Tài liệ u được cung cấ p tạ i Website : www.moitruong.co.nr ĐẶC ĐIỂM TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG NƯỚC LỤC ĐỊA CỦA VIỆT NAM Ngày nay, hầu như mọi người đều hiểu rằng nước là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên cơbản và quý giá nhất. Hàng loạt tài liệu khoa học công bốtrong nhiều thếkỷvừa qua trên thếgiới đã nói lên điều đó. Khoảng hơn hai trăm năm trước đây, trong sách “Vân Đài loại ngữ” , nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn đã viết: "Vạn vật không có nước không thểsống được, Mọi việc không có nước không thểthành được". Chủ tị ch Hồ Chí Minh đã có câu nói tuyệt vời trong huấn thịcủa Người tại Hội nghị Thủy lợi toàn miền Bắc họp tại Bắc Ninh, ngày 14-9-1959 nhưsau: "Việt Nam ta có hai tiếng Tổquốc, ta cũng gọi T ổquốc là đất nước; có đất và có nước, thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh... ... Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hoà với nhau đểnâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủnghĩ a xã hội"1. Một số người cho rằng, nước trong thế kỷ XXI sẽ quý như dầu mỏ trong thế kỷ XX. Nói nhưvậy không sai, nhưng chưa phải hoàn toàn đúng vì dầu mỏ tác động chủ yếu về năng lượng, còn nước thì tác động đến mọi mặt của cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Tài nguyên nước ngọt, ởViệt Nam tương đối phong phú, đa dạng, nhưng lại rất phức tạp về tính chất và đang có những diễn biến mà nếu không được quản lý tích cực và kị p thời sẽ đem lại những khó khăn to lớn cho cuộc sống của người dân và sựnghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thuận lợi cơbản: Tài nguyên nước tương đối phong phú Vềnước mặt, trung bình hàng năm lãnh thổViệt Nam nhận được 1.944mm nước mưa, trong đó bốc hơi trở lại không trung 1.000mm, còn lại 941mm hình thành một lượng 3 nước mặt khoảng 310 tỷ m . Tính bình quân, mỗi người dân Việt, có thể hứng được một lượng nước bằng 3.870 m 3 mỗi năm; hoặc 10,6 m3 tức 10.600 lít nước mỗi ngày. Trong lúc tại các nước công nghiệp phát triển nhất, tổng nhu cầu về nước trong một ngày bình quân theo đầu người, bao gồm cảnước sinh hoạt, nước cung cấp cho nông nghiệp và công nghiệp cũng chỉvào khoảng 7.400 lít/người.ngày; bao gồm 340 lít cho sinh hoạt, 2.540 lít cho nông nghiệp và 4.520 lít cho công nghiệp. Ở nước ta, tại các đô thịlớn, lượng nước sinh hoạt cấp cho mỗi người/ngày hiện nay chỉmới vào khoảng 100 - 150 lít. Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là cung cấp cho nhân dân nông thôn khoảng 70 lít/người.ngày vào năm 2010 và 140 lít/người.ngày vào năm 2020. Ở một số vùng đặc biệt khan hiếm nước vào mùa khô, như vùng Lục Khu thuộc tỉ nh Cao Bằng, mục tiêu phấn đấu hiện nay là cung cấp cho mỗi người, mỗi ngày 15 lít nước. Chỉriêng nguồn nước ngọt từmưa tiềm năng đã v ượt khá xa yêu cầu vềcấp nước. Ngoài nguồn nước mặt từ mưa, Việt Nam hiện còn có nguồn nước rất lớn do các con sông xuyên biên giới đem từ lãnh thổ các nước ngoài vào nhưsông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Mê Công. Lượng nước này ước tính bằng 520 tỷ m3 , gấp 1,7 lần lượng nước ngọt hình thành trong nước. Một số sông xuyên biên giới như sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn, Bằng Giang ở Cao Bằng, chuyển một lượng nước từ Việt Nam qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên lượng này không đáng kể so với tổng lượng
Bản quyề n thuộc vềHộiThiên Nhiên và Bảo vệMôi trường Việ t Nam