Chọn lọc tinh túy những bài văn đặc sắc lớp 9 tập 1 tác giả Th.S Nguyễn Thành Huân

Page 1

TÀI LIỆU ÔN THI VÀO LỚP 10 MÔN NGỮ VĂN

vectorstock.com/28613118

Ths Nguyễn Thanh Tú eBook Collection DẠY KÈM QUY NHƠN EBOOK PHÁT TRIỂN NỘI DUNG

Chọn lọc tinh túy những bài văn đặc sắc lớp 9 tập 1 tác giả Th.S Nguyễn Thành Huân WORD VERSION | 2020 EDITION ORDER NOW / CHUYỂN GIAO QUA EMAIL TAILIEUCHUANTHAMKHAO@GMAIL.COM

Tài liệu chuẩn tham khảo Phát triển kênh bởi Ths Nguyễn Thanh Tú Đơn vị tài trợ / phát hành / chia sẻ học thuật : Nguyen Thanh Tu Group Hỗ trợ trực tuyến Fb www.facebook.com/DayKemQuyNhon Mobi/Zalo 0905779594


O

FF

IC IA L

PHẦN I: SƠ ĐỒ TƯ DUY LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC I. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ a. Sơ đồ tư duy

b. Ví dụ

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

minh họa Đề bài: Phân tích khổ 2, 3 trong bài Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Mùa thu bước vào thơ ca thật tự nhiên, gần gũi, trở thành một thi đề quen thuộc. Các bài thơ viết về đề tài này đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai. + Nói đến mùa thu, ta không thể không nhắc tới chùm thơ ba bài Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm của cụ Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến; không thể không xao xuyến với Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu... - Đưa ra vấn đề nghị luận + Là nhà thơ viết hay, viết nhiều về mùa thu với những cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng, Hữu Thỉnh cũng góp vào thơ thu đất nước một Sang thu tinh tế mà sâu sắc. + Trích thơ. 2. Thân bài a. Khái quát - Hoàn cảnh sáng tác. - Nội dung của hai khổ thơ phân tích. b. Phân tích 1. Khổ 2 - Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Như thế, thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi”, “gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời. - Tác giả cảm nhận thu sang bằng cả tâm hồn: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã. + Bằng phép nhân hóa đặc sắc, nhà thơ đã rất tài hoa ghi lại linh hồn của cảnh vật, của dòng sông quê hương nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ ăm ắp nước phù sa, vươn mình giữa ruộng đồng vào những ngày giao mùa. + Vào mùa thu, nước sông êm đềm, nhẹ nhàng, trôi lững lờ mà không chảy xiết như sau những cơn mưa mùa hạ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng-của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. + Trái ngược với vẻ khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim trời bắt đầu di trú về phương Nam. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động. → Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp trong khoảnh khắc giao mùa. → Nhà thơ đã gợi ra tốc độ trái chiều của thiên nhiên, của sự vật để tạo ra một bức tranh mùa thu đang về - có những nét dịu êm, nhẹ nhàng, lại có những nét hối hả, vội vã. (Ý thơ đồng thời còn gợi cho người đọc một liên tưởng khác: Sự chuyển động của dòng sông, của cánh /chim phải chăng còn là sự chuyển mình của đất nước. Cả đất nước ta vừa trải quạ chiến tranh tàn khốc mới có được hòa bình, và giờ đây mới được sống một cuộc sống yên bình, êm ả. Nhưng rồi mỗi người dân Việt Nam cũng lại bắt đầu hối hả nhịp sống mới để xây dựng đất nước trong niềm vui rộn ràng). - Đất trời mùa thu như đang rung nhịp của mình để thay áo mới. Cả bầu trời mùa thu cũng có sự thay đổi: Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu. + Trong thơ ca Việt Nam, không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu: Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt. (Thu điếu - Nguyễn Khuyến) Lớp lớp máy cao đùn núi bạc. (Tràng giang - Huy Cận) + Hữu Thỉnh dùng động từ “vắt” để gợi ra trong thời điếm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng. + Hình như đám mây đó vẫn còn lại một vài tia nắng ấm của mùa hạ nên mới vẳt nửa mình sang thu. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến một lúc nào đó không còn nữa để toàn bộ sự sống, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu. + Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự.phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị - một hình


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ mệt hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho người đọc... mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. → Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhât trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ. → Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. → Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều dài (dòng sông). Phải chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu. → Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng. 2. Khổ 3 - Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. - Hình ảnh “nắng” và “mưa”: + Nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa nắng hàng ngày một sự hụt vơi - dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu. + Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ. + Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa bong bóng kéo dài của mùa hạ. “Vơi dần” không chỉ là ít mưa đi mà còn là mưa ít nước đi. Đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa. → Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái gì đong đếm được nhưng sắc nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi bớt nhung vơi bớt đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượng mà thôi, không có gì là chừng mực cố định cả. Cách nói mơ hồ của nghệ thuật khác hẳn với khoa học ở chỗ này. → Phải chú ý, phải để lòng mình bắt nhịp với thiên nhiên mới cảm nhận thấy điều đó. - Ý nghĩa tượng trưng của hình ảnh “sấm” và “hàng cây”. + Cuối hạ - đầu thu, khi đã vơi đi những cơn mưa xối xả thì sấm cũng bớt bất ngờ và dữ dội. Nó không còn đột ngột, đùng đoàng rền vang cùng với những tia sáng chớp lòe như xé rách bầu trời trong những trận mưa bão tháng sáu tháng bảy nữa. + “Hàng cây đứng tuổi” phải chăng là hàng cây đã đi qua bao cuộc chuyển mùa nên không biết chính xác là bao nhiêu nhưng chắc cũng đủ trải nghiệm để có thể điềm nhiên đứng trước những biến động. → Cảnh vật, thời tiết thay đổi. Tất cả vẫn còn nhiều dấu hiệu của mùa hè nhưng giảm dần mức độ, cường độ, để rồi lặng lẽ vào thu qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả. - Hai câu kết của bài thơ không chỉ mang nghĩa tả thực, mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi những suy nghĩ cho người đọc người nghe:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. + “Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người đứng tuổi từng trải. → Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bằt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với nhũng bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn... trước những chấn động của cuộc đời. c. Nhận xét chung - Vậy là Sang thu đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. - Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề + Chỉ qua hai khổ thơ trong thi phẩm Sang thu ta đã hiểu được phần nào về thời khắc giao mùa. + Thu sang với đất trời và thu sang với lòng người. - Cảm xúc của bản thân + Hữu Thỉnh đã cho ta thấy một tâm hồn vô cùng tinh tế và nhạy cảm khi có thể vận dụng hết mọi giác quan để đón nhận hương vị khoảnh khắc giao mùa. II. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT NHÂN VẬT, NHÓM NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI 1. Sơ đồ tư duy


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

2. Ví dụ minh họa Đề bài: Phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. GỢI Ý LÀM BÀI l. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Trải chín năm trường đi kháng chiên Gót chân trơn càng luyện tinh thần Con suối nhỏ cũng mang hồn biển Mỗi đời riêng lớn giữa lòng dân. (Theo chân Bác-Tố Hữu) + Chúng ta đang sống trong một đất nước hoà bình, được sự dìu dắt, yêu thương của cha mẹ, được đùa vui dưới mái trường đầy ắp tiếng ca. Chúng ta có thể quên được chăng những trang sử hào hùng ấy, ngày các lớp cha anh đi trước đã hi sinh cả tính mạng. Máu của các anh đã nhuộm màu phì nhiêu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay. Các anh đã hi sinh cả thể xác lẫn tinh thần, hi sinh cả những hạnh phúc mà lẽ ra các anh phải được hưởng. Chiến tranh, vùng trời của tang thương và chết chóc. + Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi giấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gửi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn giấu được. - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Là nhà văn Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng am hiểu và gắn bó với mảnh đất Thành đồng Tổ quốc cùng những người con trai, con gái trung kiên trên mảnh đất ấy. Truyện của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống con người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. + Sáng tác năm 1966, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt, Chiếc lược ngà ngợi ca tình cha con, tình đồng chí của những người cán bộ cách mạng - cũng là tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cũng như bé Thu, nhân vật ông Sáu trong truyện đã để lại cho người đọc rất nhiều ấn tượng sâu sắc. 2. Thân bài a. Khái quát (Dẫn dắt vào bài) - Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không chịu nhận cha vì vết sẹo trên mặt làm ba em không giống với người chụp chung với mà trong bức ảnh mà em đã biết. Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiểu ra, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. - Ở khu căn cứ, bao nỗi thương nhớ con, ông dồn vào việc làm cho con chiếc lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mĩ - ngụy. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao chiếc lược cho một người bạn. Tình đồng đội, tình cha con của ông Sáu được miêu tả thật cảm động, làm sáng ngời vẻ đẹp của người lính cách mạng, của người cha yêu con. b. Vẻ đẹp người lính cách mạng - Vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu mà người đọc cảm nhận trước hết là vẻ đẹp của người lính cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, ông Sáu từ giã những gì thân thương nhất: con thơ, vợ trẻ lên đường làm cách mạng. Khi ông ra đi, bé Thu - con gái đầu lòng, cũng là đứa con gái duy nhất của ông chưa đầy một tuổi. Vậy mà, đằng đẵng suốt những năm kháng chiến, ông không một lần về thăm con, bởi với nhũng người lính: Đâu có giặc là ta cứ.đi


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Ra đi ra đi báo thù sông núi. (Hành quân xa- Đỗ Nhuận) Họ đã xếp bút nghiên theo việc kiếm cung (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn), vì nghĩa lớn để rồi ngày hòa bình vừa lập lại, ông được nghỉ phép về thăm nhà, thăm con. Trong thắng lợi to lớn của dân tộc, có phần xương máu mà ông Sáu đóng góp. c. Tình yêu thương con Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc trọng hình ảnh người cha chiến sĩ ấy chính là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm - tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái: - Được về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu, khao khát như thiêu đốt lòng ông Sáu là được gặp con, được nghe con gọi mình một tiếng ba, được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay ông chưa được sống. + Vì thế, về gần tới nhà, thoáng thấy bóng con, không chờ xuồng cập bến, ông nhún chân nhảy tót lên xô chiếc xuồng tạt ra, ông bước vội vàng những bước dài. + Cái tiếng gọi ông phải kìm nén bao lâu nay bỗng bật ra thật cảm động, làm người đọc thấy nghẹn ngào: “Thu! Con”. + Ngược lại với điều ông mong muốn, đứa con gái ngơ ngác, hốt hoảng rồi vụt chạy và kêu thét lên khiến người cha đau khổ, hai tay buông thõng như bị gãy. + Rồi suốt ba ngày nghỉ phép, ông không dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn gần con. Song, ông càng xích lại gần nó càng lùi xa; ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ lòng con, thì nó càng không gọi... + Bị con cự tuyệt, ông Sáu đau khổ không khóc được phải cười. - Trước giờ phút lên đường chia tay con, ông muốn ôm con, nhưng lại sợ con không nhận đành chỉ nhìn. Song chính trong lúc này, tình cảm dành cho người cha ở bé Thu òa ra mãnh liệt. + Nó cất tiếng gọi “ba”, ông xúc động đến phát khóc và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con. + Người chiến sĩ ấy nước mắt đã khô cạn nơi chiến trường, giờ đây là những giọt nước mắt hiếm hoi - nước mắt của niềm hạnh phúc và tình cha con. + Thương con, chia tay con, ông Sáu hứa sẽ mua cho con chiếc lược. - Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở khu căn cứ. + Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi nóng giận. + Rồi lời dặn của con: Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một chiếc lược bằng ngà voi. Làm cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. + Kiếm được khúc ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể lại: Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mi và cố công như người thợ bạc. Phải chăng, bao nhiêu tình yêu thương con ông dồn vào việc làm chiếc lược ấy? Rồi ông gò lưng tỉ mẩn, khắc từng nét chữ lên sống lựng lược: Yêu nhớ tặng Thu con của ba + Cây lược ấy, dòng chữ ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi cũng như đêm đêm nhớ con ông thường lấy cây lược ra ngắm nghía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. + Làm như vậy, có lẽ ông không muốn con ông bị đau khi chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước tấm lòng của người cha ấy.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

+ Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời - chiếc lược ngà. Cho nên, chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị. - Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con gái yêu. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mĩ - ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu. - Người đọc đã không thể cầm được nước mắt khi nghe tiếng khóc thét của đứa con gọi cha buổi chia tay hồi nào, giờ bỗng không thể cầm lòng khi chứng kiến cái cử chỉ cầm chiếc lược và ánh mắt nhìn của người cha vào giây phút lâm chung. Từng có bao nhiêu áng văn nói về tình mẹ cực kì xúc động nhưng có lẽ đây là một trang văn rất hiếm hoi mô tả đến tận cùng sâu thẳm trái tim yêu thương của người cha dành cho con. Cũng từ hình ảnh này, nhà văn đã khẳng định: bom đạn và chiến tranh có thể hủy diệt được sự sống, nhưng tình cha con - tình phụ tử thiêng liêng không gì có thể giết chết được. d. Nghệ thuật - Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. - Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt, nhà văn đã lựa chọn được một số chi tiết nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua cho con chiếc lược của bé Thu, ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà voi... Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của ngươi chiến sĩ cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận + Hình ảnh ông Sáu - người chiến sĩ cách mạng, người cha trong truyện Chiếc lược ngà đã để lại bao thổn thức trong lòng người đọc về tình phụ tử sâu sắc. + Chiếc lược ngà và những dòng chữ trên sống lưng lược mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt của những riărh chiến tranh. - Cảm xúc của bản thân + Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải nhiều gian khổ và hi sinh. + Ông là hình ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. III. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÌNH HUỐNG TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI 1. Sơ đồ tư duy 1. Ví dụ minh họa Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Một tác phẩm để lại ẩn tượng sâu đậm trong lòng hạn đọc chính là xây dựng thành công tình huống truyện và miêu tã nội tâm nhân vật.


Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Hãy phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân để làm rõ ý kiến trên. BÀI LÀM THAM KHẢO

D

ẠY

M

2. Ví dụ minh họa Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là xây dựng thành công tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật. Hãy phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân để làm rõ ý kiến trên. BÀI LÀM THAM KHẢO Có những tác phẩm đọc xong là ta quên ngay nhưng có những tác phẩm đọc xong mà để lại ấn tượng sâu sắc tựa như một dòng nước chảy qua để lại lớp phù sa màu mỡ. Tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như vậy. Đặc biệt, tác phẩm là một minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định: Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là xây dụng thành công tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật. Vậy tình huống truyện là gì? Một tác phẩm tự sự hay, không thể thiếu tình huống truyện. Tình huống là các sự việc, hoàn cảnh diễn ra sự việc được tác giả đặt nhân vật vào đó để bộc lộ đặc điểm, tính cách, phẩm chất của mình. Và dĩ nhiên, việc miêu tả nội tâm nhân vật chính là khắc họa những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật để qua đó người đọc có một cái nhìn rõ


Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

hơn về nhân vật cũng như tác phẩm. Tác phẩm Làng của Kim Lân là một tác phẩm hay, thành công trong xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật. Tác phẩm xoay, quanh một sự việc là tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc cùng những phản ứng của ông Hai trước, trong và sau sự việc đó. Chính vì thế tình huống trong tác phẩm cũng chia làm ba giai đoạn: trước khi ông Hai nghe tin, khi ông Hai nghe tin làng mình theo giặc và sau khi nghe tin cải chính. Trong mỗi tình huống, nhân vật ông Hai bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình thông qua việc xử lí các tình huống. Trước khi nghe tin, ông Hai là một người nông dân với những suy nghĩ khá hồn nhiên và tính cách khá đặc biệt. Ông yêu làng nên đi đâu cũng khoe về cái làng của mình, ông tự hào và yêu tất cả mọi thứ của làng Chợ Dầu nên khi tình huống phải đi tản cư xảy ra, ông Hai vẫn còn rất quyến luyến cái nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình, khi rời xa làng ông vẫn luôn theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm tình hình những người ở nơi khác đến. Đặc biệt, với tình huống thứ hai sau khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, nhận vật ông Hai bộc lộ sâu sắc tình cảm của mình. Từng hành động, cử chỉ, lời nói của ông trong mỗi hoàn cảnh, thời gian, địa điểm là một sự tủi hổ, nhục nhã, xót xa, đau đớn, dằn vặt và cuối cùng đi đến quyết định vô cùng khó khăn làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây mất rồi thì phải thù. Một người đã từng yêu làng hơn bất cứ thứ gì, đã từng tự hào về làng mà bây giờ lại phải thất vọng, đau khổ để quyết định “thù” làng. Tình huống này đã làm cho người đọc cảm nhận sâu sắc con người của nhân vật ông Hai. Nhưng Kim Lân không chỉ dừng lại đó mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ hơn khi tạo ra tình huống thứ ba là ông Hai nghe được tin cải chính. Một niềm vui bất ngờ, ông Hai như một con người đang chết mòn chết mỏi bây giờ được hồi sinh lại. Ông mua quà cho con và lại theo thói quen sang nhà bác Thứ để khoe tin mừng. Con người ấy vẫn mộc mạc, chân thực, đáng yêu và đáng quý biết bao. Tình huống đã khẳng định một điều trong con người ông Hai, tình yêu làng của ông Hai đã hòa quyện, thống nhất với tình yêu nước, tình yêu kháng chiến, yêu Cụ Hồ. Có thể nói, ở mỗi tình huống, nhân vật ông Hai đều bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, “rất người” của mình. Điều đó cũng khẳng định thành công trong việc xây dựng tình huống truyện của nhà văn Kim Lân. Phải chăng người đọc không chỉ thấy hấp dẫn với tác phẩm bởi tình huống truyện trong Làng mà còn thực sự thấy ấn tượng, yêu quý và hiểu rõ nhân vật hơn qua việc miêu tả nội tâm nhân vật của nhà văn Kim Lân.

D

ẠY

M

Thật vậy, nhà văn Kim Lân đã đi vào miêu tả rất sâu và kĩ tâm trạng của nhân vật ông Hai qua mỗi tình huống. Trước khi ông Hai nghe tin làng mình theo Tây, ông yêu làng Chợ Dầu của ông hơn bất cứ thứ gì. Ông tự hào về tất cả những gì của làng. Những điều đó khiến cho nhân vật ông Hai hiện lên với những suy nghĩ khá hồn nhiên và tính cách cũng đặc biệt, ông hay khoe làng: Ông có thể ngồi nói cả buổi về cái làng Chợ Dầu mà không biết người nghe thế nào, chỉ nói cho sướng cái miệng. Cho nên khi nhận lệnh phải đi tản cư ông Hai nửa muốn đi vì kháng chiến, nửa lại muộn ở lại vì tình cảm quyến luyến, yêu làng, không muốn rời xa làng, nhưng cuối cùng ông cũng phải đi. Ở nơi tản cư, ông vẫn luôn theo dõi tin tức kháng chiến, tình yêu làng của ông thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi dù ở làng hay rời xa làng. Song, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới thực sự được bộc lộ rõ khi nghe tin làng mình theo Tây. Một sự thất vọng tột độ, cái làng ông vốn rất tự hào, yêu hơn chính bản thân mình thì giờ đây lại theo Tây. Ông thấy mình như người có tội, bỗng chốc những cảm xúc tủi hổ, nhục nhã, dằn vặt, đau đớn ùa về trong ông. Những ngày sau ông không dám ra đường bởi ông sợ, ông lo lắng và cảm thấy chẳng còn mặt mũi để nhìn ai. Một quyết định đau đớn mà ông Hai phải dằn lòng đưa ra: Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù, ông đã đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng, hi sinh cá nhân vì dân tộc. Nhưng ông vẫn muốn một lần nữa khẳng định sự trung thành với Đảng, với cách mạng của mình qua cuộc trò chuyện với đứa con thơ. Ông Hai đã thực sự có những suy nghĩ đúng đắn. Sau khi nghe tin làng cải chính, ông Hai lại được yêu làng, tự hào về làng đúng với tình yêu trong trái tim ông.


FF

IC IA L

Vì thế ông tìm lại được bản tính hồn nhiên, mộc mạc của mình. Tình yêu làng của ông giờ đã quyện, thống nhất với tình yêu nước, tình yêu kháng chiến. Có thể trong sâu sắc nội tâm nhân vật, nhà văn Kim Lân đã thực sự thành công để người đọc hiểu hơn về nhân vật. Với thành công trong việc xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật của ngòi bút Kim Lân, nhân vật ông Hai hiện lên với những phẩm chất cao đẹp, với tình yêu làng mộc mạc, giản dị mà sâu nặng hòa quyện với tình yêu đất nước, vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương - Tổ quốc đối với mọi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm! Mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy!

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

Tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân chỉ là một hạt cát trên sa mạc trong nền văn học bấy giờ. Nhưng tác phẩm vẫn có nhũng nét riêng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Đặc biệt với việc thành công trong xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật, Kim Lân đã đưa nhân vật ông Hai trở thành người nông dân điển hình sống mãi trong lòng người đọc. IV. NGHỊ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH 1. Sơ đồ tư duy

D

2. Ví dụ minh họa Đề bài: Phần tích giá trị hiện thực trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mởbài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Nguyễn Dữ là nhà nho sống ở thế kỉ XVI, ông là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được đánh giá là cây bút kì tài của văn học cổ Việt Nam. + Truyền kì mạn lục là tác phẩm truyện đầu tiên của Nguyễn Dữ và của văn học cổ. Truyện gồm


Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

hai mươi truyện ngắn viết về những người phụ nữ xinh đẹp, đức hạnh nhưng gặp nhiều oan trái, những trí thức sinh không gặp thời. - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Truyền kì mạn lục là tập văn xuôi viết bằng chữ Hán. Nhiều truyện tập trung phản ánh hiện thực của xã hội phong kiến Việt Nam thời kì này đầy bất công, đen tối, chiến tranh liên miên, gây đau khổ cho dân lành. + Chuyện người con gái Nam Xương là thiên thứ mười sáu trong tập truyện này. Chuyện kể về Vũ Thị Thiết người con gái xinh đẹp, nết na nhưng số phận bất hạnh, qua đó tác giả đã phản ánh sâu sắc hiện thực ở nước ta thế kỉ XVI. 2. Thân bài a. Khái quát - Tác phẩm đề cập tới số phận đầy bi kịch, bất hạnh của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương - một người phụ nữ xuất thân từ tầng lớp bình dân, thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Nàng là một người vợ chung thuỷ; là một người con dâu hiếu thảo; là một người mẹ hiền. Vũ Nương mang đầy đủ những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: “công, dung, ngôn, hạnh”. Nhưng chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà Trương Sinh đã nghi nàng thất tiết, buộc nàng phải tự vẫn để giải oan. Truyện phản ánh hiện thực về xã hội phong kiến Việt Nam với những biểu hiện bất công, vô lí, đó là một xã hội dung túng cho quan điểm “trọng nam khinh nữ”. Xã hội đó đã để cho Trương Sinh, một kẻ thất học, vũ phu ngang nhiên chà đạp lên nhân phẩm của người vợ. Xét về quan hệ gia đình thì hành động của Trương Sinh chỉ là sự ghen tuông mù quáng. Xét về quan hệ xã hội thì sự ghen tuông của Trương Sinh là hệ quả của một tính cách - sản phẩm của xã hội phong kiến đương thời. Xét về nguyên nhân xâu xa thì cái chết của Vũ Nương là do xã hội phong kiến bất công và do chiến tranh phong kiến. b. Phân tích

- Trương Sinh:

Q

U

1. Truyện là bức tranh thu nhỏ về xã hội Việt Nam trong thế kỉ XVI mà trước hết lời tố cáo đanh thép, mạnh mẽ xã hội - Chiến tranh phong kiến, nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho người dân vô tội.

M

+ Bị bắt đi lính, chàng phải rời xa mái ấm gia đình, phải đối diện với gian lao, nguy hiểm chết chóc. + Do phải đi lính nên không làm tròn bổn phận người con, người chồng, người cha. + Cũng vì xa nhà nên dẫn đến chuyện hiểu lầm, đẩy người vợ trẻ đến cái chết oan nghiệt.

ẠY

- Bé Đản:

D

+ Gặp nhiều bất hạnh, sinh ra trong thời loạn lạc, khi vừa sinh ra đã không biết mặt cha, không có được niềm vui bình dị như bao đứa trẻ khác. + Bé chưa từng được cha ôm ấp, vỗ về. Không được hưởng sự chăm sóc từ tình phụ tử nên nhầm tưởng “cái bóng” là cha của mình, gây ra cái chết oan nghiệt cho người mẹ đức hạnh để nó mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ. . - Bà mẹ: + Con trai đi lính, bà mẹ vì quá lo lắng cho con trai nên sinh bệnh, ốm và mất. + Đến khi từ giã cuộc đời bà cũng không được gặp mặt đứa trai yêu quý duy nhất của mình.


+ Có lẽ người mẹ già ấy dù đã sang thế giới bên kia vẫn không yên lòng, không thể nhắm mắt vì lo lắng cho đứa con của mình. - Vũ Nương:

IC IA L

+ Nàng là nạn nhân đau khổ nhất, bất hạnh nhất của chiến tranh. Sum họp gia đình chưa thoả tình chăn gối đã phải chia phôi vì động việc lửa binh. Chiến tranh đã khiến người phụ nữ phơi phới tuổi xuân ấy phải chịu cảnh Một mình chiếc bóng năm canh (Truyện Kiều - Nguyễn Du), nàng phải sống trong nỗi cô đơn vò võ, trong sự khắc khoải đợi chờ, trong niềm hi vọng mong manh. Không những thế, nàng phải sống vô cùng vất vả. Một mình nàng phải nuôi mẹ già và trông con nhỏ, quán xuyến công việc gia đình. Sự vất vả cùng nỗi mỏi mòn trong chờ đợi đã bào mòn tuổi xuân của Vũ Nương.

O

FF

- Hậu quả của chiến tranh còn làm hạnh phúc của gia đình tan vỡ, còn cướp đi mạng sống của con người. Do Trương Sinh phải xa nhà nên dẫn đến hiểu lầm. Kết cục, một Vũ Nương đức hạnh thủy chung lại bị nghi ngờ là thất tiết, bị mắng nhiếc đánh đập rồi bị đuổi ra khỏi nhà. Cuối cùng nàng phải chọn cái chết để minh oan cho mình.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

→ Có thể nói chiến tranh đã kéo tất cả mọi người vào cuộc. Và tất cả họ đều chịu một kết cục bi thảm. Chiến tranh đã khiến gia đình li tán, mẹ xa con, vợ lìa chồng, hạnh phúc tan vỡ, người dân mất đi cả sự quý giá nhất: cuộc sống. Như vậy, viết về những đau khổ mà chiến tranh gây ra, Nguyễn Dữ đã lên án chiến tranh và bày tỏ khát vọng chính đáng của người dân: được sống trong yên binh, không có loạn binh đao. 2. Tố cáo xã hội phong kiến vởi chế độ nam quyền và luật lệ ngặt nghèo hà khắc - Tố cáo xã hội phong kiến với chế độ nam quyền: + Chiến tranh phong kiến đã gây ra xiết bao thảm họa xương rừng máu sông (Hai chữ nước nhà Trần Tuấn Khải) cho bao gia đình vô tội thì xã hội phong kiến lại tiếp tay để dìm họ xuống sâu hơn nữa trong vũng bùn đau khổ. Chính xã hội với chế độ nam quyền đã cướp đi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ nói chung, quyền yêu, quyền sống, quyền định đoạt số phận. + Cũng giống như bao người phụ nữ khác, Vũ Nương là nạn nhân của chế độ nam quyền, của sự phân biệt giàu - nghèo. Biết nàng tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp cho nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về. Đây là cuộc hôn nhân có sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy. Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn mặc cảm thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu. Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy luôn tiềm ẩn nguy tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo + Hơn nữa, chính trong xã hội ấy người đàn ông có quyền coi thường, rẻ rúng, nghi ngờ và đối xử thô bạo với người phụ nữ. Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ... Vũ Nương không hiểu vì sao mình lại bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ cả khi có họ hàng, làng xóm bênh vực, biện bạch cho mình. Có thể nói Trương Sinh là sản phẩm, là con đẻ của xã hội phong kiến mục nát ấy. - Tố cáo xã hội phong kiến với quan niệm ngặt nghèo hà khắc: Xã hội phong kiến với quan niệm ngặt nghèo hà khắc, người phụ nữ bị trói buộc vào lễ giáo vởi “tam tòng tứ đức” biến họ thành nô lệ cho người đàn ông trong gia đình. Vì vậy, họ không tìm được tiếng nói riêng của mình. Họ không thể tự minh oan cho mình ngay cả khi bị oan. Hơn nữa


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

xã hội phong kiến không cho phép người phụ nữ có cơ hội sửa chữa lỗi lầm nên đẩy người phụ nữ đức hạnh đến cái chết oan ức. c. Đánh giá Nếu sự ghen tuông mù quáng và hành động vô học của Trương Sinh đã trực tiếp đẩy Vũ Nương đến cái chết thì chiến tranh và xã hội phong kiến với chế độ nam quyền và những quan niệm ngặt nghèo là nguyên nhân chính và nguyên nhân sâu xa khiến cho người phụ nữ đức hạnh ấy phải chịu kết cực bi thảm. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận + Chuyện người gái Nam Xương có giá trị hiện thực tố cáo sâu sắc. + Thông qua câu chuyện tình ngang trái và nỗi oan khuất của Vũ Nương, nhà văn lên án chế độ phong kiến tàn ác, bất công đã gây bao đau khổ pho con người, nhất là người phụ nữ. - Cảm xúc của bản thân + Truyện là một bài học nhân sinh sâu sắc về quan hệ gia đình, vợ chồng và ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người vợ hiền thục, đảm đang, chung thủy. + Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hội, xã hội của thời đại mới. V. NGHỊ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH 1. Sơ đồ tư duy

2. Ví dụ minh họa Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. GỢI Ý LÀM BÀI


1. Hiểu về giá trị nhân đạo của tác phẩm Truyện Kiều

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Niềm yêu thương sâu sắc trước những đau khổ của con người. - Sự lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. - Sự trân trọng, đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những khát vọng chân thành. 2. Giá trị nhan đạo của các đoạn trích đã học trong tác phẩm Truyện Kiều và các dẫn chứng * Chị em Thúy Kiều - Đề cao những giá trị con người về nhân phẩm, tài năng, khát vọng, ý thức, về thân phận cá nhân. - Cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca. * Kiều ở lầu Ngưng Bích - Thương cảm trước những đau khổ, bi kịch của con người. * Mã Giám Sinh mua Kiều - Lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người. - Thương cảm trước những đau khổ, bi kịch của con người. Dàn bài chi tiết 1. Mở bài - Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận Thế đấy Nguyễn Du vĩ đại ơi Câu thơ máu thịt thấm bao đời Bốn chiều cuộc sống hồn dân tộc Đựng cả mênh mông của đất trời. (Tế Hanh) - Đánh giá sơ lược về giá trị nhân đạo của Truyện Kiều + Vâng, Nguyễn Du rất vĩ đại! Người đã để lại cho đời một kiệt tác văn chương đó là Truyện Kiều. Đây là một tác phẩm đã đưa Tố Như lên đỉnh vinh quang - danh nhân văn hóa thế giới. + Đọc Truyện Kiều chúng ta cảm nhận được giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc của một trái tim ngập tràn tình cảm yêu thương về sự sống của con người. 2. Thân bài a. Khái quát vào bài: - Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm. - Khái niệm về giá trị nhân đạo Giá trị nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ Truyện Kiều. Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều thể hiện ở tiếng nói đồng cảm với những bi kịch, đồng tình với những khát vọng chân chính của con người + Đó là sự cảm thương sâu sắc trước số phận bi kịch, là lời khẳng định, ngợi ca con người và những khát vọng chân chính của con người. + Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người như tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu... + Đó còn là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lí: là sự đồng cảm, xót thương với bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

đối với người phu nữ bạc mệnh trong xã hội phong kiến. b. Phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo 1. Niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người - Trái tim nhà thơ quặn đau, se thắt cho số kiếp lênh đênh bạc mệnh của Thúy Kiều: Thương thay cũng một kiếp người Hại thay mang lấy sắc tài làm chi? - Qua hiện thực của cuộc đời Kiều, Nguyễn Du đã cảm nhận nỗi đau khổ chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. - Nhìn gia đình Kiều bị tên bán tơ vu họa, Thanh Hiên xót xa chia sẻ nỗi niềm: Rường cao rút ngược dây oan Dầu là đá cũng nát gan lọ người. - Tâm trạng của Kiều buồn đau chán ngán cũng là lời của chính trái tim Nguyễn Du: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cành như chia tấm lòng.. - Tác giả đau xót cho cảnh Thúy Kiều bị Hồ Tôn Hiến bắt nàng đàn để mừng cho chiến công của hắn: Một cung gió thoảng mưa sâu Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay. 2. Sự lên án tố cáo các thế lực tàn bạo - Nguyễn Du tố cáo bọn tay sai hung tàn đã sầm sập vào nhà bắt gia đình Kiều: Người nách thước kẻ tay đao Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi. - Lên án hành vi cướp bóc tài sản trắng trợn của bọn quan lại vô sỉ với nhũng người dân lành vô tội: Đồ tế nhuyễn của riêng tây Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. - Vạch trần bản chất xấu xa, đê tiện của tên trọng thần Hồ Tôn Hiến khi hắn làm nhục Thúy Kiều: Nghĩ mình phương diện quốc gia Quan trên ngắm xuống người ta trông vào . Lệnh quan ai dám cãi lời Ép tình mới ghép cho người thổ quan. - Lên án xã hội phong kiến vì đồng tiền mà làm cho nhân dân chịu nhiều đau khổ: Một ngày lạ thói sai nha Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. - Vạch trần bộ mặt của nhũng tên lưu manh chỉ vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm con người: Định ngày nạp thái vu quy Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong. - Tố cáo những kẻ bất nhân buôn thịt bán người đầy thủ đoạn: Đắn đo cân sắc cân tài Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.


Hài văn lần bước dặm xanh

O

FF

IC IA L

3. Sự trân trọng đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, khát vọng chân thành - Gợi tả bức chân dung hai chị em Kiều đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn: Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. - Vẽ nên bức chân dung của Thúy Vân - một người con gái có vẻ đẹp sang trọng, đoan trang và phúc hậu: Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. - Khắc họa bức chân dung Thúy Kiều - một giai nhân tuyệt sắc “sắc sảo, mặn mà”: Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành. - Khắc họa chân dung Kim Trọng - một văn nhân nổi tiếng trong vùng:

Ơ

- Ca ngợi tài năng xuất chúng của Thúy Kiều:

N

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

H

Thông minh vốn sẵn tính trời

Y

N

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

U

- Ca ngợi phẩm chất của Thúy Kiều khi bán mình chuộc cha, cứu gia đình: Hạt mưa sá nghĩ phận hèn

M

Q

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân Thà rằng liều một thân con Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.

ẠY

- Đề cao tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ của Thúy Kiều khi nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

D

- Ca ngợi sự hi sinh tình cảm cao đẹp của Kiều: Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy cồn thơm lây Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung.

- Khắc họa Từ Hải - người anh hùng, nhân vật lí tưởng thể hiện sự khao khát, ước mơ công lí: Râu hùm hậm én mày ngài


Vai năm tấc rộng thân mười thước cao Đường đường một đấng anh hào Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. c. Đánh giá về sự thành công của tác phẩm “Truyện Kiều” - Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng và thương yêu con người bị áp bức, bị chà đạp.

IC IA L

- Nguyễn Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu thương, rất mực đề cao con người, đề cao những khát vọng chân chính của con người - đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, tàn bạo và lễ giáo phong kiến hà khắc. - Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: coi trọng vẻ đẹp của con người; tôn vinh cái tài của con người.

FF

- Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Đu hòa vào dòng chảy chù nghĩa nhận đạo truyền thống của

O

dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, góp một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị. 3. Kết bài

N

- Khẳng định giá trị nhân đạo của Truyện Kiều

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

+ Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này + Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam. + Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, làm thăng hoa ngôn ngữ dân tộc. - Cảm xúc của bản thân + Nguyễn Du và Truyện Kiều sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời. Xin mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên để khẳng định lại điều này: Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường Chàng Kim đã đến tìm lau giọt khóc Và lò trầm đèm ấy tỏa bay hương. VI. NGHỊ LUẬN BÀN VỀ MỘT Ý KIẾN VĂN HỌC 1. Sơ đồ tư duy


IC IA L FF O N Ơ H

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

2. Ví dụ minh họa Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Hồ Chi Minh - con người của thời đại, anh hùng giải phóng dân tộc. Không chỉ là một nhà quân sự thiên tài, nhà chính trị mà còn là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Tập thơ “Nhật kí trong tù” của Người chứa đựng một tinh thần nhân đạo luôn hướng tới con người. Anh (chị) có đồng tình với ý kiến trên không? BÀI LÀM THAM KHẢO Không có một bậc vĩ nhân nào lại không có lòng nhân ái. Đọc tập thơ Nhật kí trong tù của Bác, tất cả nhũng nguời có hiểu biết đều nhận định thống nhất: Bác là một bậc đại nhân, là người có lòng thưongyêu con người mênh mông. Lòng thương yêu con người của Bác là tinh thần nhân đạo cộng sản, đó là tinh thần nhân đạo mới mẻ mà Bác mang lại cho dân tộc và nhân loại. Ông Trường Chinh cũng cho rằng: Một điểm nổi bật nhất trong đạo đức Hồ Chủ tịch là lòng thương người. Tình thương người của Hồ Chí Minh không phải là lòng thương người siêu giai cấp mà có quan điểm nội dung và giai cấp cụ thể, đó là tình thương người của giai cấp vô sản, nó rất khác với tinh thần bác ái của tôn giáo, yêu thương an ủi con người và khuyên con người hãy thụ động chờ đợi hạnh phúc ở thế giới xa xôi hoặc kiếp sau. Đó cũng không phải là tình thương có ý nghĩa ban phát của giai cấp quý tộc, của những người sống trên tiền của. Giá trị của Nhật kí trong tù phong phú về nhiều mặt. Nhà thơ Hoàng Trung Thông thâu tóm ở hai điểm rất chủ yếu: chất thép và tình người: Vần thơ Bác là vần thơ thép Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.


ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Tố Hữu nhận xét: Bấy lâu người ta chỉ hiểu người chiến sĩ cách mạng là thép ở mũi nhọn chiến đấu. Trong tập thơ này ta hiểu rõ thêm người cộng sản là tình. Tình ở đây là tình yêu thương đất nước, cuộc sống và con người. Chủ yếu ở đây chúng ta tìm hiểu, khai thác tình cảm với con người. Trong tù Bác cũng chịu khổ ải như bất kì tù nhân nào. Mà Bác thì đã già, bị tù trong hoàn cảnh cô độc, nhưng Người đã quên đi nỗi đau của riêng mình mà đem lòng thương yêu những người bạn tù mà Bác gọi là bạn hữu. Có thể nói trong tất cả những tù nhân ở nhà lao Quảng Tây, Bác là người cô độc hơn ai hết, nhưng chỉ nhìn thấy vợ của một người bạn tù đến thăm chồng là Bác đã xúc động, Bác diễn tả nỗi lòng thương yêu của mình đối với vợ chồng người bạn tù trong một bài thơ đặc sắc: Anh đứng trong cửa sắt Em đứng ngoài cửa sắt Gần nhau trong tấc gang Mà biển trời cách mặt Miệng nói chẳng nên lời Nói lên bằng khóe mắt Chưa nói lệ tuôn tràn Tình cảnh đáng thương thật. (Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng) Bác thương vợ chồng người bạn tù Gần nhau trong tấc gang/ Mà biển trời cách mặt. Biển trời cách mặt là biển của tình yêu thương mênh mông củà Bác đối với nhũng con người bất hạnh. Trên con đường đi giải lao, nhìn thấy người phu làm đường cực khổ dưới nắng mưa, Bác động lòng thương và ghi lại thành thơ: Dãi gió dầm mưa chẳng nghỉ ngơi Phu đường vất vả lắm ai ơi Ngựa xe hành khách thường qua lại Biết cảm ơn anh được mấy người. (Phu làm đường) Tại sao Bác lại cảm động trước người phu làm đường kia. Có lẽ Bác cũng là một người phu làm đường cho nên dễ thông cảm với người phu làm đường đang vất vả với con đường hành khách qua lại. Bác cũng đang kiến tạo con đường cho nhân loại, con đường cách mạng cho nên tình thương Bác dành cho người phu làm đường càng sâu sắc, thấm thía.

D

Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù cũng biểu hiện sự cảm thông đối với nhũng người nông dân: Khắp chốn nông dân cười hớn hở Đồng quê vang dậy tiếng ca vui. (Cảnh đồng nội) Vào nhà lao Tân Dương nghe tiếng khóc của một đứa trẻ, Bác vô cùng xúc động tưởng chừng như đứa trẻ muốn nói với Bác qua tiếng khóc trẻ thơ: Oa! Oa! Oa!


IC IA L

Cha trốn không đi lính nước nhà Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi Phải theo mẹ đến ở nhà pha Âm thanh oa oa đó kể lể với Bác một điều cay đắng trong ngàn điều cay đắng trên đời. Tiếng khóc của đứa trẻ kia đã bật ra từ sự dồn nén của tầng tầng phi lí. Nhà thơ đã tự sự trong cái không thể tự sự được. Dường như đứa trẻ biết đây là ông chủ bút tờ báo Người cùng khổ nên mới bật ra tiếng khóc kể lể như vậy. Trong những người bất hạnh Bác gặp trong tù, Bác đặc biệt thương mến nhi đồng và phụ nữ. Trên kia ta thấy được niềm thông cảm của Bác đối với người phụ nữ có chồng mới bị bắt lính, đến đây chúng ta lại hiểu thêm tấm lòng yêu thương của Bác trong tiếng khóc của người góa phụ: Hỡi ôi! Chàng hỡi, hỡi chàng ơi!

FF

Cơ sự vì sao vội lánh đời? Con người tâm ý hợp mười mươi.

O

Để thiếp từ nay đâu thấy được

N

(Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng)

Ơ

Trong tù, Bác còn chứng kiến những cảnh ngộ thương tâm. Một người tù cờ bạc nằm bên Bác vì đói rét, bị hành hạ mà phải chết thảm thương:

N

H

Thân anh da bọc lấy xương Khổ đau đói rét hết phương sống rồi

Y

Đêm qua còn ngủ bên tôi Sáng nay anh đã về nơi suối vàng.

U

(Một người tù cờ bạc vừa chết)

Q

Đây là một cái chết hai lần oan nên Bác càng thương cảm (Oan thứ nhất là đánh bạc không đáng vào tù vì trong tù đánh bạc công khai, oan thứ hai là phải chết trong đói rét thê thảm).

M

Có một bài thơ đã kết đọng lại hai dòng tình cảm lớn của Bác là tình thương và lòng yêu nước đó là bài Người bạn tù thổi sáo. Bác thương người bạn tù nhớ quê hương da diết trong âm điệu sầu não. Bác cũng là người cùng hội cùng thuyền, Bác cũng đang có tâm trạng nhớ quê hương đất nước nên tiếng sáo của người bạn tù cũng là tiếng lòng của Bác: Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu

D

ẠY

Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu Muôn dặm quan hà khuôn xiết nỗi Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.

Qua Nhật kí trong tù, ta thấy rõ tấm lòng của Bác: nhân hậu, giàu tình yêu thương và luôn có cách xử thế ân tình (Đặng Thai Mai). Người luôn tìm cách giúp đỡ mọi người trong khả năng của mình và tỏ lòng biết ơn ai đó giúp mình. Trong hoàn cảnh lẫn lộn, bề bộn Người vẫn luôn phân biệt sáng tỏ người tốt kẻ xấu, người đáng thương, người đáng trọng. Giá trị nhân đạo của Nhật kí trong tù góp phần quan trọng tạo nên giá trị bền vững của tác phẩm. Tôi xin dẫn ra đây nhận xét của một học giả về tinh thần nhân đạo của Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù. Nhật kí trong tù là tiếng nói vút lên từ chỗ tối tăm mù mịt ấy mà lại là tiếng nói


Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

chứa chan tình nhân đạo nên tự nhiên cũng là tiếng nói kết tội những bóng tối dày đặc đang đè nặng lên kiếp sống của người ta. Giữa bao nhiêu tối tăm dày dặc, ánh sáng vẫn ngời lên, ánh sáng của lòng thương người và yêu đời vô hạn (Hoài Thanh). Tôi cũng nhận thấy với tấm lòng khâm phục tràn đầy rằng ngay trong nhà tù Người vẫn thương xót những người khác và luôn nghĩ đến những nguyên tắc của chủ nghĩa nhân đạo. VII. NGHỊ LUẬN BÀN VỀ SO SÁNH TRONG TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH 1. Sơ đồ tư duy

D

ẠY

M

minh họa Đề bài: Trong bài thơ Vân chữ, Lê Đạt viết: Mỗi công dân đều có một dạng vân tay Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ Không trộn lẫn. Từ hai đoạn thơ dưới đây, hãy chỉ rõ dạng “vân chữ" “không trộn lẫn" của mỗi nhà thơ: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. (Đồng chí - Chính Hữu) Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. (Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)

2. Ví dụ


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

BÀI LÀM THAM KHẢO Cõi đời là cõi hữu hạn. Nhà soạn nhạc thiên tài Bét-thô-ven dừng chân tại kiếp sống này và để lại cho đời bản Sô-nát Ánh trăng - bản giao hưởng định mệnh. Nhà văn Banzắc trước khi về với đất mẹ dấu yêu cũng ghi lại tên mình trên tượng đài vãăn học với Tấn trò đời. Sự đời thương hải tang điền, rồi một ngày kia dòng sông năm tháng sẽ cuốn đi tất cả. Những thành quách lâu đài, những kì quan của tạo hóa rồi cũng sẽ dần phôi pha... Thế nhưng, giữa dòng chảy nghiệt ngã ấy, người đời vẫn nhớ đến một ngòi bút Chính Hữu rực lửa, một tiếng thơ gân guốc, ngang tàng Phạm Tiến Duật, đúng như Lê Đạt viết: Mỗi công dân đều có một dạng vân tay . Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ Không trộn lẫn. Quan điểm này đã được thể hiện rõ qua đoạn thơ của nhà thơ Chính Hữu trong Đồng chí. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Và đoạn thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. Mỗi con người sinh ra đều có một dấu vân tay riêng, mang những đường nét, hình dạng đặc thù, không giống nhau với bất kì ai cho dù đó là anh chị em đồng sinh. Vân tay là dấu hiệu, cũng là cơ sở chuẩn xác để xác minh danh tính cùa. một công dân, được lưu trữ để xác thực nhân thân, phân biệt với người khác. Với cách nói đầy hình ảnh gợi sự liên hệ tương đồng với vân tay, nhà thơ là danh hiệu cao quý mà không phải ai cũng có, dù cho bản chất của mỗi người là nghệ sĩ (M. Garti), dù cho ai ai cũng cộ một nhà thơ ẩn khuất trong tâm hồn mình. Hai chữ tài năng đâu phải nhà thơ nào cũng có được. Chỉ có những nhà thơ thật sự xuất chúng mà theo Lê Đạt là có “vân chữ” riêng mới có thể xứng đáng với tiếng gọi “tài năng” này. Với Lê Đạt, nếu như “vân tay” là những đường nét chỉ có duy nhất ở mỗi người, dựa vào đó để phân biệt người này với người khác thì để phân biệt nghệ sĩ thứ thiệt với nghệ sĩ tầm thường, “vân chữ” là một công cụ đắc lực. Rất nhiều nhà thơ đã sinh ra và ở lại giữa cuộc đời này nhờ vào “vân chữ’' - một giọng nói riêng, phong cách nghệ thuật độc đáo và riêng biệt. Cũng giống như vân tay, phong cách nghệ thuật của mỗi người cũng một khác. Đây cũng là lí do cốt yếu tạo nên sự đa dạng cho văn chương. Sáng tác thơ là quá trình tạo nên một tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ nhằm truyền tải cảm xúc hay một nội dung ý nghĩa nào đó. Nhưng đặc tính cùa nó không nằm trong thông điệp tác giả gửi gắm mà nó nằm ở lớp vỏ ngôn từ. Ngôn từ vừa là phương tiện thể hiện, vừa là chính bản chất cùa một tác phẩm thi ca. Một bài thơ xuất sắc là một bài thơ mà việc bớt đi, thêm vào hay thay đổi dù một chữ cũng làm giảm đi giá trị của nó. Bởi vậy chắt lọc và sử dụng ngôn từ đạt đến tinh hoa thẩm mĩ đều là việc mà bất cứ nhà thơ nào cũng phải hướng tới, một khi đã muốn khẳng định và duy trì sự hiện tồn của mình trong một nền văn học. Không chỉ vậy, việc chắt lọc và sử dụng đó còn cần mang một cá tính sáng tạo riêng, một phong cách không trùng lặp, đó chính là “vân chữ” mà Lê Đạt nhắc đến. Từ lịch sử văn học thế giới nói chung và lịch sử- văn học Việt Nam nói riêng, có thể thấy khi nhà thơ đáp ứng được những đòi hỏi đó, thì tác phẩm và tên


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tuổi của họ sẽ trường tồn mãi với thời gian. Tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 1975 là hai tác giả Chính Hữu và Phạm Tiến Duật, cho dù cùng viết về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ tham gia kháng chiến chống Phảp và chống Mĩ, song mỗi nhà thơ đều có một nét đẹp rất riêng, rất độc đáo trong sáng tác, thể hiện qua đoạn trích của -hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Khổ thơ cuối của bài thơ Đồng chí là một minh chứng rõ nét cho “vân chữ” tài tình của Chính Hữu. Bài thơ đã kết thúc bằng bức tranh đẹp của tình đồng chí. Mạch tình cảm tuôn chảy dạt dào, tới ba câu cuối lại là tiếng nói của đất trời. Hơn thế nữa, đọc tác phẩm Đồng chí ta cảm nhận được sự lớn lên trong tâm hồn người chiến sĩ qua tình cảm lớn là tình đồng chí: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính phục kích chờ giặc trong đêm sương muối. Cái buốt lạnh và cái im lìm đến cô liêu, trong bức tranh như tạc vào không gian bức tượng kì vĩ của hai người chiến sĩ chuẩn bị xung trận... Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Chính Hữu đã khắc họa hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Đối mặt với những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử thách giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng vững. Rừng hoang im lặng chỉ có sương muối bay động tỏa đầy mang theo giá buốt của rừng đêm. Sương muối vây bủa là sự đe dọa chung của đất trời, giặc tới là sự đe dọa của bọn người xâm lược. Cả hai đều nguy hiểm, nhưng anh - tôi nào có sợ gì. Chiến sĩ của ta chấp nhận và chủ động chờ, chủ động như những con người: Lột Sắt đường tàu Rèn thêm dao kiếm Áo vẩi chân không Đi lùng đánh giặc. (Nhớ - Hồng Nguyên) Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm “chờ giặc tới” giữa nơi rừng hoang sương muối. Những người lính kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng vào kẻ thù. Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Âm trắc sắc của từ cuối của hai câu thơ (muối, tới) như đẩy sự hồi hộp, lo âu đến đỉnh cao thì đầu súng trăng treo - một hình ảnh cô đọng giàu cảm xúc lại như kéo sự hồi hộp, lo âu xuống đến tận cùng. Nhưng Chính Hữu đã dùng hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng tạo ra những liên tưởng phong phú và giàu chất lãng mạn. Một hình ảnh nên thơ nhung cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đen lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chẩt trữ tình hòa vào chất cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm, người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội Cụ Hồ sát cạnh vai nhau “kề vai sát cánh” cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập. Ánh trăng gần như gắn liền với người lính: Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ. (Ánh trăng - Nguyễn Duy) Súng và trăng ở đây đã trở thành một cặp đồng chí. Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nó gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng - gần và xa; súng và trăng - cứng rắn và dịu hiền; súng và trăng - chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng - chất chiến đấu và chất trữ tình; súng và trăng... là biểu tượng tình đồng chí. Bốn chữ đầu súng trăng treo chia làm hai vế làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, như nhịp lắc của một cái gì đó chông chênh, trong bát ngát... (Nhà thơ nói về tác phẩm) gây sự chú ý cho người đọc. Vầng trăng “treo” nếu không lầm thì đây là trăng đầu tháng, vầng trăng lưỡi liềm khi mà vai các chiến sĩ đã ướt đẫm sương muối tức là đêm đã về khuya gần sáng, sương càng ngày càng lạnh, phía đông vầng trăng lưỡi liềm nhô lên đầu súng. Giống như quầng lửa căm hờn tích tụ vụt lóe lên, ánh bình minh sẽ là bước tiếp theo sau trận phục kích địch báo hiệu ngày mới của tương lai trông đợi đang đến, trong một trận đánh mật phục sự im lặng đến nao lòng, có thể nghe rõ tiếng đập của con tim, tình đồng đội đồng chí lại càng gắn chặt. Khi “... tay nắm lấy bàn tay” của nhau thì không chỉ truyền cho nhau hơi ấm trong đêm tàn, mà còn báo cho nhau hiệu lệnh xung phong khi đến giờ xuất kích trong rừng hoang sường muối. Đứng kề bên nhau “chờ giặc tới” là những phút giây hồi hộp, những nỗi lòng gửi gắm cho nhau, cùng nhau chiến đấu có thể hi sinh, truyền cho nhau những nỗi niềm và dự cảm: sự cô đọng của tứ thơ ở đây làm cho ta có cảm giác không gian đanh lại. Cảm giác của đêm vắng lặng, chứa chất cái sục sôi nhưng cũng rất nên thơ... cái bao quát chỉ có thể danh cho người trong cuộc, bởi không ai có thể biết được đó là những bóng người, có chăng trong đêm mật phục ấy, người chiến sĩ chớp lấy giây phút tĩnh cảnh trong đêm tối mịt mùng bỗng chói lòa vầng trăng đầu súng và kịp ghi lại hình ảnh trước giờ xung trận có một không hai. Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau mặt đất và bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị, bất ngờ. “Súng” là biểu tượng của chiến đấu, hi sinh, “trăng” là biểu tượng của cái đẹp hòa bình, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống. Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ, là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Hòa bình treo trên sự hiểm nguy, muốn vĩnh viễn có trăng hòa bình thì cần phải chủ động chấp nhận đối đầu, phải dũng cảm chờ giặc tới để tiêu diệt chúng ngay. Sau đó, đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa (Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi) thổi. Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình, là biểu tượng cho tình thần dũng cảm, hào hoa muôn thuở của dân tộc nói chung và người lính nói riêng. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Sự kết tinh giữa yếu tố hiện thực và tình cảm lãng mạn, trong trẻo, là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu sớm mang lại cho thơ ca. Cái đẹp của người chiến sĩ trong bài thơ là ở đó - có Sự hòa quyện giữa thép và tình. Dù chỉ giản đơn ba câu thơ, nhưng Chính Hữu đã cho ta một bức tranh phổ quát của chiến tranh vệ quốc vĩ đại từ những người lính giản dị im lìm như tượng đá coi cái chết nhẹ tựa lông hồng - chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh (Tây Tiến - Quang Dũng), nhưng khi xung trận họ là những anh hùng vụt dậy trọng đêm tối rừng hoang lạnh lẽo mang sự hủy diệt kể thù như tia chợp đầu sủng. Ta có thể thấy được ba câu thơ đã lột tả được cảnh đấu tranh trọng gian khổ của người


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

chiến sĩ thời chiến tranh vệ quốc. Khác với đoạn trích bài thợ Đồng chí, đoạn trích trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính sử dụng ngôn từ gân guốc, rắn rỏi, chất hiện thực và lãng mạng đan hòa cùng nhau, bài ca chiến trận thấm đẫm màu sắc lãng mạn. Thể thơ tám chữ có xen lẫn chín chữ. Điều này cũng mang nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Phạm Tiến Duật, trẻ trung, sôi nổi, yêu đời. Khổ thơ dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị làm nổi bật sự khốc liệt trong chiến tranh nhưng cũng làm nổi bật ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, tình cảm sâu đậm với miền Nam ruột thịt. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt. Hai câu thơ đã đưa ta về những năm tháng của hào khí khói lửa trên tuyển đường huyền thoại: Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước. Câu thơ dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên nhiều lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc như những chặng gập ghềnh, khúc khuỷu đầy chông gai, bom đạn... Ấy vậy mà những chiếc xe như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. Hai câu thơ đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn. Âm điệu đối chọi mà trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số an toàn, tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược... vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bởi phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Công cuộc giành độc lập tự do của nửa nước vẫn phải tiếp tục. Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý chí chiến đấu giải phỏng miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế-hình ảnh hoán dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ. Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Hình ảnh này kết hợp cùng kết cấu câu “vẫn - chỉ cần” đã lí giải về sức mạnh vượt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái? Tình yêu Tổ quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích? Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ... mà là con người


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là nhãn tự, là con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ, vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển được. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục. Hai đoạn thơ đều viết về một giai đoạn hào hùng của dân tộc: 1945 - 1975 - giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, bên cạnh chủ đề khác nhau còn được thể hiện theo hai phong cách nghệ thuật khác nhau. Một bên lãng mạn đan hòa hiện thực, tinh tế, hàm súc một bên gân guốc, ý thơ sôi nổi như bay bay. Sự khác nhau giữa hai phong cách là do Chính Hữu trực tiếp tham gia cách mạng trong những ngày đầu gian khổ, lại là một người lính nông dân, vì thế ngôn ngữ thơ ông cô đọng, hàm súc, hình ảnh chọn lọc. Còn Phạm Tiến Duật vốn là một nhà thơ mang ngòi bút với vẻ đệp trẻ trung, sôi nổi, lại từng trực tiếp tham gia vào đoàn vận tải nên những hình ảnh được khắc họa lại vô cùng chân thực. Như vậy, mỗi bài thơ đều có phong cách rất riêng, khơi gợi lên trong lòng độc giả những sắc thái cảm xúc khác nhau. Đó chính là “vân chữ” của mỗi tác giả, tạo nên giá trị riêng cho mỗi bài thơ, làm nên sự nổi tiếng và sức sống lâu bền cho tác phẩm. Viết ra được những lời thơ như vậy là nhờ vào không chỉ tài năng mà còn là khả năng đào sâu tìm tòi những điều mới mẻ và những cảm xúc, cảm nhận riêng của từng tác giả. Có thế nói Chính Hữu và Phạm Tiên Duật là những người nghệ sĩ thứ thiệt với mỗi “dạng vân chữ” độc tồn, “không trộn lẫn” của riêng mình. Sedrin từng nói: Văn học vượt qua mọi quy luật băng hoại của thời gian. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là những minh chứng hùng hồn cho nhận định muôn thuở ấy. Nhưng vần thơ ấy sẽ mãi ngân vang, bay xa trên thi đàn văn học nước nhà để mỗi người dân Việt Nam đều có quyền tự hào nói rằng chúng ta đã từng có một Chính Hữu như thế, một Phạm Tiến Duật như thế!


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

CẢNH NGÀY XUÂN (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) Bài 44: Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân trích Truyện Kiều của Nguyễn Du BÀI LÀM THAM KHẢO Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là vì ông đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong hơn hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích Cảnh ngày xuân, chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả. Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc biệt của Truyện Kiều. Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giúp ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp và tâm trạng của người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân. Bọn dòng thơ đầu là khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều lúc bóng chiều buông xuống. Mùa xuân là mùa của hoa thơm cỏ lạ, mùa của lễ hội văn hóa dân gian, mùa xuân đã hơn một lần đi vào thơ ca của Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Hàn Mặc Tử... Đến với bức tranh mùa xuân xinh đẹp của Nguyễn Du trong Cảnh ngày xuân, mùa xuân của lễ hội góp thêm một hương sắc mới. Từ trên đồi cao, mùa xuân mở ra trước mắt chúng ta là một không gian bất tận trong ánh nắng ban mai ấm áp của đất trời. Lúc này đã vào tháng ba bầu trời chưa hẳn trong xanh như trời thu nhưng cũng đủ in hình những cánh én rộn ràng bay lượn: Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Tố Như diễn tả thật hay, thật khéo cái “thoi đưa” của cánh én hay chính thời gian mùa xuân trôi đi mau lẹ. Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi bước đi của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian: Thời giờ thấm thoắt thoi đưa Hết mưa lại nắng hết ngày lại đêm. (Ca dao) Xung qụanh tràn ngập “ánh thiều quang” - ánh sáng tươi đẹp - tất cả đang rọi chiếu lên toàn cảnh vật. Ánh nắng mùa xuân có nét riêng, không nóng bức như mùa hè cũng không dịu buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngày đầu năm. Thời gian đầu năm trôi qua thật nhanh làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên nhiên tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiếc nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở đầu một năm sắp hết. Trên nền không gian bao la ấy một bức tranh chấm phá về mùa xuân đẹp như một bức họa “dệt gấm thêu hoa”. Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm


cỏ xanh non trải ra mênh mang đến “tận chân trời” là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ Trung Quốc: Phương thảo liên thiên bích Lê chi sổ điểm hoa. (Cỏ thơm liền với trời xanh

IC IA L

Trên cành lê có mấy bông hoa.)

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Màu xanh của cỏ làm nền cho màu trắng của hoa lê tô điểm cho bức tranh thêm trong sáng tinh khôi, nhẹ nhàng mà quyến rũ. Nguyễn Du đã chọn đủng hai gam màu chủ đạo để đặc tả mùa xuân, một mùa xuân trang nhã đến thế là cùng. Ta đã từng bắt gặp cái hồn của mùa xuân trong thơ Nguyễn Trãi : Cỏ xanh như khói bến xuân tươi Lại có mưa xuân nước vỗ trời. (Trích Trại đầu xuân độ) Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ “trắng” kết hợp với động từ “điểm” đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thì Nguyễn Du mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn Mặc Tử trong bài Mùa xuân chín cũng đã ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa xuân: Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời Bao cô thiếu nữ hát trên đồi. (Trích Mùa xuân chín) Đoạn thợ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Giữa khung cảnh bao la sống động say đắm lòng người là không khí vui tươi náo nức của lễ hội dân gian. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê. Và trong lễ hội dập dìu đó có những nhân vật của Nguyễn Du - chị em Thúy Kiều đang thong thả chơi xuân: Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh. Tiết “Thanh minh” vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiễn. Sau “lễ tảo mộ” là đến “hội đạp thanh”, khách du xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ “lễ là”, “hội là” gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui. Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ giàu


hình ảnh và nhạc điệu:

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Gần xa nô nức yến anh Chị em sẳm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng loạt các từ ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: “gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu”... đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp phần gợi tả không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” gợi hình ảnh từng đoàn người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân, Nguyễn Du không chỉ nói lên một lời thông báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông mong, chờ đợi của chị em Thúy Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhất là những âm thanh của những nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối “tài tử” với “giai nhân”, “ngựa xe như nước” với “áo quần như nêm” đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái “đến tuổi cập kê” trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái “náo nức, dập dìu” từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha đông đúc “như nêm” trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và phong lưu. Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người phương Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền: Ngổn ngang gò đống kéo lên Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

D

ẠY

M

Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra một niềm cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du đã gửi vào những dòng thơ: có thể hôm nay, sau hơn hai trăm năm sau, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay thế nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta thực sự xúc động. Thật đúng là ngày vui ngắn chẳng tày gang. Cuộc vui nào rồi cũng đén lúc tàn. Buổi du xuân vui vẻ cũng đã tới lúc phải nói lời tạm biệt, vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày: Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn đan tay ra về Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.


IC IA L

Nếu câu thơ mở đầu của cảnh ngày xuân chan hòa ánh sáng “thiều quang” thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang vẻ nên thơ, dịu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân.. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên “thơ thẩn” và đến đây là “bước dần”, chẳng có gì náo nức, vội vàng.

O

FF

Các từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nho nhỏ”, “nao nao” góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương, Việt Nam. Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ “nao nao” trong câu thơ nao nao dòng nước uốn quanh đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước “nao nao”, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu “nho nhỏ”, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Đu đã từng viết:

H

Ơ

N

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Người buồn người cũng thẫn thờ Cảnh buồn người cũng ngẩn ngơ ưu sầu.

M

Q

U

Y

N

Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa sầu, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nới tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như Tố Như chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp nấm mộ nàng Đạm Tiên và văn nhân Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời Kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.

D

ẠY

Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết về vẻ đẹp của nàng xuân: Hỡi xuân hồng, ta muôn cắn vào ngươi (Vội vàng). Trong Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình mà phải thốt lên: Mùa xuân của tôi... Cái mùa Xuân thần thánh của tôi... Đẹp quá đi, mùa xuân ơi mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến... Và chúng ta muốn nói thêm: đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa xuân, cảnh trẩy hội xuân trong Truyện Kiều. Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng, sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta. Qua đoạn trích, ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa kể và tả, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình để miêu tả cảnh ngày xuân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế của nhà thơ cũng phản ánh được phần nào tâm trạng của nhân vật mà ông yêu quý. Hỡi những nàng Kiều gần xa có nghe thấy tiếng nhạc vàng của chàng Kim Trọng trong ngày xuân đẹp từ xa đang vọng tới?


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Bài 45: Phân tích bức tranh Thanh minh trong tiết tháng ba qua đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO Đã bao giờ ta tự hỏi lòng ta mùa xuân là gì chưa? Hay ta chỉ nhìn cảnh vật mùa xuân ở cảnh bên ngoài? Đời người sống trên trần gian này nằm trong cái hữu hạn và hư vô, thiên nhiên đất trời thì bao la, vô hạn. Nguyễn Du bằng sự rung cảm của nhịp đập trái tim - người nghệ sĩ có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời (Mộng Liên Đường chủ nhân) đã khơi dòng kí ức trong miền sâu thẳm tâm hồn ta về bức tranh Thanh minh trong tiết tháng ba, dẫn ta vào cuộc du xuân đậm hương sắc của đất trời thanh bình. Một cuộc du xuân - đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ khuê các ,và xuân sắc Thúy Kiều. Cuộc du xuân mở đầu cho phần thứ nhất trong hệ thống ba biến cố thông thường của cốt truyện co điển: “Gặp gỡ; Gia biến và lưu lạc; Đoàn tụ”. Chúng ta sẽ bắt gặp ở đoạn thơ này một bức tranh thiên nhiên sáng tươi xinh đẹp và hội đạp thanh tưng bừng náo nhiệt. Nhưng cũng chính ở phần “Gặp gỡ” mà thông thường sẽ chưa có bóng dáng của tai họa - lại đã xuất hiện một nấm mồ, một cuộc đời và một cảm xúc có màu sắc bi kịch về số phận của hồng nhan. Một bức tranh thiên nhiên và một khung cảnh lễ hội. Mặc dù câu thơ thứ hai trong đoạn có thể đưa đến một liên tưởng, một ấn tượng nào đó về thời gian tuổi thọ, nhưng chủ yếu toàn bộ sáu câu thơ đầu tiên là một bức tranh thiên nhiên rực rỡ ánh sáng và màu sắc trong trẻo của bầu trời “thanh minh”, của hình ảnh đàn chim én bay qua bay lại linh hoạt, nhịp nhàng, của nội cỏ mênh mông một màu tươi sáng pha hòa giữa màu xanh lá cây, màu xanh cỏ non và của một cành lê thanh tú – cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Con người trong tiết Thanh minh đi sửa sang phần mộ và tìm đến những bóng hình của quá khứ - đó là lễ nghi truyền thống. Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn gọn về một sinh hoạt thông thường: Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh. Nghi lễ và hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, nhưng đó vẫn là hai hình thức sinh hoạt văn hóa có khác biệt: hội đạp thanh là cuộc vui chơi trên dặm cỏ xanh của lứa tuổi xuân xanh. Hội đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau. Trong tiết Thanh minh, có hồi ức và tưởng niệm quá khứ “lễ là tảo mộ”, nhưng cũng có khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời “hội là đạp thanh”: Bốn câu thơ mở đầu là một bức tranh đượm vẻ thiên nhiên diễm lệ và tươi sáng, vẫn chỉ là ngòi bút phác họa, chấm phá nhưng chủ yếu nhà thơ đã sử dụng từ ngữ dân tộc, trong đó có nhũng câu thơ có thể gọi là “thuần Nôm”, đã lựa chọn những đường nét, những hình ảnh, những màu sắc đưa vào một tổng thể cấu trúc hội họa hài hòa giữa bức phông màu thiên thanh và những cánh chim én đậm màu sắc, sắc nét, giữa cành lê trắng trên nền cỏ mùa xuân tươi xanh. Tiếp theo hình tượng thiên nhiên là ngôn ngữ tự sự về cảnh lễ hội. Một hệ thống danh từ và động từ kép: “gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân... nô nức, sắm sửa, dập dìu, ngổn ngang” biểu hiện những hoạt động nhộn nhịp, náo nhiệt, tươi vui của mọi người và đây lại là một dòng những người trẻ tuổi “nam thanh nữ tú” với ngựa xe, trang phục đông đúc, chen chúc... Lễ viếng thăm phần mộ tưng bừng, náo nhiệt, xen kẽ ngày hội giai ngộ của tuổi thanh xuân đã hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân khi cỏ cây hoa lá vẫn đang độ tươi xanh rực rỡ, khi không trung và ánh sáng đã trở nên trong trẻo và ấm áp hơn. Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả nhân gian (trong đó có ba chị em nhà họVương). Thông qua sinh hoạt du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa và một cung cách sống của gia đình viên ngoại họ Vương. Thời gian đã chuyển, bóng dương chênh chếch xế chiều - tà tà bóng ngả về tây. Đó không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật, dường như con người chìm trong một cảm xúc bâng khuâng khó


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tả. Văn học trung đại thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ thê lương: Đất bằng bỗng rấp chông gai Ai đem nhân ảnh nhuốm màu tà dương. (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều) Cuộc du xuân ngoạn cảnh đã xong, đã chấm dứt lễ hội tưng bừng náo nhiệt. Tâm hồn con người dường như cũng “chuyển điệu” theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc Thanh minh để mang chút bâng khuâng thơ thẩn trên dặm đường về. Thời gian và tâm trạng đó báo hiệu sự biến đổi trong không gian. Ở đây chỉ có hai hình ảnh để tả phong cảnh: dòng nước nhỏ và chiếc cầu nhỏ. Cũng vẫn là ngòi bút phác họa qua sáu câu thơ. Đối lập với cảnh đông đúc của lễ hội ở trên là một không gian cô tịch với dòng nước nhỏ uốn khúc nhẹ nhàng, dòng nước bé nhỏ đến mức chỉ cần một “dịp cầu nho nhỏ” bắc ngang là đủ để con người đi qua... Miêu tả dòng nước hay là miêu tả nỗi niềm nao nao xao động của lòng người? Những từ ngữ “thanh thanh, nao nao” biểu đạt sắc thái cảnh vật nhưng đồng thời cũng bộc lộ tâm trạng của con người. Qua bức tranh Thanh minh, ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa kể và tả, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình để miêu tả cảnh ngày xuân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế của nhà thơ cũng phản ánh được phần nào tâm trạng của nhân vật mà Tố Như yêu quý. Bài 46: Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực thì vẫn còn mãi mãi với thời gian. Trong thơ xưa, thiên nhiên không chỉ là trung tâm của cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm tình của con người. Và trong Truyện Kiều bất hủ, đại thi hào Nguyễn Du đã dành tới 222 câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên. Trong đó đoạn trích Cảnh ngày xuân có thể coi là một bức tranh đẹp vào loại bậc nhất của Truyện Kiều. Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm kiệt xuất. Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh thép, giá trị nhân đạo cao cả, mà còn vì nghệ thuật miêu tả cảnh đặc sắc. Nhiều bức tranh tứ thời xuân, hạ, thu, đông sinh động, gợi cảm. Có bức tranh cảnh chiều xuân, có bức tranh là tâm cảnh cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích... Cảnh nào cũng có dụng ý dự báo những biến động của đời nhân vật. Chỉ với mười tám câu thơ hàm súc, Nguyễn Du đã gieo vào lòng người đọc sức sống tràn trề của mùa xuân. Đồng thời, giúp ta nhận ra sự tinh tế trong bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du. Bốn câu thơ đầu đã miêu tả cảnh ngày xuân đẹp như một bức tranh. Nhà thơ đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc hoạ: Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Giữa bầu trời bao la mêng mông là những cánh én đang bay qua, liệng lại như “đưa thoi”. Nó vừa gợi được cánh én như con thoi bay qua, bay lại chao lượn, vừa thể hiện được thời gian ngày xuân đang trôi nhanh. Cảnh ngày xuân hiện lên trong thơ Nguyễn Du vừa bình dị vừa sống động. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi đã “ngoài sáu mươi” ngày. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của Nguyễn Du mang những nét rất riêng. Hai chữ “thiều quang” cho ta hình dung về bước đi của mùa xuân đã sang tháng ba. Hai chữ ấy đã gợi lên màu hồng của ánh xuân, cái đầm ấm của khí xuân, cái mêng mông bao la của đất trời.


Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Câu thơ đã thể hiện được không gian mùa xuân thật trong sáng. Bức tranh mùa xuân ấy còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải ra, lan rộng như tấm thảm tới tận chân trời: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Người đọc đều cảm nhận thấy nhà thơ Nguyễn Du đã tiếp thu những yếu tố miêu tả của câu thơ cổ Trung Quốc: Phương thảo liên thiên bích Lệ chi sổ điểm hoa. Nhưng ở đây, Nguyễn Du đã có điểm sáng tạo. Ông đã thiên về miêu tả sắc trắng của bông hoa. Dùng phép đảo ngữ đưa tính từ “trăng” lên trước cụm từ “vài bông hoa” để hòa cùng với tính từ “xanh” ở câu trên. Câu thơ của Nguỳễn Du đã trở thành bức họa với gam màu dịu dàng. Trên nền xanh của cỏ biếc, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng, đã tạo thành một bức gấm thêu tuyệt đẹp. Nếu như hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ là sự lắp ghép ngôn từ chỉ sinh khí và sức sống của cảnh vật thì hai câu thơ của Nguyễn Du, những cành cây ngọn cỏ như đang cựa dậy, toát lên sức sống của mùa xuân, gợi được nhiều hơn về mùa xuân: vừa tinh khôi, giàu sức sống lại vừa nhẹ nhàng, tinh khiết. Bốn câu thơ đầu là một bức tranh về ngày xuân bằng ngôn từ. Bức tranh ấy đẹp, bình dị mà thơ mộng. Đó là bức tranh có màu sắc hài hòa, dịu dàng, tươi tắn: màu “xanh” của cỏ màu “trắng” của hoa lê. Bức tranh ấy cỏ không gian mênh mông, khoáng đạt. Có những cánh én đang chao lượn, có màu hồng của ánh thiều quang. Vẽ được bức tranh xuân nhừ vậy chứng tỏ tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với cảnh vật ngày xuân của Nguyễn Du nhiều đến mức nào. Cảnh ngày xuân càng trở nên đẹp thêm, sinh động thêm bởi nhà thơ còn miêu tả lễ hội mùa xuân: Thanh minh trong tiết tháng ba

U

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.

M

Q

Điệp từ “lễ là... hội là...” có tính chất liệt kê gợi lên cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra từ bao đời nay. Sau đó nhà thơ miêu tả cụ thể cảnh ngày hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt: Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

D

ẠY

Trên khắp nẻo đường gần xa, những dòng người cuồn cuộn trẩy hội có biết bao yến anh, tài tử, giai nhân dập dìu, vai sánh vai, chân nối chân cùng nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập, ngựa xe cuồn cuộn. Nhà thơ đã rất khéo léo khi dùng hàng loạt từ láy “nô nức, dập dìu”; các từ ghép “yến anh, tài tử, giai nhân...” kết hợp với các ẩn dụ, so sánh “như nước, như nêm” để gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra trên khắp các miền quê đất nước. Đọc tiếp đoạn thơ ta còn thấy Nguyễn Du thể hiện đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ: Ngổn ngang gò đống kéo lên Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Câu thơ có giá trị tạo hình lớn. Bởi lẽ, nhà thơ đã dùng phép đảo ngữ đưa từ “ngổn ngang”


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

lên đầu câu thơ để diễn tả những ngôi mộ liền kề nhau. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và người đã chết, hiện tại và quá khứ, đồng hiện trong những gò đống ngổn ngang trong lễ tảo mộ. Những “thoi vàng vó” được rắc ra, tiền vàng được hóa tro bay lả tả bao trùm hết không gian để gửi cho người đã khuất. Cái tâm thánh thiện và niềm tin chất phác đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử giai nhân và ba chị em Thúy Kiều không chỉ cầu mong cho các vong linh đã khuất mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao điều mơ ước về tượng lai, hạnh phúc cho tuổi xuân trong mùa xuân. Giá trị nhân văn của những câu thơ đã làm người đọc xúc động. Sáu câu thơ cuối đã ghi lại cảnh chị em Thuý Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về nhà. Lúc này, mặt trời đã gác núi, ngày hội, ngấy vui đã trôi qua: Tà tà bóng ngủ về tây Chị em thơ thẩn đan tay ra về. Buổi chiều thường gợi lên một nỗi buồn.man mác, ta đã từng thấy nỗi buồn trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà (Qua Đèo Ngang). Và giờ đây là “tà tà bóng ngả”, nhịp thơ chậm rãi, diễn tả cuộc sống như ngừng trôi. Tâm tình của chị em Thuý Kiều thơ thẩn, cử chỉ thì dang tay, nhịp chân thì bước dần, không gian thì yên tĩnh, lắng lại. Công việc lúc hoàng hôn hiện lên trong mắt nhìn của chị em Thuý Kiều càng trở nên nhỏ bé: Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cành có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Khe nước chỉ là “ngọn tiểu khê”, phong cảnh “thanh thanh”, dòng nước “nao nao” uốn quanh, dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Nhà thơ đã rất khéo léo sử dụng hàng loạt các từ láy để gợi tả những cảnh vật nhỏ bé, êm đềm. Phải chăng sự “nao nao” của dòng nước uốn quanh không chỉ thể hiện sự nhẹ nhàng, êm đềm của dòng nước đang chảy mà còn diễn tả tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc, sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan, ngày tàn. Chỉ ít phút nữa thôi Kiều sẽ gặp nấm mộ nàng Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh hào hoa Kim Trọng; Bằng tài năng quan sát tinh tế, bằng sự nhạy cảm của một tâm hồn thơ, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động, Nguyễn Du đã hết lòng tâm huyết vẽ nên bức tranh về mùa xuân thật đẹp, có hồn và độc đáo. Bằng nghệ thuật miêu tả thiền nhiên theo trình tự thời gian, không gian kết hợp tả vợi gợi tả cảnh thể hiện tâm trạng, từ ngữ giàu chất tạo hình, phép đối và từ láy, từ ghép được sử dụng khéo léo đem đến cho thơ ca bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp đẽ, khoáng đạt, tinh khôi, thanh khiết, mới mẻ, đầy sức sống; cảnh lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt và tâm trạng xốn sang náo nức của chị em Thuý Kiều khi đi hội, tâm trạng buồn lưu luyến bâng khuâng khi trở về. Qua đây ta thấy Nguyễn Du là người yêu thiên nhiên, hiểu lòng người và có tài khi miêu tả. Đoạn thơ giúp chúng ta cảm nhận được không khí mùa xuân để thêm yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Chính tình yếêu thiên nhiên, đất nước, con người đã tạo nguồn cảm hứng để Nguyễn Du say sưa với đời, tạc vào trong kho tàng thi ca Việt Nam một bức tranh mùa xuân thật đặc biệt. Bài 47: Bình giảng vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong bốn câu thơ đầu của đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Ngày xuân con én đua thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài hông hoa


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

BÀI LÀM THAM KHẢO Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều? Đoạn thơ Cảnh ngày xuân gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu. 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của đại thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này. Bốn câu thơ đầu đã miêu tả cảnh ngày xuân đẹp như một bức tranh. Nhà thơ đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc họa: Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua, bay lại như đưa thoi. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình gợi cảm. Nó vừa gợi được cánh én như con thoi bay qua, bay lại chao lượn, vừa thể hiện được thời gian ngày xuân đang trôi nhanh. Nhà thơ mượn cách nói của dân gian, thời gian thấm thoắt thoi đưa, để miêu tả. Cảnh ngày xuân hiện lên trong thơ ông vừa bình dị vừa sống động của nhịp điệu thời gian. Sau cánh én “đưa thoi” là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi “chín chục đã ngoài sáu mươi”. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi sĩ xựa nay thật là hay và ý vị. Nào là xuân hướng lão (Ức Trai), cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay: Song song đôi bướm trắng, Phất phới sân hoa bay trong thơ Trần Nhân Tông. Còn là xuân hồng (Xuân Diệu), mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử)... Với Nguyễn Đu là mùa xuân đã bước sang tháng ba, thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Hai chữ “thiều quang” gợi lên cải màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên (Nguyên tiêu - Hồ Chí Minh). Bức tranh mùa xuân ấy còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải ra, lan rộng như tấm thảm tới “tận chân trời”: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. và sắc trắng tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc khoe hương “một vài bông hoa”. Người đọc đều cảm nhận thấy nhà thơ Nguyễn Du đã tiếp thu những yếu tố miêu tả của câu thơ cổ Trung Quốc một cách sáng tạo: Phương thảo liên thiên bích Lê chì sổ điểm hoa. (Cỏ thơm liền với trời xanh Trên cành lê có mấy bông hoa). Hai chữ “trắng điểm” là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa. Ông đã thiên về miêu tả sắc trắng của bông hoa. Dùng phép đảo ngữ đưa tính từ “trắng” lên trước cụm từ “vài bông hoa” để hòa cùng với tính từ “xanh” ở câu trên. Câu thơ của Nguyễn Du đã trở thành bức họa với gam màu dịu dàng, bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình, trên nền xanh của cỏ biếc, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng đã tạo thành một bức gấm thêu. Nghệ thuật phối hợp sắc màu của Nguyễn Du thật tài tình. Cái màu “xanh - trắng” hài hòa ấy gợi lên cảm giác cảnh mênh mông mà không quạnh vắng, trong sáng mà trẻ trung, nhẹ nhàng mà thanh khiết. Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én “đưa thoi”, là màu hồng của ánh thiều quang, là “khát vọng mùa xuân” ngây ngất, say đắm lòng người biết bao.


N

O

FF

IC IA L

Như vậy, bốn câu thơ đầu là một bức tranh về ngày xuân bằng ngôn từ. Bức tranh ấy đẹp, bình dị mà thơ mộng. Đó là bức tranh có màu sắc hài hòa, dịu dàng, tươi tắn. Đó là màu xanh của cỏ, màu trắng của hoa lê. Bức tranh ấy có không gian mênh mông, thoáng đạt. Có những cánh én đang chao lượn, có màu hồng của ánh thiều quang của nàng chúa xuân diễm lệ và yêu kiều. Vẽ được bức tranh xuân hoa lệ như vậy đã thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó vói cảnh vật ngày xuân của Nguyễn Du. Bài 48: Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO Hỡi những người yêu văn có biết chăng? Bao giờ cũng thế, một tác phẩm đặc sắc phải bao gồm cái đặc sắc và thành công về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm ấy như một nguồn nước giếng trong, khơi mãi vẫn không hết cái ngọt ngào, lắng sâu của thế giới con người, vẫn không cạn nguồn sức mạnh truyền vào trong cuộc sống. Đoạn thơ Cảnh ngày xuân tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này. Bốn câu thơ đầu đã miêu tả cảnh ngày xuân đẹp như một bức tranh. Nhà thơ đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc họa: Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

Giữa bầu trời bao la mêng mông là những cánh én bay qua, bay lại như đưa thoi. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình, gợi cảm. Nó vừa gợi được cánh én như con thoi bay qua, bay lại chao lượn, vừa thể hiện được thời gian ngày xuân đang trội nhanh. Cảnh ngày xuân hiện lên trong thơ ông vừa bình dị vừa sống động. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi đã ngoài sáu mươi. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của Nguyễn Du mang những nét rất riêng. Hai chữ “thiều quang” thể hiện mùa xuân đã sang tháng ba. Hai chữ ấy đã gợi lên màu hồng của ánh xuân, cái đầm ấm của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời. Câu thơ đã thể hiện được không gian mùa xuân thật trong sáng và dịu dàng biết bao. Bức tranh mùa xuân ấy còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải ra, lan rộng như tấm thảm tới “tận chân trời”: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trang điểm một vài bông hoa Người đọc đều cảm nhận thấy nhà thơ Nguyễn Du đã tiếp thu những yếu tố miêu tả của câu thơ cổ Trung Quốc: Cỏ thơm liền với trời xanh Trên cành lê có mấy bông hoa. Nhưng ở đây, Nguyễn Du đã có điểm sáng tạo rất độc đáo. ông đã thiên về miêu tả sắc trắng của bông hoa. Dùng phép đảo ngữ đưa tính từ “trắng” lên trước cụm từ “vài bông hoa” để hòa cùng với tính từ “xanh” ở câu trên. Câu thơ của Nguyễn Du đã trở thành bức họa với gam màu dịu dàng. Trên nên xanh của cỏ biếc, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng đã tạo thành một bức gấm thêu thanh nhẹ đầy quyến rũ. Nghệ thuật phối hợp sắc màu của Nguyễn Du thật tài tình. Bốn câu thơ đầu là một bức tranh về ngày xuân bằng ngôn từ. Bức tranh ấy đẹp, bình dị mà thơ mộng. Đó là bức tranh có màu sắc hài hòa, dịu dàng, tươi tắn. Bức tranh ấy có không gian mênh mông, khoáng đạt, nàng chúa xuân yêu kiều như đang mời gọi con người hãy đắm mình trong vẻ đẹp trong xanh nhẹ nhàng của thiên nhiên.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Cảnh ngày xuân càng trở nên đẹp thêm, sinh động thêm bởi nhả thơ còn miêu tả lễ hội mùa xuân mang nét truyền thống từ ngàn đời: Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Điệp từ “lễ là, hội là” có tính chất liệt kê để gợi lên cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra từ bao đời nay. Sau đó nhà thơ đã miêu tả cụ thể cảnh ngày hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt: Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Trên khắp nẻo đường gần xa, những dòng người cuồn cuộn trẩy hội có biệt bao yến anh, tài tử, giai nhân dập dìu, vai sánh vai, chân nối chân cùng nhịp bước. Dòng người tấp nập, ngựa xe cuồn cuộn. Nhà thơ đã rất khéo léo dùng hàng loạt các từ láy “nô nức, dập dìu”; các từ ghép “yến anh, tài tử, giai nhân” kết hợp với các ẩn dụ, so sánh “như nước, như nêm” để gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra trên khắp các miền quê đất nước khi mùa xuân về. Không chỉ có bức tranh ngày hội mà ta còn thấy Nguyễn Du thể hiện đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ: Ngổn ngang gò đống kéo lên , Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Câu thơ có giá trị tạo hình lớn. Bởi lẽ, nhà thơ đã dùng phép đảo ngữ đưa từ “ngổn ngang” lên đầu câu thơ để diễn tả những ngôi mộ liền kề nhau. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và người đã chết, hiện tại và quá khứ, đồng hiện trong những gò đống ngổn ngang trong lễ tảo mộ. Quanh những ngôi mộ, người ta rắc vàng thoi, bạc giấy, bày cỗ, thắp nến, đốt nhang khấn vái... khói bay nghi ngút, hương thơm tỏa ngát một vùng. Sự cách trở âm dương hầu như đã bị xóa nhòa. Người đã khuất và người còn sống giao hòa trong cõi tâm linh thiêng liêng, giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng của mùa xuân. Sáu câu thơ cuối đã ghi lại cảnh chị em Thuý Kiều đi tảo mộ đang lần bước trở về nhà. Lúc này, mặt trời đã là là gác núi, ngày hội, ngày vui đã trôi qua: Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn đan tay ra về Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh cỏ bể thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Khung cảnh vẫn mang nét thanh tú, êm đềm của chiều xuân: nắng nhạt, khe nước trong veo, một nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang cuối ghềnh. Mọi chuyển động đều hết sức nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người chầm chậm thơ thẩn, dòng nước róc rách uốn quanh... Không gian đang tĩnh lặng dần. Sự nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa. Những từ láy “tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao”, không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà cồn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ “nao nao” đã nhuốm màu tâm trạng. Cảm xúc tươi vui mà khung cảnh lễ hội mùa xuân mang lại cho mỗi người vừa mới đây thôi, vậy mà dường như Kiều đã linh cảm về một điều gì đó đáng buồn sắp xảy ra. Quả nhiên, dòng nước uốn quanh đã dẫn bước chân Kiều đến với nấm mồ hoang lạnh của Đạm Tiên và tiếp sau đó, nàng sẽ gặp chàng thư sinh Kim Trọng có phong tư tài mạo tốt vời. Như vậy, đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian, bốn câu thơ đầu gợi tả khung cảnh


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

ngày xuân. Tám câu tiếp theo là khung cảnh lễ hội. Sáu câu thơ cuối là cậnh du xuân trở về. Kết cấu ấy đã rất phù hợp với diễn biến tâm trạng của nhân vật trong khung cảnh ngày xuân. Đồng thời cũng để người đọc tiện theo dõi. Qua đó ta cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên đẹp và một nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc ta. (Bài làm của học sinh Lưn Thiên Bình, Trường THCS Vũng Tàu — TP. Vũng Tàu. Có chỉnh sửa và bổ sung) Bài 49: Phân tích, so sánh cảnh mùa xuân trong câu thơ cổ Trung Quốc: Phương thảo liên thiên bích Lê chi sổ điểm hoa. (Cỏ thơm liền với trời xanh Trên cành lê có mấy bông hoa.) Với cảnh mùa xuân trong câu thơ Kiều của Nguyễn Du: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa GỢI Ý LÀM BÀI Các ý chính triển khai trong bài viết - Với bút pháp gợi tả, câu thơ cổ Trung Quốc đã vẽ lên được vẻ đẹp riêng của mùa xuân, có hương vị, màu sắc, đường nét. Đó là hương thơm của cỏ non (phương thảo). Đó là màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cả chân trời, mặt đất đều một màu xanh xanh (liên thiên bích). Đó còn là đường nét của cành lê thanh nhẹ điểm vài bông hoa (sổ điểm hoa). Cảnh đẹp mà dường như tĩnh tại. - Hai câu thơ trong Truyện Kiều; cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê trắng điểm một vài bông hoa là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân. Gam màu làm nền cho bức tranh xuân là thảm cỏ non trải rộng tới chân trời. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Câu thơ cổ Trung Quốc chỉ nói cành lê điểm một vài bông hoa mà không nói tới màu sắc của hoa lê. Nguyễn Du chỉ thêm một chữ trắng cho cành lê mà bức tranh mùa xuân đã khác. Trong câu thơ của Nguyễn Du, chữ trắng trở thành điểm nhấn, làm nổi bật thần sắc của hoa lê. Mùa xuân của cỏ non và sắc trắng của hoa lê làm cho màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống (cỏ non); khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời); nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một vài bông hoa). BÀI LÀM THAM KHẢO Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa và nay. Nếu như hoạ sĩ dùng đường nét và sắc màu, nhạc sĩ dùng giai điệu và âm thanh thì thi sĩ lại dùng hình ảnh và ngôn từ để diễn tả cảm xúc của mình - đặc biệt là diễn tả tỉnh yêu thiên nhiên, yêu cái men say nồng của sắc xuân hương xuân. Hãy lật từng trang sách đến với hai câu thơ trong đoạn trích Cành ngày xuân trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Hãy hoà nhịp tâm hồn vào câu thơ cổ Trung Quốc đã vẽ lên được vẻ đẹp riêng cùa mùa xuân, có hương vị, màu sắc, đường nét. Trung Hoa có một nền văn học vô cùng đồ sộ và được coi là một nền văn học già nhiều thành tựu của thế giới. Vì vậy mà tất yếu, sự phát triển của văn học Trung Hoa, ít nhiều sẽ ảnh hưởng, chi phối đến sự phát triển văn học của các quốc gia trong khu vực lân cận, ảnh hưởng không chỉ về đề tài mà cả chất liệu văn học, hình thức thơ ca... Việt Nam cũng là mệt trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của nền văn học đó. Trong quá trình hình thành và phát triển, nền văn học Việt Nam ta có ý thức trong việc kế thừa, chọn lọc những yếu tố văn học phù hợp để tạo tiền


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

đề cho sự phát triển đầu tiên của nền văn học non trẻ nước nhà. Đặc biệt là trong thơ ca trung đại ta có thể thấy rõ được sự kế thừa này. Ở đây ta sẽ tìm hiểu về ảnh hưởng giữa câu thơ cổ của Trung Quốc với câu thơ mùa xuân trong đoạn trích Cảnh ngày xuân của đại thi hào Nguyễn Du. Văn học trung đại chính là giai đoạn đầu của nền văn học viết, văn học bác học ở Việt Nam. Nền văn học Việt Nam còn non trẻ nên ngay từ khi mới hình thành, các tác gia trung đại đã có ý thức trong việc vay mượn, kể thừa những giá trị tinh hoa từ văn học Trung Quốc. Điều đáng lưu ý ở đây là chúng ta chỉ kế thừa những giá trị văn hóa tích cực, phù hợp với bản sắc của dân tộc Việt Nam, sự kế thừa không mang tính rập khuôn, hình thức mà sự kế thừa của dân tộc Việt Nam mang tính sáng tạo, những đề tài, chất liệu, hình thức văn chương được vay mượn từ Trung Hoa đều được sáng tạo, biến tấu cho phù hợp với đặc trưng văn hóa của người Việt. Việc vay mượn là cần thiết và mang tính quy luật, song dân tộc ta không lạm dụng việc vay mượn đó mà chỉ sáng tạo trên cơ sở tinh hoa của nhân loại, vay mượn có ý thức đã thể hiện được bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Và chứng minh hùng hồn nhất cho bản lĩnh văn hóa tuyệt vời đó chính là sự phát triển không ngừng của nền văn học dân tộc, nhiều tác phẩm nổi tiếng, có giá trị nội dung, tư tưởng, nghệ thuật cao đã vượt ra biên giới quốc gia và đến được với độc giả của rất nhiều nước trên thế giới, đó là những thành tựu rực rỡ mà chúng ta đạt được trong suốt quá trình sáng tạo không ngừng. Trở lại với tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, như chúng ta đã biết, Truyện Kiều được Nguyễn Du mượn nội dung cốt truyện từ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của nhà văn Thanh Tâm Tài Nhân của Trung Quốc. Dựa trên câu chuyện, về cuộc đời của người con gái tài sẵc nhưng bất hạnh Thúy. Kiều, Nguyễn Du đã có những sáng tạo mang tính quyết định, từ hình thức văn chương đến việc tỉnh lược, đổi mới nội dung đã khiến tác phẩm Kim Vân Kiều truyện vốn nhạt nhòa trở thành đại kiệt tác Truyện Kiều được nhiều người biết đến, trở thành niềm tự hào của nền văn học dân tộc. Trong quá trình sáng tác Truyện Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã mượn nhiều những điển tích, điển cố, ảnh hưởng bởi những câu thơ cổ của Trung Hoa, một trong số đó có câu thơ: Phương thảo liên thiên bích Lê chi sổ điểm hoa. Dịch thơ: Cỏ thơm liền với trời xanh Trên cành lê có mấy bông hoa. Cảm hứng về cảnh sắc tự nhiên trong câu thơ cổ của Trung Quốc có sự gặp gỡ với hai câu thơ trong bài Cảnh ngày xuân của đại thi hào Nguyễn Du. Qua sự phân tích, các nhà nghiên cứu cho rằng, ý tưởng của hai câu thơ này của Nguyễn Du chịu ảnh hưởng bởi câu thơ cổ của Trung Quốc, hay nói cách khác, Nguyễn Du đã mượn điển tích trong hai câu thơ cổ để sáng tạo nên câu thơ tả thiên nhiên tuyệt sắc trong Truyện Kiều. Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Ở đây, ta có thể dễ dàng bắt gặp điểm gặp gỡ trong cảnh ngày xuân trong thơ Nguyễn Du và câu thơ cổ của Trung Quốc, đó chính là không gian rộng lớn của bầu trời, của những đám cỏ xanh mướt trải dài ra mênh mông và cảnh sắc mùa xuân đều được điểm xuyết bởi nhũng cánh hoa lê tinh khiết. Chính sự gặp gỡ này mà ta có cơ sở để tin rằng Nguyễn Du đã mượn những điển tích trong thơ cổ Trung Quốc để tạo thành những sáng tạo nghệ thuật trong tác phẩm của mình.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Tuy có sự tương đồng nhưng giữa Truyện Kiều và câu thơ cổ của Trung Quốc vẫn có những nét khác biệt riêng, không chỉ ở sắc thái câu thơ mà còn ở ý niệm mà nhà thơ muốn truyền tải. Trước hết, ta sẽ tìm hiểu hai câu thơ trong bài thơ cổ của Trung Quốc, đó là hai câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên thông thường, lấy không gian bầu trời và cảnh sắc dưới mặt đất hòa quyện tạo thành bức tranh thiên nhiên tươi đẹp: Phương thảo liên thiên bích Lê chi sổ điểm hoa. Qua hai câu thơ này, ta cảm nhận được không gian được mở rộng ra trong tầm mắt, đó là không gian của bầu trời, cỏ non thơm ngát mênh mông dường như đã hòa nhập làm một với không gian của bầu trời, tạo cho chúng ta cảm giác thiên nhiên, cảnh sắc dưới mặt đất và không gian rộng lớn của bâu trời dường như đã có sự hòa nhập làm một. Đây là sự hòa nhập tự nhiên đến hài hòa, mang cho con người cảm xúc bất tận. Trên nền xanh bất tận của cỏ thơm được điểm xuyết bởi nhũng bông hoa lê tinh khôi, rực rỡ. Sự xuất hiện của mấy bông hoa lê trên nền xanh bất tận ấy trở thành tâm điểm của bức tranh thơ, tạo ra khung cảnh tươi đẹp có phần mơ mộng, lãng mạn. Câu thơ cổ của Trung Quốc đơn thuần chỉ là miêu tả cảnh sắc tự nhiên. Nhưng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, sự tươi đẹp của cảnh ngày xuân ấy chỉ là phông nền để cho những nhân vật của truyện xuất hiện. Trong câu thơ của Nguyễn Du, cảnh sắc thiên nhiên không tĩnh lặng, bất biến như trong câu thơ cổ mà dường như nó có sự vận động hài hòa, phù hợp với tâm trạng hồ hởi, vui tươi của con người trong tiết Thanh minh: Cỏ non xanh tậh chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Cùng một chất liệu là bầu trời, cỏ xanh và hoa lê nhưng hai câu thơ ở hai bài thơ lại cho ta cảm giác hoàn toàn khác biệt. Nếu như trong câu thơ cổ Trung Quốc, cảnh sắc tĩnh lặng khiến cho chúng ta lưu luyến, mụốn lưu giữ, muốn lưu vào tầm mắt trọn vẹn nhất, thì trong câu thơ của Nguyễn Du, những đối tượng của bức tranh thơ là “cỏ non”, và “hoa lê” đều được đảo lên đầu câu, vì vậy mà nó tạo ấn tượng mạnh mẽ hơn hẳn, người đọc cảm nhận được những ngọn cỏ như vận động trải dài về tận phía chân trời, những cành lê dường như cũng đang dần nở rộ, như reo vui khi tiết trời vào xuân. Vì vậy, ấn tượng mà câu thơ mang lại cho người đọc cảm giác trực diện, người đọc như xuất hiện trong bức tranh thơ và đón nhận từng thay đổi của cảnh sắc ấy. Tuy có sự tương đồng về ý tưởng, chất liệu nhưng ở mỗi bài thơ khác nhau lại mang những vẻ đẹp hoàn toàn khác nhau. Tuy Nguyễn Du mượn những điển tích của câu thơ cổ của Trung Quốc, nhưng bằng tài năng sáng tạo của mình, nhà thơ đã thổi vào câu thơ của mình cái hồn của sự sống, khiến cho bức tranh thấm đượm những hơi thở của sự sống đầy tinh tế.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH (Trích Vũ trung tùy bút - Phạm Đình Hổ) Bài 37: Nêu cảm nhận về đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. BÀI LÀM THAM KHẢO Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), người đời nhớ tới tác phẩm Vũ trung tùy bút của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê - Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào, cảnh ăn chơi xa hoa của chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế kỉ XVIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian... đã được tác giả Vũ trung tùy bút chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh đã xảy ra vào khoảng năm Giáp Ngọ - Ất Mùi (1774 1775), đó là lúc Đảng Ngoài “vô sự”, là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thị Huệ được chúa sủng, ái trở thành nguyên phi, Trịnh Sâm sống trong xa hoa: thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ mỗi tháng ba bốn lần. Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ. Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang đều bịt khăn, mặc đồ đàn bà, bày bách họa chung quanh bờ hồ để bán. Thuyền ngự đi tới đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ... Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng “liên tục” nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê - Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hôi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh nên cách kể, cách tả của ông rất sống động. Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì ra sức thu lấy trần cầm dị thú, cổ mộc quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian không thiếu một thứ gì. Có những cây cảnh cành lá rườm rà... như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên bắc chở qua sông đem về. Trong phủ chúa “điểm xuyết” bao núi non bộ trông lạ mắt như bến bể đầu non. Vườn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn. Nếu như trong Thượng kinh kí sự, Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết: Hoa cung thoáng ngạt ngào đưa tới Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen Quê mùa cung cấm chưa quen Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại nghĩ: kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường. Cuộc sống cực kì xa hoa ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ nổ ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt. Cái “triệu bất tường” mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng


phẳng, cay nghiệt:

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm Trăm loài ma mồ nấm chung quanh Nghìn vàng khôn đổi được mình Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu? (Văn chiêu hồn -Nguyễn Du) Bọn hoạn quan trong phủ chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan (Ca dao). Chúng dùng thủ đoạn nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Chỉ bằng hai chữ “phụng thủ” biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu đêm đến cho tay chân sai lính lẻn vào lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Chúng ngang ngược phá nhà hủy tường của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được. Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là giấu vật cung phụng để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải bỏ của ra kêu van chí chết, có gia đình phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cành để tránh khỏi tai vạ. Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê - Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người nhà chặt cây lê cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trang xóa thơm lừng, hai cây lựu trắng, lựu đỏ lúc ra quả trông rất đẹp. Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực. Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê - Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ chúa. Một chuyện cũ viết lại qua lời kể chuyện, miêu tả sinh động của Phạm Đình Hổ đã giúp ta hình dung tất cả sự thối nát tàn bạo của triều đình vua Lê - chúa Trịnh và hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ của nó. Khi những kẻ cầm quyền chỉ biết vun vén bản thân, bỏ mặc nhân dân, chắc chắn sẽ mất lòng dân, lời ca thán của dân chúng sẽ biến thành sức mạnh khởi nghĩa lật nhào chế độ. Có lẽ, đó còn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của Chiêu Hổ cho triều đại nhà Nguyễn đương thời. Ông đã vạch đúng bản chất chung của giai cấp phong kiến, qua những trang tùy bút đặc sắc. Trang tùy bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoa ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ chúa. Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống động, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú. Vũ trung tùy bút là tập kí họa về thời đại qua tài hoa của cây bút Phạm Đình Hổ. Dù thời ấy đã qua, nhưng những câu chuyện trong đó vẫn còn giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và văn chương. Người đọc có thể nhận thấy sức mạnh hủy diệt của thế lực đồng tiền khi song hành với quyền lực và bả phù hoa làm hủy hoại nhân tính con người đến mức nào! Bài 38: Anh (chị) hãy cho biết tình trạng đất nước ta vào thời vua Lê - chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX qua đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ). GỢI Ý LÀM BÀI I. Mở bài - Giới thiệu tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. - Đoạn trích: Tình trạng đất nước ta vào thời vua Lê - chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII và thái độ phê phán của tác giả.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

II. Thân bài 1. Tổng a. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh cho thấy bộ mặt của giới cầm quyền phong kiến thời Lê Trịnh được kể lại một cách sinh động, chân thực. b. Ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện của tác già không che giấu thái độ căm ghét những kẻ gây hại cho nhân dân. 2. Phân a. Những thú xa hoa của chúa Trịnh Sâm: tô vẽ phô trương vẻ hào nhoáng, thú chơi phong lưu, sính đàn ca nhã nhạc. Ngôn ngữ miêu tả của Phạm Đình Hổ tỉ mỉ chi tiết giúp người đọc hình dùng đầy đủ. b. Bọn cận thần “nhờ gió bẻ măng”: lời kể cụ thể từng vụ việc và thủ đoạn bất lương của bọn tay chân nhà chúa. c. Tình cảnh khốn khổ của nhân dân: nhà văn ghi lại câu chuyện có thực kể lại .việc xảy ra trong nhà mình. d. Thái độ bất bình của nhà văn qua giọng kể. 3. Hợp a. Nghệ thuật tùy bút đem lại cái nhìn sinh động về bọn người quyền quý cũng như nỗi khổ của nhân dân b. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. III. Kết bài Nêu cảm nhận sâu sắc của bản thân. BÀI LÀM THAM KHẢO Tác phẩm Vũ trung tùy bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ là tập bút kí sinh động về xã hội Việt Nạm thời Lê - Trịnh, vào những năm cuối thế kỉ XVIII. Mặc dù được viết theo thể tuỳ bút khá tự do, nhưng những điều được ghi lại trong đổ đã chứa đựng một giá trị hiện thực rất sắc sảo, đồng thời bộc lộ rõ cái nhìn phê phán của tác gia với thói xa hoa vô độ của vua chúa phong kiến. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trong những câu chuyện được kể lại trung thực giúp ta hiểu về bộ mặt thật xấu xa của tập đoàn chúa Trịnh được che đậy trong lớp vỏ vàng son hào nhoáng. Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) là người am hiểu văn hóa nếp sống của Thăng Long – Kẻ Chợ. Vốn dòng dõi quan lại đời Lê nên ông có điều kiện hiểu rõ những kẻ thuộc giới quý tộc kinh kì. Những điều nhà văn ghi lại tưởng như là sự ghi nhận về thời vô sự - bốn phương yên hưởng thái bình. Mỉa mai thay, thực trạng lại là một bức tranh với sắc chói chạng của mũ mão cân đai rõ ràng đối lập với thực tại, tinh thần tối sầm những cảm giác bất an trong đời sống dân lành. Thực trạng ấy từng được mô tả trong Thượng kinh kí sự của Hải Thượng Lãn Ông, Tang thương ngẫu lục của danh sĩ Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án. Nhưng câu chuyện của Chiêu Hổ vẫn có sức hấp dẫn riêng. Thời gian, khung cảnh câu chuyện được thuật lại tỉ mỉ. Trong bối cảnh trong nước vô sự, việc an hưởng thái bình, du ngoạn cảnh đẹp của một ông chúa có lệ chẳng có gì đáng nói. Việc ăn chơi của chúa đáng nói ở chỗ đình đài được làm liên tục. Hay so sánh với những gì trong phủ chúa được Hải Thượng Lãn ông mô tả: Nơi nào cũng lâu đài, đình các, rèm châu cửa ngọc, áng nước mây lòa, suốt cõi toàn hoa, hoa cỏ kì lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng nhô lên một ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc qua lạch nước quanh co, lại có lan can làm toàn bằng đá màu... Ngoài cung cũng là cả một sự xa xỉ cầu kì như vậy. Chúa thưởng ngoạn cảnh đẹp kéo theo cả một đội quân tiền hô hậu ủng với binh lính, nội thần, các quan hỗ tụng đại thần... Quang cảnh phô bày qua sự mô tả của tác giả khiến


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

người đọc hình dung một sự sắp đặt nhằm làm đẹp lòng chúa của đám nịnh thần mặt trắng, đồng thời hiện rõ tính chất phồn vinh giả tạo của cuộc sống kinh kì. Thức ngon sẵn bày, đàn hay sáo ngọt. Chỉ cần vài cảnh đã cho thấy sự xa hoa tráng lệ xứng đảng với tiếng tăm Thịnh Vương — quyền hành dưới mà trên cả hoàng đế. Đằng sau những vẻ phô trương hào nhoáng đó là sự lố bịch hiện hình: Bọn nội thần mặc quần áo đàn bà đứng bán hàng, cảnh đi chợ của các quan như trò chơi trẻ con, cho thấy sự phồn vinh giả tạo. Nhằm thỏa mãn nhu cầu ích kỉ của mình, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cỏ mộc quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Quyền lực, xa xỉ, ngang ngược, hống hách là những gì chúng ta có thể hình dung về ông chúa nổi tiếng ăn chơi này. Tác giả đã bình bằng một điềm báo: Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường. Câu văn miêu tả vẽ ra viễn cảnh u ám, đầy âm khí, như kết đọng nỗi oán hờn của dân gian, chứa đựng ý nghĩa cảnh báo sự sụp đổ không thể tránh khỏi của một vương triều mục rỗng. Thượng bất chính, hạ tắc loạn (Trên không nghiêm, dưới sinh loạn) chứng minh cho những gì Phạm Đình Hổ diễn tả tiếp nối về hành động của bọn tay chân nhà chúa đục nước béo cò, nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Nhà dột từ nóc, bởi thế người đọc không nghi ngờ gì về bản chất thối nát của vương triều Lê - Trịnh. Tất yếu, những hành vi của chúng gây tác hại cho dân lành lương thiện như thế nào: bị vu oan, hãm hại cửa nát nhà tan. Không phải là cách nói ví von mà Phạm Đình Hổ còn kể lại câu chuyện sinh động: Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra. Người giàu có của bỗng thành miếng mồi ngon cho bầy diều quạ hung dữ mượn danh chúa đục khoét, hành hạ. Không những thế, người kể chuyện còn đưa ra bằng chứng ngay trong gia đình mình như xác minh tính chân thực của câu chuyện kể: Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng, trước nhà trung đường, cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy. Bản thân gia đình tác giả thuộc hàng quý tộc chốn cung đình, vậy mà còn trở thành nạn nhân của chúa Trịnh. Ta chứng kiến cái đẹp bị hủy hoại bởi lẽ không cái đẹp nào có thể được phát triển tự nhiên dưới ách bạo quyền. Câu chuyện kết thúc ở đỏ, nhưng giá trị tố cáo đã thật đầy đủ, không cần nói thêm, viết thêm. Một chuyện cũ viết lại qua lời kể chuyện, miêu tả sinh động của Phạm Đình Hổ đã giúp ta hình dung tất cả sự thối nát tàn bạo của triều đình vua Lê - chúa Trịnh và hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ của nó. Khi những kẻ cầm quyền chỉ biết vun vén bản thân, bỏ mặc nhân dân, chắc chắn sẽ mất lòng dân, lời ca thán của dân chúng sẽ biến thành sức mạnh khởi nghĩa lật nhào chế độ. Có lẽ, đó còn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của Chiêu Hổ cho triều đại nhà Nguyễn đương thời. Ông đã vạch đúng bản chất chung của giai cấp phong kiến, qua những trang tùy bút đặc sắc. Vũ trung tùy bút là tập kí họa về thời đại qua tài hoa của cây bút Phạm Đình Hổ. Dù thời ấy đã qua, nhưng những câu chuyện trong đó vẫn còn giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và văn chương. Người đọc có thể nhận thấy sức mạnh hủy diệt của thế lực đồng tiền khi song hành với quyền lực và bả phù hoa làm hủy hoại nhân tính con người đến mức nào!


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG (Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ) Bài 30: Phân tích phẩm chất và số phận ngưòi phụ nữ thời phong kiến qua nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xưong của Nguyễn Dữ. BÀI LÀM THAM KHẢO Hiện hữu trên cuộc đòi này như bao con người để rồi khi trở về miền cát bụi nhưng lại không tan biến và nhòa đi bởi dòng thòi gian khắc nghiệt. Những gì là giá trị đích thực của cuộc đời được lưu dấu trên trang viết tài hoa của người nghệ sĩ. Viết về người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc được thể hiện trong văn học thời trung đại. Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành . công với bài thơ Bánh trôi nước, đại thi hào Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều và Nguyễn Dữ học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm với Chuyện người con gái Nam Xương — thiên thứ 16 của Truyền kì mạn lục - một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ XVI, tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam. Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy tư, trăn trở cho người đọc về thận phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. Nhân vật chính của Chuyện người con gái Nam Xương. là Vũ Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình. Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Nhân vật người con gái Nam Xương có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ Miếu vợ chàng Trương. Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương . Miếu ai như miếu vợ chàng Trương. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Vũ Nương. Ông đã đặt nhân vật vào các tình huống khác nhau để thể hiện rõ phẩm chất của người phụ nữ; thương chồng, yêu con, hiếu thảo với mẹ chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son sắt. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào vợ chồng phải để đến thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng có tính đa nghi lại hay ghen tuông, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, khi Vũ Nương tiễn chồng đi lính. Thông thường khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có. được công danh để vinh hiển, còn đối với Vũ Nương thì lại không trông mong vinh hiển mà chỉ mong chồng được bình yên trở về; nàng còn cảm thông với những vất vả, gian lao mà chồng nàng sẽ phải chịu đựng, nàng nói đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần, đằm thắm tình cảm. Khi xa chồng, Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng - “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi”. Tác giả đã dùng hình ảnh; ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong thời loạn lạc xưa nay: Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong... (Chinh phụ ngâm) Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

chồng đau ốm. Nàng lo thuốc thang, cầu khấn thần Phật, và lúc nào cũng ân cần, dịu dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương Sinh quay trở về, vì thế, trước khi mẹ chồng nhắm mắt bà đã nói với Vũ Nương rằng “xanh kia quyết chẳng phụ con”. Nàng hết sức thương xót mẹ chồng và lo ma chay tế lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình. Tưởng rằng khi Trương sinh về thì Vũ Nương được sống trong niềm vui và hạnh phúc và được chồng chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống, ai ngờ nàng bị một nỗi oan. Nàng đã hết lời phân trần tấm lòng son sắt thủy chung của mình cho chồng hiểu: nói đến thân phận nghèo được nương nhờ nơi giàu có, tình nghĩa vợ chồng bao năm và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan nhưng Trương Sinh vẫn không tin. Họ hàng, làng xóm biện bạch cho nàng cũng không được. Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, không có quyền tự bảo vệ. Hạnh phúc gia đình, niềm khát khao của cuộc đời nàng đã tan vỡ như bong bóng. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được, Vũ Nương đành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình. Những lời than trước khi vĩnh biệt cuộc đời đầy đau khổ nhưng cũng đầy luyến tiếc, như mệt lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết giá của nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính, Vũ Nương bị đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trầm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí. Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận. Vũ Nương đúng là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, thùy mị, hiền thục, lại đảm đang tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung thủy với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Vậy nguyên nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy? Có phải chăng vì cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương không bình đẳng; sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm cái thế cho Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng trong chế độ phong kiến. Hay đó là những lời nói ngây thơ của đứa trẻ chứa đầy những dữ kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay có tính đa nghi ghen tuông, hồ đồ và độc đoán kia trở thành kẻ thô bạo, vũ phu là kẻ bức tử vợ mình trong sự mù quáng, kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án. Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm thương cảm của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất hạnh ở đây không những không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ dạng học nói và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà phải kết liễu đời mình. Xót thương trước nỗi đau khổ vì bị chà đạp của những người phụ nữ; Nguyễn Dữ như muốn minh oan và bù đắp cho những đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống khác với dương gian. Nhưng ở chốn “làng mây cung nước”, Vũ Nương chẳng thể nào nguôi nỗi nhớ về những oan ức, bĩ cực ở cõi trần, sống giữa cõi tiên huyền ảo, đẹp diệu kì nhưng nàng dường như không bao giờ dứt tình nghĩa gia đình, mãi khóc thương cảnh gia đình tiêu điều xơ xác. Nàng xin lập đàn giải oan, khao khát được trả lại danh dự của một người phụ nữ đức hạnh. Và cuối cùng, nỗi oan của nàng đã được giải. Từ chốn thủy cung, Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ sắc màu, lúc ẩn, lúc hiện. Nhưng xót xa thay, nàng chẳng thể trở về nhân gian được nữa. Nỗi oan tình của nàng đã được minh oan, giải tỏa nhưng âm dương đôi đường cách trở, nàng chẳng bao giờ được làm vợ,


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

làm mẹ chốn cõi trần. Bé Đản mãi mãi là một đứa bé mồ côi mẹ. Nếu nàng được trở về với cõi trần thì liệu xã hội phong kiến bất công không có nơi dành cho cái dẹp này có dành cho nàng một cuộc sống ấm êm, bình yên, hay một lần nữa, nàng phải đau đớn, buồn khổ. Dù quay về chốn tiên cảnh xinh đẹp, nhưng cuối cùng, mơ ước cả đời của nàng, hạnh phúc “nghi gia nghi thất”, chỉ mãi là ước mơ hão huyền. Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp người phụ nữ. Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Ấy chính là tấn bi kịch của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến, chế độ của sự lạc hậu và cả bóng đêm vĩnh cửu. Điều đó khiến chúng ta phải chạnh lòng trước số phận của người phụ nữ. Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Bài 31: Cảm nhận về số phận người phụ nữ thời phong kiến qua nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc được thể hiện trong văn học thời trung đại. + Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành công với bài thơ Bánh trôi nước, đại thi hào Nguyễn Du với , kiệt tác Truyện Kiều và Nguyễn Dữ - học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm với Chuyện người con gái Nam Xương - thiên thứ 16 của Truyền kì mạn lục. - Dẫn ra vấn đề nghị luận Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy tư, trăn trở cho người đọc về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. 2. Thân bài a. Khái quát (Dẫn dắt vào bài) - Chuyện người con gái Nam Xương xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng không có học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy tuần, Vũ Nương sinh con trai, hết lòng nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.  Qua câu chuyện kể, ta thấy người phụ nữ là nạn nhân của xã hội phong kiến bất công. Cuộc đời của họ là một chuỗi dài những khổ đau, bất hạnh. b. Phân tích b1. Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền - Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ Nương đã phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết nàng tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp cho nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, bởi lẽ nó không phải là sự rung động của hai trái tim cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó cha mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó. Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu. Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng vẫn


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo. - Trương Sinh vốn không có học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ vực là mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm xa cách, khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì lại là lúc tại họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của bé Đản: Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Mà ông lại biết nói chứ không giống như cha tôi trước kia... làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha thiết giãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can và biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới, mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ chỗ la um lên cho hả giận, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng, cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ...Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. - Hạnh phúc gia đình, thú vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn - nay bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu hay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cả, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.  Qua tác phẩm, ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vưọt lên số phận nhưng cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, chà đạp và ức hiếp con người.  Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự tận chỉ một chút động lòng mà không hề ân hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là “việc đã qua rồi”. Như thế, chuyện dành dự, chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo lí, không được dư luận xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khuất của cái xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ sống trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công, quyền sống của con người không được đảm bảo, người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trôi” có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào, vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ mà người phụ nữ phải chịu. b2. Người phụ nữ là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa - Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương chỉ vui thú nghi gia nghi thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng sum họp chứa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già bịn rịn, vợ trẻ đang bụng mang dạ chửa quyến luyến chưa biết sự thể rồi sẽ ra sao đã khiến mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàng lệ: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

mang theo được hai chữ hình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. - Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ cho người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương nhớ con mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ chồng chỉ còn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha của bé...Chính chiến tranh làm cho gia đình li tán, vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm, cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không bị bắt đi lính, thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì đâu Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn đến cảnh từ biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình.  Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người phụ nữ khác - người con gái bình dân trong Bánh trôi nước, Thúy Kiều, Đạm Tiên trong Truyện Kiều đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm đến cái chết giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn :Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai oán: Đau đớn thay phận đàn hà Lời rằng hạc mệnh cũng là lời chung. c. Nhận xét, đánh giá - Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau thương của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho đôi lứa phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. - Đây cũng, là tiếng kêu thương đầy nước mắt, là sự xót xa. Vì lẽ đó mà Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân bản sâu sắc. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận + Truyền kì mạn lục là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “thiên cổ kì bút”. Người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. + Chuyện người con gái Nam Xương tố cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI, nêu bật thân phận và hạnh phúc người phụ nữ trong bi kịch gia đình. - Cảm xúc của bản thân + Đi qua một hành trình hơn năm thế kỉ, Chuyện người con gái Nam Xương mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm của người vợ, người mẹ như vẫn còn mãi trong ta. Bài 32: Nhận xét về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho rằng: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Chi tiết “chiếc bóng” trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã thể hiện điều đó. Anh (chị) hãy trình bày hiểu biết của mình về vấn đề trên. GỢI Ý LÀM BÀI A. Yêu cầu về kĩ năng - Với nội dung vấn đề mà câu hỏi nêu ra, học sinh biết trình bày vấn đề thành một bài văn ngắn hoàn chỉnh. - Tuy phạm vi kiến thức chỉ hỏi về một chi tiết trong một tác phẩm, bài viết có thể ngắn gọn, nhưng đây vẫn là dạng bài nghị luận văn học tổng hợp, vì vậy học sinh không những hiểu về chi


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tiết trong tác phẩm mà còn phải biết sử dụng các thao tác nghị luận vãn học tổng hợp như giải thích, phân tích, chứng minh... để làm sáng tỏ vấn đề. - Diễn đạt rõ ràng, dùng từ, đặt câu chuẩn xác. - Biết sắp xếp và trình bày các ý thành hệ thống, mạch lạc. B. Nội dung kiến thức cần đạt Học sinh phải hiểu và trình bày được ba vấn đề: 1. Giải thích ngắn gọn ý kiến Ý kiến trên nói về vai trò quan trọng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Trong tác phẩm tự sự có rất nhiều chi tiết, và trong đó có những chi tiết được coi là chi tiết nghệ thuật. Những chi tiết nghệ thuật đôi khi là những chi tiết rất nhỏ, nhưng nó lại chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, thể hiện được tầm vóc tư tưởng, quan điểm, thể hiện được cả sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật, thể hiện được tài năng của người nghệ sĩ. Chính vì vậy có ý kiến cho rằng: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. 2. Phân tích ý nghĩa sâu sắc, cái háy, sự khéo léo của chi tiết “chiếc bóng” trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ để chứng minh cho ý kiến trên - Chi tiết “chiếc bóng” tô đậm thêm những nét đẹp phẩm chất cùa Vũ Nương trong vai trò làm vợ, làm mẹ: + Yêu thương con, muốn bù đắp tình cảm cho con khi vắng cha. + Yêu thương, thủy chung với chồng, luôn mong ngóng và nhớ chồng da diết nên Vũ Nương phải mượn chiếc bóng của mình để khỏa lấp nỗi lòng... + Khát khao gia đình được sum họp, được hạnh phúc. - Chiếc bóng là ẩn dụ cho số phận mong manh của người phụ nữ trong chế độ nam quyền. Chỉ là chiếc bóng vô hình nhưng cũng dẫn tới bi kịch, đẩy một ngưòi phụ nữ đức hạnh đến cái chết oan ức. Chiếc bóng Vũ Nương đem ra đùa với con vô tình lại hại nàng, phải chăng Nguyễn Dữ muốn gửi gắm một triết lí: ở đời làm sao học hết được chữ "ngờ”. - Chi tiết “chiếc bóng” để lại một thông điệp sâu sắc: phải yêu thương, tin tưởng, tôn trọng nhau, đừng để cho những điều vô hình, mong manh (như chiếc bóng) giết chết tình yêu, làm tan vỡ hạnh phúc gia đinh.  Như vậy một chi tiết nhỏ này đã hàm chứa những tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Dữ, góp phần làm nên giá trị nhân đạo, tính nhân văn của tác phẩm. - Chiếc bóng tạo sự bất ngờ, tính hấp dẫn cho tình huống, sự chặt chẽ cho cốt truyện, tạo sự thắt nút, mở nút rất hợp lí. Chi tiết này được để xuống cuối phần thứ hai của truyện, sau khi Vũ Nương không còn nữa, chuyện đau xót nhất đã xảy ra và sai lầm không thể làm lại, mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm thành bi kịch. Do đó tính tố cáo cũng sâu sắc, mạnh mẽ hơn. Điều này thể hiện tài năng của Nguyễn Dữ. 3. Đánh giá, khái quát - Khái quát: Như vậy chi tiết này thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo (thương xót, đồng cảm với những người phụ nữ bất hạnh, bênh vực người phụ nữ, phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ, thói gia trưởng, ích kỉ của người đàn ông trong xã hội phong kiến...), đồng thời cũng cho thấy tài năng của tác giả. - Tất cả những điều này đã chứng minh chi tiết “chiếc bóng”- một chi tiết nhỏ trong truyện nhưng đã làm nên tầm vóc một nhà văn lớn - Nguyễn Dữ. BÀI LÀM THAM KHẢO Có thể nói văn học là một chiếc gương phản ánh rõ nét về cuộc sống. Nó phản chiếu tình mẫu từ thiêng liêng và cao quý, nó nói lên cái tàn ác đến vô tình của “trái tim đen” hay nó vẽ lên viễn


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

cảnh đáng thương của thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Văn học đến với con người và tạo nên trong trái tim họ sự cảm thông, đồng cảm hay đôi khi là sự thành công trong việc thể hiện chi tiết đặc sắc của tác phẩm. Những chi tiết đó đã góp phần ánh lên cuộc sống nội tâm nhân vật hay chỉ đơn giản là thể hiện cái tài của người viết. Bởi vậy, có người đã nói rằng: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Liệu ý kiến này có bị coi là sai lầm không với một chi tiết nhỏ và một nhà văn lớn như vậy? Quả không ngoa mà nói rằng, chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Cái chi tiết ấy đã vô hình vẽ nên trái tim ấm áp, nồng đượm tình yêu thương của tác giả và nó cũng là thành phần quan trọng trong việc thể hiện vẻ đẹp của văn bản tự sự. Trong một tác phẩm, có nhiều chi tiết song để thể hiện thành công ý đồ của tác giả thì chắc hẳn đó là chi tiết đặc sắc và có tính nghệ thuật cao. Phải chăng những chi tiết đó nhất thiết phải bao trùm lên cả tác phẩm và phải mang tính cốt lõi cao? Không hẳn là như vậy. Bởi lẽ những chi tiết ấy chỉ là những chi tiết nhỏ, giúp xoáy sâu vào tâm trạng nhân vật trong từng thời điểm nhưng chỉ cần đọc một lần là cả đời không quên được. Có lẽ bạn không tin vào chi tiết nhỏ ấy có thể xoay chuyển và làm nên một nhà văn của công chúng, tôi xin đưa một ví dụ tiêu biểu trong tác phẩm truyền kì Chuyện người con gái Nam Xương. Đó là chi tiết “chiếc bóng”. Có thể khẳng định rằng, chi tiết “chiếc bóng” là chi tiết nghệ thuật đặc sắc nhất của truyện. Chiếc bóng ấy đã tô vẽ nhân vật người vợ hiền thục Vũ Nương qua hai thời điểm: “thắt nút” và “mở nút” câu chuyện. Chiếc bóng đã vô tình “thắt” câu chuyện vào một mối khó gỡ bỏ được. Chi tiết cái bóng là đầu mối trực tiếp dẫn đến sự nghi ngờ của Trương Sinh. Người con gái họ Vũ thuỳ mị, nết na lại có tư dung tốt đẹp đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn, phải được sống trong gia đình yên ấm nhưng cũng vì “chiếc bóng” đã khiến nàng phải xa lìa gia đình, gieo mình xuống lòng sông thăm thẳm. Âu cũng là do cái tính đa nghi thái quá của Trương Sinh. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình (Truyện Kiều - Nguyễn Du) nhưng đây lại là thái quá, tức chẳng phải nỗi thường tình ấy nữa. Ngay lúc đầu, ngòi bút Nguyễn Dữ đã khiến người đọc ái ngại cho hạnh phúc của người con gái hoàn mĩ - Vũ Nương rằng cuộc hôn nhân này chỉ mang tính trao đổi, hoàn toàn không mang chút hương vị của tình yêu, hôn nhân; một cuộc sống, một cuộc trao đổi giữa kẻ giàu - người nghèo, giữa phe lắm của nhiều tiền với phe nghèo khó. Cái ái ngại của người đọc dường như đã thành hiện thực khi Trương Sinh trở về, bé Đản nói: Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư... Thành ra cái tính đa nghi, hay ghen của Truơng Sinh được lúc bột phát khiến Vũ Nương ra đi, người con mất mẹ, người chồng vắng vợ. Thật là đau đớn biết chừng nào! Đồng thời, chi tiết “chiếc bóng” cũng là đầu mối giải toả sự nghi ngờ của Trương Sinh về người vợ sau khi nàng mất. Vũ Nương - một người vợ ngoan hiền, một người con dâu hiếu thảo, một người mẹ thương con mất đi là nỗi thương tiếc lớn. Với Trương Sinh, chàng chẳng nát lòng đi tìm xác vợ đó sao? chàng chẳng nhớ nhung vợ ngồi dưới ánh đèn hiu hắt rợn ngợp gian phòng, bởi vậy mới nhận ra sự thật đó sao? Đó là chi tiết “mở” nút, thắt vào lại mở ra sự ân hận tột độ của nguời chồng song sự ân hận ấy chẳng thể khiến Vũ Nương quay về dẫu Trương Sinh có ân hận và lập đàn giải oan cho nàng. Nhưng thế đời vẫn thế và xã hội phong kiến là phải thế! Chi tiết “chiếc bóng” cũng khái quát nên nỗi lòng người vợ xa chồng. Nàng nhớ chồng đến mức “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Dường như nỗi nhớ ấy đã thể hiện tình cảm của nàng với chồng, đó là sự đồng nhất trong quan hệ vợ chồng, là nỗi an ủi khi nỗi nhớ dâng trào và cũng vì tình thương con, sợ con vắng cha mà đâm buồn tủi. Đâu chỉ có vậy, “chiếc bóng” còn gắn liền với sự ngây ngô của con trẻ, là sự hiểu lầm của người chồng đa nghi, là niềm vui, là nỗi buồn, là nỗi đau khôn tả xiết, cái bóng ấy vừa thực vừa ảo như xoáy sâu vào trái tim người đọc với nỗi đồng cảm, sự vị tha. Chiếc bóng tạo sự bất ngờ, tính hấp dẫn của tình huống, sự chặt chẽ cho cốt truyện, tạo sự thắt nút, mở nút rất hợp lí. Chi tiết này được để xuống cuối phần thứ hai của truyện, sau khi Vũ


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Nương không còn nữa, chuyện đau xót nhất đã xảy ra và sai lầm không thể làm lại, mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm thành bi kịch. Do đó tính tố cáo cũng sâu sắc, mạnh mẽ hơn. Điều này thể hiện tài năng của Nguyễn Dữ. Như vậy chi tiết này thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo (thương xót, đồng cảm với những người phụ nữ bất hạnh, bênh vực người phụ nữ, phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ, thói gia trưởng, ích kỉ của người đàn ông trong xã hội phong kiến...), đồng thời cũng cho thấy tài năng của tác giả. Tóm lại, với chi tiết “chiếc bóng” đã hoàn toàn chứng minh được ý kiến: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Nó đã thể hiện tấn bi kịch của trò đời và vòng xoáy xã hội mà chỉ có văn học mới thể hiện được. Chắc chắn rằng, trong những tác phẩm của những nhà văn lớn, những chi tiết nhỏ ấy mãi đồng hành cùng thời gian và in sâu vào tâm trí người đọc. Bài 33: Trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ, nhân vật Trương Sinh vội tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn. Theo anh (chị) khi kể chuyện tác giả có hé mở chi tiết nào trong truyện để có thể tránh đưọc thảm kịch đau thương cho Vũ Nưong. Suy nghĩ cua anh (chị) về cái chết của Vũ Nương? GỢI Ý LÀM BÀI 1. Giói thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận 2. Tóm tắt ngắn gọn câu chuyện 3. Nêu được những chi tiết hé mở trong truyện để có thể tránh đuợc thảm kịch cho Vũ Nương - Truyện không phải không hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau thương của Vũ Nương: + Lời con trẻ chứa đựng không ít điều vô lí không thể tin ngay được: • mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đàn ngồi cũng ngồi; • chỉ nín thin thít; • chẳng bao giờ bế Đản cả...  Câu nói đó của đứa trẻ như là một câu đố, nếu Trương Sinh biết suy nghĩ thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra. Nhưng Trương Sinh cả ghen, không có học, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quyết tấn thảm kịch, dẫn tới cái chết oan uổng của người vợ. - Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chí cần Trường Sinh kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. .  Thể hiện tài năng kể chuyện của Nguyễn Dữ (thắt nút truyện làm cho mâu thuẫn đẩy lên đỉnh điểm tăng sự li kì, hấp dẫn cho câu chuyện). 4. Suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương - Tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhất nhưng dường như đó là cách duy nhất của Vũ Nương. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh, dự, đối với nàng phâm giá còn cao hon cả sự sông. - Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi òan bởi một chuyện không đâu - một lời của con trẻ, một câu nồi đùa của mẹ với con phải tìm đến cái chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. - Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông. Vũ Nương lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng đến cái chết bi thảm là máu ghen của người chồng nông nổi. Không phải chỉ vì cái bóng trên tường mà chính là cái bóng đen trong tâm hồn Trương Sinh đã giết chết Vũ Nương.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công,. tai họa có thể xảy đến bất cứ lúc nào đối với họ mà những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi không thể lường trước được. Đó là xã hội phong kiến ở nước ta, xã hội đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những người đàn ông mang nặng tư tưởng, nam quyền, độc đoán, đã chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ Nương. - Chiến tranh phong kiến cũng là một nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Nó gây nên cảnh sinh li rồi góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. - Cái chết của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến đã dung túng cho cái ác, cái xấu xa đồng thời bày tỏ niềm cảm thông đối với số phận người phụ nữ. - Bi kịch của Vũ Nương đem đến bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình. 5. Đánh giá, liên hệ và mở rộng - Nghệ thuật xây dựng chi tiết có ý nghĩa trong tác phẩm, tạo tình huống có vấn đề. - Nỗi đau, số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh cuộc sống của người phụ nữ xưa - Trân trọng, cảm thông, thấu hiểu của tác giả với người phụ nữ trong xã hội phong kiến. - Suy nghĩ của bản thân về cuộc sống gia đình hiện nay. Bài 34: Nhà văn Nguyễn Dữ đã kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương bằng chi tiết Vũ Nương hiện về gặp chồng rồi sau đó biến mất. Có ý kiến cho rằng: giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn. Có người lại nhận xét: cách kết thúc của tác giả như vậy là hợp lí. Suy nghĩ của anh (chị) về hai ý kiến trên. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề 2. Bàn luận a. Nêu tình huống và những tình tiết chính dẫn đến kết thúc của truyện b. Về ý kiến: giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn - Đây là cách kết thúc thường gặp trong các truyện cổ dân gian, thể hiện quan niệm ở hiền gặp lành, cái thiện thắng cái ác của người lao động, thể hiện niềm tin, niềm lạc quan của họ. Đó cũng là truyền thống nhân đạo của dân tộc, cũng là một trong những nội dung của văn học trung đại Việt Nam. - Cách kết thúc truyện như vậy có thể chấp nhận được vì không trái với tinh thần nhân đạo của văn học. Tuy nhiên điều này sẽ ảnh hưởng tới giá trị hiện thực và lô-gic phát triển của cốt truyện c. Về kết thúc của nhà văn - Kết thúc truyện Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện được tinh thần nhân đạo và khát vọng của con người về cuộc sống: Vũ Nương không chết, nàng được sống một cuộc sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, nàng hiện hồn về gặp Trương Sinh là để minh oan, để khẳng định tình cảm thủy chung của mình. - Kết thúc truyện còn cho thấy sự vận dụng sáng tạo truyện dân gian của nhà văn. Tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường kì ảo và lối kể chuyện dân gian để thể hiện tư tưởng của mình. Bên cạnh giá trị nhân đạo, truyện còn có giá trị hiện thực sâu sắc. Nếu tác giả để cho Vũ Nương trở về với cuộc sống thực tại .thì nàng cũng không thể có được hạnh phúc với một người chồng đa nghi, độc đoán cùng những định kiến nặng nề của xã hội đương thời.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Kết thúc truyện như vậy là hoàn toàn hợp lí vì nó vừa thể hiện được tư tưởng của tác giả, vừa đảm bảo tính lô-gic của cốt truyện đồng thời phản ánh một cách chân thực, khách quan số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. 3. Đánh giá khái quát - Cách kết thúc câu chuyện của nhà văn không chỉ góp phần tạo nên sức sống của tác phẩm mà còn khẳng định tài năng của tác giả. Bài 35: Phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Từ thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu khủng hoảng, vấn đề số phận con người trở thành mối quan tâm của văn chương, tiếng nói nhân vãn trong các tác phẩm vãn chương ngày càng phát triển phong phú và sâu sắc. + Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong số đó. Trong hai mươi thiên truyện của tập truyền kì, Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Dữ. - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ có thể coi là tác phẩm hay nhất trong cuốn Truyền kì mạn lục. + Nhân vật chính là Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) - một người con gái quê ở Nam Xương đẹp người đẹp nết. Không chỉ có vậy, khi nhắc đến nhấn vật này người đọc không thể quên được nỗi oan khổ vô bờ mà nàng phải chịu vì người chồng đa nghi thô bạo. 2. Thân bài a. Khái niệm giá trị nhân đạo - Tinh thần nhân đạo đã trở thành linh hồn của nhiều tác phẩm văn học. Nội dung ấy được thể hiện dưới nhiều màu vẻ, hình thức. Trong văn học trung đại, một trong những biểu hiện của tinh thần nhân đạo là tấm lòng nhân ái đối với số phận mong manh, nhiều bất hạnh của người phụ nữ. - Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ nội dung đó được thể hiện qua tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những bất hạnh mà cuộc đời họ phải hứng chịu. b. Tác giả hết lời ca ngợi vẻ đẹp của con người qua vẻ đẹp của Vũ Nương, một phụ nữ bình dân - Vũ Nương là con nhà nghèo - “thiếp vốn con nhà khó”, đó là cái nhìn người khá đặc biệt của tư tưởng nhân văn Nguyễn Dữ. - Nàng có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: “thùy mị, nết na”. Đối với chồng rắt mực dịu dàng, đằm thắm thủy chung; đối với mẹ chồng rất mực hiếu thảo, hết lòng phụng dưỡng; đối với con rất mực yêu thương. - Đặc biệt, một biểu hiện rõ nhất về cảm hứng nhân đạo, nàng là nhân vật để tác giả thể hiện khát vọng về con người, về hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa: + Nàng luôn vun vén cho hạnh phúc gia đình. + Khi chia tay chồng đi lính, không mong chồng lập công hiển hách để được ấn phong hầu, nàng chỉ mong chồng “bình yên” trở về.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

+ Lời thanh minh với chồng khi bị nghi oan cũng thể hiện rõ khát vọng đó: Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. - Tóm lại: Dưới ánh sáng của tư tưởng nhân đạo đã xuất hiện nhiều trong văn chương, Nguyễn Dữ mới có thể xây dựng một nhân vật phụ nữ bình dân mang đầy đủ vẻ đẹp của con người. Nhân vật là đại diện cho tiếng nói nhân văn của tác giả. c. Nguyễn Dữ trân trọng vẻ đẹp của Vũ Nương bao nhiêu thì càng đau đớn trước bi kịch cuộc đời của nàng bấy nhiêu - Đau đớn vì nàng có đầy đủ phẩm chất đáng quý và lòng tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tụy vun đắp cho hạnh phúc đó lại chẳng được hựởng hạnh phúc cho xứng với sự hi sinh của nàng: + Chờ chồng đằng đẵng, chồng về chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một nguyên cớ rất vu vơ (Người chồng chỉ dựa vào câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã khăng khăng kết tội vợ). + Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng xóm rõ nỗi oan của nàng nên biện bạch giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột cùng nay đã bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, cái én lìa đàn, mà người chồng vẫn không động lòng.  Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan khuất. Bi kịch đời nàng là tấn bi kịch cho cái đẹp bị chà đạp nát tan, phũ phàng. d. Với tấm lòng yêu thương con người, tác giả không để cho con người trong sáng cao đẹp như nàng chết oan khuất - Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ không tiến xa hơn câu chuyện dân gian là mấy. Nguyễn Dữ đã vô cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng những tâm hồn trong đẹp. Mượn yếu tố kì ảo của thể loại truyền kì, diễn tả Vũ Nương trở về để được rủa sạch nỗi oan giữa thanh thiến bạch nhật, với vẻ đẹp còn lộng lẫy hơn xưa. - Nhưng Vũ Nương được tái tạo khác với các nàng tiên siêu thực: nàng vẫn khát vọng hạnh phúc trần thế (ngậm ngùi, tiếc nuối, chua xót) khi nói lời vĩnh biệt thiếp chẳng thể về nhân gian được nữa. - Hạnh phúc vẫn chỉ là ước mơ, hiện thực vẫn quá đau đớn (hạnh phúc gia đình tan vỡ, không gì hàn gắn được). e. Với niềm xót thương sâu sắc đó, tác giả lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người - Xã hội phong kiến với những hủ tục phi lí (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu) gây bao nhiêu bất công. Hiện thân của nộ là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu. - Thế lực động tiền bạc ác (Trương Sinh con nhà hào phú, một lúc bỏ ra một trăm lạng vàng để cưới Vũ Nướng). Thời này đạo lí đã suy vi, đồng tiền đã làm đen bạc tình nghĩa con người. Nguyễn Dữ tái tạo truyện cổ Vợ chàng Trương, cho nó mang dáng dấp của thời đại ông, xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận + Chuyện người con gái Nam Xương là một thiên truyền kì giàu tính nhân văn. Truyện tiêu biểu cho sáng tạo của Nguyễn Dữ về số phận đầy tính bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.


+ Tác giả thấu hiểu nỗi đau thương của họ và có tài biểu hiện bi kịch đó khá sâu sắc. - Cảm xúc của bản thân

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

+ Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã góp một tiếng nói nhân ái, nhân đạo để đòi quyền được sống, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến suy tàn. Chính cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm đã giúp Chuyện người con gái Nam Xương của ông đi suốt những năm tháng lịch sử thăng trầm của dân tộc. Bài 36: Phân tích ý nghĩa của chi tiết kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyên Dữ. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm. 2. Tóm tắt câu chuyện 3. Các chi tiết kì ảo trong câu chuyện - Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa; - Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương, được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế. - Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi lại biến đi mất. 4. Cách đưa các chi tiết kì ảo - Các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, những chi tiết thực về trang phục của các mĩ nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất... - Cách thức này làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng. 5. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo - Cách kết thúc này làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kì. - Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng, tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự. - Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện. - Thể hiện về ước mơ, về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.  Chi tiết kì ảo không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ - giấc mơ về những người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thực cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự ân hận muộn màng của người chồng, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được người phụ nữ. Đây là giấc mơ mà cũng là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ (Trích Hồi thứ mười bốn - Ngô gia văn phái) Bài 39: Nêu cảm nhận của anh (chị) về hình tượng vua Quang Trung qua đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Vài nét về tác giả và tác phẩm + Cho đến nay, trong lịch sử văn học Việt Nam chưa có tác phẩm văn học nào tái hiện lại một cách chân thực và sinh động một giai đoạn lịch sử nước nhà như cuốn tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. + Tác phẩm đã khái quát lại một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội, đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1767 - 1802) như: loạn kiêu binh, triều Lê - Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn... - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Sự sụp đổ không thể cưỡng nổi của triều đại Lê - Trịnh và khí thế thần tốc của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh trong Hòàng Lê nhất thống chí. + Hồi thứ XIV đã thể hiện một cách hào hùng sức mạnh quật khởi trong dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ - người anh hùng dân tộc - đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử. 2. Thân bài a. Khái quát (Dẫn dắt) - Đoạn trích hồi thứ mười bốn trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái thuộc dòng họ Ngô Thì làm lộ rõ bộ mặt của bọn xâm lược và bọn bán nước cầu vinh, đặc biệt làm nổi rõ tính cách của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; khí thế quật khởi, thần tốc đại phá quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ là người anh hùng tiếp nối lịch sử, tin vào lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc là người anh hùng có tấm lòng yêu nước nồng nàn, có tinh thần nhân ái, thông minh tài trí tuyệt vời. - Mở đầu tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí tác giả Ngô gia văn phái đã viết: Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài. Sự đúc kết trên đã đưa người đọc trở lại những giờ phút khó khăn nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỉ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống rước hai mươi chín vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta. Vị cứu tinh của dân tộc ta thuở ấy là Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải Tây Sơn. b. Cảm nhận b1. Trong đoạn trích, hình tượng Nguyễn Huệ hiện lên với những phẩm chất tốt đẹp của người anh hùng 1. Hành động mạnh mẽ, quyết đoán - Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn luôn thể hiện là một con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, chiếm cả một vùng đất đai rộng lớn, Nguyễn Huệ vẫn không hề nao núng, định thân chinh cầm quân đi ngay. - Rồi sau đó, chỉ trong vòng một tháng (từ ngày 24 tháng 11 đến ngày 30 tháng chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: tố cáo trời đất lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

binh ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và lên kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. 2. Trí tuệ sáng suốt, sâu sắc và nhạy bén - Trí tuệ ấy được biểu hiện trong việc xét đoán và dùng người. Khi đến Tam Điệp, gặp Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đều mang gươm trên lưng mà xin chịu tội, Nguyễn Huệ đã xử trí vừa có lí vừa có tình, ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người, đúng việc. - Trí tuệ ấy còn được biểu hiện trong việc phân tích tình hình thời cuộc và tương quan ta - địch. Trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm lãng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc; nêu bật dã tâm của giặc bụng dạ ắt khác... giết hại nhân dân, vơ vét của cải, nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa; kêu gọi quân lính “đồng tâm hiệp lực”; ra kỉ luật nghiêm minh...  Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc. 3. Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa, trông rộng - Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành lại một tấc đất nào, vậy mà Quang Trung vẫn tuyên bố chắc như đinh đóng cột phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. - Tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng với một nước lớn gấp mười nước mình để có thể dẹp chuyện binh đao, cho ta được yên ổn để nuôi dưỡng lực lượng. 4. Tài dụng binh như thần - Đến tận hôm nay, chúng ta vẫn còn kinh ngạc vì cuộc hành quân thần tốc cùa nghĩa quân Tây Sơn do Quang Trung chỉ huy. Ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788) bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân (Huế), ngày 29 đã tới Nghệ An, vượt khoảng 350km quá núi, qua đèo. Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh, chỉ trong vòng một ngày. Hôm sau, tiến quân ra Tam Điệp (cách khoảng 150km), và đêm 30 tháng chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. - Mà tất cả đều là đi bộ (Có sách nói vua Quang Trung còn dùng cả võng khiêng, cứ hai người khiêng thì một người được nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm ngày). Mặt khác, từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng hơn 150km), vừa hành quân, vừa đánh giặc mà yua Quang Trung chỉ định trong vòng 7 ngày, (mồng 7 tháng giêng) sẽ ăn Tết ở Thăng Long. Nhưng trên thực tế, đã thực hiện xong sớm 2 ngày trưa mồng 5 đã vào Thăng Long. - Hành quân liên tục như vậy, thường quân đội sẽ mệt mỏi, rã rời, nhưng nghĩa quân Tây Sơn thì “cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề”. Đó là do tài tổ chức của người cầm quân: hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân và quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng đã bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu. 5. Lẫm liệt trong chiến trận - Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân không chỉ trên danh nghĩa, ông còn là tổng chỉ huy chiến dịch thực sự: hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế... Mặt khác, đội quân của vua Quang Trung không phải là toàn lính thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, thế nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Quang Trung, đội quân ấy đã đánh những trận thật hào hùng, thắng áp đảo kẻ thù (bắt hết quân do thám của địch ở Phủ Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hà Hồi, quân lính luân phiên nhau dạ ran làm cho lính trong đồn giặc ai nấy rụng rời sợ hãi xin hàng; công phá đồn Ngọc Hồi, lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che, dàn trận tiến đánh, khi giáp lá cà thì quăng ván


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau nhất tề xông tới mà đánh. - Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù phải khiếp vía, thật là tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên. Hình ảnh người anh hùng cũng được khắc họa một cách lẫm liệt, đặc biệt là trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, giữa cảnh khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, nổi bật lên là hình ảnh nhà vua cưỡi voi đi đốc thúc (Có sách ghi khi Quang Trung vào đến Thăng Long, tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng). b2. Nhận xét và đánh giá - Cách trần thuật của đoạn văn thật đặc sắc, không chỉ nhằm ghi lại những sự kiện lịch sử diễn biến gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời gian, mà còn chú ý miêu tả cụ thể từng hành động, quân một bên thì “xộc xệch, trễ nải, nhát gan,” một bên thì “xông xáo, dũng mãnh, tổ chức nghiêm minh”. Qua đó, hình ảnh người anh hùng được khắc họa khá đậm nét, có tính cách quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, có tài dụng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của những chiến công vĩ đại. - Dường như có sự mâu thuẫn giữa nhan đề tác phẩm với nội dung tác phẩm. Nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê, nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục ruỗng của triều đình nhà Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ. Điều đó nói lên quan điểm phản ánh hiện thực của các tác giả là tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc, dù có cảm tình với nhà Lê, họ không thể bỏ qua sự thực một ông vua nhà Lê hèn yếu đã “cõng rắn cắn gà nhà”. Dù không theo Tây Sơn, họ không thể không thấy chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của dân tộc. Bởi thế mà hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ hiện lên một cách oai phong lẫm liệt và hết sức chân thực trong tác phẩm. 3. Kết bai - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận + Tóm lại, với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã tái hiện chân thực, sinh động hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua những chiến công thần tốc đại phá quân Thanh và tự hào hơn về truyền thống yêu nước của dân tộc ta. + Đồng thời hiểu thấu tim đen của quân xâm lược phương Bắc và âm mưu của thiên triều cũng như bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. - Cảm xúc của bản thân: + Quang Trung Nguyễn Huệ là một anh hùng bách chiến bách thắng, một người táo bạo, quyết đoán nhưng cũng rất nhân ái, độ lượng, biểu thị ý chí và mơ ước lớn nhất của dân tộc ta là được sống trong độc lập, thanh bình, trong quan hệ hòa hiếu với lân bang. + Con người và sự nghiệp Quang Trung - Nguyễn Huệ kết tinh và biểu thị tư tưởng, tình cảm, trí tuệ của nhân dân, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. + Sự nghiệp Quang Trung - Nguyễn Huệ là một bản anh hùng ca của thế kỉ áo vải cờ đào, một thời đầy biến động và bão táp của đất nước. Sự nghiệp ấy cùng với con người ấy sống mãi trong lịch sử quang vinh củadân tộc và trong tình cảm, kí ức bất diệt của nhân dân. Bài 40: Phân tích đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái. BÀI LÀM THAM KHẢO Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn lịch sử chương hồi của một số tác giả trong Ngô gia văn phái. Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1767 - 1802) như: loạn kiêu binh, triều Lê Trịnh sụp đổ,


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn... Sự sụp đổ không thể cưỡng nổi của triều đại Lê - Trịnh và khí thế thần tốc của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh trong Hoàng Lê nhất thống chí. Đặc biệt, hồi thứ mười bốn đã thể hiện một cách hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử. Ta như được sống lại những giờ phút lịch sử nghiêm trang và hào hùng của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỉ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống rước hai mươi chín vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Tác giả Hoàng Lê nhất thống chỉ mở đầu hồi mười bốn đã viết: Đánh Ngọc Hôi, quân Thanh bị thua trận Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài. Vị cứu tinh của dân tộc thuở ấy là Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long. Tướng Ngô Vãn Sở lui binh về án ngự tại Tam Điệp. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin cấp báo, và ngày 25 lên ngôi hoàng đế tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi, lấy niên hiệu là Quang Trung. Nguyễn Huệ đốc suất đại binh ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ. Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đánh quân Thanh, vạch trần âm mưu xâm lược của bọn mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện.., kêu gọi tướng sĩ đồng tâm, hiệp lực, để dựng nên công đức. Nhà vua chia quân làm năm doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) rồi thần tốc ra Tam Điệp hội quân với cánh quân Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân làm năm đạo, cho quân ăn tết Nguyên đán trước, “bảo kín’’ với các tướng soái đến tối 30 thần tốc đánh quân Thanh, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long, “mở tiệc ăn mừng”. Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sáng suốt, giàu mưu lược, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng lũ xâm lăng. Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, tuyển quân và truyền dụ ở Nghệ An, cho quân sĩ ăn tết Nguyên đán trước; đặc biệt, nhà vua đã tạo nên yếu tố bất ngờ, đánh quân Thanh vào đúng dịp Tết khi chúng chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc đã thể hiện tinh thần quyết đoán của một thiên tài quân sự khi Tổ quốc lâm nguy. Nguyễn Huệ là một anh hùng có tài điều binh khiển tướng, trù hoạch quân mưu như thần. Ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bắt sống toàn bộ toán quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu gọi loa, vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh “rụng rời sợ hãi” phải đầu hàng. Dùng kì mưu kết ba tấm ván thành một bức bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức; mỗi bức có 20 dũng sĩ, lưng dắt dao ngắn dàn thành trận chữ “nhất” xông thẳng vào đồn Ngọc Hồi. Súng quân Thanh bắn ra đều vô hiệu. Vua Quang Trung cưỡi voi đốc chiến. Sáng mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, hàng vạn giặc bị giết thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại. Vua đã đặt phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, giặc trốn xuống đầm Mực bị quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người. Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng kinh thành Thăng Long đúng trưa mồng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu, trước kế hoạch hai ngày. Có tài thao lược vô song, có niềm tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ, của nhân dân ta mới có niềm tin tất thắng ấy. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sáng ngời mãi ngàn thu. Các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã từng ăn lộc của nhà Lê, vốn có cảm tình với vua Lê nhưng trước họa xâm lăng và chiến công Đống Đa oanh liệt, họ đã đứng trên lập trường


dân tộc, đã viết nên những trang văn đẹp nhất, dựng lên một tượng đài kì vĩ, tráng lệ về người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ mấy năm sau, trong bài Ai tư vãn khóc vua Quang Trung qua đời, Ngọc Hân công chúa đã viết: Mà nay áo vải cờ đào Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.

O

FF

IC IA L

Đó là hình tượng người ánh hùng Quang Trung trong văn học mà ta cảm nhận được với bao ngưỡng mộ. Bằng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã miêu tả và nêu bật sự thảm bại của quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân. Chỉ huy hai mươi chín vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là Tôn Sĩ Nghị. Sau khi chiếm được Thăng Long không mất một mũi tên, như vào chỗ không người hắn vô cùng “kiêu căng buông tuồng”. Bọn tướng tá chỉ biết chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân. Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để bắt sống không một tên nào lọt lưới.

U

Y

N

H

Ơ

N

Thế nhưng, trước sức tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị đập nát, sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn giặc phải bỏ mạng ở đầm Mực, Tồn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp... nhằm hướng bắc mà chạy. Quân tướng hoàng hồn, tan tác bỏ chạy. Chúng tranh nhau chạy, xô đẩy nhau rơi xuống sông, cầu phao đút, hàng vạn giặc bị rơi xuống nước mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước! Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy đến Nghi Tàm, thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc.

M

Q

Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần than thở, oán giận chảy nước mắt trông thật bi đát, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị “cũng lấy làm xấu hổ”. Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa “xin sang hầu tướng quân”, nghĩa là tiếp tục “rước voi về giày mả tổ”. Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác lác: Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi!

Có thể nói, hình ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi tiết châm biếm, thể hiện một thái độ khinh bỉ sâu sắc.

D

ẠY

Đọc hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc, âm mưu của thiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta, vô cùng kính phục và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà quân sự thiên tài của Đại Việt. Nghệ thụật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tạo nên những trang văn hào hùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.


KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) Bài 50: Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

BÀI LÀM THAM KHẢO Trải qua một cuộc bể dâu Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình Nổi chìm kiếp sống lênh đênh Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều! (Trích Bài ca xuân 61 - Tố Hữu) Trải qua những biến đổi trong cuộc sống (cuộc bể dâu), những lời thơ của Nguyễn Du còn đọng lại một nỗi đau về nhân tình thế thái, về cuộc đời của con người dưới xã hội đầy rẫy xấu xa. Con tim tội rung động trước cuộc đời và số phận của nàng Kiều. Còn trong tâm hồn sâu thẳm của bạn thì sao? Ai đó có biết không? Bao biến cố khủng khiếp đã diễn ra: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị bọn sai nha “đầu trâu mặt ngựa” cướp sạch sành sanh cho đầy túi tham, phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh; Sau khi “thất thân” bởi Mã Giám Sinh, bị mụ Tú Bà làm nhục, Kiều tự vẫn nhưng đã được cứu sống. Tú Bà dỗ dành Kiều: Người còn thì của hãy còn Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà. Kiều được Tú Bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa “con hãy thong dong” nhưng thật ra là nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích - một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên con đường lưu lạc đầy nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt mười lăm năm đoạn trường. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là mệt bức tranh tâm tình đầy xúc động. Đoạn thơ không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tinh, về ngôn ngữ độc thoại để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn, tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều. Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trung điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lac đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cằn nọ bụi hồng dặm kia Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng Cách dùng từ của Nguyễn Du thật sâu sắc, ông như đang dắt chúng ta tới nơi Kiều bị giam


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ “khóa xuân” đã nói lên điều đó. “Khóa xuân” ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Cha mẹ, các em, người yêu... tất cả đã xa xôi, cách biệt nghìn trùng, sống giũa một lũ mặt người dạ thú như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh... Kiều chẳng khác gì một con cừu non giữa bầy lang sói. Có ai hiểu nỗi lòng nàng trong tình cảnh này? Nhìn một dáng núi xa, ngắm một vầng trăng gần, nàng cảm thấy đó là bè bạn. Nhưng những người bạn không lời này đâu có an ủi, chia sẻ được nỗi buồn đang chất ngất trong lòng nàng? Bởi thế, nỗi buồn không thể nào vơi. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi “tấm trăng gần”, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượn sóng - “cát vàng cồn nọ” bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm - “bụi hồng dặm kia”. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận hồng nhan trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên tĩnh lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dằng dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy “bẽ bàng” chán ngán, buồn tủi. “Sớm” và “khuya”, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đêm. Trong nỗi cô đơn tuyệt vọng ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buôn vì ái tình riêng khiên lòng như bị xé: Nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng. Nguyễn Du tả cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thúy Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tột độ và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ sưng tấy. Tạm quên đi những chia sẻ trong lòng, Kiều nhớ về những người thân: . Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ. Đối với những quy định phong kiến con phải nhớ đến cha mẹ là điều trước tiên và hơn bao giờ hết. Thế nhưng ở đây Kiều lại nhớ về người yêu rồi mới nhớ đến cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau đớn tình cũ, kỉ niệm còn mới đây thôi, hơn nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, lừa vào chốn lầu xanh nên nỗi đau lớn nhât của nàng lúc này là: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hy sinh bán mình nên phần nào đã đền đầp được công ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng thấy mình là kẻ phụ tình. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắt: Vâng trăng vằng vặc giữa trời Đình ninh hai miệng một lời song song một lòng cùng nhau trăm năm tạc một chữ đồng đến xương, mà nay mối tình duyên đã chia lìa đột ngột như vầng trăng ai xẻ làm đôi. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình “bơ vơ bên trời góc bể”, càng nuối tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy, tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được? Trong nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xa, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một con người. Nếu khi nhớ tới Kim Trọng, Kiều “tưởng” thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều “xót”: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều “tựa cửa” chờ tin đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “quạt nồng, ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “Sân Lai, gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi ngày thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sộc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là “cách mấy nắng mưa”. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tàn phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thông lạ lùng của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người. Sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động của ngoại cảnh lại khiến nàng càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bổn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông thấy là bể lúc chiều hôm: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi buồn. Giữa khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gởi trong lòng người tha hương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa “trôi man mác” trên “ngọn nước mới sa” gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao: Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Cánh hoa trôi đã làm Kiều xót xa cho duyên phận, so kiếp của mình. Sau một cửa biển, một cánh hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ: Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.


Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh, đó là cỏ non xanh tận trân trời, còn cỏ ở đây “rầu rầu”. Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa héo của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câú lục bát cũng là bốn cảnh và cặp câu được liên kết nhờ điệp ngữ “buồn trông”: Buồn trông cửa biển chiều hôm Buồn trông ngọn nước mới sa Buồn trông nội cỏ rầu rầu Buồn trông gió cuốn mặt duềnh. “Buồn trông” là nhìn xa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại nhưng càng trông thì lại càng vô vọng. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời bể dâu. Điệp ngữ kết hợp với hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. “Buồn trông” trở thạnh điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tứ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với hòa tấu phức điệu của sóng biển, “sóng lòng”, “sóng đời” đang vang lên những tiếng gầm gào của hiểm họa như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất để rồi bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Để thể hiện tầm trạng phức tạp mỗi nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc họa nỗi buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của


những người phụ nữ tài săc mà bạc mệnh. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều: Thi hào Nguyễn Du cảm xúc tràn trề Mực và máu trào lên ngọn bút Làm nên tầm cỡ văn chương dân tộc Câu thơ — nước mắt - nhân tình. (Phan Xuân Hạt).

IC IA L

Bài 51: Anh (chị) hãy phân tích tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

BÀI LÀM THAM KHẢO Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ Cụ thương thân nàng Kiều Hỡi lòng tê tái thương yêu Cánh bèo trong đục giữa dòng lênh đênh. (Kính gửi cụ Nguyễn Du-Tố Hữu) Hơn hai thế kỉ qua, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Có lẽ ở nền văn học nào, thời đại văn học nào người ta cũng thấy tồn tại một nền cảm hứng mang đậm tinh thần nhân văn. Bốn câu thơ trên giúp ta hiểu được nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với thi hào Nguyễn Du và nỗi xót thương của ông đối với nàng Kiều - hiện thân của một số phận bị đọa đày dưới thời xã hội phong kiến. Những trang thơ có sức cuốn hút diệu kì, vương vấn mãi tâm hồn ta, mang đến cho ta niềm cảm thương sâu sắc với “tấm gương oan khổ” Thúy Kiều, ta có thể hiểu được phần nào nỗi đau, tâm trạng cùa Kiều qua tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuộn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

D

ẠY

Có thể nói đoạn thơ là một bức tranh tâm tình đầy xúc động và là sự thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật. Những dòng thơ lục bát tinh tế, sắc sảo đã bao năm tháng đi qua vẫn làm say đắm lòng người. Hai tiếng "buồn trông” đuợc lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế cùa Kiều trước lầu Ngưng Bích, vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi "khoá xuân”, Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ diem tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Một mình giữa không gian mênh mông, Kiều thấy bơ vơ quá. Một nỗi nhớ quê hương bỗng trào lên da diết: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai tháp thoáng cánh buồn xa xa? Câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mang, trong ánh nắng chiều đang dần lịm tắt. Cảnh biển


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

bao la một cánh buồm chấp chới gợi nỗi buồn day dứt. Cánh buồm lẻ loi, nhỏ nhoi trong bao la như có như không: “thấp thoáng, xa xa”, những từ ấy không chỉ gợi hình, mà còn gợi tình, gợi cảm. Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian “chiều hôm” - thời khắc gợi nhớ, gợi buồn - khiến như thấm sâu hơn vào tầm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống thế mà khi hướng về phía xa kia thì chỉ là hình ảnh thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? “Thuyền” chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ được diễn tả qua hai từ “thấp thóáng”, “xa xa”. Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Sự lẻ loi đơn chiếc, lênh đênh của cánh buồm hay là thân phận bơ vơ của Kiều nơi “góc bể chân, trời”? Trời nước bao la, còn Kiều ở trong lầu Ngưng Bích - một cánh chim nhỏ nhoi. Câu thơ của Tố Như phảng phất phong cách diễn đạt của ca dao: Chiều chiều ra đứng bờ sông Muốn về quê mẹ mà không có đò Kiều đang đứng trước biển nhìn về phương trời xa đăm đắm khát khao nhưng vô cùng mệt mỏi: “buồn trông”, âm điệu lời thơ buồn và có gì rã rời quá! Nỗi buồn ấy như nhân lên khi Kiều nhìn đóa hoa nổi trôi, bập bềnh vô định: Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Thuyền trôi trong vô định, hoa cũng trôi trong vô định, “biết là về đâu”. Có gì như thân Kiều một mình lạc lõng trong mờ mịt chân mây. Đâu là quê nhà? Chẳng ai là thân nhân. Hình ảnh “hoa trôi man mác” gợi nỗi buồn đau xót. Đau xót cho một đóa hoa lìa cội, Tia cành nổi trôi trên sóng nước dập vùi. Nhìn hoa trôi Kiều liên tưởng đến thân mình, Kiều cũng đang nhắm mắt để mặc dòng đời xô đẩy. Hoa lìa cành, hoa héo hoa tàn, Kiều lìa cửa, lìa nhà, đời Kiều như cánh chim lạc bầy bay trong dông tổ. Hình ảnh “hoa trôi” gợi cảm và dễ làm rung động lòng người, bởi lẽ dân gian thường dùng hình ảnh “bèo dạt mây trôi” để nói về kiếp người trôi nổi, bập bềnh. Hai tiếng “về đâu” cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thể hiện thời của Kiều. Tìm đến với thiên nhiên mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Những câu ca dao ấy đã thấm vào hồn thơ của Nguyễn Du từ khi ông còn trong vòng tay của mẹ. Đọc những câu thơ tiếp, ta càng thấy tâm trạng của Thúy Kiều. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất. Nhưng xung quanh nàng, thiên nhiên cũng nhuốm một màu sắc buồn tẻ, héo tàn: Buồn trông nội cỏ rần rần Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. vẫn âm điệu thơ buồn bởi vần bằng dàn trải, cho ta cảm nhận được cái nhìn mệt mỏi, chán chường của nhân vật trước cảnh vật mênh mông một màu buồn, cỏ mang tâm trạng buồn thương của người: “rầu rầu”. Đâu còn là cỏ non xanh tận chân trời (Cảnh ngày xuân) trong tiết Thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng êm đềm trưởng rủ màn che. Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tậm tư của kiếp người phiêu bạt. Nỗi “rầu rầu” ấy tràn ngập, lan tỏa khắp không gian: Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Cái nhìn bao quát từ “chân mây” xa xăm đến “mặt đất” gần gũi, tất cả đều “một màu xanh xanh”. Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập nhựa sống của tiết trời mùa xuân: Tuyết in sắt ngựa câu giòn Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn của người phả vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên rợn ngợp, cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Màu “xanh xanh” ở đây gợi sự liên tưởng cỏ cây không còn nét tươi sáng mà mang vẻ “rầu rầu”, làm cho sự sống càng thêm cạn kiệt, làm cho bức tranh phong cảnh héo tàn thêm. Giữa bốn bề phong cảnh tẻ buồn ấy Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hãi hùng của thiên nhiên: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kên quanh ghế ngồi. Gió thổi, nước trôi... tất cả đều gợi sự chảy trôi, như thân phận bên trời góc bể bơ vơ của nàng Kiều. Âm điệu lời thơ trở nên dữ dội với nhũng từ tượng thanh: “ầm ầm, kêu”. Hình ảnh những đợt sóng cuộn lên, trào tới, xô đẩy, cùng với tiếng rít gào của gió vang lên đe dọa đến hãi hùng. Kiều thấy “gió cuốn”, nghe “sóng kêu” bỗng thấy kinh hoàng, hốt hoảng. Nỗi buồn, sự sợ hãi đã đưa Kiều vào tâm trạng não nề, hoảng hốt như người bị bao vây, bị nhấn chìm, hoàn toàn bất lực. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng. Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng “ầm ầm” “kêu quanh ghế ngồi”. Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Kiều chới với như rơi vào vực thẳm. Những âm thanh đầy dự báo đã mách bảo với ta chặng đường đầy chông gai của Kiều ở phía trước. Cả tám câu thơ đều “xoay tròn” trong nỗi buồn sợ của Kiều. Với phép điệp ngữ liên hoàn “buồn trông”, các câu thơ không chỉ có âm điệu buồn mà còn làm ta “chóng mặt” trước diễn biến tâm trạng của một con người bất hạnh - Kiều. Chọn được âm điệu thơ, lựa được từ ngữ và hình ảnh phù hợp với tâm trạng nhân vật, nhà thơ đã chứng tỏ sự cảm thông sâu sắc, yêu thương Thúy Kiều biết bao! Đoạn thơ với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế và hài hòa thi sĩ Nguyễn Du đã để lại cho người đời một bức tranh tâm lí tình cảm đầy xúc động, mãi mãi làm say lòng người. Rõ ràng, đoạn thơ là tuyệt bút của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, là bức tranh tâm tình đầy xúc động. Điệp ngữ “buồn trông" được lặp đi lặp lại nhiều lần diễn tà nỗi buồn kéo dài trong lòng Kiều. Bên cạnh đó nhà thơ còn sử dụng hệ thống từ láy: "thấp thoáng, xa xa, man mác, ầm ầm, xanh xanh", kết hợp với hình ảnh ẩn dụ tạo nên những âm điệu hiu hắt trầm buồn ghê sợ. Tất cả như cất lên tiếng ai oán não nùng khắc sâu thân phận con người: lẻ loi, cô độc, trôi nổi, dập vùi, héo tàn và kinh hoàng, khiếp hãi trước một tương lai đầy bão tố. Ngôn ngữ thơ được gọt giũa tới mức tinh xảo, hệ thống từ ngữ được chọn lọc một cách kĩ càng để làm nổi bật số phận đen tối, tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều trong bể trầm luân. Tám câu cuối trong đoạn trích Kiền ở lầu Ngưng Bích đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc động Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vô cùng tinh luyện. Trong cảnh có tình, trong tình có cảnh: cảnh và tình hòa hợp sống động, hình tượng biểu cảm. Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết, được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đọc đoạn trích, ta cảm thấy xót thương cho số phận Thúy Kiều. Chính vì vậy, đoạn thơ có giá trị nhân văn sâu sắc. Nó dấy lên trong lòng mỗi chúng ta niềm cảm thương cho ngươi con gái tài hoa bạc mệnh, từ đó thấy được số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.

Bài 52: Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO Đại thi hào Nguyễn Du có con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

(Mộng Liên Đường chủ nhân). Và với con mắt tinh tế, nhạy cảm, Nguyễn Du đã nhìn thấu tâm hồn Thúy Kiều để rồi thấu hiểu mọi tâm tư, nỗi lòng của nàng bằng trái tim yêu thương và trân trọng. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã rất thành công trong việc miêu tả tâm trạng nàng Kiều với những diễn biển tâm lí đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mãnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh Kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng nước mắt. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đẵng nhớ thương và nựớc mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ buôn thịt bán người đã không từ thủ đoạn nào để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thủy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đưa Kiều đến lầu Ngưng Bích - một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giạm lỏng Kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách. Nguyễn Dụ đã thả trôi ngọn bút của ông để diễn tả hình ảnh Kiều ở ngay những câu thơ đầu của đoạn trích: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Câu thơ lục ngôn xuất hiện hai từ khóa xuân làm chúng ta hiểu ra dụng ý của Nguyễn Du nghĩa là khóa kín tuổi xuân, chôn vùi tuổi thanh xuân tươi đẹp ở nơi đây. Ở lầu Ngưng Bích lúc này Kiều chỉ có một mình, quạnh hiu và trơ trọi, chỉ biết làm bạn với ánh “trăng gần” và thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích mà thôi. Nhìn ra xung quanh là cả một không gian bao la xa vời. Bốn bề là “cát vàng”, là “bụi hồng”, không một nếp nhà, không một bóng người. Dường như cảnh vật bị bao trùm bởi một nỗi buồn nặng trĩu, u uất. Nỗi buồn đau trong Kiều đang thấm vào cảnh vật, hòa vào cảnh sắc thiên nhiên. Cuộc sống của Kiều như bị tách khỏi thế giới bên ngoài, không một chỗ đứng, chơ vơ, lơ lửng trên một tòa lầu cao ngất. Kiều cố đưa ánh mắt nhìn ra xung quanh, mong ngóng tìm thấy bóng dáng của con người nhưng vô vọng. Trước mắt nàng chỉ là cồn cát hoang vu, bụi đường gió cuốn mịt mùng. Không gian dường như trải dài vô tận, rất hoang vắng, quạnh hiu, buồn thương như chính tâm trạng của Kiều vậy! Tháng ngày đằng đẵng trôi qua, trang trải với dòng thời gian tuần hoàn khép kín: Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Cụm từ “bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân? Hình như là không có? Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyễn Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. Sớm làm bạn với mây trời, đêm đến làm bạn với ánh đèn khuya leo lét... cuộc sống cô độc, mòn mỏi, không sức sống, không một niềm tin hi vọng. Không một ai hiểu được tâm trạng của nàng, chia sẻ với nỗi buồn đau trong lòng nàng, chỉ có một mình nàng đối diện với chính bản thân mình. Nỗi buồn vì thế mà ngày càng giằng xé, không khi nào cạn vơi và dựờng như mở ra vô cùng với không gian, cảnh vật. Thúy Kiều bỗng thấy mình thật nhỏ bé, đáng thương, khác gì hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi ngoài kia? Khung cành nhuốm màu tâm


trạng càng khắc sâu nỗi cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều. Bốn chữ “như chia tấm lòng” đặc tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau đớn. Ta như đồng cảm với Thúy Kiều, buồn chung nỗi buồn trong lòng nàng. Một đời tài sắc, hiếu nghĩà, thủy chung nay lại bị giam hãm, còn gì đáng thương, đáng tiếc hơn thế?.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy cứ da diết và day dứt: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Những lời thề nguyền đâu còn nữa, cái “cây cầu trần thế” mà Kiều và Kim Trọng phải bước qua thật là éo le. Nàng tưởng tượng cái cảnh Kim Trọng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích - tin sương luống những rày trông mai chờ. Trong nỗi nhớ ấy, người đọc nhận ra một tâm trạng xót xa đau đớn. Nàng tự nói với chính mình tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Đó là tấm lòng thủy chung, son sắt của kẻ chung tình. Dù trong hoàn cảnh éo le nhưng tấm long son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa khi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng rằng tấm son gột rửa bao giờ cho phai, những gì nàng chịu đựng, những gì kẻ xấu gây ra cho nàng biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương. Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Nàng nghĩ tới cảnh cha mẹ ngồi “tựa cửa”- ngóng con lúc sáng sớm hay buổi chiều tà. Vậy mà vẫn bặt vô âm tín. Nàng xót xa lúc cha mẹ già yếu không có ai chăm sóc phụng dưỡng chăm nom. Tâm trạng nhớ thương vời vợi cùng với nỗi xót xa thể hiện sâu sắc tấm lòng hiếu thảo của nàng. Rất nhiều từ ngữ lấy từ điển cố cùng với từ ngữ dân gian vừa nói được thời gian xa cách, vừa nói đến sự tàn phai khốc liệt của thiên nhiên đối với con người. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm, phong cách cổ điển hài hòa với phong cách dân tộc tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy xót thương của Kiều. Trong cảnh “bình rơi trâm gãy” Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng không nghĩ đến mình mà vẫn nhớ thương cha mẹ và người thân. Kiều thực sự là người tình thủy chung, một người con hiếu thảo có tấm lòng vị tha đáng trân trọng. Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng cha mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ. Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh vật dường như càng thê lương hơn: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cành buồn xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Những câu thơ chua xót, cứa vào lồng người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. Chiều hôm là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành


câm lặng. Điệp từ “buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu. Nhìn “nội cỏ rầu rầu” trong không gian bao la, cậi màu sắc ảm đạm thê lương ấy phản chiếu một nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc. Cuộc sống như mất hết ý nghĩa như cái sắc cỏ úa tàn kia mất dần sự sống. Nhìn những cánh hoa trôi nàng tự hỏi nó sẽ trôi về đâu về phương trời nào. Cánh hoa hay chính là số phận chìm nổi không có nơi neo đậu của số phận nàng Kiều.

IC IA L

Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tại tệ hơn:

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Mỗi biểu hiện của cảnh vật bên bờ biển lúc này đều thể hiện một tâm trạng và một cảnh ngộ đáng thương. Nhìn cánh buồm “thấp thoáng” giữa biển khơi rồi dần dần khuất bóng “càng trông” lại càng thấy buồn, nàng liên tưởng tới cuộc đời nho nhỏ, bơ vơ, trơ trọi, trên đất khách. Ấm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi, trận cuồng phong của biển cả bắt đầu nổi lên, gió to sóng lớn hay chính lòng đố kị ghen ghét của thiên nhiên đang bủa vây lấy nàng. Phải chăng đây là điều mà Nguyễn Du dự báo về những tai họa khủng khiếp giáng xuống đầu Kiều. Càng lo âu Kiều càng hãi hùng và ghê sợ. Cứ thế, từ nhìn đến nghe, “buồn trông” đến bốn lần trong một điệp ngữ. Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh xuất hiện đều khắc họa tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xức. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương về cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích. Tám câu thơ là một điệp khúc buồn được lặp lại qua sự thay đổi của từng cảnh vật. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, từ màu nhạt đến màu đậm, âm thanh từ tĩnh đến động nỗi buồn cũng từ “man mác” đến lo sợ hãi hùng. Nguyễn Du đã từng kết luận: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Đoạn thơ sử dụng rất nhiều câu hỏi tu từ, các từ láy các thành ngữ, ngôn ngữ độc thoại nội tâm, âm hưởng trầm buồn tạo nên một không gian nghệ thuật và cảm xúc nghệ thuật. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, lấy cảnh vật làm nền cho con nguời, Nguyễn Du mở đầu đoạn trích bằng không gian rộng lớn nhưng cô đơn. Kết thúc bằng nỗi cô đơn vô vọng đã đẩy lên cao độ trong không gian của sự vắng lặng không một bóng người. Tất cả đẩy Kiều đến những lối rẽ không rõ ràng của vận mệnh. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều. Ngòi bút của Tố Như đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều khiến người đọc thực sự rung động xót xa. Cảnh trong tình, tình trong cảnh cứ hòa quyện đan xen làm nổi bật chủ đề đoạn thơ. Bức tranh tâm trạng của người con gái họ Vương vì thế neo đậu mãi trong lòng người đọc. Chính hồn thơ ấy, trái tim ấy đã đi vào tâm tưởng bao thế hệ, đưa chúng ta đến bao cảm xúc khác nhau, khiến ta chẳng thể nào quên như nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với đại thi hào Nguyễn Du: Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều. Bài 53: Hãy bình giăng tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:


Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

IC IA L

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

BÀI LÀM THAM KHẢO Mỗi trang Kiều rung một bóng trăng thanh Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên. (Đọc Kiều - Chế Lan Viên) Mỗi lần khi lật những trang Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, cõi lòng ta như thấm đầy lệ làm vương vấn hồn ta về cuộc đời và số phận của một trang tuyệt sắc giai nhân. Hơn hai thế kì qua, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Những trang thơ có sức cuốn hút diệu kì, mang đến cho ta niềm cảm thương sâu sắc với “tấm gương oan khổ” Thúy Kiều, đem lại cho ta những rung động thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm. Sau khi trải qua liên tiếp nhiều tai biến của gia đình và bản thân, Kiều đã dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp phải chịu. Những ngày nàng ở lầu Ngưng Bích là một khoảnh khắc yên thân tạm thời vì được Tú Bà hứa đợi nàng bình phục sẽ gả chồng cho nàng và ở một nơi biệt lập. Nhưng tâm trạng của nàng trong những ngày ở đây là một bi kịch nội tâm đã được Nguyễn Du miêu tả tài tình, trở nên bất tử của loại thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Thúy Kiều một mình đối diện với cảnh vật thiên nhiên và đối diện với lòng mình trong hoàn cảnh đất khách quê người. Cả đoạn thơ là nỗi buồn, một nỗi buồn mênh mang vô tận, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, nỗi buồn không thể gì làm vơi bớt, không có ai để chia sẻ. Ta hãy hình dung lúc này Kiều đang ngồi trên lầu Ngưng Bích trước một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng không một bóng người thân thuộc, không bầu bạn. Tâm trạng Kiều lại vừa trải qua những đau khổ tủi nhục mà dư vị vẫn còn da diết. Bi kịch nội tâm của Thúy Kiều trong những ngày đầu trên con đường lưu lạc đã được ngòi bút thiên tài của nhà thơ miêu tả qua hình thái ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Những vần thơ buồn thương mênh mang đã gieo vào lòng người đọc nỗi xót xa khôn nguôi về con người tài sắc bạc mệnh - Thúy Kiều. Sau khi bị lừa, bị “thất thân” với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều dùng dao tự vẫn. Nghiệp chướng còn dài, nợ đời còn nặng - nàng đã được cứu sống. Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thân gái nơi đất khách quê người, bơ vơ, lo sợ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Thúy Kiều vô cùng cay đắng và đau khổ. Giờ đây, hàng Sống một mình trong lầu Ngưng Bích với bao tâm trạng “bẽ bàng, chán ngán”. Biết lấy ai, cùng ai tâm sự? Nỗi nhớ thương như lớp lớp sóng dâng lên trong lòng. Nàng nhớ chàng Kim: Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai? Kiều nhớ thương cha mẹ già yếu, khống ai đỡ đần nương tựa - quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang yà lo sợ triền miên. Nỗi đau buồn như


IC IA L

vò xé tâm can nàng. Đoạn thơ tám câu đầy ắp tâm trạng. Nguyễn Du đã lấy khung cảnh thiên nhiêọ làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Còn đâu nữa cảnh vật thân quen ở vườn Thúy? Tất cả đều nhuốm màu bi thương: “hoa trôi man mác”, “nội cỏ rầu rầu”, màu xanh xanh của mặt đất, chân mây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm. Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều, một bi kịch đang giày vò tan nát lòng nàng suốt đếm ngày. Người buồn thì cảnh cũng buồn, vẫn là cảnh đó, không gian đó nhưng đâu đâu giờ cũng nhuốm màu tâm trạng đớn đau của Kiều. Mỗi một hình ảnh, một ngôn từ xuất hiện lại gợi ra trong tâm hồn người đọc một trường liên tưởng chua xót về nỗi đau và số kiếp “bạc mệnh” của người con gái đầu lòng nhà họ Vương. Mỗi một hình ảnh ẩn dụ mang một ý nghĩa tượng trưng cho nỗi lo âu và sợ hãi của Kiều. Bức tranh tả cảnh thứ nhất mở ra ngay thời điểm chiều hôm, thời điểm quen thuộc của nghệ thuật, của nỗi luyến nhớ sự sum họp vui vầy của mỗi gia đình:

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Cảnh chiều tà luôn gợi cảm giác cô liêu, buồn lặng. Không gian nơi lầu Ngưng Bích như càng thu hẹp lại, một cánh buồm thấp thoáng càng khơi gợi thêm ý nghĩ chán ngán về một tương lai mờ mịt. “Cánh buồm xa xa” thấp thoáng trên “cửa bể chiều hôm” như gợi ra một hành trình lưu lạc, đầy những sầu đau, đơn chiếc. Phải chăng số phận của nàng như “cánh hoa giữa dòng”, là con thuyền không lái lênh đênh trên mặt nước sóng vỗ không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu? Cửa biển trong ánh chiều tà yếu ớt bao trùm luôn cả những con thuyền căng buồm lộng gió ngoài xa những con thuyền chở hi vọng của nàng Kiều để vượt khỏi cái tù túng tẻ nhạt nơi lầu son gác tía. Nhưng cánh buồm ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hoàng hôn trĩu buồn, như niềm hi vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa mịt mờ. Những từ “thấp thoáng, xa xa” càng khiến cho hi vọng nhạt nhòa. Không dừng lại ở đó, tâm trạng của nàng Kiều càng được tô đậm quyện hòa theo cảnh: Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Bức tranh tâm cảnh thứ hai, vẫn ánh mắt xa xăm, Kiều nhìn đến những “ngọn nước”, đến những “cánh hoa trôi”. Giữa cái cảnh “ngọn nước mới sa” gầm gừ như con thú dữ trong cơn tức giận muốn cuốn phăng đi tất cả những gì trước mặt thì liệu cánh “hoa trôi man mác” kia có còn nguyên vẹn? Cánh “hoa trôi man mác” trôi lên dồi xuống giữa “ngọn nước mới sa” bao la, cũng lả tâm trạng lo âu cho thân phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời vô định của Kiều bấy giờ. Càng nghĩ về thân phận của mình, Thúy Kiều càng xót xa, đau đớn: Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mấy mặt đất một màu xanh xanh. Rồi đôi mắt Kiều chọt nhận ra cái sắc xanh ảm đạm nối tiếp của trời và đất. Tuy nhiên, bãi cỏ không mang màu xanh tươi như tiết Thanh minh trong tháng ba, từ láy “rầu rầu” gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn úa, héo hắt. Đất trời đã mờ héo hon, ảm đạm, tất cả lẫn vào nhau không nhìn thấy đâu là bến bờ, không nhìn thấy chút ánh sáng nào khác như cuộc đời ảm đạm, không lối thoát của Kiều. Gần hơn nữa, ngay dưới chân Kiều lúc này đây là biển trời dữ dội “ầm ầm tiếng sóng” đang vỗ, đang “kêu”, đang bủa vây lấy nàng: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ấm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Trong lúc tuyệt vọng nhất, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Từng ngọn gió mạnh thổi


N

O

FF

IC IA L

sóng vỗ ầm ầm. Quang cảnh đã thôi yên lặng, mặt biển dậy sóng như muốn nuốt chửng lấy Kiều, lòng Kiều cũng dậy sóng đầy lo âu và hãi hùng. Nhĩrng đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, báo một tương lai bão táp đang chờ Kiều trước mắt. Mỗi câu thơ mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trậng đau khổ và số phận đen tối của một kiếp người trong bể trầm luân. Một hệ thống từ láy: “thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm” – tạo nên âm điệu hiu hắt, trầm buồn, ghê sợ. Ở vị trí đầu dòng thơ, điệp ngữ “buồn trông” bốn lần cất lên như một tiếng ai oán, não nùng kêu thương, diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thúy Kiều làm cho người đọc vô cùng xúc động: Buồn trông cửa bể chiều hôm Buồn trông ngọn nước mới sa Buồn trông nội cỏ rầu rầu Buồn trông gió cuốn mặt duềnh. Với điệp ngữ « buồn trông”, nỗi buồn của Kiều như tầng tầng lớp lớp, không bao giờ dứt, càng ngày càng xoáy sâu thêm. Tám câu thơ, câu nào cũng vừa thực vừa hư, vừa là thực cảnh, vừa là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh về sự vô vọng, sự dạt trôi, sự bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ. Đây chính là lúc tình cảm Kiều trở nên mong manh và yếu đuối nhất, là lúc mà nàng rất dễ rơi vào cạm bẫy, như nàng sẽ rơi vào tay Sờ Khanh sau đó.

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích như một bức tranh lớn mà trong đó chứa đựng bốn bức tranh nhỏ liên hoàn nhau với điểm nhìn từ xa đến gần của nàng Kiều. Mỗi bức tranh lại khắc họa một khung cảnh và một cung bậc tâm trạng khác nhau của Kiều. Nhưng tất cả đều hướng đến nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong những năm trời lưu lạc thanh lâu hai lượt thanh y hai lần, có lửa nồng, có dấm thanh, cười ra tiếng khóc, khóc nên trận cười... Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Dụ vô cùng điêu luyện. Cảnh mang tâm trạng hòa vận vào người. Cảnh và tình hòa hợp, sống động, hình tượng, biểu cảm. Tả cảnh để tả tình, trong cảnh có tình, lấy cảnh để phô diễn tâm trạng, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ mượn cảnh để nói hộ tâm sự của nàng Kiều, đã tả tình bằng cách tả cảnh, đã thông qua bức tranh thiên nhiên để thể hiện tâm trạng. Đó là bút pháp tài tình của Nguyễn Du, và đạt đến đỉnh cao như vậy vì trước hết nhà thơ đã có cái tình lớn, nỗi niềm xúc động đối với nhân vật, đối với cuộc đời của những con người có tài hoa mà bất hạnh trong xã hội phong kiến. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta nỗi xót thương về con người tài sắc bạc mệnh. Một trái tim yêu thương, một tấm lòng nhân hậu, cầm thông, chia sẻ của nhà thơ đối với nỗi đau củá Thúy Kiều đã để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc qua hàng thế kỉ, đúng như Tố Hữu đã viết: Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều.

D

Bài 54: Phân tích bốn bức tranh có điệp từ “buồn trông” nói về tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO Thời gian trôi qua không bao giờ trở lại như mũi tên đã bắn không thu lại về tay, nhưng trang thơ về lẽ nhân sinh của cuộc đời thì lại lưu khắc trong dòng lưu viễn - nó làm rung động tâm hồn ta khi nhắc đến tác giả Truyện Kiều - Nguyễn Du. Với con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời. Nguyễn Du nổi tiếng trước hết ở cái tâm của một con người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho những cuộc đời, những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là


M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

những người phụ nữ trong xã hội cũ. Những câu thơ của Nguyễn Du sở dĩ có thể khắc sâu trong lòng người đọc như vậy còn bởi trong Truyện Kiều ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong việc miêu tả nhân vật. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nói về tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng lại trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tám câu thơ trên là cảnh nhưng thực sự là tình, Nguyễn Du tả cảnh nhưng thực sự là tả tình, thế mới biết nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du sâu sắc như thế nào? Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy, vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lí, thật đúng với tâm trạng Thúy Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của Kiều là nỗi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quả thật, trong suốt phần đầu của Truyện Kiều, chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bời chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kĩ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con, một người chị, phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú Bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh, Kiều đã hoảng hốt vì quang cảnh nhà mụ, Kiều đã gặp ngay một trận “tam bành” của mụ buôn thịt bán người ác độc ấy. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn.

D

ẠY

Bây giờ mới thực sự buồn. Ta hình dung Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích (thực chất là lầu rước khách của mụ Tú), bốn bề là mênh mông vắng lặng. Cảnh ấy dội vào lòng Kiều, xui khiến nàng nghĩ về thân phận của mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía. Nàng buồn vì nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề nguyền hôm nào trăm năm tạc một chữ đồng đến xương mà nay thì vĩnh viễn cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ nay mỗi ngày mẹ cha một già yếu mà không có nàng để hôm sớm đỡ đần chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi mênh mông, giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều. Nếu ban đầu nỗi buồn còn từ cảnh dội vào lòng thì lúc này nỗi buồn lại chính từ lòng buồn. Với hai tiếng “buồn trông” Nguyễn Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc quá vậy Nguyễn Du ơi! Nàng Kiều ơi! Nàng đang trông gì vậy? Buổi chiều tà buông xuống rồi ư? Càng buông thì lòng người càng trĩu nặng biết bao: Buồn trông cửa bể chiều hôm


Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Trông về “cửa bể” mà lại là “cửa bể chiều hôm”. Lúc ấy mặt trời sắp tắt, chỉ còn để lại những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn về cửa bể tức là còn nhìn thấy cả một dải bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy không có gì cả ngoài một trống vắng mênh mông, một bầu trời đang dần tối. Thế mà trên cái nền trống vắng lại nổi lên hình ảnh “thuyền ai”. “Thuyền ai” tức là chỉ có một chiếc thuyền, chứ không phải cảnh đoàn thuyền đông đúc tấp nập từ biển trở về để gợi íên một điều vui vẻ. Con thuyền gần như mất hút cuối chân trời, vì Kiều chỉ nhìn thấy cánh buồm của nó, mà cánh buồm thì lại cũng chỉ “thấp thoáng”. “Thấp thoáng”, hai âm “th” gợi một cảm giác lặp lại, với hai vần “ấp” và “oáng” một âm tắc, một âm vang - diễn tả hình ảnh cánh buồm mờ mờ tỏ tỏ, chợt hiện rồi chợt ẩn, nhấp nhô trên sóng biển, như mơ hồ, như ảo ảnh ở cuối biển xa xa. “Thuyền ai” - thuyền ai đó, thuyền ai thế nhỉ? Thuyền đang đi về nơi quê nhà thân yêu của ta chăng? Hay thuyền đang đi về nơi vô định, cũng cô đơn, cũng lưu lạc giang hồ như chính ta? Tâm sự này đã buồn, trông vào cảnh ấy, sao có thể không thấm thía nỗi buồn hơn. Như để tìm một chút lãng quên, Kiều ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Thì đây: Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Trước mắt Kiều là một ngọn nước từ trên thác cao đang đổ xuống. Mói từ lòng suối chảy trôi khỏi đầu ngọn thác, ôi thôi, thế là tan tác đòi trong trèo với êm đềm của nước. Bây giờ là lúc bắt đầu của dập vùi, cuộn xoáy, sôi trào, xô đập, ngầu đục cát bùn. Kinh hãi thay cái phút từ trên mỏm đá cao sa xuống thác! Cảnh ngọn nước đã buồn, mà nhìn đến chân ngọn nước thì: “hoa trôi man mác”... Nếu nhà thơ viết “tan tác” thì đành đi một nhẽ, cho nó tan vỡ đi, chìm lấp đi, những cánh họa mỏng manh kia! Nhưng không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa qua đẩy lại, rồi lại trôi đi, lặng lẽ, buồn bã, để đến một nơi nào không làm sao có thể biết được. Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy, có khác gì cuộc đời Kiều! Chính Kiều cũng là một ngọn nước vừa mới đi qua lỏng suối êm đềm và vừa mới sa xuống giữa ngọn xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đoá hoa đang man mác trôi đi, đơn độc và mỏng manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe dọa chưa thể nào hình dung ra hết. Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Thôi, hãy đưa mắt trông đi nơi khác: Buồn trông nội cỏ rầu rầu

D

ẠY

M

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm nhìn, không một bóng cây, không một dòng sông, không một gò núi, không một mái nhà để phá vỡ bớt cái đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ có cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì cũng có tươi tốt gì đâu! Từ “rầu rầu” không chỉ gợi lên ý “rầu rầu” buồn bã, mà còn cho ta hình dung thấy những ngọn cỏ lưa thưa ủ ê như đang dần héo hắt đi, đang mất dần sức sống. Đây không phải là đồng cỏ xuân đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi dự hội Thanh minh: cỏ non xanh tận chân trời. Đây là đồng cỏ cuối mùa, cũng đang buồn bã như chính lòng người ngắm cảnh. Thế mà cái đồng cỏ ấy, cái màu cỏ ủ ê ấy lại kéo dài ra vô tận, tiếp cả với nền trời, thành một màu duy nhất: “xanh xanh”. Nếu Nguyễn Du viết: Chân mây mặt đất một màu xanh tươi thì hẳn nàng Kiều đã tìm được ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng “xanh xanh” thì chưa hẳn là xanh, chỉ có vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, làm gợi lên một niềm ngao ngán. Và có lẽ cái màu “xanh xanh” ấy là cái màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau. Thế là Thúy Kiều đã ngoảnh nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hưởng cuối cùng. May ra có chút đổi thay chăng? Buồn trồng gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.


IC IA L

Hóa ra cái buồn của ba cảnh trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cảnh trên buồn đến thế còn là nhẹ quá. Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chỉ là những bước chuẩn bị cho cảnh buồn cuối cùng này. Một vùng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn. Gió biển hun hút chạy vào duềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xoá một màu. Sóng vỗ “ầm ầm” chứ không phải “ầm” như những ngày ít gió; sóng gào thét cuồng nộ, đập vào bờ, xô đập nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm trên biển mà vang đi rất xa, vang khắp bốn bể. Kiều tưởng như mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đâu chính giữa duềnh biển mênh mông ấy, bốn bên nắng là sóng vỗ. Mấy từ “ầm ầm tiếng sóng” nghe như dữ dội bên tai nàng, dâng lên gào thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.

Ơ

N

O

FF

Nếu trong ba bức tranh trên, giữa người và ngoại cảnh còn là hai đối tượng phân biệt, đâu là chủ, đâu là khách, thì đến bức tranh này, con người đã nhập vào ngoại cảnh; ngoại cảnh trùm phủ lấy con người, nỗi buồn thực đã đi đến mức cùng tột của cao trào. Lúc này, con người sẵn sàng tan đi cùng với ngoại cảnh, sẵn sàng làm bất cứ việc liều lĩnh nào để hoặc thoát khỏi nỗi buồn ghê gớm ấy, hoặc có thể chết đi cũng không cần. Chính tâm trạng này đã dọn đường cho việc Kiều gặp Sở Khanh, liều lĩnh theo y rồi bị lừa gạt. Bốn bức tranh của Nguyễn Du thật ra thì không lạ lùng. Nhưng thật là lạ lùng qua cách Nguyễn Du diễn tả những bức tranh ấy trong sự hòa hợp với hoàn cảnh và tâm trạng của Thuý Kiều. Bởi Nguyễn Du rất tinh tế khi nhìn cảnh, rất sâu sắc về tình người, và còn bởi điều này nữa: Nguyễn Du rất tài tình trong ngôn ngữ.

N

H

Bài 55: Có ý kiến cho rằng đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trích trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là bức tranh tâm tình đầy xúc động. Ý kiến của anh (chị) như thế nào? Hãy phân tích đoạn thơ để làm sáng tỏ ý kiến trên.

Y

GỢI Ý LÀM BÀI

D

ẠY

M

Q

U

1. Mở bài - Dẫn ra vấn đề nghị luận + Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác thơ Nôm lớn nhất của nền văn học trung đại. + Xét về mặt nghệ thuật, Truyện Kiều thành công trên nhiều phương diện. - Đưa ra vấn đề bàn luận + Nếu như ở đoạn trích Thúy Kiều báo ân, báo oán qua việc miêu tả ngôn ngữ đối thoại nhà thơ đã làm nổi bật tính cách nhân vật thì ở đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nhà thơ lại rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng nhân vật. + Bởi thế, khi đọc đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du có ý kiến cho rằng đoạn trích này là bức tranh tâm tình đầy xúc động. 2. Thân bài 1. Bày tỏ ý kiến của mình về nội dung, ý nghĩa lời nhận định Như vậy, theo lời nhận xét và đánh giá trên ta có thể khẳng định ý kiến trên là hoàn toàn đúng. Người viết đã nhận xét được những điểm thành công về nội dung cũng như nghệ thuật của đoạn thơ. Bởi lẽ nói tới tâm tình là nói tới tâm tư, tình cảm, tâm trạng. Còn nói tới bức tranh là nói tới những hình ảnh chân thực cụ thể. Bởi vậy, ta hiểu ý nghĩa khái quát của lời nhận định là đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích đã diễn tả hoàn chỉnh, chân thực cụ thể diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi nàng sống ở lầu Ngưng Bích. Đó là tâm trạng buồn lo, sợ hãi. Bởi vì, Mã Giám Sinh không phải mua nàng về làm thê thiếp mà làm gái lầu xanh cho thanh lâu cùa Tú Bà. Vốn là con gái của một gia đình lương thiện, Thúy Kiều đã phản ứng một cách quyết liệt bằng cách dùng


IC IA L

dao tự vẫn nhưng không thành. Sợ vốn liếng của mình không còn, Tú Bà đã chăm sóc thuốc thang, dỗ dành nàng sau này bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích đợi thực hiện âm mưu mới. Bởi thế đây chỉ là những giờ phút, những khoảnh khắc yên thân tạm thời của Thúy Kiều. Trong hoàn cảnh một mình một bóng ấy, tâm trạng của Thúy Kiều ngổn ngang trăm mối tơ vò. Nhà thơ Nguyễn Du đã theo sát nhân vật thân yêu của mình để thấu hiểu và miêu tả những diễn biến phức tạp trong tâm trạng của nàng Kiều. 2. Phân tích đoạn thơ để làm rõ diễn biến tâm trạng của Kiều Đọc đoạn thơ trước hết ta thấy tâm trạng của nàng Kiều là nồi cô đơn, buồn tủi khi nàng sống ỏ' lầu Ngưng Bích: Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Từ “khóa xuân” trong câu thơ gợi cho người đọc thấy được hoàn cảnh cùa Thuý Kiều lúc này. Nàng bị Tú Bà giam ở lầu Ngưng Bích cách biệt hẳn với cuộc sổng bên ngoài. Người đọc chỉ thấy cảnh thiên nhiên trước mặt nàng, phía xa xa kia là núi, trên đầu nàng là tấm trăng lạnh lẽo. Xung quánh nàng là bốn bề bát ngát. Từ láy “bát ngát” gợi cho người đọc hình dung thấy, không gian nơi lâu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn, phăng lặng không một bóng người. Phải chăng những cảnh vật tĩnh lặng này càng làm nổi bật nỗi cô đơn của Kiều? Không những vậy, ta còn thấy cảnh vật ở đây rất ngổn ngang với cát vàng, cồn nọ, với những bụi hồng nổi lên mù mịt. Phải chăng sự ngổn ngang của cảnh vật cũng chính là sự ngổn ngang của lòng nàng Kiều? Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã thể hiện rất thành công trong việc diễn tả tâm trạng của Kiều. Nhà thơ miêu tả khung cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích để thể hiện tâm trạng cô đơn của nàng Kiều. Đọc tiếp đoạn thơ, ta thấy nhà thơ Nguyễn Du lúc này đã diễn tả tâm trạng của nàng Kiều: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Nhà thơ đã dùng từ “bẽ bàng” để diễn tả nỗi xấu hổ, tủi thẹn của Thúy Kiều. Chắc chắn trong tâm trí nàng lúc này đang nhớ lại những sự việc mới xảy ra: bị Mã Giám Sinh làm nhục rồi lại bị Tú Bà ép làm gái lầu xanh, đến bây giờ lại bị giam lỏng ở nơi đây, chỉ thấy có mây sớm đèn khuya. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” mà Nguyễn Du sử dụng trong câu thơ cho ta hiểu rằng thời gian tâm hồn khép lại hết sớm rồi lại khuya, khuya rồi lại sớm, đêm rồi lại ngày, hết ngày lại đêm. Thúy Kiều chỉ thui thủi một mình, một bóng ở nơi đây. Như vậy, không gian thì mênh mông vắng lặng, thời gian thì tuần hoàn khép kín vây hãm Thúy Kiều ở nơi đây. Cảnh ngộ trớ trêu, tình cảm thì đau đớn tủi hổ. Nỗi niềm đó như cắn rút tâm trạng của nàng nên nàng lại càng đau đớn xót xa. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả nỗi nhớ thương của nàng Kiều dành cho chàng Kim: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ. Để diễn tả niềm thương, nỗi nhớ người yêu của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng động từ “tưởng” đứng ở vị trí đầu câu thơ. Chữ “tưởng” ở đây được hiểu là hồi tưởng, là nhớ lại những điều tốt đẹp. Đó là những kỉ niệm đẹp của mối tinh đầu trong sáng giữa nàng với Kim Trọng, cụ thể là lời hẹn ước và chén rượu thề dưới đêm trăng sáng vằng vặc: Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song. Nàng còn hình dung thấy ở nơi Lưu Dương cách trở, chàng Kim Trọng cũng đang hướng về nàng, ngày đêm đau đáu ngóng chờ tin nàng - tin sương luống nhũng rày trông mai chờ. Đây chính là tiếng nói từ trong sâu thẳm trái tim của nàng. Nhà thơ đã sử dụng thành công ngôn ngữ


độc thoại nội tâm, bởi thế, lời thơ ít mà ý thơ nhiều. Trong lời thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang nhỏ máu. Càng nhớ về kỉ niệm, nàng lại càng đau đớn, xót xa. Chén rượu thề còn đó mà nay mỗi người một ngả khiến nàng lại càng thấm thìa nỗi cô đơn của mình: Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Nàng như biết được lòng mình không bao giờ quên được hình bóng chàng Kim nên càng đau đớn, xót xa vì tấm lòng son của nàng đã bị chà đạp. Hế nhớ người yêu, Thúy Kiều lại nhớ đến cha mẹ. Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Tâm trạng Kiều xót xa, đau đớn khổ tâm khi nghĩ về cha mẹ. Nàng đã hình dung thấy hình bóng cha mẹ già cứ tựa cửa ngóng tin nàng. Kiều rất kính trọng tấm lòng cao cả ấy của cha mẹ dành cho mình, bởi thế nàng lại càng day dứt, trăn trở, ân hận, tự trách minh không chăm lo, phụng dưỡng cha mẹ già: Xót người tựa của hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ Sân Lai cách mấy nắng mua Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Nhà thơ đã dùng các điển cố của văn học Trung Quốc: “Sân Lai, gốc tử” để thể hiện tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo lớn lao cùa Kiều. Nàng đã tưởng tượng quê nhà giờ đã đổi thay và sự đổi thay lớn nhất là cha mẹ ngày một thêm già yếu - có khi gốc tử đã vừa người ôm. Ấn trong câu chữ ấy là niềm day dứt tự trách mình của nàng. Qua đó người đọc cảm nhận được tấm lòng hiếu thảo, lòng vị tha của nàng. Nàng như quên hẳn nỗi đau khổ trong hiện tại để sống trong tâm tưởng với người yêu, với cha mẹ. Nguyễn Du miêu tả rất chân thực cụ thể nỗi nhớ của Thúy Kiều, và ông cũng rất tinh tế khi thể hiện tâm trạng đó. Ông đã thể hiện nỗi nhớ người yêu trước nỗi nhớ cha mẹ. Tức là chữ tình đặt trước chữ hiếu, đảo ngược tư tưởng của lễ giáo phong kiến. Cách miêu tả này hoàn toàn phù hợp với tâm trạng Kiều. Bởi lẽ, chữ hiếu phần nào Kiều đã đền đáp, nàng đã bán mình cứu cha và em. Cảnh nhà đã tạm yên nhưng chữ tình đối với chàng Kim dang dở. Nàng day dứt vì đã lỗi hẹn với chàng kim. Hơn nữa trước khi bước vào con đường lưu lạc thì nàng chưa một lời từ biệt chàng. Do vậy trong hoàn cảnh ở lầu Ngưng Bích chỉ có một mình nàng cô đơn, nàng nghĩ tới nguời yêu truớc khi nghĩ tới cha mẹ cũng là điều hợp lẽ. Điều đó càng thể hiện Nguyễn Du rất hiểu tâm lí con người và cảm thông sâu sắc với những đau xót của Thúy Kiều. Nhà thơ như chia sẻ với nàng khi mối tình đầu tan vỡ. Sau nỗi nhớ là nỗi buồn lo của Thúy Kiều: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tác giả đã sử dụng điệp từ liên hoàn “buồn trông" ở đầu bốn câu thơ, lặp lại bốn lần dể nhấn mạnh thêm, khắc sâu thêm tâm trạng buồn của Thúy Kiều. Nỗi buồn ấy dâng lên trùng trùng, điệp điệp, kéo dài theo thòi gian, lan tỏa trong không gian, kết thành một chuỗi buồn kế


tiếp nhau không dứt trong lòng Kiều. Ở mồi một cặp câu Nguyễn Du diễn tả cụ thể nỗi buồn khác nhau của Kiều. Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Nhà thơ miêu tả ánh mắt của Kiều lúc này nhìn ra phía ngoài khơi xa. Trong ánh nắng chiều nhạt nhoà, nàng thấy cửa bể rộng mênh mông, chỉ có một cánh buồm thấp thoáng. Cánh buồm ấy lúc ẩn, lúc hiện trên biển khơi mênh mông. Nhìn cảnh đó tâm trạng Kiều rất buồn. Phải chăng, nhìn cánh buồm lẻ loi ngoài khơi xa, nàng liên tưởng đến thân phận của mình? Cũng giống như cánh buồm, nàng lẻ loi cô đơn ở nơi đây. Cánh buồm kia rồi cũng có ngày cập bến, chỉ có nàng không biết đến bao giờ mới được trở về quê hương để gặp lại những người thân yêu. Thu ánh mắt lại gần hơn nàng thấy trên dòng nước đang chảy có cánh hoa trôi. Một câu hỏi tha thiết đã được đặt ra trong tâm trí của nàng hoa trôi man mác biết là về đâu! Từ láy “man mác” gợi tả cánh hoa trôi nhẹ nhàng, lững lờ, buông xuôi theo dòng nước chảy. Nhìn cảnh đó, Thuý Kiều lại càng buồn hơn. Phải chăng những cánh hoa kia đã khiến nàng liên tưởng đến thân phận cuộc đời mình. Như vậy hình ảnh cánh hoa trôi chỉ là hình ảnh ước lệ để nàng Kiều bày tỏ tâm trạng của mình. Nhìn gần hơn nữa nàng thấy nội cỏ rầu rầu và chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Từ láy “rầu rầu” yừa diễn tả thực trạng bãi cỏ vừa ẩn chứa cả tâm trạng buồn rầu của nàng Kiều. Phải chăng Thuý Kiều nhìn đám cỏ ấy, liên tưởng đến cuộc đời mình rồi cũng bị lụi tàn, héo hon theo năm tháng? Màu xanh nhạt nhoà của chân mây, mặt đất hay chính là tương lai mờ mịt, vô vọng của nàng Kiều. Trước mắt nàng là cảnh bão tố hiện ra: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Gió cuốn mù mịt, mặt nước dâng trào, tiếng sóng biển ầm ầm. Từ láy “ầm ầm” được đảo lên đầu câu thơ để nhấn mạnh thêm sự gầm gào, hãi hùng của biển cả. Ở đây không phải là sóng vỗ mà là sóng kêu. Phép nhân hoá không chỉ làm cho câu thơ thêm sinh động mà còn diễn tả được tiếng sóng lòng của Kiều. Cùng với đó, hình ảnh ước lệ “gió cuốn mặt duềnh cũng nhằm khắc họa những tai hoạ sắp đổ xuống đời nàng. Câu thơ đã thể hiện được dự cảm của Thúy Kiều về cuộc đời gặp nhiều sóng gió, gian truân của mình. Như vậy, mỗi một hình ảnh thiên nhiên trong câu thơ đều ẩn chứa tâm trạng của nàng Kiều. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du được sử dụng hết sức độc đáo và rất thành công. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận + Như vậy, đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích quả thật là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. + Với cách lựa chọn thiên nhiên hết sức chính xác, kết hợp với ngôn ngữ độc thoại nội tâm và các điển tích, cùng với bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, nhà thơ đã diễn tả chân thực, cụ thể, tinh tế, diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi phải sống ở lầu Ngưng Bích. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, thương nhớ người thân da diết, nỗi buồn lo, hãi hùng. - Suy nghĩ của bản thân + Nhà thơ đã thấu hiểu tâm trạng của Kiều cũng có nghĩa là nhà thơ đồng cảm với nhân vật, cảm thông chia sẻ với nỗi đau của Kiều. Đó chính là biểu hiện của giá trị nhân văn. + Vì thế đọc đoạn trích nẩy ta thấy Nguyễn Du không chỉ là nhà nghệ sĩ thiên tài trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng mà còn là nhà thơ có trái tim nhân đạo.

Bài 56: Cảm nhận về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua các tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du GỢI Ý LÀM BÀI


1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề cần nghị luận + Vũ trụ có nhiều kì quan nhưng kì quan tuyệt phẩm, huyền bí nhất có lẽ là phụ nữ. + Trong xã hội ngày nay, vai trò và hình ảnh của người phụ nữ được tôn vinh không như thời kì lịch sử trước, thời kì của chế độ phong kiến.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

+ Số phận của người phụ nữ phong kiến thật chua xót bất hạnh. - Trích dẫn vấn đề nghị luận + Bằng sự đồng cảm và cảm thông sâu sắc các nhà thơ, nhà văn cùng thời đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh người phụ nữ phong kiến, đại diện cho cái đẹp hoàn mĩ qua hai tác phẩm tiêu biểu Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du. + Mặc dù hai nàng Thúy Kiều, Vũ Nương tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời hai nàng lại chất chứa những trang buồn đầy nước mắt, bi kịch. 2. Thân bài a. Giới thiệu những nét chung về nội dung của hai tác phẩm vãn học tiêu biểu viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến - Đó là những người phụ nữ có tài, có sắc, có vẻ đẹp tâm hồn nhưng lại phải sống cuộc đời bất hạnh, khổ đau, gặp nhiều bi kịch. - Khi viết về họ, các tác giả thường thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình. b. Phân tích cụ thể 1. Hình tượng nguôi phụ nữ Việt Nam là hiện thân của cái đẹp: * Vẻ đẹp hình thức - Vũ Nương: vẻ đẹp dịu dàng, thuần hậu (“tư dung tốt đẹp”). - Thúy Kiều: đẹp “sắc sảo, mặn mà”. (Học sinh lấy dẫn chứng trong bài Chị em Thúy Kiều). * Vẻ đẹp tài năng, phẩm chất - Vũ Nương: tính tình thủy mị nết na, yêu thương và chung thủy với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng, thương con, hết lòng lo cho hạnh phúc gia đình. . . (Học sinh lấy dẫn chứng). - Thúy Kiều: + Không chỉ đẹp, Kiều còn là người phụ nữ toàn tài cầm, kì, thi, họa, tài nào nàng cũng giỏi nhưng nổi trội nhất vẫn là tài đàn. Đặc tả cái tài của Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Bản đàn “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác chính là tiếng lòng của trái tim đa sầu đa cảm. + Hiếu thảo với cha mẹ, giàu đức hi sinh, có lòng vị tha, có trái tim đôn hậu, có ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình... (Học sinh lấy dẫn chứng qua các đoạn trích đã học và đọc thêm). 2. Hình tượng người phụ nữ Việt Nam là hiện thân của số phận bi thương * Qua hai tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều, ta thấy người phụ nữ trong xã hội xưa là nạn nhân của xã hội phong kiến bất công nên có nhiều đau khổ, thiệt thòi. - Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền: + Nàng Vũ Nương có một cuộc hôn nhân không bình đẳng (Trương Sinh xin với mẹ trăm lạng vàng cưới Vũ Nương về làm vợ. Sự cách bức giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn mặc cảm thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu, đó cũng là cái thế để Trương Sinh đối xử


IC IA L

với vợ một cách vũ phu, thô bạo, gia trưởng). + Chỉ vì hiểu lầm mà Trương Sinh độc đoán, hồ đồ mắng nhiếc Vũ Nương, không cho nàng cơ hội thanh minh, phải, tìm đến cái chết để minh oan. + Vũ Nương chết oan ức nhưng Trương Sinh không ân hận day dứt, không hề bị xã hội lên án. Trưong Sinh coi như việc đã qua rồi. Như vậy, chuyện danh dự, sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người đàn ông, không có hành lang đạo lí, dư luận xã hội bảo vệ, che chở. - Người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh, của xã hội đồng tiền đen bạc.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

+ Vũ Nương lấy Trương Sinh, chàng đi lính để lại mẹ già và đứa con còn chưa chào đời. Nuôi dưỡng mẹ già, chăm sóc con, nàng tận tụy vì gia đình nhưng chiến tranh làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguỵên nhân gây bất hạnh. + Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền. Xã hội ấy vận động trên cơ chế: Một ngày lạ thói sai nha Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải phụ tình riêng bán mình cho Mã Giám Sinh - một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong, đo đếm, cò kè... Cũng vì đồng tiền mà Tú Bà và Mã Giám Sinh đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn, đắng cay suốt mười lăm năm lưu lạc, phải thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. - Những người phụ nữ như Vũ Nương, Thúy Kiều đều phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt. c. Khái quát và nâng cao - Người phụ nữ trong hai tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều hội tụ những vẻ đẹp đáng quý nhất và những đau khổ, tủi nhục nhất của con người. Họ là đại diện tiêu biểu của hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ. - Viết về người phụ nữ, các nhà văn, nhà thơ đã đứng trên lập trường nhân sinh để bênh vực cho họ, đồng thời lên tiếng tố cáo gay gắt các thế lực đã gấy ra nỗi đau khổ cho họ. - Liên hệ với hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội hiện đại. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề. Nêu cảm nghĩ của bản thân về cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA (Trích Truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu) Bài 65: Phân tích nét nổi bật của tính cách nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. BÀI LÀM THAM KHẢO Nói đến Nguyễn Đình Chiểu là nói đến một nhà thơ yêu nước tiêu biểu nhất của thời kì đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỉ XIX. Thơ ông ca ngợi đạo lí làm người, đề cao tiết hạnh của người phụ nữ, ca ngợi lòng trung hiếu và hành động vị nghĩa của nam giới mà tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên là một minh chứng hùng hồn. Lục Vân Tiên - nhân vật chính của tác phẩm, hơn ai hết đã biểu hiện rõ nét lí tưởng của người anh hùng. Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về hình ảnh một trang nghĩa sĩ đánh cướp cứu người. Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng, nhân vật đẹp nhất trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Chàng là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành, một người học trò khôi ngô, có tài, có đức, văn võ song toàn - có người ở quận Đông Thành, tú nhân tích đức sớm sinh con hiền. Lục Vân Tiên tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành. Nói theo nhà văn, nhà phê bình văn học Hoài Thanh: Trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong một xã hội suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận cả một đạo quân tưng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấú và chiến thẳng thì thủ lĩnh đạo quân đó phải là Lục Vân Tiên chứ không phải là một ai khác. Lục Vân Tiên tiêu biểu cho lí tưởng sống, đạo đức cao đẹp của nhân dân ta lúc bấy giờ. Chàng là người học rộng, tài cao, văn võ kiêm toàn lại luôn sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống núi, định về kinh ứng thí, trên đường đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ chạy, chàng liền hỏi chuyện mới hay có một bọn cướp dữ vừa phá làng xóm và bắt đi hai cô gái. Lục Vân Tiên bất bình, nổi giận: Vân Tiên nổi giận lôi đình Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao? Tôi xin ra sức anh hào Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.” Thấy người gặp nạn, Lục Vân Tiên liền ra tay: Vân Tiên ghé lại bên đàng Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô. Dẫu chỉ mỗi một mình, bọn cướp thì đông; dẫu trước đó, dân làng hết sức khuyên chàng tuổi trẻ không nên dính vào việc này, e sẽ mang hoạ vào thân, nhưng Lục Vân Tiên chủ động đi tìm cướp, đánh tan chúng để cứu người gặp nạn yếu đuối. Hành động đánh cướp, trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Hành động bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô của chàng trai Vân Tiên thật đẹp đẽ và mãnh liệt vì đã khắc họa được hình ảnh một chàng trai nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân. Chàng chỉ có một mình, hai tay không trong khi bọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng người đều sợ nó có tài khôn đương. Vậy mà Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh thật dũng mãnh, bất chấp bọn cướp bao vây tứ phía. Lục Vân Tiên đã dũng cảm “tả đột, hữu xông”, khác nào Triệụ Từ phá vòng Đương Dang. Ngay từ phần mở đầu truyện thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người: Văn đà khởi phụng đằng giao


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Võ thêm ba lược sáu thao ai bì. Thì lúc này, chính là cơ hội để chàng thi thố tài năng võ nghệ của mình. Hình ảnh Vân Tiên tung hoành với chiếc gậy trong tay, tạo một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc của mọi thế hệ. Sức mạnh của chàng trai trẻ đã khiến bọn “lâu la khiếp sợ”: Lâu la bốn phía vỡ tan Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay. Bọn lâu la phải quăng cả vũ khí để chạy tháo thân, còn tên đầu đảng thì: Phong Lai trở chẳng kịp tay Bị Tiên một gậy thác rày thân vong. Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ cướp. Nhưng điều đáng quý hơn cả của chàng nghĩa sĩ là thái độ vô tư. Làm xong việc nghĩa, chàng đã không coi đó là công ơn và từ chối việc đền ơn. Kiều Nguyệt Nga thoát nạn, cảm tạ chàng và xin được đền ơn: Hà Khê qua đó cũng gần Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng Gặp đây đương lúc giữa đàng Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không Gẫm câu báo đức thù công Lấy chi cho phì tấm lòng cùng ngươi. Nhưng Vân Tiên đã khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp: Vân Tiên nghe nói liền cười: "Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Nụ cười của trang nghĩa sĩ này mới đẹp làm sao! Trong nụ cười ấy như hàm chứa cả sự thông cảm lẫn sự bao dung. Vân Tiên đã làm việc nghĩa một cách vô điều kiện và coi đó là lẽ tự nhiên: ở đời là phải thế, không thể nào khác được. Vân Tiên cứu người gặp nạn là vì nghĩa, đó cũng chính là lí tưởng mà chàng ôm ấp và thực hiện: Nhớ câu kiền nghĩa bái vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” Tóm lại, Lục Vân Tiên là mẫu người hào hiệp, sẵn mang trong mình truyền thống trọng nghĩa khinh tài của dân tộc ta. Phẩm chất cao đẹp ấy đáng được người đời sau truyền tụng, học tập và phát huy. Lục Vân Tiên cho chúng ta một bài học lớn về tinh thần nghĩa hiệp, không thể làm ngơ trước tai họa và đau khổ của người khác. Trong xã hội ngày nay, mẫu người như thế không phải là không có. Đọc báo, nghe đài, đọc sách chúng ta vẫn gặp họ đâu đó ở chỗ này, chỗ khác. Họ xứng đáng được xã hội biểu dương: Gấp trang sách lại, hình ảnh hào hùng của chàng nghĩa sĩ sẵn sàng ra tay trừ thói hồ đồ, hại dân vẫn cứ hiện rõ. Trong lời thơ mộc mạc của nhà thơ vẫn âm vang mãi một tấm gương sáng về tinh thần thượng võ; Ngày nay, đâu phải việc “cứu khốn, phò nguy” là không cần thiết nữa, do đó, Lục Vân Tiên vẫn góp phần giúp cho chúng ta sống đẹp hơn và xứng đáng hơn Bài 66: Anh (chị) hãy bình giảng đoạn thơ dưới đây: Thưa rằng'. “Tôi Kiều Nguyệt Nga Con nầy tì tất tên là Kim Liên Quê nhà ở quận Tây Xuyên Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê


IC IA L

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Sai quân đem bức thơ về Rước tôi qua độ định bề nghi gia Làm con đâu dám cãi cha Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành Chẳng qua là sự bất bình Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi Lâm nguy chẳng gặp giải nguy Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi Trước xe quân tử tạm ngồi Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa Chút tôi liễu yếu đào thơ Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần Hà Khê qua đó cũng gần Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng. Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền không có, bạc vàng cũng không Gẫm câu bảo đức thù công Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi” Vân Tiên nghe nói liền cười: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn Nay đã rõ đặng nguồn cơn Nào ai tính thiệt so hơn làm gì Nhớ câu kiến nghĩa bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. BÀI LÀM THAM KHẢO

M

Q

Nếu đọc Truyện Kiều người đọc vô cùng sảng khoái với hành động khuấy nước chọc trời của Từ Hải, thì đọc Truyện Lục Ván Tiên người đọc lại vô cùng hả hê với hành động đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga của Lục Vân Tiên. Một anh học trò trên đường đi thi, giữa đường gặp sự bất hình, “bẻ cây làm gậy” đánh tan bọn cướp cứu người lương thiện. Để cho cái thiện toàn thắng là một cách nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu biểu dương sức mạnh của chính nghĩa, của vị nghĩa.

D

ẠY

Khi “tả đột hữu xông” đánh cướp, Lục Vân Tiên chỉ biết cứu dân, dẹp bọn “hồ đồ hại dân”, hành động anh hùng của Vân Tiên thật là trọn vẹn (nếu Vân Tiên biết mình đánh để cứu người đẹp, thì lòng dũng cảm của người ạnh hùng bị hoài nghi). Nhưng gieo cái gì thì gặt cái đồ. Sau khi dẹp rồi lũ kiến chòm ong, người được chàng cứu nạn lại là một giai nhân. Đoạn thơ dưới đây, nhà thơ kể lại cuộc hội ngộ buổi đầu giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, anh hùng và giai nhân: Thưa rằng :“Tôi Kiều Nguyệt Nga Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. Trước đoạn đối thoại này là thái độ ngạc nhiên của Lục Vân Tiên khi nhìn thấy trong xe hai tiểu thư đẹp như mộng. Chàng hồi: Tiểu thơ con gái nhà ai


Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì? Chăng hay tên họ là chi? Khuê môn phận gái việc gì đến đây? Trước sau chưa hãn dạ nầy Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?”

IC IA L

Nguyệt Nga trả lời ngay vào điều mà Vân Tiên cần biết ấy là tên tuổi của nàng: Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga Còn nầy tì tất tên là Kim Liên

Quê nhà ở quận Tây Xuyên Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.

FF

Lời thưa của tiểu thư lễ độ; tỏ ra là con nhà gia giáo. Nàng chọn đại từ “tôi” trung hòa về tình cảm, lịch thiệp mà không suồng sã. Lời lẽ của nàng chân thật:

Ơ

N

O

Thì ra tiểu thư là con của một viên quan tri phủ. Tất nhiên là qua lời kể, Lục Vân Tiên mới hay. (Nếu Lục Vân Tiền biết trước là cứu con quan thì người ta cũng dễ nghi lòng dũng cảm của người anh hùng. Người ta có thể luận rằng vì cứu con quan nên anh chàng mới xả thân như vậy...).

H

Có một chi tiết rất khó nói, vậy mà Kiều Nguyệt Nga lại nói trôi chảy và tự nhiên: ..

N

Sai quân đem bức thơ về Rước tôi qua đó định bề nghi gia.

M

Q

U

Y

Nói ra lời đó, chứng tỏ nàng là một người chân thật. Lời thành thật của nàng gây ra một chút kịch tính trong buổi đàm thoại. Anh học trò Vân Tiên làm sao không khỏi bị “sốc” trước sự “định bề nghi gia” của người cha như vậy. Kịch tính càng tăng lên thêm khi tiểu thư càng thành thật: Làm con đâu dám cãi cha Trái tim người anh hùng cảm thấy êm ái khi nghe Kiều Nguvệt Nga “bình công” xứng đáng cử chỉ dũng cảm của chàng: Lâm nguy chẳng gặp giải nguy Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.

D

ẠY

Vân Tiên chưa kịp đáp thì Kiều Nguyệt Nga tiếp lời, tìm cách đền ân cho chàng: Trước xe quân tử tạm ngồi Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa Chút tôi liễu yếu đào thơ Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần Hà Khê qua đó cũng gần Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng. Từ cách xưng hô nhún nhường (tiện thiếp) cho đến cử chỉ “lạy” rất thành kính chứng tỏ Kiều Nguyệt Nga hết sức thấm thía trước cử chỉ nghĩa hiệp của Vân Tiên. Lời mời mọc của nàng


cũng khéo léo: Gặp đây đương lúc giữa đàng Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không. Trong lời phân bua của Nguyệt Nga, cái gì cũng không – của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không, vậy mà có, có cái còn quý hơn của tiền, bạc vàng đó là tấm lòng thành của kẻ chịu ơn, là cái tình của nhi nữ.

IC IA L

Lục Vân Tiên nghe Kiều Nguyệt Nga giãi bày hẳn là mát lòng, mát dạ, nhưng với tư cách là một anh học trò, bụng đầy chữ thánh hiền thì từng lời của Nguyệt Nga có chỗ không tránh khỏi nữ nhi thường tình: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn.

FF

Vân Tiên nghe nói liền cười:

O

Nụ cười của Vân Tiên là nụ cười của một người anh hùng, hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi. Lời nói làm ơn há dễ trông người trả ơn cũng chân thành. Hành động đánh cướp cứu dân của Vân Tiên là hành động cao cả, thể hiện lí tưởng của người anh hùng:

N

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Ơ

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng".

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Người Nam Bộ thích Lục Vân Tiên chính là lí tưởng vì nghĩa này. Đây là một đoạn truyện hay trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Bằng lối kể chuyện nôm na mà chân thật, tác giả đã dựng lên cuộc gặp gỡ sinh động giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, anh hùng và giai nhân. Lòng biết ơn chân thành của Kiều Nguyệt Nga và thái độ vì nghĩa của Lục Vân Tiên tạo nên sức hấp dẫn của đoạn thơ.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

LỤC VÂN TIÊN GẶP NẠN (Trích Truyện Lục Văn Tiên - Nguyễn Đình Chiểu) Bài 67: Phân tích đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. BÀI LÀM THAM KHẢO Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm đặc sắc của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm nói về cuộc đời của nhân vật Lục Vân Tiên - một người chính trực, văn võ song toàn với đức tính tốt bụng và thật thà. Lục Vân Tiên tiêu biểu cho những người con miền Nam giàu lòng nhân ái. Mở đầu đoạn trích là phân cảnh Lục Vân Tiên bị Trịnh Hâm hãm hại bởi hắn ganh ghét với những gì mà Lục Vân Tiên có, hắn sợ chàng sẽ hơn mình rồi nhẫn tâm làm hại chàng mặc dù khi ấy chàng đã không còn khả năng đe dọa bước tiến công danh của hắn. Cả đoạn thơ là sự đối nghịch giữa hai kiểu người, thiện và ác. Qua đó, tác giả thể hiện sự khinh thường với những kẻ luôn ghen ghét, đố kị người khác và bày tỏ thiện cảm của mình đối với những con người tốt bụng. Đầu tiên là cảnh Lục Vân Tiên khi ấy đã bị mù sau khi về chịu tang mẹ, lúc này chàng chỉ có một tiểu đồng đi cùng. Gặp được Trịnh Hâm, chàng tưởng mình gặp được người giúp đỡ, ai ngờ gặp phải kẻ tiểu nhân - hắn đã trói tiểu đồng ở trong rừng rồi đẩy Vân Tiên xuống nước: Đêm khuya lặng lẽ như tờ Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay Trịnh Hâm khi ấy ra tay Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời Cho người thức dậy lấy lời phui pha Trong thuyền ai nấy kêu la Đều thương họ Lục xót xa tam lòng. Trịnh Hâm ra tay hãm hại Lục Vân Tiên vì lòng đố kị và ganh ghét. Những hành động của hắn chứng tỏ hắn là một kè vô cùng ích kỉ và cỏ lòng dạ cực kì độc ác. Hành động bất nhân bất nghĩa của hắn đã khiến cho Vân Tiên, một người đáng bị mù rơi vào tình thế vô cùng khổ sở. Nhưng thật may mắn, chàng đã được ông Ngư và gia đình của ông cứu giúp. Tác giả đã gọi là ông Ngư mà không phải là một cái tên riêng nào như muốn nhắn gửi chúng ta rằng, trong cuộc sống này, không phải ai cũng là kẻ gian ác, có những người rất tốt bụng và không chỉ là một người mà là rất nhiều những con người như vậy. Gia đình ông Ngư tuy có cuộc sống vất vả (cả gia đình sống chung trên một chiếc thuyền nhỏ bé) nhưng nghĩa khí của những con người ấy thì hơn hẳn bất kì ai. Họ giàu lòng thương yêu con người, làm những việc thiện mà khỗng hề trông chờ vào sự đền đáp công ơn. Hành động của Trịnh Hâm vừa bất nhân, vừa bất nghĩa. Độc ác, bất nhân vì hắn đang tâm hãm hại một con người trong cơn hoạn nạn, không nới nương tựa, không có khả năng tự vệ. Bất nghĩa vì Vân Tiên từng coi hắn là bạn, từng trà rượu, xướng họa thơ phú cùng nhau, Vân Tiên cũng đã có lời nhờ cậy: Tiên rằng: “Tình trước ngãi sau Có thương xin khả giúp nhau phen nầy" và hắn cũng từng hứa hẹn:


IC IA L

Người lành nỡ bỏ người đau sao đành. Hành động độc ác của Trịnh Hâm được hắn mưu tính, sắp xếp khá kĩ lưỡng. Thời gian gây tội ác là đêm khuya lặng lẽ như tờ, khi mọi người đã ngủ yên. Giữa trời nước mênh mông mịt mờ sương bay, Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời, hoàn toàn bất ngờ, không kịp kêu lên một tiếng. Đến lúc biết là không ai cố thể cứu được Vân Tiên thì Trịnh Hâm mới giả tiếng kêu trời, rồi kể lể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm gian ngoan, xảo quyệt đã phủi sạch tay mà không mảy may cắn rứt lương tâm. Chỉ qua tám dòng thơ, tác giả đã miêu tả tội ác tày trời và bóc trận tâm địa của một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Đoạn thơ giống như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, tình huống, diễn biến và được kể bằng ngôn ngữ chân thực, tự nhiên, gây xúc động mạnh. Người đọc, người nghe càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì càng căm ghét gã Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu!

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Trái với hình ảnh Trịnh Hâm tiêu biểu cho cái ác là hình ảnh ông Ngư và gia đình ông tiêu biểu cho cái thiện. Cả gia đình vất vả trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé nhưng nhân cách và quan niệm sống của họ mới rộng lớn, cao cả làm sao! Đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen độc ác của Trịnh Hâm là tấm lòng nhân ái, hào hiệp của ông Ngư. Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông chài nhanh nhẹn “vớt ngay lên bờ”, rồi: Hối con vầy lửa một giờ Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày Cả gia đình ông lão quây quanh nạn nhân. Mỗi người một việc, gấp gáp, khẩn trương, hết mình vì sự sống của nạn nhân. Khung cảnh ấy mới cảm động làm sao! Việc làm ấy mới đẹp đẽ làm sao! Chưa biết nạn nhân là ai, chưa rõ nguyên cớ thế nào, nhưng thấy việc là làm, thấy người là cứu. Đó là bản tính của những con người lương thiện, những người lao động bình thường. Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông sẵn lòng giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống đói nghèo hầm hiu tượng rau nhưng đầm ấm tình người. Ông cứu người mà chẳng hề tính toán: Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn? Lời ông lão dút khoát, bộc trực, đúng cách nói của người lao động, đúng giọng điệu của vùng quê Nam Bộ, nghe thấm thía tận cõi lòng. “Lòng lão chẳng mơ” là ông không ham muốn, ước mơ, mộng mị chút nào về tiền bạc, của cải. Ông chỉ “dốc lòng nhơn nghĩa”, thương người, cố hết sức cứu giúp con người, luôn làm việc nghĩa, hướng về điều thiện, thật hào hiệp, vô tư. Cứu được Lục Vân Tiên, ngư ông đã dành lại sự sống cho một người lương thiện, đã làm một việc nhân nghĩa. Việc làm ấy hoàn toàn trái ngược với việc làm và dã tâm của Trịnh Hâm. Hành động của ông tuy lặng lẽ, âm thầm, trên một chiếc thuyền nan mỏng manh, nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp cho điều thiện, người thiện chiến thắng cái ác, bọn người độc ác. Đáng kính, đáng trọng biết bao! Cái thiện còn được biểu hiển qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư. Quan điểm của ông Ngư về cuộc sống của mình cũng chính là những ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống phóng khoáng giữa trời cao đất rộng, bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng... Con người tự do, tự tại nên tâm hồn vui vẻ, nhân hậu, khác xa với những kẻ sống trong những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa... Trên chiếc thuyền nan bé nhỏ, mong manh ấy, ông Ngư đã sống cuộc sống thật ý nghĩa. Đáng kính đáng trọng hơn nữa là, cũng vẫn trên chiếc thuyền nan ấy, Ngư ông đã sống một cuộc sống, và nghĩ suy, quan niệm về cách sống thật đẹp đẽ.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Chúng ta hãy xuống thuyền cùng Lục Vân Tiên chuyện trò, tâm sự với người dân bình thường làm nghề vạn chài, sông nước ấy. Ngỡ như không phải ông nói, mà đang ngân nga cất tiếng hát ca ngợi lối sống thanh cao của những bậc chính nhân quân tử trọng nghĩa khinh tài. Trong âm thanh nhịp điệu của lời thơ, nghe như có tiếng phách tre, tiếng đàn kìm thong thả đệm theo. Hát rằng: Nước trong rửa ruột sạch trơn . Một câu danh lợi chi sờn lòng đây Rày doi mai vịnh vui vầy Ngày kia hứng giỗ, đêm nay chơi trăng. Đây là một trong những đoạn thơ hay của tác phẩm. Ý thơ phóng khoáng, sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp và gợi cảm. Vũ trụ bao la, thiên nhiên tuyệt mĩ với những “doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, mặt đất, gió, trăng...”. Con người hòa nhập trong cảnh đẹp ấy không chút cách biệt: hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió... Tác giả sử dụng rất nhiều từ miêu tả trạng thái tâm hồn thanh thản của ông Ngư: vui vầy, thong thả, nghêu ngao. Vui thầm, thung dung, vui say... Tưởng như chính nhà thơ đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình. Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về sông nước để “rửa ruột sạch trơn”, nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh, Ngư ông đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Tấm lòng ông trong sạch. Gia đình, nhà cửa, cả hình hài, thể xác lẫn tâm hồn như hòa nhập với biển trời, sông nước. Cặp từ “hứng gió”, “chơi trăng” gợi ra hình ảnh con người đang mơ mộng, hệt như một thi sĩ vậy. Mơ mộng, nhưng không mơ hồ, tùy tiện. Trái lại ông rất chủ động, ung dung: Một mình thong thả làm ăn Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm. Câu thơ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những nhát chèo khua nước, nhặt khóan, khi mạnh mẽ, khi nhẹ nhàng. Lúc khỏe thì quăng chài, kéo lưới, mệt mỏi thì túc tắc buông câu. Thật là một tấm gương lao động cần cù, chăm chỉ, luôn luôn làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống. Sống trong sạch, phóng khoáng, làm chủ trong mọi công việc, tha hồ hưởng gió mát, trăng thanh, bồng bềnh trên sông nước. Cuộc sống ấy hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao. Trò chuyện với Vân Tiên, ba lần ông chài nói đến chữ “vui”: vui vầy, Vui thầm rồi vui say. Lúc nào cũng vui, mỗi lúc một vui. Đi đây đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè bạn thì “vui vầy”, giữa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn “vui thầm”, ý thức sâu sắc về lẽ sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này, để “vui say”, sống lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, dám say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của Ngư ông càng bay bổng. Men rượu đã ngấm, hồn thơ đã cất cánh. Ngư ông hóa thành tiên ông, thành nghệ sĩ, nghệ sĩ dân gian của đất chín rồng, nhiều sông nước: Kinh luân đã sẵn trong tay . Thung dung dưới thế vui say trong trời Thuyền nan một chiếc ở đời Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”'. Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa dòng sông lớn rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời Ngư ông gắn với chiếc thuyền ấy. Chẳng những ông không sợ, trái lại lúc nào cũng ung dung, lấy nước mưa để tắm rửa thân mình, mượn gió mát để chải tóc, vuốt râu. Hình ảnh chiếc thuyền nan, cũng như hình tượng nhân vật ông Ngư, đến đây, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn, cảm hứng của nhân vật cũng là sự hứng khởi của tâm hồn nhà thơ. Đường như nhà thơ đã


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, vui say hòa hợp với đất trời. Càng về cuối, âm điệu thơ càng dào dạt, sóng sánh như trăng hòa nước, như nước được mái chèo khua động rung rinh. Trong văn chương thời trung đại, hình tượng ngư - tiều dường như đã được dùng để ám chỉ những ẩn sĩ muốn trốn tránh cuộc đời đen bạc, nhiễu nhương, tìm về với thiên nhiên trong sáng: Ôm tài giấu tiếng làm tiều làm ngư (Ngư tiều y thuật vấn đáp - Nguyễn Đình Chiểu). Nguyễn Đình Chiểu rất quen thuộc với bút pháp ước lệ cổ điển, cho nên qua nhũng lời nói của ông Ngư, ông Tiều, ta thấy bóng dáng của họ giống ẩn sĩ hơn là người lao động bình thường bởi: Kinh luân đã sẵn trong tay. Tuy nhiên, cảm xúc của người đọc, người nghe đối với những nhân vật này không hoàn toàn là thế. Ông Ngư trong đoạn thơ này và ông Tiều trong đoạn thơ sau cùng có một cách nói giống nhau về cuộc sống của mình: Tiểu rằng: "Vốn lão tình không Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai Tam lòng chẳng muốn của ai Lánh nơi danh lợi chông gai mặc lòng Kìa non nọ nước thong dong Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai Công hầu phú quý mặc ai Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày. Họ hiện diện giữa đời sống trong sạch, thanh thản, khinh ghét sự bạc đen, tráo trở, sự bạo ngược hung tàn và bao giờ cũng có mặt đúng lúc để cứu giúp người hoạn nạn với tấm lòng trọng nghĩa khinh tài: Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: với Đồ Chiểu, những người lao động ấy cũng là những người có tài, ghét đời ô trọc mai danh ẩn tích. Đọc truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên, ngoài những cơn người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta còn gặp những ông Quán, ông Tiều, ông Ngư - những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất tốt đẹp của người lao động và đạo lí truyển thông dân tộc. Ông Ngư nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng chính là một mảnh tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu? Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu cũng mỏng manh, trôi nổi như chiếc thuyền của ngư ông. Song cuộc đời ấy không phút nàọ ngơi nghỉ truyền bá đạo lí làm người, đấu tranh chống xâm lược: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đám mấy thằng gian bút chẳng tà. (Than đạo) Truyện Lục Vân Tiên phải chăng là chuyến mở đầụ trên con thuyền chở đạo cần cù, kì diệu ấy. Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng, vần thơ Nguyễn Đình Chiếu là như vậy (Phạm Văn Đồng). Bài 68: Có ý kiến cho rằng: Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” không có những tình tiết hào hùng, tế nhị như đoạn trích “Lục Văn Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nhưng đây là đoạn trích thể hiện rõ nhất cái thiện và cái ác.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận xét trên. GỢI Ý LÀM BÀI 1. MỞ bài - Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm. - Trích dẫn ý kiến. 2. Thân bài Các ý chính cần triển khai 1. Đại diện cho cái ác - Nhân vật Trịnh Hâm, hành động của hắn bất nhân, nhẫn tâm hãm hại Lục Vân Tiên là một con người vô tội đang trong cơn hoạn hạn, không nơi nương tựa, đặc biệt là khi con người không còn khả năng chống đỡ nữa. - Hắn là tên phản bội bạn bè, phản lại chính lời hứa của mình là sẽ giúp đỡ đưa bạn về quê, thật là một tên bội nghĩa ít thấy trong đời. - Hành động cùa hắn có chủ mựu, có tính toán trước, trói tiểu đồng ở trong rừng cho cọp ăn hoặc chết đói, sau đó về, mới đưa Vân Tiên xuống thuyền chờ đêm khuya vắng vẻ xô bạn xuống vời, giả bộ kêu cứu: Đêm khuya lặng lẽ như tờ Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay Trịnh Hâm khi ấy ra tay Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời. - Hắn giết người hiền lành, không có chút khả năng chống đỡ mà không mảy may cắn rứt lương tâm. Cái ác đã ngấm sâu trong tâm địa hắn, len lỏi vào mối quan hệ đáng ra là cao quý, “tình bạn” - một tình cảm cao đẹp trong “ngũ luân” của đạo Nho vậy. 2. Đại diện cho cái thiện - Tuy xã hội đầy rẫy những kẻ ác nhưng Nguyễn Đình Chiểu không mất lòng tin ở con người. - Hình ảnh ôngNgư là hình ảnh đối lập với Trịnh Hâm, như cái thiện đối lập với cái ác, cái cao cả đối lập với cái ti tiện thấp hèn, ánh sáng đối lập với bóng tối... - Hình ảnh ông Ngư trong sáng và cao đẹp qua những việc làm và lời nói: Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ Hối con vầy lửa một giờ Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày. Trước đó Vân Tiên được con “giao long” cứu, tiếp đến là được lòng từ thiện của cả nhà ông Ngư cứu giúp. - Bằng những câu thơ mộc mạc, tác giả lột tả lòng chân thực của Ngư ông đối với việc cứu giúp và ý định nuôi nấng khi Vân Tiên không còn sức lao động để sống: Ngư rằng: ‘'Người ở cùng ta Hôm mai hẩm hút với già cho vui” + Tuy không biết Vân Tiên là ai, tốt hay xấu, nhưng thấy chàng mù loà, dáng vẻ thư sinh là ông Ngư thể hiện tấm lòng bao dung đầy ân tình và rất mực khảng khái: Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn? + Đặc biệt là ở Ông Ngư có hẳn một đạo lí sống. Trên chiếc thuyền nan ấy, ngư ông đã sống một cuộc đời giữa thiên nhiên cao rộng, hoà nhập với thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Phải chăng do ít va chạm với cuộc sống nên dù cái ác thời đó mọc lên như nấm nhưng không len lỏi được vào suy nghĩ và hành động của ông... ông ung dung thanh thản làm chủ cuộc đời mình, tìm thấy niềm vui tròng lao động tự do. - Hình ảnh ông Ngư tượng trưng cho niềm vui và ước mơ của tác giả về cuộc đời, về con người. Vì vậy khi tâm sự với Vân Tiên, ông như đang ngân nga cất giọng hát. Trong âm thanh nhịp điệu của lời ca, nghe như có tiếng đàn réo rắt đệm theo: Nước trong rửa ruột sạch trơn Một câu danh lợi chi sờn lòng đây Rày doi mai vịnh vui vầy Ngày kia hứng gió đêm nay chơi trăng. + Như vậy, rũ bỏ danh lợi, tìm về với sông nước - “rửa ruột sạch trơn” nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió, đêm bè bạn với trăng thanh, ông Ngư đã chọn một cái thiện như hai câu trong Tam tự kinh: Nhân chi sơ tính bản thiện... cái thiện thể hiện trên cả hình hài thể xác lẫn tâm hồn. + Cuộc sống của ông nói đến chữ “vui”: vui vầy, vui thầm, vui say. Càng về cuối khúc hát càng bay bổng. Men rượu đã ngấm, hồn thơ cất cánh, ông như một “Tiên ông” đã cao đạo hơn đời: Kinh luân đã sẵn trong tay Thung dung dưới thế vui say trong trời Thuyền nan một chiếc ở đời Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang. - Kết cấu của đoạn nảy, giống kết cấu của nhiều truyện Nôm khác. Người bị hãm hại bao giờ cũng được cứu giúp, làm việc cứu giúp có thể do bàn tay con người cũng có thể do lực lượng siêu nhiên (như Lục Vân Tiên được con giao long đưa vào bờ, rồi mới đến bàn tay cứu giúp của ông Ngư). Đến như chú tiểu đồng bị Trịnh Hâm trói trong rừng được Sơn thần cởi trói. Sau này Vân Tiên bị bỏ vào hang sâu cũng được thần Núi và Tiên ông cứu ra, Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự tử được Phật Bà Quan Âm đưa về vườn hoa họ Bùi. Vân Tiên - nhân vật chính - trong tác phẩm cũng được Tiên ông chữa khỏi mù mắt. - Dùng hình thức kết cấu này, tác giả muốn minh chứng cho một quan niệm sống được lưu hành phổ biến trong nhân dân ta: Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo và người đọc không thể không thấy ông Ngư ông Tiều chính là sự phân thân của Lục Vân Tiên và cũng chính là quan điểm sống của tác giả: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. 3. Nhận xét và đánh giá - Thể hiện niềm tin, quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu: người thiện không bao giờ bị tiêu diệt. - Đoạn trích đã minh định cái thiện dù bị hãm hại nhưng vẫn luôn được trợ giúp để vô hiệu hoá sự tàn bạo của cái ác. - Người đọc vừa thương Lục Vân Tiên vừa thầm cảm mến ông chài. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận. - Nêu cảm xúc của bản thân. - Bài học và hành động.


MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) Bài 57: Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và phát biểu cảm nghĩ về nỗi bất hạnh này của Thúy Kiều.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

BÀI LÀM THAM KHẢO Cõi đời là hữu hạn. Nhà soạn nhạc thiên tài Bét-tô-ven dừng chân tại kiếp sống này và để lại cho đời bản Sô-nát Ánh trăng - bản giao hưởng định mệnh. Nhà văn Balzac trước khi về với đất mẹ dấu yêu cũng kịp ghi lại tên mình trên tượng đài văn học với bộ Tấn trò đời. Sự đời “thương hải tang điền”, rồi một ngày kia dòng sông năm tháng sẽ cuốn đi tất cả. Những thành quách lâu đài, những kì quan của tạo hóa rồi cũng sẽ dần phôi pha... Thế nhưng, giũa dòng chày nghiệt ngã ấy, người đời vẫn nhớ đến một ngòi bút nhân đạo Nguyễn Du tài hoa, một tiếng thơ tha thiết muôn thuở - tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày. Ý nghĩa to lớn của Truyện Kiều là tố cáo xã hội phong kiến thối nát chà đạp lên quyền sống của con người. Cảnh mua bán người thật thương tâm trong truyện. Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn trích minh chứng cho điều trên, ở đoạn trích, nhà thơ đã tợ cáo thế lực đồng tiền tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp. Trong dịp Thanh minh vào tiết tháng ba, Kiều cùng hai em đi du xuân tảo mộ. Trên đường về gặp một nấm mồ hoang, Vương Quan thuật lại tiểu sử cùa người đàn bà nằm dưới mồ. Đó là Đạm Tiên - xưa là ca nhi song làm vợ khắp người ta nhưng nay thì không ai đoái thương thắp cho nàng một nén hương. Với bản chất đa cảm, Kiều đã xót xa, thương cảm với số phận của Đạm Tiên, và cũng từ đó Đạm Tiên như là một người bạn tri kỉ vô hình để báo cho nàng về số kiếp đoạn trường sẽ diễn ra và kết thúc như thế nào. Nhưng tiếp đó Thúy Kiều gặp Kim Trọng là bạn đồng môn của Vương Quan. Mới chỉ qua giao tiếp buổi đầu nhưng tình cảm nảy nở như tiếng sét ái tình tình trong như đã mặt ngoài còn e. Ra về, mỗi người đều nảy sinh mối tình vương vấn, luyến lưu. Kim Trọng nặng lòng tươrig tư nên đã tìm nơi trọ ngay mé sau nhà Kiều. Nhờ đó hai người gặp gỡ rồi thề non hẹn ước. Hai người gặp gỡ hò hẹn được một thời gian không lâu thì Kim Trọng phải về quê thọ tang chú ba năm, và gia đình Thúy Kiều thì rơi vào cảnh bị bọn bán tơ vu oan, nên nhà cửa tan tác, Vương Ông và Vương Quan bị bắt, đánh đập. Lúc này trong nhà chỉ có Thúy Kiều là món hàng đắt giá nhất để bán lấy số bạc chuộc cha và em ra khỏi nơi giam cầm. Nàng quyết định bán mình, làm xa gần nôn nao nhưng lại không dễ dàng thực hiện vì bạn bè thân quen của gia đình không ai dám mua và không nỡ mua. Trong lúc đang cần cứu cha và em, chậm một ngày là thêm một ngày đau khổ, thời cơ đã đến với kẻ buôn người - Mã Giám Sinh. Khi miêu tả cảnh Kiều gặp Kim Trọng và Kiều gặp Từ Hải, Nguyễn Du có hẳn những câu thơ giới thiệu chân dung nhân vật. Còn đối với Mã cũng là kẻ đến cưới nàng, nhưng hắn chỉ như một công cụ của số mệnh, của cái thế lực đen tối đến gieo tai họa. Tên lái buôn này chắc đang lùng sục khắp chợ cùng quê để mua người đẹp cho mẹ chủ chứa lầu xanh - Tú Bà mà hắn cũng góp phần chung lưng. Ta thấy nhà thơ diễn tả hàng loạt lời nói, động tác và thái độ vừa của mụ mối và của hắn với những câu thơ nghe trào tiếu đến mức phải bật cười: Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần Cuối cùng thì nhà thơ cũng để cho hắn xuất hiện thực sự với những nét ngoại hình khá điển hình, về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặc một cách trau chuốt, nhố nhăng: Quá niên trạc ngoại tứ tuần


IC IA L

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. “Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “bảnh bao” là từ dùng để chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý mỉa mai. Vậy là ngay cả tư cách đàn ông, trượng phu của Mã Giám Sinh cũng bị phủ định. Tuy nhiên, câu thơ cũng có thể hiểu một cách khác: “mày râu nhẵn nhụi” là được cắt xén tỉa tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao ra dáng một chú rể. Ở đây ta muốn đến với cái tài tình của nhà thơ là nói thật lại hóa giả, nói trắng lại hóa đen. Bởi vậy nghe những từ ấy ta thấy không có hàm ý trang trọng, phản ánh đúng cái bản chất bên trong của hắn.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: Nguyễn Du có cái tài lột tả cái thần của nhân vật chỉ bằng một từ, từ “tót” trong “ngồi tót” của tên họ Mã, cũng như từ “lẻn” tả Sở Khanh, từ “ngây” tả Hồ Tôn Hiến đã trở thành những “nhãn tự” trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoại hình, cử chỉ, hành động của Mã Giám Sinh, ngay từ khi chưa bước vào cuộc mua bán đã được miêu tả rất khách quan nhưng rất chính xác, đó là một kẻ vô giáo dục, một kẻ không đáng tin cậy, không lương thiện. Phần tả cảnh mua người thật hiếm có, có kẻ mua người bán. Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xa của Kiều khi đem ra làm món hàng: Nỗi mình thêm tức nỗi nhà Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng! Ngại ngùng dọn gió e sương Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày. “Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng đành tan vỡ, “nỗi nhà” là việc cha, việc em bị hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đè nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ: khóc cho mình, khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào khách, sao khỏi sượng sùng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh “lệ hoa” với biện pháp ẩn dụ thật tài tình. Kiều đi ra với Mã Giám Sinh ví như cành hoa sắp gặp bão tố. Cho nên “ngại ngùng”. Vì sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ mình Kiều cảm thấy. Khi phải rơi vào tình cảnh bi đát của cuộc đời, Kiều đang tiều tụy đến cùng cực thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ “vén tóc bắt tay” cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau bên trong đang giày vò nàng: Nét buồn như cúc điệu gầy như mai. Quả đúng là cảnh: Cành hoa đem bán cho phường lái buôn hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá: Cỏ kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Giá mua “bốn trăm” là một con số không lớn mà người mua còn “cò kè” thêm bớt mất nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán riết róng, chi li biết chừng nào! Câu thơ cò kè bớt một thêm hai bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của Mã Giám Sinh chứ không phải là người đi kiếm vợ lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người. Nguyễn Du đã tiếp tục khắc họa nhân vật họ Mã, bằng bút pháp tả thực còn sinh động hơn nữa qua cử chỉ, hành động buôn người của hắn: Đắn đo cân sắc cân tài


Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Như vậy, dưới con mắt của hắn Thúy Kiều là một món hàng phải ép cái này thử cái kia, phải nhấc lên, đặt xuống xoay xở đủ cách, cân, đong, đo, đếm như hàng hóa vậy. Cuối cùng cái đích của sự mua bán là giá cả, hắn phải hối dù với cái giọng ngọt xót giả nhân, giả nghĩa, nhưng kệch cỡm, vụng về: Rằng: ‘‘Mua ngọc đến Lam Kiều . Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường? ” Sau khi mụ mối định giá, hắn cò kè bớt một thêm hai từ một ngàn lạng mà mối rằng giá đáng ngàn vàng, hắn chỉ ngã giá có ngoài bốn trăm - giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.Vì hoàn cảnh đã đến bước đường cùng, Kiều buộc phải bán mình với giá ngoài bốn trăm lượng vàng. Đến đây số phận nàng Kiều đã được định đoạt, bước sang một chặng đường đầy chông gai, gian khổ, lưu li... Nàng đã rút ra khỏi vòng tay êm ái của gia đình dấn thân vào bước đường lưu lạc. Ai có thể lường trước thân phận tài sắc của người con gái họ Vương. Mở đầu Truyện Kiềụ, Nguyễn Du viết: Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng. Ta có cảm nghĩ đó là cái xã hội êm ấm, thế mà giữa thanh thiên bạch nhật gia đình họ Vương mắc oan, gỡ cái oan nghiệt này bằng cách bán đứa con đầu lòng tài hoa. Đang là cô gái lá ngọc cành vàng, tiết sạch giá trong, bước chân vừa mới chạm và.o ngưỡng cửa hạnh phúc đã trở thành món hàng giữa chợ. Chua xót, bi phẫn cho người con gái chưa từng vào đời mà đã phải ra trước mắt người lạ để họ nhìn ngắm một cách “sỗ sàng”, thậm chí còn ép nọ thử kia để không chịu sự vô ý, hớ hênh mà mua đắt dù đó là người đẹp. Đoạn thơ đã miêu tả được hết toàn bộ câu chuyện mua bán người đang diễn ra, thể hiện sự bất công của xã hội đối với con ngưởi, đặc biệt là người phự nữ. Vẻ đẹp cũng như tài trí của nàng Kiều đều không được xã hội đón nhận, mà còn gây cho nàng những bất hạnh đến cùng cực. Đọc tác phẩm Truyện Kiều, không ai không khỏi thương cho số phận của nàng Kiều, và phê phán xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người.

Q

Bài 58: Phân tích giá trị nhân đạo qua đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

D

ẠY

M

BÀI LÀM THAM KHẢO Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du ’ Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. (Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu) Ôi! Trên cõi đời này còn gì hạnh phúc hơn tiếng thương của tình người như lời mẹ ru ta thuở nằm nôi. “Tiếng thương” ấy là gì vậy? Mà sao ta thấy thật gần gũi, tha thiết, sâu lắng mà mênh mông trong cả sự nghiệp văn chương của nhà thơ thiên tài Nguyễn Du - nhà thơ tiêu biểu của trào lưu nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam. Thì ra giờ đây ta đã hiểu Truyện Kiều là tiếng ru thương yêu mà Nguyễn Du viết bằng tấm lòng cảm thông, trân trọng đổi với con người bất hạnh trong xã hội phong kiến xưa. Trong tác phẩm ấy, đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là những lời yêu thương của một trái tim nhân đạo sáng ngời. Cảm hứng nhân đạo thể hiện rõ trong những lời thơ yêu thương dành cho Kiều và thái độ căm ghét đối với Mã Giám Sinh. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều kể lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều, mở đầu kiếp đoạn trường của Kiều. Tác giả tập trung khắc họa bản chất nhân vật Mã Giám Sinh qua ngoại hình, ngôn ngữ, hành động. Chân dung nhân vật ấy sinh động, cụ thể và mang ý nghĩa khái quát về một loại người trong xã hội đương thời bên cạnh tình cảm và tâm trạng có tính chất bi


kịch của Kiều. Hai hình tượng nhân vật chính diện và phản diện trong đoạn thơ thể hiện rõ cảm hứng nhân đạo của nhà thơ. Trong màn mua bán này, Nguyễn Du thể hiện Kiều như là hiện thân của nỗi đau khổ câm lặng. Kiều xuất hiện với những nét ngoại hình để bộc lộ vẻ đẹp con người trong cảnh ngộ thật thương tâm:

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà Thềm hoa một hước lệ hoa mấy hàng! Ngại ngùng dợn gió e sương Ngừng hoa bóng thẹn trong gương mặt dày Mối càng vén tóc bắt tay Nét buồn như cúc điệu gầy như mai. Đoạn thơ khắc họa hiện hình nỗi đau của Kiều. Nguyễn Du tập trung miêu tả dòng nước mắt đau thương của Kiều. Nỗi đau nặng trĩu, ngập tràn theo bước chân Kiều: Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng. Kiều ngắm mình với nỗi xót xa, xấu hổ, ngượng ngùng. Con người đau khổ câm lặng ấy được nâng đỡ bằng những hình ảnh ước lệ nét buồn như cúc điệu gầy như mai. Nguyễn Du tả vẻ đẹp trong đau khổ của Kiều là nhấn mạnh vẻ đẹp cao cả, trong sáng cần được bảo vệ, nâng niu, cần được cảm thông, chia sẻ. Nàng Kiều ơi! Có nỗi đau nào đau hơn nỗi đau của nàng nữa không? Con tim ta đang rung nhịp cùng nỗi đau với nàng đó. Nhưng ta chỉ đau thôi, ta không thể nào chịu đựng được những nỗi đau hơn nữa như nàng đã từng chịu đựng (Bình giảng văn học 9 - Nguyễn Thành Huân). Phải chăng, đứng trên lập trường nhân đạo, Nguyễn Du trân trọng giá trị con người trong Kiều, lời thơ là sự kết đọng của tình thương yêu mênh mông. Rõ ràng, nhà thơ nhân đạo.Nguyễn Du đã viết về nỗi đau khổ, tủi nhục của con người trong xã hội đen tối ấy bằng cả nỗi xót xa, bằng cả trái tim yêu thương, nâng đỡ.

D

ẠY

M

Q

U

Thương cảm, trân trọng Kiều bao nhiêu, Nguyễn Du căm ghét những kẻ chà đạp lên hạnh phúc của con nguời bấy nhiêu. Mã Giám Sinh được Nguyễn Du khắc họa đậm nét từ diện mạo, cử chỉ, lời nói, hành động bằng những chi tiết tả thực. Với cách ăn nói mập mờ, con người ấy thật đáng nghi ngờ: Hỏi tên: “Rằng Mã Giám Sinh Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”. Xuất hiện với lí lịch không rõ ràng, dối trá, lọc lừa, không có tên, không có quê, chắc hẳn người đàn ông họ Mã này có hành vi đáng nghi ngờ, đang che đậy một âm mưu đen tối. Nguyễn Du tả diện mạo, cách đi đứng của Mã Giám Sinh vẫn bằng những chi tiết tả thực: Quá niên trạc ngoại tứ tuần Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao Trước thầy sau tớ lao xao Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang Ghế trên ngồi tót sỗ sàng Nhà thơ miêu tả diện mạo “nhẵn nhụi”, ăn mặc “bảnh bao”; đi đứng thì ồn ào, nhốn nháo của chủ tớ - họ Mã làm ta nhớ tới cảnh: Người nách thước kẻ tay đao, Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi. Kiểu ngồi thì “ngồi tót”, cái ngồi trịch thượng của kẻ vô học. Một kiểu ngồi chỉ có duy nhất


N

O

FF

IC IA L

của tên buôn thịt bán người, cái ngồi của phường gian ác toát ra mùi hôi tanh. Bản chất của kiểu ngồi hiện rõ sự ám muội của một kẻ vô học, bất nhân, trơ tráo (Phê bình văn học 9, trang 74Nguyễn Thành Huân). Rõ ràng, Mã Giám Sinh càng cố đóng vai chàng trai đi hỏi vợ, càng trở nên kệch cỡm. Bản chất con buôn lộ ra trong mỗi từ ngữ miêu tả. Chỉ với từ “sỗ sàng” Nguyễn Du đã ném cái nhìn khinh bỉ, căm giận vào con người vô học, lố lăng ấy... Không chỉ kệch cỡm, lố lãng, giả dối con người họ Mã còn mang bản chất bất nhân. Kiều xuất hiện với nỗi buồn khổ, xót xa, ngượng ngùng nhưng với gã, Kiều chỉ là món hàng. Gã cố tình xúc phạm, ngang nhiên định đoạt những giá trị cao đẹp một cách tàn nhẫn, vô liêm sỉ. Hành động, bản chất của tay buôn thịt bán người bộc lộ rõ nhất trong màn mua bán này: Cò kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. ‘ Trong cảnh mua bán này, hành động “ép”, “thử”, rồi “cò kè” là hành động mang bản chất bất nhân của kẻ có tiền, có quyền làm mưa làm gió trong xã hội. Trong đoạn trích này, Mã Giám Sinh là kẻ đã coi đồng tiền là tất cả, là chúa tể. Đồng tiền là lực lượng thống trị: Trong tay đã sẵn đồng tiền Dù lòng đổi trắng thay đen sá gì. Nguyễn Du đã lên án thế lực đồng tiền trong tay bọn người bất nhân: tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong.

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của đoạn trích trước hết là tấm lòng yêu thương mênh mông của Nguyễn Du dành cho nàng Kiều - một nạn nhân đau khổ, bất hạnh mà sáng ngời vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách. Cảm hứng nhân đạo ấy còn là thái độ phê phán, tố cáo con người độc ác, bất nhân Mã Giám Sinh và thế lực đồng tiền. Nguyễn Du đau xỏt cho thân phận nàng Kiều cũng là đau xót cho phận đàn bà trong xã hội cũ. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Mã Giám Sinh trở thành nhân vật tiêu biểu cho một loại người trong xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đẵ giúp ta hiểu và cảm thông với số phận con người trong xã hội bất công xưa; giúp ta nhận ra bộ mặt bất nhân của bọn buôn thịt bán người. Đọc đoạn trích, ta cảm nhận dược trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du và càng hiểu ta càng yêu thương trân trọng giá trị tốt đẹp của cuộc sống hôm nay. Có gì đẹp trên đời hơn thế Người với người sống để yêu nhau. (Một khúc ca xuân -Tố Hữu) (Bài đoạt giải Nhì trong kì thi chọn học sinh giỏi cấp trường năm học 2015 - 2016 của Trương Vũ Bích Liên, Trường THCS Vũng Tàu. Có bổ sung và chỉnh sửa)

ẠY

Bài 59: Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có ý kiến cho rằng: Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có những bước phát triển vượt bậc từ nghệ thuật dẫn truyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, con người.

D

(Bồi dưỡng Ngữ văn 9, trang 36 - NXB Giáo dục) Bằng hiểu biết của mình qua một số đoạn trích đã học về Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn 9, Tập một, hãy trình bày ý kiến của anh (chị) về nhận xét trên. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu về tác giả và tác phẩm. - Trích dẫn ý kiến. 2. Thân bài


IC IA L

a. Khái quát về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và con người b. Phân tích và chứng minh 1. Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có những bước phát triển vượt bậc, trước hết là ở nghệ thuật dẫn truyện - Trung tâm của văn bản không phải là sự việc mà là nhận vật, lời văn kể chuyện theo hướng thuyết minh hành động, tâm lí của nhân vật. Phương thức kể và tả được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, lời kể không đơn thuần là giới thiệu nhân vật, kể việc mà còn là lời đối thoại, độc thoại, nhận xét đánh giá, cũng có khi là bình luận. Khi lại là lời kể, lời thuyết minh về lai lịch, tính cách của nhân vật.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

* Dần chứng: Chị em Thúy Kiều, Mã Giám Sinh. - Ngôi kể thứ ba với điểm nhìn nghệ thuật linh hoạt, khi thi kể theo điểm nhìn từ bên ngoài, khi lại được nhìn với điểm nhìn bên trong. * Dẫn chứng: Đức hạnh của chị em Kiều, lời thoại của Mã Giám Sinh, về không gian lễ hội trong tiết Thanh minh. 2. Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có những bưóc phát triển vượt bậc qua nghệ thuật miêu tả thiên nhiên - Cảnh không đơn thuần là cảnh mà tả cảnh là tạo không gian để bộc lộ tâm trạng nhân vật, cảnh luôn gắn với ngựời... Đó là cảnh nhuốm màu tâm trạng đang diễn ra trong tâm hồn nàng Kiều. * Dẫn chứng: Kiều ở lầu Ngưng Bích. - Khi tả cảnh Nguyễn Du còn có khả năng gợi lên một cảnh tựợng trong truyện giúp người đọc hình dung ra cảnh qua những ngôn từ ước lệ. * Dẫn chứng: Cảnh ngày xuân. - Nghệ thuật tả cảnh đạt đến bậc thầy giàu tính tạo hình. * Dẫn chứng: Cảnh ngày xuân. . 2. Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có những bước phát triển vượt bậc qua nghệ thuật miêu tả con người - Nghệ thuật ta người phong phú và đa dạng hơn, giàu tính tạo hình, lúc tả theo bút pháp ước lệ tượng trưng khi tả theo bút pháp tả thực tùy theo từng tuyến nhân vật phản diện hoặc chính diện. Khi miêu tả chị em Thúy Kiều Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ với từ ngữ mĩ lệ để tôn vinh cái đẹp. * Dẫn chứng: Chị em Thúy Kiều. Khi kể về nhân vật phản diện thì Nguyễn Du lại chú ý đến chi tiết hiện thực để người đọc dễ hình dung ra nhân vật với nét ngoại hình và tính cách rõ nét. * Dẫn chứng: Mã Giám Sinh mua Kiều. - Cũng có khi miêu tả tâm lí gắn với hành động của nhân vật. * Dẫn chứng: Mã Giám Sinh mua Kiều, - Khi cần Nguyễn Du lại tập trung miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật bằng ngôn ngữ mềm mại nghệ thuật miêu tả nội tâm. * Dẫn chứng: Mã Giám Sinh mua Kiều. c. Đánh giá lại vấn đề 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề nghị luận. - Nêu cảm xúc của bản thân.


D

ẠY M

KÈ Y

U

Q H

N Ơ N

IC IA L

FF

O


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

THÚY KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN (Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du) Bài 60: Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO Truyện Kiều là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn (Chế Lan Viên). Bằng ngôn ngữ thơ Nôm điêu luyện, Nguyễn Du đã làm nên một kiệt tác nghệ thuật bất hủ. Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán nam ở cuối phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Hết nạn nọ đến nạn kia Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng chừng nàng buông xuôi trước số phận: Biết thân chạy chẳng khỏi trời Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương. Từ Hải đã có binh cường tướng mạnh: Trong tay mười vạn tinh binh Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri. Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận “con ong cái kiến” bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị cửa một quan tòa. Trong Truyện Kiều, cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ước mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450), Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân; Hoạn Thư cùng bảy tên khác bị báo oán: Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà Bên là Ưng Khuyển bên là Sở Khanh Tú Bà với Mã Giám Sinh Các tên tội ấy đáng tình còn sao? Ở đây, chúng ta chỉ nói đến hai tình tiết: Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử của Thúy Kiều, tính sáng tạo của Nguyễn Du là những điều mà ta có thể tìm hiểu và cảm nhận trọng đoạn thơ này. Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn hạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Sau khi mắc lừa Sở Khanh, Thúy Kiều bị Tú Bà bắt ép làm gái lầu xanh. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh “cũng nòi thư hương”, là con rể của quan Thượng thư, một con người phong tình “quen thói bốc rời”. Lúc đầu chỉ là “trăng gió”, nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành “đá vàng”. Thúc Sinh đã chuộc Kiều lấy làm vợ lẽ: Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai. Mặc dù sau này có chuyện đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh trong điều kiện có thể, nói với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các “giữ chùa, chép kinh”, thoát khỏi kiếp tôi đòi. Tuy “thấp Cơ thua trí đàn bà” nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi


kịch vẫn nặng lòng:

N

O

FF

IC IA L

Bây giờ kẻ ngược người xuôi Biết bao giờ lại nối lời nước non? Có thể chê trách Thúc Sinh này nọ, nhung Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã giúp Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Kiều là một người phúc hậu, nên nàng không bao giờ có thể quên ơn chàng. Trong cuộc tầm nã của ba quân, gia đình Thúc Sinh đã được Kiều quan tâm giữ giàng: Lại sai lệnh tiễn truyền qua Giữ giáng họ Thúc một nhà cho yên. Cảnh báo ân diễn ra, Kiều đã dùng một chữ “mời” rất trọng vọng: Cho gươm mời đến Thúc lang. Kiều nói về “nghĩa”, về chữ “tòng”, đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là “người cũ”, là “cố nhân” mà Kiều “há dám phụ”. Nàng khẳng định cái tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình ngày xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: nghĩa nặng nghìn non. Kiều đã dùng một số từ như: nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân... cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa thủy chung: Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non

Ơ

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

H

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân? ”

N

Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân Thúc Sinh cũng thật hậu, khẳng định cái nghĩa đối với “cố nhân” trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:

Y

Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân

U

Tạ lòng để xứng báo ân gọi là.

ẠY

M

Q

Sau đó, Kiều dùng lời lẽ dân dã, sắc sảo để nói về “vợ chàng”. Bao năm tháng đã trôi qua, lòng Kiều vẫn chưa nguôi. Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời có phải như thế không? Vị thế đã đổi thay: kẻ là phạm tội, người là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cảnh “gươm lớn giáo dài”: Vợ chàng quỷ quái tinh ma Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau Kiến bò miệng chén chưa lâu Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

D

Kiều đã có hai cách nói khác nhau: nói về ân nghĩạ thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo nên hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều, điều đó cho thấy thi hào rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật. Dù là được báo ân, nhưng đứng trước cảnh vác đòng chật đất tinh kì rợp sân, Thúc Sinh cực kì khủng khiếp: Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mồ hôi toát ra “ướt đẫm”, không nói được một lời nào, sống trong tâm trạng vừa “mừng”, vừa “sợ”: Lòng riêng mừng sợ khôn cầm Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai. Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã bao năm tháng? Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tư thế của người “chiến thắng” ra tay báo oán, Kiều đã “chào thưa” bằng những lời “mát mẻ”: Thoắt trông nàng đã chào thưa: ‘‘Tiên thư cũng có bây giờ đến đây! Giọng nói trở nên chì chiết, đay nghiến. Các chữ “mấy tay”, “mấy mặt”, “mấy gan” như những mũi dao sắc lạnh: Đàn bà dễ có mấy tay Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan! Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ: Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều. Là “thủ phạm” đang đứng giữa pháp trường, xung quanh là đao phủ đã “gươm tuốt nắp ra”, Hoạn Thư “hồn lạc phách xiêu”. Người đàn bà này tự biết tội trạng mình, cảnh ngộ mình, khó lòng thoát khỏi lưỡi gươm trừng phạt, vốn khôn ngoan, sắc sảo, đửa con của “họ Hoạn danh gia” đã trấn tĩnh lại, tìm cách gỡ tội. Một cái “khấu đầu” giữ lễ, khi chân tay đang bị trói. Trước hết nhận tội “ghen tuông” và lí giải đó là chuyện “thường tình” của đàn bà. Tiếp theo Hoạn Thư gợi lại chút “ân tình” ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các “giữ chùa, chép kinh” không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua. Cách nói rất khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. “Nghĩ cho” là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho: Nghĩ cho khi gác viết kình Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo Đối với Kiều, Hoạn Thư đã từng nói với Thúc Sinh: Rằng, tài nên trọng mà tình nên thương. Tuy chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai, nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư “kính yêu” Thúy Kiều. Hoạn Thư tự nhận tội và xin Thúy Kiều rộng lượng: Trót lòng gây việc chông gai Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng". Lời gỡ tội cùa Hoạn Thư vừa có lí, vừa có tình. Lời cầu xin đúng mực, chân thành. Vì thế, Kiều phải “khen cho” khôn ngoan đến mức nói năng phải lời. Không thể là “ngưởi nhỏ nhen”, Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư: Đã lòng tri quá thì nên Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay. Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người, vốn là một phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết rằng mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác, tha tội Hoạn Thư, Thúy Kiều càng tỏ ra vô cùng cao thượng. Ai đã từng đọc bản dịch Kim Vân Kiều truyện, đem đối chiếu với Truyện Kiều, ta mới thấy hết tài sáng tạo của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du, nhất là trong cảnh báo ân báo oán. Cảnh pháp trường thời trung cổ được miêu tả ước lệ mà không kém phần uy nghiêm! Lời thoại rất gọn mà sắc đã làm nổi bật tâm lí, tính cách nhân vật Thúc Sinh lành mà nhát sợ, Hoạn Thư thì khôn ngoan, sắc sảo, Kiều rất trung hậu, cao thượng, bao dung. Như vậy, thông qua đoạn trích này, người đọc không chỉ được chứng kiến cảnh phân xử đầy li kì, hấp dẫn của Thủy Kiều mà thông qua ngòi bút đầy tình tế, tài năng của Nguyễn Du ta còn có thể hình dung về nhân vật một cách sắc nét, chân thực. Đây quả là một bức kí họa chân dung xuất sắc của một bậc kì tài. Nguyễn Du đã sáng tạo nên những lời thoại biến hóa để nói lên


chuyện ân oán, cái lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo cùa Truyện Kiều. Bài 61: Phân tích tính cách Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trong Truyện Kiều của Nguyễn Du BÀI LÀM THAM KHẢO

IC IA L

Đi qua một hành trình hơn hai trăm năm mà Truyện Kiều vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam: Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn (Chế Lan Viên). Bằng ngôn ngữ thơ Nôm điêu luyện, Nguyễn Du đã làm nên một kiệt tác nghệ thuật bất hủ. Đọc Truyện Kiều, ta còn nhớ mãi tính cách Hoạn Thư trong Thúy Kiều báo ân báo oán. Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán nằm ở cuối phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Đoạn trích đã miêu tả cảnh Kiều đền ơn những người đã giúp đỡ nàng và trừng trị những kẻ bất nhân tàn ác.

FF

Bằng ngòi bút sắc sảo Nguyễn Du đã làm hiện rõ bộ mặt khôn ngoan giảo hoạt của Hoạn Thư trong cảnh Kiều báo oán.

O

Người đọc rất ấn tượng với một Hoạn Thư: Bề ngoài thơn thớt nói cười

N

Mà trong nham hiểm giết người không dao.

Ơ

Chính con người ấy đã làm cho cuộc đời Kiều thêm tủi nhục. Hoạn Thư trong đoạn trích hiện lên là con người khôn ngoan giảo hoạt, quỷ quyệt. Trước lời nói và thái độ của Kiều:

H

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

N

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Q

U

Y

Ngay trong phút giây đầu ta đã thấy Hoạn Thư hoàn toàn đối lập với tư thế trước kia: “hồn siêu phách lạc” đứng giữa hai bên cờ quạt rợp trời, nhận ra người ngồi ở trên, không phải ai xa lạ, mà chính là người mình đã hạ nhục nhưng vốn dòng danh giá cùng với sự khôn ngoan sắc sảo Hoạn Thư đã trấn tĩnh lại và tìm cách gỡ tội cho mình.

M

Lời kêu ca của Hoạn Thư càng bộc lộ rõ tính cách khôn ngoan giảo hoạt, một cái khấu đầu giữ lễ, trước hết là nhận tội và lý giải đó là chuyện thường tình của đàn bà với tính cách ghen tuông: Rằng: “Tôi chút phận đàn bà

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”

D

ẠY

Hoạn Thư đã gợi lại chút ân tình cũ, lí lẽ này đã xóa đi sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, ít có ai ngờ được rằng ngay trong thế cô lập đó Hoạn Thư từ bị cáo trở thành người cùng cảnh ngộ với Thúy Kiều. Cùng chung chút phận đàn bà nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của phụ nữ bởi chồng chung chua dễ ai chiều cho ai. Từ tội nhân Hoạn Thư đã biện bạch để trở thành nạn nhân của chế độ “đa thê”. Tiếp đó, Hoạn Thư lại kể côiig của mình: Nghĩ cho khi gác viết kinh Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Hoạn Thư đã cho Kiều ra Quan Âm các viết kinh, khi Kiều bỏ trốn không bắt giữ nàng quay về nhà họ Hoạn. Cuối cùng Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, bộc lộ niềm kính yêu với Kiều và xin Kiều rộng lượng tha thứ:


Trót lòng gây việc chông gai Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí vừa có tình, lời cầu xin cũng đúng mực chân thành trông cậy vào tấm lòng khoan dung rộng lượng của Thúy Kiều. Chính vì vậy, Kiều không thể trở thành người nhỏ nhen và đã tha tội cho Hoạn Thư. Sự việc diễn ra hết sức bất ngờ ngoài sự tưởng tượng của nguời đọc nhưng lại phù hợp với tâm lí của phụ nữ. Kiều đã từng chìm nổi bể dâu, đã từng nếm trải cay đắng cuộc đời nên nàng hiểu nàng đã xâm phạm đến hạnh phúc gia đình Hoạn Thư. Vi vậy, Kiều đã tha thứ cho Hoạn Thư, đây chính là hành động cao thượng của Kiều. Như vậy, những lời biện hộ của Hoạn Thự mang đầy tính chất biến hóa, là lẽ đời từ xưa đến nay. Cách lí giải gỡ tội của Hoạn Thư càng khẳng định đây là người đàn bà sâu sắc đến mức “quỷ quái tinh ma”. Và qua nhân vật Hoạn Thư tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều một lần nữa được chứng minh. Tha thứ cho Hoạn Thư chính là tấm lòng của nhân dân tấm lòng của Nguyễn Du với trái tim đồng cảm. (Bài làm của học sinh Dương Đại Thành, Trường THCS Võ Trường Toàn — TP. Vung Tàu. Có sửa chữa và bổ sung) Bài 62: Cảm nhận của anh (chị) về đoạn trích Thúy Kiều báo ân háo oán trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO Đã bước sang thế kỉ XXI nhưng Truyện Kiều của Nguyễn Du vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với hàng triệu độc giả Việt Nam và thế giới. Cho đến nay Nguyễn Du vẫn là đại thi hào duy nhất của dân tộc, Truyện Kiều vẫn là kiệt tác số một của văn học Việt Nam. Trong "tác phẩm của mình, Nguyễn Du viết: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài, câu thơ ấy đã bộc lộ rất rõ quan điểm để cao chữ tâm cũng như trái tim giàu lòng yêu thương của tác giả. Tấm lòng ấy phần nào được bộc lộ qua cách xử sự hết sức nhân văn trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán. Dân gian ta có câu ơn đền oán trả, quan điểm ấy đã thể hiện một thái độ rạch ròi, dứt khoát trong cách sống của người Việt, có lẽ cách sống ấy đã có từ ngàn đời nay, được thử thách qua thời gian. Cho đến nay nó vẫn còn nguyên vẹn giá trị, chỉ có điều ơn trả thế nào, oán báo ra sáo cho có văn hóa thì thật khó? Trong đoạn trích này, thông qua việc báo ân báo oán của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gián tiếp bộc lộ văn hóa ứng xử của mình, chính ở đây tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Trước hết là báo ân: Cho gươm mời đến Thúc lang Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng Tại ai há dám phụ lòng cổ nhân? Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là Vợ chàng quỷ quái tinh ma , Phen này kẻ cốp, bà già gặp nhau Kiến bò miệng chén chưa lâu Mưa sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa Thực ra đoạn Thúy Kiền báo ân báo oán không chỉ gồm báo ân Thúc Sinh và báo oán


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Hoạn Thư mà còn báo ân với bà quản gia, Giác Duyên...; báo oán với: Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh Tú Bà với Mã Giám Sinh Các tên tội ấy đáng tình còn sao? Tuy vậy đoạn trích đã lược bớt để làm nổi bật cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh và Hoạn Thư mà vẫn đảm bảo nội dung ơn đền, oán trả. Trước tiên là báo ân, âu đó cũng là việc làm hợp lẽ đời. Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm nơi Kiều xử án cho gươm mời đến Thúc lang. Hình ảnh “gươm” nói rõ quyền uy mà Kiều đang có trong tay nhờ gặp được Từ Hải - người anh hùng “đội trời đạp đất”. Kiều giờ đây thật vững vàng, từng trải để nhận ra người ơn, kẻ oán, hoàn toàn khác xa với cô Kiều với thân phận “con ong, cái kiến” trước kia. Chứng kiến sự uy nghiêm đó Thúc Sinh tỏ ra sợ hãi đến mức mất cả thần sắc “mặt như chàm đổ” và người run như con chim dẽ. Hình ảnh tội nghiệp ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh. Và đó cũng là chi tiết có ảnh hưởng đến cách báo oán Hoạn Thư ở đoạn sau. Sau hai câu đầu nói về Thúc Sinh, mười câu thơ còn lại là đoạn đối thoại của Kiều với Thúc Sinh. Qua lời nói của Kiều, có thể thấy nàng rất trọng tẩm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn, nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Đó là một cách so sánh rất cao, nghĩa nặng như hàng nghìn ngọn núi. Để xưng hô với Thúc Sinh có lúc Kiều gọi chàng là “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi; lúc lại dùng “cố nhân” mang sắc thái trang trọng, kính trọng. Có lẽ đó cũng là hai sắc thái tình cảm Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh. Với Kiều, việc Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, cho nàng những ngày tháng êm ấm trong cuộc sống gia đình là cái ơn vô cùng lớn mà nàng không thể nào trả hết, gấm trăm cuốn bạc nghìn cân cũng chưa dễ xứng với ơn nghĩa đó. Cao hơn cả vật chất chính là tấm lòng nghĩa nặng nghìn non mà nàng dành cho chàng Thúc. Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán Việt: nghĩa, chữ “tòng” (theo), cố nhân, tạ lòng... điển cố Sâm Thương. Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Thúy Kiều đổi với Thúc Sinh. Trong khi nói với Thức Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Bởi vì nàng hiểu nỗi đau khổ của nàng khi gắn bó với Thúc Sinh không phải do chàng gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư - tại ai hả dám phụ lòng cố nhân? vẫn đang nói với Thúc Sinh nhưng khi nói về Hoạn Thư ngôn ngữ của Thúy Kiều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc “kẻ cắp bà già gặp nhau” hay “kiến bò miệng chén”. Cách nói ấy vừa tạo ngữ điệu đanh hơn vừa theo quan điểm “ác giả ác báo” của nhân dân nên mượn luôn lời ăn tiếng nói của nhân dân để diễn đạt. Từ cách nói này để nàng chuyển sang Hoạn Thư - báo oán. Đoạn này gồm những lời đối thoại trục tiếp giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Trong hai đoạn, lời nói của Kiều lộ rõ thái độ mỉa mai với Hoạn Thư. Nàng vẫn cố tình giữ thái độ và cách xưng hô như hồi còn làm hoa nở trong nhà họ Hoạn: Thoắt trông nàng đã chào thưa: "Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây! Thái độ “chào thưa” hay gọi Hoạn Thư là “tiểu thư” khi giữa hai người đã có sự thay đổi ngôi thứ, nhất là vào lúc này Kiều đang ngồi ở ghế xử án và Hoạn Thư là kẻ có tội thì điều đó quả là một đòn mỉa mai quất mạnh vào đanh gia họ Hoạn. Nhưng không dùng lại ở đó sang những câu nói sau giọng của Kiều đã dần thay đổi, giọng đay nghiến, phẫn uất càng ngày càng tăng tiến. Người ta như cảm nhận được giọng nói rảnh rọt từng tiếng đang dằn ra, nhấn mạnh:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Đàn bà dễ có mấy tay Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan! Dễ dàng là thói hồng nhan Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều. Cách nói này quả là xứng vói lối đối đáp "vỏ quýt dày có móng tay nhọn" nếu không cái con người “nham hiểm giết người không dao” ấy lại lấn lướt như trước kia Kiều đã từng chịu trận. Đến đây ta thấy thái độ quyết trừng trị Hoạn Thư của Kiều cho bõ những ngày tháng Kiều bị ả ta hành hạ. Vậy liệu Hoạn Thư đối phó thế nào trước thái độ ấy?: Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca. Quả thật là khôn ngoan đến giảo hoạt. Nhận thấy điều bất lợi đang đến gần mụ ta đã cố gậng trấn tĩnh để liệu điều kêu ca: Rằng: ''Tôi chút phận đàn hà Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Một câu nói thật khôn khéo đến mức tinh vi. Thứ nhất Hoạn Thư nói về tâm lí chung của phụ nữ: ghen tuông là chuyện thường tình, cách nói này vừa để kêu gọi lòng trắc ẩn của người đàn bà trong Kiều vừa có tính phổ quát. Thứ hai ngôn ngữ sắc như dao “chút phận” - hạ thấp mình thành nhỏ bé, “thường tình” - đọ là chuyện bình thường chứ không đáng tội: chồng chung chưa dễ ai chiều cho có. Qua miệng lưỡi biện bạch của con gái họ Hoạn, tội nhân đã trở thành nạn nhân của chế độ “đa thê”. Mà đã là nạn nhân ai lại nỡ trừng trị. Hoạn Thư quả là một luật sư tự bào chữa cực giỏi. Sau đó như lẽ tất yếu để lấy lòng Thúy Kịều, Hoạn Thư đã “kể công” với Kiều: cho nàng ra gác Quan Âm viết kinh, không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Cuối cùng Hoạn Thư nhận tội và trông chờ tấm lòng bao dung, độ lượng của Kiều: Trót lòng gây việc chông gai Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”. Quả thực đó là một bài đối thoại được sắp xếp chặt chẽ, logic, hợp lí. Qua lời đối thoại ấy Kiều phải thừa nhận đó là con người: Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời. Chính những lời nỏi đó khiến cho Kiều bị thuyết phục và phải phân vân: Tha ra thì cũng may đời Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen. Hoạn Thư đã biện bạch đến thế nếu Kiều quyết trả thù thì lại trở thành người nhỏ nhen, ích kỉ. Và thái độ của Kiều đã thay đổi so với đoạn trước. Hoạn Thư đã biết lỗi “đánh người chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”. Như vậy qua đoạn trích này ta thấy Hoạn Thư quả là một người “quỷ quái, tinh ma”. Tất nhiên việc Hoạn Thư được tha bổng không chỉ vì có khả năng “tự bào chữa” mà chủ yêu là do tấm lòng vị tha độ lượng của Kiều. Qua đó tấm lòng nhân ái bao dung của người còn gái ấy một lần nữa lại sáng lên. Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với logic của tác phẩm. Đoạn báo ân với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, Kiêu vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa. Đoạn thơ là sự phản ánh ước mơ, khát vọng công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du: người bị áp bức, đau khổ được ngồi ghế quan tòa cầm cán cân công lí để thực hiện triết lí sống của dân gian “ơn đền oán trả”. Đây là một đoạn trích rất hấp dẫn, một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du. Bằng cách để cho các sự việc tự vận động, nhân vật tự bộc lộ mình qua những lời


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

đối thoại, Nguyễn Du đã đưa nghệ thuật miêu tả nhân vật của văn học trung đại tiến một bước rất dài. Miêu tả chân thực và sinh động đời sống như nó đang xảy ra, đó là một yếu tố quan trọng tạo nên chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Bài 63: Cảm nhận về hình ảnh thiên nhiên qua các trích đoạn Truyện Kiều của Nguyễn Du mà em được học trong chương trình Ngữ văn 9. BÀI LÀM THAM KHẢO Thiên nhiên vốn không phải là chủ đề riêng của Nguyễn Du mà nó là chủ đề chung của thi sĩ muôn đời. Nhưng thiên nhiên đi vào Truyện Kiều, đi vào tâm hồn đại thi hào Nguyễn Du lại có những nét rất riêng. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ tạo cơ hội cho thiên nhiên xuất hiện khi cần tạo nền cảnh cho một cuộc gặp gỡ, hẹn hò hoặc khi bộc lộ giúp những cảm nhận tâm trạng của các nhân vật về thời gian, không gian, cảnh ngộ... Trong tiết Thanh minh trong sáng, khắp nơi nô nức đi tảo mộ, du xuân, thiên nhiên ùa vào lòng người với những nét màu thật sáng đẹp và dồi dào sức sống: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Một mùa xuân với màu xanh rợn ngợp của cỏ non, với một vài bông lê điểm xuyết. Chỉ với đôi nét chấm phá, qua ngòi bút tài hoa của nhà nghệ sĩ, cả một bức tranh xuân bừng sáng hiện lên. Trong cái không gian bát ngát màu xanh của cỏ mùa xuân, điểm vào một vài bông hoa lê trắng muốt, tinh khiết, đưa lòng người trong cảnh bay bay nhè nhẹ, lâng lâng. Cảnh như đang nâng nhẹ bước chân ba chị em Thúy Kiều: Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang Cảnh ở đây thật thơ mộng và thắm đượm tình người. Một dòng nước, một nhịp cầu nho nhỏ cũng đủ gợi lên những nét thanh thanh của phong cảnh. Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng: Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Nguyễn Du không cần giá vẽ nhưng đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp và hài hoà. Dưới cầu là dòng nước êm đềm chảy, bên cầu là hình ảnh “tơ liễu bóng chiêu thướt tha”. Cảnh vật gắn bó nhau, tôn nhau lên, chiếc cầu nhỏ như làm đẹp cho dòng nước và dòng nước làm cho chiếc cầu càng trở nên xinh xắn, đáng yêu hơn. Ở đây, Nguyễn Du có nói đến hình ảnh “bóng chiều” nhưng bóng chiều không gợi nỗi buồn mà đẹp một cách lạ thường. Phải chăng lúc này là lúc Kim Trọng chia tay với Thúy Kiều, tâm hồn Kiều hồn nhiên trong sáng nên cảnh cũng mang những nét hồn nhiên trong sáng của Kiều. Cảnh thiên nhiên thấm đượm hồn người, tình người, mang nỗi niềm của con người. Thiên nhiên còn trở thành nhân vật thứ ba chứng kiến buổi thề non hẹn biển giữa Kiều với chàng Kim: Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song. Vầng trăng vằng vặc giữa trời kia như là một nhân chứng cho mối tình trong sáng, đẹp tươi của đôi trai tài, gái sắc. Trong Truyện Kiều, đã hơn bốn mười làn Nguyễn Du nhắc đến ánh trăng nhưng có lẽ ánh trăng trong đêm thề nguyền này đã đi vào tiềm thức, đã trở nên gắn bó nhất


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

với Thuý Kiều. Trăng là người làm chứng cho mối tình của nàng với chàng Kim vả cũng là người bạn gần gũi, gắn bó với nàng trong mọi hoàn cảnh: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xá, tấm trăng gần ở chung Trước không gian rộng lớn, rợn ngợp của lầu Ngưng Bích, Kiều như một tấm thân bơ vơ, lạc lõng. Nàng tìm đến với thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm bầu bạn. Dường như Nguyễn Du đã kéo vầng trăng từ xa vời vợi kia gần nàng Kiều hơn. Trăng như người bạn tri âm tri kí đang san sẻ cùng tâm trạng của nàng: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. Một cánh buồm nhỏ bé trước mặt biển bao la trong cảnh hoàng hôn cũng đủ gợi lên trong lòng người đọc thấm thía nỗi buồn của nàng Kiều. Đó là nỗi buồn lẻ loi, cô đơn, lạc lõng bơ vơ nơi chân trời góc bể của người con gái không biết bấu víu vào đâu: Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ quả là không sai. Nỗi buồn trong Kiều thật mênh mang, rợn ngợp, một nỗi buồn khiến cho lòng người khô héo. “Nội cỏ” ở đây cũng “rầu rầu” cũng mang tâm sự nỗi lòng của Kiều. Đó là nỗi buồn vì cuộc đời đang bị xô đẩy, vùi dập. Nỗi buồn đó cứ dấy lên mãi, ứ đọng mãi, khơi gợi nỗi niềm tủi nhục đau thương đến ứa nước mắt. Âm thanh của tiếng sóng hay cũng chính là những tai họa, những khó khăn đang rình rập, có nguy cơ ập xuống đầu Kiều, choán ngợp khắp tâm trí Kiều. Cảnh ở đây vừa mênh mang, rợn ngợp vừa mang tâm sự u hoài của lòng người. Có thể nói thiên nhiên luôn là hình ảnh thân gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó không chỉ là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đời thường mà đã đi vào văn học, cụ thể đi vào Truyện Kiều. Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng biến thiên nhiên thành một nhân vật, mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ của Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên mãi là hình ảnh, là nhân vật không thê thiêu trong Truyện Kiều. Truyện Kiều mãi mãi là viên ngọc quý, là cuốn sách gối đầu giường của mỗi chúng ta. Nhà thơ sông Lam, núi Hồng đã về miền viễn xa, nhưng truyện Kiều mãi mãi là dòng sông mát lành chảy qua tâm hồn chúng ta để lại một lớp phù sa màu mỡ. Trên lớp phù sa màu mỡ đó, ta luôn luôn gặp hình ảnh tươi đẹp, sống động, mang đậm tình người của thiên nhiên. Bài 64: Nhận xét về Truyện Kiều, Mộng Liên Đường chủ nhân nói: Tố Như dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không, phải con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy. Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu vài nét về tác giả và Truyện Kiều +“Ta cần có thơ của Nguyễn Du trong cuộc đời, cần có tình Nguyễn Du trong cuộc sống, nên càng cần hiểu biết về ông”. Lời nhận định của nhà phê bình Vũ Ngọc Khánh đã trở thành cơ


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

sở cho những cuộc nghiên cứu, khám phá thơ văn Nguyễn Dư. + Mỗi tác phẩm của đại thi hào dân tộc đều chất chứa cái tài, cái tình đằm thắm, là trí lực của cả một đời người. Cái tài, cái tình đó được đây lên đên đỉnh cao, được khai thác một cách triệt để mà mạnh mẽ nhất là trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh - một viên ngọc quý của nền văn học Việt Nam. - Dẫn ra vấn đề nghị luận Sự thành công của tác phẩm nhưng cao cả hơn là tấm lòng của người viết đã được Mộng Liên Đường chủ nhân đúc rút trong lời nhận định : Tố Như dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy. 2. Thân bài a. Giải thích - Lời bàn của Mộng Liên Đường đã nêu được một cách khái quát nhất tài năng sáng tạo của Nguyễn Du cũng như toàn bộ giá trị của tác phẩm Truyện Kiều. Truyện Kiều - có thể coi là đất dụng võ của Nguyễn Du. Người ta có thể bắt gặp trong Truyện Kiều cả sự dụng tâm đã khổ, đó là sự công phu, tâm huyết của Nguyễn Du; tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết là tài năng nghệ thuật ở mọi phương diện đều đạt đến độ xuất sắc. - Và hiển hiện trong mỗi lời văn câu chữ là con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, đó là cách nhìn có tầm bao quát rộng lớn, mang tầm tư tưởng triết học. Và một khi đã có con mắt ấy thì sẽ có tấm lòng lưu luyến, lo lắng, đầy yêu thương không chỉ dừng lại ở một lớp người, một thời đại mà trải muôn người, ở muôn đời.  Lời bàn của Mộng Liên Đường là lời khẳng định hùng hồn nhất và cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho tài năng bậc thầy của một thiên tài văn học – Nguyễn Du. b. Chứng minh . 1. Tố Như dụng tâm đã khổ - Nói đến Truyện Kiều là phải nói đến quá trình khổ công rèn luyện, gọt giũa ngòi bút để cho ra đời một áng văn chương tuyệt tác của nhân loại. Nhưng ý kiến của Mộng Liên Đường đề cập đến nỗi khổ của Nguyễn Du ở đây là “dụng tâm”, tức là làm thế nào để đưa chữ “tâm” vào tác phẩm của mình, đưa tấm lòng mình vào những dòng thơ. Bởi vì, hơn ai hết, Nguyễn Du rất coi trọng chữ tài nhưng cũng hết mực ca ngợi chữ tâm. Nguyễn Du đã khẳng định: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. - Chính vì vậy, chữ tâm của ông dào dạt trên những trang giấy. Có lẽ vì vậy mà trong Truyện Kiều chữ “lòng” xuất hiện với một số lượng lớn: + Đó là nỗi cảm thương của Kiều trước mộ Đạm Tiên: Lòng đâu sẵn mối thương tâm. + Đó cũng là cái tình Kiều đem ra đền đáp Kim Trọng: - Lấy lòng gọi chút rà đây tạ lòng - Để lòng thì phụ tấm lòng với ai. + Nhưng cũng có những tiếng lòng khiến người ta mỉa mai, ghê tởm. Đó là tiếng lòng thốt ra từ bọn buôn thịt bán người, từ những Tú Bà, Sở Khanh. Chủng thốt ra những lời ngon ngọt nhưng lại giương vuốt nhe răng làm hại bao người: - Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi - Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Nguyễn Du đặt tiếng lòng vào miệng những bậc tài hoa như Kim Trọng, Thúy Kiều nhưng cũng để nó thốt ra từ những kẻ xấu xa, nham hiểm như Tú Bà, Sở Khanh. Đó là dụng ý nghệ thuật của ông khi muốn lột tả sắc thái biểu cảm của chữ tâm. Chữ tâm trong sáng biểu hiện cho tấm lòng lương thiện cao cả của con người nhưng cũng có khi chữ tâm bị bôi bẩn, nhơ nhuốc trong tay bọn vô lại. - Có thể nói Trụyện Kiều là tiểu thuyết của chữ tâm. Thúy Kiều chinh phục được người đọc không chỉ bởi sắc đành đòi một, tài đành họa hai mà còn bởi chữ tâm sáng chói nơi nàng. Đó là tấm lòng trinh bạch, là nghĩa khí, là sự khoan dung của nàng. Chữ tâm trải suốt cuộc đời nàng. Vì chữ tâm mà Kiều khóc thương Đạm Tiên, vì chữ tâm mà bán mình chuộc cha, trả nghĩa cho Kim Trọng. Vì chữ tâm mà Kiều tha bổng Hoạn Thư, khuyên Từ Hải ra hàng và cuối cùng vì chữ tâm mà Kiều tìm đến cái chết trên sông Tiền Đường. Hình tượng Thúy Kiều đã đi vào lòng người đọc với một cái tâm như thế. - Ở những nhà văn chân chính xưa nay, tâm bao giờ cũng là cái gốc. Tài và trí chỉ là cảnh, là ngọn. Người nghệ sĩ phải vui niềm vui của con người, đau cùng nỗi đau của con người, phải khóc, phải cười, phải trăn trở cùng con người. Soi vào Truyện Kiều, ta nhận ra tác phẩm thực chất là tiếng lòng của Nguyễn Du. Mỗi một lời, một chữ, một câu trên trang giấy là sự hòa quyện giữa tâm hồn nhà văn với tâm hồn nhân vật. Nguyễn Du dõi theo bước chân của nàng Kiều trên từng chặng đường đời của nàng: + Khi Kiều ở lầu xanh, ông đau cùng hàng: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa. + Khi Kiều gặp Từ Hải, ông vui mừng, hân hoan trước hạnh phúc của nàng: Trai anh hùng, gái thuyền quyên Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. + Và chính ông là người thốt lên tiếng kêu đau đớn khi Thúy Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử: Thương thay cũng một kiếp người Hại thay mang lấy sắc tài mà chi. - Có thể nói Nguyễn Du đã hóa thân vào nhân vật, vui buồn cùng nhân vật. Đó chính là tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du. 2. Tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết là tài năng nghệ thuật ở mọi phương diện đều đạt đến độ xuất sắc - Tự sự đã khéo: Ở đây Mộng Liên Đường muốn đề cập đến nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của Nguyễn Du: + Cái khéo của Nguyễn Du là sự biến hóa linh hoạt cách kể, cách dẫn dắt câu chuyện (so sánh với Kim Vân Kiều truyện là một cuốn tiểu thuyết chương hồi, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một cuốn truyện thơ). Vì là truyện thơ Việt Nam nên Truyện Kiều đậm bản sắc dân gian. Đặc biệt, Truyện Kiều đã đưa thể thơ lục bát dân tộc lên tới đỉnh cao. Thể thơ của Nguyễn Du vừa gần gũi, vừa dễ đọc, dễ thuộc, dẫn dắt người đọc vào câu chuyện một cách tự nhiên. Chính vì vậy, bức tránh toàn cảnh về đời sống xã hội, con người trong tác phẩm hiện lên vô cùng chân thực và sống động. + Truyện Kiều là một câu chuyện xuyên suốt với tình tiết nọ tiếp nối tình tiết kia do sự kết nối các tình tiết chặt chẽ và logic, từ đó người đọc có thể rút ra quy luật về số phận nhân vật. + Truyện Kiều còn có sự kế thừa Kim Vân Kiều truyện một cách sáng tạo:


FF

IC IA L

* Trong Kim Vân Kiều truyện không cỏ cuộc chia tay cảm động giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều thì trong Truyện Kiều, đoạn Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều lại là một trong những đoạn chia li hay nhất của thơ ca về sự chia li từ xưa đến nay, được Vũ Trinh đánh giá “ngang với một thiên phú biệt li”. * Trong Kim Vân Kiều truyện miêu tả việc Từ Hải trở về với hình dung của một toán giặc cỏ, chân dung một kẻ cướp đã làm giảm giá trị thẩm mĩ của hình tượng nhân vật thì trong Truyện Kiều, hình ảnh của đạo quân Từ Hải lại hiện lên: Ngất trời sát khí mơ màng Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh. Hiện lên cái khí thế mạnh mẽ, sục sôi của đoàn quân chiến thắng trở về với cái khả năng làm khuynh đảo cả đất trời. Người đọc như bị cuốn vảo cái khí thế hào hùng, sục sôi đó. - Tả cảnh đã hệt là sự chính xác, đúng đắn, phù hợp, logic trong tả cảnh của Nguyễn Du: + Ông đã phát hiện cái hồn của cảnh vật và đưa vào trong thơ một cách tinh tế nhất: Nguyễn Du có biệt tài tả mùa với ngôn ngữ có tính cả thể hóa cao độ, mỗi mùa một khác: Cỏ non xanh tận chân trời

O

Mùa xuân:

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Dưới trăng quyên đã gọi hè

Ơ

N

Mùa hè:

Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.

H

Long lanh đáy nước in trời

N

Mùa thu:

Thành xây khói biếc non phơi bóng

vàng.

Sen tàn cúc lại nở hoa

U

Y

Mùa đông:

Q

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.

ẠY

M

+ Cảnh không chỉ đẹp mà cảnh còn phù hợp với tâm trạng con người: đôi trai gái người quốc sắc, kẻ thiên tài vừa gặp nhau đã say mê và khi chia tay thì lòng đầy lưu luyến: Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Khi con người cô độc, sống trong tâm trạng cô đơn thì thiên nhiên cũng mang đầy tâm trạng: Buồn trông cửa bể chiều hôm Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

D

Thiên nhiên như thấm đẫm nỗi buồn nhớ, sự lo lắng, phấp phỏng của Kiều về những ngày sắp tới, dự báo về một cuộc đời chìm nổi, một tương lai vô định đầy hiểm nguy, bất trắc. “Cái hệt” của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở độ chính xác, đúng đắn mà đạt tới trình độ tinh vi, sâu sắc, giàu giá trị thẩm mĩ. - Đàm tình đã thiết đó là nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nổi bật trong tác phẩm.Ngòi bút của Nguyễn Du tinh vi, lão luyện trong việc phân tích tâm lí nhân vật. Tâm trạng của mỗi nhân vật được xây dựng đều phù hợp với hoàn cảnh. + Trong tác phẩm, Kiều là nhân vật có tâm trạng phức tạp nhất:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

* Tâm trạng bất lực, uất ức khi bị đém ra làm món hàng mua bán: Nỗi mình thêm tức nỗi nhà Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng Ngại ngùng dợn gió e sương Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày. * Khi Kiều trao duyên cho em để trả nghĩa cho Kim Trọng, ta mới thấy hết cái tình sâu nặng: Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây. * Những đau thương, uất ức dồn lại đã trở thành nỗi căm phẫn trong Kiều: Đã cho lấy chữ hồng nhan Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân Đã đày vào kiếp phong trần Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi. Điệp từ “cho” lặp lại nhiều lần như sự đay nghiến, day dứt, khắc khoải khôn nguôi về nỗi đau thân phận. Câu thơ chất chứa niềm bức bối, bực dọc như muốn bung ra. Trong thơ bật ra tiếng hét phẫn nộ, tiếng tố cáo gay gắt những ngang trái cuộc đời chà đạp lên số phận người phụ nữ. + Trong Truyện Kiều lúc nào cũng hiển hiện một chữ tình sâu nặng. Cái tình trong Truyện Kiều là cái tình sâu, tình thắm, cái tình đẹp nhất của loài người bởi nó chở theo giá trị nhân đạọ sâu sắc của tác giả. Trước mỗi cảnh đời của nhân vật ta đều bắt gặp sự đồng cảm, thương xót của nhà thơ. 23. Thành công của Truyện Kiều còn ở chỗ tác giả có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời - Sáu cõi là sự bao chiêm, là sự bao chiêm toàn bộ không gian đông - tây - nam - bắc, trên và dưới. Đó là sự thâu tóm cả vũ trụ, đất trời. Trong Truyện Kiều có không ít những lời thơ chứa đựng cả thiên nhiên vũ trụ: . - Bốn bể bát ngát xa trông - Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. - Trời cao sông rộng một màu bao la. - Con mắt trông thau sáu cõi cũng là một biểu hiện của một nhân sinh quan nhạy cảm, một tâm hồn rộng mở thu nhận mọi biến chuyển cuộc đời. Chính bởi: thế mà ông rút ra được những quy luật của cuộc đời: Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Ngẫm hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Bằng con mắt “trông thấu sáu cõi”, Nguyễn Du đã thể hiện một vốn sống phong phú, uyên thâm, hiểu đời và hiểu người, ông nghe nhiều, quan sát nhiều để đúc rút ra những chân lí của cuộc sống. - Con mắt Nguyễn Đu trông thấu sáu cõi mà lọng thì nghĩ suốt cả nghìn đời. Đó là tấm lòng canh


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

cánh lo cho số phận con người, lo cho cuộc đời. Ông đã nói hộ những người phụ nữ những bất công, đau khổ: Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. c. Bình luận - Lời nhận định của Mộng Liên Đường đã khái quát được một cách chung nhất những giá trị của Truyện Kiều trên cả hai lĩnh vực nội dụng và nghệ thuật vì Tố Như dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt; đàm tình đã thiết. Nhưng xét đến cùng bút lực ấy có được cũng là nhờ con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời. Nguyễn Du là một nghệ sĩ chân chính. Lời bàn của Mộng Liên Đường cho thấy ông không chỉ là một người am hiểu, học rộng, hiểu sâu về văn chương mà ông còn xứng đáng là một tri kỉ của Nguyễn Du khi khám phá được cái thần tuyệt diệu của tài năng nghệ thuật Nguyễn Du, đồng điệu với tâm hồn, nỗi niềm của Nguyễn Du. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận + Có thể nói, nếu không có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời của Nguyễn Du thì không thể nào có được một Truyện Kiều tuyệt tác của nhân loại. Đó là quan niệm nhân sinh của Nguyễn Du trước cuộc đời, là suy cảm của tác giả về thế thái nhân tình, là những chiêm nghiệm về hiện thực, về số phận con người. Đó chính là những yếu tố quan trọng làm nên thành công của Nguyễn Du trong quá trình sáng tạo văn học. - Nêu cảm xúc của bản thân + Từ xưa đến nay lời nhận định của Mộng Liên Đường chủ nhân được coi là lời nhận định nổi tiếng nhất về đại thi hào Nguyễn Du bởi nó không những thâu tóm được cái thần của kiệt tác Truyện Kiều mà còn lí giải được tài năng, tâm hồn của con người sáng tạo nên. Nó góp phần xây dựng nên hai tượng đài đồ sộ trong lòng vãn học Việt Nam: chân dung một tác gia lớn một nghệ sĩ lớn - một tâm hồn lớn - Nguyễn Du và một kiệt tác văn học được coi như quốc hồn quốc túy của dân tộc - Truyện Kiều. - Đọc lại Nguyễn Du, chúng ta hiểu một con người mà với con người ấy, đời và thơ là một, tư tưởng với nghệ thuật là một. Thành công của Truyện Kiều chính là ở đó: sự chân thực và tài hoa.


Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn.

IC IA L

TRUYỆN KIỀU - Nguyễn Du CHỊ EM THÚY KIỀU (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) Bài 41: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du BÀI LÀM THAM KHẢO Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?- Chế Lan Viên)

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Truyện Kiều - kiệt tác văn chương không chỉ của Việt Nam mà còn của thế giới. Thông qua Truyện Kiều, chữ Nôm được nâng lên thành ngôn ngữ văn học. Tác phẩm sống mãi trong lòng người bởi một tấm lòng nhân đạo bao la về số kiếp bọt bèo của người con gái xinh đẹp, tài hoa trong xã hội cũ. Truyện Kiều còn hay bởi tài năng nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Du thể hiện qua từng vần thơ, nét chữ. Một trong những giá trị nghệ thuật tiêu biểu là bút pháp tả người. Những nhân vật được Nguyễn Du miêu tả trong tác phẩm không dừng lại ở chân dung ngoại hình mà được nâng lên thành chân dung tính cách, chân dung số phận. Nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thuý Kiều là hình ảnh tiêu biểu nhất. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong phần đầu của Truyện Kiều - “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc họa vẻ đẹp chị em Thúy Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Từ dòng thơ mở đầu đoạn trích, tác giả đã giới thiệu hai chị em Kiều đều là những người con gái đẹp: Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Miêu tả chị em Kiều, tác giả sử dụng bút pháp ước lệ, mượn vẻ đẹp thiên nhiên để diễn tả nét đẹp củạ con người, từ đó gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao trong trắng của hai chị em. Thúy Kiều và Thúy Vân mang một vẻ đẹp hoàn hảo từ “cốt cách” như mai cho đến “tinh thần” trong trắng, thanh khiết như băng tuyết. Mỗi người dù mang một vẻ đẹp không ai giống ai, nhưng vẫn mười phân vẹn mười. Chỉ một dòng thơ mà Nguyễn Du đã khái quát được vẻ đẹp chung và vẻ đẹp riêng của từng người, khẳng định sự hoàn mĩ, hơn người của hai nàng và ý thức về sự lí tưởng hóa cao độ khi miêu tả vẻ đẹp người con gái của nhà thơ: Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Ấn tượng đầu tiên về Thúy Vân là những nét đẹp hoàn hảo, vững bền. Chỉ vài nét chấm phá, bức chân dung của Thúy Vân hiện lên thật nghiêm trang, đứng đắn và phúc hậu. Gương mặt của nàng đầy đặn như mặt trăng tròn - “khuôn trăng”, chân mày của nàng đẹp như mày của con bướm, con tằm - “nét ngài nở nang”. Miệng của nàng nở nụ cười tươi như đóa hoa đang khoe sắc, tỏa hương - “hoa cười”. Tiếng nói của nàng trong như ngọc - “ngọc thốt”. Những làn mây trên không trung vẫn không đẹp bằng mái tóc mượt mà của nàng - “mây thua nước tóc”. Tuyết là biểu


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tượng của màu trắng nhưng phải nhường màu cho da mịn màng, trắng trẻo của nàng. Tác giả chú ý nhấn mạnh vẻ “trang trọng” và “đoan trang” của Thúy Vân. Đó là một vẻ đẹp đài các, quý phái và đứng đắn. Vẻ đẹp ấy được miêu tả cụ thể đến từng chi tiết: khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, lông mày cong và đậm, miệng cười tươi như hoa nở, tiếng nói trong trẻo như tiếng ngọc khua, làn da trắng hơn tuyết, mái tóc óng ả hơn mây... Nét nào của Thuý Vân cũng hơn hẳn những vẻ đẹp vốn có trong thiên nhiên. Theo quan niệm của người xưa, sự “đầy đặn” và “nở nang” toát lên nét phúc hậu của người con gái. Vẻ đẹp ấy luôn tạo được sự hòa hợp với xung quanh làm cho “mây thua”, “tuyết nhường” thay cho lời dự báo về một cuộc sống êm đềm, bình lặng. Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ, nhân hóa, liệt kê, đối ngữ, thậm xưng và cách dùng các từ láy, từ Hán Việt một cách điêu luyện, Nguyễn Du không những miêu tả được vẻ đẹp ưa nhìn của Thúy Vân mà còn dự báo được tương lai của nàng. Đặc biệt, các từ “thua”, “nhường” cho chúng ta thấy số phận bình an, tốt lành của Thúy Vân trên những chặng đường đời. Thuý Vân đã đẹp, nhưng Thuý Kiều còn đẹp hơn bội phần: Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn. Khác với vẻ trang trọng, đài các, quý phái của Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả Kiều với mọt nét “sặc sảo mặn mà”. Nàng không chỉ “sắc sảo” về trí tuệ mà còn “mặn mà” về tâm hồn một vẻ đẹp có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ. So về tài lẫn sắc, Thúy Kiều đều hơn hẳn Thúy Vân. Đến đây, người đọc mới hiểu được tại sao Nguyễn Du lại dành thời gian miêu tả Thúy Vân trước. Bằng cách vận dụng nghệ thuật đòn bẩy thật tài tình, tả khách gợi chủ, vẽ mây nảy trăng, tả Thuý Vân trước rồi mới tả Thuý Kiều, tác giả đã lấy vẻ đẹp Thúy Vân làm nền để nâng tài sắc của Kiều lên một bậc cao hơn: Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen thua thẳm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành. Khi viết về Thúy Kiều, ngòi bút của Nguyễn Du thiên về gợi hơn tả. Nếu ở Thúy Vân, nhà thơ tả cụ thể đến sáu chi tiết: “khuôn mặt, chân mày, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, làn da”, thì ở Thúy Kiều; nhà thơ chỉ tập trung vào ánh mắt, nét mày. Đôi mắt Kiều được ví như làn nước mùa thu xanh biếc, thăm thẳm và phẳng lặng. Còn lông mày lại thanh nhẹ, mang dáng nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng. “Hoa” và “liễu” là nhũng loài vô tri, vô giác, vậy mà phải “ghen”, “hờn”, tức giận trước vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà, mười phân vẹn mười” của nàng. Còn đối với con người, nàng Kiều chỉ cần ngoảnh lại một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại cái nữa thì nước người ta bị đổ. Chao ôi! Thúy Kiều đúng là một tuyệt thế giai nhân, vẫn là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ cổ “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa”, “liễu”... được đưa vào thơ nhằm nổi bật vẻ tươi tắn, quyến rũ của Thuý Kiều. Nguyễn Du đã vận dụng thần tình bút pháp tả người để hình tượng nhân vật trở nên bất hủ. Với ánh mắt ấy, với đôi mày ấy cùng với thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” khiến người đọc liên tưởng đến những đại mĩ nhân trong lịch sử Trung Quốc cổ: nụ cười của nàng Bao Tự, sự duyên dáng của Tây Thi hay một nét quyến rũ của Điêu Thuyền thời Tam quốc... Dường như, khi viết về Thúy Kiều, tác giả đã đem tất cả những vẻ đẹp của thế gian đưa vào để tô điểm chân dung nhân vật. Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy, đài các, kiêu sa, cố sức cuốn hút mãnh liệt của Thúy Kiều, nhất là các từ “ghen”, “hờn”, Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta thấy nhũng cơn sóng gió bão tố của cuộc đời như chờ chực để vùi dập thân phận của nàng. Không chỉ đẹp, Kiều còn rất tài hoa. Nếu vẻ đẹp của nàng là duy nhất trên thế gian, tài năng của nàng họa chăng mới có người thứ hai sánh được: Thông minh vốn sẵn tính trời


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lụa nên chương Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân. Với trí thông minh trời phú, Thúy Kiều giỏi tất cả các môn: cầm, kì, thi, họa. Từ việc làm thơ đến vẽ tranh, ca ngâm đánh đàn, thành thạo âm nhạc, tất cả đều xuất sắc hơn người. Đặc biệt khúc đàn “Bạc mệnh” do chính nàng soạn ra làm cho người nghe phải buồn thương rơi lệ. Phải chăng khúc đàn ấy là biểu hiện sinh động cho một cái tâm đa sầu đa cảm. Tài năng ấy đã đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến lúc bấy giờ. Như vậy, vẻ đẹp của Thuý Kiều là sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố: “sắc, tài, tình”, sắc đẹp hoàn hảo đến mức “nghiêng nước nghiêng thành”, khiến cho “hoa ghen”, “liễu hờn”. Tài năng tuyệt đỉnh hơn người cùng những “nghề riềng” ta thường thấy phổ biến trong chốn phong lưu. Tài năng ấy lại kết hợp với cái tâm đa sầu đa cảm của nàng thay cho lời dự báo một cuộc đời long đong, đầy sóng gió. Thuở nhỏ Kiều từng được một đạo nhân xem tướng mạo dự đoán: Anh hoa phát tiết ra ngoài Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. Xét riêng về tài đánh đàn thì Thúy Kiều vượt xa những người khác. Những nốt “cung, thương, dốc, chủy, vũ” trong âm giai của nhạc cổ Trung Quốc và Việt Nam được nàng phối hợp một cách nhuần nhuyễn, tinh thông, dạt dào cảm xúc. Đặt biệt, một bản nhạc nhan đề là “Bạc mệnh” - đứa con tinh thần của Thúy Kiều - đã tác động vào cõi sâu thẳm tâm hồn của con người, khiến ai thưởng thức cũng phải đau khổ, sầu não đến rơi nước mắt, đến buốt nhói tim. Phải chăng một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân ấy như muốn dự báo những đau khổ, bất hạnh chồng chất trong suốt mười lăm năm của đời người con gái tài sắc vẹn toàn? Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút cùa thiên tài Nguyễn Du một cách say sưa, nồng nhiệt, tập trung và trân trọng nhất. Đó là một cái nhìn của con người có tấm lòng nhân đạo mênh mông như ngọn nước triều dâng. Nguyễn Du đã mở đường cho tư tưởng của mình đi trước thời đại. Bởi lẽ, trong xã hội phong kiến đầy rẫy nhưng bất công, ngang trái, hà khắc, phụ nữ luôn bị lép vế, bị ruồng rẫy, chà đạp, xô đẩy đến bức đường cùng. Tuy cả hai chị em Kiều đều rất đẹp, đều là hai thiếu nữ đang độ tuổi cập kê, độ tuổi cài trâm kết tóc nhưng họ vẫn sống trong cảnh buồng thêu khuê các, không săn đón, vồ vập ai cả: Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm, có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều vẫn sống hòa thuận, vui vẻ trong cảnh “trướng rủ màn che”, không tơ tưởng đến những kẻ đi tìm tình yêu, đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa. Chính những nét hồn nhiên, trong sáng, thơ ngây đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho sự hình thành phát triển nhân cách và ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này, đặc biệt là Thúy Kiều. “Êm đềm” chỉ tư thế đài các, chứ không phải vô cảm trước những rạo rực tuổi trẻ. “Mặc ai” cũng là một thái độ điềm nhiên, cao giá của người đẹp. Đây là cách ca ngợi kín đáo của nhà thơ. Chị em Thúy Kiều không chỉ đẹp về hình dáng mà tâm hồn, phẩm hạnh cũng rất thanh cao. Qua bức chân dung của chị em Thúy Kiều, ngòi bút tả người của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp ngoại hình, đằng sau đó còn là chân dung tính cách, chân dung số phận. Người


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

đời sau ca ngợi Nguyễn Du là “thiên cổ kì bút” không có gì cường điệu. Có thể nói Chị em Thúy Kiều là một tròng số những đoạn trích hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều và được nhiều độc giả yêu thích. Bởi ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc, nét vẽ có thần. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, so sánh được nhà thơ sử dụng một cách tài tình, tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân - Thúy Kiều là cả một tấm lòng yêu mến trân trọng nàng. Bằng ngòi bút thiên tài của mình, Nguyễn Du đã giúp chúng ta hiểu được một phần cuộc đời của chị em Thúy Kiều và dõi theo từng bước đi, từng bước gian truân của họ. Nhân vật là đứa con tinh thần của tác giả, qua nhân vật, tác giả bộc lộ quan điểm thậm chí cả tâm tư tình cảm của mình. Thúy Vân, Thúy Kiều với sắc đẹp tuyệt trần không chỉ là điển hình chuẩn mực về nghệ thuật mà còn thể hiện được tài năng miêu tả và tấm lòng ưu ái của nhà thơ dành cho nhân vật. Đó cũng là một trong những giá trị nhân đạo tiêu biểu của Truyện Kiều. Bằng một thế giới ngôn ngữ phong phú, tinh tế, kỳ diệu, bằng một bút pháp điêu luyện, bằng một thiên tài khám phá tuyệt vời kết hợp với lòng thương yêu con người, nhất là người phụ nữ, Nguyễn Du vẽ lên bức chân dung vừa điển nhã, vừa có sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn Chị em Thúy Kiều. Càng nâng niu, quý trọng Truyện Kiều, chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đó là một cái nhìn của con người có tấm lòng nhân đạo mênh mông như ngọn nước trào dâng. Bài 42: Phân tích nghệ thuật xây dựng và miêu tả nhân vật của Nguyễn Du trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều. BÀI LÀM THAM KHẢO Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông vỗ tiếng sóng lòng qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm như thế. Nhà thơ đã xây dựng và miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, vẻ đẹp và tài sắc của Thúy Kiều. Chị em Thúy Kiều là đoạn thơ đầy tính sáng tạo, cách miêu tả phong phú; là bức chân dung của hai nhân vật chính mà Nguyễn Du đã dành cho tất cả sự ưu ái trân trọng. Trình tự giới thiệu, miêu tả của nhà thơ rất cổ điển: mở đầu giới thiệu chung, sau đó miêu tả riêng và cuối cùng kết luận chung. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã viết: Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân. Cách giới thiệu của nhà thơ thật tài tình, chỉ bằng hai câu lục bát người đọc hiểu được lai lịch, vai vế của hai chị em. Đó là hai người con gái xinh đẹp - “tố nga” của gia đình Vương Viên Ngoại: Thúy Kiều là chị; Thúy Vân là em. Chỉ bằng vài nét phác họa, tác giả đã gợi được mối thiện cảm cho người đọc: Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Đừng nghĩ rằng hễ bắt tay vào vẽ chân dung là người ta vẽ mặt, mắt, miệng... Ở Nguyễn Du, nhà thơ chú ý trước hết đến “cốt cách” và “tinh thần”. Bằng biện pháp đảo ngữ, kết hợp tượng trưng và ẩn dụ người đọc hình dung vóc dáng thanh tao, mảnh dẻ, duyên dáng và tâm hồn trong sáng tinh anh của họ. vẻ đẹp của mỗi người đều có những nét riêng và đều đạt đến độ hoàn mĩ - “mười phân vẹn mười”. Chân dung của Thúy Vân được nhà thơ miêu tả chỉ bốn câu: Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Ở bốn câu thơ người đọc thấy được sự miêu tả tinh tế và toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, màu da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói và phong thái ứng xử. Nàng có khuôn mặt xinh đẹp, đầy đặn, tươi sáng như vầng trăng tròn; lông mày thanh tú như nét mày ngài; miệng nàng cười tươi như đóa hoa mới nở; tiếng nàng thốt ra nhẹ nhàng, đằm thắm, trong trẻo như viên ngọc quý sáng lấp lánh; tóc nàng là làn mây bồng bềnh nhẹ tênh trên nền trời xanh thắm; làn da mượt mà, mịn màng, trắng sáng. Bằng cách sử dụng sáng tạo nhũng biện pháp có tính ước lệ, tác giả đã khắc họa một Thúy Vân thùy mị, đoan trang, phúc hậu, khiêm nhường... Một vẻ đẹp khiến cho mọi người kính nể, chấp nhận một cách êm đềm. Thật vậy, Vân cười nói đoan trang là ngay thật, đúng mực, không quanh co châm chọc làm người ta phật lòng. Từ những thông điệp nghệ thuật “mây thua”, “tuyết nhường” Thúy Vân tất sẽ có một tương lai hạnh phúc, một cuộc sống yên vui. Vân là vậy còn Kiều thì sao? Bức chân dung của cô chị được nhà thơ khắc họa trong mười hai dòng thơ tiếp theo trên hai bình diện tài và sắc. Với Kiều nhà thơ vẽ: Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Nàng có đôi mắt sáng trong veo thăm thẳm như làn nước mùa thu. Cửa sổ tâm hồn Kiều là thế - là thăm thẳm những nỗi niềm chất chứa. Nét mày của đôi mắt ấy xanh tươi nhẹ nhàng như dáng núi mùa xuân, vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của nàng làm cho “hoa, liễu” phải “ghen, hờn”, nước, thành nghiêng đổ. Đẹp như thế là tuyệt thế giai nhân trên đời không ai sánh bằng. Rất khác và hơn hẳn vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của Vân. Ngoài sắc, Kiều còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa: Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân Tài của Kiều được giới thiệu lần lượt theo lối liệt kê: tài thơ, tài họa, tài đàn, tài hát ca... tài nào cũng siêu tuyệt. Đáng chú ý là các từ “vốn sẵn tính trời”, “pha nghề, đủ mùi, ăn đứt”... làm cho tài nào cũng đầy đủ và trọn vẹn. Ngoài ra Kiều còn sáng tác nhạc, một bài đàn ai oán “thiên Bạc mệnh” ai nghe cũng buồn thảm đớn đau. Với sắc đẹp “chim sa cá lặn”, rồi tài hoa trí tuệ thiên bẩm, một tâm hồn đa sầu đa cảm của nàng làm sao tránh khỏi sự hủy diệt của định mệnh nghiệt ngã. Cũng như đoạn tả Thúy Vân, đoạn tả Kiều chức năng dự báo còn phong phú và rõ rệt hơn: dự báo tấn bi kịch “hồng nhan bạc mệnh” không tránh khỏi suốt mười lãm năm lưu lạc chìm nổi của nàng. Bốn câu thơ cuối của đoạn trích, Nguyễn Du kết luận lại phẩm hạnh của họ: Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai.


O

FF

IC IA L

Tuổi tuy đã đến độ lấy chồng nhưng hai nàng sống rất kỉ cương, lễ giáo. “Êm đềm” chỉ tư thế đài các, “mặc ai” là thái độ điềm tĩnh, cao giá của người đẹp. Đây cũng là cách ngợi ca kín đáo của nhà thơ. Cả vẻ đẹp lẫn tài năng của nhân vật tuy đều được vẽ rất khéo, bút pháp đa dạng nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của nghệ thuật trung đại với những đường nét ước lệ, cao quý, hoàn hảo, lí tưởng. Đáng chú ý là dụng ý của tác giả khi phân biệt nét khác nhau của hai nhân vật là nhấn mạnh nét này, bỏ qua nét kia làm hiện rõ hai bức chân dung, dự báo số phận về sau của mỗi người. Nàng Vân rồi sẽ hưởng đầy hạnh phúc, còn nàng Kiều sẽ bị tạo hóa đố kị, ghen ghét. Đó là nghệ thuật “tả ý” tinh vi, thâm thúy của Nguyễn Du. Điều mà không một tác giả nào có thể vựợt qua được, và qua mỗi nhân vật người đọc cảm nhận được vẻ đẹp bên ngoài, hiểu được phẩm chất, đạo đức, tâm hồn họ, và đặc biệt là dự báo tương lai số phận về sau. Chính sự tài tình đó Nguyễn Du được tôn vinh là “bậc thầy của nghệ thuật tả người”. Tóm lại, bằng nghệ thuật tả độc đáo và nhất là với tấm lòng ưu ái của tác giả dành cho nhân vật, Nguyễn Đu đã giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp của hai chị em Thúy Vân - Thúy Kiều. Bài 43: Cảm nhận về vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO

N

Tiếng thơ ai động đất trời

N

H

Ơ

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. (Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu)

Q

U

Y

Nguyễn Du là một thiên tài văn học của dân tộc Việt Nam - danh nhân văn hóa thế giới. Bằng trái tim yêu thương sự sống của con người mà nhà thơ đã viết nên tác phẩm Truyện Kiều. Đây là một kiệt tác văn chương đã thấm sâu vào tâm hồn của người dân nước Việt và làm xúc động bao người trên thế giới.

ẠY

M

Truyện Kiều là kiệt tác số một của Nguyễn Du, kết tinh những thành tựu về nội dung và nghệ thuật. Trong Truyện Kiều, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du, chân dung mỗi nhân vật hiện lên hết sức sinh động, gợi cảm. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều qua bút pháp ước lệ tượng trưng. Mở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu và gợi tả vẻ đẹp của hai chị em: Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

D

Đầu tiên tác giả giới thiệu gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng Thuý Kiều là chị, Thúy Vân là em, cả hai đều là những cô gái đẹp - “tố nga”. Tác giả dùng hai hình ảnh ẩn dụ ước lệ tượng trưng mai cốt cách tuyết tinh thần để miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều. Họ mang vóc dáng thanh cao, mảnh, dẻ, yểu diệu, mềm mại như cây mai; suy nghĩ, tình cảm, tâm hồn trắng trong như tuyết; cả hai đều đẹp “mười phân vẹn mười” nhưng “mỗi người một vẻ”. Vẻ đẹp của Thúy Vân được gợi tả ở bốn câu thơ tiếp theo. Câu mở đầu vừa giới thiệu vừa khái quát đặc điểm nhân vật: Vân xem trang trọng khác vời. Hai chữ “trang trọng” nói lên vẻ đẹp


cao sang, quý phái của Vân. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với hình tượng thiên nhiên, với những thứ cao đẹp trên đời: Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Vẫn là bút pháp nghệ thuật ước lệ (lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp con người) với những hình tượng quen thuộc nhưng khi tả Vân, ngòi bút của tác giả liệt kê: khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói và cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của đối tượng miêu tả: “đầy đặn, nở nang, đoan trang”. Mỗi phép so sánh, ẩn dụ đều nhằm thể hiện vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Hình ảnh “khuôn trăng đầy đặn” gợi tả khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng. Hình ảnh “nét ngài nở nang” gợi tả đôi lông mày sắc nét, đậm như con ngài. Hình ảnh “hoa cười”, “ngọc thốt” góp phần gợi tả miệng cười của Thúy Vân tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo được thốt ra từ hàm răng ngà ngọc. Hình ảnh mây thua nước tóc tuyết nhường màu da gợi tả mái tóc đen mượt mà, óng ả hơn mây; làn da trắng, mịn màng hơn tuyết. Như vậy, chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh - “mây thua”, “tuyết nhường” nên nàng sẽ có cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.

U

Y

N

H

Thúy Vân đã đẹp, Thúy Kiều còn đẹp hơn. Vẻ đẹp của Thúy Vân được miêu tả trước để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều. Có thể coi đây là thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy - vẽ mây nảy trăng. Nếu như Thúy Vân được miêu tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn vượt lên trên cái hoàn hảo ấy. Qua vẻ đẹp của Thúy Vân, người đọc hình dung ra vẻ đẹp của Thúy Kiều. Cũng như lúc tả Thúy Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: Kiều càng sắc sảo, mặn mà. Nàng “sắc sảo” về trí tuệ, “mặn mà” về tâm hồn, tình cảm. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng hình tượng nghệ thuật ước lệ:

Q

Làn thu thủy nét xuân sơn

M

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

D

ẠY

Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đáng lưu ý là khi họa bức chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung gợi tả vè đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh về tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” - làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” - nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Khi tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện cái tài, cái tình của nàng. Thế nhưng, khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để tả tài năng. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng, theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến gồm đủ cả: “cầm, kì, thi, họa”. Đặc biệt, tài đánh đàn oủa nàng đã là sở trường, năng khiếu, vượt lên trên mọi người: Cung thương lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. Nhấn mạnh cái tài của Thúy Kiều cũng Ịà để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn bạc mệnh mà Thúy Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm.


Như vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của cả “sắc - tài - tình”. Tác giả đã dùng câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để đặc tả giai nhân sắc đẹp của Thúy Kiều có thể làm cho người ta say mê đễn nỗi mất thành mất nước.

FF

Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

IC IA L

Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận, vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, đố kị “hoa ghen”, “liễu hờn”, báo hiệu số phận của nàng gặp nhiều gian truân, đau khổ. Vẻ đẹp về nhân cách; tâm hồn của chị em Thúy Kiều được khẳng định ở bốn câu thơ cuối của đoạn trích:

O

Chị em Thúy Kiều được sống trong cảnh “trướng rủ màn che”, chưa từng hò hẹn với một ai. Điều đó thể hiện phẩm hạnh cao đẹp của hai nàng thật đáng trân trọng, đáng ngợi ca.

Ơ

N

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã gợi tả rất sinh động bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều. Bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng gợi tả tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao vẻ đẹp của con người, mang đậm cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca, thể hiện tính nhân văn cao cả.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Đoạn thơ nói về chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được thi hào vận dụng thần tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.


IC IA L

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - Phạm Tiến Duật Bài 74: Phân tích khổ thơ dưới đây trong bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật: Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. BÀI LÀM THAM KHẢO Ta đứng đây, lẫm liệt đường hoàng Như Thạch Sanh, khí phách hiên ngang Chém mãng xà vương, giết đại bàng.

FF

Lưng đàn, tay búa, tay giương nỏ

O

(Theo chân Bác - Tố Hữu)

N

H

Ơ

N

Lời thơ như tiếng của non sông, của thế kỉ những chàng Thạch Sanh tuổi hai mươi ra đi để viết lên trang sử vàng hào hùng của dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta đã góp thêm những trang vạng vào lịch sử dân tộc. Đã cố rất nhiều nghệ sĩ có được cảm hứng sáng tác từ đề tài này. Chính vì vậy đậy cũng là giai đoạn văn học có nhiều thành công góp phần làm rạng rỡ nền vặn học nước nhà. Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một trong những đóng góp như vậy.

M

Q

U

Y

Nguồn cảm hứng của bài thơ bắt đầu từ hình tượng những chiếc xe của “tiểu đội xe không kính”. Tên bài thơ vừa độc đáo, vừa hiện thực, để lại ấn tượng mạnh cho người đọc. Xe có kính, đó là chuyện bình thường. Chính chỗ không bình thường “xe không kính” mới là ngọn nguồn để tạo nên thơ. Vì sao lại có sự không bình thường ấy? Vì sao có cả một “tiểu đội xe không kính”? Không đứng ở vị trí quan sát ngoài cuộc, tác giả đứng ở vị trí người chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn rực lửa, hóa thân vào tâm hồn người lính lái xe để tự trả lời và tâm sự:

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

ẠY

Với lối giải thích tự nhiên, đơn giản, câu thơ giàu chất văn xuôi, tác giả cho ta ngầm hiểu sau lời thơ đó là một điều khác: đâu phải tự nhiên xe không có kính. Lí do xe không kính là vì bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

D

Thể thơ tự do phóng khoáng, hình ảnh cụ thể, nhịp thơ biến đổi theo giọng thơ. Tác giả đã nêu lên hiện thực ở chiến trường, súng đạn quân thù đã lảm “kính vỡ”. Trong hoàn cảnh chiến tranh, những người, lính lái xe vẫn lái những chiếc xe thiếu kính chắn gió ra trận. Nếu câu trên đọc lên có cái gì đó ngộ nghĩnh thì đọc đến câu sau lòng ta bỗng chùng xuống. Bom giật, bom rung, sức mạnh tàn phá luôn dội xuống con đường, dội xuống cuộc sống như muốn phá vỡ, muốn làm trụi tất cả. Qua cái nhìn của người chiến sĩ lái xe, sự hủy diệt của cuộc chiến tranh ở Trường Sơn là thế. Nhưng, nhìn nhận cuộc chiến tranh ấy, dẫu nó tàn bạo, trong hai


câu thơ vẫn không có một từ, một âm thanh, ẩn ý nào nói lên nỗi khiếp sợ, cay đắng. Người chiến sĩ nhắc đến chiến tranh như một yếu tố ngoại cảnh, một thách thức để chủ yếu là nói đến thái độ của mình. Qua cách giới thiệu hình ảnh tiểu đội lái xe, bằng lời thơ bình tĩnh, tự tin, hình ảnh với ngôn ngữ chân thật, tác giả ca ngợi phẩm chất, tinh thần của người lính:

IC IA L

Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Những câu thơ nhanh gấp mà vẫn nhịp nhàng như bánh xe đang lăn trên đường. So với ý của hai câu trên, ý ở hai cầu này có sự đối lập. Đó là hoàn cảnh chiến trường đối lập lại với tư thế

FF

của người chiến sĩ. Chiến trường “bom giật, bom rung” dội xuống ác liệt, hiểm nguy mà anh lính

vẫn ung dung ngồi đúng vị trí trong “buồng lái” đưa xe vượt Trường Sơn. Câu thơ như bật ra từ

O

trái tim người chiến sĩ lái xe sau tay lái. Các anh có bình tĩnh, ung dung thật không? Chỉ không lo âu khắc khoải, chỉ có ung dung các anh mới “nhìn” và “thấy”:

Ơ

N

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng Cách ngắt nhịp 2/2/2 khắc họa thái độ, tư tưởng người lính. Họ quyết tâm, tin tưởng vượt qua gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ. “Nhìn đất, nhìn trời” nghĩa là rất ung dung, hiên ngang.

H

“Nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường đi, nhìn vào nhiệm vụ của người lính lái

N

xe, nhìn vào mục đích của cuộc chiến đấu. Như thế, bom cứ giật, cứ rúng, con đường đi tới, ta cứ đi:

Y

Ta đi tới, không thể nào chia cắt

U

Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau (Ta đi tới- Tố Hữu)

M

Q

Trời ta chi một trên đầu Bắc Nam liền một biển.

Với những câu thơ gần gũi như những lời nói thường ngày đậm chất văn xuôi, Phạm Tiến

Duật đã xây dựng được một hình tượng độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng băng trên con đường ra trận. Và qua hình ảnh những chiếc xe, tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh của những

ẠY

người lính gan góc, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm ở Trường Sơn thời chống Mĩ.

D

Đoạn thơ này nói riêng và toàn bài thơ nói chung trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một tác phẩm tự sự nhưng đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo, độc đáo, nhịp thơ tự đo, phóng khoáng... Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của đoạn thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hóa thân của tác giả vào nhãn vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng. Bài 75: Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật BÀI LÀM THAM KHẢO


Hồn Nước gọi. Tiếng bom Sa Diện Trái tim Hồng Thái nổ vang trời Máu thơm tưới mầm non xuân đến Vui lại rồi, Tổ quốc ta ơi! (Theo chân Bác - Tố Hữu)

Hỡi Miền Bắc đó, nặng đôi vai

O

FF

IC IA L

Ôi, hồn Nước - trái tim của Tổ quốc! Câu thơ vang lên khí phách của những con người đất Việt. Hòa vào dòng máu Lạc Hồng của dân tộc, mỗi người con của cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ đã hóa thân cho dáng hình xứ sở (Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm) để làm nền đất nước muôn đời. Và Phạm Tiến Duật người con trên dải đất hình chữ S hào hùng trưởng thành dưới mái trường xã hội chủ nghĩa - là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm tháng chống Mĩ. Bản thân ông là bộ đội Trường Sơn nên tác giả cảm và hiểu rất rõ tâm tình của người lính, nhất là người chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn chở vũ khí, quân trang, quân dụng từ hậu phương tới tiền tuyến lớn. Cùng với lứa thanh niên hăng hái:

N

Gánh cá non sông, vượt dặm dài

Ơ

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

H

Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

N

(Theo chân Bác - Tố Hữu)

M

Q

U

Y

Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính: khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề sức sống, rất tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy. Chùm thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nhớ, Gửi em - cô gái thanh niên xung phong đã được giải Nhất cuộc thi thơ cùa báo Văn nghệ năm 1969. Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo. Những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lái xe ở tuyến đường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi. Ta không rõ nhà thơ đã từng bao nhiêu lần trực tiếp cầm lái, hay ngồi trong ca bin bên cạnh người lái mà ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm hứng và suy nghĩ trong bài lại chân thực và sống động đến thế.

ẠY

Mở đầu bài thơ là lời kể, lời giới thiệu đoàn xe: Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

D

Bom đạn ác liệt củạ chiến tranh tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng: không còn kính chắn gió, không mui, không đèn, thùng xe bị xước... Lời thơ như câu văn xuôi, ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu khoan thai mà gợi tả rõ nét. Cứ y như một đoàn xe đang lừng lững tiến lại. Một hình ảnh thơ thật lạ, thật độc đáo hiện ra ngay trong phần mở đầu của bài: những chiếc xe không kính. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ đưa vào thơ thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực như bài Tiếng hát con


tàu của Chế Lan Viên, bài Bài ca lái xe đêm của Tố Hữu. Ngược lại, Phạm Tiến Duật đưa vào thơ của mình hình ảnh nhũng chiếc xe bị bom đạn chiến tranh phá hủy gần như là phế thải. Từ cách giới thiệu chiếc xe đến cách giải thích nguyên nhân xe không có kính đều rất thật, rất tự nhiên, giọng điệu pha chút ngang tàng gây ra sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Bom đạn chiến tranh làm cho những chiếc xe ấy biến dạng, trần trụi: Không có kính, rồi xe không có đèn

IC IA L

Không có mui xe, thùng xe có xước.

FF

Dường như những chiếc xe ấy không còn là xe nữa. Hình ảnh kì lạ ấy giúp ta hiểu được rằng chiến tranh lúc ấy thật khốc liệt, sắt thép còn như thế huống gì là con người! Phải là người có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. Những chiếc xe kì lạ không có kính chắn gió mà thật anh hùng.

Ơ

Ung dung buồng lái ta ngồi

N

O

Hình ảnh những chiếc xe không kính ấy đã làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe. Trên những chiếc xe ấy, những người chiến sĩ vẫn vũng vàng tay lái. Vừa nhấn ga cho xe lăn bánh ra trận, các anh vừa kể chuyện về mình, về đồng đội: Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng .

H

Nhìn thấy gió vào xoa mốt đăng

N

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Y

Thấy sao trời vào đột ngột cánh chim

U

Như sa như ùa vào buồng lái.

ẠY

M

Q

Đó là những câu thơ tả thực, sự thực chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh, nên người lái phải đối mặt với biết bao khó khăn nguy hiểm. Nào là gió vào xoa mắt đắng, nào là con đường chạy thẳng vào tim, rồi “sao trên trời”, “chim dưới đất” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa - rơi rụng, va đập, quăng ném... vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động, cụ thể, đầy ấn tượng, căng thẳng, đầy thử thách. Khó khăn là thế, hiểm nguy là thế! Song người chiến sĩ không run sợ, không hoảng hốt. Trái lại tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng. Các anh vẫn: Ung dung buồng lại ta ngồi

D

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Hai câu thơ có nhịp thật cân đối diễn tả được sự tự tin của người lái. Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ lái xe phải trải qua, Nhưng trước khó khăn ấy, các anh vẫn bình tĩnh, tự tin vượt qua tất cả. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút trên đường. Có chỗ nhịp nhàng, trong sáng như văng vẳng tiếng hát vút cao vui vẻ. Vẫn cái âm điệu nhẹ nhàng, trong sáng ấy, hai khổ thơ tiếp theo lại biểu hiện rõ nét hơn tâm tư tình cảm của người chiến sĩ:


Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không có kính, ừ thì ướt áo .

IC IA L

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

N

H

Ơ

N

O

FF

Lái những chiếc xe không kính, người chiến sĩ phải đương đầu với bao trở ngại trên bước đường đi tới. Đó là bụi đường phun tóc trắng, là mưa tuôn, mưa xối... Trước những thử thách ấy, các anh lại càng bình tĩnh dũng cảm hơn: Không có kính ừ thì... chưa cần. Cấu trúc câu được lặp lại đã toát lên một thái độ cứng cỏi, ngang tàng, bất chấp mọi khó khăn. Các anh đã xem đây như là một sự thử thách mới để thử sức mình. Ta đã thấy trong gian nan lại có tiếng cười đùa vui vẻ, cái lạc quan phớt đời, cái tếu táo của người lính; dường như các anh không biết hiểm nguy là gì vẫn cứ hiên ngang tiến bước. Đoạn thơ như khúc nhạc vui sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi, thật đúng là chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn). Nhạc vui hòa cùng những hình ảnh hóm hỉnh “phì phèo châm điếu thuốc”, “mặt lấm cười ha ha” làm cho lời thơ thêm rộn rã.

U

Y

Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lí tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình:

Q

Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội

M

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

ẠY

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

D

“Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Nhũng người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mĩ và tay sai để thống nhất Tổ quốc. Hơn thế, các anh lại sống với nhau rất tình nghĩa, yêu thương gắn bó và luôn lạc quan yêu đời. Bởi không phải chỉ có một chiếc xe không kính mà là cả tiểu đội xe từ trong bom rơi họp cùng nhau. Khi hành quân, các anh động


viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo bắt tay qua cửa kính vỡ rồi, ăn chung bát đũa như trong một gia đình. Rồi các anh cùng nhau lên đường lại đi, lại đi trời xanh thêm. Câu thơ bay bay, phơi phới thật lãng mạn, thật mộng mơ. Vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị:

IC IA L

Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim.

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra: xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”... Ở đây tác giả nêu lên sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, vẻ bên ngoài và bên trong chiếc xe. Chiếc xe bị bom đạn Mĩ làm cho biến dạng đến trơ trụi: không có kính, không đèn, không mui... nhưng điều, kì lạ là chiếc xe trần trụi ấy vẫn chạy và tác giả lí giải bất ngờ mà chí lí: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái? Tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đã khích lệ động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc vô lăng, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích? Ngữ điệu câu thơ “chỉ cần... một trái tim” thật nhẹ nhõm, song khả năng khắc họa hình tượng nhân vật và khơi gợi suy luận triết lí thật sâu sắc, trĩu nặng. Đằng sau những ý nghĩ ấy, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ mà là con người - con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Những chàng Thạch Sanh của thế kỉ XX họ hiểu rằng: Ôi! Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Q

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

M

Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta sẽ chết Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông.

(Sao chiến thắng - Chế Lan Viên)

ẠY

Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “không có kính, xe không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai của mưa bom bão đạn.

D

Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng vì miền Nam trăm đắng ngàn cay, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, tỏa sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở “trái tim” gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ chỉ cần trong xe có một trái tim là chân lí của thời đại chúng ta. Nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng, như Tố Hữu đã ca ngợi: Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí


Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường sáng tạo Trường Sơn cao hay địa đạo âm thầm

IC IA L

Cũng là linh hồn ta, từ bốn nghìn năm Tự xây đắp để ngang tầm thế kỉ.

(Tuổi hai mươi năm - Tố Hữu)

Ơ

N

O

FF

Câu thơ cuối cùng là câu thơ hay nhất trong bài. Nó là nhãn tự, là con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ. Đọc bài thơ ta dễ dàng nhận ra cái chất giọng rất trẻ, rất lính của nhà thơ. Cái nghịch ngợm ngang tàng, cái tếu táo ấy là những cái rất riêng trong thơ của Phạm Tiến Duật. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự linh hoạt của nhạc điệu, sự sáng tạo bất ngờ của hình ảnh, chi tiết... đã tạo nên chất thơ trong bài. Và chính từ thực tế cuộc sống chiến đấu, từ niềm vui sống của con người thời đại đã giúp cho nhà thơ xây dựng nên hình tượng thơ độc đáo để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lòng người đọc, ta như bị cuốn hút trong những lời thớ thật mạnh mẽ vui tươi của tác giả.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc họa, tôn vinh vẻ đẹp phẩm giá con người, hòa nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 - 1975. Lịch sử đã sang trang mới nhưng có lẽ hình ảnh những chiếc xe không kính cùng anh chiến sĩ lái xe vẫn sống mãi trong lòng bao thế hệ mai sau. Bài 76: Phân tích khổ thơ dưới đây trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. BÀI LÀM THAM KHẢO Nếu được làm hạt giống để mùa sau Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa Vui gì hơn làm người lính đi đầu Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa! (Chào xuân 67 -Tố Hữu)

Vui biết bao nhiêu khi lịch sử đã chọn những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi làm điểm tựa để ngọn lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta trở thành bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm tháng sục sôi khí thế xỏ dọc Trường Sơn đi cứu nước, Mà lòng phơi phới dậy tương lai ấy, nhân dân miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân nối dài ra trận có chàng trai trẻ


Phạm Tiến Duật - gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng âm từ mượt mà, âm điệu, du dương mà nó khiến người đọc say mê bằng chính sự tự nhiên, sôi nổi, trẻ trung và đậm chất người lính. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó, nó nằm trong chùm thơ ông được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Vẻ đẹp độc đáo được thể hiện rất hay trong khổ cuối của bài thơ:

IC IA L

Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Ơ

N

O

FF

Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã ghi dấu vẻ đẹp của người lính ở tư thế của người ra trận đầy khốc liệt không trộn lẫn ở tuyến đường vận tải Trường Sơn có một không hai trên thế giới, với một khí phách lái xe bất chấp mọi bom đạn, nắng mưa, gió bụi, đói ăn, thiếu ngủ. Bài thơ khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ.

U

Y

N

H

Khổ thơ dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị làm nổi bật sự khốc liệt trong chiến tranh nhưng cũng làm nổi bật ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, tình cảm sâu đậm với miền Nam ruột thịt. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt. Những chiếc xe bị bom đạn của đế quốc Mĩ làm cho biến dạng, trơ trụi, trụi trần:

Q

Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước.

M

Nhưng điều kì lạ là những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một lần nữa lí giải bất ngờ và rất chí lí: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Trái tim người lính cách mạng - trái tim của lòng quả cảm.

D

ẠY

Hai câu thơ đã đưa ta về những năm tháng của hào khí khói lửa trên tuyến đường huyền thoại: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước.

Câu thơ dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên nhiều lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc như những chặng gập ghềnh, khúc khuỷu đầy chông gai, bom đạn... Ấy vậy mà những chiếc xe như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:


Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim.

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Hai câu thơ đã khắc đậm hình ảnh đẹp của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Âm điệu đối chọi mà trôi chảy, êm ru, hình ảnh đậm nét. Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số an toàn, tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bởi phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “tất cả vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Công cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của nửa nước vẫn phải tiếp tục. Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế nữa, hình ảnh hoán dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ, gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Hình ảnh này kết hợp cùng kết cấu câu “vẫn - chỉ cần” đã lí giải về sức mạnh vượt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái? Tình yêu Tổ quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích.

Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ... mà là con người - con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường dũng cảm, niềm lạc

ẠY

quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là nhãn tự, là

con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thợ. Chính

D

điều đó đã làm ta nhớ tới ý thơ: Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời Gì quý hơn giá trị con người? Ta hiểu vì sao ta chiến đấu Ta hiểu vì ai ta hiến máu. (Chào xuân 67-Tố Hữu)


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể lay chuyển đuợc. Chính điều đó đã tạo cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng, để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục. Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn quân thù xứng đáng tiêu biểu cho chù nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời chống Mĩ. Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những con người có lí tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh thản, vui tươi. Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những chiếc xe không kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là lời khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính Cụ Hồ, các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ. Bài 77: Cảm nhận ba khổ cuối trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật: ... Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim BÀI LÀM THAM KHẢO Đoàn giải phóng quân một lần ra đi Nào có sá chi đâu ngày trở về Ra đi ra đi bảo tồn sông núi Ra đi ra đi thà chết chớ lui Cờ bay phấp phới ngời màu Lạc Hồng Kèn reo vang tiếng gọi dòng Lạc Hồng Cùng giải phóng quân Ra đi ra đi theo hồn sông núi. (Đoàn giải phóng quân - Phan Huỳnh Điểu) Mỗi lần nghe lại những khúc tráng ca về hình ảnh những chiến sĩ giải phóng quân mang trong mình nhuệ khí bừng bừng của dân tộc, ta như đang hòa mình trong tiếng ca vang trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.


Bài thơ khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ. Đây là đoạn cuối bài thơ ghi lại cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính, ca ngợi tình đồng đội và lí tưởng chiến đấu cao cả của những chiến sĩ lái xe trên con đường mòn Hồ Chí Minh: Những chiếc xe từ trong bom rơi

IC IA L

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

FF

Khúc hát quen thuộc gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng, khiến cho ta như đang được sống trong thời hào hùng của dân tộc. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ viết về những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Bài thơ về tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho hồn thơ khỏe, gân guốc đậm nét riêng của Phạm Tiến Duật in trong tập vầng trăng quầng lửa (1970) những bài ca chiến trận thấm đẫm màu sắc lãng mạn.

O

Sau những tháng ngày chở vũ khí, lương thực... chi viện cho tiền tuyến, vượt qua hàng nghìn hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, tiểu đội xe không kính đã về đây... Một cái bắt tay thắm tình bè bạn, tình đồng chí:

Ơ

Đã về đây họp thành tiểu đội

N

Những chiếc xe từ trong bom rơi

H

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

N

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

ẠY

M

Q

U

Y

Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội. Anh giải phóng quân trên đường ra chiến dịch, gặp bè bạn đồng đội bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Tình thương yêu đồng chí đồng đội là bản chất, là sức mạnh của người lính không hề thay đổi. Cái “bắt tay” thật đặc biệt – bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng. Chính hình ảnh bắt tay ngộ nghĩnh kia làm ta nhớ tới hình ảnh đôi bàn tay trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay, nhưng cái bắt tay qua cửa kính trên tuyến đường Trường Sơn lửa cháy này hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

D

Cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng chí, tình đồng đội biết bao: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy. Chỉ bằng ba chi tiết nhưng rất điển hình: “bếp Hoàng cầm, chung bát đũa, võng mắc chông chênh”, đời lính vốn giản dị, bình dị mà lại rất sang trọng. Giữa chiến trường đầy bom đạn mà họ vẫn đàng hoàng: Bếp Hoàng cầm ta dựng giữa trời. Giữa trời là giữa thanh thiên bạch nhật. Bữa


cơm dã chiến chỉ có một bát canh rau rừng, có lương khô... thế mà rất đậm đà: Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu, thật hóm hỉnh mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu. Một chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe không kính đã trở thành một tiểu gia đình chan chứa tình thương.

IC IA L

Thơ là nữ hoàng nghệ thuật (Xuân Diệu). Nếu thế thì ngôn từ là chiếc áo của nữ hoàng. Hai chữ “nghĩa là” chỉ dùng để đưa đẩy nhưng dưới ngòi bút của những tài thơ đích thực thì nó trở nên óng ánh, duyên dáng. Với Xuân Diệu, mùa xuân tuổi trẻ thật đẹp, thật đáng yêu, một đi không trở lại: Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

O

(Vội vàng- 1938)

FF

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Với Tố Hữu, người thanh niên cộng sản quyết chiến đấu và hi sinh vì một lí tưởng cách

N

mạng cao đẹp thì hận, nhục, tranh đấu là lẽ sống thiêng liêng:

N

H

Ơ

Tôi chưa chết nghĩa là chưa hết hận Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi Còn trừ diệt cả một loài thú độc. (Tâm tư trong tù - 1939)

Y

Với Phạm Tiến Duật, tình đồng đội cũng là tình anh em ruột thịt, vô cùng thần thiết:

U

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy. Có yêu thơ mới tìm đến thơ. Tìm đến thơ, một phần là tìm

Q

đến ngôn từ chữ nghĩa. Thơ đâu là chuyện “nhai câu nhả chữ” (chữ dùng của Cao Bá Quát). Thi sĩ có thực tài mới có thể thổi hồn vào ngôn từ. Chỉ qua hai chữ “nghĩa là”, ta đã thấy nhà thợ trẻ

M

rất xứng đáng với các thi sĩ đàn anh.

D

ẠY

Cảnh đoàn viên tri kỉ: Võng mắc chông chênh đường xe chạy. Sau một bữa cơm thân mật, một vài câu chuyện thân tình lúc nằm võng, những người lính trẻ lại lên đường. Tiền phương đang vẫy gọi: Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Điệp ngữ “lại đi” diễn tả nhịp bước hành quân, những cung đường, những chặng đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe không kính. Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng; thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỉ: Hoan hô Anh giải phóng quân Kính chào Anh, con người đẹp nhất! Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất


Sống hiên ngang, bất khuất trên đời Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi Một dây ná, một cây chông, cùng tiến công giặc Mĩ Không tự ngắm mình. Anh chẳng hay đâu. Hỡi chàng dũng sĩ! Cả năm châu, chân lí đang nhìn theo.

IC IA L

(Bài ca xuân 68 -Tố Hữu) Hình ảnh “trời xanh thêm” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời, chứa chan hi vọng. Là hi vọng, là chiến công đang đón chờ. Đây là một đoạn thơ thể hiện sinh hoạt vật chất và tinh thần người lính thời đánh Mĩ, rất độc đáo mà ta ít gặp trong thơ thời ấy.

N

O

FF

Khổ cuối bài thơ nói lên suy nghĩ của tác giả về tiểu đội xe không kính. Chiếc xe đầy thương tích, chiến tích. Không kính, không đèn, không mui xe, thùng xe bị xước. Chiếc xe vận tải quân sự mang tầm vóc những anh hùng lẫm liệt không biết tên. “Không” mà lại “có”, có “một trái tim” của người lính. Trái tim rực lửa, sẵn sàng hi sinh, chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc:

Ơ

Không có kính, rồi xe không có đèn

H

Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

N

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Q

U

Y

Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính lái xe lại chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.

D

ẠY

M

Các điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tương ứng: “vẫn... chỉ cần có”... đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có bom đạn nào của quân thù có thể làm lay chuyển được. Nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bão? Nhà thơ đã lí giải: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái “có”, đó là “một trái tim”. “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng... Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mĩ bạo tàn.

Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ có mệt cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lí thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con


người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.

IC IA L

Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mĩ. “Trái tim” trong thơ Phạm Tiến Duật là một hình ảnh hoán dụ, tuy không mới mẻ nhưng đầy ý vị. Đoạn thơ trên đây thể hiện rất thực, rất hay cách sống, cách nghĩ, cách cảm cửa những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử thời đánh Mĩ. Tình đồng đội, tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường vi sự nghiệp giải phóng miền Nam của người lính tỏa sáng vần thơ. Ngôn từ, hình ảnh, vần thơ, giọng thơ... đều mang chất lính, thể hiện một hồn thơ trẻ trung phơi phới, tài hoa, anh hùng. Đoạn thơ trên đây là một tiếng ca của khúc tráng ca Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

N

O

FF

Con đường chiến lược Trường Sơn là một chiến tích mang màu sắc huyền thoại của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mĩ. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã làm sống lại một thời gian khổ, oanh liệt của anh bộ đội Cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt đoạn thơ. Đoạn thơ cũng là một chứng tích tuyệt đẹp của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn anh hùng. Bài 78: Hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ qua hai tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật GỢI Ý LÀM BÀI

Ơ

1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận

U

Y

N

H

+ Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta.

M

Q

+ Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt, những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trong hai thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn.

- Dẫn ra vấn đề nghị luận.

ẠY

+ Tuy nhiên, hình ảnh người lính mỗi thời kì lại có những nét tương đồng và khác biệt, nên những bài thơ trong mỗi thời kì cũng khắc họa hình ảnh hai người lính khắc nhau, mà tiêu biểu là bài thơ đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

D

+ Những người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng ở họ đều có nhiều nét đẹp chung của người lính cách mạng và của con người Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nước. 2. Thân bài a. Sơ lược

- Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt chống Pháp và chống Mĩ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hon ba mươi năm chưa rời tay súng, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ là hình ảnh “con người đẹp nhất”, đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn của dân tộc.


Cùng với nhiều bàỉ thơ khác, bài thơ Đồng chí sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc và bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc họa thành công về đề tài người lính. - Hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kì lịch sử.

IC IA L

b. Phân tích 1.Người lính trong bài thơ Đồng chí

* Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện người lính nông dân thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà vô cùng cao quý.

O

FF

- Những người lính xuất thân từ nông dân, ở những miền quê nghèo khổ “nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá”. Họ chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ (Văn tế nghía sĩ cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu).

U

Y

N

H

Ơ

N

- Họ đến với cuộc kháng chiến với tinh thần yêu nước thật giản dị: nghe theo tiếng gọi cứu nước mà tự nguyện lên đường. Phía sau họ là bao cảnh ngộ: xa nhà, xa quê hương, phó mặc nhà cửa, ruộng vườn cho vợ con để sống cuộc đời người lính. Chữ “mặc kệ” trong câu thơ gian nhà không mặc kệ gió lung lay đã lột tả được tinh thần “mến nghĩa” của những người nghĩa binh nông dân trong thơ Nguyễn Đình Chiểu, tinh thần “ra đi không vương thê nhi” của các đấng trượng phu xưa và tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của những người tự vệ Thủ đô những ngày đầu kháng chiến chổng Pháp. Nhưng khi đặt cạnh hình ảnh “gian nhà không” và chữ “gió lung lay” thì có gì đó cảm động quá. Đó là đức hi sinh. Hi sinh cho quê hương đất nước. Một đức hi sinh giản dị lảm cảm động lòng người.

Q

- Trải qua những ngày gian lao kháng chiến đã ngời lên phẩm chất anh hùng ở những người nông

M

dân mặc áo lính hiền hậu ấy:

+ Cái nhìn hiện thực đã giúp nhà thơ ghi lại được những nét chân thực về cuộc đời đi chiến đấu

của người lính. Hình ảnh họ lam lũ với “áo rách vai”, “quần có vài mảnh vá”, với “chân không giày”. Đói, rét, gian khổ khắc nghiệt đã khiến người lính phải chịu đựng những cơn sốt rét: “miệng cười buốt giá”, “sốt run người”, “vừng trán ướt mồ hồi”. Trong hoàn cảnh đầy thử thách

ẠY

đó, sống được đã là kì tích. + Chính Hữu còn ghi được hình ảnh người lính can trường vượt lên vững vàng trên vị trí của

D

mình:

Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới.

- Họ có một đời sống tình cảm đẹp đẽ, sâu sắc: + Lòng yêu quê hương và gia đình thể hiện qua nỗi nhớ giếng nước gốc đa nhớ người ra lính, niềm thương “gian nhà không”, qua ý thức về cảnh ngộ quê hương anh nước mặn đồng chua


và làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

IC IA L

+ Từ hiện thực cuộc sống gian lao thiếu thốn, họ vun đắp được tình đồng chí keo sơn, gắn bó. Không phải vô cớ Chính Hữu đặt tên bài thơ là Đồng chí và nhiều lần trong bài thơ hai tiếng ấy đã vang lên. Tình đồng chí, đồng đội như là sự hội tụ, tập trung tất cả những tình cảm, những phẩm chất của người lính: lòng yêu thương giữa những con người cùng cảnh ngộ, tinh thần đồng cam cộng khổ, tinh thần kề vai sát cánh trong chiến đấu, sự gắn kết giữa những người cùng chung lí tưởng, chung mục đích và ước mơ. Gian lao thử thách khiến tình đồng chí, đồng đội thêm keo sơn, sâu sắc. Ngược lại, tình đồng chí ấy lại giúp người lính có sức mạnh để vượt qua gian lao thử thách.  Hình ảnh người lính Cụ Hồ trong những ngày kháng chiến chống Pháp được Chính Hữu khắc họa trong tình đồng chí cao đẹp, tình cảm mới của thời đại cách mạng.

O

2. Người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính

FF

 Họ được khắc họa và ngợi ca bằng cảm hứng hiện thực, bằng những chất thơ trong đời thường, được nâng lên thành những hình ảnh biểu tượng nên vừa chân thực, mộc mạc, vừa gợi cảm lung linh.

H

Ơ

N

* Nếu như những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ, quê hương họ là những nơi nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá thì những chiến sĩ lái xe Trường Sơn lại là những thanh niên có học vấn, có tri thức; đã được sống trong thời bình, được giác ngộ lí tưởng cách mạng cao cả, họ ra đi trong niềm vui phơi phới của sức trẻ hồn nhiên, yêu đời, yêu đất nước.

Y

N

- Hình ảnh người lính lái xe - hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam những năm chống Mĩ phơi phới, dũng cảm, yêu thương được khắc họa qua hình ảnh những chiếc xe không có kính và một giọng điệu thơ ngang tàng, trẻ trung, gần gũi.

M

Q

U

- Những chiếc xe không có kính là hình ảnh để triển khai tứ thơ về tuổi trẻ thời chống Mĩ anh hùng. Đây là một thành công, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Qua hình ảnh chiếc xe bị bom giặc tàn phá, nhà thơ làm hiện lên một hiện thực chiến trương ác liệt, dữ dội. Nhưng cũng chính sự ác liệt ấy lại làm cái tứ, làm nền để nhà thơ ghi lại những khám phá của minh về những người lính, về tinh thần dũng cảm, hiên ngang, lòng yêu đời và sức mạnh tinh thần cao đẹp của lí tưởng sống cháy bỏng trong họ (Bình giảng văn học 9 - Nguyễn Thành Huân).

D

ẠY

* Lưu ý: Phân tích các dẫn chúng: tư thế thật bình tĩnh, tự tin - ung dung buồng lái ta ngồi, rất hiên ngang, hào sảng - nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Một cái nhìn cuộc đời chiến đấu thật lãng mạn, bay bổng, trẻ trung - thấy sao trời và đột ngột cảnh chìm. Và độc đáo hơn nữa là tinh thần hóa rủi thành may, biến nhũng thách thức thành gia vị hấp dẫn cho cuộc đối đầu, khiến cho lòng yêu đời được nhận ra và miêu tả thật độc đáo: các câu thơ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” và thái độ coi nhẹ thiếu thốn gian nguy “gió vào xoa mắt đắng”. Họ đã lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, thái độ hiên ngang để thắng cái vạn biến của chiến trường gian khổ và ác liệt. - Sâu sắc hơn, nhà thơ bằng ống kính điện ảnh ghi lại được những khoảnh khắc bắt tay qua cửa kính vỡ rồi, nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Đó là khoảnh khắc người ta trao nhau và nhà thơ nhận ra sức mạnh của tình đồng đội, của sự sẻ chia giữa những con người cùng trong thử thách. Nó rất


giống với ý của câu thơ thương nhau tay nắm lấy bàn tay của Chính Hữu, nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. - Hai câu kết bài thơ làm sáng ngời tứ thơ “xe vẫn chạy...” về tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ: họ mang trong mình sức mạnh của tình yêu với miền Nam, với lí tưởng độc lập tự do và thống nhất đất nước.

IC IA L

c. Điểm tương đồng và khác biệt về hình ảnh anh bộ đội trong hai bài thơ 1. Tương đồng - Mục đích chiến đấu: vì nền độc lập của dân tộc. - Đều có tinh thần vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

FF

- Họ rất kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu. - Họ có tình cảm đồng chí, đồng đội sậu nặng.

O

2. Khác biệt

- Người lính trong bài thơ Đồng chí mang vẻ đẹp chân chất, mộc mạc cùa người lính xuất thân từ

N

nông dân.

Ơ

- Người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính luôn trẻ trung sôi nổi, vui nhộn với khí thế

H

mới mang tinh thần thời đại. - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

N

3. Kết bài

Y

+ Kết hợp giữa hiện thực hào hùng cùng cảm hứng lãng mạn cách mạng, hai bài thơ Đồng chí và

U

Bài thơ về tiểu đội xe không kính vang lên âm hưởng sử thi hào hùng của văn học nước ta trong

M

- Cảm xúc của bản thân

Q

suốt ba mươi năm kháng chiến trường kì gian khổ. + Xưa kia, những người lính chống Pháp ra đi với giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ, anh vệ

quốc quân ơi, sao mà yêu anh thế (Cá nước - Tố Hữu), rồi những người lính trong kháng chiến chống Mĩ lên đường trong sự phấn khởi, với tinh thần xẻ dọc Trường Sơn dị cứu nước, mà lòng

ẠY

phơi phới dậy tương lai (Theo chân Bác - Tố Hữu).

D

+ Còn hôm nay, khi những người lính của thời hòa bình đang ngày đêm canh giữ ngoài đảo Trường Sa, bảo vệ bình yên cho đất nước, ta mới thấy vẻ đẹp cao vời vợi của những người lính. Trước đây, bây giờ và sau này, những người lính sẽ mãi là biểu tượng đẹp của dân tộc.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

BẾP LỬA – Bằng Việt Bài 84: Phân tích đoạn thơ thứ nhất trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đền giờ sống mũi còn cay! Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà? Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú oi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? BÀI LÀM THAM KHẢO Trong cuộc đời mỗi con người, chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng kí ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Nếu như Tiếng gà trưa đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về một thời thơ ấu trong tình thương yêu của bà, thì với Bằng Việt lại là hình ảnh Bếp lửa, nó là biểu tượng cho sự ấm áp, nồng đượm của tình bà cháu. Bếp lửa đã khơi gợi nhóm lên, lan tỏa, tan chảy mãi dòng hồi ức tuổi ấu thơ, thao thức, đượm đà... Hình ảnh bếp lửa thật giàu ý nghĩa cho nên trôi mãi trong vần thơ chính là mở đầu cho nỗi nhớ của tác giả. Nỗi nhớ bà, nhớ chính cái bếp lửa thân quen ấy. Thơ của Bằng Việt thật thiết tha, nồng đượm, lắng sâu, giản dị, ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, toát lên những tình cảm thiết tha, chân thành không thể nào quên. Đây là những vần thơ, câu thơ tha thiết của Bằng Việt gợi thương, gợi nhớ trong lòng tuổi thơ chúng ta: , Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Tràn ngập bài thơ, đoạn thơ là một tình thương nhớ mênh mông, bồi hồi. Ba câu thơ đầu nói lên hai nỗi nhớ: nhớ bếp lửa, nhớ thương bà: '

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.


O

FF

IC IA L

Những hình ảnh mở đầu vừa thực vừa hư như trong truyện cổ tích. Ngọn lửa nhỏ mờ trong sương sớm mai, hai hình ảnh lúc ẩn lúc hiện tạo nên một quang cảnh trữ tình làm lay động cảm xúc dạt dào của tác già. Bếp lửa! Hình ảnh từ trong sâu thẳm tiềm thức khi ẩn khi hiện, khi mờ trong nỗi nhớ nôn nao của người cháu khi xa cách lâu ngày. Bếp lửa gắn bó với mỗi gia đình Việt Nam, với sự tần tảo chịu thương chịu khó của bà. Từ “ấp iu” được dùng rất sáng tạo. Đó là kết quả rút gọn và nối kết của bao từ “ấp lửa, chắt chiu, nâng niu”. Đi với động từ này là tính từ “nồng đượm”. Những điều đó đã nói lên rằng bếp lửa đã có một linh hồn, trở thành bếp lửa ủ chứa tình thương của cháu đối với cuộc đời lam lũ, trải qua “nắng mưa” của người bà. Bếp lửa “ấp iu nồng đượm” được nhen nhóm bằng sự nâng niu, ôm ấp của tình thương. Nhớ bếp lửa là nhớ đến bà “biết mấy nắng mưa”, trải qua nhiều vất vả, khó nhọc. Điệp ngữ “một bếp lửa” kết hợp với câu cảm thán làm cho giọng thơ bồi hồi xúc động: Từ đây hai hình ảnh, hai nỗi nhớ đan xen nhau thành hai bệ phóng cho cảm xúc nhà thơ thăng hoa. Có một thời gian khổ mà không thể nào quên. Có những người đã gắn bó với tuổi thơ chúng ta, trở thành kỉ niệm, mang theo bao tình thương nỗi nhớ sâu nặng trong lòng ta. Rồi tác giả đã vận dụng các giác quan để làm sống lại thời thơ bé cùng sống với người bà nhân hậu, chịu thương chịu khó: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

N

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

Từ thị giác “chờn vờn sương sớm” cảm giác “ấp iu nồng đượm” và khứu giác “hun nhèm mắt cháu” để nói về đoạn đời đói khổ, đói đến mòn mỏi, hình ảnh người bố đi đánh xe về khô rạc với con ngựa gầy còm. Tất cả đều hội tụ trong mùi khói hun đen nghẹt thở nao lòng của tuổi thơ. Đó là một vòm trời cổ tích rất cao rộng và nhuốm màu lãng mạn trong thời thơ bé, hay nói đúng hơn khói bếp đã bao trùm suốt khung trời tuổi thơ của tác giả. Ấn tượng về cuộc sống đói khổ và khói bếp nhà nghèo đã đọng lại và da diết trong kí ức của nhà thơ nghĩ lại đến giờ sắng mũi còn ca! Quá khứ tuổi thơ cay cực đã qua rồi mà dư vị một thời thơ bé vẫn ám ảnh Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ, kỉ niệm buồn khó quên: “năm đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựạ gầy”, “khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay”. Bằng Việt sinh năm 1941, năm nhà thơ lên bốn tuổi, là cuối năm 1944 đầu năm 1945, nạn chết đói kinh khủng đã xảy ra, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Đó là kỉ niệm về “lửa khói”, về “khói hun”, một cảnh đời nghèo khổ gắn liền với bếp lửa gia đình trước Cách mạng, vần thơ là tiếng lòng thời thơ ấu gian khổ, rất chân thực cảm động: Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! “Nghĩ lại đến giờ” đó là năm 1963, đã mười chín năm trôi qua, mà đứa cháu vẫn cảm thấy “sống mũi còn cay!”. Kỉ niệm buồn, vết thương lòng,.khó quên là vậy! Nghĩ lại thấy xót thương trong hồi ức về bà... Tuy chỉ là một đoạn thời thơ ấu nhưng thời gian ấy dài lắm - những tám năm: Tám năm rồng cháu cùng bà nhóm lửa Tú hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Cuộc sống đói khổ đã làm vấy đen đi tuổi bé thơ hồn nhiên của tác giả. Chỉ mới bốn tuổi thôi mà trông già dặn lắm rồi, già đi do tám năm trời dài vô tận. Tám năm của biết bao khó nhọc,


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tám năm của cái đói và cái vất vả đeo đẳng nhưng chẳng thể nào thoát ra được. Từ bếp lửa cho đến nhóm lửa thật logic đã góp phần tô đậm thêm cái vất vả ấy. Nhưng chính bên bếp lửa, trong cái ánh lửa ấm sáng của tình bà cháu đã hồng lên ngọn lửa kiên trì dai dẳng, niềm tin vào ngày kháng chiến thắng lợi, đất nước sẽ trở lại bình yên. Và bấy giờ lại xuất hiện thêm một hình ảnh gần gũi thân quen. Có tiếng chim tu hú kêu gọi mùa lúa chín trên những cánh đồng quê. Tiếng chim tu hú, những chuyện kể của bà về Huế thân yêu đã trở thành kỉ niệm. “Tu hú kêu...”, “khi tu hú kêu...”, “tiếng tu hú”..., cái âm thanh đồng quê thân thuộc ấy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần càng trở nên tha thiết bồi hồi. Tiếng tu hú sóng đôi cùng bếp lửa gợi lên những liên tưởng gần xa. Đời bà và cháu chỉ quanh quẩn bên chiếc bếp gần gũi mà nghe tiếng tu hú kia sao giục giã như khắc khoải những khao khát rộng dài đến một không gian xa xôi ở cuộc sống khác, một không gian có những cánh đồng, có mùa quả ngọt trong mùa hè rực nắng, có cánh phượng đỏ, có mùa lúa chín... Nghe não lòng! Cái âm thanh quen thuộc ấy là tiếng vọng gợi nhớ nơi thời gian, năm tháng của kỉ niệm về gia đình, về quê hương yêu thương, về những giây phút vắng bóng mẹ cha, chỉ còn bà. Đó là tiếng vọng thời gian, năm tháng của kỉ niệm về gia đình (bếp lửa), về quê hương (tiếng chim tu hú) yêu thương. Cháu thầm hỏi bà hay tự hỏi lòng mình về một thời xa vắng. Cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong sự nuôi dưỡng yêu thương của bà: Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học “Cháu ở cùng bà” từ ngữ thật hay và hàm súc “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” vai trò của bà trong gia đình thật to lớn. Năm tháng đã trôi qua, thế mà bà vẫn khó nhọc vất vả nhóm bếp. Ngẫm nghĩ ngọn lửa hồng và tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu nhỏ bỗng thốt lên câu nói giản dị nhưng dạt dào tình yêu thương, cảm xúc cứ trào lên như dòng sông vỗ sóng trong lòng. Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lửa của sự sống, nhóm ngọn lửa của tình thương. Tám năm ấy, đất nước có chiến tranh mẹ cùng cha công tác bận không về cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong tình thương và sự chăm sóc nuôi dưỡng của bà. Hai câu thơ mười sáu chữ mà chữ “bà”, chữ “cháu” đã chiếm đúng một nửa. Ngôn từ đã hội tụ tất cả tình thương của bà dành cho cháu. Một tình thương ấp ủ, chở che. Vai trò người bà trong mỗi gia đình Việt Nam thật vô cùng to lớn. Năm tháng đã trôi qua thế mà bà vẫn “khó nhọc” vất vả “nhóm bếp lửa”. Nghĩ về ngọn lửa hồng của bếp lửa, nghĩ về tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu gọi thân thiết, tiếng chim tu hú “kêu chi hoài”. Cảm xúc cứ trào lên: Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc Tú hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? Cháu cảm thông với nỗi nhọc nhằn của bà, cháu đã dần khôn lớn trong vòng tay chở che ấm áp ấy. Cháu càng lớn càng cảm thấy xót thương cho mảnh đời bất hạnh của tu hú. Cháu muốn tu hú cũng được sự chăm sóc như bà đối với mình. Kỉ niệm cứ hiện dần lên và trong xúc cảm, hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa đã hòa quyện đồng nhất thành một. Trong lòng cháu, hai hình ảnh như một. Tuy một mà hai, năm chữ “nghĩ thương bà khó nhọc” nói lên lòng biết ơn bà của đứa cháu đã và đang mang nặng trong trái tim mình tình thương của bà dành cho mình. Đoạn thơ đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ và dào dạt cảm xúc. Cháu thương nhớ bà không bao giờ quên. Bằng thể thơ tự do tám chữ (có xen bảy chữ), tác giả đã tạo nên một giọng thơ thiết tha, chất thơ trong sáng truyền cảm, hình tượng đẹp. Bếp lửa, tiếng chim tu hú, người bà là ba hình


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tượng hòa quyện trong tâm hồn đứa cháu xa quê. Ở đây, tình thương nhở bà gắn liền với tình yêu quê hương đât nước. Tác giả đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, cách gieo vần, láy điệp từ và những hình ảnh có sức thuyết phục cao và những liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị đoạn thơ. Ta cảm nhận được ở đây tấm lòng biết ơn sâu nặng, nhớ nhung da diết, tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà yêu dấu. Đặc biệt qua đoạn đầu ta đã hiểu thêm được nguyên do vì sao tác giả lại có tình thương yêu vô bờ đối với quê hương như vậy? Do công lao trời biển của bà mà chắc hẳn rất ít ai sánh được. Khâm phục, cảm động, bất giác ta có thể thốt lên rằng: Ôi! Bà thật là con người vĩ đại. Bài 85: Cảm nhận về tình người trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt BÀI LÀM THAM KHẢO Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước hên đường hôm nao. (Ca dao) Quê hương, hai tiếng yêu thương mà thiêng liêng biết mấy! Bài ca dao trên như thay lời nói của tất cả mỗi người con xa quê. Xa quê hương ai cũng nhớ quê hương mình với những hình ảnh quen thuộc: cây đa, giếng nước, sân đình... nhớ những món ăn giản dị đời thường của quê hương: canh rau muống, cà dầm tương... nhớ những người thân yêu trong gia đình. Chính nỗi nhớ về quê hương thân yêu đã khơi nguồn mạch cảm xúc cho biết bao nhà thơ. Cũng từ hình ảnh bếp lửa quen thuộc gần gũi của gia đình mà Bằng Việt đã cho ra đời thi phẩm rất đặc sắc Bếp lửa vượt dòng thời gian. Sống xa quê hương, sinh sống và học tập bên nước bạn xa xôi, Bằng Việt luôn nhớ về mảnh đất quê hương của mình - nơi chôn nhau cắt rốn, nơi anh đã cất tiếng khóc chào đời. Và anh nhớ nhất là hình ảnh bếp lửa quen thuộc gần gũi trong gia đình. Đặc biệt hơn, hình ảnh ấy gắn liền với hình ảnh người bà thân yêu của anh. Bếp lửa là hình ảnh tập trung xuyên suốt cả bài thơ, là nguồn cảm hứng khơi dậy tình cảm bà cháu, gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà trong chiến tranh. Bằng Việt đã nhắc tới hình ảnh bếp lửa mười lần và mỗi lần đều hiện lên những kỉ niệm về bà. Mỗi khi nhắc đến bếp lửa là cháu lại nhớ tới bà. Nhớ những buổi sớm mai bà dậy sớm nhóm lửa. Việc đồng hiện lên hình ảnh bếp lửa và bà trong bài thơ thật dễ khiến cho người ta có một sự liên tưởng về mối quan hệ lạ kì, thiêng liêng. Từ bếp lửa của củi rơm đến bếp lửa của lòng người có lẽ hơn bao giờ hết con người cảm nhận thật rõ về tình bà cháu, tình quê nồng ấm: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Có lẽ vì thế mà người ta có cảm giác bếp lửa kia chính là tình cảm của người bà đôn hậu. Nỗi nhớ về bếp lửa dược nói trực tiếp song không vì thế mà giảm đi phần sầu lắng, tinh tế. Hình ảnh bếp lửa gợi nhớ bằng nhiều giác quan, bằng trí tưởng tượng: thị giác (chờn vờn sương sớm), cảm giác (ấp iu nồng đượm), khướu giác (sống mũi còn cay) và xúc giác (hun nhèm mắt cháu). Tác giả hướng mọi giác quan để quay về sống lại kì niệm trong trí tưởng tượng. Dường như không còn cảm giác khoảng cách của thời gian ở đây nữa, mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi! Hình ảnh bếp lửa còn gắn với người bà đầy thân thương. Tuy không trực tiếp nói ra song người đọc hình dung được công việc của người bà: nhóm bếp. Tuổi thơ của cháu gắn với bếp lửa, với mùi khói cay nhèm và cũng gắn chặt với bà. Phải chăng hình ảnh: Một bếp lửa ấp iu nồng đượm chính là hóa thân của tình cảm bà dành cho cháu. Có lẽ vì vậy tìm về với bếp lửa quê nhà cũng chính là tìm về tuổi thơ sống bên bà dành cho cháu. Sự tương đồng đẹp đẽ ấy dễ thương mấy ai nhận ra. Chỉ có Bằng Việt với khoảng cách thời gian đầu đời trong sáng được gắn bó bên bà mới có thể cảm nhận sâu sắc đến thế, cái tưởng chừng quá bình dị, mộc mạc. Đắm mình trong dòng hồi ức tươi mát của tác giả, chúng ta muốn tìm đến với những tình thương yêu nồng hậu như thế: Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc. Cái ấm áp của “bếp lửa” và “tình người” trong sự tương đồng, ta đã biết. Đằng sau đó dường như còn có một sự tương đồng nữa. Bếp lửa và người bà đều là những gì gắn bó, thân thương nhất với kỉ niệm của cháu. Nếu “bếp lửa củi rơm” gắn với cảm nhận “mùi khói”, với kỉ niệm “khói hun nhèm mắt cháu”, với dư vị “sống mũi còn cay” thì người bà gắn với tuổi thơ cháu vừa như một người biết chăm sóc, vừa như một người bạn lớn. Những kí ức như ùa vào trong tâm tưởng cháu. Đó là từ năm: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói, lại cả những năm “đói mòn đói mỏi”, những lúc bà hay kể chuyện nhũng ngày ở Huế nhũng khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi... Từ lúc nào tuổi thơ nhỏ bé của cháu đã được truyền hơi ấm từ bếp lửa, từ bà? Một điều không thể ngẫu nhiên là: mỗi khi nhắc về bếp lửa thì lại thấy xuất hiện người bà và mỗi khi xuất hiện người bà lại thấy công việc của bà xoay quanh bếp lửa: Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc. Không nói mà tình cảm vẫn dạt dào, không hô hào, bồng bột mà người ta vẫn không thể làm ngơ trước sự chân thành. Đó có lẽ là nhũng gì mà Bằng Việt đã làm khi dựng lên hình ảnh song song mà hòa hợp với nhau giữa “bếp lửa” và “người bà”. Trong kỉ niệm, trong cảm xúc của mỗi nỗi nhớ, lí trí đã nhường chỗ cho tình cảm và cái rõ ràng, minh bạch đã nhòe đi để được thêm những cái mơ màng, chập chờn của hồi ức. Hình ảnh bà và bếp lửa qua tâm trạng ấy đã đồng nhất, hòa quyện với nhau. Tuy một mà hai, tuy hai mà một để chỉ còn hiện lên trong tâm tưởng người cháu một cái gì thật “ấp iu, nồng đượm”. Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ xét cho kĩ thì chính là điểm gợi niềm cảm hứng, là cầu nối để đứa cháu phương xa ngàn dặm gửi tình thương nỗi nhớ về bà, về quê hương. Nhưng qua dòng hồi tưởng nhẹ nhàng tươi mát của cháu, bếp lửa của củi rơm kia cũng không còn là bếp lửa bình


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

thường như cái nhìn trước đó. Nó trở thành một hình ảnh cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí người cháu và không lần nào cái bếp lửa bình dị ấy không gắn với hình ảnh người bà tảo tần, đầy thân thương. Và vì: Nếu có một bếp lửa quê nhà vẫn “chờn vờn sương sớm” thì cũng có một ngọn lửa tình bà “ấp iu nồng đượm”. Có lúc hai thứ lửa ấy cùng tách ra, lại có khi hợp cùng nhau. Khi tách ra nó gợi về những kỉ niệm: kỉ niệm về bếp lửa củi rơm (“khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay”) kỉ niệm về bếp lửa tình bà (“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế", “Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”). Nhưng khi đã hòa hợp với nhau nó trở thành một thứ tình cảm thiêng liêng, kì lạ biết bao trong cái bình dị. “Sống mũi còn cay” là sự thực của ngày xưa ngồi cạnh bếp lửa, bên bà và là thực của hôm nay (và chắc là mãi mãi) của tình bà cháu. Nếu ở câu thơ đầu chỉ là cháu thương bà biết mấy nắng mưa, sau một dòng chảy dài của cảm xúc dâng trào chảy theo hồi ức thơ ấu, thì giờ đây câu thơ đã kết lại bằng một sự suy ngẫm sâu sắc: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa. Và rồi cứ như thế, bà vẫn hi sinh âm thầm lặng lẽ, mà: Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm. Một sự vất vả, khó nhọc mà cũng trở thành thói quen trong cuộc đời người bà đầy gian truân, trắc trở ấy! Bà cứ lặng thầm, lặng thầm như thế, để rồi: Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm hồn tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa! Trong cái hòa quyện tuyệt vời, người ta thấy cái nóng, cái đượm của bếp lửa củi rơm cũng như cái nồng, cái ấm áp của bếp lửa lòng người. “Bếp lửa” kì lạ, thiêng liêng ấy nhóm “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới” cũng dành nhóm cả “niềm yêu thương”, “tâm tình tuổi thơ”. Thực là diệu kì. Tại sao nói đoạn thơ trên là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ, câu trả lời có lẽ nằm ở cái tình ấm lửa trong đó mà lúc nào cũng được ấp ủ: Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng... Tình cảm của bà rõ ràng đã được tượng trưng hóa với “ngọn lửa”. Nếu nói “bếp lửa” e rằng chưa thật đúng, còn nói “ngọn lửa” thì người ta cảm thấy cái linh hồn, tình cảm đã nằm ngay ở đó. Ngọn lửa ấy phải chăng là tâm huyết, nhiệt huyết (chứa niềm tin dai dẳng) phải chăng là tình yêu (lòng bà luôn ủ sẵn)? Từ “bếp lửa” đến “ngọn lửa” có lẽ là hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn. Một lần nữa hình ảnh “bếp lửa” hay “ngọn lửa” đã tiếp tục tôn cao lên tấm lòng chân chất, tình thương giản dị sâu sắc mà đôn hậu của bà. Chúng ta có thể hình dung về “bếp lửa” trong kí ức tuổi thơ của tác giả chính là hiện hữu của một tình yêu nồng nàn, đượm đà mà bà dành cho cháu? Cái chính là bà lúc nào cũng ấp ủ một ngọn lửa vô hình song “dai dẳng”, “thiêng liêng” để lúc nào cũng vậy hễ nhắc tới “bếp lửa” thì tác giả và người đọc luôn cảm thấy có bà trong đó. Chẳng phải vô tình mà trong suốt bài thơ, hình ảnh “bếp lửa” cứ ám ảnh tâm trí Bằng Việt như vậy. Không dưới mười lần tác giả nhắc tới hình ảnh đó và lần nào cũng kèm theo sự xuất


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

hiện của bà. Tác giả đang làm cái công việc của người đi so sánh giá trị hai vẻ đẹp “bếp lửa” và “người bà” chăng? Không hẳn như vậy! Đọc kĩ lại ta thấy Bằng Việt đã làm một mĩ từ có hiệu quả cao nhất: ẩn dụ. Hình ảnh bếp lửa là ẩn dụ của ngọn lửa nồng hậu nơi người bà, và tình cảm người bà chính là ẩn dụ ngọn lửa - một thứ tình yêu cao cả nhất. Ta đã biết “người bà” và “bếp lửa” là hai giá trị chẳng thể nào tách rời trong hồi ức của tác giả thì lẽ nào tác giả lại đi làm công việc trái ngược nhau. Bếp lửa tượng trưng cho cái đơn sơ; khiêm nhường. Đã bao giờ chúng ta nghĩ về bếp lửa nhà mình như thế này chưa: nó giản dị, đơn sơ (chỉ vài que củi, một ôm rơm, một cái kiềng là thành một bếp lửa). Nó cũng thật khép nép khi thu mình vào trong góc bếp chật chội. Nhưng bếp lửa cũng là một cái gì đó rất ấm áp nồng đượm (những ngày đông lạnh thấu da thấu thịt). Người bà cũng vậy: thật chân chất, mộc mạc, dân dã, song ẩn chứa tình yêu vô bờ, tha thiết, chan chứa. Qua con mắt nhà thơ, bếp lửa và bà bình dị, cao quý, thiêng liêng. Lấy hình ảnh của bếp lửa để nói về tình cảm của bà dành cho mình, ta có thể thấy rõ Bằng Việt phải nặng lòng với bà, với quê hương lắm. Một đứa con xa quê hương, một đứa cháu xa bà luôn luôn thường trực trong nỗi nhớ về bếp lửa - về tình yêu ấm nồng tưởng như cái lạnh cái cô đơn ở quê người cũng đôi chút vơi đi vậy. Nhưng nhớ về cái bếp lửa phải chăng cũng đồng nghĩa với việc nhớ quê nhà, nhớ về bà đồng nghĩa với việc nhớ về tổ ấm gia đình vói niềm vui sum họp: Giờ cháu đã đi xa. có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?... Trong tình cảm của bà có tình cảm của đất nước, tác giả nhớ đến tình bà cũng là nhớ đến đất nước quê hương. Đúng như nhà văn Nga I-li-a-ren-bua đã từng nói: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Nói như vậy có nghĩa là tình cảm của bà trở nên lòng yêu Tổ quốc là một ẩn dụ về tình cảm của đất nước dành cho những người xa quê. Hành trình từ “bếp lửa” đến “ngọn lửa” là hành trình của giọt nước hòa vào suối và đổ ra sông... Càng ngày càng thiêng liêng, cao cả. Bếp lửa là một dòng hồi tưởng “chờn vờn”, “nồng đượm”, rực sáng mãi không thôi trong lòng những người dù chỉ đến với nó một lần. Làm cho chúng ta sống lại tuổi ấu thơ cảm động bên người bà yêu dấu với tình thương bao la, sâu đậm ở một miền quê còn nhiều gian khổ. Một ngọn lửa mãnh liệt như vậy liệu có bao giờ vụt tắt được chăng? Bài 86: Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt BÀI LÀM THAM KHẢO Quê hương - hai tiếng thiêng liêng mà trong tim mỗi người ai cũng dành một tình cảm riêng. Những tình cảm ấy thật cao đẹp và đáng trân trọng. Ai đi xa nơi đất khách quê người cũng luôn hướng về quê hương - nơi chôn nhau cắt rốn. Trong tâm khảm mỗi người, ai cũng lưu giữ những âm thanh, cảnh sắc quê nhà, những kỉ niệm cảm động và nhất là tiếng ru ầu ơ, dịu ngọt của mẹ, mái tóc bạc phơ của bà người đã tần tảo chăm chút, nuôi ta khôn lớn. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt đã thổi một nguồn sống mọi thức tỉnh những năm tháng tuổi thơ vào lòng hàng triệu con người. Những tình cảm đẹp ấy được diễn tả rất thơ... Bếp lửa là tiếng thơ của một tấm lòng có cội nguồn của một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, phong phú và mới mẻ. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, hình ảnh người bà bao giờ cũng hiện lên cùng bếp lửa. Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

cùng thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy. Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm I960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963, khi tác giả mười chín tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ Hương cây - Bếp lửa, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu. Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp ấy, mạch hồi tưởng của bài thơ bắt đầu: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Khổ thơ chỉ vỏn vẹn ba câu mà đã hai lần lặp lại điệp từ “một bếp lửa”. “Bếp lửa” ấy là hình ảnh vô cùng gần gũi và thân quen với mỗi gia đình Việt Nam từ bao giờ. Từ láy “chờn vờn” vừa tả ánh sáng lập lòe và từng làn khói vương vấn của bếp lửa mới nhen buổi sớm, vừa gợi lại hình ảnh bóng bà chập chờn in trên vách. Kết hợp với sự mờ ảo của “sương sớm”, những mảnh kí ức ấy như ẩn hiện trong làn sương vương vấn mùi khói, không hề thiếu đi sự nồng ấm. “Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm hưởng của từ láy, vừa là sự kết hợp của ấp ủ và yêu thương, vừa gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của người nhóm lửa. Sự “nồng đượm” kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm trân trọng của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thắp lên ngọn lửa ấy. Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” đã tạo nên sự hòa phối âm thanh làm cho câu thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã thốt lên: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, thật giản dị mà vẫn trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu. Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn ám đầy mùi khói: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy. Nếu như tuổi thơ của những người bạn cùng trang lứa khác có những câu chuyện cổ tích về bà tiên và phép màu kì diệu thì thời thơ ấu của Bằng Việt gắn bó với bà và bếp lửa. Lời thơ giản dị như những câu văn xuôi, như những lời thủ thỉ tâm tình dẫn dắt người đọc về miền kí ức tuổi thơ. Đâu đó vọng về trong tiềm thức người cháu bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 hơn hai triệu người chết... thây chất đầy đồng... bán vợ đợ con... gia đình li tán... lay lắt tang thương... Cái đói đến mức chỉ một bữa ăn đã có thể giúp người ta tìm được một người vợ như từng được mô tả trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân. Mới lên bốn tuổi, đứa trẻ trong bài thơ đã phải chứng kiến một trong những thời kì đen tối, đói khổ nhất của nhân dân ta do sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Từ “đói” được điệp lại, từ “mòn mỏi” được tách dãn ra, gợi lên một cái đói thê lương, deo dắt.


O

FF

IC IA L

Trí óc non nớt của đứa trẻ chỉ ghi nhận lại được vài hình ảnh, mà đặc biệt là sự còm nhom, xơ xác của chú ngựa thồ - phương tiện mưu sinh chính của cả gia đình. Trong cụm từ "khô rạc ngựa gầy” gợi lại một nạn đói mà cả động vật cũng không tìm được cái ăn, nói gì đến con người. Thế nhưng, chỉ với từ "chỉ nhớ” thôi, nhà thơ đã phủ lên những hình ảnh tang thương kia những làn khói từ bếp lửa của bà: Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! Cái “hun nhèm” của làn khói ấy gợi cho ta đến một bếp lửa củi mùn, rơm rạ cháy lì lụt, một tuổi thơ vất vả, thiếu thốn. Nhưng cũng chính mùi khói ấy đã xua đi mùi tử khí khắp các ngõ ngách, chính mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Lại một lần nữa, ta nhớ đến Vợ nhặt của Kim Lân: Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người, chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Nhưng mùi khói trong thơ Bằng Việt thì có sức gợi hơn rất nhiều, bởi vì nó đượm nồng hơi ấm từ bàn tay chăm chút của bà. Dù bao tháng năm có trôi qua thì kí ức ấy vẫn lưu lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn tác giả, để rồi câu thơ lắng xuống bởi vần bằng của tiếng “cay”. Là mùi khói làm cay mắt cháu hay chính tấm lòng người bà làm cháu không cầm được nước mắt vì nhớ thương bà? Bút pháp kể tả đan lồng đã đưa người đọc đến với những năm tháng đói khổ, thiếu thốn nhưng vẫn ngập tràn yêu thương. Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về:

N

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Ơ

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

H

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

N

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

D

ẠY

M

Q

U

Y

“Tám năm ròng” là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh bà và bếp lửa của tình bà cháu đã gợi ra một liên tưởng, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ - tiếng chim tu hú. Theo truyền thống văn học, tiếng chim tu hú thường gợi nên sự khắc khoải, xa cách, trông mong, một âm thanh mang sắc điệu trầm buồn. Tiếng chim vang vọng ấy rất khác với những âm thanh căng tràn sự sống trong thơ Tố Hữu: Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đương chín trái cây ngọt dần. (Khi con tu hú -Tố Hữu) Cùng là tiếng tu hú kêu mỗi độ vào hè nhưng với Bằng Việt, âm thanh ấy như giục lúa mau chín để người nông dân mau thoát khỏi cái đói, như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những câu chuyện êm đềm cho tuổi thơ của cháu. Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác giả phải thốt lên lời cảm thán rằng “sao mà tha thiết thế”. Điệp từ “tu hú” được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến lời thơ có âm điệu thật bồi hồi, tha thiết, khiến bản thân người đọc cũng như nghe vẳng lại đâu đây tiếng tu hú từ trong tiềm thức của tác giả. Sự điệp lại ấy còn gợi lên những nỗi nhớ trùng điệp, vấn vít vào nhau - nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình càng khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà thêm thăm thẳm, vời vợi. Tiếng chim tu hú đã trở thành một phần tuổi thơ, một mảnh tâm hồn cháu, là sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ và hiện tại. Tiếng vọng đồng chiều ấy vang lên trong khổ thơ càng như giục giã, như khắc khoải một điều gì đó tha thiết lắm, để dòng kỉ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sâu hơn trong không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Và trong dòng chảy ấy, hiện lên những kí ức thân thương về tình bà cháu sâu đậm: Mẹ cùng cha công tác hận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc. Tám năm tuổi thơ của tác giả cũng chính là những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà. Bằng Việt đã khơi lại những kỉ niệm ngày ấy bằng nghệ thuật liệt kê: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”... mỗi một kí ức hiện về là thêm một lần hình ảnh bà được khắc sâu trong tâm trí cháu. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của cháu. Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại. Xuân Quỳnh từng viết về một người bà như thế trong Tiếng gà trưa: Tiếng gà trưa Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng. Với Bằng Việt cũng vậy, được ở với bà là cả một niềm hạnh phúc vô bờ. Cặp từ “bà” và “cháu” xuất hiện trong từng phép liệt kê như gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn bó, quấn quýt không rời, gợi lên một thế giới mà trong đó bà là tất cả. Cùng bà nhóm bếp hàng ngày, tác giả thấm thía được những gian lao, vất vả của bà khi phải một mình chăm sóc cháu, để rồi lời thơ như thủ thỉ một lời tâm tình “nghĩ thương bà khó nhọc”, và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về: Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà . Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? Câu cảm thán “tu hú ơi!” kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Ở giữa nước Nga xa xôi, tiếng chim tu hú vọng lại trong hồi ức của Bằng Việt khiến nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ cùng những câu hỏi mênh mang: khi cháu đã đi rồi thì ai sẽ “cùng bà nhóm lửa”, ai sẽ nghe bà “kể chuyện những ngày ở Huế”... Lời thơ là hỏi chim tu hú, hay là hỏi chính mình? Là lời than thở, trách móc hay chính là mong ước khôn nguôi muốn được trở lại bên bà? Nhà thơ Anh Thơ cũng từng đồng điệu với những cảm xúc ấy: Con đi dài thương nhớ Mười năm chưa về quê Tu hú ơi tu hú Kêu chi hoài vườn xanh? (Tiếng chim tu hú - Anh Thơ) Nỗi lòng của chim tu hú kêu chi hoài trên những cánh đồng xa đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả: Cũng chính chiếc thuyền đầy kỉ niệm ấy đã đưa người đọc từ dòng sông của tình bà cháu đổ vào biển cả của lòng yêu nước, của đức hi sinh: Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’’ Chiến tranh đã gây ra bao đau thương, mất mát, tàn phá khắp mọi nơi trên đất nước ta, cướp đi của con người tất cả mọi thứ. Chính chiến tranh đã gây nên bi kịch của tình cha con trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, khởi dậy những vần thơ vang tiếng căm thù của những nhà thơ cách mạng... Nhưng với Bằng Việt, cũng từ đó mà ông mới cảm nhận được vẻ đẹp trong góc khuất của tâm hồn bà. Câu thơ với động từ “cháy” được lặp lại, từ ghép “tàn, rụi” được tách ra khiến hiện thực thời chiến không chỉ lấp đầy câu thơ mà còn tràn ngập khắp không gian kí ức. Trong từ láy “lầm lụi” hiện lên dáng hình của nhũng con người phải chịu đau thương, mất mát, làm cả câu thơ như trĩu xuống. Và nổi bật lên là hình ảnh người bà với một sức sống mãnh liệt và nghị lực bên bỉ. Từ láy “đinh ninh” diễn tả một điều gì đó chắc chắn từ trong tâm khảm, một lời nói nhẹ nhàng mà vẫn mạnh mẽ, trái ngược hẳn với quang cảnh “lầm lụi” xung quanh. Dẫu túp lều tranh đã bị đốt rụi, nơi nương thân của hai bà cháu không còn, bà vẫn đứng vững, chống chọi với tất cả nghịch cảnh để dắt cháu vượt qua khó khăn. Chính từ sự “vững lòng” ấy mà người đọc cảm nhận được góc khuất trong tâm hồn bà, nơi ẩn giấu lòng yêu nước và tấm lòng hi sinh của người phụ nữ ấy. Lời bà dặn cháu thật nôm na nhưng vô cùng chân thực và cảm động - hậu phương có gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung, mất mát... đến mấy vẫn phải giấu đi, nén lại trong lòng cho tiền tuyến được an lòng. Bà không chỉ thương con thương cháu mà còn vô cùng ân cần, chu đáo, hiểu được tâm trạng của người con đang đi chiến đấu. Tác giả - và cũng là đứa cháu đã thật tinh tế và nhạy cảm khi thể hiện được hạt ngọc ẩn kín trong tâm hồn người bà. Bà không còn là của riêng Bằng Việt nữa mà đã hòa cùng vào biết bao người phụ nữ Việt Nam khác, những con người cần mẫn, giàu đức hi sinh, là chỗ dựa tinh thần lớn lao cho tiền tuyến, góp một phần vô cùng quan trọng vào chiến thắng chung của nhân dân. Mạnh mẽ là vậy nhưng trong hình ảnh bà vẫn có cái hồn giản dị, tự nhiên vốn có. Trong suốt cả bài thơ, chỉ có ở ba câu thơ cuối khổ bốn người đọc mới được tiếp xúc trực tiếp với bà. Với cách nói bình dị, mộc mạc (“kể này, kể nọ”, “cứ bảo”...), bà hiện lên thật gần gũi, thân thương, khiến ta có cảm giác như được nghe tiếng nói của chính bà mình vậy. Ngay cả cái cách bà gọi cháu là “mày” cũng thể hiện một sự thương yêu, trìu mến vô bờ, một cách gọi vô cùng dân dã. Những câu thơ không cầu kì, gọt giũa hay nghệ thuật đặc biệt gì cả, chỉ giản dị đến chân thành như lợi nói của bà. Nhưng từ đó, tấm lòng người bà ấy hiện lên mênh mông như biển cả, lặng sóng thôi nhưng, bát ngát tình thương con thương cháu và sâu thẳm với một nghị lực vô cùng bền vững. Vì sao mà tấm lòng người bà chứa đựng được biết bao điều như vậy? Vì trong tấm lòng đó luôn âm ỉ một ngọn lửa: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng... “Rồi sớm rồi chiều” ẩn chứa cả một dòng thời gian âm ỉ, dai dẳng mang theo cả cuộc đời bà, mang theo bao tâm tình của đứa cháu phương xa. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả đã nâng lên thành “ngọn lửa” mang ý nghĩa khái quát, tượng trưng. “Bếp lửa” với những ấm áp, giản dị của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã bùng lên thành “ngọn lửa” của niềm tin và sức sống cho các thế hệ mai sau. Hình ảnh ấy được lặp lại hai lần trong điệp từ “một ngọn lửa” càng khẳng định đó chính là cội nguồn của bao yêu thương, của những tần tảo hi sinh nơi bà. Trong hình ảnh “lòng bà luôn ủ sẵn”, người đọc cảm nhận được một ngọn lửa không bao giờ tắt qua năm tháng, một ngọn lửa bất diệt từ trong chính trái tim bà. Lời thơ thủ thỉ, dịu êm mà sao tiếng lòng của thi sĩ như có sức mạnh thần kì làm người đọc thấy trong tim mình như có lửa bùng lên. Từ láy “dai dẳng” như càng tiếp thêm cho sự bền bỉ, lan tỏa của hình ảnh ấy. Đến nỗi tới bây giờ “ngọn lửa


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

chứa niềm tin ấy” vẫn còn cháy trong cháu, mang theo bao cảm xúc không thể nói hết được mà phải dùng đến một dấu chấm lửng, để lại bao suy ngẫm trong lòng độc giả. Bà không để lại cho con cháu những giá trị vật chất thông thường mà là một điều quý giá hơn gấp bội: ngọn lửa của sự sống. Khái quát lên, bà là hiện thân cho vẻ đẹp thiêng liêng của người giữ lửa, truyền lửa. Từ ngọn lửa ấm nóng lẽ đời, tình người ấy, nhà thơ mở ra những suy ngẫm về cuộc đời bà: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Chất biểu cảm trữ tình vẫn còn nhưng đã thành dòng suy tưởng và nhuốm màu tâm trạng. “Lận đận” - từ láy gợi hình với hai thanh trắc đã diễn tả cả cuộc đời vất vả của bà, kết hợp với “biết mấy nắng mưa” - ẩn dụ để chỉ những thăng trầm của cuộc sống càng làm đậm thêm sự hi sinh cần mẫn cùa bà. Trải qua tất cả những khó khăn, thách thức ấy, hình ảnh bà vẫn chưa bao giờ tách rời với bếp lửa. “Mấy chục năm rồi”, lời thơ kể mà như đếm, gợi lên cả một tuổi thanh xuân, cả một đời người thức khuya dậy sớm gắn liền với khói bếp cay nồng. Ấy vậy mà trong “thói quen dậy sớm” ta cảm nhận được sự tần tảo, đức hi sinh vẫn nguyên vẹn như thuở nào. “Nhóm”, “nhóm”, “nhóm”, “nhóm” - điệp ngữ ấy ngân lên, lan tỏa và khơi dậy biết bao yêu thương, biết bao rung cảm và xúc động trong lòng người đọc. Mỗi hình ảnh liệt kê trong mỗi câu thơ là cả một dòng suy ngẫm gợi lên trong cả tác giả lẫn độc giả. “Bếp lửa ấp iu nồng đượm” ở khổ một nay được lặp lại làm mạch cảm xúc được nối liền, ngân vang như một lời khẳng định về sự cần mẫn, khéo léo của bà. Chính tấm lòng nồng ấm đó đã nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi nuôi cháu trong những lúc thiếu thốn. Để từ đó, bà nhắc cháu rằng không bao giờ được quên những năm tháng nghĩa tình chia nhau từng củ khoai, củ sắn cho đỡ đói lòng. Những năm tháng mà hai bà cháu sống trong sự đùm bọc, san sẻ cùng xóm làng với “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”. Câu thơ như một lời răn dạy cháu hãy luôn sống chan hòa và biết nghĩ đến mọi người, đừng ích kỉ cho riêng mình. Chính những bài học thầm lặng và gắn liền với cuộc sống ấy đã rọi vào tâm hồn người cháu và thắp sáng những ước mơ, khát vọng. Phải vậy mà tác giả đã thốt lên rằng nhóm dạy cả những tâm tình tuổi nhỏ? Bà không chỉ thấu hiểu cháu mà còn là tấm gương cho cháu noi theo. Kí ức tuổi thơ tuy không rõ ràng nhưng vẫn ghi dấu từng hình ảnh cụ thể “khoai sắn”, “xôi gạo” và tượng trưng “yêu thương”, “tâm tình” đan xen, quấn quýt vào nhau giữa cuộc sống đời thường và giá trị tinh thần. Bà thì nhóm lửa còn Bằng Việt thì nhóm lên biết bao hoài niệm, khơi dậy bao đợt sóng yêu thương trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin và sức sống cho người cháu. Người bà ấy giản dị nhưng lại có một sức mạnh kì diệu. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà - người phụ nữ Việt Nam, để rồi từ đó thốt lên trong bao nhung nhớ và trân trọng: Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa! Câu thơ với từ cảm thán “ôi” như chất chứa, dồn nén biết bao điều. Trong đó là sức mạnh


IC IA L

“kì lạ” đã nhóm dậy cả một chân trời kỉ niệm, cả một tuổi thơ, cả một tâm hồn. Trong đó là sự “thiêng liêng” nhà thơ đã trân trọng gìn giữ trong tim nơi đất khách quê người. Ngay cả dấu gạch ngang cũng là một dấu lặng đầy nghệ thuật, là sự im lặng rất lạ, rất riêng giữa các từ, chứa đựng bao cảm xúc không thể diễn tả hết. Hãy lắng nghe sự im lặng đó để cảm nhận một lần nữa sự “kì lạ và thiêng liêng” kia, để thấu được tiếng lòng thi sĩ dội lại trong đó. Dấu gạch ấy như khoảng lặng trong bản nhạc để làm nền cho hai tiếng “bếp lửa” ngân lên diễn tả bao tâm tình, bao sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với bà. Đến đây, ta mới thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình ảnh “bếp lửa”. Hình ảnh ấy cùng chất trữ tình kết hợp với bình luận đã trở thành cái nền hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của cả tác giả lẫn độc giả về cuộc đời tần tảo và nghĩa tình của bà. Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về người bà yêu thương: Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

O

- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...

FF

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

Ở nước Nga xa xôi lạnh giá, bếp ga, bếp điện đã thay thế bếp củi nhem nhuốc khói, nhưng hình ảnh người bà và bếp lửa sớm mai vẫn đọng lại mãi trong tâm trí cháu. Bút pháp liệt kê và phép lặp cấu trúc “có... trăm...” đã vẽ nên một chân trời bao la rộng lớn với biết bao điều vui tươi, mới mẻ. Thế nhưng cuộc sống hiện đại ấy vẫn không thể làm cháu nguôi đi nỗi nhớ đau đáu, thường trực về bà, một nỗi nhớ tới mức “chẳng lúc nào quên nhắc nhở”. Ta hãy lắng mình để nói lên những câu thơ đồng cảm với Bằng Việt: Cuộc đời tuy chật vật Nhưng tâm hồn thảnh thơi Bởi bóng bà luôn tỏa Che đời cháu, hà ơi! (Nghĩ về bà - Nguyễn Thành Huân) Người bà nói riêng hay người phụ nữ trong gia đình nói chung luôn gắn với những gì gần gũi, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì, là nơi bình yên cuối cùng để ta trở về sau những thăng trầm của cuộc đời. Trong dáng hình khiêm nhường quá đỗi ấy ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, để họ trở thành hiện thân của gia đình, quê hương, đất nước. Nay ở nơi đất khách quê người, những câu thơ như bật ra từ ngọn lửa ấm nóng năm xưa của bà càng gợi nhắc để người đọc thấm thía điều đó. Niềm kính yêu và trân trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó với gia đình, tình yêu và nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. Để mỗi ngày, mỗi giờ lòng ông đều vang lên một câu hỏi: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Bếp lửa đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời. Nguyễn Đức Quyền đã từng nhận xét rằng: Thơ của cái thuở ban đầu thường là nồng, nồng đến vụng dại. Ấy thế mà “Bếp lửa” của Bằng Việt lại đạm, đạm của thơ trẻ tạo ra một nét duyên dễ thương lạ. Bài thơ là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà thơ, với giọng thơ tâm tình, trầm lắng giàu chất suy tưởng, hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ như một sợi chỉ đỏ nối liền dòng hồi tưởng, bài thơ đã làm say lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Nếu như hình tượng con cò trong bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên đã đi từ những câu hát ru vào cuộc đời người con với: Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn:


O

FF

IC IA L

(Con cò) thì Bằng Việt đã kế thừa ngọn lửa của yêu thương, của niềm tin nơi bà, những vần thơ của ông như một ngọn lửa thần mà Dec-gia-vin từng nhắc tới. Với Bếp lửa, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hướng, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã bay mỏi cánh, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim. Bài 87: Phân tích bài thư Bếp lửa của Bằng Việt BÀI LÀM THAM KHẢO Thương bà cháu nhớ ngày xưa Dãi dầu cuối chợ nắng mưa sáng chiều Biển đời đơn độc mái chèo Thuyền bà chống đỡ trăm chiều bão dông.

N

(Bà ơi - Phạm Trung Dũng)

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

Bà ơi! Thế là mùa đông năm nay, mùa đông đầu tiên trong đời cháu đã xa bà. Nhớ nao lòng những mùa đông, những ngày tháng còn ở bên bà. Cháu đã tự hỏi rằng, có phải trong hành trình dài cuộc đời của mỗi người có những ngày tháng, những kỉ niệm và những con người mà ta không thể nào quên được? Mùa đông nơi xứ người với những giấc ngủ ấm áp đẹp như trong những câu chuyện cổ của An-đéc-xen, nhưng không bằng câu chuyện đẹp ấm áp tình yêu thương của bà dành cho cháu. Cháu nhớ bếp lửa ấp iu nồng đượm quá, bà ơi! Chỉ lắ một bếp lửa chờn vờn sương sớm... mà sao tha thiết nghĩa tình thế, mà sao lắng sâu đến thế. Thì ra có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, lại hiện hình lên những tình cảm thiết tha, chân thành không thể nào quên. Bà ơi! Chỉ là một bếp lửa nhỏ đơn sơ thôi mà sao đọng lại trong lòng ta những dư vị ngọt ngào đến vậy? Bằng những vầng thơ theo dòng hồi tưởng, gợi nhớ về tuổi thơ của người cháu xa nhà, bài thơ Bếp lửa đã ca ngợi đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà, đồng thời thể hiện sự kính yêu và lòng biết ơn tha thiết của cháu đối với bà. Ra đời vào năm 1963, bài thơ Bếp lửa đã tái hiện chân thật một khoảng kí ức tuổi thơ của người cháu bên bà của mình. Tuổi thơ của người cháu gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa ấp iu nồng đượm khiến người cháu mỗi khi nhớ về lại có những cảm xúc vô cùng yêu thương xen lẫn cảm phục người bà của mình. Bài thơ không chỉ nói lên tình cảm của người cháu dành cho bà mình mà còn khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm cả một đời người. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa khơi gọi người cháu nhớ về người bà yêu thương và đáng kính: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Hình ảnh “bếp lửa” trong màn sương sớm đã được khắc họa giản dị nhưng rõ nét và sống động qua ba câu thơ. “Bếp lửa” có lúc sáng mãnh liệt, có lúc yếu, không định hình đã trở thành một đồ dùng, một hình ảnh gần gũi và quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

N

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy.

O

FF

IC IA L

Nam. Đó không chỉ là nơi để đun nấu mà còn là nơi sum họp, ghi dấu những niềm vui, nỗi buồn của mọi gia đình. Điệp ngữ “một bếp lửa” cùng với các từ láy “chờn vờn”, “ấp iu” đã gợi nên sự ấm áp, đầy tình thương yêu như tấm lòng bà. Từ “ấp iu” gợi lên sự khéo léo của bàn tay bà khi bà nhóm bếp lửa, tấm lòng yêu thương, chi chút của bà đến con cháu. Trong hồi tưởng của cháu, hình ảnh người bà luôn hiện diện cùng bếp lửa qua bao năm tháng. Hình ảnh của bà hiện lên một cách nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp đẽ trong trái tim người cháu, bà vẫn luôn nhóm bếp lửa mỗi sáng mỗi chiều suốt cả cuộc đời. Hình ảnh “bếp lửa” là biểu hiện cụ thể và sinh động về sự tần tảo, chăm sóc và yêu thương của người bà đối với con cháu trong mọi hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Trước sự hi sinh của bà, người cháu luôn “thương bà biết mấy nắng mưa”. Từ đó làm bật lên tình cảm sâu nặng của người cháu một cách thật tự nhiên, không thể tả xiết vì những “nắng mưa”, khó nhọc vất vả của cuộc đời bà. Từ “thường” diễn đạt rất chân thật mà giản dị không chút hoa mĩ tấm lòng yêu mến bà của cháu. Từ tình yêu thương và nỗi nhớ da diết, người cháu đã nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ được sống bên bà: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Y

N

H

Ơ

Những vần thơ nhẹ nhàng như lời kể lại những năm tháng thơ ấu đầy gian khổ của cháu với bóng đêm của nạn đói năm 1945. Khi nhớ về những ngày thơ ấu gian khổ bên bà, người cháu nhớ về năm đói kém mà cháu sống trong sự cưu mang, tình yêu thương sâu đậm của bà khi bố phải đi “đánh xe”, để cháu cho bà chăm bẵm. Cụm tự “đói mòn đói mỏi” đã diễn tả chân thật những cực khổ của hai bà cháu trong thời kì đó. Hình ảnh bố đi đánh xe, khô rạc ngụa gầy đã cho thấy cái đáng sợ của giặc đói, tình cảnh cực khổ của nhân dân ta dưới thời kì đó: Con đói lả ôm lưng mẹ khóc

U

Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi

Q

Kiếp người cơm vãi, cơm rơi

M

Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi! (Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu)

D

ẠY

Bà ơi! Thời gian đã đi qua mà sao kí ức của tuổi thơ và tình cảm đậm sâu của tình bà trong cháu vẫn cứ vẹn nguyên?: Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! Người cháu vẫn như cảm nhận được mùi khói chất chứa đầy nỗi vất vả cực nhọc của hai bà cháu vẫn còn cay nồng nơi sống mũi, mùi khói “hun nhèm” cả kí ức tuổi thơ, chân thực và mang đầy nghĩa tình sâu nặng. Nơi sống mũi của người cháu cay nồng, lan tỏa trong tâm hồn người cháu không chỉ vì khói cay của rơm rạ, củi bị ướt sương mà còn là khói bom đạn, là khó khăn thiếu thốn trong chiến tranh và tình yêu thương con cháu da diết của bà. Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay đã thể hiện rất chân thực và xúc động niềm thổn thức của người cháu khi nhớ về những năm tháng tuổi nhỏ bên người bà kính yêu. Với những chi tiết và ngôn từ giản dị, chân thực, đoạn thơ đã thấm đượm bao tình cảm sâu nặng của người cháu với bà của mình. Lội ngược dòng thời gian từ trong màn sương khói mờ mịt của thời thơ ấu, tác giả tiếp tục đắm mình trong những hồi tưởng về tuổi thơ khi ở cạnh bà: Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Đoạn thơ như đang kể về một câu chuyện cổ tích nhưng lại làm hiện rõ những năm tháng khó nhọc người cháu lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người bà. “Tám năm ròng” kháng chiến đầy vất vả gian lao nhưng đối với tác giả đó là một khoảng thời gian thật đẹp, thật sâu sắc, vui buồn cùng bà bên bếp lửa của người cháu. Từ bếp lửa nhỏ bé thân thương, tuổi cháu trải dài trên “những cánh đồng xa” với tiếng chim tu hú vang vọng, gợi lại trong tâm hồn người cháu bao kỉ niệm khó quên về người bà, về bếp lửa. Từ đó gợi lên khoảng thời gian cháu đã bắt đầu tự lập, nhóm lên ngọn lửa tình cảm thắm nồng mà bà dành cho trong tim cháu. Tiếng chim tu hú lúc vang vọng lúc mơ hồ, lúc lại gần gũi, xót xa như giục giã, như khắc khoải gợi về miền thương nhớ, gợi về quê hương nơi có người bà giàu tình yêu thương với con cháu. Từ đó cho thấy tình cảnh vắng vẻ, cô quạnh và nỗi mong nhớ cha mẹ của người cháu. Nhà thơ đang kể, bất chợt quay sang tâm sự “bà còn nhớ không bà?” để nhớ về những câu chuyện bà hay kể, nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu. Âm thanh đồng quê gần gũi và bình dị của tiếng tu hú “tha thiết” như lời nói từ tấm lòng của cháu, tiếng quen thuộc đọng lại qua những lần bà kể chuyện những ngày ở Huế. Bằng nét thơ sáng tạo, người cháu đã thể hiện tình cảm của mình dành cho bà khi tâm sự chân thành với những tiếng chim tu hú bình dị trên những cánh đồng xa. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỉ niệm có chiều sâu khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Từ trong miền kí ức của mình, tác giả chẳng thể nào quên được dù bao nhiêu mùa tu hú đi qua thì bà vẫn luôn tảo tần, chăm sóc cháu: Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc. Những lời thơ bình dị đã thể hiện chân thật sự tận tình chăm sóc cháu của bà khi mẹ cùng cha công tác bận không về. Tình thương cùa bà đối với cháu to lớn như biển trời bao la, bà đảm nhận vai trò của một người cha, một người mẹ và một người thầy. Bà chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến cả việc học hành. Bà dạy cho cháu những bài học làm người, chăm chút cho cháu dẫu bà phải vất vả lo toan bao điều. Từ “bà” được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “bà - cháu” sóng đôi gợi lên tình cảm gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Hình ảnh nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc mang đầy màu sắc trẻ thơ vô cùng đẹp đẽ, giản dị mà hàm súc. Hình ảnh ấy cho thấy cháu đã hiểu được những khó khăn của bà và yêu thương bà mình, ngày ngày giúp bà “nhóm bếp lửa” đỡ đần phần nào công việc của bà. Bà ơi! Bà có biết không? Tâm hồn cháu lúc này ngập tràn niềm yêu thương với bà, cháu trách những chú chim tu hú: Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hơài trên những cánh đồng xa? Bằng lời thơ tha thiết và trầm buồn, cháu như đang trách cứ những chú tu hú bay ngoài đồng xa không đến ở cùng bà để bà đỡ cô quạnh, buồn tủi hay tác giả đang trách chính bản thân mình vô tâm. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm thương yêu, xót xa của tác giả trước nỗi cô đơn và sự vất vả của bà. Những dòng kỉ niệm cũ của năm tháng như những thước phim quay chậm về bà cháu trong


chiến tranh gian khổ:

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nộ thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi... Trong hoàn cảnh ấy,người bà hiện lên thật đẹp với tấm lòng hi sinh caọ cả. Từ “lầm lụi” thể hiện hình ảnh người bà cũng như bao người hàng xóm lặng lẽ sớm hôm muốn chia sẻ gánh vác cùng con cháu những vất vả lo toan. Gian khổ là thế nhưng có được sự giúp đỡ của hàng xóm, tình cảm của những người, cùng cảnh ngộ, hai bà cháu đã dựng lại được “túp lều tranh”. Ở bên bà, cháu thấy được những đức tính cao đẹp cùa bà. Bà vẫn chịu thương chịu khó cặm cụi vì không muốn con mình lo lắng: Vẫn vững lòng, bù dặn cháu đinh ninh . “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’’ Chiến tranh gian khổ nhưng bà luôn “vững lòng”, chính phẩm chất cao đẹp ấy đã làm cho cháu luôn tự hào khi nhớ về bà. Lời dặn của bà chân thật và cảm động, chan chứa bao ý nghĩa từ tấm lòng bà văng vẳng bên tai cháu. Qua đó không chỉ thể hiện tình cảm yêu thương con cháu cùa bà mà còn đề cao phẩm chất cao quý, đức hi sinh nhẫn nại của những người phụ nữ Việt Nam để yên lòng người nơi chiến tuyến. Trong ý thơ còn hàm chứa cả lòng khâm phục và kính trọng mà cháu dành cho bà, như tình cảm hướng về Tổ quốc, về những người thân yêu. Từ bếp lửa thân thương như bao bếp lửa của gia đình Việt thân yêu, cháu nghĩ đến ngọn lửa thắp sáng của người bà kính yêu: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng... Ba câu thơ như một nốt nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca về bà cháu đầy thiêng liêng và cao quý. Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ. Giữa những mất mát đau thương bà vẫn ngày ngày nhóm bếp lửa, chất chứa bao nét đẹp ý nghĩa, sự tinh tế, bình dị đơn sơ và tình yêu thương của cháu với bà. “Rồi sớm rồi chiều” bà vẫn nhen lên ngọn lửa như nhen nhóm lên trong lòng người cháu một tình cảm rộng lớn, ấp ủ bằng tình thương bao la dạt dào suốt cuộc đời bà luôn dành cho cháu. “Bếp lửa” của tình yêu gia đình, quê hương giờ đây đã trở thành một “ngọn lửa” mang đậm giá trị biểu tượng, bếp lửa ấy được bà “nhen” lên từ ngọn lửa trong lòng bà. Ngọn lửa ấy là ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin vào kháng chiến, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng con đường cháu đi. Qua đó hình ảnh người bà hiện lên tuy mộc mạc nhưng rất rực rỡ, bà luôn cần cù chắt chiu, giàu nghị lực và đức hi sinh cao cả như bao người phụ nữ Việt Nam trong cuộc kháng chiến. Đi qua những hồi ức năm tháng của tuổi thơ, giờ đây tác giả chợt suy ngẫm về cuộc đời bà với triết lí sâu xa: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” được lặp lại từ khổ một như một điểm nhấn nói về rất nhiều “lận đận”, nhiều “nắng mưa” của cuộc đời bà. Thế nhưng bà vẫn luôn âm thầm chịu đựng, cần mẫn và chu đáo chăm lo cho con cháu của mình. Dù đã “mấy chục năm” đi qua gian khổ nhọc nhằn, nhưng bà vẫn giữ “thói quen dậy sớm”, bà vẫn gian nan, vất vả tưởng như không bao giờ dứt. Cháu vẫn thương mãi thói quen của bà, thương bà nhóm bếp lửa yêu thương suốt cả cuộc đời cháu. Bà đã nhóm lửa bằng cả lòng đốn hậu để những vần thơ của cháu thấm đẫm tình cảm sâu nặng và lòng biết ơn sâu sắc, Chiến tranh đã đi qua, nhưng bà ngày ngày vẫn nhóm bếp: Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa! Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, vang lên theo từng cung bậc tình cảm lớn dần, tỏa sáng dần “nét kì lạ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Đó như là một lời khẳng định bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa bằng đức hi sinh cao cả, thể hiện niềm xúc động thiết tha, kết lại trong miền kí ức của người cháu. Bà nhóm tình yêu thương, khoai sắn ngọt bùi dạy cho cháu tình yêu xóm làng, yêu mảnh đất quê hương nghèo khổ, bà nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui dạy cho cháu biết yêu thương, san sẻ với mọi người. Cuối cùng, người bà kì diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn và cách sống, bà còn là người truyền lửa và giữ cho ngọn lửa ấm lòng cháy sáng trong lòng mọi người." Âm điệu thơ này dạt dào như những con sóng, lan tỏa nhừ lửa ấm như đó chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ. Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương về bà. Câu thơ ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn người cháu. Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là một dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ không thể diễn tả hết bằng ngôn từ. Chính tấm lòng yêu thương của bà đã khiến cho cháu không thể nào quên những năm tháng ấu thơ, dù cháu đã trưởng thành: Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?... Đoạn thơ đã đúc kết thật đằm thắm lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn bà sâu sắc. Bao năm dài đằng đẵng, đứa cháu giờ đã khôn lớn sống trong một khung cảnh mới, một cuộc đời mới đầy đủ và ấm no nhưng chẳng thể nào nguôi nhớ về bà. Đặc biệt câu hỏi tu từ sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? Người cháu chẳng thể quên được bếp lửa thân thương. Câu hỏi khép lại bài thơ đã để lại sức ám ảnh day dứt như nhắc nhở người cháu phải nhớ về bà, phải nhớ về bếp lửa quê hương.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ trữ tình sâu lắng và hình tượng “bếp lửa” mang đầy ý nghĩa và những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, bài thơ mang triết lí sâu xa, thầm kín. Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu. Qua những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ Bếp lửa đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. Bếp lửa là một bài học đạo lí tha thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc. Bài 88: Cảm nhận về những câu thơ trích trong bài thơ Bếp lửa - Bằng Việt sau đây: Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa! BÀI LÀM THAM KHẢO Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm được đưa vào tập thơ Hương cây – Bếp lửa, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liên với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu. Trong bài thơ Bếp lửa, nhà thơ Bằng Việt đã thăng hoa đến tuyệt mĩ để viết nên những câu thơ tỏa sáng tâm hồn. Ngôn ngữ tác giả sử dụng không cầu kì trau chuốt nhưng gợi cảm đến không ngờ. Chất thơ cứ lan tỏa từ những gì bình dị nhất: Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa! Những kỉ niệm tuổi thơ lắng dần. Nếu những khổ thơ đầu là cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ đối với bà thì đến đây, nó đã chuyển sang những suy nghĩ sâu sắc về bà. Thói quen của bà in hình vào bếp lửa sớm hôm tần tảo để lo cho con, cho cháu. Bà sống âm thầm mà giàu đức hi


sinh. Viết được thơ hay như thế, tác giả phải là người cháu có tấm lòng thơm thảo, thấu hiểu và hàm ơn công lao của bà. Nếu có một bếp lửa quê nhà vẫn “chờn vờn sương sớm” thì cũng có một ngọn lửa tình bà “ấp iu nồng đượm”. Có lúc hai thứ lửa tách ra, có khi lại hợp cùng nhau. Khi tách ra nó gợi về những kỉ niệm: kỉ niệm về bếp lửa củi rơm (khói hun nhèm mắt cháu, sống mũi còn cay), kỉ niệm về bếp lửa tình bà. Nhưng khi đã hòa hợp với nhau nó trờ thành một thứ tình cảm lạ kì.

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần trong đoạn thơ mang cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, gợi lại hình ảnh, cảm xúc hiện dần, tỏa sáng dần dần. Ngoài gợi tả sự khéo léo làm cho lửa và chất đốt bén vào nhau, cháy lên, từ “nhóm” còn gợi sự chi chút của tấm lòng người bà. Như một nốt nhấn trong dòng cảm xúc, nó làm vỡ òa ra bao ý nghĩa, bao hồi tưởng. Bà nhóm ngọn lửa ấm áp của đời sống vật chất và thường nhật trong không gian gia đình ấm cúng. Bà nhóm lửa của “niềm yêu thương”, của “nồi xôi gạo mới”, của tình đoàn kết, nghĩa xóm làng. Bà mở rộng tấm lòng nhóm lên ngọn lửa của tình yêu quê hương, đất nước. Ngôn ngữ tuy giản đơn nhưng nó lại gợi ra một điều sâu sắc rằng: Bếp lửa được bà nhen lên không chỉ bằng nguyên liệu bên ngoài mà còn là từ ngọn lửa trong lòng bà - ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin. Vì thế, bà mới có thể “nhóm dậy”, khơi dậy kí ức tuổi thơ ngọt ngào nơi người cháu. Bà đã thức tỉnh tâm hồn và sức sống thanh xuân thời thơ ấu để đứa cháu khôn lớn nên người. Bà nhóm ngọn lửa tâm hồn, nhóm lửa cuộc đời để cho cháu sức mạnh trưởng thành. Hình ảnh bà vụt tỏa sáng, lung linh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam bên bếp lửa mang đậm bản sắc văn hóa Việt, để cháu phải thốt lên rằng:

N

Ôi, kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!

D

ẠY

M

Q

U

Y

Câu cảm tác giả sử dụng giúp bộc lộ một cảm xúc trào dâng mãnh liệt đến tận cùng. Cảm xúc trong trái tim tác giả dường như vỡ òa, không thể kìm nén. Từ ngữ được dùng hết sức biểu cảm, từ bếp lửa được đặt ở cuối câu tạo nên một ấn tượng mạnh, gợi lên bao cảm xúc trong tâm hồn người đọc. “Kì lạ, thiêng liêng” là những từ giàu ý nghĩa biểu tượng và đặc sắc. Bếp lửa “kì lạ” vì không có gì có thể dập tắt được, nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, luôn sưởi ấm và tỏa sáng bất diệt. Và đặc biệt bếp lửa bé nhỏ đơn sơ như vậy nhưng ánh sáng của nó lại có thể soi đường, thắp sáng, nuôi dưỡng những ước mơ cao đẹp cho cháu. Bếp lửa “thiêng liêng”, vì nơi ấy ấp ủ và sáng lên mặt tình cảm bà cháu, là bếp lửa của lòng bà, của tình yêu mà bà luôn giữ trọn, gửi trọn cho cháu, cho quê hương và cho đất nước. Đó là bếp lửa hội tụ tất cả những gì đẹp đẽ nhất, là tình bà ấm nồng, tình đất nước, không khí thời đại và văn hóa dân tộc. Nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, là nhớ về tình yêu quê hương đất nước, đó là tình yêu quê hương, yêu đất nước nồng nàn của tác giả và cũng là vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm. Trong đoạn thơ ta không bắt gặp từ “nhớ”, “thương” nào nhưng vẫn cảm nhận được xúc cảm rưng rưng của tác giả. Đó chính là tính biểu cảm, gợi cảm mà ngôn ngữ thơ làm được. Như vậy, bếp lửa được bà nhen lên không phải chỉ bằng nhiên liệu ở bên ngoài, mà còn được nhen nhóm lên từ ngọn lửa trong lòng bà - ngọn lửa của sức sống, của lòng yêu thương, niềm tin thầm lặng mà mãnh liệt. Bà vừa là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa, truyền sự sống niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Đoạn thơ trên gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn cùa người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương và đất nước. Qua sự rung cảm mà từ ngữ đem đến, tác giả nhắc nhở chúng ta bài học nhân sinh sâu sắc. Đó là bài học “uống nước nhớ nguồn” và triết lí: kỉ niệm dẫu nhọc nhằn, vất vả vẫn sẽ là hành trang nâng bước ta đi trên con đường dài rộng của cuộc đời.


Gấp trang thơ lại, đoạn thơ kết thúc nhưng lòng ta dấy lên bao cảm xúc tốt đẹp: yêu bà, yêu gia đình và yêu quê hương đất nước. Chúng ta càng cảm phục trước một Bằng Việt khéo léo và tinh tế trong cách sử dụng từ ngữ. Các câu thơ đặc sắc sẽ sáng mãi, ngân mãi trong lòng bạn đọc. Bài 89: Phân tích hình tượng người bà qua dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. BÀI LÀM THAM KHẢO Một miền quê nhạt nhòa trong sương sớm

IC IA L

Ấm áp tình bà trong nỗi nhớ xa xưa Một miền quê trong tim ta vẫn nhớ Có bóng dáng bà sớm hôm bên khói bếp Ta bỗng thấy bóng bà ở phía trước

FF

Chạy lại gần gọi hai tiếng, bà ơi!

(Nhớ bà - Nguyễn Thành Huân)

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

Thời gian trôi đi thật nhanh, một mùa đông nữa lại về, một cơn mưa khiến cái lạnh, lạnh rõ hơn, gió hanh hao thổi qua những ô cửa sổ, nhưng căn phòng trống! Mùa đông dường như cũng làm cho lòng người thêm cô quạnh. Bà ơi! Cháu ước gì trong lúc này có bếp lửa của bà bên cạnh thì cái lạnh đâu còn nữa. Bà có biết không bà? Mỗi lần nhìn bếp lửa cháu lại nhớ đến “bếp lửa ấp iu nồng đượm” của bà dành cho cháu thời ấu thơ. Bà ơi! Trang thơ của Bằng Việt cũng nói hình ảnh bà và bếp lửa của bà đó! Có lẽ khi nhắc về quá khứ, nhất là những thời điểm đẹp đẽ, người ta vẫn thường kể nhiều hơn. Với Bếp lửa, nhà thơ Bằng Việt thực sự đã dẫn người đọc vào sâu trong mạch kể, mạch hồi tưởng của ông. Hồi ức đẹp một đi không trở lại của tuổi thơ được tái hiện không phải bằng một trí nhớ lan man, chắp vá. Trái lại, ở sâu trong tiềm thức của tác giả, hình ảnh bếp lửa và người bà lúc nào cũng tỏ sáng lạ kì - trở thành một điểm đi về trong cõi nhớ. Theo mạch cảm xúc của nhân vật trữ tinh, ta cảm nhận được cái ánh sáng của bếp lửa, sự ấm áp kì diệu và thiêng liêng của tình bà cháu và đặc biệt ta được thấy chân dung đẹp đẽ, lung linh sắc màu cổ tích của người bà trong bài thơ.

ẠY

M

Bếp lửa là lời tâm sự của người cháu ở nơi xa nhớ về bà của mình với những kỉ niệm về tình bà cháu, thể hiện sự kính yêu, ngưỡng vọng và suy ngẫm sâu sắc về bà. Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm nâng lên thành suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những năm tháng tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh người bà với bao nỗi vất vả và tình yêu thương, trìu mến mà bà dành cho cháu; từ kỉ niệm, người cháu đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà, lẽ sống giản dị mà cao quý của bà và mong muốn gửi niềm nhớ thương sâu sắc về với bà.

D

Bếp lửa với bao ấm áp đã trở thành hình ảnh khơi nguồn cho dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình - người cháu. Bếp lửa khơi gợi, nhen lên, lan tỏa và cháy mãi trong dòng hồi tưởng về kí ức tuổi thơ, tỏa sáng chân dung của người bà: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Cụm từ “một bếp lửa” vang lên trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ. Giữa cái sương sớm


buốt lạnh, bếp lửa hiện lên làm chủ không gian trở nên thật ấm áp. “Chờn vờn sương sớm” không chỉ gợi tả hình ảnh bếp lửa quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam những sớm mai mà còn gợi lên hình ảnh bếp lửa chập chờn trong kí ức tuổi thơ. Từ “ấp iu” đã gợi tả đôi tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng rộng mở của bà. Các từ láy “chờn vờn”, “ấp iu” đã kết nối và diễn tả chính xác dòng cảm xúc được gợi lên từ hình ảnh bếp lửa. Từ sự khơi nguồn này, cả một quá khứ đầy ắp kỉ niệm đã thức dậy trong tâm tưởng và suy ngẫm của người cháu.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

FF

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

IC IA L

Hình ảnh người bà qua dòng hồi tưởng, suy ngẫm của nhân vật trữ tình hiện lên với bao nỗi vất vả và phẩm chất đáng quý. Nhớ về bà, cháu nhớ về những kí ức tuổi thơ với bao kỉ niệm sống bên bà:

O

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

N

H

Ơ

N

Khổ thơ ngắt nhịp ngắn và không ổn định; càng về cuối đoạn, nhịp thơ càng chùng xuống như nhấn mạnh sự khó khăn, cơ cực mà hai bà cháu đã từng trải qua. Hồi tưởng từ hiện tại, những kỉ niệm đã đưa cậu bé năm nào về với quá khứ cùng với những cảm giác rất thật nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay. Cái cay sè nơi sống mũi của mười chín năm về trước lại bất ngờ ập đến. Phải chăng quá khứ trong cháu vẫn còn rất sâu đậm, vẹn nguyên và chẳng thể phai nhòa nên nó đã hiện lên thật sống động.

Q

U

Y

Có thể nói, tuổi thơ của cháu gắn liền với giai đoạn lịch sử đau thương mà oái hùng của dân tộc. Tuổi thơ ấy có cái gian khổ chung của thời kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh mẹ cùng cha công tác bận không về, cháu đã sống trong tình yêu thương, sự đùm bọc, chở che, dạy dỗ của bà:

M

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

ẠY

Trong hoài niệm về tuổi thơ hình ảnh bếp lửa gần gũi quen thuộc luôn gắn liền với hình ảnh người bà thân thương. Nhớ về bà là người cháu nhó’ ve bếp lửa, hình ảnh bà và bếp lửa luôn gắn bó song hành. Nỗi nhớ da diết của người cháu với bà cũng chính là nỗi nhớ thương gia đình, quê hương, đất nước.

D

Không những vậy, bà còn là người phụ nữ giàu tình yêu thương, đức hi sinh. Bà là hình tượng sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Bà lặng lẽ, âm thầm hi sinh cho Tổ quốc: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!" Trong những năm tháng chiến tranh, cháu lớn lên, trưởng thành trong tình yêu thương, đức


hi sinh cao cả, sự đùm bọc, che chở của người bà: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

IC IA L

Từ sự hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ, về bà và bếp lửa, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời, lẽ sống của bà. Trong, hoài niệm tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa gần gũi, quen thuộc luôn gắn liền với người bà tần tảo, chịu thương, chịu khó: Lận đận đời bà biết mâý nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

FF

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

O

Từ hình ảnh bếp lửa bình dị, quen thuộc, cháu nhận ra nhũng điều kì lạ và thiêng liêng. Ngọn lửa từ bàn tay bà với bao tình yêu thương đã nuôi lớn cháu, nhóm dậy những tâm tình tuổi nhỏ.

Ơ

N

Hình ảnh bếp lửa đã được nhà thơ liên tưởng thành ngọn lửa của tình yêu thương với ý nghĩa thật sâu sắc. Nếu bếp lửa là biểu hiện cuộc sống âm thầm, lặng lẽ của hai bà cháu thì ngọn lửa rộng hơn, nó là sức sống tình yêu, là niềm tin của bà trong cuộc sống của hai bà cháu.

H

Cuộc đời bà “lận đận” mấy chục năm, bà lặng lẽ hi sinh cho cháu, cho mọi người:

N

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Y

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

U

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.

D

ẠY

M

Q

Điệp từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ đã khẳng định bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, thắp lên trong người cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của nghị lực, niềm tin, giúp cháu vững bước trên đường đời. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện cổ tích. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh: Tiếng gà trưa Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng. Với người cháu, ngọn lửa ấy thật kì lạ, thiêng liêng: Ôi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa! Trong cả bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh, mạnh như tình cảm dâng trào của người cháu đối với bà. Hình ảnh


bếp lửa thiêng liêng, kì lạ vì bếp lửa luôn hiện hữu, gắn bó, song hành cùng với hình ảnh người bà, gắn liền với những năm tháng tuổi thơ của cháu. Bà và bếp lửa đã nuôi lớn cháu, thắp sáng niềm tin và ước mơ, trở thành điểm tựa tinh thần của cháu. Câu thơ là lời thốt lên từ sâu thẳm tâm hồn người cháu, thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của cháu với bà cũng như với quê hương, đất nước.

IC IA L

Nhẹ nhàng, giản dị mà sâu sắc, thấm thía, Bếp lửa đã thể hiện một cách xúc động hình ảnh người bà và tình bà cháu. Bếp lửa - ngọn lửa của bà cùng tình yêu thương và những phẩm chất tốt đẹp của bà đã soi rọi, nâng bước cháu trên con đường đời đầy khó khăn thử thách. Hình ảnh người bà chính là hình ảnh của quê hương, đất nước.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Bài thơ thể hiện thành công tình cảm kính yêu, trân trọng, biết ơn bà cũng là lòng biết ơn đối với quê hương, đất nước. Bếp lửa khơi gợi cho người đọc những suy ngẫm về tình cảm gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam, để lại trong tâm hồn bạn đọc bao dư âm đẹp về tình bà cháu và chân dung người bà kính yêu.


Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - Huy Cận Bài 79: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. BÀI LÀM THAM KHẢO Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa? Hay lòng chàng cứ tủi nắng, sầu mưa Cùng đất nước mà lặng buồn sông núi? (Mai sau - Huy Cận) Huy Cận - một cái tên - một con người lưu khắc dấu ấn cho riêng mình trên dòng sông thi ca mảnh hồn thiêng chữ S. Ta hãy lắng mình về quá khứ của miền miên viễn để cảm, hiểu và trân trọng một hồn thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới Việt Nam (1932 - 1945). Thơ Huy Cận trước Cách mạng rất buồn, vì vậy ông thường tìm đến thiên nhiên để: Vui chung vũ trụ nguôi sầu trần gian. Xuất hiện lần đầu tiên trên thi đàn văn chương, ta bắt gặp một giọng thơ mang nỗi sầu nhân thế ảo não - một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sau (Lửa thiêng- 1940). Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Huy Cận cũng giống như Chế Lan Viên, hồn thơ đã có những chuyển biến từ trong thung lũng đau thương vẫn tìm ra vũ khí, phá cô đơn - ta hòa hợp với người (Khi đã có hướng rồi - Chế Lan Viên) mang hơi thở của cuộc sống mới, con người mới. Năm 1958, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Hồng Gai - Quảng Ninh, nhà thơ Huy Cận đã xúc động trước vẻ đẹp của cuộc sống nơi đây. Nhà thơ đã thể hiện cảm xúc đó qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ viết về đề tài cuộc sống lao động của những ngư dân vùng biển trên quê hương. Dưới dạng thể thơ mới, gồm bảy khổ thơ, mỗi khổ gồm bốn câu, mỗi câu bảy tiếng, tác giả đã khắc họa cảnh tượng một đêm đánh cá trên biển của đoàn thuyền. Cảnh tượng đó diễn ra từ lúc hoàng hôn tắt trên biển và đến lúc mặt trời hiện ra lúc rạng đông. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng. Trước hết, hai khổ thơ đầu phác họa cảnh hoàng hôn xuống và đoàn thuyền bắt đầu ra khơi. Ngay hai câu thơ đầu ta đã thấy rõ: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

ẠY

M

Một bức tranh thiên nhiên đẹp, có cái thoáng rộng của không gian và thời gian của một ngày đang khép lại. Trong cái mênh mông ấy nổi bật lên hình ảnh mặt trời được ví như “hòn lửa” đỏ rực gợi tả màu sắc sinh động của buổi hoàng hôn trên biển đang chuyển về đêm. Với nhịp thơ dồn dập, xô đẩy, hình ảnh so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, câu thơ như khắc chạm từng góc cạnh, đường nét, màu sắc, đang chuyển động trên một cái nền là biển cả và đóng chặt lại bằng âm thanh trắc của từ ngữ “đêm sập cửa”. Tất cả đọng lại ấn tượng: sự sống của thiên nhiên, của mặt trời như bị khép chặt lại rồi. Vũ trụ như tìm kiếm sự nghỉ ngơi.

D

Đúng rồi! Hoàng hôn đã buông trôi, thiên nhiên của vũ trụ đang chìm dần vào bóng tối theo quy luật của tạo hóa. Nhưng với Huy Cận thì không, nhịp sống qua nhịp thơ bỗng nhiên uyển chuyển kết hợp với hình ảnh vận động nhịp nhàng của đoàn thuyền đánh cá, thì dòng thơ sau: Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ, thấp thoáng như “thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” mà Nguyễn Du đã từng viết khi nói về tâm trạng của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích, mà ở


N

O

FF

IC IA L

đây là cả một đoàn thuyền, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay đang bắt đầu căng buồm. Từ “lại” trong cụm từ “lại ra khơi” là sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã ổn định, đã đi vào nề nếp. Đoàn thuyền ra khơi với khí thế căng trào. Cảnh tượng ấy thể hiện qua nghệ thuật tương phản: giữa cảnh ngày tàn với đêm mở ra, giữa cái tĩnh (vũ trụ) và cái động (con người). Nhạc điệu cũng có sự đối lập: tả vũ trụ với những vần trắc liên tiếp (lừa - cửa) như khép lại, và những vần bằg (khơi - khơi) như mở ra, ngân nga kéo dài. Sự đối lập ấy giúp người đọc cảm nhận được nỗi vất vả của việc đánh cá về đêm. Công việc đánh cá ban đêm trên biển là công việc nặng nhọc, đầy bất trắc nhưng đoàn thuyền xông trận vẫn cất cao tiếng hát. Tiếng hát vút lên cùng với những cánh buồm lộng gió của thời đại. Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng. Câu hát căng buồm cùng gió khơi là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng, phải chăng “câu hát căng buồm” ấy nó giống với tâm thế luôn lạc quan yêu đời của Hồ Chí Minh: Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh (Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh - Nhật kí trong tù); Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước. Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa ảo: Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Ơ

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

H

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

N

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

D

ẠY

M

Q

U

Y

Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điệu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển, vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Lời hát thể hiện tâm tư người lao động: Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng. Đó chính là ước mơ của bất kì người dân biển nào, ước mơ trời yên bể lặng, mong mỏi đánh bắt được nhiều cá và là niềm say mê sự giàu đẹp của quê hương. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng đôn hậu của những ngư dân từng trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển. Sức sống mới của thiên nhiên và đoàn thuyền cùng với vẻ rực rỡ, giàu có đầy hứa hẹn của biển Đông như báo hiệu ước mong của ngư dân sẽ thành hiện thực. Từng đàn cá thu lao trên mặt biển như “đoàn thoi” trong máy dệt. Con thoi mang sợi tơ dệt vải thì cá thu mang ánh sáng phản chiếu lấp lánh dệt nên muôn luồng sáng lung linh, kì ảo trên thảm biển. Và từ đó, tác giả liên tưởng tiếp: Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Thật là một sự tưởng tượng độc đáo. Từ hình ảnh đoàn cá “dệt biển” mà kêu gọi “đến dệt lưới ta” đã nói lên ước vọng đánh bắt được nhiều cá. Những từ ngữ trong khổ thơ: “cá bạc”, “cá thu”, “đoàn cá”, “dệt biển”, “dệt lưới” khiến câu hát như một điệp khúc nhấn mạnh sự giàu đẹp của biển cả quê hương, câu hát cất cao trong lời gọi “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” đã trở thành biểu tượng cho khát vọng, niềm tin mãnh liệt của đoàn thuyền, đoàn người và “câu hát” thật sự đã đánh thức biển khơi. Hai khổ thơ có giá trị tạo hình đặc sắc, vẽ lại bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng và màu sắc, tràn đầy sức sống mạnh liệt. Trong đó con người đã hòa hợp với thiên nhiên hùng vĩ, bao la và thậm chí, vượt qua cả thiên nhiên nữa. Mở đầu khổ thứ ba là hình ảnh đoàn thuyền lướt đi giữa trời cao biển rộng có cái lâng lâng, sảng khoái lạ thường trong đất trời lộng gió: Thuyền ta lái gió với buồm trăng


Lướt giữa mây cao với biển bằng.

FF

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

IC IA L

Hai câu thơ đẹp như một bức tranh lồng lộng trời mây, mênh mông biển cả. Hình ảnh đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi một sức tưởng tượng kì lạ, giàu chất lãng mạn: gió là người, trăng là cánh buồm. Cách nói như vậy giúp ta cảm nhận được thuyền và con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng của trời, biển, gió, trăng. Từ “lướt” đặc tả cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc nhanh; thiên nhiên cũng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Tư thế ra khơi nhẹ nhàng, thoải mái, đầy khí thế đó chỉ có ở những con người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ, được làm chủ sản xuất, làm chủ đất trời, sông, biển của mình. Nhưng lao động không phải là một cuộc du ngoạn. Hai câu thơ tiếp khắc họa hình ảnh một trận đánh, một cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng tất cả trí tuệ và năng lực nghề nghiệp. Nhịp thơ trở nên hối hả, lôi cuốn: Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Ơ

N

O

Bên cạnh cái ung dung, sảng khoái của người dân chài, ta vẫn cảm nhận được nỗi vất vả của họ. Họ phải vượt bao dặm biển trong trời đêm, rồi phải “dò bụng biển”, tìm ra bãi cá, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Lúc này, mỗi thủy thủ là một chiến sĩ, một chiến sĩ trên biển và con thuyền, mái chèo, lưới, các ngư cụ khác chính là vũ khí của họ. Huy Cận phải có sự am hiểu sâu sắc về nghề chài lưới này và lòng thông cảm với người lao động mới thì ông mới vẽ được bức tranh vừa hiện thực, sinh động vừa lãng mạn ấy.

Y

N

H

Bằng bút pháp lãng mạn, phong phú đầy sức tưởng tượng bay bổng, nhà thơ đã phối hợp các từ ngữ cùng nhịp điệu đầy sức tạo hình, gợi cảm để các khát vọng niềm tin kia được tỏa rộng cả không gian lẫn thời gian. Sức sống tạo hình lẫn màu sắc, âm thanh, sức khơi gợi ý nghĩa một loạt các hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ, thậm xưng mạnh mẽ đầy tưởng tượng bất ngờ.

U

Bức tranh lao động được tô điểm bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:

Q

Cá nhụ cá chim cùng cả đé

M

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

D

ẠY

Bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ dẫn ta vào một cõi huyền ảo của biển trời với bao nhiêu loài cá mang màu sắc lung linh kì ảo dưới ánh trăng. Nghệ thuật liệt kê và điệp từ “cá” như khắc họa rõ từng đường nét, góp phần làm biển trở nên thơ mộng vô cùng. Cách diễn tả như vậy giúp ta cảm nhận được cái giàu đẹp của biển, vì tất cả ánh sáng, màu sắc đều là của cá và do cá tạo nên. Con “cá song” là một nét,vẽ tài hoa, vẩy đen, hồng, lấp lánh trên biển như nước lẫn chan hòa trong ánh trăng “vàng chóé”. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối màu sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ lung linh. Bầy cá như những nàng tiên xinh đẹp trong vũ hội của biển.

Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long. Đêm như được nhân hóa như một sinh vật của đại dương: nó “thở”. Nhịp thở của đêm là tiếng sóng vỗ rì rào, cao thấp. Sao phản chiếu lấp lánh trên từng đọt sóng “lùa”, mặt nước càng làm tiếng thở có vẻ kì ảo. Nó là sự


độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Lao động trong một khung cảnh nên thơ như vậy quả là thú vị.

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Cùng với chất lãng mạn, bay bổng, người dân chài cất lời hát tả lại công việc lao động với niềm tự tin và yêu đời mãnh liệt: Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biển lao động cực nhọc, vất vả thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, nhưng đây không phải là con người mà chính là ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ vào mạn thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng” gõ thuyền. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả. Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể không cất lên tiếng hát ca ngợi biển: Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Biển giàu, biển đẹp, biển đem hạnh phúc đến cho con người. Biển hào phóng cho con người nhiều tôm, cá, muối, hải sản... Biển như lòng mẹ đã nuôi sống dân ta từ bao đời nay. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành có âm hưởng ca dao. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc, có sức truyền cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển, yêu đời chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời, bao thế hệ. Bóng đêm đang dần tàn, một đêm trôi qua thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời, sao đã thưa và mờ. Ngày đang đến, nhịp độ lao động ngày càng khẩn trương, Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng:

U

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Q

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

D

ẠY

M

Nhịp thơ 2/2/3 phù hợp với nhịp lao động khẩn trượng. Hình ảnh “kéo xoăn tay” miêu tả dáng người dân chài choãi chân, nghiêng mình trụ vững, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn trông mới đẹp làm sao! Trong cái “chùm cá nặng” như có sức ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được. Lưới kéo lên, những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh màu sắc. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông”. Nghệ thuật dùng từ của tác giả thật điêu luyện, sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh bình minh đều được miêu tả tuyệt đẹp: vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông. Câu thơ có màu sắc rực rỡ, nó mang lại thi vị, vẻ hấp dẫn riêng cho việc kéo lưới bình thường. Câu thơ cuối nhịp thơ gọn, dứt khoát: Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Lời thơ giản dị biểu hiện niềm thư thái của con người: lưới xếp nghỉ, kéo buồm lên, trở về trong buổi bình minh. “Nắng hồng”, không những khắc họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người. Không chỉ có thế, niềm tin yêu vui say của đoàn người như sảng khoái, đắm say cất cao tiếng hát hòa quyện với vẻ đẹp lộng lẫy của biết bao màu sắc của cá biển, với nhịp sống lao động và với cái phong phú bất tận của biển khơi. Và hơn nữa, cuối cùng, cái khát vọng niềm tin ban đầu đã trở thành niềm tự hào của những ngư dân trước thành quả lao động đầy rực rỡ:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Như vậy, khổ thơ đã làm bật lên khí thế tầm vóc của đoàn thuyền như ngang tầm vũ trụ, như làm chủ được thiên nhiên, làm chủ công việc của mình. Từ khổ thơ, chúng ta có thể hiểu giờ đây không còn là câu hát căng buồm cùng gió khơi như hàm ý đoàn người tùy thuộc vào sức mạnh của thiên nhiên. Không, giờ đây đã khác hẳn thành quả lao động của đoàn thuyền đã cho họ thấy khát vọng, niềm tin đã thành hiện thực. Câu hát bây giờ là: Câu hát căng buồm với gió khơi. Thanh âm như cao lên của từ ngữ “với gió khơi” xét trong văn cảnh phải chăng như một biểu hiện cho tầm cao của con người đâu kém gì tầm cao kì vĩ của thiên nhiên, và xét trong mạch thơ với hệ thống hình ảnh lãng mạn của toàn bài thì biểu hiện trên là đúng. Có lẽ nhà thơ cảm hứng rất rõ điều đó nên đã khắc chạm một nét sống động rực rỡ tuyệt vời, để làm bật lên khí thế tầm vóc của đoàn thuyền như ngang tầm vũ trụ, như làm chủ được thiên nhiên, làm chủ công việc của mình. Chính trong cuộc đua hào hứng đó, mặt trời hiện ra như một biểu tượng soi sáng cho cái tầm cao và chiến thắng “huy hoàng” của những ngư dân vùng biển Hồng Gai. Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh dẹp của một ngày mới, khi đoàn thuyền trở về với cá đầy ắp: Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi, độ nhiệt tình, yêu lao động. Mở đầu bài thơ là hình ảnh “mặt trời xuống”, giờ là “mặt trời đội biển” nhô lên giữa những sóng nước mênh mông. Không khí lao động cực kì phấn khởi bởi niềm vui chiến thắng, với thái độ nhiệt tình, yêu lao động khép lại bài thơ và thể hiện một tương lai tươi sáng hơn trong công cuộc xây dựng đất nước dưới chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Bài thơ với sự hòa quyện màu sắc, âm thanh, đường nét, nhịp điệu khi mạnh mẽ, khi bay bổng trào dâng giàu ngữ nghĩa cảm xúc, đã trở thành tiếng hát ca ngợi cuộc sổng lao động hào hứng giữa một khung cảnh thiên nhiên kì vĩ sống động huy hoàng. Bài thơ lặp lại bốn lần chữ “hát” thực chất là một bài ca sảng khoái, một khúc ca về lao động và về thiên nhiên đất nước giàu đẹp.- Khúc ca ấy vừa hàọ hứng, vừa phơi phới và khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ. Chính vì vậy, Đoàn thuyền đánh cá được xem như bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới đang sôi động. Niềm tin ấy đã giúp nhà thơ có tinh thần lạc quan và yêu đời hơn. Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bằng bút pháp lãng mạn, nhịp thơ khỏe với trí tượng tượng mới mẻ, độc đáo, Huy Cận đã ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương, và đặc biệt là hình ảnh người lao động được miêu tả với nhiều vẻ đẹp: sự sảng khoái của người làm chủ đất nước, nhiệt tình lao động với tất cả tình yêu biển, yêu nghề. Ngày nay, hình ảnh, cảm xúc và ý nghta của bài thơ vẫn có sức lay động, khơi dậy niềm hứng khởi, tin yêu tự hào về con người và đất nước, quê hương nơi mỗi chúng ta. Bài 80: Cảm nhận của anh (chị) về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận BÀI LÀM THAM KHẢO Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sự là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới. Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển.


N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn, mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương, mênh mông, màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt sóng đã cài then, đêm sập cửa. Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá! Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng, tiếng hát hòa cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm: Hát rằng cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng . Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá, đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, công việc và con người: Thuyền ta lái gió với buồm trăng . Lướt giũa mây cao với biển bằng

Y

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

U

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

M

Q

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm thủy tinh tuyệt đẹp. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng. Cũng thăm dò, cũng “dàn đan thể trận” và bủa vây bằng lưới!

D

ẠY

Đã bao đời nay, ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng: Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long. Trên mặt biển đêm, ánh trăng lung linh dát bạc, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang: lúc náo nức, lúc lại thật tha thiết. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy... Với ngư dân, biển cả


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

bao la “như lòng mẹ”, bởi vậy thiên nhiên và con người thật hoà hợp, nhịp nhàng. Nhịp điệu công việc càng khẩn trương, sôi nổi khi bóng đêm dần tàn, ngày đang đến: Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy hạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Bao công lao vất vả đã được đền bù, dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ lưới xếp buồm lên đón nắng hồng chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá: . Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hòa trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhả thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang tỏa rạng niềm vui. Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, từng đường nét của cảnh, của người. Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Bài 81: Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận: Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vây bạc đuôi vàng tóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. BÀI LÀM THAM KHẢO Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy


Ta được thêm ngày nữa để yêu thương. (Cảm ơn đời - Nhạc sĩ Trịnh Hưng)

FF

IC IA L

Bạn có nghe thấy gì trong lời thơ không? Vâng! Tôi đã nghe và tôi xin cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mẹ và cha đã tạo nên con - hình hài nhỏ bé này. Cảm ơn tất cả những người nghệ sĩ đã, đang và sẽ đi trên con đường nghệ thuật chân chính lưu khắc tế nhân sinh cuộc đời vào dòng lưu viễn. Nhanh thật đấy! Thấm thoát đã hơn nửa thể kỉ qua đi kể từ khi bài thơ ra đời nhưng những gì là thơ, là họa, là nghệ thuật đích thực thì vẫn còn mãi với dòng thời gian. Ngắm nhìn từng đoàn thuyền trên biển biếc xanh tôi lại nhớ tới thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận - những hơi thở của đời sống được mang vào tác phẩm, tình cảm chân thành của nhà thơ, cùng với tài năng nghệ thuật kì diệu với bút pháp hiện thực bay bổng - lãng mạn. Hai yếu tố nhạc và họa đầy ắp trong tác phẩm đã giúp bài thơ có sức sống bền bỉ.

N

H

Ơ

N

O

Những khác biệt về sự vĩnh hằng trong vũ trụ rộng lớn đầy nhân ái trải rộng và bao dung trong thế giới mênh mang diệu kì và đầy bí ẩn, con người là thực thể bao trùm, là nét nhấn mạnh của sự xoay vần vũ trụ. Cảm hứng trong thơ Huy Cận với những kì vĩ của đất trời, với những khát khao vươn tới cái đẹp của con người đã khiến cho thơ ông có một sức hấp dẫn đặc biệt. Đọc thơ ông người ta được đi qua thế giới của mây trời sông nước, ta nhận ra ở ông nét tài hoa của người thợ chạm khắc ngôn ngữ để thiên nhiên trời đất sống dậy. Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu - là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sổng mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.

Q

U

Y

Bài thơ gồm bảy khổ thơ ghi lại hành trình của một đoàn thuyền đánh cá: ra khơi lúc hoàng hôn), đánh cá vào một đêm trăng đẹp trên biển Hạ Long, trở về bến lúc rạng đông. Đây là hai khổ thơ thứ sáu và bảy, nói lên cảnh kéo lưới lúc mờ sáng và cảnh đoàn thuyền buồm căng gió lộng trở về:

M

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Bài thơ là sự kết họp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hòa của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.

D

ẠY

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “mặt trời xuống biển” và kết thúc bằng “mặt trời đội biển”, phản ánh một đêm lao động trọn vẹn của ngư dân trên biển. Các khổ thơ đầu trọng bài thơ đã diễn tả cảnh đoàn thuyền ra khơi, cảnh đánh cá. Đến hai khổ cuối thể hiện một đêm lao động trôi qua nhanh, và đoàn thuyền đánh cá trở về. Sau khung cảnh đánh cá, cảnh kéo lưới lúc trời gần sáng hiện lên thật đẹp thật khỏe khoắn: Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng


Như cây sai mẹ đứng giữa chùm con

O

Chiều thu vàng vàng rực cả tâm hồn.

FF

IC IA L

Cảnh kéo lưới diễn ra lúc “sao mờ” - lúc trời gần sáng. Chữ “kịp” trong câu thơ sao mờ kéo lưới kịp trời sáng thể hiện tinh thần khẩn trương, hối hả của ngư dân lúc kéo lưới. Bao hồi hộp và hy vọng đón chờ. Từng chùm cá được những cánh tay khỏe mạnh kéo lên khỏi mặt nước “ta kéo xoăn tay”. Khoang thuyền của người ngư dân đầy ắp cá. Huy Cận là một người, nghệ sĩ thực thụ khi ông bắt được cái hồn của tạo vật: màu vàng của đuôi cá, màu bạc của vẩy cá dưới ánh trăng lúc rạng đông đều sáng lấp lánh tuyệt đẹp. Nhà thơ đã đưa màu sắc của thiên nhiên kì diệu làm nên màu sắc của cuộc sống ấm no. Cá mắc vào lưới thành những “chùm cá nặng” như chùm trái cây treo lủng lẳng. Phải là nhiều cá lắm mới mắc vào lưới, phải là những dân chài trẻ có đôi cánh tay rắn chắc, có sức khỏe dẻo dai mới có thể “kéo xoăn tay”. Câu thơ ta kéo xoăn tay chùm cá nặng là một câu thơ hay và đẹp: hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo ca ngợi vẻ đẹp khỏe mạnh trẻ tráng trong lao động. Huy Cận hay sự dụng từ “chùm” để tả thế giới sinh vật như gà, cá tạo nên hình tượng thơ ngộ nghĩnh, đầy ấn tượng:

N

(Chiều thu quê hương - Huy Cận)

Ơ

Nếu khổ thơ thứ tư, tác giả tả đàn cá biển đẹp như một bức tranh sơn mài lộng lẫy trong đó có những con cá:

H

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

N

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

ẠY

M

Q

U

Y

thì ở khổ thơ thứ sáu này, những con cá biển tươi ngon mắc vào lưới cũng vô cùng rực rỡ: Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông, có thể nói những câu thơ tả cá là những câu thơ đẹp nhất: sáng tạo nhất ở cách phối sắc, ở cách sử dụng hình ảnh hoán dụ: “vẩy cá, đuôi cá, mắt cá”... Cảnh đánh cá của người dân chài đã cho ta thấy được không khí lao động vừa lãng mạn vừa hăng say lao động thực sự trở thành niềm vui của cuộc đời, những con người mới trong xã hội mới đã biết trân trọng những giá trị của lao động. Người dân trong bài thơ là hiện thực của cuộc sống cần lao với hình ảnh người dân chài mang bao phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Vị mặn mà của biển cả mang đến hương vị nồng ấm của cuộc sống. Dưới ánh rạng đông “lóe” lên, cá nằm đầy khoang thuyền được phản chiếu càng ánh lên màu “vàng”, màu “bạc” thể hiện một niềm vui tươi trong lao động của các bạn chài. Câu thơ: Lưới xếp/ buồm lên/ đón nắng hồng, với cách ngắt nhịp 2/2/3, với cách sử dụng liên tiếp ba động từ “xếp, lên, đón” diễn tả mọi công việc trên biển diễn ra tuần tự mà khẩn trương để trở về.

D

Một đêm qua đi khi ánh bình minh ló rạng cũng là lúc một ngày mới bắt đầu. Và lúc đó là khung cảnh trở về của đoàn thuyền: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.


Khổ cuối tả đoàn thuyền đánh cá trở về bến. Gió biển thổi căng cánh buồm đưa câu hát của ngư dân vang xa trên biển cả. Đây là lần thứ ba, nhà thơ nhắc lại câu hát. Lần thứ nhất tả tiếng hát ra khơi, tiếng hát phấn chấn, hồ hởi lên đường: Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Lần thứ hai tả tiếng hát lúc đánh cá, tiếng hát say mê lao động và ngợi ca biển với bao ân tình sâu nặng, thiết tha: Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

IC IA L

Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

FF

Lần thứ ba là tiếng hát mừng vui thắng lợi. Niềm vui của người dân chài hòa nhập với thiên nhiên - một rạng đông đẹp tươi, một ngày vui mới bắt đầu. Con thuyền thì “chạy đua...”, mặt trời thì “đội biển”. Đoàn thuyền lướt sóng như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian, để nhanh chóng trở về bến. Cảnh tượng tráng lệ, nhịp điệu cuộc sống khẩn trương vô cùng.

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

Câu thơ mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi là một câu thơ hãy cho thấy bút pháp lãng mạn của Huy Cận trong bài thơ này. Hình ảnh “mắt cá” (hoán dụ) - muôn triệu mắt cá li ti được phần chiếu ánh rạng đông, càng trở nên huy hoàng. Con thuyền và mặt trời với nghệ thuật nhân hóa, cấu trúc song hành đã tạo nên không khí khẩn trương hối hả. Hình ảnh “mặt trời đội biển” tỏa ánh sáng bao trùm đại dương bao la, con thuyền phóng như bay về bến cướp lấy thời gian làm nên sự hối hả hào hứng chẳng khác lúc ra khơi, sóng biển và cát lấp lánh cùng với muôn triệu mắt cá như trải dài, trải rộng trên “muôn dặm phơi”. Câu thơ vừa tả cảnh biển tráng lệ lúc rạng đông, vừa tả cảnh được mùa cá (thậm xưng) đẹp. Nói rằng lao động là niềm vui sáng tạo, nói rằng biển quê ta giàu đẹp, nói rằng khi người lao động làm chủ cuộc đời thì mới có ấm no hạnh phúc. Cả ba điều ấy, Huy Cận đã nói được rất hay trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, đặc biệt trong hai khổ này. Tiếng hát mừng chiến thắng lan tỏa ra khắp không gian mênh mông hòa theo âm vang sóng vỗ tạo nên một khúc ca tuyệt đẹp về cuộc đời. Niềm hạnh phúc dâng trào trong lòng những người lao động chân chính. Bằng mồ hôi xương máu, bằng trí tuệ và nhiệt tình ngươi dân miền biển đã góp cho khúc nhạc quê hương một bài ca cuộc sống. Sự hào hứng hay chính là niềm hạnh phúc của thành quả lao động đem đến sức sống vĩnh viễn đối với người lao động Việt Nam.

D

ẠY

Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng, Huy Cận đã sáng tạo được nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa. Một không gian tráng lệ tràn ngập niềm vui câu hát. Một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng người vì “đất nở hoa” và “biển đang hát”... Huy Cận đã vẽ lên trước măt người đọc bức tranh sau một đêm lao động vất vả, người dân cùng nhau kéo lưới, về bến. Đồng thời thông qua đó thể hiện niềm tin vào cuộc sống mới, người dân được hạnh phúc ấm no “đón nắng hồng” trong cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài Đoàn thuyền đánh cá ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đêm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Bài thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể hiện niềm phấn khởi trước những thành quả lao động


của mình. Hình ảnh con người hiện lên trong bài thơ là hình ảnh con người mới làm chủ thiên nhiên, nhiệt tình lao động sản xuất để làm giàu cho Tổ quốc, gắn với biển cả quê hương. Bài 82: Kể lại bài thơ Đoàn thuyền đánh cá theo lời kể của anh (chị). BÀI LÀM THAM KHẢO

IC IA L

Có đôi lúc những điều ta đã biết, nhưng ta lại luôn hỏi chính ta, cái này là cái gì? Hay cái kia là sao? Ta thử hỏi chính ta một câu hỏi khi hoàng hôn buông xuống thì mặt trời thế nào nhỉ? Cần gì phải hỏi ở đâu xa, thi phẩm Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận chẳng phải đã nói rõ rồi hay sao.

O

FF

Mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa khổng lồ đang lặn xuống phía trời tây. Màn đêm dần buông, mặt biển tối sẫm, chất chứa vẻ bí ẩn ngàn đời. Những ngư dân đã chuẩn bị kĩ càng cho đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Tiếng hát, tiếng hò quen thuộc cất lên cùng cánh buồm căng phồng ngọn gió mát lành, ca ngợi biển cả hào phóng đã ban cho con người bao nhiêu là cá. Những luồng cá bạc, cá thu, giống như hàng triệu con thoi vun vút lao nhanh, dệt nên muôn luồng sáng. Cá ơi, hãy đến dệt lưới ta cho lưới nặng, khoang đầy; cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc!

Ơ

N

Bài ca gọi cá quen thuộc được điểm nhịp bằng tiếng gõ mạn thuyền giòn giã, rộn ràng, vang xa trên mặt đại dương mênh mông lấp lánh ánh trăng. Cảm ơn biển cả bao la đã nuôi dưỡng con người tự ngàn đời nay!

N

H

Đêm đã qua, bầu trời đang rạng sáng. Từng đoàn ngư dân hối hả kéo những chùm lưới nặng đầy những cá vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông đổ vào khoang thuyền. Những tấm lưới được xếp gọn trên mui. Mặt trời lên, ánh bình minh rực rỡ dát vàng trên mặt biển mênh mông.

D

ẠY

M

Q

U

Y

Lòng người vui phơi phới trước một chuyến ra khơi thắng lợi. Ngư dân lại cất cao tiếng hát. Những cánh buồm no gió phồng căng, đẩy đoàn thuyền chạy phăng phăng như chạy đua cùng mặt trời. Cảnh mặt trời mọc trên biển thật huy hoàng, lộng lẫy. Mỗi mắt cá trong veo cũng là một mặt trời nhỏ xíu, lóng lánh nắng mai. Bài 83: Nêu cảm nhận về hai đoạn thơ sau: Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mui hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mãnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió... ………………………………………. (Quê hương-Tế Hanh) Và: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận) BÀI LÀM THAM KHẢO Biển từ lâu trở thành hình ảnh biỂu tượng và là nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà


thơ, nhà văn. Ở đó có nghề đánh cá với những con người làng chài chất phác, mộc mạc. Hai tác phẩm Quê hương và Đoàn thụyền đánh cá đã khắc họa sắc nét cảnh vật thiên nhiên và con người trên biển khi ra khơi. Đoạn trích một nằm trong tác phẩm Quê hương của nhà thơ Tế Hanh và đoạn trích thứ hai là đoạn thơ thuộc tác phẩm Đoàn thuyền đánh cả cả nhà thơ Huy Cận.

IC IA L

Cả hai đoạn trích đều khắc họa cảnh ra khơi của những người đánh cá. Họ ra đi với tâm trạng hào hứng và niềm lạc quan phới phới. Họ cùng ra đi vào một ngày nắng đẹp với khung cảnh hoành tráng, hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng. Tuy nhiên, ở mỗi đoạn trích, đoàn thuyền đánh cá ra khơi trên nền không gian khác nhau và mỗi cảnh lại mang một vẻ đẹp, ấn tượng riêng. Ở khổ hai của bài thơ Quê hương, tác giả Tế Hanh viết: Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng

FF

Dân trai tráng bơi thuyền đánh cá.

N

H

Ơ

N

O

Mới sáng sớm, khi mặt trời còn ẩn sau những bóng mây, dân trai tráng trong làng bơi thuyền ra khơi đánh cá. Đón những người dân chài là tín hiệu tốt lành cùa đất trời, sớm mai hồng với cơn gió nhẹ thoảng qua, bầu trời trong xanh. Bức tranh thiên nhiên được Tế Hanh tô điểm với gam màu tươi sáng cùng những tính từ gợi tả “trong”, “nhẹ”, “hồng”. Nền thiên nhiên hiện lên trong trẻo, thơ mộng, đón những người dân chài ra đi cho một ngày mới bội thu. Thiên nhiên trở thành nguồn cảm hứng vô tận, giúp con người phấn chấn, sảng khoái, có tâm thế tốt nhất chuẩn bị cho một ngày lao động mới. Trên khung cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ ấy, dẫn đường con người đến với đại dương xanh không thể thiếu hình ảnh cánh thuyền buồm kiêu hãnh vươn mình trong gió: Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.

Y

So sánh con thuyền với “con tuấn mã” là một hình ảnh ấn tượng, độc đáo, thể hiện sự

U

nhanh nhẹn. Những chiếc thuyền rẽ sóng chạy băng băng, lời thơ của tác giả cũng theo đó bay

Q

vào không gian khoáng đạt, rộng lớn. Con thuyền trong tâm thức của tác giả, của những người con làng chài mang một vẻ đẹp hồ hởi, trẻ trung, dũng mãnh. Từ lâu, hình ảnh ấy đã trở nên thân

M

thuộc, gắn liền với khung cảnh của làng chài. Những hành động mạnh mẽ, khí thế hào hứng của

chuyến đi được lột tả qua cách sử dụng những động từ “hăng”, “phăng” một cách điêu luyện và độc đáo. Hình ảnh các chàng trai trở nên đẹp đẽ như những chàng kị sĩ tài ba, chèo lái con

D

ẠY

thuyền, đè sóng, cưỡi gió khơi. Đặc sắc nhất là hình ảnh những cánh buồm căng rộng đón gió: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.

Cánh buồm vô tri được người thi sĩ thổi hồn và trở nên đẹp đẽ lạ thường. Cánh buồm như

mang theo tâm hồn thiêng liêng của cả làng chài. Đen đây, tác giả đưa ra một hình ảnh so sánh độc đáo, lạ thường: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Linh hồn làng biển dường như được cụ thể hóa như cánh buồm trắng, gợi cảm giác đi xa, những ước mơ bay bổng, những khát khao cháy bỏng về một cuộc sống đầy đủ, ấm no của tuổi trẻ nhiều hoài bão. Thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết, khát vọng được cống hiến, xây dựng quê hương tươi đẹp. Và từ lâu cánh


buồm đã trở thành người bạn thân thiết không chỉ che chở, nuôi sống họ mà còn nâng đỡ cho những ước mơ được bay lên. Con thuyền như tự “rướn” thân mình ra biển lớn, hòa nhập vào với nắng và gió của biển khơi, góp sức nuôi sống làng chài. Nếu ở tác phẩm Quê hương của Tế Hanh, đoàn thuyền ra khơi đánh cá trong khung cảnh bình minh cho một khởi đầu mới thì bức tranh lao động của người dân chài lại được tác giả Huy

IC IA L

Cận khắc họa khác lạ trong Đoàn thuyền đánh cá. Đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau ra khơi trong khung cảnh hoàng hôn đẹp, thơ mộng: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa.

H

Ơ

N

O

FF

Biển cả mênh mông được tác giả đặc tả bằng những hình ảnh đẹp đẽ, tráng lệ và kì vĩ. Huy Cận như mở ra trước mắt người đọc một khung cảnh thiên nhiên đẹp với gam màu chuyển dần từ đỏ rực sang tím sẫm. Mặt trời được so sánh như hòn lửa đang chìm dần xuống đại dương bao la, làm cho khung cảnh càng trở nên tráng lệ, lộng lẫy. Màn đêm dần buông xuống, vũ trụ như ngôi nhà của vạn vật từ từ khép cánh cửa lại và cài then. Thiên nhiên như trở nên gần gũi với con người hơn thông qua nghệ thuật nhân hóa độc đáo. Cả đất trời dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi, không còn những nguy hiểm rình rập an nguy đến những người con của biển. Họ lại bắt đầu một cuộc hành trình mà không có sự dõi theo của vũ trụ, ra đi với tư thế làm chủ, say sưa xây dựng cuộc sống mới: Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

N

Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Cả đoàn thuyền hùng dũng tiến ra biển trên nền thiên nhiên tráng lệ. Tuy đây không phải

Y

lần đầu họ ra khơi, những con người ấy dù đã trải qua biết bao lần thiên nhiên nổi giận, nhưng họ

U

vẫn luôn mang trong mình tâm thế lạc quan, hào hứng. Thiên nhiên như đối lập hoàn toàn với con

Q

người. Những con người dù nhỏ bé van mang trong mình tâm thế sẵn sàng đối chọi với thiên nhiên. Họ say mê với công việc khi mà vũ trụ rộng lớn bao trùm đang chìm vào trạng thái nghỉ

M

ngơi. Qua đó, tác giả ca ngợi lòng nhiệt huyết và dũng cảm của người lao động vẫn miệt mài bám

biển. Cuộc sống là một cuộc đua không giới hạn của con người và thiên nhiên. Với lòng tin vào con người, Huy Cận đã nâng cao vị thế của người lao động và chứng minh con người luôn chiến thắng.

ẠY

Hình ảnh con người với tư thế làm chủ được tác giả Huy Cận đặt vào một không gian rộng

lớn nhằm làm tăng tầm vóc, kích thước và vị trí của họ trước vũ trụ bao la. Con người đã chế ngự

D

cái kì vĩ, lớn lao của biển cả và đã biến cái dữ dội của thiên nhiên thành người thân, nguồn sống

của mình. Dù trong hoàn cảnh nào, những người lao động vẫn. luôn lạc quan, yêu đời cất lên những câu hát: Câu hát căng buồm với gió khơi. Mỗi đoạn thơ mang một vẻ đẹp riêng. Nếu như thiện nhiên trong đoạn thơ của Tế Hanh

hiện lên với vẻ đẹp của một buổi sáng trong trẻo, mát lành thì trong đoạn thơ của Huy Cận lại là vẻ đẹp của buổi hoàng hôn trên mặt biển với ánh mặt trời đỏ rực... vẻ đẹp lao động trong đoạn thơ


của Tế Hanh được tô đậm ở sức mạnh thể chất (dân trai tráng; bơi thuyền; phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt) còn trong đoạn thơ của Huy Cận lại được tô đậm ở sức mạnh tinh thần (câu hát căng buồm). Đoạn thơ của Tế Hanh làm người đọc ấn tượng bởi thể thơ tám chữ với cách dùng các động từ mạnh (băng, phăng, vượt) và cách so sánh bất ngờ (chiếc thuyền - con tuấn mã). Đoạn thơ của Huy Cận lại hấp dẫn người đọc bởi thể thơ bảy chữ với cách miêu tả độc đáo (mặt trời xuống biển, câu hát căng buồm), cách dùng hình ảnh ẩn dụ giàu.sức gợi (sóng cài then, đêm

IC IA L

sập cửa).

Qua sự miêu tả, người đọc còn có thể nhận ra được cái không khí của từng thời đại. Đoạn

thơ của Tế Hanh được sáng tác trong thời kì người dân Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ. Do

vậy, sự ra khơi ở đây tuy mạnh mẽ nhưng yên lặng (chỉ một chiếc thuyền ra khơi...). Đoạn thơ

FF

của Huy Cận được sáng tác vào thời kì cả miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, không khí lao động tập thể và niềm vui của con người sống trong xã hội mới được thể hiện khá rõ

O

(cả đoàn thuyền ra khơi trong câu hát ngân vang...).

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

Mỗi cảnh ra khơi dù ở những thời điểm khác trong ngày nhưng đều mang một vẻ đẹp hoành tráng, thơ mộng trên khung cảnh thiên nhiên được khắc họa ấn tượng với những sắc thái riêng. Mà nổi bật trên đó là những hình ảnh những người lao động nhiệt tình với tư thế hào hứng, lao động miệt mài không kể ngày đêm để xây dựng quê hương đất nước. Họ làm việc với lòng say mê và những ước mơ được vun đắp.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

ĐỒNG CHÍ - Chính Hữu Bài 69: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí! GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. + Hình tượng người lính đã đi vào lòng người và văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. - Dần dắt vào vấn đề nghị luận + Một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tinh cảm của những người lính Cụ Hồ là Đồng chí của Chính Hữu. + Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến. + Trích dẫn đoạn thơ 2. Thân bài a. Khải quát - Chính Hữu viết bài thơ Đồng chí vào đầu năm 1948, khi đó ông là chính trị viên đại đội, đã từng theo đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc, và cũng là người đã từng sống trong tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó vượt qua nhũng khó khăn gian khổ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. - Bài thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui, ngôn ngữ bình dị dường như đã trờ thành những vần thơ cửa niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm thông sâu sắc cùa một nhà thơ cách mạng. - Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. b. Phân tích * Trong bảy câu thơ đầu, nhà thơ lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng. 1. Cùng chung cảnh ngộ xuất thân + Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo lính. + Từ giã quê hương, họ tình nguyện đứng vào hàng ngũ những người chiến đấu cho lí tưởng cao


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc. + Những tâm sự chân tình về con người và cuộc sống rất bình dị và cũng rất quen thuộc: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. + Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, là những nông dân ở nơi nước mặn đồng chua hoặc ở chốn đất cày lên sỏi đá. Hình ảnh quê hương anh và làng tôi hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, mặc dù nhà thơ không chủ ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những người con làng quê Việt Nam. + Thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung được những miền quê nghèo khổ, nơi sinh ra những người lính. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.  Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: quê anh - làng tôi diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ. Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính 2. Cùng chung lí tưởng chiến đấu: trước ngày nhập ngũ, những con người này vốn xa lạ Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. + Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nghèo, người lao động. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái nghèo xô đẩy, mà họ về đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. + Hình ảnh: anh - tôi riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu: Súng bên súng đầu sát bên đầu. “Súng” và “đầu” là hình ảnh dẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu và lí tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí. 3. Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian lao + Bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chân thì hở đầu, đắp được bên này thì hở bên kia. + Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành tri kỉ của nhau. “Tri kỉ” là người bạn thân thiết hiểu rất rõ về ta vất vả nguy nan đã gắn kết nhũng người đồng chí khiến họ trở thành người bạn tâm giao gắn bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người lính gian khổ. + Bao nhiêu yêu thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi vừa tình cảm hàm súc ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng, sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu thương với đồng đội. Hình ảnh thật giản dị nhưng rất cảm động. 4. Từ trong tâm khảm họ bỗng bật thốt lên hai từ đồng chí + Từ “đồng chí” được đặt thành một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. + Từ “đồng chí” với dấu chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm


khác nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình cảm, mới mẻ này. + Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích. Nhưng trong tình cảm ấy, khi có cái lõi bên trong là tình tri kỉ lại được thử thách, được tôi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. Không còn anh, cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó.  Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ

IC IA L

và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu.  Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí” họ không còn là người nông dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành anh em trong một cộng đồng với một lí tưởng cao cả vì đất nước quên thân để

tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có hai chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả thật

FF

ngôn từ Chính Hữu thật là hàm súc.

O

c. Nhận xét và đánh giá

- Đoạn thơ vừa mang vẻ đẹp giản dị lại vừa mang vẻ đẹp cao cả thiêng liêng, thơ mộng, cấu trúc

N

song hành và đối xứng xuyên suốt bài thơ làm hiện lên hai gương mặt người chiến sĩ rất trẻ như

Ơ

đang thủ thỉ, tâm tình, làm nổi bật chủ đề tư tưởng: tình đồng chí gắn bó keo sơn.

Y

N

H

- Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thơ của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. 3. Kết bài

U

- Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận

Q

+ Chân dung người lính vệ quốc trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp hiện lên thật đẹp

M

đẽ qua những vần thơ mộc mạc, chân tình mà gợi nhiều suy tưởng. + Quả thật, đoạn thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất

của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.

ẠY

- Cảm xúc của bản thân

+ Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quổc, với thế hệ hôm nay, ngày mai

D

và mãi mãi về sau.

+ Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng xứng đáng là một trong những tác phẩm thi ca xuất sắc về đề tài người lính và chiến tranh cách mạng của văn học Việt Nam Bài 70: Phân tích đoạn thơ dưới đây trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: ... Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính


Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. BẢI LÀM THAM KHẢỌ Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm tháng hào hùng, khí thế cùa dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp, chống Mĩ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến còn góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên không có gì khó hiểu khi vào năm 1948, tác phẩm Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ Đồng chí, Chính Hữu sáng tác vào đầu năm 1948, được xếp vào hàng những bài thơ tiêu biểu nhất, thành công nhất của thơ ca Việt Nam những ngày đầu chống thực dân Pháp. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh chân thực giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm hết sức khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến. Và điều đặc biệt là Đồng chí đã nói một cách rất giản dị mà sâu sắc về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của những ngươi lính vốn xuất thân từ nông dân - một chủ đề hết sức mới mẻ của thi ca lúc bấy giờ. Đoạn thơ sau đây là sự thể hiện cụ thể tình đồng chí - tình người cao đẹp ấy: ... Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

U

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Q

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

M

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá

ẠY

Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

D

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức, anh và tôi tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Có lẽ từ “đồng chí” xuất hiện phổ biến ở nước ta từ khi phong trào chống thực dân Pháp do giai cấp vô sản lãnh đạo. Nghĩa của từ đồng chí là “những người cùng chí hướng chính trị, trong quan hệ với nhau” (Từ điển tiếng Việt). Nhưng ở bài Đồng chí, dường như mối quan hệ giữa anh và tôi không khô khan, không mang sắc thái lí trí như cách hiểu trên. Ở đây, tình người sâu nặng chính là hạt nhân của tình đồng chí. Người nông dân đến với cách mạng cũng vì lí tưởng muốn dâng hiến cho đời - sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình (Một khúc ca xuân - Tố Hữu). Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào. Đồng chí, đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ, họ lớn lên trong những gian nhà không. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc... Nhưng họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước; bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Lời thơ như là lời tâm sự, tâm tình, tôi không nói về quê hương và hoàn cảnh riêng của tôi mà nói với anh về quê anh về gia đình anh. Là đồng đội, là đôi tri kì, tôi biết anh ra đi để lại sau lưng mình biết bao sự níu kéo: ruộng nương phải gửi bạn, nhà cửa mặc kệ gió lay, và biết bao người thân chờ mong thương nhớ. Câu thơ gian nhà không, mặc kệ gió lung lay hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hi sinh lớn lao và đó cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ đủ sức lay động hồn thơ, hồn người: Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa “giếng nước, gốc đa” cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau... Các anh hiểu rõ lòng rihau và còn hiểu rõ nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương. Vậy là người lính đã chia sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm kín, riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau trong kỉ niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên trên nỗi.nhớ. Như vậy, trước khi trở thành đồng chí thực sự, họ đã có sự đồng cảm sâu sắc; trước khi hợp tác với nhau họ đã rất hiểu về nhau. Hiểu nhau là biểu hiện đầu tiên của tình người. Và những người lính cách mạng càng hiểu nhau hơn, gắn bó với nhau hơn bởi trong những tháng ngày bên nhau chiến đấu họ cùng nếm trải biết bao gian nan, vất vả. Cái vất vả đối với cuộc đời chiến trận thì không bao giờ hiếm. Đó là chuyện ốm đau, bệnh tật, sự thiếu thốn về những trang phục tối thiểu: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá


Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Chân không giày. Người ta nói thơ Chính Hữu cô đọng hàm súc. Đây là những ví dụ thật sinh động. Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm biết bao. Chỉ cần mấy câu ngắn nhưng hình ảnh anh bộ đội thời chống Pháp hiện lên tất cả. Dường như ai cũng phải trải qua những trận sốt rét rừng khủng khiếp, thuốc thang thì thiếu thốn. Rồi các anh vệ túm quần áo vá, chân đất lội suối trèo non. Chỉ có điều sự thiếu thốn giảm đi rất nhiều, và con người có thể vượt qua tất cả bởi vì giữa những người đồng chí có cái ấm áp của tình người. Cái tình được bồi đắp từ cuộc sống đồng cam cộng khổ. Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn vất vả thiếu thốn của những người lính đã làm cho, nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm. Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giắ buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa... Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính. Tình đồng chí: Là hớp nước uống chung Nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết. (Giá từng thước đất -Chính Hữu) Đọc đến đây, ai mà không cảm động trước hình ảnh cha ông mình đánh giặc giữa trăm ngàn thiếu thốn. Có thế mới hiểu hơn, thương quý hơn những lớp người đi trước, say mê đánh giặc với vũ khí tự tạo: Lột sắt đường tàu Rèn thêm đao kiếm Áo vải chân không

M

Đi lùng giặc đánh. (Nhớ - Hồng Nguyên)

D

ẠY

Họ có khác gì người lính Tây Sơn áo vải cờ đào, khác gì người nông dân mến nghĩa làm quân chiêu mộ, chẳng cần qua mười tám ban võ nghệ (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu) vẫn anh dũng lao vào cuộc chiến đấu chống xâm lược với hỏa mai làm bằng rơm con cúi, gươm đeo làm bằng lưỡi dao phay (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu) mà cùng làm nên chiến thắng. Trong vần thơ của Chính Hữu có sự gặp gỡ lạ kì giữa xưa và nay, tạo nên hình ảnh truyền thống của người dân Việt Nam ngàn đời đánh giặc. “Áo anh, quần tôi”, phép đối được sử dụng không phải cho sự đối lập mà nhấn mạnh về cái hoà đồng muôn người như một trong hàng ngũ những người lính cách mạng. Tác giả đã xây dựng những cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và từng câu). Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình, chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội làm ấm lòng những người lính để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên buốt giá. Chỉ có nơi nào gian khó chia chung như vậy, mới


ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tìm thấy cái thực sự của tình người. Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười, ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng. Hình ảnh thương nhau tay nam lấy bàn tay biểu hiện thật giản dị và xúc động của tình cảm đồng chí, đồng đội thiêng liêng của những người lính. Tình cảm đó là nguồn sức mạnh và niềm vui để họ vượt qua. Cái “bắt tay”(như bàn tay biết nói) chính là tình cảm của người lính truyền cho nhau sức mạnh và niềm tin để họ vượt qua tất cả những gian lao, thiếu thốn, thử thách trong chiến đấu. Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn đạt cho hết tình đồng chí thắm thiết trong hoàn cảnh ấy. Cái siết tay thật chặt và ánh mắt cảm thông, tin cậy đủ nói thay cho tất cả. Đoạn thơ thể hiện hình tượng người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu qua các cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau, những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng và giàu sức biểu cảm. Đoạn thơ khép lại nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi bản năng của chính mình: sự rung động. Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ nhưng văn chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những rung động thẩm mĩ trong tâm hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng không thể nào quên. Đó là những năm đau thương chứng kiến những con người cao cả kiên cường, những người lính dũng cảm bất khuất. Họ không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hi sinh, với tình đồng đội trong sáng, thân ái. Chính những điều đó làm bài thơ Đồng chí nói chung và đoạn thơ trên nói riêng những trang giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng đến những con người thần kì mà bình dị với niềm tự hào kiêu hãnh, cho hôm nay và mai sau mãi nhớ về. Bài 71: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính hữu BÀI LÀM THAM KHẢO Thời gian đi qua đời người, đôi khi, ta cứ ngỡ như một làn gió, chưa kịp nghĩ suy đã vội trở thành kí ức. Thơ ca là một phần của cuộc sống, nơi để thương yêu dâng đầy, chất trữ tình hiện thực được thắp lửa. Trong trường kì lịch sử, có những năm tháng không thể nào quên. Có những tác phẩm ghi lại được dấu ấn cả một thời làm người ta rung động, say mê. Với thơ ca cũng vậy. Thời gian luôn rất công bằng, luôn là bộ lọc khách quan nhất, nó sẽ trả về lãng quên những gì khôrig có giá trị và chỉ giữ lại những gì đáng kể. Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng có khả năng vượt lên trên mọi bờ cõi và giới hạn (chữ dùng của Nam Cao), sống mãi với thời gian để khẳng định giá trị đích thực của mình. Trong bao nhiêu chàng trai ấy có Chính Hữu vừa mang súng, vừa cầm bút lên đường. Trèo đèo, vưọt suối... đánh bốt đồn giặc. Tình cảm dạt dào giữa những người tưởng như trọn đời xa lạ dồn nén lại, rồi chan hòa vào ngôn ngữ thơ ca trong chiến dịch Việt Bắc (1947) thành hai chữ Đồng chí thân thương.

D

Đồng chí! Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh chiến sĩ Cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kì kháng Pháp. Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ người chiến sĩ cách mạng đã xúc động viết bài thơ Đồng chí những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.

Chính Hữu đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình - cũng là những đồng đội thân thiết với mình - để nói lên nhũng hoàn cảnh, biểu hiện nhũng tâm trạng, tình cảm của họ. Đọc bài thơ


IC IA L

Đồng chí của Chính Hữu, người đọc cảm nhận sâu sắc cuộc chiến đấu gian khổ của chín năm kháng chiến, cơ sở hình thành tình, đồng chí giản dị. Họ - những người nông dân ra đi từ những miền quê nghèo khó, quanh năm chỉ biết đến con trâu, mảnh ruộng. Nơi trung du đất đai cằn cỗi hay miền đồng quê chiêm trũng vùng ven biển quanh năm úng lụt. Từ mọi miền quê trên dải đất quê hương, nhũng con người xa lạ lên đường theọ tiếng gợi thiêng liêng của Tổ quốc, cùng họp lại với nhau, trở thành một con người mới: người lính. Các anh giã từ quê hương lên đường chiến đấu: Quê hương anh nước mặn đồng chua , Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ

FF

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

H

Ơ

N

O

Với những hình ảnh cụ thể, mạng ý nghĩa hoán dụ, nhà thơ đã giới thiệu nguồn gốc, xuất thân của hai nhân vật trữ tình. Cái tôi trữ tình của nhà thơ đã hóa thân thành người nông dân mặc áo lính để viết những lời thơ tâm tình tặng bạn. Chọn một tâm thế biểu hiện nhự vậy, Chính Hữu đã có được những lời thơ chân thành, giản dị của những người trong cuộc, thật thấm thía, sâu nặng. “Nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” đều là những thành ngữ ẩn dụ nhằm giới thiệu nơi chôn nhau cắt rốn của anh, tôi. Anh dân nghèo rớt mùng tơi vùng biển, tôi cũng thuộc loại nghèo kiết xác nơi miệt núi đồi. Lời thơ mộc mạc, chân thật, chẳng hề giấu giếm sự bất công của thiên nhiên đối với quê mình.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

Nhà thơ đã trần tình, thật thà xác định là người xa lạ. Anh và tôi, hai người ở xa nhau về không gian, không hẹn hò, không quen biết. Thuở ấy nào đã có những trang báo câu lạc bộ làm quen, kết bạn tâm giao... để rồi may mắn lắm anh với tôi mới được quen nhau qua những trang thư chỉ mong ngày hẹn gặp nhưng chẳng biết đến bao giờ! Ấy vậy mà tôi lại được gặp anh, biết quê hương anh, tôi lại nhớ đến làng tôi. Đúng rồi! Vung đất ấy có nghèo xơ xác cũng là quê mình, nơi có cha mẹ già, em dại, nơi chất chứa bao kỉ niệm thân thương. Người dân Việt Nam thời nào cũng in sâu vào lòng mình tình cảm thiêng liêng ấy. Anh và tôi đều sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ cần Giuộc năm xưa. Giờ đây đất nước đang bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt nhũng bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Bởi thế nên từ những phương trời xa lạ, mọi người chẳng hẹn mà quen nhau. Giọng như những anh lính trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên: Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ Quen nhau từ buổi “một, hai” Súng bắn chưa quen Quân sự mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến. Giờ đây anh và tôi phải rời bỏ nơi ấy và gặp nhau chốn này, gặp nhau tại nơi bốn bề núi núi, nơi heo hút vắng tăm người, đèo cao và lũng hẹp, dăm túp lều chơi vơi, bộ đội đóng ở đó, cách xa


hẳn cuộc đời. Cách xa thôi nhưng nhớ lắm! Có lẽ cũng trong tâm trạng đó Chính Hữu đã viết những câu thơ mang giọng bồi hồi.

IC IA L

Bây giờ thì thay chuôi cày, cán cuốc - bằng khẩu súng. Phải cầm chắc nó để đuổi giặc. Hình ảnh súng bên súng đầu sát bền đầu thật dễ thương biết chừng nào. “Súng bên súng” là cùng chung nhiệm vụ, cùng chung chiến hào, cùng sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu. “Đầu sát bên đầu” là cùng chung ý chí, là tâm đầu ý hợp, là cùng quyết tâm giải phóng Tổ quốc thân yêu. Nhịp độ tình cảm cứ tăng dần lên, càng gần gũi hơn. Anh, tôi gắn bó với nhau trong chiến đấu. Diễn biến tình cảm trong những hình ảnh chứa trong mấy từ của mấy câu thơ trên chẳng khác gì diễn biến tình cảm giữa cuộc đời thường.

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

FF

Người lính đã cùng nhau sẻ chia gian lao, vất vả trong buổi đầu của cuộc kháng chiến còn nhiều gian khổ thiếu thốn:

Thương nhau chia củ sắn lùi

O

Họ cùng sẻ chia những giá trị vật chất tuy chẳng là bao nhưng thấm đẫm tình đồng đội:

N

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.

(Việt Bắc - Tố Hữu)

U

Y

N

H

Ơ

Ngày cùng chùng nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn đơn. Đắp chung chăn trở thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Chiếc chăn đơn đóng lại, tình đồng đội mờ ra. Đây là điều kiện thuận lợi để người lính dễ dàng trao đổi tâm tình cho nhau. Vì thế mà họ trở thành “tri kỉ” của nhau. Thật là hợp tình, hợp lí. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, khổng bao giờ có thể quên:

Q

Ôi núi thẳm rừng sâu Trung đội đã về đâu

ẠY

M

Biết chăng chiều mưa mau Nơi đây chăn giá ngắt Nhớ cái rét ban đầu Thấm mối tình Việt Bắc. (Chiều mưa đường số 5 - Thâm Tâm)

D

Những người lính đến với cách mạng cũng vì lí tường muốn dâng hiến tuổi thanh xuân và cuộc đời mình cho Tổ quốc vì độc lập tự do của quê hương. Các anh hiểu được rằng khi súng giặc đất rền lòng dân trời tỏ (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu), sống phải có ý nghĩa cho cuộc đời như một định luật của tự nhiên: Nếu là con chim, là chiếc lá Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.


IC IA L

(Khúc ca xuân -Tố Hữu) Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ nhũng cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn. Chính Hữu đã tả thực những giây phút bên nhau cùng chiến đấu. Nhà thơ như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội: Năm mươi sáu ngày đêm hom gầm pháo dội Ta mới hiểu thế nào là đồng đội Đồng đội ta Là hớp nước uống chung Nắm cơm bẻ nửa

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết. (Giá từng thước đất - Chính Hữu) Họ là hai kẻ xa lạ, đến với nhau bởi lí tưởng chống bè lũ thực dân. Có chí hướng giống nhau là yêu Tổ quốc. Ta không còn nhận ra “anh” và “tôi” nữa mà đã thành những anh, những tôi nhòa đi sau những khẩu súng, những mái đầu,... Để rồi cuối cùng chỉ nói lên, chỉ đọng lại, chỉ kết tinh trong một “đồng chí” mà thôi: tình cảm ấy thật ngọt ngào, thân thương. Đặc biệt, giọng thơ đang liền mạch bỗng ngắt nhịp đột ngột thành câu thơ riêng biệt với dấu chấm than: Đồng chí! Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở cửa bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc đồng ca, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Tình đồng đội ấy thật chân thành, nó vượt qua bao khó khăn thử thách. Dường nhự Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Trong những năm tháng gian lao ấy, sức mạnh của tình đồng chí cao cả biết chừng nào, cùng sẻ chia tâm tư tình cảm, nỗi nhớ gia đình quê hương. Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Đồng chí - đó là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Ba câu thơ trên đưa người đọc trở lại với hoàn cảnh riêng của những người lính vốn là những người nông dân. Họ ra đi trở thành những người lính nhưng mỗi người có một tâm tư, một nỗi lòng về hoàn cảnh gia đình, người thân, công việc đồng quê. Họ gửi lại tất cả cho hậu phương, gửi bạn thân cày cấy ruộng nương của mình. Họ nhớ lại những gian nhà trống không “gió lung lay”. Nhưng đành để


lại, đành gửi lại, họ phải ra đi vì nghĩa lớn cứu nước, cứu nhà.

FF

IC IA L

Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những gian nhà không lung lay theo gió. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc... Nhưng họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng “mặc kệ” nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay động hồn thơ, hồn người: Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Ơ

N

O

Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sửc sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa “giếng nước gốc đa” cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trại gái yêu nhau... Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ Bao giờ trở lại, Hoàng Trung Thông viết:

H

Bấm tay tính buổi anh đi

N

Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?

M

Q

U

Y

Lúa xanh xanh ngắt chân đê Anh đi là để giữ quê quán mình Cây đa bến nước sân đình Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường Hoa cau thơm ngát đầu nương Anh đi là giữ tình thương dạt dào Anh đi chín đợi mười chờ Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?

D

ẠY

Giờ ở tiền tuyến, họ nhớ về hậu phương với một tình cảm lưu luyến khó quên. Hậu phương, tiền tuyến (người ở lại nơi giếng nước, gốc đa) không nguôi nhớ thương người thân của mình là những người lính nơi tiền tuyến. Tuy dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng những người lính không chút vô tình. Trong chiến đấu gian khổ, hay trên đường hành quân họ đều nhớ đến hậu phương - những người thân yêu nhất của minh: Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. (Đất nước - Nguyễn Đinh Thi) Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.


(Tây Tiến - Quang Dũng) Tình đồng chí được nâng lên thay đổi về chất trong tình yêu thương giữa những người lính, nhìn về nhau, nhìn về chính mình; họ cũng từ giã quê hương nghèo, cùng đi lính, gắn bó sâu sắc hơn, sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người lính nông dân. Với họ, vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình thường, không có gì phi thường cả.

IC IA L

Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

H

Ơ

N

O

FF

Một loạt những từ ngữ “ớn lạnh”, “sốt run người”, “ướt mồ hôi” đã đặc tả, những cơn sốt rệt rừng khủng khiếp mà rất quen thuộc với người lính thời ấy. Nếu trong cuộc sống gia đình, anh được bàn tay dịu dàng của người mẹ, người vợ ân cần chăm sóc thì ở đây, bàn tay ấy được thạy bằng bàn tay của đồng đội. Sự, chăm sóc ấy có thể vụng về, nhưng vẫn tràn đầy sự quan tâm, thấm đẫm tình đồng chí. Với Chính Hữu - một nhà thơ - một người chiến sĩ cách mạng đã trải qua những năm tháng gian lao, ông đã viết những câu thơ giản dị ấy. Ta bắt gặp đâu đây cả trung đoàn bị sốt rét mà không có đến một viên thuốc ký sinh đến nỗi cả trung đoàn rụng hết tóc ở trển đầu mà Quang Dũng đã ghi lại chân thực: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

N

Quân xdnh màu lá dữ oai hùm. (Tây Tiến - Quang Dũng)

Q

U

Y

Tuy vất vả khó khăn nhưng người lính vẫn vượt qua tất cả khó khăn. Họ đã tìm được giặc trên sông Lô, họ đã đánh chợ Đồn, chợ Rã, làm cho giặc “chạy xe”. Sức mạnh làm nên chiến thắng của những anh bộ đội “chân đất áo nâu” chính là tình đồng chí - vẻ đẹp tinh thần cao quý của các anh.

M

Sức mạnh của tình đồng chí là hình ảnh cao đẹp nhất của sự sẻ chia thầm lặng, là sự cảm thông yêu thương đến tột cùng vượt qua gian khó, là sức mạnh chiến thắng. Tôi với anh chung cảnh ngộ, anh với tôi chung một lí tưởng, chung đội ngũ, và tôi với anh giờ đây lại chung cả những cơn sốt rét rừng ghê gớm. Cái căn bênh quái ác mà lính ta anh nào cũng sợ. Sợ mà không sao tránh khỏi. Nhà thơ nhắc đến chuyện này như nhắc đến một kỉ niệm khó quên trong tình bạn.

D

ẠY

Tình đồng chí, đồng đội đã giúp các anh vượt qua bao khó khăn về vật chất, quân trang, quân phục: Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Là người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong hoàn cảnh thiếu thuốc men, lại thêrh trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá: “áo anh rách vai,


quần tôi có vài mảnh vá, chân không giày”. Tất cả những khó khăn gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không một chút tô vẽ. Ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội Cụ Hồ mới được thành lập, thiếu thốn đủ đường, quần áo rách bươm phải buộc túm lại nên người lính vệ quốc còn được gọi là “vệ túm”. Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về cái gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt da trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu:

IC IA L

Cuộc đời gió bụi pha xương máu Đói rét bao lần xẻ thịt da Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!.

FF

Lòng tôi xao xuyến tình thương xót Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa.

Y

N

H

Ơ

N

O

Đi kháng chiến, anh lính nông dân mang theo cả cái nghèo vào chiến khu. Quân đội ta ngày ấy thiếu thốn đủ thứ, từ quân lương, quân y đến quân phục, quân trang, quân dụng,... Thiếu cà đến cái phương tiện tối thiểu để giữ ấm bàn chân là đôi giày. Nhưng khi ta đọc đoạn thơ lên, cái khổ chỉ là một yếu tố phụ, vì tình đồng chí đã tỏa hơi ấm và tiếp thêm sức mạnh cho người lính. Cặp đối ứng “áo anh rách vai” - “quần tôi có vài mảnh vá” lả gợi cái thiếu thốn nhưng thực chất lại mang ý nghĩa bổ sung. Tác giả miêu tả hai con người nhưng người đọc lại cảm thấy chỉ có một hình ảnh duy nhất - đồng chí. “Đồng chí” không còn chỉ là tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính mà đã trở thành một hình tượng có thực. Hình tượng ấy hóa thân vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống của người lính: rách vai, có vài mảnh vá, chân không giày. Ở Chính Hữu không còn sự khoa trương, tô vẽ như trong Ngày về:

U

Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Q

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa.

D

ẠY

M

Dẫu áo anh có “rách vai”, “quần tôi có vài mảnh vá” thì miệng vẫn nở nụ cười. Ai là chủ nhân của nụ cười buốt giá? Tác giả đã rất tài tình khi tả nụ cười mà khiến người đọc cảm nhận được cái lạnh giá tê buốt của núi rừng mùa đông. Hình ảnh ấy vưọt qua cái khắc nghiệt của chiến trường để đọng lại trong ta một ấn tượng thật đẹp về tinh thần lạc quan, về khí phách anh hùng, về sức chịu đựng bền bỉ, về sự hi sinh âm thầm củạ người chiến sĩ. Nó gợi cho ta nhớ đến cái cười âm vang cả Trường Sơn của những người lính lái xe trong thơ của Phạm Tiến Duật: Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha (Bài thơ về tiểu đội xe không kính). Người lính có thể thiếu thốn về vật chất nhưng không hề thiếu thốn về tinh thần: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn gian khổ đến bao nhiêu, chỉ cằn một cái nắm tay là hai con người hòa vào làm một, hòa vào thành “đồng chí”. Chính Hữu đã thể hiện điều đó thật giàn dị, rất mộc mạc, không ồn ã nhưng thấm thía, bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Chi tiết thơ chọn lọc, giàu sức biểu cảm. Trong buốt giá gian lao, những bàn tay tìm đen để truyền cho nhau hơi ấm; bàn tay giao cảm tiếp thêm sức mạnh cho đồng đội vượt qua mọi khó khăn gian khổ; bàn tay nói lời im lặng của sự đoàn kết, sự gắn bó, sự cảm thông và cả niềm hứa hẹn lập công. Bàn tay nói được những gì muốn nói: Phút đưa nhau ta chỉ nắm tay mình


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Điều chưa nói bàn lay đã nói Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại Còn hồi hồi trong những ngón tay ta. (Hơi âm bàn tay – Lưu Quang Vũ) Những cái nắm tay ấy đã thay cho mọi lời nói. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thương! Nhà thơ đã phát hiện rất tình cái sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính. Sức mạnh tinh thần ấy, trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau đã tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này. Sức mạnh của tình đồng chí là hình ảnh cao đẹp nhất của sự sẻ chia thầm lặng, là sự cảm thông yêu thương đến tột cùng vượt qua gian khó, là sức mạnh chiến thắng. Mạch tình cảm tuôn chảy dạt dào, tới ba câu cuối lại là tiếng nói của đất trời. Hơn thế nữa, đọc tác phẩm Đồng chí ta cảm nhận được sự lớn lên trong tâm hồn người chiến sĩ qua tình cảm lớn là tình đồng chí: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính, vượt lên trến tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn, Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Chính Hữu đã khắc họa hiện thực khó khăn mả người lính gặp phải. Đối mặt với những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử thách giữa nơi rùng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đựng vững. Tất cả đều yên tĩnh, vắng lặng như những đêm đi phục kích giặc. Rừng hoang im lặng chỉ có sương muối bay động tỏa đầy mang theo giá buốt của rừng đêm. Sương muối vây bùa là sự đe dọa chung của đất trời, giặc tới là sự đe dọa của bọn người xâm lược. Cả hai đều nguy hiểm, nhưng anh - tôi nào có sợ gì. Chiến sĩ của ta chấp nhận và chủ động chờ, chủ động như những con người: Lột sắt đường tàu Rèn thêm đao kiếm Áo vải chân không Đi lùng giặc đánh (Nhớ - Hồng Nguyên) Chủ động, đúng lắm nhưng làm sao tránh khỏi lo âu, hồi hộp khi chờ đợi chạm, đầu với quân giặc, chờ đợi giây phút sống chết không biết đâu lường. Người chiến sĩ trên đường ra trận thì ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan (Việt Bắc - Tố Hữu). Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm “chờ giặc tới” giữa nơi rừng hoang sương muối. Những người lính kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng vào kẻ thù. Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Âm trắc sắc của từ cuối của hai câu thơ (muối, tới) như đẩy sự hồi hộp, lo âu đến đỉnh cao thì đầu súng trăng treo - một hình ảnh cô đọng giàu cảm xúc như xua tan đi sự căng thẳng, lo âu. Trong thơ cổ đã có trăng treo đầu núi, đến Chinh phụ ngâm trăng vẫn treo trên đầu núi và gợi một cảm giác quạnh quẽ thê lương: Non Kì quạnh quẽ trăng treo


Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. (Chinh phụ ngâm- Đặng Trần Côn)

N

O

FF

IC IA L

Nhưng Chính Hữu đã dùng hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng tạo ra những liên tưởng phong phú và giàu chất lãng mạn. Một hình ảnh nên thơ nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm, người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội Cụ Hồ sát cạnh vai nhau kề vai sát cánh cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập. Ánh trăng gần như gắn liền với người lính: Hồi chiến tranh ở rừng

Ơ

Vầng trăng thành tri kỉ.

(Ánh trăng-Nguyễn Duy)

Q

U

Y

N

H

Súng và trăng ở đây đã trở thành một cặp đồng chí. Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nó gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng - gần và xa; súng và trăng - cứng rắn và dịu hiền; súng và trăng - chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng - chất chiến đấu và chất trữ tình; súng và trăng... là biểu tượng tình đồng chí. Bốn chữ đầu súng trăng treo chia làm hai vế làm nhịp thơ đột ngọt thay đổi, dồn nén, như nhịp lắc của một cái gì đó chông chênh, trong bát ngát... gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh “trăng treo” bỗng khiến ta nhớ tới câu thơ năm nào: Anh vẫn hành quân

M

Trên đường ra chiến dịch

Nẻo đường xa anh bước Trăng non ló đỉnh rừng. (Anh vẫn hành quân- Trần Hữu Thung)

D

ẠY

Từ "treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau - mặt đất và bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị, bất ngờ. “Súng” là biểu tượng của chiến đấu, hi sinh, “trăng” là biểu tượng của cái đẹp hòa bình, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống. Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ, là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Hòa bình treo trên sự hiểm nguy, muốn vĩnh viễn có trăng hòa bình thì cần phải chủ động chấp nhận đối đầu, phải dũng cảm chờ giặc tới để tiêu diệt chúng ngay. Sau đó, đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa (Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi) thôi. Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình, là biểu tượng cho tinh thần dũng cảm, hào hoa muôn thuở của dân tộc nói chúng và người lính


nói riêng. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đợi vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Sự kết tinh giữa yếu tố hiện thực và tình cảm lãng mạn, trong trẻo, là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu sớm mang lại cho thơ ca. Cái đẹp của người chiến sĩ trong bài thơ là ở đó - có sự hòa quyện giữa thép và tình.

IC IA L

Cả bài thơ hai mươi câu nhưng phải đến mười chín câu là tập trung phản ánh hiện thực cuộc sống chiến tranh và vẻ đẹp của người lính, của tình đồng chí, đồng đội trong cuộc chiến tranh ấy; chỉ duy nhất một câu cuối cùng là đan xen hình ảnh lãng mạn nhưng chỉ một hình ảnh ấy thôi đủ cho bài thơ cất cánh bay cao và bay xa vào hiện thực, sống mãi với lịch sử và thời gian, neo đậu trong kí ức và tâm hồn mỗi người Việt Nam trong nền văn học dân tộc thời hiện đại.

H

Ơ

N

O

FF

Chính Hữu đã lấy hình ảnh làm nhan đề cho cả tập thơ của mình - tập Đầu súng trăng treo như một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng. Đối với nghệ thuật, người nghệ sĩ phải bén rễ vào cuộc đời, hút lấy nguồn nhựa dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống, đem tôi luyện trong cảm xúc của mình để kết tinh thành những viên ngọc sáng ngời để lại cho đời. Nhà thơ Chính Hữu đã làm được điều đó, có lẽ nhờ vậy mà bài thơ của Chính Hữu lưu lại mãi trong kí ức của bao thế hệ cầm súng chiến đấu vì độc lập tự do, vì làng quê đồng chua nước mặn, đất cày lên sỏi đá. Hớn thế nữa, bài thơ là tiếng nói tâm tình nhắc lại cho mọi người nhớ về một thời quá khứ thiêng liêng, cao cả để sống cho tương lai của quê hương, dân tộc trong đó có cuộc sống của chính mình. Bài thơ đã kết thúc nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi bản năng

N

của chính mình: sự rung động. Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình, một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến

Y

sĩ nhưng văn chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những rung động

U

thẩm mĩ trong tâm hồn Con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng

Q

không thể nào quên. Chính những điều đó làm bài thơ Đồng chí trên những trang giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng đến những con người thần kì mà bình dị với

M

niềm tự hào kiêu hãnh, cho hôm nay và mai sau mãi nhớ về. Bài thơ đã chắp cánh cho tâm hồn ta thêm yêu Tổ quốc, yêu con người Việt Nam. Hình ảnh những người lính Cụ Hồ sẽ mãi sống cùng

non sông bờ cõi:

D

ẠY

Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước. (Đất Nước trích Trường ca mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm) Bài 72 : Trong bài thơ Tây Tiến của tác giả Quang Dũng (viết về những người chiến sĩ của đoàn binh Tây Tiến - sáng tác năm 1948) có câu thơ: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng có câu: Đầu súng trăng treo.


Hãy so sánh sự giống và khác nhau trong hai hình ảnh thơ ở hai câu thơ trên. Qua sự giống và khác nhau đó, anh (chị) cảm nhận được gì về hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu chung về đề tài người lính trong thơ ca.

IC IA L

- Dẫn ra vấn đề nghị luận. 2. Thân bài a. Sơ lược (Khái quát) - Hoàn cảnh ra đời của hai bài thơ.

FF

- Điểm nổi bật của hai tác giả: đều là những người lính, trực tiếp tham gia chiến đấu. b. Cảm nhận

O

1. Nét tương đồng

Ơ

N

- Hai câu thơ đều xuất hiện hình ảnh người lính gắn liền với cây súng. Cây súng là vũ khí chiến đấu của người lính - Hai hình ảnh gắn liền với nhau và xuất hiện nhiều trong thi ca Việt Nam.

H

 Tuy vậy hình ảnh cây súng xuất hiện trong hai câu thơ trên không gợi lên sự ác liệt, dữ dội của chiến tranh mà mang đến cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng, bình thản.

N

2. Nét khác biệt

M

Q

U

Y

- Ở câu thơ: Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Hình ảnh người lính với cây súng được đặt trong không gian cao, rộng với “cồn mây, trời”, gợi cho người đọc sự hình dung: người lính Tây Tiến leo dốc dài và gian khổ để lên được đỉnh núi rất cao. Hình ảnh “súng ngửi trời” là hình ảnh nhận hóa gợi cho người đọc thấy được độ cao của núi, sự heo hút, âm u, mù mịt của cồn mây đồng thời thấy được cái dí dỏm, hài hừớc, tinh nghịch, hồn nhiên và tinh thần lạc quan vượt qua mọi khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến. Cách thể hiện ý thơ của Quang Dũng lãng mạn, hồn nhiên, phóng khoáng mà tài hoa.

D

ẠY

- Câu thơ: Đầu súng trăng treo. Gợi một không gian yên tĩnh vắng lặng, người lính đứng gác mà trăng treo đầu súng. Súng và trăng gợi nhiều liên tưởng. Súng là vũ khí chiến tranh, trăng là biểu tượng hòa bình. Người lính chiến đấu để bảo vệ hòa bình cho đất nước. Câu thơ thể hiện khát vọng hòa bình của tác giả, của người chiến sĩ và của nhân dân ta. Hình ảnh thơ thể hiện sự lên tưởng, tưởng tượng phong phú. Cách diễn đạt của chính Hữu: bỉnh dị, mộc mạc mà không kém phần tinh tế. 3. Hình tượng người lính trong thơ ca - Qua đó thấy được nét chung về hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam: đó là những con người hồn nhiên, bình dị, yêu cuộc đời, yêu đất nước, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. 3. Kết bài - Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận. - Nêu cảm xúc của bản thân


Bài 73: Phân tích hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu BÀI LÀM THAM KHẢO

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào vãn học như một huyền thoại đẹp. Truyền thuyết Chú Cuội cung trăng hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dận ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng... trăng được Chính Hữu kết tinh thành hình ảnh đầu súng trăng treo rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình. Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập Đầu súng trăng treo. Thế mới biết tác giả tầm đắc hình ầnh đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng cũng rất lãng mạn này đến mức nào: Đầu súng trăng treo là một hình ảnh tả thực, một bức tranh sinh động. Giữa núi rừng heo hút rừng hoang sương muối, giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hòa quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng làm ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ... Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng trời, mây gió, anh say sưa ngắm ánh trăng tỏa ngời trên đỉnh núi. Người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày lên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp nên thơ của ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn lãng mạn và một phong thái ung dung, bình tĩnh; lạc quan thì anh mới thả hồn mình như thế. Chút nữa đây không biết ai còn ai mất, chút nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn mặc kệ, vẫn say sưa với ánh trăng. Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng tỏa sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng của những ngưới lính. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn và trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.

Q

Đầu súng trăng treo là hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trăng kết hợp với

M

nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu, trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc; súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến; súng là hình ảnh người chiến sĩ

gan dạ kiên cường, trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hòa này tạo nên sự đan lồng giữa nét lãng mạn bay bổng và hiện thực trần trụi thể hiện mục đích, lí tưởng chiến đấu của người lính. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy

ẠY

tưởng tượng, giữa đêm khuya rừng núi trập trùng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu

D

tượng của khát vọng hòa bình, tượng trưng cho tư thế lạc quan, bình tĩnh, lãng mạn của người chiến sĩ hiên ngang bảo vệ mảnh hồn thiêng sông núi của Tổ quốc. Cái thần của câu thơ đầu súng trăng treo nằm ở từ “treo”, nếu thay bằng từ “mọc” thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và nếu thay bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ mầu nhiệm

nữa. Chỉ có “treo” - đầu súng trăng treo mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng


của một đêm trăng đúng chờ giặc tới. Bài thơ như được sáng tác ở thời điểm hiện tại - đêm nay, trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng, lo lắng. Thế nhưng người lính vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. Ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. (Việt Bắc) và Quang Dũng thì: (Tây Tiến)

FF

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

IC IA L

này:

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh đầu súng trăng treo làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời của chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạn nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã xuất hiện nhiều trong thơ Việt Nam và hình ảnh đầu súng trăng treo của Chính Hữu là một trong những hình ảnh tuyệt đẹp trong kho tàng thơ ca dân tộc.


PHẦN II: TUYỂN CHỌN NHỮNG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC ĐẶC SẮC Bài 1: Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi BÀI LÀM THAM KHẢO Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu Tiếng gươm khua tiếng thơ kêu xé lòng.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

(Tố Hữu) Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim “ưu thời ái quốc”, thâm thúy, sắc bén, đầy biến hóa trong tài mưu lược chính trị - nhẹ nhàng mà thanh tao, thi vị trong những vần thơ về thiên nhiên, cây cỏ, Nguyễn Trãi đã tạc dáng hình của mình vào vóc dáng dân tộc, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim mỗi người dân Viêt Nam, trong lịch sử dân tộc. Lắng mình cùng dòng chảy thời gian, trở về với mảnh đất Hải Dương - nơi đã sinh thành, nuôi dưỡng con người tài hoa đất Việt - Nguýễn Trãi, ta mới thấu hiểu rằng lấp sau mũ quan, áo gấm là một thời ấu thơ đầy bão dông. Nguyễn Trãi (1380 - 1442) hiệu là Ức Trai, sinh ra và lớn lên tại làng Chi Ngại, là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Thật may mắn khi con người vốn đã tài hoa, kiệt xuất trời sinh ấy lại được nuôi dưỡng, lớn lên trong một gia đình mà truyền thống yêu nước, văn hoá, văn học đã trở thành một niềm tự hào sâu sắc. Thế nhưng, hạnh phúc vừa cầm nắm trong tay thì cuộc đời dông tố đã ập đến khiến Nguyễn Trãi chịu nhiều mất mát đau thương, ông để tang mẹ lúc sáu tuổi rồi ông ngoại qua đời khi vừa tròn mười tuổi. Vượt qua những khó khăn, thiếu thốn về tình cảm và tinh thần; nỗ lực học tập, năm 1440, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, cha ông bị chúng bắt sang Trung Quốc. Gánh nặng hai vai là món nợ non sông và mối thù nhà khôn xiết. Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, Nguyễn Trãi, từ Đông Quan tìm vào Lam Sơn theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa, ông đã trở thành cánh tay đắc lực của Lê Lợi, thực hiện “mưu phục tâm công” giúp cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đi đến toàn thắng vang dội. Ông hăm hở tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước; Giặc ngoài đã dẹp yên, mâu thuẫn nội bộ triều đình phong kiến nổi lên, Nguyễn Trãi bị nghi oan, bắt giam. Sau đó ông được thả ra nhưng không còn được tin dùng như trước. Thời thế ép buộc con người tận trung với nước, tận hiếu với dân phải từ bỏ chốn quan trường về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1442, Nguyễn Trãi trở về giúp vua Lê Thái Tông việc nước thì án oan Lệ Chi Viên đổ ập xuống gia đình ông. Bọn gian thần vu cho ông giết vua, khép tội “tru di tam tộc”. Cuộc đời đã đóng sập trước mắt con người tài hoa bạc mệnh như một sự thật phũ phàng đến nao lòng, là nỗi xót thường nghẹn ngào của bao con dân khổ cực dưới ách cùm trói thiếu đi một cánh tay che chở, bảo vệ trước dông tố cuộc đời. Sinh ra từ cát bụi rồi lại trở về với cát bụi hư vô. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi tưởng đã bị cuốn phăng khỏi guồng quay của thời gian, chuyến hành trình dài của lịch sử nhưng chính bởi hồn thơ văn chất chứa đã khẳng định tên tuổi, tạc linh hồn vô hình lên vóc dáng dân tộc, để lại cho đời những tiếng thơ bất hủ, vang dội mà cũng không kém phần lắng đọng, tinh tế, bình dị như chính những rung động nhẹ nhàng trong trái tim Nguyễn Trãi: Nhắc đến tên ông là thấy thơ Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ. (Nỗi đau đời - Tế Hanh) Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại. Ông coi thơ là nơi gửi gắm, truyền đạt con mắt sự đời tinh tế để công phá quân giặc; là miền đất mơ ước mà ở đó tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân thấm nhuần vào hành động, xuyên suốt, chủ đạo như nguồn năng lượng hội tụ phát sáng kì diệu: Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược


Có nhân có trí có anh hùng.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

(Bảo kính cảnh giới, bài số 5) Trong thơ Nguyễn Trãi, hai tiếng “trung hiếu” và “ưu ái” như một lời nguyền vang vọng, trường tồn với năm tháng: yêu nước, thương dân - danh là danh Tổ quốc — lợi là lợi Tổ quốc. Sống để cống hiến, suốt đời quên mình vì dân vì nước, vì tư tưởng “nhân nghĩa". Rạo rực, hùng hồn, sắc bén, đây Quân trung từ mệnh tập - vang dội khí phách, tinh hoa, cội nguồn dân tộc; mãi là “áng thiên cổ hùng văn” ấy là Bình Ngô đại cáo... Quân trung từ mệnh tập tuy chỉ là một tập hợp gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giao thiệp với triều đình nhà Minh của Nguyễn Trãi... nhưng nó lại là tập văn chiến đấu có sức mạnh bằng mười vạn quân (Phan Huy Chú) với ngòi bút tinh thông, sắc sảo, biến hoá, nhất quán của mưu sư viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời (Lê Quý Đôn). Mỗi bức thư là một khâu, một mắt xích quan trọng trong cả cuộc luận chiến kéo dài giữa ta và địch, là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lí lẽ lúc thâm thuý, ý nhị, lúc biến hoá, sắc sảo đến gai góc, tài tình với tư tưởng yêu nước, thương dân đã tạo cho sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Trãi được nhân lên, cú đánh nào của ông cũng trúng đích (Hồ Chí Minh). Nếu văn đàn Việt Nam đã từng gặp mối giao thời lịch sử và văn học sáng rọi giữa Nam quốc sơn hà với chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lí Thường Kiệt hay Hịch tướng sĩ với chiến thắng chống quân Nguyên lần thứ hai thì Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự lặp lại một lần nữa mối giao thời rực rỡ, huy hoàng ấy. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa cảm hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật đến mức kì diệu mà chưa một tác phẩm chính luận nào đạt tới, là áng văn yêu nước sáng chói non sông, thời đại - một “thiên cổ hùng văn” vô tiền khoáng hậu. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập, bản cáo trạng hùng hồn tội ác của kẻ thù, là khúc tráng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa phải gắn liền với chống quân xâm lược, bảo vệ quê hương, lo cho dân cuộc sống “thái bình, thịnh trị”, “xã tắc từ đây vững bền”; lòng tự hào dân tộc sâu sắc: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. (Bình Ngô đại cáo) Lắng sâu trong Bình Ngô đại cáo là dòng máu lúc bừng lên, sôi sục lòng tự hào dân tộc nhiệt huyết, lúc âm vang, giận dữ, uất hận trào sôi, lúc nghẹn ngào, tấm tức... Nguyễn Trãi luôn ước vọng nhà nước phong kiến sẽ lấy nhân nghĩa để “trị dân”, “khoan dân” cho viễn cảnh quê hương đất nước tươi đẹp hiện ra tươi sáng, huy hoàng, rực rỡ hơn: Bốn phương biển cả thanh bình Ban chiếu duy tân khắp chốn. (Bình Ngô đại cáo - Bản dịch của Ngô Tất Tố) Giọng văn chính luận của Nguyễn Trãi đã đạt tới mức độ nghệ thuật mẫu mực từ cách xác định đối tượng, mục đích để có biện pháp khéo léo tạo nên kết cấu sắc bén, nhất quán. Với tài năng, đức độ cùng những việc mà Nguyễn Trãi đã làm và cống hiến cho dân tộc, ông xứng dáng là một nhà cải cách vĩ đại, nhà tư tưởng lớn. một danh nhân văn hoá thế giới. Phạm Văn Đồng đã nhận xét: Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho nhân dân. Tư tưởng nhân nghĩa ấy luôn thiết tha, thường trực chuyển thành tâm trạng lo âu, bất an: Bui một tấc lòng ưu ái cũ Chẳng nằm thức dậy nẻo canh ba. (Bảo kính cảnh giới, bài số 7) Bui một tấc lòng ưu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.


(Thuật hứng, bài số 5) Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà chúng ta cần phải khai thác; nhưng khi lộ thiên rồi thì nó lại càng lấp lánh hơn bởi tư tưởng, tấm lòng yêu nước, thương dân sáng ngời.

IC IA L

Rạo rực khí phách một thời của vị anh hùng nhưng Bình Ngô đại cáo hay Quân trung từ mệnh tập... chỉ là chất thép bao bọc bên ngoài một tâm hồn, một trái tim biết đau nỗi đau thời thế, biết yêu, biết sống đẹp, sống vui. Là bậc anh hùng với lí tưởng cao cả nhưng Nguyễn Trãi xót xa và nghẹn ngào đau xót trước cảnh người dân bị tàn hại vô tội. Ông thượng khóc cho “dân đen” đang rên xiết dưới gót giày quân giặc. Tình yêu thương đồng loại cao cả, vĩ đại lắm thay, là một phần xương máu, tâm can của con người anh hùng ấy: Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. (Bình Ngô đại cáo)

FF

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

N

Ở thế nhiều phen thấy khóc cười.

O

Nguyễn Trãi vốn là con người trung thực, ngay thẳng, yêu lẽ phải và sự công bằng nên nỗi đau xót, buồn rầu, chua chát về thời thế đen bạc, lòng người đổi thay là điều hiển nhiên: (Tự thuật bài 9)

Ơ

Bui một lòng người cực hiểm thay.

H

(Mạn thuật, bài 4)

N

Xã hội càng ngang trái, người anh hùng ấy lại càng ngời sáng phẩm chất cứng cỏi, khát khao tự do, thà chết chứ không chịu làm nô lệ của cường quyền bạo ngược:

Y

Từng ước mơ bay chín vạn tầng

U

Giờ mong biển bắc giống chim bằng

Q

Đáng than danh giả thành nia đấu Khó để người sau dựa mực cân

M

Một tấm lòng son như thuốc luyện Thanh nhàn, ấy rõ điều ta thích Luồn cúi theo người ta chẳng vâng. (Mạn hứng 2 – Bản dịch của Lê Cao Phan)

ẠY

Mười năm chức sạch tựa bầu băng

D

Con người ấy hội tụ đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn của tinh hoa đất Việt, người Việt! Sự tôn vinh danh nhân văn hoá thế giới do UNESCO năm 1980 công nhận đã khẳng định rõ ràng vẻ đẹp của con người ấy.

Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị tài ba mà ông còn là con người của cuộc sống đời thường, của quê hương xứ sở, gắn bó với cuộc đời lao động chân lấm tay bún: Một cày, một cuốc thú nhà quê Áng cúc lan chen vãi đậu kê Khách đến chim mừng hoa xây rụng


Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về Bá Di người rặng thanh là thú Nhan Tử ta xem ngặt ấy lề Hễ tiếng dữ lành tai quản đắp Cầu ai khen liễn lệ ai chê.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

(Thuật hứng, hài 3) . Đâu chỉ yêu quê hương Côn Sơn có “đá rêu phong”, có “suối chảy rì rầm”, có “ghềnh thông mọc như nêm”, có “bóng trúc râm”, Nguyễn Trãi còn dành cho thiên nhiên một địa vị cao sang trong thơ qua Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Đó là màu xanh của cỏ như “khói bến xuân tươi”, là bóng thông bên núi, là tiếng cuốc gọi hè, là vẻ kín đáo của tĩnh thư một bức phong còn kín, gió nơi đâu gượng mở xem- (Cây chuối), là cành mai, dáng tùng, là sức sống trào dâng của hoa hòe, hoa lựu đỏ ngoài hiên... Tất cả những điều bình dị, dân dã ấy qua những rung động thẩm mĩ của Nguyễn Trãi đều đi vào thơ ca nhẹ nhàng như một mảnh tâm hồn. Thiên nhiên đã trở thành nơi ôm ấp, bao bọc con người có tâm hồn thanh cao, yêu đời ấy. Dù đi đến bất cứ nơi đâu, thiên nhiên đều trở thành một nguồn thơ bất tận túi thơ chứa hết mọi giang sơn (Tự thán 2) của người thi sĩ này. Nguyễn Trãi sống để bầu bạn với thiên nhiên, để viết về tình cảm nhân văn giữa con người với con người, giữa vua tôi, tình cha con sâu sắc: Quân thần chưa háo lòng canh cánh Tình phụ cơm trời áo cha. (Ngôn chí, bài 7) Những vần thơ cửa Nguyễn Trãi dù viết về thiên nhiên hay tình cha con, tình bạn... đều biết bao gần gũi. Chính hình ảnh con người trong thơ đã làm cho Nguyễn Trãi nổi bật rõ hơn vẻ đẹp nhân bản, nhân văn trong tâm hồn người anh hùng, nâng cao tầm vóc, vị thế của một con người thời đại. Xuất hiện ở nửa đầu thế kỉ XV, thiên tài văn học Nguyễn Trãi đã trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lí - Trần, đồng thời mở đường cho giai đoạn phát triển mới. Bao trùm trong thợ Nguyễn Trãi là nguồn cảm hứng yêu nước và nhân đạo sâu sắc. Ông là một nhà văn chính luận xuất sắc, là nhà thơ có công khai sáng tiếng Việt, đem đến cho nền văn học thơ Đường luật viết bằng văn học chữ Nôm sáng tạo làm tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu và đẹp. Hơn sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc, nhà thơ, nhà tư tưởng chính trị lớn Sống mãi trong lòng dân tộc và thế hệ con cháu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi để đối xử nhân đạo với những tên giặc. Bọn chúng đã gây ra chiến tranh, đem bom đạn giết hại dân ta, đàn áp đồng bào ta, tàn phá dân tộc ta, gây bao nhiêu tang tóc đau thương trên mọi miền đất nước. Vậy mà khi bắt sống quân giặc, ta vẫn đối xử nhân đạo với chúng. Phải chăng đó là bắt nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi? Ta tự hào vì dân tộc ta có một nhân cách lớn như Nguyễn Trãi. Cuộc đời, sự nghiệp ấy sẽ mãi mãi là tấm gương soi đường, chỉ lối cho những bước ta đi để xây dựng quê hương, đất nước. Thời gian sẽ không làm phai mờ đi chân dung danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi. Ta vẫn thấy Ức Trai ung dung thanh cao sống giữa cõi đời thanh bình ấy: Đạp sóng mây, ôm bó củi Ngồi bên suối, gác cần câu. (Trần tình, bài số 5) Ta vững bước hướng về một tương lai tươi sáng; sẵn sàng, tự tin bước đi xây dựng quê


hương khi biết đằng sau mình vẫn có những con người vĩ đại như thế soi đường, chỉ lối: Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam hùng vĩ! Tuổi anh hùng của thế kỉ hai mươi. Bài 2: Thuyết minh về tác gia Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Có nơi đâu đẹp tuyệt vời Như sông như núi như người Việt Nam. Đầt Việt đã sản sinh ra một con người nhỏ bé như bao con người, nhưng chính con người nhỏ bé ấy lại lấp lánh và lưu tên mình trong dòng lưu viễn của thời gian. Nguyễn Du - tiếng chuông vang hồn nước Việt Nam, ta tự hào về những gì mà Nguyễn Du - đại thi hào dân tộc, danh nhân vằn hóa thế giới, nhà nhân đạo lỗi lạc có con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời (Mộng Liên Đường chủ nhân) để lại cho đời đang lấp lánh qua bao nhiêu gió bụi của thời gian. Nguyễn Du sống trong thời đại đầy biến động dữ dội, chỉ trong vòng mấy chục năm giang sơn đã mấy lần đổi chủ. Triều đại Lê - Trịnh sụp đổ, triều đại Tây Sơn quét sạch giặc Thanh lên thay và chẳng bao lâu triều đại nhà Nguyễn lên thay (Nguyễn Gia Long). Đây là thời kì chế độ phong kiến đã suy tàn, khởi nghĩa nông dân nổ ra liên miên. Chính những điều đó có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du sau này. Nguyễn Du sinh năm 1765. (Ất Dậu) tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, người đời gọi là dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Dòng họ Nguyễn Du nhiều đời làm quan và có nhiều người làm quan to dưới triều Lê - Trịnh. Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca. Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là mảnh đất phì nhiêu nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du. Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi thì mồ côi cha, đến năm 13 tuổi mồ côi mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp nhũng sóng gió trong cơn “quốc biến ba đào”, khi đó Nguyễn Du phải sống nhờ ở đậu, lúc thì ở nhà anh ruột Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh), lúc ở nhà anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn), có lúc làm con nuôi một võ quan họ Hà, và nhận chức nhỏ: Chánh thủ hiệu uý. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan ở tận Thái Nguyên. Cùng với những biến động của lịch sử gia đình họ, Nguyên Tiên Điền cũng sa sút tiêu điều: Hồng Linh vô gia, huynh đệ tán. Khi nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất lầ thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.

D

Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc ông gọi là mười năm gió bụi. Đây là quãng thời gian mà Nguyễn Du tự miêu tả về mình là “tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên”. Những năm tháng khó khăn và khổ cực đó là đói không có ăn, bệnh tật không có tiền mua thuốc... Nhưng chính trong hoàn cảnh đó Nguyễn Du được sống gần gũi với nhân dân và thấm thía biết bao nỗi bất hạnh của kiếp người, đặc biệt, là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày... những con người dưới đáy xã hội. Chính những nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn nhất trong nền thi ca trung đại Việt Nam. Đến năm 1802, khi Nguyễn Ánh (Gia Long) lên ngôi, Nguyễn Du bất đắc dĩ ra làm quan


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

với triều Nguyễn. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần chánh và được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18 - 9 - 1820) tại Huế. Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai. Cuộc đời của Nguyễn Du có rất nhiều thăng trầm. Nguyễn Du là người có vốn tri thức sâu rộng, đặc biệt am hiểu văn học Trung Quốc, văn học Việt Nam. vốn sống thực tế rất phong phú, rất từng trải bởi vì ông đi nhiều, tiếp xúc nhiều với con người, nhiều cảnh đời. Nguyễn Du có sự đồng cảm sâu sắc với nỗi khổ của con người. Nguyễn Du là người thanh liêm ưa thích cuộc sống thầm lặng. Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn, hành lạc...) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc đời đầy bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa dông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông mang tấm lòng nhân ái chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam. Ông sáng tác nhiều, thành công ở cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán, Nguyễn Du để lại ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, gồm 243 bài. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, biểu lộ tình thương xót đối với các hạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong lịch sử Trung Quốc một cách sắc sảo. Chúng ta đã nói đến trái tim của Nguyễn Du - trái tim mang trong nó một nỗi đau vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Du, ta thấy trái tim ấy dành tình thương cho tất cả: từ những người ông tận mắt chứng kiến đến những người được nghe kể, truyền tụng, từ người sống cùng thời, là đồng bào, đồng nạn, đến những người sống ở những thời đại khác, chân trời khác, từ người sang cho đến người hèn, từ trẻ thơ cho đến người già, phụ nữ... Ông thương người mẹ lang thang cầu bơ cầu bất, lê mình đi ăn xin cho ba đứa con, thương những đứa tiểu nhi tấm bé, lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha (Văn tế thập loại chúng sinh), thương người ca sĩ đất Thăng Long, người hát rong ở đất Thái Bình... Ở đây là nỗi xót xa cho Tiểu Thanh, Đạm Tiên, ở kia là nỗi đau đớn nghẹn lòng dành cho Khuất Nguyên, Đỗ Phủ... Mọi nỗi buồn đau, thống khổ của kiếp người vang động đến đều có thể làm cho trái tim ấy rỉ máu. Ngồi bút của Nguyễn Du chấm vào thứ máu ấy mà viết nên những trang thơ. Nguyễn Du cũng có gắn bó với cuộc sống nông thôn, khi với phường săn thì tự xưng là Hồng Sơn liệp (lạp) hộ, khi với phường chài thì tự xưng là Nam Hải điếu đồ. Về chữ Nôm, Nguyễn Du để lại hai kiệt tác, đỉnh cao nhất là Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hoá Việt Nam. Nhiều nhân vật trong Truyện Kiều trở thành điển hình cho những mẫu người trong xã hội cũ, mang nhũng tính cách tiêu biểu: Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và đều đi vào thành ngữ Việt Nam. Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, vè Thác lời trai phường nón. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự: Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Chính “nhũng điều trông thấy” khiến tác phẩm của Nguyễn Du mang đậm khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc. Nguyễn Du là nhà thơ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Thanh Hiên giống những trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lay lắt, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử... đều


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu; Tình cờ làm thơ; Ngồi rèm...). Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu - nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca... Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lấm cả áo người”, toàn bọn “vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”... Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bối cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “nhũng điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du. Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc đứt ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ: Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn, từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sở kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh; thậm chí Nguyễn Du còn vượt qua cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta - địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, nơi ngàn thu gió lạnh phơi xương trắng (Quỷ môn quan). Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông. Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển. Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học tiếng Việt: tỉ lệ từ Hán - Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học trung đại. Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc. Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông. Một Nguyễn Du thâm thuý, trải đời, một Nguyễn Du chan chứa nhân ái, hiểu mình, hiểu đời, một Nguyễn Du nóng bỏng khát khao cuộc sống bình yên cho dân tộc, cho nhân dân. Chính bởi những đóng góp to lớn vĩ đại như thế, năm 1965 được Hội đồng Hoà bình thế giới chọn làm năm kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du và công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới. Chúng ta muốn đến với Nguyễn Du như đến với một con người suốt đời khắc khoải, da diết với thân phận con người. Nguyễn Du đã từng rỏ biết bao nước mắt khóc thương cho những con người đau khổ ấy, lẽ nào ta lại chẳng một lần khóc cho Nguyễn Du để bi kịch của Ngươi sẽ tan như bóng hình Trương Chi trong chén nước mắt của Mị Nương xưa. Xin được mượn những câu


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

thơ của nhà thơ Tố Hữu tri âm cùng Tố Như để thay cho lời kết: Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. (Bài giảng tại trung tâm Luyện thi THPT Lan Anh - TP. Vũng Tàu) Bài 3: Thuyết minh về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của nhân dân ta BÀI LÀM THAM KHẢO Hồ Chí Minh - Ông già thuyền trưởng Đã từng qua bốn biển năm châu Sinh cảnh đói nghèo, lớn bước gian lao . Lòng sạch, chí cao đã thành thép qua nghìn lửa đạn Hồ Chí Minh dong buồm về nước Vung cánh tay ngang trời Tổ quốc Kêu gọi nhân dân lớp lớp theo Người Để thoát kiếp ngựa trâu xây lại cuộc đời, (Hồ Chí Minh, Eoan Maccon - Anh, Đào Anh Kha dịch) Trong hành trình gian nan và vô tận, con người luôn tìm kiếm những hình mẫu có thật trong cuộc sống để tôn vinh và noi theo với mong muốn trở nên hoàn thiện hơn. Một trong những hình mẫu lí tưởng ấy là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Suốt đời, Bác hi sinh cho độc lập, tự do... là câu hát xúc động về Hồ Chủ tịch - vị lãnh tụ cách mạng vô sản kiệt xuất, nhà ngoại giao lỗi lạc, danh nhân vãn hóa thế giới. Với dân tộc Việt Nam - Người là Cha, là Bác, là Anh, quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ (Theo chân Bác - Tố Hữu). Đất nước ta, dân tộc ta tự hào về Hồ Chủ tịch - con người giản dị và vĩ đại - tiêu biểu cho truyền thống bốn ngàn năm lịch sử vẻ vang. Đất nước Việt Nam tự hào về Bác Hồ bởi Bác chính là sự kết tinh những tinh hoa truyền thống của bản sắc dân tộc. Nhân dân ta đã thấy ở Bác Hồ con người Việt Nam đẹp nhất và nhân dân thế giới gắn liền tên nước Việt Nam với tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt Nam - Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Bác sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, dân tộc Việt Nam đang là thuộc địa của thực dân Pháp. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành thấu hiểu nỗi nhục nô lệ dưới ách xâm lược của thực dân Pháp nên đã noi gương các sĩ phu tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... nuôi ý chí “tìm đường cứu nước”, “giải phóng dân tộc”. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Bác ra đi tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất Thành nung nấu ý chí sang tận nước Pháp để tìm hiểu kẻ thù, từ đó có cách chống lại chúng. Tháng 7-1911, Người đặt chân đến cảng Mác-xây (Pháp), sau đó Người đã đi qua nhiều nơi: châu Phi, châu Mĩ, châu Âu rồi cuối cùng trở lại Pháp vào đầu tháng 12 - 1917. Tại đây Người trực tiếp học tập và rèn luyện trong quần chúng. Người hăng hái hoạt động trong phong trào yêu nước của Việt kiều và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp. Người đã lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tuyên truyền, giác ngộ Việt kiều. Người viết báo, tuyên truyền cho cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương. Năm 1920, Bác tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp tại đại hội Tua. Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp và cho ra đời báo Người cùng khổ, xuất bản hai cuốn sách Bản án chế độ thực


O

FF

IC IA L

dân Pháp và Đường cách mệnh. Bên căn nhà nhỏ bé trong một khu ổ chuột ở Pháp, Bác đã hét lên khi đọc được luận cương của Lê-nin. Bác đã bí mật gửi tất cả các sách báo, luận cương của Lê-nin về Việt Nam để thúc đẩy phong trào cách mạng. Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, từ đây cách mạng Việt Nam đã bước sang một trang lịch sử mới dưới sự lãnh đạo của Bảc, người chiến sĩ tiên phong trên các mặt trận đầy gian khổ. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng (Hồng Kông), Người đã chủ trì hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, người chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc đã cống hiến rất nhiều cho phong trào đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới và trở thành người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1941, với vốn sống thực tế, với kinh nghiệm dày dặn và trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Tháng 8 năm 1942, Người sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ của Quốc tế Cộng sản cho cách mạng Việt Nam thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Bác đã phải chịu biết bao đau khổ: ăn đói, mặc rét, bệnh tật: Răng rụng mất một chiếc Tóc bạc thêm mấy phần

N

Gầy đen như Quỷ đói Ghẻ lở mọc đầy thân.

Ơ

(Bốn tháng rồi - trích Nhật kí trong tù)

Q

U

Y

N

H

Tình yêu thương con người của Bác sâu sắc và rộng lớn. Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, Bác thương em bé mới nửa tuổi đã phải theo mẹ vào chốn lao tù (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương - Nhật kí trong tù). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp Bác thương các cháu nhi đồng phải sống khổ sở vì thiếu thốn, vì bom đạn: Nay vì vận nước gian nan, trẻ em cũng phải lầm than cực lòng (Trẻ con). Bác luôn quan tâm và yêu thương các cháu với tình cảm chân thành, ruột thịt: Ai yêu nhi đồng, bằng Bác Hồ Chí Minh. Bác thông cảm với người lao động vất vả, cơ cực, lo nỗi lo mất mùa, chia sẻ niềm vui được mùa với nông dân: Nghe nói năm nay trời đại hạn

M

Mười phân thu hoạch chỉ vài phân. (Từ Long An đến Đồng Chính)

Khắp chốn nông dân cười hớn hở Đồng quê vang dậy tiếng ca vui

D

ẠY

(Cảnh đồng nội) Lòng nhân ái của Bác Hồ bao trùm khắp các tầng lớp nhân dân: Bác sống như trời đất của ta Yêu từng nhành lúa, mỗi cành hoa Tự do cho mỗi đời nô lệ Sữa để em thơ lụa tặng già. (Bác ơi - Tố Hữu) Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa Chỉ biết quên mình cho hết thảy


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Như dòng sông chảy nặng phù sa. (Theo chân Bác - Tố Hữu) Đất nước Việt Nam nhỏ bé quằn quại trong sự đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mĩ, chiến tranh cứ nối tiếp chiến tranh từ năm này qua năm khác, Hồ Chí Minh vẫn quên mình, miệt mài ra sức lãnh đạo nhân dân chiến đấu chống xâm lược. Người đã làm được một công việc phi thường: Lau khô những dòng nước mắt Dòng nước mắt trên nét mặt lịch sử Việt Nam. Người đã đưa đất nước Việt Nam từ năm tháng tối tăm, máu trào và nước mắt, họ đã vùng lên như một giấc mơ. Dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân Việt Nam từng bước đánh thắng mọi kẻ thù, bước vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên của độc lập, tự do, làm nên: Một dải đất huy hoàng Việt Nam Một nhân dân anh hùng Với tên Hồ Chí Minh chói sáng. (Hồ Chí Mình, Eoan Maccon - Anh, Đào Anh Kha dịch) Ngày 2 - 9 - 1945, người chiến sĩ cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi thành lập nước và giải phóng hoàn toàn miền Bắc, thực dân Pháp với dã tâm muốn bình định ra cả miền Bắc rồi sau đó xâm lược cả nước, Bác đã viết thư và kêu gọi toàn thể nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai: Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến), Bác đã đề ra chủ chương và chính sách: xóa mù chữ, xóa đói giảm nghèo, Tết trồng cây... Suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ sáng suốt lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân trường kì kháng chiến và đã kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu. Nhân dân miền Bắc sau giải phóng phấn khởi bắt tay vào xây dựng đất nước và sát cánh cùng đồng bào miền Nam tiếp tục đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trí tuệ siêu việt, bằng tấm gương suốt đời phấn đấu, hi sinh vì dân vì nước, đã đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chiến đấu đến cùng để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định truyền thống bất khuất, anh hùng của dân tộc Việt Nam. Năm 1962, phái đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra thăm Bác, Bác rất xúc động và nói: hình ảnh miền Nam yên quý luôn ở trong trái tim tôi: Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha. (Bác ơi — Tố Hữu) Lòng nhân ái của Hồ Chủ tịch thể hiện lí tưởng cao cả là một đời phấn đấu, hi sinh để mưu cầu độc lập tự do cho dân, cho nước: Tự do cho Tổ quốc tôi, cơm áo cho đồng bào tôi. Bác chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; Bác suốt đời cống hiến, hi sinh vì quyền lợi của đất nước và dân tộc: Nâng niu tất cả chỉ quên mình Bác để tình thương cho chúng con Một đời thanh bạch chẳng vàng son Mong manh áo vái hồn muôn trượng Hơn tượng đồng phơi những lối mòn. (Theo chân Bác - Tố Hữu)


IC IA L

Bác sống giản dị, thanh bạch, không bao giờ nói về mình. Đức khiêm tốn, sự hài hòa giữa tư tưởng vĩ đại và phong thái tự nhiên, hồn hậu, gắn bó chan hòa với con người và thiên nhiên của Bác đã tạo nên sức thuyết phục lớn lao đối với dân tộc và nhân loại. Tháng 8 năm 1964, Mĩ đã mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn thể nhân dân đứng lên chống đế quốc Mĩ xâm lược khi bom nổ bên tai. Và rồi, vào 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường theo tổ tiên, về với “thế giới người hiền” trong niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân Việt Nam và thế giới: Một trái tim ngừng đập, cả thế giới bỗng lạnh ngắt tái tê. Nhưng Bác Hồ chỉ chết về phần thể xác, phần vật chất, phần cơ thể mai một. Nhưng ý nghĩa của cuộc đời chiến đấu của Người thì như một kim chỉ nam sẽ hướng dẫn con đường đi cho các chiến sĩ chống thực dân và chống đế quốc: Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa Ướt lạnh vườn cau mấy gốc dừa. (Bác ơi - Tố Hữu)

FF

Chiều nay con chạy về thăm Bác

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

Hồ Chí Minh - Người không phải là một nhà thuyết giáo, một vị thánh, mà đơn giản, Bác là một người yêu Tổ quốc, yêu con người bằng cả sự sống của mình. Từ khi cả dân tộc Việt Nam và các dân tộc nô lệ vẫn chìm trong bóng tối và nhìn về Tổ quốc mình với nỗi tuyệt vọng, thì Hồ Chí Minh, mọi lúc, mọi nơi vẫn miệt mài đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc mình và cho hoà bình thế giới. Ngay cả những lúc Người bị vây hãm bởi những thể lực luôn luôn muốn dập tắt tiếng nói về độc lập, tự do, Người vẫn cất cao tiếng nói kiêu hãnh về dân tộc, tiếng nói của khát vọng tự do. Vì thế, “chúng tôi sẽ nói đến tên Người: Hồ Chí Minh, mỗi khi chúng tôi muốn nói đến lòng tin ở thắng lợi”: Người đi giữa chúng tôi Lãnh tụ của cách mạng Người cùng chúng tôi Gặt mùa chiến thẳng. (Người đi giữa chúng tôi, Lincon Becman - Mĩ) Người đã hồi sinh cuộc sống, lên ngang tầm thời đại Việt Nam (Hồ Chí Minh, niềm tự hào Việt Nam - Xuân Diệu). Sự cống hiến của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và phong trào quốc tế vì hoà bình vô cùng to lớn, bởi có Người, Việt Nam chiến thắng (Người Cha già vĩ đại - Huy Cận). Nhà thơ Tha-noong-xắc (Lào) trong bài thơ Kính dâng Chủ tịch Hồ Chi Minh đã viết: Sự nghiệp của Người bất diệt Toả sáng lung linh không gì che được Đẹp như trăng rằm soi rọi đêm thâu. (Hùng Phi dịch) Rồi mai đây, cả muôn đời sau nữa, hình ảnh Hồ Chí Minh sẽ luôn được lồng trong hình ảnh Việt Nam, một Việt Nam của ngày mai tươi sáng đã được dự báo trước, một hình dáng vinh quang của cửa ngõ có một không hai, để đi vào thế giới tương lai (Hướng về tương lai - Nguyễn Hoàng). Dưới con mắt của các nhà thơ thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lên như một viên ngọc sáng lung linh về nhân cách, một người cộng sản mẫu mực về đạo đức, giản dị trong cách sống: Người giản dị tự nhiên như là hoa thơm trái ngọt. Đúng như nhà thơ Gheo-ooc-ghi Vê-xêli-nốp (Bungari) viết: Người ở trong tất cả chúng tôi, Người vĩ đại nhưng gần gũi thôi (Nụ cười -


Nguyễn Chí Thành dịch). Hay:

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Ôi! Hiền dịu Bác Hồ Chính là sức mạnh của lòng ta đó Là một người cũng là tất cả ; (Hồ Chí Minh, Ernst Schuhacacher - Cộng hoà Liên bang Đức, Đinh Quang dịch) Trong suốt bảy mươi chín năm cuộc đời đầy sóng gió, bắt đầu từ khi lấy tên Văn Ba, làm phụ bếp trên tàu Đô đốc La-tút-sơ Tờ-rê-vin, cho đến khi trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, một điểm nổi bật, xuyên suốt trong Người đó là lòng nhân ái, tình thương yêu con người cháy bỏng. Trước hết, Bác là người cùng gánh nỗi đau thương triền miên của dân tộc, của những con người chịu kiếp sống nô lệ: Bởi vì Người đau nỗi đau của những vết thương Trên mình mỗi em bé Việt Nam bị quỳ “yan-ki” giết chết Khi giặc lái của Lầu Năm Góc phá đổ mỗi ngôi nhà Thì lòng Người bỗng nhiên như sụp mái Bởi vĩ trong mỗi xóm nhỏ tan hoang vì bom na-pan Mĩ Một mảnh tim Người tự cháy xót xa! Tình thương yêu, sự xót xa ấy còn tràn về cả quá khứ tối tăm thời Pháp thuộc: Người đã đói mọi cơn đói ngày xưa Vì Người đã chết hai triệu lần năm bốn nhăm khủng khiếp Người đã mặc lên mọi tấm áo xác xơ Đã đi chân đất với mỗi đôi chân trần của người dân đất nước Người đã chứa chất nỗi tủi nhục của mọi người cùng cực. Và cao hơn thế, Hồ Chí Minh luôn đứng về phía những người cùng khổ trên thế giới này. Tấm lòng nhân ái, tình cảm cao thượng ấy được khắc hoạ bằng những hình ảnh vô cùng ấn tượng: Người đã sống cùng người phu Quảng Châu, Thượng Hải

M

Và đo được mức tận cùng đói rách

Và ở Nam Phi, Người cũng đo được đói rét tận cùng Của những người Ẩn cùng đinh sang đó

ẠY

Tìm miếng cơm nuôi sống qua ngày Bởi vì Người đã đến với dân lao động Tự đào huyệt chôn mình khi vét dòng kênh Panama.

D

(Hồ Chí Minh, lên Người là cả một niềm thơ, Phê-lích Pi-ta Rô-đơ-ri-ghết – Cuba; Hoàng Hiệp dịch)

Trái tim Hồ Chí Minh đập cùng nhịp với trái tim hàng triệu người dân lao động. Thuộc về nhân dân, Người, đau nỗi đau của nhân dân, “bí quyết sức mạnh của Người, nền tảng quyền lực của Người là ở đó”. Chính sự đồng điệu ấy đã tạo nên sự vĩ đại trong tên gọi Hồ Chí Minh: Điều vĩ đại của Người, Bác Hồ, chính là Người hiểu Người là ai và đã sống vì ai.


(Bác Hồ, Steve Mason - Mĩ, Hoàng Lê dịch) Trên thế giới, chưa bao giờ có vị lãnh tụ nào lại gần gũi với nhân dân mình hơn Chủ tịch Hồ Chí Minh; Phải thấu hiểu điều đó đến đỉnh điểm, phải kính yêu dân tộc Việt Nam đến độ máu thịt của mình, mới có thể viết được lên những điều nhân ái vì nhân dân: Và tất cả chung đúc vào đây Người du kích, nhà thơ, nhà chính trị, người thầy

IC IA L

Để làm nên một người cộng sản Hồ Chí Minh, gốc của dân và cũng chính là dân.

Ơ

N

O

FF

Dân tộc, nhân dân Việt Nam và Hồ Chí Minh đã hoà làm một. Trong Chủ tịch Hồ Chí Minh không thể không có phần dũng cảm, sự quyết tâm của người du kích, sự thông minh, cảm xúc của một nhà thơ; phần tinh anh và tầm nhìn xa của người chính trị; sự hiểu biểt và cao quý của người thầy và đặc biệt là sự trong sáng của những người dân lao động. Điều đó cũng có nghĩa, Người là đất nước, là máu xương của Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã hi sinh cả tên tuổi, cả cuộc sống cá nhân của mình để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, mà chưa bao giờ nghĩ tới sự sung sướng, giàu sang cho mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh không có cái gì riêng, quyền lợi của đất nước, lợi ích hàng ngày của nhân dân là sự lo lắng đêm ngày của Người. Cả thế giới đã tôn vinh Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong thế kỉ XX, nhưng trên ngực Người không đòi hỏi huân chương (Nghĩ về Bác Hồ - Nguyện Thành Huân), cả cuộc đời của Người một là minh chứng cho: Khiêm tốn của sự vĩ đại

H

Của lòng trung thực, của sự hiển danh Hiển danh lừng lẫy trong sự trong sạch

N

Chứ không phải trong những chiến công.

Y

(Hồ Chí Minh, Áp-đen Ma-lác-khan - Cộng hoà Ả Rập thống nhất)

U

Dường như càng giản dị, khiêm tốn thì tầm ảnh hưởng của Bác lại càng được mở rộng, tâm hồn Người bao trùm thế giới (Trường Chinh).

D

ẠY

M

Q

Hồ Chí Minh - sự kết hợp những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam và con người toàn nhân loại. Từ Người toát ra tinh hoa truyền thống, lượng tâm của thời đại và phẩm giá của tương lai. Tất cả những gì tốt đẹp nhất trên thế giới này dường như được sinh ra để dành tặng và nói về Người. Bác đã ra đi, nhưng tư tưởng và tâm gương đạo đức của Người sẽ trường tồn với thời gian và cả những tình cảm của nhân dân đối với Bác cũng sẽ là vĩnh cửu: Hồ Chí Minh, hạnh phúc nở muôn hoa Thế giới quanh Người không dứt ngợi ca. (Hồ Chí Minh, Eoan Maccon - Anh, Đào Anh Kha dịch) Nhà thơ Paven Antokonxki (Liên Xô) trong bài thơ Bức tượng đồng trong rừng sâu đã sử dụng hình ảnh Phật Thích Ca để gợi nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bức tượng bằng đồng Dưới lòng đất sâu giống Phật Thích Ca Bức tượng đỏ ngầm loé lên bao dấu vết. Lòng nhân ái cao cả của Hồ Chí Minh đã lay động đến tận cùng trái tim của người nghệ sĩ. Người đã trở thành: Vị thánh sống của nghìn thánh sống Và ân nhân của cả muôn đời.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

(Chúc tụng Bác Hồ, Ismael Gomez Braga - Brazil, Đào Anh Kha dịch) Cuộc đời của Bác không chỉ gắn liền với cách mạng mà Bác còn là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất. Bác được phong tặng danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới. Danh nhân văn hóa là người có kiến thức uyên thâm về mọi mặt, có cống hiến to lớn cho đất nước vệ tinh thần vật chất, có ý nghĩa cả thế giới. Thật vậy cuộc đời của Người không chỉ gắn liền với cách mạng mà còn gắn liền với những tác phẩm văn chương. Bác đã viết biết bao tác phẩm đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Khi sống ở Pháp, Bác viết báo Người cùng khổ đã giáng một đòn tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân, vạch ra con đường cách mạng và tương lai tươi sáng của các dân tộc bị áp bức. Trong thời gian bị bắt ở nhà lao Trung Quốc, Bác viết Ngục trung nhật kí gồm 133 bài với những điều mắt thấy tai nghe, sống giữa lao tù Bác vẫn lạc quan yêu đời không sờn lòng trước khó khăn gian khổ. Khi ở chiến khu Việt Bắc, Bác cùng các đồng chí hoạt động bí mật. Trong những ngày đầu cách mạng cực kì thiếu thốn Bác vẫn ghi lại biết bao tâm tư tình cảm, ý chí, niềm tin của mình qua bài: Tức cảnh Pắc Bó, Cảnh khuya, Cảnh rừng Việt Bắc, Rằm tháng giêng... Những áng thơ văn của Người dù viết bằng văn vần, văn xuôi chữ Nôm hay chữ Hán thì nội dung của nó đều giản dị đi sâu vào lòng người; cách viết sinh động, gợi cảm và súc tích. Bác luôn quan tâm chia sẻ niềm vui chiến thắng cùng nhân dân, khích lệ tinh thần chiến đấu của dân tộc trong giờ phút đón mừng năm mới. Bác đã để lại cho đời nhiều tác phẩm bất tử với thời gian góp phần làm phong phú cho nền văn học nước nhà. Bác rất xứng đáng với danh hiệu mà thế giới phong tặng. Hồ Chủ tịch là một nhân cách khiêm tốn, giản dị và vĩ đại. Tài năng và đức độ của Bác rất xứng đáng với những danh hiệu cao quý mà cả nhân loại đã tôn vinh - người chiến sĩ cộng sản kiên trung, người con anh hùng của đất nước Việt Nam, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Bác là ánh sáng của lí tưởng và niềm tin trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Bác đã đi xa nhưng dường như Người vẫn đang dõi theo từng bước tiến của dân tộc. Ai hiến dâng cuộc đời mình cho nhân dân, cho loài người thì người ấy trở thành bất tử (L. Tôn-xtôi). Và Bác Hồ của chúng ta sẽ sống mãi cùng non song đất nước. Đất nước Việt Nam, dâri tộc Việt Nam tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Bác là kết tinh tinh hoa của bốn ngàn năm lịch sử và thời đại. Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất về một con người chân chính. Bài 4: Thuyết minh về tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh BÀI LÀM THAM KHẢO Lại thương nỗi đọa đày thân Bác Mười bốn trăng tê tái gông cùm Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc Mà thơ bay cánh hạc ung dung. (Theo chân Bác - Tố Hữu) Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, người anh hùng giải phóng dận tộc, người chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc, danh nhân văn hóa xuất sắc của nhân loại. Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 - 5 - 1890, trong một gia đình nhà nho nghèo ở xã Kim Liên - huyện Nam Đàn - tỉnh Nghệ An. Ngay từ ấu thơ Người đã chịu ảnh hưởng tinh thần hiếu học và yêu nước từ gia đinh và quê hương. Năm 1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Người đã ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba ở nước ngoài suốt ba mươi năm với bao nhiêu gian khổ, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm ra con đường cứu nước. Từ năm 1941 đến năm 1969, Người trở về nước lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xây dựng nên một đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, độc lập hoàn toàn. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có một sự nghiệp văn học vĩ đại gồm hai bộ phận chủ yếu: văn chính luận, truyện và kí, thơ ca. Nổi bật trong lĩnh vực thơ ca là tác phẩm Nhật kí trong tù. Tháng 8 - 1942, Người từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh


FF

IC IA L

thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Khi đến thị trấn Túc Vinh thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ và giải qua gần ba mươi nhà lao của mười ba huyện thuộc tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc suốt mười bốn tháng. Ngục trung nhật kí đã ra đời trong những tháng ngày Người bị giam cầm tại đó. Tập thơ gồm 133 bài thơ tứ tuyệt, được viết bằng chữ Hán thể hiện sự am hiểu tuyệt vời về Hán tự cũng như thể thơ Đường luật của Bác. Một thi phẩm có được do sự “lỡ tay đánh rơi vào kho tàng văn học, như một cử chỉ đùa, một hành động ngẫu nhiên...của Hồ Chí Minh” (Đặng Thai Mai, “Đọc lại tập thơ Ngục trung nhật kí”). Người chiến sĩ vĩ đại mà đấu tranh trở thành lẽ sống, thành nhịp sống hàng ngày ấy đã khổ tâm vô hạn vì cứ sống nhàn, nhàn quá đỗi trong tù, giữa lúc tráng sĩ đua nhau ra mặt trận, hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh (Nạp muộn), đành phải ngâm ngợi cho khuây phần nào nỗi sốt ruột để mong sớm trở về vị trí chiến đấu. Và hơn một trăm bài thơ nhật kí được viết ra chỉ để cho khuây ấy lại thật sự là một tác phẩm văn chương vô giá. Về giá trị nội dung, Nhật kí trong tù phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch là tàn ác vô nhân đạo và không có trật tự, không có an ninh, pháp luật không được thực hiện: Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc (Lai Tân)

O

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.

Ơ

N

Nhật kí trong tù là bức chân dung tự họa về con người và tinh thần của Hồ Chí Minh ở nhiều khía cạnh trong đêm đen tàn bạo ở hang hùm miệng rắn.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Nhật kí trong tù ghi lại hình ảnh một nhà ái quốc vĩ đại, lúc nào cũng nóng lòng, đau đáu hướng về Tổ quốc của con người mang tên Nguyễn Ái Quốc. Người đã “hòa lệ thành thơ” để nói về nỗi niềm cố quốc tha hương. Ngay cả trong lúc ngủ niềm thủy chung với cách mạng của Người luôn thường trực, trước sau như một: Một canh... hai canh... lại ba canh Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành Canh bốn... canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh. (Không ngủ được) Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh Nội thương đất Việt cành lầm than Ở tù mắc bệnh càng cay đắng Đáng khóc mà ta cứ hát tràn! (Ốm nặng) Đêm thu không đệm cũng không chăn Gối quắp, lưng còng, ngủ chằng an Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang. (Đêm lạnh - Bản dịch của Nam Trân) Cành lá khéo in hĩnh Dực Đức Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng Tin tức bên nhà bữa bữa trông.


(Tức cảnh) Đó còn là tinh thần kiên cường bất khuất của người tù, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù đang phải chịu cảnh lao tù, xiềng xích của nhà tù địa ngục trần gian: Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao Muốn nên sự nghiệp lớn

IC IA L

Tinh thần càng phải cao. (Tựa đề) "Một ngày tù nghìn thu ở ngoại" Lời nói người xưa thực không sai Khiến mình tiều tụy còn hơn mười năm

O

Bởi vì:

Ơ

Bốn tháng không thay áo

N

Bốn tháng ăn không no Bốn tháng ngủ không yên

FF

Sống chẳng ra người vừa bốn tháng

H

Bốn tháng không tắm rửa Cho nên:

N

Rụng mất một chiếc răng Tóc bạc đi nhiều

Y

Gầy đen như quỷ đói

U

Ghẻ lở khắp thân mình

Q

May sao:

Kiên trì và nhẫn nại

M

Không chịu lùi một phân

Vật chất tuy đau khổ Không nao núng tinh thần. (Bốn tháng rồi)

D

ẠY

Hay:

Năm canh thao thức không nằm Thơ tù ta viết hơn trăm bài rồi Xong bài, gác bút nghỉ ngơi Nhòm qua cửa ngục, ngóng trời tự do. (Đêm không ngủ -.Nam Trân dịch)

Ta còn nhận ra một tâm hồn trong “chất người cộng sản” luôn rung cảm trước thiên nhiên vũ trụ. Dù thân thể bị giam trong bóng tối nhà lao, nhưng tâm hồn Bác luôn hướng ra ánh sáng để


cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, của ánh trăng: Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. (Ngắm trăng)

IC IA L

Đó là tư thế ngắm trăng, mối tương quan giữa vị trí và ý chí: thân thể trong lao, tinh thần ngoài lao. Đó là việc giành thế chủ động nhưng không sa vào thắng lợi tinh thần: Mặc dù bị trói chân tay Mê say ai cấm ta đừng . (Trên đường)

O

Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.

FF

Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng

Ơ

N

Và người nghệ sĩ đã bâng khuâng lắng nghe một tiếng chuông chùa, tiếng sáo trẻ chăn trâu, đã âu yếm dõi theo một cánh chim bay về rừng, một chòm mây lơ lửng lưng trời lúc hoàng hôn, tiếng giã gạo nơi thôn dã... trong khi bản thân đang bị trói giải trên đường: Gạo đem vào giã bao đau đớn

H

Gạo giã xong rồi trắng tựạ bông

N

Sống ở trên đời người cũng vậy

Y

Gian nan rèn luyện mới thành công.

U

(Nghe tiếng giã gạo)

D

ẠY

M

Q

Và qua Nhật kí trong tù ta thấy được phong thái ung dung tự tại, tinh thần “thép” vĩ đại của người chiến sĩ, một mặt sôi sục khát khao chiến đấu, ngày đêm mong mỏi tự do để tung bay vào bão táp cách mạng, mặt khác lại ung dung bình tĩnh, có phong thái của một hiền triết phương Đông: Hai giờ ngục mở thông không khí Người người khoan khoái ngắm trời mây Tự do chỉ có thần tiên hưởng Ai biết có tiên ở chốn này. (Quá trưa - Bản dịch của Phạm Thanh Cải) Hay: Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh Lủng lẳng chân treo lụa giảo hình Làng xóm ven sông đông đúc thế Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh. (Giữa đtrờng đáp thuyền đi Ung Ninh) Cái vô song cửa tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh (Xuân Diệu). Chất người cộng sản Hồ Chí Minh - đó là tấm lòng nhân ái mênh mông sâu thẳm, một tình thương quên mình. Người cũng chính là trái tim tràn ngập tình yêu thương, sẻ chia, đồng cảm trước nỗi đau


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

của con người. Người hầu như không bận tâm tới những nông nỗi khổ cực ghê gớm mà bản thân đang chịu đựng, nhưng lại hết sức nhạy bén để cảm thông sâu xa với mọi buồn vui, sướng khổ của những người tù chung quanh, hay của những người nông dân, người phu đường bắt gặp trên đường chuyển lao: Thân anh da bọc lấy xương Khổ đau đói rét hết phương sống rồi Đêm qua còn ngủ bên tôi Sáng nay anh đã về nơi suối vàng. (Một người tù cờ bạc chết cứng) Trong tù ngục, nhìn thấy cảnh bi ai đau khổ của những người dân Trung Quốc, Bác vẫn thấy xót xa cho họ: Oa... Oa... Oa... Cha trốn không đi lính nước nhà Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi Phải theo mẹ đến ở nhà pha. (Cháu bé trong ngục Tân Dương) Biền biệt anh đi không trở lại Buồng the trơ trọi thiếp ôm sầu Quan trên xót nỗi em cô quạnh Nên lại mời em tạm ở tù. (Gia quyển người bị bắt lính) Dãi gió dầm mưa chẳng nghỉ ngơi Phu đường vất vả lắm ai ơi ! Ngựa xe, hành khách thường qua lại Biết cảm ơn anh được mấy người? (Phu làm đường) Hỡi ôi! Chàng hỡi, hỡi chàng ơi! Cơ sự vì sao vội lánh đời? Để thiếp từ nay đâu thấy được Con người tâm ý hợp mười mươi. (Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng) Qua Nhật kí trong tù ta biết thêm lòng lạc quan tin tưởng vào tương lai, luôn luôn hướng về bình minh và mặt trời hồng của Hồ Chí Minh: Hôm nay xiềng xích thay dây trói Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung Tuy bị tình nghi là gián điệp Mà sao khanh tướng vẻ ung dung. (Đi Nam Ninh) . Rồng quấn vòng quanh chân với tay Trông như quan võ đủ tua đai


Tua đai quan võ bằng kim tuyến Tua của ta là một cuộn gai. (Dây trói) Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không Cô em xóm núi xay ngô tối

IC IA L

Xay hết lò than đã rực hồng.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

(Chiều tối) So với những tập nhật kí của các tác giả khác như: Nhật kí ĐặngThùy Trâm do nhà văn Vương Trí Nhàn biên tập dựa trên hai tập nhật kí của bác sĩ - liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, trong đó nội dung là những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả về gia đình, xã hội và cuộc chiến, khi trực diện với sự sống, cái chết đang diễn ra; hay Nhật kí chiến tranh của nhà văn Chu Cẩm Phong là sự đúc kết những trải nghiệm, hiện thực sống động và khắc nghiệt của chiến trường thì Nhật kí trong tù của Bác là một thi phẩm độc đáo trong sự độc đáo, là một viên ngọc sáng lung linh đang phát ra luồng ánh sáng chói ngời về bức chân dung tự họa con người, tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Chế Lan Viên). Giáo sư Phương Lựu khẳng định, cống hiến lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt thể loại văn học trong Nhật kí trong tù là sáng tạo ra thể thơ tứ tuyệt tự sự. Hiển nhiên thơ Đường có nhiều bài mang tính chất tự sự như: Tam lại, Tam biệt của Đỗ Phủ; Trường hận ca, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị... nhưng không phải là thơ tứ tuyệt. Ngôn từ của Bác không phải là ngôn từ cổ điển. Thể loại thơ của Bác cũng bốn câu nhưng nó là tứ tuyệt tự sự - ghi nhật kí, kể chuyện. Đó là điều rất khác thơ Đường. Thơ Đường hay so sánh, đối thanh, đối ý nhưng thơ của Bác không chủ về đối. Những việc làm của Bác rất nhỏ nhưng có nhiều việc nhỏ của Bác cũng có ý nghĩa lớn. Điều đó khẳng định Bác của chúng ta rất trân trọng, yêu quý văn hóa Trung Quốc và ra sức học tập nó nhưng không bao giờ rập khuôn. Đọc Nhật kí trong tù, ta nhận ra sự ảnh hưởng đậm đặc của chất Đường thi, bút pháp cổ điển trong phong cách thơ của Người. Nghệ thuật đối, bút pháp ẩn dụ, điệp từ đã được Bác sử dụng rất tài tình và khéo léo. Điển hình trong bài thơ Vọng nguyệt, phép đối rất chỉnh đến từng ý, từng lởi: Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia. Hai nhân vật trữ tình luôn luôn đối xứng trong giao cảm vận hành với nhau: người - trăng; trăng người. Cấu trúc đối này đã làm nổi bật tình cảm mãnh liệt giữa người và trăng, mối quan hệ từ lâu đã trở thành tri kỉ. Hay trong bài Tẩu lộ, việc lặp lại điệp từ “tẩu lộ” đã làm nổi bật ý thơ đường đi thật khó khăn, ý thơ thấm thía từ sự trải nghiệm của Người đang trên hành trình gian nan. Và trong câu thứ hai của bài thơ này, điệp từ “trùng san” cũng được nhắc lại nhằm nhấn mạnh cái khó khăn vẫn đang nối tiếp. Đồng thời cũng là một ẩn dụ, gợi ra con đường cách mạng phía trước vẫn còn đầy gian lao, thử thách và hi sinh. Một đặc điểm nghệ thuật luôn bao trùm trong thơ Bác là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, là sự hòa quyện giữa chất thơ và chất thép. Do vậy mà thơ Bác dù mang phong vị thơ Đường, Tống nhưng không u buồn, cổ kính như thơ Đỗ Phủ, Lí Bạch mà hình ảnh thơ luôn mới mẻ, hiện đại, phóng khoáng. Như bài thơ Chiều tối mang phong vị thơ Đường ở hình ảnh chòm mây lẻ loi và cánh chim mệt mỏi ở hai câu đầu. Nhưng ở hai câu cuối, hình ảnh cô em xóm núi xay ngô tối bên lò than rực hồng đã làm rạng rỡ, ấm áp cả bài thơ. Sức sống mãnh liệt tỏa ra từ ý thơ. Đó chính là dấu ấn tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh. Nhật kí trong tù vốn là một tập thơ chứa đựng nhiều bất ngờ, thú vị. Tính chất nôm na


Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

trong thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh lại biểu hiện một con người gần gũi, đời thường. Đằng sau cái đời thường, tâm hồn đồng cảm ấy là một nhân cách lớn, một ý chí và khát vọng tự do. Mặc dù, cách làm thơ trong tù của Người là để giải khuây, không giống với các thi sĩ làm thơ. Ở đây, người tù làm thơ để mong thời gian trôi nhanh hơn: Ngâm thơ ta vốn không ham Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây? Ngày dài ngâm ngợi cho khuây Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do. (Khai quyển) Bác làm thơ không giống như những nhà thơ khác, ba năm mới được một chữ, mà phải làm nhanh để kịp ghi sự kiện. Làm thơ theo cách của Bác là để bộc lộ tấm lòng, tình cảm của mình (Tố Hữu). Điều này đối với nhiều chính khách là muốn che đậy. Nhưng đây thực sự là tâm huyết, là tình cảm rất chân thật. Thấm thoát hơn bảy mươi năm trôi qua rồi - thời gian ấy là khá dài để người ta có thể lãng quên sau năm năm, mười năm với một tác phẩm. Nhưng hơn bảy mươi năm, giá trị của Nhật kí trong tù rất bền vững. Theo Giáo sư Hà Minh Đức, tập thơ dày dặn về số lượng nhưng nội dung tư tưởng còn vượt tầm hơn thế. Bằng chi tiết đời thực trong hoàn cảnh lao tù, bằng ngôn ngữ đời thường, nôm na nhưng Nhật kí trong tù luôn được coi là “áng văn mẫu mực về sự kết hợp giữa lí tưởng và hiện thực, giữa hiện thực với trữ tình và châm biếm, nhiều tầng, nhiều lớp để nhận thức xã hội”. Nhật kí trong tù là tiếng nói vút lên từ chỗ tối tăm mù mịt ấy mà lại là tiếng nói chứa chan tình nhân đạo nên tự nhiên cũng là tiếng nói kết tội những bóng tối dày đặc đang đè nặng lên kiếp sống của người ta. Giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc, ánh sáng vẫn ngời lên, ánh sáng của lòng thương người và yêu đời vô hạn (Hoài Thanh). Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua tác phẩm của mình, đã để lại cho dân tộc và nhân loại một di huấn tinh thần bất hủ - trong đó nổi bật nhất là vẻ đẹp của một tâm hồn và trí tuệ vĩ đại. Nhà thơ Xuân Diệu khái quát: Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh. (Bài giảng tại Trung tâm Luyện thi THPT Lan Anh — TP. Vũng Tàu) Bài 5: Thuyết minh về thiên nhiên trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh BÀI LÀM THAM KHẢO Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp

M

Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông

Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

D

ẠY

(Cảm tưởng đọc "Thiên gia thi") Các nhà thơ cổ điển Trung Quốc cũng như Việt Nam xưa nay vẫn luôn lấy thiên nhiên làm nguồn thi hứng cơ bản của thi ca. Qua những bức tranh phong cảnh, tác giả muốn bộc lộ cảm hứng về đất nước con người, biểu hiện ít nhiều tình cảm chủ quan của người viết. Thiên nhiên gắn bó với cuộc sống, với con người, với tình yêu, với thơ. Truyền thống của thơ ca phương Đông càng đặc biệt chú ý đến vai trò của thiên nhiên. Bác Hồ sáng tác Nhật kí trong tù trong điều kiện lao tù khắc nghiệt, vậy mà bài thơ vẫn tràn ngập hình ảnh của thiên nhiên. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai có nhận xét: Trong “Nhật kí trong tù” thiên nhiên chiếm một địa vị danh dự. Thiên nhiên trong Nhật kí trong tù rất phong phú, đa dạng, mỗi bài thơ là một bức tranh nên thơ nền họa, có những cảnh đẹp lộng lẫy thể hiện rõ khát vọng tự do, khát vọng lãng mạn của Bác. Thiên nhiên trong thơ Bác phong phú, đa dạng, đẹp đẽ nên thơ. Trong số 133 bài thơ của Nhật kí trong tù đã có trên dưới vài chục bài thơ tả cảnh. Ngay ở


những bài thơ, Bác không chú tâm tả cảnh, ta vẫn bắt gặp rất nhiều hình ảnh thiên nhiên. Nhìn chung hình ảnh thiên nhiên trong thơ Bác có nội dung phong phú và có sự biểu hiện đa dạng, sinh động, đẹp đẽ và hấp dẫn. Bác Hồ chiêm ngưỡng thiên nhiên trong mọi thời khắc, có cảnh nắng, cảnh mưa, cảnh sớm, cảnh trưa, cảnh chiều, cảnh tối. Có những cảnh mang vẻ đẹp lộng lẫy: Sự vật vần xoay đã định sẵn . Hết mưa là nắng hửng lên thôi Đất trời một thoáng thu màn ướt

IC IA L

Sông núi muôn, trùng trải gấm phơi Trời ấm, hoa cười chào gió nhẹ Cây cao, chim hót rộn cành tươi Người cùng vạn vật đều phơi phới

FF

Hết khổ là vui vốn lẽ đời. (Trời hửng)

Chùa xa chuông giục người nhanh bước

Ơ

Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay.

N

O

Có những cảnh mang vẻ đẹp bình dị, kín đáo, thơ mộng. Đó là cảnh hoàng hôn với những âm thanh quen thuộc và cổ kính đầy gợi cảm:

(Hoàng hôn)

Q

U

Y

N

H

Thiên nhiên được miêu tả trong Nhật kí trong tù rất chân thật, máng rõ nét cảm hứng về đất nước và con người. Bác bị giam hãm trong tù ngục đen tối, bị giải đi cũng hết sức khổ sở, vậy mà thơ Bác đâu có thiếu hình ảnh thiên nhiên. Mây, gió, trăng, hoa... trong thơ xưa cũng hiện diện trong thơ Bác, tất nhiên là với màu sắc mới. Hình ảnh của núi sông cũng khác, đẹp hùng vĩ và thơ mộng. Nêu thiếu họa chăng là thiếu biển, nhưng đền bù vào đó lại có biển của tình yêu thương mênh mông của Bác đối với con người: Anh đứng trong cửa sắt .

M

Em đứng ngoài cửa sắt

Gần nhau trong tấc gang Mà biển trời cách mặt. (Vợ người bạn tù đến thăm chồng)

D

ẠY

Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Bác cao rộng, đẹp một cách hùng vĩ và thơ mộng. Thiên nhiên mang kích thước của tâm hồn lớn. Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn (Giải đi sớm), cho thấy cái bao la thăm thẳm của vũ trụ. Mây phủ trùng trùng trên đỉnh núi Tây Phong Lĩnh không hùng vĩ lắm sao! Dưới chân núi là một dòng sông mềm mại sáng trong như tâm hồn thi nhân sau mười bốn tháng tù không vướng chút bụi bẩn: Núi ấp ôm mấy mây ấp núi Lòng sông gương sáng bụí không mờ. (Mới ra tù tập leo núi)


Nét đặc sắc dễ thấy về hình ảnh thiên nhiên trong thơ Bác là chốn đọa đày, tù tội xiềng xích, đói rét, ốm đau, không phải là hoàn cảnh thuận tiện cho cảm hứng thiên nhiên nảy sinh, ấy vậy mà độc giả chúng ta vẫn được thưởng thức biết bao hình ảnh thiên nhiên nên thơ, nên họa, được Bác, viết bằng một cảm hứng say đắm, dạt dào. Bởi lẽ: nói đến thiên nhiên là nói đến khát vọng tự do, khát vọng lãng mạn. Những bài thơ viết về thiên nhiên của Bác biểu thị một thái độ muốn vượt lên trên, cái hiện thực bị giam cầm tù đày, đau khổ: Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng Vui say ai cấm ta đùng Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu. (Trên đường đi)

IC IA L

Mặc dù bị trói chân tay

N

O

FF

Thiên nhiên đẹp trong thơ Bác còn tượng trưng cho mơ ước, niềm vui, tương lai tươi sáng, khát vọng tự do. Có hai hình ảnh của thiên nhiên được thể hiện một cách đậm nét và kì lạ là vầng trăng và mặt trời, vầng trăng tiêu biểu cho vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của thiên nhiên, cũng là biểu tượng của tự do. Cho nên Bác tha thiết với trăng hơn bất cứ hình ảnh nào của thiên nhiên. Trong bóng tối, Người lại càng khao khát ánh sáng, mà được chiêm ngưỡng ánh trăng trong tù đâu có dễ dàng gì:

Ơ

Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt

H

Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.

N

(Trung thu)

D

ẠY

M

Q

U

Y

Sống trong cảnh chân bị cùm, tay bị xích, nhưng Bác vẫn hiện lên trong tư thế của một thi nhân. Bài Ngắm trăng đã diễn tả khá chân thực và cảm động điều đó. Có lẽ không có thi sĩ nào trên đời này ngắm trăng như Bác: Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ . Trăng nhòm khe cửa ngăm nhà thơ, Qua hình ảnh thơ, chúng ta không còn thấy nhà tù đâu nữa mà chỉ thấy nổi bật lên trên trang thơ là hình ảnh một vầng trăng lung linh tỏa sáng và một thi nhân ung dung thư thái với tâm hồn đắm say với trăng. Đằng sau cái phong thái ngắm trăng ung dung ấy là cả một bản lĩnh thép phi thường của Bác Hồ kính yêu. Đó cũng là một sự tự vượt ngục về tinh thần thật kì diệu của người chiến sĩ cộng sản kiên cường (Hoài Thanh). Thiên nhiên trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh vô cùng phong phú. Thơ của Bác không chỉ là thơ của một thi sĩ tài hoa mà còn là thơ của một chiến sĩ cách mạng nắm vững quy luật vận động của cuộc sống, lịch sử. Vì vậy, cùng với hình ảnh vầng trăng, thơ Bác cũng rất nhiều hình ảnh mặt trời - mặt trời luôn luôn ửng đỏ trong thơ Bác xua tan bóng tối âm u, đưa lại một bình minh tươi sáng (Vũ Quần Phương). Bởi mặt trời là nguồn sinh khí trong cảnh tù đày, tăm tối mặt trời cũng tượng trưng cho tương lai tươi đẹp của cách mạng và cuộc đời chung: Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc Chiếu cửa nhà lao cửa vẫn cài. (Buổi sớm) cho tương lai tươi sáng của cách mạng, của Người: Trong ngục giờ đây còn tối mịt


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi. (Buổi sớm) cho sự toàn thắng của xã hội mới: Phương Đông màu trang chuyển sang hồng Bóng tối đêm tàn quét sạch không. (Tảo giải) Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Người thường hiện diện với tư cách thi nhân. Đầu tập Nhật kí trong tù, Bác có nói: Ngâm thơ ta vốn không ham, nhưng trước buổi bình minh tươi đẹp, Người cảm giác thi hứng dào đạt: Hơi ấm bao la toàn vũ trụ Người đi thi hứng bỗng thêm nồng. (Giải đi sớm) Trời hửng là một bức tranh thiên nhiên sinh động, dưới ánh nắng, đất trời hiện lên như một bức thảm thêu bằng chữ bạc chữ vàng trên nền gấm đỏ (Đặng Thai Mai). Đó là thiên nhiên được cảm nhận bởi một trái tim phơi phới lạc quan. Có thể nói chưa bao giờ có nhiều hình ảnh bình minh như trong Nhật kí trong tù, cảnh nào cũng rực rỡ tràn ngập ánh sáng và sức sống, được tả bằng một ngòi bút khoáng đạt, hào hùng và mãnh liệt. Giữa đêm đen của ngục tối Hồ Chí Minh nhận ra ánh sáng bình minh bừng lên phía chân trời. Thiên nhiên thật sự là một người bạn trong cuộc sống, luôn đem lại niềm vui cho con người. Với hoa, Bác cũng là tri kỉ: Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng Hoa tàn hoa nở cũng vô tình Hương hoa bay thấu vào trong ngục Kể với tù nhân nỗi bất bình. (Cảnh chiều hôm) Thơ của Bác rất lãng mạn mà cũng rất hiện thực. Và Nhật kí trong tù trước hết là một tập thơ ghi lại những sinh hoạt của người tù trong nhiều cảnh ngộ thật cay đắng trớ trêu. Vì thể thiên nhiên không phải bao giờ cũng đẹp đẽ nên thơ, cũng có khi nó trở thành thiên tai đầy đọa hành hạ con người. Lúc này hình ảnh thiên nhiên được mô tả hết sức chân thực. Bác ghi lại nhiều đêm lạnh, không ngủ được khiến cho đêm như dài thêm ra. Đó là những đêm tối mưa gió, giá lạnh, đường sá hiểm trở: Năm mươi ba cây số một ngày Áo mũ dầm mưa rách hết giày. (Mới đến nhà lao Thiên Bảo) Những hình ảnh: Gió sắc tựa gươm mài đá núi Rét như dùi nhọn chích cành cây. (Hoàng hôn) Hoặc phải chuyển lao trong cảnh: Người đi cất bước trên đường thẳm Rát mặt đêm thu trận gió hàn. (Giải đi sớm) Thiên nhiên còn là những hình ảnh thử thách đầy gian lao:


Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng. (Đi đường) Nhưng người cộng sản - Hồ Chí Minh bao giờ cũng vượt qua những thử thách gian lao của thiên nhiên để đạt đến mục đích cuối cùng: Giày rách đường lầy chân lấm láp vẫn còn dấn bước dặm đường xa.

IC IA L

(Mưa lâu) Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. (Đi đường)

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Có khi thiên nhiên đã trở thành nơi bộc lộ tâm tình của thi nhân: Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân. Giang tâm như kính, tịnh vô trần (Mới ra tù tập leo núi), mây núi hòa quyện vào nhau phải chăng cồn nói tình cảm thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa bạn bè, đồng chí? Và lòng sống sạch như gương ấy chính là tấm lòng trong trẻo không chút bụi nào làm đục được của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Ái Quốc? Cổ điển và hiện đại vốn là nét phong cách nổi bật trong thơ trữ tình của Bác. Nét phong cách ấy được thể hiện đầy đủ nhất trong đề tài thiên nhiên. Màu sắc cổ điển trong thơ thường được biểu hiện ở việc hay tìm cảm hứng về thiên nhiên, nhất là trăng, thường viết về đề tài “đăng sơn ức hữu”. Điểm nhìn trong thơ thường từ chỗ cao, xa, bao quát cả không gian cao rộng, trời mây non nước. Bút pháp cổ điển không tả kĩ chỉ phác họa một vài nét nhằm làm nổi bật lên cái hồn của cảnh. Và nhân vật trữ tình trong thơ thường hiện lên với phong thái ung dung nhàn tản giữa cảnh non nước bao la như một nhà hiền triết xưa (bài thơ Ngắm trăng, Mới ra tù tập leo núi, Chiều tối... của Bác là những bài thơ tiêu biểu nhất cho phương diện này). Thơ Bác rất cổ điển mà cũng rất hiện đại (Hiện đại vì có nội dung cách mạng, tư thế, cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của người cách mạng trong thời đại mới). Nếu như thiên nhiên trong thơ xưa, con người thường hòa tan hoặc chìm trong cảnh, thì ở thơ Bác, con người là trung tâm, ánh sáng, linh hồn của canh. Và cảnh ở đây rất sống động, luôn luôn vận động khỏe khoắn hướng về phía ánh sáng và tương lai, không tĩnh lặng như thơ xưa, vì nó được sức sống con người phả vào, và được nhìn thấy bằng “đôi mắt” lạc quan cách mạng nên rất vui: Trời ấm hoa cười chào gió nhẹ Cây cao chim hót rộn cành tươi Người cùng vạn vật đến phơi phới Hết khổ là vui vốn lẽ đời. (Trời hửng) Tìm hiểu những bài thơ viết về thiên nhiên của Bác, chúng ta thấy nhân vật trữ tình không chỉ xuất hiện với tư cách là một thi sĩ mà còn hiện lên với tấm lòng của một nhà nhân đạo luôn yêu thương, gắn bó, quan tâm đến con người và cuộc sống. Đi qua một vùng được mùa, Bác đã hòa niềm vui với cái vui của nhân dân: Khắp chọn nông dân cười hớn hở Đồng quê vang dậy tiếng ca vui. (Cảnh đồng nội) Nhưng khi trông thấy nhân dân mất mùa, cánh đồng khô hạn thì Bác đã buồn nỗi buồn của người nông dân:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Vùng đây tuy rộng đất khô cằn Vì thế nhân dân kiệm lại cần Nghe nói xuân nay trời đại hạn Mười phần thu hoạch chỉ đôi phần. (Từ Long An đến Đồng Chính) Có thể nói ở nhiều bài thơ, cảm quan thiên nhiên của Bác cũng là cảm quan nhân đạo. Trên con dưỡng giải tù, nhìn thấy người phu làm đường cực khổ dưới nắng mưa, Bác động lông thương và ghi lại thành thơ: Dãi gió dầm mưa chẳng nghỉ ngơi Phu đường vất vả lắm ai ơi Ngựa xe, hành khách thường qua lại Biết cảm ơn anh được mấy người. (Phu làm đường) Thơ thiên nhiên trong Nhật kí trong tù thực sự có những bài rất hay. Có những phác họa sơ sài mà chân thật và đậm đà, càng nhìn càng thi vị như một bức tranh thủy mặc cổ điển. Có những hình ảnh lộng lẫy sinh động như những tấm thảm thêu nền gấm chữ vàng, cũng cỏ những bài làm cho người đọc nghĩ đến những bức sơn mài thâm trầm rộn rịp (Đặng Thai Mai). Thiên nhiên trong Nhật kí trong tù còn cho ta những bài học lớn, ví như bài học này chẳng hạn: con người dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ gìn cho tâm hồn được trong sạch như dòng sông trong gương, không một chút bụi mờ: Giang tâm như kính, tịnh vô trần (Lòng sông gương sáng bụi không mờ). Thiên nhiên trong Nhật kí trong tù rất chân thực, đa dạng nhiều màu sắc. Thiên nhiên ở đây đã được nhân hóa, tượng trưng hóa để trở thành phương tiện biểu hiện tình cảm phong phú của con người. Tình cảm thiên nhiên của Bác thấm nhuần cảm quan xã hội, khác hẳn với thơ xưa, chỉ nói đến thiên nhiên thuần túy. Đấy chính là nét đặc sắc của thơ Bác nói chung, thơ thiên nhiên của Bác nói riêng. (Bài giảng tại Trường THCS Vũng Tàu trong chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Văn cấp thành phố) Bài 6: Thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. BÀI LÀM THAM KHẢO Trong văn học Việt Nam có biết bao nhiêu là thể thơ hay và chính những thể thơ ấy đã làm nên những thành công cho biết bao nhiêu thi sĩ. Những thể thơ trong kho tàng thơ ca thật sự rất phong phú, đặc biệt là thời thơ ca trung đại chúng ta có vay mượn của Trung Quốc. Tiêu biểu trong đó có thể thơ thất ngôn bát cú. Thơ Đường luật phổ biến trên thi đàn Việt Nam xưa, xuất xứ từ đời Đường (618 - 907), có luật lệ nhất định, thường gọi là thơ luật để phân biệt với thơ cổ phong xuất hiện trước đời Đường không có luật lệ nhất định. Thơ luật có bốn thể: ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú. Thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng lại được các nhà thơ xưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm, ý chí, ngâm vịnh, trào phúng, xướng họa, thù tạc, chúc mừng quan hôn, khai bút đầu xuân... Lúc đầu làm bằng chữ Hán, đến đời Trần, Hàn Thuyên là người đầu tiên làm bằng chữ Nôm, nên Đường luật còn gọi là Hàn luật. Từ đó thể thất ngôn bát cú trở thành độc tôn trên thi đàn, ngay trong các kì thi, các thí sinh cũng được yêu cầu làm một bài. Để minh chứng cụ thể chúng ta có thể khái quát về bố cục và luật lệ căn bản của thể thơ này: I. Bố cục: Một bài thơ thất ngôn bát cú có bốn phần:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

1. Mạo: là mào đầu (vào bài) còn gọi là Đề, gồm: - Phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề; - Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống. 2. Thực hay Trạng: gồm câu 3+4: giải thích, khai triển tựa đề. 3. Luận: gồm câu 5 + 6: bàn luận ý nghĩa của bài. 4. Kết: gồm câu 7 + 8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ. II. Luật lệ căn bản 1. Vần: là bộ phận chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt, là âm tiết trừ đi phụ âm đầu nếu có. Ví dụ: “tà, hoa, nhà, gia, ta” trong bài Qua Đèo Ngang có cùng một vần “a”. Vần có vần bằng, vần trắc, độc vận, ép vận. Trong thất ngôn bát cú, chỉ gieo một vần, gọi là độc vận rơi vào năm chữ cuối của năm câu: 1,2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần trắc. Năm chữ này tránh trùng nhau, phải hiệp vận cho đúng nếu gieo sai gọi là lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép. Ghi chú: vần có cước vận (vần ở cuối câu), và yêu vận (vần ở lưng câu). Vần điệu: Điệu là đều đặn, là số chữ đều đặn trong mỗi câu thơ, như điệu thất ngôn mỗi câu bảy chữ, điệu lục bát gồm một câu 6, một câu 8. Riêng điệu ca trù mỗi câu bao nhiêu chữ cũng được, trừ câu cuối bắt buộc sáu chữ. Nhịp điệu: Nhịp là cách ngắt đoạn đều đặn trong câu thơ. Nhịp điệu là cái dáng đi khi mau khi chậm trong thơ. Tiết tấu: Tiết là đốt, là đoạn ngắn, tấu là đánh nhạc, là đọc cao lên. Thi nhạc: Gồm (vần, điệu, nhịp, tiết tấu): Nhà thơ dùng âm thanh (tượng thanh), dùng sự thay đổi của âm, độ cao thấp của thanh, sự đều đặn của vần điệu nhịp điệu, sự nhịp nhàng của tiết tấu... làm cho bài thơ đọc lên như một bản nhạc gọi là thi nhạc. 2. Đối: Là phép đặt hai câu thơ đối nhau, gồm có: Đối chữ: Bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối động từ... Đối ý: Ví dụ cảnh dưới núi đối cảnh bên sông, cảnh động đối cảnh tĩnh như trong hai câu thực của bài Qua Đèo Ngang. Trong thể thơ này, hai câu thực phải đối nhau, hai câu luận phải đối nhau. Đây là những cặp đối tiêu biểu của các thi sĩ. * Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giói Nguyễn Trãi: Hương cách gác vân thu lạnh lạnh Thuyền kể bãi tuyết nguyệt chênh chênh. (Tự thuật 3) Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về. (Thuật hứng bài 3) Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn Lòng người quanh nữa nước non quanh. (Bảo kính cảnh giới, bài 9) * Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương: Năm thì mười họa chăng hay chớ Một tháng đôi lần có cũng không. (Kiếp lấy chồng chung) Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm


Ơ

Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.

N

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe

O

FF

IC IA L

Cầm bằng làm mướn, mướn không công. (Làm lẽ) (Cố đấm ăn xôi và Làm mượn không công là hai câu tục ngữ). Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc Phận liễu sao đà nảy nét ngang. . (Không chồng mà chửa) (Trong Hán tự, chữ “thiên" nếu kéo nét phẩy nhô lên thì thành chữ “phu” là chồng. Chữ “liễu” nếu thêm nét ngang thì thành chữ “tử" là con). Đôi gò bồng đào sương còn ngậm Một lạch đào nguyên suối chửa thông; (Thiếu nữ) Chày kình tiểu để suông không đấm Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo: (Chùa Quán Sứ) (Suông không đấm và đếm lại đeo đều có nghĩa nói lái rất tục).

(Sư hổ mang)

H

Gió giật sườn non khua lắc cắc

N

Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.

(Kẽm Trống)

M

Q

U

Y

* Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến: Lưng giậu phất phơ màu khói nhật Làn ao lóng lánh bóng trăng loe: (Thu âm) Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. (Thu điếu)

ẠY

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. (Thu điếu)

D

* Thi sĩ Trần Tế Xương: Học đã sôi cơm nhưng chửa chín Thi không ngậm ớt thế mà cay. (Nỗi đời) Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột Om sòm trên vách bức tranh gà. (Bức tranh gà dân gian)


Chí cha chí chát khua giày dép Đen thủi đen thui cũng lụa là. (Xuân nhật ngẫu hứng) Vay nợ lắm khi tràn nước mắt Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi. (Than nghèo)

IC IA L

Sĩ khí rụt rè gà phải cáo Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi. (Than đạo học) Một tuồng rách rưới con như bố

FF

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng.

(Mùa nực mặc áo bông)

O

Ví cho thi đỗ làm quan lớn Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu.

Ơ

Tiễn chân cô mất hai đồng lẻ

N

(Cảm hứng) Sờ bụng thầy không một chữ gì.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

(Đi thi) 2. Luật (tức thanh luật): quy tắc xếp đặt thanh bằng (B) thanh trắc (T) cho mỗi chữ trong một câu thơ theo lệ: “Nhất tam ngũ bất luận”: bất luận là không ràng buộc. “Nhị tứ lục phân minh”: phân minh là rõ ràng, bắt buộc, đồng thời phải tuân theo thanh: “nhị bằng tứ trắc lục bằng”, hay ngược lại: “nhị trắc tứ bằng lục trắc”. - Sau đây là bài thất ngôn bát cú luật bằng vần bằng: Trăng thu tỏa sáng nhớ xa xăm Tháng tám chờ trông đến bữa rằm Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng Cha làm trống ếch đánh quanh năm Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm Chiếc lá chao mình trong gió sớm Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm. (Trăng thu - Thứ Lang) - Dưới đây là bài thất ngôn bát cú luật trắc vần bằng: Xót phận hồng nhan một Thúy Kiều Trâm thề quạt ước lỗi thương yêu Thanh lâu lịm kín đời xuân sắc Kĩ viện vùi sâu nét diễm kiều Gió Sở không vơi niềm tịch mịch


M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Mưa Tần chẳng bớt nỗi cô liêu Xa xôi cách trở Kim lang hỡi Có thấu lòng em tủi hận nhiều. (Trăng thề vườn Thúy - Thứ Lang) Âm là tiếng động phát ra khi đọc một nguyên âm. Thanh là độ cao thấp của âm. Mỗi âm trong tiếng Việt có sáu bậc độ quy định bởi sáu dấu: hai thanh bằng gồm trầm (dấu huyền) và phù (không dấu), bốn thanh trắc gồm thượng (dấu sắc, dấu ngã), và khứ hay nhập (dấu hỏi, dấu nặng). Trong một câu thơ, tất cả những chữ cùng một thanh nên thay đổi bậc độ. Trong bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn và chữ thứ năm các câu lẻ, đáng là bằng mà đổi ra trắc gọi là khổ độc (nghĩa là khó đọc). Trong một câu thơ, chữ nào đáng, đặt tiếng bằng mà lại đặt tiếng trắc, hay đấng đặt tiếng trắc mà lại đặt tiếng bằng thì gọi là thất luật. 4. Niêm: nghĩa là dán cho dính lại. Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp xếp các câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu, hay nói một cách khác niêm là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ với nhau. Trong bài Đường luật, hai câu 1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau. Hai chữ thứ hai cùng một thanh được sắp xếp như sau đây haiy ngược lại: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia Dừng chân đứng lại, trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta. Nếu không theo đúng như thế gọi là thất niêm. Đây là bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú luật trắc (chữ tới) vần bằng (chữ tà). Niêm luật vần đối đúng phép. Bố cục chia làm bốn phần rõ rệt: Mạo: Giới thiệu tổng quát cảnh Đèo Ngang. Thực: Tả cảnh Đèo Ngang. Luận: Nhớ nước thương nhà. Kẹt: Tình riêng tác giả. Về vần: Năm chữ: tà, hoa, nhà, gia, ta vần với nhau rất chỉnh. Về đối: Hai cặp thực và hai cặp luận đối nhau chan chát: chữ đối chữ, ý đổi ý. Về luật: Luật trắc (ở chữ tới). Cả tám câu thơ đều đúng luật.

ẠY

Về niêm: Rất chặt chẽ: chữ tới niêm với chữ cành cùng là trắc, chữ cậy niêm với chữ khom cùng là bằng, chữ đác niêm với chữ nước cùng là trắc, chữ nhà niêm với chữ chân cùng là bằng.

D

Trên đây chỉ là những quy tắc căn bản, khi làm thơ có nhiều thi gia đôi lúc không răm rắp tuân theo trăm phần trăm mà bài thơ vẫn hay, vì tác giả đặt cái thần, cái hồn của bài thơ cao hơn luật tắc. Ví dụ như bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến gieo vần “ao” nhưng câu hai lại gieo vạn “iu”: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.


Và bài Tổng vịnh Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh gieo vần “ương” nhưng câu bốn, câu tám lại gieo vần “ang’’ là “chàng’’ và “vàng”: Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương Sắc tài chi lắm để làm gương! Công cha bao quản liều thân thiếp Sự nước xui nên phụ nghĩa chàng

IC IA L

Cung oán nỉ non đàn bạc mệnh Duyên may run rủi lưới Tiền Đường Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng.

FF

Chữ “chàng” tuy gieo không chính vận, nhưng khi đọc lên... nó phát ra một âm thanh nghe não nề, trầm buồn, vang dội trong tâm hồn ta.

H

Ơ

N

O

Bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến về bố cục, tác giả say mê tả cảnh suốt cả tám câu; còn về vần thì trong năm chữ: veo, teo, vèo, teo, bèo, đã có đến hai chữ “teo” trùng nhau vốn là điều cấm kị trong một bài thơ luật, nhưng ở đây cụ Tam Nguyên Yên Đổ vẫn mạnh dạn sử dụng, vì cụ thấy hai từ ngữ ấy (tẻo teo, vắng teo) diễn đạt được tình cảm của cụ. Điều này cho thấy cụ là một nhà nho phóng khoáng có bản lĩnh trong sáng tạo. Và bài Thu điếu xưa nay vẫn được nhiều người công nhận là một trong những bài thơ tả cảnh mùa thu hay nhất trong thơ ca Việt Nam.

Q

U

Y

N

Thể thất ngôn bát cú được nhiều người làm sống lại bằng những hình thức cách tân noi theo bước chân tiền phong của các nhà thơ tiền bối có bản lĩnh sáng tạo như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... mạnh dạn từ bỏ phong cách quý phái, đài các, cung đình: ưa dùng điển tích, thích dùng Hán tự, vọng ngoại, vong bản, bắt chước, sáo mòn... để trở về với tình tự cội nguồn dân tộc Việt Nam đầy sinh động và sáng tạo của mình.

M

Ngày nay trong quá trình phát triển văn học, thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật không còn được người làm thơ ưa thích sử dụng, do những quy tắc chặt chẽ của nó không đáp ứng được những cách thể hiện phong phú đá dạng tâm hồn tình cảm của người yêu thơ. Tuy nhiên, thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật vẫn là thể thơ có một giá trị bền vững lâu dài trong nền văn học Việt Nam.

D

ẠY

(Bài giảng tại Trung tăm Lan Anh 3 - TP. Vũng Tàu) Bài 7: Thuyết minh về thể thơ song thất lục bát. BÀI LÀM THAM KHẢO Ngoài thể thơ bảy chữ, thơ lục bát thì thơ song thất lục bát là một thể thơ đặc biệt của dân tộc, ra đời trên cơ sở kết hợp từ thể thơ lục bát và thơ bảy chữ vốn có trong thơ ca dân gian: - Chiền chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. - Chữ rằng: “xuân bất tái lai” Ngày nay hoa nở ngày mai hoa tàn Mặc ai nay lụa mai hàng


Hay:

IC IA L

Xin anh đừng có phụ phàng vải bô. - Dạ bát ngát gặp nguôi khách quán Duyệt bông lông gặp bạn Lưu Bình Ơi người trong quán làm thinh Giận ai nỏ biết hay giận mình nỏ hay... - Dạ tương trong như rồng cạn phá . Cám cảnh buồn núi đá nát tan Sầu mong lụy nhỏ hai hàng Lòng trông vời vợi, dạ thiếp bàng hoàng ra đi.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Dãy Trường Sơn xanh rờn thăm thẳm Nghĩa nợ tình này muôn dặm chưa quên. Như vậy, có thể nói rằng thể thơ song thất lục bát ra đời muộn hơn thể thơ lục bát trên cơ sở kế thừa những nét tinh hoa đặc trưng của thể loại này với nét độc đáo của thơ ca dân gian. Đó là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn đầy sáng tạo giữa nền văn học bác học và nền vãn học dân gian. Chợ Bến Thành khi dời khi đổi Người ở đời sao khối hợp tan Xa gần giữ nghĩa tào khang Chợ tham quyền quý phụ phàng nghĩa xưa. (Chợ Bến Thành xưa và nay) Cả lưỡi trâụu dầm trong nước mắm Qua với nàng duyên thắm mấy trăng Cha mẹ tuy chẳng bằng lòng Nợ duyên đã gắn, chữ đồng quanh hăm. (Ca dao chủ đề hiếu thảo) Qua quá trình sử dụng, các tác giả sau này đã dùng thể song thất lục bát để viết các khúc ngâm. Và nó đã đạt đến mức hoàn thiện đưa thể thơ này lên đỉnh cao vinh quang trong nền văn học nước nhà, cúng với tên tuổi của các bậc thầy như: Nguyễn Du với Văn tế thập loại chúng sinh; Nguyễn Gia Thiều với Cung oán ngâm khúc; Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm; Phan Huy ích với Tỳ bà hành; Phan Bội Châu với Đêm trăng hỏi bạn... Sau này khi nhắc đến khúc ngâm thì ta nghĩ ngay đến thể thơ độc đáo này và đó cũng chính là một trong những nét đặc trưng ưu việt của thể song thất lục bát. Vì sao gọi là song thất lục bát? Dựa vào kết cấu của bài thơ mà tên gọi song thất lục bát được hình thành. Song thất lục bát là thể thơ cứ hai dòng bảy chữ (gọi là song thất) thì có một dòng sáu chữ và một dòng tám chữ (lục bát) kết cấu thành từng khổ, mỗi khổ có bốn câu. Cũng như thể lục bát và một vài thể thơ khác thể thơ song thất lục bát không hạn chế về dung lượng câu trong một tác phẩm. Thể thơ này là tiền thân của thơ tám chữ sau này. Một số đặc điểm của thể thơ song thất lục bát. 1. Cách hiệp vần Cách hiệp vần trong thơ song thất lục bát tương đối khó hơn so với các thể thơ khác, chữ cuối của dòng bảy thứ nhất hiệp vần với chữ thứ năm của dòng bảy thứ hai. Hai chữ hiệp vần đều thuộc thanh trắc. Chữ thứ bảy của dòng bảy thứ hai hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng lục tiếp


theo (đều thuộc thanh bằng). Chữ thứ sáu của dòng lực hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng bát (thuộc thanh bằng). Ví dụ: Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu Bốn bề hổ thét chim kêu Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình. (Hai chữ nước nhà-Trần Tuấn Khải)

IC IA L

Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn Lừng ngang trời nhạn ngẩn ngơ sa Hương trời đắm nguyệt say hoa Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.

FF

(Cung oán ngâm khúc -Nguyễn Gia Thiều) Hay:

N

O

Thử tính lại diễn khơi ngày ấy Tiền sen này đã nảy là ba Xót người lần lữa ải xa Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài.

Ơ

(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm)

N

H

Chữ thứ tám của dòng bát thuộc khổ trựớc lại hiệp vần với chữ thứ năm của dòng bảy thứ nhất của khổ thơ tiếp theo và là vần bằng, và như thể cho đến hết bài. Ví dụ: Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông

Y

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng

U

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu

Q

Đâu xiết kể muôn sầu nghìn não

M

Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi. (Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm)

Thông thường nếu hai dòng thất đặt thành hai dòng sóng đôi với nhau thì đoạn đầu dòng bảy ở trên (chữ thứ ba) theo lê phải đặt trắc, thì thanh trắc có thể đổi thành thanh bằng được. Ví dụ:

D

ẠY

Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

(Chinh phụ ngâm Đoàn Thị Điểm diễn Nôm) Ngòi đầu cầu nước trong như lọc Đường bên cầu cỏ mọc còn non Đưa chàng lòng dằng dặc buồn Bộ khôn hằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền. (Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm)

Câu thơ song thất lục bát cũng có thể được giãn rộng ra bằng cách thêm vào một số chữ (thường là chữ đệm). Lúc đó ta có song thất lục bát biến thể, nghĩa là không còn theo đúng quy


luật của nó nữa: (Mà) chớ nghi ngờ dật dờ thương nhớ (Cái) duyên anh (đã) lỡ, (cải) nợ anh đã mòn Như trăng (kia đã) khuyết (khó) biết sao tròn Mặt tuy cách mặt (dạ) em vẫn còn thương anh. (Dân ca Nam Trung Bộ)

IC IA L

Một bài thơ song thất lục bát nếu được mở đầu bằng một cặp lục bát rồi mới đến câu song thất thì đó là lục bát gián cách. 2. Về nhịp

Câu song thất thường dùng nhịp 3/4 và hai câu lục bát thường sử dụng nhịp đôi 2/2:

FF

Giở khăn lệ/ chàng trông từng tấm Đọc thơ sầu/ chàng thấm từng câu Câu vui/đối với/câu sầu .

Ơ

N

O

Rượu khà/ cùng kể/ trước sau/ mọi lời Sẽ rót vơi/ lần lần tùng chén Sẽ ca dần/ rén rén đòi liên Liên ngâm/ đối ẩm/ tùng phen Cùng chàng/lại kết/mối duyên/đến già.

H

(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm)

N

Nhưng đôi khi kết cấu về nhịp lại thay đổi, sự thay đổi này phần nhiều gắn liền với tâm trạng:

Y

Thiếp chẳng dại như người Tô phụ

Q

U

Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương Khi về chẳng quả ấn vàng Trên khung cửi dám dẫy ruồng làm cao.

(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm)

D

ẠY

M

3. Về đối Điểm nổi trội của văn chương là tính nghệ thuật và trong thơ yếu tố góp phần làm nên thành công của tác phẩm cũng không ngoài tính nghệ thuật đó. Một trong những đặc điểm nghệ thuật cần phải nhắc đến khi nghiên cứu về thơ song thất lục bát chính là đối (các chi tiết đối phải cần với nhau về nhiều bình diện). Không riêng gì thơ song thất lục bát mà hầu như các thể thơ văn khác từ xưa đến nay đều sử dụng yểu tố này. Các hình ảnh đổi thường được sử dụng như: trời đất, sông - núi, trên - dưới, thấp - cao, dài - ngốn, buồn - vui, yêu - ghét, đen – trắng... Một số kiểu đối thường được sử dụng như: - Bình đối: Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. (Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm) - Tiểu đối:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Hình khe >< thế núi/ gần >< xa Đứt thôi >< lại nối/ thấp đà >< lại cao. (Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm) - Đối ngữ đoạn: - Xông pha/ gió bãi >< trăng ngàn. - Cớ sao/ cách trở/ nước >< non. (Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm) 4. Về phối thanh Chữ thứ năm và chữ thứ bảy của dòng thất đầu tiên là bằng và trắc, dòng thất ở dưới thì ngược lại. Thanh bằng trắc trong câu sáu - tám giống như tròng thơ lục bát. Ví dụ: Sương như búa bổ môn gốc liễu Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi. (Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm) Ưu thế thể hiện của thơ Song thất lục bát là dung lượng phóng khoáng, nhịp điệu kết cấu ổn định, tạo cảm giác lặp đi lặp lại thường phù hợp với nhu cầu miêu tả sự sâu sắc, phong phú của tâm trạng trong những tác phẩm vãn, khúc ngâm của thời đại, hoặc những tác phẩm có tính chất hồi tưởng trong văn học hiện đại: Ba mươi năm đời ta có Đảng Hôm nay ôn lại quãng đường dài Ngọt bùi nhớ lúc đang cay Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm Mùa xuân đỏ, con chim én mới. Rộn đồng chiêm, chấp chới trời xanh Đời ta gương vỡ lại lành Cây khô cây lại đâm cành nở hoa. (Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu) Hay: Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu Người xuống ngựa, khách dừng chèo Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiêu trúc, ti Say những luống ngại khi chia rẽ Nước mênh mông đượm vẻ gương trong Đàn ai nghe vẳng bên sông Chủ khuây khỏa lại khách dùng dằng xuôi. (Tỳ bà hành - Bạch Cư Dị, bản dịch Phan Huy ích) Đặc biệt thể thơ này cũng được vận dụng trong một số tác phẩm có tính chất tự sự, lược thuật lịch sử: Cũng có kẻ tính đường kiên hãnh Chí những năm cất gánh non sông


Nói chi những buổi tranh hùng Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau! Bỗng phút đâu mưa sa ngói lớ Khôn đem mình làm đứa thất phu Giàu sang càng nặng oán thù Máu tươi lai láng xương khô rụng rời.

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

(Văn tế thập loại chúng sinh — Nguyễn Du) Ảnh hưởng của thơ song thất lục bát. Trong quá trình hình thành và phát triển, thể thơ Song thất lục bát đã đóng một vai trò rất to lớn cho nền văn học nước nhà nói chung và cho các thể loại nghệ thuật khác nói riêng. Sự du dương của một tình yêu đang đến độ chín mùi, âm điệu trầm bổng, khí thế hào hùng trong lúc chiến trận đang diễn ra hay sự dứt khoát ra đi vì nghiệp lớn hay là sự bi thiết đến não nuột giữa cảnh tử biệt sinh li... tất cả những đặc điểm đó đã đem lại một sức sống mới không những cho nền thi ca mà nó còn tạo nên một trào lưu nghệ thuật mới mà đến nay vẫn còn tồn tại đó chính là hình thức diễn ngâm. Trong loại hình văn hóa đặc trưng của miền sông nước Nam Bộ là đàn ca tài tử ta thấy xen lẫn vào các câu chữ mượt mà, trău chuốt vẫn có sự xuất hiện của thể song thất lục bát. Các tác giả đã vận dụng một cách khéo léo và đầy sáng tạo thể thơ này vào trong nghệ thuật ca hát, từ đó giá trị diễn đạt của cà khúc cũng được nâng lên nhờ vào cách vận dụng tài tình này. Ngoài các tác phẩm thơ ca thể thơ song thất lục bát còn được các nhà sư sử dụng làm thể chính trong lúc tụng niệm, Trọng kinh Vu Lan sự vận dụng, này thể hiện một cách rõ ràng và đầy ý nghĩa: .. Bấy giờ Phật lại lên đường ,

N

Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành Đảo bản lộ đành rành mắt thấy

Y

Núi xương khô bỏ đấy lâu đời :

U

Thế Tôn bèn vội đến nơi

Q

Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng

Đức A Nan trong lòng ái ngại

M

Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương

D

ẠY

Vội vàng xin Phật dạy tường Thầy là Từ Phụ ba phương bồn loài Ai ai cũng kính thầy dường ấy Cớ sao thầy lại lạy xương khô Phật rằng: trong các môn đô Người là đệ tứ đứng đầu dày công Bởi chưa biết đục trong chưa rõ

Nên vì người ta tỏ đuôi đầu Đống xương dồn dập bấy lâu Cho nên trong đó biết bao cốt hài Chắc cũng có ông bà cha mẹ Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh


Luân hồi sanh tử, tử sanh Lục thân đời trước, thi hài còn đây Ta lễ bái kính người tiền bối Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa Đống xương hỗn tạp chẳng vừa Không phân trai gái bỏ bừa khó coi. (Phật nói kinh Vu Lan Bồn)

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Ngày nay các tác phẩm mang hơi hướng của thể thơ song thất lục bát rất ít xuất hiện trên các văn đàn. Tuy nhiên dư âm của nó vẫn còn đọng lại một cách sâu sắc trong lòng độc giả thông qua các kiệt tác như: Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm... và dù thế nào đi chăng nữa thì thể thơ song thất lục bát cho đến ngày nay đã và đang làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình và đã hoàn thành trọng trách tải đạo cho nền thơ ca của dân tộc. Có thể nói, thơ song thất lục bát đã đánh dấu một mốc son chói lọi cho nền văn học Việt Nam, nó đã đem lại cho nền văn học nước nhà một luồng gió mới không chỉ riêng đối với Việt Nam mà còn đối với nền thi ca của nhân loại. Bài 8 : Thuyết minh về đặc điểm các thể thơ lục bát. BÀI LÀM THAM KHẢO Bắt nguồn từ ca dao, dân ca, được phát triển qua các truyện thơ Nôm... thơ lục bảt đã đạt đến sự hoàn thiện hoàn mĩ với Truyện Kiều của thiên tài Nguyễn Du. Trong thơ ca hiện đại, thơ lục bát vẫn được tiếp tục phát huy qua thơ Nguyễn Bính, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa... và nhiều nhà thơ khác, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nó trong lòng người đọc. Có thể nói rằng không người Việt Nam nào mà lại không biết đến thơ lục bát, một thể thơ thuần túy dân tộc, xuất hiện đã hàng ngàn năm nay. Từ thuở nằm nôi, nằm võng, theo lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, thơ lục bát đã ngấm vào tim óc, làm nên đời sống tâm hồn phong phú của mỗi con người. Nghiên cứu về đặc điểm của các thể thơ nói chung và thơ lục bát nói riêng, chúng ta cần lưu ý đến các mặt như: số tiếng, số câu, cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp. Đơn vị cơ bản của thơ lục bát gồm một cặp câu: câu lục (sáu tiếng) và câu bát (tám tiếng). Số câu trong bài không hạn định, ít nhất là hai, nhiều có thể lên tới hàng nghìn, vài nghìn câu như các truyện thơ Nôm mà tiêu biểu nhất là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du dài tới 3254 câu. Trong ca dao, có những bài chỉ vẻn vẹn hai câu mà đủ sức thể hiện, khái quát một nội dung, một vấn đề nào đó của xã hội, hay một trạng thái tình cảm của con người. Bên cạnh đó là những truyện thơ lục bát trường thiên kể về bao biến cố trong suốt cuộc đời dài dằng dặc của nhân vật. Điều đó chúng tỏ độ dài ngắn của thơ lục bát là hoàn toàn phụ thuộc vào chủ định của người sáng tác. Vần trong thơ lục bát có hai loại: “vần lưng” và “vần chân”. Hai dòng lục bát hiệp theo vần lưng có nghĩa là tiếng thứ sáu của câu Ịục vần với tiếng thứ sáu của câu bát. Nếu tiếp tục kéo dài thì tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục bên dưới. Đó là vần chân. Ví dụ: Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. (Truyện Kiều - Nguyễn Du) Ta về mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. (Việt Bắc-Tố Hữu)

Cơm ăn mỗi bữa lưng lưng Uống nước cầm chừng, để dạ thương em. (Ca dao)

IC IA L

Ngoài dạng lục bát nguyên thể như trên, còn có dạng lục bát biến thể đôi chút bằng cách thêm bớt một số tiếng hoặc xê dịch về cách hiệp vần hay phối thanh. Ví dụ:

FF

Tiếng thứ sáu cùa câu lục lại vần với tiếng thứ tư của câu bát, tuy vậy đọc lên vẫn thấy du dương. Trường hợp thêm chữ như câu ca dao sau đây: Gió đưa gió đầy về rẫy ăn còng Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.

O

(Ca dao)

N

Câu lục đã được thêm vào hai tiếng (gió đẩy). Nếu bớt đi hai tiếng này thì hai câu lục bát trên sẽ trở lại dạng nguyên thể về vần, nó vẫn tuân thủ theo cách hiệp vần lưng.

H

Ơ

Quy luật phối thanh của thơ lục bát khá linh hoạt, uyển chuyển. Thường thường thì các tiếng ở vị trí thứ hai, sáu, tám là thanh bằng, vị trí thứ tư là thanh trắc. Còn các tiếng ở vị trí lẻ một, ba, năm, bảy thì có thể là bằng hạy trắc đều được cả. Ví dụ: B

N

Bần thần hương huệ thơm đêm

T

B

B

T

Q

Chân nhang lấm láp tro tàn

U

Y

Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn B T B B B

M

Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào. T

B

B

B (Mẹ và em - Nguyễn Duy)

Nếu ở câu lục có hiện tượng tiểu đổi thì luật bằng trắc có thể thay đổi. Ví dụ:

ẠY

Khi tựa gối khi cúi đầu

T

B

B

D

Khi vò chín khúc khi chau đôi mày, (Truyện Kiều -Nguyễn Du)

Tiếng thứ hai thanh trắc, tiếng thứ tư thanh bằng, khác với cách phối thanh của câu lục bình thường. Nhịp trong thơ lục bát phần lớn là nhịp chẵn, tạo nện âm điệu êm đềm, thong thả, thích hợp làm lời hát ru, hát ngâm. Ví dụ: Vì mây/ cho núi/ lên trời


Vì chưng/gió thổi/ hoa cười/ với trăng. (Ca dao) Hay: Gió sao/ gió mát/ san lưng Dạ sao/ dạ nhớ/ người dưng/ thế này? (Ca dao)

IC IA L

Yêu nhau/cởi áo/cho nhau về nhà/dối mẹ/qua cầu/gió bay. (Ca dao)

FF

Nhưng khi cần biểu đạt một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định nào đó, người ta có thể biến đổi nhịp thơ cho thích hợp. Ví dụ như lời Thúy Kiều nói với Hoạn Thư trong cảnh Kiều báo ân báo oán:

O

Dễ dàng/ là thói/ hồng nhan Càng/ cay nghiệt lắm/ càng/ oan trái nhiều.

Ơ

N

Rõ ràng là giọng đay nghiến, chì chiết khi Thúy Kiều nhắc tới máu ghen đáo để có một không hai của tiểu thư họ Hoạn.

N

H

Bắt phong trần/phải phong trần Cho thanh cao/mới được phần/thanh cao.

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

U

Y

Cặp lục bát này có cách ngắt nhịp 3/3 (câu lục) và 3/3/2 (câu bát). Nhịp thơ như thế là rất linh hoạt, diễn tả được cái trắc trở, dâu bể hay sung sướng của số phận con người do định mệnh và đấng tối cao (trời) quyết định.

M

Q

Thơ lục bát đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Việt Nam. Cái hay, cái đẹp của nó là kết tinh tinh hoa ngôn ngữ tiếng Việt. Với những ưu điểm trong cách gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp... biến hóa linh hoạt, uyển chuyển, thơ lục bát dễ nhớ, dễ đi sâu vào tâm hồn. Điều quan trọng là thơ lục bát đủ khả năng diễn tả đời sống tình cảm phong phú, đa dạng của người Việt.

D

ẠY

Cho đến nay, giữa rất nhiều thể thơ khác nhau, thì thơ lục bát vẫn có vị trí xứng đáng và vẫn được đông đảo bạn đọc yêu mến. Sau kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du đã tôn vinh thơ lục bát lên tới đỉnh cao của nghệ thuật thi ca, các bài thơ lục bát của Nguyễn Bính, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Duy, Trần Đãng Khoa,... và một số nhà thơ khác vẫn kế tục và phát huy thế mạnh của thể thơ thuần túy dân tộc, để thơ lục bát mãi mãi là niềm tự hào - là sản phẩm tinh thần vô giá của non sông, đất nước con người Việt Nam. (Bài giảng tại trung tâm Lan Anh 1 - 75 Nguyễn Thái Học, phường 7 - TP. Vũng Tàu) Bài 9 : Thuyết minh về thể thơ lục bát biến thể. BÀI LÀM THAM KHẢO Lục bát là thể thơ gắn bó từ lâu đời với người Việt Nam bởi sự gần gũi, mộc mạc và cấu


trúc nhịp điệu thật nhẹ nhàng mà tinh tế của nó. Lục bát là thể thơ dân tộc được hình thành trên những điều kiện cụ thể từ những đặc trưng ưu việt của tiếng Việt và những đặc điểm thẩm mĩ, văn hóa truyền thống của người Việt.

FF

IC IA L

Tên gọi lục bát ý chỉ cặp câu thơ có dòng đầu sáu tiếng dòng sau tám tiếng “thượng lục hạ bát. Bài thơ ngắn nhất gồm có một cặp lục bát. Thơ lục bát không hạn định về số lượng cặp câu (mở đầu bằng câu lục; câu lục rồi tới câu bát luân phiên nhau; và kết thúc ở câu bát). Tuy nhiên, trong dòng chảy thời gian từ trước đến nay và ắt hẳn còn ở tương lai thơ lục bát luôn được sáng tạo linh động, với nhiều biến đổi mang tính dụng ý nghệ thuật. Sự biến đổi đó được đúc kết với tên gọi chung là biến thể trong lục bát hay lục bát biến thể. Như đã nêu, lục bát biến thể được nói cách khác là dụng ý nghệ thuật của người sáng tạo, đã làm cho câu thơ thêm phần sinh động và đặc biệt là tạo ra nhiều điểm độc đáo. Xét trên nhiều bình diện ta có thể tạm vạch ra những đặc điểm như sau: Thứ nhất, số lời có thể bị kéo dãn ra hoặc phối hợp với thể nói lối.

N

O

Con rắn không chân đi năm rừng bảy rú Con gà không vú nuôi chín mười con Phải chi nhan sắc em còn Anh vô chốn đỏ chiều lòn cũng ưng.

Ơ

(Ca dao - dân ca) Hoặc:

H

Dẫu thương anh, em vẫn giữ đạo hằng

N

Anh về cậy mai tới nói, phụ mẫu bằng lòng em mới thuận ưng Hoặc nữa:

M

Q

U

Y

Miễn cho mở miệng em ừ Anh chẳng từ lao khổ Dẫu lên non tróc hổ Hay xuống biển nã rồng Anh đây cũng chẳng tiếc công Mong sao cho đặng tấm lòng em thương.

(Ca dao-dân ca)

Thứ hai, lục bát thường theo vần bằng nhưng có những trường hợp biến thể theo vần trắc.

D

ẠY

Tò vò mà nuôi con nhện Đến khi nó lớn nó quện nhau đi Tò vò ngồi khóc ti ti Nhện ơi! Nhện hỡi! Nhện đi đằng nào? Hoặc: Gặp lúc đêm thanh trăng tỏa Hát đôi câu cho rõ nhân tình Phòng loan thục nữ một mình

(Ca dao - dân ca)


Hay là đã biết duyên tình cùng ai? (Ca dao - dân ca) Thứ ba, tiếng thứ sáu của dòng lục lại hiệp vần với tiếng thứ tư của dòng bát. Con vua thì được làm vua Con sãi ở chùa, thì quét lá đa. (Ca dao - dân ca)

IC IA L

Hoặc: Tiếc thay hoa nở làm chi Hoa nở lỡ thì lại phải mùa đông. (Ca dao - dân ca)

FF

Hoặc nữa: Thu đi cho lá vàng rơi

O

Lòng em rối bời như là thu sang.

N

(Thu sang- Linh Giang) Thứ tư, trong bài thơ lục bát có xen lẫn hai câu thất.

Ơ

Bốn năm mới gặp lại em Nỗi lòng vui sướng lòng tràn mừng vui

N

Y

Chén hàn huyên một lời thành hai Cha em xa cách lâu ngày Cỏ cây mừng rỡ như là bài thơ xuân.

H

Nụ cười xinh đọng ướt trên môi

Q

U

(Đưa em vào nắng mới - Linh Giang) Hoặc:

M

Đêm qua nguyệt lặn về tây Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài

Trúc với mai, mai về trúc nhớ

ẠY

Trúc trở về, mai nhớ trúc không Bây giờ kẻ Bắc, người Đông Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư. (Ca dao - dân ca)

D

Thứ năm, xuất hiện hiện tượng lạc vần. Ta ngồi nhuộm lại thời xa Tự mình có thể băng qua nỗi buồn?

Cái qua thì đã đâu còn Cái sắp tới cũng mỏi mòn rụng rơi. (Nhuộm tình - Hữu Phước)

'


Hoặc: Năm mươi tóc đã bạc màu Bây giờ môi đỏ, má đào còn đâu? Nụ cười duyên dáng thành xưa Duy còn mong nhớ như vừa hôm qua.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

(Tình khúc tuổi năm mươi - Hữu Phước) Thứ sáu, bài thơ lục bát xuất hiện với số lượng câu lẻ. Ta còn ở tuổi năm mươi Ngất cao ngày tháng đất trời đã cho Đường đời ngắn lại lẽ thường Trao yêu thương, gửi yêu thương nhé người! Ta còn nhiều tuổi năm mươi. (Ta còn - Hữu Phước) Hoặc: Mình về đường ấy thì xa Để anh bắc cầu sông Cái về qua Ninh Bình Đất Ninh Bình có chùa Non Nước Núi Phi Diên, Hồi Hạc xung quanh Em về em nhớ quê anh. (Ca dao - dân ca) Hoặc nữa: Vô duyên vô phúc! Múc phải anh chồng già Ra đường người hỏi rằng cha hay chồng? Nói ra đau đớn trong lòng Ấy cái nợ truyền kiếp có phải chồng em đâu! (Ca dao - dân ca) Thứ bảy, biến đổi về cấu trúc bằng - trắc. Đồ tế nhuyễn của riêng tây Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham (Truyện Kiều - Nguyễn Du) Hoặc: Cưới vợ thì cưới liền tay Chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha. (Ca dao - dân ca) Thứ tám, thay đổi hình thức câu thơ. Chân qua chín chín chiếc cầu Thêm cây


cầu khỉ thành câu thợ tình. (Lục bát-Nguyễn Chơn Thuần) Hoặc:

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Núi bài thơ đứng bao giờ? Biển nheo sóng biếc mịt mờ trùng khơi. Nghìn hòn đảo nổi chơi vơi Bức tranh sơn thủy tuyệt vời Hạ Long. (Vịnh Hạ Long-Nguyễn Chơn Thuần) Có thể thấy, qua một số bình diện trên, câu thơ lục bát phù hợp cho việc truyền tải cảm xúc của người sáng tạo một cách đa dạng và phong phú. Đồng thời tính nhạc của câu thơ cũng được thể hiện rõ nét với những nhịp điệu khác nhau; lúc lên cao lúc xuống thấp, lúc khắc khoải nghẹn ngào, lúc thiết tha tình cảm. Và cũng chính những tác dụng từ việc sáng tạo mang lại, đã tạo nên những nét riêng hết sức độc đáo cho câu lục bát biến thể mà vẫn không làm biến chất hay pha tạp ảnh hưởng đến câu lục bát chính thể. Nói cách khác câu lục bát biến thể đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong công cuộc cách tân, làm mới thể lục bát, giúp đưa thể thơ này luôn đi song hành với người Việt ở mọi thời đại bởi sự linh hoạt và uyển chuyển của nó. Bài 10: Thuyết minh về ca dao BÀI LÀM THAM KHẢO Ca dao ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến ngày nay. Ca dao đã thấm vào ta qua những làn điệu quê hương gần gũi, thân quen. Nhà thơ Nguyễn Duy đã giãi bày niềm xúc cảm của mình: Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. Cũng với lời thơ tha thiết, nhà thơ Vũ Quần Phương viết: Mai này con lớn con khôn Chân đi muôn dặm - con còn nghe ru. Những lời ru thắm thiết, đậm chất trữ tình trên chính là ca dao. Ca dao là một trong những thể loại chủ yếu của nền văn học dân gian Việt Nam. Đó là những sáng tác trữ tình dân gian diễn tả đời sống nội tâm của con người. Ca dao là nguồn sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trò chuyện tâm tình của các chàng trai cô gái, là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lòng hân hoan của người lao động, trong gia đình, xã hội. Dựa vào cung bậc tình cảm ấy ca dao được chia làm ba loại. Là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa, ca dao bộc lộ tình sâu nghĩa nặng đối với xóm làng, quê hương, đất nước, đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè và dạt dào nhất là tình cảm lứa đôi. Trong suốt chiều dài lịch sử, khắp chiều rộng không gian đất nước, đâu đâu cũng đều vang


- Ai về Phú Thọ cùng ta Vui ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.

Lụa này thật lụa Cổ Đô

O

Chính tông lụa cống các cô hay dùng.

FF

- Hội An bán gấm, bán điều Khiêm Bồng bán vải, Trà Nhiêu bán hàng

IC IA L

lên những câu ca về cảnh núi rừng hùng vĩ, cảnh non xanh nước biếc, những sản vật phong phú của mỗi miền: - Sâu nhất là sông Bạch Đằng Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan Cao nhất là núi Lam Sơn Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra.

Ca dao nói về tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi rất trong sáng, hồn nhiên, tha thiết:

Y

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

H

Một lòng thờ mẹ kính cha.

N

- Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Ơ

N

- Con người có tổ có tông Như cây có cội như sông có nguồn.

- Mẹ già như chuối ba hương

U

Như xôi nêp một như đường mía lau.

Q

- Mỗi đêm thắp một đèn trời Cầu cho cha mẹ ở đời với con.

M

- Yêu nhau cởi áo cho nhau về nhà dối mẹ qua cầu gió bay. - Đôi ta như thể con ong

Con quan, con quýt, con trong, con ngoài.

D

ẠY

(Ca dao) Trong ca dao yêu thương, tình nghĩa, hiện lên hình ảnh con người Việt Nam lạc quan, yêu đời, cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hi sinh trong quan hệ giữa người với người... Ca dao thể hiện những phẩm chất tốt đẹp đó của người Việt Nam và hướng con người Việt Nam đên cái chân, cái thiện, cái mĩ trong cuộc sống. Ca dao than thân ra đời từ cuộc sống làm ăn vất và, cực nhọc và bị áp bức nặng nề của người dân trong xã hội cũ. Ca dao than cho cảnh đè nén, áp bức: - Thương thay thân phận con rùa Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia. Đặc biệt là tiếng than của người phụ nữ chịu nhiều bất công do chế độ nam quyền và lễ giáo


IC IA L

phong kiến gây ra: - Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. - Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa. - Thân em như củ ấu gai Ruột trong thì trắng, vò ngoài thì đen Ai ơi nếm thử mà xem Nếm xong mới biết rằng em ngọt bùi. (Ca dao)

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Than cho tình cảnh tảo hôn, đa thê, gả bán...: - Vợ lẽ như giẻ chùi chân Chùi xong lại vứt ra sân Gọi ông hàng xóm có chùi chân thì chùi. - Bồng bồng cõng chồng đi chơi Đi qua cho lội đánh rơi mất chồng Chị em ơi, cho tôi mượn gầu sòng Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên. (Ca dao) Than mà phản kháng, người dân lao động khi khổ thì cất tiếng than nhưng không bao giờ để mất niềm tin: - Chớ than phận khó ai ơi Còn da lông mọc, còn chồi này cây. (Ca dao - Mười cái trứng) - Bao giờ dân nổi can qua Con vua thất thế lại ra quét chùa. (Ca dao) Ca dao hài hước châm biếm: cùng với truyện cười, về sinh hoạt, ca dao hài hước châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười mua vui, giải trí, phê phán những thói hư tật xấu hay những người đáng cười trong xã hội: - Ăn thì ăn những miếng ngon Làm thì chọn việc cỏn con mà làm - Cái cò là cái là quăm Mày hay đánh vợ tối nằm với ai. - Cái cò là cái cò kì Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô.

- Làm trai cho đáng nên trai Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng. (Ca dao) Ca dao phong phú trong cách cấu tứ và xây dựng hình tượng. Thể loại được dùng nhiều


trong ca dao là thể lục bát, song thất lục bát và các thể vãn. Mỗi bài ca dao thường có hai dòng thơ lục bát nên kết cấu đơn giản, ngắn gọn. Sức hấp dẫn ở ca dao là ở âm điệu, vừa phong phú, vừa thanh thoát và ở lời ca dao giàu hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nói quá... tạo ra những hình ảnh gợi cảm, mở rộng trường liên tưởng sâu xa: - Đôi ta thương mãi nhớ lâu Như sông nhớ nước, như dâu nhớ tằm.

IC IA L

- Đôi ta như lửa mới nhen Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.

FF

- Đường xa thì mặc đường xa Nhờ mình làm mối cho ta một người Một người mười tám đôi mươi Một người vừa đẹp, vừa tươi như mình. (Ca dao)

O

Nghệ thuật so sánh ví von đã tạo nên những hình ảnh truyền thống độc đáo trong ca dao: cây đa-bến nước-con đò, trúc —mai, con cò, chiếc cầu...

N

- Cái cò đi đón cơn mưa

Ơ

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về.

H

- Cây đa cũ bến đò xưa

N

Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ.

U

Y

- Ước gì sông rộng một gang Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi. (Ca dao)

Q

Có thể nói ca dao dùng lời ăn tiếng nói của nhân dân để chuyển tải tâm tư, tình cảm của nhân dân.

D

ẠY

M

Chúng ta đã đi qua hành trình ca dao Việt Nam đẹp đẽ, để rồi ca dao vẫn khắc dấu trong tâm hồn mỗi chúng ta. Phải biết yêu câu ca dao, thương lời ru của mẹ, hát những khúc dân ca chân chất, ngọt ngào để thêm yêu Tổ quốc mình, để vươn ra văn hoá toàn cầu mà giữ vững bản sắc dân tộc Việt Bài 11: Thuyết minh tác gia Nguyễn Du và Truyện Kiều. GỢI Ý LÀM BÀI I. Tác giả - Nguyễn Du (1765 - 1820), tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên. 1. Quê hương và gia đình a. Quê hương - Quê ông ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Đó là một vùng quê nghèo, thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng là địa linh, nơi sinh ra những bậc anh tài, hào kiệt. - Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở kinh thành Thăng Long nghìn năm văn hiến, lộng lẫy và hào hoa. b. Gia đình - Nguyễn Du xuất thân trong một gia đinh đại quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê,


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

chúa Trịnh và có truyền thống về văn học: + Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng ở ngôi Tể tướng mười lăm năm. + Mẹ ông là Trần Thị Tần, vợ thứ, người Bắc Ninh, có tài hát xướng. + Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản, làm chức Tham tụng (ngang Thừa tướng) trong phủ chúa Trịnh.  Vì thế, mà lúc bấy giờ, trong dân gian thường truyền tụng câu ca: Bao giờ Ngàn Hống hết cây Sông Rum hết nước họ này hết quan. (“Ngàn Hống”: núi rừng Hồng Lĩnh; “sông Rum”: sông Lam, ở đây là chữ Nôm cổ. Ý cả câu: Khi nào mà núi rừng Hồng Lĩnh không còn cây, dòng sông Lam không còn nước thì lúc đó dòng họ này mới hết người làm quan). 2. Thời đại - Nguyễn Du sống vào nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thê kỉ XIX trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động dữ dội: + Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, xã hội loạn lạc, tăm tối. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết về thời đại Nguyễn Du sống: Cha ông ta từng đấm nát tay trước cánh cửa cuộc đời Của vẫn đóng và đời im ỉm khóa Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ. + Bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh xâm lược. - Thời đại ấy đã được Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều bằng hai câu thơ mở đầu: Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 3. Cuộc đời - Sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, bản thân lại có năng khiếu văn chương nhưng thời đại Nguyễn Du do những biến động xã hội nên gia đinh cũng như bản thân ông cũng có những thăng trầm, sa sút. - Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cuộc đời Nguyễn Du phải trải qua những năm tháng gian truân, trôi dạt, vất vả, long đong (Trải qua “mười năm gió bụi” Nguyễn Du lang thang hết ở quê vợ, rồi quê mẹ, quê cha trong nghèo túng, hết sức khổ cực và tủi nhục). - Nguyễn Du có ra làm quan cho triều Nguyễn Gia Long, ông giữ nhiều chức vụ khác nhau: Tham tri bộ Lễ, Cai bạ Quảng Bình, Chánh sứ bộ...Nhưng đó là những năm tháng làm quan bất đắc chí. - Ông mất tại Huế năm 1820, thọ năm mươi lăm tuổi. 4. Bản thân (con người) Nguyễn Du - Là người có hiểu biết sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc. - Nhà thơ đã sống nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều con người, nhiều cảnh đời, nhiều số phận khác nhaú, đã tạo cho ông một vốn sống phong phủ và niềm cảm thông sâu sắc với mọi kiếp


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

người bị đày đọa. - Nguyễn Du là người có trái tim giàu lòng nhân ái, nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông hàm chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn thơ Việt Nam. 5. Sự nghiệp sáng tác - Nguyễn Du là tác giả có nhiều thành tựu kiệt xuất về văn chương, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ điển. - Về thơ chữ Hán, ông có ba tập thơ: + Thanh Hiên thi tập (78 bài) được viết trước khi ông ra làm quan cho nhà Nguyễn, + Nam trung tạp ngâm (40 bài) viết trong thời gian ông ở Huế, Quảng Bình. + Bạc hành tạp lục (ỉ 31 bài) viết trong thời gian Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc. - Về chữ Nôm: có bài Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh) được viết theo thể thơ song thất lục bát dài 184 câu Đặc biệt là Truyện Kiều, tác phẩm này đã đưa Nguyễn Du lên đỉnh cao của nền thi ca dân tộc, xứng đáng được tôn vinh Thiên cổ văn chương thiên cổ sư.  Tiểu kết: năng khiếu văn chương, vốn sống phong phú kết tinh ở một trái tim yêu thương vĩ đại đối yới con người trong một bối cảnh lịch sử cụ thể đã tạo nên thiên tài Nguyễn Du. Thiên tài ấy được thể hiện trước hết ở tác phẩm Truyện Kiều. II. Tác phẩm 1. Nguồn gốc và sự sáng tạo - Nguyễn Du viết Truyện Kiều vào đầu thế kỉ XIX (1805 -1809). Truyện dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện củá Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). .Lúc đầu, Nguyễn Du đặt tên là Đoạn trường tân thanh (Khúc ca mới đứt ruột hay Tiếng kêu đứt ruột) say này, người ta quen gọi là Truyện Kiều. - Một biểu hiện nữa về sự sáng tạo của Nguyễn Du qua Truyện Kiều là: + Kim Vân Kiều truyện viết bằng chữ Hán, thể loại văn xuôi, có kết cấu thành từng chương (hồi). Toàn bộ tác phẩm gồm hai mươi chương. + Đến Nguyễn Du đã trở thành tác phẩm trữ tình, viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát có độ dài 3254 câu. Ông đã có những sáng tạo lớn về nhiều mặt nội dung cũng như nghệ thuật. 2. Tóm tắt tác phẩm o Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước. o Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. o Phần thứ ba: Đoàn tụ. 3. Giá trị nội dung và nghệ thuật a. Về nội dung • Giá trị hiện thực - Phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công. - Phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ. • Giá trị nhân đạo * Giá trị chính của Truyện Kiều là giá trị nhân đạo. Giá trị này được thể hiện ở hai phương diện sau: - Truyện Kiều là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi cạ vẻ đẹp phẩm chất của con người:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

+ Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm hôn nhân phong kiến còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim- Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. + Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng đầy ức chế, tàn bạo. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải - người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại xã hội bạo tàn ấy. Từ Hải là khát vọng của công lí, là biểu tượng cho tự do dân chủ. + Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người: vẻ đẹp tài sắc, trí tuệ thông minh, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, ý thức vị tha, đức thủy chung. Thúy Kiều, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó! - Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người. Thế lực tàn bạo đó, khi là bộ mặt bọn quan lại tham lam, đê tiện, bỉ ổi - đầu mối của mọi xấu xa trong xã hội (Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà...),.có khi lại là sự tàn phá, hủy diệt hung hiểm của đồng tiền trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, trong tay bọn người bất lương tàn bạo đã phát hủy tất cả sức mạnh của nó, đổi trắng thay đen, biến con người thành thứ hàng hóa để mua bán. b. Về nghệ thuật - Tác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. - Với Truyện Kiều, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. - Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con ngựời.  Từ tất cả những giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều, chúng ta có thể khẳng định Truyện Kiều chính là một kiệt tác trong văn học trung đại nói riêng và văn học dân tộc nói chung. • Nhận xét về Truyện Kiều * Mộng Liên Đường chủ nhân có nói: “...Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời, thì tài nào có bút lực ấy...” 4. Ảnh hưởng của tác phẩm - Truyện Kiểu hàng trăm năm được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả: + Truyện Kiều không biết tự bao giờ đã đi vào đời sống của nhân dân, và đã trở thành lời ăn tiếng nói của những người dân bình dị nhất cho đến những người trí thức, am hiểu về văn chương bác học. + Trong ca dao, người ta thấy có rất nhiều câu vận dụng những hình ảnh trong Truyện Kiều. Ví dụ: Sen xa hồ sen khô hồ cạn Liễu xa đào liễu ngả liễu nghiêng Anh xa em như bến xa thuyền. Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi. + Truyện Kiều đã trở thành sức sống của dân tộc, là nơi tao nhân mặc khách mọi thời thưởng ngoạn. Có câu: Làm trai biết đánh tổ tôm Uống trà mạn hảo, xem Nôm Thúy Kiều.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Truyện Kiều còn được giới thiệu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Người ta đã dịch Truyện Kiều ra nhiều thứ tiếng và nhiều người nước ngoài đã nghiên cứu về Truyện Kiều. III. Tổng kết - Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. - Truyện Kiều là một kiệt tác vãn học, được lưu truyền rộng rãi và chinh phục nhiều thế hệ người đọc từ xưa đến nay. - Rất nhiều những nhà văn, nhà thơ đã viết về Truyện Kiều: Trải qua một cuộc bể dâu Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình Nổi chìm kiếp sống lênh đênh Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều! (Tố Hữu) Đã mấy trăm năm trôi qua rồi, nhưng Truyện Kiều vẫn có sức sống mãnh liệt trong dân tộc Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã thay chúng ta trả lời cho Nguyễn Du câu hỏi mà người nhắn nhủ: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Bài 12: Thuyết minh về chữ “tôi” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. BÀI LÀM THAM KHẢO Ngôn ngữ nói chung và chữ “tôi” nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ “tôi” trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lí thú. Chữ “tôi” được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều rất đặc sắc. Người Việt chúng ta từ xưa đến nay thường sử dụng chữ “tôi” với ba nghĩa khác nhau. Nghĩa thứ nhất: “Tôi” là đại từ nhân xưng, thường dùng khi xưng hô với những người đồng trang lứa hoặc với mọi người. Khi xưng “tôi” với những người mà tuổi tác, địa vị cao hơn hoặc thấp hơn thì sắc thái biểu cảm của chữ “tôi” thay đổi tùy theo từng đối tượng, hoàn cảnh. Nghĩa thứ hai: “Tôi” là danh từ. Nghĩa này được dùng để chỉ quan hệ vua - tôi (bề tôi của vua), quan hệ chủ - tớ (tôi tớ, tôi đòi...). Nghĩa thứ ba: “Tôi” là động từ (tôi luyện, tôi sắt, tôi vôi...). Cũng là đại từ nhân xưng nhưng chữ “tôi” có khác chữ “ta”. “Ta” thường được dùng khi người trên nói với kẻ dưới, mình nói với mình. Cũng có trường hợp “ta” được dùng để xưng hô với người mình yêu mến (mình - ta). Theo Hoài Thanh: “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình” (Thi nhân Việt Nam). Vì thế, trong văn học trung đại, chữ “ta” xuất hiện khá phổ biến và Truyện Kiều cũng không là ngoại lệ. Mật độ xuất hiện của chữ “ta”trong Truyện Kiều khá dày đặc chẳng thua kém gì chữ “hoa”, chữ “xuân”, chữ “mây”, chữ “tình”, chữ “nghĩa”...,Cõi người cũng được đại thi hào Nguyễn Du gọi là cõi người ta. Từ Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Hoạn Thư đến bọn buôn thịt, bán người như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh đều có ít nhất một lần xưng ta. Chúng ta hãy nghe Sở Khanh huênh hoang với nàng Kiều: Ta đây nào phải ai đâu mà rằng! Nàng đã biết đến ta chăng? Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi! Hắn còn bốc phét: Rằng: Ta có ngựa truy phong


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi. Còn Hoạn Thư thì đay nghiến: Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho! Lo gì việc ấy mà lo Kiến trong miệng chén có bò đi đâu. Ngay cả nàng Kiều khi độc thoại nội tâm với bóng hình Kim Trọng cũng có lần xưng “ta”: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Trong văn học trung đại, chữ “tôi” được dùng với nghĩa danh từ: bề tôi, tôi tớ, tôi đòi... không hiếm, nhưng chữ “tôi” dùng với nghĩa đại từ nhân xưng thì vô cùng hiếm hoi. Tác phẩm Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ dài 538 câu mà không hề có lấy một chữ “tôi” nào. Chúng ta đã biết trong các tác phẩm như: Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Lục Vân Tiên, thơ Cao Bá Quát, thơ Nguyễn Công Trứ... thì chỉ bắt gặp rải rác một vài chữ “tôi” với nghĩa danh từ, còn chữ “tôi”với nghĩa đại từ nhân xưng hầu như vắng bóng. Điều đó cũng không có gì khó hiểu. Thời phong kiến, bao nhiêu quan lại muốn tâu trình, muốn bày tỏ lòng mình với vua, chúa, với những đấng minh quân đều phải xưng là bề tôi. Đó là cái thời biết bao người phải đi ở đợ, phải đi làm thuê, làm mướn, phải sống kiếp lầm than thì trong văn chương xuất hiện nhiều chữ tôi đòi, tôi tớ là chuyện bình thường. Đó là thời mà: cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả (Hoài Thanh). Vì vậy, trong các tác phẩm văn học trung đại khó lòng tìm thấy chữ “tôi” theo nghĩa đại từ nhân xưng cũng là điều tất yếu. Chữ “tôi” với nghĩa đại từ nhận xưng chỉ sinh sôi, nảy nở trong các trào lưu văn học thời 1930 - 1945 (khi mà luồng gió từ phương Tây thổi ào ạt vào nước ta). Hoài Thanh hình dung: Ngày thứ nhất - ai biết đích ngày nào - chữ “tôi” xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này, quan niệm cá nhân. Cái “ngày thứ nhất” đó, là ngày trên thi đàn Việt Nam xuất hiện hai ngôi sao chói sáng: Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Trong mấy chục bài thơ tương truyền là của Hồ Xuân Hương, ít nhiều chúng ta đã may mắn tìm thấy một chữ “tôi”. Đấy là chữ “tôi” trong bài Ốc nhồi: Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi. Ý thức cá nhân ở Hồ Xuân Huong còn bộc lộ khá mạnh mẽ trong các bài thơ: Mời trầu, Tự tình, Quả mít, Hang Cắc Cớ, Đèo Ba Dội... Còn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, không dưới hai mươi lăm lần chữ “tôi”- một con số khá ấn tượng được nhắc đến! Trong số hai mươi lăm chữ “tôi” đó chỉ có ba lần nhà thơ dùng vói nghĩa danh từ. Một lần chữ “tôi” được Nguyễn Du dùng khá độc đáo: vừa là danh từ vừa là đại từ. Tất cả các trường hợp còn lại nhà thơ đều dùng với nghĩa đại từ nhân xưng. Có đến sáu nhân vật từng xưng “tôi” trong Truyện Kiều. Đó là: Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Hoạn Thư, người hầu của Hoạn Thư và hồn ma Đạm Tiên. Người hầu của Hoạn Thư nói với Kiều về việc Hoạn Thư nghe lén cuộc chuyện trò giữa Thúc Sinh và nàng Kiều ở Quan Âm các: Ngăn tôi đứng lại một bên Chán tai rồi mới bước lên trên lầu. Còn hồn ma Đạm Tiên nói với Kiều khi nàng đang “thiêm thiếp giấc vàng” trên chiếc bè của vãi Giác Duyên: Rằng tôi đã có lòng chờ


Mất công mười mấy năm thừa ở đây.

IC IA L

Cho hồn ma Đạm Tiên và người hầu của Hoạn Thư xưng “tôi” là điều khác thường trong văn hộc viết thời đại Nguyễn Du. Tuy nhiên, việc xưng “tôi” của hai nhân vật trên với sắc thái biểu cảm bình thường, trung tính, không có gì đáng bàn. Riêng cách xưng “tôi” của Thúc Sinh, Hoạn Thư, Kim Trọng và đặc biệt là Thúy Kiều đều ít nhiều thể hiện bản lĩnh và ý thức cá nhân của các nhân vật ây. Bây giờ ta thử điểm qua cách xung “tôi” của ba nhân vật: Thúc Sinh, Hoạn Thư và Kim Trọng. Chàng Thúc xưng “tôi” với viên quan xử vụ Thúc Ông kiện nàng Kiều: Tại tôi hứng lấy một tay Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.

FF

Người đời chỉ thấy cái tính nhát gan của Thúc Sinh nhưng đã mấy ai đứng trước công đường dám nhận tội thay cho bị can như chàng? Xưng “tôi” với viên quan xử kiện chứng tỏ chàng Thúc là người có bản lĩnh cứng cỏi.

O

Vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư còn ghê gớm hơn. Bị giải ra trước công đường, mặc dù đã “hồn lạc phách siêu”, Hoạn Thư vẫn đủ khôn ngoan để “lựa lời kêu ca”:

N

Rằng: ‘‘Tôi chút phận đàn bà

Ơ

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. ”

H

Hoạn Thư xưng “tôi” với Thúy Kiều - người đang ngồi uy nghi trên ghế chánh án. Đúng là “đàn bà dễ có mấy tay” như Hoạn Thư.

Y

N

Chàng kim Trọng, khi nghe Vương ông kể lại việc Kiều phải bán mình chuộc cha đã vô cùng ân hận:

U

Rằng” “Tôi trót quá chân ra Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.

Q

Và chàng quyết tâm tìm bằng được người yêu:

M

Bao nhiêu của mấy ngày đàng

Còn tôi, tôi một gặp nàng mới thôi!

Cách nói của chàng cũng phần nào thể hiện ý thức trách nhiệm của một đấng nam nhi trước số phận bất hạnh của Thúy Kiều.

ẠY

Trong các nhân vật xưng “tôi” thì cái cách xưng “tôi” của nhân vật Thúy Kiều là đáng bàn hơn cả.

D

Chữ “tôi” xuất hiện lần thứ nhất trong Truyện Kiều nằm ở câu 704 (lúc nàng Kiều ngồi dưới ngọn đèn khuya, thổn thức nghĩ đến chàng Kim): Phận dầu, dầu vậy cũng dầu Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời! Công trình kể biết mấy mươi Vì ta khăng khít cho người dở dang Thề hoa chưa ráo chén vàng Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa


Trời Liêu non nước bao xa Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.

IC IA L

Câu vì ta khăng khít cho người dở dang là Kiều nói với chính mình, còn câu: Nghĩ đâu rệ cửa chia nhà tự tôi là nàng đang nói với bóng hình Kim Trọng. Nếu Truyện Kiều được viết trước bài thơ Ốc nhồi thì chữ “tôi” này có thể là chữ “tôi” theo nghĩa đại từ nhân xưng xuất hiện lần đầu tiên trên thi đàn Việt Nam Nguyễn Du đã đưa nó vào tác phẩm văn chương một cách hết sức tự nhiên, như lời ăn tiếng nói thường ngày. Với việc lựa chọn xưng “tôi”, nàng Kiều đã trở thành nàng Kiều của Nguyễn Du, nàng Kiều của Việt Nam chứ không còn là nàng Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc nữa. Nhà thơ đã để cho Thúy Kiều ý thức một cách sâu sắc về trách nhiệm cá nhân của mình đối với người yêu.

FF

Khi Kiều sập bẫy, mụ Tú Bà đã đánh Kiều đến mức uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa, nàng phải đau đớn xin mụ từ bỏ “chút lòng trinh bạch” của mình:

N

O

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà Nước non lìa cửa lìa nhà đến đây Bây giờ sống chết ở tay Thân này đã đến thế này thì thôi!

Ơ

Nhưng tôi có sá chi tôi Phận tôi đành vậy vốn người để đâu?

N

H

Thân lươn bao quản lấm đầu Chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa! ”

Q

U

Y

Việc Kiều xưng “tôi” với mụ Tú Bà là hết sức bất ngờ. Xét về tuổi tác, địa vị mụ Tú là kẻ bề trên. Thông thường vào hoàn cảnh của Kiều, nàng phải xưng “con” mới đúng (như trong Kim Vân Kiều truyện). Với việc xưng “tôi”, Kiều đã đặt mình ngang hàng với mụ. Mặc dù nàng đang quằn quại bởi trận đòn hết sức tàn nhẫn nhưng trong cách xưng “tôi”, chứng tỏ nàng không hề che giấu thái độ coi thường đối với mụ. Đó là cái “tôi” đầy bản lĩnh của Kiều. Kiều xưng “tôi” với Thúc Sinh, khi chàng Thúc cố thuyết phục nàng làm vợ lẽ:

M

Bấy lâu khăng khít dải đồng

Thêm người người cũng chia lòng riêng tây

ẠY

Vẻ chi chút phận bèo mây Làm cho bể ải khi đầy khi vơi Trăm điều ngang ngửa vì tôi Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?

D

Bình thường, khi chuyện trò với Thúc Sinh, Kiều vẫn xưng thiếp: E khi sóng gió bất bình Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng nhưng sao trong trường hợp này nàng lại xưng “tôi”? Phải chăng lúc này, tuy đang nói với Thúc Sinh nhưng Kiều lại nghĩ nhiều đến Hoạn Thư. Nàng sợ mình phá mất cái tổ ấm của người đàn bà đầy quyền lực ấy? Cách xưng hô “tôi” một lần nữa thể hiện ý thức cá nhân của Kiều trong việc tôn trọng hạnh phúc của người khác. Còn đây là lời Thúy Kiều thuyết phục Thúc Sinh trở lại quê nhà thú thật với Hoạn Thư để


tránh hậu họa về sau: Đôi ta chút nghĩa đèo bòng Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh Dù khi sống gió bất bình Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Câu lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau mà cách nào nghe cũng hợp tình, hợp lí. Nếu “lớn” là bà chủ (Hoạn Thư) thì phận tôi đòi đành thủ phận tôi đòi (Kiều). Nếu “lớn” là vợ cả (Hoạn Thư) thiì tôi (Kiều) là vợ bé đành thủ phận vợ bé. Nếu xem chữ “tôi” đứng trước là đại từ nhân xưng, chữ “tôi” đứng sau là danh từ thì câu này còn có nghĩa: Hoạn Thư là vợ cả, tôi (Kiều) đành thủ phận làm kiếp tôi đòi. Thế mới biết cách chơi chữ “đồng âm, dị nghĩa” của Nguyễn Du tài tình đến mức nào! Chỉ xét riêng về việc sử dụng chữ “tôi” theo nghĩa đại từ nhân xưng với tần số xuất hiện ấn tượng như thế, với ý thức cá nhân mạnh mẽ như thế, với cách chơi chữ biến hóa như thế (trong khi chữ “tôi” hầu như vắng bóng trong văn học trung đại nước nhà), Truyện Kiều có thể được xem là một “ngoại lệ”. Và Nguyễn Du đúng là một bậc kì tài, một đại thi hào đi trước thời đại. (Bài giảng tại Hội giảng các trường chuyên thành phố Vũng Tàu) Bài 13: Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè em về thăm lại trường cũ. Hãy viết thư cho một người bạn hồi ấy kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó. BÀI LÀM THAM KHẢO 1 Kim Sơn, ngày 09 tháng 09 năm 2049 Thành Huân thân mến! Cậu có thấy bất ngờ khi nhận được lá thư này không? Tớ phải hỏi han rất nhiều người, rất nhiều nơi mới biết được địa chỉ của cậu. Tớ xin lỗi vì đã không thể đến thăm cậu được, vì dạo này công việc rồi các cuộc hẹn làm tớ mất nhiều thời gian qbá. Cậu vẫn khỏe chứ? Thật tiếc là hôm họp lớp vừa rồi không có cậu, nếu cậu có mặt thì chắc là vui lắm đó. Giờ thì ai cũng đang đi trên con đường sự nghiệp của mình: người thì làm kĩ sư, bác sĩ, tiếp viên hàng không, hiệu trưởng trường đại học, rồi nhân viên, giám đốc... nhưng khi gặp nhau ai nấy đều như trẻ ra cả chục tuổi, trở về với nhũng cô, cậu học sinh ngây thơ, nhí nhảnh như ngày nào. Cậu có biết không, mọi người đều xúc động lắm, ai cũng hỏi cậu đâu. Để tớ kể lại cho cậu nghe hôm tụ họp của lớp mình nhé. Kể từ ngày tốt nghiệp cấp hai vậy mà đã thấm thoắt hai mươi năm. Rồi một ngày, khi đã thấy mình trưởng thành sau những chặng đường đầy gian nan, tớ cùng mọi người đã cùng nhau về thăm mái trường cấp hai xưa. Hôm ấy trời nắng đẹp, hoa phượng bắt đầu rụng khắp sân trường báo hiệu rằng trời đang dần chuyển động kèm với thời tiết bắt đầu se lạnh. Những làn gió bay xuyên qua các tán lá một cách nhè nhẹ cũng làm cho những hàng cây rung động, phát ra âm thanh khiến con tim rạo rực biết nhường nào, vẫn con đường ấy tụi mình nhịp nhàng bước đi theo những tia nắng vàng nhẹ trong sự vui sướng cùng với một cảm giác có chút gì đó khó tả. Đến nơi, tớ đứng ngơ người ra khi nhìn thấy chiếc cổng vẫn như xưa, cảm giác nao nao hạnh phúc ùa về trong con tim của mình một cách rất tự nhiên, không thể nào ngăn được. Mình bước vào sân trường, những bước chân đầu tiên trở lại ngôi trường xưa yêu dấu sau bao năm xa cách. Tớ nhìn xung quanh, trong tâm tư thấy ngôi trường bây giờ khác quá. Nhưng dù có thay đổi như thế nào thì hình ảnh có vẻ lạ lẫm ấy vẫn không thể nào lẫn vào đâu được. Cảm giác thân thương gần gũi vẫn in sâu trong tâm trí của mình. Trường không còn là một ngôi trường nhỏ như trước kia nữa mà nay đã được mở rộng và xây thêm rất nhiều phòng học. Tớ nhìn xung quanh để tìm lớp học cũ của tụi mình ngày trước nhưng tất cả đều thay đổi nhiều quá làm tớ cũng không nhận ra. Cậu có còn nhớ không? Ngày xưa trường chỉ là nhũng dãy nhà cấp bốn nhưng giờ đây đều được xây cao lên hết cả rồi. Phía bên


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

trên có gắn logo của trường cùng dòng chữ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ BỒ ĐỀ. Nhìn dòng chữ đó tớ bỗng cảm thấy xúc động không sao tả được. Tớ cùng mọi người dạo quanh sân trường, cổ hít thật sâu để cảm nhận không khí dưới những gốc cây đa, cây si to đùng đến cỡ phải vừa bốn người ôm. Nhớ lại nhũng lời nói vui đùa của cô Diệu Thiện rằng: “Nếu ai mà bị người yêu bỏ thì mang cây si ra nhà người đó trồng, người ta thường gọi đó là si tình”, thế là mọi người cười phá lên. Hôm ấy thật vui khi cô đã cho lớp mình trải nghiệm không gian của ngôi trường. Cậu còn nhớ cây xoài nhỏ nhỏ xinh xinh chứ? Bây giờ nó to vừa người ôm roi đó. Cứ hè đến là cây lại ra bao nhiêu là quả, ăn ngọt lịm thơm nức. Nghe thấy tiếng nói chuyện xì xào ở nhà xe tớ lại nhớ đến những lúc Chí Hào bước vào lớp, rồi Việt Khánh bước đến cả lũ hô “cháy nắng”. Cảm giác thật vui sướng biết nhường nào khi Thanh Bình bước vào với quả tóc dựng ngược thì cả lớp hô “ái chà!”. Mọi người đứng dưới gốc cây xoài tâm sự với nhau thì có thêm vài người nữa đến. Vẫn những cái tên đó mà ai cũng thành đạt cả rồi nên đứa nào cũng đi ô tô đến chật hết cả sân trường. Tiếc quá không có cậu chứ bọn con trai lớp mình đến đông đủ lắm. Chúng nó đứa thì làm công an, đứa thì nhà báo, bác sĩ, đứa thì giáo viên... Trông mấy đứa bây giờ nhìn trí thức lắm. Có mấy đứa giờ vẫn đang học lên cao học. Tự nhiên nhớ lại mới thấy ngày xưa chúng mình trẻ con quá, lúc nào cũng lên bảng làm mấy bài toán rồi đòi thầy Phục Hy cho điểm. Mặc dù bây giờ nhìn chúng nó khác xa ngày xưa nhưng vẫn có cảm giác thân thuộc, gần gũi vô cùng. Thành Huân à! Buổi họp lớp hôm ấy, ai ai cũng tràn đầy niềm vui. Lớp mình từ khi lên cấp 3 không còn kề vai sát cánh với nhau nữa, mỗi người đi một ngả. Bây giờ mới được gặp lại nhau, ai cũng hớn hở nhớ về kỉ niệm xưa. Nói chuyện về những bữa cơm, những buổi học rồi những tình cảm trong sáng của tuổi học trò ngày ấy. Những gì còn là bí mật nay đều được tiết lộ hết trong một tâm trạng vô cùng cởi mở, không khí vui như ngày Tết. Những câu chuyện nổ đanh đách bên cạnh những tràng cười giòn tan. Những câu chuyện dù đẹp dù xấu của cái thời trẻ con đều được kể hết ra. Không biết cậu còn nhớ không? Chứ đối với tớ thì tớ vẫn còn nhớ như in. Hồi học lớp 6, vừa mới bắt đầu vào năm học bọn con trai tụi mình đã chặn cửa không cho mấy đứa con gái vào phòng rồi bị cô Mộng Huyền bắt viết bản kiểm điểm. Lúc ấy ai ai cũng sợ bị cô gọi điện về cho bố mẹ. Lớp 8 cả lũ bắt nòng nọc nghịch thả vào bể rồi bị bác bảo vệ bắt được và phải rửa bể bằng sạch thì thôi. Đang cùng nhau kể chuyện thì Nhã Nam hét toáng lên: “Á! cô Mộng Huyền”. Cả lũ ồ lên “đâu? đâu?” rồi nhìn ra phía cổng trường thấy cô từ từ bước đi với mái tóc đã bạc gần cả đầu. Thấm thoắt đã hai mươi năm rồi, ban đầu tớ cùng mọi người hỏi thăm sức khỏe cô, sau đó đến gia đình và cũng không quên nhắc đến thầy Trúc Lâm. Thấy đứa nào cũng thành đạt cô vui lắm, khen hết lời luôn. Cô cũng hỏi thăm cậu nhiều lắm đấy. Nếu không nhờ cô thì có khi bây giờ tụi mình không có được như ngày hôm nay. Thôi cậu à! Cuộc vui nào cũng tới hồi kết, rồi đây tất cả cũng phải rời xa nhau để trở về với tổ ấm của riêng mình. Mọi người đều tặng quà và chúc sức khỏe cô cùng một lời hứa sẽ có ngày gặp lại ở ngôi trường đã nuôi dưỡng và nâng bước chúng ta. Trên đường trở về tớ vẫn có cảm giác bâng khuâng xao xuyên. Dư âm của buổi họp mặt vẫn còn khắc sâu trong tâm trí của tớ. Rồi sẽ có ngày chúng ta được gặp lại nhau Thành Huân ạ. Hẹn gặp lại cậu vào một dịp gần nhất nhé để tụi mình cùng nhau tâm sự. Mong sớm gặp lại cậu! Người viết Thiên Trúc Tất Đạt Thiên Trúc (Dẫn theo bài viết của học sinh Vũ Ngọc Mỹ, Trường THCS Đống Đa —Hà Nội. Có sửa chữa và bổ sung) BÀI LÀM THAM KHẢO 2


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Mặt trăng, 12 tháng 6 năm 2033 Thành Huân thân mến! Tớ viết thư này trước hết là để hỏi thăm cậu, cậu dạo này có khỏe không? Cuộc sống của cậu dạo này thế nào? Có gì đặc biệt không? Tớ nghe nói cậu vẫn chưa có vợ à, phải cố gắng lên, sắp 40 rồi đấy. Tớ dạo này vẫn khỏe, cuộc sống của tớ rất tuyệt vời. Cậu có biết thành phố thứ ba trên mặt trăng không? Tớ có một biệt thự ở khu ngoại ô trên ấy, hàng năm cứ cuối hè tớ lại lên đấy chơi cùng với gia đình, nhắc mới nhớ, tớ cưới vợ được gần một năm rồi. Vợ tớ xinh lắm, mặt không tì vết. Gia đình tớ sống rất tốt. Hiện tại, tớ đang trên phi cơ riêng bay sang Anh để tiếp xúc cùng các đại biểu cấp Cao của Liên Hợp Quốc. Cách đây ba hôm, khi đang trên đường sang Mĩ để giải quyết một số việc quan trọng và nhận giải thưởng Nô-ben về hòa bình, tớ có dừng lại ở Ninh Bình - nơi mà hồi nhỏ anh em mình còn học ở đấy. Tớ về chính ngôi trường Bồ Đề thuở nào, ngày nay nó đã được tu sửa lại khang trang hơn và được dát toàn bộ bạch kim ở khắp trường. Không những thế, nó đã được đưa lên trên không, cao hơn 200m so với mặt đất để mở rộng chỗ ở cho người dân. Khi bước vào trường, tớ mới phát hiện ra hiệu trưởng ở đây chính là Y Phương - một trong những người bạn đại học chung với anh em mình trong bốn năm cấp hai. Cậu ấy giờ đã khác, với vị trí hiệu trưởng, cậu ấy chín chắn, cứng rắn hơn nhưng vẫn đầy tình cảm và tình yêu thương. Cậu ấy đón tiếp tớ với sự niềm nở, tự hào kể cho tớ nghe về những việc mà cậu ấy đã làm, nào là các dãy nhà đã được xây lên thành mười hai tầng, được lắp cầu thang máy, xây thêm khu liên hợp, khu thể thao có thêm bể bơi, sân bóng đá, bóng rổ, sân tennis, bãi giữ xe... Ngoài ra, tớ còn thấy vài điểm mới quen thuộc trong khuôn viên trường, đó là cây hoa sữa trước cửa lớp mình, nó đã cao hơn, to hơn. Tớ vẫn nhớ hồi anh em mình học thể dục, vì trời nắng nên chạy ào về gốc cây này tránh nắng, đứa này tranh đứa kia, bàn tán rôm rả để rồi bị trực ban nhắc hay cái lần thằng Thiên Nam, thằng Trúc Lâm thi nhau trèo cây để xem ai giỏi hơn, cuộc thi chưa kết thúc, thì bảo vệ đuổi, chạy tóe khói khắp trường để rồi bị bắt lên phòng bảo vệ. Đang xao xuyến vì những kỉ niệm, đột nhiên có Hiệt giọng nói khàn khàn, nhưng đầy sự trìu mến, gọi: “Thiên Tôn đó hả em?” Tớ ngờ ngợ rồi quay lại. Hóa ra đó chính là thầy Quang Anh, Thành Huân à, cậu biết không. Thầy bây giờ trông già hơn ngày xưa nhiều lắm. Đầu thầy đã không còn tóc, bóng loáng. Rồi đột nhiên, tớ xúc động đến tột cùng - Thầy Quang Anh đây ư? Người thầy đã dạy tớ và cậu cùng các bạn ngày xưa đây ư? Người đã dạy tớ và cậu hồi cấp hai và cũng là người đã dành hơn bốn thập kỉ để cống hiến cho ngành giáo dục nước nhà, nhờ thầy, bao thế hệ đã lớn lên, trở thành những trụ cột, những người đi xây dựng đất nước, là người cống hiến thầm lặng... bây giờ già nhiều quá! Ôi, chả nhẽ mái tóc của thầy đã ra đi cùng với sự cống hiến ấy. Khi nghĩ về những điều đó, Thành Huân à, tớ chỉ chực bật khóc thôi. Thầy quá tận tâm với nghề, cống hiến hết mình. Thầy giờ là một ông lão ngoài bảy mươi, cũng về thăm trường rồi tình cờ gặp tớ... Tớ dìu thầy ra ghế đá, nó đã được lắp đặt thêm một bộ tản nhiệt nên mặc cho trời hôm ấy nóng hơn 30°C, tớ và thầy vẫn thoải mái ngồi nói chuyện... Tớ hỏi thầy rất nhiều, và cũng tự hào kể ra những thành tựu mình đã đạt được nhưng không quên cảm ơn thầy vì những công lao như biển cả của thầy. Nhìn thầy, tớ lại nhớ về những kỉ niệm với thầy, như lần thầy cho tớ và các bạn kiểm tra 15 phút một bài cực dài nhưng rồi lại không thu khiến cả lũ lăn đùng ngã ngửa, nghĩ đến đó, tớ và thầy lại bật cười. Mặc dù không muốn, nhưng thầy trò cũng phải chia tay nhau, tớ chào thầy, từ biệt Y Phương, rồi hẹn một lần khác gặp sau. Buổi chia tay đầy xúc động, rồi tớ lên phi cơ bay đi, nhìn lại, tớ thấy bóng dạng của thầy mờ dần, nhỏ dần rồi cuối cùng biến mất sau làn mây làm tớ lại suy nghĩ viển vông. Tớ chỉ viết đến đây thôi, cho tớ gửi lời chào đến gia đình của cậu và chúc cậu gặp thành công trong mọi mặt cuộc sống.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Bạn cũ của cậu! Thiên Tôn Uông Võ Thiên Tôn (Bài viết đạt 8,75 điểm của học sinh Trường THCS Trần Phú - Hải Phòng. Có sửa chữa và bổ sung) Bài 14: Trong giấc một giấc mơ, em được gặp lại ngưòi thân xa cách đã lâu. Hãy kể lại giấc mơ đó. DÀN BÀI CHI TIẾT 1. Mở bài - Em đi vào giấc mơ như thế nào? Lúc đó tâm trạng em như thế nào? - Em gặp lại người thân là ai? Quan hệ với em như thế nào? Cách xa bao lâu? Lí do gì xa cách em lâu thế? Cảm xúc của em khi gặp lại người thân? 2. Thân bài - Giới thiệu chung về người thân: + Người thân bây giờ ở đâu? + Làm gì? + Tình huống nào em gặp lại người thân? - Khi gặp lại quan sát thấy người thân như thế nào? Diện mạo? Hình dáng? Y phục? Cử chỉ? Nét mặt? Động tác? Lời nói... (Chủ yếu tả người và hành động). - Người thân có nét gì khác so với lúc trước khi xa không? (So sánh hình dáng, tính cách trước đó và bây giờ). - Nhận xét và suy nghĩ của em. - Nhớ và kể lại những kỉ niệm gắn bó với người thân. - Em và người thân đã trò chuyện như thế nào? Nói vói nhau những gì? (Kể lại sinh động và lồng vào cảm xúc). - Cuối buổi gặp gỡ những việc gì xảy ra? Cảm xúc của em? - Cái gì đã đánh thức em dậy? Tâm trạng em như thế nào? Cảm xúc sâu lắng? 3. Kết bài - Giấc mơ tan biến, khi trở về với hiện thực thi ấn tượng sâu sắc nhất của em về người thân là những ấn tượng gì? - Cảm xúc của em ra sao khi nhớ lại cuộc gặp gỡ này? - Em cỏ cảm nghĩ gì? Sẽ làm gì để người thân vui lòng? * Gợi ý bổ sung: - Có thể người thân đã qua đời: (ông, bà, cô...). - Nhắc nhở em: sống tốt, phấn đấu có tương lai xán lạn. - Là anh (hoặc chị) chết sớm (do lầm lỗi... hoặc tai nạn...) nhắc nhở em biết suy nghĩ chín chắn để có hành động đúng để người thân vui lòng ở cõi hư không. BÀI LÀM THAM KHẢO 1 Đã bao giờ bạn tin rằng sau một giấc mơ những điều bạn hằng mong ước bấy lâu sẽ trở thành sự thật? Đã có lúc tôi rất tin vào điều đó và luôn nhớ khoảnh khắc kì diệu mà giấc mơ đã đem đến cho tôi. Hôm ấy là một buổi tối cuối tuần, trời đầy sao và gió thì dịu nhẹ. Tôi nằm trên trần nhà mơ mộng đếm những vì sao. Bỗng nhiên tôi thấy cả không gian như bừng sáng. Trong vầng hào quang sáng lấp lánh, ông tôi cười hiền từ từ bước về phía tôi. Tôi sung sướng đến nghẹt thở ngắm nhìn gương mặt phúc hậu, hồng hào và mái tóc bạc phơ của người ống yêu quý. Ông tôi vẫn thế: dáng người cao đậm, bộ quân phục giản dị và cái nhìn trìu mến! Tối ngồi bên ông, tay nắm bàn tay của ông, tận hưởng niềm vui được nâng niu như thuở còn thơ bé... Tôi muốn hỏi những ngày qua ông sống như thế nào? Ông ở đâu? Ông có nhớ đến gia đình không... Tôi muốn hỏi nhiều chuyện nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu cả. Ông kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích mà ngày xưa ông vẫn kể. Giọng ông vẫn thế: rủ rỉ, trạm và ấm.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Ông hỏi tôi chuyện học hành, kiểm tra sách vở của tôi. Đôi mày ông nhíu lại khi thấy tôi viết những trang vở cẩu thả. Ông không trách mà chỉ ân cần khuyên nhủ tôi cố gắng học tập chăm chỉ hơn. Ông nhìn tôi rất lâu bằng cái nhìn bao dung và khích lệ. Ông còn bảo những khát vọng mà ông làm dang dở, cháu hãy giúp Ông biến nó thành hiện thực. Những khát vọng ấy ông ghi lại cả trong trang giấy này. Muốn làm được điều ấy chỉ có con đường học tập mà thôi... ông dẫn tôi đi trên con đường làng đầy hoa thơm và cỏ lạ. Hai ông cháu vừa đi vừa nói chuyện thật vui. Ông bảo đến chợ hoa xuân, ông muốn đem cả mùa xuân về căn nhà của cháu, ông chọn một cành đào, cành khẳng khiu nâu mốc nhưng hoa thì tuyệt đẹp: màu phấn hồng, mềm, mịn và e ấp như đang e lệ trước gió xuân. Nụ hoa chi chít, cánh hoa thấp thoáng như những đốm sao. Tôi tung tăng đi bên ông, lòng sung sướng như trẻ nhỏ. Ông cầm càh đào trên tay. Có lẽ mùa xuân đang nấp cả trong những nụ đào e ấp ấy... Xung quanh ông cháu tôi, kẻ mua, người bán, ồn ào và náo nhiệt. Họ cũng đang chuẩn bị đón xuân về! Tôi đang bám vào tay ông, ríu rít trò chuyện về những ngày xuân mới sắp đến, chợt nghe tiếng mẹ gọi rất to. Tôi giật mình tỉnh dậy, thấy mình vẫn đang nằm trên trần nhà. Lòng luyến tiếc nhận ra tất cả chỉ là một giấc mơ thôi. Giấc mơ chỉ là khoảnh khắc kì diệu đáp ứng niềm mong nhớ của tôi. Tôi nuối tiếc song cũng học được nhiều điều từ giấc mơ đó. Và quan trọng nhất là tôi được gặp ông, được ông truyền cho niềm tin và sự nỗ lực cố gắng thực hiện những ước mơ của chính mình. BÀI LÀM THAM KHẢO 2 Những giấc mơ là những phút giây tuyệt vời nhất giúp ta được sống trong những gì mà cuộc sống đời thường không đem lại. Tôi cũng đã mơ rất nhiều, nhưng giấc mơ có thể để lại một giá trị tinh thần to lớn cho tôi chỉ có thể là khi tôi được gặp lại người ông thân yêu của mình. Đó là một giấc mơ thần tiên, tuy ngắn ngủi nhưng đầy xúc động. Đầu tiên, tôi cảm thấy như đang lạc bước vào một thế giới hư vô, vô tận. Những vòng xoáy sâu hút làm cho tôi bối rối, hoảng hốt. Bỗng một tia sáng chói lòa đã bao phủ tất cả và đã đưa tôi đến một gian nhà, ở đó có một cô bé đang nũng nịu đòi ông kể chuyện, bế đi chơi. Tôi giật mình khi biết cô bé đó chính là mình khi bé, còn người ông chiều cháu đó chính là ông nội tôi, người đã làm tôi oán giận rất nhiều khi đã lìa bỏ tôi để đi sang thế giới bên kia. Toàn thân tôi mềm nhũn, bồng bềnh, lặng dõi theo những kí ức ngày xưa bỗng ùa về trong khoảnh khắc. Nào là lúc tôi ngã, khóc; ông đã nhẹ nhàng bế tôi lên, đập tay xuống đất mà mắng rằng: Á à, đất hư nhé, làm Chuột Nhắt của ông ngã à! Hay những lúc mẹ trốn đi làm lúc tôi đang ngủ, khi dậy, tôi khóc đòi mẹ; ông đã đặt tôi ngồi lên yên sau xe đạp, lọc cọc đèo tôi đi chơi, mua kẹo, mua bóng baỵ, làm tôi mải vui quên luôn cả nhớ mẹ. Nào là những lúc tôi hư, tôi bướng; dù thương nhưng ông vẫn nghiêm nghị bắt tôi úp mặt vào tường, đánh cho tôi mấy cái thành ra tôi giận ông mất mấy ngày trời nhưng lại lon ton theo sau làm lành với ông trước. Tất cả, tất cả đã hiện lên thật sống động trong tôi, cổ họng tôi dường như nghẹn lại khi định cất tiếng gọi ông; nước mắt tôi bỗng trào ra khi bỗng những hình ảnh đó mờ nhạt dần đi, nhỏ dần lại, tôi đưa tay ra như muốn níu kéo lại nhưng không được, bởi tất cả đã thuộc về quá khứ, về kí ức, là điều thiêng liêng mà không gì có thể mua được. Tiếng khóc của tôi giờ đã thành tiếng nấc. Một màn đêm lạnh lẽo bao trùm lấy tôi, chung quanh lặng im như tờ, chỉ có tiếng khóc, hơi thở của tôi. Và một lần nữa, một ánh sáng mờ ảo lại bao trùm lấy tôi. Từ xa thấp thoáng bóng một người đang tiến lại gần. Tôi thu mình, cất tiếng hỏi: Ai đó? Một khuôn mặt xương xương rất thân quen, một đôi mắt dịu hiền sưởi ấm cả màn đêm xung quanh lạnh lẽo. Đó chính là ông tôi. (Bài làm của Cao Minh Lan, học sinh Trường THCS Ba Vì. Có sửa chữa và bổ sung) BÀI LÀM THAM KHẢO 3 Cầm đề bài tập làm văn trong tay, tôi thật sự lo lắng vì không biết làm bài tập đó như thế nào. Cô giáo cho đề bài kể về bà của em và hẹn ngày mai phải nộp. Bà tôi ra đi từ lúc tôi chưa lọt lòng mẹ nên bà tôi ra sao, tính tình thế nào, giọng nói ra làm sao... tôi đều không biết. Cơn gió thổi nhè nhẹ, bầu trời trong xanh, ngồi trước bàn học tôi cứ miên man suy nghĩ đến hình phạt mà


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

bố mẹ sẽ dành cho tôi khi bị điểm kém. Thế rồi, không biết từ lúc nào, tôi ngủ thiếp đi mất và có một giấc mơ tuyệt đẹp. Trong mơ, tôi thấy mình được gặp lại bà và được nghe bà kể rất nhiều chuyện mà tôi chưa biết. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở trong ngôi nhà của bà ngày trước. Tất cả đồ đạc đều gọn gàng, ngăn nắp và sạch sẽ. Ngoài sân có một bóng người gầy gầy, xương xương, lưng cũng đã còng thế nhưng dáng vẫn còn nhanh nhẹn lắm. Tôi chạy vội ra sân và không biết đó là ai. Nghe thấy tiếng chân chạy, người đó quay lại. Điều bất ngờ nhất là khi quay người lại, tôi chợt reo lên vui sướng: “Bà, bà ơi”. Đúng, đó là bà tôi, người bà mà tôi luôn yêu quý cho dù chưa một lần gặp mặt. Tôi chỉ biết bà qua tấm ảnh mà bố cho tôi xem. Bà thấp, nhỏ người, khuôn mặt rạn vết chân chim của bao thời gian vất vả. Đôi mắt đã không còn vẻ sáng ngời mà nó đã trở nên mờ nhòa. Mái tóc bà bạc trắng, được vấn lên gọn gàng. Khi nghe thấy tiếng reo của tôi, bà xoa đầu tôi và bảo: “Vào trong nhà đi cháu, ngoài này nắng to lắm, vào đi không lại ốm.” Giọng bà mang đậm chất của quê tôi - vùng quê Kim Sơn nhưng ấm áp lạ lùng. Tôi ngoan ngoãn nghe theo lời bà, chạy vào trong nhà. Một lát sau, bà cũng vào và bảo: “Lâu lắm rồi cháu mới về chơi với bà được một hôm nhỉ?” Tôi cười và nói: “Cháu cũng muốn về lắm nhưng chẳng có thòi gian bà ạ”. Bà cười hiền từ, đôi mắt nhìn tôi âu yếm: “Cố học cho giỏi rồi sau này bà sẽ lên chơi với cháu thường xuyên hơn”. Tôi dựa đầu vào vai bà mà cảm thấy trong lòng mình một niềm vui khôn xiết. Giọng bà chợt ngậm ngùi: “Thời gian trôi qua nhanh thật, mới ngày nào còn bé tí cứ khóc suốt ngày nhưng được cái nhanh nín. Thế mà bây giờ đã...” Bà bỏ lửng câu nói rồi thở dài. Tôi bỗng thầm ước mình bé đi để được bà dẫn đi chơi, được bà mua kẹo cho sau mỗi lần bà đi chợ về. Nước mắt tôi chợt chảy ra giàn giụa. Bà cười, lau nước mắt cho tôi rồi nói: “Lớn tướng rồi mà còn khóc nhè như trẻ con”. Tôi ôm chặt lấy bà mà thấy chưa bao giờ hạnh phúc như lúc này. Suốt cả ngày hôm đó, tôi cứ bám lấy bà như cái đuôi. Bà đi xuống bếp tôi cũng đi theo, bà ra vườn tôi cũng chẳng rời nửa bước, ở ngoài vườn, cây cối xum xuê, trĩu trịt quả. Tôi với một quả ổi, gặm thấy ngon hơn những quả ổi mà mẹ mua ở chợ. Bà cười nheo nheo mắt và nói: “Cả vườn cây này bà trồng dành cả cho cháu. Người ta đã đến mấy lần hỏi mua hoa quả nhưng bà không muốn bán vì sợ cháu về lại không có cái gì ăn...” Hơn lúc nào hết, tôi cảm nhận được tình yêu thương của bà dành cho tôi. Lúc đó tôi chỉ muốn nói thật to: “Bà ơi, cháu yêu bà lắm” nhưng lại thấy nghẹn ngào không nói được thành lời. Trong lòng tôi, tôi chỉ muốn thời gian ngừng trôi để cho tôi luôn được sống trong sự chở che, yêu thượng của bà dành cho tôi. Lúc ăn cơm, bà chẳng ăn mấy, chỉ chăm chăm gắp thức ăn cho tôi. Vừa gắp cho tôi, bà vừa nỗi: “Món này bà biết cháu thích ăn nhất nên bà nấu. Ăn nhiều vào cho chóng lớn”. Tôi ước rằng tuần nào mình cũng được gặp lại bà trong giấc mơ. Những người thân đã xa ta, có thể là xa mãi mãi nhưng họ vẫn luôn hiện hữu bên ta. Dù chỉ là trong những giấc mơ thì ta vẫn luôn cảm thấy hạnh phúc, có một sự động viên, an ủi lớn lao. “Bà ơi, bà có nghe thấy cháu nói gì không? Dẫu bà có ở chốn thiên đường hay hư vô cháu vẫn luôn muốn nói rằng: Bà ơi, cháu yêu bà nhiều, lắm! Bà sẽ mãi mãi là thiên thân hộ mệnh tuyệt vời và thân thương nhất của cháu!” (Bài làm của học sinh Võ Tuấn Kiệt, Trường THCS Ngô Thì Nhậm. Có chỉnh sửa và bổ sung) Bài 15: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Đất nước ta đã có bao nhiêu trận chiến đấu ác liệt với những chiến công hiển hách. - Trận chiến đấu... đã để lại cho em những cảm xúc khó phai. 2. Thân bài - Kể khái quát về trận chiến đấu. + Diễn ra vào năm nào? Ở đâu? Ở thời kì nào? Chống giặc ngoại xâm nào? Mục đích của trận chiến đấu?


IC IA L

+ Em đã được biết về trận chiến ấy từ ông (bà) kể lại hay sau khi học môn Lịch sử hoặc sau khi xem phim? - Kể lại diễn biến chính của trận chiến đấu qua các giai đoạn: + Chuẩn bị, phòng ngự. + Tấn công: tư thế chủ động, tinh thần dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của quân ta; sự chống trả của địch. (Chú ý: Kết hợp miêu tả tư thế, hành động của ta, của địch; tả quang cảnh của trận chiến... Khi kể, chú ý làm nổi bật vai trò của vị chỉ huy tài giỏi, anh dũng và một vài chi tiết thể hiện tinh thần quả cảm của quân ta). - Kể lại kết quả của trận chiến đấu.

FF

+ Quân ta: chiến thắng (kết hợp với miêu tả không khí chiến thắng, nét mặt, nụ cười của những người lính) và những hi sinh mất mát... + Quân địch: thất bại (kết hợp với miêu tả không gian hoang tàn sau trận chiến, hình ảnh những tên lính còn sống sót...). - Ý nghĩa của trận chiến đấu trong lịch sử. - Cảm xúc, suy nghĩ của em về trận chiến đấu ác liệt ấy.

O

3. Kết bài

N

- Tự hào về lòng yêu nước của các thế hệ cha ông, về những trang sử vàng của dân tộc ta.

Ơ

- Suy nghĩ, liên hệ tới bổn phận của cá nhân và thế hệ sau. BÀI LÀM THAM KHẢO 1

U

Y

N

H

Lễ kỉ niệm 48 năm Huyền thoại Ngã ba Đồng Lộc đã đứợc tổ chức từ ngày 16 đến 24-7 2016 bằng một chương trình hoành tráng, tôn nghiêm. Lễ kỉ niệm cũng là ngày hội dành cho lực lượng thanh niên xung phong 47 năm về trước cùng hội ngộ nhớ về một thời máu lửa của dân tộc. Hôm nay đây, viết tiếp “khúc hát khải hoàn” đó có những con người là nhân chứng sống của lịch sử kể tiếp cuộc kháng chiến trường kì chống giặc ngoại xâm của cha ông ta cho con cháu mình nghe...

M

Q

“Nếu trong đêm ấy không thoát khỏi làng này, thì hôm sau, 130 chiếc xe chở xăng dầu ấy sẽ biến thành biển lửa. Mệnh lệnh cấp trên: mở một đường tránh, bắc cầu qua sông Dà cho xe ra chiến trường”. Kể về làng chiến đấu KI30 (làng Hạ Lôi) đến đây ông chững lại, bao nhiêu kí ức về làng mình ập đến...

ẠY

Ông là Trương Minh Cường, 82 tuổi. Năm 1968, ông là Chủ tịch xã Tiến Lộc (huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) - người trực tiếp chl huy chiến dịch làm đường giải thoát 130 chiếc xe chở xăng dầu.

D

Tuổi tác, thời gian tưởng như ông không còn nhớ tường tận nữa. Nhưng hễ có đoàn học sinh, sinh viên hay cánh nhà báo muốn tìm hiểu lăng thời chiến KI 30, thì làng thời chiến ấy lại sống lại qua những thước phim hồi tưởng của ông.

Năm ông lên làm Chủ tịch xã Tiến Lộc, cũng là năm máy bay Mĩ đánh phá ác liệt Ngã ba Đồng Lộc. Để lên huyện công tác được, ông phải đi bộ từ bốn giờ sáng, mới tránh được máy bay địch.

Những tháng mùa thu năm 1968, từ Thạch Hà ra Hồng Lĩnh, máy bay Mĩ đánh phá ác liệt ngày đêm. Quốc lộ 1A bị tắc nghẽn, hệ thống cầu cống bị máy bay địch phá hủy hoàn toàn. 130


chiếc xe chở xăng dầu vào Nam bị tắc lại ở phía nam huyện Can Lộc, do cầu Dà bị cắt đứt. Đoàn xe phải tấp vào làng Hạ Lôi, xã Tiến Lộc. Trước hoàn cảnh đó, Bộ Chính trị, Bộ Giao thông vận tải cùng với Ban đường bộ giao thông của tỉnh Hà Tĩnh đưa ra quyết định bất ngờ: Chia làng Hạ Lôi ra làm đôi. “Sáng ngày 13 - 8 - 1968, sau khi tiếp thu mệnh lệnh từ cấp trên, tôi cùng với mấy người trong ban lãnh đạo xã tiến hành họp dân, với khẩu hiệu: xe chưa qua là nhà không tiếc. Sau các công tác như bố trí người già, trẻ em đến chỗ an toàn, tất cả các lực lượng được tập trung khẩn trương để chuẩn bị phá nhà, mở đường cho xe qua”, ông Cường nhớ lại.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Ông Cường kể về cuộc họp giữa ủy ban xã Tiến Lộc vói người dân làng Hạ Lôi và một số người dân đã hiến nhà cửa, ruộng vườn cho việc mở đường. Khi nhắc đến bà Đồng Thanh Thanh, ông rơm rớm nước mắt: “Chồng con mất sớm, sống một mình, trong nhà còn bốn tấm gỗ để đóng quan tài, bà cũng đưa ra hiến tặng. Thấy hoàn cảnh bà như vậy, tôi đã khuyên bà nên để lại lo ma chay sau này. Bà ấy nhất quyết không chịu và nói: giờ chiến tranh đang đòi hỏi, tui có bốn tấm ván gác trên trần, các anh vào khiêng ra làm đường cho xe qua. Nếu các ánh không lấy, tui nằm xuống lót đường cho xe chạy”. Kể đến đây khuôn mặt ông chợt bừng sáng: “Bà Thanh đến cả bốn tấm ván để dành lo hậu sự còn không tiếc nữa. Thôi chúng ta nhanh về nhà. Nói rồi dân làng Hạ Lôi giải tán, bắt tay ngay vào việc. Nhà dỡ đến đâu thì các lực lượng công binh, thanh niên xung phong làm đường đến đó. Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ, 130 ngôi nhà đã được tháo dỡ, đường xe đã mở xong”. Ngồi nghe ông kể chuyện, mà như đang xem nhũng thước phim tài liệu: Đến 3 giờ sáng, con đường xuyên qua làng đã hoàn tất. Chiếc xe đầu tiên đã lăn bánh đến phà và qua cầu an toàn. Để bảo đảm bí mật và che mắt địch, bộ phận .dân quân và nhân dân Hạ Lôi bắt khum những ngọn tre lại với nhau, làm ngụy trang. Con đường chạy trong làng được giữ bí mật cho đến ngày ngừng bắn. Buổi sáng gặp nhau, chúng tôi được ông dẫn ra xem dấu tích của con đường huyền thoại. Cây cối, nhà cửa đã mọc lên. Kí ức còn, nhưng dấu tích đã mai một. Ông đứng thẫn thờ nhìn một lúc, rồi quay sang nói với chúng tôi: “Trong một đêm, người dân dời, dọn 130 nóc nhà, làm đường cho 130 xe chở hàng ra tiền tuyến. Ban đảm bảo giao thông tỉnh đặt tên làng Hạ Lôi là làng KI 30. Thế mà, nay tên làng từ thời chiến đang còn, con đường thời chiến lại không”. Hiểu được ý ông, chúng tôi đã cùng ông rẽ cây, lần theo con đường mà ông chỉ. Càng đi sâu, chỉ thấy cây cối, nhà cửa mọc trên con đường, không thấy một dấu tích của con đường để lại. Ông cố tìm từng tấm ván lót đường từ thời chiến để lại, nhưng chỉ thấy cỏ tranh mọc um tùm. Thời gian, ý thức con người đã làm mất đi dấu tích con đường. Nhưng kí ức về con đường trong ông không bao giờ phai. Ông nhớ con đường đã đi qua nhà nào đầu tiên và hình ảnh về từng đoàn xe lăn bánh trên con đường bí mật mà không bị máy bay địch phát hiện. (Bài viết có sử dụng nguồn tài liệu tổng hợp. Có sửa chữa và bổ sung) BÀI LÀM THAM KHẢO 2 Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần chiến đấu và niềm tự hào dân tộc vẫn còn in đậm mãi trong lòng mỗi con dân nước Việt. Tinh thần đó được thế hệ đời sau lưu truyền và gìn giữ như một bản trường ca anh hùng. Trong đó, khúc hát oanh liệt về chiến công đại phá quân Thanh làm lòng người trẻ rộn ràng dòng máu Lạc Hồng. Mùa xuân năm Kỉ Dậu (1789), quân của Nguyễn Huệ nước Đại Việt vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kì (Lê Chiêu Thống), lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch, ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long mang ba ngàn quân tăng cường cho các đồn Hạ Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho Đề đốc Hứa Thế Hanh mang một ngàn năm trăm tên, tự đốc suất một ngàn hai trăm tên


để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong, vây đồn bốn phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy.

IC IA L

Vào canh năm ngày mồng 5 Nguyễn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng một trăm thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kị binh nghênh đón địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng xông lên, quân Thanh tử thương quá nửa. Đề đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Đề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín.

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Đề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, Đức Khắc, Tinh Ngạch mang ba trăm quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh ba ngàn tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lí Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lí Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đút cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Cầu. Quân Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đút chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na Đôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu Điền Châu Sầm Nghi Đống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kì vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương bắc, đến đây nhà Lê diệt vong. Nguyễn Huệ đưa quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. Đề đốc ở Đại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch Quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong nước.

D

ẠY

Cuộc chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lí tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai hùng.

(Dẫn theo tư liệu lịch sử - Tự hào sử xanh dân tộc. Có sửa chữa và bổ sung) Bài 16: Đã có lần em cùng bố, mẹ (hoặc anh, chị) đi thăm mộ người thân trong ngày lễ, Tết. Hãy viết bài văn kể về buổi đi thăm đáng nhớ đó. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu về buổi đi thăm mộ người thân cùng bố, mẹ... - Ấn tượng chung của bản thân về buổi đi thăm đó.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

2. Thân bài a. Kể, tả về sự chuẩn bị cho buổi đi thăm - Thu xếp thời gian như thế nào? - Mua sắm lễ vật gì?... b. Xuất phát - Vào lúc mấy giờ? - Đi xe gì? - Quang cảnh trên đường đi, tâm trạng lúc đó? c. Đến thăm mộ - Miêu tả cụ thể quang cảnh xung quanh. - Kể lại những việc làm trong buổi đi thăm mộ. + Dọn dẹp sạch sẽ xung quanh ngôi mộ. + Bày các đồ cúng lễ (hoá quả, vàng hương...). + Thắp hương và làm lễ khấn vái (nói lên ước nguyện của gia đình, bản thân, như là tâm sự với người đã khuất.. .). + Bố, mẹ (hoặc anh, chị) đã kể lại những kỉ nỉệm gì về người thân đã khuất. Kết hợp với miêu tả cảnh, hương cháy và tâm trạng của mọi người trong gia đình. - Nỗi xúc động, thể hiện tình cảm của bản thân với người thận đã mất. - Kết thúc buổi viếng thăm như thế nào? (hóa vàng và tiền âm phủ, tưới rượu lên mộ, thắp hương cho những ngôi mộ xung quanh...). 3. Kết bài - Khẳng định lại tình cảm của bản thân đối với người thân đã mất. - Suy nghĩ về buổi đi thăm đáng nhớ đó. BÀI LÀM THAM KHẢO 1 Hôm ấy là ngày đầu xuân, trời thật đẹp, trăm hoa đua nở như đón sự an khang, thịnh vượng đến với mọi nhà. Gia đình tôi đón xuân trong niềm vui đầm ấm và tưởng nhớ về tổ tiên cội nguồn của mình. Lòng biết ơn sâu sắc đó đã thôi thúc gia đình tôi đi thăm mộ ông bà vào ngày Tết - ngày mở đầu của một năm mới mà tôi cho là quan trọng nhất. Trước đó mấy ngày, tôi thật phấn khởi trong không khí đón Tết, sắp được về quê chúc Tết bà con và thăm mộ ông bà. Tôi háo hức nhất là trong đêm 30 tháng chạp, cả nhà quây quần bên chiệc bàn xinh xắn để bàn chuyện đi thăm mộ ông bà vào ngày hôm sau. Nồi bánh chung bốc khói nghi ngút, sôi sùng sục. Tôi thầm nghĩ: - Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi là bước sang năm mới. Xuân sẽ đến với đất trời, đến với mọi nhà, đến với gia đình mình. - Tôi mong trời mau sáng để cùng bố mẹ về quê đi thăm mộ ông bà và đi chúc Tết bà con ở quê. Sáng hôm sau, tôi được bố mẹ đưa đi thăm mộ ông bà. Khí trời se lạnh, mây trắng nhởn nhơ trên bầu trời xanh thẳm, cảnh vật dường như đẹp hơn mọi ngày. Những ngôi nhà hai bên đường đã mở cửa, nhà nào cũng có hoa, có những câu-đối đỏ treo trên những cành mai đang trổ lộc. Đâu đó, nghe tiếng chim hót lảnh lót như đón chào xuân đang tới. Ra đến nghĩa trang, khói hương xung quanh nghi ngút. Bà con ở gần đi viếng mộ rất sớm, trẻ em chạy nhảy tung tăng trên bãi cỏ với những bộ quần áo mới. Bố tôi kính cẩn đặt hoa tươi, bánh mứt để cúng ông bà. Tôi bồi hồi tưởng nhớ cội nguồn của mình và dấy lên một lòng biết ơn sâu nặng. Khói hương bốc lên lan tỏa khắp các mộ ở nghĩa trang. Người nào cũng tưởng nhớ đến người quá cố. Duy chỉ có những em bé là hồn nhiên, vô tư, chúng đang đùa nghịch trên lề đường đằng xa. Gặp lại những đứa bạn ở quê cùng đi viếng mộ, tâm trạng tôi cũng vui lên sau những phút giây bùi ngùi thương nhớ về ông bà của mình đã yên nghỉ nơi phần mộ. Làn khói hương vẫn bay bay, hòa quyện với đám sương mờ đang bao phủ. Tôi, bố mẹ tôi và mọi người vẫn đứng trước những ngôi mộ tổ tiên của mình. Bố tôi nói: - Ngày trước, bố cũng thường đi viếng mộ tổ tiên cùng ông bà trong dịp Tết.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Nghe bố nhắc đến ông, bà nội thì tôi lại bâng khuâng nhớ về ngày ông, bà nội tôi chưa mất. Lúc ấy, tôi được sống trong tình thương bao la của ông, bà. Nhớ những đêm trăng sáng, tôi cùng bà ngồi trò chuyện trên chiếc võng đầu hè, nghe bà kể chuyện thời xưa. Tôi lại ứa nước mắt khi nghĩ đến điều này. Bố tôi cũng thế! Dường như bố mẹ tôi cũng xúc động khi nhắc đến ông, bà nội. Cúng viếng xong, hương trầm cũng dần tàn theo bánh xe thời gian đang di chuyển. Bố và tôi cúi lạy ông bà, lấy bánh mứt phân phát cho các em nhỏ rồi bố tôi đưa tôi về nhà dì chúc Tết. Dịp đi thăm viếng mộ ông bà lần này đã cho tôi một tình yêu sâu sắc; tình yêu gia đình, quê hương, đất nước bền chặt trong tôi. Tôi thầm nhắc mình phải cố gắng học giỏi, thành tài để xứng đáng với cội nguồn tổ tiên, cội nguồn dân tộc Việt Nam. (Dẫn theo bài làm của cô giáo Nguyên Thị Thanh Huyên, Trường THPT chuyên Hùng Vương Việt Trì - Phú Thọ. Có bổ sung và chỉnh sửa) BÀI LÀM THAM KHẢO 2 Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh. (Cảnh ngày xuân, Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) Từ lâu lắm Nguyễn Du đã viết như thế về phong tục tảo mộ ngày thanh minh, và tôi chờ đợi ngày ấy để được đi thăm mộ bà với biết bao nỗi niềm, cảm xúc. Trời đất vạn vật choàng tỉnh sau giấc ngủ đông, khoác tấm áo mùa xuân ấm áp và tươi tắn. Những giọt nắng đầu tiên trải trên nẻo đường làng nâu sậm thành từng vùng ấm dịu. Những bông lau bên đường khẽ đưa mình trong cơn gió, gợn sóng mềm mạị. Hương mùa xuân thoảng nhẹ đâu đây... Đường làng đẹp đến lạ lùng! Tôi và gia đình bước vào khu yên nghỉ của những người đã khuất. Gió ở đây lạnh, heo hút và hoang vắng. Những nấm mộ trắng nằm lặng yên tưởng chừng như không gian ở đây ngưng lại trong sự vĩnh hằng. Mẹ tôi đã chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết trong chiếc làn nặng trĩu: nào nhang, hoa và cả đồ lễ nữa. Bà tôi nằm ở đây. Mẹ và chị tôi sửa sang phần mộ bà chu đáo, cẩn thận. Đưa mấy nén nhang đã đốt sẵn, mẹ bảo chị tôi đi thắp nhang cho các ngôi mộ xung quanh. Mẹ bày đồ lễ, tôi đứng lặng trước mộ bà, trong hương trầm quyện tỏa nghi ngút, những kỉ niệm ngày xưa về bà tràn về trong kí ức của tôi... Tất cả chỉ như vừa mới hôm qua thôi. Tôi nhớ những ngày bà bế tôi rong chơi khắp làng. Nhớ hơi ấm đặc biệt của tình bà, hình bóng bà mỗi sớm tinh sương, thổi bếp rạ, nướng củ khoai thơm phức. Tôi thường theo bà dậy sớm, thích ngồi cuộn lại trong lòng bà như một con mèo nhỏ, với tay đun bếp cùng bà. Hơi lửa làm nóng bừng hai má, tôi vừa thổi vừa ăn miếng khoai nướng ngọt đến mềm môi... Thuở bé thơ, hai chị em tôi thường tranh nhau chải tóc cho bà. Tóc bà dài, lốm đốm sọi bạc, thoảng mùi sả thơm... Tôi nhớ khôn nguôi mùi hương ấm nồng làm cay sống mũi ấy. Lúc nhỏ, tôi là đứa trẻ hậu đậu, vụng về nhưng bà chẳng bao giờ mắng tôi. Bà dạy tôi mọi thứ, cẩn trọng, rõ ràng như người ta truyền cho nhau kinh nghiệm đã được chắt chịu cả một đời. Thuở ấy, mỗi lúc mùa đông về, bà thường nhắc tôi mặc áo cho thật ấm, vậy mà giờ đây bà nằm một mình trong lòng đất lạnh, trống trải và cô đơn... Tôi yêu bà, gắn bó bến bà cả một thời thơ bé. Tâm hồn tôi trong trẻo hơn, trái tim hiểu thế nào là nhân ái từ sự dạy dỗ của bà, từ những câu chuyện cổ tích mà bà đã kể. Bây giờ tôi đã lớn khôn, khi đông về biết tự mặc áo ấm, làm việc nhà không còn hậu đậu vụng về, bà tôi lại chẳng còn có dịp nhìn thấy thành quả của tôi được nữa. Tiếng mẹ gọi hóa vàng, tro tiền giấy bay kéo tôi ra khỏi thể giới tuổi thơ tràn ngập hình bóng của bà. Tôi trở về nhà trên con đường cũ nhưng sao thấy không gian như ảm đạm hơn. Dường như tôi đang mong chờ một điều kì diệu vẫn thường xảy ra trong các câu chuyện cổ tích để không gian buồn trên con đường về nhạt bớt đi chăng? Có thể bà đã đi xa mãi nhưng bà vẫn sống trong lòng tôi và tất cả mọi ngươi trong gia đình. Tôi tin bà đang dõi theo từng bước đường đời của đứa cháu yêu và tôi tự hứa trong lòng mình nhất định tôi sẽ để bà được mỉm cười về tôi nơi chín suối.


Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

(Bài làm của học sinh Đinh Thành Công, Trường THCS Mỹ Bĩnh - Lấp Vò - An Giang. Có sửa chữa và bổ sung) Bài 17: Hãy kể về một lần em trót xem nhật kí của bạn BÀI LÀM THAM KHẢO 1 Nhân sinh như cõi mộng Đời như là cánh hoa Phiêu bồng trong gió cát Như khúc hát hồn ta. Tôi vẫn còn nhớ mãi câu nói này trên blog của một cô bạn - một tác giả nghiệp dư. Đúng thật. Dòng đời trôi đi, xa mãi. Mấy ai biết trước được tượng lai sẽ ra sao? Con gió cuộc đời thổi bay đi nhũng hạt bụi kí ức, hòa vào mùi thơm của nhũng cánh hoa dại bên đồng cỏ úa tàn rồi đi vào góc nhỏ con tim. Chúng là những sai lầm vụng về của một thời trẻ dại, nhũng kí ức tươi đẹp ở cái tuổi mà đời người chỉ có một lần. Lỗi lầm - mấy ai mà không tùng phạm phải? Tôi cũng đã từng sai lầm. Một cách nào đấy, không rõ là vô tình hay cố ý, tôi đã xem quyển nhật kí của cô bạn thân. Buổi sáng. Những đợt gió đầu ùa về từng cơn, ánh nắng mặt trời như dịu hơn hẳn. Không còn là mậu vàng cam chói đến nóng mắt, mặt trời bây giờ đằm thắm nhưng cũng phảng phất chút “ngông”, như những nàng thơ hoang dã với tà váy trắng ngà ngà say bên cánh rừng. Tôi lê bước trên từng bậc cầu thang, lòng nghêu ngao vài câu hát Quan thoại. Chuyện, tươi vui một tẹo cho ngấy mới suôn sẻ mà vẫn như thường ngày. Với bọn học sinh dở dở ương ương chúng tôi thì hai tiết đầu siêu nhàm, đến nỗi vài đứa còn cắn cắn bút rồi gà gật lim dim ngủ. Đến lúc giáo viên gọi thì bất chợt giật bắn cả người lên. Tiếng trống đánh ra chơi làm bọn nó mừng đến phát hoảng, hú hét đủ thể loại. Vui thật. Chín năm ròng rã của tôi gắn liền với tiếng hú hét đầy “trừu tượng” của bọn ấy. Hai tiết sau phải viết bài viết tự sự, vài đứa con gái vẫn còn nán lại tham khảo trước bài mẫu để dễ viết hơn. Nhưng trong số ấy không có tôi. Tôi viết không hay, nhưng tính tôi thích mạo hiểm. Tôi từng thử viết vài truyện ngắn rồi đăng lên blog cá nhân trên mạng xã hội nên khả năng ứng biến có thể gọi là tàm tạm. Văn phong của tôi là dạng bay nhảy, màu sắc, đôi lúc hơi phô trương và có phần hơi ngông. - Này. Xuống sân trường với tao đi! - Cô bạn thân khẽ huých nhẹ vai tôi.

M

- Thôi. Lười lắm. Tao là người, leo lên leo xuống ba tầng lầu. Có mà chết mất! - Tôi uể oải trả lời.

D

ẠY

Lôi trong cặp ra quyển tiểu thuyết của Tây Xuyên Nhất Lan, tôi định đọc nhưng với điều kiện âm thanh tạp nham inh ỏi như thế này thì không cách nào đọc tiếp được. Lật vài trang, tôi đã vội gấp lại rồi đảo một vòng quanh lớp. Một cách vô tình, tôi chợt thấy quyển sổ bìa trắng, chỉ vẽ đơn giản hình một chiếc mặt cười. Hồi trước, tôi đã từng gặp quyển này, định lấy ra xem nhưng lại bị cô bạn thân ngăn cản. Vậy thì chắc chắn quyển này phải có gì đó bí mật. Một nỗi tò mò bám lấy tôi, cào cấu tâm trí tôi như con hổ đang tranh mồi. Đọc? Không đọc? Đọc một lần rồi trả lại, chỉ mình tôi biết? cần gì phải sợ? Nhưng không được. Nếu đổi lại là tôi, thực sự tôi không cách nào chấp nhận cho người khác đọc chúng. Huống hồ gì nhật kí là nơi cất giấu những tâm sự, những góc khuất không thể nào nói ra? Nói gì thì nói, tính tôi vẫn rất tò mò. Tôi tự dối gạt bản thân mình rằng chỉ do mình quan tâm cô bạn thôi. Và thế là tôi đã sai lầm. Một sai lầm đáng nhớ nhất trong suốt cuộc đời nhập nhòa của mình. Tôi sững sờ. Đứng trân cả người ra. Bản chất rằng tôi không muốn tin vào những gì mình đọc được. Lí nào cơ chứ? Lần đầu tiên tôi mong tha thiết rằng mình chưa từng làm một việc gì


đó. Nhưng muộn lắm rồi. Cảm giác như mình là một kẻ tội đồ trên bàn tay dính đầy máu. Là tôi suy nghĩ quá đơn giản chăng? Tôi chỉ nghĩ đơn thuần rằng đó là những góc khuất nhỏ cảm xúc trong cuộc sống của cô bạn. Nhưng không phải vậy. Cô bạn mà tôi quý nhất, người mà tôi luôn xem như một bờ vai để tựa vào những lúc gục ngã, người mà tôi luôn tin tưởng nói thẳng ra những suy nghĩ của riêng mình là... đồng tính nữ.

IC IA L

Cảm giác đầu tiên của tôi là sững sờ. Một nỗi sững sờ đến tột cùng. Nhưng tôi lại thấy cảm ơn trời vì mình đã không có cảm giác kì thị cô bạn ấy. Vấn đề đồng tính, tôi không khắt khe với chúng. Đơn giản chỉ là tôi có chút hơi bất ngờ. Giới tính là do ông trời quyết định. Ngay cả cô bạn cũng không có quyền. Vậy thì cớ gì mà nhiều người lại xem đồng tính như một bệnh truyền nhiễm?

FF

Đó là sự thật. Và tôi phải tin. Giấu đi giới tính thật của mình vì quan niệm cổ hủ khắt khe của xã hội. Cô bạn đã khổ lắm rồi. Tôi sẽ không làm gì khác để cô bạn phải tổn thương nữa. Nhưng tôi hiểu, gánh nặng trên vai mà chẳng một ai bên cạnh thực sự rất khó chịu, cô đơn, mệt mỏi và vô vọng. Tôi sẽ chọn cách nói thẳng thắn, chia sẻ bớt với cô bạn ấy.

Ơ

N

O

“Mày là bạn thân của tao, và tao hứa sẽ đối xử tốt với mày như chính mày đã làm cho tao vậy”. Tôi đã phải trằn trọc suốt đêm để suy nghĩ xem mình phải nói những gì. Sáng hôm sau, khi nói ra sự thật, tôi hiểu lòng mình và cô bạn đã nhẹ đi rất nhiều. Cô ấy không nói gì, chỉ lẳng lặng và cười. Vì bạn bè là thế, phải biết suy nghĩ và cảm thông cho nhau.

Q

U

Y

N

H

Lần này là tôi sai. Nhưng cũng phải thầm cảm ơn vì nhờ thế mà tôi đã trưởng thành hơn, suy nghĩ chững chạc hơn về vấn đề này. Cũng cảm ơn quyển nhật kí đã giúp tôi nhận ra cái gọi là “vấp ngã nơi nào thi đứng dậy từ nơi ấy” (một người thầy đã nói vói tôi câu này). Bởi lẽ, ranh giới giữa bạn tốt và bạn xấu chỉ cách nhau như màn sương đêm đông vậy. Cái quan trọng là mình phải biết suy nghĩ cho người khác, biến cái sai trở nên ý nghĩa hơn. Qua vấn đề này, tôi đã suy nghĩ rất nhiều và hi vọng mọi người có cái nhìn thiện cảm hơn với người đồng tính. Họ cần lắm vòng tay của xã hội.

M

(Bài làm của Đỗ Kim Phương, học sinh lớp 9A2, Trường THCS Long Thạnh - Tân Châu - An Giang. Có sửa chữa và bổ sung)

D

ẠY

BÀI LÀM THAM KHẢO 2 Tôi vẫn còn nhớ, từ ngày đầu tiên đến trường tôi đã được ba mẹ dạy rằng: “Nhà trường, lóp học là mái nhà thứ hai và tất cả những thành viên trong lóp học đều là người trong gia đình”. Câu nói này đã ghi sâu vào tiềm thức củá tôi. Cho đến bây giờ, khi tôi đang học năm cuối cấp hai trong ngăn kí ức của tôi, chắc chắn tôi sẽ quên đi nhiều thứ, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được một lần tôi trót xem nhật kí của Nga. Nga là cô bạn thân của tôi từ hồi còn bé nên tôi rất hiểu tính Nga. Vừa dễ mến vừa khoan dung, độ lứợng lại còn rất được lòng các bạn trong lớp. Trong một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, tung tăng trên vỉa hè vừa đi vừa hát trên tay cầm mấy quyển sách mà tôi mới vừa mua định mang sang cho Nga cùng đọc vì hai đứa có cùng sở thích. Như thường lệ tôi biết chắc hôm nay ba mẹ Nga không có nhà nên vừa bước vào cổng, tôi vừa cười vừa nhìn quanh vừa kêu to: - Lép ơi! Mình đến rồi! Lép là cái biệt danh thân quen mà tôi vẫn gọi Nga thường ngày. Từ sau nhà, tiếng dép lạch cạch cùng với giọng nói của Nga vang lên: - Ừ! Tớ đây! Vào nhà đi chờ tớ một lát, đang rửa bát!


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Tôi chạy ào lại phòng Nga, nằm dài trên chiếc giường đầy gấu bông của bạn ấy. Đưa mắt nhìn quanh một lượt tôi bật dậy, lại góc học tập của Nga. Là bạn rất thân nên chúng tôi thích đọc sách như nhau, nhất là truyện tranh. Kệ sách của Nga đủ cầc loại đến nỗi đầy kín cả. Tôi đang lựa cho mình một quyển sách ưng ý nhưng sao quanh đi quẩn lại tìm chẳng thấy; Đang loay hoay thì tôi thấy một khe hở nhỏ cạnh kệ sách, vốn dĩ bản tính hay tò mò nên tôi bèn thò tay vào lấy ra xem thử. Thì rút ra được một cuốn sổ. Lúc này mắt tôi bỗng sáng bừng lên khi thấy một cuốn sổ được trang trí rất đẹp mắt, xinh xắn và trông thật dễ thương. Trên mặt cuốn sổ còn được ghi dòng chữ “những dòng tâm sự của tôi”, ôi không, đây là nhật kí của Ngà! Tôi nghĩ thầm và định để vảo chỗ cũ, nhưng sao lại cứ ngập ngừng; tôi... hình như tôi muốn biết thêm về Nga... tôi muốn biết Nga ghi những gì? Tôi không kiềm chế được đôi tay mình và đã mở nó ra. Tôi biết hành động như thế này là đã xâm phạm đời tư cá nhân của Nga nhưng sao tôi lại không kìm được đôi mắt mình, không kìm được sự tò mò của bản than. “Trời ơi! Lẽ nào cuộc sống của Nga là như vậy?”. Bỗng tôi giật bắn mình, Nga đang đứng ngay trước mặt tôi, Nga hét lên: - Bạn... bạn thật là quá đáng! Thời gian ngay lúc này đây trong tưởng tượng củá tôi cứ như nó đang tạm ngừng... ngừng lại để đếm từng nhịp tim, hơi thở của cả hai. Chợt đâu đó, một cơn gió thoáng qua nhè nhẹ từ khung cửa sổ kế bên làm tóc tôi bay, gió như đang muốn xoa dịu đi cái không khí căng thẳng lúc này. Mọi vật như cũng đã đứng yên, ngay lúc này tôi cảm nhận được nhịp đập trái tim của Nga... hình như... nó đang giận dữ. Tay tôi run cầm cập, cuốn nhật kí như nặng hơn rơi bộp xuống đất vì đôi tay của tôi không còn một chút sức lực nào nữa, tôi đứng trân trân, bất động, không nói được lời nào. Ánh mắt Nga lúc này sáng bừng lên, nhìn thoáng qua có thể cảm nhận biết đó là mệt ánh mắt tức giận... nhưng... tôi nhìn kĩ và thấy được ẩn chứa bên trong là sự yếu đuối. Ánh mắt như đang muốn khóc... nó cứ rưng rưng... làm lòng tôi thêm nặng trĩu. Lúc đó, nét mặt Nga đỏ bừng lên, như đang ngại ngùng điều gì đó... Chắc tôi sẽ không bao giờ quên được ánh mắt rưng rưng, đôi môi run lẩy bẩy đầy tức giận của Nga lúc đấy. Tôi vụt chạy đi như thể để trốn tránh ánh mắt ấy, mà lòng nặng trĩu... Tôi có cảm giác như đường về hôm nay xa hơn. Cứ chạy mãi... chạy mãi mà chân tay cứ mỗi lúc một nặng hơn... Từ lúc quen nhau đến giờ, tôi và Nga đã cùng nhau trải qua bao nhiêu là chuyện vui buồn nhưng... đó là lần đầu tiên tôi thấy Nga giận dữ với tôi như vậy. Tôi chạy, chạy như có ai đó đang đuổi theo mình - là ánh mắt ấy. Tôi muốn khóc quá. Tôi rất sợ, sợ sự giận dữ mà Nga đã ném cho tôi, sợ cả chính việc mà mình vừa làm. Về đến nhà, tôi đóng sập cửa phòng mình lại, thở hổn hển như một kẻ ăn trộm vừa bị rượt bắt, bần thần ngồi xuống ghế, tôi tự trách mình tại sao lại làm như vậy? Tại sao tôi lại không thể chiến thắng nổi sự tò mò của chính mình?... Tại sao?... Tôi buồn bực quăng cả chồng sách xuống đất, vậy là tiêu tan ý định khai trương mấy quyển sách mới. Sự xấu hổ và hối hận làm tôi day dứt không yên. Tối hôm đó, tôi nằm trên giường mà lòng cứ day dứt mãi, trằn trọc không thể nào chợp mắt được. Tôi thầm ước... ước gì chuyện đó chưa bao giờ xảy ra và ngày mai tôi lại có thể cùng Nga vui vẻ đến lớp. Tôi suy nghĩ miên man, nhớ lại những trang nhật kí viết trong nước mắt của Lép tôi buồn. Làm sao có thể tưởng tượng được rằng gia đình Lép không hề hạnh phúc, suốt ngày Lép phải nghe những trận cãi vã của bố mẹ mình. Tôi không tin vào những gì mình đã đọc, càng nghĩ tôi lại càng thấy thương Lép hơn. Lúc này, trong đầu tôi tưởng tượng ra hình bóng của Lép cô đơn và buồn bã trong căn nhà lớn. Vậy mà lâu nay tôi cứ tưởng mình hiểu về Lép rõ lắm. Tôi muốn chia sẻ cùng Lép, muốn an ủi và làm hòa với Nga. Giờ tôi mới hiểu, mới biết Lép đúng là một cô bé cá tính, tự tin và đầy nghị lực sống. Mọi ngày qua lại với Lép thường xuyên nhưng chính sự tự tin, bản tính và nghị lực của Lép đã lấp đi những nỗi buồn của Lép đến nỗi chính tôi cũng không thể nào nhận ra. Nhưng tôi lo Nga vẫn trách móc, vẫn giận tôi và Nga sẽ chẳng bao


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

giờ nói với tôi một lời nào cả bởi tôi đã vô tình xen vào bí mật đau buồn mà Nga hằng cất giữ trong sâu thẳm trái tim mình lâu nay không hề chia sẻ tâm sự với ai. Cứ thế, suốt cả một đêm, tôi không sao thoát khỏi sự ăn năn, day dứt... Sáng hôm sau, tôi quyết định sẽ nói lời xin lỗi với Nga. Tôi đi học sớm hơn thường ngày, đứng chờ Nga dưới gốc cây đầu đường nơi mà chúng tôi vẫn thường hẹn nhau cùng đi học. Vừa đứng ngóng về phía Nga tôi vừa tự nhủ lòng lấy hết can đảm để giải thích cho Nga hiểu. Nga đang từ từ rảo bước đến gần tôi, đứng đối diện với tôi nét mặt Nga khác hẳn mọi ngày, im lặng, nghiêm khắc nhìn tôi rồi bước đi tiếp không một lời chào hỏi. Tôi bồn chồn, quay lung lại, chưa biết nên làm gì. Chạy thất nhanh về phía Nga, tôi nắm lấy tay Nga nhìn thẳng vào mặt cậu ấy nói khẽ: - Lép ơi! Cho mình xin lỗi nhá! Mình... không cố ý làm vậy đâu mà. Nga nhìn tôi với nét mặt buồn, nói nhỏ: - Những gì cậu đã đọc, đừng nói với ai nhá! Giữ bí mật giúp mình. Tôi cười khì: - Được mà. Rồi Nga cười, tôi biết lúc đó Nga đã tha lỗi cho tôi. Mọi nỗi buồn lúc đầu tan biến đi đâu mất. Tôi và Nga vẫn nói cười vui vẻ như ngày nào. Trông kìa! Những chú chim bay lượn trước mắt chúng tôi như đang múa hát, nắng dường như cũng ấm áp hơn ban đầu để sưởi ấm chúng tôi hay đang sưởi ấm tình bạn thân thiết này. Gió thì như đang chọc ghẹo mấy chị hoa cỏ dại bên đường, cứ thổi mãi... thổi mãi. Tất cả... tất cả như đang chúc mừng, vui vẻ vì tôi và Nga đã thân mật như xưa. Vừa nói cười vui vẻ với Nga tôi vừa thầm nghĩ về những điều mà tôi đã lén đọc được trong quyển nhật kí của Nga. Như thể nhắc với tôi rằng tôi chưa bao giờ hiểu được người bạn thân, những biểu hiện bên ngoài không thể hói lên được phẩm chất bên trong của một con người. Tôi tự nhủ với bản thấn mình rằng từ nay nên quan tâm, chia sẻ, tâm sự với Nga nhiều hơn để phần nào vơi đi được nỗi cô đơn, tủi thân của Nga. Tuy đó là một lần sai phạm nhưng cũng từ đó tôi mới rút ra được một bài học đáng quý, đáng nhớ cho bản thân mình: “Không nên xâm phạm đời tư cá nhân của người khác, ai cũng có những bí mật cần phải giấu kín, không thể chia sẻ với người khác”. (Bài làm của học sinh Điêu Thanh Phương Trúc, lớp 9B, Trường THCS Định Quán - Đồng Nai. Có bổ sung và sửa chữa). Bài 18: Hãy tưởng tượng mình gặp gỡ và trò chuyện với ngưòi lính lái xe trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Viết bài văn kể lại cuộc gặp gỡ và trò chuyện đó. GỢI Ý LÀM BÀI I. Yêu cầu - Thể loại: Tự sự + miêu tả nội tâm + nghị luận. - Nội dung: Cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa em và anh bộ đội lái xe Trường Sơn (Bài thơ về tiểu đội xe không kính). II. Lập dàn ý (đại cương hoặc chi tiết) 1. Mở bài * Giới thiệu tình huống gặp gỡ (thời gian - không gian — địa điểm - nhân vật). - Có thể là: nhân ngày 22 - 12, trường em tổ chức kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân (ngày Quốc phòngToàn dân) có mời đoàn cựu chiến binh đến thăm trường. Em được nghe người chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong đoàn đại biểu đó kể chuyện. - Đêm thơ Phạm Tiến Duật, được tổ chức tại nhà văn hóa của trường mà em đến tham gia, tình cờ em gặp một vị khách mời, người đó chính là anh lính lái xe Trường Sơn năm xưa trong Bài thơ về


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

tiểu đội xe không kính. 2. Thân bài * HS phải chỉ ra được những diễn biến của cuộc gặp gỡ. a. Khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe sau nhiều năm khi chiến tranh kết thúc - Giọng nói: Khỏe, vang. - Tiếng cười: Sảng khoái. - Khuôn mặt: Thể hiện vẻ già dặn - từng trải nhưng vẫn có nét hóm hỉnh, yêu đời. - Trang phục: Bộ quân phục mới, trang trọng, oai nghiêm, đĩnh đạc b. Cuộc trò chuyện với người chiến sĩ: - Người lính Trường Sơn kể lại cuộc sống chiến đấu những năm đánh Mĩ gian khổ, ác liệt... - Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mĩ đánh phá vô cùng khốc liệt, bom đạn của Mĩ tàn phá những cung đường, đốt cháy những cánh rừng... Vậy mà trên những tuyến đường ấy, các đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến (cùng sự giúp đỡ của các cô gái thanh niên xung phong). - Điều đáng nhớ là những chiếc xe ở Trường Sơn trong những năm tháng ấy rất đặc biệt vì bom đạn của Mĩ ném như mưa khiến kính xe đều vỡ hết, ngay cả đèn cũng vỡ hết, mui xe cái thì bị bẹp, méo, cái thì bung hẳn ra khỏi xe, thùng xé không cái nào không trầy xước. Có thể nói những phương tiện của chúng ta lúc đó rất thiếu thốn, thô sơ... Nhưng với lòng yêu nước, chúng ta vẫn chiến đấu hết mình với tinh thần nhiệt tình hăng hái. - Chú còn nhớ với những chiếc xe như thế, bọn chú lái cho xe chạy mà không có vật che chắn nào. Trời! Gió táp vào mặt vào mắt cay xè, bụi thì khỏi phải nói. Bụi Trường Sơn “phun tóc trắng như người già”, mặt lấm lem. Thế mà vẫn phì phèo hút thuốc không cần rửa, vẫn rất vui, nhìn nhau trông thật ngộ mỗi khi có dịp dừng chân, ai nấy đều cười. - Những ngày mưa thì khổ hơn nhiều, mưa xối xả ướt áo, những giọt mưa lớn rát mặt, có trải qua, chứng kiến chú mới hiểu được thế nào là: Trường Sơn, xẻ dọc, rọc ngang Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng Trường Sơn, vượt núi, băng sông Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa Trường Sơn, đông nắng, tây mưa Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình. (Nước non ngàn dặm - Tố Hữu) + Mưa thì mặc mưa, anh em lái xe vẫn tiếp tục cầm vô lăng lái hàng trăm cây số nữa, gió lùa quần áo lại khô. + Cứ như vậy mà vượt qua ngày tháng khó khăn. - Không có kính cũng thật là thú vị, bởi cả không gian rộng lớn như ùa vào buồng lái: nào cánh chim hiếm hoi ở Trường Sơn, sao trời và con đường xa dài thẳng tít tắp như chạy thẳng vào trái tim người chiến sĩ lái xe - tâm hồn người chiến sĩ lúc đó thật sự vui - một niềm vui phơi phới của người thanh niên đánh giặc: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai. + Bọn chú, những người chiến sĩ lái xe rất hiểu nhau mỗi khi gặp mặt là tay bắt mặt mừng – bắt tay qua những ô kính vỡ - tiếp cho nhau sức mạnh hơi ấm tình đồng đội - những chiếc xe không kính của người lính đã về đây tụ họp thành tiểu đội xe không kính. + Các chú nấu cơm bằng bếp Hoàng cầm dựng ở giữa trời. Dù chỉ có bữa cơm đạm bạc giữa rừng nhưng chứa đựng trong đó là tình cảm đồng chí, đồng đội keo sơn như tình cảm gia đình. - Hành trang nghỉ ngơi quý giá và dã chiến của người lính khi đó là chiếc võng dù mắc tạm bợ nghỉ ngơi qua loa rồi lại tiếp tục lên đường với những chiếc xe không kính. Tôi ngây thơ hỏi chú:


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Vậy thì làm sao ta có thể thắng Mĩ khi mà ta chi có những chiếc xe không kính còn chúng lại có vũ khí hiện đại, tối tân? - Cháu biết không bởi trên những chiếc xe đó có một trái tim: trái tim người chiến sĩ, một trái tim của tuổi trẻ yêu đời đầy sức trẻ, nhiệt tình, sôi nổi lạc quan, yêu nước tha thiết, căm thù giặc Mĩ. Đó còn là trái tim của chính nghĩa nên sức mạnh kì diệu tăng lên gấp bội. Cuối cùng ta đã “đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào”. - Kể đến đây tôi thấy ánh mắt của người lính sáng ngời. Khuôn mặt rạng rỡ, dường như đang sống lại những năm tháng ở chiến trường xưa... Tôi ao ước và khâm phục khi hình dung ra con đường mòn Hồ Chí Minh những năm đánh Mĩ bom rơi đạn nổ đầy gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mà những người lính lái xe vẫn coi thường hiểm nguy vẫn dốc lòng dốc sức vì miền Nam ruột thịt vì sự nghiệp cách mạng. - Những con người bình dị cống hiến cả tuổi xuân (tuổi trẻ) - xương máu cho cách mạng. Nhờ có những người chiến sĩ lái xe, có những thanh niên xung phong mà ta mới có cuộc sống ngày nay. - Từ đó bày tỏ nhũng suy nghĩ về chiến tranh (tàn phá cuộc sống, bất chấp quyền được sống hòa bình của con người...), về quá khứ hào hùng của cha anh là trang sử vàng chói lọi đã đi vào thơ ca: Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây. (Trường Sơn đông, Trường Sơn tây- Phạm Tiến Duật) - Trách nhiệm gìn giữ hòa bình. 3. Kết bài - Nêu suy nghĩ và cảm xúc của bản thân + Cuộc chia tay và ấn tượng trong lòng nhận vật tôi về người lính và ưởc mơ của nhân vật tôi. BÀI LÀM THAM KHẢO Hôm nay là một ngày đẹp trời và vô cùng thích hợp cho một buổi du xuân. Và hôm nay, tôi sẽ được cùng cha mẹ về thăm quê ngoại thân yêu. Bước xuống xe, tôi chợt bất ngờ bởi vẻ thanh bình chốn đồng quê. Bầu trời mùa xuân như trong trẻo hơn bao giờ hết. Nắng chan hoà trải dài trên những con đường, như bao trùm lên vạn vật một màu vàng tươi ấm áp. Mưa phùn giăng giăng và phảng phất trong không khí là cái se lạnh của mùa đông còn sót lại. Tôi bước theo chân cha mẹ vào ngôi nhà thân thuộc nơi giữa làng, đó là nhà của ông bà ngoại tôi. Thoáng thấy bóng người, ông bà ngoại tôi tươi cười chạy ra tận cửa đón. Tôi chạy lại ôm chầm lấy bà. Ông bà tôi với mái tóc đã bạc quá nửa đầu, trên da đã in hằn dấu vết của thời gian, vẫn nở nụ cười rạng rỡ mặc cho các nếp nhăn cứ xô lại với nhau. Rồi mẹ và bà tôi cùng vào bếp nấu ăn. Ông ngoại, tôi và bố vào nhà ngồi nói chuyện. Bố và ông nói chuyện rôm rả, chốc chốc hai bố con lại cười vang cả gian nhà. Ông tôi có một cánh tay bị khuyết. Dù rất tò mò nhưng tôi chưa bao giờ hỏi về cánh tay ấy của ông. Thấy tôi cứ tròn vo mắt nhìn, bố tôi cười và nói: - Con gái à, ông ngoại con ngày xưa là lính lái xe Trường Sơn đấy! - Thật không bố? - Tôi càng ngạc nhiên hơn. Ở lớp tôi vừa được học tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Còn giờ đây, trước mắt tôi là anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa. Tôi có đang nằm mơ không nhỉ? Những lời thơ đầy tinh thần lạc quan ấy lại âm vang trong tâm trí tôi, như thôi thúc trí tò mò của tôi. Tôi nhanh nhảu hỏi ông tôi: - Ông ơi có phải năm xưa ông là một trong những người lái chiếc xe không kính không ạ? - Đúng rồi đấy cháu ạ - ông tôi cười khà khà. - Ông ơi ông, ông kể cho cháu nghe chuyện thời chiến ngày xưa đi ông - Chuyện ngày xưa ấy hả cháu... - Ông tôi khẽ thở dài, đôi mắt nhìn xa xăm như đang chìm trong dòng hồi tưởng. Rồi ông bắt đầu kể say sưa. - Ngày xưa ấy cháu ạ, cái thời của vài chục năm về trước, ông và đám thanh niên con trai trong trường đã viết đơn xin nhập ngũ. Có những người, có những lá đơn không chỉ được viết bằng


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

giấy và bút, mà còn viết bằng máu và nước mắt. Năm đó ông quyết tâm rời xa giảng đường đại học, lên đường vào Trường Sơn chỉ mong sao cho nước nhà sớm giành được độc lập, mong sao chóng thoát khỏi cái nghèo cái khổ của kiếp nô lệ lầm than... - Ông ơi, có phải những chiếc xe ngày đó đều không có kính không ạ? - Tôi nhanh nhảu. - Đúng rồi đấy cháu - Ông tôi cười khà khà - Ngày đó, ông lái xe tải, cùng đồng đội chở lương thực, thuốc men... vào chiến trường Động Nam Bộ. Có những khi phải lái xe hàng tháng trời mới đến nơi. Mà Trường Sơn lại là tuyến đường trọng điểm nối liền Nam Bắc nên giặc bắn phá rất dữ dội. Ban đầu những chiếc xe được trang bị đầy đủ bộ phận và sạch sẽ như bao xe tải khác. Nhưng rồi, trải qua những lần bom giật, bom rung, kính vỡ đi hết. Xe không đèn, ông còn phải thay thế bằng cái đèn dầu treo trên nóc xe chứ toàn đi ban đêm để tránh giặc bắn phá, không có ánh sáng thì đi kiểu gì hở cháu? - ông lại khẽ thở dài - Rồi ông còn phải trang bị cho xe mấy mảnh vải rằn ri với lá cây, cành cây chằng chịt để giặc từ trên nhìn xuống khó phát hiện nữa cháu ạ. Tôi chống hai tay lên cằm, chăm chú nghe từng chi tiết ông kể. Chiến tranh ngày đó quả thực vô cùng khốc liệt. Nó đã biến những chiếc xe trở nên thật trần trụi. Thấy ông đăm chiêu, tôi hỏi tiếp: - Lái một chiếc xe trần trụi như vậy, nguy hiểm lắm phải không ông? - Phải, cháu ạ. Ngày ấy, khi lái những chiếc xe không kính như vậy, những người lính như ông gặp khó khăn gấp trăm lần. Cháu không biết chứ, đường Trường Sơn khấp khuỷu, ghập ghềnh, lại thêm bom đạn của giặc Mĩ, sống và chết cứ cận kề trong gang tấc. Xe không kính, mà đường mùa khô bụi cứ mù mịt. Bụi cuốn vào trong cabin, vào mặt, vào thân mình đỏ rực màu đất đỏ. Bụi và gió nhiều đến mức mắt cay xè, không mở nổi. Rồi mưa nữa. Mưa khi đó thất thường lắm! Có khi xe đang băng băng trên đường thì mưa đổ xuống, gió mưa xối như ngoài trời, cả người và xe đều ướt sũng. Lạnh, cháu ạ. Nhưng những người lính lái xe không bao giờ dừng lại. Gió mạnh, xe lại không có kính chắn gió nên bị vứt vào cabin đủ thứ, lá rừng, cành cây... Ông chỉ cho tôi xem cái sẹo dài trên vai ông. - Đây này, chính là bị cành cây cứa vào đấy cháu ạ. Bị thương mà nước mưa vào, đau rát lắm! Rồi đây... ông lại giơ cánh tay trái bị khuyết lên - Ông lần đấy suýt chết đấy, cuối cùng phải bỏ lại cánh tay này nơi chiến trường mới sống sót trở về nhà được, ông nói mà đôi mắt đã in hằn nhiều vết chân chim cứ nhìn đăm chiêu vào khoảng không trước mặt. Ông tôi - như chìm nghỉm trong biển kí ức. Rồi dường như, tôi còn thấy được cái gì đó long lanh nơi khoé mắt ông ngoại. - Cháu gái à, khi đó ông có một người đồng đội. Bọn ông đã cùng chiến đấu trong những ngày gian khổ ấy. Nhưng anh ấy đã hy sinh sau vô lăng khi chở xe lương thực gần đến nới... - Ông cố kìm nén - Thời ấy khổ thì khổ thật, cơ mà vui lắm cháu, à. Xe không kính ấy thế mà hay, khi bắt tay với bạn bè, đồng đội không cần mở cửa xe mà bắt tay nhau qua ô cửa kính vỡ. Tiện lợi mà vẫn thấm tình đồng đội. Lính lái xe như ông thì chỉ cần một cái bắt tay, được động viên như thế là vui rồi. Đến bữa ăn, dừng chân ở một bếp Hoàng cầm, chỉ cần thêm bát thêm đũa là đồng đội đã thân thiết như anh em trong nhà. Những ngày ấy, giờ phút giải lao luôn là những giờ phút hiếm hoi nhất. Võng mắc chông cha chông chênh trên những chặng đường rừng, để tranh thủ chợp mắt một chút. Rồi sau đó, lính lái xe lại tạm biệt nhau lên đường, mà có biết bao giờ lại được gặp lại nhau! - Chiến tranh qua lâu thế rồi mà ông vẫn không quên ạ? - Quên làm sao được hở cháu? - ông tôi cười, nụ cười hiền hậu mà tôi luôn yêu mến. - Ngày ấy lính lái xe có khẩu hiệu: “Yêu xe như con, quý xăng như máu”. Quả thực ông đã coi chiếc xe của mình như máu mủ, làm sao mà quên dễ thế được... Đúng lúc đó, mẹ tôi từ trong bếp gọi vọng ra. Chắc bà và mẹ đã nấu thật nhiều món ăn ngón đây! ông mỉm cười, xoa đầu tôi: - Thôi, ta đi ăn cơm thôi cháu. Tôi ngước lên nhìn ông, bỗng thấy ông tôi thật vĩ đại, to lớn. Trong lòng tôi bỗng trào dâng cảm giác kì lạ. Câu chuyện ông kể đã kết thúc nhưng còn mãi trong tôi cái dư vị ngọt ngào


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

ấy. Chiến tranh đi qua, hoà bình được lập lại nhưng tôi tin lòng yêu nước sẽ sống mãi. Và thế hệ trẻ như tội, thế hệ được sinh ra và lớn lên trong thời bình sẽ mãi nhớ ơn những chiến công hào hùng của một thế hệ “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” năm xưa. Cảm ơn ông, cảm ơn câu chuyện ông kể, đã giúp tôi trưởng thành hơn và nhận ra nhiều điều. Tôi thấy biết ơn ông ngoại, và cả những người lính Trường Sơn năm ấy. Tôi tự nhủ với lòng mình, sẽ trân trọng cuộc sống hoà bình, cố gắng trau dồi, góp phần xây dựng nước nhà trong thời đại mới. Bài 19: Nhân ngày 20 - 11, em hãy kể lại cho các bạn nghe về một kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy cô giáo cũ. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Không khí tưng bừng đón chào ngày 20 - 11 ở trong trường lớp, ngoài xã hội. - Bản thân mình: nghĩ về thầy (cô) giáo và bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm vui buồn cùng thầy cô, trong đó cỏ một kỉ niệm không thể nào quên. 2. Thân bài - Giới thiệu về kỉ niệm (câu chuyện): + Đó là kỉ niệm gì, buồn hay vui, xảy ra trong hoàn cảnh nào, thời gian nào?... - Kể lại hoàn cảnh, tình huống diễn ra câu chuyện (kết hợp nghị luận và miêu tả nội tâm): + Kỉ niệm đó liên quan đến thầy (cô) giáo nào? + Đó là người thầy (cô) như thế nào? + Diện mạo, tính tình, công việc hằng ngày của thầy (cô). + Tình cảm, thái độ của học sinh đối với thầy (cô). - Diễn biến của câu chuyện. + Câu chuyện khởi đầu rồi diễn biến như thế nào? Đâu là đỉnh điểm của câu chuyện?... + Tình cảm, thái độ, cách ứng xử của thầy (cô) giáo và những người trong cuộc, người chứng kiến sự việc. - Câu chuyện kết thúc như thế nào? Suy nghĩ sau câu chuyện: Câu chuyện đã để lại cho em những nhận thức sâu sắc trong tình cảm, tâm hồn, trong suy nghĩ: tấm lòng, vai trò to lớn của thầy (cô), lòng biết ơn, kính trọng, yêu mến của bản thân đối với thầy (cô). 3. Kết bài Câu chuyện là kỉ niệm, là bài học đẹp và đáng nhớ trong hành trang vào đời của tuổi học trò. BÀI LÀM THAM KHẢO 1 Trong cuộc đời mỗi con người ai cũng có những kỉ niệm đáng nhớ không thể nào quên. Quãng đời học sinh của bạn và tôi cũng vậy, một khi đã trải qua thì không khỏi ghi lại trong lòng những dấu ấn sâu sắc. Nhưng đấy không nhất thiết phải là kỉ niệm ngập tràn niềm vui và tiếng cười. Đôi khi đó lại là một câu chuyện buồn cứ khiến lòng ta phải day dứt mãi như câu chuyện tôi sắp kể cho các bạn sau đây. Giờ ra chơi hôm ấy, tôi được phân công trực nhật cùng Liên. Tôi bảo Liên cứ xuống căng tin ăn sáng, để một mình tôi trực được rồi. Hình như Liên chỉ chờ có thế, cô bạn gật đầu rối rít rồi phóng như bay xuống sân. Trong lớp giờ chỉ còn lại mình tôi. Tôi cầm giẻ định lau bảng nhưng tâm trạng lo âu, thấp thỏm đã kéo tôi ngồi xuống ghế giáo viên. Chuyện là tiết đầu tiên hôm nay tôi đã nghịch ngợm trong lớp, không chịu nghe cô Toán giảng bài. Điều đó khiến cô Toán khó chịu lắm, bèn phạt tôi đứng suốt cả hai tiết và ghi hẳn tên tôi vào sổ đầu bài, đề nghị mời phụ huynh. Tôi run run giở cuốn sổ đầu bài đặt ngay trên bàn giáo viên. Đây, giấy trắng mực đen đây, bằng chứng tội lỗi của tôi đây! Thế nào cô chủ nhiệm cũng mời gặp mẹ tôi cho xem. Có lần đạt điểm kém, tôi phải đối diện với khuôn mặt buồn rười rượi của mẹ. Mẹ tôi luôn phải làm việc vất vả để kiếm từng đồng lương ít ỏi nuôi tôi ăn học. Nếu mẹ biết tin này sẽ thất vọng về tôi biết nhường nào. Ôi, tôi thật là một đứa con bất hiếu. Chợt, trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ. Tôi đã tìm ra cách giải quyết vấn đề rồi. Chỉ cần cô chủ nhiệm không đọc được lời phê này thì sẽ không có chuyện gì xảy ra nữa. Nghĩ được là làm


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

ngay, tôi liền dùng bút xóa xóa đi dòng chữ của cô Toán trong sổ đầu bài. Thận trọng, tôi đặt sổ đầu bài vào vị trí cũ rồi thở phào nhẹ nhõm vì đã trút được nỗi muộn phiền trong lòng. Reeng... reeng... reeng... Tiếng chuông báo hiệu hết giờ ra chơi. Tôi xóa vội bảng, quơ vài phát chổi rồi vào học rihư bình thường. Mọi việc vẫn diễn ra bình thường cho đến cuối tuần ấy. Giờ sinh hoạt, cô chủ nhiệm xem xét sổ đầu bài. Cô đưa mắt nhìn thật kỹ vào trang giấy, đôi mày cô nhíu lại, rồi bất chợt cô ngước lên, nhìn quanh lớp. Tôi hoảng hốt, bối rối, không dám đối diện với ánh mắt của cô. Hai bàn tay tôi xiết chặt vào nhau, tim tôi đập thình thịch. Hình như cô đã quan sát được thái độ của tôi. Thôi rồi, tôi biết mình sắp bị cô mắng vì tội tày đình này. Thật xấu hổ quá! Trong đầu tôi lục ấy có biết bao nhiêu nỗi lo sợ, sợ bị hạ hạnh kiểm, sợ mẹ buồn, sợ bạn bè chê cười... Nhưng sao đến cuối giờ cô chẳng hề đả động gì đến chuyện sổ đầu bài. Lạ thật! Trong tôi đặt ra hàng trăm câu hỏi tại sao và tại sao. Dù vẫn cảm thấy bất an nhưng lòng tôi đã nhẹ nhõm hơn. Và tôi mong rằng sai lầm ấy của mình sẽ được chôn giấu mãi mãi dưới lớp bụi thời gian. Khoảng hai tuần sau đó, vào ngày Giáng sinh, chẳng hiểu vì sao cô chủ nhiệm dành tặng riêng tôi một tấm thiệp vào cuối giờ. Tôi cảm ơn cô rồi vội chạy về nhà, vui mừng mở tấm thiệp ra đọc. Những dòng chữ tròn trịa của cô khiến tôi ngỡ ngàng, sững sờ. “Giáng sinh năm nay, cô chúc em ngày càng học giỏi và ngoan ngoãn. Cô mong em sẽ là một cô bé can đảm hơn để đối mặt với hiện thực, để tìm được cách giải quyết đúng đắn nhất cho mọi khó khăn trong cuộc sống. Trong đời người ai cũng phạm sai lầm. Nhưng điều quan trọng là ta rút ra được kinh nghiệm để sống tốt hơn, chứ không phải là che giấu sai lầm đó đến suốt đời. Hãy dũng cảm lên, em nhé!”. Tôi sững người, chẳng nói được nên lời. Vậy là cô đã biết hết mọi chuyện rồi ư. Da mặt tôi tê rân rân và nóng dần lên vì xấu hổ với cô và với chính bản thân mình. Cảm ơn cô vì đã bao dung, cảm ơn cô vì đã cho tôi những lời khuyên đầy ý nghĩa ấy. (Bài làm của học sinh Đỗ Thanh Hoa, Trường THCS Hùng Tiến - Kim Sơn - Ninh Bĩnh. Có sửa chữa và bổ sung) BÀI LÀM THAM KHẢO 2 Cứ đến ngày này, ngày Nhà giầo Việt Nam thiêng liêng 20 - 11, lòng tôi lại đau đớn nhớ đến cái ngày đó... cũng là ngày Nhà giáo Việt Nam nhưng là ngày tối nhận được tin cô giáo chủ nhiệm kính yêu của tôi, người cô mà tôi chưa kịp xin lỗi, đã ra đi mãi mãi. Năm tôi học lớp 7, cô giáo chủ nhiệm của tôi, người cô mà tôi hằng kính trọng bằng cả trái tim, về cõi vĩnh hằng khi cô mới chỉ có bốn mươi mấy tuổi. Bốn mươi mấy ấy nhỉ? Tôi cũng không nhớ nữa, chỉ nhớ cô có khuồn mặt hiền hậu, tính tình dịu dàng và tấm lòng bao dung rộng lớn. Cô luôn luôn truyền cho chúng tôi những tình cảm tốt đẹp nhất, khai sáng tâm hồn chúng tôi cô còn rất tận tình giúp đỡ những bạn học kém và luôn động viên tất cả học sinh phải nỗ lực hơn nữa. Có lẽ vì vậy mà trong cả học kì một, tôi luôn là một học sinh xuất sắc của lớp. Như bao bạn học sinh khác, tôi luôn có cô ở bên, cô giáo Hoài Thương của chúng tôi. Nhưng mọi chuyện đều có thể xảy ra. Bước qua học kì hai, cô thường xuyên nghỉ dạy vì bệnh tim. Tôi không còn được nhận những sự chỉ dạy của cô nên càng ngày tôi càng sút kém trong học tập. Cứ từ từ, từ từ, tôi mất dần đi những kiến thức căn bản nhất. Tôi cảm thấy chán nản, không còn coi trọng việc học nữa. Và rồi, cái ngày ấy đã đến, cái ngày tôi rơi vào lỗi lầm không thể quên. Hôm ấy, tôi bình thản bước vào trường thi gặp mấy cậu bạn học cũ. (Chúng tôi cùng học tiểu học vởi nhau, giờ cùng học một trường cấp hai, nhưng chúng học khác lớp tôi). Vừa thấy tôi, chúng liền hỏi: - Minh, đi chơi không? Tụi này bao! Tôi ngỡ ngàng: - Đi chơi ở đâu? Thôi, đi thì phải nghỉ học. Nghỉ học, tớ sợ lắm! - Chơi điện tử chứ đâu! Lâu lâu nghỉ học một buổi có sao đâu nào! Mấy đứa bạn xúm vào thuyết phục. Lúc này trong đầu tôi bao nhiêu suy nghĩ đối chọi nhau: “Lâu lâu đi có sao đâu!”, “Đi mà bố biết thế nào cũng no đòn cho xem!” Hai ý nghĩ ấy cứ cấu xé nhau làm đầu tôi như muốn vỡ tung ra. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng nghe theo lời thuyết


N

O

FF

IC IA L

phục hấp dẫn của mấy đứa bạn. Cả ngày hôm đó, tôi đi chơi rất vui vẻ. Hình ảnh của cô, của bố, của lớp học... tất cả đều tan biến hết. Tôi không còn thời gian để nghĩ đến hậu quả của sự việc. Nhưng niềm vui không kéo dài được bao lâu. Ngày hôm sau, vừa vào lớp, cô đã gọi tôi lên để hỏi tại sao nghỉ học ngày hôm qụa. Lúc đó tôi rất sợ hãi, tim đập thình thịch, tưởng chừng như muốn vỡ tung trong lồng ngực. Dù rất sợ, tôi vẫn cố bình thản trả lời cô là nhà có việc bận nên nghỉ. Lúc đó, đôi mắt nhỏ bé của tôi nhìn vào mắt cô, tôi có thể cảm nhận được điều gì đó rất lạ trong mắt cô. Linh cảm cho tôi biết là cô đã biết rằng tôi nói dối. Cả ngày hôm đó, tôi cứ bị ám ảnh mãi về những điều cô nói. Tôi tự hỏi mình trả lời cô thế có đúng không và có ổn không. Nhưng rồi tôi tặc lưỡi: “Mọi việc đã qua rồi, hãy cứ để nó qua đi, đằng nào cô cũng đâu có truy cứu”. Những ý nghĩ ẩy đã giúp tôi cảm thấy bình an hơn. Rồi chuyện gì đến cũng phải đến. Cuối giờ, cô yêu cầu tôi viết một bản tường trình về việc nghỉ học của mình và đưa cho phụ huynh kí. Tôi lạnh hết cả xương sống khi nghĩ đến trận đòn nhừ tử của bố mẹ nếu biết mình trốn học. Biết làm sao bây giờ? Một ý nghĩ đen tối và liều lĩnh lóe lên trong đầu tôi: “Phải giả chữ kí thôi, chỉ có giả chữ kí mới may ra thoát được nạn này”. Đâm lao thì phải theo lao! Nghĩ sao làm vậy, tối hôm đó, tôi chẳng còn tâm trí đâu mà học. Gài thật chặt cửa phòng, tôi loay hoay ngồi tập chữ kí của bố. Cuối cùng thì tôi cũng thành công, nói đúng hơn là chỉ thành công dưới con mắt của tôi. Điều đó được chứng minh khi tôi đưa bản tường trình cho cô. Lúc nhìn thấy bản tưởng trình, đôi mày cô chau lại, những vết hằn trên trán cũng sâu hơn. Cô từ từ đặt bản tường trình xuống và nhìn tôi: - Minh, đây có phải là chữ kí của bố em không?

N

H

Ơ

Câu hỏi của cô khiến hơi thở của tôi nóng lên, sống mũi của tôi cay cay, nước mắt tội chỉ chực ùa ra. Tôi chỉ muốn nói thật to với cô rằng: “Cô ơi, em biết lỗi của em rồi!”. Nhưng tôi đã kịp nén lại. Nếu tôi khóc tức là tôi đã nhận mình có lỗi. Tôi mà nhận lỗi với cô thì sau đó chắc chắn sẽ là một trận đòn của bố. Lấy hết can đảm, tôi từ từ ngước nhìn cô. Khuôn mặt của cô khi ấy ánh lên một niềm hi vọng nào đó, chắc là cô đang rất hi vọng tôi sẽ trả lời thành thật.

Y

- Thưa cô, đây... đây chính là chữ kí của bố em!

Q

U

Khuôn mặt đầy hi vọng, chờ đợi cùa cô như tan biến, nhường chỗ cho sự thất vọng đang lộ rõ trong đôi mắt cô. Càng nhìn đôi mắt ấy, tôi lại càng đau đớn, nhưng tôi vẫn không đủ can đảm để nói ra sự thật. Cô nhẹ nhàng:

M

- Thôi được rồi, em về chỗ đi!

D

ẠY

Vừa nghe câu đó, tôi cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều. Nhưng sự yên tâm đó chẳng kéo dài được lâu. Cuối buổi học cô nói với tôi buổi chiều mời phụ huynh đến cho cô gặp. Bấy giờ, tôi “hồn bay phách lạc. Nhưng tôi thật sự không còn lựa chọn nào khác. Buổi chiều bố tôi đến. Bố và cô đã nói chuyện gần mười lăm phút. Chỉ có gần mười lăm phút nhưng tôi cảm tưởng như đã vài tiếng trôi qua vậy. Tôi đứng ngồi không yên, thấp thỏm, sợ hãi đến khôn cùng. Khi tôi đi học về bố không nói gì cả, không la cũng chẳng mắng. Khuôn mặt bố trông rất buồn. Bố lặng đi, nhìn tôi một lát rồi nói: - Con hãy suy nghĩ về những việc làm của mình đi. Bố bất ngờ và buồn về con quá!

Suốt đêm hôm ấy, tôi không tài nào chợp mắt được. Việc tôi gây ra làm không khí cả nhà buồn bã, trầm lặng hẳn. Tôi cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Càng nghĩ tôi càng thấy ăn năn, hối hận. Bố ơi, giá mà bố đánh con thật đau! Cô ơi, giá mà cô mắng con thật nhiều! Nếu được như thế thì con không phải day dứt, ân hận thế này. Bố mẹ và cô đã tin con nhiều đến thế, vậy mà con lại... Ngày mai, ngày 20 - 11, tôi sẽ nói với cô rằng: “Cô ơi, em xin lỗi cô nhiều lắm!”.


Rồi một đêm dài đầy mệt mỏi và dằn vặt cũng qua đi. Ánh bình minh đã ló rạng, tôi bước vào trường với tâm trạng nặng trĩu. Thế rồi, tôi đâu có ngờ chính sáng hôm ấy, buổi sáng mà người học trò đầy mặc cảm tội lỗi như tôi mong chờ được gặp cô để nói lời xin lỗi bằng cả tấm lòng, thì một tin sét đánh đã xé nát lòng tôi. Đêm hôm qua, cô tôi đã ra đi. Một cơn dau tim đột ngột đã cướp đi mạng sống của cô tôi, khiến cô vĩnh viễn không bao giờ có thể nghe tôi nói lời xin lỗi được nữa. (Bài làm của học sinh Đào Thị Thanh Thào, Trường THCS Nguyễn Thái Bình - TP. Vũng Tàu.

IC IA L

Có sửa chữa và bổ sung) BÀI LÀM THAM KHẢO 3

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Buổi lễ kỉ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam kết thúc trong niềm hân hoan. Không khí sôi động của buổi lễ kỉ niệm trọng đại này dần nhường lại cho không gian yên ắng đến lạ kì. Lúc này, sân trường chỉ còn lác đảc một vài học sinh ngồi đó để chờ ba mẹ đến đón. Tôi lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít cả một khoảnh sân. Một mình bên chiếc ghế đá, tôi bỗng nhớ lại một kì niệm xưa, thời mà tôi còn là cậu học sinh lớp năm trường Kim Sơn A, kỉ niệm về cô giáo của tôi ngày đó. Tôi vẫn nhớ, khi còn học tiểu học, môn Toán của tôi rất khá. Điểm số của tôi luôn rực rỡ những con chín, mười tuyệt đẹp. Tôi luôn dẫn đầu lớp về điểm số. Tôi tự hào và hãnh diện về mình lắm. Trong tâm trí của cô chủ nhiệm đáng kính, của cha mẹ tôi, tôi hiện lên trong hình ảnh một học sinh giỏi, một đứa con ngoan. Chính vì những nhận thức, đánh giá bản thân quá mức đó, tôi đâm ra chủ quan và xem thường mọi thứ. Không biết từ bao giờ, tôi không chăm chỉ làm bài tập Toán cô cho nữa. Tôi ham mê đọc truyện tranh và thình thoảng chỉ làm một số bài toán khó. Ở trên lớp, tôi chẳng còn chăm chú nghe giảng hay tập trung làm bài. Tôi ngập trong sự chủ quan, kiêu hãnh và bê trễ cho đến một ngày kia... Kì kiểm tra học kì một đã đến, tôi bước vào phòng thi với bao niềm phấn khích và tràn đầy tự tin. “Thế nào mình cũng đạt điểm mười lần này thôi, như bao lần khác ấy mà.” Nhưng mọi chụyện lại không như tôi muốn. Tôi bị sụp ngã ngay từ những câu đầu. Đó là những câu hỏi lí thuyết và bài tập rất căn bản, nhưng do không học bài nên tối không biết cách làm. Mặt tôi lấm tấm mồ hôi, tim tôi đập thình thịch, đầu óc tôi rối bời, chẳng còn có thể tập trung tính toán nữa. Tôi tự hỏi mình phải xoay xở thế nào đây. Bước ra khỏi phòng thi, tôi như người mất hồn. Những ngày sau đó, tôi vẫn không sao quên được nỗi lo sợ ám ảnh trong phòng thi hôm ấy, Và điều gì đến rồi cũng đến... Hôm phát bài thi môn Toán, khuôn mặt cô tôi có vẻ đượm buồn. Tôi lặng người với ý nghĩ rằng cô buồn vì kết quả bài thi của tôi. Quả không sai, khi bài thi môn Toán được đưa đến tay tôi, tôi không thể bình tĩnh được nữa. Trời ơi! Con “năm” to đùng cùng những vệt đỏ đầy kín cả bài thi. Đây có phải là sự thật không vậy? Tôi đã bị điểm kém môn Toán, môn học sở trường của tôi. Tôi thấy bế tắc vô cúng. Kết quả này rồi sẽ được đưa đến tay cha mẹ, cha mẹ sẽ nghĩ sao đây: thất vọng và mất hết hi vọng về tôi, đứa con trai duy nhất của cả gia đình. Cha mẹ luôn đặt niềm tin vào tôi, luôn tự hào mỗi khi nhắc đến tôi. Cha mẹ ơi, con có lỗi với cha mẹ nhiều lắm! Chưa hết, bạn bè sẽ nghĩ sao về tôi đây? Chúng bạn sẽ mỉa mai, chế giễu tôi suốt ngày. Trong phút chốc, tôi bỗng đánh mất mình. Một ý nghĩ dại khờ chợt lóe lên trong tôi vào giờ tan học hôm ấy. Cô đã để quên phiếu điểm trên bàn. Khi ấy, cả lớp về hết, chỉ còn Nam và tôi ở lại. Nam là một học sinh yếu của lớp về môn Toán. Tôi liền bàn bạc với Nam và dụ nó lên trên bàn giáo viên sửa điểm cho hai đứa. Chuyện này sẽ được giữ bí mật chỉ hai đứa biết mà thôi. Sau ngày hôm đó, vào thứ hai đầu tuần, cô đã phát hiện ra chuyện đó. Trịnh trọng và nghiêm khắc, cô hỏi cả lớp rằng ai đã sửa điểm cho tôi và Nam. Do lúng túng và sợ hãi, Nam đứng lên nhận lỗi và cúi mặt xuống. Giọng cô buồn bã hỏi Nam: - Tại sao em sửa điểm giúp bạn? Nam không trả lời mà chỉ cúi xuống, thỉnh thoảng liếc sang nhìn tôi. Tôi bối rối và hoang mang vô cùng. Tôi phải làm sao đây? Tại sao tôi lại hành động như thế, một hành động thật xấu


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

xa và hèn nhát? Tại sao tôi không nghĩ đến hậu quả sau này mà chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt? Cha mẹ, thầy cô, bạn bè sẽ nghĩ sao về tôi đây: một học sinh cá biệt, luôn toan tính những điều xấu xa cốt để đạt được điểm cao ư? Một đứa trẻ khi phạm sai lầm sẽ làm người ta có thành kiến mãi. Thế thì còn gì là lòng tự trọng và niềm kiêu hãnh của tôi nữa. Tôi hối hận và xấu hổ vô cùng. Bằng tất cả lòng can đảm, tôi đứng dậy và nhận lỗi với cô mà nước mắt rơm rớm. Mặt tôi xanh xao, môi run bần bật, tay chân không thể cử động được. Bằng tất cả lòng khoan dung, độ lượng, cô đã cân nhắc rất nhiều và chấp nhận tha thứ cho tôi. Tuy nhiên, cô đã cảnh cáo tôi trước lớp. Cuối buổi học hôm ấy, cô đã gọi tôi lại và nói: - Em đã chứng tỏ được sự ăn năn của mình bằng cách nhận lỗi. Em đã cho cô thấy rằng em là người luôn muốn vươn lên, luôn muốn phục hồi danh dự cho mình. Em phải luôn cố gắng học và hãy nhớ rằng: “Trên con đường thành công không cỏ dấu chân của kẻ lười biếng”. Khi về nhà, tôi đã thú thật với bố mẹ những chuyện đã xảy ra và cầu mong được tha thứ. Bố tôi chẳng nói gì cả, chỉ thỉnh thoảng lại thở dài. Tôi thoáng thấy ánh mắt đượm buồn của mẹ. Mẹ ân cần dạy tôi : - Con ơi, con người ai cũng ít nhất một lần phạm lỗi trong đời. Con biết lỗi và tự nhận lỗi là một điều tốt lần này bố mẹ tha thứ cho con. Nhưng con phải chăm chỉ học tập và không được làm như thế nữa. Tôi gật đầu, khuôn mặt tỏ ra sung sướng đến không nói nên lời. Kể từ hôm đó, tôi phấn đấu hết mình trong học tập, vào lớp thì chăm chú nghe cô giảng bài, về nhà thì hoàn thành đầy đủ bài tập cô cho và còn dành thời gian tìm thêm những bài tập khó để giải nữa. Trải qua sự việc ấy, đến bây giờ, nó vẫn còn là bài học đáng nhớ và kỉ niệm khó phai trong cuộc đời tôi. Giờ đây, tôi đã là một học sinh lớp chín. Bốn năm đã trôi qua rồi, cô giáo chủ nhiệm lớp năm kính yêu của tôi giờ này có còn dạy ở ngôi trường cũ không? Gửi gió, gửi mây, hãy mang giúp tôi những lời ăn năn chân thành nhất đến cô. Cô ợơi, kỉ niệm sẽ mãi in sâu trong em, luôn bên cạnh nhắc nhở em không được phạm sai lầm đó thêm một lần nào nữa. Khi đó, cô có thật sự tha thứ cho em không? Tiếng bước chân người và những lời chuyện trò chợt cắt ngang dòng suy nghĩ cùa tôi. Tôi lặng thầm trong phút chốc và cất bước ra về, trong lòng vẫn lâng lâng kỉ niệm đã qua. Chính nhờ nó, tôi đã hiểu được lòng trung thực của một con người quý giá đến nhường nào. Trong tôi bỗng có một mong muốn tha thiết: ngày hôm nay, 20 - 11, tôi sẽ cùng những đứa bạn thân hồi tiểu học trở về trường xưa thăm cô. Tôi tin rằng bố tôi sẽ ủng hộ ý định này của tôi. Trong phút chốc, tôi thấy mình như đang đứng giữa sân trường tiểu học năm xưa, xung quanh vẫn là cô và bạn bè ngày xưa ấy. Chúng tôi nói cười rôm rả với nhau. Tôi thấy ấm lòng lạ khi nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên gương mặt nhân hậu dịu dàng của cô tôi. Ôi, yêu sao những kỉ niệm dấu yêu một thời! (Dẫn theo bại viết của học sinh Trần Minh Uyên, Trường THCS Thắng Nhất- TP. Vũng Tàu. Có bổ sung và sửa chữa) BÀI LÀM THAM KHẢO 4 Đại dương lớn bởi dung nạp trăm sông, con người lớn bởi rộng lòng bao dung cả những điều lầm lỗi. Đó là bài học đầu tiên tôi học được từ cô giáo của mình và cho đến tận bây giờ, những kỉ niệm yêu thương về cô giáo đầu tiên vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi! Ngày ấy tôi mới vào học lớp 1. Cô giáo của tôi cao, gầy, mái tóc không mướt xanh mà lốm đốm nhiều sợi bạc, cô ăn mặc giản dị nhưng lịch thiệp. Ấn tượng nhất ở cô là đôi mắt sáng, nghiêm nghị mà dịu dàng. Cái nhìn vừa yêu thương vừa như dò hỏi của cô cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng thể nào quên... Hôm ấy là ngày thứ 7. Mai có một chiếc bút máy mới màu trắng sọc vàng với hàng chữ “My pen” lấp lánh và những bông hoa nhỏ xíu tinh xảo ẩn nấp kín đáo mà duyên dáng ở cổ bút. Tôi nhìn chiếc bút một cách thèm thuồng, thầm ao ước được cầm nó trong tay... Đến giờ ra chơi, tôi một mình trông lớp, không thể cưỡng lại ý thích của mình, tôi mở cặp của Mai, ngắm nghía chiếc bút, đặt vào chỗ cũ rồi chẳng hiểu vì sao tôi bỗng không muốn trả lại nữa. Tôi muốn được


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

nhìn thấy nó hàng ngày, được sở hữu nó, được thấy nó trong cặp của chính mình... Hết giờ ra chơi, các bạn chạy vào lớp, Mai lập tức mở cặp và khóc oà lên khi thấy chiếc bút đã không cánh mà bay! Cả lớp xôn xao, bạn thì lục tung sách vở, bạn lục ngăn bàn, có bạn bò cả xuống gầm bàn ngó nghiêng xem chiếc bút có bị rơi xuống đất không... Đúng lúc đó, cô giáo của chúng tôi vào lớp! Sau khi nghe bạn lớp trưởng báo cáo và nghe Mai kể chi tiết về chiếc bút: nào là nó màu gì, có chữ gì, có điểm gì đặc biệt, ai cho, để ở đâu, mất vào lúc nào... cô yên lặng ngồi xuống ghế. Lớp trưởng nhanh nhảu đề nghị: - Cô cho xét cặp lớp mình đi cô ạ! Cô hình như không nghe thấy lời bạn nói, chỉ chậm rãi hỏi: - Ra chơi hôm nay ai ở lại trông lớp? Cả lớp nhìn tôi, vài giọng nói đề nghị xét cặp của tôi, những cái nhìn dò hỏi, nghi ngờ, tôi thấy tay mình run bắn, mặt nóng ran như có trăm ngàn con kiến đang bò trên má. Cô giáo tôi nổi tiếng là nghiêm khắc nhất trường, chỉ một cái gật đầu của cô lúc này, cái cặp bé nhỏ của tôi sẽ được mở tung ra... Bạn bè sẽ thấy hết, sẽ chê cười, sẽ chẳng còn ai chơi cùng tôi nữa... Tôi sợ hãi, ân hận, xấu hổ, bẽ bàng... Tôi oà khóc, tôi muốn được xin lỗi cô và các bạn... Bỗng cô giáo của tôi yêu cầu cả lớp im lặng, cô hứa thứ hai sẽ giải quyết tiếp, giờ học lặng lẽ trôi qua... Sáng thứ hai, sau giờ chào cờ, cô bước vào lớp, gật đầu ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống. Cô nhẹ nhàng đến bên Mai và bảo: - Hôm thứ bảy bác bảo vệ có đưa cho cô cây bút và nói rằng bác nhặt được khi đi khoá cửa lớp mình, có phải là cây bút của em không? Mai cầm cây bút, nó sung sướng nhận là của mình, cô dặn dò cả lớp phải giữ gìn dụng cụ học tập cẩn thận, giờ học trôi qua êm ả, nhẹ nhàng... Ra chơi hôm ấy, các bạn lại ríu rít bên tôi như muốn bù lại sự lạnh nhạt hôm trước. Chỉ riêng tôi là biết rõ cây bút thật của Mai hiện ở nơi đâu... Sau đó vài ngày cô có gặp riêng tôi, cô không trách móc cũng không giảng giải gì nhiều. Cô nhìn tôi bằng cái nhìn bao dung và thông cảm, cô biết lỗi lầm của tôi chỉ là sự dại dột nhất thời nên đã có cách ứng xử riêng để giúp tôi không bị bạn bè khinh thường, coi rẻ... Năm tháng qua đi, bí mật về cây bút vẫn chỉ có mình tôi và cô biết. Nhưng hôm nay, nhân ngày 20 - 11, tôi tự thấy mình đã đủ can đảm kể lại câu chuyện của chính mình như là một cách thể hiện lòng biết ơn và kính trọng đối với người đã dạy tôi bài học về sự bao dung và cách ứng xử tế nhị trong cuộc sống. Giờ đây tôi đã lớn, đã biết cân nhắc đúng sai trước mỗi việc mình làm, tôi vẫn nhớ về bài học thuở thiếu thời mà cô đã dạy: Bài học về lỗi lầm và sự bao dung! Và có lẽ trong suốt cả cuộc đời mình, tôi sẽ chẳng lúc nào nguôi nỗi nhớ về cô như nhớ về một con người có tấm lòng cao cả! “Lời cô làn gió mát mang ước mơ bay xa. Lời cô là cơn gió cho cuộc đời nở hoa...”. (Dẫn theo bài viết của học sinh Trần Minh Hiếu, Trường THCS Nguyễn An Ninh - TP. Vũng Tàu. Có sửa chữa và bổ sung) Bài 20: Kể về cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân ngày 22 - 12. Trong buổi gặp đó em thay mặt các bạn phát biểu nhũng suy nghĩ, tình cảm của thế hệ sau đối với thế hệ cha anh đi trước. BÀI LÀM THAM KHẢO Nhân kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam, trường em tổ chức cho học sinh đi thăm một đơn vị bộ đội. Trong buổi gặp gỡ đó, em được thay mặt các bạn trong lớp phát biểu những suy nghĩ tình cảm của mình. Xe dừng bánh, cả doanh trại bộ đội rộng lớn, sạch sẽ, ngăn nắp hiện ra trước mắt. Hội trường trang hoàng lộng lẫy, các bác các chú quân phục chỉnh tề, gương mặt rạng rỡ, tự hào. Chúng em quây quanh các chiến sĩ áo xanh, mặt các bạn hớn hở, hãnh diện lạ thường! Chúng em hội các chú nhiều chuyện lắm, cả về lịch sử ra đời ngày 22—12 nữa. Giờ thì chúng em đã biết: Bác Hồ chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22 - 12 - 1944.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Ngay sau đó đội đánh thắng hai trận liên tiếp tại Phay Khắt, Nà Ngần... Đội ngày càng lớn mạnh và được đổi tên thành quân đội nhân dân Việt Nam. Và từ đó lấy ngày 22-12 làm ngày truyền thống. Bây giờ thì em đã hiểu lịch sử ra đời của ngày 22 - 12, hiểu về truyền thống yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Càng hiểu em càng thấy trân trọng và muốn khắc ghi vào tiềm thức để nhớ về một thời kì hào hùng với những con người quả cảm của một đất nước bé nhỏ mà kiên cường... Chúng em còn được nghe kể nhiều về những chiến công anh dũng, hào hùng của những người lính Cụ Hồ, về những tháng năm bôn ba chinh chiến chống kẻ thù xâm lược, những gian khổ hi sinh không thể diễn tả bằng lời. Đến thời bình, bộ đội đâu đã hết nguy nan: những đêm tuần tra lạnh run người, những khi truy bắt tội phạm, những lúc giúp dân chống thiên tai, lụt lội... Nhìn gương mặt rắn rỏi, sạm đen vì nắng gió, nghe những câu chuyện kể và chứng kiến vẻ bình thản của những chiến binh, em thật sự thấy rất cảm động xen lẫn cả niềm tự hào, biết ơn sâu sắc... Trong dòng cảm xúc khó tả ấy, em lại được vinh dự thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ tình cảm của mình: “Kính thưa các bác, các chú, chúng cháu may mắn được sinh ra và lớn lên trong một dân tộc anh hùng. Chúng cháu biết để có được cuộc sống hòa bình hôm nay, dân tộc Việt Nam đã phải đánh đổi rất nhiều, bằng cả nước mắt và máu xương của bao người đã hi sinh cho Tổ quốc. Để thể hiện lòng biết ơn của thế hệ mình đổi với cha anh, chúng cháu hứa sẽ nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng để trở thành những công dân có ích, góp phần, nhỏ bé của mình xây dựng đất nước. Có như vậy mới xứng đáng với truyền thống cao quý của dân tộc, xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ cha anh”. Em ngồi xuống mà thấy tay mình vẫn con run, trái tim lâng lâng một cảm xúc bay bổng lạ kì. Ánh nắng đã nhạt dần, chúng em chia tay với các bác, các chú trong lưu luyến. Buổi gặp gỡ đã khơi dậy những ước mơ trong em, tăng thêm lòng quyết tâm và niềm tin của em vào một tương lai tươi sáng. (Dẫn theo bài viết của học sinh Nguyễn Bá An, Trường THCS Châu Thành - TP. Vũng Tàu. Có sửa chữa và bổ sung) Bài 21: Phát biểu cảm nghĩ về một người mà em ngưỡng mộ. BÀI LÀM THAM KHẢO Những ngày mùa hạ rả rích, khi ôm sách và lắng nghe vài giai điệu phát ra từ cái radio cũ mèm, tự dưng tôi nghe thấy mấy lời da diết vang lên: Người thầy... vẫn lặng lẽ đi về sớm trưa Từng ngày, giọt mồ hôi rơi nhòe trang giấy… Tiếng Cẩm Ly tha thiết, chiều mùa hạ như đang rơi xuống, vỡ tan và xoáy vào lòng những kí ức tươi đẹp. Đột nhiên, có cảm giác như đang lạc vào một thế giới nào đó, một thế giới không phải của mình, thế giới của quá khứ. Và tự nhiên, tôi nghĩ, dường như mình đang được xem lại cuộc đời bốn năm trước, qua vài cảnh quay được trích ra từ cái máy quay có lẽ là đời từ những năm 1980. Máy quay có lẽ đã cũ lắm rồi, cảnh được cảnh mất, nhưng cũng đủ để tôi thấy tôi mười một tuổi - đứng trong sân trường cấp II lộng gió, và bóng một người thấp bé lặng lẽ đạp chiếc xe khung, đi trong nắng vàng. Bất chợt, người ấy quay lại. Ánh mắt hiền từ được máy quay ghi lại rõ ràng không sai. Tim tự dưng thấy hẫng một nhịp. Kia rồi! Thầy tôi... Người đàn ông đi trong nắng vàng hôm ấy là người tôi kính trọng nhất trên đời. Có lẽ biết thế nên mọi cảnh quay về người ấy đều rõ nét và chân thực đến kì lạ. Tôi nhìn rõ cái bóng liêu xiêu, đổ dài trên con đường dài dằng dặc, cùng với cây thước kẻ nửa mét kẹp trong chiếc cặp da sờn cũ, hộp phấn bằng thép chỉ chực rơi ra, cùng mái tóc đã bạc lắm rồi. Bỗng nhiên, tôi thấy nước mắt đang dâng lên, đầy tràn hai khóe mắt. Nhiều người vẫn miêu tả các thầy cao to, vạm vỡ, có đôi mắt sáng uy nghiêm. Nhưng không! Thầy tôi thấp lắm, nếu so với chuẩn 1,8 m, chỉ chừng 1,6 m, tóc bạc trắng và lúc nào cũng lọc cọc đi trên chiếc xe khung han gỉ. Mắt thầy sáng, nhưng sáng bởi ánh sáng dịu hiền, ấm áp khiến chúng tôi rất an tâm. Mọi thứ thuộc về thầy cũ kĩ đến


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

mức hoài cổ. Chúng tôi, thời những năm lớp 6, đã từng trêu thầy nhiều lần vì điều ấy. Tôi vẫn nhớ thầy chỉ cười hiền và bảo, thầy già rồi, có cần gì hiện đại. Máy quay chuyển cảnh. Từng hình ảnh nhảy nhót. Cứ như bị lỗi, những hình ảnh ấy cứ nháy đi nháy lại, nhưng lại rõ đến từng chi tiết. Mùa đông lạnh thê lương. Khi mà gió vuốt những ngón tay trên mái nhà, tôi nhìn thấy thầy đạp xe đến trường. Những vòng quay xe đạp cứ thế quay đều, quay đều. Pêđan cũ lắm rồi, xích kêu lạch cạch tựa như đang đòi nghỉ ngơi. Thầy vẫn cần mẫn đạp xe, cần mẫn xách chiếc cặp sờn cũ đến lớp. Thoảng qua, tôi thấy thầy khẽ run. Không chỉ mùa đông ấy, mà còn nhiều mùa đông sau này nữa. Tôi vẫn luôn nhìn thấy hình ảnh đó. Luôn nhớ mình đứng trên tầng hai, vẫy tay “em chào thầy” mà láo xược chế thành “em thầy!”, và thầy, trên chiếc xe đạp cũ đi ngược gió, vẫy tay cười lại. Hiền như tiên. Tự dưng, cảnh quay tiếp theo hiện ra. . Tôi thấy... Đêm tối. Trong một căn bếp lụp xụp, có mỗi một bóng đèn mù mịt. Bảng đen viết đầy những công thức loằng ngoằng. Có hai đứa học sinh ngồi quây quần cắt cái bánh trung thu nhân thập cẩm, và một người tóc bạc phơ ngồi cạnh, mỉm cười nhấm nháp ngụm trà nóng trong đêm thu mong manh. “Thầy ơi, thầy không ăn thập cẩm à, thế phải làm sao bây giờ”. Tiếng đứa con gái cất lên lo lắng. Thằng con trai ngồi cạnh im lặng ăn miếng bánh nướng thơm lừng, còn người đó chỉ cười, bảo: “Ừ, hai đứa cứ ăn đi, còn lại để vào tủ lạnh, lúc nào cô về thì cô ăn”. Tôi nhận ra, đấy chính là mình, với Âu Sơn, và thầy. Tôi thấy mình lúng túng, rồi cũng ngồi xuống, cầm con dao cắt bánh ra thành nhiều miếng nho nhỏ. Sau nhiều lần từ chối, cuối cùng thầy cũng ăn, và hai đứa học sinh cười thành tiếng. Căn bếp lụp xụp như sáng thêm. Sáng thêm. Mãi đến sau này tôi mới biết thầy không ăn được thịt mỡ, cứ đến cổ họng lại bị nôn ra, thế mà hôm ấy thầy vẫn ăn miếng bánh trung thu, có lẽ chỉ để chúng tôi vui lòng. Đột nhiên muốn khóc. Thầy của tôi, vĩ đại như thế đấy. Có lẽ nhiều người không hiểu nổi từ vĩ đại. Tại sao lại vĩ đại? Tôi không thể diễn tả được cảm xúc của tôi khi nghe việc thầy không ăn được thịt mỡ, rồi liên tưởng đến miếng bánh trung thu ngày hôm ấy. Chỉ để chúng tôi vui, thầy đã ăn hết miếng bánh mà có thể làm thầy khó chịu suốt những ngày sau đó. Ai đó từng nói, tấm lòng người thầy vĩ đại lắm, và cũng trong sáng lắm, y như pha lê không bao giờ bị vấy bẩn. Đúng, đúng lắm. Những tháng ngày đó, bất kể nắng hay mưa, bất kể nóng nực hay lạnh giá, thầy, vẫn cặm cụi đi trên chiếc xe đạp cũ xỉn, dạy chúng tôi học. Tôi nhớ những ngày tháng một, năm tôi lớp 7. Lúc ấy gió trời còn mạnh, và nắng thì hong hanh lắm. Tôi, với ba thằng con trai khác, ngồi trong lóp nghe thầy giảng Toán. Sơn đùa, bảo thầy sao không làm hiệu trưởng mà lại chấp nhận làm giáo viên quèn. “Ôi, làm hiệu trưởng thì không quát được giáo viên đâu, còn làm giáo viên, học sinh không nghe thì tống nó ra khỏi lớp”. Thầy bảo, như thế. Chúng tôi cứ cười mãi về câu nói ấy. Đến tận hai năm sau, tôi mới biết, thầy chấp nhận làm giáo viên là để dìu dắt thêm nhiều lớp học trò trước khi bước vào tuổi già. Sau này mới biết, tình cảm thầy dành cho học sinh chúng tôi còn nhiều hơn gấp tỉ tỉ lần những thứ công danh lợi lộc tầm thường. Năm lớp 7, có thầy, có những kì vọng và quyết tâm từ biết bao ngày trước, tôi đoạt giải Nhất Toán. Biết tin, thầy chỉ cười thật tươi. Nhưng trong mắt tôi, đó là nụ cười ấm áp nhất tôi từng biết. Nụ cười ấy khiến bao mệt mỏi, khó nhọc trở về số 0. Nụ cười khiến cho tất cả học sinh an lòng. Năm ấy, có lẽ là năm tôi hạnh phúc nhất. Không biết đã đi qua bao nhiêu ngày nắng, mưa? Chỉ biết, thầy đã đồng hành cùng chúng tôi trong suốt hai năm rưỡi. Hai năm rưỡi lọc cọc đạp chiếc xe cũ ấy, hai năm rưỡi dạy dỗ lũ học sinh lóp A nghịch như quỷ. Thầy chẳng hề than vãn lấy một lời. “Các em là lứa học sinh cuối cùng của thầy, chỉ mong dạy được thật tốt, không


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

muốn ai bị chửi mắng cả”. Thầy trả lời cho câu hỏi của tôi về việc, tại sao chúng em mất trật tự mà thầy không nhắc. Lúc ấy, tôi không hiểu. Sau này ngẫm nghĩ lại mới ngộ ra. Hóa ra, chúng tôi chính là những kẻ vô ơn bậc nhất, không hiểu nổi tâm ý của thầy giấu trong từng con chữ. Mười ba tuổi, chỉ biết nghịch ngợm, vô ưu vô lo. Đâu biết người thầy vẫn cặm cụi chiến đấu với tuổi già và sức khỏe, ngày ngày lên lớp dạy dỗ cho những học sinh cuối cùng trong cuộc đời dạy học của mình. Hết học kì I năm tôi lớp 8, thầy có quyết định nghỉ hưu. Quyết định không hề vội vã, nhưng lại gây bất ngờ trong tập thể lớp. Tất cả xôn xao, và dường như có gì đó nghẹn ở trong tim, rất lạ. Dù biết, nhưng cuối cùng vẫn đến lúc phải chia tay rồi. Ngày chia tay, tôi tặng thầy một bó hoa kẹo mút. Chính tay dính từng bông hoa, chính tay ghim từng bó mút. Có lẽ đó là bó hoa xấu nhất tôi từng làm, nhưng cũng là bó hoa mang nhiều tình cảm nhất. Cũng là bó hoa đầu tiên tôi tặng cho sự chia li. Thầy nghỉ rồi... Giáo viên mới dạy thay. Bài giảng sôi động, súc tích vô cùng. Nhưng thỉnh thoảng đột nhiên ngẩn ngơ. Vẫn ngỡ thầy còn ở đây, ngay trên bục giảng, viết những con số vốn bị chê “xấu mèm” nhưng thật rất rõ ràng. Ngỡ rằng thầy vẫn sẽ đi cùng chúng tôi qua những năm tháng còn lại. Không, không còn nữa rồi! Đó là những tháng ngày khó khăn nhất. Không cỏ thầy ở bên cạnh dạy dỗ, không có ai cười hiền từ động viên trong những ngày khó khăn. Năm đó, tôi tụt hạng, chỉ đạt giải Ba. Đề rất dễ. Thế mà, điểm cũng chỉ đạt “Nhì non”. Lúc ấy, tôi mới biết hóa ra thầy ảnh hưởng đến tôi nhiều như thế. Lên lớp 9, ông nội dẫn tôi xuống nhà thầy. Từ đó, tôi chính thức học thêm với thầy. Chính thức bắt đầu một năm học tuy vất vả nhưng tràn đầy niềm vui. Ngôi nhà mà chúng tôi học, cũng chính là ngôi nhà thầy đã sống suốt mấy chục năm qua. Cả một đời người vất vả chỉ có một khoảnh sân nho nhỏ để phơi nắng, một căn bếp tối, lụp xụp, cái nhà xây lọp lá cọ mát rượi trong những ngày nóng bức, và cả một cây trứng cá lúc nào cũng bị lũ học sinh nhăm nhe chọc quả. Thầy bảo như thế đã là hạnh phúc lắm rồi. Đôi khi tôi nghĩ thầy sống sao mà giản đơn quá. Thầy chỉ cười. “Không, thế đã là quá đủ rồi”. Tôi không biết đủ là gì, không biết tại sao thầy có thể hài lòng. Sau đó nhiều tháng, tôi mới được nghe thầy kể về biết bao ngày khó khăn thầy đã trải qua. Đấy là những năm tháng vất vả đến bần hàn. Thầy là sinh viên nghèo, không có đủ đồ ăn nên ốm nhom ốm nhách trải qua một thời khó nhọc, con người luôn có khuynh hướng hài lòng với hiện tại, dù cho hiện tại ấy chỉ hơn thời khó khăn ngày xưa một chút xíu. Chính thế, thầy sống giản dị, tiết kiệm vô cùng. Từ lúc học thêm chỗ thầy, nghe thầy nói về những điều thầy đã trải qua, bất giác tôi cũng sống tiệt kiệm đi nhiều lần. Không còn phung phí tiền bạc và đồ dùng như trước đây nữa. Người ta bị ảnh hưởng bởi những người mà được coi là quan trọng. Tôi nghĩ, tôi cũng vậy. Đôi khi tôi nghĩ, có phải thầy đã ảnh hưởng đến tôi theo một cách đặc biệt nào đó? Nghĩ nhiều lần, rồi mới phát hiện ra, thầy chính là một hình tượng mà tôi luôn khát khao muốn vươn tới, một tượng đài vĩ đại, một người mà tôi luôn mong mỏi đạt được thành công như vậy. Không chỉ là một người thầy, thầy còn là người cha, người anh, người bạn luôn lắng nghe, lụôn cho những lời khuyên bổ ích nhất khi tôi cần. Thầy không chỉ dạy tôi môn Toán, thầy còn dạy tôi cách làm người, cách sống và phấn đấu để càng ngày càng tốt đẹp hơn. Máy quay dường như đang chậm lại, từng cảnh từng nét hiện lên rõ ràng. Tôi thấy thầy đang lụi hụi trồng rau, chăm sóc con chó lông trắng đen già khụ, thấy cả chúng tôi ngày đó, trong những ngày vất vả nhưng yên bình. Tôi nghĩ, có lẽ đó là những ngày hạnh phúc và vui vẻ nhất tôi từng có. Sau này, khi bước đi trên đường đời chông gai, có thể sẽ chẳng còn ai chỉ bảo, dạy dỗ tôi tận tình như thầy đã từng, có thể sẽ chẳng có ai lo tôi liệu có ngủ đủ giấc, liệu có stress khi nhồi nhét quá nhiều. Nhưng, cổ nhân từng nói, cuộc đời chỉ cần một người khiến ta ngưỡng mộ, để cả đời noi gương, cả đời thương mến. Vậy là quá đủ rồi. Khi viết những dòng này, tôi đã là học sinh cấp III. Không chỉ hôm nay, mà còn cả ngày mai, ngày kia, nhiều ngày sau nữa, nhất định tôi sẽ tiếp tục cố gắng. Để mỗi khi gặp ai, trò chuyện cung ai, có thể tự hào nói, tôi, là học sinh của thầy Nguyễn Văn Tâm. Có những lúc nhớ


ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

thầy, phóng vụt xe đi, tìm về ngôi nhà nhỏ cuối phố cũ với cây trứng cá xum xuê, ngồi nghe thầy nói về nhưng điều thầy tâm đắc, về những điều thầy mong mỏi và răn dạy tôi cho đến mãi sau này. Tìm về nơi duy nhất khiến tâm hồn thanh thản, khiến cho mọi thứ phức tạp của cuộc đời trở nên dễ dàng và trong sáng hơn. Vẫn là những ngày mùa hạ đã cũ, tôi cảm giác như mình đang xốc ba lô lên vai, đạp cái xe đạp của mình, lao đi trong nắng vàng. Đến nơi tràn đầy kiến thức mà tôi hằng yêu kính. (Bài viết của học sinh Vũ Phương Thảo đạt 9,5 điểm, lớp 9A1, Trường THCS Định Hóa, Thái Nguyên, có bổ sung và chỉnh sửa). Bài 22: Hãy phát biểu cảm nghĩ về một người thân yêu nhất của em. BÀI LÀM THAM KHẢO Trong cuộc sống hàng ngày, có biết bao nhiêu người đáng để chúng ta thương yêu và dành nhiều tình cảm. Nhưng đã bao giờ bạn nghĩ rằng, người thân yêu nhất của bạn là ai chưa? Với mọi người câu trả lời ấy có thể là ông bà, là mẹ, là anh chị hoặc cũng có thể là bạn bè chẳng hạn. Còn riêng tôi, hình ảnh người bổ sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi ấm tâm hồn tôi mãi tận sau này. Bố tôi không may mắn như những người đàn ông khác. Trong suốt cuộc đời bố có lẽ không bao giờ được sống trong sự sung sướng, vui vẻ. Bốn mươi tuổi khi chưa đi được nửa chặng đời người, bố đã phải sống chung với bao nhiêu bệnh tật: Đầu tiên đó chỉ là những cơn đau dạ dày, rồi tiếp đến lại xuất hiện thêm nhiều biến chứng. Trước đây, khi còn khỏe mạnh, bao giờ bố cũng rất phong độ. Thế nhưng bây giờ, vẻ đẹp ấy dường như đã dần đổi thay: thay vì những cánh tay cuồn cuộn bắp, giờ đây chỉ còn là một dáng người gầy gầy, teo teo. Đôi mắt sâu dưới hàng lông mày rậm, hai gò má cao cao dần nổi lên trên khuôn mặt sạm đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh tật không thể làm mất đi tính cách bên trong của bố, bố luôn là một người đầy nghị lực, giàu tự tin và hết lòng thương yêu gia đình. Gia đình tôi không khá giả, mọi chi tiêu trong gia đình đều phụ thuộc vào đồng tiền bố mẹ kiếm được hàng ngày. Dù bệnh tật, ốm đau nhưng bố chưa bao giờ chịu đầu hàng số mệnh. Bố cố gắng vượt lên những cơn đau quằn quại để làm yên lòng mọi người trong gia đình, cố gắng kiếm tiền bằng sức lao động của mình từ nghề xe lai. Hàng ngày, bố phải đi làm từ khi sáng sớm cho tới lúc mặt trời đã ngả bóng từ lâu. Mái tóc bố đã dần bạc đi trong sương sớm. Công việc ấy rất dễ dàng với những người bình thường nhưng với bố nó rất khó khăn và gian khổ. Bây giờ có những lúc phải chở khách đi đường xa, đường sóc thì những cơn đau dạ dạy của bố lại tái phát. Và cả những ngày thời tiết thay đổi, có những trưa hè nắng to nhiệt độ tới 38 - 43°C, hay những ngày mưa ngâu rả rích cả tháng bảy, tháng tám, rồi cả những tối mùa đông lạnh giá, bố vẫn cố gắng đứng dưới những bóng cây kia mong khách qua đường. Tôi luôn tự hào và hãnh diện với mọi người khi có được một người bố giàu đức hi sinh, chịu thương, chịu khó như vậy.

D

Mỗi ngày bố làm việc như vậy nên khi trở về những cơn đau quằn quại lại hành hạ bổ. Nhìn khuôn mặt bố nhăn nhó vì những cơn đau vật vã mà bố phải chịu đựng, tôi chỉ biết òa lên mà khóc. Nhìn thấy bố như vậy, lòng tôi như quặn đau hơn gấp trăm ngàn lần. Bố ơi, giá như con có thể mang những cơn đau đó vào mình thay cho bố, giá như con có thể giúp bố kiếm tiền thì hay biết mấy? Nếu làm được gì cho bố vào lúc này để bố đỡ đau hơn, con sẽ làm tất cả, bố hãy nói cho còn được không? Những lúc ấy, tôi chỉ biết ôm bố, xoa dầu cho bố, tôi chỉ muốn nói với bố đừng đi làm nữa, tôi có thể nghỉ học, như vậy sẽ tiết kiệm được chi tiêu cho gia đình, tôi có thể kiếm được tiền và


IC IA L

chữa bệnh cho bố. Nhưng nếu nhắc đến điều đó chắc chắn là bố sẽ buồn và thất vọng ở tôi nhiều lắm. Bố luôn nói rằng bố sẽ luôn chiến đấu. Chiến đấu cho tới chút sức lực cuối cùng để có thể nuôi chúng tôi ăn học thành người. Bố rất quan tãm đến việc học của chúng tôi. Ngày xưa bố học rất giỏi nhưng nhà nghèo bố phải nghỉ học. Vào mỗi tối, khi còn cố gắng đi lại được, bố luôn dạy cho mấy chị em học bài. Trong những bữa cơm bố thường nhắc chúng tôi cách sống, cách làm người sao cho phải đạo. Tôi phục bố lắm, bố thuộc hàng mấy nghìn câu Kiều, hàng trăm câu châm ngôn, danh ngôn nổi tiếng... Chính vì vậy, tôi luôn cố gắng tự giác học tập. Tôi sẽ làm một bác sĩ và sẽ chữa bệnh cho

bố, sẽ kiếm tiền để phụng dưỡng bố và đi tiếp những bước đường dở dang trong tuổi trẻ của bố. Tôi luôn biết ơn bố rất nhiều, bố đã dành cho tôi một con đường sáng ngời, bởi đó là con đường

của học vấn. Tôi sẽ luôn lấy những lời bố dạy để sống, lấy bố là gương sáng để noi theo. Và tôi

FF

khâm phục không chỉ bởi bố là một người giỏi giang, là một người cao cả, đứng đắn, kiên trì chịu

khó mà còn bởi cách sống lạc quan, vô tư của bố. Mặc dù thời gian rảnh rỗi của bố rất ít nhưng

O

bố vẫn trồng và chăm sóc khu vườn trước nhà để cho nó bao giờ cũng xanh tươi. Những dò phong lan có bao giờ bố quên cho uống nước vào mỗi buổi sáng; những cây thiết ngọc lan có báo

N

giờ mang trên mình một cái lá héo nào? Những cây hoa hồng, hoa nhài có bao giờ không tỏa

H

những yêu hoa mà bố còn rất thích nuôi động vật.

Ơ

hương thơm ngát đâu? Bởi đằng sau nó luôn có một bàn tay ấm áp chở che, chăm sóc, không

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

Nhà tôi bao giờ cũng có hai chú chó con, một chú mèo và có lúc bố còn mang về những chiếc lồng chim đẹp nữa. Và hơn thế, trong suốt hơn năm năm trời chung sống với bệnh tật, tôi chứa bao giờ nghe bố nhắc đến cái chết, điều đó không đồng nghĩa với việc trốn tránh sự thật, bố luôn, đối mặt với “tử thần”, bố luôn dành thời gian để có thể làm được tất cả mọi việc khi chưa quá muộn. Nhưng cuộc đời bố bao giờ cũng đầy đau khổ, khi mà cả gia đình đã dần khá lên, khi các chị tôi đã có thể kiếm tiền, thì bố lại bỏ chị em tôi, bỏ mẹ, bỏ gia đình này để ra đi về thế giới bên kia. Bố đi về một nơi rất xa mà không bao giờ được gặp lại. Giờ đây khi tôi vấp ngã, tôi sẽ phải tự đứng dậy và đi tiếp bằng đôi chân của mình, bởi bố đi xa, sẽ không còn ai nâng đỡ, che chở, động viên tôi nữa. Bố có biết chăng nơi đây con cô đơn buồn tủi một mình không? Tại sao nỡ bỏ con ở lại mà đi hả bố? Nhưng con cũng cảm ơn bố, bố đã cho con thêm một bài học nữa, đó chính là trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy trân trọng những gì đang có, hãy yêu thương những người xung quanh mình hơn, và đặc biệt hãy quan tâm, chăm sóc cho bố của mình, tha thứ cho bố, khi bố nóng giận và nỡ mắng mình bởi bố luôn là người yêu thương nhất của chúng ta. Bố ra đi, đi đến một thế giới khác, ở nơi đó bố sẽ không còn bệnh tật, sẽ thoát khỏi cuộc sống đau đớn. Và bố hãy yên tâm, con sẽ luôn nhớ những lời dạy của bố, sẽ luôn thương yêu, kính trọng biết ơn bố, sẽ sống theo gương sáng mà bố đã rọi đường cho con đi. Hình ảnh của bố sẽ luôn ấp ủ trong lòng con. Những kỉ niệm, những tình cảm bố dành cho con, con sẽ ôm ấp, trân trọng nó như chính linh hồn của mình. (Bài viết của học sinh Nguyễn Thị Hậu đạt 10 điểm, lớp 9A2, Trường THPTHuỳnh Thúc Kháng, TP Vinh, Nghệ An. Có chỉnh sửa và sửa chữa) Bài 23: Cảm nghĩ về mùa thu của em. BÀI LÀM THAM KHẢO Mùa thu ơi mùa thu... Tiếng hát vang lên qua tai nghe từ chiếc mảy nghe nhạc. Trời đầu đông. Thời tiết se se lạnh nhưng nắng vàng vẫn len lỏi khắp nơi. Nhìn cảnh tượng này, sao tôi thấy giống mùa thu đến


lạ!...

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Mùa thu - hai từ đem đến cho tôi cảm giác thoải mái, dễ chịu. Bầu trời trong vắt, không một mảnh mây vắt ngang. Nó trong đến nỗi tưởng chừng mỗi khi tôi nhìn lên là thấy cả bên kia trái đất. Ôi sao tôi yêu bầu trời mùa thu đến thế! Và tôi yêu cả vạn vật mùa thu nữa! Tiếng chim thánh thót vút cao, ngân dài, ngân mãi kéo tôi đi tận nơi xa mơ hồ... đến khi thôi cất tiếng mới giật mình quay lại hiện tại. Lá cây cũng sang màu. Cái thứ màu đỏ đồng của lá bàng, màu vàng vàng của bằng lăng, màu nâu nâu héo lụi của cây cau... sao mà đẹp đến vậy! Nhưng chớ có nghĩ mọi vật đang tàn lụi. Bấy giờ, hoa hồng mới vươn mình kiêu hãnh khoe lớp áo khoác mịn màng với nắng. Bấy giờ, hoa sữa mới trổ bông, xòe ra những quả cầu hoa trắng xanh, thơm nồng nàn. Bấy giờ, hoa cải mới e lệ diện bộ váy vàng tươi sáng. Và bấy giờ, mùi hoa quế thơm thơm mới đậu trên tà áo dài con gái đi khắp phố phường để hòa mình vào gió... Một thứ đặc trưng không lẫn vào đâu của mùa thu - gió heo may. Từng cơn gió không rít, không thét gào như gió mùa đông bắc, không ẩm ướt như gió mùa xuân, không nóng như gió mùa hạ, mà man mác, nhè nhẹ riêng biệt. Không hiểu sao tôi lại yêu gió heo may đến thế! Yêu nhiều lắm, nhưng cũng vừa đủ để người khác yêu thêm. Cơn gió ấy, nó thích chơi đùa cùng cành phượng tàn hoa đang ra quả. Nó thích lùa vào tóc người thiếu nữ thanh thanh, mang hương tóc ngọc lan vào lòng tôi. Nhưng nó thích nhất là uốn mình qua gánh hàng hoa của các chị mỗi buổi sáng tinh mơ nhịp bước chân vào phố. Nhắc đến mùa thu là không ai quên được ngày tựu trường - cái ngày mà tuổi học trò luôn mong ước. Ấy là lúc nắng dịu dàng không đâu cho đủ. Tiếng chim hót báo hiệu đã hết mùa vui chơi, quay trở về với vòng tay bạn bè và thầy cô. Đến trường, đứa nào cũng tíu tít kể về mùa hè bất tận của mình. Và ở một góc nào đó, trái hẳn với sự ồn ã kia, các em lớp một đang ngỡ ngàng, lo sợ. Đó là sự khởi đầu cho một nụ cười mới tại một ngôi trường mới. Nụ cười ấy mới dễ thương làm sao! Đối với người Hà Nội, thì thứ tượng trưng cho mùa thu của họ là cốm làng vòng. Từng hạt cốm dẻo, xanh mướt như sự thanh khiết của lá sen và sữa thơm bầu trời thu. Hạnh phúc biết bao khi cái thứ quà thần tiên ấy thuộc về mùa thu của tôi! Đến cuối thu, vạn vật phải cố gắng lắm mới không cảm thấy tiếc nuối một mùa bình dị yêu thương. Lá bàng kiềm chế không rụng rơi để khoe sắc thắm vào ngày trong trẻo cuối cùng. Nắng gồng mình không tắt để người ta biết được mùa thu sắp đi qua. Hoa cố tươi cười để tạm biệt một mùa thương mến. Chỉ có mùa thu là vẫn vô tư, sống hết mình như thể ở lại mãi với tôi vậy... Hết thu. Vạn vật như mất đi sự vui tươi thường ngày. Nhưng đúng vào lúc buồn nhất thì mùa thu để lại một thứ kì diệu cho tôi: Nắng! Nắng vẫn thế, dịu dàng như đang sống trong mùa thu. Và tôi yêu nắng như yêu chính mùa thu của tôi. Có lẽ nắng cũng yêu tôi, nhự mùa thu yêu tôi... Bài hát đã ngừng. Tôi trở về thực tại. Tiếc nuối. Tôi ngắm nắng như ngắm chính mùa thu của tôi. Tôi không chắc có phải tôi yêu mùa thu không? Không, có lẽ tôi nghiện mùa thu mất rồi! Bật lại bài hát, tôi nhắm mắt. Mùa thu ơi, hãy quay lại nhé! Tôi yêu mùa thu thật nhiều! Và hãy yêu tôi như chính tôi yêu mùa thu vậy, có được không? (Bài viết của học sinh Cao Thị Hoàng Anh, lớp 7B, Trường THCS Lê Quý Đôn, Hải Dương. Bài đạt 8,75 điểm) Bài 24: Đã có lần em mắc lỗi. Em hãy kể lại lỗi lầm đó. BÀI LÀM THAM KHẢO Đọc sách, tôi rất thích một câu nói của nhà văn người Úc: “Không có gì là hoàn hảo, có chăng chỉ là sự đề cao mà thôi”. Đúng, thử hỏi trong chúng ta có ai dám tự nói mình chưa mắc lỗi dù chỉ một lần không? Tôi cũng vậy, có lẽ tôi không thể quên lỗi lầm mình gây ra hôm đó, khiến người tôi yêu quý nhất - mẹ tôi, buồn lòng... Hôm ấy, đất dát vàng ánh nắng, trời mát dịu, gió khẽ hôn lên má những người đi đường. Nhưng nó sẽ là ngày tuyệt đẹp, nếu tôi không có bài kiểm tra khoa học tệ hại đến như vậy, hậu quả của việc không chịu ôn bài. về nhà, tôi bước nhẹ lên cầu thang mà chân nặng trĩu lại. Tôi


M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

buồn và lo vô cùng, nhất là khi gặp mẹ, người tôi nói rất chắc chắn vào tối qua: “Con học bài kĩ lắm rồi”. Mẹ đâu biết khi mẹ lên nhà ông bà, ba đi công tác, tôi chỉ ngồi vào bàn máy tính chứ nào có ngồi vào bàn học, bởi tôi đinh ninh rằng cô sẽ không kiểm tra, vì tôi được mười điểm bài trước, nào ngờ cô cho làm bài kiểm tra mười lăm phút. Chả lẽ bây giờ lại nói với mẹ: “Con chưa học bài hôm qua” sao? Không, nhất định không. Đứng trước cửa, tôi bỗng nảy ra một ý “mình thử nói dối mẹ xem sao”. Nghĩ như vậy, tôi mở cửa bước vào nhà. Mẹ tôi từ trong bếp chạy ra. Nhìn mẹ, tôi chào lí nhí “con chào mẹ”. Như đoán biết được phần nào, mẹ tôi hỏi: “Có việc gì thế con?”. Tôi đưa mẹ bài kiểm tra, nói ra vẻ ấm ức: “Con bị đau tay, không tập trung làm bài được nên viết không kịp”... Mẹ tôi nhìn, tôi cố tránh hướng khác. Bỗng mẹ thở dài rồi nói: “Con thay quần áo rồi tắm rửa đi!”. Tôi “dạ” khẽ rồi đi nhanh vào phòng tắm và nghĩ thầm: “Ổn rồi, mọi việc thế là xong”. Tôi tưởng chuyện như thế là kết thúc, nhưng tôi đã lầm. Sau ngày hôm đó, mẹ tôi cứ như người mất hồn, có lúc mẹ rửa bát chưa sạch, lại còn quên cắm nồi cơm điện. Thậm chí mẹ còn quên tắt đèn điện, điều mà lúc nào mẹ cũng nhắc tôi. Mẹ tôi ít cười và nói chuyện hơn. Đêm đêm, mẹ cứ trở mình không ngủ được. Bỗng dưng, tôi cảm thấy như mẹ đã biết tôi nói dối. Tôi hối hận khi nói dối mẹ. Nhưng tôi vẫn chưa đủ can đảm để xin lỗi mẹ. Hay nói cách khác, tôi vẫn chưa thừa nhận lỗi lầm của mình. Sáng một hôm, tôi dậy rất sớm, sớm đến nỗi ở ngoài cửa sổ sương đêm vẫn đang chảy “róc rách” trên kẽ lá. Nhìn mẹ, mẹ vẫn đang ngủ say. Nhưng tôi đoán là mẹ mới chỉ ngủ được mà thôi. Tôi nghĩ: “Quyển “Truyện về con người” chưa đọc, mình đọc thử xem”. Nghĩ vậy, tôi lấy cuốn sách đó và giở trang đầu ra đọc. Phải chăng ông trời đã giúp tôi lấy cuốn sách đó để đọc câu chuyện “lỗi lầm” chăng? Khi Thượng đế tạo ra con người, ngài đã gắn cho họ hái cái túi vô hình, một túi chứa lỗi lầm của mọi người đeo trước ngực, còn cái túi kia đeo ở sau lưng chứa lỗi lầm của mình, nên con người thường không nhìn thấy lỗi của mình. Tôi suy ngẫm: “Mình không thấy lỗi lầm của mình sao?”. Tôi nghĩ rất lâu, bất chợt mẹ tôi mở mắt, đi xuống giường. Nhìn mẹ, tự nhiên tôi đi đến một quyết định: Đợi mẹ vào phòng tắm, rồi lấy một mảnh giấy nắn nót đề vài chữ. Mẹ tôi bước ra, tôi để mảnh giấy trên bàn rồi chạy ù vào phòng tắm. Tôi đánh răng rửa mặt xong, đi ra và... chuẩn bị ăn bữa sáng ngon lành do mẹ làm. Và thật lạ, mảnh giấy ghi chữ: “Con xin lỗi mẹ” đã biến đâu mất, thay vào đó là một chiếc khăn thơm tình mẹ và cốc nước cam, tôi cười, nụ cười mãn nguyện vì mẹ đã chấp nhận lời xin lỗi của tôi. Đến bây giờ đã ba năm trôi qua, mảnh giấy đó vẫn nằm yên trong tủ đồ của mẹ. Tôi yêu mẹ vô cùng, và tự nhủ sẽ không bao giờ để mẹ buồn nữa. Tôi cũng rút ra được bài học quý báu: Khi bạn biết xin lỗi bố mẹ, bạn sẽ có nhiều hơn một thứ bạn vẫn đang có, đó là tình thương: Từ thuở sinh ra tình mẫu tử Trao con ấm áp tựa nắng chiều

D

ẠY

Bài 25: Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU lần thứ 45. Hãy viết một bức thư cho chính mình năm 45 tuổi. BÀI LÀM Thiên đàng, ngày 1 - 1 -2016 Xin gửi lời chào tới anh bạn tương lai của tôi! Vậy là đã gần bốn tháng kể từ ngày tôi rời xa dương thế. Có lẽ sự từ giã trần thế quá sớm khiến tôi trưởng thành hơn để hôm nay tôi viết bức thư này cho anh. Tôi - bé Aylan Kurdi ba tuổi người Syria - được cả thế giới biết đến với giấc ngủ vĩnh hằng trên bờ biển Bodrum Thổ Nhĩ Kì, viết cho anh - là tôi của tuổi 45 còn sống nơi trần thế. Nghe có vẻ vô lí anh nhỉ? Tôi đã chết thì làm gì có anh! Nhưng tại sao lại không thể khi mọi thứ đều trong một giấc mơ - cả tôi và anh. Những thiên thần sẽ giúp tôi gửi bức thư này đến anh. Anh bạn thân yêu! Giờ đây tôi đang ở trên thiên đàng - một thế giới kì diệu mà lung linh


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

biết mấy. Nơi này chẳng có ngày hay đêm. Mặt trời, vầng trăng và cả những vì sao lấp lánh cùng nhau tỏa sáng, không gian lúc nào cũng trong veo như pha lê. Mẹ và anh trai tôi đang mỉm cười cùng những linh hồn khác. Chúng tôi không có quốc gia, không phải di cư, không phân biệt tôn giáo, không có khủng bố hay bạo lực... Tất cả đều như nhau - những linh hồn bay nhẹ nhõm, thanh thản và bình yên. Giờ đang là giao thừa. Từ trên đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn cả trái đất. Ngắm nhìn những chùm pháo hoa lộng lẫy bung nở trong màn đêm và lắng nghe tiếng chuông ngân vang. Dưới đó là những mảng màu tương phản. Có nhũng nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu... Chao ôi, cuộc sống nơi trần thế! Giờ thì tất cả đã quá xa vời. Anh bạn tuổi 45 ơi, anh còn nhớ chứ! Chúng ta theo cha mẹ chạy trốn khỏi chiến tranh và bạo lực đẫm máu nơi quê nhà Kobani với giấc mơ về “miền đất hứa” ở trời Âu. Vậy mà giấc mơ ấy chấm dứt chỉ hai mươi phút sau khi chiếc thuyền khởi hành. Biển dậy sóng, thuyền lật úp, bàn tay bé nhỏ của tôi buông rời tay mẹ. Tôi đã hét lên: “Bố ơi, xin đừng chết!”. Tôi đã vật lộn với những con sóng, đã cố bấu víu lấy sự sống mong manh, đã vẫy vùng trong tuyệt vọng. Nhưng đứa bé ba tuổi thì có thể làm gì được giữa biển cả mênh mông trong đêm tối mịt mù? Và rồi... biển cả rộng mở đón tôi vào lòng. Biển cả cũng rất khoan dung khi thay vì nhấn chìm tôi đã đứa tôi vào bờ, nằm yên trên nền cát. Hẳn anh còn nhớ hình ảnh của tôi khi ấy. Bé bỏng. Áo màu đỏ và quần xanh lam. Chân đi giày. Hai tay xuôi theo chiều chân. Tôi nằm yên trên bãi biển. Mặt úp xuống bờ cát hiền hòa như đang say ngủ. Xung quanh, những con sóng vỗ về. Một giấc ngủ dài. Vĩnh viễn. Hình ảnh tôi được chia sẻ rộng rãi trên các trang mạng xã hội và các phương tiện truyền thông. Họ đã nói những gì? “Thảm họa nhân đạo mang tính toàn cầu”, “Biểu tượng của nỗi đau mà người dân Syria phải hứng chịu cũng như nỗ lực tuyệt vọng để thoát khỏi nỗi đau ấy”, rồi “khiến thế giới câm lặng” hay “thức tỉnh lương tri”. Và người ta còn vẽ lên bức hình tôi đôi cánh của thiên thần... Đây, dĩ nhiên không phải là cách người ta “cường điệu hóa” hay “thi vị hóa” một cái chết. Đây là sức lay động từ một cái chết và là cách người ta làm dịu lại nỗi đau. Nhưng dù thế nào đi nữa thì một sự thật vẫn luôn hiện hữu. Một cuộc đời đã chấm dứt. Đứa trẻ mãi mãi tuổi lên ba. Tôi và gia đình đã sống sót qua mưa bom bão đạn ở Syria bất ổn, nhưng lại bỏ mạng khi đang trên đường tìm một nơi bình yên khác để sống. Cái chết quá sức đau đớn và quá sức vô lí. Chao ôi, ba năm - một cuộc đời! Giá không có chiến tranh và bạo lực; giá tôi được đi trên chiếc thuyền chắc chắn hơn; giá bố mua được cho tôi chiếc áo phao; giá các nước châu Âu mở rộng đường biên giới; giá như... thì có lẽ tôi đã không phải chết! Giờ thì thân xác tôi đã được trở về nơi quê nhà. Một hành trình trở về đất mẹ gian truân, nhọc nhằn. Nhưng là trở về sau khi đã chết. Trở về cái nơi tôi đã tháo chạy. Trở về chỉ để nằm dưới lòng đất. Đúng là một kiếp người dạt trôi, một phận người bèo bọt! Nhưng anh ạ, dù sao thì tôi cũng được nhiều người biết đến, được an ủi. Còn hàng nghìn, thậm chí hàng triệu cái chết khác thì sao? Hàng nghìn người di cư đã bỏ mạng khi vượt Địa Trung Hải, hàng nghìn đứa trẻ đã chết vì đói, vì rét, vì bệnh tật, hàng trăm người đã chết vì khủng bố. Có những người biết là sẽ chết khi phải vượt biển di cư nhưng không làm khác được. . Một người đồng hương Syria của tôi đã viết thế này trước khi chết chìm ạnh ạ: “Cảm ơn biển cả đã chào đón chúng tôi mà không đòi hỏi visa... mà không cần hỏi tôn giáo của tôi là gì...”. Thế đấy, có những cái chết được người ta xoa dịu. Có những cái chết được người ta tưởng nhớ. Nhưng cũng có cái chết bị bỏ rơi, quên lãng. Chao ôi, chỉ có chết mới hết bất công sao? . Hay đến chết cũng chưa hết bất công? Và từ nơi đây, từ trong đau đớn tột cùng của một đứa trẻ đã chết, từ trong yên bình, nhẹ nhõm nơi thiên đàng, tôi viết thư cho anh - là tôi, 45 tuổi còn sống nơi trần thế. Anh sẽ hỏi sao


N

O

FF

IC IA L

không phải một độ tuổi nào khác? Anh bạn, tôi chọn anh - tuổi 45 - là bởi khi ấy ta đã định vị được bản thân trong cuộc đời. Khi tôi 45 tuổi, còn sống - là anh - ta sẽ thế nào nhỉ? Một ông bố? Một công chức bình dân? Hay một nhân vật có khả năng thay đổi thế giới? Anh biết đấy, Steve Jobs của Apple cũng là con một người di cư. Và ta sẽ sống ở đâu? Trở về quê hương Syria hay ở miền đất hứa trời Âu? Thế giới khi ấy sẽ ra sao? có như thiên đàng tôi đang sống không? Tuổi 45 ngỡ sẽ đến như một lẽ tự nhiên ư? Không! Có những tuổi 45 mãi mãi chỉ là ước mơ không thành hiện thực. Ai sẽ cho tôi và những đứa trẻ như tôi tuổi 45? Ai sẽ cho chúng tôi cuộc đời? Làm sao để tất cả mọi người đều có tuổi 45, tuổi 55 và hơn thế nữa? Câu hỏi ấy ai sẽ trả lời cho tôi - thưa anh! Thân ái! Tôi - là anh từ trên thiên đàng. (Bài viết của Nguyễn Thị Thu Trang, lớp 9B, Trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương Bức thư đoạt giải Nhất quốc tế - Huy chương Vàng, giải Nhất quốc gia) Bài 26: Cảm nhận về bài ca dao dưới đây: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. BÀI LÀM THAM KHẢO

Y

N

H

Ơ

Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam lưu truyền qua năm tháng thời gian, lan tỏa theo hương lúa đồng nội quê hương. Ngọt ngào biết bao những vần thơ dân dã ấy đã thấm sâu vào tâm hồn thơ bé mỗi chúng ta qua điệu ru của mẹ, tiếng hát của bà. Mỗi bài ca dao như một bài hát nhẹ nhàng, êm ái và ngọt ngào để đi tận vào trái mỗi người đọc. Im lặng một phút trong mơ màng ngân nga như một bài ca đẹp, ta sẽ thấy mình như lạc vào một cõi thanh cao, yên ả, thần tiên mà cũng rất đời thường.

Q

U

Chúng ta yêu vô cùng những bài ca dao nói về công việc nhà nông “hai sương một nắng”, ca ngợi đức tính cần cù, lòng kiên nhẫn của người dân cày quê ta. Hình ảnh người nông dân cày ruộng sao mà đáng yêu thế:

M

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

D

ẠY

Không nói đến nguồn gốc của bài ca dao này là của nhân dân Việt Nam hay của kho tàng thi ca đời Đường Trung Quôc, nhưng tác phẩm nhỏ bé này từ lâu đã đi vào tâm thức dân gian như là một phần tiếng nói lao động của giai cấp bình dân. Và dù có là của dân tộc nào đi chăng nữa thì bài ca dao này vẫn là tiếng nói tâm tình của nhân dân lao động. Tất cả đều bắt nguồn từ tính chân thực sâu sắc của tác phẩm. Bài ca dao không chỉ thể hiện được hiện thực cuộc sống lao động gian nan mà còn thể hiện được hiện thực tâm hồn của con người lao động. Nghệ thuật nói chung văn học nói riêng là một hình thái ý thức, một hình thức của nhận thức, do đó không tách rời mảnh đất đời sống mà nó và cả chủ nhân của nó đã được nuôi dưỡng. Tuy nhiên, hiện thực trong tác phẩm văn học không phải là bản photocopy đời sống, và tất nhiên


IC IA L

không có một tác phẩm nào đủ khả năng bao quát toàn bộ quy mô của đời sống. Hiện thực ấy là một hiện thực được ý thức, được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của chủ thể sáng tạo và thông qua ngôn ngữ, hiện thực ấy được phơi bày phần bản chất tiêu biểu nhất của nó để tác phẩm đạt đến tính chân thực cần thiết của tác phẩm. Và tất nhiên tính chân thực của một tác phẩm văn học cũng tuỳ thuộc vào tính chất thể loại mà nó nương náu. Bài ca dao trên rõ ràng được viết dưới hình thức thơ ca trữ tình. Mặc dù vậy, nó không đánh mất đi tính chân thực trong việc thể hiện. Với bài ca dao này, hiện thực được thể hiện ở chi tiết thơ, tình tiết thơ. Tính chân thực của bài ca dao được phát huy cao độ khi tác giả đã chọn thời khắc đặc trưng để mô tả những gian nan vất vả của lao động sản xuất, đó là “ban trưa” - cày đồng đang buổi ban trưa.

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Trong thực tế rất ít khi diễn ra hoạt động như vậy. Nhưng nghệ thuật là sự cô đặc hiện thực qua tình tiết hư cấu để hiện thực phản ánh được nổi bật. Và rõ ràng chính buổi trưa cày đồng nắng nôi, căng thẳng là tiền đề để làm xuất hiện hình ảnh thơ thứ hai có giá trị chân thực rất cao: mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Chọn chi tiết đặc tả “mồ hôi” và qua thủ pháp so sánh, tính hình tượng của hiện thực nổi bật lên, thể hiện rõ những vất vả lớn lao: “mồ hôi... như mưa ruộng cày”. Như vậy, nhờ người sáng tạo đã chọn thời khắc đặc biệt và những chi tiết cùng thủ pháp nghệ thuật đặc hiệu, hiện thực như là đối tượng phản ánh đã được phô bày một cách chân thực, rõ ràng, gây xúc động đối với người đọc và người nghe. Hai câu đầu của bài ca dao như là “sự hiện diện” của hiện thực đã làm nổi bật nét đáng nói hơn của thơ ca trữ tình: “tình” - đó là hiện thực tâm hồn. Ngay ở câu thơ thứ hai, hai chữ “thánh thót” vừa diễn tả được số lượng lớn - nhiều của mồ hôi vừa biểu hiện được vẻ đẹp tâm hồn. Nó ngân lên một cách ngọt ngào, không phải để “xóa nhòa” đi hiện thực “đắng cay muôn phần” của lao động mà đấy chính là nét nhạc của. tâm hồn. Nét nhạc này diễn tả nỗi niềm vinh quang và nhịp điệu của bài ca lao động. Lao động đã đành mang đầy những gian nan cay đắng, song vẫn có thể gợi lên thi hứng, niềm vui của con người trong cuộc vật lộn sinh tồn vất vả.

U

Hai câu cuối có kết cấu của một câu cầu khiến:

Q

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

D

ẠY

M

Đại từ phiếm chỉ “ai” đặt ở đầu câu làm nổi bật tính chủ thể trữ tình. “Bát cơm đầy” đã là thành quả lao động, tác giả còn lại “chẻ” rá “dẻo thơm một hạt” khiến cho ý thơ được cụ thể hóá hơn, sâu xa hơn. kết cấu đối - tương phấn dẻo thơm một hạt – đắng cay muôn phần càng làm rọ hơn hiện thực; lao động càng gian nan - thành quả lao động càng quý giá. Và từ đó một hệ quả logic khiến người viết không cần nói rõ song người đọc vẫn nhận ra: con người sống ở đời phải biết quý trọng lao động và người lao động. Đấy là một chân lí giản dị nhưng sâu sắc mà bài ca dao đã đem lại cho mọi người. Nghệ thuật là vậy. Tính chân thực của tác phẩm nghệ thuật là vậy. Nó không chỉ phản ánh được bản chất của hiện thực, phẩm giá và mong ước của số đông nhân loại mà đưa ra những chân lý vĩnh viễn để tất thảy mọi người đều hiểu, và từ đó biết sống tốt hơn, chia sẻ và hành động vì hạnh phúc cùa con người. Nét đáng nói của hai câu cuối bài thơ chính, là giọng điệu của bài ca dao, là “tình” - cái tình của người lao động được khai thác trong lời của người sáng tác. Hơn nữa, cái chữ “ai” đa ngôi điệu nghệ được dùng quen nếp trong dân gian đã khiến tất cả: đối tượng miêu tả - người lao động, chủ thể sáng tác - người viết, bạn đọc - người nghe bỗng trở nên hòa vào nhau trong một giọng


chân thành, hiểu biết sẩu sắc về cái khó khăn của lao động, sự hi sinh của con người khi tạo ra thành quả lao động. Sáng tác vì thế không còn là c.ủa riêng ai, mà là của tất cả mọi người, là của nhân dân, ai đọc qua câu ca dao cũng thấy mình ở trong ấy, thấy mình nặng nợ mang ơn với cuộc đời.

IC IA L

Tính chân thực của thơ ca nói chung và của nghệ thuật nói riêng không gì khác chính là nói lên được một cách chân thực tình cảm sâu xa của tất cả nhân dân quần chúng, khiến tác phẩm nghệ thuật trở thành tiếng lòng của tất cả mọi người. Chính tất cả những nét đặc sắc hòa điệu ở cả hai phương diện: nội dung chân thực và hình thức nghệ thuật đầy biểu cảm và giản dị đã giúp bài ca dao có một vị trí sâu sắc trong tâm hồn nhiều thế hệ nhân dân lao động Việt Nam từ bao đời nay. Bài 27: Cảm nhận về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn thơ của Nguyễn Trãi.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

BÀI LÀM THAM KHẢO Từ xưa, loài người đã từng sản sinh ra một mẫu người vô cùng hiếm hoi: mẫu nhân tài bách khoa như Lê-ô-na đờ Vanh-xi (1452 - 1519). Nguyễn Trãi của Việt Nam thuộc mẫu người đó. Trong thế kỉ XV, dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra một con người toàn thiện: Nguyễn Trãi (1380 1442). Nếu lấy sự toàn thiện làm tiêu chí thì Nguyễn Trãi xứng đáng là “con người ưu tú nhất của dân tộc ta” kể từ khi lập quốc (thời đại Hùng Vương) đến nay. Nguyễn Trãi chính là mẫu người mà thi hào Anh sếch-xpia đã ca ngợi trong vở kịch Hamlet: Đây con người, một con người toàn vẹn Chẳng bao giờ tôi thấy kẻ sánh ngang. Lê Thánh Tông, ông vua anh minh, có câu thơ ca ngợi Nguyễn Trãi: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo. (Ức Trai lòng dạ sáng sao Khuê.) Bạn có biết không? Đã là những ngày cuối thu rồi đó! Nắng tháng chín dịu nhẹ và hiền hòa in tán hàng cây trên mặt đất, đi dọc đường sẽ nhìn thấy người, xe cùng tiếng ồn ào nô nức tấp nập, nghe được cả những âm thanh ríu rít cả bầy chim đua nhau hót ở đằng xa, bỗng dưng lòng ta lại chộn rộn lạ. Thiết nghĩ trên con đường nhiều lắm bon chen thường ngày, có được mấy ai sống trong cảnh thanh bình của đật nước mà quay đầu nhìn lại một thời quá khứ đấu tranh của cha ông ngày trước giữ gìn giang san? Xin mượn lời của nhà thơ Tố Hữu - người đã lội ngược dòng thời gian để “trông lại nghìn xưa”, để trở về với những tưởng nhớ tiền nhân với một lòng sâu sắc: Trải qua một cuộc bể dâu Câu thơ còn... đọng nỗi đau nhân tình Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xẻ lòng. (Trích Bài ca xuân 196T) Những câu thơ để lại trong lòng ta nhiều khắc khoải, nhà thơ Tố Hữu sống trong thời binh lửa chiến tranh vẫn nhớ đến những tiền nhân ngày trước, còn chúng ta - những người dân hưởng thái bình sau này, đã lần nào thực sự ghi nhớ đến công lao cha ông? Có lẽ sự “bất chợt nhớ” ấy đã khiến ta chộn rộn về những năm tháng mà mình đã sống cùng những lời vô cảm, những dòng văn trang trải vô hồn? Giờ ta đã đủ lớn đủ để hiểu rõ câu “uống nước nhớ nguồn”, để hiểu rằng tượng đài người anh hùng Nguyễn Trãi mà nhân dân dựng lên ở các công viên và ở trong đền thờ không phải chỉ là một bức tượng trang trí vô tri, đó là một bằng chứng, một tấm lòng thiêng liêng của người đời sau ghi khắc để nhở đến ơn cụ Ức Trai. Nhân kỉ niệm 636 năm ngày Nguyễn Trãi đi về


H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

miền viễn xa, chúng ta xin gửi chút lòng hồi tưởng lại cuộc đời vĩ đại của Người - một nhân vật toàn tài của lịch sử Việt Nam, một đại quốc công thần của nước Đại Việt -Nguyễn Trãi. Nhìn lại quá khứ hào hùng là để sống hết mình với hiện tại và luôn vững bước đến tương lai. Tìm lại những trang sử vàng chói lọi của dân tộc với biết bao nhiêu nhân vật kiệt xuất, biết bao nhiêu tướng lĩnh kì tài, ta bắt gặp được hình ảnh của vị anh hùng Nguyễn Trãi - bậc đại quốc công thần của nước nhà, một quẵn sư tài ba, một nhà chính trị lỗi lạc, một nhà ngoại giao tài giỏi, một nhà thơ, nhà văn mang tầm cỡ kiệt xuất. Càng đi sâu vào cuộc đời Người, ta càng thấu cái lòng của một bậc tiền nhân, của người luôn hết lòng vì nước, vì dân, luôn “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”. Nguyễn Trãi là hiện thân của một tầm vóc con người vĩ đại, một người khổng lồ của thế kỉ mười lăm, một tấm lòng son hừng như lửa luyện và một tư tưởng nhân nghĩa trải rộng vô ngần. Cuộc đời ông không chỉ là một bản trường ca hào hùng thăng trầm khó gặp mà còn là một bản trường ca bất tận trong trang lịch sử vàng và trong mỗi con người Việt Nam cả xưavà nay. Nguyễn Năng Tĩnh - một nhà nho đã từng viết câu rất chí lí rằng: Những người có tài trí lỗi lạc, đức độ bao la, khi đem tài đức ấy thi thố ra việc làm, thì là sự nghiệp; thổ lộ ra lời nói thì là văn chương. Nguyễn Trãi chính là một người như vậy! Con đường sự nghiệp của ông gắn liền với thi văn và tư tưởng nhân nghĩa. Khi giặc Minh sang cướp nước, ông bị truy đuổi, bị bắt giam nhưng rồi trốn thoát, trải qua bao gian truân, lắm bể dâu náu mình trong dân, ông đã tìm đến Bình Định Vương Lê Lợi, dâng “Bình Ngô sách” và sát cánh cùng nghĩa quân đánh đuổi quân xâm lược, ông là một quân sư tài ba, với đường lối chính trị đúng đắn và tư tưởng tiến bộ, cuối cùng nghĩa quân toàn thắng, giang sơn Đại Việt lại thanh bình, “áng thiên cổ hùng văn” được bố cáo hùng hồn, vang vọng nghìn thu như là một bản tuyên ngôn độc lập, là sự mừng vui của Nguyễn Trãi trước non sông chủ quyền: Xã tắc từ đây vững bền

N

Giang sơn từ đây đổi mới

Y

Càn khôn bĩ rồi lại thái.

U

Nhật nguyệt hối rồi lại minh. (Bình Ngô đại cao)

Q

Và sau khi nước nhà độc lập, ông vẫn hăng hái tham gia công cuộc xây dựng nước, chỉnh đốn triều đình, nhằm làm cho:

M

Ngay cả những chốn thôn cùng xóm vắng Cũng không còn nghe thấy tiếng ta than.

D

ẠY

Ông có mắt nhìn thấu triệt con người, từng dâng sớ xin chém đầu bảy tên hoạn quan lạm quyền, nịnh hót nhưng nhà vua không nghe. Tâm can ông đem hết mình giúp cho nước nhà, cho triều đình, luôn “ước bề báo ơn minh chúa” nhưng biết rằng “đạo” của bản thân không còn được trọng dụng ông đã xin cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn năm 1439 bởi lẽ ông biết: Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc Cho hay đường lợi cực quanh co. (Trần tình, bài 8)

Ông đã trở lại Côn Sơn, nơi mà thị phi thế gian không bao giờ chen chân vào được chốn bồng lai tiên cảnh, nơi áng mận đào không bì được cảnh tình trong sạch, cuộc sống giản đơn: Về đi, sao chẳng sớm toan Nửa đời vướng víu bụi trần làm chi?


Muôn chung chín vạc cần gì? Cơm rau nước lã đủ tùy phận thôi. (Dịch thơ Bài ca Côn Sơn) Tuy vậy, dù cho ông tham nhàn lánh đến giang san, ngày vắng xem chơi sách một ạn (Ẩn cả - Ngôn chí kì 16) nhung tấm lòng “ưu dân ái quốc” nào đâu dễ phai, càng ngày càng sáng ngời rực rỡ:

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Bui có một lòng trung lẫn hiếu Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen. (Thuật hứng, bài số 24) Và luôn sống liêm, cần, trung, hiếu trong sạch như nước, vẫn vững một tấm “lòng son” với đạo vua tôi, ông tiếp tục hăng hái tạo lập nước nhà để báo ân quân, đền nợ nước: Bui một quân thân ơn cực nặng Tơ hào chưa bảo hãy còn ân. (Mạn thuật) Ở Nguyễn Trãi nổi tiếng nhất về tư tưởng nhân nghĩa và cả tư tưởng “nhàn” rất đặc biệt của ông. Như một mặt hồ trong vắt, một tạm gương hội đủ muôn sắc đẹp đẽ phi thường, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với việc kinh bang tế thế, trừ bạo ngoại xâm, gây dựng quốc thái dân an như ông đã khẳng định tư tưởng của mình qua bài cáo thiên hạ: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. (Bình Ngô đại cáo) Nhân nghĩa được thể hiện rõ ở tấm lòng cao cả “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Và đường lối chính sách tiến bộ vượt bậc với tư tưởng “lấy dân làm gốc”, ông đã viết: Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng Ta cho toàn quân là hơn, cùng dân nghỉ sức. (Bình Ngô đại cáo)

Hổ phách, phục lình nhìn mấy biết

,

M

Trong thời chiến cũng như thời bình, tấm lòng ông vẫn hướng về nhân dân, trong từng câu thơ, con chữ, “nhân nghĩa” ông mãi sáng ngời hiện rõ: Dành còn để trợ dân này. (Tùng)

D

ẠY

Vì sao nói tư tưởng “nhàn” của ông rất đặc biệt? Bởi lẽ ta nhớ đến Bạch Vân Cư Sĩ - Tuyết Giang Phu Tử nức tiếng với phong cách “nhàn” rất “tiên ông” nhưng Nguyễn Trãi, ông cũng viết nhiều bài thơ, nhất là khi cáo quan về ẩn dật chốn quê nhà, về cảnh “nhàn”, sao lại không được nhiều người nhắc đến? Ngẫm nghĩ thì mới vỡ ra, ông còn vướng “bụi trần”. Bụi trần là tiền tài ư? Không phải, bởi ông hiểu được rằng: Sang cùng khó bởi chưng trời Lăn lóc làm chi cho nhọc hơi? (Bảo kính cảnh giới, bài số 6) Và trong ông, hai từ phú quý chẳng qua chỉ là hư ảo, ông đã từng bày tỏ: Phú quý chẳng tham thanh tựa nước


Lòng nào vạy mỗ hơi hơi? (Ngôn chí, kì 21) Ai có thể lay chuyển được ông? Không ai cả! Bụi trần là công danh ư? Cũng không phải vì: Phú quý lòng hơn phú quý danh Thân hòa tự tại, thú hòa thanh.

Bui một tấc lòng ưu ái cũ .

O

Đêm ngày cuốn cuộn nước triều đông.

FF

IC IA L

Hỏi “bụi trần” là gì? Không phải là những thứ thế tục tầm thường như thế, mà là “tấm lòng còn nghĩ đến dân, lo đến nước” cao thượng của ông! Nguyễn Trãi cáo quan ở ẩn, sống một cuộc sống thanh đạm như những bậc hiền triết với: Đồ thư bốn vách nhà làm của - Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền (Bảo kính cảnh giới, bài 36) và ngâm câu Danh lợi bất như nhàn, thế nhưng Người thực sự có nhàn? Nhàn thì nhàn thân đấy nhưng tâm thì không, khúc mở đầu của những bài thơ luôn là hình ảnh vui với “thú điền viên” nhưng cuối cùng chính lại quay về với thời cuộc, với nhân dân:

H

Ơ

N

(Thuật hứng, số 24) Ngay trong cả những lúc ngồi “hóng mát thuở ngày trường”, ông cũng không quên được việc nước việc dân, sự ước ao của ông vượt trên cả những suy nghĩ đời thường, mơ ước tuy nói chỉ là mơ ước, nhưng còn tùy vào giá trị của nó, mơ ước của Nguyễn Trãi không chỉ đẹp mà còn rất lớn lao: Dẽ cỏ Ngu cầm đàn một tiếng

N

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Y

(Cảnh ngày hè)

Q

U

Vậy không phải cái nhàn của ông rất đặc biệt ư! Một cái nhân không trọn vẹn, một cái nhàn quẩn quanh với nhân dân, với nước nhà. Cái nhàn của ông gắn liền với tấm lòng son còn trung hiểu với nước nhà, với nhân dân và với quân thần.

M

Thơ văn Nguyễn Trãi là những gì rất mực tài hoa, có nhiều lúc uyển chuyển, hữu tình, đẹp biết bao nhiêu với phong cảnh “chốn bồng lai”: Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc Thuyền chở yên hà nặng vạy then. (Thuật hứng, số 24)

D

ẠY

Có lực lại mạnh mẽ, chí khí, bừng sáng một con người mang tầm vóc “đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam”: Một tấm lòng son hừng như lửa luyện Mười năm quan sạch tựa hồ băng Thảnh thơi ta vẫn rằng ta thích Cúi ngửa theo người thiếu khả năng. (Mạn hứng- Khương Hữu Dụng dịch) Có cái nhìn xuyên suốt cuộc đời ông, cảm nhận và hiểu rõ hơn con người ông, ta càng biết


được thêm thật giả, trắng đen, càng ghét cay đắng những phường mưu toan lợi lộc nhẫn tâm hàm oan công thần: Một vườn thơ chỉ kết mùa nhân nghĩa Làm sao trọng tội với triều đình? Hay bởi thi tài vòi vọi tỏa? Vầng trăng nhân nghĩa quá lung linh.

IC IA L

(Ánh sao Khuê - Nguyễn Vũ Tiềm)

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

Có lẽ “thế thái nhân tình” mà những bậc tiền nhân ngày trước nói đến là đây! Năm 1442, Nguyễn Trãi bị hãm hại mà hàm oan, bị khép tội giết vua và “tru di tam tộc”. Có lẽ “tạo hóa trêu người”, “trời ganh hiền tài” mới để bọn gian thần hại dân, hại nước lộng quyền, đã đem một bậc đại quốc công thần, một bậc đại nhân nghĩa khép đại tội như vậy! Hỏi trên đời còn gì oan khuất hơn như thế? Cái chết của Nguyễn Trãi để lại nỗi thương tiếc ngàn đời cho hậu thế, Người đã đi vào cõi vĩnh hằng như bao bậc đại nhân, đại chí ngày xưa: Thánh hiền xưa cũng như ta Thẳng ngay mà chết ấy là chết trong. (Li tao - Khuất Nguyên) Nhưng thời cuộc xoay vòng, sự đời dù thay đổi “bãi bể non dâu” cũng đều quy về hai chữ “công bằng”. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi và ca ngợi bằng một câu thơ nức tiếng: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Ức Trai tâm sáng tựa sao Khuê). Lịch sử lại ngời ngời bừng sáng tên Người, của một nhân vật toàn tài hiếm có: Một vườn thơ chỉ kết mùa nhân nghĩa Một khí phách anh hùng soi sáng bước ta đi Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng Sống hiên ngang và nhân ái chan hòa Người đã ra đi nhưng tiếng thơm còn lưu mãi, sống hết mình vì dân vì nước, đến khi đã thoát khỏi trần tục, Người vẫn đem lại niềm tự hào cho nhân dân, nước nhà Việt Nam khi trở thành Danh nhân vãn hóa thế giới do tổ chức UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) công nhận năm 1980. Ngôi sao Khuê trên bầu trời kia không nhìn thấy được nhung ngôi sao Khuê của dân tộc thì vẫn mãi rạng ngời, sáng vĩnh cửu cùng non sông, Ức Trai đã về miền vĩnh hằng nhung Nguyễn Trãi vẫn sống mãi trong tim của bao người Việt Nam, của triệu triệu đồng bào khắp nơi và của những người yêu quý ú’c Trai trên toàn thế giới. Đối với chúng ta, Người không chỉ là những chức danh như thế, Người còn là một người thầy. Thơ văn của Người dạy chúng ta nhiều lẽ sống trên đời, phong cách sống của Người dạy chúng ta biết kính trọng và khâm phục nhũng bậc tiền nhân, dạy ta biết cái gì gọi là quý, là tâm, là trắng đen phải trái, là hành xử lỗi lạc, là một con người vĩ đại! Trang thơ có thể phai màu, dấu ấn của lớp bụi có thể càng dày càng chúng tỏ thời gian đã nhanh chóng trôi qua bấy nhiêu. Thế kỉ XXI, cách Người đã hơn sáu trăm năm, nhưng nhân dân vẫn nhớ đến Người, vẫn tiếc thương, đau xót, vẫn yêu kính, cảm phục, vẫn truyền tai, ghi dấu trên tùng trang vở, tùng con chữ về cuộc đời của Người. Nhìn lại quá khứ hào hùng để sống hết mình với hiện tại và luôn vững bước đến tương lai,, chúng ta luôn khắc sâu suy nghĩ này để có thể mạnh mẽ, ngẩng cao đầu tiếp nối bước chân Người đi trước để lại, để có thể gánh vác tiếp phần nào việc mà Người vẫn chưa trọn thực hiện: Nguyễn Trãi ngôi sao Khuê lấp lánh Người đứng đó giữa đài cao muôn trượng


Xin đừng lo: Mực thước người sau Việc nước cháu con xin gánh vác Đạo nhân Người tạc dạ trong tim. (Khắc ghi ơn Người -Nguyễn Trãi, Nguyễn Thành Huân) Bài 28: Cảm nhận về sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam qua văn học BÀI LÀM THAM KHẢO Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

IC IA L

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà.

(Đi trên mảnh đất này - Huy Cận)

FF

Vút cao và tâm tình đến thế! Những câu thơ của Huy Cận nghe vang vọng trong tâm trí, dắt nẻo hồn ta nghĩ đến đất nước và con người Việt Nam.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

Qua biết bao phong ba bão táp lịch sử, dân tộc ta đã thể hiện một sức sống mãnh liệt “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Bên cạnh ý chí độc lập dân tộc, bao giờ cũng sẵn sàng giáng những đòn sấm sét vào đầu kẻ thù, chúng ta còn có một tấm lòng yêu thiên nhiên và con người, tấm lòng yêu này tiếp thêm sức mạnh cho ý chí ấy và là khởi nguồn cho chúng ta tạo nên một nền văn học tuyệt vời. Văn học dân tộc là một thứ máu của Tổ quốc. Dòng máu văn học ấy chảy trong lòng dân tộc ta suốt chiều dài lịch sử, qua biết bao thác ghềnh và thấm vào tâm hồn chúng ta hôm nay với một sức sống rạo rực mãnh liệt. Yêu biết bao nền văn học ấy, nền văn học mà nội dung cũng như hình thức đều chứng tỏ sức sống, sự vươn lên của con người Việt Nam. Sức sống ấy bắt đầu bằng tình yêu đất nước, yêu thiên nhiên vô cùng tha thiết và trong sáng. Mỗi mảnh đất quê hương chúng ta đều mang hơi thở cuộc , sống của những ngày cha ông gian khổ khẩn hoang vỡ đất. Còn người Việt Nam đổ mồ hôi, xương máu, gắn chặt tâm hồn mình với mảnh đất thiêng liêng ấy. Thiên nhiên đất nước giàu đẹp nhưng cũng lắm thử thách, hăm dọa rập rình theo mỗi bước đi lên của con người Việt Nam. Mặc dù vậy, tình là yêu đời, tình là yêu cuộc sống vẫn là âm hưởng chủ đạo ngày ngày vang lên trong cuộc sống gian khổ mấy cũng vui được, cái vui vừa ngời chói, vừa trong sáng lạ lùng: Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi. (Ca dao) Vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của lồng người hòa quyện vào nhau trong câu ca dao mượt mà, khơi lên và chảy đằm thắm trong lòng ta một sức sống vừa dễ dàng, vừa rạo rực, mãnh liệt. Con người Việt Nam yêu lao động, biết quý vô cùng những giọt mồ hôi mình đổ ra để chắt chiu xây dựng cuộc sống. Tình yêu lớn ấy đối với đất nước, những đồng cam cộng khổ vất vả hàng ngày đã sớm gắn bó con người Việt Nam thành một khối thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Cha ông ta đã tự dặn mình và dạy con cháu thương yêu đùm bọc lẫn nhau: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. (Ca dao) Tình thương ấy là một trong những cội nguồn của sức sống con người Việt Nam. Tình thương giản dị nhưng rriang sức mạnh vô cùng. Tình thương ấy tạo nên sức mạnh đoàn kết giúp con người Việt Nam chiến thắng thiên nhiên. Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh ngàn năm rồi vẫn còn sống trong lòng dân tộc, vang dội sức mạnh, là sức sống không có một thế lực nào có thể huỷ diệt được của nhân dân ta. Văn học dân gian có một câu thành ngữ được coi như một phương


châm sống: Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, ý chí đánh giặc đã sớm nhập tâm và dường như đã trở thành cái phần bẩm sinh trong mỗi con người Việt Nam. Cha ông chúng ta mỗi khi thấy vó ngựa của quân thù khua ngoài biên ải thì tới bữa quên ân, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù... (Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn), ngày đêm canh cánh ý chí giết giặc cứu nước: Việc chưa xong tuổi đã già Đất trời thu gọn chỉ là cơn say.

IC IA L

(Cảm hoài - Đặng Dung, bản dịch của Hải Đà) Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống.

(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)

N

O

FF

Núi sông ta đã từng rung chuyển bởi tiếng hò “quyết chiến” của các bô lão tại điện Diên Hồng và ý chí “Sát thát”, hào khí Đông A như một dòng máu, một sức sống mãnh liệt suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Kì diệu thay sức sống, sức vươn tới của con người Việt Nam. Những nghĩa quân Lam Sơn ngày nào đã tiến hành một cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ. Cha ông ta đã mang dũng khí của cả dân tộc đạp bằng mọi gian nguy: Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần

Ơ

Khi Khôi Huyện quân không một đội

H

(Bình Ngô đại cáo)

M

Q

U

Y

N

để đi đến ngày toàn thắng, giang sơn gấm vóc thu về một mối. Sức sống của niềm tin vào chiến thắng ở ngày mai luôn xốc con người Việt Nam vượt qua mọi trở lực tàn bạo của quân thù. Chúng ta đánh giặc bằng tất cả sức mạnh của sông núi, của truyền thống lịch sử. Mọi sức mạnh, mọi tiềm lực của đất nước đều được huy động ra mặt trận. Chúng ta yêu sự sống và sự sống ấy là sức mạnh, là sức sống của chúng ta. Văn học dân tộc đã lưu lại cho con cháu mai sau hình ảnh rất đẹp về những người áo vải chân không mang tình yêu và lòng căm thù xông lên giết giặc. Đây chính là hình ảnh những nghĩa sĩ trong những ngày đầu tiên chiến đấu chống Pháp ở đất Nam Bộ được nhà thơ mù, thiết tha yêu nước Nguyễn Đình Chiểu khắc họa thành công trong tác phẩm nổi tiếng là Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc Ngoài cật có một mạnh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ.

ẠY

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

D

Sức bật ấy là sức bật của lòng căm thù, của tình yêu Tổ quốc thiết tha. Mỗi lần đọc lên, sống với hình ảnh ấy, chủng ta cảm thấy có cái gì đang thôi thúc ta, cuồn cuộn đẩy ta tới trước, ôi! Ngàn lần tự hào được làm con cháu của cha ông đã có một sức sống mãnh liệt như vậy!

Dân tộc ta, văn học ta trước mọi mưu mô đồng hóa của kẻ thù vẫn giữ cho mình một sắc thái riêng biệt, hết sức độc đáo. Chống lại dã tâm đồng hoá bằng chữ Hán của phong kiến phương Bắc, cha ông ta đã sáng tạo, xây dựng một nền văn học chữ Nôm phát triển khá rực rỡ, kết tinh rực rỡ bằng một Quốc âm thi tập, một Truyện Kiều bất hủ. Những vần thơ lục bát của dân tộc


IC IA L

Việt Nam vượt qua mọi phong ba của lịch sử, vượt qua mọi sự tấn công của các thể thơ Trung Quốc vẫn giữ được uyển chuyển đáng yêu của con người Việt Nam. Mỗi chúng ta đều lớn lên với tiếng ru của các làn điệu dân ca, những câu ca dao của mẹ. Qua một chặng đường lịch sử gian khổ mà huy hoàng, nền văn học của dân tộc với bản sắc dân tộc đậm đà là một trong những minh chứng hùng hồn khẳng định sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam. Chúng ta tự hào có ông cha anh hùng, đồng thời cũng tự hào đã kế tục xứng đáng truyền thống anh hùng đó. Sức sống mãnh liệt của dân tộc chảy theo dòng lịch sử đã tìm gặp được sự cộng hưởng vĩ đại trong ngày hôm nay khi chúng ta có Đảng. Từ trong đêm đen nô lệ: Con đói lả ôm lưng mẹ khóc Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi Kiếp người cơm vãi cơm rơi Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi!

FF

(Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu)

N

H

Ơ

N

O

Đảng ta đã ra đời chói ngời ánh sáng chân lí với một sức mạnh mới mẻ. Tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã làm nên cấp số nhân kì diệu cho sức sống mãnh liệt của dân tộc. Dân tộc đã chuyển mình theo Đảng tạo nên một sức sống mới, một sức mạnh mới. Tiêu biểu cho sức sống của dân tộc trên con đường tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là Bác Hồ kính yêu. Bác là người kế thừa sức sống mãnh liệt của cha ông, nâng nó lên tầm cao thời đại. Trong đêm nô lệ của dân tộc, Bác đã ra đi, nhân danh đau thương của dân tộc, nhân danh tình yêu, nhân đanh công lí quyết tìm đường cứu nước. Tổ quốc với biết bao đoạ đày, khổ nhục là điều ưu tư, trăn trở canh cánh ngày đêm trong tâm hồn Bác. Vị lãnh tụ của dân tộc đã trải qua nhũng ngày chiến đấu gian khổ. Người sống, chiến đấu, lao động trong hàng ngũ những anh em đồng chí đủ màu da:

Y

Có nhá chăng hỡi gió rét thành Ba Lê?

U

Một viên gạch hồng Bác chống lại cảmột mùa đông băng giá

Q

Và sương mù thành Luân Đôn người có nhớ .

M

Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya? (Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên).

D

ẠY

Khi gặp được chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Bác đã thắp lên triệu niềm tin cho đồng bào, Bác đã chiến thắng mọi gian nguy, vượt qua tù đày để trở về cùng dân tộc, ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê-nin theo Bác trở về chiếu sáng Tổ quốc, tỏa đến đâu bóng tối thực dân bị đẩy lùi đến đó. Sức sống của dân tộc cuồn cuộn lớn dậy cùng với lớp lớp chiến sĩ cộng sản hăng hái dấn thân vào con đường cách mạng. Cái thế đi lên ấy không có một sự đàn áp nào của thực dân Pháp có thể ngăn lại được. Mặt trời chân lí chói qua tim (Từ ấy - Tố Hữu), đốt nóng trong lòng người chiến sĩ cách mạng một ý chí chiến đấu mãnh liệt. Sức sống, sức quật khởi ấy bùng nổ dữ dội trong lòng xã hội thực dân, làm lung lay và cuối cùng lật đổ nhào cả cái chế độ tàn bạo ấy. Sức sống dân tộc trào dâng, cuồn cuộn sinh lực vào một ngày tháng tám lịch sử, cách mạng đã thành công: Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời. (Huế tháng Tám - Tố Hữu)


Gian khổ thì nhiều, nhưng sức sống và lòng lạc quan của ta là vô tận. Vượt qua những chặng đường hành quân: Lại những ngày đi, vắt với sương Ngô bung, xôi nhạt, nước lưng bương Đến mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ Tôi ngồi không ngủ nghe anh thở Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ.

FF

(Lên Tây Bắc -Tố Hữu)

IC IA L

Ai biết trưa nay giữa bụi bờ

O

Và rồi cứ khi đêm đến, vào một nhà dân, hạ ba lô bên bếp lửa thì mỗi ngày như được kết thúc bằng một niềm vui: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Khèn lên man điệu nàng e ấp

N

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Ơ

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

H

(Tây Tiến - Quang Dũng)

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

Sức sống của con người Việt Nam kháng chiến thật là kì diệu. Những năm tháng đánh Mĩ cứu nước ngời chói trong lòng ta những chiến công và niềm tự hào vô bờ bến. Bốt đồn quân thù đè nặng bóng tối quê hương ta, bà mẹ miền Nam căm thù quân giặc, thề còn cái lai quần cũng đánh (Người mẹ cầm súng- Nguyễn Thi). Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đi vào máu thịt, vào đời sống hàng ngày của nhân dân miền Nam quyết đánh và quyết thắng giặc Mĩ xâm lược. Cách sống của chị út Tịch cũng là phương thức sống của nhân dân ta, nó biểu hiện một sức sống tuyệt vời, vượt lên mọi bạo lực của quân thù. Triệu tấn bom không dập tắt được tiếng hát của chúng ta trên đường Trường Sơn, tình người Việt Nam sáng ngời trong lửa đạn: Và ở đâu? Trên trái đất này Người vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay Sống chết từng giãy mưa bom bão đạn Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn Việt Nam, ôi Tổ quốc thương yêu! Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều Như bà mẹ sớm chiểu gánh nặng Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng. (Chào xuân 67- Tố Hữu) Một người nước ngoài đã từng nói: “Nếu người Việt Nam thua đế quốc, thì cả loài người sụp đổ”. Câu nói ấy khẳng định sức mạnh, sức sống của chúng ta. Bên mâm pháo bắn máy bay


Mĩ, vẫn thắm tươi một cành đào (Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi - Nguyễn Tuân), triệu tấn bom đạn không cản được sức sản xuất ở các nhà máy chúng ta: Súng vẫn rền vang bay vẫn xây Cuộc đời ta dựng hai bề dày Bẻ sâu địa đạo bền chán móng Quang đãng hề cao lộng gió mây.

IC IA L

(Tiếng đời vui - Huy Cận) Qua văn học, sức sống ấy không những chỉ thể hiện trong nội dung tác phẩm mà còn rung lên mãnh liệt, sảng khoái ở ngay hình thức thể hiện trong tiếng nói tâm tình trong lời thơ của quê hương: Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi

O

Hồn thiêng đất nước đã ngồi bên con

FF

Nằm trong tiếng nói yêu thương

Ơ

N

Tháng ngày con mẹ lớn khôn Yêu thơ, thơ kể lại hồn ông cha Đời bao tâm sự thiết tha

H

Nói trong tiếng nói lòng ta thuở giờ.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

(Nằm trong tiếng nói- Huy Cận) Cảm ơn Đảng đã dẫn dắt chúng ta chiến đấu và xây dựng. Sức sống của dân tộc trong lòng thời đại hộm hay mắnh liệt hơn bao giờ hểt. Sức sống ấy bắt nguồn từ lòng yêu Tổ quốc, từ ý thức độc lập tự chủ vô địch, Cha ông chúng ta xây dựng nên một nước Việt Nam tràn trề sức sống, tràn trề sinh lực, chúng ta và con cháu chủng ta sẽ đưa nó đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ngời lên, cuộn dâng trong ta hôm nay sức sống con người Việt.Nam qua bốn ngàn năm dạn dầy với lịch sử. Chúng ta sẽ mang sức sống ấy cùng Đảng đi xa, bay xa hơn nữa. Một ngày mai rất đỗi huy hoàng đang chờ đón chúng ta. Bài 29: Phân tích bài Đêm Côn Sơn của Trần Đăng Khoa. Tiếng chim vách núi nhỏ dần Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa Ngoài thêm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền Bỗng đâu vang tiếng sấm rền Tính ra em thấy trong đền đỏ hương Ngang trời kêu một tiếng chuông Rừng xưa nổi gió suối tuôn ào ào Đồi thông sáng dưới trăng cao Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm Em nghe có tiếng thơ ngâm... Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya... (Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, NXB Văn hóa dân tộc, 2017) BÀI LÀM THAM KHẢO


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Côn Sơn như một điểm hứa hẹn đối với các thi nhân. Đây thực sự là nơi vân du, ẩn dật và tu tâm dưỡng tính của các bậc danh nhân và bao tao nhân mặc khách, những người tiêu biểu cho tâm hồn, khí phách, văn hoá Việt Nam ở nhiều giai đoạn lịch sử. Trong số họ, Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã nhiều lần, nhiều năm sống gắn bó, chan hòa cùng thiên nhiên tạo vật ở nơi đây. Ông đã coi Côn Sơn như “núi nhà”, “quê cũ” và tìm thấy ở chốn này bạn bè tri âm tri kỉ. Cũng hiếm đâu như ở Côn Sơn lại có nhiều trí thực, văn nhân, những nhà văn hoá đến thăm, cảm hứng và sáng tạo như ở Côn Sơn. Đã có bao người làm thơ về Côn Sơn. Và Trần Đăng Khoa, thần đồng thơ ca xứ Đông là một trong những người làm thơ ấy. Đêm Côn Sơn được Trần Đăng khoa viết khi chú bé mới mười tuổi. Thi phẩm tựa như là một ghi chép bằng thơ về một đêm ngủ ở Côn Sơn khi tham quan. Bài thơ có hai phần rõ rệt: phần thứ nhất (sáu dòng đầu) và phần thứ hai (tám dòng cuối) được ngăn cách và nối nhau bởi một giấc ngủ bị ngắt quãng đột ngột do tiếng sấm rền. Như một bức kí họa về chốn lấm tuyền, Đêm Côn Sơn có cả núi rừng, cây cối, chim chóc, suối và cả ánh trăng. Tuy nhiên bức tranh miêu tả cảnh về đêm, tất cả chỉ hiện hình qua những âm thanh mà chỉ thính giác con người mới cảm nhận được. Nếu so về thời điểm sáng tác và bối cảnh lịch sử xã hội thì thời điểm Trần Đăng Khoa đang sống khác khá xa với Nguyễn Trãi. Thế nhưng trong bài thơ này tác giả cũng đã mơ về Nguyễn Trãi. Khung cảnh trong bài thơ thuộc về màn đêm, ta thử lắng nghe Trần Đăng Khoa đã cảm nhận được điều gì ở Côn Son lúc đêm về? Khi màn đêm buông xuống, cảnh vật ở Côn Sơn như bị che phủ bởi tấm nhung huyền; chỉ còn đâu đây “tiếng chim vách núi nhỏ dần”. Bởi chim đã bay về tổ nên tiếng hót dần thưa thót, mơ hồ... “Tiếng chim”, “vách núi”, “nhỏ dần” như vậy hình ảnh ban đầu gợi cho ta thấy về Côn Sơn là chim chóc với tiếng hót vang đang dần tắt lịm đi lúc màn đêm buông xuống, nó “nhỏ dần” và như sắp lặn hẳn cũng như “vách núi” kia cùng “cánh chim” về tổ đang “nhỏ dần” trong mắt Trần Đăng Khoa vậy. Ngày thì rộn tiếng chim ca, dưới kia, tiếng suối “khi gần, khi xa” như “rì rầm” không dút, đêm về cảnh cũng thật hữu tình “rì rầm tiếng suối khi gần khi xa” với thanh âm “rì rầm” của suối “khi gần khi xa”, gợi cho ta có một cảm giác thật rộn ràng trong lòng. Dù cách xa thời Nguyễn Trãi nhưng trước thực cảnh Côn Sơn, Trần Đăng Khoa cũng đã bằng trực giác của mình quan sát và tái hiện lại khung cảnh rất đặc sắc, đặc biệt là vẻ đẹp lúc đêm về ở Côn Sơn. Chính thực cảnh ấy đã gợi nên ở tác giả biết bao cảm xúc, Trần Đăng Khoa cũng đã khắc họa vào thơ với tâm hồn của một người thưởng ngoạn. Gần hơn nữa trước mắt tác giả là hình ảnh: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa, mọi âm thanh đều ở trạng thái giảm nhẹ “nhỏ dần”, xa dần “khi gần, khi xa”. Đêm nơi đây tĩnh lặng đến nỗi nghe thấy cả tiếng lá đa rơi. Trần Đăng Khoa còn cảm nhận được cả tiếng rơi ấy: Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Khả năng tưởng tượng của Trần Đăng Khoa đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Trước hết Trần Đăng Khoa đã mượn hình ảnh chiếc lá đa dù ở Côn Sơn không có loại cây này và tạo dáng cho nó như một nhà nghệ sĩ đang vẽ, âm thanh toát ra từ chiếc lá với độ “mỏng” và có hướng “nghiêng” quả là chỉ có ở Trần Đăng Khoa mà thôi. Nhưng điều đó chứng tỏ Trần Đăng Khoa là người có kinh nghiệm quan sát và đã thẩm thấu đứợc hình ảnh một “chiếc lá chao nghiêng trong gió”, một điều mà hẳn chúng ta cũng thấy nhưng mà không dễ nhận ra. Độc đáo của Trần Đăng Khoa là ở chỗ ấy, như “thần cú” của bãi thơ đã được nhiều người khen không tiếc lời. Nhà thơ Tố Hữu nói: “Giời đã mượn cái miệng trẻ con của Khoa để làm thơ cho người lớn đọc”. Không hiểu sao một chủ bé mười tuổi lại có được câu thơ như vậy Nhà thơ Xuân Diệu thì lại khen Trần Đăng Khoa, nghe tinh, có giác quan tinh tế: Đó là câu thơ của Giời. Câu thơ hay vì ở đây có sự chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác. “Nghe” tiếng lá đa rơi mà như “nhìn” thấy cả hình dáng chiếc lá “rất mỏng” và độ rơi của nó “rơi nghiêng”. Phải chăng đó là khoảnh khắc chiếc lá lìa cành, buông mình vào hư vô và bắt đầu hành trình của nó. Chiếc lá khẽ lắc lư một chút, đung đưa một chút, xoay vần nhẹ trên không rồi khẽ khàng chạm xuống mặt đất. Nhà thơ “nhí” đã ghi lại cái khoảnh khắc dịu dàng ấy bằng từ “rơi nghiêng”. Lấy “động” để tả “tĩnh”, câu thơ đã tôn lên rất nhiều sự tĩnh lặng, tôn nghiêm của chốn linh thiêng Côn Sơn. Nhưng thực ra ở Côn Sơn không có cây đa. Chiếc “lá đa”


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

ấy là do Trần Đăng Khoa “hư cấu” ra và nó được ghép vào hợp lí đến nỗi không ai thoáng gợn chút hoài nghi. Trần Đăng Khoa đã dùng một cái không có thật “lá đa” để làm bật lên cái có thật, đó là sự yên tĩnh của Côn Sơn đêm nay. Và trong khung cảnh ấy, Trần Đăng Khoa còn nhận ra một hình ảnh đẹp lung linh: Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưn đền. Trần Đăng Khoa chọt này lên câu hởi “ông đang nghĩ gì?”, trái tim nhạy cảm của Trần Đăng Khoa đã muốn chia sẻ với tất cả. Đến đây như một khoảng lặng đi... Rồi sau đó một âm thanh lạ bất chợt nổi lên: Bỗng đâu vang tiếng sấm rền. Đó không còn là tiếng suối rì rầm nữa mà là một âm thanh kinh hãi đã bất chợt làm cho nhân vật “em” - chính là Trần Đăng Khoa lúc đang ở độ tuổi lên mười - bừng tỉnh. Tiếng sấm rền có thể nghe trong mơ, vậy thì tiếng thơ ngâm có thật hay nghe bằng tâm tưởng, nghe trong ảo giác? Nguyễn Trãi hiện về đọc thơ chăng? Người đọc Bình Ngô đại cáo hay Côn Sơn ca. Tiếng thơ của Người vẫn vang vọng giữa đất trời, non nước này; tấm lòng của Người vẫn sáng tựa sao Khuê. Nếu vậy thì Đêm Côn Sơn là bài thơ chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi - vị nguyên lão ba triều đầu bạc đã chết dưới lưỡi đao oan nghiệt của triều đình phong kiến. Tiếng sấm rền ngoài trời hay tiếng sấm rền trong mơ? Và chú bé bừng tỉnh. Cảnh tượng huy hoàng, rực rỡ, sôi động khác hẳn phần đầu. Mọi âm thanh và ánh sáng đều ở cường độ mạnh: Tỉnh ra em thấy trong đền đỏ hương Ngang trời kêu một tiếng chuông Rừng xưa nổi gió suối tuôn ào ào Đồi thông súng dưới trăng cao. Đương khi ấy Trần Đăng Khoa lại thấy “trong đền đỏ hương”, người ta thắp hương cầu nguyện chăng? Rồi một âm thanh khác lại tiếp đến: chuông thì kêu “ngang trời”, rừng thì “nổi gió”, suối thì “tuôn ào ào”, đồi thông thì “sáng” bừng, lên dưới trăng cao. Tất cả thật độc đáo, không chỉ ở khả năng tưởng tượng, hình ảnh đưa ra đã đủ để đánh bật vào suy nghĩ của người đọc, mà còn hấp dẫn bởi sức lôi cuốn từ phong cách cấu tứ. Cảnh càng kì ảo và mang tầm vóc vũ trụ hơn khi Trần Đăng Khoa như nhìn thấy hồn thiêng Nguyễn Trãi “về thăm”: Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm . Em nghe có tiếng thơ ngâm... Nguyễn Trãi vẫn nhớ về “quê cũ” (chẳng phải trong Quốc âm thi tập ông đã viết về Côn Sơn: Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân, Lẳng thẳng chưa lìa chốn trần" đó sao? Cảnh như thực như mơ. Sự chuyển vần của đất trời nơi núi rừng Côn Sơn hay giấc mơ thần diệu của nhà thơ khi đặt chân tới chốn linh thiêng này? Có lẽ cả hai. Ở đoạn thơ này Trần Đăng Khoa đã phóng bút với những câu thơ thật lãng mạn, bay bổng. Ta thử cảm nhận lại để thấy rõ hơn từ đầu bài cho đến dấu (...) ngăn bỏ lửng là một khúc nhạc khá êm ái tươi vui có phần vắt vẻo âm vang trầm bổng hữu tình và tiếp theo đó là những âm thanh thật chát và khó lọt tai đồng thời nhịp độ cũng tăng dần lên thật nhanh “một tiếng vang rền”, rồi “tiếng chuông giữa trời” và tất cả như bật dậy “rừng xưa nổi gió suối tuôn ào ào”, nó cũng tựa như xúc cảm nơi lòng tác giả đang dâng cao ngùn ngụt. Tiếng súng giặc nổ vang rền trên quê hương đất mẹ, dù không phải là nơi chôn nhau cắt rốn nhưng lòng cậu bé mười tuổi này vừa xiết nỗi kinh hoàng vừa lặng đi vì đau xót, nó cũng đã phá đi cái yên bình trong tâm trí và làm em bừng tỉnh, để lại trong lòng em một khoảng lặng suy nghĩ... Một ánh trăng cao trên đồi thông là một hình ảnh đẹp trong mắt Trần Đăng Khoa và cả trong mắt chúng ta nữa, và cái hình ảnh vời vợi, lồng lộng ấy đã gợi cho Trần Đăng Khoa hình ảnh thật kì vĩ: hồn Nguyễn Trãi trở về. Cái hồn ấy đã đứng cao hơn tất cả súng đạn, pháo bom và gót giày xâm lược của giặc, khẳng định sức mạnh dân tộc hay hồn Nguyễn Trãi đang ngày đêm canh giữ, ấp ủ mảnh đất của cha ông vậy.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Tầm nhận thức của Trần Đăng Khoa thật rộng và văn chương của Trần Đăng Khoa cũng gợi mở cho ta thật nhiều khía cạnh vấn đề. Hẳn không ai khi đọc bài thơ này lại nghĩ rằng nó xuất phát từ trái tim, từ tâm hồn của mọt cậu bé mới ở độ tuổi lên mười, vầng trăng được so sánh như hồn Nguyễn Trãi trở về là cực đắt không kém so với hình ảnh “chiếc lá đa rơi nghiêng” ở đoạn thơ đầu. Nó thể hiện cái tình của tác giả dành cho mảnh đất, dành cho dân tộc và dành cho cả Nguyễn Trãi vì chính Trần Đăng Khoa cũng đang chia sẻ với Nguyễn Trãi. Ở đây năng lực tưởng tượng kết hợp với xúc cảm thẩm mĩ đã giúp cho Trần Đăng Khoa thành công và nâng giá trị tác phẩm lên tầm cao. về phía bạn đọc, có lẽ điều này khơi gợi không ít những cảm nhận khác nhau song có lẽ qua hai hình ảnh ấn tượng “chiếc lá” và “vầng trăng” không ai trong chúng ta phủ nhận trong Trần Đăng Khoa chứa đựng một thế giới tình cảm rất phong phú, trí tưởng tượng linh hoạt và một tầm nhận thức xã hội rất thoáng. Em nghe có tiếng thơ ngâm... Đó không chỉ là tưởng tượng mà còn là sự đồng cảm của Trần Đăng Khoa với bậc vĩ nhân. Tiếng thơ ấy cao lắm, ai oán lắm trong lòng Trần Đăng Khoa vậy. Thêm một khoảng lặng nữa để tác giả quay về và đối mặt với thực tế: Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya. Đích thực Trần Đăng Khoa đang thấy hay đang tưởng tượng ra hình ảnh bộ đội ta đang ngày đêm canh giữ biên cương? Các chú bộ đội pháo cao xạ vẫn thức canh cho giấc ngủ của Côn Sơn yên tĩnh. Côn Sơn, nơi lữu giữ những trầm tích lịch sử và văn hoá của dân tộc, là mảnh đất thiêng không chỉ với người dân xứ Đông mà còn với muôn triệu người dân đất Việt. Đêm nay, hồn thiêng của thánh thần (bụt), của người anh hùng dân tộc (Nguyễn Trãi) cùng với núi rừng nơi đây, với người lính thời đại Hồ Chí Minh vẫn thức, giữ cho Côn Sơn mãi mãi binh yên. Điều đó càng có ý nghĩa hơn trong một đêm chiến tranh của năm 1968, khi giặc Mĩ bắt đầu leo thang bắn phá miền Bắc. Có lẽ cũng không có lời giải đáp nào trả lời một cách minh bạch song điều làm ta cảm thấy xao xuyến nhất vẫn là cái tình của tác giả trong bài thơ. Cái tình ấy như trào dâng và muốn gửi đến tất cả, tất cả những người chiến sĩ đang quên mình chiến đấu, cái tình mênh mông tựa hồ đã thể hiện quá rõ qua câu thơ khép lại bài mà không có dấu chấm câu vậy. Trần Đăng Khoa đã thể hiện tài năng điêu luyện của mình trong phong cách sáng tác từ cảm nhận cho đến cấu tứ nghệ thuật và cho ra đời một sản phẩm hoàn chỉnh, để nó mãi lưu lại dấu ấn trong lòng chúng ta về năng lực đặc biệt của cậu bé mười tuổi này. Bài thơ là một sáng tác đầy sáng tạo về mặt nghệ thuật và giàu giá trị về mặt nội dung, nó thật sự đạt đến độ hải hoà cả về hai mặt hội dung và hình thức. Đó quả là điều làm chúng tạ thật sự cảm phục ở “thần đồng” Trần Đăng Khoa.


N

O

FF

IC IA L

A. SƠ ĐỒ TƯ DUY I. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống 1. Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

2. Ví dụ minh họa Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) như thế nàọ về hiện tưọ'ng tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục? GỢI Ý LÀM BÀI 1. Khái quát vấn đề - Gợi ra vấn đề + Trong cuộc sống đang bộn bề, biến chuyển hằng ngày như hiện nay thì xã hôi, đất nước dạng cần đến một lực lượng thanh niên học sinh giỏi giang, tài đức. - Đưa ra vấn đề + Ngay từ bây giờ, học sinh được xem là những mầm non tượng lai, là người kế thừa công cuộc phát triển đất nước đang ra sức học tập, rèn luyện hết sức mình. + Nhưng trái lại bên cạnh đó, lại có một số học sinh đang học không đúng với khả năng của mình, và điều này đã tạo điều kiện cho một “căn bệnh” xâm nhập vào học đường hoành hoành, gây xôn xao ngành giáo dục nói riêng và xã hội nói chung. + Đó chính là bệnh thành tích trong giáo dục cùng với những tiêu cực trong thi cử. 2. Giải thích

D

- Tiêu cực trong thi cử là những hành vi giạn lận trong thi cử như: thí sinh mang tài liệu hoặc thiết bị không cho phép vào phòng thi, đánh dấu bài, nhắc bài cho nhau, giáo viên nhắc bài cho học sinh... - Bệnh thành tích trong giáo dục là hiện tượng chạy theo những danh hiệu thi đua của giáo viên, học sinh, các lớp, các trường và các phòng ban thuộc ngành giáo dục... gây nên hiện tượng điểm ảo, thành tích ảo, không phản ánh đúng khả năng và trình độ. 3. Thực trạng - Căn bệnh thành tích và tiêu cực trong thi cử ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nám, nhà trường


vì muốn đạt chỉ tiêu của Bộ đề ra, giáo viên muốn hoàn thành tốt thi đua của nhà trường nên đã lờ đi đạo đức nghề nghiệp mà cho điểm ảo. - Phụ huynh vì muốn con em mình là học sinh giỏi, học sinh thì muốn lên lớp, có danh hiệu mà không cần phải tốn sức học bài. Vì những lí do đó mà phát sinh hiện tượng chạy theo thành tích không quan tâm đến chất lượng:

IC IA L

+ Đối với các vị phụ huynh, chắc chắn rằng chẳng ai muốn con mình học kém hay học mà không có chất lượng. Họ là những nguời đã bỏ tiền của thật, công sức thật, thời gian thật và những hi vọng thật để lo cho con được thành tài. Vì thế, chẳng có lí do gì họ lại mong muốn nhận sự giả dối từ kết quả học tập của con mình.

FF

+ Tuy nhiên, đứng trên quan điểm thực dụng, họ sẵn sàng làm mọi cách, kể cả những cách tệ hại nhất mà chúng ta đã được biết qua báo chí, để con họ qua được một kì thi, có một tấm bằng đề tìm việc sau này. - Dẫn chứng

N

O

+ Đầu năm 2014, tại Trường Trung học cơ sở Trần Phú, huyện miền núi Sông Hinh tỉnh Phú Yên đã phát hiện hai mươi sáu học sinh lớp sáu đọc chưa thông, viết chưa thạo nhưng vẫn cứ được lên lớp.

H

Ơ

+ Trong những kì thi tốt nghiệp phổ thông và đại học, hiện tượng mang tài liệu vào phòng thi, tài liệu vứt trắng sân trường sau buổi thi đã từng được báo chí đề cập tới. 4. Nguyên nhân

Y

- Thầy cô muốn có tiếng là “thầy giỏi”

N

- Học sinh học kém nhưng vẫn mong có tiếng là “học giỏi”.

U

- Nhà trường, các phòng ban muốn có thành tích nhưng không có thực lực. 5. Hậu quả

Q

 Căn bệnh “thành tích” xuất hiện nhằm đáp ứng nhu cầu đó.

M

- Đây là hiện tượng xấu để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho ngành giáo dục:

+ Đối với học sinh: Tạo cho học sinh tâm lí ỷ lại; không phát huy được năng lực học tập, không có động lực học, không tiếp thu được tri thức, ảnh hưởng đến chất lượng dạy - học. + Đối với giáo viên: Đánh mất lương tâm nghề nghiệp; không có động lực để dạy, không có sáng kiến đổi mới phượng pháp dạy học.

D

ẠY

+ Đối với ngành giáo dục: Nền giáo dục trì trệ, chậm phát triển 6. Giải pháp chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục - Tất cả cần nhận thức đây là việc làm cần thiết mang lại lợi ích cho ngành giáo dục, tạo kỉ cương trong môi trường sư phạm. - Đối với học sinh: Phát huy năng lực học tập, bỏ đi tính ỷ lại, xóa bỏ tâm lí “chọi nhau” trong các kì thi tập trung. - Đối với giáo viên: Thực hiện đúng lương tâm nghề nghiệp, cố gắng tìm tòi phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học, thực hiện kiểm tra, đánh giá đúng năng lực của học sinh. - Phê phán những hành vi tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. 7. Bài học


N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Rút ra bài học cho bản thân và kêu gọi mọi người nói không với bệnh “thành tích”. Tương lai do mình quyết định, hãy sống như thế nào để không hổ thẹn với mình với những thành quả mình đạt được trong học tập. - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xứng đáng với lời Bác dặn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu”. Hãy quyết tâm đẩy lùi căn bệnh “thành tích”. II. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí Sơ đồ tư duy hướng dẫn làm bài

Ví dụ minh

D

ẠY

M

Q

U

Y

họa Đề bài: Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về tinh thần và trách nhiệm của mỗi người trong cuộc sống. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận - Mỗi người, ai cũng có quyền lựa chọn cho mình một cách sống. Hẳn ai sống đúng nghĩa cũng đều đã hình thành cho mình thái độ sống có trách nhiệm với bản thân. Nhưng liệu chỉ sống vì mình thôi đã đủ chưa hay còn phải sống cho gia đình và cho cả xã hội. - Sống có tinh thần trách nhiệm là một chủ đề sinh hoạt, học tập có tính nóng bỏng trong nhà trường và ngoài xã hội vì ý thức trách nhiệm của học sinh, công dân ngày nay đang dần bị phai nhòa và lãng quên. - Trong cuộc sống đang phát triển với một tốc độ chóng mặt như hiện nay thì việc xác định trách nhiệm của mỗi người đối với cộng đồng là điều vô cùng quan trọng. 2. Giải thích - Tinh thần là toàn bộ những hoạt động nội tâm của con người không thể thấy được như: ý nghĩ, tình cảm, ý chí... - Trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình. Tinh thần trách nhiệm là ý thức được trách nhiệm của mình trong công việc mà mình nhận lĩnh hay trong phạm vi chức vụ của mình.  Tinh thần trách nhiệm là một phẩm chất tốt đẹp luôn được đề cao và thường được xem là một


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

trong những tiêu chuẩn đạo đức cần yếu để lựa chọn người trao gửi công việc, nhiệm vụ. 3. Biểu hiện Có tinh thần trách nhiệm với bản thân, gia đình, những người xung quanh và với đất nước, cộng đồng. Lưu ý: Học sinh cần lấy dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. 4. Bàn luận - Mỗi người trong cuộc sống cần phải có tinh thần trách nhiệm. - Người có tinh thần trách nhiệm lúc nào cũng nỗ lực phấn đấu, khắc phục những khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ của mình. - Nếu một người có tinh thần trách nhiệm. + Người đó sẽ hoàn thành tốt công việc của mình, được nhiều người xung quanh tin tưởng  đạt được thành công trong cuộc sổng (dẫn chúng minh họa). + Những người xung quanh người có tinh thần trách nhiệm sẽ luôn có cảm giác an tâm, thoải mái khi giao việc cho người đó. + Xã hội có nhiều những người có tinh thần trách nhiệm sề là xã hội văn minh, phát triển. - Người không có tinh thần trách nhiệm, ngược lại, thường không cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, thường chỉ làm qua loa, làm ẩu cho xong, hay thậm chí bỏ bê, trễ nải công việc. + Người đó sẽ không thể hoàn thành tốt công việc của mình, không được mọi người xung quanh tin tưởng, tín nhiệm  khó đạt được thành công trong cuộc sống (dẫn chứng minh họa). + Những người xung quanh sẽ cảm thấy khó chịu, không thoải mái, bất mãn với thái độ thiếu trách nhiệm. Xã hội toàn những người thiếu tinh thần trách nhiệm sẽ là một xã hội trì trệ, không phát triển, không thể trở nên văn minh. - Thực tế ngày nay, không ít những người trẻ đang hờ hững với cuộc sống, thiếu lí tưởng, khát vọng. Thiết nghĩ những người trẻ chúng ta đang hoang phí sự sống để rồi tự hủy hoại ước mơ, hoài bão, lí tường của mình cũng như niềm tin tưởng của gia đình, bạn bè và xã hội. Thái độ thiếu trách nhiệm ấy còn thể hiện ở việc làm sai mà không thừa nhận và cho rằng đó không phải là nghĩa vụ của mình. Nhiều bạn trẻ đi trên đường ăn mặc hở hang mà không hề ngại ngùng trước bao con mắt cười chê của cộng đồng. Và đáng trách hơn nữa là nhũng ai không xác định được mục tiêu, trách nhiệm của mình, suốt ngày ăn chơi lêu lổng, bỏ bê việc học, lãng quên đi trách nhiệm của một người công dân đối với cộng đồng, bổn phận một người con đối với gia đình. 5. Bài học nhận thức và hành động - Hiện nay, nhiều người, nhất là những người trẻ, vẫn chưa ý thức được về tinh thần trách nhiệm cần có của mình đối với bản thân, những người xung quanh và với cộng đồng, đất nước. - Cần phải có ý thức đúng đắn về tinh thần trách nhiệm, từ đó biến thành hành động cụ thể: + Tích cực học tập, rèn luyện, biết quan tâm chăm lo đến những người xung quanh, quan tâm đến những vấn đề của đất nước. + Có trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước... - Không nên tự hài lòng với những gì mình làm được hay hưởng thụ những thành quả do mình tạo nên. Hãy biết quan tâm tới cảm xúc của người khác và đối xử công bằng với họ. Học cách sống có trách nhiệm là một quá trình kéo dài xuyên suốt, trong đó bản thân ta phải là người nỗ lực phấn đấu để làm tốt trách nhiệm của mình đối với cộng đồng.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

- Muốn sống tốt, thực hiện tốt bổn phận, nghĩa vụ của mình là việc không hề đơn giản nhưng ta có thể làm được khi nỗ lực để thực hiện từng ngày, từng việc nhỏ trong vô số những việc ta muốn làm và ước mơ, nỗ lực với trách nhiệm của một người trẻ tuổi.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

Bài 1: Anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận vói câu chủ đề: Con người sống cần phải có ước mơ. BÀI LÀM THAM KHẢO Giữa cuộc sống bộn bề những phức tạp và bon chen, có lúc bạn tự hỏi mình có ước mơ hay đam mê gì không? Và nó là gì? Ước mơ là một điều gì đó vượt ngoài tầm với, nó là khát vọng, là những điều tốt đẹp mà con người muốn đạt được “uớc mơ sẽ làm cho con người sống có mục đích, nghị lực”. Cuộc sống sẽ trở nên tươi đẹp hơn khi ta nuôi dưỡng ước mơ. Ước mơ được gieo mầm, ấp ủ có ngày trở thành hiện thực. Thật vậy, cuộc sống không thể thiếu ước mơ. Nó chắp cánh cho chúng ta để bay cao, bay xa, vươn tới những dự dịnh hoài bão cùa mình. Đặc biệt là tuổi học trò - lứa tuổi tươi đẹp, ngây thơ trong sáng nhất. Gắn với mỗi con người là những ước mơ khác nhau, có những ước mơ vĩ đại, đôi lúc lại viển vông là trở thành tỷ phú; có những ước mơ nhỏ bé gắn liền với thực tế là được hạnh phúc bên gia đình, có một bữa cơm ấm cúng, được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Khi ta sống có ước mơ thì mỗi ngày trôi qua, không đơn giản là ta hoàn thành công việc của ngày hôm đó, mà còn góp phần tích cực thực hiện ước mơ. Trong cuộc sống, những người biết ước mơ muốn biến ước mơ thành hiện thực có lòng quyết tâm cao độ. Họ thường tập trung làm những phần việc mà mình yêu thích để thực hiện ước mơ. Họ lập ra kế hoạch cho cuộc đời mình và ngày ngày hiện thực hoá nó. Ý chí, lộng kiên nhẫn và sự dũng cảm của họ càng được tôi luyện qua những thử thách và khó khăn mà họ nếm trải trong cuộc đời. Họ có ước mơ là họ đã có cả gia tài. Những người không có ước mơ thì sao? Khi ta sống mà không có ước mơ là ta đã đánh mất mục tiêu sống của mình. Khi cái thế giới màu hồng đó bị đánh mất là phải đối diện với thực tế lạnh lùng khô khan. Họ sẽ phải sống theo sự sắp đặt, sống theo rập khuôn vốn có của nó. Họ sẽ không được thoả sức đam mê, sáng tạo mà bị bó gọn trong vỏ ốc của sự tự ti và nhút nhát. Điều đó làm cho con người thay đổi theo chiều hướng tiêu cực. Để một ngày, họ chợt nhận ra họ không còn là chính mình nữa. Những người không có ước mơ là những người chưa hề suy nghĩ về mục đích sống, của bản thân. Họ chán nản và không tâm huyết về công việc mình đang làm. Những người cố gắng đạt được mục đích sống trên đường đời dù gặp nhiều gian nan, trắc trở nhưng ước mơ luôn là động lực giúp họ đứng lên sau mỗi khó khăn. Còn những người không có ước mơ thì ngược lại. Họ không có động lực để vượt qua khó khăn và luôn bằng lòng với những gì họ dạng có. Người ta nói rằng, hạnh phúc nhất là khi chúng, ta sống có niềm ước mơ, thực hiện được những gì mình mong muốn và sống mỗi ngày trọn vẹn với những niềm vui, nỗi buồn. Có quá nhiều người chưa xác định được ước mơ của mình, họ sống như những cái bóng bên lề xã hội, mờ nhạt và vô danh. Bạn có muốn sống một cuộc sống như vậy? Đừng nhé bởi vì chúng ta chỉ sống một lần duy nhất! Bài 2: Có ý kiến cho rằng: Con người luôn phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Song sự cố gắng đó đôi khi còn chưa có ranh giới rõ ràng giữa tham vọng và khát vọng. Anh (chị) viết một bài văn trình bày ý kiến của mình về vấn đề trên BÀI LÀM THAM KHẢO


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

Đại văn hào người Pháp V. Huy-gô đã từng nói rằng: Con người ta được sáng tạo ra không phải để mang xích xiềng mà để được tự do tung cánh bay lượn trên bầu trời; Câu nói ấy không chỉ nhằm khẳng định con người là tập trung của mọi vẻ đẹp tinh túy nhất, tuyệt vời nhất về hình thức và phẩm chất, về lí trí và tình cảm mà còn muốn khẳng định mạnh mẽ quyền được sống, quyền được khất vọng tự do, không khuất phục trước bất kì một thế lực đen tối nào trong xã hội. Song cũng vì điều đó mà có không ít người trong cuộc đời luôn nuôi cho mình những khát vọng lớn lao, những ước mơ cháy bỏng và sẵn sàng bất chấp tất cả để thực hiện được nó. Khi đó ước mơ của họ không còn thực sự là ước mơ, khát vọng nữa mà đã trở thành tham vọng, cao vọng điên rồ. Thật đáng ngại cho những ai sống ở đời mà không phân biệt được sự khác biệt vốn rất mong manh giữa khát vọng và tham vọng ấy. Và có ý kiến cho rằng: Con người luôn phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Song sự cố gắng đó đôi khi còn chưa có ranh giới rõ ràng giữa tham vọng và khát vọng. Hãy tưởng tượng thử xem, cuộc đời bạn, bản thân bạn sẽ ra sao nếu bạn cứ đeo đuổi những “giấc mộng con” và cứ chìm nghỉm, quẩn quanh trong cái “ao làng” trong khi thế giới đang trên hành trình “vươn ra biển lớn”. Khi đó chắc hẳn cuộc sống của bạn sẽ nhạt nhẽo, vô vị, buồn tẻ trôi đi nếu bạn chẳng có ước mơ, khát vọng gì. Có thể đó là một ước mơ, khát vọng không mang tính khả thi với điều kiện, môi trường sống và khả năng thực tế của bạn. Song đó vẫn là một giấc mơ đẹp, giúp bạn coi nhẹ những khó khăn, thiếu thốn, trở ngại, chông gai thực tại mà nhìn về phía trước. Nó còn giúp cho tâm hồn bạn, trái tim bạn, suy nghĩ của bạn luôn trong trẻo, luôn rung lên và thấm đẫm chất nhân văn. Song một khi ước mơ, khát vọng đó phù hợp với khả năng của bạn và có môi trường tốt, điều kiện tốt, bạn sẽ như được tiếp thêm sức mạnh, chắp cánh để bay cao, bay xa và đạt được tất cả những gì mình múốn với một sự tự hào về bản thân mình với sự ngưỡng mộ, nể trọng và chia vui của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Còn tham vọng thì sao? Tham vọng có thể được xem là mức cao nhất của khát vọng. Khi khát vọng đã trở thành tham vọng, nó sẽ khiến bạn như bị lạc đường. Bạn sẽ chẳng còn mắt để nhìn, tai để nghe và cái đầu để suy nghĩ cho tỉnh táo. Đôi khi, bạn sẽ trở thành nô lệ của cái ác. Làm sao để nhận ra bạn là người tham vọng hay nuôi dưỡng khát vọng? Người có tham vọng bao giờ cũng nghĩ mình là người tài giỏi, luôn đứng cao hơn người khác, chẳng bao giờ có được sự khiêm tốn và sự tỉnh táo, khách quan để nhận ra rằng “nhân vô thập toàn”. Thực tế, bản thận mình còn rất nhiều khiếm khuyết, còn thua người này kém người kia. Người tham vọng ghét cay ai đó dám nói thẳng với họ rằng: “Anh cũng thường thôi, còn phải phấn đấu, học hỏi nhiều”. Người tham vọng không chịu nổi khi trước mặt họ, người ta chỉ ca ngợi người khác có nghiệp vụ giỏi, sống lành mạnh, biết yêu thương, chia sẻ với đồng nghiệp và có động cơ phấn đấu trong sáng mà không đoái hoài gì đến họ. Họ sẵn sàng kết tội người khác thiếu sâu sắc, khách quan hoặc thiếu vô tư, công bằng khi nhìn nhận, đánh giá về họ. Người có khát vọng cũng thường rất khắt khe với bản thân, luôn không bằng lòng với mình và đặt ra những mục tiêu nghiêm ngặt cho mình trong học tập, nỗi lực phấn đấu để đạt được. Người tham vọng cũng luôn không bằng lòng với những gì mình có, song không bao giờ nhận lỗi về mình, không thấy bản thân cần phải phấn đấu rèn luyện ra sao mà chỉ thấy sao tạo hóa và cuộc đời lại bất công với mình thế. Mình luôn kém may mắn và luôn bị người khác đối xử thiếu khách quan, thiết công bằng với mình, thậm chí là luôn trù dập mình. Một tâm lí u uất, bức bối và bất mãn luôn bao trùm trong con người tham vọng. Và bằng mọi giá, kể cả những việc mà


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

một người bình thường sẽ không bao giờ hành xử như thế thì người có tham vọng mà không đạt được vẫn cứ làm. Con người họ luôn sẵn sàng làm tất cả cho những cuồng vọng của mình. Họ để lại bao nhiêu sự thất vọng, lời oán than cho những ai là nạn nhân của họ, kể cả người thân trong gia đình họ. Nếu ai cảm thấy mình có một vài biểu hiện của tính tham vọng thì cần tỉnh táo và biết dừng lại nếu không muốn phải trả giá đắt trọng cuộc sống, trong sự nghiệp và cả hạnh phúc riêng tư. Hoàng đế Napoleon của Pháp lừng danh thế giới có nói: “Mỗi người lính luôn phải giữ trong ba lô một cái gậy của thống soái, phải có khát vọng”. Vậy đấy, bạn hãy biết ước mơ, hi vọng, hãy nuôi khát vọng nhưng đừng tham vọng, bạn nhé! Bài 3: Có bao giờ bạn tự hỏi: Chúng ta đã đối xử thế nào với mọi người xung quanh? hoặc: Bạn cảm thấy thế nào nếu đối xử tốt với ai đó? BÀI LÀM THAM KHẢO Có bao giờ bạn tự hỏi: “Chúng ta đã đối xử thế nào với mọi người xung quanh?” hoặc “Bạn cảm thấy thế nào nếu đối xử tốt với ai đó?”. Có thể bạn sẽ thấy vui vì “tình thương là hạnh phúc của con người”. Nếu có một gia vị làm tăng thêm hơi ấm và ý nghĩa trong cuộc sống... đó chính là tình yêu thương. Nếu có một tình cảm thiêng liêng giúp chúng ta vượt qua bao khó khăn, thử thách đó chính là tình yêu thương. Sự ân cần, ấm áp của tình thương thật đẹp! Với tình thương đó, chúng ta có thể chia sẻ những cảm xúc và thấu hiểu lẫn nhau. Tình yêu thương giúp chúng ta trong lúc khó khăn bởi vì nó giúp ta kết nối ngôn ngữ trái tim. Có tình thương chúng ta cùng sát cánh bên nhau khắp mọi nẻo đường đời. Có tình thương chúng ta cùng ươm mầm cho trái tim hoài bão và khát vọng. Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ: “Tình thương là hạnh phúc của con người”. Trên thế gian này, có rất nhiều cách để định nghĩa tình thương nhưng nhìn chung tình thương yêu là một cảm giác đến từ sự chân thành của trái tim, nên vô cùng đơn giản, mộc mạc, không mang những mưu toan, tính toán và tình thương hiện diện khắp mọi nơi. Hạnh phúc là cảm giác vui vẻ, sung sướng hay đơn giản chỉ là sự thanh tịnh trong tâm hồn. Chính vì vậy mà tình thương yêu và hạnh phúc luôn tồn tại trong nhau. Xã hội ngày nay luôn bận rộn trong guồng mấy công việc, con người luôn phải chạy đua với thời gian, nhưng không vì thế mà tình thương yêu giữa người và người bị mất đi. Ở đâu đó vẫn còn rất nhiều những tấm lòng chan chứa yêu thương luôn rộng mở. Có rất nhiều bạn học sinh, sinh viên tham gia các chiến dịch “Mùa hè xanh”, “Hoa phượng đỏ” để giúp đỡ những người kém may mắn. Các bạn không quản khó khăn để mang con chữ đến cho các bạn vùng sâu vùng xa. Hay như bản thân chúng ta, khi Trung thu đến ta vẫn thường quyên góp lồng đèn giúp các em nhỏ vui tết Trung thu. Tất cả những điều đó đã phần nào chứng minh cho tình yêu luôn hiện hữu ở tất cả mọi nơi. Mặt khác tình thương còn là tấm lòng người mẹ, người cha, người ông, người bà... đối với con cháu. Họ cả đời lo lắng, chăm sóc, dành những gì tốt nhất cho người thân yêu. Thế đấy, sự thương yêu muôn màu muôn vẻ với muôn nghìn sự thể hiện. Nó tồn tại ở khắp mọi nơi và trong nhiều mối quan hệ từ bạn bè, gia đình đến xã hội. Thế nhưng tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó, tình yêu cũng vậy. Nếu chúng ta không đặt đúng chỗ, không mang đến cho những người cần thì nó sẽ trở thành một tác nhân xấu


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

cho gia đình và xã hội. Ví như một người mẹ thì lúc nào cũng yêu thương con nhưng nêu người mẹ đó lầm tưởng rằng yêu thương là cưng chiều thì sớm muộn đứa con ấy sẽ trở nên hư hỏng vì chúng cho rằng chúng là nhất. Không những thế cuộc đời muôn hình vạn trạng, có người tốt cũng có kẻ xấu. Tuy xã hội có rất nhiều người có tình yêu thuơng vô bờ đối với mọi người xung quanh nhưng cũng tồn tại những kẻ ích kỉ. Những người đó chỉ biết cuộc sống của mình, họ không quan tâm đến bất cứ ai. Họ không hề biết rằng cuộc đời là tập hợp của rất nhiều số phận may mắn, bất hạnh. Vì vậy, những số phận may mắn cần dang rộng vòng tay yêu thương để giúp đỡ những số phận bất hạnh, giúp họ vượt qua khó khăn của cuộc đời. Trên thế gian này, không có vị thần nào đẹp hơn thần Mặt trời, không có ngọn lửa nào đẹp hơn ngọn lửa yêu thương, chúng ta hãy mở rộng cánh cửa trái tim, mở rộng tấm lòng yêu thương, mang tình yêu đến với mọi người. Vì không những ta mang hạnh phúc đến cho mọi người, cho chính mình mà còn giúp những người bất hạnh hiểu rằng thế giới này vẫn vô cùng ấm áp tình người. Bài 4: Cơ thể tật nguyền không đáng sự. Điều đáng sợ hơn hết là trái tim tật nguyền. (Dẫn theo Câu chuyện nhỏ, đạo lí lớn - NXB Tổng hợp TP. HCM) Anh (chị) hãy viết một bài văn (khoảng 600) từ trình bày suy nghĩ của mình về câu nói trên. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Giới thiệu vấn đề nghị luận 2. Giải thích - Cơ thể tật nguyền là sự khuyết tật về hình hài thể xác, cơ thể không lành lặn, bị dị tật (do bẩm sinh hoặc bị tai nạn). Sự khuyết tật này là hữu hình, nhìn thấy được, khiến cho sự vận động, hoạt động của con người trở nên khó khăn thậm chí đau đớn. - Trái tim là biểu tượng của tâm hồn, của thể giới tinh thần nên vô hình, không có giới hạn và không thể nhìn thấy. - Trái tim tật nguyền là sự méo mó về tâm hồn, là trái tim không biết yêu thương, sẻ chia, dửng dưng vô cảm... trước cuộc đời.  Ý cả câu: Sự khiếm khuyết về thể xác không đáng sợ bằng sự khiếm khuyết về tâm hồn. 3. Bình luận và phân tích ý kiến a. Cơ thể tật nguyền không đáng sợ - Cơ thể tật nguyền có thể vì nhiều lí do, bẩm sinh hoặc tai nạn, ban đầu dễ khiến người khác có cảm giác sợ sệt. Song sự tai hại hạn chế của nó là có hạn. Người có cơ thể tật nguyền vẫn có thể làm được nhiều việc, vẫn là con người với ý nghĩa đầy đủ, người có cơ thể tật nguyền dễ làm người khác đồng cảm. - Cơ thể tật nguyền song không có sự mặc cảm hay tự ti về bản thân mà luôn có ý chí nghị lực vươn lên thì vẫn có thể làm được những việc có ý nghĩa, đặc biệt cơ thể tật nguyền lại có trái tim biết yêu thương thì lại càng đáng trân trọng, khâm phục.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

 Như vậy, cơ thể tật nguyền không phải là điều đáng sợ. b. Trái tim tật nguyền mới là điều đáng sợ - Con người có trái tim tật nguyền - méo mó về tâm hồn nên sống ích kỷ, sống nhỏ nhen, tầm thường, độc ác, không quan tâm đến ai, không quan tâm đến cái gì, không quan tâm đến việc gì, chỉ chăm lo vun vén cho bản thân mà quên đi, thậm chí giẫm đạp lên quyền lợi của người khác hoặc dùng mọi thủ đoạn cốt đạt được mục đích và lợi ích của cá nhân mình. - Trái tim tật nguyền - trái tim không có tình yêu thương, khi ấy trái tim con người sẽ trở nên băng giá, cô đơn, cằn cỗi sống thiếu tình yêu thương là tự mình phá vỡ mối quan hệ với đồng loại, không cảm nhận được hơi ấm của cộng đồng, sống bàng quan, thờ ơ, vô trách nhiệm trước mọi hiện tượng của đời sống xã hội. - Trái tim tật nguyền - trái tim bệnh hòạn, con người dễ lâm vào các tệ nạn, sống tàn ác, thậm chí trở thành quỷ dữ, gây tác hại vô hạn cho con người và xã hội.  Như vậy, trái tim tật nguyền mới là điều đáng sợ. c. Để có trái tim không, tột nguyền - Con người phải có suy nghĩ đúng, biết chăm sóc, xây dựng, khơi gợi và vun đắp bồi dưỡng tâm hồn. Phải có tình cảm, cảm xúc đẹp, phải sống với tình người, có tình cảm với đồng loại không chỉ giới hạn trong gia đình mà rộng ra xã hội và cả đồng loại để thế giới của chúng ta lúc nào cũng ngập tràn yêu thương. - Phải hành động thường xuyên, tích cực, chủ động, biết sẻ chia một cách vô tư trong cuộc sống. Kiên quyết lên án, phê phán người sống với trái tim tật nguyền - không biết yêu thương, không biết sẻ chia, dửng dưng, vô cảm... trước cuộc đời. 4. Bài học nhận thức và hành động - Câu nói thật đúng đắn và chứa đựng bài học nhân sinh sâu sắc. Con người có thể sống với cơ thể tật nguyền chứ không nên sống với trái tim tật nguyền. - Sống phải có nghị lực để vươn lên trên mọi hoàn cảnh. - Sống phải có tấm lòng yêu thương. Chỉ có sống vì người khác mới là điều đáng quý, vì sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình (Một khúc ca xuân - Tố Hữu). Bài 5: Có ý kiến cho rằng: Hòa nhập với thế giới là yêu cầu tất yếu của thời đại mới, song để vươn xa, trước tiên ta cần tự nhận thức về mình. Viết một bài văn nghị luận nêu suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Giới thiệu vấn đề nghị luận 2. Giải thích ý kiến - Hòa nhập với thế giới là sự giao lưu hợp tác, trao đổi trên nhiều lĩnh vực: vãn hóa, giáo dục, y tế... giữa các nước. - Tự nhận thức về mình là sự suy ngẫm, nắm rõ những ưu, nhược điểm của bản thân mình ở một cá nhân hay của một tập thể. Đây là cơ sở ban đầu cho quá trình hòa nhập với thế giới.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

 Về thực chất, câu nói nêu cao vai trò của quá trình tự nhận thức như một bài học cho cá nhân hay cộng đồng dân tộc trong cuộc sống và trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài, đặc biệt trong thời đại mới. 3. Bàn luận về ý kiến - Tự nhận thức là cơ sở, xuất phát điểm để con người hòa nhập với cuộc sống vì lẽ chỉ khi con người nhận thức đúng đắn về bản thân mình với những ưu và nhược điểm thì khi ấy họ mới có thể hòa nhập được với cuộc sống xung quanh. Một dân tộc muốn vươn ra hòa nhập với cộng đồng thế giới cũng phải trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về chính dân tộc mình. - Hòa nhập không có nghĩa là hòa tan, một mặt hòa nhập mặt khác cá nhân, dân tộc cần phải có ý thức trở về, giữ gìn và làm đầy cho nét riêng vốn có của mình trong quan hệ với xã hội, nhân loại. 4. Mở rộng và phê phán - Chỉ khi có ý thức và khả năng gìn giữ được bản sắc riêng thì khi ấy mới có cơ sở để thế giới tìm đến và hòa nhập với chính mình. - Cũng chính trong mối quan hệ với cộng đồng, nhân loại mà ta ý thức sâu sắc hơn về chính mình. - Những biểu hiện tự ti hay tự phụ về bản thân, về dân tộc của một bộ phận người Việt hiện nay. 5. Bài học nhận thức và hành động - Bản thân cần có ý thức sâu sắc về chính mình, luôn có thói quen kiểm điểm, nhìn nhận lại chính mình một cách khách quan nhất từ đó trau dội nhân cách cá nhân. - Giữ gìn bản sắc trong quan hệ với cộng đồng, thế giới cũng là một vấn đề mà chúng ta phải quan tâm, đặc biệt ở thời điểm hội nhập đang trở thành xu thế tất yếu này. Cá nhân và cộng đồng, các cơ quan hữu trách đều phẳi bắt tay trong các chương trình hành động nhằm gìn giữ, bảo vệ, trau dồi bản sắc dân tộc. Bài 6: Ngạn ngữ Gruzia có câu: Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về câu ngạn ngữ trên. BÀI LÀM THAM KHẢO Học tập là mục tiêu suốt đời của mỗi người. Chúng ta hiện nay đang phấn đấu xây dựng một xã hội học tập, nhằm phát huy tối đa khả năng cũng như quyền được học tập của mỗi người. Có một câu ngạn ngữ của người Gruzia: Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc. Thật vậy! Kiến thức không phải tự nhiên mà có. Đó là tích lũy hiểu biết của nhân loại, của cộng đồng, của nhiều thế hệ thông qua quá trình học tập mà thành. Học tập chính là quá trình tích lũy kiến thức! Câu ngạn ngữ trên đã có một ví von rất hay khi đưa ra hình ảnh “hạt giống” để nhấn mạnh tầm quan trọng của học tập. Hạt giống sẽ nảy nở phát triển thành cây. Quá trình học tập cũng như gieo hạt giống cho trí não và tâm hồn. Kiến thức nhiều cũng là kết quả tích lũy hạt giống sẽ hứa hẹn một mùa bội thu. Kiến thức tốt, đầy đủ, phong phú sẽ gieo những hạt giống cho tương lai của mỗi con người. Tuy nhiên cần phải hiểu thấu đáo hơn câu ngạn ngữ này ở


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

nghĩa bao quát của nó. Hạt giống chuẩn bị không tốt, cây sẽ phát triển èo uột, kiến thức nông cạn ít ỏí khiến chúng ta gặp vô vàn khó khăn, lúng túng và bế tắc trong công việc. Và một người học tập được điều hay lẽ phải thì cũng chính là tích lũy hạt giống tốt, còn kiến thức lệch lạc, sai lầm thì như hạt giống xấu làm hủy hoại tư duy và tâm hồn, sẽ không tránh khỏi gây tác hại cho đời sống. Cũng như vậy, chỉ trên nền tảng một kiến thức đầy đủ mới có tương lai hạnh phúc. Bởi vậy, trong đời sống, ta gặp không ít những tấm gương đổi đời nhờ kiến thức. Tuy nhiên mối quan hệ học tập – kiến thức - hạnh phúc không chỉ đựợc hiểu đơn giản một chiều mà cần phải thấy rõ mọi quan hệ biện chứng nhân quả của nó. Ông bà ta cũng thường nói “gieo nhân nào, gặt quả ấy” như một cảnh tỉnh. Xét mối quan hệ trong ba yếu tố hộc tập - kiến thức - hạnh phúc cũng cần được nhìn nhận từ nhiều phía; Học tập đúng đắn, có phương pháp, có chọn lọc thì mới có kiến thức tốt, đa dạng, phong phú; Kiến thức tốt cần gắn với thực tế, đem kiến thức ấy phục vụ cho xã hội và cho bản thân, không chỉ là những kiến thức thu lượm được theo kiểu thực dụng ích kỉ, vì nếu hạnh phúc của ta lại đem bất hạnh cho người khác thì cũng là ta đã tích lũy hạt giống xấu cho chính ta, gieo mầm bất hạnh cho người khác. Vì vậy, mỗi chúng ta phải xác định động cơ học tập đúng đắn, thu lượm kiến thức bổ ích, hướng tới hạnh phúc của cộng đồng hài hòa với hạnh phức cá nhân. Có như vậy mới thật sự trở thành con người có ích cho xã hội. Bài 7: R. Tago đã viết: Thà làm một bông hoa sen nở khi thấy mặt trời rồi mất hết tinh nhụy, còn hơn giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh vĩnh cửu của mùa đông. Suy nghĩ của anh (chị) về nhận định trên. GỢI ÝLÀMBÀI 1. Mở bài - Dẫn dắt vấn đề + Có ai đó đã nói rằng: Sinh ra trên đời là một việc hết sức đơn giản nhưng sống trên đời lại là một việc rất khó. + Mỗi người đều chọn cho mình một cách sống. Tuy nhiên sống như thế nào để cuộc sống này thực sự có ý nghĩa? Đó là câu hỏi không phải ai cũng trả lời thấu đáo. - Trích dẫn câu nói của R. Tago + Nhà thơ Ấn Độ R. Tago viết: Thà làm một bông hoa sen nở khi thấy mặt trời rồi mất hết tinh nhụy, còn hơn giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh vĩnh cửu của mùa đông. + Câu nói của R. Tago chứa đựng bài học sâu sắc về cách sống đẹp. 2. Thân bài a. Giải thích ý nghĩa của lời nhận định - Hoa sen là biểu tượng cho vẻ đẹp tinh khiết, cho phẩm cách thanh sạch, biết vươn lên trong cuộc sống của con người. - Mặt trời là thiên thể trong vũ trụ, mang lại sự sống, ánh sáng cho con người và vạn vật. Mặt trời tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ, sự huy hoàng. - Nụ búp là ẩn dụ cho cái non nớt, nhút nhát, e sợ của con người.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

- Sương lạnh vĩnh cửu là môi trường lạnh giá, khắc nghiệt, ở đó vạn vật phải ẩn mình, thu mình, không thể sinh sôi phát triển. Vì thế nó tượng trưng cho những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. - Ý nghĩa câu nói: Câu nói đặt ra vấn đề về cách sống và lẽ sống ở đời: cần phải sống mạnh mẽ, vươn lên, cống hiến hết mình.  Ý kiến của R. Tago là một triết lí sống mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ. Trong cuộc sống có rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng nếu biết sống và cống hiến hết mình ta sẽ nhận được thành quả xứng đáng. Nếu sống nhút nhát, thụ động thì cuộc đời thật nhạt nhẽo, vô nghĩa. b. Bàn luận và chứng minh ý nghĩa câu nói * Giải thích vì sao mỗi người nên chọn cách sống như bông hoa sen, vươn tới ánh nắng mặt trời để rồi mất hết tinh nhụy? - Cuộc sống rất quý giá nhưng lại ngắn ngủi, và chỉ đến duy nhất một lần: + Tuổi xuân của mỗi người là hữu hạn, bởi vậy ta phải sống thế nào cho xứng đáng, phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vi những tháng năm đã sống hoài, sống phí. + Ta cần có một trái tim đầy nhiệt huyết để sống hết mình, để cảm nhận từng hơi thở trong khoảnh khắc của đời mình. - Mỗi người cần phải có ước mơ, lí tưởng và khát khao thực hiện những điều đó. Tuy nhiên, cuộc sống luôn ẩn chứa những khó khăn, thử thách và những điều tốt đẹp không bỗng dưng mà có. Thay vì để khó khăn đánh bại, ta hãy đón nhận chúng như một cơ hội để rèn luyện bản lĩnh cùa chính mình, để ta thêm trường thành. - Khi ta chọn làm bông hoa sen nở trong ánh mặt trời đó là lúc ta sống hết mình và cống hiến hết mình. Ta sẽ có cơ hội được tỏa sáng, được khẳng định, lưu lại dấu chân trên con đường đã đi và tận hưởng những điều tuyệt diệu mà cuộc sống mang lại. Đó cũng chính là cách khiến cuộc sống của ta thêm ý nghĩa và trở nên có ích. Đó mới là cuộc sống đích thực của con người. * Giải thích vì sao không nên chọn cách sống như nụ búp giữ nguyên hình trong sương lạnh vĩnh cửu của mùa đông? - Nụ sen ẩn mình trong bùn đất sẽ mãi mãi không được người đời biết đến giá trị của nó. - Cuộc sống của mỗi con người cũng vậy. Nếu ta không dám đối mặt trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống vì ta sợ sai lầm, sợ sẽ thất bại, sợ bị cười chê... để rồi mãi mãi ta sống trong vỏ bọc hèn nhát của mình. Đó là lối sống mòn, sống thừa, sống vô ích mà không được ai biết đến. - Một cuộc sống đang mòn ra, đang gỉ đi, đang nổi váng (chữ dùng của Nam Cao). Cuộc sống không mục tiêu, ước mơ, hoài bão thật vô vị, sống như thế thực chất chỉ là sự tồn tại mà thôi, là chết ngay cả khi đang sống: + Dẫn chứng liên hệ: Dẫn chứng trong thơ văn hoặc dẫn chứng trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ: Trong bài thơ Giục giã, nhà thơ Xuân Diệu viết: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối


Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

c. Bàn bạc mở rộng vấn đề - Liệu có phải lúc nào ta cũng sống hết mình? Nếu cứ hết mình như thế sẽ có lúc ta kiệt sức. Vậy ta cần phải biết lượng sức mình, không phải lúc nào cũng lao về phía trước. Để đối mặt với mọi thử thách trên đường đời trước tiên ta phải trân trọng chính bản thân ta. Đừng nôn nóng theo đuổi mục đích mà quên mất bản thân mình. - Có những phút giây ta nên thu mình lại khi đã cảm thấy mỏi mệt. Khi ấy không phải ta đang hèn nhát, chỉ là ta đang tìm kiếm chút bình yên cho tâm hồn, tìm được lại ý chí, lòng quyết tâm để tiếp tục tiến lên phía trước. - Phản đề: Phê phán lối sống yếu mềm, thụ động, hèn nhát, chỉ biết ngồi chờ vận may và sự thuận lợi. d. Bài học nhận thức và hành động - Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi sự tự nhận thức, bản lĩnh và nghị lực vươn lên không ngừng. - Cuộc sống quá ngắn ngủi, hãy cứ cháy hết mình đến tận cùng của khát vọng, ước mơ. 3. Kết bài - Khẳng định quan niệm sống đúng đắn. - Liên hệ bản thân Bài 8: Suy nghĩ của anh (chị) về câu chuyện sau: NHÀ BÁC HỌC QUA SÔNG “Một hôm, có một nhà bác học ngồi trên một con thuyền qua sông. Ngồi không, cảm thấy buồn chán, nhà bác học bèn nói chuyện với ngưòi chèo thuyền. Ông ta ngẩng cao đầu, kiêu ngạo hỏi: - Anh có nghiên cứu triết học không? Đó là thứ học vấn cần thiết nhất trên thế giới đấy! Im lặng hồi lâu, ngưòi chèo thuyền trả lời một cách ngượng ngập: - Tôi suốt ngày chỉ biết chèo thuyền, không có thời gian nghiên cứu triết học. - Như vậy là anh đã lãng phí mất nửa cuộc đời rồi nhà bác học nói. Nói xong ông ta quay mặt ra ngoài, ngắm nhìn sông nước, không nói chuyện với người chèo thuyền nữa. Nào ngờ, một lúc sau, trời nổi dông bão, con thuyền đã xa bờ, chao đảo trong sóng gió, lúc nào cũng như sắp bị chìm. Bỗng nhiên, một cơn gió lớn thổi đến, con thuyền nhỏ bị lật, cả nhà bác học và người chèo thuyền đều bị rơi xuống nước. - Ông có biết bơi không? – Người lái thuyền hét lớn, hỏi nhà bác học. Lúc này, nhà bác học đã bị chìm đến cổ, lập cập trả lời: - Không biết! - Vậy thì ông đã lãng phí cả cuộc đời mình rồi! – Người chèo thuyền nói.” (Theo 200 bài học đạo lí - NXB Văn hóa - Thông tin, 2017) BÀI LÀM THAM KHẢO “Bố đã nhắc con phải gấp chăn sau khi ngủ dậy. Vậy mà con vẫn không thực hiện. Bố rất thất vọng Con trai ạ! Nếu chỉ học giỏi trên sách vở mà cuộc sống ngoài đời như vậy là không


ổn!”.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

Đọc tờ giấy ghi lời nhắc của bố để trên đống chăn trên giường, tôi thấy xấu hổ vô cùng! Mười tám tuổi, vậy mà những việc đơn giản này tôi cũng để bố phải nhắc. Hình như tôi chỉ chăm chăm vào việc học tập trên lớp mà chẳng chịu trau dồi cho mình những kĩ năng cơ bản nhất phục vụ cho cuộc sống. Câu chuyện Nhà bác học qua sông đã khiến tôi giật mình về hậu quả trầm trọng của việc thiếu kĩ năng sống và thói kiêu ngạo, coi thường người khác. Câu chuyện ngắn gọn mà thấm thía đã cho tôi bài học sâu sắc về cuộc sống. Một nhà bác học kiêu ngạo tự cho rằng thứ triết học mà mình nghiên cứu là “thứ học vấn cần thiết nhất trên thế giới”. Ông ta còn tỏ ra coi thường, thậm chí còn đánh giá người chèo thuyền “đã lãng phí nửa cuộc đời” khi nghe người chèo thuyền nói: “Tôi suốt ngày chỉ biết chèo thuyền, không có thời gian nghiên cứu triết học”. Vậy là bằng cái nhìn một chiều và thói tự cao tự đại, cho rằng mình cao quý hơn người, nhà bác học chỉ nhìn thấy sự tầm thường, điểm yếu của người chèo thuyền. Nhưng rồi gió bão ập đến, con thuyền chòng chành và lật nhào, nhà bác học không biết bơi đã ôm thứ triết học cao quý của mình xuống đáy sông. Đúng như người chèo thuyền nói, ông ta đã “lãng phí cả cuộc đời mình”. Triết học cao siêu không thể trở thành chiếc phao cứu sinh giúp nhà bác học thoát chết! Thế mới biết, những thứ mà ta nghĩ mình hơn người khác đôi khi lại là con dao hai lưỡi làm hại chính chúng ta. Ai cũng muốn làm điều gì đó lớn lao nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được tạo nên từ những điều rất nhỏ (T. A. Clark). Nếu triết học là “điều lớn lao” thì việc biết bơi lại chính là “điều rất nhỏ”. Quả thực, những kĩ năng cơ bản cần thiết mới chính là yếu tố tiên quyết giúp con người sống sót. Nếu không có những kĩ năng cơ bản thì chúng ta không thể tồn tại, nói gì đến làm những gì lớn lao. Kĩ năng sống là điều quan trọng với mỗi con người. Thế giới luôn vận động. Mọi biến cố, những khó khăn, thử thách, thậm chí là những nguy hiểm luôn có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Kĩ năng giúp con người chủ động thích nghi với từng hoàn cảnh, có thể tự bảo vệ mình khi có nguy hiểm xảy đến. Nếu như nhà bác học kia biết bơi để tự cứu mình thì ông ta đã không phải “lãng phí cả cuộc đời” như vậy. Một bài học sâu sắc đối với chúng ta: hãy chuẩn bị cho mình những kĩ năng cần thiết trước khi bắt tay tìm hiểu những điều lớn lao. Đặt trong bối cảnh đất nước đang trên con đường hội nhập, bài học này lại càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Một căn bệnh thâm niên của người Việt Nam ta là “nặng về lí thuyết, coi nhẹ thực hành”. Lí thuyết “suông” thì có thể nắm chắc nhưng kĩ năng sống, kĩ năng thực hành thì còn là một vấn đề đáng quan tâm. Giá mà thống kê cho hết số sinh viên Việt Nam ra trường vẫn phải đào tạo lại vì những kiến thức trên giảng đường chưa thể áp dụng vào công việc cụ thể! Giá mà thống kê cho hết những người tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại khá trở lên mà bảy, tám năm vẫn không xin được việc làm do không có kĩ năng thực hành... Đó thật sự là một lãng phí khủng khiếp vì chỉ chú tâm vào những kiến thức sách vở xa vời mà không rèn luyện, trau dồi từ những kĩ năng rất nhỏ; Cho nên một vài năm trở lại đây, hàng loạt những khoá học kĩ năng được mở ra ở Việt Nam: kĩ năng “mềm”, kĩ năng quản lí thời gian, quản lí tài chính, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng đối đầu với thử thách... Học sinh tiểu học, trung học, sinh


M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

viên, thậm chí cả những người đã đi làm cũng tham gia để trau dồi từ những điều đơn giản nhất! Nhưng đâu phải cứ đến những khoá học ấy, con người mới học được kĩ năng sống. Chúng ta có thể tự mình trau dồi qua việc va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Có lẽ, đã đến lúc tôi nên rời khỏi những trang sách dày cộp mà rèn luyện mình bằng việc đơn giản hàng ngày để bố không còn phải nhắc nhở từ việc nhỏ nhất lả “gấp chăn sau khi ngủ dậy” nữa. Một bài học khác mà câu chuyện mang đến cho tôi là việc đánh giá người khác và bản thân mình. Con người sinh ra không ai là hoàn hảo. Ai cũng có “gót chân A-sin” của mình. Mỗi chúng ta đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Không ai có thể cho rằng mình hơn người khác, ta có thể nổi trội hơn người khác về một số điểm nhưng cũng có những điểm mà người khác hơn ta rất nhiều. Điểm mạnh của người này là điểm yếu của người kia, đó là sự thật của đời sống. Như người chèo thuyền kia ngày ngày chèo thuyền đưa người qua sông, đó là thế mạnh của ông ta. Nhà bác học trong câu chuyện lại có thế mạnh trong việc nghiên cứu triết học. Bạn học tốt các môn xã hội nhưng lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận các môn tự nhiên. Bạn có thể giải rất nhanh một bài toán hóc búa nhưng có khi ngồi cả ngày bạn vẫn không “nặn” ra câu văn nào. Các bác sĩ chữa bệnh cho rất nhiều người nhưng đưa họ về với đồng ruộng nông thôn thì họ hoàn toàn “bó tay”. Những người lao công không thể nghiên cứu khoa học nhưng nhờ họ mà đường phố mới sạch đẹp. Người nào cũng có những thế mạnh, những công việc thích hợp để nuôi sống bản thân, có ích cho gia đình và xã hội. Không có cộng việc cao quý, chỉ có những con người cao quý trong nghề nghiệp của mình. Lu-i Pa-xtơ từng nói: Không phải nghề nghiệp làm nên danh dự cho con người, mà con người mới làm nên danh dự cho nghề nghiệp. Nhà bác học đã hoàn toàn sai lầm trong việc đánh giá người khác chỉ dựa vào công việc của người chèo thuyền, dựa vào tiêu, chuẩn ông ta đặt ra cho mình. Triết học là thứ học vấn cần thiết nhưng nếu không có người, chèo thuyền kia thì sao nhà bác hoc có thể qua sông. Như vậy, giá trị của một con người thay đổi theo từng hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta nên khiêm tốn khi đánh giá bản thân và đừng bao giờ đánh giá thấp người khác! Tự tin vào bản thân không có nghĩa là cho mình hơn người khác và không bao giờ thất bại. Chỉ còn vài tháng nữa kì thi đại học sẽ diễn ra, các bạn học sinh lớp 12 cần xác định rõ đâu là thế mạnh của mình, nghiên cứu thật kĩ tình hình các trường mình có ý định thi vào để đưa ra lựa chọn phù hợp nhất!

D

ẠY

Câu chuyện nhỏ mà bài học đặt ra không hề đơn giản chút nào. Tuy vậy, kết thúc câu chuyện lại gợi ra trong tôi một nỗi băn khoăn. Lẽ nào sau khi nói với nhà bác học: “Vậy thì ông đã lãng phí cả cuộc đời mình rồi”, người chèo thuyền lại không có hành động gì để giúp người khách lâm nạn của mình? Liệu ông ta đã làm tròn nhiệm vụ của một người lái đò đưa khách qua sông, hay hơn thế nữa, ông ta đã sống đúng với lương tri của một con người? Nếu được viết tiếp câu chuyện này, nếu tôi là người chèo thuyền kia, sau khi đã “dạy” cho nhà bác học kia một bài học, tôi sẽ lao xuống cứu ông ta. Với tôi khi ấy, câu chuyện mới thực sự mang tính giáo dục và nhân


văn hơn cả. Bài học mà nó đặt ra cũng vì thế mà thuyết phục hơn! Con người ai chẳng có lúc sai lầm. Điều quan trọng là ta phải biết cùng nhau sửa chữa, rút kinh nghiệm. Xã hội sẽ tốt đẹp biết bao nếu mỗi cá thể không ngừng hoàn thiện mình và biết bổ sung, lấp đầy những “khoảng trống” của người khác!

FF IC IA L

“Tay phải của người là tay trái cùa mình” vì vậy mỗi chúng ta phải nỗ lực tự “làm đầy” mình và học hỏi mọi người ngay từ những điều cơ bản nhất. “Điều cần thiết trong cuộc sống của mỗi người là luôn làm một học trò”. Có như vậy chúng ta mới nâng cấp được giá trị bản thân và không bao giờ phải hối hận vì đã “lãng phí” bất cứ giây phút nào trong cuộc đời mình!

O

Bài 9: Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy viết: Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. Câu thơ trên gọi cho anh (chị) suy nghĩ gì về tình mẫu tử?

N

GỢI Ý LÀM BÀI

Ơ

1. Mở bài

H

- Giới thiệu vấn đề nghị lúận: tình mẫu tử - Đặt vấn đề, trích dẫn hai câu thơ trong đề bài:

N

Ta đi trọn kiếp con người (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Nguyễn Duy)

U

Y

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.

Q

2. Thân bài

a. Phân tích hai câu thơ

M

* Ý nghĩa của lời mẹ ru

- Hai câu thơ cho thấy tấm lòng của người mẹ dành cho con ẩn chứa trong những lời ru.

ẠY

+ Tiếng ru của mẹ là tình cảm, là ước mong, là lời gửi gắm tâm tình của người mẹ với con mình. Nó chứa đựng trong đó cấ một thế giới tinh thần mà người mẹ có được và muốn xây đắp cho con.

D

+ Là lời yêu thương chứa đựng tình yêu vô bờ bến của mẹ dắnh cho con. Trong tình yêu ấy, con là tài sản quý giá nhất, là niềm tự hào, là cuộc sống của người mẹ.

- Là lời cầu nguyện, ước mong: Lời ru của mẹ là sự gửi gắm mong ước về tương lai của con.

- Là lời nhắn nhủ, khuyên răn, dạy bảo chứa đựng trải nghiệm cuộc đời của người mẹ, sự hiểu biết, khát vọng truyền thụ hiểu biết, kinh nghiệm của mẹ cho con, sự hiểu biết và kinh nghiệm về


đạo làm người, về lẽ sống ờ đời, về lẽ phải cần phải tuân theo, về những giới hạn cần biết dừng lại, về những cạm bẫy nguy hiểm nên tránh, về những bước đường mỗi người phải đi qua...

FF IC IA L

- Cho dù là lời yêu thương, lời cầu nguyện hay lời nhắn nhủ thì cũng là sự chuẩn bị của người mẹ cho những đứa con trên đường đời hiện tại và sau này. Sự chuẩn bị không chỉ bằng kiến thức, kinh nghiệm mà bằng cả tấm lòng và tình yêu. Lẽ tự nhiên, trong mỗi người mẹ luôn bao gồm cả một nhà giáo dục và một phương pháp giáo dục của trái tim thấm đẫm yêu thương. * Không đi hết lời ru của mẹ: Không thấy hết, không dùng hết, không thể hiểu biết hết, không sống hết những gì mẹ đã chuẩn bị cho con qua lời ru. - Tấm lòng yêu thướng bao dung vô bờ của mẹ. - Sự che chở, nâng đỡ, dìu dắt trọn đời của mẹ qua những lời ru.

O

- Cảm giác thấm thía của người con qua trải nghiệm cuộc đời khi nhìn nhận lại, cảm nhận lại những gì có được từ lời ru và tình yêu của người mẹ.

b. Bình luận, đánh giá, suy nghĩ về tình mẫu tử

Ơ

N

 Lời tri ân của người con với mẹ là lời ca ngợi sự vô giá, vô bợ bến của tình mẫu tử mẹ dành cho con.

N

H

- Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng của người mẹ và người con, thể hiện sự gắn bó, quan tâm, chăm sóc, dưỡng dục... - Vai trò của tình mẫu từ:

Y

+ Là môi trường tốt nhất cho sự phát triển của tâm hồn và thậm chí cả trí tuệ của đứa con.

U

+ Là điểm tựa cho lòng tin, sức mạnh của đứa con trong cuộc sống.

Q

+ Là cái gốc thiện, nguồn nuôi dưỡng lương tri, nhân phẩm của con người trong cuộc đời; có ý nghĩa cảnh giới con người khi đứng trước bờ vực của lầm lỡ và tội ác.

M

+ Là nơi xuất phát và cũng là chốn về sau cùng của con người trong cuộc sống đầy bất trắc, hiểm nguy.

D

ẠY

- Biểu hiện của tình mẫu tử: Vô cùng đa dạng phong phú song đều hướng tới cái đích cuối cùng là cho con, vì con. (Dẫn chứng liên hệ: có rất nhiều câu thơ, câu ca về tình mẹ.) - Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một như đường mía lau. (Ca dao) - Ngôn ngữ trần gian là túi rách Đựng sao đầy hai chữ mẹ yêu! (Kinh điển Phật giáo) - Con dù lớn vẫn là con củ mẹ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.


(Con cò - Chế Lan Viên) - Ta mê mải trên bàn chán rong ruổi Mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng. (Đỗ Trung Quân)

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

- Phản đề + Phê phán những người mẹ vô tâm, bỏ rơi con cái. + Phê phán những đứa con bất hiếu. c. Liên hệ và rút ra bài học - Thái độ cần có đối với tình mẫu tử: Không chỉ là đón nhận mà cần sống, trải nghiệm và tự điều chỉnh bản thân để góp phần làm toả sáng giá trị thiêng liêng của tình mẹ. - Kết tinh của tình mẹ thiêng liêng ấy là tâm hồn và sự sống của bản thân mình. 3. Kết bài - Khẳng định ý nghĩa câu thơ - Rút ra bài học cuộc sống: + Biết ơn, lễ phép, vâng lời mẹ và kính yêu mẹ. + Học sinh có thể bày tỏ cảm xúc về mẹ Bài 10: Anh (chị) hãy viết bài văn nghị luận với nhan đề: Phía sau những lời khen GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài

N

- Dẫn dắt vấn đề

Y

+ Trên đời này, con người thích bị chê bai hay là thích được khen hơn?

- Trích dẫn câu nhan đề

Q

U

+ Khen là điều làm cho một người có cảm giác hãnh diện, tự hào - điều đó làm cho người đó trở nên thoải mái, cởi mở hơn...

M

+ Phía sau những lời khen.

+ Vậy phía sau những lời khen là những gì? 2. Thân bài

a. Giải thích

ẠY

- Lời khen là lời ngợi ca, tán thưởng, khâm phục. - Lời khen có hai loại:

D

+ Lời khen tốt là lời khen chân tình thật lòng, lời khen đúng chỗ, đúng lúc xuất phát từ sự thực với động cơ lành mạnh. + Lời khen xấu là lời khen ẩn chứa mưu đồ (tán thưởng quá lời, xã giao lấy lòng, tâng bốc nịnh bợ...) xuất phát từ cái nhìn hiện thực không chính xác hoặc từ động cơ không lành mạnh. b. Bàn luận và phân tích


- Lời khen tốt sẽ tạo ra niềm vui, niềm hạnh phúc, sự tự tin, hăng háị...

FF IC IA L

+ Lời khen tốt như một loại thuốc thần dược tạo nên sức mạnh, thắp sáng niềm tin khiến điều hay của người được khen trở thành điều hay của mọi người, nó làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn (dẫn chứng). + Nó chính là quà tặng cuộc sống (dẫn chứng).

- Lời khen xấu sẽ tạo ra sự mất mát, sự đau đớn, xón xa, cay đắng...

+ Lời khen xấu rất nguy hại, nó mang đến áp lực cho người được khen hoặc làm họ ngộ nhận, ảo tưởng để rồi biến mình thành kẻ khác (dẫn chứng). + Nó hủy hoại những giá trị cuộc sống, phá vỡ mối quan hệ tốt đẹp của con người (dẫn chứng).

O

c. Bài học và nhận thức hành động

N

- Tâm lí của con người là rất thích được khen bởi vậy không nên tiết kiệm lời khen nhưng cũng không được lạm dụng lời khen.

H

- Hãy tỉnh táo, cảnh giác khi đón nhận lời khen.

N

3. Kết bài - Khẳng định lại giá trị của lời khen.

Ơ

- Hãy học cách khen chân thành và thông minh. Hãy sử dụng lời khen như món quà cuộc sống.

D

ẠY

M

Q

U

Y

- Hướng phấn đấu của bản thân về lời khen. Bài 11: Anh (chị) hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 500 từ) với nhan đề cho sẵn: Đời sẽ dịu dàng hơn biết mấy nếu ta biết đặt mình vào vị trí của nhau. BÀI LÀM THAM KHẢO Mỗi người trên đời từ khi sinh ra đã được đặt vào những vị trí khác nhau, vị trí này bao gồm các điều kiện xung quanh như gia đình, dân tộc, qưốc gia, văn hóa, truyền thống, địa vị... Những vị trí này đã sinh ra những góc nhìn khác nhau cho mỗi người. Chính vì vậy mà có người đã từng nói rằng: “Đời sẽ dịu dàng hơn biết mấy nếu ta biết đặt mình vào vị trí của nhau”. Những góc nhìn khác nhau mang đến sự đa dạng cho thế giới bao nhiêu, thì cũng chính nó mang lại nhiều bất an và đau khổ bấy nhiêu cho chúng ta. Chúng ta không thể hiểu được những gì người khác đang làm ta bực bội, ta thất vọng, ta phát điên lên... tất cả mọi cảm xúc xảy đến đều chỉ vì một nguyên nhân, chúng ta không hiểu. Không hiểu tại sao nó lại xảy ra, không hiểu người khác suy nghĩ gì, không hiểu ta đã làm gì sai, không hiểu tại sao mội thứ cứ không như ta mong muốn. Và tôi cho rằng, căn nguyên cái sự không hiểu này, suy cho cùng, cũng chỉ vì chúng ta quá chủ quan và trung thành với những gì chúng ta thấy, những góc nhìn của chúng ta. Thế giới thì bao la, ta thì nhỏ bé, tầm nhìn vài trăm mét trong mưa - một góc nhìn bé nhỏ như thế, làm sao có thể nhìn thấu được thế giới, nhìn thấu được những người khác, nếu ta không chịu đổi góc nhìn.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

Vâng, đó là một cách rất đơn giản để ta làm cho cuộc đời mình thêm nhẹ nhàng và hợp lí. Đó là hãy thay đổi góc nhìn, hãy nhìn theo những hướng khác, bằng những con mắt khác, trong những vị trí khác. Nếu đang là một nhân viên chăm chỉ, bực tức vì sếp không tăng lương cho mình, hãy thử một lần nhìn lại mình qua góc nhìn của ông chủ. Bạn làm tốt công việc mình được giao, đó là lí do bạn được thuê vào làm và được trả lương vì điều đó. Bạn không hề làm tăng giá trị cho công ty, thế thì tại sao ông chủ lại phải tăng lương cho bạn? và ngược lại. Nếu đang là một người cha bực tức cậu con trai không nghe lời mình. Hãy nhìn cuộc đời dưới góc nhìn của nó. Bạn có cho nó quyền lớn lên không? Quyền làm người lớn là quyền được làm những việc theo mong muốn và ý thích, đôi khi đơn giản như là việc theo đuổi đam mê. Bạn ngăn cản con mình lớn lên, bạn không muốn chúng tự lập, bạn không muốn chúng tách khỏi mình, điều này có đi ngược lại điều bạn mong muốn không? Bạn có thật mong chúng trưởng thành? Nếu bạn là một ông chồng đang không hạnh phúc trong ngôi nhà nhỏ với cô vợ mà bạn cho là đã thay đổi rồi. Hãy nhìn lại đi, một góc nhìn khác, trong mắt người vợ, bạn có đang thay đổi không? Bạn có còn như lúc ban đầu yêu nhau? Bạn có giữ được những lời hứa, lời thề thốt khi kết hôn?... Việc đặt mình vào vị trí của người khác cũng tức là việc đội góc nhìn của mình theo góc nhìn của người đó, là việc cần làm và nên làm. Nhìn được toàn bộ bức tranh, ta mới thấy được ý nghĩa của nó, mới biết cách để sửa chữa và hồi sinh chúng - hồi sinh những mối quan hệ, hồi sinh những cảm xúc tốt đẹp trong tâm hồn, hồi sinh niềm tin và hi vọng vào cuộc sổng. Hồi sinh cuộc sống tự do vì tự do là đích đến sau cùng của con người. Đỉnh cao của tự do là sự thấu hiểu, không phải thấu hiểu người khác, nhưng là thấu hiểu bản thân. Nhưng để hiểu được bản thân mình, ngoài việc tự nhìn vào bên trong, bạn nhất định còn phải đặt con mắt mình vào con mắt của người khác để nhìn lại mình. Nhìn bản thân từ những hệ quy chiếu khác nhau, bạn sẽ nhận ra mình là ai, trong con mắt phụ huynh, bạn là người thế nào, trong con mắt bạn bè, trong con mắt đồng nghiệp, trong con mắt của người bạn yêu... bạn là người như thế nào? Vậy nên, việc đặt mình vào vị trí người khác là việc rất quan trọng, nó không chỉ giúp làm mềm các mối quan hệ thông qua việc thấu hiểu lẫn nhau, mà hơn hết, nó còn giúp bạn nhận ra và thấu hiểu chính bản thân mình. Ngắn gọn thôi, hãy ghi nhớ câu này trước mọi phán xét, mọi hành động, mọi việc làm: “Đời sẽ dịu dàng hơn biết mấy nếu chúng ta biết đặt mình vào vị trí của nhau”. Bài 12: Trong một diễn đàn về chủ đề “Cuộc sống trong mắt em”, có những ý kiến sau: - Cuộc sống là thế giới muôn màu. - Cuộc sống là một trường đua. - Cuộc sống là một trường học lớn. Còn em, cuộc sống trong mắt em như thế nào? GỢI Ý LÀM BÀI - Đây là dạng đề mở, yêu cầu học sinh trinh bày quan niệm của bản thân về ý nghĩa cuộc sống. Bởi vậy đáp án cũng không bó hẹp trong sự lựa chọn cụ thể nào. - Học sinh có thể tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn là có cách diễn giải hợp lí và có sức


ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

thuyết phục. Tuy nhiên ý kiến của người viết đưa ra phải họp lí, không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. - Các em có thể tham khảo những gợi ý sau. 1. Mở bài - Nêu vấn đề nghị luận + Mỗi người đều có một quan niệm sống riêng. Nó là cách bạn định nghĩa cuộc sống này và cũng phần nào thể hiện tâm hồn, thái độ, hay ý chí của bạn. + Quan niệm về cuộc sống có thể thay đổi tùy lúc, tùy nơi, tùy từng trường họp nhưng đều rất ý nghĩa đối với chúng ta trong những thời điểm cụ thể. - Trích dẫn nội dung trong diễn đàn về chủ đề “Cuộc sống trong mắt em” + Có ý kiến cho rằng: Cuộc sống là thế giới muôn màu, nhưng cũng có người lại cho rằng: Cuộc sống là một trường đua; cuộc sống là một trường học lớn. + Quan điểm sống của mỗi người khác nhau và không nhất thiết phải cùng hướng về một điểm chung bởi vì chúng ta là những cá nhân khác biệt. 2. Thân bài a. Giải thích các khái niệm, các ý kiến trong đề bài - Khái niệm cuộc sống + Cuộc sống là tổng thể nói chung những hoạt động trong đời sống của một con người hay một xã hội. - Các ý kiến trong đề bài: + Ý kiến một: Cuộc sống là thế giới muôn màu nghĩa là gì?  Cuộc sống vốn rất phức tạp, xen lẫn niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, đau khổ, có người tốt, kẻ xấu, có thành công và thất bại... + Ý kiến hai: Trường đua nghĩa là như thế nào? Cuộc sống nhiều bon chen, cạnh tranh, giành giật... đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng. Mỗi người cần phải cố gắng để không bị tụt hậu. Ở đó con người phải sống ra sao? Phải nhanh, mạnh, khôn khéo, và vượt qua người khác, đồng thời phải biết vượt qua chính mình. + Ý kiến ba: Cuộc sống là một trường học lớn là cái gì?  Nếu muốn thành công vững chắc trong cuộc sống, bạn phải có kiến thức. Từng ngày bạn sống, bạn học hỏi và cứ thế bạn trưởng thành hơn. Cuộc sống sẽ dạy cho bạn nhiều bài học vô giá. Cuộc sống dạy, cung cấp cho con người ta các kĩ năng sống, kinh nghiệm, cả những bài học đắng cay... b. Nêu quan niệm của mình về cuộc sống

D

* Lưu ý: Phần này, người viết có thể nêu quan điểm riêng, có thể chọn một trong ba quan niệm trên, hoặc tổng hợp cả ba quan niệm. Chọn ý kiến nào thì người viết cần phân tích, đưa ra mặt đúng của ý kiến đó. Sau đây là những gợi ý: - Tùy vào hoàn cảnh, thời điểm, mỗi người có quan niệm khác nhau về cuộc sống. Có thể hôm nay bạn nghĩ như thế này, ngày mai bạn lại nghĩ khác. Ai cũng biết cuộc sống là quý giá và đời người chỉ có một lần. - Nhưng không phải ai cũng thấy cuộc sống là tươi đẹp và đáng sống. Điều đó còn tùy thuộc vào


thái độ và mục đích sống của mỗi người. Thái độ sống là điều có ý nghĩa cực kì quan trọng, vì nếu biết cách thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, bạn có thể thay đổi được cuộc sống của bạn theo hướng tự chủ, có thể kiểm soát và do đó, bạn sẽ hạnh phúc hơn những người khác. Mỗi con người trong chủng ta quan niệm sống thế nào, thì cuộc sống sẽ như thế ấy.

- Ý kiến khác:

FF IC IA L

- Cuộc sống không phải một màu hồng, mà nó muôn hình muôn vẻ. Nó chứa đựng nhiều điều bất ngờ. Mỗi con người cần phải thích nghi với mọi hoàn cảnh, phải biết nỗ lực phấn đấu nếu không sẽ bị đào thải. Cuộc sống vừa mang đến cho ta những điều kì diệu, vừa đặt con người ta trước những thách thức và cơ hội, dạy cho ta những bài học quý giá. + Cuộc sống là một bức tranh và người nghệ sĩ tạo nên bức tranh đó chính là bạn.

O

+ Cuộc sống là trải nghiệm để làm bản thân trở nên hoàn hảo hơn.

N

+ Cuộc sống là một đường chạy marathon dài vô tận, nếu ta không cố gắng thì sẽ mãi bị bỏ lại ở phía sau và không bao giờ tới đích. '

Ơ

+ Cuộc sống là một đường chạy vượt rào, nếu ta không cố gắng ta sẽ không thể vượt qua bất kì rào cản nào.

H

+ Cuộc sống là một đường chạy nước rút, nếu ta không cố gắng ta chỉ là người chạy cuối cùng.

N

+ Cuộc sống là một đường chạy tiếp sức, biết giúp đỡ nhau chúng ta sẽ chiến thắng. .

Y

Lưu ý: Ngưới viết có thể đưa ra ý kiến cá nhân, không nhất thiết phải theo ba ý kiến trong đề bài.

U

c. Bài học nhận thức và hành động

Q

- Sống trọn vẹn từng ngày để cuộc sống của mỗi người trở nên ý nghĩa.

3. Kết bài

M

- Cuộc sống là những khó khăn thử thách nhưng cũng bình dị và đáng yêu, mỗi người hãy chọn cho riêng mình một cách sống đẹp. - Khẳng định quan niệm về cuộc sống của bản thân

ẠY

+ Dù quan niệm như thế nào thì giá trị và ý nghĩa của cuộc sống là do sự nỗ lực, cố gắng mỗi người mang lại.

D

- Suy nghĩ của bản thân. Bài 13: Đọc bài thơ Tiếng ru của nhà thơ Tố Hữu dưới đây: Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời Con người muốn sống con ơi Phải yêu đồng chí, yêu người anh em Một ngôi sao chẳng sáng đêm


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng Một người đâu phải nhân gian? Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi. (Tiếng ru - Tố Hữu) Những câu thơ trên gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về lẽ sống của con người trong xã hội hiện nay? GỢI Ý LÀM BÀI 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Lẽ sống của con người trong xã hội hiện nay. - Dẫn dắt và trích lại nguyên văn đoạn thơ trong đề bài 2. Thân bài a. Phân tích ngắn gọn đoạn thơ để rút ra vấn đề - Nội dung của đoạn thơ: + Tả thực một loạt sự vật: Con ong, con cá, con chim trong mối quan hệ, gắn kết với môi trường sống. + Triết lí: Một thân lúa chín - chẳng thể làm nên mùa vàng, một người - không thể tạo thành nhân gian.  Từ đó, liên hệ và đúc kết bài học sống cho con người: sống để yêu thương tất cả; tự nguyện sống hòa nhập, gắn bó cá nhân với cộng đồng. - Từ đoạn thơ, khái quát chính xác vấn đề xã hội cần nghị luận: + Lẽ sống đẹp của con người trong xã hội: sống đoàn kết, sống để yêu thương, dâng hiến; cá nhân tự nguyện gắn bó với cộng đồng mới hình thành môi trường sống rộng lớn, giàu tính nhân văn; sống cho những điều lớn lao của xã hội và đất nước. + Đây là vấn đề có ý nghĩa xã hội, thời sự và ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, liên quan tới nhận thức, lối sống và hành động của con người; đặc biệt là thời kinh tế thị trường, khi mà những giá trị tình cảm của con người với con người trong xã hội đang có những thay đổi. b. Lí giải, phân tích, chứng minh, bình luận - Phân tích những biểu hiện cụ thể, chỉ rõ nguyên nhân, đánh giá hiệu quả tích cực của hành động và lẽ sống yêu thương giữa người với người trong xã hội. (Lấy dẫn chứng từ thực tế đời sống để chứng minh từng biểu hiện). - Bác ỏ phê phán, chỉ rõ tác hại của lối sống thờ ơ, dửng dưng, ích kỉ của một số người trong xã hội hiện nay (Lấy dẫn chứng từ thực tế đời sống để chứng minh). - Phản đề: Nêu thực trạng một bộ phận thanh thiếu niên sống ích kỉ, trục lợi, c. Bài học và nhận thức hành động - Đoạn thơ là lời giáo dục, là triết lí nhẹ nhàng, sâu sắc và thấm thía về lẽ sống đẹp trong cuộc đời mà nhà thơ Tố Hữu muốn gửi đến bạn đọc.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

- Con người sống cần phải biết yêu thương và sẵn sàng dâng hiến; mỗi cá nhân cần phải có mối liên hệ gắn kết khăng khít với cộng đồng: + Sống biết dung hòa lợi ích bản thân và cộng đồng. + Sống có tâm hồn, tình cảm lành mạnh, nhân hậu. + Hiếu nghĩa với người thân. + Quan tâm, yêu thương, chia sẻ với những người xung quanh. + Không chạy theo lối sống lập dị, không phù hợp với truyền thống, thẩm mĩ, văn hóa dân tộc. 3. Kết bài - Khẳng định lại vấn đề trong đoạn thơ vừa nghị luận. - Hướng phấn đấu của bản thân. Bài 14: Có người đặt ra câu hỏi: Phải chăng chỉ có những điều ngọt ngào mới làm nên yêu thương? Anh (chị) hãy viết bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) trả lời câu hỏi trên. GỢíÝLÀMBÀI 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Không phải chỉ có những điều ngọt ngào mới làm nên yêu thương. + Hình như tình yêu thương không phải là một đặc trưng của loài người mà còn ở một số loài động vật khác “Thông thường yêu thương được phủ dưới lớp áo của sự dịu dàng và ngọt ngào. Nhưng Sự ngọt ngào chưa đủ để làm nên một tình yêu vĩ đại. Thật vậy, hãy nghĩ đến những khía cạnh khác của yêu thương bên cạnh ngọt ngào. - Trích dẫn ý kiến + Có người đặt ra câu hỏi: Phải chăng chỉ có những điều ngọt ngào mới làm nên yêu thương? 2. Thân bài a. Giải thích - Yêu thương tức là có tình cảm gắn bó tha thiết và quan tâm chăm sóc hết lòng. - Có nhiều loại yêu thương như tình mẫu tử, tình thầy trò, tình bạn bè... và có bao nhiêu thời đại, có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu cung cách yêu thương. b. Biểu hiện cụ thể của yêu thương - Biểu hiện thường thấy nhất của yêư thương là sự ngọt ngào: + Có yêu thương, ông bà, cha mẹ mới không giận dữ, quát mắng, rầy la, đánh đập khi con cháu Làm việc sai quấy và luôn luôn vuốt ve, dịu dàng, vỗ về, chăm sóc khi con cháu thất bại trên đường đời. + ‘Có yêu thương thầy cô mới không bực mình, la mắng khi học trò nói chuyện, nghịch giỡn trong giờ học, trong lúc thầy cô đang giảng bài. + Có yêu thương, anh chị không nề vất vả, mất thời gian mà nhẹ nhàng, từ tốn hướng dẫn các em trong việc học, việc làm... - Tuy nhiên, tục ngữ Việt Nam có câu: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” hay “Thuốc đắng dã tật, lời thật mất lòng”. Những câu tục ngữ này đã khẳng định rằng roi vọt, lời


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

mắng chửi có khi cũng là một cung cách biểu hiện của yêu thương. Khi con hư, cha mẹ thường giận dữ la mắng và đánh đòn nhưng ẩn đằng sau đó là một tình yêu thương vô bờ bến. Những lời trách mắng, những đòn roi đó có mục đích cao thượng là muốn con nên người. Khi học trò nói chuyện trong lớp, thầy cô đuổi học trò ra khỏi lớp nhưng trong lòng thầy cô là một tình yêu thương và một sự ngậm ngùi. Mục đích của người thầy là rèn luyện cho học trò mình thành một người tốt. + Dẫn chứng: - Câu chuyện Lưu Bình - Dương Lễ ngày xưa cũng là một ví dụ cho thấy đôi khi yêu thương phải được ngụy trang bằng sự lạnh lùng và tàn nhẫn. - Có những câu chuyện mà cái tát tai không phải của lòng thù hận mà bắt nguồn từ tình yêu thương, mà nhiều năm sau người nhận tát tai mới hiểu ra. c. Bàn bạc mở rộng vấn đề - Trong thực tế xã hội, nhũng kẻ xấu thường sử dụng những lời ngọt ngào như những thủ đoạn để đánh lừa người khác. - Trong tình thân bạn bè khi bạn mình sai thì rất cần những lời thẳng thắn như thuốc đắng dẫu có thể làm mất lòng bạn lúc đó nhưng sẽ có ích lợi lâu dài. - Có những tiểu thuyết và phim ảnh nói về những tình yêu vĩ đại chúng ta bắt gặp bên cạnh những ngọt ngào là những đớn đau và cày đắng. - Đôi khi sự yêu thương còn thể hiện bằng một sự im lặng mênh mông. 3. Kết bài - Khẳng định lại vấn đề + Lòng yêu thương thường được biểu hiện bằng lời nói và thái độ ngọt ngào nhưng sự ngọt ngào chưa chắc đã xuất phát từ tình yêu thương thật sự. + Cho nên, sống ở trên đời, chúng ta cần phải có thái độ tỉnh táo, khách quan trước mọi sự ngọt ngào và cay đắng. Bởi vì, mật ngọt chết ruồi và kẻ khen ta mà khen đúng là bạn ta, kẻ chê ta mà chê đúng là thầy ta, còn kẻ nịnh ta là kẻ thù của ta (Tuân Tử). Bài 15: W. Gót từng nói: Trí tuệ con người trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng thành trong bão táp. Hãy viết một bài văn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên. BÀI LÀM THAM KHẢO Nếu cuộc sống được ví như một đồ thị hình sóng trong toán học, thì cuộc sống cũng sẽ có những lúc trồi lên và sụt xuống. Giống như từng tọa độ khác nhau, mỗi giai đoạn trong đời người, ta sẽ học được mỗi bài học khác nhau. Những bài học này không chỉ là những con chữ, phép tính bình thường mà còn là những kiến thức bao la, sâu sắc mà thời gian và cuộc sông bồi đắp, W. Gớt từng nói: Trí tuệ con người trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng thành trong bão táp. Khi còn nhỏ, kiến thức trước hết là ngôn ngữ, rồi đến các phép tính toán thông thường. Lớn lên một chút, ta tìm hiểu đến lịch sử, địa lí, nguyên phân, giảm phân và cách lí luận những bài toán hai ẩn, bậc một bậc hai... đó là những kiến tức thuộc về trí tuệ. Là những gì mà chỉ có


M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

bộ não mới có thể giải quyết và lưu trữ hay khi bạn đã đủ sức để tự lo cho bản thân, tự sống độc lập, đạt đến sự hoàn thiện cả về thể xác lẫn cách suy nghĩ, lớn lên từ những khúc trầm lắng của cuộc đời thì khi ấy, bạn được xem như một con người trưởng thành. Có người từng nói: “Trưởng thành đối với con người không phải là một đức tính trong nhiều đức tính để làm nên nhân cách, mà chính là sự hài hòa của tất cả nhũng gì tạo thành nhân cách”. Thật vậy, muốn được trường thành dù là trí tuệ hay tính cách, đó là cả một quá trình tập luyện, bươn chải với cuộc đời. Với những nhà khoa học, khi nói đến “sự trưởng thành về trí tuệ” của họ, đó không chỉ đơn thuần là những kiến thức từ sách vở, bởi đó chỉ là cái lõi còn quá đỗi sơ sài. Sự trưởng thành của họ nằm ở cái cách họ vận dụng, tìm hiểu, suy ngẫm cái lõi thuộc về trí tuệ đó và đặt ra mục đích cho nghiên cứu. Nghiên cứu để làm gì? Vì ai? ích lợi và tác hại? Nên hay không? Giống như một cuộn len đã bị chú mèo bới ra, những suy nghĩ ấy cứ bao quanh cái lõi trí tuệ, cái kiến thức vô hạn của cuộc sống. Hay như một nhà chính trị gia tài năng, ông ta sẽ không trưởng trành nếu đem trí tuệ của mình để vạch ra những âm mưu xấu, sự trưởng thành của trí tuệ phải phục vụ cho đợi sống và các tích cực. “Tri thức là vô hạn”, bởi thế, để hoàn thiện nó, để trưởng thành thật sự là một điều nan giải. Con người ta rất kì lạ, đôi khi, để kiếm tìm nên một suy nghĩ, một con đường chân - thiện - mĩ để bỏ tri thức vào ba lô, xách lên và đi, ta có thể mất đến cả ngày, cả tháng, cả năm nhưng có khi, như một cây kim chọc vào quả bong bóng chứa đầy không khí, những suy nghĩ ấy chợt bộc phát, rất nhanh, rất mãnh liệt! Để trưởng thành về trí tuệ, ta sẽ chẳng thể nhờ tới sự giúp đỡ của ai được đâu. Hai trăm sinh viên có thể học cùng một khóa về một kiến thức, công nghệ chẳng hạn, họ có cùng lượng kiến thức như nhau, nhưng không phải ai cũng “đồng ý bảo toàn” lượng kiến thức đó. Có người sẽ giữ nguyên, nhưng sẽ có người tìm tòi thêm từ sách vở, người khác lại đến các cơ sở tìm hiểu trực tiếp... dần dà, lượng kiến thức của mỗi sinh viên sẽ khác nhau, có người đi trên con đường hướng tới sự trưởng thành của trí tuệ và cũng có người xuất phát chậm hơn. Sự trưởng thành của trí tuệ phụ thuộc vào cá nhân, ý thức của mỗi người. Người học văn có thể học các kiến thức về toán học và ngược lại, thậm chí, những kiến thức tưởng chừng rời rạc ấy lại có thể bổ sung thêm cho nhau. Tri thức sẽ không bao giờ là đủ, sẽ chẳng có ai đạt đến đích của trí tuệ nhưng nếu không tiếp thu, thực sự, ta sẽ bị tụt lại phía sau. Vậy, sự trưởng thành của trí tuệ là gì? Là cái cách bạn vận dụng trí tuệ, là mục đích bạn vận dụng trí tuệ, là sự tìm tòi, tìm hiểu của riêng bạn, là những suy nghĩ, những mâu thuẫn tự đặt ra để làm giàu hơn và sửa chữa tri thức trong cuộc sống, quá trình này có lẽ không đầy giai điệu như khi nhạc sĩ viết nên một ca khúc, nó rất tĩnh lặng nhưng lại rất sâu sắc và cực kì đa dạng trong suy nghĩ mỗi người.

D

ẠY

Có thể nói, suy nghĩ của chúng ta có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố song môi trường là phần lớn. Một cậu bé nghịch ngợm có thể trở nên ngoan ngoãn nhờ lời dạy dỗ của mẹ, một đứa trẻ nhút nhát có thể trở nên dũng cảm hơn sau khi xem một bộ phim... Đó là những thay đổi về tính cách. Trong câu nói của W. Gớt, trưởng thành về trí tuệ phải đi song hành cùng trưởng thành về tính cách. Từ khi sinh ra, tính cách của chúng ta đã bị ảnh hưởng từ hoàn cảnh, cho đến khi lớn, chúng ta vẫn không ngừng tiếp thu và thay đổi tính cách cá nhân, những con người khác nhau mang tính cách khác nhau. Có người rất trầm lặng, có người lại sôi nổi, nhiệt huyết nhưng đã gọi là “con người” thì cuộc sống của ta chẳng bao giờ êm ả. Sẽ không bao giờ có cái trước


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

giống cái sau, bởi thử thách của mỗi người cũng như kinh tuyến và vĩ tuyến xung quanh Trái Đất vậy, luôn chằng chịt, đan xen nhau. Ta không thể gục ngã, càng không thể bỏ cuộc, chỉ có thể đứng lên và cố gắng vượt qua vật cản. Không nói đâu xa xôi, không cần bạn phải sinh ra trong một thời đại kháng chiến anh hùng hay khởi nghĩa quật cường, chính những vấn đề hằng ngày thôi đã thực sự là khó khăn rồi. Các bạn trẻ ngày nay thường sống theo kiểu nội tâm và nhạy cảm. Hằng ngày các bạn có thể đến lớp với một khuôn mặt tươi cười, một tinh thần tươi trẻ nhưng khi về nhà, nhiều bạn thông qua mạng xã hội đã đăng tải những dòng status chán đời, chán tất cả. Không cần phải động tay động chân mới là chiến đấu với khó khăn? Chỉ cần một chút cảm giác cô đơn lạc lõng giữa bạn bè, chút cảm giác thất bại từ việc học hay cảm giác “người thừa” trong gia đình thôi cũng đủ làm những bạn trẻ ấy tổn thương, buồn rầu. Nếu các nhà khoa học vẫn chưa khám phá được nơi sâu nhất thế giới thì sẽ chẳng ai thấu hiểu được nội tâm, suy nghĩ của con người. William Arthur Ward từng nói: “Phạm phải sai lầm là con người; vấp ngã là chuyện bình thường; có thể cười vào mặt chính mình là sự trưởng thành”. Thật vậy. Chẳng ai nói cuộc sống sẽ dễ dàng, ta có thể nhận lời chúc phúc từ người khác, nhưng phần lớn hãy tự bước đi trên chính đôi chân của bản thân. Trải qua từng giai đoạn, trải qua phong ba ta mới có thể lớn lên, mạnh mẽ hơn. Khi ta còn bé, ta có thể nông nổi, dại dột, suy nghĩ chưa chín chắn nhưng chính những khúc trầm của cuộc sống mới có thể làm ta thay đổi suy nghĩ, từ đứa trẻ ích kỉ, ta khoan dung hơn, cuộc sống khác hơn trong mắt ta, ta tự giác thay đổi tính cách của bản thân phù hợp theo hoàn cảnh xã hội, hoàn thiện nhân cách... đó chính là “sự trưởng thành về tính cách”. “Chuyến phiêu lưu của đời là học hỏi. Mục đích của đời lạ trưởng thành. Bản tính của đời là thay đổi. Thách thức của đời là vượt qua...” (William Athur Ward). Thật vậy, sự trưởng thành của một người sẽ không dễ dàng, đó là sự hợp nhất của trí tuệ và nhân cách. Trong đó, trí tuệ chính là không ngừng tìm tòi và khám phá, tự đặt câu hỏi cho bản thân và giải quyết nó bằng những suy nghĩ; nhân cách chính là sự trưởng thành qua quá trình vấp ngã và đứng dậy của cuộc sống... Quyển sách tốt là quyển sách được chọn lọc bởi những giá trị chân thực của nó, con người “trưởng thành” chính là con người phải “trưởng thành về trí tuệ và nhân cách”. Câu nói của W. Gót thật sự đã mở ra cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ mà theo đó, sự trưởng thành của con người không chỉ đơn thuần là sự nhân đôi tế bào, mà còn là sự giao thoa và hội tụ của trí tuệ và tính cách như những ngã tư đường. Qua câu nói ấy, ta đã tìm được một định lí của sự trường thành trí tuệ và tính cách... Hãy áp dụng bài học này, hãy biến những khó khăn thành tiền đề để phát triển trí tuệ và nhân cách. Bài 16: Đọc câu chuyện ngắn dưới đây: XA XỨ Em tôi học đến kiệt sức để có một xuất du học. Thư đầu viết: Ở đây, đường phố sạch đẹp, văn minh bỏ xa lắc nước mình... Cuối năm viết: Mùa đông, bên này tĩnh lặng, tinh khiết như tranh, thích lắm... Mùa đông sau viết: Em thèm một chút nắng ấm quê nhà, muốn được đi giữa phố xá bụi bặm ồn ào, nhớ bến chợ xốn xao, lầy lội... Biết bao lần trên phố, em đuổi theo một người châu Á, để hỏi coi đó có phải là người Việt không... (Sưu tầm từ internet)


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

Suy nghĩ của anh (chị) từ câu chuyện trên GỢI Ý LÀM BÀI 1. Giới thiệu vấn đề nghị luận - Không biết từ bao giờ trong sâu thẳm trái tim của mỗi người con xa quê luôn đau đáu về chợ quê, cánh diều trên đồng lúa... - Quê hương hai tiếng thiêng liêng và tự hào biết mấy. - Trích dẫn câu chuyện 2. Giải thích vấn đề - Câu chuyện là hành trình tình cảm, hành trinh nhận thức của một thanh niên đi du học, ban đầu bị hấp dẫn bởi cuộc sống văn minh phương Tây, sau đã nhận ra tình cảm sâu nặng đối với quê nhà. - Tình yêu quê hương đất nước ăn sâu vào từng nếp nghĩ của mỗi con người trên hành trình của cuộc đời, nhất là khi ở nơi xa. 3. Bàn luận vấn đề - Tình yêu quê hương xứ sở là một tình cảm có khi phải đặt trong hoàn cảnh thử thách cụ thể, phải được trải nghiệm qua thời gian mới nhận ra được trong mỗi con người. - Tình yêu quê hương xứ sở không tỉ lệ thuận với những giá trị văn minh vật chất mà nó tỉ lệ thuận với những gì gắn bó thân thuộc đã trở thành kí ức, kỉ niệm nằm sâu trong trái tim của mỗi con người. - Tình yêu quê hương là một trong nhũng yếu tố tạo nên nhân cách và giá trị đạo đức của con người. - Phê phán hiện tượng vọng ngoại, chỉ coi trọng giá trị vật chất mà coi nhẹ tình cảm cội nguồn. Lưu ý: Đối với mỗi luận điểm, thí sinh cần lấy được các dẫn chứng tiêu biểu, có sức thuyết phục để chứng minh. 4. Bài học nhận thức và hành động - Bài học cho những con người hiện đại: Cuộc sống đầy đủ, sung túc nhưng cô đơn, thiếu điểm tựa tinh thần. - Hình thành kĩ năng sống + Coi trọng tình cảm đối với quê hương xứ sở. Nó đặc biệt có ý nghĩa trong xu thế hội nhập của đất nước hiện, nay. + Nhắc nhở mỗi con người khi bước ra thế giới không được quên đi tổ tiên, nguồn cội, phải luôn có ý thức giữ gìn. + Thể hiện và phát huy bản sắc của dân tộc mình ra trước bè bạn năm châu. Bài 17: Sắp tới anh (chị) tham gia một cuộc thi viết ngắn bàn về thái độ sống với chủ đề: Con người ta lớn hơn, vì biết cúi xuống. Hãy viết tham luận của mình trong khuôn khổ 500 từ. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận - Đặng Thái Sơn, nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng của Việt Nam đã từng ví von: “Lúa càng nặng hạt càng trĩu bông, gian dị cúi đầu, đó chính là thái độ sống, phong thái sống của những con người thực sự có văn hóa trong xã hội”.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

- Nghĩ về lối sống giản dị cúi đầu ai đó cũng từng khẳng định: Con người ta lớn hơn vì biết cúi xuống. 2. Giải thích và nêu ý nghĩa câu nói - Cúi xuống không phải là hành vi mà là cách hành xử giữa người với người. Cúi xuống không đồng nghĩa với sự nhẫn nhục, luồn cúi thấp hèn. Cái cúi xuống ở đây chính là cái cúi đầu giản dị, khiêm nhường của những người có đạo đức, văn hóa trong xã hội. Cúi xuống cũng chính là để hiểu rõ mình hơn, nhận ra giá trị, vị thế của mình. - Lớn hơn là cách nói hình ảnh chỉ sự trưởng thành hơn. Lớn hơn cũng có nghĩa là vĩ đại hơn, giá trị hơn. Khi người ta biết cúi mình khiêm tốn cũng là khi giá trị của con người được nâng lên một bậc.  Câu nói khẳng định giá trị của lòng khiêm tốn, lối sống khiêm nhường. Khi biết sống khiêm nhường giản dị, con người sẽ ngày càng nâng cao và khẳng định được giá trị của bản thân. 3. Phân tích và lí giải - Cuộc sống là một cuộc chiến, nếu chúng ta dừng lại với thành công của mình ở hiện tại tức là chúng ta chấp nhận thất bại trong tương lai, ở lại quá khứ làm kẻ thua cuộc. Con người có tài cán bao nhiêu đi chăng nữa thì cái khôn ngoan hiện hữu ấy cũng không thể quả quyết là không ai hơn được. Người xưa có câu: “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, người giỏi sẽ có người giỏi hơn”. Cúi đầu chính là biểu hiện của chấp nhận học tập, chấp nhận sự bình thường, yếu kém của bản thân để học hỏi những người xung quanh. - Khi biết cúi xuống cũng là lúc con người nhận ra vị trí của bản thân. Biết cúi xuống nhìn lại chính mình, con người cũng sẽ học được nhiều điều ý nghĩa, nhận ra và hiểu được chính bản thân mình, từ quá khứ. - Cúi xuống là để hiểu người hơn, là để nâng người khác lớn lên. Cúi xuống cũng là để hiểu mình hơn, để tự nâng mình lên. Những người biết cúi mình là những người biết hiểu mình, hiểu người. Sự hiểu mình hiểu người giữ một vai trò hết sức quan trọng giúp con người tiến xa hơn, đạt được nhiều thành công trong cuộc sống. - Thái độ khiêm tốn, giản dị luôn được coi là một biểu hiện của văn hóa và đạo đức ở mọi thời. Người sống khiêm tốn sẽ nhận được nhiều yêu mến, kính trọng của người khác. Những người càng có đạo đức văn hóa thì càng biết sống nhún nhường, giản dị, không thích khoe khoang hình thức. Sự giản dị khiêm tốn ấy không làm cho người đó mất đi giá trị mà càng làm cho người xung quanh kính nể. + Dẫn chứng: • Trong khiếm tốn người ta tự cho mình là kém và cần học nữa, họ coi thành công như sự an ủi. Các nhà bác học càng lớn càng thấy mình cần phải khiêm tốn là lẽ đương nhiên. • Nhà vật lí học Newton đã so sánh mình như một đứa trẻ dạo chơi trên bãi biển may mắn nhặt được hòn sỏi đẹp và trước mắt là bể chân lí bao la. Ông còn nói: “Sở dĩ tôi nhìn xa là vì tôi ngồi trên vai người khổng lồ”. • Lê-nin có lời khuyên cho thanh niên về cách nghĩ và hành động khiêm tốn: “Nếu tôi biết tôi biết ít tôi sẽ tìm cách để hiểu biết hơn, nhưng nếu anh tuyên bố anh là người cộng sản không cần biết điều cơ bản thì anh không có chút gì cộng sản hết”. 4. Đánh giá và mở rộng


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

- Chúng ta phải biết đánh giá không thiên vị thực tài, không được coi thường thế hệ nhỏ tuổi, nêu cao ý thức học tập, phát triển không ngừng tư duy sáng tạo, sổng cho phù hợp với hoàn cảnh và cảc giá trị chân - thiện - mĩ. - Giản dị, khiêm nhường là những yếu tố giúp con người nâng cao giá trị bản thân. Nhưng thật buồn vì những giá trị này không được chú ý. Có người tự mãn với số vốn kiến thức sẵn có, có người học đến một học vị nào đó rồi cho là “công thành danh toại” không cần nghiên cứu nữa. Có người giàu có và tự cho mình là đủ nên chỉ lo ăn chơi tiêu hoang phá hại, không lo phát triển đến khi trắng tay rồi mới hối hận. Bên cạnh đó thói đua đòi xa xỉ, chỉ xài của cái thời gian vào việc vô bổ cũng thật sai lầm. Người ta bỏ tiền bạc của cải vào cuộc chạy đua thời trang, chạy đua công nghệ... để chứng tỏ vị thế của bản thân. Thể hiện mình bằng những giá trị vật chất đó, con người càng hạ thấp bản thân mà không hề hay biết. 5. Bài học nhận thức và hành động - Câu nói trên không nhằm khuyển khích người ta chỉ biết cúi xuống mà nhằm nhắc nhở người ta biết cách ứng xử cần thiết để lớn hơn... - Tuổi thanh niên luôn có ý thức khẳng định mình và cũng tràn đầy khát khao ý chí. Đó là một thuộc tính thông thường và rất đáng trân trọng. Nhưng tuổi trẻ cũng dễ mắc những nhược điểm: tự phụ, tự mãn, hiếu thắng, đôi khi thiếu nhường nhịn, không khiêm tốn. Vì quá tự tôn nên đôi khi không chấp nhận thành công của người khác, không chịu học tập người khác. - Liên hệ bản thân: Người viết tự nhìn nhận, đánh giá lại lối sống của bản thân mình, từ đó đề ra một lối sống, lối ứng xử phù hợp. Bài 18: Có người đã nhận xét: Việt Nam tuy điều kiện kinh tế hạn chế, cơ sở vật chất chưa phát triển, nhưng có nhiêu học sinh đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế. Nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng này. BÀI LÀM THAM KHẢO “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu”. Quyết tâm thực hiện tốt lời Bác dạy, ngày nay đất nước Việt Nam tuy điều kiện kinh tế hạn chế, cơ sở vật chất chưa phát triển, nhưng đã có nhiều học sinh đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế. Đó là những tấm gương tiêu biểu cho lòng say mê, cần cù học tập, năng động, sáng tạo và ý chí vượt lên hoàn cảnh để bước đến thành công.” Trên bản đồ thế giới, Việt Nam chỉ có một vị trí rất khiêm tốn, nhưng trong các kì thi quốc tế, Việt Nam được biết đến như là quê hương của những người con ưu tú, biết vượt qua khó khăn để làm nên những điều kỳ diệu. Nhắc đến thành tích của đội tuyển Việt Nam khi tham dự các kì thi, không mấy ai không nhớ lần đầu tiên tham dự thi Toán quốc tế năm 1974 ,Việt Nam đã đoạt liền bốn huy chương vàng. Lần thi Olympic Toán quốc tế tại Anh, Lê Bá Khánh Trình với số điểm tuyệt đối 40/40 đã được nữ hoàng Anh trao giải đặc biệt. Và nhiều ngừời hẳn vẫn chưa quên hình ảnh cậu học sinh Việt Nam nhỏ nhắn, người đã vinh dự được đích thân tổng thống nước Cộng hòa Ru-ma-


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

ni trao huy chương vàng Toán quốc tế lần thứ 40 tổ chức tại Bu-ca-rét năm 1999. Đó là Lê Thái Hoàng, học sinh lớp 12A khối phổ thông chuyên Toán, Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Tại cuộc thi này, Hoàng đã cùng đội tuyển Việt Nam vươn lên đứng hàng thứ hai trên thế giới. Nếu như Lê Thái Hoàng nổi tiếng với tấm huy chương vàng bộ môn Toán, thì Nguyễn Bích Hoàng Anh, sinh viên năm thứ nhất ngành Công nghệ thông tin Đại học Khoa học tự nhiên, đã xuất sắc đem về cho đất nước tấm huy chương bạc Olympic Tin học quốc tế tại Ba Lan. Và gần đây nhất ngay cả trong lĩnh vực mới mẻ là chế tạo Rôbôcon, những chú rôbô của nhóm FXR - sinh viên Đại bọc Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất sắc vượt trên cả những đất nước tên tuổi như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để mang về chiếc cúp vàng cho quê hương Việt Nam... Những thành tích ấy không chỉ làm rạng danh đất Việt mà còn là sự khẳng định cho sức mạnh của trí tuệ Việt Nam. Đó chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng số những gương mặt học sinh, sinh viên Việt Nam tiêu biểu. Chúng ta được biết đến họ qua các phương tiện truyền thông và đều thật sự rất thán phục họ. Tại sao một đất nước nhỏ bé nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể sản sinh ra những con người ưu tú đến thế? Câu hỏi ấy không chỉ người Việt Nam mới biết rõ câu trả lời. Suốt chiều dài thăng trầm của lịch sử, lòng ham hiểu biết, ý chí học tập, tìm tòi, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức luôn được nung nấu trong trái tim mỗi người Việt Nam. Tự thuở xưa, bằng ánh sáng của những con đom đóm, Mạc Đĩnh Chi đã miệt mài học tập để trở thành lưỡng quốc trạng nguyên, Nguyễn Hiền nhờ tự học mà đoạt giải khôi nguyên khi mới 12 tuổi, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh và biết bao người nữa đã làm nên truyền thống hiếu học của nước nhà... Họ đã trở thành tấm gương, thành nội lực tinh thần để học sinh - sinh viên Việt Nam cố gắng hết mình, cần cù say mê học tập. Đất nước nghèo nàn, lạc hậu nên nếu các bạn nước khác cố gắng một thì học sinh, sinh viên Việt Nam phải cố gấp hai ba lần để bù đắp những thiếu hụt, thiệt thòi. Về điều kiện học tập. Dường như chính sự nghèo nàn lạc hậu của đất nước đã hun đúc ý chí tìm tòi, sáng tạo của học sinh Việt Nam. Lòng yêu nước, nỗi khát khao quê hương xứ sở đẹp giàu, là sức mạnh to lớn giúp học siiih - sinh viên Việt Nam đạt tới những chân trời khoa học. Thế nhưng tại sao họ có thể đạt được những kì tích vẻ vang như thế? Đó trước hết là nhờ lòng hăng say, miệt mài học tập. Thomas Êđixơn đã từng nói: “Thiên tài là 1% cảm hứng cộng với 99% khổ luyện”. Nếu như bạn không cố gắng học tập, rèn luyện, trau dồi tri thức và đem áp dụng những kiến thức mới đó vào cuộc sống thì liệu bạn có thể nhớ nổi hàng ngàn, hàng vạn kiến thức đã được học hay không? Khi bạn gặp một vấn đề khó thì chớ nên đầu hàng, mà hãy tiếp tục nỗ lực trau dồi, học hỏi để tìm ra cách giải quyết tốt nhất. Luôn có một tinh thần học tập cao thì bạn sẽ thành công. Đó chính là yếu tố đầu tiên và cũng là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên một thiên tài. Ngoài ra, còn một phẩm chất quan trọng nữa cần phải có để học tốt là năng động, sáng tạo. Khi ta giải quyết được một vấn đề, hầu hết chúng ta đều rất vui mừng ít ai còn nghĩ đến việc tìm ra một con đường ngắn hơn, thuận tiện hơn để đạt được mục tiêu đặt ra. Tìm ra những cách giải quyết mới vừa giúp chúng ta trau dồi và bổ sung vốn kiến thức sẵn có của mình, vừa giúp chúng ta có được những kinh nghiệm quý báu để giải quyết những khó khăn khác. Chính


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

óc sáng tạo đã giúp con người Việt Nam tạo nên được những kỳ tích. Trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, khi thế giới vẫn không ngừng thay đổi dù chỉ trong một giây, thì nhũng gương mặt sinh viên, học sinh ưu tú, những tấm huy chương, thành tích cao thật sự là những phương tiện quý giá để đất nước Việt Nam từ một quốc gia lạc hậu vươn lên sánh ngang tầm với thế giới. Để thực hiện điều đó, trước hết, học sinh, sinh viên Việt Nam cần rèn luyện những phẩm chất đã nêu ở trên để vượt qua những giới hạn về vật chất, khắc phục những điểm yếu của bản thân để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh hơn. Những tấm huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế mà chúng ta có được không chỉ bởi sự nỗ lực của cá nhân mà còn nhờ sự quan tâm chăm sóc của gia đình, của thầy cô và nhất là sự chăm lo của Đảng, Nhà nước đối với tài năng trẻ. Bởi lẽ tự ngàn xưa, người Việt Nam ta đã quan niệm “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Sự thành công của học sinh - sinh viên Việt Nam đã đem đến cho người Việt Nam và bản thân chúng ta lòng tin và niềm tự hào sâu sắc về trí tuệ Việt Nam, thôi thúc trong ta khát vọng được chinh phục những chân trời tri thức. Như vậy, học sinh chúng ta cần học tập những tấm gương học sinh, sinh viên Việt Nam tiêu biểu để đạt được thành tích cao, học tập về những phẩm chất như kiên trì, say mê học tập, năng động, sáng tạo, nghị lực vượt lên khó khăn của họ nhằm đạt được thành tích cao trong học tập, góp phần thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới như lời Bác dạy. Bài 19: Có người đã nói rằng: Ai ngủ trong mùa xuân sẽ phải khóc trong mùa hè. Viết một bài văn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu nói trên. GỢI Ý LÀM BÀI 1. Khái quát vấn đề nghị luận - Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng biết rằng tuổi trẻ là một thành phần, yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến tương lai đất nước, vì thế mà Bác đã căn dặn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dần tộc Việt Nam có bước đến đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ phần lớn ở cộng học tập của các cháu”. - Cha ông ta trao cho con cháu ngọn lửa thiêng liêng của nền văn hóa, văn hiển và hơn ai hết tuổi trẻ của thế hệ hôm nay phải có sứ mệnh thắp sáng hơn, đưa ngọn lửa thiêng liêng ấy đến đài vinh quang trong tương lai. - Trích dẫn câu nói 2. Giải thích - Mùa xuân là mùa gieo trồng; mùa xuân cũng có nghĩa là khi tuổi còn trẻ. - Mùa hè là mùa thu hoạch; mùa hè cũng có nghĩa là khi tuổi trưởng thành. - Ngủ là không hoạt động, là nghỉ ngơi, nó gợi cho chúng ta đến sự lười nhác. - Khóc là gợi sự đau buồn, tiếc nuối.  Ý nghĩa: Câu nói trên cho chúng ta một lời cảnh tỉnh; trong giai đoạn trước - giai đoạn gieo trồng, lúc tuổi trẻ ta lười nhác, ngủ, nghỉ ngơi... thì đến giai đoạn sau ta sẽ phải hối tiếc. 3. Bàn luận và chứng minh


ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF IC IA L

- Nếu trong giai đoạn trước, ta chuẩn bị tốt, thì đến giai đoạn sau ta sẽ có hi vọng thu nhận được những kết quả tích cực. - Nếu giai đoạn trước ta lười nhác, thiếu ý thức thì đến giai đoạn sau ta sẽ phải nhận những hậu quả tiêu cực. - Cũng có khi hiện tại ta không lười nhác, có ý thức nhưng cũng có thể thất bại do những yếu tố khách quan tác động ngoài mong muốn. - Tất nhiên, không phải lá cứ gieo gì là được gặt nấy. Còn có nhiều yếù tố khác chi phối cuộc sống của chúng ta: + Có những điều ta đã chuẩn bị chu đáo nhưng vì do nhiều nguyên nhân khách quan mà sau đó, ta vẫn có thể thất bại. Ta có thể học hành chăm chỉ chuẩn bị cho một kì thi, nhưng đến kì thi ta vẫn có thể thất bại vì một nguyên nhân nào đó ví dụ như bị ốm khi đi thi hay một điều gì đó làm ta buồn phiền không thể làm tốt bài thi. + Mặc dù vậy, diều chắc chắn là nếu hôm nay ta không chuẩn bị thì ngày mai không thể có kết qúả tốt đẹp. Nếu hôm nay ta không học hành thì ngày mai ta không thể thi tốt. - Con đường tiếp cận tri thức của nhân loại là cả một hành trình không mệt mỏi, không có chỗ dừng. Để có thể thực sự trở thành những chủ nhân vững vàng của đất nước tương lai, ngay từ bây giờ, mỗi chúng ta phải không ngừng học tập, nắm bắt một cách đầy đủ những kiến thức cơ bản để có thể tiến xa hơn trên con đường khám phá tri thức nhân loại, trở thành lực lượng lao động tri thức, trở thành những con người cốt cán của thời đại khoa học kĩ thuật. 4. Bài học nhận thức và hành động - Cần phải sống có ý thức rằng: ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay và những điều ta làm hôm nay đang là sự chuẩn bị cho ngày mai. - Chúng ta không được lười biếng, lơ là; không được ngủ hôm nay để ngày mai phải khóc. - Thời đại của tri thức, của khoa học công nghệ. Ai nắm được tri thức công nghệ, người ấy sẽ nắm chiếc đũa thần để tạo bước đi thần diệu cho đất nước. Nhiệm vụ của tuổi trẻ là phải có chiếc đũa thần ấy. Bất cứ ai ở tuổi ăn học, phải tạo mọi điều kiện, tiếp, cận với tri thức. Chỉ có tri thức dồi dào, đạo đức nhân tâm trong sáng, khát vọng sống, lao động cống hiến mãnh liệt trong tầng lớp tuổi trẻ thì tương lai của dân tộc mới xán lạn, lấp lánh hào quang. Bài 20: Có người nói rằng: Vị tha là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Lòng vị tha làm cho người gần người hơn, làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về câu nói trên. BÀI LÀM THAM KHẢO

D

Tạo hóa cho mỗi người có một tính cách khác nhau. Nhiều người có lòng đố kị, ích kỉ, người thích tranh đua lớn nhỏ, có người lại khiêm cung sống chan hoa, giàu lòng vị tha. Lòng vị tha là hạt giống tốt lành mà tạo hóa đã ban cho mỗi con người. Lòng vị tha có thể biến thù hận thành sự thứ tha, biến sự giả dối thành chân thật và biến sự ích kỉ trở thành sự bao dung... Chính vì thế mà có người nói rằng: Vị tha là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Lòng vị tha làm cho người gần người hơn, làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn.


Vậy vị tha là gì? Vị tha là một tấm lòng vì mọi người, biết sống vì người khác, biết hi sinh cho người khác hay nói khác đi là biết tương trợ, giúp đỡ mọi người.

N

O

FF IC IA L

Có thể nói trong cuộc sống không thể thiếu đi lòng vị tha. Một khi không có lòng vị tha con người chẳng khác nào khúc gỗ, tảng đá vô tri. Không có lòng vị tha con người cũng sẽ không biết yêu thương, không còn biết quan tâm đến những người xunh quanh. Nhờ lòng vị tha mà con người mới có được đức hi sinh, tinh thần dũng cảm... Từ xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu thương, nhân ái, vị tha. Chính lòng vị tha đã làm nên những điều kì diệu trong lịch sử. Lòng vị tha đã đưa một đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu đánh đuổi hết bè lũ tay sai bán nước vả cướp nước. Lòng vị tha đã làm cho một thế hệ quên mình thậm chí hi sinh cả tuổi thanh xuân cho độc lập tự do cùa cả dân tộc. Lòng vị tha. trong mỗi con người chúng ta luôn tiềm ẩn. Có điều nó như hạt mầm chỉ cần bạn cho nó một chút nước của tình yêu thương, nó sẽ nảy mầm, và trổ hoa trong bạn với bao điều tốt đẹp. Trong cuộc sống ngày nay, nếu có lòng vị tha bạn sẽ sống cuộc sống giàu ý nghĩa hơn. Chính lòng vị tha sẽ xua tan đi những lạnh lẽo, giá băng trong đời và mang đến cho đời ánh sáng và sự ấm áp.

D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

Nếu một bà lão mắt mờ, chân tay yếu nhờ bạn dẫn sang đường nhưng vì bận một việc gì đó bạn đã không giúp bà lão ấy thì bạn có thấy lương tâm cắn rút? Bạn có thấy lòng xót xa, hối tiếc? Có những việc qua đi ta không bao giờ sửa được cho nên đừng bao giờ dửng dưng trước cuộc sống và những mảnh đời bất hạnh để đến một lúc nào đó trong đời bạn lại hối tiếc, xót xa.


D

ẠY

M

Q

U

Y

N

H

Ơ

N

O

FF

IC IA L

Lòng vị tha thể hiện ở thái độ vô tư, không mưu toan tính toán khi giúp đỡ người khác làm một việc gì đó. Trong lớp có bạn học kém hơn, bạn không dè bỉu, xa lánh mà lại gần sẻ chia, giúp đỡ bạn ấy học tốt. Trong tập thể có thành viên mắc lỗi, làm điều sai trái, bạn không lên án gay gắt mà ngược lại, bạn giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để giúp họ sửa sai... Trong những hoàn cảnh ấy, nếu bạn làm được như vậy, có thể khẳng định rằng bạn là người có lòng vị tha. Trong đời sống xã hội, ta có thể nhìn vào hoạt động tình nguyện cùa thế hệ thanh niên đất nước mỗi khi mùa hè đến. Họ không quản ngại gian khó đi về với vùng cao, vùng gặp khó khăn... để hòa mình với đồng bào, cùng đồng cam cộng khổ giúp đỡ họ vươn lên. Không thiếu những tác phẩm văn học chan chứa lòng, vị tha. Mỗi người chúng ta ai mà không xúc động trước hình ảnh bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân. Người mẹ nghèo ấy vô cùng giàu có lòng vị tha. Bà đã yêu thương bao bọc đứa con dâu bơ vơ, lạc lõng giữa khó khăn đói kém... Trong cuộc sống gia đình thì lòng vị tha lại càng không thể thiếu. Lòng vị tha sẽ giúp mỗi thành viên trong gia đình thương yêu, đùm bọc, chia sẻ, thông cảm cho nhau nhiều hơn. Lòng vị tha sẽ giúp cho ông bà yêu thương con cháu, cha mẹ hiểu con cái nhiều hơn, anh chị em yêu thương nhau hơn. Không có lòng vị tha gia đình sẽ tan vỡ. Mỗi ngày qua đi là một sự nặng nề, chán ngán. Hãy hình dung một ngày nào đó thế giới này đánh mất đi lòng vị tha. Lúc ấy thế giới này chỉ còn trơ lại sự khô cằn, đổ nát. Chính lòng vị tha sẽ kết nối những trái tim yêu thương, giúp con người gần nhau hơn. Con người sẽ hiểu rõ về mình hơn khi sống trong sự vị tha. Con người nhờ lòng vị tha mới chiến thắng được tư tưởng vị kỉ, chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi. Lòng vị tha là một đức tính mà con người chúng ta ai ai cũng phải xem trọng bởi vì nó rèn luyện chúng ta trở thành người tốt. Tuy nhiên trong cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những người có lối sống cá nhân, ích kỉ không biết giúp đỡ ai. Có được lòng vị tha, con người sẽ cảm thấy thanh thản trước cuộc đời bởi thấy rằng mình có ích. Hơn thế, họ còn được mọi người mến yêu, quý trọng. Những việc họ làm đã giúp thêm đẹp, thêm giàu cho xã hội. Không ai có thể kể hết giá trị của sự bình yên mà những chiến sĩ công an biên phòng đang từng ngày từng giờ thầm lặng hi sinh cho đất nước... Không ai có thể nói hết được niềm hạnh phúc, lòng quyết tâm vươn lên và sự khởi sắc trong tương lai của những người chưa có thành công, những người lầm lỡ được lòng vị tha cứu giúp. Cuộc đời này cần đến những tấm lòng dù chỉ để gió cuốn bay đi nhưng là bay đi để gieo mầm, nở hoa trên đất lạ. Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, còn rất nhiều gia đình nghèo khó. Đối với bản thân tôi, lúc nào cũng cố gắng sống cho chân thành, sâu sắc. Tôi muốn mỗi ngày trôi qua là một niềm hạnh phúc được cho đi. Tôi không muốn đến một lúc nào đó trong đời phải hối tiếc việc mình làm khi sống không có lòng vị tha. Vị tha là một đức tính cao đẹp của con người. Nó là một thứ khí giới thanh cao mà khi có nó bạn sẽ đánh bại mọi xấu xa, thấp hèn trong cuộc sống. Nó còn là một thứ tài sàn đặc biệt mà khi có nó bạn có thể không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có về tâm hồn. Như vậy, sống vị tha không có nghĩa là phải làm những điều gì phi thường, lớn lao. Ngược lại, đức tính ấy được ghi nhận ở những việc làm đơn giản nhất. Vậy thì tại sao chúng ta không xây dựng cho mình một lối sống đẹp?


D

ẠY M

KÈ Y

U

Q H

N Ơ N

IC IA L

FF

O


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.