Quản lí bản tin Phòng công tác chính trị và quản lí sinh viên ĐH KTQD
Chịu trách nhiệm bản tin Hội sinh viên ĐH KTQD
Cố vấn nội dung Phòng quản lí khoa học ĐH KTQD
Thực hiện nội dung, biên tập và phát hành CLB Sinh viên nghiên cứu khoa học ĐH KTQD
Giao lộ thông tin
Tin tức kinh tế trong nước tháng đầu năm.……….……3
Tin tức kinh tế thế giới tháng 06 – 2013…………...…..6
Sinh hoạt khoa học Tổng biên tập: Nguyễn Thị Lan
Thúc đẩy tự do hóa thương mại Việt – Trung………….9
Biên tập: Lê Tuấn Dũng, Phan Huy Hoàng, Trịnh Duy Hoàng
Nội dung: Lê Phương Anh, Phan Thị Thương, Nguyễn Thị Ngọc Hà, Lê Đình Giáp, Phan Thị Thu Hoài, Trịnh Duy Hoàng, Lê Tuấn Dũng, Trần Như Trung, Võ Thị Hoàng Hải.
Thiết kề và trình bày: Phan
Lăng kính khoa học Tổng quan về vái trò của nghiệp chủ trong nền kinh tế……………………………………………………………15 Hiệp ước vốn Basel(tiếp)………..……………… …18 Hành trang ngoại ngữ vào thương trường…….…….22
Huy Hoàng
Câu chuyện đó đây Tiền có thực sự làm chủ thế giới???...........................26 Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về Địa chỉ: Phòng 121 – nhà 11 – Đại học Kinh tế quốc dân Email: yesnews.neu@gmail.com
2 - Yesnews Chờ đón YESNEWS tháng 06/2013 07/2013
Tin tức kinh tế trong nước 6 tháng đầu năm Kinh tế Việt Nam có một số dấu hiệu khả quan trong sáu tháng đầu năm nhưng vẫn đối diện với nhiều khó khăn, theo số liệu mới nhất vừa được Tổng cục Thống kê công bố. 1.Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ Tăng trưởng GDP cả nước 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 4,9% Các khu vực tăng trưởng mạnh nhất là dịch vụ, tăng 5,92% (cao hơn cùng kỳ năm trước 5,29%). và công nghiệp - xây dựng, tăng 5,18% so với cùng kỳ năm ngoái, theo số liệu từ nguồn của thống kê nhà nước. Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo duy trì đà phục hồi và có những chuyển biến đáng kể: tăng trưởng sản xuất công nghiệp trong sáu tháng đầu năm đạt 5,2%. Trước đó, tăng trưởng sản xuất công nghiệp quý I chỉ đạt 4,93% (mức thấp nhất từng thấy trong quý I giai đoạn 2010-2013). Lãi suất 3 - Yesnews 06/2013
giảm, cùng nhiều biện pháp miễn giảm thuế, giãn thuế,... đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đã được cải
thiện và bắt đầu tăng so với cùng kỳ trong những tháng gần đây: 5 tháng tăng 4,8%; 6 tháng tăng 7,6%. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại hoạt động cũng tăng dần qua từng tháng trong năm 2013: 5 tháng khoảng 8,8 nghìn, 6 tháng khoảng 9,3 nghìn doanh nghiệp.
Mặc dù dịch vụ và công nghiệp, xây dựng có dấu hiệu lạc quan nhưng tình hình lại khá khó khăn đối với nông, lâm, thủy sản: trong sáu tháng đầu năm, tăng trưởng khu vực nông, lâm, thủy sản chỉ đạt 2,07%, thấp hơn nhiều so với con số 2,88% của cùng kỳ năm 2012, nhiều mặt hàng xuất khẩu nông, lâm nghiệp chính như cà phê, gạo đều giảm cả về giá và khối lượng sản xuất, ví dụ như mặt hàng cà phê giảm đến 24,2% về khối lượng và giá cũng bị trượt 22,4%. 2.Hàng hóa – Tiêu dùng Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2013 tăng 0,05% so với tháng trước và tăng 6,69% so với cùng kỳ tháng 6/2012. Tuy không giảm như tháng 6/2012 và tháng trước, nhưng CPI tháng 6/2013
vẫn là tháng tăng thấp, vừa thấp hơn tốc độ tăng bình quân tháng trong 5 tháng đầu năm (tăng 0,47%) và thấp xa so với tốc độ tăng bình quân tháng 6 giai đoạn 2004-2012 (tăng 0,69%).Theo Tổng cục Thống kê, có 3/11 nhóm hàng giảm giá, trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chỉ số CPI là nhóm ăn và dịch vụ ăn uống, giảm nhẹ ở mức 0,08%. Trong đó, lương thực giảm 0,62%, thực phẩm giảm 0,03% trong khi ăn uống ngoài gia đình tăng 0,28%. Nhóm giao thông giảm 0,09%, nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,13%. Có 8 nhóm tăng giá, trong đó tăng mạnh nhất là nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,42%; nhóm văn hóa giải trí tăng 0,4%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,33%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng nhẹ 0,09%... Trong rổ hàng hóa tháng 6/2013, có nhiều mặt hàng tăng giá nhẹ, nhưng do quyền số thấp, trong khi mặt hàng ăn và dịch vụ ăn uống chiếm quyền số cao 4 - Yesnews 06/2013
lại giảm giá. Nguyên nhân mặt hàng lương thực, thực phẩm giảm giá một phần do nguồn cung khá dồi dào và ổn định trong khi người dân có xu hướng chi tiêu tiết kiệm hơn. Việc tăng giá xăng dầu ngày 14/6 vừa qua chưa ảnh hưởng đến chỉ số giá tháng này. Như vậy có thể thấy chỉ số CPI biến động khá trái chiều trong những tháng gần đây, theo đó, giảm vào tháng 3 và tháng 5 nhưng lại tăng vào tháng 4 và tháng 6. Tính trong 6 tháng đầu năm, CPI chỉ tăng 2,4% so với tháng 12/2012, là mức thấp nhất kể từ năm 2003. Chỉ số CPI tăng nhẹ vào tháng 6 có thể coi là một tín hiệu tích cực trong nỗ lực phục hồi kinh tế của Chính phủ trong thời gian qua. 3.Đầu tư Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) tính đến 20/6 đạt 10,472 tỷ USD, cao hơn 15,9% so với cùng kỳ năm ngoái (FDI), trong đó vốn đăng ký của 554 dự án được cấp phép mới cao hơn số vốn cùng kỳ năm 2012 là 3,7%. Số vốn FDI
được thực hiện đạt khoảng 5,7 tỷ USD, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Vốn FDI sáu tháng đầu năm nay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 88,9% tổng vốn đăng ký. Theo số liệu được Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố ngày 27/6, tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế trong sáu tháng đầu năm ước tăng khoảng 3,31% so với cùng kỳ năm ngoái. Mức này cao hơn đáng kể so với mức 0,03% của ba tháng đầu năm, tuy nhiên vẫn là mức khá thấp. Số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động vẫn tiếp tục tăng. Trong năm tháng đầu năm, đã có 23.226 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, chứng tỏ khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn rất yếu. 4.Thương mại Xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra, tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 62,1 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động nhập
khẩu, nhất là nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ đầu tư và sản xuất kinh doanh cải thiện đáng kể, kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 63,5 tỷ USD, tăng 17,4%. Như vậy, nhập siêu 6 tháng đầu năm khoảng 1,4 tỷ USD, bằng 2,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, đây là mức tăng thấp và có thể kiểm soát được.
5.Du lịch
Theo thống kê vừa được công bố, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 6/2013 ước đạt 567.291 lượt: tăng 1,5% so với tháng 5/2013 và tăng 29,9% so với cùng kỳ tháng 6 năm ngoái. Tính
chung cho 6 tháng đầu năm 2013, Du lịch Việt Nam đã đón và phục vụ 3.540.403 lượt khách quốc tế, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2012. Vậy, con số tăng trưởng lượng khách quốc tế của tháng 6/2013 đã cho thấy một hiện tượng trái ngược với thông lệ hàng năm tạo nên mốc đáng nhớ, tháng 6 đầu tiên trong nhiều năm qua, lượng khách quốc tế đến đạt trên 500.000 lượt/tháng.
Như vậy, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2013 đã có một số chuyển biến tích cực, các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh đã dần phát huy tác dụng. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Kinh tế vĩ mô vẫn chưa thực sự vững chắc; lạm phát tuy được kiềm chế nhưng vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại; lãi suất tuy giảm nhưng việc tiếp cận vốn vay còn nhiều trở ngại do khó khăn trong việc xử lý nợ xấu; dư nợ tín dụng tăng chậm. Thị trường và sức mua có chuyển biến nhưng chậm… Do vậy để hoàn thành được các mục tiêu đề ra trong 6 tháng cuối năm đòi hỏi sự thống nhất, quyết tâm rất lớn không chỉ từ các tổ chức lãnh đạo mà còn từ toàn thể nhân dân và các Doanh nghiệp trong nền kinh tế. Lê Phương Anh
5 - Yesnews 06/2013
Tin tức kinh tế thế giới tháng 06 - 2013 Giá vàng: Giá vàng trong nửa đầu tháng 6 có những dao động tương đối nhẹ. Nhưng từ đầu tuần trước tới nay, giá vàng đã giảm 7%, tuần giảm tồi tệ nhất kể từ tháng 9/2011 khi Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tuyên bố có thể ngừng hẳn gói nới lỏng tiền tệ vào năm 2014. Trên sàn Comex, giá vàng giao tháng 8 chốt phiên hôm 24/6 giảm 14,9 USD xuống còn 1.277,1 USD/oz.
Giá xăng: Tình hình giá xăng dầu trong tháng 6 có những sự biến động đáng kể. Giá xăng, dầu tương lai trên thị trường quốc tế đã giảm sâu hơn trong phiên đêm 11/6 bởi chịu tác động bởi dự báo mới nhất của OPEC về tình hình cung cầu năng lượng toàn cầu, theo đó nhu cầu dầu thô toàn cầu sẽ tăng lên 900.000 thùng mỗi ngày trong 6 tháng cuối năm 2013, cao hơn so với mức tăng 700.000 thùng/ngày trong 6 tháng đầu năm. Cụ thể, giá dầu thô ngọt, nhẹ 6 - Yesnews 06/2013
giao tháng 7 trên sàn giao dịch hàng hóa New York chốt phiên 11/6 ở mức 95,38 USD mỗi thùng, giảm 39 cent so với ngày hôm trước. Dầu thô giao tương lai tại thị trường New York tăng mạnh từ ngày 14/6 và giao dịch gần mức cao nhất trong hơn 4 tháng sau khi có thông tin Tổng thống Mỹ Barack Obama được phép trang bị cho các nhóm nổi dậy Syria. Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần ngày 14/6, hợp đồng đã tăng 1,16 USD, tương đương 1,2%, lên 97,85 USD/thùng, mức tăng cao nhất kể từ ngày 7/6 và mức giá cao nhất kể từ ngày 30/1. Từ phiên giao dịch hàng hóa quốc tế đêm 20/6, giá dầu thô hợp đồng giao sau giảm mạnh sau khi có các tin tức cho thấy sản xuất ở Trung Quốc tiếp tục suy giảm và nguy cơ Mỹ rút bỏ các biện pháp hỗ trợ tăng trưởng. Kết thúc phiên 21/6, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 8 trên sàn giao
dịch hàng hóa New York đã giảm còn 93,69 USD mỗi thùng. Sau khi giảm sốc tới hơn 4 USD trong tuần trước, giá dầu thô hợp đồng kỳ hạn đột ngột quay đầu tăng mạnh trong phiên giao dịch 24/6 do những lo ngại về tin đóng cửa đường ống dầu ở Alberta, Canada. Kết thúc phiên giao dịch 24/6, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 8 trên sàn hàng hóa New York đã tăng tới 1,49 USD, tương ứng với mức 1,6%, lên 95,18 USD mỗi thùng.
Kinh tế Mỹ Sáu tháng đầu năm, kinh tế Mỹ đã dần phục hồi, các hoạt động kinh tế từ xây dựng, sản xuất đến dịch vụ kinh doanh ở 11 trong 12 bang của Mỹ tăng trưởng ở mức vừa phải. Đặc biệt, thị trường nhà đất tiếp tục xu hướng phục hồi. Chi tiêu tiêu dùng ở hầu hết các địa phương đều tăng nhẹ trong khi doanh số xe hơi cũng có xu hướng tăng. Trong
khi đó, tuyển dụng tại một số quận tăng nhẹ. Kết thúc cuộc họp 2 ngày 18-19/6, Ủy ban thị trường mở của Fed tuyên bố giữ nguyên chương trình mua 85 tỷ USD trái phiếu chính phủ hàng tháng song khẳng định rủi ro với triển vọng kinh tế và thị trường lao động đã giảm. Tuy nhiên, phát biểu sau cuộc họp, chủ tịch Fed Ben Bernanke cho biết, Fed có thể giảm quy mô chương trình này trong năm nay và ngừng hoàn toàn vào năm 2014 ,nếu kinh tế Mỹ đạt được tăng trưởng bền vững. Ông Bernanke cho rằng, vào thời điểm ngừng mua trái phiếu chính phủ, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm về khoảng 7% từ mức 7,6% hiện tại. Ông cũng không loại trừ khả năng Fed buộc phải tăng nới lỏng tiền tệ nếu kinh tế xấu đi. Ngoài ra, ông nhấn mạnh, giảm quy mô chương trình mua trái phiếu không có nghĩa là thắt chặt tiền tệ và không ảnh hưởng tới chính sách lãi suất siêu thấp. Ông Bernanke khẳng định, thời điểm ngừng QE sẽ cách xa thời điểm tăng lãi suất và 7 - Yesnews 06/2013
rằng không có chuyện tự động tăng lãi suất khi kinh tế Mỹ đạt mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp dưới 6,5%.
Kinh tế Châu Âu Kinh tế khu vực đồng euro (eurozone) vẫn chìm sâu vào suy thoái trong quý I, nhưng bắt đầu có dấu hiệu phục hồi trong quý II. Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat) cho biết lần đầu tiên trong nhiều tháng qua, tỷ lệ lạm phát tại 17 quốc gia thành viên khu vực đồng tiền chung châu Âu đã tăng 0,2% lên 1,4% trong tháng 5 so với tháng trước đó, thấp hơn mức 2,4% của cùng kỳ năm ngoái. Đứng đầu danh sách những nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất là Estonia (3,6%), tiếp đến là Hà Lan (3,1%), trong khi Hy Lạp và Cộng hòa Síp, những quốc gia đang chìm trong cuộc khủng hoảng nợ công chỉ tăng nhẹ lần lượt là 0,3% và 0,2%. Phát biểu hôm 18/6, chủ tịch ECB Mario Draghi cho rằng, kinh tế eurozone vẫn trong giai đoạn điều chỉnh nhưng những số liệu
gần đây cho thấy dấu hiệu khởi sắc. Thời gian gần đây, ông Draghi đã một số lần đề cập đến khả năng áp dụng lãi suất âm đối với tiền gửi của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương. Kể từ tháng 7 năm ngoái, ECB duy trì lãi suất này ở 0% và coi đó là một trong những công cụ chính sách cùng với việc mở rộng cho vay dài hạn nhằm hỗ trợ eurozone khi kinh tế khu vực vẫn chìm trong suy thoái dài nhất lịch sử.
Kinh tế Châu Á Nhật Bản: Đánh giá chung về tình hình kinh tế, Nhật Bản đang có dấu hiệu khởi sắc, xuất khẩu tăng trưởng mạnh nhất trong 3 năm và một số tín hiệu cho thấy kỳ vọng lạm phát cũng bắt đầu tăng. Theo báo cáo mới nhất của Bộ Tài chính Nhật Bản, giá trị xuất khẩu tháng 5 tăng 10,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Báo cáo còn cho thấy, mức thâm hụt thương mại trong 11 tháng liên tiếp vừa qua đang nằm tại 993,9 tỷ yên do giá trị nhập khẩu tăng 10%. Các dữ liệu này có
thể giúp duy trì niềm tin vào các nỗ lực khởi động chương trình kích thích tiền tệ, tài khóa và các quy định hạn chế trong lĩnh vực kinh doanh của Thủ tướng Shinzo Abe. Trung Quốc: Các số liệu mới nhất cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang tiếp tục tăng trưởng chậm lại. Sự giảm tốc này không phải là điều bất ngờ, nhưng điều được quan tâm hiện nay là liệu tốc độ tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới có nằm trong tầm kiểm soát. Kết quả điều tra mới được công bố cho thấy, sản xuất
tại Trung Quốc trong tháng 6 đã xuống mức thấp nhất trong 9 tháng qua, chỉ số quản lý sản xuất (PMI) của Trung Quốc trong tháng 6 chỉ đạt có 48,3 điểm, thấp hơn mức 49,2 điểm trong tháng 5 trước đó. Đây cũng là tháng thứ 15 liên tiếp chỉ số này giảm, cho thấy nhu cầu thị trường tiếp tục suy yếu cả ở trong và ngoài nước. Kinh tế Trung Quốc đã chứng kiến sự chững lại trong 3 năm qua, khi tốc độ tăng trưởng liên tục giảm dần, từ 9,3% năm 2011, xuống 7,8% vào năm 2012 và dự kiến tăng 7,7% trong năm nay, theo dự báo của IMF và WB.
Ấn Độ : Ngay sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ FED phát tín hiệu có thể bắt đầu ngừng chương trình kích thích tiền tệ vào cuối năm nay, đồng rupee Ấn Độ đã lao dốc xuống mức giao dịch thấp nhất mọi thời đại so với đồng đôla Mỹ. Cụ thể, đồng rupee giảm giá xuống còn 59,93 đôla từ mức đóng cửa tại 58,72 đôla trong phiên giao dịch hôm 19/6. Mặt khác, đồng rupee còn chịu áp lực từ thâm hụt ngân sách và tỷ lệ lạm phát cao. Kể từ tháng 10 năm ngoái, đồng tiền này đã để mất 15% so với đồng đôla Mỹ.
Sau 6 tháng đầu năm, kinh tế toàn cầu đã qua giai đoạn tồi tệ nhất và đang dần phục hồi, những rủi ro với kinh tế toàn cầu đã giảm đáng kể nhờ hành động chính sách của các nhà làm luật Mỹ, Nhật Bản, Eurozone. Theo dự đoán kinh tế thế giới nói chung sẽ tăng trưởng 3,1% năm nay và 4% năm 2014.Tuy nhiên các nước trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển vẫn còn nhiều việc phải làm trong thời gian tới để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, kinh tế khu vực đồng euro chưa thoát khỏi suy thoái. Phan Thị Thương
8 - Yesnews 06/2013
Sinh hoạt khoa học Đầu tháng 6/2013, học kì II năm học chính thức khép lại cũng là lúc CLB Sinh viên Nghiên cứu khoa học tổ chức Tổng
kết hoạt động Sinh hoạt khoa học
nhiệm kì 2012 – 2013. Năm đầu tiên CLB đưa hoạt động Sinh hoạt khoa học thành một hoạt động thường kì nhưng đã có rất nhiều dự án hay được thực hiện thu hút sự tham gia sôi nổi của nhiều thành viên, CTV. Trong số báo này, chúng tôi sẽ gửi đến độc giả đề cương tóm tắt đề tài sinh hoạt khoa học do một nhóm sinh viên năm nhất thực hiện – đề tài nhận được giải cao nhất cuộc thi Tài năng khoa học trẻ cấp cơ sở.
Thúc đẩy tự do hóa thương mại Việt – Trung Tại sao phải thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại Việt Trung? Như chúng ta đã biết, với chính sách mở cửa kinh tế của Đảng và nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển từ một nền kinh tế tự cấp tự túc không đủ hàng hóa cho tiêu dùng trong nước đến trở thành một nước xuất khẩu hàng hóa ra hơn 70 quốc gia trên thế giới. Thương mại của Việt Nam đang ngày càng phát triển, vươn ra toàn cầu và Trung Quốc cũng không nằm ngoài số đó. Thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm gần đây có nhiều khởi sắc và đang tăng nhanh chóng, đặc biệt là trong những năm gần đây. Trung Quốc và Việt Nam không chỉ gần gũi về địa lý mà cả hai nước còn có nhiều điểm tương đồng như: từng là những nước chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp cũ sang cơ chế thị trường; cùng theo định hướng xã hội chủ nghĩa; có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, xã hội… Trong bối cảnh đó, Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành đối tác chiến lược lâu dài. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu chúng tôi ý thức được tính cần thiết của việc phát triển thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, đó là lý do mà chúng tôi lựa chọn đề tài : “Thúc đẩy tự do hóa thương mại Việt-Trung”.
Tự do hóa thương mại là gì? Tại sao phải thúc đẩy tự do hóa thương mại? Theo quan điểm thống nhất của các nhà kinh tế học hiện đại, thương mại tự do là một kiểu thì trường lý tưởng, thường được xem như là một mục tiêu chính trị mà sự trao đổi bằng hàng hóa và dịch vụ giữa các nước được thực hiện không có sự kiểm soát bằng những chính sách nhập khẩu. Tự do hóa thương mại là sự nới lỏng can thiệp của nhà nước hay chính phủ vào lĩnh vực 9 - Yesnews 06/2013
trao đổi, buôn bán quốc tế. Tự do hóa thương mại vừa là nhu cầu hai chiều của hầu hết các nền kinh tế thị trường, bao gồm: nhu cầu bán hàng hóa, đầu tư ra nước ngoài và nhu cầu mua hàng hóa, nhận vốn đầu tư của nước ngoài. Việc thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại căn cứ trên những lợi ích mà thương mại quốc tế đem lại như: sự đa dạng về các điều kiện sản xuất, chi phí sản xuất giảm và căn cứ vào thị hiếu khác nhau của mỗi quốc gia để phát huy tối đa lợi thế kinh tế của nước mình.
Các học thuyết nền tảng của thương mại tự do Trong phạm vi bài nghiên cứu của mình, chúng tôi dựa trên nền tảng một số học thuyết như: học thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith; học thuyết về lợi thế tương đối của David Ricardo; lý thuyết của Heckscher-Ohlin và nguồn lực sẵn có. Mỗi học thuyết đề cập đến một khía cạnh riêng của thương mại. Theo Adam Smith, mỗi quốc gia chỉ nên tập trung sản xuất hàng hóa mà mình có sở trường nhất sau đó đem trao đổi với nhau, theo cách này tổng sản phẩm sẽ tăng, phúc lợi xã hội cũng tăng. David Ricardo cho rằng mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp; ngược lại sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình phải sản xuất với chi phí tương đối cao. Lý thuyết của Heckscher-Ohlin giải thích hiện tượng thương mại quốc tế là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng tới chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất.
Thực trạng quá trình tự do hóa thương mại Việt Trung Về xuất nhập khẩu chính ngạch. *Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều: Từ năm 1999 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng lên nhanh chóng và tăng đều qua các năm. Năm 1999 tổng kim ngạch hai chiều đạt 37,7 triệu USD thì đến năm 2000 đạt 2.957,0 triệu USD, đặc biệt năm 2010 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đã đạt 3.654,275 triệu USD tăng 97 lần so với năm 1999. Năm 2010 Tổng kim ngạch hai nước đạt mức tăng trưởng cao và tăng hơn 1,2 lần so với năm 2009 đã vượt sớm hơn mục tiêu 3 tỷ USD mà hai nước đề ra. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1.495,485 triệu USD .Cần nói thêm rằng, thương mại Việt - Trung trong thống kê chính thức chưa phản ánh đầy đủ tình hình buôn bán sôi động giữa hai nước vì rất khó đưa vào thống kê hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại đã và đang xảy ra trên biên giới. Tình trạng nhập lậu hàng hoá qua biên giới và khai khống trị giá hàng xuất khẩu của một số doanh nghiệp xuất khẩu nhằm gian lận trong việc hưởng chế độ hoàn thuế VAT đang diễn ra với tính chất hết sức nghiêm trọng. Nếu tính đầy đủ các con số này thì tình hình buôn bán hai chiều sẽ tăng lên, đồng thời con số nhập siêu của Việt Nam vào các năm 2009, 2010 cũng lớn hơn so với số liệu thống kê . 10 - Yesnews 06/2013
**Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu:
Cơ cấu hàng xuất khẩu: Trong giai đoạn đầu sau khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là nông sản và một số loại khoáng sản có thế mạnh như quặng Crôm, dầu thô… Trước yêu cầu cần phải giảm xuất khẩu nguyên liệu thô và các sản phẩm chưa qua chế biến, trong những năm gần đây,Việt Nam đã và đang giảm tỷ lệ xuất khẩu nguyên liệu để tận dụng sức lao động sáng tạo trong nước sản xuất sản phẩm thành phẩm rồi mới xuất khẩu. Tuy nhiên, một số nhóm hàng như sản phẩm nhựa giầy dép, hàng dệt may, máy tính và linh kiện, dây cáp điện, cao su, đường tinh cùng một số mặt hàng thực phẩm khác mặc dù đã thâm nhập được vào thị trường Trung Quốc nhưng với số lượng còn rất khiêm tốn. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 2 năm 2009 và 2010 cho thấy, trị giá mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Trung Quốc là 34,8 triệu USD, chiếm 1,19% Tổng kim ngạch hàng xuất khẩu; mặt hàng giầy dép các loại là 12,39 triệu USD, chiếm 0,42% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Cơ cấu hàng nhập khẩu: Nhìn chung, hàng nhập khẩu từ Trung Quốc khá phong phú về chủng loại song chủ yếu là các mặt hàng đã qua chế biến và các sản phẩm công nghiệp. Tuỳ theo nhu cầu tiêu thụ của từng năm, từng giai đoạn mà số lượng các mặt hàng nhập khẩu đã tăng hoặc giảm. Theo con số thống kê của Tổng Cục Hải quan, trong giai đoạn 2005 - 2010, các mặt nhập khẩu có trị giá lớn là xi măng là 5,15 triệu USD năm 2005, đến năm 2009 là 29,98 triệu USD; kính xây dựnglà 2,392 triệu USD năm 2005 đến năm 2009 là 10,88 triệu USD; thép xây dựng năm 2005 là 8,774 Triệu USD đến năm 2009 là 10,928 triệu USD. Trong giai đoạn 2006 - 2009, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu có sự thay đổi do nhà nước ta chủ trương hạn chế nhập khẩu một số nhóm mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2005 như xi măng, kính xâydựng, thuốc bảo vệ thực vật để bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước. Nhà nước khuyến khích nhập một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất 11 - Yesnews 06/2013
công nông nghiệp, các mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong giai đoạn này là máy móc thiết bị, phụ tùng, xăng dầu, nguyên vật liệu dệt may, phân bón và linh kiện xe máy… Đối với nhóm hàng tiêu dùng nhập khẩu, các sản phẩm của Trung Quốc đang cạnh tranh rất mạnh với hàng sản xuất trong nước do hàng Trung Quốc có mẫu mã đẹp, đa dạng về chủng loại, tuy có chất lượng không cao, chủ yếu là hàng địa phương nhưng giá rẻ, khá phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường Việt Nam . Trước thực tế đó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm trong nước, hạ giá thành để tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại trên thị trường nội địa và khẳng định sản phẩm của mình trên thị trường khu vực cũng như Quốc tế. Quan hệ đầu tư Việt nam-Trung quốc: *Hạng mục và cơ cấu đầu tư: Quan hệ đầu tư Việt-Trung tập trung chủ yếu vào các ngành dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng và sản phẩm nông nghiệp, cơ sở hạ tầng. Việt Nam đầu tư tập trung 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. *Những đặc điểm trong quan hệ đầu tư Việt – Trung: chủ yếu một chiều Trung - Việt; đầu tư Trung Quốc cò chiếm tỷ trọng nhỏ; quy mô đầu tư thấp và chủ yếu nhằm tiêu thụ sản phẩm. *Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam: tốc độ đầu tư chậm, tổng vốn chưa nhiều, quy mô dự án nhỏ bé, trung bình trên dưới 1 triệu USD.
Những lợi ích từ quan hệ thương mại Việt Trung đối với Việt Nam Thương mại tạo ra của cải vật chất: Việc tăng cường quan hệ thương mại với Trung Quốc giúp Việt Nam có thể chuyên tâm sản xuất những lĩnh vực mà mình có thế mạnh hơn, sản xuất có hiệu quả, cho phép mỗi cá nhân được tiếp cận thị trường rộng lớn của hai nước với đầy đủ các loại mặt hàng, từ thực phẩm, quần áo, các mặt hàng chế tạo khác cho tới những dịch vụ tạo thành cơ sở hạ tầng của một nền kinh tế hiện đại, từ tài chính tới viễn thông, giao thông và giáo dục… đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh tạo động lực đổi mới doanh nghiệp. Tự do hóa thương mại và phát triển: Về nông nghiệp, đó là lợi thế tự nhiên của Việt nam. Nước ta xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc với số lượng rất lớn nên việc tự do hóa thương mại dẫn đến việc dỡ bỏ hoặc là giảm mạnh thuế quan xuất nhập khẩu mang lại lợi ích rất lớn đối với nước ta. Về hàng hóa: giao thương giữa hai nước tạo động lực cạnh tranh làm chất lượng tăng, giá thành giảm.Về dịch vụ: tốc độ phát triển cao. Thương mại và môi trường:
12 - Yesnews 06/2013
Quan hệ thương mại Việt Trung thúc đẩy quá trình phát triển bền vững, thân thiện môi trường. Nhìn chung, Trung Quốc có xu hướng dành nhiều nguồn lực xã hội cho công tác bảo tồn môi trường trong nước hơn nước ta.Thương mại hai nước tạo điều kiện cho nước ta tiếp cận quy trình xử lí ô nhiễm hiện đại. Chúng ta có thể học tập và mua từ Trung Quốc các công nghệ xử lý nước và khí thải với giá rẻ hơn góp phần thúc đẩy việc bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp ở nước ta.
Những khó khăn trong quan hệ thương mại Việt - Trung Từ thực tiễn quan hệ kinh tế song phương Việt Trung, chúng tôi nhận thấy còn tồn tại không ít những khó khăn, trở ngại trong quan hệ tự do hóa thương mại hai nước mang tính bất lợi với nền kinh tế Việt Nam: 1. Mạng lưới giao thông chưa phát triển kể cả đường bộ lẫn đường sắt. 2. Tình hình chính trị giữa hai nước đang dần trở nên căng thẳng, đặc biệt là vấn đề biển Đông. 3. Công tác quản lý còn yếu kém, tình trạng buôn lậu, buôn bán hàng giả hàng nhái hàng kém chất lượng vẫn còn diễn ra thường xuyên. 4. Hàng giả hàng nhái hàng kém chất lượng từ Trung Quốc đưa sang Việt Nam với số lượng lớn và không kiểm soát được. Với các lương thực thực phẩm thì nồng độ chất bảo quản rất cao, ngoài ra còn rất nhiều chất độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng; còn với sản phẩm điện tử,may mặc,… thì có thời gian sử dụng ngắn, vật liệu chất lượng thấp gây hại cho người dùng. Điều trên một phần là do công tác quản lý, kiểm dịch kiểm tra chất lượng của chính quyền còn thiếu chặt chẽ, một phần cũng là do ý thức, thói quen tiêu dùng của người dân. 5. Nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam không theo kịp sự thay đổi trong thủ tục giấy tờ bên Trung Quốc nên thường bị động trong hoạt động kinh doanh. 6. Hàng xuất khẩu của Việt Nam chưa đa dạng, thiếu tính cạnh tranh và những mặt hàng trước đây xuất khẩu mạnh thì giờ đang trên đà giảm sút. 7. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ dễ bị mất quyền sở hữu trí tuệ. Trung Quốc từ lâu được thế giới coi là cái nôi của hàng giả cho nên nếu không cẩn thận, doanh nghiệp Việt Nam sẽ dễ bị mất quyền sở hữu trí tuệ. Một vài thương hiệu bịđánh cắp như cà phê Buôn Ma Thuộtđã bị Cty Guangzhou Buon Ma Thuot Coffee Co.,Ltd có văn phòng đặt tại Quảng Châu (Quảng Đông, Trung Quốc), đăng ký độc quyền nhãn hiệu thời hạn 10 năm, bắt đầu từ 2010 và 2011. 8. Quy mô đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam chưa lớn. 9. Đầu tư của Trung Quốc ở ViệtNam đang chuyển hướng sang một số nước khác trong khu vực. 13 - Yesnews 06/2013
Theo các nhà đầu tư Trung Quốc, khó khăn lớn nhất chính là tuy hai nước gần gũi nhưng các doanh nghiệp Trung Quốc chưa hiểu biết đầy đủ về môi trường đầu tư Việt Nam, thiếu khảo sát về thị trường. Trong khi đó, hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, hệ thống pháp luật nói chung còn nhiều lỗ hỗng và hay thay đổi. Thứ hai, doanh nghiệp Trung Quốc khó khăn trong tạo niềm tin với chính quyền và doanh nghiệp địa phương, khả năng hợp tác của các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư ở Việt Nam kém. Thứ ba, một số doanh nghiệp Trung Quốc không giữ chữ tín, ý thức thương hiệu, dịch vụ hậu mãi kém nên đã ảnh hưởng đến hình ảnh của nhà đầu tư Trung Quốc ở Việt Nam. Thứ tư, cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu kém. Theo viện nghiên cứu Trung Quốc, hiện nay môi trường đầu tư của Campuchia tốt hơn của Việt Nam, rất nhiều doanh nghiệp đều lựa chọn Campuchia để xây dựng nhà máy, họ đi khảo sát Việt Nam nhưng sau đó lại xây nhà máy ở Campuchia.
Một số giải pháp Trong phạm vi bài nghiên cứu của mình, chúng tôi xin kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy hơn nữa tự do hóa thương mại Việt Trung. Một là, tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý. Hai là, tranh thủ vị thế thuận lợi có được sau khi gia nhập WTO và bối cảnh hội nhập khu vực để thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ba là, chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu để tận dụng lợi thế cạnh tranh trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. Bốn là, mở rộng các hình thức hợp tác thúc đẩy phát triển thương mại với Trung Quốc. Năm là, đổi mới phương thức hoạt động thương mại, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và đầu tư, phát triển các dịch vụ hỗ trợ phát triển thương mại. Sáu là, trong chiến lược Vịnh Bắc Bộ mở rộng đẩy nhanh việc tổ chức, thực hiện nhiệm vụ xúc tiến triển khai xây dựng Hai hành lang một vành đai. Bảy là, phát triển, mở rộng hợp tác với các quốc gia và vùng lãnh thổ, củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả 3 phạm vi: quốc gia – doanh nghiệp – sản phẩm. Tóm lại, với ý chí kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà cả Việt Nam, Trung Quốc đều chọn, từ những thành tựu kinh tế mà cả hai nước đã đạt được trong thời gian qua, chúng ta có quyền tin tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản hai nước, mối quan hệ ngoại giao nói chung và ngoại giao kinh tế Việt Trung nói riêng nhất định sẽ phát triển lên một tầm cao mới. Ban nghiên cứu, CLB sinh viên nghiên cứu khoa học, Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Hà; Lê Đình Giáp; Phan Thị Thu Hoài. 14 - Yesnews 06/2013
Nghiệp chủ – những người khởi tạo và điều hành doanh nghiệp – là một trong những nhân tố đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, những lý thuyết kinh tế vi mô, vĩ mô hiện nay chúng ta đang học trên ghế nhà trường chưa thực sự coi trọng vị trí và vai trò của đội ngũ đông đảo này. Nghiệp chủ (entrepreneur) hay còn gọi là chủ doanh nghiệp là người gánh chịu những rủi ro, bắt trắc trình kinh doanh, đồng thời vừa là người phối hợp các nguồn lực và các yêu tố sản xuất vào trong quá trình sản xuất, và cũng chính là người sáng tạo ra cái mới. Nói cách khác, các yếu tố đầu vào không tự nhiên mà có thể tìm được các doanh nghiệp và cũng không tự nhiên mà doanh nghiệp có thể sản xuất ra được hàng hóa cung cấp cho thị trường. Đây là điều mà nhiều lý thuyết kinh tế đã bỏ qua. Người gánh chịu rủi ro Mọi người không thích rủi ro, họ chấp nhận hi sinh một phần thu nhập để tránh rủi ro. Đây là một điểm khác biệt cơ bản so với nghiệp chủ, họ là những người sẵn sàng gánh chịu rủi ro. Nói cách khác họ chấp nhận mạo hiểm để đạt được mức thu nhập cao hơn, những cũng tiềm ẩn nguy cơ mất trắng cao hơn. Vậy tại sao họ lại sẵn sàng chấp nhận sự mạo hiểm đó? Theo nghiên cứu của đại học Oxford, có hai nguyên nhân cơ bản là chấp nhận thách thức ( 30%) và khẳng định sự tự chủ của mình ( 39%) còn nguyên nhân kinh doanh vì tiền chỉ chiếm 19%. Qua đó có thể thấy tham gia kinh doanh là sự theo đuổi nhu cầu, sở thích chứ không còn đơn thuần chỉ vì mục tiêu lợi nhuận.
15 - Yesnews 06/2013
Một giả định cơ bản khi nghiên cứu kinh tế là doanh nghiệp có mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, tuy nhiên một doanh nghiệp có nhiều mục tiêu hơn thế. Điển hình là các doanh nghiệp xã hội – những doanh nghiệp không đặt mục tiêu lợi nhuận làm ưu tiên hàng đầu. Từ đây có thể thấy những thiếu sót trong những giả định của các lý thuyết kinh tế. Sáng tạo cái mới Nói đến nghiệp chủ là nói đến sự sáng tạo cái mới và đồng thời là tác nhân gây ra sự phá hủy sáng tạo. Theo nghĩa tích cực, tinh thần nghiệp chủ tạo ra sự thịnh vượng và giá trị gia tăng, vì vậy sự phá hủy những phát minh sáng chế lỗi thời và thay bằng những sáng tạo hiệu quả hơn là hoàn toàn cần thiết. Sự phá hủy sáng tạo đồng nghĩa với duy trì sự tăng trưởng. Điều này đã được hàm ý trong nhiều mô hình kinh tế khi tính đến yếu tố công nghệ là một biến của hàm tăng trưởng. Quá trình sáng tạo và đổi mới không chỉ đơn thuần gói gọn trong mục tiêu lợi nhuận. Quá trình này còn tạo ra những giá trị ngoại sinh. Ví dụ khi một doanh nghiệp cải thiện hệ thống máy móc sẽ làm giảm thiểu ô nhiễm thải ra môi trường, tạo hiệu ứng tích cực cho khu vực dân cư xung quanh. Ngoài ra sự đổi mới mang lại sự tăng trưởng bền vững, qua đó ổn định an sinh xã hội. Nghiệp chủ cần gì? Điều cần thiết đó là việc tạo ra một “hạ tầng nghiệp chủ”, bao gồm những cơ sở hạ tầng đầy đủ, hệ thống pháp lý hoàn thiện. Đi cùng với đó là một mạng lưới doanh nghiệp đủ lớn để có thể hỗ trợ nhau một cách hiệu quả nhất. Đây là những yếu tố hạ tầng cơ bản nhất cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát triển tốt. Tín dụng cũng là một vấn đề đáng chú ý. Nguồn tín dụng ưu đãi là một động lực lớn để doanh nghiệp tiếp tục mở rộng sản xuất. Mặc dù trong thời gian vừa qua chúng ta thắt chặt tín dụng do ảnh hưởng 16 - Yesnews 06/2013
của khủng hoảng kinh tế nhưng đó chỉ là giải pháp tình thế. Yếu tố thông tin cũng có sự quan trọng nhất định trong việc định hướng cho nghiệp chủ. Có đầy đủ thông tin sẽ tăng tính hiệu quả cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Vậy nên nhiệm vụ của Nhà nước là tạo sự minh bạch thông tin, tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Bản thân khái niệm nghiệp chủ đã bao hàm trong nó sự độc lập và sẵn sàng tiếp nhận thử thách của thương trường. Chính vì vậy những gì chính phủ cần làm chỉ đơn thuần là hỗ trợ về mặt hạ tầng chứ không nhất thiết phải nhúng tay vào thị trường, nơi mà các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
Thay lời kết Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về nghiệp chủ của Mill, Say, Schumpeter….. , trong đó nghiên cứu cả mặt tích cực và tiêu cực của nghiệp chủ tới sự tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu về nghiệp chủ còn khá mới mẻ ở Việt Nam, cả nghiên cứu lý thuyết lẫn thực nghiệm. Đặc biệt việc xác định biến đặc trưng của nghiệp chủ rất khó do những yếu tố tâm lý xã hội nói chung. Đây sẽ là một mảng nghiên cứu mới hứa hẹn mang lại những công trình nghiên cứu có ích cho quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội của nước ta. Trịnh Duy Hoàng
17 - Yesnews 06/2013
Basel II: - Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro. Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình. - Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”: (1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So vớiBasel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng. (2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk). Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược 18 - Yesnews 06/2013
của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu. (3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này. Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. Basel III -
Mục tiêu của Basel III: Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%. Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%. Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2,5%.
Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông (common equity). Phần vốn dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ thống. Ngoài ra, Basel III còn đưa ra các biện pháp giám sát chặt chẽ các ngân hàng và nhằm ngăn chặn việc lạm dụng chia thưởng, hoặc chia cổ tức cao trong bối cảnh tình 19 - Yesnews 06/2013
trạng tài chính và tỷ lệ an toàn vốn không đảm bảo. Basel 3 cũng đồng thời rà soát lại các tiêu chuẩn (định nghĩa) vốn cấp 1, vốn cấp 2 và sẽ loại bỏ các khoản vốn không đủ tiêu chuẩn khi giám sát chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu.
-
Basel III củng cố thêm bức tường thành an ninh tài chính - ngân hàng
Như vậy, có thể thấy rằng, loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài chính 2,5%, tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy nhiên, kết cấu của các loại vốn đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1, đồng thời tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ cả 2 khoản vốn đệm dự phòng suy giảm tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu được điều chỉnh tăng từ 2% (Basel II) tăng lên thành 9,5% (4,5% + 2,5% + 2,5%) ở Basel III. Nếu loại trừ phần vốn đệm chống chu kỳ kinh tế 2,5% (không bắt buộc trong điều kiện bình thường) thì mức tối thiểu vốn chủ cũng phải đạt mức 7%. Bên cạnh đó, có thể một số khoản trước đây được tính vào vốn chủ sở hữu nay phải bóc tách ra vì không đủ điều kiện coi là vốn chủ sở hữu. Chẳng hạn, khoản vốn vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ chức tài chính khác, khoản vốn có nguồn gốc từ số thuế thu nhập lưu kỳ (hoãn lại)... Vì thế, yêu cầu nâng cao tỷ lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều ngân hàng xét trong bối cảnh kinh tế xã hội đang có nhiều biến động. Các tiêu chuẩn của Basel III không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu có hiệu lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực hiện đầy đủ vào ngày 1/1/2019. Bảng sau sẽ cho thấy lộ trình cụ thể của việc thực thi hiệp ước Basel 3: (xem bảng).
Chỉ tiêu
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu
3,5%
4.0%
4,5%
4,5%
4,5%
4,5%
4,5%
20 - Yesnews 06/2013
Vốn đệm dự phòng
0,625%
1.25%
1,875
2,5%
% Vốn chủ sở hữu tối thiểu cộng vốn đệm dự
3,5%
4%
4,5%
5,125%
5,76%
phòng
6,375
7%
%
Loại trừ khỏi vốn chủ sở hữu các khoản
20%
40%
60%
80%
vốn không đủ tiêu chuẩn
100
100%
%
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu
4,5%
5,5%
6,0%
6,0%
6,0%
6,0%
6,0%
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu
8%
8%
8%
8%
8%
8%
8%
Tổng vốn tối thiểu cộng vốn đệm dự phòng
8%
8%
8%
8,625
9,125
9,875
10,5
bắt buộc Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và cấp 2 các khoản
Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ năm 2013
không đủ tiêu chuẩn Vốn dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ
Tuỳ theo điều kiện của quốc gia: mức từ 0% - 2,5% (Nguồn: http://www.basel-iii-accord.com/)
Thời gian đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel III còn khá dài nhưng không vì thế mà không có những nỗi lo. Xong trước mắt việc đáp ứng nhu cầu đầy đủ của Basel II là vô cùng cần thiếp trong thời buổi suy thoái nợ xấu tăng các ngân hàng phải đẩy cao tính thanh khoản của mình và minh bạch trong tài chính. Bài mong rằng qua bài viết tổng quan về hiệp ước Basel đã phần nào cung cấp cho độc giả kiến thức tổng quát nhất về hiệp ước vốn này đồng thời trả lời được các câu hỏi đặt ra ở trên. Lê Tuấn Dũng
21 - Yesnews 06/2013
HÀNH TRANG NGOẠI NGỮ VÀO THƯƠNG TRƯỜNG Việc trau dồi ngoại ngữ của sinh viên kinh tế nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trở nên không quá xa lạ. Vậy ngoại ngữ hay cụ thể là “tiếng Anh”-ngôn ngữ hàng đầu thế giới đang được khai thác sử dụng trong hội nhập kinh tế Việt Nam như thế nào? Tái mù chữ ở thanh niên Việt Nam. Ai cũng biết đến “mù chữ” là một thuật ngữ chỉ người không có khả năng viết, đọc ngôn ngữ mà mình sử dụng hàng ngày theo từ điển tiếng Việt và trong đó “Bình dân học vụ” là một trong những phong trào mà chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã áp dụng để xóa nạn mù chữ. Tuy nhiên tái mù chữ ở Việt Nam được viện ngôn ngữ học được định nghĩa là việc người dân Việt Nam không có khả năng sử dụng những kĩ năng hội nhập đơn giản mà tiêu biểu hơn cả là kĩ năng ngoại ngữ và tin học. Thật vậy! đối với người dân Việt Nam nói chung và sinh viên kinh tế, doanh nghiệp hiện nay, vấn đề không sử dụng thành thạo Tiếng Anh là vô cùng phổ biến.
những thông tin đơn giản trong những bối cảnh quen thuộc. Với hướng đi này, dự kiến khi ra trường, các sinh viên cũng chỉ đạt trình độ khoảng 400 điểm TOEFL hoặc 4.0 điểm IELTS.Ở mức này, sinh viên tốt nghiệp đại học vẫn chưa đủ trình độ giao tiếp cơ bản hay làm việc trong môi trường thường xuyên sử dụng tiếng Anh.Theo thông tin từ hội nghị toàn quốc đào tạo tiếng Anh, học sinh Việt Nam đứng thứ 8 về khả năng viết và đọc, nhưng xếp thứ 18 về khả năng nghe nói, theo tiêu chuẩn quốc tế của 20 nước được khảo sát. Theo bảng xếp hạng trình độ sử dụng thành thạo các kĩ năng tiếng Anh năm 2010 của sinh viên kinh tế, Việt Nam đứng thứ 9/11 trong khu vực Đông Nam Á (trước Lào và Campuchia). Phần lớn sinh viên đại học ngộ nhận về Tiếng Anh ở mức độ đại học và trung
Theo Hiệp hội Các nhà trắc nghiệm ngôn
học phổ thông.Trong khi bậc đại học, sinh
ngữ châu Âu, ở trình độ này, sinh viên chưa
viên phải học cách sử dụng tiếng Anh (qua
thể tham gia vào các cuộc trao đổi ý kiến dù
4 kĩ năng nghe, nói, viết) thì họ lại chú
ở mức thấp nhất mà chỉ mới tiếp nhận
trọng đến học tiếng Anh (qua cách sử dụng
22 - Yesnews 06/2013
từ, câu, mệnh đề…)-cái mà đáng lẽ chúng
tiếng Anh đòi hỏi phải có sự năng động,
ta phải học từ bậc trung học phổ thông. Và
phải thường xuyên giao tiếp thì mới mong
hợp lí hơn cả, những kĩ năng trên phải được
vốn ngoại ngữ của mình khá lên được. Vì
học song song ngay từ những ngày đầu học
vậy những người sử dụng tiếng Anh lưu
ngữ pháp tiếng Anh. Việc đào tạo tiếng
loát hiển nhiên trở thành những người rất
Anh ở các trường không chuyên thường vội
tự tin và năng động, đây chính là một điểm
và chú trọng hơn vào tiếng Anh chuyên
cộng rất lớn mà nhà tuyển dụng dành cho
ngành trong khi những kiến thức cơ bản thì
bạn trong quá trình phỏng vấn và nghiệm
không nhiều sinh viên nắm vững hết được.
thu CV. Làm việc trong những công ty
Việc các sinh viên học ngoại ngữ nhưng
quốc tế là mơ ước của rất nhiều bạn trẻ,
không thể sử dụng được đang xảy ra phổ
vừa có mức lương hấp dẫn, lại vừa có tính
biến. Do đó dẫn đến tình hình chung là khả
chuyên nghiệp cao. Nhưng nếu bạn không
năng sử dụng tiếng Anh của sinh viên khi
biết sử dụng tiếng Anh mà người phỏng
ra trường sẽ rất hạn chế và trong môi
vấn bạn là một người nước ngoài thì sẽ rất
trường làm việc như hiện nay rất khó đáp
khó khăn. Khoa học cũng đã chứng minh,
ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng. Có
quá trình học Tiếng Anh và một số kĩ năng
lẽ đây cũng là sự khó khăn trong cải thiện,
liên quan giúp tăng khả năng liên kết của
nang cao trình độ của nhân viên các doanh
các nơron thần kinh và cũng là một trong
nghiệp bởi môi trường làm việc của họ sau
những phương pháp để nâng cao trí nhớ.
khi ra trường có thể nâng cao trình độ sử dụng tiếng Anh chỉ khi họ chủ động tích lũy.
Ngày nay với xu thế hội nhập, thì việc làm ăn buôn bán không chỉ gói gọn trong nước, mà còn có sự hợp tác với rất nhiều nước
Lợi thế của sinh viên với hành trang
khác nhau trên thế giới. Trong đó tiếng Anh
ngoại ngữ vào đời
dường như là ngôn ngữ trung gian phổ biến và được ưa chuộng nhất để các quốc gia
Đa phần những người có vốn tiếng Anh tốt
giao tiếp với nhau, vì vậy việc một doanh
họ rất tự tin trong công việc và cuộc
nghiệp đòi hỏi ứng viên có vốn tiếng Anh
sống.Để có kết quả tốt trong quá trình học
cũng là điều dễ hiểu. Đây chính là chìa
23 - Yesnews 06/2013
khóa quan trọng để giao tiếp với thế giới
Xét trên góc độ vĩ mô, đề án “Ngoại
bên ngoài, và nếu bạn có vốn tiếng Anh tốt
ngữ quốc gia” của Nhà nước đã bước sang
thì bạn sẽ là một trong những chiếc “chìa
giai đoạn 2 và đạt được những thành công
khóa” quan trọng ấy. Song song với các
ngoài mong đợi. Đề án được phê duyệt
doanh nghiệp trong nước, Việt Nam còn có
cuối năm 2008 nhưng vì lý do khách quan
sự hiện diện của các công ty quốc tế, kéo
nên thực tế cuối năm 2010, đề án mới khởi
theo đó là những nhà lãnh đạo, những nhân
động được. Mục đích của đề án nhằm nâng
viên trụ cột người nước ngoài. Vì vậy nếu
cao trình độ Ngoại ngữ cho bộ phận giảng
bạn không có vốn tiếng Anh thì khó lòng
viên, giáo viên, học viên ngoại ngữ hiện
mà làm việc được trong một môi trường
nay. Đề “trồng người” thành công, đất
mang tính chuyên nghiệp cao như vậy. Bất
nước cần có những nhà sư phạm giỏi.Từ
đồng ngôn ngữ chính là nguyên nhân khiến
năm 2011-2012, Hội đồng Anh đã hỗ trợ
bạn không thể tồn tại trong môi trường này.
tập huấn giáo viên cho đề án Ngoại ngữ
Tiếng Anh sẽ là cầu nối kinh nghiệm giữa
quốc gia. Trong đó, cấp tiểu học là 41
bạn và những đồng nghiệp ngoại quốc, là
giảng viên trình độ cao, 144 tập huấn viên,
cơ hội để bạn cho họ biết về con người Việt
3.140 giáo viên, 628.000 học sinh. Cấp
Nam và cũng là cơ hội học hỏi kinh nghiệm
trung học là 44 giảng viên trình độ cao,
làm việc từ đó nâng cao hiệu quả lao động.
730 giáo viên, 146.000 học sinh. Theo đề
Chính sách ngoại ngữ quốc gia
án, từ năm 2012-1013, hỗ trợ tập huấn cho giáo viên tiểu học là 80 tập huấn viên trình
“Chính sách” ngoại ngữ quốc gia triể khai
độ cao, 5.600 giáo viên, 1.120.000 học
trên cả hai phương diện: vĩ mô và vi mô.
sinh; trung học là 150 tập huấn viên trình
Trên phương diện vĩ mô, các đề án, chương
độ cao, 5.040 giáo viên, 1.008.000 học
trình hành động đã phát huy tác dụng rõ rệt
sinh. Từ năm 2012-2016, tiểu học với 320
trong công tác dạy và học ngoại ngữ. Với
tập huấn viên trình độ cáo, 22.400 giáo
góc độ vi mô, người học cần tự nhận thức
viên, 4.480.000 học sinh; trung học là 600
phương pháp học tập hợp lí để cản thiện
tập huấn viên trình độ cao, 20.160 giáo
trình độ ngoại ngữ bản thân.
viên. Trả lời phỏng vấn, thứ trưởng Bộ Giáo Dục-Đào Tạo Nguyễn Vinh Hiển
24 - Yesnews 06/2013
khẳng định sự khả quan của đề án. Đề án
tế với số tín chỉ cao. Tuy nhiên, việc khó
cũng đầu tư, biên soạn lại hệ thống sách
khăn mà các bạn sinh viên gặp phải là nền
giáo khoa Tiếng Anh các cấp. Về trước
tảng ngữ pháp, từ vựng còn yếu kém trong
mắt, chúng ta chưa thể thấy rõ hiệu quả
khi chương trình giáo dục trong trường tập
của đề án.Nhưng về lâu về dài, chất lượng
trung vào việc nâng cao kĩ năng sử dụng.
đầu ra Tiếng Anh của học sinh các cấp sẽ
Kiên trì và chăm chỉ là điều mà các bạn
được nâng cao từ đó cải thiện trình độ sử
phải chấp nhận nếu muốn nâng cao trình độ
dụng Tiếng Anh cho sinh viên khi mới vào
tiếng Anh để có được một tấm chứng chỉ
đại học. Vì sự nghiệp “trồng người” còn
đẹp trước khi đi xin việc hay những ấn
khá gian nan nên việc hoàn thiện đề án
tượng đầu tiên với nhà tuyển dụng nếu bị
không tránh khỏi những khó khăn nhất
phỏng vấn bằng tiếng Anh. Cũng vì những
định.
lí do trên, các trung tâm tiếng Anh ở Hà Nội mọc lên như nấm sau mưa, phục vụ
Xét về góc độ vi mô, người học cần có tinh thần tự giác học hỏi tiếng Anh ngay những lúc còn đầy đủ thời gian và điều kiện học tập. Hiện nay có nhiều bạn sinh viên có ý thức học tiếng Anh ngay từ những năm tháng trên giảng đường đại học. Đây cũng là một trong những môn học bắt buộc với các trường đại học trong khối ngành Kinh
cho mọi nhu cầu học tập ở mọi trình độ khác nhau của sinh viên. Bởi thế, vấn đề chất lượng học đôi khi không được đảm bảo. Tuy nhiên, điều kiện kiên quyết cho mỗi người học tiếng Anh không chỉ là tài liệu tốt, người dạy tốt mà hơn cả là sự kiên trì và tinh thần luyện tập, thực hành mọi lúc mọi nơi.
Tóm lại, tiếng Anh không chỉ là một môn học quan trọng đối với sinh viên mà còn là một mảng nghiệp vụ quan trọng trong công tác tuyển dụng. Vì vậy, chúng ta cần sớm trau dồi cho mình những kĩ năng sử dụng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công việc. Trần Như Trung
25 - Yesnews 06/2013
Rất nhiều người tin rằng tiền làm xoay chuyển thế giới. Nhiều người khác nghĩ tiền có thể mua được hạnh phúc. Tôi không đồng tình với suy nghĩ đó, nhưng tôi phải thừa nhận rằng tiền có thể khiến cho con người làm những việc kỳ lạ. Hãy để tôi kể cho bạn về một người tôi biết, anh ta chơi bài để kiếm tiền và cực kỳ thích những trò đỏ đen. Bạn của tôi, Bob, có một vấn đề, đó là anh ấy muốn chơi bài bằng mọi giá. Anh ta chơi bất cứ lúc nào, với bất cứ lượng tiền nào. Để tham gia vào một trò chơi bài như một “poker”, anh bạn tôi đã phải đánh cược, Bob phải trả một khoản tiền nhỏ để bắt đầu trò chơi. Bob luôn chơi với tiền mặt- những đồng xu và những tờ đô la. Thỉnh thoảng, anh ta lãi to, anh ta thắng rất nhiều tiền chỉ trong một ván. Bob đã nói với tôi một ngày hắn nhất định sẽ thắng lớn - đó là khi giành được tất cả tiền trong bàn cờ. Lần khác, anh bạn tôi chỉ đơn giản là hòa vốn, anh ấy không thắng, cũng ko mất tiền. Nhưng thỉnh thoảng, Bob mất sạch toàn bộ tiền, anh ấy phải chịu đòn ngay trên bàn cờ. Khi chuyện đó xảy ra, anh ấy mắc vào chuỗi ngày nợ nần, lẩn trốn mọi người để tránh gặp phiền phức.
26 - Yesnews 06/2013
Gần đây, Bob đã phạm tội sau khi mất hết số tiền của mình. Anh ấy là kế toán, người giữ sổ sách trong một doanh nghiệp nhỏ. Anh ta giám sát các hồ sơ chi tiêu tiền của công ty. Mặc dù bạn tôi luôn là một người trung thực, nhưng anh ấy đã quyết định làm sai lệch sổ sách. Bob thay đổi một cách bất hợp pháp các hồ sơ tài chính của công ty. Điều này đã giúp anh ấy kiếm tiền từ các khoản chênh lệch. Bob đã lấy được rất nhiều tiền một cách nhanh chóng, dễ dàng nhưng không trung thực. Tôi chưa từng nghĩ Bob có thể làm những việc như thế, anh ấy không giống như một tên trộm. Thế nhưng, vẫn có nhiều người sẵn sang làm bất cứ cái gì vì tình yêu đối với tiền bạc. Bob đã sử dụng tiền anh ấy trộm từ công ty để quay lại chơi cờ bạc. Lần này, anh ấy kiếm chác được, anh ta kiếm được rất nhiều tiền. một cách nhanh chóng, anh ấy lấy lại địa vị cho mình trong những casino. Bob đã có một nguồn tài chính tốt. Tuy nhiên, doanh nghiệp anh ấy lại gặp phải nguy cơ phá sản cao, các giấy tờ chỉ ra rằng công ty đã mất rất nhiều tiền hơn là những gì nó kiếm được. Công ty đó đã không còn lợi nhuận nữa. Không bao lâu sau thì sự gian dối của anh bạn tôi bị phát hiện. Công ty đã điều tra và buộc tội anh ấy ăn cắp. Bob đã cố gắng chuyển trách nhiệm, anh ấy cố đổ tội người khác cho số tiền thiếu hụt đó. Tuy nhiên, những lời nói dối của anh ta được phơi bày, anh ấy bị kết án tù giam. Tôi sẽ đánh cược đồng đô la cuối cùng của tôi rằng Bob sẽ không bao giờ dám chơi cờ bạc lần nữa, anh ấy đã học được bài học lớn, và cái giá của nó hẳn là quá đắt. Võ Thị Hoàng Hải (dịch)
27 - Yesnews 06/2013
28 - Yesnews 06/2013