2 minute read
khoáng sản ở Việt Nam
2.3.3. Các nghiên cứu xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong đất sau khai thác khoáng sản ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về khả năng hấp phụ KLN trong đất bởi các vật liệu tự nhiên còn hạn chế. Các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung vào khả năng loại bỏ KLN trong nước và sử vật liệu hấp phụ bằng thực vật.
Advertisement
Theo nghiên cứu của Trần Thị Phả (2013) sử dụng cây sậy hấp thụ kim loại nặng trên đất bãi thải sau khai thác khoáng sản tại mỏ sắt Trại Cau và mỏ thiếc Hà Thượng, đã cho thấy môi trường đất ở bãi thải mỏ thiếc Hà Thượng và bãi thải mỏ sắt Trại Cau đang bị ô nhiễm KLN. Hàm lượng KLN (As, Cd, Pb, Zn) trong đất trước khi trồng cây vượt quá QCVN 03:2008 rất nhiều lần. Sau 8 tháng nghiên cứu hàm lượng các KLN (Zn, Cd, Pb, As) trong đất xử lý bằng cây Sậy đều giảm so với ban đầu trước khi trồng cây. Cụ thể như sau: As ban đầu là 143,85ppm xuống còn 9,12ppm giảm 15,77 lần so với ban đầu, Pb từ 1016,49ppm xuống còn 51,28 ppm giảm 19,8 lần, Cd ban đầu là 51,89 ppm xuống còn 15,75ppm giảm 3,3 lần so với trước khi trồng [9].
Tro bay và diatomit được biến tính sau đó đưa vào đất ô nhiễm KLN để khảo sát khả năng hấp phụ Pb2+ và Cd2+ của chúng. Sử dụng vật liệu điều chế cho đất ô nhiễm Cd, Pb cho thấy khả năng làm giảm hàm lượng linh động và trao đổi của những nguyên tố này trong đất. Hiệu suất hấp phụ Pb, Cd trong đất ô nhiễm ở Hưng Yên của vật liệu biến tính từ Diatomit Hòa Lộc cao. Lượng vật liệu bổ sung càng lớn (1-5%) thì hiệu suất hấp phụ càng tăng, hiệu suất hấp phụ đối với Pb tăng từ 19,30% đến 25,64%, với Cd từ 12,75% đến 39,24%. Vật liệu tổng hợp từ tro bay cũng cho hiệu suất hấp phụ cao. Lượng vật liệu bổ sung càng lớn (1-5%) thì hiệu suất hấp phụ càng tăng, hiệu suất hấp phụ đối với Pb tăng từ 2,82% đến 27,18%, với Cd từ 15,44% đến 41,05% [14].
Một biện pháp nhằm làm giảm tính độc của KLN trong đất là sử dụng các chất có khả năng cố định KLN linh động. Nghiên cứu của Bùi Hải An (2010), sử dụng bentonit đã hoạt hóa Na và than bùn Mỹ Đức kết quả thí