CHUYÊN ĐỀ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (TÁC GIẢ NGUYỄN MINH CHÂU) (HỆ THỐNG CÁC ĐỀ CƠ BẢN)

Page 1

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI THPT QG MÔN NGỮ VĂN

vectorstock.com/28062412

Ths Nguyễn Thanh Tú eBook Collection DẠY KÈM QUY NHƠN EBOOK PHÁT TRIỂN NỘI DUNG

CHUYÊN ĐỀ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (TÁC GIẢ NGUYỄN MINH CHÂU) (HỆ THỐNG CÁC ĐỀ CƠ BẢN, MỘT SỐ ĐỀ THI THEO XU HƯỚNG RA ĐỀ ĐỔI MỚI HIỆN NAY) WORD VERSION | 2021 EDITION ORDER NOW / CHUYỂN GIAO QUA EMAIL TAILIEUCHUANTHAMKHAO@GMAIL.COM Tài liệu chuẩn tham khảo Phát triển kênh bởi Ths Nguyễn Thanh Tú Đơn vị tài trợ / phát hành / chia sẻ học thuật : Nguyen Thanh Tu Group Hỗ trợ trực tuyến Fb www.facebook.com/DayKemQuyNhon Mobi/Zalo 0905779594


CHUYÊN ĐỀ: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (TÁC GIẢ: NGUYỄN MINH CHÂU) I. Tác giả chuyên đề. ……………………….. II. Đối tượng học sinh bồi dưỡng. - Lớp 12 - Số tiết bồi dưỡng: 9 tiết. Nội dung

STT

Số tiết

- Một số đề tái hiện kiến thức và bài tập đọc 1

hiểu - Nghị luận một số vấn đề xã hội đặt ra trong

2 tiết

tác phẩm văn học - Nghị luận văn học – đề trọng tâm: 2

+ Phân tích tình huống truyện.

3 tiết

+ Cảm nhận nhân vật người đàn bà hàng chài. + Cảm nhận nhân vật Phùng. 3

- Một số đề thi theo hướng mới năm 2018;

3 tiết

năm 2019 - Gợi ý các đề vận dụng và nâng cao: 3

+ Đề 5: Phân tích hình tượng chiếc thuyền

1

ngoài xa.

tiết

+ Đề 6: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm III. Mục tiêu chuyên đề. 1. Về kiến thức - Cảm nhận được cái nhìn thấu hiểu, trĩu nặng tình thương và nỗi âu lo, trăn trở đối với số phận con người con người của tác giả. - Giá trị thẩm mĩ và những chiêm nghiệm, triết lí về nhân sinh và nghệ thuật của nhà văn gửi gắm qua tác phẩm. 1


- Cảm nhận được vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm: Sáng tạo tình huống, xây dựng nhân vật, điểm nhìn trần thuật, hình ảnh biểu tượng, lời văn giản dị mà sâu sắc, dư ba,… 2. Về kĩ năng: + Huy động những hiểu biết về thể loại truyện ngắn, tri thức về tác giả, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm… để đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. + Vận dụng những kiến thức và kĩ năng đã học để đọc những truyện ngắn hiện đại Việt Nam; viết đoạn văn hoặc bài văn nghị luận về tác phẩm; rút ra những bài học về cuộc sống. 3. Về thái độ: + Có ý thức hoàn thiện bản thân, có tình yêu đối với cái đẹp, đấu tranh cho lẽ phải trong cuộc sống. + Có cái nhìn đa diện, đa chiều trước hiện thực cuộc sống. + Có tình yêu đối với thiên nhiên, tình yêu đối với gia đình. 4. Định hướng góp phần hình thành các năng lực: - Năng lực sử dụng ngôn ngữ: - Năng lực thẩm mĩ. - Năng lực tư duy sáng tạo - Năng lực giải quyết vấn đề - Năng lực tự quản lí bản thân - Năng lực tự học. IV.Hệ thống (phân loại, dấu hiệu nhận biết đặc trưng) các dạng bài tập đặc trưng của chuyên đề.

1. Dạng đọc hiểu văn bản. Dấu hiệu nhận biết: Thường bắt đầu bằng các từ: Xác định?; Trình bày; chỉ ra; ý nghĩa; Theo tác giả; Theo anh chị; Anh/ chị hiểu thế nào? Anh/chị có đồng tình không? Vì sao? Thông điệp? ….

2. Viết đoạn văn nghị luận xã hội: Một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Dấu hiệu nhận biết: Viết đoạn văn Nghị luận xã hội khoảng 200 chữ.....

3. Dạng nghị luận văn học: + Một số dạng bài thường gặp: 2


- Nghị luận nhân vật văn học. - Nghị luận đoạn trích trong tác phẩm. - Nghị luận so sánh: hai đoạn văn; hai hình tượng.... + Dấu hiệu nhận biết: Cảm nhận; phân tích.... V. Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề. 1. Tái hiện kiến thức. a. Tác giả - Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) xuất thân từ một gia đình nông dân ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. - Năm 1944, Nguyễn Minh Châu học trường Kĩ nghệ Huế. Đầu năm 1950, đang học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng, ông gia nhập quân đội, theo học Trường Sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến năm 1958, Nguyễn Minh Châu công tác và chiến đấu ở Sư đoàn 320, bắt đầu viết văn từ 1954. Năm 1962, ông về phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn Nghệ quân đội. Năm 1975, Nguyễn Minh Châu tham gia giải phóng Quảng Trị, Huế, Sài Gòn, vừa bám sát các đơn vị, vừa viết. Ông rất am hiểu đời sống và tâm hồn người chiến sĩ, thực tế khắc nghiệt và hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Từ năm 1980 trở đi, ông đi đầu trong khuynh hướng đổi mới văn học sau chiến tranh: nghĩ và viết nhiều về “đời thường”, về những vấn đề bức xúc đằng sau những chiến công, những vấn đề xã hội, về số phận và phẩm cách con người trong thực trạng phức tạp của đất nước (Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” - Nguyên Ngọc). - Hành trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia thành hai giai đoạn: + Trước những năm 80: tác phẩm của ông mang khuynh hướng sử thi thiên về trữ tình lãng mạn. + Những năm cuối đời: ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. - Nguyễn Minh Châu đã được tặng các giải thưởng: Giải thưởng Bộ quốc phòng, 1984-1989; Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1988 - 1989 (cho tập truyện Cỏ lau, 1989); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. - Tác phẩm chính:

3


+ Truyện ngắn: Tuyển tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lau (1989). + Tiểu thuyết: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Những người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987),… b. Tác phẩm. - Xuất xứ: In trong tập truyện ngắn cùng tên, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987. - Hoàn cảnh sáng tác: + Hoàn cảnh hẹp: Viết năm 1983 là truyện ngắn in đậm phong cách tự sự, triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. + Hoàn cảnh rộng: Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã kết thúc. Đất nước thống nhất trong nền độc lập, hoà bình. Cuộc sống với “muôn mặt đời thường” đã trở lại sau chiến tranh. Nhiều vấn đề của đời sống văn hoá, nhân sinh, mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. Nhiều quan niệm đạo đức phải được nhìn nhận lại trong tình hình mới, nhiều yếu tố mới nảy sinh nhất là khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, nhiều yếu tố mới nảy sinh nhất là khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới… Như một tất yếu khách quan, văn học cũng phải đổi mới do những tác động của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội 2. Nội dung a. Hai phát hiện của người nghệ sĩ. - Một cảnh đắt trời cho – cảnh chiếc thuyền hiện lên trong biển sớm mờ sương. - Cảnh tượng phi thẩm mĩ, phi nhân tính. Trào lên trong người nghệ sĩ những cảm xúc mạnh mẽ, ngỡ ngàng, ngơ ngác trước một hiện thực “như trong câu chuyện cổ đầy quái đản”. b. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện. - Người đàn bà bị đánh đập thô bạo, dù được sự giúp đỡ của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng nhưng nhất quyết không bỏ chồng. - Chị không hề cam chịu một cách vô lí; không nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời: vì cuộc sống, vì những đứa con.

4


Nghệ sĩ Phùng nhận thấy cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, ngang trái và ngộ ra nhiều điều về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. c. Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”. - Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai. Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy người đàn bà đó đang bước ra khỏi tấm ảnh. Đó là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật, là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật đằng sau bức tranh. - Gửi gắm của nhà văn: Hãy rút ngắn những khoảng cách giữa nghệ thuật và hiện thực. Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời. Người nghệ sĩ cần phải trung thưch, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực, vào số phận của mỗi con người. 3. Nghệ thuật - Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về một chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật. - Cách triển khai cốt truyện sáng tạo; khắc họa nhân vật sắc sảo; giọng kể thủ thỉ, trầm tĩnh; lời văn giản dị mà sâu sắc, dư ba… VI. Hệ thống các phương pháp cơ bản: Dạy học đối với một tác phẩm truyện, nhất là một truyện ngắn sau 1975 là việc làm đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho học sinh cảm nhận, thấy hết những vẻ đẹp về nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời, qua các trải nghiệm thú vị đọc, viết, nói, nghe sẽ giúp người dạy phát triển các năng lực chung, năng lực môn học cho học sinh. Ở bài học này, tôi đã vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sau: 1. Dạy đọc – hiểu: Dạy đọc – hiểu hướng đến việc cung cấp cho HS cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho HS năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc – hiểu của HS phải được thực hiện theo trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, trải qua các giai đoạn từ đọc đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Dạy cách đọc – hiểu văn bản nghệ thuật, GV cần hướng dẫn HS đọc – hiểu theo đặc trưng thể loại. Các nhiệm vụ cơ bản của người học khi đọc – hiểu: 5


- Tìm kiếm thông tin từ văn bản. - Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối…thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản. - Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản. - Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại văn bản khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống. 2. Xây dựng hệ thống câu hỏi gợi dẫn thảo luận kết hợp với phương pháp giảng bình. - Hệ thống câu hỏi gợi dẫn vừa theo mạch tư duy lôgic: đi từ điều đã biết đến cái chưa biết, từ dễ đến khó, đồng thời gởi mở theo quy luật tiếp nhận văn chương đi từ những xúc cảm, trăn trở, thể nghiệm đến liên tưởng, chiêm nghiệm, nhận thức,...; từ lớp nghĩa bề nổi đến tầng nghĩa sâu xa của văn bản nghệ thuật. - Kết hợp giảng bình của giáo viên và tạo cơ hội cho học sinh được giảng bình khi hứng thú. Giảng bình vốn là phương pháp không thể thiếu để làm nên sự truyền cảm, chất văn, thổi “lửa” cho mỗi giờ học văn. - Những điểm sáng HS cần giảng bình trong Chiếc thuyền ngoài xa: + Chi tiết người đàn ông đánh vợ tàn nhẫn + Chi tiết người đàn bà câm lặng, nhịn nhục chịu đựng đòn roi + Những hình ảnh biểu trưng và sự thức nhận đau đớn về bao giá trị sống của nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu. Cùng với việc xây dựng tình huống là những hình ảnh biểu trưng có sức gợi, sức kết lắng ý nghĩa tư tưởng lớn. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, những hình ảnh biểu tượng ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa và chính những hình ảnh này kết lắng và chứa đựng chủ đề tư tưởng tác phẩm. 3. Dạy tích hợp: Dạy học tích hợp lấy chủ thể người học làm xuất phát điểm và đích đến, trong đó tích hợp là việc tổ chức nội dung dạy học của giáo viên sao cho học sinh có thể huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó lại hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, từ đó phát triển được những năng lực cần thiết. Trong môn học Ngữ văn, dạy học tích hợp là việc tổ chức các nội dung của các phân môn văn học, tiếng Việt, làm văn trong các bài học, giúp HS từng bước nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong việc tiếp nhận và tạo lập các văn bản thuộc các kiểu loại và phương thức biểu đạt. Phương pháp tích hợp không 6


chỉ có tác dụng củng cố kiến thức cũ và định hướng giáo dục tư tưởng, lối sống còn cho người hoc. Để HS có cái nhìn liên hệ, so sánh, tìm kiếm vẻ đẹp chung, sự sáng tạo riêng và hình thành cho HS năng lực tư duy, suy cảm thẩm mĩ, khi dạy Chiếc thuyền ngoài xa chúng tôi thường tích hợp với những vấn đề sau: - Kiến thức lịch sử đời sống trước và sau 1975. - Giá trị và hạn chế của văn học giai đoạn 1945 – 1975, tinh thần đổi mới văn học sau 1975, một số tác phẩm cùng cảm hứng luận đề của Nguyễn Minh Châu sau 1975 như Bức tranh, Bến Quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,... - Những tác phẩm văn học có ý nghĩa tuyên ngôn nghệ thuật đã học và sẽ học như Vũ Như Tô, Chữ người tử tù, Đàn ghi ta của Lorca,... - Lí luận về bản chất, đặc trưng của văn học nghệ thuật. Tùy theo hiện trạng tâm lí, tính cách, kiến thức vốn có và năng lực tiếp nhận, hứng thú tiếp nhận của đối tượng học sinh cụ thể để triển khai những nội dung trên có hiệu quả.. 4. Thảo luận nhóm Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan trọng ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận phải là đề tài có tính phức hợp, có vấn đề, cần huy động sự suy nghĩ, hợp tác của nhiều người trong giải quyết vấn đề. Những vấn đề có thể gợi mở cho học sinh thảo luận khi đọc – hiểu Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu: - Hai phát hiện của Phùng (Tìm điểm giống và khác của hai bức tranh hiện thực khi chiếc thuyền ở xa và khi vào gần;...) - Những chuyển biến về nhận thức của Phùng và Đẩu - Ý nghĩa chi tiết “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông voà bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt” (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu), liên hệ với chi tiết “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt – Kim Lân).

7


- Ý nghĩa chi tiết Tấm ảnh nghệ thuậttrong bộ lịch năm ấy…, liên hệ với hình ảnh Cửu Trùng Đài trong “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (Trích Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng). Tùy vào từng đối tượng học sinh cụ thể, lượng thời gian cho phép và tính chất, mức độ vấn đề thảo luận để giáo viên lựa chọn thảo luận cặp đôi, cặp 3, nhóm trung bình (4 – 6 HS), nhóm lớn (8 – 10 HS). 5. Phương pháp đóng vai: Đóng vai là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh thực hànhđể trình bày những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “vai giả định”. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được từ vai của mình. Phương pháp đóng vai giúp HS rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. Đặc biệt phương pháp này rất có hiệu quả trong việc phát triển năng lực thẩm mĩ cho HS: Gợi hứng thú và chú ý cho học sinh; HS hình thành kĩ năng giao tiếp, có cơ hội bộc lộ cảm xúc; Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh; Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực; Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. Đọc - hiểu văn bản Chiếc thuyền ngoài xa, HS có thể đóng vai: - Đóng vai nghệ sĩ Phùng: Nhà văn đã trao điểm nhìn trần thuật cho Phùng, nhân vật – người kể chuyện. Người kể chuyện đóng vai nhân vật nhảy vào các biến cố, tham gia trực tiếp vào các diễn biến của cốt truyện, rồi kể lại cho bạn đọc nghe. Đóng vai Phùng, HS như đang kể lại chuyện mình trực tiếp chứng kiến, trực tiếp tham gia vào biến cố câu chuyện (săn tìm được cảnh đắt trời cho – chiếc thuyền ngoài xa; chứng kiến cảnh bạo lực gia đình – chiếc thuyền khi ở gần; nói chuyện với Phác – đứa con; đánh lại gã chồng để tránh đòn cho người đàn bà; nghe lời trần tình, giãi bày của người đàn bà ở tòa án huyện; hình ảnh Phùng một mình anh lang thang dọc bờ biển với bao câu hỏi nhức nhối… …). Từ đó, các em trình bày những suy nghĩ và cảm nhận của mình, suy nghĩ sâu sắc hơn. - Đóng vai người đàn bà; đóng vai chánh án Đẩu,… Rõ ràng, khi nhập tâm vào nhân vật, hiểu rõ về nội dung tác phẩm, học sinh không chỉ thẩm thấu kiến thức, liên hệ rộng hơn về tác giả mà còn gắn kết những câu 8


chuyện ngoài đời. Đó chính là sự gắn kết giữa tác phẩm văn học với chất “Đời” gần gũi, từ đó nó giúp học trò hiểu thêm về cuộc sống đa chiều, cùng những giá trị tốt đẹp khác phải nâng niu, vun xới từng ngày. Đóng vai, hóa thân là phương pháp hữu hiệu để học sinh thực sự sống với tác phẩm, với những rung động, suy nghĩ, trăn trở của nhân vật, người kể chuyện, nhà văn. Qua đó để học sinh cùng liên tưởng, tái tạo, đồng sáng tạo cùng tác giả. Đó chính là sự phát triển năng lức thẩm mĩ ở mức độ cao cho người học. VII. Bảng các mức độ nhận thức Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

Câu 1: Nêu hoàn

Câu 1: Nêu ý nghĩa

Câu 1: Phân

– So sánh các

cảnh sáng tác của

nhan đề của truyện

tích tình huống

phương diện nội

truyện

ngắn “Chiếc

thuyền

truyện

trong

dung, nghệ thuật

ngắn “Chiếc

ngoài

xa”?

truyện

ngắn

giữa

thuyền ngoài xa”?

Câu 2: Hình ảnh bãi

“Chiếc

thuyền

Câu 2: Xác định

xe tăng hỏng có ý

ngoài xa” của

hoặc

nhân vật trung tâm

nghĩa như thế nào?

Nguyễn

phong cách tác

của

ngắn

Câu 3: Lí giải thái độ

Châu?

thuyền

và hành động của nhân

Câu

2:

xa”?

vật Phùng trong truyện

tích

nhân

Câu 3: Nêu tình

khi chứng kiến cảnh

người

huống của truyện

người đàn ông đánh vợ

hàng chài trong

ngắn “Chiếc

trong

truyện

truyện

ngắn

thuyền ngoài xa”?

ngắn “Chiếc

thuyền

“Chiếc

thuyền

Câu

ngoài

truyện

“Chiếc ngoài

đoạn

4: Trong đầu

truyện

ngắn “Chiếc

minh

các

tác

phẩm cùng đề tài thể

loại;

giả. Phân

đàn

- Phân tích hình

vật

tượng

thuyền ngoài xa” trong

“Chiếc truyện

ngắn cùng tên của

Nguyễn

ngoài xa” của

Minh Châu?

Câu 4: Vì sao người

Nguyễn

- Phân tích giá trị

đàn bà hàng chài thay

Châu

xa”?

Minh

nhân đạo trong

Câu

3:

xa”, khi nhìn thấy

từ “con”sang “chị” khi

tích

nhân

cảnh chiếc thuyền

Phân

tác phẩm Chiếc

vật

thuyền ngoài xa

giao tiếp với Phùng và

nghệ sỹ nhiếp

– Nguyễn Minh

lưới vó ẩn hiện

Đẩu ở tòa án huyện?

ảnh Phùng trong

Châu?

trong biển sớm mờ

Câu 5: Vì sao người

truyện

ngắn

- Một số dạng

sương,

đàn bà hàng chài lại xin

“Chiếc

thuyền

thuyền

ngoài

nghệ

đổi

cách

xưng

9

đối

chiếu

so


Phùng có thái độ và

chồng đánh bà ở trên

ngoài xa” của

hành động như thế

bờ:

Nguyễn

nào?

a. Vì con cái đã lớn.

Châu.

Câu 5: Người đàn

b. Vì trên thuyền quá

Câu 4: Sự biến

bà hàng chài đưa ra

chật

đổi nhận thức

nhiều

c. Vì đánh trên thuyền

của

không bỏ chổng,

thì không thể chạy trốn

Phùng và chánh

theo em, câu nào

được.

án Đẩu trong tác

không phải là lý do

d. Đánh trên bờ sẽ có

phẩm.

người can thiệp.

- Một số đề

do

đưa

ra?

hẹp.

sánh.

Minh

nghệ

a. Cuộc đời người

KTĐG

theo

đàn bà vùng biển

hướng đổi mới

cần có người đàn

năm 2018; 2019.

ông để chèo chống khi

phong

ba.

b. Người đàn bà hàng chài phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như

trên

đất

được. c. Gia đình người đàn bà hàng chài cũng có những giây phút

hạnh

phúc.

d. Người đàn ông chỉ đánh vợ khi thấy khổ quá. VIII. Hệ thống các đề cơ bản 1. Đọc hiểu Đề 1. Tóm tắt truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu? 10


Theo yêu cầu của trưởng phóng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ ra tay can thiệp… Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh. Đề 2: Trong đoạn cuối truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, nhân vật nghệ sĩ Phùng mỗi khi ngắm kĩ và nhìn lâu hơn tấm ảnh do mình chụp thường thấy hiện lên những hình ảnh nào? Những hình ảnh đó nói lên điều gì? - Những hình ảnh xuất hiện: + Bức ảnh mà nghệ sĩ Phùng chụp được là một bức ảnh đen trắng, ghi lại hình ảnh chiếc thuyền đang từ từ tiến vào bờ trong màn sương sớm tại một làng chài miền trung. Bức ảnh hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người. + Tuy nhiên, khi “ngắm kĩ” bức ảnh, anh lại thấy hiện lên “cái màu hồng của ánh sương mai”. Và nếu “nhìn lâu hơn”, nghệ sĩ nhiếp ảnh nhận ra hình ảnh “người đàn bà đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kêch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.” - Ý nghĩa của các hình ảnh đó: Những hình ảnh ấy có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, thể hiện chủ đề tư tưởng của các phẩm. Nó nói lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: cuộc sống chính là khởi nguồn cảm hứng sáng tạo, là chất liệu cho sự sáng tạo của 11


người nghệ sĩ đồng thời, cuộc sống, con người cũng chính là đích đến, là mục đích cao nhất của nghệ thuật. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ. Đề 3: Trình bày hoàn cảnh sáng tác của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu? Viết năm 1983 là truyện ngắn in đậm phong cách tự sự, triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Mở rộng: “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời ba năm trước thời điểm 1986 - mốc mà bất cứ một nhà văn Việt Nam, XHCN nào cũng phải nhớ, như là năm khai sinh và tái sinh con đường nghệ thuật của mình, ít nhất là về tư thế cầm bút, họ được tự do. Nguyễn Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại văn học đổi mới. Bắt đầu từ Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tăng dần độ rung chấn vào cơ địa văn đàn đương thời, dự báo một cuộc bung trào bung nham đổi mới triệt để của văn học nghệ thuật những năm sau đó. Đề 4: Trình bày ý nghĩ nhan đề tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu? Nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh sống của gia đình người đàn bà hàng chài. Ở đó, ngoài vợ chồng họ còn có cả một đàn con. Cuộc sống khó khăn, đói kém, nơi ở chật chội,… làm con người thay đổi tâm tính. Trước đây, anh là một người hiền lành, lấy chị - một người đàn bà xấu xí nhưng hết sức chăm lo cho cuộc sống gia đình; đông con, khó kiếm ăn, cuộc sống túng quẫn là nguyên nhân làm cho người chồng trở nên cục cằn, thô lỗ và biến vợ thành đối tượng của những trận đòn. Những cảnh tượng đó, những thân phận đó nếu nhìn từ xa, ở ngoài xa sẽ không thấy được. Nhưng chính vì ở ngoài xa nên con thuyền mới cô đơn. Đó là sự đơn độc của con thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc sống, đơn độc của con người trong cuộc đời. 12


Chính sự thiếu gần gũi, sẻ chia ấy là nguyên nhân của bế tắc và lầm lạc. Nghệ sĩ Phùng đã chụp được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm – một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một chân lí của sự toàn thiện. Chiếc thuyền là biểu tượng của sự toàn mĩ mà chiêm ngưỡng nó, anh thấy tâm hồn mình trong ngần. Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia, anh đã kinh ngạc… và vứt chiếc máy ảnh xuống đất. Anh nhận ra rằng, cái đẹp ngoài xa kia cũng ẩn chứa nhiều oái oăm, ngang trái và nghịch lí. Nếu không đến gần thì chẳng bao giờ anh có thể phát hiện ra. Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu…đó cũng là cách nhìn, cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính. Đề 5. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mối nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn : Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ ! Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn. Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.” (Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) 1. Nêu những ý chính của đoạn văn trên? 2. Xác định những phương thức biểu đạt trong đoạn văn trên? 3. Viết một đoạn văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh (chị) về tâm trạng và hành động của nhân vật xưng tôi trong đoạn văn ? Gợi ý trả lời: Câu 1 – Người đàn ông đánh người đàn bà dã man. – Người đàn bà cam chịu một cách nhẫn nhục. – Tâm trạng và hành động của nhân vật tôi. Câu 2 . Các phương thức biểu đạt : – Tự sự: kể lại những sự việc mà nhân vật tôi chứng kiến. – Miêu tả: hành động, tâm trạng của các nhân vật. – Biểu cảm: bộc lộ cảm xúc của các nhân vật. 13


Câu 3 Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau : – Tâm trạng kinh ngạc vì sự việc diễn ra quá bất ngờ và ngoài tưởng tượng của nghệ sĩ Phùng. – Hành động xuất phát từ tình yêu thương con người của người nghệ sĩ. (lưu ý : Với câu 1 và 2, thí sinh có thể viết thành đoạn văn hoặc trình bày các ý theo cách gạch đầu dòng ; với câu 3, thí sinh phải viết thành một đoạn văn hoàn chỉnh thì mới đạt điểm tối đa). 2. Đề nghị luận xã hội: Đề 1: Từ truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, anh/chị hãy phát biểu suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình. 1. Đặt vấn đề: Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường…” Quan điểm nghệ thuật đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” , một tác phẩm với giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong đó, vấn đề bạo hành gia đình là một vấn đề nổi cộm trong tác phẩm, được tái hiện một cách đầy đau xót và nhức nhối. 2. Giải quyết vấn đề: Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” viết về những trải nghiệm của Phùng trong chuyến đi thực tế ở một vùng biển miền Trung. Ở đây, anh đã ngỡ ngàng nhận ra khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống khi chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng bạo hành và khi lắng nghe những lời tâm sự của bà về cuộc đời. Bạo hành gia đình là hành động hành hạ về tinh thần lẫn thể xác giữa những thành viên trong gia đình. Đó là vấn đề nghiêm trọng từ xưa đến nay, diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng không phải ai cũng có can đảm lên tiếng chống lại nó. Cảnh tượng bạo hành được tái hiện trong tác phẩm thông qua những hình ảnh khi người chồng đánh vợ một cách thô bạo: “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két” vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” Đứa con thương mẹ đã chạy ra cứu bằng cách đánh trả lại cha. Nó “dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của người đàn ông, nhưng lão đã “dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát” Người mẹ cam chịu, nhẫn nhịn khi bị chồng đánh, giờ đây lại ứng xử lạ lùng: miệng mếu máo gọi con rồi “ôm chầm lấy nó, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”, rồi “buông đứa trẻ thật nhanh, đuổi theo người đàn ông”. 14


Có thể thấy được rằng, bạo hành gia đình được biểu hiện thông qua hành động đánh đập vợ con, de dọa, sử dụng những từ ngữ bạo lực nhằm trút hết nỗi căm giận của người đàn ông. Và cảm xúc, hành động của người mẹ cùng đứa con cũng tiêu biểu cho nhiều gia đình trong thực tế đời sống, khi mà người con thì sinh ra uất hận với cha, còn người vợ thì cam chịu, nhẫn nhịn. Tuy vậy, bạo hành gia đình ở cuộc sống ngoài kia lại có nhiều gương mặt, có nhiều hình hài hơn, và thậm chí còn tàn nhẫn hơn. Đó không chỉ là tra tấn về thể xác, mà còn là tra tấn về mặt tinh thần. Những sự lạnh nhạt, lời nói tựa dao găm còn gây tổn thương hơn nhiều những vết sẹo trên cơ thể. Bạo hành gia đình có thể xảy ra giữa vợ và chồng, cha mẹ với con cái... Nó diễn ra muôn hình vạn trạng, nhưng đều gây tổn thương cho nạn nhân. Vậy, nguyên nhân của bạo lực gia đình đến từ đâu? Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, người đàn bà đã tâm sự: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối...” Theo bà, tất cả là vì “khổ”, vì nghèo đói. Còn trong cuộc sống, nó bao gồm cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan có thể là vì người bạo hành được sinh trưởng trong một môi trường có vấn đề, họ chịu nhiều tổn thương từ thuở bé, dẫn đến tính cách bạo lực. Hoặc cũng có thể là vì hoàn cảnh sống quá khổ, khiến bạo hành như một cách để họ trút nỗi tức giận sau khi uống rượu, quên đi thực tại. Nhưng quan trọng hơn cả là ở lý do chủ quan, vì bản thân người bạo hành không thể làm chủ được mình, họ ích kỷ, họ quên đi cảm nhận của người khác. Họ đổ lỗi, trốn tránh thực tại, và từ đó họ làm tổn thương cả gia đình. Bạo hành gia đình dẫn đến nhiều hậu quả tồi tệ, nó khiến cho bao gia đình tan vỡ, khiến cho những người vợ, những đứa con... bị tổn thương, chịu những vết sẹo trong tâm hồn. Trong tác phẩm, Phác là đứa con của gia đình người đàn bà hàng chài, cậu bé thương mẹ mình vô cùng, nhưng không ai có thể biết trước rằng liệu cậu có trở thành một phiên bản nhỏ của cha mình hay không. Cậu có thể sẽ ám ảnh đến suốt cuộc đời. Nghiên cứu cho thấy, những vụ tự tử xảy ra đến phần nhiều từ lý do gia đình, khi mà nạn nhân phải gánh chịu sự bạo hành tinh thần lẫn thể xác từ các thành viên trong gia đình. Vậy, phải làm thể nào để có thể hạn chế được nạn bạo hành gia đình? Trong tác phẩm, dù Phùng và Đẩu có thuyết phục thế nào, người đàn bà cũng không chịu li dị. Từ đó, ta thấy được rằng, nếu muốn cho bất cứ lời khuyên, sự vận động, lời kêu gọi nào, chúng ta cũng đều phải thấu hiểu nỗi lòng của họ. Trước tiên, cần giáo dục mọi người ngay từ khi còn ngồi trong nhà trường. Quan trọng hơn cả, là nhà nước cần đưa ra những biện pháp, nâng cao môi trường sống, chất lượng sống của nhân dân. Cải thiện được cuộc sống của nhân dân, cũng là ngăn chặn nạn bạo hành gia đình. Đối với cá nhân, mỗi người 15


cần có sự bình tĩnh, nhìn nhận bản thân, cố gắng không nói những lời tổn thương, gây ra những hành động tàn bạo đối với các thành viên trong gia đình. 3. Đánh giá lại vấn đề: Có thể nói, Nguyễn Minh Châu là nhà văn không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã đặt ra một vấn đề nghiêm trọng trong xã hội: nạn bạo hành gia đình. Tác phẩm chính là tiếng chuông cảnh tỉnh cho mỗi người trong chúng ta, để cùng nhau xóa bỏ nạn bạo hành gia đình. Đề 2. Qua câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, anh chị có suy nghĩ gì về nạn bạo hành trong gia đình những vùng quê nghèo hiện nay Ai đã đọc tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu hẳn không thể nào quênđược hình ảnh người phụ nữ hàng chài tảo tần, chịu nhiều sương gió, cực khổ. Vì những gánhnặng của cuộc sống, vì tình thương dành cho con cái, vì mưu sinh, khát khao hạnh phúc màngười đàn bà đó phải chịu cảnh sống bị đánh đập tàn nhẫn với số phận thật trớ trêu và đầynghịch lí. Trong xã hội hiện đại, dù đã khác và tiến bộ rất nhiều hơn trước đây nhưng nạn bạohành gia đình vẫn xảy ra và làm nhức nhối trong dư luận. Bạo hành trong gia đình có rất nhiều kiểu, nó có thể là ngược đãi một thành viên trong gia đình hoặc với hộ gia đình. Nó làm ảnh hưởng đến con người về mặt vật chất lẫn tinh thần.Những hành động dã man đó là kiểu đối xử mất hết tính người và tình người, có thể xem nhưmột tệ nạn xã hội phải loại trừ. Nó xâm phạm đến quyền con người của các thành viên khác,những hành động đó không thể tha thứ. Các nạn nhân của nạn bạo hành thường là phụ nữ,người già và trẻ em, người tàn tật… những người yếu đuối và đôi khi phải sống phụ thuộc vàongười đàn ông, trụ cột của gia đình. Họ không thể tự lực để sống một cuộc sống riêng vì như ta đã biết trình độ học vấn của dân ta hiện nay cũng chưa thể nói là cao, phần đông lao độngchưa học quá lớp 9, để có thể kiếm cái ăn họ phải làm thuê, làm mướn, và cũng vì lẽ đó mà những người yếu đuối kia luôn bị lệ thuộc vào những kẻ có “trái tim sắt đá”. Họ luôn phải dựa vào sức lao động của người khác để có thể tồn tại. Từ mối quan hệ không thể tách rời đó đã tạo nên gánh nặng mưu sinh, gây đè nặng tâm lí và luôn tạo ra sự căng thẳng trong các mối quan hệ trong gia đình, đó cũng là khởi nguồn cơ bản của nạn bạo hành trong gia đình. Điều thứ hai ta có thể thấy là ở cơ chế thị trường của xã hội hiện nay, đồng tiền ngày càng được coi trọng “có tiền mua tiên cũng được”. Dường như câu nói đó ngày càng in sâu vào nhận thức của một số người. Trong tâm trí họ lúc nào cũng chỉ nghĩ đến một mục đích duy nhất là làm sao có tiền, có thật nhiều tiền để sống thật sung sướng và hạnh phúc. Họ làm tất cả mọi việc để có được tiền và bất kì hành động nào cũng nhằm đạt nhu cầu thỏa mãn vậtchất. Cũng từ đó đã tạo nên bao sự dở khóc dở cười cho những 16


người xung quanh họ, một khi con người ta đã đánh mất chính mình, quên đi những tình cảm của người thân xung quanh và mê muội vì tham vọng. Khi không đạt được mục đích của mình họ đâm ra cáu gắt, tức giận và đổ lỗi cho người thân của mình, và rồi là những hành vi đối xử ngược đãi bạo tàn. Lí do thứ ba của tệ nạn này ở sự tha hóa về đạo đức, lối sống, sự suy đồi trong nhận thức và suy nghĩ của một số người. Họ quên đi những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, bị lấn át và cám dỗ trước những thứ xa hoa, phù phiếm, lối sống lai căng làm họ đánh mất đi giá trị của bản thân mình. Vì họ không còn coi trọng đạo đức nên tất cả những hành động sai trái và mang tính bạo lực với họ chỉ là chuyện thường. Và như đã nói, trình độ dân trí của nước ta hiện nay vẫn còn rất thấp. Vì vậy mà người dân không thể biết đến các quyền như quyền con người, bảo vệ con người và cả luật đối với nạn bạo hành trong gia đình. Đồng thời những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu vẫn luôn ngự trị trong nhận thức của họ, với tư tưởng người đàn ông là người duy nhất có quyền hành trong gia đình đã tác động lớn đến suy nghĩ và hành động của con người. Đó là nguyên nhân cơ bản thứ tư của nạn bạo hành trong gia đình. Trong hoàn cảnh kinh tế của một nước đang phát triển, bên cạnh đời sống có phần nâng cao thì vẫn còn không ít những khó khăn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân, đặt biệt ở vùng quê nghèo khó và chính điều này làm nảy sinh nạn bạo hành trong gia đình. Trường hợp của chị Trần Thị T (thôn Văn Hà, xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình) lập gia đình năm hai mươi tuổi. Đã hơn mười năm qua, chị chưa một ngày được hưởng hạnh phúc từ mái ấm đó.Chồng chị là kẻ nát rượu. Chị kể: “Anh ấy chỉ về nhà khi đã say mềm. Hôm sau anh ta lại đòi tiền đi uống rượu. Không đưa tiền thì anh ta đánh đập, chửi bới, đập phá nhà cửa. Nhà tôi cấy một mẫu ruộng, nhưng anh ta chẳng giúp được tí nào. “Bạc mặt” ở ngoài đồng, về nhà lại lăn vào làm việc nhà, nhiều lúc tôi không gượng nổi. Có hôm vừa thấy tôi đi làm về, anh ta đã lao vào đánh đấm túi bụi đến thâm tím mặt mày. Con cái anh ta cũng chẳng tha, đánh mẹ rồi quát đến con. Hai đứa con cứ nhìn thấy bố là khóc thét. Xấu hổ với xóm làng, nhiều lúc tôi muốn chết đi cho rảnh nợ, nhưng nghĩ thương con nên phải cố gắng sống. Số phận mình đãthế thì phải chịu thôi…”. Hay gần hai tháng nay, tại thôn Lương Quy, xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh (Hà Nội), cụ Nguyễn Thị Lý, 83 tuổi và chị Oanh, con gái cụ phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Ngôi nhà nơi mẹ con cụ Lý đang ở đã bị hai con trai là anh Hùng và anh Dũng phá tường, dỡ mái. Bàn thờ gia tiên và chiếc giường ngủ hàng ngày của cụ Lý cũng bị đập phá tan tành... Những sự việc trên đã gây bức xúc trong dư luận xã hội, đó là những con sâu mọt phá hoại nền nếp và đi ngược với giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. 17


Những nạn bạo hành đó gây tác động xấu đến sự phát triển của xã hội, làm cho cuộc sống của xã hội ngày càng trở nên bất an, bởi lúc nào cũng có người bị đánh đập, hành hạ một cách rất dã man. Nó ảnh hưởng đến vấn đề tâm sinh lí của người bị hại, họ không thể sống như bao người bình thường khác mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, bị hành hạ và đè nặng trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Bạo hành gia đình làm cho cuộc sống xã hội bất an, phá vỡ nét đẹp truyền thống của dân tộc trong tình nghĩa, đánh mất những nét đẹp trong lối sống và đạo đức của dân tộc. Làm cho trật tự xã hội bị phá vỡ, luân thường đạo lí bị xem nhẹ. Hạnh phúc gia đình bị tan vỡ, tình cảm lục đục, cha con, vợ chồng, mẹ con… những giá trị tình cảm đó dần mất đi và rồi khiến gia đình bị suy sụp. Rồi từ đó lại có bao mảnh đời bất hạnh, trẻ em lang thang vì không thể sống chung với gia đình lúc nào cũng bị hành hạ, người già neo đơn và thậm chí phải bỏ nhà ra đi vì sự lạnh nhạt của con cái, rồi gánh nặng xã hội lại đè nặng, bao nhiêu số phận kêu cứu. Sự rối loạn cũng một phần được bắt đầu từ đây. Là một con người của xã hội hiện đại và phát triển, mỗi chúng ta không được phép khoanh tay đứng nhìn mà phải đấu tranh, lên án, phê phán những hành vi đó và quyết tâm loại trừ chúng ra khỏi cuộc sống văn minh này. Mỗi công dân cần tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tuyên truyền và giáo dục người dân về luật pháp có liên quan đến bạo hành trong gia đình. Chúng ta cần giang tay giúp đỡ những nạn nhân của tệ nạn này. Điều quan trọng hơn cả là tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, không đi theo con đường xấu, biết làm chủ bản thân, tiếp thu và làm theo những tư tưởng tiến bộ. Dường như nhìn được thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một vấn đề mà cả thời của ông lẫn thời nay đều đang xảy ra. Truyện đã phản ánh phần nào về thực trạng nạn bạo hành. Đó là một điều đau xót và là những cái nhọt của xã hội. Chúng ta cần có cách sống phù hợp và tiến bộ, có ý thức trách nhiệm để góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh và phát triển, lên tiếng để đấu tranh cho quyền của con người và chống nạn bạo hành trong xã hội 3. Đề nghị luận văn học: 3.1 Dạng đề truyền thống Đề 1: Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn minh Châu? 1. Đặt vấn đề: - Giới thiệu tác giả.

18


- Tác phẩm là một minh chứng tiêu biểu, thể hiện những nhận thức mới mẻ của Nguyễn minh Châu trong cách nhìn hiện thực. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. 2. Giải quyết vấn đề: a. Tình huống truyện. - Giải thích khái niệm: + Tình huống truyện là "cái tình thế xảy ra truyện", là "một khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc", là cái "khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người" (Nguyễn Minh Châu). + Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh và môi trường sống, qua đó, nhân vật bộc lộ tâm trạng, tính cách, hay thân phận của nó góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm. - Tình huống trong tác phẩm: + Theo đề nghị của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch cuối năm. Anh đã bắt gặp cảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong làn sương sớm đẹp như tranh vẽ. Anh nhanh chóng bấm máy và có được bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật. + Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng đã chứng kiến một cảnh tượng không đẹp của đời sống. Hai vợ chồng hàng chài bước xuống, người chồng đánh vợ, đứa con ngăn bố. Những ngày sau, cảnh đó lại tiếp diễn. Phùng không thể ngờ rằng sau những cảnh đẹp như mơ lại là bao ngang trái, bao nghịch lí của đời thường. b. Các nhân vật với tình huống Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. - Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên vai cặp vợ chồng. Người chồng trở thành kẻ vũ phu: Khi mới rời thuyền, người đàn ông “lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng bạc phếch và rách rưới” của người đàn bà nhưng chỉ đến khi hai người đã đi khuất sau chiếc xe rà phá mìn “to lớn gấp đôi xe tăng” thì lão mới “lập tức trở nên hùng hổ”. Lão đánh vợ thường xuyên “3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng” và trong khi “trút cơn giận dữ như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà” thì

19


giọng lão lại “rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. - Người vợ cam chịu một cách nhẫn nhục, lạ lùng: Chị “không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”. Người đọc băn khoăn: phải chăng là do chị ta bị đòn nhiều quá đến mức quen rồi, không còn biết đau là gì nữa, hay là do tăm tối, ngu muội nên chẳng còn chút ý thức đến quyền sống của mình? Hay việc bị đòn bất đắc dĩ cũng là một tính toán, một lựa chọn không thể khác của chị ta trong hoàn cảnh con đông mà cuộc sống lênh đênh trên mặt nước đầy những nhọc nhằn, bất trắc? Tuy nhiên, vì thương con nên chị nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của chồng. Song chị không hề biết mình đã làm tổn thương tâm hồn đứa con. - Cậu bé thương mẹ, bênh vực mẹ, thành ra căm ghét cha mình. Khi chứng kiến cảnh tượng người bố đánh mẹ mình, cậu bé Phác “giận dữ căng thẳng”, “nhảy xổ” vào “giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực” người bố. - Chánh án Đẩu tốt bụng nhưng lại đơn giản trong cách nghĩ. Anh khuyên người đàn bỏ chồng là xong. Anh hào hứng, say mê và tin tưởng vào giải pháp của mình. Cái lí lẽ của pháp luật và lí lẽ của trái tim làm cơ sở, chỗ dựa vững vàng để anh tự tin, chủ động và ngạo nghễ mà không biết chị cần một chỗ dựa kiếm sống để nuôi con khôn lớn. c. Ý nghĩa của tình huống * Ý nghĩa khám phá, phát hiện của tình huống: - Khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống và con người. + Ở ngoài bãi biển: ~ Phát hiện ra một cảnh đắt trời cho trên mặt biển sớm mờ sương mà cả đời bấm máy anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần. ~ Nhưng ngay sau đó, người nghệ sĩ lại phát hiện một sự thực trớ trêu và đầy nghịch lí như trò đùa quái ác của cuộc sống. + Trong toà án huyện là nghịch lí: người đàn bà hàng chài van xin để toà cho chị được sống cùng người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời chị đã giúp cho nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu “ngộ ra được những chân lí sâu sắc, éo le của cuộc đời”. - Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con. - Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại ở rất gần. 20


~ Người đàn bà: Không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. ~ Người đồng đội cũ – chánh án Đẩu: Anh có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng với mọi đối tượng. ~ Chính mình: Mình đơn giản khi đã nhìn nhận cuộc đời và con người. * Tình huống truyện góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm: - Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cộng đồng. - Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ, cảm thông của tác giả đối với những số phận khổ đau, tủi nhục của những người lao động vô danh, đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. 3. Kết bài: - Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống, một tình huống nhận thức. - Tình huống truyện này đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc đời, khẳng định cái nhìn đa diện, nhiều chiều về đời sống, gợi mở những vấn đề mới cho sáng tạo nghệ thuật. Đề 2: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu 1. Đặt vấn đề: - Nguyễn minh Châu (1930 – 1989) thuộc lớp nhà văn chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Sau năm 1975, ông chủ yếu tiếp cận đời sống ở góc độ thế sự. Các nhà nghiên cứu đánh giá ông là một trong những cây bút tiên phong “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. - Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn minh Châu sáng tác năm 1983, sau đưa vào tập truyện ngắn cùng tên xuất bản năm 1987. 21


- Nêu vấn đề: Đây là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu trong thời kì đổi mới. Tác phẩm thành công trên nhiều phương diện trong đó đáng chú ý là nghệ thuật xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài - một nhân vật đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. 2. Giải quyết vấn đề: a. Tình huống để nhân vật xuất hiện. “Chiếc thuyền ngoài xa” được khai thác từ một tình huống độc đáo: + Theo đề nghị của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch cuối năm. Anh đã bắt gặp cảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong làn sương sớm đẹp như tranh vẽ. Anh nhanh chóng bấm máy và có được bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật. + Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng đã chứng kiến một cảnh tượng không đẹp của đời sống. Hai vợ chồng hàng chài bước xuống, người chồng đánh vợ, đứa con ngăn bố. Những ngày sau, cảnh đó lại tiếp diễn. Phùng không thể ngờ rằng sau những cảnh đẹp như mơ lại là bao ngang trái, bao nghịch lí của đời thường. Từ tình huống này tác giả dẫn người đọc đến với thế giới nhân vật trong tác phẩm với những chân dung và tính cách khác nhau: một người nghệ sĩ đã từng là chiến sĩ đi tìm cái đẹp với những phát hiện bất ngờ, một vị chánh án cũng đã từng vào sinh ra tử đối diện với cái chết, một người chồng vũ phu, độc ác, một đứa bé thương mẹ bằng một thứ tình yêu thơ dại, trong sáng nhưng cũng không ít đắng cay…Trong số đó, nhân vật người đàn bà có lẽ là nhân vật để lại nhiều dư vị xót xa, cay đắng, cảm phục trong lòng người đọc. b. Số phận nhân vật. - Người đàn bà vùng biển trong truyện ngắn hiện lên qua cái nhìn của Phùng – người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã tình cờ chứng kiến những bi kịch gia đình của chị. Chị không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là “người đàn bà” một cách phiếm định. Có lẽ đây là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn. Cách gọi tên nhân vật như vậy vừa cụ thể nhưng lại vừa khái quát, vừa phiếm định nhưng lại vừa xác định.

22


- Chị là một người phụ nữ lao động lam lũ ở làng vạn chài, cả nhà sống lênh đênh trên một chiếc thuyền đánh cá. - Chị là một người phụ nữ đau khổ – nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu đói nghèo, chị thường xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những mảnh đời tăm tối cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta. c. Ngoại hình. Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một người phụ nữ có ngoại hình thô kệch, xấu xí, gợi sự liên tưởng cho người đọc về một người đàn bà với cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như tất cả những người người đàn bà ở vùng biển – nơi mà con người ta luôn phải đối diện với hiểm nguy, cuộc sống luôn phải đặt trong vòng vây của sự đói khát, bấp bênh. d. Phẩm chất, tính cách - Sức chịu đựng ghê gớm: Cam chịu, nhẫn nhục chịu để chồng đánh một cách bình tĩnh như thực hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình, chấp nhận nó như cuộc sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với sóng to, gió lớn vậy. - Rất tự trọng. Sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (Phùng) chứng kiến, chị thấy “đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Và chị đã khóc. - Thương chồng: Chị cầu xin vị chánh án đừng bắt mình phải li hôn với gã chồng thường xuyên hành hạ chị: “Con lạy quý toà… Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. - Chị là người mẹ thương con: + Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con cho bố ruột mình nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng mỗi lần đánh chị thì lên bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử rất nhân bản. + Chị nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng vì chị nghĩ đến đàn con: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình 23


như ở trên đất được!”. Hoá ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không thể thiếu một người đàn ông trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được nuôi nấng, phải được lớn lên,… - Chị là một người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt. + Chị xưng hô: quý toà - con tự nhận mình là thân phận thấp hèn. Khi chánh án Đẩu khuyên chị bỏ chồng. Chị cảm ơn Phùng và Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của những người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Chị quả rất hiểu lẽ đời. + Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ hàng chài. Họ biết mình đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn con được dưỡng nuôi, khôn lớn. Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như những người phụ nữ khác, do hoàn cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sống trên sóng nước, gia đình nào cũng trên dưới chục đứa con. Câu chuyện của chị ở toà án huyện đã mang lại cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng những nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới. - Chị yêu thương gia đình và cuộc sống đạm bạc của gia đình. Như chị nói: trên thuyền cũng có những lúc cha con, vợ chồng vui vẻ với nhau, nhất là khi nhìn đàn con được ăn no. Chính vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng chị đã nhất định không chấp nhận. Chị là người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh. e. Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc về hình ảnh ngừơi đàn bà bằng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con hơn tất cả mọi thứ trên đời. 3. Kết bài: Khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh vùng biển, nhưng người đọc không khỏi băn khoăn, day dứt. Vấn đề dặt ra là làm thế nào để số phận những người phụ nữ như người đàn bà kia thoát khỏi những bi kịch của cuộc đời? Bằng việc khắc hoạ rõ nét chân dung người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tinh thần nhân văn: Thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu, lòng thông cảm, phải có niềm tin vào cuộc đời. 24


Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Phùng trong tác phẩm 1.Đặt vấn đề: Giới thiệu tác phẩm - Giới thiệu nhân vật : - Phùng trước kia là một người lính, đã từng vào sinh ra tử. - Phùng đựơc trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh để làm lịch. Và Phùng quyết định về vùng biển cách Hà Nội 600 km. 2. Giải quyết vấn đề: a.Giới thiệu chung: Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm kể về tình huống của nghệ sỹ Phùng khi anh chụp bức tranh cảnh biển tại một bãi biển miền Trung. Tại đây anh phát hiện bức tranh thiên nhiên đẹp mà trong cuộc đời cầm máy anh chưa bao giờ thấy. Nhưng đằng sau bức tranh ấy là cả một sự thật nghiệt ngã về cuộc sống của một gia đình hàng chài. Cảnh người chồng vì đói nghèo thất học đã xem việc đánh vợ là phương thức giải tỏa cho những khổ đau cho mình. Rồi ở tòa án huyện anh đã cứng kiến câu chuyện đầy cảm động của người đàn bà hàng chài khiến anh ngộ ra bao điều tốt đẹp về tiếp cận cuộc sống. b.Nội dung phân tích: +Phùng - một trái tim nghệ sĩ thăng hoa trước cái đẹp. - Anh đã săn tìm ảnh nghệ thuật về cảnh biển. Anh rất công phu trong việc chọn một tấm ảnh có hồn. Anh đã “phục kích” mất mấy buổi sang và cả tuần lễ suy nghĩ và tìm kiếm. Và cuối anh mới tìm được một cảnh ưng ý. - Một khoảnh khắc khám phá phát hiện ra cái đẹp của thiên nhiên tạo vật- con người: xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của chiếc thuyền lúc bình minh. một khám phá chân lí của nghệ thuật đích thực. một vẻ đẹp toàn bích của tạo vật. “… Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tui trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”. +Phùng - một trái tim nghệ sĩ trước cuộc đời 25


- Phùng chứng kiến cảnh lão đàn ông vũ phu trên chiếc thuyền chài đánh vợ một cách tàn bạo. Người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng. Phùng “kinh ngạc”, “há mồm ra mà nhìn” và anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Trước khi là trái tim nghệ sĩ, Phùng có một trái tim con người. Phản xạ của anh trước sự kiện trên là phản xạ tự nhiên của con người có bản chất thiên lương, tốt đẹp: căm ghét cái xấu, sự bất công, bảo vệ kẻ yếu. - Với trái tim nghệ sĩ, Phùng đã thức tỉnh. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời thì lại rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, đừng mượn danh nghệ thuật mà vô trách nhiệm vơí cuộc đời. Bởi lẽ nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với một con người. - Phùng chứng kiến cảnh chị em thằng Phác phản ứng trước hành động vũ phu tàn bạo của cha đối với mẹ. Phùng cũng đã chứng kiến câu chuyện người đàn bà kia ở toà án huyện. - Nhận thức về cuộc đời, về nghệ thuật của Phùng sau chuyến đi đã có sự thay đổi ở mỗi người trong cõi đời. Nhất là người nghệ sĩ không thể đơn giản và dễ dãi khi nhìn nhận mọi vấn đề trong cuộc sống và nhìn nhận con ngưòi. c. Nghệ thuật: - Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. - Ngôn ngữ người kể chuyện:Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo nên một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật giàu sức thuyết phục. - Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. Lời văn giản dị, sâu sắc mà đa nghĩa. 3. Kết bài - Khái quát những nét chính về nhân vật, nêu ý nghĩa hình tượng nhân vật Phùng. - Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật của NMC. Dạng đề nghị luận văn học theo xu hướng ra đề đổi mới hiện nay: năm 2018; năm 2019.

26


Đề 1: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng nhân vật Phùng qua những phát hiện của anh (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Từ đó liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô qua đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài – trích Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng (Ngữ văn 11, tập 1, NXB giáo dục Việt Nam,2016) để làm rõ quan niệm về nghệ thuật và cách nhìn nhận cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu. a. Biết cách làm bài văn nghị luận về một đoạn trích văn xuôi. Xác định đúng vấn đề nghị luận; bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, diễn đạt tốt; chữ viết cẩn thận, sạch sẽ; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. (0,5 điểm) b. Xác định đúng vấn đề nghị luận (0,5 điểm): Không thể sống bằng mọi giá đâu con ơi. Sống đảo điên, hèn hạ, không được là chính mình còn tệ hơn cái chết! Liên hệ với cái chết của nhân vật Chí Phèo ( Nam Cao ) để bình luận quan niệm sống của các tác giả. c. Triển khai vấn đề nghị luận: Vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. *Giới thiệu vài nét cơ bản về tác giả và tác phẩm. (0,5 điểm) *Phân tích nhân vật Phùng (2,0 điểm) – Phùng là người yêu nghề, có trách nhiệm với nghề + Anh đã phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. + Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm anh mới chụp được bức ảnh ưng ý. + Phùng không đơn giản, qua loa với công việc mà anh luôn hết lòng vì công việc. – Phùng là một nghệ sĩ tài năng: + Anh đã phát hiện bức tranh thiên nhiên giàu giá trị nghệ thuật: ++ Trước mặt Phùng là một khung cảnh thiên nhiên như “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. ++ “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng của mặt trời chiếu vào”. ++ “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. ++ Khung cảnh được nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới giữa hai chiếc gọng vó giống hệt “cánh một con dơi”, đẹp từ đường nét đến ánh sáng. Phùng là người 27


nghệ sĩ săn tìm cái đẹp. Anh thực sự biết quan sát bằng đôi mắt tinh tường, "nhà nghề” để lựa chọn cái đẹp hài hoà giữa thiên nhiên, cảnh vật, con người - vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần. – Phùng là người nghệ sĩ thật sự rung cảm trước cái đẹp: + Cái đẹp đã làm Phùng xúc động và nhận ra sự rung cảm của tâm hồn mình. ++ Anh liên tưởng tới câu nói của ai đó “ bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. ++ Và tưởng chính mình vừa khám phá “cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc khi khám phá và sáng tạo, khi cảm nhận cái đẹp hài hoà, lãng mạn giữa thiên nhiên và cuộc đời. Trong hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” giữa biển trời mờ sương, Phùng đã cảm nhận cái đẹp toàn bích và thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi. Từ đây, ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái đẹp đến cho đời. – Phùng là người có tấm lòng nhân hậu: + Chưa thoả thuê ngắm bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” thì ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào nơi Phùng đứng. + Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những uất ức, khổ đau... Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. + Chứng kiến cảnh ấy, Phùng đã “kinh ngạc đến mức (…) há mồm ra mà nhìn” rồi sau đó thì “vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác (con lão đàn ông) đã kịp tới để che chở cho người mẹ . + Đến lần thứ hai, bản chất người lính ở người nghệ sĩ được thể hiện. Anh xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác … Hành động của Phùng cho thấy anh không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lí của sự toàn thiện” mà nó là những ngang trái, xấu xa, những bi kịch còn tồn tại trong cuộc sống. – Phùng luôn ý thức để hoàn thiện nhân cách: + Tận mắt chứng kiến vẻ đẹp của bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa”, cảnh người đàn ông đáng vợ và khi lắng nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án (vì tình thương 28


con, vì ý thức phải sống cho con, vì mong nuôi con cho đến khi khôn lớn mà chị chấp nhận gánh lấy cái khổ), Phùng nhận thức rất nhiều điều qua các cảnh ấy. + Đằng sau bức ảnh như “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” là những điều nghịch lý trong cuộc sống đời thường với biết bao số phận, bao mảnh đời éo le. + Để Phùng chứng kiến hành động vũ phu của người chồng, Nguyễn Minh Châu muốn phê phán tình trạng bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã hội đương đại. + Phùng đã hiểu về người đàn bà hàng chài kia: Ẩn bên trong sự xấu xí, nhẫn nhục là vẻ đẹp tình mẫu tử đầy vị tha, là khát khao hạnh phúc bình dị đời thường của người phụ nữ còn đói nghèo, lạc hậu. + Nỗi trăn trở của Phùng trong nhiều năm dài về hình ảnh người đàn bà hàng chài cứ hiện ra sau mỗi lần anh ngắm bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” chính là quá trình tự ý thức của Phùng để hoàn thiện nhân cách của mình. * Liên hệ nhân vật Vũ Như Tô (0,5 điểm) – Vũ Như Tô được biết đến qua đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là một kiến trúc sư thiên tài và khát vọng nghệ thuật siêu phàm, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Nhưng ông là một nghệ sĩ có nhân cách và có lý tưởng nghệ thuật hết sức cao đẹp, không phải là người ham sống sợ chết hay chỉ vì chút công danh mà phải bán thân mình cho nghệ thuật. Lúc đầu, ông nhất định thà chết chứ không xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua bạo ngược, nhưng khi nhận ra giá trị nghệ thuật để lại cho đời thì ông lại quên mất một thực tế là dân chúng đang đói khổ. – Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của nhân dân ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Vũ Như Tô càng quyết tâm xây dựng Cửu Trùng Đài thì các mâu thuẫn ngày càng theo đó mà khó giải quyết và Đan Thiềm càng khuyến khích Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì xung đột giữa người nông dân và con người nghệ thuật ngày càng tăng cao. Có thể nói đó là một khát vọng hết sức chân chính nhưng nó được đặt không đúng chỗ , không kịp thời, không tính đến giá trị cuộc sống thì nghiễm nhiên chính nó sẽ tự trở thành tai họa. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là phạm nhân và cũng vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm mặc dù được giải quyết nhưng không được thỏa đáng. Vũ Như Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm ông không hề có ý định hại dân, khi chết ông vẫn chưa nhận ra được sai lầm của mình. Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt 29


ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân. * Nhận xét quan niệm về nghệ thuật và cách nhìn cuộc sống của nhà văn NMC (0,5 điểm) + Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống thì chỉ đem đến bi kịch (cái chết của Vũ Như Tô) hay sự nhìn nhận phiến diện về cuộc sống (Phùng). + Nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng cuộc sống ko phải lúc nào cũng đẹp. + Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống. Nghệ thuật xa rời cuộc sống chỉ là nghệ thuật "suông" , ko xứng đáng là nghệ thuật chân chính. → điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, tìm hiểu nó trên nhiều phương diện, nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân chính ko được xa rời cuộc sống. d. Không mắc lỗi về ngữ pháp, ngữ nghĩa (0,25 điểm) e. Sáng tạo (0,5 điểm) Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về bức ảnh nghệ thuật thuyền và biển mà Phùng đã chụp được trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam). Từ đó, liên hệ với cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam) để nhận xét quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật của mỗi nhà văn a. (0,5 điểm) Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề. b. (0,5 điểm) Xác định đúng vấn đề nghị luận: - Cảm nhận về bức ảnh nghệ thuật trong Chiếc thuyền ngoài ха. - Liên hệ với cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù. - Nhận xét quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật của mỗi nhà văn.

30


c. Triển khai vấn đề nghị luận thành nhiều luận điểm, vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng: *Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận (0,5 điểm) *Cảm nhận về bức ảnh nghệ thuật trong Chiếc thuyền ngoài xa (2,0 điểm) xa. - Hoàn cảnh sáng tác bức ảnh nghệ thuật: Sau mấy buổi sáng phục kích, Phùng phát hiện ra một cảnh đất trời cho về chiếc thuyền lưới vó lúc bình minh trên mặt biển mờ sương, anh đã bấm máy ảnh để thu vào ống kính cảnh đẹp tuyệt vời đó của tạo hóa. Từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến cho người nghệ sĩ khám phá ra cái chân lí của sự toàn thiện: bản thân cái đẹp chính là đạo đức. - Sự thật đằng sau bức ảnh nghệ thuật: Là cái xấu, cái ác, cái trái ngang, nghịch lí của bạo lực gia đình. Có thể nói, chính bị kịch gia đình thuyền chải là thứ thuốc rửa ảnh quái đản để giúp Phùng nhận ra vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài. - Tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai, và nếu nhìn lâu hơn bao giờ cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra từ tấm ảnh. Qua hai chi tiết này, Nguyễn Minh Châu gửi gắm thông điệp về cái đẹp nghệ thuật. Cái đẹp, nghệ thuật đích thực không bao giờ tách rời cuộc sống của con người, người nghệ sĩ chân chính không chỉ phản ánh cái đẹp lãng mạn như chiếc thuyền ngoài xa mà phải phản ánh được chiều sâu của cái đẹp trong cuộc sống và con người. *Liên hệ với cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù (0,5 điểm) - Cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Cảnh cho chữ được nhà văn khắc họa đầy ấn tượng, dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô những nét chữ trên tấm lụa trắng: quản ngục và thơ lại thì run run bế chậu mực, khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ... - Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn đưa ra lời khuyên bảo chí tình với viên Quản ngục: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay đổi chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lua trắng với những nét chữ vuông tươi tắn,... + Cảnh cho chữ thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp. Cái đẹp và thiên lương cao cả có thể được sinh ra và tỏa sáng cả những nơi tăm tối, nơi mà cái xấu, cái ác ngự trị. Cái đẹp là bất diệt. Cái đẹp sẽ thanh lọc tâm hồn con người. Nó mãi mãi là một lí tưởng nhân văn cao cả. 31


*Quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật của mỗi nhà văn (0,5 điểm) - Nét tương đồng: Cả hai nhà văn đều quan niệm cái đẹp phải gắn liền với cái thiện.(bản thân của cái đẹp chính là đạo đức; cái đẹp gắn liền với thiên lượng lành vững) - Nét khác biệt: + Với Nguyễn Tuân, cái đẹp có thể sinh ra từ chốn ngục tù, nơi cái xấu, cái ác ngư trị, nhưng cái đẹp là một phạm trù tách bạch, đối lập hoàn toàn với cái lem luốc của cuộc đời. + Với Nguyễn Minh Châu, cái đẹp hòa lẫn trong cuộc đời xù xì, lâm láp và còn nhiều ngang trái đớn đau. Cái đẹp đích thực không bao giờ tách rời cuộc sống đời thường, người nghệ sĩ chân chính phải biết nâng niu cái đẹp đó, để nó có thể tỏa sáng ngay cả trong bóng tối của sự khổ đau. * Đánh giá chung: Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm riêng về cái đẹp, về nghệ thuật. Quan niệm ấy thể hiện nét đẹp tâm hồn và tài năng của họ. (0,25 điểm) d. (0,25 điểm) Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận. e. (0,25 điểm) Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo đúng quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Đề 3: Cảm nhận về nhân vật nghệ sỹ Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12, NXB Giáo dục 2012). Từ đó, liên hệ với bài thơ Hầu trời của Tản Đà (Ngữ văn 11, NXB Giáo dục 2012) để rút ra nhận xét về quan niệm về người nghệ sỹ chân chính của các tác giả. a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,25 điểm) b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm): Cảm nhận về nhân vật nghệ sỹ Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và liên hệ với bài thơ Hầu trời của Tản Đà nhận xét về quan niệm về người nghệ sỹ chân chính của các tác giả. c. Chia vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp; các luận điểm được triển khai theo trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để triển khai các luận điểm (trong đó phải có thao tác phân tích, chứng minh, bình luận...); biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng (3,0 điểm): *Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và ý nghĩa của bức ảnh nghệ thuật. (0,5 điểm) 32


– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), cây bút tiên phong của văn học Việt Nam sau đổi mới. Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Sau 1975, ngòi bút của ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. – Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (8 – 1983) in trong tập truyện cùng tên là một tác phẩm tiêu biểu của ông sau 1975. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh đất nước thống nhất. Như các tác phẩm sau 1975, tác phẩm có xu hướng hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường. – Trong tác phẩm này Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật nghệ sỹ Phùng, qua đó nhà văn gửi gắm quan niệm sâu sắc về phẩm chất cần có của người nghệ sỹ. *Cảm nhận về nhân vật nghệ sỹ Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (2,0 điểm) – Phùng là một nghệ sỹ say mê công việc, có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp của mình. Để có được bức ảnh ưng ý về cảnh thuyền và biển lúc bình minh, anh đã phải mất nhiều ngày “phục kích” ở vùng biển vắng. – Phùng là nghệ sỹ nhiếp ảnh giàu cảm xúc, yêu cái đẹp: Phát hiện ra vẻ đẹp của cảnh biển buổi sớm với hình ảnh con thuyền ngư phủ đẹp như mơ, Phùng rất xúc động, bối rối, thấy trong tim như có cái gì đó bóp thắt vào, phát hiện ra cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hộn, phát hiện ra cái đẹp chính là đạo đức. – Phùng là người giàu tình yêu thương con người, sẵn sàng bênh vực kẻ yếu. Thấy người đàn bà hàng chài bị đánh, anh đã lao tới can thiệp và sau đó tìm cách giúp đỡ chị. – Phùng là kiểu nhân vật tự ý thức: Phùng tự ý thức về mình, đồng thời anh còn luôn có ý thức về nghề để vươn tới đỉnh cao của sang tạo nghệ thuật. Đó là lí do vì sao mỗi lần ngắm lại kiệt tác nghệ thuật của mình, Phùng luôn nhìn thấy những bí ẩn tuyệt vời của cái đẹp. – Nghệ thuật khắc họa nhân vật Phùng: + Đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo để nhân vật tự bộc lộ. + Phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên, sắc sảo. + Lối viết văn tự sự - triết lý tăng cường chiều sâu và sức khái quát cho nhân vật.

33


*Liên hệ với bài thơ Hầu trời của Tản Đà để rút ra nhận xét về quan niệm về người nghệ sỹ chân chính của các tác giả. (1,0 điểm) – Quan niệm về người nghệ sĩ chân chính của Tản Đà Bài thơ Hầu trời thể hiện rõ nét cái tôi phóng túng, ngông nghênh và khát khao khẳng định mình giữa cuộc đời của thi sĩ Tản Đà. Trong bài thơ, Tản Đà cũng gửi gắm quan niệm tích cực về người nghệ sĩ: + Theo Tản Đà, người nghệ sĩ phải có tài năng nghệ thuật, có thể sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ, đem lại niềm vui thích cho con người: Văn dài hơi tốt ra cung mây!/ Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay/ Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi/ Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày/ Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng/ Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay. + Đề cao thiên chức của người nghệ sĩ là người mang thiên lương đến cho cuộc đời và con người. Cho dù cuộc sống của người nghệ sĩ còn thiếu thốn nhưng họ luôn giữ được một tấm lòng thiện lương tốt đẹp: Trời rằng: Không phải là Trời đày/ Trời định sai con một việc này/ Là việc thiên lương của nhân loại/ Cho con xuống thuật cùng đời hay. – Nhận xét: + Cả Nguyễn Minh Châu và Tản Đà đều đánh giá cao thiên chức của người nghệ sĩ là sáng tạo cái đẹp, đem cái đẹp, cái thiện đến với cuộc đời. Họ đều quan niệm người nghệ sĩ phải là người có tài năng, tâm huyết, có tâm hồn nhạy cảm yêu cái đẹp, giàu rung động trước cái đẹp. + Nét riêng trong quan niệm người nghệ sĩ của Tản Đà là cốt cách hiên ngang, phóng túng, kiêu bạc, cậy tài, thị tài nhưng vẫn gắn bó sâu nặng với non sông và dân tộc. Nét riêng trong quan niệm người nghệ sĩ của Nguyễn Minh Châu là trách nhiệm với cuộc đời, luôn trăn trở suy tư về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Ông cho rằng, tác phẩm nghệ thuật thành công là phải chứa đựng ở trong nó cả nỗi đau và vẻ đẹp của thân phận con người; và người nghệ sĩ chân chính phải luôn cất lên tiếng nói vì con người. *Đánh giá chung: Thành công của hai hình tượng nghệ thuật trong hai tác phẩm. Đem lại cho người đọc cái nhìn toàn diện và đầy đủ về người nghệ sĩ chân chính ở mọi thời đại. d. Sáng tạo (0,5 điểm) e. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm) 34


Đề 4: Khép lại tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu viết:“Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông …”. (Sách Ngữ văn 12- tập 2, trang 78, NXB Giáo dục, năm 2011) Hãy phân tích ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng ở đoạn văn trên để thấy quan niệm của tác giả về nghệ thuật. Theo anh chị quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo có gặp gỡ nhau không? a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề; thân bài triển khai được vấn đề; kết bài kết luận được vấn đề. (0,25 điểm) b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: quan niệm của tác giả về nghệ thuậtở đoạn văn cuối tác phẩm; đánh giá quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo có gặp gỡ nhau. (0,25 điểm) c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm phù hợp; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc, vận dụng tốt các thao tác lập kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. (0,25 điểm) * Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm) *Phân tích ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng ở đoạn văn cuối tác phẩm để thấy quan niệm của tác giả về nghệ thuật. (2,0 điểm) - Nhưng đối với Phùng (đối với Nguyễn Minh Châu) Phùng còn nhìn thấy từ tấm ảnh, đằng sau tấm ảnh, những hình ảnh khác. Đó là hình ảnh của những con người khốn khổ, đằng sau tấm ảnh, vẫn còn có điều gì khiến anh trăn trở. - Vẻ đẹp cuộc sống đời thường sau tấm ảnh: Hình ảnh người đàn bà hàng chài với số phận đáng thương, người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời, biết hi sinh bản

35


thân vì gia đình, chồng con,... Đó là những mảnh đời khốn khổ, mà để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí Phùng. - Vẻ đẹp nghệ thuật gợi lên từ tấm ảnh:“tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, cái chất thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng . - Quan niệm của tác giả về nghệ thuật: + Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống. + Quan niệm về nghệ thuật của nhà văn: Nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con người; người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và phải dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực. *Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo có sự gặp gỡ nhau (1,0 điểm) - Qua cách mở đầu và kết thúc của hai tác phẩm ta nhận ra cả hai nhà văn đều trăn trở về thiên chức của nhà văn, của những trang văn vị nhân sinh, của những “tiếng kêu đau khổ kia toát ra từ những kiếp đời lầm than” - Nam Cao và Nguyễn Minh Châu đều thành công trong việc miêu tả những quá trình biến động của tư tưởng, tình cảm, tâm lí để nắm bắt cái con người đích thực ở trong con người. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu vì thế không bao giờ đồng nhất với bản thân nó. Về phương diện này, Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc truyền thống văn xuôi tâm lí được hình thành trong sáng tác của Nam Cao. *Đánh giá chung (0,5 điểm) - Về tài năng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong việc tạo tình huống truyện, Truyện được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. - Giọng văn trầm lắng, suy tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ. - Thông điệp nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc. - Đoạn kết không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người. Đoạn kết đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ của tác giả cho những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. Đó là cái nhìn đa chiều, ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải chăng sau câu 36


chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin vào cuộc sống, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ ? d. (0,25 điểm) Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo; thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận, nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và qui định của pháp luật. e. (0,25 điểm) Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. Đề 5: Phân tích những khám phá riêng của mỗi nhà văn về số phận, cảnh ngộ và vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động trước Cách mạng tháng Tám (trước 1945) và thời Hậu chiến (sau 1975) qua nhân vật “Chí Phèo” trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao và nhân vật “người đàn bà hàng chài” trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu. a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề; thân bài triển khai được vấn đề; kết bài kết luận được vấn đề. (0,25 điểm) b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích những khám phá riêng của mỗi nhà văn về số phận, cảnh ngộ và vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động trước Cách mạng tháng Tám và thời Hậu chiến qua nhân vật “Chí Phèo” và nhân vật “người đàn bà hàng chài”. (0,25 điểm) c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm phù hợp; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc, vận dụng tốt các thao tác phân tích, bình luận,... (3,5 điểm) * Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm) * Những khám phá riêng của Nam Cao về số phận, cảnh ngộ và vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động trước Cách mạng tháng Tám 1945 trong truyện ngắn “Chí Phèo” (2,0 điểm) - Về số phận, cảnh ngộ: + Nhân vật Chí Phèo là một điển hình cho người nông nghèo, bị xã hội thực dân phong kiến đẩy vào con đường lưu manh hoá, bị huỷ hoại nhân hình và cả về nhân tính. + Khi thức tỉnh, Chí Phèo khao khát hoàn lương để làm người lương thiện nhưng bị xã hội cự tuyệt. Chí phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và cuối cùng dẫn đến một thảm kịch – cái chết đầy bi phẫn. 37


- Về vẻ đẹp tâm hồn: + Khi chưa đi tù, Chí Phèo vốn là một anh canh điền hiền lành, có những khát vọng chân chính. + Dù bị lưu manh hoá, nhưng bản chất lương thiện của Chí Phèo vẫn âm ỉ cháy. Khi được bàn tay ân tình của thị Nở chăm sóc, Chí Phèo thức tỉnh và khao khát mãnh liệt quyền làm người, khao khát sống lương thiện. * Những khám phá riêng về số phận, cảnh ngộ và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật người đàn bà trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu. (0,5 điểm) - Về số phận, cảnh ngộ: + Người đàn bà đáng thương không tên tuổi, vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác. + Ngoài 40 tuổi, ngoại thô kệch, rỗ mặt, “khuôn mặt mệt mỏi”. Gợi ấn tượng về một cuộc đời nghèo khổ, lam lũ. + Cuộc sống vất vả, nghèo khổ, lại đông con, những khi biển động, hàng tháng “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng chấm muối luộc”. + Bị chồng đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng vẫn cam chịu “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn” nhưng người coi đó là lẽ đương nhiên, sẵn sàng chịu đựng tất cả. - Về vẻ đẹp tâm hồn: + Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của đời thường. + Cảm thông với người chồng và nói “Lão chồng tôi … đánh đập tôi”. + Chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. + Người đàn bà hàng chài đa giúp Đẩu và Phùng hiểu hơn hơn về cuộc đời. * Điểm tương đồng: Cái nhìn nhân đạo sâu sắc của hai nhà văn (0,5 điểm) - Nhà văn thể hiện thái độ bênh vực và cảm thông sâu sắc… - Tác phẩm tố cáo sự thống trị tàn bạo đối với con người và hậu quả của chiến tranh. - Thái độ trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người. - Nhà văn đồng tình và trân trọng những khát vọng, ước mơ của con người. - Niềm tin vào con người,… 38


- Ý nghĩa vấn đề đối với sự thành công của tác phẩm: giá trị, ảnh hưởng, sức sống,… - Tài và tâm của nhà văn trong thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm. d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo; thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận. (0,25 điểm) e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. (0,25 điểm) Đề 6: Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, khi miêu tả gia đình thuyền chài, Nguyễn Minh Châu viết: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Ở đoạn khác, ông lại viết: “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền...Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. (Nguyễn Minh Châu – Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, trang) Từ việc cảm nhận hai đoạn văn trên, anh/ chị hãy làm nổi bật mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: có đầy đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài, làm rõ vấn đề yêu cầu. Phần mở bài biết dẫn dắt hợp lí, nêu được vấn đề; phần thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau và cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được ấn tượng, cảm xúc sâu đậm của cá nhân(0,5 điểm) b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: từ hai phát hiện của nhiếp ảnh Phùng làm nổi bật mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. (0,5 điểm)

39


c. Triển khai vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm, vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng, rút ra nhận xét về sáng tạo của tác giả trong tác phẩm. * Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. (0,25 điểm) * Phân tích hai tình huống: - Phát hiện thứ 1: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ”. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. + Đây là cảnh một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương mà Phùng đã chớp được: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ” . Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. + Vẻ đẹp giản dị và toàn bích của thiên nhiên đã đem đến cho nghệ sĩ Phùng niềm hạnh phúc tột cùng. => Chiếc thuyền ngoài xa ẩn hiện trong sương sớm chính là cái đẹp của nghệ thuật được con người chiêm ngưỡng ở tầm xa. (1,0 điểm) - Phát hiện thứ 2: “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền...Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. + Cảnh tượng nghiệt ngã kinh hoàng: Cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ. + Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày công mới chụp được. 40


=> Phát hiện nghịch lí cuộc sống ngay sau bức tranh thiên nhiên đẹp.(1,0 điểm) * Bình luận, đánh giá ý kiến: - Hai phát hiện của Phùng cho thấy: Đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Từ đó tác giả làm nổi bật mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: + Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. + Cuộc đời chính là nơi sản sinh ra cái đẹp nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật. + Người nghệ sĩ trước khi sáng tạo cái đẹp cần phải biết rung động trước những buồn, vui, đau khổ của cuộc con người. + Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng để thưởng thức nghệ thuật thì cần phải có khoảng cách. (1,0 điểm) * Nghệ thuật: (o,25 điểm) - Tạo tình huống hấp dẫn - Cách kể chuyện tự nhiên - Xây dựng nhân vật gần gũi với đời thường d. Sáng tạo: Sử dụng ngôn ngữ theo cách thức riêng của bản thân để bàn luận và thể hiện suy nghĩ sâu sắc mới mẻ về vấn đề mà đề yêu cầu (0,25 điểm) IX. Bài tập về nhà tự nghiên cứu. Đề 1: Phân tích hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu? Hướng dẫn: 1. Mở bài: - Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) thuộc lớp nhà văn chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Sau năm 1975, ông chủ yếu tiếp cận đời sống ở góc độ thế sự. Các nhà nghiên cứu đánh giá ông là một trong những cây bút tiên phong “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. - Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1983, sau đưa vào tập truyện ngắn cùng tên xuất bản năm 1987. 41


- Nêu vấn đề: Đây là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn trong thời kì đổi mới. Tác phẩm thành công không chỉ bởi nghệ thuât xây dựng nhân vật đặc sắc mà ở tác phẩm này, Nguyễn Minh Châu còn tạo ra được một hình tượng nghệ thuật mang tính ẩn dụ: hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa”. 2. Thân bài: - Truyện ngắn có nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”, và quả thật, hình ảnh chiếc thuyền gần như xuắt hiện xuyên suốt trong câu chuyện mà nhà văn mang đến cho người đọc. - Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chộp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra “một cảnh đắt trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: cảnh “chiếc thuyền ngoài xa”. - Hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc hoạ rất ấn tượng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoà vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích” – vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ thời cổ”, và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh thu vào một tấm ảnh mà nó “được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. - Hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét và bố cục,…và khi thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật có thể có cái cảm giác “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và còn “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”… như cái cảm giác mà “tôi” đã từng có. Tức là bức ảnh đã khiến cho tâm hồn người thưởng thức rung động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong lòng và tâm hồn như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. - Song, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám phá ra được: là những con người, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu, nghịch lí đã, đang và 42


sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền “đẹp như mơ” ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những trận đòn thịnh nộ của anh chồng với “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy với trên dưới mười con người cần có ông ta chèo chống lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình… Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi chiếc thuyền đam thẳng vào bờ – Tức là ở một khoảng cách gần, rất gần. Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: chiếc thuyền ngoài xa mang lại vẻ đẹp hoàn mĩ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người. Vậy nên, có thể nói hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một hình ảnh ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời. Chính vì thế, cho dù chỉ là một bức ảnh “hoàn toàn tĩnh vật” (hay nói đúng hơn là vẫn có con người nhưng đó chỉ là “những bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng” nhưng nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh của chúng ta – cũng là người đã trực tiếp nhận ra những số phận ẩn tàng bên trong nó - bao giờ cũng như thấy “một người đàn bà bước ra” sau mỗi lần suy tư, ngắm nhìn thành quả nghệ thuật mà mình tạo ra nhờ cái giây phút “trời cho” ấy. 3. Kết bài. Trước Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nam Cao đã từng quan niệm: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng). Là người đi sau, Nguyễn Minh Châu không lặp lại quan niệm đó, vì hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” mang vẻ đẹp nghệ thuật thực sự chứ không hề là “ánh trăng lừa dối”. Điều mà nhà văn muốn người đọc lưu tâm là cần phải có cái nhìn đa chiều, phổ quát mới có thể cảm nhận hết cái gai góc, phức tạp của cuộc đời này.

43


Đề 2: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu? Hướng dẫn 1. Đặt vấn đề: - Một trong những ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm văn học là góp phần nhân đạo hóa con người. tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, bảo vệ và ca ngợi con người, đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để cuộc sống con người ngày được tốt đẹp, hạnh phúc hơn. - Với ý nghĩa đó, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu có giá trị nhân đạo sâu sắc. 2. Giải quyết vấn đề: 2.1. Giải thích khái niệm: - Nói đến giá trị nhân đạo là muốn nói đến: + Thái độ cảm thông của nhà văn đối với số phận con người, nhất là những con người nghèo khổ, bất hạnh. + Đó còn là thái độ ca ngợi, khẳng định của nhà văn về những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. + Tố cáo thế lực chà đạp nên sự bất hạnh của con người. + Qua đó, nhà văn thể hiện những khao khát về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc cho con người. 2.2. Những biểu hiện: a. Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trước nhất thể hiện ở thái độ cảm thông của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với cuộc sống của những con người nghèo khổ nơi vùng biển. - Nhà văn xót xa trước cảnh nghèo khổ, đông con của nững gia đình hàng chài: + Nhà nào cũng trên dưới chục đứa phải sống chen chúc nhau trong những chiếc thuyền lưới vó chật hẹp. + Vào những vụ bắc, biển động hàng tháng, thuyền không ra biển được “cả nhà vợ chồng con cái phải ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối. - Nguyễn Minh Châu hết sức cảm thông trước tình cảnh người đàn bà hàng chài thường xuyên bị chồng đánh đập.

44


+ Nếu không cảm thông và xót xa cho cuộc đời bất hạnh của chị, tác giả không chú ý kĩ từng nét ngoại hình lam lũ đáng thương ở người đàn bà hàng chài. + Khuôn mặt mệt mỏi, tấm lưng áo bạc thếch và rách rưới, cặp mắt nhìn xuống chân, tay buông thõng xuống ra vẻ người nhẫn nhục và cam chịu. - Hơn thế nữa, nhà văn còn muốn bênh vực cho chị, không muốn cho chị bị chồng đánh đập tàn nhẫn. + Vì vậy, trong tác phẩm, ít nhất hai lần tác giả đã để cho nghệ sĩ Phùng xông ra hai lần bênh vực cho chị đến nỗi anh phải bị thương. + Chúng ta có thể hiểu, nghệ sĩ Phùng cũng chính là hóa thân của nhà văn trong tác phẩm, là nhân vật mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm nhiều suy nghĩ và hành động của mình. - Nhà văn cũng cảm thông với với tình cảnh của người chồng vũ phu: + Cũng chính vì cuộc sống quá nghèo khổ lại phải lao động vất vả để nuôi một gia đình đông con nên anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ biết đánh vợ xưa kia, giờ đã trở thành một người chồng vũ phu thường xuyên đánh đập vợ một cách tàn nhẫn ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. + Có thể nói, người đàn ông hàng chài thô bạo ấy là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, lam lũ. Lão lầm lì đánh vợ như một thói quen để giải tỏa tâm lí và nỗi khổ triền miên của đời mình. - Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã phê phán mạnh mẽ hành động vũ phu của người chồng. + Ông muốn giúp người đọc thấy rõ tình trạng bạo lực trong gia đình như một mảng tối còn tồn tại trong xã hội ta những năm tám mươi của thế kỉ trước. + Thông qua hình ảnh của người chồng thường xuyên đánh vợ tàn nhẫn, tác giả đã báo động với mọi người về một hiện tượng nhức nhối của xã hội. + Đâu đó trong cuộc sống xung quanh ta vẫn còn sự lộng hành của cái ác, cái xấu. + Gióng lên một hồi chuông báo động về cái ác, Nguyễn minh Châu muốn đấu tranh cho cái thiện được tồn tại. Đó chính là một trong những biểu hiện về giá trị nhân đạo của tác phẩm. b. Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn đứng về cái đẹp, cái thiện. Đi tìm, phát hiện, ngợi ca, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là biểu hiện sâu sắc của gía trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. 45


- Trước năm 1975, trong bối cảnh lịch sử chóng ngoại xâm của dân tộc, Nguyễn Minh Châu xây dựng vẻ đẹp lí tưởng, yêu nước, anh hùng của con người Việt Nam thời chống Mĩ. + Họ là Lãm, là Nguyệt trong tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu. + Đó là những con người thật cao đẹp, họ biết hy sinh hạnh phúc cá nhân cho tình yêu Tổ quốc, biết gác lại những tình cảm của cá nhân mình cho cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. - Sau năm 1975, cuộc sống hiện ra nhiều chiều, nhiều mặt đối lập, Nguyễn Minh Châu đã đi sâu vào hiện thực để nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa dạng, nhiều chiều. + Có như vậy, ông mới phát hiện ra được những vẻ đẹp còn khuất lấp trong cái lấm láp bụi bặm của đời thường. + Hình ảnh người đàn bà hàng chài xấu xí, nhẫn nhục vẫn lóe lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, một vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển còn đói nghèo, lạc hậu. - Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn minh Châu đã thể hiện một cái nhìn rất nhân đạo về con người. + Ông đã phát hiện và khẳng định nhiều phẩm chất cao đẹp ở người phụ nữ có cái vẻ ngoài xấu xí và cam chịu, nhẫn nhục này. + Bằng cái nhìn đa dạng và nhiều chiều và sâu sắc, Nguyễn Minh Châu đã giúp ta cảm nhận được một tấm lòng vị tha và giàu đức hy sinh của chị. ~ Đối với chồng, mặc dù bị ngược đãi, người vợ vẫn chịu đựng và cảm thông chứ không hề trách móc hay lên án, tố cáo. ~ Chị hiểu rằng, chồng đánh mình cũng vì những lẽ riêng rất đời thường. Đó là dophair sống trong đói nghèo, lạc hậu, con cái nheo nhóc, không gian sống chật hẹp, tù đọng. ~ Chị hiểu chính cái môi trường đầy khó khăn ấy đã khiến một anh con trai cục tính nhưng hiền lành biến thành một gã đàn ông thô bạo, dã man. Trước tòa, chị cố bênh vực cho chồng, dó là một tấm lòng vị tha rất đáng trân trọng ở chị.

46


~ Đối với con, chị là người mẹ giàu đức hy sinh. Chị nói: đàn bà ở thuyền hcunsg tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình. Chị đã chấp nhận sự đau khổ để hy sinh cho cuộc sống của đàn con. ~ Chị chấp nhận bị chồng đánh, có điều chỉ xin chồng đánh ở trên bờ để các con đừng nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản. Chị không muốn con chứng kiến những điều điều xấu có thể làm hủy hoại nhân cách của chúng và chị cũng không muốn gieo vào lòng các con thái độ căm thù đối với người cha của chúng. - Tác giả còn giúp ta nhận ra lí do chị không thể bỏ chồng thật có lí, điều đó chứng tỏ chị không phải là người phụ nữ nông nổi, thiếu suy nghĩ, nhuc nhược, hèn nhát mà là người phụ nữ thật sâu sắc và từng trải, biết suy nghĩ, cân nhắc cho từng hành động của mình. + Chị cho biết: đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa. + Nguyễn Minh Châu còn giúp ta cảm nhận được những khát vọng hạnh phúc trong lòng người đàn bà hàng chài nghèo khổ này. ~ Trong đau khổ triền miêm, chị hết sức trân trọng những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. ~ Phải yêu thương con người lắm nhà văn mới chú ý đến từng chuyển biến nhỏ trên gương mặt của chị khi nói về hạnh phúc. Nhà văn cho ta biết, khi nói về hạnh phúc, lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của chị chợt ửng sáng lên như một nụ cười. ~ Chị nói: Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng tôi nó được ăn no và cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. - Có thể nói, người đàn bà hàng chài là biểu tượng cho tình mẫu tử, biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc gia đình. + Thông qua suy nghĩ của chị về gia đình và hạnh phúc, tác giả đã giúp ta hiểu ra được một gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên, cho dù gia đình ấy còn nhiều cảnh ngang trái, khổ đau, nhưng chị vẫn nâng niu, trân trọng từng chút hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình có được. + Đó là thái độ cảm thông, cái nhìn hết sức nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với con người.

47


c. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa còn thể hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc đời và vì cuộc đời, vì con người. - Cách kết thúc tác phẩm đã cho người đọc nhiều suy nghĩ. Là tấm ảnh đen trắng nhưng mỗi lần nhìn vào, Phùng đều thấy hiện lên cái màu hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. + Vậy thì đâu chỉ là ảnh nghệ thuật mà chính là hiện thực cuộc đời. Nếu chỉ đơn thuần là ảnh nghệ thuật đen trắng thì sao lại có được cái màu hồng hồng của ánh sương mai do ánh mặt trời của ánh bình minh buổi sáng phản chiếu? + Và nếu chỉ là ảnh thì người đàn bà hàng chài ấy làm sao bước ra khỏi tấm ảnh để bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông? + Đó chính là quan điểm nghệ thuật mà tác giả muốn gửi gắm với mọi người: Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời, nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời, vì con người. + Mỗi nhà văn hãy đi vào cuộc sống, hãy sống gắn bó với con người và nhìn nhận họ một cách đa dạng, nhiều chiều để phát hiện ra những hạt ngọc còn ẩn sâu trong tâm hồn họ, dù rằng ngoại hình họ xấu xí và họ đang sống trong một hoàn cảnh ngang trái, khổ đau. - Qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đặt ra một vấn đề để mọi người cùng suy nghĩ và giải quyết. Đó là vấn đề về số phận và hạnh phúc của con người. + Cái nhìn của Nguyễn Minh Châu thật đa dạng, nhiều chiều. Ông thấy trong cuộc sống có ánh sáng và bóng tối, nước mắt và nụ cười, bề nổi và bề chìm, khổ đau và hạnh phúc. + Nhưng điều quan trọng nhất là ông vẫn tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người, tin vào bản chất tốt đẹp của xã hội sẽ làm thay đổi số phận của con người. 3. Kết bài - Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu có một giá trị nhân đạo sâu sắc. Giá trị nhân đạo ấy thể hiện trên nhiều phương diện: + Đó là cái nhìn yêu thương, cảm thông của nhà văn về số phận bất hạnh của con người.

48


+ Đó là việc phát hiện và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động nghèo khổ. + Đó còn là thái độ lên án nạn bạo hành trong gia đình để mọi người cùng đấu tranh chống lại hiện tượng tiêu cực này, cùng phấn đấu hướng tới việc xây dựng một gia đình hạnh phúc. - Giá trị nhân đạo trong tác phẩm này còn thể hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật tiến bộ của ông: Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc đời và vì cuộc đời, vì con người. X. Kết quả triển khai chuyên đề tại trường THPT Tam Dương 2 Sau khi vận dụng các phương pháp dạy học mới theo hướng phát triển năng lực tôi thu được một số kết quả như sau: - Tạo hứng thú, sự ham học cho học sinh. - Hình thành và phát triển khả năng tư duy, hợp tác, nắm bắt kiến thức nhanh cho học sinh. - Hình thành khả năng tiếp cận các tác phẩm văn học khác cho học sinh. - Kết quả kiểm tra đánh giá 100% đạt mức Trung bình – Khá- Giỏi.

49


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.