tuyển tập TẠP VĂN Lỗ Tấn Người dịch: PHAN KHÔI
NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ HÀ NỘI - 1956 -4
LỜI NGƯỜI DỊCH
Lỗ Tấn có viết mười sáu tập tản văn. Ngoài tập Giã thảo là thơ tản văn ra, còn mười lăm tập, trong đó phần ítlà nghị luận, phần nhiều là trào phúng hoặc đả kích mà ông gọi là tùy cảm hay tạp cảm. Mười lăm tập, mỗi tập có tên riêng; chỉ ba tập, nên nó có mang hai chữ "tạp văn". Tạp văn, theo Lỗ Tấn cắt nghĩa: Tác giả biên tập văn của mình có hai cách: một là phân loại, sắp theo từng văn thể ; một là biên niên, không phân biệt văn thể, cứ theo thứ tự ngày tháng viết ra nó mà biến thành tập. Tạp văn, cái tên ấy sinh ra bởi cách sau, vì những bài văn khác thể đặt chung một chỗ với nhau nên gọi là "tạp". Hai chữ "Tạp văn" trong tuyển tập này là dựa theo nó mà đặt tên. Còn "Tuyển tập", khi nói như thế là có ý nói chọn những bài hay. Nếu theo đúng nghĩa ấy thì ở đây không gọi là "tuyển" được. Nhưng nếu cũng được phép gọi là "tuyển", thì lại tuyển theo một lối khác. Sự thực, khi dịch -5
đây, tôi không chọn những bài hay theo theo chủ quan hay khách quan. Tôi chỉ chọn những bài nào tôi hiểu, nắm được cả nghĩa lẫn ý nguyên văn, và liệu những bài ấy có thể tiêu hóa được trong giới bạn đọc Việt Nam thì tôi mới dịch. Theo cái nguyên tắc ấy, thành thử, cả tập Giã thảo, tôi không dịch một bài nào hết. Trong đó có những bài tôi hiểu nghĩa mà không hiểu ý, không hiểu ý tác giả muốn nói gì thì tôi không dám dịch. Nó là thơ. Mà tôi không phải một nhà thơ. Dịch tập Giã thảo, phải đợi có một nhà thơ Việt Nam nào kia. Còn lại mười lăm tập, tôi đã đọc tất cả. Khi đọc mỗi tập, thấy có bài dịch được thì tôi ghi lấy, rồi lần lượt dịch từ hồi còn ở Việt Bắc cho đến khi trở về Thủ đô. Dịch trước sau cả thảy được ba mươi chín bài vừa ngắn vừa dài, mỗi bài ghi y theo ngày tháng của tác giả, in thành Tuyển tập nầy, vẫn là cách biên niên của tác giả. Theo lối tuyển như trên đó, tôi chỉ dịch những bài ở trong mười ba tập, như có ghi cuối mỗi bài. Trong hai tập Hoa cái, Tam nhàn, tôi không dịch một bài nào. Hết thảy những bài không dịch, hoặc thuộc về mấy cuộc tranh luận, nói qua nói lại dài dòng và vướng víu, hoặc thuộc về nghệ thuật chuyên môn, như vẽ, khắc gỗ là cái tôi dốt, hoặc có dính dấp với lịch sử đương thời mà chưa tra cứu được để chú thích, thì xin đợi ngày sau.
-6
Trước đây tôi đã dịch và ấn hành Tuyển tập Tiểu thuyết Lỗ Tấn cũng làm bằng lối ấy. Thật là một việc làm tạm bợ, không xứng đáng. Tôi mong sau nầy phải dịch tiểu thuyết và tạp văn Lỗ Tấn cho đầy đủ, vì đó là một kho tàng quý báu chẳng những về văn học mà còn về chính trị, xã hội, văn hóa, nghệ thuật các thứ. Muốn tiện lợi cho người đọc, sau khi dịch xong, tôi soát đi soát lại, thấy chỗ nào đáng chú thích thì chú thích. Những tài liệu dùng mà chú thích hoặc lấy ngay trong Toàn tập Lỗ Tấn, hoặc lấy ở các thứ từ thư Trung và Tây, hoặc lấy ở sự nhờ biết của tôi. Có một số bài dụng ý hơi sâu kín, thì tôi có giải sơ qua ở cuối phần chú thích. Đọc sách phải biết cái người làm ra sách mà mình đọc đó. Phải biết cả đến thời đại và hoàn cảnh của người ấy. Vì vậy, tôi phụ lục bài nói chuyện về Lỗ Tấn của tôi ra đằng sau Tuyển tập nầy(*). Đọc bài đó sẽ giúp cho sự hiểu về Lỗ Tấn, như cũng thì công kích kẻ cầm quyền phản động, mà với Đoàn Kỳ Thụy thì xẳng xớm, với Tưởng Giới Thạch thì sâu cay nhưng kín đáo. Mấy năm gần đây, ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, có người nói rằng văn Lỗ Tấn chỉ là trào phúng và đả kích, đối với thời nay không còn có hiệu lực nữa, không đắc dụng nữa. Họ làm như thời nay là cái thời đã thập toàn rồi, tận thiện tận mỹ rồi. Tôi chẳng những không đồng ý mà còn căm với cái luận điệu ấy.
-7
Hễ xã hội chưa đến tận thiện tận mỹ thì nhà văn có gân cốt còn có trào phúng hay đả kích. Lúc ngôn luận được tự do thì đả kích, lúc không được tự do thì trào phúng. Hai cái, tánh chất khác nhau nhưng công dụng chỉ là một: đánh vào cái xấu của xã hội. Ca dao xứ ta ở thời Minh Mạng có câu: Tháng tám có chiếu vua ra Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng Không đi thì chợ không đông Đi thì bóc lột quần chồng sao đang? là trào phúng. ở thời Tự Đức có câu: Vạn niên là vạn niên nào? Thành xây xương lính, hào đào máu dân gần như đả kích mà cũng chưa phải, chỉ là trào phúng, vì không dám kêu tên ra như Lỗ Tấn kêu tên Đoàn Kỳ Thụy. Có người đã nói: "Thời đại chuyên chế làm cho người ta hay trào phúng." Quả đúng thế. Đừng nói đả kích, chỉ nói trào phúng. Trào phúng, nó đánh cái xấu, chứ chính nó không phải là xấu. Theo Lỗ Tấn, trào phúng chẳng có gì khác hơn là nói ra một sự thực mà không có ai nói. Ví như ở Hà Nội hiện nay còn có người đàn ông bận âu phục, người đàn bà húi tóc quăn, mặc tân thời, đứng khấn vái trước đền Hàng Trống, đó là -8
một sự thực nhưng không ai nói ra, nếu có người nói ra thì người ta cho là trào phúng. Thực ra, chỉ là nói một sự thực. Lỗ Tấn từng ví trào phúng với hoạt họa. Cả hai đều phải căn cứ ở sự thực. Nếu không căn cứ ở sự thực thì cái gọi bằng hoạt họa ấy chỉ là bôi nhọ, cái gọi bằng trào phúng ấy chỉ là nói xấu. À ra trào phúng chỉ là nói sự thực! Nhưng có kẻ lại đã nói rằng: "Có những cái sự thực không nên nói." Tôi không tin. Đó là ở dưới chế độ xã hội tư bản hay phong kiến kia, chứ ở dưới một chế độ xã hội khác tiến bộ hơn, tôi tưởng, không có cái sự thực nào là không nên nói. Đã lấy tự phê bình phê bình làm võ khí, tự nhiên mọi sự thực cần phải được nói. Bây giờ nói đến văn trào phúng của Lỗ Tấn. Trong truyện ngắn Nhật ký người điên viết năm 1918, Lỗ Tấn đã đề ra "giống người chân chính". Giống người chân chính là cái mức tiến hóa tột bực của loài người. Cho nên văn trào phúng của ông tuy để đánh cái xấu hiện thời, mà cái hướng cuối cùng là đi đến cái mức tiến hóa tột bực ấy. Không đợi đọc cả mười sáu tập, chỉ đọc nội một Tuyển tập này, những bài số 16, 20, 21, 34, 37, nhất là bài số 1, mở sách ra thì thấy ngay, cũng đủ khiến người đọc sinh lòng kính phục đối với cái triển vọng cao xa ấy của tác giả. Nói tóm, những xã hội tiến bộ hiện nay vẫn còn chưa được thập toàn, chưa được tận thiện tận mỹ. Giống người -9
chân chính vẫn còn chưa xuất hiện. Đã thế thì văn trào phúng của Lỗ Tấn là thứ văn nói sự thực, nó vẫn còn có hiệu lực, vẫn còn đắc dụng như thường. Tôi vẫn tin rằng văn học không có vĩnh cửu tánh. Thiên kinh địa nghĩa là Ngũ kinh Tứ thư của Khổng giáo cũng chỉ xài được có hai ngàn năm thôi. Văn Lỗ Tấn không có thể có hiệu lực đến ngày trái đất vỡ, nhưng từ nay cho đến ngày xuất hiện giống người chân chính, thì nó vẫn cứ tồn tại một cách vẻ vang vì mọi người thiên hạ đều cần có nó, đều hoan nghênh nó! Tuổi của tôi đã sắp cho tôi xuống mồ rồi. ở trong mồ, tôi cũng còn lấy làm quái sao đã nhận phê bình là võ khí mà lại chối trào phúng. PHAN KHÔI (Viết tại Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 1956)
- 10
TÙY CẢM LỤC 49
Hết thảy các thứ động vật bậc cao,(1) nếu không gặp biến cố gì bất ngờ, thì đều sống từ bé đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết. Chúng ta từ bé đến lớn, đã trải qua một cách không lấy gì làm lạ rồi; từ đó về sau, tự nhiên cũng sẽ trải qua một cách không lấy gì làm lạ nữa mới phải. Tiếc thay có một hạng người, từ bé đến lớn, đã bình thường trải qua một cách không lấy gì làm lạ rồi, thế mà thường lớn đến già, lại có hơi cổ quái, từ già đến chết, còn cổ quái hơn nữa, họ muốn choán hết đường lối của tuổi trẻ, hút hết không khí của tuổi trẻ. Tuổi trẻ ở lúc đó, chỉ có thể vàng úa trước đi, hẵng đợi đến về già, sau khi thần kinh và huyết quản đều đã biến chất hết rồi mới bắt đầu hoạt động. Cho nên cái trạng thái trong xã hội, trước là "cụ non",(2) đợi đến lúc lưng còng gối lỏng, mới lại "hứng lên", giống như từ đó về sau, mới bước lên con đường làm người. Nhưng mà rốt cuộc cũng không thể quên cái già của mình, cho nên toan tìm cách làm thần tiên(3). Đai khái nghĩ rằng người khác đều già được, chỉ có mình không thể già - 11
được, thứ nhân vật ấy, đâu cũng phải nhường các ông cụ Trung Quốc đứng số một. Nếu quả thật làm được thần tiên, thôi thì nhờ các ông ấy chủ trì mãi mãi, không cần phải có lớp người sau, thế cũng là việc rất tốt. Tiếc cho các ông lại không làm được, cuối cùng ông nào cũng chết đi, chỉ để lại cái xã hội già khằng mà các ông đã tạo nên, khiến bọn tuổi trẻ cứ thồ(4) lấy mà chịu khổ. Đó thật là cái hiện tượng kỳ quái của giới sinh vật! Tôi nghĩ, sự kéo dài của nòi giống - tức là sự nối tiếp của sinh mạng - thật chỉ là một bộ phận lớn trong sự nghiệp giới sinh vật. Sao phải kéo dài ra? Không cần nói, đó là vì muốn tiến hóa. Có đều giữa con đường tiến hóa, thế nào cũng phải mới cũ thay thế nhau. Cho nên cái mới phải vui mừng hể hả bươn tới đằng trước, ấy là lớn lên, cái cũ cũng phải vui mừng hể hả bước tới đằng trước, ấy là chết đi; mỗi mỗi bươn tới như thế, bèn là con đường tiến hóa đó. Người già tránh ra hai bên đường, giục giã, khuyên lơn, để cho bọn trẻ bươn tới. Trên đường có vực sâu, thì lấy xác chết kia lấp bằng đi, để cho bọn trẻ bươn tới. Người trẻ cảm ơn bọn già đã lấp vực sâu để cho mình bươn tới; người già cũng cảm ơn bọn trẻ đã từ trên cái vực sâu mình đã lấp bằng rồi mà bươn tới. - Bươn tới xa lắm rồi, xa lắm rồi. - 12
Rõ được điều ấy, thì từ bé đến lớn đến già đến chết, đều trải qua một cách vui mừng hể hả; vả lại từng bước một, từng bước một, phần nhiều là thứ người mới trỗi vượt ông cha. Đó là con đường đúng đắn rộng rãi của giới sinh vật! Tổ tiên của loài người đều đã làm như thế. 1918 (Dịch ở Nhiệt Phong) ----------------------------------(1)
Động vật bậc cao là một danh từ về động vật học, đối với động vật bậc thấp, chỉ những động vật nào trong cơ thể có tổ chức phức tạp, có nhiều khí quan để chuyên giữ từng chức vụ. Như loài có vú là động vật bậc rất cao, trong đó có loài người. (2)
Hai chữ này theo nguyên văn là "thiếu niên lão thành", nghĩa là người tuy trẻ tuổi mà tính cách đã đứng đắn như người già rồi, cho nên dịch là "cụ non". (3)
Trước kia, nhiều người già ở Trung Quốc, mà ở xứ ta cũng vậy, hay tìm những thứ thuốc bổ uống cho sống lâu, có người kiếm cách này cách khác để được trường sinh bất tử. Đây nói "toan làm thần tiên", là chỉ những sự ấy. (4)
Chở những vật gì trên lưng con ngựa, con là, con lạc đà, gọi là "thồ". Đây có ý nói cái xã hội già khằng đè trên lưng những người tuổi trẻ, họ phải chở lấy.
- 13
"ĐẾN RỒI"
Gần nay thường khi nghe người ta nói, "chủ nghĩa quá khích đến rồi"; trên báo cũng thường khi thấy viết, "chủ nghĩa quá khích đến rồi".(1) Thế rồi những người có một ít tiền rất không vui. Các quan cũng bận rộn, phải đề phòng thợ thuyền, phải để ý người nước Nga; cả đến sở cảnh sát cũng phát công văn cho thuộc hạ mình bảo lục lạo xem "đảng quá khích có đặt cơ quan hay không". Bận rộn, không lấy gì làm lạ, lục lạo, cũng không lấy gì làm lạ. Có đều trước phải hỏi: thế nào là chủ nghĩa quá khích? Cái đó họ không hề cắt nghĩa, tôi cũng không làm sao biết được. - Tôi tuy không biết, chứ cũng dám nói một câu rằng: "Chủ nghĩa quá khích" không thể đến, không cần sợ nó; chỉ có cái "đến rồi" là cái sẽ đến, là đáng sợ. Người Trung Quốc chúng ta, quyết không thể bị chủ nghĩa nào của nước ngoài lôi kéo, chúng ta có đủ sức sổ toẹt nó, giập tắt nó. Chủ nghĩa quân quốc dân ư,(2) chúng ta có từng đánh trận với ai đâu; chủ nghĩa vô để kháng ư,(3) - 14
chúng ta là kẻ chủ chiến và tham chiến;(4) chủ nghĩa tự do ư, chúng ta cả đến sự phát biểu tư tưởng cũng đều phạm tội, nói mấy câu cũng thấy khó; chủ nghĩa nhân đạo ư, chính cái thân người chúng ta vẫn còn đeo làm vật mua bán được kia mà. Cho nên không cứ cái chủ nghĩa nào, tất cả không làm rối loạn nổi Trung Quốc; những sự rối loạn từ xưa đến nay, cũng không thấy nói bởi chủ nghĩa nào. Thử đưa ra sự lệ trước mắt, tức như lời bố cáo của học giới Thiểm Tây, lời bố cáo của tai dân Hồ Nam; đáng khiếp là dường nào, đem so với cái tình hình hung ác của quân Đức mà Bỉ Lợi Thì tuyên bố, cái tình hình tàn bạo của chính phủ Lê-nin mà các đảng khác nước Nga tuyên bố, thì họ thật là thiên hạ thái bình.(5) Nước Đức vẫn nói là quân quốc chủ nghĩa, thì Lê-nin không cần nói vẫn là quá khích chủ nghĩa nhỉ!(6) Ấy đó tức là cái "đến rồi" đến rồi. Cái đến ấy nếu là chủ nghĩa, khi chủ nghĩa đạt được rồi thì thôi; nếu độc là cái "đến rồi", nó bèn đến hoài, đến mãi, nó đến thế nào cũng không thể biết được. Lúc Dân quốc thành lập, tôi ở trong một thành huyện nhỏ, vốn đã treo cờ trắng. Có một hôm, thình lình thấy bao nhiêu đàn ông đàn bà chạy trốn rối rít: kẻ ở trong thành chạy trốn xuống làng, kẻ ở trong làng chạy trốn vào thành. Hỏi họ việc gì thế, họ trả lời: "Người ta nói sắp đến rồi."
- 15
Thế đủ biết mọi người đều chỉ sợ cái "đến rồi" cũng như tôi vậy. Đến lúc đó vẫn chỉ có "chủ nghĩa đa số" mà thôi, không có "chủ nghĩa quá khích" nhỉ.(7) 1918 (Dịch ở Nhiệt Phong) ------------------------------------------------(1)
Đúng nghĩa chữ bolchevisme là "chủ nghĩa đa số". Nguyên hồi năm 1903, Đảng xã hội dân chủ nước Nga khai hội tại Luân Đôn, nhân vì thảo luận các vấn đề trong đảng, ý kiến không đồng nhau, chia làm hai phái: một phái do Lênin cầm đầu, số người nhiều hơn, gọi là Bolchevik; một phái số người ít hơn, gọi là Menchevik. Phái trước chủ trương vô sản chuyên chính; phái sau chủ trương thỏa hiệp với giai cấp tư sản để chống lại thế lực phong kiến. Đến sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, phái Bolchevik trở nên chính đảng thống trị cả nước Liên Xô, mới đổi tên là Đảng cộng sản. Do chữ Bolchevik đó thành ra có chữ bilchevisme, đáng lẽ dịch là "chủ nghĩa đa số", nhưng trước kia, các báo Trung Quốc đều gọi là "chủ nghĩa quá khích", và lúc bấy giờ, báo chí ở nước ta, như Trung Bắc tân văn, Nam Phong, đều gọi như vậy. "Quá khích", chẳng những có nghĩa là "cực đoan", mà còn có ý xấu hơn. (2)
Chủ nghĩa quân quốc dân (mililarisme) cũng gọi là chủ nghĩa quân quốc. Cái chủ nghĩa lấy quân đội làm trên hết, dùng võ lực để đàn áp trong nước và xâm lược nước ngoài. (3)
Chủ nghĩa vô để kháng do Tolstoi người nước Nga xướng ra, tiếng tây là principle de non résistance. Ý Tolstoi muốn thực hiện cái xã hội loài người yêu nhau, nên căn cứ ở cái ý "đừng chống cự kẻ dữ" trong Kinh thánh Tân Ước mà xướng ra chủ nghĩa này, nhưng đó chỉ là không tưởng, không thể thực hiện được. (4)
Đây chỉ là việc chính phủ Đoàn Kỳ Thụy gia nhập đồng minh đánh
Đức.
- 16
(5)
Trong đoạn này, có bốn cái thực sự lịch sử, nhưng ba cái, chưa tra tìm được, không hiểu là thế nào. Chỉ có về chuyện Bỉ Lợi Thì tuyên bố, thấy ở một bài khác của Lỗ Tấn, nói như thế này: "Không cho tù đồ ăn uống, đánh mắng thôn trưởng, bắt bình dân đưa ra mặt trận", theo Lỗ Tấn thì sự người Đức đối với người Bỉ trong lúc chiến tranh như vậy, cũng không lấy gì làm quá lắm, những điều đó ở Trung Quốc là sự thường. Tuy không biết rõ từng thực sự, chứ xem cả đoạn thì đủ hiếu ý tác giả muốn nói ở Trung Quốc còn có nhiều sự hung ác tàn bạo hơn ở ngoại quốc nữa. Cái ý ấy thòng xuống hạ văn, tức là do sự hung ác tàn bạo thái quá ấy sẽ sinh ra rối loạn, cách mạng lần nữa. (6)
Nước Đức dưới quyền thống trị của vua Uy Liêm II (1888 - 1918), vốn thực hành chủ nghĩA Quân quốc, toan làm bá chủ Âu châu, nên đã gây ra Đại chiến thứ nhất. - Cả câu này có ý nói: theo sự hung ác tàn bạo của tình hình hiện tại Trung Quốc như đã hiểu ngầm ở trên (mà lại tự cho mình là tốt), đối với nước Đức vẫn gọi là nước quân quốc chủ nghĩa, thì đối với Lênin, cứ gọi là quá khích chủ nghĩa cũng không lạ gì. (7)
Đại ý bài này nói chính ở Trung Quốc đương thời đó, bị bọn quân phiệt đảo loạn (khi Lỗ Tấn viết đây, Trung Quốc đang ở dưới quyền thống trị Đoàn Kỳ Thụy), nhân dân khốn khổ chịu không nổi, thế nào cũng sẽ sinh ra cách mạng lần nữa, chứ không đợi phải có chủ nghĩa nào ở ngoài vào làm phiến động lòng dân. "Cái đến rồi", ba chữ ấy, ám chỉ cuộc cách mạng vị lai. Chữ "đa số" trong cái danh từ "chủ nghĩa đa số" dùng ở đây là chỉ quảng đại quần chúng nhân dân, chứ không theo nguyên nghĩa của chữ bolchevisme như đã giải ở trên.
- 17
"THÁNH VÕ"
Lần trước tôi đã từng nói rằng "bất cứ chủ nghĩa nào cũng đều không can liên gì với Trung Quốc cả"; hôm nay bỗng lại có chút ít ý kiến, bèn viết nốt dưới đây. Tôi tưởng, Trung Quốc chúng ta vốn không phải là chỗ phát sinh ra chủ nghĩa mới, mà cũng không có chỗ dung nạp chủ nghĩa mới, ví thử tình cờ có tư tưởng từ ngoài đến, cũng tức khắc đổi màu sắc đi, vả lại có nhiều luận giả trở lấy điều đó tự hào. Chúng ta chỉ để ý xem những bài tựa bài bạt trên các bổn sách dịch, cho đến các thứ phê bình nghị luận đối với sự tình ngoại quốc, thì có thể thấy ra ở quãng giữa tư tưởng của chúng ta và người khác, quả thật còn có mấy lớp vách sắt cách nhau. Họ nói về vấn đề gia đình, chúng ta lại cho là họ cổ động chiến tranh; họ vạch ra khuyết điểm của xã hội, chúng ta lại nói họ pha trò; cái họ nói là tốt, chúng ta lại nói là xấu. Nếu lại để ý xem xét tánh cách quốc dân, văn học quốc dân của nước khác, lại đọc một cuốn bình truyện của nhà văn họ, thì càng thấy rõ tánh tình tả trong tác phẩm ngoại quốc và tư tưởng của tác giả, hầu như toàn là cái Trung Quốc không hề có. Cho nên không thể hiểu nhau, không thể đồng tình, không thể cảm thông, thậm chí những điều phải chăng yêu ghét giữa họ và ta cũng không khỏi đưa đến cái kết quả trái nhau. - 18
Người tuyên truyền chủ nghĩa mới là người phóng hỏa ư, cũng cần phải người khác có vật dẫn hỏa bằng tinh thần thì mới bắt cháy được; là người gảy đàn ư, cũng cần phải người khác có dây đàn ở trong lòng thì mới nẩy tiếng được ; là đồ phát thanh tư, người khác cũng phải là đồ phát thanh, thì mới đồng thanh tương ứng được. Người Trung Quốc đều không giống thế, cho nên không thể can liên với nhau. Có lẽ có mấy vị độc giả nổi đóa, nói: "Trung Quốc thường khi có người đem tính mệnh hy sinh cho chủ nghĩa của mình, từ có Trung Hoa Dân quốc đến nay, có bao nhiêu liệt sĩ chết vì chủ nghĩa, hừ! Sao anh lại mạt sát tất cả?" Lời ấy đúng lắm. Nói về tư tưởng từ ngoài đến thuở xưa, đời Lục triều quả có nhiều vị hòa thượng lên giàn hỏa, đời Đường cũng có vị hòa thượng sả cánh tay bố thí cho kẻ bơ vơ ; nói về cái mới gần nay, cố nhiên cũng đã có mấy người. Nhưng mà, với lịch sử Trung Quốc vẫn không can liên gì. Bởi vì sự đổ sổ của lịch sử không thể tinh mật như số học, bao nhiêu những con số nhỏ viết ra, chỉ có thể bắt chước lối tính bỏ đầu bỏ đuôi của người quê vụng, chỉ ghi lấy một số đại đổng. Trong số đại đổng của lịch sử Trung Quốc, thực ra không hề có tư tưởng chủ nghĩa nào ở trong đó. Số đại đổng ấy chỉ là hai thứ vật chất, - là dao và lửa, "đến rồ" là cái tên chung của nó. Lửa từ phía bắc đến thì trốn về phía nam, dao từ đằng trước đến thì lùi lại đằng sau, một đống lớn sổ lưu thủy chỉ - 19
có một mô hình ấy. Nếu hiềm cái tên "đến rồi" không trang nghiêm mấy, "dao và lửa" cũng chọc vào mắt, thì chúng ta có thể nghĩ ra kiểu khác, kính dâng một cái hàm ơn, gọi là "thánh võ",(1) thì dễ coi ngay. Đời xưa, vua Tần Thủy Hoàng rất sang trọng, Lưu Bang và Hạng Võ đều xem thấy, Bang nói rằng: "Hỡi ôi! Đại trượng phu phải làm nên dường ấy vậy!" Võ nói rằng: "Hắn, có thể lấy mà thay thế vậy!"(2) Võ muốn "lấy" cái gì? Bên là cái "dường ấy" mà Bang nói. Cái trình độ của "dường ấy" tuy không giống nhau, nhưng mà ai cũng muốn lấy, kẻ bị lấy là "hắn", kẻ lấy là "trượng phu". Trong lòng của hết thảy "hắn" và "trượng phu" đều là chỗ sản sinh, chỗ dung nạp của cái "thánh võ" ấy. Thế nào gọi là "dường ấy"? Nói ra, câu chuyện hơi dài, ở đây chỉ tóm tắt rằng, đó chỉ là sự thỏa thuê cái dục vọng - uy phúc, tử nữ, ngọc bạch(3) - về phương diện thú tánh thuần túy trong loài người mà thôi. Nhưng mà ở hết thảy trượng phu lớn hay nhỏ, lại đều kể là cái lý tưởng (?) tối cao rồi đấy. Tôi e cho người đời nay vẫn còn cứ bị cái lý tưởng ấy chi phối. Sau khi đại trượng phu đã "dường ấy" rồi, dục vọng chưa giảm kém, nhưng thân thể đã mòn mỏi, vả lại thấy trong tối có cái bóng den - cái chết - đã đến bên mình rồi. Thế rồi không có cách nào khác, chỉ việc đi cầu thần tiên.(4) Điều đó ở Trung Quốc, cũng phải kể là lý tưởng tối cao. Tôi e cho người đời nay vẫn còn cứ bị cái lý tưởng ấy chi phối. - 20
Cầu thần tiên một dạo, rốt cuộc không thấy gì, đâm ra nghi ngờ. Thế rồi phải xây mồ để bảo tồn cái xác chết, toan dùng cái thây xác của mình choán mãi mãi một miếng đất.(5) Điều ấy ở Trung Quốc cũng phải kể là một thứ lý tưởng tối cao khi đã hết cách xoay. Tôi e cho người đời nay vẫn còn cứ bị cái lý tưởng ấy chi phối. Hiện nay những tư tưởng từ ngoài đến, không luận thế nào, nó cũng còn có cái hơi thở của tự do bình đẳng, cái hơi thở của hỗ trợ cọng tồn, mà ở chúng ta thì độc có cái "ta", độc nghĩ việc "lấy hắn", trên miếng đất tư tưởng độc một người toan uống cạn hết thảy rượu của không gian thời gian ấy, thật không còn có chỗ nào trống cho tư tưởng khác chen chân vào. Vì đó, chỉ phải ngăn ngừa cái "đến rồi" kia là đủ ồi. hãy xem nước khác, kẻ chống cự cái "đến rồi" ấy bèn là nhân dân có chủ nghĩa. Họ vì cái chủ nghĩa mình đã tin mà hy sinh hết thảy những cái khác, lấy xương thịt đè nhụt gươm dao, lấy máu me tưới tắt khói lửa. Trong ánh sáng phai nhạt của dao và lửa thấy được màu trời hừng chói, ấy là màu rạng đông của thế kỷ mới.(6) Ánh sáng rạng đông ở trên đầu, chẳng ngước đầu lên, thì mãi mãi chỉ có thể nhìn thấy cái nhoáng sáng của vật chất. 1918 (Dịch ở Nhiệt Phong)
- 21
----------------------------------------------(1)
Hai chữ "thánh võ" bắt đầu thấy trong Kinh Thư, về sau nhà nho, nhất là nhà viết sử, thường dùng để xưng tụng những ông vua sáng nghiệp như Hán Cao Tổ (Lưu Bang), Đường Thái Tông (Lý Thế Dân). ý họ nói, có là "thánh" mới thay trời trị dân được, có là "võ" mới dẹp loạn an thiên hạ được. Nhưng thực ra, không phải "thánh võ" gì hết, chỉ là làm cho thỏa mãn cái tư dục của một người mà thôi, như sẽ nói dưới đây. (2)
Chuyện này có chép trong sách Sử ký. Nguyên văn câu Lưu Bang nói là: "Ta hồ! Đại trượng phu đương như thị dã" ; câu của Hạng Võ nói là: "Bỉ, khả thủ nhi đại dã". (3)
Uy phúc: uy là ra uy, trừng trị ai, phúc là làm phúc, ban ơn cho ai. Nghĩa là nắm cái quyền ra uy làm phúc trong tay mình, muốn làm gì thì làm. Tử nữ là con trai con gái, đàn ông đàn bà, hết thảy người trong nước đều làm thần dân mình. Ngọc là đá quý, bạch là lụa, tức là hết thảy châu báu của cải trong nước đều là của mình. (4)
Tức như Tần Thủy Hoàng, Hán Võ Đế, lúc thấy mình đã thành công, sang trọng tột bậc rồi, mong sống lâu mãi mãi để mà hưởng, bèn đi cầu thần tiên, kiếm thuốc trường sinh bất tử. (5)
Không thể sống mãi mãi được, thế nào cũng phải chết, bèn lo việc xây lăng tẩm. (Lăng là chỗ chôn xác, tẩm là chỗ thờ). ở nước ta còn có câu tục ngữ: "Tức vị, trị quan". Nghĩa là ông vua lên ngôi một cái là lo việc sắm sửa áo quan ngay. Và, như vua Tự Đức, sau khi lên ngôi ít lâu, xây dựng sở Vạn Niên, về sau gọi là Khiêm Lăng. Bấy giờ có câu ca dao: "Vạn Niên là vạn niên nào, thành xây xương lính, hào đào máu dân". (6)
Trong đoạn nầy, chữ "nước khác" là chỉ nước Nga Xô Viết; chữ "chủ nghĩa" là chỉ chủ nghĩa cộng sản. Sau Cách mạng tháng Mười, chủ nghĩa cộng sản đã làm rung động Trung Quốc, nhưng bị bọn quân phiệt ngăn cấm, cho nên Lỗ Tấn chỉ nói bằng cách kín đáo như thế.
- 22
NÓI VỀ HÀM RÂU
Mùa hè năm nay đi chơi Trường An một chuyến, sau hơn một tháng, ngây ngô ngốc ngác mà trở về. Những người bạn biết chuyện bèn hỏi tôi: "Anh thấy trên đó như thế nào?" Thế rồi mới dật mình nghĩ lại Trường An, nhớ đã thấy cây bạch dương rất nhiều, cây lựu rất lớn, dọc đường đã uống nước sông Hoàng Hà không ít. Nhưng mà những cai đó có gì đáng nói ư? Tôi bèn trả lời: "Chẳng có thế nào gì cả." Vậy rồi người bạn tiu nghỉu mà đi, tôi vẫn cứ tiu nghỉu mà ở, tự thấy thẹn vì một không lấy gì đáp lại những người bạn "chẳng hổ hỏi kẻ dưới".(1) Hôm nay sau khi uống trà, thì xem sách, trên sách rây một giọt nước, tôi biết râu hàm trên của mình đã lại dài ra rồi. Giá như mở Khang Hy tự điển ra, các thứ râu của môi trên, môi dưới, bên mép, dưới cằm, đại khái mỗi thứ đều có tên riêng đấy, nhưng tôi không rỗi đâu mà có hứng thú làm như thế. Tóm lại là râu ấy đã lại dài ra rồi, tôi lại phải chiếu lệ cắt ngắn nó đi, trước là cho khỏi nhúng canh quện nước. Thế rồi tìm cái gương, cái kéo, bắt tay cắt nó, cốt làm cho nó bằng với mé trên, thành một chữ "nhất" viết lối lệ.(2) Tôi, một mặt cắt, một mặt bỗng lại nhớ đến Trường An, nhớ đến thời đại thanh niên của tôi, nẩy ra bao nhiêu điều cảm khái dây dưa chẳng dứt. Việc Trường An, nhớ - 23
không rành mạch lắm, chằng là khi vào chơi Khổng miếu, trong có một gian phòng, treo nhiều bức họa in, có tượng Lý Nhị Khúc(3), có tượng đế vương các đời, trong có một bức là Tống Thái Tổ hay tông nào đó, tôi cũng không nhớ rành mạch nữa, tóm lại là mặc một áo bào dài mà râu vểnh lên. Thế rồi một vị danh sĩ quả quyết nói rằng: "Cái nầy đều la Nhật Bổn giả tạo ra, anh xem râu nầy là kiểu râu Nhật Bổn đây." Thật vậy, râu của người Nhật Bổn đúng là vểnh lên như thế, họ cũng chưa chắc không giả tạo họa tượng của Tống Thái Tổ hay tông nào đó, có đều giả tạo tượng hoàng đế Trung Quốc mà lại phải soi gương, lấy râu của mình làm mẫu, thì thủ đoạn và tư tưởng cũng lạ lùng lắm, thật không ai ngờ đến. Trong đời Kiền Long nhà thanh, Hoàng Dị đào được những họa tượng khắc đá của nhà thờ Hán Vũ Lương(4), râu của đàn ông phần nhiều đều vểnh lên ; lại những tượng tín sĩ trong các pho tượng Phật giáo từ Bắc Ngụy đến Đường mà chúng ta thấy, hễ là người có râu, phần nhiều đều vểnh lên, chỉ đến họa tượng đời Nguyên đời Minh, thì râu, đại khái chịu tác dụng của sức hút lòng trái đất mà dủ xuống cả. Người Nhật Bổn sao mà không sợ mất công, cặm cụi tạo ra bao nhiêu đồ xưa giả từ Hán đến Đường, đem đi chôn ở nơi núi sâu hang thẳm cồn trụi đất hoang khắp Tề, Lỗ, Yên, Tấn, Tần, Lủng, Thục của Trung Quốc làm gì ư? Tôi cho rằng râu dủ xuống là kiểu Mông Cổ, kiểu người Mông Cổ đem vào, nhưng mà bọn danh sĩ thông minh của chúng ta lại coi nó là quốc túy. Những học sinh - 24
lưu học ở Nhật Bổn vì giận Nhật Bổn, bèn ngậm ngùi nhớ đến Đại Nguyên, nói rằng; "Lúc đó nếu không có trời phù hộ thì cái đảo quốc nầy đã bị chúng ta diệt quách rồi!(5)" Thế thì nhận thứ râu dủ xuống làm quốc túy cũng chẳng có gì là không được. Nhưng mà đã thế thì sao còn là con cháu của Hoàng đế? Sao còn nói người Đài Loan ở Phúc Kiến đánh người Trung Quốc là căn tánh nô lệ nhỉ? Lúc đó tôi muốn tranh biện, nhưng rồi tôi liền nghĩ lại, không tranh biện. Người yêu nước lưu học ở Đức là ông X - vì tôi không nhớ tên, hẵng thay bằng X - chẳng đã nói tôi chê bai Trung Quốc là vì tôi đã lấy vợ Nhật Bổn cho nên vì họ nói xấu bổn quốc đó ư?(6) Tôi trước kia chẳng qua chỉ ra một vài khuyết điểm của Trung Quốc, còn phải làm lụy đến "nhà tôi" đổi quốc tịch đi thay, huống chi bây giờ là vấn đề có dính dấp đến Nhật Bổn? Thôi thì dù cho hàm râu của Tống Thái Tổ hoặc tông nào đó có bị oan chăng nữa, cũng chẳng đến nỗi có hồng thủy, có động đất, có gì tai hại lớn. Khi ấy tôi bèn gật đầu lia lịa nói: "ờ, ờ, đúng đấy." Bởi vì thực ra tôi so với trước kia hình như đã tròn lắm rồi, - tốt rồi. Tôi cắt cái đầu nhọn râu bên trái của mình xong rồi, nghĩ, người Thiểm Tây đã mệt lòng nhọc sức, tốn cơm phí tiền, dùng xe hỏa đưa đi, dùng thuyền chở, dùng xe ngựa kéo, dùng xe hơi đón, mời đến Trường An giảng diễn, chắc họ không ngờ đâu tôi là một kẻ tuy đối với cái việc nhỏ xíu quyết không đến có cái họa giết mình mà cũng không chịu thẳng thắn tỏ bày ý kiến, chỉ "ờ, ờ, đúng đấy" mà thôi. Họ gỏn gọn là bị lừa. - 25
Tôi lại soi mặt mình trong gương, nhằm chỗ khóe miệng bên phải, cắt cái đầu nhọn râu bên phải, thả rơi xuống đất, nhớ đến thời đại thanh niên của tôi... Đó đã là chuyện cũ, ước chừng có đến mười sáu, mười bảy năm nay rồi. Bấy giờ tôi từ Nhật Bổn trở về nước, trên mép để thứ râu vểnh lên giống như của Tống Thái Tổ hay tông nào đó, ngồi trong chiếc thuyền con, nói chuyện gẫu với anh lái thuyền. "Thưa ông, ông nói tiếng Trung Quốc sõi lắm." Sau lại, anh lái thuyền nói với tôi như thế. "Tôi là người Trung Quốc, vả lại là đồng hương với anh, thế nào lại..." "Ha ha, ông, cái ông này còn biết pha trò nữa kia." Nhớ lại tôi hồi đó không biết nghĩ thế nào, thật còn mười phần lúng tung shơn khi thấy bài thông tin của ông X. Tôi hồi đó không mang gia phả theo, thật không thể nào chứng minh mình là người Trung Quốc được. Dù cho có mang theo gia phả, mà trong đó chỉ có họ tên, không có ảnh tượng, cũng không thể chứng minh kẻ có họ tên ấy chính là tôi. Lại dù cho có ảnh tượng, người Nhật Bổn đã giả tạo được những tấm đá khắc từ Hán đến Đường, những tượng vẽ Tống Thái Tổ hay tông nào đó, có lẽ nào lại không giả tạo được một bộ gia phả bằng bản gỗ? Tất cả sự đối phó với kẻ lấy câu chuyện thật làm câu chuyện pha trò, với kẻ lấy câu chuyên pha trò làm câu - 26
chuyện thạt, với kẻ lấy câu chuyện pha trò làm câu chuyện pha trò chỉ có một cách là: không nói chi hết. Thế rồi từ đó tôi không nói chi hết. Nhưng mà, giá như ở bây giờ thì ước chừng tôi còn nói: "Hôm nay tốt trời lắm đấy nhỉ?... Cái làng bên kia gọi là làng gì nhỉ?..." Bởi vì thực ra tôi so với trước kia hình như đã tròn lắm rồi, - tốt rồi. Bây giờ tôi nghĩ, sự người lái thuyền đổi quốc tịch tôi, đại khái không giống với cao kiến của ông X. Nguyên nhân nó chỉ ở nơi hàm râu thôi, bởi vì từ đó tôi thường thường chịu khổ vì hàm râu. Quốc độ có thể mât, nhà quốc túy không có thể ít đi được, mà hễ nhà quốc túy không ít thì cái quốc độ ấy không coi là mất. Nhà quốc túy là người bảo tồn quốc túy ; mà quốc túy là hàm râu của tôi. Đó tuy không biết là theo phép "lô gíc" nào, nhưng cái thực tình bấy giờ đúng là như thế. "Sao anh lại bắt chước dáng bộ của người Nhật Bổn, khổ người đã thấp bé, râu lại thế kia..." Một nhà quốc túy gồm ái quốc sau khi phát ra một tràng nghị luận đênh thép rồi, bèn đi đến cái kết luận ấy. Đáng tiếc lúc bấy giờ tôi còn là một thiếu niên chưa trải sự đời, cho nên hằm hằm cãi lại. Một là, khổ người tôi vốn chỉ cao có bằng ấy, chứ không phải tôi cố ý kiếm cách ép bằng máy móc nào của ngoại quốc cho lùn bé lại, toan mạo làm người họ. Hai là, râu của tôi thật có giống người - 27
Nhật Bổn, nhưng mà, tuy tôi chưa từng nghiên cứu lịch sử kiểu râucủa họ thay đổi như thế nào, chứ đã có thấy mấy bức tượng vẽ người đời xưa của họ, râu đều không vểnh lên, chỉ chĩa ra hay dủ xuống, không khác với quốc túy của ta bao nhiêu đâu. Chỉ sau khi Duy Tân, râu mới vểnh lên, đại khái là họ bắt chước kiểu râu nước Đức. Hãy xem hàm râu hoàng đế Uy Liêm, chẳng phải chỉ thẳng lên khóe mắt, đứng song song với sống mũi là gì? Mặc dầu về sau vì hút thuốc cháy đi một bên, rồi phải xén bằng hai bên cả, chứ thuở Minh trị Duy Tân ở Nhật Bổn, cái mép bên kia của ông còn chưa bị hỏa tai... Cuộc biện giải đó mất chừng hai phút đồng hồ, song le thế nào cũng không làm nguôi giận nhà quốc túy, bởi vì nước Đức cũng là ngoại quốc, huống chi khổ người tôi lại thấp bé. Lại huống chi nhà quốc túy rất chẳng ít mà ý kiến họ lại rập nhau, thành thử tôi biện giải bao nhiêu lần cũng không ăn thua, một lần, hai lần, cho đến mười lần, mười mấy lần, cả đến chính mình tôi cũng thấy là vô vị mà lại đâm bực mình nữa. Thôi được, vả lại thứ dầu keo dùng để uốn râu ở Trung Quốc cũng khó kiếm, từ đó tôi để mặc kệ nó. Sau khi để mặc kệ, hai đầu râu mép trình ra cái hiện tượng hướng về lòng trái đất, đối với mặt đất thành ra góc thẳng chín mươi độ. Quả nhiên nhà quốc túy không nói gì nữa, hay là Trung Quốc đã được cứu rồi chăng. Nhưng mà tiếp đó lại chác lấy phản cảm của nhà cải cách, ấy cũng là đáng lắm. Khi ấy tôi lại vuốt rẽ ra, một - 28
lần, hai lần, cho đến nhiều lần, cả đến chính mình tôi cũng thấy là vô vị mà lại đâm bực mình nữa. Ước chừng trước đây bốn năm năm hoặc bảy tám năm, tôi ngồi một mình trong hội quán, riêng buồn về cái cảnh ngộ không may của hàm râu tôi, tìm cái cớ tại sao mà nó bị tai tiếng, bỗng sực tỉnh ra, biết cái mầm họa toàn ở cái đầu nhọn hai bên của nó. Thế rồi lấy gương, kéo, lập tức xén bằng nó đi, khiến nó không vểnh lên, cũng không dủ xuống, như một chữ "nhất" viết lối lệ. "A, râu của anh lại thế nầy rồi?" Lúc đầu từng có người hỏi như thế. "Ờ, ờ, râu của tôi thế ấy rồi đó." Nhưng hắn không nói chi. Tôi không biết có phải là vì tìm không thấy hai đầu nhọn, nên không nói vào đâu được, hay là sau khi râu tôi đã "thế ấy" rồi, thì không còn gánh lấy cái trách nhiệm về Trung Quốc còn hay mất nữa. Tóm lại, tôi từ đó được thái bình vô sự thẳng đến bây giờ, cái điều bực mình là chỉ phải thường thường cắt xén mà thôi.(7) 30-10-1924 (Dịch ở Phần) --------------------------------------------(1)
Đây là một câu sẵn có trong sách Luận ngữ, nguyên văn là: "Bất sỉ
hạ vấn". (2)
Chữ "nhất" viết lối lệ cũng giống như chữ "nhất" viết lối chân, chỉ khác là cái lưng hơi ển lên.
- 29
(3)
Lý Nhị Khúc tức Lý Ngung, một đại nho đầu đời Mãn Thanh, được gọi là Nhị Khúc tiên sinh. (4)
Nhà thờ Vũ Lương thuộc về đời Hán ở tỉnh Sơn Đông ; đây nói "đào được" vì nó đã bị lấp dưới đất. (5)
Đời Nguyên (Mông Cổ) Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) có cử đại binh đi đánh Nhật Bổn, giữa biển gặp bão, thuyền đắm, tướng sĩ chết hết, chỉ trở về được có mấy chục người. Câu nói đó có ý chỉ vào việc ấy. Nhưng đó là việc của người Mông Cổ, sao lại nói "chúng ta"? Sở dĩ dẫn câu nầy, ý Lỗ Tấn băm vào hai chữ "chúng ta". (6)
Em ruột của Lỗ Tấn là Chu Tác Nhân lấy vợ Nhật Bổn, do đó có người tưởng lầm là Lỗ Tấn. (7)
Đại ý bài nầy đả kích người đương thời về mấy điểm nầy ; căm hờn đế quốc (như Nhật Bổn) mà chỉ căm hờn ở những điều vụn vặt có khi không đáng căm hờn (như kiểu râu vểnh lên); bảo tồn quốc túy mà lại nhận lầm những cái không phải là quốc túy (như kiểu râu dủ xuống) ; nhân đó đến nỗi nhận kẻ thù làm đồng tộc với mình (như nhận nhà Nguyên Mông Cổ là chúng ta) và vu oan cho người lương thiện (như nói Lỗ Tấn làm việc cho Nhật Bổn). Trong một chuyện nhỏ là chuyện cái râu, tỏ ra cái ý thức củA Quốc dân là chếch lệch, nên uốn nắn lại. Theo thể thức văn văn ngôn, thì bài văn nầy là bài không trang nhã. Bởi vậy khi nó đăng báo xong, có người chế rằng: "Lỗ Tấn lần nầy nói hàm râu, có lẽ lần sau nói thẳng tới cái đít như nhà văn mất dạy nọ ở Thượng Hải." Vì trước đó ở Thượng Hải đã có người làm bài phú "Phơi cái đít dưới mặt trời" (Thái dương sái bí cổ phú). Trong bài có câu "lấy câu chuyện pha trò làm câu chuyện pha trò", có lẽ Lỗ Tấn đã nói tiên tri về người ấy. Một câu chuyện tuy như là pha trò mà thực thì có ý nghĩa sâu sắc, thì phải cố mà hiểu, không được coi nó là câu chuyện pha trò. Cũng vì lời chế nhạo đó, Lỗ Tấn viết tiếp bài Từ hàm râu nói đến cái răng, và bài Luận về đéo mẹ nó, cũng có ý nghĩa sâu sắc lắm, nhưng ở đây chưa dịch. - 30
XEM GƯƠNG CÓ CẢM
Nhân vì lục cái rương đựng áo, lục ra mấy cái gương bằng đồng đời xưa, chừng là mua ở Bắc Kinh hồi mới đến đó ở năm đầu Dân quốc, "tình theo việc đổi"(1), bấy lâu quên bẵng đi, bây giờ thấy lại, như thấy vật kiếp trước. Một cái hình tròn, đường kính không quá hai tấc, rất dày và nặng, ở lưng chạm đầy cành nho và có mấy con sóc nhảy(2), xung quanh rìa là một vòng chim bay. Nhà bán đồ xưa gọi nó là "gương hải mã bồ đào"(3). Nhưng cái của tôi không có hải mã, cái thực không xứng với cái danh. Nhớ ra tôi cũng từng thấy một cái khác thật có hải mã, nhưng giá đắt quá, không mua được. Đó đều là những cái gương của đời Hán; về sau cũng có kẻ chế theo kiểu hoặc mài lại, nhưng hình chạm thô vụng lắm. Võ Đế đời Hán mở đường lên đến Đại Uyên, An Tức, lấy thiên mã bồ đào đem về(4), chừng như thời đó coi là việc rột rạt lắm, cho nên lấy nó - 31
làm trang sức cho đồ dùng. Thuở xưa, tên những vật phẩm từ ngoài đến thường thêm chữ "hải", như hải lựu, hải hồng hoa, hải đường các thứ. Hải, tức hiện nay gọi là "dương", hải mã, nói theo đời nay, là dương mã(5). Cái núm gương là một con cóc, thì là vì mặt gương tròn như trăng rằm, và trong trăng có con thiềm thừ(6), chứ không can liên gì với việc đời Hán. Nghĩ thấy người đời Hán phóng khoáng bao nhiêu, những động thực vật mời từ ngoài đến, không kiêng kỵ gì hết, liền lấy làm hình chạm trang sức. Người đời Đường cũng không kém, lệ như những con thú bằng đá trước mồ người đời hán, phần nhiều là dê, cọp, thiên lộc, tịch tà(7), mà trước Chiêu lăng(8) ở Tường An lại trổ con tuấn mã đeo cái tên, lại có một con chim đà, thật là bất chấp người xưa. ở mồ mả đời nay không cần nói, dù đến bức vẽ bình thường, có ai dám vẽ một đóa hoa, một con chim ngoại quốc, dù đến con dấu của tư nhân, có ai dám khắc một chữ viết tháu một chữ viết rẻ không? Có nhiều người phong nhã, cả đến ghi năm tháng cũng theo Giáp Tý, ngại dùng kỷ nguyên Dân quốc nữa(9). Không biết là vốn không có nhà nghệ thuật to gan như vậy, hay là có mà bị dân chúng bách hại rồi họ mòn héo đi, chết mất đi? Văn nghệ đời Tống sặc mùi quốc túy như hiện nay. Nhưng rồi Liêu, Kim, Nguyên lần lượt tiến vào, cái chỗ cơ mầu đó rất nên nghiền ngẫm. Hán, Đường tuy cũng có ngoại xâm, nhưng phách lực của nhân dân vẫn hùng đại, sẵn có lòng tự tin mình không đến nỗi làm nô lệ của dân - 32
tộc khác, hay là chưa hề nghĩ đến điều ấy nữa, khi lấy và dùng sự vật từ ngoài đến, coi như là bắt nó làm phu tù, tự do sử dụng, không hề e ngại. Một khi đã đến đồi bại đốn mạt rồi, thì thần kinh suy nhược nhạy quá, mỗi lúc thấy cái gì của ngoại quốc, tưởng như là nó đến bắt mình làm phu tù, chống cự, sợ sệt, rụt rè, trốn lánh, cù rũ lại một đống, lại ần phải nghĩ ra một tràng lời lẽ để mà lấy thể diện, thế rồi cái quốc túy bèn thành ra bảo bối của bọn vua hèn và đầy tớ hèn. Chỉ phải là cái ăn được, không cứ từ đâu đến, người lành mạnh đại khái không cần suy nghĩ gì, nhận ngay là đồ ăn. Duy có người đau yếu mới hay sợ hại dạ dày, hại sức khỏe, riêng có nhiều điều kiêng khem cấm kỵ; còn có một mớ lý do so hơn tính thiệt mà rốt cuộc không đâu vào đâu, loại như nói rằng ăn vẫn không làm sao, nhưng không ăn ổn hơn, ăn hoặc cũng có ích đấy, nhưng chi bằng không ăn là thóc chắc. Có đều những người như thế bề nào cũng càng ngày càng suy yếu, vì họ suốt ngày lo sợ, chính mình đã mất tinh thần trước đi rồi. Không biết đời Nam Tống sánh với hiện nay ra sao, chỉ biết đối với kẻ địch bên ngoài thì rõ ràng họ đã xưng thần(10), duy ở trong nước lại có nhiều những lệ văn rườm rậm với những nghị luận tủn mủn lai nhai. Thật giống như những người đảo vận, kiêng khem lắm thứ, không còn có cái phong thể hoát đại phóng khoáng nữa. Thẳng đến về sau, cũng không có sự biến hóa gì lớn. Trên một bức họa bày ở Cổ Vật Trần Liệt Sở, tôi từng thấy một con dấu in - 33
lên đó, khắc bằng mấy chữ cái La Mã. Nhưng đó là con dấu của người được gọi là "Thánh tổ Nhân hoàng đế chúng ta"(11), là vị chủ nhân đã chinh phục giống Hán, cho nên mới dám như thế; còn những đầy tớ giống Hán thì không dám đâu. Dù cho hiện ngày nay, dù cho nhà nghệ thuật, có ai dám dùng con dấu bằng chữ Tây? Trong khoảng Thuận Trị triều Thanh(12), trên quyển lịch có in năm chữ "theo phép mới Tây Dương", cái kẻ khóc lóc mếu máo dâng sớ hạch người Tây Thang Nhược Vọng(13) lại là Dương Quang Tiên, người giống Hán. Đến đầu năm Khang Hy, Dương Quang Tiên đắc thắng, được bổ làm quan chánh Khâm thiên giám, thì lại xin từ, lấy cớ rằng mình chỉ biết cái lý suy bộ chứ không biết cái số suy bộ. Không cho từ, thì lại khóc lóc mếu máo viết cái bài Bất đắc dĩ, nói rằng "thà chịu Trung Quốc không có phép lịch dùng, chứ không thà để Trung Quốc có người Tây Dương". Nhưng mà rốt lại, cả đến tháng nhuần cũng tính sai, chừng như Dương Quang Tiên cho rằng phép lịch đúng là của riêng người Tây Dương, chính mình người Trung Quốc không học được, có học cũng không lành nghề. Cuối cùng Dương Quang Tiên bị khép án tử hình, nhưng rồi không giết, tha cho về, chết dọc đường. Thang Nhược Vọng vào Trung Quốc khoảng đầu Sùng Trinh triều Minh(14), phép lịch của hắn chưa hề được dùng; về sau Nguyễn Nguyên(15) luận về việc ấy có nói rằng: "Vua tôi cuối đời Minh thấy rằng lịch Đại Thống dần dần sai, đặt quan tu sửa, đã biết phép lịch tây nhặt nhiệm mà lại không dùng. Thánh triều địch vạc, lấy phép ấy làm ra lịch Thời - 34
hiến, ban hành khắp thiên hạ. Cái công khó bọn chúng biện luận phiên dịch hơn mười năm, như là sắm sẵn để cho triều ta sử dụng, điều ấy cũng lạ thật!... Quốc gia ta thánh thánh nối nhau, mọi việc dụng nhân hành chính chỉ cần đúng lẽ phải, chứ không hề đóng khung từ trước. Nội một điều đó, cũng đã đủ ngước thấy cái độ lượng như trời rồi vậy!" (Trù nhân truyện 45)(16). Những cái gương đời xưa còn truyền lại đến bây giờ, phần nhiều ra từ trong mồ mả, nguyên là đồ chôn theo người chết. Nhưng tôi cũng có một cái gương soi thường, mỏng mà lớn, chế theo kiểu đời Hán, có lẽ là đồ đời Đường. Chứng cứ là: 1) cái núm gương đã mòn nhiều ; 2) những chỗ mài phủng ở mặt gương đều vá bằng thứ đồng khác. Thuở nọ ở chốn đài trang, nó từng soi cái trán vàng cái mày lục(17) của người đời Đường, bây giờ lại bị giam cầm trong rương áo của tôi, hoặc giả nó cũng có ý cám cảnh xưa và nay lắm vậy. Nhưng sự dùng gương bằng đồng, chừng như ở vào thời Đạo Quang, Hàm Phong(18) cũng còn đi đôi với gương pha lê, còn những nơi thôn quê hẻo lánh, có lẽ dến nay vẫn dùng nó. Miền chúng tôi ở, toàn dùng gương pha lê cả, chỉ có đám cưới đám ma theo nghi lễ, mới dùng gương đồng. Nhưng mà hơi hướng của nó vẫn còn rớt lại, đi đường phố có khi gặp một ông già, vác cái giống như cái ghế dài, ở trên buộc một hòn đá màu gan lợn và một hòn đá màu xanh, thử đứng nghe ông rao, thì là "Ai mài gương mài kéo không!" - 35
Gương đời Tống tôi chưa thấy cái nào đẹp chín phần mười là không có chạm trổ, chỉ có tên nhà chế tạo và những lời minh vu vơ như là "chính kỳ y quan", thật là "thói đời mỗi ngày một xuống"(19). Song le, muốn tiến bộ hay là không thoái bộ, thế nào cũng phải luôn luôn tự mình tìm ra kiểu mới, ít nữa là lấy kiểu nước ngoài, nếu cứ kiêng kỵ đủ thứ, câu cẩn đủ thứ, nói lai nhai đủ thứ, làm thế nọ là không theo ông bà, làm thế kia là bắt chước mọi rợ, trọn đời nơm nớp như ở trên giá mỏng, phát run còn chẳng kịp thay, nữa là làm được cái gì cho ra hồn. Cho nên, trên sự thực thấy quả "đời này chẳng bằng đời xưa", nguyên do là tại có nhiều ông cứ than thở rằng "đời nay chẳng bằng đời xưa". Bây giờ đây, cái tình hình cũng vẫn còn như thế. Nếu lại không chịu mở lòng mở dạ, bạo gan, không sợ, hút thu trụm cả văn hóa mới, thì cái ngày có kẻ giống như Dương Quang Tiên hướng lên ông chủ nhân Tây Dương cạn bày cái văn minh tinh thần Trung Quốc đại khái cũng không phải đợi đến lâu lắm đâu. Nhưng từ hồi nào đến giờ tôi chưa từng thấy một người nào phản đối gương pha lê. Chỉ biết trong quãng Hàm Phong, ông Uông Viết Trinh ở trong sách Hồ nhã của mình có công kích nó. Sau khi ông nghiên cứu so sánh rồi quyết định rằng gương đồng vẫn tốt hơn. Một điều không thể hiểu là: ông nói, soi gương pha lê, thấy mặt mình không đúng bằng soi gương đồng. Không biết là vì gương pha lê lúc bấy giờ thật xấu đến như thế, hay là bởi ông cụ ấy đeo cái kính quốc túy? Tôi chưa được thấy thứ gương pha lê đời xưa, cho nên về điểm đó đoán không ra.(20) - 36
9-2-1925 (Dịch ở Phần) ------------------------------------------(1)
"Tình theo việc đổi" là một câu văn xưa, trong bài Lan đình tự của Vương Hy Chi, nguyên văn: "Tình tùy sự thiên", nghĩa là: tình cảm người ta tùy theo việc đời mà dời đổi, mỗi khi một khác. Vì vậy bốn chữ đó để trong dấu ngoặc kép, để tỏ rằng đó không phải là một ngữ vị bạch thoại. (2)
Đây là một lối đồ án hội họa hay điêu khắc. Những mẫu chạm của ta có một lối gọi là "nho sóc", chạm dây nho và con sóc, là bắt chước đồ án này của Trung Quốc đời xưa. Chẳng những thế, mà cả đến những mẫu vẽ hay chạm "tùng lộc" (cây tùng và con hươu), "tiêu tượng" (cây chuối và con voi), "liễu mã" (cây liễu và con ngựa), "mai điểu" (cây mai và con chim), "trúc tước" (cây trúc và chim sẻ), "cúc giải" (hoa cúc và con cua), "liên áp" (cây sen và con vịt), "anh hùng" (chim anh võ và con thỏ), lại cả đến "hồi văn chữ công", "hồi văn chữ vạn", đều bắt nguồn từ Trung Quốc. Đó là một sự thực tỏ ra rằng nghệ thuật của nước ta từ xưa ít có độc lập tính mà một phần lớn là chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương bắc. (3)
"Bồ đào" tức là cây nho. Theo tự điển thì thứ thực vật này lấy giống ở Tây vực về, chứ Trung Quốc vốn không có. Vậy "bồ đào" là một danh từ dịch âm. (4)
Đại uyên, tên một nước ở trong miền về phía tây Trung Quốc mà hồi đời Hán gọi là Tây vực. ở đó xuất sản nhiều ngựa hay. Hán Võ Đế từng cử binh đến đánh, bắt ba ngàn con ngựa đem về. Nước Đại Uyên ấy, nay là một huyện của một nước cộng hòa trong Liên bang Xô Viết, An Tức là tên nước Ba Tư đời xưa. Thiên mã tức là giống ngựa hay nói trên. Để chữ "thiên" là trời trên chữ "mã" là để tỏ ra giống ngựa lạ và quý. (5)
Hải là biển, dương là biển cả, biển lớn ; vật phẩm nào có để chữ "hải" hay chữ "dương" lên trên, đều chỉ nhgiã rằng vật ấy không phải xuất sản từ trong nước, mà đều là từ "bên kia biển" tức là nước ngoài mang về.
- 37
(6)
Trong trăng có con thiềm thừ (con cóc), ấy là theo một truyền thuyết, cũng như ở xứ ta, theo truyền thuyết, nói trong trăng có "thằng Cuội". (7)
Thiên lộc và tịch tà là tên hai con thú. Theo sách Hán thư nói ở Tây vực có giống thú hình giống con hươu mà dài đuôi, con có một sừng gọi là thiên lộc, con có hai sừng gọi là tịch tà. (8)
Chiêu lăng là lăng của Đường Thái Tông.
(9)
Sau Cách mạng Tân Hợi, tức là tháng mười năm 1911, bắt đầu từ năm 1912, nước Trung Hoa kỷ nguyên là Dân quốc nguyên niên. Nhưng mà có nhiều người, nhất là những người xưng mình là di thần triều Mãn Thanh, không chịu theo lối kỷ nguyên ấy mà lại ghi năm theo Giáp Tý. Nghĩa là ghi năm theo một chữ của thập can và một chữ của thập nhị chi, như Tân Hợi niên, Nhâm Tý niên, Quý Sửu niên, v.v... (10)
Các vị hoàng đế đời Nam Tống từng xưng thần, nghĩa là chịu hạ mình làm bầy tôi, đối với nhà Nguyên, Mông Cổ, một chủng tộc ở phương bắc mà người Trung Quốc vốn coi là đi địch. (Xem thêm lời chua số 1 ở bài "Bài văn đăng lộn" đằng sau tập này). (11)
Thánh Tổ Nhân hoàng đế tức là ông vua thứ hai triều Mãn Thanh, niên hiệu là Khang Hy. Dưới triều Mãn Thanh, những người giống Hán làm bầy tôi, khi nói đến ông vua ấy phải xưng là "Ngã Thánh Tổ Nhân hoàng đế". Hai chữ "chúng ta" là dịch chữ "ngã" ấy. Lỗ Tấn đay lại lời xưng hô ấy, có ý nhắc lại sự sỉ nhục của người giống Hán. (12)
Thuận Trị là niên hiệu của ông vua thứ nhất triều Mãn Thanh khi đã từ Mãn Châu vào làm chủ Trung Quốc. (13)
Thang Nhược Vọng, nguyên tên là Joaennes Adam Schall von Bell, người Đức, giáo đồ đạo Thiên Chúa, tinh thông phép lịch toán. Cuối triều Minh, sang Trung Quốc, được vào làm quan Viện Hàn lâm. Qua triều Thanh, được làm quan giám chánh khâm thiên giám, cải cách phép lịch theo phép mới bên Tây. (14)
Sùng Trinh là niên hiệu ông vua cuối cùng triều Minh.
- 38
(15)
Nguyễn Nguyên là nhà văn học có tiếng đời Mãn Thanh, làm quan lớn ở hai triều Gia Khánh và Đạo Quang. (16)
Một đoạn dẫn lời Nguyễn Nguyên đây, cho người ta thấy một sự mỉa mai cay độc. Nhà Minh vì "bảo tồn quốc túy", không chịu dùng phép lịch Tây Dương, để đến nhà Thanh dùng phép lịch ấy thành công, rồi một người giống Hán là Nguyễn Nguyên buông lời mạt sát vua tôi nhà Minh và ca tụng "thánh thánh" của "quốc gia ta" là quân dị tộc... Tác giả chẳng thêm vào một lời nghị luận nào hết, mà cái ý trách móc những người thủ cựu, khinh miệt những người vô sỉ tự phơi ra lồ lộ. (17)
Bôi màu vàng ở trán, màu lục ở lông mày, là lối trang sức của phụ nữ thời đại Lục triều, đến đời Đường vẫn còn có. Nguyên văn là "ngạch hoàng mi lục". (18)
Đạo Quang và Hàm Phong là niên hiệu hai ông vua triều Mãn Thanh nối nhau vào khoảng giữa thế kỷ XIX. (19)
Nguyên văn là "thế phong nhật hạ", một thành ngữ mà văn ngôn thường dùng. (20)
Đại ý bài này cũng lại công kích bảo tồn quốc túy. Bảo tồn quốc túy là câu bịa ra mà nói để nghe cho có lý và cho đẹp, chứ kỳ thực chỉ là thủ cựu. Mà hễ thủ cựu thì phải đến suy yếu và mất nước cho dị tộc, coi như nhà Nam Tống, nhà Minh thì đủ biết.
- 39
CHUYỆN PHIẾM CUỐI XUÂN
Bắc Kinh đang là tiết cuối xuân, có lẽ vì cớ tôi quá nóng tính, cứ thấy ra vẻ mùa hè, thế rồi vụt nhớ đến thứ ong eo lưng ở làng quê. Bấy giờ là mùa hè rộ, những con ruồi xanh đậu chen chít ở cái dây treo giàn, những con ong eo lưng màu đen sắt bay qua bay lại giữa cây dâu hoặc gần những cái lưới nhện ở góc tường, có khi cắp một con sâu xanh bay đi, có khi bắt một con nhện. Con sâu xanh hoặc con nhện trước thì chống cự không chịu, sau rồi kiệt sức, bị kẹp vút lên không mà đi, như thể ngồi máy bay. Các cụ bảo cho tôi biết, con ong eo lưng tức là con quả lỏa nói trong sách, toàn cái không có đực, nên nó phải bắt con minh linh để làm con nuôi. Nó đem con sâu xanh về bít trong tổ, rồi ở ngoài ngày đêm rờ rẫm, khấn rằng - 40
"giống ta giống ta", trải qua bao nhiêu ngày đó - tôi không nhớ rõ, chừng là bảy bảy bốn chín ngày thì phải - con sâu xanh kia bèn hóa ra con ong eo lưng, cho nên trong Kinh Thi nói: "Minh linh hữu tử, quả lỏa phụ chi"(1). Minh linh tức là con sâu xanh trên cây dâu. Còn con nhện? Họ không nói đến. - Tôi nhớ có mấy nhà khảo cứu từng nêu ra thuyết khác, nói con ong eo lưng chính nó đẻ trứng được; nó bắt sâu xanh là để chứa vào trong tổ, làm lương cho con nó ăn sau khi nở ra. Nhưng các cụ mà tôi biết, đều không chịu thuyết ấy, cứ nói là nó bắt để làm con nuôi. Như thế mà lại hay, nếu chúng ta muốn giữ lại câu chuyện ngộ nghĩnh giữa trời đất. Đang lúc mùa hè, ngày dài nhàn rỗi, tránh nắng dưới bóng cây, nhác thấy hai con sâu bọ, một con kéo đi, một con trì lại, khác nào như thấy bà mẹ hiền dạy cô con gái, muốn cho nên người, mà con sâu xanh lại co cưỡng chống chế, thật giống hệt một con bé ranh không biết điều. Nhưng rốt lại có quân di địch là khả ố, nó đòi cắt nghĩa bằng khoa học gì gì. Khoa học tuy có cho chúng ta biết nhiều sự lạ lùng, song cũng chọc vỡ nhiều cái mộng đẹp của chúng ta. Từ khi Fabre(2), nhà côn trùng học trứ danh nước Pháp xem xét kỹ càng rồi cái thuyết làm lương cho ong con có thể được chứng minh là đúng. Vả lại, con ong eo lưng ấy chẳng những là một hung thủ thông thường, mà còn là một hung thủ tàn nhẫn, lại là một nhà giải phẫu học có học thức và kỹ thuật đều rất cao siêu. Nó lảu biết sự cấu tạo và tác dụng của thần kinh con sâu xanh, bèn dùng cái kim độc mầu lạ chích chỉ một mũi vào chỗ - 41
huyệt thần kinh vận động, thì con sâu xanh tê liệt đi, thành ra cái trạng thái không sống không chết, rồi nó mới đẻ trứng trên mình con nọ và đem bít vào trong tổ. Con sâu xanh vì không sống không chết cho nên không động đậy, nhưng cũng vì không sống không chết cho nên không thối nát, thẳng đến khi con nó nở ra, cái thức ăn ấy vẫn còn tươi như hồi mới bắt. Trước đây ba năm, tôi gặp ông E(3) người nước Nga, có thần kinh quá nhạy, một hôm ông thình lình đâm buồn, nói rằng chẳng biết rồi đây nhà khoa học phải chăng không đến nỗi phát minh ra một thứ thuốc mầu lạ, đem tiêm cho người nào thì người ấy liền vui lòng mãi mãi làm cái máy phục dịch và chiến tranh? Bấy giờ tôi cũng cau mày thở ra, làm ra dáng đâm buồn như ông để tỏ ý mình cũng nghĩ như ông vậy. Có ngờ đâu các bậc vua thánh tôi hiền, các ông thánh ông hiền nước ta đã có cái thứ lý tưởng hoàng kim thế giới ấy từ đời nào rồi. Chẳng phải "một mình vua tác phúc, một mình vua tác uy, một mình vua ngọc thực" là gì?(4) Chẳng phải "người quân tử nhọc lòng, đứa tiểu nhân nhọc sức" là gì?(5) Chẳng phải "kẻ bị trị cho người khác ăn, kẻ trị người ăn của người khác" là gì?(6) Có điều đáng tiếc là lý luận tuy có cao, mà chưa hề phát minh cái phương pháp mười phần trọn tốt. Muốn cho phục tùng sự tác uy thì cần phải không sống, muốn cho cống hiến đồ ngọc thực thì cần phải không chết; muốn cho bị trị thì cần phải không sốn, muốn cho cung dưỡng kẻ trị người thì lại cần phải không chết. Loài người được thăng làm giống linh hơn muôn vật, cái đó vẫn đáng mừng, nhưng không có cái kim - 42
độc của con ong eo lưng, hóa khiến cho các bậc vua thánh tôi hiền, các ông thánh hiền, thánh hiền cho đến n người tai to mặt lớn, học giả, nhà giáo dục hiện nay đều thấy phải bó tay. Sau nầy thế nào chưa biết chứ về trước, thì kẻ trị người tuy đã thi hành mọi chước làm tê liệt, cũng còn chưa có mười phần công hiệu, thi đua với con quả lỏa mà thắng được nó. Nói nội một đấng hoàng đế, không khỏi cứ thay triều đổi họ luôn luôn, chẳng bao giờ được "muôn năm có đạo lâu dài"(7). Hai mươi bốn sử, sử mà nhiều đến hai mươi bốn, đó là cái chứng sắt đáng buồn vậy(8). Hiện nay lại hình như đã giở trò mới ra, trên đời đột xuất một thứ lưu học sinh gọi là "giai cấp tri thức đặc biệt", theo cái kết quả đã nghiên cứu được ở trong buồng nghiên cứu, họ nói rằng y học không phát đạt là có ích cho sự nhân chủng cải lương, cảnh ngộ của phụ nữ Trung Quốc rất là bình đẳng, mọi sự đều đúng cả, mọi trạng thái đều tốt cả. Sự đâm buồn của ông E hoặc cũng có cớ, nhưng mà nước Nga không đáng lo mấy, vì nước Nga không giống Trung Quốc chúng ta là nước có "quốc tình đặc biệt", lại còn có thứ người gọi là "giai cấp tri thức đặc biệt"(9). Có điều những công tác ấy cũng e rút cục giống với người đời xưa, không thể mười phần có công hiệu, vì sánh với việc con ong eo lưng làm, thực ra còn khó hơn nhiều. Nó chỉ cần con sâu xanh không động đậy là đủ rồi, cho nên chỉ chích cho một mũi ở huyệt thần kinh vận động là xong việc. Còn công tác của chúng ta lại muốn cho vận động được mà không có tri giác, phải làm thế nào cho cái chỗ cốt yếu thần kinh tri giác tê liệt hoàn toàn đi cơ. Nhưng - 43
mà, hễ tri giác đã mất đi thì lại không vận động được, không thể nào cống hiến đồ ngọc thực, mời trên từ các vị "chóp bu" xuống đến "giai cấp tri thức đặc biệt" xơi thời cho. Theo hiện tại mà nói, trộm nghĩ rằng ngoại trừ phép thánh kinh hiền truyện của các bậc di lão, chủ nghĩa vào buồng nghiên cứu của các học giả, luật cấm nhà văn học và tiệm trà quán rượu nói chuyện quốc sự, cái chủ trương vật thị vật thính vật ngôn vật động của nhà giáo dục ra,(10) thực thì không còn có cái phương pháp nào tốt hơn, hoàn toàn hơn và không lưu tệ. Dù cho sự phát kiến đặc biệt của lưu học sinh, thực ra cũng không ngoài cái phạm vi của người đời xưa. Vậy thì, lại phải "lễ mất mà cầu ở đồng quê" rồi(11). Người đi, hiện giờ vì muốn bắt chước họ, hẵng gọi là ngoại quốc đi, ở nơi họ, có phương pháp gì hay hơn không? Tiếc thay, cũng không có. Cái họ có, vẫn chỉ là không cho nhóm họp, không cho mở miệng, các thứ đó, với Trung Hoa chúng ta cũng không khác gì mấy. Nhưng cũng đủ thấy rằng người ta ở đâu cũng có một lòng như nhau, một lý như nhau, không phân biệt hoa hạ và di dịch vậy. Con thú rừng thì ở độc chiếc, còn trâu dê thì kết đàn với nhau; trâu bầy ở rừng, nó biết châu đầu lại, giơ rừng ra ngoài để cự lại hổ báo, nhưng tách ra từng con một, chỉ có thể kêu nghé ngọ. Nhân dân một loại với trâu ngựa - ấy là nói ở Trung Quốc, ngoại quốc có cách phân loại khác - cái phép cai trị họ, tự nhiên phải cấm nhóm họp: phương pháp ấy là đúng. Thứ đến là phải cấm nói. Người mà nói được, đã đủ sinh sự rồi, huống chi có khi còn viết văn. Cho nên - 44
Thương Hiệt bày ra viết chữ, quỷ khóc ban đêm(12). Quỷ còn phản đối thay, nữa là quan? Con khỉ không biết nói, trong giới khỉ từ trước dến giờ không có phong triều nhưng trong giới khỉ cũng không có quan, đó lại là chuyện khác, - thật nên bắt chước nó, trở lại mộc mạc như ban đầu, không nói, tự nhiên văn chương cũng tiêu diệt: phương pháp ấy cũng là đúng. Nhưng mà trên đây cũng chẳng qua là lý luận, đến như thực hiện thì vẫn không cầm chắc được. Cái lệ chứng rất rõ là, cả đến nước Nga chuyên chế đến bậc ấy mà sau khi Nicolas II "cỡi rồng chầu trời" rồi, dòng họ Romanov đã "tuyệt tự" hẳn(13). Nói gọn, cái chỗ khuyết điểm lớn là tuy cái hai phương pháp hay tuyệt mà còn thiếu một, ấy là: không có cách nào ngăn cấm sự tư tưởng của người ta. Đến đây, thấy ông Chúa tạo vật của chúng ta - giá có ông "Chúa" ấy thật - thật đáng giận: một, giận ông không chia rạch ròi mãi mãi "kẻ trị" với "kẻ bị trị"; hai, giận ông không sinh cho kẻ trị một cái kim độc như của con ong eo lưng; ba, giận ông không tạo ra thứ người bị trị dù chặt cái đầu trong có chứa tư tưởng rồi mà cũng còn động tác được để phục dịch. Ba điều đó nếu được một, thì địa vị của người tai to mặt lớn bền vững lâu dài, sự thống trị cũng luôn luôn đỡ nhọc, mà thiên hạ cứ thái bình. Nay thì không thế, cho nên dù chỉ muốn tạm thời ngồi trên chóp bu, giữ vững cái phách cao sang, cũng còn phải ngày đêm lo tính mưu này chước nọ, thật là bận lòng nhọc trí không xiết kể... - 45
Giả dụ không có cái đầu mà cũng còn làm cái máy phục dịch và chiến tranh được, thì tình hình xã hội dễ coi biết chừng nào, bấy giờ không cần dùng áo mũ huân chương gì gì nữa để mà đánh đấu người sang với người hèn, chỉ thấy có đầu hay không, đủ biết có sự phân biệt chủ với nô, quan với dân, trên với dưới, quý với tiện. Vả lại cũng không đến còn gây ra những vụ loạn như là cách mạng, cộng hòa, hội nghị gì gì nữa; chỉ một việc đánh dây thép, cũng đỡ đi nhiều. Dù thế nào người đời xưa cũng là thông minh, hình như họ đã nghĩ ra cái vật đó. Trong Sơn hải kinh có chép về một thứ quái vật tên là "Hình thiên"(14). Chúng không có cái đầu để tư tưởng nhưng mà cứ sống, "lấy vú làm mắt, lấy rốn làm miệng", - về điểm nầy thật đã nghĩ đến nơi lắm, không thì thấy bằng gì, ăn bằng gì, - thật rất đáng cho người đời sau bắt chước. Ví thử quốc dân chúng ta đều như thế cả, thì những người tai to mặt lớn còn được an toàn vui sướng đến bậc nào. Nhưng cái giống "Hình thiên" ấy lại "cầm can qua mà múa", thì hầu như chúng đã chết cũng không an phận, không giống như thứ quốc dân hiền lành theo lý tưởng tôi đã chuyên vì sự tiện lợi cho hạng người tai to mặt lớn mà tạo ra trên kia. Ông Đào Tiềm có câu thơ: "Hình thiên múa can qua, chi mạnh vẫn cứ còn".(15) Cả đến ông ẩn sĩ già có vẻ khoáng đạt ấy cũng nói như thế, đủ thấy rằng không đầu văn chươngẫn còn có chi mạnh, e cho thiên hạ của hạng người tai to mặt lớn một khi muốn được thái bình cũng còn khó. Song cái thứ quốc dân đã có "giai cấp tri thức đặc biệt" rất nhiều, có lẽ cũng chẳng đến nỗi nào; huống chi sau khi văn minh tinh thần đã cao quá rồi, cái đầu tinh thần có thể bay đi - 46
trước, cái đầu vật chất tầm thường có hay không cũng không đáng kể là vấn đề khó khăn gì(16). 22-4-1925 (Dịch ở Phần) -------------------------------------------------(1)
Tục ngữ ta cũng nói: "Tò vò nuôi con nhện".
(2)
Jean-Henri Fabre (1823 - 1915), có làm ra sách Souvenirs entomologiques (Côn trùng ký). (3)
Nhờ thấy ở chỗ khác trong Lỗ Tấn toàn tập, có thể biết rằng "ông E" nói đây tức là ông Erosenko, thi nhân mù, người Nga, từng bị trục xuất ở Nhật Bổn rồi sang Trung Quốc vào khoảng 1920 - 1921, ngụ tai Bắc Kinh, và Lỗ Tấn có chơi thân với ông. (4)
Nguyên văn ở Kinh Thư, Thiên Hồng Phạm: "Duy bích tác phúc, duy bích tác uy, duy bích ngọc thực". Tác phúc là làm phúc, ban ơn cho ai; tác uy là trừng phạt ai, giết ai; ngọc thực là ăn của báu lạ, ăn sướng hơn mọi người. (5)
Nguyên văn ở sách Mạnh Tử: "Quân tử lao tâm, tiểu nhân lao lực".
(6)
Nguyên văn cũng ở sách Mạnh Tử: "Trị ư nhân giả tự nhân, trị nhân giả thực ư nhân". (7)
Một câu sáo trong sách xưa, lời chúc tụng một triều vua nào đó, nguyên văn là: "Vạn niên hữu đạo chi trường". (8)
Vua Kiền Long nhà Thanh quy định các sử của Trung Quốc từ xưa đến nay có hai mươi bốn thứ được gọi là chính sử (nhị thập tứ sử). Có thay triều đổi họ nhiều lần thì sử mới nhiều, như vậy, cho nên nói là "cái chứng sắt đáng buồn". (9)
ở thời đại Lỗ Tấn, Trung Quốc có những người thủ cựu, mỗi khi nghe ai nói Trung Quốc phải cải cách, phải làm như các nước Âu, Mỹ, Nhật - 47
Bổn, thì họ bác đi, lấy cớ rằng Trung Quốc có "quốc tình đặc biệt", không làm như các nước ấy được. Còn như cái danh từ "giai cấp tri thức đặc biệt" và cái thuyết kỳ quặc của bọn tri thức ấy về y học, về phụ nữ có nói ở trên, thì người dịch chưa tìm biết được là bọn nào, nói như thế nào, nên không chú thích được. (10)
Trong sách Luận ngữ có nói: "Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động", nghĩa là cái gì không phải lễ thì chớ xem, chớ nghe, chớ nói, chớ động. Đương thời có nhà giáo dục nào chủ trương như thế thì không rõ. Bốn chữ "vật = chớ" ấy của Luận ngữ tuy có giới hạn ở chữ "phi lễ", nhưng ngặt vì cái phi lễ lại không có giới hạn: Thế nào là "phi lễ"? Có thể bắt chớ xem, chớ nghe, chớ nói, chớ động đối với hết thảy mọi sự, vì bảo: đó là "phi lễ". Thành ra có thể cấm hết thảy, không cho ai xem, nghe, nói, động trong một trường hợp nào hết. Sự cấm ấy thế nào cũng phải bị phản đối. Trong ca dao của ta có một câu phản đối sự cấm vô lý ấy: "Cấm ăn, cấm nói, cấm cười, cấm ba điều ấy, còn vui nỗi gì?" (11)
Một câu sách xưa, nguyên văn: "Lễ thất nhi cầu chư giã".
(12)
Một truyền thuyết, nguyên văn: Thương Hiệt tạo tự, quỷ dạ khốc.
(13)
Nicolas II, ông vua sau cùng của dòng họ Romanov nước Nga, bị giết sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, ở đây nói "cỡi rồng chầu trời" là nói một cách mỉa. (14)
Sơn hải kinh là một thứ sách xưa, trong đó chép hầu hết những chuyện như là thần thoại. Chuyện chép về "Hình thiên" nầy cũng kể như một chuyện thần thoại. (15)
Đào Tiềm có bài thơ Độc Sơn hải kinh, trong có câu: "Hình thiên võ can thích, mãnh chí cố thường tại". Lỗ Tấn dẫn câu thơ ấy làm kết luận để thấy rằng bọn thống trị dù có dùng mọi cách khốc hại tàn nhẫn là cuối cùng cũng không đàn áp được nhân dân, nhân dân thế nào cũng sẽ vùng lên. - ấy là cái ý chính của bài này. (16)
Thuở ấy ở Trung Quốc có một bọn người tri thức chủ trương rằng văn minh Âu Mỹ là văn minh vật chất, văn minh Trung Quốc là văn minh tinh thần, ra đều rằng chẳng những không kém gì Âu Mỹ mà còn hơn Âu Mỹ, thế thì việc gì lại phải bắt chước họ? Thực ra thì văn minh trên thế giới - 48
chỉ có một, không phải tánh chất khác nhau mà chỉ trình độ khác nhau. Duy bọn họ không dám nhìn thẳng vào hiện thực, nhận thấy văn minh Trung Quốc bấy giờ là lạc hậu nên mới bịa đặt ra mà nói như thế. Lỗ Tấn trong nhiều bài, hay đay đi đay lại bốn chữ "văn minh tinh thần" để nói mỉa bọn ấy. ở đây đại khái cũng có ý mỉa, nhưng cả câu từ chữ "song" sấp xuống, người dịch không hiểu được cho hoàn toàn
- 49
BÀI TỰA A Q CHÍNH TRUYỆN BẢN DỊCH TIẾNG NGA VÀ TỰ TRUYỆN SƠ LƯỢC CỦA TÁC GIẢ BÀI TỰA A Q CHÍNH TRUYỆN Nầy là việc về phần tôi rất nên cám ơn cũng rất lấy làm hân hạnh: một cái tác phẩm ngắn của tôi đã được ông Vương Hy Lễ (B. A. Vassiliev) là người lảu thông văn học Trung Quốc phiên dịch, trói được bày ra trước mặt độc giả nước Nga. Tôi tuy đã từng thử làm, song rốt lại chính mình còn chưa có thể cầm chắc mình đã thật đủ sức tả ra được cái linh hồn của người nước mình hiện đại chưa. ở người khác thì tôi không biết, ở chính tôi thì tôi thấy hình như là giữa người và người chúng tôi đều có một bức tường cao làm chia cách nhau, khiến lòng mọi người không cảm thông nhau được. Đó là những người thông minh đời xưa của chúng tôi, tức gọi là thánh hiền, chia mọi người ra mười bậc,(1) nói là cao thấp không đồng nhau. Những danh mục của nó hiện giờ tuy không dùng nữa, song cái hồn linh của nó vẫn cứ tồn tại, vả lại, còn hơn thế nữa, cả đến trong thân - 50
thể một con người cũng có đấng bậc, khiến cái tay đối với cái chân cũng không khỏi coi là bậc bét khác loại với mình. Tạo hóa sinh ra người đã là xảo diệu hết sức, khiến người nầy không thể cảm thấy sự thống khổ về nhục thể của người kia, mà ông thánh và đồ đệ ông thánh của chúng tôi lại bù được chỗ thiếu của tạo hóa, còn làm cho mọi người không thể cảm thấy sự thống khổ về tinh thần của người khác nữa. Người đời xưa của chúng tôi lại tạo ra một thứ chữ từng khối từng khối khó đến phát sợ: có đều tôi còn không oán hận mấy, vì tôi thấy không phải họ cố ý làm như thế. Nhưng mà, bao nhiêu người đã không thể dùng nó nói chuyện, lại thêm cái tường cao mà lời chú thích xưa đã dắp nên, càng làm cho họ nghĩ cũng không dám nghĩ đến. Hiện giờ, cái mà chúng tôi có thể nghe thấy được, chẳng qua là ý kiến và đạo lý của mấy kẻ đồ đệ ông thánh nói cho chính mình bọn họ; còn như dân chúng thì lại cứ lằm lằm mà sinh ra và lớn lên, vàng úa đi rồi chết khô, giống như cỏ bị đè dưới vầng đá lớn, đã trải qua bốn ngàn năm như vậy! Muốn vẽ ra cái hồn linh chìm lặng của quốc dân như vậy, ở Trung Quốc thực ra, phải kể là một việc khó. Bởi vì, như đã nói, chúng tôi thế nào cũng còn là nhân dân của một nước cổ chưa từng đổi mới, cho nên vẫn cứ là ai nấy chẳng thông cảm nhau, vả lại cả đến cái tay của mình cũng hầu như không hiểu cái chân của mình. Tôi tuy đã hết sức toan mò tìm hồn linh của mọi người, song mỗi lúc vẫn cứ ân hận mình có những điều cách vách. Sau nầy, hết thảy - 51
những người bị vây trong bức tường cao, thế nào cũng tự họ đều thức dậy, đi ra, đều mở miệng nói lên, nhưng bây giờ còn ít thấy, cho nên tôi cũng tạm cứ theo chỗ mình xem xét, hẵng âm thầm đem những cái ấy viết ra, coi là cái đời sống của người Trung Quốc nhìn theo con mắt tôi. Sau khi cái tiểu thuyết của tôi in ra, đầu tiên nhận được lời quở trách của một nhà phê bình tuổi trẻ; sau lại, có người cho là không lành mạnh, có người cho là bông phèng, cũng có người cho là châm chọc; lại có người cho là rủa mát, đến nỗi khiến tôi cũng phải ngờ ằng có cục nước đá ghê tởm giấu trong lòng tôi. Nhưng tôi lại nghĩ, xem đời sống người ta là tùy theo tác giả mà không giống nhau, xem tác phẩm lại tùy theo độc giả mà không giống nhau, vậy thì, cái truyện ngắn này, ở trong con mắt độc giả nước Nga là x người không có mảy may "tư tưởng truyền thống của chúng tôi", có lẽ lại nhìn thấy một tình cảnh khác, đó thật là điều làm tôi thấy rất có ý vị. 26-5-1925, ở Bắc Kinh
TỰ TRUYỆN SƠ LƯỢC CỦA TÁC GIẢ
Tôi sinh năm 1881 ở một nhà họ Chu trong thành phủ Triệu Hưng thuộc tỉnh Chiết Giang. Cha tôi người có học; mẹ tôi họ Lỗ, người nhà quê, bà tự học lấy đến mức xem - 52
sách được. Thấy nói, hồi tôi nhỏ, trong nhà còn có bốn năm chục mẫu ruộng nước, không lo đến nỗi thiếu ăn. Nhưng đến năm tôi mười ba tuổi, nhà tôi thình lình gặp một biến cố rất lớn, gần như hết sạch cả;(2) tôi ở nhờ nhà một người bà con, có khi bị gọi là đứa ăn chực. Tôi bèn quyết tâm về nhà, mà cha tôi lại lâm bệnh nặng, dai dẳng đến ba năm, rồi chết. Tôi dần dần đến không có cách kiếm ra một số tiền rất ít để trả tiền học hàng tháng, mẹ tôi liền chạy cho tôi chút ít tiền đi đường, bảo tôi đi tìm một trường học khỏi phải trả tiền, vì tôi thế nào cũng không chịu làm thầy nho(3) hay con buôn - đó là hai con đường mà con em những nhà có học sa sút xuống ở vùng quê tôi thường đi. Lúc đó tôi mười tám tuổi, đi đến Nam Kinh, thi vào Thủy sư học đường, phân phối ở khoa máy móc. Ước chừng được hơn nửa năm tôi lại ra khỏi, đổi vào Khoáng lộ học đường học khai mỏ, sau khi tốt nghiệp, được phái sang Nhật Bổn lưu học. Nhưng tôi đã quyết ý đến khi tốt nghiệp tại trường dự bị ở Đông Kinh rồi thì sẽ đi học thuốc, một nguyên nhân là vì tôi biết chắc rằng khoa y học mới đã có giúp sức rất lớn cho cuộc Duy Tân Nhật Bổn. Thế rồi tôi vào học trường y học chuyên môn Sendai (Tiên Đài) hai năm. Lúc đó vừa đang chiến tranh Trung Nhật, tôi tình cờ thấy trên màn chiếu bóng một người Trung Quốc vì làm trinh thám mà sắp bị chém, nhân đó lại thấy ở Trung Quốc nên đề xướng văn nghệ mới trước đã. Tôi bèn bỏ học thuốc, lại đến Đông Kinh cùng mấy người bạn định làm vài việc nho nhỏ, nhưng đều thất bại liên tiếp. Tôi lại toan - 53
đi sang nước Đức, cũng không đi học. Rốt cuộc, vì mẹ tôi và mấy người khác muốn tôi có sự giúp đỡ về kinh tế, tôi bèn trở về Trung Quốc; bấy giờ tôi hai mươi chín tuổi. Tôi về nước thì làm giáo viên hóa học và sinh lý học ở Sư phạm học đường Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang. Năm thứ hai ra khỏi đó, đi làm giáo vụ trưởng trường trung học Thiệu Hưng, năm thứ ba lại ra khỏi. Không có chỗ đi nữa, tôi muốn làm người phiên dịch trong một tiệm sách, cũng bị cự tuyệt nốt. Nhưng Cách mạng cũng vừa nổi lên, sau Thiệu Hưng quang phục, tôi làm hiệu trưởng trường Sư phạm ở đó. Chính phủ cách mạng thành lập ở Nam Kinh, ông bộ trưởng giáo dục mời tôi làm bộ viên, tôi dời đi ở Bắc Kinh cho đến hiện nay. Mấy năm gần đây, tôi còn kiêm làm giảng sư về hệ quốc văn ở ba trường Bắc Kinh đại học, Sư phạm đại học, Nữ tử sư phạm đại học. Khi còn lưu học, tôi chỉ có đăng mấy bài văn không hay gì trên tạp chí. Năm 1918 mới bắt đầu viết tiểu thuyết, là vì bạn tôi Tiền Huyền Đồng khuyên bảo, viết đăng vào tạp chí Tân thanh niên. Lúc đó mới dùng cái bút danh (Pen-name) Lỗ Tấn, và cũng thường dùng những tên khác viết một số bài luận ngắn. Hiện nay những cái đã dồn in thành sách chỉ có một tập truyện ngắn Nột hám, còn thì rải rác ở trên mấy thứ tạp chí. Ngoài ra, không kể phiên dịch, in thành sách lại có một bổn Trung Quốc tiểu thuyết sử lược.
- 54
(Dịch ở Tập ngoại tập) --------------------------------------------(1)
Theo sách Tả truyện, người ta có mười bậc, từ trên xuống dưới, tức là: vương, công, đại phu, sĩ, tạo, dư, lệ, liêu, bộc, đài. Bốn bậc từ sĩ giở lên, là vua rồi đến các hạng quan lớn quan nhỏ; sáu bậc từ tạo giở xuống, trong xã hội đời sau, không còn thấy phân biệt rõ như thế nữa. (2)
Bấy giờ ông nội của Lỗ Tấn đang làm quan ở Bắc Kinh, nhân việc gì đó bị hạ ngục, vì vậy nghiệp nhà sa sút. "Biến cố rất lớn" là chỉ vào việc ấy. (3)
Thầy nho: ở nước ta ngày xưa, những người có học mà thi không đỗ, về sau thường xin vào làm việc văn thư giúp các quan nha mà ở ngoài ngạch viên chức. Những người ấy ở miền Nam gọi là thầy sĩ, ở miền Bắc gọi là thầy nho. ở Trung Quốc ngày xưa cũng có hạng người ấy, gọi là mạc hữu, mạc tân hay mạc liêu. Nơi đây, dùng chữ "thầy nho" dịch nguyên văn là chữ "mạc hữu". Tuy vậy, địa vị và phẩm gia của thầy nho xứ ta rất kém của mạc hữu ở Trung Quốc.
- 55
HỒNG KHÔNG HOA II(1)
1 Bô-rơ-cân, một nhà quý tộc nước Anh nói: "Tụi học sinh Trung Quốc chỉ biết đọc những tờ báo tiếng Anh mà quên mất sự dạy dỗ của Khổng Tử. Kẻ địch lớn của đế quốc Anh tức là thứ học sinh ra sức nguyền rủa đế quốc mà "vỗ tay hoạn nạn"(2) đó... Trung Quốc là chỗ đất rất tốt cho sự hoạt động của đảng quá khích...(3)" (Tin điện Luânđôn ngày 30-6-1925). Thông tin Nam Kinh nói: "Nhà hội Cơ-đốc-giáo trong thành có mời vị bác sĩ thần học nọ là giáo thụ của trường đại học Kim lăng đến giảng diễn, trong lời giảng diễn có nói Khổng Tử là tín đồ của Giêsu, vì Khổng Tử khi ăn khi ngủ đều có cầu nguyện Đức Chúa Trời. Lúc đó, trong đám người nghe có kẻ gạn hỏi căn cứ vào đâu mà nói thế ; vị bác sĩ không trả lời được. Thế rồi có mấy người giáo đồ vụt đóng cửa ngoài lại, quát lên rằng người nào buông lời hỏi đó tức là kẻ đã bị đồng rúp Nga Sô mua chuộc, phải gọi cảnh sát bắt lấy..." (Quốc dân công báo ngày 11 tháng 3).
- 56
Phép thần thông của Nga Sô thật là cao cả, mua chuộc được quách ông Thúc-lương Hột, khiến ông ấy đẻ Khổng Tử ra trước Giêsu, thì kẻ "quên mất sự dạy dỗ của Khổng Tử" và kẻ "gạn hỏi căn cứ vào đâu mà nói thế" chắc chắn đều là những kẻ bị đồng rúp xui giục không còn nghi ngờ gì nữa(4). 2 Giáo thụ Tây-uynh(5) nói: "Nghe nói trong "mặt trận liên hiệp", những tiếng đồn về tôi nhiều nhất, vả lại theo lời thì một mình tôi lãnh mỗi tháng có đến ba ngàn đồng. "Tiếng đồn" là đồn ở trên miệng, chứ trên giấy thì cũng lại không thấy lắm." (Hiện đại 65). Vị giáo thụ ấy năm ngoái chỉ nghe thấy tiếng đồn về người khác, mà rồi do ông ta phát biểu lên trên giấy ; theo lời thì năm nay lại đã nghe thấy tiếng đồn về chính mình rồi, mà phát biểu trên giấy cũng lại do ông ta. "Một mình lãnh mỗi tháng có đến ba ngàn đồng", thật là hoang đường quá lắm, đủ thấy "tiếng đồn" về chính mình không thể tin được. Nhưng tôi cho rằng những tiếng đồn về người khác thì lại hầu như phần nhiều gần với sự thực. 3 Thấy nói "Cô đồng tiên sinh"(6) sau khi xuống khỏi sân khấu(7), cái Giáp dần gì đó(8) của ông ta bỗng dần dân có sinh khí rồi. Đủ thấy quan là thứ không làm được.
- 57
Nhưng mà ông ta lại làm bí thư trưởng của Lâm-thời Chấp-chính-phủ rồi. Chẳng biết Giáp dần có thể vẫn còn có sinh khí không? Nếu còn có, thì quan cũng vẫn là thứ làm được... (9). 4 Đã không phải là lúc viết "Hồng không hoa" cái quái gì nữa rồi. Mặc dầu viết ra phần nhiều là gai, cũng còn cần có chút lòng hòa bình. Hiện nay, nghe nói trong thành Bắc Kinh, đã thi hành sự sát hại lớn rồi. Đang lúc tôi viết những câu văn tẻ ngắt trên đây, chính là lúc bao nhiêu người thanh niên nếm gươm nuốt đạn. Hỡi ôi, hồn linh của người với người thật chẳng thông nhau. 5 Ngày 18 tháng 3 Trung hoa dân quốc năm thứ 15, chính phủ Đoàn-Kỳ-Thụy sai vệ binh dùng súng trường đao lớn bao vây và giết hại đến mấy trăm nam nữ thanh niên tay không đi thỉnh nguyện, chỉ muốn viện trợ cho ngoại giao, (10) ở trước cửA Quốc vụ viện. Lại còn hạ lệnh, vu cho họ là "bạo đồ". Cái hành vi bạo ngược độc ác dường ấy, chẳng những chưa từng thấy trong loài cầm thú, mà trong loài người - 58
cũng rất ít có, chỉ có việc Nga hoàng Ni-cô-la II sai lính Cô-sác đánh giết dân chúng là hơi giống nhau một chút.(11) 6 Trung Quốc chỉ để mặc cho hùm sói càn ăn, ai cũng không ngõ ngàng đến. Kẻ ngõ ngàng đến chỉ có mấy người học sinh tuổi xanh, họ vốn nén yên lòng học tập, mà vì thời cuộc chao đảo làm họ không thể yên lòng. Giá phỏng người đương cuộc có chút lương tâm, nên tự xét lại mình, tự trách lấy mình, thế nào cho nẩy ra một điểm thiên lương mới phải. Nhưng mà ngược lại, đã giết hại họ rồi! 7 Giá phỏng những người thanh niên như thế mà giết hết đi được, phải biết rằng kẻ giết cũng quyết không phải là kẻ thắng lợi đâu. Trung Quốc sẽ diệt vong cùng với sự diệt vong của người yêu nước. Kẻ giết người tuy bởi có tiền ròng bạc chảy, có thể nuôi nấng con cháu lâu dài hơn, nhưng mà cái kết quả phải đến rồi nhất định sẽ đến. "Dài dòng lớn họ" nào có đáng mừng đâu? Sự diệt vong thật có chậm đi đó chúc, nhưng chúng nó sẽ phải ở chỗ đất cồn khô cỏ cháy không thể ở, sẽ phải làm nghề nghiệp rất hèn mạt để mà sống... 8 - 59
Nếu như Trung Quốc còn chưa đến diệt vong, thì sự thực lịch sử đã dạy bảo chúng ta rồi, cái việc mai sau chắc sẽ vượt ra ngoài ý liệu của kẻ giết hại... Đó không phải là kết thúc của một việc, mà là mở đầu của một việc. Những lời nói dối viết bằng mực quyết không che lấp nổi sự thực viết bằng máu. Nợ máu thì phải trả bằng máu. Hễ mắc nợ càng lâu thì phải trả lãi càng nhiều! 9 Nhẫn lên đều là lời nói suông, viết bằng bút, có ăn thua gì? Cái dùng đạn thật bắn chảy ra lại là máu của thanh niên. Máu chẳng những không che lấp bởi lời nói dối viết bằng mực, mà uy lực cũng đè không nổi nó, vì nó đã là lừa bịp không trôi, bắn không chết. Viết ngày 18 tháng 3, (1926) là một ngày rất đen tối từ có Dân quốc đến nay. (Dịch ở Hoa cái tập tục biên). -----------------------------------------(1)
Cái đề mục nầy lấy ở một câu nói của Schopenhauer: "Không có hồng nào là không có gai. Nhưng có rất nhiều thứ gai không phải hồng." Mà Lỗ Tấn nói khác đi một chút: "Hồng không hoa", tức là chỉ có gai. Tuy khác - 60
nhưng là cái ý của Schopenhauer. Có một bài Hồng không hoa I, nhưng ở đây không dịch. - Theo nguyên văn của Lỗ Tấn là "tường vi" ; có một thứ nữa là "văn khôi". Hai thứ giống nhau, nhưng văn khôi nhỏ là nhỏ hoa hơn tường vi mà là và hoa lại nhiều hơn. Hai thứ đó ở Trung Quốc có phân biệt, nhưng ở xứ ta hình như đều gọi là hồng cả. (2)
Bốn chữ nầy theo nguyên văn là "hạnh tai lạc họa", một thành ngữ, nghĩa là lấy tai họa làm may mắn mà vui mừng. Thực sự, nhỏ thì như thấy người khác trượt ngã mà reo cười, lớn thì như mong trong nước có đói kém hay có loạn để mình thủ lợi. Nó là một thành ngữ, có ý nghĩa đặc biệt của nó, nhưng tìm mãi, không thấy trong tiếng ta có thành ngữ nào tương đương. Nhân có câu ca dao: "Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai", tôi bèn "đoạn chương thủ nghĩa" mà bịa đặt ra bốn chữ "Vỗ tay hoạn nạn". ý muốn nói: Vui thì mới vỗ tay, mà cái này, hoạn nạn lại vỗ tay, thế là "hạnh tai lạc họa" đó. (3)
Lúc bấy giờ cánh đế quốc chủ nghĩa cả đến Trung Quốc hay Việt nam ta, trên mặt báo đều gọi Bolcheviste là đảng quá kích. (4)
Thúc Lương Hội là cha Khổng Tử. Khổng Tử sinh ra trước Giêsu 551 năm, đó là thực sự lịch sử, thế mà vị bác sĩ thần học nọ lại nói Khổng Tử là tín đồ của Giêsu, thật láo toét, không cái láo nào bằng. Một ngòi bút tầm thường nào, sẽ căn cứ lịch sử mà cãi lại. Nhưng Lỗ Tấn không làm thế, mà lại nói bởi Nga Sô mua chuộc được Thúc Lương Hội, khiến ông ấy đẻ Khổng Tử ra trước Giêsu, thật là một tứ văn lạ, đột xuất. Nói như thế, có ý là: Một sự thực lịch sử ngàn xưa, mà muốn nói là bởi Nga Sô mua chuộc thì cứ nói, chứ sự thực lịch sử nó vẫn hoàn là sự thực lịch sử. Suy một việc ấy thì những việc khác, theo họ nó, bị mua chuộc bởi đồng rúp của Nga Sô, đều là láo toét cả. (5)
Tây Uynh là bút tự của Trần Nguyên, giáo thụ đại học, một nhà văn phản động. Trần Nguyên thường hay tranh luận với Lỗ Tấn, từng nhiều lần bịa chuyện nói xấu Lỗ Tấn mà lại nói đó là tiếng đồn. Lỗ Tấn đã có viết một bài dài đả kích hắn và cả bọn hắn, đây chỉ là một mũi nhọn nhỏ tiếp theo. (6)
Cô đồng tiên sinh tức là Chương Sĩ Chiêu. Chương Sĩ Chiêu từng làm tổng trưởng bộ Giáo dục, trong khi đó, Lỗ Tấn làm thiêm sự, một bộ - 61
viên. Nhân Lỗ Tấn bênh vực cho nữ học sinh trường Sư phạm đại học chống lại viên nữ hiệu trưởng trường ấy, Chương Sĩ Chiêu bèn cách chức Lỗ Tấn. Lỗ Tấn liền kiện lại Chương Sĩ Chiêu và Lỗ Tấn được kiện. Sau, Chương Sĩ Chiêu bị miễn chức tổng thống. (7)
Đây chỉ sự Chương Sĩ Chiêu miễn chức, không làm tổng trưởng nữa. Một lối nói của Hoa ngữ: Khi người nào được làm một chức gì to trong chính phủ, nói là "lên sân khấu" (thượng đài) ; khi bãi chức không làm nữa, nói là "xuống khỏi sân khấu" (hạ đài). (8)
Chương Sĩ Chiêu có ra một tạp chí gọi là "Giáp dần". Đây không nói tạp chí Giáp dần mà nói: "Cái Giáp dần gì đó" là tỏ ý xem khinh cái tạp chí ấy. Giáp dần viết bằng văn ngôn, từng bị Lỗ Tấn chỉ trích mấy lần về những bài của chính Chương Sĩ Chiêu viết ra. (9)
Chương Sĩ Chiêu là người ham danh lợi, làm báo là cốt gây thế lực để làm quan. Cho nên sau khi miễn chức tổng trưởng rồi thì liền làm bí thư trưởng của Lâm thời Chấp chính phủ, tức là chính phủ Đoàn Kỳ Thụy. Hắn giúp Đoàn Kỳ Thụy thi hành chính sách đàn áp công nhân và học sinh. Việc khủng bố sắp nói đến dưới đây có ngón tay của Chương Sĩ Chiêu nhúng vào. Cả một tiết nầy đại ý nói: Trước kia vừa làm quan vừa làm báo, thì báo không chạy, vì thấy là báo của quan nên ít ai đọc. Như thế đủ thấy đã làm báo thì đừng làm quan, cho nên nói "Quan là thứ không làm được", bây giờ cũng vừa làm quan vừa làm báo, nếu báo chạy thì "Quan vẫn cứ làm được" như thường. ý tác giả muốn nói: Tạp chí Giáp dần không ra hồn, Chương Sĩ Chiêu chỉ cốt làm quan. (10)
Viện trợ cho ngoại giao: Đầu năm 1926, giữa lúc Trương Tác Lâm và Phùng Ngọc Tường đánh nhau, vì muốn ngừa cuộc tấn công bằng hạm đội của Trương Tác Lâm, bên phía Phùng Ngọc Tường đặt thủy lôi ở Đại-Cô, phong tỏa cửa biển, nhân đó tam nước "liệt cường" đưa tối hậu thư hạn kỳ bắt phải bỏ phong tỏa đi. Học sinh và công nhân bèn tổ chức cuộc thỉnh nguyện, xin chính phủ đối lại bằng thái độ cứng rắn. (11)
Ngày chủ nhật 9-1-1905, hơn mười vạn công nhân ở Pertecburg kéo nhau đến Đông cung thỉnh nguyện với Nga hoàng Nicôla II, Nga hoàng
- 62
không tiếp kiến mà lại sai bộ đội và kỵ binh bắn giết họ, gây nên vụ thảm sát rất ghê tởm, sử gọi là "ngày chủ nhật máu". Đây tác giả chỉ về việc ấy.
- 63
"CHỖ CHẾT"
Theo như sự xem thấy của người thường, nhất là người Trung Quốc đã quen chịu ngoại tộc và đầy tớ chó săn của chúng giày đạp, thì kẻ giết người thường là kẻ ưu thắng, còn kẻ bị giết thường là kẻ liệt bại. Mà sự thực trước mắt cũng thật quả như thế. Cái việc Đoàn chính phủ giết hại thị dân và học sinh đi thỉnh nguyện tay không hôm 18 tháng 3, thật đã hết chỗ nói, chỉ khiến chúng ta thấy cái nơi mình ở không phải là nơi người ta ở với nhau. Nhưng, kẻ thì giới ngôn luận Bắc Kinh cũng còn có lên tiếng, mặc dầu giấy bút miệng lưỡi không thể làm cho máu nóng của thanh niên đầy trước cửa phủ Chấp chính chảy ngược vào thây xác họ, cho họ sống lại, cái sự lên tiếng ấy chỉ là kêu gào suông, nó sẽ dần dần phai nhạt đi cùng với cái sự thực giết người. Nhưng trong các thứ bình luận, tôi thấy có một ít dáng ghê tởm hơn là gươm súng. Đó là có mấy luận giả cho rằng bọn học sinh vốn không nên tự mình giẵm chân đến chỗ chết. Thế thì a quả thật người Trung Quốc sẽ chết không có chỗ chôn, trừ phi ngoan ngoãn chịu làm nô lệ, "lụn đời không một lời oán hận(1)". Có điều tôi còn chưa - 64
biết ý kiến phần rất đông người Trung Quốc rốt lại là thế nào. Nếu cũng là thế, thì chẳng những trước phủ Chấp chính, mà cho đến cả Trung Quốc cũng không có một chỗ nào chẳng là chỗ chết vậy. Sự đau khổ của người ta chẳng dễ gì thông nhau. Bởi vì chẳng dễ thông nhau, nên kẻ giết người mới lấy sự giết người làm đường lối duy nhất, rất đỗi còn coi là vui sướng. Nhưng cũng bởi vì chẳng dễ thông nhau, nên "cái khủng bố chết" mà kẻ giết người làm ra, vẫn không đủ được ngăm đe về sau, khiến nhân dân biến thành trâu ngựa đời đời. Những việc thuộc về cải cách chép trong lịch sử đều là kẻ trước ngã xuống kẻ sau tiếp theo, phần lớn tự nhiên là bởi công nghĩa, nhưng người ta chưa bị cái chết khủng bố họ lần nào, thì không dễ gì "cái khủng bố chết" làm cho họ khiếp đảm, tôi cho đó cũng là một nguyên nhân rất lớn. Nhưng tôi lại tha thiết mong rằng: cái việc "thỉnh nguyện", từ nay nên thôi hẳn đi. Nếu đã dùng bao nhiêu máu mà đổi được một cái giác ngộ và quyết tâm như thế, vả lại ghi nhớ lấy mãi mãi, thì hình như cũng kể được là không lỗ vốn quá lắm. Sự tiến bộ của thế giới, đại để phải nhờ chảy máu mà có. Nhưng cái số lượng nó với máu không có dính dấp nhau, bởi vì trên đời chẳng hiếm gì cái gương trước, chảy máu rất nhiều mà dân tộc trở dần dần đến diệt mất. Tức như lần này, chịu tốn mất bao nhiêu sinh mạng, chỉ chác lấy lời phê "tự mình giẵm chân đến chỗ chết", thế là đã - 65
vạch ra cái sâu hiểm của một số lòng người cho chúng ta thấy, biết rằng cái chỗ chết ở Trung Quốc rất là rộng rãi. Ở trước mặt tôi vừa ưa có cuốn Le Jeu de L'Amour et de La Mort của Romain Rolland, trong đó nói: Carnol là người chủ trương rằng loài người vì muốn cho tiến bộ, dù có chút ít ô điểm cũng không hại gì, đến cực chẳng đã quá, cũng không hại gì có tí đỉnh tội ác; thế mà bọn họ lại không muốn giết Courvoisier, bởi vì nước cộng hòa không thích ôm cái thây chết của hắng trên cánh tay vì nó nặng nề quá(2). Trong cái dân tộc biết được thây chết là nặng nề mà không muốn ôm, thì "cái chết" của tiên liệt là vị thuốc thần duy nhất của "cái sống" người sau, nhưng nếu ở trong cái dân tộc không còn biết là nặng nề, thì lại chỉ là thứ đồ đè cho chết bẹp một loạt. Những thanh niên có chí cải cách ở Trung Quốc là kẻ vốn biết thây chết nặng nề, cho nên cứ một mực "thỉnh nguyện". Có ngờ đâu lại có bọn người không biết thây chết nặng nề, và còn giết luôn cả cái lòng "biết thây chết nặng nề". Chỗ chết thật quả đã ở đằng trước. Muốn được việc cho Trung Quốc, chẵc những người thanh niên giác ngộ sẽ không chịu chết suông. 25-3-1926 (Dịch ở Hoa cái tập tục biên) - 66
-----------------------------------------(1)
Đây là một câu sẵn có trong sách Luận ngữ, nguyên văn là: "Một xỉ nhi vô oán ngôn". (2)
Le Jeu de L'Amour et de La Mort (Sự đùa cợt của cái tình yêu với cái chết) là một vở kịch của Romain Rolland, nhà văn Pháp, tả một việc xảy ra trong thời Đại cách mạng nước Pháp. Trong đó có chỗ nói về Jérôme de Courvoisior một nhà bác học, phản đối Robespierre, có thể bị Robespierre giết đi, nhưng Lazarre Carnot bàn riêng với Robespierre, rồi cấp hộ chiế cho Courvoisier để đi trốn, trong khi trao hộ chiếu cho Courvoisier, Carnot có nói những câu mà Lỗ Tấn đã dịch ý ra đây. Cho được chú thích một đoạn nầy, tôi đã phải mượn vở kịch ấy bằng chữ Pháp của Thư viện Trung ương về để đọc. Nhưng phải đọc cả một vở kịch dài để tìm lấy một lời chú thích, là việc tôi thấy là khó khăn, nên đã nhờ ông bạn Thế Lữ làm hộ cho. Sau khi nghe Thế Lữ kể lại, viết thành lời chua nầy, tôi có mấy chữ ở đây cám ơn ông bạn.
- 67
KỶ NIỆM CHỊ LƯU HÒA TRÂN
1 Ngày 25 tháng 3 năm thứ 15 Trung hoa Dân quốc, là ngày trường Đại học nữ sư phạm quốc lập Bắc Kinh mở hội truy điệu hai chị Lưu Hòa Trân, Dương Đức Quần bị giết trước Chấp chính phủ Đoàn Kỳ Thụy ngày 18, tôi lửng thửng một mình ngoài lễ đường, thấy chị Trinh đi tới hỏi tôi: "Thầy có viết chút gì cho Lưu Hòa Trân không?" Tôi nói: "Không có". Chị Trunh bảo thẳng tôi: "Thầy nên viết chút ít đi ; Lưu Hòa Trân hồi còn sống rất ưa đọc văn của thầy". Tôi biết mà, hết thảy những báo chí tôi biên tập, đại khái vì cớ thường thường ra đó rồi chết đó, cho nên bán không chạy mấy, nhưng mà ở vào hồi sự sống khó khăn thế này, chị ấy đã chịu mua tờ Mảng nguyên(1) trọn năm. Tôi cũng đã thấy cần phải có viết chút ít cái gì, tuy nó không dính dấp mảy may nào với kẻ chết, nhưng ở kẻ sống lại cũng chỉ có thể như thế mà thôi. Giá tôi mà tin được rằng có cái gọi là "linh hồn ở trên trời", thế thì, khắc có thể - 68
được sự yên ủi càng lớn, có đều, hiện giờ, lại chỉ có thể như thế mà thôi. Song le tôi thật không biết nói gì được. Tôi chỉ thấy nơi mình ở không phải là nơi người ta ở với nhau. Máu của hơn bốn chục người thanh niên lan tràn ở chung quanh tôi, làm tôi ngột thở, ù tai, mờ mắt, đâu còn nói năng gì được? Hát dài cầm bằng khóc(2), phải ở vào sau khi ngừng cơn đau xót. Thế mà sau đó, cái luận điệu nham hiểm của mấy kẻ gọi là học giả văn nhân càng khiến tôi thấy nỗi buồn thương. Tôi đã lìa khỏi sự tức giận rồi. Tôi sẽ nhấm nháp cái buồn thảm tối sầm của nơi không phải người ta ở ; tôi sẽ lấy cái đau thương rất lớn của tôi phơi bày ra giữa nơi không phải người ta ở, khiến chúng nó(3) thỏa thuê ở sự đau thương cay đắng của tôi, rồi đem nó làm của lễ đơn bạc của kẻ chết sau dâng tế linh hồn kẻ đã khuất. 2 Kẻ mãnh sĩ chân chính dám ngó ngay vào đời người thảm dạm, dám nhìn thẳng vào máu tươi lênh láng. Đó là kẻ biết đau thương và kẻ có hạnh phúc dường nào? Nhưng mà tạo hóa lại hay vì hạng người tầm thường sắp đặt, dùng sự trôi qua vùn vụt của thời gian để rửa sạch vết cũ, chỉ cho lưu lại sắc màu đỏ lợt và sự buồn thảm thầm thoảng. ở trong sắc máu đỏ lợt và buồn thảm thầm thoảng ấy, lại cho người ra được sống lấy lất qua ngày, giữ cho còn mãi cái thế giới giống như người mà không phải người nầy. Tôi chẳng biết cái thứ thế giới ấy kéo dài đến bao giờ mới hết! - 69
Chúng ta còn cứ sống trên cái thứ thế giới ấy ; tôi cũng đã thấy cần phải có viết chút ít cái gì rồi. Cách ngày 18 tháng 3 cũng đã hai tuần lễ rồi, đấng Cứu chúa bị quên bẵng sắp sẽ giảng làm rồi(4), tôi hẳn cần phải có viết chút ít cái gì mới được. 3 Trong hơn bốn chục người thanh niên bị giết, chị Lưu Hoa Trân là học trò của tôi. Nói là học trò, từ trước tôi nghĩ như thế, bây giờ nói như thế, lại thấy có hơi ngờ ngợ, đáng lẽ tôi phải dâng cho chi tấm lòng đau thương và tôn kính của tôi. Chị không phải học trò của "tôi là người lây lất sống đến ngày nay", chị là thanh niên của Trung Quốc chết cho Trung Quốc. Lần thứ nhất tôi thấy họ tên của chị là ở vào đầu mùa hè năm ngoái, khi Dương ấm Du nữ sĩ làm hiệu trưởng trường Đại học nữ sư phạm, khai trừ sáu chức viên của Hội học sinh tự trị trong trường. Trong sáu chức viên đó, chị là một, nhưng tôi không nhận biết. Mãi đến về sau, có lẽ là sau khi Lưu Bách Chiêu đem bọn võ tướng cả nam lẫn nữ kéo bừa học sinh ra khỏi trường, mới có người chỉ một học sinh bảo tôi rằng: đó là Lưu Hòa Trân. Lúc đó tôi mới biết được cái tên ấy là của con người ấy, thì trong lòng lại thầm lấy làm lạ. Thường ngày tôi vẫn nghĩ, một học sinh đã không chịu khuất bởi thế lợi, dám chống lại viên hiệu trưởng đông vây cánh, không luận thế nào, phải là người có ương ngạnh sắc bén phần nào, mà chị lại thường hay cười tủm tỉm, thái độ rất ôn hòa. Cho đến sau khi thuê nhà - 70
mở lớp, ở gởi tại đường phố Tông mạo, chị mới bắt đầu đến nghe giảng nghĩa của tôi, thế rồi những lần thấy mặt có nhiều hơn, cũng vẫn cứ cười tủm tỉm từ đầu đến cuối, thái độ rất ôn hòa. Cho đến khi trường học đã trở lại nền nếp cũ, những thầy giáo trước kia cho rằng trách nhiệm mình đã hết, toan lần lượt rút lui, bấy giờ tôi mới thấy chị có dáng lo cho việc trường mình mai sau, ngậm ngùi rơi nước mắt. Đó về sau hầu như không thấy nhau nữa. Tóm lại,theo tôi nhớ, lần đó tức là lần vĩnh biệt(5). 4 Sáng sớm ngày 18, tôi đã biết buổi sáng có việc quần chúng đến thỉnh nguyện nơi Chấp chính phủ ; buổi chiều liền nghe tin dữ, rằng lính vệ đội đường hoàng xổ súng bắn chết và bị thương đến mấy trăm người, mà chị Lưu Hòa Trân chính ở trong số người bị giết. Nhưng đối với lời đồn ấy, tôi đến phải hơi lấy làm nghi ngờ. Tôi lâu nay là kẻ trắng trợn lấy cái ác ý rất xấu xa suy lường người Trung Quốc, nhưng tôi còn không ngờ và cũng không tin họ có thể hèn đớn hung bạo đến nỗi nước ấy. Huống chi con người hòa nhã, từ đầu đến cuối cứ tủm tỉm cười như chị Lưu Hòa Trân thì càng đau đến nỗi bỗng dưng tràn máu trước cửa phủ ư? Nhưng mà ngay hôm đó đã chứng minh là sự thực rồi, cái làm chứng là cái thây của chính mình chị. Còn có một cái, là của chị Dương Đức Quần. Vả lại chứng minh rằng chẳng những giết mà còn là giết một cách bạo ngược, vì có những vết thương đánh bằng gậy trên thân thể. - 71
Song le đoàn chính phủ liền có lệnh, nói các chị ấy là "bạo đồ". Song le tiếp đó lại có tiếng đồn, nói các chị ấy bị người khác lợi dụng. Cảnh thảm, đã khiến tôi mắt không nỡ nhìn rồi ; tiếng đồn, càng khiến tôi tai không nỡ nghe. Tôi còn biết nói gì ư? Tôi hiểu cái cớ tại làm sao mà những dân tộc suy vong làm thinh không có tiếng tăm gì. Chìm lặng a, chìm lặng! Chẳng ở trong chìm lặng nổ bùng ra, thì ở trong chìm lặng diệt mất. 5 Song le tôi còn có điều cần phải nói. Tôi không thấy tận mắt ; nghe nói chị ấy, chị Lưu Hòa Trân, lúc đó hớn hở đi tới trước. Có gì đâu, chỉ thỉnh nguyện mà thôi, ai là kẻ còn có lòng người, cũng đều không ngờ đến có cạm bẫy ở đó. Thế mà rồi bị trúng đạn trước Chấp chính phủ, đạn từ sau lưng vào, xuyên qua tim và phổi, đã là vết thương trí mạng, nhưng còn chưa chết ngay. Chị Trương Tĩnh Thục là bạn cùng đi, toan đỡ chị dậy, thì trúng bốn viên đạn, một viên của súng lục, liền ngã xuống. Một người bạn cùng đi nữa là chị Dương Đức Quần lại toan đỡ chị dậy, cũng bị bắn, đạn từ vai bên tả vào, xuyên ra ngực phía hữu, cũng liền ngã xuống. Nhưng chị Lưu Hòa Trân còn ngồi dậy được, một tên lính đánh mạnh hai gậy vào đầu và ngực chị, thế là chị chết hẳn. - 72
Cái chị Lưu Hòa Trân hòa nhã, từ đầu đến cuối tủm tỉm cười quả đã chết hẳn rồi, đó là sự thực, có cái thây của chính mình chị làm chứng ; cái chị Dương Đức Quần dũng ngầm mà mến bạn cũng chết hẳn rồi, có cái thây của chính mà làm chứng ; chỉ có chị Trương Tĩnh Thục cũng dũng ngầm mà mến bạn thì còn nằm trong bệnh viện rên rỉ. Đang lúc ba người con gái khoan thai lăn lộn dưới súng đạn của người văn minh sáng tạo ra châu lại bắn, đó là một cái vĩ đại đáng ghê rợn dường nào! Bọn quân nhân Trung Quốc từng chém giết đàn bà trẻ con, liên quân tám nước từng đàn áp học sinh, những võ công ấy chẳng may đều bị mấy giọt máu kia xóa nhòa đi cả. Nhưng mà những kẻ giết người ở Trung Quốc và ngoại quốc lại cứ chễm chệ ngước đầu lên, chẳng biết trên mỗi cái mặt đều có vấy máu... 6 Thời gian cứ trôi qua, phố xá vẫn thái bình như cũ, vẻn vẹn mấy cái mạng sống, ở Trung Quốc có kể vào đâu, nhiều lắm chỉ làm mẩu chuyện sau bữa cơm cho những người ngồi rồi không ác ý, hay là làm hột giống "tiếng đồn" cho những người ngồi rồi có ác ý. Đến như ngoài đó ra, tôi thấy hầu như không có ý nghĩa gì sâu sắc cả, bởi vì thực sự chẳng qua chỉ thỉnh nguyện bằng tay không. Cái lịch sự đấu tranh bằng máu của loài người giống như sự thành hình của than đá, trước kia dùng bao nhiêu gỗ cây, về sau chỉ còn lại một cục nhỏ, nhưng sự thỉnh nguyện không ở trong đó, huống nữa là tay không. - 73
Nhưng mà đã có máu rồi, tự nhiên nó phải lan rộng ra. ít nhất nó cũng sẽ ngấm vào những bà con, thầy bạn, trong lòng người yêu, mặc dầu thời giờ trôi qua, phai đi thành màu đỏ lợt, cũng sẽ còn mãi cái bóng hòa nhã và cười tủm tỉm ở trong sự buồn thương thầm thoảng. Đào Tiềm từng nói, "Bà con hoặc còn thương, người khác cũng đã hát, chết đi là hết chuyện, gò đống cùng gởi xác(6)". Nếu được như vậy, cũng đã đủ rồi. 7 Tôi đã nói rồi: Tôi lâu nay là kẻ trắng trợn lấy cái ác ý rất xấu xa suy lường người Trung Quốc. Nhưng lần nầy lại có mấy điểm ra ngoài ý liệu của tôi. Một là nhà đương cuộc mà lại có thể hung tàn đến như thế, một là kẻ phao tin đồn mà lại hèn đớn đến như kia, một là con gái đàn bà Trung Quốc khi lâm nạn mà lại khoan thai đến dường ấy. Chính mắt tôi thấy con gái Trung Quốc làm việc, mới từ năm ngoái đây, tuy là số ít, nhưng xem cái khí khái giỏi giang, bền vững, gặp khó không lùi, nhiều lần tôi đã thán phục họ. Đến như lần nầy, cái sự thực liều chết cứu giúp nhau trong mưa đạn, thì lại càng đủ chứng tỏ rằng cái đức tánh dũng nghị của con gái Trung Quốc, tuy bị mưu thần chước quỉ đè nén mấy ngàn năm mà đến nay không hề tiêu mất đi. Nếu muốn tìm thấy cái ý nghĩa của những kẻ bị chết lần nầy đối với mai sau thì cái ý nghĩa ở chỗ đó. Kẻ sống lây lất, trong sắc máu đỏ lợt có thể phớt thấy cái hy vọng tờ mờ ; còn kẻ mãnh sĩ chân chính sẽ càng - 74
hăm hở tiến tới trước. Hỡi ôi, tôi nói không ra lời, chỉ lấy đó kỉ niệm chị Lưu Hòa Trân. 1-4-1926 (Dịch ở Hoa cái tập tục biên) -------------------------------------------(1)
Mãng nguyên: tên một tuần báo do Lỗ Tấn biên tập.
(2)
Hát dài cầm bằng khóc: một lời thường dùng trong văn ngôn, đã trở lên như một thành ngữ, nguyên văn là: trường ca dương khốc. (3)
Hai chữ "chúng nó" ở đây, theo nguyên văn viết là "tha môn", mà là chữ "tha" chỉ về vật. Cho nên "chúng nó" ở đây không phải chỉ người mà chỉ giống vật, cầm thú. Sở dĩ như thế là bởi trên đó đã nói "nơi không phải người ta ở" ; không phải người ta ở thì giống vật ở, cho nên dùng ngay đại danh từ ngôi thứ ba chỉ giống vật. (4)
Lễ Phục sinh bên đạo ở vào một ngày đầu tháng tư dương lịch, Lỗ Tấn viết bài này ở ngày 1 tháng 4 cho nên nói thế. (5)
Cả đoạn nầy bao hàm một sự kiện lịch sử. Năm 1925, dưới chính quyền quân phiệt Đoàn Kỳ Thụy, Chương Sĩ Chiêu làm tổng thống bộ giáo dục, nữ sĩ Dương ấm Du làm hiệu trưởng trường Đại học nữ sư phạm Bắc Kinh. Chúng áp chế học sinh đủ mọi mặt, đến nỗi cấm học sinh không cho đi dự lễ truy điệu Tôn Trung Sơn. Học sinh bèn họp hội nghị cả trường, tỏ ý phản đối Dương Ấm Du và đòi đổi hiệu trưởng. Việc chưa được giải quyết thì sáng ngày 7 tháng 5, nhân làm lễ kỷ niệm quốc sĩ tại đại lễ đường của nhà trường, Dương Ấm Du chỗm chệ đến làm lễ, bị học sinh "xuỵt" nhao nhao lên. Sáng hôm sau, trong trường có yết thị khai trừ sáu học sinh là chức viên của hội học sinh tự trị, trong đó Lưu Hòa Trân là một, và một nữa là Hứa Quảng Bình tức Cảnh Tổng nữ sĩ, về sau là vợ Lỗ Tấn. Học sinh liền họp hội nghị, tuyên ngôn rằng hiệu trưởng đã bị học sinh phản đối rồi, không còn có quyền khai trừ học sinh nữa, bèn xé yết thị
- 75
đi, và công ủy Hứa Quảng Bình, tổng cán sự của Hội tự trị, đến niêm phong phòng làm việc của hiệu trưởng lại, học sinh vẫn cứ ở trong trường. Sau đó, Lưu Bách Chiêu một chức viên bộ giáo dục, đem cảnh sát và một bọn đàn bà du côn đến trường lôi kéo hết thảy học sinh ra ngoài. Họ ra rồi, thuê nhà ở đường phố Tông mao, mở lớp như thường. Lỗ Tấn là một giáo sư trước sau đứng về phe học sinh, có đến dạy trong lớp học nầy cho nên bị Chương Sĩ Chiêu cách chức thiêm sự ở bộ giáo dục. Không bao lâu, Chương Sĩ Chiêu bị miễn chức, trường Đại học nữ sư phạm mới trở lại như cũ. (6)
Đây là bốn câu cuối cùng trong bài thơ "Vãn ca từ" của Đào Tiềm.
- 76
VĂN HỌC CỦA THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG (Giảng tại trường học quân quan Hoàng bô ngày 8-4-1927)
Hôm nay tôi sẽ nói mấy câu chuyện về "văn học của thời đại cách mạng" và kể đó là đầu đề. Trường học này đã mời tôi mấy lần, tôi đều từ chối không đến. Vì sao vậy? Vì tôi nghĩ rằng các anh sở dĩ mời tôi, chừng như bởi nghe tôi từng viết mấy thiên tiểu thuyết, là nhà văn học, muốn nghe tôi nói về văn học. Thực ra tôi không phải nhà văn học, cũng không biết gì về văn học. Tôi đầu tiên học môn chính - 77
là khai mỏ, bây giờ bảo tôi nói chuyện đào than đá có lẽ tốt hơn chút đỉnh nói về văn học. Tự nhiên, vì sự ham thích riêng, tôi thường xem sách văn học, nhưng không có cái gì tâm đắc, có thể nói ra mà có ích cho các anh. Lại thêm mấy năm nay, những kinh nghiệm chính tôi đã thu được ở Bắc Kinh, làm tôi dần dần đâm ra hoài nghi những lời nghị luận về văn học người xưa đã giảng mà tôi được biết. Đó là lúc xổ súng bắn giết học sinh(1), sự cấm đoán văn chương cũng nghiêm ngặt, tôi nghĩ: văn học là thứ đồ vô dụng, thứ đồ chỉ người không có lực lượng gì mới nói đến ; còn người có lực lượng thì không hề mở miệng, cứ giết người, những kẻ bị áp bách nói mấy câu, viết mấy chữ đều sẽ bị giết ; dù may mà không bị giết, song cứ hằng ngày kêu la, kể khổ, gào bất bình, mà người có lực lượng thì vẫn cứ áp bách, ngược đãi, giết gióc, không có cách gì đối phó họ, thì cái văn hoc ấy có ích gì cho người ta đâu? Trong giới tự nhiên cũng thế. Con ó bắt con sẻ, làm thinh làm thế là con ó, mà kêu chít chít là con sẻ ; con mèo bắt con chuột, làm thinh thế là con mèo, mà kêu chít chít là con chuột ; rốt cuộc, chỉ cái con mở miệng bị cái con không mở miệng ăn đi quách. Nhà văn học viết được mấy bài văn hay, có thể được khen ngợi một thời, hay là được danh tiếng suông trong ít nhiều năm, ví như sau cuộc truy điệu một liệt sĩ rồi, công việc của liệt sĩ không ai nhắc đến nữa, mà mọi người lại truyền tụng mãi câu đối phúng của ai đó đặt khéo: đó thật là một sự mua bán rất thóc chắc(2).
- 78
Song le những nhà văn học của cái địa phương cách mạng nầy(3) có lẽ thích nói rằng văn học với cách mạng có quan hệ lớn lắm, lệ như có thể dùng nó để tuyên truyền, cổ xúy, phiến động, xúc tiến cách mạng và hoàn thành cách mạng. Có điều tôi tưởng, thứ văn chương ấy không có hiệu lực gì, vì từ trước đến nay, những tác phẩm văn nghệ tốt, phần nhiều là không chịu mệnh lệnh của người khác, không nghĩ đến lợi hại, tự nhiên do trong lòng lưu lộ ra; nếu như ra trước một cái đề rồi mới làm văn, thì có khác gì làm bát cổ, chẳng có giá trị gì về văn học, chứ đừng nói đến có thể cảm động người. Muốn được việc cho cách mạng, phải có "người cách mạng", chứ "văn học cách mạng" lại không cần vội có, cái mà người cách mạng làm ra, ấy mới là văn học cách mạng. Cho nên, tôi tưởng: cách mạng lại là cái có quan hệ với văn chương. Văn học của thời đại cách mạng với văn học của thời bình không giống nhau, hễ cách mạng đến, thì văn học đổi màu sắc. Nhưng cách mạng lớn thì mới đổi được màu sắc văn học, còn cách mạng nhỏ thì không,(4) vì không kể được là cách mạng, cho nên không đổi được màu sắc văn học. ở đây nghe nói "cách mạng" quen rồi, chứ ở Giang Tô, Chiết Giang, nói đến hai tiếng cách mạng, người nghe ai cũng sợ, mà người nói cũng rất nguy hiểm(5).Thực ra thì "cách mạng" không có gì lạ, phải có nó thì xã hội mới cải cách, nhân loại mới tiến bộ, từ nguyên trùng tiến đến nhân loại, từ dã man tiến đến văn minh, là vì không một phút nào không cách mạng. Nhà sinh vật học bảo cho chúng ta biết: "Loài người với loài khỉ không có khác nhau lắm đâu, loài người với loài khỉ là anh em cô cậu." Nhưng vì sao loài người thành ra - 79
con người, loài khỉ lại cứ là con khỉ? ấy là bởi con khỉ không chịu biến hóa nó cứ thích thì đi bốn chân. Có lẽ đã có một con khỉ đứng lên, thử đi bằng hai chân, nhưng nhiều con khỉ khác lại nói: "Tổ tiên chúng từ xưa cứ đi bốn chân, không cho mầy đứng!" rồi cắn chết nó. Chẳng những chúng nó không chịu đứng lên, lại còn không chịu nói chuyện, vì chúng thủ cựu. Loài người thì không thế, họ đứng lên, nói chuyện, kết quả là họ thắng lợi. Hiện nay cũng còn chưa xong việc. Cho nên cách mạng là sự không lạ gì, phàm những dân tộc đến nay con chưa diệt vong thì còn vẫn hàng ngày đang ra sức cách mạng, mặc dầu thường thường chỉ là cách mạng nhỏ. Cách mạng lớn với văn học có ảnh hưởng như thế nào? Ước chừng có thể chia ra ba thời kỳ để thuyết minh. 1) Trước cách mạng lớn, tất cả văn học đại khái là đối với mọi trạng thái xã hội thấy là bất bình, thấy là thống khổ, bèn kêu khổ, gào bất bình, trong văn học thế giới chẳng ít gì thứ văn học thuộc về loại ấy. Có điều thứ văn học kêu khổ gào bất bình ấy đối với cách mạng chẳng có ảnh hưởng gì, vì kêu khổ, gào bất bình mà không có lực lượng gì thì kẻ áp bách mình vẫn không thèm kể số, con chuột tuy chít chít kêu, mặc dầu kêu ra được thứ văn học xuất sắc mà con mèo vẫn cứ mạn phép ăn nó đi. Cho nên, khi mà chỉ có thứ văn học kêu khổ gào bất bình thì dân tộc ấy được còn có hi vọng, bởi vì chỉ có kêu khổ gào bất bình mà thôi. Lệ như hai bên kiện nhau, đến khi cái bên sắp thua kiện phân phát tờ kêu oan(6), thì bên kia khắc biết rằng - 80
nó không có đủ sức theo kiện nữa, vụ kiện thế là kết liễu. Cho nên, thứ văn học kêu khổ gào bất bình chẳng khác nào kêu oan, kẻ áp bách đối với nó lại thấy yên lòng. Có những dân tộc vì thấy kêu khổ không ích gì, khổ mấy cũng không kêu, họ bèn thành ra dân tộc im lặng, dần dần càng thêm suy đồi. Ai Cập, Aráp, Ba Tư, ấn Độ đều đã không có tiếng tăm gì hết! Đến như dân tộc nào giàu phản kháng tánh, ngầm có lực lượng, vì thấy kêu khổ vô ích, bèn giác ngộ ra, biến tiếng buồn thương thành tiếng gầm thét. Thứ văn học gầm thét một khi xuất hiện, thì sự phản kháng sắp đến rồi ; họ đã tức giận lắm, cho nên thứ văn học gần với thời đại nổ ra cách mạng thường thường đeo theo tiếng tức giận. Họ sẽ phản kháng, họ sẽ trả thù. Lúc cách mạng Nga Sô hầu dấy lên, liền có thứ văn học về loại ấy. Nhưng cũng có ngoại lệ, như Ba Lan, tuy đã có văn học phục thù từ sớm, nhưng mà sự khôi phục của nó là nhờ Đại chiến Âu châu. 2) Khi đã đến thời đại cách mạng lớn, không có văn học nữa, không có tiếng tăm nữa, bởi vì mọi người đều bị sóng cách mạng dồi dập, mọi người đều từ kêu gào mà xoay qua hành động, bận rộn về cách mạng, không có nhàn rỗi để mà nói chuyện văn học. Lại còn, lúc đó đời sống vất vả, cố tìm cho ra miếng bánh mì mà ăn còn không được, còn lòng dạ nào nói đến văn học nữa? Những người thủ cựu vì bị luồng sóng cách mạng đả kích, tức tối đến mê sảng, cũng không thể lại nghê nga cái mà họ gọi là văn học nữa. Có người bảo: "Văn học là cái làm ra trong lúc cùng khổ", chưa hẳn thế, lúc cùng khổ nhất định không có tác - 81
phẩm văn học đâu. Khi tôi ở Bắc Kinh, hễ lúc nghèo quá, đi vay tiền khắp nơi, không viết được một chữ, đến lúc lãnh được lương tháng mới ngồi yên mà viết được. Lúc bận rộn cũng nhất định không có tác phẩm văn học, người gánh gồng cần phải đặt gánh xuống mới làm văn chương được ; người kéo xe cần phải thả gọng xe ra mới làm văn chương được. Thời đại cách mạng lớn bận rộn, đồng thời lại rất túng thiếu, một khối người nầy đấu tranh với một khối người kia, không trước tiên thay đổi cái trạng thái xuất hiện hiện đại không được, không có thời giờ cũng không có lòng dạ nào làm văn chương ; cho nên cái văn học của thời đại cách mạng lớn chỉ có thể tạm thời chìm lặng. 3) Đợi đến sau khi cách mạng lớn thành công, trạng thái xuất hiện đã hòa hoãn, sự sống của mọi người đã dồi dào, lúc bấy giờ văn học lại sản sinh ra. Văn học lúc bấy giờ có hai thứ: Một thứ văn học là tưng bốc cách mạng, khen ngợi cách mạng hát mừng cách mạng, bởi vì các nhà văn học tiến bộ nghĩ đến sự thay đổi, xuất hiện đi tới, đối với sự phá hoại xuất hiện cũ và kiến thiết xuất hiện mới đều thấy ra có ý nghĩa, một mặt rất cao hứng đối với sự sụp đổ của chế độ cũ, một mặt hát mừng đối với kiến thiết mới. Ngoài ra còn có một thứ văn học là ai điếu sự diệt vong của xuất hiện cũ hát đưa linh(7) cũng là thứ văn học có thể có sau cách mạng. Có người cho rằng đó là "văn học phản cách mạng", tôi tưởng cũng không cần ghép cho cái tội danh lớn như vậy. Cách mạng tuy tấn hành, nhưng hạng người cũ trong xuất hiện còn rất nhiều, không thể một lúc - 82
biến thành nhân vật mới; bọn họ, trong óc chứa đầy tư tưởng cũ, cặn bã cũ, hoàn cảnh thay đổi, ảnh hưởng đến mọi sự của chính mình họ, thế rồi họ nhớ lại cái thoải mái của thời cũ, bèn cứ luyến tiếc xuất hiện cũ, bịn rịn không thôi, nhân đó mà nói ra những chuyện rất xưa, rất cũ kỹ, thành hình thứ văn học ấy đều là giọng bi ai, bày tỏ sự bực bội trong lòng, một mặt xem thấy kiến thiết mới thắng lợi, một mặt xem thấy chế độ cũ diệt vong, cho nên trổi lên khúc hát đưa linh. Nhưng nhớ cũ, hát đưa linh, là tỏ ra đã cách mạng rồi, nếu như không có cách mạng thì những người cũ đang đắc thế, không thể có hát đưa linh đâu. Có đều ở Trung Quốc không có cả hai thứ văn học ấy hát đưa linh đối với chế độ cũ, hát mừng đối với chế độ mới. Bởi vì Trung Quốc cách mạng còn chưa thành công, đang là thời kỳ giáp hạt, thiếu thốn, bận rộn vì cách mạng. Thế nhưng, thứ văn học cũ vẫn còn nhiều, văn chương trên báo, hầu hết là lối cũ. Tôi tưởng, điều đó đủ thấy rằng cách mạng Trung Quốc đối với xuất hiện chưa có sự cải biến lớn, đối với hạng người thủ cựu chưa có ảnh hưởng bao nhiêu, cho nên hạng người cũ vẫn cứ đi nửa lừng trời. Văn học trên các tờ báo Quảng Đông đều là cũ, rất ít cái mới, đó cũng có thể chứng minh rằng xã hội Quảng Đông chưa hề chịu ảnh hưởng cách mạng ; không có hát mừng cái mới, không có hát đưa linh cái cũ, Quảng Đông bây giờ vẫn còn là Quảng Đông mười năm về trước. Chẳng những thế thôi, vả lại không có kêu khổ, không có gào bất bình, chỉ thấy công hội tham gia vào cuộc đi biểu tình, nhưng đó là chính phủ cho phép, không phải vì bị áp bách mà phản - 83
kháng, chẳng qua là phụng chỉ cách mạng(8). Xã hội Trung Quốc không có thay đổi, cho nên không có bài ai ca nhớ cũ, cũng không có khúc tiến hành mới toanh. Chỉ có ở Nga Sô đã sản sinh ra hai thứ văn học ấy. Những nhà văn học cũ của họ chạy trốn ra ngoại quốc, văn học của họ làm ra, phần nhiều là lời ai ca viếng xưa khóc chết ; còn văn học mới thì đang ra sức bươn tới, tác phẩm vĩ đại tuy chưa có, chứ tác phẩm mới không ít chi, họ đã lìa khỏi thời kỳ gầm thét mà sang qua thời kỳ hát mừng. Ca tụng sự kiến thiết, ấy là ảnh hưởng sau khi cách mạng đã tấn hành, tình hình mai sau ra sao, bây giờ chưa biết, nhưng cứ nghĩ xem, thấy chừng như là văn học bình dân thì phải, bởi vì cái thế giới của bình dân là kết quả của cách mạng. Hiện nay, Trung Quốc không có văn học bình dân, mà trên thế giới cũng không có văn học bình dân, bao nhiêu văn học, nào ca, nào thơ, đại khái để cho người thượng đẳng xem ; họ ăn no rồi, ngả lưng trên ghế nằm(9), cầm mà ngắm. Một vị tài tử ra cửa gặp một vị giai nhân, hai người cảm nhau, có một tên bất tài tử vào quấy rối, làm cho chểnh mảng, nhưng rốt cuộc được vuông tròn. Xem chuyện như thế, khoăn khoái lắm. Hay là nói chuyện người thượng đẳng có lý thú và khoái lạc như thế nào, người hạ đẳng đáng buồn cười như thế nào. Mấy năm trước, báo Tân thanh niên đăng mấy thiên tiểu thuyết, miêu tả người tù sống nơi đất lạnh, các ông giáo thụ đại học xem rồi bực mình, vì họ không thích xem chuyện người hạ đẳng như thế. Nếu thơ ca miêu tả cu li xe thì là thơ ca hạ lưu ; trong một lớp tuồng hát nếu có sự phạm tội thì là tuồng hát hạ - 84
lưu. Những vai trò trong tuồng hát của họ chỉ có tài tử và giai nhân, tài tử đậu trạng nguyên, giai nhân được phong phu nhân nhất phẩm, chính mình tài tử giai nhân rất vui mừng, họ xem cũng rất vui mừng, người hạ đẳng không làm thế nào được, thôi thì cũng cùng vui mừng với bọn họ. Bây giờ đây, có người lấy bình dân - công nhân, nông dân - làm tài liệu viết tiểu thuyết, làm thơ, chúng ta cũng gọi là văn học bình dân, vì bình dân còn chưa mở miệng. Đó là người ở ngoài đứng bên cạnh nhìn thấy sự sống bình dân, mượn lỗ miệng bình dân mà nói ra. Đám nhà văn hiện thời, có kẻ tuy nghèo, cũng còn giàu hơn công nhân, nông dân ít nào, mới có tiền mà đi học được, mới có văn chương được ; xem qua giống như bình dân nói, mà thực thì không phải, đó không phải là tiểu thuyết bình dân thật. Những sơn ca giã khúc bình dân thường hát, nay cũng có người đem mà viết ra, cho đó là tiếng bình dân, vì chính họ đã hát. Nhưng họ đã gián tiếp chịu ảnh hưởng rất lớn của sách xưa, đối với bọn thân sĩ trong làng có ba ngàn mẫu ruộng, họ kính phục quá đi mất, thường thường họ lấy tư tưởng của thân sĩ làm tư tưởng của mình. Bọn thân sĩ quen ngâm thơ ngũ ngôn, thất ngôn, nhân đó, những sơn ca giã khúc họ hát quá nửa cũng là ngũ ngôn hoặc thất ngôn(10). Đó là nói về cách luât, lại còn về cấu tứ ngụ ý cũng rất là cũ rích, không thể gọi là văn học bình dân chân chính được. Hiện nay, tiểu thuyết và thơ của Trung Quốc thực ra không bằng nước ngoài, không làm thế nào được, thì cũng gọi là văn học đi ; chứ không thể nói là văn học của thời đại cách mạng được, càng không thể nói là văn học bình dân được. Các nhà văn học hiện nay đều là người đọc sách, nếu công - 85
nhân, nông dân không được giải phóng thì tư tưởng của công nhân, nông dân vẫn là tư tưởng của người đọc sách ; phải đợi đến khi công nhân, nông dân được giải phóng chân chính thì mới có văn học bình dân chân chính. Có những người nói: "Trung Quốc đã có văn học bình dân", thực ra, nói thế không đúng. Các anh là người chiến tranh thực tế, là chiến sĩ cách mạng, tôi tưởng hiện giờ còn chưa cần ham thích văn học là phải hơn. Học văn học, đối với chiến tranh không có ích gì, giỏi lắm chẳng qua làm một bài chiến ca, làm được hay, thì có thể ngâm nga trong lúc nghỉ sau khi đánh trận, cũng có thú đấy. Nói cho đứng đắn một chút thì ví cũng như trồng cây liễu, đợi đến cây liễu lớn lên, bóng dâm dủ xuống, người thợ cày làm việc đến lúc giữa trưa, hoặc có thể ngồi dưới cây liễu ăn cơm và nghỉ ngơi. Tình trạng xã hội Trung Quốc hiện nay, chỉ có chiến tranh cách mạng thực sự, một bài thơ không dọa cho Tôn Truyền Phương chạy được, mà một phát súng lớn nổ ra, đã làm chạy được Tôn Truyền Phương(11). Tự nhiên có người cho rằng văn học có sức mạnh giúp cho cách mạng, nhưng riêng tôi lấy làm hoài nghi ; đến như văn học là một thứ sản vật của sự dư dụ, có thể biểu thị văn hóa của một dân tộc, cái đó thì thật. Người ta đại khái không vừa lòng cái việc chính mình đang làm, tôi trước kia chỉ biết viết mấy bài văn, chính mình cũng thấy chán, mà các anh là người cầm súng, lại muốn nghe giảng về văn học. Còn tôi, tự nhiên tôi lại - 86
muốn nghe tiếng súng lớn, hình như thấy tiếng súng lớn nghe hay hơn tiếng văn học nhiều. Bài diễn thuyết của tôi chỉ bấy nhiên, cảm ơn các bạn đã chịu khó nghe đến hết(12). (Dịch ở Nhi dĩ tập) ------------------------------------------------(1)
Đây chỉ về sự Đoàn Kỳ Thụy giết hại học sinh năm 1926, đã có nói ở mấy bài trước. (2)
ý tác giả muốn nói: Người liệt sĩ được truy điệu ấy đã chịu thiệt hại về sinh mạng của mình để cho nhà văn học là người làm câu đối phúng hay được nổi tiếng, mà người nầy không có nguy hiểm mảy may gì cả ; như thế, khác nào một cuộc mua bán mà kẻ mua không sợ lỗ, chỉ có lời. (3)
Địa phương cách mạng: chỉ vào tỉnh Quảng Đông. Vì nhân vật vận động cách mạng phần nhiều là người Quảng Đông, như Tôn Trung Sơn là một, và mấy cuộc khởi nghĩa đầu tiên cũng ở trong tỉnh ấy. Người Trung Quốc thường gọi Quảng Đông là "cách mạng sách nguyên địa", nghĩa là chỗ cách mạng bắt nguồn. (4)
Đọc hết cả bài nầy thì thấy ý tác giả muốn nói: cách mạng lớn là cách mạng vô sản ; cách mạng nhỏ là cách mạng tư sản, hay là không hẳn thế, mà chỉ như cách mạng củA Quốc dân đảng hiện do Tưởng Giới Thạch cầm đầu. (5)
"ở đây" là ở Quảng Đông. Lúc bấy giờ tuy còn ở vào thời kỳ Quốc Cộng hợp tác, nhưng Tưởng Giới Thạch đã có ý phản Cộng từ lâu rồi. ở Quảng Đông, hoàn toàn dưới quyền Quốc dân đảng, nói cách mạng theo kiểu Quốc dân đảng nên không hề chi ; còn ở những nơi khác, như Giang Tô, Chiết Giang, có chịu ảnh hưởng của Cộng sản đảng, nói cách mạng theo kiểu Cộng sản đảng, là cách mạng vô sản, sẽ bị Quốc dân đảng khủng bố, cho nên nói "sợ" và "nguy hiểm". (6)
Đây là nói theo thói tục dân gian ở Trung Quốc ngày xưa thường có như thế ; "tờ kêu oan", ở nguyên văn là "oan đơn".
- 87
(7)
Hát đưa linh: Ngày xưa ở xứ ta, biết chắc là ở miền Nam, những đám táng lớn, thường có "bạn chèo" gồm một số người cầm cái chèo đi hai bên linh cửu, vừa chèo như chèo thuyền vừa hát giọng ai, gọi là "hát đưa linh". Đây dùng ba chữ ấy dịch chữ "vãn ca", vãn ca cũng là một lối hát trong khi đưa đám ma. (8)
Phụng chỉ: danh từ nhà quan dùng trong thời phong kiến, nghĩa là "vâng theo ý chỉ của vua". Đây nói "phụng chỉ cách mạng", ngụ ý cái gọi bằng cách mạng ở Quảng Đông chỉ là vâng theo cái ý chỉ củA Quốc dân đảng, của Tưởng Giới Thạch mà làm, không phải cuộc cách mạng do từ ý chỉ nhân dân. Khi nói như thế, đã cầm bằng Tưởng Giới Thạch là vua, là độc tài, chuyên chế. (9)
Ghế nằm: Thứ ghế dùng để nằm, có chỗ gác tay gác chân, nguyên văn là "thảng ỹ", tiếng Tây là sofa, Trung Quốc cũng có dịch âm chữ nầy, đọc theo âm Việt là "sa phát". (10)
Chỗ nầy, tôi e tác giả nói không đúng. Những bài "nhạc phủ" từ Hán Ngụy đến Lục triều của dân gian, không có tên tác giả, đều làm bằng ngũ ngôn, thỉnh thoảng có xen thất ngôn. Các thi nhân từ Tào Thực Vương Xán giở xuống bắt chước theo lối ấy cho nên gọi là "nghĩ cổ nhạc phủ". Thế thì, sự thực hình như trái với lời tác giả. (11)
Tôn Truyền Phương là tay quân phiệt từng chiếm cứ địa bàn năm tỉnh: Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô, An Huy, Giang Tây, mà lúc Lỗ Tấn diễn thuyết đây, đã bị quân Bắc phạt đánh đuổi đi rồi. (12)
Bài giảng diễn nầy Lỗ Tấn nói tại trường Hoàng Bô ngày 8-11927, nghĩa là trước ngày Tưởng Giới Thạch làm phản cách mạng, cử hành cuộc "thanh đảng" hôm 12-1-1927, chỉ có bốn ngày thôi. Lúc bấy giờ Lỗ Tấn ở Quảng Đông, thường có mật thám bao vây, nguy hiểm lắm. Mà sự được mời tới giảng diễn ở trường Hoàng Bô cũng có cơ nguy hiểm. Vì bọn phản động có thể đợi nói hở một câu là tóm cổ ngay. Cho nên trong bài giảng, Lỗ Tấn nói một cách khác thường: đối với văn học, tỏ ra ý chán nản, không lấy làm thiết. Tuy vậy, đối với cách mạng thì lại cắt nghĩa rất thẳng thắn, nghiêm chính. Trong đó thấy được cả cái trí tuệ và cái dũng cảm của vị đại văn hào.
- 88
Cái văn học mà Lỗ Tấn không lấy làm thiết đó, là thứ văn học ở dưới quyền Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch, chứ một người đã bỏ học thuốc mà theo văn học thì có lẽ nào lại không lấy văn học làm thiết?
- 89
TẬP QUÁN VÀ CẢI CÁCH
Thứ nhân dân mà thể chất và tinh thần đã chai đỉa rồi, đối với một sự cải cách rất nhỏ nào cũng cứ làm ngăn trở, bề ngoài như là sợ bất tiện cho mình, mà thực ra thì là sợ bất lợi cho mình, nhưng cái điều họ bịa ra để lót miệng, lại thường thường thấy ra là công chánh và đường hoàng lắm. Sự cấm dùng âm lịch năm nay, vốn là việc nhỏ nhặt, không can gì đến đại thể, song các nhà buôn đã kêu khổ nhao nhao lên rồi. Chẳng những thế thôi, cả đến bọn thủ du thực, bọn làm thuê trong các công ty ở Thượng Hải, cũng luôn luôn ngậm ngùi than thở, kẻ thì nói điều đó rất không tiện cho sự cày cấy của nhà nông, kẻ thì nói điều đó rất không tiện cho sự tính con nước của thuyền đi biển. Bọn họ thế mà đã nhân chuyện đó nhớ đến người nông phu dưới làng, người lái thuyền trên biển, là những người với họ không can liên gì từ lâu. ấy thật ra điều như có chút lòng bác ái. Đến ngày 23 tháng chạp âm lịch một cái, tiếng pháo đã đùng đùng đẹt đẹt khắp nơi. Tôi hỏi một anh làm công trong tiệm kia: "Năm nay vẫn có thể ăn tết theo lịch cũ, sang năm nhất định phải theo lịch mới chứ?" Câu trả lời là: "Sang năm lại là sang năm, để sang năm xem xem." Anh ta không tin sang năm thế nào cũng phải ăn tết theo dương - 90
lịch. Nhưng mà trên cuốn lịch thì lại đã thật bỏ hẳn âm lịch, chỉ còn có tiết khí. Một mặt khác trái lại, trên báo xuất hiện cái quảng cáo "Âm dương hiệp lịch một trăm hai mươi năm". Cả đến âm lịch của đời chắt đời chít, họ cũng đã chuẩn bị đâu vào đó rồi, một trăm hai mươi năm! Bọn ông Lương Thực Thu tuy rất không thích số đông, song lực lượng của số đông là vĩ đại, là cần yếu, người nào có chi cải cách nếu chẳng biết thấu lòng dân chúng, tìm cách hướng dẫn, cải tiến, thì không cứ có những cao văn đại luân, lãng mạn cổ điển thế nào cũng chẳng ăn nhập gì với họ, mà chỉ nội mấy người ở trong phòng sách than khen lẫn nhau, hả hê riêng cho mình thôi. Giả dụ quả có "chính phủ người tốt"(1), ra lệnh cải cách ư, không bao lâu, sẽ bị họ kéo trở về trên con đường cũ. Người cách mạng chân thật, tự mình có cái kiến giải độc đáo, như ông Uluonov, ông đem "phong tục" và "tập quán" bao quát vào trong "văn hóa", vả lại cho rằng cải cách những cái ấy rất là khó khăn. Song le, tôi tưởng, nếu không cải cách những cái ấy thì cuộc cách mạng ấy cũng cầm bằng không thành công, khác nào xây tháp trên bãi cát, lập tức đổ vỡ. Cuộc cách mạng bài Mãn đầu tiên của Trung Quốc(2) sở dĩ được hưởng ứng dễ dàng, là bởi cớ nêu cái khẩu hiệu "quang phục cựu vật", tức là "phục cổ"(3), dễ lấy được đồng ý của nhân dân quen thói bảo thủ. Nhưng đến về sau, không thấy có cái đời thái bình lúc đầu khai quốc là lẽ thường của lịch sử, chỉ mất toi cái đuôi sam, làm cho mọi người không bằng lòng. - 91
Đó về sau, những sự cải cách tương đối mới, cứ lần lần thất bại, cải cách một lạng, phản động mười cân, tức như chuyện nói trên, trong cuốn lịch một năm không cho chua âm lịch, mà lại có thứ âm dương hiệp lịch một trăm hai mươi năm. Cái thứ hiệp lịch ấy, những người hoan nghênh nó nhất định rất nhiều, bởi vì nó được phong tục tập quán ủng hộ, cho nên cũng sẽ có hậu viện của phong tục tập quán. Việc khác cũng thế. Nếu không vào sâu trong từng lớp lớn dân chúng, nghiên cứu, phân tích phong tục tập quán của họ, phân biệt cái tốt cái xấu, lập cái tiêu chuẩn giữ lại hay bỏ đi, mà giữ hay bỏ đều cẩn thận chọn lấy phương pháp thi hành, thì không cứ cải cách thế nào, đều sẽ bị đá núi tập quán đè nát, hoặc chỉ trôi nổi trên bề ngoài ít lúc thôi. Hiện nay đã không phải là lúc ở trong buồng sách, cầm cuốn sách mà nói bô bô những tông giáo, pháp luật, văn nghệ, mỹ thuật các thứ, dù cho muốn nói những cái ấy, cũng cần phải biết tập quán phong tục trước đã, vả lại phải có dũng cảm và nghị lực nhìn thẳng vào phía đen tối của những cái ấy. Bởi vì nếu không thấy rõ, thì không biết cải cách từ chỗ nào. Kêu gào suông rằng sẽ có sự sáng ở vị lai, kỳ thực là lừa dối chính mình lười biếng và những thính giả lười biếng. 1930 (Dịch ở Nhị tâm tập)
- 92
---------------------------------------(1)
Lương Thực Thu là một nhà văn phản động, cùng một cách với Hồ Thích. Xem lời chua số 4 trong bài "ý kiến đối với tả dực tác gia liên minh" dưới đây. - Chính phủ người tốt: bấy giờ bọn Hồ Thích đưa ra một cái thuyết rằng phải chọn những người tốt mà lập thành một chính phủ, tự nhiên mọi việc trong nước trở nên tốt. Nguyên văn là "hảo nhân chính phủ". Đó là một cái thuyết vu vơ. ở dưới quyền độc tài của Tưởng Giới Thạch thì chọn làm sao được người tốt thật là tốt? Vả lại, người gọi là tốt là người thế nào? Lỗ Tấn cũng đã có lần bác cái thuyết nầy. (2)
"Bài Mãn" nghĩa là bài trừ triều đình Mãn Thanh. Đây chỉ vào cuộc Cách mạng Tân Hợi. (3)
"Quang phục cựu vật" là một từ ngữ sẵn có trong sử cũ, nghĩa đen là: lấy lại vật cũ một cách vinh quang. Vật cũ đây là chỉ thiên hạ hay quốc quyền. Phục cổ nghĩa là: đem trở lại mọi sự đời xưa đã có.
- 93
Ý KIẾN ĐỐI VỚI TẢ DỰC TÁC GIA LIÊN MINH
(Giảng tại đại hội thành lập Tả dực tác gia liên minh ngày 2 tháng 3 năm 1930)
Có nhiều điều nên nói, thì nãy giờ đã có người nói cặn kẽ rồi, tôi không cần lặp lại. Tôi cho rằng hiện bây giờ, tác gia "tả dực" rất dễ dàng biến thành tác gia "hữu dực". Vì sao vậy? Một là, nếu chúng ta không tiếp xúc với sự đấu tranh xã hội thực tế, mà chỉ nhốt mình trong cửa kính viết văn, nghiên cứu vấn đề, thế thì không cứ khích liệt đến chừng nào, "tả" đến chừng nào, cũng dễ làm được lắm ; nhưng mà một khi vấp phải thực tế, sẽ lập tức bị đập nát. Ngồi trong phòng viết, rất dễ oang oang lên nói những chủ - 94
nghĩa triệt để, nhưng mà cũng rất dễ "hữu khuynh". ở bên Tây, gọi là "người xã hội chủ nghĩa salon" tức là chỉ những người như thế. "Salon" nghĩa là phòng khách, ngồi trong phòng khách mà đàm luận chủ nghĩa xã hội, thì nhã lắm, lịch sự lắm, nhưng mà không hề nghĩ đến thực hành. Người xã hội chủ nghĩa kiểu ấy thật không đáng tin cậy chút nào. Vả lại hiện nay, những tác gia hay nghệ thuật gia không đeo một chút tư tưởng của chủ nghĩa xã hội theo nghĩa rộng, tức là những tác gia hay nghệ thuật gia nói rằng đại chúng công nông đáng phải làm nô lệ, đáng phải bị giết, bị bóc lột, thì hầu như không còn có nữa, trừ ra Mussolini không kể, nhưng Mussolini lại chưa hề viết qua tác phẩm văn nghệ nào. Hai là, nếu không hiểu rõ tình hình thực tế của cách mạng, cũng dễ dàng biến thành "hữu dực". Cách mạng là thống khổ, trong đó cũng phải có lộn dơ bẩn và máu, quyết không phải là thú vị, hoàn mỹ, như thi nhân đã tưởng tượng ra kia ; cách mạng rất là việc hiện thực, cần có các thứ công tác hèn hạ, rắc rối, quyết không phải là lãng mạn như thi nhân đã tưởng tượng ra kia; cách mạng cố nhiên có phá hoại, nhưng lại cần kiến thiết, phá hoại là thú lắm, nhưng kiến thiết lại là việc rắc rối. Cho nên người nào ôm cái ảo tưởng rô-măng-tít đối với cách mạng, một khi tiếp cận với cách mạng, một khi tiến hành cách mạng, bèn dễ dàng thất vọng. Nghe nói Esenin, thi nhân nước Nga, lúc đầu cũng hoan nghênh Cách mạng tháng Mười lắm lắm, bấy giờ ông reo lên, "cách mạng trên trời và trên đất muôn năm!" lại nói "tôi đã là một người bôn-cho-vích rồi". - 95
Nhưng mà đến sau Cách mạng một cái, cái tình hình thực tế hoàn toàn không giống với những điều như ông đã tưởng tượng, rốt cuộc ông thất vọng, trở nên đồi phế. Về sau Esenin tự sát, nghe nói cái nguyên nhân ông tự sát có một phần bởi sự thất vọng ấy. Lại như Piliniad(1), Eremburg(2), cũng vào một loại đó. ở thời Cách mạng Tân hợi của chúng ta cũng có như thế. Lúc đó có nhiều nhà văn, như những người trong "Nam xã", buổi đầu họ rất là cách mạng, nhưng họ vốn ôm một thứ ảo tưởng, cho rằng chỉ đuổi được người Mãn châu đi rồi, mọi sự đều trở lại theo lề thói Trung Quốc, người ta đều mặc áo thụng, mũ cao dài rộng, khệnh khạng đi trên đường phố. Không ngờ sau khi đuổi hoàng đế Mãn Thanh đi rồi, Dân quốc thành lập lên, tình hình lại khác hẳn, cho nên họ bèn thất vọng, về sau có những người đến nỗi thành ra kẻ phản động của cuộc vận động mới. Nhưng nếu chúng ta không hiểu rõ tình hình thực tế của cách mạng, chúng ta cũng sẽ dễ dàng giống như họ. Lại còn, cho rằng nhà thơ hay nhà văn học là cao hơn hết thảy mọi người, công tác của họ là cao quí hơn hết thảy mọi công tác, đó cũng là cái quan niệm không chính xác. Trước kia Henri Heine(3) cho rằng thi nhân rất cao quí và Thượng đế rất công bằng, thi nhân sau khi chết sẽ đến chỗ Thượng đế, ngồi bên cạnh Thượng đế, Thượng đế mời họ ăn kẹo mứt. Ngay bây giờ, cái chuyện Thượng đế mời họ ăn kẹo mứt, cố nhiên không ai tin nữa rồi, nhưng cho rằng nhà thơ hay nhà văn học hiện nay làm cách mạng cho đại chúng lao động, mai sau cách mạng thành công, giai cấp - 96
lao động thế nào cũng trả ơn hậu hĩ, ưu đãi đặc biệt, mời họ ngồi xe ngoại hạng, ăn cơm ngoại hạng, hay là người lao động bưng bánh mì sữa bò dâng họ, nói: "Nhà thơ của chúng tôi, xin mời ngài!" thì đó cũng là không chính xác. Bởi vì, thực tế, quyết không thể có việc như thế, e đến lúc đó còn khổ hơn bây giờ nữa kia, chẳng những không có bánh mì sữa bò, không chừng, cả đến bánh mì đen cũng không có nữa, coi như tình hình nước Nga sau Cách mạng một hai năm thì biết. Nếu không hiểu rõ tình hình ấy, cũng dễ dàng biến thành "hữu dực". Sự thực, đại chúng người lao động chỉ nếu không phải là người "biết lo" mà Lương Thực Thu đã nói(4), thì cũng quyết không phải là người đặc biệt coi trọng giai cấp tri thức, tức như Mít-tít (xuất thân giai cấp tri thức) trong "Hội diệt" mà tôi đã dịch(5), trở thường bị bọn thợ mỏ nhạo cười. Không đợi nói, giai cấp lao động quyết không có cái nghĩa vụ ưu đãi cách đặc biệt ngoại hạng nhà thơ hay nhà văn học đâu. Bây giờ tôi nói qua mấy điểm chúng ta phải chú ý từ nay về sau. Một là, đấu tranh với xã hội cũ và thế lực cũ, phải cho kiên quyết, bền dai không ngớt, lại phải chú trọng ở thực lực. Gốc rễ của xã hội cũ vốn là bền chặt lắm lắm, nếu cuộc vận động mới không có cái sức càng lớn thì không làm day động nổi nó chút nào đâu. Vả lại xã hội cũ còn có cái mánh lời tự nó làm cho thế lực mới phải thỏa hiệp mà chính mình nó quyết không thỏa hiệp. ở Trung Quốc đã có bao nhiêu cuộc vận động mới rồi, nhưng lần nào cũng cái - 97
mới không địch lại nổi cái cũ, đại khái là bởi bên mới không có mục đích bền lâu rộng lớn, đòi hỏi rất nhỏ, dễ mà hả hê. Tức như cuộc vận động văn bạch thoại, ban đầu xã hội cũ hết sức chống chế, nhưng không bao lâu bèn nhận cho văn bạch thoại có quyền sống, thí cho nó một chỗ ngồi thảm hại, những bài viết bằng bạch thoại đã được đăng ở những chỗ xó góc tờ báo, ấy là vì, theo con mắt xã hội cũ, cái mới cũng chẳng có gì, chẳng đủ sợ, thôi thì cứ để nó sống, mà bên mới cũng thấy mãn nguyện rồi, cho là văn bạch thoại đã giành được quyền sống rồi. Lại như cuộc vận động văn học vô sản, vì thấy văn học vô sản cũng không làm hại gì, trái lại, bọn họ cũng chơi văn học vô sản, lấy làm đồ trang sức, coi cũng như ở phòng khách, ngoài những đồ sứ đồ cổ, bày một cái bát đàn của thợ thuyền dùng, coi cũng hay hay ; mà bên những người vô sản văn học thì, đã có được địa vị nho nhỏ trên văn đàn rồi, bản thảo đã có chỗ bán được rồi, không cần đấu tranh nữa, nhà phê bình cũng hát bài khải ca: "Văn học vô sản thắng lợi rồi!". Song le, ngoài sự thắng lợi của cá nhân không kể, kể chính mình văn học vô sản, rốt cuộc nó thắng lợi được bao nhiêu? Huống chi, văn học vô sản là một cánh của đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản, nó trưởng thành theo sự trưởng thành của thế lực xã hội của giai cấp vô sản ; trong khi cái địa vị xã hội của giai cấp vô sản đang còn rất thấp, mà cái địa vị văn đàn của văn học vô sản trở rất cao, điều đó chỉ để chứng minh rằng những người vô sản văn học đã lìa bỏ giai cấp vô sản, trở về xã hội cũ rồi đó.
- 98
Hai là, tôi nghĩ rằng mặt trận phải mở rộng ra. Năm kia và năm ngoái, có chiến tranh về văn học đấy, nhưng thực thì phạm vi nhỏ quá, hết thảy văn học cũ tư tưởng cũ đều không bị những người phái mời chú ý đến, trái lại, làm thành cuộc đấu tranh trong một góc giữa bọn người văn học mới với nhau, bọn người phái cũ lại có thể thong thả đứng ngoài thị chiến. Ba là, chúng ta phải tạo thêm ra một số đông chiến sĩ mới. Bởi vì hiện nay, thực ra, tay làm việc ít quá, ví như chúng ta có mấy thứ tạp chí, sách in từng bổn cũng chẳng ít, nhưng mà viết thì chỉ có mấy người đó, cho nên nội dung không thể không kém cỏi. Một người không chuyên làm một việc, làm cái nầy một tí, làm cái kia một tí, đã phải phiên dịch, lại phải viết tiểu thuyết, lại phải viết phê bình, cũng còn phải làm thư nữa, thế thì làm sao cho hay được? Đó là vì ít người quá, giá có nhiều người thì ai phiên dịch cứ phiên dịch, ai sáng tác cứ sáng tác, ai phê bình cứ phê bình ; binh lực mạnh mẽ thì ứng chiến với quân địch cũng dễ dàng được trận. Về điểm ấy, tôi xin nhân dịp kể ra một việc. Năm kia, Sáng tạo xã và Thái dương xã tấn công tôi, lực lượng của họ thực không có gì, sau rồi cả đến tôi cũng thấy hơi buồn nản, không có hứng phản công nữa, vì tôi thấy rõ bên địch đang diễn trò "không thành kế"(6). Lúc đó bên địch của tôi chỉ việc thổi kèn dóng trống om sòm, chứ không lo rèn binh luyện tướng ; những bài công kích tôi cố nhiên nhiều lắm, nhưng xem qua thì biết rằng đó là một hay hai người mà bịa ra nhiều tên ký, chửi đi chửi lại cũng chỉ có mấy câu đó mà thôi. Tôi bấy giờ đợi cho có - 99
một người nào biết dùng ngọn roi phê bình theo chủ nghĩa Mác đến đánh tôi thình lình, nhưng mà người ấy rốt cuộc không hề xuất hiện. Về phần tôi thì lại từ trước đến giờ đã chú ý đến sự đào tạo thanh niên chiến sĩ mới, từng tổ chức mấy cái đoàn thể văn học, có đều hiệu quả cũng rất nhỏ. Nhưng rày về sau, chúng ta cần phải chú ý cái điểm ấy. Chúng ta kíp phải tạo ra một số đông chiến sĩ mới, nhưng đồng thời, những người đứng trên mặt trận văn học còn phải "dẻo dai". Nói rằng dẻo dai, nghĩa là đừng làm như kiểu những người làm văn bát cổ đời Mãn Thanh coi nó là "hòn gạch gõ cửa". Văn bát cổ của đời Mãn Thanh vốn là cái công cụ thi đỗ làm quan, hễ ai đã làm được "khởi thừa chuyển hiệp"(7), nhờ đó lấy được "tú tài, cử nhân" rồi, thì có thể vứt bỏ cái văn bát cổ, cả đời không dùng nó nữa, cho nên gọi là "hòn gạch gõ cửa", nghĩa là cũng như dùng một hòn gạch gõ cái cưa, cửa mở ra rồi thì ném hòn gạch đi, không cần còn giắt nó bên mình làm chi. Cái mánh khóe ấy đến nay cũng vẫn còn có nhiều người dùng. Chúng ta thường thấy có những người ra một vài tập thơ hoặc tiểu thuyết, rồi sau biền biệt không thấy họ đâu nữa, họ đi đường nào thế? ấy là vì sau khi ra một vài tập sách, có một chút danh tiếng nhỏ hoặc lớn, được lên ngôi cái ghế giáo thụ hoặc cái ghế nào đó, công thành danh toại, không cần viết thơ viết tiểu thuyết nữa, cho nên biền biệt không thấy họ đâu nữa. Vì vậy, cho nên ở Trung Quốc, không cứ ở văn học hay khoa học đều không có cái gì cả, nhưng ở chúng ta thì phải có cái gì, vì cái đó là hữu dụng cho chúng ra. (Lunacharsky đến nỗi chủ trương rằng nên - 100
bảo tồn mỹ thuật nông dân nước Nga, vì có thể chế tạo ra bán cho người ngoại quốc, giúp ích về kinh tế. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ra có cái gì về văn học hay khoa học đem cho người khác được, thì cho đến về sự vận động chính trị để tháot khỏi áp bách của chủ nghĩa đế quốc cũng có giúp ích kia). Nhưng, muốn có thành tích về văn hóa thì không dẻo dai không được. Sau cùng, tôi nghĩa rằng mặt trận liên hiệp phải lấy sự có cùng một mục đích làm điều kiện tất yếu. Tôi nhớ như từng có nghe qua câu nói nầy: "Phải phản động đã có mặt trận liên hiệp rồi mà chúng ta còn chưa đoàn kết với nhau đi!". Thực ra thì họ cũng chưa hề có mặt trận liên hiệp có ý thức, chỉ vì họ có cùng một mục đích, cho nên hành động được nhất trí, rồi tự chúng ta xem thấy như là một mặt trận liên hiệp đó thôi. Còn mặt trận của chúng ta không thống nhất được, đủ chứng tỏ rằng mục đích của chúng ra không được nhất trí, hoặc chỉ vì một đoàn thể nhỏ, hoặc thực ra còn là chỉ vì cá nhân, nếu quả cùng có một mục đích ở đại chúng công nông, thì thế bài mặt trận cũng đã thống nhất rồi. (Dịch ở Nhị tâm tập). ----------------------------------------------(1)
Piliniad tên thực là Wogan, sinh năm 1894. Năm 1922 phát biểu một cuốn tiểu thuyết, được tiếng khen lừng lẫy. Nhưng về sau dần dần thành ra nhà văn phản động, bị giới phê bình Liên sô công kích, năm 1925 hầu như bị loại ra khỏi văn đàn Liên sô. Nhưng đến năm 1930, sau khi phát biểu cuốn tiểu thuyết "sông Vôn-ga chảy đến Lý hải", lấy kế hoạch 5 năm
- 101
làm đề tài, miêu tả sự âm mưu và thất bại của bọn phản cách mạng, lại dần dần lấy lại danh vọng cũ. (2)
Tức là Eremburg được xưng là tác gia vĩ đại Liên sô ngày nay. Vào quãng mấy năm sau Cách mạng tháng Mười, ông còn là một nhà văn "lừng khừng", cho nên ở đây bị liệt vào một loại với Esenin, Piliniad. (3)
Henri Heine (1797-1856), một thi nhân nước Đức.
(4)
Lương Thực Thu, giáo thụ đại học, một nhà văn về phái Tân nguyệt, có viết trên "Tân nguyệt nguyệt san" cái bài đề là "Văn học có giai cấp tánh không?" Trong có câu rằng: "Một người vô sản nếu như biết lo, chỉ phải thật thà cặm cụi làm lụng một đời, thế nào cũng kiếm được một số tài sản hoặc nhiều hoặc ít. ấy mới là cái thủ đoạn chân chính đấu tranh cho sự sống." ở nơi khác, Lỗ Tấn đã có bài bác trọn cả bài ấy của Lương Thực Thu. Hai chữ "biết lo" trong bài nầy là căn cứ ở một câu trên đây của Lương Thực Thu. (5)
"Hội diệt", tiểu thuyết dài của Fataef (trong Lỗ Tấn toàn tập có nơi gọi là "Hủy diệt" ), bản dịch của Lỗ Tấn xuất bản năm 1931. (6)
Không thành kế: theo truyện Tam quốc, có một lần Tư mã ý tấn công cứ điểm của Khổng minh, vì quân số ít, Khổng minh không dự bị ứng chiến, mà lại mở cửa thành ra, ngồi trên lầu thành gẩy đàn. Tư mã ý đến, thấy thế, đồ là có phục binh, không đánh mà rút lui. Đó gọi là "không thành kế". (7)
Khởi thừa chuyển hiệp là một phép tắc làm văn bát cổ: Khởi là mở đầu bài, thừa là tiếp theo ý mở, chuyển là chuyển sang ý khác, hiệp là hợp lại những ý trên mà làm kết luận.
- 102
HIỆN TRẠNG GIỚI VĂN NGHỆ CỦA TRUNG QUỐC TỐI TĂM
(Viết cho báo "Tân quần chúng" nước Mỹ)
Hiện nay ở Trung Quốc, vận động văn nghệ của cách mạng vô sản giai cấp, thực ra là vận động văn nghệ có một. Vì đó là cái chồi mầm trong đồng hoang, ngoài đó ra, Trung Quốc không còn có văn nghệ nào khác nữa. Gọi là "nhà văn nghệ" thuộc về giai cấp thống trị thì đã mục nát đến nỗi cả đến thứ tác phẩm kêu bằng "nghệ thuật vì nghệ thuật" cho đến "đồi phế" cũng không sản sinh ra được, hiện tại, cái để mà chống lại văn nghệ tả dực, chỉ có đặt điều nói xấu, đè nén, bỏ tù và giết gióc ; người để mà đối lập với tác gia tả dực, cũng chỉ có lưu manh, mật thám, chó săn và đao phủ thủ. Về một điểm đó, đã được chứng tỏ mười phần rõ ràng bởi những sự thực hai năm. nay. Năm kia, khi lý luận văn nghệ của Plekhanov và Lunacharsky bắt đầu giới thiệu vào Trung Quốc, trước tiên - 103
làm một vị môn đồ của Mr. Prof. Irving Babbitt(1), là vị "Học giả" nhạy cảm giác, phẫn uất và cảm khái, vị ấy cho rằng văn nghệ vốn không phải là vật của giai cấp vô sản, người vô sản nếu muốn sáng tác hay thưởng thức văn nghệ thì trước phải cặm cụi làm cho có tiền, bò lên giai cấp tư sản đã, chứ không được mang cả người rách rưới đến làm ồn trong cái vườn hoa ấy. Vả còn bịa chuyện dêu dao, nói rằng những người chủ trương văn học giai cấp vô sản ở Trung Quốc là người đã nhận được đồng rúp của Liên Xô. Cái phương pháp ấy cũng không phải không có hiệu lực chút nào, liền có nhiều ký giả nhà báo ở Thượng Hải thời thường phao ra những tin mới, có khi đăng cả số mục đồng rúp. Nhưng những độc giả sáng suốt không tin điều đó, bởi vì đem so sánh với những tin mới trên giấy đó, họ lại xem thấy cách thiết thực ở việc trước mắt là chỉ có những súng đạn chở từ các nước đế quốc chủ nghĩa đến để giết gióc người vô sản. Bọn quan liêu của giai cấp thống trị thì cảm giác chậm hơn học giả một chút, nhưng năm ngoái đây cũng đã mỗi ngày một áp bách thêm. Cấm báo chí, cấm sách vở, chẳng những cấm những thứ mà nội dung hơi có cách mạng tánh, mà cả đến bìa sách in chữ đỏ, tác giả là người Nga, như A. Serafimovitch V. Ivanov và N. Ognev chẳng nói làm chi, cả đến một vài thứ tiểu thuyết của A. Chekhov và L. Andreev cũng đều ở trong số bị cấm. Thế rồi cửa hàng sách buộc phải chỉ in ra những sách dạy toán và đồng thoại, như Mr. Cal và Miss Rose nhàn đàm, ca tụng mùa xuân đáng yêu như thế nào v.v... - bởi vì bản dịch đồng - 104
thoại của tác giả H. Zur Mỹhlen đã bị cấm rồi, cho nên chỉ phải hết sức ca tụng mùa xuân. Song le hiện nay lại có một vị tướng quân nổi giận, nói động vật mà cũng đâm ra biết nói, vả lại được gọi là Mr., thì làm mất cái tôn nghiêm của loài người đi. Chỉ cấm mà thôi, còn chưa phải là cách trừng trị tận gốc. Thế rồi năm nay có năm tác gia tả dực mất tích, người nhà đi hỏi thăm, biết là ở tại bộ tư lệnh cảnh bị, nhưng không thấy nhau được, sau nửa tháng, đi hỏi nữa, thì lại nói đã được "giải phóng" rồi - "giải phóng" đây là nói mỉa, thay cho "Tử hình" - vậy mà hết thảy các báo chữ Trung Quốc và chữ tây ở Thượng Hải không hề nói tới(2). Tiếp đó là đóng cửa các hàng sách từng in sách mới hoặc bán sách mới, khi nhiều lắm là một ngày năm nhà, - nhưng bây giờ lại đã lục tục mở cửa rồi, chẳng rõ ra làm sao, xem quảng cáo mới biết các cửa hàng ấy đang hết sức in những sách hai thứ chữ Anh và Hán đối chiếu, như những sách của bọn Robert Stevenson và Oscar Wilde(3). Nhưng mà, đối với văn nghệ, giai cấp thống trị cũng không phải là không kiến thiết tích cực. Một mặt, họ đuổi những chủ tiệm và người làm nguyên có trong mấy cửa hàng sách, ngấm ngầm đưa vào đó một tụi người từng cúi đầu chịu họ sai khiến. Nhưng làm như thế đã thấy thất bại ngay. Vì trong đó toàn là chó săn, cửa hàng sách ấy bèn giống như một quan nha uy nghiêm lộng lẫy, mà quan nha của Trung Quốc là chỗ nhân dân rất sợ và rất chán, tự nhiên không có người nào. Những kẻ ưa tới lui ở đó vẫn là - 105
mấy con chó săn chạy rông. Như vậy, làm thế nào cho cửa hàng tấp nập được? Song le, còn có một mặt khác là viết bài, in tạp chí, để thay thế những sách báo của tả dực đã bị cấm, kể đến hôm nay đã gần được mười thứ rồi. Nhưng như thế cũng đã thất bại. Cái điều làm ngăn trở là những người chủ trì "văn nghệ" đó, một vị là ủy viên của chính phủ ở thành phố Thượng Hải, một vị là đội trưởng trinh thám của bộ tư lệnh cảnh bị, bọn họ có danh tiếng về giỏi "giải phóng" hơn là về "sáng tác". Nếu họ làm một bộ sách nói về "phép giết người" hay là "thuật trinh thám", hoặc giả còn có người xem, chẳng may họ lại đang muốn vẽ tranh, làm thơ. Cái đó thật giống như ông cụ Henry Ford nước Mỹ không nói chuyện xe hơi mà lại đứng hát trước công chúng, chỉ làm cho người ta cảm thấy lạ lùng hết sức. Cửa hàng sách của quan không có ai đến, sách báo không có ai xem, cái phương pháp cứu chữa là bắt ép những người từng có danh tiếng mà không hẳn tả khuynh đến viết cho họ, hầu giúp cho sách báo được chạy. Kết quả, chỉ có một vài kẻ gà mờ mắc mưu, số đông thì cho đến nay chưa hề viết, có một người bị ngăm dọa đến phải trốn tránh chẳng biết đi đường nào. Hiện nay những "nhà văn nghệ" rất được quý chuộng trong đám họ là mấy người từng xưng mình là tả dực trong khi vận động văn nghệ tả dực mới bắt đầu, từng được đám thanh niên cách mạng ủng hộ, mà bây giờ bò đến dưới lưỡi dao của họ, trở mặt làm hại các tác gia tả dực. Tại sao bọn họ lại được quý chuộng? Bởi vì chúng từng là tả dực, cho - 106
nên có mấy thứ sách của chúng ngoài bìa vẫn còn có một phần đỏ, nhưng những hình vẽ công nông trong đó đã đem hình vẽ của Aubrez Beadslez thay vào, cái nào cũng giống như người đau. Ở dưới tình hình ấy, trong đám độc giả, những kẻ nào ưa đọc tiểu thuyết cường đạo kiểucũ và tiểu thuyết nhục dục kiểu mới thì cũng không thấy cái gì là bất tiện. Nhưng những thanh niên khá tiến bộ thì thấy không có sách để đọc, cực chẳng đã họ phải xem những sách nói suông rất nhiều mà nội dung rất ít - sách như thế thì mới khỏi bị cấm, tạm đỡ cơn đói khát, vì họ biết rằng mua thứ thuốc độc giục đi tháo dạ của nhà quan chi bằng nhắp nhắp cái chén không, ít nữa là không đến bị hại. Nhưng phần nhiều thanh niên cách mạng thì lại không luận thế nào, họ vẫn cứ yêu cầu, ủng hộ, phát triển văn nghệ tả dực cách nhiệt liệt khác thường. Bởi vậy, ngoài những sách báo do quan làm ra và do chó săn của quan làm ra, những báo chí của các cửa hàng sách khác, vẫn phải kiếm cách nầy cách khác thêm vào một vài tác phẩm hơi cấp tiến, vì họ cũng biết rằng chỉ bán cái chén không, lối buôn bán ấy quyết không thể lâu dài. Văn nghệ tả dực có đại chúng độc giả cách mạng nâng chỏi, cái "tương lai" chính ở một phương diện ấy. Như thế, văn nghệ tả dực vẫn đang cứ lớn lên. Có điều tự nhiên nó phải giống như cái chổi cái mầm bị đèn dưới hòn đá lớn, đang lớn lên một cách co quắp. - 107
Điều đáng tiếc là trong đám tác gia tả dực còn chưa có tác gia xuất thân từ công nông. Một là vì công nông từ hồi nào đến giờ chỉ bị áp bách, bóc lột, không có dịp được học ; hai là vì thứ chữ khối vuông của Trung Quốc là thứ chữ tượng hình - hiện giờ thì nó đã biến đổi đến nỗi hình cũng chẳng tượng nữa - làm cho người công nông tuy đi học mười năm cũng không thể viết ra mà phô bày ý kiến của mình được. Điều đó rất làm cho "nhà văn nghệ" cầm dao vui mừng. Họ cho rằng đi học mà đến viết văn được, ít nữa phải là giai cấp tiểu tư sản, người tiểu tư sản đáng lẽ phải giữ chặt lấy cái tiểu tư sản của mình, nay trở hướng chiều về người vô sản, đó nhất định là "giả dối". Chỉ có tác gia của giai cấp tiểu tư sản chống lại văn nghệ giai cấp vô sản thì lại ra từ lòng "chân thật". "Chân thật" tốt hơn "giả dối", cho nên những sự đặt điều nói xấu, đè nén, bỏ tù và giết gióc họ đối với tác gia tả dực, lại là thứ văn nghệ càng tốt hơn. Nhưng mà, cái thứ "văn nghệ càng tốt hơn" cầm dao ấy, ở trên sự thực, nó đã chứng minh rằng bọn tác gia tả dực đang cùng với đám vô sản bị đè nén, bị giết gióc, chịu chung một số mạng với nhau. Chỉ có văn nghệ tả dực cùng chung chịu nạn với đám vô sản ở hiện tại, thì tương lai chắc chắn cùng chung nổi dậy với đám vô sản. Một mực giết người mà thôi, rốt cuộc không phải là văn nghệ, bọn họ cũng nhân đó tuyên cáo rằng chính mình không có một chút gì hết. 1931 (Dịch ở Nhi tâm tập) - 108
--------------------------------------------(1)
Đây chỉ Lương Thực Thu. Lương nguyên là lưu học sinh ở Mỹ, sau về nước làm giáo thụ đại học, cũng là một nhà văn về phái Tân nguyệt, một phái với Hồ Thích, từng chủ trương rằng văn học không có giai cấp tánh. (2)
Đây nhấn lên, những chữ "một vị", "vị ấy" và cả cái luận điệu phản động đó đều là âm chỉ giáo thụ Lương Thực Thu. Lương nguyên là lưu học sinh ở nước Mỹ, học trò của Prof. Babbitt, cho nên nói là môn đồ của Prof. Irving Babbitt. Xem thêm lời chua số 4 bài "ý kiến đối với Tả dực tác gia liên minh". (3)
Robert Steveson (1850 - 1894) và Oscar Wilde (1856 - 1900) đều là tác gia tư sản nước Anh.
- 109
CHÚNG TA KHÔNG BỊ LỪA NỮA ĐÂU
Chủ nghĩa đế quốc nhất định sẽ tấn công Liên Sô. Liên Sô càng làm mình nên tốt, nó càng gấp rút muốn tấn công, bởi vì nó càng muốn đi tới diệt vong. Chúng ta bị chủ nghĩa đế quốc cùng tay sai của nó lừa bịp đã lâu rồi. Sau Cách mạng tháng Mười, chúng vẫn cứ nói Liên Sô nghèo nàn thế nào, hung ác thế nào, phá hoại văn hóa thế nào. Nhưng sự thực hiện nay là thế nào? Lùa mì và dầu hỏa bán ra ngoài, chẳng đã làm cho thế giới thất kinh ư? Thủ lãnh của Thực nghiệp đảng là kẻ địch chính, chẳng đã chỉ làm án mười năm tù ư? Thư viện và bác vật viện ở Lêningờrát và Mạc Tư Khoa chẳng phải đã đều không bị đốt cháy ư? Nhà văn học như Sérafimovitch, Fadaef, Karlov, Tchevdrine, Cholokov, tác phẩm của họ chẳng phải đã được Tây Âu, Đông á đều khen ngợi ư? Những việc thuộc về nghệ thuật, tôi không biết rõ lắm, nhưng theo lời K. Umansky, trong năm 1919, có hai mươi lần triển lãm ở Mạc Tư Khoa, hai lần ở Lê-nin-gờ-rát, thì có thể nghiệm biết hiện nay đã sầm uất lắm. Nhưng mà cái bọn đặt điều nói xấu thật rất mực dạn dày và lâu cả, một khi sự thực đã chứng minh là chúng nó - 110
nói dối rồi, chúng bèn giấu mặt đi, lại chường ra một lũ khác. Mới rồi, tôi thấy một tập sách nhỏ, sách nói về tài chính nước Mỹ có cơ phục hưng, ở bài tựu kể đến chuyện bèn Liên Sô, hiện nay mua đồ ăn thức dùng vẫn còn phải sắp hàng dài đứng chực, những người đứng sắp hàng ấy mà đâm ra tức tối và động lòng thương xót. Cái việc ấy, tôi tin là có. Bởi vì ở Liên Sô, trong thì đang kiến thiết chưa xong, ngoài thì bị chủ nghĩa đế quốc áp bách, bao nhiêu đồ ăn thức dùng, vẫn không làm sao đủ được. Có đều, chúng ta cũng nghe thấy những người thất nghiệp ở nước khác đang sắp hàng dài đi đến đói rét; còn nhân dân Trung Quốc thì đang bị giam hãm trong vòng nội chiến, ngoại xâm, tai trời ách nước, sưu cao, thuế nặng, sắp hàng dài đi đến chỗ chết. Nhưng mà chủ nghĩa đế quốc cùng lũ đầy tớ nó còn cứ nói với chúng ra rằng Liên Sô không tốt thế nọ thế kia, làm như chúng trở muốn Liên Sô bỗng chốc biến thành thiên đường, ai nấy đều hưởng phúc, mà nay lại như thế, thì chúng lấy làm thất vọng, lấy làm áy náy. ấy thật là nước mắt của quỉ dữ. Trợn mặt lên một cái, đã phơi cái mặt thật của quỉ dữ ra, chúng muốn trừng trị Một mặt chúng muốn trừng trị, một mặt chúng lại lừa bịp. Những giọng nói như chính nghĩa, nhân đạo, công lý lại sẽ tung ra đầy trời rồi. Song le chúng ta nhớ lắm, hồi - 111
Đại chiến Âu châu đã tung ra một lần, phỉnh được bao nhiêu kẻ khổ công của chúng ra đi ra mặt trận chết thay cho chúng, sau đó là dựng một cái bài phòng "công lý chiến thắng" nhơ nhuốc dại dột ở vườn hoa Trung ương Bắc Kinh (rồi lại phá đi)(1). Bây giờ thì thế nào? "công lý" ở đâu? Việc ấy đến nay chưa đầy mười sáu năm, chúng ta còn nhớ. Ngoài lũ đầy tớ của nó ra không kể, chủ nghĩa đế quốc với chúng ta, nào có cái điều lợi hại nào là chẳng trái nhau? Ung thư của chúng ta là bảo bối của chúng nó, vậy thì kẻ địch của chúng nó, đương nhiên là bạn của chúng ta rồi. Chính mình chúng nó đang sụp đổ tan vỡ, không phương chống chỏi, vì toan cứu vãn cái mạt vận của mình, đâm ra ghen ghét sự tiến lên của Liên Sô. Dêu dao, nguyền rủa, căm giận, đủ vành rồi mà không được việc gì cả, cuối cùng chỉ có chuẩn bị ra tay đánh, nhất định diệt quách đi mới ngủ yên. Nhưng còn chúng ta thì làm gì? Chúng ta còn có thể bị lừa bịp nữa không? "Ở Liên Sô, giai cấp vô sản chuyên chính, giai cấp tri thức phải chết đói." Một vị ký giả danh tiếng từng đem câu ấy cảnh cáo tôi. Phải, điều đó e sẽ làm cho tôi cũng có hơi ngủ không yên đó chúc. Nhưng, giai cấp vô sản chuyên chính, chẳng phải để cho xuất hiện ngày mai không có giai cấp là gì? Miễn là các ngươi đừng toan làm hại nó, tự nhiên nó thành công sớm một ngày, giai cấp cũng tiêu diệt sớm một ngày, lúc đó thì ai ai cũng không thể "chết đói" được. Không cần nói, cái sự sắp hàng dài tạm thời không - 112
thể tránh được, nhưng cuối cùng sẽ sung sướng. Bọn đầy tớ của chủ nghĩa đế quốc sẽ đi đánh, chính mình chúng (!) theo gót ông chủ chúng đi đánh, thế là điều lợi hại giữa nhân dân chúng ta và chúng nó hoàn toàn trái nhau. Chúng ta phản đối sự tấn công Liên Sô. Chúng ta lại sẽ đánh ngã lũ quỉ dữ tấn công Liên Sô, mặc kệ chúng nói những lời ngọt ngào thế nào, làm ra mặt công bình chính trực thế nào. Đó mới là con đường sống của chúng ta. 6-5-1932 (Dịch ở Nam xang bắc điệu tập) ---------------------------------------------(1)
Đây chỉ vào việc chính phủ Đoàn Kỳ Thụy gia nhập Đồng minh đánh Đức trong lần chiến tranh 1914-1918, về sau Trung Quốc hao người tốn của mà không được chi hết, chỉ có lập một cái bài phong ở vườn hoa Trung ương Bắc Kinh đề bốn chữ "công lý chiến thắng", mà rồi bị quốc dân công kích quá, phải phá đi.
- 113
"LỜI NÓI CỦA NGƯỜI"
Nhớ trong sách đồng thoại "Thằng bé Jean" của nhà văn Hà lan tên là F.van Eeden - tiếc thay năm ngoái ông chết mất rồi - có chép rằng thằng bé Jean, khi nghe hai giống nấm tranh luận với nhau, xem vào phê bình một câu: "Cả hai chúng mầy đều là có độc cả", hai giống nấm giật mình kêu lên rằng: "Mầy là người ư? Đó là lời nói của người!" Đứng trên lập trường giống nấm mà nhìn, thật đáng giật mình và kêu lên. Loài người vì muốn ăn chúng nó mới đầu tiên chú ý ở sự có độc hay không có độc, song ở chính mình giống nấm, điều đó không có quan hệ gì cả, hoàn toàn không thành vấn đề. Tuy là sách vở hoặc văn chương cốt ý ban cho người ta cái tri thức khoa học, vì muốn vui câu chuyện cũng thường hay nói "lời nói của người". Cái chứng bệnh ấy cả đến sách "Côn trùng ký" (Souvenirs Enlomologiques) tiếng nổi như cồn của J.H Fabre làm ra cũng không khỏi. Đến những đồ gặp đâu sao chép đó thôi không cần nói. Gần nay - 114
trên tạp chí tình cờ thấy một bài dạy cho thanh niên tri thức về sinh vật học, trong có những đoạn thế nầy... "Nhện cứt chim... hình thể nó đã giống cứt chim, lại có thể nằm im không động đậy, chính mình giả trang làm ra dáng cứt chim." "Trong giới động vật, cái thứ ăn thịt chính chồng mình rất nhiều, song nổi tiếng hơn hết phải kể giống nhện nói trên và giống bọ ngựa dưới đây sẽ nói đến..." Đó cũng không khỏi nói "lời nói của người" quá trớn. Con nhện cứt chim chỉ là hình thể nó vốn giống cứt chim, tính nó lại không động đậy, chứ không phải nó cố ý làm ra dáng cứt chim cốt để lừa phỉnh những sau bọn nhỏ. Trong xã hội bọ ngựa cũng còn chưa có cái thuyết ngũ luân, khi chúng nó lẹo nhau, con cái ăn quách con đực đi, là bởi nó đói bụng, phải ăn cái gì chứ, chứ nó đâu biết cái ấy là ông chủ nhà của chính mình nó(1). Nhưng mà một khi đã viết ra bằng "lời nói của người", thì một con thành ra kẻ hung phạm mưu sát, một con thành ra con vợ ác ăn thịt chồng. Thực ra, đều là oan uổng cả. Trong "lời nói của người" còn có các thứ "lời nói của người". Có lời nói của người Anh, có lời nói của người Hoa. Trong lời nói của người Hoa lại có các thứ: có "lời nói của người Hoa bậc cao", có "lời nói của người Hoa bậc bét"(2). Miền tây Chiết giang có câu chuyện buồn cười chế diễu sự khờ khạo của người đàn bà nhà quê thế nầy...
- 115
"Giữa trưa trời mùa bức, một mụ nông phụ làm việc khó nhọc quá, bỗng than thở rằng: "Đức bà hoàng hậu thật sung sướng biết ngần nào. Giờ nầy chẳng là đang ngủ trưa trên giường, khi thức dậy gọi: thái giám, đem mứt hồng lên đây!" Nhưng mà, đó không phải là lời nói của người Hoa bậc bét", mà là "lời nói của người Hoa bậc bét" trong ý của người Hoa bậc cao, cho nên, thực nó là "lời nói của người Hoa bậc cao". ở chính mình người Hoa bậc bét, có lẽ lúc đó chưa chắc nói như vậy, mà dù có nói như vậy, cũng không coi là câu chuyện cười(3). Thẳng giằm nói nữa, lại phải kéo tới sự rắc rối về văn học giai cấp, thôi, ngừng lại(4). Hiện nay có những người làm sách, bằng cái tôi viết thư cho thanh niên hoặc thiếu niên. Tự nhiên, những điều nói đó là "lời nói của người" rồi. Song không biết là lời nói của người hạng nào? Tại sao không viết cho những người lớn tuổi hơn? Tuổi lớn rồi thì không cần dạy bảo hay sao? Hay là thanh niên và thiếu niên so sánh còn thật thà, dễ lừa phỉnh? 21-3-1933 (Dịch ở Nguy tự do thư) -------------------------------------------(1)
"Ông chủ nhà": nguyên văn là "gia chủ công". Theo luân lý phong kiến, trong gia đình, vợ phải coi chồng là ông chủ, thường thường vợ cũng có gọi chồng là "phu chủ", cho nên nói thế. - 116
(2)
Trước kia, người ngoại quốc ở trong đất Trung Quốc, nhất là ở các tô giới, thường chia người Trung Quốc làm hai hạng: "Cao đẳng Hoa nhân" là hạng giàu sang có học thức ; "hạ đẳng Hoa nhân" là hạng nghèo hèn dốt nát như công nhân nông dân. (3)
Nếu nói như vậy thì là có ý thức giai cấp rồi, có ý thức giai cấp thì sẽ đi đến đấu tranh giai cấp, cho nên không coi là câu chuyện cười. (4)
Từ năm 1930, Lỗ Tấn đã cãi nhau với Lương Thực Thu về văn học có hay không giai cấp tánh, cho nên ở đây không "nói nữa".
- 117
VỀ NGƯỜI NỮ
Trong kỳ quốc nạn(1), hầu như người nữ cũng chịu nạn riêng phần họ. Một số chánh nhân quân tử(2) trách người nữ ưa xa hao, không chịu muA Quốc hóa. Cho đến nhảy múa, làm đỏm dáng, phàm những cái gì có quan hệ với nữ tánh, đều thành tội trạng cho họ. Hình như người nam đều làm thầy tu khổ hạnh đi, người nữ đều vào nhà tu đi, thì quốc nạn sẽ được cứu ấy. Thực ra thì đó không phải là tội trạng của người nữ, mà là điều đáng tội nghiệp cho họ. Cái chế độ xã hội nầy gò ép họ thành ra các thứ các kiểu nô lệ, rồi còn đem mọi tội danh trút trên đầu họ nữa. Những năm rốt đời Tây Hán, "búi tóc sa ngựa", "mày buồn dáng khóc", cũng nói là cái triệu chứng mất nước(3). Thực ra thì kẻ làm mất nhà Hán có phải là người nữ đâu! Chẳng qua, chỉ khi có người đứng ra thở vắn than dài, bực mình về cái lối trang sức của người nữ, chúng ta khắc biết cái tình hình của giai cấp thống trị lúc đó đại khái có mòi không khá rồi.
- 118
Xa xỉ và dám mị chỉ là cái hiện tượng của xã hội thối tha đổ nát, quyết không phải là nguyên nhân. Thứ xã hội theo chế độ tư hữu, vốn đã coi người nữ là của riêng, là món hàng buôn. Hết thảy quốc tục, hết thảy tông giáo đều có nhiều quy điều lạ lùng cổ quái, coi người nữ là một thứ động vật có điềm xấu, dọa nạt họ, khiến họ phục tùng như nô lệ ; đồng thời lại cần họ làm đồ chơi cho giai cấp cao. Cũng như những chánh nhân quân tử hiện nay, họ chửi người nữ xa hoa, vênh mặt lên duy trì phong hóa, mà đồng thời cũng len lẻn ngắm thưởng cái văn hóa trần đùi làm cho ngây ngất(4). Một thi nhân Aráp đời xưa có câu: "Thiên đường trên mặt đất là ở trên sách vở thánh hiền, trên lưng ngựa, trên ngực người đàn bà." Câu nói ấy, thế mà là lời cung khai thật thà. Tự nhiên, các thứ các kiểu mãi dâm đều có phần của người nữ. Nhưng mà việc mua bán là việc hai bên. Không có người đàn ông đi mãi dâm thì làm sao có người đàn bà đi mãi dâm(5). Cho nên vấn đề còn ở chỗ nguồn gốc xã hội của sự mãi dâm nữa. Hễ cái nguồn gốc ấy còn có một ngày, tức là người mãi dâm là người chủ động còn có một ngày, thì cái sự gọi là xa hoa dâm mị của người nữ cũng một ngày không thể tiêu diệt được. Khi người nam còn là chủ tư hữu, chính mình người nữ cũng chẳng qua là vật sở hữu của người nam. Cũng có lẽ vì đó cái lòng yêu tiếc gia tài của người đàn bà tương đối có hơi nhẹ, và họ thường thường thành ra thứ "yêu tinh phá nhà". Huống chi hiện - 119
nay cái cơ hội mãi dâm nhiều như thế, người đàn bà trong gia đình tự dưng cảm thấy địa vị của mình có nguy hiểm. Mấy năm đầu Dân quốc, tôi nghe nói, cái mốt tân thời ở Thượng hải là từ trường tam, yêu nhị(6) truyền đến hạng bà hai bà ba, rồi từ hạng bà hai bà ba truyền đến hạng các bà cả, các mợ, các cô tiểu thư. Những "con người khuê các" ấy phần nhiều đang cạnh tranh với đĩ điếm một cách không tự biết, tự nhiên, họ phải hết sức trau tria thân thể của mình, trua tria đến thế nào cho nắm chắc được cả tấm lòng của người đàn ông. Cái đại giá của sự trau tria ấy rất đắt, vả lại một ngày càng đắt thêm một ngày, chẳng những về vật chất mà còn về tinh thần nữa(7). Một ông triệu phú nước Mỹ nói: "Chúng tôi không sợ Cộng phỉ, (nguyên văn không có chữ phỉ, tuân theo công lệnh cải dịch,)(8) vợ và con gái chúng tôi sẽ làm cho chúng tôi phá sản, không đợi bọn công nhân kịp đến tịch thu. Có lẽ ở Trung Quốc chỉ e bọn công nhân "đến kịp", cho nên đàn ông đàn bà người Hoa bậc cao vội vã cứ tiêu xài, cứ ăn dùng, cứ sung sướng như thế, kể chi là quốc hóa không quốc hóa, phong hóa không phong hóa. Nhưng mà đầu mồm là phải duy trì phong hóa, đề xướng tiết kiệm. 11-4-1933 (Dịch ở Nam xang bắc điệu tập) ----------------------------------------(1)
Từ năm 1931 Nhật Bản nổ súng đánh Đông Bắc, sang năm 1932 lại tiến công Thượng hải. Thập cử lộ quân chống đánh, chiến sự kéo dài cho
- 120
đến năm 1933, trong thời kỳ ấy người Trung Quốc gọi là "thời kỳ quốc nạn". (2)
Trong tập văn Lỗ Tấn có nhiều lần dùng bốn chữ "chánh nhân quân tử", ấy là chỉ những người trong "Tân nguyệt xã" (tên một văn đoàn) cũng gọi là "Phái Tân nguyệt", tức là bọn Hồ Thích, Lương Thực Thu, một bọn phản động. (3)
"Búi tóc sa ngựa", nguyên văn là "đọa mã kế", nghĩa là búi tóc xiên về một bên ; "mày buồn dáng khóc", nguyên văn là "sầu mi đề trang". Tôn Thọ, vợ của tên quyền thần Lương Ký cuối đời Đông Hán, người đẹp mà khéo làm những dáng dấp đĩ thõa ấy để được chồng yêu, người đời bấy giờ cho là cái triệu mất nước (Đông Hán mới phải, nói Tây Hán, e lầm chăng). (4)
Bấy giờ phụ nữ ở Thượng hải đua nhau mặc một thứ váy lòi đùi ra như là để trần. Hai chữ "văn hóa" đây dùng theo lối phản ngữ. (5)
"Mãi" là mua, "mại" là bán.
(6)
Trường tam, Yêu nhị là hai hạng đĩ ở Thượng hải.
(7)
Muốn trau tria thì phải mất tiền để mua những phấn sáp nước hoa, mà không có tiền thì có khi phải làm cái việc thầm vụng để kiếm tiền, ý tác giả muốn nói thế, cho nên mới nói "chẳng những về vật chất mà còn về tinh thần nữa". Vật chất là tiền bạc, tinh thần là ám chỉ đạo đức làm người. (8)
Dưới chánh quyền Tưởng Giới Thạch, có ra lệnh cho quan nha, báo quán, khi nào trên giấy nói đến Đảng cọng sản Trung Quốc thì phải nói là "cọng phỉ". Chữ "phỉ" nghĩa là giặc cướp. Đây là một cái tin trên báo ngoại quốc, nguyên văn nói "cọng sản", tác giả có ý trên chọc cho nên nói "tuân công lệnh cải dịch".
- 121
HOA VÀ ĐỨC ĐỀU ĐỐT SÁCH MÀ CÓ KHÁC NHAU
Bọn ông Hitler nước Đức đốt sách, các luận giả Trung Quốc và Nhật Bản đều đem sánh với Tần Thủy Hoàng. Nhưng mà Tần Thủy Hoàng thật oan lắm, chỗ thiệt thòi của ông là tại chỉ có hai đời mà mất nước,(1) rồi bọn hầu chảu đều vì nhà chúa mới mà nói xấu ông. Phải, Tần Thủy Hoàng từng đốt sách, đốt sách để mà thống nhất tư tưởng. Nhưng ông không đốt những sách về nông học và y học; ông thu dùng nhiều "khách khanh"(2) các nước khác, cũng không chuyên trọng "tư tưởng của Tần", mà là lượm lặt đủ các thứ tư tưởng. Người Tần trọng trẻ con; mẹ của Thủy Hoàng là con gái nước Triệu, nước Triệu lại là trọng đàn bà, cho nên chúng ta đọc những bài văn "kịch Tần"(3) còn sót lại, cũng không thấy có cái dấu vết khinh miệt đàn bà. Bọn ông Hitler thì không giống thế. Những sách họ đốt trước hết là sách "không phải tư tưởng nước Đức", không có cái phách lực dung nạp khách khanh. Thứ đến đốt những sách nói về - 122
tánh(4), ấy là hủy diệt cái công trình nghiên cứu bằng khoa học để mà giải phóng tánh đạo đức, kết quả sẽ làm cho đàn bà và trẻ con chìm đắm ở cái địa vị thượng cổ, không được thấy ánh sáng. So với cái sự nghiệp lớn, loại như xa đồng quỹ, thư đồng văn...(5) của Tần Thủy Hoàng, bọn họ không làm nên được một tí nào. Khi người Aráp đánh hạ thành Alexanda, đốt trụi những thư viện ở đó, lý luận của chúng là: nếu đạo lý nói trong những sách đó giống với kinh Côran(6) thì đã có kinh Côran, không cần để làm chỉ ; còn nếu không giống, thì là dị đoan, không nên để. Đó mới là tổ sư chính gốc của bọn ông Hitler - tuy người Aráp cũng là "không phải nước Đức" - không thể so sánh được với sự đốt sách của nhà Tần. Song le cái kết quả thường thường không giống với sự tính trước của bọn anh hùng. Thủy Hoàng tính rằng ngôi hoàng đế truyền đến muôn đời, lại chỉ có hai đời mà mất, tha không đốt những sách nông học và y học, mà đến hiện nay loại sách ấy từ Tần về trước một bộ cũng không con. Ông Hitler lên sân khấu một cái là đốt sách, đánh người Do thái, không coi ai ra chi, cả đến tụi con nuôi da vàng ở đây cũng nghe mà nở mặt hỉnh mũi lên, tha hồ chế nhạo những kẻ bị áp bách, nhằm văn chương châm biếm bắn ra cái tên ngầm châm biếm, cuối cùng còn trắng trợn hỏi mát rằng: rốt cuộc các anh muốn tự do hay không muốn? Không được tự do, thà chết. Hiện giờ sao các anh không chết đi? Lần nầy không cần đợi đến hai đời, chỉ có nửa năm, bọn đồ đệ của ông Hitler ở áo bị cấm, cả đến huy chương đảng cũng đổi ra hoa hồng ba màu. Điều rất buồn cười là nhân vì không cho hô khẩu hiệu, ai nấy lấy tay che mồm, thành ra dùng "kiểu bưng mồm".
- 123
Đó thật là một cái châm biếm lớn. Người châm biếm là ai, không cần hỏi, song đủ thấy châm biếm vẫn không phải là "nói mơ", không biết tụi con nuôi da vàng nghĩ sao? 28-6-1933 (Dịch ở Chuẩn phong nguyệt đàm) ------------------------------------------------(1)
Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất thiên hạ, lên ngôi hoàng đế, ra lệnh: "Ta tự xưng là Thủy Hoàng đế, đến đời con ta sẽ xưng là Nhị hoàng đế... rồi cứ thế mà kể cho đến vạn thế." Nhưng mới đến đời con ta là Hồ Hợi, tức Nhị thế hoàng đế thì mất nước. (2)
Nhà Tần thu dụng những người có tài ở các nước khác đến làm quan ở nước minh, gọi là "khách khanh". (3)
"Kịch Tần" là những bài văn chê trách nhà Tần, như của Dương Hùng ; Giã Nghị cũng có bài như thế, gọi là "Quá Tần luận". (4)
"Tánh" tức là "thư hùng tánh" mà nói tắt đi, đồng nghĩa với chữ "sex" trong tiếng Pháp. Xem thêm lời chua số 1 ở bài "Sự tiến hóa của người đàn ông" sau đây. (5)
"Thư đồng văn" là trong cả nước viết cùng một lối chữ với nhau. Thuở Chiến quốc, văn tự mỗi nước viết khác nhau. Sau Tần Thủy Hoàng thống nhất, Lý Tư làm thừa tướng, bãi bỏ các thứ chữ không giống với chữ của Tần, bắt thiên hạ chuyên dùng một thứ chứ nầy, về sau gọi là "Tần triện". Còn "xa đồng quỹ", nghĩa là bánh xe cùng một cỡ với nhau, nhưng thực sự thế nào thì không biết. (6)
Côran là kinh điển của Hồi giáo. Người Aráp theo Hồi giáo.
- 124
BÒ VÀ NHẢY
Trước kia giáo thụ Lương Thực Thu(1) từng nói. Người nghèo thế nào cũng phải bò, bò lên, bò đến địa vị phú ông. Chẳng những người nghèo, mà nô lệ cũng phải bò, có dịp bò lên được, thì cả đến nô lệ cũng có thể thấy mình là thần tiên, thiên hạ tự nhiên thái bình. Kẻ bò lên được tuy rất ít, nhưng ai nấy đều cho là chính mình phải như thế. Thế rồi họ yên phận đi cày ruộng, gieo giống, nhặt phân hay là mài mòn đũng quần trên ghế dài, ăn cần ở kiệm, chịu thương chịu khó, đấu tranh tự nhiên, bán sống bán chết bò, bò, bò. Nhưng người bò thì nhiều cơ man mà con đường bò chỉ có một, chen lấn nhau hết sức. Người thật thà cứ chếu theo nề nếp bò một cách dùng phép thì hầu hết không bò lên được. Người tinh ranh thì xô những người khác, xô dan ra, xô ngã đi, rồi đạp họ xuống dưới chân, giẵm lên trên vai trên đầu họ mà bò - 125
được lên. Còn số rất đông người lại vẫn cứ bò, nhận định kẻ kình địch của mình không phải ở trên kia mà ở hai bên là những người đang cùng bò với mình. Họ cả thảy đều nhịn nhục hết mọi sự, hai tay hai chân bám lấy đất, từng bước từng bước trườn lên rồi lại bị ép xuống, bị ép xuống rồi lại trườn lên, không ai chịu thôi. Nhưng mà, người bò thì rất nhiều, người bò lên được thì rất ít, sự thất vọng dần dần đục mòn tấm lòng người lương thiện, ít nữa cũng có thể nẩy sinh ra cách mạng quỳ(2). Thế rồi ngoài cái bò lại phát minh ra cái nhảy. Ấy là biết rõ anh đã cực nhọc quá, muốn đạp chân từ đất đứng lên, cho nên ở đằng sau lưng anh kêu một tiếng rõ to: nhảy đi thôi. Mỗi một cái chân tê cứng còn đang run liền nhảy qua. Nhảy so với bò nhẹ nhõm hơn nhiều, tay cũng không cần dùng sức, đầu gối cũng không cần động đậy, chỉ phải xoay ngang mình, phóc một cái, liền nhảy qua. Nhảy được lọt thì có ngay năm chục vạn đồng bạc, thê, tài, tư, lộc đều có cả(3). Nhảy không lọt, quá lắm chỉ ngã một keo, nhào xuống đất. Như thế cũng chẳng làm sau đâu - mình vốn là chum him ở trên đất, vẫn cứ bò được. huống chi có những người chỉ nhảy mà chơi, không sợ ngã. Bò, đời xưa đã có rồi. Lệ như từ ấu học đến trạng nguyên, từ thằng khố rách đến com-ra-đo(4). Nhảy thì hình như mới phát minh gần nay. Muốn tra xem cổ tích thì hoặc giả đời xưa chỉ có sự "công chúa gieo cầu" là hơi giống như cho người ta có dịp nhảy(5). Khi quả cầu của công chúa - 126
sắp rơi xuống, mỗi một chú con trai muốn ăn thịt ngỗng trời(6) đều ngước đầu lên, há mồm ra, nước bọt nhểu lòng thòng... Tiếc thay người đời xưa còn vụng tính, không bắt những chú con trai ấy bỏ ra một ít tiền vốn, nếu có thì có thể thu được bao nhiêu vạn vạn(7). Cái cơ hội bò lên được càng ít, người muốn nhảy càng nhiều. Những kẻ đã bò lên được rồi kia, hằng ngày tạo ra cơ hội nhảy cho các anh, bảo các anh bỏ ra chút đỉnh tiền vốn mà hứa hẹn với các anh cuộc sống thần tiên được cả danh lẫn lợi. Cho nên, cái cơ hội nhảy được lọt sánh với mọi người cũng đều muốn thử nhảy xem. Như thế, bò rồi lại nhảy, nhảy không được lại bò... còng lưng mòn sức, chết rồi mới thôi. 16-8-1933 (Dịch ở Chuẩn phong nguyệt đàm) --------------------------------------------(1)
Về Lương Thực Thu, xem lời chua số 4 ở bài "ý kiến đối với tả dực tác gia liên minh" và số 1 ở bài "Hiện trạng giới văn nghệ của Trung Quốc tối tăm". (2)
"Cách mạng quì": Bò thì hai tay hai chân sát đất, vì cũng như làm nô lệ; đang bò mà đứng thẳng lên, ví cũng như cách mạng; còn quì lên, chỉ đứng thẳng được nửa người, ví cũng như cách mạng lở dở, không triệt để. Bởi vậy mới nói "cách mạng quỳ" và mới nói "ít nữa". Tóm lại "cách mạng quỳ" để chỉ một cuộc cách mạng không triệt để; cách mạng triệt để thì như sẽ nói ở hạ văn: "đạp chân từ đất đứng lên". (3)
Năm 1933, chính phủ Quốc dân đảng có mở cuộc xổ số để thu lợi, số độc đắc là 50 vạn đồng, cho nên nói thế. Đang là tay không mà trúng số - 127
50 vạn trở nên giàu có, sự ấy đem so với bò, tức là cặm cụi làm ăn cả đời thì cũng như nhảy. Lỗ Tấn viết bài này cốt để công kích cuộc sổ xố ấy. (4)
"Com-ra-đo" vốn là tiếng I-pha-nho, mà Pháp và Anh cũng có dùng, viết là Comprado, nguyên văn dịch âm, viết bằng ba chữ đọc theo âm Việt là "khang bá độ", ở đây viết theo nguyên âm là "com-ra-đo". Chữ Comprado, ở Trung Quốc trước kia dùng để chỉ người Trung Quốc nào làm nghề buôn bán trung gian giữa nhà ngân hàng hay nhà buôn ngoại quốc với người bổn địa, do đó trở nên giàu có. Cái danh từ ấy nếu nói bằng tiếng Trung Quốc thì là "mại bản" (mà hai chữ này viết ra và đọc theo âm Việt là "mãi biện"), bởi vậy mới có cái danh từ "tư sản mại bản", chỉ những người giàu có nhờ buôn bán với người ngoại quốc, dính chặt với thế lực ngoại quốc. (5)
"Công chúa gieo câu", chuyện ấy thường thấy trong tiểu thuyết cũ. Đang là một người dân hèn mà may ra được làm chồng công chúa thì cũng như đang bò mà nhảy. (6)
Một chàng con trai nghèo hèn mà muốn lấy một cô con gái đẹp và sang trọng, người ta thường ví với "muốn ăn thịt ngỗng trời". Nguyên văn là: "Cùng hán tư thực thiên nga nhục". (7)
Trong những cuộc xổ số, nhà cầm quyền bao giờ cũng trích ra một số tiền lớn để lại, còn thì phân phát cho một số ít người mua vé, mỗi người trúng hoặc nhiều hoặc ít. Cái mánh khóe thủ lợi ấy còn trắng trợn và khốc hại hơn nhà thổ chứa bạc lấy hồ nữa. Chỉ ra cái chỗ người đời xưa vụng tính, không bắt những chú con trai dự đám gieo cầu bỏ ra một ít vốn, để thấy cái chỗ bịp bợm gian tham của cuộc xổ số.
- 128
ĐỒNG Ý VÀ GIẢI THÍCH
Sự hành động của bề trên không cần phải trưng cầu đồng ý của bề dưới, ấy là thiên kinh địa nghĩa. Song le, có khi bề trên đối với bề dưới giải thích(1). Người tân tiến có danh trong thế giới nói rằng: "Thời đại nguyên thủy thì có uy quyền, ví dụ người ta đối với động vật, nhất định là bắt ép chúng nó phục tùng ý chí của người ta, làm cho chúng nó vứt bỏ sự sống tự đó, không cần trưng cầu đồng ý của động vật. Câu ấy nói đến thấu lẽ. Bằng chẳng vậy, chúng ta có thịt bò đâu mà ăn? có ngựa đâu mà cưỡi? Người ta đối với người ta cũng vậy. Vị chủ giáo giáo hội Giatô ở Nhật Bản mới rồi có tuyên bố rằng nước Nhật Bản là đấng thiên sứ nói trong Kinh thánh: "Đức Chúa Trời sẽ dùng Nhật Bản chinh phục người da trắng lâu nay đã giết hại người Do thái... lấy võ lực giải phóng người Do thái, thực hiện lời tiên tri của sách Cựu ước." Điều đó rõ ràng là không trưng cầu đồng ý của - 129
người da trắng, cũng như người da trắng đã giết hại người Do thái mà chưa hề trưng cầu đồng ý của người Do thái vậy. Các ông lớn cụ lớn Nhật Bản chế tạo ra "quốc nạn" ở Trung Quốc, cũng chưa hề trưng cầu đồng ý của nhân dân Trung Quốc. Đến như có những vị thân hào ở địa phương lại đi trưng cầu đồng ý của ông lớn Nhật Bản, xin họ đến duy trì trị an ở địa phương đó, lại là chuyện khác. Tóm lại, muốn tự do tự tại ăn thịt bò, cưỡi ngựa các thứ, thì phải tuyên bố mình là bề trên, kẻ khác là bề dưới ; hoặc coi người khác là động vật, hoặc xưng mình là thiên sứ. Có đều, cái rất khẩn yếu trong đó vẫn là "võ lực", không phải lý luận. Không cứ lý luận của xã hội học hay của Cơ đốc giáo, đều không thể sản sinh ra uy quyền nào cả. Uy quyền của người nguyên thủy đối với động vật là sản sinh bởi sự phát minh ra các thứ như cung tên. Còn như lý luận chẳng qua là để giải thích, về sau mới nghĩ ra. Tác dụng của sự giải thích đó cốt ở chế tạo cái căn cứ của uy quyền mình trên tôn giáo, trên triết học, trên khoa học, trên triều lưu thế giới, khiến cho nô lệ của thế giới nầy là thế, mà dẹp bỏ hết thảy những cái mộng tưởng toan chống lại. Đang khi bề trên đối với bề dưới giải thích, kẻ làm bề dưới rất không nên hiểu lầm đó là trưng cầu đồng ý của mình, bởi vì mình dù có tuyệt đối không đồng ý đi nữa, họ cũng cứ làm việc của họ. Họ có mộng tưởng của họ, chỉ cốt cái lực lượng của vàng bạc châu báu và máy bay súng lớn còn ở trong tay họ, cái mộng tưởng của họ sẽ thực hiện - 130
ngay ; mà mộng tưởng của mình lại rốt cuộc chỉ là mộng tưởng, muôn một thực hiện ra, họ lại nói mình là học đòi họ coi người ta là động vật. Cứ theo lời người ta thì triều lưu thế giới hiện nay chính là lúc xuất hiện thứ chính phủ có quyền lực to lớn, ấy là điều mà người ở thế kỷ mười chín chưa hề mộng tưởng đến. Nước ý và nước Đức không phải nói ; dù cho chính phủ quốc dân nước Anh, "thực quyền của nó cũng hoàn toàn nắm trong tay một đảng là Bảo thủ đảng". Còn "cái quyền lực ông tổng thống mới nước Mỹ đã lấy được để sắp đặt cho việc phục hưng kinh tế lại còn lớn hơn nhiều ở thời kỳ chiến tranh và giới nghiêm(2)." Mọi người làm động vật, để cho bề trên không cần phải trưng cầu đồng ý, đó chính là triều lưu thế giới. Đẹp đẽ thay cái gương mẫu tốt như thế, làm sao không bắt chước? Tôi giải thích như trên đây, đúng lắm đấy, nhưng còn chưa đủ ý. Vua Tần Thủy Hoàng của Trung Quốc chúng ta đã đốt sách chôn học trò, bọn Hàn Thoái chi của Trung Quốc chúng ta đã nói: "Dân không nộp gạo thóc, tơ gai để thờ bề trên thì giết đi"(3). Cái nầy vốn là quốc hóa, tội chi lại làm trái chủ nghĩa dân tộc, dẫn dụng học thuyết và sự thực của nước ngoài thổi phồng oai phong người khác, bóp bẹp chí khí chính mình đi ư? 3-9-1933 (Dịch ở Chuẩn phong nguyệt đàm)
- 131
---------------------------------------------(1)
Câu nầy phản ý câu trên, cho nên dùng hai chữ "song le", chỗ phản là: giải thích chứ không phải trưng cầu đồng ý. (2)
Hai câu để trong những dấu ngoặc kép nầy tất nhiên là lời của phái phản động, nhưng không biết là do ai nói, chưa tìm ra được xuất xứ. (3)
Hàn Thoái chi là Hàn Dũ, người đời Đường, có nói trong bài "Nguyên đạo" mấy câu nầy: "Vua là người ra lệnh, bầy tôi là người thi hành lệnh của vua... dân không nộp gạo thóc tơ gai để thờ bề trên thì giết đi". Nguyên văn: "Quân, xuất lệnh giả dã, thần, hành quân chi lệnh giả dã... dân bất xuất túc mễ tư ma dĩ sự kỳ thượng tắc tru".
- 132
SỰ TIẾN HÓA CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG
Nói rằng cầm thú giao cấu với nhau là luyến ái, e khi xô bồ một chút. Song le, cầm thú cũng có tánh sinh hoạt(1), điều đó thì không thể phủ nhận được. Chúng nó đang thời kỳ "rượn", con cái và con đực gặp nhau, không khỏi có sự "mình mình tôi tôi" trong một lúc. Cố nhiên con cái có khi làm bộ làm tịch, chạy đi mấy bước rồi lại quay đầu nhìn, còn kêu lên mấy tiếng, cho đến khi thực hành cái sự "ân ái" mới thôi. Cầm thú, chủng loại chúng tuy nhiều, sự "luyến ái" của chúng có một điều ai cũng phải công nhận là: con đực không có quyền riêng gì cả. Người ta linh hơn muôn vật, trước hết là bản lãnh của người đàn ông cao cường. Ban đầu vốn là chung chạ bậy bạ, nhưng vì cờ "biết có mẹ không biết có cha", bọn các bà từng "thống trị" qua một thời kỳ, lúc bấy giờ cụ tổ bà chừng như còn oai hơn ông tộc trưởng về sau nữa. Về sau không biết thế nào, người nữ đã sa đọa: ở cổ, ở tay, ở chân đều khóa lại bằng cái dây xích, tròng vào bằng cái vòng cái khuyên - tuy rằng sau mấy ngàn năm rồi những vòng những khuyên ấy đã biến thành bằng vàng bằng bạc, khảm châu báu, kim cương, nhưng mà những kiềng, xuyến, nhẫn các thứ, đến ngày nay vẫn còn là cái dấu hiệu của kẻ nữ nô. - 133
Người nữ đã thành ra nô lệ, thì người nam không cần hỏi có đồng ý hay không rồi mới "yêu" họ. Những cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc đời thượng cổ, kết quả lại, kẻ bị bắt tù sẽ biến thành nô lệ, người nữ bị bắt tù sẽ bị cường gian. Lúc đó, chừng như cái thời kỳ xuân tình phát động đã bị "thủ tiêu" rồi, bất cứ lúc nào chỗ nào, chủ nhân đàn ông đều có thể cường gian kẻ bị bắt tù, kẻ nô lệ là người nữ hết. Bọn thổ phỉ côn đồ hiện nay không coi người nữ là người, thực ra là lề thói võ sĩ đạo(2) theo kiểu tù trưởng đời xưa còn rớt lại. Song le, cái bản lãnh cường gian tuy đã là một bước "tiến hóa" của loài người so với cầm thú, rốt cuộc cũng chỉ mới là bán khai. Hãy nghĩ xem, người nữ khóc khóc mếu mếu, rút tay co chân, còn có hứng thú gì? Từ sau khi kim tiền, thứ bảo bối ấy xuất hiện, sự tiến hóa của người đàn ông mới thật là ghê gớm. Mọi vật trong thiên hạ đều mua bán được, thì cái sự tánh dục cũng mua bán được. Người đàn ông bỏ ra mấy đồng tiền tanh, có thể láy được cái cần lấy ở thân người đàn bà. Vả lại chàng có thể nói với nàng rằng: Tôi có phải hiếp cô đâu, cái nầy là cô tự nguyện, cô muốn có tiền thì cô phải như thế như thế, chịu trọt một bề, giữa chúng ta phải thì mua phải thì bán! Giày vò xong, còn phải nàng có một câu: "Cám ơn anh, anh cả". Cầm thú có làm được như thế không? Cho nên chơi đĩ là sự tiến hóa của người đàn ông đã đến giai đoạn hơi cao rồi. Cùng một lúc đó, cái lối hôn nhân cũ theo mệnh lệnh cha mẹ, theo lời mai mối, so với chơi đĩ lại càng khôn khéo - 134
hơn. Dưới chế độ ấy, người đàn ông có được thứ tài sản sống trọn đời và dài lâu. Khi cô dâu bị người ta ném trên giường chàng rể, cô chỉ có nghĩa vụ, cả đến cái quyền tự do ra giá tiền như nhà thổ cũng không có, huống nữa là luyến ái? Mặc kệ mầy yêu hay không yêu, ở dưới danh nghĩa đức Chu Công đức Khổng Tử, mầy phải tùng nhất nhi chung, mầy phải giữ trinh tiết. Người đàn ông có quyền sử dụng người đàn bà lúc nào thì sử dụng, mà người đàn bà thì phải tuân thủ lễ giáo của thánh hiền, dù "chỉ mới nẩy ra một ý niệm xấu trong lòng cũng kể là đã phạm tội gian dâm rồi"(3). Giả sử con chó đực đối với con chó cái mà dùng thủ đoạn ranh mãnh và phũ phàng như vậy, nhất định con chó cái vội vàng nhảy rào cút mất. Nhưng người ta thì lại chỉ có thể nhảy giếng để làm tiết phụ, trinh nữ, liệt nữ(4). Cái ý nghĩa tiến hóa của cuộc hôn nhân theo lễ giáo ra làm sao, cứ nghĩ đó thì biết. Đến như người đàn ông sẽ dùng cái học thuyết "rất khoa học" làm cho người đàn bà tuy không có lễ giáo cũng có thể vui lòng tình nguyện tùng nhất nhi chung, vả lại tin phăm phắp rằng tánh dục là "thú dục", không nên coi là điều kiện cơ bản của luyến ái ; nhân đó phát minh ra cái thứ "trình tiết khoa hoc"(5) thì đương nhiên là văn minh tiến hóa đến tột bực rồi. Ôi, ấy là cái điều người ta - người đàn ông - khác với cầm thú đó!(6) 3-9-1933 (Dịch ở Chuẩn phong nguyệt đàm) - 135
---------------------------------------------(1)
Chữ sex trong tiếng Tây, ở chữ Hán là "thư hùng tánh", nói tắt đi là "tánh", tức như nói "nam tánh", "nữ tánh", "tánh dục" v.v... bởi đó mà có cái danh từ "tánh sinh hoạt". "Tánh sinh hoạt" nghĩa là sự sống giữa người nam người nữ hay vợ chồng với nhau, tức trong tiếng Pháp là la vie sexuelle. (2)
Võ sĩ đạo là một danh từ trong tiếng Nhật Bản, nghĩa là cái đạo đức mà giai cấp võ sĩ phải giữ, như chuộng trung tiết, trọng danh dự... ở đây không dùng theo nghĩa ấy mà lại có nghĩa xấu, trái lại. (3)
Đây chắc cũng là một câu trong sách xưa, nhưng người dịch không nhớ câu như thế nào và ở trong sách nào. Nguyên văn của tác giả đã dịch ra bạch thoại và để trong dấu ngoặc kép. (4)
Chữ "nhảy giếng" cố nhiên dùng để đối với chữ "nhảy rào" ở trên, nhưng thực sự thì phụ nữ Trung Quốc trước kia mỗi khi gặp kẻ cường bạo hoặc lo sẽ gặp sự cường bạo cũng thường hay nhảy giếng tự tử. Như trong một đời Minh, lúc Yên Vương Đệ kéo quân vào Nam Kinh, lúc Lý Tự Thành hãm Bắc Kinh, có rất nhiều phụ nữ nhà quan nhảy giếng. Sau khi tự tử như thế, người có chồng được liệt vào hạng tiết phụ, các cô chưa chồng được liệt vào hạng trinh nữ, liệt nữ. Trong văn chương Lỗ Tấn, ở chỗ khác còn nói về "nhảy giếng" nữa. Tức như A Q chính chuyện, A Q chê trách người vợ của Thằng Tây giả "không nhảy giếng lần thứ tư, cũng không phải là con đàn bà tốt". (5)
Những điều này, tác giả căn cứ ở sự thực đương thời mà nói. Tiếc người dịch chưa tìm ra sự thực cụ thể cho nên đành bỏ trống, không chú thích. (6)
Câu nầy dùng nguyên văn một câu trong sách Mạnh tử: "Nhân chi sở dĩ dị ư cầm thú giả cơ hi", nhưng bỏ hai chữ "cơ hi" đi mà lại làm chệch nghĩa đi bằng ba chữ "người đàn ông".
- 136
LỄ
Xem báo là việc có ích, tuy có lúc cũng thấy buồn chán. Lệ như, Trung Quốc là quốc gia có rất nhiều kỷ niệm quốc sỉ hơn hết trên thế giới, đến ngày ấy, trên báo chiếu lệ phải có mấy đoạn kỳ sự, mấy bài văn. Có điều cái việc ấy làm đã nhiều lần quá, di dẳng quá, rất dễ mà bài nào cũng như bài ấy, lần nầy dùng được, lần sau cũng dùng được, năm ngoái đã dùng rồi, sang năm có thể còn dùng được nữa, miễn là không có việc nào mới. Dù cho có việc mới, những bài văn hiện thành e cũng vẫn cứ dùng được, bởi vì đằng nào cũng chỉ nói mấy câu thôi. Cho nên, nếu không phải là người mạnh quên, thì không khỏi đâm ra buồn chán, vì không thấy được cái gì mới cho nó khêu gợi mình. Nhưng mà tôi vẫn cứ xem. Hôm nay tình cờ xem thấy cái ký sự ở Bắc Kinh truy điệu vị anh hùng kháng Nhật Đặng Văn, đầu tiên là báo cáo, rồi đến diễn giảng, cuối cùng là "lễ thành, tấu nhạc, tân hội". Thế rồi tôi được sự khen gợi mời: Phàm niệm, "lễ" mà thôi vậy.
- 137
Trung Quốc vốn là "nước lễ nghĩa". Những sách nói về lễ, có cho đến ba bộ lớn(1), cả đến ở ngoại quốc cũng đã dịch rồi, tôi thật phục sát đất cái người nào dịch sách Nghi lễ. Thờ vua, bây giờ khả dĩ không nói đến ; thờ cha mẹ, đương nhiên phải hết đạo hiếu, những việc sau khi cha mẹ qua đời thì đã quy vào trong tế lễ, mỗi một việc đều có nghi, tức là hiện nay cúng ngày giỗ, mừng âm thọ(2) các thứ. Ngày giỗ mới có thêm ra, thì ngày giỗ cũ hơi nhạt đi vì rằng "ma mói lớn, ma cũ nhỏ"(3). Những ngày kỷ niệm của chúng ta, ngày nào cũ, chúng ta đối với nó không được sốt sắng lắm, còn những ngày mới chỉ đợi đến mai kia rồi nó cũng nhợt nhạt dần đi, chẳng khác nào ngày giỗ của nhà người ta. Có người bảo, quốc gia Trung Quốc lấy gia tộc làm nền tảng, thật phải lắm. Trung Quốc lại vốn là lấy "lễ nhượng trị nước"(4). Đã có lễ, thì phải có nhượng, mà càng nhượng thì lễ lại càng phiền phức thêm. Tóm lại, về điểm này, thôi, không nói(5). Thuở xưa, hoặc lấy đạo Hoàng Lão(6) trị thiên hạ, hoặc lấy đạo hiếu trị thiên hạ, bây giờ đây, e đã đến thời kỳ lấy lễ trị thiên hạ rồi. Biết điều ấy thì biết rằng trách dân chúng thờ ơ đối với ngày kỷ niệm là sai, vì "Lễ" có nói: "Lễ chẳng xuống đến thứ nhân"(7) ; còn như trách keo kiệt chẳng chịu bỏ ra cái gì về vật chất cũng là sai, vì đức Khổng chẳng đã nói, "Người Từ, mầy tiếc con dê, ta lại tiếc cái lễ!"(8). "Không phải lễ chờ xem, không phải lễ chớ nghe, không phải lễ chớ nói, không phải lễ chớ động", cứ yên - 138
lặng đợi người khác "làm nhiều điều bất nghĩa, ắt tự làm cho mình chết", ấy là lễ vậy(9). 20-9-1933 (Dịch ở Chuẩn phong nguyệt đàm) -------------------------------------------(1)
Trung Quốc đời xưa có ba bộ sách nói về lẽ, gọi là "Tam Lễ", tức là: Chu lễ, Nghi lễ, Lễ ký. (2)
Tục Trung Quốc trước kia, những nhà giàu sang có làm lễ mừng thọ ông bà cha mẹ sau khi chết rồi, gọi là "âm thọ". Ví dụ: một người chết vào năm 55 tuổi, đến cái năm tính được 60 tuổi, con cháu làm lễ mừng âm thọ lục tuần cho người ấy. (3)
Đây là một câu tục ngữ ở Trung Quốc, nguyên văn: "Tân quỷ đại, cố quỷ tiểu". (4)
Đây là chữ trong sách Luận ngữ, nguyên văn cả câu là: "Năng dĩ lễ nhượng vi quốc hồ hà hữu = hay lấy lễ nhượng trị nước, nào có khó". ý muốn nói: lấy lễ nhượng trị nước thì trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm, nước được trị an, không có khó gì. (5)
Lỗ Tấn viết bài này vào sau khi Nhật Bản tấn công Thượng Hải (1932), Tập cữu lộ quân chống đánh mà bị Tưởng Giới Thạch ra lệnh rút lui. "Nhượng" đây là ám chỉ Tưởng Giới Thạch nhượng bộ Nhật Bản, nhưng nếu nói toang ra thì bài không được đăng, cho nên "thôi, không nói". Hay ở chỗ đã không nói mà lại tuyên bố rằng mình không nói để cho người đọc phải ngẫm nghĩ mà thấy ra cái chỗ tại sao mình không nói, thế cũng tức như mình đã nói vậy. (6)
Hoàng là Hoàng đế, Lão là Lão tử, đều thuộc về "Đạo gia".
(7)
Kinh Lễ có nói: Lễ chẳng xuống đến tiến hành nhân (dân), hình chẳng lên đến đại phu (quan). - 139
(8)
Tử là tên Tử Cống. Tử Cống muốn bỏ con dêlàm lễ cốc sóc. Vì lấy lẽ rằng lễ ấy đã không còn có nữa mà cứ giết con dê là vô ích. Khổng Tử bảo: "Mày tiếc con dê, ta lại tiếc cái lễ = Nhĩ ái kỳ dương, ngã ái kỳ lễ". ý ngài muốn nói: Lễ ấy tuy mất rồi, mà cứ sắm con dê, còn mong có ngày sẽ phục nó lại. Chuyện này thấy trong sách Luận ngữ. (9)
Về mấy câu ở trong dấu ngoặc trên, xem lời chua số 10 của bài Chuyện phiếm cuối xuân trên kia ; về câu trong dấu ngoặc dưới, là một câu có sẵn trong sách Tả truyện, nguyên văn là: "Đa hành bất nghĩa tất tự tệ".
- 140
DÒ NGHE ẤN TƯỢNG
Sau cuộc vận động Ngũ tứ, hình như người Trung Quốc phát sinh ra một thứ ưa thích mới, là: nếu có người danh tiếng hoặc người sang trọng ngoại quốc mới đến, thì muốn dò nghe ấn tượng người ấy đối với Trung Quốc thế nào. Khi B.Russell(1) đến Trung Quốc giảng học, bọn thanh niên cấp tiến mở hội đãi tiệc, dò nghe ấn tượng. Russell nói: "Các anh đãi tôi hậu hĩ thế nầy, dù muốn nói xấu, cũng không nỡ nói." Những người thanh niên cấp tiến không bằng lòng, cho là ông ấy hoạt đầu. Khi Bernard Shaw(2) đi châu du qua Trung Quốc, những người viết báo ở Thượng Hải rủ nhau đến phỏng vấn, lại dò nghe ấn tượng. Shaw nói: "Tôi có ý kiến gì thì cũng không can liên gì với các anh. Giá tôi là võ nhân, từng giết chết mười vạn con người ta, thì các anh mới có thể tôn trọng ý kiến của tôi." Những nhà cách mạng và những nhà phi cách mạng đều không bằng lòng, cho là ông ấy khắc bạc. Lần nầy thân vương Karl nước Thụy Sĩ đến Thượng Hải, các nhà báo phát biểu ấn tượng của ông ấy trên báo rằng: "... Tôi đi đến đâu, đều được quan dân nơi đó ân cần tiếp đãi, tôi đã cảm khích lại vui sướng lạ thường. Lần nầy - 141
những điều xem thấy và cảm được trong khi du lãm làm cho tôi có một ấn tượng rất mực tốt đối với chính phủ và quốc dân của quý quốc, mãi mãi không thế nào quên được." Như thế thật là ổn thỏa lắm, tôi tưởng, không đến nỗi gây ra có điều nọ tiếng kia. Thực ra thì, hai ông Russell và Shaw cũng còn chưa kể là hoạt đầu và khắc bạc được. Giá có một người ngoại quốc thế nầy, khi thấy có người hỏi về ấn tượng mình, người ấy hỏi lại trước: "Chính ngài là người Trung Quốc, đối với nước mình có ấn tượng như thế nào?". Đó mới thật là một câu hỏi khó trả lời. Chúng ta là người sinh trưởng ở Trung Quốc, nếu có cảm thấy cái gì, tự nhiên không kể được là ấn tượng. Song nói là ý kiến cũng được đi. Có đều ý kiến thì nói thế nào? Nói chúng tôi giống như cá ở trong nước đục, sống thì cứ sống, không hiểu ra làm sao, như thế không phải là ý kiến. Nói Trung Quốc tốt lắm lắm, e cũng khó nói. Như thế tức là cái điều mà người ái quốc đau xót gọi là "đã mất cái lòng tự tín của quốc dân", nhưng mà thật ra, hình như cũng đã mất rồi hẳn, gặp ai cũng dò nghe ấn tượng, thì có khác nào đi xin xăm hỏi bói, vì tự trong lòng mình trước đã hồ nghi. Trong chúng ta, người phát biểu ý kiến cố nhiên cũng có đấy, nhưng thường thấy đều là người xưng mình là "dân trắng", mình gầy sức yếu, chưa từng "giết chết mười vạn con người ta", cho nên ý kiến của họ cũng không ai "tôn trọng", và cũng tức là "không can liên gì" với mọi người. - 142
Đến như những ông cả bà lớn, có quyền có thế, thì khi chưa ở ngôi, có lẽ là rất cấp tiến đấy, nhưng bây giờ đây, cứ làm thinh làm thế, Trung Quốc "đãi tôi hậu hĩ thế nầy, dù muốn nói xấu cũng không nỡ nói". Hãy xem cái hiện tại của các ông do Tân triều xã mà phát tích(3), là những người lúc bấy giờ đãi tiệc Russell, nghe ông nầy trả lời mà không bằng lòng, thật làm cho người ta thấy Russell không phải hoạt đầu, mà là nhà châm biếm tiên tri, đem cái tâm tư mười năm về sau nói toạc ra trước. Đó là ấn tượng của tôi, cũng kể là một bài trả lời, mà là chép lấy những lời từ miệng người ngoại quốc. 20-9-1933 (Dịch ở Chuẩn Phong nguyệt đàm) --------------------------------------------(1)
B. Russell, nhà số lý triết học Ănglê, sinh năm 1872.
(2)
Bernard Shaw (1856 - 1950), nhà tiểu thuyết, viết kịch, và là người xã hội chủ nghĩa Ănglê, đi du lịch đến Trung Quốc vào khoảng tháng 2 năm 1933. (3)
Tân triều xã là một tập đoàn gồm những người viết báo Tân triều n hư Uông Kính Hy, La Gia Luân, Du Bình Bá, v.v... Báo Tân triều bắt đầu ra năm 1919, là một tờ báo có tiếng trong cuộc vận động "Ngũ tứ". Được hai năm thì tờ báo ấy không ra nữa, những người viết đi du học, về sau về nước làm quan hoặc làm giáo thụ đại học, cho nên nói "phát tích".
- 143
VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ
Khổng Tử nói: "Duy có nữ tử và tiểu nhân là khó nuôi, gần nó thì nó vô phép, xa nó thì nó oán hận."(1) Nữ tử và tiểu nhân quy vào một loại, nhưng không biết Khổng Tử có kể cả mẹ mình vào đó không. Về sau, các ông thầy đạo học, đối với mẹ mình, bề ngoài cũng kể được là kính trọng đấy, dù vậy, người đàn bà làm mẹ ở Trung Quốc, ngoài con mình đẻ ra, còn vẫn bị hết thảy đàn ông khinh dể. Sau cách mạng Tân Hợi, vì tham dự chính quyền, nữ sĩ danh tiếng Thẩm Bội Trinh từng lấy chân đá ngã một người lính gác - 144
trước cửa nghị viện. Có đều tôi rất ngờ rằng đó là chính người lính tự vấp ngã, giá dụ bọn đàn ông chúng ta đá hắn thử xem, nhất định là hắn đá trả mình mấy cái. Làm người đàn bà được phần lợi ở chỗ đó. Lại còn, hiện nay có những bà có thể đứng ngang hàng với những người đàn ông sang trọng chụp chung một bức ảnh ở bến tàu hoặc ở sân hội trường ; hay là trước khi tàu thủy máy bay mở máy lần thứ nhất, đi đến đằng trước đập một chai rượu (việc nầy hoặc giả phải các cô tiểu thơ mới được làm chăng, tôi không biết rõ lắm), làm người đàn bà còn được phần lợi ở chỗ đó nữa. Ngoài ra, lại mới có các thứ chức nghiệp, không kể hạng công nhân phụ nữ, vì tiền công rẻ, lại dễ bảo, các chủ xưởng ưa dùng, còn thì chỉ vì là nữ tử, cho nên một mặt tuy bị mỉa là "cái lọ cắm hoa", một mặt khác cũng thường có những cái quảng cáo vẻ vang "hết thảy hầu mời đều dùng con gái"(2). Người đàn ông nếu muốn được vụt tấy lên như thế, chỉ cậy có một điều mình là nam tử, không được đâu, ít nhất phải biến làm con chó mới được(3). Đó là cái thành tích kêu gào giải phóng phụ nữ sau vận động "Ngũ tứ". Tuy vậy, chúng ta vẫn còn thường nghe tiếng rên siết đau khổ của phụ nữ có chức nghiệp, tiếng chê cười của nhà bình luận đối với phụ nữ tân thời. Bọn họ từ trong khuê các đi ra, đến ngoài xã hội, thực sự lại là làm tài liệu cho mọi người bông đùa, bàn tán. Đó là vì bọn họ tuy đã ra ngòai xã hội, vẫn còn nhờ người khác "nuôi". Đã nhờ người khác "nuôi", thì phải nghe người ta cằn rằn, thậm chí bị người ta khinh và làm nhục. Chúng ta cứ xem câu cằn rằn của Khổng phu tử, thì biết ngài bực mình vì cớ muốn "nuôi" mà "khó", "gần nó" hay "xa nó" đều không được ổn thỏa mười phần. Đó cũng là điều than thở chung của hết thảy đức ông chồng hiện nay. Và cũng là điều đau khổ chung của hết thảy đàn bà. Trước khi chưa phá bỏ cái giới hạn - 145
"nuôi" và "bị nuôi", thì sự than thở và đau khổ ấy cứ còn mãi không thể dứt đi được. Trong cái xã hội chưa cải cách nầy, hết thảy những kiểu mới lẻ loi, đều chỉ là tấm bảng rao hàng, về thực tế không khác gì với trước kia cả. Nhốt một con chim con trong lồng hay là cho nó đứng trên một cái cành khô, địa vị hình như có khác, thực ra thì vẫn là một loạt làm trò chơi cho người khác, ăn một miếng, uống một ngụm, đều ở dưới quyền người khác. Tục ngữ nói: "Ăn cơm chúa, múa tối ngày", là thế. Cho nên, hết thảy đàn bà nếu không có được quyền kinh tế ngang bằng đàn ông, thì tôi cho rằng bao nhiêu nhãn hiệu đẹp đẽ đều là lời suông cả. Tự nhiên, về sinh lý và tâm lý, nam và nữ có khác nhau ; mà dù cho trong đám cùng một tánh(4) người nầy với người kia cũng không khỏi có khác nhau, nhưng mà địa vị ngang bằng nhau rồi, mới có thể có người nam và người nữ chân chính, mới có thể tiêu trừ sự than thở và đau khổ. Trước khi giải phóng chân chính là chiến đấu. Nhưng không phải tôi nói đàn bà phải cầm súng như đàn ông, hay là chỉ đưa ra chỉ một cái vú cho con bú, còn phần nửa trách nhiệm đem trút cho đàn ông. Tôi chỉ muốn nói rằng không nên tạm bợ an phận ở cái địa vị trước mắt mà phải luôn luôn đấu tranh cho giải phóng tư tưởng, kinh tế các thứ. Đã đành giải phóng được xã hội thì cũng giải phóng được chính mình. Nhưng, riêng đấu tranh để tháo xiềng xích hiện còn trói buộc một mình phụ nữ, tự nhiên cũng là sự cần thiết lắm. Tôi chưa hề nghiên cứu vấn đề phụ nữ, nếu cũng phải nói mấy câu thì tôi chỉ nói được như thế. 21-10-1933 (Dịch ở Nam xang bắc điệu tập)
- 146
------------------------------------(1)
Câu này thấy trong sách Luận ngữ, nguyên văn là: "Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nam dưỡng dã: cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán". Lời Khổng Tử nói. (2)
Đây là lời quảng cáo của các tiệm ăn hay phòng nghỉ ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Không biết bây giờ thế nào, chứ hai mươi năm trước, những tiệm cao lâu Hoa kiều ở Sài Gòn, Chợ Lớn cũng có quảng cáo như thế. (3)
"Làm con chó" đây, ý muốn nói làm chó săn cho chính phủ phản động. Hiểu như thế, vì trong văn chương Lỗ Tấn có rất nhiều chỗ nói đến thứ chó ấy. (4)
"Tánh" đây là "nam tánh" hay "nữ tánh". "Cùng một tánh" là cùng một nam tánh hay cùng một nữ tánh (Xem thêm lời chua số 1 ở bài Sự tiến hóa của người đàn ông ở trên). Câu này nghĩa là: Cùng là đàn ông với nhau mà sinh lý và tâm lý của người nầy cũng khác người kia, cùng là đàn bà cũng thế, thế thì sinh lý và tâm lý của người đàn bà với của người đàn ông tất nhiên là có khác nhau vậy.
- 147
PHÉP HUẤN LUYỆN THÚ RỪNG
Vừa rồi lại có cuộc giảng diễn rất có ích, ấy là Sơuây-tơ, viên quản lý đoàn xiếc Hai-chinh-pô giảng cho chúng ta về "cách huấn luyện động vật như thế nào" ở từng lầu thứ ba của Trung Hoa Học nghệ xã. Tiếc tôi không được cái hân hạnh đến nghe, chỉ xem thấy thuật lại trên báo. Nhưng nội ở trên báo cũng đã đủ có nhiều điều mới mẻ lắm rồi: "Có người cho rằng thú rừng có thể lấy nắm tay, sức mạnh đối phó nó, áp bách nó, là không đúng, vì nó là cách đối phó tú rừng của người dã man trước kia, chứ bây giờ, cái phương pháp huấn luyện không như vậy đâu. "Hiện giờ cái phương pháp chúng tôi dùng, là lấy lực lượng của sự yêu thương để được lòng tín nhiệm của chúng nó đối với người, lấy lực lượng của sự yêu thương, cái tâm tình hòa dịu làm cảm động chúng nó..." - 148
Mấy lời đó tuy ra từ miệng người Giéc-manh, nhưng cũng mười phần hợp với lời dạy của thánh hiền chúng ta đời xưa. Đối phó bằng nắm tay, sức mạnh, tức gọi là "bá đạo". Nhưng mà "lấy sức mạnh phục người, không phải là tâm phục"(1), cho nên người văn minh phải dùng "vương đạo" để lấy được "tín nhiệm": "dân không tin, không đứng được"(2). Trái lại, sau khi có được "tín nhiệm" rồi, thú rừng có thể đem làm trò được ngay: "Người huấn luyện, sau khi đã lấy được tín nhiệm ở chúng nó rồi, rồi mới có thể bắt tay huấn luyện chúng nó được: Bước thứ nhất, có thể làm cho chúng nó nhận rõ chỗ ngồi chỗ đứng ; tới một bước, có thể bắt chúng nó nhảy qua vật gì hay là đứng thẳng lên..." Phép huấn luyện thú vật cũng giống với phép chăn dân, cho nên người đời xưa chúng ta cũng gọi những ông lớn trị dân là "mục". Nhưng mà cái vật "mục = chăn" đó là bò dê, khiếp nhược hơn thú rừng, vì vậy không cần chuyên cậy ở "tín nhiệm", không can chi dùng cả nắm tay, ấy tức là cái "uy tín" lộng lẫy đàng hoàng. Những động vật bởi "uy tín" trị nó được rồi, "những sự nhảy qua vật gì, đứng thẳng lên" còn chưa đủ, kết quả không đem dâng lông, sừng, máu, thịt không được, ít nhất là hằng ngày vắt sữa nó ra, - như những sữa bò, sữa dê. Nhưng mà đó là phép đời xưa, tôi không thấy được cũng có thể đem dùng ở hiện tại. - 149
Nghe nói sau khi Sơ-uây-tơ giảng diễn, còn có cuộc vui như "tấu nhạc phương Đông" cùng "đá kiệu" các thứ, trong báo nói không rõ, không làm sao biết được cặn kẽ, giá biết được, tôi tưởng, hoặc cũng rất có ý nghĩa. 27-10-1933 (Dịch ở Chuẩn phong nguyệt đàm) --------------------------------------------(1)
Đây là một câu sẵn có trong sách Mạnh Tử, nguyên văn là: "Dĩ lực phục nhân giã, phi tàm phục dã." (2)
Đây là một câu sẵn có trong sách Luận ngữ, nguyên văn là: "Dân vô tín bất lập."
- 150
LỬA
Prometheus ăn cắp lửa đem cho loài người, kể là phạm phép trời, bị đày xuống địa ngục(1). Nhưng họ Toại nhân, người dùi cây lấy lửa(2), hình như không có phạm tội trộm cắp, không có phá hoại tài sản tư hữu của thần thánh lúc bấy giờ, cây cối còn là của chung vô chủ. ấy vậy mà họ Toại nhân cũng bị quên bẵng đi, cho đến nay chỉ thấy người Trung Quốc thờ Hỏa thần bồ tát, không thấy thờ họ Toại nhân. Hỏa thần bồ tát chỉ coi việc phóng lửa, không coi việc thắp đèn. Hễ là đám cháy thì có phần của hắn. Vì đó, mọi người đều thờ hắn, mong hắn bớt làm điều ác. Nhưng nếu quả hắn không làm điều ác thì hắn còn được thờ đâu, thử nghĩ xem? Thắp đèn là sự rất thường. Từ xưa đến nay, không nghe có vị danh nhân nào vì thắp đèn mà nổi tiếng, tuy rằng loài người bắt chước họ Toại nhân biết châm lửa đã trải qua khoảng thời gian năm sáu ngàn năm rồi. Phóng hỏa thì không thế. Tần Thủy Hoàng đã thả một mồi lửa đốt sách chứ không đốt người ; Hạng Võ vào cửa ải lại thả một mồi lửa đốt cung A Phòng chứ không đốt nhà dân (? đợi xét lại). Một vị hoàng đế gì đó ở La Mã lại thả lửa đốt - 151
trăm họ ; bọn cha cố Công giáo hồi trung thế kỷ thì lại đốt những người đạo lạc như đốt củi, có khi còn chế dầu vào. Những người đó đều là anh hùng một thuở. Hitler đời nay là một người chứng sống. Thế thì không thờ sao được? Huống chi hiện nay là thời đại tiến hóa, Hỏa thần bồ tát cũng mỗi mỗi đời con hơn đời cha. Nói ví dụ mà nghe, những nơi chưa có đèn điện, dân chúng không biết năm quốc hóa(3) là cái gì, ai ai cũng đều mua thứ dầu hỏa ngoại hóa, tối lại thì thắp lên: cái ánh sáng tờ mờ vàng vọt kia dọi trên cửa sổ dán giấy, không bảnh lắm! Không được, không cho phép thắp đèn như thế! Các người nếu muốn sáng, không cấm sự "lãng phí" dầu hỏa như thế không được. Dầu hỏa nên đưa đến trong đồng ruộng, rót vào ống thụt, ỳ ục ỳ ục thụt ra... một đám lửa lớn, cháy lan mấy mươi dặm, lúa má, cây cối, nhà cửa nhất là túp tranh - cháy trong một lát ra tro bay. Thế còn chưa đủ, thì có bom napan, bom lưu hoàng, từ trên máy bay ném xuống, như đám cháy lớn nhất nhị bát ở Thượng Hải, cháy luôn mấy ngày mấy đêm(4). Thế mới là cái sáng vĩ đại. Oai phong của Hỏa thần bồ tát là thế đó. Nhưng nếu nói ra thì hắn lại không thừa nhận: Theo lời thì Hỏa thần bồ tát vốn là người phù hộ dân chúng, còn như hỏa tai, nên trách cứ dân chúng không cẩn thận, hoặc là làm xằng làm bậy, đốt cháy rồi để cướp bóc. Ai biết được? Những danh nhân phóng hỏa bao nhiêu đời nay đều nói như thế, nhưng chưa chắc có người tin. - 152
Chúng ta chỉ thấy thắp đèn là chuyện thường, phóng hỏa là chuyện hùng tráng, cho nên thắp đèn thì bị cấm mà phóng hỏa thì được thờ. Không thấy phường xiếc Haichinh-pô ư(5): làm thịt bò cày cho cọp ăn, đó là cái "tinh thần thời đại" của cái năm nầy. 2-11-1933 (Dịch ở Nam xang bắc điệu tập) -----------------------------------------(1)
Theo một tích của thần thoại Hy Lạp.
(2)
Theo cổ sử Trung Quốc, họ Toại nhân bắt đầu dùi trong cây khô ra lấy lửa, từ bấy giờ người ta mới biết ăn đồ nấu chín. (3)
Năm quốc hóa: Năm 1933, chính phủ Quốc dân đảng ra lệnh cho người cả nước, nội năm ấy phải dùng hàng nội hóa, không được dùng hàng ngoại quốc, gọi là "năm quốc hóa". Thực ra thì người ta vẫn mua dùng ngoại hóa như thường, vì trong nước công nghệ không phát dạt, nội hóa không đủ dùng và xấu, người ta không thích dùng. (4)
"Nhất nhị bát" là ngày 28 (nhị bát) tháng 1 (nhất). Ngày 28-11932, Nhật Bản tiến quân đánh Thượng Hải, máy bay Nhật ném bom đốt cháy đến mấy ngày đêm mới hết cháy. Đây tỏ ý phản đối cái chính sách "tiễu cọng" của Tưởng Giới Thạch năm 1933. Lấy cớ là "năm quốc hóa", cấm nhân dân mua dầu hỏa thắp đèn, mà lại dùng dầu hỏa thụt cháy nhà cửa mùa màng, giết hại dân chúng trong "hồng khu". Thụt dầu hỏa chưa đủ, lại còn cho máy bay đến thả bom, gây ra những đám cháy to hơn, chẳng khác nào ngày 28-1-1932 đế quốc Nhật Bản thả bom đốt cháy ở Thượng Hải. (5)
Xem bài Phép huấn luyện thú rừng ở trên.
- 153
GIA ĐÌNH LÀ NỀN TẢNG CỦA TRUNG QUỐC
Chính mình người Trung Quốc biết cất rượu, sự ấy ở trước xa chính mình biết trồng cây nha phiến. Nhưng hiẹn nay chúng ta chỉ nghe nói có nhiều người nằm mà đi mây về gió, chứ ít thấy có người say rượu nghênh ngang đầy đường phố như những lính thủy ngoại quốc. Lối đá cầu đời Đường, đời Tống, thất truyền đã lâu, bây giờ sự vui thú nói chung là quây quần trong xó nhà đánh mà chược suốt đêm. Cứ theo hai điểm đó mà nói, thì cái sự chúng ta từ ở ngoài trời dần dần chui vào trong nhà là không còn nghi ngờ gì nữa. Nhà văn ở Thượng Hải thuở xưa từng ngậm ngùi nói về sự đó, họ có ra một câu đối thách đối: "Tam điểu hại nhân nha, cáp, tước", "cáp" tức là vé xổ số, những vé được trúng, bấy giờ gọi là "bạch cáp phiếu"(1). Nhưng tôi không biết câu đối ấy về sau có ai đối được không. Tuy vậy, chúng ta cũng không phải lấy hiện trạng làm mãn nguyện đâu, cái thân ở trong xó nhà mà tinh thần thì dong ruổi ngoài vũ trụ. Kẻ hút thuốc phiện hưởng cái thú mơ màng như lên tiên, kẻ đánh mà chược thỏa lòng ở chỗ - 154
quân bài có khắp đông tây nam bắc. Cho đến đốt pháo tre dưới hiên nhà là để cứu mặt trăng ra khỏi mồm con thiên cẩu(2) ; kiếm tiên ngồi trong phòng sách, huỵt một cái, một luồng ánh sáng trắng giết quách kẻ địch ở ngoài ngàn muôn dặm, nhưng cái kiếm bay đó vẫn trở về nhà, rúc vào trong lỗ mũi chỗ nó từ đó ra, vì lần khác còn sẽ dùng nữa. Như thế gọi là ngàn biến muôn hóa, không lìa khỏi gốc. Bởi vậy, cho nên trường học là nơi kéo con em từ gia đình ra để dạy cho thành nhân tài xã hội, nhưng một khi làm rầy rà đến không xử trí được, vẫn phải "giao về cho gia trưởng quản thúc nghiêm ngặt". "Xương thịt về nơi đất, đó là mạng; đến như hồn khí thì không chỗ nào chẳng đi đến, không chỗ nào chẳng đi đến!"(3). Một con người đã biến ra ma, đáng lẽ có thể tùy tiện một chút, thế mà người sống vẫn phải đốt cho một nếp nhà giấy, mời vào đó ở, ai sang trọng còn có cái bàn đánh bài, cái khay hút thuốc phiện. Thành tiên là một sự biến hóa rất lớn, nhưng bà lớn Lưu cũng còn không bỏ cái nhà được, nhất định vận động cho được cả nhà bay lên, luôn cả gà chó cũng mang theo lên mới được, bà lớn vẫn cứ coi sóc việc nhà, cho chó ăn, gà ăn(4). Cả người đời xưa lẫn người đời nay của chúng ta, thực ra, đối với hiện trạng cũng muốn có biến hóa, biến ra ma phải chịu, mà thành tiên thì càng hay, nhưng mà đối với cái nhà, thế nào thì thế, chết cũng không chịu bỏ. Tôi nghĩ, thuốc súng chỉ đem làm pháo đốt, kim địa bàn chỉ để xem địa lý, có lẽ là vì cớ ấy. - 155
Hiện nay thuốc súng đã tiến hóa làm bom oanh tạc, bom napan, trang trí trên máy bay, chúng ta lại chỉ có thẻ ngồi trong nhà chờ nó rơi xuống. Tự nhiên, người ngồi máy bay cũng đã có rồi đấy, nhưng họ có phải là viễn chinh đâu, họ chỉ vì muốn về nhà cho nhanh một chút. Nhà là chỗ chúng ta sống, cũng là chỗ chúng ta chết. 16-12-1933 (Dịch ở Nam xang bắc điệu tập) ----------------------------------------------(1)
Câu đối này nghĩa là: Ba thứ chim hại người là nha (quạ), cáp (bồ câu), tước (se sẻ). Mà nha là nha phiến ; cáp là bạch cáp phiếu (vé xổ số) như có giải ở bổn văn ; tước là ma tước, cũng gọi mà chược, một thứ đánh cờ bạc. Đó là một cách chơi chữ, có ý nêu ra ba trò chơi có hại. (2)
Bên Trung Quốc trước kia có một số người tin rằng khi có nguyệt thực là mặt trăng bị con thiên cẩu ăn, đốt pháo để cho con thiên cẩu sợ mà nhả mặt trăng ra. Cái tục mê tín ấy ở thời đại Lỗ Tấn vẫn còn đó. ở nước ta, theo sử chép thì triều Lê Thánh Tôn, ở kinh đô Thăng Long cũng có tục ấy, người ta đốt pháo, đánh trống, đánh đồng la và con giết con vượn con khỉ gì đó để lấy máu làm phép "cứu mặt trăng". Cái tục ấy ở nước ta bỏ đi từ hồi nào thì không rõ. (3)
Đây là một câu sách xưa, nói người ta chết, xác thịt hóa ra đất, nhưng linh hồn thì đi khắp nơi. (4)
Đây là theo một truyền thuyết, nói Lưu An, Hoài Nam Vương, ở đời Hán, tu luyện thành tiên, đang ban ngày cùng với vợ con nhà cửa đều bay lên trời, luôn cả gà chó trong nhà cũng bay lên nữa. Bà lớn Lưu, chỉ vợ Lưu An, vì là tước vương. (Xem thêm lời chua số 2 ở bài Ma mãnh trên văn đàn Trung Quốc dưới đây).
- 156
TRẢ LỜI CÂU HỎI CỦA QUỐC TẾ VĂN HỌC XÃ
HỎI: 1) Sự tồn tại và thành công của Liên Xô đối với ông thế nào? (Cuộc Cách mạng tháng Mười của kiến thiết Xô Viết, đối với đường lối tư tưởng và tánh chất sáng tác của ông có thay đổi thế nào?) 2) Ý kiến ông thế nào đối với văn học Xô Viết? 3) Có những việc gì và mọi sự tiến hành gì về văn hóa ở các nước tư bản chủ nghĩa, đặc biệt làm cho ông chú ý? 1) Trước kia, sự hủ bại của xã hội cũ, tôi đã thấy đến, tôi mong muốn cho xã hội mới nổi lên, nhưng không biết "cái mới" ấy phải là thế nào, vả lại cũng không biết sau khi "cái mới" nổi lên, có nhất định là tốt chăng. Đợi đến sau Cách mạng tháng Mười, tôi mới biết rằng kẻ sáng tạo ra cái xã hội "mới" ấy là giai cấp vô sản, có đều bởi sự phản tuyên truyền của các nước tư bản chủ nghĩa nên tôi đối với Cách mạng tháng Mười còn có hơi nguội lạnh và lại ngờ vực. Hiện nay, sự tồn tại và thành công của Liên Xô làm - 157
cho tôi tin chắc rằng cái xã hội không giai cấp thế nào cũng sẽ xuất hiện, chẳng những quét sạch hết ngờ vực mà còn tăng thêm bao nhiêu tinh thần dũng cảm nữa. Tuy vậy, về sự sáng tác thì, vì tôi không ở chính giữa chỗ xoáy của cách mạng, vả lại lâu nay tôi không đi đến được các nơi để mà khảo sát, cho nên tôi đại khái vẫn cứ chỉ có thể bộc lộ những chỗ xấu của xã hội cũ. 2) Tôi chỉ đọc được những bổn sách dịch của mấy nước khác là nước Đức, nước Nhật. Tôi thấy những tác phẩm hiện nay nói chuyện kiến thiết, còn những tác phẩm trước kia nói chuyện chiến đấu, - như Đoàn xe thiết giáp, Hủy diệt, Suối thép(1) - vẫn còn có hứng thú và có ích cho tôi. Tôi thích xem văn học Xô Viết, mà đối với Trung Quốc, hiện nay cái cần thiết hơn vẫn còn là tác phẩm chiến đấu. 3) Tôi ở Trung Quốc, khó thấy cái gì gọi là "văn hóa" của các nước đế quốc chủ nghĩa ; tôi chỉ biết rằng ở Trung Quốc, họ và bọn đầy tớ họ đang dùng các phương pháp của lực học và hóa học, lại có máy móc bằng hơi điện để mà tra tấn người cách mạng, và còn dùng máy bay và bom đạn để mà giết hại quần chúng cách mạng. 1934 (Dịch ở Thả giới đình tạp văn) ---------------------------------------------(1)
Đây là ba tên sách tiểu thuyết của ba tác giả Liên Xô: Đoàn xe thiết giáp của Ivanov, Hủy diệt của Fadaef, Suối thép của Serafimovitch. - 158
THẾ GIỚI CON VE SẦU
Bọn học giả Trung Quốc, nhiều người cho rằng các thứ trí thức nhất định là ra từ miệng thánh hiền, hay ít nhất là từ miệng học giả ; cả đến sự phát minh, ứng dụng lửa và thuốc chữa bệnh cũng không có phần của dân chúng mà đều bởi thánh vương đời xưa một tay bao biện lấy: họ Toại nhân và họ Thần nông(1). Cho nên, có người nói rằng "làm như các thứ trí thức đều phải ra từ miệng động vật, nghĩ cũng lạ thật", thì cũng chẳng đủ lấy làm lạ chút nào(2). Vả lại, cái thứ trí thức "ra từ miệng động vật" ở Trung Quốc chúng ta cũng thường thường không phải là thứ trí thức thật. Trời mùa hè nóng thiếu đều thiêu người, những nhà có máy radio mở toang các cửa sổ, cho tiếng trong máy tràn ra đến hàng phố, để "cùng vui với dân chúng"(3). Ê a ê a, máy cứ hát mãi. ở ngoại quốc thế nào tôi không biết, chứ radio của Trung Quốc, thì từ sáng đến đêm đều có hát, lúc bổng lúc trầm, nếu mình thích nghe thì cứ gọi là lỗ tai không lúc nào được nghỉ. Cùng một lúc đó họ lại mở quạt máy, ăn cờ-rem nước đá, chẳng những không biết gì - 159
đến mấy nơi có "lụt to", "hạn lớn", dù cho với cái nơi ngoài cửa sổ có những người mướt mồ hôi, quằn quại cả ngày để mà sống, cũng hoàn toàn là hai thế giới khác nhau. Ở trong tiếng hát ngân dài, ê a ê a đó, tôi bỗng nhớ đến bài ngụ ngôn của Lafontaine, thi nhân nước Pháp: Con ve sầu và con kiến. Cũng đang là mùa hè, mặt trời nóng như lửa thế nầy, con kiến cứ khó nhọc làm việc trên đất, con ve sầu lại ở trên cành cây ca hát, và còn nhạo con kiến là dại, chỉ biết cặm cụi làm cả đời. Nhưng rồi gió thu đã đến, một ngày thấy rét hơn một ngày, bấy giờ con ve sầu không có gì ăn, không có gì mặc, hình dáng trở nên khô đét, bèn bị con kiến là kẻ biết dè trĩ nhiếc cho một mẻ. Chuyện ấy là chuyện khi tôi còn học ở trường tiểu học, thầy giáo kể cho tôi nghe. Lúc đó tôi thấy như rất cảm động, đến nay có khi tôi còn nhớ. Song le, tuy tôi còn nhớ, mà bởi cái câu "tất nghiệp tức là thất nghiệp"(4) dạy khôn cho, cho nên ý kiến của tôi đã không giống với con kiến rồi. Chẳng bao lâu dây thì gió thu đến, tự nhiên cũng một ngày thấy rét hơn một ngày, nhưng mà lúc bấy giờ, cái kẻ không có gì ăn, không có gì mặc, e lại chính là đám người hiện giờ đang chảy mồ hôi ; chung quanh nhà kiểu tây cố nhiên vắng ngắt, mà đó là đóng bít các cửa sổ, cả đến tiếng radio cũng đọng lại với hơi nóng của lò sưởi, liệu chừng trong đó cũng vẫn ê a ê a như cũ, hát bài Cám ơn mưa phùn(5). Cái thứ trí thức "ra từ miệng động vật" ở Trung Quốc chúng ta há chẳng là thường thường không thích dụng ư? - 160
Trung Quốc tự mình có thánh hiền và học giả của mình. "Kẻ nhọc lòng thì trị người, kẻ nhọc sức thì bị người trị, kẻ bị người trị cho người ăn, kẻ trị người ăn của người"(6), nói như thế gỏn lọn rõ ràng biết bao. Nếu như trước kia thầy giáo lấy điều đó dạy tôi, thì tôi đã chẳng đến nỗi có cái cảm tưởng như trên làm tốn bao nhiêu là bút mực. Đó cũng là một chứng cứ để thấy rằng người Trung Quốc không đọc sách xưa của Trung Quốc không được(7). 8-7-1934 (Dịch ở Hoa biên văn học) -------------------------------------(1)
Theo cổ sử Trung Quốc, họ Toại nhân dùng cây khô lấy lửa, người ta mới bắt đầu biết dùng lửa ; họ Thần nông nếm các thứ cỏ, người ta mới bắt đầu biết dùng thuốc chữa bệnh. "Thánh vương" là chỉ những người như hai vị đó. Nhưng đó chỉ là thần thoại. Sự thực thì ở xứ nào cũng vậy, mọi sự phát minh đầu tiên đều do quảng đại quần chúng mỗi người đóng góp một ít, vả lại mỗi thời tìm tòi thêm một ít, chứ không phải do một ông thánh nào vụt một cái mà nghĩ được ra. (2)
Tôi nhớ có thấy ở sách nào đó có nói: Trong thời Dân quốc, một vị võ quan nào đó xem sách giáo khoa tiểu học, thấy có những bài dịch ở ngụ ngôn phương Tây ra, đôi khi con vật biết nói những điều hay lẽ phải, bèn bài hãi ra mà rằng, họ (chỉ người phương Tây) "làm như các thứ trí thức đều phải ra từ miệng động vật..." Nhưng trong khi chú thích đây không tìm được xuất xứ để mà dẫn chứng. Chữ "có người" đây, chắc Lỗ Tấn chỉ vào vị võ quan (?) ấy. Và, ý cả đoạn nầy là: người ta đã tin mọi trí thức phải ra từ miệng thánh hiền, thì khi thấy nói trí thức ra từ miệng động vật mà lấy làm lạ, cũng chẳng lấy gì làm lạ. (3)
Đây là một thanh ngữ, nguyên văn là: "Dữ dân đồng lạc".
- 161
(4)
"Tất nghiệp" ở ta nói "tốt nghiệp". ở Trung Quốc lúc bấy giờ có rất nhiều trường đại học công lập và tư lập, những học trò tốt nghiệp ở đó ra không có việc làm, cho nên có một câu nói đã thành ra như tục ngữ: "Tất nghiệp tức thất nghiệp". (5)
Đây là tên một bài hát, nguyên văn là: "Tạ tạ mao mao vũ". Bài hát này thường cho vào đĩa máy hát hay radio. Mưa phùn thường có trong những ngày mùa xuân, mưa không to nhưng dai dẳng, khiến những người lao động chịu rét mướt ướt át hoặc phải ngồi nhà nhịn đói ; nhưng những kẻ có tiền thì lại ở trong nhà thấy ấm cúng, đi ra đường đỡ bụi, cho nên "cám ơn" nó. (6)
Đây là những câu trong sách Mạnh Tử, nguyên văn là: "Lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân" (chữ tự trong câu nầy cũng tức là chữ thực mà đọc chệch đi, thành ra nghĩa khác. Thục là ăn, mà tự là cho người khác ăn, tức là phải nuôi người khác, cho nên "tự nhân" dịch là "cho người ăn"). (7)
Năm 1925, có một nhà báo trưng cầu ý kiến với một câu hỏi: "Thanh niên nên đọc những sách gì?". Lỗ Tấn trả lời rằng mình "không chỉ hẳn ra những sách gì được, vì bình nhật không hề để ý đến". Và có chua thêm rằng: "Khi tôi đọc sách Trung Quốc, cứ thấy người tôi im lặng hẳn đi, lìa khỏi sự sống: nhưng khi đọc sách ngoại quốc, thường thường thấy tiếp xúc với cuộc sống, muốn làm một việc gì". Cuối cùng kết luận rằng: "Tôi tưởng nên ít đọc - hoặc không đọc hẳn - sách Trung Quốc mà đọc nhiều sách ngoại quốc." Cái chủ trương ấy của Lỗ Tấn bị nhiều người phản đối kịch liệt, có người đến bảo Lỗ Tấn nên dọn đi ra ngoại quốc mà ở. Cho nên ở đây Lỗ Tấn đảm bảoyêu néo khườu đay khéo lại cái ý của những người phản đối ấy.
- 162
GHI VỤN KHI ĐỌC SÁCH I
Gorky rất kinh phục sự tả đối thoại khéo léo trong tiểu thuyết của Balzac(1), ông cho rằng Balzac không hề tả hình dáng của nhân vật, mà có thể khiến độc giả chỉ xem đối thoại cũng như là thấy tận mắt những người nói chuyện đó. (Bài "Sự tu dưỡng văn học của tôi" trong tạp chí Văn học phần tháng tám). Trung Quốc còn chưa có nhà tiểu thuyết khéo tay như thế, nhưng trong Thủy hử và Hồng lâu mộng có những chỗ có thể làm cho kẻ đọc do lời nói mà xem thấy người. Thực ra, điều đó cũng không phải là sự lạ gì lắm, những người ở một căn phòng nhỏ thuê trong ngõ hẻm Thượng Hải, mỗi lúc có thể thể nghiệm được. Họ không thấy mặt những người chung quanh mình, nhưng chỉ cách nhau một lớp phên ván mỏng, cho nên khi người nhà của các gia đình ấy nói chuyện với khách, nhất là khi nói to, đều có thể nghe được đại khái, lâu rồi thì biết nhà nào có những người nào, và mường tượng thấy được những người ấy là người thế nào. Nếu như xén bỏ những điểm không cần thiết, chỉ nhặt lấy những lời nói có đặc sắc của mỗi người, thì tôi tưởng, - 163
có thể làm cho người khác từ trong câu chuyện suy biết được mỗi nhân vật đang nói đó. Có đều, tôi nói thế không có nghĩa là: làm như vậy thì sẽ thành ra Balzac của Trung Quốc đâu. Khi tác giả dùng đối thoại biểu hiện nhân vật, có lẽ ở trong lòng và mắt của tác giả đã tồn tại cái hình dáng của nhân vật ấy, thế rồi đem truyền sang độc giả, làm cho trong lòng và mắt của độc giả cũng trình bày ra cái hình dáng của nhân vật ấy. Song le, cái nhân vật mà độc giả nghĩ thấy, lại không hẳn giống với tác giả tưởng tượng ra đâu. Cái ông già mành khảnh ít râu của Balzac khi đến trong đầu Gorky có lẽ biến thành ra người cao lớn thô kệch có râu quai nón. Chỉ có về tánh cách, ăn nói, nhất định có chỗ giống nhau, không sai mấy, cũng như đem tiếng Pháp dịch thành ra tiếng Nga. Bằng chẳng vậy, thì văn học là cái vật không có phổ biến tánh mất rồi. Văn học tuy có phổ biến tánh, nhưng vì sự thể nghiệm của độc giả không giống nhau mà có biến hóa, độc giả nếu không có sự thể nghiệm tương tự thì văn học cũng mất hiệu lực đi. Ví như chúng ta xem Hồng lâu mộng, từ trên văn tự tưởng thấy con người Lâm Đại Ngọc, nhưng phải nạng ra đừng cho cái bức ảnh "Đại Ngọc chôn hoa" của Mai bác sĩ(2) vào choán trước trong đầu mình, mình tưởng ra một Lâm Đại Ngọc khác, như thế, e lại sẽ tưởng đến cô con gái tân thời mành khảnh, mơ mộng, tóc cắt ngắn, mặc áo hàng trừu ấn Độ, hay là tưởng ra hình dạng nào khác nữa, tôi không đoán định được. Có đều, đem mà so sánh - 164
với bức họa tượng trong sách, như sách Hồng lâu mộng đồ vịnh xuất bản ba bốn mươi năm trước thử xem, chắc chắn là không giống một chút nào, bức họa tượng trong sách đó là Lâm Đại Ngọc trong lòng và mắt của độc giả lúc bấy giờ. Văn học có phổ biến tánh, nhưng có giới hạn. Cũng có thứ văn học tương đối lâu dài, nhưng vì sự thể nghiệm xã hội của độc giả mà sinh ra biến hóa. Người Át-tư-cátmô ở Bắc Cực và người da đen ở lòng đất Phi châu, tôi tưởng họ không làm sao hiểu được "mẫu Lâm Đại Ngọc"(3); người trong xã hội tốt, lành mạnh và hợp lý, cũng không hiểu được nữa, đại khái nếu họ nghe nói chuyện Thủy Hoàng đốt sách, Hoàng Sào giết người, họ cũng lấy làm lạ tai hơn chúng ta(4). Đã có biến hóa thì không phải lâu dài, ai nói văn học có vĩnh cửu tánh là nói chiêm bao(5). 6-8-1934 (Dịch ở Hoa biên văn học) -------------------------------------------(1)
Honoré de Balzac, một nhà tiểu thuyết trứ danh nước Pháp (1799 -
1850). (2)
"Đại Ngọc chôn hoa" là một hành động của cô ả Lâm Đại Ngọc trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng. Mai bác sĩ tức là Mai Lan Phương, một kép hát nổi tiếng Trung Quốc, từng sang Mỹ biểu diễn, được chính phủ Mỹ tặng hàm văn học bác sĩ. Mai Lan Phương từng đóng vai Đại Ngọc chôn hoa trên sân khấu, có người chụp lấy bức ảnh ấy bày ở hiệu ảnh mà Lỗ Tấn có nói đến ở nơi khác. - 165
(3)
Bốn chữ nầy theo nguyên văn là "Lâm Đại Ngọc hình". Chữ "hình" đây chỉ có nghĩa là khuôn khổ, dáng bộ, chưa phải là "điển hình", cho nên dịch là "mẫu". Nếu nói "điển hình" thì gồm đến cả tánh cách, tâm lý, tác phong, v.v... không dịch là "mẫu" được. (4)
Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất Trung Quốc (cuối thời kỳ Chiến quốc), muốn thống nhất cả đến tư tưởng văn hóa, nên đã hạ lệnh đốt hết những sách nào nói khác với chủ trương của mình (xem thêm bài Hoa và Đức đều đốt sách mà có khác nhau ở đằng trước). Hoàng Sào là người từng khởi binh làm loạn cuối nhà Đường trong mười năm, từng xưng mình là hoàng đế nước Đại Tề, nhưng cuối cùng thất bại và tự tử. Trong mười năm đó Hoàng Sào đã giết hàng mấy chục vạn người, mang tiếng là "giết người như giết dê". Chỗ nầy hình như có ý ám chỉ vào sự độc tài tàn bạo của Tưởng Giới Thạch, và than phiền chỉ có xã hội Trung Quốc quen chịu áp bách mới có được hiện tượng như thế. (5)
Đại ý bài nầy là để bác cái thuyết "văn học có vĩnh cửu tánh" của một bọn người tự xưng là "loại người thứ ba", trên lập trường văn học không đứng về tả mà cũng không đứng về hữu. Vẫn chịu nhận rằng văn học có phổ biến tánh, nhưng phổ biến đến một mức nào mà thôi, do sự thể nghiệm của độc giả tùy thời gian và không gian mà đổi khác đi, thành ra có biến hóa. Đã có biến hóa thì không vĩnh cửu được.
- 166
TỪ CHỤP BÓNG ĐỨA BÉ NÓI ĐI
Vì đã lâu tôi không có con, từng có người nói, đó là quả báo bởi tôi làm người không tốt, sẽ phải tuyệt tự. Khi bà chủ nhà cho thuê đâm ghét tôi, không cho lũ trẻ con của bà đến chơi chỗ tôi, nói rằng "để cho hắn quạnh hiu, quạnh hiu đến phải chết!". Nhưng, hiện nay tôi đã có một đứa bé, có nuôi được cho khôn lớn hay không thì chưa biết, chứ bây giờ thì nó đã tạm nói chuyện được rồi, phát biểu ý kiến của nó được rồi. Có đều, không biết nói còn khá, biết nói một cái, làm cho tôi thấy nó như là kẻ địch của tôi. Nó có khi đối với tôi rất bất mãn, có lần nó nói trước mặt tôi rằng: "Đến phiên tôi làm cha, còn sẽ tốt...". Rất đỗi đến hầu như "phản động", nó từng phê bình tôi một câu gắt gao rằng: "Thứ đồ cha ấy, mà cha gì!?". Tôi không tin lời nó. Lúc còn làm con, cho mình là người cha tốt mai sau, đến khi chính mình có con rồi, câu tuyên ngôn ngày trước đã quên sạch cả. Huống chi tôi nghĩ tôi cũng chẳng đến nỗi là người cha xấu, tuy cũng có lúc mắng, hoặc đến đánh, thực ra là yêu nó. Cho nên nó mới - 167
lành mạnh, nhanh nhảu, nghịch ngợm, không hề bị đè nén đến đầu tắt mặt tối. Nếu tôi quả thật là một người "cha gì", thì nó còn dám đứng trước mặt tôi phát ra cái câu tuyên ngôn phản động như thế ư? Nhưng cái lành mạnh nhanh nhảu đó có khi cũng làm cho nó chịu thiệt hại. Sau sự kiện cứu nhất bát(1), nó bị đồng bào nhận lầm là trẻ con Nhật Bản, chửi cho mấy lần, còn có đánh cho một lần - tự nhiên là không đến nỗi nào. ở đây nên nói thêm một câu mà cả người nói lẫn người nghe đều không thích mười phần cả mười: Gần hơn một năm nay, cái việc như thế lại không có một lần nào hết. Trẻ con Trung Quốc và Nhật Bản, nếu mặc đồ tây cả, thường thường thật khó phân biệt. Nhưng giữa chúng ta có những người đều có chung một sự đoán vội mà sai lầm: mành khảnh dịu dàng, không nói cười nhiều, không động đậy nhiều, là trẻ con Trung Quốc; mạnh mẽ nhanh nhảu, không sợ người lạ, reo hò nhảy nhót, là trẻ con Nhật Bản. Nhưng mà quái lạ, tôi từng chụp cho nó một tấm ảnh ở tiệm chụp bóng Nhật Bản, trông mặt mũi nghịch ngợm, giống hệt trẻ con Nhật Bản; sau lại chụp cho nó một tấm ảnh ở tiệm chụp bóng Trung Quốc, áo quần giống nhau, nhưng mặt mũi trông rất đứng đắn, hiền lành, là một đứa trẻ con Trung Quốc chính cống. Vì việc ấy, tôi đã phải suy nghĩ. Cái nguyên nhân của sự khác nhau đó là tại người thợ chụp bóng. Về sự chỉ vẽ cho cái tư thế đứng hoặc ngồi, - 168
người thợ chụp bóng hai nước đã khác nhau rồi, sau khi đứng yên, họ lại trố mắt dòm vào máy, chực chụp lấy cái tướng mạo trong một giây mà họ cho là tốt nhất. trẻ con khi đứng trước cái ống kính máy chụp bóng, dáng dấp của nó cứ thay đổi luôn, khi thì nhanh nhảu, khi thì nghịch ngợm, khi thì hiền lành, khi thì đứng đắn, khi thì chán nản, khi thì e sợ, khi thì bạo dạn, khi thì mệt nhọc... Chụp lấy đúng cái giây hiền lành và đứng đắn, là ảnh trẻ con Trung Quốc; chụp lấy đúng cái giây nhanh nhảy hay nghịch ngợm, thì là ảnh giống trẻ con Nhật Bản. Hiền lành là các thứ cũng không phải là đức xấu. Có đều cứ thế phát triển mãi ra, đối với mọi sự đều hiền lành cả thảy, lại quyết không phải là đức tốt, có lẽ gỏn gọn là đổ đốn. Lời nói của "cha" và của vai trên, cố nhiên phải nghe theo, nhưng cũng phải nói cho có lý. Giá có một đứa bé, nó tự cho mình là mọi sự đều không bằng người, cứ cúi đầu đi thùi lui ; hay là ngoài mặt tươi cười mà trong lòng thì âm thầm chước móc, nói thật, tôi thà nghe nó suồng sã mắng vào mặt tôi "thứ đồ gì" và còn mong chính mình nó là một thứ đồ ra thứ đồ. Nhưng cái trớn chung của Trung Quốc lại chỉ nhằm về phương diện hiền lành các thứ, tức là phương diện "tĩnh" mà phát triển. Mày sa, mắt nhìn xuống, dạ dạ vâng vâng, mới kể là đứa trẻ tốt, khen nó là "ngoan ngoãn". Nhanh nhảu, lành mạnh, rắn mắt, ưỡn ngực, ngước mặt lên... hết thảy cái gì thuộc về phương diện "động", thì đã có người lắc đầu, đến nỗi bảo là "hơi Tây". Lại nhân vì lâu - 169
nay cứ bị xâm lược mãi, cho nên coi cái "hơi Tây" ấy là thù ; tới một bước, thì cố ý làm trái với cái "hơi Tây" ấy: chúng hoạt động, ta ngồi im, chúng giảng khoa học, ta cầu cơ ;(2) chúng mặc áo ngắn, ta mặc áo dài ; chúng giữ vệ sinh, ta ăn thừa ruồi ; chúng khỏe mạnh, ta đau yếu... có thế mới bảo tồn văn hóa của Trung Quốc, có thế mới là yêu nước, có thế mới không là nô lệ tánh. Thực ra, theo tôi thấy, trong những cái gọi bằng "hơi Tây" đó, không thiếu gì cái tốt, mà cũng là cái vốn có trong tính chất người Trung Quốc chúng ta, chỉ bởi tại sự đè nén của bao nhiêu triều đại, đã làm nó tàn rụi đi, rồi bây giờ chúng ta không còn biết mình ra làm sao nữa, cái gì cũng đem gán cho người ngoại quốc. Vậy phải thu nó về, khôi phục nó lại, cố nhiên còn phải chọn lọc kỹ lưỡng. Dù cho cái không phải Trung Quốc vốn có, mà nó là tốt, chúng ta cũng nên học tập. Dù cho ông thầy đó là kẻ thù của chúng ta đi nữa, chúng ta cũng nên theo mà học. ở đây, tôi phải đưa nước Nhật Bản ra, cái nước mà hiện nay mọi người không buồn nói tới: Người Nhật giỏi bắt chước, ít sáng tạo, điều đó bị nhiều luận giả Trung Quốc khinh chê, song le, cứ xem những đồ họ xuất bản và chế tạo, Trung Quốc đã không bằng rồi, thì biết rằng "bắt chước" không phải là xấu, chúng ta nên học tập cái "biết bắt chước" ấy. "Biết bắt chước" lại thêm sáng tạo nữa, chẳng càng hay hơn sao? Bằng chẳng vậy, chỉ có nước "ngậm hờn đi xuống suối vàng" mà thôi.
- 170
Ở đây tôi còn phải phân bua một câu hình như là thừa: Tôi tin rằng đó là chủ trương của chính mình tôi, chứ không phải đã "chịu người đế quốc chủ nghĩa sai khiến"(3), xui gicục người Trung Quốc làm nô lệ đâu; còn như cứ đầy mồm yêu nước, đầy thân quốc túy, về thực tế, với sự làm nô lệ cũng không có phương hại gì. 7-8-1934 (Dịch ở Thả giới đình tạp văn) ----------------------------------------(1)
Ngày 18 (nhất bát) tháng 9 (cửu) năm 1931, Nhật Bản lấy cớ một người Nhật tên là Trung Thôn mất tích, bắt đầu nổ súng đáng Đông Bắc, về sau gọi đó là "sự kiện cửu nhất bát". (2)
Cầu cơ là cầu tiên bằng cái cơ. Chữ Hán là "phù kê". Lỗ Tấn có hai bài tạp văn nói về chuyện ấy. Một bài viết năm 1918, nói khi ở Thượng Hải có một vị tiên phụ cơ giáng xuống Thịnh đức đàn, thì ở Bắc Kinh cũng có một vị tiên khác giáng đàn, bảo vị tiên giáng ở Thịnh đức đàn là "tà quỷ" ; về sau ở Thịnh đức đàn lại có một vị chân nhân giáng xuống, phán rằng những người khác không được phép cầu cơ. Một bài nữa viết năm 1934, nói ở Thượng Hải có người tên là Bạch Đồng, xưng là lưu học sinh ở Đức về, phát minh ra lối cầu tiên mới, hiệp với "khoa học", tiên không phụ ở cái cơ, mà phụ ở cái đĩa, vì vậy gọi là "điệp tiên". Xem đó thì biết cái sự mê tín cầu cơ còn rất thạnh hành ở Trung Quốc trong thời đại Lỗ Tấn. Cho nên ở đây ông đặc biệt chỉ trích việc ấy, cho là một việc phản khoa học điển hình. (3)
Tháng 7-1934, Lỗ Tấn có viết một bài tạp văn, đại ý nói viết văn bạch thoại thế nào cũng phải có dùng từ ngữ âu hóa, cú pháp âu hóa. Bị một người ký tên là Văn Công Trực, viết bài phản đối, cho là "hán gian", hỏi có phải đã "chịu người đế quốc chủ nghĩa sai khiến" mà nói thế không, Lỗ Tấn đã viết bài trả lời ngay lúc ấy. Vì vậy ở đây mới có lời phân bua nầy.
- 171
PHÉP AN BẦN LẠC ĐẠO
Có con phải nhờ người khác dạy cho, có bệnh phải nhờ người khác chữa cho, mặc dầu chính mình là thầy giáo hay thầy thuốc. Song le cái cách làm người ở đời, e phải tự mình châm chước lấy, bao nhiêu đơn thuốc của người khác khai cho thường chỉ là mảnh giấy loại. Khuyên người ta an bần lạc đạo, đó là cái đường lối chính của sự trị quốc bình thiên hạ từ xưa đến nay, những phương thuốc đã khai rất nhiều, song đều không có công hiệu thập toàn đại bổ(1). Vì đó những phương thuốc mới còn cứ khai mãi, mới đây lại thấy hai cái, nhưng tôi tưởng: có lẽ đều chưa thỏa đáng(2). Một phương là dạy người ta đối với chức nghiệp phải phát sinh hứng thú, đã có hứng thú thì không cứ việc gì làm cũng không thấy mệt. Phải, nói thì có lý đấy, song cũng phải là chức nghiệp gì nhẹ nhàng một chút kia. Thôi không nói những việc như đào than đá, gánh phân, hẵng nói những người thợ trong các xưởng Thượng Hải làm mỗi ngày ít nhất là mười giờ, đến chiều tối chắc phải lỏng gân kiệt sức, những sự rủi ro thường xảy ra vào lúc ấy. "Tinh - 172
thần lành mạnh ở trong thân thể lành mạnh", mà thân thể đã không cựa nổi, thì làm sao có hứng thú được? - Chỉ người nào yêu hứng thú hơn tính mạng của mình thì không kể. Nếu hỏi chính mình họ thử xem, tôi tưởng, nhất định họ nói giảm bớt thì giờ làm việc đi, chứ còn cái cách phát sinh hứng thú, dù trong chiêm bao họ cũng không nghĩ đến. Còn một phương thật triệt để, nói là trong mùa nóng nực, những người sang trọng bận rộn tiếp đón, mồ hôi đẫm lưng, kẻ nghèo lại ôm một manh chiếu rách trải trên đường, cởi áo nằm hóng gió mát, họ vui sướng vô cùng, thế gọi là "tiên ba đời". Đó cũng là một phương thuốc ít thấy và nên thơ, ngặt về sau còn có cảnh kém đẹp. Sắp đến mùa lạnh rồi, sớm mai đi trên đường cái xem xem, thấy có những người tay ôm bụng, miệng ọe ra nước vàng, đó tức là những người "tiên ba đời" dạo trước. Đại khái cái thứ người đại ngốc, có phúc trước mắt mà không biết hưởng, trên đời cũng không có nhiều, nếu như nghèo sát đất quả thật là vui sướng, thì những người sang trọng hiện nay chắc đã choán trước nằm chật đường cái rồi, và những người nghèo hiện nay không còn có chỗ trải chiếu của họ nữa. Cuộc hội khảo trung học ở Thượng Hải đã phát biểu thành tích ưu lương của học sinh, có một bài luận "áo đủ che lạnh, ăn đủ no bụng", trong có một đoạn rằng: "... Nếu đức nghiệp đã lập thì dù ăn bữa trưa lo bữa tối, áo xé vạt vá vai, mà danh đức của mình đủ truyền về - 173
sau, sự sống tinh thần sẽ phát triển đầy đủ, lo gì sự sống vật chất thiếu thốn? Cái lẽ thật của đời sống người ta vốn ở cái nầy mà không ở cái kia..." (rút ở Tân ngữ lâm kỳ thứ ba). Như thế so với ý đầu đề lại còn tiến hóa hơn một bước, nói rằng cả đến không "no bụng" cũng không hại chi. Song le cái phương thuốc của trung học sinh khai đó, đối với đại học sinh không thích dụng, cùng một lúc ấy vẫn xuất hiện một đàn lớn đại học sinh thất nghiệp đi kiếm việc làm(3). Sự thực là cái không hề nể ai hết, nó cứ việc đập vụn những lời nói suông. Có sự thực rõ ràng như thế, theo tôi tưởng, thực ra, rất không có nên chơi cái lối "chi hồ giả dã" nữa - dù thế nào, dù bao giờ, nó cũng là vô dụng. 13-8-1934 (Dịch ở Hoa biên văn học) ---------------------------------------(1)
Thập toàn đại bổ là tên một phương thang thuốc bắc. Nhân ở trên có nói "khai đơn thuốc" nên dùng nó vào đây như một định từ (adjectif), để chỉ nghĩa "hoàn toàn có ích lợi". "Không có công hiệu thập toàn đại bổ" tức là không hoàn toàn có ích lợi. (2)
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc có nhiều cuộc bãi công của công nhân. Có mấy tay bồi bút của nhà tư bản đưa ra những thuyết lừa bịp họ, sẽ bị Lỗ Tấn bác đi như dưới đây. (3)
Làm chứng chắc cho đoạn văn nầy có câu tục ngữ "Tất nghiệp tức là thất nghiệp" đã sản sinh ra trong thời ấy mà Lỗ Tấn có nhắc đến. Xem lời chua số 4 của bài thế giới con ve sầu. - 174
NÓI VỀ “THỂ DIỆN"
"Thể diện", là cái danh từ chúng ta thường nghe đến trong khi nói chuyện, vì nó giống như nghe thì hiểu ngay, cho nên đại khái không mấy người nghĩ kỹ về nó. Nhưng gần nay từ trong miệng người ngoại quốc, có khi cũng nghe được hai tiếng ấy, hình như họ đang nghiên cứu. Họ cho rằng cái chuyện ấy thật không dễ gì hiểu, song là cái giềng mối của tinh thần Trung Quốc, hễ nắm được nó thì cũng như hai mươi bốn năm trước nắm được cái đuôi sam, cả con người phải chạy theo. Người ta nói hồi Mãn Thanh, người ngoại quốc đến Tổng lý nha môn(1) vòi quyền lợi nầy nọ, đe dọa một mẻ, làm các quan lớn phải vâng vâng nhận lời, nhưng khi đi ra lại bị đưa ra cửa bên(2). Không cho ra cửa giữa, thế là họ mất thể diện ; mà họ đã mất thể diện, tức là người Trung Quốc được thể diện, tức - 175
là đi nước trên. Đó có là sự thực không, tôi không đoán chắc, có điều câu chuyện ấy, trong đám "nhân sĩ trong ngoài" chừng cũng có ít nhiều người biết. Nhân đó, tôi hơi ngờ rằng họ định đem riêng phần "thể diện" nhường cho chúng ta. Nhưng "thể diện" rốt lại là cái thá gì? Chẳng nghĩ tới thì thôi, nghĩ tới, thấy nó mập mờ lắm. Nó giống như là có đến mấy thứ, mỗi một thứ thân phận thì có một thứ "thể diện", tức cũng gọi là "mặt". Cái "mặt" ấy có một đường ranh giới, nếu rơi xuống phía dưới đường ấy tức là mất thể diện, cũng gọi là "bẽ mặt". Kẻ nào không sợ "bẽ mặt", tức là "muối mặt". Trái lại, nếu làm được việc gì vượt lên trên đường ấy, thì "có thể diện", hoặc nói "mở mặt". Mà cái nghĩa "bẽ mặt" thì lại tùy người mà không giống nhau: như anh phu xe ngồi bên đường cởi trần bắt rận thì không sao, chứ ông rể nhà giàu ngồi bên đường cởi trần bắt rận, mới là "bẽ mặt". Song le anh phu xe cũng không phải là không có "mặt", có điều lúc đó không coi là "bẽ", khi nào bị vợ đá cho một đá nằm lăn ra khóc, mới thành ra cái "bẽ mặt" của anh phu xe. Cái điều luật "bẽ mặt" ấy cũng thích dụng cho người bậc trên. Xem như thế thì cái cơ hội "bẽ mặt", hầu như người bậc trên tương đối có nhiều hơn, nhưng cũng không hẳn thế, lệ như anh phu xe ăn cắp một túi tiền, bị người ta bắt được, là mất thể diện, mà người bậc trên vét một mớ vàng ngọc châu báu, lại hình như cũng không thấy gì là "bẽ mặt", huống nữa còn có "xuất dương khảo sát" là cái phương thuốc hay để đổi khác mặt đi(3). - 176
Ai cũng cần có "thể diện", đành có thể nói là điều tốt, song "thể diện", cái vật ấy thực ra có hơi oái oăm. Thân báo ngày 30 tháng 9 có mách cho chúng ta một tin mới: La Lập Hồng, thợ mộc bao làm đồ gỗ ở xóm tây Thượng Hải, làm ma cho mẹ, mời "vợ chồng Vương Thụ Bảo chủ tiệm cầm đồ đến giúp việc, vì đông khách, áo trắng sắm không đủ chia cho, lúc đó có Vương Đạo Tài, tên tục là Tam hỉ tử, cũng đến đưa đám, giành mặc áo trắng không được, cho là mình mất thể diện, căm giận trong lòng... rủ vài chục đồ đảng, mỗi người cầm roi sắt, thấy nói còn có nhiều người cầm súng lục, đánh túi bụi vào bọn Vương Thụ Bảo, hai bênhân dân dánh nhau kịch liệt một lúc, vỡ đầu chảy máu, nhiều kẻ bị thương nặng..." Vả chăng, áo trắng là thứ sắm cho những người bà con gần có phục mặc,(4) nay phải "giành mặc" mà lại " không được", đủ thấy là không phải bà con gần, thế mà cho là "mất thể diện", gây nên trận xô xát lớn. Lúc đó, hình như hễ có gì không giống với người thường, tức là "có thể diện", còn chính mình thành ra cái gì thì lại hoàn toàn không kể. Cái thứ tánh tình ấy dù là "thân thương"(5) cũng không khỏi có lúc phát lộ ra: Lúc Viên Thế Khải sắp xưng đế, có người cho rằng được liệt tên trong biểu khuyến tấn(6) là "có thể diện" ; khi một nước kia rút quân khỏi Thanh Đảo, có người cho rằng được ghi tên trên cái tàn vạn dân(7) là "có thể diện". Cho nên, muốn được "thể diện" cũng có th nói không hẳn là điều tốt - có điều không phải tôi nói người ta nên "muối mặt" đâu. Bây giờ nói năng khó lắm ; nếu chủ trương "phi hiếu", sẽ có người nói anh đang cổ động đánh - 177
cha mẹ, chủ trương trai gái bình đẳng, sẽ có người nói anh đang đề xướng tạp giao - sự phân bua nầy cần lắm, cần lắm. Vả lại "mở mặt" và "muối mặt" thực ra cũng có thể có lúc khó phân biệt. Chẳng đã có câu chuyện buồn cười nầy là gì. Một vị thân sĩ có tiền có thế, gọi đi là ông cụ Tư, mọi người đều lấy sự được hầu chuyện ông làm vinh hạnh. Có một thằng nhắng chỉ ưa khoe khoang, một hôm hớn hở bảo với người khác rằng: "Ông cụ Tư đã nói chuyện với tôi rồi!". Người ấy hỏi: "Ông nói gì?" Đáp rằng: "Tôi đứng ở cửa ngõ ông, ông cụ Tư ra, nói với tôi rằng mầy cút đi!" Đành rằng đó là câu chuyện buồn cười, hình dung ra cái "muối mặt" của người ấy, có điều ở chính mình nó thì tự cho là "có thể diện", những người như thế càng nhiều ra, cũng thật thành ra "có thể diện" vậy. Bao nhiêu người khác, chẳng là cả đến câu "mầy cút đi", ông cụ Tư cũng không nói với họ ư? Ở Thượng Hải, "ăn giam bông ngoại quốc",(8) tuy còn chưa phải là "có thể diện", chứ cũng không kể được là "bẽ mặt", nhưng mà đem so với bị người bậc thấp(9) bổn quốc đá cho một cái, lại mường tượng như là "được thể diện". Người Trung Quốc cần có "thể diện", cái đó là tốt, đáng tiếc là cái "thể diện" ấy "tròn như con vụ", khéo biến hóa, thế rồi nó cùng với "muối mặt" lẫn lộn nhau. Trường Cốc Xuyên Như Thị Nhàn nói về "Đạo tuyền" rằng: "Người quân tử đời xưa ghét tên nó mà không uống. Người - 178
quân tử đời nay đổi tên nó mà uống đi."(10) Cũng là nói toạc cái bí mật về "thể diện" của người quân tử đời nay. 4-10-1934 (Dịch ở Thả giới đình tạp văn)
-----------------------------------------(1)
Tổng lý nha môn của Mãn Thanh cũng như bộ ngoại giao về sau.
(2)
Theo lễ tục Mãn Thanh, cửa giữa để cho vua đi, sứ thần các nước chỉ được đi cửa bên. ở nước ta, thuở Tự Đức cũng thế. Từ Đồng Khánh về sau, toàn quyền, khâm sứ mới đi cửa giữa. (3)
ở thời đại Lỗ Tấn, Trung Quốc có những tay quân phiệt, tức gọi là "người bậc trên", sau khi chiếm cứ địa bàn một lúc, vơ vét đầy túi rồi, vì việc gì đó, lấy danh nghĩa là "xuất dương khảo sát" đi ra ngoại quốc, không bị tội lệ gì cả. (4)
Theo tang lễ cũ, chỉ có bà con gần trong năm thế hệ thì có để tang, tức là "có phục", còn ngoài ra, tuy bà con mà xa, thì không phục. (5)
Chữ "Thân" nguyên để chỉ người có quan chức, như nói "thân biền", "văn thân", "thân sĩ". ở Thượng Hải không có quan, chỉ có bọn nhà buôn nhiều tiền, có thế lực, cũng được gọi tôn là "thân thương". Đó là một danh từ mới lạ, nên tác giả để trong vòng ngoặc kép. (6)
Biểu khuyến tấn là bài biểu có nhiều người ký tên khuyên mời một người nào lên làm vua, có từ đời xưa. (7)
Tàn vạn dân, nguyên văn là "vạn dân tán", không hiểu là gì ; "một nước kia rút quân khỏi Thanh đảo", không biết là nước Đức hay nước Nhật: đợi tra. (8)
Cái giò lợn quay đi, thái ra từng khoanh để ăn, tiếng tây gọi là "giam bông". ở Thượng Hải trước kia, khi người bổn địa bị người ngoại - 179
quốc đá đít, họ gọi là "ăn giam bông ngoại quốc" (ngật ngoại quốc hỏa thối). (9)
Người Âu Mỹ hay Nhật Bản trước kia, ở Thượng Hải, đối với người Trung Quốc chia làm hai hạng: hạng có học, có chức vị, có tiền, gọi là "cao đẳng Hoa nhân" ; hạng không học, nghèo, đi làm công, gọi là "hạ đẳng Hoa nhân". Trong bài nầy có nói " người bậc trên", "người bậc thấp" là căn cứ ở đó. (10)
Trường Cốc Xuyên Như Thị Nhàn là người Nhật Bổn. Đạo tuyền là tên một cái suối, nghĩa đen là "suối kẻ trộm". Đời xưa có người đi ngang qua cái suối ấy, đang khát nước, vì ghét cái tên nó mà không uống. Cho nên có câu thơ cổ rằng: "Khát mạt ẩm đạo tuyền thủy, khốn mạt tức ác mộc âm", nghĩa là: Khát, đừng uống nước suối kẻ trộm, mệt, đừng nghỉ dưới bóng cây xấu. - "Đổi tên mà uống đi", lời biếm nhẻ rất sâu cay. (Trong bài nầy có dùng một danh từ mà người đọc khi đọc đến chắc phải lấy làm ngờ ngợ, là bốn chữ "ông rể nhà giàu (nguyên văn là "phú gia cô gia"). Nói ai chẳng được, lại phải nói cho kỳ được ông rể nhà giàu? Ở tập “Chuẩn phong nguyệt đàm”, Lỗ Tấn có một bài đả kích một người rể nhà giàu, nhờ tiền vợ mở hiệu sách, mở nhà báo, in "tác phẩm" tồi của mình, làm quảng cáo ầm lên, cũng được gọi là "thi nhân". Người ấy tên là Thiệu Tuân Mỹ, cháu rể Thạnh Tuyên Hoài, một vị đại thần triều Mãn Thanh, đồng thời là nhà tư sản mại bản. Bài ấy đăng báo xong, có mấy tờ báo khác về phe với Thiệu Tuân Mỹ, viết bài bênh cho, gây nên một cuộc bút chiến dai dẳng, không quan trọng, nhưng thật buồn cười. Việc ấy xảy ra tháng 8-1933, cách ngày Lỗ Tấn viết bài nầy không xa, cho nên tôi đoán rằng "Ông rể nhà giàu" là ám chỉ Thiệu Tuân Mỹ. Đoán như thế, sợ là xuyên tạc chăng, nên tôi phụ ghi ở đây, không coi hẳn là lời chua).
- 180
NAPOLÉO VỚI EDWARD JENNER
Tôi biết một người thầy thuốc, bận rộn lắm, song cũng thường bị bệnh nhân trách móc, có một lần, ông ta than thở để tự an ủi rằng: Muốn được khen, tốt nhất là giết người, anh thử so sánh Napoléon với Edward Jenner (1749 - 1822) xem xem... Tôi nghĩ, nói thế mà thật đấy. Cái công trạng đánh giặc của Napoléon có can hệ gì với chúng ta đâu, vậy mà chúng ta lại cứ kính phục cái anh hùng của hắn. Rất đỗi đến tổ tiên chính mình chúng ta đã làm nô lệ người Mông Cổ, mà chúng ta lại ca tụng Thành-Cát-Tư(1). Lấy con mắt chữ (tr.181 Tạp văn) hiện nay mà nhìn, giống người da vàng đã là giống hèn mạt, ấy vậy mà chúng ta lại tâng bốc Hitler. Chỉ vì ba cái ông ấy đều là ông sao dữ(2) giết người không nháy mắt.
- 181
Nhưng chúng ta thử xem trên cánh tay mình, đại khái ai cũng có mấy cái nốt, đó là những dấu đã trồng đậu, là cái đã làm cho người ta thoát khỏi cái chứng nghèo ngặt nên đậu trời. Từ khi có phép trồng đậu ấy đến nay, chẳng biết đã cứu sống được bao nhiêu đứa trẻ con trên thế giới tuy cũng có những đứa lớn lên vẫn phải đi làm mồi súng(3) cho bọn anh hùng, nhưng chúng ta có ai nhớ đến cái tên Jenner là người phát minh ra phép ấy đâu. Kẻ giết người đang hủy hoại thế giới, kẻ cứu người đang tu bổ thế giới, thế mà các ông là người có tư cách làm mồi súng lại cứ đi ca tụng kẻ giết người. Cái cách nhìn đời ấy nếu không đổi, tôi e, thế giới vẫn phải hủy hoại, loài người vẫn phải chịu khỏ. 6-11-1934 (Dịch ở Thả giới đình tạp văn) --------------------------------------------(1)
Năm 1929, Tân văn báo ở Thượng Hải có đăng một bài đầu đề là "Một trang chiến sử nước ta đánh nước Nga". Đại lược nói: Sau khi Thành Cát Tư Hàn dấy từ Mông Cổ, vào làm chủ Trung Quốc, dần dần đem binh chinh phạt Âu châu. Đến đời Thái Tông năm thứ mười, cử đại binh đánh Nga, hãm kinh đô Mạc Tư Khoa. Đó là một trang chiến sử rất có vinh dự của nước ta vậy." Lỗ Tấn đã có một bài công kích người ký tên dưới bài ấy là Thanh Cồ, nói rằng chỉ có Thanh Cồ là dòng dõi Mông cổ thì mới nói như thế. ở đây cũng lại đay đi đay lại câu chuyện ấy. Xem thêm lời chua số 8 của bài Ma mãnh trên văn đàn Trung Quốc ngay dưới đây. (2)
"Ông sao dữ", nguyên văn là "đại tai tinh". Tục ngữ ta có câu: "Người ta cúng ông sao dữ, không ai cúng ông sao lành." Cho nên ở đây dịch "đại tai tinh" là "ông sao dữ". - 182
(3)
Tiếng Trung Quốc nói "pháo khôi", tiếng Pháp nói chair à canon, thì ta nói "bia đỡ đạn", lâu nay đã nói quen như thế. "Pháo khôi", nghĩa là tro của súng, súng bắn tan thành tro; chair à canon, nghĩa là thịt cho súng, súng bắn nát thịt. Cái danh từ nghe có hiện thực và đáng ghê tởm. Ta nói "bia đỡ đạn", thì không đủ biểu đạt cái ý hy sinh vô lối, và không có vẻ hiện thực. Vả lại, cái bia dùng để tập bắn, nó chịu đạn chứ không đỡ đạn. Nói "đỡ đạn", chẳng có nghĩa gì. Vì lẽ ấy ở đây không nói "làm bia đỡ đạn" mà nói "làm mồi súng". Súng bắn vào con vật nào thì con vật ấy là mồi của súng, cho nên thợ săn gọi lợn cỏ, hươu, nai, những con mình định bắn là "con mồi".
- 183
MA MÃNH TRÊN VĂN ĐÀN TRUNG QUỐC
Sau khi Quốc dân đảng đối với Cọng sản đảng từ hợp tác đổi ra tiễu diệt(1), có người nói, Quốc dân đảng trước kia chẳng qua lợi dụng bọn họ đó thôi, khi bắc phạt sắp thành công sẽ thi hành sự tiễu diệt, ấy là kế hoạch đã định sẵn. Nhưng tôi cho rằng cái thuyết ấy không đúng sự thật. Trong Quốc dân đảng rất có những người có quyền lực là người thích cọng sản, lúc đó họ đua nhau gởi con cái của mình sang học bên Liên Xô, là một cái chứng cứ. Bởi vì những người làm cha mẹ ở Trung Quốc coi con cái là vật quý báu nhất của mình, họ quyết không khi nào cho chúng nó đi học để làm cái tài liệu bị tiễu diệt. Chẳng qua bọn người quyền lực hình như có một thứ tư tưởng sai lầm, họ nghĩ rằng Trung Quốc cứ cọng sản đi, quyền lực của chính - 184
mình họ lại có thể càng lớn, của cải và nàng hầu càng nhiều ; ít nhất là cũng không đến kém sút hồi chưa cọng sản. Chúng ta có một cái truyền thuyết. Trước đây chừng hai ngàn năm, có một ông họ Lưu, mất bao nhiêu công khó tu luyện thành tiên, có thể cùng bà vợ ông bay lên trời một thể đấy, nhưng mà bà vợ không muốn. Vì sao? Vì bà ta không đành bỏ cái nhà mình ở, gà và chó mình nuôi từ lâu. Ông Lưu phải đi cầu xin Thượng đế, kiếm cách cho hai vợ chồng và nhà cửa gà chó đều bay lên trời cả, thế mới làm tiên được(2). Đó cũng là sự biến hóa lớn, thực ra lại bằng với không biến hóa gì hết. Ví thử trong nước cọng sản chủ nghĩa có thể không đụng chạm thay đổi cái bề thế cũ của những người quyền lực kia, hay là còn sẽ tấy lên hơn, thì nhất định họ tán thành đấy. Nhưng cái tình hình về sau chứng minh rằng chủ nghĩa cọng sản không có thể làm việc cách linh động như Thượng đế được, thế rồi họ mới quyết một bề tiễu diệt thẳng tay. Con cái vẫn là vật quý báu nhất, nhưng chính mình lại còn quý báu hơn nữa. Thế rồi bao nhiêu bọn thanh niên, người cọng sản chủ nghĩa và người tình nghi là cọng sản chủ nghĩa, người tả khuynh và người tình nghi tả khuynh, lại với những bạn bè của những người tình nghi ấy, đâu đâu cũng lấy máu của mình rửa sạch sự sai lầm của mình cả đến sự sai lầm của bọn người quyền lực kia. Sự sai lầm trước kia của bọn người quyền lực là bị bọn thanh niên lừa dối, cho nên phải dùng máu thanh niên khác lại còn chưa biết đầu đuôi gì, - 185
học xong ở Liên Xô, cứ hớn hở cỡi lạc đà theo đường Mông Cổ trở về nước. Tôi nhớ có một người đàn bà lữ hành ngoại quốc từng thấy mà đau lòng, nói rằng, cơ khổ, họ còn chưa biết hiện ở tổ quốc, cái dang chờ đợi họ đã là cái giá thắt cổ rồi. Đúng rồi, là cái giá thắt cổ. Song le, giá thắt cổ cũng còn là khá, vẻn vẹn chỉ dùng sợi dây thắt cái cổ, thế còn là ưu đãi. Vả lại cũng không phải mỗi một người đều trèo lên giá thắt cổ đâu, một số người trong đám họ còn có một con đường, là ra sức kéo cái chân của người bạn trông cổ vào dây(3), tức là dùng sự thực để chứng minh cái điều sấm hối trong lòng mình, mà con người biết sấm hối thì tinh thần thật là cao tột. 2 Từ đó rồi người cọng sản chủ nghĩa nào đó không biết sấm hối, ở Trung Quốc thành ra người có tội đáng giết. Vả lại người có tội ấy trở lại giúp cho người khác lắm đường tiện lợi ; họ trở nên món hàng buôn, có thể bán lấy tiền, thêm công ăn việc làm cho người ta. Vả lại sự lôi thôi trong trường học, sự rắc rối giữa trai gái, thế nào cũng có một bên bị chỉ cho là cọng sản, tức là người có tội, nhân đó rất dễ dàng được giải quyết(4). Nếu có ai biện luận với một nhà thơ có tiền, nó phản đối tôi, cho nên nó là người cọng sản. Thế rồi vị thần thơ bên ngồi trên xe tâng tâng bằng vàng hát bài đắc thắng trở về. (5)
- 186
Thế nhưng, máu của thanh niên cách mạng lại tưới cho cái mầm văn học cách mạng về phương diện văn học, trở tăng thêm cách mạng tánh hơn trước kia. Trong chính phủ rất có những thanh niên giàu tri thức học ở nước ngoài về hoặc học được tại trong nước, bọn họ hẳn biết được điều đó, nên trước tiên thì dùng thủ đoạn rất thông thường: cấm sách báo, áp bách nhà văn, mà cuối cùng thì giết hại nhà văn, có năm nhà văn thanh niên tả dực hy sinh cho cuộc thị uy đó(6). Nhưng mà cái sự kiện ấy lại chưa hề công bố, họ biết chán rằng việc ấy có thể làm mà không thể nói ra. Người xưa cũng đã từng nói rồi, "lấy trên ngựa cướp được thiên hạ, chứ không thể lấy trên ngựa trị được thiên hạ"(7). Cho nên muốn tiễu diệt văn học cách mạng, còn phải dùng thứ võ khí bằng văn học. Cái được coi là võ khí mà xuất hiện ra, là cái gọi bằng "văn học dân tộc". Họ nghiên cứu màu da mặt của các giống người trên thế giới, rồi quyết định rằng hễ giống người cùng chung một màu da mặt thì phải đi rập một đường hành vi, cho nên giai cấp vô sản da vàng không nên đấu tranh với giai cấp hữu sản da vàng, mà phải đấu tranh với giai cấp vô sản da trắng. Họ còn nghĩ đến Thành Cát Tư Hàn, lấy làm cái tiêu bổn lý tưởng, miêu tả Bạt Đô Hàn, cháu hắn, thế nào đã suất lãnh bao nhiêu dân tộc da vàng càn vào Quát La Tư, phá hủy văn hóa của họ, bắt cả quý tộc và bình dân đều làm nô lệ.(8) Người Trung Quốc đi theo Khắc Hàn Mông Cổ đánh giặc, thực ra không kể được là sự quang vinh của dân tộc - 187
Trung Quốc, song, cho được tiêu diệt Quát La Tư, họ không thể không làm như vậy. Bởi vì bọn người quyền lực của chúng ta, hiện đã biết rõ Quát La Tư ngày xưa tức là Liên Xô ngày nay, chủ nghĩa của họ quyết không có thể tăng thêm quyền lực, của cải và nàng hầu cho mình rồi. Nhưng mà Bạt Đô Hàn hiện nay là ai? Tháng chín năm 1931, Nhật Bản chiếm cứ Đông Tam tỉnh, đó chính là cái bài rao người Trung Quốc đi theo kẻ khác đánh phá Liên Xô, các nhà văn học dân tộc chủ nghĩa có thể lấy làm hể hả lắm. Song dân chúng nói chung, lại cho rằng sự mất Đông Tam tỉnh hiện giờ còn khẩn yếu hơn sự đánh phá Liên Xô mai sau, nên họ đã tức tối vùng lên. Thế rồi nhà văn học dân tộc chủ nghĩa cũng phải coi gió bỏ buồn, đổi ra kêu la khóc lóc đối với sự kiện ấy. Có bao nhiêu tốp thanh niên sốt sắng đi Nam Kinh thỉnh nguyện, yêu cầu xuất binh ; nhưng mà việc đó phải trải qua sự thử thách rất cay đắng: không cho ngồi xe hỏa, ăn nắm giữa trời mất mấy hôm, mới cho ngồi đến Nam Kinh, có nhiều kẻ phải đi chân mà đến. Đến Nam Kinh rồi, lại không ngờ gặp phải một đại đội "dân chúng" từng được huấn luyện, tay cầm gậy gộc, roi da, súng lục, đón đầu đánh cho một trận, làm bọn họ trầy mình sưng mặt, thế là kết quả đó, xuôi lơ cụt hứng đi trở về ; còn có những người từ đó tìm không thấy, hoặc chết đuối dưới sông, theo lời trên báo thì là tự họ nhảy xuống nước.(9) Sự kêu khóc của các nhà văn học dân tộc chủ nghĩa cũng từ đó hạ lớp, cái bóng của họ cũng không thấy, họ đã - 188
hoàn thành cái nhiệm vụ đưa ma rồi. Thật giống như hàng ngũ đám tang ở Thượng Hải một thứ, khi ra đi, có phường nhạc lộn xộn, có tiếng khóc giống như hát, nhưng cái mục đích là để chôn quách sự bi ai; cái mục đích ấy đã đạt rồi, thì mỗi người đi mỗi nơi, không còn thành ra hàng ngũ gì nữa. 3 Song le, văn học cách mạng không hề day động, vẫn cứ phát đạt hơn lên, bạn đọc cũng càng tin cậy hơn lên. Thế rồi một phương diện khác, bèn xuất hiện cái gọi bằng "loại người thứ ba". Loại người ấy quyết không phải tả dực, mà lại không phải hữu dực, là nhân vật vượt ra bên ngoài tả hay hữu. Họ cho rằng văn học là vĩnh cửu, hiện tượng chính trị là tạm thời, cho nên văn học không thể dính dấp với chính trị, hễ dính dấp thì mất cái vĩnh cửu tánh của nó, Trung Quốc từ đó sẽ không có tác phẩm vĩ đại. Có đều, họ, "loại người thứ ba" trung thực với văn học kia cũng không viết được tác phẩm vĩ đại nào. Tại sao? ấy là tại nhà phê bình văn học tả dực không hiểu văn học, bị tà thuyết làm mù quáng, phê bình cộc cằn mà không đúng và đả kích những tác phẩm hay của họ, làm họ viết không ra. Cho nên nhà phê bình tả dực là đao phủ tủ của văn học Trung Quốc(10). Đến như về sự chính phủ cấm sách báo, giết hại nhà văn, thì họ không nói đến, vì đó là thuộc về chính trị, nói đến, thì mất cái vĩnh cửu tánh của tác phẩm họ đi. Huống - 189
chi cấm hoặc giết bọn người "đao phủ thủ của văn học Trung Quốc" lại chính là bảo hộ cho văn học vĩnh cửu, tác phẩm vĩ đại của "loại người thứ ba" nữa. Thứ van khóc yếu đuối và giả đò ấy tuy cũng là một thứ võ khí, song lực lượng của nó tự nhiên là rất nhỏ, văn học cách mạng không bị nó đánh lùi đâu. "Văn học dân tộc chủ nghĩa" đã tự mình tiêu diệt rồi, "văn học loại người thứ ba" lại không đứng nổi, khi ấy, chỉ phải một lần nữa dùng võ khí thật. Tháng 11 năm 1933, Công ty Nghệ hoa ảnh phiến ở Thượng Hải thình lình bị một bọn người tập kích, đập phá lung tung. Chúng làm việc rất có tổ chức, thổi một tiếng còi, ra tay, một tiếng còi nữa, ngừng tay, lại một tiếng còi nữa, rút lui. Khi rút lui, còn để truyền đơn lại, nói sở dĩ chúng tấn công như thế là vì công ty ấy bị Cọng sản đảng lợi dụng. Vả lại không những tấn công một công ty làm phim ấy mà còn rây ra các tiệm sách nữa. Lớn thì một tốp người ào vào đập phá hết thảy, nhỏ thì chẳng biết từ đâu bay đến một cục đá, xán vỡ tấm kính chỗ bày hàng đáng giá hai trăm đồng. Cái lý do, tự nhiên cũng là vì tiệm sách ấy bị Cọng sản đảng lợi dụng. Tấm kính đắt tiền bị vỡ, ấy là điều mà người chủ tiệm sách rất lấy làm đau lòng. Sau đó mấy ngày, có "nhà văn học" đem "tác phẩm hay" của mình đến bán cho, người chủ tiệm biết rằng sách ấy in ra là không có ai xem đấy, nhưng cũng cứ mua, vì giá tiền chẳng qua bằng giá tiền tấm kính, mà có thể khỏi bị cục đá thứ hai, đỡ công chữa sửa chỗ bày hàng. - 190
4 Áp bách tiệm sách, cái chiến lược ấy thật là rất hay. Thế nhưng, mấy cục đá còn lấy làm chưa đủ. Trung ương Tuyên truyền ủy viên hội còn tra cấm một mớ sách, kể là 149 thứ, hễ là sách bán chạy nhất hầu hết ở trong số đó. Những tác phẩm của tác gia tả dực Trung Quốc, tự nhiên là bị cấm cả, lại còn cấm đến sách dịch. Cử ra đây mấy tác giả, như là Gorky, Lunacharsky, Fedin, Fadaev, Serafimovich, Upton Sinclair, rất dỗi cấm đến của Maeterlinck, Sologup, Strindberg. Sự đó làm cho các nhà xuất bản rất khó lòng, có nhà lập tức đem sách nộp, đốt đi, có nhà còn tìm cách bổ cứu, thương lượng với chính quyền, kết quả là được tha cho một phần nào. Vì muốn giảm bớt sự khó khăn của nghề xuất bản mai sau, nhà quan với nhà xuất bản cùng mở một cuộc hội nghị. Trong cuộc hội nghị ấy, có mấy kẻ "loại người thứ ba" vì muốn bảo hộ văn học tốt và tư bổn của nhà xuất bản, bèn lấy tư cách mình là người biên tập tạp chí mà đề nghị, xin dùng biện pháp của Nhật Bản, kiểm duyệt và chữa sửa nguyên cảo trước khi đưa in, để người khác khỏi vì tác phẩm của tác gia tả dực làm liên lụy mà cũng bị cấm, hay là sau khi đã in ra mới bị cấm làm cho nhà xuất bản chịu thiệt thòi. Cái đề nghị ấy bên nào cũng thỏa mãn, được áp dụng ngay, mặc dầu nó không phải là cái phương pháp cũ của Bạt Đô Hàn vẻ vang(11). Vả lại cũng liền bắt đầu thực hành. Tháng bảy năm nay, ở Thượng Hải đã đặt Tòa Kiểm duyệt sách báo, bao - 191
nhiêu vấn đề "nhà văn học" thất nghiệp không còn nữa, lại có bọn tác gia cách mạng đã cải hối, bọn "loại người thứ ba" là kẻ phản đối văn học với chính trị dính dấp nhau, cũng đều ngồi trên ghế quan kiểm duyệt. Bọn họ rất lảu thuộc tình hình văn đàn; đầu óc không lù mù như quan liêu thuần túy, một lời trào phúng, một câu phản ngữ, họ tương đối hiểu được ý nghĩa ngậm ở trong ; vả lại dùng ngòi bút văn học mà bôi mà gạch, không luận thế nào cũng không khó khăn như sáng tác, cho nên thấy nói thành tích rất là tốt. Song le, sự họ đưa Nhật Bản ra làm khuôn mẫu thì là sai lầm. Nhật Bản cố nhiên không cho nói đấu tranh giai cấp, chứ cũng không nói trên thế giới vốn không có đấu tranh giai cấp, mà Trung Quốc thì nói trên thế giới thực ra không có gì gọi là đấu tranh giai cấp, chỉ bởi Mác bị đặt ra, cho nên không cho nói để mà giữ gìn cho chân lý(12). Lại, Nhật Bản cố nhiên cấm và xóa bỏ trong sách báo, nhưng chỗ nào xóa bỏ thì được phép để trắng cho kẻ đọc thấy thì biết đó là chỗ bị xóa bỏ ; mà Trung Quốc thì không cho để trắng, bắt phải chắp liền lại, làm kẻ đọc thấy như đó là một bài văn nguyên vẹn, chỉ tại người viết viết bất thông. Cái thứ viết bất thông ấy ở dưới mắt kẻ đọc Trung Quốc hiện nay, dù cho Friche, Lunacharsky cũng không khỏi. Thế rồi tư bổn của nhà xuất bản được yên vẹn, lá cờ của "loại người thứ ba" chẳng thấy đâu, bọn họ cũng ở trong bóng tối ra sức kéo cái chân của bạn đồng nghiệp lên giá thắt cổ, song không có một tờ báo nào có thể vẽ ra - 192
nguyên hình của họ được, vì họ đang nắm cây bút bôi và gạch, là cái quyền lực sinh và sát. ở kẻ đọc, chỉ thấy sách báo không ra gì, tác phẩm kém sút, những tác gia tiền tấn có tiếng với ngoại quốc trước kia, năm nay cũng thình lình biến ra đồ ngu dốt mà thôi. Nhưng mà về thực tế, mặt trận của giới văn học lại càng thêm rõ ràng ra. Sự che đậy không thể lâu dài được, sẽ có một đám chiến đấu tanh máu tiếp theo đây mà nổi lên(13). 21-11-1934 (Dịch ở Thả giới đình tạp văn) -----------------------------------------------(1)
Hồi Tôn Trung Sơn còn sống, chủ trương "liên Nga dung Cọng", cho nên sau đó Cọng sản đảng hợp tác với Quốc dân đảng, gọi là "Quốc Cọng hợp tác". Nhờ sự hợp tác đó mới có cuộc Bắc phạt thành công. Nhưng không bao lâu, Tưởng Giới Thạch làm phản Cọng sản đảng, ngày 12-41927 ra lệnh "Thanh đảng", giết hại những nông dân, công nhân, trí thức hàng triệu người, ở đây nói "tiễu diệt" là chỉ việc ấy. (2)
"Ông họ Lưu" đây là nói Lưu An, con trai của Hán Cao Tổ (Lưu Bang), được phong Hoài nam vương. Theo Thần tiên truyện nói Lưu An tu luyện, uống thuốc trường sinh, thành tiên, cùng với vợ bay lên trời, những thuốc còn sót lại, gà và chó ăn lấy cũng đều bay lên trời. Cái truyền thuyết chỉ có thế, ở đây nói "bà vợ không muốn..." và "cầu xin Thượng đế" đều là do tác giả bịa thêm ra cả. (3)
Giá thắt cổ có cây ngang ở trên, buộc dây thòng lọng, người bị thắt cổ đứng trên tấm ván ở dưới tròng đầu vào dây, rồi có người kéo cái chân cho lìa khỏi tấm ván, cho hỏng người đi thì cái thòng lọng mới thắt lại mà chết được. Sự thực là thế, nhưng ở đây nói "một số người... kéo cái chân
- 193
của người bạn" là nói bóng. ý muốn nói một số người ấy phản bạn, thú khai, trút tội cho bạn để mình khỏi chết, xem câu tiếp theo khắc hiểu. (4)
Lúc bấy giờ trong các trường học, học sinh kiện thầy giáo hay là yêu cầu việc gì không được mà bãi khóa, đều bị chỉ là theo cọng sản mà đuổi ngay ; hai bên trai gái đã đính hôn với nhau mà bên nầy muốn lật bên kia thì vu cho là cọng sản, pháp luật sẽ cho thoái hôn lập tức. (5)
"Một nhà thơ" đây có lẽ ám chỉ Thiệu Tuân Mỹ, cháu rể của Thạnh Tuyên Hoài, một tay tư sản quan liêu mại bản. Việc nầy từng gây ra một cuộc bút chiến giữa nhiều tờ báo Thượng Hải, trong đó có Lỗ Tấn. (6)
Năm nhà văn nầy bị bắt ngày 17 tháng 1 năm 1931, đến ngày 7 tháng 2 thì bị bí mật thủ tiêu, trong đó biết được bốn người là Nhu Thạch, Hồ Dã Tần, Bạch Mãng tức Ân Phu và Lý Vĩ Sum. (7)
Đây là lời của Lục Giả nói với Hán Cao Tổ (Lưu Bang), nguyên văn là: "Dĩ mã thượng đắc thiên hạ, yên năng dĩ mã thượng trị chi". (8)
Bấy giờ trong bọn đề xướng "văn học dân tộc" có người ký tên là Thanh Cồ viết bài ca tụng Thành Cát Tư Hàn và Bạt Đô Hàn từng suất lãnh các dân tộc da vàng, trong đó có người Trung Quốc, đi đánh chiếm nước Nga La Tư, mà cho rằng "đó là một trang lịch sử quang vinh của Trung Quốc". Lỗ Tấn đã có viết bài bác cái thuyết ấy, nói rằng chỉ có ông Thanh Cồ là người Mông Cổ thì mới nói như thế được. Về sau, Lỗ Tấn còn căn cứ ở lịch sử mà chỉ ra rằng người Mông Cổ đánh chiếm Mạc Tư Khoa trước, rồi mới đánh chiếm Trung Quốc sau, vậy khi Bạt Đô Hàn càn vào nước Nga, không thể có người Trung Quốc dự vào. - Thành Cát Tư Hàn tức là Gengis Khan. Hàn là hiệu vua Mông Cổ, cũng như "hoàng đế". ở Trung Quốc đời xưa, có khi dịch là "hàn", có khi dịch là "khắc hàn". Ngay dưới đây có chữ "khắc hàn", tức là "khan" của tiếng tây. - Người Trung Quốc đời xưa gọi nước Nga La Tư là Quát La Tư. (9)
Ngày 18-9-1931, quân Nhật nổ súng đánh Đông Bắc, Tưởng Giới Thạch ra lệnh "bất đề kháng". Nhưng sau đó có hai lần dân chúng xin ra quân chống Nhật, Tưởng đã nhật lời, hứa trong ba ngày sẽ ra quân mà rồi vẫn không ra quân. Ngày 17-12-1931, có ba vạn người thỉnh nguyện thị uy ở Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch ra lệnh đàn áp như đã nói ở đây. - 194
(10)
Về việc nầy, Lỗ Tấn đã có viết bài bác luận, nói sở dĩ họ không viết được cái gì ra hồn là tại họ không có lập trường, chứ không phải tại sự phê bình cộc cằn của tả dực. Vì trên văn đàn, không đứng về tả thì đứng về hữu, chứ không có thể có "loại người thứ ba" được. (11)
Trên kia đã có câu "hiện nay Bạt Đô Hàn là ai?". Có ý nói Bạt Đô Hàn là Nhật Bản. ở đây, trên nói "Xin dùng biện pháp của Nhật Bản", dưới nói thế nầy, thì Bạt Đô Hàn cũng chỉ Nhật Bản. (12)
Thuyết nầy, ở Trung Quốc, không rõ là ai nói ra. Chứ giáo thụ Lương Thực Thu thì nhận rằng xã hội vẫn có giai cấp, nhưng văn học thì không có giai cấp tánh, cũng đã bị Lỗ Tấn bác đi. (13)
Theo lời "Phụ ký" sau cuốn Thả giới đình tạp văn thì bài "Ma mãnh trên văn đàn Trung Quốc" nầy viết cho (tạp chí) China To-day (Trung Quốc hiện đại), không biết do người nào đã dịch ra, đăng ở kỳ thứ 5, quyển thứ 1, sau lại từ tiếng Anh chuyển dịch ra, đăng ở báo Quốc tế văn học vừa bằng tiếng Đức vừa bằng tiếng Pháp.
- 195
KHỔNG PHU TỬ Ở TRUNG QUỐC ĐỜI NAY
Các báo ở Thượng Hải mới rồi đăng tin rằng nhân thánh miếu Khổng Tử ở Thanh Đảo bên Nhật Bản làm lễ lạc thành, tướng quân hà Kiện chủ tịch tỉnh Hồ Nam gởi tặng một bức tượng vẽ Khổng Tử mà bấy lâu giữ làm của báu. Thật thà mà nói, tướng mạo Khổng Tử như thế nào, nhân dân Trung Quốc nói chung, hầu như không biết gì đến cả. Từ xưa đến nay tuy mỗi một huyện đều có thánh miếu, tức văn miếu, nhưng trong đó đại khái không có thánh tượng. Phàm khi vẽ, trỗ hoặc nặn một nhân vật đáng thờ kính, theo nguyên tắc, đại khái là làm lớn hơn người thường, nhưng đến một nhân vật đáng thờ kính hơn hết như đức thánh Khổng Phu Tử, thì lại hình như cả đến hình tượng cũng thành ra tiết độc, trở không bằng không có mà - 196
hơn. Điều đó không phải là không có lý. Khổng Phu Tử không để lại tấm ảnh của ngài, tự nhiên không có ai biết được hình mạo đúng thật, trong sách tuy có ghi chép, song là nói bậy nói bạ cũng chưa biết chừng. Nếu bây giờ bắt đầu trỗ nặn, ngoài cách theo tưởng tượng của người trỗ nặn, không còn cách nào, lại càng không yên lòng lắm. Thế rồi rốt cuộc bọn nhà nho cũng chỉ phải lấy cái thái độ của Tây: "Chẳng hoàn toàn, thà không". Nhưng nếu là tượng vẽ thì thỉnh thoảng cũng có thấy. Tôi từng thấy qua ba lần: một lần là bức minh họa trong sách Khổng Tử gia ngữ ; một lần là bức hình đăng đầu tập Thanh nghị báo của Lương Khải Siêu khi trốn sang Nhật Bản, xuất bản ở Hoành Tân, từ Nhật Bản gởi về Trung Quốc ; còn một lần nữa là tượng vẽ Khổng Tử gặp Lão Tử khắc trên một tấm bia đá đời Hán. Theo ấn tượng đã được trong khi xem hình dáng Khổng Phu Tử trên những đồ họa ấy, thì cái ông ấy là một người già mà gầy còm, mình mặc áo dài rộng tay, trên thắt lưng giắt một thanh gươm hay là dưới nách cắp một cây gậy, nhưng mà không hề cười, trông oai phong lẫm liệt lạ thường. Giá như ngồi hầu bên cạnh ngài, nhất định phải ráng xương sống lên thật thẳng, trải qua vài ba giờ đồng hồ, từng lóng xương nhức mỏi, nếu là người bình thường, không thể nào không ù té chạy trốn được. Sau đó tôi có lữ hành trong tỉnh Sơn Đông. Khi bị đường sá gập ghềnh làm khổ, bỗng nhớ đến Khổng Phu Tử của chúng ta. Nghĩ đến ngài là bậc thánh nhân đạo mạo - 197
dường kia, thuở đó chạy vạy trong cái xứ nầy, ngồi trên chiếc xe thô kệch, vổng lên tụt xuống, lắc qua lắc lại, mà cảm thấy có vẻ buồn cười. Cái thứ cảm tưởng ấy tự nhiên là không tốt, nói gọn, gần như là bất kính, nếu là đồ đệ Khổng Tử, có lẽ quyết không thể có được. Nhưng lúc bấy giờ những người thanh niên mang cái tâm tình tếu như tôi đó cũng nhiều lắm. Khi tôi ra đời là những năm cuối cùng của triều Mãn Thanh, lúc bấy giờ Khổng Phu Tử đã có một cái hàm ơn sang trọng đến phát khiếp, là "Đại thành chí thánh Vẵn tuyên vương". Không cần nói, đó là cái thời đại đạo thánh chi phối khắp cả nước. Đối với những người đi học, chính phủ buộc phải đọc những sách nhất định, tức là Tứ thư, Ngũ kinh ; buộc phải theo những chú thích nhất định ; buộc phải viết thứ văn chương nhất định, tức gọi là "văn bát cổ" ; lại còn buộc phải phát biểu những nghị luận nhất định nữa. Nhưng mà những nhà nho ngàn người như một ấy, nếu là việc trên đất vuông thì họ biết lắm, đến như việc trên trái đất tròn thì họ không biết gì hết, thế nên mới đánhnhau với Pháp lân tây, Anh Cát Lợi là những nước không có chép trong Tứ thư mà bị thua. Không biết là vì nghĩ thấy cứ thờ Khổng Phu Tử mà chết, trở không bằng kiếm cách giữ cho mình còn sống là hơn, hay vì lẽ gì, nói tóm tắt, lần nầy cái chính phủ và đám quan liêu cố sống cố chết tôn Khổng ấy bắt đầu lung lay, bỏ của kho ra hối hả dịch sách của thằng Tây. Loại sách cổ điển về khoa học như Đàm thiên, Địa học thiển thích, Kim thạch chí biệt, - 198
cho đến bây giờ vẫn để làm di vật của thời ấy, hoặc giả còn có cuốn nào nằm trong các hàng sách cũ. Nhưng mà thế nào rồi cũng có phản động. Người gọi bằng kết tinh và đại biểu của nhà nho cuối triều Thanh là đại học sĩ Từ Đồng đã xuất hiện. Ông nầy, cả đến toán học ông cũng cho là cái học của thằng Tây. Ông tuy thừa nhận trên thế giới có những nước Pháp Lan Tây, Anh Cát Lợi, nhưng không tin có nước Tây Ban Nha, nước Bồ Đào Nha, ông nói đó là bởi nước Pháp nước Anh thường hay đến kiếm chác, tự mình cũng lấy làm thẹn, nên bịa đặt cái tên hai nước ấy ra. Ông lại là người đứng trong màn phát động và chỉ huy Nghĩa hòa đoàn có tiếng năm 1900. Có đều sau rồi Nghĩa hòa đoàn hoàn toàn thất bại, ông Từ Đồng cũng tự tử. Đến đây chính phủ lại cho rằng chính trị, pháp luật và học vấn, kỹ thuật của ngoại quốc cũng có chỗ hay, dùng được. Tôi khát khao mong đi lưu học Nhật Bản chính ở vào lúc đó. Được đi rồi, nơi vào học là Hoằng văn học viện của thầy Gia Nạp lập ra ở Đông Kinh. Tại đây, thầy Tam trạch lực thái lang dạy tôi nước là do dưỡng khí và khinh khí hợp lại mà nên, thầy Sơn nội phồn hùng dạy tôi trong cái vỏ con sò có chỗ nào đó gọi là "ngoại sáo". Đây là việc xảy ra ở một ngày nọ. Thầy kiểm học Đại cửu bảo tập hợp mọi người lại, nói: vì các anh đều là đồ đệ Khổng Tử, hôm nay hãy đến làm lễ trong Khổng miếu ở Ngự trà chi thủy(1) đi! Tôi giật mình đánh thót một cái. Bây giờ tôi còn nhớ hồi đó lòng tôi nghĩ, chính vì mình không còn trông cậy gì ở Khổng Phu Tử và đồ đệ của ngài nữa, cho nên mới sang đến Nhật Bản, mà lại còn đi làm lễ ư? Tôi rất lấy làm quái - 199
lạ. Vả lại kẻ có cái cảm giác như thế, tôi tưởng quyết không những một mình tôi. Nhưng mà, cái xấu số của Khổng Phu Tử ở bổn quốc cũng không phải bắt đầu từ thế kỷ hai mươi đâu. Mạnh Tử phê bình ngài là "Thánh chi thời giả dã", nếu dịch thành ngôn ngữ hiện nay, không nói "ông thánh mô đét" thì cũng không có cách khác. Kể về phần riêng ngài, cái tôn hiệu ấy vốn không có nguy hiểm gì cả, song cũng chẳng phải là cái hàm ơn mười phần đáng hoan nghênh. Chẳng qua trên thực tế, có lẽ lại không như thế, Khổng Phu Tử làm hẳn "ông thánh mô đét", ấy là việc sau khi ngài chết rồi, chứ hồi còn sống lại là người hơi chịu vất vả. Chạy đông chạy tây, từng chỗm chuệ làm tổng giám đốc cảnh sát nước Lỗ, mà rồi lại liền hạ giã(2), thất nghiệp ; vả còn bị kẻ quyền thần khinh miệt, bị người nhà quê chế giễu, thậm chí bị đám bạo dân vây bắt, đói lép cả bụng ; học trò tuy có ba ngàn mà được việc chỉ có bảy mươi hai, người đáng tin cậy nhất lại chỉ có một. Có một hôm, Khổng Phu Tử ngậm ngùi nói, "Đạo chẳng làm được, thôi thời cỡi bè trôi nổi trên biển, kẻ đi theo ta có lẽ là người Do ư!" Cứ như sự toan tính tiêu cực đó, có thể dòm thấy cái ẩn tình kia. Nhưng mà, cả đến cái ông Do ấy, về sau cũng vì chiến đấu với kẻ địch, bị chém đứt dải mũ, song thật xứng đáng là Do, đến lúc đó rồi mà còn không quên lời dạy của Phu Tử, nói "người quân tử chết, không bỏ mũ ra", rồi một mặt buộc lại dải mũ, một mặt bị chúng băm ra làm mắm thịt. Cả đến người học trò có một đáng tin cậy mà cũng đã mất đi, tự nhiên đức Khổng phải đau xót vô cùng, theo lời thì ngài nghe được - 200
cái tin ấy một cái, liền bỏa đổ quách hũ mắm thịt dưới nhà bếp.(3) Khổng Phu Tử sau khi chết rồi, tôi cho rằng có thể nói vận mang của ngài khá hơn một chút. Bởi vì ngài không còn hay bô bô nữa, đủ thứ người quyền thế bèn dùng đủ thứ phấn trắng đem hóa trang cho ngài(4), tưng ngài lên đến cái mức cao khiếp người. Nhưng sánh với Thích ca mâu ni mới nhập cảng sau, thực ra lại rất đáng lấy làm thảm hại. Đành rằng mỗi huyện vẫn có thánh miếu tức văn miếu, có đều cái cảnh tượng vắng ngắt lạnh lẽo quá, dân chúng nói chung, quyết không bao giờ vào lễ ở đó, có đi lễ thì là chùa thờ Phật, hay đền thờ Thần. Nếu hỏi đám dân thường rằng Khổng Phu Tử là người thế nào, tự nhiên họ đáp là ông thánh, song le đó chẳng qua là họ nói theo những người quyền thế(5). Họ cũng kiính tiếc giấy chữ, nhưng đó là vì họ mê tín nếu không kính tiếc giấy chữ thì sẽ bị thiên lôi đánh(6) ; miếu Phu Tử ở Nam Kinh cố nhiên là nơi tấp nập, nhưng đó là vì nơi ấy có tiệm trà và nhiều trò chơi. Tuy nói "Khổng Tử làm sách Xuân thu mà loạn thần tặc tử sợ"(7), nhưng những người đời nay lại hầu như không ai biết tên họ của những đứa loạn thần tặc tử nào đã bị ngài phạt bằng bút. Nói đến loạn thần tặc tử, đại khái cho là Tào Tháo, có đều cái đó không phải đức thánh dạy cho, mà là những người không tên tuổi đã viết tiểu thuyết, vở tuồng dạy cho(8). Tóm lại, Khổng Phu Tử ở Trung Quốc là người được bọn quyền thế tưng đội lên, là ông thánh của bọn người - 201
quyền thế hay là muốn trở nên quyền thế đó, chứ không dính líu gì với dân chúng nói chung hết cả. Nhưng mà, đối với thánh miếu, bọn người quyền thế đó cũng chẳng qua có lòng sốt sắng trong một lúc mà thôi. Bởi vì trong khi tôn Khổng đó họ đã nhằm một mục đích khác, khi mục đích đã đạt một cái, thì lại càng là vô dụng hơn nữa. Ba bốn mươi năm về trước, phàm những người nào lăm le có quyền thế, tức là người hy vọng làm quan, đều đọc Tứ thư, Ngũ kinh, làm "văn bát cổ", một số người khác đặt tên chung cho cả các thứ sách vở văn chương ấy là "hòn gạch gõ cửa". Thế nghĩa là, khi thi đỗ rồi, cả các thứ ấy đồng thời đều bị quên bẵng, giống như hòn gạch đã dùng khi gõ cửa, cửa đã mở thì hòn gạch cũng bị vứt đi. Khổng Tử, cái con người ấy, thực ra thì sau khi chết rồi, cũng chỉ là người bị dùng làm "hòn gạch gõ cửa". Cứ xem việc gần nay lại càng thấy rõ. Từ đầu thế kỷ hai mươi về sau, vận mạng Khổng Phu Tử thật là rất xấu, nhưng đến thời đại Viên Thế Khải, lại bắt đầu nhớ đến, chẳng những khôi phục lại tế điển, mà còn chế ra đồ tế phục cổ quái cho những người dự tế mặc. Việc xuất hiện theo sau đó là việc đế chế. Nhưng mà cái cửa ấy cuối cùng không mở được. Họ Viên chết trói ở ngoài cửa. Còn lưu lại là bọn quân phiệt Bắc dương, khi chúng thấy gần đi đến bước đường cùng, cũng dùng nó để gõ cái cửa hạnh phúc khác. Tướng quân Tôn Truyền Phương, cái người chiếm cứ Giang Tô và Chiết Giang, đi ra đường gặp ai chém nấy, từng lập lại lễ đầu hồ(9) ; tướng quân Trương Tông Xương, cái người lủi vào Sơn Đông, đến cả chính mình cũng - 202
không đếm xuể số mục vàng bạc và binh lính và hầu non của mình, thì khắc lại bản in Thập tam kinh ; xả còn coi đạo thánh là thứ giống như benẹh hoa liễu có thể do quan hệ xác thịt mà truyền nhiễm, bèn lấy một chàng nào đó dòng dõi Khổng Tử làm chồng con gái mình. Nhưng mà với ai, cái cửa hạnh phúc cũng vẫn cứ không mở. Ba người ấy đều dùng Khổng Phu Tử làm hòn gạch, nhưng thời đại đã khác rồi, cho nên đều đã thất bại rõ ràng. Chẳng những chính mình họ thất bại mà thôi, còn liên luỵ đến Khổng Tử, làm ngài càng sa vào cảnh bi thảm. Bọn họ là những người cả đến một chữ cũng không biết, nhưng lại đòi nói tràn Thập tam kinh các thứ, khiến ai cũng phải tức cười ; lời nói với việc làm lại không ăn nhau, càng khiến người ta chán ghét. Đã ghét thầy tu rồi ghét lây đến áo cà sao. Khi ấy, cái sự Khổng Phu Tử bị lợi dụng làm công cụ cho một mục đích nào đó cũng bắt đầu thấy rạch ròi hơn lên, rồi thì cái ý muốn đả đảo ngài cũng càng nẩy nở hơn lên. Cho nên, hễ khi tô điểm cho Khổng Tử càng tôn nghiêm mười phần, thì có xuất hiện những bài luận hay tác phẩm bới móc chỗ khuyết điểm của ngài(10). Dù là Khổng Phu Tử cũng phải có khuyết điểm, song hồi bình thường không ai nghĩ đến, vì ông thánh cũng là người, có thể tha thứ được. Nhưng nếu đồ đệ của ông thánh đứng ra nói bô bô rằng ông thánh là thế nầy, là thế kia, cho nên các anh không thế ấy không được, thì người ta không thể nhịn mà phải cười lên. Năm sáu năm về trước, từng vì sự diễn vở kịch Tử kiến Nam Tử vỡ lở ra một câu chuyện(11). Trong vở kịch ấy có Khổng Phu Tử lên sân khấu. Nói là ông - 203
thánh mà lên sân khấu, cố nhiên không khỏi có chỗ không đứng đắn và khó coi, nhưng cứ coi là một con người thì lại và vai trò đáng yêu lắm. Nhưng mà các người dòng dõi thánh tức gianạ quá đỗi ; đem vụ diễn kịch ấy kiện đến cửa quan. Bởi vì cái chỗ diễn ra, vừa đúng là quê nhà của Khổng Phu Tử, tại đó, dòng dõi thánh đông đúc nhiều vô kể, thành ra một giai cấp có đặc quyền làm cho Thích ca mâu ni và Sôcờrát phải tủi hor mình không bì kịp. Thế nhưng, đó có lẽ chính là cái nguyên nhân mà bọn thanh niên ở vùng đó không thể nào không đặc biệt diễn vở kịch Tử kiến Nam Tử ở đó được. Dân chúng nói chung của Trung Quốc, nhất là thứ "dân" gọi bằng "ngu", tuy họ cũng xưng Khổng Tử là ông thánh, nhưng họ không thấy ra là ông thánh. Đối với ngài, họ cung kính, nhưng không thân mật. Có đều, theo tôi nghĩ, được như "ngu dân" Trung Quốc hiểu Khổng Phu Tử đến dường ấy, e cho trên thế giới không còn có ai. Đành rằng Khổng Phu Tử từng bày vẽ cách trị nước rất hay, nhưng đó chỉ là những phương pháp nghĩ đặt ra cho những người trị dân, tức là những người quyền thế, còn, cho chính mình dân chúng thì không có một chút nào hết. Đó tức là "lễ bất hạ thứ nhân"(12). Đã đành ra là ông thánh của bọn người quyền thế, cuối cùng biến thành ra "hòn gạch gõ cửa", thật cũng đáng lắm, chẳng oan chút nào. Nói rằng tuyệt không có quan hệ với dân chúng thì e không đúng, nhưng nên nói không có mảy may thân mật, thì tôi tưởng đó là một cách nói lịch sự lắm rồi. Không gần gụi với ông thánh vốn không thân mật với mình, là sự đành đứt đi rồi, - 204
bất kỳ lúc nào cũng như thế được. Hãy thử mặc áo rách, đi chân trần, bước lên Đại thành điện xem xem, e cũng như lầm lỡ đi vào rạp chiếu bóng cao đẳng ở Thượng Hải hay là lên toa xe điện hạng nhất, tức thì phải bị xua đuổi. Ai ai cũng biết đó là chỗ riêng của các cụ lớn ông lớn, tuy là "dân ngu" chứ cũng không ngu đến nỗi không biết điều đó(13). 29-4-1935 (Dịch ở Thả giới đình tạp văn nhị tập) ---------------------------------------------(1)
Ngự Trà Chi Thủy là tên một đại lộ ở Đông Kinh, Nhật Bản. ở đó lại có cái ga xe lửa cũng mang tên Ngự Trà Chi Thủy. (2)
Ở thời đại Lỗ Tấn, tại Trung Quốc đang có phong trào phản đối Khổng giáo, mà chính phủ Quốc dân đảng lại bắt "tôn Khổng, độc kinh", chính phủ đế quốc Nhật Bản lại cũng đang duy trì Khổng giáo. Bài này Lỗ Tấn viết bằng chữ Nhật cho một tạp chí bên Nhật, viết với lối văn đùa cợt, tỏ ý "khinh bạc" đối với Khổng Tử, cho nên cố ý dùng những danh từ hơi "khiếm nhã". Như trên kia, nguyên Mạnh Tử nói Khổng Tử là "thánh chi thời", lại dịch ra là "ông thánh mô đét" ; ở đây, theo lịch sử, Khổng Tử làm quan tư khấu nước Lỗ được ba tháng rồi thôi, thì lại nói làm "tổng giám đốc cảnh sát" rồi liền "hạ giã". Dùng những chữ "tổng giám đốc cảnh sát" và "hạ giã" để tân thời hóa nó đi, cho ra là "mô đét". (3)
Một đoạn từ "bị kẻ quyền thần..." đến đây đều là chuyện thực, có chép trong sách Luận ngữ và sách Khổng Tử gia ngữ. Kẻ quyền thần là Dương Hổ, đám bạo dân là người ấp Khuông, một người đáng tin cậy nhất là "người Do", tức Tử Lộ, Tử Lộ vì dự vào một cuộc chính biến ở nước Vệ mà bị giết. (4)
Thói tục trên sân khấu ở Trung Quốc, hóa trang cho vai hề thường dùng phấn trắng kẽ ở trên mũi. Đây có ý nói những người quyền thế không - 205
thực ý tôn Khổng Tử, chỉ lợi dụng ngài làm hề cho mình. Như Hán Cao Tổ (Lưu Bang) không học, không biết đạo nho (bất sự thi thư), từng đái trong mũ nhà nho (niếu quan), thế mà khi đi ngang qua nước Lỗ, cũng ghé vào Khúc Khụ, giết bò tế Khổng Tử. (5)
Một đoạn nầy, ý muốn nói đạo Phật gần với dân chúng, được dân chúng tin thờ hơn ; còn đạo Khổng chỉ bênh vực quyền lợi cho vua quan phong kiến, tức là những người quyền thế, xa với dân chúng, không có ích gì cho dân chúng, cho nên họ không thiết đến. (6)
Ở Trung Quốc, các đền miếu đều có làm một chỗ để đốt giấy có chữ, đề ở mày cửa bốn chữ "kính tích tự chỉ", nghĩa là "kính tiếc giấy chữ". ở Hà Nội ta, đền Ngọc Sơn, thờ Văn Xương đế quâ, cũng có một chỗ xây bằng vôi gạch và đề chữ như thế. Chữ nho (tức chữ Hán) không phải Khổng Tử bày ra, nhưng vì kính trọng đạo nho, mà sách vở đạo nho bằng thứ chữ ấy, cho nên cũng gọi thứ chữ ấy là "chữ nho" mà kính trọng luôn cả nó nữa. Trong sách Nho không hề có dạy "kính tích tự chỉ" ; "không kính tiếc giấy chữ" mà "bị thiên lôi đánh", đó là thuyết của những sách Âm chí văn hay Ngọc lịch sao truyền là sách của một phái Đạo giáo, chứ đạo nho không hề bảo như thế. Chỗ nầy tỏ thêm ý dân chúng tin Đạo giáo. (7)
Đây là lời Mạnh Tử nói trong sách Mạnh Tử, nguyên văn là: "Khổng Tử tác Xuân thu nhi loạn thần tặc tử cụ". (8)
Tào Tháo, từ đời Đường về trước chưa bị khinh mấy, trong sử sách vẫn được xưng là Ngụy Võ đế. Từ đời Nam Tống về sau, về sử học, bởi chịu ảnh hưởng cái thuyết "chính thống" của bọn Chu Hy, coi Lưu Bị là chính thống, Tào, Ngô là "ngụy", riêng Tào Tháo là người cướp ngôi nhà Hán, cho nên càng bị khinh, coi là loạn tặc. Từ đời Nam Tống về sau mới có những người theo thuyết ấy viết truyện Tam quốc (Tam quốc chí diễn nghĩa) và tuồng Tam quốc, mà có nhiều người viết, không phải một người, cho nên nói "là những người không tên tuổi". (9)
Đầu hồ là một lễ tiết có nói trong kính Lễ. ở xứ ta ngày trước, các ông nhà nho cũng có sắm để chơi. ở Trung Quốc, sau Cách mạng Tân Hợi, cái lễ ấy đã nhãng bỏ, Tôn Truyền Phương (một tên quân phiệt lập lại, có mời Chương Bính Lân đến dự lễ, Chương vẫn ghét Tôn, nhưng vì sợ, phải đến. - 206
(10)
Sau Viên Thế Khải, và giữa lúc Tôn Truyền Phương, Trương Tôn Xương tôn Khổng, ở Trung Quốc, phái trí thức tiến bộ công kích Khổng Tử càng tợn hơn. Như Ngô Ngu đưa ra cái khẩu hiệu "đả đảo Khổng gia điếm", Ngô Trĩ Huy thì nói: "Cáihọc Khổng Khâu là cái học ăn cứt". (11)
Vở kịch Tử kiến Nam Tử (chuyện nầy có chép trong sách Luận ngữ. Nam Tử là vợ của vua Linh Công nước Vệ, có tiếng là người đàn bà dâm đãng, khi Khổng Tử đến nước Vệ, có tới ra mắt, Nam Tử làm cho Tử Lộ cằn rằn) là của Lâm Ngữ Đường viết. Năm 1928, Tống Hoàn Ngô, hiệu trưởng trường sư phạm ở Khúc Phụ, làng của Khổng Tử, có hàng ngàn con cháu của ngài ở đó, đem diễn vở kịch ấy tại nhà trường. Con cháu họ Khổng bèn làm đơn kiện việc ấy thẳng lên tòa án cao cấp Nam Kinh, lấy cớ là "vụ nhục tiên thánh". Kết quả vụ kiện: Tống Hoàn Ngô phải đổi đi nơi khác. (12)
Câu nầy thấy trong kinh Lễ, luôn với câu theo sau nó là: "Hình bất thượng đại phu", nghĩa là: lễ không xuống đến dân chúng, hình không lên đến quan quyền. (13)
Theo lời Hậu ký của Lỗ Tấn sau: "Thả giới đình tạp văn nhị tập" thì bài Khổng Phu Tử ở Trung Quốc đời nay nầy nguyên viết bằng tiếng Nhật Bản đăng trên tạp chí Cải tạo số ra tháng 6-1935, rồi do ông Diệc Quang dịch ra chữ Hán đăng tạp chí Tạp văn số tháng 7, ở đây đã có chữa sửa lại bởi tay tác giả
- 207
BÀI VĂN ĐĂNG LỘN
Hiện nay, trên sách báo in ra cho bọn thiếu niên xem, thấy có những bài kể chuyện Nhạc Phi, Văn Thiên Tường. Cố nhiên hai ông ấy là người vớt vát thể diện cho người Trung Quốc, nhưng đem làm gương mẫu cho bọn thiếu niên hiện giờ thì hình như khí xa vời một chút. Hai ông ấy, một là văn quan, một là võ tướng. Nếu quả thật bọn thiếu niên vì đó cảm động, toan bắt chước hai ông, thì họ trước phải học cho tốt nghiệp bậc phổ thông, rồi hoặc vào đại học, dự kỳ thi văn quan, hoặc vào trường lục quân, làm đến cấp tướng, thế rồi võ thì chuẩn bị chịu mười hai kim bài đòi về, chết trong lao ngục; văn thì khởi binh và thất bại, chết trong tay người Mông Cổ(1). Triều đình nhà Tống ra thế nào? Còn có lịch sử đó, xin phép miễn nói. Nhưng mà trái lại, hai ông ấy thật có thể làm nóng chí các văn quan võ tướng dương kim và làm bẽ mặt các võ - 208
tướng đầu hàng, văn quan bỏ trốn dạo trước(2). Tôi ngờ rằng những sự tích ấy vốn là bài văn viết đăng trên sách báo cho cá quan lớn cụ lớn xem, chẳng biết thế quái nào lại đem đăng lộn trong sách báo cho bạn trẻ. Nếu không phải thế, thì người viết những bài ấy quyết không đến nỗi khờ khạo đến như thế được. 1936 (Dịch ở Thả giới đình tạp văn mạt biên) --------------------------------------------(1)
Nhạc phi là đại tướng đánh giặc Kim ở triều Cao Tông (tên là Triệu Cấu) đời Nam Tống. Nguyên nhà Tống trước đóng đô ở Biện Kinh, bị giặc Kim tiến đánh, chiếm kinh đô, bắt mất hai ông vua là Huy Tông và Khâm Tông. Cao Tông được lập lên, dời đô về phía Nam Trường Giang, gọi là Nam Tống. Bấy giờ dùng Nhạc Phi làm đại tướng, kéo binh qua sông đánh thắng Kim nhiều trận, cơ chừng có thể lấy lại đất đã mất. Nhưng trong triều có tên Tần Cối, là hán gian, làm tể tướng, chủ hòa với Kim, ra lệnh vua, cho mười hai kim bài giục phải về; Nhạc Phi về đến, bị hạ ngục, xử tử. Theo sử chép thì như thế, cho nên xưa nay hễ nói đến việc nầy, ai cũng đổ tội cho Tần Cối. Nhưng thực ra không phải một mình Tần Cối làm được cái việc to và ngang ngược như thế. Đó chính là Cao Tông đồng tình làm việc ấy mà để một mình Tần Cối đứng ra chịu mang tiếng. Vì Cao Tông sợ đánh thắng Kim hẳn, hai ông vua kia sẽ được trở về, thì khó xử trí lắm, cái ngai vàng mình khó mà ngồi yên được. Cuối cùng, Nam Tống bị Mông Cổ (nhà Nguyên) tấn công. Tể tướng là Văn Thiên Tường cử binh kháng chiến, nhưng thất bại, Thiên Tường bị bắt tù và giết, Nam Tống mất. (2)
"Các võ tướng đầu hàng, văn quan bỏ trốn" là chỉ các võ tướng văn quan của chính phủ Quốc dân đảng đánh với quân Nhật Bản từ trận Lư Câu Kiều về sau.
- 209
THƯ TRẢ LỜI CHO PHÁI TỜ-RỐT-KÍT I. Thư gởi đến Lỗ Tấn tiên sinh: Sau Cách mạng thất bại năm 1927, người com-mu-nit Trung Quốc không lấy chính sách rút lui để dự bị nổi dậy lần nữa, mà lại chuyển hướng sang đầu cơ quân sự. Họ vứt bỏ công tác ở thành thị, ra lệnh cho đảng viên đến nhiều nơi gây bạo động sau khi phong triều cách mạng xuống, toan chế tạo reds(1) trên cơ sở nông dân để dẹp an thiên hạ. Bảy tám năm nay, mấy chục vạn thanh niên mạnh dạn có tài bị cái chính sách ấy hy sinh mất, làm cho hiện nay là lúc cuộc vận động dân tộc lên cao, dân chúng ở thành thị không có lãnh tụ cách mạng, và đẩy xa lần cách mạng sau đến một cái tương lai không biết bao giờ.
- 210
Bây giờ đây, cuộc vận động reds dẹp an thiên hạ đã thất bại rồi. Người com-mu-nit Trung Quốc lại mù quáng tiếp thụ mệnh lệnh của quan liêu Mạc Tư Khoa, quay sang cái gọi là "chính sách mới". Họ phản lại việc làm trước kia, vứt bỏ lập trường giai cấp, thay đổi mặt mũi, phát ra tuyên ngôn, phái đại biểu đi giao thiệp đòi "liên hiệp một mặt trận" với bọn quan liêu, chính khách, quân phiệt, rất đỗi với tên đao phủ thủ của dân chúng(2). Họ cất giấu cờ xí của mình, làm mập mờ sự nhận thức của dân chúng, làm cho dân chúng tưởng rằng quan liêu, chính khách, đao thủ phủ đều là người dân tộc cách mạng, đều có thể kháng Nhật, cái kết quả là phải trao dân chúng cách mạng trong tay đao thủ phủ để lại bị giết hại lần nữa. Cái thứ hành vi phản bội không biết xấu hổ ấy của đảng Stalin khiến cho người cách mạng Trung Quốc cảm thấy sỉ nhục. Hiện nay ở Thượng Hải, giai cấp tự do tư sản nói chung cùng với phần tử lớp trên của tiểu tư sản thảy đều hoan nghênh cái "chính sách mới" ấy của đảng Stalin. Đó là sự không lấy gì làm lạ. Cái uy tín truyền thống của Mạc Tư Khoa, cái vết máu lịch sử của reds Trung Quốc cùng lực lượng hiện tồn đó - còn có gì sánh với nó đáng lợii dụng hơn ư? Nhưng mà cái "chính sách mới" của đảng Stalin càng được hoan nghênh chừng nào, thì cách mạng Trung Quốc lại càng bị độc hại chừng nấy. Cái đoàn thể nầy của chúng tôi, từ sau năm 1930, ở trong hoàn cảnh khó khăn trăm thứ, cứ đấu tranh không ngớt cho chủ trương chúng tôi. Sau cuộc Cách mạng lớn - 211
thất bại, chúng tôi liền phản đối cái chính sách gà mờ của phái Stalin mà đưa ra đường lối "đấu tranh dân chủ cách mạng". Chúng tôi cho rằng Cách mạng lớn đã thất bại rồi, mọi sự chỉ có bắt đầu làm lại. Chúng tôi luôn luôn đoàn kết cán bộ, nghiên cứu lý luận cách mạng, tiếp thu sự dạy dỗ của thất bại, giáo dục công nhân cách mạng, mong ở trong thời kỳ gian khổ phản cách mạng nầy xây đắp nền tảng bền vững cho cách mạng lần sao. Bao nhiêu sự biến mấy năm may chứng minh rằng đường lối chính trị và phương pháp công tác của chúng tôi thật đúng, chúng tôi phản đối chủ nghĩa cơ hội, chính sách gà mờ và đảng chế quan liêu của đảng Stalin, hiện giờ chúng tôi lại kiên quyết đả kích cái "chính sách mới" phản bội nầy nữa. Nhưng cũng vì thế, hiện nay chúng tôi đang bị các phần tử đầu cơ và bọn đảng quan liêu căm ghét. Điều đó là may, hay là không may? Tiên sinh là người tôi ngưỡng mộ về học thức, văn chương, phẩm cách hơn mười năm nay, trong khi nhiều người có tư tưởng đều chìm đắm vào cái hố cá nhân chủ nghĩa, chỉ một mình tiên sinh phấn đấu chẳng thôi theo kiến giải của mình! Cái ý kiến chính trị của chúng tôi nếu có thể được tiên sinh phê bình cho, lòng riêng tôi sẽ lấy làm vẻ vang lắm. Nay gửi hầu mấy thứ sách báo, xin thu duyệt cho. Nếu được trả lời, nhờ để ở chỗ X, trong ba ngày sẽ đến nhận lãnh. Kính chúc mạnh giỏi. Trần X. X. Ngày 3-6
- 212
II. Thư trả lời Trần tiên sinh: Thư và mấy thứ sách báo như Đấu tranh, Hỏa họa của tiên sinh gởi cho tôi, tôi đã nhận được rồi. Tóm tắt mọi ý trong thư của tiên sinh, đại khái có hai điểm: một là mắng bọn ông Stalin là quan liêu, một nữa là bác cái chủ trương "liên hợp các đảng phái nhất trí kháng Nhật" của bọn ông Mao Trạch Đông cho là bán đứt cách mạng. Điều đó rất làm cho tôi "mập mờ" không hiểu. Vì rằng sự thành công bất cứ về phương diện nào của cái nước Cộng hòa liên bang xã hội chủ nghĩa Nga Xô Viết của bọn ông Stalin ở trên thế giới, chẳng đã thuyết minh cái vãn cảnh của ông Tờ-rốt-ky bị đuổi, lang thang, vất vả, đến nỗi "không thể không" tiêu tiền của kẻ địch là đáng tội nghiệp sao? Sự lưu lạc ngày nay phải là không giống với cái tình cảm ở Sibêri năm nọ trước Cách mạng(3), bởi vì lúc bấy giờ cả đến người cho một miếng bánh mỳ e cũng không có ; nhưng cái tâm trạng lại phải là không giống, đó là vì sự thành công của Liên Xô hiện nay. Sự thực đánh thắng hùng biện, thật không ai ngờ hiện nay cái điều biếm nhẻ không nể nang như thế nó đã đến. Thứ đến "lý luận" của các ông thật cao siêu hơn của bọn ông Mao Trạch Đông nhiều lắm, chẳng những nhiều mà thôi, gỏn gọn là một ở trên trời, một ở dưới đất. Song le, cao siêu cố nhiên là cái đáng phục, ngặt vì cái cao siêu ấy lại vừa vặn là cái - 213
mà bọn xâm lược Nhật Bản đang hoan nghinh, thì cái cao siêu ấy vẫn không khỏi từ trên trời rơi xuống, rơi đến cái chỗ rất không sạch trên đất nầy đi mất. Bởi vì cái lý luận cao siêu của các ông được Nhật Bản hoan nghinh, nên tôi thấy mấy thứ sách báo in rất gọn gàng của các ông mà không khỏi vì các ông áy náy: ở trước mặt đại chúng, giá có kẻ phao đồn một câu công kích các ông, nói người Nhật bỏ tiền ra cho các ông in báo, thì các ông liệu có thể rửa cho sạch tiếng được không? Đó quyết không phải là vì ngày trước trong đám các ông từng có người hùa theo kẻ khác chửi tôi ngửa tay nhận đồng rúp mà bây giờ tôi nói thế để trả nũa. Không phải thế, tôi không đến nỗi hạ lưu như thế đâu, vì tôi không tin rằng các ông có thể xuống đến nỗi lấy tiền Nhật Bản ra báo công kích cái thuyết nhất trí kháng Nhật của bọn ông Mao Trạch Đông. Các ông quyết không có thể như thế được. Tôi chỉ muốn thưa với các ông một lời, cái lý luận cao siêu của các ông sẽ không được đại chúng Trung Quốc hoan nghinh, cái việc các ông làm có điều trái với đạo đức làm người hiện giờ của người Trung Quốc. Cái điều tôi muốn nói với các ông chỉ có một chút đó. Sau cùng, có một điều tôi cảm thấy hơi khó chịu, ấy là bỗng dưng các ông gởi thư và sách báo cho tôi, không phải là không có cớ. Đó là vì cớ mấy người "chiến hữu" nào đó của tôi từng nói tôi là thế nào thế nào chứ gì. Nhưng tôi, dù cho không ra gì đến thế nào nữa cũng tự thấy mình cách với các ông rất xa. Những người bằng chắc thiết thực, đạp chân sát đất, vì sự sinh tồn của người Trung - 214
Quốc hiện giờ mà phấn đấu đến chảy máu kia, tôi được coi họ làm đồng chí là điều tôi lấy làm vẻ vang lắm. Xin ông tha thứ cho, vì có thể đến chỗ đó mà nhận được, cho nên tôi trả lời bằng thư ngỏ. Tiện chúc bình an. LỖ TẤN 9-6-1936 (Bức thư này do Lỗ Tấn đọc, O.V. chép)(4) (Dịch ở Thả giới đình tạp văn mạt biên) ----------------------------------------(1)
Reds, tiếng Ănglê, nghĩa là đỏ.
(2)
"Tên đao phủ thủ của dân chúng" là chỉ Tưởng Giới Thạch.
(3)
Đây nói về Tờ-rốt-ky. Trước Cách mạng tháng Mười, Tờ-rốt-ky bị đày ở Si-bê-ri. (4)
Hai chữ tên tắt "O.V." đây, theo nơi khác có nói rõ, là Phùng Tuyết
Phong.
- 215
NÓI VỀ VUỘC VẬN ĐỘNG VĂN HỌC CỦA CHÚNG TA HIỆN NAY
(Trên giường bệnh trả lời cho người phỏng vấn, do O.V. ghi)
Cái mà "Tả dực tác giả liên minh" lãnh đạo và chiến đấu năm sáu năm nay, là cuộc vận động văn học cách mạng giai cấp vô sản. Thứ văn học và cuộc vận động ấy cứ phát triển mãi ; đến bây giờ càng phát triển một cách cụ thể hơn, thực tế đấu tranh hơn, đến chỗ văn học đại chúng về chiến tranh cách mạng dân tộc là một phát triển của văn học cách mạng giai cấp vô sản, là cái nội dụng chân thật và quảng đại của văn học cách mạng vô sản ở thời giờ hiện tại. Thứ văn học ấy hiện nay đã cứ tồn tại rồi, lại còn sắp sẽ ở trên cơ sở ấy chịu thêm sự bồi dưỡng của sinh hoạt chiến đấu thực tế mà trỗ ra những bông hoa rực rỡ. Bởi đó, khi đưa ra khẩu hiệu mới, không thể coi là cuộc vận động văn học cách mạng bị đình chỉ hay là làm không trôi. Cho nên, quyết không phải là đình chỉ cuộc đấu tranh bằng máu - 216
bấy lâu chống chủ nghĩa phát xít, chống mọi kẻ phản động, mà là làm cho cuộc đấu tranh ấy càng vào sâu, càng mở rộng, càng thực tế, càng tế nhị khúc chiết, làm cho đấu tranh cụ thể hóa ra là đấu tranh kháng Nhật chống Hán gian, tóm họp mọi dòng đấu tranh vào cái dòng chung đấu tranh kháng Nhật chống Hán gian ấy. Quyết không phải văn học cách mạng buông bỏ cái trách nhiệm lãnh đạo giai cấp của mình, mà là làm cái nhiệm vụ của mình càng nặng thêm, càng lớn thêm, nặng và lớn đến khiến cả dân tộc không chia giai cấp và đảng phái, đều nhất trí đối ngoại. Cái lập trường dân tộc ấy mới thật là lập trường giai cấp. Bọn đồ đệ Tơrốtky Trung Quốc hình như mù mờ cả đến một điểm ấy cũng không hiểu. Song le có một vài chiến hữu của tôi lại có kẻ đang làm cái "mộng đẹp" trái ngược lại, tôi tưởng, đó cũng lại là một thứ người mù mờ nốt. Nhưng cái khẩu hiệu văn học đại chúng về chiến tranh cách mạng dân tộc cũng như cái khẩu hiệu văn học cách mạng vô sản, đại khái là một cái khẩu hiệu chung. ở dưới khẩu hiệu ấy lại đưa ra những khẩu hiệu cụ thể theo lúc thay đổi, như "văn học quốc phòng", "văn học cứu vong", "văn học kháng Nhật", v.v..., như thế, tôi cho là không hại chi. Chẳng những không hại mà còn là có ích, cần thiết nữa. Cố nhiên nhiều quá thì làm người ta nhức đầu tối mắt. Có đều, đưa ra khẩu hiệu, bán lậu suông, thì dễ dàng lắm. Song đến sự ứng dụng về phê bình, thực hiện về sáng tác thì thành ra vấn đề. Phê bình và sáng tác đều là công - 217
tác thực tế. Theo kinh nghiệm từ trước, lối phê bình của chúng ta thường đi đến chỗ tiêu chuẩn quá hẹp hòi, tầm con mắt quá phớt cạn; sáng tác của chúng ta cũng thường phơi ra cái nhược điểm gần như là ra đề làm bài bát cổ(1). Cho nên bây giờ chúng ta phải chú ý ở cái điểm nầy: Văn học đại chúng về chiến tranh cách mạng dân tộc quyết không phải chỉ đóng khung ở những cái tác phẩm tả nghĩa dũng quân đánh trận, học sinh thỉnh nguyện thị uy... mà thôi đâu. Những cái đó vẫn tốt, nhưng không nên khép hẹp ở những cái đó. Nó còn rộng rãi nhiều, rộng rãi đến bao quát mọi thứ văn học miêu tả mọi thứ ý thức sinh hoạt và đấu tranh của Trung Quốc hiện nay. Bởi vì cái vấn đề rất lớn của Trung Quốc hiện nay, vấn đề chung cho mọi người, là vấn đề sống còn của dân tộc. Hết thảy mọi sự sinh hoạt (gồm cả ăn và ngủ), đều có quan hệ với vấn đề ấy, ví như ăn cơm có thể không dính dáng với yêu nhau, nhưng hiện giờ thì sự ăn cơm và sự yêu nhau của người Trung Quốc lại đều có dính dáng ít nhiều với bọn xâm lược Nhật Bản, cứ xem tình hình ở Mãn Châu và Hoa Bắc thì đủ biết. Mà con đường ra có một của Trung Quốc là cuộc chiến tranh cách mạng dân tộc do toàn quốc nhất trí chống Nhật. Hiểu được điểm ấy thì tác gia quan sát sinh hoạt, xử lý tài liệu cũng như gỡ tơ đã tìm ra mối ; tác giả có thể viết một cách tự do về công nhân, nông dân, học sinh, kẻ cướp, nhà thổ, người nghèo, người sang, bất cứ tài liệu nào cũng được, viết ra đều có thể thành ra văn học đại chúng về chiến tranh cách mạng dân tộc. Cũng không cần thêm một cái đuôi chiến tranh cách mạng dân tộc ở đằng sau tác phẩm, làm như cắm cây cờ lên; bởi vì sự cần thiết - 218
của chúng ta không phải là thêm khẩu hiệu hay cái đuôi giả đằng sau tác phẩm, mà là sự sống chân thật, sự chiến đấu anh dũng, tăm mạch(2), tư tưởng và nhiệt tình cứ luôn luôn khích động trong toàn bộ tác phẩm vậy. 10-6-1936 (Dịch ở Thả giới đình tạm văn mạt biên) ----------------------------------------(1)
"Bát cổ" là một lối văn khoa cử ngày xưa. Thầy giáo hay quan chấm trường cứ lấy một câu trong sách Tứ thư, Ngũ kinh ra làm đầu đề, rồi người học trò cũng cứ theo nghĩa lý trong sách mà làm bài, dù mình có tư tưởng ý kiến gì khác cũng không được nói vào đó. (2)
"Tăm" là hơi hướng của cái gì động. Nhưng "tăm cá" là do con cá động dưới nước mà sôi lên thành tăm. "Tăm mạch" là sự động của huyết mạch người ta làm cho có tăm, như khi mình sờ vào cổ tay thấy dựt dựt.
- 219
PHỤ LỤC ĐỜI SỐNG VÀ SỰ NGHIỆP VĂN HỌC CỦA LỖ TẤN (Bài nói chuyện ở cuộc lễ kỷ niệm Lỗ Tấn ngày 30-10-1955 tại thủ đô Hà Nội)
Lỗ Tấn qua đời đến nay đã mười chín năm. Những sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Cho nên ông chẳng những là một đại văn hào Trung Quốc mà cũng là một đại văn hào thế giới. Sách của ông nhiều lắm, tôi chưa đọc được hết. Vả lại, những sách người ta phê bình bàn luận về ông cũng nhiều lắm, mà tôi cũng chưa đọc được hết. Vậy hôm nay tôi đứng lên đây giới thiệu Lỗ Tấn cùng các bạn, tôi không dám chắc tôi nói có đúng cả không và có đầy đủ không. Tuy vậy, tôi cũng xin lấy sức biết của mình và tấm lòng trung thực của mình đối với một đại văn hào cũng là một đại chiến sĩ cách mạng mà nói chuyện với các bạn. - 220
Bài nói chuyện này chia làm bảy đoạn: 1. Đời sống Lỗ Tấn và bối cảnh thời đại Trung Quốc; 2. Thế nào Lỗ Tấn đã trở nên một nhà văn; 3. Những trứ thuật của Lỗ Tấn; 4. Đấu tranh về văn học; 5. Đấu tranh về chính trị; 6. Những điều chúng ta nên học tập ở Lỗ Tấn; 7. Kết luận. 1. Đời sống Lỗ Tấn và bối cảnh thời đại Trung Quốc Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tự là Dự Tài, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 ở một gia đình nho học tại phủ thành Thiệu Hưng thuộc tỉnh Chiết Giang. Năm 1881 tức là sau chiến tranh nha phiến bốn mươi năm, sau Hồng Dương cách mạng ba mươi năm. Bấy giờ bản thân phong kiến Trung Quốc đã hủ bại suy đồi, thế lực xâm nhập của đế quốc như Anh, Pháp đã bắt đầu lan rộng nhiều nơi trong nước, nhân dân đã thêm bần cùng thống khổ vì chịu sự bóc lột đè nén của cả hai phía. Lỗ Tấn càng ngày càng khôn lớn lên thì triều đình Mãn Thanh càng ngày càng suy yếu đổ nát, Trung Quốc dần dần trở thành một nước nửa thuộc địa.
- 221
Từ sáu tuổi đến mười bảy tuổi, ông đã đọc đủ các sách kinh sử, có một cái vốn cựu học chắc chắn. Năm mười sáu tuổi cha chết, cảnh nhà sa sút, bị người chung quanh khinh rẻ, Lỗ Tấn bắt đầu có ý đoạn tuyệt với quê hương. Năm mười tám tuổi, nhờ bà mẹ chạy cho được tám đồng bạc đi đến Nam Kinh, thi vào Thủy sư học đường, sau chuyển sang Khoáng lộ học đường. Bốn năm tốt nghiệp, được tuyển đi du học Nhật Bản. Trong bốn năm Lỗ Tấn học ở Nam Kinh ấy, Trung Quốc xảy ra ba việc lớn: Chính biến Mậu Tuất năm 1898, Nghĩa hòa đoàn đấu tranh phản đế và liên quân tám nước đánh Bắc Kinh năm 1990, ký điều ước Tân Sửu năm 1901. Một người thanh niên mới ngoài hai mươi tuổi có học thức có chí khí như Lỗ Tấn mà gặp những biến cố ấy chắc phải bị khích thích nhiều lắm. Ở Nhật Bản học lớp dự bị hai năm rồi vào học thuốc ở trường y học Tiên Đài. Được hai năm, bỏ học thuốc, bắt đầu có quyết tâm quay sang công tác văn nghệ. Bấy giờ thanh niên Trung Quốc lưu học ở Nhật Bản đông lắm, và tại đó, hai phe chính trị đối lập của Trung Quốc, phe cách mạng của Tôn Trung Sơn và phe bảo hoàng của Lương Khải Siêu đều có cơ quan tuyên truyền, công kích nhau kịch liệt. Tự nhiên là Lỗ Tấn đứng về phía phe cách mạng. Ông có gia nhập Quang phục hội là một đoàn thể cách mạng. Ở Nhật Bản cả thảy tám năm, đến năm 1909 thì Lỗ Tấn về nước. Vì gia đình nghèo túng, gửi thư mong ông về giúp đỡ sự sống cho gia đình nên ông phải về. Về nước rồi, - 222
làm giáo sư trong mấy trường trung học tỉnh nhà, dạy về vật lý học, hóa học. Đến năm 1911 thì có cuộc Cách mạng Tân Hợi, Lỗ Tấn cũng có tham gia hoạt động ít nhiều tại nơi mình ở. Năm 1912, sau khi chính phủ lâm thời thành lập tại Nam Kinh, ông nhận lời mời của Thái Nguyên Bồi, Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đi làm một chức viên trong bộ ấy theo chính phủ dời lên Bắc Kinh, ở đó cho đến năm 1926. Trong khi làm chức viên ở Bộ Giáo dục, Lỗ Tấn có kiêm làm giảng sư ở mấy trường đại học tại Bắc Kinh. Năm 1917, nhân việc Trương Huân "phục tích", ông phẫn mà từ chức ở Bộ Giáo dục, trong hai tuần lễ Trương Huân thất bại, ông lại phục chức. Tháng 8 năm 1925, nhân Chương Sĩ Chiêu Bộ trưởng Bộ Giáo dục đàn áp học sinh, Lỗ Tấn phản đối ra mặt, bị Chương Sĩ Chiêu cách chức, nhưng sang đầu năm sau, sau khi Chương Sĩ Chiêu hạ dã, ông được phục chức, làm việc ở Bộ Giáo dục như cũ. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, học sinh và công nhân Bắc Kinh có một cuộc biểu tình, bị chính phủ Đoàn Kỳ Thụy thẳng tay đàn áp, bắn chết và bị thương hơn hai trăm người. Chúng đổ cho cuộc biểu tình ấy là cuộc bạo động của Đảng cộng sản mà Lỗ Tấn là một người trong đám lãnh đạo, sức trát nã, ông phải lánh nạn trong mấy bệnh viện ngoại quốc, đến tháng 5 mới trở về nhà. Và, liệu không thể yên thân được, tháng 8 ông bèn lìa Bắc Kinh, đi Phúc Kiến, làm giáo thụ ở trường Hạ Môn đại học. Ở Phúc Kiến cũng không yên thân, tháng giêng năm 1927, ông đi đến Quảng Châu, làm chủ nhiệm văn học hệ - 223
ở trường Trung Sơn đại học. Ngày 12 tháng tư, Tưởng Giới Thạch làm phản Cách mạng, giết tại đó hơn ba ngàn người vừa đảng viên cộng sản, vừa công nông tri thức, ông chạy cứu cho những học sinh bị bắt mà không được, bèn từ chức. ở Quảng Châu, Lỗ Tấn thấy mình cũng có nguy cơ bị hại, tháng 10 trở lên Thượng Hải. Năm ấy ông đã 47 tuổi. Ở Thượng Hải luôn từ cuối năm 1927 cho đến ngày qua đời. Trong thời gian mười năm ở đây, ông chuyên viết báo viết sách mà không dạy học nữa. Lúc bấy giờ chính là lúc Tưởng Giới Thạch đàn áp Cách mạng nghiêm ngặt tàn khốc lắm, mà Lỗ Tấn lại cứ hoạt động phản đối và cứ hay viết báo công kích, cho nên có ba lần sợ nguy hiểm đến tính mạng, phải tạm lánh mình trong mấy tô giới. Năm 1932, Nhật Bản đánh Thượng Hải, nhà trọ Lỗ Tấn ở ngay trong vòng lửa đạn, cũng phải dời ở tô giới Anh. Năm 1936, ông lâm bệnh, ngày 19 tháng 10 qua đời, vừa đúng 56 tuổi. Cả một đời Lỗ Tấn đại khái là như thế. Từ đẻ ra cho đến chết, gặp lúc nước nhà suy loạn, luôn luôn ở dưới thế lực thống trị đen tối, mà ông cứ hoạt động chống lại cái thế lực ấy bằng cách này hay cách khác, nhất là bằng ngòi bút. 2. Thế nào Lỗ Tấn đã trở nên một nhà văn Lỗ Tấn ở Nhật Bản học thuốc, theo lời ông, một là vì thấy nói cuộc duy tân Nhật Bản bắt đầu từ theo y học Thái Tây; một nữa là vì khi phụ thân ông lâm bệnh đến ba năm, - 224
thầy thuốc chữa quấy chữa quá, dùng những phương thang rất kỳ quái, rốt cuộc hết tiền mà người không sống được, ông lấy làm phẫn uất nên cố học thuốc để về sau cứu người. Nhưng học ở trường Tiên Đài được hai năm, nhân một hôm xem chiếu bóng trong lớp học, chiếu phim chiến tranh Nhật Nga, thấy có một người Trung Quốc làm trinh thám cho quân Nga bị người Nhật bắt chém, thế mà một số người Trung Quốc khác lạnh lùng đứng xem, không có một dáng tứ giận hay xấu hổ, ông bèn quyết định bỏ học thuốc mà quay sang làm văn nghệ. Vì nghĩ rằng học thuốc rồi chữa cho những người mà tinh thần đã tê điếng chai đỉa ấy khiến thân thể của họ được cường tráng thì cũng chỉ để làm nô lệ mà thôi, không bằng chữa tinh thần cho họ được lành mạnh là cần kíp hơn. Mà muốn chữa tinh thần thì ngoài văn nghệ ra không có thuốc gì. Lỗ Tấn từ hồi nhỏ đã có một cái vốn chắc chắn về cựu học; lúc ở Nam Kinh lại được học một mớ sách văn học khoa học của phương Tây dịch ra chữ Hán; sang Nhật Bản, nhờ học thông tiếng Nhật, tiếng Đức mà đọc được bản dịch các sách của những nhà thơ yêu nước và cách mạng trên thế giới như Bayơn, Sinle, Hangry Hen, Puskin, Lecmongtov, Petophi mà về sau trong văn chương ông thường nhắc đến luôn. Một sinh viên y khoa mà thình lình bỏ trường đi làm văn nghệ là nhờ có sự dự bị đó. Định thực hành công tác văn nghệ nhằm mục đích "chữa tinh thần", sau khi bỏ trường, Lỗ Tấn trù tính cùng mấy người bạn toan ra một cái tạp chí tên là Tân sinh, - 225
nhưng chưa ra đã thất bại. Lại cùng em ruột là Chu Tác Nhân dịch tiểu thuyết nước ngoài, in thành hai tập, gọi là Vực ngoại tiểu thuyết tập, thì bán không chạy. Sở dĩ không chạy, một là vì viết bằng văn ngôn, kén người xem; một là vì dịch toàn những tiểu thuyết của dân tộc bị áp bách ở Bắc Âu, không hợp với sở thích của độc giả trong thời ấy. Ông còn viết nhiều bài bằng văn ngôn đăng ở mấy tạp chí Trung Quốc ra tại Nhật Bản, như những bài Sức mạnh của dòng thơ Mo-rô (1), Hồn của người Sparle, đều là một đem cái tinh thần quật cường của người phương Tây sún cho người Trung Quốc đang chịu lỳ dưới ách đế quốc và phong kiến, nhưng hình như không có hiệu quả gì cả. Những việc làm như thế, Lỗ Tấn tự cho là thất bại, nhưng không hề vì đó nản chí. Ở Bắc Kinh mấy năm, chính mắt thấy những sự Viên Thế Khải xưng đế, Trương Huân phục tích, Tào Côn hối tuyển, nhất là bọn đế quốc câu kết với quân phiệt gây nội chiến, làm cho Lỗ Tấn thấy Cách mạng Tân Hợi là thất bại vì không triệt để, dường như thất vọng và đâm ra có thái độ chìm lặng. Tức như một hôm, người bạn của ông Tiền Huyền đồng đến chơi, thấy những bài bia xưa do chính tay ông sao chép đóng thành một tập, hỏi: (1)
Mo-rô tiếng ấn Độ, nghĩa là ma quỷ, tức tiếng Tây là Satan. Dòng thơ Mo-rô hồi đầu người ta chỉ dùng để gọi thơ của Bayơn; về sau hết thảy nhà thơ nào lập ý ở sự phản kháng, giục người ta hành động, làm cho kẻ cầm quyền ghét và sợ, đều cho thuộc vào dòng ấy.
- 226
- Anh chép cái này làm gì? - Chẳng làm gì hết. - Lỗ Tấn đáp. - Vậy thì anh chép nó có ý chi? - Chẳng có ý chi hết. Trước cái thái độ đó, người bạn của ông biện thuyết một hồi rồi khuyên ông viết bài đăng tạp chí Tân thanh niên là tạp chí tiến bộ lúc bấy giờ. Lỗ Tấn bèn viết cái truyện ngắn Nhật ký người điên tức là cái truyện ngắn đầu tay của ông. Việc đó ở tháng tư năm 1918, trước cuộc vận động "Ngũ tứ" một năm đúng. Từ đó tiếp tục viết tiểu thuyết và tạp văn, Lỗ Tấn trở nên một nhà văn chính thức. Nhưng có thể nói Lỗ Tấn thành ra một nhà văn cách mạng chân chính, một chiến sĩ dùng ngòi bút đấu tranh cho chính nghĩa, phục vụ cho nhân dân thì từ năm 1928 về sau. Năm 1928, trong tạp chí Bôn lưu, Lỗ Tấn bắt đầu nghiên cứu khoa học xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, phiên dịch lý luận văn nghệ của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng tiếp xúc đảng viên Đảng cộng sản và tham gia những cuộc vận động quần chúng của Đảng cộng sản phát khởi. Tư tưởng Lỗ Tấn từ đây có một điểm biến cải rất quan trọng: Trước kia viết văn nhằm cái hướng "chữa tinh thần" tức là cải tạo quốc dân tính, thì bây giờ thấy làm như thế là làm đảo ngược mà đổi nhằm cái hướng giải phóng đại chúng công nông. Nói là đảo ngược vì theo lẽ, phải giải phóng đại chúng trước, rồi quốc dân tính tự nhiên được cải tạo sau, nếu quốc dân còn ở dưới quyền thống trị phản - 227
động thì quốc dân tính không làm thế nào cải tạo được. Điều đó cắt nghĩa tại làm sao trong mười năm ở Thượng Hải, Lỗ Tấn không viết tiểu thuyết nữa mà chỉ viết tạp văn. Những tạp văn đến chín tập ấy, nói tóm là một mớ dao găm đâm thẳng vào mặt chính trị của phe phản động Tưởng Giới Thạch để giúp cho công cuộc giải phóng. Không ai có thể cãi chối mà nói rằng Lỗ Tấn trở nên một nhà văn chân chính, một chiến sĩ cách mạng chân chính, chẳng những có ảnh hưởng ở Trung Quốc mà có ảnh hưởng đến thế giới là không nhờ chủ nghĩa Mác Lênin hướng dẫn cho, và không nhờ Đảng cộng sản Trung Quốc dắt đưa và khuyến khích cho. Có một điều chúng ta nên chú ý là: Lỗ Tấn thấm nhuần tư tưởng Mác - Lênin như vậy, thông hiểu lý luận văn nghệ Mác - Lênin như vậy, mà trong văn chương của ông hầu như không có dùng những danh từ mác-xít như là biện chứng pháp duy vật, lịch sử duy vật. Một lần có người viết thư hỏi ông về những cái đó, ông có trả lời với một cách dè dặt, nhưng trước tiên ông nói rằng đối với những cái đó ông là "môn ngoại hán". Đọc sách của ông, tôi nhớ đến con tằm: con tằm ăn dâu rồi nhả ra tơ, nếu nhả ra dâu thì không còn phải là con tằm. 3. Những trứ thuật của Lỗ Tấn Những trứ thuật của Lỗ Tấn, hồi ông còn sống đã có in ra một số. Có thứ độc lập thành một bộ như Trung Quốc tiểu thuyết sử lược. Có thứ nguyên là từng bài đăng trên - 228
báo, một vài năm dồn lại in thành tập riêng: tiểu thuyết thì như hai tập Nột hám, Bàng hoàng; tạp văn thì như Phần, Nhiệt phong... cộng cả thảy mười sáu tập. Nhưng có những thứ khác đã in ra từ lâu mà về sau tuyệt bản; có thứ là những bài đăng báo đôi ba chục năm trước mà bây giờ thất lạc khó tìm ra; lại có những thứ còn nguyên bản thảo chép tay, chưa ấn hành được. Lỗ Tấn từng chính tay chép ra mấy bản mục lục sách của mình mà cũng còn không hoàn toàn đầy đủ. Sau ngày ông chết, "Hội ủy viên kỷ niệm Lỗ Tấn tiên sinh" liền được thành lập, do Thái Nguyên Bồi làm chủ tịch, Tống Khánh Linh làm phó chủ tịch, cùng các ủy viên khác chia nhau mỗi người một việc, lo biên tập tất cả những trứ thuật của ông, gồm lại gọi là Lỗ Tấn toàn tập. ấy là một công việc phiền trọng và khó khăn lắm. Chưa nói đến việc in, chỉ một việc sưu tầm và khảo hiệu cũng đã phải động viên hơn một trăm người vừa văn nhân vừa học giả, trải qua gần hai năm mới xong. Lỗ Tấn toàn tập gồm có sáu trăm vạn chữ, đóng thành hai chục cuốn lớn, mỗi cuốn từ trên 500 trang đến trên 700 trang. Một bộ sách vĩ đại như thế, tưởng cũng là vào hạng ít có kể giữa các sách của các nhà văn hào trên thế giới. Nếu phân loại một cách sơ lược thì bộ Lỗ Tấn toàn tập có thể chia làm ba loại: Một là loại sách hiệu chính hay biên toản, tức là sách của người đời xưa hay người đồng thời mà ông hiệu chính lại cho đúng; biên toản là trong các sách đời xưa có những cái cùng một bộ môn mà rời rạc ra - 229
thì ông quy tụ lại thành một bổn cho tiện xem. Hai là loại sách dịch, có cả tiểu thuyết, đồng thoại, luận văn, phần lớn là dịch ở tiếng Nga. Ba là loại sách sáng tác, tức là tiểu thuyết và tạp văn. Loại sách thứ nhất rất có ích cho sự nghiên cứu văn học thời cổ. Như bộ Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, liệt kê những tiểu thuyết cổ từ đời Hán đến đời Thanh, tóm tắt nội dung, thêm lời luận đoán gọn mà rõ, người đọc có thể do đó tìm thấy cái vết phát triển và tiến bộ của tiểu thuyết Trung Quốc. Loại sách thứ hai, tiểu thuyết như Linh hồn chết dịch của Gô-gôn, ông mất công phu vất vả vào đó nhiều lắm; lý luận văn nghệ như Nghệ thuật luận dịch của Plekhanov và của Lunasacsky, đứng trên lập trường vô sản mà lập luận, cho nên bản dịch của ông đã giúp sự trưởng thành cho văn nghệ tả dực Trung Quốc hai mươi năm nay không ít. Loại sách thứ ba là tất cả cái vinh quang của sự nghiệp văn học Lỗ Tấn. Về tạp văn, tôi sẽ nói ở hai đoạn sau, ở đây xin nói về tiểu thuyết của ông. Kể về lượng thì tiểu thuyết Lỗ Tấn không nhiều bằng tạp văn, nhưng kể về phẩm thì hai thứ ngang nhau, tiểu thuyết cũng có cái đặc sắc của tiểu thuyết. Trọng yếu nhất là hai truyện ngắn Nhật ký người điên và A Q. chính truyện, tôi xin đem giới thiệu sơ qua cùng các bạn.
- 230
Nhật ký người điên, chủ đề của nó là đánh đổ lễ giáo đạo đức phong kiến mà đề tài là "ăn thịt người". Toàn truyện cố nhiên nói chuyện ăn thịt người, nhưng cái chỗ dụng ý là tố cáo sự khốc hại tàn nhẫn của lễ giáo đạo đức cũ Trung Quốc, nhiều khi bắt người ta phải chết, như Thân Sinh vì hiếu mà phải chết, Nhạc Phi vì trung mà phải chết. Những người cải lương trước Lỗ Tấn đều chủ trương cái thuyết "Trung học vi thể, Tây học vi dụng", cho đến những người đồng thời với Lỗ Tấn tuy có phản đối Khổng Tử, đả kích Tống Nho, nhưng đến toàn bộ lễ giáo đạo đức của Trung Quốc, không ai dám đả động đến. Lỗ Tấn mạnh dạn đứng ra làm việc này cũng như đánh một vố nặng vào xương sống phong kiến làm nó bị một cái trí mạng thương. Cái truyện ngắn này là một tiếng còi báo hiệu của cách mạng tư tưởng hay cách mạng văn hóa Trung Quốc. Đứng về phía văn học mà nói, thì khi nó vừa đăng báo xong, liền được công nhận là áng văn sáng tác thứ nhất đặt nền móng cho văn học mới Trung Quốc. A Q. chính truyện, theo tôi hiểu, chủ đề có hai mặt: Một mặt tả người dân ở nông thôn bị đè nén bóc lột, khốn khổ điêu đứng, cuối cùng làm nạn nhân của Cách mạng Tân Hợi; nhưng mặt đó là thứ yếu của chủ đề. Một mặt khác, mặt này mới là chính yếu, theo lời Lỗ Tấn, là "vẽ ra linh hồn của người Trung Quốc". Ông từng có ý dùng văn nghệ để chữa tinh thần, mà có tìm ra bệnh căn mới chữa được, cho nên trong truyện ngắn này, bao nhiêu cái sở - 231
đoản của A Q. đều là cái sở đoản của người Trung Quốc nói chung. Bởi vậy khi nó đăng ra từng kỳ từng kỳ trên báo, có những người đọc mà tưởng là tác giả bới xấu mình, đọc đến kỳ khác lại tự yên ủi rằng không phải, vì hôm nay nói đến cái xấu khác mà mình không có. Lại có những người đọc rồi nghi có người này hay người kia là người quen với mình mới biết những cái xấu của mình mà viết, bèn đi tìm cho biết "Ba Nhân" là ai, vì dưới truyện ngắn này ký tên là Ba Nhân. Cử ra một vài hiện tượng đó đủ thấy sự thành công của A Q. chính truyện. Huống chi từ đó đến giờ, trong ngữ ngôn Trung Quốc, có nảy ra những danh từ "A Q. thức", "A Q. tướng", "A Q. chủ nghĩa", thì nó lại đã thành ra kinh điển của văn học. Lỗ Tấn toàn tập, ở Nhật Bản đã có dịch và in ra. Ở Liên Xô mới có tuyển tập mà dịch ra đến mười thứ tiếng trong toàn quốc. Các nước dân chủ nhân dân đều có dịch một vài thứ. Chỉ có “A Q. chính truyện” thì đến các nước tư bản chủ nghĩa cũng đều có dịch cả, người ta kể ra: Mỹ, Anh, Pháp, ý, ácgiăngtin, Đan Mạch, ấn Độ, Miến Điện. Trên kia có nói Lỗ Tấn là một chiến sĩ dùng ngòi bút đấu tranh cho cách mạng, cho nhân dân, vậy thì sự đấu tranh ấy thấy ra ở đâu? Có thể trả lời rằng ở tiểu thuyết và tạp văn. Dưới đây sẽ nói đến tạp văn.
- 232
4 - Đấu tranh về văn học Sau vận động "Ngũ tứ", trên văn đàn Trung Quốc, Lỗ Tấn thật giống như một vị tướng quân, thanh gươm yên ngựa, tả đột hữu xung, hễ có một đám giặc cỏ nào là một mình ra trận, bách chiến bách thắng. Trước tiên là sự tranh luận giữa bạch thoại và văn ngôn. Bên phe chủ trương bạch thoại có nhiều người, không phải một mình Lỗ Tấn, nhưng tranh đến cùng là Lỗ Tấn. Đáng kể là mấy lần tranh luận với Chương Sĩ Chiêu. Trong Giáp dần tạp chí, Chương Sĩ Chiêu cho rằng văn ngôn gọn, bạch thoại phải dùng nhiều chữ, lòng thòng. Như câu "nhị đào sát tam sĩ", nói bằng bạch thoại phải nói là "lưỡng cá đào tử sát liễu tam cá độc thư nhân". Lỗ Tấn căn cứ sách Yến tử xuân thu, nói chữ sĩ đó là dũng sĩ, võ sĩ, dịch ra độc thư nhân là người đọc sách, người học trò, sai nghĩa. Một người đã dốt sách xưa, không thể bênh vực cho văn ngôn được. Lần khác, Chương Sĩ Chiêu dùng cái thành ngữ "mỗi hạ dủ huống" trong sách Trang Tử lầm ra là "mỗi huống dủ hạ". Lỗ Tấn chụp lấy, nói câu ấy xưa nay có nhiều người lầm lắm rồi, không ngờ người chủ trương văn ngôn như Chương Sĩ Chiêu mà cũng lầm. "Mỗi hạ dủ huống" nghĩa là hễ xuống chừng nào càng lắm chừng nấy, mà nói "mỗi huống dủ hạ" thì thành ra không có nghĩa gì hết; bất thông đến thế, sao dám đứng ra duy trì văn ngôn? Vả, Chương Sĩ Chiêu là tổng trưởng Bộ Giáo dục bấy giờ, bị mấy vố nặng ấy làm cho phe văn ngôn nhụt mất.
- 233
Một bọn khác cho ra tạp chí học hoành, chủ trương văn ngôn, chống bạch thoại. Mới ra số đầu, Lỗ Tấn viết một bài chỉ ra bảy chỗ dùng chữ bất thông hay là sai ngữ pháp, bọn ấy làm thinh không cãi được. Ấy là những việc ở năm 1925 về trước. Đến năm 1934, bạch thoại đã thông hành lâu rồi, mà bọn thống trị Tưởng Giới Thạch còn đề xướng văn ngôn. Một người ký tên là Uông Mậu Tổ lắp lại cái thuyết gọn và lòng thòng của Chương Sĩ Chiêu, cử lệ rằng: Như bạch thoại nói "giá nhất cá học sinh hoặc thị ná nhất cá học sinh" thì văn ngôn chỉ nói "thử sinh hoặc bỉ sinh" là đủ rồi. Nhưng, theo Lỗ Tấn, "giá nhất cá học sinh hoặc thị ná nhất cá học sinh" chỉ nghĩa rành mạch là người học sinh này hoặc người học sinh kia; còn "thử sinh hoặc bỉ sinh", ít nữa có thể có hai nghĩa: 1, sinh viên này hoặc sinh viên kia; 2, đời sống này hoặc đời sống kia, là đời sống hiện tại hoặc đời sống tương lai. Nắm lấy đó, Lỗ Tấn phản công lại, nói rằng: "Cứ theo câu lệ của Uông Mậu Tổ đưa ra đủ chứng minh rằng văn ngôn hàm hồ không rõ nghĩa, không còn xài được nữa". Đến sự tranh luận về phiên dịch. Cuộc tranh luận này cãi nhau nhiều và dai dẳng lắm, cuối cùng Lỗ Tấn vẫn cứ đánh vào chỗ yếu của bên địch mà thủ thắng. Lỗ Tấn thì chủ trương "trực địch", nguyên văn thế nào thì thông ngôn ra thế ấy, không thêm không bớt, không vụ lấy xuôi lời mà làm sai ý tác giả. Nhưng bên địch, bọn Lương Thực thu, Triệu Cảnh Thâm thì chủ trương "thuận dịch", miễn cho xuôi lời dễ hiểu, dù có sai nguyên văn chút đỉnh cũng - 234
không sao. Do đó mà có câu chuyện buồn cười dưới đây làm cho "ông thầy phiên dịch" Triệu Cảnh Thâm cay cú đến khó chịu. Trong một bài văn của Triệu Cảnh Thâm dịch chữ Voie lactée là "Ngưu nhũ lộ" (đường sữa bò). Lỗ Tấn vớ ngay lấy, cười tủm tỉm: "Đó giống như là trực dịch, mà thực ra thì không phải!" Rồi kể một chuyện thần thoại Hy Lạp: Vị đại thần Zéus là thần ưa ve gái. Một lần ngự xuống trần gian tròng trẹo với một cô nào đó sinh được một đứa con trai. Bà Zéus là một nữ thần tổ ghen, biết được chuyện ấy, liền bắt đứa bé ấy về trên trời, chờ dịp giết chết. Nhưng đứa bé ngây thơ, không biết cái mưu độc ác ấy, có một lần hắn chạm phải cái đầu vú bà nữ thần, bèn ngậm lấy mà bú. Bà Zéus giật mình, xô hắn một cái, rơi xuống trần gian, chẳng những không chết mà về sau lại thành anh hùng. Nhưng, những tia sữa ở vú bà Zéus vì đó phun ra túa lụa đầy trời, thành ra sông Ngân Hà, tức là "đường sữa bò", à, không phải - Lỗ Tấn nói - thực ra là "đường sữa thần". Rồi nói thêm: "Có điều, ở người Tây, bất kỳ sữa gì cũng gọi là lait (2) cả, chúng ta thường thấy chữ ấy trên hộp sữa bò, có khi không khỏi dịch lầm là sữa bò, sự ấy cũng chẳng lấy gì làm lạ. Ác là lại còn thêm một câu này: "Tôi kể câu chuyện trên đó chẳng qua để góp thêm chút ít tài liệu nhàn đàm cho mọi người và nhân đó biết thêm chút ít thần thoại Hy (2)
Chữ nầy với chữ Voie laclée ở trên nguyên bằng tiếng Anh, đây tôi đổi ra tiếng Pháp. - 235 -
Lạp mà thôi, chứ đối với cái chủ trương "thà xuôi mà không đúng, không tha đúng mà không xuôi" của Triệu tiên sinh không có tổn hại mảy may nào cả". Những văn dịch ở Trung Quốc gần nay, về văn nghệ, tôi thấy đều theo lối trực dịch của Lỗ Tấn cả. Đem đối chiếu một bổn dịch tiểu thuyết của Gorki bằng tiếng Trung Quốc với tiếng Pháp, in hệt như nhau từng chữ, từng câu, chỉ có trực dịch thì mới được như vậy, thì ra chẳng những Trung Quốc mà người Pháp cũng trực dịch. Hai điều trên đó chỉ là đấu tranh về hình thức văn học; dưới đây mới là đấu tranh về nội dung. Sau khi Tả Dực tác gia liên minh thành lập, đề xướng văn học vô sản ở năm 1930, các thứ văn học phản động ở Trung Quốc mọc ra như nấm, tàn lớp này, lên lớp khác, đều bị Lỗ Tấn quét dọn sạch cả. Điều ấy có thể kể là một công trạng rất lớn của Lỗ Tấn. Trước tiên, nhân phê bình mấy bản dịch lý luận văn nghệ vô sản của Lỗ Tấn, giáo thụ đại học Lương Thực Thu đưa ra cái thuyết văn học không có giai cấp tánh. Lương Thực Thu vẫn nhìn nhận rằng trong xã hội có giai cấp tư bản và giai cấp vô sản, nhưng lại quả quyết rằng văn học thì chỉ có một, đem sự phân chia giai cấp buộc cho văn học là sai lầm. Bởi vì một nhà tư bản với một người lao động tuy có chỗ khác nhau nhưng có chỗ giống nhau: Hai đằng cùng có một "tánh người" là như yêu, thương, mừng, giận, ghét, mà văn học là để biểu hiện cái "tánh người" ấy. - 236
Lỗ Tấn bác cái thuyết ấy, đại khái nói rằng văn học muốn biểu hiện "tánh người" thì phải thông qua "người", nếu không thông qua "người" thì không sao biểu hiện "tánh" được. Đã thông qua người mà người còn ở trong xã hội có giai cấp, thì tất nhiên không vứt bỏ đi đâu được cái giai cấp tánh mà người thuộc về. Đó là cái lẽ tất nhiên như thế, không cần phải đem giai cấp tánh "buộc" cho văn học. Cố nhiên là ai cũng có yêu, thương, mừng, giận, ghét, nhưng những cái đó của mỗi giai cấp khác nhau: Lão Tiêu Đại không yêu cô Lâm tiểu thư (3), người ăn mày không có cái buồn rầu của nhà buôn to vỡ nợ, ông triệu phú nước Mỹ không thấy cái khổ của mụ già vạch tìm mẩu bánh vụn trong đống rác ở đường phố Bắc Kinh, anh cố nông không có hứng thú thưởng hoa thủy tiên ngày tết... Cho nên, để được biểu hiện cái tánh người của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản phải có văn học vô sản của họ. Cái thuyết của Lương Thực Thu còn có nhiều điểm nữa, bài bác luận của Lỗ Tấn khá dài, cứ đánh đổ từng điểm một, trên đây chỉ lược thuật một điểm trọng yếu nhất mà thôi. Trong khi đàn áp văn học vô sản, cấm sách báo, giết hại các nhà văn tả dực, bọn thống trị tập hợp với một bọn bồi bút, rồi có kẻ đề xướng thứ văn học dân tộc. Ý nghĩa bốn chữ ấy theo Lỗ Tấn giải thích là: Họ nghiên cứu màu (3)
Đây lấy điển trong Hồng lâu mộng: Tiêu Đại là người đầy tớ già trong Giả phủ, còn Lâm tiểu thư tức Lâm Đại Ngọc, cô con gái đẹp và hay chữ, là cháu ngoại Giả phủ. - 237 -
da mặt của các giống người, rồi quyết định rằng hễ giống người cùng chung một màu da mặt thì phải đi rập với nhau một đường hành vi, cho nên giai cấp vô sản da vàng không nên đấu tranh với giai cấp hữu sản da vàng mà phải đấu tranh với giai cấp vô sản da trắng. Gọi hằng "dân tộc" là vậy đó, văn học của họ nhằm theo con đường ấy mà phát triển. Có một người trong phái văn học dân tộc ký tên là Thanh Cồ, viết một bài trên báo, đầu đề là "Một trang chiến sử chinh Nga của nước ta", đại khái nói rằng: "Thành Cát Tư Hàn đời Nguyên, dấy từ Mông Cổ, vào làm chủ Trung Quốc. Đến triều vua Thái Tôn năm thứ bảy, lại khiến Tốc Bất Đài theo các Vương Bạt Đô, hoàng tử Quý Do đánh Tây vực. Năm thứ mười bèn cử đại binh đánh Nga, hãm thành Mạc Tư Khoa. Con trưởng vua Thái Tổ là Truật Xích lên ngôi khắc hàn (4) tại đó. Thật là một việc mà lịch sử từ xưa chưa hề có. Vả, các vị anh chủ sáng nghiệp đời xưa, dù có mở rộng bờ cõi đến đâu đi nữa cũng chưa hề có ai xâm nhập đến đất châu Âu, rắp hỗn nhất cả châu á châu Âu như vậy. Vậy mà chẳng cho là một trang chiến sử vẻ vang của nước ta được ư?...". Nói gọn, cái điều dại dột của bài luận ấy là ở hai chữ "nước ta". (4)
Khắc hàn là hiệu vua Mông Cổ, cũng như hoàng đế, tức trong tiếng Tây là Khan. ở chữ hán, khi nào nó đi với tên người thì nói hàn, như Thành Cát Tư Hàn, khi nào nó đi một mình thì nói Khắc hàn. - 238 -
Một dịp cho Lỗ Tấn đập nát cái mặt nạ văn học dân tộc. Ông viết rằng: "Chỉ có ông Thanh Cồ là người Mông Cổ thì mới nói như vậy được. Nếu không thì, Thành Cát Tư Hàn vào làm chủ Trung Quốc, Truật Xích lên ngôi khắc hàn tại Mạc Tư Khoa, bấy giờ cái cảnh ngộ hai nước Trung Nga chúng ta giống nhau, đều là bị người Mông Cổ chinh phục. Tại sao người Trung Quốc đời nay lại nhận bướng người Mông Cổ là ông cha mình, vênh mặt lên kiêu ngạo với giống người Slavơ là kẻ đồng chịu áp bách với mình?". Lúc bấy giờ, năm 1931, Nhật Bản bắt đầu đánh Đông Bắc, toan dùng Trung Quốc làm bàn đạp để đánh Liên Xô, mà Tưởng Giới Thạch ra lệnh "bất đề kháng", bị nghi là đồng mưu với Nhật, toan theo Nhật để cùng tiêu diệt Cộng sản, cho nên Lỗ Tấn viết nốt: "Hỡi ôi! Nga đỏ chưa đi đánh mà cái mặt ngốc đã lòi ra, thật không phải là một trang chiến sử vẻ vang của nước ta vậy". "Cái mặt ngốc" đó chẳng những chỉ người viết bài là Thanh Cồ mà cũng chỉ cả phe văn học dân tộc hay là chỉ đến cả Tưởng Giới Thạch nữa. Thế rồi cái lớp tuồng văn học dân tộc hạ màn. Nhưng mà chưa hết đâu. Tiếp đó còn xuất hiện cái gọi bằng "loại người thứ ba", đề xướng thứ văn học của loại người thứ ba. Loại thứ ba nghĩa là: họ nhận rằng giới văn học hiện có hai loại người, một là loại người tả dực, một là loại người hữu dực, nhưng họ không phải tả mà cũng không phải hữu, cho nên họ là người thuộc về loại thứ ba, - 239
vượt ra bên ngoài tả hay hữu. Thứ văn học này, cũng theo Lỗ Tấn giải thích: "Họ cho rằng văn học là vĩnh cửu, hiện tượng chính trị là tạm thời, cho nên văn học không thể dính dấp với chính trị, hễ dính dấp thì mất cái vĩnh cửu tánh của nó, Trung Quốc từ đó sẽ không có tác phẩm vĩ đại". Nhưng mà đã lâu, "loại người thứ ba vẫn không có tác phẩm ra hồn, chứ đừng nói vĩ đại. Họ đổ tại nhà phê bình tả dực không hiểu văn học, phê bình cộc cằn mà không đúng, đụng ai cũng mắng là "chó săn của nhà tư bản", nên họ phải "gác bút". Lỗ Tấn nói: "Thực ra, cái nguyên nhân "loại người thứ ba" gác bút, không phải tại tả dực phê bình cộc cằn, mà tại họ không làm nên "loại người thứ ba" được. Hễ không làm nên "loại người thứ ba" được thì cũng không có được ngọn bút thứ ba, chứ chưa nói đến gác với chẳng gác. "Sống ở trong xã hội có giai cấp mà muốn làm nhà văn siêu giai cấp, sống ở thời đại chiến đấu mà muốn lìa khỏi chiến đấu, sống ở hiện tại mà muốn viết tác phẩm dành cho tương lai, người như thế là một cái huyễn ảo do tâm tạo, chứ không có thể có trong thế giới hiện thực này được". Cuối cùng Lỗ Tấn tỏ ý rằng tuy họ xưng mình là "loại người thứ ba" nhưng họ không thể vượt khỏi giai cấp, không thể lìa khỏi chiến đấu, không thể nhảy ra khỏi hiện tại, thì tác phẩm của họ cũng phải thế. Nếu họ không tự dối
- 240
mình, không treo lên cái chiêu bài giả mạo thì họ hãy ráng sức mà sáng tác đi". Đối với thứ văn học này, hình như Lỗ Tấn không công kích kịch liệt lắm như đối với thứ văn học dân tộc, hình như muốn khuyên họ quay đầu lại với hiện thực, nhưng rốt lại, "loại người thứ ba" vẫn tiêu diệt, văn học của họ cũng tiêu diệt theo. Còn một thứ văn học nữa gọi là văn học nhàn thích, cũng xuất hiện cùng một thời đó. Người chủ trương thứ văn học này là Lâm Ngữ Đường, bạn với Lỗ Tấn, nhưng nhiều lần chỉ trích cái chủ trương ấy, Lỗ Tấn không hề nể mếch lòng bạn. Lâm Ngữ Đường ra hai cái tạp chí vào khoảng 1933 1936, trước là Luận ngữ, sau là Nhân gian thế, đề xướng lối văn "u-mua" (5) và lối văn "tiểu phẩm" (6) của người Minh - Thanh, lấy "nhàn thích" làm tôn chỉ - nhà thích có ý là di dưỡng tánh tình, tánh tình của tác giả cũng của độc giả nữa. Lỗ Tấn nói: "Những cái gì của ông Ngữ Đường đề xướng ra, tôi thường hay phản đối... Bây giờ đây là lối văn
(5) U-mua, dịch âm tiếng Anh, tức tiếng Pháp là humour. Chữ này có nghĩa như là "trào phúng" nhưng không đúng hẳn. Cho nên Trung Quốc cũng chỉ dịch âm, không có chữ để dịch nghĩa cho đúng được. (6) Văn tiểu phẩm là lối văn viết ngững bài ngăn ngắn, nói về tình cảm hứng thú gì của cá nhân, không đụng chạm đến việc nước, việc chính trị - 241
u-mua chỉ có thứ dân ưa mở hội nghị bàn tròn (7) mới chơi được, chứ ở Trung Quốc không có, cả đến cái chữ để dịch nó cũng không có". Theo Lỗ Tấn, người Trung Quốc không sở trường lối văn u-mua, nếu miễn cưỡng bắt chước, rốt lại chỉ biến thành "bông phèng". Ông có dẫn lời Ngữ Đường: "Làm người phải đứng đắn, không nên đi vào con đường bất chính... Nhưng làm văn không giống làm người, phải u-mua, phải đùa đùa cười cười, phải khoái hoạt...". Đùa đùa cười cười là bông phèng chứ gì? Mà bông phèng là làm hề, chứ đâu có phải làm văn! Huống chi, trong khi Lâm Ngữ Đường đề xướng umua đó, Nhật Bản đánh chiếm Đông Tam tỉnh, Du Quan thất thủ, Nhiệt Hà nguy ngập, lại thêm Hoàng Hà vỡ đê, nhân dân nheo nhóc, nỡ lòng nào ngồi yên mà đùa đùa cười cười? Lỗ Tấn kéo Ngữ Đường trở về với hiện thực: "Hiện lúc này là lúc không có thể u-mua được. Chính tạp chí Luận ngữ có tiền mà cũng không u-mua được, còn mong gì những người ở mấy miền đạn trái phá đầy trời, nước lụt tràn đất mà lại u-mua được?". Trong một bài tạp văn viết tháng tư năm 1934, Lỗ Tấn có nói: "Năm ngoái là năm u-mua gặp vận đỏ... không ngờ năm nay nó đảo vận, hết thảy tội ác đều đổ về nó...". Đó là cái tin cáo phó cho lối văn u-mua. Nói đến lối văn tiểu phẩm. Lâm Ngữ Đường cho rằng văn tiểu phẩm có cái đặc sắc là "tả tính linh". Theo ý Lỗ (7)
Ám chỉ người Anh - 242 -
Tấn, có một số người tả được tính linh thật, nhưng cái đó không có gì là đặc sắc. Bởi hoàn cảnh đương thời và sinh hoạt của tác giả, họ chỉ có ý tứ như thế thì họ viết ra như thế. Nhưng không phải hết thảy văn tiểu phẩm đều "nhàn thích", có những tác giả khi gặp nguy nan cũng pha giọng cảm thương phản khích. Nhưng những sách về tiểu phẩm ấy trải qua nhiều lần "Văn tự ngục" (8) đời Mãn Thanh, đều đã bị đốt, bị hủy bản, cho nên những văn tiểu phẩm còn lại đến ngày nay mà chúng ta thấy chỉ là thứ tính linh siêu hiện thực, "đi nửa lừng trời". Những tác gia tiểu phẩm ấy, Lỗ Tấn nói, lúc còn có nước là cao nhân, lúc nước mất rồi cũng không mất chi làm dật sĩ. "Sĩ" thì trổi hơn thường dân, "dật" thì trốn khỏi trách nhiệm: Hiện giờ người ta đặc biệt đề cao tiểu phẩm Minh - Thanh, thực ra là có lý lắm, không lấy gì làm lạ. Câu nói của Lỗ Tấn vừa mới thuật lại đó nghe như lơ lửng mà sâu sắc lắm. Sống ở một nước đang nguy khốn như thế, một thời đại cạnh tranh kịch liệt như thế, mà chỉ "tả tính linh", chuộng "nhàn thích", đặt mình ra khỏi cuộc đời, chẳng phải trốn trách nhiệm là gì? Ba chữ "có lý lắm", ý muốn nói Lâm Ngữ Đường vì trốn trách nhiệm nên đề xướng tiểu phẩm Minh - Thanh. Tiếp đó, Lỗ Tấn nói tiên tri một câu: "Nhưng cái mộng làm cao nhân dật sĩ không được lâu dài đâu!". Quả (8)
Văn
tự ngục là những vụ án lớn ở thời phong kiến, vì thơ văn sách vở nhà vua cho là phản động mà bị giết nhiều người, như vụ án Nguyễn Thuyên, con trai Nguyễn Văn Thành ở triều Gia Long. - 243 -
nhiên trong năm 1936 thì "Nhân gian thế" đình bản, Lâm Ngữ Đường đi sang Mỹ làm giảng sư ở một trường đại học. Ngoài sự đấu tranh về văn học, Lỗ Tấn còn đấu tranh về nghệ thuật nữa. Trong những tập tạp văn của ông có nhiều bài nói về hội họa, về khắc gỗ. Nhất là về khắc gỗ, ông chú ý đặc biệt, săn sóc đặc biệt. Trong Lỗ Tấn thư giản có một số đông nghệ sĩ khắc gỗ thư từ đi lại với ông. Có thể nói, Lỗ Tấn là người phục hưng cái bộ môn nghệ thuật này ở Trung Quốc về cận đại. Chỉ vì tôi dốt nghệ thuật, cho nên trong bài này tôi không dám bình luận đến. 5. - Đấu tranh về chính trị Lỗ Tấn không làm chính trị, không phải là một chính khách, cũng không phải là đảng viên Đảng cộng sản, nhưng là một người có đồng tình với Đảng cộng sản về khuynh hướng chính trị. Đảng cộng sản Trung Quốc thành lập năm 1921, nhưng Lỗ Tấn vấn đề biểu lộ cái khuynh hướng ấy, lấy đích thân mình ra chống với thế lực đen tối, chỉ mới từ năm 1925, nghĩa là sau "sự kiện Ngũ nẩm" do Đảng cộng sản sách động một năm. Ông đấu tranh chính trị suốt từ khi ở dưới quyền thống trị quân phiệt Đoàn Kỳ Thụy cho đến khi ở dưới quyền thống trị phát xít Tưởng Giới Thạch. Mà đấu tranh thực sự, lúc thì bằng hoạt động, lúc thì bằng văn chương. Năm 1925, Chương Sĩ Chiêu làm tổng trưởng Bộ Giáo dục, bắt học sinh đọc kinh và viết văn ngôn, lại - 244
nhiệm mạng Dương ấm Du nữ sĩ là người có tư tưởng phong kiến ngoan cố làm hiệu trưởng trường Nữ sư phạm đại học, áp chế học sinh có tư tưởng tiến bộ, nhân đó học sinh nổi lên phản đối. Dương ấm Du bèn khai trừ sáu học sinh, và kế đó Chương Sĩ Chiêu ra lệnh đóng cửa nhà trường. Lỗ Tấn đang làm giảng sư tại trường ấy, bèn cùng mấy giáo viên khác tổ chức "Hội duy trì hiệu vụ", thuê nhà khác tiếp tục mở lớp, học sinh cứ đi học. Vì cớ ấy, Chương Sĩ Chiêu cách chức Lỗ Tấn ở Bộ Giáo dục, Lỗ Tấn liền phát đơn kiện Chương Sĩ Chiêu, sau rồi Chương Sĩ Chiêu bị miễn chức, Lỗ Tấn trở lại làm việc ở Bộ Giáo dục. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, vì muốn viện trợ cho một việc ngoại giao, công nhân và học sinh Bắc Kinh tổ chức một cuộc biểu tình thỉnh nguyện trước phủ chấp chính Đoàn Kỳ Thụy. Đoàn Kỳ Thụy cho lính bắn chết 47 người, bị thương gần hai trăm người. Lại hạ lệnh nả bắt năm chục người vừa giáo viên, vừa nhà văn nhà báo, mà Lỗ Tấn là một trong số ấy. Lỗ Tấn phải lánh nạn trong bệnh viện ngoại quốc, nhưng đồng thời ông viết báo công kích kịch liệt. Đây trích lấy một vài đoạn: "Chính phủ Đoàn Kỳ Thụy dùng gươm súng giết học sinh tay không... cái hành vi bạo ngược tàn nhẫn ấy trong loài cầm thú chưa từng thấy, mà trong loài người cũng ít có. "Giả phỏng những người thanh niên như thế mà giết hết đi được, phải biết rằng kẻ giết họ cũng quyết không phải là kẻ thắng lợi đâu. - 245
"Nếu Trung Quốc còn chưa diệt vong hẳn thì cái việc tương lai xảy đến còn sẽ ra ngoài ý liệu của kẻ tàn sát... Đó không phải là kết thúc của một việc mà là mở đầu của một việc. "Nợ máu thì phải trả bằng máu. Hễ mắc nợ càng lâu thì phải trả lãi càng nhiều!" Sau khi Tưởng Giới Thạch phản Cách mạng, thời kỳ Lỗ Tấn ở Thượng Hải, ông đấu tranh càng hăng hơn trước. Năm 1930, ông gia nhập hội "Tự do đại đồng minh"; năm 1933, lại gia nhập hội "Dân quyền bảo chướng đồng minh"; hai hội này đều là đoàn thể bảo vệ quyền tự do dân chủ chống lại chế độ phát xít, vì vậy bị Tưởng Giới Thạch áp bách gắt lắm, có mấy lần ông phải tạm thời đi lánh nạn. Cũng trong năm 1930, Lỗ Tấn cùng một số nhà văn tiến bộ tổ chức một đoàn thể văn học gọi là "Tả dực tác gia liên minh", chính thức tuyên truyền văn học vô sản, cho nên bị đàn áp càng tàn nhẫn, có một số tác gia tả dực bị giết, tuy vậy, ông vẫn chủ trì cái đoàn thể ấy cho đến trước khi chết. Có thể nói hết thảy những việc chi Tưởng Giới Thạch làm ra, bất kỳ lớn nhỏ, hễ thấy có hại cho dân cho nước là Lỗ Tấn đều công kích hết. Như những việc "tiễu cọng", liên kết với Hitler, bị Nhật Bản tấn công mà không đề kháng, cho đến những việc như tôn Khổng, sát hại học sinh, mở cuộc xổ số để thủ lợi, dời đồ cổ ở Bắc Bình đi mà - 246
bắt học sinh phải cứ ở lại đó trong khi quân Nhật sắp đánh tới... Lỗ Tấn đều không bỏ công kích một dịp nào. Lúc bấy giờ báo chí bị kiểm duyệt ngặt lắm, nếu viết trắng trợn như đã viết công kích Đoàn Kỳ Thụy thì không được đăng, nên ông viết một cách rất khéo léo, hoặc quanh co, hoặc ven cạnh, cuối cùng cũng đạt đến mục đích công kích mà lại sắc nhọn sâu cay nữa. Như năm 1923, Nhật Bản đánh Thượng hải, Thập cửu lộ quân kháng chiến, Tưởng Giới Thạch ra lệnh rút lui, Lỗ Tấn viết một bài, đề là "Lễ", gần cuối bài có một đoạn rằng: "Trung Quốc vốn lấy lễ nhượng trị nước. Đã có lễ thì phải có nhượng. Mà càng nhượng thì lễ lại càng phiền phức thêm. Tóm lại, về điểm này, thôi, không nói". Hay ở chỗ không nói mà lại tuyên bố rằng mình không nói, để cho người đọc phải suy nghĩ mà thấy ra cái chỗ tại sao mình không nói, thế cũng tức như mình đã nói vậy. Lại, trong một lần "tiễu cọng", Tưởng Giới Thạch cho máy bay thả bom đốt cháy nhà dân ở miền chiến khu Hồng quân, ông viết một bài, đề là "Lửa", đại ý nói: Toại nhân phát minh ra lửa nấu ăn mà người ta không thờ, còn Hỏa thần chỉ có chuyên môn đốt nhà mà lại được người ta thờ. Như thế, người đọc sẽ hiểu rằng phải hạ Hỏa thần xuống, đừng thờ nữa, tức là hạ Tưởng Giới Thạch xuống, đừng để cầm quyền nữa. Có một điều mà các nhà văn nhà báo Việt nam chúng ta phải lấy làm lạ, là những bài nào bị kiểm duyệt bỏ trọn thì khi in thành sách ông cũng cứ in bài ấy vào, những bài nào bị bỏ một vài câu thì cũng in nguyên văn những câu ấy - 247
vào. Như thế thì thế nào sách in ra cũng bị cấm, mà bị cấm thật, nhưng ông cứ in. Những việc như thế, chỉ có là người dũng cảm lắm mới dám làm mà thôi. Những việc nào không có thể nói trên báo Trung Quốc được thì Lỗ Tấn viết bài đăng ở báo ngoại quốc. Trong những tập tạp văn, thấy có những bài viết đăng ở các báo tiến bộ Nhật Bản hoặc Mỹ Quốc, đều là bài công kích Tưởng Giới Thạch. Không những đấu tranh chính trị với bổn quốc mà còn với các đế quốc nữa. Lỗ Tấn năm 1927 từng đi ngang qua Hương cảng mấy lần, liền viết bài công kích chính sách nước Anh ở Hương Cảng. Còn Nhật Bản, suốt những năm xâm lược Trung Quốc, bị ông đả kích luôn. Nhất là đối với Hitler, Lỗ Tấn căm thù đến cực độ. Khi một cơ quan Quốc dân đảng dịch cuốn Mon combat, ông đã viết bài mai mỉa; ngày 3-5-1933, chính mình ông còn đi đến lãnh sự quán nước Đức ở Thượng hải đưa cái "kháng nghị thư" chống những việc làm bạo ngược của Hitler. Đó còn chưa kể những bài ông công kích bọn gọi là học giả danh lưu mà vào hùa với Tưởng Giới Thạch làm hại tổ quốc, làm hại nhân dân như Hồ Thích. 6. - Những điều chúng ta nên học tập ở Lỗ Tấn Những điều tôi nói từ nãy đến giờ về tư tưởng hành vi của Lỗ Tấn, tưởng đều là điều chúng ta nên học tập. Huống chi còn có những điều về sinh hoạt hằng ngày của ông đáng học tập lắm mà tôi chưa nói tới. Dầu vậy, cuộc nói - 248
chuyện đã dài rồi, tôi xin cô lại ba cái trọng điểm cho gọn sự học tập của chúng ta, mỗi điểm tôi sẽ cử ra một sự tượng cụ thể. Một là nghị lực và dũng khí. Có người nói Lỗ Tấn là một chiến sĩ bền dẻo - bền dẻo không phải mềm dẻo - đúng lắm. Như có lần bút chiến với bọn Từ Chí Ma, họ bảo "thôi", Lỗ Tấn nói: "Tôi chưa có thể thôi được", rồi cứ tiếp tục phản công mãi. Bởi thế, suốt năm 1928-1929, Lỗ Tấn ở Thượng hải, bị ba cái văn đoàn công kích: Sáng tạo xã, Thái dương xã là hai văn đoàn tả khuynh, Tân nguyệt xã là văn đoàn phản động, mà Lỗ Tấn cứ cầm cự rồi phản công cho đến thắng lợi, nghĩa là thu hút được một số nhà văn trong hai văn đoàn tả khuynh ấy gia nhập "Tả dực tác gia liên minh" thành lập năm 1930. Lỗ Tấn từng viết bài cho mục Tự do đàm của Thân báo, bị chính phủ Tưởng Giới Thạch ngăm dọa, Thân báo sợ, xin những người viết mục ấy đừng viết những bài công kích chính phủ nữa, vì không thể đăng được. Lỗ Tấn bèn viết một lối khác. Liền có kẻ hỏi trên báo khác rằng sao Lỗ Tấn không nói tự do nữa đi. Ông trả lời, đại ý nói đó là lời lừa phỉnh, ai dại chi mà mắc? Lại còn, trong những sợ nguy hiểm đến tính mạng, ông đều đi lánh nạn ở mấy bệnh viện ngoại quốc hoặc mấy tô giới. Xem đó, thấy Lỗ Tấn như là người giữ gìn sinh mạng của mình cẩn thận lắm, không dám hy sinh. Nhưng không phải. Lúc nào thấy cái chết của mình là có ích thì ông coi chết như không. - 249
Năm 1933, Tưởng Giới Thạch thấy "Dân quyền bảo chướng đồng minh" có ảnh hưởng lớn đến dân chúng, bèn sai ám sát một người trọng yếu trong đồng minh là Dương Hạnh Phật. Lỗ Tấn tức giận đến cực độ. Ngày 20 tháng 6 là ngày cử hành đám tang Dương Hạnh Phật, nhiều người sợ nếu Lỗ Tấn đi đưa đám thì có nguy hiểm, khuyên ông đừng đi. Nhưng Lỗ Tấn cứ đi. Bình thường, mỗi lần ông đi đâu là khóa cửa, đem chìa khóa theo. Nhưng lần này bỏ chìa khóa lại nhà, vì quyết chắc rằng mình sẽ không trở về nữa. Nhưng hôm ấy không có xảy ra việc gì cả. Có lẽ chúng sợ giết Lỗ Tấn thì hóa ra to chuyện, nên không dám giết. Hai là nhận xét tinh vi: Trong tiểu thuyết và tạp văn của liên quan có những nhận xét độc đáo: một việc rất tầm thường ít ai để ý đến mà ông cho là quan hệ, luôn luôn để ý đến và luôn luôn nói đến. Như bên cạnh người khóc có người cười, là một cái hiện tượng thấy hằng ngày, ở xã hội nào chẳng có. Nhưng người ta thấy rồi bỏ qua, vì cho là việc rất nhỏ và rất thường. Trái lại, ở chỗ rất nhỏ thường ấy, Lỗ Tấn thấy là một bệnh căn lớn của xã hội, nên ông cứ phải chỉ vạch ra cho người ta sửa chữa. Theo Lỗ Tấn, mọi người trong một xã hội phải đoàn kết nhau mới đấu tranh với thế lực ác được, mới sống được, mà muốn đoàn kết nhau thì trước phải thông cảm nhau, nếu không thông cảm thì cái xã hội ấy đã thành ra tê điếng, còn mong gì đoàn kết? - 250
Lần thứ nhất của sự nhận xét nầy ở khi ông xem chiếu bóng trong lớp học bên Nhật Bản mà trên kia đã nói. Cái sự một đoàn người đứng yên giám thưởng một người đồng hương bị chém làm cho ông bỏ học thuốc là sự lớn và phi thường theo nhận xét của Lỗ Tấn. Rồi trong truyện ngắn Minh thiên, bọn Lão Củng đỏ mũi, A Ngũ da chàm uống rượu cười đùa, hát ghẹo mụ góa Đơn Từ ở cách vách khi thằng bé của mụ ốm gần chết; trong A Q. chính truyện, một lũ người đi xem A Q. bị bắn mà lấy làm thất vọng vì nói rằng bắn không bằng chém coi thú hơn; trong Chúc phước người ta chế nhạo mụ Tường Lâm khi mụ kể chuyện con trai mụ bị chó sói ăn thịt. Những tình tiết ấy làm cho Lỗ Tấn đau xót, có lẽ ông đã rơi lệ trên giấy trong khi viết. Cái ý ấy, có khi Lỗ Tấn suy rộng ra đến chính phủ đối với nhân dân. Ngày 27-8-1934, các cơ quan chính quyền Quốc dân đảng ở Thượng hải kỷ niệm ngày sinh Khổng Tử, diễn tấu nhạc Thiều; cùng ngày ấy, có tin ở Dư dao, vì trời hạn khan nước, hai người dân giành nước uống với nhau mà đánh nhau chết. Lỗ Tấn viết một bài đề là "Không biết mùi thịt (9) và không biết mùi nước", trong có câu rằng: "Nghe nhạc Thiều, là một thế giới; khát nước, là một thế giới khác. Ăn thịt mà chẳng biết mùi, là một thế giới; khát nước mà giành nước đánh chết nhau, là một thế giới khác." Cái sự không thông cảm này còn đáng trách hơn (9)
Sách
Luận ngữ: Khổng Tử khi ở nước Tề, nghe nhạc Thiều, ba tháng chẳng biết mùi thịt. - 251 -
nữa, vì nó không phải chỉ là trong đám bình dân đối với nhau. Lại, ở lần Đoàn Kỳ Thụy tàn sát học sinh, ông viết rằng: "Người chết nếu chẳng được sống trong lòng người sống thì mới là chết thật." Đó cũng cái ý ấy mà hướng về chiều khác hy vọng cho mọi người có thông cảm, đến cái mức người sống đoàn kết với người chết là một sức mạnh để đánh đổ thế lực ác. Ba là tư tưởng triệt để. Lỗ Tấn phản đối trung dung, phản đối cải lương, phản đối thỏa hiệp, tư tưởng bao giờ cũng triệt để, mà nổi bật lên nhất là không khoan thứ kẻ thù địch và không khoan thứ cho đến cùng. Trước ngày chết hơn một tháng, ông còn viết một bài đề là Chết. Trong đó nói mình có nghĩ đến sự viết di chúc, điều thứ 7 là: những người chủ trương khoan dung không báo thù kẻ làm hỏng mắt và răng của kẻ khác thì đừng gần họ. Lại có một đoạn, nói: "Người Âu châu khi gần chết có làm một thứ nghi thức, xin người khác khoan thứ cho mình, mình cũng khoan thứ cho người khác... Tôi thì thù oán đông lắm... Tôi không khoan thứ cho một ai hết, để mặc họ cứ oán hận." Nhà nho chủ trương "bất vi dĩ thậm", nghĩa là không làm thái quá đối với kẻ ác, nhưng Lỗ Tấn thì cứ chủ trương "vi dĩ thậm". Ông từng đưa ra cái thuyết "đả lạc thủy cẩu", nghĩa là đánh con chó đã rơi xuống nước rồi, còn phải theo
- 252
mà đánh nữa, để nó không lội được lên bờ mà quay cắn mình. Cái điểm này quan trọng lắm, liên hệ với điểm trên, cảm thông và đoàn kết, thấy chỗ nhận định về bạn và thù của Lỗ Tấn phân minh lắm: với bạn thì cảm thông đoàn kết, với thù thì không khoan thứ. Chúng ta là những người đang ở trong hàng ngũ cách mạng, tôi thấy ba điểm ấy rất cần cho chúng ta phải học tập. 7. - Kết luận Để kết luận cho bài nói chuyện này, tôi xin lấy tình trạng hiện thời của nước ta đem liên hệ với tư tưởng Lỗ Tấn, tức là cái tư tưởng triệt để đối với kẻ thù mà tôi mới vừa nói. Hiện nay, kẻ thù trước mắt của chúng ta là ai? Là đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm. Chúng ta đang muốn hòa bình thống nhất mà họ lại muốn gây chiến, làm trở ngại cuộc hòa bình thống nhất của chúng ta. Vậy thì chúng ta chỉ có đoàn kết với những người nào muốn hòa bình thống nhất để mà chống lại họ thì mới đạt tới mục đích của chúng ta được. Mà muốn làm như vậy, trước hết chúng ta phải có lòng căm thù đối với kẻ thù của chúng ta. Hiện nay có người nói: Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, hòa bình đã trở lại rồi, Đảng và Chính phủ đã khoan hồng đối
- 253
với bên địch rồi, thì mỗi người trong chúng ta không nên căm thù nữa, có như thế thì mới giữ vững hòa bình được. Tôi cho cái ý nghĩ ấy là mất lập trường. Đành rằng hòa bình đã trở lại, nhưng Đảng và Chính phủ chủ trương khoan hồng là khoan hồng với người nào tán thành hòa bình thống nhất kia, còn nhân dân chúng ta vẫn phải đấu tranh để thực hiện thống nhất dù chỉ đấu tranh bằng hòa bình. Đấu tranh bằng cách nào cũng vậy. Cho nên tôi muốn nhấn mạnh cái điểm thứ ba về tư tưởng của Lỗ Tấn: Không khoan thứ kẻ địch và không khoan thứ cho đến cùng. PHAN KHÔI
- 254
MỤC LỤC LỜI NGƯỜI DỊCH ..........................................................................................5 1- TÙY CẢM LỤC 49 ...................................................................................11 2- "ĐẾN RỒI" ................................................................................................14 3- "THÁNH VÕ" ...........................................................................................18 4- NÓI VỀ HÀM RÂU ..................................................................................23 5- XEM GƯƠNG CÓ CẢM ..........................................................................31 6- CHUYỆN PHIẾM CUỐI XUÂN..............................................................40 7- BÀI TỰA A Q CHÍNH TRUYỆN BẢN DỊCH TIẾNG NGA .................50 8- HỒNG KHÔNG HOA II(1) ........................................................................56 9- "CHỖ CHẾT" ............................................................................................64 10- KỶ NIỆM CHỊ LƯU HÒA TRÂN .........................................................68 11- VĂN HỌC CỦA THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG .........................................77 12- TẬP QUÁN VÀ CẢI CÁCH ..................................................................90 13- Ý KIẾN ĐỐI VỚI TẢ DỰC TÁC GIA LIÊN MINH ............................94 14- HIỆN TRẠNG GIỚI VĂN NGHỆ CỦA TRUNG QUỐC TỐI TĂM .103 15- CHÚNG TA KHÔNG BỊ LỪA NỮA ĐÂU .........................................110 16- "LỜI NÓI CỦA NGƯỜI" .....................................................................114 17- VỀ NGƯỜI NỮ .....................................................................................118 18- HOA VÀ ĐỨC ĐỀU ĐỐT SÁCH MÀ CÓ KHÁC NHAU.................122 - 255
19- BÒ VÀ NHẢY ......................................................................................125 20- ĐỒNG Ý VÀ GIẢI THÍCH ..................................................................129 21- SỰ TIẾN HÓA CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG ...........................................133 22- LỄ ..........................................................................................................137 23- DÒ NGHE ẤN TƯỢNG .......................................................................141 14- VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ .................................................................144 25- PHÉP HUẤN LUYỆN THÚ RỪNG ....................................................148 26- LỬA .......................................................................................................151 27- GIA ĐÌNH LÀ NỀN TẢNG CỦA TRUNG QUỐC ............................154 28- TRẢ LỜI CÂU HỎI CỦA QUỐC TẾ VĂN HỌC XÃ ........................157 29- THẾ GIỚI CON VE SẦU .....................................................................159 30- GHI VỤN KHI ĐỌC SÁCH I ...............................................................163 31- TỪ CHỤP BÓNG ĐỨA BÉ NÓI ĐI ....................................................167 32- PHÉP AN BẦN LẠC ĐẠO ..................................................................172 33- NÓI VỀ “THỂ DIỆN" ...........................................................................175 34- NAPOLÉO VỚI EDWARD JENNER ..................................................181 35- MA MÃNH TRÊN VĂN ĐÀN TRUNG QUỐC .................................184 36- KHỔNG PHU TỬ Ở TRUNG QUỐC ĐỜI NAY ................................196 37- BÀI VĂN ĐĂNG LỘN .........................................................................208 38- THƯ TRẢ LỜI CHO PHÁI TỜ-RỐT-KÍT ..........................................210 39- NÓI VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG VĂN HỌC CỦA CHÚNG TA HIỆN NAY .............................................................................................................216 PHỤ LỤC ĐỜI SỐNG VÀ SỰ NGHIỆP VĂN HỌC CỦA LỖ TẤN .......220
IN TẠI XƯỞNG IN TIẾN BỘ - HÀ NỘI 1.500 CUỐN XONG NGÀY 30-9-1956 – SỐ X.B. 200/TT – SỐ IN 2059 NỘP LƯU CHIỂU THÁNG 9-1956 - 256