Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
THƢ VIỆN TỈNH VĨNH LONG
THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ
XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tháng 12/2017
1
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
2
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
ỜI NÓI ĐẦU Vĩnh Long là một tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long. Với vị thế nằm giữa sông Tiền, sông Hậu, án ngữ cả hai tuyến giao thông chiến lược thủy, bộ từ miền Tây về Sài Gòn, nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Vĩnh Long được cả ta và đối phương xem là một tỉnh có tính chất bản lề của miền Tây. Năm 1968, tỉnh Vĩnh Long về phía ta gồm có 7 huyện và 2 thị xã là Vĩnh Long và Sa Đéc; còn địch tổ chức thành hai tiểu khu là Vĩnh Long và Sa Đéc. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, mặt trận Vĩnh Long được Quân khu 9 xem là trọng điểm hai (sau Cần Thơ) và đã giành được thắng lợi to lớn, toàn diện, là một trong những điểm sáng ở đồng bằng sông Cửu Long. Hòa cùng với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của cả nước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long đã góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngừng ném bom ở miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Paris. Bên cạnh những thắng lợi đạt được, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không đạt được như ý định ban đầu đề ra, nhưng thắng lợi Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Vĩnh Long đã đi vào lịch sử tỉnh nhà như một nét son chói lọi, là bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của tỉnh nhà. Thắng lợi Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Vĩnh Long thể hiện rõ nhiệt tình cách mạng với tinh thần “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” của quân và dân Vĩnh Long. Sự kiện lịch sử “Tết Mậu Thân” đã trôi qua nửa thập kỷ (1968 – 2018). Nhưng sự kiện lịch sử này không những không lùi vào dĩ vãng mà trái lại nó luôn là vấn đề cuốn hút sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Truyền thống Vĩnh Long kháng chiến chống ngoại xâm nói chung, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng luôn là niềm tự hào, là những bài học kinh nghiệm vô giá đối với quân và dân tỉnh nhà. Càng tự hào về truyền thống đấu tranh của dân tộc Việt Nam, Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Long càng nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ; nhất là trong giai đoạn hiện nay, quyết tâm cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”. Nhân kỷ niệm 50 năm ngày Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 (1968 – 2018) Thư viện tỉnh Vĩnh Long cho ra mắt tập thông tin chuyên đề “Xuân Mậu Thân năm 1968 ở Tỉnh Vĩnh Long”.
3
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Đây là tập thông tin mang tính chất giới thiệu và phục vụ bạn đọc. Tập thông tin gồm 45 tên tài liệu được trích từ các sách, báo, tạp chí (hiện có trong các kho ở Thư viện Vĩnh Long) và các trang web trên Internet. Tập thông tin được chia làm 3 phần: -Phần I: “Vĩnh Long vào Xuân Mậu Thân 1968 - Hƣớng tiến công Thị xã”. -Phần II: “Hƣớng tiến công các huyện, xã”. -Phần 3: “Xuân này nhớ chiến công xƣa”. Trong từng đề mục, từng phần, chúng tôi đánh số thứ tự liên tiếp cho mỗi tên tài liệu. Và để tiện cho việc sử dụng, ở cuối tập thông tin chúng tôi có xây dựng bảng mục lục, bảng tra chữ cái tên tài liệu. Với trình độ và khả năng còn hạn chế của người biên soạn, tập thông tin sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý chân tình của bạn đọc và đồng nghiệp để công tác biên soạn thông tin thư mục ngày càng tốt hơn./.
THƢ VIỆN TỈNH VĨNH LONG THÁNG 12 / 2017
4
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
PHẦN I
5
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
01.Ban chỉ huy Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) của tỉnh Vĩnh Long gồm những ai? Thị xã Vĩnh Long được lãnh đạo Khu Tây Nam Bộ chọn làm trọng điểm II (thành phố Cần Thơ làm trọng điểm I). Khu ủy cử đồng chí La Lâm Gia (Bảy Máy), Thường vụ Khu ủy, đồng chí Nguyễn Hoài Pho (Ba Mai), Khu ủy viên, Tư lệnh phó Quân khu tăng cường về chỉ đạo chiến trường Vĩnh Trà (tức khu vực Vĩnh Long, Trà Vinh). Ngày 28-1-1968, Ban chỉ huy Mặt trận được thành lập, lấy tên là Ban chỉ huy Mặt trận Cửu Long, thành phần gồm: Ông Nguyễn Hoài Pho, Chỉ huy trưởng; ông La Lâm Gia, Chính ủy; ông Nguyễn Đệ (Ba Trung), Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306; ông Bùi Như Nho, Phó Chính ủy; ông Nguyễn Ký Ức, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, Ủy viên; ông Nguyễn Đáng (Năm Trung), Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh, Ủy viên. Ngày 29-1-1968, cuộc triển khai lệnh Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của Khu Tây Nam Bộ tại xã Ngãi Tứ (Tam Bình) bắt đầu. Sau khi tiếp thu chủ trương của Khu ủy, các đồng chí trong Ban chỉ huy Mặt trận Cửu Long đánh giá tình hình, xác định quyết tâm, phương hướng tác chiến (chỉ tính tại Vĩnh Long). Ban chỉ huy xác định nhiệm vụ trọng điểm II, là: -Tập trung lực lượng của Khu và tỉnh Vĩnh Long tiến công và nổi dậy đánh vào cơ quan đầu não địch, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Giành quyền làm chủ. Phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, trừ gian, quét sạch bộ máy kềm kẹp của địch. -Hướng tiến công, mục tiêu chủ yếu là tiểu khu quân sự Vĩnh Long, hướng quan trọng là sân bay Vĩnh Long và đánh chiếm bến phà Mỹ Thuận, cắt đứt giao thông quốc lộ 1A. -Cùng với lực lượng võ trang các phân ban Khu, các Đảng bộ, đứng đầu là Thị xã ủy động viên phong trào quần chúng nổi dậy truy lùng ác ôn. Kết hợp ba mũi giáp công, bức hàng, bức rút đồn bốt, giải phóng vùng ven, làm bàn đạp tiến công nội thị. -Các huyện tiến công vào đầu não huyện, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, kềm căng, cắt đứt sự chi viện của địch. Kêu gọi toàn dân nổi dậy giành chính quyền. Thời cơ một ngày bằng hai mươi năm, với “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” với khẩu hiệu “thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nguyễn Chiến Thắng – Nguyên Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy, nguyên Trƣởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long - Vùng đất và con ngƣời” – NXB Quân đội nhân dân 2017 Kho Đọc: 959.787/V312L – VV.035636
6
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
02.Bức tranh Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của nhân dân Vĩnh Long tại thị xã Vĩnh Long và các huyện nhƣ thế nào? Cũng như đồng loạt ở miền Nam, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đánh vào đầu não địch đã làm cho chúng bất ngờ và hốt hoảng, quân và dân Vĩnh Long giành thắng lợi lớn. Đúng lúc 1 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, tức rạng sáng mùng 1 Tết mậu Thân, tiếng súng lệnh nổ ra khởi đầu từ sân bay Vĩnh Long. Lập tức ba cánh quân của ta như ba mũi tên sắt cắm phập vào đầu não địch ở tuyến phòng thủ tiểu khu Vĩnh Long nằm cặp sông Cổ Chiên hướng trục đông tây. Mũi quân hướng nam, đánh thẳng về hướng bắc nơi tiểu khu của địch, chiếm khu Hoa Lư, căn cứ bảo an, cảnh sát, các bộ máy đầu não địch. Mũi quân phía đông và phía tây đánh ghìm đầu não địch và phá hủy sân bay, làm lửa bốc cháy sáng rực. Cách 9km, mũi phía tây quân ta còn đánh chiếm phà Mỹ Thuận cắt đứt giao thông địch. Lửa cháy từ sân bay, kho xăng, bến tàu bốc cao sáng rực một góc trời. Bọn địch như bị chọc thủng yết hầu, lồng lộn, giãy giụa điên cuồng kêu đồng bọn cứu nguy. Bọn sư đoàn 9 Mỹ từ căn cứ Bình Đức (Mỹ Tho) đến cứu viện. Tại vùng ven, ta dùng ba mũi giáp công vừa bao vây đánh địch vừa gọi hàng, mở lối đi cho bọn địch ở ba xã cù lao vùng ven hướng đông bắc thị xã. Ta giải phóng ba xã An Bình, Đồng Phú, Bình Hòa Phước. Ở phía đông nam, ta vừa tiêu diệt đồn bốt vừa gọi hàng, hàng loạt đồn bốt tháo chạy, ta giải phóng các xã Long Đức, Phước Hậu, Tân Hòa Bắc với trên 50.000 dân. Tại huyện Tam Bình, ta chiếm quốc lộ 1A giải phóng hàng loạt sáu xã. Huyện Cái Nhum dùng ba mũi giáp công hạ đồn, giải phóng năm xã. Huyện Vũng Liêm diệt, bức rút hàng loạt đồn bốt chi khu Nhà Đài, giải phóng chín xã với hàng trăm ngàn dân. Hơn 2.700 thanh niên gia nhập bộ đội, gần 500 thanh niên đi dân công hỏa tuyến. Huyện Trà Ôn diệt yếu khu Thầy Phó, bức rút mười lăm đồn bốt, giải phóng sáu xã, thành lập ba đại đội địa phương quân, rút mười hai trung đội du kích tăng cường cho bộ đội chủ lực. Dân nổi dậy bằng nhiều hình thức rất sáng tạo và phong phú. Tiêu biểu là dân kéo vào đồn bốt kêu gọi chồng, con, em đi lính hãy bỏ ngũ về nhà làm ăn, kêu gọi rã ngũ, bỏ ngũ, quay súng bắn vào ác ôn về với cách mạng. Tích cực quyên góp lương thực, thực phẩm tiếp tế cho bộ đội. Vận động thanh niên tòng quân, đi dân công hỏa tuyến… Trong những ngày tổng tiến công và nổi dậy, ở huyện Vũng Liêm đồng bào ủng hộ 400.000 giạ lúa (tương đương 8.000 tấn). Huyện Trà Ôn dân ủng hộ 700.000 giạ lúa (tương đương 14.000 tấn). Quân ta chiếm phía đông nam thị xã Vĩnh Long, làm chủ suốt sáu ngày đêm.
7
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Nguyễn Chiến Thắng – Nguyên Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy, nguyên Trƣởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long - Vùng đất và con ngƣời” – NXB Quân đội nhân dân 2017 Kho Đọc: 959.787/V312L – VV.035636
03.Quân và dân Vĩnh Long trong tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 Vĩnh Long là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Quốc lộ số 4 và sông Mang Thít xuyên ngang Vĩnh Long là đường giao thông chiến lược thủy bộ nối liền từ miền Tây về Sài Gòn. Vĩnh Long là một tỉnh bản lề, luôn bị chia cắt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tỉnh có diện tích không rộng, nhưng người khá đông. Tôn giáo ở Vĩnh Long gồm có Phật giáo, Thiên chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Ngoài người Kinh, ở Vĩnh Long còn có người Hoa và Khơ-me, nhân dân có truyền thống cách mạng, luôn đoàn kết chống ngoại xâm và cường quyền, bạo lực.
Tỉnh Vĩnh Long trong thời điểm 1968 gồm bảy huyện, hai thị xã là Vĩnh Long và Sa Đéc. Địch tổ chức thành hai tiểu khu: Vĩnh Long và Sa Đéc (lúc đó hai huyện Trà Ôn và Vũng Liêm còn thuộc tỉnh Trà Vinh). 8
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
I.ĐÁNH BẠI MỘT BƢỚC QUAN TRỌNG CHIẾN LƢỢC “HAI GỌNG KÌM” CỦA MỸ - NGỤY, TẠO THẾ CHO CHIẾN DỊCH XUÂN MẬU THÂN Sau khi Đồng Khởi thắng lợi, quân dân Vĩnh Long tiếp tục phá bình định, đánh bại quốc sách “ấp chiến lược” – xương sống của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy, làm cho ngụy quân, ngụy quyền lung lay đến tận gốc. Để cứu nguy cho chính quyền tay sai ở miền Nam, tiếp tục thực hiện âm mưu xâm lược, đế quốc Mỹ trực tiếp cho quân Mỹ và quân một số nước chư hầu vào miền Nam Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn, chuyển chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Với chiến lược „tìm diệt”, đế quốc Mỹ tìm mọi cách tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta. Ở đồng bằng sông Cửu Long, chúng ra sức “tìm diệt” và “bình định”. “Bình định” là để lấy người, cướp của cung ứng cho chiến tranh xâm lược của chúng. Với chiến lược “tìm diệt”, địch áp dụng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” hạm đội nhỏ trên sông có pháo binh yểm trợ, mơ những cuộc càn quét liên tục, dài ngày trong vùng giải phóng của ta rất ác liệt. Quân, dân Vĩnh Long vượt lên mọi gian khổ hy sinh, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Tháng 11 năm 1966, tiểu đoàn 857 kết hợp với lực lượng vũ trang Lấp Vò tập kích tiêu hao nặng liên đội 3 bảo an ác ôn tại xã Mỹ An Hưng, diệt 110 tên, thu 30 súng. Trung đoàn 15 sư đoàn 9 chủ lực ngụy được phi pháo yểm trợ đắc lực mơ cuộc hành quân càn quét suốt một ngày tại xã Bình Thạnh Trung. Ta bẻ gãy nhiều đợt xung phong của địch, diệt hàng trăm tên. Đến 15 giờ, địch tăng thêm một chi đoàn xe M.113 cùng với bộ binh mở đợt tiến công mãnh liệt vào đội hình của tiểu đoàn 857. Quân ta dùng súng bộ binh, lựu đạn, thủ pháo đánh trả xe M.113 và bọn bộ binh đi cùng. Ta đã dùng súng máy ghìm đầu bọn ngồi trên xe; một lực lượng xung phong rút chốt lựu đạn bỏ vào hầm xe của địch, đánh thiệt hại nặng chi đoàn xe lội nước, 4 xe M.113 bị bỏ xác tại trận, ta chiếm được 1 chiếc, thu toàn bộ vũ khí trên xe. Sau một ngày chiến đấu, ta diệt 152 tên, thu 13 súng. Như vậy bằng súng bộ binh là chủ yếu kết hợp với lựu đạn, thủ pháo, lực lượng vũ trang Vĩnh Long đã đánh thắng chiến thuật “thiết xa vận” của Mỹ ở địa hình đồng bằng trống trải ngay trong lần ra quân đầu tiên của chúng. Đúng vào ngày kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1967) tiểu đoàn và vũ trang của tỉnh kết hợp với bộ đội địa phương Châu Thành B diệt đồn Ông Yên (xã Tân Thuận Đông). Sáng 20 tháng 5, địch điều tiểu đoàn 4, trung đoàn 16 thuộc sư đoàn 9 chủ lực ngụy cùng bảo an dân vệ tái chiếm đồn Ông Yên. Chúng đã bị quân ta chặn đánh diệt gọn 1 đại đội, thu nhiều vũ khí, tiếp tục ghìm địch tại chỗ. Tối đến ta lại tập kích diệt gọn số còn lại của tiểu đoàn 4 và một số cố vấn Mỹ đi cùng, thu toàn bộ vũ khí và máy thông tin. Điều đáng chú ý là một tiểu đoàn bộ đội tỉnh liên tục chiến đấu suốt ngày đêm, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật đã diệt gọn tiểu đoàn chủ lực tinh nhuệ quân ngụy với trang bị binh khí kỹ thuật hiện đại, được phi pháp yểm trợ đắc lực và cố vấn Mỹ đi cùng.
9
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tháng 6 năm 1967, địch mở cuộc càn quy mô lớn vào xã Phú Quới (Châu Thành B). Sau những trận bom pháo dữ dội, chúng dùng trực thăng đổ quân sát trận địa của ta. Máy bay địch chưa kịp đáp xuống đất, quân ta nổ súng dồn dập bắn rơi tại chỗ 3 chiếc trực thăng, diệt gọn 1 đại đội chủ lực ngụy và nhiều giặc lái, thu trên 20 súng các loại. Cuộc chống càn diễn ra ác liệt dưới bão lửa của bom pháo kẻ thù. Buổi chiều, địch vội vã cho xe M.113 đến tiếp viện. Ta bắn cháy một số chiếc. Như vậy trong một ngày, ta cùng lúc đánh bại cả hai chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của Mỹ. Trong trận này ta hy sinh 20 đồng chí. Tháng 11 năm 1967, kết hợp với cơ sở binh vận, bộ đội tỉnh cùng với biệt động thị xã Sa Đéc, do trung úy Nguyễn Bá Hài làm nội ứng đánh tiêu diệt hậu cứ một tiểu đoàn của trung đoàn 15 sư đoàn 9 ngụy ở thị xã Sa Đéc, thu trên 100 súng các loại. Sáng ra gần 10.000 đồng bào, trong đó có rất đông gia đình binh lính đấu tranh trực diện áp tới hậu cứ trung đoàn 15 và cơ quan ngụy quyền tỉnh Sa Đéc kêu la than khóc, lên án Mỹ - ngụy bắt chồng, con, em họ đi lính làm bia đỡ đạn chết thay cho chúng, đòi thấy mặt người thân, đòi bồi thường thiệt mạng, làm cho bọn chỉ huy ngụy quân, ngụy quyền tỉnh càng lúng túng, binh sĩ và nhân viên ngụy quyền càng hoang mang. Đây là cuộc tiến công địch bằng ba mũi giáp công vào một đối tượng hết sức quan trọng và giành thắng lợi lớn. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc – hậu phương lớn của cả nước, vì miền Bắc ruột thịt, đêm 16 tháng 4 năm 1967 pháo binh của tỉnh pháo kích dồn dập vào sân bay Vĩnh Long, phá hủy, phá hỏng 22 máy bay trực thăng, diệt nhiều giặc lái và chuyên viên kỹ thuật. Du kích tỉnh cũng dùng súng trường hạ rất nhiều máy bay Mỹ, kể cả máy bay phản lực chiến đấu. Đặc biệt nổi bật là chiến công vang dội của tiểu đoàn bộ binh 306, chủ lực Khu hoạt động trên chiến trường Vĩnh Trà. Truyền thống, thành tích của tiểu đoàn gắn liền với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân hai tỉnh. Năm 1967, tiểu đoàn đã tiêu diệt, bức hàng, bức rút hàng trăm đồn bốt, phục vụ cho kế hoạch phá bình định, giải phóng nông thôn. Tiểu đoàn còn tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, nhất là đánh quân cơ động của chúng. Đầu năm 1967 tiểu đoàn mở nhiều trận đánh tiếp theo chiến thắng Mây Tức, Bảy San thuộc tỉnh Trà Vinh; đánh nhồi, đánh bồi, đánh liên tục. Đêm 24 tháng 4 năm 1967 tiểu đoàn 306 tiêu diệt 1 tiểu đoàn giang thuyền tại rạch Mương Khai (xã Xuân Hiệp, huyện Trà Ôn), diệt trên 300 tên, bắn chìm và cháy 10 tàu sắt. Ta rút quân về xã Hòa Bình. Sáng ngày 25 tháng 4 năm 1967 vùng 4 chiến thuật cho quân đến chi viện, tiểu đoàn 306 phối hợp với một đại đội của tiểu đoàn 501 bộ đội địa phương tỉnh Trà Vinh quần nhau với địch suốt một ngày, tối lại tập kích quân co cụm, tiêu diệt cơ bản trung đoàn 14, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 16 sư đoàn 9 ngụy và tiểu đoàn 43 biệt động quân, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, bắn rơi 12 máy bay trực thăng, bẻ gãy ý đồ làm chủ sông Mang Thít của địch. Đêm 18 tháng 1 năm 1968, tiểu đoàn 306 tiến công đồn ngã tư Nhà Đài (xã Hiếu Thành, huyện Vũng Liêm) kéo trung đoàn 16 của địch từ thị xã Vĩnh Long xuống chi viện. Chiều 19 tháng 1 ta chặn đáng địch trên lộ 7 cách chợ Long Hồ 2km, tiêu diệt 30 xe trong tổng số 50 xe, diệt và làm bị thương 300 tên, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn của trung đoàn 16. 10
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Ngày 25 tháng 1 năm 1968 với chiến thuật “phục kích đội mồ”, tiểu đoàn 306 diệt 1 đoàn xe địch trên quốc lộ 4 (đoạn Ba Càng – Phú Quới), gồm 25 xe, có 2 xe bọc thép, loại khỏi vòng chiến đấu 270 tên, thu hơn 300 súng các loại. Đây là những trận đánh mở đầu năm 1968 của tiểu đoàn 306. Thực hiện chiến lược bình định, địch dùng phi pháo đánh phá ác liệt, liên tục vài ngày, sử dụng cả chất độc hóa học, kết hợp với càn quét, biệt kích để tát dân trong vùng giải phóng của ta. Chúng gom dân vào ấp chiến lược, kìm kẹp quần chúng, bắt lính đôn quân ráo riết. Nhân dân chịu nhiều gian khổ hy sinh, kiên cường bám đất giữ làng. Bị địch đánh phá gay gắt, có lúc, có nơi, có người phải tạm thời tránh né, khi tình hình dịu bớt lại tìm cách trở về. Được sự hỗ trợ tích cực của lực lượng vũ trang, nhân dân vùng yếu, vùng bị địch kìm kẹp nổi dậy diệt ác phá tề, giành quyền làm chủ, kết hợp ba mũi giáp công, bức diệt đồn bốt địch, mở rộng vùng nông thôn giải phóng. Quân và dân ta tiến công và nổi dậy phá ấp chiến lược ở ven sông Tiền và sông Hậu, làm chuyển biến tình hình các huyện “hai đầu” như Cái Nhum, Lấp Vò, tiếp tục đánh bại chương trình bình định của địch. Với ý chí kiên cường, vượt lên gian khổ đau thương, quân dân Vĩnh Long đã đánh bại một bước quan trọng chiến lược “hai gọng kìm” của địch trên chiến trường Vĩnh Long, tạo thế cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968. *** Chủ trương của Khu ủy Tây Nam Bộ về chiến dịch mùa khô 1967 – 1968 là tập trung sức đẩy mạnh tiến công và nổi dậy trên khắp ba vùng, tiêu hao nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng; phá bình định, giải phóng nông thôn, giành thắng lợi quyết định, tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tháng 11 năm 1967, Tỉnh ủy Vĩnh Long họp tại xã An Khánh (Châu Thành B) quán triệt chỉ thị của Khu ủy, đồng thời soát xét lại tình hình của địa phương, vận dụng chủ trương của Khu ủy vào điều kiện cụ thể của tỉnh nhà, chuẩn bị các mặt cho cuộc tiến công và nổi dậy mùa khô 1967 – 1968, với tinh thần thừa thắng xông lên, quyết tâm cao nhất, giành thắng lợi lớn nhất.
11
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tỉnh ủy chủ trương trước hết là làm thông suốt tư tưởng và xây dựng quyết tâm từ trong nội bộ Đảng ra đến quần chúng, mở một đợt phát động quần chúng sâu rộng ở các vùng yếu, vùng kìm và thị xã, thị trấn, cổ vũ phong trào quần chúng nổi dậy, động viên sức người, sức của cho phía trước; củng cố, bổ sung lực lượng, nhất là lực lượng vũ trang tập trung, sẵn sàng chủ động bước vào chiến dịch mùa khô với khí thế quyết chiến quyết thắng. Phát động đến đâu, cán bộ, đảng viên đăng ký đến đó, nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ nhiệm vụ gì khi Đảng gọi. Bộ đội địa phương đăng ký quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao và sẵn sàng chuyển lên bộ đội chủ lực. Du kích đăng ký bao vây bức diệt đồn và sẵn sàng tham gia bộ đội tập trung. Nhiều gia đình đăng ký hiến ½ số lúa sẽ thu hoạch; nhiều chị em lột bông, lột vòng trang sức đang đeo hiến ngay tại chỗ cho cách mạng. Đồng bào vùng yếu, vùng bị địch kìm kẹp cũng gửi tiền, hiện vật, thuốc men đóng góp cho chiến dịch. Tính chung nhân dân trong tỉnh đã đóng góp hàng nghìn tấn lúa cho chiến dịch. Nhiều bà mẹ đăng ký đưa người con trai cuối cùng của mình tham gia lực lượng vũ trang chiến đấu (như mẹ Bảy ở xã Mỹ Lộc, mẹ Tư ở xã Ngãi Tứ…). Vì thế có những gia đình có 7 liệt sĩ (như má Nguyễn Thị Ngọt ở xã Song Phú có chồng và 6 con là liệt sĩ). Tỉnh ủy đầu tư chỉ đạo nhằm làm chuyển biến phong trào thị xã, thị trấn. Trước hết là tăng cường cấp ủy và cấp đội thị xã Vĩnh Long, điều nữ đồng chí Mười Sương (Các Thị Hoa Đẹp), Tỉnh ủy viên về Thị xã ủy Vĩnh Long; tiếp đó đưa đồng chí Tư Cầm (Trịnh Văn Lâu), Thường vụ Tỉnh ủy về làm Bí thư Thị xã ủy và nữ đồng chí Hai Thanh (Phan Thị Xuân Hoa), Tỉnh ủy viên làm Phó Bí thư, Đồng chí Lê Quang Viễn, Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội phó được điều về làm thị đội trưởng. Đồng chí Năm Châu (Hoàng Minh Châu), Tỉnh ủy viên được điều về đảm trách chính trị viên thị đội, đồng chí Sáu Thạnh (Nguyễn Văn Giáo), Tỉnh ủy viên về làm Bí thư Thị xã ủy Sa Đéc. Các ngành ở tỉnh có trách nhiệm tăng cường cán bộ và kiện toàn các ngành của thị xã. Các huyện tăng cường cán bộ, đảng viên có năng lực công tác đô thị về 12
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
thị xã, móc nối gây dựng cơ sở và phong trào hỗ trợ cho thị xã. Các huyện vùng ven đã đưa cán bộ bám trụ làm chuyển biến phong trào và cơ sở, tạo bàn đạp thuận lợi cho hoạt động thị xã. Cán bộ bám trụ vùng ven bị địch khui hầm hy sinh, tốp khác lại tiếp tục thay thế. Cán bộ tăng viện cho thị xã hy sinh, lập tức số khác tiếp tục được đưa tới, tất cả cho trọng điểm, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu cuối cùng. Nội ô thị xã lúc bấy giờ có 22 đảng viên và hơn 50 đoàn viên nắm nhiều cơ sở quần chúng ở khóm phường và trong các ngành nghề ở thị xã. Lực lượng trụ cột này tích cực và chủ động chuẩn bị chiến trường theo hướng phục vụ nhiệm vụ phá kìm giành dân, giành đất, tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, đánh vào hậu cứ kho tàng phá hủy phương tiện chiến tranh của địch. Để củng cố phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng vũ trang tập trung và bổ sung quân chủ lực, tỉnh điều một đại đội của tiểu đoàn 857 qua làm nòng cốt xây dựng tiểu đoàn thứ hai của tỉnh. Về bảo đảm vật chất, tỉnh chủ trương vận chuyển vũ khí (nhất là đạn và chất nổ từ miền Tây và biên giới Campuchia về tỉnh; đồng thời thu lượm bom đạn, pháo lép của địch để lấy thuốc nổ làm lựu đạn, thủ pháo phục vụ chiến dịch; ngụy trang khéo léo cùng các mẹ, các chị vận chuyển vũ khí vào thị xã. Đến ngày 29 tháng 1 năm 1968 ta đã đưa vào nội ô được 2 tấn súng đạn và chất nổ ém trước. II.CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1968 Chiều 27 tháng 1 năm 1968 (28 Tết), chị Năm Lý (Nguyễn Thị Được) Khu ủy viên được Thường vụ Khu ủy phân công đến phổ biến lệnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa cho Phân ban Khu ủy ở Vĩnh Trà và hai Tỉnh ủy tại xã Ngãi Tứ (Tam Bình) tập trung toàn lực tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt tận sào huyệt cuối cùng của địch, dứt điểm các đô thị ở toàn miền Nam. Điều quan trọng nhất là từ khi nhận được lệnh đến ngày “N” rất cấp bách (không đầy ba ngày). Sau khi tiếp thu chủ trương, Phân khu ủy nhanh chóng soát xét lại tình hình, phân tích so sánh lực lượng giữa ta và địch ở trọng điểm; xác định quyết tâm, phương án tác chiến và phân công cán bộ chỉ đạo. Phân ban Khu ủy do đồng chí Bay Máy (La Lâm Gia) Thường vụ Khu ủy phụ trách chung; đồng chí Ba Mai (Nguyễn Hoài Pho) Khu ủy viên Tư lệnh phó Quân khu phụ trách quân sự cùng với đồng chí Ba Trung (Nguyễn Đệ) và dồng chí Tám Xuân (Bùi Như Nho). Trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, tại trọng điểm Vĩnh Long, quân Mỹ và chư hầu có 3.000 tên, bao gồm cố vấn, quân chiến đấu và chuyên viên kỹ thuật; có 2 đại đội trực thăng vận của Mỹ số 157 và 114 đóng tại sân bay Vĩnh Long với 66 chiếc trực thăng và máy bay trinh sát (có lúc lên đến 80 chiếc), 1 đại đội công binh Mỹ đang làm đường tại cầu Công Xi Heo và bến phà Cổ Chiên. Hải quân: Mỹ có 2 giang đoàn xung phong 23 và 517; ngụy có 1 phân đội tàu. Kể cả Mỹ và ngụy có 40 tàu chiến các loại hoạt động trên sông Cổ Chiên, thường ra vào sông Long Hồ và sông cái Cam; có 2 bến đậu là Xóm Bún (phường 2) và trước dinh tỉnh trưởng. Thiết giáp: địch có 2 chi đoàn khoảng 30 chiếc, gồm M.113 và M.118, hậu cứ ở Bờ Gòn (cạnh sân bay Vĩnh Long), thiết đoàn 2 hậu cứ ở quận Mới.
13
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Pháo binh: địch có tiểu đoàn pháo binh sư đoàn 9 với hàng chục khâu pháo 105mm, hậu cứ đóng ở quận Mới (tức quận Châu Thành). Quân ngụy có 21.703 tên, gồm sư đoàn 9 bộ binh (có 3 trung đoàn: trung đoàn 15 ở thị xã Sa Đéc, trung đoàn 16 ở ngã tư Long Hồ, trung đoàn 14 ở thị xã Trà Vinh). Bộ tư lệnh quân ngụy đóng ở sân bay Vĩnh Long; ngoài ra còn 1 tiểu đoàn biệt động quân đóng ở đường Khưu Văn Ba. Tiểu khu Vĩnh Long có 5 tiểu đoàn bảo an cơ động (40, 65, 68, 303 và 520). Hậu cứ địch ở chung quanh thị xã Vĩnh Long. Tiểu đoàn 29 cảnh sát dã chiến làm nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu quan trọng ở thị xã Vĩnh Long; ngoài ra còn lực lượng biệt kích, công an, tình báo, mật vụ… Thị xã Vĩnh Long là nơi tập trung quân, cả Mỹ lẫn ngụy với nhiều phương tiện chiến tranh, là trung tâm điều hành và là điểm xuất phát hành quân đánh phá trên chiến trường cù lao Vĩnh – Sa – Trà. Lực lượng ta: chủ lực Khu có 2 tiểu đoàn bộ binh 306 và 308. Tiểu đoàn 306 mạnh nhiều mặt, giỏi về đánh công sự, đánh tập kích dã ngoại và phục kích vận động. Tiểu đoàn 308 tuy mới thành lập nhưng đã qua một số trận đánh đạt hiệu quả cao. Tỉnh có 2 tiểu đoàn: 857 là tiểu đoàn mũi nhọn của tỉnh đã từng đọ sức với quân bảo an, chủ lực ngụy, từng đánh trả chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của địch. Tiểu đoàn 2 tuy mới thành lập nhưng có 1 đại đội dày dạn kinh nghiệm của tiểu đoàn 857 làm cốt cùng 1 đại đội bộ đội địa phương Châu Thành (tiểu đoàn được tập hộ vào ngày 28 tháng 1 năm 1968 tại xã An Phú Thuận). Đại đội đặc công của tỉnh quân số còn ít nhưng đã nhiều lần phối hợp với bộ binh, được thử thách qua nhiều trận công đồn và đánh hậu cứ địch. Đại đội pháo binh 2001 đã qua tác chiến hiệp đông và tác chiến độc lập; nhiều lần giội bão lửa vào sân bay Vĩnh Long. Đại đội biệt động thị xã gồm 30 tay súng, đã qua những trận đánh sâu ở nội ô như trận diệt Mỹ của Lưu Văn Liệt ở thị xã Vĩnh Long gây tiếng vang trong và ngoài tỉnh. Về bộ đội địa phương, mỗi huyện có từ 1 trung đội đến 1 đại đội. Các huyện Tam Bình, Châu Thành B, Cái Nhum đều có 1 đại đội biên chế đến 80 tay súng. Có đại đội bộ đội địa phương giỏi về đánh du kích, đánh đồn, đánh quân địch dã ngoại, tiêu diệt từng đại đội địch như bộ đội địa phương Tam Bình. So sánh lực lượng về quân số đơn thuần thì ta tiến công vào thị xã là 1 đánh với 3. Về binh khí kỹ thuật thì địch rất hiện đại, chiếm ưu thế tuyệt đối so với ta. Địch lại ở trong hệ thống phòng thủ vững chắc. Quân ta ít nhưng tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, chưa đánh vào thị xã lần nào nhưng đã có kinh nghiệm đánh địch trong tiến công cũng như trong phòng ngự, đánh địch trong công sự cũng như trong dã ngoại, đã qua nhiều cuộc đọ sức với địch trong bom đạn ác liệt trên chiến trường đồng bằng Vĩnh Long. Ta còn có những tiềm lực to lớn nhưng không tính được bằng con số, đó là tinh thần yêu nước, chí căm thù của nhân dân, là ý chí quyết tâm đánh giặc và thắng giặc, là sức mạnh tổng hợp to lớn đánh địch bằng “hai chân, ba mũi” trên khắp ba vùng chiến lược. Diễn biến của phong trào có khi có lúc trào sôi, như trung tuần 14
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
tháng 8 năm 1964 đã có 10.000 người từ nông thôn kéo ra thị xã, được đồng bào thị xã phối hợp đấu tranh mặt đối mặt với quân thù, giải thoát cho 2.000 thanh niên bị địch bắt lính. Đoàn biểu tình từ Miếu Quốc Công kéo đến bao vây chiếc tàu 72 của Mỹ (ở cảng Vĩnh Thái ngay nay). Cuộc đấu tranh chống bắt lính đã biến thành cuộc đấu tranh mạnh mẽ, chẳng những nhằm vào đối tượng ngụy quân, ngụy quyền mà còn với cả quân Mỹ xâm lược. Trên cơ sở quán triệt mục tiêu chiến lược của Đảng, so sánh lực lượng giữa ta và địch. Phân khu ủy xác định quyết tâm tiến công và nổi dậy ở trọng điểm thị xã Vĩnh Long là: tập trung lực lượng của Khu và của tỉnh tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh vào cơ quan đầu não địch, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh trọng yếu của chúng. Quần chúng nổi dậy diệt ác, phá rã bộ máy kìm kẹp ở cơ sở, làm chủ phố phường, dứt điểm thị xã. Hướng tiến công chủ yếu là nội ô thị xã (phường 1); mục tiêu chủ yếu là tiểu khu Vĩnh Long. Hướng quan trọng là khu vực sân bay, mục tiêu quan trọng nhất là sân bay Vĩnh Long. Để đảm bảo yêu cầu tiến công và nổi dậy ở trọng điểm, cần quan tâm đúng đánh chiếm mục tiêu bến phà Mỹ Thuận và cắt đứt quốc lộ 4. Để thực hiện quyết tâm trên, cách sử dụng lực lượng và phương án tác chiến của ta như sau: tiểu đoàn 306, tiểu đoàn 308 và biệt động đánh chiếm nội ô thị xã. Tiểu đoàn 306 đảm trách mũi chủ yếu, được hai đại đội bộ đội địa phương Tam Bình và Trà Ôn phối thuộc, từ Phước Hậu tiến vào, vượt lộ Cầu Vòng, chiếm cầu Công Xi Heo, cầu Kinh Cục và cầu Khưu Văn Ba, mở cửa phát triển vào nội ô, đánh chiếm tòa hành chính tỉnh và tiểu khu Vĩnh Long (dinh tỉnh trưởng nằm trong tiểu khu Vĩnh Long).
15
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tiểu đoàn 308 được đại đội bộ đội địa phương Cái Nhum phối thuộc, từ Long Thanh tiến vào phường 5, đánh chiếm cầu Thiềng Đức, vượt sông Long Hồ phát triển vào nội ô, phối hợp với tiểu đoàn 306 cùng biệt động thị xã đánh chiếm các mục tiêu ở nội ô. Lực lượng vũ trang còn có nhiệm vụ hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, làm chủ phố phường, truy lùng bọn ngoan cố chống cự và sẵn sàng đánh bại địch phản kích từ bên ngoài vào. Lực lượng biệt động thị xã có nhiệm vụ dẫn đường cho bộ đội Khu phát triển chiến đấu và cùng với bộ đội đánh chiếm mục tiêu, tổ chức đánh chiếm khám lớn giải thoát tù nhân, truy lùng tiêu diệt bọn ác ôn. Một bộ phận khác cùng với lực lượng hậu cần hỏa tuyến tải vũ khí, tiếp lương và vận chuyển thương binh, tử sĩ về phía sau. Lực lượng của tỉnh đảm trách khu sân bay, chia thành 2 hướng: tiểu đoàn 857 được 1 đại đội đặc công và 1 đại đội pháo binh phối thuộc đánh chiếm toàn bộ sân bay Vĩnh Long, Bộ tư lệnh Sư đoàn 9 và thiết đoàn 2. Tiểu đoàn 2 được 1 đại đội bộ đội địa phương phối thuộc đánh chiếm hậu cứ thiết đoàn 2 và tiểu đoàn pháo binh sư đoàn 9 của địch; chốt ngã ba Cần Thơ và chợ Long Châu, chia cắt địch, tạo điều kiện cho các hướng khác đánh chiếm và làm chủ toàn bộ thị xã. Cùng với đòn tiến công của lực lượng vũ trang, Đảng bộ thị xã, đứng đầu là Thị xã ủy cần dựa vào cơ sở hiện có, động viên phong trào quần chúng nổi dậy diệt ác ôn, quét bộ máy kìm kẹp, giải giới lực lượng phòng vệ dân sự, làm chủ phố phường, nhất là ở nội ô thị xã, kết hợp với 3 mũi giáp công bức diệt đồn bốt, giải phóng các xã phụ cận. Phân ban Khu còn tăng cường một số cán bộ Khu trực tiếp chỉ đạo mở vùng ven (đồng chí Ba Râu (Lê Thanh Nhàn) vùng Phước hậu, Hai Mương (Lê Hồng Phương), cánh Long Thanh), chỉ đạo phong trào quần chúng nổi dậy ở thị xã, hình thành bộ phận nội ô và bộ phận vùng ven. Vùng ven hình thành 4 cánh: sân bay, Phước Hậu, Tam Long và 3 xã cù lao (sau đợt II thành lập ban cán sự từng cánh). Mũi binh vận sử dụng cơ sở trong lòng địch, vận động gia đình binh lính, giáo dục và lôi kéo binh lính làm binh biến khởi nghĩa lập công trở về với nhân dân, làm tan rã hàng ngũ địch một cách rộng rãi. Huyện Châu Thành B đôn du kích lên thành lập ngay một đại đội bộ đội địa phương, kết hợp với phong trào quần chúng nổi dậy và cơ sở binh vận đánh chiếm bến phà Mỹ Thuận. Lực lượng công binh tỉnh kết hợp với dân quân du kích và phong trào quần chúng xã Song Phú (Tam Bình) do đồng chí Tư Sa (Lê Văn Tẹn hay là Lê Văn Sa) Tỉnh ủy viên trực tiếp chỉ đạo, cắt đứt quốc lộ 4 (đoạn chủ yếu ba Càng – Phú Quới); kết hợp ba mũi giáp công bức diệt đồn bốt, làm chủ quốc lộ 4. Đối với các huyện thị khác: Thị xã Sa Đéc, với lực lượng bản thân, đẩy mạnh tiến công và nổi dậy đánh cơ quan đầu não, tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, kìm căng địch, phục vụ cho nhiệm vụ đánh dứt điểm thị xã Vĩnh Long. Sau đó, tỉnh sẽ dồn sức chi viện dứt điểm thị xã Sa Đéc. Các huyện (trừ Châu Thành B) căn cứ vào điều kiện thực tế, nơi có điều kiện thì đẩy mạnh tiến công và nổi dậy ở thị trấn; nơi chưa có điều kiện phải đánh nhau 16
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
đau và kìm căng địch, mở mang vùng yếu, vùng kìm; sẵn sàng dồn lên dứt điểm thị trấn khi có thời cơ cụ thể. Khi nhận được lệnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa với nhiệm vụ cụ thể được giao, các cấp, các ngành, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vô cùng phấn khởi làm việc suốt ngày đêm, không ngơi nghỉ, quên mỏi mệt, nhằm tập trung cho việc hoàn thành nhiệm vụ trọng đại mà lịch sử đã giao phó; tuy nhiên không khỏi có những băn khoăn lo lắng: Một là, thời gian hết sức khẩn trương, đại đội đặc công tỉnh chỉ đủ điều kiện thâm nhập nghiên cứu bên trong sân bay Vĩnh Long, còn hầu hết các mục tiêu khác chưa nghiên cứu, ngay cả đường sá trong thị xã cũng không quen thuộc. Hai là, không đủ lực để bố trí đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu và mục tiêu quan trọng. Khắc phục khó khăn trên, tranh thủ dịp Tết Nguyên đán sắp đến, các cán bộ đơn vị đã cải trang hòa vào dân, thâm nhập trinh sát các mục tiêu, nắm chắc địa hình, đường sá. Ta đã móc nối cơ sở tại chỗ nhờ người am hiểu đường đi, nước bước ở thị xã chuẩn bị dẫn đường cho bộ đội vào triển khai tiếp cận các mục tiêu. Để khắc phục sự thiếu hụt về lực lượng ta đã nhanh chóng rút hết bộ đội địa phương các huyện lên bổ sung hoặc phối thuộc cho 2 tiểu đoàn của tỉnh và các tiểu đoàn chủ lực. Khu Du kích các xã kịp thời được đôn lên để thành lập ngay các đại đội địa phương huyện; đôn du kích ấp lên, thành lập các đội du kích xã. ”Đôn quân” bao gồm cả cán bộ, chiến sĩ và vũ khí, đảm bảo tổ chức và chiến đấu được ngay. Nếu thiếu cán bộ thì điều cán bộ huyện đội, xã đội và cán bộ các phòng ban của Tỉnh đội đưa ra chiến đấu. Nhờ vậy mặc dù thời gian hết sức khẩn trương nhưng ta đã bổ sung, tăng cường được lực lượng đáp ứng yêu cầu đối với các mục tiêu chủ yếu và mục tiêu quan trọng nhất. Song vẫn còn thiếu lực lượng dự bị trong chiến đấu. Được phổ biến chủ trương của trên, các cơ sở địa phương và đơn vị chiến đấu đều phấn khởi, nhất trí cao, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong cuộc họp quân chính của đơn vị được phân công đánh vào sân bay Vĩnh Long, đồng chí Phạm Phi Hùng – Phó chính trị viên Tỉnh đội kêu gọi cần một cán bộ xung phong làm mũi trương mũi chủ yếu đánh vào sân bay thì cả hơn 30 cán bộ đều giơ tay tình nguyện. Đồng chí Trần Thanh Liêm, cán bộ đại đội đặc công cứ giơ tay mãi, cho đến khi nguyện vọng được đáp ứng mới chịu hạ tay xuống (sau này vào sân bay, đồng chí Liêm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và đã anh dũng hy sinh). Mọi đắn đo suy nghĩ của cán bộ, chiến sĩ lúc này là làm sao và bằng cách nào để hoàn thành nhiệm vụ tốt nhất. Trước nhiệm vụ trọng đại và thời gian hết sức cấp bách, nội dung công tác chính trị tư tưởng lúc này là ngắn gọn thiết thực làm rõ thời cơ lịch sử nghìn năm có một, động viên ý chí cách mạng tiến công, không do dự chần chừ, tất cả xốc tới giành thắng lợi quyết định. Nội dung công tác chính trị tư tưởng đó được thấm sâu vào từng cán bộ, chiến sĩ, từng người dân, biến thành hành động dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu, đảm bảo cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân giành thắng lợi to lớn. Việc chuẩn bị các mặt, các mũi cho kịp ngày “N”, giờ “G” hết sức khẩn trương. Từng con người, từng bộ phận vừa đi vừa chạy, vừa chạy vừa tổ chức đội hình, vừa 17
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
ăn vừa bàn bạc công việc, ngay việc phổ biến chủ trương cũng không đến kịp cơ sở… DIỄN BIẾN CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY Ngày 29 tháng 1 năm 1968 (đúng ngày 30 tết) giữa lúc đồng bào ở chung quanh thị trấn Cái Vồn về xã Mỹ Thuận thăm mồ mả ông bà, thăm nơi chôn rau cắt rốn, xuống ghe tấp nập nối đuôi nhau trên đường về chợ Cái Vồn, bỗng nhiên có hai chiến trực thăng vũ trang của Mỹ từ hướng Cần Thơ bay sang quần đảo, rồi xả súng liên thanh, rốc két bắn vào đồng bào ta. Xuồng ghe chìm trôi lều bều trên sông, hơn 60 thường dân bị chết, có gia đình chết cả vợ lẫn chồng, phần đông là đồng bào theo đạo Phật, Hòa Hảo. Hai chiếc trực thăng gây nợ máu xong bay thẳng về hướng sân bay Vĩnh Long. Hành động tàn sát dã man của quân Mỹ càng nung nấu căm thù sục sôi trước giờ quân ta ra trận. Tiểu đoàn 306 được nữ đồng chí Mười Sương (Các Thị Hoa Đẹp), Sáu Đấu (Phương Lưu) và một tổ biệt động đón ở Phước Hậu, dẫn đường vượt qua lộ Cầu Vòng vào triển khai ở phường 3, tiếp cận mục tiêu các cầu Kinh Cục, Công Xi Heo và Khưu Văn Ba. Từ Phước Hậu, một bộ phận 23 đồng chí của tiểu đoàn 306 được cơ sở thị xã giúp đỡ và hướng dẫn cải trang sắc phục biệt động của quân ngụy, trang bị vũ khí Mỹ, vượt qua các chặng canh phòng của địch, theo hướng cầu lầu vào nội ô. Trên đường đi gặp lính quân cảnh cản trở nhưng cán bộ ta khéo léo vượt qua được và lọt vào bên trong. Tiểu đoàn 308 do phải vượt qua nhiều sông lớn, địch kiểm soát chặt chẽ, nên đội hình bị đứt quãng nhiều lần. Tranh thủ từng giờ phút còn lại để trinh sát mục tiêu, cán bộ tiểu đoàn 308 ém trong nhà chị Út Tức (có hầm bí mật) được Tám Bửu (xã trưởng) làm giấy tờ đã đi tranh sát mục tiêu đường sá ở nội ô, đêm hôm ấy kịp ra điểm hẹn, đón đơn vị vào thị xã. Tiểu đoàn 857 vượt qua nhiều khó khăn, tiếp cận mục tiêu triển khai thế bao vây sân bay từ ba hướng, 22 giờ ngày 29 tháng 1, lực lượng đặc công tỉnh đã cắt rào, gỡ mìn dưới ánh sáng đèn pha cực mạnh của Mỹ. Rào mở đến đâu, bộ binh ta tiếp nối tiến vào đến đó. Giờ “G” đến, nhưng không vì thế mà bộ đội ta vội nổ súng. Các mũi cứ luồn sâu khi nào gặp địch không tránh được mới nổ súng, tiếng súng từ sân bay phát ra sẽ là hiệu lệnh tiến công. Tiểu đoàn 2 chia thành hai mũi, một mũi chốt ở ngã ba Cần Thơ, một mũi đánh chiếm quận Mới. Đường vào quận Mới địa hình phức tạp, lại chưa đi trinh sát kịp nên bộ đội không biết đường đi đến mục tiêu. Đồng chí Hai Kiệt – tiểu đoàn trưởng mạnh dạn vào nhà một bác nông dân nhờ dẫn đường. Nhờ sự giúp đỡ của chủ nhà, mũi vào quận Mới của tiểu đoàn 2 triển khai áp sát được mục tiêu dinh quận trưởng, bãi để xe, trận địa pháo… Như vậy vượt qua bao khó khăn trên chặng đường dài, các mũi tiến quân của ta đã luồn sâu trong lòng địch, khép chặt vòng vây nội ô thị xã và sân bay Vĩnh Long, giữ được bí mật bất ngờ đến giờ chót. Riêng tiểu đoàn 308 mới vào một nửa, còn lại đứt quãng ở phía sau.
18
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Để tăng thêm lực lượng cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân ở nội ô, Thị đoàn Vĩnh Long tổ chức đưa 200 thanh niên và đoàn viên vào trong thị xã bằng cách trà trộn theo số thanh niên, học sinh trường Tống Phước Hiệp đi dự họp mặt tất niên. Cán bộ và cơ sở nội ô rất phấn khởi tiếp đón lực lượng vào thị xã để tăng thêm sức mạnh cho cuộc nổi dậy. Ta tiến hành khởi nghĩa lần này trong điều kiện bộ máy chiến tranh và ngụy quyền của địch đã được xây dựng củng cố khá công phu, nên việc chuẩn bị khởi nghĩa không chỉ bằng những tấm băng có hàng chữ lớn, với cánh tay chắc nịch, mà phải có thêm súng đạn, chất nổ, trang bị cho nhiều người và quan trọng hơn là phải lấy súng của địch trang bị cho ta, để diệt ác ôn, phá bộ máy kìm kẹp của chúng. Cán bộ binh vận rà soát nắm lại cơ sở nội tuyến, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng tổ, từng người, kết hợp chặt giữa bên trong với bên ngoài, tuyên truyền vận động gia đình binh lính của địch để họ lôi kéo chồng con em mình quay súng lập công, trở về với cách mạng. 20 giờ 30 phút ngày 30 tháng 1 năm 1968 (rạng sáng mùng 1 Tết mậu Thân), tiếng súng của ta từ sân bay Vĩnh Long gầm vang, tiếp đó từ các hướng, các mũi súng nổ dồn dập liên hồi, ánh lửa bừng lên sáng rực bầu trời thị xã Vĩnh Long. Tiểu đoàn 306 tiến công địch ở cầu Kinh Cục và Công Xi Heo do một đại đội bảo an và một bộ phận công binh Mỹ đóng giữ. Đến 4 giờ sáng ta mới chiếm được bên này đầu cầu, diệt 50 tên đọch. Tàn quân địch chạy về phía bên kia đầu cầu tập hợp lực lượng để chống lại ta. Một mũi khác của ta chiếm được cầu Khưu văn Ba, giải giới một trung đội dân vệ, đánh tan một đại đội bảo an, bộ phận này lọt vào bên trong nội ô thì trời đã sáng. Ngày 30 tháng 1 (mùng 1 Tết) địch huy động lực lượng hỗn hợp, có xe thiết giáp và pháo binh dưới tàu yểm trợ đánh vào đội hình tiểu đoàn 306. Quân ta bẻ gãy nhiều mũi phản kích của địch, vây chặt tiểu đoàn biệt động quân và tiểu đoàn bản an 40. Đến chiều, tiểu đoàn 306 đã “bóc vỏ” tiến vào nội ô chiếm lĩnh nhiều đường phố. Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu đặt chỉ huy sở tại nhà giáo Ưng, đường Nguyễn Du. Tiểu đoàn 308 chiếm được bờ sông Long Hồ, đánh chiếm cầu Thiềng Đức, gây thiệt hại nặng 2 trung đội biệt kích, diệt và bắt sống 40 tên. Đến 8 giờ sáng ta mới chiếm được đầu cầu, hy sinh 10 đồng chí. Vào lúc 5 giờ sáng, mũi chủ yếu được 6 chiếc xuồng ghe của quần chúng chờ đã vượt sông Long Hồ vào nội ô, nhưng chỉ được 1 trung đội. Một mũi khác của tiểu đoàn 308 tiến công cụm công binh Mỹ ở bắc Cổ Chiên, diệt 10 tên, phá hủy 3 xe ủi đất. Hướng sân bay, lực lượng đặc công tỉnh bí mật đột nhập sâu vào sân bay chờ đến khi toán tuần tra Mỹ phát hiện ta mới lập tức nổ súng diệt gọn. Pháo binh ta nã đạn chính xác vào khu chuyên viên kỹ thuật và bọn giặc lái Mỹ, khu hậu cứ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 ngụy. Đại đội đặc công phát triển tiến công ngày càng mãnh liệt, dùng lựu đạn, thu pháo diệt từng chiếc máy bay. Hơn một giờ chiến đấu, sân bay Vĩnh Long bỗng chốc ngổn ngang xác Mỹ, xác máy bay. Quân ta phá hủy 61 chiếc trực thăng và 2 chiếc L.19, chỉ còn 2 chiếc tuần tra trên không hoảng hốt đáp xuống sân bay Trà Nóc (Cần Thơ). Mũi phía đông sân bay, một đại đội của tiểu đoàn 857 đã phá hủy hàng chục xe quân sự. Mũi đánh vào chi đoàn xe M.113 bị địch kháng cự 19
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
mãnh liệt, không đột nhập được, chỉ phá hủy 3 xe M.113. Mũi đánh vào hậu cứ chi đoàn M.113 ở lộ Bờ Gòn vượt sông Cái Cam chậm, địch dùng hỏa lực ngăn chặn lúc qua sông, 10 đồng chị bị hy sinh. Sau khi chiếm được sân bay Vĩnh Long, đại đội đặc công tỉnh cùng một đại đội của tiểu đoàn 857 phát triển đánh vào khu chuyên viên kỹ thuật và khu giặc lái Mỹ. Ta mở nhiều đợt tiến công nhưng bị địch chặn lại. Mờ sáng được xe M.113 chi viện, chúng khóa chặt các cửa của ta vào sân bay, làm cho bên trong không liên hệ được với bên ngoài. Trên các lô cốt phòng thu sân bay, chúng quay súng 12,7mm bắn thẳng vào đội hình của ta. Một bộ phận của ta “mở đường máu” vượt ra khỏi vòng kẽm gai của sân bay. Sáng 30 tháng 1 năm 1968, địch cho tiểu đoàn bảo an 65 cùng xe bọc thép chi viện, tổ chức đánh cắt đội hình của ta. Địa hình trong sân bay rất trống trải, cán bộ, chiến sĩ của ta phải phòng ngự ngay trên đường băng, đánh địch quyết liệt suốt cả ngày, đẩy lùi hàng chục đợt xung phong của địch. Hàng trăm xác Mỹ - ngụy chết nằm ngổn ngang trên đường băng. Cán bộ, chiến sĩ ta đã chiến đấu kiên cường, đánh đến viên đạn cuối cùng, khi hết đạn dùng lưỡi lê, báng súng xông lên đánh giáp lá cà với địch. Trong đêm 30 ngày 31 tháng 1 năm 1968, tiểu đoàn 857 hy sinh hơn 30 đồng chí. Đại đội đặc công tỉnh đã anh dũng hy sinh gần hết.
Tiểu đoàn 2 chiếm được dinh quận Mới, hậu cứ thiết đoàn 2, phá hủy 10 xe quân sự, chiếm khu cư xá Mỹ, một phần trận địa pháo binh sư đoàn 9 ngụy, phá hủy 6 khẩu pháo 105mm. Một mũi khác của tiểu đoàn 2 chốt ngã ba Cần Thơ, chiếm chợ Long Châu và quần nhau với bọn địch ở căn cứ hải quân Hàm Tử. Đến 6 giờ sáng địch hồi sức, sử dụng bộ binh kết hợp với xe thiết giáp phản kích lại ta. Bị ép từ hai
20
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
đầu lại và với địa thế đơn độc, đến 10 giờ ngày 31 tháng 1 tiểu đoàn 2 phải rút về bên kia quốc lộ 4 khu vực đường Chừa – Bà Điểu củng cố đội hình và hợp sức với tiểu đoàn 857. Sau khi đột nhập vào nội ô, tiểu đoàn 306 củng cố lại đội hình, 23 giờ đêm 30 tháng 1, một bộ phận đơn vị đã đánh chiếm được trại truyền tin Hoa Lư, một bộ phận khác có lực lượng biệt động thị xã kết hợp đánh chiếm tòa hành chính. Một đại đội của tiểu đoàn 306 từ bệnh viện Nguyễn Trung Trực vượt lộ đánh chiếm ty công an, ty ngân khố. Đại đội súng cối tập trung bắn vào hậu cứ tiểu đoàn biệt động quân 43 và tiểu đoàn bảo an 40. Một bộ phận nữa của tiểu đoàn 308 tiếp tục vượt sông Long Hồ cùng với biệt động thị xã tiến công miếu Quốc Công, diệt một số tên biệt kích, một bộ phận khác đánh cầu Thiềng Đức (phía bên trong), nhưng tới sáng vẫn chưa chiếm được. 7 giờ sáng, pháo binh địch dưới tàu bắn dữ dội vào đội hình tiểu đoàn 308, tiểu đoàn trưởng Sáu Hà hy sinh. Tên tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Diệp khẩn thiết yêu cầu vùng 4 chiến thuật viện binh cứu nguy cho thị xã Vĩnh Long, nhưng cấp trên của chúng không chấp thuận vì lực lượng của chúng đang bị căng ra chống đỡ khắp nơi. Tiểu khu Vĩnh Long buộc phải dốc toàn bộ lực phản kích để tự cứu mình. Sáng 31 tháng 1 năm 1968 (mùng 2 Tết) không quân và hải quân của địch trút bom và nã pháo tới tấp nhiều giờ xuống nội ô thị xã và vùng phụ cận, sau đó tiểu đoàn 2 biệt động quân và tiểu đoàn 43 và 520 hình thành mũi theo trục lộ Khưu Văn Ba, tiểu đoàn bảo an 68 tiến theo đường Văn Thánh đến cầu Lầu, 1 chi đoàn M.113 từ đường Lê Thái Tổ kéo qua cầu Lộ, tạo thành thế bao vây quân ta ở nội ô, kết hợp với quân cảnh sát dã chiến và bảo an từ trong đánh ra nhằm đánh bật ta ra ngoài hòng gỡ lại tình thế. Chấp hành lệnh của Bộ Tư lệnh tiền phương, ta để lại một bộ phận giữ những mục tiêu quan trọng đã chiếm được, còn đại bộ phận làm nhiệm vụ cơ động đánh địch phản kích. Một đại đội của tiểu đoàn 306 mai phục ở hướng đường Khưu Văn Ba vào, chờ địch đến thật gần, bất ngờ nổ súng và đánh bật nhiều đợt xung phong của địch, diệt 150 tên. Tiểu đoàn 43 biệt động quân bị thiệt hại nặng, phải lui về hậu cứ. Trên đường Lê Thái Tổ, quân ta dùng súng chống tăng từ trên cao ốc bắn rất chính xác vào đoàn xe địch, phá hủy 3 xe M.113, phá hỏng 3 xe, hơn 30 tên địch phơi xác trên đường phố. Số còn lại chạy thục mạng về quận Mới. Tiểu đoàn 308 tiếp tục quần nhau vô cùng ác liệt với địch, thương vong ngày càng tăng, đạn dược lương thực cạn dần, buộc phải lui về phòng ngự bên kia cầu Thiềng Đức. Như vậy, ở nội ô thị xã, đêm 30 tháng 1 năm 1968 quân ta đánh chiếm thêm một số mục tiêu quan trọng, ngày 31 tháng 1 liên tục đánh phản kích gây cho địch nhiều thiệt hại. Để tránh thiệt hại do bom đạn của địch giội xuống đường phố thị xã, đồng bào nội ô, nhất là người già, đàn bà, trẻ em tạm lánh vào những nơi ít bom đạn như nhà thờ lớn, trường kỹ thuật 4… Hướng sân bay, địch dùng phi pháo bắn dữ dội vào đội hình của tiểu đoàn 857, rồi dùng bộ binh kết hợp với xe bọc thép ra sức phản kích để giải tỏa sân bay. Quân ta liên tục đánh bại nhiều mũi tiến công của địch, giữ thế bao vây và khống chế sân
21
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
bay, không một chiếc máy bay nào lên xuống được. Quân ta tiếp tục bắn rơi thêm 5 máy bay các loại của địch. Ta hy sinh 41 đồng chí. Sau nhiều lần tập trung phản kích thất bại, chiều 31 tháng 1 năm 1968 tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Diệp và tỉnh phó chuồn xuống tàu, sống nương nhờ hải quân Mỹ ngoài sông Cổ Chiên. Đêm 31 tháng 1 năm 1968 (mùng 2 Tết), tiểu đoàn 306 tiến công làm chủ ty bưu điện, ty tài chính và tòa sơ thẩm Vĩnh Long. Biệt động thị xã vừa giúp bộ đội chiến đấu, vừa truy diệt địch. Một bộ phận đã cùng với một đơn vị của tiểu đoàn 308 tiến công vào khám lớn, bắn cháy hai xe cơ giới của lực lượng tiểu khu đến chi viện, nhưng ta không chọc thủng được tuyến phòng thủ của địch, một số đồng chí hy sinh. Một bộ phận khác của biệt động thị xã đột nhập diệt tên trung tá Mỹ CIA đội lột giáo sư, thu một máy truyền tin, 65.000 đô-la và một số tài liệu mật. Ngày 1 tháng 2 năm 1968 (mùng 2 Tết) vừa tờ mờ sáng, địch cho hàng chục phi cơ cùng với pháo binh trút bom đạn xuống thị xã làm nhà cửa lớp cháy, lớp đổ nát, nhiều thường dân chết và bị thương. Đến 8 giờ sáng, bộ binh cùng xe bọc thép của địch từ nhiều hướng kéo vào phản kích, nhằm đẩy lùi ta ra khỏi nội ô. Quân ta đánh phản kích, gây cho địch nhiều thiệt hại. Riêng ở hướng tiểu đoàn 306, trong ngày ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên, một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 16 quân ngụy bị thiệt hại nặng. Sau nhiều đợt phản kích bị thất bại, vào lúc 15 giờ địch tập trung máy bay phản lực, trực thăng vũ trang, pháo binh trút bom đạn, kể cả bom na-pan, rốc-két, hủy diệt phố phường và chùa chiền. Chống địch phản kích với cường độ chiến đấu căng thẳng, liên tục và sau một đợt đánh phá bằng bom, đạn có tính chất hủy diệt, một mũi của tiểu đoàn 308 có 35 đồng chí thì 34 hy sinh, còn 1 bị thương, được dân đưa về nhà nuôi giấu.
22
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Những ngày chiến đấu trong lòng thị xã, bộ đội được nhân dân tại chỗ tiếp tế cơm nước, kể cả bánh mứt, trái cây đậm đà hương vị ngày xuân. Nhân dân băng mình trong lửa đạn cứu chữa thương binh, tiếp lương, tải đạn bảo đảm cho chiến đấu. Để giữ vững quân số chiến đấu hàng ngày, hậu phương đã đưa đến những đảng viên, đoàn viên và dân quân du kích bổ sung cho bộ đội. Có ngày có tới hàng trăm chiến sĩ mới nhập ngũ đã bước ngay vào chiến đấu. Nhiều dân công hỏa tuyến làm xong nhiệm vụ tình nguyện ở lại gia nhập lực lượng chiến đấu. Nhờ vậy, bộ đội ta duy trì được sức chiến đấu dài hơn. Đêm 1 tháng 2 năm 1968, tiểu đoàn 306 đánh chiếm trụ sở tổng đoàn bảo an, ty chiêu hồi. Tiểu đoàn 308 cho một trung đội mũi nhọn vòng xuống phà Cổ Chiên vượt sông qua cù lao để đánh tàu địch và chi viện cho 3 xã cù lao. 12 giờ ngày 2 tháng 2 năm 1968 (mùng 4 Tết) địch từ hướng nam và hướng tây ồ ạt kéo vào nội ô thị xã phản kích. Tiểu đoàn 306 bám chắc công sự đánh địch quyết liệt, địch phải tháo lui bỏ lại hàng trăm xác đồng bọn nằm ngổn ngang trên đường phố. Quân ta cũng có nhiều thương vong. “Nhờ gió bẻ măng”, lợi dụng nhiều lúc tạm yên tiếng súng, quân ngụy tràn vào cửa tiệm của dân cướp bóc, nhà nào khóa, chúng dùng súng bắn vỡ khóa để vào cướp bóc tài sản. Bộ đội ta vừa đánh địch, vừa cứu chữa đồng bào bị thương và chữa cháy nhà dân. Có lần khám xác chết của địch cạnh cửa tiệm đồng hồ ở phường Phan Thanh Giản, chiến sĩ ta thu được hàng chục chiếc đồng hồ đeo tay mà chúng vừa cướp trong cửa tiệm, đã đem lại trả cho chủ. Tại hướng sân bay, tiểu đoàn 857 củng cố đội hình, chuyển đại bộ phận qua bờ tây sông Cái Cam. Sau khi hướng dẫn kế hoạch tác chiến trong những ngày tới, Bộ Tư lệnh tiền phương quay về sở chỉ huy cơ bản ở xã Phước Hậu. Đêm 2 tháng 2 năm 1968 nhằm lúc sơ hở của hải quân Mỹ, một bộ phận của tiểu đoàn 308 vượt sông Long Hồ, 23 giờ chiếm lĩnh đường Gia Long (góc dinh tỉnh trưởng) và trụ lại ở đây, liên lạc được với tiểu đoàn 306. Trong đêm, tiểu đoàn 306 đánh chiếm lại tòa hành chính lần thứ hai, diệt và bắt 50 tên địch. 8 giờ ngày 3 tháng 2 năm 1968 (mùng 5 Tết) địch cho 2 trực thăng oanh kích ở đầu đường Gia Long, tiếp đó cho một chiếc HU-1B chở tên Trần Bá Di – Đại tá Tư lệnh phó Sư đoàn 9 và Dương Hiếu Nghĩa – Trưởng phòng An ninh – Tình báo từ hướng Sa Đéc bay đến đáp xuống cầu Tàu Vĩnh Long. Từ phía An Bình, bộ phận súng cối của tiểu đoàn 308 bắn vào dinh tỉnh trưởng. Một chiếc trực thăng đổ gần đó trúng nhiều mảnh đạn. Hai tên sĩ quan ngụy lăn vội trên mặt đường, bỏ mũ bỏ gậy chỉ huy chạy vào tiểu khu Vĩnh Long. Đêm 5 tháng 2, một đại đội của tiểu đoàn 857 và một đại đội của tiểu đoàn 2 cùng với bộ phận địa phương Châu Thành B tổ chức tiến công chi khu Đức Tôn. Mũi tiến công từ mé sông Tiền đánh lên, tiêu diệt đại đội hậu cứ bảo an, thu 30 súng và 3 máy bay thông tin. Một mũi đánh chiếm trận địa pháo, dùng thủ pháo phá hỏng 2 khâu 105mm. Bến phà Mỹ Thuận là mục tiêu quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc tiến công và nổi dậy chiếm lĩnh thị xã Vĩnh Long. Lực lượng địch đóng giữ ở đây gồm 23
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
một trung đội dân vệ xã Tân Hòa, một trung đội cảnh sát dã chiến và một tiểu đội cảnh sát áo trắng. Một đại đội du kích dưới sự chỉ huy của huyện đội Châu Thành B, kết hợp tiến công và nổi dậy đã chiếm lĩnh và làm chủ bến phà. Tại đây, đồng chí Chín Hoài (Nguyễn Văn Hoài) cán bộ binh vận khu có một cơ sở nội tuyến, thuộc loại cảm tình là ông Nguyễn Văn Thường, xã trưởng Tân Hòa. Ngày 28 tháng 1 năm 1968, đồng chí Nguyễn Văn Hoài cùng cán bộ địa phương liên hệ cho ông Thường vào vùng giải phóng trực tiếp gặp ta. Đêm 29 tháng 1 năm 1968, đồng chí Nguyễn Văn Hoài gặp ông Nguyễn Văn Thường tại nhà, giao nhiệm vụ cho ông và hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng vũ trang bên ngoài. Theo chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Hoài, ông Thường viết thư cho viên ủy viên cảnh sát tên là Vĩnh cho rút hết các đội tuần tra về đồn, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta bí mật đột nhập, triển khai thế bao vây tiến công các mục tiêu khu vực bến phà Mỹ Thuận. Tiếng súng tiến công từ thị xã Vĩnh Long phát hỏa, lực lượng vũ trang Châu Thành B lập tức tiến công các mục tiêu, gây cho địch một số thiệt hại. Ngày 30 tháng 1 năm 1968 (mùng 1 Tết), lính địch ở một số đồn bốt xung quanh bến phà Mỹ Thuận hoang mang bỏ chạy. Ông Thường cử người đến gặp cảnh sát Vĩnh, khuyên viên cảnh sát này quay súng trở về với nhân dân. Bị quân ta tiến công uy hiếp mạnh, tối 30 tháng 1 trung đội cảnh sát dã chiến đã phải rút chạy. Ủy viên cảnh sát xã Tân Hòa (Vĩnh) và trung đội dân vệ đã mang toàn bộ vũ khí trở về với nhân dân. Ta thu 86 súng các loại và 5 máy bộ đàm (có 1 máy PRC-25) và 4 chiếc phà. Ta làm chủ hoàn toàn bến phà Mỹ Thuận. Tiếp đó ông Thường, cảnh sát Vĩnh và một số anh em dân vệ xã Tân Hòa còn hướng dẫn quân ta truy lùng bọn ác ôn lẩn tránh. Đến ngày 5 tháng 2 năm 1968 địch phản kích đánh chiếm lại bến phà Mỹ Thuận, ông Thường bị sa vào tay giặc, địch vừa tra khảo vừa dụ dỗ nhưng ông vẫn tỏ rõ thái độ kiên trung bất khuất trước kẻ thù, và đã anh dũng hy sinh, giữ trọn lòng tin với cách mạng. Ở thị xã, cơ sở của ta trong bộ máy tề, dân vệ, phòng vệ dân sự đã cùng với binh sĩ yêu nước tiến hành binh biến khởi nghĩa, lập công trở về với nhân dân, làm tan rã 4.000 tên thuộc các sắc lính của ngụy, giải giới và làm tan rã hơn 1.200 phòng vệ dân sự. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã, quần chúng nội ô nổi dậy diệt ác, phá kìm dựng chướng ngại vật trên đường phố. Ngày 1 tháng 2 năm 1968 một em bé 8 tuổi ở phường 5 báo cho tiểu đoàn 308 biết chỗ một số lính ngụy chạy trốn. Chị Năm mẹ của em đã hướng dẫn một bộ phận của tiểu đoàn bao vây lò gạch, bắt sống 50 tên địch, thu gần 100 súng. Ngày 2 tháng 2 năm 1968 có hàng trăm thanh niên và học sinh tham gia diệt ác, giải giới phòng vệ dân sự, thu vũ khí rồi xin gia nhập lực lượng vũ trang chiến đấu. Tính chung ngày 2 và 3 tháng 2 năm 1968, có 400 thanh niên ở nội ô gia nhập các đơn vị chiến đấu. Hàng trăm thanh niên tham gia thanh niên hỏa tuyến. Khi bộ đội rút ra vùng ven, một thương binh ở gần cầu Cá Trê đã được nhân dân che chở, dùng ghe buôn ngụy trang tổ chức đưa về vùng giải phóng.
24
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Trong lúc khói lửa đạn bom bao trùm thị xã, đồng bào ta phải tạm lánh tại các nhà chùa, nhà thờ. Các nhà sư, cha sở đã giúp đỡ bà con tận tình và đấu tranh không cho bọn lính vào chỗ tu hành lùng sục, khủng bố cướp giật tài sản của bà con. Hòa nhịp với cuộc tiến công và nổi dậy ở thị xã, nhân dân vùng ven 3 xã cù lao nổi dậy kết hợp 3 mũi giáp công bức diệt đồn bốt, giải phóng vùng ven. Nữ đồng chí Tám Phụng chỉ đạo 5 du kích và sử dụng một số gia đình binh lính đã được tuyên truyền giác ngộ bao vây bức hàng đồn Đồng Phú có một đại đội bảo an gồm 76 tên đóng giữ ra hàng, giao nộp toàn bộ vũ khí cho ta. Số súng thu được trang bị kịp thời cho lực lượng vũ trang của xã đang tăng nhanh gấp bội. Bị ta tiến công, truy kích dồn dập, địch ở một số đồn khác hoang mang chạy dồn về bến phà Cổ Chiên. Nhân dân và du kích Đồng Phú tiếp tục bao vây gọi hàng. Tối ngày 3 tháng 2 (mùng 5 Tết) toàn bộ bọn lính ở các đồn bốt co cụm về khu vực này đã phải ra hàng cách mạng, giao nộp vũ khí. Xã Đồng Phú được giải phóng hoàn toàn, xã An Bình và Bình Hòa Phước được giải phóng về cơ bản. Một trung đội dân vệ xã Bình Hòa Phước chạy trốn sang cù lao Tân Phong (thuộc tỉnh Tiền Giang). Bà con trong xã trong đó có nhiều người là thân nhân của trung đội chạy trốn đã truy theo vận động, lôi kéo họ trở về với nhân dân và giao nộp toàn bộ vũ khí. Nhân dân Châu Thành A cũng nổi dậy ác liệt, phá rã bộ máy kìm kẹp, kết hợp ba mũi giáp công bức diệt nhiều đồn bốt, giải phóng ấp xã, mở toang vùng ven nối liền với thị xã (cánh Tam Long và Phước Hậu). Đêm 2 tháng 2 năm 1968 địch tập trung lực lượng xung quanh thị xã chặn kín lộ Cầu Vòng từ cua Long Hồ đến quận Mới, cắt đứt các con đường vận chuyển của ta từ Phước Hậu vào nội ô, cô lập lực lượng ta trong thị xã. Sáng ngày 3 tháng 2 năm 1968 (mùng 5 Tết) từ 9 giờ sáng trở đi trận địa lặng im tiếng súng, báo hiệu cho một trận “cuồng phong” sắp bắt đầu. 14 giờ, bầu trời thị xã xuất hiện hàng chục máy bay thay nhau trút bom đạn xuống đường phố, thiêu hủy nhà thờ, chùa chiền. Sau một giờ ném bom bắn phá có tính chất hủy diệt thị xã và khu vực nam sân bay, trên ba mươi lượt chiếc trực thăng chở 2 tiểu đoàn của lữ đoàn B, sư đoàn 9 Mỹ từ căn cứ Đồng Tâm đổ xuống khu vực lộ Cầu Vòng và bịt kín con lộ này. Bầu trời thị xã ầm vang tiếng máy bay phản lực gầm rít thi nhau trút bom đạn xuống các khu vực. Tàu chiến Mỹ bắn phá dữ dội khống chế các nẻo đường ta có thể cơ động. Trời tối nên quân Mỹ co cụm lại bên ngoài, không tiến vào thị xã. Suốt đêm 3 tháng 2 không quân, hải quân và pháo binh địch bắn phá dữ dội, tiếng bom rền đạn nổ không dứt. Trên không lơ lửng từng chùm pháo sáng, sáng rực cả thị xã như muốn xua đi màn đêm đang chụp xuống binh lính địch. Trong đêm, tiểu đoàn 306 vẫn áp sát dinh tỉnh trưởng. Theo lệnh của Bộ Tư lệnh tiền phương, tiểu đoàn 308 dồn phần lớn lực lượng cho hướng tiểu đoàn 306, bố trí lại đội hình, tập trung lực lượng sẵn sàng trực tiếp chiến đấu với quân Mỹ. Sáng ngày 4 tháng 2 năm 1968 (mùng 6 Tết) trên hướng sân bay, trực thăng địch đổ tiếp một tiểu đoàn nữa (lữ đoàn B Mỹ) xuống đầu cầu Cái Cam. Trên hướng tiểu đoàn 306, vào lúc 9 giờ cùng ngày, sau khi cho máy bay ném bom và bắn pháo dọn đường xe bọc thép và bộ binh Mỹ chia thành nhiều mũi từ lộ 25
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Cầu Vòng tiến vào thị xã. Quân ta bình tĩnh, sẵn sàng chờ địch đến thật gần mới nổ súng bẻ gãy nhiều mũi tiến công của quân Mỹ gây cho chúng thiệt hại nặng nề. Bất chấp bom đạn ác liệt, 12 giờ trưa tiểu đoàn 306 xuất kích bất ngờ đánh tạt sườn, diệt một cụm quân Mỹ ở phường 4, có 30 tên đền tội. Các ổ súng máy của ta đặt trên các cao ốc bắn rơi 5 trực thăng. Hồi 13 giờ, trong cơn hoảng hốt, một phi đội A37 của Mỹ ném bom vào đội hình bộ binh của Mỹ gần cầu Cá Trê, làm cho 37 tên thiệt mạng. Các xạ thủ B40 của tiểu đoàn 308 bắn trọng thương 2 tàu sắt Mỹ trên sông Long Hồ làm chúng hoảng sợ không dám tiến sâu. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu, đêm 4 tháng 2 năm 1968 tiểu đoàn 306 để lại nội ô một bộ phận nhỏ cùng biệt động thị xã uy hiếp dinh tỉnh trưởng và Bộ Tư lệnh hành quân của địch, còn đại bộ phận lực lượng tập kích cụm quân Mỹ đóng ở cầu Cá Trê. 23 giờ, quân ta lọt vào bên trong vị trí của địch. Với lối đánh gần, dùng lựu đạn, thủ pháo, lưỡi lê tiến công địch bất ngờ làm cho chúng không trở tay kịp, quân ta đã diệt hơn 100 tên Mỹ, 1 giờ 15 phút ngày 5 tháng 2 các mũi của ta rút khỏi trận địa, hành quân về Phước Hậu trụ bám vùng ven. Trên hướng sân bay, sáng ngày 5 tháng 2 năm 1968 một tiểu đoàn của lữ B Mỹ, cùng 20 tàu chiến lược phi pháo yểm trợ đắc lực tiến vào theo hướng sông Cái Cam giải tỏa cho sân bay Vĩnh Long. Tiểu đoàn 857 cùng một đại đội pháo binh mai phục chờ địch lọt vào trận địa. Trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt từ sáng đến chiều. Quân ta đập tan nhiều đợt xung phong của địch, diệt hàng trăm tên xâm lược Mỹ, bắn chìm 4 tàu sắt, bắn hỏng một số chiếc khác, hạ uy danh cái gọi “tiểu pháo hạm trên sông” với những tên xâm lược nhà nghề của quân đội Hoa Kỳ. Chấp hành lệnh của Ban Chỉ huy Tỉnh đội Vĩnh Long, ngày 10 tháng 2 năm 1968 tiểu đoàn 2 cơ động về xã Tân dương, huyện Lê Hà. Tổ chức VT3 thọc sâu vào thị xã Sa Đéc và trụ lại ở vùng ven. Ngày 13 tháng 2, tiểu đoàn đứng chân ở Sa Nhiên, 8 giờ sáng địch càn vào, tiểu đoàn đã chặn đánh, tiêu diệt cơ bản tiểu đoàn 3, trung đoàn 15, sư đoàn 9 ngụy, diệt 2 đại đội và Ban Chỉ huy tiểu đoàn, bắt 27 tù binh, thu 40 súng các loại và 3 máy thông tin. Trên mặt trận giao thông quốc lộ 4, đội công binh của tỉnh kết hợp với dân quân du kích và phong trào quần chúng xã Song Phú (Tam Bình) do đồng chí Tư Sa – Tỉnh ủy viên trực tiếp chỉ đạo đã cắt đứt quốc lộ 4, phá bức cống, bức lộ, xuồng ghe qua lại dễ dàng, kết hợp 3 mũi giáp công bức hàng, bức rút 8 đồn bốt, thu gần 100 súng các loại, làm chủ hoàn toàn đoạn Ba Càng – Phú Quới 22 ngày đêm liền. Suốt trong thời gian cao điểm 1 và cao điểm 2, việc giao lưu giữa sân bay và Phước hậu, huyện Tam Bình và Châu Thành B được thông suốt ngày đêm, không còn sự ngăn cách của địch. Đảm bảo chiến dịch cho thắng lợi, ta đã tổ chức hậu phương tại chỗ và hậu cần nhân dân. Ba hướng xuất phát tiến công thị xã, đều tổ chức cụm hậu cần bảo đảm việc vận chuyển từ hậu phương ra phía trước, từ phía trước về phía sau. Mỗi cụm hình thành 3 bộ phận: bộ phận bảo đảm thương binh liệt sĩ, bộ phận tiếp tế lương thực, bộ phận vận chuyển vũ khí, đạn dược và bổ sung quân số, nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu của phía trước. Ba bộ phận ấy đặt dưới sự điều khiển của ban chỉ huy chung. Cụm hậu cần hướng sân bay đặt tại xã An Phú Thuận (Châu Thành B), cụm hậu cần hướng tiến công chủ yếu (hướng Phước Hậu) đặt tại Danh Tấm và Rạch 26
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Gỗ, xã Hậu Lộc (Tam Bình) do đồng chí Ba Thuận – Tỉnh đội phó đảm nhiệm. Việc tiếp lương ở Tam Bình giao cho 5 xã chịu trách nhiệm: Ngãi Tứ, Bình Ninh, Loan Mỹ, Mỹ Lộc và Hậu Lộc. Mỗi xã nói trên mỗi ngày đưa đến cụm hậu cần 2,5 tấn lương khô như bánh tét, thịt, cá làm thức ăn khô, bột ngọt, muối tiêu,… để chuyển ra phía trước, bảo đảm suốt trong quá trình chiến dịch và từng cao điểm. Xăng dầu mỗi ngày 400 lít do hậu cần Tam Bình chuyển tới. Chiều ngày 29 tháng 1 năm 1968 (30 tết) các cụm hậu cần đều tập kết súng đạn, chất nổ, gạo nếp, bánh tét, heo, gà, vịt, trâu, bò. Cụm hậu cần Danh Tấm có 70 xuồng máy, 230 dân công tiếp lương, tải đạn, chở thương binh tử sĩ. Không khí nhộn nhịp, hồ hởi như ngày hội lớn của nhân dân, tất cả để đánh giặc, tất cả để thắng giặc, sẵn sàng cho phía trước. Tiếng súng tiền phương càng nổ dồn dập, các cụm hậu cần tập hợp càng đông, vận chuyển càng nhanh. Bất chấp mưa bom bão đạn của quân thù, dòng người cứ cuồn cuộn đổ về phía trước. Dù gian nguy đến đâu, họ cũng quyết không để cho những người đang đọ sức với quân thù ở phía trước chịu đói khát, thiếu thốn. Tính chung toàn mặt trận thị xã có hàng nghìn thanh niên tham gia dân công hỏa tuyến và trung tuyến. Sáng 30 tháng 1 năm 1968 (mùng 1 Tết), cán bộ kỹ thuật của công trường Tam Bình tháo 10 quả bom lép (bên cạnh cụm hậu cần) để lấy thuốc nổ đảm bảo cho bộ đội ta đánh trong thành phố. Trong 5 ngày đầu chiến dịch, cụm hậu cần Danh Tấm vận chuyển ra phía trước 24,5 tấn vũ khí và chất nổ. Hàng ngày có hàng trăm thanh niên, du kích, trong đó có nhiều đảng viên, đoàn viên xung vào đội ngũ chiến đấu, vừa nhập ngũ là vào chiến đấu ngay. Có những chiến sĩ vừa xung vào đội ngũ đã chiến đấu dũng cảm và hy sinh mà người chỉ huy chưa biết tên, nhớ mặt. Thương binh từ phía trước được chuyển về phía sau điều trị kịp thời. Tử sĩ được mai táng chu tất. Cuộc đọ sức giữa ta và địch giữa sào huyệt của chúng diễn ra vô cùng quyết liệt. Sau 6 ngày đêm liên tục tiến công và nổi dậy, quân dân Vĩnh Long đã loại khỏi vòng chiến đấu 9.800 tên, có hàng trăm tên Mỹ, trong đó số chết 4.529 tên, bị thương 2.776 tên, bị bắt và đầu hàng 421 tên, đào rã ngũ 2.074 tên (có 1.200 phòng vệ dân sự và cảnh sát). Ta tiêu diệt 16 đại đội đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn, bắn chìm và bắn cháy 12 tàu chiến, phá hủy và bắn rơi 72 máy bay Mỹ, bắn cháy và phá hủy 70 xe quân sự, có 38 xe M.113 và M.118, pha shuyr 15 khẩu pháo 105mm và súng cối, 1 tổng đài truyền tin, đốt cháy một kho xăng, tiêu diệt bức hàng, bức rút 29 đồn bốt, giải phóng hoàn toàn 2 xã, giải phóng về cơ bản 7 xã vùng ven, thu 951 súng các loại, 32 máy thông tin. Ta hy sinh 228 đồng chí (kể cả cán bộ dân – chính – đảng), trong đó có 3 cán bộ cấp tiểu đoàn, bị thương 382 đồng chí, bị bắt 10, mất tích 16 đồng chí, mất 157 súng các loại. BÁM TRỤ VÙNG VEN GIỮ THẾ TIẾN CÔNG THỊ XÃ, ĐỒNG THỜI CHUẨN BỊ CHO CAO ĐIỂM 2
27
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Sau những đòn tiến công của quân ta trong cao điểm 2 của đợt I, lữ đoàn B của Mỹ tiếp tục cắm lại chiến trường Vĩnh Trà để hỗ trợ cho quân địch ổn định thị xã, đồng thời cơ động đánh phá ta. Chúng ráo riết bắt lính đôn quân bổ sung cho các đơn vị bị tổn thất và trang bị thêm binh khí kỹ thuật do Mỹ cung cấp, đồng thời củng cố các tuyến vành đai phòng thủ thị xã, chốt các cao ốc và các ngã ba, ngã tư đường ở nội ô. Phương án tiến công cao điểm 2 đợt I của ta vào thị xã Vĩnh Long như sau: Tiểu đoàn 306 vẫn đảm trách hướng chủ yếu, một bộ phận bí mật đột nhập sâu vào trong nội ô, một bộ phận khác đánh “bóc vỏ”, chiếm cầu Kinh Cục phát triển vào bên trong. Tiểu đoàn 857 triển khai khu vực phường 4, đánh chiếm cầu Khưu Văn Ba, phát triển vào trại Hoa Lư. Tiểu đoàn 308 vẫn theo hướng cũ, chiếm lĩnh phường 5, đánh chiếm cầu Thiềng Đức, tiến vào bên trong. Các tiểu đoàn trên sau khi “bóc được vỏ” sẽ thọc vào sâu bên trong hợp điểm ở nội ô thị xã, tiến công vào tiểu khu Vĩnh Long. Đại đội pháo đường sông của Khu làm nhiệm vụ chi viện cho các hướng tiến công. Tiểu đoàn 312 làm lực lượng dự bị, triển khai ở phường 3 và phường 4. Tiểu đoàn 2 của tỉnh cùng với đại đội trợ chiến đảm trách kiềm chế địch ở sân bay Vĩnh Long và quận Mới.
Cuộc tiến công diễn ra vào đêm 17 rạng ngày 18 tháng 2 năm 1968. Đúng 2 giờ sáng, 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 306 nổ súng tiến công cụm quân giữ cầu Kinh Cục, gần trăm tên địch bị ta tiêu diệt nhưng số còn lại vẫn ngoan cố cầm cự, đến sáng ta chưa chiếm được đầu cầu. Mũi khác đánh vào sở chỉ huy nhẹ trung đoàn 15, diệt
28
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
gần trăm tên địch và phát triển đánh chiếm ty công an, vây ép tòa hành chính. Tuy gặp thuận lợi phát triển nhanh, những mũi này quân số ít, lại chiến đấu đơn độc bên trong, không đủ sức phát triển đánh vào tiểu khu Vĩnh Long. Tiểu đoàn 857 chiếm được cầu Khưu Văn Ba, một mũi tiến tới Miếu Bảy Bà và Cầu Lộ, một mũi khác đột phá trại truyền tin Hoa Lư. Các hướng tiến công của ta đều bị hỏa lực địch từ trên các cao ốc bắn xuống ngăn chặn. Tiểu đoàn 308 chiếm lĩnh được phường 5, làm chủ bờ sông Long Hồ, chỉ chiếm được bên này cầu Thiềng Đức, không phát triển được vào trong. Mờ sáng ngày 18 tháng 2 năm 1968, không quân và pháo binh địch trút bom đạn xuống thị xã, đồng thời đổ quân bịt kín lộ Cầu Vòng. Sau đó, bộ binh cùng với xe bọc thép từ nhiều hướng kéo vào phản kích nội ô thị xã. Ba tiểu đoàn 306, 308 và 857 đánh địch suốt ngày, bẻ gãy nhiều mũi phản kích của địch, đập tan 20 đợt xung phong của chúng, đánh thiệt hại trung đoàn 15 sư đoàn 9 ngụy. Ta cũng chịu một số tổn thất nhất định. Kết hợp với tiến công quân sự, cán bộ các cấp tỏa ra nhiều nơi ở nội – ngoại ô thị xã, vận động đồng bào đấu tranh chống địch. Nữ đồng chí Mười Sương vào nhà thờ lớn tập hợp hơn 4.000 quần chúng lánh nạn tại đây thành cuộc mít tinh. Đồng chí đứng lên vạch tội ác Mỹ - ngụy, khích lệ tinh thần yêu nước, kêu gọi bà con tích cực tham gia kháng chiến, động viên gia đình binh lính giáo dục lôi kéo chồng con quay súng lập công trở về với hàng ngũ cách mạng. Đồng chí Mười Sương được đồng bào cảm mến gọi là bà “Đại úy Việt cộng”. Tiểu đoàn 2 sau khi tiến công vào thị xã Vĩnh Long, ngày 20 tháng 2 năm 1968 đột nhập khu trù mật Cái Sơn (Tam Bình) chiếm 3 ngày đêm, đánh chiếm 5 lô cốt và diệt 50 tên địch, thu 40 súng. Khu trù mật Cái Sơn chỉ còn một đồn ở trung tâm, nằm trên lộ 16 trong thế bị bao vây và cô lập. Tính chung sau một ngày đêm tiến công vào thị xã Vĩnh Long ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.808 tên, có 19 tên Mỹ (chết và bị thương 1.985 tên, tan rã 823 tên), thu 42 súng, phá hủy và bắn rơi 21 máy bay, bắn chìm 10 tàu chiến, phá hủy 25 xe quân sự, 4 pháo 105mm và một kho đạn của địch. Ta hy sinh 114, bị thương 140 đồng chí. Mặc dù địch thiết lập vành đai phòng thủ thị xã rất vững chắc, yếu tố bất ngờ không còn như trong cao điểm 1 trước đây, nhưng quân ta vẫn chọc thủng “vành đai thép” của địch, đánh thọc sâu vào nội ô thị xã, diệt nhiều sinh lực và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Tuy nhiên thời gian chiếm lĩnh thị xã không lâu. Ngày 20 tháng 2 năm 1968 Phân ban Khu ủy và Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long họp sơ bộ đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm tiến công đợt 1 và đề ra phương hướng chỉ đạo tới. So sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường Vĩnh Trà có sự thay đổi: địch tăng thêm một lữ đoàn B của Mỹ. Về phía ta yếu tố bí mật bất ngờ đánh vào đô thị không còn nữa. Hội nghị chủ trương “cột đầu, lột da và chặt chân địch”, đẩy mạnh 3 mũi giải phóng nông thôn. Tức là bám trụ đánh địch ở vùng ven, uy hiếp thị xã, thị trấn, không cho địch bung ra, đồng thời cắt giao thông huyết mạch của chúng, đẩy mạnh phong trào đánh địch bằng 3 mũi, bức rút nhiều đồn bốt, giải phóng vùng nông thôn rộng lớn, tích cực kìm căng và chia cắt địch, tạo thuận lợi cho hướng tiến công chiến lược vào thành phố Sài Gòn. 29
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Giữa khi quân ta lùi ra bám trụ vùng ven, củng cố bổ sung lực lượng thì được lệnh của Bộ Chỉ huy Miền rút tiểu đoàn 308 lên bổ sung cho mặt trận Sài Gòn. Quân khu chỉ đạo rút một số bộ đội huyện của Vĩnh Long và Trà Vinh lên thành lập tiểu đoàn 308 mới, đồng thời phát triển thêm một tiểu đoàn nữa lấy phiên hiệu là tiểu đoàn 312. Quân khu tăng cường cho chiến trường Vĩnh Trà thêm một đại đội pháo đường sông. Sau cao điểm 2 của đợt 1, địch tăng cường phòng thủ thị xã, ráo riết bắt lính đôn quân bổ sung quân số (bắt lính từ 17 đến 43 tuổi), quyết đẩy ta ra khỏi vùng ven, nối lại giao thông chiến lược (quốc lộ 4), đồng thời dùng B52 ném bom, rải chất độc hóa học, đánh phá có tính chất hủy diệt môi trường sống ở vùng giải phóng. Quân ngụy và quân Mỹ với sự yểm trợ của trực thăng, chiến xa, phản kích sâu vào vùng giải phóng nông thôn của ta. Ngoài nội ô thị xã ra, ta tổ chức 3 ban cán sự thị xã ở 4 cánh để chỉ đạo việc xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, bám trụ vững chắc ở vùng ven, dùng lực lượng nhỏ cơ động thọc sâu kết hợp với cơ sở tại chỗ đánh địch ở thị xã, củng cố phát triển cơ sở khôi phục phong trào đấu tranh chính trị ở nội ô. Qua hai cao điểm tiến công, cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang thị xã Vĩnh Long bị nhiều tổn thất, nhưng vẫn kiên cường bám trụ vùng ven hoạt động với phương thức biệt động, kết hợp với cơ sở tại chỗ, liên tục tiến công tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, diệt ác ôn, quét tề điệp, làm lỏng rã bộ máy kìm kẹp của địch, khiến cho địch không yên. Phong trào đấu tranh chính trị và cơ sở tại chỗ từng bước được khôi phục. Đi đôi với tác chiến đánh địch, ta còn ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng tập trung. Một sự kiện có ý nghĩa lớn của quân, dân Vĩnh Trà là sự ra đời của trung đoàn 3 – trung đoàn bộ binh mang tên dòng sông Cửu Long tại xã Thuận Thới (Trà Ôn) ngày 20 tháng 4 năm 1968. Đội hình trung đoàn gồm các tiểu đoàn 306, 308, 316 và một số đại đội binh chủng trực thuộc. Ban chỉ huy trung đoàn do đồng chí Ba Trung (Nguyễn Đệ) làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Chín Hoài làm Chính ủy. Ngay từ mới ra đời, trung đoàn đã liên tục đánh địch phản kích, phục vụ phá bình định, giải phóng nông thôn, cùng bộ đội địa phương 2 tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh bức diệt hàng trăm đồn bốt giặc thuộc các huyện nam – bắc sông Mang Thít. Tiểu đoàn 312 liên tục tiến công địch, gỡ hàng loạt đồn bốt trên tuyến chữ V của huyện Châu Thành B. Tháng 4 năm 1968, trung đoàn 3 chặn đánh 1 giang đoàn của địch trên sông Ba Phố (xã Bình Ninh, huyện Tam Bình) bắn chìm 12 tàu sắt và diệt 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến ngụy. Cùng lúc, tiểu đoàn 306 thuộc trung đoàn bắn chìm 8 tàu chiến, có một tiểu đoàn pháo hạm trên sông Cái Ngang. Đêm 1 tháng 5 năm 1968, đại đội pháo đường sông của Khu tập kích gây thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn của trung đoàn 16 sư đoàn 9 ngụy ở xã Hòa Bình. Hai ngày sau, địch đổ quân càn quét trả đũa, ta chống càn diệt hàng trăm tên. Ngày 20 tháng 5 năm 1968 Bộ Tư lệnh Quân khu miền Tây ra lệnh tiến công thị xã đợt 2. Trong khi lực lượng địch được tăng cường, lực lượng của ta quân số thiếu hụt rất nhiều, hệ thống phòng thủ của địch trong thị xã ngày càng kiên cố, song các đơn vị của trung đoàn 3 vẫn thọc sâu đánh địch ở vùng ven. Tiểu đoàn 306 phục 30
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
kích diệt đại đội biệt kích ở Phước Hậu. Địch đưa 2 tiểu đoàn cùng với xe M.113 ra phản kích. Tiểu đoàn 308 đánh địch ở Kỳ Hà gây cho chúng nhiều thiệt hại đáng kể. Sau cao điểm 2 của đợt 1, tiểu đoàn 2 thọc sâu đánh địch trụ lại ở vùng yếu ven sông Hậu, Lấp Vò phục vụ quần chúng nổi dậy phá kìm, diệt 3 đồn ở 2 xã Tân Thành, Định Yên. Sau khi tiểu đoàn 2 trở về vùng chữ V, tháng 4 năm 1968, tiểu đoàn 857 chuyển lên Lấp Vò đứng chân trên tuyến sông Tân Dương tấn sát ra ven thị xã Sa Đéc, hỗ trợ cho 2 huyện Lấp Vò, Lê Hà bức diệt đồn bốt mở tuyến sông Tân Dương. Tiểu khu Sa Đéc của địch được phi pháo yểm trợ mở những cuộc hàng quân giải tỏa cho đồn bốt, chiếm lại các vị trĩ đã mất, đã bị quân ta đánh trả quyết liệt. Địch phải dùng B52 tiếp tục trút bom đạn dày đặc xuống khu vực này, sau đó chờ trung đoàn 15 sư đoàn 9 cùng 40 xe M.113 mở cuộc hành quân phản kích đánh vào đội hình tiểu đoàn 857. Ta bẻ gãy nhiều mũi tiến công của địch, bắn cháy 4 xe M.113, phá hỏng 4 chiếc khác, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn. Trong một tháng bám trụ trên tuyến sông Tân Dương vùng ven thị xã Sa Đéc, quân ta đã đánh hơn 40 trận lớn – nhỏ (có ngày đáng 2 – 3 trận) diệt trên 1.000 tên, căng địch ra trên chiến trường toàn tỉnh, hỗ trợ đắc lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Tây. Quân ta cũng có nhiều thương vong. Khi lên lấp Vò tiểu đoàn 857 có 300 cán bộ, chiến sĩ, sau gần 2 tháng hoạt động khi trở về vùng chữ V chỉ còn lại 72 tay súng. Tháng 9 năm 1968, địch tiến hành lấn chiếm bình định vùng chữ V (Châu Thành B) mở đầu cho thời kỳ bình định và thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” trong toàn tỉnh. Chúng dùng B52 ném bom, rải chất độc hóa học, triệt phá địa hình. Chủ lực quân của địch chà sát, đóng đồn dày đặc, nơi còn thưa thì đóng dày thêm. Cuộc đấu tranh của quân và dân Vĩnh Long bước vào giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY Ở CÁC HUYỆN, THỊ TRONG TỈNH Thị xã Sa Đéc: là tỉnh lỵ và là tiểu khu quân sự của địch. Tại đây có trung đoàn 15 sư đoàn 9 của ngụy và tiểu đoàn bảo an 834, với khoảng 200 cố vấn Mỹ. Về phía ta có một đại đội của thị xã gồm 2 trung đội, bố trí đánh 2 mục tiêu là hậu cứ trung đoàn 15 và hậu cứ tiểu đoàn 834, do gặp nhiều trở ngại nên không mũi nào vượt qua được tuyến phòng thủ của địch để tiếp cận được mục tiêu. Gần sáng ta phải rút ra trụ lại ở rạch cái Dầu, xã Tân Quí Đông (ven thị xã Sa Đéc). Địch tập trung lực lượng phản kích ta nhiều lần. Đơn vị thị xã Sa Đéc kiên quyết đánh địch, giữ vững trận địa, diệt 25 tên. Huyện Châu Thành A: là huyện vùng ven bao bọc thị xã đã kết hợp tiến công với nổi dậy, đẩy mạnh phong trào quần chúng đánh phá bình định, thực hiện 3 mũi giáp công bức diệt các đồn Đìa Chuối, Bún Đình, Miễu Trắng, Kỳ Hà, Long Hiệp, giải phóng hoàn toàn xã Phước Hậu, nối liền hành lang từ thị xã về vùng căn cứ, giải phóng về cơ bản các xã Long Hồ, Long Đức, An Đức, Lộc Hòa, mở toang vùng ven.
31
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Khi địch tập trung đánh phá phản kích ồ ạt, hòng đẩy lùi ta ra khỏi vùng ven, lập tuyến vành đai phòng thủ thị xã, lực lượng vũ trang trong huyện đã bám trụ kiên cường đánh địch gây cho chúng nhiều thiệt hại. Huyện Châu Thành B: đồng thời với việc tiến công và nổi dậy đánh chiếm làm chủ bến phà Mỹ Thuận đã tiến hành 3 mũi giáp công bức diệt nhiều đồn bốt, giải phóng hoàn toàn các xã Hòa Tân, An Khánh, Tân Hòa, làm chủ hoàn toàn vùng chữ V, giải phóng cơ bản 3 xã An Phú Thuận, Phú Hựu và Tân Hợi Đông, bao vây và phá rã hoàn toàn chi khu Đức Tôn. Huyện Tam Bình: sáng 31 tháng 1 năm 1968 (mùng 1 Tết) ta huy động gần 10.000 quần chúng biểu tình từ 3 hướng (lộ 16B, Chợ Cũ và Ba Kè) kéo vào thị trấn Tam Bình. Hướng lộ 16B gần 4.000 quần chúng mang băng cờ, máy phóng thanh hô vang những khẩu hiệu: “Ngụy quyền tay sai hãy trao trả chính quyền lại cho dân”, “Anh em binh lính hãy mang súng, lập công trở về với cách mạng”… Đoàn biểu tình đã vượt qua nhiều đồn bốt địch đến cầu Ba Ti Dô. Quận trưởng Tam Bình cho lính ra chặn lại, đoàn biểu tình vẫn kiên quyết vượt qua và kêu gọi binh lính buông súng đầu hàng cách mạng, đòi quận trưởng Tam Bình trao trả chính quyền cho nhân dân. Không ngăn chặn được dòng người cuồn cuộn đang xông lên, địch xả súng bắn vào đoàn biểu tình làm 7 người hy sinh, 7 người bị thương, chúng bắt đi một số người khác. Kẻ địch đã dập tắt đoàn biểu tình bằng máu lửa. Tuy không đạt được yêu cầu đề ra nhưng cuộc biểu tình của quần chúng cách mạng đã hun đúc trong lòng dân mối căm thù sâu sắc: “máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu”. Từ thực tiễn cuộc biểu tình này ta đã rút ra được nhiều bài học bổ ích về tổ chức các cuộc đấu tranh chính trị trong thị trấn. Toàn huyện đẩy mạnh tiến công và nổi dậy kết hợp chặt với mặt trận đánh phá thông quốc lộ 4, bao vây bức diệt đồn bốt, giải phóng nông thôn, lột trọc yếu khu Ba Càng và khu Trù Mật cái Sơn, cắt đứt lộ 16B, cô lập chi khu Tam Bình cả đường thủy và đường bộ, giải phóng hoàn toàn và giải phóng cơ bản 6 xã: Mỹ Lộc, Hòa Lộc, Hòa Hiệp, Ngãi Tứ, Bình Ninh, Loan Mỹ. Huyện Cái Nhum: hòa nhịp với cuộc tiến công và nổi dậy ở thị xã, huyện đã chỉ đạo chớp thời cơ đẩy mạnh phong trào quần chúng nổi dậy, kết hợp 3 mũi giáp công, bức diệt đồn bốt, giải phóng cơ bản 5 xã: Nhơn Phú, Hòa Tịnh, Mỹ An, Bình Phước, Chánh Hội. Ngoài ra, huyện còn bảo đảm hậu cần cho tiểu đoàn 308 tiến công vào thị xã. Huyện Bình Minh: là nơi có đông đảo đồng bào theo Phật giáo, Hòa Hảo. Sáng 31 tháng 1 năm 1968 (mùng 1 Tết), đoàn biểu tình từ các hướng Mỹ Thuận, Đông Thành, Mỹ Hòa kéo vào chi khu Cái Vồn. Ở các hướng, ta đều tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của bọn chỉ huy và binh lính các đồn bốt. Có nơi binh lính nói với đồng bào: “bà con kéo nhau ra chi khu, nếu chi khu đầu hàng, về đây chúng tôi giao súng, giao đồn cho bà con”. Đoàn biểu tình từ các hướng kéo gần đến chi khu thì đều bị chặn lại. Hướng Đông Thành tiến theo lộ 37 đến Trường huấn luyện thì bị bọn lính ác ôn của trường và dân vệ Đông Thành bắn chết 5 người, làm nhiều người bị thương và bắt đi hàng chục người dân khác. Đoàn biểu tình đấu tranh giằng co với chúng rồi kéo trở về. Nhân dân cùng với du kích tạo dựng vật chướng ngại cản xe địch, làm chủ quốc lộ 4 đến ngày mùng 6 Tết, bao vây bức diệt một số đồn bốt trong vùng sâu. 32
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Huyện Lấp Vò: trong đêm tổng tiến công đồng loạt, một tổ đặc công bí mật đột nhập vào chi khu Đức Thành dùng chất nổ phá hỏng 2 khẩu pháo 105mm. Sáng ngày mùng 1 Tết, nhân dân cùng du kích kéo lên lộ 80 đắp mô làm vật chướng ngại, chiếm lĩnh lộ và vây ép chi khu, bao vây bức hàng, bức rút hàng chục đồn bốt địch. Sau cao điểm 2, tiểu đoàn 857 chuyển lên đứng chân hoạt động tại địa bàn Lấp Vò. Được lực lượng vũ trang tập trung hỗ trợ, dưới sự chỉ đạo của huyện ủy, huyện đội, lực lượng vũ trang và nhân dân toàn huyện đã đẩy mạnh 3 mũi giáp công, bao vây bức diệt một số đồn bốt, làm chủ tuyến sông Tân Dương. Theo số liệu chưa đầy đủ, tính đến hết đợt 1 (gồm có cao điểm 1 và cao điểm 2) của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, quân dân Vĩnh Long loại khỏi vòng chiến đấu 11.401 tên địch, diệt và làm bị thương 9.286 tên (có nhiều tên xâm lược Mỹ), bắt 421 tên, làm rã ngũ 1.700 tên, tiêu diệt 16 đại đội, đánh thiệt hại nặng 14 tiểu đoàn, bắn rơi và phá hủy 120 máy bay, phá hủy pha hỏng 93 xe quân sự các loại, có 63 xe M.113 – M.118 và xe bọc thép, bắn chìm và cháy 43 tàu chiến, pha hủy 19 khẩu pháo, 1 tổng đài truyền tin, đốt cháy 1 kho xăng, bức diệt 127 đồn bốt, giải phóng hoàn toàn và giải phóng cơ bản 15 xã, 319 ấp, 296.000 dân, thu 1.103 súng các loại, 32 máy thông tin, cùng nhiều quân trang quân dụng và tài liệu quan trọng. Cùng hợp lực với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, 336.000 lượt quần chúng nổi dậy bằng nhiều hình thức khác nhau, truy quét tề điệp và giải giới 8.000 tên phòng vệ dân sự (ngoài số bị tiêu diệt và rã ngũ nói trên). Ta hy sinh 402 đồng chí (có 3 cán bộ tiểu đoàn), bị thương 522, bị bắt 10, mất tích 16, mất 312 súng các loại. III.Ý NGHĨA THẮNG LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM Mặc dù cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 không đạt được ý định ban đầu đề ra, nhưng quân và dân ta đã giành được thắng lợi rất to lớn, toàn diện. Thắng lợi Xuân Mậu Thân của quân và dân Vĩnh Long đã đi vào lịch sử của tỉnh nhà như nét vàng son chói lọi, là bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng bộ và quân dân tỉnh nhà, là trang sử hào hùng của lực lượng vũ trang Quân khu 9. Thắng lợi Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 là thắng lợi của việc vận dụng thế bất ngờ về chiến lược, đánh thẳng vào cơ quan đầu não, chỗ mạnh nhất của địch, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, làm chủ thị xã 6 ngày đêm liền, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực quan trọng cả quân ngụy và quân Mỹ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, cắt đứt giao thông chiến lược làm chủ quốc lộ số 4 trong 22 ngày đêm. Song song với tiến công nổi dậy ở thị xã, ta đã đẩy mạnh 3 mũi giáp công đánh bại chương trình bình định của địch, giải phóng vùng nông thôn rộng lớn, tạo thành thế liên hoàn xã liền xã, huyện liền huyện.. Thắng lợi Xuân Mậu Thân còn là một cuộc tổng diễn tập cho những giai đoạn tiếp theo, để đi đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm của dân tộc.
33
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Thắng lợi Tổng tiến công Xuân 1968 của quân, dân Vĩnh Long đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn miền Nam, làm lung lay ý chí xâm lược, làm đảo lộn thế chiến lược, buộc đế quốc Mỹ phải thừa nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đàm phán với ta ở hội nghị Pa-ri, xuống thang chiến tranh, cuốn cờ về nước. Chính tướng Oét-mo-len, tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam thú nhận: Việt Cộng đã thành công trong cuộc tiến công bất ngờ trong dịp Tết Nguyên đán vào những thành phố ở miền Nam Việt Nam… Tướng Giôn-tréc-xơn, tư lệnh tác chiến của quân đội Mỹ cũng thốt lên rằng: tôi phải thú nhận Việt Cộng làm tôi kinh ngạc, vì những cuộc tiến công của họ, tôi khâm phục Việt Cộng đã vạch kế hoạch và tổ chức cuộc tiến công rất thành công. Qua sự kiện Mậu Thân, đế quốc Mỹ càng hiểu rõ rằng: một dân tộc dù nhỏ đến đâu nhưng một khi đã kiên quyết đứng lên chiến đấu cho độc lập tự do, có đường lối đúng đắn và được loài người tiến bộ ủng hộ thì dân tộc đó sẽ chiến thắng. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân ở Vĩnh Long để lại nhiều kinh nghiệm quý báu. Trở lại trang sử hào hùng mùa Xuân 1968 của quân, dân ta trên chiến trường Vĩnh Long không chỉ để ca ngợi quá khứ, say sưa tự mãn với những gì đã qua, mà vấn đề thiết thực hơn là cùng nhau suy nghĩ, rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử quý báu và kế thừa, phát huy kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo vào giai đoạn cách mạng hiện nay. Những bài học kinh nghiệm đó là: 1.Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 của quân, dân Vĩnh Long thành công trước hết là do vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương, phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết thống nhất toàn dân một ý chí, quân với dân một ý chí, không phân biệt già trẻ, trai gái, giàu nghèo, lương giáo, hậu phương – tiền tuyến, tất cả để đánh giặc, tất cả để thắng giặc. Lấy chiến tranh nhân dân làm nền tảng, Vĩnh Long ra sức xây dựng lực lượng 3 thứ quân hỗ trợ cho nhau cùng phát huy sức mạnh, lúc thường thì căng địch ra mà đánh, làm cho địch mạnh biến thành yếu, chủ động biến thành bị động và khi có điều kiện thuận lợi tập trung lực lượng chớp lấy thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn tạo nên bước phát triển nhảy vọt. Nhờ nắm vững quan điểm tự lực tự cường, tích cực và chủ động chăm lo xây dựng hậu phương tại chỗ, hậu cần nhân dân nên mặc dù trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp và cuộc chiến đấu kéo dài, Vĩnh Long vẫn đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống. 2.Quân dân Vĩnh Long đã biết phát huy sức mạnh tổng hợp, đánh địch bằng “hai chân ba mũi” trên khắp ba vùng, kết hợp tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, diệt địch để giành quyền làm chủ, giành quyền làm chủ để diệt địch, đánh địch ở đô thị với phá bình định mở vùng ven và giải phóng nông thôn, cắt đứt giao thông huyết mạch của địch làm cho chúng bị đánh tới tấp khắp nơi, buộc phải căng ra đối phó cả trước mặt cả sau lưng. Ta đã giải quyết mối quan hệ giữa chiến đấu với xây dựng, giữa thế trận và lực lượng, đảm bảo càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng to.
34
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
3.Thắng lợi Xuân Mậu Thân của quân dân Vĩnh Long thể hiện rõ nhiệt tình cách mạng, lòng tin tưởng tuyết đối vào sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần chấp hành chủ trương của Đảng vô điều kiện: “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” của quân, dân Vĩnh Long. 4.Lãnh đạo, chỉ huy Vĩnh Long cũng như các đơn vị đã đánh giá đúng tình hình, chọn đúng hướng, đúng mục tiêu, đối tượng tiến công, phát huy mặt mạnh của ta, tích cực khắc phục mặt yếu kém, hạn chế, hành động kiên quyết táo bạo, khẩn trương kịp thời góp phần giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong cuộc đọ sức không cân xứng giữa ta và địch. Công tác tổ chức chiến dịch diễn ra trong một thời gian hết sức cấp bách, phải bảo đảm tuyệt đối bí mật, lại diễn ra đồng loạt, ở cả nông thôn và thành thị, huy động một lực lượng rất lớn cả lực lượng vũ trang và quần chúng, nhưng các nội dung đó đã được tiến hành rất chu đáo, đồng bộ và có hiệu quả tốt. Gần 30 năm đã qua, bằng cố gắng cao độ của các ngành, các cấp, đặc biệt là các cơ quan nghiên cứu, những vấn đề cơ bản của sự kiện “Tết Mậu Thân” ở Vĩnh Long đã từng bước được làm sáng tỏ. Tuy vậy cũng còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu: -Một trong những yếu tố tạo nên thắng lợi của Xuân Mậu Thân 1968 là tạo được thế bất ngờ về chiến lược đối với kẻ thù. Nhưng các địa phương nhận được mệnh lệnh quá cấp bách, chưa đủ thời gian nghiên cứu các mục tiêu, đường sá, các mặt chuẩn bị khác cho cuộc tiến công và nổi dậy tại sào huyệt cuối cùng của kẻ địch, do đó có hạn chế đến thắng lợi và số thương vong về phía ta cao. -Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở các thành phố thị xã ở miền Nam diễn ra đồng loạt nhưng chưa đủ mạnh, chưa bền nên ở nhiều nơi chỉ sau một thời gian ngắn địch điều được quân cơ động tập trung phản kích. Phong trào quần chúng nổi dậy chưa tương ứng với yêu cầu, nhiều cơ sở của ta trong đô thị bị vỡ. -Về chỉ đạo: lực lượng của ta mỏng không có điều kiện tập trung vào mục tiêu chủ yếu, lực lượng dự bị bổ sung khi cần thiết cũng rất hạn chế, không có sức dồn lên liên tục tiến công giải quyết được mục tiêu chủ yếu, làm thay đổi trạng thái chiến trường, phát triển thế tiến công giành thắng lợi. Những mục tiêu tuy quan trọng nhưng không quan hệ trực tiếp với mục tiêu chủ yếu, ta có thể dùng lực lượng nhỏ kìm chế, bao vây cô lập cầm chân để tập trung lực lượng dứt điểm mục tiêu chủ yếu. Sau cao điểm 2 của đợt 1, địch ổn định tình hình thị xã, đẩy lực lượng vũ trang ta ra khỏi vùng ven và phản kích sâu vào vùng nông thôn. Lực lượng của ta bao gồm cả lực lượng chính trị và vũ trang ở cả nội ô và vùng ven bị nhiều tổn thất. Nhưng ta không kịp thời củng cố cơ sở và phong trào ở nội ô, tiếp tục bám dân, tạo chỗ đứng vững chắc ở vùng ven để làm bàn đạp thuận lợi cho hoạt động tiếp theo. Qua đợt 2, địch tập trung bom đạn, máy bay B52 hủy diệt, rải chất độc hóa học, càn đi quét lại liên tục, bình định lấn chiếm nông thôn, nhưng ta thiếu khẩn trương củng cố bổ sung lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị để giữ cho được thành quả cách mạng đã đạt được, hạn chế bớt khó khăn do địch gây ra. Khi địch tăng cường lực lượng và đã bình định lấn chiếm được một vùng nông thôn, ta đã không kịp thời chuyển phương châm, phương thức hoạt động cho thích hợp nên phong trào và cơ sở tiếp tục bị sa sút, khó khăn ngày càng tăng lên, có lúc 35
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
tưởng chừng như không thể qua được, mãi tới 3 năm sau, ta mới tạo được thế trận ở nông thôn để làm đà cho các thắng lợi tiếp theo. *** Ôn lại trang sử hào hùng Xuân 1968 của quân, dân tỉnh nhà, chúng ta càng tự hào về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân, dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Chúng ta trân trọng và đời đời nhớ ơn những đồng chí, đồng bào đã ngã xuống để làm nên chiến thắng lịch sử vẻ vang này. Cán bộ và nhân dân Vĩnh Long mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 3, chủ lực Quân khu 9 hoạt động trên chiến trường Vĩnh Trà đã đem hết trí tuệ, sức lực và máu xương của mình tô điểm thêm cho trang sử hào hùng của Vĩnh Trà anh dũng. Thành tích của trung đoàn 3 gắn liền với sự nghiệp giải phóng hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Càng tự hào về truyền thống đấu tranh của quá khứ, Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Vĩnh Long càng nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cùng cả nước phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn./. Nguyễn Ký Ức - Nguyên Bí thƣ Tỉnh ủy Vĩnh Long (1967 – 1975), nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng, Bí thƣ Tỉnh ủy Cửu Long khóa IV (1986 – 1990). Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
04.Chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 trên chiến trƣờng Vĩnh Trà Nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, có quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1) và sông Mang Thít – đường giao thông huyết mạch thủy bộ chạy qua, nối liền các tỉnh miền Tây Nam Bộ với Sài Gòn, Vĩnh Trà chiếm một vị trí có tính chiến lược ở đồng bằng sông Cửu Long – Quân khu 9.
36
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Địa hình Vĩnh Trà trống trải có nhiều kênh rạch, vườn tược kéo dài 30 – 50 mét dựa theo hai bên bờ kênh. Gần 80 phần trăm dân số và ấp, xã bị địch gom vào các ấp chiến lược. Ở Vĩnh Long từ khu vực sông Mang Thít trở lên hầu hết bị địch chiếm đóng. Ta chỉ hoạt động du kích nhỏ lẻ, vũ trang tuyên truyền, khó có điều kiện tác chiến tập trung cỡ đại đội, tiểu đoàn. Do địa bàn quan trọng như vậy, địch đã bố trí ở đây một số đông lực lượng và phương tiện chiến tranh gồm sư đoàn 9 bộ binh (có 3 trung đoàn 14, 15, 16), trung đoàn 2 thiết giáp, 1 giang đoàn từ 10 – 12 tàu PCF, ngoài pháo tại chỗ, địch còn bố trí 2 tiểu đoàn pháo cơ động tại Vĩnh Long và Long Hồ. Sân bay Vĩnh Long thường xuyên có 1 không đoàn có 60 đến 80 trực thăng và máy bay trinh sát L.19. Ở Vĩnh Trà còn có 20 tiểu đoàn quân bảo an, tiểu đoàn 43 biệt động quân. Trung tâm Thiên Nga – Phượng Hoàng (điểm điệp) của khu chiến thuật Tiền Giang cũng đóng tại đây. Với ta, chiến trường Vĩnh Trà rất quan trọng, nhưng do nhiều khó khăn nên trước năm 1966 chỉ có lực lượng địa phương và du kích hoạt động, chưa có chủ lực Khu. Cuối năm 1966, Khu ủy và Quân khu xác định Cần Thơ là trọng điểm 1, Vĩnh Trà (trong đó có thị xã Vĩnh Long) là trọng điểm 2 của Khu, để tiểu diệt sinh lực, chống phá bình định. Khu ủy và Quân khu quyết định điều tiểu đoàn 306 – chủ lực Quân khu sang tăng cường cho Vĩnh Trà, hỗ trợ địa phương phá ấp chiến lược, mở vùng, tiến tới làm nòng cốt xây dựng trung đoàn chủ lực hoạt động trên chiến trường quan trọng này. Cùng với việc tăng cường cán bộ cho Vĩnh Trà, Khu còn tăng cường cán bộ cho thị xã để xây dựng lực lượng quân sự, chính trị trong nội ô và vùng ven thị xã. Tại trọng điểm 1 Cần Thơ, Khu cũng tăng cường các Khu ủy viên như các đồng chí Tư Bình, Mười Kỷ, Mười Dài, Sáu Tâm… xuống làm Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Cần Thơ, bí thư các huyện trọng điểm như Châu Thành, Ô Môn…
37
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Lực lượng chủ lực Khu từ 2 trung đoàn tổ chức lại thành 1 trung đoàn mạnh gồm tiểu đoàn 303, tiểu đoàn 309, tiểu đoàn 70. Các tiểu đoàn pháo 2311 và tiểu đoàn đặc công Quân khu phối hợp với tiểu đoàn Tây Đô hoạt động ở trọng điểm Cần Thơ, tạo bàn đạp để tiến công thành phố, thị trấn. Giữa tháng 1 năm 1967 ta đã thành lập xong Phân ban Khu ủy Vĩnh Trà do đồng chí Hoài Pho (Ba Mai), Phó Tư lệnh Quân khu, Khu ủy viên, làm Tư lệnh Tiền phương Quân khu; đồng chí Bảy Máy – Thường vụ Khu ủy trong Ban chỉ đạo Khu; đồng chí Ba Trung (Nguyễn Đệ) – trung đoàn phó trung đoàn 1 kiêm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 306 cùng đơn vị đã có mặt trên chiến trường Vĩnh Trà. Hoạt động của tiểu đoàn 306 ở Vĩnh Trà với sự phối hợp nhịp nhàng cùng hai tỉnh đã làm cho tình hình ở đây trong thời gian ngắn có bước chuyển biến rõ rệt. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1967, tiểu đoàn 306 hoạt động ở 6 huyện nam – bắc sông Mang Thít: Càng Long, Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn, Cái Nhum và Cầu Kè đã mở rộng địa bàn đánh liên tiếp một số trận có hiệu quả, tạo thuận lợi cho phong trào địa phương phát triển. Giữa tháng 1 năm 1967 có mặt ở Vĩnh Trà, thì ngày 18 tháng 1 tiểu đoàn 306 đã diệt đồn, phá cầu, kéo viện, tập kích diệt tiểu đoàn thuộc trung đoàn 14 sư đoàn 9 ở Mai tức, diệt 250 tên. Đây là trận đầu tiên ta diệt gọn đơn vị địch ở Vĩnh Trà. Tháng 2 năm 1967 tiểu đoàn đánh Bãi San diệt 2 đồn 5 lô cốt, đánh viện, diệt 2 đại đội bảo an, phá ấp chiến lược Bãi San, khu công giáo nằm trong hậu phương của địch. Trong hai ngày 25 và 26 tháng 3 năm 1967, tiểu đoàn 306 lại tập kích địch ở Mương Khai (sông Mang Thít) diệt tiểu đoàn 1, trung đoàn 16 và một giang đoàn, bắn chìm 8 tàu. Tiếp đó tiểu đoàn đánh địch phản kích ở Hòa Bình, diệt 1 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng ba tiểu đoàn thuộc trung đoàn 16, sư đoàn 9, cùng lực lượng biệt động quân và bảo an; bắn rơi 12 trực thăng, bắn bị thương 10 chiếc khác, diệt gần 800 tên, bẻ gãy kế hoạch bình định sông Mang Thít của địch. Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1967, tiểu đoàn 306 hoạt động tại trọng điểm Vĩnh Long, với phương thức phân tán từng đại đội, hỗ trợ các huyện gỡ đồn phá ấp, mở vùng, xây dựng cơ sở áp sát thị xã Vĩnh Long. Đại đội 57 do đại đội trưởng Chín Tròn chỉ huy hoạt động ở huyện Cái Nhum, gỡ trên 40 đồn bốt. Đại đội 58 do đại đội trưởng Tư Hóa và chính trị viên Mười Sa chỉ huy, hoạt động ở bắc lộ 4, khu lõm chữ V huyện Bình Minh, gỡ trên 20 đồn bốt. Lực lượng còn lại của tiểu đoàn cơ động ở các huyện: Tam Bình, Trà Ôn nam thị xã, mở trên 50 đồn, đánh viện diệt hai tiểu đoàn bảo an và hai đoàn tàu trên sông Mang Thít. Tháng 10 và tháng 11 năm 1967 tiểu đoàn 306 tập trung lực lượng tiến công địch ở Càng Long và Vũng Liêm hỗ trợ cho tỉnh Trà Vinh diệt căn cứ Bãi San lần thứ ba, đánh cầu Xây, cầu Mỹ Huê và chi khu Càng Long, gỡ trên 20 đồn bốt, đánh viện diệt một tiểu đoàn bảo an. Qua một năm hoạt động trên địa bàn Vĩnh Trà, tiểu đoàn 306 kết hợp với địa phương giành thắng lợi lớn. Riêng tiểu đoàn đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 1.000 địch, diệt và đánh thiệt hại nặng trên 10 tiểu đoàn quân chủ lực và bảo an, gỡ trên 38
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
150 đồn bốt, hỗ trợ địa phương mở trên 100 đồn bốt khác, phá hàng trăm ấp chiến lược, chuyển vùng kìm sang vùng du kích có căn cứ đứng chân vùng ven bám sát thị xã Vĩnh Long. Phối hợp với tiểu đoàn 306, lực lượng của hai tỉnh đẩy mạnh hoạt động ba mũi giáp công gỡ đồn, phá ấp chiến lược khá tốt. Cuối tháng 11 năm 1967, Phân ban Khu ủy và Tiền phương Quân khu cùng với hai tỉnh họp hội nghị đánh giá tình hình năm 1967, đề ra phương hướng hoạt động đầu năm 1968. Được tiểu đoàn 306 tăng cường, sau một năm hoạt động của quân và dân Vĩnh Trà đã giành thắng lợi lớn nhất so với trước đây. Tình hình chuyển biến rõ rệt, vùng giải phóng được mở rộng thêm ở nhiều nơi, tạo điều kiện dừng chân cho các lực lượng trên khắp ba vùng. Phát huy thắng lợi trên để chuẩn bị hoạt động trong mùa Xuân 1968, Vĩnh Trà chủ trương hoạt động trên cả ba vùng, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, đẩy mạnh đấu tranh ở các đô thị mà trọng điểm là thị xã Vĩnh Long. Cán bộ Khu và tỉnh được tiếp tục tăng cường cho thị xã Vĩnh Long và Trà Vinh để phát động quần chúng, xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang nội thành. Về xây dựng lực lượng vũ trang tập trung: trên cơ sở khung tiểu đoàn 308 của Quân khu cơ bản đưa sang, Vĩnh Trà rút lực lượng các huyện và du kích lên xây dựng hoàn chỉnh tiểu đoàn 308 do đồng chí Sáu Hà làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Ba Tiên làm chính trị viên, đồng chí Bảy Thành làm tiểu đoàn phó và đưa lên hoạt động hướng Cái Nhum, đồng thời chuẩn bị xây dựng tiểu đoàn 312 và tiểu đoàn 316 pháo binh. Tỉnh Vĩnh Long xây dựng thêm tiểu đoàn thứ hai. Tỉnh Trà Vinh xây dựng từ hai đến ba tiểu đoàn – mỗi huyện xây dựng từ một đến hai đại đội, các huyện trọng điểm xây dựng ba đại đội. Lực lượng chủ lực Khu và bộ đội tỉnh chuẩn bị vào mùa khô, trước Tết đánh tập trung diệt từng tiểu đoàn chủ lực và bảo an địch, hỗ trợ phong trào ở đô thị, mở vùng ven chuẩn bị dịp Tết vào đứng chân vùng ven ăn Tết với nhân dân, gây dựng phong trào, gây dựng cơ sở. Thực hiện chủ trương trên, ngày 18 tháng 1 năm 1968 tiểu đoàn 306 áp dụng chiến thuật công đồn đánh quân chi viện ở đoàn từ Long Hồ đi ngã ba cái Nhum, diệt một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 16, diệt và làm bị thương 300 tên, phá hủy 30 xe. Ngày 25 tháng 1 năm 1968, tiểu đoàn lên lộ 4 phục kích đoạn Ba Càng chặn đánh đoàn xe từ Cần Thơ đi Vĩnh Long, đốt cháy 25 xe, diệt một tiểu đoàn bảo an 250 tên, sau đó tiếp tục đánh quân phản kích kéo vào Cái Ngang diệt thêm 100 tên, bắn cháy 5 xe M.113, bắn rơi 3 trực thăng và pháo kích chi khu Ba Càng gây cho địch nhiều thiệt hại. Trong vòng một tuần lễ, trên lộ 4 và lộ 7, tiểu đoàn 306 đánh hai trận giao thông diệt hai tiểu đoàn xe địch ngay sát thị xã. Bị thiệt hại nặng địch hoang mang, khí thế quần chúng đô thị càng sôi nổi. Hiệp đồng với lực lượng Quân khu, lực lượng tỉnh Vĩnh Long hoạt động ở bắc lộ 4 và Trà Vinh, tiến công địch ở cầu Ngang thu nhiều kết quả. TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
39
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Quân khu 9 lấy thành phố Cần Thơ làm trọng điểm một, thị xã Vĩnh Long làm trọng điểm hai. Vào tháng 1 năm 1968 lực lượng địch ở thị xã Vĩnh Long có khoảng 10.000 quân chủ lực và bảo an, gồm: trung đoàn 16 sư đoàn 9 bộ binh, trung đoàn 2 thiết giáp, hai giang đoàn trên 20 tàu các loại, các tiểu đoàn bảo an và tiểu đoàn 43 biệt động quân, hai tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp, một không đoàn máy bay trực thăng 64 chiếc. Tại thị xã Vĩnh Long còn khoảng 100 cố vấn Mỹ và trên 3.000 cảnh sát, dân vệ và phòng vệ dân sự. Về ta, chủ trương đêm 29 tết sẽ cho bộ đội vào ăn Tết với đồng bào vùng ven và các ấp chiến lược, phát động quần chúng, gây dựng cơ sở. Tiểu đoàn 306 đánh địch trên lộ 4 và đánh phản kích chưa kịp củng cố thì sáng 27 tháng 1 năm 1968 nhận được lệnh đánh chiếm thị xã Vĩnh Long. Tiểu đoàn được tăng cường ba đại đội địa phương các huyện Tam Bình, Trà Ôn và thị xã tổng cộng trên 1.000 quân, đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu đánh chiếm thị xã Vĩnh Long, hiệp đồng với lực lượng ở phía tây và tiểu đoàn 308 ở phía bắc. Tuy nhiệm vụ gấp, không có thời gian chuẩn bị, song với lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn 308 đã khẩn trương khắc phục khó khăn trở ngại, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Ban chỉ huy chiến dịch đánh chiếm thị xã Vĩnh Long gồm có: đồng chí Nguyễn Hoài Pho – Phó Tư lệnh Quân khu làm chỉ huy trưởng; đồng chí La Lâm Gia (Bảy Máy) – Thường vụ Khu ủy làm Chính ủy; đồng chí Nguyễn Đệ (Ba Trung) chỉ huy phó, tham mưu trưởng kiêm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 306, đồng chí Bùi Như Nho (Tám Xuân) làm phó chính ủy. Ban chỉ huy chiến dịch bàn phương án tác chiến và hạ quyết tâm đánh chiếm thị xã Vĩnh Long như sau:
40
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tiểu đoàn 306 đảm nhiệm hướng chủ yếu từ phía nam đánh vào thị xã bằng ba mũi: mũi chủ yếu từ cầu Kinh Cục thọc vào thị xã đánh chiếm tòa hành chính và các ty, sở. Mũi quan trọng do đại đội 58 và đại đội Tam Bình từ phía đông cầu Khưu Văn Ba đánh chiếm khu Hoa Lư trung tâm thông tin vào thị xã hợp với mũi một. Mũi thứ yếu do đại đội 57 cùng với đại đội bộ đội thị xã và huyện Trà Ôn đánh chiếm khu quận Mới và ngã ba Cần Thơ, tiếp đó hợp lực với lực lượng tỉnh. Lực lượng Vĩnh Long: tiểu đoàn một đánh chiếm sân bay, tiểu đoàn hai hiệp đồng đánh quận Mới từ bắc lộ 4 vào; đại đội huyện Châu Thành đánh chiếm phà Mỹ Thuận cắt đứt lộ 4, chặn quân viện của địch từ Sa Đéc lên. Tiểu đoàn 308 từ hướng bắc vượt sông đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, khu nhà giam, giải thoát anh em tù chính trị, hiệp đồng với tiểu đoàn 306 đánh chiếm toàn bộ thị xã. Bộ phận pháo kiềm chế trận địa pháo của địch ở Long Hồ và đánh tàu cập sông Tiền. Lực lượng tỉnh Trà Vinh tác chiến độc lập đánh chiếm thị xã, cắt lộ 7 không cho địch ở Trà Vinh tiếp viện cho Vĩnh Long. Công tác chuẩn bị và hành quân tiềm nhập trận địa vô cùng khó khăn vì đến chiều 28 tháng 1 Phân ban Khu ủy mới nhận được lệnh Tổng tiến công, ngày 29 tháng 1 phổ biến, giao nhiệm vụ cho các đơn vị và tỉnh. Tiểu đoàn 306 ngày 29 tháng 1 nhận lệnh, ngày 30 tháng 1 tiến hành công tác tổ chức, động viên bộ đội, chiều ngày 31 tháng 1 năm 1968 hành quân thần tốc suốt đêm giao thừa và đến 1 giờ sáng mùng 1 Tết thì đột nhập vào được thị xã bí mật, an toàn. Tiểu đoàn 1 Vĩnh Long và tiểu đoàn 2 của tỉnh vừa mới xây dựng đang còn ở Bình Minh (bắc lộ 4), tiểu đoàn 308 do đồng chí Sáu hà làm tiểu đoàn trưởng ở Vũng Liêm, Trà Vinh. Mọi công tác chuẩn bị chỉ vẻn vẹn một ngày rưỡi nên hết sức khẩn trương, nhưng nhờ có quyết tâm cao nên vẫn triển khai được như kế hoạch, giữ được bí mật bất ngờ. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để ta bước vào thực hành Tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi. CAO ĐIỂM 1: (TỪ 31 – 1 ĐẾN 15 – 2 – 1968) 1 giờ 30 ngày 1 tháng 2 năm 1968 (rạng sáng mùng 1 Tết Mậu Thân), tiểu đoàn 306 đột nhập vào thị xã theo hướng miếu Bảy Bà nố súng đồng loạt. Địch hoàn toàn bị bất ngờ, rối loạn, đối phó yếu ớt. Ta chiếm được khu Hoa Lư trung tâm thông tin, căn cứ bảo an, ty cảnh sát, các ty sở, miếu Bảy Bà. Cùng lúc, pháo binh ta bắn vào căn cứ Long Hồ, quận Mới; đại đội 57 và tiểu đoàn hai của tỉnh đánh vào quận Mới. Địch bị thiệt hại nặng, ta phá trên 10 khẩu pháo 105 và 155mm. Hướng phía tây, tiểu đoàn một của tỉnh đánh vào khu vực sân bay phát triển thuận lợi, chiếm được khu để máy bay và nhà ga sân bay, phá hủy trên 50 trực thăng. Lực lượng huyện Châu Thành đánh chiếm được bến phà Mỹ Thuận, cắt đứt lộ 4. Ở hướng bắc thị xã, tiểu đoàn 308 gặp khó khăn lớn khi vượt sông, chỉ qua được một bộ phận khoảng 50 đồng chí đã nhanh chóng chiếm khu trường Tống 41
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Phước Hiệp; sau đó bị địch phản kích chặn lại không phát triển lên được. Qua ngày sau (1 – 2), đơn vị bị thiệt hại nặng. Đồng chí Chín Tròn tiểu đoàn phó thay đồng chí Sáu Hà làm tiểu đoàn trưởng. Trước khó khăn, tiểu đoàn 308 buộc phải phòng ngự phía bắc sông, bao vây thị xã, đánh địch phản kích hiệp đồng với tiểu đoàn 306 đánh địch ở nội ô. Trong đêm 1 tháng 2, lực lượng biệt động và lực lượng chính trị nội ô hiệp đồng với tiểu đoàn 306 đánh chiếm, làm chủ được một phần ba thị xã. Sáng 1 tháng 2 (mùng 1 Tết), địch bắt đầu phản kích quyết liệt ở thành phố Cần Thơ (trọng điểm số 1 của Quân khu) và nhiều thị xã, thành phố khác trên toàn Miền. Ta gặp nhiều khó khăn, có nơi không trụ nổi. Tại Vĩnh Long, địch cho bộ binh, xe M.113, không quân và pháo hạm chống trả ta quyết liệt. Sau giao thừa tiểu đoàn 306 tiến công địch làm chủ được một phần ba nội ô thị xã, giữ vững quyết tâm, củng cố trận địa, tổ chức phòng ngự vững chắc, nhưng tới sáng ngày 1 tháng 2 (mùng 1 Tết) địch phản kích từ hai đầu, tiểu đoàn quyết tâm tập trung lực lượng đánh bại cánh quân lợi hại của tiểu đoàn 43 biệt động quân phản kích phía sau sở chỉ huy tiểu đoàn, diệt trên 100 tên, truy kích bọn địch còn lại chạy về căn cứ cố thủ. Ta chuyển sang bao vây căn cứ này và hai ngày sau thì dứt điểm. Sau khi diệt tiểu đoàn biệt động quân, tiểu đoàn 306 chuyển sang hướng tây đánh bại 6 đợt phản kích của địch ở nội ô thị xã, bắn cháy 12 xe M.113, diệt hàng trăm tên thuộc trung đoàn 16 và quân bảo an, giữ vững trận địa. Trong hai ngày 2 và 3 tháng 2 năm 1968, ta vẫn làm chủ và tiếp tục tiến công. Tiểu đoàn 306 giữ vững trận địa phòng ngự, đánh bại hàng chục đợt phản kích của địch đồng thời tổ chức đánh lấn, chiếm được tòa hành chính, các sở và ty cảnh sát, đánh phản kích diệt một lực lượng lớn quân địch, làm chủ hai phần ba thị xã, bắn cháy 15 xe M.113, bắn rơi 5 trực thăng, chiếm ngã ba Cần Thơ. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào thị xã tổ chức mít tinh, phát động quần chúng làm chướng ngại vật và công sự, cùng bộ đội đánh địch. Hướng phía tây, tiểu đoàn một bộ đội tỉnh rút ra vùng ven, tiếp tục bao vây khống chế sân bay, làm chủ bến phà Mỹ Thuận, chặn quân cứu viện ở hướng Sa Đéc. Tiểu đoàn 308 vẫn tiếp tục phòng ngự theo tuyến sông, bao vây thị xã đánh quân phản kích. Ngày 4 tháng 1 năm 1968 (mùng 4 Tết) địch dùng trực thăng phun lửa hủy diệt các khu phố trong nội ô, cả thị xã Vĩnh Long tràn ngập trong biển lửa. Địch gom tàn quân, có xe M.113 yểm trợ hòng phản kích đẩy lực lượng ta ra khỏi thị xã. Tiểu đoàn 306 vẫn kiên định quyết tâm cùng nhân dân và lực lượng vũ trang thị xã giữ vững trận địa, phòng ngự vững chắc và dập lửa bảo vệ nhà cửa, tài sản cho đồng bào, cứu chữa băng bó nhân dân bị thương. Nhân dân thị xã giúp tiểu đoàn đào đắp công sự, tiếp tế, cứu chữa thương binh. Phía sau đã kịp thời bổ sung cho tiểu đoàn trên 500 quân, phần lớn là bộ đội địa phương và du kích tình nguyện. Ngày 5 tháng 2, tiểu đoàn 306 nhanh chóng củng cố đội ngũ, tiếp tục tiến công bọn địch co cụm lại tại dinh tỉnh trưởng và khu trại giam ngoan cố chống cự. Tên trung tá tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Diệp hoảng sợ xuống tàu ra sông Tiền cầu cứu. Quyết tâm của tiểu đoàn là tối ngày 6 tháng 2 tập trung dứt điểm thị xã để sẵn sàng đánh quân chi viện từ xa đến. 42
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
15 giờ ngày 6 tháng 2 (mùng 6 Tết), trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Mỹ dùng pháo hạm, không quân và trực thăng vũ trang đánh phá ác liệt nội ô và vùng ven thị xã Vĩnh Long hòng hủy diệt lực lượng ta, chi viện cho quân Mỹ đổ quân, 40 trực thăng liên tục đổ, lữ đoàn 2 sư đoàn 9 bộ binh Mỹ từ căn cứ Đồng Tâm xuống phía sau lộ Cầu Vòng, từ quận Mới đến căn cứ 80, cùng quân bảo an ngụy bao vây quân ta trong thị xã. Địch chia thành hai mũi từ phía nam đánh vào nhằm tiêu diệt quân ta, giải tỏa thị xã Vĩnh Long. Trước tình hình trên, nếu giữ quyết tâm tiếp tục đánh chiếm thị xã như cũ sẽ không có lợi, ban chỉ huy tiểu đoàn họp nhất trí đề nghị Tiền phương Quân khu chuyển sang đánh quân Mỹ phản kích và lui ra vùng ven Phước Hậu bao vây thị xã, đánh địch phản kích gỡ đồn, giải phóng vùng ven, cắt lộ 4. Đề nghị đó được đồng chí Nguyễn Hoài Pho chấp nhận. Tiểu đoàn 306 tổ chức đánh phản kích từ 16 giờ đến 18 giờ ngày 6 tháng 2 theo lộ Đá (lộ mậu Thân bây giờ), diệt trên 100 tên, buộc quân địch phải dừng lại ở ngã ba, không tiến lên được. Tiểu đoàn cho trinh sát bám cánh quân theo lộ Đá và cầu Cá Trê. 23 giờ đêm 6 tháng 2, tiểu đoàn 306 tập kích cụm quân Mỹ ở phía nam cầu Cá Trê 500 mét, diệt một đại đội, loại khỏi vòng chiến đấu 100 tên. Tính chung, chỉ trong vòng một ngày đêm tiểu đoàn diệt gần 200 tên địch, bắn rơi 13 trực thăng. Tiểu đoàn đã tổ chức đưa thương binh, liệt sĩ và nhân dân ra vùng ven Phước Hậu tiếp tục bao vây thị xã, đánh địch phản kích, hỗ trợ địa phương diệt và bức hàng trên 100 đồn bốt ven thị xã, làm chủ lộ 4 đoạn từ Mỹ Thuận đi Cần Thơ 22 ngày đêm. Hai tiểu đoàn bộ đội tỉnh làm chủ Tam Tấn bắc lộ 4. Tiểu đoàn 308 làm chủ Cái Nhum vào sát bắc thị xã, cùng địa phương gỡ đồn, giải phóng vùng ven và nông thôn. Từ ngày 1 đến 15 tháng 2, tại thị xã Vĩnh Long ta đã diệt, bắt và làm bị thương trên 5.000 tên (có khoảng 300 quân Mỹ), diệt và đánh thiệt hại nặng trung đoàn 16 sư đoàn 9, trung đoàn 2 thiết giáp, tiểu đoàn 43 biệt động quân và 3 tiểu đoàn bảo an, tiểu đoàn pháo, 1 giang đoàn tàu, phá hủy, bắn rơi gần 70 trực thăng (bộ đội tỉnh phá hủy 53, tiểu đoàn 306 bắn rơi 15 chiếc), bắn cháy 32 xe M.113, phá hủy 10 pháo 105 – 155mm, bắn chìm 12 tàu, làm rã ngũ trên 3.000 tên phòng vệ dân sự và cảnh sát, gỡ trên 200 đồn bốt vùng ven. Riêng tiểu đoàn 306 diệt trên 3.000 tên, có 250 Mỹ, bắn rơi 15 trực thăng, phá 10 pháo, bắn cháy 32 xe M.113 và trên 50 xe quân sự khác, gỡ gần 100 đồn bốt. Tiểu đoàn 308 diệt gần 1.000 tên, gỡ 50 đồn, bắn chìm 12 tàu. Lực lượng tỉnh diệt khoảng 1.500 tên, gỡ 50 đồn, phá hủy 53 trực thăng, cùng với lực lượng nội ô và tiểu đoàn 306 phá rã trên 3.000 phòng vệ dân sự và cảnh sát. Sau 10 ngày đầu, Ban chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí Hoài Pho, Bảy Máy, Ba Trung, Tám Xuân và bí thư hai tỉnh (đồng chí Năm Trung và Sáu Ức) đã họp đánh giá kết quả cao điểm 1: Ta đã giành thắng lợi lớn, địch bị thiệt hại nặng. Thời cơ mở ra thuận lợi, ta có khả năng tiếp tục tiến công giành thắng lợi lớn. Từ đó Ban chỉ huy chiến dịch chủ trương, tiếp tục sử dụng bộ phận chủ lực làm nòng cốt, làm chủ vùng ven, bao vây tiến công, uy hiếp thị xã Vĩnh Long vây chặt lực lượng đầu não của địch, cắt giao thông, đánh quân địch đến giải tỏa, hỗ trợ phong trào nổi dậy, bao vây tiến công dứt 43
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
điểm đồn bốt, giải phóng nông thôn, thực hiện phương châm “cột đầu, chặt chân, lột da, móc ruột giải phóng nông thôn”. CAO ĐIỂM 2: (TỪ 20 – 2 ĐẾN 10 – 3) Từ cơ sở đánh giá kết quả cao điểm 1, tình hình thực tại, đặc biệt là tương quan lực lượng ta và địch ở Vĩnh Trà, bước vào thực hiện cao điểm 2, ta chủ trương: -Sử dụng tiểu đoàn 312 (mới được xây dựng có trên 300 quân) do đồng chí Bảy Thành tiểu đoàn trưởng, đồng chí Mười Trang tiểu đoàn phó chỉ huy và hai tiểu đoàn bộ đội tỉnh cùng một bộ phận tiểu đoàn 306, tập trung chuyển hướng sang tiến công thị xã Sa Đéc, đánh bại trung đoàn 15 sư đoàn 9, đánh thiệt hại quân địch ở thị xã Sa Đéc, hỗ trợ phong trào địa phương gỡ đồn, giải phóng nông thôn ba huyện Châu Thành, Lấp Vò, Bình Minh. -Lực lượng còn lại của tiểu đoàn 306 làm chủ Phước Hậu, từ thị xã Vĩnh Long đánh địch phản kích, hỗ trợ địa phương, gỡ đồn, giải phóng nông thôn vùng ven, các huyện Châu Thành, Tam Bình và tuyến sông Mang Thít. -Tiểu đoàn 308 cùng lực lượng huyện phá ấp chiến lược, gỡ đồn, giải phóng các vùng nông thôn: Cái Nhum, vùng B Vũng Liêm, tuyến sông mang Thít và cù lao Lách. -Tiểu đoàn bộ đội tỉnh Trà Vinh làm chủ vùng ven bao vây thị xã, đánh quân địch tiếp viện và đẩy mạnh cao trào ba mũi giáp công giải phóng nông thôn. Theo kế hoạch, ở hướng Sa Đéc đêm 20 tháng 2 ta tập trung đánh trung đoàn 15, sở chỉ huy sư đoàn 9 và một phần thị xã Sa Đéc làm chủ hai đêm và một ngày, sau đó rút ra vùng ven, bao vây tiến công đánh địch phản kích, pháo kích quân địch ở thị xã và sở chỉ huy sư đoàn 9, trung đoàn 15, đánh viện diệt trên 500 tên. Ta còn tiếp tục làm chủ vùng ven gỡ trên 100 đồn bốt, phá ấp chiến lược, chuyển ba huyện và thị xã Sa Đéc từ yếu kém trở thành vùng có căn cứ, vùng giải phóng rộng nối liền với khu vực chữ V bắc lộ 4. Tiểu đoàn 306 và tiểu đoàn 308 dùng lực lượng đặc công, pháo binh phá sân bay, trận địa pháo, bao vây thị xã Vĩnh Long, đánh diệt viện hai đoàn tàu trên sông Mang Thít và sông Cái Ngang, bắn chìm 22 chiếc, diệt ba tiểu đoàn địch, phối hợp với lực lượng địa phương làm chủ lộ 4 và lộ 7, gỡ trên 150 đồn bốt. Tỉnh Trà Vinh đẩy mạnh phong trào ba mũi giáp công, gỡ trên 200 đồn bốt. Kết quả chung của cao điểm 2 ở Vĩnh Long, Sa Đéc ta đã diệt trên 2.000 tên địch, diệt 5 tiểu đoàn, đánh thiệt hại hai trung đoàn (15 và 16), gỡ trên 200 đồn bốt, làm chủ vùng ven, bao vây địch trong thị xã, liên tục đánh viện, đẩy mạnh ba mũi giáp công, gỡ trên 200 đồn, phá hàng trăm ấp chiến lược, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 14 sư đoàn 9 của địch. Trong đợt 1, tính từ ngày 1 tháng 2 đến ngày 10 tháng 3 năm 1968 quân, dân vĩnh Trà loại khỏi vòng chiến đấu trên 10.000 tên địch (có hàng trăm Mỹ), gỡ trên 600 đồn bốt, giải phóng về cơ bản nông thôn tỉnh Vĩnh Trà, phá hủy và bắn rơi 80 máy bay trực thăng (Vĩnh Long 65 chiếc, Trà Vinh 5 chiếc…), bắn cháy 40 xe M.113, bắn chìm 35 tàu, phá 30 pháo 105 và 155mm, 100 xe quân sự, thu trên 5.000 súng, cắt lộ 7 và lộ 4 trong 22 ngày đêm. 44
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
ĐỢT TỔNG TIẾN CÔNG THÁNG 4 VÀ THÁNG 5 Sang đợt 2, Vĩnh Trà nhanh chóng tổ chức chấn chỉnh bổ sung lực lượng. Theo lệnh của Bộ chỉ huy Miền, tỉnh Vĩnh Trà đưa tiểu đoàn 308 (có 400 quân) về Miền tham gia đợt 2 đánh vào Sài Gòn (cuối tháng 4 năm 1968). Tiểu đoàn 308 do đồng chí Tư Hóa chỉ huy đánh vào ngã tư Bảy Hiền đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhưng tiểu đoàn cũng bị thiệt hại nặng. Hầu hết cán bộ, chiến sĩ đều hy sinh, chỉ còn 7 – 8 đồng chí chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và bị giặc bắt. Sau khi đưa tiểu đoàn 308 về Miền, tỉnh Vĩnh Trà tích cực xây dựng tiểu đoàn 308 mới và tiểu đoàn pháo 316. Đầu tháng 4 năm 1968 trung đoàn 3 được thành lập (gồm 4 tiểu đoàn: 306, 308, 312 và 316) do đồng chí Ba Trung làm trung đoàn trưởng, đồng chí Sáu Hoài làm chính ủy, đồng chí Tư Thiện làm trung đoàn phó, đồng chí Tư Đặng làm phó chính ủy. Các đơn vị trên vừa củng cố, xây dựng, vừa tích cực tiến công địch. Cuối tháng 3 năm 1968 ta đánh đoàn tàu trên sông Cái Ngang (Cai Hóa), bắn chìm 8 tàu, có một pháo hạm Mỹ, diệt 250 tên có 10 Mỹ. Đầu tháng 4 năm 1968 ta lại chặn đánh đoàn tàu trên sông Mang Thít, bắn chìm 12 tàu, diệt một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Cuối tháng 4 năm 1968, theo sự chỉ đạo thống nhất của Bộ chỉ huy Miền, ta mở Tổng tiến công đợt 2, mục tiêu chủ yếu là đánh vào Sài Gòn, còn các tỉnh đánh vào thành phố, thị xã. Tại Vĩnh Long, sau đợt 1 địch tuy bị thiệt hại nặng nhưng chúng đã kịp thời củng cố, rút các tiểu đoàn bảo an và chủ lực về tập trung phòng thủ thị xã, tăng
45
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
cường bắn phá vùng ven nhằm đẩy lực lượng ta ra xa. Về phía ta, lúc này yếu tố bí mật bất ngờ không còn, nên việc đánh chiếm và giữ thị xã không có điều kiện thực hiện được nữa. Ban chỉ huy trung đoàn 3 báo cáo tình hình và đề nghị Quân khu cho đơn vị dùng đặc công và pháo đánh vào thị xã và sân bay Vĩnh Long; đại bộ phận trung đoàn đứng chân và làm chủ vùng ven, gài thế đánh viện diệt sinh lực địch, kết hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đẩy mạnh ba mũi tiến công, phá ấp chiến lược, gỡ đồn bốt, giải phóng nông thôn. Đề nghị trên được Bộ Tư lệnh Miền và Quân khu chấp thuận. Vào đợt 2, đặc công và pháo binh của ta tập kích diệt các căn cứ kho tàng, sở chỉ huy của địch trong thị xã Vĩnh Long; đồng thời ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận ở nội ô làm cho địch vô cùng lúng túng. Cuối tháng 4 và tháng 5 năm 1968, trung đoàn 3 đánh 10 trận, diệt 3 tiểu đoàn địch ở Bà Kha, cầu Ông Me và lộ Cầu Vòng diệt trên 1.000 tên địch. Bắn cháy 25 xe M.113, bắn rơi 8 trực thăng, phá hủy 10 pháo 105mm, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 15 và 16, sư đoàn 9, trung đoàn 2 thiết giáp (lần thứ hai), gỡ 50 đốn bốt, làm chủ lộ 4, lộ 7 nhiều ngày. Tiểu đoàn bộ đội tỉnh tiếp tục mở rộng vùng giải phóng Tam Tân bắc lộ 4, đánh địch phản kích, diệt trên 500 tên, phá hủy 46 xe quân sự. Quân dân Trà Vinh tiếp tục mở mang nông thôn, đánh địch phản kích, diệt gần 300 tên, bắn rơi 8 trực thăng, bắn chìm 3 tàu. Tại thành phố Cần Thơ, trọng điểm 1 của Quân khu, sau khi đánh chiếm một số mục tiêu quan trọng trong nội ô Cần Thơ trong dịp Tết, lực lượng của ta đã rút ra vùng ven lộ Vòng Cung. Suốt đợt 1, trung đoàn 1 và tiểu đoàn Tây Đô tỉnh Cần Thơ đã kiên cường trụ bám đánh phản kích, diệt nhiều sinh lực địch, nhưng ta cũng gặp không ít tổn thất khó khăn do chuyển hướng chậm, không giải phóng được nông thôn như chiến trường Vĩnh Trà. Vào đợt 2, các lực lượng vũ trang không còn sức chiến đấu. Đến năm 1969, Bộ Tư lệnh Miền chi viện cho Quân khu 9 các trung đoàn bộ binh: 2, 10 và 20 để giữ vững thế trận và khôi phục phong trào các tỉnh nam sông Hậu. Cuộc Tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở chiến trường Vĩnh Trà nói chung, Vĩnh Long nói riêng đã giành thắng lợi to lớn rất có ý nghĩa đối với Quân khu 9 cũng như cả đồng bằng sông Cửu Long. Thắng lợi nổi bật nhất ở Vĩnh Trà là đánh chiếm và làm chủ 3 thị xã Vĩnh Long, Vĩnh Trà và Sa Đéc. Riêng thị xã Vĩnh Long ta làm chủ 6 ngày đêm (chỉ sau thành phố Huế) làm chủ lộ 4 và lộ 7 suốt 22 ngày đêm, 10 tháng đầu năm 1968, quân dân Vĩnh Trà diệt 15.000 tên, làm rã ngũ hàng chục nghìn tên, gỡ gần 700 lượt đồn bốt (bằng một phần hai lực lượng địch và hai phần ba tổng số đồn bốt địch ở Vĩnh Trà). Ta đã bắn rơi và phá hủy 80 máy bay (hầu hết là máy bay trực thăng), bắn cháy trên 60 xe M.113, bắn chìm và cháy trên 50 tàu chiến, phá hủy 30 khẩu pháo 105 và 155mm cùng hàng trăm xe quân sự, thu hơn chục nghìn súng các loại. Quân và dân Vĩnh Trà đã giải phóng hai phần ba tổng số xã của hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, giải phóng về cơ bản vùng nông thôn Vĩnh Trà trên 500.000 dân, mở rộng vùng giải phóng liên hoàn từ Trà Vinh đến Vĩnh Long, từ bắc lộ 4 nối liền với Sa Đéc, mở thông hành lang đến sông Hậu về Cần Thơ và phía sông Tiền qua Bến Tre, giải phóng về cơ bản cù lao Lách.
46
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Đây là một chiến thắng to lớn chưa từng có trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của Vĩnh Trà. Quân dân Vĩnh Trà đã hiệp đồng chặt chẽ với toàn miền Nam góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ - ngụy, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn mới. Với thành tích trên đây, lực lượng vũ trang và nhân dân Vĩnh Trà được Đảng và Chính phủ tặng thưởng Huân chương Thành đồng hạng nhất và khen tặng 8 chữ vàng: “Quân dân đoàn kết, nổi dậy lập công”. Tiểu đoàn 306 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất. Thắng lợi to lớn Tổng tiến công Xuân Mậu Thân ở Vĩnh Trà đã tạo cơ sở thực hiện nhiệm vụ đánh phá bình định, rút ra những kinh nghiệm qua thực tiễn ở chiến trường, kiên quyết bám địa bàn giữ vững phong trào. Lực lượng chủ lực Khu kết hợp với bộ đội địa phương vừa xây dựng lực lượng, xây dựng xã ấp chiến đấu, vừa tiến hành ba mũi giáp công liên tục làm chùn các mũi lấn chiếm của địch, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích. Nhờ vậy, những năm sau đó tuy gặp muôn vàn khó khăn thử thách nhưng trung đoàn 3 chủ lực Khu cùng với lực lượng địa phương vẫn đứng vững, chủ động tiến công địch, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng to, liên tục phát triển cả về thế trận và lực lượng, giành thắng lợi to lớn trong cuộc tiến công chiến lược 1972 và đại thắng mùa Xuân 1975, hoàn thành thắng lợi cuộc chiến đấu đầy hy sinh gian khổ nhưng rất đỗi vinh quang của dân tộc ta kéo dài suốt 30 năm, cùng cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam. *** Chiến công của quân dân Vĩnh Trà Xuân Mậu Thân 1968, đặc biệt là thị xã Vĩnh Long mãi mãi được ghi như một móc son chói lọi lịch sử hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân miền Tây Nam Bộ. Thắng lợi đó đã đem lại những bài học kinh nghiệm về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chiến dịch, chiến lược quý báu để vận dụng phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay: 1.Xây dựng lòng tin vào thắng lợi của cách mạng, đoàn kết nhất trí, chấp hành vô điều kiện đường lối chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, tự lực tự cường, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, biến chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh giải phóng thành sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. 2.Dựa vào dân, phát huy sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ địa bàn. Thường xuyên chăm lo xây dựng chính trị tư tưởng quyết tâm chiến đấu cho bộ đội, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ Tổ quốc, rèn luyện bản lĩnh và kỹ năng chiến đấu như các “chiến sĩ Tết Mậu Thân” lịch sử. 3.Chỉ huy và chỉ đạo mặt trận kiên quyết dũng cảm linh hoạt chủ động sáng tạo, xử trí kịp thời mọi tình huống khó khăn, vừa chiếm giữ thị xã, vừa liên tục đánh địch phản kích cả quân ngụy lẫn Mỹ. Sau đợt 1, ta đã kịp thời chuyển hướng cho hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh tiếp tục làm chủ vùng ven, bao vây tiến công thị xã với phương châm “cột đầu, chặt chân, lột da, moi ruột, giải phóng nông thôn”. Đây là 47
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
phương thức tiến công nổi dậy sáng tạo độc đáo nổi bật ở Vĩnh Trà trong Tết Mậu Thân 1968. Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ cao điểm 2 đợt 1 đã linh hoạt tập trung lực lượng chuyển hướng lên Sa Đéc hỗ trợ địa phương giành quyền làm chủ, trong lúc đó tiếp tục bao vây làm chủ vùng ven, cắt đứt đường giao thông huyết mạch lộ 4 và lộ 7 dài ngày, làm địch không cơ động chi viện được cho nhau. 4.Vừa đánh địch vừa khẩn trương chăm lo xây dựng lực lượng ta lớn mạnh, bảo đảm đánh địch dài hơi dài sức, bổ sung hàng nghìn thanh niên chi viện cho lực lượng của Miền, đồng thời xây dựng chủ lực từ một tiểu đoàn lên ba đến bốn tiểu đoàn và đến trung đoàn. Lực lượng tỉnh, huyện, xã phát triển gấp từ hai đến ba lần, bảo đảm chiến đấu dài hơi liên tục, đáp ứng yêu cầu phát triển của nhiệm vụ. 5.Lãnh đạo Khu ủy và Quân khu chủ động đưa tiểu đoàn chủ lực của Khu sang Vĩnh Trà trước một năm chuẩn bị chu đáo, hoạt động có hiệu quả, hỗ trợ địa phương gỡ đồn, phá ấp, mở mang, chuyển vùng tốt, đồng thời đưa sẵn cán bộ, vũ khí, lương thực, thuốc men… vào nội ô thị xã tạo thế cho việc tiến công và nổi dậy giành thắng lợi lớn sau này. Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Ngày hội Quốc phòng toàn dân, Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng và Anh hùng lực lượng vũ trang. Tỉnh Vĩnh Long có 383 mẹ được tuyên dương Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng và một số đơn vị, cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có thị xã Vĩnh Long và lực lượng vũ trang tỉnh Vĩnh Long. Đây là một vinh dự to lớn của quân và dân Vĩnh Long. Đây là sự đánh giá công lao to lớn của Đảng và Nhà nước ta đối với các tập thể, cá nhân đã lập công xuất sắc trong hai cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, trong đó có chiến thắng Mậu Thân trên chiến trường Vĩnh Trà, đặc biệt thị xã Vĩnh Long là điểm son chói lọi. Nhân dịp ngày vui trọng đại này tôi đề nghị: 1.Xây dựng một tượng đài kỷ niệm chiến thắng, tại khu di tích lịch sử thị xã Vĩnh Long để ghi nhớ chiến công to lớn của quân, dân Vĩnh Long và chủ lực Khu, đồng thời để giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hiện nay và mai sau. 2.Phát huy truyền thống và những bài học kinh nghiệm của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 quân dân đoàn kết, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, quyết tâm xây dựng Vĩnh Long theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đồng thời đẩy mạnh công tác quốc phòng an ninh, xây dựng khu vực phòng thu vững mạnh, kinh tế kết hợp với quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình chống phá của địch, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, làm cho Vĩnh Long giàu mạnh xứng đáng với truyền thống lịch sử vẻ vang. 3.Nhân cuộc hội thảo này, đề nghị Bộ Văn hóa – Thông tin sớm cấp bằng công nhận thị xã Vĩnh Long là khu di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Địa phương cần đóng góp công sức xây dựng khu di tích cho xứng đáng với tầm vóc của chiến thắng./. Nguyễn Đệ - Trung tƣớng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng, Tƣ lệnh Quân khu 9. 48
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
05.Vĩnh Long trong thế trận chiến lƣợc Tổng tiến công đồng loạt Tết Mậu Thân 1968 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam tết Mậu Thân 1968 từ lâu vẫn được xem như một “sự kiện quan trọng nhất và phức tạp nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam”. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đó, ngoài những trọng điểm lớn như Sài Gòn, Huế,… thì ở đồng bằng sông Cửu Long, cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân Vĩnh Long là một trong những điển hình. Mặc dù vậy, đánh giá vị trí, vai trò, ý nghĩa của cuộc tiến công và nổi dậy ở Vĩnh Long Xuân 1968 không thể không đặt nó trong tổng thể chung: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của toàn miền Nam lúc bấy giờ, bởi đây là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt mà Vĩnh Long là một bộ phận của cuộc Tổng tiến công ấy nhằm đạt được mục tiêu chiến lược chung.
Nói đến tính đồng loạt của sự kiện Mậu Thân 1968, chúng ta nhớ đến cuộc Đồng khởi vào cuối năm 1959 – đầu năm 1960. Đây cũng là một trong những sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Nó được kế thừa và phát triển từ kinh nghiệm của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Đồng khởi thực chất là phong trào khởi nghĩa của quần chúng nông dân, một cuộc khởi nghĩa từng phần nhằm giành lấy chính quyền cơ sở. Đồng khởi diễn ra chủ yếu ở các vùng nông thôn đồng bằng và rừng núi – nơi chính quyền địch tương đối yếu, nó mang tính đồng loạt ở từng vùng, từng địa bàn. 49
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Còn Mậu Thân 1968 là một cuộc tiến công chiến lược cả về quân sự và chính trị, trên cả ba vùng chiến lược, trong đó đô thị được xác định là hướng tiến công chủ yếu có tầm quan trọng đối với cả chiến trường cũng như toàn bộ cuộc chiến tranh. Trong Mậu Thân 1968, cùng một lúc ta đánh vào 4 trong số 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn trên toàn miền Nam. Như vậy xét cả về quy mô cũng như tính chất đồng loạt, Mậu Thân 1968 đã sáng tạo ra một hình thức tiến công chiến lược mới với hiệu lực chiến đấu “cộng hưởng” lớn lao chưa từng có. Lịch sử chiến tranh thế giới ( kể cả cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô trước đây, các cuộc nội chiến ở Trung quốc…) Cũng như trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta cũng chưa bao giờ có cuộc tiến công đồng loạt, đều khắp, rộng lớn như Mậu Thân 1968. Vấn đề đặt ra là: vì sao ta làm được như vậy? Trước hết phải khẳng định đó là kết quả tất yếu của đường lối quân sự đúng đắn mà Đảng ta đã đề ra: đường lối chiến tranh nhân dân mà nội dung chủ yếu của nó là “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”. Đường lối này kế thừa và phát triển lên một trình độ mới truyền thống “cả nước đánh giặc”, “trăm họ ai cũng là binh”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” vốn có từ lâu đời trong lịch sử chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước oanh liệt của dân tộc ta. Nhờ có đường lối này, ta không những đã xây dựng được lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh, đủ sức đương đầu với một kẻ thù thuộc hạng siêu cường số một thế giới, mà còn xây dựng được cơ sở chính trị, quân sự trên cả ba vùng chiến lược: nông thôn, rừng núi, đô thị. Với Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, ta đã đưa chiến tranh vào thành thị. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ tuyến phòng thủ rắn chắc nhất, xung yếu nhất của Mỹ - ngụy đã bị cuộc Tổng tiến công đồng loạt đầu Xuân 1968 của quân và dân miền Nam làm đảo lộn, biến hậu cứ của địch trở thành chiến trường. Để làm được điều này, nếu không có thế chiến lược của chiến tranh nhân dân trên cả ba vùng chiến lược thì làm sao có thể mở Mậu Thân ở thành thị - nơi mà kẻ địch mạnh. Chính tướng Mỹ Oét-mo-len sau Mậu Thân 1968 đã phải thừa nhận: “Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong, thiệt hại… và nền kinh tế bị phá hoại…, các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa … nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta phải công nhận đối phương đã giáng cho chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề”. Song, chỉ có đường lối quân sự đúng đắn thì chưa đủ, điều quan trọng hơn là biết vận dụng đường lối đó vào từng thời điểm cụ thể một cách chính xác, năng động và sáng tạo. Nói cách khác, đó là tài chỉ đạo chiến lược và điều hành chiến tranh sắc sảo của Đảng ta. Điều này thể hiện ở mấy điểm: Một là: với tầm nhìn xa trông rộng, Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương đã dự kiến và chỉ đạo từ rất sớm kế hoạch chuẩn bị Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa. Tháng 4 năm 1966, Quân ủy Trung ương ra nghị quyết thành lập Quân khu Trị - Thiên với nhiệm vụ: tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ…, ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang thành phố để phục vụ cho kế hoạch Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa khi có điều kiện chín 50
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
muồi”. Tiếp đó, tháng 6 năm 1966, Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương lại chủ trương mở mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị nhằm tạo một hướng tiến công mới, buộc địch phải phân tán lực lượng lên rừng núi, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác. Với việc mở mặt trận đường 9 – Bắc Quảng Trị, ta đã kéo một lực lượng lớn quân tinh nhuệ của Mỹ bao gồm cả thủy quân lục chiến, kỵ binh không vận và lính dù ra và giam chân chúng tại đây, làm Mỹ không đủ quân để đưa xuống đồng bằng sông Cửu Long – một việc làm mà nhiều nhà bình luận quân sự phương tây đánh giá là “một Điện Biên Phủ đảo ngược”, vì ở đây quân Mỹ bị ta kéo ra. Áp lực ngày càng tăng của ta trên hướng đường 9 – Khe Sanh vào những tháng cuối năm 1967 làm cho giới quân sự Mỹ tin rằng: ta có tiến công lớn vào dịp Tết thì cũng chỉ ở đường 9 – Khe Sanh. Chưa bao giờ họ nghĩ rằng ta có đủ khả năng để đánh các thành phố, thị xã. Vì thế Mỹ - ngụy bị bất ngờ về chiến lược. Hai là: vấn đề chọn thời điểm để tiến hành Tổng tiến công. Vào năm 1968, sau 3 năm trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, đế quốc Mỹ đã từng mở 2 cuộc phản công chiến lược lớn vào mùa khô 1965 – 1966 và 1966- 1967, nhưng không đạt được kết quả gì đáng kể; trái lại chúng còn bị quân và dân miền Nam đánh cho thiệt hại nặng nề và thất bại hoàn toàn trong mục tiêu chiến lược “bẻ gãy xương sống của Việt cộng”. Leo thang đánh phá miền Bắc cũng không xoay chuyển được tình thế. Những cố gắng của Mỹ vào thời điểm này đã gần đến đỉnh cao. Tính đến tháng 12 năm 1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam nửa triệu quân; tới 40 phần trăm số sư đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu của nước Mỹ, khoảng 30 phần trăm lực lượng không quân chiến thuật, một phần ba lực lượng hải quân. Lực lượng dự trữ dành cho một cuộc chiến tranh cục bộ, Mỹ đã dùng hết, thậm chí còn sử dụng cả một phần lực lượng dự trữ dành cho chiến lược toàn cầu. Chi phí cho chiến tranh Việt Nam tính đến năm 1968 lên tới 60 – 70 tỷ đô-la (gấp 3 lần trong cuộc chiến tranh Triều Tiên). Gánh nặng chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu và xây dựng quốc phòng của Mỹ. Đế quốc Mỹ đang trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Năm 1968 lại là năm bầu cử tổng thống Mỹ - năm rất “nhạy cảm về chính trị”. Áp lực quân sự mà ta tạo ra vào thời điểm này sẽ có hiệu lực chính trị rất lớn. Sự kiện chiến tranh Việt Nam sẽ như một quả bom chính trị ném vào làm bùng nổ đời sống kinh tế chính trị nước Mỹ. Về phía ta, đây là lúc lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam đã lớn mạnh hơn ở bất cứ thời kỳ nào, và ta đang nắm quyền chủ động trên chiến trường. Song ngay từ đầu cuộc chiến tranh, chưa bao giờ Đảng ta có ảo tưởng thắng Mỹ trên thế áp đảo về quân sự thuần túy bởi điều đó khó có thể thực hiện được nên ta chỉ đề ra mục tiêu đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải rút lui. Chúng ta luôn biết thắng địch từng bước, thắng từng bộ phận, thắng Mỹ vừa với sức ta. Đảng ta tạo ra điều kiện để có thể nắm được thời cơ là năm bầu cử tổng thống Mỹ và chọn đúng thời cơ có lợi nhất cho ta cả về quân sự và chính trị. Thời điểm đầu năm 1968 là thời điểm kỳ diệu hội tụ mọi điều kiện thuận lợi cho cuộc chiến đấu của ta giành thắng lợi theo ý đồ ta đặt ra. Cụ thể hơn, thời điểm đó đặt vào dịp Tết Nguyên đán – lúc mà địch dễ bộc lộ sơ hở, chủ quan. Thực tế đã chứng minh việc ta chọn thời điểm Tết Mậu Thân 1968 để mở cuộc tiến công chiến 51
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
lược là rất sáng suốt. Nếu sớm hơn hay muộn hơn, kết quả đều không đạt như đã có. Ba là: về hướng tiến công chủ yếu: Trong chiến tranh, thông thường các bên tham chiến hay tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu của đối phương. Lẽ ra ta phải kéo địch ra các vùng nông thôn, rừng núi – nơi ta có lợi thế hơn để đánh. Nhưng đối với Mậu Thân 1968, ta lại nhằm vào các căn cứ quân sự, trung tâm đầu não, đô thị - nơi mạnh nhất của địch làm hướng tiến công chủ yếu. Đây quả là một tính toán táo bạo của Đảng ta, song không phải không có cơ sở. Đó là, các đô thị tuy được địch tổ chức bố phòng mạnh. Nhưng thế trận chiến tranh nhân dân của ta lại phát triển ngay trong lòng và ven các thành thị làm bộc lộ được những chỗ yếu và sơ hở của địch. Địch vẫn cho rằng bộ đội ta ít kinh nghiệm đánh thành phố và chưa có khả năng đánh vào các trung tâm đầu não của chúng. Lẽ dĩ nhiên, do tài điều hành chiến tranh của ta đã làm đảo lộn tính toán chiến lược của Mỹ. Theo sách “Tết” của Đôn Obơc-đoi-phơ, thì địch đã có chương trình mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, song chúng phải hủy bỏ để rút về phòng thủ quanh các căn cứ là do chúng bắt được những tài liệu giả ấy. Nhưng một sĩ quan tình báo Mỹ lại cho rằng: “Nếu chúng có lấy được bản kế hoạch thật thì cũng không ai tin vào kế hoach đó”. Có thể nói chọn đô thị làm hướng tiến công chủ yếu chính là ta đã chọn vào nơi hiểm yếu nhất của kẻ thù. Vì vậy khi ta Tổng tiến công đồng loạt vào đó thì địch hoàn toàn bị bất ngờ. Giới lãnh đạo Mỹ ở Oa-sinh-tơn “sững sờ, choáng váng”. Bốn là: nghệ thuật chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 không chỉ độc đáo ở việc chọn thời điểm tiến công, mục tiêu và hướng tiến công, nó còn độc đáo ở phương pháp và hình thức tiến công. Đó là phương thức tiến công đồng loạt bằng nhiều hình thức (quân sự, chính trị, binh vận); bằng nhiều lực lượng (chủ lực, đặc công, biệt động, lực lượng tại chỗ…). Không chỉ đánh một đợt mà ta đánh nhiều đợt, không chỉ tiến công tuần tự từ ngoài vào trong mà kết hợp cả từ ngoài vào trong và từ trong ra ngoài, khiến địch đã bị bất ngờ càng bất ngờ thêm. Chính nhờ nghệ thuật tiến công sắc sảo, Mậu Thân 1968 đã tạo nên hiệu quả chiến lược to lớn khiến nhiều chính khách cao cấp Mỹ nghi ngờ thắng lợi của ta. Rô- bớt Ken-nơ-đi đặt vấn đề: “Tại sao nửa triệu lính Mỹ, có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được một thành phố khỏi bị đối phương tiến công?”. Oét-mo-len trước Mậu Thân 1968 còn huênh hoang tuyên bố: Chúng ta (Mỹ) sắp hoàn thành mục tiêu cuối cùng của cuộc chiến tranh để “khải hoàn” đưa quân Mỹ về nước. Vậy mà cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968 vừa diễn ra chưa đầy 10 ngày (9-2-1968), viên tướng này đã báo cáo về Mỹ rằng: “phải mất một thời gian mới lấy lại sức của quân đội cộng hòa”, và “toàn bộ kế hoạch tác chiến của tôi (Oét-molen) năm 1968 đã bị phá tan”. Oét-mo-len tăng thêm 20 vạn quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, nhưng Giôn-xơn – tổng thống Mỹ không đồng ý tăng quân và ra lệnh cách chức Oét-mo-len, điều về Mỹ. Giôn-xơn chấp nhận ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và đàm phán với Chính phủ ta ở Pa-ri nhằm tìm một nền hòa bình qua thương thuyết. 52
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Đúng như Bộ chính trị đã đánh giá: Mậu Thân 1968 là một “thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng tạo ra bước ngoặt của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pa-ri, chấm dứt ném bom không điều kiện, chủ trương phi Mỹ hóa chiến tranh, mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh”. Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 chứng tỏ bước phát triển mới trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta. Tuy nhiên, Mậu Thân 1968 không phải không còn những bàn cãi. Có người bằng cái nhìn thuần túy quân sự đã xem sự kiện Tết Mậu Thân chỉ như một cuộc tập kích chiến lược. Có người lại cho rằng Mậu Thân 1968 ta chỉ thắng về chính trị, tâm lý, còn về quân sự thì không. Một số ý kiến, trên cơ sở so sánh đơn thuần số liệu thương vong của hai bên đã đặt câu hỏi về sự cần thiết của Mậu Thân và kết luận: chúng ta đã phải trả giá quá đắt cho thắng lợi.. Đành rằng, trong Mậu Thân 1968 ta có nhiều khuyết điểm: đề ra yêu cầu quá cao, chậm chuyển hướng về nông thôn, mở nhiều đợt tiến công kéo dài vào các thành thị dẫn đến thương vong nặng nề… Cho dù như vậy, thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của Mậu Thân 1968 (buộc Mỹ phải chấp nhận một bước ngoặt quyết định trong chiến tranh, không tăng quân Mỹ nữa mà rút quân Mỹ về nước, ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pa-ri…) không ai có thể phủ nhận được ta có khuyết điểm, nhưng sau đó đã sửa chữa được nên mới có sức mạnh mới để đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Còn về thương vong của ta là lớn, ta cần rút kinh nghiệm về chỉ đạo chiến tranh, về lắng nghe ý kiến của các chiến trường,về sự phản ánh trung thực của các chiến trường với Trung ương. Khuyết điểm của ta tuy có nghiêm trọng, có ảnh hưởng đến cục diện chung sau đó, nhưng nó vẫn không làm thay đổi ý nghĩa mang tầm chiến lược của thắng lợi Tết Mậu Thân 1968. Về điều này, chính Tổng thống Mỹ Giôn-xơ cũng phải cay đắng thú nhận: “Tôi chưa bao giờ thấy những người hoạt động ủng hộ chúng tôi lại bàn đến chiến trường Đông Nam Á với vẻ thất vọng như sau Tổng tiến công Tết”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đánh giá thắng lợi Mậu Thân 1968 đã nói: “Đó là giành thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của toàn dân đoàn kết quyết chiến, quyết thắng, quyết giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”. Để làm suy sụp ý chí xâm lược của một đế quốc siêu cường thì sự hy sinh của quân và dân ta là xứng đáng, không thể nói là đắt hay rẻ, không có thắng lợi lớn, trước hết về quân sự làm sao có thể làm thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Trong thắng lợi chung đó, đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Vĩnh Long nói riêng góp một phần quan trọng. Tất nhiên thành phố có công đầu là Sài Gòn rồi đến Huế. Nét nổi bật trong cuộc tiến công và nổi dậy của Vĩnh Long Mậu Thân 1968 là: trong điều kiện thời gian chuẩn bị gấp gáp ( từ khi nhận lệnh đến khi nổi dậy không đầy 3 ngày) nhưng tỉnh đã huy động được một lực lượng lớn cả ba thứ quân tổ chức 53
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
đánh lớn, thọc sâu, chiếm được nhiều vị trí quan trọng, bám trụ và chiến đấu ác liệt với địch tại nội ô thị xã liên tục trong sáu ngày đêm. Nếu so với toàn miền thì Vĩnh Long là một địa bàn đánh mạnh, thọc sâu và chiếm giữ được thị xã lâu vào hàng thứ hai (sau thành phố Huế) trong lịch sử chiến tranh giải phóng của quân và dân tỉnh nhà thì đây là lần tiến công địch có quy mô lớn nhất vào cơ quan đầu não của địch ở trong tỉnh. Sở dĩ Vĩnh Long giành được thắng lợi to lớn như vậy, ngoài sự chỉ đạo sáng suốt của Bộ chính trị, Quân ủy Trung ương, Trung ương cục miền Nam như đã nói trên, phải kể đến sự nhanh nhạy, linh hoạt và tỉ mỉ của các cấp lãnh đạo tại địa phương (từ quân khu đến tỉnh, huyện, xã); tinh thần chiến đấu, hy sinh dũng cảm ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, khu… Thắng lợi cuộc tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long đánh dấu một móc son chói lọi vào trang sử hào hùng của quân dân tỉnh nhà cũng như đồng bằng sông Cửu Long và cả nước trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi này góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn miền thực hiện mục tiêu đánh cho Mỹ cút để sau đó đánh cho ngụy nhào./. Nguyễn Đình Ƣớc – Trung tƣớng, Phó giáo sƣ, Viện trƣởng Viện lịch sử quân sự Việt Nam Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
06.Cuộc Tổng tấn công mùa Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân Vĩnh Long I.ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH VĨNH LONG TRƢỚC CHIẾN DỊCH Chiến tranh đặc biệt bị phá sản, kế hoạch bình định 18 tháng bị đổ vỡ, địch chuyển chiến tranh đặc biệt qua chiến tranh cục bộ, Mỹ can thiệp trực tiếp vào miền Nam. Ở Vĩnh Long, Mỹ đưa từ 700 đến 1.100 cố vấn Mỹ gồm chuyên viên kỹ thuật, hành chính, sĩ quan cấp úy, tá. Hỏa lực và phương tiện chiến tranh Mỹ tràn ngập. Ngoài sư đoàn 9, biệt động quân 43 và bảo an địa phương, địch còn có trung đoàn 2, đại đội 175 và 114, hải đoàn 23, 513 Mỹ, công binh Mỹ, 2D pháo, 10 trực thăng vận, 85 máy bay các loại. Ý đồ Mỹ tiến hành hoạt động tràn ngập quân sự để bình định nhất là sử dụng bom pháo, xe tăng, tàu chiến tràn ngập hòng quét trắng nông thôn, triệt hạ làng mạc và tiêu diệt lực lượng phong trào cách mạng trong tỉnh. Bên cạnh hoạt động đánh phá hủy diệt còn có thủ đoạn o ép, xoa dịu để giành và nắm dân chống lại cách mạng. Thủ đoạn đánh phá tàn bạo của cuộc chiến tranh Mỹ ở Vĩnh Long tưởng chừng không vượt nổi.
54
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Chiến thuật trực thăng vận, biệt kích, cóc nhảy, trực thăng tìm kích, trực thăng phóng pháo, soi đêm cán gáo đánh chất nổ, chiến thuật chiến xa vận, pháo cấp tập, B57 bỏ bom ngày đêm… Mọi thủ đoạn đánh phá đều có cải biến thay đổi kết hợp với hành quân đánh phá tàn bạo nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng trong giai đoạn chiến tranh cục bộ này. Trước tình hình khó khăn như vậy, Đảng bộ Vĩnh Long phát động phong trào du kích chiến tranh đẩy lên đỉnh cao, vừa giữ thành quả cách mạng, vừa tiến lên đánh bại chiến tranh cục bộ trong tỉnh, sẵn sàng chuẩn bị mệnh lệnh chiến lược của Đảng, lập thành tích tốt hoàn thành nhiệm vụ tốt. Quần chúng sẽ có nhiều kiểu cách phong phú đánh địch: Xây dựng xã chiến đấu, cắm cọc, bãi lựu đạn gài chống trực thăng đổ quân, đào hố chông quanh nhà, chống hành quân càn quét cướp giật, kết hợp binh vận chống càn chặn địch. Tay không của quần chúng cản đầu xe tăng không cho chúng chạy càn vào lúa, quần chúng trực tiếp vào đồn bốt đấu tranh đòi mọi quyền lợi thiết thân. Lực lượng vũ trang qua đọ sức với địch ngày càng trưởng thành. Học tập ấp Bắc, lực lượng nhỏ cụm quân chặn càn giết nhiều địch, bắn trực thăng, chiến xa, mở cửa cho bộ binh như địa phương quân Bình Minh đẩy lùi địch ở Mỹ Thuận, tiểu đoàn 857 diệt một trực thăng vận, bắn rớt 6 máy bay ở Phú Quới, ta dùng thủ pháo lựu đạn đánh diệt một xe tăng và bắt sống xe tăng ở Bình Thạnh Trung… Địa phương quân Trà Ôn, Tam Bình, Vũng Liêm, Cái Nhum đều diệt trừ quân địch, luồng sâu vùng kìm, vùng tôn giáo, phá ấp chiến lược, hỗ trợ quần chúng nổi dậy. Hỏa lực ta còn dùng súng lớn bắn vào sân bay, trường huấn luyện quân sự, thị xã Vĩnh Long hủy diệt hàng 50 máy bay. Mũi binh vận xuất hiện đỉnh cao, đưa được phong trào binh biến khởi nghĩa ở Bình Minh, Vũng Liêm, phong trào quần chúng ở đô thị cũng sôi nổi, xuất hiện phong trào nhân dân, học sinh diệt Mỹ (học sinh Lưu Văn Liệt đánh diệt 17 tên Mỹ). Chấp hành Nghị quyết của Trung ương và Nghị quyết của Khu ủy miền Tây, năm 1967, Đảng bộ Vĩnh Long vừa đánh địch vừa củng cố Đảng, bằng tập trung mọi khả năng, mở đợt củng cố và xây dựng chi bộ tự động. Khu ủy miền Tây đã điều về giúp tỉnh một số cán bộ Đảng và quân sự. Năm 1967, kiểm điểm tình hình, Đảng bộ Vĩnh Long đã lớn lên nhiều mặt: -Chiến tranh cục bộ và chương trình bình định của địch trong tỉnh đã không diệt được lực lượng ta, không bình định được dân. Ngược lại, ta đã mở rộng được nhiều khu vực ở Châu Thành A như xã An Phú Thuận, Tân Ngãi, Tân Hạnh, Phước Hậu, An Đức, Lộc Hòa. Ở Cái Nhum như xã Mỹ An, Hòa Tịnh, Long Đức. Lực lượng ta đã xích sát thị xã. Riêng ở thị xã Vĩnh Long, trọng điểm thứ hai của Khu ủy đã thành lập một phân ban để chỉ đạo, cán bộ Đảng viên trong tỉnh đã giới thiệu thân nhân mình trong thị xã để tạo thành mạng lưới cơ sở hợp pháp. Ta vừa kéo địch ra vùng giải phóng để diệt, mở rộng nông thôn, mặt khác xây dựng được cơ sở trong nội ô thị xã và vùng yếu vùng kềm. -Lực lượng chủ lực, quân sự tại địa phương đã không bị diệt mà lại trưởng thành nhanh chóng. Tiểu đoàn 306, 308 đứng vững địa bàn ở Vĩnh Long đánh đồn 55
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Giáp Nước, đồn Trà Côn, tiêu diệt nặng chủ lực địch, trung đoàn 14, 16 của sư đoàn 9 và trung đoàn thiết giáp trên lộ 4, lộ 7. Các huyện Vũng Liêm, Trà Ôn, Tam Bình, Châu Thành đều thành lập địa phương quân. Ở vùng ven ta có tổ chức du kích mật, mỗi xã thành lập một hoặc hai đội du kích. Lực lượng quân sự của tỉnh, huyện vừa xây dựng vừa đánh phá các giao thông, đồn bốt địch và phá ấp chiến lược. -Đặc biệt Đảng bộ Vĩnh Long lớn nhanh như chóng và vững chắc hơn. Cuối 1967, tỉnh đã có những chi bộ mạnh ở các xã: Hòa Tân, Ngãi Tứ, Lục Sĩ Thành, Hòa Bình, Xuân Hiệp, Vĩnh Xuân, Tân Hòa, Vĩnh Thới, Loan Mỹ… ở các lực lượng vũ trang, chi bộ và đảng viên đã làm được vai trò tiền phong của mình. Các phường, hội ở thị xã đều có chi bộ từ ba đảng viên trở lên. Các chi bộ đã vững mạnh về các mặt: -Chi bộ, đảng viên có đạo đức phẩm chất tốt, nắm vững đường lối chủ trương của Đảng và biết triển khai cho quần chúng, có uy tín trong quần chúng. Chi bộ tự động vạch kế hoạch và lãnh đạo quần chúng ngay khi đã đứt liên lạc với cấp trên. Phát triển được Đảng viên đều khắp trong xã. Mỗi Đảng viên có khả năng lãnh đạo hai đoàn viên và một trăm quần chúng. Đảng viên sử dụng ba mũi giáp công cùng quần chúng đánh địch. Những Đảng viên trẻ được bổ sung vào lực lượng quân sự, mặt trận giải phóng, các đoàn thể… được phát triển tốt, là cánh tay của chi bộ. Các chính sách lớn của Đảng được thực hiện tốt trong quần chúng. Quần chúng được phát động tư tưởng, tin Đảng, tin kháng chiến, gia nhập lực lượng chính trị, vũ trang binh vận đánh địch. Trước khi vào chiến dịch Tổng tấn công, Tỉnh ủy Vĩnh Long họp tại xã An Khánh, tháng 11/1967 để: -Xác định lại tình hình giữa ta và địch. Hội nghị nhất trí nhận định địch tuy mở rộng chiến tranh, có quyết tâm cao, đánh phá ta ác liệt nhưng không đạt yêu cầu theo ý muốn, đã không đánh diệt, bình định được ta, nhưng bị ta đánh trả lòa mắt, tinh thần ngụy quân ngụy quyền càng sa sút. Còn phía ta, phong trào cách mạng trong tỉnh lên rất mạnh, vùng giải phóng được mở rộng liên hoàn, lực lượng vũ trang địa phương được rèn luyện, có khả năng đánh chiếm thị xã, thị trấn, kết hợp ba mũi giáp công tốt, tinh thần của Đảng bộ và quần chúng rất cao, dẫn đến khởi nghĩa và tấn công đạt yêu cầu đề ra. Xúc tiến việc chuẩn bị mọi mặt, lực lượng chính trị binh vận được củng cố thành đội ngũ ở xã, huyện, thị trấn, thị xã, khi nổ ra chiến trận là sẵn sàng chiến đấu. Cán bộ được học tập các chính sách, kể cả chính sách tiếp quản. Hậu cần được chuẩn bị dầy đủ súng đạn, lương thực, quân trang, thuốc men... -Hội nghị rất phấn khởi và hạ quyết tâm tạo thời cơ và khi có thời cơ là mở đợt Tổng tấn công địch. II.VÀO CHIẾN DỊCH *Nhận mệnh lệnh: Vào ngày… Tỉnh ủy nhận được lệnh của Khu ủy miền Tây, toàn miền Nam Tổng tấn công kẻ thù vào lúc 0 giờ đêm 30, rạng mùng một năm 1968 Tết Mậu Thân.
56
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Lệnh Tổng tấn công được hỏa tốc ban hành trong toàn tỉnh với sự truyền đạt bằng miệng của từng cấp ủy viên. Lực lượng quân sự, chính trị được huy động vào ngày 29 Tết. Nhận lệnh, mọi người, mọi đơn vị vô cùng phấn khởi tập hợp tại đơn vị mình, chờ giờ xuất phát. *Thành lập Ban Chỉ huy chung: Trong cuộc Tổng tấn công, Ban Chấp hành Tỉnh ủy, Ban Chỉ huy Tỉnh đội, các Ban Chấp hành đoàn thể có trách nhiệm trước lịch sử. Tỉnh ủy phân công từng Tỉnh ủy viên trực tiếp xuống huyện kết hợp Huyện ủy điều khiển tấn công địch. Ở Tỉnh kết hợp với cán bộ của Khu ủy, thành lập Ban Chỉ huy Mặt trận Cửu Long gồm: Trưởng ban: đồng chí Sáu Hiền Phó ban: đồng chí Sáu Hoàng, Tám Xuân *Bố trí lực lƣợng: Đêm 30 Tết, tất cả các lực lượng vũ trang trong toàn tỉnh đều có mặt ở điểm tập kết. Trời tối như mực, không ai thấy ai. Chỉ còn nghe tiếng nói của Ban Chỉ huy và tiếng chân bước nhẹ nhàng của đơn vị. Lực lượng tiếp viện của Khu gồm: Tiểu đoàn 306 chia thành hai mũi, một mũi tiến vào đường Khưu Văn Ba đánh chiếm hậu cứ Ban Chỉ huy tiểu đoàn 43 của địch, tòa hành chánh, khu truyền tin, Hoa Lư, dinh Tỉnh trưởng, một mũi tiến về cầu Công Xi Heo đánh chiếm căn cứ quận Mới địch. Tiểu đoàn 308 chia thành hai mũi, một mũi đánh chiếm Bắc Cổ Chiên, một mũi áp sát khu Công Quán, đánh vào dinh Tỉnh trưởng. Lực lượng của tỉnh: Được tăng cường 10 pháo, 10 đặc công và 10 địa phương quân chia thành 7 mũi, một mũi đánh chiếm sân bay, một mũi đánh chiếm cầu Cái Cam và khu thiết giáp đầu lộ Cây Gòn, một mũi kết hợp 10 pháo binh của khu đánh chiếm khu thiết giáp quận Mới. Lực lượng chính trị của thị xã nổi dậy làm binh vận, tranh thủ binh lính quay súng ủng hộ cách mạng, chiếm các trụ sở địch. Lực lượng biệt động hướng đường cho lực lượng vũ trang khi đột nhập. Ở huyện, lực lượng địa phương quân kết hợp du kích tập trung các xã tấn công vào huyện lỵ, kết hợp ba mũi giáp công, đánh chiếm huyện lỵ. *Diễn biến chiến trận: 18 giờ chiều 30 Tết các cánh quân chuẩn bị đầy đủ, xuất phát hướng về thị xã. 24 giờ đêm 30 tết, sau khi vượt qua sông Cái Cam cánh quân tiếp cận sân bay. 2 giờ 30 phút ngày mùng một Tết, trung đội 203 được tăng cường, đặc công nổ lệnh, dùng pháo đập, đặc công mở rào. Trong 30 phút ta phá hủy 65 máy bay các loại, chiếm tất cả đường băng. Kết quả cánh quân ta chiếm sân bay, khu căn cứ M.113 lộ Bờ Gòn đánh thiệt hại căn cứ thiết giáp và pháo binh. (Mũi nhọn thọc sâu đánh sân bay gồm 30 chiến sĩ, đã hy sinh 25 đồng chí). Đồng loạt với cánh quân sân bay nổ lệnh, tất cả các cánh quân khác đều nổ súng tấn công.
57
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tiểu đoàn 306 nổ súng. Một mũi hợp đồng với biệt động quân thị xã đánh chiếm khu truyền tin Hoa Lư, tòa hành chánh, bao vây khống chế hậu cứ tiểu đoàn biệt động 43, chiếm bệnh viện Nguyễn Trung Trực, khống chế dinh tỉnh trưởng ngụy, một mũi chiếm cầu Công Xi Heo, khống chế liên đoàn 43 quận Mới. Tiểu đoàn 308 nổ súng, một mũi áp sát công quán, chiếm một góc khám lớn, chiếm đoạn đường từ công quán đến Cầu Lầu, khống chế dinh tỉnh trưởng. Một mũi đánh chiếm Bắc Cổ Chiên, chiếm hướng bắc cầu Kinh Cụt, uy hiếp hai tiểu đoàn của liên đoàn 43, kìm chân chúng tại chỗ. Suốt ngày mùng 1 Tết, hệ thống địch trong toàn tỉnh bị mất liên lạc hoàn toàn giữa tỉnh và quận, giữa quận và xã. Các đường giao thông đều tê liệt. Khắp các huyện, các xã, các ấp Đảng bộ và quân dân địa phương nêu cao khẩu hiệu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Bao vây thị trấn, đồn bốt, trống mỏ vang động khắp nơi. Nhân dân dắt trâu bò, chở heo, gà vịt tiếp tế bộ đội thật là rộn ràng. Chưa ngày Tết nào vui bằng ngày Tết năm nay. Sau một đêm bị tấn công ác liệt, địch rất bàng hoàng, mất tinh thần. Mãi đến trưa ngày mùng 1 địch mới tập trung quân nóng ra phản kích, hòng chiếm lại các điểm đã mất, nhất là sân bay. Nhưng ở đây chúng cũng bị đánh trả kịch liệt. Ở sân bay các tiểu đoàn của ta nhiều đợt chống phản kích, giữ vững trận địa. Ngày mùng 2, địch phản kích chiếm lại tòa hành chánh, dùng pháo và súng cối uy hiếp hai đường Lê Thái Tổ và Huỳnh Công Ký và điều một chi đoàn xe M.113 từ Bắc Mỹ Thuận về thị xã. Cùng ngày, quần chúng cách mạng nổi dậy đánh lấy đồn Đìa Chuối, Bưng Đình, Miếu Trắng, Kỳ Hà, giải phóng hoàn toàn xã Phước Hậu. Nắm vững thời cơ thắng lợi, liên tiếp quần chúng hai xã Hòa Phước, Tân Bình huyện Cái Nhum nổi dậy tự giải phóng xã nhà. Vùng căn cứ cách mạng được áp sát thị xã. Đến ngày mùng 3, mùng 4 ta tiếp tục tấn công những điểm địch còn lại, tái chiếm tòa hành chánh, đánh chiếm ty công an cảnh sát, uy hiếp nặng dinh tỉnh trưởng, đánh chiếm khám lớn, mở cửa giải thoát hàng trăm tù chính trị bị địch bắt giam. Lúc này bọn cố vấn Mỹ, tên tỉnh trưởng và bọn sĩ quan cao cấp mở đường máu chạy xuống tàu ra khơi. Toàn bộ hệ thống thống tin liên lạc bị đứt đoạn, đoàn bình định đóng cọc sông Mang Thít co cụm lại, ta dùng binh vận đưa gia đình binh sĩ địch gọi chồng con em mang súng trở về với cách mạng (kết quả có hàng trăm binh sĩ mang súng về với cách mạng), đến ngày mùng 6 hai tiểu đoàn bình định chỉ còn khoảng 200 tên. Suốt mấy ngày này trong toàn tỉnh, phong trào thanh niên tham gia Tổng tấn công rất sôi nổi, hàng ngàn thanh niên đi dân công hỏa tuyến, tiếp lương tải đạn ra chiến trường, đặc biệt 400 thanh niên gia nhập đơn vị chiến đấu. Tin thắng trận từ thị xã, thị trấn mang về nông thôn nức lòng mọi người. Gạo giã ngày đêm, bánh tét, bánh ít từ tay các mẹ, các chị chất thành đống. Cờ đỏ sao vàng phất phới trên nóc nhà, trên những cây cao nhất. Ngày mùng 5, ba mươi chiếc trực thăng vừa máy bay bắn và thả bom xuống đường cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi Heo, đường Huỳnh Công Ký, đường Lê Thái Tổ và nhiều khu phố trong thị xã. Ta bắn rơi 6 chiếc. 58
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
3 giờ chiều, địch đổ xuống một tiểu đoàn Mỹ của lữ đoàn 2 sư đoàn 9 xuống cầu Cá Trê và cầu Giồng Cam viện cho Vĩnh Long. Hai tiểu đoàn 306 và 857 của ta từ cầu Công Xi Heo và quận Mới đánh địch thành thế bao vây, địch phải co cụm lại, ta dùng pháo và bộ binh tấn công, địch bị thiệt hại nặng. Địch tiếp tục đổ quân Mỹ của lữ đoàn 2 và sư đoàn 9 can viện cho sân bay và đưa 20 tàu của hai tiểu pháo hạm, ta diệt liền hai tàu. Tiểu đội 203, rồi 201 và một tiểu đội địa phương quận Châu Thành đánh bật địch khỏi sân bay, diệt 300 Mỹ và bắn chìm thêm 6 tàu và một tiểu pháo hạm. Trong thời gian này ở huyện Chợ Lách, lực lượng quần chúng tại chỗ bao vây đồn bốt và giải phóng hầu hết huyện. Qua sáu ngày đêm Tổng tấn công địch, Tỉnh ủy và Ban Chỉ huy chiến dịch nhận định khả năng ta không dứt điểm được thị xã, địch đã có chủ trương kìm chân ta tại thị xã và đưa quân đánh hậu phương ta, kết hợp với tình hình chung trong toàn miền Nam, đề ra phương hướng mới, rút đại bộ phận lực lượng ra vùng ven, kết hợp ba mũi giải phóng vùng ven, chỉ để lại tại thị xã một bộ phận kìm chân địch. Kết quả trong một thời gian ngắn: -Huyện Châu Thành A giải phóng cơ bản 5 xã: Phước Hậu, Long Hồ, An Đức, Lộc Hòa, Long Đức. -Huyện Cái Nhum giải phóng cơ bản 8 xã: Nhơn Phú, Hòa Tịnh, Mỹ An, Bình Phước, Chánh Hội, An Bình, Đồng Phú, Bình Hòa Phước. -Huyện Tam Bình giải phóng hoàn toàn 6 xã: Hậu Lộc, Hòa Hiệp, Ngãi Tứ, Mỹ Lộc, Bình Minh, Loan Mỹ. -Huyện Trà Ôn giải phóng cơ bản 6 xã: Thuận Thới, Tích Thiện, Hòa Bình, Vĩnh Xuân, Xuân Hiệp, Tân Mỹ. -Huyện Châu Thành B giải phóng hoàn toàn 3 xã: An Khánh, Hòa Tân, Tân Hòa, giải phóng cơ bản 3 xã: An Phú Thuận, Phú Hựu, Tân Thuận Đông. Nhìn chung, trong đợt Tổng tiến công vào Tết Mậu Thân 1968 ta đã đạt được kết quả to lớn, thật lịch sử. -Vùng nông thôn trong tỉnh được giải phóng cơ bản, tạo thành thế liên hoàn, quần chúng phấn khởi, tin tưởng sự lãnh đạo tài tình của Đảng, tin nơi sức chiến đấu của toàn quân, dân tỉnh nhà. -Ta chiếm lĩnh hầu hết thị xã Vĩnh Long và Bắc Mỹ Thuận luôn trong sáu ngày, nói lên khả năng ta đánh vào thành phố, không máy bay, không xe tăng, chỉ đánh bằng bộ binh, quần chúng trong thị xã rất vui mừng, phấn khởi. -Ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.300 tên, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 14 và 16 thuộc sư đoàn 9, trung đoàn 43 biệt động quân mất sức chiến đấu, diệt hai tiểu đoàn biệt kích 5 và 6, đánh tan tát hệ thống công an, cảnh sát, đánh thiệt hại nặng thiết đoàn hai bọc thép M.113, phá hủy, phá hỏng 37 xư M.113 và M.118, bắn rơi và phá hủy 69 máy bay, 4 pháo 105, cắt đứt giao thông lộ 4, lộ 7 trong 29 ngày đêm. -Làm cho hệ thống ngụy quân và bọn chỉ huy trong tỉnh mất tinh thần hoang mang dao động và đến tan rã về tổ chức./. Theo “Cuộc Tổng tấn công mùa Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân tỉnh Cửu Long – Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Cửu Long Kho Địa chí: 959.781/C514T – DV.001939 59
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
07.Hƣớng tiến công sân bay Vĩnh Long táo bạo thọc sâu, đánh đúng chỗ hiểm Sân bay vĩnh Long là 1 trong 4 sân bay chiến thuật lớn của địch ở miền Tây Nam Bộ. Địch bố trí tại đây 2 đại đội trực thăng vận số 157 và 114 với 66 máy bay trực thăng vũ trang, trinh sát và vận tải. Trong sân bay có các dịch vụ bảo đảm hàng không như kho xăng dầu, kho bom, xưởng sửa chữa. Bọn giặc lái, chuyên viên kỹ thuật, kể cả bảo vệ bên trong đều là Mỹ. Quân số có lúc lên đến 1.500 tên.
Bên ngoài sân bay, địch bố trí tiểu đoàn 65 bảo an ngụy làm nhiệm vụ bảo vệ, với hệ thống vật cản hoàn chỉnh. Xung quanh sân bay có 12 lô cốt, mỗi lô cốt có tháp cao 5-6m, được trang bị súng 12,7mm hoặc đại liên. Bên ngoài có 9-12 lớp rào (tùy từng địa đoạn) gồm các loại dây thép gai, rào bùng nhùng, rào mái nhà… xung quanh có con lộ vành đai, cứ 15 đến 20 phút lại có 1 lượt “xe nồi đồng” tuần tiểu. Bên ngoài nữa là bãi mìn hỗn hợp chủ yếu bố trí ở hướng Nam là hướng mà ta có thể tiến công. Ngoài ra, địch còn triệt để lợi dụng hệ thống sông rạch như Cái Cam, Ngã Cạy, Tân Bình, Tân Hữu làm vật cản thiên nhiên. Địch cũng cài cấm nhân viên tình báo mật vụ chìm trong sân bay. Trên bầu trời sân bay, thường xuyên có 2 chiếc trực thăng vũ trang và máy bay trinh sát L.19 luân phiên nhau tuần tra bảo vệ. Cuối sân bay giáp với Bờ Gòn, địch bố trí 2 chi đoàn xe M.113 vừa làm lực lượng cơ động, vừa bảo vệ sân bay. 60
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Năm 1966 ta tập kích hỏa lực vào sân bay này, phá hủy hơn 50 chiếc. Từ đó địch rút kinh nghiệm tổ chức phòng thủ xa hơn. Sân bay là nơi tập trung hầu hết lính Mỹ ở Vĩnh Long nên địch bố phòng bảo vệ rất chặt chẽ. Về ta: Tiểu đoàn 857- đơn vị cơ động của tỉnh được thành lập tháng 8 năm 1957. Sinh ra và lớn lên trên quê hương giàu truyền thống cách mạng, được nhân dân yêu mến đùm bọc, trải qua các thời kỳ chiến đấu, tiểu đoàn đã lập nên những chiến công xuất sắc, trong đó có các trận đánh chiến thuật tân kỳ “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch. Có những trận đánh đại đội ta diệt đại đội địch, tiểu đoàn ta diệt tiểu đoàn địch và đã xây dựng truyền thống “đã đi là đến, đã đánh là thắng”. Vào khoảng tháng 12 năm 1967, Tỉnh ủy Vĩnh Long và ban chỉ huy Tỉnh đội đã ra lệnh cho tiểu đoàn 857 đóng ở khu vực An Phú Thuận- Tân Hòa Bắc – Tân Ngãi – Tân Hạnh áp sát sân bay, uy hiếp làm hạn chế hoạt động của không quân địch ở Vĩnh Long, hỗ trợ cho các lực lượng và cơ sở của ta hoạt động. Khi bộ đội hành quân đến nơi, Tỉnh đội giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn: Một là: chuẩn bị sau Tết đánh đồn ngã ba Tân Hựu, xã Tân Thuận Đông và chặn đánh quân tiếp viện, diệt từ 1 đến 2 tiểu đoàn địch để làm chuyển biến tương quan lực lượng giữa ta và địch. Hai là: chuẩn bị mục tiêu sân bay khi có thời cơ nhanh chóng tiến công tiêu diệt. Ngày 27 tháng 1 năm 1968 (28 Tết) Tỉnh ủy rời ban chỉ huy tiểu đoàn về văn phòng Tỉnh ủy làm việc. Lúc này các đồng chí tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó và một số cán bộ đại đội đã đi chuẩn bị chiến trường, chỉ còn lại đồng chí Phạm Phi Hùng – Chính trị viên tiểu đoàn đi dự họp. Đồng chí Nguyễn Ký Ức – Bí thư Tỉnh ủy phổ biến mục đích yêu cầu, lệnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa và giao nhiệm vụ cho các đơn vị. Tiểu đoàn 857 rút 1 đại đội (205) để làm nòng cốt thành lập tiểu đoàn 2, chỉ còn 2 đại đội (201 và 203) do đồng chí Ba Miêng làm tiểu đoàn trưởng và đồng chí Tám Chè làm chính trị viên. Tiểu đoàn được đại đội pháo và đại đội đặc công của tỉnh phối thuộc, đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu của tỉnh và cũng là hướng quan trọng của toàn mặt trận, có nhiệm vụ tiêu diệt sân bay và thiết đoàn 2 thiết giáp M.113 ở lộ Bờ Gòn, trong đó hướng tiến công sân bay là hướng quan trọng nhất. Tiếng nổ đánh sân bay sẽ là hiệu lệnh mở đầu cho cuộc tiến công của toàn mặt trận. Giờ nổ súng là 0 giờ đêm 29 tháng 1 năm 1968 (đúng giao thừa Tết Mậu Thân). Đồng chí chính trị viên thay mặt tiểu đoàn nhận nhiệm vụ trước Tỉnh ủy. Thời gian từ khi nhận nhiệm vụ đến khi nổ súng quá gấp, đơn vị phải thực hiện phương châm “vừa đi vừa chạy, vừa chạy vừa phổ biến nhiệm vụ, vừa ăn cơm vừa bàn công việc”. Biên chế của tiểu đoàn vào thời điểm này chỉ còn 2 đại đội. Đại đội 203 do đồng chí Mười Nghiệp đại đội trưởng chỉ huy; quân số khoảng 55 đồng chí, là đơn vị chủ công của tiểu đoàn, được trang bị 3 khẩu B.40, B.41, hai khẩu RPĐ, 15 khẩu AK, còn lại là súng trường và một ít súng Mỹ như các-bin. Đại đội 201 do đồng chí Hải đại đội trưởng chỉ huy; quân số khoảng 50 đồng chí, trang bị như đại đội 203. 61
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Đại đội 2001 pháo trợ chiến của Tỉnh, do đồng chí Tư chỉ huy, quân số hơn 50 đồng chí, trang bị 2 khẩu cối 81mm, 2 khẩu ĐKZ 75mm, tất cả chỉ có 42 quả đạn nhưng đã hỏng 4 quả. Đại đội đặc công do đồng chí Vương Văn Ca chỉ huy, có 35 tay súng, đã có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu. Tiểu đoàn triển khai công tác chuẩn bị chiến đấu ở An Phú Thuận. Trong phương án chiến đấu, hướng đánh vào sân bay được đặc biệt chú trọng. Hướng này do đại đội 203 và đại đội đặc công đảm nhiệm, dưới sự chỉ huy của các đồng chí Bảy Tươi, Mười Nghiệp, Bảy Ca. Hướng đánh vào thiết đoàn 2 do đại đội 201 đảm nhiệm, có đặc công phối hợp, do đồng chí Hải đại đội trưởng chỉ huy. Cách đánh sân bay được tiến hành như sau: đặc công bí mật khắc phục vật cản luồn sâu vào bên trong ém sẵn, khi nổ súng thì từ trong đánh ra. Bộ binh dùng bộc phá mở cửa đánh sâu vào bên trong, chiếm đến đâu giữ đến đó. Tiểu đoàn tổ chức mũi thọc sâu gồm 46 đồng chí vừa đặc công, vừa bộ binh. Đây là những đồng chí có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, có tinh thần dũng cảm với ý chí “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Muốn chăc thắng, đồng chí mũi trưỡng mũi thọc sâu phải có quyết tâm rất cao, có bản lĩnh chiến đấu vững vàng, có năng lực chỉ huy giỏi. Để chọn được đồng chí mũi trưởng xứng đáng, tiểu đoàn đã họp cán bộ cấp trung đội, đại đội, tiểu đoàn để phát động tư tưởng tình cảm. Hơn 70 đồng chí cán bộ dự họp đều giơ tay tình nguyện làm mũi trưỡng. Khi đồng chí chủ trì yêu cầu tất cả đồng chí hạ tay xuống, thì đồng chí Liêm vẫn kiên quyết giơ tay. Như vậy với tinh thần quyết tâm ấy, Đảng ủy tiểu đoàn quyết định chọn đồng chí Liêm, đại đội phó đại đội 203 làm mũi trưỡng mũi thọc sâu. Trước khi xuất quân, tiểu đoàn làm lễ tuyên thệ. Đồng chí Tám Chè đọc lời tuyên thệ: “Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 857, xin thề nếu chưa diệt được sân bay Vĩnh Long và bọn Mỹ ở sân bay, trả thù cho đồng bào, đồng chí các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thì nhất định không trở về”. Tất cả tiểu đoàn hô vang lời thề “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh” trước quốc kỳ và chân dung Bác Hồ. Chiều, cuối năm, nhận được tin 2 máy bay trực thăng Mỹ bất ngờ xả súng bắn vào đoàn người đang chèo xuồng về quê bắt cá, kiếm củi để ăn Tết ở khu vực xã Mỹ Thuận làm hơn 60 đồng bào ta thiệt mạng; gây xong tội ác, máy bay của chúng bay về hạ cánh ở sân bay Vĩnh Long, lòng căm thù giặc Mỹ sôi sục, quyết tâm bắt giặc Mỹ ở sân bay Vĩnh Long phải đền tội càng thôi thúc trong lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ. Đêm giao thừa, tiểu đoàn hành quân bằng xuồng từ An Phú Thuận qua rạch bà Cạy vượt rạch Cái Cam. Đặc công luồng vào đầu phía tay sân bay. Bộ binh theo rạch Ngã chạy vào rạch Tân Hữu, bí mật tiềm nhập phía Nam sân bay. 23 giờ đêm giao thừa, khi tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ giòn giã cũng là lúc các mũi tiến công của ta đã áp sát sân bay. Trong sân bay, đèn pha, đèn cao áp sáng rực như ban ngày, “xe nồi đồng” liên tục đi tuần tra. Trên trời máy bay luôn luôn quần đảo, cán bộ, chiến sĩ khắc phục khó khăn, bí mật tiềm nhập bám sát các mục tiêu đã quy định.
62
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Một giờ 30 phút, đặc công bí mật cắt rào, khắc phục vật cản vào được bên trong. Bộ binh áp sát lộ vành đai ven sân bay. Đồng chí Mười Nghiệp báo cáo về tiểu đoàn xin lệnh nổ súng. Do gặp khó khăn trên đường hành quân, lúc này các mũi được phân công đánh nội ô chưa vào được; tiểu đoàn lệnh cho lùi thời gian nổ súng 30 phút nữa. Địch vẫn liên tục tuần tra trên lộ vành đai bằng “xe nồi đồng”. Lính Mỹ có chó bẹc-giê “hỗ trợ” sục sạo khắp nơi. Các chiến sĩ đại đội 203 phải lùi lại giấu mình trong cỏ, lúa để tránh bị phát hiện. 2 giờ sáng đồng chí Mười Nghiệp báo cáo xin nổ súng, nhưng đạn pháo của ta vẫn chưa chuyển vào tới nơi, các mũi đánh nội ô chưa vào hết. Tiểu đoàn giờ nổ súng thêm 30 phút nữa. 2 giờ 10 phút, trợ lý hậu cần tiểu đoàn báo cáo không có đạn pháo tăng cường. Ta phải đánh địch với một cơ số đạn hết sức hạn hẹp. Anh em rất lo, phải tìm cách sử dụng tiết kiệm nhất để đảm bảo chiến đấu dài ngày. Các mũi đã vào hết, nếu không tiến công sẽ bị lộ thì rất nguy hiểm. 2 giờ 30 phút đồng chí Tám Chè phát lệnh nổ súng. Theo hiệp đồng, pháo binh ta bắn từ phía bắc sân bay ra đến lộ 1 hỗ trợ bộ binh và đặc công đánh khu vực máy bay đỗ. Pháo binh bắn chính xác áp đảo kẻ thù. Mũi đặt công đồng loạt dùng thủ pháo đánh các lô cốt, diệt một số tên. Bọn còn lại chạy dạt qua hướng bắc. Mũi bộ binh nhanh chóng phá vật cản, mở cửa đánh thẳng vào khu vực để máy bay. Bọn lính tuần tiễu bảo vệ sân bay bị diệt, còn một tốp tháo chạy. Chỉ trong 30 phút nổ súng, ta phá hủy hoàn toàn 63 máy bay. Đặc công và bộ binh gặp nhau, ta hoàn toàn làm chủ sân bay. Ta chỉ bị thương 2 đồng chí. Theo lệnh, các mũi tiếp tục chiếm giữ sân bay, phát triển đánh sang khu phía bắc. Sau những phút đầu bị đánh bất ngờ choáng váng, địch lấy lại tinh thần, dựa vào hệ thống phòng thủ và tập trung hỏa lực ngăn chặn quyết liệt nên các mũi tiến công của ta bị chựng lại. Địa hình sân bay trống trải, không có công sự che đỡ, yếu tố bí mật bất ngờ không còn, nhiều đồng chí bị hy sinh. Gần sáng, bọn Mỹ từ dưới tàu tăng cường lên tổ chức phản kích. Hỏa lực của địch quá mạnh, đạn dược của ta rất ít, lại ở địa hình trống trải nên ta buộc phải lùi ra phía sau sân bay. Địch ở một số lô cốt trước đó bị ta đánh lướt qua, nay hồi phục lại đánh trả, bịt cửa mở của ta. Hơn 10 đồng chí bị hy sinh. Mũi bộ binh lùi về phía nam sân bay cầm cự với địch, nhưng do thiếu vũ khí và nhiều đồng chí thương vong nên ta tạm thời rút ra ngoài. Đại đội 203 bám trụ lại sau sân bay phía bờ rạch Tân Hữu, còn đặc công rút qua bờ tây sông Cái Cam. Cả ngày hôm sau ta bám sát sân bay, nhưng không đủ sức tiến công địch. Đêm sau, tiểu đoàn điều đại đội 203 qua bờ tây sông Cái Cam chống địch phản kích. Ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, diệt gần 100 tên Mỹ, phá hủy 63 máy bay, làm chủ hoàn toàn sân bay. Ta bị hy sinh 20, bị thương 5 đồng chí (có 2 bị địch bắt), bị lạc 3 đồng chí (sau tìm về đơn vị). Với lực lượng chỉ hơn 1 đại đội, vũ khí trang bị có hạn, điều kiện và thời gian chuẩn bị chiến trường rất khó khăn, gấp gáp…, lại tiến công vào một mục tiêu quan
63
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
trọng được phòng thủ kiên cố nằm sâu trong sào huyệt của địch, đạt được hiệu suất chiến đấu trên đây là một chiến công suất sắc, đáng tự hào. Từ thực tiễn lịch sử của các mũi tiến công sân bay Vĩnh Long Xuân Mậu Thân 1968, ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm vận dụng trong công tác xây dựng và huấn luyện bộ đội hiện nay. Một là: công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng trong đơn vị phải được tiến hành thường xuyên liên tục và kịp thời để tạo nên sức mạnh chiến đấu tiềm tàng trong mỗi cán bộ, chiến sĩ. Các biểu hiện cao đẹp và phẩm chất cách mạng của người lính trong chiến đấu như đánh địch với viên đạn cuối cùng, đến hơi thở cuối cùng, thà hy sinh chứ không chịu mất trận địa, sẵn sàng “ Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh:… là kết quả của cả một quá trình đày công giáo dục rèn luyện. Trong thời bình hiện nay việc vận dụng kinh nghiệm chiến đấu chống ngoại xâm của chiến tranh giải phóng vào công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng bộ đội rất bổ ích. Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang biến nghị quyết của Đảng thành quyết tâm, thành hành động của mỗi đơn vị, mỗi cán bộ chiến sĩ, giữ vững bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của lực lượng vũ trang là yếu tố hàng đầu để làm nên chiến thắng. Hai là: có được cách đánh đạt hiệu suất cao là kết quả của quá trình rèn luyện công phu nghiêm túc của từng cán bộ, chiến sĩ, là kết quả của phương pháp huấn luyện khoa học, nội dung huấn luyện phù hợp với thực tế chiến trường. Trong công cuộc xây dựng quân đội chính quy càng không thể xem nhẹ công tác huấn luyện. Nếu không suy nghĩ đầu tư tìm được cách đánh tốt và thực hiện cách đánh đó một cách hiệu quả thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ khi xảy ra chiến tranh. Ba là: thực tiễn từ việc chuẩn bị vũ khí, đạn dược trong trận tiến công sân bay Vĩnh Long, ta càng thấm thía không thể xem nhẹ việc chuẩn bị vật chất cho hướng chủ yếu, cho trận đánh then chốt. Quyết tâm khí thế bộ đội rất cao, nhưng vì thiếu đạn, thiếu hỏa lực chi viện nên bộ đội đã bỏ lỡ nhiều thời cơ diệt địch và không thể giữ mục tiêu được như dự kiến. Trong điều kiện hiện nay chúng ta càng phải hết sức tiết kiệm, bảo quản giữ gìn trang bị vũ khí, đạn dược, cần có một lượng dữ trữ nhất định để đủ sức giáng một đòn quyết định nếu quân xâm lược liều lĩnh xâm phạm độc lập chủ quyền Tổ quốc ta. Ôn lại trang sử oanh liệt Tết Mậu Thân 1968, chúng ta quyết tâm nghiên cứu vận dùng sáng tạo và phát huy cao độ truyền thống anh hùng, bài học kinh nghiệm của Tết Mậu Thân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thân yêu của chúng ta./. Phạm Phi Hùng – Thiếu tƣớng chỉ huy trƣởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
64
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
08.Sức mạnh lòng dân - Sức mạnh niềm tin TÌNH HÌNH ĐỊCH, TA TRƢỚC NGÀY NỔ SÚNG
Thị xã Vĩnh Long có sông ngòi dọc ngang chia cắt. Phố phường, nhà cửa dày đặc xen kẽ với hệ thống trụ sở, cơ quan đầu não, doanh trại… của địch. Hệ thống phòng ngự của địch tại thị xã chia làm nhiều tầng nhiều lớp khá phức tạp và được canh phòng cẩn mật, gây cho ta nhiều khó khăn về cơ động lực lượng, hiệp đồng chiến đấu…, không thuận lợi trong việc tiêu diệt gọn từng đơn vị của chúng.
Tại đây, địch có cả một bộ máy quân sự, hành chính, công an từ tỉnh đến huyện, xã, ấp cùng với hệ thống phòng thủ tạo thành vành đai bao quanh. Tuyến lộ Cầu Vòng, gồm các xã An Bình, Bình Hòa Phước, Đồng Phú, Thanh Đức, Long Mỹ, Long Hồ, Phước Hậu, An Đức do tiểu đoàn 520 của địch đóng giữ, có hệ thống đồn bốt kiên cố, bộ máy kìm kẹp chặt chẽ và lực lượng cơ động ứng chiến của sư đoàn bộ binh 9 ngụy sẵn sàng chi viện khi cần thiết. Tóm lại, địch có hệ thống chỉ huy chặt chẽ, phương tiện hiện đại, thông tin nhanh chóng, khả năng cơ động cao, có dự trữ vật chất lớn. Tuy nhiên, địch có những mặt yếu rất cơ bản, đó là: -Mâu thuẫn giữa địch với quần chúng nhân dân tới mức “tức nước vỡ bờ”. -Quân đông nhưng không mạnh, bởi nhiều sắc lính ô hợp. -Mục đích, lý tưởng chiến đấu không rõ, chiến tranh phi nghĩa, say sưa vui tết, có nhiều sơ hở chủ quan. Do vậy khi bị tiến công bất ngờ dễ hoang mang dao động.
65
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Về ta, tiểu đoàn 306 là tiểu đoàn được thành lập sớm, trình độ chiến thuật, kỹ thuật đánh công kích tốt và có nhiều kinh nghiệm đánh phục kích vận động và tập kích quân địch lâm thời phòng ngự. Trong bước chiến đấu tạo đà, ta đã liên tiếp giành thắng lợi giòn giã ở các trận: tập kích tiêu diệt tiểu đoàn chủ lực địch ở Mương Khai, Xuân Hiệp, Trà Ôn (đêm 244-1966) đánh bại cuộc phản kích đổ bộ đường không, tiêu diệt xóa phiên hiệu trung đoàn số 13, sư đoàn 9 ngụy tại Hiệp Hòa, Hòa Bình, Trà Ôn, phục kích trên tuyến giao thông tiêu diệt đoàn xe quân sự tại An Đức, Long Hồ và đoàn xe Phú Quới, Ba Càng, tiêu diệt phá hủy nhiều xe quân sự của địch. Tiểu đoàn 308 vừa ra đời (ngày 30 tháng 12 năm 1967) đã được huấn luyện tốt, đánh phục kích vận động khá. Tiểu đoàn bộ binh 2, tiểu đoàn 857 trực thuộc tỉnh Vĩnh Long, đánh công kích khá, có kinh nghiệm luồn lách đánh ấp chiến lược. Bộ đội địa phương các huyện Tam Bình, Trà Ôn, Cái Nhum bám trụ địa bàn tốt, có khả năng hiệp đồng tác chiến với bộ đội chủ lực. Cán bộ đại đội có kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu độc lập. Đơn vị biệt động thị xã là đơn vị có nhiều thành tích tiêu diệt gọn từng mục tiêu nhỏ trong lòng địch. Nhìn chung, các xã căn cứ cách mạng đến với các xã vùng ven đều có dân quân du kích mật và lực lượng binh vận, cơ sở Đảng, đoàn thể quần chúng hoạt động có hiệu quả, tạo bàn đạp cho lực lượng vũ trang tiến công tốt. Ta có điều kiện hình thành ba mũi giáp công, tiến công đối phương bằng sức mạnh tổng hợp. Ý ĐỊNH CHIẾN ĐẤU CỦA TA Hướng tiến công chủ yếu: từ phường 3 đến cầu Công Xi Heo, cầu Công An vào dinh tỉnh trưởng do tiểu đoàn 306 đảm nhiệm. Hướng thứ yếu: từ rạch Ngã Cạy vào sân bay sở chỉ huy tư lệnh sư đoàn 9 do tiểu đoàn 857 bộ đội Vĩnh Long đảm nhiệm. Hướng quan trọng: từ phường 5 đến cầu Thiềng Đức, phát triển vượt sông, đánh vào khám lớn, bắt liên lạc với tiểu đoàn 306 tại dinh tỉnh trưởng do tiểu đoàn 308 đảm nhiệm. Hướng phối kết hợp: -Nam rạch Tân Hữu đến quận Mới do tiểu đoàn bộ binh 2 Vĩnh Long đảm nhiệm. -Từ Tân Thành vào phà Mỹ Thuận do mũi binh vận và lực lượng địa phương phụ trách. -Nam rạch Tân Bình và chợ Long Châu do lực lượng địa phương phụ trách. -3 xã cù lao: An Bình, Bình Hòa Phước, Đồng Phú do lực lượng dân quân du kích, binh địch vận và đại đội pháo đường sông phụ trách. Mục tiêu: Mục tiêu chủ yếu: dinh tỉnh trưởng, tòa hành chính, ty công an. Mục tiêu quan trọng: sân bay Vĩnh Long, sở chỉ huy sư đoàn 9. Biện pháp thực hiện: 66
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
-Các đơn vị bí mật bất ngờ luồn sâu ém sẵn, áp sát mục tiêu, đồng loạt nổ súng đánh chiếm mục tiêu chủ yếu, mục tiêu quan trọng, đồng thời bao vây khống chế các mục tiêu khác, thực hiện tiêu diệt hết mục tiêu này đến mục tiêu khác, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch tại thị xã Vĩnh Long. -Kiên quyết ngăn chặn đánh bại phản kích của địch, khống chế đường bộ, đường sông, đường không, kết hợp chặt giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, đẩy mạnh công tác binh địch vận nhằm tiêu diệt, làm tan rã địch, làm chủ thị xã. Sử dụng lực lượng: -Đánh vào nội ô thị xã: 2 tiểu đoàn chủ lực, 3 đại đội địa phương, đội biệt động thị xã. -Đánhh sân bay: tiểu đoàn 857 Vĩnh Long, đại đội đặc công, đại đội pháo binh. -Đánh quận Mới: tiểu đoàn bộ binh 2 Vĩnh Long. Tiểu đoàn 306 được tăng cường đại đội bộ đội địa phương Tam Bình và Trà Ôn, có nhiệm vụ triển khai đánh chiếm bàn đạp, tiêu diệt địch ở khu vực cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi Heo, cầu Khưu Văn Ba, luồn sâu đánh chiếm tòa hành chính, ty công an, ty cảnh sát, dinh tỉnh trưởng và bộ chỉ huy hành quân cùng đội biệt động thị xã và bắt liên lạc với tiểu đoàn 308 hình thành hợp vây tiêu diệt quân địch chiếm giữ thị xã… Tiểu đoàn 306 còn có nhiệm vụ sẵn sàng đánh bại lực lượng địch phản kích bằng bộ binh có xe bọc thép yểm trợ, bằng đường thủy và đổ bộ đường không, kết hợp chặt với mũi tiến công chính trị và binh vận, phát động nhân dân và binh sĩ địch nổi dậy làm chủ thị xã, truy tìm tiêu diệt bọn ngoan cố ác ôn lẩn tránh, chống cự. Tiểu đoàn 308 có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở phường 5, cầu Thiềng Đức, hợp điểm bắt liên lạc với tiểu đoàn 306 tại dinh tỉnh trưởng. Tiểu đoàn 857 được tăng cường đại đội đặc công, đại đội pháo binh chiến đấu tại khu vực sân bay. Tiểu đoàn bộ binh 2 đánh chiếm quận Mới, tiêu diệt trận địa pháo binh, cắt lộ 4. Công tác chuẩn bị: Thời gian chuẩn bị quá ngắn, phải chạy đua từng giây phút, vừa chạy vừa xếp hàng, vừa tranh thủ bổ sung quân, vừa thay đổi trang bị. Đặc biệt, tiểu đoàn 308 không có thời gian đi trinh sát thực địa, lại là đơn vị đảm nhận nhiệm vụ đột phá trên hướng chủ yếu và đánh chiếm mục tiêu chủ yếu, nhưng đứng trước nhiệm vụ lịch sử “thời cơ đã đến”, cán bộ chiến sĩ đã đạp bằng thử thách, khó khăn để vào vị trí tập kết đúng thời hạn, bí mật, an toàn. Từ 18 giờ đến 23 giờ ngày 29 tháng 1, tiểu đoàn 306 cơ bản tiếp cận và triển khai xong tại khóm 1, phường 3, áp sát cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi Heo và cầu Khưu Văn Ba. 23 giờ 10 phút ngày 29 tháng 1, tiểu đoàn 306 chưa liên lạc được với cấp trên do phương tiện thông tin trục trặc kỹ thuật. DIỄN BIẾN CHIẾN ĐẤU Đúng giờ nổ súng chiến đấu, các mũi của tiểu đoàn 306 đột phá tiền duyên của địch. 67
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tại khu vực cầu Công Xi Heo, ta bao vây chia cắt đại đội bảo an và bộ phận công binh Mỹ. Đến 4 giờ 10 phút ngày 30 tháng 1, ta diệt tại trận 54 tên. Mũi đại đội 58 và đại đội bộ đội địa phương huyện Tam Bình đánh chiếm cầu Khưu Văn Ba phát triển đến đường Trưng Nữ Vương. Mũi đánh chiếm cầu Kinh Cụt gặp phải sức đề kháng quyết liệt của địch, quân ta anh dũng xung phong, mặt giáp mặt quân thù. 5 giờ 45 phút ngày mùng 1 Tết Mậu Thân, ta cơ bản đã đánh chiếm được vành đai, một số mục tiêu cần thiết và quan trọng trong thị xã Vĩnh Long. Suốt ngày 30 tháng 1 năm 1968 địch huy động lực lượng hỗn hợp có xe thiết giáp chi viện cùng tiểu đoàn cảnh sát 29 và lực lượng bảo an có pháo binh yểm trợ đánh thẳng vào đội hình tiểu đoàn 306. Ta lâm thời phòng ngự, ngăn chặn, bẻ gãy nhiều đợt phản kích của địch, nhanh chóng chuyển thành thế bao vây, chia cắt và tiêu diệt bộ phận tiểu đoàn biệt động quân 43, tiểu đoàn bảo an 46, tiến tới đánh bại lực lượng địch phản kích, làm chủ trận địa. Đến 16 giờ ngày 30 tháng 1 năm 1968 ta làm chủ một số vị trí quan trọng trên các tuyến đường Trưng Nữ Vương, Hưng Đạo Vương, Nguyễn Đình Chiểu, Lê Văn Duyệt và một đoạn trên đường Phan Thanh Giản, tòa hành chính và trại Hoa Lư. 17 giờ ngày 30 tháng 1, sở chỉ huy tiền phương Quân khu đã vào nội ô thị xã. -Tiểu đoàn 308 cùng đại đội bộ đội địa phương Cái Nhum đánh chiếm đầu cầu Thiềng Đức (phía phường 5 hướng đông) diệt địch, thu súng và chuẩn bị tổ chức vượt sông. -Hướng quận Mới, tiểu đoàn 2 Vĩnh Long tiến công mạnh, chiếm một phần mục tiêu quận Mới và phát triển qua hướng trận địa pháo binh của địch. Phối hợp cùng các mũi, hướng khác, tiểu đoàn 857 nổ súng tiến công mạnh khu vực sân bay. Cuộc chiến đấu giáp lá cà giữa ta và địch ở nội ô thị xã diễn ra vô cùng quyết liệt. Bộ đội ta dùng lưỡi lê, báng súng, lựu đạn, mặt giáp mặt với quân thù. Ta lần lượt tiêu diệt từng tốp địch, dứt điểm từng mục tiêu, vừa chiến đấu vừa điều chỉnh lực lượng với tinh thần ngoan cường dũng cảm, kiên quyết linh hoạt và sáng tạo. Trong đêm 30 rạng sáng 31 tháng 1 năm 1968 ta đã chiếm và làm chủ nhiều mục tiêu quan trọng. Tại nội ô thị xã khu vực phường 3, 4, 1, hồi 23 giờ ngày 31 tháng 1 năm 1968 đại đội 591 và tiểu đoàn 306 diệt địch, làm chủ khu truyền tin, đoạn đường Lê Văn Duyệt, Hưng Đạo Vương. Đại đội biệt động thị xã tiến công tòa hành chính. Trận chiến kéo dài tới 5 giờ 45 phút ngày 31 tháng 1 năm 1968. Đại đội 57 thuộc tiểu đoàn 306 bí mật vượt qua lộ, đánh chiếm ty công an, khu cảnh sát, ty bưu chính, ty ngân khố, đưa pháo ĐKZ-75 lên cao ốc bắn vào lực lượng phòng thủ dinh tỉnh trưởng, làm cho địch khiếp sợ. Tên trung tá tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Diệp đã hốt hoảng kêu gào lực lượng vùng 4 chiến thuật đến cứu viện. Đồng chí Nguyễn Đệ, tiểu đoàn trưởng qua phương tiện thông tin nhắc nhở các mũi, các đại đội kiên quyết giữ vững mệnh lệnh hiệp đồng tác chiến, đánh chiếm bằng được các mục tiêu đã quy định, với khẩu hiệu “Tiểu đoàn 306 chưa chiếm được thị xã Vĩnh Long thì nhất quyết chưa trở về”.
68
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Mệnh lệnh và ý chí quyết tâm ấy đã động viên cổ vũ cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 306 dũng mãnh xốc tới đạp bằng mọi khó khăn thử thách, giữ nghiêm kỷ luật chiến trường, chưa hoàn thành nhiệm vụ chưa rời trận địa. Hướng sân bay, tiểu đoàn 857 cùng đại đội đặc công dũng cảm đánh bại nhiều đợt phản kích của địch. Đồng bào nội ô thị xã đã được bộ đội động viên và hướng dẫn sơ tán, phần lớn vào Đại chủng viện, trường kỹ thuật, trường sư phạm…, nhờ vậy đã đảm bảo được an toàn. Ngày 1 tháng 2 năm 1968 được sự hướng dẫn và giúp đỡ của các cơ sở Đảng, các đoàn thể quần chúng và lực lượng binh địch vận, ta đã phát huy cao độ sức mạnh của 3 mũi giáp công liên tục đánh chiếm nhiều mục tiêu còn lại của địch. Đại đội 57 thuộc tiểu đoàn 306 liên tục đột phá, liên tục tiến công đánh chiếm ty chiêu hồi, tòa sơ thẩm Vĩnh Long, vây chặt dinh tỉnh trưởng ở hai hướng đông nam và đông bắc. Tên trung tá tỉnh trưởng đã vội vã xuống tàu hải quân tìm đường tẩu thoát. Qua 5-6 ngày đêm liên tục chiến đấu trong điều kiện vô cùng khẩn trương, ác liệt và thiếu thốn, sức khỏe của bộ đội bị giảm súc, vật chất thiếu hụt, khả năng chiến đấu có nhiều hạn chế. Sau khi cơ bản hoàn thành mục tiêu đánh chiếm thị xã, các đơn vị của ta khẩn trương tập trung lực lượng đối phó với bộ binh Mỹ kéo đến chi viện, mở rộng không gian hoạt động, vừa chiến đấu, vừa củng cố lực lượng. Sau những ngày bị tiến công bất ngờ choáng váng, địch lấy lại tinh thần đưa lực lượng các nơi về ngày càng đông, có cả quân bộ binh Mỹ với vũ khí phương tiện hiện đại kết hợp với lực lượng tại chỗ, dựa vào hệ thống phòng thủ có sẵn tập trung phản kích lại ta rất quyết liệt. Để thích ứng với tình hình, đêm mùng 4 rạng sáng 5 tháng 2 (đêm mùng 5 và ngày 6 Tết), tiểu đoàn 306 để lại một bộ phận nhỏ, cùng với đại đội biệt động thị xã tiếp tục truy tìm bọn địch ngoan cố còn ẩn trong khu dân cư, còn đại bộ phận thực hiện kế hoạch hành tiến trong chiến đấu, tìm đánh bộ phận quân Mỹ co cụm lâm thời ở nam cầu Cá Trê. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn đã thực hiện lời thề: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Với động tác cá nhân chiến đấu đặc công hóa bộ binh, dùng hình thức chiến thuật phân đội nhỏ, luồn sâu áp sát đội hình co cụm của địch, đột nhiên bất ngờ nổ súng “nở hoa trong lòng địch”, trong đánh ra ngoài đánh vào, tiểu đoàn 306 diệt tại trận 129 tên, làm bị thương nhiều tên. Sau hai giờ chiến đấu, đến 7 giờ 35 phút quân ta mới rời khỏi trận địa, hành quân theo kế hoạch. Chiến công oanh liệt diệt Mỹ kể trên đã để lại những ấn tượng sâu sắc về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đồng chí A tân binh của tiểu đoàn 306 vốn là học sinh trường Tống Phước Hiệp vừa nhập ngũ được 4 ngày, đã trực tiếp tham gia chiến đấu, tâm sự: có trực tiếp đánh Mỹ, em mới biết được thế nào là sức mạnh Việt Nam và hành động cao đẹp sẵn sàng hy sinh của người chiến sĩ cầm súng chiến đấu. Các đồng chí ở Tỉnh hội phụ nữ Vĩnh Long như: Đặng Thị Kiên (Bảy Kiên, Mười Hới), Sáu Đấu (Nguyễn Phương Lưu, vợ anh Mười Hên), Sáu Xây (Dương Bạch Xây), Ba Nhị (ở Vũng Liêm), Năm Hồng, Tư Anh (Đặng Ngọc Anh) (thường gọi chi Tư bạn hàng), Tư Đẹp (Mười Sương tức Các Thị Hoa Đẹp), Ba Lâm (Nguyễn Kim Lâm)… đã trực tiếp đưa đường và tạo mọi điều kiện giúp đỡ bộ đội trong chiến đấu. 69
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Chị Tư Đẹp thấy một tên cảnh sát ngụy cầm khẩu súng ngắn “ru-lô” Mỹ chĩa thẳng vào một anh cán bộ chỉ huy của ta, đã nhanh như chớp đã rút khẩu K.54 từ trong áo ra bắn ngã gục tên cảnh sát khi nó chưa kịp gây tội ác. Kết quả, qua 6 ngày đêm tiến công làm chủ thị xã Vĩnh Long, ta đã: -Loại khỏi vòng chiến đấu 9.599 tên (bắt 386 tên). -Tiêu diệt 13 đại đội, 59 trung đội – phân đội. -Đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn ngụy, lữ đoàn B bộ binh Mỹ. -Bức rút 36 đồn bốt. -Phá hủy, phá hỏng 68 xe quân sự. -Thu 1.953 súng các loại và nhiều đồ dùng quân sự. -Ta hy sinh 298 đồng chí (có 3 cán bộ tiểu đoàn). -Bị thương 382 đồng chí (có 9 cán bộ đại đội). Thắng lợi Xuân Mậu Thân 1968 là mốc lịch sử đáng ghi nhớ trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước của Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Vĩnh Long. Sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 giúp ta rút ra nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu về chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu, về lãnh đạo tổ chức quần chúng nổi dậy, về vận dụng phương châm ba mũi giáp công, hiệp đồng giữa các lực lượng cũng như cách chọn hướng, chọn mục tiêu, chọn mũi tiến công, sử dụng lực lượng và cách đánh… Trang sử về Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân thật sự đã đi vào lịch sử dân tộc như một nét son chói lọi. Nó càng khẳng định vai trò to lớn của quần chúng trong chiến tranh cách mạng. Chiến công Xuân 1968 đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lòng dân tộc, nó có một vị trí rất lớn đối với tiến trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ta đạt thắng lợi không chỉ ở sức mạnh của vú khí mà chủ yếu là ở sức mạnh lòng dân, sức mạnh niềm tin. Từ những sự kiện hào hùng lẫm liệt của Tết Mậu Thân, có thể khẳng định rằng: chiến thắng này thuộc về nhân dân anh hùng dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại./. Huỳnh Trọng Phẩm – Đại tá, nguyên đại đội trƣởng đại đội 57, tiểu đoàn 306 Quân khu (độc lập). Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
09.Mậu Thân 1968 ở thị xã Vĩnh Long Thị xã Vĩnh Long được Khu ủy Tây Nam Bộ chọn làm trọng điểm 2 (sau thành phố Cần Thơ). Từ năm 1967, Khu ủy đã cử một số đồng chí về tăng viện cho tỉnh và cho thị xã. Ở tỉnh, đồng chí Tư Cần (Trịnh Văn Lâu) Thường vụ Tỉnh ủy về làm Bí thư Thị xã ủy Vĩnh Long, đồng chí Năm Châu (Hoàng Minh Châu) và đồng chí Bảy Nguyễn là Tỉnh ủy viên về bổ sung vào Thường vụ Thị xã ủy. Như vậy lúc này Ban chấp hành Thị xã ủy có 7 đồng chí, trong đó có một thường vụ tỉnh ủy và ba tỉnh ủy
70
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
viên. Đồng chí Hai Thanh (Phan Thị Xuân Hoa) Tỉnh ủy viên, Phó bí thư Thị xã ủy là người chỉ đạo ở nội ô nên nắm tình hình tương đối sâu.
Tiếp thu chủ trương về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Thị xã ủy tổ chức hội nghị Ban chấp hành mở rộng để triển khai và lên kế hoạch chuẩn bị. Cán bộ thị xã được chia làm hai bộ phận: bộ phận chỉ đạo bên trong gồm khu vực nội ngoại ô do đồng chí Hai Thanh phụ trách gồm các đồng chí: Sáu Đấu (Nguyễn Phương Lưu), Ba Ký, sau tăng cường thêm đồng chí Mười Sương và Hai Bé Liên (Nguyễn Thị Liên). Bộ phận bên ngoài gồm khu vực vùng ven và nông thôn tiếp giáp, do đồng chí Năm Châu phụ trách, sau đó thêm các đồng chí Phi Sơn (Nguyễn Phi Sơn), Tư Đức (Trần Kim Ngọc) và Mười Xê. Đồng chí Tư Cần chỉ đạo chung cả hai bộ phận. Đồng chí Bảy Nguyễn phụ trách lực lượng vũ trang có trách nhiệm hiệp đồng với tỉnh và Khu. Để phục vụ yêu cầu chỉ đạo, lãnh đạo thông suốt hệ thống giao liên CK và BK được xây dựng chặt chẽ nối liền giữa các bộ phận và giữa thị xã với Tỉnh. Lực lượng nội ô của ta phát triển nhanh có 22 đảng viên, 50 đoàn viên và hàng trăm cơ sở quần chúng nhiều cơ sở binh vận trong lực lượng dân vệ, bảo an, nhân viên cảnh sát, nhân viên tòa hành chính, ty điền địa, nhà máy nước… Về địa bàn, lúc này thị xã có thêm xã Phước Hậu, xã Tân An, xã Tân Ngãi, xã Long Đức, xã Long Thành và một phần xã Long Mỹ để tạo thành thế liên hoàn bao vây thị xã. Để đảm bảo cho tác chiến, vũ khí, chất nổ… được bí mật đưa vào nội thị. Lực lượng dẫn mũi cho các cánh quân và cán bộ lãnh đạo cũng đã vào thị xã ém lại trong nhà cơ sở. Lương thực, thuốc men được các cơ sở chuẩn bị khá nhiều. Các mục
71
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
tiêu quan trọng đã được điều nghiên thực địa… Như vậy mọi nhu cầu cần thiết cho một chiến dịch lớn cơ bản đã chuẩn bị xong. Tất cả sẵn sàng chờ lệnh tiến công. Theo sự phân công, tiểu đoàn bộ đội tỉnh cùng với đơn vị đặc công của tỉnh và thị xã chốt sẵn ở cánh Ba Tân để dẫn mũi tiến công vào sân bay. Tiểu đoàn 306 cùng bộ đội tỉnh và đội biệt động thị xã nằm sẵn ở cánh Phước Hậu tiến vào hộ ba để đến khu vực miếu Bảy Bà đánh vào tòa hành chính, ty công an, ty tài chính, ty trước bạ, ngân hàng phát triển nông thôn, khống chế và án ngữ đường Phan Thanh Giản. Tiểu đoàn 308 và bộ đội địa phương thị xã từ Long Đức, Long Thành đánh lên hộ 5, chiếm khu Bến Đá rồi dùng ghe xuồng vượt sông Thiềng Đức, tiến vào nội ô chiếm khu vực trường Tống Phước Hiệp, đường Gia Long, chợ Vĩnh Long rồi tiến ra đánh bốt cảnh sát, chiếm khám lớn, đánh dinh tỉnh trưởng và tiểu khu Vĩnh Long. Đúng giao thừa (30-1-1968), lực lượng đặc công đã đột nhập vào sân bay và nổ súng. Bị bất ngờ, địch trở tay không kịp, 63 máy bay các loại của chúng bị phá hủy. Lửa bốc cháy ngất trời, báo hiệu lệnh Tổng tiến công và nổi dậy bắt đầu. Trên toàn chiến trường, quân ta nhất loạt nổ súng đánh vào các mục tiêu đã định. Đèn bị tắt, toàn thị xã chìm ngập trong bóng đêm. Tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Diệp, phó tỉnh trưởng Nguyễn Sinh Tiền cùng một số tên tay sai khác hốt hoảng rút xuống tàu và cho tàu chạy ra giữa sông cầu viện các nơi đến tiếp cứu. Một số mục tiêu lớn ta đã đánh chiếm được. Số đông cảnh sát mất tinh thần, tan rã nhanh chóng và chạy theo đồng bào đi lánh nạn. Hàng trăm cán bộ, đảng viên đã vào tận nội ô để tuyên truyền, phát động quần chúng làm chủ đường phố, tiêu diệt ác ôn, thu chiến lợi phẩm. Các cơ sở hợp pháp dẫn mũi, đưa đường cho lực lượng vũ trang. Trong chiến công chung, sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân thị xã Vĩnh Long là rất to lớn. Ngay trong đêm nổ súng đầu tiên, bà con phường 5 đã huy động xuồng đưa bộ đội từ khu Bến Đá vượt sông Thiềng Đức vào chợ Vĩnh Long để tiến công các điểm trọng yếu mà địch không hay biết. Trong lực lượng đưa bộ đội qua sông ta chỉ có vài cơ sở cách mạng, còn lại là quần chúng nhân dân. Bà con tình nguyện đưa bộ đội qua sông chỉ cách đồn quân cảnh, cảnh sát giao thông, chi cảnh sát ngụy trên 100 mét vậy mà vẫn đảm bảo được bí mật, an toàn cho bộ đội. Với nhiệt tình đó, chứng tỏ ý thức cách mạng của nhân dân thị xã rất cao, họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình. Cũng nhờ nhân dân chỉ điểm và hướng dẫn, mùng 3 Tết ta tiến công diệt chốt tình báo Mỹ tại đường Thoại Ngọc Hầu, phá hủy toàn bộ máy móc, điện đài, thu toàn bộ tài liệu, 12 máy chụp hình và 65.000 đô-la. Nếu không có nhân dân giúp đỡ thì trong trận chiến đấu này ta sẽ gặp nhiều khó khăn, vì ban chỉ huy của ta đóng ngay sát nách địch mà không hay biết. Sau khi ta bị tiến công, địch điên cuồng bắn phá hủy diệt cả khu vực, quần chúng đã chịu nhiều hy sinh mất mát. Bấy giờ nhân dân có gì đều đưa ra ủng hộ bộ đội: bánh, trái cây, gạo, gà vịt, thuốc men và nhiều thực phẩm khác. Có nhiều gia đình không chịu đi lánh nạn, mà ở lại nấu cơm cho bộ đội, tải thương hoặc giúp đỡ thương binh. Có nhiều bà con tình nguyện đem xác các đồng chí đã hy sinh về chôn cất. Bà con cũng không ngần ngại đưa hàng trăm thanh niên gia nhập bộ đội hoặc cướp súng, tự trang bị, cùng bộ đội đánh địch quyết liệt. Lực lượng binh vận cũng đã làm tan rã tại chỗ hàng nghìn tên cảnh sát, dân vệ, bảo an, làm hàng ngũ địch rối bời không thể tập hợp được. Điển hình là ta đã giáo dục được một tiểu đội phòng vệ dân sự ấp Tân Thuận làm nòng cốt và cũng chính lực 72
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
lượng này sau trở thành đội du kích mật của ta hoạt động trong lòng thị xã. Khi địch tăng cường đánh trả hòng đẩy bật lực lượng ta ra ngoài thì nhân dân thị xã tạo mọi điều kiện để bộ đội có thể bám trụ chiến đấu. Ngày mùng 6 Tết, địch tập trung hỏa lực mạnh phản kích, chúng dùng xe thiết giáp ngăn chặn đường rút quân của ta. Nhân dân xã Phước Hậu đã biểu tình chặn đầu xe, đấu tranh quyết liệt với địch để tạo điều kiện giúp bộ đội rút quân an toàn. Phối hợp với Long Hồ ở vùng ven thị xã, ngay từ đầu lực lượng vũ trang của thị xã phối hợp với du kích, quần chúng nổi dậy tiêu diệt, bức rút nhiều đồn bốt địch, giải phóng phần lớn vùng ven như khu cầu Ông Me. Ở Phước Hậu, bằng binh vận, ta đã lấy đồn Đìa Chuối, diệt đồn Ngã Ba Đình, giải phóng xã Phước Hậu. Ở phía Tam Long ta chiếm đồn Long Đức, Bắc Cổ Chiên, lấy đồn Miếu Trắng, giải phóng xã An Đức, khống chế lấy đồn Long Mỹ ở Long Thành, ta hoàn toàn làm chủ khu vực đến rạch Cầu Kè. Tại Bắc Mỹ Thuận, lực lượng thị xã phối hợp cùng lực lượng Châu Thành dùng binh vận tiến công trụ sở xã Tân Hòa, giải tán hội tề, chiếm Bắc Mỹ Thuận lấy 4 chiếc phà, phá 4 trái nổi, cắt đứt tuyến giao thông thuộc quốc lộ số 4 (nay là lộ 1) từ Sài Gòn về Vĩnh Long và các tỉnh miền Tây. Ta đánh bức rút các đồn chính của các xã như đồn Huyền Báo, đồn Cái Dạ, đồn Bà Bông. Lính dân vệ được ta giải tán đã tình nguyện gia nhập bộ đội. Tại đây ta đã khống chế và cắt đứt tuyến lộ 4 trên 20 ngày đêm. Sau khi rút quân ra ngoài, Thị xã ủy liền xúc tiến việc củng cố thực lực chuẩn bị cho trận chiến đấu mới. Ngày 17 tháng 2 năm 1968 lực lượng vũ trang Thị xã kết hợp với lực lượng vũ trang tỉnh tiến công vào thị xã đợt 2. Bộ đội đặc công và pháo binh đánh thẳng vào pháo hạm Mỹ. Lúc này địch phòng thủ rất nghiêm ngặt, nhưng ta đã đánh chiếm được một số điểm mà trong đợt tiến công đầu tiên ta chưa kịp triển khai như ngã ba Cần Thơ, Cầu Lầu… Riêng mũi chính trị luôn bám sát bộ đội để kết hợp tuyên truyền, phát động gia đình binh sĩ kêu gọi người thân của mình rời bỏ hàng ngũ địch trở về với gia đình và kêu gọi quần chúng nổi dậy diệt ác ôn như ở hộ 2, hộ 3, hộ 4, ấp Tân Thuận…, nơi đâu cũng có phong trào. Cán bộ ta vào nhà thờ Chánh tòa phường 2 (nơi đây đang có trên 3.000 đồng bào lánh nạn) để tuyên truyền giác ngộ quần chúng. Đồng chí Mười Sương được phân công phát biểu với bà con và được quàn chúng, kể cả binh sĩ ngụy gọi bằng danh hiệu “Cô tiểu đoàn trưởng Mười Sương”. Cuộc phát động gây nhiều ảnh hưởng tốt đối với các tầng lớp nhân dân. Ở đợt này ta đánh chiếm và giữ các mục tiêu không lâu vì lực lượng rất ít, nhưng đã diệt được nhiều sinh lực địch. Địch điên cuồng chống trả, chúng thả bom xăng, bắn rốc-két hủy diệt nhiều khu phố, nhà cửa, trường học…, làm chết nhiều người dân vô tội. Qua đợt tiến công này, địch càng thêm hoảng sợ, mất tin tưởng vào khả năng phòng thủ của chính mình. Trong nhiều tháng tình hình ở thị xã vẫn luôn sôi động. Ở khu vực hộ 3, hộ 4, Tân Thuận, ban ngày địch tung ra lùng sục, đêm phải co cụm lại chốt giữ những nơi trọng yếu.
73
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Trong những ngày này, Thị đội đưa một bộ phận bộ đội địa phương thị xã và biệt động thọc sâu và vùng cầu Cá Trê (giáp ranh phường 3 và phường 4) xây dựng lõm căn cứ ngay sát nội ô thị xã vì ở đây cơ sở cách mạng khá mạnh, nhân dân che giấu và giúp đỡ cán bộ mọi mặt. Nhiều gia đình cơ sở làm hầm bí mật để lực lượng vũ trang ém lại. Chỉ có một lõm ở cầu Cá Trê mà có đến năm hầm bí mật có hầm chứa cả chục đồng chí và súng đạn. Với thuận lợi đó ta đã đánh liên tục, đánh từ mọi phía, đánh bằng nhiều hình thức. Khẩu cối 61mm luôn ở khu vực Cá Trê, được một cơ sở cất giấu, ta đã nhiều lần dùng khẩu cối này bắn vào thành biệt kích, bắn vào ty chiêu hồi gây cho chúng nhiều thiệt hại. Lực lượng vũ trang được cơ sở tại chỗ hướng dẫn tổ chức diệt 14 tên ác ôn trong dân vệ. Lực lượng chính trị của ta về hộ 4, hộ 3 phát động quần chúng và rút thanh niên ra vùng giải phóng. Ở cuộc tiến công này tuy lực lượng ta rất ít nhưng lại đánh trúng đối tượng, đánh hạ tầng cơ sở của địch, diệt ác ôn, thành lập lõm du kích nội thành nên có điều kiện đánh địch liên tục, làm chúng hoảng sợ cho rằng nơi nào cũng có Việt Cộng, tối đến là chúng tìm nơi trú ẩn. Cũng ở lõm du kích này nhiều đồng chí đã trụ lại sau mỗi đợt tiến công vào nội ô như các đồng chí Hai Thanh, Năm Mỹ, Ba Ký, Sua Sượt… Nhiều lần địch huy động lực lượng lớn gồm cả tiểu đoàn bảo an, cảnh sát dã chiến có sĩ quan Mỹ chỉ huy càn quét vào khu vực cầu Cá Trê, địch dùng cả chó bẹc-giê để đánh hơi, chúng dùng mọi cách để tìm hầm bí mật nhưng vẫn không tìm được. Chúng bắt cơ sở ta đánh đập, buộc phải chỉ hầm. Quần chúng đấu tranh mạnh buộc chúng phải thả. Các đồng chí của ta ở hầm bí mật được bà con bảo vệ an toàn. Những đòn tiến công của quân và dân thị xã Vĩnh Long đã đẩy địch vào thế lúng túng, bị động, phải co cụm lo giữ những nơi hiểm yếu quan trọng. Vì vậy ở nông thôn ta rảnh tay, lo giải phóng các ấp xã còn lại, vùng giải phóng được mở rộng. 74
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Chiến thắng Xuân Mậu Thân ở thị xã Vĩnh Long đã góp phần cùng quân dân toàn miền Nam đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn hội nghị Pa-ri. Tuy nhiên, trong không khí sôi động, quyết liệt của những ngày tiến công và nổi dậy, ở thị xã, ta đã bộc lộ hầu hết lực lượng, cơ sở tại chỗ. Nên khi địch phản kích, lực lượng ta còn lại buộc phải rút ra ngoài. Hàng trăm thanh niên, học sinh và các cơ sở quần chúng lao động thoát ly ra cứ. Số ít ở lại trong nội ô thì tạm lắng, không còn điều kiện hoạt động. Trước tình hình khó khăn ác liệt đó, Tỉnh ủy tăng cường thêm cán bộ cho thị xã. Ban Thường vụ họp đề ra chủ trương là phục hồi nhanh chóng phong trào đấu tranh chính trị trong khu vực nội, ngoại ô và củng cố lại hệ thống tổ chức hoạt động trong và ngoài thị xã, phát động làm chuyển biến tư tưởng hướng trở về bám địa bàn thị xã. Chủ trương đề ra không lâu, Đảng bộ thị xã từng bước đã gây dựng lực lượng để tiến công địch bằng ba mũi giáp công, nổi bật là cơ sở cách mạng đã được gây dựng trong lòng địch, ngay trong hàng ngũ địch như ty cảnh sát, tòa hành chính, đại đội công binh, quân cảnh, đồn trưởng, trưởng ấp, phòng vệ dân sự… Địch quyết định đánh phá hòng đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi thị xã. Chiến công của ta ở các đợt Tổng tiến công Mậu Thân đã làm cho nhân dân thêm tin tưởng. Cán bộ luôn tin ở dân, dựa vào dân nên đã khôi phục lại lực lượng, gây dựng lại phong trào mạnh hơn trước. Thể hiện qua các phong trào đấu tranh với địch đã đạt thắng lợi như: chống quân sự hóa học đường của phong trào học sinh, chống đôn quân bắt lính trong thanh niên lao động, chống độc diễn của Nguyễn Văn Thiệu với 4.000 thanh niên và học sinh xuống đường, phong trào phụ nữ đòi quyền sống, đòi được giúp đỡ nữ tù chính trị. Phong trào chống bắt lính của thanh niên và phụ nữ ấp Tân Thuận (cầu Cá Trê), phong trào chống đổi chỗ và tăng thuế của chị em bạn hàng chợ… nổi lên mạnh mẽ và liên tục. Nhìn chung các phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân được cán bộ các cấp lãnh đạo đã diễn ra liên tục và thắng lợi làm cho địch càng lúng túng bị động đối phó. Cùng với đấu tranh chính trị và binh vận, lực lượng vũ trang của ta cũng hiệp đồng chặt chẽ, đánh địch nhiều trận làm tinh thần bọn ngụy suy sụp, rệu rã. Suốt những năm địch bình định sau Mậu Thân, chiến trường thị xã Vĩnh Long vẫn luôn sôi động. Các lực lượng vũ trang của thị xã vẫn luôn luôn đánh những trận đúng đối tượng, đánh đau, đánh hiểm, kìm chân địch ngay tại thị xã, bớt khó khăn cho chiến trường chung. Chiến thắng Mậu Thân 1968 ở thị xã Vĩnh Long là chiến thắng toàn diện, do kết hợp ba mũi giáp công đánh địch có hiệu quả. Lực lượng chính trị luôn đấu tranh làm cho địch ở thế bị động, mà phụ nữ là lực lượng hùng hậu và dũng cảm nhất trong quá trình đấu tranh với địch. Có thể nói trong suốt quá trình kháng chiến chống Mỹ của nhân dân thị xã Vĩnh Long ta đã đề ra phương châm, phương thức tiến hành cách mạng từng thời kỳ, từng giai đoạn và có chủ trương thích hợp. Nhờ vậy ta đã có kinh nghiệm, giành được thắng lợi trọn vẹn, ít tổn thất vào ngày 30 tháng 4 năm 1975./. Đặng Văn Kiệt - Ủy viên Thƣờng vụ, Phó Bí thƣ thƣờng trực Thị xã ủy Vĩnh Long 75
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
08.Những nét chính cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long Cập nhật, 07:17, Thứ Bảy, 02/02/2013 (GMT+7) Hòa cùng với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của cả nước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long đã góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngừng ném bom ở miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán Hội nghị Paris.
Bộ đội pháo binh hiệp đồng tác chiến trên chiến trường miền Nam. Ảnh: Internet Vĩnh Long là một tỉnh thuộc ĐBSCL. Với vị thế nằm giữa sông Tiền, sông Hậu, án ngữ cả hai tuyến giao thông chiến lược thủy, bộ từ miền Tây về Sài Gòn, Vĩnh Long được coi là một tỉnh bản lề của miền Tây. Năm 1968, tỉnh Vĩnh Long về phía ta gồm có 7 huyện và 2 thị xã là Vĩnh Long và Sa Đéc; còn địch tổ chức thành hai tiểu khu là Vĩnh Long và Sa Đéc. Tháng 11/1967, Tỉnh ủy Vĩnh Long họp tại xã An Khánh (Châu Thành B) quán triệt chỉ thị của Khu ủy, đồng thời soát xét lại tình hình của địa phương, vận dụng chủ trương của Khu ủy vào điều kiện cụ thể của tỉnh nhà, chuẩn bị các mặt cho cuộc tổng tiến công với tinh thần thừa thắng xông lên, quyết tâm cao nhất, giành thắng lợi lớn nhất. Tỉnh ủy chủ trương trước hết là làm thông suốt tư tưởng và xây dựng lòng quyết tâm từ trong nội bộ Đảng ra đến quần chúng; mở đợt phát động sâu rộng từ vùng giải phóng đến các vùng yếu, vùng kềm, thị xã, thị trấn nhằm cổ vũ phong trào quần chúng nổi dậy, động viên sức người, sức của cho phía trước; củng cố, bổ sung
76
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
lực lượng vũ trang tập trung, sẵn sàng bước vào chiến dịch mùa khô với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. So sánh về quân số đơn thuần thì khi tiến công vào nội ô thị xã và các thị trấn, thị tứ ở Vĩnh Long là “một đánh ba”. Về binh khí, kỹ thuật thì địch rất hiện đại, chiếm ưu thế tuyệt đối so với ta và địch ở trong hệ thống phòng thủ vững chắc. Tuy nhiên, quân ta ít nhưng tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, có kinh nghiệm tiến công cũng như phòng ngự và đã qua nhiều cuộc đọ sức ác liệt với địch trên chiến trường. Bên cạnh đó, ta còn có những tiềm lực to lớn nhưng không tính được bằng con số, đó là tinh thần yêu nước, chí căm thù của nhân dân, là ý chí quyết tâm đánh giặc và đánh thắng giặc, cùng với sức mạnh tổng hợp to lớn đánh địch bằng “hai chân, ba mũi” trên khắp 3 vùng chiến lược. Ngày 29/1/1968 (30 Tết Mậu Thân), Tiểu đoàn 306 được tổ biệt động dẫn đường vượt qua lộ Cầu Vòng vào Phường 3, tiếp cận và đồng loạt nổ súng tấn công các mục tiêu, chiếm trung tâm thông tin, căn cứ bảo an, Ty Cảnh sát… Cùng lúc Tiểu đoàn 2 chốt chặn ngã ba Cần Thơ; pháo binh và bộ đội ta tiến công làm địch thiệt hại nặng nề, phá hủy hàng chục khẩu pháo của địch. Ở hướng Tây, Tiểu đoàn 857 triển khai thế bao vây sân bay từ 3 hướng, 22 giờ ngày 29/1, lực lượng đặc công tỉnh đã cắt rào, gỡ mìn, luồn sâu vào lòng địch, đánh chiếm khu để máy bay và nhà ga; phá hủy 61 máy bay, trực thăng và 2 chiếc L.19; chỉ còn 2 chiếc tuần tra trên không phải đáp xuống Sân bay Trà Nóc, Cần Thơ. Lực lượng huyện Châu Thành đánh chiếm được bến phà Mỹ Thuận, cắt đứt lộ 4. Mặt khác, để tăng thêm lực lượng cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân ở nội ô, Thị Đoàn Vĩnh Long đã tổ chức đưa 200 đoàn viên, thanh niên trong thị xã bằng cách trà trộn theo số thanh niên, học sinh Trường Tống Phước Hiệp đi dự họp mặt tất niên để tăng thêm sức mạnh cho cuộc nổi dậy. Sáng mùng 1 tết, tiếng súng của ta từ sân bay gầm vang; tiếp đó từ các hướng, các mũi súng nổ dồn dập liên hồi. Tiểu đoàn 308 chiếm được bờ sông Long Hồ, đánh chiếm cầu Thiềng Đức, gây thiệt hại nặng 2 trung đội biệt kích, diệt và bắt sống 40 tên địch. Hơn một giờ chiến đấu, Sân bay Vĩnh Long bỗng chốc ngổn ngang xác giặc Mỹ. Quân ta đã phá hủy 61 chiếc trực thăng, và phá hủy 3 xe M.113. Đêm 31/1/1968 (mùng 2 tết), Tiểu đoàn 306 tiến công làm chủ Ty Bưu điện, Ty Tài chính và Tòa sơ thẩm Vĩnh Long. Một bộ phận khác của biệt động thị xã đột nhập diệt tên trung tá Mỹ CIA đội lốt giáo sư, thu một máy truyền tin, 65.000 đô la và một số tài liệu mật. Trong các ngày từ mùng 2 đến mùng 5 tết, ta vẫn làm chủ và tiếp tục tiến công, tổ chức đánh lấn, chiếm được tòa hành chính, các sở và ty cảnh sát; đồng thời đánh bại hàng chục đợt phản kích, diệt một lực lượng lớn quân địch, hàng chục xe M.113, bắn rơi 5 trực thăng, làm chủ hai phần ba TX Vĩnh Long. Hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào thị xã tổ chức mít tinh, phát động quần chúng làm chướng ngại vật và công sự, cùng bộ đội đánh địch. Ở hướng Tây, bộ đội tỉnh rút ra vùng ven, tiếp tục bao vây, khống chế sân bay, làm chủ bến phà Mỹ Thuận, chặn quân cứu viện từ hướng Sa Đéc xuống. Sau nhiều lần tập trung phản kích thất bại, chiều 31/1/1968, Tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Diệp 77
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
hoảng sợ phải chuồn xuống tàu, sống nương nhờ hải quân Mỹ ngoài sông Cổ Chiên… Bên cạnh những thắng lợi đạt được, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không đạt được như ý định ban đầu đề ra, nhưng thắng lợi Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Vĩnh Long đã đi vào lịch sử tỉnh nhà như một nét vàng son chói lọi, là bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của tỉnh nhà. Thắng lợi Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Vĩnh Long thể hiện rõ nhiệt tình cách mạng với tinh thần “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” của quân và dân Vĩnh Long. Càng tự hào về truyền thống đấu tranh của dân tộc Việt Nam, Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Long càng nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ; nhất là trong giai đoạn hiện nay, quyết tâm cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế vững mạnh, thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng và văn minh”. Tóm lại, qua cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 (từ 30/1 đến tháng 5/1968), ta loại khỏi vòng chiến đấu 11.180 tên Mỹ và chư hầu, bắt sống 380 tên ngụy, đánh thiệt hại nặng thiết đoàn 2 xe bọc thép M.113, phá hủy 37 xe quân sự và 4 khẩu pháo 105 ly, phá hủy trên 60 máy bay trực thăng, giải phóng 15 xã, 319 ấp… Lần đầu tiên ở ĐBSCL, ta đánh chiếm được thị xã làm chủ 6 ngày đêm./. NGỌC MINH Theo http://www.baovinhlong.com.vn
11.Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 ở Vĩnh Long Sau khi đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966 – 1967 của Mỹ và quân đội chính quyền Sài Gòn, lực lượng vũ trang giải phóng có nhiều kinh nghiệm và tiến bộ, quân và dân miền Nam vô cùng phấn khởi trước những thắng lợi dồn dập trên khắp các chiến trường… tạo khí thế mới, trong khi đó, quân và dân miền Bắc cũng đánh trả có hiệu quả những cuộc ném bom, bắn phá bằng hải quân và không quân của quân Mỹ, bắn rơi nhiều máy bay hiện đại, bắt sống nhiều phi công Mỹ… Những thắng lợi của quân và dân ở hai miền Nam, Bắc và thất bại của quân Mỹ, đặt Mỹ trước sự bế tắc về chiến lược cũng như về chiến thuật, chi phí cho chiến tranh ở Việt Nam càng tăng, nhiều tốn kém… tất cả đều dựa vào tiền đóng thuế của nhân dân Mỹ, nền kinh tế Mỹ bị suy thoái, nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, nội bộ giới cầm quyền Mỹ dao động, chia rẽ. Tháng 11-1967, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ M.Namara xin từ chức vì cảm thấy cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam không có lối thoát, không thể hoàn thành nhiệm vụ, không tìm được giải pháp mang lại chiến thắng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. 78
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tháng 12-1967, Bộ Chính trị đánh giá tình hình “đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”, “địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước”. Bộ Chính trị quyết định chuyển cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới thời kỳ “giành thắng lợi quyết định” và xác định nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của cuộc cách mạng miền Nam là “động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”, với những mục tiêu chiến lược sau đây: “Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành được toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ… buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc và… đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới thống nhất nước nhà”. Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 12-1967 đã được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng biểu quyết thông qua tháng 1-1968. Về phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trong kế hoạch “ba giai đoạn” vạch ra từ năm 1965 không đạt được và đến đây bị phá sản “buộc phải điều chỉnh lại” (thú nhận của Westmoreland trong cuốn “Tường trình của một quân nhân”). Tuy nhiên, các bộ máy quân sự trực tiếp chỉ huy và chỉ đạo chiến tranh, bao gồm bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam (MACV), Bộ Tư lệnh quân Mỹ ở Thái Bình Dương và Bộ Tham mưu liên quân Mỹ vẫn cay cú và tiếp tục hò hét tăng cường chiến tranh, tiếp tục làm áp lực lên chính quyền Johnson phải tăng thêm quân, tăng thêm viện trợ quân sự. Ngày 22-6-1967, Tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, tướng Westmoreland đã công khai nêu rõ bản chất cuồng chiến của tập đoàn quân sự Mỹ trong tình thế bị sa lầy: “chúng ta đã đi đến chỗ mà tất cả binh mã nhà vua cũng không thể bắt chúng ta thay đổi chỗ đứng” và đề nghị với chính quyền Mỹ hai phương án tăng quân Mỹ: “Tối thiểu tăng 2 sư + 1 lữ, đưa tổng quân số Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ 470.000 (cuối năm 1967) lên 550.000 quân vào năm 1968. Tối ưu tăng 4 sư +1 lữ, đưa tổng số quân Mỹ là 600.000 quân để có đủ sức đánh sang nước Lào và Campuchia. Nếu chấp nhận phương án một thì phải mất 5 năm nữa (đến năm 1972) chiến tranh mới kết thúc; nếu chấp nhận phương án hai, chỉ trong vòng 3 năm nữa (đến năm 1970) là kết thúc được chiến tranh”. Trong khi đó, tại cuộc họp ở đảo Guam, Nguyễn Cao Kỳ (Phó Tổng thống ngụy) và Cao Văn Viên (Tổng Tham mưu trưởng ngụy) đồng thanh đề nghị Tổng thống Mỹ Johnson cho phép xua bộ binh ra Bắc Việt Nam “không phải nhằm mục tiêu xâm chiếm quy mô lớn, mà cốt sao cắm cho được một số căn cứ theo kiểu căn cứ C và Đ của cộng sản ở Nam Bộ để cầm chân quân Bắc Việt Nam, dựa vào đó làm bàn đạp hoạt động chính trị tập hợp các bộ phận chống cộng ở miền Bắc”. Nhưng cuối cùng, Tổng thống Mỹ Giônxơn quyết định tăng thêm 55.000 quân bằng hai sư đoàn, đưa tổng quân số Mỹ từ 470.000 lên 525.000, coi đây là con số tối đa cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam, bác bỏ phương án 600.000 quân, bác bỏ đề nghị dùng bộ binh đánh miền Bắc của Nguyễn Cao Kỳ.
79
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Với quân số được tăng viện, chủ yếu được bố trí ở miền Đông Nam Bộ lên vòng cung bắc Sài Gòn hình thành thế chuẩn bị xuất phát tấn công, mở một số cuộc hành quân… Giữa lúc đó, Mỹ - chính quyền Sài Gòn phát hiện lực lượng quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam đang có những di chuyển quân lớn theo hướng áp sát Sài Gòn, làm cho địch từ ý định và thế trận tấn công phải nhanh chóng thay đổi thành ý định và thế trận phòng ngự trước khi bộ đội giải phóng nổ súng “tổng tấn công Tết Mậu Thân”. Đêm 30 rạng 31-1-1968, lực lượng quân giải phóng bất ngờ nổ súng tấn công vào Sài Gòn và hầu hết các thành phố, thị xã khác trên toàn chiến trường miền Nam, kết hợp lãnh đạo quần chúng nông thôn nổi dậy phá rã bộ máy kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn. Sài Gòn được chọn làm trọng điểm quyết chiến chiến lược của cuộc tổng tấn công trên toàn miền Nam. Ở tỉnh Vĩnh Long, thực hiện chủ trương của Đảng đánh mạnh vùng đô thị và vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, phối hợp với chiến trường chung, ngay từ đầu năm 1967, Tỉnh ủy thành lập Ban Chỉ đạo công tác đô thị, tuyển chọn cán bộ, đảng viên và cơ sở có điều kiện “cấy” ra thị xã, thị trấn và vùng kìm. Lợi dụng tình hình địch “tát dân”, gom dân ra “ấp tân sinh”, “ấp đời mới”, từng đảng bộ địa phương tổ chức đưa cán bộ tạo “thế hợp pháp”, gây dựng cơ sở ở đô thị, cài cắm một số cán bộ đặc công, trinh sát ra đô thị… Ở chiến trường miền Tây Nam Bộ, Khu ủy điều động cán bộ tăng cường cho hai đô thị trọng điểm là Cần Thơ và Vĩnh Long. Tháng 6-1967, ông Trịnh Văn Lâu (Tư Cẩn) đang là Phó ban thường trực Ban Binh vận khu Tây Nam Bộ, được điều về làm Bí thư Thị ủy Vĩnh Long. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long cũng điều động ông Lê Quang Viễn (Bảy Nguyễn) – Tỉnh ủy viên, Chỉ huy phó kiêm Tham mưu Trưởng Tỉnh đội Vĩnh Long; ông Quốc Trung – cán bộ quân báo Khu Tây Nam Bộ, về bám trụ thị xã Vĩnh Long điều nghiêng chuẩn bị chiến trường. Ngoài ra, nhiều cán bộ, đảng viên khác của các ban ngành, đoàn thể của tỉnh cũng được tăng cường cho thị xã Vĩnh Long và các vùng ven. Khu ủy cũng quyết định đưa chín xã vùng ven sáp nhập vào thị xã Vĩnh Long hình thành khu vực trọng điểm số hai của khu, lập Phân ban Khu ủy tại Vĩnh Long – Trà Vinh, đưa trung đoàn chủ lực của khu (Trung đoàn 3) về hoạt động mở rộng địa bàn liên hoàn của hai tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh. Tháng 11-1967, ông Nguyễn Ký Ức, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, chủ trì cuộc họp Tỉnh ủy để xem xét tình hình trong tỉnh về việc vận dụng chủ trương của Trung ương và Khu ủy vào điều kiện cụ thể của tỉnh nhà, chuẩn bị các mặt cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa khô 1967-1968 với tinh thần quyết tâm cao nhất để giành thắng lợi lớn nhất. Tỉnh ủy chủ trương mở một đợt tuyên truyền phát động, họa tập sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, cổ vũ, động viên phong trào quần chúng đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Củng cố, bổ sung lực lượng, nhất là lực lượng vũ trang tập trung sẵn sàng tư thế bước vào chiến dịch với tinh thần quyết thắng. Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với tinh thần “tất cả để đánh giặc, tất cả để chiến thắng”; phong trào thanh niên tòng quân tăng gấp đôi, gấp ba lần so với trước đó. Ở các huyện Tam Bình, Vũng Liêm, Trà Ôn, thanh niên nô nức lên đường tòng quân. Điển hình ở huyện Tam 80
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Bình trong một đợt vận động có gần 1.000 thanh niên đăng ký tòng quân tham gia lực lượng vũ trang. Xã Hòa Hiệp (thuộc huyện Tam Bình) chỉ trong một tuần lễ phát động đã thành lập được một đại đội tập trung, đưa về huyện hai trung đội. Ở huyện Vũng Liêm, trong một đợt phát động có trên 800 thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang, đủ để thành lập ba đại đội của địa phương quân huyện và sẵn sàng bổ sung cho lực lượng cơ động tỉnh. Huyện cũng rút 50% lực lượng du kích các xã để thành lập hai tiểu đoàn cho huyện, ngoài ra, còn có hàng ngàn thanh niên nam, nữ khác đi dân công hỏa tuyến. Ở huyện Trà Ôn, khi có ba đại đội địa phương quân huyện được đưa lên tỉnh thì huyện lại thành lập ba đại đội địa phương quân mới của huyện. Ở các huyện Cái Nhum (nay là Mang Thít), Châu Thành, Bình Minh, mỗi huyện thành lập được từ hai đến ba đại đội và mỗi huyện có nhiệm vụ đưa về tỉnh một đại đội để bổ sung cho Trung đoàn 3 (chủ lực khu) và thành lập thêm tiểu đoàn thứ hai của tỉnh. Ngoài việc đóng góp sức người, nhân dân còn đóng góp sức của với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để giành thắng lợi”. Chỉ trong đợt vận động mùa khô 1967-1968, tỉnh huy động được trên 1.000 tấn lương thực, trong đó các huyện Tam Bình, Vũng Liêm và Trà Ôn đóng góp nhiều nhất. Đi đôi với cuộc vận động xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, Tỉnh ủy chú trọng lãnh đạo củng cố lực lượng chính trị, tăng cường công tác binh – địch vận để phối hợp với lực lượng vũ trang tấn công và nổi dậy phá ách kìm kẹp, tự giải phóng khi có thời cơ. Thị xã Vĩnh Long được Khu ủy Khu Tây Nam Bộ chọn làm trọng điểm hai của chiến dịch (thành phố Cần Thơ là trọng điểm một). Khu ủy cử ông La Lâm Gia (Bảy Máy) Thường vụ Khu ủy, ông Nguyễn Hoài Pho – (Ba Mai) Khu ủy viên, Tư lệnh Phó Quân khu, ông Phạm Văn Kiết (Năm Vận) – Khu ủy viên, Phó ban Tuyên huấn khu cùng một số cán bộ quân sự về chỉ đạo địa bàn của hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Mục tiêu là đánh chiếm thị xã Vĩnh Long. Lực lượng tham gia gồm: Tiểu đoàn 306, Tiểu đoàn 308 và một bộ phận pháo binh của quân khu, hai tiểu đoàn của tỉnh Vĩnh Long, cùng các đại đội địa phương quân của các huyện Châu Thành, Tam Bình, Trà Ôn. Ngày 28-1-1968, Ban Chỉ huy mặt trận được thành lập, lấy tên là “Mặt trận Cửu Long”, do ông Nguyễn Hoài Pho làm Chỉ huy trưởng, ông La Lâm Gia làm Chính ủy, ông Nguyễn Đệ (Ba Trung) làm Chỉ huy phó, Tham mưu trưởng kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306 của Trung đoàn 3 quân khu, ông Bùi Như Nho (Tám Xuân) làm Phó Chính ủy, ông Nguyễn Ký Ức, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long và ông Nguyễn Đáng (Năm Trung), Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh làm ủy viên. Tuy nhiên, ngày giờ tấn công còn tuyệt đối bí mật, Ban Chỉ huy mặt trận vẫn chưa biết nên quân chủ lực chưa có sự chuẩn bị tiếp cận các mục tiêu tấn công thị xã Vĩnh Long mà vẫn hoạt động bình thường, đánh địch ở nông thôn và vùng ven thị xã. Ngày 19-1-1968, Tiểu đoàn 306 phục kích trên lộ liên tỉnh số 7 (nay là quốc lộ 53) diệt một tiểu đoàn xe 30 chiếc chở Tiểu đoàn 1 và Sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn 16 (Sư đoàn 9 ngụy). Ngày 24-1-1968, Tiểu đoàn 306 lại phục kích ở Ba Càng trên quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1A) diệt 25 xe và 250 lính, sĩ quan ngụy trên 81
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
đường từ Cần Thơ về Vĩnh Long. Từ ngày 25 đến ngày 27-1-1968, Tiểu đoàn 306 vẫn còn đang đánh địch đi càn quét ở Lông Công xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình, diệt 200 lính, bắn cháy 5 xe M113. Công tác tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong toàn Khu Tây Nam Bộ cũng như của tỉnh Vĩnh Long được thực hiện rất khẩn trương, nhưng vì phải tuyệt đối giữ bí mật nên nhiều vấn đề cụ thể không được bàn, hơn nữa cũng chưa được biết ngày, giờ nổ súng. Theo quy định, Trung ương Cục biết trước ngày giờ nổ súng mười ngày, các khu ủy năm ngày, các tỉnh ủy ba ngày. Các đơn vị cấp lữ đoàn, tiểu đoàn trực tiếp tấn công vào các mục tiêu chỉ được phổ biến lệnh trước một hoặc hai ngày. Vì vậy, những lực lượng và các địa phương đang triển khai đợt tấn công trước Tết Nguyên đán và lo tổ chức ăn Tết với đồng bào. Một số đơn vị còn ở xa chưa tiếp cận mục tiêu, các đơn vị hậu cần tiền phương và các đơn vị đi nhận vũ khí, đạn dược đang trên đường vận chuyển chưa về kịp. Ngày, giờ quy định tấn công lại lấy theo ngày âm lịch (vì những ngày cận Tết ta thường lấy ngày âm lịch để dễ nhớ), do vậy có sự không thống nhất giờ tấn công giữa miền Trung và miền Nam. Trung Nam Bộ thì nổ súng theo lịch mới, còn Nam Bộ thì cũng nổ súng ngay ngày 30 Tết nhưng theo lịch cũ (lịch mới sớm hơn lịch cũ một ngày). Khu Trị Thiên, Khu 5 và Tây Nguyên nổ súng sớm hơn một ngày vì vậy quân địch ở Nam Bộ có sự đề phòng, hủy bỏ lệnh ngừng bắn trong ba ngày Tết, gọi binh sĩ trở về doanh trại và tăng cường phòng thủ, chuẩn bị đối phó các cuộc tấn công. Nhưng địch ở Vùng IV chiến thuật chủ quan cho rằng, quân cách mạng chỉ tấn công theo như thường lệ, Vùng I chiến thuật mới là chiến trường chính. Chính vì vậy mà sự canh phòng của địch ở đây cũng thiếu chặt chẽ nên lực lượng quân giải phóng tiếp cận được mục tiêu đã chọn và kịp nổ súng cùng với Sài Gòn và chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, ở Vĩnh Long cũng nổ súng chậm hơn các nơi khác. Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân Vĩnh Long đánh chiếm các mục tiêu đã định và tổ chức đánh địch phản kích trong nội ô thị xã suốt 6 ngày đêm. Cụ thể diễn biến như sau: Đúng 1 giờ 30 phút, sáng ngày 1-2-1968 (tức đêm 30 rạng mùng một Tết), Tiểu đoàn 1 (tức Tiểu đoàn 857) tỉnh Vĩnh Long phối hợp cùng đại đội đặc công của tỉnh đánh chiếm sân bay Vĩnh Long và một phần trận địa thiết giáp M113, phá hủy 62 máy bay (phần lớn là trực thăng), 1 chi đoàn xe thiết giáp M113. Tiểu đoàn 2 của tỉnh (Tiểu đoàn mới được thành lập) cùng với một đại đội của Tiểu đoàn 306 quân khu đánh chiếm một phần quận mới, pháo kích vào tiểu đoàn pháo binh của địch ở Ngã tư Long Hồ, phá hủy nhiều khẩu pháo 105 và 155 ly. Đại đội địa phương quân của Châu Thành A chiếm khu vực ngã ba Cần Thơ (phường 2), cắt đứt quốc lộ 4 và liên tỉnh lộ 7 (nay là quốc lộ 53) đi Trà Vinh. Cán bộ và đội vũ trang của Ban Binh vận tỉnh cùng Đại đội 2 của huyện Châu Thành B yểm trợ cho đại đội dân vệ và cảnh sát ở bến phà Mỹ Thuận khởi nghĩa làm chủ khu vực bến phà, làm tê liệt phà Mỹ Thuận trong nhiều ngày. Tiểu đoàn 306 tấn công ở phía nam thị xã, hướng phường 3, chiếm khu miếu Bảy Bà (khu vực trường Lê Quý Đôn và Ủy ban nhân dân phường 1 hiện nay) và đánh chiếm khu vực truyền tin ở trại Hoa Lư (Xí nghiệp Công ty may Vĩnh Tiến hiện
82
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
nay), khống chế Dinh tỉnh trưởng (hiện là khu Bảo tàng tỉnh), Ty Cảnh sát và Tiểu đoàn bảo an số 46. Tiểu đoàn 308 quân khu tiến công từ phía bắc thị xã thuộc khu vực phường 5 nhưng không qua được sông Long Hồ, chỉ có một bộ phận nhỏ khoảng 50 chiến sĩ vượt được sông, chiếm khu vực Trường Tống Phước Hiệp (nay là Trường Trung học phổ thông Lưu Văn Liệt), địch phản kích mạnh, ta bị thiệt hại, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 308 hy sinh. Tiểu đoàn phải phòng ngự bên kia cầu Thiềng Đức, hợp đồng với Tiểu đoàn 306 đang trong nội ô để đánh địch phản kích. Sáng hôm sau (1-2-1968), tức mùng 2 Tết, địch điều động Tiểu đoàn 43 biệt động quân đóng tại khu vực Trường Trung học Y tế hiện nay kéo vào nội ô chi viện bị ta chặn đánh tại đầu cầu Khưu Văn Ba (nay là cầu Phạm Thái Bường), diệt trên 100 tên địch, số còn lại tháo chạy về căn cứ. Quân giải phóng tổ chức bao vây, tiêu diệt số quân còn lại của tiểu đoàn này. Tiểu đoàn 306 chuyển qua phía tây thị xã, đánh chiếm một số điểm và chặn đứng sáu đợt phản kích của địch, diệt hơn 1.000 quân địch, bắn cháy 13 xe M113. Ngày 2 và 3-2-1968 (mùng 3 mùng 4 Tết), quân giải phóng chiếm từng khu vực, chiếm các cao ốc khống chế địch quân, làm chủ 2/3 nội ô thị xã, đánh bại hàng chục cuộc phản kích của đối phương, bắn cháy 15 xe M113, bắn rơi 5 trực thăng, phát động quần chúng cùng với bộ đội dựng chướng ngại vật, làm tiếp tế, cứu thương, tải thương… Ngày 4-2-1968 (mùng 5 Tết), địch dùng trực thăng bắn súng phun lửa hủy diệt các khu phố do bộ đội chiếm giữ, ném bom xuống các trận địa cầu Kinh Cụt, cầu “Công xi heo”, đường Lê Thái Tổ và một số nơi khác cả trong và ngoài nội ô thị xã. Địch tập trung quân còn lại và xe thiết giáp M113 phản kích. Quân giải phóng quyết tâm giữ vững trận địa, vừa đập lửa bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, cứu chữa những người bị thương vừa tổ chức chiến đấu đẩy lùi từng đợt phản kích của đối phương. Tiểu đoàn 306 được bổ sung quân phối hợp với lực lượng địa phương tiếp tục đánh chiếm các nơi còn lại trong thị xã. Ngày 5-2-1968 (mùng 6 Tết), Mỹ cho chi viện, dùng trực thăng đổ hai tiểu đoàn của Lữ đoàn 2, Sư đoàn 9 lính Mỹ xuống phía nam thị xã. Đến nửa đêm, Tiểu đoàn 306 tập kích hai cụm quân Mỹ đóng ở phía nam cầu Cá Trê (phường 3) làm thiệt hại một số quân Mỹ. Trước tình hình quân Mỹ được tung vào yểm trợ cho quân ngụy quyết tâm chiếm lại thị xã Vĩnh Long, Ban Chỉ huy trọng điểm 2 quyết định cho lực lượng có nhiệm vụ chiếm thị xã rút ra vùng ven tiếp tục bao vây thị xã. Như vậy, trong đợt Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang quân giải phóng đánh chiếm và làm chủ thị xã Vĩnh Long liên tục 6 ngày đêm. Trong đọt này, ta loại khỏi vòng chiến đấu 5 tiểu đoàn với trên 5.000 lính của quân đội Sài Gòn, tiêu diệt và làm tan rã 1.200 cảnh sát, trên 1.000 dân vệ, bắn cháy 25 xe M113, bắn chìm 10 tàu, phá hủy 8 khẩu pháo và hàng chục xe quân sự khác, phá hủy và bắn rơi 67 máy bay, thu 500 súng các loại. Quân và dân khắp các huyện trong tỉnh nổi dậy bức hàng, bức rút hàng loạt đồn bốt ở nông thôn và vùng ven thị xã, thị trấn, giải phóng và làm chủ hầu hết các vùng nông thôn.
83
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Sau khi rút ra bám trụ vùng ven, Tiểu đoàn 312 và một bộ phận của Tiểu đoàn 306 cùng hai tiểu đoàn của tỉnh Vĩnh Long chặn đánh Trung đoàn 15, Sư đoàn 9 ngụy, yểm trợ cho các huyện Châu Thành, Sa Đéc, Lấp Vò, Bình Minh lãnh đạo quần chúng tiếp tục nổi dậy làm chủ nông thôn. Tiểu đoàn 306 bám trụ tại xã Phước Hậu đánh địch phản kích, yểm trợ lực lượng địa phương giải phóng vùng ven thị xã. Tiểu đoàn 308 yểm trợ lực lượng địa phương và quần chúng các huyện Cái Nhum, Vũng Liêm và tuyến sông Măng Thít, đồng thời chuẩn bị lực lượng tấn công thị xã Sa Đéc vào cao điểm 2 của đợt 1. Ngày 20-5-1968, Bộ Tư lệnh Quân khu miền Tây ra lệnh tấn công thị xã đợt 2. Trong khi địch tăng cường phòng thủ, quân số ta bị thiệt hại trong tấn công đợt 1 chưa được bổ sung và huấn luyện đầy đủ, hệ thống phòng thủ của địch ngày càng kiên cố, không còn yếu tố bất ngờ, song các đơn vị của Trung đoàn 3 quân khu cũng luồn sâu vào đánh địch ở vùng ven. Tiểu đoàn 306 phục kích diệt một đại đội biệt kích ở xã Phước Hậu. Địch đưa hai tiểu đoàn cùng với xe thiết giáp M113 phản kích, Tiểu đoàn 308 chặn đánh địch ở Kỳ Hà gây cho chúng nhiều thiệt hại. Tiểu đoàn 2 của tỉnh, sau cao điểm 2 của đợt 1, trụ lại ở vùng ven sông Hậu, Lấp Vò để yểm trợ quần chúng nổi dậy phá kìm, diệt ba đồn ở xã Tân Thành, Định Yên. Sau đó trở về “vùng chữ V”. Tháng 4-1968, Tiểu đoàn 857 chuyển lên Lấp Vò đứng chân trên tuyến sông Tân Dương, lấn sát ra thị xã Sa Đéc hỗ trợ cho hai huyện Lấp Vò, Lê Hà bức, diệt đồn bốt, mở tuyến sông Tân Dương. Tiểu khu Sa Đéc được phi pháo, máy bay bắn yểm trợ mở các cuộc hành quân giải tỏa cho đồn bốt, chiếm lại các vị trí đã mất, bị quân giải phóng đánh trả quyết liệt. Địch dùng máy bay B52 trút bom rải thảm xuống vùng đất này, sau đó cho Trung đoàn 15, Sư đoàn 9 cùng 40 xe thiết giáp M113 mở cuộc hành quân phản kích vào đội hình Tiểu đoàn 857 quân giải phóng. Lực lượng quân giải phóng bẻ gãy nhiều cuộc tiến công của đối phương, bắn cháy 4 xe M113, phá hủy 4 xe khác, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn lính ngụy. Trong một tháng bám trụ trên tuyến sông Tân Dương (vùng ven thị xã Sa Đéc) Tiểu đoàn 857 đánh hơn 40 trận lớn nhỏ, diệt trên 1.000 địch, căng địch ra trên chiến trường toàn tỉnh, hỗ trợ đắc lực cho cuộc tấn công đợt 2 trên toàn chiến trường miền Tây Nam Bộ. Qua ba đợt tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 (từ ngày 30-1 đến tháng 5-1968), quân và dân tỉnh Vĩnh Long loại khỏi vòng chiến đấu trên một vạn tên địch (trong đó chết và bị thương hơn 9.000 tên, có trên 900 lính Mỹ và đồng minh, bắt 380 tên địch) đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 14 và 16 của sư đoàn 9, Tiểu đoàn biệt động quân 43 bị mất sức chiến đấu, phần lớn “phòng vệ dân sự” bị tan rã, diệt 2 đại đội biệt kích 5 và 6, làm tan rã bộ máy cảnh sát, đánh thiệt hại nặng thiết đoàn 2 xe thiết giáp M113, phá hủy 37 xe quân sự, trong đó có 15 xe M113, phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly, diệt 1 hạm đội sửa chữa và 1 pháo hạm, phá hủy trên 65 máy bay, đa số là trực thăng, bắn chìm 50 tàu, giang đoàn 24 hải quân bị thiệt hại nặng, bức hàng, bức rút và tiêu diệt 119 đồn bốt, giải phóng 15 xã, 319 ấp và trên 300.000 dân. Lần đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng vũ trang giải phóng đánh chiếm và làm chủ thị xã Vĩnh Long liên tục 6 ngày đêm.
84
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Song, về phía quân giải phóng cũng bị tổn thất lớn, 402 cán bộ, chiến sĩ y sinh, trong đó có cán bộ tiểu đoàn (2 tiểu đoàn trưởng), 500 người bị thương, 10 người bị bắt, 16 người bị mất tích, mất 213 khẩu súng các loại. Mặc dù cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam chưa đạt được mục tiêu chiến lược một cách trọn vẹn như Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị đề ra, nhưng trong thực tế ngay trong đợt đầu của cuộc tấn công (từ ngày 31-1 đến cuối tháng 2-1968) đã làm đảo lộn mọi mưu toan của Mỹ Thiệu trên chiến trường, gieo tâm lý thất bại sâu sắc trong hàng ngũ địch kể cả Mỹ và ngụy, làm cho chính phủ Mỹ tuyệt vọng, chán chường, mâu thuẫn giữa nhân dân Mỹ và Chính phủ và mâu thuẫn trong nội bộ của giới cầm quyền thêm sâu sắc đến mức không thể điều hòa được, buộc Chính phủ Mỹ không thể không thay đổi về chính sách chiến tranh ở Việt Nam./. Theo sách “Địa chí Vĩnh Long – Tập 2” – NXB Chính trị quốc gia 2017. Kho Địa chí: 959.787 – DV.005295
12.Khúc tráng ca Xuân Mậu Thân 1968 Cập nhật, 08:01, Thứ Ba, 02/02/2016 (GMT+7) Dù lịch sử đã sang trang, đất nước bước vào thời hội nhập nhưng vết thương chiến tranh vẫn còn đọng mãi với thời gian! Và ở đâu đó trên khắp các nẻo đường đất nước, từ rừng sâu cho đến hải đảo xa xôi, hài cốt của một số chiến sĩ hy sinh vì Tổ quốc đến nay vẫn chưa tìm thấy được! Đây là một sự đau xót to lớn cho cả dân tộc.
Nhà bia tưởng niệm 35 liệt sĩ hy sinh trong sân bay Vĩnh Long. Ảnh: Đặng Văn Gần 40 năm đất nước hòa bình, các đồng đội, người thân của các anh vẫn ngày đêm gắng công tìm kiếm, chỉ mong quy tập được hài cốt các anh về nghĩa
85
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
trang liệt sĩ, cho các anh được yên nghỉ thanh thản trong tình yêu thương của người thân, đồng đội, đồng bào! Trong những tháng ngày này, tôi đã vô cùng xúc động khi được nghe kể về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Đại đội Đặc công và Đại đội 203 Tiểu đoàn 857 trong trận Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 ở sân bay Vĩnh Long. Trận chiến như một bản anh hùng ca đầy tự hào của người dân nơi đây! *** Đúng 7 giờ sáng 29 Tết Mậu Thân 1968, đồng chí Bảy Ca (Dương Văn Ca) Đại đội trưởng Đại đội Đặc công tỉnh Vĩnh Long lúc bấy giờ nhận được lệnh chuẩn bị Tổng tấn công. Được lệnh, đồng chí như ngồi trên chảo lửa. Mấy hôm trước, đồng chí đã cho một số anh em trong Đại đội về quê ăn tết, bây giờ tập hợp anh em lại, thời gian chỉ có một ngày không biết họ có về kịp không? Nhưng cả đại đội đã mong đợi trận đánh này lâu lắm rồi, nhất định không thể vắng mặt một người nào. Đồng chí Bảy Ca quyết tâm phải tập hợp cho được anh em. Cuộc triệu tập khẩn cấp được ban ra: Anh em bằng đủ mọi cách nội trong ngày phải tập kết về căn cứ đóng tại xã Tân Nhuận Đông (huyện Châu Thành). Tội nghiệp các đồng chí ở xa vừa nghe tin đã vội vã lên đường. Mặc cho không khí ngày xuân đã lan tỏa khắp nơi. Trong những ngày này, tuy giáp tết nhưng máy bay địch vẫn quần đảo liên tục, dưới đất quân tuần tra chặn khắp các ngả đường. Các đồng chí phải vất vả tìm đường tắt, an toàn mà đi. Lúc thì đi bộ, có lúc phải lội dưới mương, máy bay địch đến thì ngụy trang cành, lá trên đầu, có đồng chí chèo chống không ngưng nghỉ chỉ mong về kịp giờ. Đến 1 giờ trưa, hầu như tất cả đã có mặt đầy đủ tại căn cứ. Sau khi anh em đã ổn định tinh thần và sức khỏe, đồng chí Chính ủy Tỉnh đội Trịnh Văn Long (Bảy Hoàng) tổ chức một buổi nói chuyện ngắn gọn nhằm động viên tư tưởng cho anh em: Tất cả các chiến sĩ phải biết đây là một trận đánh lớn “trận đánh sinh tử”, có thể một đi không trở lại. Hy sinh bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm và cũng là niềm vinh dự của mỗi chiến sĩ. Vì vậy khẩu lệnh trận đánh là: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đến 6 giờ chiều, Đại đội Đặc công hành quân đến xã Tân Hạnh tập kết tại vườn nhà cô Thu Hương- một cơ sở mật của ta. Tất cả chiến sĩ Đại đội Đặc công có nhiệm vụ mở đường, phối hợp với Tiểu đoàn 857 đánh tiêu diệt tất cả các phương tiện chiến đấu của địch, không cho máy bay địch cất cánh, thọc sâu vào đầu não của địch. Nhiệm vụ quả là gian nan và nguy hiểm đối với toàn đại đội. Trước giờ lên đường, các chiến sĩ đều mang cùng một tâm trạng: quyết chiếnquyết tử. Trong lòng mỗi người, ai cũng nghĩ một đi không trở lại. Những ánh mắt nhìn nhau như muốn lưu giữ mãi giây phút quyết tử này. Những chiến sĩ của ta mang trong lòng khí thế tiến công cũng như lòng yêu nước hừng hực trong huyết quản, bất chấp nguy hiểm, khó khăn. Với tuổi 20 đầy sức sống, quyết đánh một trận tiêu diệt hết bọn cướp nước và bè lũ tay sai giành lại độc lập tự do cho dân tộc. 86
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Trước giờ phút hiểm nguy nhưng tràn ngập niềm tin quyết thắng, mọi người vui vẻ đề nghị Đại đội trưởng cho uống chút rượu xem như mừng chiến thắng (có thể các đồng chí linh tính trong trận chiến thập tử nhất sinh này sẽ có người không về được để mừng ngày thống nhất nên muốn cùng được uống rượu mừng với nhau trước giờ phút thiêng liêng này!) nhưng đồng chí Nguyễn Văn Út (Mười Quẹo quản lý Tiểu đoàn 857- đơn vị phối hợp trực tiếp với đại đội đặc công chỉ đồng ý cho uống một xị, vì sợ ảnh hưởng đến giờ ra trận. Đồng chí Mười Quẹo hứa: “Khi nào chiến thắng trở về, sẽ đãi anh em một lít rượu đế và một cây thuốc Rubi”. Lời hứa như một sự ước hẹn, cầu mong tất cả anh em sẽ bình an trở về gặp nhau cùng uống rượu mừng và cùng hát khúc khải hoàn! Tất cả xuồng ghe, quần áo các chiến sĩ Đại đội Đặc công đều để lại, chỉ mặc độc một chiếc quần đùi. Một số đồng chí còn thoa bùn đen lên khắp người để tránh ánh đèn pha của địch. Thậm chí còn đội nón ép sát đầu, loại nón không vành được nhuộm đen bằng bột than cạo ra từ pin đèn hỏng, toàn thân từ trên xuống dưới phải đen đặc để ngụy trang hòa với bóng đêm, để địch không phát hiện được. Đúng 9 giờ, Đại đội Đặc công và Đại đội 203 của Tiểu đoàn 857 bắt đầu hành quân vào sân bay. Muốn vào được bên trong sân bay thật không phải chuyện dễ. Đèn pha địch quét liên tục, khoảng nửa tiếng thì có lính đi tuần. Các chiến sĩ đặc công phải ém quân thật kỹ. Vào ra được tính toán chính xác từng giây để không bị địch phát hiện. Các chiến sĩ đặc công vừa phải dò mìn, vừa phải cắt các vòng rào bao quanh sân bay. Có cả thảy 28 vòng rào. 27 vòng ngoài được bọn chúng thiết kế theo kiểu mái nhà. Giống như hình Kim tự tháp, từ trên đỉnh đổ xuống 2 bên là 2 lớp rào, chính giữa thêm một lớp, tính ra một vòng rào có cả thảy 3 lớp. 27 vòng là 81 lớp rào! Còn vòng cuối cùng chỉ có một lớp. Tổng cộng ta phải cắt 82 lớp rào. Các chiến sĩ đặc công đã được huấn luyện thành thạo, các anh tiến hành dùng kềm cắt từng lớp, từng lớp một. Cắt ngang rồi cắt dọc xuống, chỗ cắt vừa đủ cho một người chui vào. Cắt xong các anh dùng móc nối lại, ngụy trang như cũ, sau đó làm dấu, chờ khi quân ta tiến vào mới giở lên, nhằm tránh bị địch sớm phát hiện. Đến 12 giờ, Đại đội Đặc công cùng với Tiểu đoàn 857 đã chiếm lĩnh tất cả các nơi trọng yếu trong sân bay. Chỉ chờ giờ G là tấn công. Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho hướng tấn công sân bay Vĩnh Long được phát lệnh tấn công đầu tiên, sau đó các hướng khác sẽ đồng loạt tiến công. Cây kim cứ nhích dần, nhích dần trong sự hồi hộp, chờ đợi của mọi người, đơn vị phải chờ các hướng khác tiếp cận mục tiêu. 3 giờ sáng ngày mùng 1 Tết Mậu Thân. Giờ G đã đến. Pháo lệnh nổ vang. Các chiến sĩ dùng bộc phá đánh mở đường vào sân bay. Tất cả tiến công như vũ bão. Quân ta như từ trên trời rơi xuống. Địch trở tay không kịp. Trong sân bay, Tiểu đoàn bộ binh ngụy bị đánh tơi tả. Mặc dù trận chiến diễn ra không cân sức. Một đánh ba nhưng quân ta vẫn làm chủ tình hình. Phá hủy 63 máy bay và trực thăng tại chỗ, ngăn không cho chúng kịp 87
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
cất cánh. Ở đường băng thứ 2, trận chiến diễn ra thật ác liệt. Nhà xe, máy móc, nhiên vật liệu đều tập trung ở đây. Quân ta tiêu diệt nhanh, gọn kho đạn dược, đốt cháy kho xăng của địch. Trận đánh thật thần tốc. Bọn địch chống trả quyết liệt. Chúng gọi viện binh liên tục. Hỏa châu bắn lên đầy trời. Cả sân bay rực sáng như ban ngày. Pháo sáng trên không, thủ pháo bên dưới nổ ầm ầm, một trận chiến long trời lở đất. Nhờ pháo sáng và viện binh chi viện, bọn địch từ từ ổn định và bắt đầu kiểm soát lại trận địa, tình hình biến chuyển, lúc này xem như mỗi chiến sĩ phải chống trả với 10 tên địch. Lúc bấy giờ trời đã bắt đầu hừng sáng, tình thế xem ra khá bất lợi cho quân ta. Để bảo toàn lực lượng, Bộ Chỉ huy ra lệnh rút quân. Quân ta vừa đánh trả vừa rút về căn cứ đóng ở xã Tân Hạnh. Kết thúc trận đánh, địch thiệt hại nặng nề. Hơn 100 tên Mỹ, ngụy và 63 trực thăng, máy bay cùng máy móc, nhà xe, kho xăng, đạn dược của địch bị tiêu diệt. Nhưng tổn thất của quân ta cũng không nhỏ: 43 chiến sĩ đã hy sinh! Đau đớn hơn là 35 chiến sĩ vẫn còn bỏ xác lại trận địa! Hơn phân nửa là các chiến sĩ của Đại đội Đặc công tỉnh, còn lại là chiến sĩ Đại đội 203 thuộc Tiểu đoàn 857! Tuy cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 không đem lại thành công tuyệt đối như mong đợi của toàn dân nhưng đã tạo nên tiếng vang lớn trên chính trường quốc tế lúc bấy giờ. Buộc đế quốc Mỹ phải nhượng bộ ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Paris. Trận Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 là bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá của quân và dân ta, trận đánh được xem như một cuộc Tổng diễn tập góp phần đưa đến Đại thắng mùa Xuân 1975./. GAN THỊ PHƢƠNG ÁNH Ghi chép theo lời kể của Đại tá Dƣơng Văn Ca (Bảy Ca). Theo http://www.baovinhlong.com.vn
13.Kí ức xuân Mậu Thân 02-04-2008 (THVL) Đúng 40 năm trước đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Vĩnh Long đã đồng loạt nổi dậy đánh thẳng vào các cơ quan đầu não của địch ở thị xã Vĩnh Long, gây cho chúng những tổn thất nặng nề. Vĩnh Long tự hào xếp thứ 2 sau thành phố Huế về thời gian làm chủ thị xã suốt 6 ngày đêm, đánh chiếm sân bay Vĩnh Long và bến phà Mỹ Thuận, cắt đứt lộ 4 – huyết mạch giao thông của địch, kết hợp 3 mũi giáp công, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn… 40 năm đã trôi qua từ mùa xuân lịch sử ấy. Thời gian đủ để làm nên bao cuộc biển dâu. Những người trong cuộc ngày nào có người giờ đã không còn nữa, có người đã bước vào tuổi xưa nay hiếm. Chân đã mỏi, gối đã chùn, chỉ có ký ức về những ngày Mậu Thân lịch sử là vẫn còn nguyên vẹn trong lòng. Họ – những chiến
88
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
sĩ anh hùng – họp mặt nhau xuân nầy họ càng nhớ xuân xưa, nhớ về những trận đánh, về những người đồng chí đồng đội đã ngoan cường chiến đấu và anh dũng hy sinh. Nhớ những người dân đã một lòng thủy chung son sắt với cách mạng, sẵn sàng hiến dâng tài sản, máu xương và kịp thời phối hợp nổi dậy, cùng đoàn quân giải phóng giáng một đòn sấm sét xuống đầu thù. Cho đến thời điểm ấy, trong lịch sử chống Mỹ cứu nước chưa có cuộc huy động lực lượng nào có qui mô lớn và sục sôi khí thế đến như vậy. Lực lượng bộ binh, pháo binh, đặc công, biệt động đã đánh mạnh, đánh trúng vào các cơ quan đầu não của địch, gây cho chúng những tổn thất nặng nề, tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đồng chí Nguyễn Kí Ức, lúc bấy giờ là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long. Ngày 28 Tết năm ấy, nơi mảnh vườn của ông Cao Văn Cầm ở xã Ngãi Tứ – huyện Tam Bình, ông đã được phổ biến mệnh lệnh của Trung ương Cục là tiến hành Tổng tấn công và nổi dậy, đồng loạt dứt điểm đô thị và các thị xã miền Nam. Từ khi nhận lệnh cho đến giờ nổ súng không quá 3 ngày. Mọi công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương. Nhiệm vụ quá cấp bách, không có thời gian chuẩn bị, nhưng với lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ và chiến sĩ chủ lực quân khu 9 và lực lượng vũ trang địa phương khẩn trương khắc phục khó khăn, thần tốc vươn lên, “vừa đi vừa chạy, vừa chạy vừa củng cố đội hình, vừa ăn vừa bàn bạc công việc” để kịp thời áp sát các mục tiêu. Bao năm phải ngủ bụi nằm hầm, giờ được dịp xông thẳng vào sào huyệt kẻ thù, cơ hội lịch sử ngàn năm có một, tất cả xông lên quyết tâm giành thắng lợi quyết định. Vĩnh Long được chọn là trọng điểm 2 của khu 9. Hướng tấn công chủ yếu là nội ô thị xã Vĩnh Long, mục tiêu chủ yếu là tiểu khu Vĩnh Long. Hướng quan trọng là khu vực sân bay – mục tiêu quan trọng nhất là sân bay Vĩnh Long. Và cần phải đánh chiếm bến phà Mỹ Thuận, cắt đứt lộ 4 tức quốc lộ 1 ngày nay để đảm bảo yêu cầu tiến công và nổi dậy ở trọng điểm. Tiểu đoàn 857 cùng đại đội đặc công, đại đội pháo binh luồn sâu áp sát sân bay. Tiểu đoàn 306 – chủ lực quân khu 9, được địa phương quân Tam Bình và Trà Ôn phối hợp - đảm trách mũi chủ yếu, từ Phước Hâu vượt lộ 53 đột nhập vào nội ô. Tiểu đoàn 2 tỉnh Vĩnh Long chia thành 2 mũi chốt ở Quận Mới và ngã ba Cần Thơ. Tiểu đoàn 308 chủ lực quân khu 9 vừa mới được thành lập phối hợp với địa phương quân Cái Nhum tiến vào từ hướng đông bắc tức Phường 5 ngày nay. Lực lượng tại chỗ của thị xã cũng đã sẵn sàng đợi giờ nổ súng. Biết bao kỷ niệm buồn vui trước giờ ra trận. Thiếu tướng Phạm Phi Hùng, lúc bấy giờ là Chính trị viên phó Tỉnh đội, được phân công làm Chính trị viên Tiểu đoàn 857- tiểu đoàn chủ lực giàu truyền thống của tỉnh, phối hợp cùng một đại đội đặc công và một đại đội pháo binh phụ trách đánh khu vực sân bay Vĩnh Long. Ký ức về những ngày xuân sôi động ấy luôn tràn ngập trong lòng ông. Sân bay Vĩnh Long là một trong 4 sân bay chiến thuật lớn của địch ở miền Tây Nam bộ, được phòng thủ rất kiên cố. Nhưng đây là hướng tấn công quan trọng của toàn mặt trận. Tiếng nổ đánh sân bay cũng là hiệu lệnh mở đầu cho cuộc Tổng tấn công của quân dân Vĩnh Long. Muốn chắc thắng phải quyết tâm rất cao, sẵn sàng cảm tử. Ông không thể nào quên hình ảnh người mũi trưởng mũi thọc sâu Trần Văn Liêm ngày nào… 89
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Đúng 2 giờ 30 phút rạng sáng ngày mồng 1 Tết Mậu Thân – sau nhiều lần lùi giờ nổ súng vì các mũi đánh nội ô chưa vào được mục tiêu - tiếng súng phát lệnh tấn công đã gầm vang. Ở khu vực sân bay, pháo binh hỗ trợ bộ binh và đặc công đánh quyết liệt vào khu vực đỗ máy bay. Bị đánh bất ngờ, địch không kịp trở tay. Chỉ trong 30 phút, ta đã phá huỷ hoàn toàn 63 máy bay của địch, tiêu diệt gần 100 tên Mỹ. Từ khắp các hướng của thị xã Vĩnh Long, quân ta đồng loạt tấn công vào các mục tiêu đã định. Chỉ trong đêm đầu, lực lượng vũ trang của quân khu, của tỉnh và lực lượng tại chỗ của thị xã đã chiếm được một số mục tiêu quan trọng. Những ngày tiếp theo, cuộc chiến đấu ở nội ô diễn ra hết sức ác liệt. Địch, sau thời gian đầu bị bất ngờ choáng váng, đã định thần phản kích dữ dội. Quân ta vừa chiến đấu để giữ vững trận địa và chiếm, vừa tiếp tục đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu, và đã làm chủ thị xã trong 6 ngày đêm. Những chiến sĩ năm Mậu Thân còn sống đến hôm nay vẫn không quên những ngày lịch sử này. Ở sân bay Vĩnh Long, dựa vào hệ thống phòng thủ kiên cố, địch tập trung hoả lực, ngăn chặn quyết liệt các mũi tấn công của ta. Do địa hình trống trải, không có công sự che đỡ, yếu tố bất ngờ không còn nên rất nhiều chiến sĩ đã hy sinh. Ông Dương Văn Ca – Đại đội trưởng Đại đội đặc công và ông Nguyễn Thế Nghiệp – Đại đội trưởng Đại đội 203, là 2 trong số những cán bộ trực tiếp chỉ huy còn sống trở về sau trận quyết tử đó. Rất nhiều đồng chí, đồng đội của hai ông đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây… Trận đánh ở khu vực Bắc Mỹ Thuận, cửa ngõ vào tỉnh Vĩnh Long là điển hình về binh vận tiến tới khởi nghĩa trong Tổng tiến công tết Mậu Thân. Người được chọn làm cơ sở binh biến là ông Nguyễn Văn Thường – Xã trưởng xã Tân Hoà. Ông cũng là người được sự tín nhiệm cao của nguỵ quyền Vĩnh Long, nhưng lại là người có cảm tình với cách mạng. Ngoài ông ra, khó có ai làm được binh biến ở khu vực nầy. Nhờ sự vận động của cán bộ cách mạng, nên khi tiếng súng tấn công nổ ra, ông đã ra lệnh cho Vĩnh – đàn em của ông – chỉ huy cảnh sát mang vũ khí trở về với nhân dân, sau đó tước vũ khí, bức hàng bọn cảnh sát dã chiến, kết hợp với lực lượng ta giải phóng bến phà Mỹ thuận và công sở xã Tân Hoà. Sáng mồng 6 Tết, địch phản kích ác liệt, ông bị địch bắt và đã anh dũng hy sinh, giữ trọn lòng tin với cách mạng. Thắng lợi của cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân đã phát huy đến mức cao nhất nguồn hậu phương tại chỗ, hậu cần trong nhân dân. Từ thành thị đến nông thôn, từ vùng căn cứ đến vùng tạm chiếm, kẻ góp công, người góp của, tất cả hướng về tiền tuyến. Những câu chuyện về Tết Mậu Thân luôn được những cựu binh kể cho nhau nghe mỗi khi có dịp hàn huyên tâm sự. Chuyện về nữ tướng Huỳnh Kim Phụng chỉ đạo nhân dân 3 xã cù lao nổi dậy, kết hợp 3 mũi giáp công bức diệt đồn bót, giải phóng vùng ven. Chuyện em bé mới 8 tuổi đã giúp các anh giải phóng truy quét tàn quân… Những câu chuyện về tình quân dân cá nước, tình đồng chí đồng đội được thể hiện cao nhất trong chiến tranh ác liệt và cả những câu chuyện về chiến lược chiến thuật, về hiệu lực chiến đấu được “cộng hưởng” lớn lao chưa từng có bao giờ. Tất cả đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân. Mặc dù cuộc Tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt Mùa xuân năm 1968 ở Vĩnh Long chưa đạt được ý định ban đầu đề ra, nhưng quân dân ta đã đạt được những 90
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
thắng lợi rất to lớn, xếp thứ hai sau thành phố Huế về thời gian chiếm giữ. Chúng ta đã làm chủ thị xã suốt 6 ngày đêm, cắt đứt lộ 4 trong 22 ngày, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, biến hậu cứ của địch thành tiền phương của ta. Chiến thắng nầy đã góp phần cùng cả nước làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đảo lộn thế chiến lược, buộc chúng phải thừa nhận chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Thắng lợi Xuân Mậu Thân là kinh nghiệm, là nền tảng cho đại thắng Mùa xuân năm 1975. Rất nhiều cán bộ chiến sĩ đã vĩnh viễn không trở về từ mùa xuân ấy. Có người được quy tập về đây cùng đồng chí đồng đội, có người vẫn còn gửi thân đây đó trên mảnh đất quê nhà. Các anh các chị đã “cảm tử vì Tổ quốc quyết sinh”, thanh thản ra đi vì tự do, độc lập. Sự hy sinh ấy vô cùng ý nghĩa khi hôm nay đây, sau 40 năm kể từ những ngày Mậu Thân sôi động, quê hương đã thay đổi gấp trăm lần. Mùa xuân lại về, chẳng những đồng chí, đồng đội nhớ đến các anh, mà tất cả những người được thừa hưởng thành quả cách mạng hôm nay đều ghi khắc trong lòng và biết phải làm gì để phát huy thành quả ấy. Rồi đây, công trình tưởng niệm Chiến thắng Xuân Mậu thân sẽ được hoàn thành, khẳng định tầm vóc của một sự kiện lịch sử quan trọng, làm thoả lòng mong ước của biết bao người, nhất là là những người đã góp phần làm nên chiến thắng này, và cũng là để góp phần để chiến thắng Xuân Mậu thân thật sự đi vào đời sống văn hoá tinh thần của người dân. Những góc phố, những con đường tràn ngập sức sống mới đã xoá mờ những vết tích chiến tranh, nhưng dư âm về cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân năm nào vẫn vang vọng ngàn năm./. Tuyết Mai Theo http://thvl.vn
14.Tết Mậu Thân 1968: Một cái tết chấn động địa cầu Cập nhật, 18:35, Thứ Bảy, 13/02/2016 (GMT+7) Những ngày đầu xuân rực lửa năm 1968 đã ghi vào lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của chúng ta một nét son chói lọi, sôi động dƣ luận năm châu.
91
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tượng đài Chiến thắng Mậu Thân 1968 tại TP Vĩnh Long. Ảnh: NVH Đã có trên 20 cuốn sách của tác giả nhiều nước viết về Tết Mậu Thân 1968. Trong đó, được đánh giá cao nhất vẫn là cuốn sách của nhà báo Mỹ, Đôn Ô-bơ-đôphơ, do Nhà xuất bản A von TP New York phát hành vào năm 1972. Cuốn sách rất phong phú ấy gọn trong một “Tết”- một từ đã trở thành phổ biến một thời, trong kho từ vựng của nhân loại. Nhân ngày tết, xin trích giới thiệu với bạn đọc cuốn sách “Tết” nổi tiếng này. Tết Việt Nam- Náo động tòa Nhà Trắng Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân giải phóng miền Nam đã đánh thẳng vào TP Sài Gòn, tiến công cả sứ quán Mỹ. Đôn Ô-bơ-đôphơ viết: “Sứ quán Mỹ là nơi lá cờ sao và vạch của Hoa Kỳ chính thức cắm trên đất Việt Nam, đó là trung tâm tượng trưng cho nỗ lực của người Mỹ. Khi được tin này, mọi người đều hiểu rõ rằng Việt cộng đang tiến công vào trái tim của nước Mỹ ở giữa Sài Gòn. Đối với mỗi người dân ở Mỹ, cuộc tiến công vào tòa đại sứ Mỹ là trận đầu tiên trong cuộc chiến tranh mà người Mỹ có thể hiểu ngay được ý nghĩa”. Cuộc tiến công nổ ra vào đêm giao thừa, lúc 2 giờ 45 phút sáng mồng một tết (lịch miền Nam đi trước miền Bắc một ngày- HMĐ). Vào lúc 3 giờ sáng, điện khẩn của Cố vấn chính trị sứ quán Mỹ Con-nen, gọi từ nhà riêng ở Sài Gòn cho Ben-giêmin Rít, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao. Một cuộc đối thoại qua nửa vòng Trái đất: -Họ đang bắn ngay ở phía ngoài. -Thế nào? Có phải nghĩa là họ còn đang ở ngoài sứ quán? -Trong sứ quán. Họ đã vào trong tòa nhà của chúng ta. Rít kinh hoàng, vội báo ngay cho Ngoại trưởng Đin Ra-xcơ tin tức chấn động này. Đúng 7 giờ 25 phút, hãng AP ở Sài Gòn đưa tin: Việt cộng tiến công từ sáng thứ tư (31/1) và đã chiếm một bộ phận sứ quán Mỹ. Quân cảnh Mỹ tìm cách vào sứ
92
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
quán khi trời hửng, nhưng họ đã bị đánh bật ra, do hỏa lực mạnh bắn từ tòa sứ quán. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở đâu? Cho đến sau này, người ta vẫn chưa biết khi nổ ra cuộc Tổng tiến công, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở đâu. Sau khi điều tra, xác minh, Đôn Ô-bơ-đô-phơ cho biết như sau: Trước hết, Thiệu đã ký lệnh hủy bỏ ngừng bắn (trong dịp tết). Ông ta giao cho các tướng Trần Thiện Khiêm và Cao Văn Viên truyền lệnh đó đi và giữ quân lính trong tình trạng báo động thường trực, thực hiện đúng chỉ thị từ Nhà Trắng và Lầu Năm Góc phương Đông. Nhưng bản thân Tổng thống, từ trước giao thừa đã chuồn về TX Mỹ Tho, quê vợ, ở trong một biệt thự rất xa xỉ và kiên cố. Đêm giao thừa, trong lúc Thiệu cùng vợ con và một số bộ hạ tin cẩn đang chè chén ăn chơi, thì cuộc tiến công lớn nổ ra. Quân giải phóng cũng đánh vào thị xã. Thiệu sợ quá, tìm nơi trú ẩn, không dám trở về Sài Gòn, vì có tin Dinh Độc Lập cũng đang bị tiến công. Đại sứ Bân-cơ và Tướng Oet-mo-len, Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ, không liên lạc được với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Sau đó được biết Thiệu đang ở nhà vợ, bèn ra lệnh cho máy bay lên thẳng vũ trang của quân đội Mỹ đi tìm bằng được. Xế chiều ngày 31/1, chiếc máy bay đó đã đưa Tổng thống Thiệu về trụ sở Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn. Một số tướng Sài Gòn, một số vị bộ trưởng, tướng lĩnh cũng được người Mỹ đi tìm và “đưa” về Bộ Tổng tham mưu. Ấy thế mà cũng chẳng yên. Ngôi nhà đã bị rốc két bắn vào, có phát chỉ cách chừng 30m. Những trận đánh ác liệt diễn ra chung quanh đó- Đài phát thanh Sài Gòn đã bị chiếm. Các sở chỉ huy hải quân, thiết giáp Phù Đổng, pháo binh Cổ Loa đều bị đánh. Lúc này, những viên tư lệnh địa phương làm gì, ở đâu? Đ.Ô-bơ-đô-phơ kể rằng: Viên thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh, Tư lệnh Quân khu 4 đang ở nhà riêng trong TP Cần Thơ, khi cuộc tiến công bắt đầu. Từ đó ông ta không hề bước ra khỏi cái ổ của mình. Những sĩ quan dưới quyền Mạnh cũng tương xứng với ông ta. Lúc nổ ra cuộc tiến công, một trong ba tư lệnh sư đoàn đang đi đánh bạc, không có mặt ở nhiệm sở. Ở một tỉnh khác, viên cố vấn Mỹ bắt gặp ngài đại tá- tỉnh trưởng mang bộ quần áo bà ba của dân thường ra ngoài bộ quân phục, để dễ chuồn khi gặp tình thế nguy ngập. Còn ở Vĩnh Long, viên đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tư lệnh sư đoàn hoàn toàn mất tinh thần. Viên trung úy cố vấn Mỹ Giôn Li-pin-cót cùng người phiên dịch vào phòng làm việc, hỏi gì ông ta cũng im lặng, không trả lời, mặt cứ trơ ra như người mất hồn… Ngày “tạ thế” về chính trị của Tổng thống Johnson
93
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Theo lời kể của Đôn Ô-bơ-đô-phơ, ngày 28/3 tại cuộc họp để thông qua bản dự thảo diễn văn cho Tổng thống Johnson ở trụ sở Bộ Ngoại giao có mặt Ngoại trưởng Đin Ra-xcơ, Bộ trưởng Quốc phòng mới Clip-phớt, Cố vấn an ninh Oan Rô-xtâu, Mác Phe-xơn, người chuyên viết diễn văn cho tổng thống. Bản dự thảo đã được sửa nhiều lần, nhưng vẫn theo tinh thần cũ. Đêm hôm trước, Clip-phớt đã đọc và cảm thấy bản này nếu đưa ra sẽ là một thảm họa. Vẫn những từ ngữ cũ: kêu gọi hy sinh, kiên nhẫn, can đảm… Ông ta bảo Ra-xcơ: bản này không ăn, “không bán chạy” được đâu! Tổng thống cần một bài diễn văn về hòa bình, chứ không thể là một bài diễn văn chiến tranh thêm nữa. Cuộc họp giao cho Phe-xơn thảo lại một bài nói hoàn toàn mới. Ngày hôm sau, Johnson tập trung tất cả tinh lực vào bài diễn văn lớn này. Đoạn quan trọng nhất lại là phần “tái bút” cuối cùng đầy kịch tính: Johnson chính thức báo tin không ra tái cử Tổng thống trong nhiệm kỳ tới, kết thúc cuộc đời chính trị của mình. 31/3, ngày tận cùng của tháng ba đầy biến động, cũng là ngày “tạ thế” về chính trị của L.Johnson. Đôn Ô-bơ-đô-phơ kể rằng: Hôm nay là ngày chủ nhật, trong cánh tay của Nhà Trắng, những người vận động cho việc tái cử của Johnson khẩn trương làm việc. Tổng thống mới chỉ hé cho họ biết về quyết định ngừng ném bom bộ phận. Còn cái quyết định bi thảm không ra tái cử vẫn được ông ta giữ kín trong túi áo trên ngực. Còn vài phút nữa là 9 giờ tối. Johnson, vợ và con cái cùng các thành viên chính phủ đi đến “Phòng bầu dục” lúc này đầy những ống kính truyền hình báo chí chờ sẵn. Linda và Lusi, hai con gái của Johnson khóc tràn nước mắt. Johnson ngồi xuống trước bàn, mặt đăm chiêu. Đúng 9 giờ, Johnson từ từ rút bài diễn văn trong túi ra đọc… Đêm 31/3/1968, cả thế giới sửng sốt nghe tin L.Johnson đích thân tuyên bố không ra ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ hai./. TRẦN THỊ HOẠT (giới thiệu) Theo http://www.baovinhlong.vn
15.Xuân Mậu Thân (1968), quân dân Vĩnh Long “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” nhƣ thế nào? Thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ - ngụy tăng cường lực lượng cao nhất từ trước đến nay, trang bị vũ khí tối tân, liên tiếp mở chiến dịch đánh phá bằng hai gọng kềm: tìm diệt và bình định của địch, gây cho ta nhiều khó khăn. Với quyết tâm “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Quân khu chủ trương tăng cường cán bộ chỉ đạo về tỉnh, tăng cường tiểu đoàn cơ động, đứng trên địa bàn xung yếu của tỉnh.
94
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Về phía tỉnh, phân công cán bộ tăng cường về cơ sở thị xã Vĩnh Long, xây dựng nhân dân tích cực đưa người và của ủng hộ kháng chiến. Vùng nông thôn địch càn quét đánh phá ác liệt, dùng bom B.52, phi pháp bắn phá với mức độ dày đặc. Với tinh thần quyết tâm tiêu diệt địch, đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ - ngụy, ta luồn sâu đánh hiểm vào sào huyệt địch, vừa bao vây đánh viện, bức rút đồn bốt, mở rộng vùng giải phóng nông thôn tiếp giáp thị xã, thị trấn với khẩu hiệu: “Thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đối với cán bộ, chiến sĩ như một lời thề sắc son! Đúng 1 giờ 30 phút đêm rạng sáng 31-1, tức đêm giao thừa Xuân Mậu Thân, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy bắt đầu! Tiếng súng lệnh nổ ra từ phía sân bay Vĩnh Long. Sau tiếng súng nổ, ba mũi tiến công của quân ta từ ba hướng đông bắc, tây nam và hướng nam như gọng kềm khép chặt. Phía Bắc là sông Cổ Chiên án ngữ, kềm địch trong thế bị bao vây. Tiểu đoàn chủ lực 306 (Quân khu) từ hướng nam thọc sâu vào sào huyệt địch, Tiểu đoàn 308 (Quân khu) từ đông bắc đánh xuống, Tiểu đoàn 857 (của tỉnh) và đại đội đặc công phối hợp, chọc thẳng vào sân bay Vĩnh Long (ở phía tây). Tiếng súng, tiếng mìn nổ, lửa cháy tại sân bay, lửa từ kho xăng bốc cháy ngút trời. Tại phà Mỹ Thuận, xã Tân Hòa, cách thị xã Vĩnh Long 8km, lực lượng võ trang ta kết hợp với binh sĩ nổi dậy diệt ác, đánh thiệt hại phà Mỹ Thuận, cắt đứt giao thông địch. Cùng lúc, ta pháo kích các cứ điểm quân sự của địch, bao vây, pháo kích các yếu khu, phân chi khu, được các huyện và thị trấn hỗ trợ, đồng bào nổi dậy giành quyền làm chủ. Quân ta chiếm thị xã Vĩnh Long, cắt đứt giao thông huyết mạch của địch từ tỉnh đến các huyện suốt 6 ngày liền, bẻ gãy hàng chục cuộc phản kích của địch. Sau đó, quân ta rút về vùng ven, bám trục giao thông chặn đánh địch. Đêm 20-5-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở Vĩnh Long đợt 2 bắt đầu. Do yếu tố bất ngờ không còn nên quân ta tiến công các tuyến vùng ven và các đồn bốt trên trục giao thông, gây cho địch nhiều thiệt hại. Tính chung, qua hai đợt tiến công, ta loại khỏi vòng chiến đấu (chết, bị thương, rã ngũ) trên 11.000 tên địch (trong đó có 976 tên Mỹ và chư hầu) bắt sống 380 tên ngụy. Đánh thiệt hại nặng trung đoàn 14, trung đoàn 16 của sư đoàn 9 và tiểu đoàn 43 biệt động quân ngụy. Phá rã phần lớn lực lượng phòng vệ dân sự, tiêu diệt hai đại đội biệt kích, pha shuyr thiết đoàn xe bọc thép (15 xe), 37 xe quân sự, bốn khẩu pháo 105 ly, bắn cháy hàng chục máy bay trực thăng. Bức rút 119 đồn bốt. Giải phóng 15 xã, giải phóng cơ bản 21 xã khác với 300.000 dân. Chiến thắng Xuân Mậu Thân là tiền đề mở ra tinh thần tiến công vào sào huyệt địch, giành thắng lợi./. Nguyễn Chiến Thắng -– Nguyên Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy, nguyên Trƣởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long - Vùng đất và con ngƣời” – NXB Quân đội nhân dân 2017 Kho Đọc: 959.787/V312L – VV.035636
95
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
16.Đấu tranh chính trị, binh vận trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long Vĩnh Long nằm theo hướng tây bắc – đông nam, giữa hai con sông lớn nhất của dòng sông Mê Công: sông Tiền và sông Hậu. Trong kháng chiến chống Mỹ, Vĩnh Long gồm cả các huyện Lai Vung, Lấp Vò, Châu Thành và thị xã Sa Đéc cùng với các huyện nằm trong địa bàn tỉnh bấy giờ. Địa hình bằng phẳng có nhiều kênh rạch chằng chịt. Năm 1966 dân số của tỉnh là 562.233 người, trong đó có 10.779 người Khơ-me. Ở đây có nhiều tôn giáo: đạo Phật, Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên chúa, Tin lành…, cùng tồn tại và phát triển. Quốc lộ 4 nối liền hai bến phà Mỹ Thuận và Bình Minh là con đường huyết mạch từ Sài Gòn đi miền Tây. Do vị trí quan trọng án ngữ hai đường giao thông thủy bộ, nằm gọn giữa hai con sông lớn nên chiến trường Vĩnh Long được coi là chiến trường trọng điểm giữa ta và địch. Trước Mậu Thân 1968, đây là chiến trường bình định rất ác liệt của địch. Đồn địch đóng dày đặc, Mỹ-ngụy tăng cường lực lượng cả cố vấn Mỹ cho việc bình định. Trước Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, quân Mỹ và chư hầu có 3.000 tên, bao gồm cố vấn, quân chiến đấu và chuyên viên kỹ thuật. Tại sân bay Vĩnh Long, thường xuyên có hai đại đội trực thăng của Mỹ là đại đội 157 và 114 với 66 chiếc trực thăng và máy bay trinh sát (có lúc lên tới 80 chiếc). Một đại đội công binh Mỹ đang làm đường tại cầu Công Xi Heo và bến phà Cổ Chiên.
96
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Về hải quân, Mỹ có hai giang đoàn xung phong: 23 và 517, ngụy có một phân đội tàu. Kể cả hải quân Mỹ và ngụy có 40 tàu chiến các loại hoạt động trên sông Cổ Chiên, thường ra vào sông Long Hồ và sông Cái Cam. Về thiết giáp địch có hai chi đoàn, khoảng 30 chiếc gồm M.113 và M.118 đóng hậu cứ tại Bờ Gòn (cạnh sân bay Vĩnh Long), có thiết đoàn hai hậu cứ ở quận Mới. Pháo binh địch có một tiểu đoàn thuộc sư đoàn ngụy với hàng chục khẩu pháo loại 105mm đóng hậu cứ ở quân Mới. Tổng số quân ngụy có 21.703 tên. Quân chủ lực sư đoàn 9 bộ binh có ba trung đoàn: trung đoàn 15 đóng ở thị xã Sa Đéc, trung đoàn 16 ở ngã tư Long Hồ, trung đoàn 14 ở thị xã Trà Vinh. Bộ tư lệnh sư đoàn 9 đóng ở sân bay Vĩnh Long. Ngoài ra địch còn có một tiểu đoàn biệt động quân đóng ở đường Khưu Văn Ba. Tiểu khu Vĩnh Long có năm tiểu đoàm bảo an cơ động, gồm các tiểu đoàn 40, 65, 68, 320 và 303, hậu cứ đóng ở sân bay Vĩnh Long. Trong địa bàn tỉnh, thị xã Vĩnh Long là nơi tập trung nhiều quân địch, cả Mỹ lẫn ngụy với nhiều phương tiện chiến tranh. Đây là trung tâm đầu não điều hành toàn bộ hệ thống chiến tranh của Mỹ - ngụy ở Vĩnh Long. Nằm án ngữ trên lộ 4, bờ nam sông Tiền, nếu như tỉnh Vĩnh Long là cửa ngõ thì thị xã Vĩnh Long là bản lề của cửa ngõ vào miền Tây với nút giao thông thủy bộ là bến phà Mỹ Thuận. Nhận biết vị trí quan trọng của thị xã Vĩnh Long, Mỹ - ngụy đã biến nơi đây thành căn cứ quân sự hốn hợp, làm bàn đạp để đánh phá cách mạng trên cả chiến trường Vĩnh – Sa – Trà. LỰC LƢỢNG QUẦN CHÚNG CHUẨN BỊ CHO TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY Chiều ngày 27 tháng 1 năm 1968 (ngày 28 Tết), đồng chí Năm Lý – Khu ủy viên Khu ủy Khu 9 được Thường vụ Khu ủy phân công đến phổ biến lệnh Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa cho Phân ban Khu ủy ở Vĩnh Trà và hai Tỉnh ủy đóng tại xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình. Tinh thần của mệnh lệnh là tập trung toàn lực tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt vào tận sào huyệt của Mỹ - ngụy, dứt điểm đô thị và các thị xã miền Nam. Mệnh lệnh chỉ thị đến ngày “N”, giờ “G” là mốc hành động trên toàn chiến trường miền Nam. Khi tiếp thu chủ trương, Phân ban Khu ủy ở Vĩnh Trà rà soát lại tình hình, nhất là so sánh lực lượng giữa ta và địch, xác định quyết tâm, vạch ra phương án tác chiến. Ban lãnh đạo của Phân ban Khu ủy ở Vĩnh Trà trước khi bước vào Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có các đồng chí La Lâm Gia (Bảy Máy) – Thường vụ Khu ủy phụ trách chung, đồng chí Nguyễn Hoài Pho (Ba Mai) – Khu ủy viên. Tư lệnh phó Quân khu 9 phụ trách về quân sự, đồng chí Nguyễn Đệ (Ba Trung) – Chỉ huy phó, Tham mưu trưởng kiêm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 306, đồng chí Bùi Như Nho (Tám Xuân) làm Phó chính ủy. Thời gian tổng công kích và tổng khởi nghĩa đã được ấn định, phải chuẩn bị gấp gáp, triển khai nhanh nhưng đồng thời giữ được bí mật tuyệt đối về thời điểm phát lệnh tiến công. Đến chiều 31 tháng 1 (tức chiều 30 Tết), các mũi tiến công của lực lượng vũ trang đã áp sát địa bàn theo kế hoạch đã được Ban chỉ huy chiến dịch định sẵn. 97
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Trước khi chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô 1967 – 1968, Tỉnh ủy Vĩnh Long đã quán triệt chỉ thị của Khu ủy Tây Nam Bộ là tập trung sức mạnh tiến công và nổi dậy trên khắp ba vùng, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá bình định, giải phóng nông thôn, giành thắng lợi quyết định tạo bước ngoặt trong thế trận làm chủ địa bàn. Quán triệt nghị quyết của Tỉnh ủy, các huyện ủy, thị xã ủy đã mở cuộc phát động rộng rãi trong cán bộ, đảng viên nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Đảng, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì khi Đảng gọi. Sau đó các huyện, thị phát động phong trào ủng hộ cách mạng trong nhân dân. Nhiều gia đình đăng ký hiến ngay tiền bạc, trâu bò, lúa gạo,… cho cách mạng. Nhân dân vùng yếu, vùng kìm cũng đã gửi tới một khối lượng tiền, thuốc men cùng hàng nghìn tấn lúa gạo cho chiến dịch mùa khô 1967 – 1968. Với tinh thần “Tất cả để đánh giặc, tất cả để thắng giặc”, phong trào tòng quân nhập ngũ ở các địa phương đã tăng gấp đôi, gấp ba trước đó. Có huyện như Tam Bình trong đợt phát động này gần ba nghìn thanh niên đã tòng quân. Các huyện như Trà Ôn, Vũng Liêm, số thanh niên tình nguyện gia nhập lực lượng của tỉnh, huyện trong đợt này đều tăng. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, nhân dân Trà Ôn đã đóng góp 734.000 giạ lúa, nhân dân huyện Tam Bình đóng góp tăng gấp 2-3 lần so với trước. Có xã như Song Phú, nhân dân ủng hộ 27.000 giạ lúa. Nhân dân xã Mỹ Lộc (Tam Bình) cho mượn 40 bộ ván để bắc cầu cho bộ đội, 50 xuồng ghe phục vụ bộ đội và ủng hộ 400 giạ lúa… Cơ sở cách mạng ở hậu phương vững chắc với lực lượng quần chúng mạnh, ý thức giác ngộ cao là một trong những yếu tố rất cơ bản để đảm bảo thực hành Tổng tiến công và nổi dậy. Tỉnh đặc biệt chú ý củng cố địa bàn trọng điểm. Trong thời gian này, Tỉnh ủy tăng cường cho thị xã Vĩnh Long ba đồng chí trong Tỉnh ủy, đồng chí Trịnh Văn Lâu (Tư Cần) - Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy làm Bí thư Thị xã ủy, nữ đồng chí Hai Thanh – Tỉnh ủy viên làm Phó bí thư Thị xã ủy, đồng chí Lê Quang Viễn – tỉnh ủy viên, Tỉnh đội phó về làm Thị đội trưởng. Trước đó Tỉnh ủy đã điều động nữ đồng chí Mười Sương – Tỉnh ủy viên về nhận nhiệm vụ tại Thị xã ủy. Để phát triển phong trào đấu tranh chính trị, binh vận trong lực lượng phụ nữ, trong năm 1967, Thị xã ủy Vĩnh Long đã bổ sung nhiều cấp ủy nữ là Thị xã ủy viên và Ủy viên Thường vụ Thị xã ủy. Năm 1967 trong Thị xã ủy có 6 ủy viên nữ là các đồng chí: Hai Thanh, Mười Sương, Sáu Đấu, Tám Phụng, Tư Đức, Sáu Xây. Cán bộ nữ của Thị xã ủy khoảng 20 người như các đồng chí: Năm Phương, Hai Liên, Tư Út, Bảy Vân, Xuân Tâm, Nam Đức, Thu Hương, Hai Hận, Chín Vân… Trong giao liên công khai và bán công khai có bà Tư Cửu, bà Năm Nẳm, chị Năm Long, bà Mười Ngót, chị Chín Quắn, chị Sáu Hạt, má Sáu… Cơ sở Đảng trong lực lượng phụ nữ thuộc các giới, các ngành ở thị xã có chi bộ bạn hàng gồm ba nữ đồng chí là Tư Anh, Bảy Tuyết và Tư Củ. Trong học sinh có 10 đồng chí cốt cán là nư như Kim Lâm, Tuất, Tám Xe (ở phường 6). Với truyền thống trung kiên bất khuất, lực lượng phụ nữ Vĩnh Long qua nhiều đợt đấu tranh, qua phong trào đồng khởi rầm rộ từ mấy năm trước đã phát huy được ưu thế và lực lượng của mình tham gia vào công tác đấu tranh chính trị và binh vận là hai mũi tiến công góp phần cho chiến dịch sắp nổ ra.
98
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ, BINH VẬN GÓP PHẦN TO LỚN VÀO VIỆC CHIẾM GIỮ THỊ XÃ VĨNH LONG SÁU NGÀY ĐÊM Ngày 29 Tết Mậu Thân, Thường vụ Thị xã ủy họp phổ biến lệnh Tổng tiến công. Theo kế hoạch của Thường vụ Thị xã ủy, để cho các mũi của lực lượng vũ trang đến đúng mục tiêu và giờ quy định, sáu cán bộ nữ trong Thị xã ủy được phân công dẫn đường. Nữ đồng chí Hai Thanh lúc này mới sinh con 13 ngày cũng phải cấp tốc gửi con để về họp nhận nhiệm vụ. Đồng chí Sáu Đấu chịu trách nhiệm đưa lực lượng vào hộ 1 (bây giờ là phường 1); nữ đồng chí Mười Sương đưa lực lượng vào hộ 4; các nữ đồng chí Tư Đức, Sáu Xây đưa lực lượng vào hộ 5 và hộ 6; nữ đồng chí Năm Săng cán bộ thị xã chịu trách nhiệm ở cánh Tân Hạnh tiếp giáp phía tây-nam sân bay Vĩnh Long. Sáu cán bộ nữ chủ chốt dẫn mũi của Thị xã ủy có trách nhiệm ngay trong ngày 31 tháng 1 (tức 30 Tết Mậu Thân) phải cấp tốc phổ biến cho tất cả các đảng viên và cơ sở nòng cốt tại chỗ chuẩn bị sẵn sàng tư thế tiến công địch. Hai nữ đồng chí phụ trách ở nội ô còn phải hướng dẫn cho sáu cán bộ nữ được điều động từ địa phương khác tới và hai cán bộ nam cùng một ban đặc công thị xã nghi trang vào ém quân trước trong nội ô từ ngày 30 đến giờ “G” để tung ra hoạt động kịp thời. Diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở thị xã Vĩnh Long đúng như kế hoạch đã bàn bạc trước. Đúng 0 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1968, tức giao thừa Tết Mậu Thân, sau tiếng súng lệnh, khi lực lượng bên ngoài tràn vào thị xã thì lực lượng tại chỗ của ta trong thị xã cũng đồng loạt nổi dậy. Trong tiếng súng đồng loạt tiến công vào sân bay Vĩnh Long, khu tỉnh trưởng, khu tòa hành chính…, cán bộ, đảng viên và cơ sở quần chúng của ta đã phối hợp rất ăn ý. Lực lượng phụ nữ thị xã không quản nguy hiểm, đã hăng hái vừa lo tiếp tế cho bộ đội, vừa phát động quần chúng nổi dậy làm chủ khu phố, lối xóm của mình. Chị em vừa làm nhiệm vụ chính trị vừa chú ý phát hiện những tên ác ôn, tề điệp để lực lượng vũ trang ta kịp thời bắt gọn, làm rối loạn hàng ngũ địch. Ở nội ô (hộ 1 và 2) phụ nữ phát hiện nơi ở của tình báo Mỹ đang cố thủ trên lầu của một ngôi nhà phố Nguyễn Du, đã lập tức báo cho lực lượng ta cắt đứt liên lạc của chúng, thu được chiến lợi phẩm với nhiều tài liệu, máy móc quan trọng. Sau khi chiến sự diễn ra ác liệt ở nội ô thị xã, nhiều căn nhà bị cháy, lực lượng phụ nữ ở nội ô vừa làm công tác tiếp tế vừa xông vào tạt nước chữa cháy, giúp dân bảo vệ tài sản, đồng thời vận động nhân dân chôn cất thi hài các chiến sĩ ta bị hy sinh ngay khi chiến sự còn căng thẳng. Cánh hộ 5, hộ 6, chị em phụ nữ mượn xuồng ghe tổ chức đưa bộ đội qua sông và dẫn đường cho bộ đội ta tiến đánh vào dinh tỉnh trưởng trong khi địch chống trả rất quyết liệt. Cánh ở hộ 3, hộ 4, chị em phát động gia đình binh sĩ trong khu vực kêu gọi chồng, con, em buông súng trở về với gia đình, với nhân dân. Tác dụng của việc vận động này là làm cho nhiều binh sĩ tiểu đoàn 43 biệt động quân, hậu cứ tại đường Khưu Văn Ba (nay là Trường Trung học y tế Vĩnh Long) bỏ chạy về với gia đình. Đêm 3 tháng 2 năm 1968 (tức mùng 3 Tết), ta đánh chiếm ngã ba Cần Thơ và khu 99
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Nhà thờ lớn, nữ đồng chí Mười Sương đã họp mít tinh với hàng nghìn quần chúng tại đây để phổ biến chính sách của cách mạng, phát động quần chúng kêu gọi những ai có chồng, con, em trong binh lính ngụy về với gia đình. Những hoạt động này đã có tác dụng lớn, nhất là trong tình hình các đơn vị của Mỹ - ngụy bị tiến công từ nhiều phía, quần chúng ngã về cách mạng ủng hộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, tiến tới làm chủ thị xã Vĩnh Long. QUẦN CHÚNG LÀM CHỦ BA XÃ CÙ LAO Năm 1966, nữ đồng chí Tám Phụng (Huỳnh Thị Kiên) quê ở ấp Thanh Bình, xã Quới Thiện, huyện Vũng Liêm được đề bạt Huyện ủy viên phụ trách ba xã cù lao: An Bình, Bình Hòa Phước và Đồng Phú. Để theo dõi sát quy luật hoạt động của địch, đồng chí Tám Phụng tổ chức ở mỗi ấp và xã một đội du kích nữ và du kích mật. Các đội du kích này vừa vận động chị em phụ nữ đấu tranh hợp pháp, vừa làm công tác binh vận trong lòng địch. Chúng nhờ có lực lượng cơ sở mạnh ở mỗi ấp, xã mà khi tiếng súng Tổng tiến công ở thị xã nổ ra, nữ đồng chí Tám Phụng đã lãnh đạo Đảng bộ và nhân dân ở ba xã cù lao nổi dậy tiến công địch, giành thế làm chủ hoàn toàn, giải phóng 14 đồn bốt của địch. Có những đồn bọn địch rất ngoan cố như đồn Hòa Thạnh, do một tên ác ôn chỉ huy. Khi tên ác ôn này bị lực lượng của ta do đồng chí Tám Phụng chỉ huy trừng trị, thì bọn lính ở các bốt nhỏ gần đó bỏ chạy về cố thủ đồn này. Ta đưa lực lượng du kích và quần chúng bao vây. Mỗi khi đồng chí Tám Phụng phát loa kêu gọi thì bọn địch bắn ra rất dữ. Chị Tám Phụng đề xuất ý kiến với các đồng chí trong chi bộ sử dụng vợ con tên đại diện Thây và phó đại diện Đàn cùng gia đình của 30 binh sĩ vào đồn kêu gọi bọn lính đầu hàng, trở về với vợ con. Nhờ binh vận kịp thời nên quân địch trong đồn ngừng bắn. Ta tiếp tục phát loa cho địch trong đồn biết chiến sự trong toàn tỉnh và thị xã đang bất lợi cho Mỹ - ngụy, sân bay đã bị chiếm, tòa hành chính, dinh tỉnh trưởng bị bao vây khống chế, lộ 4 bị cắt đứt. Đồng thời ta tiếp tục sử dụng vợ của hai lính ngụy có mặt trong đồn kêu gọi chồng con bỏ súng. Kết quả ta lấy được đồn Hòa Thạnh là đồn kháng cự mãnh liệt nhất không tốn một viên đạn và không hy sinh một ai. Đây là một trong những yếu tố linh hoạt, sáng tạo, lợi dụng mọi đối tượng gia đình binh lính để vận động binh lính đầu hàng, ít hao tổn xương máu mà hiệu quả cao. Chỉ trong đợt 1, ba xã cù lao đã bức hàng, bức rút 14 đồn, giải tán hai tề xã, loại khỏi vòng chiến đấu 500 tên, thu 457 súng và 14 máy thông tin. PHONG TRÀO Ở HUYỆN BÌNH MINH TẠO ĐIỀU KIỆN CHO LỰC LƢỢNG VŨ TRANG CẮT ĐỨT QUỐC LỘ 4 TRONG 22 NGÀY ĐÊM Để chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khi có chủ trương, nhân dân huyện Bình Minh đã đóng góp 3.786 giạ lúa, 6 đôi trâu bò, 21 chiếc ghe xuồng, 54 chỉ vàng. Thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang địa phương tỉnh và huyện để tăng về số và chất lượng.
100
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tối 28 tháng 1 năm 1968 (tức 27 Tết), Huyện ủy Bình Minh họp quán triệt kế hoạch Tổng tiến công, Tổng khởi nghĩa. Kế hoạch đề ra có sự kết hợp chặt chẽ giữa ba mũi giáp công: vũ trang, chính trị và binh vận. Theo kế hoạch, cán bộ, đảng viên tại cơ sở có trách nhiệm giác ngộ cho quần chúng nhân dân tập trung bao vây đồn bốt tại các xã Tân Quới, Tân Lược, Tân Hòa, Vĩnh Thới và Phong Hòa. Lực lượng này vừa kết hợp bao vây đồn bốt, vừa vô hiệu hóa lực lượng của địch ở từng địa bàn. Song do chưa lường hết khả năng phản ứng của địch nên khi hàng nghìn người từ các hướng Mỹ Thuận, Đông Thành, Mỹ Hòa rầm rộ kéo ra dinh Quận với khẩu hiệu: “Chính quyền quận Bình Minh phải trả lại cho nhân dân Bình Minh ngay”, thì địch đã đưa quân đàn áp dã man, dùng súng bắn xả vào đoàn biểu tình của ta làm 5 người chết và bị thương nhiều người. Ở mũi binh vận, ngay khi chiến sự nổ ra, công tác binh vận của ta được đẩy mạnh đã làm rã rời các cứ điểm các đồn bốt tề xã, ấp của địch ở huyện Mỹ Thuận, Đông Thành. Lực lượng của ta vừa kết hợp tuyên truyền cho địch biết rõ tình hình, vừa tuyên truyền thuyết phục vợ con của chúng kêu gọi binh lính buông súng về với gia đình, với nhân dân. Có nơi địch án binh bất động, co cụm phòng thủ, không dám phản công khi ta lấy đồn. Ở đồn Phù Ly xã Đông Thành, địch không những không bắn lại ta mà còn đưa cả hàng chục nghìn viên đạn, nhiều súng và trang bị giao nộp lại cho ta. Nhìn chung qua tìm hiểu một số địa bàn chủ yếu ở Vĩnh Long trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy phong trào chính trị và binh vận có vai trò rất quan trọng, đã góp phần vào thắng lợi chung. Từ các phong trào này phản ánh thế trận chiến tranh nhân dân rất phong phú và đa dạng. Nếu vận dụng sáng tạo thì chỉ cần một ít lực lượng du kích (như ba xã cù lao) hay với một số cán bộ cốt cán biết len lỏi vận động ngay trong lòng địch (như nội ô thị xã Vĩnh Long), nếu biết dựa vào sức mạnh quần chúng và thế trận của chiến tranh nhân dân địa phương và có hạt nhân lãnh đạo thì sẽ giành thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Chính bài học này đã có tác dụng trong các năm sau, khi lực lượng cách mạng xây dựng được chỗ đứng trong nhân dân, được nhân dân nuôi nấng, đùm bọc, đã tạo nên sức mạnh to lớn đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào, giải phóng tỉnh nhà, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào mùa Xuân 1975 lịch sử./. Phạm Bá Nhiễu – Trƣởng phòng tuyên truyền Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
101
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
17.Góp phần làm sáng tỏ việc dùng binh vận khởi nghĩa ở Bắc Mỹ Thuận Có thể nói trận đánh ở Bắc Mỹ Thuận là điển hình của tỉnh Vĩnh Long, của Quân khu 9 về việc dùng binh vận tiến tới khởi nghĩa trong Tổng tiến công Tết Mậu Thân. Thế nhưng tư liệu của trận đánh ấy lưu giữ hiện nay còn rất sơ sài. Một bộ phận nhân dân còn có cái nhìn chưa đúng về nhân vật trung tâm của cuộc binh vận là xã trưởng (đại diện) Thường. Vì vậy trong bài viết này chúng tôi muốn làm sáng tỏ thêm vấn đề ấy. Tỉnh Vĩnh Long có vị trí như chiếc bản lề nối liền miền Đông và miền Tây Nam Bộ, vì vậy nó được ngụy quyền Sài Gòn coi là trọng điểm của vùng 4 chiến thuật. Trên đất Vĩnh Long ngoài lực lượng thường trực của tỉnh, vùng 4 chiến thuật, địch còn bố trí nhiều lực lượng chủ lực như sư đoàn 9 bộ binh, chi đoàn thiết giáp, tiểu đoàn truyền tin Hoa Lư, tiểu đoàn 43 biệt động quân… Trong địa bàn chiến lược ấy, sân bay Vĩnh Long và Bắc Mỹ Thuận lại là vị trí xung yếu nhất. Ai chiếm được hai vị trí này sẽ làm chủ Vĩnh Long. Ngoài ra Bắc Mỹ Thuận còn là yết hầu giao thông nối liền Sài Gòn và vùng 4 chiến thuật của địch. Nếu cắt đường giao thông ở Bắc Mỹ Thuận thì địch ở Sài Gòn không thể chi viện cho chiến trường phía nam bằng đường bộ. Do vậy, địch bố trí lực lượng ở địa bàn Mỹ Thuận rất mạnh: một đại đội bảo an do một tên Mỹ chỉ huy đóng sát Pê Tông, phía dưới sông là chi đội hải thuyền, tại công sở Tân Hòa chúng bố trí một đại đội cảnh sát dã chiến với hỏa lực mạnh, mỗi tên lính có hai súng (ta quen gọi là con cởi con giòng). Đó là lực lượng của tỉnh tăng cường cho Mỹ Thuận. Riêng về phía xã có một đại đội cảnh sát dân vệ do tên cảnh sát Vĩnh chỉ huy. Như vậy toàn bộ lực lượng của địch bố trí ở Mỹ Thuận tương đương một trung đoàn.
102
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Do lực lượng địch khá mạnh, nên trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công ta đặc biệt chú ý đến công tác địch vận, coi đó là khâu quan trọng đảm bảo cho ta ít tổn thất và giành thắng lợi nhanh chóng. Tháng 11 năm 1967, Huyện ủy Châu Thành điều đồng chí Tư Xuân (Nguyễn Thế Xuân) là quân báo của huyện về làm phó bí thư xã Tân Hòa để gây dựng cơ sở diệt ác phá kìm, mở rộng vùng giải phóng. Đồng chí Tư Xuân là người có kinh nghiệm công tác địch vận, lại có quan hệ rộng rãi với nhân dân địa phương. Cùng lúc ấy Khu ủy Khu 9 điều đồng chí Chín Hoài (Nguyễn Văn Hoài) cán bộ binh vận Khu phụ trách trọng điểm 2 thuộc tỉnh Vĩnh Long về địa bàn Tam Tân. Các đồng chí Sáu Kỳ, Năm Nhất… bám sát địa bàn Tam Tân chỉ đạo phong trào. Sau khi tìm hiểu và cân nhắc kỹ, các đồng chí đã chọn xã trưởng Thường làm cơ sở binh vận chính. Xã trưởng Thường sinh năm 1917, trong một gia đình có thế lực, từ nhỏ học trường thiếu sinh quân của Pháp, đi lính trong quân đội Liên hiệp Pháp thăng lên tới trung úy. Tháng 3 năm 1946, anh có mặt trong đội danh dự của Pháp khi chính phủ Pháp tiếp phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đến dự Hội nghị Phôngten-nơ-blô, anh đã vinh dự gặp Bác Hồ. Đó là kỷ niệm đẹp mà anh thường kể cho bạn bè thân tín nghe và cũng từ đó anh có cảm tình với cách mạng. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 anh giải ngũ, song thế lực của anh rất lớn. Rất nhiều thế hệ đàn em của anh ở trường thiếu sinh quân của Pháp hiện thời là sĩ quan trong tiểu khu Vĩnh Long, chi khu Châu Thành và cả trong sư đoàn 9. Tính tình Thường ít nói và giữ chữ tín theo kiểu “anh hùng mã thượng”, do đó anh được sự tín nhiệm cao của ngụy quyền Vĩnh Long, được chúng cho giữ chức vụ xã trưởng ở Tân Hòa. Anh là người giữ vai trò điều hòa các thế lực địch cấp tỉnh, quận ở Mỹ Thuận. Qua cơ sở mật là ông Hà Hữu Cát (Tám Cát), đồng chí Tư Xuân quyết “tiến công” vào đại diện Thường (bấy giờ có nhiều người chưa biết rõ sự việc vẫn gọi Thường là “con hùm xám”). Anh có mối quan hệ tốt với đại đội trưởng bảo an, người cất nhắc cảnh sát Vĩnh. Vì vậy Vĩnh trung thành tuyệt đối với Thường. Tư Xuân viết thư nhờ ông Tám Cát trao cho Thường rất nhiều lần. Thường không viết thư trả lời mà chỉ nhắn ông Tám Cát rằng: “Khi nào Tư Xuân cần, có tôi”. Lúc đầu ta chỉ sử dụng Thường như một cơ sở binh vận để lấy lòng tin. Nhưng thời cơ Tổng tiến công tới, việc sử dụng Thường để làm binh biến là một nhu cầu bức xúc. Ngoài xã trưởng Thường ra khó có thể có ai làm được binh biến ở địa bàn Bắc Mỹ Thuận. Tỉnh phân công huyện đội Châu Thành chịu trách nhiệm tiến công địch ở Mỹ Thuận. Đồng chí Chín Song rút du kích các xã bổ sung vào đại đội bộ đội địa phương huyện. Ngày tết gần kề, việc chuẩn bị cho Tổng tiến công càng ráo riết. Theo thông lệ hàng năm, huyện Châu Thành tổ chức mời anh em binh sĩ, sĩ quan ngụy có cảm tình với cách mạng vào vùng giải phóng An Phú Thuận ăn Tết. Tư Xuân viết thư mời đại diện Thường, ông đã nhận lời và tổ chức đi ăn Tết nhưng rất dè dặt. Chiều 30 Tết, đại đội của đồng chí Chín Song áp sát lộ 4 ở Tân Hòa. Đồng chí Chín Hoài (cán bộ binh vận Khu 9) và đồng chí Tư Xuân cải trang vào nhà ông Tám Cát thì vừa lúc trời sụp tối. Theo kế hoạch, ông Tám Cát sẽ dùng xe hơi đưa hai 103
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
đồng chí lên nhà đại diện Thường ở gần bến phà. Thế nhưng lúc ấy xe không có ở nhà, ông Tám Cát lại đi chúc Tết chưa về. Khi ông về trời đã tối hẳn. Nhà chỉ còn một chiếc xe Mô-bi-lét. Sau khi bàn bạc, đồng chí Chín Hoài đi với ông Tám Cát, còn đồng chí Tư Xuân phải ở lại vì quá quen mặt với lính ngụy ở Mỹ Thuận. Đến nhà xã trưởng Thường, ông Tám Cát để đồng chí Chín Hoài trước cổng rồi đứng ngoài chờ. Trong nhà xã trưởng có 5-6 bàn tiệc bày la liệt với hàng chục sĩ quan đến chúc Tết. Xã trưởng Thường thấy đồng chí Chín Hoài giới thiệu ngay là người bạn ở Sài Gòn xuống thăm. Đồng chí Chín Hoài bí mật ra lệnh cho xã trưởng Thường giải tán cuộc nhậu lúc 9 giờ. Thường viện cớ sáng mùng một Tết, tỉnh trưởng kêu lên làm việc. Bước đầu như vậy là ổn nhưng hai người chưa từng quen nhau, liệu có thể tin nhau không? Đồng chí Chín Hoài mở cuộc điều tra về Thường chớp nhoáng. Giờ “G” đã gần kề (từ 10 giờ đêm đến 12 giờ đêm là giờ “G”), Thường kể cuộc đời mình và kỷ niệm đẹp đã gặp Bác Hồ ở Pháp. Đúng giờ “G”, tiếng súng nổ dữ dội ở khu vực sân bay và bến phà Mỹ Thuận. Xã trưởng Thường biết điều gì đã xảy ra. Thường là xã trưởng dân sự nên bọn lính bảo an, cảnh sát dã chiến, bọn đàn em cảnh sát Vĩnh đến hỏi ý kiến phản kích. Đồng chí Chín Hoài nắm rất rõ tình hình địch. Theo kế hoạch, đồng chí Chín Song chỉ huy một lực lượng tiến công vào Tân Hòa và lấy nhà Thường làm trụ sở của ban chỉ huy thống nhất. Thế nhưng lúc ấy quân ta chưa vượt cầu Huyền Báo, liên lạc từ ngoài vào lại bị địch bắt, trong khi đó hỏa lực của địch mạnh hơn ta hàng chục lần. Đồng chí Chín Hoài tuyên truyền chính sách Mặt trận cho Thường và tuyên bố: “Hành động và thái độ lưng chừng của anh có thể gây đổ máu nhiều và có tội với nhân dân trong khi thời cơ đã đến”. Xã trưởng Thường đã ra lệnh cho Vĩnh chỉ huy cảnh sát án binh bất động. Suốt ngày mùng 1 Tết tình hình vẫn chưa chuyển biến. Bọn địch vẫn đến nhà Thường báo cáo. Khi nghe tin tỉnh trưởng Vĩnh Long khóc trên đài phát thanh, Thường có chuyển biến hẳn. Tối mùng 1 Tết, Chín Hoài vẫn chưa liên lạc được với lực lượng của ta ở bên ngoài, đồng chí tiếp tục tuyên truyền chính sách Mặt trận với xã trưởng Thường và nói chuyện về Cụ Hồ. Vào tầm nửa đêm, xã trưởng Thường dần dần tỏ ý nhận ra chân lý và đứng dậy đưa tay nghiêm túc thề trước mặt Chín Hoài. Đồng chí Chín Hoài lập tức viết lời kêu gọi cho Thường đọc thu băng cát-xét. Kể từ ấy, xã trưởng Thường mới thực sự là người của cách mạng. Bấy giờ (đêm mùng 1 Tết) đồng chí Chín Hoài dùng lính Bảy (cấp dưới của Thường) để liên lạc với đồng chí Chín Song dưới cầu Huyền Báo và yêu cầu Chín Song cho lính Bảy mang thư liên lạc với cảnh sát Vĩnh. Đêm mùng 1 rạng mùng 2 Tết, ban chỉ huy thống nhất đã rời từ cầu Huyền Báo về nhà đại diện Thường. Chín Hoài yêu cầu Thường lệnh cho cảnh sát Vĩnh tước vũ khí hoặc bức hàng bọn cảnh sát dã chiến đóng ở công sở Tân Hòa. 15 giờ chiều ngày mùng 2, bọn cảnh sát dã chiến buông súng nhảy rào tháo chạy, đại đội bảo an rút xuống tàu tháo chạy về Mỹ Tho. Ta hoàn toàn giải phóng bến phà Mỹ Thuận, công sở xã.
104
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Mũi binh vận ở đây đã thành công rực rỡ và kết hợp chặt chẽ với phong trào nổi dậy của quần chúng với mũi tiến công quân sự. Có được sự thắng lợi đó là do cán bộ binh vận kiên cường dũng cảm, đối tượng vận động phải được chọn lọc. Đây cũng là kết quả của phong trào quần chúng trong quá trình vận động thuyết phục những người làm đường trót theo địch, nay giác ngộ trở về với cách mạng, với nhân dân. Qua cuộc chiến đấu này ta càng thấy nhân dân miền Nam luôn tin ở Đảng, Bác Hồ. Chính Bác Hồ đã cảm hóa những người lầm đường quay về với cách mạng, góp sức vào cuộc kháng chiến của nhân dân. Từ trong đêm trường nô lệ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã tỏa sáng và ngày càng tỏa sáng. Trong chiến tranh nhân dân, kết hợp ba mũi giáp công là không thể thiếu. Ở điều kiện hoàn cảnh cho phép, mũi chính trị hoặc binh vận có thể trở thành mũi chủ công. Trong Tổng tiến công và nổi dậy ở Vĩnh Long, hoạt động binh vận thật sự có hiệu quả và trên thực tế đã là một trong những mũi chủ công. Sau khi binh vận thắng lợi, việc ta rút đại đội của Vĩnh đi bổ sung cho chiến trường là đúng, nhưng để xã trưởng Thường ở lại theo yêu cầu của địa phương là không phù hợp. Vì ông không còn ở thế hợp pháp được nữa. Ngày mùng 6 Tết, địch phản kích, ông Thường đã hy sinh tại bến phà Mỹ Thuận trong lúc đang chiến đấu. Khi địch tập trung phản kích, ta đưa hết cơ sở đã có ra chiến đấu bộc lộ hết lực lượng ngầm, nên sau này ta gặp vô vàn khó khăn. Ta chưa nghĩ đến kế hoạch lâu dài, đưa cơ sở ra đánh chiếm mục tiêu coi như đã hoàn thành nhiệm vụ, mà không nhận và nuôi điển hình trong công tác binh vận. Bởi vì chính mũi binh vận ta xây dựng là khó nhưng đánh địch đạt hiệu quả cao. Tuy những giai đoạn sau ta gặp nhiều khó khăn, tổn thất, song thắng lợi công tác binh vận Tết Mậu Thân ở Vĩnh Long vẫn là điển hình của công tác binh vận ở Vĩnh Long và Quân khu 9. Với thành tích này, Vĩnh Long đã được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng Huân chương Chiến công hạng nhất./. Nguyễn Kim Lâm – Phó Ban Tuyên giáo Thị xã ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
18.Hậu phƣơng Vĩnh Long trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải có hậu phương. Ai có hậu phương vững chắc người đó chiến thắng. Vai trò của hậu phương rất quan trọng. Khi tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh, Lê-nin đã chỉ rõ: “Thắng lợi của cuộc chiến tranh chủ yếu là chế độ bên trong của nước tham chiến quyết định. Chế độ tiến bộ cho phép 105
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
động viên cao nhất sức người sức của tạo nên hậu phương vững chắc, hùng hậu, nhân tố thắng lợi thường xuyên vững chắc cuộc chiến tranh. Chế độ phản động hạn chế việc động viên sức người, sức của, dẫn đến thất bại không tránh khỏi”. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 ở Vĩnh Long, tiến công vào sào huyệt của kẻ thù, chiếm thị xã Vĩnh Long 6 ngày đêm, cắt đứt lộ 4 trong 22 ngày, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, giải phóng vùng nông thôn rộng lớn, trực tiếp góp phần cùng cả nước làm thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân tạo nên thắng lợi là cả một phong trào quần chúng đánh địch với muôn hình muôn vẻ, thực hiện được hậu phương tại chỗ, hậu cần nhân dân gắn bó giữa phía sau với phía trước. Từ năm 1965, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn ở Việt Nam, đế quốc Mỹ ào ạt đưa quân viễn chinh tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và gây chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Việt Nam là nỗ lực chiến tranh toàn diện được đưa đến mức cao nhất của đế quốc Mỹ vượt qua khuôn khổ một cuộc “chiến tranh hạn chế”. Đế quốc Mỹ đã tung vào cuộc chiến một đội quân viễn chinh hơn 60 vạn tên, gồm quân Mỹ và quân của 5 nước chư hầu Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân ngụy. Cách mạng miền Nam lại đứng trước một bước ngoặt mới, những thử thách nghiêm trọng đòi hỏi Đảng phải có những chủ trương, quyết định sáng suốt, kịp thời. Các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965), lần thứ 12 (12-1965) đã khẳng định: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Do đó cách mạng miền Nam phải giữ vững và phát triển thế tiến công chiến lược”.
106
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, quân và dân miền Nam đã liên tục tiến công đánh địch giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, đặc biệt là giành thắng lợi đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch. Vào tháng 6 năm 1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp đã đánh giá thắng lợi của nhân dân đánh bại một bước rất cơ bản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, địch bị lúng túng cả về quân sự lẫn chính trị; còn ta, cả thế và lực đều có nhiều tiến bộ. Vì vậy, nhân lúc đế quốc Mỹ đứng trước thế tiến lùi đều khó, nhân lúc nước Mỹ bầu tổng thống, cần đánh cho địch một đòn quyết định, giành thắng lợi to lớn, tạo nên sự chuyển biến nhảy vọt, buộc Mỹ phải thua về quân sự. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, tháng 11 năm 1967, tại xã An Khánh, Tỉnh ủy Vĩnh Long họp xác định tình hình ta – địch và đề ra nhiệm vụ: cần phải gấp rút xúc tiến về mọi mặt, củng cố lực lượng chính trị, binh vận thành đội ngũ xã, huyện, thị trấn, thị xã để khi chiến sự nổ ra là cùng phối hợp chiến đấu. Cán bộ phải học tập các chính sách, kể cả chính sách tiếp quản, hậu cần phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ vũ khí, đạn, thuốc chiến trường, lương thực… Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Tỉnh ủy Vĩnh Long mở một cuộc vận động tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân dồn sức người sức của cho cuộc tổng tiến công mùa khô 1967-1968 giành thắng lợi quyết định, tạo ra một bước ngoặt cho sự nghiệp chống Mỹ ở miền Nam. Đợt vận động đó đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước trong nhân dân. Nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, đóng góp người, của cho cách mạng với tinh thần “Tất cả để đánh giặc, tất cả để thắng giặc”. Không khí thật sôi động, thanh niên hăng hái lên đường tòng quân, số lượng vượt xa yêu cầu đề ra. Các huyện Tam Bình, Vũng Liêm, Trà Ôn… có phong trào tòng quân mạnh. . Phong trào đưa con em vào lực lượng vũ trang của huyện Tam Bình rất sôi nổi, hàng nghìn nam nữ thanh niên nô nức tòng quân gia nhập bộ đội huyện, tỉnh, quân khu (lúc đó, các đơn vị này đang đóng trên địa bàn huyện). Má Bảy ở xã Mỹ Lộc chỉ còn lại đứa con trai duy nhất cũng đưa đến giao cho đơn vị bộ đội. Xã Hòa Hiệp, chỉ trong một tuần lễ đã thành lập một đại đội tập trung, đưa hai trung đội về huyện. Xã Ngãi Tứ, hai lực lượng cấp tốc được động viên để đưa lên trên: toàn bộ du kích xã, ấp cùng một số thanh niên khác trong xã khoảng 100 người bổ sung vào lực lượng vũ tranh chuẩn bị tiến công thị xã, thị trấn, đồn bốt địch. Một lực lượng khác gồm hầu hết là phụ nữ làm nhiệm vụ tiếp lương, tải đạn phục vụ mũi tiến công quân sự. Ngoài số thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang, vào du kích xã ấp, số dân công tình nguyện phục vụ chiến trường lên gần 3.000 người. Huyện Vũng Liêm, số thanh niên tình nguyện gia nhập lực lượng, huyện, tỉnh, Khu lên đến 2.700 người, vượt yêu cầu đề ra. Huyện thành lập ba đại đội bộ đội địa phương sẵn sàng cơ động cho tỉnh, rút 50 phần trăm du kích các xã thành lập hai tiểu đoàn cho huyện. Xã Hiếu Thành, xây dựng được ba đại đội du kích, đưa một đại đội cùng hàng chục cán bộ ưu tú tăng cường cho huyện, tỉnh. Huyện Trà Ôn, thanh niên nô nức gia nhập lực lượng vũ trang của huyện mình và vào du kích xã, ấp. Ba đại đội bộ đội địa phương được thành lập đưa lên tỉnh cả người vũ khí thì huyện lại có ngay ba đại đội khác, lại có cả trung đội an ninh vũ trang và đội bảo vệ huyện. Hàng trăm du kích xã, hàng trăm thanh niên hăng hái ở 107
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
các xã, ấp được rút lên để bổ sung cho lực lượng bộ đội huyện, luôn đảm bảo không giảm về số lượng và chất lượng. Đồng thời Trà Ôn còn góp phần quan trọng xây dựng tiểu đoàn 312 trung đoàn 3 chủ lực Quân khu. Ngoài ra hàng trăm thanh niên được đưa lên Miền làm nhiệm vụ thanh niên xung phong phục vụ tiền tuyến. Ở các huyện khác như Mang Thít, Châu Thành, Bình Minh phong trào tòng quân nhập ngũ tuy không mạnh bằng Tam Bình, Vũng Liêm, Trà Ôn, nhưng phong trào gia nhập lực lượng tại chỗ phát triển mạnh. Có xã từ hai tiểu đội du kích phát triển lên ba trung đội, có nơi xây dựng cả đại đội. Lực lượng bộ đội địa phương của huyện từ một trung đội tăng lên đến hai đại đội. Tỉnh thành lập tiểu đoàn 2, lực lượng chủ yếu rút từ bộ đội các huyện lên. Nhân dân Vĩnh Long không những tích cực đưa tiễn con em mình gia nhập lực lượng vũ trang mà còn hăng hái đóng góp của cải vật chất cho cách mạng, không hề tính toán thiệt hơn miễn sao được góp một phần công sức, tài sản của mình để giải phóng miền Nam, giải phóng quê hương. Nhân dân kẻ đội người gánh, ghe xuồng từ nhiều đường, nhiều phía chuyển lúa gạo đến điểm tập trung. Gia đình nghèo góp 3 hoặc 5 giạ, gia đình khá góp 10 đến 20 giạ. Nhân dân không những đóng góp lúa gạo mà còn hiến trâu bò, gà vịt, ghe xuồng, vàng bạc cho cách mạng. Nhân dân hồ hởi, nhà nhà vui mừng, lòng ai cũng xôn xao náo nức. Gia đình anh Sáu Thợ (xã Hòa Bình, Trà ôn) mặc dầu hết gạo cũng chạy đi vay bằng được nộp cho cách mạng 10 giạ lúa. Bác Chín (xã Mỹ Lộc, Tam Binh) hiến 50 giạ lúa trong số 80 giạ mà gia đình có, cùng một con bò và một chiếc ghe. Ông Ba Phiên (xã Ngãi Tứ, Tam Bình) hiến một bộ cột nhà bằng gỗ quý trị giá trên 50 giạ lúa và một chiếc vòng bằng vàng. Ông Sáu Đắc (xã Mỹ An, Mang Thít), ông Chín Thuận (ấp 3, xã Mỹ Lộc, Tam Bình) hiến nửa tài sản của mình cho cách mạng. Ông Phan Văn Thảo, ông Hào Dẹp (Vũng Liêm) hiến 100 giạ lúa. Chị Hai ở ấp 4 (xã Mỹ Lộc, Tam Bình) hiến đôi hoa tai – kỷ vật ngày cưới và hai chỉ vàng. Chị Lê Thị Yến (Vũng Liêm) hiến đôi hoa tai – kỷ vật ngày cưới của mình; bà Ba Chậm, bà Hai Sanh (Bình Minh) hiến vàng; ông Hai Rặng, ông Năm Lặc, ông Hai Que (Bình Minh), ông Tư Giỏi (ấp 10 – xã Hòa Hiệp – Tam Bình) hiến trâu, bò… Và, còn nhiều người đã hiến tài sản của mình cho cách mạng, không thể nào kể hết được. Theo số liệu nắm được thì trong đợt vận động mùa khô 1967 – 1968, toàn tỉnh Vĩnh Long đã huy động trên 1.000 tấn lương thực (tương đương 50.000 giạ). Ngoài đóng góp lúa gạo, nhân dân Vĩnh Long còn đóng góp nhiều trâu bò, gà vịt, quà bánh. Ai ai cũng muốn đóng góp thật nhiều cho bộ đội ăn no đánh mạnh giành thắng lợi. Các mẹ, các chị chiến sĩ đều dành cho bộ đội tình cảm trìu mến, ngày đêm lo nấu cơm, gói bánh tét, tìm thức ăn ngon cho bộ đội, chăm sóc chu đáo những thương binh, tử sĩ chẳng may bị thương hoặc bị hy sinh. Hội mẹ chiến sĩ xã Lục Sĩ Thành (Trà Ôn) đã vận động bà con ở đây cưa hai cây xoài đóng 20 chiếc quan tài chuẩn bị chôn cất sĩ tử. Tấm lòng đó đã làm ấm lòng bao chiến sĩ ra trận. Bộ đội càng hăng say đánh giặc thì dân công cũng miệt mài làm việc ngày đêm, liên tục hàng tuần đảm bảo cho mặt trận, mọi yêu cầu khi bộ đội cần đến. Nam nữ thanh niên của các huyện Tam Bình, Mang Thít, Châu Thành, Bình Minh không ngại hiểm nguy gian khổ dùng hàng trăm ghe xuồng vận chuyển hàng tấn lương thực, vũ
108
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
khí, đạn dược ra thị xã Vĩnh Long cung cấp cho chiến trường và đưa tử sĩ, thương binh về vùng hậu phương an toàn. Việc làm đó đã cổ vũ mạnh tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ quân giải phóng tích cực đánh giặc lập công và đã tạo được thắng lợi to lớn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 ở Vĩnh Long nổ ra với tinh thần “Tất cả để chiến thắng”. Quần chúng nhân dân Vĩnh Long hồ hởi đem hết sức mình ra phục vụ cho chiến dịch mùa khô 1967 – 1968, đảm bảo mọi nhu cầu vật chất cũng như thực hiện tốt chính sách che giấu, nuôi chứa bộ đội, cán bộ vào ém quân trong thị xã, thị trấn, dẫn mũi cho bộ đội tiến công vào dinh lũy của kẻ thù và đã tạo nên thắng lợi to lớn: đánh chiếm cơ quan đầu não cấp tỉnh của địch, làm chủ thị xã Vĩnh Long 6 ngày đêm, làm cho bọn địch hoang mang dao động. Thành công này một lần nữa chứng tỏ sức mạnh của đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng. Sức mạnh đó là vô tận, sức mạnh đó có thể khắc phục mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù. Sự đóng góp sức người, sức của của nhân dân Vĩnh Long trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 vô cùng to lớn, điều đó khẳng định một sự thật lịch sử: khi một chủ trương, một chính sách của Đảng phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân thì nhân dân sẵn sàng hưởng ứng không hề tính toán thiệt hơn. Trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhân dân Vĩnh Long đã hưởng ứng tinh thần đó, sẵn sàng cống hiến người, của cho cách mạng giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Chúng ta hết sức trân trọng và mãi mãi nhớ ơn những người đã ngã xuống và góp một phần của cải vật chất của mình để tạo nên chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968./. Trần Thị Mỹ Hạnh – Phó phòng lịch sử Đảng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
19.Phát hiện 35 hài cốt liệt sĩ ở sân bay Vĩnh Long Chủ Nhật, 05/04/2009 Sáng qua, tại khu vực sân bay Vĩnh Long, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã tìm thấy hài cốt của 35 liệt sĩ đƣợc chôn tập thể trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Được biết, những liệt sĩ này có quê quán ở các tỉnh Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long. Các chiến sĩ thuộc Đại đội đặc công và Đại đội 203 của Tiểu Đoàn 857 tham gia cuộc Tổng tiến công xuân Mậu Thân 1968 và cùng hy sinh ngay trong đêm mùng 1 Tết. Hơn 40 năm qua, bị địch vùi xác ngay tại khu vực sân bay nên công việc tìm kiếm quy tập cũng gặp khó khăn.
109
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Ngay sau khi phát hiện, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Long đã cho lực lượng Tiểu đoàn 857 đến cùng tìm kiếm dưới sự chứng kiến của nhiều người dân./. Huỳnh Hải Theo http://dantri.com.vn
20.Một bƣớc ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968) Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” có nguy cơ thất bại, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” – một bước leo thang mới nhằm tiêu diệt chủ lực của ta, leo thang đánh phá miền Bắc, giành những thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn buộc Chính phủ ta phải thương lượng theo điều kiện của Mỹ. Mỹ đổ vào chiến trường Việt Nam một khoản tiền khổng lồ: tài khóa 1965 – 1966 là 4,7 tỷ USD; tài khóa 1966 – 1967 là 24 tỷ USD và hơn 30 tỷ USD tài khóa 1967 – 1968. Đến cuối năm 1967, tổng số quân Mỹ, ngụy lên tới 1,2 triệu, trong đó 486.000 là quân Mỹ. Chỉ riêng trong chiến dịch mùa khô 1966 – 1967, Mỹ đưa vào chiến trường 20 sư đoàn và 10 lữ đoàn chủ lực, 4.000 máy bay, 2.500 xe thiết giáp, 2.500 khẩu pháo, 500 tàu chiến cùng hàng chục ngàn tấn bom đạn, chất độc hóa học. Cùng với những chiến dịch càn quét lớn, Mỹ cho máy bay rải thảm miền Bắc. Tính đến cuối năm 1967, Mỹ đã ném xuống miền Bắc Việt Nam 1.630.000 tấn bom, ước tính 50kg trên đầu người. Trước tình hình đó, Đảng ta đề ra chiến lược, hướng sức mạnh chiến tranh cách mạng vào các thành thị, chuẩn bị tấn công nhất loạt vào các thành phố, thị xã, thị trấn, vào trung tâm đầu não của địch, kết hợp công kích quân sự với khởi nghĩa quần chúng. Để tạo bất ngờ về chiến lược, Bộ Chính trị quyết định thời gian bắt đầu tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân và chiến dịch này phải kết hợp được đấu tranh chính trị, ngoại giao và tiến công quân sự tạo ra sức mạnh tổng hợp với quy mô lớn, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ sang một giai đoạn mới – thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định. Đêm giao thừa rạng sáng Mồng một Tết Mậu Thân, quân và dân ta đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Mỹ - ngụy đã báo động, song đợt Mậu Thân vẫn bất ngờ đối với chúng, bởi chúng không nghĩ tới khả năng một cuộc tấn công của quân giải phóng vào thời điểm đó, nhất là mục tiêu tấn công trọng điểm lại là Sài Gòn. Ngay giờ phút đầu, biệt động thành phố Sài Gòn đã nổ súng vào đại sứ quán Mỹ, dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu, Đài Phát thanh và sân bay Tân Sơn Nhất, những điểm xung yếu về chính trị và quân sự thuộc đầu não của chế độ miền Nam. Hầu hết quận 6, cầu Muối, Bàu Sen, Bình Hòa, Gò Vấp, Hàng Xanh, Thị Nghè, Trương Minh Giảng… vùng ven và ngoại ô Nam, Tây Nam thành phố Sài Gòn được giải phóng. Ở các tỉnh, quân giải phóng đánh vào một số tỉnh lỵ như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Bến Tre, Biên Hòa, Tây Ninh… một số quận lỵ và thị trấn. Quân 110
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
giải phóng Trị Thiên làm chủ tương đối dài ngày thành phố Huế. Ở khu 5, quân giải phóng tấn công một số thị xã và thị trấn chiến lược. Chiến sự đã diễn ra tại 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, huyện lỵ và hầu hết các cơ quan đầu não từ Trung ương đến địa phương của Mỹ, ngụy, đánh trúng 4 Bộ Tư lệnh quân đoàn, 8 trong số 11 Bộ Tư lệnh sư đoàn, 2 Bộ Tư lệnh biệt khu, 2 Bộ Tư lệnh dã chiến, cùng hàng trăm trung đoàn, chi khu, kho tàng, sân bay, bến cảng, chia cắt nhiều tuyến giao thông, thông tin huyết mạch. Cuộc chiến kéo dài trong suốt hai tháng. Trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, chưa có cuộc động binh nào có quy mô và khí thế như Mậu Thân (trừ chiến dịch Hồ Chí Minh 1975). Điều khiến dư luận Mỹ và thế giới kinh ngạc là, bộ đội ta chỉ sử dụng một lực lượng không nhiều, khoảng 67.000 quân trong tổng số 240.000 quân ở miền Nam, đã có thể mở cuộc tổng tiến công trên toàn miền, chống lại một lực lượng 1.100.000 quân, trong đó 492.000 quân Mỹ, 61.000 quân Nam Triều Tiên, Thái Lan và các đồng minh khác với 2.600 máy bay, 3.000 trực thăng, 3.500 thiết giáp, nhưng đã phá vỡ được tuyến phòng thủ đô thị kiên cố, gây tổn thất lớn cho địch về sinh lực và phương tiện chiến đấu. Trong hai tháng đầu xuân, 142.000 sĩ quan và binh lính Mỹ ngụy bị diệt, trong đó 43.000 quân Mỹ, đưa số lính Mỹ bị tiêu diệt lên đỉnh cao chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tại nông thôn, đồng bằng, miền núi, nhân dân ta đã nhất tề nổi dậy diệt ác, trừ gian, giải tán dân vệ, mở rộng vùng giải phóng, làm tê liệt chính quyền cơ sở của địch. Các đợt tấn công Mậu Thân của ta xảy ra trong tình hình quân Mỹ và chư hầu đã đổ bộ vào miền Nam, đông về quân số, mạnh về trang bị. Lực lượng so sánh, xét cho cùng về các loại binh quân chủng và hỏa khí, địch ở vị trí áp đảo. Địch càng áp đảo hơn khi quân ta chọn hướng đột kích là thành phố. Tài năng chiến lược của Bác Hồ và tập thể Bộ Chính trị nổi bật trong lối nhìn hiện thực một cách bao quát, phát hiện ưu thế cơ bản về chiến lược, về tinh thần của quân và dân ta, hiểu rõ tiềm năng của nhân dân thành thị, nắm vững những mâu thuẫn âm ỉ trong nội bộ kẻ thù, trong chính giới Mỹ, nhận thức xu thế hòa bình của các dân tộc, tâm lý không ít giai cấp tư sản cầm quyền vốn đồng minh với Mỹ, thậm chí đang cùng Mỹ tham chiến ở Việt Nam, chán ngấy cuộc chiến tranh không hứa hẹn ngày kết thúc. Và, những gì Mậu Thân đã giành được vượt quá xa quân số và khí tài mà chúng ta có. Tết Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào uy lực của Mỹ, phá vỡ phòng thủ đô thị và chính quyền ở nông thôn trên quy mô toàn miền. Lần đầu tiên, trong lịch sử 200 năm, Mỹ có nguy cơ bại trận, mà là bại trận trước một Việt Nam nhỏ bé. Thực tế Mỹ đã thất bại chiến lược chiến tranh từ Xuân Mậu Thân 1968. Mỹ đã phải ngồi vào bàn hội nghị Paris, không còn dám mơ ước chiến thắng bằng quân sự. Mậu Thân là tín hiệu báo tử cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Mậu Thân, hiệp định Paris buộc Mỹ rút quân và đại thắng mùa Xuân năm 1975 rõ ràng có tầm vóc lịch sử thật lớn lao của nó. Mậu Thân là một kỳ công mang dấu ấn tư tưởng và nghệ thuật quân sự riêng biệt của Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên sức mạnh
111
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
tổng hợp chính trị, quân sự cũng rất riêng biệt của nhân dân Việt Nam bao gồm cả nhân dân các thành thị bị địch chiếm đóng. Trong tiếng pháo giao thừa nổ ran tiễn Đinh Mùi, đón Mậu Thân 1968, lời chúc Tết của Bác Hồ vang lên sang sảng: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua, Thắng lợi tin vui khắp nước nhà. Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ. Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”./. Nguyễn Xuyến Theo Tạp chí Văn Hóa – Số 69 – Số Xuân Mậu Tý 2008 .- Tr.11-12
112
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
PHẦN II
.
113
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
21.Bình Minh – Mậu Thân 1968 Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Bình Minh luôn là địa bàn quan trọng, giáp với hai tỉnh Cần Thơ và Đồng Tháp, nằm ven sông Hậu, có lộ 4 (quốc lộ 1) xuyên qua, có bến phà quan trọng, là địa bàn vùng ven thành phố Cần Thơ. Địch đã xây dựng Bình Minh làm vành đai bảo vệ vùng 4 chiến thuật và sân bay Trà Nóc. Từ vị trí quan trọng đó, Bình Minh trở thành một địa bàn đóng quân trọng yếu của địch. Trong những năm 1967 – 1968, chúng tập trung về đây đội quân tổng hợp dựng lên 90 ban tề ấp, xã; 104 đồn bốt; tiểu đoàn 469 với ba đại đội bảo an, một đoàn bình định trên 30 tên, một đội cảnh sát dã chiến 23 tên và 69 trung đội phòng vệ dân sự trên 2.000 tên. Ngoài ra, lực lượng địch ở Bình Minh còn có trường huấn luyện võ sĩ với quân số túc trực thường xuyên từ 800 đến 1.000, được sự yểm trợ tích cực của sư đoàn 9 và một trung đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 21 ngụy đóng trên địa bàn huyện Bình Minh cùng với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất của Mỹ: xe M.113, máy bay, pháo hạng nặng… Chúng áp dụng ở đây nhiều kiểu chiến tranh, nhiều hình thức chiến thuật tinh vi, xảo quyệt. Từ chỗ xác định Bình Minh là địa bàn quan trọng cho nên địch nghiên cứu bố trí lực lượng bằng mọi giá củng cố, gắng giữ cho được Bình Minh, nhằm làm vành đai vững chắc bảo vệ các căn cứ quan trọng ở thành phố Cần Thơ, vùng 4 chiến thuật và sân bay Trà Nóc. Thời gian này Bình Minh có chín xã: Tân Hòa, Vĩnh Thới, Phong Hòa (Đồng Tháp ngày nay), Tân Lược, Tân Quới, Thành Lợi, Mỹ Hòa, Đông Thành, Mỹ Thuận và thị trấn Cái Vồn. Dân số Bình Minh có khoảng 150.000 người mà địch bố trí ở đây có tới 104 đồn bốt lớn nhỏ. Dọc theo các tuyến sông, quốc lộ, hương lộ lớn, cách chưa đầy 1km đã có một đồn bốt địch đóng; đặc biệt chúng tập trung vây quanh thị trấn với mục đích bảo vệ các cơ quan đầu não ở dinh quận. Song song với hệ thống đồn bốt, bộ máy tề xã - ấp, dân vệ, dân phòng được bố trí dày đặc, mạng lưới gián điệp chỉ điểm được rải khắp các xã trong huyện, tạo ra một thế trận liên hoàn từ trên xuống. Trung bình một xã có từ 11-12 đồn bốt, 10 ban tề xã - ấp và 5-6 trung đội dân phòng dân vệ. Xen kẽ là các đội quân chủ lực: cảnh sát dã chiến, lính bảo an, lính sư đoàn 9, sư đoàn 21… Bọn này thường xuyên kết hợp với ngụy binh ở các đồn bốt, tề xã - ấp và chỉ điểm đi khủng bố đàn áp nhân dân, càn quét ruồng bố lực lượng cách mạng (ở vùng giải phóng) nhất là ở hai xã Mỹ Thuận và Đông Thành với ý đồ “bình định”, “tìm diệt”. Chúng tách dân để dễ kìm kẹp, tạo ra thế da báo (vết dầu loang) để cô lập lực lượng cách mạng và đi đến tìm diệt. Tương quan lực lượng giữa ta và địch lúc này quá chênh lệch, lực lượng ta yếu hơn địch gấp nhiều lần, cả về quân số và trang bị vũ khí chiến đấu. Cuối năm 1967, đồng chí Mười Hên – Thường vụ Tỉnh ủy về chỉ đạo Bình Minh trực tiếp phổ biến chỉ thị về Tổng tiến công và nổi dậy. Sau khi tiếp thu quán triệt chỉ thị của trên, Đảng bộ và quân, dân Bình Minh khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch, cả về tinh thần lẫn vật chất. Từ quần chúng nhân dân đến cán bộ, chiến
114
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
sĩ đều dồn sức tập trung đóng góp với một tinh thần tự giác, phấn khởi và một quyết tâm phải giành thắng lợi, dù hy sinh tính mạng của riêng mình. Trong tâm linh của mỗi người dân Bình Minh luôn khắc ghi lời thề: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Thanh niên nô nức gia nhập các đội du kích xã - ấp. Có xã từ hai tiểu đội du kích phát triển lên 2-3 trung đội. Lực lượng vũ trang tập trung của huyện từ một trung đội phát triển lên đến đại đội. Phong trào quần chúng nhân dân đóng góp cho chiến dịch phát triển rầm rộ; người người, nhà nhà ai nấy đều tích cực ủng hộ của cải, trâu bò, vàng ròng, lúa gạo cho cách mạng. Có nhiều đóng góp nhiều, có ít đóng góp ít, nhân dân không nề hà suy tính thiệt hơn, vì họ có chung một tinh thần yêu quê hương đất nước, lòng căm thù giặc sâu sắc, có chung một tâm trạng: trận này cách mạng sẽ thắng và cuộc đời của họ sẽ được thay đổi, từ người dân mất nước, mất tự do trở thành người có tự do và đứng lên làm chủ cuộc đời mình. Trong chiến dịch này, quân dân Bình Minh đã đóng góp được 3.786 giạ lúa gạo, sáu đôi trâu bò, 21 chiếc ghe xuồng và 54 chỉ vàng (các ông Hai Răng, Năm Lặc, Hai Que hiến trâu bò; Ba Chậm, Hai Sảnh hiến vàng…). Mọi người đều hăm hở chuẩn bị chờ ngày cùng quân dân tỉnh nhà đứng lên cướp chính quyền về tay mình. Chấp hành chỉ thị của trên, ngay trong đêm 27 Tết, Huyện ủy Bình Minh họp Ban chấp hành mở rộng, quán triệt kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy của Huyện ủy và cử đồng chí Ba Oanh – Thường vụ Huyện ủy, chính trị viên huyện đội đi thị sát tình hình địch ở thị trấn Cái Vồn (nơi đóng quân của các cơ quan đầu não quận). Theo kế hoạch, ba mũi giáp công: chính trị, quân sự và binh vận được kết hợp chặt chẽ. Các xã: Tân Quới, Tân Lược, Tân Hòa, Vĩnh Thới và Phong Hòa có nhiệm vụ tập trung bao vây đồn bốt, tề xã - ấp của địch tại chỗ. Các xã: Mỹ Thuận, Đông Thành, Mỹ Hòa và Thành Lợi có nhiệm vụ đánh chiếm các trọng điểm quan trọng như: dinh quận, phá trại giam, khu vực cầu Bắc và lộ 4 (đoạn từ cầu Đúc đến Ranh Hạt). Đêm 29 rạng sáng ngày mùng 1 Tết, từ các khu căn cứ, từ các vùng giải phóng của các xã trong huyện, bằng ba mũi giáp công với thế trận chiến tranh nhân dân, quân dân Bình Minh đã đồng loạt nổi dậy, đánh chiếm các trọng điểm của địch. Bước vào thời điểm này, ở mũi binh vận ta đã đạt được nhiều thắng lợi, làm vô hiệu hóa đồn bốt, tề xã – ấp của địch ở nhiều xã. Tại Mỹ Thuận, Đông Thành, ta vừa tuyên truyền, vừa thông qua vợ con gia đình binh sĩ vận động kêu gọi ngụy binh buông súng quay về với nhân dân, với cách mạng. Trước khí thế cách mạng phát triển rầm rộ, tinh thần địch ở nông thôn hoàn toàn hoang mang lo sợ, nhiều nơi chúng án binh bất động, co cụm phòng thủ không dám phản công mà còn giao nộp cho ta hàng chục nghìn viên đạn các loại… Các xã: Tân Quới, Tân Lược, Tân Hòa, Vĩnh Thới, Phong Hòa, lực lượng du kích xã tập trung bao vây đồn bốt, tề xã - ấp, kìm chân địch tại chỗ để tạo điều kiện đánh chiếm thị trấn. Đối với các xã: Mỹ Thuận, Đông Thành, Mỹ Hòa và Thành Lợi, lực lượng du kích xã kết hợp với bộ đội địa phương của huyện chia làm bốn mũi, tiến công địch từ bốn hướng nhằm vào bốn mục tiêu quan trọng.
115
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Mũi thứ nhất là mũi chủ yếu từ Rạch Vồn (Mỹ Thuận) tiến công vào dinh quận. Mũi này do hai đồng chí Ba Oanh và Tư Đơn chỉ huy. Mũi thứ hai bao gồm lực lượng du kích xã kết hợp với lực lượng an ninh tỉnh từ Mỹ Hòa tiến công vào dinh quận và phá trại giam của địch. Mũi thứ ba dưới sự chỉ huy của hai đồng chí Ba Tâm và Hai Thức từ Thành Lợi tiến công, giải phóng cầu Bắc. Mũi này còn có nhiệm vụ kìm chân địch và cắt đứt giao thông, chặn địch viện trợ từ Cần Thơ qua. Mũi thứ tư (chủ yếu là du kích xã Đông Thành), do các đồng chí Ba Bình, Ba Lách và Tư Tài chỉ huy có nhiệm vụ kìm chân địch không cho chúng chi viện ra dinh quận. Bước vào cuộc Tổng tiến công, các mũi quân sự của ta đều gặp sự chống trả quyết liệt của địch, chúng tập trung lực lượng phòng thủ, bắn trả dữ dội, ta không thể nào tiến lên được. Do đó ta không chiếm được các mục tiêu đã định. Qua một ngày giằng co quyết liệt với địch, các mũi tiến công quân sự của ta chủ động rút quân về nơi tập kết để bảo toàn lực lượng. Ở mũi chính trị, hàng nghìn người từ các hướng: Mỹ Thuận, Đông Thành, Mỹ Hòa giương cao băng cờ khẩu hiệu “đả đảo Nguyễn Văn Thiệu, đả đảo Mỹ - ngụy”, “chính quyền quận Bình Minh phải trả lại cho nhân dân Bình Minh ngay tức khắc”… rầm rộ kéo ra dinh quận. Đoàn biểu tình của ta một mặt đòi bồi thường nhân mạng do chúng gây ra chiều 29 Tết (chúng đã dùng trực thăng bắn chết hàng trăm đồng bào vô tội trên đường về quê thăm mồ mả người thân, kiếm củi bắt cá để chuẩn bị ăn Tết, theo lệnh ngừng bắn giữa hai bên hàng năm); mặt khác hỗ trợ đắc lực cho công tác binh vận, cho đấu tranh vũ trang giành thắng lợi và khi có thời cơ sẽ cướp chính quyền về tay nhân dân. Địch đưa lực lượng ra đàn áp, bắn hàng loạt đạn đón đầu, nhưng đoàn biểu tình vẫn hiên ngang bước tới. Trước sóng người đang dâng lên với khí thế căm thù cao độ, kẻ thù đã dùng súng bắn xả vào đoàn người tay không, làm chết 5 người và bị thương nhiều người, bắt đi một số (trong đó có các đồng chí Tư Liên, Tám Sum, Năm Răng…). Địch càng đàn áp khủng bố bao nhiêu càng tăng thêm lòng căm thù trong nhân dân bấy nhiêu. Đây là cuộc biểu tình có tính chất quy mô và tạo tiếng vang khắp trong tỉnh và toàn Miền, làm cho tinh thần địch hoang mang tột đỉnh. Sau khi không đánh chiếm được dinh quận, ta chủ động củng cố lại lực lượng, chuyển sang phương án mới. Lực lượng của huyện được tăng cường cho lực lượng quân sự của tỉnh để đánh chiếm thị xã Vĩnh Long. Bước vào đợt 2, Bình Minh đã tăng cường cho tỉnh một đại đội (đồng chí Tư Sơn làm đại đội trưởng); lực lượng lại quay về bao vây bức rút đồn bốt địch ở nông thôn. Đồng thời huyện tiếp tục đưa một mũi thuộc lực lượng vũ trang huyện do đồng chí Ba Thái chỉ huy từ Mỹ Hòa đánh sang dinh quận và một mũi nữa do lực lượng du kích xã Mỹ Thuận đảm nhiệm chặn đánh giao thông cắt lộ 4. Cả hai mũi này có nhiệm vụ kìm chân địch, buộc chúng phải co cụm, không chi viện được cho thị xã Vĩnh Long và các vùng lân cận, tạo điều kiện cho ta giải phóng nông thôn. Trong Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân Bình Minh đã gây cho địch nhiều thiệt hại: diệt 40 tên, bức rút giải phóng nhiều đồn 116
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
bốt địch: Khoan Tiết (Mỹ Thuận), Chàm Tre, Sài Gòn Mới (Đông Thành)…; làm chủ được nhiều ấp và quốc lộ 4 trong 22 ngày đêm, mở rộng vùng giải phóng, gọi hàng, làm rã ngũ hàng trăm tên địch, thu nhiều vũ khí, đạn dược các loại. Kết quả to lớn nhất là ta đã từng lúc cắt đứt giao thông lộ 4 (đoạn từ Cầu Đúc tới Ranh Hạt), làm cho địch không chi viện được cho nhau bằng đường bộ. Ta đã tổ chức phát động được một cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất từ trước đến nay trên địa bàn Bình Minh, làm suy yếu tinh thần binh sĩ ngụy, làm cho chúng hoang mang đến cao độ, không dám đi ruồng bố, càn quét, bắn phá trong một thời gian dài. Tuy nhiên về phía ta cũng phải chịu tổn thất, mất mát: hy sinh 6, bị thương 9, một số bị địch bắt và hàng trăm dân thường bị máy bay trực thăng địch bắn chết trên sông Mỹ Thuận chiều 29 Tết. Qua Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Bình Minh, lòng tin của quần chúng nhân dân được củng cố, phong trào cách mạng phát triển rầm rộ, tinh thần địch bị hoang mang dao động. Thắng lợi là cơ bản, song cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Bình Minh cũng cho thấy một số vấn đề cần phải luận bàn và lấy làm bài học kinh nghiệm trong khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh cách mạng. Thứ nhất, ngay thời điểm bắt đầu nổ súng trước khí thế của ta, nhiều đồn bốt địch ở nông thôn hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Ta có cơ hội gỡ đồn bốt địch, giải phóng nông thôn nhưng đã bỏ qua. Thứ hai, khi vạch kế hoạch giải phóng dinh quận, ta đã không đánh giá đúng tương quan lực lượng (thời điểm này tiềm lực địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần). Thứ ba, hiệp đồng nổ súng tác chiến chưa chặt chẽ đồng bộ. Thứ tư, ta đưa ra các khẩu hiệu cho lực lượng đấu tranh chính trị chưa thật phù hợp như “chính quyền quận Bình Minh phải trả lại cho nhân dân Bình Minh ngay tức khắc” dẫn đến việc quân địch lập tức phản ứng bằng cách khủng bố và tăng cường đàn áp rất dã man… Thứ năm, công tác bảo mật chưa cho đáo cho nên địch phán đoán được ý đồ của ta và có thời gian chuẩn bị đối phó. Tuy chưa thực hiện được mục tiêu ban đầu, còn một số hạn chế trong quá trình thực hành chiến dịch, song với Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân Bình Minh đã giáng một đòn quyết liệt vào đầu não địch ở dinh quận gây nhiều thiệt hại và tiêu hao sinh lực địch. Rút kinh nghiệm trong đợt 1, ta đã linh hoạt chủ động chuyển hướng chiến lược về nông thôn nhờ đó mà đã giải phóng nhiều đồn bốt, nhiều vùng nông thôn rộng lớn, kìm chân địch tại chỗ, cắt đứt giao thông lộ 4, góp phần cho thắng lợi chung và tạo tiền đề, kinh nghiệm cho cuộc Tổng tiến công trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975 giành thắng lợi./. Lê Quang Trung - Ủy viên Thƣờng vụ, Huyện ủy Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bình Minh Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
117
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
25.Long Hồ - Mậu Thân 1968 Long Hồ là huyện vùng ven, vành đai tiếp cận bao bọc tỉnh lỵ (thị xã Vĩnh Long) là địa bàn áp sát cơ quan đầu não của địch tại Vĩnh Long trên nhiều hướng. Khu vực phía đông, phía nam và tây nam thị xã Vĩnh Long (gồm các xã Thanh Đức, An Đức, Long Phước, Phước Hậu, Tân Hạnh, Lộc Hòa) là cửa ngõ tiền tiêu án ngữ bảo vệ tỉnh lỵ. Tại đây còn có một số trục giao thông thủy bộ có tầm quan trọng chiến lược, thuận lợi cho việc di chuyển, triển khai lực lượng như quốc lộ 4 cũ, liên tỉnh lộ 7, 8 (nay là quốc lộ 53), sông Cổ Chiên, sông Long Hồ, sông Ông Me, kinh Mương Lộ… Bởi vậy Long Hồ là một địa bàn rất quan trọng, là khu đệm giữa địch và ta. Với địch đây là khu vực phòng thủ và vành đai bảo vệ cơ quan đầu não, bàn đạp mở hướng tiến công vào vùng căn cứ du kích. Với ta đây là tuyến vành đai tiếp cận đứng chân chuẩn bị và mở cửa cho các đợt tiến công vào trung tâm đầu não địch ở Vĩnh Long. Từ tính chất chiến trường nêu trên, địch xác định Long Hồ là trung tâm binh lực nhằm bịt cửa ngõ, bịt hướng tiến công của ta. Địch thường xuyên duy trì nhiều trung đội biệt kích, đưa tiểu đoàn 520 khét tiếng ác ôn, có nhiều thủ đoạn thâm độc trong đánh phá phong trào du kích về hoạt động trên địa bàn này. Ngoài ra, địch còn có hai trung đoàn chủ lực thuộc sư đoàn 9 tập trung hành quân càn quét lấn chiếm. Chúng xây dựng các hậu cứ và mạng lưới đồn bốt dày đặc, tăng cường lực lượng bảo an, dân vệ, bình định, kết hợp với mạng lưới tình báo chỉ điểm, để hòng tiêu diệt phong trào cách mạng của quần chúng. Để tổ chức phòng thủ từ xa, địch đã thiết lập một hệ thống “vành đai trắng” bao vây chia cắt toàn bộ địa bàn Long Hồ. Về hình thức tổ chức cách bố phòng của địch trên tuyến “vành đai trắng” cũng giống như vành đai ấp chiến lược, nhưng có khác biệt là địch có quy định khu vực phía ngoài vành đai là vùng tự do tác xạ, tập trung bom đạn bắn phá cả ngày lẫn đêm sát hại dân thường, hủy hoại ruộng vườn nhà cửa. Ác liệt nhất là ở đoạn vành đai từ Hậu Thành đến khu vực Giáp Nước. Với tuyến “vành đai trắng” này địch cũng gây nhiều khó khăn thiệt hại cho ta. Chỉ tính riêng tuyến vành đai từ ấp An Hòa đến An Hiệp, xã An Đức, trong thời gian cao điểm đánh phá của địch, ta đã tổn thất một lực lượng đáng kể (hy sinh gần một trăm đồng chí). Với tính chất quan trọng của địa bàn Long Hồ, ta kiên quyết giành thế đứng chân tiếp cận để đánh địch, để mở cửa thọc sâu vào trung tâm, tiêu diệt đầu não địch. Dựa vào phong trào cách mạng của quần chúng Long Hồ đã sử dụng ba mũi: chính trị, binh vận, vũ trang bằng ba phương thức: hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp pháp để phá thế bình định kìm kẹp gom dân, tìm diệt bọn ác ôn chỉ điểm, củng cố và mở rộng các lõm du kích, cô lập bọn tề xã ấp, diệt đồn, đánh bọn đi càn quét lấn chiếm… Mặc dầu lực lượng ta yếu, nhưng ta cũng gây cho địch nhiều tổn thất và luôn đẩy chúng vào thế bị động đối phó. Quyết tâm của ta là giành thế đứng chân tiếp cận để mở cửa cho những cuộc tiến công lớn thọc sâu vào trung tâm. Tháng 11 năm 1967, huyện Long Hồ nhận được chỉ thị của Tỉnh ủy về việc xúc tiến chuẩn bị mọi mặt, củng cố lực lượng chính trị, binh vận, vũ trang thành đội ngũ ở xã, huyện, thị trấn, thị xã, sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh. Cán bộ phải học tập các
118
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
chính sách, kể cả chính sách tiếp quản, hậu cần phải được chuẩn bị chu đáo, đầy đủ vũ khí, thuốc men, lương thực và đặc biệt theo chủ trương của Tỉnh ủy, huyện đã tổ chức các “chi bộ tự động” để tự giải quyết những khó khăn và các yêu cầu tại chỗ trong lúc chiến dịch nổ ra. Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, để bố trí lại địa bàn cho phù hợp, huyện Long Hồ (lúc đó là huyện Châu Thành) cắt giao cho huyện Tam Bình các xã: An Đức, Lộc Hòa, Phú Quới, giao cho thị xã Vĩnh Long các xã: Phước Hậu, Tân Ngãi, Tân Hạnh, Thanh Đức và An Bình, đồng thời nhận của Sa Đéc các xã: Tân Phú Trung, Bình Tiên, An Tịnh, Tân Xuân, Tân Thuận Đông và Phú Long. Theo yêu cầu của tỉnh, lúc này huyện có hai đại đội bộ đội địa phương giao hết về tỉnh và nhanh chóng điều du kích các xã lên thành lập được gần hai đại đội mới. Đồng thời, một số cán bộ chủ chốt ở xã và huyện cũng được tăng cường cho tỉnh. Một phong trào đóng góp sức người sức của cho chiến dịch được phát động và nhận được sự ủng hộ rộng rãi trong quần chúng nhân dân toàn huyện. Xã An Phú Thuận là địa điểm tập kết của một số đơn vị bộ binh và pháo binh của tỉnh để chuẩn bị tiến công vào sân bay của địch. Các xã An Đức, Phước Hậu, Thành Đức là điểm tập kết của các tiểu đoàn 306, 308 thuộc trung đoàn ba Quân khu, cộng với lực lượng vũ trang của các huyện Tam Bình, Cái Nhum, Vũng Liêm lên tăng cường cho tỉnh. Long Hồ có nhiệm vụ vận động nhân dân ủng hộ bộ đội, tăng cường hậu cần tại chỗ phục vụ các đơn vị bộ đội về tác chiến ở Long Hồ. Tỉnh giao nhiệm vụ cho huyện tập trung khống chế một số khu vực ven thị xã, dùng lực tại chỗ nổi dậy giải phóng các đồn bốt còn lại trong huyện, giải phóng nông thôn. *** 0 giờ ngày mùng 1 rạng sáng mùng 2 Tết, lực lượng vũ trang huyện Long Hồ đánh chiếm chợ Cái Tàu, chiếm Bắc Mỹ Thuận lấy bốn chiếc bắc, làm chủ tuyến giao thông từ Bắc Mỹ Thuận về sa Đéc, vây đồn Đức Tôn và khống chế đi đên cắt đứt quốc lộ 4 (cũ). Dùng lực lượng binh vận chiếm đồn Tân Hòa. Sau ngày mùng 3 Tết và những ngày tiếp sau đó, quần chúng khắp nơi nổi dậy phối hợp cùng lực lượng du kích xã ấp, lực lượng binh vận tiến công giải phóng các đồn: Địa Chuối, ngã ba Đình, Miếu Trắng, Kỳ Hà, Long Hiệp, giải phóng cơ bản xã An Đức, giải phóng hoàn toàn xã Phước Hậu. Binh lính địch ở một số đồn hoảng hốt bỏ chạy, ta giải phóng xã Long Hồ (nay là xã Long Phước), chiếm đồn Long Đức, Bắc Cổ Chiên, giải phóng thị xã Long Đức. Ở Long Thanh ta làm chủ hoàn toàn tới khu vực rạch Cầu Kè. Ở Lộc Hòa ta bao vây bức rút đồn cầu Chữ Y, chiếm đồn Kinh Tư, giải phóng cơ bản xã Lộc Hòa. Ở tuyến trên ta đánh dứt điểm các đồn Xóm Củi, Xẻo Trầu, Cây Giáo, Phú Long, giải phóng xã Phú Long, sau đó chuyển sang lấy các đồn Ông Đại, Xeo Tre, đánh đồn ngã ba Tân Hựu. Ở ba xã cù lao, sáng ngày mùng 3 Tết, lực lượng binh vận lấy đồn Cầu Đen. Binh lính các đồn: Nhà Thờ, Bún Bò, Xẻo Cát rút chạy về đồn Cầu Bắc. Sáng hôm sau ta tiếp tục bao vây đồn Cầu Bắc buộc địch ở đây phải đầu hàng. Bọn địch tại đồn Bình Hòa Phước trốn chạy sang đồn Tân Phong, ta dùng lực lượng quần chúng và binh vận kêu gọi chúng trở về đầu hàng giao nộp vũ khí, xã Bình Hòa Phước hoàn
119
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
toàn được giải phóng. Cùng lúc đó bằng công tác binh vận, du kích xã Đồng Phú cũng tự giải phóng xã mình, tiến lên bao vây các đồn Tắt Cát và An Bình. Kết thúc đợt 1, Long Hồ tập trung lực lượng quay ra giải phóng hầu hết tuyến ven thị xã, giải phóng các xã An Khánh, Hòa Tân, Tân Hòa, giải phóng cơ bản các xã: Phú Thuận, Tân Thuận Đông, Phú Quới. Trong lúc ta ghìm chân địch tại trung tâm thị xã để một lực lượng chủ yếu quay ra giải phóng nông thôn, thì địch cũng lại cho quân ra ngoài đánh vào hậu phương ta. Chỉ tính riêng ở địa bàn xã Phước Hậu, địch đã đụng đầu với lực lượng vũ trang của tỉnh đang còn cắm quân ở đây đến bốn lần. Sau bốn cuộc đụng độ, địch chết và bị thương 316 tên, thiệt hại ba xe M.113, ta thu hai đại liên, một trung liên và 19 súng trường. Ở ba xã cù lao, địch cũng đã tổ chức hai cuộc hành quân lớn gồm lực lượng của tiểu khu Vĩnh Long, thủy quân lục chiến và một số cố vấn Mỹ, song cũng không xoay chuyển được tình hình. Như vậy trong Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968, Long Hồ đã giải phóng cơ bản địa bàn toàn huyện, chỉ còn một ít nơi vùng ven rạch ấp và các đồn: ngã ba Tân Hựu, Tắt Cát, An Bình. Ta đã làm chủ đến Bắc Mỹ Thuận 29 ngày đêm, quốc lộ 4 trên một tháng. Để đạt được kết quả to lớn đó, trong Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968, Long Hồ đã tạo ra được yếu tố bất ngờ. Trong suốt quá trình chuẩn bị cho đến khi nổ súng, ta đã giữ được bí mật, để khi tiến công tạo yếu tố bất ngờ làm cho địch rối loạn hoang mang. Vấn đề thứ hai xuyên suốt của quá trình chuẩn bị cũng như trong toàn chiến dịch là: Đảng bộ Long Hồ luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Được sự chỉ đạo của trên, song song với việc tổ chức học tập cho cán bộ, đảng viên thông suốt chủ trương chiến lược của Đảng, Huyện ủy đã chỉ thị cho các xã gấp rút xây dựng “chi bộ tự động”. Với “chi bộ tự động”, từng nơi đã tự động giải quyết các yêu cầu do cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đặt ra. Điển hình như ba xã cù lao không được sự chỉ đạo của trên nhưng khi cuộc Tổng tiến công nổ ra, chi bộ đã chủ động lãnh đạo quần chúng và lực lượng vũ trang tự lực đánh địch. Vấn đề thứ ba là kết hợp nhuần nhuyễn ba mũi giáp công để đánh địch. Trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân ở Long Hồ, nổi lên rõ nét là sự kết hợp sáng tạo giữa vũ trang và binh vận trong việc lấy các đồn bốt địch, giải phóng nông thôn. Khi chiến dịch nổ ra, với lực lượng binh vận đã tổ chức từ trước, ta đã nhanh chóng chiếm được các đồn: Tân Hòa, Đìa Chuối, ngã ba Đình, Miếu Trắng, Kỳ Hà… Du kích ba xã cù lao lấy được hầu hết các đồn bốt do công tác binh vận kết hợp với nghi binh (dùng cây kết lại để dưới ghe, phủ vải mũ lên trên, trong lúc hoang mang địch lầm tưởng ta có vũ khí lớn, lực lượng đông nên vội vã đầu hàng để khỏi bị tiêu diệt). Sau khi bao vây đồn Long Thanh ta dùng tên Tấn, lính ngụy kêu gọi đồng bọn đầu hàng… Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, lãnh đạo huyện cũng như các xã chưa thật nắm vững chủ trương ý đồ, ý định của cấp trên nên bố trí lực lượng và một số công 120
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
việc khác chuẩn bị chưa tương xứng với tầm cỡ của một chiến dịch lớn như chiến dịch này, do đó kết quả đạt được còn hạn chế so với mục tiêu đề ra./. Đỗ Thanh Hồng - Ủy viên Thƣờng vụ Huyện ủy, Trƣởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Long Hồ Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
23.Mang Thít - Mùa Xuân Tổng tiến công và nổi dậy Trong Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968, Mang Thít còn có tên là huyện Cái Nhum. Đối với địch Cái Nhum là địa bàn trọng yếu của tỉnh Vĩnh Long, trong đó sông Mang Thít được xem như một cửa ngõ chiến lược quan trọng. Địch xác định: muốn giữ được thị xã Vĩnh Long, không cho Việt Cộng tiến công từ phía dưới lên thì phải cắt cho được tuyến sông Mang Thít. Đối với Cái Nhum là huyện có vị trí mà lực lượng ta khó bám để hoạt động, địa hình phức tạp. Hơn nữa nơi đây, hầu như không có vùng căn cứ, có chăng cũng chỉ là vùng căn cứ do mở lõm, lực lượng cách mạng phải đi ở đậu ở nhờ để chiến đấu với giặc. Từ chỗ xác định vị trí quan trọng của huyện Cái Nhum như trên, địch bằng mọi cách bình định cho được vùng trọng điểm sông Mang Thít; củng cố bổ sung các đồn theo lộ 32 và các xã trong huyện. Nơi đây, lúc ít nhất lực lượng địch cũng từ 700 đến 1.000 quân, còn thời kỳ cao điểm nhất là từ 2.000 đến 3.000 quân cộng với trên 1.000 bảo an dân vệ. Năm 1966 địch đổ quân ra bình định đóng sáu đồn dọc theo tuyến sông Mang Thít (cứ 1km đóng một đồn). Địch canh giữ quyết liệt tuyến này, để ngăn chặn quân chủ lực của ta từ Trà Vinh qua sông Mang Thít lên thị xã Vĩnh Long. Địch có bốn đại đội bảo an cơ động (gồm các đại đội 140, 149, 835 chuyên thực hiện càn quét, đại đội 160 thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hành lang và tiếp tế vũ khí lương thực cho các đồn), một trung đội pháo binh của sư đoàn 9 tăng cường để bảo vệ hai trọng pháo 105mm, mỗi xã có một trung đội dân vệ. Ngoài ra địch còn bố trí ở mỗi ấp từ 3-4 tên bình định khoanh vùng điều tra gia đình cán bộ cách mạng của ta.
121
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Với lực lượng trên chúng thực hiện âm mưu tiêu diệt toàn bộ lực lượng cách mạng ở Cái Nhum. Để đối phó với âm mưu thủ đoạn của địch, từ giữa năm 1967, huyện Cái Nhum đã bồi dưỡng, đào tạo được 1.095 cán bộ nòng cốt, lực lượng vũ trang huyện phát triển được bốn trung đội, mỗi xã đều có một tiểu đội du kích. Trên thực tế, năm 1965 căn cứ ở Tân Long Hội mới hình thành, từ đó làm bàn đạp mở lõm trở lại tuyến vùng giữa và năm 1966 mới xây dựng được căn cứ của Huyện ủy tại vùng này. Tuy nhiên, căn cứ lúc đó rất chật hẹp và phải phân tán rải rác. Tháng 2 năm 1967, đồng chí Năm Kiệt (Nguyễn Ký Ức) xuống Bà Giáo để kiểm tra uốn nắn tình hình của huyện. Đầu tháng 9 năm 1967, hai đồng chí Tư Rạng và Tư Cẩn được Khu ủy và Tỉnh ủy cử xuống chỉ đạo huyện Cái Nhum. Đầu tháng 10 năm 1967, Đảng bộ Cái Nhum hạ quyết tâm phải nhanh chóng làm thất bại âm mưu bình định cấp tốc của địch, bằng mọi cách phải phá kìm, phá lõm tuyến sông Mang Thít, đặc biệt mở cho được con đường từ Tân Long Hội về thị xã Vĩnh Long. Huyện còn chủ trương phải đẩy mạnh phong trào lạc quyên, tòng quân, nhằm huy động đến mức cao nhất về sức người sức của để tạo thế và lực mới. Trước khi bước vào Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thâm 1968, quân và dân Cái Nhum bằng tiến công vũ trang, binh vận và chính trị đã bứt rút được một số đồn dọc theo sông Mang Thít, toàn bộ đồn trên tuyến đường từ thị trấn đi Nhơn Phú – Cái Kè, tháo gỡ các đồn An Hương, Rạch Chùa, Cây Trôm, Cái Chuối và Miếu Trắng. Lực lượng du kích các xã Hòa Tịnh, Bình Phước, Mỹ An, Long Mỹ, Chánh
122
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Hội kết hợp cùng nhân dân bức hàng hai đồn, bức rút hai đồn, diệt trên 30 tên ác ôn, phục kích phá hủy hai tàu bo-bo trên sông Mang Thít. Để chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968, huyện Cái Nhum vinh dự được đón đồng chí Tư Rạng – Thường vụ Tỉnh ủy về chỉ đạo. Ngày 29 tết, lệnh tổng tiến công về đến Cái Nhum trong lúc tại đây đang có cuộc họp bàn giao Chợ Lách cho tỉnh Bến Tre. Đồng chí Năm Vận – Khu ủy viên trực tiếp truyền đạt và giao nhiệm vụ cụ thể cho huyện. Trong cuộc tổng tiến công lịch sử này, Cái Nhum sẽ đảm nhiệm một hướng tiến công vào thị xã Vĩnh Long. Trong đêm 29 Tết huyện phải đón quân chủ lực về, đồng thời tiếp lương tải đạn bảo đảm hậu cần. Tất cả chủ trương trên được Huyện ủy triển khai nhanh chóng. Thực ra thì trước đó, đồng chí Ba Hiểu – Thường vụ Huyện ủy, trong khi tập huấn ở Quân khu đã được quán triệt tinh thần nghị quyết của trên về cuộc tổng tiến công này. Vì vậy mà sau khi đồng chí trở về địa phương, Cái Nhum đã bắt tay tích cực chủ động chuẩn bị. Những ngày giáp tết, tiểu đoàn 308, bộ đội địa phương huyện và lực lượng du kích thuộc các xã Tam Long, Hòa Tịnh, Nhơn Phú, Mỹ An đóng quân tại các vùng căn cứ lõm như Phước Chí, Long Quới, Hòa Tịnh, Rồng Dài đã sẵn sàng chờ lệnh. Huyện ủy phân công các lực lượng còn lại cùng nhân dân bao vây các đồn bốt ở xã và thị trấn. Lực lượng vũ trang huyện Cái Nhum được chia làm hai mũi: -Một mũi đánh từ cầu Ông Me qua cầu Khưu Văn Ba và đánh thẳng vào dinh tỉnh trưởng. -Mũi thứ hai từ Bắc Cổ Chiên đánh lên chiếm Lồng Chợ và khám lớn. Tổng số quân ở mũi này hơn 200. Khi tới khu vực Bắc Cổ Chiên, mũi này lại chia làm hai mũi: một nửa đánh sang Bến Đá, qua đò đánh chiếm Chợ Cá và nhà Lồng Chợ; mũi thứ hai theo lộ lên cầu Thiềng Đức. Theo hiệp đồng tác chiến thì hai mũi này sẽ gặp nhau ở khám lớn và nhà Lồng Chợ, nhưng trên thực tế khi triển khai thì hai mũi tiến rất khó khăn. Đa số anh em ta chưa biết chợ Vĩnh Long mà chủ yếu tiến theo sa bàn và bản đồ là chính. Mũi thứ nhất tiến tới Bến Đá qua sông nhờ chiếc trẹt đưa quân nên khá an toàn, qua Chợ Cá chiếm nhà Lồng Chợ chưa phải nổ phát súng nào, nhưng mũi thứ hai đụng phải trung đội phòng vệ và dân vệ đóng tại mé dưới cầu Thiềng Đức. Ta dùng B.40 tiêu diệt một số, còn một số bỏ chạy. Khi qua bên kia cầu gặp phải sự kháng cự điên cuồng của địch, buộc lực lượng ta phải nằm án ngữ ở đó, và cho một bộ phận thọc sâu vào trung tâm thị xã. Bộ phận này đã tiến đánh đến bệnh viện đa khoa (gần chợ) nhưng do mất liên lạc với cơ sở hợp pháp nên không hội quân với mũi thứ nhất như đã hiệp đồng được. Một điều đáng nói là bước vào Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968, Cái Nhum chỉ có duy nhất xã Phước Chí là giải phóng trọn vẹn, còn lại không một xã nào giải phóng trọn ấp. Bởi vậy lực lượng vũ trang sẽ khó khăn trụ vững nếu không có sự hy sinh quên mình, sự chở che đùm bọc của người dân Cái Nhum. Biết bao tấm gương sáng ngời như chị Hai Trầu vận động tiếp tế lợn gà, trâu bò, bánh trái bằng xuồng ghe, gánh bộ. Hoặc có trường hợp dân mượn xe hơi không xăng, không biết lái mà chỉ phấn khởi đẩy xe từ thị xã về chở gà vịt, thịt, cá, bánh trái 123
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
đem chất đầy lên xe, rồi một người làm tài xế ôm vô lăng, còn lại cùng nhau đẩy bộ lên giao hàng. Nhiều bà con sẵn lòng hiến của cải, hiến một phần ba hoặc nửa số lúa hiện có của mình, có gia đình hiến 50 giạ, có gia đình cho một chỉ vàng hoặc cái máy khâu… Huyện ủy Cái Nhum chủ trương đẩy mạnh hoạt động binh vận bằng cách động viên gia đình, vợ con ngụy binh ra đứng vây xung quanh đồn bốt kêu gọi chồng, con em đầu hàng trở về với cách mạng. Ban đêm cán bộ, anh em du kích bung ra hoạt động xung quanh thị trấn; địch hoang mang lo sợ không dám ló đầu ra, tình thế đó rất thuận lợi cho ta tháo gỡ đồn bốt. Vừa bao vây, cô lập và tuyên truyền thuyết phục, vừa sử dụng lực lượng chủ lực (đối với những đồn bốt ngoan cố), huyện Cái Nhum đã bức rút được nhiều đồn bốt dọc theo tuyến lộ 32, tuyến sông mang Thít và hệ thống đồn bốt ở các xã. Kết thúc chiến dịch, tuy bị tổn thất nhưng Cái Nhum vẫn được Tỉnh ủy Vĩnh Long đánh giá là huyện lập được nhiều thành tích toàn diện cả về quân sự, chính trị, bảo đảm hậu cần và xây dựng lực lượng. Về chính trị, huyện động viên được toàn dân tham gia, quân sự thì tiến công quyết liệt; binh vận thì làm rã ngũ tiêu hao lực lượng địch; hậu cần thì vẫn thu góp trội hơn các huyện khác. Cái Nhum vừa đánh vừa bổ sung, khi bộ đội chủ lực (tiểu đoàn 308) được điều đi đã rút theo hai đại đội của lực lượng vũ trang huyện, nhưng ngay sau đó lập tức Cái Nhum đã đôn từ dưới lên bổ sung đủ quân số. Sau một thời gian củng cố lực lượng, địch quay sang phản kích điên cuồng bất kể ngày đêm. Sau khi đánh thị xã trên đường rút lui bị địch chặn đường ở An Hương đánh bật trở lại, vì thế lực lượng ta bị kẹt và rơi vào tình trạng thiếu vũ khí đạn dược. Không thể để tình trạng trên kéo dài, Huyện ủy Cái Nhum tập trung chỉ đạo tạo thế hợp pháp để vận chuyển vũ khí tiếp tế cho lực lượng còn bị kẹt lại bên trong. Khi đã có một số vũ khí trong tay, lực lượng này mở “đường máu” đánh ra bức rút được một số đồn bốt (số 3, 4, 5). Được một thời gian địch đánh lại ác liệt, đánh tới đâu chúng đóng đồn tới đó. Địch khôi phục đồn Bầu Thuyền, đồn Tư Hái… và cuối cùng bịt kín tuyến sông Mang Thít. Cán bộ của ta phải tránh né qua bên kia sông và thường sử dụng xuồng đuôi tôm đánh địch. Những ngày sau Mậu Thân quả là những ngày đầy gian khổ. Nhưng tinh thần quyết chiến và quyết thắng đã đưa Đảng bộ, quân và dân Cái Nhum vượt qua khó khăn, từng bước khôi phục phong trào tiến lên giành toàn thắng./. Nguyễn Văn Quan – Phó Ban tuyên giáo Huyện ủy Mang Thít Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
124
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
24.Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở huyện Tam Bình Xuân 1968 Mùa Xuân 1968, một mùa xuân đã đi vào lịch sử hào hùng cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Tam Bình nói riêng. Tam Bình là một huyện đồng bằng nông thôn, cách thị xã Vĩnh Long 12km đường chim bay về phía nam. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, Tam Bình luôn là một trong những căn cứ cách mạng quan trọng của Tỉnh ủy Vĩnh Long, đồng thời cũng là mục tiêu phải chiếm đóng bằng mọi giá của kẻ thù. Trước cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, hòa nhịp với xu thế phát triển chung của cách mạng miền Nam, phong trào cách mạng của nhân dân Tam Bình không ngừng lớn mạnh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, cả số lượng lẫn chất lượng. Từ vùng giải phóng đến vùng kìm, Đảng bộ Tam Bình đã có 118 đảng viên gồm 40 tổ chức cơ sở Đảng. Huyện ủy Tam Bình lúc bấy giờ gồm 11 đồng chí, do đồng chí Võ Văn Dũng làm Bí thư. Phong trào vừa đánh địch, vừa củng cố và tăng cường lực lượng ta phát triển đều khắp từ huyện đến xã. Cuối năm 1967 mỗi xã có một trung đội du kích trở lên, có xã xây dựng được cả đại đội, ấp có tiểu đội. Bộ đội huyện gồm một đại đội và một trung đội trinh sát độc lập. Đặc biệt sau khi bổ sung cho tỉnh một đại đội thì huyện đã rút ở các xã và tuyển mới để thành lập ngay lại một đại đội đủ biên chế. Ngoài ra huyện còn đưa tân binh vào bộ đội thường xuyên theo yêu cầu của trên. Chỉ riêng xã Hòa Hiệp trong năm 1967 đã tuyển được 114 tân binh. Bên cạnh phong trào xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang thì phong trào xây dựng và rào ấp, xã chiến đấu cũng phát triển mạnh, đều khắp trong vùng nông thôn giải phóng và lan ra cả vùng ven. Nổi bật trong giai đoạn này có phong trào bắn máy bay bằng súng bộ binh được tỉnh đánh giá rất cao… Đấu tranh chính trị cũng phát triển rất mạnh, phong trào binh – địch vận bắt đầu hình thành và phát triển. Các tổ chức đoàn thể từ nông dân, thanh niên, phụ nữ đều phát triển tốt; không đoàn thể nào có dưới 500 hội viên. Nhìn chung cuối năm 1967 Ban Chấp hành Huyện Đảng bộ Tam Bình đã lãnh đạo Đảng bộ và nhân dân thực hiện phương châm “hai chân ba mũi” tiến công địch trên địa bàn huyện đạt kết quả rất tốt, bảo vệ, phục vụ an toàn căn cứ Tỉnh ủy đóng ở Nong Lộc. Cuộc kháng chiến của ta càng phát triển mạnh mẽ thì quân địch càng tăng cường đánh phá vùng nông thôn giải phóng bằng máy bay ném bom và pháo binh, đánh cả ngày lẫn đêm vào bất cứ nơi nào chúng muốn. Bom tọa độ hàng đêm đã gây biết bao nỗi kinh hoàng và chết chóc cho nhân dân, cộng vào đó là sự càn quét, chà đi sát lại ở những vùng chúng cho là có bộ đội hoặc cơ quan của Việt Cộng cũng như những nơi có dân ở, nhằm triệt phá địa bàn đóng quân của ta, tách dân ra khỏi vùng giải phóng, vơ vét của cải. Cuộc càn quét nào cũng có lính Mỹ, phi cơ, trực thăng, pháo binh đi kèm. Ở vùng tạm chiếm thì chúng tăng cường đôn quân bắt lính. Mỹ - ngụy quyết phong tỏa vùng giải phóng, nhằm không để một lít gạo, một gói thuốc lá, một cục xà phòng, một viên thuốc trị bệnh và bất cứ một thứ nhu yếu phẩm
125
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
nào lọt vào vùng giải phóng. Mặt khác, chúng tuyên truyền lối sống thực dụng bằng phim ảnh, sách báo đồi trụy phản động nhằm đầu độc nhân dân, đặc biệt là đối tượng thanh niên, thiếu niên. Đặc biệt là chiến tranh tâm lý, lúc này được kẻ thù sử dụng ở tất cả các lĩnh vực, không từ bỏ một hành động đê hèn bỉ ổi nào mà chúng ta biết đến. Từ việc phát tiền, cấp tôn lợp nhà cho những ai chịu ly khai Cộng sản, dùng lực lượng “Thiên nga”, “Phượng hoàng” vừa làm ly gián, vừa làm gián điệp, vừa mua chuộc chiêu hàng, hăm dọa; treo giải thưởng cho những tên tề xã, trưởng đồn ác ôn nào phá được hạnh phúc gia đình cán bộ cách mạng. Chúng đóng 42 đồn bốt khắp trong huyện. Ngoài lực lượng tại chỗ chúng còn sử dụng lực lượng cấp trên khi cần như máy bay ném bom, trực thăng chiến đấu, pháo binh. Trước tình hình địch tăng cường về mọi mặt ở Tam Bình, Huyện ủy đã nhận định địch đông hơn ta nhiều lần, phương tiện, vũ khí hiện đại nhiều vô kể. Nhưng chúng tiến hành chiến tranh phi nghĩa, bị nhân dân căm ghét, tinh thần chiến đấu kém (trừ một số ác ôn). Về ta lực lượng ít, vũ khí ít, chất lượng hạn chế, nhưng ta tiến hành chiến tranh chính nghĩa, được nhân dân ủng hộ, tinh thần bảo vệ quê hương, xóm làng, đánh đuổi giặc ngoại xâm thì không gì ngăn cản được, vì đó là sức mạnh của toàn dân. Trung tuần tháng 9 năm 1967, Huyện ủy được truyền đạt tinh thần Nghị quyết VII của Trung ương Đảng chuẩn bị cho Tổng tiến công – tổng khởi nghĩa. Nghị quyết nêu: nếu tình hình thuận lợi tiến tới hoàn toàn giải phóng miền Nam, nếu điều kiện không tốt thì mở rộng vùng giải phóng tạo tiền đề giải phóng tiếp. Sau khi tiếp thu quán triệt nghị quyết, Huyện ủy đề ra chủ trương cụ thể: Thứ nhất, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang ngày càng lớn mạnh theo chỉ tiêu: huyện có đại đội trở lên, xã có trung đội và ấp có tiểu đội, đồng thời đảm bảo đưa tân binh bổ sung cho cấp trên theo yêu cầu. Thứ hai, chuẩn bị lực lượng chính trị để xuống đường đấu tranh cướp lấy chính quyền khi thời cơ đến, chuẩn bị đủ phương tiện, dụng cụ phá lộ, san bằng đồn bốt… Thứ ba, phát động phong trào góp tiền, của, phương tiện phục vụ khởi nghĩa với khẩu hiệu chia đôi tài sản cho cách mạng. Thực hiện ba nhiệm vụ trên, nhằm giải phóng huyện nhà, đồng thời đảm nhiệm cho cả khu vực theo yêu cầu của Khu và tỉnh. Sau hai tháng phát động, phong trào cách mạng trong huyện đã phát triển mạnh, hàng nghìn nam, nữ, thanh niên tòng quân nhập ngũ. Huyện thành lập được 5 đại đội, xã nào cũng có trung đội, riêng Song Phú 3 và Hòa Hiệp có đến hai trung đội, ấp nào cũng có một tiểu đội trở lên. Số dân công tình nguyện lên đến 3.000. Đặc biệt về hậu cần được chuẩn bị khá chu đáo, toàn huyện tăng từ 2 đến 3 lần, chỉ riêng xã Song Phú đã góp được 27.000 giạ lúa, Mỹ Lộc 50 xuồng, ghe các loại, 400 giạ gạo, hàng nghìn đòn bánh tét… Đêm 27 tháng 1, Thường vụ Huyện ủy cử đồng chí Võ Văn Dũng – Bí thư Huyện ủy và đồng chí Nguyễn Nam Thành – Huyện đội trưởng đi nhận lệnh Tổng công kích – tổng khởi nghĩa do Tỉnh ủy phổ biến. Khi về hai đồng chí đã đưa ra Ban chấp hành Huyện ủy thảo luận thống nhất kế hoạch thực hiện như sau:
126
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Quyết tâm giải phóng chi khu Tam Bình, cắt đứt giao thông (lộ 4, lộ 16); đồng loạt bao vây và giải phóng tất cả những đồn bốt khi có điều kiện bằng sức mạnh tổng hợp (quân sự, chính trị, binh vận). Khẩu hiệu hành động lúc này là: “Tất cả cho chiến thắng”. Cụ thể huyện dùng lực lượng chính trị biểu tình từ ba hướng kéo vào chi khu Tam Bình, có lực lượng vũ trang yểm trợ để cướp chính quyền nếu đủ điều kiện. Nếu điều kiện chưa cho phép thì tiếp tục dùng bộ đội địa phương, du kích bao vây tiến tới giải phóng chi khu bằng vũ trang; đồng thời vây ép thị tứ Ba Càng, cắt đứt lộ 4, không cho địch ở Cần Thơ và Vĩnh Long chi viện lẫn nhau. Du kích các xã ấp thì bao vây bức rút, phá tung đồn bốt, giải phóng nông thôn. DIỄN BIẾN CỦA CHIẾN DỊCH Đợt 1: Đúng 1 giờ sáng ngày mùng 1 Tết, lệnh Tổng tiến công phát ra. Từ nhiều mũi nhiều hướng ta nổ súng tiến công địch ở Tam Bình. Ta dùng súng cối 60mm bắn vào chi khu Tam Bình và yếu khu Ba Càng làm hỏng hai khẩu pháo 105mm của địch. Ở tất cả các nơi du kích bao vây đồn bốt và tuyên truyền phát lệnh tổng khởi nghĩa, vận động quần chúng tham gia kêu gọi binh sĩ địch bỏ ngũ trở về quê hương, gia đình. Đúng 5 giờ sáng mùng 1 Tết, lực lượng chính trị gồm hàng nghìn người (do đã chuẩn bị tập kết lực lượng từ tối 30 Tết) từ ba hướng kéo vào chi khu Tam Bình. Đoàn người có máy phóng thanh, băng cờ, tiến thẳng vào chi khu. Cánh 1, theo tuyến sông cặp lộ 16 qua Mỹ Thạnh Trung và chi khu. Cánh này do đồng chí Nguyễn Văn Phiên, bí thư đảng ủy xã Ngãi Tứ lãnh đạo. Cánh 2, từ hướng Trà Luộc kéo vào chi khu bằng đường bộ. Cánh 3, từ Hòa Hiệp kéo dọc sông Mang Thít vào chi khu. Cánh thứ nhất xuất phát đầu tiên, phương tiện chủ yếu là ghe tam bản, tiến vào chi khu đã được sự hưởng ứng nồng nhiệt của quần chúng nhân dân trên đường đi. Khi đoàn của ta đi qua một số đồn bốt, binh lính trong đồn không những không dám cản mà còn cổ vũ cho đoàn. Nhưng khi đến cầu Ba Ti Dô thuộc địa phận Mỹ Thạnh Trung thì bị một đại đội bảo an chặn lại. Ta dùng lý lẽ đấu tranh để vượt qua, địch thì quyết chặn lại chờ lệnh cấp trên. Đến 10 giờ, khi biết tiểu khu Vĩnh Long chưa mất và phát hiện trong đoàn biểu tình có trang bị vũ khí nên bọn địch ở đây dùng súng bắn áp đảo đoàn, lúc đầu bắn chỉ thiên, sau đó bắn thẳng vào đoàn làm chết tại chỗ 4 người và bắt gần 100 người (có 50 nữ). Sáng hôm sau, chúng bắt giam thêm 7 người nữa (trong đó có đồng chí Ba Phiên). Cánh thứ 2, kéo đến ngã ba Thầy Hạnh và cánh thứ 3 kéo đến đồn Cống Sen (chợ cũ) cũng bị địch dùng vũ trang giải tán. Trước tình hình khó khăn như thế, ban chỉ huy quyết định tạm ngừng tiến công địch bằng lực lượng chính trị, đưa mũi quân sự áp sát bao vây chi khu Tam Bình. Đến 1 giờ 30 phút ngày mùng 2 Tết, ban chỉ huy khởi nghĩa cùng đồng chí La Lâm Gia (Bảy Máy) – Khu ủy quyết định chuyển hướng sang tiến công yếu khu Ba Càng. Sau khi được Tỉnh ủy đồng ý, ban chỉ huy quyết định để lại một bộ phận kìm chân 127
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
địch ở Tam Bình, còn đại quân kéo về Ba Càng tiến công bằng bốn hướng với tiểu đội đặc công mũi nhọn, mục tiêu là bao vây tiến tới tiêu diệt yếu khu và bằm nát lộ 4. Sáng mùng 3 Tết, lực lượng địch ở yếu khu Ba Càng hầu hết bị tan rã, dân vệ trốn hết chỉ còn một trung đội bảo an do tên đại úy Khải chỉ huy và hai cố vấn Mỹ. Sáng ngày mùng 4 ta dùng binh vận đưa mẹ Sáu Cọp (dì tên Khải) kêu gọi tên ác ôn này ra gặp đại diện của ta để buộc chúng phải hàng. Nhưng do hiệp đồng không chặt nên khi tên Khải cùng hai tên lính nữa định ra hàng thì du kích xã Song Phú đã nổ súng làm cho kế hoạch dùng binh vận để tiêu diệt dứt điểm yếu khu Ba Càng không thực hiện được và tên Khải càng cố thủ hơn. Do đó ta chỉ “lột trọc” chứ không chiếm hoàn toàn được Ba Càng. Cùng với huyện, các xã tự lực bao vây bức rút tiêu diệt đồn bốt khu Mỹ Lộc và Song Phú, bao vây và tạo binh biến giải phóng đồn Cầu số 3, thu toàn bộ vũ khí. Các xã khác bứt rút hàng loạt đồn bốt như Sóc Tro, bến xe (Ngãi Tứ), La Vách và lô cốt Kỳ Sơn (Loan Mỹ), rạch Bà Thế (Song Phú B), Cồng Cộc (Lộc Hòa), Lô Lô (Mỹ Lộc) và Mỹ Thạnh Trung. Bộ đội địa phương huyện tiêu diệt các đồn Bằng Tăng, Ông Đốc và cắt đứt nhiều đoạn lộ 4. Đợt 2: Quán triệt tốt tinh thần Nghị quyết 14 (khóa III) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng: tổng khởi nghĩa là một quá trình, nên Tỉnh ủy đã chỉ đạo Tổng tiến công đợt 2 là “kìm đầu não, giải phóng nông thôn”. Nghĩa là chủ lực Khu và tỉnh tiếp tục đánh vào thị xã Vĩnh Long, các huyện tiếp tục đánh vào huyện lỵ và bao vây, bức rút tiêu diệt đồn bốt, nhất là ở các tuyến trong. Thực hiện Tổng tiến công đợt 2, Tam Bình đã đánh đoàn tàu địch chi viện cho chi khu Tam Bình, làm chìm một chiếc, bị thương hai chiếc. Đại đội bộ đội đại phương huyện Tam Bình được trên cho phép rút về làm nhiệm vụ tại địa phương đã cùng lực lượng ở nhà và cấp trên chia thành ba cánh: Cánh 1, kết hợp với tiểu đoàn 312 tiến công chợ Ba Kè quét sạch ba đồn trên tuyến lộ Ba Kè, tạo vùng giải phóng liên xã khá rộng từ Hậu Lộc đến Hòa Hiệp. Cánh 2, tiếp tục bao vây Tam Bình, giải phóng thêm đồn Lung Chuối. Kết quả là các đồn Ông Đốc, Bằng Tăng, Lung Chuối bị san bằng, ta làm chủ lộ 16 suốt một đoạn dài 10km. Cánh 3, bộ đội địa phương huyện cùng chủ lực, du kích vây ép các đồn Bình Ninh, Bình Phú của Ngãi Tứ, Giáo Mẹo của Đông Thành, đồn An Hòa của Bình Ninh, diệt và làm thiệt hại một tiểu đoàn địch. Đồng thời ta bao vây, uy hiếp đồn Cái Sơn, diệt lô cốt đầu cầu số một, 11 tên bảo an đền tội. Riêng ở đồn Cái Sơn do đồng chí đại đội trưởng và đại đội phó đại đội bộ đội địa phương huyện đạp phải lựu đạn gài của địch hy sinh, việc tổ chức bộ đội chiến đấu hạn chế, mặt khác do địch phòng thủ quyết liệt nên ta không giải phóng được đồn. Đợt 3: Theo chỉ thị của Tỉnh ủy có Quân khu chỉ đạo là trung đoàn bộ đội tỉnh kìm chặt tiểu khu, các huyện đánh vào đầu não chiếm chi khu tạo điều kiện cho việc giải phóng nông thôn. Riêng Tam Bình phải kìm chân cho được chi khu Tam Bình, yếu khu Ba Càng, tiếp tục giải phóng tuyến lộ 16, lộ 37, lộ Ba Kè…
128
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Để thực hiện chỉ thị trên, Tam Bình củng cố ba đại đội với 200 quân (không thành lập tiểu đoàn). Khi triển khai chỉ thị, tất cả cán bộ, chiến sĩ đều hạ quyết tâm: Tam Bình sẽ là huyện giải phóng đầu tiên trong tỉnh nếu ta làm chủ được thị xã Vĩnh Long. Ba đại đội bám vào chi khu được bố trí như sau: Đại đội 1, vượt sông Mỹ Thạnh Trung tới trường trung học Tam Bình tiến vào chiếm chi khu. Đại đội 2, từ hướng Chợ Cũ chuyển quân ra ém tại vườn Chín Nhâm chờ lệnh nổ súng. Đại đội 3, vượt sông Ông Đốc vào chiếm lĩnh trận địa với phương án hiệp đồng tác chiến là lực lượng của tỉnh khống chế mạnh thị xã Vĩnh Long và hậu cứ Long Hồ không cho địch chi viện, tiểu đoàn 312 yểm trợ bằng cối 82mm, pháo kích vào chi khu cho 3 đại đội tiến công. Đúng 21 giờ, tiểu đoàn 312 dùng cối 81mm bắn vào chi khu như hiệp đồng. Cùng lúc ấy toàn bộ lực lượng hành quân áp sát mục tiêu, đến 4 giờ sáng trận địa được chuẩn bị xong chờ lệnh nổ súng theo hiệp đồng với tỉnh. Đến 6 giờ sáng, địch đi tuần tra cấp đại đội, lọt vào trận địa phục sẵn của ta, ta nổ súng diệt đại đội này. Sau đó địch cứu viện, ta đánh thiệt hại thêm một đại đội nữa. Phát hiện ta có quân đông và mạnh đã áp sát chi khu, quân địch trong chi khu rối rít xin cứu viện. Địch đã bỏ trận càn ở Trà Ôn (khu vực Vàm Vòng) kéo ba tiểu đoàn của sư đoàng 9 về cứu viện cho Tam Bình (chúng dùng trực thăng đổ quân ở phía sau trận địa chốt giữ của ta). Lúc bấy giờ quân ta bị vây chặt trong thế gọng kìm, lực lượng quân địch tiếp viện đã gấp 10 lần ta, lại có máy bay, pháo binh yểm trợ. Mặc dầu ở vào tình thế hết sức khó khăn, quân ta vẫn kiên cường bám trận địa chiến đấu đánh trả hơn 10 đợt xung phong của địch. Đến 17 giờ ta thiệt hại một trung đội, đạn, lương thực bị cạn. Trước tình hình đó ba đồng chí đại đội trưởng họp lại đánh giá tình hình và đã xác định nếu tiếp tục bám trận địa sẽ bất lợi và có khả năng bị tiêu diệt. Từ đó các đồng chí quyết định cho đơn vị rút ra trong đêm. Trên đường rút lui, ta lại gặp địch và vượt sông trong điều kiện quá khó khăn nên đã thiệt hại thêm hơn một trung đội nữa và gần 50 khẩu súng. Tổng số thiệt hại trong trận đánh lên gần một đại đội. Nhưng ta đã hoàn thành được nhiệm vụ là kìm giữ đầu não, căng kéo lực lượng địch, tạo điều kiện giải phóng nông thôn trong huyện và cho huyện bạn. Song song với việc thực hiện nhiệm vụ tại địa bàn chủ yếu được phân công, Tam Bình còn bổ sung cho tỉnh đại đội 64 tham gia đánh chiếm thị xã Vĩnh Long. Đại đội này cùng với tiểu đoàn 306 đánh chiếm căn cứ tình báo Mỹ, tòa hành chính tỉnh, trại Hoa Lư (trung tâm sửa chữa truyền tin của tiểu khu). Khi lệnh nổ súng phát ra, đại đội 64 đã nhanh chóng tiến tới cầu Khưu Văn Ba diệt một tiểu đội dân vệ, giải tán trung đội thanh niên chiến đấu, tiến thẳng vào căn cứ tình báo Mỹ, chỉ 10 phút chiến đấu đã chiếm lĩnh mục tiêu này. Sau khi để lại một tiểu đội chiếm giữ căn cứ tình báo Mỹ, đại đội tiếp tục tiến công theo đường Trưng Nữ Vương áp sát tòa hành chính tỉnh. Vì tường cao, có dây thép gai bùng nhùng bảo vệ, hơn nữa địch đã phát hiện ta áp sát nên hỏa lực từ trại Hoa Lư bắn ra quyết liệt làm ta bị thương ba đồng chí. Ban chỉ huy đại đội tiến về phía cổng tòa hành chính 129
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
thì đụng phải lực lượng của dinh tỉnh trưởng. Cuối cùng đại đội đã dùng một trung đội tập trung hỏa lực kìm đich, hai trung đội còn lại áp sát vào tường dùng “thang người” (người này đứng lên người kia) vượt tường cao, rào chắn; đến 4 giờ 40 sáng ta làm chủ hoàn toàn tòa hành chính, treo lá cờ cách mạng lên cột cờ tòa hành chính. Khi chiếm xong mục tiêu quan trọng này, đơn vị liền củng cố lại đội hình để chuẩn bị tiến công mục tiêu cuối cùng được giao là trại Hoa Lư, đồng thời chuẩn bị đối phó địch phản kích. Đến 6 giờ sáng tham mưu trưởng tiểu đoàn 306 cùng đồng chí thị đội phó đến mở cuộc họp đề ra kế hoạch tác chiến. Nhưng cuộc họp không thực hiện được vì trái cối 80mm của địch đã rơi trúng đội hình. Nhiều đồng chí hy sinh và bị thương (đồng chí tham mưu trưởng tiểu đoàn 306 hy sinh, đồng chí thị đội phó bị thương nặng). Cùng lúc ấy, địch phản công quyết liệt bằng tiểu đoàn 43 biệt động quân. Sau 10 đợt phản kích đều thất bại, địch dùng trực thăng bắn vào đội hình ta và gọi hàng, nhưng ta vẫn giữ trận địa. Đến 18 giờ, địch ngừng phản kích, ta củng cố trận địa chờ lệnh trên. Trong một ngày đêm chiến đấu, đơn vị đã diệt tại chỗ 30 tên địch, bắt sống và gọi hàng gần 100 tên, thu 30 khẩu súng các loại; đến tối đại đội được lệnh rút ra chốt giữ từ cầu Khưu Văn Ba đến cầu Cá Trê. Tại đây đơn vị đã liên tục chiến đấu trong 4 ngày diệt thêm 60 tên, thu 15 súng và nhiều đạn, lựu đạn. Khi được lệnh rút về địa phương, đại đội 64 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong đội hình của tiểu đoàn 306. Tuy nhiên đại đội cũng đã hy sinh và bị thương hơn 40 đồng chí. Ngoài chiến đấu, Tam Bình còn bảo đảm tốt hậu cần và phục vụ chiến đấu. Huyện đã đưa hàng nghìn dân công có cả ghe máy phục vụ tiếp lương, tải đạn, chuyển thương binh… Mỗi ngày huyện cung cấp thêm 5.000 đòn bánh tét, từ 3 đến 7 con trâu bò, 400 lít xăng. Nhân dân thi đua đóng góp người, của cho cuộc chiến đấu, điển hình như bác Chín đã hiến 50 trong số 80 giạ lúa của gia đình cùng một con bò và một chiếc ghe. Bác Tống Văn Thuận đã hiến cho cách mạng nửa gia tài, chị Nguyễn Thị Hai ở ấp 4 Mỹ Lộc đã hiến đôi hoa tai cưới – vật kỷ niệm quý báu của đời mình cho cách mạng… Có ngày hàng trăm đảng viên, đoàn viên thanh niên Tam Bình nhập ngũ bổ sung cho phía trước. Má Bảy ở Ngãi Tứ còn đứa cháu nội cuối cùng cũng dẫn lên giao cho cách mạng và má Bảy ở Mỹ Lộc còn lại đứa con cuối cùng cũng giao cho chi bộ… Tam Bình đã được tỉnh đánh giá rất cao về tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Có thể nói Tam Bình đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Dù chiến dịch không đạt được mục đích đề ra lúc đầu, ta bị thiệt hại nhiều về người, vũ khí, phương tiện và tài sản của nhân dân (cán bộ, chiến sĩ nhân dân chết, bị thương 436 người). Nhưng Tam Bình cũng đã giành chiến thắng lớn: cô lập chi khu Tam Bình, lột trọc yếu khu Ba Càng, băm nát giao thông (lộ 4, lộ 16, lộ Ba Kè, lộ 37), giải phóng vùng nông thôn rộng lớn, bức rút và tiêu diệt 24/42 đồn bốt, giải phóng hoàn toàn xã Bình Ninh và 27 ấp; giải phóng cơ bản các xã: Hòa Hiệp, Mỹ Lộc, Hậu Lộc, Mỹ Thạnh Trung, Song Phú B, Lộc Hòa. Huyện còn thực hiện tốt nhiệm vụ kìm đầu não địch, tạo điều kiện giải phóng nông thôn tại chỗ và cho cả huyện bạn; cắt đứt sự tiếp tế bằng đường bộ giữa Cần Thơ và Vĩnh Long, căng kéo lực lượng địch phục vụ yêu cầu chung của chiến dịch. Trong Tổng tiến công và nổi 130
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
dậy, quân và dân Tam Bình đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch: tiêu diệt hoàn toàn một đại đội, bốn trung đội, tiêu hao một tiểu đoàn, ba đại đội, hai trung đội, tổng cộng là 1.976 tên (có 7 cố vấn), phá hủy ba xe quân sự, bắn chìm một tàu chiến, bắn bị thương hai tàu khác và hai máy bay trực thăng chiến đấu, thu 100 súng các loại. Qua cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giúp cho quân dân Tam Bình có được những bài học kinh nghiệm quý báu để tiếp tục chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn./. Nguyễn Tuấn Kiệt - Ủy viên Thƣờng vụ huyện ủy, Trƣởng Ban tuyên giáo Huyện ủy Tam Bình Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
25.Từ “Đại bản doanh” Cái Ngang - Quyết chiến, quyết thắng TRẬN ĐÁNH LỊCH SỬ Chúng ta mừng Xuân 2008 năm nay vừa kỷ niệm 40 năm chiến thắng Mậu Thân, cuộc chiến thắng mà nhân dân tỉnh ta đương đầu trực tiếp với quân xâm lược Mỹ, giành thắng lợi như một bản anh hùng ca tuyệt đẹp. Như chúng ta biết, chiến tranh cục bộ do Mỹ chỉ huy ở miền Nam, đến năm 1967, số quân Mỹ có mặt trên chiến trường nửa triệu quân, cộng với hơn nửa triệu quân Ngụy, và phương tiện chiến tranh hiện đại, đồn bót như mạng nhện. Bên ngoài có vẻ hùng hổ. Tuy nhiên, Đảng ta nhận định “trước những triển vọng và thời cơ lớn, đế quốc Mỹ đang ở tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược, chúng ngày càng chuyển về thế phòng ngự một cách bị động hơn trước”. Từ đó mà Đảng ta nêu chủ trương: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách động viên lực lượng toàn Đảng, toàn quân toàn dân đưa cuộc chiến tranh cách mạng sang một bước phát triển cao nhất: Tổng tấn công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định”. Sáng kiến của Tỉnh ủy Vĩnh Long là đi đôi với tiếp thu chủ trương trên vừa vận dụng vào thực tế địa phương: bố trí lại địa bàn thị xã, tăng ba xã cù lao (phía Đông Bắc) và sáu xã (Đông Nam) tạo thế liên hoành ba huyện Cái Nhum, Tam Bình và Châu Thành gắn liền với thị xã. Tăng cường cán bộ về thị xã, có 5 Tỉnh ủy viên, trong đó có 1 Thường vụ Tỉnh ủy là đồng chí Trịnh Văn Lâu làm Bí thư thị xã. Các ngành tỉnh cũng tăng về gắn với 22 đảng viên và 50 đoàn viên nội thị. Các phương tiện phục vụ đều được chú ý. Việc chuẩn bị đều được cấp bách thì công tác bí mật càng triệt để. Vĩnh Long được quân khu chọn làm trọng điểm 2, sau thành phố Cần Thơ. Ba ngày trước lệnh tấn công, Ban chỉ đạo tiền phương tỉnh được thành lập gồm các đồng chí:
131
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
-Nguyễn Hoài Pho (Khu ủy viên) – Chỉ huy trưởng -La Lâm Gia (Thường vụ Khu ủy) – làm Chính ủy -Nguyễn Ký Ức (Bí thư Tỉnh ủy) - Ủy viên, đi sâu chỉ đạo lực lượng tỉnh. -Nguyễn Đệ - Ủy viên phụ trách quân sự chung… Ban chỉ đạo huyện thị cũng được thành lập do đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy, hay Tỉnh ủy viên làm Trưởng ban. Giờ G đêm giao thừa bắt đầu nổ súng đồng loạt tấn công địch. Ba Tiểu đoàn 306, 308 và 857 như ba mũi tên hình thành thế gọng kềm tấn công vào hướng Đông Bắc, Đông Nam và Tây Nam. Đánh vào tuyến căn cứ đồn bót vành đai thị xã, sân bay và mục tiêu cuối cùng đánh vào sào huyệt đầu não địch. Suốt 6 ngày đêm kềm căng diệt sinh lực địch tại thành phố, tại các thị trấn, thị tứ, gỡ mảng giải phóng nông thôn, nhân dân giành quyền làm chủ. Cay cú trước nguy cơ thất bại, bọn Mỹ từ căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) đổ quân ứng cứu đồng bọn ven thị xã, chúng lại bị quân ta đánh một đòn chí mạng. Sau đó quân ta rút ra khỏi nội ô thị xã. Từ chiến thắng Mậu Thân ở Vĩnh Long, ở miền Nam, Mỹ thất bại chiến trường buộc thay đổi cục diện, thừa nhận chính quyền cách mạng miền Nam, vào dự Hội nghị bốn bên ở Paris. Mỹ xuống thang rút quân về nước, dẫn đến ngụy quân sụp đổ hoàn toàn, giao chính quyền cho cách mạng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử. Ở Vĩnh Long Xuân 1968, tên Trung tá tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Diệp xuống tàu “tử thủ” trên sông Cổ Chiên, thì mùa Xuân 1975, tên Đại tá tỉnh trưởng Lê Trung Thành buộc phải đầu hàng không điều kiện, giao toàn bộ chính quyền cho cách mạng. Có mùa Xuân Mậu Thân 1968 thì 7 năm sau mới có mùa Xuân Đại thắng 1975, dù rằng 7 năm trong thế xuống thang Mỹ cố chống chọi sau cùng trả một giá rất đắt thất bại hoàn toàn. TỪ “ĐẠI BẢN DOANH” Nếu như chiến thắng trận Cầu Vông (Vũng Liêm) 1872, Lê Cẩn, Nguyễn Giao ở “Đại bản doanh” vùng rừng lá Láng Thé xã Bình Phú huyện Càng Long bàn “tương kế tựu kế” diệt tên Tỉnh trưởng Pháp Vĩnh Long Alix Salicettie, tên Trung úy hải tặc đi ăn cướp chuyên nghiệp, thì Cái Ngang là nơi “Đại bản doanh” vùng liên hoàn nhiều xã thuộc huyện Tam Bình. “Nơi căn cứ Tỉnh ủy qua các thời kỳ kháng chiến – chính nơi đây Tỉnh ủy Vĩnh Long đã xây dựng và phát triển chủ trương nghị quyết, những mệnh lệnh trong đó có lệnh Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân thắng lợi”. Chiến thắng Mậu Thân đã đi vào lịch sử, tô thắm truyền thống vẻ vang của tỉnh nhà, đã in sâu vào lòng nhân dân rất đỗi tự hào. Đường mang tên Mậu Thân, con đường khang trang tại thành phố Vĩnh Long nối từ cầu Mậu Thân đến ngã ba giáp đường Phó Cơ Điều. Tại đây sẽ khởi công xây dựng công viên Tượng đài Chiến thắng Mậu Thân. Tượng đài uy nghi hoành tráng cao trên 20m, với công viên rộng trên 2 ha tạo sự quy mô vừa mang tính giáo dục hấp dẫn thu hút nhân dân chiêm ngưỡng. Chiến thắng Mậu Thân còn để lại những hình ảnh tư liệu quý giá được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh, Khi Di tích cách mạng Cái Ngang, người xem tự hào và trân trọng. Văn bia Di tích cách mạng Cái Ngang có đoạn: 132
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
…”Cái Ngang rạng ngời trang sử Quân dân đoàn kết một lòng Mỗi người dân là một chiến sĩ Mỗi xóm thôn thành mỗi chiến hào … 30 năm gian khổ chiến tranh Quét sạch quân thù Bắc Nam liền một dải Đảng với dân như đôi tay vững chải Di tích Cái Ngang sống mãi với thời gian (Trích Văn bia) Từ “Đại bản doanh” Cái Ngang đến chiến thắng Mậu Thân còn là bài học lịch sử ở nhà trường đối với tuổi trẻ hôm nay và mai sau. Niềm tự hào chính đáng sẽ sống mãi tạo cho chúng ta sức mạnh vươn lên chung lo xây dựng Vĩnh Long giàu đẹp, đáp lại ước vọng của Đảng và nhân dân./. Hồ Vĩnh Trà - Xuân 2008 Theo Tạp chí Văn Hóa – Số 69 – Số Xuân Mậu Tý 2008 .- Tr.19-20
26.Tết Mậu Thân 1968 ở huyện Trà Ôn Trà Ôn là địa bàn quan trọng cả về kinh tế lẫn quân sự của tỉnh Vĩnh Long. Phía tây bắc giáp với huyện Tam Bình, phía đông giáp Vũng Liêm, phía đông nam giáp Cầu Kè, phía tây nam nằm dọc theo sông Hậu. Cách “Tây Đô” 17km, Trà Ôn là tiền đồn án ngữ cửa ngõ sông Mang Thít. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Trà Ôn đã biết phát huy tinh thần yêu nwosc, ý chí kiên cường, chịu đựng biết bao hy sinh mất mát về người và của, sáng tạo nên biết bao chiến công với bao tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968, Khu ủy Khu 9 chọn Cần Thơ làm trọng điểm một, thị xã Vĩnh Long làm trọng điểm hai, thị xã Trà Vinh làm mục tiêu trọng điểm quan trọng, các huyện đều lấy thị trấn làm mục tiêu tiến công chủ yếu. Ở Trà Ôn trong khi tiến hành công tác chuẩn bị tại xã Lục Sĩ Thành, Quân khu và tỉnh đã chỉ thị đào hai con kênh xuyên qua vùng dưới: một ở vàm Trường Tiền do B10 phụ trách và một ở cuối xã do đơn vị 66 phụ trách. Xã còn tổ chức một đại đội dân công, một trung đội dự bị. Qua hai con kênh này hàng đêm ta sử dụng bốn chiếc ghe (mỗi chiếc trọng tải 2-3 tấn, có hai máy) chở khoảng 5-6 tấn, có đêm chở 10 tấn súng đạn từ kho Quân khu sang các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh. Ta bắt đầu vận chuyển qua tuyến kênh từ tháng 10 năm 1967 cho đến Tết Mậu Thân 1968. Công tác chuẩn bị lương thực, thực phẩm không ồn ào nhưng rất hiệu quả. Nhân dân nô nức kẻ đội người gánh, ghe xuồng từ nhiều đường, nhiều phía chuyển lúa gạo đến điểm tập trung. Gia đình nghèo 3-5 giạ, gia đình khá 10-20 giạ. Có gia
133
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
đình cho cách mạng mượn 100 đến 200 giạ. Bác Mười Tòng (Hòa Bình) cho mượn 1.000 giạ lúa, anh Tư Vĩnh (Vĩnh Xuân) hiến một con bò. Nhân dân Trà Ôn thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”. Cả huyện huy động được một khối lượng lương thực đồ sộ: 734.000 giạ lúa (gấp mấy chục lần những năm trước đây) vượt xa chỉ tiêu trên giao, đáp ứng đủ nhu cầu cho cuộc chiến đấu của chục vạn người ở địa phương. Huyện Trà Ôn đặt trách nhiệm cho mình trước hết là cung cấp đầy đủ nhân – vật lực cho tỉnh và Quân khu. Huyện đưa lên tỉnh 20 cán bộ cấp huyện và nhiều cán bộ đảng viên ở cơ sở để Tỉnh thực hiện nhiệm vụ to lớn ở nơi trọng điểm. Hai đại đội bộ đội địa phương của huyện cũng giao được cho tỉnh (kể cả người và trang bị). Đồng thời Trà Ôn góp phần quan trọng xây dựng nên tiểu đoàn 312 trung đoàn ba chủ lực Quân khu. Ngoài ra, hàng trăm thanh niên được biên chế thành từng đại đội thanh niên xung phong đưa lên Miền làm nhiệm vụ. Nhân dân Trà Ôn hồ hởi đưa tiễn con em lên đường, nơi nơi tưng tốp, từng đội, mấy chục thanh niên quân phục mới tinh, vai đeo bồng, đầu đội mũ tai bèo, lớp lớp đi về tỉnh, về Miền. Trên ba đại đội bộ đội địa phương và hàng trăm cán bộ, đảng viên, thanh niên vừa bổ sung cho cấp trên thì huyện lại cũng có ngay ba đại đội khác thay thế. Ngoài ra, huyện còn có cả trung đội an ninh vũ trang và đội bảo vệ Huyện ủy do đồng chí Hai Đém phụ trách. Tuy phải thường xuyên chi viện sức người, sức của cho các địa phương, đơn vị bạn, nhưng lực lượng vũ trang huyện Trà Ôn vẫn luôn đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng chiến đấu ngày càng được nâng cao. Bên cạnh đó lực lượng chính trị của huyện cũng hình thành và hoạt động có hiệu quả. Từng đại đội “quân tóc dài” nai nịt như các đội nghĩa quân ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 sẵn sàng cùng bộ đội và du kích bao vây các đồn bốt, lật đổ chính quyền ngụy. Trong đội quân ấy có cả những gia đình binh sĩ ngụy (vợ, anh em, cha mẹ sĩ quan binh lính) tranh thủ lôi kéo, vô hiệu hóa những đơn vị bảo an, cảnh sát, chủ lực ngụy. Đội nào lên tỉnh, cánh nào lên quận, lực lượng nào đấu tranh với tề ngụy trong xã…, mọi phương án đấu tranh, hợp pháp, bất hợp pháp đều đã được chuẩn bị. Tất cả đều như những ngòi nổ chờ dịp bùng lên trong một bề ngoài có vẻ yên tĩnh. Cán bộ binh vận huyện cùng các cấp ủy xã rà lại lực lượng trong lòng địch. Các gia đình binh sĩ ngụy liên lạc với chồng con, từ đó ta chắp nối với cơ sở, tạo thêm cơ sở mới trong đồn bốt và các đơn vị quân ngụy, kể cả trong chủ lực. Ta điều động lực lượng nội ứng về huyện lỵ, về các đồn lẻ xã và cả thị xã Vĩnh Long, khu trù mật Cái Sơn. Chỉ trong thời gian chuẩn bị mà đã có 15 binh sĩ ngụy được giác ngộ trở về với gia đình mang theo súng đạn. Binh sĩ một đồn ở Hòa Bình đã làm binh biến mang theo bảy súng với toàn bộ quân trang, quân dụng về với cách mạng. Chưa có mệnh lệnh của cấp trên chuẩn bị cho một cuộc đánh lớn mà chỉ mới có sự cảm nhận ý định của lãnh đạo, Đảng bộ và nhân dân Trà Ôn với tinh thần tự lực tự cường và “Tất cả cho chiến thắng”, nhà nhà cùng tham gia, người người náo nức tạo nên một lực lượng quân sự, chính trị, binh vận mạnh chưa từng có, chỉ chờ thời cơ là bật dậy. Chiều 30 tháng 1 năm 1968, lệnh Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt về đến Trà Ôn. 134
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Theo phương án đã định, đêm 30 tháng 1 năm 1968 lực lượng vũ trang địa phương chia làm ba mũi tiến đánh các mục tiêu quan trọng trong nội ô thị trấn. -Mũi thứ nhất đánh đồn Cây Quéo (ngoại ô thị trấn gần 1.000m), mở cửa cho quân ta tiến vào nội ô bằng bộc phá, phát lệnh cho toàn mặt trận. Quá trình đánh chiếm diễn ra ác liệt, nhưng không tiêu diệt được đồn, trong khi ta bị thương vong khá lớn. Do đó mũi thứ nhất phải trụ lại. -Mũi thứ hai trên đường hành quân gặp khó khăn, chưa bám được vào mục tiêu thì mũi thứ nhất đã nổ súng. Do đó mũi thứ hai chuyển sang làm nhiệm vụ cắt đứt tuyến sông Mang Thít. -Mũi thứ ba đánh chiếm bến đò An Thới, khống chế địch, tạo điều kiện cho hai mũi kia tiến lên, nhưng cũng không chiếm được mà chỉ đánh tới vàm Ngãi Tứ sát bến đò và trụ lại ở đó. Do phương án đánh vào các mục tiêu quan trọng không thành, quân ta sử dụng súng cối pháo kích vào các vị trí của địch và chuyển sang bao vây thị trấn tạo điều kiện cho cơ sở trong nội ô rải truyền đơn, kêu gọi binh lính địch quay về với cách mạng. Sau hai ngày địch phản kích quyết liệt, quân ta vẫn giữ vững trận địa. Cuộc chiến đấu giằng co gần một tháng. Ban ngày ta bao vây và uy hiếp địch trong thị trấn, ban đêm thọc sâu gây rối như đánh chiếm nhà thương và lấy toàn bộ thuốc men. Trong đợt một, tại khu vực huyện lỵ Trà Ôn ta diệt 62 tên (có một số cố vấn) và làm hai đại đội bảo an mất sức chiến đấu. Cũng vào đêm 31 tháng 12 năm 1968, du kích các xã đã đồng loạt tiến công và bao vây đồn bốt. Bước sang đợt hai, cũng trên tinh thần tự lực, tự cường, bộ đội địa phương và du kích chủ yếu tập trung tiến công bao vây yếu khu Thầy Phó và pháo kích vào thị trấn. Đến ngày 20 tháng 2 năm 1968, quân chủ lực ngụy cho xe tăng yểm trợ và giải vây, đón bọn này rút chạy. Cùng với việc tiến công yếu khu Thầy Phó, các xã đồng loạt tiến công bao vây bức rút 15 đồn bốt, giải phóng hoàn toàn sáu xã: Hựu Thành, Thới Hòa, Thuận Thới, Vĩnh Xuân, Tích Thiện, Tân Mỹ và giải phóng cơ bản năm xã khác, diệt hàng trăm tên địch, thu hàng chục súng và nhiều quân trang quân dụng. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 tuy không dứt điểm được thị trấn nhưng quân và dân Trà Ôn đã hạ được hàng loạt đồn bốt, giải phóng đại bộ phận nông thôn, tiêu diệt và tiêu hao nhiều sinh lực địch góp phần vào thắng lợi chung của toàn Miền. Với thành tích đó, quân dân Trà Ôn được tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng hai. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Trà Ôn tuy không đạt được kết quả như mong muốn nhưng việc ta dám đánh vào huyện lỵ, đánh vào giữa sào huyệt của địch đã làm nức lòng đồng bào trong huyện và tác động mạnh đến chiến trường Vĩnh Long, Cần Thơ. Điều quan trọng là ngay sau Tết Mậu Thân, ta chuyển hướng sang hoạt động ở nông thôn với phong trào “ba mũi” mạnh chưa từng có, diệt và bức rút hàng chục đồn bốt, xóa sổ nhiều đơn vị bảo an dân vệ, giải phóng nhiều xã vùng một, quét sạch địch hoàn toàn trên các xã suốt trục lộ từ Thầy Phó – Hựu Thành đến Vĩnh Xuân, Cầu Đúc – Cây Điệp – Thiện Mỹ. 135
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Nông thôn toàn huyện cơ bản được giải phóng với sáu xã được giải phóng hoàn toàn: Tích Thiện, Vĩnh Xuân, Thới Hòa, Hựu Thành, Thuận Thới, Tân Mỹ; ba xã giải phóng cơ bản: Hòa Bình, Xuân Hiệp, Trà Côn; hai xã giải phóng hơn phân nửa: Lục Sĩ Thành, Thiện Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là mốc son chói lọi trong lịch sử và truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Trà Ôn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để lại cho ta nhiều bài học giá trị trong tổng khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang. Một trong những bài học đó là sau khi đã giáng cho địch một đòn nặng ở thành thị - căn cứ đầu não của chúng và chịu tổn thất cũng khá lớn liệu ta có nên tiếp tục đánh nữa hay là cần phải nhanh chóng quay về mở rộng, củng cố vững chắc vùng nông thôn làm chỗ đứng cơ bản để đánh địch phản công, tiến tới mở những đợt tiến công mạnh mẽ để giành thắng lợi quyết định. Trên thực tế, nhiều nơi, nhiều đơn vị ta đã say sưa với thắng lợi, một chiều tiến công nhằm dứt điểm, bỏ trống trận địa nông thôn, thiếu củng cố lực lượng và thế trận. Cũng chính lẽ đó nên Trà Ôn và nhiều nơi khác gặp khó khăn lớn, lúng túng trước phản ứng mới của đế quốc Mỹ có tiềm lực lớn về kinh tế và quân sự./. Nguyễn Thành Phan - Ủy viên Thƣờng vụ, Trƣởng Ban tuyên giáo Huyện ủy Trà Ôn Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
27.Tết Mậu Thân 1968: Chiến công ở Giồng Thanh Bạch Trong tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, địa phương quân Trà Ôn kết hợp với du kích các xã đã lập thành tích xuất sắc: tiêu diệt trên 50 tên địch và làm bị thương hàng chục tên khác, đánh thiệt hại nặng trung đội biệt kích, Đại đội 836 và 838 của Chi khu Trà Ôn phản kích ra ngày mùng 1 Tết năm 1968 tại Giồng Thanh Bạch (ấp Mỹ Hòa, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn). Đây là mũi chủ yếu của ta khống chế Chi khu Trà Ôn. Bộ đội ta bám vào địa hình hiểm trở và bám vào lăng Hàm Sô như pháo đài quan sát các vị trí thuận lợi, đặt trung liên khống chế chúng. Sáng ngày mùng 1 Tết Mậu Thân, chúng dùng 2 đại đội bảo an 836, 838 và trung đội biệt kích, chia nhiều mũi hùng hổ tấn công vào Giồng Thanh Bạch ở ngoại ô Chi khu Trà Ôn là vùng kiểm soát của chúng. Các chiến sĩ ta quan sát phát hiện các mũi của địch từ ngoài đồng trống tiến vào, để chúng vào cách vài chục mét mới đồng loạt nổ súng. Bị đánh bất ngờ ở các mũi, chúng bám vào các bờ mẫu bắn trả quyết liệt. Tương kế tựu kế, các khẩu trung liên của ta từ “pháo đài” trên cao bắn xuống lưng bọn chúng. Không còn chỗ chống đỡ, số còn sống bè nhau tháo chạy. Sau đó, được chi viện đắc lực của pháo binh bắn vào Giồng Thanh Bạch, chúng lại tổ chức tiến vào, bị bắn hạ chúng lại rút ra và gọi máy bay ném bom nhiều
136
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
đợt vào Giồng Thanh Bạch. Để bảo tồn lực lượng, quân ta rút lui, đồng thời chuyển hướng sang bao vây bức rút đồn bót giải phóng cơ bản các xã của huyện Trà Ôn. Thời gian thắm thoát qua, mỗi lần ôn lại các sự kiện lịch sử vẻ vang của quân dân huyện Trà Ôn, nhiều người không thể quên được chiến công Tết Mậu Thân ở Giồng Thanh Bạch./. Lê Văn Út (Sở VHTT) Theo Báo Vĩnh Long – Số 1857 ra ngày 24/1/2008 .- Tr.5
28.Tết Mậu Thân 1968 ở Vũng Liêm Vũng Liêm là huyện đồng bằng nằm giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, phía đông giáp Mỏ Cày, tây giáp Trà Ôn và Tam Bình, nam giáp Càng Long, bắc giáp Cái Nhum, Vũng Liêm có 9 xã và một quận lỵ, gồm 79 ấp. Diện tích tự nhiên 29,6 héc-ta, dân số có 99.855 người (trong đó có 540 người Khơ-me, 400 người Hoa) và có khoảng 55 phần trăm theo đạo, đa số là đạo Phật, có khoảng 3.758 người theo đạo Thiên chúa. Dưới con mắt của thực dân Pháp cũng như đế quốc Mỹ, Vũng Liêm là một vị trí thuận lợi về quân sự và hành chính vì nó nằm giữa các đường giao thông thủy, bộ chiến lược: sông Cổ Chiên, sông Mang Thít nối liền sông Tiền và sông Hậu, tỉnh lộ 170 (quốc lộ 53), hương lộ 19 (quốc lộ 39). Trong hai cuộc kháng chiến, Vũng Liêm là vùng căn cứ của tỉnh, Khu; có đường dây liên lạc từ Bến Tre qua Khu 9. Vũng Liêm là huyện bản lề giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh cho nên nơi đây ta và địch giành giật nhau quyết liệt để khống chế vùng xung quanh. Nhân dân Vũng Liêm có truyền thống yêu nước lâu đời. Từ phong trào Cần Vương đã có lực lượng nghĩa quân do Lê Cẩn, Nguyễn Giao lãnh đạo. Sau đó có Hội thuốc Bắc yêu nước ra đời làm việc từ thiện để vận động chống Tây rồi đến tổ chức Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội – cơ sở cho chi bộ Đảng ra đời năm 1930. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940), Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 Vũng Liêm nổ ra cùng ngày với Sài Gòn. Tháng 3 năm 1946 quân dân Vũng Liêm đứng lên cầm vũ khí chống thực dân Pháp xâm lược, suốt 9 năm liền đã dũng cảm chiến đấu, xây dựng căn cứ, nhân dân một lòng trung thành và sắt son với cách mạng. Sau khi hất cẳng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai ra sức xây dựng Vũng Liêm thành hậu cứ an toàn của chúng. Từ đầu năm 1955 địch thực hiện đánh phá cơ sở cách mạng và tiến hành bắt lính. Chúng rải quân đóng đồn bốt, xây dựng hệ thống tề xã - ấp và xây dựng chi khu quân sự vững chắc, hình thành trục lục giác: Vũng Liêm – Càng Long – Trà Ôn – Cầu Kè – Tam Bình – Cái Nhum và Mỏ Cày. Ở Vũng Liêm có chi khu thuộc tiểu khu Vĩnh Bình do một tên ác ôn chỉ huy. Vùng ven cập lộ 170 kéo dài từ xã Tân An xuống đến Trung Ngãi giữ một vị trí rất quan trọng. Làm chủ được tuyến lộ này, chẳng những có lợi thế để bảo vệ vùng nông thôn – căn cứ cách mạng, mà còn trực tiếp uy hiếp các công sở tề xã - ấp
137
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
chiến lược, quận lỵ và trục giao thông của địch. Bởi vậy quân và dân Vũng Liêm đã phát huy ý chí kiên cường, dũng cảm vượt mọi khó khăn, gian khổ đương đầu với địch, bám trụ và đã làm chủ được căn cứ chiến lược vùng ven. Vùng nông thôn đồng bằng ở Vũng Liêm rộng lớn, nơi mà địch ra sức đánh phá ác liệt vùng căn cứ kháng chiến, là địa bàn trực tiếp, nơi đứng chân cho lực lượng ta tiến công vào hậu cứ địch. Trong chiến dịch mùa khô 1966 – 1967, các lực lượng vũ trang ta đã đánh mạnh, đánh đều, đánh liên tục vào các vùng sâu, vùng ven quận lỵ và trục lộ giao thông. Nhiều xã, ấp như ở Hiếu Thành, Trung Ngãi, Tân An Luông và nhiều xã khác phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh. Ban đầu là biểu tình mừng hòa bình, sau đó là đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, đòi phá khu trù mật, phá ấp chiến lược, đòi Mỹ rút về nước vãn hồi hòa bình. Riêng năm 1966 – 1967 có 1.215 cuộc biểu tình với 23.600 lượt người tham gia. Địch đã phải dùng báng súng, lựu đạn cay đàn áp cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân. Phong trào binh vận đã tạo được cơ sở trong tổ chức địch. Sau đó ta tiếp tục cài người vào giáo dục vận động gia đình binh sĩ kêu gọi người thân trở về với cách mạng. Nổi bật trong 7 tháng cuối năm 1966 mũi binh vận đã mang về 120 khẩu súng. Bằng ba mũi giáp công, ta đánh hàng trăm trận, diệt 45 tên địch. Sống trong sự kìm kẹp gắt gao của địch nhưng nhân dân Vũng Liêm vốn có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường. Trong kháng chiến chống Mỹ, phong trào đấu tranh diễn ra liên tục được nhân dân trong quận lỵ đồng tình và bảo vệ. Điều đáng sợ đối với Mỹ ngụy là du kích mật, đội biệt lập, công binh, đặc công từ những hình thức như treo cờ, rải truyền đơn cho đến tiến công ám sát tên quận trưởng và chi trưởng cảnh sát. Điển hình như Nguyễn Chí Trai bám đường giao thông đánh 150 trận, diệt 360 tên địch, phá hủy 25 xe quân sự. Lộ 170 trở thành “con đường tử thần”, “con đường máu và nước mắt” của địch. Phong trào đấu tranh du kích đánh bằng chông, mìn, cạm bẫy, phục kích bắn tỉa, phá lộ, đắp mô, đánh cơ giới, bắn máy bay… thể hiện được vai trò đòn xeo với nhiều cách đánh khác nhau luôn luôn làm cho quân thù đối phó lúng túng. Các cuộc chống càn quét, tập kích chống bình định lấn chiếm được đẩy mạnh. Nổi bật như lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với bộ đội tỉnh đột nhập vào ấp chiến lược Phú Tiên 3 ngày (8, 14, 23-7-1966) xóa phiên hiệu đoàn biệt chính gồm 88 tên. Tại đập Ấu (ấp Trường Hội, Trung Ngãi), đêm 29 tháng 10 năm 1967 bộ đội tỉnh kết hợp lực lượng vũ trang địa phương tập kích căn cứ dã ngoại tại đầu cầu Mây tức, tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn 1, trung đoàn 19, sư đoàn 9 ngụy gồm 280 tên. Đây là lần đầu tiên một tiểu đoàn chủ lực ngụy bị tiêu diệt trên chiến trường Vũng Liêm. Chiến thắng đập Ấu góp phần tạo thế và lực, rút kinh nghiệm để ta đánh các chốt dã chiến, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Vũng Liêm. Thành tích của quân và dân Vũng Liêm trong những tháng cuối năm 1967 được Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long đánh giá là “nổi nhất toàn tỉnh”. Công binh, đặc công, lực lượng vũ trang huyện kết hợp với bộ đội chủ lực đã liên tiếp đánh địch, diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch trong ấp chiến lược và trục lộ giao thông – nơi mà địch ra sức bảo vệ, coi là hậu phương an toàn của chúng.
138
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tháng 11 năm 1967, trên cơ sở quán triệt chủ trương của trên, Tỉnh ủy hai tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh đánh giá tình hình và hạ quyết tâm nắm thời cơ Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt giành thắng lợi quyết định. Ngay từ mùa thu 1967, Tỉnh ủy Vĩnh Long đã chỉ thị cho Vũng Liêm tiếp tục đẩy mạnh tiến công, nhằm tiêu hao và tiêu diệt một phần sinh lực địch, góp phần đánh bại kế hoạch hai gọng kìm “bình định” và “tìm diệt “ của địch. Đồng thời Đảng bộ huyện nhanh chóng chỉ đạo xây dựng các “chi bộ tự động”, củng cố tổ chức lực lượng, lạc quyên lương thực, thực phẩm đảm bảo yêu cầu tiến công địch giành thắng lợi quyết định. Từ đầu tháng 8 năm 1967, Đảng bộ đã triển khai nghị quyết của Trung ương Đảng và Khu ủy bằng hình thức chỉnh huấn toàn thể cán bộ, đảng viên với tinh thần khẩn trương và bí mật. Nhân dân phấn khởi góp người, góp của cho cách mạng. Trong thời gian ngắn, huyện đã hoàn thành một khối lượng công việc như đào con kênh dài 5km ở Trung Ngãi để vận chuyển vũ khí lương thực từ đông sang tây lộ 170; nhân dân 9 xã đóng góp 400.000 giạ lúa (Trung Hiệp là xã đóng góp đứng đầu miền Tây Nam Bộ). Nhiều tấm gương tiêu biểu như ông Phạm Văn Thảo hiến 100 giạ lúa, chị Lê Thị Yến hiến đôi hoa tai cưới của mình và có nhiều người chia hai, chia ba gia tài để góp phần giải phóng miền Nam. Toàn huyện đã vận động 2.700 người đi tòng quân, 355 người đi dân công hỏa tuyến. Đến cuối tháng 10 năm 1967 Vũng Liêm đã thành lập xong ba đại đội sẵn sàng chiến đấu và cơ động chi viện theo yêu cầu của trên. Tháng 12 năm 1967 huyện tổ chức hoàn thiện các trung đội công binh, đặc công, trung đội biệt lập, 14 trung đội du kích. Công trường quân giới huyện sản xuất nhiều lựu đạn, bộc phá, phóng lựu trang bị cho bộ đội. Điển hình là đồng chí Út Việt trong hai tháng đã đổ 3.000 đầu đạn phục vụ cho huyện và lực lượng vũ trang huyện bạn. Huyện còn tổ chức tốt công tác quân y ở hậu phương và triển khai kịp thời các tổ điều trị dã chiến. Để tiện cho việc lãnh đạo, chỉ huy tác chiến và tập trung mọi nỗ lực gấp rút chuẩn bị cho các xã, điểm trọng tâm và hướng tiến công chủ yếu, Vũng Liêm đã tiến hành phân chia huyện thành ba vùng A, B và C. Đồng thời, ta còn yêu cầu cơ sở mật khẩn trương nắm chắc tình hình các cơ quan đầu não địch trong huyện, các đơn vị bảo an, dân vệ có khả năng ứng cứu cho Vũng Liêm khi bị tiến công. Huyện đội nhanh chóng tổ chức huấn luyện cho bộ đội cách đánh vào thị trấn, tổ chức các tổ đấu tranh chính trị, các tổ nội tuyến bên trong, đường tiến quân, điểm triển khai đội hình. Thời gian hoàn thành công tác chuẩn bị được ấn định trước ngày 25 tháng chạp năm Đinh Mùi (1967). Ban Thường vụ Huyện ủy mở hội nghị gồm đại biểu các ngành, các cấp nhằm kiểm tra công việc chuẩn bị trong hai ngày 20, 21 tháng 1 năm 1968 (tức là ngày 19, 20 tháng chạp) và tiếp sau đó ngày 28 Tết mở cuộc họp khẩn cấp nhằm phổ biến phương án tác chiến trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Tham dự có đại diện Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy, các chi ủy, ban chỉ huy huyện đội, đại diện các đơn vị, xã đội, cán bộ các ngành, đoàn thể. Đồng chí Mười Hồng và đồng chí Tám Song cùng tổ du kích mật được đưa vào quận lỵ nắm tình hình hoạt động bên trong. Mục tiêu tiến công trọng yếu được xác định là dinh quận, thành bảo an, chi công an, cảnh sát dã chiến và khu truyền tin, đồng thời kết hợp lực lượng quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. 139
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Lực lượng chủ yếu đánh vào chi khu Vũng Liêm gồm hai đại đội 1 và 2 bộ đội địa phương, trung đội công binh – đặc công, trung đội biệt lập, trung đội du kích Trung Thành. Lực lượng dự bị là đại đội 3 và trên 500 quần chúng tập trung trước giờ nổ súng. Ban chỉ huy mặt trận chung mang mật hiệu “VN 23” được thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Bá – Huyện đội trưởng làm chỉ huy trưởng; Tô Hoàng Họa – Huyện đội phó làm chỉ huy phó; Nguyễn Văn Đậm – Bí thư Huyện ủy làm chính trị viên; đồng chí Bảy Hoa – chính trị viên phó và các ủy viên Mười Hồng, Năm Thu và Tám Song. Ban chỉ huy tiền phương, khi bắt đầu tiến công đứng chân phía sau nhà thương Vũng Liêm. Trong chỉ đạo thực hiện, Huyện ủy chủ trương chỉ có một phương án là đánh chiếm xong thì kiên quyết bám mục tiêu, diệt địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy cướp chính quyền. Theo đúng kế hoạch, chiều 29 Tết lễ xuất quân được tổ chức tại ấp Đức Hòa (Trung Thành). Sau đó các đơn vị lên đường và khoảng 11 giờ 30 phút đêm giao thừa đã đến vị trí tập kết cuối cùng. Cánh quân chủ yếu (đại đội 1) do các đồng chí Năm Anh và Ba Trần chỉ huy đã nhanh chóng chiếm lĩnh các mục tiêu dinh quận và đơn vị cảnh sát dã chiến. Một cánh quân khác (đại đội 2), do các đồng chí Năm Quy và Tư Mỹ chỉ huy tiếp cận đánh đồn ngã ba An Nhơn, sân bay, khu nhà thương, Giồng Ké. Cánh quân thứ ba (trung đội biệt lập) do đồng chí Năm Hòa chỉ huy tiếp cận đồn Bờ Tre và thành bảo an. Trung đội công binh – đặc công do đồng chí Nguyễn Chí Trai chỉ huy, có nhiệm vụ đánh phá cống Mười Triệu, kho xăng, cầu Công Xi Heo và cầu hội đồng Nhâm… Đại đội 3 chặn viện tại lộ Dần. Trung đội du kích Trung Thành do đồng chí Năm Ngãi chỉ huy, có nhiệm vụ đánh chiếm từ vàm Vũng Liêm đến đồn Tám Thình, đánh vào trụ sở xã Trung Thành. Mũi chính trị do đồng chí Nguyễn Thị Thu chỉ huy, huy động lượng quần chúng đắp mô, phá lộ cản giao thông địch và sẵn sàng nổi dậy cướp chính quyền. Hòa cùng tiếng súng toàn Miền, 12 giờ 30 đêm giao thừa Tết Mậu Thân, quân và dân Vũng Liêm đã bất thần nổ súng đồng loạt đánh vào cổng dinh quận, diệt lính gác rồi từ đó hình thành thế bao vây chặt chẽ đánh vào thành bảo an, khu truyền tin. Những mục tiêu này bị tê liệt từ phút đầu tiên. Tại ngã ba An Nhơn quân ta hiệp đồng rất ăn khớp, sau 30 phút chiến đấu tiêu diệt hoàn toàn đồn sân bóng, diệt 11 tên địch, làm chủ khu vực nhà thương (bệnh viện Vũng Liêm). Đồng thời với đồn ngã ba An Nhơn, tại đồn Bờ Tre, địch mất tinh thần bỏ chạy. Tại ngã ba, ta đốt kho xăng trên 10.000 lít, ngọn lửa bốc cao sáng cả bầu trời phía nam quận lỵ Vũng Liêm. Ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ, diệt và làm bị thương một số, số còn lại đều chui vào hầm cố thủ, một số ít có khả năng chống cự thì yếu ớt. Mặc dầu tinh thần quân địch rất hoang mang, nhưng khi ta kêu gọi đầu hàng chúng không chịu, chủ tâm của chúng là chờ quân chi viện. Thừa thắng xốc tới, trên 500 quần chúng tập trung đắp mô, đốn cây cản đường không cho xe đưa quân địch trong quận lỵ ra phản kích. Ta đã bịt kín cửa ngõ phía nam quận lỵ.
140
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Nhưng đến 4 giờ sáng ngày mùng 2 Tết (30-1-1968), tên quận trưởng Hoành cố gắng cho hai xe “nồi đồng” mở đường máu hộ tống trung đội bảo an đến để phục hồi đồn sân bóng vừa bị ta tiêu diệt và lấy xác đồng bọn. Tiếng súng nổ dữ dội liên hồi ở khu vực dinh quận, thành bảo an. Máy bay trực thăng quần đảo bắn rốc-két, đại liên suốt ngày trên bầu trời Vũng Liêm. 8 giờ sáng mùng 2 Tết, một trung đội do các đồng chí Năm Quy và Tư Mỹ chỉ huy đánh kỳ tập tiêu diệt gọn đồn sân bóng lần thứ hai giữa ban ngày, san bằng đồn, diệt 12 tên, thu 11 súng. Phát huy khí thế chiến thắng, lực lượng đấu tranh chính trị kéo lên treo cờ Mặt trận dân tộc giải phóng mọc lên khắp khu vực quận lỵ. Ở các khu vực thành bảo an, văn phòng quận, đài truyền tin…, chiến sự mỗi lúc càng diễn ra ác liệt, tạo thành vành đai bao bọc cả bốn hướng. Lực lượng vũ trang ta tiến công dũng mãnh; những đợt phản kích của lính bảo an, cảnh sát dã chiến có xe bọc thép dẫn đường đều bị quân ta bẻ gãy. Ta dùng súng cối, súng phóng lựu bắn liên tục vào các cứ điểm địch, làm chúng hết sức hoang mang. Trong quận lỵ nhiều đám cháy bốc lên dữ dội, suốt ngày đêm khói lửa ngút trời, tiếng đạn nổ liên hồi. Trong các đợt tiến công vào thành bảo an, đơn vị cảnh sát dã chiến, một số chiến sĩ ta bị thương nhưng không rời trận địa, quyết chiến đấu hy sinh đến viên đạn cuối cùng… Như vậy trong ngày đầu tiên quân ta đã tiến công vào quận lỵ, bao vây địch ở tất cả các mục tiêu như kế hoạch đã định. Sau đó ta dùng hỏa lực kết hợp bộ binh, đặc công mở nhiều đợt tiến công vào dinh quận, thành bảo an, đài truyền tin, đơn vị cảnh sát dã chiến…, đẩy lùi hàng chục đợt phản kích của địch. Ta làm chủ quận lỵ suốt 10 ngày đêm. Khoảng 8 giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1968, tiểu khu Vĩnh Long điều đơn vị bảo an số 403 được máy bay, pháo binh yểm trợ đến giải vây cho Vũng Liêm. Thế là những loạt đạn pháo, đạn rốc-két, bom từ máy bay lao xuống, từ tàu thủy bắn lên dọn đường cho hai chi đoàn xe bọc thép M.113 và bộ binh mở đường tiến lên. Bom đạn địch đã ném xuống cả khu dân cư, làm chết và bị thương nhiều người, triệt hạ một phần xóm Trầu, ấp Trung Tín, Trung Trạch, thiêu hủy hàng trăm nóc nhà ở khu chợ Vũng Liêm và vùng ven quận lỵ. Lúc bấy giờ trong quận lỵ những đám cháy khói lửa ngút trời, tiếng bom đạn nổ ran không dứt, quân ta đào hào lập tuyến phòng thủ, dùng hỏa lực đẩy lùi hàng chục đợt phản kích của địch ở khu vực lộ xã Dân và khu nhà thương Vũng Liêm. Đến 10 giờ đêm ngày mùng 10 tháng giêng năm Mậu Thân, do khó khăn về đạn dược, chiến sự diễn ra ngày càng ác liệt, nên ta chủ động rút lui ra vòng ngoài tổ chức bám trụ, bao vây đánh lấn chờ tiến công đợt 2, đồng thời đưa các đại đội 1 và 2 hỗ trợ các xã đánh dứt điểm giải phóng tuyến sông Mang Thít và xã Hiếu Thành. Tiểu đoàn 501 chủ lực tỉnh trên đường về chi viện cho Vũng Liêm, đêm 12 tháng giêng đã đến xã Trung Hiệp, hỗ trợ giải phóng xã Trung Hiệp, chờ phối hợp tác chiến đánh phản kích của địch và tổng tiến công đợt tiếp theo. Trong Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân, đồng bào các xã các cơ sở nội tuyến trong vùng địch kìm kẹp đều được huy động rộng rãi để đóng góp tiền, vàng, lúa, gạo, thuốc men cho bộ đội. Nói chung mọi việc đã thực hiện gọn gàng và bí mật tuyệt đối cho đến giờ nổ súng (giờ G). Trong chiến đấu, nhiều mẹ, nhiều chị đến tiếp tế cho bộ đội, cứu chữa thương binh chôn cất liệt sĩ như mẹ Ngộ 141
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Thị Huệ (má Út) 60 tuổi ở ấp Kinh (Trung Ngãi) là mẹ nhiều lần tìm xác chiến sĩ trong đồn địch; má Sáu Cần (Bùi Thị Tư) liên tục đưa đường cho cán bộ qua lộ an toàn. Một lần má đưa đoàn cán bộ qua lộ Kinh bị địch phát hiện tập trung hỏa lực bắn dữ dội, má Tư đã trúng đạn địch và anh dũng hy sinh, để lại niềm tiếc thương cảm phục của đồng bào, đồng chí. Phối hợp với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, lực lượng du kích mật tiến hành binh vận rải truyền đơn, nắm tình hình địch, treo cờ Mặt trận dân tộc giải phóng, hỗ trợ các đoàn đấu tranh trong vùng địch. Để hiệp đồng với mặt trận quận lỵ Vũng Liêm, ở xã Trung Ngãi cũng trong đêm giao thừa, trung đội du kích do xã đội trưởng Chín Huyện chỉ huy tiến công bao vây công sở tề Giồng Ké, tiêu diệt và bức rút năm lần đồn tua ở ấp Phú Tiên và Trường Hội, vận động trên 500 quần chúng kéo lên phá lộ, đắp nhiều mô trên tuyến lộ 170 (quốc lộ 53); huy động 1.600 lượt người đi đấu tranh trực diện cùng gia đình ngụy binh kêu gọi chồng con trở về với cách mạng, bắt bọn tề điệp hạ uy thế trước quần chúng. Nổi bật là tấm gương của má Út Đê ở ấp Kinh đã dẫn đầu hàng chục cuộc đấu tranh trực diện với địch. Mỗi lần có từ hàng chục gia đình binh sĩ đòi chồng con về nhà làm ăn. Kết quả đã có gần 100 lính địch về với cách mạng. Ta giải phóng cơ bản xã Trung Ngãi. Ở Trung Hiệp, trung đội du kích do đồng chí Ba Hùng chỉ huy cùng với 100 quần chúng đánh chiếm công sở tề xã và chiếm các đồn Chợ Mới, Bến Đò, Quan Diệu, tiêu diệt 30 tên và quỵ hàng 6 dân vệ, thu gần 10.000 viên đạn. Quần chúng tập hợp trên 500 người đã đắp đập và đốn cây hàn kinh Mướp Sát, đắp mô trên lộ 170; du kích đặt mìn phá hủy một xe M.113 tại cầu Đá; tổ du kích bám sát chi khu Vũng Liêm bắn cháy trực thăng HU-1A khi đến hộ tống đoàn máy bay tiếp tế cho quận lỵ. Xã Trung Hiệp được giải phóng hoàn toàn. Ở Quới Thiện, phát huy truyền thống Nam Kỳ khởi nghĩa, trung đội du kích và trên 200 quần chúng nổi dậy bao vây công sở tề xã tại Thanh Bình, Bến Tre nhiều ngày, đánh tiêu diệt năm đồn tua, giải phóng cơ bản xã Quới Thiện. Ở Tân An Luông, lực lượng du kích do đồng chí Bảy Thới chỉ huy cùng hàng trăm quần chúng tiến công khu tề xã tại cầu Mới, phối hợp với tiểu đoàn 501 chủ lực tỉnh tiêu diệt gọn các đồn: Rạch Bần, Vườn Bông và Cây Mít, giải phóng hoàn toàn tuyến sông Mang Thít. Ở Hiếu Thành, trung đội du kích cùng trên 50 quần chúng do đồng chí Văn Phước An chỉ huy, ngay trong đêm giao thừa rạng sáng mùng 1 Tết đã bao vây tề xã tại Nhà Đài. Cuộc chiến đấu diễn ra rất quyết liệt, đến ngày mùng 4 tháng giêng ta chuyển sang đào chiến hào bao vây đánh lấn, nhưng tình hình ngày một căng thẳng do thiếu vũ khí. Lúc này đồng chí Nguyễn Thị Ráo (tức chị Ba Thi, sau này là Ủy viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam), mạnh dạn khui hầm vũ khí chiến lược của Khu để đánh địch nhưng vẫn chưa dứt điểm được. Đến ngày 18, tiểu đoàn 501 bộ đội chủ lực tỉnh về phối hợp đánh tiêu diệt hoàn toàn công sở Nhà Đài, đồng thời đánh tiêu diệt hoàn toàn hai đồn ven xã Hiếu Phụng, xã Hiếu Thành mới được giải phóng hoàn toàn. Phát huy khí thế thắng lợi, các vùng ven lộ giao thông: Hiếu Phụng, Trung Thành, Trung Ngãi và Tân An Luông đã huy động trên 10 nghìn lượt người nổi dậy 142
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
phá kìm, đắp mô, phá lộ 170 trên đoạn dài 23km, ta làm chủ tuyến lộ này suốt 45 ngày đêm. Lực lượng binh vận đã sáu lần vận động được 30 người mang 23 khẩu súng về với cách mạng. Trong suốt giai đoạn đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, nhân dân Vũng Liêm vô cùng phấn khởi, tin tưởng náo nức như ngày hội mùa xuân, nhiều đoàn tiếp lương tải đạn, nhiều gia đình nhân nuôi chứa thương binh dưới tầm bom, pháo của địch. Tình cảm quân dân trong thử thách lửa đạn, cam go càng thêm bền chặt. Ngày 15 tháng 3 năm 1968, ban chỉ huy chiến dịch rút về ấp Đức Hòa sơ kết rút kinh nghiệm đợt 1, đồng thời tiếp tục thành lập thêm hai đại đội theo yêu cầu của trên chuẩn bị cho đợt 2. *** Do ta đánh không dứt điểm cho nên địch điều lực lượng bảo an tỉnh và sư đoàn 9 chủ lực gồm các tiểu đoàn bảo an 403, 168, 520 và 152 có pháo binh, không quân và tàu chiến yểm trợ đến khủng bố, bắt bớ, bắn giết và đóng lại đồn bốt. Chúng dùng toàn bộ lực lượng công an, cảnh sát, bảo an, dân vệ càn quét cả ngày lẫn đêm. Khám Đá Vũng Liêm chật ních cán bộ, cơ sở cách mạng và đồng bào yêu nước bị địch bắt giam. Những cuộc tra tấn dã man, cướp giật, hãm hiếp; những luận điệu xuyên tạc với những trò chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, chiêu hàng độc hại liên tiếp diễn ra. Chúng thành lập thêm chi khu tại Cầu Rới (Tân An Luông), đóng thêm quân và dựng lại đồn tua mới. Không khí ngột ngạt căng thẳng tràn ngập. Chúng dùng cả B52 để hủy diệt vùng căn cứ và nhân dân Trung Ngãi. Cảnh tượng khủng khiếp và tâm lý hoang mang trong một số cán bộ và nhân dân nảy sinh… Nhưng Mỹ - ngụy không cách gì xóa được trong tâm trí của người dân Vũng Liêm hình ảnh chiến tranh cách mạng đã bùng nổ ngay giữa sào huyệt, hang ổ cuối cùng của chúng. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở Vũng Liêm đạt được thắng lợi bước đầu, xây dựng được chính quyền cách mạng, thành lập được hội đồng nhân dân các cấp xã – huyện. Tuy bị địch phản kích đàn áp, bắt bớ, khủng bố nặng nề gây bao cảnh đau đớn, nhưng phong trào cách mạng ở Vũng Liêm từ sau Tết Mậu Thân vẫn tiếp tục phát triển ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt hơn. *** Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân ở Vũng Liêm kéo dài suốt 50 ngày đêm, tuy không đạt được yêu cầu đề ra nhưng đã góp phần cùng cả nước giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, đến bàn thương lượng và tính đến việc rút quân đội Mỹ cùng chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Quá trình từ Mậu Thân 1968 tới Hiệp đinh Pa-ri đến chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam là một phát triển lôgic của lịch sử. Sở dĩ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân 1968 ở Vũng Liêm bước đầu thu được thắng lợi, ngoài việc có chủ trương chiến lược đúng còn nhờ có ý chí quyết đánh và quyết thắng, một niềm tin “Không có gì quý hơn độc lập tự do” mà 143
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Đảng bộ Vũng Liêm đã dày công tổ chức xây dựng và giáo dục cho toàn Đảng, quân và dân huyện nhà. Đảng bộ và nhân dân Vũng Liêm đã thể hiện rõ ý thức tổ chức kỷ luật cao trong việc thi hành Nghị quyết của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy và Huyện ủy. Khó khăn của Đảng ủy Vũng Liêm khi bắt đầu tiến công và nổi dậy là chuẩn bị trong điều kiện gấp rút và bí mật, lực lượng vũ trang địa phương mới thành lập lại chưa được huấn luyện kỹ càng và trang bị kém. Ta chỉ có hai đại đội của bộ đội địa phương, trung đội biệt lập, trung đội công binh – đặc công và trung đội du kích Trung Thành, với tổng số gần 500 tay súng. Về hỏa lực chỉ có một cối 81mm, hai cối 60mm, một đại liên và 10 trung liên. Trong khi đó lực lượng địch có hai đại đội bản an, trung đội cơ giới, hai đại đội biệt kích, đơn vị cảnh sát dã chiến, dân vệ và phòng vệ dân sự, với tổng số khoảng 3.077 tên. Qua những trận chiến đấu với ta trước Tết, quân địch đã bị thiệt hại một phần sinh lực vừa mới được bổ sung, tinh thần chúng còn hoang mang dao động, nhưng nhìn chung xét về tương quan lực lượng địch vẫn mạnh hơn ta. Tuy vậy tại Vũng Liêm, khắp các xã đều đã nổ súng đúng giờ “G” quy định. Ta đã tiêu diệt 350 tên địch, làm bị thương 480 tên, thu 147 súng và trên 100 nghìn viên đạn; phá hủy hai công sở tề, 18 đồn tua, bức rút 10 đồn tua, phá hủy 12 xe quân sự, bắn hỏng một phản lực và 9 trực thăng, đốt cháy một kho xăng trên 100 nghìn lít, giải phóng hoàn toàn hai xã (Trung Hiệp và Hiếu Thành), giải phóng cơ bản 7 xã, góp phần tạo thế và lực mới cho cách mạng. Thắng lợi của Vũng Liêm trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là đỉnh cao của chiến tranh nhân dân trong huyện, là cuộc “tổng diễn tập” cho Đại thắng mùa Xuân 1975./. Trần Văn Minh – Phó Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vũng Liêm Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
29.Vũng Liêm - Những ngày Xuân Mậu Thân 1968 Thắm thoát mà cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tròn 40 năm. Trong lớp người tham gia cuộc chiến đấu ngày ấy, giờ đây đã không ít người về với cõi vĩnh hằng và những người còn lại gần như đều ở tuổi cao sức yếu, lắm chuyện nhớ trước quên sau. Song, vẫn có người nhớ như in khi nhắc về những ngày hào hùng ấy mà trong số đó có đồng chí Nguyễn Văn Bá (Sáu Bá) Thường vụ Huyện ủy, Huyện Đội trưởng Vũng Liêm. Anh Sáu Bá kể: “Để chuẩn bị cho Chiến dịch mùa khô 1968, từ tháng 10 năm 1967, Vũng Liêm thành lập thêm C2 (Đại đội 2) địa phương quân, với quân số trên 80 đồng chí, mỗi xã từ 1 đến 2 B (trung đội), có quân số từ 30 đồng chí trở lên. Về
144
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
hỏa lực thì địa phương quân huyện được trang bị 2 khẩu B40, 1 đại liên và 3 trung liên, cấp xã tốt nhất là tiểu liên, còn lại là súng trường. Chỉ huy cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy ở Vũng Liêm là đồng chí Nguyễn Văn Đậm (Sáu Mực), Bí thư Huyện ủy – Chính trị viên Huyện đội và tôi. Song song đó, Vũng Liêm chuẩn bị về hậu cần, từ huy động lực lượng quần chúng nổi dậy đến lực lượng dân công phục vụ hỏa tuyến (phục vụ chiến trường). Ở mặt trận huyện lỵ, đêm 30/12/1967 âm lịch, lực lượng ta chia làm 2 cánh. Cánh thứ nhất, địa phương quân huyện chủ công, do đồng chí Năm Anh – Huyện đội phó trực tiếp chỉ huy, nhiệm vụ của cánh quân này đánh chiếm các mục tiêu quân sự của địch từ ngã ba An Nhơn vào đến trung tâm huyện lỵ, trong đó có dinh quận. Mũi thứ 2 gồm lực lượng du kích xã Trung Thành và huyện lỵ đảm trách, với nhiệm vụ diệt ác, hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy. Nhận mệnh lệnh tổng tấn công, anh em từ cán bộ đến chiến sĩ đều rất phấn khởi, cho nên khi tiếp cận mục tiêu, chó sủa nhiều quá nên địch phát hiện, bắn pháo sáng và tổ chức phòng bị đối phó. Vậy là ngay từ đầu ta đã gặp khó khăn, nhưng với tinh thần phấn khởi, tin tưởng vào thắng lợi và nhằm đảm bảo hợp đồng chiến trường, tôi nhanh chóng hội ý các đồng chí trong ban chỉ huy mặt trận, cùng các cán bộ đại đội và trung đội quyết định phương án chiến đấu mới. Đó là, một mặt nổ súng kiềm chế các mục tiêu ở khu vực nội ô huyện lỵ, mặt khác chuyển sang tấn công tiêu diệt các mục tiêu xung quanh. Vậy là ngay đợt tấn công đầu tiên, ta tiêu diệt hoàn toàn đồn Sân Banh do một trung đội địch đóng giữ, mũi khác tấn công lực lượng bảo an của địch, không cho chúng bung ra tiếp viện, tạo thuận lợi cho lực lượng du kích bao vây, uy hiếp đồn ngã ba An Nhơn xã Trung Thành và đồn Giồng Ké xã Trung Ngãi. Trước sức ép của ta và biết được các đồn bót xung quanh cùng lúc bị tấn công, nên cả 2 đồn ngã ba An Nhơn và Giồng Ké hoang mang bỏ chạy. Sáng hôm sau, địch cho 2 xe nồi đồng và bọn bảo an bung ra khu vực ngã ba An Nhơn, hòng tái chiếm lại đồn Sân Banh nhằm chốt giữ lại hai vị trí quân sự có ý nghĩa chiến lược trông chờ viện binh để cứu huyện lỵ. Lực lượng này bị quân ta chặn đánh quyết liệt và bọn lính tái chiếm đồn Sân Banh một lần nữa bị ta tiêu diệt, thu toàn bộ vũ khí”. Đầu não ở địa phương vừa bị vây chặt, vừa bị tiêu hao về quân số và khí tài nên chẳng những không cứu viện được cho bên dưới mà còn rất hoang mang. Tên trung úy Vàng chỉ huy lực lượng bảo an, liên tục gọi điện về trên xin viện binh giải vây, tiếp tế đạn dược và cho biết 2 xe thiết giáp “nồi đồng” cũng bị trúng đạn của ta. Trước khi kêu cứu đàn em, bọn chỉ huy ở Vĩnh Long phải dùng máy bay trực thăng chở đạn đến thả xuống huyện lỵ. Nhưng trước sự bao vây, chặn bắn của ta, bọn trên trực thăng tuôn bừa số đạn dược tiếp tế ấy xuống trận địa, nên đã có không ít số đạn đó “ “tiếp viện” cho ta. Với khí thế hừng hực chiến thắng và trước sự hoang mang, rệu rã tinh thần của địch, đã tạo thuận lợi cho các mặt trận khác trong huyện tiến công và nổi dậy giành chính quyền làm chủ, tạo một vùng giải phóng liên hoàn trên địa bàn huyện, trong đó việc làm chủ nhiều ngày, nhiều đoạn trên đường liên tỉnh số 7 (nay là QL53), góp phần cắt đứt sự chi viện bằng đường bộ của địch cho chiến trường tỉnh Trà Vinh”. Vẫn theo lời anh Sáu Bá: “Trong tập sách tổng kết chiến tranh 21 năm đánh Mỹ của Vũng Liêm ghi là quân dân Vũng Liêm chỉ có 10 ngày tiến công bao vây huyện lỵ theo tôi là không chính xác, mà thời gian ấy ít nhất cũng là một tháng. Bởi trong 145
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
khoảng thời gian 10 ngày đó, bọn đầu não ở Vĩnh Long còn bị lực lượng chủ lực Trung đoàn 3 kiềm chân, đến ngày 10/1/1968 âm lịch, dưới sự hỗ trợ của xe lội nước M113, tên Ngọc mới chỉ huy tiểu đoàn 403 từ thị xã Vĩnh Long xuống phá mô, lấp đường giải tỏa đường số 7. Sau đó bọn tiểu đoàn này kết hợp với bọn bảo an ở Vũng Liêm bung ra phản kích lại ta. Cũng ngay thời điểm ấy, mặt trận Vũng Liêm được Tỉnh Đội Trà Vinh tăng thêm D1 (tiểu đoàn 501) về hỗ trợ. Ngay ngày có mặt đầu tiên ở Vũng Liêm, D1 dùng hỏa lực công phá nặng đồn Rạch Bần (Tân An Luông). Sáng hôm sau, địch điều động 1 đại đội bảo an từ huyện Minh Đức (Mang Thít) sang tiếp viện. Bọn này khi đến địa bàn ấp Nhất (Tân An Luông) thì rơi vào trận địa chờ sẵn của quân ta nên đã bị đánh tan tác, bỏ thây tại chỗ nhiều tên. Thừa thắng xông lên, ngay đêm đó, ta tiếp tục tiêu diệt đồn Rạch Bần, đồn Vườn Bông (Tân An Luông) và đồn Chợ Mới (Trung Hiệp). Hai ngày sau (19/1) D1 tấn công cụm tề xã Hiếu Thành, diệt 60 tân địch, thu 70 súng, hàng chục ngàn viên đạn và bức rút 2 đồn ở xã Hiếu Phụng. Tiếp đó, D1 tiêu diệt thêm đồn Quang Diệu (Trung Hiệp), kết hợp cùng địa phương huyện Vũng Liêm và du kích các xã Hiếu Thành (Vũng Liêm), Thạnh Phú (Cầu Kè), Hựu Thành (Trà Ôn) đánh chiếm yếu khu quân sự Thầy Phó (Hựu Thành), diệt gần 100 tên địch, thu nhiều súng đạn, mở ra vùng giải phóng rộng lớn, liên hoàn 3 huyện Vũng Liêm, Cầu Kè và Trà Ôn”. Trong tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1968, ngoài lực lượng vũ trang, Vũng Liêm còn có trên 10.000 lượt lực lượng tham gia nổi dậy diệt ác và phục vụ chiến đấu. Một hình ảnh khác chứng minh thêm cho sức mạnh và lòng yêu nước của nhân dân Vũng Liêm của những ngày lịch sử trên đây là việc chăm lo hậu cần phục vụ chiến đấu. Điều đó được cho thấy, dù bất cứ trong tình huống nào kể cả ngay ở mặt trận, thức ăn, nước uống đều được nhân dân lo và đưa đến chiến trường đầy đủ, có không ít người giết cả trâu, hoặc hiến cả đàn vịt của gia đình để lo ăn cho chiến trường. Qua 42 ngày đêm, Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân dân Vũng Liêm kết hợp tấn công nổi dậy với binh vận đã tiêu diệt, bức hàng bức rút 28 đồn bót, diệt trên 600 tên địch, phá hủy 12 xe quân sự, bắn rơi và bị thương 10 máy bay, trong đó có 1 chiếc phản lực, thu 147 súng các loại, hàng chục ngàn viên đạn. Ta giải phóng hoàn toàn 2 xã Hiếu Thành và Trung Hiệp, giải phóng cơ bản 7 xã còn lại (lúc đó Vũng Liêm chỉ có 9 xã), góp phần vào thắng lợi chung của tỉnh và toàn miền Nam như thư chúc Tết Mậu Thân 1968 của Bác Hồ. Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà Nam Bắc thi đua đánh giặt Mỹ Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta./. Trọng Dân (Viết theo lời kể của đồng chí Nguyễn Văn Bá và sử dụng tài liệu tập kết 21 năm đánh Mỹ của huyện). Theo Báo Vĩnh Long – Số 1863 ra ngày 3/2/2008 .- Tr.10-11
146
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
PHẦN III
147
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
30.Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân Từ góc nhìn về lịc sử Bốn mươi năm đã theo dòng thời gian trôi qua, nhưng có những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ mang dấu ấn lịch sử không thể phai mờ. Đó là cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta trên khắp chiến trường miền Nam ngay sào huyệt của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn vào đêm 30 Tết Mậu Thân. Chính thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 làm tổn thất nặng nề sinh lực địch, làm lung lay tận gốc hệ thống chính quyền Sài Gòn, làm chấn động dư luận nước Mỹ, phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ và nhân dân yêu chuộng hòa bình chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi rút quân Mỹ về nước dấy lên trên nước Mỹ và bè bạn khắp năm châu làm cho Tổng thống Mỹ Giônxơn không thể tiếp tục đưa quân để mở rộng và kéo dài chiến tranh cục bộ ở Việt Nam, buộc phải “xuống thang” chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc nước ta, rút quân về nước và ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Paris với đại diện của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đó là thắng lợi vô cùng to lớn có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta làm thất bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở đất nước ta. Quân và dân tỉnh Vĩnh Long cũng đã góp phần hết sức quan trọng vào thắng lợi nói trên, tiến công và nổi dậy, bám trụ và chiến đấu hết sức kiên cường và anh dũng suốt 6 ngày đêm trong nội ô thị xã Vĩnh Long, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá rã bộ máy kềm kẹp ở nông thôn và vùng ven thị xã, thị trấn. Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh khốc liệt, không có chiến thắng nào mà không có sự hy sinh. Trong chiến thắng vinh quang của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước phải đổi lấy bằng sự hy sinh, mất mát lớn lao, hay nói khác hơn là phải đổi bằng máu xương của cả dân tộc. Tổ quốc và nhân dân – những thế hệ được thừa hưởng cuộc sống độc lập, tự do ngày hôm nay sẽ mãi mãi ghi nhớ công lao của biết bao thế hệ cha anh đã không tiếc máu xương để giành lấy tự do, độc lập cho Tổ quốc, đem lại cuộc sống hòa bình cho nhân dân. Một trong những hoạt động thiết thực nhằm nhắc nhở cho thế hệ hôm nay và mai sau về những chiến tích của thế hệ cha anh, tỉnh Vĩnh Long quyết định lấy chiến thắng Mậu Thân đặt tên cho con đường nằm trên phường 3 kéo dài từ đường 2 tháng 9 (phường 1) đến quốc lộ 53 đoạn đường Phó Cơ Điều, là địa bàn giáp với xã Phước Hậu – một xã vùng ven tiếp cận thị xã với vùng giải phóng, nơi đây là địa bàn của một mũi tấn công chủ yếu của lực lượng vũ trang ta tiến vào thị xã Vĩnh Long Tết Mậu Thân. Và tại ngã ba đối diện với đường Mậu Thân sẽ được dựng lên công viên – tượng đài chiến thắng Mậu Thân. Tượng đài chiến thắng Mậu Thân là biểu tượng của tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân và dân Vĩnh Long cũng vừa là nơi hội tụ của nhiều thế hệ nối tiếp nhau để nhắc nhở, để tri ân công lao của những anh hùng liệt sĩ đã cống hiến máu xương cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
148
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Chào mừng Xuân Mậu Tý, thiết thực kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng Mậu Thân, tượng đài chiến thắng Mậu Thân sẽ được khởi công vào dịp mừng năm mới 2008. Tượng đài như một chứng tích lịch sử mà lòng dân đang mong đợi. Rồi đây, ở nơi này sẽ mãi mãi để lại cho đời sau lòng tự hào của dân tộc Việt Nam anh hùng, của quân và dân Vĩnh Long anh hùng./. Nguyễn Thanh Hùng – Nguyên Trƣờng BTG TU VL Theo Tạp chí Văn Hóa – Số 69 – Số Xuân Mậu Tý 2008 .- Tr.13
31.Vĩnh Long Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Ý nghĩa và những bài học Cách nay 42 năm quân và dân Vĩnh Long đã đồng loạt Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 bằng ba mũi giáp công. Mặc dù cuộc Tổng tấn công và nổi dậy đó không đạt được mục tiêu như kế hoạch đề ra, nhưng quân và dân Vĩnh Long đã giành được thắng lợi rất to lớn. Thắng lợi của Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long đã đi vào những trang sử hào hùng của tỉnh nhà, tạo nên nét son chói lọi, là bước ngoặt quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của Đảng bộ và quân dân tỉnh Vĩnh Long. Thắng lợi của Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là thắng lợi bằng vận dụng thế bất ngờ về chiến lược, đánh thẳng vào cơ quan đầu não của địch, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, làm chủ Thị xã (Thành phố) Vĩnh Long 6 ngày đêm liền, tiêu hao nhiều sinh lực quan trọng của quân ngụy và quân Mỹ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, cắt đứt giao thông chiến lược ta làm chủ Quốc lộ 4 (nay là QL 1A) suốt 22 ngày đêm. Đặc biệt là trận đánh vào sân bay Vĩnh Long lúc 2 giờ 30 phút ngày mùng 1 Tết Mậu Thân (tức ngày 30 tháng 1 năm 1968) trực tiếp trận đánh là đại đội Đặc công (Tiểu đoàn 857) do đồng chí Trần Thanh Liêm làm mũi trưởng, ta đã phá hủy 61 trực thăng và hai L.19. Song song với tấn công và nổi dậy đánh vào thị xã, ta đẩy mạnh ba mũi giáp công đánh bại chương trình bình định của địch, giải phóng nông thôn rộng lớn, tạo thành thế liên hoàn xã liền xã, huyện liền huyện. Thắng lợi của Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 còn là một cuộc tổng diễn tập cho những giai đoạn tiếp theo, để đi đến đỉnh cao bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm chống Pháp và chống Mỹ (19451975) của dân tộc. Thắng lợi của Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân Vĩnh Long đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn miền Nam, làm lung lay ý chí xâm lược và làm đảo lộn thế chiến lược, buộc đế quốc Mỹ phải thừa nhận chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, ngồi vào bàn đàm phán với ta ở hội nghị Paris, xuống thang chiến tranh, cuốn cờ về nước.
149
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Chính tướng Oét-mo-len, Tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã thú nhận: “Việt cộng đã thành công trong cuộc Tổng tấn công bất ngờ trong dịp Tết Nguyên Đán vào những thành phố ở miền Nam Việt Nam…”. Tướng Giôn-tréc-xơn, Tư lệnh tác chiến của quân đội Mỹ cũng thốt lên rằng: “Tôi phải thú nhận Việt Cộng làm tôi kinh ngạc vì những cuộc tiến công của họ, tôi khâm phục Việt Cộng đã vạch kế hoạch và tổ chức cuộc tiến công rất thành công”. Ken-nơ-đi thì thừa nhận: “Cuộc tấn công của Việt Cộng chứng minh rằng thắng lợi quân sự của Mỹ ở Việt Nam là một điều hoàn toàn ảo tƣởng”. Còn phóng viên hãng Thông tấn Pháp AF ở Oa-sinh-tơn, ngày 5-2-1968 đã nhận xét: “Cuộc tấn công của Việt Cộng đang gây ở Mỹ một sự tuyệt vọng, phẫn nộ và ngờ vực”. Tờ Báo Niu-Ooc (Mỹ) ngày 8/2/1968 đã viết: “Những tin tức đen tối từ Việt Nam đang gây sửng sốt và kinh ngạc ở Oa-sinh-tơn”. Lật lại trang sử hào hùng của Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta ở Vĩnh Long không chỉ để ca ngợi quá khứ, tự hào với những gì đã qua mà vấn đề là cùng nhau suy nghĩ, rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử quý báu, phát huy kinh nghiệm một cách sáng tạo vào giai đoạn cách mạng hiện nay. Những bài học kinh nghiệm đó là: -Một là cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân, dân Vĩnh Long trước hết là do vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể ở địa phương, phát huy sức mạnh đoàn kết thống nhất toàn quân với dân một ý chí, không phân biệt già trẻ, trai gái, giàu nghèo, lương giáo, hậu phương hay tiền tuyến, tất cả để đánh giặc, tất cả để thắng lợi. Lấy chiến tranh nhân dân làm nền tảng, xây dựng ba thứ quân hỗ trợ cho nhau để phát huy sức mạnh thường thì căng địch ra mà đánh, địch mạnh ta biến thành yếu, từ chủ động ta biến thành bị động để khi có điều kiện thuận lợi tập trung chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi tạo nên bước phát triển nhảy vọt. Quan điểm của ta là tự lực tự cường, tích cực và chủ động xây dựng hậu phương tại chỗ, hậu cần nhân dân… nên dù trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, dù cuộc chiến đấu có kéo dài, Vĩnh Long cũng đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. -Hai là quân dân Vĩnh Long biết phát huy sức mạnh tổng hợp, đánh địch bằng hai chân ba mũi trên khắp ba vùng, biết kết hợp tấn công và nổi dậy, nổi dậy và tấn công, tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ, giành quyền làm chủ để tiêu diệt địch, đánh địch ở đô thị, phá bình định mở rộng vùng ven, giải phóng nông thôn, cắt đứt giao thông huyết mạch của địch, ta đánh địch khắp nơi, buộc địch phải căng ra đối phó trước mặt và cả sau lưng. Ta luôn giữ mối quan hệ giữa chiến đấu với xây dựng, giữa thế trận và lực lượng, đảm bảo càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng to. -Ba là thắng lợi của Tổng tấn và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân Vĩnh Long thể hiện rõ sự nhiệt tình cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành chủ trương của Đảng vô điều kiện, như lời Bác Hồ đã dạy:
150
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
“Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vƣợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. -Bốn là Bộ chỉ huy tiền phương cũng như Tỉnh ủy, Ban Chỉ huy Tỉnh Vĩnh Long cùng các đơn vị đã đánh giá đúng tình hình, chọn đúng hướng, đúng mục tiêu, đối tượng tiến công, phát huy sức mạnh của ta, khắc phục mặt yếu kém, hạn chế có hành động kiên quyết táo bạo, khẩn trương kịp thời góp phần giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong cuộc đọ sức không cân xứng giữa ta và địch. Đối với công tác tổ chức Mặt trận diễn ra trong một thời gian hết sức cấp bách, vừa phải đảm bảo tuyệt đối bí mật vì ta tấn công đồng loạt ở nông thôn và thành thị, phải huy động một lực lượng rất lớn cả lực lượng vũ trang và lực lượng quần chúng, nhưng các nội dung đó đều được tiến hành rất chu đáo, đồng bộ và có hiệu quả. Đã 42 năm trải qua, bằng những cố gắng của các ngành, các cấp, đặc biệt là các cơ quan nghiên cứu, hội thảo, bài viết về những vấn đề của sự kiện “Tết Mậu Thân” ở Vĩnh Long đã được làm rõ, nhưng cũng còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu: +Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thắng lợi của Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là tạo được thế bất ngờ về chiến lược đối với kẻ thù. Các địa phương nhận được mệnh lệnh quá cấp bách, chưa đủ thời gian nghiên cứu xác định các mục tiêu, phương tiện và các mặt chuẩn bị khác cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại sào huyệt cuối cùng của địch. Dó đó, có hạn chế đến thắng lợi và số thương vong của ta cao. +Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở các thành phố, thị xã ở miền Nam diễn ra đồng loạt nhưng chưa đủ mạnh, chưa chín mùi nên ở nhiều nơi ta chiếm chỉ sau thời gian ngắn thì địch tập trung phản kích. Phong trào quần chúng nổi dậy chưa tương ứng với yêu cầu, nhiều cơ sở của ta trong đô thị bị lộ. +Đối với lực lượng của ta thì mỏng không có điều kiện tập trung, lực lượng dự bị bổ sung khi cần thiết rất hạn chế, không có sức dồn lên liên tục giải quyết dứt điểm được mục tiêu, để làm thay đổi cục diện chiến trường, phát triển thế tiến công giành thắng lợi. Nhìn lại những trang sử hào hùng của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Tỉnh Vĩnh Long, chúng ta càng tự hào về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Chúng ta rất trân trọng và đời đời ghi ơn những đồng chí, đồng bào đã ngã xuống để làm nên chiến thắng lịch sử vẻ vang này. Càng tự hào về truyền thống đấu tranh của Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Tỉnh Vĩnh Long, chúng ta càng nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cùng cả nước phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn./. Phạm Công Lộc Theo Tạp chí Văn Hóa – Số Xuân Canh Dần 2010 .- Tr.12-13
151
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
32.Mùa Xuân này nhớ chiến công xƣa Sau thời gian thành lập và được tăng cường về quân số, trang bị thêm một số vũ khí, lãnh đạo Ban an ninh tỉnh quyết định chọn đội trinh sát vũ trang làm đơn vị chủ công bám trụ thọc sâu vào sào huyệt của địch diệt bọn đầu sỏ ác ôn, hỗ trợ cho các tiểu bang nghiệp vụ và các ban ngành đoàn thể, phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh, bảo vệ nhân dân, vùng căn cứ kháng chiến. Không phụ lòng tin của Đảng và nhân dân giao phó, đội trinh sát vũ trang đã làm nên những chiến công. Mùa xuân 1968 trận đánh mở màn phối hợp nhịp nhàng với quân dân miền Nam, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đội trinh sát vũ trang được Ban chỉ huy chiến dịch phân công dẫn đường lực lượng Trung đoàn 3 cùng bộ đội địa phương đánh vào hang ổ kẻ thù ở thị xã Vĩnh Long. Với “phương châm lấy ít đánh nhiều, mưu trí dũng cảm”, các chiến sĩ ta ngoài nhiệm vụ “hoa tiêu” còn tham gia tiến công đánh chiếm các mục tiêu cơ quan đầu não quan trọng của địch như Ty Chiêu hồi, Ty Cảnh sát, Dinh Tỉnh trưởng, khám lớn… Trận này ta diệt 2 tên tình báo Mỹ, nhiều tên cảnh sát, thu một số vũ khí đạn dược và tài liệu quan trọng. Sau 6 ngày chiếm giữ, địch phản công đại bộ phận ta rút lui về hậu cứ, một số đồng chí được phân công ở lại bám trụ các phường ven thị xã để móc nối xây dựng cơ sở, tổ chức diệt ác phục vụ cho các trận đánh tiếp theo. Sau Tết Mậu Thân 1968 được sự tiếp sức của quân viễn chinh Mỹ, địch củng cố thế và lực đánh phá liên tục ra vùng giải phóng. Mặc dù phải đối phó với địch, bảo vệ vùng căn cứ nhưng Ban an ninh tỉnh vẫn quyết tâm chủ động thọc sâu trả đũa “ăn miếng trả miếng” với quân thù. Đầu năm 1969, hai tổ trinh sát vũ trang bí mật bất thần đột nhập vào thị xã Sa Đéc, đánh chiếm Ty Cảnh sát quốc gia, địch không kịp trở tay. Ta diệt và làm bị thương một trung đội cảnh sát dã chiến. Tháng 4/1969 được sự phối hợp của bộ đội địa phương, lực lượng trinh sát vũ trang tấn công vào thị xã Vĩnh Long lần thứ 2. Trận này ta diệt tại chỗ nhiều tên cảnh sát, quân ta rút lui an toàn. Sang năm 1970 địch tăng cường bình định lấn chiếm, chúng ráo riết phát hoang phá địa hình đóng thêm nhiều đồn bót vùng căn cứ Tam Bình. Ở khoảng giữa rạch Xẻo Cao và Rạch Rừng thuộc xã Song Phú (Tam Bình), cách Phân chi khu Ba Càng khoảng hơn 2km về phía Đông là nơi đóng quân của đội trinh sát vũ trang, bên kia sông Ba Càng – Cái Ngang cách đó không xa là vùng căn cứ của ta có nhiều cơ quan quan trọng đang đóng. Ý đồ của địch kiên quyết đánh chiếm xây dựng đồn Xẻo Cao kiên cố, mục đích là phá vỡ vùng căn cứ, vừa là điểm án ngữ bảo vệ Phân chi khu Ba Càng. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ban An ninh tỉnh chỉ đạo đội trinh sát vũ trang lên phương án chiến đấu. Đúng như kế hoạch, vào sáng sớm một ngày đầu tháng 8 năm 1970 sau một hồi chúng cho pháo 105 bắn vào địa hình và trực thăng chiến đấu quần đảo, bắn phá. Từ Ba Càng hai tiểu đoàn địch đi dọc hai bên bờ sông Ba Càng càn xuống vùng căn cứ Mỹ Lộc. Một cánh quân chúng vượt qua rạch Bà Thể, Rạc Rừng tiến về Xẻo cao. Đồng thời chúng đem cả vật liệu xây dựng đến cắm mốc đóng đồn. Đội trinh sát vũ trang có mặt hơn 10 đồng chí cả nam lẫn nữ, một số đồng chí bảo vệ cơ quan An ninh tỉnh và vài đồng chí du kích ấp. Tương
152
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
quan lực lượng giữa hai bên, ta không thể đối chọi trực tiếp với đội quân có trang bị vũ khí hiện đại hơn ta gấp hàng chục lần, tình thế cấp bách nhưng không thể để địch lấn chiếm vùng căn cứ cách mạng của tỉnh để đóng đồn. Dưới sự chỉ huy của đồng chí đội trưởng, đội hình của ta chia làm 3 tổ chiến đấu để phân tán địch và tránh sát thương cho anh em khi địch dùng hỏa lực mạnh. Một tổ án ngữ mặt sông gồm 3 đồng chí, đối diện bên kia sông hai tổ gồm 6 đồng chí, số còn lại chặn địch ở phía chân vườn bên cạnh doanh trại của Đội trinh sát vũ trang. Đến 10 giờ trưa chúng đi ngang cứ của đội, khi phát hiện dấu chân các chiến sĩ ta chúng liền mò theo vướng phải mìn 816 (Mìn vỏ làm bằng tol kích thước 8x16cm do các chiến sĩ trinh sát vũ trang tự chế), nổ chết và bị thương 7 tến địch, chúng co cụm lại. Lúc bấy giờ quân ta “án binh bất động”, nên địch tổ chức ghe đưa số chết bị thương về Ba Càng, tổ mé sông phát hiện nổ súng bắn chìm ghe làm chết thêm một số tên nữa. Gần một giờ sau, cánh mé sông tiếp tục nổ súng, ném lựu đạn vào chiếc ghe chở vật liệu của địch từ hướng Ba Càng ra chìm tại chỗ. Ở bên kia sông, địch vừa đến lực lượng ta đồng loạt nổ súng, 2 tên đi trên cầu chết tại chỗ. Chúng tản đội hình, tập trung hỏa lực bắn vào đội hình của ta dữ dội. Trận đánh đến hồi quyết liệt, ta địch quần nhau từng đoạn vườn. Khi chúng mở đợt xung phong, ta chia thành những tốp nhỏ, bám theo từng mương vườn, gốc dừa, bụi cây bắn tỉa ngăn chặn địch, cứ như thế ta và địch đan xen cài răng lược… giữ vững trận địa cho đến chiều tối. Qua 6 đợt tấn công, địch không chiếm được cứ điểm phải chùn bước cụm quân, số bị thương không được chuyển tải kẹt lại ở gần đội hình ta, sợ bị phát hiện chúng chém vè dưới mương lục bình, đến sáng hôm sau địch cho quân tiếp viện đưa số bị thương và lấy xác đồng bọn hàng chục tên. Trận này ta diệt hàng chục tên, thu 20 súng các loại trong đó có mấy khẩu bị hỏng do sức công phá của mìn, tịch thu một số quân trang đạn dược cùng 2 thùng đạn 12,7mm địch chứa nhiều vật dụng. Trận tập kích diệt đoàn Bình định số 23 vào 21 giờ đêm 26/4/1970 tại Khu trù mật Cái Sơn (Long Phú, Tam Bình). Về mặt tổ chức của đoàn bình định này chúng tập hợp nhiều sắc quân cả bọn tình báo, mật thám, phượng hoàng, tai mắt gián điệp… mục đích phục vụ đánh phá bình định, cài cấm ly gián nội bộ ta. Trong thời gian chúng về đóng chốt hoạt động gây nhiều thiệt hại cho phong trào cách mạng nơi đây. Ban an ninh tỉnh phân công, đội trinh sát vũ trang cử một số đồng chí điều nghiêng các vị trí đóng quân của địch và lên phương án tác chiến. Theo kế hoạch, trong đêm 25/4 ta tấn công đoàn bình định, nhưng có tin cơ sở báo một đại đội biệt kích Mỹ về trú quân gần đó. Để bảo toàn lực lượng ta đình lại trận đánh. Sáng ra khi phát hiện các ụ đất làm công sự dã chiến của lực lượng dân công phục vụ trận đánh, với luận điệu chiến tranh tâm lý trấn an tinh thần bên dưới chúng huênh hoang: “Việt cộng bị đình làm cỏ chết sạch sẽ còn quân, còn sức đâu mà đánh với đá”. Đêm sau, đúng giờ quy định các mũi áp sát điểm tập kết, riêng mũi ở phía ngoài ruộng các đồng chí phải dùng kìm cắt các lớp rào kẽm gai và khéo léo vượt bãi mìn tiếp cận mục tiêu. Khi khẩu B40 phát hỏa chính xác vào trụ sở Ban chỉ huy đoàn bình định, các mũi đồng loạt nổ súng, thủ pháo ta tung liên tiếp vào đội hình địch. Hơn 15 phút địch mới hoàn hồn bắn trả một cách yếu ớt. Đến khi bọn thám báo chạy đến chi viện, các chiến sĩ ta đã rút quân và tịch thu 14 khẩu súng tiểu liên, 1 col 45, 2 máy thông tin HT1, 1 máy PRC 10, diệt 22 tên địch có một trung úy chỉ huy trưởng bình định. 153
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Trận đánh thắng lợi trọn vẹn, góp phần bẻ gãy kế hoạch bình định lấn chiếm của địch ở một số xã trọng yếu địa bàn Tam Bình. Trong niềm vui chiến thắng đó, đội trinh sát vũ trang phải ngậm ngùi chia tay vĩnh viễn đồng chí Nguyễn Văn Dũng một chiến sĩ trinh sát mưu trí dũng cảm, gan dạ và đi đầu trong suốt trận đánh. Dù bị trọng thương, đồng chí vẫn xung phong ở lại cản đầu địch cho đồng đội rút quân. Với khẩu Car-M2 (chiến lợi phẩm) cùng quả B40 lép cải tiến thành trái ném tay, đồng chí chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Hòa cùng niềm vui lẫn sự mất mát này chỉ có những người trong cuộc mới hiểu hết nội dung ý nghĩa và giá trị của nó. Ngoài chiến công ngăn chặn làm thất bại âm mưu của địch các anh còn làm một việc rất kỳ diệu, rất lớn lao đó là đã giải phóng cho hàng chục ngàn đồng bào Việt kiều từ Campuchia về bị địch bắt tập trung vào khu trù mật Cái Ngang. Chiến công nối tiếp chiến công, đội trinh sát vũ trang đã vượt muôn vàn khó khăn gian khổ hy sinh suốt chặng đường mười năm ròng rã, chiến đấu hàng trăm trận và luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mãi xứng đáng là “mũi nhọn vũ trang, thần tốc, dũng cảm, mưu trí táo bạo vào mọi sào huyệt dinh lũy quân thù”, góp phần vẻ vang cùng các lực lượng An ninh tỉnh Vĩnh Long bảo vệ an toàn các vùng căn cứ kháng chiến và cơ quan Tỉnh ủy đứng vững chỉ đạo phong trào cách mạng liên tục phát triển, để cùng quân dân Vĩnh Long giải phóng tỉnh nhà thống nhất Tổ quốc. Giữ mãi cho mùa xuân thanh bình hạnh phúc./. Nguyễn Hòa Bình (VP Ủy ban tỉnh) (Kính tặng các anh Đội TSVT, Ban An ninh tỉnh Vĩnh Long nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng Mậu Thân) Theo Báo Vĩnh Long – Số 1862 ra ngày 2/2/2008 .- Tr.5
33.Nhớ Xuân năm ấy Đúng vào dịp kỷ niệm 40 năm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chúng tôi về thăm Tân Hạnh – một xã vùng ven quân ta tập kết chuẩn bị tấn công vào thị xã Vĩnh Long 40 năm trước. HỒI ẤY Theo các anh lãnh đạo xã và các vị cao niên ở đây thì, suốt những năm chiến tranh, xã Tân Hạnh là một địa bàn rất quan trọng, là khu đệm giữa địch và ta. Bởi vị trí này “sát nách thị xã”, cách sân bay Vĩnh Long vài trăm mét theo đường chim bay và có chỗ chỉ cần vượt qua con sông Cái Cam chưa đầy 50 mét là có thể tiếp cận mục tiêu nhanh chóng. Với địch, đây là khu vành đai phòng thủ bảo vệ cơ quan đầu não của chúng, là bàn đạp mở các đợt càn quét vào căn cứ địa của ta (vùng 3 Tân, vùng chữ V). Với ta, đây cũng được xem là địa bàn đứng chân, tiếp cận và mở cửa cho các đợt tiến công vào sân bay, vào trung tâm đầu não của địch ở Vĩnh Long. Vị trí quan trọng là thế, nên địch tăng cường bố trí binh lực mạnh cùng các hàng rào an ninh trên địa bàn này nhằm bịt cửa ngõ và ngăn chặn sự tiến công của ta. Chúng đã trang bị mạnh và cho đóng trên địa bàn xã hàng chục đồn. Cụ thể là đồn Cầu Kho được tăng cường cấp đại đội và có cả 2 khẩu pháo 105 ly để thường xuyên bắn phá
154
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
vào vùng mà chúng nghi có lực lượng của ta. Chúng đưa cả Tiểu đoàn 65 ngày đêm tuần tra án ngữ, thành lập lực lượng với trên 500 tên tề xã, ấp, dân vệ, thám báo, chỉ điểm… nhằm bảo vệ sân bay. Ngoài lực lượng tại chỗ, địch còn tăng cường các lực lượng chủ lực, biệt kích của Trung đoàn 16, Sư đoàn 9 thường xuyên càn quét, đánh phá, lùng sục tìm diệt các căn cứ, cơ sở cách mạng của ta. Tình hình vô cùng ác liệt và trong thế đối đầu không cân sức ấy, nhân dân và lực lượng vũ trang Tân Hạnh đã quyết tâm bám trụ, ra sức xây dựng cứ lỏm, tổ chức nhiều cơ sở bí mật, tạo điều kiện cho cán bộ có chỗ dừng chân bám trụ, cho bộ đội chủ lực tiếp cận, mở cửa, thọc sâu đánh vào sào huyệt địch. Quân và dân Tân Hạnh đã trực tiếp đánh 50 trận, diệt 49 tên, bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, tham gia và phục vụ cho các đơn vị quân chủ lực tổ chức đánh địch 97 trận, tiêu diệt 343 tên địch, thu nhiều vũ khí, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Riêng trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, dưới mạng lưới tai mắt dày đặc của địch, thế mà dân và quân Tân Hạnh đã bí mật hướng dẫn bộ đội chủ lực của ta triển khai lực lượng hàng trăm người, áp sát sân bay cho đến giờ nổ súng mà vẫn đảm bảo tuyệt đối bí mật. Tạo ra được trận đánh hết sức bất ngờ vào sân bay Vĩnh Long – một sân bay lớn thứ hai ở miền Tây Nam Bộ lúc bấy giờ, (quân ta đã phá hủy 63 máy bay các loại, bắn hư hỏng 19 chiếc khác). Bị “cái tát” bất ngờ, địch điên cuồng phản kích dữ dội bằng bom, pháo và ra sức càn quét liên tục ngày đêm trên vùng đất “3 Tân”, trong đó Tân Hạnh là khu vực chịu nặng nề nhất. Thế nhưng, “căn cứ lòng dân” vẫn được chi bộ Đảng xã Tân Hạnh kiên trì xây dựng. Tiêu biểu, có 25 cơ sở bất chấp hiểm nguy, can đảm làm hầm bí mật ngay trong nhà mình để tiếp đón, nuôi chứa cán bộ bám trụ để lãnh chỉ đạo phong trào cách mạng trong suốt những năm kháng chiến cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước. Tổng kết chiến tranh, Tân Hạnh đã có 160 người thoát ly tham gia cách mạng, thì có 88 người hy sinh có 3 mẹ Việt Nam anh hùng, 13 người là thương binh, gần 180 gia đình có công với cách mạng. BÂY GIỜ Anh Nguyễn Quốc Hiền, Bí thư Đảng ủy xã phấn khởi thông tin, trong năm 2007 vừa qua, cơ cấu kinh tế trên địa bàn Tân Hạnh đã có bước chuyển dịch đúng theo hướng phát triển giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể, giá trị sản xuất bình quân hàng năm tăng 7 – 8%, thu nhập bình quân đầu người đạt ngưỡng 9 triệu đồng/năm, hộ nghèo theo tiêu chí mới năm nay sẽ giảm xuống còn 6%. Kết quả này thể hiện sự lãnh, chỉ đạo sát sao, làm phát triển đồng bộ các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội, quốc phòng – an ninh và xây dựng hệ thống chính trị của địa phương một cách hiệu quả. Minh chứng cho sự thay da đổi thịt của địa phương Tân Hạnh, bác Nguyễn Tấn Đạt – một người cao niên sống kỳ cựu tại ấp Tân Thạnh cho biết: “Chứng kiến cảnh hồi đó tôi không tưởng tượng nổi sự đổi thay kỳ diệu như bây giờ. Từ đây ra xã, hay đi Vĩnh Long xe chạy cái ào là tới, điện nhà nhà sáng trưng, mọi người làm ăn ngày càng khấm khá, con em thong dong tới trường… Viện dẫn câu nói của Bác Hồ để thể hiện sự vươn lên của quê hương mình, bác Đạt nói: “Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng lại hơn mười ngày nay”, nhưng bây giờ đời tôi chứng kiến vùng này đã phát triển hơn 20 lần rồi!”. 155
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Còn đồng chí Bí thư Đảng ủy xã thì khiêm tốn nói với chúng tôi: “Nhân dân Tân Hạnh những năm qua phấn đấu rất cao mới đạt được thành tựu như bây giờ. Tuy nhiên, đây là xã vẫn còn không ít khó khăn. Tiềm năng thì có, nhưng còn thiếu nhiều thứ nên chưa thể khai thác tốt được. Vì vậy, mức tăng trưởng chưa xứng tầm, phần lớn bà con vẫn sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ là chủ yếu, chưa đủ sức phát triển với quy mô lớn, để hàng hóa nông sản có sức cạnh tranh cao… Với khí phách anh hùng trong kháng chiến, người Tân Hạnh ngày nay cũng quyết tâm cao trong xây dựng và phát triển kinh tế. Hy vọng khi có được trên 5km Quốc lộ 1A mới đi qua hầu hết các ấp của xã – sẽ là điều kiện thuận lợi nhất để Tân Hạnh thực hiện tốt các dự án phát triển nông nghiệp của mình, gắn kết với công nghiệp chế biến địa phương theo hướng hiện đại./. Trần Nhiên Theo Báo Vĩnh Long – Số Xuân Mậu Tý 2008 .- Tr. 9
34.Tết mậu Thân 40 năm trƣớc là trang sử hào hùng của Cách mạng Việt Nam Giữa lúc đế quốc Mỹ leo thang lên đỉnh cao của cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, tháng 12/1967 hội nghị 14 Trung ương ta đã chủ trương mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt vào Tết Mậu Thân (1968), nhằm giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của chúng. Thực hiện chủ trương đó, công tác chuẩn bị được tiến hành rất chu đáo, công phu, tỉ mỉ và hoàn toàn bí mật. Trung ương đánh giá phân tích khá sâu sắc về ta và địch, đưa ra các khía cạnh minh chứng rất thuyết phục hàng chục vạn quần chúng sục sôi cách mạng muốn vùng lên giành độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, tình hình cơ bản lúc bấy giờ ta đang ở thế thắng thế, chủ động và thuận lợi, địch ở thế thua, thế bị động và khó khăn… Tình hình có thể cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Đây là thời cơ chiến lược lớn để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Ta chủ trương mở màn vào dịp Tết là lúc địch rất chủ quan, cho nên thời cơ rất đặc biệt. Để có thời cơ này Đảng ta đã có thời gian chuẩn bị 3 – 6 năm về trước. Về mục đích yêu cầu Đảng cũng đặt ra những mục tiêu: -Tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận Ngụy quân, đánh đổ Ngụy quyền các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân. -Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân Mỹ, làm cho chúng không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị, quân sự. -Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng chịu thua, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, thực hiện những mục tiêu cơ bản là giành độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập cho miền Nam Việt Nam tiến tới thống nhất nước nhà. Trung ương dự đoán dịp Tết tình hình phát triển theo 3 khả năng: 156
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
-Ta thắng ở “trọng điểm” (Sài Gòn – Gia Định), ở nhiều thành phố và vùng nông thôn quan trọng. -Có thể ta thành công ở một số thành phố và vùng nông thôn, mà không thắng lợi ở “trọng điểm”. -Và có thể chỉ giành được thắng lợi như các đợt hoạt động hàng năm như trước đây… Một sự kiện vô cùng xúc động: lúc này Bác Hồ muốn đích thân vào miền Nam để động viên chiến sĩ, đồng bào, nhưng Bộ Chính trị đề nghị Bác chưa nên đi vì cần giữ sức khỏe cho Bác. Trước sự khát khao được vào miền Nam của Bác mà Tổng Bí thư Lê Duẩn: tha thiết mong rằng các đồng chí lãnh đạo ở miền Nam cùng các chiến sĩ, đồng bào miền Nam sẽ đem hết tinh thần và lực lượng vào trận đánh chiến lược này giành thắng lợi to lớn nhất để sớm đưa Bác vào thăm. Đêm 30 rạng 31/1/1968 quân dân miền Nam đã nhất tề tổng tiến công và nổi dậy ở 64 thành phố, thị xã và nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Đánh vào các căn cứ quân sự, các tuyến phòng thủ, các sân bay, kho tàng, bến cảng và hệ thống giao thông của địch, đánh thẳng vào các cơ quan đầu não, các sào huyệt của địch. Ngay trung tâm đầu não của địch ta đánh vào các mục tiêu: Đại sứ Mỹ, Dinh Tổng thống Ngụy, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng nha Cảnh sát, Bộ Tư lệnh biệt khu Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất… nhiều vùng nông thôn rộng lớn quần chúng nổi dậy phá vỡ hàng loạt “ấp chiến lược”, bứt rút nhiều đồn bót, đập tan bộ máy kềm kẹp của địch, thiết lập chính quyền cách mạng. Nhiều vùng giải phóng và hậu phương ta được củng cố và mở rộng. Trong cuộc chiến đầu xuân 1968, quân dân ta đã giành thắng lợi to lớn và toàn diện. Ta loại địch khỏi vòng chiến đấu và bắt sống 20 vạn tên trong đó có 70.000 quân Mỹ và chư hầu, làm tan rã 21 vạn quân ngụy, bắn rơi và làm phá hủy 3.400 máy bay, phá hủy 5.000 xe quân sự, san bằng 823 đồn bót, giải phóng hơn 1.000 thôn, ấp với 160 vạn dân. Khí thế cách mạng miền Nam dâng lên mạnh mẽ chưa từng có. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968 làm cho bè bạn khắp năm châu vui mừng phấn khởi, các thế lực thù địch bàng hoàng sửng sốt, thắng lợi Mậu Thân của quân dân ta làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Đây là trang sử hào hùng của dân tộc ta đã tạo ra thế và lực, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán với ta để tìm cơ may trong con đường thua ta trong danh dự. Và quân dân cả nước ta viết tiếp bài ca chiến thắng để đưa đỉnh cao thắng lợi quân xâm lược vào 30/4/1975 để chúng ta hòa cùng lời ca “như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”./. Nguyễn Thanh Liêm Theo Tạp chí Văn Hóa – Số 69 – Số Xuân Mậu Tý 2008 .- Tr.17-18
157
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
35.Tết Nguyên đán nhớ về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 (Kỷ niệm 45 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân) Cứ mỗi lần Xuân đến chúng ta đều nhớ về những ngày lịch sử Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trên chiến trường miền Nam nói chung, chiến trường Vĩnh Long nói riêng. Để nhớ lại những ngày lịch sử ấy, tôi xin trích ghi lại lời kể của nhân chứng đã từng có mặt tại chiến trường Vĩnh Long trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cách nay 45 năm. Đó là đồng chí Nguyễn Thị Lý (Năm Lý) nguyên Ủy viên Khu ủy Khu 9. …Bốn giờ sáng Khu ủy gọi điện cho tôi (Năm Lý) theo lệnh hỏa tốc, xuống xuồng bảo vệ đưa đến nơi nghe tiếng xuồng khuấy nước, đồng chí Mười Khẩn (Bí thư Khu ủy) ra tận bến đón vào nhà. Ngồi trên bộ ghế tre, đồng chí Mười Khẩn nói với vẻ trịnh trọng: “Mới được điện của Khu hồi khuya này, chị Năm phải lên chiến trường Cửu Long thật gấp”. Chưa kịp hỏi câu gì thì đồng chí Mười Khẩn nói tiếp: “Tôi đã gọi gánh chị Sáu Trầu tổ chức cho chị đi nhanh. Ngày 28 tháng chạp (âm lịch), chị phải kịp làm việc với Vĩnh Long và Trà Vinh đúng 8 giờ 30 sáng”. Thường vụ triệu tập cuộc họp theo chế độ “khẩn” có cả cán bộ quân sự và Bí thư Huyện ủy Tam Bình. Đang ngồi chờ chuyến đi, đồng chí Mười Khẩn còn giải thích thêm về nội dung, yêu cầu, ngày, giờ và đối tượng Tổng tiến công. Tôi cầm tờ giấy trắng và cây viết, đồng chí Mười Khẩn nói ra như lệnh: “Không được ghi chép nghe chị Năm, chị ráng nghe nói và đến làm việc bằng trí nhớ của mình…” Cuối tháng nước kém, biết vậy nhưng phải đi. Tôi đến “La Cua” kinh sáu thì máy ngừng, dùng chèo mà chống như chim gãy cánh. Đến kinh 30, nhìn đầu kinh kiểm lâm ra ngã ba kinh huyện xử dòng kinh khô nước. Hai Mỹ, Út Hiền vo quần đến gối phóng lên bờ chặt mấy tàu lá dừa ngụy trang, rồi lội xuống kinh đẩy chiếc tam bản, tôi lên bờ đi bộ cho ghe đỡ nặng, mặc cho các cô la “Coi chừng máy bay! Bẻ cây ngụy trang mau, ai bảo bà đi kỳ vậy!”. Qua một ngày đói mệt, đến 5 giờ chiều tôi ra khỏi ngã ba huyện Sử đến ngã tư Chủ Chí, đến trạm hơn 7 giờ đêm… Chuẩn bị xong đã 2 giờ sáng, tôi quay lại sông Quan Lộ, đi qua vùng giải phóng gần đến vùng tạm chiếm tôi theo đồng bào đi chợ qua trạm gác an toàn. Đi suốt ngày 27 (âm lịch), qua vùng địch, bọn lính đồn thổi còi, giơ tay ngoắc, chúng tôi xáp đến gần đưa cho chúng một chùm nem và lên giọng: “Thôi, nhậu đi mấy cậu em ơi! Cho “qua” về sớm, tết nhứt tới rồi ở nhà cháu nó trông!”. Đi khỏi “Bún Tàu” gần đến bót “Hàu Đá” đã tới giờ thiết quân lực, tôi nghỉ tạm lại gia đình nhà nòng cốt và sau đó tiếp tục đi, vừa sáng tôi có mặt tại Vàm Cái Côn, Út Hiền và Hai Mỹ giành tay lái và bảo “ra sông để tao”, nhìn lên trời có cụm mây đen Út Hiền nhìn tôi với giọng tự tin: “Hỏng sao, em cho chạy hết ga, chắc ăn thôi”. Nửa giờ sau cơn giông ập đến, từng đợt sóng phủ, tối tăm mặt mũi, chiếc ghe nghiêng
158
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
ngửa chòng chành. Hai đồng chí cùng đi băn khoăn lo sợ, Út Hiền trấn an: “Tay lái em vững sợ gì, miễn không bị tắt máy”. Thật ra nói như vậy chứ tinh thần tôi cũng căng thẳng, vì lệnh Tổng tiến công còn nằm gọn trong đầu tôi. Có gì thì sao…? Sáng ngày 28 Tết tới điểm hẹn trước 10 phút, các đồng chí có mặt đầy đủ, có người chưa kịp rửa chân, mang cả bùn vào cuộc họp. Nhìn sự vất vả, bơ phờ của các đồng chí, tôi thấy xót lòng nhưng ai nấy đều cười nói vui vẻ. Sau hơn một giờ làm việc, tôi cố nhớ từng ý, từng lời của đồng chí Mười Khẩn để truyền đạt lại với tinh thần trách nhiệm của mình. Sau cuộc họp tôi cùng đồng chí Nguyễn Ký Ức, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, đồng chí La Lâm Gia (Bảy Máy) Thường vụ Khu ủy về Hậu Lộc, bà con ở vùng này ra vào thị xã cũng khá dễ dàng, ở đây có một ngôi nhà lá ba gian gọn, sạch, có hầm trú ẩn, chung quanh là vườn cây trái, giặc đánh phá, chủ nhà ra ở vùng ven thị xã Vĩnh Long, thỉnh thoảng về thăm vườn và tiếp tế cho Văn phòng Tỉnh ủy, ngoài ra trong xóm còn một số gia đình còn bám trụ ở lại đều là gia đình cốt cán. Khi vừa đến đây các đồng chí tổ chức họp gấp nhằm củng cố các bộ phận chung quanh Tỉnh ủy, đảm bảo phục vụ tốt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 giành thắng lợi. Các đồng chí Thường trực cũng phân công cụ thể, tôi được phân công phụ trách công tác Dân vận và An ninh. Những ngày này trên sông Mỹ Lộc xuồng ghe tấp nập, phụ nữ, trẻ em, khăn áo đủ màu, bánh mứt đầy ắp, nhưng có ai biết họ đang chở những gì? Lúc này thời gian đi qua rất chậm, đồng hồ chỉ 1 giờ 30 phút ngày 29 Tết, tôi mượn chiếc đồng hồ báo thức của đồng chí Sáu Liêm, hai bên có hai chiếc Radio, một mở đài Sài Gòn, một mở đài giải phóng, về khuya gió càng lạnh nhưng tôi lại đẫm mồ hôi và hồi hộp, tôi dán mát vào chiếc đồng hồ điểm qua từng phút một, còn 2 phút, rồi 1 phút, bỗng dưng tôi nghe tiếng hát của đài Sài Gòn tắt lúc 2 giờ. Tôi đứng dậy và thét lên: Ta đã đánh chiếm được Đài Phát thanh Sài Gòn rồi! Mọi người thật sung sướng, liền lúc đó có tiếng nổ long trời từ phía thị xã Vĩnh Long, tôi cầm 2 chiếc Radio chạy theo các anh ra bờ ruộng trông về hướng Vĩnh Long, các mũi nổ súng tấn công, lửa từ sân bay bốc cháy từng cụm và loang đỏ khắp cả vùng, trên trời có chiếc máy bay trinh sát bay lửng lơ rồi nó biến từ lúc nào, bà con ở gần đó cũng chạy ra ruộng reo hò. Đến 5 giờ sáng bức điện từ thị xã Vĩnh Long gởi về báo cáo “Ta hoàn toàn làm chủ, địch co cụm vào tiểu khu cố thủ, có một đồng chí bộ binh hy sinh, sân bay Vĩnh Long bị cháy”. Nửa ngày sau, đồng chí Năm Cổn, cán bộ An ninh Khu mang về một bọc to, đồng chí vừa nói vừa lôi ra một đống máy ảnh, ống dòm, mấy cây súng lục… Tôi mời các đồng chí đến lập biên bản, ý kiến đồng chí Sáu Ức là nộp về Khu. Tôi chỉ xin lại cây Roulo của con đầm Mỹ (sĩ quan CIA) để Tỉnh ủy làm quà cho đồng chí Hai Thanh, tôi nhờ đồng chí Năm Cổn mời đồng chí Hai Thanh về gấp. Lúc này đồng chí mới sanh chưa đầy một tháng, nhưng đồng chí cương quyết ở lại dẫn mũi một cánh quân 306 đánh vào đầu não CIA tại thị xã Vĩnh Long. Sáng mùng 1 Tết Mậu Thân (tức ngày 29/01/1968) thị xã Vĩnh Long nở rộ cờ đỏ sao vàng, có hàng ngàn người tụ họp lại nghe lời nói cách mạng phát ra của đồng
159
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
chí Mười Sương. Nhiều người thì thầm và ngỡ ngàng. Tôi gặp cô này đi chợ hoài, ai dè… Và ca ngợi “Trẻ quá! Đẹp quá! Dễ thương quá! Nói hay quá!... Qua 6 ngày đêm bám trụ và chiến đấu ở nội ô Thị xã, bầu trời Vĩnh Long tạm thời ngưng tiếng động, cánh én chao nghiêng như dạo lên khúc nhạc yên bình. Điều ý nghĩa nhất là ta đã phá hủy trên 60 chiếc máy bay của địch, nó đã gây cho bà con bao nỗi kinh hoàng, tang tóc, giờ đây chúng đã đền tội giữa lòng thị xã thân yêu. Ôi, Vĩnh Long – Quê hương tôi! Mảnh đất anh hùng!. Phạm Công Lộc (Viết theo lời tƣờng thuật của đồng chí Năm Lý, nguyên Ủy viên Khu ủy Khu 9) Theo Tạp chí Văn Hóa – Số 97/2013 – Số Xuân Quý Tỵ 2013 .- Tr.33-34
36.Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long - 25 năm sau nhìn lại Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua nhưng sự kiện “Tết Mậu Thân” vẫn luôn được thức dậy trong giới chính trị, quân sự, sử học, báo chí… Nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều cuốn sách, bài báo và công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề cập tới sự kiện lịch sử này từ các góc độ khác nhau. Với Vĩnh Long ít nhất đã có tới ba lần hội thảo khoa học về sự kiện “Tết Mậu Thân”. Tuy nói là hội thảo khoa học nhưng qua ba lần đó chúng ta vẫn chưa sưu tầm được đầy đủ tư liệu lưu trữ của ta và địch, kể cả tư liệu từ các phương tiện thông tin đại chúng thời đó về Tết Mậu Thân, vì vậy những số liệu cụ thể, những ý định chủ yếu của ta và địch qua từng diễn biến và nhất là trong nhận xét đánh giá… có thể còn chưa đủ độ chính xác, khách quan. Mặt khác, tính đa diện, sự phức tạp của hiện tượng “Tết Mậu Thân” của thời kỳ trước, trong và sau “Tết” cũng đã là một trong những nguyên nhân hạn chế việc nghiên cứu nó. Cuộc hội thảo lần này không chỉ để ôn lại truyền thống qua những nhân vật lịch sử kể lại, mà trên cơ sở một số tư liệu mới được tập hợp, chúng ta khẳng định lại, đánh giá đúng hơn tầm vóc và ý nghĩa của chiến thắng, rút ra những bài học thiết thực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân ở Vĩnh Long nói chung, ở thị xã Vĩnh Long nói riêng qua cuộc hội thảo này có thể khẳng định: Đó là một chiến dịch mà bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đã thọc sâu, đánh chiếm được nhiều vị trí quan trọng, bám trụ và chiến đấu ác liệt với địch tại nội ô thị xã liên tục 6 ngày đêm (đứng thứ hai ở miền Nam sau thành phố Huế); đây cũng là chiến dịch có quy mô lớn nhất, thọc sâu, chiếm giữ dài ngày nhất tại đầu não của địch trong lịch sử chiến tranh giải phóng của quân, dân Vĩnh Long. Đó là một chiến dịch huy động lực lượng tổng hợp, đòi hỏi phải hiệp đồng chặt chẽ cả ba thứ quân, bốn cánh, cùng một thời điểm phải đánh chiếm nhiều mục tiêu
160
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
trên một diện rất rộng. Thời gian từ khi nhận lệnh đến khi nổ súng rất gấp, nhưng các lực lượng chính đảm trách các mũi chủ yếu đều tiếp cận được mục tiêu, kịp thời đồng loạt tiến công phủ đầu gây choáng váng bất ngờ cho địch. Đánh lớn, thọc sâu, tiến công trên một diện rộng, trong thời gian gấp và giữ được bí mật, đánh phủ đầu địch là đặc điểm nổi bật của chiến dịch. Đó là một chiến dịch có sự phối hợp hành động giữa các địa bàn chiến thuật nhịp nhàng nhất. Đảng bộ và quân dân thị xã vừa phát động quần chúng tại chỗ diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ từng khu phố, khóm phường, đánh chiếm các mục tiêu đã được phân công, vừa phục vụ hướng dẫn, xây dựng các điểm ém quân cho bộ đội chủ lực cùng phối hợp chiến đấu. Đảng bộ và nhân dân vùng giải phóng lõm vừa đảm bảo hậu cần chủ yếu cho chiến dịch, vừa dồn lực lượng ra phía trước, trợ lực thúc đẩy cho vùng kìm đứng lên, phá hoại giao thông, chiến đấu ngăn chặn địch phản kích. Đảng bộ và nhân dân vùng bị kìm vừa vùng lên diệt ác phá kìm, bao vây giải phóng đồn bốt, vừa bổ sung sức người sức của cho mặt trận. Đó là một chiến dịch mà phương châm chiến lược “hai chân, ba mũi” được thể hiện ở đỉnh cao với khẩu hiệu: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, tất cả để chiến thắng, quyết tâm dứt điểm thị xã Vĩnh Long”. Các lực lượng đều được huy động, mỗi địa phương, đơn vị đều được giao mục tiêu cụ thể, có người chưa từng tham gia chiến trận, có đơn vị chưa từng tiếp cận mục tiêu nhưng cũng quyết chiến quyết thắng. Lực lượng quần chúng được huy động tối đa. Hình thức đấu tranh chuyển từ đấu tranh chính trị, trực diện đấu lý sang đấu tranh vũ trang diệt ác phá kìm, bao vây bức hàng, bức rút đồn bốt. Có cuộc hàng trăm quần chúng tay không đương đầu với địch bị chúng bắn chết hàng loạt ở Tam Bình. Công tác binh vận chuyển từ giáo dục chính nghĩa cách mạng sang dùng sức mạnh chính trị và tinh thần động viên gia đình binh sĩ, chủ động lôi kéo binh sĩ về nhà ăn Tết, giữ chồng, con em lại không cho về đơn vị khi chiến dịch nổ ra. Nhiều gia đình binh sĩ tranh thủ ra đồn lôi kéo chồng con rã ngũ, có nơi lôi kéo cả đồn bốt nộp súng cho cách mạng, có cơ sở nội tuyến vừa thuyết phục, vừa tác động binh sĩ cả đồn đầu hàng (Bắc Mỹ Thuận). Tổng tiến công Xuân Mậu Thân ở Vĩnh Long là một chiến dịch mà trong một thời gian ngắn, quân và dân toàn tỉnh cũng như thị xã Vĩnh Long được sự hỗ trợ của Khu đã tiêu hao tiêu diệt được nhiều sinh lực địch nhất (gần bằng số lượng địch bị tiêu diệt trong 30 năm chiến tranh giải phóng của cả tỉnh cộng lại), cắt đứt giao thông chiến lược của địch dài ngày nhất. Ngoài gây thiệt hại lực lượng vật chất, ta còn làm suy sụp tinh thần, gây hoang mang cho địch, ngoài tiêu diệt lực lượng dân vệ, bảo an địa phương, còn gây thiệt hại quân chủ lực ngụy, kể cả các binh chủng đặc biệt. Ngoài diệt ngụy quân ngụy quyền, ta còn tiêu hao tiêu diệt quân chính quy Mỹ và cụm tình báo Mỹ, ngoài diệt bộ binh, ta còn phá hủy nhiều máy bay, xe cơ giới, pháo binh, thiết giáp, tàu chiến địch. Đó là một chiến dịch mà thời điểm nổ ra đúng vào lúc khí thế cách mạng của Đảng bộ và quân dân Vĩnh Long phát triển đến đỉnh cao nhất. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân diễn ra trong lúc ở miền Nam có hàng triệu quân ngụy và hơn nửa triệu quân chính quy Mỹ với binh khí kỹ thuật hiện đại, nhưng với khí thế cách mạng sục sôi, nó vẫn huy động được sức mạnh tổng hợp của cả ba
161
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
mũi: chính trị, vũ trang và binh vận và ở cả ba vùng. Nó thực sự là một cuộc biểu dương sức mạnh của cách mạng cả vật chất lẫn tinh thần. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 tuy chưa đạt được những mục tiêu mà chúng ta đề ra, nhưng đã giành được thắng lợi vô cùng quan trọng. Đó là một cú “thối động” không chỉ ở chiến trường mà ngay cả ở chính trường nước Mỹ. Chúng ta còn nhớ, mùa khô 1966 – 1967, ở đỉnh cao của “chiến tranh cục bộ”, với hơn nửa triệu quân chủ lực cùng với hơn nửa triệu quân ngụy, nhưng Mỹ - ngụy không đạt được ý đồ “tìm diệt” và “bình định”. Nội bộ giới cầm quyền Mỹ mâu thuẫn phân hóa, quốc hội Mỹ chẳng những không chấp thuận tăng thêm quân mà còn cắt giảm chi phí quân sự ở Việt Nam, phong trào nhân dân phản chiến Mỹ lên cao. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân làm Mỹ lúng túng, ngụy hoang mang, chẳng những không thể diệt được lực lượng chủ lực của ta mà ngay tại đầu não, sào huyệt chúng cũng không bảo đảm được an toàn, buộc chúng phải công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, ngồi vào bàn đàm phán, xuống thang chiến tranh, làm cho tương quan ngày càng có lợi cho ta. Đây là cuộc thử nghiệm và tập dượt hết sức quan trọng để chuẩn bị cho những chiến dịch sau giành thắng lợi to lớn và toàn diện hơn. Trong chiến dịch Xuân Mậu Thân, ta mới chỉ sử dụng một phần nhỏ lực lượng chủ lực với quân địa phương và lực lượng chính trị của quần chúng. Địch phản kích có gây thiệt hại nặng cho ta nhưng chủ yếu là lực lượng địa phương, trong khi quân chủ lực gần như nguyên vẹn, đang sung sức, tinh thần nhân dân được nung nấu sôi sục, đảng viên và cán bộ, chiến sĩ được thử thách thực tế… Đó là những nhân tố vật chất, tinh thần mới tạo được hết sức quan trọng. Sau sự kiện “Tết Mậu Thân”, tương quan lực lượng và cục diện chiến trường có nhiều thay đổi. Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, ngồi vào bàn đàm phán với ta. Tinh thần quân đội ngụy hoang mang dao động… Giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược đó trước hết là nhờ tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, vì sự chỉ huy tài trí và sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang – lực lượng đã “đứng mũi chịu sào”, đóng vai trò trực tiếp tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, là sự kết tinh của tinh thần cách mạng cao cả và sự đóng góp to lớn của các tầng lớp nhân dân. Có thể nói chiến dịch nổ ra với yếu tố thời cơ lớn hơn là thực lực đã chuẩn bị chín muồi. Nhưng nhờ tinh thần cách mạng cao cả và đóng góp to lớn cho cách mạng của các tầng lớp nhân dân nên nguồn hậu cần chủ yếu là do sức đóng góp của dân. Từ phương tiện vận chuyển, lương thực, thực phẩm, đến dân công hỏa tuyến đều dựa hẳn vào dân. Mọi gia đình ở vùng giải phóng và vùng tranh chấp đều có sự đóng góp tiền bạc, của cải và công sức cho cách mạng, hàng vạn ghe xuồng máy móc được huy động phục vụ chiến dịch. Sự đóng góp vật chất vô cùng to lớn đó, cho đến nay ta chưa tổng kết được hết. Các lực lượng vũ trang chiến đấu bị tiêu hao lớn nhưng được bổ sung rất kịp thời, các đơn vị vừa chiến đấu vừa được bổ sung quân số ngày càng đông, vừa phát triển thêm nhiều đơn vị mới tại chỗ., vừa chi viên lực lượng cho trên. Quá trình diễn biến chiến dịch là quá trình động viên, huy động quân liên tục với khí thế quyết thắng ngày càng cao. Nhiều gia đình cả nhà tranh nhau đi chiến đấu, đi phục vụ chiến dịch. 162
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Cán bộ, đảng viên có tổ chức kỷ luật chặt chẽ, làm tốt vai trò tiên phong gương mẫu, sẵn sàng hy sinh và có tinh thần tự lực, năng động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi. Có thể nói đại đa số cán bộ, đảng viên trong thời gian chiến dịch, hễ được lệnh là đi, giao việc chưa từng làm, phân công lên địa bàn chưa từng biết cũng sẵn sàng chấp hành, tổ chức lắp ghép chưa từng quen biết nhau vẫn đoàn kết, phục tùng nhau trong thực hiện nhiệm vụ, nhận nhiệm vụ chỉ qua mệnh lệnh vắn tắt, phải tự tìm tòi nghiên cứu và linh hoạt sáng tạo biện pháp để thực hiện, phải tự lực tự cường theo kế hoạch mà chiến đấu bởi sự chỉ đạo từ trên xuống dưới gặp nhiều khó khăn. Đối với Vĩnh Long, thắng lợi trong Mậu Thân 1968 là kết quả của cả một quá trình chuẩn bị tích cực. Qua mùa khô 1966 – 1967, tuy “chiến tranh cục bộ” của địch đã phát triển đến đỉnh cao, nhưng có dấu hiệu Mỹ bị sa lầy, nội bộ mâu thuẫn, phong trào phản chiến ở Mỹ đã rộ lên. Tuy không nói rõ ý đồ, quy mô và thời gian tiến công cụ thể, nhưng các cấp ủy và cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đã được trang bị sẵn quyết tâm mở rộng vùng giải phóng, bám trụ và mở rộng vùng ven, liên tục tiến công địch, làm lỏng kìm kẹp ở đô thị, tạo mọi điều kiện khi có thời cơ tiến công giải phóng đô thị. Với ý thức đó, từ giữa năm 1967, Khu và tỉnh đã điều cán bộ cốt cán về tăng cường cho thị xã Vĩnh Long, lấy lại ba xã cù lao, sáp nhập 9 xã vùng ven với thị xã Vĩnh Long thành khu vực trọng điểm hai của Khu. Một bộ phận chủ lực Khu đã được điều về hoạt động ở Vĩnh Trà tiến công địch, mở vùng giải phóng liên hoàn hai tỉnh, địa bàn hoạt động ngày càng tiếp cận thị xã Vĩnh Long. Bộ Quốc phòng đã phái cán bộ quân báo về cùng thị xã Vĩnh Long điều nghiên tình hình và hoàn chỉnh các bản đồ, xác đinh các vị trí quan trọng của địch ở thị xã Vĩnh Long. Tuy các nội dung chuẩn bị chưa thật chín muồi, nhưng với ý thức đã được nung nấu sẵn, lực lượng tại chỗ của Vĩnh Long có bước phát triển, nhất là các hành lang từ ngoài thâm nhập vào, các địa bàn chủ yếu ở thị xã có cơ sở khá tốt. Vì vậy, khi nhận được lệnh tiến công khẩn cấp, lực lượng vũ trang tập trung các bộ phận từ ngoài tiến công vào tuy có lúng túng, nhưng lực lượng tại chỗ và lực lượng chuyên môn đã tạo điều kiện phục vụ và phối hợp khá ăn ý. Trước, trong và sau chiến dịch, Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Long luôn nhận được sự chỉ đạo linh hoạt, nhạy bén của ban chỉ đạo chiến dịch. Với ý chí quyết thắng, ngay từ đầu đợt một, ban chỉ đạo đã kiên quyết chỉ đạo dồn lực lượng thọc sâu, bám trụ, đánh nhồi, đánh bồi không để địch kịp hoàn hồn và trở tay đối phó. Khi địch đã được chi viện, có lực lượng đông, tổ chức phản kích quyết liệt thì ban chỉ đạo mạnh dạn chuyển hướng tiến công, phân lực lượng ngăn chặn ở vùng ven, giam chân địch ở thị xã, đưa lực lượng chủ lực phối hợp lực lượng địa phương giải phóng nông thôn, kìm căng và tiến công địch từ nhiều hướng, nhờ đó mà ta đã giành thắng lợi lớn cả ở thành thị và nông thôn. Còn một điều không thể không nhắc đến khi nói về chiến thắng của quân dân Vĩnh Long trong Mậu Thân 1968 – đó là sự chi viện to lớn của Đảng bộ, nhân dân tỉnh Trà Vinh anh em, của Khu và một số địa phương khác. Nhiều cán bộ cốt cán các ban ngành của Khu đã có mặt rất sớm tham gia chuẩn bị chiến đấu và chỉ đạo phong trào tạo tiền đề cho chiến dịch. Khi chiến dịch nổ ra, nhiều cán bộ Khu đã xuống địa bàn chỉ đạo phong trào, trực tiếp chiến đấu và phát động quần chúng chiến đấu. 163
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Nhiều cán bộ Trà Vinh được điều lên tăng cường cho Vĩnh Long, cho các lực lượng vũ trang tiến công vào thị xã hoặc bản đảm hậu cần cho chiến dịch. Tuy choáng váng vì bị tiến công bất ngờ, một số địa bàn bị mất và lực lượng bị thiệt hại nặng cả tinh thần lẫn vật chất, nhưng nhìn chung địch vẫn còn mạnh. Vì vậy sau đòn phủ đầu của ta, địch điều chỉnh lực lượng, ra sức phản kích. Do tương quan lực lượng không cân sức, qua tiến công đợt một vào đầu não của địch, ta phải chuyển sang kìm căng địch, vừa tiến công vừa chống phản kích. Một số đơn vị của ta bị thiệt hại, một số địa bàn gặp khó khăn, thậm chí có nơi khó khăn hơn trước khi bước vào chiến dịch. *** Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua, giờ đây chúng ta mới có điều kiện để có thể tiếp cận sự kiện Tết Mậu Thân một cách khách quan, khoa học và hợp lôgic lịch sử hơn. Cũng như phạm vi toàn cục, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long cho chúng ta một số bài học kinh nghiệm cần cho sự nghiệp cách mạng hiện nay. Đó là: Bài học về giáo dục ý chí và quyết tâm cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Mỗi giai đoạn cách mạng đều có mục tiêu cụ thể. Làm cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đồng tình với mục tiêu, tha thiết và quyết tâm thực hiện mục tiêu đó là điều hết sức quan trọng. Dù không biết rõ phải đánh lúc nào, đánh bằng cách gì, nhưng với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Tổ quốc trên hết”, “Tất cả để chiến thắng”, “Phải tiến công vào thị xã”, “Phải giải phóng đất nước”… là mục tiêu được xây dựng thường xuyên, liên tục trong Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Long. Vì thế lúc gặp khó khăn ác liệt, quân và dân Vĩnh Long cũng không từ bỏ mục tiêu và khi có thời cơ thì ý chí và quyết tâm càng được nung nấu. Khẩu hiệu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” nhanh chóng được thấm sâu vào máu thịt từng cán bộ, quần chúng cách mạng, biến thành hành động cách mạng sôi nổi. Hiện nay, mục tiêu của ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Cần phải giáo dục cái gì và giáo dục như thế nào? Giải quyết giữa cống hiến và hưởng thụ? Giữa dân giàu và nước mạnh ra sao? Nêu ra khẩu hiệu gì? Tổ chức hành động cách mạng như thế nào để có cao trào quần chúng sớm đạt tới mục tiêu là điều chúng ta cần suy nghĩ. Bài học về tin dân, dựa vào dân. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, chân lý đó bao giờ cũng đúng, nhưng không phải bất cứ lúc nào, chủ trương nào cũng có thể tạo được cao trào cách mạng của quần chúng. Nếu xét thuần túy về quân sự thì công tác chuẩn bị cho một chiến dịch lớn như Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 chưa đầy đủ, nhưng nó vẫn diễn ra với quy mô lớn, trên diện rộng, dài ngày và thắng lợi lớn là vì chúng ta biết dựa vào dân, tin dân. Ý chí cách mạng được giáo dục và tích lũy thường xuyên trong dân, khi có thời cơ, chỉ cần nói rõ cho dân biết ý định và quyết tâm chiến đấu cụ thể sẽ hình thành cao trào quần chúng, huy động được tối đa sức người, sức của cho chiến dịch. Hiện nay, để khắc phục tình trạng lạc hậu về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, chúng ta đã có bảy chương trình cụ thể, nhưng nếu đợi vốn Nhà nước thì phải 20 164
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
năm nữa mới đủ 500 tỷ đồng để có thể đáp ứng yêu cầu. Cán bộ các cấp có thể nói cho dân biết rõ ý định và lợi ích của bảy chương trình đó, dựa hẳn vào dân, huy động sức dân. Khai thác quyết tâm và khả năng của dân kết hợp với khả năng của chính quyền các cấp, có phân công cụ thể chúng ta sẽ tạo được cao trào hành động cách mạng của quần chúng thực hiện các chương trình đó. Vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên có tính quyết định. Đảng ta sở dĩ mạnh, được nhân dân tin yêu mến phục là vì mỗi đảng viên làm tốt vai trò tiên phong gương mẫu. Trong Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân, đại bộ phận đảng viên đều có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Đảng lệnh là chấp hành, ở lĩnh vực nào cũng tiền phong gương mẫu, do đó “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” thành cao trào cách mạng. Hiện nay trong xây dựng và bảo vệ đất nước, một bộ phận cán bộ, đảng viên tham nhũng, thoái hóa biến chất, cửa quyền ức hiếp dân, bị quần chúng lên án, một bộ phận khác lại chưa làm tốt vai trò tiền phong gương mẫu trong thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước, bị nhân dân chê trách… Đây là dấu hiệu không tốt. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng có nhiều nội dung, nhưng sàng lọc và nâng cao chất lượng đảng viên, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ mới, giáo dục rèn luyện cho cán bộ, đảng viên có phẩm chất trong sạch, có tinh thần tổ chức kỷ luật cao, chẳng những không tham nhũng, cửa quyền mà còn đi đầu trong đấu tranh chống các tệ nạn đó… là yêu cầu có tính quyết định để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới. *** Sự kiện “Tết Mậu Thân” đã lùi dần vào quá khứ nhưng vẫn còn nhiều điều đáng để cho chúng ta suy ngẫm: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 phải chăng là nhằm tạo ra một bước ngoặt của cuộc chiến? Hay nhằm mục tiêu cao hơn là dứt điểm đô thị, giải phóng miền Nam? Lúc bấy giờ trong nhận thức và tư tưởng chỉ đạo của tỉnh, của thị xã Vĩnh Long kể cả Ban chỉ đạo chiến dịch là trọng điểm hai cũng quyết tâm dứt điểm thị xã, giải phóng tỉnh. Vì vậy ta đã dốc hết toàn lực tiến công, cơ sở bí mật thị xã, vùng kìm, kể cả nội tuyến cũng bung hết lên, khi địch phản kích cơ sở đã bị bộc lộ toàn diện, vừa không còn lực lượng tại chỗ để kìm căng và hạn chế địch phản kích vào nông thôn, và thiệt hại nhiều cán bộ bám trụ, phải mất rất nhiều thời gian mới gây dựng lại được cơ sở. Mặt khác lực lượng vũ trang tập trung đợt đầu thọc sâu, bám trụ là cần thiết và thắng lợi nhiều hơn thiệt hại, nhưng khi địch đã tập trung được lực lượng phản kích, tuy ta có chuyển hướng nhưng chậm vì vẫn theo đuổi ý định bịt chặt đô thị để giải phóng nông thôn. Kết quả là chẳng những không “bịt” được địch ở đô thị mà thời cơ để giải phóng nông thôn cũng không còn nhiều. Giả sử ta chỉ đặt ra yêu cầu là một chiến dịch lớn, dùng lực lượng tập trung thọc sâu, đánh mạnh, bám trụ một thời gian cần thiết, lực lượng tại chỗ giữ nguyên, sau đó cài lực lượng bộ đội địa phương, biệt động, du kích bám lại, bịt đầu địch bằng lực lượng tại chỗ, đấu tranh toàn diện sẽ làm cho đich không khôi phục được cơ sở 165
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
hạ tầng, không rảnh tay phản kích, để lực lượng vũ trang tập trung nhanh chóng chia thành nhiều cánh nhỏ tiêu diệt nhiều mục tiêu, làm địch thiệt hại nhiều hơn, phải phân tán đối phó hơn. Nếu nói rằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 không có sự chuẩn bị là không đúng, nhưng rõ ràng khi có lệnh, nhiều người bất ngờ, kể cả một số cán bộ lãnh đạo ở địa phương và cán bộ phụ trách các đơn vị chủ lực cũng chới với. Chuẩn bị cho Đảng bộ và quần chúng để tạo sức mạnh chính trị, tinh thần và huy động nguồn hậu cần tại chỗ, bổ sung sức người, sức của cho chiến dịch đã đạt yêu cầu, nhưng chuẩn bị cho các lực lượng vũ trang để diệt các đơn vị và cứ điểm đầu não của địch, cho dù có yếu tố bất ngờ, mức chuẩn bị như vậy là “chưa đảm bảo tối thiểu cho yêu cầu”. Vì vậy tuy có thọc sâu, tạo được bất ngờ, bám trụ được, nhưng ngay giờ đầu nhiều mũi chưa diệt gọn được địch. Giả sử có sự chuẩn bị tốt hơn, ngay đêm đầu diệt được cơ quan chỉ huy đầu não và một số đơn vị bộ binh chủ yếu của địch như đánh ở sân bay thì khả năng thắng lợi còn lớn hơn nhiều. *** Sự kiện Tết Mậu Thân từ các góc độ khác nhau vẫn còn nhiều vấn đề đang được đặt ra. Nhiều nhận định, đánh giá vẫn còn khác biệt đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu. Đúng như nhà sử học Mỹ B.Côn-cô nhận định trong tác phẩm “Giải phẫu một cuộc chiến tranh”: “Tết Mậu Thân quả là một sự kiện quan trọng nhất, phức tạp nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam”./. Trịnh Văn Lâu – Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng, nguyên Bí thƣ Tỉnh ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
37.Vận dụng sáng tạo bài học Xuân Mậu Thân, xây dựng Vĩnh Long thành một tỉnh giàu mạnh Thay mặt Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, tôi nhiệt liệt hoan nghênh Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Long đã tổ chức cuộc hội thảo khoa học “Chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 trên chiến trường Vĩnh Trà”. Ôn lại trang sử hào hùng mùa Xuân 1968 của quân và dân cả nước nói chung của tỉnh Vĩnh Long nói riêng, chúng ta càng thấy tự hào về nhân dân ta, quân đội ta anh hùng. Cuộc hội thảo này chẳng những làm rõ thêm sự kiện lịch sử - một mốc son sáng chói của tỉnh, mà còn góp phần làm sáng tỏ một chiến công kỳ diệu của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
166
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Cuộc hội thảo khoa học này không chỉ nhằm mục đích ôn lại lịch sử để giáo dục truyền thống đấu tranh của quân và dân Vĩnh Long cho thế hệ trẻ, mà trên cơ sở đó còn khẳng định đánh giá đúng mức tầm vóc và ý nghĩa to lớn của chiến thắng Mậu Thân 1968, những thành công và những hạn chế của nó, rút ra được bài học quý báu cần thiết cho sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta hiện nay. Báo cáo của đồng chí Tư lệnh Quân khu 9, của đồng chí Nguyễn Ký Ức và các bản tham luận của đại biểu đã tái hiện lại bức tranh lịch sử hào hùng sinh động về những ngày chiến đấu gian khổ ác liệt của quân, dân Vĩnh Long và phân tích làm sáng rõ những bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành chiến tranh cách mạng của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang ý nghĩa, tác dụng to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 đối với tiến trình của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Để góp phần làm rõ thêm ý nghĩa thắng lợi và những bài học kinh nghiệm, tôi xin phát biểu một số điểm: -Đồng bằng sông Cửu Long là một địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng của cả nước, có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm từ xa xưa rất oanh liệt. Mỗi tỉnh, mỗi địa phương đều có những mốc đấu tranh, chiến công xứng đáng được ghi vào lịch sử dân tộc. Vĩnh Long chiếm một vị trí hết sức quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, là địa bàn then chốt án ngữ từ Hậu Giang tói Sài Gòn – cơ quan đầu não của Mỹ - Ngụy. Vĩnh Long có đường bộ (quốc lộ 4 nay là
167
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
quốc lộ số 1) và đường thủy (sông Mang Thít) là đường giao thông huyết mạch nối Sài Gòn với các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Do địa bàn chiến lược quan trọng như vậy nên địch đã bố trí ở đây một lực lượng và phương tiện chiến tranh đáng kể. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân ở chiến trường Vĩnh Trà nói chung, Vĩnh Long nói riêng chính là đánh thẳng vào nơi mạnh nhất của địch và giành được thắng lợi to lớn. 1.Ta đã đánh chiếm và làm chủ 3 thị xã: Vĩnh Long, Vĩnh Trà, Sa Đéc. Riêng thị xã Long ta làm chủ 6 ngày đêm (sau thành phố Huế); diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, giải phóng một vùng nông thôn rộng lớn ở Vĩnh Trà (trên 500.000 dân); mở rộng vùng giải phóng liên hoàn từ Trà Vinh đến Vĩnh Long, từ bắc lộ 4 đến Sa Đéc, mở thông hành lang đến sông Hậu về Cần Thơ và phía bắc sông Tiền qua Bến Tre. 2. Chẳng những tập trung đánh địch trong thị xã, Vĩnh Long còn coi trọng nhiệm vụ đánh phá bình định, giữ vững phong trào đấu tranh; thực hiện: Đảng bám dân, dân bám đất, du kích và bộ đội bám địch, lực lượng chủ lực Khu kết hợp với bộ đội địa phương vừa củng cố, vừa phát triển lực lượng, vừa xây dựng xã, ấp chiến đấu, tiến hành ba mũi giáp công, liên tục làm thất bại các cuộc bình định lấn chiếm của địch, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích. 3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân đã đưa chiến tranh vào tận sào huyệt của địch, đánh thẳng vào cơ quan đầu não của địch. Đây là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài của nhân dân và lực lượng vũ trang Vĩnh Long, của thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển cao. Không có lực lượng chính trị mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương thì lực lượng vũ trang không tạo được thế trận áp sát sào huyệt của địch. -Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 cảu Vĩnh Long là một bộ phận nằm trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của cả miền Nam nhằm thay đổi cục diện chiến trường, đạt mục tiêu chiến lược. Do đó xem xét thắng lợi của quân, dân Vĩnh Long phải đặt trong thế trận và bối cảnh chung của toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy táo bạo bất ngờ đó đã gây chấn động lớn, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặc quyết định cho cuộc chiến tranh, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pa-ri. 4. Trong điều kiện mệnh lệnh của trên phát ra rất gấp và bí mật (ngày 28 nhận lệnh thì đêm 30 thực hành tiến công) nhưng Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Vĩnh Long đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh cấp trên, vƣợt qua mọi khó khăn, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và đã giành thắng lợi vẻ vang. Điều đó nói lên sự đông tâm nhất trí, dân chủ tập trung, trình độ tổ chức điều hành tốt, nhờ vậy đã hiệp đồng chặt chẽ với toàn miền Nam. Đây là một sự kiện hiếm có trong lịch sử. Cùng một lúc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở 41 tỉnh, thành phố trên toàn miền. Đây là cuộc biểu dương sức mạnh của dân tộc, chiến đấu dưới ngọn cờ đại nghĩa: Không có gì quý hơn độc lập tự do. Điều này nói lên: dù quân Mỹ có vào miền Nam bao nhiêu, nhưng với tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, với sức mạnh tổng hợp, với cách đánh phong phú sáng tạo của chiến tranh nhân dân, ta có thể đánh địch trên cả ba vùng nông thôn, rừng núi và thành thị, làm đảo lộn thế
168
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
chiến lược của Mỹ - ngụy, làm lung lay địa bàn đứng chân mạnh nhất của địch là thành thị, đưa chiến tranh cách mạng vào tận hang ổ của kẻ thù. -Cuộc Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân của chiến sĩ và đồng bào miền Nam nói chung, của quân, dân Vĩnh Long nói riêng mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc như những chiến công chói lọi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Đây là thành công của sự kết hợp khéo léo giữa lực lượng chính trị với lực lượng quân sự, giữa chiến công và nổi dậy, giữa lòng dũng cảm với trí tuệ, tài thao lược của Đảng, của quân và dân ta. Đây là sự chỉ đạo sắc bén, sáng suốt của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Quân ủy Trung ương, của Trung ương Cục, Quân ủy Miền mà trực tiếp là Quân khu ủy Khu 9, Tỉnh ủy Vĩnh Trà, là sự chiến đấu dũng cảm, kiên cường của quân và dân tỉnh Vĩnh Long. Cuộc tiến công và nổi dậy ở Vĩnh Long đã góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn truyền thống anh hùng, sáng tạo của cuộc chiến tranh nhân dân ở vùng đồng bằng sông nƣớc Cửu Long trong kháng chiến chống Mỹ. Đây còn là một tài sản tinh thần vô giá về truyền thống văn hóa nhân văn của lực lượng vũ trang và nhân dân đồng bằng sông Cửu Long thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi Xuân Mậu Thân 1968 không phải là ngẫu nhiên, là cơ may, mà là kết quả của cả quá trình xây dựng lực lượng, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân gắn liền chiến đấu với xây dựng, chăm lo tạo dựng cơ sở để có chổ đứng chân đánh địch, vận dụng sáng tạo phương châm đánh địch bằng ba mũi giáp công, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn để chiến thắng kẻ thù. Thắng lợi của đoàn Tổng tiến công chiến lược Xuân 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng từng bước phải rút khỏi nước ta, tạo thế chiến lược mới để ta tiến lên thực hiện loại hình tiến công chiến lược trên quy mô lớn trong năm 1972 và tiếp đó là đại thắng mùa Xuân 1975, kết thúc trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc. Những bài học kinh nghiệm này cần được tổng kết một cách khách quan, khoa học để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay vào sự nghiệp củng cố quốc phòng an ninh: 1.Đánh giá chính xác về địch để từ đó có chủ trương và giải pháp đúng. Ngày nay, địch chưa thể gây chiến tranh và đánh ta bằng quân sự, mà dùng chiến lược “diễn biến hòa bình”, tiến công ta bằng chính trị, kinh tế, văn hóa…, bằng “chiến tranh mềm”; biên giới, lãnh thổ còn, nhưng chế độ mất (như một số nước Đông Âu và Liên Xô cũ). Ta phải giữ dân và giành dân để thắng địch trong “diễn biến hòa bình”, tiếp tục phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và ý thức độc lập tự chủ, kiên định đi theo con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. 2.Xây dựng lòng tin vào Đảng, đoàn kết nhất trí, tuyệt đối chấp hành đường lối, chủ trương và nghị quyết của Đảng như trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân 1968, biến tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong chiến tranh thành ý chí phấn đấu cho một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. 169
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
3.Phát huy sức mạnh truyền thống của quần chúng trong chiến tranh nhân dân trước kia và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, làm trong sạch địa bàn, bảo đảm an ninh – chính trị - trật tự xã hội, xây dưng lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh trên địa bàn Quân khu 9 và ở từng tỉnh, đặt tỉnh Vĩnh Long trong thế phòng thủ chung của Quân khu và cả nước 4.Quán triệt đường lối chủ trương và định hướng lớn của Đảng, phát huy thế mạnh và truyền thống cách mạng của mình, quân và dân Vĩnh Long quyết tâm xây dựng kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đồng thời đẩy mạnh công tác quốc phòng – an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ mạnh kinh tế kết hợp với quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, sẵn sáng đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của thù trong giặc ngoài. Trước mắt là đánh bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của địch, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, làm cho Vĩnh Long trở thành một tỉnh: giàu về kinh tế - vững về chính trị - mạnh về quốc phòng – an ninh, xứng đáng với truyền thống vẻ vang Xuân 1968./. Nguyễn Thới Bƣng – Trung tƣớng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng, Thứ trƣởng Bộ Quốc phòng Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
38.Để chiến thắng Xuân Mậu Thân đi vào đời sống văn hóa Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy của quân và dân Vĩnh Long đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc hơn một phần tư thế kỷ. Rất nhiều công trình nghiên cứu đánh giá sự kiện Mậu Thân 1968 dưới những góc độ khác nhau. Có thể nói rằng dù nhìn nhận đánh giá dưới bất kỳ góc độ nào đi nữa, sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 là chiến thắng to lớn của quân và dân ta, là cuộc tổng diễn tập cách mạng toàn diện dẫn đến chiến thắng vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Do vị trí chiến lược trọng yếu nên trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, tỉnh Vĩnh Long được quân khu chọn làm trọng điểm thứ hai, sau Cần Thơ. Dù lực lượng của ta chỉ bằng một phần ba so với địch, trang bị kém thế nhưng với tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân Vĩnh Long cộng với sự hỗ trợ đầy hiệu quả của tỉnh bạn Trà Vinh, của quân khu 9 chúng ta đã tạo nên chiến công to lớn. Ta đánh chiếm và làm chủ thị xã Vĩnh Long suốt sáu ngày đêm (chỉ sau một thành phố Huế), ta diệt nhiều sinh lực địch, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh của kẻ thù, mở rộng vùng nông thôn rộng lớn. Theo số liệu thống kê, qua cao điểm một và cao điểm hai của đợt một (từ 31/1 đến 15/2/1968) của đợt Tổng tấn công 170
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
quân dân Vĩnh Long đã loại khỏi vòng chiến đấu 11.401 tên địch, làm bị thương 9.286 tên, bắt sống 421 tên, rã ngũ 1.700 tên, tiêu diệt 16 đại đội, làm thiệt hại của địch 16 tiểu đoàn, bắn rơi và phá hủy của địch 120 máy bay, bắn cháy 63 xe M113 – M118, 30 xe quân sự, bắn cháy chìm 43 tàu chiến, phá hủy 19 khẩu trọng pháo, một tổng đài truyền tin, diệt 127 đồn bót, giải phóng 15 xã, 319 ấp với 296.000 người dân, ta thu 1.103 súng các loại, 32 máy thông tin cùng rất nhiều quân trang, khí tài khác. Ta đã gây cho địch một thất bại nặng nề ngay tại sào huyệt của chúng. Qua đợt Tổng tấn công và nổi dậy, tổng số binh lính ngụy bị ta loại khỏi vòng chiến đấu gần bằng số lượng kẻ địch bị tiêu hao trong 30 năm chiến tranh trên phạm vi cả tỉnh. Về phía ta, có 402 đồng chí anh dũng hy sinh, 522 bị thương, 10 bị bắt, 16 người bị mất tích. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Vĩnh Long là một chiến công sáng chói được mãi mãi khắc ghi vào lịch sử dân tộc, chiến thắng to lớn này là kết quả của sự phối hợp tài tình giữa các mặt chính trị, quân sự, binh vận, giữa tiến công và nổi dậy với tất cả sức mạnh của lòng dũng cảm, trí tuệ tài thao lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, sức mạnh vô địch được quy tụ dưới ngọn cờ đại nghĩa: KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO. Chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Vĩnh Long là một sự thật lịch sử khách quan được đổi bằng máu xương của bao người con ưu tú. Làm thế nào để chiến thắng ấy được ghi nhận, đánh giá đầy đủ, khách quan cũng là một nhu cầu mang tính lịch sử. Đồng thời đưa chiến thắng Mậu Thân vào đời sống văn hóa tinh thần của rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân luôn là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước. Ngày 16/03/1999, Ủy Ban Nhân dân Tỉnh Vĩnh Long có chủ trương xây dựng tượng đài chiến thắng Mậu Thân. Được biết công trình văn hóa này sẽ được thi công tại phường 3 thị xã Vĩnh Long, công trình có quy mô 5 ha, vốn đầu tư ước 6 tỷ đồng. Công trình tượng đài công viên chiến thắng Mậu Thân là công trình trọng điểm của tỉnh chào đón thế kỷ 21./. Tầm Vu Theo Tạp chí Văn Hóa – Số 24 – Tháng 12/1999 .- Tr.5
39.Làm thế nào để chiến thắng Mậu Thân 1968 đi vào đời sống văn hóa của nhân dân Vĩnh Long Trải qua 263 năm lịch sử hình thành và phát triển của Vĩnh Long từ chống quân Xiêm, thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ xâm lược, tiếp nối các chiến thắng trên sông Cổ Chiên, Cầu Vòng, Giồng Thanh Bạch, Ba Càng, Cái Sao, Cái Sơn, Thầy Phó, Mương Khai, Hiệp Hòa…, chiến thắng Mậu Thân 1968 của quân dân Vĩnh Long là bản anh hùng ca tuyệt đẹp, gắn liền với lời chúc Tết vang vọng núi sông của Bác Hồ:
171
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua Thắng trận tin vui khắp nước nhà Nam – Bắc thi đua đánh giặc Mỹ Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!” Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 là biểu tượng của sức mạnh Việt Nam, trí tuệ Việt Nam trong thời đại mới. Chiến thắng đó để lại cho ta biết bao bài học lịch sử quý báu gắn liền với những hình tượng cao đẹp của con người Việt Nam, cốt cách Việt Nam. Đây là tài sản tinh thần vô giá của thế hệ đi trước để lại cho mai sau. Quá khứ, hiện tại và tương lai cùng chung một dòng chảy lịch sử. Nếu không có sự kế thừa thì không có sự phát triển và sáng tạo. Di sản tinh thần của quá khứ phải là hành trang quý báu, là động lực thôi thúc chúng ta trên con đường đi tới tương lai: vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Lịch sử sẽ đi qua, niềm tự hào chính đáng cũng có thể bị lãng quên, nếu chúng ta không tích cực chủ động có kế hoạch tổng thể và đồng bộ để lưu giữ phát huy, biến tiềm năng giá trị tinh thần thành hiện thực của đời sống. Vĩnh Long trước đây khi triều đại phong kiến suy tàn, họa xâm lăng đe dọa, các sĩ phu yêu nước đã xây dựng khu Văn Thánh thờ bậc hiền tài, nêu gương sáng người xưa để giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ, tạo lập nhân tài sau này, xây dựng Văn Xương Các để họp mặt các văn nhân xướng họa thơ văn yêu nước, để lại kho tàng văn hóa cho chúng ta hôm nay, đó là chưa kể ông cha ta còn xây dựng gần 100 ngôi đình khắp các làng xã, thờ cúng người có công mở mang bờ cõi, để hậu thế “ăn trái nhớ người trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” theo đạo đức truyền thống của dân tộc.
Cuộc hội thảo này đã khẳng định tầm vóc, ý nghĩa to lớn và bài học lịch sử của sự kiện Mậu Thân 1968 trên quê hương Vĩnh Long. Đây là cơ sở khoa học rất quan trọng để chúng ta xác định quy hoạch mô hình khu di tích lịch sử sau này, để làm cơ 172
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
sở giới thiệu truyền thống rộng rãi cho đông đảo nhân dân địa phương và thân nhân các liệt sĩ từ khắp mọi miền đất nước về thăm viếng. Có thể khu di tích này gắn liền với công viên của tỉnh, tạo thành một quần thể văn hóa, có nhiều phân khu chức năng: bia, tượng đài, nhà truyền thống, công viên, các loại hình đa dạng khác… Xây dựng khu di tích lịch sử này, gắn với trung tâm sinh hoạt văn hóa: nơi sáng tác giới thiệu tác phẩm mới, giao lưu văn hóa, giới thiệu truyền thống, sinh hoạt lễ hội, tìm địa chỉ các danh nhân, anh hùng, liệt sĩ, người sản xuất giỏi, nghệ nhân được quần chúng cảm mến ngưỡng mộ, nơi tổ chức kết nạp đoàn viên, đội viên, trao giải thưởng cho các học sinh giỏi… Nơi này sẽ thu hút thân nhân, gia đình có công với cách mạng, các thanh thiếu niên đến sinh hoạt, tạo nên một môi trường văn hóa lành mạnh, bổ ích, chống lại văn hóa độc hại, lai căng, bảo tồn văn hóa dân tộc. Đây là trường học lớn về đạo lý làm người, về giáo dục truyền thống lịch sử cho các thế hệ. Đây cũng là nơi giải trí, tạo sự hứng thú hòa nhập giữa con người và thiên nhiên sau những giờ lao động mệt nhọc. Lịch sử vẫn tồn tại với thời gian, nếu ta biết gắn lịch sử đó với cuộc sống văn hóa bằng những nét cụ thể, hình tượng cụ thể. Văn hóa là cái in sâu đậm nét vào lòng người. Thành phố Hồ Chí Minh có khu Bến Dược (Củ Chi); Tiền Giang có khu Ấp Bắc; Cần Thơ có di tích chiến thắng Hỏa Lựu – Vị Thanh; Trà Vinh có đền thờ Bác Hồ; Đồng Tháp có khu lưu niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Bác Hồ; Vĩnh Long có khu di tích Mậu Thân 1968 hình thành một quần thể truyền thống lịch sử văn hóa đậm đà sắc thái độc đáo của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, làm phong phú thêm kho tàng lịch sử nhân vật Việt Nam. Vĩnh Long giàu truyền thống yêu nước, nhiều chiến công, lắm đơn vị và cá nhân anh hùng nhưng còn nghèo di tích lịch sử văn hóa, thiếu nơi sinh hoạt văn hóa để làm cơ sở giáo dục truyền thống. Đi đôi với tăng trưởng kinh tế, phải chú ý đến phát triển văn hóa, phong phú về vật chất phải đi đôi với lành mạnh về tinh thần. Ta hiện còn nghèo, cần quy hoạch từng hạng mục công trình, phải làm từng bước, từng năm, chuẩn bị để sang thế kỷ 21 có cái gì đó đáng kể để lại cho đời sau. Đây là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Quy hoạch xây dựng khu di tích lịch sử - văn hóa Mậu Thân ở Vĩnh Long phải tương xứng với tầm vóc, truyền thống vinh quang của nó. Cán bộ lãnh đạo tỉnh, cơ quan chuyên môn cần tập trung trí tuệ, nhiệt tình và công sức đầu tư thích đáng để đáp lại nguyện vọng thiêng liêng của đồng bào, đồng chí. Với những cứ liệu khoa học xác thực, chúng ta thiết tha đề nghị Bộ Văn hóa – Thông tin sớm có quyết định công nhận khu di tích lịch sử Mậu Thân 1968 tại Vĩnh Long./. Nguyễn Chiến Thắng - Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy, Trƣởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Đọc: 959.787/V312L – VV.035636
173
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
40.Bánh tét trong cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân ở Vĩnh Long Trong bài viết: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở huyện Tam Bình xuân 1968” – tác giả Nguyễn Tuấn Kiệt có viết: “Ngoài chiến đấu, Tam Bình còn bảo đảm tốt hậu cần và phục vụ chiến đấu. Huyện đã đưa hàng nghìn dân công có cả ghe máy phục vụ tiếp lương, tải đạn, chuyển thương binh. Mỗi ngày huyện cung cấp thêm 5.000 đòn bánh tét. Từ 3 đến 7 con trâu bò, 400 lít xăng…” – (Sách Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân 1968 – Nhà xuất bản Quân đội nhân dân).
Ảnh: Văn Kim Khanh Không chỉ ở Tam Bình, mà toàn tỉnh Vĩnh Long cũng như nhiều tỉnh khác ở khắp đồng bằng sông Cửu Long, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân, bánh tét là một lương thực đặc biệt của quân dân ta trong cuộc tiến công lịch sử này. Bà Nguyễn Thị Thu Huệ, vào năm 1968 bà từng là hội trưởng Hội phụ nữ huyện Châu Thành A – Cần Thơ, cho rằng: “Trong cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, bánh tét là món lương thực rất quan trọng của quân ta. Hàng ngày, tại xã Nhơn Nghĩa, huyện Châu Thành A, nơi tiếp tế chính cho mặt trận lộ Vòng Cung, mỗi ngày có hàng ngàn đòn bánh tét cùng với các loại lương thực, thực phẩm tiếp tế khác được chở bằng vỏ lãi qua hướng lộ vòng cung, trong những chiếc vỏ lãi tiếp tế, có một chiếc vỏ lãi chở bánh tét bị địch bắn chìm”. Nói về bánh tét phục vụ chiến trường trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968, tôi còn nhớ khá rõ. Lúc đó tôi mới 10 tuổi, chiều 30 tết tôi còn mặc áo mới chạy tung tăng dọc xóm chuẩn bị đón tết thì đêm 30 rạng mùng 1 Tết – 1968 tiếng súng nổ rang. Lúc hơn nửa đêm mùng 1 Tết, quân giải phóng đã
174
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
tấn công Ba Kè, quận Tam Bình trong đêm 30 rạng mùng 1 dân và quân ta cũng đã khởi đầu bằng ba mũi giáp công, ba mũi biểu tình với đông đảo quần chúng phía trước, lực lượng vũ trang phía sau hậu thuẫn tiến về trung tâm huyện Tam Bình để chuẩn bị cướp chính quyền. Sáng mùng 1 Tết, khi tiếng súng ở Ba Kè nổ vang rền, ba tôi chở cả nhà đi tản cư xuống ấp 8 xã Hòa Hiệp ở vàm sông Ông Đệ. Nhà gia đình tôi dọn đồ tản cư là nhà cô Ba tôi, bà Văn Thị Ngẫu, trong vùng này quen gọi là bà Ba Ngẫu. Cô Ba tôi là mẹ chiến sĩ trong suốt thời kỳ chống Mỹ cứu nước ở địa phương này. Chính ở đây khoảng gần một tháng đã giúp cho tôi có tư liệu để viết bài về bánh tét trong chiến dịch xuân Mậu Thân. Trong những ngày đầu xuân 1968 ở một điểm giao nhận bánh tét ở gần nhà cô ba tôi, mỗi ngày có hàng chục ghe xuồng ghé lại nơi đây. Nhà cô ba tôi cũng là một điểm nhận bánh tét tiếp viện chiến trường. Ghe xuồng tới lui, chủ yếu là những người dân và đầu mối giao bánh tét phục vụ chiến dịch và bộ phận tiếp lương đến đây để lấy bánh tét. Tôi không hiểu vì sao mỗi ngày tại nhà cô Ba tôi có nhiều đòn bánh tét được tập kết về đây. Tôi hỏi cô Ba sao nhà cô có nhiều bánh tét vậy, cô trả lời ngắn gọn: “Dân đóng góp bánh tét để bộ đội đánh giặc”. Sau này tôi mới biết, không chỉ tại Hòa Hiệp mà nhiều vùng giải phóng trong huyện, trong tỉnh, những bộ phận hậu cần, các mẹ chiến sĩ vận động nhân dân gói bánh tét đóng góp cho bộ đội để bộ đội có lương thực trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân. Cô ba tôi cho biết: “Mình vận động nhà nhà đóng góp bánh tét, trung bình mỗi nhà góp 10 đòn bánh tét, ai có khả năng thì cho nhiều hơn càng tốt, nhà nghèo thì cho ít. Ai có nếp, thì đóng góp, ai không có nếp, thì tham gia góp công sức gói bánh tét…”. Với cách làm sáng tạo, linh hoạt, mỗi ngày chỉ riêng điểm nhận bánh gần nhà cô Ba và nhà cô tôi có đến hàng trăm đòn bánh tập kết về để bộ phận tiếp lương đến nhận cung cấp cho chiến trường. Với người dân, bánh tét là món bánh đơn giản dễ gói, dành để cúng gia tiên trong ngày tết và món bánh để cúng giỗ ông bà trong những ngày giỗ chạp. Muốn gói bánh tét chỉ cần có những vật liệu như sau: lá chuối, dây lạt, nếp, đậu, mỡ và chuối xiêm chín. Với nguyên vật liệu như trên, chỉ gói được bánh tét đậu và bánh tét chuối. Những người khéo tay và chịu chế biến, còn gói thêm bánh tét nước tro nhân ngọt ăn cũng hấp dẫn lắm. Gói xong chỉ nấu nửa ngày là có món ngon bánh tét. Với những người chiến sĩ cách mạng, bánh tét là một thứ lương thực tuyệt vời. Bánh tét ăn ngon, đầy đủ dinh dưỡng, ăn bánh tét lâu đói, bánh tét lại dễ mang theo làm lương thực khi đánh giặc. Bộ đội đi đánh giặc mang bánh tét theo một đòn có thể chống lại cái đói cả ngày. Người dân trong vùng giải phóng, nấu bánh tét để cung cấp cho bộ đội, là loại không có nhân nên để lâu không bị ôi thiu. Nếu gặp lúc giặc ruồng bố, dân có thể đem bánh tét nhận xuống ao một, hai ngày lấy lên cũng chẳng hư hại gì. Xem ra trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bánh tét là một món lương thực hết sức độc đáo. Ông Nguyễn Văn Phước, người ở ấp 9, xã Hòa Hiệp trước đây, một người là cơ sở nuôi chứa cán bộ trong thời kháng chiến chống Mỹ cho rằng” “Không những bánh tét được dùng để làm lương thực trong chiến dịch Tổng tấn công tết Mậu Thân
175
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
mà trong suốt thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, bánh tét được làm lương khô phục vụ trong việc đánh giặc giữ nước./. Văn Kim Khanh Tạp chí Cửu Long – Số Xuân 2016
41.Tấm lòng ngƣời dân đô thị trong Tết Mậu Thân! Chúng ta nói nhiều về những chiến công, những trận đánh, nhưng ít người đề cập đến tấm lòng người dân đô thị đã hưởng ứng như thế nào trong Tổng tấn công Mậu Thân. Sau đây là những ghi chép ngắn về những tấm lòng, từ người dân đến nhà sư, và cả đến viên xã trưởng của chế độ Sài Gòn… Khi lòng yêu nước được đánh thức họ không ngại hy sinh. Cống Ông Thuẫn Trong trận tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, Tiểu đoàn 306 tiến công hướng chính từ Phước Hậu vào thị xã Vĩnh Long. Phương tiện di chuyển là xuồng, ghe của nhân dân ở khu vực Cái Ngang về Phước Hậu. Dĩ nhiên hậu cần đi trước, tải đạn cứu thương… bí mật xâm nhập thị xã trước đó. Địa bàn Phước Hậu tiếp giáp với ấp Tân An và Hộ 3 (nay là Phường 3), thông qua rạch Cá Trê. Giữa Phước Hậu và thị xã cách nhau con lộ Vòng Cung (tỉnh lộ 70 cũ, nay là đường Phó Cơ Điều, Quốc lộ 53), thông qua cống Ông Thuẫn. Khi mặt trận nóng bỏng đang diễn ra ở nội ô mùng 2 Tết Mậu Thân, nhân dân xóm rạch Cá Trê (Hộ 3) đem xuồng ghe của mình đi tải thương, tiếp đạn cho bộ đội. Con đường sông từ rạch cầu Cá Trê qua cống Ông Thuẫn xuồng ghe qua lại như con thoi. Lúc ấy, cống Ông Thuẫn trở thành một chướng ngại vật, phải kéo xuồng qua lộ rất nặng nhọc, vất vả. Anh chị em dân công đề xuất với Ban chỉ huy Tiểu đoàn 306, cấp ngay một khối thuốc nổ TNT đánh bứt một đoạn lộ. Lực lượng dân công xáp vô dùng cuộc xẻng đào bới thêm, chỉ trong chốc lát mặt lộ biến thành con rạch, xuồng ghe ào ào lướt qua. Chuyến ra chở thương binh, liệt sĩ, chuyến vào chở lương thực, thực phẩm từ Ngãi Tứ, Mỹ Lộc, Hậu Lộc, Phước Hậu… vào cho bộ đội chiến đấu. Chùa Bửu Thanh Chùa Bửu Thanh nằm bên rạch Cá Trê, trở thành trạm cứu thương của Tiểu đoàn 306 trong Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Chùa có cả thảy 5 vị ni sư, do ni sư Trần Thị Xuyến trụ trì. Vị ni sư này có sáng kiến là đưa tất cả các ni sư tản cư vào nội ô để tránh bom. Nhưng mỗi ngày, khi im tiếng súng, số ni sư này bí mật trở về chùa mang theo bông băng, thuốc trụ sinh và các dụng cụ y tế giấu trong giỏ thức ăn đi chợ về. Nhờ vậy tại chùa Bửu Thanh nhiều thương binh nặng đã được cứu sống và chuyển về tuyến sau. Suốt chiến dịch bộ đội ta được các ni sư nuôi toàn cơm chay. Mảnh đất phía sau chùa, bộ đội ta đào nhiều công sự chiến đấu và hầm tránh
176
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
bom pháo. Nhiều thi thể của bộ đội hy sinh được an táng ở chùa này, sau giải phóng đem về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh. Viên xã trƣởng làm binh biến Bến bắc (bến phà) Mỹ Thuận là cửa ngõ “độc đạo” nối Sài Gòn với miền Tây. Ai chiếm giữ Bắc Mỹ Thuận thì mới chiếm giữ được thị xã Vĩnh Long. Thời điểm Tết Mậu Thân, lực lượng địch đóng giữ ở đây trên 1.500 tên. Tấn công cứ điểm này, quân ta chỉ có một đại đội địa phương quân huyện Châu Thành và lực lượng du kích các xã. Quân Khu 9 cử đồng chí Chín Hoài (Nguyễn Văn Hoài), cán bộ binh vận khu có một cơ sở nội tuyến thuộc dạng cảm tình là ông Nguyễn Văn Thường, xã trưởng xã Tân Hòa. Đêm 30 tết đồng chí Chín Hoài đi thẳng vào nhà xã Thường giữa lúc ông này đang ăn tất niên và đón giao thừa với nhóm sĩ quan chiến hữu. Chín Hoài được ông Thường giới thiệu với đám sĩ quan như người quen và ăn nhậu với họ đến 10 giờ đêm. Tiệc tàn, ông Chín Hoài mới nói kế hoạch tấn công tỉnh lỵ cho xã Thường nghe và kêu gọi ông hiệp đồng với quân giải phóng đánh chiếm Bắc Mỹ Thuận. Xã Thường nghĩ mông lung, nhưng ông có nhắc thời thiếu sinh quân ở Pháp có gặp Cụ Hồ lúc dự hội nghị Fontainebleau, con người vĩ đại ấy ông rất kính trọng. Ông Chín Hoài khêu gợi lòng yêu nước và nói rằng thời cơ không thể đến hai lần. Lòng yêu nước trong xã Thường bùng lên và đồng ý hợp đồng binh biến. Theo chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Hoài, ông Thường viết thư cho ủy viên cảnh sát Sáu Vĩnh cho rút hết các đội tuần tra về đồn, tạo điều kiện cho quân ta bí mật đột nhập, triển khai thế bao vây tiến công các mục tiêu khu vực bến Bắc Mỹ Thuận. Tiếng súng tiến công từ phi trường vang lên rung chuyển thị xã, xem như là tiếng súng lệnh tổng tiến công. Lực lượng vũ trang huyện Châu Thành lập tức tiến công các mục tiêu, vây chặt quân địch trong khu căn cứ. Sáng mùng 1 tết, ông Thường phát loa kêu gọi các binh lính buông súng trở về với nhân dân. Bị uy hiếp mạnh, các lực lượng địch lần lượt rút chạy, ủy viên cảnh sát xã Sáu Vĩnh nghe theo lệnh của ông Thường giao đồn cho quân giải phóng, ta làm chủ hoàn toàn bến Bắc Mỹ Thuận mà không phải đổ máu, cắt đứt sự chi viện của Sài Gòn cho Vĩnh Long và làm chủ Quốc lộ 4 (Quốc lộ 1 ngày nay) ở khu vực này trong 21 ngày đêm. Đến ngày 5 tháng 2 năm 1968, địch phản kích đánh chiếm lại bến phà Mỹ Thuận, ông Thường cùng lực lượng địa phương quân huyện Châu Thành đánh trả quyết liệt và ông đã anh dũng hy sinh./. Nguyễn Ngọc Theo Báo Vĩnh Long – Số 1863 ra ngày 3/2/2008 .- Tr.1-10
42.Truy điệu 35 liệt sĩ hy sinh trong trận đánh sân bay Vĩnh Long Xuân Mậu Thân 1968 Thứ hai, 11/05/2009 | 08:06 GMT+7 Ngày 10-5, tại nghĩa trang liệt sĩ tỉnh, Tỉnh ủy, UBND, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Long đã long trọng tổ chức lễ truy điệu 35 liệt sĩ của Đại đội 203 (Tiểu đoàn 177
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
857) và Đại đội đặc công tỉnh đã anh dũng hy sinh trong trận đánh sân bay Vĩnh Long Xuân Mậu Thân 1968, bị địch vùi lấp trong hố chôn tập thể mà sau nhiều lần tìm kiếm, lực lượng quân đội tỉnh mới quy tập được hài cốt các liệt sĩ trong tháng 42009. Đây là những người con ưu tú của các tỉnh Vĩnh Long, Đồng Tháp, Trà Vinh, Bến Tre đã "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" trong trận đánh của quân ta tấn công vào sân bay Vĩnh Long, mở màn cho chiến dịch tổng tấn công và nổi dậy của quân ta trong dịp Tết Mậu Thân 1968./. Theo www.hanoimoi.com.vn
43.Vị tƣớng có “duyên nợ” với Vĩnh Long (Kỷ niệm 40 năm chiến thắng Mậu Thân) Những năm Mỹ xua quân ồ ạt vào miền Nam, Tiểu đoàn chủ lực 306 hoạt động ở chiến trường Vĩnh Trà. Ở đơn vị, nhiều chiến sĩ thuộc lào chuyện về người cán bộ Tiểu đoàn trưởng tuyên bố với một “ni cô”, mái tóc đã thí phát, đầu còn nhẵn bóng trùm khăn. Câu chuyện đầy kịch tính có sức hấp dẫn thu hút người ái mộ. Số là năm 1954, một chiến sĩ biệt động Sài Gòn được lệnh đi tập kết. Trước khi đi có ghé thăm gia đình người mẹ nuôi. Bà má là vợ của một Vệ quốc đoàn hy sinh thời chống Pháp. Má duy nhất có một người con gái – cô nữ sinh tú tài học giỏi, có sắc, vừa đẹp tính. Má nói với người chiến sĩ biệt động: “Con ra Bắc cố gắng học tập công tác tốt. Hai năm trở về, nếu hai con đồng ý má sẽ tác hợp thành hôn”. Đôi thanh niên vui mừng, nắm chặt tay nhau phút tiễn đưa. Người mẹ chân tình có biết đâu hai trẻ đã tâm đầu ý hợp từ lâu nhưng chưa thổ lộ. Thế rồi Mỹ trực tiếp can thiệp vào miền Nam, sau hai năm kế hoạch tổng tuyển cử không thành. Năm 1960, người chiến sĩ biệt động tình nguyện đầu tiên về Nam, khi đến miền Đông cho người về Sài Gòn liên lạc thì cảnh vật đã đổi thay. Xóm nghèo, căn nhà xưa đã thành cư xá Mỹ. Hỏi thăm tìm tông tích bà mẹ nuôi chẳng ai biết. Người chiến sĩ đau lòng, tự nhủ chỉ quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước chừng ấy thông qua tin tức báo đài sẽ tìm nhau. Cũng có dư luận thời buổi đất Sài Gòn “vật đổi sao dời” là chuyện bình thường. Cô nữ sinh có thể bội bạc, “có chồng Mỹ” hoặc lẩn khuất tìm kế sinh nhai hay lánh nạn mong ngày đoàn viên. Người chiến sĩ luôn tin tưởng người yêu ẩn nhẫn đợi chờ ở nơi nào đó? Sự thật ai có ngờ, nhà bị đuổi làm cư xá Mỹ, người mẹ bị bắt tù đày chết trong nhà giam. Bọn chiến tranh tâm lý khủng bố gia đình có quan hệ cách mạng, bôi đen gia đình, và nhân phẩm phụ nữ, khuyến khích, trao giải thưởng ai lung lạc được gia đình kháng chiến. Để tránh tai tiếng, giữ vẹn lòng thủy chung, cô nữ sinh hòa nhập vào phong trào đấu tranh, đã thí phát “mái tóc thề” ngày nào để trở thành người tu hành và tạm trú tại một ngôi chùa tránh địch theo dõi.
178
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Năm 1963, bọn chiến tranh tâm lý dồn dập tuyên chiến “đã đánh bại Việt cộng ở trận Đầm Dơi – Cái Nước”, “lấy nhiều vũ khí, tiêu diệt Ban chỉ huy tiểu đoàn Việt Cộng”, “gốc tập kết ra Bắc, được huấn luyện trở về”, “có cả danh sách tên họ”. Chúng đăng báo, xe phóng thanh cổ vũ tuyên truyền và giới thiệu tại khu triển lãm chiến sự. Những danh sách tên họ nghe riết nhàm tai, nhưng trong đó có một người trùng tên người yêu của mình nhưng khác họ. “Ni cô” gạt bỏ ngoài tai, nhưng sau đó có tin đồn lực lượng tập kết về là có thật. Rồi trong đêm nằm mơ thấy người yêu đã hy sinh anh dũng trong trận chiến đấu ở Cà Mau? Tin nửa ngờ, nửa ngại. Sau đó “ni cô” vượt đường xe, tàu từ Sài Gòn đến Cà Mau với ý đồ tìm ngôi mộ và thắp nén hương bên mồ người quá cố cho bớt phần cô đơn tủi phận. Tìm tự trận đánh này đến trận khác nhưng vẫn bặt tin. Một buổi chiều, “ni cô” ở nhà dân gặp bộ đội chèo xuồng hành quân trên dòng kinh, bất ngờ cô đã phát hiện người yêu của mình (nay là cán bộ tiểu đoàn) với dòng nước mắt xúc động. Giây phút bàng hoàng. Sự thật mà cứ tưởng trong giấc mơ. Tình yêu chung thủy đã sớm đưa họ đến thành hôn. Chuyện nghe như huyền thoại, xuất phát từ Tiểu đoàn 306 kể, nhưng hỏi cụ thể chẳng biết đó là ai? LỜI SÔNG NÚI Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, Vĩnh Long là trọng điểm thứ hai của Quân khu (sau Cần Thơ), đồng chí Ba Trung được phân công làm tham mưu trưởng, Phó Chỉ huy trưởng tiền phương, kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306, đơn vị chủ công đánh vào sào huyệt địch. Thị xã Vĩnh Long như hình chiếc quạt giấy xòe ra, địch bố trí cứ điểm quân sự, đồn bót bủa giăng như mạng nhện. Những “nan rẽ quạt” là những con lộ - con đường tiến quân tập trung vào mục tiêu “mà cán quạt nơi đầu não của địch”. Cuộc xuất quân bằng xuồng từ Cái Ngang và nơi tạm dừng quân xã Phước Hậu. Vành đai thị xã có nhiều đồn bót áng ngữ, bảo vệ. Cuộc bí mật đưa quân tiếp cận khó khăn vì từ đêm trước quân giải phóng đã tấn công vào Tây Nguyên, miền Trung đã báo động nên địch ở Vĩnh Long có ý thức đưa quân ra ngoài phòng ngự. Đúng 1 giờ 30 phút đêm 30 Tết Mậu Thân: “Nổ lệnh tổng tấn công từ Tiểu đoàn 306!”. Các cánh quân như mũi tên lao nhanh về phía địch chiếm phường 3, một phần phường 1. Hướng đông Tiểu đoàn 308 từ phường 5 vượt sông Long Hồ và cầu Thiềng Đức chiếm phường 4. Phường 1 bắt tay với cánh quân Tiểu đoàn 306. Hướng nam Tiểu đoàn 857 tấn công vào phường 9 phá hủy sân bay. Lửa bốc cháy ngút trời. Các quận lỵ, các phân chi khu quân sự địch đồng loạt bị tấn công. Hệ thống quân sự của chúng như tay chân bị chặt tê liệt hoàn toàn. Theo dõi tình hình toàn miền Nam, địch bị tấn công hàng loạt nhưng chưa đủ sức kềm căng, chúng có thể còn khả năng dồn quân đối phó. Đồng chí Ba Trung đề nghị Ban Chỉ huy tiền phương ở tại Phước Hậu chỉ đạo, còn mình nhận trách nhiệm trực tiếp tác chiến, có gì sẽ báo cáo thỉnh thị. Được đồng chí Nguyễn Hoài Pho, Chỉ huy trưởng, đồng chí La Lâm Gia, chính ủy đồng ý. Sở Chỉ huy Tiểu đoàn 306 đóng tại cầu Cá Trê, có lúc ở cầu Kinh Cụt, tình huống gặp khó khăn. Mục tiêu cuối cùng chưa đánh chiếm. Đồng chí Ba Trung chớp nhoáng hội ý: “Trước thời cơ lịch sử,
179
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Tiểu đoàn 306 thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh! Chưa chiếm đầu não Vĩnh Long, quyết không về!”. Không khí quyết chiến, quyết thắng hừng hực dâng cao. Các trung đội, tiểu đội hạ quyết tâm! Trong ngày mùng 1 Tết, các mũi quân triển khai đánh địch phản kích diệt xe M.113, bắn cháy máy bay trực thăng. Đánh dạt một số cánh quân địch, giữ vững trận địa chiếm đường phố. Từ ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư rồi ngày thứ năm giằng co quyết liệt, địch tập trung cứu nguy cho bọn đầu não. Nơi nào ta chiếm, chúng cho trực thăng bắn rốc kết quyết liệt hoặc phun xăng thiêu hủy. Tên trung tá tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Diệp hốt hoảng xuống tàu vọt ra sông Cổ Chiên neo đậu. Đứng trên tầng nhà cao ở cầu Kinh Cụt, đồng chí Ba Trung quan sát trận địa: cả thị xã nơi sào huyệt địch là một bãi chiến trường: nơi cháy trực thăng, xe M.113, M.118, nơi chúng phun xăng hủy diệt. Tiếng súng chống địch phản kích nổ ra quyết liệt. Trước nguy cơ Vĩnh Long thất thủ, các tỉnh, thành phố khác sau khi tác chiến xong, bọn chúng dồn lực phản kích. Chiều ngày mùng 6 Tết (tức 6/2/1968) sau khi trút bom B52 ven thị xã và nện pháo bầy cấp tập, bọn Mỹ từ căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) đổ quân ào ạt xuống cánh đồng phường 3 và hình thành thế trận bao vây chặn đánh chia cắt đường rút quân của ta. Đồng chí Ba Trung xin ý kiến Ban Chỉ huy tiền phương Quân khu chuyển hướng đánh Tiểu đoàn 2-3 thuộc Sư đoàn 9 Mỹ. Đồng chí ra lệnh các chiến sĩ bám sát công sự “nắm thắt lưng địch mà đánh”. Đối với Mỹ, hỏa lực mạnh, quân đông, thân xác to lớn để lọt vào tầm ngắm của Quân giải phóng! Suốt buổi chiều quân ta quần đánh bẻ gãy ba đợt phản kích của Mỹ. Đêm mùng 6 Tết, quân Mỹ co cụm ngoài đồng, lấy thây và thả pháo cứu nguy đồng bọn. Pháo sáng cũng giúp định hướng cho quân ta rút về vùng ven, sau khi được lệnh của ban Chỉ huy tiền phương Quân khu. Sáu ngày đêm chiến đấu dũng cảm, quân ta diệt nhiều sinh lực quân Mỹ và tay sai, đập nát tuyến phòng thủ hệ quân sự, phá hủy kho tàng, phương tiện chiến tranh của chúng. Đồng bào ta hết lòng tiếp lương cho bộ đội. Tuy được lệnh rời nội thành, hướng tổ chức phương thức chiến đấu mới, các đồng chí lãnh đạo tiền phương, đồng chí Ba Trung, bên tai vẫn còn nghe lời giục giã như lời sông núi: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào!”. Và mọi người như thầm hứa với Bác quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ để: “Bắc nam sum họp xuân nào vui hơn!”. BẢY NĂM SAU Trận Mậu Thân, Mỹ thua đau chịu ngồi vào bàn hội nghị 4 bên ở Paris thừa nhận Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam và sau đó buộc phải ký Hiệp định Paris và rút quân về nước. Để cứu vãn tình thế, vừa hà hơi tiếp sức cho ngụy quân lần cuối, chúng tiếp tục “bình định cấp tốc” dùng B52, pháo bầy đánh phá ác liệt tát dân, đóng đồn bót hòng lấn đất giành dân. Đây là phương sách trấn an cho đồng bọn. Đồng chí Ba Trung có lúc làm Trung đoàn phó Trung đoàn 3, rồi Phó Tư lệnh quân khu luôn có mặt các chiến trường Vĩnh Trà, căn cứ U Minh, góp phần đánh bại
180
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
chiến dịch nhổ cỏ U Minh với trên 70 tiểu đoàn địch. Đặc biệt là diệt hệ thống đồn bót địch trên tuyến sông Măng Thít, chuyển thế chuyển vùng. Trong gian khổ khó khăn đồng chí Ba Trung thường kể lại những ngày đi tập kết, đi học văn hóa, rồi học Trường Sĩ quan Lục quân của Trung Quốc ở Quảng Tây. Tháng 8 năm 1960 trước khi về Nam, đồng chí Ba Trung hân hạnh được gặp Bác Hồ và các đồng chí trong Bộ Chính trị đến thăm. Câu nói của Bác làm cho mọi người nhớ mãi: “Các đồng chí hãy phấn đấu chịu đựng mọi gian khổ, đoàn kết nội bộ, tin dân dựa vào dân chiến đấu và chiến thắng. Bác trông tin!”. Lời Bác là nguồn cổ vũ nâng cao niềm tin và ý chí quyết tâm vượt qua khó khăn và hứa với Bác quyết hoàn thành nhiệm vụ. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, khi ở Sài Gòn, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, nhưng bọn địch ở miền Tây ngoan cố hy vọng xây dựng căn cứ cố thủ cuối cùng. 17 giờ ngày 30 tháng 4, qua máy bộ đàm đồng chí Ba Trung dõng dạc: “Tôi là Quang Trung, Chỉ huy lực lượng giải phóng ra lệnh cho các anh em sĩ quan, binh sĩ đầu hàng! Cách mạng khoan hồng, bảo đảm tính mạng! Các anh không còn thời gian để chần chờ nữa!”. Tiếng nói vừa dứt, một giọng đáp lại rời rạc: “Thưa ngài chỉ huy, tôi tuân lệnh, mong ngài và quân cách mạng giữ lời hứa!”. Đó là tiếng nói kéo dài: vừa van lơn vừa khẩn thiết của đại tá Lê Trung Thành, tỉnh trưởng Vĩnh Long. Một không khí thắng lợi bao trùm. Bộ đội, nhân dân đổ xô ra đường kéo thành đoàn, trên sông bơi xuồng ghe ồ ạt đi về phía thị xã. Phước Hậu năm xưa điểm tạm dừng chân để tổng tấn công vào thị xã thì hôm nay là nơi tập kết tiến quân tiếp quản trọn vẹn. Đồng chí Ba Trung, vị Tư lệnh phó Quân khu miền Tây Nam Bộ cùng Ban Chỉ huy quân sự Vĩnh Long hiên ngang đi giữa đoàn người và rừng cờ chiến thắng vẫy chào. LỜI KẾT Cuối năm 1995, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân Việt Nam phát hành quyển hồi ký “Tình yêu và lẽ sống”. Qua đó mới biết đồng chí Ba Trung (tên thật là Nguyễn Đệ), Trung tướng, Ủy viên Trung ương Đảng. Sinh năm 1928, quê ở Nghệ An, đồng chí đã tham gia đánh địch trên 300 trận cấp tiểu đoàn, sư đoàn, 7 lần bị thương không rời trận địa. Được tặng thưởng 22 Huân chương Quân công, chiến công… các loại và được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Là vị tướng vốn có duyên nợ với Vĩnh Long trong những thời điểm vẻ vang của lịch sử. Chuyện huyền thoại thời kháng chiến từ Tiểu đoàn 306 đến đây đã có lời đáp. Nguyễn Long Hồ - Huyền Thoại Theo Báo Vĩnh Long – Số Xuân Mậu Tý 2008 .- Tr.6-7
181
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
44.Vị tƣớng có duyên nợ với Vĩnh Long trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân và Chiến dịch Hồ Chí Minh tại thành phố Vĩnh Long? Vị tướng có duyên nợ với hai cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) và Chiến dịch Hồ Chí Minh tại tỉnh lỵ Vĩnh Long Xuân 1975 là đồng chí Nguyễn Đệ, tên thường gọi Ba Trung, sinh năm 1928 tại làng Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, con cụ ông Nguyễn Văn Lân và cụ bà Nguyễn Thị Tịnh, gia đình nông dân nghèo làm thuê, làm mướn kiếm sống. Thuở nhỏ, Nguyễn Đệ học biết đọc biết viết, rồi sống tha phương cầu thực, nhưng có ý chí cố gắng học hành. Năm 17 tuổi, đồng chí tham gia lực lượng giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám tại Sài Gòn, làm Đội trưởng Đội thiếu niên Tiền phong. Năm 1946, đồng chí làm Đội trưởng cảm tử quân tỉnh Bà Rịa chống thực dân Pháp tái chiếm. Ông vào Đảng cộng sản Đông Dương năm 1947, làm Chính trị viên lực lượng võ trang địa phương. Những năm 1950 – 1954, Nguyễn Đệ là Thường vụ Huyện ủy Long Điền (Biên Hòa), Chính trị viên Huyện đội. Tập kết ra Bắc năm 1954, đồng chí vào học Trường Lục quân khóa 9, học văn hóa, rồi làm Chính trị viên Tiểu đoàn 307. Từ năm 1960, đồng chí về Nam chiến đấu, làm Phó ban Quân sự miền Tây, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn U Minh, rồi Tiểu đoàn 306. Giai đoạn 1966 – 1975, là giai đoạn Tiểu đoàn 306 cừa hoạt động vừa xây dựng lực lượng từ tiểu đoàn lên trung đoàn trên chiến trường đồng bằng hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, dưới sự chỉ huy của đồng chí, Tiểu đoàn đánh địch hàng trăm trận, tiêu diệt, bắt sống, rã ngũ hàng ngàn tên địch. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) và Chiến dịch Hồ Chí Minh Xuân 1975 tiến công vào tỉnh lỵ Vĩnh Long, đồng chí Nguyễn Đệ Chỉ huy phó mặt trận Tiền phương, Tham mưu trưởng kiêm Tiểu đoàn trưởng, Trưởng ban Chỉ huy mặt trận Tiền phương (1968), đến Tư lệnh, Trưởng ban Chỉ huymawjt trận Tiền phương (1975) chỉ đạo trong Chiến dịch Hồ Chí Minh ở Vĩnh Long, ông đã góp phần cùng quân, dân trong tỉnh giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng tỉnh Vĩnh Long sau hơn 100 năm thuộc địa đế quốc và tay sai. Từ năm 1976, đồng chí làm Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Hậu Giang, rồi làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 330 và Sư đoàn bộ binh 4. Sau hai năm học ở Học viện Quân sự cao cấp, khi tốt nghiệp về đồng chí được phân công làm Phó Tư lệnh Quân khu 9 kiêm Tư lệnh Mặt trận biên giới Tây Nam (979) được phong hàm Thiếu tướng. Từ năm 1987, đồng chí làm Tư lệnh Quân khu 9, được thăng hàm Trung tướng, đắc cử Ủy viên Trung ương Đảng khóa VII.
182
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Là vị tướng tài ba, từng lăn lộn chiến đấu khắp các chiến trường miền Tây, đặc biệt là chiến trường Vĩnh Trà và biên giới Tây Nam, đồng chí sống cuộc sống giản dị, bám dân, bám đất, hết lòng thương yêu đồng đội, đồng bào. Do công lao cống hiến to lớn, đồng chí được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng võ trang nhân dân (25-6-1998), được thưởng 22 Huân chương Quân công, Chiến công và Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Đồng chí từ trần ngày 8-6-1988, thọ 70 tuổi. Mộ phần đồng chí tại số nhà 381, đường Nguyễn Văn Cừ, Phường An Hòa, thành phố Cần Thơ./. Nguyễn Chiến Thắng – Nguyên Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy, nguyên Trƣởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long Theo sách “Vĩnh Long - Vùng đất và con ngƣời” – NXB Quân đội nhân dân 2017 Kho Đọc: 959.787/V312L – VV.035636
183
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
45.PHỤ LỤC I.CÁC ĐƠN VỊ ĐỊA PHƢƠNG VÀ CÁ NHÂN ĐƢỢC NHÀ NƢỚC TUYÊN DƢƠNG DANH HIỆU ANH HÙNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VÌ ĐÃ LẬP THÀNH TÍCH XUẤT SẮC TRONG TỔNG TIẾN CÔNG XUÂN MẬU THÂN 1968 Ở VĨNH LONG *Đơn vị: Tiểu đoàn 857 tỉnh Vĩnh Long *Địa phƣơng: -Tỉnh Vĩnh Long -Thị xã Vĩnh Long -Phường 3 thị xã Vĩnh Long -Huyện Tam Bình -Huyện Trà Ôn -Huyện Vũng Liêm -Xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm -Xã Trung Ngãi, huyện Vũng Liêm -Xã Hiếu Thành, huyện Vũng Liêm -Xã Song Phú, huyện Tam Bình -Xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình -Xã Lục Sĩ Thành, huyện Trà Ôn -Xã Chánh Hội, huyện Mang Thít -Xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình -Xã Hậu Lộc, huyện Tam Bình -Xã Hòa Bình, huyện Trà Ôn -Xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn -Xã Mỹ Thuận, huyện Bình Minh -xã Đông Thành, huyện Bình Minh -Xã Phú Quới, huyện Bình Minh -Xã Bình Phước, huyện Mang Thít -Xã Phước Hậu, huyện Long Hồ -Xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình -Xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm -Xã Tích Thiện, huyện Trà Ôn -Xã Xuân Hiệp, huyện Trà Ôn *Cá nhân: -Trần Thanh Liêm: được tặng thưởng hai Huân chương Chiến công hạng nhất (một lần năm 1967, một lần trong Tổng tiến công Xuân 1968, hy sinh năm 1968). -Lê Văn Lang: ba lần được tặng danh hiệu: “Dũng sĩ công đồn”, một lần được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt xe tăng” (1968).
184
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
-Nguyễn Văn Kế: được tặng thưởng một Huân chương Chiến công hạng nhì trong Tổng tiên công Xuân 1968. II.CÁC ĐƠN VỊ, ĐỊA PHƢƠNG ĐƢỢC TẶNG THƢỞNG HUÂN CHƢƠNG TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 Ở VĨNH LONG -2 Huân chương Chiến công hạng nhất -9 Huân chương Chiến công hạng nhì -28 Huân chương Chiến công hạng ba *Các đơn vị chủ lực đƣợc tặng thƣởng Huân chƣơng Chiến công: -Tiểu đoàn 306, tiểu đoàn 308, tiểu đoàn 312 (gồm 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 7 Huân chương Chiến công hạng ba). *Các đơn vị bộ đội địa phƣơng đƣợc tặng thƣởng Huân chƣơng Chiến công hạng nhất: -Bộ đội địa phương tỉnh Vĩnh Long -Đại đội 203 bộ đội địa phương tỉnh Vĩnh Long *Đơn vị, địa phƣơng đƣợc tặng thƣởng Huân chƣơng Chiến công hạng nhì: -Tỉnh Vĩnh Long -Đại đội 201 bộ đội địa phương tỉnh Vĩnh Long -Đại đội 2 bộ đội địa phương huyện Trà Ôn -Đơn vị pháo Vĩnh Long -Đơn vị biệt động thị xã Sa Đéc -Bộ đội địa phương Sa Đéc -Phân đội 2 đại đội 106 Quân khu -Phân đội 7 đại đội 106 Quân khu -Đại đội 57 tiểu đoàn 306 -Đại đội 58 tiểu đoàn 306 *Các đơn vị, địa phƣơng đƣợc tặng thƣởng Huân chƣơng Chiến công hạng ba: -Đơn vị đánh sân bay Vĩnh Long -Đơn vị pháo Vĩnh Long -Du kích xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình -Đại đội 207 Vĩnh Long -Du kích xã An Nhơn, huyện Châu Thành, Sa Đéc -Du kích xã An Phú Đông -Bộ đội địa phương Sa Đéc -Đơn vị biệt động thị xã Sa Đéc -Bộ đội địa phương huyện Tam Bình -Bộ đội địa phương huyện Trà Ôn -Đại đội Tam Bình 185
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
-Đại đội 2 bộ đội địa phương huyện Tam Bình -Bộ đội địa phương tỉnh Vĩnh Long -Đại đội 59 tiểu đoàn 306 (chủ lực) -Đại đội 61 tiểu đoàn 308 (chủ lực) -Đại đội trinh sát đặc công (chủ lực) -Tiểu đoàn 312 (chủ lực) -Đại đội 60 tiểu đoàn 312 (chủ lực) -Xã Mỹ Hòa, huyện Bình Minh, Vĩnh Long -Xã Long Phú B, huyện Tam Bình, Vĩnh Long -Xã Phước Lộc, huyện Long Hồ, Vĩnh Long -Xã Tân Hòa, thị xã Vĩnh Long -Huyện Châu Thành, Sa Đéc -Thị trấn Cái Tàu Hạ, huyện Châu Thành -Xã Tân Mỹ, Sa Đéc -Xã Đông Thành, huyện Bình Minh, Vĩnh Long -Xã Phong Hòa, huyện Bình Minh, Vĩnh Long -Xã Long Hưng, huyện Lấp Vò, Sa Đéc Theo sách “Vĩnh Long tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” – NXB Quân đội nhân dân 1996. Kho Địa chí: 959.787/V312L – DV.000205
186
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
BẢNG TRA CHỮ CÁI TÊN TÀI LIỆU STT
TÊN TÀI LIỆU
STT TL
SỐ TRANG
1
Ban chỉ huy Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) của tỉnh Vĩnh Long gồm những ai?
01
06
2
Bánh tét trong cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân ở Vĩnh Long
40
174
3
Bình Minh – Mậu Thân 1968
21
114
4
Bức tranh Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của nhân dân Vĩnh Long tại thị xã Vĩnh Long và các huyện như thế nào?
02
07
5
Chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 trên chiến trường Vĩnh Trà
04
36
6
Cuộc Tổng tấn công mùa Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân Vĩnh Long
06
54
7
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở huyện Tam Bình Xuân 1968
24
125
8
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân Từ góc nhìn về lịc sử
30
148
9
Đấu tranh chính trị, binh vận trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long
16
95
10
Để chiến thắng Xuân Mậu Thân đi vào đời sống văn hóa
38
170
11
Góp phần làm sáng tỏ việc dùng binh vận khởi nghĩa ở Bắc Mỹ Thuận
17
102
12
Hậu phương Vĩnh Long trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968
18
105
13
Hướng tiến công sân bay Vĩnh Long táo bạo thọc sâu, đánh đúng chỗ hiểm
07
60
14
Khúc tráng ca Xuân Mậu Thân 1968
12
85
15
Kí ức xuân Mậu Thân
13
88
16
Làm thế nào để chiến thắng Mậu Thân 1968 đi vào đời sống văn hóa của nhân dân Vĩnh Long
39
171
17
Long Hồ - Mậu Thân 1968
22
118
18
Mang Thít - Mùa Xuân Tổng tiến công và nổi dậy
23
121
187
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
19
Mậu Thân 1968 ở thị xã Vĩnh Long
09
70
20
Một bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968)
20
109
21
Mùa Xuân này nhớ chiến công xưa
32
152
22
Nhớ Xuân năm ấy
33
154
23
Những nét chính cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long
10
76
24
Phát hiện 35 hài cốt liệt sĩ ở sân bay Vĩnh Long
19
109
25
PHỤ LỤC
45
184
26
Quân và dân Vĩnh Long trong tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968
03
08
27
Sức mạnh lòng dân - Sức mạnh niềm tin
08
65
28
Tấm lòng người dân đô thị trong Tết Mậu Thân!
41
176
29
Tết Mậu Thân 1968: Chiến công ở Giồng Thanh Bạch
27
136
30
Tết Mậu Thân 1968: Một cái tết chấn động địa cầu
14
91
31
Tết Mậu Thân 40 năm trước là trang sử hào hùng của Cách mạng Việt Nam
34
156
32
Tết Mậu Thân 1968 ở huyện Trà Ôn
26
133
33
Tết Mậu Thân 1968 ở Vũng Liêm
28
137
34
Tết Nguyên đán nhớ về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 (Kỷ niệm 45 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân)
35
158
35
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 ở Vĩnh Long
11
78
36
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long - 25 năm sau nhìn lại
36
160
37
Truy điệu 35 liệt sĩ hy sinh trong trận đánh sân bay Vĩnh Long Xuân Mậu Thân 1968
42
177
38
Từ “Đại bản doanh” Cái Ngang - Quyết chiến, quyết thắng
25
131
188
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
39
Vận dụng sáng tạo bài học Xuân Mậu Thân, xây dựng Vĩnh Long thành một tỉnh giàu mạnh
37
166
40
Vị tướng có “duyên nợ” với Vĩnh Long (Kỷ niệm 40 năm chiến thắng Mậu Thân)
43
178
41
Vị tướng có duyên nợ với Vĩnh Long trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân và Chiến dịch Hồ Chí Minh tại thành phố Vĩnh Long?
44
182
42
Vĩnh Long Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 Ý nghĩa và những bài học
31
149
43
Vĩnh Long trong thế trận chiến lược Tổng tiến công đồng loạt Tết Mậu Thân 1968
05
49
44
Vũng Liêm - Những ngày Xuân Mậu Thân 1968
29
144
45
Xuân Mậu Thân (1968), quân dân Vĩnh Long “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như thế nào?
15
94
189
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
MỤC LỤC Lời giới thiệu ..................................................................................................... …..03 Phần I: Vĩnh Long vào Xuân Mậu Thân 1968 - Hƣớng tiến công Thị xã .......................................................…...…………………………………………………..05 01.Ban chỉ huy Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) của tỉnh Vĩnh Long gồm những ai?....................................………………..……………...…...……………..06 02.Bức tranh Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của nhân dân Vĩnh Long tại thị xã Vĩnh Long và các huyện như thế nào?…………………………………………...07 03. Quân và dân Vĩnh Long trong tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968….....…………………………………………………………………………….08 04.Chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 trên chiến trường Vĩnh Trà…....................….36 05.Vĩnh Long trong thế trận chiến lược Tổng tiến công đồng loạt Tết Mậu Thân 1968…………………….………………………. ..…………………………………………49 06.Cuộc Tổng tấn công mùa Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân Vĩnh Long.….......................................................................................................................54 07.Hướng tiến công sân bay Vĩnh Long táo bạo thọc sâu, đánh đúng chỗ hiểm......60 08.Sức mạnh lòng dân - Sức mạnh niềm tin...………................................................65 09.Mậu Thân 1968 ở thị xã Vĩnh Long.......................................................................70 10.Những nét chính cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long………………………………………………………………………………………….76 11.Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 ở Vĩnh Long..............................77 12.Khúc tráng ca Xuân Mậu Thân 1968…………………………………………………85 13.Kí ức xuân Mậu Thân…………………………………………………………………..88 14.Tết Mậu Thân 1968: Một cái tết chấn động địa cầu………………………………...91 15.Xuân Mậu Thân (1968), quân dân Vĩnh Long “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như thế nào?………………………………………………………………………...94 16.Đấu tranh chính trị, binh vận trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long…………………..............................................................................95 17.Góp phần làm sáng tỏ việc dùng binh vận khởi nghĩa ở Bắc Mỹ Thuận………..102 18.Hậu phương Vĩnh Long trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968…….105 19.Phát hiện 35 hài cốt liệt sĩ ở sân bay Vĩnh Long…………………………………..109 20.Một bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968)……………………………………………...110 Phần II: Hƣớng tiến công các huyện, xã ............................................................. 113 21. Bình Minh – Mậu Thân 1968……………... ........................................................114 22. Long Hồ - Mậu Thân 1968……………………......…………………………………118 23. Mang Thít - Mùa Xuân Tổng tiến công và nổi dậy……......………………...........121 24. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở huyện Tam Bình Xuân 1968……….………125 190
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
25. Từ “Đại bản doanh” Cái Ngang - Quyết chiến, quyết thắng....………….............131 26. Tết Mậu Thân 1968 ở huyện Trà Ôn…......………………………………………..133 27.Tết Mậu Thân 1968: Chiến công ở Giồng Thanh Bạch…………………………..136 28. Tết Mậu Thân 1968 ở Vũng Liêm……………......…………………………………137 29.Vũng Liêm - Những ngày Xuân Mậu Thân 1968…………………………………..144 Phần III: Xuân này nhớ chiến công xƣa .............................................................. 147 30. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân Từ góc nhìn về lịc sử……...148 31. Vĩnh Long Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Ý nghĩa và những bài học……………………………………………………………………………………...149 32.Mùa Xuân này nhớ chiến công xưa…………………………………………………152 33.Nhớ Xuân năm ấy ………………………………………………..............................154 34.Tết Mậu Thân 40 năm trước là trang sử hào hùng của Cách mạng Việt Nam…156 35. Tết Nguyên đán nhớ về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 (Kỷ niệm 45 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân)………………….....158 36. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Vĩnh Long - 25 năm sau nhìn lại……………………………………………………………………………………………160 37. Vận dụng sáng tạo bài học Xuân Mậu Thân, xây dựng Vĩnh Long thành một tỉnh giàu mạnh…………………………………………………………..................................166 38. Để chiến thắng Xuân Mậu Thân đi vào đời sống văn hóa…………………...…..170 39. Làm thế nào để chiến thắng Mậu Thân 1968 đi vào đời sống văn hóa của nhân dân Vĩnh Long .........................................................................................................171 40. Bánh tét trong cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân ở Vĩnh Long……………...174 41. Tấm lòng người dân đô thị trong Tết Mậu Thân!…..……………………………..176 42. Truy điệu 35 liệt sĩ hy sinh trong trận đánh sân bay Vĩnh Long Xuân Mậu Thân 1968………………………………………………………………………………………...177 43. Vị tướng có “duyên nợ” với Vĩnh Long (Kỷ niệm 40 năm chiến thắng Mậu Thân).………………………………………………………………………………………178 44. Vị tướng có duyên nợ với Vĩnh Long trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân và Chiến dịch Hồ Chí Minh tại thành phố Vĩnh Long?……………………182 45. PHỤ LỤC……………..……………………………………………………………….184
191
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
192
Thông tin chuyên đề: XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
THƢ VIỆN TỈNH VĨNH LONG
XUÂN MẬU THÂN NĂM 1968 Ở TỈNH VĨNH LONG
Chỉ đạo thực hiện: Nguyễn Xuân Nghiêm Chịu trách nhiệm nội dung, biên tập: Lê Thị Kiều Chinh
Biên soạn: Bùi Lê Bảo Linh
193