2 minute read
2.1.2. Tình hình ô nhiễm KLN ở Việt Nam
Theo các tác giả Lim H.S thì bãi thải đuôi quặng ở đây là nguồn điểm gây ô nhiễm các kim loại cho đất ở những khu vực xung quanh. Hàm lượng các kim loại cao trong đất trang trại là do sự phát tán kim loại bởi gió, nước từ các bãi quặng đuôi. Đa số cây trồng ở các khu đất bị nhiễm kim loại đã bị nhiễm As và Zn ở mức cao.
2.1.2. Tình hình ô nhiễm KLN ở Việt Nam
Advertisement
Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng với hơn 5000 điểm mỏ thuộc 60 loại khoáng sản khác nhau được phát hiện và khai thác. Nhưng hầu hết các loại khoáng sản có trữ lượng lớn sau khai thác được đều xuất khẩu thô sang các nước khác ít khoáng sản được tinh luyện ngay trong nước như dầu mỏ, than đá … Ngành khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm, tuy nhiên sự phát triển và hiệu quả đóng góp của ngành đối với nền kinh tế còn chưa xứng đáng với tiềm năng [13] [15].
Nguyễn Ngọc Quỳnh và cộng sự (2002), tại TP. HCM, kết quả phân tích hiện trạng ô nhiễm KLN trong đất vùng trồng lúa khu vực phía Nam thành phố cho thấy hàm lượng đồng, kẽm, chì, thủy ngâm, crom, trong đất trồng lúa chịu ảnh hưởng trực tiếp của nước thải công nghiệp phía Nam thành phố đều tương đương hoặc cao hơn ngưỡng cho phép (TCVN 7209:2002) đối với đất sử dụng cho mục đích công nghiệp. Trong đó hàm lượng cadimi vượt quá tiêu chuẩn cho phép 2,3 lần, kẽm vượt quá 1,76 lần [11].
Các kết luận tương tự cũng được Hồ Thị Lam Trà và Kazuhiko Egashira (2001) đưa ra khi nghiên cứu hàm lượng Cu, Pb, Zn trong các loại đất: phù sa, đất vàng nhạt trên đá cát, đất nâu đỏ phát triển trên đá vôi, đất nâu đỏ phát triển trên đá bazan ở một số vùng của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong đất nâu đỏ phát triển trên đá vôi lấy tại Ninh Bình có hàm lượng Cu và Zn khá cao (106 mg/kg và 153 mg/kg) nhưng lại thấp trong đất vàng nhạt trên đá cát lấy tại Bắc Giang (16 mg/kg và 32 mg/kg).