Bản Ebook Cập nhật 2013
MỤC LỤC
Chương Một: Dòng Tiếp Hiện..................................... 7 1. Ý nghĩa của hai chữ Tiếp Hiện ........................................ 8 2. Mười bốn giới ................................................................ 14 3. Bối cảnh xã hội .............................................................. 15 4. Giáo chế của dòng Tiếp Hiện ........................................ 17 5. Cộng đồng của người Tiếp Hiện.................................... 22 6. Sự thực tập chánh niệm của dòng tu Tiếp Hiện............. 22 7. Cách thức tụng giới........................................................ 24
Chương Hai: Giới Tướng ................................................... 29 Giới thứ nhất: Thái độ cởi mở ........................................... 30 Giới thứ hai: Phá bỏ kiến chấp .......................................... 35 Giới thứ ba: Tự do nhận thức ............................................ 39 Giới thứ tư: Ý thức về khổ đau.......................................... 42 Giới thứ năm: Nếp sống lành mạnh và từ bi...................... 46 Giới thứ sáu: Chăm sóc cơn giận....................................... 49 Giới thứ bảy: Hiện pháp lạc trú ......................................... 53 Giới thứ tám: Xây dựng đoàn thể tu học chân chính và duy trì sự truyền thông.............................................................. 58 Giới thứ chín: Ngôn ngữ chân thật và từ ái ....................... 63 Giới thứ mười: Bảo vệ và nuôi dưỡng tăng thân ............... 66 Giới thứ mười một: Chánh mạng....................................... 69 Giới thứ mười hai: Tôn trọng sự sống ............................... 73
Giới thứ mười ba: Tôn trọng quyền tư hữu ....................... 76 Giới thứ mười bốn: Tình thương đích thật ........................ 79
Chương Ba: Nghi Thức Tụng Giới và Truyền Giới ...................................... 91 1. Ba sự quay về và hai lời hứa dành cho thiếu nhi ........... 92 01. Thiền Hành .............................................................. 92 02. Thiền Tọa................................................................. 92 03. Dâng Hương ............................................................ 92 04. Tán Dương ............................................................... 93 05. Lạy Bụt .................................................................... 94 06. Trì Tụng ................................................................... 95 07. Tác Pháp Yết Ma ..................................................... 98 08. Bài Hát Quay Về Nương Tựa ................................ 100 09. Ôn Tụng Hai Lời Hứa............................................ 101 10. Bài Hát Hai Lời Hứa.............................................. 102 11. Khai Thị ................................................................. 102 12. Kệ Khai Kinh......................................................... 103 2. Tụng năm giới.............................................................. 103 01. Niệm Bụt................................................................ 111 02. Quy Nguyện........................................................... 112 03. Quay Về Nương Tựa ............................................. 114 04. Hồi Hướng ............................................................. 115 3. Tụng mười bốn giới Tiếp Hiện.................................... 115 01. Thiền Hành ............................................................ 115 02. Thiền Tọa............................................................... 115 Giới Tiếp Hiện Chú Giải
4
03. Dâng Hương .......................................................... 115 04. Tán Dương ............................................................. 116 05. Lạy Bụt .................................................................. 117 06. Trì Tụng ................................................................. 118 07. Tác Pháp Yết Ma ................................................... 121 08. Niệm Bụt................................................................ 138 09. Quy Nguyện........................................................... 138 10. Quay Về Nương Tựa ............................................. 140 11. Hồi Hướng ............................................................. 141 4. Truyền thọ mười bốn giới Tiếp Hiện........................... 142 01. Thiền Hành ............................................................ 142 02. Thiền Tọa............................................................... 142 03. Dâng Hương .......................................................... 142 04. Tán Dương ............................................................. 143 05. Lạy Bụt .................................................................. 144 06. Trì Tụng ................................................................. 145 07. Tác Pháp Yết Ma ................................................... 148 08. Lạy Báo Ân............................................................ 149 09. Khai Thị ................................................................. 150 10. Niệm Bụt................................................................ 166 11. Quay Về Nương Tựa ............................................. 166
Chương Bốn: Giáo Chế Dòng Tu Tiếp Hiện........................................................ 169 Chương I: Danh xưng, Tôn chỉ, Cơ sở truyền thừa ......... 170 Chương II: Kinh điển y cứ, Giáo lý căn bản, Quan điểm hành đạo........................................................................... 170 Giới Tiếp Hiện Chú Giải
5
Chương III: Giáo quyền, Đoàn viên, Cơ cấu và hệ thống tổ chức.................................................................................. 173 Chương IV: Giới luật Tiếp Hiện, Điều kiện thọ giới....... 175 Chương V: Điều hành, Tài sản giáo đoàn, Đại Hội Tiếp Hiện.................................................................................. 179 Chương VI: Tu chỉnh giáo chế ........................................ 181
PHỤ LỤC...................................................... 183 Ý NGHĨA DÒNG TU TIẾP HIỆN.................................. 184 Pháp Thoại ................................................................... 184 Ý nghĩa của chữ Tiếp Hiện .......................................... 192 Tiếp Hiện - cánh tay nối dài ........................................ 199
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
6
Chương Một: Dòng Tiếp Hiện
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
7
1. Ý nghĩa của hai chữ Tiếp Hiện Giới tức là giới luật. Giới Tiếp Hiện là giới luật của dòng tu Tiếp Hiện, một môn phái của đạo Bụt được chính thức thành lập ở Việt Nam vào đầu năm 1964. Hai chữ Tiếp Hiện có nhiều nghĩa. Tiếp có nghĩa là tiếp xúc và tiếp nối. Hiện có nghĩa là thể hiện ra trong hiện tại. Để hiểu thêm về ý chỉ của dòng tu Tiếp Hiện, ta hãy xét qua bốn danh từ tiếp xúc, tiếp nối, thể hiện và hiện tại. Tiếp xúc ở đây có nghĩa là tiếp xúc với thực tại, thực tại nội tâm cũng như thực tại ngoại cảnh. Tiếp xúc với nội tâm không phải chỉ có nghĩa là trở về quán sát những hiện tượng tâm lý của chính mình mà còn có nghĩa là trở về liên lạc được với cả chân tâm, tức là nguồn suối của nhận thức, của hiểu biết và của lòng yêu thương. Trở về được với chân tâm thì cũng như thợ đào giếng đào tới được mạch nước ngọt. Đào tới được mạch nước ngọt thì nước ngọt tuôn lên, và giếng đầy nước ngon. Trở về được với chân tâm thì ta được tiếp xúc với nguồn suối hiểu biết (trí tuệ) và thương yêu (từ bi). Chất liệu hiểu biết và thương yêu đó không những nuôi dưỡng được cho ta mà còn nuôi dưỡng được cho những người chung quanh ta nữa. Tiếp xúc được với chân tâm cũng là tiếp xúc được với chư Bụt và chư bồ tát, tức là những người đã giác Giới Tiếp Hiện Chú Giải
8
ngộ chân tâm và đang đem ánh sáng giác ngộ ấy để soi đường chỉ lối cho cuộc sống. Tiếp xúc với ngoại cảnh tức là tiếp xúc với thế giới, trong đó có các loài khoáng vật, thực vật và động vật. Con người là động vật cao nhất trong các loài động vật. Muốn thực sự tiếp xúc với mọi loài, ta phải đi ra khỏi cái vỏ cứng bản ngã của ta. Phải thấy được tất cả những nhiệm mầu của hiện hữu cũng như những đau khổ của mọi loài. Tiếp xúc được với thế giới ngoại cảnh, không những ta có thể rung động trước những nhiệm mầu của vũ trụ như tuyết rơi, hoa nở, trăng chiếu, chim ca, mà ta còn nghe và thấy được tất cả những đau thương của mọi loài, trước hết là những cảnh huống và tiếng kêu thương của đồng loại. Với chất liệu hiểu biết và thương yêu, ta sẽ đi vào trong cuộc đời để làm vơi nhẹ bớt những đau thương ấy. Trong khi phân biệt thực tại thành hai phần nội tâm và ngoại cảnh, ta có thể đã đi vào sự lầm lẫn đầu tiên, nghĩ rằng nội tâm và ngoại cảnh là hai thực tại riêng biệt. Thực ra thì đó chỉ là hai mặt của cùng một thực tại. Hai ý niệm trong và ngoài có tính cách thực dụng trong đời sống hàng ngày nhưng lại có thể là những hàng rào ngăn cản cái thấy của ta về thực tại toàn vẹn. Sự thực là nội tâm và ngoại cảnh là một. Thấy sâu được vào thực tại nội tâm cũng là thấy sâu được vào thực tại ngoại cảnh. Thấy sâu được vào chiều sâu ngoại cảnh tức cũng là thấy được bản chất Giới Tiếp Hiện Chú Giải
9
của nội tâm. Đó là nguyên lý tâm cảnh nhất như của đạo Bụt. Cơ Đốc giáo hiện thời có quan niệm về chiều cao và chiều ngang của thần học. Chiều cao là sinh hoạt tâm linh, tức là sự tiếp xúc với Thượng Đế. Chiều ngang là sinh hoạt xã hội, tức là sự xúc tiếp với con người. Trong đạo Bụt cũng đã từng có người suy nghĩ theo chiều hướng đó, mà thành ngữ tiêu biểu là câu thượng hành Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, "trên thì thực hiện con đường giác ngộ của Bụt và dưới là hóa độ chúng sanh". Trên là chiều cao và dưới là chiều ngang vậy. Quan điểm này chưa hoàn toàn phù hợp với đạo Bụt. Đạo Bụt chỉ cho ta thấy Phật tính (tức là chiều sâu của giác ngộ) nằm trong lòng mọi loài và mọi vật chứ không phải là một thực tại cao vời và cách biệt. Vì vậy trong đạo Bụt, chiều cao và chiều ngang là một. Đi sâu vào chiều ngang thì sẽ gặp chiều cao. Đó là ý nghĩa của chữ tiếp xúc. Bây giờ ta đi sang ý niệm tiếp nối. Tiếp nối là buộc hai mối dây lại để nối cho dài ra. Tiếp nối ở đây là tiếp nối công trình giác ngộ của các bậc tiền nhân, tức là của các vị bồ tát đi trước. Ở đây ta nên nhớ rằng chữ Bụt (buddha) có nghĩa là người tỉnh thức (hoặc người giác ngộ), và chữ bồ tát (bodhisattva) cũng có nghĩa là người tỉnh thức hoặc người giác ngộ. Cả hai chữ bụt (buddha) và bồ đề (bohdi) đều lấy động từ budh (tỉnh thức, biết) làm gốc rễ. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
10
Chữ sattva, thường được dịch là hữu tình, nghĩa là kẻ có tri giác; kẻ có tri giác tức là người vậy. Nếu ta tỉnh thức, ta cũng là một người tỉnh thức, tức là một bodhisattva, một "giác hữu tình". Sự nghiệp giác ngộ đã được Bụt khai sáng và các thế hệ bồ tát phát triển và tiếp nối. Tất cả những ai tự nhận là đang đi trên con đường giác ngộ (đạo Bụt) đều có trách nhiệm tiếp nối và bảo tồn sự nghiệp ấy nơi bản thân và nơi thế giới. Hạt giống giác ngộ phải được gieo rắc, cây giác ngộ phải được vun bón và săn sóc. Đó là ý nghĩa của danh từ tiếp nối. Danh từ thứ ba là thể hiện. Thể hiện tức là không an trú quanh quẩn trong thế giới ý niệm mà phải thoát hình và biểu hiện thành sự sống cụ thể. Trí tuệ và từ bi không phải là những ý niệm về trí tuệ và từ bi, mà phải là những chất liệu có thực trong cuộc đời, có thể thấy được, sờ mó được, chứng nghiệm được. Sự có mặt của hiểu biết và thương yêu đem tới sự vơi đi niềm thống khổ và sự xuất hiện của niềm an lạc, của nụ cười. Thể hiện không phải chỉ là hành động. Thể hiện trước hết là sự chuyển hóa bản thân, sự chuyển hóa này tạo thành một hòa điệu giữa bản thân và thiên nhiên, giữa sự an vui của chính mình và sự an vui của muôn loài. Sự chuyển hóa này được thực hiện nhờ sự tiếp xúc giữa bản thân với nguồn suối hiểu biết và thương Giới Tiếp Hiện Chú Giải
11
yêu. Có sự chuyển hóa này rồi thì mọi hành động sẽ cùng mang một tính chất: tính chất xây dựng cho sự sống, cho cuộc đời trên đường hướng hiểu biết và thương yêu. Phải có an lạc mới chia sẻ được an lạc. Phải có bình tĩnh mới chia sẻ được bình tĩnh. Thiếu nền tảng đời sống an lạc, hành động có thể chỉ gây thêm xáo động và đổ vỡ trong cuộc đời. Danh từ cuối là danh từ hiện tại. Trong tinh thần Tiếp Hiện, hiện tại là vĩnh cữu, và chỉ có hiện tại là thực sự có mặt. An lạc mà chúng ta nhắm đến không phải là an lạc cho tương lai mà an lạc cho hiện tại. Tu học và hành đạo không phải là những công phu và những cực hình mà ta phải chịu đựng trong hiện tại để mua lấy một trạng thái an lạc hay giải thoát trong tương lai. Mục đích của sự tu học không phải là để được lên thiên đường sau khi chết hoặc sinh vào nước Bụt trong đời sau. Mục đích của sự tu học là để đạt tới an lạc cho mình và cho muôn loài ngay trong giờ phút hiện tại. Thở một hơi thở có ý thức, đó là thực hiện an lạc cho chính mình và cho muôn loài, ngay trong giây phút đang thở. Phương tiện và cứu cánh là một. "Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả", đó là vì bồ tát thấy được rằng nhân chính là quả, phương tiện chính là cứu cánh. Người tỉnh thức không bao giờ nói: "Đó chỉ là phương tiện thôi". Người tỉnh thức sợ nhất câu nói này: "Bất cứ phương tiện nào giúp tôi đạt được mục đích đều là tốt cả".
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
12
Trên nhận thức "phương tiện và cứu cánh là một", mọi tu tập và hành đạo đều được thể hiện trong tỉnh thức và an lạc. Trong lúc thiền tọa, thiền hành, lau nhà, tắm giặt, cho đến lúc hoạt động lao tác là phụng sự, người tu học phải cảm thấy an lạc trong thân tâm. Ngồi thiền là để được an lạc trong khi ngồi thiền. Lao tác để giúp người đói khát và bệnh tật là để được an lạc trong khi lao tác để giúp người đói khát và bệnh tật. Người tu học không chờ đợi một phần thưởng của công phu tu học ở tương lai, dù phần thưởng ấy là Niết Bàn, Cực Lạc, giải thoát hay quả vị Bụt. Bụt là sự tỉnh thức trong hiện tại chứ không phải trong tương lai. Bí quyết của đạo Bụt là sống tỉnh thức trong hiện tại và ngay tại nơi này. Ta đã thoáng thấy được ý nghĩa của hai chữ Tiếp và Hiện. Các bạn thiền sinh Tây phương, trong đó có những vị đã thọ giới Tiếp Hiện, từng tìm kiếm những danh từ trong tiếng Anh và tiếng Pháp, cố dịch hai chữ này, nhưng chưa ai tìm ra được. Hiện thời họ đang tạm dùng danh từ The Order of Interbeing (tiếng Anh) để gọi dòng Tiếp Hiện. Danh từ Interbeing đã được tác giả cuốn Trái Tim Mặt Trời đề nghị để dịch từ ngữ Tương Tức trong giáo nghĩa Hoa Nghiêm. Đó là một tiếng mới chưa có trong từ điển, nhưng chắc là sẽ được chấp nhận. Từ ngữ tương đương trong tiếng Pháp là inter-être, vừa là danh từ vừa là động từ. Quý vị chưa quen với từ
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
13
ngữ tương tức và tương nhập xin tham cứu cuốn Trái Tim Mặt Trời, từ trang 85 trở đi.
2. Mười bốn giới Người Tiếp Hiện tâm nguyện hành trì mười bốn giới Tiếp Hiện. Chữ giới ở đây không có nghĩa là những điều cấm đoán. Giới ở đây có nghĩa là đường hướng của sự sống, không phải chỉ là đường hướng tổng quát để ta hướng về mà còn là đường hướng cho từng giây, từng phút của sự sống hằng ngày. Trong kinh, Bụt thường dùng chữ giới (sila) để mô tả các phương pháp hành trì và thực tập. Tuy nhiên, cũng có khi Ngài dùng danh từ siksha (thực tập) để nói về đường hướng tu tập. Giới phải được hiểu trong văn mạch tam học là giới, định và tuệ. Giới (sila), định (samadhi) và tuệ (prajna): giới sinh định và định phát tuệ. Tuy nhiên trong giới có định và tuệ, trong định có giới và tuệ, trong tuệ có giới và định; do đó ba yếu tố của cái thấy không rời nhau; ba yếu tố giúp cho nhau. Định nghĩa đầy đủ nhất của giới là ý thức tỉnh táo (chánh niệm) trong mọi động tác, mọi ngôn từ, mọi cảm giác và mọi ý nghĩ. Chỉ có ý thức ấy mới có năng lực làm phát sinh định và tuệ, nếu người trì giới thực sự sống đời sống hàng ngày trong tinh thần giới luật Tiếp Hiện.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
14
Như vậy chánh niệm đưa tới định và định sinh ra tuệ. Mười bốn giới Tiếp Hiện là biểu hiện cụ thể nhất của chánh niệm trong đời sống hàng ngày.
3. Bối cảnh xã hội Dòng Tiếp Hiện được chính thức thành lập năm 1965 với lễ thọ giới của sáu người Tiếp Hiện đầu tiên. Lễ thọ giới được cử hành vào ngày Phật đản tại chùa Pháp Vân trong khuôn viên trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Những giới tử đầu tiên đều thuộc về giới trẻ, từ 22 đến 28 tuổi, tất cả đều là thành phần của ban điều hành trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Năm 1965 là năm mà cuộc chiến tại Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn quyết liệt. Dòng tu Tiếp Hiện chỉ là một trong những biểu hiện của quyết tâm đem đạo Bụt vào lĩnh vực hành động trong lúc xã hội đòi hỏi một ý thức phụng sự mới không dựa trên chia rẽ, căm thù và bạo lực. Ý thức về một đạo Bụt đứng trong lòng cuộc đời để xây dựng cho cuộc đời ngày xưa đã từng có mặt, nhất là trong các triều đại Lý và Trần. Từ khi người Việt bắt chước người Tống lấy Khổng giáo làm công giáo và loại bỏ Phật học cùng Lão học ra khỏi nền học vấn quốc gia, đạo Bụt đã mất dần tính cách nhập thế của nó. Trong nửa đầu thế kỷ thứ hai mươi, trong ý hướng đi tìm căn bản cho một cá tính dân tộc để Giới Tiếp Hiện Chú Giải
15
chống lại sự đồng hóa của Tây phương, người Việt đã có ý hướng khôi phục lại nền Phật học đã lu mờ. Vào khoảng 1925, có manh nha một phong trào phục hưng đạo Bụt. Năm năm sau, các hội Phật học được thành lập khắp nơi ở Trung, Nam và Bắc. Tạp chí Viên Âm ở Huế cũng như tạp chí Đuốc Tuệ ở Hà Nội đều có nói tới đạo Bụt như một viên đá nền tảng của nền văn học dân tộc. Nguyễn Trọng Thuật đã viết một loạt bài về "Nhân Gian Phật Giáo" trong tạp chí Đuốc Tuệ. Nhân Gian Phật Giáo tức là một nền đạo Bụt xây dựng xã hội. Tư tưởng đạo Bụt nhập thế được bồi đắp và phát triển song song với những hoạt động của Phật tử trong phạm vi văn hóa, giáo dục và xã hội. Các tổ chức giáo dục thanh thiếu niên như sinh viên Phật tử, gia đình Phật tử, trường tư thục tiểu học, trung học và đại học Phật giáo, các cơ sở xã hội như cô nhi viện, phòng chẩn bệnh, phòng phát thuốc, trường đào tạo cán bộ xã hội để chuyên lo phát triển kinh tế và giáo dục nông thôn v.v... là những biểu hiện cụ thể cho ý thức đem đạo Bụt đi vào cuộc đời. Các tác phẩm Đạo Phật Hiện Đại Hóa và Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời ra đời trước Dòng Tu Tiếp Hiện chỉ một vài năm đã phản ảnh được những tìm tòi hiện đại nhất về một nền đạo Bụt mới của dân tộc. Dòng Tiếp Hiện ra đời không phải để phủ nhận những hình thức tu học cổ điển mà là đề nghị thêm một hình thức tu học mới trong đó người thanh niên trí thức có thể tìm thấy một thế đứng và Giới Tiếp Hiện Chú Giải
16
những pháp môn tu học thích hợp hơn, và cũng có thể có cơ hội đem tài năng và chí nguyện của mình để phụng sự cho lý tưởng từ bi và hiểu biết. Giá trị của một dòng tu là ở bản chất của giới luật làm chất liệu sinh hoạt tâm linh cho dòng tu ấy. Giới luật Tiếp Hiện cần được học hiểu một cách chín chắn và sâu sắc trước khi ta có được một cái nhìn chân thật về dòng tu này.
4. Giáo chế của dòng Tiếp Hiện Theo giáo chế của dòng tu Tiếp Hiện, tôn chỉ của dòng là "hiện đại hóa đạo Bụt bằng cách học hỏi, thực nghiệm và áp dụng đạo Bụt một cách linh động và hữu hiệu vào đời sống mới, của bản thân cũng như của xã hội". Ta hãy để ý đến danh từ "thực nghiệm". Thực nghiệm tức là không bằng lòng với sự nghiên cứu trên phương diện lý thuyết và bằng trí năng; thực nghiệm là đem sự sống của mình để thể nghiệm những nguyên lý và phương pháp hoặc được trao truyền, hoặc được tìm thấy. Chỉ sau khi thể nghiệm, những nguyên lý và những phương pháp này mới được chấp nhận là thích hợp và hữu hiệu. Sự áp dụng đạo Bụt vào đời sống phải được thực hiện một cách thông minh và linh động để có thể đem lại những kết quả có thể kiểm chứng được. Những pháp môn không nuôi dưỡng được sự hiểu biết và tình Giới Tiếp Hiện Chú Giải
17
thương đều không phải là những pháp môn đích thực của đạo Bụt. Giáo chế của dòng tu Tiếp Hiện nói đến tinh thần phá chấp, khế cơ, thực chứng và phương tiện của truyền thống giáo lý đại thừa. Dòng đã được thành lập trên cơ sở tinh thần ấy. Ta hãy xét qua bốn đặc tính căn bản này. 1) Phá chấp là vượt thoát ra ngoài mọi thành kiến, mọi cố chấp và giáo điều. Chấp có nghĩa là nắm chặt, bị kẹt vào, bị ràng buộc vào. Có khi cũng gọi là thủ, hoặc là chấp thủ. Phạn ngữ là Upādāna, hoặc graha. Có nhiều loại chấp thủ cần được diệt trừ, trong đó kiến thủ (sự nô lệ, mắc kẹt vào một quan điểm) được xem là loại chấp thủ căn bản nhất. Đây là một điểm đặc biệt nhất của đạo Bụt. Đặc điểm này được thể hiện trong ba giới đầu của giới luật Tiếp Hiện. 2) Thực chứng là có tính cách thực nghiệm. Cái biết thực chứng không phải là cái biết có tính cách luận lý của trí năng mà là cái biết đã được thực nghiệm bằng sự sống bản thân. Khi ta uống một ly nước rau má, ta biết ngay đó là nước rau má mà không cần phải suy nghĩ, lý luận. Đó là cái biết thực chứng. 3) Khế cơ là phù hợp với hoàn cảnh tâm lý và xã hội. Để có được tính cách hữu hiệu, để thực sự tạo nên sự chuyển biến thuận lợi cho từ bi và sự hiểu biết, các Giới Tiếp Hiện Chú Giải
18
pháp môn phải có tính cách khế cơ. Khế cơ là một danh từ bổ túc cho danh từ khế lý. Khế lý là phù hợp với tinh thần đạo Bụt. Các pháp môn phải vừa khế lý vừa khế cơ. Nếu thực sự khế lý thì phải khế cơ. Nếu không khế cơ thì cũng không khế lý. Một pháp môn mà không hữu hiệu thì không còn là một pháp môn nữa. Dòng tu Tiếp Hiện và giới luật Tiếp Hiện là một pháp môn thích hợp với hoàn cảnh tâm lý xã hội hiện tại, do đó có tính cách khế cơ. Khế cơ nên càng khế lý. 4) Phương tiện là những cách thức và những pháp môn mà người hành đạo thông minh sáng tạo ra để có thể chỉ bày, hướng dẫn và áp dụng đạo Bụt được một cách hữu hiệu trong những tình thế, hoàn cảnh mới. Phương tiện đây không phải là phương tiện đối với cứu cánh. Phương tiện ở đây (tiếng Phạn là upāya) là những sáng tạo thông minh nhằm mục đích khế cơ hóa đạo Bụt. Phương tiện ở đây cũng là pháp môn, vì vậy có khi ta nói là pháp môn phương tiện. Phương tiện được sáng tạo ra đều phải khéo léo và mang tính chất khế lý cũng như khế cơ. Phương tiện trí đưa tới sự sáng tạo liên tục những pháp môn mới để tạo nên sinh lực mới cho đạo Bụt. Dựa trên bốn đặc tính căn bản trên, giáo chế có câu: "Tinh thần phá chấp và thực chứng đưa tới thái độ khách quan, bao dung và từ bi trong nhận thức cũng như trong sự giao tiếp giữa con người với con người. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
19
Tinh thần khế cơ và phương tiện đưa tới thái độ sáng tạo và khả năng dung hợp cần thiết cho sự tiến hóa và sự thành đạt hữu hiệu chí nguyện lợi sinh". Vì những đặc tính trên kia nên ta thấy dòng Tiếp Hiện có một thái độ thật cởi mở với tất cả các hệ phái đạo Bụt có mặt. Giáo chế nói về kinh điển như sau: Dòng Tiếp Hiện không căn cứ đơn phương vào một kinh điển nào trong kinh tạng đạo Bụt, mà tìm tới tinh hoa của giáo lý đạo Bụt hàm chứa trong tất cả các kinh điển của đại tạng. Dòng Tiếp Hiện không chấp nhận quan điểm phân giáo của bất cứ một hệ phái nào. Dòng Tiếp Hiện tìm thể hiện tinh thần đạo Bụt trong giáo lý nguyên thỉ và qua quá trình phát triển của tinh thần ấy trong lịch sử giáo đoàn, giáo lý và tu chứng của mọi truyền thống đạo Bụt. Dòng Tiếp Hiện quan niệm tất cả các kinh điển trong đại tạng, dù là do Bụt thuyết hay do Phật tử biên soạn theo tinh thần đạo Bụt dưới hình thái Bụt thuyết, đều là kinh điển đạo Bụt. Dòng Tiếp Hiện chủ trương rằng sự khai triển tư tưởng đạo Bụt nguyên thỉ và sự thành lập các hệ phái giáo lý mới căn cứ trên cơ bản giáo lý nguyên thỉ ấy để khế cơ hóa việc hành đạo là những thực hiện cần thiết và chân chính. Dòng Tiếp Hiện cho rằng chỉ có hành đạo như thế mới làm cho Phật chủng không đoạn tuyệt và cho sinh khí đạo Bụt được lưu nhuận trong cuộc đời. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
20
Ngoài ra, giáo chế cho ta thấy thái độ cầu tiến và cởi mở của dòng Tiếp Hiện: Dòng Tiếp Hiện bác bỏ thái độ giáo điều trong nhận thức và trong hành động. Dòng Tiếp Hiện chấp nhận một thái độ hành đạo linh động để có thể phản ảnh tinh thần cầu tiến và khế cơ của đạo Bụt và làm cho trí giác, từ bi và bao dung của đạo Bụt được thực sự có mặt trong cuộc đời. Dòng Tiếp Hiện coi trọng sự sinh tồn của tinh thần và sinh khí đạo Bụt hơn sự sinh tồn của những hình thái và tập tục đạo Bụt. Dòng Tiếp Hiện chủ trương người Tiếp Hiện mang tuệ giác đạo Bụt, và đứng vào hàng ngũ những người đi tiên phong trong việc tìm giải quyết những vấn đề của sự sống bản thân và xã hội. Theo nguyên tắc tùy duyên bất biến, dòng Tiếp Hiện chủ trương thích ứng với điều kiện xã hội để cải tiến xã hội mà vẫn giữ được sự vẹn toàn của lý tưởng tuệ giác mình. Mang trong lòng ước nguyện của một vị bồ tát, người Tiếp Hiện hướng tới việc thực tập để chuyển hóa tự thân, sống đời sống chánh niệm, an lạc và lấy đó làm nền tảng cho sự chuyển hóa xã hội hướng đến con đường của tình thương và sự hiểu biết.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
21
5. Cộng đồng của người Tiếp Hiện Dòng Tiếp Hiện được tổ chức thành hai chúng: chúng Chủ Trì và chúng Đồng Sự. Chúng có nghĩa là đoàn thể. Chúng Chủ Trì là đoàn thể của những người đã chính thức thọ giới Tiếp Hiện, trong đó có các vị xuất gia được gọi là các Thầy, các Sư cô, và các vị tại gia được gọi là các Anh và các Chị. Chúng Đồng sự là đoàn thể của những người hành trì theo các pháp môn Tiếp Hiện, nhưng không hoặc chưa thọ giới Tiếp Hiện. Những người trong chúng Đồng Sự thân cận và cộng tác với chúng Chủ Trì trong mọi sinh hoạt tu tập và hành đạo. Họ cũng tham dự vào các buổi tụng giới Tiếp Hiện chung với các Anh và các Chị trong chúng Chủ Trì. Những người muốn thọ giới Tiếp Hiện để gia nhập vào chúng Chủ Trì phải trải qua một thời gian thực tập ít nhất là một năm và sinh hoạt trong chúng Đồng Sự. Sau khi gia nhập chúng Chủ Trì, họ phải có một số ngày tĩnh tu trong năm, tối thiểu là 60 ngày.
6. Sự thực tập chánh niệm của dòng tu Tiếp Hiện Như ta đã biết, giáo chế Tiếp Hiện không phải chỉ là một số những điều răn cấm mà là một đường hướng Giới Tiếp Hiện Chú Giải
22
và một ý thức soi sáng mọi giây phút của sự sống hàng ngày. Các giới luật khác thường bắt đầu bằng sự kiểm soát và điều phục thân nghiệp, vì vậy luôn luôn được bắt đầu bằng các giới bất sát, bất đạo, bất dâm. Giới luật Tiếp Hiện bắt đầu bằng sự soi sáng tâm ý, do đó giới đầu được dành ra cho tâm ý. Điểm này không những không làm cho giới Tiếp Hiện đi xa đạo Bụt mà trái lại, còn làm cho giới Tiếp Hiện đi vào cốt tủy của đạo Bụt. Trong các pháp, tâm là chủ. Tâm là Vua. Tâm là họa sĩ vẽ ra tất cả các pháp. Vì vậy, tâm là căn bản. Dành những giới đầu cho tâm, đó là một điểm đặc biệt của giới Tiếp Hiện, mười bốn pháp tu tập chánh niệm. Điều này làm cho giới Tiếp Hiện gần gũi nhất với Bát Chánh Đạo, giáo lý căn bản của đạo Bụt, nguyên thỉ cũng như đại thừa. Bát chánh đạo đã được gọi là giới luật đích thực, là tự tính giới (tiếng Pali là pakati-sila), khác với những giới luật được sáng chế cho ưu bà tắc, sa di, tỳ khưu và bồ tát, được gọi là chế giới (pannatti-sila). Bát chánh đạo cũng bắt đầu bằng chánh kiến (kiến giải chân thực) và chánh tư duy (tư duy chân thực) tức là những nguyên tắc chỉ đạo tâm ý. Ta có thể tạm chia mười bốn giới Tiếp Hiện thành ba nhóm: bảy giới đầu về ý, hai giới giữa về ngữ, và năm giới cuối cùng về thân. Tuy nhiên, đó chỉ là một lối phân tích tạm thời. Trong suốt cả mười bốn giới, Ý luôn luôn có mặt như một ngọn đèn soi sáng. Các vị
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
23
từng tụng giới Tiếp Hiện chuyên cần, chắc đã thấy rõ được điều đó.
7. Cách thức tụng giới Giới Tiếp Hiện được trì tụng ít ra là hai tuần một lần. Người thuyết giới thường thường được mời từ chúng Chủ Trì. Tuy nhiên các đoàn viên của chúng Đồng Sự cũng có thể được mời làm người thuyết giới. Giờ thuyết giới tốt nhất là vào giờ thiền tọa buổi sáng. Ta có thể uống trà trước giờ tụng giới nhưng chỉ nên ăn sáng sau khi tụng giới xong. Người tụng giới ngồi thành hai dãy đối diện nhau, với giới bản đặt trên bàn, trước mặt mọi người. Nên sử dụng giới bản cùng một ấn kỳ để mỗi khi lật trang, tất cả mọi người đều lật một lần, tránh sự gây tiếng động. Ngồi đầu dãy bên phải là vị Duy Na, phụ trách về chuông. Ngồi đầu dãy bên trái là vị Duyệt Chúng, phụ trách về mõ (hoặc linh, nếu không có mõ). Người thuyết giới có thể ngồi trước một chiếc bàn nhỏ, nơi mọi người có thể nhìn thấy. Thường thường vị Duy Na làm chủ lễ, dâng hương và hướng dẫn mọi người lạy. Vào đầu buổi tụng giới, đại chúng sắp hàng đứng trước bàn Bụt, chắp tay và Giới Tiếp Hiện Chú Giải
24
theo dõi hơi thở. Vị chủ lễ đứng trước. Người ấy nhận lấy cây hương do một vị phụ tá trao cho, hai tay đưa hương lên và xướng bài dâng hương. Bài dâng hương xướng xong, người ấy cúi đầu và trao cây hương cho người phụ tá cắm xuống bình hương. Đợi người phụ tá cắm xong hương và đến an tọa xong trước chuông gia trì, người chủ lễ bắt đầu xướng các bài kệ quán tưởng và khen ngợi Bụt, và sau đó xướng từng danh hiệu để mọi người lạy xuống theo nhịp chuông. Người chủ lễ có thể tùy tiện giảm bớt các bài kệ quán tưởng hay khen ngợi Bụt, nếu muốn. Lạy Bụt xong, mọi người về an tọa trước giới bản của mình. Chỉ sau khi mọi người an tọa vững chãi và yên lặng hoàn toàn thì người Duy Na mới nhập chuông và các vị Duy Na và Duyệt Chúng mới bắt đầu khai chuông mõ. Sau khi niệm danh hiệu Bụt Thích Ca và tụng bài kệ khai kinh, đại chúng giữ im lặng hoàn toàn để cho người thuyết giới lên tiếng tụng giới. Từ lúc mới vào Phật đường, mọi người phải nhiếp giữ tâm ý, sử dụng việc theo dõi hơi thở và những bài thi kệ, trong những động tác như chấp tay, bước chân, ngồi xuống, điều thân, v.v... Cố nhiên là trong lúc tụng giới mọi người phải để hết tâm ý vào nội dung của giới. Tai theo dõi tiếng tụng giới mà mắt theo dõi giới bản. Thị giác và thính giác hợp nhất với ý thức tạo nên một định lực vững chãi Giới Tiếp Hiện Chú Giải
25
không để cho những tạp niệm có cơ hội xen vào. Người thuyết giới cần có giọng đọc trôi chảy, rõ ràng, chuyên chở được nội dung giới luật. Sự thanh tịnh của đại chúng trong giờ tụng giới tùy thuộc rất nhiều ở người thuyết giới. Khi người thuyết giới hỏi: "Các vị đã sẵn sàng chưa?", mọi người có thể trả lời "sẵn sàng" trong tâm mình, không nhất thiết phải nói ra bằng lời. Người thuyết giới sau khi đọc xong một giới nên ngừng lại trong một thời gian khoảng ba hơi thở vào và ba hơi thở ra trước khi hỏi câu hỏi: "Đó là giới thứ ... của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có học tập và giữ gìn giới ấy hay không?" Ngừng như vậy để mọi người có cơ hội nắm vững được giới tướng. Phương pháp dễ nhất để nắm vững giới tướng là lấy mắt đọc lại giới vừa tụng và lần này chú tâm vào nội dung của giới, thay vì vào chữ nghĩa. Thời gian ba hơi thở đủ để ta làm việc ấy. Sau đó, người thuyết giới mới bắt đầu lên tiếng: "Đó là giới thứ ... của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có học tập và giữ gìn giới ấy hay không?" Hỏi xong, người thuyết giới cũng phải giữ im lặng trong khoảng ba hơi thở, ra và vào. Trong thời gian đó, mọi người tự trả lời câu hỏi trong tâm mình. Thường thường câu trả lời ít khi rơi vào hai thái cực không và có. Người tu học theo Tiếp Hiện không ít thì nhiều trong tuần qua cũng đã có thực tập chánh niệm và sống trong ý Giới Tiếp Hiện Chú Giải
26
thức. Trả lời không thì không đúng. Mà trả lời có thì trả lời không được mạnh dạn lắm, nhất là vào những tuần ít tinh tiến. Vì vậy câu trả lời thường là: "đã có, nhưng chưa đủ, xin sẽ cố gắng thêm". Thời gian ba hơi thở này là thời gian quý báu nhất trong buổi tụng giới. Phải để cho câu hỏi đi sâu vào tâm hồn mình, và tác động trong tâm hồn mình. Câu trả lời có khi không cần thiết bằng sự cởi mở tâm hồn để cho câu hỏi đi vào. Tác động của câu hỏi sẽ rất lớn, nếu ta biết sử dụng thời gian ba hơi thở ấy. Ta phải theo dõi hơi thở trong thời gian này trong khi để cho câu hỏi đi vào lòng ta. Người thuyết giới phải rất ý thức điều đó. Và cả người Duy Na nữa. Người Duy Na phải thở ra thở vào cho đầy ba hơi thở trước khi thỉnh một tiếng chuông. Mọi người chấp tay thành búp sen khi nghe tiếng chuông ấy. Lúc bấy giờ, người thuyết giới mới đi sang giới điều kế tiếp. Điều cấm kỵ nhất là đưa tay để lật trang hoặc để dự tính lật trang trong thời gian ba hơi thở. Ta chỉ có quyền đưa tay ra lật trang sau khi tiếng chuông ngân lên, và mọi người đã chắp tay búp sen xong. Để cho những buổi thuyết giới được thanh tịnh, những người tham dự tụng giới lần đầu cần phải được chỉ dẫn cặn kẽ trước giờ tụng giới.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
27
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
28
Chương Hai: Giới Tướng
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
29
Giới thứ nhất: Thái độ cởi mở Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để không bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Con nguyện nhìn nhận những giáo nghĩa Bụt dạy như những pháp môn hướng dẫn thực tập để làm phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động. Thấy được rằng niềm cuồng tín dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con xin nguyện tập nhìn với thái độ cởi mở và với tuệ giác tương tức để có thể chuyển hóa tập khí vướng mắc vào giáo điều và năng lượng bạo động trong con và trên thế giới. Trong kinh có danh từ "đại sư tử hống âm", nghĩa là tiếng gầm của sư tử lớn. Giới thứ nhất chính là tiếng gầm ấy. Chỉ có đạo Bụt mới nói tới giáo lý của mình như một chiếc bè qua sông chứ không phải như một chân lý tuyệt đối để bảo vệ và thờ phụng. Đây là đòn công phá lớn nhất của Bụt đánh vào thái độ cố chấp và giáo điều, nguyên do của bao nhiêu cuồng tín, tranh chấp và bạo lực. Biết bao nhiêu kinh điển, từ kinh Kalama của đạo Bụt nguyên thỉ đến kinh Giới Tiếp Hiện Chú Giải
30
Vajracchedikā prajñāpāramitā (Kim Cương Bát Nhã) của đạo Bụt đại thừa dạy rằng kiến thức là trở ngại cho kiến thức, và kiến thức là trở ngại cho tuệ giác. Biết một điều gì và chấp chặt vào điều ấy, như vậy là đánh mất cơ hội để đi tới một cái biết sâu sắc và chân thật hơn. Kiến thức của ta, đạo Bụt gọi là sở tri. Vì kiến thức là chướng ngại cho sự tiến bộ trên con đường hiểu biết cho nên mọi kiến thức đều được gọi là sở tri chướng (Jñeyāvarana). Giới này hé mở cho ta thấy tầm vóc lớn lao của đạo Bụt: đó là tinh thần cởi mở và bao dung tuyệt đối của nguồn tuệ giác này. Cởi mở và bao dung ở đây không phải chỉ là những phong cách tiếp xử trong đời sống mà còn là phương pháp tu chứng căn bản để đạt đạo. Theo đạo Bụt, nếu ta không phá tung được biên giới của kiến thức thì ta vẫn còn bị giam giữ bởi kiến thức và vì vậy ta không thể đạt đạo được. Kinh Bách Dụ kể chuyện người lái buôn góa vợ vì dại dột mà đánh mất đứa con trai yêu quý. Đứa con trai ấy còn nhỏ tuổi, một hôm trong khi cha đi vắng bị kẻ cướp đến bắt cóc. Trước khi rút lui, kẻ cướp đốt nhà và đốt xóm. Khi người lái buôn về tới, ông ta thấy một tử thi thiếu nhi cháy đen ở đống tro tàn. Trong cơn hoảng hốt, ông ta cho đó là tử thi con ông. Ông khóc kể và làm lễ hỏa táng tử thi, rồi vì thương con quá, ông cất tro xương vào trong một cái túi gấm và đi đâu cũng mang theo mình. Mấy tháng sau, vào Giới Tiếp Hiện Chú Giải
31
lúc nửa đêm, đứa con trai thoát được tay kẻ cướp và tìm về gõ cửa đòi vào. Người cha lúc ấy đang âu sầu ôm chiếc túi gấm đựng tro, không chịu đứng dậy mở cửa. Ông ta tin chắc rằng con mình đã chết, và đứa trẻ đang gõ cửa xưng con ngoài kia là một đứa trẻ hàng xóm nào đó đang cố tình trêu ghẹo ông. Vì vậy đứa con phải thất thểu ra đi, và người lái buôn vĩnh viễn mất con. Bụt dạy: ôm lấy một kiến thức và cho đó là chân lý tuyệt đối tức là bít lấp tiến trình học hỏi và giác ngộ. Cuồng tín và cố chấp vào một lý thuyết không những bít lấp tiến trình hiểu biết và giác ngộ mà còn tạo ra biết bao cuộc tranh chấp đẫm máu. Chiến tranh tôn giáo và chiến tranh ý thức hệ bắt nguồn từ sự cố chấp của con người. Cuộc chiến tranh dai dẳng ở Việt Nam từng làm tiêu hao hàng triệu sinh mệnh và phá đổ bao nhiêu giá trị tinh thần và tài sản của quốc gia cũng bắt nguồn từ thái độ cố chấp và cuồng tín. Trong bối cảnh khổ đau cùng cực của cuộc chiến tranh này, dòng Tiếp Hiện được mọc lên như một hoa sen nở trong biển lửa. Giới thứ nhất của dòng Tiếp Hiện là tiếng nói của Bụt giữa biển hận thù và cố chấp. Ta phải nhìn giới này trong bối cảnh thảm khốc của đất nước mới dễ thấy được chân tướng của nó. Trong ba nghiệp thân (hành động), khẩu (ngôn ngữ) và ý (nhận thức), giới này thuộc về nghiệp thứ ba tức là ý nghiệp. Trong các giới luật cổ điển ta thường Giới Tiếp Hiện Chú Giải
32
thấy, giới bất sát (không giết hại sinh mệnh) được đứng hàng đầu, và giới này thuộc về thân nghiệp. Giới Tiếp Hiện đưa các giới điều thuộc về ý nghiệp lên hàng đầu, điều này khiến cho giới Tiếp Hiện đi về cội nguồn của tuệ giác đạo Bụt. Bụt đã dạy tâm ý là căn bản và là chủ chốt cho tất cả mọi pháp, vì vậy trong ba nghiệp thân, khẩu và ý thì ý nghiệp đứng đầu. Ta thường nghĩ phải có thân thể mới có thể cầm dao hay cầm súng để giết người. Nhưng thái độ cố chấp và cuồng tín cũng có thể đưa lại sự tàn sát nhân mạng, không phải là một hay hai nhân mạng mà là hàng triệu nhân mạng. Nếu tất cả chúng ta đều hành trì giới thứ nhất của dòng Tiếp Hiện thì chúng ta trì được giới bất sát. Bụt đã ví giáo lý của người như một chiếc bè để giúp ta qua sông; do đó giáo lý là những phương tiện độ người. Ta phải biết sử dụng giáo lý để tự độ và độ người chứ không nên xem giáo lý là cứu cánh, là chân lý tuyệt đối để bảo vệ và thờ phụng, nhất là bảo vệ và thờ phụng bằng cách tiêu diệt sinh mạng. Điều kiêng kỵ nhất trong đạo Bụt là cố chấp và cuồng tín. Phật tử không nhân danh đạo Bụt mà tạo ra một cuộc thánh chiến, lấy cớ là để bảo vệ chánh pháp, bởi vì hủy diệt sinh mạng là hủy diệt chánh pháp. Chánh pháp không phải là một lý thuyết; chánh pháp là sự hành trì bảo vệ sinh mạng.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
33
Nếu y khoa có muôn ngàn phương dược khác nhau để đối trị muôn ngàn chứng bệnh khác nhau thì đạo Bụt cũng có nhiều pháp môn khác nhau để đối trị nhiều căn cơ khác nhau. Pháp môn là cánh cửa đi vào sự hiểu biết thực tại. Kinh giáo thường nói tới tám vạn bốn ngàn pháp môn. Thuốc trị bón và thuốc trị tiêu chảy tuy khác nhau về dược tính nhưng cả hai đều là thuốc. Các pháp môn hướng dẫn sự tu tập có khi rất khác nhau về tính chất và phương pháp, nhưng tất cả đều hướng đến mục đích thực hiện giải thoát. Bụt đã từng nói: "Nước bốn biển đều có một vị là vị mặn, đạo pháp của tôi cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát". Người học Bụt phải nhìn các pháp môn trong đạo Bụt với con mắt rộng rãi như thế để có thể đừng bị kẹt vào thái độ cố chấp hẹp hòi. Thái độ cởi mở và phá chấp đó là căn bản của mọi công cuộc hòa giải, của mọi công tác xây dựng hòa bình. Thực tập thái độ cởi mở và phá chấp tức là mở rộng cánh cửa nhận thức để thâm nhập được vào thực tại chân như và đạt tới giác ngộ.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
34
Giới thứ hai: Phá bỏ kiến chấp Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp hòi và cố chấp, để có thể mở lòng ra mà đón nhận kinh nghiệm và tuệ giác của kẻ khác, và nhờ đó thừa hưởng được nhiều lợi lạc từ trí tuệ tập thể. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch. Tuệ giác chân thật chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây phút. Giới thứ hai phát xuất từ giới thứ nhất và cũng nằm trên bình diện nhận thức. Giới này nhắc nhở ta đừng kẹt vào kiến thủ, tức là sự cố chấp vào những kiến thức mà ta đã thu lượm được trong khi học hỏi. Những kiến thức này tuy có thể giúp ta được trong đường lối suy tư và trong sự sống thực tiễn, nhưng chúng không phải hoặc chưa phải là chân lý tuyệt đối. Khi ta nhìn mặt trời đang lặn ở phương tây, ta biết rằng mặt trời chưa lặn sau dãy núi vì hình bóng mặt trời còn nguyên vẹn trên dãy núi và mọi người có thể đồng ý với ta về điểm đó. Nhưng nhà Giới Tiếp Hiện Chú Giải
35
khoa học có thể cho ta biết rằng bản thân mặt trời đã lặn sau dãy núi trước đó tám phút rồi, và hình ảnh mặt trời ta đang thấy là hình ảnh của mặt trời trong quá khứ chứ không phải là hình ảnh của mặt trời trong hiện tại. Ta không bao giờ thấy được mặt trời hiện tại cả, mà chỉ có thể thấy được mặt trời của tám phút về trước, nghĩa là mặt trời của quá khứ. Ví dụ này cho ta thấy giác quan và nhận thức của ta còn chất chứa rất nhiều cái biết sai lầm về thực tại, do đó cố chấp vào những kiến thức hiện có là một thái độ cần phải tránh để có thể đi xa trên con đường hiểu biết. Những kiến thức của chúng ta được đạo Bụt gọi là sở tri. Ôm lấy sở tri thì ta bị kẹt vào sở tri, và sở tri trở thành chướng ngại cho sự học hỏi. Vì vậy có danh từ sở tri chướng. Tu học là để vượt sở tri chướng. Những nhà khoa học nào biết nghi ngờ kiến thức hiện có của mình là người có khả năng khám phá khoa học nhiều nhất. Một chân lý khoa học hôm nay sẽ là một sai lầm khoa học của ngày mai. Mọi ngành khoa học đều đang đi trên con đường khám phá, do đó thái độ phá chấp thường xuyên để vượt thoát tri kiến là thái độ khôn ngoan của người học hỏi. Cái thấy của ta được quy định bằng quan điểm của ta. Quan điểm tức là cái nhìn từ vị trí của ta. Ví dụ đứng từ mặt đất ta chỉ thấy được một mặt của mặt trăng. Mặt kia, mặt trăng không bao giờ chịu xoay lại cho ta thấy. Ta Giới Tiếp Hiện Chú Giải
36
phải dùng một phi thuyền đi quanh mặt trăng mới nhìn thấy được cái mặt che dấu đó. Quan điểm của ta được bổ túc bằng quan điểm của kẻ khác sẽ giúp cho ta thấy được nhiều mặt của thực tại hơn. Nhiều khi cái đúng hay cái sai chỉ được quy định bằng vị trí của người nhìn. Cái đúng bên này dãy núi Pyrénées có thể là cái sai bên kia dãy núi Pyrénées. Phật học gọi quan điểm là kiến (drsti); kiến là cái thấy. Ôm khư khư một quan điểm đó là kiến thủ. Thủ là nắm chặt, là ghì lấy, là bị kẹt vào. Biết xét lại tri kiến của mình, biết đặt nghi vấn trên tri kiến của mình, ta có thể đi tới trên đường khám phá thực tại; cũng như khi leo thang, ta biết bỏ nấc thấp để bước lên nấc cao. Quá trình nhận thức chính là quá trình của sự đoạn kiến (vượt bỏ tri kiến) vậy. Trong đạo Bụt, cái biết cao nhất là nhận thức duyên sinh, trong đó ta thấy được liên hệ nhân duyên giữa mọi hiện tượng và ta vượt được thế giới khái niệm trong đó mỗi sự vật được xem như là có cá thể riêng biệt. Cái biết đó được gọi là cái biết vô phân biệt (vô phân biệt trí -Nirvikalpa-jnāna). Cái biết này không thể diễn tả được bằng khái niệm và bằng ngôn ngữ, vì vậy nó siêu việt mọi cái thấy (drsti), mọi quan điểm. Để nói về sự bất lực của khái niệm và ngôn ngữ trong việc diễn tả cái thấy của vô phân biệt trí, các thiền giả thường dùng câu ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
37
diệt. Câu này có nghĩa là: con đường ngôn ngữ đã bị cắt đứt, và nẻo đi của khái niệm không còn. "Chân lý chỉ có thể thực chứng trong sự sống mà không thể tìm kiếm trong kiến thức và khái niệm". Thực chứng như thế nào? "Phải thường trực quán sát sự sống nơi chính mình và nơi cuộc đời". Đó là câu trả lời của đạo Bụt. Thường trực quán sát sự sống tức là thực tập quán niệm theo phương pháp của kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthāna sutta). Theo kinh này, ta phải thường trực quán sát, tức là có ý thức về những gì đang xảy ra nơi thân thể, nơi cảm giác, nơi nhận thức và nơi đối tượng nhận thức. Xin đọc lại kinh Tứ Niệm Xứ và cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức. Công phu quán sát này sẽ tăng trưởng định, tuệ và đưa ta tới sự nhận thức chân tướng của thực tại.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
38
Giới thứ ba: Tự do nhận thức Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức người khác vâng theo cái thấy của mình, con nguyện không ép buộc bất cứ một ai, kể cả trẻ em, đi theo quan điểm của mình, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và quyền tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải sử dụng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp. Giới thứ ba thuộc về tự do tư tưởng cho nên nó cũng là một tâm giới như hai giới đầu. Chúng ta, nhất là những bậc phụ huynh, thường hay vi phạm giới này mà không biết. Tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và sự tự do nhận thức của kẻ khác, đó là một trong những đặc điểm căn bản của đạo Bụt. Trong kinh tạng Pali, có kinh Kalāma sutta thường được nhận thức như một bản hiến chương có sớm nhất trong lịch sử về tự do nhận thức. Trong kinh này, Bụt trả lời cho một số thanh niên ở thị trấn Kesaputta về vấn đề nên tin theo ai, bởi vì ai cũng nói rằng giáo thuyết của họ hay hơn hết. Bụt nói: "Các bạn nghi ngờ là phải. Này các bạn, đừng vội tin một cái gì dù cái đó là cái người ta thường nói Giới Tiếp Hiện Chú Giải
39
tới, dù cái đó đã thành truyền thống, dù cái đó được nói tới trong kinh sử... Các bạn phải xét xem cái ấy có đúng với kinh nghiệm của các bạn không, có gây tác hại gì không, có bị các bậc hiền nhân chê trách không, và khi đưa ra áp dụng, có đem lại đổ vỡ và khổ đau không. Nếu có, các bạn phải từ bỏ nó. Trái lại, cái gì mà các bạn thấy là đẹp đẽ, không chê trách được, lại được các bậc hiền nhân mến chuộng và nếu đưa ra áp dụng thì sẽ đưa lại hạnh phúc và an lạc, cái ấy các bạn nên chấp nhận và hành trì theo.” Giới thứ ba này theo sát giới thứ hai như bóng theo hình, bởi vì sự thực tập phá chấp và cởi mở trong giới thứ hai chắc chắn đưa tới thái độ tôn trọng tự do nhận thức của kẻ khác. Tự do là một trong những quyền căn bản của con người, của tất cả mọi con người chứ không phải của một số người, vì vậy tự do cũng có nghĩa là tôn trọng tự do của kẻ khác. Vì thế, tôn trọng tự do là phải cởi bỏ cuồng tín và cố chấp nơi mình và giúp kẻ khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp nơi kẻ khác, bởi vì cuồng tín và cố chấp đưa tới sự tước đoạt tự do của kẻ khác. Làm thế nào để giúp kẻ khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp? Bằng những phương tiện đối thoại ái ngữ và bất bạo động. Phương tiện đối thoại ái ngữ là những phương tiện đầu. Phương tiện bất bạo động là những phương tiện mạnh mẽ có chủ ý gây áp lực tinh thần và xã hội để buộc kẻ kia phải thay đổi. Cũng như Giới Tiếp Hiện Chú Giải
40
trong trường hợp đối thoại ái ngữ, căn bản của hành động gây áp lực vẫn là ý hướng xây dựng trên thương yêu và hiểu biết. Một hành động xuất phát từ giận dữ và thù ghét không được gọi là một phương tiện bất bạo động. Bất bạo động là danh từ để dịch từ ngữ ahimsa, một trong những trạng thái tốt lành trong số mười một tâm sở thiện của Duy Thức Học. Ahimsa được dịch là bất hại, có nghĩa là ý hướng tránh đả thương và gây chết chóc cho kẻ khác. Làm cha mẹ, ta nên học tôn trọng tự do nhận thức của con ta, dù chúng còn nhỏ bé. Thái độ cởi mở, hiểu biết của ta đối với con cái sẽ mở rộng tầm nhận thức của ta, và ta có thể học được từ con cái ta nhiều điều. Mỗi con người có cá tính, sở thích, năng khiếu và ý hướng riêng biệt. Ta hãy mở lòng để thấy được những cá tính, sở thích, năng khiếu và ý hướng ấy. Ta đừng gò bó và ép buộc con cái ta vào những khuôn khổ mà ta ưa thích. Hoa tuy thuộc về cây nhưng cũng không phải là rễ, là lá, là cành. Phải để cho hoa là hoa, lá là lá, cành là cành. Nếu ta thấy được điều đó thì con cái ta có thể tự do phát triển theo tài năng và cá tính của chúng, và do đó công tác nuôi dạy của ta mới gọi được là thành công.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
41
Giới thứ tư: Ý thức về khổ đau Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con có thêm hiểu biết và phát khởi tâm từ bi, con nguyện thực tập quay về với tự thân và sử dụng năng lượng chánh niệm để nhận diện, chấp nhận, ôm ấp và lắng nghe những nổi khổ niềm đau trong con. Thay vì trốn tránh thực tại khổ đau và tìm cách khỏa lấp niềm đau trong con bằng sự tiêu thụ, con sẽ hết lòng thực tập hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm để nhìn sâu vào những gốc rễ của khổ đau. Con ý thức rằng con chỉ có thể tìm thấy con đường thoát khổ khi nào con thấu hiểu được nguồn gốc của khổ đau. Và một khi thấu hiểu được khổ đau của tự thân thì con mới có khả năng hiểu được những khổ đau của người khác. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Pháp thoại đầu tiên của Bụt nói về Tứ Diệu Đế, tức là về bốn sự thật. Sự thật thứ nhất là dukkha, sự có mặt của khổ đau. Nhận thức này là nhận thức đầu tiên và căn bản của đạo Bụt. Nếu ta bị bệnh mà ta không biết Giới Tiếp Hiện Chú Giải
42
là ta có bệnh thì ta sẽ không tìm cách chữa bệnh và do đó ta sẽ không thể thoát khỏi bệnh. Bốn sự thật là sự có mặt của khổ đau, những nguyên nhân sinh ra khổ đau, sự vượt thoát khổ đau và con đường đưa tới sự vượt thoát khổ đau. Vượt thoát tức là giải thoát. Bốn sự thật này là bốn sự thật về vấn đề giải thoát. Nếu ta không đồng ý với Bụt về sự thật thứ nhất, tức là về sự có mặt của khổ đau thì ta không thể đồng ý với Bụt về ba sự thật kế tiếp. Khổ đau có tính cách trị liệu. Khổ đau mở mắt được cho chúng ta rất nhiều. Có thấy được khổ đau, ta mới đi tìm nguyên nhân của khổ đau và do đó tìm được con đường giải thoát, nghĩa là con đường dứt bỏ nguyên nhân của khổ đau. Phép quán Tứ Niệm Xứ (quán về thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý) cho ta biết những gì đang xảy ra trong ta và trong xã hội ta, những đau khổ và những mầu nhiệm của cuộc đời. Thấy được đau khổ để tìm cách làm vơi bớt khổ đau. Thấy được mầu nhiệm để vươn tới an lạc. Vơi bớt khổ đau đã là bước đầu hướng về an lạc. Sự thật thứ nhất là sự có mặt của khổ đau. Sự thật thứ ba là sự có mặt của an lạc và của những nhiệm mầu nơi hiện hữu. Có người nghĩ đạo Bụt yếm thế chỉ nói tới khổ đau, đó là vì họ chỉ nhìn sự thật thứ nhất mà không nhìn sự thật thứ ba. Đạo Bụt đại thừa khai mở về sự thật thứ ba, đã nói tới liễu lục hoa vàng và pháp thân mầu nhiệm.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
43
Giữa ta và mọi loài có những liên hệ nhân duyên mật thiết; khi ta an lạc thì ta sẽ không tạo thêm khổ đau phiền não cho kẻ khác, khi ta làm vơi bớt nỗi khổ của người khác thì ta lại có thêm niềm vui. Vì vậy, hành đạo không phải chỉ là hành đạo nơi bản thân mà còn là hành đạo nơi xã hội. Đó là ý nghĩa của đạo Bụt đại thừa: tự độ, độ tha, tự giác, giác tha. Có những vị giáo thọ khuyên ta chỉ nên lo thiền tọa và đừng để ý vấn đề ngoài đời như đói khổ, chiến tranh, tù đày, áp bức. Các vị đó chưa thấy được chân nghĩa của đạo Bụt đại thừa. Cố nhiên là người tu không thể xao lãng việc tu tập, thiền tọa và quán niệm. Nhưng tu tập, thiền tọa và quán niệm để làm gì? Để thấy được những gì đang xảy ra nơi bản thân, nơi tâm ý và nơi cuộc đời. Một khi đã thấy thì không thể nào không có thái độ và không hành động. Khi một làng mạc bị dội bom tan tành, và người lớn cũng như trẻ em đang quằn quại, rên xiết vì thương tích do bom đạn gây nên, nhà tu hành có thể ngồi thiền an lạc trong ngôi chùa của mình được không? Người ấy có khả năng vừa cứu người vừa thiền tập không? Tại sao người ấy không vừa thiền tập vừa cứu người? Thiền tập là để thấy được tự tánh của mình (kiến tánh thành Phật). Không thấy được những gì đang xảy ra trước mắt mình và xung quanh mình thì làm sao mong thấy được tự tánh? Và tự tánh của mình có dính líu gì với tự tánh của khổ đau, bất công và chiến tranh không? Một trái bom nguyên tử có tự tánh không? Thấy được Giới Tiếp Hiện Chú Giải
44
tự tánh của trái bom tức là thấy được tự tánh của chính mình vậy. Tiếp xúc với khổ đau tức là nuôi dưỡng sự hiểu biết (trí) và tình thương (bi), tức là đào luyện ý chí hành đạo. Lời nguyện "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" sẽ không có nghĩa lý gì nếu ta xa rời thực tại khổ đế. Lời nguyện đó chỉ có sức mạnh khi ta nuôi dưỡng ý thức về khổ đau và ý chí làm vơi bớt khổ đau nơi mình và nơi cuộc đời. Tập cho thiếu nhi thấy và hiểu được những khổ đau của con người và của các loài động vật khác tức cũng là nuôi dưỡng và bồi đắp sự hiểu biết và lòng từ bi nơi những con người còn thơ ấu ấy. Nên thực tập trong đời sống hàng ngày. Nâng một bát cơm lên là cơ hội để thực tập tỉnh thức. Hành đạo là như thế, trong mỗi giờ phút của cuộc sống, chứ không phải chỉ trước một cuốn kinh hoặc trong một thiền đường.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
45
Giới thứ năm: Nếp sống lành mạnh và từ bi Ý thức rằng hạnh phúc chân thật chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành, giàu sang và sự hưởng thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình vì con biết những thứ ấy sẽ đem lại cho con nhiều khổ đau và tuyệt vọng. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào cách con nuôi dưỡng thân tâm bằng bốn loại thực phẩm: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Con nguyện không chơi bài bạc, không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy và bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, trò chơi điện tử, phim ảnh, các chương trình truyền thanh, truyền hình, sách báo và cả chuyện trò, vì con biết rằng những thứ ấy có thể gây tàn hại trên thân tâm con cũng như trên thân tâm của cộng đồng. Con nguyện thực tập tiêu thụ như thế nào để nuôi dưỡng được lòng từ bi, sự lành mạnh và niềm vui sống cho thân tâm con cũng như cho gia đình, xã hội và cả cho trái đất.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
46
Giới thứ năm phát sinh ra từ giới thứ tư, như cành cây đi ra từ thân cây. Sự nghiệp của người tu là sự nghiệp đạt đạo (trí tuệ) và giúp đời (từ bi), chứ không phải là giàu sang, danh vọng và quyền hành. Nhắm đến lợi, danh và quyền thế thì không còn thì giờ mà hành đạo. Đời sống không giản dị thì phải tiêu pha nhiều, do đó, thì giờ và tâm lực cũng không còn để mà hành đạo. Kinh Bát Đại Nhân Giác dạy: "Vì tâm ta rong ruổi chạy theo danh lợi, không bao giờ biết chán, cho nên tội lỗi ta cũng theo đó mà càng ngày càng lớn. Các bậc bồ tát thì khác hẳn: họ luôn luôn nhớ nghĩ đến phép tri túc, an vui sống với đời đạm bạc để hành đạo và xem sự nghiệp duy nhất của mình là thực hiện trí tuệ giác ngộ". Tri túc là bằng lòng với những điều kiện sinh hoạt vật chất tối thiểu đủ để đảm bảo sức khỏe của mình. Trong đời sống mới của xã hội tiêu thụ, sống đạm bạc để có thì giờ hành đạo còn có công dụng giúp ta thoát khỏi những chứng bệnh thời đại như bệnh huyết áp cao, bệnh tâm thần, bệnh huyết quản bế tắc, bệnh tim v.v... Cách thức ăn uống và làm việc của con người thời bây giờ thường đưa tới những chứng bệnh như thế. Ta phải có can đảm đối kháng lại nếp sống bận rộn và lo lắng thái quá của phần đông con người của xã hội bây giờ. Muốn thoát khỏi guồng máy để đừng bị nó nghiền nát, muốn ra khỏi áp lực thường xuyên của Giới Tiếp Hiện Chú Giải
47
nếp sống bận rộn, ta chỉ có một con đường. Sống giản dị, sống tri túc, giảm tối đa sự tiêu thụ. Nhiều giới tuổi trẻ bây giờ, tuy không phải là Phật tử cũng đã tìm thấy con đường đó. Nếu một mình đi thì thấy khó khăn, ta hãy chia sẻ với các bạn ta những phương cách để xây dựng cuộc sống giản dị và an lạc. Một khi ta nếm được sự an lạc của nếp sống giản dị rồi thì ta lại có cơ hội nhiều hơn để giúp bạn và giúp người. Tài vật của ta tuy không bao lăm, ta vẫn có thể chia sẻ với kẻ khác. Ngạn ngữ Việt Nam có câu "chật bụng chứ chật chi nhà", nói về sự chia sẻ ấy. Khả năng và thì giờ của ta bây giờ dồi dào hơn, ta sẽ có thể chia sẻ dễ dàng với những kẻ khác. Những người giàu có là những người khó chia sẻ (bố thí) nhất. Những bậc đại thí chủ lại là những người biết sống tri túc. Họ bố thí bằng thì giờ và khả năng của họ.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
48
Giới thứ sáu: Chăm sóc cơn giận Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra nhiều khổ đau cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con; cũng như phương pháp nhận diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không nói gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành để nhận diện và nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con ý thức rằng gốc rễ của các cơn giận đó không phải ở bên ngoài con mà nằm ngay trong nhận thức sai lầm của con và nơi sự thiếu hiểu biết về khổ đau của chính con và của người kia. Bằng phương pháp quán chiếu về vô thường, con sẽ có thể nhìn lại chính con và nhìn lại người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù trong con bằng con mắt từ bi và nhận ra rằng mối liên hệ giữa con và người đó quý giá biết nhường nào. Con cũng nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để nuôi dưỡng khả năng hiểu biết và thương yêu, khả năng chế tác niềm vui và lòng bao dung, không kỳ thị trong con. Nhờ đó, con sẽ dần dần chuyển hóa những bạo động, Giới Tiếp Hiện Chú Giải
49
hận thù, sợ hãi trong con và giúp cho những người khác cũng làm được như vậy. Một khi sự bực bội hay giận dữ đã phát sinh rồi, ta hãy án binh bất động, đừng để cho cái giận ấy tác hại thêm. Ta ngưng lại mọi suy nghĩ, lời nói và hành động. Thở những hơi thở dài và nhẹ; theo dõi hơi thở và khởi sự quán sát về những nguyên nhân đã đưa đến hành động và ngôn ngữ làm ta bực bội hay giận dữ. Kế đến, nhờ năng lượng chánh niệm, ta có thể nhìn sâu để thấy rằng người đang làm ta giận có thể trong quá khứ đã có lần giúp ta; hoặc ta hiểu được rằng người đó đã khổ đau trong quá khứ. Cũng có khi ta tìm thấy sự bực bội hay giận dữ của ta đã phát sinh ra từ một sự hiểu lầm của chính ta mà thôi. Có khi chỉ cần một chốc lát là ta thấy được những điều này, cũng có khi phải cần đến nhiều ngày. Cho đến lúc chúng ta đạt được cái thấy đó, tốt nhất là nên tạm ngưng không nói điều gì đối đáp lại với người đã làm cho mình giận mà chỉ thực tập thiền hành và hơi thở chánh niệm. Nên lấy con mắt từ bi để nhìn mọi người. Đó là lấy nguyên văn trong kinh Pháp Hoa: từ nhãn thị chúng sanh. Con mắt từ bi là con mắt hiểu biết. Từ bi là nước ngọt chảy từ nguồn hiểu biết. Không có hiểu biết thì không có từ bi, và hễ có từ bi tức là đã có hiểu biết. Giới thứ sáu là phương thức đối trị hận thù. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
50
Từ bi quán không thể tách rời nhân duyên quán. Nếu tôi đã được sinh ra trong hoàn cảnh của một kẻ cướp biển, thì rất có thể bây giờ tôi đang là một kẻ cướp biển. Con người của một kẻ hải tặc đã được đúc kết nên bởi nhiều nhân duyên thuận lợi cho việc trở thành hải tặc. Trách nhiệm ấy là trách nhiệm chung của xã hội loài người. Khuya hôm nay, hàng trăm trẻ em đã chào đời bên Vịnh Xiêm La. Những em bé sơ sinh khuya nay, mấy mươi năm sau có thể trở nên hải tặc, nếu những nhà giáo dục, những nhà chính trị, những nhà kinh tế và những kẻ có lòng ngày hôm nay không làm một cái gì hết để ngăn ngừa. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm ít nhiều trong sự có mặt của những người hải tặc. Quán nhân duyên để có thể nhìn bằng con mắt từ bi, và để thấy được bổn phận và trách nhiệm của mình trong công cuộc ngăn chận khổ đau. Bồ tát Quán Thế Âm vì thấy cho nên mới thương, và vì thương cho nên mới hành động. Quán là để thấy, để nghe. Tên của vị bồ tát này bắt đầu bằng chữ Quán. Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại cũng là một người ấy. Khi ta nuôi dưỡng một cây chanh, ta muốn cho cây chanh sởn sơ khỏe mạnh và xanh tươi. Ta quán sát và tìm biết những nguyên nhân đã làm cho cây chanh yếu ớt, trong đó có sự vụng về và thiếu chăm bón của ta. Ta biết trách cứ cây chanh không có ích lợi gì hết. Thế nhưng đối với con người, ta lại có khuynh hướng Giới Tiếp Hiện Chú Giải
51
muốn trách cứ họ, vì ta nghĩ đã là con người có ý thức thì phải biết sống cho lành mạnh, cho dễ chịu đối với những người khác. Thật ra, con người cũng chịu những điều kiện nuôi dưỡng và chăm bón như cây chanh về phần thể chất cũng như về phần trách nhiệm tinh thần. Đối với những người đang chung sống với ta, kể cả cha mẹ, anh em, bạn hữu và con cháu, ta biết rằng hành động trách cứ không đưa tới đâu hết, chỉ có tình thương và sự hiểu biết của ta mới giúp họ thay đổi. Họ cũng như những cây chanh; ta chỉ có thể chăm bón mà không thể trách cứ. Những lời khuyên bảo hay dạy dỗ phát xuất từ tình thương và sự hiểu biết không phải là trách cứ. Ta chăm bón họ thì ta được hưởng sự có mặt dễ chịu của họ, giống như khi ta chăm bón cây chanh thì ta được sự có mặt sởn sơ của cây chanh. Sự bực bội và sự giận dữ phát sinh vì chúng ta thiếu hiểu biết. Một đứa bé nói năng thô lỗ là vì nó đã được thân cận với giới trẻ thô lỗ; trách mắng không thể chữa lại tình trạng mà có thể gây thêm sự cách biệt giữa ta với nó. Nếu ta hiểu biết thì ta sẽ hành động thế nào để đứa bé khỏi bị ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh thô lỗ. Từ nhãn thị chúng sanh, chỉ một câu kinh ấy thôi cũng đủ cho chúng ta thực tập suốt đời. Hãy tập nhìn bằng con mắt từ bi, nghĩa là con mắt hiểu biết.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
52
Giới thứ bảy: Hiện pháp lạc trú Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thật sự có mặt trong giây phút hiện tại, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con xin nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp xúc với những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại và tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nhờ đó, con sẽ có thể nuôi lớn những hạt giống an lành, hiểu biết và thương yêu trong con để làm động lực chuyển hóa và trị liệu trong chiều sâu tâm thức. Con ý thức rằng hạnh phúc chân thật được phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không phải từ những điều kiện bên ngoài, và con có thể sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại bằng cách nhận ra rằng con đã có quá đủ những điều kiện hạnh phúc. Người Tiếp Hiện thực tập không để cho tâm trí trôi lăn theo loạn tưởng và lôi kéo bởi hoàn cảnh, nuối tiếc quá khứ hoặc lo lắng về tương lai. Để cho hoàn cảnh lôi kéo tức là tự đánh mất mình. Tự đánh mất Giới Tiếp Hiện Chú Giải
53
mình là mất tỉnh thức. Mất tỉnh thức là thụ động, là trôi lăn, là làm tán thất pháp thân. Bụt dạy thực tập chánh niệm là để trở về với những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Nhờ có chánh niệm, chúng ta tiếp xúc được với những gì mầu nhiệm, tươi mát có khả năng trị liệu trong ta và chung quanh ta để nuôi dưỡng, vun trồng những hạt giống hạnh phúc, an lạc, thương yêu và hiểu biết trong ta. Giống như hạt của trái anh đào, sự thực tập chánh niệm là trái tim của đời sống Tiếp Hiện. Dù là sống trong thiền viện, khi làm việc, sống với gia đình hay ở học đường, thực tập chánh niệm là điều thiết yếu. Chữ chánh niệm, theo tiếng Hán gồm có hai phần: phần trên là chữ "tâm", phần dưới là chữ "hiện tại", tức là đưa tâm về trong giây phút hiện tại. Công phu thực tập chánh niệm phải được thể hiện trong đời sống hàng ngày; khi đi, đứng, nằm, ngồi, nghỉ ngơi, làm việc v.v... đều là những cơ hội để thực tập. Hơi thở chánh niệm là cỗ xe đưa chúng ta trở về với giây phút hiện tại và an trú ở đó. Kinh An Ban Thủ Ý (Anapana-sati sutra) dạy về phép nhiếp tâm theo hơi thở. Quán niệm hơi thở là một phép tu mà người mới học cũng như người đã thực tập lâu ngày đều phải áp dụng. Kinh Quán Niệm (Tứ Niệm Xứ Kinh) dạy ta phép quán chiếu thân thể, cảm Giới Tiếp Hiện Chú Giải
54
thọ, nhận thức và đối tượng của nhận thức trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc và nghỉ ngơi. Kinh Quán Niệm hơi thở và Kinh An Ban Thủ Ý là những cuốn kinh gối đầu giường của người thiền tập kể từ khi Bụt còn tại thế. Thực tập chánh niệm đưa đến định và tuệ. Chúng ta phát triển định, tuệ cùng với một niềm an lạc sâu sắc bởi vì ta có khả năng thấy được sự mầu nhiệm của vũ trụ và muôn loài cầm thú, thảo mộc, đất đá... Không có chánh niệm, ta không thực sự tiếp xúc được với sự mầu nhiệm của một đóa hoa, của một vầng trăng huyền diệu, của trẻ thơ, người thân và bạn bè của ta. Tất cả đều là thành phần của thực tại tương tức. Nhờ chánh niệm đời sống trở nên thực sự có mặt. Chánh niệm giúp ta thực sự sống, có mặt ở đây và bây giờ. Chánh niệm cũng giúp ta tiếp xúc được với những gì tươi mát và mầu nhiệm trong ta và chung quanh ta. Thực tập như vậy, chúng ta tưới tẩm hạt giống an lạc, hiểu biết trong ta. Những hạt giống này có năng lực chuyển hóa các khổ đau trong ta. Khổ đau được chuyển hóa do sự có mặt của những hạt giống an lành mà ta đã vun trồng và tưới tẩm trong đời sống hàng ngày bằng sự thực tập sống chánh niệm. Trong kinh tạng Pali, danh từ dittha dhamma sukha vihari thường được dùng, nó có nghĩa là an trú trong Giới Tiếp Hiện Chú Giải
55
giây phút hiện tại. Nếu không có hỷ lạc trong sự thực tập thì chúng ta sẽ yếu. Hỷ lạc nuôi dưỡng ta, nhờ đó ta có nhiều năng lượng hơn. Có người tụng kinh, niệm Bụt, ngồi thiền khá nhiều nhưng cách nhìn của họ về cuộc đời không thay đổi, cũng như nhân cách và hành động của họ không thay đổi. Đó là vì họ chỉ hành trì theo sự tướng mà không thực sự thực tập quán chiếu trong đời sống hàng ngày. Nếu sự thực tập của chúng ta không chuyển hóa được đời sống của chính chúng ta và đem tới hỷ lạc cho ta thì ta sẽ không có khả năng đem an lạc tới cho người khác, và như vậy là ta đã thực tập không đúng cách. Pháp môn Tiếp Hiện đưa thiền quán từ thiền đường ra đến mọi động tác của đời sống hàng ngày. Công trình này phải đưa tới định, tuệ và sự chuyển hóa trong đời sống hàng ngày của ta. Chúng ta phải thấy rằng nếu khả năng hiểu biết, thương yêu, an lạc và hạnh phúc của ta tăng triển thì ta mới thực là đang đi trên con đường hành đạo. Những mầu nhiệm của vũ trụ được phô bày ra nhờ sự tập thiền quán về tính tương tức của vạn pháp: "cái này có vì cái kia có". Ta thấy được rằng để cho một vật có thể hiện hữu, các vật khác cũng phải cần có mặt. Giới thứ năm nhằm đối trị tham, giới thứ sáu nhằm đối trị sân, giới thứ bảy nhằm đối trị si; tức là sự mê Giới Tiếp Hiện Chú Giải
56
mờ, thất niệm. Các giới Tiếp Hiện bổ túc cho nhau và theo nhau như một chuỗi hạt minh châu vậy.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
57
Giới thứ tám: Xây dựng đoàn thể tu học chân chính và duy trì sự truyền thông Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ. Ý thức rằng một đoàn thể chân thật được xây dựng trên nền tảng không kỳ thị và hài hòa trong quan điểm, tư duy cũng như lời nói, con nguyện thực tập chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm của con với những thành viên khác trong đoàn thể để cùng nhau đi đến một cái thấy chung. Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán xét, phản ứng, không nói ra bất cứ một lời nào có thể tạo nên sự bất hòa và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Mỗi khi có khó khăn xảy ra, con nguyện ở lại cùng tăng thân và thực tập nhìn lại chính mình cũng như nhìn lại những người khác để tìm ra tất cả những nguyên nhân và điều kiện đã tạo nên tình trạng khó khăn, trong đó có cả những tập khí của chính con. Con sẽ nhận trách nhiệm về những gì con đã nói và đã làm, những gì có thể đã góp phần tạo nên sự bất hòa và tìm cách duy trì được sự truyền thông. Con sẽ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
58
không hành xử như một nạn nhân mà sẽ cố gắng hết sức để giải quyết mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ. Giới thứ tám và giới thứ chín thuộc về nghiệp nói năng, tức là khẩu nghiệp. Trọng tâm của giới thứ tám là ý niệm hòa. Hòa là bản chất của đời sống tập thể. Chữ sangha mà ta phiên âm là tăng già chỉ có nghĩa là đoàn thể, hoặc cộng đồng, chứ không phải là tiếng để chỉ riêng những người xuất gia. Ta có danh từ chúng và danh từ đại chúng là những từ ngữ tương đương với sangha. Tiếng Pháp là communauté. Ngày xưa đoàn thể của những vị xuất gia lấy lục hòa làm căn bản: cư trú chung (thân hòa đồng trú), sử dụng chung những tài vật hiện có (lợi hòa đồng quân), cùng hành trì chung một giới luật (giới hòa đồng tu), cùng chia sẻ với nhau những kiến thức về Phật pháp và kinh nghiệm tu tập (kiến hòa đồng giải), cùng dung hợp những ý kiến khác biệt nhau để sự sống chung được vui vẻ (ý hòa đồng duyệt) và nói năng ôn hòa để tránh việc cãi cọ (khẩu hòa vô tránh). Sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp này đã có từ ngày Bụt còn tại thế, và cho đến nay vẫn còn giữ được tính cách hợp thời của chúng. Giới thứ tám tuy nói về ngữ nghiệp, tức là nguyên tắc khẩu hòa vô tránh, nhưng kỳ thực có liên hệ mật thiết tới năm nguyên tắc sống chung khác trong lục hòa. Nếu thực hiện được năm nguyên tắc, thì sự thực hiện nguyên Giới Tiếp Hiện Chú Giải
59
tắc "khẩu hòa vô tránh" sẽ trở thành dễ dàng gấp bội. Khi mọi người biết dung hòa ý kiến, biết cùng tuân theo những quy giới và luật lệ, cùng hưởng thụ đồng đều những điều kiện vật chất ; nói tóm lại, khi không có sự xung đột về ý kiến, địa vị và quyền lợi thì những lời nói năng có thể gây nứt rạn và tan vỡ đoàn thể sẽ ít xảy ra. Ái ngữ, lời nói ôn hòa, phát xuất từ sự hiểu biết và nhẫn nại. Thực tập giới thứ sáu, ta đã thấy sự trách cứ không đưa lại kết quả nào mà còn gây thêm hố chia cách. Ở giới thứ tám, ta thấy chỉ có lời nói ôn hòa và thái độ lân mẫn phát xuất từ sự hiểu biết mới có thể đóng góp vào công cuộc hòa giải để giải quyết những vụ bất hòa. Hòa giải là một nghệ thuật lớn mà căn bản là khả năng hiểu biết của ta về cả hai phía chống đối. Thiên hẳn về một phía thì không thể gọi là hòa giải. Thường thường trong lẽ phải có cả người lẫn ta, như thi sĩ Nguyễn Du đã nói ("Mà trong lẽ phải có người có ta" - Truyện Kiều). Không những cả hai bên chống đối đều chịu một phần trách nhiệm, mà chính ta, những kẻ đứng bên ngoài cũng phải chịu trách nhiệm một phần nào về những gì đang xảy ra. Nếu chúng ta sống ý thức, thực tập chánh niệm, thì chắc đã thấy được vấn đề từ lúc manh nha rồi. Nếu ta biết giải quyết vấn đề khi nó còn chưa trở nên trầm trọng thì công tác hòa giải sẽ dễ dàng hơn nhiều. Người đứng ra hòa Giới Tiếp Hiện Chú Giải
60
giải không phải là một người xét xử, một vị quan tòa, mà trái lại là một người trong cuộc, biết nhận phần trách nhiệm của mình. Phần trách nhiệm ấy là đã thiếu ý thức chánh niệm trong quá khứ. Người ấy phải biết vượt lên trên sự tranh chấp, và trong những cuộc tiếp xúc riêng với mỗi phía, phải tìm cách cho biết nỗi khổ của phía bên kia. Giải pháp được đề nghị ra phải được hình thành bởi chất liệu lý tưởng mà cả hai phía đều cùng chấp nhận: mục đích của chúng ta không phải là đạt tới danh lợi mà là để xây dựng sự nghiệp trí tuệ và từ bi. Người đứng ra hòa giải, do đó, ngoài khả năng sử dụng ngôn ngữ hòa ái, còn phải là một người biểu trưng được cho tinh thần cởi mở, hiểu biết và từ bi. Trong trường hợp chính mình là một trong hai phía tranh chấp, con người hòa giải là phần tỉnh thức và hiểu biết của chính bản thân mình. Công tác hòa giải này có phần khó khăn hơn, nhưng cũng đẹp đẽ hơn gấp bội. Ý thức về nhu cầu và trách nhiệm trong công việc hòa giải đem đến cho chúng ta năng lượng để hành động và sự thành công ở đây chính là sự thành công của từ bi và trí tuệ; từ bi và trí tuệ không những đối với kẻ kia mà còn là đối với chính mình. Mỗi đoàn thể là một hòa hợp tăng. Đoàn thể là gia tộc thì đó là gia tộc tăng, là học đường thì đó là học đường tăng, là quốc dân thì đó là một quốc dân tăng, một thiền viện thì đó là một thiền môn tăng, một hiệp Giới Tiếp Hiện Chú Giải
61
hội thì là một hội đoàn tăng. Hòa hợp là bí quyết của thành công. Trong thiền môn, mỗi khi bắt đầu một cuộc hội họp, vị chủ tọa luôn luôn bắt đầu bằng hai câu hỏi: - Đại chúng đã tập hợp đủ chưa? Trả lời: "Đại chúng đã tập hợp đầy đủ". - Có sự hòa hợp không? Trả lời: "Có sự hòa hợp". Hai câu hỏi ấy được trả lời thỏa đáng, buổi họp mới được bắt đầu. Nếu câu trả lời là "không" thì buổi họp sẽ không được tiến hành. Phải hòa giải cho xong trước khi triệu tập một buổi họp mới. Đó là nghi thức Tác Pháp Yết Ma có từ thời Bụt còn tại thế và cộng đồng của các vị xuất gia đã tiếp tục hành trì như vậy trong 25 thế kỷ qua.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
62
Giới thứ chín: Ngôn ngữ chân thật và từ ái Ý thức được rằng lời nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện thực tập sử dụng lời nói chân thật, từ ái và có tính xây dựng. Con chỉ sử dụng những lời nói nào có thể mang lại niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có tác dụng hòa giải và mang lại an lạc cho tự thân con cũng như giữa mọi người với nhau. Con nguyện thực tập ái ngữ và lắng nghe để giúp con và những người khác chuyển hóa khổ đau và tìm ra con đường vượt thoát tình trạng khó khăn đó. Con nguyện không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con xin nguyện bảo vệ hạnh phúc và sự hòa hợp của tăng thân bằng cách tránh nói lỗi của người khác khi họ vắng mặt và luôn đặt câu hỏi về tính chính xác của những tri giác mà con đang có. Con nguyện chỉ nói với mục đích muốn hiểu rõ và giúp chuyển hóa tình trạng. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những gì con không biết rõ. Con nguyện can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể gây khó khăn cho con hay mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
63
Đây là giới thứ hai về ngữ nghiệp. Giới tướng rất rõ ràng, không có gì là khó hiểu. Lời nói có thể xây dựng một thế giới tin yêu và hạnh phúc mà cũng có thể tạo thành địa ngục trần gian. Ta phải hết sức cẩn thận khi nói năng. Nếu ta có thói quen nói nhiều thì ta phải tập nói ít trở lại, và tập ý thức về những lời mình nói và hậu quả của chúng. Chúng ta nói chuyện thị phi nhiều quá, cho đến nỗi đến chùa hay đến nhà thờ rồi mà vẫn tiếp tục chuyện thị phi. Chúng ta đã từng sống trong địa ngục trần gian tạo ra vì lời nói thị phi. Chúng ta loan truyền những tin mà chính chúng ta không hề thấy và biết, chúng ta nói những lời gây chia rẻ và căm thù, hoặc phê bình, lên án. Trong những ngày quán niệm hay tĩnh tu, nếu ta không thực tập tịnh khẩu, thì cũng nên bớt sự nói năng lại còn một phần mười. Sự thực tập này có ích lợi vô cùng. Không những ta có thể chủ động được ngữ nghiệp của ta dễ dàng hơn mà còn có thêm cơ hội để nhìn lại ta, nhìn lại tâm ta, nhìn lại người khác và sự sống quanh ta. Trong lúc thực tập tịnh khẩu ta có dịp mỉm cười với cây cỏ, với hoa lá, với chim chóc và với người đồng loại. Nếu ta chưa từng tập tịnh khẩu thì ta chưa thấy được ảnh hưởng tốt đẹp lớn lao của sự im lặng.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
64
Ta hãy lấy sự im lặng, lấy nụ cười và lấy lời chánh ngữ để xây dựng an lạc trong ta và quanh ta. Chánh ngữ là lời nói tránh được các lỗi sau đây: - trái với sự thực (vọng ngôn) - đi quá sự thực, thêu dệt vẽ vời thêm (ỹ ngữ) - sử dụng hai lưỡi, với người này thì nói thế này, với người kia thì nói thế kia (lưỡng thiệt) - có tính cách thô bạo, nguyền rủa, chửi mắng (ác khẩu) Chánh ngữ một mặt tránh được những lỗi vừa kể trên, một mặt có tác dụng xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Giới thứ chín này đòi hỏi ta không những sự cương trực mà còn sự can đảm nữa. Trong chúng ta, mấy ai đã có đủ can đảm để nói ra sự thực về những tình trạng bất công, khi hành động này có thể làm cho mình bị chống đối và cũng có thể làm mất đi sự an thân của mình?
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
65
Giới thứ mười: Bảo vệ và nuôi dưỡng tăng thân Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện sẽ không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội vào mục tiêu lợi dưỡng hoặc quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng một đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về tình trạng áp bức, bất công xã hội, và tìm cách chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái. Con nguyện học nhìn với con mắt tương tức để thấy con và những người khác đều là những tế bào của cùng một tăng thân. Một khi đã là một tế bào thật sự của tăng thân, có khả năng chế tác ra Niệm, Định và Tuệ để nuôi dưỡng chính mình và nuôi dưỡng toàn thể tăng thân thì mỗi người trong chúng con cũng đồng thời là một tế bào của Phật thân. Chúng con nguyện tích cực xây dựng tình huynh đệ, đi với nhau như một dòng sông và thực tập để làm lớn thêm ba đức là trí đức, ân đức và đoạn đức, để thực hiện được sự nghiệp giác ngộ tập thể. Các nhà chính trị thường có khuynh hướng muốn lợi dụng những đoàn thể tôn giáo để có thêm sức mạnh. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
66
Mục đích của những tổ chức chính trị là nắm chính quyền để thực hiện chương trình trị quốc của mình. Mục đích của các giáo đoàn tôn giáo là để hướng dẫn quốc dân về đường tinh thần đạo đức. Vì vậy, biến các giáo đoàn thành những đảng hoạt động chính trị là làm cho các giáo đoàn ấy đánh mất sứ mạng thực sự của mình. Những người lãnh đạo tôn giáo có khuynh hướng ủng hộ một thế lực chính trị để mưu cầu quyền lợi của tôn giáo mình, đó là việc đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử. Để chính quyền liên tục ủng hộ giáo đoàn, những vị lãnh đạo tôn giáo đã không dám nói lên tiếng nói của lương tri tôn giáo về những sai lầm của chính quyền. Để cho chính quyền lợi dụng đoàn thể tôn giáo mình trong việc củng cố quyền bính, đó cũng là đánh mất sứ mạng lãnh đạo tinh thần của tôn giáo mình. Tuy nhiên, giáo đoàn của mình không thể làm lơ trước những tình trạng áp bức và bất công xã hội. Giáo đoàn mình phải có can đảm nói ra sự thật về tình trạng đó. Tiếng nói phải rõ rệt, phải khúc chiết, trong tinh thần tứ diệu đế. Phải trình bày mặt thật của tình trạng (khổ đế), nguyên do của tình trạng (tập đế) và đề nghị những phương pháp có thể chuyển đổi tình trạng (đạo đế). Tuy không phải là một thế lực chính trị, nhưng giáo đoàn có thể sử dụng ảnh hưởng mình để chuyển đổi tình trạng. Nói lên là công việc đầu tiên. Ủng hộ những biện pháp cải tiến là công việc tiếp nối. Điều cần yếu nhất là giáo đoàn không Giới Tiếp Hiện Chú Giải
67
đi theo phe phái và phải đứng lên trên mọi tranh chấp phe phái. Có như thế tiếng nói của trí tuệ và tình thương mới được phân biệt với tiếng nói của tham vọng và quyền lợi.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
68
Giới thứ mười một: Chánh mạng Ý thức rằng thiên nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bất công và bạo động, con nguyện không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên nhiên. Con sẽ làm mọi cách có thể để chọn những phương tiện sống nào có khả năng góp phần vào sự an lành của mọi loài trên trái đất và có khả năng cho phép con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt. Ý thức được về hiện thực của thế giới trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như mối tương quan giữa con người với môi trường sinh thái, con nguyện hành xử một cách có trách nhiệm với tư cách một người tiêu thụ và một công dân. Con nguyện không đầu tư vào hay mua sắm những sản phẩm của những doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm người khác. Chánh mạng là một trong tám ngành thực tập của bát chánh đạo. Chánh mạng có nghĩa là theo đuổi một nghề nghiệp an lành, chân chính, không phương hại đến con người và thiên nhiên, về phương diện vật chất cũng như tinh thần. Trái với chánh mạng tức là tà.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
69
Hành nghề với chánh niệm giúp ta quán chiếu những liên hệ nhân duyên xa gần đối với nghề nghiệp mình, thấy được bản chất của nó và biết rõ được đó là chánh mạng hay tà mạng. Sống trong một giai đoạn mà nạn thất nghiệp lan tràn, sự chọn lựa nghề nghiệp trở nên khó khăn. Nếu rủi ro mà nghề nghiệp ta đang theo đuổi không có mức độ chánh mạng cần thiết thì ta phải lập tâm tìm một nghề khác, đừng để cho thói quen dìm ta vào quên lãng. Nghề nghiệp ta có thể nuôi dưỡng sự hiểu biết và lòng từ bi của ta, vì vậy phương tiện sinh sống có liên hệ mật thiết tới sự hành đạo. Các ngành kỹ nghệ hiện nay, kể cả kỹ nghệ biến chế thực phẩm và cung cấp chất hóa học cho nông dân, ít nhiều có tác hại đến con người và thiên nhiên. Nghề nông trong thời đại này chưa hẳn đã là một chánh mạng, bởi vì những chất hóa học được sử dụng trong nông nghiệp hiện đại tàn hại thiên nhiên và con người không ít. Một người nông dân không dùng thuốc trừ sâu bọ thì sẽ không theo kịp đồng nghiệp trong sự sản xuất, vì vậy theo chánh mạng không phải là chuyện dễ; và chánh mạng không hoàn toàn còn là một vấn đề chọn lựa cá nhân (biệt nghiệp), mà đã mang tính chất cộng nghiệp mạng. Ta hãy quán sát thêm về hướng này. Giả dụ ta là một giáo chức. Ta nghĩ rằng khai mở trí tuệ và tình thương của thiếu nhi là một nghề nghiệp rất đẹp, và Giới Tiếp Hiện Chú Giải
70
ta yên trí rằng nghề nghiệp ta là chánh mạng. Nếu ai bắt ta đổi nghề, thay vì làm thầy giáo ta phải làm nghề đồ tể, thì ta sẽ dẫy nẩy lên, cho rằng nghề này là một tà mạng mà ta ghê tởm. Tuy nhiên, quán chiếu cho rõ ta biết người đồ tể kia giết thú vật là vì ta, vì chúng ta, những người thường đi mua những miếng thịt gói trong các bao giấy rất sạch sẽ ở ngoài siêu thị. Trong vô minh, ta tách rời ta ra khỏi trách vụ và nghề nghiệp của người đồ tể; ta quy trách nhiệm sát sinh cho ông ta, và ta nghĩ rằng chính ông ta đang theo đuổi một tà mạng trong khi nghề nghiệp ta hoàn toàn là một chánh mạng. Chúng ta biết rằng nếu chúng ta không tiêu thụ thì người đồ tể kia sẻ không sát sinh, và nếu ta tiêu thụ ít thì giới đồ tể kia sẽ sát sinh ít. Cộng nghiệp là như thế. Chánh mạng của mỗi cá nhân có liên hệ và ảnh hưởng tới mọi người khác. Con cái của người đồ tể cũng có thể hấp thụ được ảnh hưởng tốt của chánh mạng gõ đầu trẻ của ta; và tà mạng sát sinh của người đồ tể được nuôi dưỡng hoặc tăng tiến theo nhịp điệu tiêu thụ những miếng thịt của chúng ta. Hiện có tới hàng triệu người đang sinh sống trong kỹ nghệ sản xuất vũ khí chiến tranh, gọi là vũ khí của "chiến tranh ước lệ", đừng nói tới vũ khí hạch tâm. Những vũ khí này được bán ra cho các nước Á Phi và Trung-Đông, phần lớn là các nước kém phát triển về kinh tế. Dân các nước này cần cơm gạo chứ không cần súng đạn, bom mìn, xe tăng và máy bay chiến Giới Tiếp Hiện Chú Giải
71
đấu để đánh giết nhau. Hoa Kỳ, Nga, Anh và Pháp là những nước dẫn đầu trong kỹ nghệ vũ khí. Đó là những nước "phát triển". Sản xuất vũ khí để thiên hạ giết nhau cố nhiên là tà mạng, nhưng không phải chỉ có những người đang hành nghề chịu trách nhiệm. Mọi người trong chúng ta, trong đó kể cả giới lãnh đạo chính quyền, giới lãnh đạo kinh tế, giới tiêu thụ, v.v... đều có phần trách nhiệm, không nhiều thì ít, trong những chết chóc tàn phá do vũ khí gây ra. Chúng ta đã không thấy rõ, không tìm cách nói lên, không tạo được dư luận trong dân chúng về vấn đề lương tâm to lớn này. Nếu những khối óc lớn của nhân loại họp lại cùng nhau, họ sẽ tìm ra được những công ăn việc làm thay thế cho các nghề nghiệp không phù hợp với chánh mạng đó. Nếu ta có được một nghề mà ta yêu mến, một nghề có thể giúp ta hàng ngày thực hiện lý tưởng từ bi cứu khổ của đạo Bụt, thì đó là ta có may mắn lớn. Trên nền tảng đó, ta phải quán chiếu về cộng nghiệp để thấy rằng ta vẫn còn chịu trách nhiệm không nhỏ đối với những tà mệnh xa gần. Ta phải góp sức hành động trên nguyên tắc tự giác giác tha, giúp mình và giúp người khác giác ngộ. Đó là ý nghĩa của đạo Bụt đại thừa. Biệt nghiệp không thể tách rời ra khỏi cộng nghiệp. Có may mắn ở biệt nghiệp, ta hãy đem tâm lực lo cho cộng nghiệp. Đó là thực hiện lời đầu của bốn lời nguyện ước.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
72
Giới thứ mười hai: Tôn trọng sự sống Ý thức được những khổ đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống hàng ngày của con theo tinh thần bất hại, thương yêu và theo tuệ giác tương tức. Con nguyện góp phần vào công việc giáo dục hòa bình, làm môi giới trong chánh niệm và thực tập hòa giải trong phạm vi gia đình, cộng đồng, giữa những nhóm dân tộc và tôn giáo, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự chém giết. Con nguyện sẽ không yểm trợ bất cứ một hành vi giết chóc nào trên thế giới, trong tư tưởng hoặc trong cách sống hàng ngày của con. Con cũng sẽ thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chặn chiến tranh và xây dựng hòa bình. Sát nhân là một tội ác mà tất cả mọi đạo luật của tất cả mọi quốc gia cấm đoán. Giới bất sát của đạo Bụt bao trùm cả mọi loài chúng sanh trong đó có con người. Không ai có thể hành trì giới bất sát một cách tuyệt đối: uống một cốc nước hay bước một bước chân đều có thể làm tổn hại đến các sinh mạng nhỏ bé. Tuy nhiên, thể tính của giới này là ý nguyện tôn trọng và bảo vệ sự sống, và sự hành trì của giới này Giới Tiếp Hiện Chú Giải
73
là đem hết cả khả năng mình để bảo vệ sự sống tới mức tối đa mà mình có thể làm được. Giới này có liên hệ mật thiết tới nguyên tắc chánh mạng của giới thứ mười một. Sinh kế của ta và sự tiêu thụ hàng ngày của ta có liên hệ tới sinh mạng của những con người và những sinh vật khác. Nguyên do của chiến tranh có thể là cuồng tín và cố chấp vào một chủ nghĩa; nguyên do của chiến tranh có thể là sự nghèo đói và bất công; nguyên do của chiến tranh có thể là sự tranh giành ảnh hưởng chính trị và quyền lợi kinh tế; nguyên do của chiến tranh có thể là sự khai thác bóc lột của những xã hội tiêu thụ dư dã đối với những xã hội yếu kém về kỹ thuật và tổ chức. Thường thường chúng ta chỉ biết chống đối chiến tranh mà ít biết ngăn chận chiến tranh. Ngăn chận chiến tranh tức là xây dựng hòa bình: đó là tìm cách công phá trong đời sống hàng ngày những cố chấp và cuồng tín, những tham vọng chính trị và kinh tế, những chủ tâm khai thác và bóc lột. Nếu những vấn đề lớn như thế mà không được quốc dân làm áp lực, đưa ra thảo luận và biểu quyết trong các quốc hội thì làm sao ta có thể ngăn chận được chiến tranh? Nhận thức và sự hành trì về giới bất sát trong đời sống hàng ngày của từng cá nhân là khởi điểm để tạo ra được dư luận của quốc dân về vấn đề chiến tranh và hòa bình. Nếp sống quên lãng và sự im lặng của ta với các vấn đề liên hệ tới hòa bình đã khiến cho ta trở Giới Tiếp Hiện Chú Giải
74
nên đồng lõa không nhiều thì ít với cơ cấu của chiến tranh. Ta biết rằng số lượng ngũ cốc mà các nước Tây phương sử dụng để làm ra miếng thịt và ly rượu là những số lượng khổng lồ. Giáo sư François Perroux, Giám Đốc Viện Toán Học và Kinh Tế Học tại Pháp có cho biết rằng các nước Tây phương chỉ cần giảm bớt 50% sự tiêu thụ rượu và thịt thì đã có thể thay đổi cục diện của thế giới: ngũ cốc đó sẽ được sử dụng để giải quyết nạn đói và nạn thiếu dinh dưỡng tại các nước chậm tiến ở Á Phi và châu Mỹ La-Tinh. Tai nạn xe cộ và những bệnh thuộc tim và mạch máu ở Tây phương cũng sẽ vì vậy mà giảm bớt. Đó là một trong những cách thực hành trì giới bất sát của thời đại chúng ta. Ngân sách quốc phòng của các nước Tây phương là những ngân sách khổng lồ, dư dã để giúp các nước chậm tiến đối phó với đói kém, bệnh tật và nạn thất học. Những bản thống kê còn đó, ai cũng có thể tìm đọc. Trong đời sống bận rộn hàng ngày, chúng ta có đủ thì giờ và tâm lực để quán chiếu sâu sắc về giới bất sát hay không? Mấy ai trong chúng ta có thể nói rằng mình đang hành trì giới bất sát với tất cả khả năng mình?
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
75
Giới thứ mười ba: Tôn trọng quyền tư hữu Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin nguyện nuôi dưỡng lòng từ bi trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động của con. Con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại. Giới mười ba lưu ý ta tới những bất công xã hội và khuyến khích ta hành động trong phương hướng xây dựng một xã hội công bình hơn. Giới này cũng có liên hệ mật thiết với giới thứ tư (ý thức về khổ đế), giới thứ năm (tri túc), giới thứ mười một (chánh mạng) và giới thứ mười hai (bất sát). Để hiểu được chiều sâu của giới thể, ta phải chiêm nghiệm lại về nội dung của bốn giới này.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
76
Tìm ra những phương pháp ngăn ngừa những kẻ tích trữ và làm giàu bất lương, đó là phận sự của những nhà luật pháp, những nhà chính trị và những nhà làm cách mạng xã hội! Tuy nhiên mỗi người trong chúng ta đều có thể quán chiếu và hành động để góp một phần trong chiều hướng xây dựng này. Gần gũi những kẻ bị áp bức và thua thiệt để giúp họ tổ chức lại những phương tiện sinh sống và những biện pháp tự vệ đối với kẻ bóc lột và áp bức. Việc đó tất cả chúng ta ai cũng có thể thực hiện được không nhiều thì ít. Giả dụ như chúng ta muốn giúp những người đang sống đau khổ dưới một chế độ độc tài; chúng ta biết rằng đưa quân đội tới để lật đổ chính quyền sẽ gây ra chết chóc cho những người vô tội. Nhờ quán chiếu sâu sắc và với tâm từ, chúng ta nhận ra được rằng thời gian tốt nhất để ta có thể giúp những người đau khổ này là giai đoạn trước khi dân tộc họ bị rơi vào bàn tay của kẻ độc tài: giúp cho giới trẻ của quốc gia đó có cơ hội học hỏi về cách thức điều hành chính phủ theo đường lối dân chủ là một đầu tư tốt đẹp nhất cho hòa bình trong tương lai. Còn nếu như chúng ta đợi đến khi tình thế trở nên cùng cực, có thể là đã muộn. Thực tập cùng với chính trị gia, binh sĩ, thương gia, nghệ sĩ, nhà giáo dục, luật sư và người làm ra luật pháp, chúng ta có thể tìm thấy đường hướng tốt đẹp nhất để thể hiện lòng từ bi và hiểu biết. Có tâm quảng đại chưa đủ, chúng ta cần thực tập sống theo chí nguyện lợi tha và điều này cần có thời Giới Tiếp Hiện Chú Giải
77
gian. Chúng ta muốn giúp người khác được an lạc nhưng chúng ta bị kẹt vào những vấn đề của đời sống hàng ngày của chúng ta. Đôi khi một viên thuốc, một ít thực phẩm có thể cứu được mạng sống của một người bệnh hay một đứa trẻ ở xứ nghèo đói. Nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta không có thì giờ để giúp họ. Một bữa ăn trưa và tối cho một đứa trẻ ở các xứ nghèo chỉ tốn 20 xu, có biết bao nhiêu điều giản dị như thế mà chúng ta có thể làm để giúp người khác, nhưng sở dĩ chúng ta không làm gì hết đó cũng chỉ vì chúng ta không tự giải thoát được mình ra khỏi nếp sống quá bận rộn. Đại nguyện của bồ tát rộng như biển cả, ai trong chúng ta cũng có thể phát nguyện ngồi vào chiếc thuyền cứu độ.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
78
Giới thứ mười bốn: Tình thương đích thật (Dành cho Tiếp Hiện Tại Gia) Ý thức được rằng tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng sự phối hợp giữa hai cơ thể do thúc đẩy của tình dục không những đã không thể giải tỏa được nỗi cô đơn mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay và xa cách, con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai không phải là vợ hay chồng của con. Ý thức được rằng thân và tâm là một, con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con và nuôi lớn các tâm Từ, Bi, Hỷ và Xả giúp làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con ý thức được rằng hành động tà dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính con trong hiện tại và trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con sẽ đối xử với thân thể con một cách kính trọng và từ bi. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để thực hiện lý tưởng độ đời. Con cũng ý Giới Tiếp Hiện Chú Giải
79
thức trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng này. (Tiếp Hiện xuất gia) Ý thức được rằng lý tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau không thể nào được giải tỏa bằng dục tình mà chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập Từ, Bi, Hỷ và Xả. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con. Con nguyện không ép uổng thân thể con, không đối xử với thân thể con một cách bạo động và khinh xuất, không xem thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
80
Trong xã hội đã có nhiều cặp vợ chồng, con cái và gia đình đau khổ vì những hành động tà dâm. Thực tập giới thứ mười bốn giúp cho ta tránh được đau khổ, tránh được sự gây ra thương tích; gia đình, xã hội và cộng đồng nhờ vậy cũng được vững chãi. Thực tập giới này sẽ chữa lành được những vết thương trong ta và ngoài xã hội. Đó cũng gọi là sống có chánh niệm. Đạo Bụt thấy con người là một hợp thể ngũ uẩn, tức là một tập hợp của sinh lý (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm tư (hành) và nhận thức (thức). Sự phân biệt ra năm uẩn chỉ là một phương tiện chỉ bày; sự thật là năm uẩn nương tựa vào nhau mà có mặt và hiện hành, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Vì vậy ta không thể chia con người ra hai phần: phần vật chất và phần tâm hồn. Thiền học có quan niệm thân tâm nhất như, nghĩa là thân và tâm là một. Sự thanh tịnh của thân cũng là sự thanh tịnh của tâm. Sự kết hợp của hai cơ thể chỉ có giá trị thật khi có mặt của yếu tố hiểu biết và cảm thông giữa hai tâm hồn. Nó chỉ nên xảy ra khi có tình thương chân thật và niềm bảo trọng và tương kính. Trong truyền thống Việt Nam, vợ chồng được dạy trong đời sống hàng ngày nên đối xử với nhau như thể đối với khách đến nhà. Thực tập được như vậy hạnh phúc của ta sẽ lâu dài.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
81
Tình thương chân thật thường đi đôi với ý thức trách nhiệm và khả năng chấp nhận người kia với tất cả cái hay cũng như chỗ yếu kém của người đó. Sự cam kết sống lâu dài với nhau giữa hai người chỉ là một sự bắt đầu. Ví như thân cây muốn được vững mạnh thì cần có nhiều rễ đâm sâu vào lòng đất, nếu như cây chỉ có một rễ duy nhất thì có thể bị ngã vì gió. Cuộc sống của một đôi vợ chồng cần có sự nâng đỡ của gia đình, bạn bè, lý tưởng phụng sự, sự tu tập và tăng thân. Sự thực tập giới này phải được hiểu trong bối cảnh của cộng đồng. Trách nhiệm là điều thiết yếu, nhưng chúng ta cần có chánh niệm để thấy được trách nhiệm về các hành động của mình. Trong một cộng đồng tu tập, nếu mọi người thực tập chánh niệm và trì giới thì cộng đồng đó sẽ có an lạc và vững chãi. Chúng ta học tôn trọng, nâng đỡ và bảo vệ lẫn nhau như là anh em một nhà. Thực tập được như vậy thì tăng thân sẽ rất đẹp. Còn như thiếu trách nhiệm, chúng ta sẽ có thể làm tan vỡ tất cả. Chúng ta cũng nên thường thảo luận với nhau về những vấn đề có liên hệ đến sự thực tập giới này. Ví dụ như sự cô đơn trong tâm hồn. Cảm giác cô đơn là một hiện tượng phổ thông trong xã hội hiện đại. Nghĩ rằng sự tìm tới của hai cơ thể giúp ta hết cô đơn là một sự tin tưởng giả tạo, thật ra nó có thể khiến cho ta cảm thấy cô đơn hơn sau đó. Cô đơn có mặt khi sự Giới Tiếp Hiện Chú Giải
82
cảm thông giữa ta và người khác vắng mặt. Thiếu sự hợp nhất giữa hai tâm hồn, sự tìm tới của hai cơ thể chỉ làm cho hố ngăn cách sâu thêm, tiêu hủy chúng ta và gây đau khổ cho cả hai bên. Chúng ta cũng nên thực tập nhìn sâu vào bản chất của tình yêu đích thực mà không bị cuốn theo những cảm giác nhất thời. Có lúc chúng ta nghĩ rằng ta thương yêu người đó, nhưng có thể đó chỉ là nhu yếu để thỏa mãn cái ngã mà thôi, và chưa lần nào ta quán chiếu sâu sắc để thấy được niềm hy vọng và ước muốn đích thực của người kia. Có chánh niệm, chúng ta ý thức được tính cách thương mại và giả tạo của những quảng cáo thời đại. Kỹ nghệ mãi dâm lan tràn trong xã hội. Chúng ta hãy tập nhìn mình và người như là một con người thực sự, có khả năng trở thành một vị Bụt tương lai. Sau những năm tu khổ hạnh trong rừng, Bụt Thích Ca đã thấy được rằng đày đọa thân thể là một lỗi lầm và ngài đã từ bỏ con đường khổ hạnh. Ngài thấy rằng đam mê dục lạc và đày đọa thân thể là hai thái cực cần phải tránh, bởi vì cả hai lối sống đều đưa đến sự tàn hại của cơ thể và sự sa sút của tâm linh. Sau đó ngài đã dạy con đường trung đạo. Giới thứ mười bốn phản chiếu không những tinh thần đạo học Phật giáo mà cả tinh thần đạo học và y học Giới Tiếp Hiện Chú Giải
83
Đông phương. Các truyền thống đạo học và y học Đông phương đều dạy ta bảo trọng thân thể và bảo tồn ba nguồn năng lượng căn bản của cơ thể là tinh, khí và thần. Tinh là năng lượng mà ta tiêu phí khi ta có giao hợp sinh lý. Khí là năng lượng ta tiêu phí khi ta nói nhiều mà thở ít. Thần là năng lượng ta tiêu phí khi ta lo lắng ưu tư quá độ. Theo y học và đạo học Đông phương, ba nguồn năng lượng này nếu bị tiêu xài phung phí thì thân thể sẽ bạc nhược, bệnh tật sẽ sinh khởi và con người không còn khả năng để hành đạo. Đạo giáo gọi ba nguồn năng lực này là tam nguyên, và người tu đạo cần "bế tinh, dưỡng khí, tồn thần". Chính võ học Đông phương cũng dạy giữ gìn tam nguyên. Những ai có chút kiến thức về đạo học và y học Đông phương đều có thể thấy được điều này. Người tu thiền nhắm tới sự đạt đạo cũng cần phải giữ gìn tam nguyên. Trong lúc thiền tọa, hành giả thực tập sổ tức (đếm hơi thở) và tùy tức (theo dõi hơi thở), không những không làm hao tổn khí mà còn hấp thụ thêm khí lực. Thực tập thiền định không những không làm tổn thần mà còn có tác dụng dưỡng thần. Chúng ta có thể học cách chuyển hóa năng lượng của sinh lý vào các công trình nghệ thuật và thiền tập. Hình ảnh của người xuất gia trong thời Bụt tại thế là hình ảnh một người lặng lẽ, ít nói, thực tập thiền tọa và thiền hành cả ban ngày lẫn ban đêm, chỉ tiếp xúc Giới Tiếp Hiện Chú Giải
84
với người dân xóm làng mỗi ngày một lần vào buổi sáng khi đi khất thực. Hoàn cảnh này rất thuận lợi cho sự dưỡng khí và dưỡng thần. Còn về phương diện dưỡng tinh thì người xuất gia đã có giới bất dâm trong khi người tại gia có giới bất tà dâm. Lý do đầu để người xuất gia trì giới không dâm dục hẳn là để bảo tồn tinh lực của cơ thể: đây là điểm đồng giữa đạo Bụt với các truyền thống đạo học và y học Đông phương khác. Trong những giai đoạn tranh đấu bất bạo động căng thẳng nhất, thánh Gandhi cũng tự mình thực hiện việc bảo trì tinh lực và khuyên các anh em đồng chí giữ gìn tinh lực để có đủ sức mạnh tinh thần mà đối phó với những tình trạng cấp bách và khó khăn. Chúng ta vừa sử dụng từ ngữ tinh thần, vốn phát xuất từ các tiếng tinh, khí và thần. Thể chất và tinh thần liên hệ với nhau mật thiết cho đến nỗi ta đã gọi cái này bằng tên cái kia. Những ai đã từng tuyệt thực trong các cuộc tranh đấu bất bạo động đều biết rằng nếu không bảo tồn tinh, khí và thần thì cuộc tuyệt thực sẽ không kéo dài được như mình mong muốn. Tuyệt thực mà có giao hoạt sinh lý thì người tuyệt thực sẽ chết sớm. Năm 1966, thầy Trí Quang tuyệt thực tới một trăm ngày đúng, bởi vì ông đã biết giữ gìn ba nguồn năng lượng của ông. Lý do thứ hai để người xuất gia trì giới không dâm dục là chính cuộc đời xuất gia của người ấy. Xuất gia là để "phát túc siêu phương", bước chân vượt xa ba cõi; nếu còn phải lo chăm sóc cho một gia đình thì Giới Tiếp Hiện Chú Giải
85
thời giờ và tâm lực không còn lại bao nhiêu để thực hiện chí nguyện đạt đạo và độ sinh. Nguyên tắc thì như thế, nhưng trong thực tế có nhiều vị xuất gia, nam cũng như nữ, lại bận rộn không kém gì người cư sĩ. Họ phải lo những công việc xây cất, quản lý, chăm sóc, an ủi, hộ niệm; bận rộn còn hơn một người y sĩ. Chính thiền sư Đại Sán cũng đã từng than phiền với một thi sĩ quen biết là ông bận rộn quá với công việc ở chùa Trường Thọ, khiến cho thi sĩ này đã nói đùa với ông một câu: "Nếu bận rộn quá thì sao hòa thượng không xuất gia đi". Trì giới mà không thấy được bản chất của giới thì không khác gì không trì giới vậy. Lý do thứ ba để người xuất gia không dâm dục là để "cắt đứt dòng sinh tử luân hồi". Luân hồi trước hết là luân hồi thành con cháu và trong con cháu. Vào thời đại của Bụt, nghèo khổ và bệnh tật còn là những gánh nặng khủng khiếp cho đa số trong xã hội, khủng khiếp hơn trong thời đại chúng ta nhiều. Sự thực này được phản chiếu trong nhận thức đời là khổ. Ta hãy nghĩ đến một gia đình đông con, nheo nhóc ốm đau, không có thực phẩm cũng không có thuốc men, không có phương tiện ngừa thai, và mỗi năm lại một đứa bé ra đời. Những cảnh tượng như thế hiện giờ vẫn còn in bóng ở các xóm ngoại ô ở Calcutta, Ấn Độ. Sinh con ra như thế thì mình khổ mà con cũng khổ. Luân hồi phải được hiểu trên bối cảnh đó. Sinh ra một đứa con, đối với người đã nghèo đói, là một Giới Tiếp Hiện Chú Giải
86
tai họa chứ không phải là một niềm vui. Sinh con là nối tiếp vòng đói khổ bệnh tật; sinh con là tiếp tục cuộc luân hồi. Giới bất dâm cũng nhắm đến sự ngăn ngừa sinh đẻ, giống như những phương pháp ngăn ngừa thai nghén trong thời đại chúng ta. Giới bất dâm có ảnh hưởng tới vấn đề dân số. Sự có mặt của người xuất gia trong các nước Phật giáo như Tích Lan, Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Tây Tạng, Lào, Kăm Pu Chia, Cao Ly, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam v.v... trong hơn hai mươi thế kỷ đã góp phần rất lớn trong việc giảm bớt dân số tại các nước này. Nhờ vậy có thể đã có hàng trăm triệu nhân số được giảm đi. Ngày nay nạn nhân mãn là một đe dọa lớn cho nhân loại: đói kém sẽ đưa tới chiến tranh, mà chiến tranh lần này sẽ vô cùng thảm khốc. Những quốc gia nào không kiểm soát được dân số cũng sẽ không thể đi tới được trên đà phát triển. Tình trạng thế giới hiện nay cực kỳ nguy hiểm: nếu nhân loại không chận đứng được cuộc thi đua sản xuất vũ khí hạch tâm và thành công trong việc tài giảm vũ khí thì trái đất và mọi loài sẽ không thể nào tránh được sự tàn hoại thảm thương. Làm cha mẹ phải có ý thức rằng mình đang gửi con cháu mình về một tương lai thiếu sáng sủa và phải biết làm gì và sống như thế nào cho con cháu mình có một tương lai. Phải ý thức về trách nhiệm mình về việc cho ra đời những sinh mạng mới. Không ai cấm ta sinh con đẻ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
87
cháu, nhưng ta phải quán niệm về môi trường sinh hoạt trong tương lai của con cháu mình. Tương lai của trái đất ta và của con cháu ta tùy thuộc vào cách sống của chúng ta ngày hôm nay. Nếu ta tiếp tục khai thác và hủy hoại môi trường thiên nhiên của sự sống, nếu ta tiếp tục để cho cuộc chạy đua vũ trang đi tới, nếu ta không tìm cách ngăn chận bớt sự gia tăng dân số thế giới, thì trái đất và loài người sẽ không có một tương lai. Cách sống của mỗi người do đó phải là một viên gạch xây dựng tương lai, xây dựng hòa bình. Giới tướng của giới thứ mười bốn này rất rộng rãi và sự hành trì của giới này có liên hệ tới tất cả các giới khác. Để hiểu và hành trì giới này một cách chín chắn, ta phải thấy được sự liên hệ của giới với công phu thiền quán, đạo lý Tứ Diệu Đế và quan niệm của đạo Bụt về sinh tử luân hồi. Từ lâu, đạo Bụt đã thiết chế giới Sa Di và giới Cụ Túc cho người xuất gia và giới Ưu Bà Tắc cho người tại gia. Đạo Bụt lại có thiết chế giới Bồ Tát cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Bản chất giới Tiếp Hiện gần với bản chất giới Bồ Tát và cách hành trì cũng giống với cách hành trì của giới Bồ Tát. Giáo chế Tiếp Hiện là một pháp môn khế cơ dành cho giới trẻ tuổi hiện tại. Tuy vậy, những vị xuất gia và tại gia nào nhận thấy giới Tiếp Hiện thích hợp với mình thì vẫn có thể phát nguyện thọ trì, không có gì trở ngại, trong khi vẫn hành trì những giới và luật xưa nay của mình.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
88
Giới Tiếp Hiện là trái tim của Bụt, là chánh niệm trong đời sống hàng ngày chứ không phải là sự giảng dạy về các ý niệm. Nếu thực tập giới sâu sắc, chúng ta nhận ra rằng mỗi giới Tiếp Hiện bao trùm tất cả các giới khác. Học hỏi và thực tập giới Tiếp Hiện giúp cho chúng ta nhận ra được bản chất tương tức của sự vật. Chúng ta không là một hiện hữu đơn độc, chúng ta chỉ có thể hiện hữu cùng với mọi người và mọi loài. Thực tập giới Tiếp Hiện là trở nên có ý thức về những gì đang xảy ra trong cơ thể, tâm hồn cũng như thế giới quanh ta. Tỉnh thức giúp chúng ta sống hạnh phúc, thực sự có mặt trong mỗi giây phút của đời sống, nghĩa là chúng ta thực sự sống và biết tìm kiếm những giải pháp thông minh cho những vấn đề mà chúng ta phải đối phó, cũng như xây dựng an lạc bằng muôn ngàn phương khác nhau. Thực tập năm giới quý báu một cách sâu sắc là chúng ta đã thực tập mười bốn giới. Nếu quý vị muốn được chính thức thọ giới Tiếp Hiện và đứng vào hàng ngũ của chúng chủ trì thì điều đó có nghĩa là quý vị đã muốn tham dự vào công việc hướng dẫn và xây dựng tăng thân. Chỉ khi nào quý vị cảm thấy rằng quý vị có đủ thì giờ, năng lượng và có tâm nguyện chăm sóc cho đại chúng thì quý vị mới nên xin thọ giới chính thức. Khi đó quý vị sẽ cùng làm việc với các Thầy, các Sư cô và các anh, chị Tiếp Hiện khác. Còn không Giới Tiếp Hiện Chú Giải
89
thì thọ trì năm giới cũng đã đầy đủ cho quý vị. Hơn nữa, quý vị cũng có thể thực tập mười bốn giới mà không cần phải chính thức thọ giới và trở nên một thành viên chúng chủ trì của dòng tu Tiếp Hiện. Có nhiều người thuộc các truyền thống tôn giáo khác đã có lòng yêu mến giới Tiếp Hiện. Quý vị đó cũng có thể sửa đổi vài danh từ trong giới bản cho thích hợp với tôn giáo của họ. Đã có các bạn trong các truyền thống Cơ Đốc và Do Thái đã thành lập những nhóm thực tập tụng đọc và hành trì giới Tiếp Hiện. Ai thực tập cũng được bảo hộ và nuôi dưỡng trong nếp sống tâm linh và xã hội của mình.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
90
Chương Ba: Nghi Thức Tụng Giới và Truyền Giới
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
91
1. Ba sự quay về và hai lời hứa dành cho thiếu nhi Nghi thức tụng giới cho thiếu nhi gồm có Ba Phép Quay Về Nương Tựa và Hai Lời Hứa, có thể cử hành trước nghi thức tụng Năm Giới. Thiếu nhì từ mười tuổi trở lên, nếu muốn, có thể ở lại để tham dự lễ tụng Năm Giới. 01. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn) 02. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn) 03. Dâng Hương Đại chúng đứng chấp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ: Hương đốt khói trầm xông ngát Kết thành một đóa tường vân Đệ tử đem lòng thành kính Giới Tiếp Hiện Chú Giải
92
Cúng dường chư Bụt mười phương Giới luật chuyên trì nghiêm mật Công phu thiền định tinh cần Tuệ giác hiện dần quả báu Dâng thành một nén tâm hương Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)
04. Tán Dương Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo: Xinh tốt như hoa sen Rạng ngời như Bắc Đẩu Xin quay về nương náu Bậc thầy của nhân, thiên. Sen quý nở đài giác ngộ Hào quang chiếu rạng mười phương Trí tuệ vượt tầm pháp giới Từ bi thấm nhuận non sông Vừa thấy dung nhan Điều ngự Trăm ngàn phiền não sạch không Hướng về tán đương công đức Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng. Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni. (C) Giới Tiếp Hiện Chú Giải
93
05. Lạy Bụt Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu: Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C) Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Manjusri (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Samantabhadra (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Avalokiteśvara (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Ksitigarbha (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Mahākassapa (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Sāriputta (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Maha Moggallāna (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Upāli (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo Ānanda (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Gotamī (C) Giới Tiếp Hiện Chú Giải
94
Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC) 06. Trì Tụng Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh: Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (ba lần) (C) Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm Cơ duyên may được thọ trì Xin nguyện đi vào biển tuệ Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C) Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C) Bồ Tát Quán Tự Tại Khi quán chiếu thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Tức diệu pháp Trí Độ Bỗng soi thấy năm uẩn Đều không có tự tánh. Thực chứng điều ấy xong Ngài vượt thoát tất cả Mọi khổ đau ách nạn. (C)
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
95
"Nghe đây, Xá Lợi Tử: Sắc chẳng khác gì không Không chẳng khác gì sắc Sắc chính thực là không Không chính thực là sắc Còn lại bốn uẩn kia Cũng đều như vậy cả. (C) Xá Lợi Tử, nghe đây: Thể mọi pháp đều không Không sanh cũng không diệt Không nhơ cũng không sạch Không thêm cũng không bớt. Cho nên trong tánh không Không có sắc, thọ, tưởng Cũng không có hành, thức Không có nhãn, nhĩ, tỷ Thiệt, thân, ý - sáu căn Không có sắc, thanh, hương Vị, xúc, pháp - sáu trần Không có mười tám giới Từ nhãn đến ý thức Không hề có vô minh Không có hết vô minh Cho đến không lão tử Cũng không hết lão tử Không khổ, tập, diệt, đạo Không trí cũng không đắc. (C)
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
96
Vì không có sở đắc Nên khi vị Bồ Tát Nương diệu pháp Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Thì tâm không chướng ngại Vì tâm không chướng ngại Nên không có sợ hãi Xa lìa mọi mộng tưởng Xa lìa mọi điên đảo Đại Niết Bàn tuyệt đối. (C) Chư Bụt trong ba đời Y diệu pháp Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Nên đắc vô thượng giác. Vậy nên phải biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Là linh chú đại thần Là linh chú đại minh Là linh chú vô thượng Là linh chú tuyệt đỉnh Là chân lý bất vọng Có năng lực tiêu trừ Tất cả mọi khổ nạn Cho nên tôi muốn thuyết Câu thần chú trí độ Bát Nhã Ba La Mật". Nói xong đức Bồ Tát Liền đọc thần chú rằng: Giới Tiếp Hiện Chú Giải
97
Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha. (ba lần) (CC) 07. Tác Pháp Yết Ma Vị Yết Ma: Chúng thiếu nhi đã tập hợp đầy đủ chưa? Vị Thủ Chúng: Thưa, chúng thiếu nhi đã tập hợp đầy đủ. Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không? Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp. Vị Yết Ma: Có thiếu nhi nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh tịnh không? Vị Thủ Chúng: Không có. (Trong trường hợp có thì nói (ví dụ): "Có thiếu nhi Trần Diễm Trúc pháp danh Tâm Lưu Ly, vì lý do sức khỏe không đến tụng giới được, đã yêu cầu thiếu nhi Nguyễn Văn Nam pháp danh Tâm Hy Mã đại diện và gởi theo sự thanh tịnh.") Giới Tiếp Hiện Chú Giải
98
Vị Yết Ma: Đại chúng các thiếu nhi hôm nay tập hợp có chủ đích gì? Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma tụng Ba Sự Quay Về Nương Tựa và Hai Lời Hứa. Vị Yết Ma: Xin toàn thể chúng thiếu nhi lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../ .../ ...), ngày được chọn để thuyết tụng giới luật, chúng ta đã tập hợp đúng giờ giấc, chúng thiếu nhi đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc quy giới trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có rõ ràng và đầy đủ hay không? (Đại chúng đáp: rõ ràng và đầy đủ). Vị chủ lễ nói: "Hôm nay chúng thiếu nhi tập hợp để ôn lại Quy Giới, tức là Ba Sự Quay Về Nương Tựa, Hai Lời Hứa và sau hết là tụng Năm Giới. Trước hết là ôn lại Quy Giới. Xin các thiếu nhi đứng dậy, chắp tay búp sen, trình diện trước Tam Bảo.” (Thiếu nhi ra trình diện, chắp tay) - Thiếu nhi nghe tiếng chuông kính cẩn lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính Bụt, Pháp và Tăng. (Chuông, thiếu nhi lạy) (ba lần) - Thiếu nhi quỳ xuống, chắp tay. (Thiếu nhi quỳ, chắp tay búp sen) Giới Tiếp Hiện Chú Giải
99
(Ôn tụng Ba Phép Quay Về Nương Tựa) Quý vị Phật tử trẻ tuổi! Là học trò của Bụt, quý vị đã phát nguyện quay về nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp và nơi Tăng. Bây giờ đây, chúng ta ôn lại Ba Sự Quay Về và Nương Tựa ấy. Xin đại chúng đọc theo đây: - Con về nương tựa Bụt (đại chúng lập lại), người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời,(đại chúng lập lại). (C) - Con về nương tựa Pháp (đại chúng lập lại), con đường của tình thương và sự hiểu biết (đại chúng lập lại). (C) - Con về nương tựa Tăng (đại chúng lập lại), đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức (đại chúng lập lại). (CC) 08. Bài Hát Quay Về Nương Tựa Con về nương tựa Bụt Người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. Namo Buddhaya. Con về nương tựa Pháp Con đường của tình thương và sự hiểu biết. Namo Dharmaya. Con về nương tựa Tăng Đoàn thể của những ai nguyện sống cuộc đời tỉnh Giới Tiếp Hiện Chú Giải
100
thức. Namo Sanghaya. Buddham Saranam Gacchami. Dharmam Saranam Gacchami. Sangham Saranam Gacchami. 09. Ôn Tụng Hai Lời Hứa Quý vị Phật tử trẻ tuổi! Quý vị vừa ôn lại Ba Phép Quay Về và Nương Tựa. Bây giờ chúng ta ôn lại Hai Lời Hứa tức là hai điều mà quý vị đã hứa là sẽ học tập và giữ gìn. Đây là Lời Hứa Thứ Nhất, xin quý vị đọc theo: - Con xin mở rộng lòng thương (thiếu nhi lập lại) và tìm cách bảo vệ sự sống (thiếu nhi lập lại) của mọi người và môi loài (thiếu nhi lập lại). Đó là Lời Hứa Thứ Nhất mà quý vị đã cam kết với Bụt. Trong hai tuần qua, quý vị có học hỏi và giữ gìn lời hứa đó hay không? (thiếu nhi đáp trong tâm: "Dạ có." Chuông. Thiếu nhi xá và cúi đầu. Đại chúng chắp tay.)
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
101
Đây là Lời Hứa Thứ Hai: - Con xin mở rộng tầm hiểu biết (thiếu nhi lập lại) để có thể thương yêu và chung sống(thiếu nhi lập lại) với mọi người và mọi loài (thiếu nhi lập lại). Đó là Lời Hứa Thứ Hai mà quý vị đã cam kết với Bụt. Trong hai tuần qua, quý vị có học hỏi và giữ gìn lời hứa đó hay không? (thiếu nhi đáp trong tâm: "Dạ có." Chuông. Thiếu nhi xá và cúi đầu. Đại chúng chắp tay.) 10. Bài Hát Hai Lời Hứa Con xin mở rộng lòng thương để bảo vệ sự sống khắp mười phương. Nguyện che chở sinh mạng của mọi người và mọi loài. Con xin tập nhìn tập hiểu thật sâu, để thấy được gốc rễ mọi niềm đau. Nguyện chung sống an lạc với mọi người và mọi loài. 11. Khai Thị Quý vị Phật tử! Lòng thương và sự hiểu biết là hai điều quý báu nhất của đạo Bụt và của con người. Nếu không học cởi mở để hiểu biết những tâm trạng và những hoàn cảnh khổ đau của người khác thì không thể thương yêu và chung sống với họ. Đối với các Giới Tiếp Hiện Chú Giải
102
loài động vật và thực vật, ta cũng phải học thái độ cởi mở và hiểu biết để thương yêu và để bảo vệ như ta thương yêu và bảo vệ con người. Nếu không hiểu biết thì không thể thương yêu. Bụt dạy phải biết nhìn mọi người và mọi loài bằng con mắt hiểu biết và từ bi. Quý vị phải siêng năng học và làm theo lời Bụt dạy. Nghe chuông, xin đứng dậy và lạy xuống ba lạy để tỏ lòng cung kính Bụt, Pháp và Tăng trước khi rút lui. (Chuông. Thiếu nhi đứng dậy. Chuông. Thiếu nhi lạy xuống ba lần. Thiếu nhi đi ra. Đợi cho thiếu nhi ra hết, vị chủ lễ xướng lại bài kệ khai kinh để đại chúng trì tụng.) 12. Kệ Khai Kinh Giới luật cao siêu mầu nhiệm Cơ duyên may được thọ trì Xin nguyện đi vào biển tuệ Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)
2. Tụng năm giới Nghi thức này bắt đầu bằng lễ Dâng Hương, Lạy Bụt và Trì Tụng. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
103
(Tác Pháp Yết Ma Tụng Năm Giới) Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập hợp đầy đủ chưa? Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập hợp đầy đủ. Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không? Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp. Vị Yết Ma: Có vị nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh tịnh không? Vị Thủ Chúng: Không có. (Trong trường hợp có thì nói (ví dụ): "Có cận sự nam, Nguyễn Văn Ý pháp danh Tâm Khai, vì lý do sức khỏe không đến tụng giới được, đã yêu cầu cận sự nữ, Trần Thị Xuyến pháp danh Tâm Quy đại diện và gởi theo sự thanh tịnh.") Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập hợp có chủ đích gì? Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma tụng Năm Giới. Vị Yết Ma: Xin đại chúng các vị cận sự nữ và cận sự nam lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../ .../ ...), ngày được chọn để thuyết tụng quy giới, chúng ta đã tập Giới Tiếp Hiện Chú Giải
104
hợp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc quy giới trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có rõ ràng và đầy đủ hay không? (Đại chúng đáp: rõ ràng và đầy đủ.) Đại chúng! Đây là lúc chúng ta tuyên thuyết Năm Giới. Năm Giới là nền tảng cho một cuộc sống có hạnh phúc và có chí hướng vị tha, có năng lực bảo vệ sự sống và làm đẹp cho cuộc đời. Xin các vị đã thọ trì Năm Giới quỳ lên, chắp tay búp sen, hướng về đức Bổn Sư. Đại chúng! Năm Giới là những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc, giải thoát và giác ngộ. Năm Giới là nền tảng của hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc của gia đình và của xã hội. Học hỏi và hành trì theo Năm Giới, ta sẽ đi đúng con đường chánh pháp, ta sẽ tránh được lỗi lầm, khổ đau, sợ hãi và thất vọng, ta sẽ xây dựng được an lạc hạnh phúc cho ta, cho gia đình ta và đóng góp vào phẩm chất an lạc và hòa bình của xã hội. Đây là giới tướng của Năm Giới. Chúng ta hãy lắng nghe từng giới một với tâm hồn thanh tịnh, lấy giới luật làm tấm gương trong vắt để soi chiếu nội tâm mình. Xin im lặng thở và im lặng trả lời "có" mỗi khi
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
105
thấy mình trong hai tuần qua có cố gắng học hỏi và hành trì những giới luật được tuyên đọc. Đây là Giới Thứ Nhất: Bảo vệ sự sống Ý thức được những khổ đau do sự giết chóc gây ra, con xin nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương Tức và lòng Từ Bi để có thể bảo vệ sinh mạng của con người, của các loài động vật, thực vật và môi trường của sự sống. Con nguyện không sát hại, không để kẻ khác sát hại và không yểm trợ cho bất cứ một hành động sát hại nào trên thế giới, trong tư duy cũng như trong đời sống hằng ngày của con. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sự sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị và không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con và trong thế giới. Đó là Giới Thứ Nhất của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
106
Đây là Giới Thứ Hai: Hạnh phúc chân thực Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cắp, áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập san sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ thiếu thốn, trong cả ba lĩnh vực tư duy, nói năng, và hành động của đời sống hằng ngày. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do tự mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để thấy rằng hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của chính con, rằng hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, và đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Con đã ý thức được rằng hạnh phúc chân thực phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không đến từ bên ngoài, rằng thực tập phép tri túc con có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại nếu con có khả năng trở về giây phút ấy để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đã có sẵn. Con nguyện thực tập theo Chánh Mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi loài trên trái đất và để chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
107
Đó là Giới Thứ Hai của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Đây là Giới Thứ Ba: Tình thương đích thực Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học hỏi theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và trong xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng những liên hệ tình dục do thèm khát gây nên luôn luôn mang tới hệ lụy, đổ vỡ cho con và cho kẻ khác. Con nguyện không có liên hệ tình dục với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức và lâu dài. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và để nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực để làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con biết thực tập Tứ Vô Lượng Tâm ấy, con sẽ được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong những kiếp sau.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
108
Đó là Giới Thứ Ba của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Đây là Giới Thứ Tư: Lắng nghe và ái ngữ Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm và do thiếu khả năng lắng nghe gây ra, con xin nguyện học các hạnh Ái Ngữ và Lắng Nghe để có thể hiến tặng niềm vui cho người, làm vơi bớt nỗi khổ đau của người, giúp đem lại an bình và hòa giải giữa mọi người, giữa các quốc gia, chủng tộc và tôn giáo. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau cho người, con nguyện học nói những lời có khả năng gây thêm niềm tự tin, an vui và hi vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói năng gì khi biết cơn bực tức đang có mặt trong con, nguyện tập thở và đi trong chánh niệm để nhìn sâu vào gốc rễ của những bực tức ấy, nhận diện những tri giác sai lầm trong con và tìm cách hiểu được những khổ đau trong con và trong người mà con đang bực tức. Con nguyện học nói sự thật và lắng nghe như thế nào để có thể giúp người kia thay đổi và thấy được nẻo thoát ra ngoài những khó khăn đang gặp phải. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không nói những điều có thể tạo Giới Tiếp Hiện Chú Giải
109
nên những sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể. Con nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để có thể nuôi dưỡng khả năng hiểu, thương, hạnh phúc và không kỳ thị nơi con và cũng để làm yếu dần những hạt giống bạo động, hận thù và sợ hãi mà con đang có trong chiều sâu tâm thức. Đó là Giới Thứ Tư của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Đây là Giới Thứ Năm: Nuôi dưỡng và trị liệu Ý thức được những khổ đau do thói tiêu thụ không chánh niệm gây nên, con nguyện học hỏi cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe cơ thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới internet, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và cả chuyện trò. Con nguyện thực tập thường xuyên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì tươi mát, có Giới Tiếp Hiện Chú Giải
110
khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong con và xung quanh con, không để cho tiếc nuối và ưu sầu kéo con trở về quá khứ và không để cho lo lắng và sợ hãi kéo con đi về tương lai. Con nguyện không tiêu thụ chỉ để khỏa lấp sự khổ đau, cô đơn và lo lắng trong con. Con nguyện nhìn sâu vào tự tính tương quan tương duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào mà duy trì được an vui trong thân tâm con, trong thân tâm của xã hội, và trong môi trường sự sống. Đó là Giới Thứ Năm của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Đại chúng! Chúng ta đã tuyên đọc xong Năm Giới quý báu, nền tảng của hạnh phúc gia đình và chất liệu của chí nguyện lợi tha. Bụt dạy chúng ta phải ôn tụng thường xuyên giới tướng mỗi tháng ít nhất là một lần, để sự học hỏi và hành trì Năm Giới càng ngày càng sâu sắc và lớn rộng. Nghe chuông, xin lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính và biết ơn Tam Bảo trước khi ngồi xuống. 01. Niệm Bụt Xin đại chúng nhiếp tâm trì niệm hồng danh chư Bụt và chư vị Bồ Tát theo phương pháp trì danh nhất tâm bất loạn (mỗi danh hiệu ba lần). Giới Tiếp Hiện Chú Giải
111
Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Manjusri (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Samantabhadra (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Avalokiteśvara (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ksitigarbha. (CC) 02. Quy Nguyện Trầm hương xông ngát điện Sen nở Bụt hiện thân Pháp giới thành thanh tịnh Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C) Đệ tử tâm thành Hướng về Tam Bảo Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn. (C) Pháp là con đường sáng Dẫn người thoát cõi mê Đưa con trở về Sống cuộc đời tỉnh thức. (C) Tăng là đoàn thể đẹp Cùng đi trên đường vui Tu tập giải thoát Làm an lạc cuộc đời. (C) Giới Tiếp Hiện Chú Giải
112
Đệ tử nương nhờ Tam Bảo Trên con đường học đạo Biết Tam Bảo của tự tâm Nguyện xin chuyên cần Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C) Nguyện theo hơi thở Nở nụ cười tươi Nguyện học nhìn cuộc đời Bằng con mắt quán chiếu Nguyện xin tìm hiểu Nổi khổ của mọi loài Tập từ bi Hành hỷ xả Sáng cho người thêm niềm vui Chiều giúp người bớt khổ Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục Nếp sống lành mạnh an hòa Cho thân thể kiện khương Nguyện rũ bỏ âu lo Học tha thứ bao dung Cho tâm tư nhẹ nhõm Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo Ơn cha mẹ ơn thầy Ơn bạn bè chúng sanh Nguyện tu học tinh chuyên Cho cây bi trí nở hoa Mong một ngày kia Giới Tiếp Hiện Chú Giải
113
Có khả năng cứu độ mọi loài Vượt ra ngoài cõi khổ. (C) Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh Gia hộ cho đệ tử chúng con Viên thành đại nguyện. (CC) 03. Quay Về Nương Tựa Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C) Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời. Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa. Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C) Về nương tựa Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề. Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
114
Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)
04. Hồi Hướng Trì giới pháp thâm diệu Tạo công đức vô biên Đệ tử xin hồi hướng Cho chúng sanh mọi miền. (C) Pháp môn xin nguyện học Ân nghĩa xin nguyện đền Phiền não xin nguyện đoạn Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)
3. Tụng mười bốn giới Tiếp Hiện 01. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn) 02. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn) 03. Dâng Hương Giới Tiếp Hiện Chú Giải
115
Đại chúng đứng chấp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ: Hương đốt khói trầm xông ngát Kết thành một đóa tường vân Đệ tử đem lòng thành kính Cúng dường chư Bụt mười phương Giới luật chuyên trì nghiêm mật Công phu thiền định tinh cần Tuệ giác hiện dần quả báu Dâng thành một nén tâm hương Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)
04. Tán Dương Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo: Xinh tốt như hoa sen Rạng ngời như Bắc Đẩu Xin quay về nương náu Bậc thầy của nhân, thiên. Sen quý nở đài giác ngộ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
116
Hào quang chiếu rạng mười phương Trí tuệ vượt tầm pháp giới Từ bi thấm nhuận non sông Vừa thấy dung nhan Điều ngự Trăm ngàn phiền não sạch không Hướng về tán đương công đức Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng. Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni. (C) 05. Lạy Bụt Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu: Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C) Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Manjusri (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Samantabhadra (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Avalokiteśvara (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Ksitigarbha (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Mahākassapa Giới Tiếp Hiện Chú Giải
117
(C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Sāriputta (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Maha Moggallāna (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Upāli (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo Ānanda (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Gotamī (C) Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC) 06. Trì Tụng Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh: Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (ba lần) (C) Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm Cơ duyên may được thọ trì Xin nguyện đi vào biển tuệ Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C) Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C) Bồ Tát Quán Tự Tại Khi quán chiếu thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Giới Tiếp Hiện Chú Giải
118
Tức diệu pháp Trí Độ Bỗng soi thấy năm uẩn Đều không có tự tánh. Thực chứng điều ấy xong Ngài vượt thoát tất cả Mọi khổ đau ách nạn. (C) "Nghe đây, Xá Lợi Tử: Sắc chẳng khác gì không Không chẳng khác gì sắc Sắc chính thực là không Không chính thực là sắc Còn lại bốn uẩn kia Cũng đều như vậy cả. (C) Xá Lợi Tử, nghe đây: Thể mọi pháp đều không Không sanh cũng không diệt Không nhơ cũng không sạch Không thêm cũng không bớt. Cho nên trong tánh không Không có sắc, thọ, tưởng Cũng không có hành, thức Không có nhãn, nhĩ, tỷ Thiệt, thân, ý - sáu căn Không có sắc, thanh, hương Vị, xúc, pháp - sáu trần Không có mười tám giới Từ nhãn đến ý thức Giới Tiếp Hiện Chú Giải
119
Không hề có vô minh Không có hết vô minh Cho đến không lão tử Cũng không hết lão tử Không khổ, tập, diệt, đạo Không trí cũng không đắc. (C) Vì không có sở đắc Nên khi vị Bồ Tát Nương diệu pháp Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Thì tâm không chướng ngại Vì tâm không chướng ngại Nên không có sợ hãi Xa lìa mọi mộng tưởng Xa lìa mọi điên đảo Đại Niết Bàn tuyệt đối. (C) Chư Bụt trong ba đời Y diệu pháp Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Nên đắc vô thượng giác. Vậy nên phải biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Là linh chú đại thần Là linh chú đại minh Là linh chú vô thượng Là linh chú tuyệt đỉnh Là chân lý bất vọng Giới Tiếp Hiện Chú Giải
120
Có năng lực tiêu trừ Tất cả mọi khổ nạn Cho nên tôi muốn thuyết Câu thần chú trí độ Bát Nhã Ba La Mật". Nói xong đức Bồ Tát Liền đọc thần chú rằng: Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha. (ba lần) (CC)
07. Tác Pháp Yết Ma Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập họp đầy đủ chưa? Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ. Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không? Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp. Vị Yết Ma: Có vị nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh tịnh không? Giới Tiếp Hiện Chú Giải
121
Vị Thủ Chúng: Không có. (Trong trường hợp có thì nói (ví dụ): "Có anh Chân Khai vì lý do sức khỏe không đến tụng giới được, đã yêu cầu chị Chân Nguyệt Quang đại diện và gởi theo sự thanh tịnh.") Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì? Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma tụng Mười Bốn Giới Tiếp Hiện. Vị Yết Ma: Xin đại chúng lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../ .../ ...), ngày được chọn để thuyết tụng giới, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc giới luật trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có rõ ràng và đầy đủ hay không? (Đại chúng đáp: rõ ràng và đầy đủ.) Xin đại chúng lắng lòng nghe. Giới luật Tiếp Hiện là bó đuốc soi đường, là con thuyền chuyên chở, là bậc thầy chỉ lối của chúng ta. Xin đại chúng lắng nghe từng giới một với tâm hồn thanh tịnh, lấy giới luật làm tấm gương trong vắt để soi chiếu nội tâm mình, và xin im lặng trả lời "có" mỗi khi thấy mình trong hai tuần qua, có cố gắng học tập và giữ gìn những giới luật được nhắc đến. (Chuông) Giới Tiếp Hiện Chú Giải
122
Quý vị đã sẵn sàng chưa? Đây tôi xin tuyên đọc nội dung giới luật: Giới thứ nhất: Thái độ cởi mở Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để không bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Con nguyện nhìn nhận những giáo nghĩa Bụt dạy như những pháp môn hướng dẫn thực tập để làm phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động. Thấy được rằng niềm cuồng tín dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con xin nguyện tập nhìn với thái độ cởi mở và với tuệ giác tương tức để có thể chuyển hóa tập khí vướng mắc vào giáo điều và năng lượng bạo động trong con và trên thế giới. Đó là Giới Thứ Nhất của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
123
Giới thứ hai: Phá bỏ kiến chấp Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp hòi và cố chấp, để có thể mở lòng ra mà đón nhận kinh nghiệm và tuệ giác của kẻ khác, và nhờ đó thừa hưởng được nhiều lợi lạc từ trí tuệ tập thể. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch. Tuệ giác chân thật chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây phút. Đó là Giới Thứ Hai của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ ba: Tự do nhận thức Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức người khác vâng theo cái thấy của mình, con nguyện không ép buộc bất cứ một ai, kể cả trẻ em, đi theo quan điểm của mình, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, sự Giới Tiếp Hiện Chú Giải
124
mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và quyền tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải sử dụng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp. Đó là Giới Thứ Ba của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ tư: Ý thức về khổ đau Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con có thêm hiểu biết và phát khởi tâm từ bi, con nguyện thực tập quay về với tự thân và sử dụng năng lượng chánh niệm để nhận diện, chấp nhận, ôm ấp và lắng nghe những nổi khổ niềm đau trong con. Thay vì trốn tránh thực tại khổ đau và tìm cách khỏa lấp niềm đau trong con bằng sự tiêu thụ, con sẽ hết lòng thực tập hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm để nhìn sâu vào những gốc rễ của khổ đau. Con ý thức rằng con chỉ có thể tìm thấy con đường thoát khổ khi nào con thấu hiểu được nguồn gốc của khổ đau. Và một khi thấu hiểu được khổ đau của tự thân thì con mới có khả năng hiểu được những khổ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
125
đau của người khác. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Đó là Giới Thứ Tư của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ năm: Nếp sống lành mạnh và từ bi Ý thức rằng hạnh phúc chân thật chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành, giàu sang và sự hưởng thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình vì con biết những thứ ấy sẽ đem lại cho con nhiều khổ đau và tuyệt vọng. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào cách con nuôi dưỡng thân tâm bằng bốn loại thực phẩm: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
126
Con nguyện không chơi bài bạc, không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy và bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, trò chơi điện tử, phim ảnh, các chương trình truyền thanh, truyền hình, sách báo và cả chuyện trò, vì con biết rằng những thứ ấy có thể gây tàn hại trên thân tâm con cũng như trên thân tâm của cộng đồng. Con nguyện thực tập tiêu thụ như thế nào để nuôi dưỡng được lòng từ bi, sự lành mạnh và niềm vui sống cho thân tâm con cũng như cho gia đình, xã hội và cả cho trái đất. Đó là Giới Thứ Năm của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ sáu: Chăm sóc cơn giận Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra nhiều khổ đau cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con; cũng như phương pháp nhận diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không nói gì và làm gì cả Giới Tiếp Hiện Chú Giải
127
mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành để nhận diện và nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con ý thức rằng gốc rễ của các cơn giận đó không phải ở bên ngoài con mà nằm ngay trong nhận thức sai lầm của con và nơi sự thiếu hiểu biết về khổ đau của chính con và của người kia. Bằng phương pháp quán chiếu về vô thường, con sẽ có thể nhìn lại chính con và nhìn lại người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù trong con bằng con mắt từ bi và nhận ra rằng mối liên hệ giữa con và người đó quý giá biết nhường nào. Con cũng nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để nuôi dưỡng khả năng hiểu biết và thương yêu, khả năng chế tác niềm vui và lòng bao dung, không kỳ thị trong con. Nhờ đó, con sẽ dần dần chuyển hóa những bạo động, hận thù, sợ hãi trong con và giúp cho những người khác cũng làm được như vậy. Đó là Giới Thứ Sáu của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ bảy: Hiện pháp lạc trú Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thật sự có mặt trong giây phút hiện tại, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng Giới Tiếp Hiện Chú Giải
128
ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con xin nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp xúc với những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại và tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nhờ đó, con sẽ có thể nuôi lớn những hạt giống an lành, hiểu biết và thương yêu trong con để làm động lực chuyển hóa và trị liệu trong chiều sâu tâm thức. Con ý thức rằng hạnh phúc chân thật được phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không phải từ những điều kiện bên ngoài, và con có thể sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại bằng cách nhận ra rằng con đã có quá đủ những điều kiện hạnh phúc. Đó là Giới Thứ Bảy của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
129
Giới thứ tám: Xây dựng đoàn thể tu học chân chính và duy trì sự truyền thông Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ. Ý thức rằng một đoàn thể chân thật được xây dựng trên nền tảng không kỳ thị và hài hòa trong quan điểm, tư duy cũng như lời nói, con nguyện thực tập chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm của con với những thành viên khác trong đoàn thể để cùng nhau đi đến một cái thấy chung. Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán xét, phản ứng, không nói ra bất cứ một lời nào có thể tạo nên sự bất hòa và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Mỗi khi có khó khăn xảy ra, con nguyện ở lại cùng tăng thân và thực tập nhìn lại chính mình cũng như nhìn lại những người khác để tìm ra tất cả những nguyên nhân và điều kiện đã tạo nên tình trạng khó khăn, trong đó có cả những tập khí của chính con. Con sẽ nhận trách nhiệm về những gì con đã nói và đã làm, những gì có thể đã góp phần tạo nên sự bất hòa và tìm cách duy trì được sự truyền thông. Con sẽ không hành xử như một nạn nhân mà sẽ cố gắng hết sức để giải quyết mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
130
Đó là Giới Thứ Tám của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ chín: Ngôn ngữ chân thật và từ ái Ý thức được rằng lời nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện thực tập sử dụng lời nói chân thật, từ ái và có tính xây dựng. Con chỉ sử dụng những lời nói nào có thể mang lại niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có tác dụng hòa giải và mang lại an lạc cho tự thân con cũng như giữa mọi người với nhau. Con nguyện thực tập ái ngữ và lắng nghe để giúp con và những người khác chuyển hóa khổ đau và tìm ra con đường vượt thoát tình trạng khó khăn đó. Con nguyện không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con xin nguyện bảo vệ hạnh phúc và sự hòa hợp của tăng thân bằng cách tránh nói lỗi của người khác khi họ vắng mặt và luôn đặt câu hỏi về tính chính xác của những tri giác mà con đang có. Con nguyện chỉ nói với mục đích muốn hiểu rõ và giúp chuyển hóa tình trạng. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những gì con không biết rõ. Con nguyện can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù Giới Tiếp Hiện Chú Giải
131
hành động này có thể gây khó khăn cho con hay mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình. Đó là Giới Thứ Chín của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ mười: Bảo vệ và nuôi dưỡng tăng thân Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện sẽ không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội vào mục tiêu lợi dưỡng hoặc quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng một đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về tình trạng áp bức, bất công xã hội, và tìm cách chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái. Con nguyện học nhìn với con mắt tương tức để thấy con và những người khác đều là những tế bào của cùng một tăng thân. Một khi đã là một tế bào thật sự của tăng thân, có khả năng chế tác ra Niệm, Định và Tuệ để nuôi dưỡng chính mình và nuôi dưỡng toàn thể tăng thân thì mỗi người trong chúng con cũng đồng thời là một tế bào của Phật thân. Chúng con nguyện tích cực xây dựng tình huynh đệ, đi với nhau Giới Tiếp Hiện Chú Giải
132
như một dòng sông và thực tập để làm lớn thêm ba đức là trí đức, ân đức và đoạn đức, để thực hiện được sự nghiệp giác ngộ tập thể. Đó là Giới Thứ Mười của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ mười một: Chánh mạng Ý thức rằng thiên nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bất công và bạo động, con nguyện không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên nhiên. Con sẽ làm mọi cách có thể để chọn những phương tiện sống nào có khả năng góp phần vào sự an lành của mọi loài trên trái đất và có khả năng cho phép con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt. Ý thức được về hiện thực của thế giới trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như mối tương quan giữa con người với môi trường sinh thái, con nguyện hành xử một cách có trách nhiệm với tư cách một người tiêu thụ và một công dân. Con nguyện không đầu tư vào hay mua sắm những sản phẩm của những doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm người khác. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
133
Đó là Giới Thứ Mười Một của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ mười hai: Tôn trọng sự sống Ý thức được những khổ đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống hàng ngày của con theo tinh thần bất hại, thương yêu và theo tuệ giác tương tức. Con nguyện góp phần vào công việc giáo dục hòa bình, làm môi giới trong chánh niệm và thực tập hòa giải trong phạm vi gia đình, cộng đồng, giữa những nhóm dân tộc và tôn giáo, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự chém giết. Con nguyện sẽ không yểm trợ bất cứ một hành vi giết chóc nào trên thế giới, trong tư tưởng hoặc trong cách sống hàng ngày của con. Con cũng sẽ thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chặn chiến tranh và xây dựng hòa bình.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
134
Đó là Giới Thứ Mười Hai của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới thứ mười ba: Tôn trọng quyền tư hữu Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin nguyện nuôi dưỡng lòng từ bi trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động của con. Con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại. Đó là Giới Thứ Mười Ba của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông).
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
135
Giới thứ mười bốn: Tình thương đích thật (Dành cho Tiếp Hiện Tại Gia) Ý thức được rằng tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng sự phối hợp giữa hai cơ thể do thúc đẩy của tình dục không những đã không thể giải tỏa được nỗi cô đơn mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay và xa cách, con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai không phải là vợ hay chồng của con. Ý thức được rằng thân và tâm là một, con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con và nuôi lớn các tâm Từ, Bi, Hỷ và Xả giúp làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con ý thức được rằng hành động tà dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính con trong hiện tại và trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con sẽ đối xử với thân thể con một cách kính trọng và từ bi. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để thực hiện lý tưởng độ đời. Con cũng ý thức trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng này. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
136
(Dành cho Tiếp Hiện Xuất Gia) Ý thức được rằng lý tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau không thể nào được giải tỏa bằng dục tình mà chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập Từ, Bi, Hỷ và Xả. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con. Con nguyện không ép uổng thân thể con, không đối xử với thân thể con một cách bạo động và khinh xuất, không xem thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp. Đó là Giới Thứ Mười Bốn của dòng tu Tiếp Hiện. Trong hai tuần qua, quý vị (chúng ta) có học tập và giữ gìn giới ấy hay không? (ba hơi thở, chuông). Giới Tiếp Hiện Chú Giải
137
Thưa quý vị, Tôi đã làm xong nhiệm vụ thuyết giới do đại chúng giao phó. Tôi xin cám ơn tất cả quý vị đã giúp tôi hoàn tất việc thuyết giới một cách thanh tịnh. 08. Niệm Bụt Xin đại chúng đồng thanh chí tâm niệm Bụt và Bồ Tát (mỗi danh hiệu ba lần). Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Manjusri (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Samantabhadra (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Avalokiteśvara (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ksitigarbha. (CC) 09. Quy Nguyện Trầm hương xông ngát điện Sen nở Bụt hiện thân Pháp giới thành thanh tịnh Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C) Đệ tử tâm thành Hướng về Tam Bảo Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Giới Tiếp Hiện Chú Giải
138
Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn. (C) Pháp là con đường sáng Dẫn người thoát cõi mê Đưa con trở về Sống cuộc đời tỉnh thức. (C) Tăng là đoàn thể đẹp Cùng đi trên đường vui Tu tập giải thoát Làm an lạc cuộc đời. (C) Đệ tử nương nhờ Tam Bảo Trên con đường học đạo Biết Tam Bảo của tự tâm Nguyện xin chuyên cần Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C) Nguyện theo hơi thở Nở nụ cười tươi Nguyện học nhìn cuộc đời Bằng con mắt quán chiếu Nguyện xin tìm hiểu Nổi khổ của mọi loài Tập từ bi Hành hỷ xả Sáng cho người thêm niềm vui Chiều giúp người bớt khổ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
139
Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục Nếp sống lành mạnh an hòa Cho thân thể kiện khương Nguyện rũ bỏ âu lo Học tha thứ bao dung Cho tâm tư nhẹ nhõm Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo Ơn cha mẹ ơn thầy Ơn bạn bè chúng sanh Nguyện tu học tinh chuyên Cho cây bi trí nở hoa Mong một ngày kia Có khả năng cứu độ mọi loài Vượt ra ngoài cõi khổ. (C) Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh Gia hộ cho đệ tử chúng con Viên thành đại nguyện. (CC) 10. Quay Về Nương Tựa Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
140
Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời. Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa. Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C) Về nương tựa Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề. Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa. Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC) 11. Hồi Hướng Trì thuyết giới thâm diệu Tạo công đức vô biên Đệ tử xin hồi hướng Cho chúng sanh mọi miền. (C) Pháp môn xin nguyện học Ân nghĩa xin nguyện đền Phiền não xin nguyện đoạn Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
141
4. Truyền thọ mười bốn giới Tiếp Hiện Người truyền giới Tiếp Hiện hướng dẫn nghi thức này ít nhất phải là một vị Giáo Thọ trong giáo đoàn Tiếp Hiện, được phụ tá ít nhất là bởi ba thành viên Tiếp Hiện thuộc chúng Chủ Trì dòng Tiếp Hiện. Các thành viên của chúng Đồng Sự dòng Tiếp Hiện và các bạn hữu đều được mời dự để hộ niệm. 01. Thiền Hành (30 phút, sau khi được hướng dẫn) 02. Thiền Tọa (12 phút, sau khi được hướng dẫn) 03. Dâng Hương Đại chúng đứng chấp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
142
Xin cho khói trầm thơm Kết thành mây năm sắc Dâng lên khắp mười phương Cúng dường vô lượng Bụt Vô lượng chư Bồ Tát Cùng các thánh hiền tăng Nơi pháp giới dung thông Kết đài sen rực rỡ Nguyện làm kẻ đồng hành Trên con đường giác ngộ Xin mọi loài chúng sanh Từ bỏ cõi lãng quên Theo đường giới định tuệ Quay về trong tỉnh thức. Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C) 04. Tán Dương Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo: Xinh tốt như hoa sen Rạng ngời như Bắc Đẩu Xin quay về nương náu Bậc thầy của nhân, thiên. Sen quý nở đài giác ngộ Hào quang chiếu rạng mười phương Trí tuệ vượt tầm pháp giới Giới Tiếp Hiện Chú Giải
143
Từ bi thấm nhuận non sông Vừa thấy dung nhan Điều ngự Trăm ngàn phiền não sạch không Hướng về tán đương công đức Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng. Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni. (C) 05. Lạy Bụt Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu: Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp và Tăng thường trụ trong mười phương (C) Nhất tâm kính lễ đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Manjusri (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Samantabhadra (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Avalokiteśvara (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Ksitigarbha (C) Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Thanh Lương Đại Địa (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Mahākassapa (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Giới Tiếp Hiện Chú Giải
144
Sāriputta (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Maha Moggallāna (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Upāli (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo Ānanda (C) Nhất tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Gotamī (C) Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (CC) 06. Trì Tụng Đại chúng an tọa trên tọa cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị chủ lễ xướng kệ khai kinh và Tâm Kinh: Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (3 lần) (C) Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm Cơ duyên may được thọ trì Xin nguyện đi vào biển tuệ Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C) Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa (C) Bồ Tát Quán Tự Tại Khi quán chiếu thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Tức diệu pháp Trí Độ Bỗng soi thấy năm uẩn Giới Tiếp Hiện Chú Giải
145
Đều không có tự tánh. Thực chứng điều ấy xong Ngài vượt thoát tất cả Mọi khổ đau ách nạn. (C) "Nghe đây, Xá Lợi Tử: Sắc chẳng khác gì không Không chẳng khác gì sắc Sắc chính thực là không Không chính thực là sắc Còn lại bốn uẩn kia Cũng đều như vậy cả. (C) Xá Lợi Tử, nghe đây: Thể mọi pháp đều không Không sanh cũng không diệt Không nhơ cũng không sạch Không thêm cũng không bớt. Cho nên trong tánh không Không có sắc, thọ, tưởng Cũng không có hành, thức Không có nhãn, nhĩ, tỷ Thiệt, thân, ý - sáu căn Không có sắc, thanh, hương Vị, xúc, pháp - sáu trần Không có mười tám giới Từ nhãn đến ý thức Không hề có vô minh Không có hết vô minh Giới Tiếp Hiện Chú Giải
146
Cho đến không lão tử Cũng không hết lão tử Không khổ, tập, diệt, đạo Không trí cũng không đắc. (C) Vì không có sở đắc Nên khi vị Bồ Tát Nương diệu pháp Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Thì tâm không chướng ngại Vì tâm không chướng ngại Nên không có sợ hãi Xa lìa mọi mộng tưởng Xa lìa mọi điên đảo Đại Niết Bàn tuyệt đối. (C) Chư Bụt trong ba đời Y diệu pháp Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Nên đắc vô thượng giác. Vậy nên phải biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Là linh chú đại thần Là linh chú đại minh Là linh chú vô thượng Là linh chú tuyệt đỉnh Là chân lý bất vọng Có năng lực tiêu trừ Tất cả mọi khổ nạn Giới Tiếp Hiện Chú Giải
147
Cho nên tôi muốn thuyết Câu thần chú trí độ Bát Nhã Ba La Mật". Nói xong đức Bồ Tát Liền đọc thần chú rằng: Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha. (ba lần) (CC) 07. Tác Pháp Yết Ma Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập hợp đầy đủ chưa? Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập hợp đầy đủ. Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không? Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hòa hợp. Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập hợp có chủ đích gì? Vị Thủ Chúng: Thưa, để thực hiện yết ma truyền Mười Bốn Giới Tiếp Hiện. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
148
Vị Yết Ma: Xin đại chúng lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../ .../ ...), ngày được chọn để truyền thọ giới luật Tiếp Hiện, chúng ta đã tập hợp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng hộ niệm việc truyền thọ giới luật trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc truyền giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có rõ ràng và đầy đủ hay không? (Đại chúng đáp: rõ ràng và đầy đủ.) 08. Lạy Báo Ân Các vị giới tử có tên sau đây đứng dậy, chắp tay thành búp sen trình diện trước Tam Bảo (đọc tên). Nghe lời xướng và tiếng chuông thì lạy xuống một lạy: Giới tử mang ơn cha mẹ sinh thành, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (C) Giới tử mang ơn sư trưởng giáo huấn, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (C) Giới tử mang ơn bằng hữu và các bậc thiện tri thức đã tác thành cho, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (C) Giới tử mang ơn mọi loài chúng sanh, cây cỏ và đất đá, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (CC)
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
149
09. Khai Thị Hôm nay đại chúng tập hợp để chứng minh và hộ niệm cho các giới tử... trong giờ phút trọng đại của sự phát nguyện thọ trì giới luật Tiếp Hiện để gia nhập vào chúng chủ trì của dòng tu Tiếp Hiện. Các giới tử, xin nghe đây: Theo gót các bậc Bồ Tát, nhận các bậc Bồ Tát làm thầy và làm bạn đồng hành, khi phát tâm thọ trì giới luật Tiếp Hiện, quý vị long trọng phát tâm bồ đề, lập nguyện bồ đề, lấy sự giác ngộ và giải thoát cho mình và cho người làm sự nghiệp cao cả nhất của đời mình. Xin đại chúng thức tỉnh và đặt hết tâm tư mình trong chánh niệm, theo dõi hơi thở, hộ niệm cho giới thể và tâm bồ đề của các giới tử được kiên cố, dũng liệt và bất hoại. Các vị giới tử, đây là giây phút trọng đại của sự tiếp nhận Mười Bốn Giới Tiếp Hiện. Quý vị hãy lắng nghe từng giới một với tâm hồn thanh tịnh, và hãy trả lời "dạ có" một cách rõ ràng, dũng mãnh, mỗi khi thấy mình có chủ tâm và khả năng tiếp nhận học hỏi và hành trì giới điều được tuyên đọc. Các vị giới tử, quý vị đã sẵn sàng chưa? Đây tôi xin tuyên đọc nội dung giới luật:
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
150
Giới thứ nhất: Thái độ cởi mở Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để không bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Con nguyện nhìn nhận những giáo nghĩa Bụt dạy như những pháp môn hướng dẫn thực tập để làm phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động. Thấy được rằng niềm cuồng tín dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con xin nguyện tập nhìn với thái độ cởi mở và với tuệ giác tương tức để có thể chuyển hóa tập khí vướng mắc vào giáo điều và năng lượng bạo động trong con và trên thế giới. Đó là Giới Thứ Nhất của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ hai: Phá bỏ kiến chấp Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp hòi và cố chấp, để có thể mở lòng ra mà đón Giới Tiếp Hiện Chú Giải
151
nhận kinh nghiệm và tuệ giác của kẻ khác, và nhờ đó thừa hưởng được nhiều lợi lạc từ trí tuệ tập thể. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch. Tuệ giác chân thật chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây phút. Đó là Giới Thứ Hai của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ ba: Tự do nhận thức Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức người khác vâng theo cái thấy của mình, con nguyện không ép buộc bất cứ một ai, kể cả trẻ em, đi theo quan điểm của mình, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và quyền tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con Giới Tiếp Hiện Chú Giải
152
phải sử dụng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp. Đó là Giới Thứ Ba của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ tư: Ý thức về khổ đau Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con có thêm hiểu biết và phát khởi tâm từ bi, con nguyện thực tập quay về với tự thân và sử dụng năng lượng chánh niệm để nhận diện, chấp nhận, ôm ấp và lắng nghe những nổi khổ niềm đau trong con. Thay vì trốn tránh thực tại khổ đau và tìm cách khỏa lấp niềm đau trong con bằng sự tiêu thụ, con sẽ hết lòng thực tập hơi thở ý thức và bước chân chánh niệm để nhìn sâu vào những gốc rễ của khổ đau. Con ý thức rằng con chỉ có thể tìm thấy con đường thoát khổ khi nào con thấu hiểu được nguồn gốc của khổ đau. Và một khi thấu hiểu được khổ đau của tự thân thì con mới có khả năng hiểu được những khổ đau của người khác. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những đau khổ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
153
hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Đó là Giới Thứ Tư của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ năm: Nếp sống lành mạnh và từ bi Ý thức rằng hạnh phúc chân thật chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành, giàu sang và sự hưởng thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình vì con biết những thứ ấy sẽ đem lại cho con nhiều khổ đau và tuyệt vọng. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào cách con nuôi dưỡng thân tâm bằng bốn loại thực phẩm: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Con nguyện không chơi bài bạc, không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy và bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, trò chơi điện tử, phim ảnh, các chương trình truyền thanh, truyền hình, sách báo và cả chuyện trò, vì con biết rằng những thứ ấy có thể gây tàn hại trên thân Giới Tiếp Hiện Chú Giải
154
tâm con cũng như trên thân tâm của cộng đồng. Con nguyện thực tập tiêu thụ như thế nào để nuôi dưỡng được lòng từ bi, sự lành mạnh và niềm vui sống cho thân tâm con cũng như cho gia đình, xã hội và cả cho trái đất. Đó là Giới Thứ Năm của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ sáu: Chăm sóc cơn giận Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra nhiều khổ đau cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con; cũng như phương pháp nhận diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không nói gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành để nhận diện và nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con ý thức rằng gốc rễ của các cơn giận đó không phải ở bên ngoài con mà nằm ngay trong nhận thức sai lầm của con và nơi sự thiếu hiểu biết về khổ đau Giới Tiếp Hiện Chú Giải
155
của chính con và của người kia. Bằng phương pháp quán chiếu về vô thường, con sẽ có thể nhìn lại chính con và nhìn lại người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù trong con bằng con mắt từ bi và nhận ra rằng mối liên hệ giữa con và người đó quý giá biết nhường nào. Con cũng nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để nuôi dưỡng khả năng hiểu biết và thương yêu, khả năng chế tác niềm vui và lòng bao dung, không kỳ thị trong con. Nhờ đó, con sẽ dần dần chuyển hóa những bạo động, hận thù, sợ hãi trong con và giúp cho những người khác cũng làm được như vậy. Đó là Giới Thứ Sáu của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ bảy: Hiện pháp lạc trú Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thật sự có mặt trong giây phút hiện tại, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con xin nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười Giới Tiếp Hiện Chú Giải
156
chánh niệm để tiếp xúc với những gì đang diễn ra trong giây phút hiện tại và tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nhờ đó, con sẽ có thể nuôi lớn những hạt giống an lành, hiểu biết và thương yêu trong con để làm động lực chuyển hóa và trị liệu trong chiều sâu tâm thức. Con ý thức rằng hạnh phúc chân thật được phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không phải từ những điều kiện bên ngoài, và con có thể sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại bằng cách nhận ra rằng con đã có quá đủ những điều kiện hạnh phúc. Đó là Giới Thứ Bảy của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ tám: Xây dựng đoàn thể tu học chân chính và duy trì sự truyền thông Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời ái ngữ. Ý thức rằng một đoàn thể chân thật được xây dựng trên nền tảng không kỳ thị và hài hòa trong quan điểm, tư duy cũng như lời nói, con nguyện thực tập chia sẻ những Giới Tiếp Hiện Chú Giải
157
hiểu biết và kinh nghiệm của con với những thành viên khác trong đoàn thể để cùng nhau đi đến một cái thấy chung. Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán xét, phản ứng, không nói ra bất cứ một lời nào có thể tạo nên sự bất hòa và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Mỗi khi có khó khăn xảy ra, con nguyện ở lại cùng tăng thân và thực tập nhìn lại chính mình cũng như nhìn lại những người khác để tìm ra tất cả những nguyên nhân và điều kiện đã tạo nên tình trạng khó khăn, trong đó có cả những tập khí của chính con. Con sẽ nhận trách nhiệm về những gì con đã nói và đã làm, những gì có thể đã góp phần tạo nên sự bất hòa và tìm cách duy trì được sự truyền thông. Con sẽ không hành xử như một nạn nhân mà sẽ cố gắng hết sức để giải quyết mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ. Đó là Giới Thứ Tám của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ chín: Ngôn ngữ chân thật và từ ái Ý thức được rằng lời nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện thực tập sử dụng lời nói chân thật, từ ái và có tính xây dựng. Con chỉ sử dụng những lời nói nào có thể mang lại niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có tác dụng hòa giải Giới Tiếp Hiện Chú Giải
158
và mang lại an lạc cho tự thân con cũng như giữa mọi người với nhau. Con nguyện thực tập ái ngữ và lắng nghe để giúp con và những người khác chuyển hóa khổ đau và tìm ra con đường vượt thoát tình trạng khó khăn đó. Con nguyện không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con xin nguyện bảo vệ hạnh phúc và sự hòa hợp của tăng thân bằng cách tránh nói lỗi của người khác khi họ vắng mặt và luôn đặt câu hỏi về tính chính xác của những tri giác mà con đang có. Con nguyện chỉ nói với mục đích muốn hiểu rõ và giúp chuyển hóa tình trạng. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những gì con không biết rõ. Con nguyện can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể gây khó khăn cho con hay mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình. Đó là Giới Thứ Chín của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ mười: Bảo vệ và nuôi dưỡng tăng thân Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện sẽ không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo Giới Tiếp Hiện Chú Giải
159
hội vào mục tiêu lợi dưỡng hoặc quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng một đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về tình trạng áp bức, bất công xã hội, và tìm cách chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái. Con nguyện học nhìn với con mắt tương tức để thấy con và những người khác đều là những tế bào của cùng một tăng thân. Một khi đã là một tế bào thật sự của tăng thân, có khả năng chế tác ra Niệm, Định và Tuệ để nuôi dưỡng chính mình và nuôi dưỡng toàn thể tăng thân thì mỗi người trong chúng con cũng đồng thời là một tế bào của Phật thân. Chúng con nguyện tích cực xây dựng tình huynh đệ, đi với nhau như một dòng sông và thực tập để làm lớn thêm ba đức là trí đức, ân đức và đoạn đức, để thực hiện được sự nghiệp giác ngộ tập thể. Đó là Giới Thứ Mười của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ mười một: Chánh mạng Ý thức rằng thiên nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bất công và bạo động, con nguyện Giới Tiếp Hiện Chú Giải
160
không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên nhiên. Con sẽ làm mọi cách có thể để chọn những phương tiện sống nào có khả năng góp phần vào sự an lành của mọi loài trên trái đất và có khả năng cho phép con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt. Ý thức được về hiện thực của thế giới trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như mối tương quan giữa con người với môi trường sinh thái, con nguyện hành xử một cách có trách nhiệm với tư cách một người tiêu thụ và một công dân. Con nguyện không đầu tư vào hay mua sắm những sản phẩm của những doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và cơ hội sinh sống của những nhóm người khác. Đó là Giới Thứ Mười Một của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ mười hai: Tôn trọng sự sống Ý thức được những khổ đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống hàng ngày của con theo tinh thần bất hại, thương yêu và theo tuệ giác tương tức. Con nguyện góp phần vào công việc giáo dục hòa bình, làm môi Giới Tiếp Hiện Chú Giải
161
giới trong chánh niệm và thực tập hòa giải trong phạm vi gia đình, cộng đồng, giữa những nhóm dân tộc và tôn giáo, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự chém giết. Con nguyện sẽ không yểm trợ bất cứ một hành vi giết chóc nào trên thế giới, trong tư tưởng hoặc trong cách sống hàng ngày của con. Con cũng sẽ thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chặn chiến tranh và xây dựng hòa bình. Đó là Giới Thứ Mười Hai của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ mười ba: Tôn trọng quyền tư hữu Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin nguyện nuôi dưỡng lòng từ bi trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động của con. Con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
162
Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại. Đó là Giới Thứ Mười Ba của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới thứ mười bốn: Tình thương đích thật (Dành cho Tiếp Hiện Tại Gia) Ý thức được rằng tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng sự phối hợp giữa hai cơ thể do thúc đẩy của tình dục không những đã không thể giải tỏa được nỗi cô đơn mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay và xa cách, con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai không phải là vợ hay chồng của con. Ý thức được rằng thân và tâm là một, con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con và nuôi lớn các tâm Từ, Bi, Hỷ và Xả giúp làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con ý thức được rằng hành động tà dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính con trong hiện tại và trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
163
hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con sẽ đối xử với thân thể con một cách kính trọng và từ bi. Con nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để thực hiện lý tưởng độ đời. Con cũng ý thức trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng này. (Dành cho Tiếp Hiện Xuất Gia) Ý thức được rằng lý tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau không thể nào được giải tỏa bằng dục tình mà chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập Từ, Bi, Hỷ và Xả. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
164
Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con. Con nguyện không ép uổng thân thể con, không đối xử với thân thể con một cách bạo động và khinh xuất, không xem thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, nguyện thực tập nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp. Đó là Giới Thứ Mười Bốn của dòng tu Tiếp Hiện. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới đó hay không? ("dạ có", chuông). Giới tử! Quý vị vừa tiếp nhận Mười Bốn Giới Tiếp Hiện. Quý vị vừa đặt chân bước được bước đầu tiên trên con đường chí hướng của các bậc Bồ Tát, con đường đại trí của Bồ Tát Văn Thù, phá tan mọi lầm lạc, cố chấp, mọi giới hạn của nhận thức; con đường đại bi của Bồ Tát Quan Thế Âm, thương yêu và tôn trọng sự sống của mọi loài, lắng nghe tiếng kêu thương gần xa của mọi loài để ân cần tìm tới; con đường đại hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, không từ nan bất cứ một cơ hội nào để bồi đáp sự thương yêu, đoàn kết và xây dựng sự hiểu biết của nhân loại. Đại chúng đem hết lòng thành hộ niệm cho quý vị trong giờ phút hiện tại cũng như trong tương lai. Chư Bụt và chư vị Bồ Tát cũng sẽ có mặt trong bước Giới Tiếp Hiện Chú Giải
165
đường hành đạo của quý vị. Nghe chuông, xin đứng dậy và lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính Tam Bảo. Xin đại chúng nhất tâm niệm Bụt gia hộ cho giới thể của các giới tử được dũng liệt và bất hoại. 10. Niệm Bụt (mỗi danh hiệu ba lần) Nam mô đức Bổn Sư Bụt Shakyamuni (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Manjusri (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Samantabhadra (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Avalokiteśvara (C) Nam mô đức Bồ Tát Đại Nguyện Ksitigarbha. (CC)
11. Quay Về Nương Tựa Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết. Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C) Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
166
Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa. Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C) Về nương tựa Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề. Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa. Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC) 12. Hồi Hướng Truyền trì giới thâm diệu Tạo công đức vô biên Đệ tử xin hồi hướng Cho chúng sanh mọi miền. (C) Pháp môn xin nguyện học Ân nghĩa xin nguyện đền Phiền não xin nguyện đoạn Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
167
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
168
Chương Bốn: Giáo Chế Dòng Tu Tiếp Hiện
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
169
Chương I: Danh xưng, Tôn chỉ, Cơ sở truyền thừa Điều 1: Nay thành lập một giáo đoàn Phật giáo mới lấy tên là Dòng Tu Tiếp Hiện, gọi tắt là Dòng Tiếp Hiện. Điều 2: Tôn chỉ của Dòng Tiếp Hiện là hiện đại hóa đạo Bụt bằng cách nghiên cứu, thực nghiệm và áp dụng đạo Bụt một cách linh động, hữu hiệu vào đời sống mới của bản thân và xã hội với chí nguyện bồ tát lợi sinh. Điều 3: Dòng Tiếp Hiện được thành lập trong truyền thống của đạo Bụt đại thừa và dựa trên cơ sở tinh thần phá chấp, khế cơ, thực chứng và phương tiện, bốn đặc tính của giáo lý truyền thống.
Chương II: Kinh điển y cứ, Giáo lý căn bản, Quan điểm hành đạo Điều 4: Dòng Tiếp Hiện không căn cứ đơn phương vào một kinh điển hoặc một nhóm kinh điển nào trong kinh tạng đạo Bụt mà tìm tới tinh hoa của giáo lý đạo Bụt hàm chứa trong tất cả các kinh điển của Giới Tiếp Hiện Chú Giải
170
đại tạng. Dòng Tiếp Hiện không chấp nhận quan điểm phản giáo của bất cứ một hệ phái nào. Dòng Tiếp Hiện tìm thể hiện tinh thần đạo Bụt trong giáo lý nguyên thỉ và qua quá trình phát triển của tinh thần ấy trong lịch sử giáo đoàn, giáo lý và tu chứng của mọi truyền thống đạo Bụt. Điều 5: Dòng Tiếp Hiện quan niệm tất cả các kinh điển trong đại tạng, dù là do Bụt thuyết hay do Phật tử biên soạn theo tinh thần đạo Bụt dưới hình thái Bụt thuyết, đều là kinh điển đạo Bụt. Dòng Tiếp Hiện chủ trương rằng sự khai triển tư tưởng đạo Bụt nguyên thỉ và sự thành lập các hệ phái giáo lý mới căn cứ trên cơ bản giáo lý nguyên thỉ ấy để khế cơ hóa việc hành đạo là những thực hiện cần thiết và chân chính. Dòng Tiếp Hiện cho rằng chỉ có hành đạo như thế mới làm cho Phật chủng không đoạn tuyệt và cho sinh khí đạo Bụt được lưu nhuận trong cuộc đời. Điều 6: Dòng Tiếp Hiện được xây dựng trên cơ sở tuệ giác và từ bi của Bụt, tin tưởng rằng tuệ giác và từ bi ấy có thể đóng góp lớn lao cho hòa bình và hạnh phúc con người. Dòng Tiếp Hiện nhận định phương pháp Phá Chấp và Thực Chứng là trọng tâm của giáo lý đạo Bụt về mặt nhận thức thực tại. Dòng Tiếp Hiện nhận định phương pháp Khế Cơ và Phương Tiện là trọng tâm của giáo lý đạo Bụt về mặt hành động lợi sinh. Giáo lý Phá Chấp, Thực Chứng, Khế Cơ và Phương Tiện được thể hiện trong tất cả các kinh điển Giới Tiếp Hiện Chú Giải
171
hệ trọng nhất của đại tạng, như Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết Bàn... Tinh thần phá chấp và thực chứng đưa tới thái độ khách quan, bao dung và từ bi trong nhận thức cũng như trong sự giao tiếp giữa con người với con người. Tinh thần khế cơ và phương tiện đưa tới thái độ sáng tạo và khả năng dung hợp cần thiết cho sự tiến hóa và sự thành đạt hữu hiệu chí nguyện lợi sinh. Dòng Tiếp Hiện chủ trương sự tu dưỡng tâm linh là thức ăn cần thiết để phát triển và bảo tồn sự toàn vẹn (intégrité) của mình và của người, cũng như của lý tưởng, trước và trong khi dấn thân vào các công tác lợi sinh trong xã hội. Điều 7: Dòng Tiếp Hiện bác bỏ thái độ giáo điều trong nhận thức và trong hành động. Dòng Tiếp Hiện chấp nhận một thái độ hành đạo linh động để có thể phản ảnh tinh thần cầu tiến và khế cơ của đạo Bụt và làm cho trí giác, từ bi và bao dung của đạo Bụt được thực sự có mặt trong cuộc đời. Dòng Tiếp Hiện coi trọng sự sinh tồn của tinh thần và sinh khí đạo Bụt hơn sự sinh tồn của những hình thái và tập tục đạo Bụt. Dòng Tiếp Hiện chủ trương Phật tử phải mang tuệ giác đạo Bụt đứng vào hàng ngũ những người đi tiên phong trong việc tìm giải quyết những vấn đề của sự sống bản thân và xã hội. Theo nguyên tắc tùy duyên bất biến, Dòng Tiếp Hiện chủ trương thích ứng với điều kiện xã hội để cải tiến xã hội mà vẫn giữ được sự toàn vẹn của lý tưởng tuệ giác mình. Mang chí nguyện bồ tát, người Tiếp Hiện thực tập chuyển Giới Tiếp Hiện Chú Giải
172
hóa tự thân nhằm đưa tới chuyển hóa xã hội theo con đường thương yêu và hiểu biết.
Chương III: Giáo quyền, Đoàn viên, Cơ cấu và hệ thống tổ chức Điều 8: Để bảo vệ và tôn trọng tinh thần nhận thức tự do và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trong giáo đoàn, Dòng Tiếp Hiện không thiết lập giáo quyền và cũng không công nhận một giáo quyền nào. Các vị tu sĩ cũng như cư sĩ nam và nữ cùng thực tập với nhau trong Dòng Tiếp Hiện. Dòng Tiếp Hiện không có cấp bậc giáo phẩm. Điều 9: Dòng Tiếp Hiện không công nhận sự cần thiết của một vai trò môi giới thiêng liêng nào giữa con người và Bụt, giữa con người và chân lý. Dòng Tiếp Hiện nhận định rằng, chỉ có sự hướng dẫn và khai thị của những người đi trước căn cứ vào trí tuệ, kinh nghiệm và thực chứng của họ là cần thiết cho người đi sau. Tuy nhiên Dòng Tiếp Hiện chủ trương không ai có quyền đại diện hoặc nhân danh chân lý, nhân danh thực chứng hoặc nhân danh Bụt.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
173
Điều 10: Các đoàn viên của dòng Tiếp Hiện được nhiếp thu làm hai chúng: Chúng Chủ Trì và Chúng Đồng Sự. Chúng Chủ Trì gồm có những người đã chính thức phát nguyện hành trì giới luật Tiếp Hiện, được gọi là các Anh (viết hoa) hoặc các Chị (viết hoa) của Dòng Tiếp Hiện. Chúng Đồng Sự gồm có những người đang học tập thực hành theo giới luật Tiếp Hiện, nhưng không hoặc chưa làm lễ phát nguyện nhận giới này. Chúng Chủ Trì có trách nhiệm hỗ trợ cho tăng thân địa phương, tổ chức các lễ tụng giới, ngày quán niệm và các khoá tu. Chúng Đồng Sự thân cận với Chúng Chủ Trì và cộng tác với Chúng Chủ Trì trong mọi sinh hoạt tu tập và hành đạo. Họ tham dự các buổi tụng giới mỗi hai tuần cùng với các sinh hoạt khác do Chúng Chủ Trì tổ chức. Người nào trong Chúng Đồng Sự đã thực tập thường xuyên với Chúng Chủ Trì trong thời gian một năm, hoặc lâu hơn, nên tìm hiểu và hội ý về việc xin gia nhập Chúng Chủ Trì. Điều nên ghi nhớ là các vị này cần thọ trì năm giới trước. Điều 12: Giáo thọ (Dharmacharyas) gồm các vị trong Chúng Chủ Trì đã được chọn căn cứ trên sự Giới Tiếp Hiện Chú Giải
174
vững chãi trong việc tu tập và khả năng sống an lạc. Các giáo thọ có trách vụ khơi mở sự an lạc và vững chãi trong tăng thân địa phương. Tăng thân địa phương được khuyến khích đề nghị các giáo thọ cho địa phương của mình.
Chương IV: Giới luật Tiếp Hiện, Điều kiện thọ giới Điều 13: Giới Tiếp Hiện phản chiếu thực chất của dòng tu, lấy sự tu dưỡng tâm linh làm nền tảng cho mọi công tác xã hội. Điều 14: Sự thực tập Mười Bốn giới là trái tim của giáo chế Tiếp Hiện. Người Tiếp Hiện được khuyến khích tụng Năm giới và Mười Bốn giới mỗi hai tuần. Nếu không tụng giới trong ba tháng thì lễ truyền giới được xem như là không còn hiệu lực. Điều 15: Mọi người từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt chủng tộc, quốc tịch, màu da, nam nữ và quan điểm về đời sống lứa đôi đều có thể xin gia nhập Chúng Chủ Trì của Dòng Tiếp Hiện. Điều thiết yếu là những vị này có chí nguyện sống đời sống Tiếp Hiện, chứng tỏ có khả năng hiểu về lý tưởng Tiếp Hiện và có khả năng hành đạo như một Tiếp Hiện. Bằng cấp và địa vị xã hội không phải là tiêu chuẩn xét định về Giới Tiếp Hiện Chú Giải
175
khả năng thọ giới của một cá nhân. Bất cứ học giả hay thợ thuyền đều có thể thọ giới Tiếp Hiện. Điều 16: Người xin thọ giới cần chính thức bày tỏ ước nguyện gia nhập Chúng Chủ Trì của mình. Thơ này được trao cho Chúng Chủ Trì của tăng thân địa phương hoặc một tăng thân ở gần đó, hoặc gửi đến các vị giáo thọ. Người xin thọ giới Tiếp Hiện cần thọ trì Ba Sự Quay Về và Năm giới trước khi thọ giới Tiếp Hiện. Một hoặc vài Anh, Chị trong Chúng Chủ Trì sẽ làm người hướng dẫn tinh thần cho vị này ít nhất là một năm cho đến khi người xin thọ giới có được an lạc và vững chãi phần nào trong sự thực tập, cũng như chứng tỏ được là mình có khả năng sống hòa hợp với tăng thân. Những điều kể trên nhằm mục đích giúp người xin thọ giới có cơ hội tìm hiểu về Chúng Chủ Trì, cũng như Chúng Chủ Trì có cơ hội hiểu người xin thọ giới để có thể hiến tặng cho vị này mọi hướng dẫn và nâng đỡ cần thiết, nhất là trong lãnh vực mà người đó còn yếu kém. Đây cũng là để giúp cho người xin thọ giới có thời gian học tập về vai trò của người Tiếp Hiện. Khi các điều kiện kể trên đã hội đủ, hồ sơ của giới tử sẽ được Chúng Chủ Trì, giáo thọ phê chuẩn sau hội ý với đại chúng (gồm những người thực tập lâu ngày với tăng thân) về việc giới tử có sẵn sàng hay chưa trong việc tiếp nhận giới Tiếp Hiện.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
176
Công việc của người Tiếp Hiện chủ trì là xây dựng tăng thân, hổ trợ việc hành đạo và giảng giải về đạo Bụt dựa trên kinh nghiệm tu tập của cá nhân mình. Người Tiếp Hiện nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm nơi mình và người khác, cũng như thường xuyên thực tập thiền quán, sống an lạc, hài hòa với gia đình và cộng đồng. Đó đều là những biểu hiện của chí nguyện bồ tát lợi tha. Các tăng thân địa phương có khi được khuyến khích gia giảm các thể thức gia nhập dòng tu cho thích hợp với văn hóa, địa lý và hoàn cảnh nơi địa phương đó, miễn là mục tiêu và lý tưởng Tiếp Hiện không vì thế mà bị tổn thương. Thể thức xin thọ giới Tiếp Hiện cũng có thể được gia giảm trong những hoàn cảnh đặc biệt, ví dụ như vì lý do sức khoẻ, khi các điều kiện thọ giới khác đã được hội đủ. Trong trường hợp này, nhiếp chúng trưởng và giáo thọ nên được hội ý trước và nếu có thì giờ thì nên hội ý với các vị khác trong Chúng Chủ Trì. Khi người xin thọ giới đã hội đủ các điều kiện quy định trong việc tiếp nhận giới Tiếp Hiện thì đơn xin thọ giới này sẽ được phê chuẩn và một vị trong Chúng Chủ Trì sẽ được đề cử để thông báo cho người xin thọ giới. Khi cử hành lễ truyền giới, chi tiết về tên tuổi, ngày tháng và địa điểm truyền giới cũng như tên của Thầy truyền giới cần được ghi chép rõ ràng. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
177
Điều 18: Người Tiếp Hiện chủ trì có thể dành phần lớn thì giờ của đời mình trong các cơ sở tĩnh tu, nhưng nếu có phận sự trong xã hội, người Tiếp Hiện cần duy trì ít nhất 60 ngày tĩnh tu trong một năm. Nếu có lúc vì gia cảnh đặc biệt hay vì phận sự khác mà người Tiếp Hiện không hành trì đúng như những điều nói trên thì họ có thể được gia giảm, nhưng cần có sự chấp thuận của tăng thân. Điều 19: Đối với tất cả chúng chủ trì Tiếp Hiện, dòng tu kỳ vọng và tin cậy các vị này tham gia vào việc tổ chức các sinh hoạt tu học và thực tập cùng với tăng thân địa phương. Điều 20: Người nào biết sống theo tinh thần của Năm giới quý báu và Mười Bốn giới Tiếp Hiện đều được kể là thích hợp để gia nhập Chúng Chủ Trì, dù độc thân hay có gia đình. Trong trường hợp có gia đình, sự hành trì của vị này sẽ được dễ dàng hơn nếu người bạn lứa đôi của người đó cũng là một thành phần trong Chúng Chủ Trì hay Chúng Đồng Sự, hoặc là một thân hữu của tăng thân, hay ít nhất biết sống hài hòa, nâng đỡ và khích lệ sự tu tập của người bạn lứa đôi của mình.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
178
Chương V: Điều hành, Tài sản giáo đoàn, Đại Hội Tiếp Hiện Điều 21: Đại hội Chúng Chủ Trì được triệu tập đều đặn để bầu Hội Đồng Tiếp Hiện. Tất cả thanh chúng đều được thông báo trước sáu tháng về thời giờ và địa điểm của đại hội. Nếu vị nào vắng mặt thì có thể đề cử người đại diện cho mình. Thể thức trưng cầu ý kiến sẽ được trình bày, duyệt xét và sửa đổi mỗi khi đại hội bắt đầu. Ban chủ tọa đại hội được đề cử theo tính cách luân phiên. Ít nhất phải có một vị phái nam và một vị phái nữ từ hai quốc gia khác nhau làm chủ tọa buổi họp. Biên bản của mỗi buổi họp của đại hội sẽ được lưu trữ thành hồ sơ mang tính chất sống động, phản ảnh dòng sinh mệnh của dòng tu. Mọi người trong Chúng Chủ Trì đều có thể đọc các hồ sơ này khi có yêu cầu. Điều 22: Trong Đại Hội Tiếp Hiện, Chúng Chủ Trì sẽ chọn lựa người đứng vào Hội Đồng Nhiệm Trường để phụ trách tổ chức và hướng dẫn các công việc của người Tiếp Hiện trong thời gian giữa hai kỳ đại hội cũng như để bầu các điều hành viên cho Hội Đồng Nhiệm Trường trong số các vị ở trong hội đồng này.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
179
Đại Hội Tiếp Hiện sẽ quyết định về các cơ cấu và tổ chức nhằm hỗ trợ chí nguyện làm vơi bớt khổ đau và thể hiện lý tưởng Bồ Tát lợi tha của người Tiếp Hiện cũng như tạo nên sự liên hệ chặt chẽ giữa các Tiếp Hiện. Chúng Chủ Trì sẽ nương tựa nơi sự vững chãi trong đời sống và sự tu tập của các Anh Chị lớn trong thanh chúng cũng như được hưởng sự trong sáng và tươi mát của các Tiếp Hiện trẻ có mặt trong các công tác. Như thế, thanh chúng sẽ được lợi lạc nhờ sự hiện diện của Hội Đồng Trưởng Lão (Council of the Elders) và Hội Đồng Tiếp Hiện Trẻ (Council of Youth). Điều 23: Để giúp cho mối liên hệ giữa các tăng thân trên thế giới được dễ dàng, các tăng thân địa phương được khuyến khích tổ chức thanh chúng theo thể thức phù hợp với tinh thần của giáo chế Tiếp Hiện. Điều 24: Người Tiếp Hiện trong Chúng Chủ Trì không bắt buộc phải đóng niên liễm, tuy nhiên có thể được khuyến khích đóng góp tùy hỷ dưới hình thức công đức nhằm trợ giúp cho các công việc của dòng tu. Tất cả ngân khoản của dòng tu được bỏ vào một ngân quỹ đặc biệc thuộc "Dòng Tiếp Hiện". Hàng năm, người thủ quỹ soạn thảo và trình bày bản báo cáo tài chánh cho các thành viên của Chúng Chủ Trì. Sau khi trang trải chi phí về tài chánh, ngân quỹ của dòng tu có thể được sử dụng để giúp tăng thân địa Giới Tiếp Hiện Chú Giải
180
phương cấp học bổng cho Tiếp Hiện về dự các khóa tĩnh tu do dòng tu tổ chức hoặc hổ trợ cho các công việc của Tiếp Hiện nhằm làm vơi bớt khổ đau. Điều 25: Các bất động sản của dòng tu cần được cất giữ, bảo trì thể theo luật pháp của quốc gia và địa phương. Để bảo vệ cho những cá nhân đứng ra lãnh trách nhiệm điều hành bất động sản của cộng đồng, tất cả trương mục, ngân quỹ, nhà đất, xe cộ... đều nên được làm kế toán theo quy chế hiện hành. Nếu tăng thân địa phương có giữ ngân quỹ thuộc dòng Tiếp Hiện quốc tế thì trương mục này nên để riêng và biên bản sẽ gửi đến thủ quỹ của dòng tu hàng năm.
Chương VI: Tu chỉnh giáo chế Điều 26: Các chữ và câu trong giáo chế Tiếp Hiện đều có thể trở thành đối tượng của sự tu chỉnh. Như vậy là để giúp cho tinh thần của giáo chế được sinh động trong suốt quá trình lịch sử tu tập của dòng tu. Điều 27: Mười Bốn giới và giáo chế được cứu xét lại trong mỗi kỳ họp đại hội của Chúng Chủ Trì. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
181
Điều 28: Giáo chế này gồm có sáu chương và hai mươi chín điều, được cứu xét và tu chỉnh trong các kỳ đại hội của Chúng Chủ Trì để giáo chế luôn phản ảnh được xã hội trong đó người Tiếp Hiện đang sống. Điều 29: Thể theo truyền thống sinh hoạt trong tăng thân, tất cả mọi tu chỉnh cần thể theo sự trưng cầu và đồng ý chung của mọi người (consensus) chứ không phải chỉ dựa trên đa số (simple majority)
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
182
PHỤ LỤC
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
183
Ý NGHĨA DÒNG TU TIẾP HIỆN
Xem video trực tuyến tại link này
Pháp Thoại Chiều qua, tôi vừa dịch xong câu cuối của kinh Pháp Cú bằng chữ Hán. Ở đây nhiều vị đã từng đọc kinh Pháp Cú dịch từ tiếng Pali nhưng ít người được đọc kinh Pháp Cú dịch từ chữ Hán. Kinh Pháp Cú bằng chữ Hán trong Hán tạng phong phú hơn kinh Pháp Cú bằng tiếng Pali và nhiều hơn tới mười ba chương. Chương một nói về Vô Thường. Câu cuối cùng của kinh Pháp Cú trong Hán tạng viết như sau: “Hình như trên đầu tôi đã bắt đầu có tóc bạc. Hình như tuổi trẻ của tôi đã bị người ta ăn cắp. Hình như thiên sứ đã tới báo cho tôi biết điều đó và có thể tôi phải xuất gia sớm.” Đó là câu cuối của kinh Pháp Cú trong Hán tạng. Hay không? Ai bắt đầu có tóc bạc rồi giơ tay lên. Nếu chưa xuất gia thì nghĩ đến chuyện xuất gia đi. Nếu xuất gia rồi thì tự hỏi mình đã xuất gia thật hay chưa. Chúng ta được sinh ra làm người trên trái đất này là một may mắn lớn. Chúng ta có dịp rong chơi trong Giới Tiếp Hiện Chú Giải
184
cõi địa đàng và nếu chúng ta không biết rong chơi thì đó là một điều rất uổng phí. Chúng ta có một câu thư pháp bắt nguồn từ một câu thơ chữ Hán: “Kim sanh bất bả Di Đà niệm. Uổng tại nhân gian tẩu nhất tao.” Tôi đã dịch sang tiếng Việt như thế này: “Chẳng biết rong chơi miền Tịnh Độ. Làm người một kiếp cũng như không.” Mục đích của mình sinh ra trên cõi đời này là để rong chơi. Rong chơi là quan trọng nhất. Và hình như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng thấy được điều đó, ông viết: “Một chiều đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa.” Phải đi chơi mới được. Chúng ta chỉ cần mở mắt và lắng tai là có thể tiếp xúc được với những gì mầu nhiệm của sự sống. Chim hót, thông reo, hoa nở... Thiên đàng của chúng ta đang có đó, nhưng chúng ta đã để cho ai đó đánh cắp mất tuổi trẻ của chúng ta, để cho tóc ta bây giờ đã bạc. Chúng ta đã tiêu phí thời giờ của chúng ta một cách rất oan uổng. Vì vậy chúng ta phải thức dậy, phải tập sống những ngày còn lại của đời mình một cách sâu sắc. Nếu không thì rất là uổng. “Chẳng biết rong chơi miền Tịnh Độ. Làm người một kiếp cũng như không.” Trong Kinh Pháp Cú chữ Hán cũng bắt đầu bằng một câu rất hay: “Thức dậy, hãy mở lòng hoan hỷ và mỉm miệng cười.” Và mình đã có bài kệ: Thức dậy miệng mỉm cười. Hăm bốn giờ tinh khôi. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
185
Xin nguyện sống trọn vẹn. Mắt thương nhìn cuộc đời.” Năm đức Bổn Sư tám mươi tuổi, Ngài để hết thời gian để đi chơi. Ngài đi xuống miền Nam, đi lên miền Bắc, đi khắp nơi. Và đi tới đâu thì Ngài cũng tận hưởng phong cảnh, địa lý vùng đó. Ngài đi chơi nhưng cũng đi hoằng hóa. Đi hoằng hóa nhưng cũng là đi chơi. Ngài không bỏ phí thì giờ của Ngài. Ngài biết rằng thì giờ của Ngài còn ít cho nên Ngài trân quí những giây phút còn lại của đời mình. Và có thể nói, trong những năm cuối của đức Thế Tôn, Ngài rong chơi rất nhiều. Vua Ba Tư Nặc cũng sinh cùng năm với Đức Thế Tôn, năm đó vua cũng 80 tuổi. Vua thấy Bụt đi chơi nhiều quá nên Vua cũng nổi hứng đi chơi. Thấy Bụt đi chơi với các thầy, các sư cô, vua cũng đem theo một số tùy tùng đi chơi trong vương quốc của mình. Họ là hai người bạn thân thiết. Một người là pháp vương, một người là quốc vương. Hai người trong khi đi chơi đã có cơ hội gặp nhau và đó là buổi gặp gỡ cuối cùng giữa hai người bạn thân. Kinh điển đã ghi lại buổi gặp gỡ đó trong một kinh rất hay gọi là “Pháp Trang Nghiêm Kinh.” Nếu quý vị chưa đọc kinh đó thì nên đọc. Trong đó vua Ba Tư Nặc ca ngợi đức Thế Tôn trước mặt thầy A Nan.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
186
Thiền hành là một pháp môn rất quan trọng của Làng Mai. Thiền hành là đi từng bước chân cho có an lạc, cho có thảnh thơi. Thiền hành là một sự thực tập rong chơi. Chúng ta thường đi như bị ma đuổi. Chúng ta vừa đi vừa nói, nên không thưởng thức được những bước chân của mình. Cho nên, thực tập thiền hành là để học cách làm thế nào thưởng thức được từng bước chân. Khi quý vị uống một ly trà thì quý vị có thể trân quý, nâng niu chén trà và hớp từng ngụm trà với tất cả hạnh phúc của mình. Những người không biết uống trà thì uống ừng ực, uống như uống coca cola. Uống như vậy gọi là "ngưu ẩm", tức là bò uống. Còn người biết uống trà thì uống từng ngụm nhỏ, ngậm mà nghe chất trà nuốt xuống rất là ngọt. Và cố nhiên là có những chén trà nhỏ, nhưng khi nâng chén trà nhỏ đó uống thì trong đó có tình huynh đệ, có sự tỉnh thức, có sự tự do, có an lạc. Một chén trà như vậy làm tỉnh người, đem lại rất nhiều hạnh phúc. Cho nên, trong truyền thống của Làng Mai mới có thiền trà. Thiền trà tức là tập uống trà trong chánh niệm. Chỉ cần một chén trà thôi là có thể đem lại hạnh phúc và tình huynh đệ rất nhiều rồi. Có khi cả giờ đồng hồ chỉ cần uống một chén trà thôi. Khi chúng ta uống trà như vậy, mà khi chúng ta ăn cơm cũng như vậy, chúng ta thưởng thức từng miếng cơm. Chúng ta ăn nhẹ nhàng, thong thả, thưởng thức hương vị từng lá rau thơm, từng miếng đậu hũ. Ăn như thế nào để có hạnh phúc, có tự do. Cách chúng ta Giới Tiếp Hiện Chú Giải
187
ăn rất khác với những con lợn ăn trong chuồng của chúng. Chúng ta ý thức từng cọng rau, từng miếng đậu hũ… Ăn như thế nào để có an lạc, thoải mái, thảnh thơi, có tình huynh đệ. Mỗi ngày hai ba lần chúng ta có cơ hội thực tập như vậy. Ngồi và ăn cơm với nhau là một sự thực tập. Chúng ta không ăn hối hả cho mau xong. Chúng ta ăn như một sự thực tập và ăn cơm như thế nào cho có hạnh phúc, đó cũng là rong chơi. Cũng như khi mình có một ly kem thì mình phải ăn như thế nào để từng thìa kem đem lại sự thích thú và an lạc. Bên Pháp có khi họ quảng cáo yaourt như thế này: “Yaourt này ngon lắm. Hãy ăn chầm chậm thôi để được lâu.” Kiếp người cũng vậy, phải sống cho từ tốn, phải ngậm mà nghe, phải thưởng thức từng giây phút một. Những giây phút mà cuộc đời cho chúng ta để sống, chúng ta phải trân quý, chúng ta phải sống cho sâu sắc, sống cho thảnh thơi. Mà muốn như vậy thì phải học, phải nương vào tăng thân, phải học từ từ mới làm được. Nếu không thì uổng phí một đời. Có ai ăn cắp tuổi trẻ của mình đâu. Tại vì mình không biết sống, không biết trân quý. Chính mình bỏ phí tuổi trẻ của mình đấy chứ. Bây giờ tóc mình đã bạc, sứ giả của thiên đình đã tới báo. Màu trắng trên đầu mình là một tiếng chuông chánh niệm. Nếu mình vẫn tiếp tục sống như vậy thì hình hài này sẽ tan rã rất mau. Cho nên phải tỉnh dậy, phải học sống như thế nào để sau này không tiếc nuối, sống như thế nào để mỗi giây phút của đời Giới Tiếp Hiện Chú Giải
188
sống hàng ngày trở thành một huyền thoại cho con cháu. Tổ tiên mình ngày xưa đã sống được như vậy và bây giờ mình cũng phải sống được như vậy. Trong khóa tu dành cho những người nói tiếng Đức vừa rồi, thiền sinh rất hạnh phúc. Họ rất trân quý thiền hành. Khi thấy tôi hai tay dắt tay hai em bé mà đi trên cỏ xanh với những bông hoa vàng tím, họ thấy rõ được đây là vườn địa đàng, không cần phải đi đâu nữa và mỗi bước chân là một lạc thú. Mình thưởng thức từng bước chân một, giống như mình đang thưởng thức từng ngụm trà hay thưởng thức từng thìa kem. “Đi đâu mà vội mà vàng. Mà vấp phải đá mà quàng phải dây.” Đi như thế nào để mỗi bước chân là một niềm an lạc, là một hạnh phúc. Vì vậy cho nên, pháp môn Làng Mai là đi không nói chuyện. Đi mà nói chuyện thì đâu còn thưởng thức được những bước chân nữa, cũng như vừa ăn vừa nói chuyện thì đâu thưởng thức được thức ăn. Trong đại chúng có những người đi được như vậy, những người ấy thưởng thức được từng bước chân của mình. Những người đó không đánh mất tuổi trẻ, không đánh mất thiên đường của mình. Khi tôi thấy những người học trò của mình đi như vậy tôi rất hạnh phúc. Tôi nói: “Những người này có thể tiếp nối được mình, có thể tiếp nối được Bụt.” Bằng cách đi những bước chân như vậy, mình tiếp nối được sự nghiệp của Bụt, tiếp nối được sự nghiệp của chư tổ, tiếp nối được Giới Tiếp Hiện Chú Giải
189
sự nghiệp của Thầy. Chúng ta có thói quen đánh mất mình. Chúng ta vừa mới nghe hướng dẫn về thiền đi, hướng dẫn về im lặng. Nhưng vừa nghe xong, đi ra ngoài là chúng ta nói chuyện oang oang lên và đánh mất bước chân liền lập tức. Trong khóa tu tiếng Đức diễn ra tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu tại Đức vào tháng 6.2010, số lượng thiền sinh lên tới hơn sáu trăm người. Các thầy các sư cô đã đem hết tấm lòng của mình ra để tổ chức khóa tu. Các thầy, các sư cô và các vị cư sĩ ở đây làm việc rất cần mẫn để phục vụ cho khóa tu, và đã được đền bù lại xứng đáng. Quý vị đã làm đủ thứ: nấu ăn, dọn dẹp, quét tước, đổ rác … bằng tình thương của mình. Chỉ cần niềm vui, hạnh phúc, nụ cười, sự chuyển hóa của thiền sinh là mình được đền bù rất xứng đáng. Khi thấy những người Đức tu tập có hạnh phúc, có chuyển hóa, các thầy các sư cô hạnh phúc lắm. Mình mong muốn người khác được hạnh phúc, nay ước muốn đó đã thành sự thật. Mình rất mong hạnh phúc cho mình, nhưng khi thấy người khác hạnh phúc thì mình còn hạnh phúc gấp bội. Cái mình nhận được lớn hơn cái mình cho đi rất nhiều. Một khóa tu mà có nhiều người thực tập giỏi cùng tham dự thì khóa tu đó dễ thành công lắm. Bởi vì đó là cái vốn. Người thiền sinh mới tới nhìn sang bên trái thấy một người đi rất chánh niệm; nhìn sang bên phải thấy một người khác đi cũng rất chánh niệm, Giới Tiếp Hiện Chú Giải
190
thảnh thơi, an lạc; nhìn phía trước thấy một người khác đi rất chánh niệm, thảnh thơi, an lạc; nhìn ra phía sau cũng có người đi từng bước thảnh thơi, an lạc. Trong hoàn cảnh đó thì người thiền sinh mới chỉ có thể đi tới thôi, không thể nào đi lui được, làm sao có thể đi đứng hấp tấp vội vàng trong khi những người khác đang đi rất chánh niệm? Do đó, khi mình tham dự vào một khóa tu thì mình phải đóng góp phần của mình vào cho khóa tu. Ngoài sự thực tập của mình, mình phải thưởng thức từng giây phút của khóa tu, phải thưởng thức từng hơi thở, thưởng thức từng bước chân, thưởng thức từng nụ cười và đó là sự cống hiến của mình cho bản thân và cho tất cả mọi người khác trong khóa tu. Thầy Pháp Ấn có kể lại chuyện vị linh mục đã tới tham dự khóa tu. Vị đó hết sức ấn tượng tại vì thấy thiền sinh của mình đông như vậy mà rất im lặng, rất chăm chú, khi nghe giảng thì nghe hết lòng, khi pháp đàm thì pháp đàm hết lòng, khi ăn cơm thì ăn trong im lặng. Vị đó cũng ao ước con chiên trong giáo xứ của mình cũng làm được như vậy. Nói thế không có nghĩa là chúng ta đã giỏi. Chúng ta có thể làm hay hơn như thế. Chúng ta có thể đi thiền hành hay hơn. Chúng ta có thể hành trì phương pháp theo dõi hơi thở hay hơn. Chúng ta có thể sử dụng ái ngữ hay hơn. Chúng ta có thể thực tập im lặng hùng tráng hay hơn. Và mình phải công nhận những người Đức trong khóa tu vừa rồi đã thực tập hết lòng. Một phần họ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
191
được các thầy, các sư cô, các vị cư sĩ ở đây yểm trợ; một phần vì họ trân quý thì giờ mà họ có được để tu tập với mình trong năm ngày. Mỗi người Tiếp Hiện, mỗi thành viên của dòng tu Tiếp Hiện phải là một cột trụ, phải là một nguồn cảm hứng. Mầu áo nâu tượng trưng cho sự khiêm cung. Khi chúng ta khoác lên mình chiếc áo màu nâu, chúng ta phải chứng minh được mình là một người khiêm cung. Màu áo nâu ở Việt Nam là màu của nông dân, là màu của khiêm nhường. Màu nâu cũng là màu của sức mạnh đại hùng, đại lực. Sức mạnh thầm lặng. Im lặng nhưng rất hùng tráng. Khi mình mặc lên chiếc áo nâu của người xuất gia, mình phải biểu trưng cho được tinh thần đó – một đức khiêm cung. Mình không cho mình hơn người, không cho mình là có quyền hơn những người khác. Mình có sức mạnh tâm linh và sức mạnh đó không ồn ào mà rất im lặng. Đó là ý nghĩa của màu nâu. Người cư sĩ Tiếp Hiện cũng vậy, khi mặc lên chiếc áo Tiếp Hiện cư sĩ màu nâu là cũng mang theo tinh thần đó. Mang theo tinh thần khiêm cung, mang theo sức mạnh của sự im lặng. Ý nghĩa của chữ Tiếp Hiện Chữ Tiếp Hiện có nhiều nghĩa. Trước hết là chữ Tiếp, chữ tiếp có ba nghĩa: Giới Tiếp Hiện Chú Giải
192
- Nghĩa đầu tiên của chữ Tiếp là tiếp nhận. Mình tiếp nhận từ ai và tiếp nhận cái gì? Mình tiếp nhận từ tổ tiên những cái hay, cái đẹp, những tuệ giác và đức độ. Mình tiếp nhận từ tổ tiên tâm linh giáo pháp nhiệm mầu, hạt giống tuệ giác đó là vốn liếng. Vì vậy cho nên việc làm đầu tiên của người Tiếp Hiện là phải tiếp nhận cho được những cái hay, cái đẹp của tổ tiên trao lại. Ví dụ khi thầy ngồi thỉnh chuông mình có thể học cách thỉnh chuông của thầy. Ấy vậy mà xuất gia được hai, ba năm rồi mà mình thỉnh chuông vẫn chưa được. Tiếng chuông của mình còn chát hoặc bế tắc. Đó là do mình không chịu quan sát để tiếp nhận. Người cư sĩ hay xuất sĩ cũng vậy, khi mình thực sự có mặt đó, khi mình được thân cận Thầy hoặc người anh, người chị trong đạo, thì mình có thể học hỏi rất nhiều, có thể tiếp nhận được rất mau chóng. Cách của Thầy đi, đứng, tiếp xử, đó là Thầy đang trao truyền cho mình, mình chỉ cần quán sát là tiếp nhận được. Mình tiếp nhận được từ Bụt, từ Tổ, từ Thầy, từ những người đi trước. Có khi những người tới sau mình nhưng họ đã tiếp nhận được trước mình và mình phải bắt chước những người đó, phải tiếp nhận, học hỏi từ cả những người nhỏ hơn mình. Tiếp nhận ở đây là tiếp nhận một gia tài, gia tài này không phải là tiền bạc, châu báu, mà là gia tài chánh pháp. Mình hãy thử đặt câu hỏi là mình đã tiếp nhận được bao nhiêu? Thật sự là chư tổ rất muốn cho, rất muốn trao truyền nhưng tại mình không chịu tiếp nhận hoặc Giới Tiếp Hiện Chú Giải
193
không có khả năng tiếp nhận mà thôi. Cũng như nhà thơ Xuân Diệu đã nói rằng: “Cho rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu”, làm phụ lòng người cho. Thành ra sự học hỏi, sự hành trì là một quá trình tiếp nhận. Mình phải có mặt để tiếp nhận và khi đã tiếp nhận rồi thì mình mới tiếp nối được. Vì vậy cho nên nghĩa đầu tiên của Tiếp là tiếp nhận. Mình tiếp nhận rồi thì mình hành trì, sử dụng, nuôi dưỡng. - Nghĩa thứ hai của chữ Tiếp là Tiếp Nối. Tiếp nối ai? Tiếp nối Bụt, tiếp nối Tổ, tiếp nối Thầy, tiếp nối tổ tiên. Một người con có hiếu thảo là một người con tiếp nối được chí hướng của cha ông. Một người học trò có hiếu là một người học trò có thể tiếp nối được sự nghiệp của Thầy. Và nếu mình muốn tiếp nối được thì mình phải tiếp nhận cho được. Tiếp nhận chí nguyện và sự hành trì từ chư Bụt, chư Tổ và từ Thầy. - Nghĩa thứ ba của chữ Tiếp là tiếp xúc. Tiếp xúc với cái gì? Trước hết là tiếp xúc với hiện tại mầu nhiệm, sự sống mầu nhiệm đang có mặt trong mình và chung quanh mình. Nếu không thì uổng cả một đời người. Nhưng muốn tiếp xúc với sự sống thì mình phải có mặt đó mới tiếp xúc được. Tiếp xúc như vậy để được nuôi dưỡng, để được chuyển hóa, để được lớn dậy. Tiếp xúc đây cũng là tiếp xúc với những nỗi khổ niềm đau trong tự thân và nỗi khổ niềm đau có trong hoàn cảnh, gia đình và xã hội của mình. Một khi đã hiểu được những nỗi khổ, niềm đau của bản thân, của Giới Tiếp Hiện Chú Giải
194
gia đình và xã hội rồi thì mình mới biết mình cần phải làm cái gì và không nên làm cái gì để có thể chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau đó. Một mặt là tiếp xúc với những mầu nhiệm để được nuôi dưỡng, thứ hai là tiếp xúc với những khổ đau để hiểu, để thương và để chuyển hóa. Chữ Tiếp có nghĩa như vậy. Chữ Hiện có bốn nghĩa: - Chữ hiện, trước hết có nghĩa là hiện tại. Cái gì đang có mặt là sự sống, cái gì đang có mặt là tịnh độ. Chữ hiện có khi còn dịch là kiến, nghĩa là thấy những gì đang xảy ra xung quanh. - Nghĩa thứ hai của chữ hiện là hiện pháp, là những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Hiện còn có thể dịch là kiến pháp, là những gì mình đang trông thấy trong giây phút hiện tại. Cái mình đang trông thấy là tăng thân, là cây thông, là những cơn mưa, là mặt trời v.v... Tất cả những cái đó mình phải tiếp xúc được. Những khổ đau hiện thực trong cuộc sống là những cái mình đang thấy và mình phải tiếp xúc. Mình không ở trong tháp ngà của sự tưởng tượng, của sự lý luận, của chủ thuyết. Mình phải thực sự tiếp xúc với sự thật, với những mầu nhiệm của sự thật. Và nhờ mình có khả năng tiếp xúc với những gì đang thực sự xảy ra cho nên mình mới thực tập được cái Giới Tiếp Hiện Chú Giải
195
gọi là Hiện Pháp Lạc Trú. Hiện Pháp Lạc Trú là pháp môn sống an lạc từng phút giây trong hiện tại. - Nghĩa thứ ba của chữ hiện là thực hiện, là làm cho mong muốn trở thành ra cụ thể. Sự tu chứng của mình cũng là thực hiện. Ước mơ, chí nguyện của mình là đạt tới tự do. Mình không muốn sống một cuộc đời hệ lụy, nô lệ. Mình muốn có tự do, tại vì chỉ có tự do mới đem lại hạnh phúc thực sự. Cho nên mình muốn xé toang những tấm lưới của sự đam mê, thù hận, ghanh tị đang giam hãm mình. Những chiếc lưới ấy nó đang cuốn lấy mình và mình không muốn kẹt vào những chiếc lưới đó, mình muốn thoát ra. Những vị xuất gia thực tập như những con nai vượt thoát những bẫy sập, tung tăng chạy nhảy khắp bốn phương. Đó là lời khen ngợi của một vị thiên giả khi thấy các thầy, các sư cô rong chơi không bị vướng vào lưới này hay lưới khác. “Như nai thoát bẫy sập. Chạy nhảy chơi bốn phương.” Trong kinh Bụt nói như vậy. Đây là một kinh rất ngắn trong A Hàm. Một mùa hè nọ, có một số các vị xuất sĩ an cư trong một khu rừng. Các vị ngồi thiền, pháp đàm, ăn cơm im lặng… rất hạnh phúc suốt ba tháng trời. Trong khu rừng đó có một số vị thiên giả cảm thấy rất hạnh phúc vì thừa hưởng được sự có mặt của các vị xuất sĩ. Nhưng sau ba tháng an cư, các vị xuất sĩ bỏ đi đâu hết, khu rừng trở nên vắng tanh, rất buồn. Có một vị thiên giả thấy vậy lấy làm buồn và ngồi khóc. Mội vị thiên giả khác hỏi: “Tại sao anh ngồi buồn khóc Giới Tiếp Hiện Chú Giải
196
vậy?”, vị thiên giả kia trả lời: “Tại vì ba tháng vừa qua có một số các vị xuất sĩ an cư ở đây, các vị ngồi thiền, pháp đàm, ăn cơm im lặng… rất bình an và vui quá. Vậy mà bây giờ các vị ấy bỏ đi đâu hết rồi. Họ đi đâu vậy?” Vị thiên giả kia trả lời: “Họ đi Kosala, đi Vaisali, v.v… Họ là những con người tự do, như là những con nai thoát khỏi bẫy sập. Họ chạy nhảy tung tăng khắp bốn phương. Đệ tử của Bụt tự do, hạnh phúc như vậy đó.” Kinh đó là một kinh rất ngắn, trong đó có các câu là: “Như nai thoát bẫy sập. Chạy chơi khắp bốn phương. Tỳ kheo đệ tử Bụt. Thảnh thơi là như thế.” Thực hiện không phải là xây cất một cơ sở. Dù là Viện Phật học ứng dụng Châu Âu cũng chưa phải là sự thực hiện quan trọng nhất. Thực hiện, đó là sự tu chứng. Cái chính của người tu là phải thực hiện sự tự do. Đó là chủ đích, là hướng đi của người xuất gia. Là học trò của Bụt, dù là xuất sĩ hay cư sĩ, mình không muốn sống một cuộc đời hệ lụy, ràng buộc, mình muốn có tự do thì mình phải dụng công thực tập. Chính công phu thực tập hàng ngày đó là giá trị của vị hành giả. Nó giải phóng cho mình thoát khỏi những chiếc lưới của địa vị, danh lợi, tham ái. Cái mình đi tìm là sự giải thoát, tự do. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
197
- Nghĩa thứ tư của chữ hiện là hiện đại hóa, tiếng Anh dịch là actualization. Nghĩa là những pháp môn phải khế cơ, khế lý, phải thích hợp với thời đại. Chữ Tiếp Hiện có nghĩa là như vậy thì làm sao dịch ra tiếng Anh cho được. Thành ra khi dịch sang tiếng Anh mình tạm dịch là Order of Inter-being. Nếu ai không biết tiếng Việt thì phải tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ này. Hai chữ này cũng có gốc Hán – Việt, biết được ý nghĩa hai chữ đó thì biết được bản chất của dòng tu Tiếp Hiện và biết được hướng hành trì của dòng tu Tiếp Hiện. Với những ý niệm đó, mình có thể bắt đầu hiểu được thế nào là đạo Bụt đi vào cuộc đời, đạo Bụt nhập thế, tiếng Anh gọi là "Engaged Buddhism", chứ không phải là đạo Phật của tu viện. Tu viện không phải là một thực tại bị cắt đứt khỏi cuộc đời. Tu viện phải được coi như là một vườn ươm để trồng những cây con. Và khi những cây con đó sống, nó lớn đủ mạnh thì mình sẽ đem ra trồng ở ngoài xã hội. Đạo Bụt có mặt là vì cuộc đời chứ không phải đạo Bụt có mặt vì đạo Bụt. Nếu không có cuộc đời thì không cần đạo Bụt. Sở dĩ có đạo Bụt là vì cuộc đời cần tới đạo Bụt. Cho nên tu viện, trung tâm tu học của mình phải được coi như một vườn ươm. Trong tu viện mình được che chở, mình có những điều kiện để lớn lên. Và khi những cây con đã lớn thì thế nào cũng phải Giới Tiếp Hiện Chú Giải
198
đem ra trồng ngoài xã hội để phục vụ cho xã hội. Đó gọi là đạo Bụt đi vào cuộc đời. Vì vậy, ngay khi ở trong tu viện nó đã có ý đi vào cuộc đời rồi. Và việc học và tu trong tu viện chỉ là sự chuẩn bị để đi vào cuộc đời mà thôi. Tiếp Hiện - cánh tay nối dài Bên Trung Quốc không có chữ "Đạo Bụt nhập thế" nhưng có danh từ "Nhân gian Phật giáo", nghĩa là Phật giáo trong nhân gian. “Nhân gian” là cõi người ta. Trong truyện Kiều có câu : “Trăm năm trong cõi người ta.” Đạo Phật ngay trong xã hội. Danh từ “Nhân gian Phật giáo” cũng là “Phật giáo nhập thế” mà thôi. Ngay từ năm 1930 trở đi, tức là khoảng 80 năm trước, ở Việt Nam đã bắt đầu có phong trào đạo Phật đi vào cuộc đời. Thời ấy, những tạp chí Phật giáo ở Việt Nam đã bắt đầu nói tới “Nhân gian Phật giáo”, “đạo Bụt đi vào cuộc đời”. Khi Tôi lớn lên, khoảng 10 tuổi thì đã được ảnh hưởng loại Phật giáo đó. Mình đọc báo, đọc sách, biết rằng trong quá khứ đạo Bụt đã từng đóng một vai trò khá quan trọng trong việc đem lại hòa bình và bền vững cho đất nước. Mình học lịch sử thì thấy đời Lý, đời Trần đạo Bụt rất hưng thịnh. Từ trên xuống dưới, từ vua tới quan, cho đến người dân đều hành trì đạo Bụt. Đó là sức sống tinh thần, pháp thân của cả một Giới Tiếp Hiện Chú Giải
199
dân tộc, sự thực tập của cả một dân tộc. Không những các vua quan đời Lý tu tập rất giỏi mà các vua đời Trần tu tập cũng rất giỏi. Vị vua đầu tiên đời Trần là Trần Nhân Tông, tuy là một nhà chính trị, ông phải giải quyết biết bao nhiêu vấn đề trong triều, nhưng vẫn hành trì thiền tập và sám hối mỗi ngày sáu thời. Năm 20 tuổi, vua Trần Nhân Tông đã có chí khí tu tập rất lớn. Vua có niềm đau trong lòng. Vượt thoát niềm đau, vua quyết tâm tu tập và đã thành công. Vua học Phật rất giỏi, thực tập thiền quán và đã sáng tác ra những tác phẩm Phật học còn lưu truyền lại cho tới ngày nay. 43 công án thiền và tác phẩm "Lục thời sám hối khoa nghi" của vua chứng tỏ rằng trong cung tuy làm chính trị nhưng vua vẫn dành thời gian để học Phật. Vua hành trì dâng hương, sám hối, ngồi thiền mỗi ngày sáu lần. Cứ sau hai giờ làm việc thì vua ngưng lại và thực tập hai mươi phút rồi tiếp tục làm công việc chính trị. Bây giờ tổng thống Obama có làm được như vậy không ? Nếp sống tâm linh nó nuôi dưỡng mình, giúp mình vững mạnh để có thể làm một nhà chính trị giỏi. Thành ra bây giờ mình đừng nói: “Ôi, tôi bận công việc quá, làm gì có thì giờ ngồi thiền, làm gì có thì giờ đi thiền hành.” Một ông vua mà còn làm được như vậy, thế mà mình lại lấy cớ là công việc nhiều quá không có thì giờ để tu. Đạo Bụt đi vào cuộc đời thật ra không phải là có từ năm 1930, mà nó có từ lâu lắm rồi, trong truyền Giới Tiếp Hiện Chú Giải
200
thống của mình. Đó không phải là một tư trào mới và mình chỉ là sự tiếp nối thôi. Mình đã có những tác phẩm như là "Đạo Phật ngày nay", "Đạo Phật hiện đại hóa", "Đạo Phật đi vào cuộc đời"… Và khi mình hiểu được ý nghĩa hai chữ : "Tiếp" và "Hiện" thì câu chuyện của thầy trò mình thành ra rất đơn giản: Từ Phật giáo nhập thế đi tới Phật giáo ứng dụng. Chỉ có chừng đó thôi. Mình đã có chữ "Đạo Phật đi vào cuộc đời" (Engaged Buddhism) nay mình có thêm chữ "Đạo Phật ứng dụng" (Applied Buddhism). Chữ ‘ứng dụng’ được dùng ngoài đời như là Khoa học ứng dụng (Applied science), hoặc Toán học ứng dụng (Applied Mathematics). Chữ ứng dụng được sử dụng rất nhiều. Khi nói về Tam Bảo, mình giảng cho mọi người hiểu thế nào là Bụt, thế nào là Pháp, thế nào là Tăng thì mình cũng phải chỉ cho người ta cái cách áp dụng giáo lý Tam Bảo vào đời sống hàng ngày. Trong khóa tu tiếng Đức này, mình có một bài giảng về phương pháp ứng dụng giáo lý Tam Bảo. Làm thế nào để thực tập quy y Tam Bảo ? Khi mình tụng: ‘Con về nương tựa Bụt’ hay là ‘Buddha saranam gachami’ thì những cái đó chưa phải là quy y. Những cái đó chỉ là tuyên bố quy y thôi. Mình phải chế tác cho được năng lượng niệm, định và tuệ. Khi năng lượng đó bảo hộ cho mình thì mình mới đang được che chở bởi năng lượng của Tam Bảo, (Bụt, Pháp và Tăng). Giới Tiếp Hiện Chú Giải
201
Cũng như vậy, khi thực tập bài kệ "Quay về nương tựa Hải đảo tự thân Chánh niệm là Bụt Soi sáng xa gần. Hơi thở là Pháp, Bảo hộ thân tâm. Năm uẩn là Tăng, Phối hợp tinh cần." Thì mình phải thực tập thở như thế nào để khi thở ra, thở vào mình chế tác được năng lượng niệm, định và tuệ. Trong khi mình thở ra, thở vào như thế thì mình chế tác được năng lượng của Bụt, của Pháp và của Tăng. Trong lúc ấy mình thật sự đang được che chở bởi Tam Bảo. Rất an toàn ! Những lúc mình chới với, hụt hẫng, bức xúc, không biết làm gì thì đó là những lúc mà mình cần phải quy y, quay về nương náu với năng lượng Tam Bảo. Làm được như vậy thì mình mới thực sự là một người Tiếp Hiện. Mình phải làm sao để có một sự thực tập cho vững chãi. Mỗi khi mình có những khó khăn, mình bị bức xúc hay chới với thì mình biết phải làm gì để lấy lại sự thăng bằng, sự thảnh thơi, sự vững chãi và một trong những phương pháp để thực hiện điều đó là quy y Tam Bảo. Quy y Tam Bảo là một sự thực tập chứ không phải là một lời tuyên bố, một đức tin. Khi Giới Tiếp Hiện Chú Giải
202
mình đang lao đao, nếu nương tựa vào năng lượng của Tam Bảo là niệm, định, tuệ thì mình sẽ vững chãi, sáng suốt trở lại. Trong lúc ấy, mình sẽ biết nên làm gì, không nên làm gì và mình đặt mình trong tình trạng an toàn. Đó là đạo Bụt ứng dụng. Nếu mình nói về Tam Bảo hay cách mấy mà không ứng dụng được thì chưa phải là Phật học ứng dụng mà chỉ mới là Phật học lý thuyết. Ở Tây Phương hiện nay có nhiều trường đại học cấp bằng tiến sĩ Phật học, nhưng Phật học đó không phải là Phật học ứng dụng. Mình có thể giỏi tiếng Tây Tạng, tiếng Pali, Sanskrit, lão thông lý thuyết Tam Tạng kinh điển, nhưng đó mới chỉ là Phật học mà chưa phải là Phật học ứng dụng. Nếu những người có bằng cấp tiến sĩ Phật học khi gặp khó khăn, bức xúc mà không biết làm gì để thoát khỏi tình trạng ấy thì Phật học đó nó không giúp được cho mình. Khi mình giảng dạy Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần… tất cả những giảng dạy đó đều phải áp dụng được vào đời sống hàng ngày, chứ không chỉ có lý thuyết. Chúng ta có thể giảng kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm rất hay, chúng ta có thể phân tích kinh Kim Cương rất giỏi nhưng những cái đó có thể chỉ là những cái nói để thỏa mãn trí năng. Chúng ta phải đặt câu hỏi: Áp dụng kinh Pháp Hoa như thế nào để giải quyết những Giới Tiếp Hiện Chú Giải
203
vấn đề bức xúc, khổ đau, tuyệt vọng của mình? Áp dụng kinh Kim Cương như thế nào? Áp dụng giáo lý Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo như thế nào ? Cái đó mới gọi là Phật học ứng dụng. Vì vậy cho nên quan niệm Phật Học Ứng Dụng đến để bổ túc cho Phật Học Đi Vào Cuộc Đời. Việc học Phật của chúng ta ở trong nước cũng như ở các trường đại học đều rất từ chương, rất lý thuyết. Đó không phải là cái học mà Đức Thế Tôn gửi gắm. Chúng ta phải học Phật Học Ứng Dụng mới được. Học tới đâu thì phải hành tới đó. Là một vị giáo thọ thì thầy, thì sư cô phải cung cấp được Phật học ứng dụng cho những ai tới với mình. Và trong đời sống của mình thì mình phải làm một gương mẫu cho Phật học ứng dụng đó. Mình chỉ dạy cái mà mình đang làm. Mình là một vị cư sĩ, mình là một vị giáo thọ tập sự hay đã được truyền đăng giáo thọ thì mình cũng làm như vậy. Mình không học để khoa trương kiến thức Phật học của mình trong khi pháp đàm, trong khi nói pháp thoại. Mình chỉ nói và chỉ dạy những gì mà mình đang thực sự thực tập. Nếu mình dạy thiền hành thì mình phải thực tập thiền hành thành công tới một mức nào đó rồi mới nên dạy. Còn không thì đừng nên dạy, khoan dạy đã. Đó gọi là thân giáo. Dạy bằng sự sống của mình. Có những vị không thích nói pháp thoại nhưng những vị đó có thể là những giáo thọ rất giỏi vì các vị ấy trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, tiếp xúc, sống với đại chúng rất hài hòa, rất an lạc, rất cởi Giới Tiếp Hiện Chú Giải
204
mở. Đó là những bài pháp thoại linh động. Đó là những viên ngọc quý trong tăng thân. Những người đó không phải chỉ giới hạn trong những vị xuất gia. Trong giới tại gia cũng có nhiều vị tu tập rất giỏi, rất tĩnh lặng, rất bác học. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam có những người như vậy. Các vị ấy là cư sĩ, nhưng cách các vị sống khiến cho các thầy, các sư cô cũng phải kính nể và xem đó như một vị thầy của mình. Cư sĩ Thiều Chửu, tác giả cuốn Hán – Việt từ điển ; cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám… Họ là những người cư sĩ nhưng hành trì rất vững chãi. Họ lên pháp tòa và dạy kinh cho các thầy, các sư cô. Nhưng họ có đầy đủ sự khiêm cung. Cư sĩ Lê Đình Thám mỗi khi lên dạy các thầy, các sư cô thì luôn mặc áo tràng và đảnh lễ các thầy, các sư cô trước rồi mới lên dạy. Các thầy, các sư cô cũng rất cung kính đối với cư sĩ Lê Đình Thám. Ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam đều có những vị cư sĩ như vậy. Và sự thật là các thầy, các sư cô rất cung kính đối với những vị cư sĩ này. Các vị ấy được cung kính không phải bởi vì các vị giàu, hay các vị có quyền năng gì mà các vị được cung kính bởi vì các vị có sự hành trì rất vững chãi. Các vị nói cái mà các vị làm. Theo nguyên tắc không có chướng ngại nào, không có rào cản nào ngăn cách giới xuất gia và giới tại gia tu tập và làm việc chung với nhau. Vì chúng ta có sứ Giới Tiếp Hiện Chú Giải
205
mạng đem đạo Bụt đi vào cuộc đời, làm cho đạo Bụt trở thành hiện thực, có thể ứng dụng được trong mọi trường hợp, cho nên chúng ta rất cần các vị giáo thọ. Vì vậy cho nên dòng tu Tiếp Hiện là một cánh tay nối dài của tăng thân xuất gia để đi vào cuộc đời. Cố nhiên là các thầy, các sư cô – những người xuất gia – cũng đi vào cuộc đời nhưng số lượng các thầy, các sư cô không đủ. Ví dụ như ở Châu Âu, nước nào cũng muốn có khóa tu, ít nhất là mỗi năm phải có một khóa tu và nếu mình thỏa mãn nhu yếu đó của tất cả các nước Châu Âu thì ở làng Mai sẽ không có người tu trì, thực tập. Vì vậy, mình cần có những tăng thân thường trú vững mạnh để làm cơ sở. Tại Làng Mai, Tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu, tại Bích Nham, Lộc Uyển, Thái Lan, … hay các trung tâm khác phải luôn có một tứ chúng vững chãi thực tập quanh năm để làm vốn liếng và nếu gửi đi để tổ chức khóa tu ở các nơi khác thì chỉ một số người nào đó luân phiên đi thôi. Vì vậy, số lượng những người Tiếp Hiện xuất sĩ không đủ mà phải cần thêm rất nhiều những người Tiếp Hiện cư sĩ. Những người Tiếp Hiện cư sĩ là cánh tay nối dài của tứ chúng để dang ra cho xã hội. Mình có nhu yếu có hàng ngàn vị cư sĩ Tiếp Hiện như vậy, để làm việc, để giáo hóa. Và cố nhiên mình không làm công việc của các vị giáo sư Phật học. Mình làm công việc tổ chức tu học và mình phải là mẫu mực của sự tu học. Mình phải nắm vững các Giới Tiếp Hiện Chú Giải
206
pháp môn, nắm vững Phật học ứng dụng. Mình phải có hạnh phúc khi ngồi thiền, phải có hạnh phúc khi đi từng bước chân, phải có hạnh phúc khi thực tập im lặng hùng tráng. Mình phải có khả năng tổ chức một tăng thân tại địa phương và các thành viên trong tăng thân địa phương đó phải sống với nhau cho có hạnh phúc. Tăng thân phải có tình huynh đệ, gây được niềm tin cho người trong tỉnh, trong nước. Là người Tiếp Hiện mình phải làm cho được chuyện đó. Vấn đề không phải là có quyền hay không có quyền, vấn đề không phải mình là giáo thọ hay không phải là giáo thọ. Vấn đề là làm sao để tại cái vùng mình ở có một tăng thân tu tập có hạnh phúc, có tình huynh đệ, ở đó mọi người sống với nhau như anh chị em một nhà, không ai giành quyền hành để làm lớn, người nào cũng biết sử dụng ái ngữ và biết cách lắng nghe nhau. Tại mỗi quốc gia, mỗi thành phố mình đều phải có những tăng thân như thế. Mình phải làm như vậy ở Amsterdam, ở Paris, ở Frankfurt, ở Bruxelles, ở New York, v.v… Ai sẽ làm chuyện đó ? Người Tiếp Hiện cư sĩ ! Các thầy và các sư cô sẽ yểm trợ, có khi đi chung, nhưng chính những người Tiếp Hiện cư sĩ phải làm chuyện đó. Chiếc áo nâu của mình tượng trưng cho sự khiêm cung, tượng trưng cho sức mạnh im lặng. Mình phải xây dựng được một tăng thân tại chỗ, trong đó không có sự tranh giành địa vị, quyền lợi, trong đó có sự nhường nhịn, thương yêu. Chuyện đó là chuyện phải Giới Tiếp Hiện Chú Giải
207
làm. Chuyện này là chuyện của người xuất gia đang làm và có thể làm hay hơn. Và chuyện này cũng phải là chuyện của tăng thân Tiếp Hiện cư sĩ đang làm và phải làm cho hay hơn. Nếu mình đoàn kết với nhau, hòa thuận với nhau, nếu có tình huynh đệ, có hạnh phúc thì tiếng thơm đồn xa và Thầy cũng được thơm lây. Thầy cũng có hạnh phúc thêm. Khi tăng thân Tiếp Hiện cư sĩ đã có hạnh phúc rồi thì làm việc chung với tăng thân xuất sĩ trong sự hòa điệu rất dễ. Người nào có tài năng, có đức độ thì thế nào tăng thân cũng nhận diện ra được và sẽ thỉnh cầu làm những công việc mà tăng thân rất cần người đó làm. Chúng ta có những vị giáo thọ cư sĩ, tập sự giáo thọ cư sĩ và rất nhiều vị cư sĩ rất giỏi khác nữa. Tôi không muốn nói tên của họ, nhưng họ khá im lặng. Họ mở những khóa tu, mở những ngày chánh niệm, giảng dạy rất hay. Họ không tạo ra những xung đột, mâu thuẫn và họ làm hạnh phúc cho rất nhiều người. Hy vọng là trong tương lai chúng ta sẽ có những khóa tu dài ngày cho người Tiếp Hiện để người Tiếp Hiện có thể bồi đắp được sự thực tập của mình, bồi đắp được chí hướng, bồi đắp được hạnh phúc và làm được bổn phận và trách nhiệm mà chư Bụt và chư Tổ giao phó. Chúng ta phải tiếp nhận cho được, phải thực hiện cho được chí nguyện đó. Chúng ta phải biến nó thành sự thật. Nếu tăng thân ở tại địa phương ta vẫn còn ngổn ngang, chưa ngồi lại được, chưa thương yêu nhau Giới Tiếp Hiện Chú Giải
208
được, chưa làm việc được với nhau thì chúng ta chưa thành công. Ai là người có trách nhiệm để làm cho tăng thân đó trở thành một tăng thân đẹp có tình huynh đệ, một tăng thân xứng đáng với tăng thân? – Chính mình! Chính mình là người Tiếp Hiện để làm chuyện đó, chính mình chịu trách nhiệm. Mình không thể nói tại vì người đó như thế đó, tại vì người kia như thế kia. Phải nói là tại vì mình tu chưa giỏi, tại mình chưa đủ khiêm cung, tại mình chưa đủ sức mạnh im lặng. Bên Bỉ cũng vậy mà ở bên Anh, Ý, Hà Lan, Mỹ, Pháp,... cũng vậy. Sứ mạng của chúng ta là tiếp nhận cho được, tiếp thu cho được, tiếp nối cho được và thực hiện cho được hoài bão của Bụt và Tổ. Dòng Tiếp Hiện có nhiều chuyện cần phải làm lắm. Mười bốn giới Tiếp Hiện cần phải tu chỉnh lại. Tất cả những cái hay, cái đẹp của Mười Bốn Giới Tiếp Hiện đã được tiếp thu vào Năm Giới nhưng những cái hay cái đẹp của Năm Giới chưa được Mười Bốn Giới Tiếp Hiện tiếp thu. Năm giới hiện giờ rất hay. Đó là công phu của tăng thân trong suốt hai năm trời. Và Mười Bốn Giới Tiếp Hiện có thể hay hơn. Nó đã hay rồi nhưng có thể hay hơn nữa. Ví dụ giới thứ tư là "tiếp xúc với khổ đau". “Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con phát khởi tâm từ bi và thấy được con đường thoát khổ, con nguyện không trốn tránh thực tại khổ đau, nhắm mắt trước khổ đau và đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống. Con Giới Tiếp Hiện Chú Giải
209
nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những khổ đau hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con biết rằng sự thật thứ tư là đạo đế chỉ hiển lộ khi nào con quán chiếu và thấy được tự tánh của sự thật thứ nhất là khổ đế, và con sẽ luôn luôn nhớ rằng mục đích của sự tu tập là chuyển hóa khổ đau trở thành an lạc.” Đó là "tiếp", tiếp xúc với khổ đau. Chúng ta có nhiều việc phải làm lắm và những công việc này cũng là tu, cũng như một phần của sự tu học. Chúng ta phải có một ủy ban nghiên cứu và tu chỉnh Mười Bốn Giới Tiếp Hiện. Người ta rất khen Mười Bốn giới Tiếp Hiện. Nhưng giới tướng Mười Bốn giới Tiếp Hiện có thể đầy đủ và hay hơn. Trong giới thứ tư, giáo lý Tứ Diệu Đế đã được đưa vào: nếu mình không hiểu được bản chất của khổ đau thì mình chưa thấy được con đường đi tới sự diệt trừ khổ đau. Nhưng trong giới này vẫn còn khiếm khuyết, trong giới nói: "tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con phát khởi tâm từ bi và thấy được con đường thoát khổ". Cái thiếu sót ở đây là có nói tới khổ đau nhưng không nói tới khổ đau của mình trước. Sự thật là khi mình hiểu được nỗi khổ niềm đau của mình, thì mình
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
210
mới có thể thực sự hiểu được nỗi khổ niềm đau của người khác. Thiếu sót là ở chỗ đấy. "Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình ảnh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những khổ đau hiện thực khắp nơi trên thế giới." Ở đây chỉ nói tới việc tìm tới với những kẻ khổ đau để giúp đỡ họ, đồng thời tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về tình trạng khổ đau trên thế giới bằng những âm thanh, hình ảnh, tường thuật... Những việc này trên thế giới đã làm cả rồi. Nhưng việc nhận diện những khổ đau trong bản thân mình và quán chiếu vì sao mà những khổ đau đó có mặt thì trong giới chưa nói tới. Điểm yếu của con người hiện tại là trốn tránh khổ đau của chính mình. Mình có những nỗi khổ niềm đau nhưng mình không có can đảm để nhận diện, trở về để quán chiếu mà lại đi khỏa lấp niềm đau bằng cách tiêu thụ, bằng cách sử dụng âm nhạc, báo chí, tiểu thuyết và internet. Mình sử dụng những thứ đó không phải vì mình thực sự cần, mà chỉ vì không muốn tiếp xúc với khổ đau trong tâm mình. Đó là vì mình đã không thực tập chữ "tiếp". Mình muốn tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống nhưng mình cũng phải tiếp xúc với Giới Tiếp Hiện Chú Giải
211
những khổ đau của bản thân. Mình phải tìm cho ra được gốc rễ của những nỗi khổ niềm đau trong chính mình. Và khi hiểu được nỗi khổ niềm đau của chính mình rồi thì mình mới thấy được phương pháp diệt trừ. Cũng như hiểu được những khổ đau của mình rồi thì mình sẽ không làm cho người khác khổ đau nữa. Đây là điểm thiếu sót của giới này mà mình phải tu chỉnh lại. Cũng như thương yêu, nếu mình không thương được mình, không chăm sóc được cho mình thì làm sao mình thương yêu, chăm sóc được cho người khác. Phải hiểu mình trước, trước khi mình có thể hiểu được người khác. Phải thương mình trước khi mình có thể thương được người khác. Nếu không, cái thương đó sẽ đưa mình tới hầm hố. Thầy đã nhờ một số vị nghiên cứu, đề nghị lập ra một đại hội Tiếp Hiện để tu chỉnh lại 14 Giới Tiếp Hiện, trong đó có sư cô Châu Nghiêm, sư cô Tùng Nghiêm, sư cô Định Nghiêm, thầy Pháp Lưu… Có những giới mà ta có thể gộp giới làm một để nhường không gian cho một giới mới. Những giới như là giới thứ : 1,2,3,5,11,14 đều có thể tu chỉnh lại và làm cho hay hơn. Như giới thứ nhất nói về thái độ cuồng tín, cố chấp đưa tới chiến tranh, khổ đau thì mình sẽ bổ sung thêm: vì có cái nhìn lưỡng nguyên, không có cái nhìn bất nhị nên có sự kỳ thị nguyên nhân đưa tới cuồng tín, cố chấp và thiếu bao dung. Hiện giờ không những trong những lĩnh vực xã hội, Giới Tiếp Hiện Chú Giải
212
trong lĩnh vực luân lý đạo đức mà cả trong lĩnh vực khoa học, thì vấn đề về cái nhìn lưỡng nguyên cũng là một trở ngại lớn. Sự tách biệt giữa Tâm và Vật như hai cái có mặt độc lập với nhau, sự phân biệt chủ thể và đối tượng là hai cái tách rời ra khỏi nhau. Điều đó không những trong chính trị, trong xã hội, trong tâm lý người ta bị kẹt mà ngay trong khoa học cũng bị kẹt. Vì vậy cho nên giới thứ nhất, mình phải đưa vào tuệ giác bất nhị. Tuệ giác bất nhị đánh tan được sự kỳ thị, sự cố chấp, sự phân biệt. Trong Năm Giới mình đã làm được chuyện này. Vì vậy, trong khi tu chỉnh Mười Bốn Giới, mình phải học hỏi thêm từ Năm Giới. Năm Giới hiện giờ rất hay. Thành ra, tất cả những gì có trong Năm Giới mà chưa có trong Mười Bốn Giới thì mình phải đưa vào Mười Bốn Giới. Mình đã đem những tinh hoa của 14 Giới bổ sung vào Năm Giới, thì mình cũng có thể đem những tinh hoa của Năm Giới mà bổ sung vào những chỗ còn thiều của 14 Giới. Năm giới hiện nay giống như Bồ Tát giới. Chỉ cần thực tập Năm giới thôi là đã có hạnh phúc rất nhiều rồi, đã có thể là một vị Bồ Tát rồi. Giới Tiếp Hiện ban đầu được thành lập là một hình thức của giới Bồ Tát. Trong truyền thống Việt Nam, khi các thầy, các sư cô nhận giới Ba La Đề Mộc Xoa là phải nhận thêm giới Bồ Tát. Nhưng nhận giới Tiếp Hiện thì không cần nhận giới Bồ Tát nữa, giới Tiếp Hiện rất hiện đại. Giới Tiếp Hiện được coi như giới Bồ Tát của chúng ta.
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
213
Trong 45 năm hành đạo và thuyết pháp, Bụt đã thay đổi rất nhiều phương pháp giảng dạy, và hành trì. Chúng ta cũng phải vậy. Bánh xe pháp mỗi ngày một đi tới. 30 năm lịch sử và hành đạo của làng Mai chứng tỏ rằng chúng ta luôn đi tới, luôn phát kiến những pháp môn mới, những cách giảng dạy mới có ích lợi hơn, có hiệu quả nhiều hơn. Vì vậy chúng ta không nên bằng lòng với giới tướng của Mười Bốn giới bây giờ. Chúng ta phải có một đại hội Tiếp Hiện để tu chỉnh, để phê duyệt sự tu chỉnh đó. Chúng ta có một ban nghiên cứu để tu chỉnh Mười Bốn Giới Tiếp Hiện nhưng tu chỉnh xong chúng ta phải có một đại hội Tiếp Hiện để chấp nhận. Và Mười Bốn giới Tiếp Hiện ít nhất phải hay bằng Năm Giới mới, hoặc hy vọng là hay hơn. Đây là công việc của mình. Đứng về phương diện khoa học kỹ thuật, mỗi năm người ta đều chế tạo ra những máy tính mới, những solfware mới. Đứng về phương diện sách giáo khoa cũng vậy, mỗi năm có những sách giáo khoa mới. Thì trong đạo Bụt mình cũng thế, phải có những tiến bộ, phải đẩy bánh xe tiến hóa đi về phía trước thì đạo Bụt mới có thể đóng được vai trò lãnh đạo tâm linh. Những cái này dòng tu Tiếp Hiện phải biết. Mình phải biết mình đang đứng ở phía trước, phải đẩy bánh xe đi tới và chư Bụt, chư tổ đang trông chờ mình làm chuyện đó. Sáu người đầu tiên nhận giới Tiếp Hiện vào năm 1966, tới nay đã là bao nhiêu năm rồi? Qua thời gian, Giới Tiếp Hiện được tu chỉnh lại mấy lần và bây giờ nó cần phải được tu chỉnh một lần nữa. Giới Tiếp Hiện Chú Giải
214
Chúng ta có rất nhiều Phật sự phải làm và chúng ta phải làm những Phật sự đó trong tinh thần tu tập, coi đó như là đối tượng của sự tu học của mình chứ không phải là công việc và chúng ta phải có niềm vui khi làm những chuyện đó. Chúng ta phải có năng lượng, phải có sức sống của chánh pháp. Thầy tới tuổi này mà vẫn còn năng lượng. Thầy vẫn tiếp tục dịch kinh và Thầy nghĩ rằng càng ngày Thầy càng dịch kinh dễ hiểu hơn. Thầy có rất nhiều niềm vui trong khi dịch kinh, trong khi giảng dạy, trong khi thực tập, trong khi đi thiền hành, trong khi hướng dẫn cho những người tu tập. Vấn đề ở đây là vấn đề năng lượng. Nếu mình cảm thấy mình không có năng lượng là vì mình thiếu nguyện lực. Mình muốn làm cái gì đó cho quê hương, cho đất nước, ông bà, xã hội… Mình phải có lý tưởng. Phải có một nguyện lực. Phải có một niềm tin. Những người trong chúng ta – xuất gia hay tại gia – mà không thấy hăng hái lắm trong sự tu học, không chịu học, không chịu tu là những người đó thiếu sức sống của chánh pháp, thiếu nguyện lực, thiếu một khối lửa trong trái tim. Mỗi người Tiếp Hiện phải có một khối lửa trong trái tim, nó cung cấp sức sống, nó đẩy mình đi tới. Và khi mình đi tới như vậy thì mình có hạnh phúc. Dù là mình đang quét nhà cho đại chúng, đang nấu ăn cho đại chúng, tưới rau, dọn cầu tiêu… mình vẫn có hạnh phúc vì mình có một nguyện lực, có một chủ đích. Cái đó không phải là danh lợi, địa vị mà là tình Giới Tiếp Hiện Chú Giải
215
thương lớn, để trở thành sự tiếp nối xứng đáng của Bụt, của Tổ, của Thầy. Thầy Làng Mai giảng ngày 11.6.2010 tại Học Viện Ứng Dụng Châu Âu
Giới Tiếp Hiện Chú Giải
216