tiếp tục 75
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
phát triển và hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng. Mở rộng và triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế và nâng cao sức khoẻ. Chú trọng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi và các hoạt động phục hồi chức năng. Ngày 22/3/2005, BCHTW Đảng CSVN ban hành Nghị quyết số 47NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Trong đó nhiệm vụ và giải pháp: * Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động và giáo dục: Mở rộng và nâng cao chất lượng chương trình giáo dục dân số, sức khoẻ sinh sản và KHHGĐ trong và ngoài nhà trường cho nam, nữ vị thành niên và thanh niên. * Chính sách và đầu tư nguồn lực: Ưu tiên đầu tư cho các vùng đông dân có mức sinh cao, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và các đối tượng người nghèo, vị thành niên. * Mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và KHHGĐ: Tập trung triển khai các loại hình cung cấp dịch vụ SKSS, KHHGĐ phù hợp với từng vùng. Tăng cường các chiến dịch CSSKSS và KHHGĐ đối với vùng nông thôn, vùng đông dân có mức sinh cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Chú ý đúng mức đến việc đáp ứng nhu cầu dịch vụ đối với vị thành niên, thanh niên. Lồng ghép hoạt động cung cấp dịch vụ KHHGĐ với phòng, chống HIV/AIDS. * Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam: + Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, thanh thiếu niên và người cao tuổi; Triển khai các hoạt động kiểm tra sức khoẻ di truyền, tư vấn tiền hôn nhân; Đẩy mạnh phòng, chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội; Giảm tỷ lệ trẻ em sinh ra bị dị tật bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ; Giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. + Để thể chế hoá các chủ trương nói trên của Đảng, Nhà nước đã ban hành thêm một số văn bản pháp luật với mục tiêu chung là bảo vệ quyền chủ động, tự nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, trong đó có phụ nữ đối với việc tiếp cận, thụ 76
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ có chất lượng, ổn định và nâng cao rõ rệt chất lượng dân số. + Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 đã có một số điều khoản quy định cụ thể về hỗ trợ phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, nuôi dưỡng trẻ em dưới 6 tháng tuổi sinh ra từ mẹ nhiễm HIV bằng sữa thay thế. Phụ nữ mang thai là một trong 7 nhóm đối tượng ưu tiên tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS. Khuyến khích tự nguyện xét nghiệm HIV đối với người trước khi kết hôn, dự định có con, phụ nữ mang thai. Thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính của mình cho vợ, chồng hoặc cho người chuẩn bị kết hôn với mình biết”. Phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, trẻ em dưới 6 tuổi nhiễm HIV được Nhà nước cấp miễn phí thuốc kháng HIV. + Phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm HIV được miễn phí. + Phụ nữ nhiễm HIV được tạo điều kiện tiếp cận các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con. + Phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai và cho con bú được tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS. + Cơ sở y tế có trách nhiệm theo dõi, điều trị và thực hiện các biện pháp nhằm giảm sự lây truyền HIV từ mẹ sang con cho phụ nữ nhiễm HIV đang mang thai. + Ngày 17/7/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 108/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010. + Pháp lệnh dân số đã sửa đổi, bổ sung, nhằm loại trừ mọi hình thức phân biệt giới, phân biệt đối xử giữa con trai và con gái; đảm bảo việc chủ động, tự nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, gia đình trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản, thực hiện quy mô gia đình ít con.
77
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
+ Bộ Y tế đã ban hành và triển khai thực hiện Hướng dẫn quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản với 7 nhóm dịch vụ: (Làm mẹ an toàn; Kế hoạch hoá gia đình, Phá thai an toàn; Phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS; Phát hiện và điều trị sớm ung thư đường sinh sản; Phòng và điều trị vô sinh; Chăm sóc sức khoẻ sinh sản vị thành niên). Đây chính là những công cụ giúp các cơ sở y tế nâng cao chất lượng dịch vụ và hạn chế tối đa những sai sót có thể xảy ra gây thiệt hại cho sức khoẻ nhân dân, nhất là đối với phụ nữ. Năm 2007, việc thống kê báo cáo về tỷ số giới tính khi sinh đã được ngành Y tế chính thức đưa vào hệ thống báo cáo thường quy và công bố trong niên giám thống kê. Điều đó củng cố thêm quyết tâm của ngành trong việc loại trừ mọi hình thức phân biệt giới, phân biệt đối xử giữa con trai và con gái. 12.2. Cơ chế tổ chức và bộ máy chăm sóc sức khoẻ phụ nữ Tính đến trước tháng 12/2007, Bộ Y tế đã được củng cố và hoàn thiện theo quy định của Nghị định số 49/2003/NĐ-CP ngày 15/5/2003. Từ tháng 01/2008 Bộ Y tế đã và đang được củng cố và hoàn thiện theo Nghị định số 118/2007/NĐ-CP ngày 27/12/2007 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế. Vụ Sức khoẻ sinh sản đã đổi thành Vụ Sức khoẻ bà mẹ - Trẻ em; ngành Y tế quản lý cả công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Hỗ trợ công tác này có Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình. Các đơn vị y tế từ trung ương đến cơ sở, cả y tế công lập và ngoài công lập, đều có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và đang triển khai thực hiện Hướng dẫn Chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt động từng bước hoàn thiện, cán bộ kỹ thuật được chuyên môn hoá, chất lượng công tác ngày càng cao, đặc biệt là phát triển nhân lực y tế cơ sở. Đến cuối năm 2007, 100% số xã, phường, thị trấn trong cả nước có cán bộ y tế, trong đó số xã có bác sỹ tăng từ 65,4% năm 2003 lên 67,4% năm
78
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
2007. Số thôn, bản có nhân viên y tế tăng từ 79,8% năm 2003 lên 84,9% năm 2007. Mạng lưới chăm sóc sức khoẻ sinh sản từ trung ương đến cơ sở được củng cố và kiện toàn. Ở tuyến trung ương , Vụ Sức khoẻ Bà mẹ -Trẻ em giúp Bộ Y tế quản lý nhà nước về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, các bệnh viện chuyên khoa sản, chuyên khoa nhi, Viện dinh dưỡng chịu trách nhiệm sức khoẻ và dinh dưỡng cho bà mẹ, trẻ em. Tất cả 63 tỉnh, thành phố đều có Trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản, có 11 bệnh viện chuyên khoa sản, 8 bệnh viện chuyên khoa nhi, ngoài ra còn có khoa sản, khoa nhi trong bệnh viện đa khoa của tỉnh. Tuyến huyện có khoa Chăm sóc sức khoẻ sinh sản trong Trung tâm y tế huyện, có khoa sản, khoa nhi trong bệnh viện huyện. Tính đến năm 2007 có 93,6% trạm y tế xã có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi. Khoảng 500 Cô đỡ thôn bản đã được đào tạo tại Bệnh viện phụ sản Từ Dũ đã và đang hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho các bà mẹ tại một số vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Cán bộ nữ y tế chiếm khoảng 62% trong tổng số cán bộ ngành y tế, ở các kâu khám, chữa bệnh, nhiên cứu khoa học và đào tạo. Đến năm 2007 có 2/6 lãnh đạo Bộ Y tế là nữ; cấp vụ, cục, bệnh viện là 25,5%; cấp cơ sở là 37%. Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế theo Quyết định số 139/2002/TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc khám, chữa bệnh cho người nghèo: hàng năm có khoảng 6 triệu phụ nữ được thụ hưởng chính sách này.11 Mạng lưới cung ứng thuốc đến tận thôn bản, các xã vùng sâu, vùng xa, do vậy phụ nữ có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ngày càng thuận lợi. 12.3. Công tác chăm sóc sức khoẻ phụ nữ và cung cấp các dịch vụ KHHGĐ
11
Theo Báo cáo của Bộ Y tế ngày 12 - 01- 2011
79
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ: Tỷ số tử vong mẹ giảm mạnh trong hai thập kỷ qua: từ 233/100.000 ca đẻ sống năm 1990 xuống còn 69/100.000 ca đẻ sống năm 2009. Tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám thai và tiêm phòng uốn ván đã tăng lên rõ rệt trong thời gian qua. Mạng lưới y tế cơ sở về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ được củng cố và nâng cấp. Tỷ lệ phụ nữ sinh con được sự trợ giúp của cán bộ y tế có chuyên môn cũng tăng lên. Tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) sử dụng biện pháp tránh thai cũng tăng lên rõ rệt; sử dụng đồng thuận cao của các cặp vợ chồng trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai, đặc biệt là dùng bao cao su và uống thuốc tránh thai. Đạt được mục tiêu về tỷ số tử vong mẹ còn 58,3/100.000 ca đẻ sống vào năm 2015 là một thách thức lớn do tốc độ giảm của chỉ số này trong 5 năm trở lại đây là rất chậm, đồng thời cầm phải đảm bảo thu hẹp chênh lệch giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân tộc để có thể đạt được thành quả giảm tử vong bà mẹ một vùng bền vững. Bên cạnh đó, tình trạng nạo phá thai của nhóm dân số vị thành niên đang báo động nguy cơ lớn đối với sức khoẻ bà mẹ trong tương lai.12 12.4. Vấn đề dinh dưỡng Thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2001- 2010, trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phòng, chống suy dinh dưỡng cho người dân nói chung và cho bà mẹ mang thai, trẻ em dưới 5 tuổi nói riêng. Mô hình dinh dưỡng gia đình "màu xanh rau ngót, màu vàng đu đủ, màu đỏ trứng gà" được nhân ra diện rộng để mỗi gia đình chủ động tự giải quyết vấn đề dinh dưỡng qua từng bữa ăn. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ 20-49 tuổi giảm từ 33,1% (năm 1990) xuống còn 21,2% (năm 2007). Giai đoạn 2004-2007, để tiếp tục góp phần thực hiện các mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng, Bộ Y tế đã ban hành "10 lời khuyên dinh dưỡng" giai đoạn 2006-2010. Các địa phương đã hưởng ứng, phát động và tổ 12
Theo Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam 2010
80
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
chức hội thi nhân "Ngày vi chất dinh dưỡng 1 và 2/6" hàng năm nhằm theo dõi thể trạng trẻ sơ sinh, cung cấp Vitamin cho trẻ em, cung cấp viên sắt cho phụ nữ có thai, thiếu nữ 15 tuổi và bà mẹ sau đẻ. Đặc biệt, “10 lời khuyên dinh dưỡng”đã được chuyển thể thành thơ, ca, hò, vè giúp nhân dân dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ để thực hiện. Vấn đề còn tồn tại là tỷ lệ thiếu máu, suy nhược cơ thể của phụ nữ vẫn cao hơn so với nam giới. 12.5. Công tác phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm cả HIV/AIDS Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS tiếp tục gia tăng, tỷ lệ mắc có xu hướng chuyển dịch sang nữ giới và không chỉ ở những nhóm nguy cơ cao mại dâm, nghiện chích ma tuý, mà xuất hiện cả ở nhóm phụ nữ có thai. Ở giai đoạn này ước tính trung bình có hơn 3.000 phụ nữ có thai nhiễm HIV mỗi năm. Đa số phụ nữ mắc các bệnh LTQĐTD/HIV là từ chồng hoặc bạn tình. Con số mắc các bệnh LTQĐTD/HIV ở Nữ giới gia tăng, đặc biệt với phụ nữ có thai có nhiều lý do. Trước hết, do là bản thân người phụ nữ, đặc biệt phụ nữ nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa vẫn còn mang nặng tính văn hoá phụ nữ Á đông, thụ động trong quyền về sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục, họ còn hạn chế về kiến thức bệnh LTQĐTD/HIV, cũng như còn ít được tiếp cận dịch vụ. Hơn nữa, sự tham gia của Nam giới trong công tác CSSKSS, dân số còn hạn chế. Gánh nặng chủ yếu vẫn dồn sang phụ nữ và điều này được thể hiện rõ qua cơ cấu sử dụng các biện pháp tránh thai: tỷ lệ sử dụng vòng tránh thai, thuốc tránh thai và các biện pháp tránh thai (BPTT) cho Nữ giới chiếm tỷ lệ đa số. Tỷ lệ sử dụng bao cao su, hay BPTT cho Nam giới chiếm tỷ lệ quá ít. Hiện nay, ngành Y tế và Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục thực hiện triển khai Luật phòng, chống HIV/AIDS; Chiến lược phòng chống HIV/AIDS 2006-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010; Chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con giai đoạn 2006-2010, nhằm hạn chế 81
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
số người lây mới và điều trị cho những người đã nhiễm các bệnh LTQĐTD/HIV, đặc biệt quan tâm đến Nữ giới, phụ nữ có thai. 12.6. Phương hướng trong thời gian tới: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra chỉ tiêu cụ thể tại Mục tiêu 4: Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe: Chỉ tiêu 1: Tỷ số giới tính khi sinh không vượt quá 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và 115/100 vào năm 2020. Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống 58,3/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2015 và xuống dưới 52/100.000 vào năm 2020. Chỉ tiêu 3: Tăng tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con lên 40% vào năm 2015 và lên 50% vào năm 2020 so với năm 2010.Chỉ tiêu 4: Giảm tỷ lệ phá thai xuống 27/100 trẻ đẻ sống vào năm 2015 và xuống dưới 25/100 vào năm 2020. ĐIỀU 13 Phúc lợi kinh tế-xã hội và văn hoá 13.1. Các quy định luật pháp, chính sách mới - Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02/12/2003 về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 nhằm cải thiện chất lượng môi trường sống cho nhân dân; - Nghị định số 168/2004/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội; - Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội;
82
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường; - Quyết định số 125/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/7/2007 về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá giai đoạn 2006-2010; - Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa đổi Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. 13.2. Bảo đảm quyền được hưởng các phúc lợi gia đình và xã hội cho phụ nữ Tiến bộ về kinh tế - xã hội của đất nước trong 6 năm trở lại đây, trong chính sách phúc lợi xã hội không có bất cứ sự phân biệt nào về giới tính, có ưu tiên cho đồng bào dân tộc, các đối tượng chính sách xã hội. Việc đảm bảo cho phụ nữ được hưởng các phúc lợi gia đình đã được nêu trong báo cáo trước vẫn được duy trì và có phần cải thiện. Nhà nước chú trọng phát triển chính sách phúc lợi xã hội, đặc biệt hướng mạnh tới khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, thực hiện thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo và việc làm và các chương trình viện trợ phát triển, nhân đạo quốc tế. Đời sống phụ nữ nông thôn đã được cải thiện một bước, tạo điều kiện cho khoảng 70% phụ nữ được hưởng thụ từ những công trình phúc lợi công cộng về điện thắp sáng, đường giao thông, điểm bưu điện, văn hoá, trạm y tế, trường học. 13.3. Bảo đảm cho phụ nữ quyền được vay tiền, cầm cố tài sản và tham gia các hình thức tín dụng Tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo là chính sách được Nhà nước quan tâm. Mục tiêu đề ra cho Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện là “đạt tỷ lệ 80% số hộ 83
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ chương trình xóa đói giảm nghèo”. Trong 5 năm qua, Ngân hàng chính sách xã hội tập trung chỉ đạo thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao, thực hiện uỷ thác từng phần cho tổ chức chính trị - xã hội cho vay vốn với lãi suất ưu đãi đến các hộ nghèo và đối tượng chính sách trong cả nước gồm: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh và Đoàn Thanh niên. Kết quả số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ Chương trình xóa đói, giảm nghèo là: - Năm 2006: cho vay 1.109.291 hộ với số tiền là 8.351 tỷ đồng; - Năm 2007: cho vay 1.166.593 hộ với số tiền là 8.377 tỷ đồng; - Năm 2008: cho vay 1.213.993 hộ với số tiền là 10.715 tỷ đồng; - Năm 2009: cho vay 1.230.989 hộ với số tiền là 12.979 tỷ đồng. - Đến tháng 5/2010, ngân hàng chính sách xã hội đã cho 1.173.679 hộ vay vốn với dư nợ là 16.323 tỷ đồng. Đạt tỷ lệ 85,3% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ chương trình xóa đói giảm nghèo. Trong đó: - Ủy thác qua Hội Phụ nữ Việt Nam: cho vay 546 nghìn hộ với dư nợ là 7.139 tỷ đồng. Đạt tỷ lệ 87,3% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ chương trình xóa đói giảm nghèo. - Ủy thác qua Hội Cựu chiến binh: cho vay 140 nghìn hộ với dư nợ là 2.320 tỷ đồng. Đạt tỷ lệ 79% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ chương trình xóa đói giảm nghèo. - Ủy thác qua Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: cho vay 85 nghìn hộ với dư nợ là 1.236 tỷ đồng. Đạt tỷ lệ 83,3% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ chương trình xóa đói giảm nghèo. Các chủ hộ do phụ nữ làm chủ còn được vay vốn từ các nguồn tín dụng ưu 84
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
đãi khác như vay vốn giải quyết việc làm, chương trình xuất khẩu lao động, hỗ trợ làm nhà ở, tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, vay vốn từ chương trình tín dụng hộ gia đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, hộ gia đình nghèo khó khăn vay cho học sinh, sinh viên đi học... Thông qua hoạt động của Tổ tiết kiệm và vay vốn do các tổ chức Hội đoàn thể nhận ủy thác, đã kết hợp việc vay vốn Ngân hàng chính sách xã hội với công tác tập huấn khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, tập huấn các mô hình phát triển kinh tế, chuyển giao công nghệ khoa học kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, dạy nghề, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động tại chỗ đã giúp cán bộ nữ có việc làm ổn định, nhất là lao động nữ ở khu vực nông thôn. Mặt khác, đối với cán bộ nữ phụ nữ được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, các cán bộ nữ đã tạo được việc làm, có thu nhập, không còn phụ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông trong gia đình. Phụ nữ nghèo có điều kiện tham gia vào các phong trào của Hội phụ nữ, tham gia Ban quản lý Tổ tiết kiệm và vay vốn, tiếp xúc với ngân hàng, với Tổ chức Hội và chính quyền địa phương. Có thể nói, thông qua hoạt động vay vốn, sử dụng vốn vay xóa đói giảm nghèo, phụ nữ nghèo ngày càng được bình đẳng với nam giới trong quyền quyết định các công việc quan trọng trong gia đình; Từ đó, tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ không chỉ về mặt kinh tế, nhận thức mà cả vị thế chính trị, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Các Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ trên địa bàn tỉnh, thành phố cũng đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả mục tiêu này, đã tham mưu cho lãnh đạo chỉ đạo thực hiện tốt các chương trình cho vay ưu đãi hộ nghèo thông qua Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh. Đặc biệt là cho vay phụ nữ nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn nhằm giúp phụ nữ nông thôn xóa đói, giảm nghèo xây dựng nông thôn mới, góp phần tạo việc làm và xóa đói, giảm nghèo đối với các hộ nghèo và cận nghèo do phụ nữ làm chủ hộ. Tỷ lệ hộ 85
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
nghèo đã giảm dần qua các năm. Những kết quả mang lại thông qua hoạt động tín dụng chính sách đã góp phần to lớn vào thực hiện mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội. 13.4. Quyền được tham gia các hoạt động giải trí, thể thao và văn hoá Pháp lệnh Thể dục, thể thao đã quy định quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích toàn dân tham gia thể dục, thể thao với nhiều loại hình phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, phụ nữ còn tham gia vào các chương trình hoạt động thể dục, thể thao do Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch phối hợp tổ chức. Trong lĩnh vực văn hoá, việc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” cũng thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần tăng tỷ lệ người dân được thụ hưởng các phương tiện thông tin đại chúng. Phong trào xây dựng gia đình văn hóa góp phần xây dựng gia đình trở thành môi trường quan trọng giáo dục nhân cách thành viên, đơn vị sản xuất năng động phát triển, điểm sáng văn hóa cơ sở. Đến tháng 6 năm 2010, cả nước đã có 15.453.422/22.628.167 gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ trên 68,29%. Trong đó: 534.649 gia đình văn hóa tiêu biểu được khen thưởng ở các cấp, tỷ lệ trên 20%. Đến nay, Việt Nam đã có 4.663 xã có nhà văn hóa, 38.543/99.658 thôn có nhà văn hóa, sân thể thao. 38.000 người tham gia luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên; đạt tỷ lệ trên 26%; trên 36% dân số tham gia các hoạt động văn nghệ quần chúng và sinh hoạt các loại hình câu lạc bộ sở thích13. Việc thực hiện chủ trương xã hội hoá văn hoá đã tăng thêm nhiều cơ hội cải thiện, nâng cao đời sống tinh thần cho phụ nữ. Các loại hình hoạt động văn hoá phát triển ngày một phong phú, đa dạng mang đậm bản sắc dân tộc trên phạm vi toàn quốc. Đặc biệt, Nhà nước rất chú trọng tới đời sống văn hoá của các vùng đồng bào dân tộc thiểu số qua các chương trình hỗ trợ, đầu tư kinh phí để xây
13
B¸o c¸o tæng kÕt 10 n¨m thùc hiÖn phong trµo “Toµn d©n ®oµn kÕt x©y dùng ®êi sèng v¨n hãa 2000-2010”, Bé V¨n hãa, ThÓ thao vµ Du lÞch
86
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
dựng nhà văn hoá để nhân dân tiện sinh hoạt cộng đồng. Hiện nay, có nhiều đài phát thanh và truyền hình địa phương phát sóng chương trình bằng tiếng Việt và các thứ tiếng dân tộc. Chỉ còn tỷ lệ nhỏ phụ nữ ở vùng xa xôi, hẻo lánh, dân cư sống thưa thớt, chưa có điều kiện thụ hưởng các chương trình văn hoá, nghệ thuật, phát thanh, truyền hình. So với báo cáo trước, mức độ thụ hưởng của phụ nữ trong lĩnh vực thể thao, văn hoá, xã hội đã được cải thiện, chất lượng cuộc sống của nhân dân nói chung trong đó có phụ nữ nói riêng đã được nâng cao. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế hạn chế cũng như những định kiến giới vẫn còn tồn tại nên sự tham gia và thụ hưởng các hoạt động thể thao, văn hoá, xã hội của phụ nữ vẫn ở mức thấp hơn so với nam giới, cũng như so với nhu cầu thực tế của chị em. Để cải thiện tình hình trên, trong thời gian tới, các cơ quan hữu quan sẽ tiếp tục triển khai các biện pháp tích cực hơn nữa nhằm đảm bảo cho phụ nữ được thụ hưởng các phúc lợi nêu trên. Công tác xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá, thể thao sẽ tiếp tục được đẩy mạnh, nhằm tạo thêm các điều kiện và cơ hội tham gia của người dân nói chung, trong đó có phụ nữ. Phương hướng thời gian tới: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra chỉ tiêu cụ thể tại Mục tiêu 5: Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin: Chỉ tiêu 1: Đến năm 2015 giảm 60% và đến năm 2020 giảm 80% sản phẩm văn hóa, thông tin mang định kiến giới. Tăng thời lượng phát sóng các chương trình, chuyên mục và số lượng các sản phẩm tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới. Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015 có 90% và đến năm 2020 có 100% đài phát thanh và đài truyền hình ở trung ương và địa phương có chuyên mục, chuyên đề nâng cao nhận thức về bình đẳng giới.
87
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
ĐIỀU 14 Phụ nữ nông thôn
Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ trương công bằng xã hội. Đây là điều kiện cơ bản để phụ nữ nông thôn được tham gia và thụ hưởng bình đẳng các thành quả phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. 14.1. Vai trò và những thách thức đối với phụ nữ nông thôn Ở Việt Nam, nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế -xã hội, là thành phần chính trong cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam. Mặc dù chỉ chiếm khoảng 21% tổng GDP của cả nước, nhưng sản xuất nông nghiệp là nguồn sống, kế sinh nhai của phần lớn 70,4% dân số sống ở nông thôn. Phụ nữ nông thôn Việt Nam là nguồn lao động chính trong sản xuất nông nghiệp, chiếm 50,2% lao động nông nghiệp (2009). Tỷ lệ phụ nữ là lao động chính và là chủ hộ chiếm khá cao. Trong những năm gần đây, kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, phụ nữ nông thôn ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận với việc làm, tăng thu nhập và góp phần giảm nghèo. Ngày nay, phụ nữ nông thôn đã nhận thức và phát huy vai trò của mình trong sản xuất nông nghiệp, các ngành kinh tế phi nông nghiệp, các hoạt động xã hội và cộng đồng nông thôn. Phụ nữ ngày càng tham gia tích cực trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa phương, góp phần lớn vào quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, với đặc điểm Việt Nam, phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ nông thôn Việt Nam nói riêng phải chịu nhiều thiệt thòi trong học tập, tiếp xúc xã 88
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
hội. Do vậy, phụ nữ nông thôn có trình độ học vấn thấp là khá phổ biến, hạn chế đến khả năng tìm việc làm cũng như chịu thiệt thòi về thu nhập, đặc biệt trong bối cảnh sức ép về đô thị hoá, ruộng đất nông nghiệp bị thu hẹp dần. Hội nhập và kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường đem lại nhiều cơ hội cho chị em phụ nữ nông thôn, nhưng đồng thời cũng nảy sinh những tác động tiêu cực cho họ khi mà họ phải lo toan nhiều hơn cho cuộc sống gia đình. Nhiều phụ nữ nông thôn chưa hiểu rõ các quyền về mặt pháp lý của mình do học vấn thấp, thời gian làm việc đồng áng và nội trợ cao, ít thời gian để tham gia học tập, hội họp cộng đồng, ít tiếp cận thông tin để nâng cao kiến thức và hiểu biết. Đây là hạn chế lớn nhất để phụ nữ nông thôn tiếp cận với khoa học kỹ thuật, công nghệ cao trong lao động nông nghiệp, giảm cơ hội nâng cao trình độ và thu nhập cho bản thân phụ nữ cũng như gia đình họ. Những tư tưởng phân biệt và định kiến đối với phụ nữ nông thôn tuy ngày càng giảm bớt, nhưng vẫn còn nặng nề, đặc biệt thể hiện phụ nữ tham gia vào các công việc chung của cộng đồng hoặc tham gia vào những vị trí mang tính quyết định ở cấp cơ sở tại nông thôn còn thấp. Năm 2006, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã là nữ chỉ chiếm tỷ lệ 2,09%. 14.2. Phụ nữ tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển và hoạt động cộng đồng Cùng với phong trào chung của phụ nữ cả nước, phụ nữ nông thôn tích cực tham gia vào các nội dung, hoạt động nhằm xây dựng và phát triển cộng đồng. Các nội dung về dân số - kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khoẻ sinh sản được phổ biến và lồng ghép trong nhiều hoạt động. Các phong trào thi đua của phụ nữ toàn quốc được tuyên truyền với hình thức đa dạng, phong phú như “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”...
89
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Ở khu vực nông thôn, trong những năm gần đây, kinh tế nông thôn phát triển, Việt Nam tham gia nhiều tổ chức quốc tế như WTO đã giúp phụ nữ nông thôn tiếp cận được nhiều cơ hội việc làm hơn, được nâng cao nhận thức về gia đình và xã hội hơn nên ý thức tham gia vaà kế hoạch phát triển xã hội và các hoạt động cộng đồng cũng được tăng cường. 14.3. Về chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình Với chính sách tiếp tục đầu tư tăng cường cho y tế cơ sở và chính sách bảo hiểm y tế tự nguyện cho những nông dân, việc chăm sóc sức khoẻ và hưởng các chính sách an sinh xã hội cho phụ nữ nông thôn tiếp tục được cải thiện. Đến năm 2010, hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giáo dục và đào tạo, văn hoá thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, bảo đảm điều kiện đi lại... đã được quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng các dịch vụ nhiều mặt được cải thiện và khả năng tiếp cận của người dân nông thôn nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng ngày càng được nâng cao. Đến nay 100% số xã, phường đã có trạm y tế, trong đó khoảng 75% số xã có bác sĩ; 83% số hộ nông thôn đã được sử dụng nước hợp vệ sinh; 96,1% số hộ đã được sử dụng điện lưới; 86,9% số hộ sử dụng máy thu hình; trên 97% số xã đã có đường ô tô đi tới trung tâm xã; khoảng 90% số xã có trạm bưu điện văn hoá. Nhờ đó, việc chăm sóc sức khoẻ phụ nữ nông thôn, đặc biệt đối với phụ nữ nông thôn trong độ tuổi sinh sản được nâng cao. 14.4. Về giáo dục, đào tạo và hoạt động khuyến nông Về giáo dục mầm non và phổ thông: Năm 2006, tỷ lệ xã có lớp mẫu giáo trong cả nước là 98,68%. Tuy nhiên tỷ lệ này đối với nhà trẻ còn thấp (47,65%) và không đồng đều giữa các vùng trong cả nước: đối với các tỉnh đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ này lên đến 90,11% nhưng với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ này chỉ ở mức 13,85%.
90
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Về đào tạo nghề cho nông dân: Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; Bộ Nội vụ đã hoàn thiện Đề án và tổng hợp xây dựng Đề án chung về Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ và Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009. Các hoạt động khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm được tổ chức rộng khắp trên cả nước nhằm chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông, lâm, thuỷ sản; đặc biệt các lớp đào tạo khuyến nông ngay tại ruộng, tại các mô hình cũng tạo thuận lợi cho chị em phụ nữ nông thôn hơn trong việc tham gia các lớp đào tạo này do không phải đi xa, vẫn vừa học vừa quán xuyến gia đình được. 14.5. Vấn đề bảo hiểm xã hội Các chính sách bảo hiểm xã hội luôn tập trung cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương đặc biệt là trẻ em, người già và phụ nữ. Phụ nữ nông thôn được coi là lực lượng lao động chính của nhà nông, tạo ra của cải vật chất tương đối lớn cho xã hội, song hiện nay việc thực hiện bảo hiểm xã hội cho phụ nữ nông thôn chưa được triển khai đồng bộ. Với thời gian làm việc trung bình khá cao cho công việc nông nghiệp và gia đình, tiếp xúc với điều kiện làm việc không an toàn, lại do thiếu hiểu biết về kiến thức y tế nên phụ nữ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ. 14.6. Cơ hội tiếp cận tín dụng cho phụ nữ nông thôn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã phối hợp với Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam để cho vay vốn đối với phụ nữ nghèo, đặc biệt quan tâm đến nông dân vùng sâu, vùng xa để phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao và cải thiện đời sống phụ nữ. Đến 31/12/2009, có tổng số 362.191 tổ vay vốn với 1.822.687 hộ còn dư nợ số 91
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
tiền trên 15.000 tỷ đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, bình quân dư nợ 15 triệu đồng/thành viên. Trong đó: có 123.000 tổ phụ nữ với gần 300.000 thành viên còn dư nợ số tiền hơn 3.000 tỷ đồng, mức cho vay thấp nhất 10 triệu đồng; Trên 209.000 tổ vay vốn của Hội nông dân với 824.000 thành viên còn dư nợ số tiền trên 11.000 tỷ đồng, bình quân 1 thành viên dư nợ 16 triệu đồng. Ngân hàng chính sách xã hội đã thực hiện uỷ thác từng phần qua Hội Nông dân Việt Nam: cho vay 402 nghìn hộ với dư nợ là 5.628 tỷ đồng. Đạt tỷ lệ 85,3% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ chương trình xóa đói giảm nghèo. 14.7. Quyền sử dụng đất của phụ nữ nông thôn Đảm bảo quyền sử dụng đất là vấn đề rất quan trọng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 quy định rõ đất đai là tài sản chung của vợ và chồng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi rõ cả tên vợ và chồng. Đến năm 2008, tỷ lệ giấy chứng nhận quyền sử đụng đất ghi tên cả vợ và chồng đối với đất (mặt nước) nuôi trồng thuỷ sản là cao nhất, 91,1%. Thấp nhất là nhóm đất sản xuất nông nghiệp, chỉ có 10,9% số giấy chứng nhận quyền sử đụng đất ghi tên cả vợ và chồng. Đối với đất ở, 18,2% giấy chứng nhận quyền sử đụng đất ở nông thôn và 29,8% giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở thành thị ghi tên cả vợ và chồng. Luật Bình đẳng giới năm 2006 đã tạo ra hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong gia đình. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong sở hữu tài sản cũng được thể hiện trong Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2000. Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 quy định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi tên cả hai vợ chồng nếu như đất đai là tài sản chung của vợ chồng. 92
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
14.8. Cơ sở hạ tầng và vệ sinh môi trường nông thôn Việt Nam rất quan tâm đến việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, coi đó là một trong những biện pháp quan trọng nhằm phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương và xoá đói giảm nghèo cho người dân nói chung trong đó có phụ nữ nông thôn. Chính phủ Việt Nam đã triển khai Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2006-2010. Tính đến cuối năm 2010: Về cấp nước sinh hoạt: tổng số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh là 50.130.000 người, tăng 10.130.000 người so với cuối năm 2005, tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh tăng từ 62% lên khoảng 83% trong đó tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước đạt tiêu chuẩn QCVN/02/BYT của Bộ Y tế là 42%. Về vệ sinh và môi trường: khoảng 11.436.500 hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu chiếm 77% trong đó 7.869.200 hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 60% vào cuối năm 2010. Khoảng 32.176 trường học phổ thông, nhà trẻ, mẫu giáo có nước sạch và công trình vệ sinh đạt 80%. Khoảng 8.728 trạm y tế xã có nước sạch và công trình vệ sinh đạt 82%. Khoảng 7.004 trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có nước sạch và công trình vệ sinh đạt 72%. Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm như tích cực tham gia cuộc vận động “5 không, 3 sạch”...và góp phần vào nhiều hoạt động của Chương trình quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn14, Chương trình xây dựng nông thôn mới. 14.9 Phương hướng trong thời gian tới Mặc dù có nhiều cơ hội như đã nêu trên, song phụ nữ nông thôn Việt Nam vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Nguyên nhân chính là do còn có sự bất bình đẳng trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực chủ yếu trong nông nghiệp, các dịch vụ sản xuất nông nghiệp thiếu nhạy cảm giới... Để khắc phục 14
Báo cáo của Bộ NNPTNT năm 2010
93
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
tình trạng trên, trong thời gian tới, các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010, trong đó chú trọng các địa bàn nông thôn, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo. Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn tiếp tục thực hiện các biện pháp cụ thể triển khai Chiến lược và Kế hoạch hoạt động về giới của ngành. Nhằm đạt được sự bình đẳng và các lợi ích kinh tế-xã hội cho phụ nữ và nam giới, Chiến lược và Kế hoạch hoạt động về giới của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã xác định các mục tiêu là tăng cường nhận thức và trách nhiệm giới; tăng khả năng tiếp cận và kiểm soát của phụ nữ đối với các nguồn lực chủ yếu (đất đai, tín dụng, nguồn nước, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công), giáo dục đào tạo và thông tin; đưa các chỉ tiêu giới vào các chính sách, chương trình, dự án của ngành; tăng tỷ lệ nữ tham gia các hoạt động nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cương vị lãnh đạo và củng cố bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ. Để góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, Chính phủ sẽ xem xét và ban hành Nghị định về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Ngoài ra, trên cơ sở đề xuất của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Khoa học và Công nghệ, Thủ tướng Chính phủ đang xem xét thông qua mô hình tín dụng thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020 và Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội nông thôn và miền núi đến năm 2010. Đây sẽ là những biện pháp tích cực thúc đẩyphát triển kinh tế xã hội khu vực nông thôn và miền núi, góp phần cải thiện đời sống người dân, trong đó có phụ nữ. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra chỉ tiêu phấn đấu là: Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng dân tộc thiểu số có nhu cầu được vay vốn ưu đãi từ các chương trình việc làm, giảm nghèo và các nguồn tín dụng chính thức đạt 80% vào năm 2015 và 100% vào năm 2020. 94
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
ĐIỀU 15 Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong các quan hệ dân sự trước pháp luật Ở Việt Nam, nguyên tắc không phân biệt đối xử với phụ nữ trong các lĩnh vực tiếp tục được đảm bảo thực hiện và ngày càng được đề cao trong xã hội. Phụ nữ có đầy đủ quyền bình đẳng với nam giới trước pháp luật, trong việc độc lập tham gia vào các quan hệ dân sự, giao kết hợp đồng, quản lý tài sản, tự do lựa chọn nơi cư trú và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình tại các cơ quan pháp luật. 15.1. Phụ nữ có địa vị pháp lý bình đẳng như nam giới trong các quan hệ dân sự Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật ”; Điều 130 Bộ Luật Hình sự quy định: “Người nào dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.”; Điều 5 Bộ luật Dân sự quy định: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.” Điều 110 của Bộ luật Lao động sửa đổi (năm 2002) quy định: “Các doanh nghiệp phải thực hiện đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ ngoài nghề đang làm để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý”. Như vậy về cơ bản, Pháp luật Việt Nam đã đảm bảo cho phụ nữ có đầy đủ quyền trong việc hưởng thụ các quyền và làm các nghĩa vụ do pháp luật quy định trên nguyên tắc không phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi lĩnh vực. Phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới trước pháp luật, trong việc độc lập tham gia vào các quan hệ dân sự, giao kết hợp đồng, quản lý tài sản, tự do lựa chọn nơi cư trú và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình tại các cơ quan pháp luật. 95
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Quyền bình đẳng như nam giới trong các quan hệ dân sự được thể hiện cụ thể trên các mặt sau đây: - Phụ nữ có quyền tham gia các hoạt động nghề nghiệp như nam giới: Hiến pháp năm 1992 (các điều 52, 55, 56), Bộ luật lao động (khoản 1, Điều 5), Luật hôn nhân và gia đình (Điều 23)… đều có quy định bảo đảm quyền của phụ nữ tham gia các hoạt động nghề nghiệp như nam giới. - Quyền tự do kinh doanh không phân biệt đối xử giữa nam và nữ: Hiến pháp năm 1992 (Điều 52, 57), Luật doanh nghiệp năm 2005 (Điều 13), Luật thương mại (Điều 10), Luật kinh doanh bất động sản (Điều 5)… đều ghi nhận nguyên tắc tự do kinh doanh của cá nhân không phân biệt đối xử nam nữ. - Quyền nhân thân gắn với tài sản: Hiến pháp năm 1992 (Điều 60), Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 5, Điều 25, Điều 51), Luật sử hữu trí tuệ năm 2005 (Điều 8, Điều 9, Điều 198)… đều ghi nhận nguyên tắc bình đẳng giới đối với các quyền nhân thân gắn với tài sản (quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, vật nuôi) và công nhận quyền được tự bảo vệ và áp dụng các biện pháp được quy định tại các Điều 25 Bộ luật dân sự và Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005. - Quyền sở hữu tài sản của phụ nữ: Hiến pháp năm 1992 (Điều 58), Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 5, các Điều 108, 109, Điều 182-199, các điều 211-213, 221-224), Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 19, các điều 27-23, các điều 95-99)… ghi nhận pháp luật Việt Nam công nhận và bảo hộ theo nguyên tắc không phân biệt đối xử về quyền sở hữu tài sản của phụ nữ. Theo đó, phụ nữ bình đẳng với nam giới trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạn tài sản riêng cũng như đối với tài sản chung của hộ gia đình, tài sản chung đối với các chủ thể dân sự khác. - Về quyền được giao đất, cho thuê đất: Hiến pháp năm 1992 (Điều 18), Luật đất đai năm 2003 (các điều 31-37, Điều 42), Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 688)… ghi nhận cá nhân được giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, được thuê đất không phân biệt đối xử về giới. Ngoài ra, cá nhân 96
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
trong đó có phụ nữ được giao đất có quyền được chuyển đổi mục đích sử dụng đất phù hợp với quy định của pháp luật. Trong trường hợp, Nhà nước thu hồi đất đã giao hoặc cho thuê trước thời hạn giao đất, cho thuê đất, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất được bồi thường thiệt hại hoặc các hỗ trợ khác. - Về việc đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở: Luật đất đai (Điều 10, Điều 105…), Luật nhà ở năm 2005 (các điều 9-13, các điều 48-50), Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (khoản 2 Điều 27)… ghi nhận phụ nữ là người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở có quyền được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở. Nếu quyền sử dụng đất, nhà ở thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở phải ghi tên của hai vợ chồng. Trong trường hợp, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở chỉ ghi tên một bên vợ, chồng, bên kia có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp lại các loại giấy này theo hướng ghi rõ tên của hai vợ chồng, việc cấp lại được miễn phí. Đối với quyền sử dụng đất, nhà ở thuộc sở hữu chung của hộ gia đình, phụ nữ nếu là chủ hộ có quyền đứng tên chủ hộ trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận sở hữu nhà ở. Tuy nhiên, nếu phụ nữ là thành viên của hộ gia đình mà không phải là chủ hộ, pháp luật Việt Nam vẫn chưa quy định cụ thể quyền được ghi tên đồng sở hữu chủ trên Giấy chứng nhận sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. - Quyền tự do giao kết hợp đồng của phụ nữ: Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 4, Điều 5, Điều 389) ghi nhận nguyên tắc mọi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đều có quyền tự do giao kết hợp đồng. - Quyền thừa kế của phụ nữ: Hiến pháp năm 1992 (Điều 58), Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 613, Điều 632, các điều 633-634, Điều 669, Điều 676, điều 680, Điều 734…), Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 31) ghi nhận phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc và theo pháp luật. 97
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
- Bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ khi tham gia vào các giao dịch dân sự: Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 4, Điều 5, Điều 412, Điều 691…), Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 24, Điều 25, Điều 28, Điều 33) ghi nhận phụ nữ bình đẳng trong việc tham gia các giao dịch dân sự theo năng lực chủ thể và khả năng của mình. 15.2. Phụ nữ có quyền tự do đi lại và cư trú Hiến pháp năm 1992 (Điều 68), Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 48, các điều 52 – 57), Luật Cư trú năm 2006 (Điều 3, Điều 4), quy định nguyên tắc cá nhân được quyền tự do cư trú, tự do đi lại không bị phân biệt đối xử về giới. Bên cạnh đó một số luật khác cũng đã quy định để đảm bảo quyền này. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 20) quy định “Nơi cư trú của vợ, chồng do vợ, chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính”. Hoặc các chế tài hình sự cũng đã thể hiện rõ quyết tâm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do đi lại, cư trú cho mọi công dân nam nữ: Điều 124 Bộ luật Hình sự cũng đã quy định việc khám xét trái pháp luật chỗ ở, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng tới một năm. ĐIỀU 16 Quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình 16.1. Pháp luật về hôn nhân và gia đình Trong 6 năm qua, quyền tự do và bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình tiếp tục được duy trì thực hiện và ngày càng được đảm bảo bằng các biện pháp luật pháp. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới như như đã nêu trong báo cáo trước. 98
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
16.2. Vấn đề kết hôn và ly hôn Về vấn đề kết hôn: Luật Hôn nhân và Gia đình không quy định ngoại lệ cho các trường hợp kết hôn nam trước 20 tuổi, nữ trước 18 tuổi. Việc kết hôn vi phạm quy định này thì bị coi là tảo hôn (hôn nhân trái pháp luật) và phải bị Toà án huỷ bỏ. Bộ luật Hình sự quy định người nào tổ chức cưới, đăng ký kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn thì có thể bị phạt tù tới hai năm. Tuy nhiên, ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, do điều kiện đi lại khó khăn nên nhiều người dân không thể đi đăng ký kết hôn theo luật định. Mặt khác, ở vùng này, nhiều phong tục tập quán lạc hậu vẫn chưa được xoá bỏ hoàn toàn như: Tảo hôn, tục nối dây của một số dân tộc thiểu số (người em trai chưa có vợ hoặc vợ đã chết thì có quyền lấy chị dâu làm vợ trong trường hợp anh trai của người đó đã chết (dân tộc Brâu), anh rể được phép lấy em gái của vợ nếu vợ đã chết (dân tộc Rơ Măm).... Vì vậy, để tạo bảo vệ quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và của phụ nữ người dân tộc thiểu số nói riêng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/03/2002 quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số. Hiện nay, Nghị định này đã và đang được triển khai thực hiện có hiệu quả, góp phần phát huy các phong tục tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình, xoá bỏ các phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình. Vấn đề ly hôn: Luật Hôn nhân và Gia đình đảm bảo cho cả nam và nữ quyền được ly hôn. Tuy nhiên, ở một số vùng dân tộc thiểu số, ly hôn nhiều khi không được giải quyết theo luật pháp mà giải quyết theo phong tục tập quán của dân tộc mình. Luật Hôn nhân và Gia đình cũng đảm bảo sự bình đẳng trong việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, đặc biệt là chia quyền sử dụng đất và chia nhà ở, bằng việc quy định tất cả các tài sản có giá trị đều phải được đăng ký tên cả vợ và chồng. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho Toà án xét xử công bằng về tài sản đối với các trường hợp ly hôn trong thời gian vừa qua. 16.3. Quyền bình đẳng trong thời gian hôn nhân 99
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng nam nữ như một nguyên tắc nền tảng xuyên suốt toàn bộ chế độ hôn nhân và gia đình của Việt Nam trong thời kỳ mới: "Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình" (Điều 19). Điều này có nghĩa là vợ chồng có quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ; về các vấn đề liên quan đến con cái; trong việc định đoạt tài sản chung của gia đình. Pháp lệnh Dân số năm 2003, được sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền và nghĩa vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sử dụng các biện pháp KHHGĐ, thực hiện quy mô gia đình ít con. Nghị định 104/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số quy định về công bằng giới: Nghiêm cấm các hành vi cản trở, cưỡng bức thực hiện KHHGĐ; cấm đe doạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể người sử dụng biện pháp tránh thai, người sinh toàn con trai hoặc toàn con gái (Điều 9); nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi (Điều 10). Đặc biệt, Nghị định này đã dành hẳn một điều quy định về quyền bình đẳng giới: Tuyên truyền về bình đẳng giới; xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới tính; tạo điều kiện cho nữ giới chủ động thực hiện chăm sóc sức khoẻ sinh sản, KHHGĐ và được tiếp cận bình đẳng về giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt và tham gia các hoạt động xã hội; nam giới có trách nhiệm thực hiện KHHGĐ; loại bỏ mọi sự phân biệt đối xử với trẻ em gái; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em gái trong sinh hoạt, khám bệnh, chữa bệnh, học tập, vui chơi giải trí và phát triển toàn diện. Những quy định này thực sự có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, do một bộ phận nhân dân vẫn còn giữ tư tưởng trọng nam coi thường nữ, tạo nên sức ép đối với người phụ nữ trong gia đình - phải đẻ con trai cho nhà chồng. 16.4. Tệ ngược đãi phụ nữ trong gia đình Hiện tượng ngược đãi phụ nữ trong gia đình vẫn còn tồn tại và tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nơi tư tưởng của người dân vẫn còn lạc hậu và phụ nữ 100
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
thiếu hiểu biết về quyền và các lợi ích của mình. Theo Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực gia đình, tỷ lệ phụ nữ bị ngược đãi là 58%15. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tệ ngược đãi phụ nữ trong gia đình: trước hết là do tư tưởng coi thường phụ nữ vẫn còn tồn tại trong xã hội; kinh tế của nhiều gia đình khó khăn dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Mặc dù đã được phổ biến, thông tin về các quyền lợi của mình, nhưng một bộ phận phụ nữ, nhất là ở vùng sâu, vùng xa vẫn chưa nhận thức sâu sắc về các quyền lợi hợp pháp của mình. Ngoài ra, còn do tác động của các tệ nạn xã hội như: nghiện rượu, cờ bạc, mại dâm, ma tuý, ngoại tình; còn tồn tại quan niệm phụ nữ lấy chồng phải đẻ được con trai nối dõi cho nhà chồng; những xung khắc giữa mẹ chồng và nàng dâu... Các ngành, các cấp nhất là Hội phụ nữ đã có nhiều biện pháp nhằm ngăn ngừa tệ ngược đãi đối với phụ nữ và hỗ trợ, giúp đỡ các nạn nhân. Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo đã giúp cho đời sống nhiều hộ gia đình được đảm bảo hơn. Nổi bật, Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp đã tích cực triển khai chương trình giáo dục và phổ biến pháp luật cho phụ nữ, tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã hội và của phụ nữ về vấn đề bình đẳng giới, đồng thời tăng cường công tác hoà giải và đề xuất với chính quyền xử lý nghiêm khắc các đối tượng có hành vi ngược đãi phụ nữ. Luật Phòng chống bạo lực gia đình ra đời năm 2007 là công cụ hiệu quả trong việc phòng chống bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, Việt Nam đã xây dựng mô hình nhà tạm lánh. Cả nước có 10 nhà tạm lánh. Nhà tạm lánh là nơi giúp cho phụ nữ và trẻ em gái có thể tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, tư vấn, giáo dục, dạy nghề và một số kỹ năng sống cần thiết. Từ tháng 3/2007 đến nay, nhà tạm lánh của Trung tâm Phụ nữ và Phát triển thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã cung cấp chỗ ở cho 149 nạn nhân bạo lực gia đình. Phương hương thời gian tới: Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đưa ra chỉ tiêu cụ thể tại Mục tiêu 6: Bảo đảm bình đẳng giới 15
Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực gia đình, Tổng cục Thống kê
101
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới: Chỉ tiêu 1: Rút ngắn khoảng cách về thời gian tham gia công việc gia đình của nữ so với nam xuống 2 lần vào năm 2015 và xuống 1,5 lần vào năm 2020. Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015 đạt 40% và đến năm 2020 đạt 50% số nạn nhân của bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn về pháp lý và sức khỏe, được hỗ trợ và chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình. Đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 85% số người gây bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn tại các cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình. KẾT LUẬN Hơn ba mươi năm là thành viên Công ước CEDAW16, với tư cách là quốc gia thành viên CEDAW, Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế của mình. Đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đã tương đối đầy đủ và toàn diện, phù hợp với các nguyên tắc và các quy định của Công ước CEDAW. Đặc biệt, Việt Nam đã có đạo luật riêng nhằm thực hiện những nội dung cốt lõi của Công ước CEDAW, đó là Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007. Nhà nước Việt Nam đã phê duyệt nhiều chương trình, dự án, mục tiêu quốc gia liên quan đến phụ nữ về xoá nghèo, việc làm, dạy nghề nông thôn, dân số và kế hoạch hoá gia đình, nước sạch vệ sinh môi trường, phòng chống các bệnh xã hội, phòng chống HIV/AIDS, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, phát triển văn hoá, giáo dục và đào tạo. Đặc biệt là Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam đến 2010, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030; Chiến lược Dân số và Sức khoẻ sinh sản giai đoạn 2011-2020; Chiến lược phát triển Văn hoá đến năm 2020; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em đến năm 2020; Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020; Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân đến năm 2020 và các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015. 16
Việt Nam ký Công ước Cedaw 29-7-1980. Phê chuẩn 17-2-1982
102
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Trong quá trình thực hiện Công ước CEDAW, Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá và hội. Trong giai đoạn 2004-2010, Việt Nam đã đẩy tới một bước việc thực hiện các điều khoản của Công ước như đã cam kết và thực hiện các khuyến nghị của Uỷ ban CEDAW thông qua tại Phiên họp thứ 759 và 760 ngày 07 tháng 01 năm 2007. Các thành tựu đạt được trước đó tiếp tục được củng cố và phát huy. Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ mới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Quyền tự do và bình đẳng của phụ nữ được bảo đảm hơn. Phụ nữ được tạo thêm điều kiện và cơ hội tham gia và có đóng góp tích cực vào các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Vai trò và địa vị của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng được nâng cao. Giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và chất lượng cuộc sống cho phụ nữ và trẻ em gái đã được cải thiện rõ rệt. Việt Nam đạt được về cơ bản bình đẳng nam nữ trong giáo dục tiểu học và đang phấn đấu thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Các chỉ số về chăm sóc sức khoẻ là khá cao so với mức thu nhập bình quân đầu người. Nhà nước đã áp dụng các biện pháp tích cực để khắc phục về cơ bản tình trạng bất bình đẳng giới trong một số lĩnh vực, đặc biệt là trong tiếp cận đất đai và phúc lợi xã hội, tạo điều kiện cho phụ nữ cùng đứng tên với chồng trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở và được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội bình đẳng như nam giới. Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong sự nghiệp bình đẳng giới trên các bình diện của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển đất nước. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể khích lệ về tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Việt Nam thuộc nhóm có thành tựu tốt nhất khu vực Đông Nam Á -Thái Bình Dương về chỉ số phát triển giới (GDI). 103
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Việt Nam cơ bản đã thu hẹp được đáng kể về bình đẳng giới trong giáo dục ở tất cả các cấp học: Tỷ lệ học sinh nữ trong năm học 2008 – 2009 đạt 49% ở bậc tiểu học; 48,5% ở bậc trung học cơ sở; 52,6% ở bậc trung học phổ thông và 48,5% ở bậc đại học. Bình đẳng về việc làm và thu nhập cũng đạt được những bước tiến quan trọng, trong số lao động được giải quyết việc làm hàng năm, nữ giới chiếm khoảng 49%. Phụ nữ ngày càng tham gia tích cực hơn trong công tác quản lý, lãnh đạo, trong các vị trí của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Một trong những yếu tố quan trọng giúp Việt Nam đạt được các kết quả đáng khích lệ trên xuất phát từ những thành tựu của công cuộc đổi mới theo phương châm giữ vững và ổn định chính trị, phấn đấu đổi mới tăng trưởng kinh tế một cách bền vững đi đôi với xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Bài học lớn nhất được rút ra trong 6 năm qua đó là sự phối hợp, cộng đồng trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trên cơ sở quyết tâm chính trị cao của Nhà nước và nhân dân cùng phấn đấu khắc phục bất bình đẳng giới và nâng cao quyền năng cho phụ nữ. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh vì quyền bình đẳng của phụ nữ, vẫn còn nhiều trở ngại trên con đường đi tới, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến việc thực hiện Công ước CEDAW do Việt Nam là một nước đang phát triển, nguồn lực còn nhiều khó khăn và hạn chế. Việt Nam đang từng bước sửa đổi, bổ sung, cụ thể hoá, nội luật hoá để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đảm bảo phù hợp, hài hoà với pháp luật quốc tế, sửa chữa những yếu kém, tồn tại. Nhà nước Việt Nam đã và đang huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các tổ chức phi chính phủ cùng tham gia vào sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ, vì bình đẳng nam, nữ, cùng toàn thể nhân dân quyết tâm phấn đấu thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đối với 104
Báo cáo CEDAW lần 7+ 8 (24-8-2012)
Công ước CEDAW, cũng như các công ước quyền con người mà Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn./. ________________________________
105