25 minute read
1.1.2. Nghiên cứu về giáo dục môi trường ở Việt Nam
nghiệm chính là cách học tập dựa trên cách tiếp cận “Giáo dục trong MT”. Thông qua DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL các hoạt động học tập dựa vào trải nghiệm, từ hành động trực tiếp với MT, HS sẽ lĩnh hội được các kiến thức và kỹ năng về MT, các vấn đề MT. Chính điều nay sẽ giúp các em mở rộng và khắc sâu những kiến thức và kỹ năng được lĩnh hội. Tóm lại, các công trình nghiên cứu GDMT trên thế giới đã nghiên cứu và kết luận ở một số nội dung: - Nội dung các môn học trong nhà trường nếu được tích hợp nội dung GDMT sẽ có tác dụng lớn đối với việc giáo dục HS về ý thức bảo vệ MT khi học tập môn học đó. - Việc xây dựng chương trình các môn học ở các cấp học cần được quan tâm và dựa trên các khái niệm về bảo tồn môi trường sống. - Người học khi tham gia vào các khóa học “Sống trải nghiệm với MT” sẽ giúp cho mỗi cá nhân có cơ hội học hỏi và nâng cao những kỹ năng cần thiết để đảm bảo an toàn; cảm thấy thích thú và có thái độ, hành vi đúng đắn đối với các khu vực MT sinh thái. - Những kinh nghiệm được hình thành thông qua các hoạt động tích cực của HS với MT có tính quyết định nhất đối với sự hình thành ý thức, mối quan tâm đến MT và các vấn đề MT. 1.1.2. Nghiên cứu về giáo dục môi trường ở Việt Nam Ngày nay, vấn đề môi trường đang được quan tâm, chính vì thế, việc tích hợp GDMT vào giảng dạy nhằm giúp cho HS nâng cao được ý thức và bảo vệ môi trường. Việc đưa nội dung vào giảng dạy trong bài giảng Hóa học ở trường THPT sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Những khóa luận tốt luận tốt nghiệp và luận văn thạc sỹ nghiên cứu về vấn đề giáo dục môi trường đã khá nhiều và có những đóng góp rất giá trị. Có thể điểm qua một số tài liệu, bài báo, các khóa luận tốt nghiệp và luận án về nội dung môi trường như sau: a. Các tài liệu, bài báo về môi trường và GDMT Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đề án: “Đưa các nội dung về giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”, Hà Nội 2002. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án quốc gia VIE 195/041. Các hướng dẫn chung về Giáo dục môi trường dành cho người đào tạo giáo viên Phổ thông trung học, Hà Nội 2004.
Trịnh Văn Biều, Nguyễn Văn Bỉnh (2004), Giáo dục môi trường thông qua DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL dạy học hóa học ở trường trung học phổ thông, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học phổ thông chu kì III (2004 – 2007), Đại học Sư phạm TP.HCM. b. Các khóa luận, luận văn về môi trường Lê Thị Mỹ Trang (2003), Tìm hiểu môi trường và giáo dục môn trường môn hóa học ở lớp 12, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm TP.HCM. Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (2004), Giáo dục môi trường thông qua một số bài giảng cụ thể ở trường phổ thông, khóa luận tốt nghiệp. Cao Duy Chí Trung (2005), Thiết kế trang web phục vụ công tác giáo dục môi trường trong môn hóa ở trường THPT, khóa luận tốt nghiệp. Nguyễn Trần Đông Quỳ (2007), Website hóa học môi trường qua chương trình hóa học lớp 10, khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm TP.HCM. Nguyễn Thị Trang (2007), Thiết kế giáo án giáo dục môi trường thông qua bộ môn lớp 12 – Ban Khoa học tự nhiên, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm TP.HCM. Nguyễn Đặng Thu Hường (2009), Giáo dục môi trường thông qua dạy học hóa học lớp 10 THPT, khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm TP.HCM. Trần Thị Tú Anh (2009), Tích hợp các vấn đề kinh tế xã hội và môi trường trong dạy học môn hóa học lớp 12 trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm TP. HCM. Trần Thị Hồng Châu (2010), Giáo dục môi trường thông qua dạy học hóa học lớp 10,11 ở trường phổ thông, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm TP.HCM. Hồ Thị Thanh Vân (2011), Tích hợp nội dung giáo dục môi trường trong các bài giảng hóa học ở trường trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm TP.HCM. Số lượng đóng góp tương đối nhiều, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề như: - Một số lại chỉ quan tâm đến việc xây dựng ngân hàng tư liệu phục vụ tham khảo về vấn đề hóa học môi trường. - Các giáo án được thiết kế có nội dung GDMT chủ yếu dựa vào phương pháp thuyết trình của giáo viên. - Chưa có phần bài tập hóa học có nội dung GDMT cụ thể.
Advertisement
1.2. Giáo dục môi trường ở trường phổ thông [2], [7], [10], [25]
DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL 1.2.1. Định nghĩa về giáo dục môi trường Hội nghị quốc tế về GDMT trong Chương trình đào tạo của trường học do IUCN/UNESCO tổ chức tại Nevada (Mỹ) năm 1970 đã thông qua định nghĩa về GDMT như sau: “GDMT là quá trình nhận ra các giá trị và làm rõ khái niệm để xây dựng những kỹ năng và thái độ cần thiết, giúp hiểu biết và đánh giá đúng mối tương quan giữa con người với nền văn hóa và môi trường vật lý xung quanh. GDMT cũng tạo cơ hội cho việc thực hành để giải quyết và tự hình thành quy tắc ứng xử trước những vấn đề liên quan đến chất lượng môi trường” (IUCN,1970). Tại Hội nghị liên chính phủ lần thứ nhất về GDMT tại Tbilisi, Grudia, Nga năm 1977 đã định nghĩa: “GDMT là một quá trình để tạo dựng cho con người những nhận thức và mối quan tâm đối với môi trường và các vấn đề môi trường, sao cho mỗi người đều có đầy đủ kiến thức thái độ, ý thức và kỹ năng để có thể hành động một cách độc lập hoặc phối hợp nhằm tìm ra giải pháp cho những vấn đề có thể nảy sinh trong tương lai.” Ở Việt Nam, dự án VIE/95/04, 1997 thì GDMT cũng quan niệm rằng: “Một quá trình thường xuyên qua đó con người nhận thức được MT của họ và thu được kiến thức, giá trị, kỹ năng, kinh nghiệm cùng quyết tâm hành động giúp họ giải quyết các vấn đề MT hiện tại và tương lai, để đáp ứng các yêu cầu của các thế hệ hiện nay mà không vi phạm khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai” Nhìn chung, các định nghĩa này tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm cơ bản chung sau: - GDMT là một quá trình diễn ra trong một khoảng thời gian ở nhiều địa điểm khác nhau, thông qua những kinh nghiệm khác nhau và bằng những phương thức khác nhau. - GDMT nhằm thay đổi hành vi. - Môi trường học tập là chính môi trường và các vấn đề có trong thực tế. - GDMT liên quan đến việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về cách sống. - GDMT, việc học phải tập trung vào người học và lấy hành động làm cơ sở. Trong giáo dục môi trường ở nhà trường phổ thông, GDMT là quá trình tạo dựng cho học sinh ở những nhận thức và mối quan tâm về môi trường và các vấn đề môi
trường. Từ đó, giúp cho học sinh có thái độ, kiến thức, kỹ năng trong việc hành động, DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL nhận thức về bảo vệ môi trường. 1.2.2. Mục đích, mục tiêu của giáo dục môi trường 1.2.2.1. Mục đích của giáo dục môi trường Mục đích chính của GDMT được xác trong Hội nghị Tbilisi (1977) là: - Tăng cường nhận thức và sự quan tâm đến các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị và sinh thái ở thành thị cũng như nông thôn. - Tạo cơ hội cho mọi người tiếp thu những kiến thức, quan điểm về giá trị, thái độ, ý thức và kỹ năng cần thiết để bảo vệ và cải thiện môi trường. - Tạo ra các mô hình về hành vi thân thiện với môi trường cho từng cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội. - Khuyến khích, củng cố và phát huy những thái độ và hành vi tích cực đối với môi trường hiện có. 1.2.2.2. Mục tiêu của giáo dục môi trường a) Về kiến thức - Hệ sinh thái, cân bằng sinh thái. - Môi trường và các thành tố (địa chất, khí hậu, thổ nhưỡng, sinh vật, cảnh quan thiên nhiên, các nguồn tài nguyên, dân số, hoạt động kinh tế, xã hội của con người,…) - Môi trường và phát triển, bảo vệ và bảo tồn, tăng trưởng và suy thoái, chi phí và lợi ích thu được. - Sự phụ thuộc lẫn nhau, tư duy một cách toàn cầu và hành động một cách cục bộ. - Các chủ trương, chính sách về môi trường của quốc gia, luật Bảo vệ môi trường. b) Về năng lực - Năng lực giao tiếp và hợp tác. - Năng lực tư duy. - Năng lực tự chủ và tự học. - Năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. c) Về phẩm chất - Yêu nước: Tích cực, chủ động vận động mọi người tham gia các hoạt động bảo vệ thiên nhiên. - Trách nhiệm:
+ Có ý thức tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; đấu tranh ngăn chặn các hành vi sử dụng DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL bừa bãi, lãnh phí tài nguyên. + Chủ động, tích cực tham gia và vận động người khác tham gia các hoạt động tuyên truyền, chăm sóc, bảo vệ thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu. - Trung thực: + Nhận thức và hành động theo lẽ phải. + Tự giác tham gia và vận động người khác tham gia phát hiện, đấu tranh với các hành vi vi phạm xấu đối với môi trường. 1.2.3. Nguyên tắc của giáo dục môi trường Hội nghị Tbilisi đã thống nhất 6 nguyên tắc của GDMT: 1. Xem xét môi trường là tổng thể dựa trên mọi khía cạnh: tự nhiên, nhân tạo, công nghệ và xã hội (kinh tế, kỹ thuật, lịch sử văn hóa, đạo đức, thẩm mĩ) 2. GDMT là quá trình liên tục, lâu dài. Bắt đầu từ cấp mầm non và tiếp tục trong suốt trưởng thành ở tất cả các hệ đào tạo chính quy và không chính quy. 3. GDMT mang tính liên thông giữa các môn học. 4. Xem xét những vấn đề môi trường cơ bản trên quan điểm của cấp địa phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu để người học nắm rõ bản chất về điều kiện môi trường ở những khu vực địa lý khác nhau. 5. Tập trung vào tình hình môi trường hiện nay và tương lai, đồng thời tính đến tất cả các yếu tố lịch sử. 6. Đề cao giá trị và sự cần thiết của việc hợp tác ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế trong việc phòng chống và giải quyết các vấn đề môi trường. 1.2.4. Tiếp cận giáo dục môi trường Vì quan niệm là phát triển và giáo dục có tiến triển nên những cách tiếp cận nhất định để thực hiện GDMT cũng như các chiến lược, mô hình khác nhau để dạy và học cũng được hình thành, thực hiện và sửa đổi. Dưới dây, có 3 cách tiếp cận để thực hiện GDMT. * Giáo dục về môi trường Xem môi trường là một đối tượng khoa học, người dạy truyền đạt cho người học các kiến thức khoa học về môi trường, cũng như phương pháp nghiên cứu về đối tượng đó. Đó là những kiến thức về hệ thống tự nhiên và hoạt động của nó; những kiến thức về tác động của con người đến môi trường.
* Giáo dục trong môi trường
DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL Xem môi trường thiên nhiên hoặc nhân tạo như một địa bàn, một phương tiện để giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Với cách tiếp cận này trong môi trường sẽ trở thành “phòng thí nghiệm thực tế, đa dạng, sinh động cho người dạy và người học”. * Giáo dục vì môi trường Truyền đạt kiến thức về bản chất, đặc trưng của môi trường; hình thành thái độ ứng xử, ý thức trách nhiệm, quan niệm giá trị nhân cách, đạo đức đúng đắn về môi trường, cung cấp tri thức kỹ năng, phương pháp cần thiết cho những quyết định; hành động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 1.2.5. Các phương pháp giáo dục môi trường ở trường trung học phổ thông 1.2.5.1. Phương pháp giáo dục môi trường thông qua chương trình giáo trình giảng dạy của môn học trong nhà trường Kiến thức về giáo dục môi trường được tích hợp và lồng ghép vào nội dung bài học theo 3 mức độ: toàn phần, bộ phận, hoặc liên hệ. Tích hợp: kết hợp một cách hệ thống kiến thức môn học với kiến thức GDMT, làm cho chúng quyện với nhau thành một thể thống nhất. Lồng ghép: Đưa vào nội dung bài học một đoạn, một mục hoặc một số câu hỏi có nội dung GDMT. Tùy từng điều kiện có thể sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp giảng dạy dùng lời (minh họa, kể chuyện, đọc tài liệu) - Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề. - Phương pháp trực quan (sử dụng các thí nghiệm, tranh ảnh,..) - Phương pháp thuyết trình (HS trình bày sản phẩm đã chuẩn bị) - Phương pháp khai thác các kiến thức về giáo dục môi trường từ những bài thực hành thí nghiệm trong phòng thí nghiệm. Việc GDMT thông qua chương trình giảng dạy của môn học trong nhà trường cần lưu ý những điểm sau: - Xây dựng nội dung GDMT có chọn lọc, không tràn lan, tập trung vào nội dung bài học. - Không biến đổi bài học thành một bộ môn thành bài GDMT. - Xây dựng các bài tập thực tiễn gắn liền với thực tế địa phương.
- Phát huy được tính tích cực, nhận thức của học sinh và vận dụng kinh nghiệm đã có DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL để tiếp xúc trực tiếp với MT. 1.2.5.2. Phương pháp giáo dục môi trường thông qua hoạt động ngoài giờ, ngoại khóa Trong nhà trường phổ thông, hoạt động ngoại khóa để giáo dục môi trường là hình thức rất có hiệu quả, phù hợp với tâm lí học sinh, sự giáo dục của giáo viên và sự tiếp nhận của học sinh rất sâu sắc. Nội dung giáo dục môi trường thông qua các một số hoạt động ngoại khóa như là: - Tổ chức các seminar, tranh luận, hùng biện về chủ đề “Môi trường” - Hoạt động tham quan theo các chủ đề: tham quan danh lam thắng cảnh, nhà máy, xử lý rác thải,… - Hoạt động trồng cây xanh trong ngày Môi trường thế giới 5/6, tết trồng cây. - Tổ chức các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ môi trường ở nhà trường và địa phương. - Tổ chức các hội thi vẽ tranh. - Hoạt động thi tìm hiểu về môi trường - Tham gia vệ sinh trường lớp, tuyên truyền giáo dục bảo vệ môi trường ở nhà, địa phương. 1.2.5.3. Phương pháp tiếp cận kỹ năng sống Kỹ năng sống bảo vệ môi trường là khả năng ứng xử một cách tích cực đối với vấn đề môi trường. Một số kỹ năng quan trọng cần phát triển như là: - Kỹ năng nhận biết và phát hiện các vấn đề môi trường. - Kỹ năng xây dựng kế hoạch hành động vì môi trường. - Kỹ năng ra quyết định về môi trường. - Kỹ năng kiên định thực hiện kế hoạch hành động vì môi trường. Trong quá trình giáo dục, cần rèn luyện kỹ năng sống bảo vệ môi trường thông qua việc luyện tập, xử lí các tình huống môi trường cụ thể. 1.2.5.4. Phương pháp giáo dục môi trường thông qua việc nêu gương Với những hành vi tốt trong cuộc sống là những tấm gương có ý nghĩa giáo dục trực tiếp đối với học sinh. Muốn giáo dục cho học sinh có nếp sống văn minh, lịch sử và bảo môi trường, trước hết các thầy cô giáo và người lớn cũng như các bậc phụ huynh phải thực hiện đúng các quy định bảo vệ môi trường.
1.3. Quan điểm dạy học tích hợp [4], [6], [23], [24]
DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL 1.3.1. Khái niệm tích hợp và dạy học tích hợp 1.3.1.1. Khái niệm tích hợp Theo từ điển Tiếng Việt (tr981): “Tích hợp là lắp ráp, nối kết các thành phần của một hệ thống theo quan điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ”. Theo Trần Bá Hoành [6] “ Tích hợp là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các kiến thức (khái niệm) thuộc các môn học khác nhau thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở mối quan hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các môn học đó. Tích hợp (tiếng Anh: Intergation) có nguồn gốc từ tiếng Latinh: Integration với nghĩa: Xác lập cái chung, cái tổng thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ. Theo từ điển Anh – Anh (Oxford Advanced Learner’s Dictionary), từ integrate có nghĩa là kết hợp những phần, những bộ phận với nhau trong một tổng thể. Những phần, những bộ phận này có thể khác nhau nhưng thích hợp với nhau. Theo từ điển Bách khoa Khoa học Giáo dục của Cộng hòa Liên bang Đức (Enzyklopadie Erziehungswissienschelf, Bd2, Stuttgart 1984), nghĩa chung của từ integration có hai khía cạnh: - Quá trình xác lập lại cái chung, cái toàn thể được tạo ra từ những cái riêng lẻ. - Trạng thái mà trong đó có cái chung, cái toàn thể được tạo ra từ những cái riêng lẻ. Tích hợp có nghĩa là hợp nhất, sự kết hợp, sự hòa nhập. Trong lĩnh vực giáo dục, khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVIII) dùng để chỉ một quan điểm giáo dục toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Trong dạy học các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau thành một “môn học” mới. Tích hợp còn được hiểu là sự lồng ghép các nội dung cần thiết vào nhũng nội dung vốn có của một môn học. Ví dụ: lồng ghép các nội dung giáo dục như giáo dục môi trường, giáo dục dân số,… vào nội dung các môn học: Địa lý, Sinh học, Giáo dục công dân,.. xây dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống. 1.3.1.2. Khái niệm dạy học tích hợp Theo UNESCO, dạy học tích hợp (DHTH) được định nghĩa như sau: “Một cách trình bày các khái niệm và nguyên lí khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản
của tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm sự sai khác của khoa học DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL khác nhau”. Định nghĩa của UNESCO cho thấy DHTH nhấn mạnh cách tiếp cận các khái niệm và nguyên lí khoa học chứ không phải hợp nhất nội dung.Việc giảng dạy khoa học cần chú trọng tới sự thống nhất đối tượng, phương pháp nhận thức, những khái niệm và nguyên lí chung. Hội nghị về đào tạo giáo viên DHTH các môn Khoa học được tổ chức tại Đại học Tổng hợp Maryland tháng 4 năm 1973 đã tiến hành một bước về khái niệm và mục tiêu của DHTH. Lúc này UNESCO quan tâm đến vấn đề khoa học vào công nghệ để phục vụ đời sống. Theo Hội nghị này, “DHTH các môn khoa học nghĩa là phải chỉ ra cách thức chuyển từ nghiên cứu khoa học sang triển khai ứng dụng, làm cho các tri thức kĩ thuật – công nghệ trở thành một bộ phận quan trọng trong đời sống xã hội hiện đại.” Trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (7/2017): “Dạy học tích hợp là định hướng dạy học trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng… thuộc nhiều lĩnh vực (môn học/hoạt động giáo dục) khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập; thông qua đó hình thành những kiến thức, kỹ năng mới, phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc sống.” Dạy học tích hợp là một quan niệm học nhằm hình thành ở học sinh những năng lực giải quyết vấn đề hiệu quả các tình huống thực tiễn dựa trên huy động nội dung, kiến thức, kỹ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, với mục đích phát triển năng lực người học. Trong DHTH, các nhà giáo dục phân chia ra tích hợp dọc (vertical integration) và tích hợp ngang (horizontal integration): Tích hợp dọc là: “Tích hợp dựa trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều môn học thuộc cùng một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau”. Tích hợp ngang là: “Tích hợp dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập, nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau”.
1.3.2. Mục tiêu của dạy học tích hợp
DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. - Thực hiện môn học tích hợp, các quá trình học tập không bị cô lập với cuộc sống hằng ngày, các kiến thức gắn liền với kinh nghiệm sống của học sinh và được liên hệ với tình huống cụ thể, có ý nghĩa đối với học sinh, hòa nhập thế giới học đường với thế giới cuộc sống. Ngoài ra, các kiến thức sẽ không lạc hậu bởi vì thường xuyên cập nhật với cuộc sống. - DHTH giúp thiết lập được mối liên hệ giữa các khái niệm đã học trong cùng một một môn học và giữa các môn học khác nhau làm cho thông tin càng đa dạng, phong phú làm như vậy sẽ giúp HS làm chủ được kiến thức và vận dụng kiến thức đã học khi phải đối đầu với một tình huống bất ngờ, chưa từng gặp. DHTH làm giảm sự trùng lặp các nội dung dạy học, tiết kiệm thời gian, góp phần giảm tải nội dung học tập. - Thực hiện DHTH giúp xác định rõ mục tiêu, phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng khi lựa chọn nội dung. Cái cốt yếu là những năng lực cơ bản cho HS vận dụng vào xử lí những tình huống có ý nghĩa cuộc sống. - Thay vì nhồi nhét cho HS nhiều kiến thức lý thuyết thì đối với DHTH chú trọng vào việc HS vận dụng các kiến thức, năng lực, phẩm chất học được vào các tình huống thực tế, có ích cho xã hội. 1.3.3. Các mức độ tích hợp trong chương trình giáo dục phổ thông 1.3.3.1. Truyền thống (Traditional) Từng môn học được giảng dạy, xem xét riêng lẻ, biệt lập, không có bất kì sự liên hệ, kết nối nào giống như chụp ảnh cận cảnh từng đoạn – một hướng, một cách nhìn, sự tập trung hạn hẹp vào một môn riêng lẻ. Ví dụ: GV áp dụng quan điểm này trong giảng dạy từng môn như Toán, Vật Lý, Hóa học, Ngữ Văn, Giáo dục công dân… một cách riêng biệt, chỉ trong khuôn khổ kiến thức của môn học mình dạy. Các vấn đề được giải quyết chỉ trên cơ sở những kiến thức, năng lực của chính lĩnh vực bộ môn đó. 1.3.3.2. Kết hợp/lồng ghép (Fusion) Một nội dung nào đó được kết hợp vào chương trình đã có sẵn. Ví dụ, ở một trường THPT của bang Illionois (Mỹ) đã kết hợp các nghiên cứu về toàn cầu hóa vào
trong chương trình của nhà trường. Điều này sẽ giúp HS hiểu sâu hơn các vấn đề của DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL thế giới từ nhiều góc nhìn khác nhau. Hoặc ở nước ta, trong nhiều năm qua đã kết hợp, lồng ghép các chủ đề về dân số, môi trường, an toàn giao thông, sức khỏe sinh sản, kỹ năng sống … vào các lĩnh vực môn học như Địa lý, Sinh học, Đạo đức, Giáo dục công dân, Hóa học,… 1.3.3.3. Tích hợp trong một môn học Tích hợp trong nội bộ môn học. Tích hợp những nội dung của các phân môn, các lĩnh vực nội dung thuộc cùng một môn học theo những chủ đề, chương, bài cụ thể nhất định. Ví dụ: Trong môn Hóa học, tích hợp nội dung Hóa học vô cơ, Hóa học hữu cơ trong chương Hóa học và các vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường. Trong môn Lịch sử, tích hợp kiến thức lịch sử thế giới, Lịch sử Việt Nam và Lịch sử địa phương trong cùng một bài học. Hoặc trong môn Toán học, tích hợp Đại số, Hình học và Lượng giác tại một số thời điểm. 1.3.3.4. Tích hợp đa môn (multidisciplinary) Các môn học là riêng biệt nhưng có những liên kết có chủ đích giữa và trong từng môn học bởi các chủ đề hay các vấn đề chung. Khi HS nghiên cứu về một vấn đề nào đó, các em được đồng thời tiếp cận từ nhiều môn học khác nhau. Ví dụ: Về chủ đề “Bảo vệ môi trường tự nhiên” thì các môn Địa lý, Lịch sử, Văn học, Hóa học, Sinh học, Vật lý, Giáo dục công dân,.. cùng thiết kế nội dung dạy học. 1.3.3.5. Tích hợp liên môn (interdisciplinary) Các môn học được liên hợp với nhau và giữa chúng có chủ đề, các vấn đề, những khái niệm lớn và ý tưởng lớn. Chương trình liên môn tạo ra những kết nối rõ rệt giữa các môn học. Chương trình xoay quanh các chủ đề/vấn đề chung, nhưng các khái niệm hoặc các kỹ năng liên môn được nhấn mạnh giữa các môn chứ không phải trong từng môn riêng biệt. Ví dụ: Chương trình và sách giáo khoa các môn khoa học của Pháp gồm: môn Lí – Hóa, môn Sinh – Địa chất (môn khoa học về Trái đất). Hoặc như môn Khoa học tự nhiên được tích hợp từ các môn Vật lý, Hóa học và Sinh học. Tích hợp theo hình thức liên môn đòi hỏi học sinh phải huy động tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực khoa học để giải quyết vấn đề.
1.3.3.6. Tích hợp xuyên môn ( Transdisciplinary) DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL Cách tiếp cận những vấn đề từ cuộc sống thực và có ý nghĩa đối với HS mà không xuất phát từ các khoa học tương ứng với môn học, từ đó xây dựng thành các môn học mới khác với môn học truyền thống. Cách tiếp cận này bắt đầu từ ngữ cảnh cuộc sống thực (real – life context). Nó không bắt đầu bằng môn học hay bằng những khái niệm hoặc kỹ năng chung. Điều quan tâm nhất ở đây là sự phù hợp đối với HS. Điểm khác biệt tích hợp liên môn là chúng xuất phát từ ngữ cảnh cuộc sống thực và sở thích của HS. Ví dụ: Một trường Quốc tế của Mỹ có 460HS ở bang Texas có mục đích là cung cấp cho HS những kiến thức và kỹ năng khoa học để làm việc trong ngữ cảnh toàn cầu hóa và “làm thay đổi thế giới”. Nhà trường đã đưa ra một chương trình học tích hợp phong phú. HS lựa chọn vấn đề quốc tế và tiến hành thu thập nghiên cứu, chuẩn bị trang web thông tin, thiết kế và thực hiện dự án nghiên cứu – phục vụ và trình bày kết quả của mình trước một Hội đồng những người am hiểu của cộng đồng. Các chủ đề đa dạng có thể là là tình trạng vô gia cư hay lạm dụng chất gây nghiện ở trẻ vị thành niên… Tuy nhiên, tất cả HS phải đi thám hiểm. Mỗi nhóm/lớp phải tham quan trực tiếp một nơi nào đó để học/ nghiên cứu về vấn đề quốc tế. Ngoài ra, từ bối cảnh “ô nhiễm môi trường và cần làm trong sạch môi trường thành phố”. Nhà trường đưa ra một chương trình tích hợp phong phú, HS lựa chọn các vấn đề về môi trường và tiến hành thu thập thông tin, nghiên cứu và đề xuất các biện pháp làm sạch trong môi trường. Một trong những hình thức dạy học của tích hợp xuyên môn là các nội dung, kỹ năng được tích hợp xuyên suốt nhiều môn học, trong đó nội dung được bố trí dạy nối tiếp từ môn học này đến môn học khác (như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các môn học). 1.3.4. So sánh dạy học tích hợp và dạy học đơn môn Bảng 1.1. So sánh dạy học tích hợp và dạy học đơn môn Dạy học tích hợp Dạy học đơn môn Mục tiêu Mục tiêu đơn môn + các mục tiêu phát triển các năng lực chung
Mục tiêu đơn môn Mục tiêu rộng, ưu tiên các Mục tiêu hạn chế hơn, đặc