HOA ÐÀM SỐ 13

Page 1

hoađàm Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

WWW.HOADAMNEWS.COM

Bộ mới 2014. Số 13

MẠN ĐÀM CHUYỆN ĐỔI TẾT DỜI XUÂN

TRÍCH SỬ Nhân kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi mồng 5 tháng Giêng

TRẦN KIÊM ĐOÀN

TRẦN QUANG ÐỨC

Gần Tết Giáp Ngọ 2014, có anh Tâm Hải Đỗ Kiến Phúc, chủ nhiệm Hiệp Hội Truyền Thông Phật giáo Việt Nam Hải ngoại ở Canada, tham khảo ý kiến v ề một khuynh hướng mới đang hình thành và phát triển chủ trương rằng: “Ngày Tết

“[...] Ôi đường đường là thiên triều lại đi so thắng thua với nước rợ nhỏ thì ắt là muốn giễu võ giương binh để sướng cái dạ tham tàn, đó hẳn là điều lòng thánh thượng không nỡ. Chẳng may chiến sự liên miên không dứt, tình thế đến mức nào, thật không phải điều thần mong muốn mà cũng không dám biết vậy.” (Trích đoạn cuối tờ biểu cầu phong làm An Nam Quốc vương của Quang Trung gửi sang nhà Thanh.)

xem tiếp trang 24

ĐỪNG COI THƯỜNG BỆNH BỎ QUÊN TRẺ NHỎ TRỊNH THANH THỦY

xem tiếp trang 4

CẢM QUAN VỀ LỄ HỘI TÍN NGƯỠNG THÁNG GIÊNG TRẦN TIẾN DŨNG

Việt Nam sau ngày chủ nghĩa vô thần cực đoan bài bác, khống chế mọi giá trị tín ngưỡng tâm linh, chùa đình miếu am; thời kỳ này từ bắc tới nam nếu không là phế tích thì việc thờ tự cũng lâm vào nghịch cảnh xem tiếp trang 19

TÂM BÚT

VIỆT NAM TÔI ĐÂU? CÂU HỎI CỦA NHIỀU THẾ HỆ TRẦN TRUNG ÐẠO

Buổi trưa ở Chennai. Làm việc xong trên đường trở về khách sạn, tôi nhờ người lái xe đưa đi thăm vịnh Bengal. Đứng bên bờ vịnh nhìn sang phía bên kia bờ là Đông Nam Á. Tôi tự hỏi Việt Nam đang nằm ở đâu sau dòng nước xanh

Hình minh hoạ (UYÊN NGUYÊN)

VÀI Ý NGHĨ NHỎ

VỀ CƠN THỬ THÁCH HIỆN NAY CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở HOA KỲ THÍCH NGUYÊN HẠNH

V

iệt Nam và Hoa Kỳ là hai môi trường xã hội sinh hoạt khác biệt. Sự khác biệt ấy không chỉ ở trên bề mặt của đời sống mà còn sâu xa hơn, ở ngay bản chất văn hóa của xã hội - yếu tố định tính cho mọi cảm quan suy nghĩ và thái độ hành xử của con người trong cuộc sống. Chính vì vậy, ngay nơi mỗi con người Việt Nam, mỗi gia đình và cộng đồng Việt Nam ở đây như luôn xem trang 6

ĐÌNH VÀ LỄ HỘI CÚNG ĐÌNH Ở MIỀN NAM TRUNG VIỆT

Sống trong một xã hội mà một cơn sốt thiếu thời giờ lúc nào cũng rình rập, thì căn bệnh “quên” đã trở nên một hội chứng bất trị của nhiều người. Thử hỏi một ngày bạn quay cuồng trong công việc tất bật từ lúc tới sở làm cho đến khi về nhà, việc tư lại tiếp tục chồng chất, bảo sao trí nhớ con người không có lúc kiệt quệ mà quên cái này, bỏ cái kia. Tuy nhiên, có một bệnh quên thời đại, đã ngày càng phổ thông mà bạn không thể không biết tới. xem tiếp trang 10

CHUYỆN CHÍNH TẢ VĨNH HẢO

NGUYỄN MAN NHIÊN

KIẾN TRÚC NGÔI ĐÌNH Ngày xưa vật liệu xây dựng còn thô sơ, các đình ở miền nam Trung Việt thường được xây bằng một loại gạch cổ gọi là ghè ống, hình tròn

như cái ống, đầu dưới bịt kín, đầu trên miệng hơi túm lại một chút, làm bằng đất sét tốt nung kỹ, chịu được cả trăm năm. Những đình ở ven biển thường dùng đá san hô, lấy lên khỏi nước mặn phải phơi nắng mưa ít nhất 6 tháng cho hết chất

muối biển rồi mới xây cất. Nóc đình lợp ngói âm dương, đến giữa thế kỷ XIX lợp ngói vảy cá, từ thế kỷ XX lợp ngói tây là ngói làm theo khuôn của người Pháp, bằng xi-măng và cát, bền chắc hơn ngói ta bằng đất sét.

Hồi nhỏ học ở trường, tôi vẫn thường được thầy giáo kêu lên bảng để viết các bài tập chính tả. Thực ra tôi chỉ thuộc loại khá thôi chứ không phải là giỏi chính tả nhất lớp. Hiếm khi tôi được 10 điểm cho bài tập chính

xem tiếp trang 28

xem tiếp trang 18

XEM TRANH BIỂN CỦA ANN PHONG

CÓ MỘT CÕI TRÚ ẨN, NGOÀI QUÊ HƯƠNG UYÊN NGUYÊN. Pg.34

xem tiếp trang 25

1


TRONG SỐ NÀY Số 13 l Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014 VÀI Ý NGHĨ NHỎ VỀ CƠN THỬ THÁCH HIỆN NAY CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở HOA KỲ – Thích Nguyên Ðạt, tr.1 l ĐÌNH VÀ LỄ HỘI CÚNG ĐÌNH Ở MIỀN NAM TRUNG VIỆT – Nguyễn Man Nhiên, tr.2 l TRÍCH SỬ: NHÂN KỶ NIỆM CHIẾN THẮNG NGỌC HỒI MỒNG 5 THÁNG GIÊNG – Trần Quang Ðức, tr.1 l CẢM QUAN VỀ LỄ HỘI TÍN NGƯỠNG THÁNG GIÊNG – Trần Tiến Dũng, tr.1 l VIỆT NAM TÔI ĐÂU? CÂU HỎI CỦA NHIỀU THẾ HỆ – Trần Trung Ðạo, tr.1 l MẠN ĐÀM CHUYỆN ĐỔI TẾT DỜI XUÂN – Trần Kiêm Ðoàn, tr.1 l ĐỪNG COI THƯỜNG BỆNH BỎ QUÊN TRẺ NHỎ – Trịnh Thanh Thủy, tr1 l CHUYỆN CHÍNH TẢ – Vĩnh Hảo, tr.1 l NƯỚC NON CÁCH MẤY BUỒNG THÊU – Tuệ Sỹ, tr.3 l ẨN DỤ MỘT ĐÓA MAI – Ðại Lãn, tr.4 l MẬU THÂN VỀ ĂN TẾT VỚI MẠ – Ninh Hạ Nguyễn Ðức Tâm, tr.12 l PHẬT GIÁO VIỆT NAM BIẾN CỐ và TƯ LIỆU (1975-1995) – VPII Viện Hóa Ðạo, tr.5 l THEO QUÁCH TẤN TÌM VỀ NÚI CŨ XEM MAI NỞ – Thích Phước An, tr.5 l TỔNG LUẬN VỀ VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI – Huỳnh Kim Quang, tr.6 l SÔNG CHẢY ĐÔI BỜ – Trần Mộng Tú, tr.8 l TRANG KINH TRÊN ĐỒI – Kiệt Tấn, tr.12 l GOOGLE: SỰ DỪNG LẠI ĐANG DIỄN RA – Chân Hiền Nghiêm, tr.14 l MÙNG 8 TẾT MAI SỚM Ở SÀI GÒN – Nguyễn Tấn Cứ, tr20 l DẾ GÁY TRONG ĐÊM – Văn Công Mỹ, tr.21 l TRANH ĐẤU – Hoàng Long, tr.22 l KHÚC XUÂN HOÀI – Trần Mộng Tú, tr.27 l XEM TRANH BIỂN CỦA ANN PHONG: CÓ MỘT CÕI TRÚ ẨN, NGOÀI QUÊ HƯƠNG – Uyên Nguyên, tr.34 l MÀU THẾ KỶ – Ngô Tịnh Yên, tr.37

hoađàm Nhóm Kết Tập HOA ÐÀM Chịu trách nhiệm: NGUYÊN VIỆT 9741 Bolsa Ave Suite: 216. Westminster, California 92683. 714.765.9844 Mọi kiến xây dựng, đóng góp bài vở, xin gởi về địa chỉ: hoadamnewsletter@yahoo.com

2


NƯỚC NON CÁCH MẤY BUỒNG THÊU TUỆ SỸ

M

ột ngày nóng, rồi một ngày lạnh. Người ta cứ mãi triền miên giữa những cơn nóng lạnh bức bách. Bức bách đến kỳ cùng, cho đến khi lòng người vĩnh viễn đắm chìm tận lòng biển. Không nghe và không thấy, người ta chỉ biết nói chuyện bằng những ngón tay, khi nào trời đã tối hẳn. Đến như thế thì đất đá lại biết nói chuyện hơn người. Để bàn tay bất động trên mặt bàn, mối mọt từ mấy trang sách sẽ từ từ chun ra. Trên mặt bàn sẽ hiện nhiều vết máu. Mùi tanh hôi từ các đồng trống kết tụ về có tiếng quỉ cái đọc thơ trên những xác lá. Đừng nói chi đến mùa thu này đi mùa thu khác đến. Chỉ có mùi vị tức tưởi tanh hôi của những cảm khái trong cái phong vận hư phù của tuế nguyệt. Những người quen thói chờ đợi và níu cái gì đến tức phải đến, những người ấy một khi ngửi phải mùi vị ấy thì lảo đảo ngây ngất như nhập đồng cốt, rồi sẽ chập chờn đứng dậy kêu gào, khản giọng kêu gào như quỉ đói. Quỉ đói thì cầu xin một bát cháo ở ngã ba đường, vạch cỏ mà tìm những hạt gạo muối. xem tiếp trang 36

Hình: NGUYỄN MAN NHIÊN

3


ẨN DỤ MỘT ĐÓA MAI ĐẠI LÃN

C

hớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Ngoài sân đêm trước một đóa mai. Sự hiện hữu đột biến phản diện của một đóa mai, đã đánh lay tâm thức của người đọc một cách bất ngờ, tạo ra một mối nghi tình cho hành giả, trong hai câu song thất kết thúc của bài kệ, mà thiền sư Mãn Giác đã trao cho những người đi sau, nhân lúc cáo bệnh thị chúng của ngài, chúng vẫn còn tiếp tục chảy không biết bao nhiêu bút mực để nói về sự hiện hữu của chúng. Vì ở đây, chúng ta mỗi người phàm tình, đang sống với cảm giác cảm tính chứ không phải trí giác của trực giác lý tính, do đó mỗi người có mỗi cái nhìn lệ thuộc vào cảm tính tình cảm thiên kiến của mỗi cá nhân. Vì vậy mọi cái nhìn đều lệ thuộc vào chủ quan tính, để nói lên cái ngã tính của mình thể hiện. Ở đây, mọi người đều có quyền thể hiện, nhưng

MẬU THÂN VỀ ĂN TẾT VỚI MẠ

sự thể hiện đó, chúng được đánh giá như thế nào còn tuỳ thuộc vào tính phổ quát được mọi người chấp nhận và đồng tình hay không, đó là điều đáng nói; còn chuyện muốn vượt qua khỏi mức độ cho phép, thì đó là một chuyện khác, hãy để dành cho đức Phật Di Lặc (hay những vị đạt Đạo) sau này ra đời giải quyết nghi! Ẩn dụ của một đóa mai theo ngôn ngữ luận lý tương đối, chúng ta có thể có khả năng tháo gỡ bóc vỏ để chúng hiện hữu như chính chúng, trong việc phân tích bằng vào ngôn ngữ mà mọi người có thể chấp nhận được thì trước hết, chúng ta phải biết qua xuất xứ của bài kệ này, để từ đó đánh giá đúng hơn về tư tưởng ẩn dụ này qua bài kệ, sau nữa là người viết và người đọc phải tham dự vào, tiến trình động não phân tích qua pháp phủ định những nguyên tắc,

NINH HẠ - NGUYỄN ĐỨC TÂM

BA MƯƠI THÁNG CHẠP Hôm nay đúng ngày cuối năm. Lần đầu tiên Chánh sẽ có những ngày Tết độc thân xa nhà. Cả tuần vừa qua Chánh quá bận rộn. Bạn bè có gia đình ở xa nhờ trực thay để vù về thăm nhà. Ra trường quân y, Chánh được điều động về nơi cao nguyên núi cao phố hẹp này. Đang trùm chăn mơ mơ màng màng, nghe tiếng gõ cửa. Chánh vùng dậy. “Tưởng còn sớm mà đã tám giờ.” “Thưa Bác sĩ, em đến đón Bác sĩ vào trực.” Mở cửa. Trời cao nguyên âm u sương mù. Gió lạnh rùng mình. “Em vào đi. Chờ tôi thay áo quần. Mười phút.” Chánh vào phòng tắm, hắn nói lớn với theo. “Bác sĩ trực thêm ngày này nữa là trả xong nợ. Ngày mai các ông thầy kia sẽ về thay.” “Ừ. Tôi có được ba ngày nghỉ Tết. Chưa biết làm gì cho hết đây.” “Bác sĩ thì thiếu gì chỗ đi. Cô Thư, cô Phượng, lại thêm cô Loan. Nhà cô nào cũng đang chờ bác sĩ.” Thân mật, hắn cười nói trêu vì biết mấy cô này đang ngấp nghé ông thầy mình. “Tầm bậy nghe mầy !” Trên đường, như thường lệ hai thầy trò ghé ăn sáng “bún bò nhà xác”. Tiệm bún bò ngon nổi tiếng gần nhà xác bệnh viện. Hôm nay, từ sáng đến trưa không có trường hợp nào cấp cứu nghiêm trọng. Chánh thong thả xuống thăm bệnh binh. Cảnh bệnh viện thì đâu cũng vậy. Quá đổi thương tâm. Đặc biệt ngày Tết. Có chồng, có con nằm ở đây thì coi như cả gia đình chẳng còn bụng dạ nào mà Tết với nhứt. Các bà mẹ từ nơi xa xôi, lặn lội đem bánh tét bánh chưng, con gà nồi thịt cùng bánh mứt, thăm nuôi con đang rên đau trên giường bệnh. Mẹ thương, nhìn con lo lắng. Cố nén nỗi đau. Sụt sùi. Thấy cảnh nầy đã quen nhưng Chánh cũng xúc động, chợt nhớ đến mẹ mình. Một quyết định đến rất nhanh. Chánh quay về văn phòng và gọi cho Quý ở bên Không Đoàn. “Mi coi ngày mai có chuyến bay đi Huế cho tau một chỗ. Đi mồng một về mồng ba.” “Mầy dỡn chơi hay sao đây? Mai là Tết. Bây giờ gọi mà mai đi thì mầy là Tư lệnh Vùng hả?” “Tau về thăm mạ tau. Mạ tau Tết nhứt… một mình !” Chánh nghẹn lời. Giọng Huế đặc, Chánh thường gọi mẹ mình là Mạ. Quý là người Nam mà mỗi khi nghe tiếng gọi đó cũng thấy sao mà mộc mạc sâu lắng thương yêu. Cảm được Chánh qua giọng nói, Quý chần chừ. “Tao sẽ gọi lại cho mầy trong chiều nay… nếu có.” Chờ đến lúc hết ca trực về nhà vẫn không thấy Quý gọi. Gọi hắn mấy lần thì cô nhân viên cho biết hắn đi vắng. Hình ảnh mẹ già thui thủi trong căn nhà trống lạnh, đơn côi những ngày Tết khiến Chánh mủi lòng. “Con trai cả bầy. Không ở với đứa nào. Đi đâu thì đi, nhưng Tết cũng chỉ một mình nơi ngôi nhà hương hỏa. Để ngày ba bữa hương khói, cúng cơm cho chồng, cho ôn mệ tổ tiên và con cháu khuất mặt.” Điện thoại chợt reo. “Ê mầy ! Chuẩn bị mai tao tới xông đất rồi chở mầy ra phi trường lúc ba giờ sáng. Không có chuyến bay Huế. Tao lấy chỗ cho mầy đi Đà xem tiếp trang 14

4

tiếp theo trang 1

Nhân kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi mồng 5 tháng Giêng (Sứ nhà Thanh) Thang Hùng Nghiệp tiếp kiến thấy kinh hãi, nói với sứ giả Hô Hổ Hầu (nhà Tây Sơn) rằng: “Nay không phải hồi hai quân giao chiến, sao lại dùng một giọng giận dữ hành sự, nói năng thế này. Muốn cầu phong tước chăng, hay muốn dấy binh chăng?” Thang Hùng Nghiệp trả tờ biểu không chịu đề đạt lên. (Theo Đại Nam chính biên liệt truyện - Nhà Tây Sơn).

《大南正編列傳》:乃使其將嘑虎侯遞表求 為安南國王。表言:[...]夫堂堂天朝,較勝負 於小夷,必欲窮兵黷武,以快貪殘,諒聖心 之所不忍。萬一兵連不止,勢到那裏,誠非 臣之所願而亦不敢知也。湯雄業接見大驚, 語來使嘑虎侯曰:此非兩軍交戰之日,何乃 一味以怒氣行事,如此立言,欲邀封爵乎, 抑欲要起兵端乎? Chú thích ảnh: Sách ngọc ghi chép đầu đuôi sự việc tại An Nam do chính vua Càn Long nhà Thanh viết. “Mùa xuân viết về đầu đuôi sự việc tại An Nam, không nhằm kể hết sự thành bại trước đây tại An Nam mà nhằm ghi chép những điều chính yếu về nỗi mừng - sợ đối với sự việc tại An Nam để xem cho khỏi rườm.” Nhân kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi mồng 5 tháng Giêng. (Theo Facebook TRẦN QUANG ÐỨC)


PHẬT GIÁO VIỆT NAM BIẾN CỐ và TƯ LIỆU (1975-1995)

Bài trích đăng nhiều kỳ tư liệu Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ, 1996

26.10.1978: HÒA THƯỢNG ĐÔN HẬU PHẢN ĐỐI CHÍNH QUYỀN CSVN:

X

úc động trước hiện trạng bị đàn áp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và nhất là trước cái chết bi thảm của Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống đã lên tiếng phản đối chính quyền CSVN và viết đơn công khai từ nhiệm hai chức vụ mà Nhà nước đã áp đặt cho ngài trước đây: Ðại biểu Quốc hội và Ủy viên Mặt Trận Tổ Quốc Trung Ương.

THƯ GỞI HÒA THƯỢNG ÐỨC NHUẬN (1897-1993) Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam

tưởng chừng như là một chân lý khó phá vỡ vượt qua, do kinh nghiệm thói quen tập quán mang lại trên mặt hiện tượng. Trước khi thị tịch ngài có để lại cho chúng ta một bài kệ nhân khi ngài cáo bệnh dạy chúng: “ Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa cười. Việc đời qua trước mắt, Già đến trên đầu rồí! Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Ngoài sân đêm trước một đóa mai”. (Thiền Uyển tập anh). Qua xuất xứ bài kệ dạy chúng trước khi người thị tịch và nội dung của chúng, đã kết hợp đủ để chúng ta có một cái nhìn

tổng quát về mặt hiện tượng (tướng-dụng) và ẩn dụ (thể). Đứng về mặt hiện tướng là một vị thiền sư, ngài nói lên cái chức năng của một người dẫn đường trước khi mình qua đời, để cảnh tỉnh những người còn lại sau này qua việc sốngchết. Cho dù bằng vào những kinh nghiệm sống, những thói quen tập quán, mà con người đã rút ra được những chân lý mang tính phổ quát được mọi người chấp nhận đi nữa, thì đó cũng chỉ là một thứ chân lý của tương đối thôi . Vì sao? Vì việc đến đi của mùa xuân chúng tùy thuộc vào vô thường, nếu không có vô thường thì sẽ không có đến-đi,

Kính gởi: Hòa Thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN, Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Hòa Thượng, Vào những ngày cuối cùng của năm Tân Dậu, vì bệnh tình bức bách, nên ngày 21. 01.1982, tôi đành phải rời Huế, vào thành phố Hồ Chí Minh để chữa bệnh, giữa lúc mọi người đang hoan lạc đón xuân sang, và cho đến hiện nay tôi vẫn đang còn được điều trị tại bệnh viện Thống nhất, thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian ấy, ngày 07- 02-1982, tôi lại nhận được lá thư của Hòa thượng gởi cho tôi với danh nghĩa Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Nội dung bức thư ấy, Hòa thượng báo tin cho tôi biết là Hội nghị Đại biểu thống nhất Phật Giáo Việt đã thành tựu viên mãn, cũng như Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định công nhận Bản Hiến chương, danh sách Ban Lãnh đạo và cho phép Giáo hội Phật Giáo Việt Nam hoạt động. Đồng thời Hòa thượng đã có lời khuyên tôi cố gắng cộng tác với Giáo hội trong chức vụ nói trên. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn lòng thạnh tình của Hòa thượng đối với tôi, đồng thời, tôi rất lấy làm vinh dự và tri ân quý Hòa thượng đã dành cho tôi

xem tiếp trang 10

THEO QUÁCH TẤN TÌM VỀ NÚI CŨ XEM MAI NỞ THÍCH PHƯỚC AN

Phật lịch 2525, Bệnh viện Thống Nhất, ngày 08.02.1982

xem tiếp trang 6

Tìm về núi cũ xem mai nở Mộng bén ngàn xa hạt điểm canh. QUÁCH TẤN 1. Trong một bài viết về tác phẩm nước non Bình Định (viết tắt NNBĐ) của Quách Tấn, cố học giả Nguyễn Hiến Lê có nói rằng, ông vốn rất mê các cửa biển miền Trung; Nhưng trong NNBĐ Quách Tấn chỉ dành có mười tám trang để viết về biển, nên đọc xong mười tám trang đó ông còn cảm thấy thèm. Ngược lại, trong chương viết về núi non, Quách Tấn đã dành đến tám chục trang. Và Nguyễn Hiến Lê đã tóm lược tám chục trang mà Quách Tấn viết về núi như thế nầy: “Trong tám chục trang tác giả có tới trên trăm ngọn

núi. Tuy không cao lắm nhưng “hùng dũng hiểm tuấn” nhiều ngọn núi hình dáng rất kỳ dị như ngọn Mã Thiên Sơn, đứng phía này mà ngó thì rất ngạo, hung tợn như “há miệng mắng trời” nhưng đứng phía khác thì trông lại rất hiền lành “lễ độ” có phía coi như ông Phật ngồi, có phía như hổ nằm, mà từ trên cao nhìn xuống thì trông như cánh buồm. Có núi hình dáng không kỳ dị, mà sắc thì diễm ảo như núi Xương Cá, những buổi trưa nắng gắt ở xa trông vào thấy sát khí bốc lên ngùn ngụt. Còn vào những đêm trăng sáng, những buổi sớm tinh sương thì long lanh lóng lánh như hạt kim cương. (1) Và trong quyển hồi ký viết vào những ngày cuối đời,

Nguyễn Hiến Lê vẫn nhắc lại : “Nhất là cảnh núi mà tôi tin chắc rằng không ai viết hay hơn Quách Tấn được”. (2) Trong hơn một trăm ngọn núi mà Quách Tấn đã viết trong NNBĐ, có một ngọn đã chạy dọc sau làng quê của tôi: Hồi nhỏ tôi nghe dân làng gọi là Núi Bà, sau đọc được Quách Tấn thì tôi mới biết núi còn có tên là Bố Chánh Đại Sơn. Đúng như cách gọi của chữ Hán cũng như chữ Việt, núi hùng vĩ vô cùng. Quách Tấn viết trong NNBĐ: “Núi chiếm một vùng rộng có đến trăm dặm vuông. Núi ngó ra biển, hùng vĩ, hoành tráng”. Trong núi có nhiều ngọn cao chất ngất, như Hòn Hèo ở phía Đông Nam, xem tiếp trang 31

5

Hình: IMichael Tran


HUỲNH KIM QUANG

TỔNG LUẬN

VỀ VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI Tiếp theo kỳ trước D. VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM

T

rên mặt sử liệu hiện có, từ rất sớm, ít nhất là vào thế kỷ thứ 3 sau tây lịch, nền văn học Phật giáo Việt Nam đã xuất hiện với tác phẩm Lục Độ Tập Kinh do Thiền sư Khương Tăng Hội dịch. Thực tế, theo Sử gia Lê Mạnh Thát [22] Lục Độ Tập Kinh mà Ngài Khương Tăng Hội dịch sang chữ Hán là dựa vào một cuốn Lục Độ Tập Kinh nguyên bản tiếng Việt có trước đó, nghĩa là khoảng đầu kỷ nguyên tây lịch. Từ đó đến nay, ngót hai ngàn năm, nền văn học Phật giáo Việt Nam tiếp tục tồn tại và phát triển. Trong suốt chiều dài lịch sử hai mươi thế kỷ ấy, trải qua bao nhiêu biến thiên của thời đại, qua bao nhiêu tiếp cận và dung hóa các nền văn minh,

văn hóa và ngôn ngữ khác nhau, cùng với nền văn hóa của giống nòi Lạc Việt, nền văn học Phật giáo Việt Nam đã hiện diện trong ba ngôn ngữ: chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ. Có người nói, văn học chữ Hán không phải là văn học Việt Nam. Họ đã sai. Nếu văn học chữ Hán không phải là văn học Việt Nam thì văn học chữ quốc ngữ gần đây, vay mượn ký tự La Tinh, cũng không phải là văn học Việt Nam nữa. Thực tế, hoàn toàn không phải vậy. Mượn ký tự để diễn đạt truyền thống văn hóa của dân tộc thì không thể nói đó không phải là sản phẩm văn hóa, văn học của bản địa. Nếu sử dụng ký tự chữ Hán mà cho đó là văn hóa, văn học Tàu, vậy thì đất nước Việt Nam đã bị Hán hóa từ cả ngàn năm trước rồi, đâu còn tồn tại độc lập tự chủ cho đến ngày nay. Khối lượng tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam

bằng chữ Hán rất nhiều, trải dài từ thời Thiền Sư Khương Tăng Hội vào thế kỷ thứ 3 sau tây lịch đến đầu thế kỷ 20. Ngoài những tác phẩm luận giải, chú thích, sớ giải, sao chép đối với ba tạng Kinh Luật Luận còn nhiều tác phẩm thơ văn bia phú của chư vị Thiền sư và các văn thi sĩ phật tử hay các nhà văn học dân tộc chịu ảnh hưởng Phật giáo. Trong số những tác phẩm còn lưu lại, chúng ta không thể không nhắc đến: Lý Hoặc Luận của Mâu Tử (160-230), Lục Độ Tập Kinh của Khương Tăng Hội (? – 280), Thiền Uyển Tập Anh của Kim Sơn (1300-1370), Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông (1218-1277), Thượng Sĩ Ngữ Lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung (1230-1291), Cư Trần Lạc Đạo Phú của Trần Nhân Tông (1258-1308), Thập Giới Cô Hồn Văn của Lê Thánh Tông (14421497), Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh của Pháp Tính (1470-1550), Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục

của Minh Châu Hương Hải (1628-1715), Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh của Ngô Thì Nhậm (17461803), Lược Ước Tùng Sao của Viên Thành (18791929), Thủy Nguyệt Tùng Sao của Chân Đạo Chính Thống (1900-1968), cùng các bài thơ, kệ của những Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Ngộ Ấn, Từ Đạo Hạnh, v.v… [23] Ngoài sử dụng chữ Hán để dịch thuật Kinh, Luật, Luận và sáng tác các tác phẩm diễn giải về giáo lý đạo Phật, các vị Thiền sư, các nhà văn học Phật giáo Việt Nam cũng sử dụng chữ Nôm trong lãnh vực sáng tác. Đặc biệt trong các thế kỷ 18, 19, sáng tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam bằng chữ Nôm gia tăng chưa từng thấy qua các Thiền Sư Minh Châu Hương Hải[24] với Giải Di Đà Kinh, Sự Lý Dung Thông; Thiền Sư Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm với Diệu Nghiêm Lão Tổ Thi Tập[25], Thiền Sư

Toàn Nhật Quang Đài với Hứa Sử Truyện Vãn[26], Thi hào Nguyễn Du với Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh, v.v… Đến thể kỷ 20, khi chữ quốc ngữ được sử dụng phổ cập, tình hình văn học Phật giáo Việt Nam lại càng nở rộ hơn bao giờ hết với các tác phẩm phiên dịch Tam Tạng kinh điển từ chữ Hán sang tiếng Việt và những sáng tác văn thơ nhạc bằng quốc ngữ của nhiều vị tăng, ni và văn thi sĩ phật tử hay chịu ảnh hưởng tinh thần Phật giáo. Trong số đó chúng ta không thể không nhắc đến chư vị Thiền Sư như Trí Hải, Tố Liên, Mật Thể, Đôn Hậu, Trí Thủ, Thiện Hoa, Trí Quang, Trí Tịnh, Trí Nghiêm, Thiện Siêu, Đức Nhuận, Minh Châu, Quảng Độ, Huyền Quang, Thiền Tâm, Thanh Từ, Mãn Giác, Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ, Diệu Không, Thể Quán, Trí Hải, cùng chư vị học giả, văn thi sĩ

Hình: LÀNG MAI

tiếp theo trang 1

VÀI Ý NGHĨ NHỎ

VỀ CƠN THỬ THÁCH HIỆN NAY CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở HOA KỲ 6

luôn có một “cuộc nội chiến” dai dẳng, khi âm ỷ thầm lặng, khi bùng nổ thành thảm kịch giữa cũ và mới, già và trẻ, giữa truyền thống và tân thời, bảo thủ và tiến bộ, giữa gốc rễ quá khứ (là Việt Nam) và đời sống hiện tại (là Hoa Kỳ). Thật không dễ dàng cho một sự hòa điệu giữa những khác biệt này. Đó cũng chính là cơn

thử thách lớn hiện nay cho Phật Giáo ở Hoa Kỳ - hiểu như một tôn giáo đến từ phương Đông mà cụ thể với chúng ta là Phật giáo Việt Nam - cơn thử thách có tính cách quyết định cho sự tồn tại và phát triển của nó. Là một xứ sở kết hợp bởi nhiều chủng tộc, nhiều nền văn hóa và tôn giáo


phật tử như Tâm Minh Lê Đình Thám, Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Thiều Chửu, Quách Tấn, Võ Đình Cường, Cao Hữu Đính, Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Công Thiện, Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng, Lê Mạnh Thát, Trụ Vũ, Trúc Thiên, v.v… Trong lãnh vực phiên dịch tam tạng kinh điển, chưa bao giờ Phật giáo Việt Nam có được số lượng Kinh, Luật, Luận được dịch sang chữ quốc ngữ nhiều như giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Các bộ Kinh lớn như 5 bộ Nikaya từ tiếng Pali đã được dịch sang chữ quốc ngữ gồm Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya), Trường Bộ (Digha Nikaya), Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), Tiểu Bộ (Khudaka Nikaya), và Trung Bộ (Majjhima Nikaya). Bốn bộ Kinh A Hàm từ chữ Hán cũng đã được dịch sang chữ quốc ngữ gồm Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và Tạp A Hàm. Các bộ Kinh như Đại Bát Nhã, Tiểu Phẩm Bát Nhã, Kim Cang Bát Nhã, Tâm Kinh Bát Nhã, Diệu Pháp Liên Hoa, Đại Bát Niết Bàn, Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Đại Bảo Tích, Điạ Tạng, Duy Ma Cật, Giải Thâm Mật, Lăng Già, v.v… Các bộ Luật như Đàm Vô Đức Tứ Phần, Ma Ha Tăng Kỳ, Luật Trùng Trị Tỳ Ni, Tỳ Kheo Giới, Tỳ Kheo Ni Giới, Sa Di và Sa Di Ni Giới, v.v… Các bộ Luận như Đại Trí Độ Luận, Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Câu Xá Luận, Duy Thức Tam Thập Tụng, Thành Duy Thức Luận, Du Già Sư Địa

khác biệt, người ta vẫn thường ví von Hoa Kỳ như một melting-pot, hay đúng hơn như một salad bar. Ở đó, mặc dầu Phật giáo đã và đang ảnh hưởng ngày một sâu rộng trong các lãnh vực sinh hoạt trí thức, trong các đại học và các giới văn nghệ sĩ; và mặc dầu, đã và đang có nhiều người Mỹ đến với Đạo Phật, thành khẩn dâng hiến cả tâm hồn và đời sống của họ cho mục đích tìm Đạo, tìm sự hiểu biết và giải thoát nhưng với đại đa số quần chúng, Phật giáo vẫn còn là một tôn giáo xa lạ; và vì vậy, rất dễ bị hiểu lầm; thậm chí dễ bị xem như một tà phái (cult) bên cạnh hàng trăm những tà phái khác. Phải thành thực mà nói, chúng ta chưa mở rộng được cánh cửa của Phật giáo Việt Nam để có được sự tiếp cận hòa hợp tối thiểu và cần thiết với quần chúng và xã hội Hoa Kỳ. Ngoại trừ những khuôn mặt hhiếm hoi như Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thiền Sư Nhất Hạnh..., một số lớn cộng đồng Phật giáo đến từ phương Đông vẫn còn đang rất khép kín trong lề lối sinh hoạt của mình và đang phải mò mẫm để làm quen với khí hậu văn hóa ở đây. Tương lai, cánh cửa có thể mở rộng hơn nhưng nếu được vậy thì đây vẫn là một tiến trình rất chậm chạp. Có nhiều lý do để giải thích cho tình trạng trên. Có thể là do các tổ chức và cơ sở Phật giáo nghèo

Luận, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Thanh Tịnh Đạo Luận, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận, Thành Thật Luận, v.v… Tất cả đều được dịch sang tiếng Việt. Trong lãnh vực luận giải Tam Tạng kinh điển, từ giữa thế kỷ 20 đến nay, khối lượng sáng tác thật đồ sộ với hàng trăm bộ sách diễn giảng, chú thích về Kinh, Luật, Luận do chư vị tăng, ni và cư sĩ phật tử thực hiện. Đây là thời kỳ sáng tác văn học Phật giáo phát triển mạnh nhất từ trước tới nay. Ngoài những sáng tác diễn giải trực tiếp đối với Tam Tạng kinh điển, trong thời kỳ giữa thế kỷ 20 đến nay, nền văn học Phật giáo Việt Nam còn đón nhận một lượng đồ sộ những sáng tác thuần túy thuộc lãnh vực văn chương như thơ, truyện dài, truyện ngắn, hồi ký, nhật ký, tùy bút, tâm bút, tự truyện, sưu khảo, bình luận, nhạc, kịch, v.v… Sở dĩ nền văn học Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ này có được sinh khí mạnh mẽ như vậy là nhờ vào hai yếu tố chính: Một là phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Hai là bối cảnh sinh hoạt bùng phát của văn học Việt Nam. Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam vào những thập niên đầu thế kỷ 20 đã thổi vào chốn thiền môn khép kín trước đó một luồng sinh khí tươi mát và đầy phấn khích về các lãnh vực nghiên xem tiếp trang 38

nàn phương tiện và vật chất trong một xã hội mà vật chất là ưu thế. Có thể là do các tổ chức Phật giáo thiếu kinh nghiệm tổ chức trong một guồng máy mà kỹ thuật tổ chức (organizational skills) là một yếu tố then chốt cho mọi sự phát triển và thành công. Cũng có thể là do – và đây là lý do quan trọng nhất theo chúng tôi – các tổ chức Phật giáo chưa vận dụng được khả năng thích ứng của mình trong một môi trường văn hóa, tâm lý và xã hội hoàn toàn khác biệt với truyền thống đã đào luyện nên chúng. Dù lý do nào thì tình trạng trên đây cũng đặt ra những vấn đề nghiêm trọng mà Phật giáo Việt Nam ở Hoa Kỳ phải đương đầu - không phải chỉ với xã hội Hoa Kỳ mà còn cả với quần chúng Việt Nam trong cộng đồng của mình. Nuôi cây trồng đất mới bằng các chất liệu cũ Những hình thức nghi lễ và nếp sống tín ngưỡng có tính cách truyền thống mà các cộng đồng Phật giáo đang cố gắng duy trì ở nhiều mức độ khác nhau ngày càng tỏ ra không thích hợp với nhu cầu tâm lý và tâm linh của con người ở đây, ngày càng làm cho Phật giáo trở nên một thứ cổ vật (obsolete) thay vì phải là một Đạo Phật sống động cho con người hiện sinh như chính bản chất của nó. Đây là

ÐỆ TAM TĂNG THỐNG GHPGVNTN HOÀ THƯỢNG THÍCH ÐÔN HẬU

một chức vụ quan trọng như thế. Nhưng, thưa Hòa thượng, như Hòa thượng đã biết, vào đầu mùa xuân năm 1980, cũng chính là lúc tôi đang nằm điều trị ở bệnhviện Thống nhất này, thì hay tin Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, trong đó tôi được có tên với danh nghĩa Cố vấn. Thế nhưng bệnh duyên chướng ngại, nên tôi đã không tham gia được một Phật sự nào đáng kể, ngay cả cuộc Hội nghị Đại biểu vừa qua tôi cũng phải vắng mặt. Cho nên, tôi xét thấy mình tuổi đã già, sức đã yếu lại bệnh hoạn liên miên và mỗi ngày càng thêm trầm trọng. Do đó, tôi viết thư này để kính báo với Hòa thượng để Hòa thượng rõ là tôi không thể đảm nhận được chức vụ quan trọng “Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật” Giáo hội Phật Giáo Việt Nam mà hội nghị đã đề cử. Tuy vậy, riêng cá nhân, tôi vẫn luôn luôn tâm nguyện sẽ tiếp tục đem tất cả sức tàn ra phụng sự chánh pháp trong khả năng còn lại của mình và trong điều kiện sức khỏe cho phép. Rất mong Hòa thượng thông cảm và nhận nơi đây lòng chân thành của tôi. Kính chúc Hòa thượng phước trí nhị nghiêm, chúng sanh dị độ. Kính thư, Tỳ kheo ĐÔN HẬU (ấn ký)

THƯ GỞI HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ Trưởng ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt nam.

Phật lịch 2525, Linh Mụ, ngày 24 tháng 11 năm1981. Kính gởi: Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ Trưởng ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt nam. Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Đại hội Đại biểu Thống nhất Phật Giáo Việt Nam. (tổ chức tại Hà Nội từ ngày 4-7.11.1981) Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật Thưa Hòa thượng, Như Hòa thượng đã biết, từ mùa xuân năm 1980, khi Ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt Nam ra đời, tuy quí vị có ghi tên tôi vào Ban vận động, với danh nghĩa Cố vấn, nhưng tôi đã không có sự cộng tác gì với Ban vận động cả, kể cả cuộc Đại hội thống nhất Phật Giáo Việt Nam vừa qua tôi đã vắng mặt. Thế nhưng, qua báo chí và các văn kiện Đại hội phổ biến, lại thấy có tên tôi trong Ban Thường trực Hội đồng chứng minh với chức vụ Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật. Tôi xin chân thành cảm ơn Hòa thượng và Đại hội đã dành cho tôi vinh dự đó. Tuy nhiên vì lý do sức khỏe nên tôi không thể đảm nhận thêm chức vụ này được nữa, trong khi tôi vẫn còn một trách nhiệm lớn đối với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất trong cương vị Chánh Thư ký kiêm Xử lý Viện Tăng Thống. Do đó, nay tôi viết thư này kính tin Hòa thượng rõ, và nhờ Hòa thượng hoan hỷ chuyển đạt tinh thần bức thư này đến quý vị trong Đoàn Chủ tịch cuộc Đại hội vừa qua. Kính chúc Hòa thượng pháp thể khinh an, chúng sanh di độ. Và mong Hòa thượng nhận nơi đây lòng chân thành của chúng tôi. Nay thư, Tỳ kheo THÍCH ĐÔN HẬU (ấn ký)

xem tiếp trang 8

7


SÔNG CHẢY ĐÔI BỜ TRẦN MỘNG TÚ

Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)

Cả dòng sông dài thương nhớ Nửa tay cầu vai nghiêng (Trần Dạ Từ)

N

ước Việt Nam của tôi có trên hai ngàn con sông và kênh. Tổng cộng chiều

dài của sông, nếu đem nối vào nhau thì được gần bốn mươi hai ngàn cây số, nhưng mới khai thác khoảng hơn tám ngàn cây số.(*) Sông chẩy ngang, chẩy dọc từ Nam Quan đến Cà Mâu. Có sông thì phải có cầu, đã biết bao nhiêu cây cầu được bắc

qua những dòng sông đó. Có những cây cầu làm nên thương nhớ, có những cây cầu chỉ là duyên cớ cho một nỗi bâng khuâng. Có những cây cầu chở những mồ hôi nước mắt và nhọc nhằn của người dân lam lũ, ngày hai lượt đi về kiếm sống cho gia

tiếp theo trang 6

VÀI Ý NGHĨ NHỎ

VỀ CƠN THỬ THÁCH HIỆN NAY CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở HOA KỲ điều tự nhiên dễ hiểu. Những hình thức nghi lễ và nếp sống tín ngưỡng ấy là sản phẩm tinh thần của một thời rất xa, rất khác với bây-giờ-và-ở-đây, của một xã hội nông nghiệp mà ở đó, con người sống với ruộng vườn, không bị máy móc ngự trị đến phải đánh mất cái sinh thú nhàn hạ như cái xã hội công nghiệp với những con người của thành thị đang ngày đêm phải chạy theo tốc độ ở đây. Nếp sinh hoạt thay đổi theo sự thay đổi của tính chất xã hội cũng làm thay đổi luôn mọi cảm quan, nhân thức và các nhu cầu tâm sinh lý của con người. Hẳn nhiên, một tôn giáo của Trí Tuệ không thể nhắm mắt đi theo dục vọng u mê của con người, không thể chạy đuổi theo cái khuynh hướng hưởng thụ tiện nghi và sống bằng những khẩu hiệu quảng cáo nặng chất thương mãi cả trong việc truyền bá giáo lý như một số lớn các tổ chức tôn giáo ở đây. Bởi vì, làm như thế thì chỉ là đi tìm một sự thỏa hiệp dễ dãi giữa tôn giáo và dục vọng, chỉ là thế-tụchóa tôn giáo, sa-đọa hóa tinh thần con người. Đó không phải là thích nghi,

thích ứng theo cái nghĩa “tùy duyên”, “tùy thuận” hiểu như là sự vận dụng những phương tiện thiện xảo để chuyển hóa dục vọng con người. Thử đặt vào một trường hợp bình thường để dễ thấy ra vấn đề một cách bình thường: Một thanh niên ngày nay, không bị bệnh hoạn và khủng hoảng gì đặc biệt, tin Phật theo truyền thống gia đình, đến chùa dự một buổi lễ Phật bình thường. Người đó sẽ cảm nhận được gì với khung cảnh đầy mầu sắc hỗn tạp và với những lời kinh tụng khó hiểu? Người đó thấy mình gần gũi, gắn bó hay thấy mình xa cách, lạc lõng? Cái kinh nghiệm tôn giáo bước đầu nào mà một buổi lễ như thế có thể mang đến cho anh ta? Thật là nông nỗi sai lầm nếu vì đó (như trường hợp của người thanh niên này) mà ta vội vàng chối bỏ truyền thống, chối bỏ những hình thức nghi lễ và nếp sống tín ngưỡng có tính cách truyền thống. Nhưng cũng thật là bảo thủ đến cố chấp nếu ta chỉ biết nhắm mắt theo truyền thống (một thứ truyền thống bị pha tạp đến độ phản lại cả tinh thần trong sáng của giáo

lý Phật Đà) để không một chút quan tâm đến cảm quan và các nhu cầu tâm lý và tâm linh của con người ở-đây-vàbây-giờ nếu ta hiểu Phật giáo trước hết như là một phương pháp chuyển hóa con người. Chặt gốc rễ thì cây không sống được. Nhưng nuôi cây bằng các chất liệu cũ không hợp với thủy thổ mới thì cây không tươi tốt được đã đành mà gốc rễ cũng sẽ chết dần đi thôi.

ÓC SÙNG BÁI THỜI THƯỢNG Chủ nghĩa duy vật chất và kỹ thuật, óc sùng bái văn minh Âu Mỹ do bởi sức mạnh kinh tế và chính trị của nó dễ khiến cho người Phật tử Việt Nam (và cả Á Đông) ở Mỹ – nhất là giới trẻ - nhìn Phật Giáo như là một tôn giáo hủ lậu, mê tín dị đoan, thiếu văn minh, tiến bộ trong khi với một thiểu số người Mỹ hiểu được Phật giáo thì lại ngạc nhiên mà thấy Phật giáo đúng là một tôn giáo của Trí Tuệ, chứa đựng những tư tưởng hết sức tiến bộ, văn minh, đi trước cả những khám phá của khoa học tân tiến nhất - một điều rất hiếm

8

đình. Có những cây cầu được sơn bằng máu và rửa bằng nước mắt của người dân vô tội, chết tan xác vì một trái bom gài dưới chân cầu, hay chết giữa lằn đạn của hai phía đầu cầu bắn đến. Nước ở dòng sông mầu xanh hay sắc đỏ, còn tùy khúc sông

chẩy qua đó có bao nhiêu xác trôi qua, có bao nhiêu giấc mơ thả xuống.

thấy trong các nội dung tư tưởng của các tôn giáo và đạo lý Tây phương. Hiện tượng hai chiều có tính cách đối nghịch này có ý nghĩa rất lớn và đáng được đánh giá một cách nghiêm chỉnh. Tiếc thay, người Phật tử Việt Nam, dễ dãi trong niềm tin của mình, hiếm có người quan tâm để thấy được ý nghĩa của nó. Có lẽ, người Phật tử Việt Nam ở một thời gian dài đã qua, không có nhiều cơ hội để học hỏi giáo lý, để hiểu Đạo và sống Đạo mà chỉ tin Đạo như bất cứ một thứ “tín ngưỡng hữu thần” nào khác theo kiểu “xưa bày nay vậy”; đến khi sống ở xứ này, chóa mắt trước cái vẻ hào nhoáng bên ngoài của nó, vội thấy những hình thức của tín ngưỡng mình theo trở nên lỗi thời, quê mùa, hũ lậu. Trong khi đó, giới trí thức Âu Mỹ - ngoại trừ những kẻ “canh gác Phật giáo như canh gác một kẻ thù” - có cơ hội và điều kiện hơn để học hỏi và tiếp xúc trực tiếp với kinh điển Phật giáo; và vì vậy, dễ thấy được Phật giáo như một nguồn suối của Trí Tuệ và Tâm Linh. Cũng có lẽ, do vì va chạm nhiều với những thực tế tiêu cực, nhiều khi cay đắng đến phũ phàng của sinh hoạt các tổ chức Phật giáo đã qua ở Việt Nam và hiện nay ở hải ngoại giữa những hoàn cảnh ngỗn ngang của thời thế mà người Phật tử Việt Nam không tránh được cái mặc cảm tự ty và tâm trạng hoang mang về tôn giáo của mình so với cái vẻ sang

trọng bề ngoài của các tổ chức và sinh hoạt tôn giáo ở đây. Trong khi đó, giới trí thức Âu Mỹ, trưởng thành trong truyền thống tôn giáo của họ lại va chạm với những tín điều thiếu Trí Tuệ và thực tế lịch sử nhiều khi tàn bạo đến khó có thể chấp nhận được của các tôn giáo Tây phương nên dễ dàng hơn trong suy nghĩ và nhận định về Phật giáo. Cũng rất có lẽ, do bởi khuynh hướng đi theo những quyền lực thế tục mà Phật giáo vốn không có nên người Phật tử Việt Nam dễ dàng bỏ Đạo để đi theo tôn giáo mới mà lịch sử của nó cho đến bây giờ đã luôn luôn chứng tỏ là một thế lực đáng kể trong mọi lãnh vực sinh hoạt chính trị, kinh tế, xã hội.. ...

Trong hai chục năm “Nội chiến từng ngày” những thân cầu đã nát tan vì nhận biết bao nhiêu mảnh đạn, vỏ bom của Trung Cộng, của Nga của Mỹ và

TRONG MẶC CẢM TỰ TI, NHỮNG CON NGƯỜI KHÔNG QUÁ KHỨ Những vấn nạn thực tế trên đây đưa đến hậu quả là, giới trẻ Việt Nam vốn lớn lên trong truyền thống Phật giáo ngày càng xa cách Đạo, xa cách với các môi trường sinh hoạt Phật Giáo trong khi các tôn giáo khác lại hết sức tìm cách cám dỗ họ; và do nhu cầu liên hệ với môi trường sống chung quanh (bạn học, bạn đồng nghiệp, người phối ngẫu...) càng dễ khiến họ chối bỏ căn cước tinh thần và tôn giáo của mình. Sự chối bỏ này, đứng trên


đã ôm ấp bao nhiêu xác của dân lành. Nước của mỗi con sông lớn nhỏ đã hòa bao nhiêu máu lệ oan khiên. Nhưng trong dòng oan khiên đó những cây cầu ở quê tôi vẫn mang đến cho tuổi thanh xuân của chúng tôi bao nhiêu điều thơ mộng. Bây giờ là tháng sáu Quê hương đang mùa mưa Mưa trên cây cầu cũ Mưa trên dòng sông xưa Cây cầu thời thơ dại Dòng sông thời mộng mơ Cô nữ sinh trung học Thả bao nhiêu bài thơ (1) Mỗi dòng sông lớn, mỗi con kênh nhỏ; từ chiếc cầu xây bê tông cốt sắt, cốt thép cho đến cây cầu khỉ bằng những thân tre gầy guộc, đều chứng kiến không ít thì nhiều vào vận nước đổi thay Những cây cầu chính của cả ba miền, khi nói đến tên thì ai cũng biết, vì nó đánh dấu một đoạn thời gian khói lửa, nó có tên trong những trang sử của quê hương. Cầu chữ Y, cách chợ Bến Thành hai cây số, ở miền Nam là chiếc cầu có hai chân xoạc ra hình chữ Y bắc giữa hai con kênh Bến Nghé và kênh Tẻ. Chân cầu này đã có lúc là nơi trú ẩn của những người ăn mày, của các đứa trẻ đánh giầy, của những người phiêu bạt ngã vào nhau làm thành một cái gia đình không nhà không cửa, đến dăng lên cái bạt hay dựng máy tấm bìa xé ra ở một cái thùng giấy làm mái che.

quan điểm Phật giáo như một tôn giáo của Trí Tuệ, của sự thức tỉnh, không cần tìm sức mạnh ở số đông người theo có thể chẳng phải là điều đáng bận quan tâm. Nhưng trên quan điển nhân văn và xã hội, chúng ta không thể không quan tâm đến những hệ quả của nó. Đó là cảm thức bơ vơ, lạc lõng vì mất gốc rễ, là những rối loạn tâm lý đưa tới những bệnh hoạn tâm thần ở nơi những người trẻ này kéo theo những xung đột, khủng hoảng trong đời sống gia đình của họ. Một con người sống không quá khứ rất dễ trở thành một con người sống không tương lai. Và vì vậy, họ dễ dàng bị xô đẩy nhanh chóng vào cuộc sống sa đọa, chìm đắm vào ma túy và rượu và những hình thái bạo hành khác theo bản năng dục vọng không giới hạn của con người. Nó tạo nên những vấn đề gia đình và xã hội phức tạp, rắc rối giữa một xã hội rộng lớn mà nền văn hóa của nó cũng đang phải đương đầu với nhiều khủng hoảng tâm lý và xã hội rối rắm. Cứ nhìn vào các cộng đồng thiểu số ở các xã hội Âu Mỹ, hầu hết các vấn đề nảy sinh ở đó là do các thành phần không có ý thức về truyền thống quá khứ của họ. Điều này cũng rõ rệt ở giới trẻ Việt Nam đang “nổi loạn” trong xã hội này. Không có ý thức về gốc rễ tôn giáo và gia đình, về văn hóa của giống nòi, những người trẻ ấy sống không ngày mai, không lý tưởng, sống bất cần đời,

Có những đứa bé oe oe khóc tiếng chào đời ngay dưới chân cầu này. Ngược dòng lịch sử, chiếc cầu này đã hứng bao nhiêu mảnh đạn trên thân thể từ thời Bình Xuyên Bẩy Viễn và chính phủ Ngô Đình Diệm (1955). Nó đã ôm bao nhiêu xác dân, xác lính (cả hai miền Nam Bắc) trong trận Mậu Thân (1968).

được. Cầu Tràng Tiền ôm mặt khóc. “Vì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau là lỡ nhịp cầu”(3)

sông…/Ôi Việt Nam nơi nồi da sáo thịt/Nơi con Hồng tàn phá giống Lạc Hồng…” Ranh giới chia cắt hai miền Nam Bắc là huyện Gio Linh, và huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị. Cả cây cầu và dòng sông cùng trải ra như một tấm da người nhận kín những vết chàm xăm lịch sử.

Cầu TràngTiền bắc trên sông Hương sáu vày, mười hai nhịp đi vào văn học, vào trái tim của nam thanh nữ tú, của hẹn hò, của hình ảnh, với những bài thơ tình rất Huế, đã làm cho người miền Bắc, người miền Nam ngẩn ngơ mong ước được đi trên cây cầu đó ít nhất một lần trong đời. Cầu Tràng Tiền là linh hồn của thành phố Huế, hay nói đơn giản, là Huế. Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy Nắng mênh mang mấy nhịp Tràng Tiền Nón rất Huế nhưng đời không phải thế Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng (2)

Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng ở miền Bắc trong trận chiến Bắc Nam đã hứng mười bốn lần bom Mỹ dội xuống, làm gẫy bẩy nhịp và bốn trụ chân (1965-1972) Đây cũng là giai đoạn người dân miền Bắc phải đi sơ tán. Con sông Hồng nước có đỏ thêm không, khi mỗi lần bom trút xuống? Một ngôi chợ Long Biên không cách xa cầu bao nhiêu là ngôi chợ lớn thứ hai của Hà Nội, sau chợ Đồng Xuân, ngày nay là nơi hàng nhập cảng của Trung Quốc nhiều hơn hàng trong nước. Từ quần áo, máy móc cho đến trái cây, rau cỏ. Chân cầu Long Biên cũng là nơi những người nghèo khổ dùng làm chỗ nương thân. Cũng có những mái lều bằng lá, bằng bạt đắp điếm lên nhau để được gọi là “Cái nhà” và những đứa bé sơ sinh (không có giấy khai sinh) cũng được lớn lên từ đó.

Để rồi trong trận Mậu Thân, súng đạn và tội ác cũng làm nhịp cầu gẫy gập.“Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi/Nón lá buồn khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài…” Không phải chỉ đơn giản như vậy, mà sau nhịp cầu gẫy đó là hàng hàng, lớp lớp, những nấm mồ chôn tập thể, cả thành phố Huế quấn khăn tang, và nỗi oan khiên đó người miền Trung và người miền Nam không bao giờ quên

Nhưng chiếc cầu ghi dấu đậm nhất trong lịch sử Việt Nam là cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải. Đối với người Việt của cả hai miền Nam Bắc, cầu Hiền Lương là một chứng tích đau thương nhất của cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Nó làm cho người dân Việt nhớ đến bài học lịch sử của thời Trịnh Nguyễn phân tranh; “Ôi Việt Nam cùng Việt Nam gây hấn/Muôn ngàn xưa để hận cho dòng

bất cần các giá trị đạo lý nhân văn và xã hội, sống nổi loạn với cái hiện tại ngập tràn những điều vô nghĩa. Tổ chức Phật giáo bị thiệt thòi, mất mát có thể không thành vấn đề. Nhưng sự đau khổ của con người kéo theo những thảm kịch cá nhân, gia đình và xã hội là điều không thể không nghĩ tới. Và ở điều này, khả năng đối trị, chuyển hóa đau khổ của Phật giáo là một sự thử thách cần thiết đáng được quan tâm. Khi mà giới trí thức Âu Mỹ ngày càng tìm về Đông phương - đặc biệt của Phật giáo - để mong thiết lập một nền tảng quân bình cho tâm hồn và đời sống mà nền văn minh vật chất kỹ thuật đã lấy mất đi của con người thì người Phật tử Việt Nam sao lại phải mang mặc cảm tự ti trước sức mạnh của nền văn minh vật chất kỹ thuật Tây phương?

ÁNH SÁNG ĐẾN TỪ PHƯƠNG ĐÔNG Người Phật tử Việt Nam có đủ lý do để trân trọng cái gia tài tôn giáo và đạo lý của mình. Bởi vì, giữa tất cả những đổ vỡ của tâm hồn và đời sống con người hiện nay, Phật giáo đã hiện ra như một tôn giáo duy nhất - khác biệt với tất cả những tôn giáo khác – cung ứng được cho con người những phương pháp đối trị và chuyển hóa đau khổ. Không phải là ngẫu nhiên mà Phật giáo, trong khi chẳng là

gì hết trên các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, xã hội ở xứ Mỹ này; các tổ chức Phật giáo lại càng chẳng là gì hết nếu so sánh với tổ chức của các tôn giáo khác nhưng điều kỳ diệu là, Phật giáo lại ảnh hưởng thâm trầm lên hầu hết các hoạt động trí thức của Mỹ, từ bầu khí học thuật nghiêm chỉnh trong các đại học đến các sinh hoạt nghệ thuật; từ triết học, tâm lý học, văn chương đến các ngành khoa học... Đó là bởi, không phải do tuyên truyền quảng cáo, không phải do quyền lực chính trị, kinh tế mà là do các giá trị nằm ngay ở tự thân của Phật giáo. Tinh thần bao dung, hòa bình, bất bạo; tính cách thực tiễn, không cực đoan trong nhận thức và hành động; những tri kiến như thực về

9

Ta hãy cúi nhìn xuống vết chàm xăm đó: Sông Bến Hải dài một trăm cây số (100km), bề ngang, chỗ rộng nhất là hai trăm thước (200m), chỗ hẹp khoảng hai mươi đến ba mươi thước. Cây cầu Hiền Lương nguyên thủy có từ 1928. Sau bao lần mục nát, được Pháp xây lại (khoảng1950-1952) bằng những cột sắt có chữ Made in England và ván thông sàn tầu có chữ Made in US , thợ xây cầu là lính công binh viễn chinh Pháp. Như vậy chiếc cầu chia cắt người Việt hai miền được xây bằng những bàn tay ngoại nhân và dùng vật liệu của ngoại quốc. Cầu dài 178 thước, có 7 nhịp, rộng 4 thước. Cầu chia ra là hai phần, Miền Bắc có 450 tấm ván, miềm Nam có 444 tấm. Ván cầu về miền Bắc sơn đỏ, của miền Nam sơn xanh. Giữa hai phần xanh đỏ đó là một cái nẹp sắt phân chia bề ngang rộng mười phân (10cm). Chao ôi, chỉ có mười phân thôi mà hơn hai mươi năm không với được nhau! Trong một bài viết “Khi Những Dòng Sông Chẩy

bản chất của con người và vũ trụ và của các hiện tượng tâm lý, sinh lý, vật lý; nếp sống theo năm giới và tám con đường chánh...; và thiết thực hơn nữa, những phương pháp đối trị và chuyển hóa tâm thức ngay từ cội rễ của chúng là những gì mà Đạo Phật đã mang đến cho Tây phương và là những gì mà Tây phương ngày nay đang cần hơn bao giờ. Gia tài của chúng ta có đó. Nhưng sử dụng được gia tài, sử dụng được những đạo lý và phương pháp đó một cách có hiệu quả hay không là tùy thuộc vào sự vận dụng của chúng ta trong những hoàn cảnh khác biệt. Đó chính là vấn đề làm thế nào để Phật giáo không đánh mất yếu tính của

Thành Âm Nhạc” tác giả Phương An có cho chúng ta biết ảnh hưởng của sông Bến Hải đi vào âm nhạc như thế nào: “Vĩnh Cát viết Bạn ơi hãy nghe bến Hải tâm tình: “Dòng bến Hải nước xanh xanh mằn mặn. Có từng đàn cá bạc nhảy tung tăng. Dòng sông hẹp sóng êm êm phẳng lặng. Có sẵn đò mà chẳng được sang ngang ...”. Trần Viết Bính không nêu địa danh nhưng cũng tả rõ về con sông giới tuyến ấy qua “Nhà em ở phía bên sông, nhưng dòng sông từ ngày có kẻ ngăn đôi, cho tình ta bên này bên ấy rời xa ...” Tôi bỗng nhớ đến những dòng nước không bao giờ hòa làm một trong thiên nhiên như lằn ranh giữa nước ngọt và nước mặn nơi cá hồi (salmon) về nguồn, như dòng nước nóng và lạnh của con sông Ohio (ở nước Mỹ) người ta phải cho nước nóng vào mùa đông và nước lạnh vào mùa hạ cho cá sống. Những nguồn nước này chẩy song song và không bị hòa tan trong nhau nhưng không gây ra một thảm họa nào cho con người, không chia cắt thịt xương đồng chủng. Đã bao nhiêu lần cả hai bên cùng sơn đi sơn lại những tấm ván bên phía của mình. Hai mươi năm huynh đệ tương tàn. Người được kẻ thua sau 35 năm vẫn ngun ngút hận thù. Miếng nẹp ngăn đôi bây giờ, chắc đã được tháo ra, những tấm ván chắc đã được sơn chỉ một mầu, xem tiếp trang 40

mình trong khi vẫn thích ứng với căn cơ và đáp ứng được nhu cầu của con người thời đại. Cụ thể, đó là vấn đề, Phật giáo phải được hoạt dụng thế nào để không trở thành một “kẻ lạ” với nền văn hóa vật chất kỹ thuật mà dù muốn dù không, Phật giáo cũng phải đối diện và tiếp cận trong khi làm công việc đối trị và chuyển hóa của nó.

NGHĨ GẦN RỒI LẠI NGHĨ XA... Trên một bình diện rộng lớn hơn, vấn đề đặt ra trên đây cho các cộng đồng Phật giáo Á Đông ở Âu Mỹ, sớm hay muộn cũng sẽ là vấn đề đặt ra ngay ở các quốc gia Á Đông – trong đó có Việt Nam. Bởi xem tiếp trang 18


tiếp theo trang 1

ĐỪNG COI THƯỜNG

BỆNH

BỎ QUÊN TRẺ NHỎ Hội chứng “bỏ quên trẻ nhỏ” đã biến thành mối quan tâm rộng lớn của mọi tầng lớp xã hội ngày nay vì mức nguy hiểm do hậu quả của nó đem lại. Trong sự suy sụp, èo uột của kinh tế, người không có việc làm thì bận rộn tìm việc hay không đủ tài chánh lo cho con cái, trẻ nhỏ. Người có việc, vì sự cắt giảm, cắt người, phải chịu áp lực nhiều hơn nơi công sở. Việc nhà làm hoài không hết, lại còn phải lo cho con cái chu toàn, đã biến con người thành cái máy làm việc không ngơi nghỉ. Bệnh “bỏ quên trẻ nhỏ” đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Đó là trường hợp của một em bé 2 tuổi bị chết trong xe vì mẹ bỏ quên. Bà Karen Murphy(40 tuổi, ở bang Virginia, Mỹ) là một bác sĩ thú y, bị buộc tội giết người và bỏ bê trẻ nhỏ, có thể phải đối mặt với 40 năm tù giam. Daily Mail cho biết, ngày 17/6/2011, khi Karen về đến nhà lúc 4 giờ chiều thì nhận được điện thoại của

chồng nói rằng bé Ryan không có ở nhà trẻ. Khi Karen nhớ ra, mở cửa xe mình, thì phát hiện bé trai vẫn bị giữ trên ghế ngồi từ buổi sáng. Cậu bé sau 7 tiếng trong xe cửa đóng, đã tử vong vì nóng. Ngay sau đó, bà đã bị bắt. Theo hãng NBC dẫn thông tin điều tra cho biết, đây không phải là lần đầu tiên Karen Murphy bỏ quên con trong xe. Trước đây, bà đã từng bỏ quên cậu bé trong xe 20 phút. Theo bạn bè kể, bà có một cuộc sống gia đình rất hạnh phúc và là một bà mẹ thương yêu con cái. Bà có 3 đứa con 11,9 và 2 tuổi, bà còn làm chủ một bệnh viện thú y lớn. Bi kịch của lầm lỗi tai hại không thể giải thích này không phải là một tội ác. Tuy nhiên bà mẹ ấy sẽ phải rời gia đình êm ấm và 2 đứa con nhỏ để ngồi tù trong những năm còn lại đời mình. Bà không những mất đi đứa con nhỏ yêu thương mà còn phải sống trong địa ngục tăm tối của sự dày vò và hối hận vì một phút quên lãng vô tình của mình.

tiếp theo trang 4

ẨN DỤ MỘT ĐÓA MAI và không có đến-đi thì sẽ không có mùa xuân. Do đó, việc: “ Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa cười.” chỉ là hiện tượng biến dịch (vô thường) THƯỜNG chứ không gì khác. Ở đây, chúng biểu trưng cho việc sống chết của con người mà lý vô thường luôn được hiện hữu một cách thường xuyên, để thể hiện luật tắc Duyên khởi trong hiện tướng (trongThành-trụ-hoạikhông) của các pháp. Chỉ vì chúng ta không nhìn

ra được cái lý ẩn của: “ Việc đời qua trước mắt, Già đến trên đầu rồi”, nên từ sự vô thường bất toàn của các pháp, con người đâm ra ham sống sợ chết, sống vui chết buồn, và cũng từ đó mọi sự sợ hãi được hình thành, ám ảnh con người, để rồi các thứ bệnh tà kiến phân biệt chấp trước đua nhau xuất hiện trong cái lòng tin mù quán của mọi người. Đây cũng là điều mà chính đức Phật đã dạy trong kinh Kamala: “ Đừng vội tin tưởng vào

Hỡi những bà mẹ tay xách, nách mang, chân lúc nào cũng chạy, đầu óc lúc nào cũng bận rộn để nhớ lịch họp hành, chợ búa, tã, sữa, sinh nhật người này người nọ nhưng lại quên phắt con cái của mình. Có một sự việc xảy ra ngoài tầm nhận thức của con người, một hậu quả bi thảm của đời sống tất bật điên cuồng ngày nay, đó là sự xáo trộn của đầu óc. Đó là hiện tượng bỏ quên con nhỏ trong xe, đã được đặt tên là “Hội chứng bỏ quên trẻ nhỏ”. Hội chứng này không chỉ xảy ra tại Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nơi khác, Nó không những xảy ra cho các bà mẹ, mà cả những ông bố hay các ông bà trông cháu. Từ năm 1990, tại Mỹ đã có hơn 600 vụ rủi ro xảy ra chưa kể những vụ không được báo cáo. Năm rồi ở Ý, trong vòng 1 tuần có liên tiếp hai đứa bé bị chết vì bị cha mẹ bỏ quên. Một trong 2 trường hợp này Lucio Petrizzi, là xem tiếp trang 11

bất cứ điều gì mà chúng ta thường nghe nhắc đi nhắc lại luôn luôn. Đừng vội tin tưởng vào điều gì mà điều đó được coi như là một tập tục từ ngàn xưa để lại. Đừng tin tưởng vào những sáo ngữ mà người ta thường đề cập đến luôn. Đừng tin tưởng bất cứ điều gì dù đó là bút tích của thánh nhơn. Đừng tin tưởng vào điều gì dù là thói quen từ lâu, khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra mà lại nghĩ rằng do một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng vào bất cứ điều gì mà điều đó chỉ dựa vào uy tín của các thầy dạy cho các người. Nhưng chỉ tin tưởng vào cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận cho là đúng, có lợi cho mình và người khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ nam cho mình”. Chính vì sự sợ hãi trước cuộc sống-chết của chính mình, qua những biến động đổi thay của vô thường luôn luôn hiện hữu bên cạnh, nên lòng mê tín dị đoan của chúng ta nổi dậy tin chấp tà kiến vào những thế lực bên ngoài, để rồi bị chúng cuốn hút luôn, không làm chủ được mình. Do đó, Thiền sư Mãn Giác mới cảnh giác chúng của ông và những người đi sau như chúng ta, qua pháp phủ định những xác định mà người đời đã coi chúng như là một thứ chân lý, qua hai câu song thất của bài kệ: Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

10

Ngoài sân đêm trước một đóa mai. Qua pháp phủ định này, trước hết đứng về mặt biểu hiện, thì sự hiện hữu của một đóa mai, không bị lệ thuộc vào việc xuân đến hay là xuân đi như chúng thường được chấp nhận một cách tự nhiên, được coi như là một thứ chân lý xưa nay theo kinh nghiệm: “ Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa cười.” theo tiến trình thời gian, phân bố điều trong một năm qua bốn mùa xuân-hạ-thuđông. Như vậy có nghĩa là chúng sẽ hiện hữu vào bất cứ lúc nào, khi những điều kiện duyên cùng hoàn cảnh môi trường chung quanh, đủ cho phép để hiện khởi thì chúng hiện hữu. Đó là chỉ nói đến một sự hiện hữu chưa được xác định qua phủ định, nhưng ở đây chúng ta được thiền sư tự xác định thời gian và nơi chốn hiện hữu của chúng qua câu hai: “ Ngoài sân đêm trước một đóa mai”. Vậy ở đây, đêm trước là đêm nào? và chúng thuộc vào mùa nào trong năm? điều này cũng dễ thôi nếu chúng ta biết liên hệ đến thời gian cáo bệnh để dạy chúng của người . Theo tiểu sử thì ngài nói ra bài kệ này cùng ngày trước khi ngài thị tịch, như vậy ngày ngài qua đời là ngày 30 tháng 11 năm Hội phong thứ 5 (1096). Qua đây chúng ta đã xác định được ngày tháng năm và nơi chốn đóa mai hiện hữu. Chính sự hiện hữu của đóa mai này đã nói lên được: thứ nhất sự phủ định của ngài đã đánh đổ đi được những

lệ thuộc ước lệ thời gian từ ngàn xưa để lại, mà mọi người trong chúng ta đã từng chấp nhận như là một chân lý. thứ hai sự hiện hữu của đóa mai có thể là bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào miễn có đầy đủ mọi duyên cùng hoàn cảnh môi trường chung quanh cho phép thì chúng sẽ hiện hữu. Mai nở vào mùa đông có gì không phải ? Hiện tại khoa học dư sức để tạo môi trưòng về việc này, ngay đến việc tác tạo ra thai nhi trong ống nghiệm họ còn làm được, qua việc trích ly tinh trùng và noãn sào của người đàn ông và đàn bà phối hợp với nhau, cùng tạo môi trường dinh dưỡng đầy đủ v.v... thì thai nhi hiện hữu và lớn lên. Cũng vì việc tác tạo thai nhi trong ống nghiệm của các nhà khoa học, mà họ đã từng bị một số tôn giáo phản đói . Nhưng đó là việc của tôn giáo, còn khao học vẫn là khao học, khoa học không phải vì thế mà chúng mất đi giá trị chân lý của chúng. Chân lý vẫn là chân lý khi khao học là biểu tượng cho những thành tựu chân lý của chính nó, trong khi tư tưởng phản khoa học chúng là vật cản đường để đi đến chân lý, những thứ nọc độc cặn bã này rồi cũng sẽ bị thời gian đào thải mà thôi. Qua đây đủ nói lên tính ưu việt của thuyết nhân duyên sanh khởi của đạo Phật, mà qua đó khoa học càng ngày càng nhận thấy, những kết quả thực nghiệm của họ khám phá ra trong hiện tại, luôn luôn tương ứng và khế hợp với xem tiếp trang 38


Hình: IMichael Tran

tiếp theo trang 10

ĐỪNG COI THƯỜNG BỆNH BỎ QUÊN TRẺ NHỎ một giảng viên đại học, tưởng đã bỏ đứa con gái 22 tháng của mình ở nhà giữ trẻ. Thực ra ông đã bỏ quên em trong xe 5 tiếng đồng hồ và em chết dưới cái nóng ngột ngạt. Ông nói với cảnh sát “Tôi không hiểu tại sao, cái gì đã xảy ra, dường như ai đã lấy mất đầu óc tôi rồi”. Năm 2010, một bác sĩ 40 tuổi khi đang đem con mình tới nhà giữ trẻ ở Cypress Hoa Kỳ, ông nhận được một cú phôn khẩn cấp. Ông lái thẳng tới bệnh viện theo quán tính và quên phắt đang chở cậu con trai yêu quí 5 tuổi trong xe. Ông chỉ phát hiện ra điều mình quên 8 tiếng đồng hồ sau, khi vợ ông gọi điện thoại cho ông, và đứa bé đã chết cứng vì nóng trên ghế sau xe ông. Hầu hết các tai nạn đều xảy ra trong những ngày nóng nhưng có một trường hợp cái chết xảy ra một ngày nhiệt độ trung bình khoảng 63 độ F. Janette Fennell, giám đốc của một tổ chức ngăn ngừa cái chết và tổn thương cho trẻ nhỏ nhận xét, “Một phần bi kịch xảy ra vì người ta không ai ngờ sự việc lại xảy ra cho chính họ. Người thì nghĩ rằng, quên một vài phút có hề gì, đâu phải chuyện của 8,9 tiếng. Nhưng họ đâu hiểu rằng họ đã bỏ

quên chúng, đầu óc họ cứ đinh ninh, chúng đã ở trong nhà giữ trẻ rồi, và óc họ cho một tín hiệu, từ đây đến cuối ngày không có gì phải lo nữa cả.” Bà Fennell thêm rằng, theo những con số và sự kiện của những tai nạn xảy ra, chúng ta không thấy có gì rõ rệt trong việc quy kết những người bị mắc hội chứng quên này thuộc vào nhóm người có đi làm, không đi làm, nam hay nữ, giàu hoặc nghèo. Thường, người ta hay nghĩ phụ nữ có đi làm sẽ mắc bệnh này. Thực tế thì bi kịch lại xảy ra cho các ông bố nhiều hơn các bà mẹ, thậm chí cả với các bà nội, ngoại hay những bà mẹ không đi làm chỉ ở nhà coi con. Tôi đã chứng kiến một tai nạn chết người xảy ra cho một bé gái 7 tuổi ở kế bên nhà tôi. Sáng hôm đó mẹ em vì phải chạy ra ngân hàng đã giao em lại cho bà ngoại(52 tuổi) giữ. Em ngồi im lặng xem hoạt hoạ trước một màn hình tivi to khoảng 21 inches, trong khi cậu em trai 5 tuổi của em chơi bên cạnh. Em đòi ăn bánh cookies và bà ngoại chiều cháu bèn lui cui dưới bếp làm bánh cho các cháu ăn. Bi kịch xảy ra khi cậu bé chạy đến quay cái trục của tivi chơi. Tivi được đặt trên một cái trục quay 360

độ để người xem có thể quay theo góc cạnh nào tùy thích. Thình lình vì sức quay và lực đẩy của đứa bé quá mạnh, chiếc tivi rời khỏi bàn quay, rơi xuống phang ngay vào đầu bé gái. Em chết ngay tại chỗ. Khi tôi chạy qua xem thì em đã nằm co quắp lạnh ngắt bên chiếc tivi loại tube cũ to đổ lăn kềnh. Bà ngoại em không bị kết tội vì cái chết của em nhưng bà lúc nào cũng bị mặc cảm phạm tội đeo đẳng suốt đời. Bà giờ trông xơ xác, già hẳn đi,mắc bệnh trầm cảm, hồi hộp, sợ hãi và mưu toan tự tử mấy lần. Bà luôn bị ám ảnh với ý nghĩ, lúc ấy sao mình lại chểnh mảng thế, sao lại ỷ y không trông nom cháu kỹ càng để sự việc đáng tiếc xảy ra. Bà đau đớn vì mất đứa cháu gái bà thương yêu và ân hận suốt quãng đời còn lại vì một phút vô ý của mình, chưa kể cái đau mất con của người mẹ. Những báo cáo cho biết bi kịch thường xảy ra với những bậc cha mẹ cẩn thận mà lại lẩm cẩm. Loại người mua cả khoá cửa an toàn cho con nhưng hay đãng trí. Có một số trường hợp quá cẩn thận đến nỗi cột chiếc ghế an toàn của con vào đằng sau xe và quay mặt(rearfacing) vào lưng ghế để bảo đảm an toàn hơn. Tuy nhiên những nghiên cứu cho thấy những yếu tố góp phần vào hội chứng quên này là áp lực của công việc và cố gắng làm quá nhiều thứ một lúc. Thiếu

11

ngủ, cuộc sống lứa đôi không hoà thuận, hay ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc cũng góp phần vào việc đánh gục sự minh mẫn của trí nhớ. Nếu bạn làm việc nhiều quá và cảm thấy kiệt sức, hãy cẩn thận, có thể óc bạn không kham nổi quá nhiều mệnh lệnh của bạn nữa đâu. Không ai có thể nghĩ đến việc một phút quên lãng đã ảnh hưởng đến những đứa con yêu quý của bạn. Nhưng nó đã xảy ra cho Lyn Balfour, 40 tuổi, là một nhân viên tình báo ở Bosnia và Iraq. Vàp ngày 30 tháng 3 năm 2007, một trân bão đầy áp lực nặng nề đã làm thay đổi hết mọi sự. Bé trai 9 tuổi của bà bị cảm lạnh. Người mẹ đã thức suốt đêm để chăm cho con. Sáng ra dù kiệt sức, bà vẫn lái xe đưa con tới nhà người giữ trẻ. Hôm ấy xe của chồng hư, bà phải chở chồng tới sở và bé trai được đặt ở ghế an toàn phía sau xe, khuất tầm nhìn của Lyn. Sau khi bỏ chồng xuống, óc bà theo thói quen bảo bà rằng đã “bỏ xuống” rồị. Bà chạy ngang qua nhà người giữ trẻ mà không dừng lại như đi trong vô thức. Người giữ trẻ có gọi bà vài lần trong ngày mà bà không trả lời. Cho đến 4 giờ chiều khi ra khỏi sở, bà gọi cho người giữ trẻ và hỏi con bà có sao không? Người giữ trẻ bảo, bà không có đem con tới gởi hôm nay. Lyn la lớn “ Bà nói vậy là nghĩa gì? Nó ở đó mà” . Người giữ trẻ một mực nói bà không có

đem nó tới. Bà hỏi thêm, chồng bà có tới rước nó không? Nhắc đến chồng, một tia sáng chợt loé lên trong óc bà, bà chạy ra xe, chân chạy miệng la “Tôi có chở nó tới, tôi biết đã đem nó tới rồi”. Tuy nhiên, nhìn qua làn cửa kiếng, bà đã thấy con bà còn được cột trên dây an toàn của ghế xe. Mắt em nhắm nghiền, khuôn mặt không còn sự sống. bà la lên một cách cuồng loạn cầu cứu mọi người kêu xe cứu thương dùm bà và bắt đầu làm cấp cứu mong em sống lại. Bà biết đã quá trễ nhưng cố gắng để cứu con bà làm CPR trong điên loạn. Em bé đã chết từ lâu. Bà bị vào tù với tội danh, ngược đãi, sao nhãng bổn phận và giết con không cố ý. Trong cuộn băng ghi lại cuộc thẩm vấn của bà, bà đã than khóc một cách đau khổ “Tôi đã giết con tôi, trời ơi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi”. Người ta nghe được những tiếng la hét van nài con sống lại. Hiện nay, bà đang vận động một chiến dịch kêu gọi sự cảnh báo của mọi người về hội chứng “bỏ quên trẻ nhỏ”. Bà nói “Ngày xưa, tôi nghe đến chuyện này xảy ra cho người khác và nghĩ chuyện thật là điên khùng, vì tôi không bao giờ ngờ nó xảy đến cho chính tôi”. Bà khích lệ mọi người có con nhỏ cố gắng bằng mọi cách tự bảo vệ mình đừng để điều đáng xem tiếp trang 21


TRANG KINH TRÊN ĐỒI KIỆT TẤN

Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)

“Tùy căn mà độ, tùy duyên mà độ. Phật tánh bàng bạc trong đời sống, trong vũ trụ. Không thể lấy tâm trí hạn hẹp của con người mà đo lường Phật tánh. Ngôn ngữ con người không có chữ để diễn tả Phật tánh. Phải cần rất nhiều trực giác mới lãnh hội được. Tâm lý con người là lăng kính bóp méo sự vật, tạo ra mê lầm. Sự mê lầm đưa tới sợ hãi và điên loạn. Sau những cơn điên tôi không thấy mình khôn thêm được chút nào hết.”

C

hấm dứt những ngày đông lạnh lẽo, nắng xuân tươi tốt nhẹ bước vào mùa hạ. Cây cối đơm bông kết lá nhẹ nhàng theo tiết điệu của trời đất. Những chiếc lá xanh non trong trẻo đầu xuân ngả dần sang màu xanh lục đậm. Anh Đào trổ bông hường lợt đặc gật trên nhánh cành vào đầu xuân đã tàn theo mùa xuân. Thay vào đó là những bông hoa vàng đỏ hực hỡ cùng hơi nóng rạng rỡ của mặt trời. Mùa hè bơm sức sống cồn cào vào huyết mạch nhưng cũng đồng thời gieo sự bất ổn vào tâm trí tôi và sự xốn xang trên da thịt. Tôi vừa thèm

thuồng vừa xao xuyến. Những cơn điên vào mùa hạ còn lưu lại trong tôi những hoài niệm thương động. Ba lần nổi điên, hai lần nằm bệnh viện tâm trí, những ngày nắng nóng khiến tôi âu lo cơn điên bộc phát trở lại. Nhưng tôi thèm nắng hè, tôi ham vui, tôi vạch những chương trình nghỉ hè lý thú. Những lúc phương tiện không cho phép đi nghỉ hè, tôi ở lại Paris cùng du khách bốn phương ùa tới. Nước sông Seine bây giờ đã được thanh lọc, các cô gái mỹ miều thả ngực trần nằm hóng nắng trên bờ sông Seine, đôi ba người lội tắm. Những chiếc tàu-ruồi, bateaumouche, chở nhóc du khách dập dìu

12

lượn quanh hai hòn đảo nhỏ, Saint Louis và Cité. Nhiều chiếc buýt đồ sộ đổ du khách tấp nập trước nhà thờ Notre Dame, dưới chân tháp Eiffel, quanh viện bảo tàng Louvre. Mọi người tíu tít. Trong những ngày rộn vui như vậy mà tôi lo sợ mình nổi điên, cảm thấy cơn điên đang rình rập mình đâu đó. Tôi thù ghét tôi. Tôi thấy mình không ra gì – mà muốn ra cái thớ gì mới được? – Tôi nảy sinh mặc cảm phạm tội. Tôi thấy những người quanh tôi bình thường một cách không bình thường. Kiệt! Mày muốn nổi điên nữa rồi phải không? Những lúc tâm trí dao động như vậy


tôi thường cắp một quyển kinh lên ngồi ở đỉnh đồi trong khu vườn công cộng gần nhà. Bầy chim ngắn đuôi đã lại trở về chạy lúp xúp trong cỏ, thỉnh thoảng bay rộ lên, đảo vòng. Một vài con bướm lẻ loi vỗ cánh bay chấp chới. Lũ ong bay la đà từ hoa này sang hoa khác, cần mẫn, chăm chỉ. Tôi dựa lưng vào một gốc phong, thân cây bạc thết. Phát hiện dưới gốc cây xác một con chim đã rã, chỉ còn lại nhúm lông nâu và chiếc mỏ vàng. Chực nhớ Phạm Thiên Thư: Con chim chết dưới cội hoa, tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao. Mai anh chết dưới cội đào, khóc anh xin rỏ lệ vào thiên thu. Đã biết bao lần tôi thèm chết vô cớ. Vì xét cho cùng những lúc đó tôi chỉ cần thở là đủ để duy trì sự sống. Vậy mà tôi lại đi nghĩ quẩn và thèm chết một cách xuẩn ngốc. Sống chưa hết ngày hôm nay tôi đã lo cho ngày mai, tháng tới, năm tới, thế kỷ tới. Tôi muốn hoạch định đời sống dài hạn, thiệt là lẩm cẩm. Tôi viết đời sống thành phương trình mà hằng trăm ẩn số chưa tìm ra được đáp số. Tôi muốn thanh toán trong một lần tất cả những vấn đề phức tạp của đời sống để sau đó trí óc mình được thảnh thơi. Thiệt là ngốc tử! Tôi quên rằng đời sống vốn nó là một vấn đề miên viễn. Còn sống là còn vấn đề. Hết vấn đề cũng là hết sống.

lương thiện, như vậy tưởng cũng đã quý lắm rồi. Tôi muốn bằng lòng, muốn gật đầu và nói “ừ” trước lời mời gọi vồn vã của đời sống. Đời sống vốn nó không phức tạp, cũng không giản dị. Biết sống giản dị thì đời sống sẽ giản dị. Một trong những tài mọn của con người là làm cho đời sống trở nên phức tạp. Càng chế ra máy móc để giản dị đời sống thì đời sống càng thêm phức tạp. Càng chế ra dụng cụ để tiết kiệm thời giờ thì người ta càng thiếu thốn thời giờ hơn. Thiệt là nghịch lý!

Tôi lần dở những trang kinh mong tìm được an ổn cho tâm thần. Có những trang kinh tôi đọc hiểu liền, như đã nằm sẵn trong tâm mình, vô cùng thú vị. Ngược lại có những trang tôi đọc tới đọc lui mà vẫn không lãnh hội được ẩn nghĩa. Kinh mở ra những cõi trời, những cảnh giới kỳ lạ hoàn toàn bí mật đối với tôi, tôi chưa hề đặt chân tới đó. Lòng trần của tôi còn quá nặng nề. Quanh tôi mọi côn trùng đều bừng nở để sống vội vã ba tháng hè ngắn ngủi. Những con cào cào nhỏ xíu, những con bọ trong xanh non nớt, những con thiêu thân li ti đua nhau đáp lên mặt mũi tôi, bò quanh quẩn trên những trang kinh. Chắc chẳng có con bọ nào muốn trở thành người. Còn tôi, hiện lúc này và ngay chỗ này, tôi không hề ham muốn trở lại làm người. Con thiêu thân có đời sống của con thiêu thân. Tôi có đời sống của con người, của tôi, với những chướng nghiệp và mê muội của mình. Không có chúng sanh làm sao có Phật? Giải thoát, có thiệt chăng? Giải thoát đi đâu và để làm gì mới được? Giải thoát để sống an nhiên tự tại, hết khổ đau, hết vấn đề? Hết vấn đề của con người mê lầm thì có vấn đề (vấn đề?) của bậc giác ngộ. Chẳng lẽ ngồi chơi (ngồi thiền) xơi nước một khi đã giác ngộ? La Hán có vấn đề của La Hán, Bồ Tát có vấn đề của Bồ Tát. Đã là Bồ Tát thì rất bận rộn, bận rộn còn hơn cả chúng sanh. Phật hết vấn đề? Chẳng lẽ mọi người đều trở thành Phật hết ráo. Tôi chỉ muốn được sống một kiếp người bình thường và

Chạy theo những suy tưởng của mình, tôi thường đâm đầu vào ngõ cụt. Càng dẫy dụa màng lưới càng siết chặt. Kết quả là tôi sa lầy tư tưởng phi thực và gạt bỏ đời sống thiết thực ra ngoài. Tôi nhắm mắt cố tập trung tâm trí vào hơi nóng tươi rói của nắng hè. Nhưng không được bao lâu, trí óc tôi lại rớt vào mê cung của suy tưởng. Mà đời sống để sống chớ đâu phải để suy tưởng. Nhiều bộ lạc trên trái đất này còn sống trong vòng “lạc hậu” mà họ hồn nhiên biết bao. Họ có ít nhu cầu, cho tới khi bị chất độc văn minh ô nhiễm, họ có nhiều nhu cầu và mang lấy chứng bịnh buồn rầu – họ buồn rầu một cách “văn minh”. Người ta gọi đó là tiến bộ. Tôi quá khích chăng? Chẳng lẽ bây giờ xúi tổng thống Mỹ vận khố, dắt lông chim trên đầu và nhảy mọi? Hay xúi Chủ tịch Nga đi xe chó đến tham dự hội nghị quốc tế ở Genève?

Tôi xếp quyển kinh lại và mơ màng nhớ tới những kỷ niệm của mình. Tôi nhớ những bà già quê hương, tôi nhớ con vịt vàng nhỏ của mình và tôi chảy nước mắt. Tôi nhớ cô gái điên tóc đẹp Evelyne, tôi nhớ Tuyết chân tình và tôi chảy nước mắt. Lòng tôi còn những rung động rất trẻ con. Trẻ con và ngây ngô. Nhưng người ta đâu thể trẻ con hoài được. Những phiền toái mà người ta gọi là trách nhiệm càng ngày càng chồng chất theo tuổi đời. Trách nhiệm nhiều khi ẩn dấu lòng tham lam và ý muốn thống trị. Những trách nhiệm giả danh đưa tới chiến tranh và áp bức. Người ta tự phong cho mình trách nhiệm lãnh đạo đời sống kẻ khác. Người lập thuyết và bắt buộc người khác phải tôn thờ.

Nhìn lại quá trình của trái đất, người ta đi tới nhận xét là những cấu trúc giản dị dần dần tiến hóa thành những cấu trúc càng lúc càng phức tạp, rồi ý tưởng phát sinh, ý thức phát sinh. Con người là một mấu chốt cận đại trong dây chuyền tiến hóa đó. Là con người, tôi không thể nào đứng ngoài dòng tiến hóa. Tôi phải đổi thay hoài hoài để thích ứng với tình thế luôn luôn biến đổi, dù sự đổi thay có hàm chứa hạnh phúc hay khổ đau. Khổ đau là hệ lụy của hạnh phúc, không thể tách rời nhau được. Tôi nhớ lại những ngày chung đụng với những người điên khác mà không

khỏi hãi hùng. Mỗi ngày đằng đẵng kéo dài như không bao giờ hết. Có lúc tôi muốn ẩn thân trong một ngôi chùa vắng, ở chốn thâm sơn tịch cốc, cho sự sôi nổi tâm lý chìm xuống, và mọi người lãng quên tôi. Một tháng nằm ở nhà tịnh dưỡng Bois-le-Roi là một tháng lẻ loi. Trời vào thu chớm lạnh. Mưa lắc rắc trên lá vàng, những giọt mưa tí tách nhỏ giọt trên nỗi đơn chiếc của mình. Tôi vừa thèm muốn vừa sợ hãi ngày đoàn tụ với loài người, với xã hội. Tôi ngồi thờ thẩn hàng giờ trước trang giấy trắng. Biết viết gì bây giờ? Tại sao phải viết? Tôi thèm thuồng sự giản dị. Tôi ngồi ngó dòng sông Seine nơi khúc vắng vẻ cô liêu ẩm đục sương mù trước mặt mình, lòng miên man muộn phiền không dứt. Tiếng xầm xì của động cơ trên xa lộ khuất xa vẳng tới. Những người chơi đá bóng dưới chân đồi kêu la vang dội. Trẻ con reo cười chí chóe rượt đuổi nhau lúp xúp trong cỏ. Tôi nhắm mắt cố lắng nghe những giọng hót ríu rít khác nhau của chim chóc, tiếng gà gáy trưa nôn nả, tiếng dế kêu hiền hậu trong vùng cỏ rậm. Tôi xếp quyển kinh lại nhắm mắt cố hòa tan xác hồn vào tiết điệu của đời sống, cái đời sống nằm trong tầm tay mình, cái đời sống mà mình vói được. Gió lâng lâng man man trên đồi cỏ. Tôi đang kêu la, tôi đang reo cười, tôi đang ríu rít, tôi đang gáy ó o, tôi đang kêu be be. Lòng tôi an nhiên tự tại. Kinh Phật là những trang khảo cứu về tâm lý rất thâm sâu. Tùy căn mà độ, tùy duyên mà độ. Phật tánh bàng bạc trong đời sống, trong vũ trụ. Không thể lấy tâm trí hạn hẹp của con người mà đo lường Phật tánh. Ngôn ngữ con người không có chữ để diễn tả Phật tánh. Phải cần rất nhiều trực giác mới lãnh hội được. Tâm lý con người là lăng kính bóp méo sự vật, tạo ra mê lầm. Sự mê lầm đưa tới sợ hãi và điên loạn. Sau những cơn điên tôi không thấy mình khôn thêm được chút nào hết. Tôi mở quyển kinh ra tìm lại trang mình đang đọc dang dở. Trên trang kinh còn lưu lại vết xanh non của con thiêu thân nhỏ xíu mà tôi vô tình gạt phủi dập nát. Những con cào cào còn non vẫn tiếp tục bay nhảy tíu tít. Những con chim ngắn đuôi vẫn tiếp tục bay lên đáp xuống tìm mồi. Đời sống vẫn tiếp diễn và đang tiếp diễn, không hề ngừng nghỉ một giây phút nào. Đời sống vẫn luôn luôn sẵn đó, vốn nó sờ sờ như vậy, từ bao giờ… từ bao giờ… Ý nghĩa của đời sống chính là đời sống. Lẽ sống của sống chính là sống. Tôi cặp nách quyển kinh lửng thửng thả xuống dốc đồi, ra khỏi vườn cây. Tôi leo lên chuyến xe buýt đầy người đưa tôi vào thành phố náo nhiệt. Tôi nhập cuộc và nói “ừ” với đời sống hiện tiền.

Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)

13


GOOGLE SỰ DỪNG LẠI ĐANG DIỄN RA CHÂN HIẾN NGHIÊM

www.langmai.org

tiếp theo trang 4

MẬU THÂN VỀ ĂN TẾT VỚI MẠ Nẳng. Tới đó mầy tự lo lấy.” Hắn nói thêm. “Chỉ có chuyến đi mà không có về nghe mầy.”

MỒNG MỘT TẾT. Đến Đà nẳng, Chánh lấy xe đò, xế chiều về tới Huế. Trời se lạnh và mưa phùn nhẹ. Huế thân quen đỏ rực xác pháo đêm giao thừa còn rơi rải trên đường phố. Không gian phảng phất mùi hương trầm. Áo mới lăng xăng. Nhộn nhịp xúm xít. Người lớn trẻ nhỏ vui cười, kẻ đứng người ngồi chồm hổm quanh những sòng cờ bạc đỏ đen ngày Tết bày dọc bên đường. Tiếng pháo nỗ râm ran. Cho dù chiến tranh tàn khốc quanh năm, nơi quê hương, Tết dường như thật thanh bình. Anh xích lô vui tính. Chuyến xe đầu năm gặp người khách trẻ ân cần cũng thấy niềm vui ấm. Qua chợ Kim Long, gần đến chùa Linh mụ thì rẽ vào làng. Chánh vui trở lại làng quê thương thuộc để gặp mẹ, ăn Tết với mẹ. Đã bao nhiêu năm, từ hồi

còn là sinh viên cho đến nay, cứ mỗi lần trở về nhà ăn Tết, mỗi lần lại đi trên con đường này thì lòng vẫn rộn vui thơ dại. Qua con đường đất, vườn nhà xanh um trước mặt. Chánh rón rén vào nhà. Mẹ nằm trên sập gụ chăm chú đọc sách kinh. Là con gái của quan phẫm triều đình được cho ăn học, mẹ giỏi, đọc thông chữ Hán hơn chữ quốc ngữ. Chánh rón rén nhẹ bước đến đã gần bên, mẹ vẫn chưa hay. “Mạ !”. Giật mình. Sững sờ, Mẹ nhìn lên với ánh mắt mừng vui quá đổi bất ngờ. Ánh mắt đó của Mẹ, cho dù mấy chục năm đã trôi qua, Chánh vẫn còn nhớ rõ. Mẹ vùng dậy nắm vai Chánh, bóp xuôi theo cánh tay. Nắm chặt bàn tay con và biết, không phải là giấc mơ. “Con đã về ăn Tết với mạ.” Mẹ cười mếu máo. Hàm răng đen huyền đều và đẹp lúc xưa, nay chỉ còn rệu rạo mấy cái bạc màu đen trắng. Mẹ con xoắn xít vui mừng chưa được mấy giờ thì mẹ ôm bụng quặn đau.

Chánh tự trách. Mình là bác sĩ, mẹ mình đau bao tử kinh niên, khi về quá vội vàng quên không đem theo thuốc men gì cho mẹ cả. Lại còn làm trò trẻ con hù mẹ. Sự kích động tâm lý cũng là nguyên nhân của cơn đau. Sau khi dùng mấy thứ thuốc hiện có, mẹ tạm yên. Nhưng lỡ đêm hôm tái phát thì khổ thân mẹ. Chánh qua mượn thằng em bên hàng xóm chiếc xe đạp, xuống phố mua thuốc. Tiện thể Chánh cũng muốn đi rong chơi phố phường ngày đầu năm. Ghé thăm người quen cũ. Trời lạnh. Đường làng tối om. Quá quen thuộc, nên dẫu xe không đèn vẫn đạp chạy bon bon. Tiếng cười nói reo vui từ trong các ngôi nhà ấm cúng. Âm thanh rộn rã lôi cuốn của những hột tào cáo (xí ngầu) va chạm trong cái đoại (cái tô, cái bát) sành sứ của trò chơi hấp dẫn Xâm Hường của riêng ngày Tết xứ Huế. Tiếng pháo nổ đì đẹt. Mùi trầm hương. Đương vắng. Người Huế ăn Tết trong nhà. Không ngược xuôi ngoài đường ngoài phố hay la cà trong các hàng quán. Ra tới đường lớn thì đèn sáng. Chánh đạp thong thả. Cứ thế qua cầu Bạch Hổ xuôi Phú Văn Lâu, Thượng Tứ. Về phố Huế. Con đường thân quen bao nhiêu năm tháng, ngày ngày đi học, rong chơi, hay sóng đôi cùng những người con gái chớm yêu nhưng chưa hề dám tỏ lời. Con đường mù sương đầu xuân và

14

Hình: CHÂN HIẾN NGHIÊM

N

ằm ở thung lũng Silicon, Googleplex - trụ sở chính của Google là một nơi rất thú vị. Đó là một tổ hợp các tòa nhà với đủ kích cỡ và kiến trúc khác nhau. Nhìn các nhân viên của Google đi lại giữa các tòa nhà, trông họ có vẻ rất trẻ trung, thông minh và nghiêm túc. Thỉnh thoảng ta có thể bắt gặp hình ảnh một vài người đang lái những chiếc xe đạp dành riêng cho nhân viên Google với những sắc màu mang dấu ấn của Google, đó là các màu đỏ, vàng, xanh lục và

xanh dương. Đây cũng là những tông màu chủ đạo của các tòa nhà ở Googleplex.

phuợng đỏ ve kêu ngày hè oi ả.

hỉ.” “Mạ uống thuốc ni đi đã. Quá nửa đêm rồi, mạ cũng đi ngủ đi. Con ăn xong thu xếp cũng đi ngủ. Mai dậy sớm đi thăm mộ ba và thăm bà con.”

Xuống phố mua đủ các thứ thuốc cho mẹ. Thuốc đau bao tử. Thuốc cảm sốt. Đau đầu. Tiêu chảy. Thuốc trụ sinh. Không thiếu thứ gì. Qua rạp chiếu bóng. Rất đông người chen chúc vào xem. “Phim hay. Mình chờ mãi phim này từ lâu. Nơi mình ở không biết khi nào phim mới lên tới nơi. Giờ này chắc mạ sau khóa kinh tối cũng đã đi ngủ. Tiện thể vào xem luôn.” Chánh do dự tần ngần. Một phần phim này dài, xem xong thì cũng đến nửa đêm. Phần khác, không muốn để mẹ một mình. Nghĩ thế, Chánh đạp xe trở về làng. Từ đây về đến nhà cũng mất cả giờ. Tới Bến Thương Bạc, ngang qua gánh phở thơm lừng. Mùi đặc biệt của phở Huế làm cho Chánh thấy đói. Từ chiều đến giờ lăng xăng quên ăn. “Tô phở nhỏ với mấy lát chả lụa mỏng, rất đơn sơ mà sao ngon tuyệt. Trời lành lạnh như ri mà bụng đang đói thì không chi bằng!”. Chánh lại tần ngần. “Thôi đạp về nhà. Mẹ chắc dọn sẵn mâm cơm Tết chờ con.” Chánh cũng bỏ luôn ý định ghé thăm Hương, “người yêu lỡ dịp.” Về đến nhà đèn còn sáng trưng. Mẹ đang ngồi chờ bên mâm cơm. “Con về! Lên cúng lạy xong xuống ăn cơm. Mạ hâm lại cho nóng. Chờ con lâu nguội lạnh cả rồi. Chắc đói lắm

Trong khuôn viên chính của Googleplex có đặt mô hình bộ xương khủng long rất ấn tượng với những con chim hồng hạc (bằng nhựa) đang rỉa bộ xương đó. Ngoài ra, còn có một bể bơi nhỏ, một sân chơi bóng chuyền trên cát, những chiếc ghế võng (deckchair), và xung quanh khuôn viên là những loài cây sa mạc đặc trưng của vùng Thung lũng Silicon.

Trong căn phòng quen thuộc, mùi ẩm mốc của chăn giường hòa lẫn với mùi trầm hương trên bàn thờ đã đưa Chánh vào nhanh giấc ngủ say sau một ngày tất bật. Chỉ một lúc sau, mạ giật mình hoảng hốt vì tiếng súng lớn nhỏ nổ rền vang vọng từ phía dưới phố và Thành nội. Hé nhìn ra ngoài đường, mẹ thấy nhiều bộ đội Việt cộng âm thầm nối nhau chạy vội xuống phố. Đã qua hai cuộc chiến tranh, mẹ có nhiều kinh nghiệm và linh tính. Quay vào định đánh thức Chánh. Thấy con ngủ say, quay ra. Mẹ thắp hương lên đèn tụng kinh cầu Phật và ôn mệ che chở cho con qua cơn hoạn nạn. Chánh chìm sâu giấc ngũ trong tiếng tụng kinh đều êm ả của mạ. Hôm nay là Mồng hai Tết. Sáng sớm, thức dậy ra khỏi phòng thì thấy mạ đang ngồi trầm ngâm bên chung trà sáng. “Con. Có chuyện rồi. Cả đêm súng nổ khắp nơi. Sáng ni không thấy ai ra đường. Cả làng yên lặng quá. Mạ lo cho con.” Nghe súng tiếp tục nổ, Chánh cũng linh cảm chuyện không hay sẽ xẩy đến. Làm sao đây? Nếu súng nổ miệt xem tiếp trang 16


Khi đến Googleplex, ta nhận ra ngay đây là nơi có những con người đầy năng lượng sáng tạo, vui tươi – những con người hết lòng với công việc và với sự nghiệp của tập đoàn, đó là sự nghiệp “giúp mọi người có thể tiếp cận và sử dụng một cách hữu ích nguồn thông tin của thế giới”. Google nổi tiếng là một trong những tập đoàn sáng tạo hàng đầu thế giới – một môi trường làm việc đầy năng động, thách thức và vui tươi. Tuy vậy, đây cũng là nơi có nhiều nhân viên trẻ, đầy tài năng (độ tuổi trung bình khoảng 29) bị rơi vào tình trạng kiệt sức và phải rời công ty chỉ sau một vài năm làm việc. Vì vậy mà Google đầu tư rất lớn vào việc chăm sóc “sức khỏe thể chất và tinh thần của nhân viên” (“employee well-being”). Tất cả đồ ăn thức uống (có đến 18 quầy bar mi-ni với thức uống miễn phí), dịch vụ thể dục thể thao, dịch vụ trông giữ trẻ tại nơi làm việc và nhiều dịch vụ khác nữa được phục vụ hoàn toàn miễn phí cho 10.000 nhân viên của Google.

lại với áp lực làm việc căng thẳng ở Google. Giám đốc điều hành của tập đoàn này đã từng nói rằng thái độ làm việc của họ là “thách thức đối với những điều không thể” (“healthy disregard for the impossible”). Các nhân viên của Google có thể làm việc tới mức 16 giờ một ngày, phần lớn thời gian là gắn với màn hình máy tính. Vì vậy, dù cho đồ ăn thức uống và các dịch vụ đãi ngộ của Google có tốt đến đâu chăng nữa thì các nhân viên của tập đoàn này vẫn khổ đau như thường. Thường xuyên phải làm việc trong tình trạng căng thẳng và áp lực cao, họ bận rộn đến mức khó có thể chăm sóc tốt cho các mối quan hệ với đối tác, đồng nghiệp, cũng như có rất ít thời gian cho gia đình mình.

Nếu hoàn thành tốt một dự án được giao, bạn sẽ được thưởng thẻ tín dụng massage (massage credits). Với thẻ này, bạn có thể đổi ra tiền nếu muốn, hoặc có thể buông thư và xạc lại năng lượng với “napping pod” – một chiếc giường được thiết kế đặc biệt, có tác dụng giúp cơ thể buông thư tối đa và phục hồi lại sức khỏe một cách mau chóng.

Chính vì tình trạng này mà các nhân viên của Google rất vui mừng khi biết Thầy đồng ý đến trụ sở của Google để hướng dẫn nửa ngày thực tập chánh niệm cho các nhân viên ở đây, nhân chuyến hoằng pháp của Thầy tại Bắc Mỹ năm 2011. Trên trang web của mình, Google tự hào thông báo rằng họ là tập đoàn đầu tiên ở Mỹ có cơ hội được đón tiếp Thiền sư Thích Nhất Hạnh – một thiền sư nổi tiếng thế giới đến hướng dẫn tu tập tại trụ sở chính của tập đoàn. Bài pháp thoại cũng như buổi vấn đáp với Thầy ngày hôm đó đã được Google để lên YouTube và có đến 230.000 lượt người xem.

Tuy nhiên, tất cả chế độ đãi ngộ này vẫn không đủ khả năng cân bằng

Chuyến viếng thăm tháng 10 năm 2013 vừa qua là lần thứ hai Thầy đến trụ

sở chính của Google. Lần này, họ xin tổ chức trọn vẹn một ngày chánh niệm, chứ không phải nửa ngày như trước đây. Hơn 700 nhân viên của Google đã đăng ký tham gia, vì vậy họ cần phải mở thêm hai phòng riêng ngoài khán phòng chính, nơi Thầy thuyết pháp. Pháp thoại được truyền trực tuyến và chiếu trên màn hình lớn trong hai phòng này. Ngoài ra, tại mỗi phòng đều có sự hiện diện của một số quý thầy, quý sư cô Làng Mai. Ngồi trên xe bus đến Googleplex ngày hôm đó, trong lòng chúng tôi ai cũng cảm thấy hào hứng, phấn chấn. Ngày chánh niệm được bắt đầu với thời khóa thiền hành vào sáng sớm. Một vài người trong chúng tôi đã từng đến đây cùng với Thầy vào năm 2011. Nhắc lại lần đó, ai cũng nhớ đến không khí rất thoải mái, vui nhộn và sự cởi mở của các nhân viên Google khi tham dự nửa ngày chánh niệm với Thầy và Tăng đoàn Làng Mai. Ngay tại sảnh chính của trụ sở Google, có thể nhìn thấy những từ khóa tìm kiếm trên Google (do những người sử dụng Google trên khắp thế giới truy cập ngay tại thời điểm đó) được chiếu lên một bức tường và rơi xuống như một thác nước đang tuôn chảy. Tại một đại sảnh khác lại có một chiếc cầu trược hình xoắn ốc khổng lồ, để cho nhân viên trược từ tầng một xuống tầng trệt nếu không muốn dùng cầu thang bộ. Tuy vậy, tâm trạng háo hức của chúng tôi khi đến

15

Googleplex không phải chỉ vì muốn thăm trụ sở chính của tập đoàn nổi tiếng này, mà còn muốn tiếp xúc trực tiếp với các nhân viên của Google, những người trẻ thuộc thế hệ chúng tôi và cũng có nhiều thao thức và ước vọng như chúng tôi. Các kỹ sư phần mềm (hay “geeks” – những anh chàng “lập dị”- họ thích tự gọi mình như vậy), là những người rất sáng tạo, có tinh thần hợp tác trong công việc, có tinh thần khoa học và vì vậy thiền tập gợi cho họ sự tò mò giống như trong nghiên cứu khoa học. Là những người muốn chinh phục khoa học công nghệ, cho nên họ cũng muốn chinh phục lĩnh vực tâm ý của mình. Nhiều kỹ sư ở đây có niềm tin sâu sắc rằng khoa học công nghệ có thể giúp mang lại những thay đổi tích cực cho thế giới này, tạo ra những cơ hội mới cho tất cả mọi người trên hành tinh không phân biệt quốc gia, chủng tộc và văn hóa. Vì vậy, mặc dù không nhuộm tóc xanh dương hay xanh lá cây hoặc mang những đôi giày thể thao với màu sắc sáng lóa như một số nhân viên của Google, chúng tôi – những người tu theo đạo Bụt – vẫn có thể hòa mình một cách nhanh chóng vào “chất thiền” (zen vibe) của Thung lũng Silicon. Khẩu hiệu không chính thức của Google là “Không làm điều xấu ác!” (Don’t be evil). Mục đích hoạt động của tập đoàn là làm cho nguồn thông tin của thế giới trở nên dễ tiếp cận với mọi người và không làm điều xấu ác.

Thế nhưng nguồn thông tin đó có giống với nguồn tuệ giác của đạo Bụt hay không? Nếu ai đó hỏi chúng tôi – các thầy, các sư cô Làng Mai – về ước nguyện sâu sắc của mình thì chúng tôi sẽ trả lời rằng: ước nguyện của chúng tôi là làm điều thiện (tức là tưới tẩm những hạt giống tốt và giúp người khác bớt khổ), bằng cách làm cho những tuệ giác sâu sắc nhất của nhân loại có thể đến được với tất cả những ai đang khổ đau. Có thể thế giới này có rất nhiều thông tin, nhưng chúng ta dường như thiếu các công cụ, thiếu sự đào tạo và thiếu tuệ giác để giúp chúng ta bớt khổ. Thông tin, nếu quá nhiều, còn có thể là nguyên nhân gây khổ đau cho chúng ta. Ngày chánh niệm tại Google bắt đầu bằng sự thực tập dừng lại. Với năng lượng nhẹ nhàng và tươi vui, Thầy chia sẻ với hàng trăm nhân viên của Google về pháp môn thiền hành, sau đó hướng dẫn họ đi thiền hành quanh khuôn viên của Googleplex (nhiều người đã đến từ rất sớm để tham gia buổi thiền hành này). Đó là một buổi sớm mai thật yên lắng, khi những tòa nhà vẫn còn chìm trong màn sương sớm, mọi người hoàn toàn đi trong yên lặng, bước từng bước chân chánh niệm và cuối cùng tất cả đều ngồi yên bên Thầy trên một con đường lát đá. Nếu nhìn bên ngoài thì thấy hoàn toàn không có gì xảy ra, vậy mà nhìn cho kỹ thì xem tiếp trang 16


tiếp theo trang 15

GOOGLE SỰ DỪNG LẠI ĐANG DIỄN RA

mọi thứ đang diễn ra. Một sự dừng lại thực sự đang diễn ra. Một phép mầu đang diễn ra. Ngay tại trung tâm đầu não của Internet, một sự dừng lại đang diễn ra. Ngay tại đây đang có bình an, có sương mù, có nụ cười và những hơi thở yên lắng. Không có gì xảy ra, vậy mà mọi thứ lại đang diễn ra. Ta có thể cảm nhận được những nhân viên của Google đang tham dự 100%, có mặt 100% ngay tại đây, trong giờ phút này. Họ đã quá mệt mỏi vì công việc. Và giờ đây, họ đang tò mò khám phá. Họ biết là Thầy đang có những gì họ mong muốn, vì vậy mà họ háo hức được học và tự mình nếm được điều đó. Đó có phải là tuệ giác? Hay đó là hạnh phúc? Trong một bài pháp thoại tại xóm Hạ, Làng Mai sau chuyến hoằng pháp Bắc Mỹ, Thầy có kể lại về buổi sáng hôm đó, những nhân viên của Google đã thực tập thiền hành thật hết lòng. “Họ thực tập rất giỏi”, Thầy nói mà không hề biết là trong thính chúng có một nhân viên của Google đang lắng nghe Thầy. Cô quyết

định đến đây để tự mình “tìm hiểu” về Làng Mai. Cô cảm thấy tự hào và hạnh phúc khi nghe Thầy khen sự thực tập hết lòng của nhân viên Google. “Nhưng”, Thầy nói tiếp, “lý do khiến họ thực tập hết lòng như vậy là bởi vì họ có rất nhiều khổ đau”. Ngồi phía dưới lắng nghe, cô thầm nghĩ “Đúng, Thầy nói rất đúng. Thầy đã hiểu được điều đó. Thực sự chúng tôi có rất nhiều khổ đau. Và pháp môn thiền hành thực sự giúp chúng tôi rất nhiều.” Sau giờ thiền hành, Thầy cho một bài pháp thoại và dành thời gian để các nhân viên Google đặt câu hỏi. Câu hỏi nào được đặt ra cũng là câu hỏi từ trái tim, từ những thao thức, trăn trở trong lòng họ. Đó là những câu hỏi của “những người đang đi tìm kiếm”, những tâm hồn trẻ đang muốn tìm kiếm một ý nghĩa sâu sắc cho cuộc sống đầy bận rộn và căng thẳng mà họ đang sống. Ai trong chúng tôi cũng có thể cảm nhận được sự cởi mở, niềm tin yêu và kính ngưỡng sâu sắc của họ đối với Thầy. Chúng tôi cũng nghe thấy những khổ đau trong lòng họ.

tiếp theo trang 14

MẬU THÂN VỀ ĂN TẾT VỚI MẠ dưới phố, Việt cộng đã vào thì chắc không còn đường nào chạy thoát. Đang lúc mẹ con đang bàn tính thì Một xuất hiện trong binh phục bộ đội nón tai bèo, súng lục lủng lẳng bên hông. Một là con cháu trong làng, làm thợ mộc nhà ở sát đầu ngõ. Thấy Chánh, Một tròn xoe mắt ngạc nhiên lo lắng. “Anh… anh về mà em mô có hay. Anh về khi mô rứa? Trời !” Mạ hỏi dồn. “Con nói cho mệ nghe, việc chi rứa?”. “Thưa mệ, con qua sớm để thưa với mệ là bộ đội đang giải phóng Huế. Đánh lớn lắm từ khuya. Mình thắng lớn. Mệ nhớ ở trong nhà. Đào hầm, xuống đó để tránh đạn bom của Mỹ Ngụy. Không còn lâu mô mệ. Năm bữa nửa tháng, Huế thuộc về cách mạng. Bà con mình sẽ ăn Tết toàn thắng. Mệ đừng lo chi hết, mọi chuyện có con.” Xoay qua Chánh. “Đã như ri rồi thì anh phải nghe lời em, nếu không thì nguy lắm. Em sẽ cho mấy đứa qua đào hầm, nói là cho mệ. Trong làng ai cũng mang ơn đức của mệ, chẳng ai thắc mắc chi mô. Anh không ra khỏi nhà. Đừng

cho ai biết anh về. Cứ trốn dưới hầm.” “Thưa mệ con đi. Có chuyện gì gấp mệ qua nhà cho vợ con đi tìm con. ” Xoay qua Chánh, Một cầm hai tay, cười an ủi. “Em đi. Anh nhớ lời em.” Một vừa đi khuất, mẹ choàng vội chiếc áo len dày, đội mũ nỉ che ấm đầu trọc lún phún tóc bạc trắng, quấn vội chiếc khăn quàng. “Con ở nhà. Ai gọi đừng mở cửa. Mạ đi vòng làng coi xem tình hình ra răng.” “Mạ ra ngoài làm chi. Nguy hiểm lắm. Con sợ đạn pháo…” Vừa nhẩm đọc danh hiệu Quan âm, mẹ bình tĩnh đi ra. “Lo cho con chứ thân mạ thì ở trong tay Trời Phật ôn mệ.” Hơn một giờ sau. Nghe tiếng mẹ về, Chánh mở cửa. Thấy mạ bình tĩnh, Chánh cũng đỡ lo. “Trụ sở xã chừ đây là của họ rồi. Mạ gặp con Út con thím Sáu và chị Hoàng đang ở đó với mấy chú bộ đội lạ. Con Út nói thằng Một coi hết vùng này. Mạ có hỏi, nó cho biết từ cầu Bạch Hổ, cầu An Hoà trở xuống phố, trong Thành Nội và bên kia sông đang đánh

Ngồi phía sau Thầy trên sân khấu, chúng tôi dường như đang đại diện cho một thế giới khác. Chúng tôi có thể đi nhiều ngày hoặc nhiều tuần mà không cần phải mở máy tính, hay nghe một bản nhạc nào. Nếu không phải làm công việc ghi danh trong văn phòng trước khóa tu mùa hè thì chắc là chúng tôi không bao giờ biết cảm giác nhận hàng trăm e-mail mỗi ngày là như thế nào. Chúng tôi có cơ hội để dừng lại, không phải chỉ một vài phút mỗi ngày, mà giờ này qua giờ kia để quán chiếu về hình hài mình, về hơi thở, về thức ăn hay vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên xung quanh tu viện. Chúng tôi có thể đi tắm một cách thảnh thơi mà không bị đài phát thanh NST (NonStop Thinking – Suy nghĩ không dứt) quấy rầy trong đầu. Trước khi xuất gia, tôi từng có thời gian làm việc trong ngành báo chí và truyền thông. Mỗi ngày tôi phải đọc sáu tờ báo, hết tờ này đến tờ khác, và phải nghe những bản tin kéo dài trung bình hai tiếng đồng hồ, trong khi đó mắt phải dán vào màn hình vi tính để theo dõi các đường dây tin tức trực tiếp (“news wires”) liên tục được gửi đến. Tôi có cảm giác là tôi phải mất rất nhiều năm để có thể làm lắng dịu tâm ý, để có thể tận hưởng được sự tĩnh lặng mà trong đó không có gì xảy ra, ngoại trừ sự sống và những mầu nhiệm của nó.

lớn. Mấy làng trên ni thì đã thuộc về cách mạng.” Mạ bàn. “Chánh nì. Thằng Một nói rứa, nhưng mạ thấy ở đây khuất quá, có chuyện chi không biết chạy đường mô. Mạ đem con ra trốn ở nhà bác Khâm, sát đường cái lại bên cạnh sông, dễ bề xoay xở.” Đường cái là con đường nhựa lớn, cặp theo sông Hương, chạy từ phố thẳng về chùa Linh Mụ, Văn thánh. Mẹ chống gậy đi trước, Chánh nép vào hàng rào, bụi tre dọc đường, chạy sau cách quãng. Mẹ dặn. Nếu có ai, mạ dơ gậy lên, thì tìm cách trốn vào bụi rậm bên đường. Cũng may, đường vắng lạ thường. Đi theo đường tắt trong làng ngày thường gần xịt, chỉ khoảng mươi, mười lăm phút. Bây giờ đi hoài không đến. Cuối cùng cũng đến nơi. Bác Khâm lúc xưa trông coi viêc thiên văn trong triều đã mất, bác gái là bạn già của mẹ. Phú con bác cũng thường xuyên ăn học trong nhà. Phú là Trung úy ở Đà Nẳng về ăn Tết và kẹt luôn. Gặp Chánh, anh em mừng rỡ hoạn nạn có nhau. Khác với sự tính toán của mạ. Nhà bác rộng và chắc chắn, có ngăn thờ để trốn. Nếu khẩn cấp thì trèo lên máng xối. Lội qua sông Hương, đoạn gần chùa này khá rộng, nhưng Chánh và Phú coi như chuyện nhỏ. Những ngày hè, anh em thường cùng nhau bơi qua lại cả mấy lượt. Nhưng bên đó Việt cộng cũng đã làm

16

Ngồi trên sân khấu nhìn xuống, tôi tự hỏi liệu có ai trong số những nhân viên ở đây đã từng nếm được sự bình an sâu lắng và cảm giác nhẹ nhõm khi thoát khỏi mạng lưới thông tin tràn ngập. Chính cảm giác bình an và nhẹ nhõm này đã làm tâm hồn tôi tươi mát trở lại khi được sống trong tu viện. Chúng tôi không thể cho họ sự bình an và tĩnh lặng đó, nhưng chúng tôi có thể chỉ cho họ thấy rằng đó là những điều có thể có được – bằng những nụ cười và bước chân của chúng tôi. Và chúng tôi cũng có thể chỉ cho họ những cách để tạo ra những giây phút, những khoảnh khắc bình an trong ngày, dù chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi thôi nhưng cũng có thể làm thay đổi cả cuộc đời mình. Sau giờ pháp thoại và vấn đáp, chúng tôi cùng nhau thưởng thức bữa ăn sáng trong yên lặng với các thức ăn chay rất ngon. Google là tập đoàn đầu tiên áp dụng sự thực tập ăn trong chánh niệm cho cả tập đoàn. Kể từ chuyến viếng thăm đầu tiên của Thầy năm 2011, Google đã tổ chức “bữa ăn chánh niệm” mỗi tháng một lần tại các quầy cafe của mình. Trong những bữa ăn trưa chánh niệm, các nhân viên của Google có cơ hội lắng nghe năm lời quán nguyện trước bữa ăn, sau đó cùng ăn trong yên lặng. Sau giờ yên lặng đó, họ có thể chia sẻ với nhau cảm nhận của mình về sự thực tập này. Sau chuyến thăm lần thứ

chủ tình hình nên không trốn qua được. Ban ngày vắng vẻ, nhưng đêm tới, bộ đội rầm rập từ miệt trên kéo về phố tăng viện, thương binh từ phố tải về hậu cứ rên la đau đớn. Không như mạ, bác Khâm thì nhát gan nên quá lo sợ. Chánh nghĩ nếu họ kéo vào chỉ nghỉ chân qua đêm hay xin nhờ thức ăn nước uống, chứ đừng nói việc tra hỏi, bác luống cuống như ri thì lộ tẩy. Hôm sau mạ kín đáo đến thăm con. “Mệ to gan thiệt anh Chánh ơi.” Phú le lưỡi. “ Em phục lăn. Mệ tỉnh khô, chẳng lo sợ chi cả. Trái với mạ em, bà làm em cũng hoảng vía theo.” Sau khi bàn với mẹ, Chánh lại lúp xúp chạy theo mẹ trở về nhà. “Dù sao thì ở nhà mình, xung quanh là bà con làng xóm. Một, Út và chị Hoàng đều là người thân. Nhất là gần mạ an tâm hơn. Chuyện gì xẩy ra thì cũng có mạ, có con”. Chánh lấy lại can đảm và không còn quá sợ. “Mạ ơi. Mạ đã già yếu. Con đã khôn lớn thành người. Rứa mà trong hoàn cảnh nguy khốn này mạ vẫn là chỗ dựa vững chắc cho con.” Hôm qua mẹ đã cho đào hầm ẩn khuất dưới căn bếp. Bên trên là bộ phản ngựa hai tấm gỗ mun đen bóng hiếm quý, lớn và dày cả gang tay. Chánh nghĩ. Nếu xui, bom đạn rớt xuống đúng miệng hầm sập thì mình mới chết. Chánh bắt đầu những ngày lo âu phập phòng sống dưới hầm tối. Nhưng may tụi nó không

hai của Thầy, Google dự định thiết lập một “khu vực ăn chánh niệm” (“mindful eating zone”) cố định trong khuôn viên của Googleplex, nơi các nhân viên có thể đến và nuôi dưỡng mình bằng năng lượng bình an trong giờ ăn trưa. Cùng với việc yểm trợ và nuôi dưỡng sự thực tập chánh niệm của các nhân viên Google, một vài người trong chúng tôi còn có những mơ ước riêng khi bước vào thế giới Google ngày hôm ấy. Một hay hai người trong số chúng tôi cố gắng tìm gặp các nhân viên phụ trách về Bản đồ Google (GoogleMap) với hy vọng là có thể tạo cảm hứng cho họ thiết lập một bản đồ trực tuyến (cho phép chỉnh sửa và dễ dàng truy cập) về các tăng thân tu tập theo pháp môn Làng Mai cũng như các hoạt động tu tập chánh niệm trên khắp thế giới. Thầy Pháp Lưu và thầy Pháp Khởi mang theo một ổ cứng dung lượng lớn trong ba lô của mình, cũng với hy vọng là có thể tạo cảm hứng cho một nhân viên nào đó của Google để họ đưa các bài pháp thoại của Thầy trong 10 năm qua vào hệ thống dữ liệu của YouTube và phát lên kênh riêng của Làng Mai trên YouTube (ở Làng Mai, nếu làm liên tục trong một năm mới có thể đưa tất cả những bài pháp thoại này lên YouTube). Cá nhân tôi thì mong xem tiếp trang 20

vào lục xét từng nhà như những địa phương khác nên Chánh mò lên để ăn, để thở. Nghe tiếng động, hay tiếng chân người thì vội vàng chui xuống. Đi vệ sinh phải rán nhịn chờ đêm khuya.

MỒNG BỐN TẾT Từ chín giờ sáng khắp làng xóm có tiếng loa kêu gọi tất cả nam nữ từ mười lăm tuổi trở lên ra trình diện. Tiếng loa ra rả suốt ngày căng thẳng thần kinh, Chánh không biết xử trí thế nào? Tình hình này thì quả thật Việt cộng đã chiếm làng. Làm sao trốn được đây? Không ra trình diện, mai mốt nó quy tội nặng, chết là cái chắc. Mạ đi tìm Một, hắn đang ở đâu vợ nó cũng không biết. Hạn cuối trình diện là năm giờ. “Thôi trăm sự nhờ Trời Phật. Mạ đưa con đi.” Thấy mạ bình tĩnh nhưng Chánh biết mạ đang niệm Phật cầu xin phù hộ. Ra tới Uỷ ban. Vắng vẻ. Có mấy cậu du kích đeo súng AK canh gác. Út và chị Hoàng ngồi trến ghế ngoài hàng hiên. “Thưa mệ.” Quay qua Chánh. “Anh Chánh về hồi mô rứa?” Út mừng. Nét mặt và nụ cười thoáng lo. Trên bàn làm việc bên trong, một cán bộ Việt cộng mặc đồ đen, nét mặt lạnh lùng. Bàn cạnh cửa lại chính là Một đang ngồi. Thật không ngờ! Thấy mạ và Chánh, Một đứng bật dậy niềm nỡ chào. Chỉ ngay chiếc ghế trước mặt bàn mình ra lệnh lớn cho Chánh. “Anh ngồi xuống đây làm


Hình: IMichael Tran

tờ khai. Khi mô xong thì nộp cho tui.” Hắn cố nói lớn trịnh trọng có phần đe dọa. “Thành thật khai báo. Nghe chưa?” Hắn xuống giọng nói nhỏ cho Chánh đủ nghe. “Anh chỉ khai là bác sĩ dân sự. Đừng nói chi đến chính quyền và quân đội.” Nạp tờ khai, Một đọc và gật đầu. “Thôi Mệ và anh về. Khi mô có lệnh gọi thì lên ngay.” Hai mẹ con ra gần tới cổng gác, Một chạy theo dặn. “Từ nay về sau, bất cứ ai gọi anh cũng đừng ra. Chỉ khi nào cần thì có em tới mới đi. Hôm tê em đã dặn anh rồi. Anh nhớ lời em.” Tuy Một lớn hơn Chánh nhiều tuổi, nhưng như hầu hết những người trong làng cùng trang lứa, đều gọi Chánh là anh. Chỉ vì. “ Mấy anh là con của Bác. Con của Mệ.” Y như lời của Một. Mấy ngày sau lại có lệnh gọi

trình diện nguỵ quân, ngụy quyền. Chánh trốn miết dưới hầm. Không ít những người ra trình diện đợt hai, đợt ba sau đó có những hạ sĩ quan, đã không bao giờ trở lại. Dễ chừng đã hai mươi ngày trôi qua. Lo âu và vô vọng. Lên hầm. Xuống hầm. Một buổi sáng, Một dẫn một toán cán binh áo quần nhàu bẩn đến xin mệ cho mượn nhà trên làm việc. Bọn chúng còn rất trẻ, lễ phép thưa hỏi. Mẹ gượng dấu lo âu, tiếp đón ần cần. Chánh dưới hầm gần như nghẹn thở. “Thôi ri là chết đến nơi rồi ! Tụi nó ở trên, mình bị giam luôn dưới này ngày đêm, thiếu ánh sáng và khí trời cũng đủ ngất ngư. Chẳng biết tụi nó đóng quân đến bao giờ đây?” Chánh nghe tín hiệu truyền tin liên hồi suốt

ngày đêm và tiếng điện đàm rì rào. Mấy tên lính thay nhau ra giếng tắm giặt. Nghe chúng cười hát và ngâm thơ. Không chỉ riêng nhà mình, hình như chúng chia nhau rải rác trong các nhà lớn khác trong làng. Có hôm, đang chịu trận tê người trong hầm, phần đói phần muốn đi vệ sinh, Chánh nghe có tên đi ngang qua bếp và hỏi. “Thưa mẹ cái gì đây?” “Cái hầm đó con” Chánh đứng tim nghe mạ trả lời tĩnh bơ không ngập ngừng do dự. Giọng Nghệ trọ trẹ hỏi tiếp. “Có ai dưới không mẹ?” “Không. Ai mô mà ở dưới đó.” Mạ nói tiếp. “ Hầm thằng Một đào sẵn cho mẹ để khi mô có bom đạn thì mẹ xuống núp”. Chánh nghe tiếng chân xa dần. Thở phào. “Mạ mình hay thiệt.” Chiều hôm sau, chỉ nghe tiếng lao xao ở nhà trên

17

rồi yên lặng. Tiếng máy truyền tin cũng im bặt. Mạ xuống dỡ nấp hầm. “Lạy Phật. Lạy Ôn mệ. Con ơi, họ rút lui cả rồi. Lên đi.” Tiếng súng dưới phố cũng thưa dần. Bên ngoài rầm rập đoàn tàn quân rời rã lê chạy về phía núi, gánh khiêng những thương binh kêu đau thê thảm. Chánh mừng. “Đúng là tụi nó rút quân.” Cứ thế đoàn cán binh và bộ đội Viêt cộng kéo chạy từ xế chiều cho đến nửa đêm. Tình hình chưa biết ra sao. Xóm làng trở lại yên tĩnh. Đã có tiếng người văng vẳng hỏi nhau. Chánh thấy tràn trề hy vọng thoát khỏi tử thần sau hai mươi ba ngày trân mình. Mạ lên hương đèn tụng kinh. Chánh ra giếng tắm. Trời còn lạnh, cái lạnh của tháng giêng nhưng Chánh thấy khoan khoái vô cùng. Về ăn Tết với mạ, rứa mà hơn hai mươi

ngày, tối nay hai mạ con mới ngồi ăn với nhau. Bữa ăn đơn sơ. Dưa món, bánh tét đã mốc sống đem chiên lại. Dưa nưa kho với ruốc. Bát canh cải tươi mạ vừa hái sau vườn. Ôi chao, bữa ăn ngon nhất của đời người. Nằm trên giường trằn trọc mãi không chợp mắt. Sau cơn căng thẳng giấc ngủ cũng khó tìm. Gần sáng ngủ thiếp đi.

NGÀY HAI MƯƠI SÁU Thức dậy thì trời đã sáng từ lâu. Nghe tiếng mở cửa. Mạ đứng đó như vừa đi đâu về. “Mạ đi ra chợ Kim Long, lần xuống tận cầu Bạch Hổ.” “Trời. Mạ đi chi mà liều mạng quá rứa.” Nhe hàm răng sún, nhai cau trầu đỏ chẹt, mẹ cười. “Ngoài đường người ta đã bắt đầu chạy về phố. Họ xem tiếp trang 36


tiếp theo trang 1

CHUYỆN CHÍNH TẢ

tả. Lúc nào cũng phải vướng một hai lỗi, để được 8 - 9 điểm mà thôi. Nhưng chữ viết của mình tương đối dễ đọc nên thầy giáo cứ gọi lên bảng hoài. Sau này lớn lên, đọc sách nhiều, viết nhiều, và sẵn có từ điển với tự điển, nên chịu khó tra cứu bất cứ lúc nào thấy nghi ngờ, nhờ vậy mà lỗi chính tả cũng giảm đi. Vậy mà thỉnh thoảng vẫn cứ bị mắc phải một vài lỗi trong tác phẩm, khi phát hiện được, rất bực bội, ấm ức... Và dĩ nhiên mình cũng ít kiên nhẫn để đọc những bài báo hay sáng tác văn thơ nào quá nhiều lỗi chính tả. Thấy lỗi chính tả ở đâu, nếu có người viết tại đó, là mình chỉnh ngay. Chữ này phải viết như vầy, chứ không phải thế kia. Chữ này lúc nào cũng dấu hỏi, không bao giờ dấu ngã. Chữ này viết gì kỳ cục vậy! Thấy sai chính tả là khó chịu lắm. Oai như thế, chứ đâu có ai biết rằng hồi nhỏ mình

viết cái tên của mình cũng bị lộn hoài. Viết xong đem khoe ba, ba cười, viết lại cho mình, vừa viết vừa nói: “Ba đặt tên con là Hảo có nghĩa là tốt đẹp, chứ không phải là Hỏa đâu! Hỏa là lửa đó con!” Lớn lên, mình làm người thầy chính tả. Nhiều người viết xong nhờ mình xét lỗi giúp. Ấy thế mà vẫn còn một vài từ chính mình tưởng là mình đúng, cuối cùng do người khác đặt câu hỏi mới giật mình tra lại tự điển chính tả, và biết là mình sai. Cũng không phải là sai, nhưng là dùng theo lối cũ, còn lối mới bây giờ thì khác. Chao ôi, lại có lối cũ và lối mới nữa kìa! Ðó là tra tự điển chính tả của những học giả trong nước soạn. Thành ra, những điều mình đúng trước kia, có thể là sau này, hoặc ngay bây giờ, bị sai đó. Phải cẩn thận mới được. Nhưng ở chỗ này, cũng nên đặt lại vấn đề. Lối cũ là sao, lối mới là sao?

Cũ là từ khoảng thời gian nào, từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, còn mới là vào đầu thế kỷ 21? Lý do nào mà có kiểu mới để rồi cái chữ nọ lâu nay người ta xài quen và đinh ninh rằng đúng, tự dưng trở thành sai, thành dốt. Cái đó rõ ràng là bắt người ta phải bị sai chứ không phải người ta muốn bị sai. Thử tưởng tượng một anh chàng lãnh đạo nọ (lãnh đạo chính trị, lãnh đạo tôn giáo, lãnh đạo bè nhóm văn chương...) vì dốt chính tả hoặc theo thói quen từ hồi tiểu học, đã viết sai cái chữ đó. Ðàn em không dám sửa, cứ thế mà cho in tới, in tới... rồi cuối cùng, qua thời gian lấy chữ của lãnh đạo ra cho là đúng, rồi gọi là lối mới, bắt những người khác phải chịu sai, hoặc nói khiêm nhường lịch sự thì không phải là sai, nhưng là “cũ”. Như thế coi có chịu được không? Trong nước bây giờ từ ngữ mới cũng loạn xạ cả ra. Ngôn ngữ Việt đâu phải là sinh ngữ, vậy mà cũng luồn lách để mà “sinh” cho nên cũng nẩy ra nhiều từ quái dị mà xét ở từ nguyên thì chẳng thể chấp nhận được. Chỉ có

tiếp theo trang 8

VÀI Ý NGHĨ NHỎ

VỀ CƠN THỬ THÁCH HIỆN NAY CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở HOA KỲ vì, Việt Nam và các quốc gia Á Đông vốn có một nền văn hóa Phật giáo lâu đời này đã và đang phải tiếp cận ngày một nặng nề hơn với sức mạnh đầy cám dỗ của văn hóa Tây phương và đang đẩy con người ở những xứ sở Phật giáo lâu đời này đến tình trạng vật hóa sa đọa, dù là với một tốc độ chậm hơn. Những hậu quả đang thấy được trong các cộng đồng Phật giáo Á Đông ở Âu Mỹ chắc chắn cũng là hậu quả đang và sẽ có ở ngay các quốc gia từng là quê hương của Phật giáo. Thái Lan là một ví dụ. Đã từ bao đời, Thái Lan là một quốc gia Phật giáo;

và chắc chắn cũng sẽ còn là một quốc gia Phật giáo đó. Nhưng cái gốc rễ Phật giáo lâu đời ấy đang rạn nứt do sự va chạm với cơn gió dữ vật dục Tây phương. Cuộc canh tân xứ sở theo khuôn mẫu Tây phương của hai thập niên qua đã làm biến đổi bộ mặt của các thành phố lớn ở đây, đã tạo nên nhiều những hình ảnh mà người ta gọi là phát triển, văn minh, những cao ốc khách sạn, cửa hàng..., những cảnh sống ăn chơi của những người dư tiền lắm của nhưng đồng thời cũng đã và đang đưa đến nhiều khủng hoảng trầm trọng cho con người và

xã hội Thái. Ánh đèn của phố thị văn minh trong khi không rọi sáng tới những cảnh đời tăm tối của người dân quê và ngay cả của một đa số sống cơ cực ở các thành phố; thì đồng thời, lại tạo ra nhiều tệ trạng và tội ác xã hội trở thành vấn nạn đến gần như vô phương cứu chữa mà căn bản sâu xa là vì nó kích động những dục vọng mù quáng đến độ ở một số đông người, tiền bạc và hưởng thụ trở thành một thứ giá trị tuyệt đối làm mờ hẳn các giá trị đạo đức, tôn giáo vốn là gốc rễ lâu đời của dân tộc Thái. Phật giáo như một tôn giáo của Trí Tuệ

“THE PATH TO WELLNESS” The mission of my pharmacy is to provide medication for the patients and the proper counseling and education to ensure proper usage of medicines. We highly emphasize on understanding of diseases and proper way to take medications.

thể xem là những tiếng lóng được công nhận. Vì ngôn ngữ mình nghèo nên mình vơ bao nhiêu tiếng lóng làm từ ngữ “chính qui”. Một số từ ngữ đã có sẵn trong từ điển hay tự điển Việt, được một vài nhà văn lấy ra xài, đám hậu duệ thấy hay, rầm rộ dùng theo, rồi cũng cho là từ “mới”. Mới gì mà có trong từ điển của Thanh Nghị của thập niên 1950s? Chỉ có thể nói được đó là những từ được ăn khách của phong trào, của giai đoạn nào đó thôi. Việt-nam cần phải có một Hàn Lâm Viện. Thật là rất cần thiết. Mà nhớ là phải độc lập (ít ra là trong công tác) chứ đừng có mà dại dột dây dưa với chính quyền với nạn mua quan, bán chức... bán luôn cả chữ nghĩa, kiến thức... để rồi sẽ có những kết quả đại loại “trí tuệ này là phát minh của lãnh đạo nọ,” “từ ngữ này là sáng tạo của đồng chí kia”... Mệt lắm! Một viện Hàn Lâm kiểu ấy thì chỉ làm cho kho văn của nước nhà nghèo nàn thêm mà thôi. Tôi sẵn sàng học thêm những gì hay mà mình chưa biết. Nhưng bắt tôi học cái dở mới, cái sai

có khả năng đối trị tình trạng bệnh hoạn của tâm thức và chuyển hóa dục vọng của con người đối diện với nền văn hóa lấy dục vọng làm động cơ thúc đẩy chắc hẳn sẽ đặt ra những thử thách lớn lao cho những người có trách nhiệm với Phật giáo. Để mở ra cánh cửa tương lai Trong viễn tượng đó, một nỗ lực nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề của người Phật tử – đặc biệt là của tuổi trẻ Phật giáo – trong các cộng đồng Phật giáo ở đây là một việc làm nên được nghĩ tới. Một nỗ lực như vậy, nếu được thực hiện nghiêm chỉnh và có hiệu quả sẽ cho được những câu trả lời về nột số những khủnh hoảng trong các cộng đồng Phật giáo như tình trạng mất niềm tin và các hiện tượng bỏ đạo, như những tác động tiêu cực của thời thế trên những sinh hoạt của người Phật tử kéo theo những mâu thuẫn có tính

“CO NHAN DIEN NGUOI VIET” mà mỗi lần nhìn thấy là tôi chỉ cười chứ không bực dọc, khó chịu như xưa nữa. Tôi không chạy xông xông vào tiệm ấy để yêu cầu người ta sửa chữa. Tôi lặng lẽ cười và thông cảm cho một em người Việt nào đó, sinh trưởng tại Mỹ, tiếng Việt không rành, cũng rán (lối cũ) moi óc, hoặc ráng (lối mới) chạy nhờ bà con viết ra giúp mấy chữ tiếng Việt không đánh dấu như thế. Làm một sign nơi cửa kính, không có dấu Việt là chuyện thường thôi. Cái khiến mình cười là tự dưng mình lại biết tác giả câu ấy là người miền Nam. Viết sai mà dễ thương, giống như rất nhiều “em” khác (đã trên 40 tuổi) vẫn viết sai tiếng Việt như các em bé vỡ lòng vậy. Nhưng không trách được, vì họ xem tiếp trang 30

cách đối kháng trong các cộng đồng Phật giáo, như cảm quan và các nhu cầu tinh thần của người Phật tử trong cuộc sống hằng ngày... Đó chính là công việc chẩn bệnh để tìm hiểu bệnh trạng trước khi cho thuốc. Nó sẽ giúp xây dựng cơ sở lý thuyết cho viêc thiết định các chiều hướng sinh hoạt và nội dung phương pháp giáo dục và truyền bá Phật giáo. Nó sẽ đóng góp vào việc chuẩn bị khả năng thích ứng của Phật giáo trước một thế giới thay đổi nhanh chóng; và góp phần chứng tỏ khả năng đối trị và chuyển hóa của Phật giáo trước những đỗ vỡ của tâm hồn và đời sống như hậu quả không tránh được của nền văn hóa vật chất kỹ thuật Tây phương. Đó cũng chính là bước đầu nghiêm chỉnh cho việc mở rộng cánh cửa của Phật giáo để Phật giáo không trở thành “đồ xưa”,”kẻ lạ” với con người và xã hội ngày nay. THÍCH NGUYÊN ÐẠT

TAO

WELLNESS Pharmacy

16931 Bushard st. fountain Valley, Ca 92708

18

mới, thì lòng chẳng vui được. Không phải tôi cố chấp đâu. Bằng chứng là... nơi cửa kiếng của một tiệm bán máy móc điện tử ở một góc ngã tư nọ (thuộc thành phố Garden Grove, California), dưới hàng chữ tiếng Spanish, có dòng chữ này:

714-593-5654


Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)

tiếp theo trang 1

CẢM QUAN VỀ LỄ HỘI TÍN NGƯỠNG THÁNG GIÊNG “Trong cộng đồng văn minh, cả người duy tâm và không duy tâm đều coi việc giữ lễ ở nơi công cộng là chuẩn mực phẩm giá. Ở nơi chốn phụng thờ của mọi đức tin, mọi tôn giáo chuẩn mực giữ lễ càng nghiêm hơn để làm sáng danh đức tin và phẩm hạnh.” khói lạnh hương tàn. Nhưng từ khi chế độ bị buộc phải tìm đường tồn tại qua kinh tế thị trường kiểu hữu thần tư bản thì chủ nghĩa phồn thực trong tín ngưỡng tâm linh lại được tung hê cổ xúy. Không ai phủ nhận nhờ có động lực cầu tài, cầu lộc mà diện mạo chùa, đình, am miếu ở Việt Nam có được vẻ ngoài hồi sinh bề thế hơn. Nhưng chính thế mà những ai có đức tin lại càng hoảng hốt trước việc dẫm đạp uy linh đền Trần để cướp ấn hoặc rải tiền lẻ như xả rác để cầu, vay tài lộc, cứ nghe chuyện hàng xe tải chở tiền lẻ từ các chùa ở phía bắc về nạp ngân hàng là thấy thần thánh uy linh ngày nay tất tần tật đều được định giá bằng tiền hoặc qui đổi bằng đô la. Dù không phải hầu hết nhưng sự thật thần thánh ngày nay ở Việt Nam không còn được hướng tưởng với toàn tâm tôn trọng thiêng linh và uy đức. Từ địa linh đến Phật, Thánh được hướng đến như một thị trường để đầu cơ tài lộc là chính. Nhiều người biện minh rằng, từng thời đại, nội cảnh và ngoại cảnh của chùa, miếu, đền có khác nhau. Không thể chấp nhận lý lẽ chung chung

này, vì từ quá khứ, tâm thức đa số người Việt hành hương luôn chân thành và biểu hiện cao nhất của lòng thành trước chư thiêng phải là việc: Giữ lễ. Vì sao hết mùa lễ hội năm này đến năm khác và riêng mùa rằm tháng giêng Quý Tỵ, những biểu hiện thất lễ, vô lễ ở các thánh tích linh thiêng lại càng trầm trọng. Không ai mà không đau giận khi chứng kiến một số tín đồ vừa cúi lạy cầu xin rất thành kính, tức thì lại côn đồ vô lễ nhào lên cướp ấn đền Trần, xả tiền như rác đầy Văn Miếu, chùa lớn chùa nhỏ bỗng nhiên thành thùng rác đầy tiền lẻ và tiền vàng mã, đồ cúng... Đó là chưa kể có những kẻ gọi là tư bản đỏ như TB ra điều kính trọng uy linh, bỏ tiền gọi là làm công đức tu sửa chùa hư cũ rồi bất nhơn, vô lễ đưa hình chân dung chính mình và cả gia đình mình treo bày giữa chính điện, hậu điện. Nếu cho rằng trong thời buổi kinh tế khó khăn, đạo đức xã hội hỗn mang, niềm tin của nhiều người trở nên chông chênh bất định nên họ khẩn thiết tìm cầu cho mình và gia đình của riêng mình sự phù hộ của giới thiêng linh. Nhu cầu hướng vọng thiêng tâm là nhu cầu chính đáng của con người

nhưng đừng biện minh cho thái độ cầu xin bằng mọi giá, kể cả việc phơi bày hành vi vô lễ trước cộng đồng và vô lễ với chư vị cõi thiêng. Đó là chưa kể giới hành hương vô lễ, trịch thượng với thánh thần, không phải là giới lao động mà chính là những giới nhà giàu mới phất nhờ vào vây cánh với chính thể hiện hành. Trong cộng đồng văn minh, cả người duy tâm và không duy tâm đều coi việc giữ lễ ở nơi công cộng là chuẩn mực phẩm giá. Ở nơi chốn phụng thờ của mọi đức tin, mọi tôn giáo chuẩn mực giữ lễ càng nghiêm hơn để làm sáng danh đức tin và phẩm hạnh. Cái được lớn nhất của người hành hương đến đền, chùa, miếu, am... là sửa mình giữ lễ để sự nguyện cầu có sức mạnh chân thành mà chuyển hóa ứng nghiệm. Nhưng hơn hết việc sửa mình giữ lễ ở chốn linh thiêng còn là việc thực thi giá trị văn hóa cao nhất của con người. Một thanh niên ở Chợ Lớn cho biết, anh từ bé đã được cha mẹ đưa đi chùa miếu suốt từ tết đến rằm tháng giêng; lúc nhỏ anh thấy rất chán, nhưng bây giờ thì hiểu nhờ đi chùa từ bé mà anh học được từng lời văn đức cầu nguyện, từng lễ vật cúng dường, từng cách đi, đứng, quỳ, lạy... đúng lễ đức ở chốn thiêng nghiêm. Sửa mình giữ lễ ở nơi thiêng nghiêm còn là sự trao truyền cho thế hệ kế tục những giá trị tinh túy của văn hóa và đức tin. Nếu thế hệ hôm nay không thực hiện trách nhiệm giữ lễ, sửa mình trong các lễ hội văn hóa tâm linh; Nếu để tình trạng giẫm đạp lên những chuẩn mực lễ giáo như hốt cướp thánh tích, xả dán tiền thật, vàng mã lên tượng thánh thần, ngông cuồng lồng ghép hình ảnh của mình với thánh thần ...nhằm phục vụ cho chuyện xin cầu ích kỷ cá nhân thì ai cũng biết lễ hội tâm linh ở xứ ta trong tương lai có nguy cơ sẽ là

19

một thứ lễ họa phỉ báng thánh thần, tổ tông. Mỗi dân tộc trên thế giới đều có những lễ hội tâm linh với màu sắc văn hóa đặc thù riêng, mỗi lễ hội là cách giới thiệu bản sắc cộng đồng dân tộc ra thế giới và sự kính trọng ngưỡng vọng chỉ có nếu những người đi lễ hội biết giữ lễ đức của mình, giữ lễ quy cho cộng đồng và lễ thiêng nghiêm cho đức tin. Ai cũng có thể cầu xin thánh thần, nhưng chỉ người biết giữ lễ đức nơi phụng thờ của cộng đồng là được cả cõi trời, cõi người và cả cõi ngạ quỷ tôn trọng phù hộ. Tháng Giêng Âm lịch là mùa mà người Việt Nam hội cúng kiến chùa, đình, miếu, am nhiều nhất trong năm. Từ sau biến cố 1975, bản sắc lễ hội văn hóa tâm linh của Việt Nam đã khác. Càng chứng kiến cảnh mua

thần bán thánh ở Việt Nam hiện nay càng nhớ đến những ngày lễ hội Kỳ Yên ở miền Nam xưa với trọn vẹn giá trị thượng tôn tinh thần: Cầu nguyện cho quốc thái, gia đạo bình an, với những nội dung lễ cúng sinh động màu sắc hội hè văn hóa dân gian thuần lương. Ngày nay thật khó mà tìm thấy ở Việt Nam các giá trị lễ hội tín ngưỡng chân chính, nơi mà những cộng đồng địa phương trong tinh thần dân chủ bầu chọn ra những ban hội trong môi trường xã hội dân sự để cùng địa linh, chùa thiêng... góp công sức tổ chức lễ hội, bồi đắp phúc đức, gìn giữ lễ uy; xa tránh, hoặc tiết giảm những trụy lạc hội hè, những sa đà mê tín của hội chứng phồn thực cuồng mê cầu tài cầu lộc. TRẦN TIẾN DŨNG

Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)


NGUYỄN TẤN CỨ Mùng 8 Tết mai sớm ở Sài Gòn 5 giờ sáng của một thế giới bị lãng quên Thế giới của một mùa xuân nằm mộng 5 giờ sáng của một bóng người quay về Thành phố của tái sinh buồn vui như khói

Hình: NGUYỄN MAN NHIÊN

Không một bóng người không một ai Không xe không tình không sinh không diệt Không gì hết ngoài một lũ sương mù Trắng mênh mông ở con đường phía trước

Sài gòn không giới nghiêm vì không còn ai để giới Không thể ngăn ai vì đã mất dấu những con người Chỉ còn một ngày mai nữa thôi tình yêu kia sẽ biến Những con đường kia sẽ thôi cô đơn vì tái chiếm lại rồi Bắt đầu cuộc chơi thôi vì ở tận bên kia của Cali khô hạn Cuộc gọi của Dung hoang vu khi vừa thức dậy mặt trời Một cú phone nhắn nhe hãy nhớ chiều hôm nay bằng hữu Sẽ Tương Tri ở Sông Trăng để thương nhớ một kiếp người

Sài gòn trên môi tôi ngày đầu năm Mới như một tờ năm trăm thơm ngát Tinh khôi như một tình yêu vừa nhận được Không biết mừng với ai khi tuổi quá tràn đầy

Thêm một cú phone nữa của Vy không thể nào tin được Em ở Holland bay về đây hôm qua khi mặt trời vừa tắt bóng Chỉ muốn gặp anh cho vui thôi để nhớ ngày nầy năm trước Hãy cùng với em rong chơi ngày mai đừng thương xót nữa cuộc đời...

tiếp theo trang 16

GOOGLE SỰ DỪNG LẠI ĐANG DIỄN RA

muốn tìm được ai đó ở Google có khả năng thiết kế một ứng dụng Chuông Chánh niệm (Mindfulness Bell App.) đơn giản, tiện dụng và miễn phí. Còn Thầy chúng tôi thì lại khác. Vốn là người luôn có những tư tưởng lớn, Thầy muốn tìm kiếm những “tri kỷ” có thể tìm ra các ứng dụng hay thiết bị công nghệ để giúp mọi người bớt khổ và giúp nền văn minh của chúng ta không tiếp tục hướng đi như hiện nay. Buổi chiều hôm đó, Thầy cùng với thị giả và một số quý thầy, quý sư cô có cuộc gặp gỡ với các kỹ sư cao cấp của Google để bàn về những vấn đề đó. Trong khi hàng trăm nhân viên của Google đang thưởng thức thiền buông thư do sư cô Chân Không hướng dẫn (chắc chắn là có tác dụng thư giãn và trị liệu hơn nhiều so với những chiếc ghế massage được đặt khắp trụ sở của Google), khoảng mười hai người chúng tôi cùng với Thầy ngồi quanh một chiếc bàn lớn để chia sẻ với các kỹ sư Google về tương lai của công nghệ thông tin.

Liệu chúng ta có thể tạo ra một loại công nghệ có thể giúp con người trở về để ôm ấp và xử lý khổ đau trong chính mình? Ngồi với chúng tôi trong buổi thảo luận hôm đó có một nhân viên nữ ăn mặc rất thanh lịch và sành điệu. Cô đeo đôi kính “Google Glass” – một công nghệ tân tiến nhất hiện nay cho phép ta gửi tin nhắn, lướt web, chụp ảnh và quay phim mà không cần phải động chân động tay gì cả, dù chỉ là nhấc một ngón tay. Nhưng liệu thiết bị thông minh này có thể giúp cô có mặt thực sự cho chính mình và cho buổi thảo luận đang diễn ra? Thời lượng xem các video trên YouTube của Google trong mỗi tháng tương đương với khoảng thời gian 450.000 năm – con số này gấp đôi thời gian con người hiện đại từng tồn tại. Nhưng liệu điều này có giúp con người bớt khổ hay không? Liệu ta có thể tạo ra những thiết bị, phần mềm có khả năng ứng dụng trên toàn cầu với những nội dung giúp con người trở về để chăm sóc chính mình, chăm sóc những người mình thương

Hình: CHÂN HIẾN NGHIÊM

yêu và chăm sóc cho xã hội này? Có thể Google cũng biết rằng có những người kiểm tra hộp thư Gmail của mình đến 100 lần trong một đêm. Người đó cũng đồng thời đang tìm kiếm trên Google bằng từ khóa “nguyên nhân của chứng trầm cảm”, và đặt mua những đồ ăn vặt (junk food) với số lượng lớn thông qua công cụ tìm kiếm “Chrome browser”. Liệu các thuật toán “algorithms” của Google có đủ thông minh để tìm ra những phương thức hiệu quả có khả năng giúp cho người kia bớt khổ? Google mong muốn đạt lợi nhuận lớn trong kinh doanh, đó là sự thực. Nhưng Google cũng đồng thời muốn làm điều tốt, không muốn làm điều xấu ác (not be evil). Vậy thì Google có thể làm được điều gì hay hơn không? Cuộc gặp gỡ và thảo

20

luận hôm đó không giống như một cuộc gặp thông thường, và kéo dài đến hai giờ đồng hồ. Thật là tuyệt vời khi được đóng góp như một Tăng thân – mỗi người trong chúng tôi đều đóng góp năng lượng và cái thấy mới của mình trong cuộc gặp, nhưng tất cả đều là những tiếng nói của cùng một cơ thể, và Thầy là người luôn có mặt và chỉ dẫn cho chúng tôi trong suốt thời gian đó. Thật khó có thể tin được khi thấy vị Thầy thương kính của chúng tôi, một Thiền sư thuộc một thế hệ khác – khi bước vào thế kỷ XXI thì Thầy đã hơn 70 tuổi rồi, vậy mà Thầy vẫn tham dự hết lòng cùng các kỹ sư công nghệ trẻ tuổi và đóng góp cái thấy rất nhanh nhạy, sắc bén của một Thiền sư với rất nhiều thương yêu và niềm vui. Điều đó đã làm cho các nhân viên Google rất hạnh phúc. Một người trong số đó đã bật khóc

khi Thầy giải thích vì sao hành động dừng lại khi nghe tiếng chuông lại có ý nghĩa quan trọng và sâu sắc đến vậy. Để kết thúc cuộc gặp gỡ thú vị này thật là khó và lại càng khó hơn khi chia tay những người bạn ở Google. Chúng tôi đã coi nhau như những người bạn, thậm chí như những “tri kỷ”. Chắc chắn chúng tôi sẽ còn gặp lại nhau và lần tới không phải là một ngày chánh niệm như hôm nay, mà phải là một khóa tu. Chúng tôi cùng nhau đi xuống tầng trệt, nhưng không phải bằng cầu trượt mà bằng những bước chân chánh niệm của mình. CHÂN HIẾN NGHIÊM


Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)

Dế gáy trong đêm

VĂN CÔNG MỸ

Giật mình cất tiếng gáy chơi Chùm sương rớt động hiên đời mốc xanh Cũng vì bữa nọ loanh quanh Đến nay bóng cỏ Vầng trăng ngóng hoài.

tiếp theo trang 11

ĐỪNG COI THƯỜNG

BỆNH

BỎ QUÊN TRẺ NHỎ tiếc như thế xảy ra. Tỷ như dặn các người giữ trẻ phải liên lạc hay gọi cho cha mẹ, ông bà ngay khi thấy hôm đó các em nhỏ vắng mặt không có lý do báo trước. Hoặc viết một dòng chữ lớn, “đừng quên em bé” dán trên bảng xe ngay trước mắt mình. Hay tập một thói quen nào đó như, bỏ bóp, ví phía sau xe, gần ghế ngồi của em bé và luôn luôn kiểm soát ghế con mình trước khi bước xuống xe. Bởi vì ai cũng có khuyết điểm, ai có thể bảo đảm rằng mình không bao giờ làm lỗi, mà cái lỗi này lại là cái lỗi chết người. Gần đây nhất, ngày 5 tháng Ba, 2012, một bé gái 3 tuổi bị bố mẹ bỏ quên ở quán ăn Chuck E.Cheese ở Bel Air, Maryland và chỉ phát hiện là mất tích khi bố mẹ bé nhìn thấy cô con gái trên bản tin truyền hình vào buổi tối. Nhân viên nhà hàng

chỉ biết bé Harmony bị bỏ quên khi cô đến chỗ họ kêu khát nước vào lúc 8 giờ 30 tối thứ Hai. Họ đã báo ngay cho cảnh sát và khai báo rằng bé gái đến đây vào khoảng 4 giờ chiều và tham gia vào một bữa tiệc lớn gồm khoảng 10 thành viên trong một gia đình. Bố mẹ cô cũng tham gia bữa tiệc đó và có lẽ họ bỏ quên cô con gái vì nghĩ rằng bé đã được họ hàng đưa đi cùng khi rời khỏi nhà hàng. Ba ngày sau, ngày 9 tháng Ba, 2012 cũng tại Chuck E.Cheese ở Texas, lại 1 bé gái 5 tuổi bị bỏ quên trong ngày sinh nhật được tổ chức ở đó. Bà mẹ có 10 đứa con này chỉ phát hiện ra sự vắng mặt của cô bé sáng hôm sau khi chuẩn bị đưa các con đến trường. Chỉ trong vòng 1 tuần có

đến 2 đứa bé bị bỏ quên ở Chuck E. Cheese !!!! Tuy nhiên không chỉ có thế, đài truyền hình ABC còn tìm ra trong những năm gần đây ít nhất có thêm 3 vụ nữa, tất cả toàn là trẻ 2 tuổi bị bỏ quên ở các chi nhánh khác của Chuck E. Cheese. Những nơi đó là West St. Paul, IL; Chicago, IL; và Fort Worth, TX. Hội chứng “bỏ quên trẻ nhỏ” xảy ra cho bất cứ giai cấp nào trong xã hội, bất kể sắc tộc, giới tính, tình trạng tài chánh. Cái giá cho sự bỏ quên là bị kết tội, bất kể vì vô ý hay cố ý. Đầu năm nay, hai cặp vợ chồng ở Chicago Shanpreta Howard và Antowain Johnson đã cố tình “bỏ quên” hai đứa con 12 tuổi và 9 tuổi ở nhà một mình để bay đi Las Vegas chơi với một nhóm bạn. Họ bị bỏ tù với tội bỏ bê con cái khiến chúng ở trong tình trạng nguy hiểm. Cặp vợ chồng này rời Chicago đêm thứ tư 22 tháng 2,2012 và không trở về cho tới chiều thứ sáu 24 tháng 2,2012. Thầy giáo hai đứa trẻ không thấy chúng đi học, gọi về nhà mới hay chúng bị bỏ ở nhà một mình, sau đó họ báo cảnh sát. Đã vậy họ còn đăng

21

hình và thông báo cùng bạn bè để chia sẻ tin vui bằng câu sẽ “đi trác táng” trên facebook của họ. Người mẹ còn khoe đã đi làm móng tay xong và không quên viết câu “cha mẹ yêu các con bằng cả trái tim và sẽ du lịch cho tới tận cùng trái đất cho các con” !!! Độc giả đọc bản tin này rất giận dữ và kết án cặp vợ chồng này vô trách nhiệm và không thương yêu con cái. Độc giả tự hỏi, họ có tiền đi Las Vegas phung phí, ăn chơi, cờ bạc, sao lại không thể trả tiền giữ con. Nếu không thì cũng đem gởi cho gia đình hay người thân trông nom dùm, thời gian là hai ngày đâu phải chỉ một vài giờ. Hơn nữa luật pháp xứ Mỹ đã quy định sự an toàn cho đứa trẻ là không được bỏ trẻ em dưới 14 tuổi ở nhà một mình mà không có người lớn trông giữ. Sau khi nhìn qua những sự kiện kể trên chúng ta rút ra được một bài học kinh nghiệm hay cho cuộc sống ngày nay. Để sống còn, chúng ta đã phải thổi quá nhiều bong bóng để giữ thăng bằng và còn nổi được trong bầu không khí hiện tại. Nếu chúng ta không tiếp tục tung hứng những quả bóng, lỡ tay làm nổ từng quả từng quả

một, chính chúng ta sẽ bị rớt vào khoảng không mất hút. Chúng ta cũng không thể đi chậm hay dừng lại trong thời đại tiến hoá này, ngược lại sẽ bị đào thải hay rớt lại phía sau. Do đó chỉ còn cách để mình cuốn theo nhịp sống, nhưng lúc nào cũng nên dè chừng, cẩn thận kiểm soát lại chính mình, đừng quá coi thường những sự việc tưởng là nhỏ nhưng hậu quả rất lớn. Hội chứng “quên” xảy ra với tất cả mọi người nhưng rủi ro do bệnh “bỏ quên trẻ nhỏ” rất nghiêm trọng, nếu ngăn ngừa được, chúng ta nên làm ngay, khi bạn có con hay cháu nhỏ.

TRỊNH THANH THỦY Tài liệu tham khảo Parents ‘leave young children home alone for TWO DAYS while they jet off to Vegas for party weekend’http:// www.dailymail.co.uk/news/ article-2118184/Parents-leaveyoung-children-TWO-DAYSjet-Las-Vegas-party-weekend. html Forgotten baby syndrome http://www.dailymail.co.uk/ femail/article-2113440/Forgotten-baby-syndrome-It-unthinkable--accidentally-leavingbaby-hours-lots-busy-parentsdevastating-consequences. html


TRANH ĐẤU HOÀNG LONG

T

ổ ong nằm trên một cành cây mọc giữa cù lao nhỏ nơi bờ sông. Chúng cư ngụ ở nơi này từ lâu lắm. Không gian cổ sơ này chắc có từ cả ngàn năm. Cái tổ ngày một lớn dần lên và trĩu nặng xuống. Đàn ong thật chăm chỉ, ngày ngày đi tìm hoa hút mật rồi về vun vén cho tổ của mình thêm sạch sẽ lớn rộng ra. Chúng cũng yêu thương nhau, rất chi là đoàn kết. Cảnh giới xung quanh cũng tươi đẹp với gió mát và dòng sông hiền hòa. Nếu biết an vui đời đã thái bình vĩnh cửu. Nhưng rồi thức ăn kiếm về tích trữ được nhiều quá, chúng đâm ra rảnh rỗi thế là kiếm chuyện cãi nhau. Một ủy ban phân xử được thành lập để giải quyết. Nhưng những chú ong được vào ban phân xử thấy quyền uy lớn quá nên tranh giành nhau vào, tranh giành không được chúng lại lập một ủy ban khác. Tiếng tranh cãi đúng là nổi lên vo ve như ong. Tổ ong không còn bình yên nữa, cũng chẳng con nào chịu đi kiếm mồi vì cho rằng đó là bổn phận

22


Hình minh hoạ (UYÊN NGUYÊN)

của những con ong thấp kém, không đến lượt mình. Những phút giây sau khi kiếm mật về lượn quanh tổ, lượn quanh cành cây, đón gió mát không bao giờ còn thấy lại được nữa. Chỉ toàn là đấu đá lẫn nhau. Một lần trong cuộc họp hội nghị chấn chỉnh toàn tổ ong, một cơn gió lớn thổi gãy cành cây, mang theo tổ ong rơi xuống nước. Toàn thể diệt vong. Phút lâm chung ai cũng đằng đằng sát khí. Muốn giữ mạng giữa cơn bất trắc còn không được huống gì sự xa xỉ kiếm một chút bình yên ngày cũ. Khi hiểu ra chẳng có con ong nào chiến thắng thì đã quá muộn rồi. Trên làn sóng nước lặng lẽ, vô vàn xác ong cứ bập bềnh trôi. Sài Gòn, ngày 24/1/2014

HOÀNG LONG

23


Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)

tiếp theo trang 1

MẠN ĐÀM CHUYỆN ĐỔI TẾT DỜI XUÂN Nguyên Đán Việt Nam theo Âm lịch, nên đổi qua ngày đầu năm Dương lịch vì chúng ta không có lí do gì phải bám theo lịch Tàu, phải lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc. Hơn thế nữa, chọn ngày Năm Mới theo Dương lịch sẽ tạo nhiều thuận lợi cho thế hệ con em tương lai trong tương quan với thế giới bên ngoài.” Trước một vấn đề văn hóa có liên quan đến cả ba lĩnh vực truyền thống, tình cảm và tâm linh như thế, thật không đơn giản để chọn lựa một thái độ hay một ý kiến dứt khoát là ủng hộ hay chống đối. Nghĩ vậy, nên tôi đã thưa với anh Tâm Hải là cho tôi thêm thời gian suy nghĩ và thăm dò ý kiến chung trước khi nêu ý kiến riêng của mình. Tuy vậy, đã được hỏi, chẳng lẽ cứ “thủ khẩu như bình, thủ ý như thành” nên tôi chỉ có đôi lời mạn đàm bên tách trà Năm Mới. Người phía Đông dãy Trường Sơn, cho rằng Năm Mới là đầu Xuân: Đó là người Việt, người Trung Quốc.

Người phía Tây Trường Sơn, cho Năm Mới là cuối mùa Xuân: Đó là người Lào, người Hmong, người Cam Bốt. Trong khi đó, hầu hết các dân tộc trên thế giới, kể cả Nhật Bản và đa số dân Nam Hàn theo lịch Tây – Gregorian – đón Năm Mới vào mùa Đông. Sự lựa chọn ngày lành tháng tốt cho Năm Mới nầy, càng đi xa vòng quanh thế giới, càng thấy linh động theo những thời điểm khác nhau. Hóa ra “Năm Mới” không còn là “Cung chúc Tân Xuân” nữa mà nó hiện ra muôn hình, muôn vẻ – Cung chúc Tân… Hạ, Thu, Đông chăng? Xuất phát từ truyền thống lựa chọn của từng nhóm dân tộc, từng giống người, mỗi sự lựa chọn đều có lý do tâm lý, tình cảm, phong thổ và thiên nhiên của nó. Nếu dân Việt ta chịu ảnh hưởng nếp nghĩ theo dòng của Trung Quốc mà cho rằng, khi Xuân về, Tết đến là lúc những loài hoa trỗi dậy khoe hương, khoe sắc sau giấc ngủ

dài trầm trịch mùa Đông; thì dân Lào, dân Miên lại cho rằng “Tết” của họ là khi vụ mùa đầu năm đã gặt hái xong. Khi có được những bữa ăn đầy no ấm, khi những con đường về thôn xóm, bản làng khô ráo dễ thăm nhau và có cây cối đơm hoa xinh đẹp mà thưởng thức, đó mới chính là Năm Mới, là lúc tưng bừng mở hội. Đâu đó 32 năm về trước, một buổi trưa đầu tuần đi trên con đường thành phố Baton Rouge miền Đông nước Mỹ trong một ngày cuối năm ta, người đi bên cạnh tôi nhắc: “Bây giờ bên quê mình đang cúng Giao Thừa.” Gặp một người Việt Nam quen, tôi nói như reo lên: “Chúc mừng Năm Mới!” Thấy có thằng cháu nhỏ bên cạnh, tôi chuyển qua “hệ” tiếng Mỹ liền tay: “Happy New Year!” Những người Mỹ đi trên đường nghe thấy, ngạc nhiên nhìn chúng tôi như

24

những gã bất thường. Có lẽ những người khách lạ kia sẽ ngạc nhiên hỏi rằng, đã tháng Hai rồi mà các anh chàng tóc đen kia còn “chúc mừng năm mới” cái nỗi gì mà lạ thế nhỉ Tính dân tộc vốn bắt nguồn từ những thói quen, cách sống, nếp suy nghĩ của một nhóm hay một cộng đồng chủng tộc. Rồi lâu ngày, tích tụ thành một điệu sống riêng với những quy ước chung cho cả cộng đồng nhân chủng đó gọi là văn hóa. Trong văn hóa chung (culture) có văn hóa riêng (subculture). Cũng như trong văn hóa Việt Nam, có văn hóa Huế; trong văn hóa Huế có văn hóa Huế dân gian và văn hóa Huế Cung Đình; trong văn hóa Cung Đình có văn hóa đế vương, văn hóa cung phi, văn hóa thái giám… Bởi thế, người ta thường bị rơi vào cái thế “trăng quê ta tròn nhất” khi tranh nhau nói về Năm Mới của mình là hợp lý, hợp tình và đậm đà hơn cả trong thiên hạ Khi còn ở quê nhà, nhất là thời kỳ ở Huế, ý niệm chủ quan của tôi “Xuân về, Tết đến” vừa tự nhiên, vừa thiêng liêng như cả không gian, thời gian và đất trời đều dọn mình sẵn sàng để thưởng Xuân, đón Tết xoay vần miên viễn, đời đời không thay đổi. Bản thân mình cũng như bà con làng trên xóm

dưới sau lũy tre làng cứ nghĩ đơn thuần là hoàng mai đơm nụ, trúc đào trổ bông để chào Xuân như một định luật tự nhiên mà con người chỉ là cái bóng yếu ớt rạp mình vâng theo chứ không thể nào đổi khác. Cho đến khi rời xa quê hương, sống ở Mỹ thì cú “sốc văn hóa” trước hết đối với tôi là sớm Mồng Một Tết đầu tiên rơi vào ngày giữa tuần. Người lớn vẫn đến sở làm việc, trẻ nhỏ vẫn đến trường đi học, chẳng ai quan tâm có một ngày gọi là Tết Nguyên Đán trên đất nước nầy. Khung cảnh đa chủng tộc, đa văn hóa của Mỹ đã đem cái truyền thống lễ hội đón mừng Năm Mới của mỗi dân tộc lặng lẽ đi về vùng trời sâu thẳm và xa vời trong ký ức của họ. Qua những không gian khác nhau của nhiều đất nước trên thế giới mà bản thân mình đã được sống hay đi qua, tôi đã xa dần ý niệm “Tân Xuân, Năm Mới” vốn đã ngự trị nghiêm cẩn như đền đài đầy uy lực tinh thần trong tôi hơn nửa cuộc đời. Năm Quý Tỵ 2013, sau hơn ba mươi năm tha hương nhớ Tết, tới ngày nghỉ hưu tôi mới được về quê ăn Tết ở làng. Dẫu hoàn cảnh đổi thay, nhưng tinh thần đón Tết của một làng quê ven thành phố Huế, làng Liễu Cốc Hạ của tôi, vẫn như xưa. Không khí chuẩn


bị cho ngày Tết vẫn là những hình ảnh quen thân giống như từ ngày tôi còn bé. Tết Huế mở đầu vào tháng Chạp thường gặp cái lạnh ghê người. Tháng Chạp là “trạm” thử thách cuối cùng hàng năm đối với tuổi già và người bệnh tật. Người không đủ sức qua “truông” thường ra đi trong tháng Chạp để về đất sum họp ăn Tết với tổ tiên. Bởi vậy, nguyên cả tháng Chạp trong những ngày về ở làng hầu như ngày nào tôi cũng được bà con hết xóm Dưới, qua xóm Giữa , vào xóm Cụt, đến xóm Côi… mời ăn giỗ-kỵ lơ là cả cơm nhà. Cứ thế, hết lễ giỗ, lễ chạp gia đình, dòng tộc đến lễ cúng Tất Niên nhà, tiệm, xóm, làng, cỗ rước, cỗ đưa, giao thừa, xông đất… làm cho không khí Tết rộn ràng, nếp sinh hoạt làng xã sống động và lòng người lâng lâng với cảm giác như được sống hòa quyện với đất trời. Tôi và gia đình đã sống qua 32 mùa Xuân ở Mỹ. Thời gian trải nghiệm cũng tạm đủ dài để chính mình cảm nhận được rằng, cái điệu sống đượm nhuần văn hóa mà người ta thường gọi nôm na “đất lề quê thói” không

đơn giản là một quy ước xã hội giữa những con người với nhau. Nó là kết tinh của mối ràng buộc thiêng liêng giữa con người, hoàn cảnh và thiên nhiên. Nó không đơn thuần là cuốn lịch thời gian xoay vần quanh tạo vật. Bởi vậy, có một sự phân định khá rạch ròi giữa Năm Mới và Tết. Năm Mới là cái mốc thời gian vật lý. Tết là lễ hội thân-tâm. Thân phải chịu đựng những tháng mùa Đông giá lạnh, xám ngắt nên cần được thu nhiễm chút năng lượng mặt trời ấm áp và hoa lá trổ mầm xinh đẹp. Cùng lúc, tâm cũng cần những hình thức lễ hội linh động với nhân sinh mà giao hòa với liên tưởng xứ của tổ tiên, cội nguồn trời đất vô hình nhưng có mặt thường hằng và khắp nơi trong ý niệm đời sống. Lịch Gregorian còn gọi là Tây lịch hay Dương lịch là một hệ thống ghi dấu thời gian do Giáo hoàng Gregory XIII san định lại từ lịch Julian vào năm 1582. Ngày nay, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc năm 2013 thì trên thế giới có đến 97 phần trăm các nước dùng lịch Gregorian làm tiêu chuẩn hành chánh, sinh hoạt. Tuy nhiên, chỉ có dưới 70 phần trăm dùng lịch Tây

nầy làm cột mốc thời gian cho lễ hội mừng Năm Mới. Việt Nam cũng nằm trong số các nước dùng lịch Tây Gregorian để đo ngày tháng và làm tiêu chuẩn sinh hoạt; nhưng không dùng ngày đầu năm Dương lịch để mừng Năm Mới. Ở Châu Á, Trung Quốc là nước sau cùng quyết định dùng Tây Lịch khi vào năm 1912, Tôn Dật Tiên bất chấp sự chống đối của làn sóng bảo thủ giữ Âm Lịch theo truyền thống Trung Hoa cho đất nước, ban hành quyết định lấy Dương Lịch làm tiêu chuẩn ngày tháng cho hệ thống hành chánh trong toàn đất nước. Mấy tháng mùa Xuân về với Huế, tôi có lắng nghe những ý kiến của các nhân vật có thẩm quyền về văn hóa và ảnh hưởng xã hội, lịch sử đưa ra ý kiến “nên hay không” chọn ngày Tết Nguyên Đán vào dịp đầu năm Dương lịch thay cho Âm lịch như hiện nay. Sự chọn lựa thay thế này, Nhật Bản đã thực hiện vào ngày 1-1-1873. Người Nhật gọi là “Ngày đầu tháng Giêng Meiji 6” (明 治6年1月1日 Meiji rokunen ichigatsu tsuitachi). Tôi có dịp tiếp xúc với một số trí thức Nhật ở độ tuổi cao niên. Phần lớn họ

cho rằng, thay đổi ngày lễ hội đầu năm truyền thống đượm tính phương Đông thành kiểu “Tết Tây” đã làm nhạt đi ý nghĩa thiêng liêng của ngày kỷ niệm truyền thống mang nặng cả linh hồn dân tộc và niềm tự hào con cháu Thái Dương Thần Nữ. Thói quen lâu ngày trở thành “thiên tính” thứ hai, cho nên chẳng có gì là không thay đổi được nếu cần thiết và đừng bám chặt vào quá khứ. Có những quá khứ đẹp như một mối tình thơ mộng đầu tiên đã mất. Nhưng cũng có những quá khứ vẫn huy hoàng trong hiện tại như mùa Xuân, ánh nắng, mặt trời đến hẹn lại lên; như hoa cúc hoa mai đến mùa lại nở; như ngày Tết đến độ lại về. Hôm nay, xa mùa Tết quê hương trở về đếm lại từng ngày tuổi già trên đất Mỹ, tôi nhớ những ngày Tết ở quê nhà diễn ra đúng vào ngày Mồng Một tháng Giêng Âm lịch; trong lúc Hội Tết Nguyên Đán của các Cộng đồng người Việt từng địa phương ở Mỹ thường phải bắt đầu từ một dịp Cuối Tuần có khi dăm ba ngày hay cả một vài tuần lễ sau Tết. Vô hình chung, sự chuyển đổi ngày Tết phải uyển chuyển thực hiện tùy theo

hoàn cảnh. Ngày Tết cũng như lòng người, như quan hệ thân tâm. Thân mới mà tâm cũ thì bước đi chuyển hóa sẽ bị giới hạn bởi sự nông cạn của tinh thần bảo thủ; ngược lại, thân cũ mà tâm mới sẽ khó thoát ly được thực tại vì thiếu phương tiện chuyển hóa. Sáng nay, tôi say sưa nhìn bình hoa chưng đón Tết trên bàn thờ. Tự nhiên tôi nghiệm ra một điều hơi trái với cảm nhận thường tình, rằng là, hoa không đẹp bởi màu sắc của chính nó mà bởi sự hài hòa của nhiều màu sắc tương hội với nhau. Cũng thế, Tết Việt Nam mình thiêng liêng không phải bởi ngày tháng mà vì ý nghĩa truyền thống sâu rộng tiếp hiện, truyền đời của chính nó. Hoa mai vàng ngày Xuân đẹp và tỏa hương thanh thoát như thế thì dẫu trổ hoa trong rừng vắng hay giữa nơi đô hội hương sắc có khác gì đâu. Xin nâng một tách trà xanh Thái Nguyên và chúc mừng Năm Mới. Sacramento, đầu năm Dương lịch 2014 TRẦN KIÊM ĐOÀN

Hình: IMichael Tran

tiếp theo trang 1

VIỆT NAM TÔI ĐÂU? CÂU HỎI CỦA NHIỀU THẾ HỆ

xa thẳm kia. Và cùng lúc tôi chợt nghĩ đến bài hát “Việt Nam tôi đâu” của Việt Khang đang trở thành khẩu hiệu cho tuổi trẻ trong vào ngoài nước. VIỆT NAM TÔI ĐÂU? Câu hỏi của tôi vang lên theo từng đợt sóng dội vào bờ cát Chennai nhưng tuyệt nhiên không có tiếng trả lời. Một người đứng trên đất khách và một kẻ đang ở trong tù có cùng một câu hỏi. Thì ra, không phải người đi xa mới thấm thía nỗi đau của kẻ thiếu quê hương mà cả những người đang sống trên đất nước vẫn đi tìm kiếm quê hương. Và quê hương chúng tôi đang tìm kiếm, không chỉ là núi đồi, sông

25

biển, ruộng vườn, cây trái nhưng là một quê hương có khối óc tự do, có tâm hồn nhân bản, có trái tim dân chủ, có đôi chân tiến về phía trước và đôi tay kiến tạo một xã hội thanh bình thịnh vượng cho mãi mãi Việt Nam. Thời gian tôi sống ở xứ người dài hơn so với thời gian sống ở Việt Nam và đã nhiều năm làm công dân Mỹ nhưng ngoại trừ việc phải điền vào những giấy tờ cần thiết, khi được hỏi tôi là ai, tôi luôn trả lời tôi là người Việt Nam. Một phần,tôi cảm thấy chút gì đó ngượng ngùng khi nhận mình là người Mỹ và một phần khác tôi không thể từ chối đất nước đã sinh ra tôi. Tôi cám ơn nước Mỹ đã cứu vớt tôi từ biển cả, cho tôi chiếc

nệm ấm, giúp tôi có cơ hội học hành, dang rộng đôi tay chào đón khi tôi bước xuống phi trường lần đầu trong một đêm đông lạnh, nhưng suy nghĩ và phân tích cho cùng, tôi vẫn là người Việt Nam. Tôi nghĩ về nước Mỹ với một trách nhiệm công dân mang tính pháp lý hơn là một người con mang trên vai nghĩa vụ tinh thần. Tôi không biết kiếp sau, nếu có, tôi là gì nhưng kiếp này tôi là người Việt Nam. Tôi dặn lòng như thế. VIỆT NAM TÔI ĐÂU? Câu hỏi có vẻ ngô nghê nhưng không phải dễ trả lời. Nếu ai hỏi, thật khó cho tôi gỉải thích đủ và đúng trong một câu ngắn gọn. Việt Nam của tôi xem tiếp trang 26


tiếp theo trang 25

VIỆT NAM TÔI ĐÂU? CÂU HỎI CỦA NHIỀU THẾ HỆ không phải là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và dĩ nhiên không phải là chế độ cai trị con người bằng nhà tù và sân bắn như hiện nay. Nhìn chiếc ghe hư nằm trơ trọi trên bờ biển Chennai, tôi chợt nhớ đã có một thời, nhiều thuyền nhân Việt Nam từng hỏi “Việt Nam tôi đâu” và đã đồng ý với nhau rằng Việt Nam đã chết như trong bài hát Một lần miên viễn xót xa quen thuộc của nhạc sĩ Nguyễn Đức Thành: Giờ đây, mỗi đứa con lạc loài mỗi nẽo Đứa London, đứa Paris, đứa đèo heo gió hút Gặp nhau từng hàng lệ xót xa, buông những câu chào Đôi ba sinh ngữ, Bonjour, Au revoir, Hello, Good bye Con gục đầu chua xót đắng cay. Thưa me, thưa me, thưa me, quê hương mình Đã chết rồi, mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ Việt Nam ơi …” Vì “quê hương mình đã chết rồi” nên hàng triệu đứa con của mẹ phải bỏ ra đi khắp chân trời góc biển. Có người không đồng ý và cho rằng quê hương vẫn còn đó, núi sông vẫn còn đó, chết chóc gì đâu mà than vãn. Việt Nam

là quê hương của tất cả chúng ta. Không có quê hương của người quốc gia hay quê hương của người cộng sản. Không có quê hương tư sản hay quê hương vô sản. Quê hương vẫn còn có đó và sẽ mãi mãi còn đó cho ngàn đời sau. Đúng hay sai, còn hay mất, sống hay chết tùy theo cách hiểu và cách nhìn về đất nước. Với tôi và có thể với nhiều đồng bào cùng cảnh ngộ, quê hương không chỉ là những vật vô tri, vô giác nhưng phải là một quê hương sống động và có tâm hồn. Sau 30 tháng Tư năm 1975, quê hương Việt Nam đã mất tâm hồn và thậm chí trở thành tù ngục. Việt Nam, nơi con người bị đối xử như con vật. Việt Nam, nơi con người không có quyền nói những điều họ muốn nói, hát những bài hát họ yêu thích, viết những dòng thơ họ muốn viết. Hàng triệu người Việt Nam đã không còn chọn lựa nào khác hơn là ra đi. Hành trình của hai hơn hai triệu người Việt Nam từ sau tháng Tư năm 1975 không chỉ được ghi bằng những bước chân rỉ máu trên những chặng đường đầy đau thương thử thách nhưng còn qua những bài hát được viết như tiếng

thét gào của đoàn lưu dân trên sa mạc trần gian. Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen Sương rất độc tẩm vào ngươì nỗi chết Quê hương ta sống chia dòng vĩnh biệt Chảy về đâu những nước mắt đưa tin. (Mai tôi đi, nhạc Nguyễn Đình Toàn) Những ngày tháng lênh đênh đó, ai không dừng tay dù đang làm việc gì khi nghe Người di tản buồn của nhạc sĩ Nam Lộc, Sài Gòn niềm nhớ không tên của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn hay Đêm nhớ về Sài Gòn của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cất lên từ giọng ca Khánh Ly? Có ai không chợt nghe lòng mình chùng xuống khi chị Nguyệt Ánh cất lên những lời não nùng trong Một chút quà cho quê hương của nhạc sĩ Việt Dũng? Có ai không nghe như có tiếng mưa rơi dù đang đứng giữa phố Bolsa nắng gắt khi nghe giọng Ngọc Lan kể lể trong Khóc một dòng sông của nhạc sĩ Đức Huy? Và nhiều nữa, Phạm Duy với 1954 Cha bỏ Quê 1975 Con bỏ Nước, Nhật Ngân với Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh, Châu Đình An với Đêm chôn dầu vượt biển, Phan Văn Hưng với Ai trở về xứ Việt, Phan Ni Tấn với Bài hát học trò, Tô Huyền Vân với Quê hương bỏ lại v.v.. Và tất cả đã đóng góp phần mình viết nên bài trường ca đầy bi tráng của một bộ phận dân tộc Việt Nam sau mùa bão lửa 1975. Từ Camp Pendleton đến Leamsing, Palawan,

Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, White Head, Panat Nikhom, Galang, những tên tuổi địa danh đi vào lịch sử Việt Nam qua cái chết tủi buồn của mẹ, qua giọt nước mắt của em, qua tiếng gào thống thiết của anh vọng lên giữa Thái Bình Dương bát ngát. Thời gian cuốn đi bao vết tích, tạo ra bao đổi thay của thời thế và con người. Bây giờ, một số nhạc sĩ đã qua đời, một số đang qua đời trong cách khác và một số vẫn tiếp tục đi trên con đường lý tưởng dù tuổi tác đã già. Nhưng dù sống hay chết, bỏ đi hay ở lại, những bài hát của họ đánh dấu một giai đoạn lịch sử nhiều bi tráng của đất nước và góp phần xây lên tấm bia đá thuyền nhân bi thương ngàn đời trong lịch sử Việt Nam. Và những người còn ở lại, phải chăng họ dễ dàng trả lời “Việt Nam tôi đâu?” Không. Tôi không nghĩ thế. Nếu ai hỏi những người thuộc thế hệ đã trải qua giai đoạn cùng cực những năm sau 1975 còn sống hôm nay có thể họ cũng sẽ trả lời trái tim Việt Nam có một thời ngừng đập. Thời gian dừng lại. Không gian đóng kín bịt bùng. Việt Nam đã chết ngay cả trong lòng những người đang sống giữa lòng đất nước. Một triệu dân Sài Gòn dắt nhau sống lây lất trong các vùng kinh tế mới. Nhiều trăm ngàn sĩ quan viên chức miền nam bị đầy đọa khắp các trại tù. Con người Việt Nam sau 1975 vẫn phải sống, phải thở,

phải tìm mọi cách để sinh tồn trong hoàn cảnh nghiệt ngã chứ không phải là những con người an vui hạnh phúc như phần lớn của sáu tỉ người còn lại trên thế giới. Chính ông Võ Văn Kiệt khi còn sống đã phải thừa nhận niềm vui của đảng Cộng Sản là nỗi buồn của nhiều triệu người dân Viêt. Dân tộc nào cũng có thể phải trải qua những chặng đường đau thương gian khổ nhưng Việt Nam có thể nói là một trong số rất ít quốc gia mà sự chịu đựng kéo dài qua nhiều thế hệ. Hơn nửa đời người trôi qua, tiếng thét vẫn còn vang vọng qua bài hát của nhạc sĩ Việt Khang: Viêt Nam ơi Thời gian quá nửa đời người Và ta đã tỏ tường rồi Ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói Mẹ Việt Nam đau từng cơn xót dạ nhìn đời Người lầm than đói khổ nghèo nàn Kẻ quyền uy giàu sang dối gian. Sau 36 năm, Việt Nam chẳng những không bước thêm một bước nào; trái lại, về kinh tế, chính trị, so với đà tiến nhân loại, đã lùi xa hơn vào quá khứ, và văn hóa đạo đức đang trở về với thời sơ khai nô lệ, nghĩa là thời kỳ mọi của cải đều có thể mua bán, trao đổi, kể cả mua bán, trao đổi chính con người. Người mẹ đang từng cơn xót dạ nhìn đời mà Việt Khang gặp hôm nay không khác gì người mẹ mà tôi gặp đi bán máu ngoài nhà thương

DR. D. DENTAL DANIEL DZUNG TRAN, D.D.S.

COSMETIC & GENERAL DENTISTRY

10451 Bolsa Ave., Ste. 110. Westminster, CA 92683 (Trong khu Nhà Hàng Đồng Khánh)

714.839.3636 714.839.3837 26


Hình: IMichael Tran

Chợ Rẫy mấy chục năm trước. Nếu ai hỏi Việt Nam của mẹ ở đâu, chắc chắn mẹ sẽ chỉ ra những nấm mồ vô chủ. Những bầy em đói khổ nghèo nàn mà Việt Khang mô tả hôm nay cũng không khác gì đám trẻ tôi đã gặp ở vùng kinh tế mới Đồng Xoài ba mươi lăm năm trước. Nếu ai hỏi Việt Nam của các em đâu, các em sẽ chỉ ra những vỉa hè bụi bặm, những góc phố tối tăm. Nhưng hiểm họa đất nước đang phải đương đầu không chỉ là độc tài, tham nhũng mà còn là đại họa mất nước. Giờ đây Việt Nam còn hay đã mất Mà giặc tàu ngang tàng trên quê hương ta Hoàng Trường Sa, đã bao người dân vô tội Chết ngậm ngùi vì tay súng giặc tàu Là một người con dân Việt Nam Lòng nào làm ngơ trước

ngoại xâm Người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi Từng đoàn người đi chẳng nệ chi Già trẻ gái trai giơ cao tay Chống quân xâm lược Chống quân nhu nhược Bán nước Việt Nam Việt Nam tôi đâu Việt Nam tôi đâu Chúng ta đọc quá nhiều, nghe quá nhiều, hãnh diện quá nhiều về lịch sử hào nhùng bốn ngàn năm giữ nước. Vâng, nhưng đó là chỉ là những hào quang của quá khứ, là những thành tựu của tổ tiên, không phải của chính chúng ta. Những bài học thuộc lòng về một quá khứ hào hùng của dân tộc không thể giúp lau khô đi dòng nước mắt hôm nay: Kính thưa thầy đây bài thuộc lòng của con Tổ quốc Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến

KHÚC XUÂN HOÀI TRẦN MỘNG TÚ www.diendantheky.net

Một trăm năm Pháp thuộc hai mươi năm đọa đày Làm sao con thuộc được truyện Kiều Nguyễn Du. Kính thưa thầy đây là quyển vở của con suốt một năm không hề có chữ con để dành ép khô những giòng nước mắt của cha con, của mẹ con, của chị con, và của … chính con. (Bài học của con, nhạc Phan Ni Tấn) Lịch sử không phải là một ngôi miếu để thờ cúng nhưng là một đời sống luôn đổi mới. Truyền thống chỉ là một thói quen lỗi thời nếu truyền thống không được hiện đại hóa. Angkor Wat, Angkor Thom nguy nga, đồ sộ nhưng không cứu được một phần tư dân tộc Khờ Me khỏi bàn tay Pol Pot. Tương tự, Ấn Độ, một dân tộc có nền văn minh lâu đời nhất nhân loại và trải qua

các thời đại hoàng kim từ Ashoka đến Gupta, cũng đã chịu đựng hàng loạt ngoại xâm từ Mông Cổ, Hồi Giáo và thực dân Anh kéo dài suốt 600 năm. Việt Nam cũng thế. Nếu chỉ biết tôn vinh quá khứ và làm ngơ trước hiểm họa Trung Quốc hôm nay, rồi lịch sử dân tộc với những chiến công hiển hách của các thời Ngô, Đinh, Lý, Trần cũng sẽ chỉ là những tấm bia trong một ngôi đền cổ. Hãy tưởng tượng, nếu tất cả chúng ta đều im lặng, làm ngơ, chịu nhục trước hiểm họa mất nước, rồi bốn ngàn năm nữa, những đứa trẻ dòng Việt tộc, đi ngang qua di tích đền Hùng, sẽ căm hận biết bao khi nghĩ về tổ tiên nhu nhược của chúng vào bốn ngàn năm trước đó. Đừng để lại cho các thế hệ Việt Nam tương lai một

ngôi đền mà ngay hôm nay hãy xây cho họ một căn nhà Việt Nam Mới tự do, dân chủ, công bằng, bác ái. Bài hát Việt Nam tôi đâu của Việt Khang là tiếng chuông đánh thức hồn thiêng sông núi đang ngủ quên trong lòng người. Ngọn đuốc Việt Khang thắp lên soi sáng con đường đi về phía trước. Các thế hệ Việt Nam từ lúc chào đời đã mang tinh hoa tinh huyết của dòng giống Lạc Long, nhưng tinh hoa tinh huyết đó phải được mài dũa thành vũ khí để bảo vệ đất nước hôm nay. Cứu Việt Khang, do đó, không phải chỉ cứu một thanh niên, một nhạc sĩ đang bị tù đày nhưng hơn thế nữa, tự cứu chính mình và từ đó đứng lên cứu dân tộc mình. TRẦN TRUNG ĐẠO

S

áng mùa xuân em ra trước hiên nhà đứng dõi mắt nhìn thật xa về quê cũ, trước cửa nhà em có một ngã ba con nước, em hay bối rối không biết về quê thì phải rẽ hướng nào, chiếc hồ trông như một giải lụa ai giăng ở trong sương làm cho em như đứng giữa chiêm bao. Bên kia hồ dẫy núi xanh lam chập chùng như cánh nhạn, em biết đằng sau núi có nhà mình, ngôi nhà một thời có mẹ có cha, có cây trứng cá trước cửa và mùa xuân mẹ đặt những chậu hoa vàng. Có hai ta yêu nhau như từ cổ tích hay trong một quãng đời nhiều nỗi hoang mang, em lúc đó còn trẻ lắm nên không nhớ hết. Hạnh phúc như hộp mứt hôm mồng một tết, anh mở ra chọn cho em cố tránh miếng mứt gừng, sao bây giờ nước mắt vẫn rưng rưng. Xuân này em đứng đây hình dung ra những con phố mùa xuân xưa anh đã dắt em qua, hai vạt áo thơm mùi khói pháo, hai bàn tay chúng ta nắm chặt tình yêu, hạnh phúc cúi nhìn độ lượng. Những con phố cũ bây giờ còn hay mất, đất thì ai mà xóa được nền nhưng chắc rằng phố chẳng còn tên, tình yêu có tìm về sẽ ngơ ngác lắm. Ngày em bỏ đi căn nhà buồn bã đứng, cây trứng cá se mình chẳng còn một đóa hoa, chuông nhà thờ nghe như lời tiễn biệt vọng từ xa, em đã bỏ đi như dòng sông bỏ nước. Mỗi một mùa xuân qua đời đi một chặng, em bước lên bước xuống những con phà, bờ bãi nào thì đất mẹ cũng thật xa, em nhớ tiếc một quê hương của những ngày xưa không bao giờ còn nữa. Mỗi mùa xuân đi qua trái tim em chùng thêm một nhịp, như tiếng đàn chùng ở nốt cuối thanh âm, như sợi tóc xanh bay về một chốn vô cùng, hình như tuyết ngoài kia đang rơi xuống tóc. Ôi mùa xuân và ngã ba con nước, dẫy núi chập chùng như cánh nhạn bay, ngôi nhà xưa bên kia núi, buổi sáng xuân này, có ai đợi tình yêu về gõ cửa. Xuân Giáp Ngọ-2014

27


tiếp theo trang 1

ĐÌNH VÀ LỄ HỘI CÚNG ĐÌNH Ở MIỀN NAM TRUNG VIỆT Bên trong đình là các hàng cột to nguyên thân cổ thụ. Núi rừng miền Trung trước đây vốn nổi tiếng nhiều gỗ quý, tùy theo mức đóng góp của nhân dân địa phương mà lựa chọn. Những đồ án hoặc hoa văn trang trí như Lưỡng long tranh châu, Lưỡng long chầu nguyệt, Tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng), Ông Hổ… đắp trên mái đình, án thờ hoặc trước cổng đình được đúc bằng vôi vữa trộn mật đường và nước nhớt của vỏ cây bời lời, dây tơ hồng hoặc các loại cây có chất keo, độ bền có khi đến vài thế kỷ. Về kiến trúc, hầu hết những ngôi đình ở các tỉnh nam Trung Việt đều xây cất cùng một kiểu giống nhau. Chánh điện chia làm 3 gian, gian giữa để bàn thờ chính, trên vách có treo tấm biển viết chữ Thần bằng Hán tự (神) thật lớn. Hai bên để bàn thờ tả ban, hữu ban. Trước bàn thờ có cặp chim hạc đứng trên lưng rùa. Kế đến là hai giá cắm lô bộ, binh khí (thường là 18 môn binh khí - thập bát ban võ nghệ), trống, chiêng và một khoảng trống để Hương chức lạy cúng. Đồ thờ để trên bàn Thần gọi là tam sự gồm có lư hương và hai cây đèn, hoặc ngũ sự thêm hai ống cắm nhang. Tam sự hay ngũ sự bày thẳng một đường phía ngoài hương án, phía trong có hai độc bình. Chính giữa là một cái khay chân quì, trên để ba cái đài, mỗi đài có chén đựng rượu, cơi trầu và bát nước. Sau ba ngày cúng tế, Ban Tế tự cất hết những đồ thờ chỉ chừa lại cái lư cắm nhang, để phòng kẻ trộm. Ngạch cửa của chánh điện dính liền với một gian rộng bằng ba gian trong, thành một nền hình chữ nhật gọi là võ ca, gồm một khoảng nền trống để ghế ngồi ngay giữa, hai bên là sạp gỗ đóng như bậc thang, là nơi dân chúng ngồi xem hát. Phía trong là sân khấu để đoàn hát bộ trình diễn mỗi khi cúng Thần. Đình nào nghèo không làm sạp gỗ như bậc thang thì dân chúng tự động đem ghế đẩu đến ngồi xem hát. Cạnh đình có gian bếp, phía trước là phòng ăn, gọi là nhà tổ. Trong ngày cúng đình người làng đến nấu nướng cho hương chức và dân

chúng ăn uống. Trước cửa vào đình có cổng tam quan với tấm bình phong vẽ hoặc chạm hình cọp, gọi kính cẩn là Ông Hổ. Sau cổng tam quan có nền gạch cao, gọi là nền Xã tắc, giữa có bia thờ Thần Nông, bên trái có miếu Thổ Thần và miếu Sơn Quân, bên mặt có miếu Ngũ Hành và miếu Long Thần. Trước khi cất đình, người ta phải nhờ một thầy địa lý hoặc một người am tường về thuật phong thủy định hướng ngôi đình. Ngày xưa tổ tiên ta chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, thường làm theo sách vở của Tàu. Nhà vua dựng đền đài, cung điện, tôn miếu, đền tế Nam Giao đều quay mặt về hướng Nam, có ý mong được sự sáng suốt như lửa đỏ vì hướng Nam thuộc về hành Hoả. Việc xây cất đình cũng không ngoài định lệ trên. Thường thường đình nào cũng quay mặt về hướng Nam với hy vọng dân làng được sống yên ổn, làm ăn khá giả. Đồ trang hoàng trong đình gồm có: tàn, lọng, cờ, quạt, võng, ngựa, chiêng, trống, kiểng, cổ lịnh (trống nhỏ để làm hiệu lệnh), thái bình (cái mõ bằng cây). Bát bửu và lô bộ để trên giá gần bàn thờ Thần, dựng hai bên để ngăn bàn thờ ở gian giữa. Mỗi ngôi đình có một lá cờ lớn là cờ lịnh, thượng lên khi đình có đại lễ hoặc ngày Tết Nguyên Đán. Trong đình có cờ ngũ hành hay năm lá cờ hình vuông có 5 màu: xanh thuộc mộc, đỏ thuộc hỏa, trắng thuộc kim, tím thuộc thủy, vàng thuộc thổ. Đình đóng cửa quanh năm, hàng ngày có ông Từ lo việc nhang khói và quét dọn, chỉ mở cửa trong mấy ngày cúng Xuân, cúng Thu.

LỄ CÚNG ĐÌNH Hầu hết các đình ở miền nam Trung Việt đều theo lệ cúng mỗi năm hai lần (xuân thu nhị kỳ), nhưng cũng có một số đình chỉ cúng mỗi năm một lần. Ngày cúng đình mỗi nơi mỗi khác, tùy theo tập quán địa phương. Thường thường cúng Xuân vào tháng 3 hoặc tháng 4 âm lịch là cúng Kỳ an tức cầu Thần linh hộ trì cho quốc thái dân an; cúng Thu vào tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch là Thu tế, lễ tạ ơn Thần. Tùy theo

28

điều kiện kinh tế và sinh hoạt, có nơi chọn cúng Xuân là lễ chính, có nơi chọn cúng Thu là lễ chính. Lễ cúng gồm có các nghi thức: lễ rước sắc, lễ cúng Thần, lễ cúng Tiền hiền - Hậu hiền, lễ cúng Bà Thiên Y Thánh mẫu (làng thôn nào có miếu Bà thì việc thờ cúng Bà được tổ chức tại miếu), lễ dâng hoa, lễ tụng kinh cầu an, lễ tống na (tống quái). Những vị thần được thờ tại đình gồm: Bổn cảnh thành hoàng tức vị Thần phù hộ; các vị Thần ở địa phương được triều đình sắc phong; các vị Tiền hiền, Hậu hiền có công khai hoang lập ấp, giúp đỡ nhân dân; các vị quan có công với triều đình khi chết được sắc phong.

TƯ LỢI CỦA ĐÌNH VÀ QUỸ TẾ TỰ Trước đây các đình ở nông thôn được làng cấp ruộng đất gọi là công điền công thổ, từ 5 đến 10 mẫu ruộng hạng nhất. Ruộng đất này khỏi đóng thuế, là tư lợi của đình để lo việc tế tự hàng năm và tu bổ đình. Những đình ở vùng nông thôn có ruộng còn cho các chủ nuôi vịt bầy đấu giá để họ thả vịt ăn lúa rụng sau khi gặt, gọi là đấu giá “lạc túc”, lấy tiền sung vào quỹ. Những đình ở thành phố và các làng ven biển vì không có ruộng đất làm tư lợi đều dựa vào sự đóng góp của nhân dân địa phương. Dân gian có câu “cúng Thần, Thần đãi” nên dù ít nhiều tùy hảo tâm, khi kêu gọi đóng góp để cúng lễ thì không ai từ chối, nhất là các chủ nậu, chủ chành, chủ vựa, các tiệm buôn lớn, các chủ nghề lớn như lưới đăng, lưới cản, giã cào… vì đây là dịp để trả lễ Thánh Thần và để chứng tỏ sự hào phóng. Từ 1985 đến nay quỹ tế tự của nhiều đình được dồi dào hơn nhờ sự ủng hộ của bà con Việt kiều mỗi lần về thăm quê cũ.

BAN TẾ TỰ Mỗi đình có một Ban Tế tự, phần đông là các ông Hương chức trong làng, mỗi người giữ một phận sự cùng chung lo chăm sóc, tu bổ, cúng tế và mọi việc liên quan đến


ngôi đình. Thành phần Ban Tế tự do dân làng bầu ra, thường gồm 9 người: 1 ông Chánh tế hay Chánh bái; 2 ông Phụ tế hay Bồi bái; 1 ông Đông hiến hay Tả Ban; 1 ông Tây hiến hay Hữu Ban; 1 người đánh mõ; 1 người đánh chiêng; 1 người đánh trống; 1 người thọc huyết heo. Ông Chánh tế thường là ông Thủ sắc trong làng hoặc ông Lý trưởng. Trường hợp hai ông này không thể đảm nhận được (vì nhà đang có tang hoặc vợ có bầu) thì cử một ông khác phải là người có uy tín, đạo đức trong làng. Khi chuẩn bị tế lễ, các ông trong Ban Tế tự tập hợp ra mắt trước án Thần. Ai vào vị trí nấy, hai ông phụ tế đứng hai bên trái phải của Chánh tế, hai ông Đông hiến, Tây hiến đứng bên bàn thờ phía đông và tây theo hướng của đình. Đến giờ hành lễ, Ban Tế tự làm theo lời xướng của Lễ sanh (học trò lễ) hoặc ông Thầy lễ.

CHƯƠNG TRÌNH CÚNG TẾ Hằng năm đến ngày vía, Ban Tế tự tổ chức lễ cúng Thần suốt ba ngày. Cứ ba năm đáo lệ có thuê đoàn hát bộ trình diễn hầu Thần xem và dân chúng thưởng thức. Trước khi cúng Thần có lệ cúng Tiên sư là ông Tổ nghề tại nhà việc của làng. Lễ cúng vào sáng ngày thứ nhất, lễ vật gồm có một con heo gọi là heo cơm, mấy mâm xôi, mâm bánh do Ban Tế tự lo liệu hoặc do dân làng mang đến theo lời nguyện vái. Con heo của đồng bào cúng trả lễ Tiên sư gọi trại đi là “con gỏi”, phần nhiều là heo nhỏ. Kế đó là lễ rước sắc Thần, khởi đầu

từ nhà việc của làng đi tới nhà ông Thủ sắc thỉnh hộp đựng sắc vào đình. Sau ba ngày cúng xong lại hoàn sắc về nhà ông Thủ sắc với lễ nghi như lúc thỉnh. Dẫn đầu đoàn rước sắc thần có một người cầm ống loa đi trước dẹp đường, tiếp đến là hai người đánh chiêng, trống. Một bàn hương án dọn hương đăng trà quả kèm hai cây lọng vàng do bốn người mặc áo đỏ, đội nón chóp khiêng đi giữa hai hàng Lô bộ, Bát bửu. Có làng không dọn hương án thì khiêng hai cái long đình, một cái nhỏ để áo mão vị Thần, một cái lớn để sắc Thần. Hương chức đi theo phải mặc áo thụng xanh hoặc áo dài đen, đội khăn tử tế. Tại nhà ông Thủ sắc cũng thiết sẵn lễ, khi đoàn thỉnh tới chính tay ông Thủ sắc kính cẩn bưng hộp đựng sắc để trên long đình. Bấy giờ đoàn hát bộ phái hai cô đào hầu hai bên long đình gọi là Đào thài. Sắc Thần được viết trên tấm lụa bề dài khoảng hơn một mét, bề ngang khoảng sáu tấc, dệt hình rồng mây mà mỗi triều vua vẽ kiểu khác nhau, màu sắc đậm lợt khác nhau. Chữ viết trên sắc do người có hoa tay. Tấm lụa được bồi trên giấy không dày lắm để dễ cuốn tròn đút trong ống tre hoặc ống thiếc, đựng trong hộp gỗ có khoá đề phòng tráo sắc khác, đặt trên bàn thờ tại đình, treo trên nóc đình hoặc để tại nhà ông Thủ sắc (nhờ có người giữ riêng như vậy nên nhiều đình bị giặc Pháp thiêu hủy trong những năm kháng chiến mà bằng sắc vẫn còn). Làng nào có hậu duệ ông Tiền hiền thờ ông tại nhà thì đoàn thỉnh sắc ghé nhà rước bài vị về đình luôn. Thân nhân vị Tiền hiền làm sẵn cái kiệu khiêng theo. Làng nào có miễu

thờ Tiền Hiền thì thiết lễ cúng tại miễu. Dọc hai bên đường dân làng để bàn thờ, hương án bái vọng khi kiệu Thần đi qua. Khi vào đình, ông Trưởng ban Tế tự bưng hộp sắc để lên bàn thờ, ông Hương lễ đọc bài văn thỉnh Thần an vị. Trong lúc đoàn rước sắc khởi hành thì tại đình làm lễ Khai môn thượng kỳ nghĩa là mở cửa đình, treo cờ lịnh trước đình. Mở cửa rồi, Ban Tế tự thiết lễ tế Thần Nông trên nền xã tắc trước đình. Lễ vật cúng Thần Nông là con heo trắng, để xẻ thịt làm thức ăn buổi trưa, còn phần xôi bánh thì phân phát cho đám trẻ mục đồng. Sau khi thỉnh Thần an vị, Ban Tế tự bưng hộp sắc ra bàn giữa chánh điện mở ra cho hương chức trong hội tề xem, gọi là trình sắc hay khán sắc, mục đích để chứng minh sắc còn nguyên vẹn không bị mối ăn, không bị tráo. Xem xong sắc được đưa lên bàn thờ, đoạn Ban Tế tự hành lễ đọc văn tế Thần. Buổi chiều cử hành lễ Túc yết (mổ heo). Nửa đêm, xây chầu hát bộ một lớp sơ cổ. Ngày thứ nhì, cử hành lễ Đàn cả vào buổi sáng, buổi chiều hát bộ. Ngày thứ ba, cúng Tiền Hiền và cầu siêu các chiến sĩ trận vong và hội viên quá cố; buổi chiều hát bộ và hồi chầu, bế mạc. Đình nào cúng trong một ngày thì sáng rước sắc, làm lễ Túc yết và Đàn cả; trưa chiều cúng cha chú (tức Tiền hiền), cúng Thần, cúng tất và tống na. Ban Tế tự làm chiếc ghe nhỏ bằng bẹ chuối, để ít thực phẩm trong ghe và thả trôi ra biển. Ngày xưa sắc Thần để trong đình, đến chiều 30 tháng Chạp Ban Tế

Hình: IMichael Tran

29


tự thỉnh sắc từ đình về nhà việc của làng gọi là để Thần ăn Tết. Suốt bảy ngày từ mùng 1 đến mùng 7 Hương chức không làm việc. Đến chiều mùng 7 cúng Khai sơn rồi Ban Tế tự thỉnh sắc về đình. Từ lúc sắc Thần để trong nhà ông Thủ sắc thì các làng bỏ tục lệ trên.

NGHI THỨC HÀNH LỄ Đến giờ hành lễ, các ông trong Ban Tế tự mặc áo thụng xanh và áo dài đen cùng đoàn Lễ sanh sắp hàng đi lên chánh điện từ hướng đông (khi xuống đi hướng tây). Đình nào không dùng học trò lễ thì có ông Hương lễ điều hành nghi thức. Mỗi vị đứng theo vị trí của mình, chức lớn đứng trước bàn Thần, chức nhỏ đứng phía sau lưng và hai bên tả hữu. Một Lễ sanh (hoặc ông Hương lễ) đứng cạnh bàn thờ để xuống điều khiển cuộc lễ, còn lại thì đứng hai bên dọc theo bàn thờ Thần. Lễ túc yết có từ 4 đến 8 người phụ giúp. Trong lễ túc yết, khi lễ sanh xướng: “Củ soát tế vật” thì một vị trong Ban Tế tự đến xem xét lễ vật có đủ món không rồi lấy dĩa đựng lông và huyết heo đem ra sân đình chôn. Có làng không chôn thì lễ sanh xướng câu: “Ế mao huyết”, người phụ trách đem dĩa lông và huyết heo để kế bên con vật hy sinh trước bàn Thần. Đoạn Ban Tế tự theo lời xướng đi rửa tay, lau tay. Một vị bưng hộp hương, một vị bưng lò hương trao cho Tế quan làm lễ thượng hương. Kế tiếp Tế quan lại chỗ để cái mõ dỡ tấm khăn đỏ trải phủ thân mõ đánh 3 hồi dài. Hai vị bồi tế đánh 3 hồi chiêng trống. Nhạc lễ trổi lên, Ban Tế tự trở về vị trí lạy Thần 4 lạy. Lễ sanh dâng 3 tuần rượu, 3 tuần trà. Vị Hương lễ đọc bài văn tế. Lễ tất.

LỄ XÂY CHẦU Theo lệ xưa, trước khi đoàn hát bộ trình diễn đêm đầu, Ban Tế tự tổ chức Lễ xây chầu còn gọi là Khai tràng. Người phụ trách xây chầu gọi là Chấp sự, phải là người đứng đắn, cao tuổi, gia đình hạnh phúc, có uy tín, được dân làng trọng vọng. Ông Chấp sự phải biết mỗi năm tùy hướng Đại lợi mà xoay cái trống cho đúng hướng. Mặt trống chầu gọi là Thái cực. Coi hướng xong phải lấy địa bàn phân kim ngay ngắn, lấy phấn làm dấu dưới chân trống cho khỏi xê dịch, trật chỗ. Mặt trống phải đậy khăn đỏ không cho ai rờ mó. Trên giá trống có cây đèn dầu, phải giữ cháy luôn luôn và coi

chừng mèo chuột chạy đổ ngã. Đến giờ hành lễ, Chấp sự đến chỗ để trống, lòng thật bình tĩnh, trong tâm cầu nguyện Thần Thánh hộ trì. Ông đứng nghiêm ngay thẳng, oai nghi như cây trụ đồng, chân theo chữ đinh (丁), mắt ngó thẳng hướng Đại lợi. Khi lễ sanh xướng: “Chấp sự viên hành sự” thì ông Chấp sự ngó vào mặt trống, tay dỡ khăn đỏ, tay cầm dùi đánh ba hồi dài. Đến hồi chót ông đánh tiếp 3 chập, mỗi chập 3 tiếng, cộng lại là 9 tiếng, theo câu “Tam như tam, thiên hạ thái bình; Cửu như cửu, trình tường tứ phước”. Nghi thức này còn gọi là ba hồi chín chập. Sau đó tuồng hát bắt đầu, ông Chấp sự muốn ngồi đánh trống thưởng phạt hoặc nhường cho người khác cũng được, nhưng phải lựa người đàng hoàng. Lúc hồi chầu bế mạc thì đánh một hồi trơn mà thôi. Nếu phần hát chầu chấm dứt mà có người mướn đoàn hát trình diễn thêm để cúng Thần trả lễ theo lời nguyện vái thì sau hồi trống có thêm 3 tiếng cho một tuồng, 3 tiếng nữa cho tuồng thứ hai. Đánh như vậy có nghĩa là tuy đã hồi chầu nhưng còn có hát thêm. Ban Tế tự của đình toàn quyền chọn tuồng hát nhưng thường cũng không ngoài những tuồng dưới đây: buổi thứ nhất: “Trương Phi thủ cổ thành” hoặc “Huê Dung đạo”, các buổi kế tiếp: “Thần nữ dâng Ngũ linh kỳ”, “Chung Vô Diệm”, “Xử án Bàng Quý Phi”, “Lưu Bị cầu hôn giang tả”, “Bá Lý Hề”…

THƯỞNG TIỀN Người thưởng tiền là ông cầm chầu. Ông phải rành tuồng tích, hát đúng hoặc hát nhận lớp (bỏ lớp). Khi diễn viên hát nhận lớp hoặc hát dở quá, ông gõ vành trống mấy cái để nhắc nhở hay cảnh cáo không nên qua mặt. Lúc hát hay, đúng tuồng tích và nhất là những pha gay cấn đào kép diễn tả đúng điệu, tiếng trống đánh một chập 3 tiếng, hai chập 6 tiếng hoặc dồn dập nhiều hơn, tiền thưởng mỗi lần nhiều hay ít theo tiếng trống. Thấy việc ném bạc giấy lên sân khấu mỗi lần thưởng có vẻ bất tiện nên về sau người ta dùng thẻ tre, quy định mỗi thẻ là bao nhiêu tiền, đến khi buổi hát tạm ngưng thì có người mang số thẻ đến cho ông cầm chầu thanh toán. Ba năm mới có một lần hát bộ cúng đình nên đây là dịp để các ông cầm chầu trổ tài hiểu biết tuồng tích và

phô tiếng trống sành điệu. Ông nào cũng tỏ ra hào phóng, đánh trống ầm ầm, ném tiền (hay thẻ tre) lên sân khấu không biết mỏi tay khiến thằng bé con của bạn hát cứ lom khom chạy lượm mãi, tạo nên cảnh vui nhộn cho buổi hát giữa sự ồn ào của đám đông khán giả bình dân.

LỄ VẬT CÚNG THẦN Người ta thường dùng vật hi sinh để cúng Thần (theo Từ nguyên, Hi là con vật toàn một màu đen hoặc trắng; Sinh là súc vật làm thịt rồi). Vật hi sinh là heo gọi là cang lạp, dê gọi là nhu mao, xôi gọi là tư thành. Có làng cúng thêm bò hoặc trâu, gọi là tam sanh. Ngoài món thịt, người ta cho món xôi là vai chánh trong buổi lễ, kế là bánh trái. Đây là dịp cho bà con dân làng hãnh diện được có phần một mâm xôi. Từ ông Tổng, ông Hội đồng, đến ông Lý trưởng, Hương thân, Hương hào, Hương bộ… mỗi vị cúng một hoặc hai mâm. Mỗi nhà tự chọn nếp thật tốt, lo nấu xôi thật ngon, khéo. Xôi xây tròn trên mâm thau, vành mâm có dán mảnh giấy ghi tên người cúng. Khi cúng xong, Ban Tế tự cắt làm hai, một nửa để đãi tại đình, một nửa cho người cúng đem về nhà gọi là “lộc của Thần”. Khi đưa mâm xôi đến đình, người chủ phải đội trên đầu hoặc bưng trên vai, không được phép bưng ngang hông dưới nách. Nếu để mâm xôi vào gióng phải hai người khiêng chứ không được gánh hai đầu như gánh nước hay đi chợ. Khi cúng rồi đem một nửa mâm xôi về nhà thì tự bưng gánh thế nào cũng được. Những đình quá nghèo thì không có việc cúng mâm xôi như trên. Nhiều đình khi cúng tế thì Ban Tế tự lo việc nấu nướng tại nhà Tổ để đãi khách. Khi chấm dứt cuộc cúng tế, Ban Tế tự chia phần thịt heo biếu Hương chức gọi là Kiếng (Kính). Đầu heo và cái nọng kiến cho hai ông cao cấp nhất, còn các vị khác thì mỗi vị một miếng thịt. Có làng nhân dân cúng ít xôi không đủ đãi đằng thì Ban Tế tự không hoàn lại nửa mâm như cựu lệ mà biếu người cúng một miếng thịt. Bánh cúng có bánh thuẫn, bánh bông lan, bánh in, bánh cốm, bánh ít lá gai… Trái cây thường là cam, chuối, xoài, thanh long, mãng cầu, ổi xá lị, vú sữa, bưởi… mùa nào thức ấy, không bắt buộc. NGUYỄN MAN NHIÊN

Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)

30


Hình: Facebook NGÂN HÀ TRẦN

tiếp theo trang 5

THEO QUÁCH TẤN TÌM VỀ NÚI CŨ XEM MAI NỞ hòn Hang Rái ở phía Đông Bắc, hòn Chuông ở phía Tây v.v… (3) Tôi bắt đầu nhìn ngắm được ngọn Núi Bà là vào những năm 1953 đến 1954, tức là những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Pháp. Đầu làng tôi có một cây cầu gỗ bắt ngang qua sông. Dân phía bên này và bên kia sông đều đi lại bằng chiếc cầu gỗ này. Nhưng chiếc cầu đã vô tình trở thành tai họa giáng xuống dân làng, vì ngày nào máy bay Pháp cũng đến dội bom xuống chiếc cầu. Tôi còn nhớ như in, hễ cứ nghe gà gáy canh đầu là mẹ tôi đánh thức tôi dậy cùng với dân làng đi lên đèo Tó Mọ để tránh bom đạn. Đèo này nằm sâu trong dãy Núi Bà, nên dân làng phải ráng sức để khi đến nơi thì trời vẫn còn tối, vì ban ngày thì sợ máy bay thấy sẽ rất nguy hiểm. Tôi thì còn quá nhỏ nên khi bắt đầu leo núi thì mẹ tôi phải cõng tôi trên vai để đi cho kịp với mọi người. Vào những đêm trời có trăng, vừa leo núi tôi lại còn nhìn thấy mặt trăng mọc ngay trên đỉnh núi. Mặt trăng lúc ấy trông buồn bã làm sao: Đêm đêm nằm đợi canh gà giục Mảnh nguyệt rừng xa bạn cố tri

(Mùa cổ điển) Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn thích đọc lại hai câu thơ ấy của Quách Tấn, đọc để nhớ lại tuổi thơ của một thời ly loạn đã qua. Vào mùa đông hay tháng giêng tháng hai trời còn gió chướng, từng cơn gió rét buốt từ đèo Tó Mọ đổ xuống cánh đồng Dạy, cánh đồng nằm kề cận làng tôi. Những buổi chiều đi học về, tôi cùng những đứa trẻ cùng làng phải cắm đầu mà chạy để tránh cái rét như cắt da ấy. Những lúc đó, tuổi thơ tôi đã cảm nhận một cách mơ hồ rằng, con người hoàn toàn xa lạ và bơ vơ trước vũ trụ bao la kia. Rồi lớn lên rời bỏ quê hương, mỗi khi có dịp trở về để đi qua cánh đồng lộng gió ấy, tôi còn phải chịu đựng mộc cơn gió rét buốt khác nữa, cơn gió dâu bể của cuộc đời. Nhiều thế hệ tiếp nhau sanh ra, lớn lên, sống trong âm thầm rồi họ cũng đã âm thầm trở về nằm yên dưới rặng núi này: Gò xanh vun nấm cỏ Ghi dấu thời gian qua Chữa nhạt niềm tâm sự Âm thầm xuân nở hoa. (Mộng Ngàn Sơn) Mười năm, hai mươi năm hay ba chục năm, có lẽ chỉ dài đối với một đời người. Nhưng với một

dòng sông hay một rặng núi thì quá ngắn để mà ta có thể thấy sự thay đổi của nó. Bởi vậy mỗi lần trở về tôi thấy núi vẫn xanh và những đám mây trắng vẫn bay trên đỉnh núi như dạo nào Vậy là, tôi thường tự nhủ, núi đứng đó không phải chỉ để nhìn “Sóng lớp phế hưng” của cuộc đời thôi, mà chừng như dãy núi còn biết lắng nghe tâm sự của bao thế hệ đã đến từ rặng núi nầy nữa: Chữa nhạt niềm tâm sự Âm thầm xuân nở hoa Tôi tưởng tượng Quách Tấn cũng đã nhiều lần đứng nhìn những nắm mồ nơi rặng núi của quê nhà nên ông mới có một nỗi buồn heo hút đến như vậy. 2. Tâm sơn dục minh đức Lưu huân vạn do diên Ai loan cố đồng thượng Thanh âm triệt cửu thiên (Ở trong núi nuôi dưỡng các đức tánh sáng chói Hương thơm tỏa ra hàng vạn dặm Rồi cũng giống như con chim Loan cất tiếng kêu buồn thảm trên cây ngô dồng. Âm thanh của nó vọng đến chín từng trời) Có thể vay mượn một bài thơ xem tiếp trang 40

31


của Kumarajiva (Cưu Mala Thập) như vậy để thấy núi non hết sức quan trọng trong bước đi lên của con người.

Ta có cảm giác rõ rệt là càng lên cao bao nhiêu thì con người cảm thấy mình là một với đất trời bấy nhiêu.

Vì dường như những thành tựu tâm linh lớn nhất của con người từ xưa đến nay đều phát xuất từ núi rừng cô tịch?

Rồi tại một hòn núi khác, Quách Tấn kể lại kể lại cảnh một nhà sư âm thầm cứu giúp con người: “Để giúp hành khách qua lại khỏi bị nạn cọp, nhà sư trụ trì tổ chức việc đưa đón hết sức nên thơ.

Ta có thể giả thiết như thế này: Nếu không có dãy Hy Mã Lạp Sơn cao nhất thế giới ở Ấn Độ thì nhân loại đã không tìm ra được con đường để đi rồi. Quách Tấn dường như đã linh cảm được rằng, con người của thực dụng hôm nay đã đánh mất dần núi non trong hồn mình. Nên ông đa đem hết sức bình sinh để làm sống lại cái đẹp của núi non trong tâm hồn con người hôm nay. Quách Tấn đã bắt đầu bằng một truyền thuyết dân gian đầy thơ mộng về hai rặng núi ở quê nhà ông như thế này: “Truyền rằng xưa kia lúc mà ông Trời bà Đất hết khắng khít với nhau, ông bay lên cao, bà hạ xuống thấp, bỏ nước non mây ráng bơ vơ. Ông Khổng Lồ lo việc xếp đặt núi non cho có thứ tự. Sau khi xếp xong các dãy núi ở Bình Định. Khổng Lồ lựa hai hòn núi cân đối, quảy nhỏng nhảnh đi chơi. Nhìn núi nhìn mây, cao hứng quên lửng gánh núi trên vai. Đòn gánh chích, đôi gióng nghiêng. Đôi núi lăn cù xuống đất. Núi rớt thình lình, Khổng Lồ vừa giựt mình vừa mất thăng bằng suýt ngã. Để khỏi té, ông liền bấm chặt một chân xuống đất, một chân bước dang ra trước mặt để chống. Tuy khỏi bị té ngã, nhưng bị cụt hứng, ông tức mình bỏ núi lại đó. Gánh giống không mà đi đến nơi khác. Hai hòn núi bỏ lại đó là hòn Trà Sơn và hòn Khánh Long. (4) Vì núi được sanh ra bởi ông Trời và bà Đất, nên ta phải leo lên núi cao thì mới thấy hết cái đẹp của trời đất: “Lẫn trong màu sắc của ruộng đồng mênh mông, từng chùm, từng khoảnh nổi lên màu lục đậm của cây, màu xam xám hoặc đo đỏ của chợ quán, nhà cửa, chùa đền… hoặc ẩn hiện dưới bóng mây làn khói” (5). Cái giây phút ấy, thì những gì tù túng, chật chội của mặt đất dường như cũng tan biến hẳn.

Hành khách đến chân đèo thì dừng lại đợi nhau. Khi đã được năm ba người rồi, nhà sư đến đưa qua đèo. Không dáo không mác, không trống, không phèn la… nhà sư thong thả đi trước, tay gõ mõ miệng tụng kinh, hành khách nối đuôi nhau đi theo, khoan thai trật tự… Sang phía bên kia, nếu có khách thì nhà sư trở lại, đưa qua đèo. Cứ thế hết ngày này đến này kia. Ai cúng ít nhiều cũng được, không cũng không sao. Trước kia nạn hổ thường xảy đến. Từ khi có sự đưa đón của nhà chùa, người qua lại đều vô sự”. Đối với chúng ta ngày nay, câu chuyện trên có vẻ hoang đường, không thực tế. Quách Tấn cũng biết vậy, nên ông đã viết: “Đó là chuyện cũ ngày xưa, ngày nay người không còn sợ cọp như trước, trái lại cọp phải sợ hẳn lòng người, nên tiếng mõ câu kinh không cần thiết nữa”. (6) Cuối dãy núi Bà có một ngôi chùa cổ gọi là chùa Ông Núi. Có nhiều truyền thuyết kỳ lạ kể lại hành tung của Ông Núi: Ông Núi dùng vỏ cây làm y phục, tham thiền nhập định suốt ngày đêm trong hang đá. Trong hang đá còn có hai con cọp mun hiền lành. Ông Núi ít khi đi đâu, chỉ khi nào cần lương thực thì Ông Núi mới gánh một gánh củi xuống để ở ngã ba đường. Người quanh vùng đem gạo muối xuống để đó, rồi gánh củi đem về nhà chụm. Chiều tối hôm sau, Ông Núi mới xuống lấy gạo muối, rồi lặng lẽ lên núi trở lại. Ông Núi tiếp tục sống như vậy trong nhiều năm, đến khi Trương Phúc Loan chuyên quyền, khắp nơi đều sống trong cảnh đói khổ loạn lạc. Một hôm những người tiều phu lên núi đốn củi, họ tò mò vào hang thì không còn thấy Ông Núi đâu nữa. Bấy giờ họ mới biết Ông Núi đã bỏ cái hang đó đi mất rồi, chẳng ai biết ông đi đâu?

Hơn ba trăm năm sau (7), Quách Tấn đến viếng Chùa và ông vẫn còn nghe được bước chân Ông Núi vang vọng khắp núi non: “Dọc đường khi đi cũng như khi về, thường nghe các em mục đồng, các chàng ngư phủ, với một giọng thật thà, đôn hậu, hát những câu hát về Ông Núi, khi thì thánh thót, như: Cây che đá chất chập chùng Biển giăng dưới núi chùa lồng trong mây Bụi đời không gợn mảy may Chút thân rộng tháng ngày dài thảnh thơi. Khi thì ngầm chứa nỗi u hoài, như: Ông Núi đi đâu Bỏ bầu sơn thủy Đủ nhân đủ trí Thêm vĩ thêm kỳ Chùa xưa nhạt bóng tà huy Xuôi lòng non nước nặng vì nước non (8). Những tiếng “Núi cũ”, “Chùa xưa” đã được Quách Tấn lặp đi lặp lại nhiều lần trong thơ của ông, đã nói lên hết tất cả nỗi bơ vơ của ông khi phải sống trong thế giới hiện nay. Một thế giới đã gần như quên hẳn một Trần Thái Tông đã cùng với Đức Sơn Thiền Sư đứng ngắm trăng trước sân chùa Thanh Phong và nghe gió lùa qua núi vắng. Một Nguyễn Trãi ngậm ngùi tiễn Đạo Kiêm Thiền Sư về núi với lời chúc: “Về non ta lại có thiền tâm” 3. Trong một bài nhận định về thơ của Quách Tấn cách đây đã hơn ba chục năm, Phạm Công Thiện đã viết một câu hay tuyệt: “Tôi tưởng chừng những tiếng thơ trên đã phát xuất từ trung tâm điểm của vũ trụ, xa lắm, xa lắm” (9). Những tiếng “xa lắm, xa lắm” của anh Phạm Công Thiện dĩ nhiên phải dược hiểu theo nghĩa bóng. Dù vậy, có những bài thơ của Quách Tấn mà mỗi lần đọc lên, tôi khó có thể nghĩ rằng ông đã làm những bài thơ đó tại những thành phố có tên là Quy Nhơn hay Nha Trang hay tại bất cứ một thành phố nào ở Việt Nam. Tôi có cảm giác ông là một ẩn sĩ đang sống tại một ngôi chùa cổ ở một thảo nguyên hay một hòn

Hòa thượng Thích Phước An (Hình: Facebook NGÂN HÀ TRẦN)

32


Hình minh hoạ (SÓNG NHA TRANG)

núi cao nào đó, xa hẳn chốn trần gian bụi bặm này. Vì chỉ trong cô đơn heo hút như vậy, thì ông mới lắng nghe hết cả cái buồn sầu thảm của vũ trụ mênh mông này: Sông dài bãi vắng núi chênh vênh Chùa khuất sau mây tiếng trống rền Gió nước nôn nao lòng đãi độ Lạnh lùng sương xuống bóng trăng lên (Đọng Bóng Chiều) Và tại nơi “thâm sơn cùng cốc”, trong một thoáng giây ngắn ngủi, Quách Tấn chừng như đã thấy được cánh cửa của vô hạn: Thoáng tiếng chuông chùa vọng Bóng đèn khuya rung rinh Nao nao lòng giống quạng Hơi thu tràn hư linh (Mộng Ngàn Sơn) Rồi tôi tưởng tượng rằng, một hôm nhà ẩn sĩ đó đã bị bắt buột xuống núi trở lại. Dù sống giữa cuộc đời, nhưng lòng ông lúc nào cũng ngóng vọng về nơi chốn xa xôi ấy: Mây nước nhiễm phong trần Nơi đâu tình cố nhân Những đêm buồn tỉnh giấc Chùa cũ tiếng chuông ngân (Mộng Ngàn Sơn) Ông nhớ rõ từng lời kệ tiếng kinh, nhớ giọt trăng tà đọng lại trên hành lang heo hút của đêm sắp tàn nơi ngôi chùa cổ: Lặng lẽ chiên đàn nhã khói hương Trăng tà đôi giọt rụng lan can Chùa xa riêng cảm đêm thu quạnh Vần kệ ngân đưa giấc mộng tàn (Đọng Bóng Chiều) Và nhớ những chiều núi non sau cơn mưa còn đẹp hơn cả một giấc mộng: Mưa tạnh non cao đọng bóng chiều Hồi chuông chùa cũ vọng cô liêu (Chưa xuất bản) Hai câu thơ có sức hoài niệm lạ thường. Gần một thế kỷ đi qua trên cuộc đời này, ngoảnh nhìn lại chẳng còn nhớ gì hết, ngoài một chút núi non tịch mịch trong lòng của thi nhân mà thôi… Chắc chắn những bài thơ trên của Quách Tấn không phải là sự rung động ngẫu nhiên hay nhất thời của một nghệ sĩ, mà nó đã được hun đúc sâu xa bởi một khát vọng. Khát vọng đó đã một lần được Quách Tấn phát biểu: “Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ không phải để phấn sức tài ba trong nhất thời”. Đó là lời của Trần Tử Ngang mà tôi đã học thuộc lòng từ khi mới

tập làm thơ. Ngày xưa tôi làm thơ là để lòng vào thiên cổ, như lời Trần Tử Ngang. Nhưng từ ngày tôi nhận thấy văn chương là một pháp môn, là một cái đạo, thì tôi làm thơ, viết văn để giải thoát tâm hồn” (10). Thi ca, theo quan điểm của Quách Tấn làm một pháp môn, một cái đạo để ông giải thoát tâm hồn. Như vậy Quách Tấn đã đạt được khát vọng ấy trong thi ca của ông chưa? Đọc bài thơ sau đây ta sẽ rõ: Mây thu chớp nhẹ cánh thư hồng Hắt ánh tà huy trắng mặt sông Bờ giạt sóng lau vờn ngọn bấc Đợi đò lặng lẽ bóng sư ông. Vậy, đúng như Phạm Công Thiện đã nói, thì: “Hiện nay Quách Tấn đã đi gần tới tiêu đích của mình” (11). 4. Vào những tháng cuối năm 1975 và tiếp đến những năm 1976 và 1977, theo chỗ tôi biết, đó là những năm tháng buồn bã nhất trong cuộc đời của Quách Tấn. Bạn bè cũ, một số đã ra đi, một số còn ở lại thì sợ “Tai vách mạch rừng” nên ít ai dám lui tới để trò chuyện, tâm sự, mặc dù có quá nhiều chuyện để mà tâm sự với nhau. Lúc ấy anh Tuệ Sỹ vẫn còn ở Nha Trang, chùa lúc ấy cũng chẳng còn chuyện gì để làm, nên anh Tuệ Sỹ và tôi vẫn thường xuống nhà thăm Quách Tấn, thỉnh thoảng ông cũng lên chùa thăm lại. Những lần viếng thăm như vậy đã an ủi tâm hồn ông rất nhiều, nhất là trong hoàn cảnh cô đơn và đầy bất an như lúc ấy. Một bữa nọ anh có trao cho anh Tuệ Sỹ và tôi một bài thơ: Bạn thơ nay chẳng còn ai Tới lui trò chuyện chỉ vài nhà sư Chung trà hớp ngụm vô tư Chia tay nhìn bóng thanh hư gởi lòng Riêng đối với Tuệ Sỹ, mặc dù tuổi tác khá chênh lệch nhau. Tuệ Sỹ đến sau Quách Tấn gần nửa thế kỷ, nhưng Quách Tấn vẫn một mực quý trọng tài hoa và nhất là tư cách của Tuệ Sỹ. Tôi nhớ có một lần ông đã nói với tôi rằng, ở Việt Nam có hai tác phẩm viết về Tô Đông Pha (một đại thi hào đời Tống của Trung Quốc) một của Nguyễn Hiến Lê và một của Tuệ Sỹ. Nhưng theo ông Nguyễn Hiến Lê chỉ mới đứng từ xa mà nhìn ngọn Lê Sơn, còn Tuệ Sỹ mới đích thực vào được “thâm xứ”

ấy. Quách Tấn là một nhà thơ, mà nhất là nhà thơ rành rẽ về thi ca Trung Quốc, thì lời nhận định của ông tất nhiên phải có giá trị lớn rồi. Nhân đó, tôi cũng cho ông biết rằng, vì Tuệ Sỹ là một nhà thơ, một nhà thơ mà viết về một nhà thơ thì tất nhiên phải hay hơn một học giả viết về thi ca vậy. Quách Tấn rất đỗi ngạc nhiên khi biết Tuệ Sỹ cũng có làm thơ. Vì từ lâu ông chỉ biết Tuệ Sỹ là một nhà Phật học, một dịch giả vậy thôi. Khi Đào Duy Anh lần đầu tiên từ Hà Nội vào Nha Trang đến thăm Quách Tấn, ông hỏi ý kiến Quách Tấn là ai là người mà ông nên đến thăm? Quách Tấn đã trả lời ngay: Tuệ Sỹ, chỉ có Tuệ Sỹ là người đáng thăm nhất. Và ông Đào Duy Anh đã leo núi lên chùa Hải Đức để thăm Tuệ Sỹ. Trong cuộc trò chuyện hơn hai tiếng đồng hồ tại chùa Hải Đức. Tôi vẫn còn nhớ là Đào Duy Anh đã tỏ ra rất tiếc khi ở ngoài Bắc mấy chục năm mà ông vẫn không có tác phẩm Essay in Zen Buddhism của D.T. Suzuki để đọc, đến khi vào Nam thì ông thì ông mới đọc được bộ Thiền Luận do Tuệ Sỹ dịch từ tiếng Anh của D.T. Suzuki trong khi ông biết là tác phẩm đó đã chinh phục thức giả Tây phương từ lâu rồi. Ông cũng công nhận là một sự muộn màng đáng tiếc. Khi tiễn Đào Duy Anh xuống núi, ông cứ đi một đoạn là đứng lại bắt tay anh Tuệ Sỹ, những cái bắt tay thật chặt. Cứ như vậy ông bắt tay cho đến khi xuống cuối dốc chùa mới thôi. Điều ấy chứng tỏ rằng, Đào Duy Anh rất trân trọng về cuộc gặp gỡ này. Sau đó, có lẽ vì không chịu đựng nổi không khí ngột ngạt ở thành phố nên Tuệ Sỹ đã đi làm rẫy tại một khu rừng hẻo lánh ở thị trấn Vạn Già, gần đèo Cả, cách Nha Trang khoảng sáu mươi cây số. Đây là thời gian anh làm thơ nhiều nhất. Hầu hết những bài thơ nói lên tâm sự u uẩn của chính mình mà cho cả quê hương đất nước đều được anh làm tại nơi núi rừng heo hút này. Tỷ như: Quê người trên đỉnh Trường Sơn Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu Hoặc: Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương Đúng là tâm hồn của kẻ sĩ, nếu có hờn có trách thì chỉ hờn trách chính mình thôi, còn đối với con người, đối với cuộc đời thì vẫn xem tiếp trang 16

33


BIỂNCỦA ANN PHONG XEM TRANH

CÓ MỘT CÕI TRÚ ẨN, NGOÀI QUÊ HƯƠNG UYÊN NGUYÊN

Đ

ứng trân người để nhìn, bỗng thấy mình hụt hơi, chết đuối giữa tranh. “Biển” của Ann Phong lúc nào cũng trắng sóng, cuồn cuộn đẩy xô người trôi về một cõi xanh, xa, thẳm.

Đứng trân người, rất lâu, vì tâm tư luống cuống như đang cố tìm, tìm mãi, mà vẫn không thấy lối ra từ trong thế giới sắc hình của “Biển”, để chực hớp hơi thở dồn, tựa lúc vừa ngoi lên được khỏi mặt nước tràn trề. Bấy giờ, là thời khắc của sự sống vẫy vùng! Xem ra, không chỉ có sóng của “Biển” hay nước làm thành cõi mông mênh trong thế giới tranh trừu tượng Ann Phong mà, rờn rợn dưới mấy tầng đáy sâu, địa ngục mở toang hoác những cánh cửa cho hằng sa oan hồn bé bỏng nổi trồi lên, lờn vờn. “Biển” bầm đen, mà sao vẫn rực rỡ trong tranh Ann Phong, vì loáng thoáng người ta thấy lại hình bóng quê quán ta xưa, ngậm ngùi! Nhưng đó không phải là giấc mơ trừu tượng, mà là lịch sử Việt Nam, là sự thật của nhân loại cuối thế kỷ XX. Những năm sau cùng của thập niên 80, trên hải đảo Paulo Bidong thuộc vương quốc Ma-

34


Illustion of Time #5 (2009) Acrylic, 24x72 Image 20 of 21

Ann Phong Box of Water

laysia, có một thiếu nữ Việt Nam duy nhất còn sống sót và may mắn được người ta vớt lên giữa biển rồi mang vào đây tạm cho trú ngụ. Mỗi buổi chiều nàng thường lân la xuống bãi, ngong ngóng trông ra phía trùng dương xa. Những lần như thế, chỉ trong khoảnh khắc không lâu lúc mắt vừa thấy biển, vừa chạm màu nước xanh xao, thiếu nữ kia bất chợt lên cơn động kinh, ngã quỵ, chết ngất! Tương truyền, bấy giờ hòa trong Biển, có máu của người anh trai duy nhất của nàng bị hải tặc Thái Lan phân thây rồi ném xuống biển, và cả nước mắt của cô gái lúc bị làm nhục. Đó không phải là câu chuyện hư cấu, mà là một câu chuyện thương tâm có thật đã được vẽ lại bằng tranh, dù với trường phái trừu tượng hay bất kỳ thủ pháp nào, thì Ann Phong đã thay cho Biển để tả hết nỗi trầm oan, vì người còn oán và thiếu nữ kia mãi mãi có ôm mối hận trùng dương? nhưng Biển đã trở thành nơi gởi gấm tâm tư, hoài niệm, dù có lúc lại gợi lên những ngày hãi hùng. Cho nên, trong cõi hình sắc của Ann Phong, người ta thấy ra niềm uẩn khúc của Biển, vẫn còn cưu man hàng triệu vong hồn lênh đênh, chẳng phải khát khao mọi thứ trái quả ngọt ngào, ngoài, đợi trông có một cuộc giải oan lịch sử! Từ sau 1975, nếu có một dòng văn chương-nghệ thuật tượng hình của “thời lưu vong thất tán” xuất hiện ở hải ngoại, như cách nói của nhà phê bình Huỳnh Hữu Ủy, thì tranh chủ đề “Nước Biển” của họa sĩ Ann Phong ở trường hợp này không chỉ biểu hiện sắc thái độc đáo của bộ môn nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, mà thoát lên, ngôn ngữ của tranh bấy giờ là lời chiêu niệm cho một giai đoạn lịch sử điêu linh, đeo ám trên hành trình di tản. Chỉ có những người đã một lần ra khơi, mới hiểu hết đời Biển. Người họa sĩ gởi đời mình trong tranh, hay ngược lại, tranh vẽ ra từ cuộc đời. Ann Phong và những gì thuộc về thế giới của “Biển”, không phải là thế giới chỉ có mặt nước xanh sóng sánh, lượn sóng trắng sáng nhấp nhô yên lành hay thịnh nộ. “Biển” của tranh Ann Phong, là cõi khác cho người ẩn trú, ngoài quê hương. Quê hương có một thời như thế, văn học nghệ thuật Việt Nam có một thời như thế, người đã viết hoặc vẽ, bằng máu và nước mắt!

35

Boats (1998) Acrylic, 48x60 Image 6 of 21


tiếp theo trang 3

NƯỚC NON CÁCH MẤY BUỒNG THÊU

Cũng thế, người ta có bổn phận tìm và lựa một đôi lời vụn vặt, nhưng nghe được, rồi đảo qua đảo lại để sắp đặt câu chuyện sinh tồn. Quỉ đói còn biết vạch cỏ để kiếm ăn để sống, người ta sao lại không? Tuy vậy, đã vì sinh tồn sao lại quên được cái cách điệu đong đưa tuế nguyệt. Nhưng nói gì đến cái chỉ biết khóc và cười của sắn bìm và sương tuyết? Dù sao, từng đoàn người cũng đã lũ lượt, chờ khi đêm tối, kéo nhau vào những chốn rừng thiêng nước độc, ghé mắt trông chừng những hang đá, mỗi hốc cây. Họ đi tìm ở đâu? Người ta nói, họ đi tìm tình yêu và sự chết. Có kẻ nói gọn hơn, họ đi tìm sự sống. Cũng có thể thực và cũng có thể không thực. Sự thực thì có đấy, nhưng tình thực thì không. Sự tình nào thì chẳng nông và nổi. Cái sự của tình nó nông như vũng nước của dấu chân trâu, cái tình của nó nổi như bong bóng. Rồi cứ thế mà nói mãi. Từng đoạn và từng đoạn xô bồ như đoàn người vội

vã xô đẩy nhau. Gắng gượng chống chế để kéo dài được mọi sự. Tóc càng dài càng trắng. Đoàn người càng dài càng tối đen, chuyện được kể lể càng dài càng sặc mùi quỉ quái tanh hôi. Cũng còn có những lời nói dài bất tận, dài đến độ trời trở nên xanh và lạnh, lá tre trở thành đỏ và rụng xuống như máu: Man nương ngâm lộng màn hàn không Cửu Sơn tỉnh lục lệ hoa hồng Bài hát của cô gái mọi trên đỉnh Cửu Sơn, trong vùng đất Thương Ngô, chỉ hát cho một người nghe, và người độc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc có thể nghe, là vua Thuấn. Cái tinh anh và thể phách của ngài không ngự trị trên lịch sử văn minh Trung Quốc, mà chỉ phảng phất trên môi của cô gái mọi. Người ta bắt chước điệu nói hư phù của quỉ mới nói ra như vậy, chứ như điệu nói của người thực thì không bao giờ. Bởi vì nhìn lên thì thấy một xe quỉ, nhìn xuống thì thấy một con heo ủi đất. Thế là trong cái phong vận tiêu tao của tuế

tiếp theo trang 17

MẬU THÂN VỀ ĂN TẾT VỚI MẠ rút đi hết rồi. Con ăn sáng xong mạ đưa con đi. Mau không tụi nó trở lại.” Mạ đưa ra đầu đường, Chánh tấp theo đoàn người thất thần, bơ phờ, chạy giặc. “Mạ về đi. Con chạy một mình cho mau.” Mạ khóc. Mấy ngày gian nguy thì mạ tĩnh khô. Tình thương bao la trời biển che chở cho con đã làm cho mạ vững như thái sơn. Chừ con đi. Chừ xa con. Chưa hết cái lo cho thằng con út hiếu thảo nhất của mạ. Mạ cầm lòng không được mạ khóc. “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát” Trong nước mắt ràn rụa, mạ lâm râm niệm Phật. Đường từ Kim Long xuống cầu Bạch Hổ thì không có dấu tích nhiều của trận chiến gần tháng qua. Nhưng từ đây về đến cầu Trường tiền thì la liệt xác chết. Thảm thương. Hầu hết là những xác thường dân vô tội. Mẹ chết bên con và quang gánh trong tay, rau trái vung vãi. Mấy em học sinh nằm chết chồm lên xe đạp. Không nhận ra ai mặc đồ quân phục bên này hay bên kia. Chánh giật mình. Có lẽ đây là những người từ phố

trở về nhà đúng giờ Việt cộng khai hỏa mở đầu cuộc tàn sát Mâu Thân. Nếu Chánh không vì mạ mà la cà xi nê, ăn phở, ghé bạn bè bài bạc, về nhà khoảng chừng hai giờ rưỡi sáng đêm mồng Hai, thì chắc cũng phơi xác ung thối bên chiếc xe đạp như các em học sinh ngây thơ trong trắng đầu kia. Thành nội đổ nát tang thương. Nhà phố sập vụn. Tuờng nhà loang lổ. Trận chiến ở đây quá khủng khiếp. “Làng mình quá may.” Ở trạm kiểm soát đầu cầu Trường tiền, Chánh khai là Trung uý bác sĩ quân y Quân lực Việt nam Cộng hòa. Viên sĩ quan Hoa Kỳ niềm nở và chúc mừng thoát nạn. Chánh lần leo xuống theo nhịp cầu gảy bên này bờ. Lại hổn hển, đuối sức bò leo lên nhịp cầu gảy bên bờ kia. Cùng một giòng sông mà là hai bờ của tử, sinh. Thoát nạn. Chánh mất hồn nhìn đám đông. Nhốn nháo. Khóc than.

nguyệt, một khi trời đất mở ra chỉ thấy toàn heo và đất bùn, khi khép lại, chỉ thấy toàn có quỉ. Trung Hoa có ba người tài: Tiên tài Lý Bạch, Nhân tài Đổ Phủ, Quỉ tài Lý Hạ. Tiên tài không thấy có sự nghiệp của Nghiêu Thuấn gì hết, mà có Hằng Nga, có Dao trì, thành ra chỉ có đàn bà và rượu. Nhân tài thì có cười có khóc; có sao hôm sao mai. Quỉ tài chỉ có cái xác chết của vua Thuấn và những bài ca vu vơ của cô gái mọi thôi sao? Nhưng có thể chắc chắn là không có mối tư lự não nùng giữa những cái còn cái mất của ngày qua tháng lại. Quỉ mà sống thì cũng đồng như không sống.? Chở quỉ một xe? Kinh Dịch) chẳng khác nào chở cái không hư dạo giữa cõi tuần hoàn có sinh có diệt. Quỉ chỉ biết khóc mà thôi, và tiếng khóc của nó làm cho người ta sợ hãi thực. Biết sợ như thế rồi sau đó mới biết cười và biết nghêu ngao trong Du Hí Tam Muội. Tóc trắng da mồi là tinh thể của Du Hí Tam Muội vậy: Bạch phát thương nhan, chính thị Duy-ma cảnh giới (Tô Đông Pha) Nơi cõi đó có một mùa xuân vĩnh cửu kết tụ thành bụi phấn hoa liễu: Chi thượng liễu miên suy hựu thiểu Thiên nhai hà xứ vô phương thảo (Tô Đông Pha) Sự kết tụ ấy đã khơi mở

HAI BỜ TỬ SINH Chánh về ăn Tết có ba người biết mà làm như không biết để bao che. Con Út, chị Hoàng và Một. Út. Con thím Sáu ở ngay sau vườn nhà. Chú mất sớm, thím còn trẻ, buôn bán tần tảo khổ cực nuôi con, bữa đói bữa no. Thằng Phúng, con Hoà, con Hiệp và Út. Trái cây trong vườn, cau mít, măng cụt mẹ thương thím, bán khoán cho để nuôi con. Ngoại trừ cây măng cụt trái trĩu cành, cây mít ướt đầu rào, hai cây mít nghệ mít dừa sau hè mệ dành cho các con và bạn bè của con dưới phố lên chơi vườn. Bán trước, cho thím trả tiền sau. Bán tới đâu trả tới đó không lo chi thua lỗ. Có khi túng thiếu thím nợ đến cả năm. Ngày kỵ giỗ, cúng chạp, thím phụ mạ nấu ăn, dọn dẹp. Mấy đứa con thì coi anh em Chánh không khác chi ruột thịt. Ngày ngày qua lại. Con Út, anh nào cũng thương. “Tội. Khi nó lên cơn suyễn, ôm gối ngồi suốt đêm. Mạ xót xa.” Tết đến thì Út nhận tiền lì xì nhiều hơn hết. “Út ngày mô cũng níu áo theo mệ đi chùa. Sinh hoạt Gia đình Phật tử hăng say. Không biết răng mà nó theo Việt cộng. Theo hồi mô mạ cũng không biết.” Sau Mậu thân Út chạy lên núi rồi ra Bắc. Mấy tháng sau Ba mươi tháng Tư, Út trở về làm ở bệnh viện Huế và lấy chồng bác sĩ người ngoài Bắc vào. Khá giả. Năm ngoái từ Mỹ, Chánh về thăm nhà. Vợ chồng Út nghe tin, lên làng. “Mời

36

một nguồn suối tuôn trào, thành một niềm tương ứng vừa gần gũi vừa xa xôi của kẻ ở góc biển này và người ở chân trời nọ: Ngồi kể lại chuyện ngày xưa cũ kỹ Em không nghe vì anh cũng không nghe Hồn hoa phấn xông hương sầu dị dị Tóc vàng tơ tỉ mỉ ngón tay đè. Vì ngọc trắng cát lầm thu xiêu lệch Gió băng trời xin thổi bụi bay theo Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt Đầu xanh em tư lự suốt sông đèo (Bùi Giáng, Mưa Nguồn) Vì sự bức bách của nóng và lạnh, cho nên cái chuyện chưa từng xảy ra, bỗng chốc đã trở thành cũ kỹ. Từng ngày từng ngong ngóng buổi chiều để đi suốt qua một cánh đồng cỏ, ghé mắt trông chừng bóng liễu rũ. Trời sáng người làm quỉ, trời tối quỉ làm người. Người và quỉ cứ gây phiền muộn mãi cho nhau đến thế thì thôi. Nước non cách mấy buồng thêu Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng Trong buồng thêu đầy những mối mọt. Chúng không còn tham lam đắm đuối vật vờ với mùi giấy mùi mực của đống sách này chồng lên đống sách nọ như nấc thang dài vô tận đưa thẳng lên trời. Bây giờ chúng mê mẩn tâm thần chết lên chết xuống với cái mùi vị hương nồng của tóc cũ tóc mới, từ tóc ngắn chấm vai

anh Chánh đi ăn cơm với tụi em.” Quay qua chồng, Út kể. “Anh biết không, lúc đó em còn nhỏ lắm mà vẫn nhớ. Nhà mệ đèn thắp sáng suốt đêm. Mùa thi cử mấy đứa lớn trong làng tụ tập tại nhà mệ để học theo các anh. Có bài khó thì các anh dạy. Đói thì mệ cho ăn. Nói tới mệ, không riêng làng mình mà cả mấy làng bên ai cũng biết.” Nắm tay Chánh, vẫn thân thiết bé bỏng như ngày xưa, con Út suyển rưng rưng khóc. “ Tụi em thương mệ lắm. Em hay lên làng thăm mệ cho đến khi mệ mất. Mệ khi mô cũng vui. Mệ là Bồ Tát đó anh!” Chị Hoàng. Con dâu cụ Án. Cụ làm quan to, mất trước khi Chánh ra đời. Hai vợ chồng chị từ bên Tây về, cùng làm việc trong nhà thương Huế. Sinh cháu gái mấy tuổi thì anh mất vì lao phổi. Chị chích thuốc, trị bệnh cho bà con trong làng. Anh chị hiền lành vui vẻ, ai cũng thương mến. Nhà của cụ Án to nhất làng, lúc còn đi học Chánh hay qua chơi. Chị thường thăm hỏi mẹ khi trái gió trở trời. Tình hàng xóm láng giềng mấy đời qua lại. Không biết họ theo Việt cộng hồi nào. Có lẽ từ hồi còn bên Tây. Chị cũng vào núi và chết vì bệnh. Cho đến bây chừ ký ức của Chánh vẫn còn ghi đậm hình ảnh chị. Nhỏ nhẹ thân tình, mong manh trong chiếc áo dài lụa. Đứa con gái của chị hiện giờ ở đâu? Chánh cũng muốn biết nhưng chưa có dịp. Một. Cha của Một nghèo

cho đến tóc dài chấm gót chân đỏ, chấm đến một vùng đất bạc. Đứng mãi đây hay đi? Và đi đâu để đạp chân lên miền tương ứng? Tương ứng của xa vời trong gang tấc và của gang tấc trong xa vời? Hay một lần từ giã chỗ đứng đó để mà đi tức là đi mãi, đi cho biết hết cõi sinh tồn, hết cõi hủy diệt? Gác kinh viện sách đôi nơi Trong gang tấc lại gấp mười quan san Câu chuyện sau đây nghe được từ sau tấm vách của một gia đình nọ. Cái gia đình ấy không tối nào mà vắng tiếng to tiếng nhỏ. Họ là hai anh em ruột thịt. Bằng cái tuổi ấy, nếu không nhịn được, ai cũng có quyền lập gia đình riêng, tội gì mà phải gắn bó, rồi chung đụng để cứ gây phiền toái cho nhau hoài. Họ làm phiền nhau thì có, mà làm phiền hàng xóm thì không. Bởi vì, dù họ có cãi nhau thực đấy, nhưng nghe rành rõi, không vội vàng gay gắt. - Sao chú không bảo nó xéo đi nơi khác, thế có hơn không? - Có gì mà phiền? Hắn đến đó vì chuyện riêng của hắn, can dự đến ai. - Ừ, thì đã can dự gì đến ai. Sao chú không lấy mắt của chú treo lên trên cành cây mà nhìn nó có hơn không? Tội gì thấp thỏm trông chừng. TUỆ SỸ

sống ở bìa làng. Tất cả mọi việc từ lợp nhà, cuốc nương, chạp mộ, quết chả làm nem ngày Tết ngày cúng kỵ đều có mặt. Mẹ rất thương vì chân chất thật thà. Một lớn lên cũng thường theo cha tới giúp việc nhà mệ. Thời chống Tây, Một cùng anh Trai, con nuôi của mẹ, là du kích trong làng. Anh Trai cũng bị Tây bắn chết bên bến đò khi mang mìn tấn công đồn. Sau này, Một làm phụ thợ mộc, có chí tiến thân. Học nghề nhanh. Khi tay nghề giỏi, Một ra làm riêng. Dành dụm tiền cưới vợ và nhờ mệ thu xếp mua mảnh vườn của con rể mệ đầu ngõ. Khi anh em Chánh ở xa, Vợ chồng Một thường lui tới coi chừng mệ. Con Mầm, bà con với Một, chữa hoang đẻ con ai cũng kiêng cữ không chứa. Mẹ biết gọi tới cho ở sau nhà bếp. Mấy tháng sau thì thằng nghĩa quân tình nhân đến rước đi. Năm trước Chánh về thăm mẹ đúng lúc vợ Một đang nằm ở bệnh xá của Xã, chuyển bụng sinh con đầu lòng. Chẳng biết sao mà thai chuyển đau dữ dội mấy ngày, không sinh được. Cô mụ bó tay. Nghe Chánh về, Một chạy sang xin anh cứu cho vợ và con. Chánh còn mấy tháng nữa mới ra trường, chưa có kinh nghiệm nên cũng thiếu tự tin, lo lắng. “Đi liều. Cố gắng hết sức mình.” Nghe có anh Chánh, bác sĩ con mệ đến đỡ đẻ, vợ Một mừng lắm. Vừa đau rặn vừa thở dốc nhăn nhó và khóc. Chánh cười vui trấn an và đở đẻ. Không đầy một


NGÔ TỊNH YÊN Hình: NGUYỄN MAN NHIÊN

Màu Thế Kỷ Bãi cỏ xanh chờ con dế quen hàng cây xám đợi phố lên đèn sân ga vàng vọt dăm bóng cũ vạch vôi mưa bạc vết ố hoen thấp thoáng sòng nâu kinh chùa vẳng hồn trắng mênh mông một điệu kèn rơi đi mưa tím về kỷ niệm giáo đường buông lạnh tiếng chuông đen.

Chuông nguyện - Hình: IMichael Tran

giờ sau, thì tiếng khóc của bé chào đời. “Con trai!” Chánh reo lên. Một khóc quỳ sập lạy. “Vợ chồng em mang ơn anh. Anh về đúng lúc.” “Thằng nhỏ đến lúc muốn ra, hắn bò ra. Anh có làm chi mô.” Vợ chồng cười mếu máo. Chánh nói thật. May mắn là Chánh đến đúng lúc. Không có Chánh e cũng rứa thôi. “Mai mốt thằng ni lớn lên, em đem nó qua lạy bác Chánh cứu mạng cả mạ, con.” Người trong làng cũng phong phanh biết Một có cảm tình hay

lén lút liên lạc với bên tê. Nhưng bà con mình thì chín bỏ làm mười. Không ai tố cáo ai. Xóm làng vui vẻ, hôm sớm có nhau là quý hơn hết. Sau Mậu thân. Vào khu nhưng Một vẫn lén lút về hoạt động quanh vùng. Không lâu thì bị lính phục kích bắn chết ở làng trên.

MẠ. TẤM ÁO CÀ SA. Sau năm Bảy Lăm. Mấy đứa con trai của mẹ, đứa

ở trong Nam đi tù cải tạo, đứa từ miền Bắc xênh xang áo mũ trở về. Mẹ vẫn sống một mình trong ngôi nhà ấp ủ khói hương kỷ niệm. Quanh quẩn, hoài niệm bóng hình thương yêu chồng con, ôn mệ. Quanh mẹ lúc vui buồn, đau bệnh, sớm tối bà con tới lui trông nom, thương yêu chăm sóc. Tình làng xóm đùm bọc, qua bao biến đổi thăng trầm vẫn ấm áp. Mẹ không còn mạnh nhưng khoẻ cho đến tuổi chín mươi.

37

Cả đời mẹ gieo nhân từ bi cho các con hái quả. Mẹ không hề dạy, nhưng con mẹ sống theo mẹ, sống như mẹ với tâm bản thiện. Cho dù có đi với ma thì cũng không hề mặc áo giấy, mà nương theo ủ ấm trong tấm áo cà sa của mẹ. Nghe kể lại. Ngày cuối đời nằm trên giường bệnh, mẹ không nằm ngửa nhắm mắt như người bệnh thường, mà mở mắt nằm nghiêng quay đầu về phía cửa.

Cho đến phút cuối, mẹ vẫn chong mắt nhìn ra khung cửa. Mẹ chờ, mẹ mong mấy đứa con đem về cho mẹ niềm vui bất ngờ. Bất ngờ như xế chiều ngày mồng một năm Mậu thân, thằng Chánh về ăn Tết với mạ. NINH HẠ


tiếp theo trang 18

CHUYỆN CHÍNH TẢ sinh trưởng nơi đất Mỹ, không học tiếng Việt, hoặc học rất giới hạn. Câu ấy viết cái gì vậy? - CÔ NHÀN ÐIÊN NGƯỜI VIẾT - CỔ NHÂN ÐIÊN NGƯỜI VIẾT - CÓ NHẬN DIỆN NGƯỜI VIỆT - CÓ NHÂN ÐIỆN NGƯỜI VIỆT Những câu trên không có nghĩa gì cho một hiệu bán đồ điện. Chỉ có câu này là đúng nhất, viết theo giọng người miền Nam: - CÓ NHÂN DIÊN NGƯỜI VIỆT May mà người ấy không viết: “Có nhân diên người Diệt”. Giọng người miền Nam, sai chính tả tất cả các chữ có vần V và D khác, nhưng không sai chữ Việt. Ghi lại cho vui vậy thôi, để biết rằng người Việt mình khắp nơi, không biết tiếng Việt, hoặc đã quên tiếng Việt, cũng cố gắng ghi nhớ tiếng Việt để sử dụng trong đời sống họ. Ngôn ngữ còn, dân tộc còn. Ngôn ngữ sai chính tả, nhưng còn, thì dân tộc cũng còn. Nhưng sai thế nào cũng phải có lý do để

tha thứ chứ đừng sai vô lý quá. Chẳng hạn, những chữ viết quen như trăm phần trăm, sau này lại bị chỉnh là chăm phần chăm thì ai mà chăm nổi! Hoặc là râu với rể hay dâu với dể... theo kiểu “Cô râu vuốt dâu chú dể” thì ai mà hiểu nổi! Cho đến mấy chữ như cách mệnh, cách mạng, sau này người ta lại bảo rằng sai, phải viết là kách mệnh hay kách mạng mới đúng; hoặc viết quen phóng khoáng, sau này lại bị chỉnh là fóng khoáng thì thực là phiền! Phóng khoáng cách mấy cũng không chấp nhận được kiểu dùng chữ một cách lười biếng và thiếu trách nhiệm văn hóa như thế! Trong ngôn ngữ nói, và trong một hoàn cảnh đáng tội nghiệp nào đó (như hoàn cảnh của người viết dòng chữ “có nhân diên người Việt” nói trên), khả dĩ thông cảm được; còn đi vào văn tự, để lại đời đời, xin đừng vô trách nhiệm như thế. Nhất là, làm gì thì làm, đừng ghi thứ ngôn ngữ sai ấy vào từ điển rồi bắt người ta theo. Tội nghiệp lắm! VĨNH HẢO

tiếp theo trang 7

TỔNG LUẬN

VỀ VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI cứu, học hỏi, sáng tác, diễn giảng, và phổ biến Tam Tạng kinh điển bằng nhiều hình thức mà trong đó sách báo là phương tiện hữu hiệu. Chính vì vậy, khắp ba miền Nam, Trung, Bắc đều có các tạp chí Phật giáo ra đời, như tờ Từ Bi Âm ở trong Nam, tờ Viên Âm ở Trung, và tờ Đuốc Tuệ ở Bắc. Khi báo chí ra đời sẽ khơi dậy phong trào đọc báo, đọc sách và sáng tác, cho nên bắt đầu có nhiều cây viết từ tăng, ni cho đến cư sĩ xuất hiện. Bối cảnh sinh hoạt văn học Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ 20 cũng tràn đầy sức sống bùng phát với báo chí, sách vở, thơ, truyện ra đời ở cả ba miền đất nước, đặc biệt tại hai trung tâm sinh hoạt văn hóa lớn nhất là Hà Nội và Sài Gòn. Trong đó chúng ta không thể không nhắc đến vai trò chủ đạo và kích thích sinh hoạt văn học của báo chí. Trong số những báo chí ra đời sớm nhất thời bấy giờ có tờ Lục Tỉnh Tân Văn do Francois Henri Schneider, một doanh gia Pháp, sáng lập, số ra mắt vào ngày 14 tháng 11 năm 1907. Từ tờ Lục Tỉnh Tân Văn ra đời tiếp tờ Bắc Trung Tân Văn và phát hành tại miền Trung và miền Bắc. Tờ Nam Phong của học giả Phạm Quỳnh ra đời năm 1917. Tờ An Nam Tạp Chí của nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ra đời vào năm 1926; đây có thể nói là tờ báo văn học Việt Nam chính thức đầu tiên

có mặt. Tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy ra đời năm 1934. Nhất là các sáng tác phẩm văn chương của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã làm khởi phát phong trào tư duy và sáng tạo không những trong lãnh vực văn chương mà còn trong lãnh vực văn hóa, xã hội. Trong những năm của thập niên 1960 và đầu 1970, tại miền Nam, sinh hoạt văn hóa, giáo dục và văn học nghệ thuật Phật giáo lại càng phát triển mạnh. Trong đó sự ra đời của Đại Học Vạn Hạnh là một tác nhân quan trọng đẩy sinh hoạt văn hóa, tư tưởng, giáo dục và văn học Phật giáo Việt Nam lên một cấp bậc cao hơn, nổi trội hơn, rộng lớn hơn, chuyên môn và sâu sắc hơn bao giờ hết. Chính vì vậy tờ tạp chí Tư Tưởng của Đại Học Vạn Hạnh đã một thời là biểu tượng của tri thức miền Nam. Trước, cùng thời và sau tạp chí Tư Tưởng, Phật giáo có các tờ báo phổ biến như Vạn Hạnh, Bát Nhã, Liên Hoa, Hải Triều Âm, Phật giáo Việt Nam, Từ Quang, v.v… Sở dĩ phải nói đến một cách tổng quan về văn học Phật giáo Việt Nam trong nước như vậy vì đó là cái nền, là bối cảnh mà từ đó nền văn học Phật giáo Việt Nam hải ngoại nẩy mầm và phát triển.

(còn tiếp)

HUỲNH KIM QUANG

tiếp theo trang 31

THEO QUÁCH TẤN TÌM VỀ NÚI CŨ XEM MAI NỞ yêu thương nồng nàn. Làm rẫy một thời gian thì bỏ vào Sài Gòn, dấn mình vào một cuộc “Lữ” khác. Cuộc “Lữ” này trầm trọng hơn những cuộc “Lữ” trước đó. Ít lâu sau, Quách Tấn cũng rơi vào trường hợp tương tự, nhưng ông chỉ bị một thời gian ngắn thôi, có lẽ nhờ đã đến tuổi “Thất Thập cổ lai hy”. Quách Tấn hiện đang đi chơi xa và không bao giờ trở về nữa. Tôi cứ tưởng tượng ông đứng nhìn một cây mai nở rộ trên một hòn núi cao nào đó, điều mà khi còn sống ông rất khát khao nhưng không bao giờ thực hiện được, như có lần ông đã đọc cho tôi nghe hai câu thơ của ông: Tìm về núi cũ xem mai nở Mộng bén ngàn xa hạc điểm canh

vẫn có hoàn cảnh, có điều kiện để đem tài hoa của họ ra mà hiến dâng cho cuộc đời? Có một bài thơ của Quách Tấn, mà tôi nghĩ có thể tạm giải thích được. Ít nhất là trong trường hợp Quách Tấn và Tuệ Sỹ. Bài thơ ấy như thế này: Bao phen bến hẹn đổi dời Làng phong tao vẫn con người thủy chung Gió lau thổi lạnh sóng tùng Hương xưa thắm lại cụm hồng ngày xưa. Phải chăng vì muốn “thủy chung” với “cụm hồng ngày xưa” ấy, mà Quách Tấn và Tuệ Sỹ phải chấp nhận số phận lao đao của mình? THÍCH PHƯỚC AN

Còn Tuệ Sỹ thì vẫn chưa về… Những lúc ngồi một mình nhớ Quách Tấn và Tuệ Sỹ, tôi cứ bâng khuâng tự hỏi: Tại sao có những người muốn đem hết cả tấm lòng của mình để hiến dâng cho cuộc đời mà họ vẫn bị cuộc đời đối xử một cách bất công? Vì tài hoa của họ chăng? Chữ tài đi liền với chữ tai một vần, như xưa nay ai cũng nghĩ như vậy. Theo tôi, quan niệm đó chỉ đúng một phần thôi, vì có biết bao nhiêu người tài hoa ở những nơi khác trên đời này, họ

CHÚ THÍCH Quách Tấn, qua cái nhìn phê bình văn học, nhiều tác giả, Nxb Trẻ, Tp HCM, 1994.(trang 196, trang 279, (9) trang 90, (10) trang 266, (11) trang 103 Nước Non Bình Định của Quách Tấn, Nxb Nam Cường – Sàigòn 1967 (trang 35, trang 93, trang 267, trang 31-32) Chùa Linh Phong. Hiện nay tháp để tưởng nhớ công đức của Ông Núi vẫn còn; Tháp hiệu Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư, được xem như vị tổ khai sơn của chùa.

tiếp theo trang 10

ẨN DỤ MỘT ĐÓA MAI những lời dạy của đức Phật cách đây hơn hai ngàn năm. Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái “Bản lai diện mục” của các loài hữu tình nói riêng, và vạn vật vô tình nói chung. Chúng luôn luôn tồn tại và biến dịch trong từng sát na một, chúng luôn tùy thuộc vào các duyên đủ để hiện khởi, và biến khác đi nhờ lý vô thường tác động để hình thành luật tắc “ vô thường tức thị thường”. Ở đây, trong tất cả những duyên đủ để hình thành sự hiện hữu của một vật, thì các loài hữu tình chỉ khác với loài vô tình về nghiệp lực qua năm uẩn (Về vật chất (sắc): đất, nước, gió, lửa, không. Về tinh thần (tâm): thọ, tưởng, hành, thức) mà thôi. Như chúng ta biết tiến

38

trình sinh hóa của vũ trụ vạn vật chúng luôn tùy thuộc vào các duyên đủ để hiện khởi, do đó việc đóng khung vào những hiện tượng bên ngoài theo kinh nghiệm, để phân chia cắt xén thời gian và, áp đặt lên nó một nhãn hiệu nào đó theo đạo Phật điều đó là một việc làm sai lầm. Cũng đứng trên quan điểm này thiền sư Mãn Giác dùng “đóa mai” làm ẩn dụ cho “Bản lai diện mục” của mỗi chúng ta. Bản lai diện mục này không những chỉ hiện hữu trong kiếp này để rồi biến mất sau khi chết đâu, mà chúng hiện hữu bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu trong ba cõi sáu đường luân hồi này nếu đủ duyên, việc đủ duyên ở đây chúng tôi muốn nói đến y báo và chánh báo của nghiệp. Như vậy vấn đề sống-chết hay sinhdiệt của các pháp ở đây chúng tôi chỉ mới nói đến Phân đoạn sanh-tử chứ chưa đề cập đến vấn đề Biến dịch sanh-tử. Cũng như đóa mai chúng sẽ nở

ra bất cứ mùa nào trong năm cho dù là mùa đông nếu hội đủ các điều kiện của mùa xuân thì chúng hiện hữu. Qua pháp ẩn dụ này tuy chúng ta đã được thiền sư Mãn Giác hướng dẫn cho chúng ta một cách nhìn đúng về sự hiện hữu và biến dịch của của cái Bản lai diện mục chính mỗi người qua pháp phủ định, và chúng sẽ hiện hữu - biến dịch vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu trong ba cõi sáu đường. Nhưng ở đây có một điều quan trọng là chúng ta chưa thấy được bộ mặt thật của cái Bản lai diện mục của chúng ta như thế nào? Điều này là một vấn đề cần thiết cấp bách dành cho việc nổ lực thực hành.của mỗi chúng ta, mà thiền sư Mãn Giác cần nơi chúng ta tự giải quyết nghi.

ĐẠI LÃN


39


tiếp theo trang 9

SÔNG CHẢY ĐÔI BỜ

nhưng nước sông Bến Hải ngàn năm lững lờ chẩy một dòng xuôi đó có mầu gì khi đã bao nhiêu năm nó được nhuộm bằng máu và nước mắt. Ta có thể quên cây cầu đó đi, vì gỗ sẽ mục nát với thời gian, nó được thay thế bằng cây cầu đúc xi măng cốt thép. Nhưng làm sao thay được nước dòng sông Bến Hải. Dòng sông đó trước đây đã nhận bao nhiêu lá thư thả xuống của bờ bên nọ nhớ bãi bên kia. Đã nhận bao nhiêu tờ bươm bướm kêu gọi lòng người thu về một mối. Nhưng cuối cùng sông nước đó vẫn chia hai, máu của những người dân, người lính miền Bắc và máu của những người dân, người lính miền Nam vẫn chia làm hai dòng chẩy. Nó vẫn chẩy song song nhưng không bao giờ hòa làm một. Phải chăng, nước mắt bên này mặn hơn nước mắt bên kia, hay máu bên này đỏ hơn máu bên kia?

Bà mẹ Gio Linh thời Pháp thuộc đã “Nghẹn ngào không nói một câu/Mang khăn gói đi lấy đầu/ Đường về thôn xóm buồn teo/Xa xa tiếng chuông chùa reo…” (4) Bà mẹ Vĩnh Linh bao nhiêu lần chứng kiến tù binh Bắc Việt được gửi trả về từ phía bên kia dòng sông.Tấm hình có dòng chữ “Anh về đất Bắc bình an” dăng ngang ngay đầu cầu Hiền Lương của huyện Gio Linh là một chứng tích cho những ai muốn chối bỏ. Bà mẹ Gio Linh, bà mẹ Vĩnh Linh bây giờ cũng chỉ còn là những tấm hình lung linh sau màn hương khói. Chỉ còn là những cái tên người ta nhắc đến những khi kể chuyện “Ngày xưa”. Với những người Việt vào năm 1975 họ ở tuổi ba mươi, bốn mươi khi cuộc chiến Bắc Nam chấm dứt.

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Ð

ây là cuốn sách đầy đủ nhất về phương pháp dạy tiếng Việt cho người ngoại quốc cũng như cho trẻ em Việt Nam ở hải ngoại. Nội dung bao gồm các vấn đề chính: Các lý thuyết, phương pháp và nguyên tắc giảng dạy ngôn ngữ. Cách thức dạy tiếng Việt, từ việc dạy nói đến việc dạy đọc, dạy viết và dạy từ vựng. Cách thức dạy học một cách sinh động để học sinh thấy hứng thú khi học tiếng Việt. Ở bất cứ lãnh vực nào, tác giả cũng đi từ lý thuyết đến thực hành. Về lý thuyết, bao gồm những quan điểm mới nhất; về thực hành, bao gồm những bài làm và bài tập rất cụ thể cho từng nội dung giảng dạy. Cuốn sách hữu ích không những cho các thầy cô giáo dạy tiếng Việt mà còn cho cả phụ huynh - những người tự dạy tiếng Việt cho con cái ở nhà – cũng như cho những người yêu thích tiếng Việt nói chung.

S

40

TRẦN MỘNG TÚ Viết cho 30/4/2011 (*) Nguồn: Những con số của sông và cầu từ Wikipedia Thơ: tmt, Thu Bồn Bài Hát: Trầm Tử Thiêng, Phạm Duy

NGƯỜI VIỆT SHOP

www.nguoivietshop.com

ống trên cái gạch nối giữa Việt và Úc, tôi không phải là kẻ rời bỏ quê hương: Tôi chỉ rời bỏ một mảnh đất và mang cả quê hương theo với mình: Cái quê hương ấy, với tôi, như vậy, là một quê hương bị giải lãnh thổ hoá (deterritorialised): Nó không có tính địa lý. Nó chỉ còn là một ký ức, nhưng, nghịch lý thay, đó lại là một thứ ký ức có tính địa lý, có thể được gọi là địa dư ký ức (geography of memory). Khi được hình dung như một thứ địa dư, ký ức bỗng có kích thước thật và mênh mông hơn hẳn: Nó trở thành một thứ quê hương khác của tôi.[20] Hệ quả là: Không phải tôi sống với ký ức. Mà là sống trong ký ức. Ký ức không ở trong tôi. Ký ức bao trùm lấy tôi. Ký ức rộng hơn bản thân tôi. Ký ức, với người khác, có tính trừu tượng, với tôi, có tính vật thể; với người khác, là quá khứ, với tôi, vẫn là hiện tại: Tôi sống trong tình trạng xuyên thời gian (transtemporarity) và xuyên lịch sử (transhistory) liên tục. Với Việt Nam, trong địa dư ký ức và trong tình trạng xuyên thời gian và xuyên lịch sử như thế, tôi vẫn giữ được cái hồn. Nhưng lại không có đất...

Bây giờ, sau ba mươi sáu năm, dù họ chỉ là người dân chất phác hay những người lãnh đạo quốc gia đương thời, những quân tướng thất trận lưu vong ở trong nước hay ở bất cứ nơi nào trên thế giới thì họ cũng đang bước từng bước vào chiếc cầu cuối của đời người, chiếc cầu của đôi bờ sinh tử. Có bao giờ họ quay đầu nhìn lại những cây cầu, những dòng sông họ đã được nhìn thấy, được nghe nói hay đã được đi qua trên chính quê hương mình mà ngậm ngùi thương xót, mà ước gì chưa bao giờ có cuộc nội chiến Bắc Nam.

H

ãy tìm đến với Lê Văn Tài, nhà thơ kiêm hoạ sĩ Úc gốc Việt. Cũng như tất cả những tác phẩm nghệ thuật sáng giá, tranh và thơ của ông sẽ làm thay đổi cách nhìn và cách đọc của bạn. Lê Văn Tài là một con người vùng vẫy giữa hai bờ, đứng chênh vênh giữa hình tượng và văn bản, giữa bầu trời và mặt đất, để mang màu đen và màu trắng vào nhau. Ông viết và vẽ những hình ảnh đẹp rợn người. Trong thơ của ông, ông phát ngôn như một sinh vật lạ lùng hiện ra trùng điệp trên những tấm bố vẽ của ông, đó là “con chim di cư”. Ông gieo những hạt mầm từ Việt Nam lên lãnh thổ của chúng ta. Ngôn ngữ của ông tạo nên một sự giao thoa giữa hai quê hương khi ông mở một lộ trình giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Đây là lối hành văn chín muồi và đầy trực cảm của một nghệ sĩ đã bám chặt vào nghiệp viết. Ngôn từ và hình ảnh, ngôn từ và động thái, không lúc nào ngừng di chuyển. Những bài thơ cụ thể vượt ra khỏi thể loại của chúng bởi vì những hình thái mà chúng tạo ra không chỉ đứng yên một chỗ mà lại khiến cho ngôn ngữ chuyển động, xoay mòng.


UYEN PHUONG and BERKLEE jazz band’s

Concert I

t’s official now, please mark your calendar! . You are cordially invited to join me and BERKLEE JAZZ BAND from Boston, MA at Lac Cam Lounge in OC on Friday, February 28, 8.30pm. Guest singers are VAN QUYNH, JENNY SWOISH and VU with special appearance of cellist LASZLO MEZO. This show promises lots of new songs with new arranging. Please come to enjoy a night of jazz, funk and contemporary music with us. Tickets will be on pre-sale only: $50 VIP and $40 regular (max seating capacity 110 only) Hope to see you all there on February 28th!

VAN QUYNH

VU

JENNY

LAC CAM 15041 MORAN STREET #103, WESTMINSTER, CALIFORNIA 92683 (714) 891-8885

41


FirstSource

OBAMA ENROLLMENT CENTER TRUNG TÂM ÐĂNG KÝ OBAMACARE

TAX & INSURANCE

Có thể được bảo hiểm hoàn toàn miễn phí. n Có thể được chính phủ trợ giúp đến 100% để mua bảo hiểm. n Người có bệnh ngặt nghèo, tiểu đường, cao máu, ung thư… bị những hãng bảo hiểm từ chối, hoặc bị tính giá rất cao. Bây giờ sẽ được hoàn toàn chấp nhận vô điều kiện. n Cơ sở thương mại mua bảo hiểm cho nhân viên sẽ được khấu hồi đến 50% số tiền trả bảo hiểm. n

GIÚP ÐỠ ÐIỀN ÐƠN ÐĂNG KÝ HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ

HEALTH AUTO HOME LIFE COMMERCIAL WORKER COMP OBAMA CARE...

KHAI THUẾ TÍN NHIỆM l NHANH CHÓNG l LỆ PHÍ THẤP

Tiền trợ giúp Obamcare phụ thuộc vào thu nhập khai thuế hàng năm. Nếu không đúng, quyền lợi của quý vị sẽ bị thiệt hại, mất tiền trợ cấp, hoặc bị cắt chương trình y tế. Hãy đến TRUNG TÂM KHAI THUẾ FIRST SOURCE để được: n Giúp khai thuế để được hưởng Obamacare n Cố vấn điều chỉnh thu nhập để phù hợp chương trình Obama. n Lấy về tiền thuế tối đa và hợp pháp bằng Child Care Credit, Earn Income Credit, Education Credit, Energy Credit, Child Tax Credit. n Giúp khai thuế với lệ phí thấp nhất:

NHỨC ÐẦU VÌ THUẾ

Hồ sơ đơn giản $20 l Hồ sơ có nhà (Itemized) $40 l

GỌI NGAY ÐỂ ÐƯỢC GIÚP ÐỠ

FirstSource TAX SERVICES

9741 BOLSA AVE., #216. WESTMINSTER, CA 92683 Phone: (714) 640-6654 Fax: (714) 766-7856 info@trungtamphucvu.com www.trungtamphucvu.com

(888) 896.8288

VAY VỐN KINH DOANH CHẤP THUẬN TRONG VÒNG 48 TIẾNG R R R R

CÓ KẾT QUẢ NHANH CHÓNG KHÔNG CẦN CHỨNG MINH CREDIT KHÔNG CẦN THẾ CHẤP TÀI SẢN CHO MƯỢN TỪ $10,000 CHO ÐẾN $500,000 TRONG VÒNG 48 TIẾNG ÐỒNG HỒ

FirstSource TAX & INSURANCE

9741 BOLSA AVE., #216. WESTMINSTER, CA 92683 Phone: (714) 640-6654 Fax: (714) 766-7856 info@trungtamphucvu.com

42

www.trungtamphucvu.com


XÂY NHÀ, NHÀ HÀNG, PHÒNG MẠCH BÁC SĨ, NHA SĨ, VĂN PHÒNG, REMODEL VÀ CỘNG THÊM PHÒNG ... HUY LE Lic.#877698

714.209.8180

GREAT TIME FOR SELLING AND BUYING

I CAN HELP!

Just sold in your neighborhood for 97% of listing price. Homes are in high demand. Thinking of Selling and Buying. I can help! If you want the most money for your home call me, Brandon at BRANDON LUU Real Estate Specialist Lic#0151771

43

714.585.2268 1Brandonluu@Gmail.Com


44


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.