8 / 2019
1
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
2
8 / 2019
3
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
4
8 / 2019
MỞ ĐẦU
Xin được thưa trước rằng: nội dung tập sách này không phải là tuyển tập trò chơi
dân gian Việt Nam. Cũng chưa phải là trò chơi chọn lọc! Chúng tôi chỉ đi sâu giới thiệu một trăm mười chín trò chơi dân gian, đồng dao gần gũi với trẻ em Việt Nam.
Tự thổ lộ một chút về bản thân! Sinh ra ở nông thôn, nơi đồng chiêm trũng, châu
thổ sông Hồng, lớn lên độ tuổi mục đồng, nhiều trò chơi dân gian, đồng dao đã gắn liền với bản thân. Khi sang tuổi người lớn, may mắn được gần gũi, “tháp tùng” một số vị “cao niên” xâm nhập thực tế vào lĩnh vực Văn nghệ Dân gian, một chuyên ngành tôi rất thích. Và thế là tám năm liền giảng dậy, truyền bá đồng dao, dân ca Việt Nam cho trẻ em trên sóng Truyền hình Việt Nam. Hơn mười lăm năm cùng GS - TS Khoa học Tô Ngọc Thanh, cố NSND, biên đạo múa Ybrom… chủ trì các cuộc liên hoan Dân ca - Dân vũ, (dành riêng cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây nguyên. “Lăn lộn” cùng nhạc sĩ Trần Hồng (Giải thưởng Nhà nước lĩnh vực VNDG), NSUT Thiện Tâm… dàn dựng gần một trăm chương trình Giai điệu miền Trung (dân ca Nam Trung bộ) biểu diễn phục vụ khán giả các địa phương và phát sóng quảng bá trên Truyền hình VN… Nhiều năm trăn trở cùng “Từ điển sống”1 nhạc sĩ lão thành Trương Đình Quang (Giải thưởng Nhà nước lĩnh vực VNDG) giới thiệu chân dung các nghệ sĩ Dân gian, các trò đồng dao vùng Nam Trung bộ trên các phương tiện thông tin đại chúng… Văn nghệ Dân gian nói chung, trò chơi cho trẻ em nói riêng cứ thấm dần, thấm dần trong tôi. Nguyện vọng tiếp là ghi chép, sưu tầm, hướng dẫn, quảng bá các trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em Việt Nam, thưa quí bạn đọc! một trăm mười chín trò chơi trong tập sách này mới chỉ là khởi đầu nan!
Chúng ta đã biết, đồng dao là một phần của âm nhạc dân gian, một phần của
trò chơi dân gian. Nói cách khác, đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng của trẻ em Việt Nam được thể hiện qua các bài hát, các trò chơi, lời hát ru... Nhà nghiên cứu Văn nghệ Dân gian (VNDG) nhạc sĩ Trần Hồng, có ý kiến rất cụ thể về đồng dao gắn với trò chơi: “Đồng dao là bài văn vần, ngắn, truyền miệng của trẻ em luôn kèm theo trò chơi. Các em vui chơi nơi ruộng đồng, đồi núi, sân vườn, các em bày ra các trò chơi, qua các bài dân ca, vừa hát vừa chơi khi bỏ trâu vào rừng, vào núi… Bài hát đồng dao thường là một bài vè 3 chữ, 4 chữ có vần, có nội dung rõ ràng, dễ hiểu, dễ thuộc do các em sáng tạo ra phù hợp với các trò chơi. Về giai điệu, cấu trúc theo thang âm ngũ cung, hát như
1
Công chúng thường gọi Nhạc sĩ, Nhà nghiên cứu VNDG, Nghiên cứu Lý luận âm nhạc - Sân khấu Trương Đình Quang là: Từ điển sống
5
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
nói theo vần thanh âm rất đơn giản. Tiết tấu đều đặn, vui, khỏe, nhí nhảnh hợp với lứa tuổi của các em. Có những trò chơi dành riêng cho con trai hoặc con gái, nhưng thường là những trò chơi chung cho cả trai và gái rất vui vẻ”. Nhà nghiên cứu (VNDG), nhạc sĩ Trương Đình Quang đề cao tâm hồn của các em khi chơi các trò: “Đồng dao là thể loại ca hát bình dị, mà em bé nào cũng biết và yêu thích. Đồng dao với những trò chơi ngộ nghĩnh, những cảm xúc non tơ làm cho tâm hồn các em thêm tươi, thêm đẹp. Trò chơi trẻ em là những trò vui có lời (bài hát) hoặc không có lời. Những trò này đều mang những tính chất của sáng tác dân gian”.
Xin được nhắc lại: Đồng dao là một phần của âm nhạc dân gian, một phần của
trò chơi dân gian “Bất kỳ dân tộc nào cũng có thú chơi dân gian. Người lớn có thú vui của người lớn, trẻ con có thú vui chơi riêng của thế giới tuổi thơ. Trò chơi là hình thái sinh hoạt ban đầu của trẻ. Khởi đầu của trò chơi là trò, tức là các hoạt động cá nhân đều diễn ra có ý thức, trước mắt người khác hay chỉ một mình. Sau đó trò được kết nối với chơi thành trò chơi mà theo định nghĩa trong từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1988 thì: Trò chơi là những hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí. Như vậy trò chơi là hoạt động có sự tham gia của nhiều người. Không có trò chơi nào diễn ra duy nhất chỉ có một người chơi, mà tối thiểu phải có từ hai trở lên. Người tham gia càng đông, tính hấp dẫn của trò chơi càng tăng cao thêm” . Trò chơi, trò diễn dân gian là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong lễ hội truyền thống của người Việt Nam, một mảng của kho tàng văn hóa dân tộc cần được bảo tồn. Cái làm nổi đình đám của Hội làng chính là các trò chơi, trò diễn, vui chơi, múa hát, thi tài là những sinh hoạt văn hóa đại chúng có sức hút mạnh mẽ, đông đảo mọi người cả hai phía: tham gia và tham dự, nhập cuộc và hưởng thụ, bởi nội dung và hình thức phong phú của các trò chơi, trò diễn dân gian đã khêu gợi hứng thú không chỉ giải trí, mà còn đáp ứng nhu cầu về rèn luyện tinh thần và thể lực của con người. Chỉ tiếc là ngày nay, các trò chơi dân gian, đồng dao không còn phổ biến như xưa. Trò chơi dân gian từng là một phần ký ức không thể phai mờ đối với thiếu nhi trong hành trang khôn lớn, thì giờ đây đang ngày một xa dần và có nguy cơ mất đi trong sự hờ hững của chính các em. Thực tế xã hội đã phần nào phản ánh được xu thế vui chơi của trẻ hiện nay, khi mà những đồ chơi hiện đại đang thắng thế và làm cho trò chơi dân gian xưa bị lãng quên dần. Thật đáng lo ngại khi cả một thế hệ tương lai của quốc gia đang quên đi bản sắc văn hóa dân tộc, quên đi những tinh hoa mà tổ tiên ta đã vun đắp, xây dựng từ hàng ngàn năm.
Lĩnh vực nghiên cứu về trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em Việt Nam đã có
nhiều công trình, nhiều cuốn sách được xuất bản với hàng loạt tác giả có tên tuổi dành phần lớn thời gian của cuộc đời mình cho Văn nghệ Dân gian. GS TS Khoa học Tô Ngọc
6
8 / 2019
Thanh với tuyển tập: Ghi chép về Âm nhạc và Văn hóa, Võ Văn Trực… với Gọi nghé Nhà xb Kim Đồng 1967. Tập Nhi đồng lạc viên của Nguyễn Văn Ngọc, in lần thứ hai, Hà Nội, Vĩnh Hưng Long thư quán xuất bản 1936, tập Chuyền thẻ của Trần Gia Linh Nhà xb Kim Đồng 1973. Tập Rồng rắn đi đâu của Trần Hoàng - Nhà xb Thuận Hóa Huế 1987, tập Dung dăng dung dẻ của Trần Gia Linh, Nguyễn Thu Thủy, Hà Nội - Nhà xb Giáo dục 1989. Tập trò chơi dân gian của Trương Kim Hùng, Phan Quỳnh Hoa, Hà Nội - Nhà xb Giáo dục 1993. Tập Đồng dao và trò chơi của các tác giả: Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng - Nhà xb Văn hóa - Thông tin 1997. Các tác giả sưu tầm biên soạn xoay quanh việc gìn giữ, giới thiệu các trò chơi dân gian còn rất nhiều như: Phan Đăng Nhật, Nguyễn Văn Bổn, Nguyễn Tử Yến, Lê Giang, Lê Anh Trung, Nguyễn Hữu Thu, Ngô Đình Chương, Nguyễn Anh Sơn, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Nguyên Cát, Lê Đình Khẩn, Trương Kim Oanh, Phan Quỳnh Hoa, Huy Hà, Phan Thanh Hiền, Trần Mạnh Tiến, Nguyễn Thị Ngọc Trúc, Chu Quang Trứ, Đào Cảng, Nghiêm Đa Văn, Nguyễn Văn Mại, Trần Hòa Bình, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Văn Sơn, Đoàn Việt Hùng… do điều kiện thời lượng chúng tôi không thể liệt kê hết các tập sách, các tác giả, các vị cao niên từ xưa tới nay đã hết lòng cho việc sưu tầm, quảng bá Văn nghệ Dân gian Việt Nam nói chung và các trò chơi cho trẻ em Việt Nam nói riêng. Kính mong các vị thứ lỗi.
Cả một kho tàng đồ sộ các công trình - các tập sách, nghiên cứu, sưu tầm, lưu
giữ, quảng bá, truyền dậy các trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em người Việt từ xưa tới nay là rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, xin mạn phép suy nghĩ về tổng thể, “kho tàng đồ sộ ấy”: Rất hiếm thấy trong các nhà sách hiện nay, lại càng hiếm hơn khi thấy nó được nằm trong các kệ sách của gia đình. Bởi một lẽ, sách về đề tài này rất ít khi được tái bản. Phải chăng là ít người mua! trong khi đó, nhu cầu được vui chơi thông qua các trò dân gian, đồng dao của các em ngày càng có tín hiệu tích cực. Trong các trường học, trên các con phố đi bộ, đặc biệt trong các lễ hội, các trò chơi làm “nổi đình đám” trong phần HỘI, góp phần không nhỏ với việc lôi kéo khách dự và khách cùng chơi các trò. Chính vì vậy việc sưu tầm, gìn giữ, quảng bá, truyền dậy các trò chơi dân gian, đồng dao Việt Nam cho các thế hệ sau là rất cần thiết, góp phần gìn giữ vốn quí, những tinh hoa của cha ông để lại…
7
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Trong tập sách này ngoài phần giới thiệu của nhà nghiên cứu lịch sử, Văn nghệ
Dân gian Bùi Văn Tiếng (Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật thành phố Đà Nẵng), lời mở đầu của tác giả, tiếp theo là ba chương chính của tập sách.
Chương I: Ba mươi sáu trò chơi thiên về Vân động
(có 19 bản nhạc kèm theo do tác giả tập sách này phổ lời đồng dao)
Chương II: Hai mươi tám trò chơi thiên về Trí tuệ
(có 19 bản nhạc kèm theo do tác giả tập sách này phổ lời đồng dao).
Chương III: Năm mươi lăm trò chơi thiên về Khéo léo
(có 22 bản nhạc kèm theo do tác giả tập sách này phổ lời đồng dao).
Theo các nhà nghiên cứu VNDGVN: “Nguyễn Huy Hồng - Nguyễn Thúy Loan - Đặng Diệu Trang - Trần Hoàng các trò chơi được xếp theo ba nhóm:
* Trò chơi vận động
* Trò chơi trí tuệ
* Trò chơi khéo léo.
Cách phân chia này thực ra cũng chỉ là tương đối. Ở đây gồm có cả trò chơi có
kèm lời bài hát và trò chơi không có lời bài hát” . Khi phân nhóm chúng tôi dùng từ “thiên vê” bởi trong vận động có thể lực, nhanh nhẹn. Trong trí tuệ có thông minh. Trong khéo léo có mềm dẻo, trong sáng... Có khi trong một trò chơi cũng phản ánh đầy đủ các tính chất của ba nhóm. Một trăm mười chin trò chơi trong tập sách này đã có từ rất lâu, nhiều trò được trẻ em chơi từ trước cách mạng 8/45. Trong quá trình chọn lọc sưu tầm để gìn giữ, phổ biến, chúng tôi cố gắng tuyển chọn những trò gần gũi hơn với trẻ em. Dù có xa xưa nhưng không cổ lỗ, vẫn đồng hành được với đời sống đương đại mà trẻ em đang chơi các trò hiện nay. Do vậy trong quá trình thể hiện chúng tôi có ý chăm chút tỷ mỉ từng trò chơi, địa điểm điễn xướng, phục trang, dụng cụ cho trò chơi, đối tượng, độ tuổi, chơi trong nhà hay ngoài sân, vùng đất trống, ban ngày hay ban đêm dưới ánh trăng…sao cho trò chơi đến được với các em một cách thỏa mái, vui và an toàn nhất. Nhiều trò chơi rất dân giã, đơn giản nhưng ngày nay đã được biến hóa, thậm trí “biến trướng”, buộc chúng tôi phải suy tính, cân nhắc xin ý kiến các vị “cao niên” về những điều cần góp ý với thầy cô giáo, quản trò, điều gì tâm tình, khuyên nhủ với các em trước và sau khi chơi. Đảm bảo
8
8 / 2019
tính kế thừa, phát huy, gìn giữ những tinh hoa của cha ông chúng ta để lại, nhằm mục đích cho các em Vui - Khỏe - Lanh lợi - Đoàn kết và An toàn. Song song với việc sưu tầm các trò chơi, nhiều năm qua chúng tôi cố gắng sưu tầm, ghi âm, phóng tác, phổ lời hàng trăm bài đồng dao trên nền nhạc. (Sáu mươi ca khúc đồng dao trong tập sách này được gắn liền với các trò chơi). Có bản nhạc thuộc loại hình biểu diễn, có ca khúc đồng dao để các em chơi hát trước và sau khi chơi, có ca khúc đồng dao dùng cho hát múa tập thể, có ca khúc phổ nhạc rất đơn giản (theo nhịp điệu của trò chơi - theo cao độ của thanh bằng thanh chắc lời đồng dao) để các em vừa hát vừa chơi được dễ dàng. Trong đó có một số ca khúc phổ lời đồng dao đã được trẻ em trong cả nước đón nhận như: Ông giẳng ông giăng, Mèo đuổi chuột, Dung dăng dung dẻ, Chim công kể chuyện, Thìa la thìa lẩy, Con tôm con cá con cua, Kéo cưa lừa xẻ… Cũng vì thời lượng của tập sách, nên chúng tôi chỉ xin cung cấp hai kịch bản truyền hình ( giới thiệu trò chơi quen thuộc trên VTV) để quí phụ huynh, quản trò, các em tham khảo nếu có điều kiện sẽ dàn dựng vui chơi, hoặc thể hiện trong các ngày Hội Văn hóa các Dân tộc Việt Nam. Bên cạnh các trò chơi, bản nhạc đồng dao, trong tập sách này còn có một số bức tranh minh họa của “họa sĩ nhí” Tâm Nguyên 11 tuổi ở Đà Nẵng. Tranh Đông Hồ, tranh do trang Thủ thuật phần mềm. vn và nguồn zing.vn cho thêm phần sinh động. Phần cuối tập sách, trước phần kết luận, chúng tôi xin chuyển tải toàn bộ hoặc trích đăng một số ý kiến của các nhà nghiên cứu Văn nghệ dân gian chuyên sâu về lĩnh vực Trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em Việt Nam để mọi người cùng tham khảo.
Sinh ra ở một làng quê, nhớ lại tứ thơ của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh mà tôi đã
phổ nhạc (ca khúc: Ký ức làng quê): Xưa tôi sống trong làng/ giờ làng sống trong tôi. Hơn nửa cuộc đời sống trên phố mà tôi vẫn canh cánh nhớ về cây đa, giếng nước, sân đình. Nơi được đắm mình với những làn điệu dân ca, hết mồ hôi với những trò chơi dân dã, những câu cãi vã rất nhà quê… Mơ mộng được sưu tầm, gìn giữ, quảng bá các trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em Việt Nam, một trăm mười chín trò chơi, hai kịch bản, sáu mươi bản nhạc trong tập sách này là kết quả của những điều tai nghe mắt thấy dù rằng rất ít. Bởi trò chơi của các em bây giờ phần nhiều trong máy với bùm bùm - chát chát - thế quân - thế mạng… Tác giả tập sách này mong ước trẻ em Việt Nam chắc chắn sẽ thích lại các trò chơi dân gian, đồng dao. Và khi đã thích rồi thì mở mạng lên! trong máy điện thoại của các em đã có sẵn phần mềm, Downloads về chơi “mệt nghỉ”! Nhạc sĩ TRỊNH TUẤN KHANH
9
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
LỜI GIỚI THIỆU SÁCH
199 TRÒ CHƠI ĐỒNG DAO VIỆT NAM Của nhạc sĩ TRỊNH TUẤN KHANH
Trẻ em thời nào thì cũng đều thích được vui chơi cùng nhau, cũng đều có nhu
cầu về trò chơi tập thể - ít nhất là hai trẻ cùng chơi. Chính vì thế trong các trò chơi đồng dao - một loại trò chơi dân gian - không có chỗ cho trò chơi “một mình”/ “độc diễn”, kể cả khi mới lớn trẻ cũng được chơi trò chơi đồng dao với mẹ, hay nói đúng hơn là được mẹ dạy những bài học đầu đời qua trò chơi đồng dao - chơi mà học. Rồi khi chơi thể thao, trẻ em cũng thích chơi những môn thể thao mang tính tập thể cao như bóng chuyền, bóng rổ và nhất là bóng đá. Ngay khi chơi cầu lông hoặc bóng bàn, thường trẻ em cũng thích… đánh đôi hơn đánh đơn - mặc dầu đánh đơn đã là chơi cùng nhau. Đó là chưa kể tham gia những trò chơi tập thể đông vui ấy - kể cả các cuộc chơi cờ tướng hoặc cờ vua mặt đối mặt giữa hai kỳ thủ nhỏ tuổi - không chỉ có các người-chơi-trẻ-em mà còn có các người-xem-trẻ-em/cổ-động-viên-trẻ-em. Chính vì thế hiện tượng nhiều trẻ em thời nay suốt ngày cứ ngồi cắm mặt vào màn hình máy tính bảng hoặc vào điện thoại thông minh để một mình chơi game là hoàn toàn xa lạ với niềm vui được chơi cùng nhau trước sự reo hò cổ vũ của bạn bè đồng trang lứa…
Chơi bóng thì phải có bóng và có sân bóng - kể cả quả bóng bàn và bàn bóng
bàn nhỏ hơn nhiều so với quả bóng và sân bóng dành cho bóng chuyền/bóng rổ/bóng đá. Sân bóng đá/sân bóng chuyền/sân bóng rổ thường ổn định lâu dài - bàn bóng bàn dễ chuyển từ chỗ này sang chỗ khác thậm chí có thể xếp lại, nhưng cơ bản cũng ổn định. Trong khi đó, sân chơi dành cho trò chơi đồng dao cơ động hơn nhiều - chỉ cần một khoảng không gian đủ rộng cho cả người-chơi-trẻ-em và người-xem-trẻ-em/cổ-độngviên-trẻ-em. Dụng cụ trong các trò chơi đồng dao cũng đơn giản và dễ tìm, nhiều khi chính là chân hoặc là tay của các người chơi. Có trường hợp người chơi dùng vừa tay vừa chân làm dụng cụ - chẳng hạn trong trò chơi Đi chợ về chợ có hai em ngồi lần lượt duỗi chồng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi hai em khác vừa đi qua đi lại rồi nhảy qua nhảy lại vừa hát bài đồng dao Đi chợ về chợ có ca từ tương thích với từng động tác duỗi bàn chân, chụm bàn tay hay xòe bàn tay... Đương nhiên “dụng cụ” khiến chơi đồng dao khác với chơi thể thao chính là bài đồng dao mà người-chơi-trẻ-em học được từ mẹ/từ bà và chủ yếu từ các bạn chơi trong trường/trong xóm.
10
8 / 2019
Cho nên học chơi trò chơi đồng dao phải bắt đầu từ việc học hát đồng dao. Các
bài hát đồng dao là di sản văn hóa phi vật thể được truyền từ đời này sang đời khác với nhiều dị bản - tùy theo mỗi vùng miền. Cũng có các nhạc sĩ đương đại sẵn lòng ký âm những làn điệu đồng dao, sưu tập/biên tập lại ca từ, qua đó góp phần phổ cập đồng dao trong trẻ em. Thời buổi này phổ cập các bài hát đồng dao trong trẻ em thuận lợi hơn xưa, bởi không chỉ trên sóng phát thanh mà còn trên cả sóng truyền hình; đương nhiên lịch phát sóng phải phù hợp để khán/thính-giả-trẻ-em có thể xem/nghe mà không ảnh hưởng đến bữa ăn/giấc ngủ hoặc đến việc học - “hổng dám đâu em còn phải học bài/ hổng dám đâu em còn phải làm bài” (ca khúc Hổng dám đâu của Nguyễn Văn Hiên). Học chơi trò chơi đồng dao không chỉ phải biết hát đúng lời đúng nhạc bài hát đồng dao mà còn phải biết chơi đúng cách chơi - biết thực hiện động tác nào trước động tác nào sau cho tương thích với ca từ, rồi biết thế nào thì thắng thế nào thì thua, thế nào thì được thưởng thế nào thì bị phạt. Đó là chưa kể những người-chơi-trẻ-em cần phải có đầu óc tổ chức để rủ bạn chơi cùng, cũng như cần có tinh thần đồng đội để có thể cùng chơi…
Trẻ em ngày nay có nhiều sự lựa chọn về trò chơi hơn trẻ em ngày xưa, nhưng trò
chơi đồng dao do dễ chơi - không đòi hỏi quá cao điều kiện về sân bãi và dụng cụ chơi, chưa kể còn được hỗ trợ bởi sức hấp dẫn của âm nhạc - nên vẫn có ưu thế nhất định để có thể tiếp tục đồng hành với trẻ em đương đại. Đương nhiên sở thích của người-chơitrẻ-em thường đa dạng: có em thích chơi thể thao có em thích chơi đồng dao; ngay cùng thích chơi thể thao nhưng có em thích bóng bàn, có em thích bóng đá, thậm chí có em thích đánh cờ; hoặc cùng thích trò chơi đồng dao nhưng có em thích Dung dăng dung dẻ, có em thích Tập tầm vông… “Nhân sinh quý thích chí”, chơi cũng không ngoại lệ, có điều các bậc phụ huynh ở nhà và nhất là thầy cô ở trường hoàn toàn có thể định hướng và “truyền lửa” nhằm tạo cho trẻ em hứng thú cần thiết đối với các trò chơi đồng dao vốn bình dị bình dân và do vậy mà rất bình đẳng - ai cũng được chơi và ai cũng chơi được, bởi chơi thể thao còn đòi hỏi sự khổ luyện và thậm chí đòi hỏi năng khiếu, chứ còn chơi trò chơi đồng dao bài hát thì dễ nhớ dễ thuộc, cách chơi thì dễ biết dễ quen, chỉ cần có một tinh thần đồng đội và một tấm lòng đồng điệu…
Đương nhiên dễ nhớ dễ thuộc đến mấy thì cũng cần biết nhạc và lời của từng bài
đồng dao để hát cho đúng lời đúng nhạc; dễ biết dễ quen đến mấy thì cũng phải được hướng dẫn chơi cho đúng cách chơi. Và vì vậy trẻ em đương đại rất cần những tập sách như Một trăm mười chín trò chơi đồng dao dành cho trẻ em Việt Nam của nhạc sĩ Trịnh Tuấn Khanh mà bạn đọc đang có trên tay. Là người nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, đồng thời là một nhạc sĩ và là một thầy giáo dạy âm nhạc, khi biên soạn tập sách này, Trịnh Tuấn Khanh có nhiều thuận lợi hơn những người nghiên cứu văn hóa văn nghệ
11
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
dân gian không am hiểu nhạc lý. Đó là chưa kể được sinh ra và lớn lên ở nông thôn Bắc Bộ từ thập niên 50 và 60 của thế kỷ trước, Trịnh Tuấn Khanh có những năm tháng tuổi thơ từng mê mải với không ít trò chơi đồng dao và nhờ vậy mà hiểu biết về trò chơi đồng dao của Trịnh Tuấn Khanh còn là sản phẩm của một quá trình tự trải nghiệm. Đó là chưa kể lợi thế của một người làm văn nghệ truyền hình cũng giúp Trịnh Tuấn Khanh có điều kiện thâm nhập thực tế trò chơi dân gian nói chung, trò chơi đồng dao nói riêng, nhất là có điều kiện gần gũi học hỏi với nhiều chuyên gia trên lĩnh vực này...
Với sự ngưỡng mộ sâu sắc về tâm huyết mà nhiều năm qua nhạc sĩ Trịnh Tuấn
Khanh đã dành cho văn hóa văn nghệ dân gian và đặc biệt đã dành cho trẻ em và cho một loại hình trò chơi của trẻ em thấm đẫm chất dân gian là trò chơi đồng dao, tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc gần xa tập sách Một trăm mười chín trò chơi đồng dao Việt Nam. Đà Nẵng, ngày 25 tháng 07 năm 2019
BÙI VĂN TIẾNG (Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Đà Nẵng)
12
8 / 2019
CHƯƠNG I
TRÒ CHƠI THIÊN VỀ VẬN ĐỘNG
13
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
1. GIÃ CHÀY MỘT 4
• Lời bài đồng dao:
Giã chày một
Hột gạo vàng
Sang chày đôi
Dôi thóc mẩy
Giã chày bảy
Đẩy chày ba
Các cô nhà ta
Đi ra mà giã
• Cách chơi:
Chia làm hai nhóm, mỗi nhóm 6-8 trẻ (số trẻ mỗi nhóm bằng nhau). Một nhóm
ngồi vòng tròn, tay nắm tay nhau đung đưa. Nhóm kia đứng ngoài, lần lượt từng trẻ nhảy vào giữa vòng tròn, mỗi lần nhảy vào được thì hát một câu. Cứ một đứa trẻ đứng ở ngoài nhảy vào được vòng tròn thì một trẻ ngồi ở vòng tròn đứng lên hát câu tiếp sau. Rồi lại đến một trẻ ở ngoài vòng nhảy vào, một trẻ đang ngồi lại đứng lên đọc câu tiếp sau. Cứ thế cho đến hết, không còn ai ngồi nữa, tất cả hát câu cuối cùng “Đi ra mà giã”, vỗ tay và giậm chân thình thịch. Trò chơi lại tiếp tục - hai nhóm lại đổi cho nhau, trẻ ngồi lại đổi sang đứng ngoài để nhảy.
1.(322)
4
14
8 / 2019
15
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
2. LỘN CẦU VÒNG 4
• Đối tượng: Trẻ nam hoặc nữ, không hạn chế số lượng • Lời bài đồng dao:
Lời 1 : Lộn cầu vồng
Nước trong nước chảy
Có cô mười bảy
Có chị mười ba
Hai chị em ta
Ra lộn cầu vồng
Lời 2: Lộn cầu vồng
Nước sông đang chảy
Thằng bé lên bảy
Con bé lên ba
Hai anh em ta
Ra lộn cầu vồng.
• Cách chơi: Từng đôi một cầm tay nhau, đứng quay mặt vào nhau, vừa vung tay sang hai bên theo nhịp lời hát, mỗi tiếng là một lần vung tay sang ngang một bên. Đọc đến tiếng cuối cùng (2 tay vẫn nắm tay bạn) thì cả hai cùng giơ 2 tay lên đầu cùng chui qua tay về một phía, quay lưng vào nhau, rồi hạ xuống dưới, rồi tiếp tục đọc, vừa đọc vừa vung tay như lần trước, đến tiếng cuối cùng lại chui qua tay lộn trở lại tư thế ban đầu. • Lưu ý: Động tác nhẹ nhàng, uyển chuyển kết hợp với tiết tấu bài hát gần như một tiết mục biểu diễn ( phù hợp với trẻ em gái )
1.(324)
4
16
8 / 2019
17
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
3. NÀY CÒ, NẦY CẤU 6
• Đối tượng - Địa điểm:
Trẻ nam hoặc nữ, trên sân sân trường, sân nhà đêm trăng
sáng hoặc khu đất rộng…
• Lời bài đồng dao:
Này cò, này cấu
Này đấu, này thưng
Lưng sào cánh ná
Này lá, này lao
Nghe cồng bà rao
Nghe lệnh ông gióng
Nghe voi rông rống
Chong chóng chạy về
Ê hê! Chạy!
• Cách chơi: Một em ngồi cái chìa ngửa bàn tay ra để những em khác đặt một ngón tay vào đó. Em ngồi cái miệng hát tay chỉ vào những ngón tay từng em một. Hát hết bài, đến tiếng “chạy” thì em nắm tay lại thật nhanh, em nào không rút ngón tay ra kịp bị bắt phạt bằng cách bịt mắt lại để đi tìm các bạn.
1.(324)
6
18
8 / 2019
19
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
4. NHẢY VÀO NHẢY RA 7
• Đối tương - Địa điểm chơi:
“Trò này phù hợp với trẻ em gái (cần uyển chuyển, nhẹ nhàng, như tập nhịp
điệu Aerobic…các trẻ phải cẩn thận không vì quá vui hoặc quá ăn thua mà
làm bạn té ngã: khi khóa cửa quá cao ). Địa điểm chơi: chỉ cần khu đất rộng,
bằng phẳng…” 8
Chia trẻ thành hai nhóm, mỗi nhóm từ 10 đến 12 trẻ. Mỗi nhóm chọn 1 người
để “Oăn tù tì” bên nào thắng được đi trước gọi là nhóm 1. Nhóm 2 ngồi xuống
thành vòng tròn rộng, nắm tay nhau để tạo thành “cửa” ra, vào. Các “cửa” luôn
giơ tay lên, hạ tay xuống để ngăn không cho người ở nhóm 1 vào.
• Cách chơi: Mỗi trẻ ở nhóm 1 đứng cạnh một cửa (đứng ngoài vòng tròn) để rình xem khi nào “cửa ở” (tay các bạn hạ xuống) thì nhảy vào, khi đang nhảy thì nói “vào”, khi đã ở trong vòng tròn thì nói “vào rồi”. Nếu một trẻ ở nhóm 1 đã nhảy qua “cửa” vào trong vòng tròn thì tất cả các “cửa” phải “mở ra” để cho các bạn ở nhóm 1 vào. Khi các bạn ở nhóm 1 đã vào hết, các “cửa” lại đóng lại và trẻ ở nhóm 1 tìm cách nhảy ra (nhảy ra cũng như khi nhảy vào). Khi nhảy vào, nhảy ra mà chậm chân vào tay người ngồi làm “cửa”, và nhảy không vào chưa hết mà đã có người nhảy ra thì đều bị hỏng và mất lượt đi, phải ngồi thay cho nhóm kia đứng lên chơi.
7 8
1.(330) Lời dặn dò các em của tác giả tập sách
20
8 / 2019
5. CHỒNG ĐỒNG CHỒNG ĐE 9
• Đối tượng - Địa điểm:
“Khoảng 10 trẻ trở lại là chơi phù hợp nhất (trẻ nam hoặc nữ). Địa điểm nên
chọn khu đất rộng, bằng phẳng (trò vận động chạy nhảy để tránh va chạm).
Khi chạy đuổi bắt nhau, chỉ cần chạm vào bất cứ bộ phận nào của thân thể
đối phương là thắng cuộc - không cần ôm ghì nhau tránh tai nạn, quản trò lưu
ý và các em nhớ nhé” 10
• Lời bài đồng dao:
Chồng đồng chồng đe
Con chim lè lưỡi
Nó chỉ người nào?
Nó chỉ người này
• Cách chơi: Số trẻ chơi có thể từ 8 đến 10 trẻ đứng thành vòng tròn. Từng trẻ tay nắm lại, chồng lên nhau. Tất cả nhóm đồng thành hát hoặc đọc có ngữ điệu bài đồng dao. Một trẻ đứng trong vòng tròn, vừa đi vừa hát lần lượt chỉ vào từng tay các bạn (từ trên xuống và ngược lại), mỗi tiếng chỉ vào một tay. Khi tiếng “này” chỉ vào bạn nào thì bạn đó đi đuổi bắt các bạn. Các bạn chạy tản mạn trong phạm vi nhóm đã quy ước trước khi chơi. Trẻ nào bị bắt phải chạy một vòng. Trò chơi lại tiếp tục.
9
1.(335) Lời khuyên của tác giả tập sách
10
21
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
6. ĐÚC NẬM ĐÚC NỊ 11
• Đối tượng - Địa điểm:
Giống như trò Chồng đổng chồng đe, nhưng khác một chút là người chơi
không phải chạy xa, nên không cần địa điểm rộng, thuận lợi cho các em
• Lời bài đồng dao:
Đúc nậm đúc nị
Cây tía cây tiên
Đồng tiền, chiếc đũa
Cái búa thợ rèn
Cái kèn ông phủ
Cái mũ bà đa
Cái cốc cái ca
Thì ra tay này!
• Cách chơi: Chừng 6, 7 em ngồi xung quanh nhau, nắm tay lại và đưa ra trước mặt. Một em làm “cái” lấy ngón tay chỉ vào nắm tay của các em và hát những câu trong bài đồng dao. Nắm tay ai trúng vào câu “Thì ra tay này” thì rụt tay chạy ra ngoài. Các em còn lại nói với em làm “cái” tên một con vật, một đồ dùng… Em này sẽ đọc lên cho em vừa ra ngoài chọn. Chọn đúng ai thì người ấy phải đi cõng em kia về. Trò chơi lại tiếp tục.
11
1.(337)
22
8 / 2019
23
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
7. THẢ ĐỈA BA BA 12
• Đối tượng - Địa điểm:
Trò này phù hợp với các trẻ nam, chơi khu vực sân rộng dưới ánh trăng 13
• Lời bài đồng dao:
Thả đỉa ba ba Đổ mắm đổ muối
Chớ bắt liền bà Đổ chuối hạt tiêu
Phải tội liền ông Đổ niêu cứt gà
Cơm trắng như bông Đổ phải nhà nào
Gạo tiền như nước Nhà ấy phải chịu.
• Cách chơi:
Trong trò chơi này 4-5 em đứng túm tụm lại dưới sân rộng, một em vừa hát vừa lấy tay vỗ lên đầu từng người theo thứ tự vòng tròn. Dứt bài, chữ “chịu” rơi phải đầu em nào em đó phải ở lại dưới sân làm đỉa, làm ba ba hay làm nam nam. Theo tín ngưỡng người Việt ở vùng quê, hễ chuôm ao nào có người chết đuối thì linh hồn người đó biến thành con nam nam (nói theo miền Nam là con ma gia) luôn luôn rình cơ hội rủ người khác chết đuối. Có vậy linh hồn kẻ chết đuối trước mới được thay thế mà tái sinh.
Trong khi một em phải ở lại dưới sân làm đỉa (hay ba ba, hay nam nam) thì các
em khác lên hết trên bờ hè hoặc bờ cao quanh sân để rồi sẽ chạy từ bờ bên này qua bờ bên kia. Em ở “dưới ao” cố săn đuổi, túm áo bắt được em nào, em đó phải thay thế. Trò chơi này thường là của các em trai và đặc biệt chơi vào những đêm trăng tháng tám. Các em ở vùng Bắc Ninh có bài hát tương tự để thay thế sau đây:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải lội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo tiền như nước
Gánh ba gánh nước
Đưa cậu ra đồng
Đánh ba tiếng cồng…
1.(340) Trò chơi Thả đỉa ba ba có nhiều cách chơi, mỗi vùng miền cách chơi và lời đồng dao có khác nhau. Cách chơi trong tập sách này do Doãn Quốc Sĩ biên soạn ( Sài Gòn, Nxb Sáng Tạo, 1969 trang 81-82 ) 12 13
24
8 / 2019
25
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
26
8 / 2019
8. CHÌM NỔI 14
• Đối tượng - Địa điểm:
“Trẻ nam hoặc nữ tuổi từ 8 - 12. Các em nên mặc đồ rộng. Địa điểm không cần
rộng lắm (nếu rộng thì thuận lợi hơn vì trong điều kiện hiện nay, khoảng trống
trong khu dân cư cho các em chơi rất hiếm), nhưng phải bằng phẳng để tránh
vấp ngã khi chạy. Các em nhớ không cần chạy nhanh mà phải khéo léo, lừa,
dồn nhà ‘cái’ tới độ bất ngờ. Bởi vì thời gian nhà cái chạy tới mình lâu hơn
nhiều khi mình ngồi xuống để nói ‘chìm’…trò này dễ bị trọc tức nên các em
phải bình tĩnh, vui vẻ, không nên nổi nóng, (nhà ‘cái’ đập vào bạn thật đau)”. 15
• Cách chơi: Bắt đầu chơi trẻ “oẳn tù tì” để chọn trẻ làm “cái”. Trẻ làm “cái” được đi đuổi các bạn. Các bạn khác chạy thật nhanh sao cho “cái” không đuổi được. Nếu thấy “cái” lại gần người nào thì người đó ngồi thật nhanh xuống và nói “chìm”. Khi “cái” đi xa thì lại đứng lên và nói “nổi” rồi chạy tiếp. Nếu ai bị “cái” đập vào người coi như “chết” và đứng ra ngoài cuộc chơi, lần chơi sau vào chơi. “Cái” nào bắt được nhiều là giỏi nhất. Thời gian chơi cho mỗi lần chơi khoảng 5-10 phút. Lần sau chơi lại chọn “cái” khác
14 15
1.(341) Tác giả tập sách căn dặn các em khi chơi.
27
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
9. Ù À Ù ẬP 16
• Đối tượng - Địa điểm: (như trò Chìm nổi) • Lời bài đồng dao:
Ù à ù ập
Bắt chập lá tre
Bắt đè lá muống
Bắt cuống lên hoa
Bắt gà mổ thóc
Đi học cho thông
Cày đồng cho sớm
Nuôi lợi cho chăm
Nuôi tằm cho rỗi
Dệt cửi cho mau
Nuôi trâu cho mập
Ù à ù ập
• Cách chơi: Số trẻ chơi từ 6 đến 8 trẻ. Lấy một cái cột làm chuẩn, gọi là “Cột đùng”. Một trẻ làm “cái” ngửa bàn tay ra cho các trẻ khác đặt ngón trỏ vào (không được rút lên, rụt xuống). Trẻ làm “cái” hát hết lời trên, đến từ “ập” thì nắm tay lại. Ai không rụt tay kịp thì phải bịt mắt cho các bạn đi trốn. Các bạn đi trốn hết, trẻ tìm mở mắt ra đi tìm các bạn, vừa đi tìm vừa hát bài trên. Những trẻ đi trốn, tìm cách chạy mau về cột chuẩn, không để cho trẻ đi tìm bắt được, chạy được về đến cột chuẩn, tay ôm cột nói một tiếng “Đùng”. Trẻ đi tìm, nếu không bắt được ai thì phải tiếp tục nhắm mắt để chơi lại. Trẻ đi trốn nếu bị trẻ đi tìm bắt được thì thay trẻ đi tìm. Trò chơi tiếp tục.
16
1.(343)
28
8 / 2019
29
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
10. MÍT MẬT, MÍT GAI 17
• Đối tượng - Địa điểm: (như trò Chìm nổi) • Lời bài đồng dao:
Mít mật mít gai
Mười hai thứ mít
Vào làng ăn thịt
Ra làng ăn xôi
Chú chẳng nghe tôi
Tôi bịt mắt chú
Ẩn đâu cho kín
Bao giờ lúa chín thì về.
• Cách chơi: Đây là trò chơi đi trốn (ú tìm). Một em tự bịt mắt đọc hoặc hát bài đồng dao để cho các em khác có thì giờ trốn. Khi nghe các em trốn “ú” một tiếng, (nghĩa là đã trốn xong) thì em đi tìm. Em nào bị tìm thấy đầu tiên thì vào thay.
17
1.(343)
30
8 / 2019
31
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
11. NHẮC CÒ CÒ
• Bài đồng dao: “ Nhắc cò cò …” (sau đây thường được hát trước khi các em
chơi trò chơi “nhảy cò cò”. Đây là là trò chơi rất được phổ biến cho các trẻ em
gái khắp ba miền. Trò này đơn giản nhưng rèn sự nhanh nhẹn, dẻo dai, uyển
chuyển đôi chân và dáng vóc. Không kén địa điểm, các em có thể chơi ở
nhiều địa điểm, thành thị và nông thôn. Rất tiếc hiện nay các em ít chơi…)
Nhắc cò cò …
Lên trên o (cô)
Xin miếng nác (nước)
Về dưới bác
Xin miếng xôi
Lên trên trời
Rụng cái độp
• Đối tượng - Địa điểm:
Trò chơi Nhảy cò cò được các em gái tuổi lên 9 lên 10 rất ưa chuộng.
Sân chơi là nền sân gạch (hoặc đất nệm). Trên sân gạch vẽ thành một hình vẽ
với năm ô và một nửa vòng tròn ( xem hình vẽ )
• Cách chơi : Trước khi chơi các em phải chuẩn bị một hòn cái (hòn cái trong trò chơi này gọi là mang) làm bằng đá mài nhẵn thành hình tròn chừng 6 -7cm. Có từ 2,3 em họp lại là có thể tổ chức chơi được trò Nhảy cò cò.
- Nhảy vòng 1 : Ném “mang” vào tầng 1, “cò” (cò: co một chân lên ngang tới
kheo chân kia trong tư thế vuông góc) một chân bỏ tầng 1, lên tầng 2, nhảy tiếp tầng 3, vào 2 chân tầng cách, cò tầng cổ, vào 2 chân tầng đầu, xong quay lại, nhảy trở về như cũ xuống đến 2, “cò” lấy “mang” ở tầng 1, nhảy vượt qua tầng 1 về nơi xuất phát. Tiếp đó ném “mang” lên tầng 2 “Cò tầng 1” nhấy băng qua tầng 2 tới tầng 3 và tiếp tục lên các hàng trên như trước. • Lưu ý: Khi cò không được đậm chân vào vạch chỉ. Ném “mang” đến chuồng, muốn nhặt “mang” phải quay người lại để chơi (tiếp vòng 2)
32
8 / 2019
- Nhảy vòng 2 : Sau khi nhặt được “mang” ở chuồng thì đứng ở chuồng ném hòn
“mang” xuống tầng 1. Sau đó, “cò” trở về chuồng. Từ chuồng lại ném “mang” về tầng 2… Cứ thế cò tiếp tục, Hòn “mang” khi đã được ném lên đến tầng đầu thì vào vòng 3 (ăn nhà)
- Vòng 3 (ăn nhà) Từ điểm xuất phát ném “mang” lên chuồng – Cò lên để lấy
“mang” Đến đây, kết thúc vòng nhẩy cò cò của 1 người.
18 19
1(351) Lời khuyên của tác giả tập sách với các em
33
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
12. CƯỚP CỜ 20
• Đối tượng – Địa điểm – Chuẩn bị:
“Trẻ nam nữ tuổi từ 8 - 13 chia làm hai bên, đứng cách xa đều nhau một điểm
ở giữa có một mảnh khăn hay cành lá (làm cờ - nếu dùng cành lá, các em nên
cắt ngắn cành, lá là chính để tránh va chạm khi tranh giành nhau). Khi chơi
chỉ dùng tay ngăn cản hoặc đập vào đối phương, tuyệt đối không dùng chân
ngáng hoặc khèo chân bạn. Khoảng cách với cờ có thể từ 5 đến 10 mét hoặc
hơn. ( các em lưu ý không nên dùng cờ thật để chơi, vì cờ dễ nhàu nát – thiếu
mất sự tôn trọng lá cờ ). Địa điểm tìm nơi bằng phẳng, diện tích vừa phải”. 21
• Cách chơi: Một trưởng trò đứng giữa, gần cờ. Hai bên xếp hàng ngang, đứng thứ tự từ 1 đến hết. Vào trò, người mỗi bên phải lần lượt hô to số thứ tự của mình cho trưởng trò và đối phương biết. Trưởng trò gọi số nào thì người mang số ấy của cả hai bên phải tranh thủ chạy nhanh vào cướp lấy cờ chạy về bên mình. Thường thì hai bên chạy lên cùng lúc. Hai đối thủ cứ xoay quanh cờ, rình cơ hội cướp chạy và ập vào mình đối phương đã cướp lấy cờ chạy. Cướp được cờ chạy thoát về bên mình là thắng. Đuổi đánh trúng vào mình người đang cầm cờ chạy cũng thắng. Nhiều khi hai bên rình rập lâu mà chưa bên nào cướp được cờ thì trưởng trò gọi thêm một hai số nữa lên tiếp. Lúc này thì sự rình rập của hai bên khá sôi nổi, người cướp – người chặn, người cướp giả vờ cho người khác cướp thật. Khán giả cổ vũ càng đông càng vui, nên hò hét, gõ trống, thanh la, cồng chiêng… tăng phần náo nhiệt.
1.(361) Lời khuyên các em khi chơi trò này của tác giả tập sách
20 21
34
8 / 2019
13. CƯỚP CÙ 22
• Đối tương – Địa điểm – Chuẩn bị:
Cù làm bằng gốc chuối, hoặc tre đẽo tròn. Sân chơi là bãi đất rộng. Hai đầu
sân trồng 2 cột tre, trên đầu cột (cao chừng vài mét) có treo một cái rọ bằng
tre. Số người chơi không hạn chế và cũng không phân biệt nam, nữ, lớn bé.
• Cách chơi: Vào cuộc chơi, các em tranh nhau con cù và ném cù vào rọ của phe (đội) mình. Bên nào ném được cù vào rọ nhiều lần là thắng cuộc. Trò cướp cù thường được tổ chức vào dịp tết nguyên đán. Các xã thuộc Bố Trạch (Quảng Bình), Gio Linh (Vĩnh Linh) thường chơi trò chơi này. Người lớn tuổi cũng nhiều khi tham gia chơi. Trong điều kiện hiện nay, các em có thể dùng quả bóng chơi như môn bóng rổ...
(Minh họa: Tâm Nguyên 11 tuổi – Đà Nẵng)
22
1.(362)
35
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
14. Ù 23
• Đối tương – Địa điểm – Chuẩn bị:
Sân đình, bãi cát, mặt ruộng, sân trường đều có thể dùng làm nơi chơi ù. Số
lượng người chơi không hạn định, nhưng thường gồm 7-10 em, không phân
biệt trai gái. Sân chơi được kẻ một đường ngang. Một em làm cái (người ù),
các em khác đứng vào một bên sân.
• Cách chơi: Em làm cái ngậm mồm và kêu “ù….u…..u”, chạy vào bên sân của đối phương. Hễ cái đập được tay vào người nào thì người đó bị loại. các em không làm người “u ..u” (cái) thì vừa cố tránh cho khỏi bị đập, vừa tìm cách bắt “cái” lại. Nếu cái “đứt hơi” không kêu “u ….u ….u” được thì bị loại. Em khác sẽ được cử ra để thay thế (tất nhiên, cái chạy thoát được thì tất cả các em chạm vào cái sẽ bị loại). “Nhiều địa phương các em chơi trò này có khó hơn: khi ‘cái’ bị bắt hay đứt hơi thì phải làm tù binh, đứng trong nhà tù ( vòng tròn bên sân đối phương ). Phe của người bị tù vừa chạy, vừa “ù…u…u” vừa bắt đối phương, vừa tìm cách cứu bạn tù bằng cách đập tay vào người bị tù. Nếu hoàn thành, người tù sẽ được thả về bên mình để chơi tiếp. Đội thua là đội hết quân, hoặc hết giờ mà còn ít quân nhất. Trò này rất phù hợp với các em gái độ tuổi Trung học cơ sở hoặc Tiểu học. Rất tiếc trò chơi này hầu như bị lãng quên – nó giúp cho các em nhanh nhẹn, khéo léo, tình đồng đội…” 24
1.(364) Lời khuyên các em khi chơi trò này của tác giả tập sách
23 24
36
8 / 2019
37
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
15. TẬP TÌNH TANG 25
Trò chơi này nhà nghiên cứu VNDG Trần Hoàng sưu tầm được ở một số làng
Cát thuộc tỉnh Quảng Bình. Trò chơi rất đơn giản. Người tham gia chơi leo lên
một bức tường thấp (trên dưới 1m20). Các bức tường này thường được xây bao
quanh đình, chùa…
Khi đã đứng đông đủ trên tường, trẻ em vừa vỗ tay vừa hát
Tập tình tang
Bớ làng, bớ xóm
Con gà gáy sớm
Con gà gáy trưa
Trời nắng trời mưa
Thi nhau mà nhảy
Sau tiếng “nhảy”, người chơi nhún mình, lấy sức nhảy bật ra khỏi bức tường mà
họ đang đứng. Ai nhảy được xa thì người đó thắng.
• Ghi chú: Bài “Tập tình tang” nhiều khi chỉ là những câu văn vần được trẻ em ứng tác tại chỗ, nên có nhiều vần rất hồn nhiên và ngộ nghĩnh. Ví như có bài kể tên các vị chức sắc hoặc những người có “tật” trong làng ( thời phong kiến ). (…)
25
1.(367)
38
8 / 2019
16. CƯỠI NGỰA NHOONG NHOONG 26
Cho các em nhỏ 4 đến 8 tuổi
Mỗi em tìm một cây gậy hoặc dọc tầu chuối (đã tước lá hai bên), lấy một sợi
giây nhỏ buộc vào đầu làm cương. Đứng xếp hàng ngang, một tay giữ “ngựa”
của mình luôn dưới háng, một tay giữ dây cương. Nghe hô lệnh “Hai… ba!” thì
cùng chạy phóng nhanh lên phía trước, vừa cưỡi ngựa chạy vừa xướng lên :
Nhoong Nhoong!
Nhoong Nhoong!
Ngựa ông đã về
Cắt cỏ Bồ Đề
Cho ngựa ông ăn
Thỉnh thoảng lại hô “ếp! ếp!” giục ngựa
Trò chơi cứ thế tiếp diễn từng ván theo chiều dài hay vòng quanh cho đến khi
thích chuyển sang trò khác.
(Trò chơi này đang được các bé mầm non chơi nhiều. Thay ngựa bằng tàu lá, bẹ chuối, mo cau, cây gậy bằng vật liệu mềm có tua sặc sỡ, hoặc kẹp giữa 2 chân là đầu con ngựa làm bằng gỗ hay nhựa. Khi có hiệu lệnh, các bé vừa đọc hay hát bài đồng dao, vừa nhún nhảy tiến lên theo nhịp đi của con ngựa. Tác giả tập sách gởi đến các bé bài hát đồng dao dưới đây – nếu có thể hát chơi cho thêm vui ).27
26 27
1.(368) Tác giả tập sách này
39
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
40
8 / 2019
17. KÉO CO 28
• Chuẩn bị:
Một dây thừng to (chão) dài khoảng 4-5m, một chiếc khăn hoặc dây buộc vào
giữa để làm mốc.
Nơi chơi là sân trường, bãi cỏ… mặt đất bằng phẳng.
Giữa sân chơi kẻ một đường ranh giới, làm mốc
• Cách chơi: Chia số trẻ chơi thành hai phe, số người bằng nhau và sức khỏe tương đương nhau (mỗi phe không nên đông quá 10 trẻ ). Hai phe đứng đối diện nhau trước một vạch mốc, cùng cầm lấy dây, hai trẻ đứng đầu của phe mình đều đứng cách đường ranh giới 0,5m Sau khi có lệnh của trưởng trò (thổi còi, vỗ tay) cả hai phe nắm chắc dây và cùng ra sức kéo về phía mình. Phe nào kéo được người đứng đầu của phe bên kia sang bên sân của mình là thắng, phe bị kéo sang sân của bạn là thua. Trong khi chơi, trẻ không được bỏ dây (trẻ nào nắm ở vị trí nào thì phải giữ ở vị trí ấy.) Có thể chơi như thế hai, ba lần. • Ghi chú: Không có dây để kéo, hai cháu đứng đầu ngoắc tay vào nhau, những cháu đứng sau vòng tay ôm vào bụng cháu đứng trước mình. Phân định thắng thua như cách chơi trên.
28
1.(369)
41
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
18. DUNG DĂNG DUNG DẺ 29
• Lời bài đồng dao:
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến ngõ nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Cơm nếp thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Xì xà xì xụp
Ngồi thụp xuống đây
• Cách chơi: Trẻ nắm tay nhau thành từng đôi một, hoặc thành hàng ngang 4-5 trẻ, vừa đi vừa hát. Khi hát hoặc đọc tiếng “dung” thì vung tay về phía trước, tiếng “dăng” thì vung tay về phía sau, tiếp tục như vậy cho đến câu cuối cùng thì ngồi thụp xuống. Sau đó đứng dậy hát lại từ đầu và chơi tiếp.
29
1.(369)
42
8 / 2019
43
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
19. CÂU ẾCH 30
• Lời bài đồng dao:
Ếch ở dưới ao
Vừa ngớt mưa rào
Nhảy ra bì bọp
Ếch kêu “ộp ộp”
Ếch kêu “ặp ặp”
Thấy bác đi câu
Rủ nhau trốn mau
Ếch kêu “ộp ộp”
Ếch kêu “ặp ặp”
• Cách chơi:
Vẽ một vòng tròn lớn giữa sân làm ao, tất cả các bé đứng trong vòng tròn làm “ếch”. Một bé làm người “câu ếch”, đứng cách vòng tròn chừng 1- 2 mét, tay cầm một cần câu có dây (không có lưỡi) “Ếch” ở trong ao vừa hát vừa nhảy ra ngoài. “Bác đi câu” đuổi theo ếch, dây câu chạm vào ai, người ấy lại thay làm người câu ếch. “Con ếch” nào đã nhảy vào ao thì không bị “câu” nữa. Trong quá trình chơi tất cả cùng hát bài đồng dao cùng tiếng hò hét vui nhộn… “Hiện nay trong các trường mầm non, trẻ hay chơi trò này bằng phương tiện cần câu điện tử ( miệng con ếch khi há ra, trẻ cho lưỡi câu vào miệng, miệng ngậm lại, nếu căn đúng thời gian thì câu được. Nếu giật cần câu sớm hoặc muộn sẽ không câu được ếch… ). Trò này không vui bằng trò dân giã ( ếch là người – như trên ), ngoài rèn cho các bé khéo léo, bé còn được vận động, rất vui”. 31
1.(419) ý kiến của tác giả tập sách này
30 31
44
8 / 2019
45
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
46
8 / 2019
20. BỎ GIẺ 32
• Cách chơi: Trò chơi từng nhóm từ 10 – 12 trẻ, ngồi xổm thành vòng tròn, chọn một trẻ làm người đi bỏ giẻ (một miếng vải, khăn mùi xoa..) Người bỏ giẻ đi đằng sau xung quanh vòng tròn, giấu kín giẻ để không ai nhìn thấy, rồi bỏ giẻ sau lưng một bạn nào đó. Nếu bạn bị bỏ giẻ không biết thì người bỏ giẻ đi hết một vòng đến chỗ bạn đi bỏ giẻ, cầm giẻ lên đập nhẹ vào vai bạn, bạn đó phải đứng dậy chạy một vòng và người bỏ giẻ chạy đuổi theo, đến khi bạn bị bỏ giẻ về được chỗ cũ, người bỏ giẻ lại phải tiếp tục đi bỏ giẻ. Nếu người bỏ giẻ đuổi kịp đập vào người bị bỏ giẻ, người bị bỏ giẻ thua và phải đi bỏ giẻ. - Nếu người bị bỏ giẻ biết, đứng lên đuổi bạn bỏ giẻ, bạn bỏ giẻ phải chạy thật nhanh một vòng về chỗ củ bạn bị giẻ. Nếu người bị bỏ giẻ mà đập vào người bỏ giẻ thì người bị bỏ giẻ lại tiếp tục đi bỏ giẻ. - Trong quá trình chơi tất cả cùng hát một bài đồng dao quen thuộc…
32
1.(421)
47
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
21. NHẢY BAO BỐ 33
• Đối tượng – Địa điểm:
“Trẻ em nam nữ đều phù hợp với trò chơi. Thường thì chọn cho đội mình (số
lượng không hạn chế) những em khỏe, lanh lợi, số còn lại làm cổ động viên.
Chọn địa điểm rộng, thoáng, bằng phẳng. Bao bố rộng, sạch sẽ, trong các
lễ hội hiện nay, trò này thường được ban tổ chức đưa vào phần Hội chính, (
nhất là khu vực miền núi, Tây nguyên và ven biển ). Trò chơi này thiên về vận
động giúp khỏe đôi chân, linh hoạt và khéo léo. Do hai chân trong bao bố
phải nhảy tiến lên, nếu không chủ động dễ bị ngã. Khi ngã các em phải bỏ
tay ra (khi nhảy 2 tay nắm miệng bao bố) để tiếp đất đỡ lấy người tránh va
chạm…” 34
• Cách chơi : Người chơi chia làm hai đội trở lên thông thường thì từ hai đến ba đội, mỗi đội phải có số người bằng nhau. Mỗi đội có một ô hàng dọc để nhảy và có hai lằn mức một xuất phát và một mức đích. Mỗi đội xếp thành một hàng dọc. Người đứng đầu mỗi đội nhảy đến đích rồi lại quay trở lại mức xuất phát đưa bao cho người thứ 2. Khi nào người thứ nhất nhảy về đến đích thì người thứ 2 tiếp theo mới bắt đầu nhảy. Cứ như vậy lần lượt đến người cuối cùng. Đội nào về trước đội đó thắng. Trẻ chơi thường được mặc đồ đồng phục, bao bố được trang trí tùy sở thích vùng miền, khi đang thi nhảy ngã lăn kềnh trong bao bố, đứng dậy nhẩy tiếp. Người chơi và người xem hò hét vui nhộn xen lẫn tiếng trống, chiêng…
33 34
Trò chơi dân gian Việt Nam-Bản tin Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Tác giả tập sách góp ý với các em
48
8 / 2019
22. NHẢY CHỒNG CAO 35
• Địa điểm – Đối tượng:
Trò chơi này phù hợp với trẻ em nữ. Nhiều hay ít người chơi cũng được, chia
làm hai phe. Người cầm đầu trong toán chơi gọi là mẹ, người làm mẹ chơi hay
và cao lớn nhất trong toán, người mẹ đi trước hoặc nhảy đầu tiên. Nơi chơi
không cần rộng lắm (cần phù hợp với số đội chơi). Có nơi gọi trò chơi này là
“trồng nụ, trông hoa”. Rất phù hợp với trẻ em gái trong giờ ra chơi. Hai bên oẳn
tù tì bên nào thắng đi trước.
• Cách chơi: Bên thua hai người ngồi đối diện nhau, một người ngay một cẳng ra phía trước, bàn chân thẳng đứng gót chân chạm đất là canh một. Bên ăn nhảy qua canh một, người làm mẹ nhảy qua trước và đọc “đi canh một” tất cả tụi con nhảy theo và lập lại câu “đi canh một” và vòng nhảy về cũng vậy, người cầm đầu cũng nhảy trước và đọc “về canh một” tụi con cũng nhảy qua sau và làm theo được hết rồi cứ như thế bên thua chồng cẳng lên canh 2, ngồi đối diện gác cẳng lên hàng tiếp tục lên canh 3 và canh 4, cứ như thế mà nhảy qua nhảy lại trong lúc miệng đọc đi hết canh này đến canh kia. Những canh cao như canh tư, tùy theo luật lệ chơi giao kèo trước, những đứa nhỏ không nhảy được cao, thì nhảy qua chỗ thấp thì sống, còn nếu không qua chỗ thấp nhảy đụng chân thì chết ngồi đó chờ hết bàn chơi tiếp. Một lượt nhảy qua nhảy lại xong canh bốn, thì tới canh búp. Khi chơi canh tư, hai trẻ ngồi làm chồng những bàn chân lên nhau gót chân chạm đầu ngón chân thành một tháp cao thẳng đứng… tới lượt canh búp, canh nở, canh tàn, sau cùng là tới canh gươm, những canh trên chồng lên cao của ngón chân trên hết, giao kèo chơi chỉ được để cổ tay chạm ngón chân cái làm bàn tay búp, nở, tàn, gươm (nhiều bạn cũng ăn gian khi có người nhảy qua (không để ý) lú tay lên cho đụng người mẹ để “mẹ” thua. Những người con nhảy qua không được, có quyền nhảy qua chỗ thấp nếu bên kia đồng ý. Sau cùng, là đi qua sông nhỏ, sông lớn là xong, hai người làm canh qua sông nhỏ bốn bàn chân chạm vào nhau bẹt ra hơi nhỏ để người đi bước vào cũng nói “đi canh nhỏ về canh nhỏ” Vậy là xong canh nhỏ. Canh lớn hai người làm dang chân rộng ra để bên đi bước vào mà đi canh lớn, đi canh lớn là sắp hết trò chơi, toán đi bước qua và đọc “qua sông lớn về sông lớn’. Khi về sông lớn hai người làm đưa tay lên cho người mẹ nắm và 34
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
49
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
bắt đầu nói về sông lớn thì tất cả vụt chạy như rượt bắt, mấy đứa con thì lo chạy trước. Khi bắt được đứa nào thì đứa đó chết, bắt được hết thì xả bàn làm lại, hai bên tiếp tục oẳn tù tì, bên nào thua thì làm. Đây là trò chơi dân gian rất vui của trẻ: Canh búp, nở, tàn, gươm: điển hình là một nụ hoa, dùng bàn tay để trên canh tư. Canh búp: Dùng bàn tay chụm lại. Canh nở: Dùng bàn tay chụm, nhưng để hé miệng. Canh tàn: Xòe cả lòng bàn tay Canh gươm: Để một ngón tay thẳng đứng “Các em lưu ý: chơi trò này cần sự phối hợp khéo léo của các bên hoặc cùng bên với nhau. Bên nhảy cần phải nhanh nhẹn, nếu rề rà bên chồng chóng mỏi chân, tay. Chơi không được ‘ăn gian’ (thường khi có người nhảy, người chồng nâng tay mình lên cao một đoạn, rồi lại bỏ tay xuống - cốt là chạm vào đối phương để thay mình được nhảy). Khi ngồi tránh ngồi lê xuống đất (chuẩn bị miếng lót để ngồi), xong phải rửa tay, nghỉ sớm cho ráo mồ hôi để vào lớp học.” 36
36
Tác giả tập sách nhắc nhở các em
50
8 / 2019
23. CÁ SẤU LÊN BỜ 37
• Địa điểm – Đối tượng:
Khu đất vừa phải, bằng phẳng, các trẻ nam hoặc nữ đều phù hợp
• Cách chơi : Vạch 2 đường vạch cách nhau khoảng 3m để làm bờ. Sau khi oẳn tù tì, người thua sẽ làm cá sấu đi lại giữa hai vạch đó tìm bắt người nào ở dưới nước hoặc có một chân dưới nước (tức nhảy ra khỏi vạch hoặc thò một chân qua khỏi vạch). Những người còn lại chia nhau đứng trên bờ (nghĩa là đứng ngoài hai bên vạch) chọc tức cá sấu bằng cách đợi cá sấu ở xa thì thò một chân xuống nước hoặc nhảy xuống nước và vỗ tay hát “Cá sấu, cá sấu lên bờ” Khi nào cá sáu quay lại thì nhảy ngay lên bờ. • Luật chơi : Người nào nhảy lên không kịp bị cá sáu bắt được phải thay làm cá sấu. Nếu cá sấu bắt được cùng lúc hai người trở lên thì những người bị bắt phải oẳn tù tì để xác định người thua. Nếu cá sấu không bắt được người thay thế thì bị làm cá sấu đến lúc “chảy nước mắt cá sấu” hoặc mệt quá thì thôi. Trò chơi bắt đầu lại bằng cách oẵn tù tì để tìm con cá sáu khác.
37
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
51
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
24. MỘT HAI BA 38
• Địa điểm – Đối tượng:
Khu đất có bức tường, thoáng, sạch sẽ. Các trẻ nam và nữ đều phù hợp
• Cách chơi : Những trẻ chơi sẽ oẳn tù tì để xác định người bị phạt. Người bị phạt đứng úp mặt vào tường. Những người còn lại đứng cách xa tường khoảng trên 3m trên một lằn mức. Trong khi người bị phạt đập tay vào tường 3 cái đồng thời đọc to “Một – hai – ba”, những người ở phía sau bước lên thật nhanh một hoặc hai bước. Sau tiếng “ba” người bị phạt quay lại, nếu thấy ai đang bước thì người đó bị phạt tạm ngừng chơi và lên đứng sát tường. Đến lúc có người nào đó đã bước lên được sát đằng sau người bị phạt (cách khoảng 0,5m) sẽ đập vào lưng người bị phạt, tất cả người chơi (kể cả người đang bị tạm ngừng chơi) sẽ chạy ủa về mức ban đầu. Người bị phạt sẽ rượt theo, chạm tay trúng ai thì người đó sẽ bị phạt và trò chơi lại bắt đầu. • Luật chơi: Người bị phạt phải úp mặt vào tường khi đập “một – hai- ba”, sau tiếng “ba” mới được quay mặt xuống để “bắt”
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
36
52
8 / 2019
25. ĐI TÀU HỎA 39
Trò chơi này rất phù hợp với các trẻ mầm non – sân trường – Lớp học
• Cách chơi : Những người chơi đứng thành hàng dọc. Người sau để tay lên vai người trước làm tàu hỏa. Người dẫn đầu vừa chạy hô lệnh. “Tàu lên dốc” hoặc “ Tàu xuống dốc” Khi nghe lệnh “Tàu lên dốc” tất cả chạy chậm, bàn chân nhón lên, chạy bằng gót chân. Trong lúc chạy, mọi người cùng hát bài đồng dao :
Đi cầu đi quán
Đi bán lợn con
Đi mua cái xoong
Đem về đun nấu
Mua quả dưa hấu
Về biếu ông bà
Mua một đàn gà
Về cho mổ thóc
Mua lược chải tóc
Mua cặp cài đầu
Đi mau về mau
Kẽo trời sắp tối
• Luật chơi: Cả đoàn tàu vừa chạy theo lệnh của đầu tàu vừa hát bài đồng dao. Nếu ai hát nhỏ hoặc không làm đúng động tác chạy sẽ bị cả tàu phạt (hình thức phạt nhẹ nhàng tùy đoàn tàu chọn)
39
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
53
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
54
8 / 2019
26. NHẢY CÓC 40
Trò chơi này rất phù hợp với các trẻ mầm non, Tiểu học – sân trường – Lớp học
• Cách chơi : Hai trẻ chơi đứng đối diện nhau ở 2 đầu sân chơi. Vạch 2 mức đích . Cả 2 cùng đọc
Oẳn tù tì
Ra cái gì
Ra cái này
Sau khi oẳn tù tì, người thắng được quyền nhảy cóc về phía trước 1 nhịp. Khi nhảy xa, chụm 2 chân lại để nhảy. Sau đó lại oẳn tù tì tiếp, người thắng lại được quyền nhảy cóc tiếp 1 nhịp. Người nào nhảy xa và thường thắng trong khi oẳn tù tì thì sẽ nhảy về mức đích đã vẽ trước. • Luật chơi : Khi nhảy 2 chân phải chụm lại. Người oẳn tù tì thắng có quyền nhảy ngắn hoặc dài tùy sức của mình, nhưng nếu để tay chống (chạm) xuống đất thì coi như không được nhảy bước đó (phải trở về vị trí cũ trước khi nhảy bước đó) Phần thưởng của người thắng cuộc là được người thua cõng chạy 1 vòng quanh sân.
40
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
55
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
27. TRỐN TÌM 41
Trò chơi này các em gái rất thích, hiện nay các em chơi nhiều – dễ tìm địa
điểm, cách chơi đơn giản, rèn luyện khả năng nhanh nhẹn, khéo léo… phù
hợp với các trẻ em gái cấp tiểu học và Trung học cơ sở.
• Cách chơi : Người chơi cử 1 bạn đi tìm (cỏ thể xung phong), nhắm mắt thật kỹ (có nơi dùng khăn hoặc miếng vải để bịt mắt) các bạn còn lại tản ra xung quanh đi trốn Khi bạn bịt mắt hỏi “ Xong chưa? (hoặc bạn đi tìm có thể đọc : “5 – 10 – 15 - 20…-100) một bạn trốn đại diện trả lời. “ Xong ! Bạn đi tìm mở mắt đi tìm. • Luật chơi : Trong khoảng thời gian quy định, bạn đi tìm, tìm thấy bạn nào, bạn ấy thua cuộc, không tìm thấy bạn đi chịu phạt. - Bạn đi tìm trong thời gian quy định tìm thấy hết các bạn chơi, bạn đi tìm thắng cuộc.
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
41
56
8 / 2019
28. VẬT TAY, VẬT CHÂN 42
Đây là trò chơi hoàn toàn dựa vào thể lực, chỉ có hai người. Không có người thứ
ba tham gia. Nếu có là để làm trọng tài.
• Vật tay: Hai người, hoặc nắm chặt bàn tay của nhau hoặc dựa vào cổ tay của nhau, cùi chỏ chống xuống mặt phải ngang như mặt bàn, ghế đẩu chẳng hạn trong tư thế ngồi hay khom. Sau khi hô một, hai, ba làm hiệu lệnh, người chơi dồn hết lực lên bàn tay hay cổ tay để vật ngã cánh tay đối phương nằm sát xuống mặt phẳng sẽ được coi như thắng cuộc. • Vật chân: cũng chỉ có hai người chơi, trong tư thế ngồi bệt xuống đất. Cổ chân bên này đặt chéo vào cổ chân bên kia, dùng bàn chân giữ chặt bàn chân đối phương để tránh tình trạng xê dịch. Và chơi y như vặt tay. “Học trò hay chơi trò này. Đôi khi cả người lớn, mẹ con, bố con… ( cha mẹ chơi với con là để rèn sức bền tay chân cho con, chứ không phải ăn thua…do vậy thỉnh thoảng bố mẹ vật tay chân với con thường ‘bị’ thua). Các em lưu ý, vì trò chơi cần tới sức bền, sức mạnh của chân và tay - trước khi chơi cần khởi động (cho chân và tay) để tránh chấn thương. Khi bàn tay hoặc bàn chân đã bị đối phương đè chạm mặt bàn, trọng tài cần hô (thắng) kịp thời, để lâu sẽ đau tay các em” 43 Ngoài vật tay, vật chân, còn có trò đẩy tay, đẩy chân. • Đẩy tay : Vẽ một vạch làm ranh giới về phía sau, tính từ gót chân mỗi người. Hai người đứng quay mặt vào nhau, đưa hai tay về phía trước. Lòng bàn tay người này áp vào lòng bàn tay người kia. Sau khi nghe hiệu lệnh cả hai đều phải ra sức đẩy người trước mặt mình sao cho một trong hai chân của họ trụi lui ra khỏi vạch là thắng. Trò chơi này có thể chơi hai người hay nhiều người chia phe mà đẩy. Bên nào có số người bị đẩy ra khỏi vạch nhiều hơn thì bên đó thua.
42 43
3.(34) Tác giả tập sách lưu ý các em khi chơi
57
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
• Đẩy chân : Hai người hay nhiều người cùng ngồi xuống đất. Hai chân hơi co lại. Lòng bàn chân người này áp vào lòng bàn chân người kia, hai tay chống lên thắt lưng. Khi nghe hiệu lệnh, cả hai phải cố sức đẩy cho người kia té ngã ngửa ra thì coi như bị thua. • Đạp nước: Trò đạp nước hoàn toàn khác về cách chơi. Nghĩa là hai hay nhiều người chia phe, hai tay chống ra phía sau lưng trong tư thế ngồi, hai chân co lên, đặt hai bàn chân của mỗi người vào nhau cách mặt đất càng cao càng tốt, tùy theo quy ước và hai bên cứ đẩy qua, đẩy lại y như đạp guồng nước. Ai mỏi, thả chân rơi xuống đất trước là thua.
(Tranh Đông Hồ)
58
8 / 2019
29. ĐẨY GẬY 45
• Địa điểm – Đối tượng:
“Khu đất rộng, bằng phẳng. Trò này các em nam rất thích. Tuy nhiên các em
cần tránh nóng nảy, cay cú dẫn đến phạm lỗi dễ gây chấn thương cho bạn.
Trước khi chơi ( *Trò chơi: Một cách khác ) cần phải khởi động toàn thân, chọn
những bạn khỏe làm ngựa…”
Đẩy gậy gần giống như trò chơi kéo co, nhưng thay vì cả nhóm ra sức kéo
đối phương về phía mình thì đẩy gậy làm ngược lại, đẩy đối phương lùi ra mà
phương tiện là cây sào dài. Mỗi bên bám vào cây sào để đẩy. Bên nào bị đẩy
lùi ra phía sau và té ngã thì bị thua.
* Một cách khác: mà trẻ con thường gọi là đẩy tướng hay chém tướng : Chia ra mỗi bên mười người. Năm người bỏ giả làm ngựa. Còn năm người kia ngồi trên lưng làm chiến binh, hai chân co lên không được chấm đất. Ngựa và chiến binh của hai bên sắp thành hàng dọc, đối mặt nhau. Khi nghe hiệu lệnh, các chiến binh hai bên đều co chân lên khỏi mặt đất, hai tay cùng nắm chặt cây sào dài và ra sức đẩy. Bên nào bị ngã ngựa dù chỉ một chiến binh thôi cùng bị coi như thua (khi một người ngã thường kéo cả nhóm ngồi trên lưng ngựa ngã theo) Trò chơi này trẻ con rất thích bởi tính tập thể, các động tác lùi tiến giữa ngựa và chiến binh phải thật khớp. Chỉ cần một động tác làm ngược lại với nhóm là bị hỏng ngay.
45 46
3.(46) Lưu ý của tác giả tập sách với các em trước khi chơi
59
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
30. THỎ VÀ CÁO 46
• Mục đích chơi:
Rèn luyện phản xạ nhanh, khéo léo.
Phát triển ngôn ngữ.
Phù hợp với trẻ mầm non
* Luật chơi:
Mỗi chú thỏ (một trẻ) có một cái hang (một trẻ khác đóng). Thỏ phải nấp vào
đúng hang của mình. Chú thỏ nào chậm chân thì sẽ bị cáo bắt hoặc chạy về
nhầm hang của mình sẽ bị ra ngoài một lần chơi.
• Cách chơi: Cô giáo sẽ chọn một trẻ làm cáo ngồi rình ở góc lớp. Những trẻ còn lại làm thỏ và chuồng thỏ. Cứ mỗi trẻ làm thỏ thì sẽ có một trẻ làm chuồng. Trẻ làm chuồng chọn chỗ đứng của mình và vòng tay ra phía trước đón bạn khi bị cáo đuổi bắt. Trước khi bắt đầu chơi, cô giáo hãy yêu cầu các chú thỏ phải nhớ đúng chuồng của mình. Vào trò chơi, các chú thỏ nhảy đi kiếm ăn, vừa nhảy vừa giơ bàn tay lên đầu vẫy vẫy (giống tai thỏ) vừa đọc hoặc hát ca khúc phổ thơ bài thơ:
Chú thỏ con
Đang rình đấy
Tìm rau ăn
Thỏ nhớ nhé
Rất vui vẻ
Chạy cho nhanh
Thỏ nhớ nhé
Kẻo cáo gian
Có cáo gian
Tha đi mất.
Khi đọc hết bài thì cáo sẽ xuất hiện, cáo “gừm, gừm” đuổi bắt thỏ. Khi nghe tiếng cáo, các chú thỏ hãy chạy nhanh về chuồng của mình. Những chú thỏ nào bị cáo bắt đều phải ra ngoài một lần chơi. Sau đó, các trẻ đổi vai chơi cho nhau.
46
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
60
8 / 2019
61
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
31. PHÁ CỖ CÙNG ÔNG GIĂNG 47
• Lời của bài đồng dao:
Ông giẳng ông giăng
Đừng để trâu ăn lúa
Xuống đây chơi với chị
Mới gọi cha ời ời
Chị giải chiếu bị
Ông giẳng ông giăng
Cho ông giăng ngồi
Xuống chơi với tôi/ có bầu có bạn
Có nồi cơm nếp
Có oản cơm xôi/ có nồi cơm nếp
Có nệp bánh trưng
Có nệp bánh trưng/ có lưng hũ rượu
Có lưng hũ rượu
Có chiếu bám đu/ thằng cù xí xoại
Cho ông giăng xơi
Bắt trai bỏ giỏ/ cái giỏ ẵm em
Ông giẳng ông giăng
Đi xem đánh cá/ đem rá vo gạo
Xuống đây chơi với chị
Có gáo múc nước/ có lược chải đầu
Và mời chú cuội
Có trâu cày ruộng/ có muống thả ao
Mang trâu về theo
Ông sao trên trời…
• Nội dung và cách chơi: Đêm trăng tỏ, nhất là đêm trung thu, trước sân nhà, sân đình làng, hoặc ô đất rộng trống trải, trẻ nhỏ trong làng cùng góp sắm trái cây, bánh kẹo, hoặc đồ ăn… làm bàn cỗ đón trăng, chị Hằng, chú cuội. Trẻ nắm tay nhau vòng tròn mâm cỗ vừa nhảy, chaỵ vòng quanh vừa hát… khi nào mệt thì phá cỗ. Tác giả tập sách tặng các em khúc đồng dao: Ông giẳng ông giăng, phù hợp cho các em đêm trăng rằm vừa hát vui chơi vừa phá cỗ cùng chị Hằng, chú Cuội. ( Ca khúc đạt giả A chương trình Tuổi đời mênh mông của VTV3 )
47
Tác giả tập sách sưu tầm
62
8 / 2019
63
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
32. ĐẤU VẬT
* Đối tượng – Địa điểm: Đấu vật rất phổ biến ở nhiều hội xuân miền Bắc và miền Trung. Trong hội làng Mai Động (Hà Nội) có thi vật ở ngay trước bãi đình làng. Các đô vật ở các nơi kéo về dự giải rất đông. Làng treo giải vật gồm nhất, nhì, ba và nhiều giải khác. Trò đấu vật được các em trai rất thích. Hiện nay đã có 1 số lò vật cho các em gái (Hà Tây cũ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Bình Định…) * Chuẩn bị: Trong lúc vật, các đô vật cởi trần và chỉ đóng một cái khố cho kín hạ bộ. Cởi trần cốt để đôi bên không thể nắm áo, nắm quần nhau gây lợi thế cho mình được. Khố các đô vật phần nhiều bằng lụa, nhiều màu. Trước khi vào vật, hai đô vật lễ vọng vào trong đình. (Lễ phải có bài qui định riêng). “Đấu vật thường được đưa vào phần Hội trong các lễ hội có đặc thù riêng. Sân bãi được trang trí cờ xí, thảm đỏ, trống hoặc các nhạc cụ khác… rất hấp dẫn. Vật dễ gây chấn thương khi va chạm, do đó các em tham gia trò chơi này cần phải được hướng dẫn chu đáo về LUẬT, tính kỷ luật, tinh thần thượng võ. Góp phần rèn luyên nhân cách, tránh cay cú, ăn thua, trả thù”. * Cuộc thi bắt đầu: Các đô vật lên lễ đài. Sau một hồi khua chân múa tay để rình miếng nhau, họ mới xông vào ôm lấy nhau. Họ lừa nhau, dùng những miếng để vật ngửa địch thủ. Với miếng võ nằm bò, có tay đô vật nằm lì mặc cho địch thủ đẩy mình, rồi bất thần họ nhỏm đứng dậy để phản công. Thường thì giải ba được vật trước, rồi đến giải nhì và sau cùng là giải nhất. Mỗi một giải vật xong, người chúng giải được làng đốt mừng một bánh pháo. (nay không được đốt pháo, làng có nhiều hình thức khen thưởng khác nhau tùy hoàn cảnh…). Hội đấu vật hiện nay là sân chơi cho các trẻ em ở các tỉnh có truyền thống (vật trẻ em) như Hà Nội, các huyện Hà Tây cũ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ… Trò chơi dân gian Việt Nam – Trang tin điện tử Phòng Giáo dục Huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Tác giả tập sách dặn dò các em khi tham gia trò chơi này.
64
8 / 2019
65
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
33. DÊ MẸ TÌM CON
( Còn gọi là trò chơi: Hú dê dê về nhà mẹ ) Trò chơi này phổ biến ở nhiều làng quê thuộc khu vực 3 tỉnh thuộc Bình Trị Thiên (cũ). Trẻ em tuổi mầm non và nhi đồng rất thích trò chơi này. Bài đồng dao Hú dê, dê về nhà với mẹ và trò chơi Dê mẹ tìm con, do nhóm các nhà nghiên cứu Trần Hoàng sưu tầm được ở xã Cảnh Dương huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. *Cách chơi: Số trẻ tham gia: 7 – 9 em *Địa điểm: Trong nhà, ngoài sân rộng. *Tổ chức trò chơi: Vào cuộc một em đóng vai dê mẹ; một em đóng vai sói, số còn lại đóng dê con. Dê con phải tìm nơi kín đáo trong nhà, ngoài sân để nấp, sao cho sói không nhìn thấy. Dê mẹ ngồi một nơi ( hoặc chạy đi chạy lại ) gọi các con bằng bài đồng dao: Hú dê dê Về nhà mẹ Mẹ cho bú Chú cho ăn Đừng có đi đâu mà lạc đường lạc xá… Câu cuối cùng dê mẹ đọc kéo dài. Dê con nghe tiếng mẹ gọi thì nhanh chân rời chỗ nấp, chạy ra chạm vào tay mẹ, làm sao cho sói không bắt được. Nếu bị sói bắt, dê con sẽ bị loại. (Tặng các em khúc đồng dao: Bê giăng bê hoa để các em có thể hát trước và sau khi chơi trò này rất phù hợp)
1.(348) Người lớn ( bà, mẹ chị…) có thể cùng chơi với các em trong vai “dê mẹ”. Đơn giản hơn, trò chơi chỉ có một em đóng vai “dê mẹ”. Dê con đặt ngón tay mình vào tay dê mẹ. Bài hát chấm dứt, ai không rút tay ra kịp; bị dê mẹ nắm lấy ngón là thua.
66
8 / 2019
67
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
34. CHƠI BẬP BÊNH Trò chơi bập bênh rất quen thuộc với trẻ em, nhất là tuổi mầm non. Cầu bập bênh có thể bằng gỗ, có thể bằng nhựa, nhưng dù vật liệu gì cũng phải có tay vịn (2 tay) cho trẻ. Vị trí cầu chơi bập bênh có nhiều trong trường mầm non, tiểu học, công viên hay khu vui chơi công cộng. Tùy từng lứa tuổi mà người lớn lắp đặt độ cao thấp khác nhau nhằm đảm bảo an toàn cho trẻ. Khi chơi: có thể 2 em 2 đầu bập bênh hoặc có thiết bị cầu bập bênh cho mỗi đầu 2,3 em. Khi có hiệu lệnh trẻ dùng chân của mình nhún xuống đất để cầu bật lên bật xuồng, miệng hát bài đồng dao hoặc cười đùa hò hét vui vẻ… “Tác giả tập sách sưu tầm
68
8 / 2019
69
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
70
8 / 2019
71
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
36. ĐI CÀY
(Có nơi gọi là chơi khăng) * Đối tượng – Địa điểm: Nam, nữ đều có thể tham gia, nhưng phần lớn nam chiếm tỉ lệ nhiều hơn. Trẻ em độ tuổi từ 10 – 15 có thể tham gia được. Đôi khi thanh niên 17 – 18 tuổi cũng chơi trò chơi này. Sân chơi là một bãi đất rộng, có khi phải đến một sào đất cuộc chơi mới phát huy hết khả năng đánh cầy của từng thành viên tham gia. Trước tiên, chọn trên mặt bằng của bãi đất, nơi đất cạn (cứng nhất) khoét một cái lô. Lô cầy được khoét sâu xuống tạo với mặt phẳng sân bãi một góc chừng 30 độ, rộng hơn đường kính của con cầy chút ít, sao cho vừa lọt cầy con, hoặc cầy mẹ. * Chuẩn bị bộ cầy: Bộ cầy gồm hai thanh gỗ, một thanh ngắn gọi là cầy con dài chừng 12 – 15 cm đường kính chừng 3 – 3,5 cm thẳng, nếu dùng các loại cây duối, ổi, xoài thì lột vỏ hoặc gọt đẽo cho tròn và thẳng, cầy mẹ kích cỡ bằng cầy con nhưng dài hơn, chừng 30 cm là vừa. Nếu bộ cầy dùng cho thanh niên thì có thể dài hơn, nặng hơn, to hơn. Nghĩa là phải vừa tay nắm, phù hợp với lứa tuổi là được. Trò chơi thường diễn ra trên bãi đất làng, nơi trống trải, có thể quan sát được đường đi của cây cầy con khi đối phương cầy lên khỏi lô cầy. * Cách chơi: Trước khi tiến hành chơi cầy, thường chọn người để bắt phe, sao cho tương quan lực lượng giữa hai đội cân bằng nhau thì cuộc chơi mới hấp dẫn. Để giành quyền cầy trước, mỗi đội cử ra một em thi khắc cầy. Tay phải nắm cầy mẹ, khắc vào cầy con, sao cho thăng bằng khi khắc để có số lượng khắc nhiều nhất mà cầy con không rơi xuống đất. Em nào khắc cây cầy con trong không gian được nhiều lần, em đó giành quyền cầy trước cho phe mình. Cách chơi chia làm 3 bước: Bước 1: Cầy. Cầy là cách dùng cầy con gát ngang trên miệng lô, hai tay nắm cầy mẹ, cúi xuống dùng lực thật mạnh cầy (hất) cầy con ra khỏi lô càng xa càng tốt. Đôi khi trẻ em cầy xa đến 30 mét, và cầy con bay lơ lửng trên không trước khi rơi xuống đất. Nếu trong lúc cầy con bay lơ lửng bị đối phương chụp được, xem như đã loại được một thành viên của đội bạn. Sau khi cầy xong, gác cầy mẹ ngang lô, đối phương nhặt cầy con tại vị trí rơi xuống, đứng thẳng ném về lô cầy sao cho cầy con đụng nhằm cầy mẹ. Nếu ném trúng, xem như loại được một thành viên đội bạn. Nếu ném không trúng, bắt cầy trên không không được, cuộc chơi được tiếp tục sang bước thứ 2. Bước 2: Phạt. Trẻ chơi dùng tay thuận (tay phải hoặc trái) nắm cầy mẹ và kẹp cầy con, đứng ngay tại vị trí có đường kẻ cách lô chừng 2 mét, lia cầy con lên, đồng thời vung tay đánh thật mạnh cầy mẹ vào cầy con làm cho cầy con bay lên không và rơi tại một điểm 72
8 / 2019
nào đó trên sân, càng xa càng được cho là chơi hay, chơi giỏi. Đối phương nếu chụp được cầy con, xem như loại khỏi cuộc chơi được một bạn. Nếu chụp không được, tại vị trí cầy con rơi ném về lô, sao cho càng về sát lô càng tốt. Nếu khi ném cầy con về lô cách khoảng chưa bằng độ dài của thân cầy mẹ, đo từ miệng lô đến điểm rơi của cầy con, như thế xem như người chơi bị loại. Nếu ném cầy con về cách xa lô, trẻ chơi dùng cầy mẹ đo từ vị trí cầy con rơi về lô, mỗi lần đo thân cầy mẹ được tính 5 điểm. Cuộc chơi được chuyển sang bước 3, quan trọng và quyết định để tính điểm. Bước 3: Gà. Trẻ chơi cầy đặt cầy con dọc theo lô sao cho một đầu nhô lên tạo với mặt đất chừng 30 – 40 độ, đoạn dùng cầy mẹ khỏ vừa phải vào đầu nhô lên của cầy con, cầy con bay lên xoay tròn nhiều vòng, người chơi dùng cầy mẹ đánh thật mạnh vào cầy con, sao cho cầy con bay ra xa, càng xa thắng lợi càng lớn nếu như đối phương không chụp được cầy con. Chụp được xem như bị loại đồng thời mất tất cả số điểm đã đạt được trước đó, phải làm lại từ đầu. Tại vị trí cầy con rơi xuống, trẻ tiến hành đo cứ mỗi chiều dài cây cầy được tính 5 điểm. Cứ như vậy điểm đạt đến số đã quy ước trước, xem như thắng cuộc. Cuộc chơi luân phiên thay đổi do các thành viên bị loại, hết phe này cầy, đến phe khác. Cứ thế. Phe nào thua thường chịu một số hình thức phạt như: phải đi lên đồi lùa bò xuống triền, đuổi trâu bò không cho chúng đến gần hoa màu phá hại hoặc ăn phần ngọn: rau lang, lúa của người dân…hoặc đến trưa phải về nhà mang cơm lên cho nhóm mục đồng ăn trưa tại rẫy… Theo tài liệu của nhà nghiên cứu VNDG Võ Văn Hòe
73
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
KỊCH BẢN QUẢNG BÁ TRÒ ĐỒNG DAO TRÊN TRUYỀN HÌNH
CHÀO ÔNG RẮN ĐI ĐÂU Nhạc sĩ Trịnh Tuấn Khanh (Theo tài liệu của Nhà nghiên cứu VNDG Minh Khôi)
Thể loại: Trò chơi cho trẻ em (kịch bản Truyền hình – Cố vấn : NS Trần Hồng,
Đạo diễn: Rạng Đông - Nghệ sĩ UT Đỗ Linh và nhóm trẻ mục đồng thể hiện. Phim đã đạt Huy chương vàng tại LHTH toàn quốc năm 2000).
Mục đích: Khai thác – Bảo tồn – Truyền dậy - Quảng bá trò đồng dao VN
(Trăng đẹp, làng quê, đám đông con nít cầm đèn đuốc chạy lăng xăng gọi ông ý ới. Đêm trăng tại sân đình làng, ông già tóc bạc phơ, cầm đèn đứng chờ các cháu. Ông già ngồi giữa đám đông). Ông già: Chào các cháu! Đã mấy mươi năm xa thời thơ ấu nhưng trong ký ức ông, hình ảnh trò chơi đồng dao ngày nào hình như vẫn còn nguyên vẹn những cảm xúc hồi hộp và thích thú nhiều lắm các cháu ạ! Mỗi miền Bắc, Trung Nam đều có những trò chơi đồng dao cùng tên nhưng khi chơi có khác nhau. Ở miền Trung mình, có nhiều trò đồng dao rất ngộ nghĩnh vui nhộn như đúc cây dừa, vuốt nổ, bắc chưn thang, u tù, tập tầm vông, vè con nít…Hồi nhỏ ông và bọn trẻ trong làng chơi đồng dao nhiều lắm, hôm nay, các cháu muốn cùng ông chơi trò Chào ông rắn đi đâu, ừ! được lắm! thấy các cháu đông vui quá, ông ao ước bao giờ trở lại ngày xưa… Hình ảnh chồng mờ từ ông già sang một cậu bé (ông già hồi còn bé). Tái hiện cảnh đám trẻ, đứa ở trần, đứa quần cụt, tóc trái đào, chân đi đất, từng tốp đang lấy lá mít để kết làm mũ, lấy cục than đen vẽ lên mo cau để làm mặt hình con cọp và con rắn, mấy đứa trẻ giành nhau mặt nạ cọp và rắn để thử lên mặt mình. * Địa điểm: Vùng đất rộng, có cây cối, có suối hoặc sông bên ngồi đình cổ kính. Một trẻ: Tau làm cọp Vài trẻ: Mi nhỏ con không làm cọp được. Một trẻ: Tau làm đầu rắn Vài trẻ: Tau làm được…(náo nhiệt, vui!) * Chuyển cảnh: (Trở lại cảnh đầu phim) Ông già: Ngày ấy ông nhỏ con, ốm yếu nên chẳng bao giờ được làm cọp hoặc đầu rắn, tuy vậy làm thân rắn cũng vui lắm, nhất là mỗi khi phe ta giành chiến thắng. Một trẻ: Vậy ở trò này ông thường ở vị trí nào ạ! Ông: (cười, vuốt râu) chính thân hình mỏng con nên ông rất nhanh nhẹn nên được làm 74
8 / 2019
rắn con.
* Chuyển cảnh: Đám trẻ ngày xưa chơi trò chơi chào ông rắn đi đâu, 15-20 trẻ ôm eo nhau. Trẻ đứng đầu là đầu rắn có nhiệm vụ điều khiển cả thân mình rắn xoay chuyển tứ phía để bảo vệ rắn con mỗi khi cọp chạy lui chạy tới định chộp rắn con. Cọp: Mặt đeo hình cọp bằng mo cau Thân rắn: Mỗi trẻ mặt đều mang mo cau hình rắn hoặc đầu đội mũ lá mít có lưỡi rắn dài. Rắn con: Đứng riêng một mình bên cạnh thân rắn, mặt mang mo cau vẽ đầu rắn bằng than đen. Rắn đang cuộn mình di chuyển quanh rắn con thì cọp nhảy ra chắn đầu. Trong quá trình hỏi đáp cọp và rắn luôn vận đông, một bên rình bắt rắn con, một bên uốn lươn che chở rắn con Cop: Chào ông rắn đi đâu Đầu rắn: Đi bứt râu ông thầy Cọp: Về làm chi Đầu rắn: Về làm thuốc Cọp: Thuốc cho ai Đầu rắn: Thuốc cho con Cọp: (Cười lớn) khà! Khà! Khà! con lên mấy Trẻ sau đầu rắn: con lên một Cọp: Con lên mấy Trẻ thứ hai sau đầu rắn: Con lên hai Cọp: Con lên mấy Trẻ thứ ba sau đầu rắn: Con lên ba (Cọp tiếp tục hỏi con lên mấy cho đến khi trẻ thứ bảy trả lời con lên bảy thì ngay lúc ấy cọp cười lớn và hô to) Cọp: Cọp nhảy vô chuồng, thuồng luồng đứt đuôi. (Cọp vờn qua vờn lại, lựa thế nhảy vào chụp rắn con. Đầu rắn uốn lượn chuyển động vừa bảo vệ rắn con vừa tìm cách quấn lấy cọp. Cuộc chơi mỗi lúc một hấp dẫn với tiếng reo hò ầm ĩ. Một số trẻ đứng ngoài đánh trống ếch và cũng reo hò thêm cho đến khi rắn cuộn được cọp vào vòng tròn của rắn). * Cảnh trở lại đầu phim Một trẻ: Thưa ông! Cuộc chơi khi nào phân biệt được thắng thua Ông già: Cháu nào đóng vai cọp có nhiệm vụ xông vào giữa vòng vây để vồ cho được rắn con. Cháu đóng vai đầu rắn có nhiệm vụ điều khiển cả thân mình rắn xoay chuyển tứ phía để bảo vệ rắn con. Những cháu đóng vai thân rắn, đuôi rắn phải nắm tay nhau thật chặt để khỏi bị đứt đoạn sẽ tạo cơ hội cho cọp nhảy vào bên trong chụp rắn con. Nếu để cho cọp chụp được rắn con thì kể như rắn bị thua, ngược lại nếu bên rắn cuốn được cọp 75
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
vào trong thân mình thì cọp bị thua. (chuyển cảnh) Cảnh trẻ chơi đồng dao Tốp rắn: A,a,a… cọp bị thua rồi, thua rồi, cọp làm ngựa đi Cọp khom lưng cõng rắn con, đám trẻ con nối đuôi nhau tay đặt lên vai người trước, rắn con và đám trẻ một tay cầm ngọn lau phất phất cùng hát: Nhong nhong nhong rắn ông đã thắng Cọ nhảy vô luồng cõng rắn làm ông Nhong nhong xuống sông tắm mát Gọi trâu bò chú cọp phải lo… Rồng Rắn: Tâm Nguyên 11 tuổi Đà Nẵng Đám trẻ làm ngựa chạy vui chơi vài vòng, rồi cùng nhau nhảy ùm xuống song tắm. Chuyển cảnh đầu phim: Đám trẻ: Vỗ tay ầm ĩ cùng hô: Vui quá! Vui quá! Ông già: Cảm ơn các cháu, ông muốn dặn thêm các cháu một ý nữa: khi chơi chú ý phải trông trâu bò, đừng để nó phá hoại hoa màu của bà con nông dân. Chơi xong phải nghỉ một lúc cho ráo mồ hôi mới được tắm, tắm ngay dễ bị cảm, bây giờ ông cháu mình cùng chơi nhé! Cháu nào xung phong làm cọp? Vài trẻ: Cháu ạ! Cháu ạ! Ông già: Cháu này lớn nhất làm cọp, cháu này làm đầu rắn, cháu này có vẻ lanh lợi đây (cười) làm rắn con. Nếu thắng được cưỡi ngựa đấy… (Tất cả vỗ tay ầm ĩ, nhạc Intro bài đồng dao, đám trẻ vừa chơi vừa hát, ông lão đi lại rất khoái trí, hết một lần). Ông già: Các cháu chơi vui lắm. Một trẻ: Tối mai ông lại ông lại hướng dẫn chúng cháu chơi một trò đồng dao khác ông nhé! Ông già: ( Cười: khà! Khà! Khà! (vuốt râu): ờ ờ ờ…mấy mươi năm đã trôi qua, bây giờ phần lớn các cháu đều chơi trò chơi điện tử hoặc các trò chơi, đồ chơi mang tín bạo lực, thậm chí cá độ, cờ bạc ăn tiền mà quên mất các trò chơi đồng dao dân dã mà cha ông ta đã để lại. Nó rèn cho các cháu phản xạ nhanh nhẹn, rèn luyện thể lực mà mang tình nhân ái. Tối thứ bẩy tuần tới ông lại bày cho các cháu một trò đồng dao khác. Các cháu 76
8 / 2019
có đồng ý không? Đám trẻ: Vỗ tay kéo dài… chúng cháu cảm ơn ông, cảm ơn ông ạ! BẢNG CHỮ CUỐI
77
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
78
8 / 2019
CHƯƠNG II TRÒ CHƠI THIÊN VỀ TRÍ TUỆ 1. CHIM BAY
Các em đứng quanh vòng tròn, hai tay buông xuôi, cách nhau khoảng 30-40 cm, số người không hạn chế. Người trưởng trò đứng giữa. * Cách chơi : Người trưởng trò hô lời và làm động tác gì hợp lý thì các em làm đúng theo ngay, không chậm trễ. Còn khi trưởng trò hô lời không đúng với động tác thực tế thì không làm theo. Ví dụ. Trưởng trò: Hô : Chim bay - Giơ hai tay lên Tất cả: Hô theo : Chim bay - Giơ theo : Hai tay đồng loạt, kịp thời Trưởng trò: Hô : Cò bay - Giơ hai tay lên Tất cả: Hô và làm theo đồng loạt (em nào hô và giơ tay chậm là hỏng) Trưởng : Bò bay - Không giơ tay Nếu em nào quen tay quen miệng hô theo : Bò bay và giơ tay lên là hỏng, là sai. Chơi trò này đòi hỏi các em phải thính tai, nhanh mắt và miệng, phản ứng linh hoạt kịp thời. Còn trưởng trò luôn lưu ý đưa các em vào sự quen thuộc dễ dãi (một loạt đúng, bất chợt một lần sai- hoặc một vài lần sai liền lại chơi đến đúng - hoặc cứ lần sai, lần đúng đều đều một lúc lại đến sai… tức là gây bất ngời lúc đang quen)
79
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
80
8 / 2019
81
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
82
8 / 2019
83
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
3. BỊT MẮT BẮT DÊ
* Đối tượng: Cho các em từ 6 đến 15 tuổi. * Địa điểm và cách chơi: Trò chơi này diễn ra ngoài trời trong sân bãi. Cần một em xung phong làm Dê và một em xung phong làm người bắt dê, hoặc có thể oẳn tù tì. Còn tất cả các em có mặt đứng quây thành một vòng rộng khoanh vùng khu vực tìm bắt dê và dê hoạt động. Mọi người cùng hát vỗ tay bài đồng dao bịt mắt bắt dê Em làm Dê và em bắt dê đều được dùng khăn buộc bịt kín cả hai mắt. Khi em Bắt dê hô “Xong” thì cuộc chơi bắt đầu. Dê di chuyển chỗ nào tùy ý, nhưng thỉnh thoảng phải kêu lên “be”. Em bắt dê căn cứ vào tiếng kêu, tiếng bước chân di chuyển của Dê và sự phán đoán của mình lần tìm bắt Dê. Dê ngoài tiếng kêu, bắt tiếng động và đoán định hướng có thể bị đón bắt mà tìm cách tránh. Vì cả hai bên bắt và tránh bị bắt đều bị bịt kín mắt nên đôi tai và khối óc của hai em phải được huy động tối đa để chơi sao cho đạt hiệu quả. Các em ở ngoài vừa xem vừa vui cười “Mách bảo”, “gợi ý” để làm lạc hướng di chuyển của Dê và Người bắt, bị bắt thì lại chơi ván khác. Có thể thay người làm Dê hay Người bắt bằng các em khác thấy mình thích. Gởi các em bài hát đồng dao; Bịt mắt bắt dê – các em có thể hát trong khi chơi cho náo nhiệt…(Tranh minh họa: Tâm Nguyên 11 tuổi – Đà Nẵng)
84
8 / 2019
85
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
4. PHÁO ĐỀN
(Hay pháo nổ, pháo nang...) * Nguyên liệu và cách làm pháo: Mỗi em tìm một cục đất sét tốt, mịn, không có cát sạn, dẻo. Tập trung tại một gốc sân, một ngã ba đường, một ngõ xóm, dùng đất này, mỗi em nặn cho mình một “cối pháo” to nhỏ tùy khả năng. Cối pháo này hình tròn, có thành cao vừa phải, đặc biệt đáy cối pháo được miết thật mỏng. * Cách chơi: Sau khi đã nặn xong, tất cả toán chơi đứng dậy, cầm cối pháo giơ cao, cùng đồng thanh xướng : “Pháo nổ, pháo nang, - cả làng chịu chưa?” Khi xướng đến tiếng chưa thì cùng nện cối pháo úp xuống mặt sân, mặt đường…. thật mạnh. Bị đập mạnh, không khí trong lòng cối pháo dồn ép lại phá vỡ đấy để thoát ra, làm đáy cối pháo bị phá vỡ và phát ra một tiếng nổ. Căn cứ trên chỗ đáy pháo bị nổ văng đi, các em khác nặn một miếng đất vừa kín “đền” vào. Như vậy pháo của em nào nổ to, chỗ đáy bị phá vỡ lớn thì được đền nhiều đất- còn pháo của em nào không nổ thì không được gì. Cuộc chơi kết thúc khi các em đã chán hoặc nhiều em bị “đền” hết số đất mình có, cái tài trong trò này là ở chỗ nặn được cối pháo to, miết đáy pháo thật mỏng, nện sao cho khỏe và miếng cối pháo úp đều xuống mặt đất để pháo nổ to và đáy vỡ rộng.
1.(403)
86
8 / 2019
5. ĐÁNH KHẼ (Khẻ) *Chuẩn bị:
Kẻ lên mặt đất một hình vuông, mỗi cạnh 0,5 mét. Hai người chơi ngồi 2 bên đối diện nhau 0,5m qua hình vẽ. *Cách chơi: Đặt một đồng tiền đồng vào giữa hình vuông. Người chơi (được đi trước) dùng một đồng tiền khác đánh vào đồng tiền (tiếng trống trò, nói theo người Bắc Quảng Bình là “Khẽ hay” “Khẻ”) Đồng tiền bị “Khẽ” bị hất ra khỏi biên giới của hình vuông thì người đánh được “ăn”; và người chơi thứ 2 lại phải bỏ đồng tiền khác vào thay thế để cho người thứ nhất được ‘Khẽ”. Nếu người thứ nhất không “khẽ” được đồng tiền ra ngoài hình vuông thì phải thế tiền của mình vào để người thứ 2 “khẽ” 1.(426)
87
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
6. CỜ ĐI ĐƯỜNG *Cách chơi :
Hai trẻ chơi với nhau, mỗi trẻ 2 quân cờ (khác nhau: 2 hòn sỏi, 2 hạt gấc). Vẽ bàn cờ và dàn quân, (xem hình vẽ). Hai trẻ ngồi hai phía bàn cờ. Bắt đầu chơi hai trẻ “oẳn tù tì” để chọn người đi trước. Mỗi bên chỉ đi được một quân của mình, mỗi lần được đi một bước theo đường kẻ trên bàn cờ, không được đi vào hoặc nhảy qua chỗ đã có quân đóng, không được đi vào đường cấm (không có dường kẻ). Ai bị chặn đường không còn lối đi là thua một ván. Ai “ăn” được 2 quân của bạn là thắng, chơi ván khác lại dàn quân như ban đầu, người thắng cuộc đi trước.
1.(442)
88
8 / 2019
7. CỜ HÙM * Đối tượng chơi: Cho các em từ 6 đến 15 tuổi Hai em : Một làm Hùm – một làm quân săn
Bàn cờ Hùm là một hình vuông dọc ngang đều kẻ 5 đường thẳng chia lòng bàn cờ thành 4 x 4 = 16 ô vuông nhỏ. Hai đường chéo góc lớn và 4 đường chéo góc nhỏ phân chia các ô vuông nhỏ thành các hình tam giác, Hang Hùm là một hình vuông nhỏ có hai đường chéo góc chia thành 4 ô tam giác, nằm sát giữa cạnh B. Quân gồm 16 hòn sỏi, mẩu que… Hùm là một hòn sỏi, mẩu que.. to hơn. * Chú ý : Khi ăn quân, Hùm được nhẩy hai nước (tức nhẩy qua quân được ăn) Quân bày kín các điểm gặp nhau của các đường thẳng, đường chéo trên 4 cạnh ngoài (A,B,C,D) Hùm nằm trong đáy hang * Cách đánh : Hùm hay quân săn mỗi lần cũng chỉ đi được một điểm (nước) không có quân thẳng theo cả ngang, dọc, chéo. Quân săn chỉ có vây Hùm đến hết nước đi. Hùm được ăn quân săn khi quân săn nằm ngay trước miệng mình mà không có bạn hộ vệ ngay sau. Quân và Hùm được đi khắp bàn và hang. Quân săn thua khi bị Hùm vổ hết. Hùm thua khi bị vây chặt Hùm ăn được quân săn ở hoa thị giữa bàn (x) Không ăn được quân ở hai bên vì đều có quân bạn bảo vệ
1.(443)
89
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
8. CỜ LÚA NGÔ
* Đối tượng chơi: Cho các em từ 6 đến 15 tuổi Chơi theo kiểu trò chơi : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ * Chuẩn bị: - Một bàn cờ : 8 quân cờ, 4 trắng, 4 đen, hoặc 4 hạt vải, 4 hạt gấc - Vẽ bàn cờ trên sàn nhà hoặc bàn và dàn quân * Cách chơi : Hai trẻ ngồi hai phía cạnh bàn cờ. mỗi trẻ nhận một loại quân, rồi “oẳn tù tì” để chọn người đi trước. Mỗi bên được đi một quân của mình, đi theo đường kẻ, vừa đi vừa đọc: “Lúa; ngô, khoai, sắn, đỗ” (mỗi bước đi đọc một từ). Đi một bước thì đọc “lúa”. Đi bước thứ hai thi đọc “ngô”. Đi cả 5 bước đọc cả “Lúa, ngô, khoai, sắn, đỗ”. Khi đi, quân không được đi vượt quá chỗ có quân, đi đến chỗ nào có quân (của bạn) phải dừng lại, mất lượt đi. Đi được đủ 5 bước, đến bước thứ 5 có quân của đối phương thì được bắt quân ấy và chiếm chỗ đứng của quân ấy. Đến lượt bạn khác đi tiếp. Bên nào bị bắt hết quân trước là thua một ván. Sau đó lại dàn quân chơi như ban đầu, ai thắng cuộc ván trước thì được đi trước. 1.(446)
90
8 / 2019
91
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
9. CỜ NGŨ HÀNH * Đối tượng chơi:
Cho các em từ 6 đến 10 tuổi Bàn cờ có thể vẽ trên sân, trên giấp… hai hình chữ thập xếp chồng lên nhau kiểu một ngang một dọc, tạo nên 5 ô vuông với 12 điểm góc (hay nước đi của quân) Bàn cờ và cách bầy quân * Cách chơi : Mỗi bên có bốn quân (hòn, sỏi, mẩu que, viên giấy... miễn sao dễ phân biệt. Mỗi lần mỗi bên được đi một quân nhiều nước nhưng không quá 5, theo thứ tự : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Có thể đi hoặc 1, hoặc 2, hoặc 3 hoặc 4 nước… Tùy ý. Nhưng ăn quân đối phương phải vừa đủ 5 nước (từ Kim.. đến Thổ) - Phải gặp quân đối phương nằm ở điểm Thổ (theo số nước quân mình đi) hoặc chỉ được đi vào điểm không có quân. Được – thua : - Khi đối phương hết quân - Khi quân đối phương hết quân đi Khảo cái : Để xem ai được đi trước. Tùy hai bên : Có thể nhường nhau, có thể “oẳn tù tì” 1.(446)
92
8 / 2019
10. ĐÁNH TAM CÚC * Đối tượng chơi: Cho các em từ 8 đến 15 tuổi Số người chơi : - Tay đôi (hai em) - Tay ba (ba em) - Tay tư (bốn em) * Chuẩn bị: Một cỗ bài tam cúc. Cỗ bài gồm 32 quân, hai bên: - Quân đỏ (16 quân) - Quân đen (16 quân)
Hình vẽ quân đều như nhau, chỉ phân biệt đỏ hay đen ở các dấu đỏ tròn in lên chữ hai đầu quân đỏ. Các quân có như sau: - 1Tướng đỏ (hay tướng ông, tướng điều) -1 tướng đen (tướng bà) - 2 Sĩ đỏ (hay sĩ điều) – 2 sĩ đen (sĩ thâm) - 2 tượng đỏ (hay tượng điều) – 2 tượng đen (tịnh thâm) - 2 xe đỏ (xe điều) – 2 xe đen (xe thâm) - 2 pháo đỏ (pháo điều ) – 2 pháo đen (pháo thâm) - 2 mã đỏ (mã điều) – 2 mã đen (mã thâm) - 5 tốt đỏ (tốt điều) – 5 tốt đen (tốt thâm) * Cách đánh : - Tất cả đều có thể đánh lẻ từng quân một kể cả khi trên bài mình có các phu (cặp) đôi, ba, bốn, năm - Phu đôi : Hai quân đồng loại đồng hoa như : 2 sĩ điều, 2 mã đen, 2 tốt đỏ… (không được khác màu) - Phu ba : Ba quân gần nhau và đồng hoa (đỏ hay đen) theo quy định: Tướng – Sĩ - Tượng và Xe – Pháo – Mã (cùng đỏ hay cùng đen) - Phu bốn: Còn gọi tứ tử gồm 4 quân tốt đỏ hay 4 quân tốt đen. - Phu năm: Còn gọi ngũ tử gồm 5 quân tốt đỏ hay 5 quân tốt đen. Quân hàng trên được quân hàng dưới (Tướng được Sĩ … Tốt đen) 1.(450)
93
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Quân hoa đỏ được quân hoa đen cùng hàng (Xe đỏ được xe đen – bộ ba Xe - Pháo – Mã đỏ được bộ ba Xe – Pháo – Mã đen, Tứ tử đỏ được tứ tử đen...) Cả làng phải ra phu theo lời gọi của nhà cái, nhưng khi lật ai có phu cao hơn cả thì được, các phu kém hàng, kém hoa đều phải (hay trầm). Người được bầy phu của mình ngửa lên trước mặt và được làm cái để gọi đánh phu tiếp. Ăn theo cách này là ăn phu. Còn ai kết là ăn các phu đôi, ba, bốn, năm khi kết thúc ván bài theo quy định từ hàng xe trở xuống, thường chỉ kết hoa đen. Khi cái để kết đôi tốt đen mà bạn chơi có đôi mã đen được ăn thì được đè. Chơi tay đôi thì cả bài trang (trộn) lên rồi chia đôi, mỗi người 16 quân. Chơi tay ba, phải bớt đi 5 quân: Tướng đỏ, tướng đen, 1 sĩ đỏ, 1 sĩ đen, 1 tốt đen. Còn 27 quân chia đều làm ba; bây giờ sĩ đỏ là hàng cao nhất. Chia tay tư, chia cỗ bài làm 4, mỗi phần 8 quân. Các người chơi bài ngồi quây tròn, trông mặt vào nhau. Sau khi trang cỗ bài được để úp sấp ở giữa. Thường vào đầu người hơn tuổi được bắt cái trước. Người này cần lấy một phần cỗ bài lật ngửa lên cho làng biết quân dưới cùng là gì để tính xem ai là cái ván này. Cách tính : Kể từ người bắt cái là tướng, người bên phải là sĩ, người thứ ba là tượng, người thứ tư là xe và lại đén người bắt cái là pháo… Nếu chơi tay ba thì tính từ sĩ là nhất… Nhà nào không có phu hạng cao ra theo lời gọi của nhà cái thì phải tìm quân trầm, thường là những quân lẻ và hàng thấp nhất trong bài, vì thế nên nhiều khi tướng cũng phải “chui” “đi ỉa” Được – thua : Nhà nào được đủ phu là hòa: Chơi tay tư 2 quân, chơi tay ba 3 quân. Ai được thừa quân thì nhà thiếu phải nhận. Nếu có nhà được kết bộ đôi, bộ ba hay tứ tử, ngũ tử (không có kết 1 quân) thì số quân tức được thu là 4 với bộ đôi, bộ ba thông thường, riêng với kết tốt đen được tính gấp rưỡi là sáu quân, tứ tử đỏ là tám quân, tứ tử đen là mười hai quân, nhưng nếu bị đè theo quy định lúc chơi : đôi mã đen hay đôi tốt đỏ đè tốt đen thì nhà kết đền cho nhà đè 12 quân, tứ tử, ngũ tử đen kết bị tứ tử, ngủ tử đỏ đè thì phải đền gấp đôi - những nhà hạ kết tốt đen vẫn được thu số các nhà phải thua kết, kể cả nhà được đè, vì đền phải đè được coi là một ngoại lệ. Kết ngũ tử được, tính gấp hai lần rưỡi là mười quân với ngũ tử đỏ, mười lăm quân với ngũ tử đen và đền cũng gấp đôi.
94
8 / 2019
95
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
12. CHÙM RỤM
* Cách chơi và luật chơi : Tất cả các bạn chơi nắm tay lại và xếp chồng lên nhau. Tay người này xen kẽ tay người kia không được để hai tay của mình gần nhau. Người nào để tay đầu tiên chỉ đặt một tay và cũng được xem là người bị đầu tiên, tay còn lại dùng để chỉ mỗi từ trong bài đồng dao tương ứng với một nắm tay. Tất cả cùng hát. Chùm nụm cùm nẹo Tay tí tay tiên Đồng tiền chiếc đũa Hạt lúa ba bông Ăn trộm ăn cắp Trứng gà trứng vịt Bù xe bù xít Con rắn con rít Nó rít tay này Để từ cuối cùng “này” trúng tay ai thì người đó phải rút nắm tay ra hoặc người chỉ chặt ngang nắm tay của người đó. Lúc này người bị phải chỉ thay cho người đầu tiên vừa hát vừa chỉ các nắm tay các bạn chơi. Cuộc chơi cứ thế tiếp tục đến hết các nắm tay thì trì chơi kết thúc. Trò chơi dân gian Việt Nam – Trang tin điện tử của Phòng Giáo duc Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
96
8 / 2019
97
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
13. HÒ DÔ TA * Đối tượng chơi: cho mọi đối tựng (trò này thường chơi trong sinh hoạt tập thể…) * Cách chơi: Nội dung Hò theo quản trò và làm động tác chèo thuyền * Hướng dẫn: Quản trò hò “Đèo cao” Người chơi “Dô ta” Quản trò “ Nhưng đèo quá cao” Người chơi “Thì ta đi vòng nào” Người chơi “Dô hò là hò dô ta” * Lưu ý: - Thay lời của câu hò vui như : Đường xa, thì mặc đường xa, nhưng đường xa quá, thì ta đi tàu hoặc “ Bài khó, thì mặc bài khó, nhưng bài khó quá thì ta hỏi thầy cô” Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
98
8 / 2019
14. TẬP TẦM VÔNG
*Cách chơi:
Trò chơi này cần 2 người hoặc 3, 4 người chơi. Một người nắm một đồ vật nhỏ
trong một bàn tay, trái hoặc phải (ví dụ: Viên sỏi) và giấu vào sau lưng. Sau đó, người đó đọc to bài đồng dao : Tập tầm vông Tay không tay có Tập tầm vó Tay có tay không Tay không tay có Tay có tay không
Và nắm chặt lòng bàn tay và đưa hai tay ra:
* Luật chơi:
Nếu người chơi bị đoán trúng tay nắm viên sỏi hoặc những người chơi còn lại
không đoán được tay nào nắm viên sỏi thì tùy vào quy định của cuộc chơi có thể bị phạt khác nhau. 1.(437)
99
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
100
8 / 2019
16. ĐÁO TƯỜNG
Đây là trò chơi phổ biến trong các tỉnh thành. Đáo tường chơi rất giản dị, chỉ cần
có hai người là đã gây được bàn đáo. Những người chơi đáo tường thường chọn những bức tường gạch hay bằng đá xếp để chơi.
Người chơi vạch một đường vạch cách chân tường khoảng 4-5 mét và và dùng
đồng xu đạp vào tường (cho nên còn gọi là đáo đập) cho đồng xu văng ra. Nếu đồng xu vằng ra khỏi làn mức thì coi như hỏng và đem đồng xu để sát dưới chân tường, coi như đập có độ dài ngắn nhất ngắn nhất. Những đồng xu đập vào tường mà văng xuống đất còn nằm trên hay nằm gần làn vạch đều được cả. Những đồng nào nằm trên hay nằm gần làn vạch là được ưu tiên chọi các đồng tiền gần vạch kế tiếp, nếu chọi trúng thì được ăn đồng tiền đó, nếu chọi trật thì thôi và đồng kế tiếp đó được chọi đồng gần mức kế bên, nếu chọi trúng thì được chọi tiếp các đồng kế. Cứ như thế người chơi có đồng tiền gần vạch có thể chọi ăn các đồng tiền hỏng để sát chân tường. Xong bàn thì người có đồng tiền hỏng hay gần sát chân tường đi trước. Trò chơi Dân gian Việt Nam. Phan Thanh Hiền-Trần Mạnh Tiến-Huy Trang-Nguyễn Khánh Trâm. Nxb tp Hồ ChÍ Minh 1990. Trang 20
101
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
15. TÙM NỤM TÙM NỊU
*Cách chơi :
2 người chơi, 1 người hát bài “Tùm nu, tùm nịu”
Tùm nu, tùm nịu
Tay tí tay tiên
Đồng tiền chiếc đũa
Hột lúa ba bông
Ăn trộm ăn cắp trứng già
Bù xa, bù xịt
Con rắn, con rít trên trời
Ai mời mày xuống?
Bỏ ruộng ai coi
Bỏ voi ai giữ
Bỏ chữ ai đọc?
Đánh trống nhà rông
Tay nào có?
Tay nào không?
Không ông ông thì bà
Trái mít thì rụng
Khi hát đến câu “Tay nào có? Tay nào không?” thì người đọc nắm một vật đó
trong tay và chìa hai nắm tay. Người còn lại sẽ chọn 1 trong 2 nắm tay.
*Luật chơi :
Chọn đúng được thưởng, chọn sai bị phạt. Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam
102
8 / 2019
103
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
17. GIẤU HÒN, GIẤU HỘT
Trò chơi có tên “Giấu hòn, giấu hột”, nhưng bài đồng dao thì hát khác:
Dú hòn dú hột
Cơm sót (sốt?) cơm nhão
Cá đảo hồng đơn
Cá sơn cá giếc
Cá liệt ăn trầu
Bỏ cau bỏ dú
Dú già dú non
Cầm hòn mà chạy
Tắt hơi đứng lại
Rút ra tay này
Cả đám ngồi thành vòng tròn và chìa một bàn tay ra phía trước. Một trong số
những người ngồi chơi đọc hoặc hát câu đồng dao trên, cứ mỗi hai từ một là rơi vào một bàn tay, cho đến hai từ cuối cùng “Tay này” rơi trúng bàn tay người nào, thì người ấy đứng dậy cầm hòn sạn hay bất kỳ vật gì tương đối lớn, cỡ nắm tay trẻ con, chạy đi tìm chỗ giấu, trong phạm vi quanh sân. Tất cả những người con lại phải úp bàn tay, che mắt lại để không nhìn thấy vị trí giấu hòn sạn. Khi nào người đi giấu quay về chỗ cũ thì mới được mở mắt ra. Lại phải đọc tiếp bài đồng dao để tìm ra “tay này” thứ hai, sẽ có nhiệm vụ đi tìm vật giấu ban nãy. Nếu tìm được thì thắng, tìm không ra thì thua. Thắng thua không có quy định rành mạch, mà cốt yếu là để vui chơi.Trò chơi này cũng được chơi theo cách khác là “Tay này” đầu tiên cầm vật đi giấu, sau đó trở về chỗ cũ để tất cả những người còn lại cùng nhau đi tìm.
Đây là trò chơi chỉ dành riêng cho con gái, nhưng đôi khi các chú nhóc hứng chí
cũng tìm cách xin chị vào chơi. Thường thì chơi trong sân nhà những đêm trăng sáng. 3(68)
104
8 / 2019
105
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
18. CỜ THỔI
Gọi là cờ thổi, bởi sau một ván chơi, người nào thua thì phải khum người thổi bay
hòn sạn ra khỏi vòng tròn nhỏ bên trên ô cờ.
Ô cờ là một hình chữ nhật, kẻ hai đường chéo. Một chiều rộng để trống (không
kẻ vạch), bên trên vẽ vòng tròn nhỏ theo hình vẽ kèm theo.
Cờ thổi chỉ có hai người chơi. Mỗi bên chỉ có hai quân sắp ở 4 góc hình chữ nhật.
Khi chơi, làm cách nào dí được đối phương vào góc để không thể đi được nữa coi như bị thua. Tuy nhiên, khi bắt đầu vào chơi, không được sử dụng 2 quân A1 và B1 để đi nước đầu tiên mà phải đi quân A2 và B2. Vì khi đi A1 hay B1 ở ngay nước đầu tiên, vào giữa 2 đường chéo thì quân bên kia bị thua ngay.
Trò chơi này tuy đơn giản, song rất khó ví được đối phương bởi nước đi ít, mà
mỗi lần chỉ được đi một nước. Ngược lại, có cái vui là bên nào thua thì phải cố sức mà thổi cho bay hòn sạn ra khỏi vòng. Hòn sạn và vòng tròn lớn hay nhỏ là do quy định ban đầu. Tuy nhiên, dùng hơi để thổi bay sạn ra khỏi vòng không phải là điều dễ dàng. Mà nếu thổi đến mức nào đó không được thì bị bôi lọ nghẹ lên mặt, có khi dùng bùn non quẹt lên má, trán…(…) 3.121)
106
8 / 2019
19. TRÒ CHƠI CHO MẸ VÀ BÉ * Mẹ và trẻ vài tháng tuổi
Những trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng tuổi, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên cơ thể, cả danh từ, động từ lẫn tính từ: Mắt mở mắt nhắm, Mắt đen mắt nâu Miệng nói môi cười, Răng trắng, tai nghe, Tóc đen tóc trắng, Tóc ngắn tóc dài, Tay nắm chân đạp… Trẻ chưa biết ngồi có thể cùng mẹ chơi trò: Cất rớ chống rớ, đặt con nằm ấp trên hai chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc: Cất rớ lên! Bỏ rớ xuống! Cá chi? Cá bống! Chống rớ! Cá chi? Cá rô! Chống rớ! Cá chi? Cá hồng! Chống rớ!... Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cưỡi ngựa, hát mà chơi nhún nhảy đong đưa theo khúc đồng dao: Nhong nhong nhong nhong Ngựa ông đã về Cắt cỏ bồ đề Cho ngựa ông ăn Nhong nhong nhong nhong… Mẹ tập cho con chơi mà học, quan sát theo dõi: Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này! Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy… Hai ngó tay nhúc nhích này/ Hai ngón tay nhúc nhích này! Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy!... Và cứ thế mẹ và con chơi cho đến mười ngón… Đồng dao và trò chơi trẻ em – Trần Thị Lai Hồng
107
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
108
8 / 2019
* Mẹ và bé một hai tuổi
Mẹ con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài Vuốt hạt nổ làm quen với vật dụng hằng ngày. Bảo con chắp tay lại, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp nối vô tận Vuốt hạt nổ, đổ bánh xèo Xao xác…quạ kêu Nồi đồng vung méo, cái kéo thợ may Cái guông đắp bờ, cái cờ làng tế Cái ghế để trèo, cái khoèo mót củi Cái chủi tòe loe, cái khe nước chảy Cái xảy xảy rơm, cái nơm đơm cá Cái ná bắn chim, cái kim may áo Cái gáo múc nước, cái lược chải đầu Cần câu câu cá, cái rá vo gạo… Mẹ con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập cho con vỗ tay. Hát mà học vì khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị và cách chơi khó hơn: vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người kia, ban đầu chậm sau nhanh dần. Bài đồng dao cho trò này: Tập tầm vông Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em mút xương Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị hút mật/ em liếm ve Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/ em vỗ tay Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em thâu tiền Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/ em lợp nhà Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi tý/ em tuổi thân Chị tuổi dần/ em tuổi mẹo Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trông thơm/ em trông khóm Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/ em nuôi mẹ Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để dành/ em ăn hết Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào hang/ em chui tuột… Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi Nu na Nu nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi, chăm chú nghe và luyện mắt lanh lẹ… Nu na Nu nống, cái cống nằm trong Con ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật Phật ngồi phật khóc/ con cóc nhảy ra/ con gà ú ụ 109
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Bà mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè Tè he cống rụt! Nu na Nu nống/ thằng công cái cạc Đá xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên đá xuống Đá ruộng bồ câu/ đá râu ông già Đá ra đường cái/ gặp gái đi đường Có phường trống quân/ có chân thì rút Nu na Nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở cuộc thi đua Thi chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót đỏ hồng hào Không bẩn tý nào/ được vào đánh trống!
110
8 / 2019
111
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
* Mẹ và bé 3-5 tuổi
Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, ra nhập những trò chơi tập thể dễ dàng cũng như học những bài đổng dài và khó hơn, lúc này mẹ chỉ cần để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần. Có những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lặp đi lặp lại làm điệu bộ theo lời hát: Con vỏi con voi/ cái vòi đi trước Hai chân trước ịch đi ịch trước Hai chân sau ịch đi ịch sau Còn cái đuôi thì đi là sau rốt Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi Cái vòi iii đi trước… * Mẹ và bé cùng múa với chim công Trò này hợp với các bé gái, mẹ và bé cùng đứng cùng hát bài đồng dao chân tay, eo, mặt mũi… được diễn tả như con công đang múa. Mẹ có thể vừa múa vừa sáng tác tùy hứng, có thể bé cũng tùy hứng sáng tạo thêm…gởi tặng các bà mẹ và các bé bài đồng dao: Chim công kể chuyện (Bài đạt giải A Hội Nhạc sĩ Việt Nam 2016) Con công hay múa/ nó múa làm sao Nó rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra Nó đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít Nó đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè Nó đỗ cành tre/ nó kêu bè muống Nó đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông Con công hay múa
112
8 / 2019
113
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
20. CHUYỀN TAY * Chuẩn bi:
- Trò chơi phù hợp với trẻ mầm non - Nhiều gói quà, gói quà càng nhiều lớp càng tốt. Giữa mỗi lớp gói, hãy đặt một hoa bé ngoan hoặc một món đồ chơi nho nhỏ… - Số lượng tùy thời gian và số lượng quà, khoảng 30 trẻ trở lại * Mục đích chính: Rèn tai nghe nhạc cho trẻ *Cách chơi: 1.
Cho cả nhóm ngồi thành vòng tròn. Khi có lệnh tất cả cùng hát một bài (thường
là bài truyền thống của trường, đồng dao – hoặc ca khúc nhi đồng ngắn gọn, dễ hát - hoặc mở một đoạn nhạc). Khi nhạc hoặc hát bắt đầu, phần quà sẽ được chuyền tay nhau. Khi nhạc tắt – hết bài hát, món quà chuyền đến tay trẻ nào thì trẻ đó sẽ có quyền bóc một lớp giấy gói quà để nhận quà. Sau đó, trẻ sẽ ra khỏi vòng tròn và những đứa trẻ khác tiếp tục. 2.
Trò chơi kết thúc khi tất cả các lớp gói đã được tháo hết hoặc cho đến khi chỉ
còn lại 1 trẻ. 3.
Xin minh họa một ca khúc quen thuộc của Trường Mần non Chất lượng cao -
chuẩn Quốc gia: Hồng Nhung (Quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) thường xuyên các cô giáo cho trẻ chơi trò này. Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
114
8 / 2019
115
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
21. GÓP NƯỚC
* Số người chơi: Không giới hạn * Địa điểm: Bãi biển * Chuẩn bị: Chai 1.5 lít, 1 cốc nhỏ / chén, mỗi đội 4 chiếc máng ( 3-5m ) bằng cây hay bằng nhựa được dựng trên những cái chạc theo độ dốc vào chai đựng nước. * Cách chơi: Chia thành viên thành các đội có 5 người đứng cách bãi biển 10 mét. Sau khi có hiệu lệnh, người đầu tiên sẽ có nhiệm vụ múc nước từ dưới biển bằng chén nhỏ, chuyền tay nhau đổ vào máng nước cho chảy vào chai . Sau thời gian 5 phút, đội nào mang được nhiều nước thì dành phần thắng. “Hiện nay trò chơi này hầu như không được chơi. Việt Nam nước ta có bờ biển dài và đẹp. Đặc biệt các tỉnh Nam Trung bộ, các lễ hội ven biển (ví dụ như lễ hội Cầu ngư…) nên đưa trò chơi này vào chương trình phần hội. Vừa vui, vừa tạo không khí thoải mái, rèn sự khéo léo. Có thể các máng hứng nước sẽ được dựng thành 2, 3 chặng, (sẽ thu hút nhiều người chơi) người cuối cùng chiến thắng bằng số lượng nước nhiều nhất của đội mình…” Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Góp ý của tác giả tập sách này.
116
8 / 2019
22. NHỚ - SỜ ĐỒ VẬT ĐOÁN VẬT
Nhớ đồ vật, sờ đồ vật để đoán vật là trò chơi đòi hỏi sự nhanh nhạy, rèn luyện trí nhớ cho trẻ. Đây là trò chơi rất phù hợp với trẻ bậc tiểu học. *Số người chơi: Không giới hạn *Chuẩn bị: Các đồ vật nhỏ khác nhau (các loại quả, đồ chơi, đồ dùng nhà bếp hoặc các vật dụng khác) mỗi trẻ một khăn vải sạch. - Trò nhớ đồ vật: Chia nhỏ các trẻ thành các nhóm bằng nhau, tất cả đều được bịt mắt bằng khăn vải sạch. Đứng xếp hàng trước bàn đựng đồ vật. Sau khi có lệnh của cô giáo, mở các khăn cho các em quan sát đồ vật trên bàn rồi đậy lại. Nhiệm vụ của các đội chơi là ghi thật nhanh tên các đồ vật đã quan sát được. Cô giáo công khai đọc kết quả của các đội. Đội chiến thắng là đội ghi được nhiều đồ vật và đúng nhất. - Trò sờ đồ đoán vật Đối tượng, số người chơi và chuẩn bị như trò nhớ đồ vật Chia đội chơi thành các nhóm bằng nhau. Các đội xếp thành các hàng dọc. Sau đó từng người 1 sẽ tiến hành sờ đồ vật trong thùng và đoán. Đội nào đoán được nhiều nhất sẽ là đội chiến thắng. “Trò chơi này đã được người lớn và trẻ em cải tiến trong các game trên truyền hình (một người sờ vào vật, một người khác trong đội mình diễn tả gián tiếp đồ vật đó theo một nguyên tắc đã qui định, hoặc làm các động tác phù hợp với đồ vật đang cần đoán. Người đoán dựa vào các dữ liệu đó để đoán đồ vật). Trò chơi rất phong phú và hấp dẫn” Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Trích dẫn của tác giả ( Trịnh Tuấn Khanh )
117
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
118
8 / 2019
23. ĐÁNH QUAY * Đối tượng chơi: Đánh quay là trò chơi dành cho con trai. * Số lượng trẻ chơi:
Chơi thành nhóm từ 2 người trở lên, nếu đông có thể chia thành nhiều nhóm. Một người cũng có thể chơi quay, nhưng nếu chơi nhiều người và có nhiều người ở ngoài cổ vũ thì sẽ sôi nổi và hấp dẫn hơn * Con quay: Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt. *Cách chơi: Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho quay tít. Con quay của ai quay lâu nhất, người đó được. Có thể dùng một con quay khác bổ vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ của con quay đó được nhất. “Trò này trẻ em nam rất thích, đặc biệt là ở nông thôn. Khi chơi, các em chú ý: dây của con quay dễ bung mạnh chạm vào thân thể hoặc người xung quanh. Con quay (khi được bung ra) không đúng chiều thì nó văng rất xa có thể trúng người… các em cần lưu ý”. Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Dăn dò thêm các em khi chơi trò này ( tác giả tập sách ).
119
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
24. XẾP HÌNH * Đối tượng:
Phù hợp với trẻ mầm non Các khối gỗ và nhựa có khớp nối đơn giản sẽ giúp bé phát triển tư duy sáng tạo. Bé có thể xếp những khối đơn giản thành mô hình tùy theo sức sáng tạo của bé. Các mẹ nên cho bé xếp mô hình từ dễ đến khó và động viên bé tự sáng tạo thay vì áp đặt theo ý người lớn. “ Hiện nay trò xếp hình rất phổ biến ở các trường mầm non và phụ huynh cũng mua nhiều mẫu xếp hình cho trẻ. Các cô giáo hoặc các bậc phụ huynh cần lưu ý chọn lựa đồ chơi xếp hình sao cho phù hợp với lứa tuổi. Từ dễ đến khó để trẻ rèn luyện trí nhớ, đôi tay và con mắt. Khi bé đang thao tác ghép hình phụ huynh, cô giáo nên trò chuyện với bé tùy lứa tuổi để bé hiểu them về vật mjnhf đang xếp. Đặc biệt giúp trẻ tránh xa các đồ chơi bạo lực như dao, kiếm, súng… tặng các bé bài đồng dao: Bé xếp nhà. Chúc các bé chơi vui và hát hay … Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Tác giả tập sách góp ý với phụ huynh, cô giáo…
120
8 / 2019
121
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
25. KÉO CHỮ
Trò chơi kéo chữ phát triển ở vùng Hoa Lư, Tam Điệp (Ninh Bình). Một đội kéo
chữ có 32 con trai dưới 15 tuổi mặc quần xanh, áo trắng có nẹp đỏ, chân quấn xà cạp, tay cầm gậy dài 1,2m cuốn giấy màu và ở trên đầu gậy có gù sặc sỡ. *Chức danh – Vị trí – Trang phục: Tất cả được chia làm hai dẫy, mỗi dẫy có một người cầm đầu (tổng cờ tiền) và một người đứng cuối (tổng cờ hậu). Tổng cờ phải chọn những người có mặt mũi khôi ngô, mặc quần trắng, áo the đầu đội khăn xếp, thắt lưng ba múi, tay cầm cờ thần vuông. *Cách chơi: Vào cuộc kéo chữ, theo tiếng trống của người tiểu cảnh, hai cánh quân dàn ra dưới sự hướng dẫn của các tổng cờ để xếp thành các chữ khác nhau. Các tổng cờ vừa dẫn quân vừa múa hát, làm cho không khí rất sôi nổi và náo nhiệt. Đội quân theo tổng cờ chạy theo hình xoáy ốc với những động tác phức tạp, lần lượt các chữ được hiện ra (chữ Hán hoặc Nôm) “Thái bình”, “Thiên phúc”, “Xuân hoà khả lạc”, “Quốc thái dân an”…
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
122
8 / 2019
123
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
26. BẮN BI
Trong các trò chơi, bắn bi được cả trẻ em nông thôn lẫn thành thị thường chơi nhiều nhất. Chúng có thể chơi bất kỳ ở nơi nào có khoảng không gian vừa phải: trong sân trường giờ ra chơi, ngoài ngõ hẻm, kiệt ngõ… Trước đây khi chưa có bi làm bằng thủy tinh, trẻ con đã biết mài những cục gạch thật tròn để làm viên bi. Không có gạch trẻ hái những trái ổi non, mài nhẵn các dọc khứa quanh trái ổi, phơi khô để làm bi bắn. Có nhiều cách chơi bắn bi: * Bắn bi 1: Thông thường trẻ khoét hai lỗ tròn vừa đủ để cho viên bi có thể lọt xuống, cách xa nhau khoảng 4 đến 5 mét. Tất cả những người tham gia trò chơi bắt đầu đi từ lỗ xuất phát bằng cách một ngón cái chấm lọt vào lỗ bi, viên bi đặt lên ngón trỏ và được giữ bởi ngón trỏ và ngón cái của bàn tay kia để búng bi lăn tới. Lần lượt từng người bắn bi về phía lỗ ở trước. Những viên bi nào lăn vào lỗ hay gần lỗ nhất thì được quyền ưu tiên đi trước. Lúc này, tất cả đều phải đưa ngược bi trở lại lỗ xuất phát và làm sao cho viên bi của mình dù nhanh hay chậm cũng phải đưa được vào lỗ bi. Một khi đã vào lỗ rồi thì người chơi phải hô lên bơm lô và có quyền nhắm bắn vào tất cả những viên bi đối phương và nếu trúng đích thì “ăn”. Trường hợp chưa vào được lỗ bi, người chơi cũng có quyền bắn đối phương văng xa để dọn trống đường cho bi của mình thuận tiện tới lỗ. Trong trường hợp này, (do qui ước ban đầu, ví dụ 5 gang tay ) nếu sau khi bắn mà khoảng cách giữa bi của mình và bi của đối phương chưa tới 5 gang tay thì phải bắn tiếp cho đủ hay hơn khoảng cách đã qui ước. Nếu trật thì tới người kế tiếp. Người chơi cũng có quyền đưa viên bi mình bơm lô bằng cách làm sao cho bi của mình trúng vào bi đối phương, mà khoảng cách giữa hai viên bi đo từ một gang tay trở lại thì được quyền đo tới phía lỗ 5 gang, đặt bi đối phương xuống đất, dùng bi của mình bắn cách nào đó để bi của mình tới gần lỗ bơm nhất (lọt vào lỗ thì càng tốt), nhưng khoảng cách giữa hai bi phải từ 5 gang tay trở lên. Nếu không đủ thì phải bắn lại và chỉ một lần duy nhất được bắn lại mà thôi. Trò chơi cứ tiếp tục như vậy cho tới khi mãn cuộc, có người thua, người thắng. Trò chơi này trẻ con cũng có những thuật ngữ riêng rất thú vị. Chẳng hạn: Bơm lô là đưa bi vào được lỗ. Muối là khi bi bị che khuất bởi bụi cỏ, chiếc lá hay cục đất nhỏ… Bất kỳ đối phương có bi bị bắn hay người được bắn, nếu có ai nhìn thấy và hô lên trước thì được quyền giữ vật chắn cho bi hay bỏ vật che chắn ra ngoài. Thúi là trong quá trình bắn, cả bi mình và bi đối phương đều lăn chung vào lỗ hay bi đối phương lăn đi lại đụng phải một viên bi ngoài cuộc. Chựng là bắn vào bi đối phương mà bi mình lăn trúng bi ngoài cuộc. Một cách chơi khác, hình thức tương tự như trên, nhưng thay vì dùng hai tay thì chỉ dùng một tay: bàn tay ngửa ra, để viên bi trên ngón trỏ và dủng ngón cái để bắn. Cách chơi này khó hơn. 124
8 / 2019
* Bắn bi 2: Thay vì chơi 2 lỗ, chỉ khoét một lỗ và vẽ một vòng tròn đồng tâm với lỗ bơm, có bán kính 3 mét, chơi bằng hai tay. Tất cả những người chơi đều ngồi ngoài vỏng tròn và đưa bi về phía lỗ để dành ưu tiên trước sau. Tất cả số bi xung quanh lỗ đều được giữ nguyên vị trí. Người nào được đi trước sẽ lấy bi từ túi ra, nhắm vào bất kỳ bi nào của đối phương để bắn. Ngón cái chấm ngay tại vòng tròn ngoài và bắn thế nào để trúng được duy nhất một viên bi của đối phương mà không đụng vào bất kỳ bi nào khác. Nếu viên bi đối phương lăn đi mà đụng phải viên bi thứ hai, hay bi của mình đụng nhầm bi thứ hai đều bị coi là thúi, chựng. Người có thứ tự kế tiếp sẽ chơi. Trường hợp nhắm bắn bất kỳ viên bi nào của đối phương lăn được vào lỗ thì được ăn tất cả các viên bi trong vòng tròn. Ngược lại, chẳng may bi của mình nằm gọn trong lỗ gọi là thúi thì phải chung cho tất cả các viên bi hiện còn có trong vòng tròn ( ví dụ trong vòng tròn còn 6 viên bi thì phải móc túi ra chung đủ 6 viên bi). Những trẻ chơi giỏi thuần thục hơn đều chơi bi bằng một tay, và cách ăn thua cũng y như các lối chơi vừa kể trên. *Lưu ý: Trò chơi này các em nam dù ở thành thị hay nông thôn đều rất thích. Rèn tính kiên trì, luyện bàn tay khéo léo, tăng cường tố chất thông minh. Khi chơi các em cần chú ý tay bẩn không được dụi vào mắt hay chùi vào quần áo. Đặc biệt không được vừa chơi vừa ăn quà vặt (hiện nay ở cổng trường có rất nhiều hàng quán bán quà vặt cho học sinh) Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Tác giả tập sách dăn dò thêm các em khi chơi.
125
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
126
8 / 2019
127
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
28. CỜ GÁNH
Cờ gánh là trò chơi dân gian, luật chơi đơn giản, dễ nhận biết đối phương phạm
luật ngay trên bàn cờ trước mặt.
* Chuẩn bị:
Dùng một tờ giấy bìa cứng, đôi khi trẻ em dùng tờ giấy đôi học trò, đoạn kẻ lên trên mặt giấy khung hình bàn cờ hình vuông, chia mỗi cạnh hình vuông thành 4 phần bằng nhau, đoạn kẽ nối các điểm chia bằng nhau lại, tạo thành 16 hình vuông nhỏ hơn. Xong, nối hai đường chéo của hình vuông lớn ngoài cùng lại với nhau. Chọn điểm giữa của mỗi cạnh hình vuông lớn ngoài, nối các trung điểm lại, có hình vuông nhỏ hơn (xem hình vẽ).
Về quân cờ có thể dùng con ngêu, sò, đồng xu, hoặc giấy bìa cứng mỗi mặt tô
một màu giống nhau làm quân cờ. Về sau có nắp ken bia chai cũng làm quân cờ chơi được. Mỗi bên có 8 quân cờ được sắp trên mỗi cạnh hình vuông trái mặt nhau trên bàn cờ để phân biệt cờ đối phương (như hình vẽ). Nếu chọn nghêu làm quân cờ thì một bên sắp ngửa, một bên sắp sấp; nếu chọn giấy màu cũng phải sắp khác màu nhau nhưng mặt dưới phải trùng màu quân cờ đối phương.
* Đối tượng chơi:
Trẻ em trong độ tuổi 12 – 15 có thể chơi được loại trò chơi cờ gánh này, thanh
niên nam nữ 18 – 20 hoặc hơn cũng tham gia chơi loại cờ này được. Có thể mở rộng ra mọi lứa tuổi đều tham gia được.
* Địa điểm:
Nơi chơi cờ gánh có thể đặt trên bàn, trên nền đất trong nhà hoặc ngoài hiên.
Nếu tổ chức chơi ngoài sân thì vẽ ngay bàn cờ trên đất, trên nền gạch, xi măng…Loại trò chơi này có thể tự vẽ bàn cờ và chơi vào lúc nào cũng được trong giờ nhàn rỗi. Phần lớn trẻ em chơi cờ gánh trong nhà những khi nghỉ hè, vào lúc nấu cơm chiều hoặc giữ em cho cha mẹ đi làm, trẻ thường tụm lại nhà một người bạn nào đó, có thể ngoài sân, ngoài đường tổ chức chơi cờ.
* Quy định chơi:
Chơi cờ gánh khi gánh cờ (tức ăn được 2 quân cờ của đối phương) không bắt
quân cờ ra ngoài như cờ tướng, cờ vua nên nhất thiết 16 quân cờ có hai mặt giống nhau, khi sắp vào bàn cờ, mỗi bên sấp ngửa khác nhau để khi gánh cờ, đối phương lật cờ cho trùng với màu sắc giống quân cờ của mình, để phân biệt.
* Cách chơi:
- Gánh: Đối phưong mỗi lượt đi một nước và chỉ đi quân cờ của mình được một
gạch hoặc ngang, dọc, chéo trong phạm vi một ô hình vuông nhỏ nhất mà thôi, không quy định đi vượt sang ô của hình vuông khác.
128
8 / 2019
Trò chơi cờ gánh
Khi di chuyển các quân cờ trên bàn cờ, nếu đối phương tìm cách vào được giữa
hai quân cờ của mình nằm trên đường thẳng xem như ăn được một gánh, lật hai quân cờ sấp lại thành quân cờ đối phương. Cứ như vậy hai bên thay phiên nhau tìm cách gánh của nhau, bên nào gánh được nhiều quân cờ, bên đó thắng cuộc.
- Rào: Rào là tìm mọi cách ép sát và dùng quân cờ bao vây đối phương co cụm
lại không còn nước để đi được nữa. Đối phương xem như thua cuộc, phải đầu hàng vì không còn quân cờ nào nữa để tiếp tục cuộc chơi.
Sau mỗi lần thua cuộc, lại sắp cờ chơi ván khác.
Cờ gánh dễ chơi, đối tượng nào cũng có thể chơi được. Đây là loại trò chơi bắt
đầu hình thành cho trẻ em tính tư duy độc lập và sáng tạo trong mỗi ván chơi. Trẻ 14 – 15 bắt đầu xa dần các trò chơi kèm theo đồng dao, để tiến gần đến loại trò chơi cờ gánh phù hợp với tâm lý lứa tuổi nhiều hơn.
129
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
KỊCH BẢN QUẢNG BÁ TRÒ CHƠI ĐỒNG DAO TRÊN TRUYỀN HÌNH NGHE ÔNG KỂ CHUYỆN NGÀY XƯA
Nhạc sĩ Trịnh Tuấn Khanh
Thể loại: Trò chơi cho trẻ em trên Truyền hình - Nghệ sĩ UT Đỗ Linh và nhóm trẻ mục đồng thể hiện Mục đích: Khai thác – Bảo tồn – Truyền dậy - Quảng bá trò đồng dao VN Đồng dao là một hình thức vừa hát, nói, đọc vừa chơi cho trẻ mục đồng đã có từ xưa. Thường là những bài hát truyền miệng, những sáng tác dân gian, về sau từ những loại hình này các nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác, ghi âm cho các em hát và chơi (phần nhiều ở nông thôn). Trò chơi đồng dao đơn giản, có lời hoặc không có lời mang tính chất của sáng tác dân gian nên tính tập thể rất cao. Đồng dao được các nhà nghiên cứu phân chia làm nhiều thể loại gắn với trò chơi: đồng dao với thế giới quanh ta, quan hệ gia đình - xã hội, lao động và nghề nghiệp, châm biếm và hài hước, trò chơi vận động, trò chơi khéo léo, trò chơi trí tuệ…Hiện nay các trò đồng dao hầu như bị mai một, các em ít chơi, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này… Chương trình muốn chuyển tải đến các em một số trò chơi dân gian vận động, trí tuệ, khéo léo góp phần bảo tồn, quảng bá vốn quí dân gian cho các em thông qua nhân vật trung tâm (ông già) kể chuyện, hướng dẫn các trò chơi. Ông vừa đàn, vừa hát vừa dậy cho trẻ cách chơi, vừa trả lời những câu hỏi ngộ nghĩnh của các em xoay quanh các trò chơi vui nhộn. *Địa điểm: Buổi tối sân nhà dưới ánh trăng, ban ngày vùng thôn quê sông nước hữu tình hoặc không gian có đặc thù phù hợp. *Nhân vật: Ông già đẹp lão, râu tóc bạc phơ, biết đàn, biết hát, biết hướng dân trò chơi cùng 16 – 20 trẻ mục đồng* Đạo cụ: Đàn dân tộc, phục trang: (bà ba) quần áo màu đà - tùy chọn phù hợp với trẻ mục đồng nhưng lưu ý có “tính chất biểu diễn”… *Nội dung kịch bản: Cảnh 1 Sân vườn dưới ánh trăng, ông già ngồi quây quần cùng các cháu, nét nhạc đồng dao bay bổng. Ông thoại cùng đám trẻ: Ông: Chào các cháu! Cháu: Chúng cháu chào ông ạ. Ông: Như đã hứa với các cháu, đêm nay ông cháu mình vừa hát, vừa chơi một số trò đồng dao, các cháu có đồng ý không? Các cháu: Chúng cháu rất thích ạ Ông: Lần trước ông cháu mình đã chơi các trò có tính chất khéo léo, hôm nay chúng ta sẽ chơi các trò đồng dao vận động, châm biếm. Các cháu ạ, đồng dao là hình thức vừa hát vừa chơi, có thể hát, có thể nói theo ngữ điệu phù hợp với hành động khi chơi có nhạc 130
8 / 2019
hoặc không có nhạc. Việt nam mình có rất nhiều trò đồng dao hấp dẫn…Bây giờ ông sẽ giới thiệu cho các cháu trò chơi có tên Thìa la thìa lẩy. Trò chơi này rất vui nhộn, trẻ em từ nam Trung bộ trở vào thường chơi trò này. Các cháu có đồng ý không? Các cháu: (Nhao nhao) đồng ý ạ! Ông: Cụm từ thìa la thìa lẩy nghe hơi lạ phải không các cháu! Cũng có nhiều dị bản nhưng nghĩa của nó tạm cho là là “ sẽ ngoan hơn”, đội hình của mình chia đôi, nam một bên, nữ một bên. Ông sẽ đóng vai bà già để phân xử những thói hư tật xấu của một số học sinh hiện nay. Cháu nào thử kể cho ông vài thói quen xấu nào. Đám trẻ: tranh nhau giơ tay, miệng: cháu ạ, cháu ạ! Ông: Cháu nói thử! Một cháu: thưa ông: ăn quà vặt, trốn học, nói tục, đánh bài ăn tiền, ham mê chơi game ạ. Ông: Đúng rồi! khà khà khà! ( vuốt râu ). Thế cháu có thói đó không? Ông nói vui vậy thôi, chừ ông cháu mình nghỉ chút để hóa trang quay truyền hình nhé! *Hình ảnh: ông hóa trang thành bà già, chống gậy, đám trẻ mặc bà ba màu đất, búi tóc… Trò chơi 1: Bài đồng dao thìa la thìa lẩy – nhạc: Trịnh Tuấn Khanh Tốp nam: Thìa la thìa la, thìa la thìa lẩy, con gái nhiều nghề, ai nghe thì ra, nghe bà kể chuyện chơi (nói theo ngữ điệu): ngồi lê là một, dựa cột là hai, nói dai là ba, ăn quà là bốn, trốn học là năm, hay nằm là sáu, láu táu là bảy, thìa la thìa la. Tốp nữ: Thìa la, thìa la, con trai cũng thế, ai nghe thì nghe, nghe bà kể hết (nói theo ngữ điệu): lười biếng là một, trốn học là hai,, đánh bài là ba, ăn quà là bốn, lộn xộn là năm, trêu tròng là sáu, láu táu là bảy. Thìa la thìa la, bà cho ăn bánh, bà đánh đau tay, chắp tay con lạy bà, cháu đã thìa la, cháu đã thìa la. *Cách chơi cho trò chơi 1: Nhân vật trung tâm là bà già (do ông già hóa trang thể hiện) diễn giữa 2 phe nam và nữ của đám trẻ). Hai phe chỉ chỏ, trêu tròng nhau ngộ nghĩnh, thay đổi nhau hát lời đồng dao để chế nhạo, vạch thói hư tật xấu… cười, động tác hài, vui *Cảnh 2: Trở về hình ảnh ông cháu ban đầu (đám trẻ ngồi quây quần bên ông – trang phục như diễn bài 1) Ông: Bà khen các cháu! – ý lộn – ông chứ (tất cả cười ồ) chơi vui quá! Các cháu phải nhớ từ nay bỏ những thói quen không hay như trong bài đồng dao đã phản ánh. Cháu nào ngoan bà sẽ cho ăn bánh, cháu nào không ngoan thì bà sẽ đánh đòn đấy nghe! Tất cả: Cháu đã thìa la, cháu đã thìa la… Ông: Trong số các cháu ngồi đây có cháu nào hay ăn quà vặt ở cổng trường không? Tiếng vài trẻ: Bạn này, bạn này ạ! Không phải, chính bạn ấy đấy ông… Ông: Thế là chưa thìa la rồi, nếu cứ ăn quà vặt liên tục, không điều độ dễ dẫn tới đau bụng, ngộ độc, bệnh chân tay miệng nữa đấy các cháu! Các cháu nhớ chưa? Đồng thanh: Thưa ông nhớ rồi ạ! Ông: Bây giờ ông đố các cháu, trong các loại côn trùng, loại nào khi tham gia giao thông 131
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
đúng luật nhất.
Cháu: ( nhìn nhau xì xồ: khó nhỉ, con gì nhỉ…). Ông: Không cháu nào biết à! Thôi được rồi, các cháu hãy hóa trang thành những chú kiến, rồi ông sẽ bày cho trò chơi theo bài đồng dao: Những chú kiến thật ngoan để xem những chú kiến này dù rất đông nhưng khi tham gia giao thông thì ý thức của nó thế nào! Cháu đồng thanh: (trẻ ngồi, trẻ đứng, nhẩy cẫng lên) Thích quá, thích quá! *Hình ảnh: (kỹ xảo) cảnh đám trẻ đang hóa trang thành những chú kiến, trêu ghẹo, cười nói, bôi son phấn lên mặt nhau… (nhạc bài đồng dao vui nhộn). Trò chơi 2: Những chú kiến thật ngoan. Lời: Phỏng đồng dao, nhạc : Trịnh Tuấn Khanh Lời bài đồng dao: Hãy nhìn xem, những chú kiến nối nhau một hàng. Ố kìa xem! Rất là vui, những chú kiến có những chuyện chi, mà vừa đi vừa thì thầm. Hay là họ hôn nhau! Eo ơi, họ hôn nhau. Không phải đâu, hô hoan hô, những chú kiến ngoan thật là ngoan, vừa đi đường vừa nhắc nhau, thật thì thầm, rằng đi đường mà xênh xang. Vừa đi đường vừa xênh xang, sẽ đến lúc gặp nguy nan. Vừa đi đường vừa huênh hoang, sẽ đến lúc gặp nguy nan. (quay lại lần 2) *Cách chơi trò chơi 2: Những con kiến bò nối nhau một đoàn dài, trật tự, khiêng mồi, đi đi, lại lại, lâu lâu lại ghé đầu vào nhau nói chuyện to nhỏ, có vẻ như bí mật lắm. (Ông già cười, ngồi đệm đàn tứ cho các cháu vừa hát vừa chơi. Thể hiện bài 2 lần, kiến lúc đứng, lúc bò nhưng rất trật tự…hết bài tất cả mọi người đứng dậy cười ồ). *Cảnh 3 (trở lại cảnh ban đầu – phục trang như bài 2) *Hình ảnh: Ông già hóa trang thành ông quan, các cháu chuẩn bị các đạo cụ chơi ô ăn quan. Để nguyên trang phục kiến, (chỉ bỏ mũ ra). (Nhạc vui cho hóa trang ).
132
8 / 2019
133
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
* Trò chơi chơi 3: Chơi ô ăn quan, nhạc Trịnh Tuấn Khanh, lời: đồng dao (bản nhạc trong phần trò chơi đồng dao trí tuệ số 11 trong tập sách này ). To vừa bằng ngón tay, đầu thì tròn long lóc, sống với 5 thầy cai, tên gọi là quan. To vừa bằng ngón tay, người sần sùi be bé. Có 5 ô bên tôi, có 5 ô bên bạn, tên gọi thường dân. Oẳn tù tì này, này tôi đi trước nhé, theo tôi đi bắt quan. Còn bên bạn, hãy nhanh nhanh quan đang chạy, trốn ở đâu? Bắt được quan toàn dân cu lân bán ruộng. Hãy nhanh nhanh, trốn ở đâu? Bắt hết quan, toàn dân thu quân kéo về. (thể hiện 2 lần, lần 1 hát tốp, lần 2 hát so lô từ đầu tới “ thường dân” – với 2 giọng nam và nữ). * Cách chơi trò chơi 3: Bốn cặp ngồi đối diện nhau chơi ô ăn quan, vừa diễn vừa hát, 8 trẻ còn lại đứng vòng tròn vừa diễn vừa hát. Ông già (quan), lúc đánh đàn, lúc bị đám trể đuổi chạy vòng quanh cho tới khi trẻ ôm được ông quan… Cuối bài tới câu “ bắt hết quan” tất cả cầm giáo mác bắt ông quan…hết nhạc tất cả cười ồ thỏa mái. * Cảnh 4: Trở về cảnh đầu ông cháu ngồi quây quần (phục trang như trò trò chơi 3 ) Ông: Dân ta giỏi quá, đã bắt được hết quan rồi, ông thua rồi đấy, các cháu có mệt không? Một cháu: Có mệt chút xíu nhưng vui ông ạ! Chúng cháu muốn ông bày cho vài trò chơi nữa ạ! Ông: (Ngẫm nghĩ): thôi được rồi bây giờ ông cháu mình chơi trò câu đố cho đỡ mệt, các cháu thấy thế nào! Tất cả: Đồng ý ạ, đồng ý ạ! Chuyển cảnh: Cảnh hóa trang. Ông hóa trang người đi câu, các cháu hóa trang thành con tôm, con cá, con cua. (nhạc vui cho hóa trang). Ông già ngồi đánh đàn, đám trẻ chơi hát bài đồng dao: Con tôm, con cá, con cua * Chơi trò chơi 4: Con tôm, con cá, con cua. Lời phỏng đồng dao, nhạc: Trịnh Tuấn Khanh
134
8 / 2019
135
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Lời bài đồng dao: Ào ào trời mưa, ao sâu đầy nước, ba chú đi chơi. Có chú bò ngang, tám cẳng hai càng. Con gì bạn nói! Hai râu rất dài, bơi lùi nhanh lắm, bạn nói con gì! Con tôm, con tôm và con gì đây có hai cái vây như hai mái chèo, bạn ơi có biết, nói mau, nói mau, con cá bạn ơi. Con tôm con cá con cua, con tôm con cá con cua. Ba con đều có ích, chắc răng, chắc xương và lớn nhanh. *Cách chơi trò chơi 4: 3 trẻ hóa trang cua, tôm ,cá. Tốp phụ họa Tam ca hát và diễn từ đầu tới “con gì bạn nói”. Tốp: Con cua, con cua. Tam ca hát tiếp. Tốp ca: con tôm, con tôm. Tam ca hát tiếp. Tốp: Con cá bạn ơi. Sau câu này tất cả cùng hát và thể hiện các động tác của tôm, cua, cá. Thể hiện lần 2, ông già ngồi đánh đàn, thỉnh thoảng chơi diễn làm trò cua tôm cá (động tác ngộ nghĩnh…) cùng đám trẻ. *Cảnh 5 : Quay về cảnh ông cháu đầu tiên (trang phục giữ nguyên như trò chơi 4) Ông: Đất nước ta có bờ biển rất dài và nhiều sông, kênh, rạch nên có rất nhiều loại hải sản. Trò chơi đồng dao đố vui vừa rồi mới chỉ giới thiệu 3 loài hải sản mà các em gặp hằng ngày. Em nào nhắc lại xem có nhớ không? Một cháu: Com tôm, con cua, con cá ông ạ! Ông: Đúng rồi, những con này rất có ích cho mọi người đấy, nhất là các cháu,. Tôm ,cua, cá cho nhiều chất bổ, đặc biệt là can xi nên chắc răng, chắc xương, cao hơn vả lớn nhanh. Câu chữ nghiêng ông già nói theo cao độ bài hát, làm điệu bộ, diễn thật vui, đám trẻ cười khoái trí… Ông: Các cháu ạ trời cũng gần về khuya rồi, chúng ta chuẩn bị nghỉ thôi… ồ trăng sáng quá! (tất cả hướng lên trời; hình ảnh kỹ xảo chú cuội ,cây đa…) ông đố các cháu ai đang ngồi ở gốc đa trên trời? Tất cả: Chú cuội ,chú cuội! Ông: Đúng rồi vì hay nói dối mọi người nên ông giời bắt phạt chú cuội quanh năm ngồi ở gốc đa và chăn trâu trên trời đấy các cháu Các cháu: Vì tội nói dối… cũng tội nghiệp cho chú cuội, gần trung thu rồi! Ông: Đúng rồi, gần đến trung thu rồi, ông cháu mình khuyên nhủ chú cuội mấy điều rồi mời chú cuội trung thu này về trần gian nghe ông kể chuyện và chơi các trò đồng dao nhé. Tất cả: thích quá, thích quá, chú cuôi ơi!… (chuyển cảnh hóa trang bài đồng dao)
136
8 / 2019
137
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Hóa trang, phục trang: Ông già bình thường, một trẻ trai đóng cuội, tất cả làm trẻ mục đồng. (nhạc vui cho hóa trang) *Trò chơi 5: Cuội ơi đừng nói dối. Nhạc: Trịnh Tuấn Khanh, lời: phỏng thơ: Dương Kỳ Anh Lời bài hát: Chú cuội trên trời vì hay nói dối. Ông trời phạt cuội ngồi gốc cây đa. Cuội ơi! Cuội ơi! Không được đi học, không được đi chơi, trung thu đến rồi, không được ăn bánh. Thương thương thương thương lắm cuội ơi! ( nói theo ngữ điệu ): Chú cuội trên trời vì hay nói dối, ông trời phạt cuội ngồi gốc cây đa. Hát: ngồi gốc đa, suốt đời ngồi gốc đa, thương thì thương nhưng giận cuội lắm đấy! đừng nói dối, sống thật thà, luôn vui tươi. Trung thu này bọn mình lên trời, mời cuội về, về trần gian ăn bánh rồi múa lân. Cách chơi trò chơi 4: Một nam hóa trang chú Cuội, một nữ hóa trang chị Hằng. Ông già ngồi đánh đàn được phục trang như gốc cây đa… tất cả cùng hát múa, chơi ngộ ngộ. cuối bài (kỹ xảo) tất cả ông cháu, Cuội ,chị Hằng bay lên trời xa dần, xa dần… Nhạc bài: QUA MIỀN ĐỒNG DAO tại trò chơi thể loại vận động: Vấn đáp ( trò chơi thứ 35: Vấn đáp ) BẢNG CHỮ CUỐI
138
8 / 2019
CHƯƠNG III TRÒ CHƠI THIÊN VỀ KHÉO LÉO
139
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
1. KÉO CƯA, LỪA XẺ * Địa điểm – Đối tượng: Sân trường, lớp học…Trò chơi này rất phù hợp với trẻ mầm non và tiểu học. Các trẻ em gái rất thích… * Lời bài đồng dao: Lời 1: Kéo cưa, lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Về ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ
Lời 2 : Kéo cưa, lừa xẻ
Làm ít ăn nhiều
Nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất cưa
Lấy gì mà kéo
*Cách chơi:
Trẻ ngồi từng đôi một đối diện nhau, nắm tay vào nhàu, vừa đọc lời 1 hoặc lời 2
vừa làm động tác kéo cưa theo nhịp của bài đồng dao như : hát tiếng “Kéo” thì trẻ A đẩy trẻ B (người hơi chúi về phía trước), trẻ B kéo tay trẻ A (người hơi ngã phía sau). Hát tiếng “Cưa” thì trẻ B đẩy trẻ A và trẻ A kéo trẻ B. Hát đến tiếng “lừa” thì trở về vị trí ban đầu… Cứ như vậy vừa đọc, vừa làm động tác cho đến hết bài theo đúng nhịp. Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
140
8 / 2019
141
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
2. DỆT VẢI
* Địa điểm – Đối tượng: “giống như trò chơi: Kéo cưa lừa xẻ”
* Lời bài đồng dao:
Dích dắc dích dắc
Khung cửi mắc vo
Xâu go từng sợi
Chân mẹ đạp vội
Chân mẹ đạp vàng
Mặt vải mịn màng
Gánh ì gánh nặng
Đến mai trời nắng
Đem ra mà phơi
Đến mốt đẹp trời
Đem ra may áo
Dích dắc dích dắc
*Cách chơi:
Cho trẻ đứng từng đôi một, quay mặt vào nhau, 2 bàn tay úp vào nhau, đẩy từng
tay, một tay co, một tay đuỗi theo nhịp kéo cưa lửa xẻ, vừa đẩy vừa hát lời ca (mỗi một tiếng là một nhịp đẩy). Nếu sân nhà sạch, có thể cho trẻ ngồi thành từng đôi một quay mặt vào nhau úp 4 bàn chân vào nhau và dùng chân đẩy như đẩy tay. 1.(325)
142
8 / 2019
143
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
3. CHỒNG LỘNG, CHỒNG CÀ * Đối tượng – Địa điểm: Trò chơi đơn giản, gần giống như trò Dệt vải, Kéo cưa lừa xẻ… dễ chơi, địa điểm dễ tìm. Hát hoặc đọc có ngữ điệu bài đồng dao, tay trưởng trò gõ đều theo nhịp vào chân các bạn. Dưới ánh trăng sáng vùng thôn quê tại sân đình, sân nhà… rất phù hợp với trẻ em cấp Tiểu học * Lời bài đồng dao:
Chồng lộng, chồng cà
Mày xòa hoa khế
Khế ngâm, khế chua
Cột đình, cột chùa
Nhà vua mới làm
Cây cam, cây quýt
Cây mít, cây hồng
Cành thông, lá nhãn
Ai có chân, có tay thì rụt
*Cách chơi: Các em ngồi quay mặt về một phía, sát cạnh nhau theo một hàng ngang, chân đều duỗi thẳng ra phía trước. Em trưởng trò ngồi ở đầu phía phải dùng bàn tay phải gõ lần lượt từng cẳng chân của các em chơi kể từ đầu phía trái. Mỗi lần gõ vào một cẳng chân lại hát lên một tiếng của bài đồng dao. Lời hát như đếm. Khi tiếng cuối cùng rơi vào chân em nào thì em đó phải rút nhanh chân đó lại. Nhưng khi hát tiếng cuối cùng em trưởng trò thường kéo dài và đưa bàn tay mình sờ chậm lại để bất chợt rơi vào một chân nào đấy (không phải là chân kề gần trên tiếng “rụt”) gây nên sự hồi hộp của tất cả các em chờ đợi nếu rơi đúng chân mình thì rút cho nhanh. Việc hát tiếng bắt đầu cũng có thể linh động hoặc từ đầu phía trái hoặc từ phía giữa, phía phải cũng được.
1.(327) Tác giả tập sách hướng dân thêm
144
8 / 2019
145
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
4. NHẢY DÂY
* Địa điểm – Đối tượng: Trò chơi nhảy dây rất quen thuộc, rất thích của trẻ em gái (nam cũng chơi được nhưng ít hơn) lứa tuổi cấp Tiểu học và Trung học cơ sở. * Chuẩn bị : - Một đoạn dây thừng dài khoảng 1,5 mét - Nơi nhảy là mặt đất phẳng, rộng * Cách chơi : a) Nhảy dây cá nhân : Hai trẻ chơi thi với nhau. Hai tay cầm hai dầu dây, đưa dây ra phía sau lưng, quay cổ tay cho dây quay qua trên đầu văng xuống đất, hai chân nhảy lên để dây qua dưới chân gọi là nhảy tới; mỗi lần nhảy như vậy được tính một lượt. Một trẻ khác đứng xem bạn nhảy và đếm số lần bạn nhảy được. Khi nhảy chạm dây không qua được chân là hỏng, đến lượt bạn khác nhảy. b) Nhảy dây tập thể : Nhiều trẻ cùng chơi với nhau. Một đoạn dây thừng khoảng 2 mét. Hai trẻ đứng xa nhau cầm 2 đầu dây, chao cho dây đung đưa nhè nhẹ, dây chạm mặt đất. Hai trẻ khác đứng cạnh đầu dây, khi 2 bạn đung đưa thì lựa chiều để nhảy vào được, sao cho chân không chạm dây. Ai nhảy mà bị chạm dây thì ra quay thay cho bạn quay dây, trẻ lại tiếp tục nhảy. (các em lưu ý phải cẩn thận khi quay dây: cùng nhanh, cùng chậm, thật nhịp nhàng để dây không vướng vào chân bạn gây tai nạn. Tránh cay cú quay dây lỡ nhịp gây khó cho đội bạn…) 1.(323) Lời khuyên của tác giả tập sách đối với các em
146
8 / 2019
5. ÚP LÁ KHOAI
* Địa điểm – Đối tượng: Trò chơi rất đơn giản, nhưng trẻ em rất háo hức. Trò này phù hợp với trẻ mầm non, trẻ em cấp Tiểu học * Cách chơi : Mỗi bạn chơi ngồi thành vòng tròn, úp 2 bàn tay xuống đất. Khi bắt đầu đọc “Úp lá khoai” thì 1 người lấy tay của mình phủ lên tay của tất cả mọi người, lúc đó mọi người ngửa hết bàn tay lên. Một người lấy tay của mình chỉ lần lượt từng bàn tay, vừa chỉ vừa hát tiếp: Mười hai chong chóng
Đứa mặc áo trắng
Đứa mặc áo đen
Đứa xách lồng đèn
Đứa cầm ống thụt
Thụt ra thụt vô
Có thằng té xuống giếng
Có thằng té xuống xình
Úi chà úi da
*Luật chơi: Hát đến chữ cuối cùng, người chỉ để vào tay của người nào thì người đó bị phạt…
147
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
6. XỈA CÁ MÈ
* Địa điểm – Đối tượng – Cách chơi: Cho trẻ em từ 6 đến 10 tuổi Nhiều em cùng chơi, ngồi xếp hàng ngang, hai chân duỗi thẳng, quần vén cao trên đầu gối. Em trưởng trò (lớn hơn cả) ngồi giữa, dùng tay phải vừa xướng lời vừa điểm đầu ngón trỏ vào từng chân từ trái sang phải và cũng tuần tự ngược lại từ phải sang trái và cứ lần lượt như vậy cho đến lời cuối cùng bài:
Xỉa cá mè
Đè cá chép
Đi buôn men
Chân nào đen
Phải làm mèo
Phải làm chó
Cứ mỗi tiếng điểm một chân. Em nào trúng vào tiếng Men thì sẽ làm người đi bán men. Em nào trúng vào Mèo, chó sẽ phải làm mèo, làm chó. Điểm hết bài, các em đứng cả dậy. Em buôn men tìm một cái khăn hay cái áo (nhiều khi cởi ngay áo của mình) vắt lên vai làm đẫy dựng men, rồi vừa đi vòng xung quanh các em vừa rao :
Em bán men: “Ai mua men không?”
Các em khác : “Men gì?”
Em bán men : “Men vàng!”
Các em khác : “Mang sang ngõ khác”
Em bán men : “Ai mua men không?”
Các em khác : “Men gì?”
Em bán men : “Men bạc”
Các em khác : “Vác sang ngõ này!”
Em bán men dừng lại, hạ đẫy men khoác trên vai xuống, cầm trên tay, đứng
trước mặt các em khác.
Trưởng trò hỏi : “Một quan bán chăng?” 1.(337)
148
8 / 2019
6. XỈA CÁ MÈ * Địa điểm – Đối tượng – Cách chơi: Cho trẻ em từ 6 đến 10 tuổi
Nhiều em cùng chơi, ngồi xếp hàng ngang, hai chân duỗi thẳng, quần vén cao trên đầu gối. Em trưởng trò (lớn hơn cả) ngồi giữa, dùng tay phải vừa xướng lời vừa điểm đầu ngón trỏ vào từng chân từ trái sang phải và cũng tuần tự ngược lại từ phải sang trái và cứ lần lượt như vậy cho đến lời cuối cùng bài:
Xỉa cá mè
Đè cá chép
Đi buôn men
Chân nào đen
Phải làm mèo
Phải làm chó
Cứ mỗi tiếng điểm một chân. Em nào trúng vào tiếng Men thì sẽ làm người đi bán men. Em nào trúng vào Mèo, chó sẽ phải làm mèo, làm chó. Điểm hết bài, các em đứng cả dậy. Em buôn men tìm một cái khăn hay cái áo (nhiều khi cởi ngay áo của mình) vắt lên vai làm đẫy dựng men, rồi vừa đi vòng xung quanh các em vừa rao :
Em bán men: “Ai mua men không?”
Các em khác : “Men gì?”
Em bán men : “Men vàng!”
Các em khác : “Mang sang ngõ khác”
Em bán men : “Ai mua men không?”
Các em khác : “Men gì?”
Em bán men : “Men bạc”
Các em khác : “Vác sang ngõ này!”
Em bán men dừng lại, hạ đẫy men khoác trên vai xuống, cầm trên tay, đứng
trước mặt các em khác.
Trưởng trò hỏi : “Một quan bán chăng?” 1.(337)
149
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Em bán men : “Chăng chăng chẳng bán”
Một em khác: “Hai quan bán chăng?”
Em bán men: “Chăng chăng chẳng bán”
Một em khác: “Ba quan bán chăng?”
Em bán men : “Chăng chăng chẳng bán”
Một em khác: “Bốn quan bán chăng?”
Em bán men: “Chăng chăng chẳng bán”
Một em khác: “Năm quan bán chăng?”
Em bán men: “Chăng chăng chẳng bán”
Các em khác cứ lần lượt mà cả giá với em bán men cho đến trả giá 10 quan, cứ hết lượt lại bắt lại từ trưởng trò. Khi đến em trả giá “Mười quan bán chăng? “thì em bán men đáp : “Chăng chăng bán vậy”. Các em làm động tác trả tiền và nhận tiền, rồi trao đẫy men cho em trưởng trò. Em bán men nói : “Cho tôi mượn cái đòn gánh” Các em “Để làm gì” Em bán men : “Để tôi gánh tiền về” Các em : “Đòn gánh nhà không có” Em bán men : “Cho tôi xin khúc tre” Các em : “Ra vườn mà chặt” Em bán men : “Cho tôi mượn con dao” Em trưởng trò làm động tác lấy dao cho mượn. Em bán men làm động tác nhận dao rồi đi ra xa, tay vờ cầm dao chặt tre, miệng kêu “Đốp? Đốp!..”. Tức thì các em Mèo, chó lên tiếng. Cho cắn : “Gâu! Gâu!....” Mèo kêu : “Meo !Meo!...” cùng cười đùa vui vẻ… Trò chơi kết thúc.
150
8 / 2019
7. NU NA NU NỐNG
* Đối tượng – Địa điểm: (giống như trò Trồng lộng, trồng cà)
Trò của các em gái. Các em ngồi quay mặt về một phía, sát cạnh nhau theo một
hàng ngang, chân đều duỗi thẳng ra phía trước. Em trưởng trò ngồi ở đầu phía phải dùng bàn tay phải sờ lần lượt từng cẳng chân của các em chơi kể từ đầu phía trái. Mỗi lần sờ vào một cẳng chân lại hát lên một tiếng của bài hát.
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Bụt ngồi bụt khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà bới bếp
Bà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tè he chân rụt
Hoặc bài
Nu na nu nống
Thằng Cống, cái Càng
Chân vàng chân bạc
Núc nác tòa sen
Thắp đèn nhà chứa
Hay múa ống bụt
Bụt ngồi bụt khóc
Con cóc nhảy ra
Con gà tú ụ
Bà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tè he chân rụt (…)
151
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Lời hát như đếm. Khi tiếng cuối cùng rơi vào chân em nào thì em đó phải rút nhanh chân đó lại. Nhưng khi hát tiếng cuối cùng em trưởng trò thường kéo dài và đưa bàn tay mình sờ chậm lại để bất chợt rơi vào một chân nào đấy (không phải là chân kề gần trên tiếng “rụt”) gây nên sự hồi hộp của tất cả các em chờ đợi nếu rơi đúng chân mình thì rút cho nhanh. Việc hát tiếng bắt đầu cũng có thể linh động hoặc từ đầu phía trái hoặc từ phía giữa, phía phải cũng được.
152
8 / 2019
8. RÁN MỠ * Đối tương – Địa điểm – Hướng dẫn – Dặn dò:
Số lượng các em tùy ý. Các em trai và gái đều chơi chung – độ tuổi cấp Tiểu học hoặc Trung học cơ sở. Một em tự nguyện làm viên mỡ hoặc phải “Oẳn tù tì” để “bị” làm viên mỡ. Tất cả các em còn lại đứng thành vòng tròn làm chảo. Trò này dễ chơi, vui, náo nhiệt. Địa điểm không cần rộng, chơi được ở nhiều địa điểm. (Trước kia nhiều gia đình rán mỡ heo để dùng lâu dài. Hiện nay mọi người ít ăn mỡ động vật, nên từ rán mỡ còn xa lạ với các em. Trước khi chơi, quản trò nên nói lại ý này đễ các em biết…) Viên mỡ đứng giữa vòng tròn, tức mỡ đặt vào chảo. Bắt đầu chơi, vòng tròn chuyển động, các em – chảo – vừa bước (theo đường tròn), cùng nói :
Rán mỡ xèo xèo
Mỡ chín chưa?
Viên mỡ Mỡ mới rán!
Chảo
Rán mỡ xèo xèo
Mỡ chín chưa!
Viên mỡ Mỡ chưa chín
Chảo
Rán mờ xèo xèo
Mỡ chín chưa?
Viên mỡ Lửa đun to lên
Tốp trẻ rời tay nhau làm lửa cháy (ngã nghiêng 2 bên)
Viên mỡ Xèo! .. Xèo! Xèo!
Mỡ bắn ra thành chảo (bắn vào trẻ vây quanh). Nổ vào em nào thì thì em ấy phải
Để mỡ chóng chín
Bục!
vào làm viên mỡ. Tức là “Viên mỡ” đập tay trúng vào ai thì người ấy phải vào giữa.Cuộc chơi sang ván mới.
“Quản trò có thể khuyên thêm các em về phòng cháy nổ, tránh bỏng lử, bỏng
nước tại gia đình: xuất phát từ trò chơi mà quản trò linh hoạt … chú ý: bếp ga, chiêng xào đồ ăn có (mỡ - dầu) nên dẽ cháy. Có thể hỏi: nhà em có bình chữa cháy chưa! Khi bị bỏng không được bôi dầu nóng, chỉ được chờm đá v.v…” 1.(334) Lời giải thích và tư vấn thêm cho quản trò của tác giả tập sách
153
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
9. THÌA LA, THÌA LẨY
Trò này thường là của các em bé gái, ngồi hoặc đứng thành vòng, thành hàng
vừa vỗ tay làm nhịp vừa hát bài:
Thìa la, thìa lẩy
Con gái bảy nghề
Ngồi lê là một
Dựa cột là hai
Theo trai là ba
Ăn quà là bốn
Trốn việc là năm
Hay nằm là sáu
Láu táu là bảy
Một tiếng hát là một nhịp vỗ tay. Yêu cầu hát đồng đều, vỗ tay cũng đồng đều. “Cũng có nơi các trẻ chia 2 phe (nam và nữ) có một bà già (một nữ đóng) quàng khăn, chống gậy. 2 phe hát đối đáp kể lể các tật xấu của nhau (nhiều khi hát ứng khẩu…) cuộc chơi kéo dài múa, hát, bà già cầm gậy “đánh” trẻ vui vẻ. Nhân trò này, quản trò nhấn mạnh thêm tránh những thói hư, tật xấu của các em học sinh hiện nay (ăn quà vặt tại cổng trường, chơi game, đánh bài…) nhằm: thông qua trò đồng dao góp phần giáo dục nhân cách cho học trò… *Lời bài đồng dao được phổ nhạc (cho cả nam và nữ cùng chơi – như trên): Thìa la thìa la. Thìa la thìa lẩy. Con gái nhiều nghề. Ai nghe thì ra. Nghe bà kể chuyện chơi. Ngồi lê là một ,dựa cột là hai, nói dai là ba, ăn quà là bốn, trốn việc là năm, hay nằm là sáu, láu táu là bảy. Thìa la thìa la! Con trai cũng thế. Ai nghe thì nghe. Nghe bà kể hết! Lười biếng là một, trốn học là hai, đánh bài là ba, ăn quà là bốn, lộn xộn là năm, trêu tròng là sáu, láu táu là bảy. Thìa la thìa la! Bà cho ăn bánh, bà đánh đau tay, chắp tay con lạy bà, cháu đã thìa la, cháu đã thìa la. Chúc các em chơi vui với ca khúc phổ đồng dao: Thìa la thìa lẩy “ đã được phát sóng nhiều lần trên VTV6 và HTV3”. 1.(331) Tác giả tập sách sưu tầm
154
8 / 2019
155
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
10. LÒ CÒ Ô THỎ
* Đối tượng – Địa điểm: “Trò chơi này rất quen thuộc với trẻ em gái Việt Nam (nhất là vùng nông thôn) độ tuổi từ 10 – 15. Có nơi trẻ em gái học sinh Trung học phổ thông vẫn thích chơi. Nó có sức hấp dẫn và lôi cuốn người chơi bởi ngoài lợi ích tăng cường sức khỏe do vận động, nó còn có đặc thù riêng dành cho trẻ em gái là khéo léo, mềm mại, nghệ thuật…người chơi như múa trên ô thỏ (Bàn ô thỏ nhìn giống đầu con thỏ). Nhảy lò cò, 2 chân đặt 2 nhà, quay mặt đi tung hòn cái để kiếm ‘nhà’ ở… rất tiếc vài năm gần đây trò chơi này bị lãng quên. Có lẽ do đô thị hóa, nông thôn bây giờ cũng bê tông hóa, rất ít những khoảng đất trống cho các em chơi. Nhiều trò chơi được thể hiện trên nền đất mới hiệu quả (nhảy chân ít đau, vẽ hình nhanh hơn, hòn CÁI không bị vỡ và văng ra ngoài… Các thầy cô giáo hoặc quản trò nên ‘chịu khó’tìm địa điểm cho các em chơi.” * Cách chơi: - Số người : từ 2 đến 4 em là vừa - Vật liệu : Mỗi em một hòn cái bằng mảnh sành, mảnh xứ Khảo cái : Xem ai đi trước, ai đi sau bằng cách ném hòn cái vào ô tai thỏ (5,6), ai gần vạch trên nhất là hơn. - Em được đi ném hòn cái vào ô 1, co một chân lên, nhảy lò cò từ ô 1 đến ô 4 - từ ô 4 lên hai ô 5,6 phải nhảy sao một lần mà mỗi chân đặt vào một ô, sau đó vừa nhảy vừa quay mặt lại nhưng vẫn mỗi chân ở một ô - nhảy tiếp theo cách lò cò ngược lại từ ô 4 xuống ô 1- vẫn đứng một chân ở ô 1, cúi nhặt hòn cái lên tay nhảy ra ngoài. Tiếp tục đi như vậy cho đến ô 6 rồi ngược về ô 4, ô3, ô 2, ô1. Thế là được “lấy nhà” Cách lấy nhà : Đứng quay lưng sát vạch ngoài ô 1, tung hòn cái qua đầu, hòn cái rơi trúng ô nào thì được nhận ô ấy là “nhà” của mình. * Hỏng : - Nếu ném hòn cái không đúng ô, nằm vào các vạch vẽ khung của ô. - Không giữ được một chân giơ lên như quy định - Chân lò cò dẫm vào các vạch - Không làm đúng lệ khi lò cò đến hai ô tai thỏ (5,6) Phạm vào các điều trên thì ngừng đi để chuyển sang người khác theo lượt qua khảo cái. Đợi đến lượt mình lại đi tiếp * Thắng : Được “lấy nhà” và khi lò cò tới “nhà” mình thì được bỏ chân xuống nghỉ, rồi mới lò cò tiếp. Được “lấy nhà” nhiều hơn. Người chưa được lấy “lấy nhà” cứ phải lò cò qua hết ô (kể cả ô nhà của bạn) không được bỏ chân xuống nghỉ và cũng không phải nhảy qua như ở Ô Đầm. 1.(356) Vài nhận định và đề nghị đối với thầy cô giáo và quản trò của tác giả tập sách. 156
8 / 2019
157
119 Trò Việt Nam 11. ÔChơi NÔ,Đồng ỐCDaoNỐC
* Đối tương – Địa điểm: Giống như các trò Dệt vải, Nu na nu nống, Úp lá khoai… * Cách chơi: Bốn năm em ngồi sát bên nhau chân duỗi thẳng. Em ngồi giữa vỗ nhẹ vào chân của từng em (từ trái qua phải hoặc ngược lại) và hát
Ô nô, ốc nốc
Thằng cộc, cái cạc
Chân vàng, chân bạc
Đá lên, đá xuống
Đá ruộng bồ câu
Đá đầu ông voi
Đá nhảy, đá nhoi
Đá nơi mẹ cùng
Mẹ cùng chân rụt…
Chân em nào rơi vào chữ “rụt” thì rút chân lên. Hết lượt các chân bị “rụt”, trò chơi kết thúc. Em nào không “rụt” chân kịp bị gõ và em nào còn lại chân cuối là thua. “Các em có thể tham khảo ca khúc phổ đồng dao đưới đây để cùng hát cùng chơi cho them phần vui nhộn”. 1.(328)
158
8 / 2019
159
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
12. CHẠY ĐÁNH VÒNG * Địa điểm – Đối tượng: “Cho các em nhỏ 5 đến 10 tuổi. Trên đường làng, ngõ hẻm dài trong xóm. Trước kia làng quê đa số là dùng vật dụng bằng tre, nứa ( rổ, rá, thúng, mẹt, dần, xàng, nong, nia ). Những vật dụng này chính là đạo cụ để các em chơi. Ngày nay đồ nhựa dần thay thế. Trò chơi dân dã này dần mai một. Nếu các em còn chơi, quản trò, ngưởi hướng dẫn có thể tuyên truyền cho các em ý thức về bảo vệ môi môi trường ( đồ nhựa, bao ni long…). Việc làm tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ môi trường xanh, xạch, đẹp hiện nay”. * Cách chơi: Các em tìm các cạp của rổ, rá, thúng, mẹt, dần, vòng và một que đánh dài vừa tầm tay (30 – 40 em). Trước hết đẩy cho vòng lăn ra phía trước rồi chạy theo dùng que đánh cho vòng liên tục lăn đi thẳng hay lượn vòng theo đường quy định. Vòng không bị đổ, không lăn chệch đường là tốt. Nếu muốn đánh thi, các em cầm vòng đứng xếp thành hàng hoặc cũng có thể trước sau theo hàng dọc (nơi đất hẹp), em nào chạy đánh vòng không đổ, đúng đường, về trước là được. Khi chạy đánh vòng có thể vượt nhau, em chậm phải nhường đường (dẹp sang bên như tránh xe) để em nhanh vượt lên. Thưởng phạt có khi chỉ là cái tiếng Nhất, nhì, ba … 1.(364) Tác giả tập sách tư vấn thêm cho quản trò, hoặc người hướng dẫn trò chơi.
160
8 / 2019
13. ĐÚC CÂY DỪA * Đối tương – Địa điểm – Cách chơi:
Trò chơi của trẻ em nam, nữ ở miền Trung, tuổi 8 - 13. Các em tập hợp lại xung quanh một khoảng sân hay bãi cỏ sạch. Tất cả cùng úp hai tay của mình vào một chỗ theo hình vòng tròn. Một em vừa hát bài vè sau đây vừa lần lượt đếm tay từng người theo vòng tròn. * Lời bài đồng dao đã phổ nhạc:
Đúc cây dừa
Chừa cây mận
Cây tầm phổng
Cây mía lâu
Cây nào cao
Cây nào thấp
Cây nào giập
Cây nào rời
Chùm tơi, chín đỏ
Quan văn, quan võ
Ăn trộm, trứng gà
Bù xa, bù xịt
Cứ như vậy, mỗi tiếng hát đập vào tay một người, hết vòng lại tiếp tục vòng khác, cho đến câu cuối cùng rơi vào tay ai thì người ấy thua. Xong lại chơi ván khác. “Các em vừa chơi vừa đọc có ngữ điệu hoặc hát bài đồng dao đã được phổ nhạc, rất đơn giản nhưng phù hợp với tiết tấu trò chơi”. 1.(334)
161
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
162
8 / 2019
14. RỒNG RẮN * Địa điểm – Đối tượng:
“Trò chơi này rất hấp dẫn với trẻ em nam và nữ, nó vẫn tồn tại cho đến hôm nay (các em chơi nhiều trong trường Mầm non, Tiểu học). Mỗi vùng miền các em chơi khác nhau, nhưng đều giống bộ khung: đoàn rắn ‘biểu diễn’ uốn lượn trước thầy thuốc để mua thuốc về chữa bệnh cho ‘con’. Con có thể là con chung chung, con gà, con vịt…phần chính của trò chơi là đuổi bắt nhau, trong không gian hẹp nhưng thầy thuốc khó lòng bắt được rắn con (đuôi). Cái hay ở trò chơi này là tính tập thể rất cao. Người chơi phải kết hợp hài hòa nhịp điệu, chạy trốn có ‘nghệ thuật’ để rắn không bị đứt khúc. Đứt khúc, thầy thuốc sẽ dễ dàng bắt được đuôi. Gián tiếp rèn cho các em tính tập thể và kỷ luật, nhưng không kém phần hấp dẫn, vui nhộn. Người sưu tầm trò chơi này là Nhà nghiên cứu VNDG Huy Hồng (đồng dao và trò chơi…Nxb Văn hóa Thông tin 1997, trang 370). Có thể còn nhiều dị bản, nhưng tác giả tập sách này chọn cách chơi dưới đây (phù hợp với các em)”. Các em cùng chơi thuộc lứa tuổi từ 6 đến 15. Địa điểm cần rộng rãi như sân, bãi…. Số người tham gia không hạn chế trong khoảng từ 10 đến 20… Chia hai bên : - Thầy thuốc : 1 em lớn, khỏe, nhanh nhẹn… - Rắn : 1 em làm đầu và 1 em làm đuôi cũng cần như em thầy thuốc. Còn phần đông làm khúc ở giữa đầu và đuôi. *Cách chơi: Thường do tự nguyện đứng ra làm Thầy thuốc hoặc làm đầu rắn. Em làm Đầu sẽ tập hợp các em làm khúc và chọn em làm đuôi. Tất cả các em tham gia làm khúc đứng sau em làm Đầu thành một hàng dọc, em đứng sau túm đuôi áo em đứng trước (kể từ em Đầu) Em làm Đuôi cũng vậy. Thầy thuốc ngồi một chỗ góc sân. Rắn (đã hình thành) kéo nhau đi uốn lượn thành vòng qua “nhà” Thầy thuốc, vừa đi vừa hát hoặc đọc theo tiết điệu đồng thanh bài:
‘Rồng rắn lên mây
Có cây núc nác
Có nhà điểm binh”
Cứ vừa hát đi hát lại vừa lượn vòng trong sân ba vòng, rồi khi qua nhà Thầy Thuốc vòng thứ tư, Đầu rắn hỏi to “Thầy thuốc có nhà hay không?” Thầy thuốc trả lời : “Thầy thuốc đi vắng rồi” Rắn lại lượn hát một vòng, qua nhà lại hỏi : “Thầy thuốc có nhà hay không?” Thầy Thuốc lại trả lời : “Thầy Thuốc không có nhà” Rắn lại kéo đi một vòng nữa, đến nơi lại hỏi ; “Thầy Thuốc có nhà hay không?” Lúc này 163
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Thầy Thuốc mới trả lời : “Thầy Thuốc có nhà” và đứng dựng trước mặt Đầu rắn, hỏi lại : “Rắn đi đâu đấy?” Đầu rắn : “Rắn đi lấy thuốc cho gà” Thầy Thuốc : “Gà lên mấy” Đầu rắn : “Gà lên một” Thầy Thuốc : “ Chẳng ngon” Đầu rắn : “Gà lên hai” Thầy Thuốc : “ Chẳng ngon” Đầu rắn : “Gà lên ba” Thầy Thuốc : “Ngon vậy - Cho xin khúc đầu?” Đầu rắn : “Những xương cùng xẩu” Thầy Thuốc : “Cho xin khúc giữa” Đầu rắn : “Những máu cùng me” Thầy Thuốc : “Cho xin khúc đuôi” Đầu rắn : “Tha hồ mà đuổi” Thầy Thuốc xông lên định tóm khúc đuôi. Đầu rắn giơ rộng hai tay săn đón ngăn lại. Đuôi rắn quan sát tìm hướng lẩn vào thân và gần đầu để tránh bị tóm. Đầu rắn vừa săn đón vừa kéo thân định lừa thế quấn quanh Thầy Thuốc làm Thầy Thuốc vừa tìm tóm khúc đuôi vừa phải tránh bị Rắn quấn quanh vì rắn quấn quanh được là Thầy Thuốc thua. Còn nếu Thầy Thuốc mà chạm được vào khúc đuôi là Rắn thua. Nếu Rắn bị đứt khúc thì khúc đầu phải đứng lại để nối lại xong mới được săn đón quấn Thầy Thuốc – trong lúc đó Thầy Thuốc vẫn được tìm tóm khúc đuôi rắn chứ không chờ đợi cho khúc đuôi bị đứt tìm cách nối lại với khúc đầu xong. Trong trường hợp này. Thầy Thuốc tóm được khúc đuôi vẫn coi là được. Và một cuộc chơi mới lại bắt đầu. Nhưng cũng có khi theo giao ước chơi, bên thua phải chồng tiền nộp phạt cho bên được. Tiền là các nắm tay của người bên thua xếp chồng lên nhau để người bên được đấm vào cho bật ra, mỗi lần đấm là một nắm tay phải nhấc ra. Thầy Thuốc được thì đấm hết lượt nắm tay của Rắn xếp chồng (có thể xếp chồng nối tiếp lần lượt cho đến hết). Rắn được thì Thầy Thuốc cũng phải nắm chồng hai tay liên tục cho các em làm Rắn đấm đến hết lượt. (quản trò yêu cầu đấm nhẹ - đẩy tay là chính – tránh tay bạn bị đau). (Rồng rắn: Tâm Nguyên 11 tuổi – Đà Nẵng)
164
8 / 2019
165
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
15. VUỐT HẠT NỔ
* Đối tương – Địa điểm – Cách chơi: Cho các em từ 6 đến 10 tuổi (nam hoặc nữ). Đây là trò chơi thịnh hành của trẻ em vùng Nam Trung Bộ. Trò chơi nhẹ nhàng, uyển chuyển bởi đôi tay từng cặp một, vỗ vào nhau, rồi lại vỗ vào tay mình, (thể hiện cái chân chất – tự nhiên – trong sáng của tình bạn, say sưa miệng đọc có ngữ điệu hoặc hát bài đồng dao được phổ nhạc. Không gian không cầu kỳ, có thể góc sân, ngoài ngõ, vùng đất trống, sân đình dưới ánh trăng. Chỉ cần một khu đất trống là tổ chức vui chơi được… Năm 2000, Nhà nghiên cứu VNDG Trần Hồng (Đà Nẵng) đã cùng tác giả tập sách này ( phối hợp VTV ĐN ) thực hiện phim Cùng hát, cùng chơ i (giới thiệu trò chơi Vuốt nổ), được phát sóng nhiều lần trên VTV3 Đài THVN. Hai em đứng quay mặt vào nhau. Hai bàn tay chắp vào nhau phía trước ngực, vừa hất vừa đập hai bàn tay mình vào nhau một lần lại đập chéo một bàn tay mình vào bàn tay bạn (tức bàn tay trái mình vào bàn tay trái bạn, bàn tay phải mình vào bàn tay phải bạn) như sau: Mở đầu : Xướng Vuốt – Hai bàn tay tự đập vào nhau Xướng tiếp : Hạt nổ - giơ bàn tay phải mình đập trúng vào bàn tay phải bạn Xướng : Đổ - Hai tay lại tự đập vào nhau Xướng tiếp : Bánh bèo – giơ bàn tay trái mình đập trúng vào bàn tay trái bạn. Và cứ thế cho đến khi cùng xướng đến hết bài sau
Vuốt hột nổ
Đổ bánh bèo
Xào xạc - Vạc kêu
Nồi trò – vung méo
Cái kéo thợ may
Cái cày làm ruộng
Cái phẳng phát bờ
Cái lờ thả cá
Cái ná bắn chim
Cái kim may áo
Cái giáo đi săn
Cái khăn bịt trốc
Cái nốc đi buôn
Cái khuôn đúc bánh
Cái ve rót rượu
Cách đập tay cứ càng lúc càng nhanh, ai không theo kịp hoặc đánh nhầm tay là thua. Chú ý : Đánh tay phải ăn khớp với lời hát. 166
8 / 2019
167
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
16. ĐÁO LỖ Đáo lỗ không phải là trò chơi riêng của ngày hội, quanh năm lúc nào trẻ em cũng chơi được. Từ hai đứa trẻ trở lên là có thể gây bàn đáo, Đáo chơi từng ván. Mỗi ván mỗi người góp một số tiền đồng.
Đáo là trò chơi rất đơn giản, chơi bất cứ chỗ nào, giờ nào cũng được. Chỉ cần
khoét xuống đất một cái lỗ trò. Cách lỗ tròn này mấy bước là vạch cấm. Người chơi đáo phải đứng ở vạch cấm, thẩy đồng tiền vào lỗ. Tiền nào rơi đúng lỗ thì ăn, tiền nào trật ra ngoài thì đến lượt trẻ khác. Dễ dàng lắm! Ngẫm sao cho đúng lỗ, thảy đồng tiền vào lỗ cho gọn là xong!
Theo sự giao ước mà lỗ đáo được đào rộng hay hẹp, nông hay sâu và mức vạch
cấm xa hay gần lỗ đáo. . Trò chơi Dân gian Việt Nam. Phan Thanh Hiền-Trần Mạnh Tiến-Huy Trang-Nguyễn Khánh Trâm. Nxb tp Hồ Chí Minh 1990
168
8 / 2019
17. NHẢY CÒ CÒ
Nhảy cò cò là một hình thức chạy thi. Nhưng thay vì chạy thi phải dùng hai chân,
cố hết sức mà chạy cho hơn người, tới đích trước thì nhảy cò cò chỉ có một chân mà thôi.
Có nhiều cách chơi như sau:
Đơn giản nhất là co một chân và cố hết sức chạy nhanh về đích sau khi có hiệu
lệnh. Chạy bao nhiêu vòng là tùy theo quy ước ban đầu. Ai về đích trước thì thắng.
*Cách chơi khác : Ngay phía sau vạch xuất phát từ hai đến ba mét, vẽ một vòng
tròn nhỏ. Từ vạch xuất phát đến đích để lấy vật mang về có cắm những cành lá tương ứng với số lượng người chơi, khoảng cách dài ngắn tùy theo. Sau khi nghe hiệu lệnh một hai ba thì tất cả những người tham gia trò chơi (đứng hàng ngang) nhấc một chân lên, giơ về phía trước mà chạy. Người nào tới trước đưa ngón chân cái và ngón chân trỏ ra (của bàn chân nhấc lên), nhổ những cành cây đã cắm chặt xuống đất và chạy về tới vạch kẻ ngang làm giới hạn rồi đưa chân ném cành lá vào vòng tròn. Ai ném vào trúng thì thắng cuộc và được chơi tiếp. Người thua phải đứng ra một bên nhìn bạn chơi. Cứ như thế chơi cho tới người cuối cùng.
*Cách chơi khác : Thay vì cắm cành lá thì để những hòn sạn tròn. Tới nơi chân
nhấc lên được quyền bỏ xuống đất rồi dùng chân kia kẹp hòn sạn đặt lên mu bàn chân sẽ phải nhấc lên và chạy cò cò về vạch, ném hòn sạn vào vòng tròn có đường kính độ một tấc. Ai ném trật thì bị loại.
Cũng trò chơi này, nhưng không chơi cá nhân mà chơi tập thể. Nghĩa là chia
hai phe hay ba phe mà chơi. Cách chơi y như nhau. Có thưởng phạt khi thắng thua bằng cách cõng chạy một vòng. 3.(58)
169
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
18. TÝ SỬU
Đây là trò chơi có nhiều người tham gia, có thể ít hơn hoặc nhiều hơn 12 người
(không được đúng 12). Tất cả đều đứng hay ngồi thành vòng tròn rồi đánh tù tì để xem người nào thua thì sẽ phải ra đếm Tí, Sửu, Dần, Mẹo….. cho tới Hợi.
Ai trúng vào Hợi sẽ phải ra ngồi đối diện với người vừa đếm khi nãy và chìa tay
ra để người kia đánh vào lòng tay. Sau mỗi lần đánh, người đếm sẽ giơ bất kỳ ngón tay nào lên, tức thì người bị đánh cũng phải giơ ngón tay của mình đúng như ngón tay người đánh. Nếu giơ sai sẽ bị đánh tiếp, còn nếu giơ lên trùng với ngón tay người đánh thì chơi lại từ đầu. Lúc này người ra đếm sẽ là người bị đánh vào lòng bàn tay khi nãy. Sau đó lại đổi người ra đếm tí sửu… cho tới hợi.
Trò chơi này cũng giống như trò chim bay cò bay, nghĩa là tất cả các động tác
của bên đánh và bị đánh đều phải hết sức nhanh. Do vậy, người bị đánh phải có phản xạ cực tốt để có thể đưa ra các ngón tay trùng khớp với người kia. 3.(102)
170
8 / 2019
171
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
19. ĐÁNH CHẮT
* Đối tượng – Địa điểm: Thường các em bé gái thích chơi đánh chắt. Có thể chơi ba bốn em. Mỗi em kiếm sỏi nhỏ góp chung hoặc 5 hoặc 10 hòn, ngồi quây vòng lại trên mặt đất. Phải khảo cái hoặc nhường nhịn nhau thứ tự đi trước đi sau. * Cách chơi : Dùng lòng bàn tay phải của mình khum lại đựng số sỏi góp được, tung lên rồi lật úp bàn tay xuống hứng lấy số sỏi đã tung lên bằng mu bàn tay và các ngón tay xòe ra xếp lại (nếu biết khéo giữ mu bàn tay thành một mặt phẳng thì số sỏi rơi xuống hứng được sẽ nằm lại nhiều) xong cứ để số sỏi hứng được ấy nằm nguyên trên mu bàn tay mà hất tung lên, rồi nhanh chóng lật ngửa lòng bàn tay hứng lấy những hòn sỏi rơi xuống. Số sỏi hứng được trong lòng bàn tay lần này là số sỏi được ăn nếu chúng là những số lẻ, và không được ăn (tức hòa) khi chúng là những số chẵn cũng như khi không bắt được hòn nào. Ví dụ : 1,3,5,7,9,11,….. thì được ăn, 2,4,6,8,10….. thì hòa (không được ăn) Người chơi cứ lần lượt thứ tự đến người cuối cùng lại bắt lượt lại, chơi cho đến lúc mọi người ăn hết số sỏi đóng góp chung thì hết ván. Tất cả lại góp sỏi để chơi ván khác. Cái khéo chơi ở đây là biết tung chụm, nhẹ nhàng để dễ hứng và hứng được sỏi không nẩy tuột xuống đất, biết “nhằn” bớt cho đúng số lẻ khi hứng lần cuối. Các em chơi được thua ăn sỏi hay thay sỏi bằng đấm (khẽ) hay búng (tay) hay cốc (đầu)…. 1.(398)
172
8 / 2019
173
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
20. MÈO ĐUỔI CHUỘT * Địa điểm – Đối tượng: Trò chơi này hiện nay vẫn được các em ưa thích ở cả 3 miền Nam Bắc. nhất là trẻ Tiểu học, Mầm non và Trung học cơ sở. Ưa thích bởi trẻ em được vận động, phù hợp với tính hiếu động của trẻ. Vận động ở trò này đòi hỏi sự nhanh nhẹn, khéo léo, đầy tính nghệ thuật. Địa điểm đơn giản, chơi ở bất kỳ chỗ nào, nếu có khoảng trống. *Lời bài đồng dao được phổ nhạc:
Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Mèo đuổi đằng sau
Chuột cố chạy mau
Trốn đâu cho thoát
Thế rồi chú chuột
Lại hóa vai mèo
Co cẳng đuổi theo
Bắt mèo hóa chuột
*Cách chơi: Trò chơi thành từng nhóm khoảng 7-10 trẻ, đứng thành vòng tròn cầm tay nhau giơ cao lên đầu, đồng thanh hát. Chọn hai trẻ : Một làm mèo, một làm chuột, đứng ở giữa vòng tròn tựa lưng vào nhau. Khi nào các bạn hát đến câu cuối cùng thì “Chuột” chạy, “mèo” đuổi theo. “Chuột” chui vào “khe” nào (giữa hai bạn đứng giơ tay) thì “mèo” phải chui đúng “khe” ấy, nếu “mèo” bắt được “chuột” thì mèo thắng cuộc, hai trẻ đổi vai cho nhau. Nếu “mèo” chui nhầm, phải ra ngoài 1 lần chơi. Nếu “mèo” không bắt được “chuột”, sau một thời gian quy định của trò chơi (đối với các trẻ mầm non lớp “ lá” thời gian khoảng 3-5 phút 1 lần chơi) thì hai trẻ đổi vai cho nhau (chuột làm mèo, mèo làm chuột), trò chơi lại tiếp tục.
1.(347)
174
8 / 2019
175
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
21. CHƠI RẢI GIANH
Trò chơi này chủ yếu dành cho các em gái. Có thể chơi từ hai đến bốn em cùng một lúc. Mỗi em tìm cho mình năm hoặc mười hòn sỏi. *Cách chơi: Khảo cái : Lần lượt mỗi người cầm trong lòng bàn tay số sỏi của mình tung lên cao, lật úp lòng lắc sao cho số sỏi trên mu bàn tay chụm lại rồi hất tung lên cao và vồ lấy. Lần lượt chơi theo thứ tự số sỏi bắt được nhiều ít. Người chơi cầm số sỏi của tất cả tập hợp lại trong lòng bàn tay, tung tất cả lên cao và đọc. Rải Gianh Trồng chồng Vun chanh Xới chanh Bẻ cành Hái ngọn Chọn đôi (chọn ba…) Khi tung lên thì đọc “Rải”, đồng thời lật úp lòng bàn tay xuống, lấy mu bàn tay đỡ những hòn sỏi đang rơi xuống, sau đó lắc hết số sỏi trên đó xuống chỉ giữ lại một viên làm cái. Lại tung viên sỏi ấy lên và ngửa lòng bàn tày đỡ lấy và đọc “gianh”. Mỗi lần đọc “Bẻ cành” “Hái ngọn…” là một lần tung hòn cái lên cao và nhanh tay chộp lấy một hòn sỏi đang nằm dưới đất, rồi đỡ lấy hòn cái. Khi đến “chọn đôi, chọn ba…” Thì xem những con sỏi nào trên bàn nằm gần nhau nhất theo cặp đôi, ba, tư.. mà chộp lấy. Cứ như vậy cho đến hết. Trong khi “bẻ cành” “vun chanh”… hay “chọn ba, tư” mà chạm vào những quân sỏi khác cạnh đó, hay nhặt lên không đúng số quân như lời hát hoặc đỡ trượt hòn cái thì coi như mất lượt. Nhìn chung tùy thuộc vào số sỏi trên bàn mà liệu tính trong lúc nhặt. Cũng có thể tự nghĩ ra một lời hát ngắn hơn hoặc dài hơn. Cái khéo ở đây là lúc rải phải sao cho những hòn sỏi rơi ra đều theo ý định bài hát mà mình sẽ dùng. Ai thua phải chạy đi tìm những viên sỏi khác.
1.(399)
176
8 / 2019
22. NÉM VÒNG CỔ CHAI * Địa điểm - Đối tượng:
Trẻ nam hoặc nữ từ 8 – 13 tuổi. Nơi chơi là khoảng đất trống vừa phải (tùy theo số lượng người chơi ) *Chuẩn bị: + 3 quả chùy hoặc 3 cái chai + 9 cái vòng đường kính từ 15 - 20cm Làm bằng tre (tùy theo đích ném nếu đích là vật có cổ to thì vòng phải to sao cho lọt được vào cổ vật làm đích) *Cách chơi: Đặt 3 quả chùy (3 cái) thành một hàng thằng cách nhau 50 đến 60cm. Vẽ vạch chuẩn cách quả chùy từ 100 đến 150 cm (tùy theo khả năng và mức độ chơi ở các lần khác nhau mà tăng dần khoảng cách) Các trẻ xếp 3 hàng đứng dưới hàng kẻ, mỗi lần chơi do 3 trẻ ném, mỗi trẻ ném 3 vòng, thi xem ai ném được nhiều vòng lọt vào cổ quả chùy (chai) là người đó thắng cuộc. “Trò chơi này hiện nay có hiện tượng ‘ biến tướng’. Nguyên tắc chơi vẫn vậy nhưng nhiều quầy hàng chơi ném vòng cổ chai (trong dịp tết cổ truyền, phần Hội trong các Lễ hội, nơi vui chơi cho trẻ…) đã biến thành nơi ‘đánh bạc’. Người chơi bỏ tiền ra mua 1 số vòng để ném. Tỷ lệ trúng rất thấp, có trúng thì giải thưởng thường là ‘đồ dổm – rẻ tiền’. Nhiều trẻ em quá si mê đã ném hết tiền vào ‘sòng bạc’ trá hình này. Phụ huynh học sinh lưu ý khi con em mình chơi , đặc biệt không cho trẻ uống nước trong chai hoặc ăn kẹo, bánh ( giải thưởng khi ném trúng vòng cổ chai – những món quà này không được kiểm soát chất lượng…)” \ 1.(402) Tác giả tập sách này lưu ý các em khi chơi trò chơi Ném vòng cổ chai
177
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
23. ĐẾM SAO
Cho các em từ 3-6 tuổi Đêm trăng sáng, các em chơi vui trên sân, ngồi quây quần thành vòng, cùng đua nhau tập đếm sao. Cách chơi như sau: Cứ nói một câu đếm xuôi : - Một ông sao sáng Lại tiếp một câu đếm ngược - Hai ông sáng sao Rồi tiếp trở lại đếm : - Ba ông sao sáng - Bốn ông sáng sao Và …… Các em phải cùng đếm trong khi ngẩng mặt nhìn sao trên trởi. Em nào đếm nhanh, đếm được nhiều, không nhầm lẫn là thắng, là giỏi. 1.(435)
178
8 / 2019
179
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
24. BÚNG THUN * Cách chơi:
Có hai người chơi , mỗi người chơi bỏ ra từ 5 đến 10 sợi dây thun rồi trộn lên và thảy xuống đất. Sau đó 2 người sẽ dùng ngón tay dích ( búng ) các sợi thun đan vào nhau . * Luật chơi: Hai người oẳn tù tì ai thắng đi trước , ai búng được 2 sơi thun đan vào nhau là thắng (ăn) hai sợi . Nếu không búng được hai sơi đan vào nhau thì tới lượt người thứ hai . * Một cách chơi khác: “Hiện nay các em còn chơi trò búng, dùng miệng thổi, hoặc vỗ hai tay vào nhau tạo gió làm bay những lá bài có hình các (thần tượng) trẻ em ưa thích. Hai hay nhiều trẻ chơi theo thỏa thuận, mỗi ván cùng chung một số lá bài bằng nhau. Những lá bài được xếp chồng lên nhau thành một đống. Người đi trước là người thắng trong oẳn tù tì hoặc đã thắng ván trước. Người chơi chụm hai bàn tay, khum người vỗ mạnh tạo luồng gió lật được nhiều lá bài là thắng. (tác giả tập sách này khi chơi cùng các em phát hiện được kinh nghiệm: khi chụm 2 bàn tay lại để vỗ phải tạo giữa 2 lòng bàn tay khoảng trống càng lớn, càng kín thì sẽ tạo được luồng gió mạnh, xoáy lật được nhiều lá bài hơn). Có nơi các em dùng miệng để thổi chồng lá bài, (Khi thổi phải chụm 2 vành môi, tạo một lỗ càng nhỏ, càng tròn thì đẩy hơi càng mạnh). Trò chơi này đang thịnh hành (trẻ em nam rất thích) trong các trường học và gia đình, ngõ xóm. Các em có thể tự tạo lá bài bằng cách cắt những lá bìa mỏng đã bỏ đi, hoặc mua các ô bìa hình chữ nhật có in ký tự tại các nhà sách để chơi. Không nên mua quà vặt rẻ tiền (trong quà có các lá bài để dụ các em mua quà – quà là đồ ăn không kiểm duyệt dễ ngộ độc – lá bài có hình ảnh không phù hợp với lứa tuổi các em). Nhớ chơi xong cần rửa tay sạch, tránh dụi mắt bằng tay khi đang chơi các em nhé!…” Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Tác giả tập sách này sưu tầm, hướng dẫn, dặn dò thêm các em khi chơi.
180
8 / 2019
25. BẮC KIM THANG * Đối tương: Trẻ nam hoặc nữ tuổi từ 8 -12 * Lời bài đồng dao phổ nhạc: Bắc kim thang, cà lang bí rợ Cột qua kèo là kèo qua cột Chú bán dầu qua cầu mà té Chú bán ếch ở lại làm chi? Con le le đánh trống thổi kèn Con bìm bịp thổi tò te tí te * Yêu cầu: càng đông càng vui Khu đất – sân nhà, đình rộng, bằng phẳng * Cách chơi: Các trẻ đứng thành vòng tròn, chân trái xỏ ré ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò cò bằng chân phải và giữ không bị té, cùng hát bài đồng dao Bắc kim thang. (đậm chất dân gian Nam bộ) Trẻ nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt búng tai hoặc khẻ tay nếu là con gái, hoặc phải cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con trai. Vui tếu thì phạt bằng quẹt nhọ nồi lên mặt. Các em trai còn bị phạt làm ngựa cho bạn cưỡi hoặc bị hát các bài đồng dao quen thuộc… Tốp 10 trò chơi dân gian vừa vui vừa bổ ích dành cho lứa tuổi mầm non – tác giả: Người Mỹ gốc Việt
181
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
182
8 / 2019
26. BÓNG NÉ * Đối tương – Địa điểm:
Phù hợp với trẻ em nam, khoảng trống đủ rộng hợp với số lượng người chơi. Trò chơi này rèn luyện sức mạnh, khéo léo của đôi tay. Tạo cho trẻ phản xạ nhanh - lanh lợi. * Cách chơi: Bóng né là trò chơi vận động ngoài trời yêu cầu sự khéo léo. Chia đều số người thành 2 đội, mỗi đội từ 7 người trở lên. Đúng như với tên gọi của trò chơi là bóng né. Nhiệm vụ của thành viên trong đội là phải tránh bóng. Trọng tài sẽ là người giao bóng đầu tiên. Nếu thành viên nào bị bóng ném trúng người sẽ bị loại, trong trường hợp bắt được bóng sẽ không bị loại. Đội nào còn lại 1 thành viên cuối cùng sẽ chiến thắng. Lưu ý : Nên dùng những quả bóng bằng nhựa, nhẹ (bóng chuyền cho người cao tuổi)
183
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
27. ĐÁNH ĐÁO 2
* Địa điểm – Đối tượng:
Trò chơi này cho trẻ em nam, thậm chí cả người lớn vẫn chơi…chỉ cần một
khoảng trống đủ cho 2 người là chơi được.
* Cách chơi:
Trong Nam Bộ có một lối chơi đáo hơi khác, gọi là đánh đáo. (Chúng tôi tạm gọi
là Đánh đáo 2 để tránh trùng lặp). Lối chơi này rất đơn giản, chỉ cần từ hai người trở lên là có thể chơi được. Những người đánh đáo thường chọn cho mình những hòn đáo là đá hoặc gạch hình tam giác lớn hay nhỏ tùy ý, những hòn đáo này được mài nhọn một góc hay cả ba góc hoặc mài tròn hai góc kia.
Người chơi vạch hai lằn vạch, lằn vạch này cách lằn vạch kia 1,5 đến 2 mét.
Người chơi đứng dưới vạch mức thứ hai, thảy những đồng tiền chơi vào khoảng giữa hai vạch, những đồng tiền nào vượt qua vạch thứ nhất coi như bị loại. Nếu những đồng tiền còn lại nằm trong khoảng giữa hai vạch có những đồng tiền chồng hai hay chồng ba, thì người thảy được quyền đánh những đồng tiền đó, sao cho những đồng tiền đó vượt qua lằn mức thứ nhất thì được, nếu một trong những đồng đó bị cán mức thì người chơi bị loại hay hòn đáo đụng vào các đồng tiền bên cạnh cũng bị loại. Nếu các đồng tiền không chồng nhau thì người đi kế sẽ chỉ định đồng tiền phải đánh. Nếu đánh không qua lần mức hay đáo đụng đồng tiền khác thì cũng bị loại. Trò chơi Dân gian Việt Nam. Phan Thanh Hiền-Trần Mạnh Tiến-Huy Trang-Nguyễn Khánh Trâm. Nxb tp Hồ ChÍ Minh 1990
184
8 / 2019
28. KHIÊN KIỆU
* Cách chơi :
Chia làm 2 đội, mỗi đội có 3 người chơi, hai người chơi đứng đối mặt nhau lấy tay
phải nắm vào giữa tay ngay cùi chỏ của mình và tay trái thì nắm vào tay phải của người đối diện để làm kiệu. Sau đó người chơi còn lại của đội này ngồi lên kiệu của đội kia và phải giữ cho chắc để không ngã.
* Luật và cách chơi :
Từ điểm xuất phát đến đích tùy qui định theo khả năng chơi và diện tích ô đất
trống. Khi có hiệu lệnh, kiệu của 2 đội tiến về đích. Kiệu phải giữ chắc nếu vuột tay thì đội làm kiệu phạm luật và người ngồi kiệu của đội đối diện nếu ngã thì cũng sẽ phạm luật và thua cuộc. “Khi chơi có thể hát hoặc đọc những bài đồng dao quen thuộc, ví dụ: Nhong nhong nhong ngụa ông đã về, cắt cỏ bồ đề cho nghựa ông ăn…khán giả ngoài hò reo kèm trống cái, trống ếch ròn rã khích lệ người chơi. Kiệu đi nhịp nhàng, nhún nhảy theo ngữ điệu giọng đọc, hoặc hoặc tiết tấu khi hát. Các em lưu ý: không vì thành tích mà đua tốc độ vượt khả năng dễ dẫn đến trường hợp bạn ngồi kiệu bị té ngã nguy hiểm.” Tốp 10 trò chơi dân gian vừa vui vừa bổ ích dành cho lứa tuổi mầm non – tác giả: Người Mỹ gốc Việt Tác giả tập sách này lưu ý thêm cho các em khi chơi
185
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
186
8 / 2019
29. HÚ CHUỘT * Bài đồng dao quen thuộc khi nhổ răng: Chi chi chuột chuột Hú chuột răng mới về Răng cũ về mày. Răng tao sao răng mày vậy
Xưa kia khi chúng tôi còn nhỏ sau mỗi lần được mẹ nhổ răng sữa bị lung lay, mẹ thường dùng sợi chỉ may gập đôi lại cho chắc và quấn vài vòng quanh chân răng rồi giật mạnh ra, thế là xong. Mẹ thường bắt chúng tôi tự ném cái răng vừa nhổ của mình lên mái nhà ngay lúc đó và hú chuột với những câu ví von như vậy để cho răng mau được mọc lại. “Thực ra đây không phải là trò chơi, nhưng chúng tôi vẫn đưa vào nhằm mục đích khuyên nhủ các em đôi điều nhân chuyện nhổ răng: Xưa kia khi rất hiếm có nha khoa ở nông thôn, người lớn thường nhổ răng cho trẻ em như vậy. dùng sợi chỉ quấn vào chân răng giật mạnh…trường hợp này trẻ ít đau khi răng đã lung lay mạnh, nhưng khi chờ đến lung lay mạnh để tránh đau thì răng dễ mọc lò sỉ (răng khác mọc chèn vào răng đang lung lay) mất thẩm mỹ cho hàm răng. Nếu nhổ sớm theo kiểu buộc chỉ, tránh răng mọc lò sỉ thì lại bị đau…Luẩn quẩn, quẩn quanh, có khi trẻ em lại giấu không cho người lớn biết mình đang bị lung lay răng vì những lý do trên. Một điều nên nhớ các em cần báo cho người lớn thân cận của mình để tránh nhiễm trùng răng hoặc để lâu răng cứng lại cùng song song với răng chèn lò sỉ. Nhổ răng là công việc bình thường nếu các em được đưa đến nha khoa thực hiện. Không đau, chóng lành, và được về ngay đi học các em nhé!”
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Lởi tâm tình của tác giả tập sách này với các em.
187
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
188
8 / 2019
30. CHUYỀN DÉP Trò chơi được tác giả cuốn sách này ghi âm lại tại Khổng Tử Miếu (thành phố Hội An tỉnh quảng Nam tháng 5/1976)
* Lời bài đồng dao:
Nào cùng chuyền chiếc dép, anh em ta chuyền Chuyền cho đều, chuyền cho nhanh, chuyền cho khéo Nếu không, nếu không thì mời anh ra...
* Cách chơi:
Một đám trẻ chăn trâu bò ngồi chồm hổm vòng tròn, trên tay một trẻ là một chiếc
dép, vừa hát theo phách vừa chuyền chiếc dép cho nhau theo một chiều. Tới câu “nếu không nếu không”, chiếc dép được chuyền qua chuyền lại hai lần, ai không bắt kịp chiếc dép sẽ bị ra. Cứ thế cuộc chơi cho tới người cuối cùng.
Tác giả sưu tầm tại Hội An tỉnh Quảng Nam 5/1976 (tại Khổng Miếu )
189
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
190
8 / 2019
31. OẲN TÙ TÌ Cho các em nhỏ tuổi và hay dùng khảo cái xem ai đi trước – đi sau * Cách chơi :
Thường hai em một. Các em đứng trông vào nhau, bàn tay phải nắm lại. Vừa vung vẩy nắm tay này vừa xướng lên: Oẳn tù tì Ra cái gì Ra cái này Phải vung vẩy cùng đều nhau, khi đến tiếng ‘Này” cuối cùng thì cùng giơ bàn tay tượng trưng cho : 1/ Cái búa : Bàn tay nắm chặt 2/ Cái dùi : Giơ một ngón tay trỏ (4 ngón khác quặp lại) 3/ Cái kéo : Giơ hai ngón tay và giữa (3 ngón khác quặp lại) 4/ Tờ giấy : Bàn tay xòe rộng Cách tính được thua: - Búa được Kéo và Dùi – thua giấy - Dùi được Giấy và kéo – thua búa - Kéo được giấy – thua Búa và Dùi - Giấy được Búa – thua Dùi và kéo Nếu cùng ra một thứ là hòa, làm lại Trò chơi đơn giản, nhưng nhiều trẻ thích chơi. Đặc biệt không gì vui bằng trẻ 2, 4 tuổi chơi oẳn tù tì với mẹ… các bé thích lắm vì mẹ thường hay THUA! 1.(437)
191
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
32. ĐI CÀ KHEO * Đối tượng - Cách chơi : Nam nữ đều thích chơi trò này. Trò chơi thường được chơi ở bãi biển, miền núi, Tây nguyên… Người chơi có thể chia làm hai đội để thi đấu với nhau (ví dụ : thi chạy…) Cây cà kheo được làm bằng tre, độ cao của bệ đặt chân cách mặt đất khá cao khoảng 1,5m – 2m. Mỗi người sẽ đi trên một cây cà kheo để thi đấu. * Luật chơi : Khi có hiệu lện, mọi người phải cố sức đi cà kheo thật nhanh về đích. Nếu ai ngã khi đang thi đấu hoặc không kịp thời gian thi đấu thì thua cuộc. “Khi chơi khán giả ủng hộ rất nhiệt tình bằng các hình thức như hô: (cố lên – cố lên). Ở miền núi hay vùng Tây nguyên còn có cồng, chiêng, trống, mõ rất náo nhiệt. Tuy nhiên các em nhỏ quá, dưới 13 tuổi không nên chơi trò này. Tuổi thiếu niên nếu chơi thì khoảng cách của bên đặt chân cách mặt đất ngắn lại (khoảng 0,5 – 1m) so với 1,5 – 2m đối với người lớn. Nhớ cẩn thận dễ bị té ngã…”
Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam Tác giả tập sách này giải thích thêm và dặn dò các em khi chơi
192
8 / 2019
33. GÀ MỔ MỐI * Đối tượng - Địa điểm: Cũng như trò oẳn tù tì * Cách chơi có đổi khác như sau:
Các em cùng xướng lên: Một – Hai – Ba. Đến tiếng ba thì giơ bàn tay phải mang các biểu hiện. 1/ Vua : giơ ngón tay cái (4 ngón khác quặp lại) 2/ Tuần phiên : Giơ ngón tay trỏ (4 ngón khác quặp lại) 3/ Kẻ trộm : giơ ngón tay giữa (4 ngón khác quặp lại) 4/ Gà : Giơ ngón tay đeo nhẫn (4 ngón khác quặp lại) 5/ Mối : Giơ ngón tay út (4 ngón khác quặp lại) Cách tính hơn thua - Vua : Được Tuần phiên - Tuần phiên : Được kẻ trộm - Kẻ trộm : Được gà - Gà : Được mối - Mối : Được vua (đục nát ngai vàng) Hai em chơi ra trúng từng cặp được – thua (như Vua và Tuần phiên…) thì không phải làm lại. Nếu hai em ra trái cặp trên (như Vua và Kẻ trộm – Tuần phiên và Già – Kẻ trộm và Mối …) thì hòa, làm lại 1.(438)
193
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
194
8 / 2019
34. BÀNH XÔ * Địa điểm – đối tượng:
Vào các đêm đẹp trời có trăng và khô ráo, trẻ em vùng biển thường tụ tập trên bãi cát để chơi trò “Bành xô”. Đây là trò đấu vật rất đặc biệt mà các em trai tuổi từ 10 đến 15 rất thích. *Cách chơi: Cứ hai em kết thành một cặp, tùy các em tự nguyện lựa chon. Từng cặp cõng nhau. Một em ngồi lên lưng, hai chân quặp chặt vào hông của người cõng. Em ở dưới giữ chặt hai chân của bạn. Vào cuộc chơi, từng cặp một đấu với nhau, hoặc có khi một cặp đấu với hai, ba cặp. Các em ngồi ở trên tìm cách kéo đối thủ của mình cho rơi xuống đất. Các em ở dưới dùng vai và sức hỗ trợ cho người ở trên tấn công vào đối thủ. Cặp nào bị ngã hoặc em ngồi trên lưng người cõng bị rơi tuột xuống đất là thua. Ở mức độ cao hơn, người ở trên đứng thẳng chân lên vai bạn (như kiểu diễn viên xiếc) vả đấu với cặp khác cùng kiểu. Thể thức thắng thua cũng như trên. Trò “Bành xô” không chỉ được chơi trên cạn, mà còn được tổ chức ngay cả dưới nước (biển, sông), nơi nước ngập đến vai người cõng. Cũng có nơi các em gái cớ chơi trò này (chơi riêng, không chung nam nữ). Cũng như các trò chơi khéo léo khác cần thêm sức mạnh, trò này dễ ngã, nếu không chủ động sẽ bị chấn thương. Tác giả tập sách này góp ý các em nên chơi dưới nước (nhất là chơi ở mức độ cao hơn), khi ngã đã có nước 1.(360)
195
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
35. TAY CÓ TAY KHÔNG * Địa điểm – Đối tượng: Các em nam nữ nhi đồng và thiếu niên đều chơi được. Trò chơi đơn giản, có tính tập thể cao – vui – náo nhiệt. Tùy số lượng người chơi mà chon địa điểm chop phù hợp. * Cách chơi: (…). Tất cả đều ngồi thành vòng tròn. Một trong số những người này bị “xù xì xịt” hay bị ‘chặt dừa, năm mười” sẽ đứng giữa vòng tròn để quan sát và tìm vật giấu. Vật giấu có thể là hòn bi, chai dầu Nhị Thiên Đường hay cái kẹp tóc, nghĩa là vật giấu phải nhỏ để có thể nắm gọn trong lòng bàn tay. Bắt đầu chơi, một người cầm vật sẽ giấu giơ lên cho mọi người thấy rõ, rồi đặt xuống mặt đất (thường là mặt sân vôi). Tất cả đều đồng thanh đọc bài đồng dao và vật giấu sẽ được chuyển liên tục từ bàn tay này sang bàn tay kế bên. Bàn tay kế bên có nhiệm vụ úp lên bàn tay bạn để che vật giấu không bị lộ rồi chuyển sang cho bạn ngồi kế bên cho tới khi nào bị phát hiện. Cứ mỗi một câu đọc lên tương ứng với một lần chùi
Ụp đòn dông
Chị có chồng Chị lấy gỗ
Em ở giá (góa) Em cất nhà
Chị ăn cá Chị trồng cà
Em mút xương Em trồng bí
Chị nằm giường Chị tuổi tỵ
Em nằm đất Em tuổi thân
Chị mút mật
Em liếm ve Em tuổi mẹo
Chị ăn chè Chị mua kẹo
Em liếm bát Em ăn hết
Chị coi hát Chị có chết
Em vỗ tay Em đi chôn
Chị ăn mày Ụp đòn dông
Em xách bị Tay nào không
Chị làm đĩ Tay nào có
Em lấy tiền
Nếu chỉ ra ai là người đang cầm vật giấu trong tay thì người đó sẽ ra thế chỗ cho
Chị tuổi dần
người kia vào ngồi chơi. Cứ như vậy chơi cho tới lúc chán thì nghỉ
3.(72) 196
8 / 2019
36. THI THỔI CƠM (Trò này phần nhiều là người lớn chơi, nhưng vẫn có trẻ em tham gia phụ giúp các công đoạn nhẹ...) Trong dịp lễ hội, một số làng ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam có tổ chức thổi cơm thi. Cuộc thi thổi cơm ở từng nơi có những luật lệ, nét đặc trưng riêng như nấu cơm trên thuyền, nấu cơm trông trẻ, vừa đi vừa nấu cơm.. Thi nấu cơm ở Hội Thị Cấm (Từ Liêm – Hà Nội). Cuộc thi nhằm diễn lại tích của Phan Tây Nhạc, vị tướng thời Vua Hùng thứ 18, đã rèn luyện cho quân sĩ thực hành một cách thành thạo, đặc biệt là nấu được cơm ăn trong điều kiện khó khăn. *Thể lệ cuộc thi : Nguyên liệu là thóc, sẵn củi, chưa có lửa, chưa có nước. Các đội phải làm gạo, tạo ra rửa, đi lấy nước về nấu cơm. Cuộc thi có ba bước : Thi làm gạo, tạo lửa, lấy nước và thổi cơm. Mỗi nhóm 10 người (Cả nam và nữ, có từ 3-5 trẻ em), họ tự xay thóc, giã gạo, dần sàng, lấy lửa, lấy nước và nấu cơm. Bước 1, Thi làm gạo : Sau hồi trống lệnh, các đội đổ thóc vào xay, giã, dần sàng. Giáp nào có được gạo trắng trước nhất là thắng cuộc. Bước 2 : Thi kéo lửa và lấy nước : Lấy lửa từ hai thanh nứa già cọ vào nhau (khó nhất là khâu này), áp bùi nhùi rơm khô vào cho bén lửa. Người lấy nước cách đó khoảng vài chục thước, nước chứa sẵn vào 4 cái be bằng đồng, đợi người đến lấy mang về. Giáp nào lấy được lửa trước và lấy nước về đích trước thì giáp đó thắng cuộc. Bước 3 : Nấu cơm : Giáp nào thổi được cơm chín dẻo, ngon và xong trước thì thắng cuộc. Cơm của giáp đó được dùng để cúng thần.(…) Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
197
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
37. ĐUA THUYỀN
Phù hợp cho trẻ mầm non Rèn luyện phản xạ nhanh, khéo léo * Cách chơi: Cô giáo hãy chia trẻ thành các nhóm nhỏ (mỗi nhóm có khoảng 7 – 8 trẻ, có thể chia nhóm trẻ trai, gái riêng). Cô cho trẻ ngồi thành hàng dọc theo từng nhóm, trẻ ngồi sau cặp chân vào hết vòng bụng của trẻ ngồi trước để tạo thành một chiếc thuyền đua. Khi nghe hiệu lệnh của cô, tất cả các thuyền đua dùng sức 2 tay của tất cả các thành viên trong nhóm nâng cơ thể lên và tiến về phía trước cho đến đích. * Yêu cầu: Các thuyền đua phải cố gắng bám thật chặt vào nhau để không bị đứt thuyền trong khi đang di chuyển. Trong khi chơi các trẻ là khán giả bên ngoài hò hét, gõ trống tạo không khí vui nhộn Cô giáo có thể chuẩn bị các giải thưởng để thưởng cho các đội về 1, 2, 3 để tăng tính hấp dẫn, tạo sự phấn khởi cho trẻ khi tham gia trò chơi. Trò chơi dân gian Việt Nam: Trang tin điện tử Phòng Giáo dục huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
198
8 / 2019
38. RÁI BẮT CÁ
Trò bắt cá diễn ra dưới nước, thường là các ao hồ, ven biển có độ sâu từ vai các em trở xuống, (trò này phù hợp với các em nam). Người nào thua đánh tù tì sẽ phải đứng làm rái cá. Những người khác thì làm cá. Khoảng cách giữa rái cá và bầy cá trên dưới 10m. Rái cá đứng dưới lòng nước chảy. Sau khi có hiệu lệnh,, tất cả cá phải lặn dưới nước và bơi xuôi về hướng rái cá. Trong khi đó rái cá cũng phải lặn xuống nước để tóm những con cá. Nếu tóm không được cá sẽ phải làm rái cá tiếp. Nếu bắt được một hay hai con cá thì cả hai sẽ thay thế làm rái cá. Trò chơi được qui định là phải túm chặt cá ở phần tay, chân, không được túm quần. Vì vậy, rái cá khó lòng bắt được cá, bởi da thịt ngâm nước dễ trơn tuột. Đây là trò chơi trẻ em chăn bò hay chơi vào mùa hè. Một phần là vui chơi, một phần là tắm mát. Trò chơi này cũng được thực hiện trên cạn, giống như khi chơi dưới nước. Tuy nhiên có điểm khác biệt là, trong số cá bơi qua vùng rái cá cư trú sẽ có một con cá đầu đàn (do cả nhóm làm cá qui định). Rái cá đoán được ai là cá đầu đàn để túm giữ thì người đó sẽ thay thế làm rái cá. Còn nếu như bắt sai thì sẽ làm lại cho tới khi nào bắt được mới thôi. “Trò chơi Rái bắt cá được các trẻ mục đồng (chăn trâu bò - ở nông thôn), trẻ đi tắm biển (vùng biển) hay chơi, nhưng có em không biết tên của trò này (có thể mỗi nơi có tên gọi khác nhau). Dưới sông nước ngoài các loài hải sản còn có 1 loại Rái cá (danh pháp khoa học: Lutrinae) là một nhóm động vật có vú ăn thịt sống dưới nước hay đại dương, thuộc một phần của họ Chồn (Mustelidae), họ bao gồm chồn, chồn nâu, lửng, cũng như một vài loài khác. Với 13 loài trong 7 chi, rái cá phân bố khắp nơi trên thế giới. Con này sống dưới nước sâu 100m trong thời gian 4 phút để bắt cá làm mồi ăn…( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia). Các em lưu ý để tránh đuối nước cần chơi ở độ sâu: nước từ vai trở xuống, tránh ôm nhau vật lộn. Chạm được vào người làm cá ( là thắng ). Trước khi chơi cần khởi động (tránh chuột rút), chờ ráo mồ hôi mới được xuống nước” . Tác giả tập sách này dặn dò thêm các em trước khi chơi
3. (103)
199
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
200
8 / 2019
201
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
39. ĐÁO ĐINH
* Địa điểm – Đối tượng: Một trò chơi hấp dẫn của trẻ em gái. Người lớn tuổi và thanh niên trai ít chơi trò này. * Cách chơi: Có thể từ hai người trở lên, ngồi thành vòng trên sân, trên đường…Người chơi góp một số đồng tiền chinh đều nhau theo quy ước (như hai, ba, bốn, một..) Người được cái sẽ cầm tất cả số tiền chinh này, cầm ngửa mặt có chữ lên bằng hai ngón tay trỏ và cái giữ chặt, vung hất tất cả cho chúng tung rải ra trên mặt đất. Rồi nhặt lấy những đồng úp sấp, úp sấp càng nhiều thì càng tốt, số tiền ngửa mặt trên đất còn lại thì trao tiếp cho nhà thứ hai chơi tiếp; người này cũng cầm tiền tung lên, nhặt lấy những đồng tiền sấp và lại trao tiếp số tiền còn lại cho người thứ ba sau mình, nếu đến nhà cái mà chưa hết thì lại tiếp vòng mới cho đến đồng cuối cùng. Như vậy là hết một ván. Ván nào cũng đổi cái: cách đổi : Mỗi người lần lượt cầm một số đồng tiền tung lên, ai tiền sấp nhiều hơn thì được cái, còn sau cứ tính thứ tự đến nhà sấp ít nhất là cuối. Vào ván mới lại góp tiền như kiểu trên. 1.(412)
202
8 / 2019
40. NÉM CÒN * Đối tượng – Địa điểm: - Trẻ em nam và nữ đều chơi được. Không gian không cần rộng. * Chuẩn bị :
-1 cột bằng gỗ hoặc tre cao 1,5 mét ở trên đỉnh cột buộc một vòng tròn có đường kính 30 – 40cm. - Quả còn làm bằng vải Cách làm quả còn: Lấy một miếng vải có hình chữ nhật (7cm x 12cm) khâu mép vào nhau như một cái túi rồi lộn lại, nhồi trấu hoặc cát đã rửa sạch, khâu kín lại rồi đính 3 dải vải dài kích thước 1 x 25 cm vào 1 đầu của mép túi. * Cách chơi : Trẻ có thể chơi từng nhóm, đứng cách cột từ 2m - 2,5m. Rồi lần lượt từng trẻ ném quả còn vào vòng treo ở cột (mỗi lần mỗi cháu được ném 3 quả). Ai ném được nhiều quả còn lọt lọt vòng là thắng cuộc. 1.(422)
203
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
41. CHI CHI CHÀNH CHÀNH (Còn gọi là đi ẩn, trốn tìm) * Địa điểm – Đối tượng: Cần một khoảng rộng, có những nơi dễ ẩn nấp Cho các em từ 6 đến 10 tuổi, nhiều em cùng chơi Khảo cái : Để chọn em phải bịt mắt và đi tìm các em đi trốn. Một em lớn tuổi tập hợp các em thích chơi đứng quây thành vòng tròn, giơ bàn tay phải để ngửa cho mỗi em đặt vào lòng bàn tay này ngón tay trỏ của bàn tay phải mình, còn chính em thì đặt vào ngón trỏ bàn tay trái. Em trưởng trò xướng lên bài:
“Chi chi chành chành
Con đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương ngũ đế
Chấp chế đi tìm
Ù….à…..ù….ập”
Khi đến câu cuối ù à ù ập, em có thể kéo dài khoảng cách giữa các tiếng lâu mau tùy ý, để gây bất ngờ cho các em khác khi đến tiếng “ập”. Vì khi xướng tiếng “ập” cuối bài, em nắm chặt ngay bàn tay phải của mình lại và các em phải chú ý nhanh chóng rút ngón tay mình về. Em nào có ngón tay bị bàn tay trưởng trò nắm lại sẽ phải bịt mắt đi tìm. Nếu chưa nắm được ai thì lại làm lại. Trò chơi này thường diễn ra trong một nhà nào đấy để có thể giao hẹn nhau phạm vi mọi người đi trốn không được vượt quá. * Cách chơi: Em nhắm mắt dùng hai bàn tay mình xòe ra bịt thêm mắt mình và đứng úp mặt vào tường hay một cây cột. Sau tiếng em này hô: “Xong”, các em khác đi tìm chỗ ẩn nấp sao cho kín hoặc bất ngờ để khó bị phát hiện và dễ chạy đến chỗ em bịt mắt đứng vỗ vào một cái và nói to một tiếng “Xong” báo rằng mình đã hoàn thành công việc, không bắt được mình nữa. Em bịt mắt tìm ra chỗ trốn của em nào, đến sờ được vào người thì em đó phải ra đứng bịt
204
8 / 2019
mắt thay cho ván chơi tiếp. Hoặc có em nào chạy ra định đến vỗ vào chỗ quy định, em có
thể săn đón để bắt, bắt được (chạm vào người) thì cũng phải đứng bịt mắt thay. Vì chỉ cần một em bịt mắt thay, “Thôi”, tất cả các em còn trốn được tự do đi ra để chơi ván mới – còn nếu chưa có tiếng hô này thì ván chơi vẫn chưa kết thúc, ra có thể bị bắt. Cuộc chơi càng về sau càng khó khăn vì những nơi kín đáo nhất đã lần lượt bị phát hiện, trốn được không phải dễ, lúc này khôn khéo, bình tĩnh, mưu mẹo,…. Sẽ dễ giúp cho thoát bị bắt. Cuộc chơi cứ liên tục cho đến lúc mệt hay muốn chuyển sang chơi trò khác.
205
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
206
8 / 2019
42. CHƠI QUẶP Hai hoặc ba em cùng chơi, mỗi em tìm cho mình 10 viên sỏi.
* Cách chơi : khảo cái : Mỗi người cầm số sỏi của mình rải ra đất, Những hòn sỏi rơi xuống, sau đó đếm xem của ai có nhiều cặp đôi nhất (cặp đôi là hai hòn sỏi nằm sát cạnh nhau) trong số sỏi của mình thì người đó được cái. Thứ tự tính theo số cặp đôi nhiều ít của từng người. Người được cái tập hợp số sỏi của tất cả rải ra đất. Sau đó lấy hai bàn tay đang vào nhau tạo thành một cái “túi”. Hai ngón tay trỏ chìa ra như hai “càng” dùng để quặp. Người chơi lần lượt quặt sỏi bỏ vào “túi”. Lần thứ nhất và lần thứ ba phải quặp hai hòn cùng một lúc, sau đó lại lặp lại. Cứ như vậy người chơi lần lượt dùng hai “càng” cắp sỏi cho rơi vào vốc tay đến hết số sỏi trong bàn thì thôi. Trong lúc chơi nếu quặp hòn sỏi nọ mà đụng vào hòn sỏi kia thì mất lượt. Hòn sỏi đã quặp được lên lưng chừng mà rơi hoặc lúc rơi vào “túi” trượt thì cũng mất. Sỏi quặp được trong vốc tay không giữ được hay đẩy quá mà rơi ra cũng mất lượt. Ai quặp được bao nhiêu để riêng ra. Lần lượt từng người chơi quặp cho đến hết, khi đó trò chơi lại bắt đầu tư đầu. Người nào thua phải vay thì tính theo số sỏi vay mà phải chịu từng ấy cái cốc nhẹ vào đầu. Trò chơi đòi hỏi người chơi phải khéo léo quặp được hòn sỏi bằng hai ngón tay trỏ, nhất là khi quặp đôi, rồi lựa cho nó rơi vào trong vốc tay. Số sỏi đã nằm trong vốc tay ấy phải lắc và giữ sao để không rơi. Đặc biệt khi rải các hòn sỏi sao cho có những cặp đôi chụm để mà dễ quặp. *Có nơi gọi là cắp cua bỏ giỏ Trò chơi thường gồm 3-4 em là vừa. Trai gái đều được. Mỗi em phải có một số hòn sỏi để góp, sỏi là cua, số cua của mỗi người bằng nhau. Để đống ở giữa chỗ chơi. Các em đều ngồi. Vào cuộc phải “Oẳn tù tì” để xem ai được bắt cua trước. Người được bắt đầu tiên vơ cả số cua tung rải ra (ý :cua chạy tứ tung). Rồi bắt đầu cắp cua - nhặt, bắt – để bỏ giỏ. Người bắt cua : 2 tay úp cong vào nhau cho khít làm giỏ, 2 ngón trỏ duỗi thắng dùng để cắp cua, em sẽ cắp từng con cua sao cho không tuột rơi, cua này không chạm vào cua khác. Cắp được cua rồi thì bỏ giỏ, nghĩa là hơi nâng 2 tay lên, ngón trỏ hướng lên trời rồi thả cua vào lòng 2 bàn tay khép kín (làm giỏ) Cứ cắp đều thả từng con đều vào giỏ như thế, đến lúc hoặc rơi cua, hoặc tay chạm vào cua khác thì thôi, tới lượt người kế tiếp. Bắt hết cua bò thì điểm lại, ai được bao nhiêu thì được phạt người thua ngần ấy búng tai.
207
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Ví dụ : Mỗi em góp 5 cua chơi. Có 4 em, vậy số cua phải là 20 con, khi kiểm điểm lúc tan cuộc, nếu em A được 7 cua tức là thắng (thừa) 2 con, được búng 2 cái vào tai người chỉ cắp được có 3 con cua (hụt 2 cua..) 1.(414)
208
8 / 2019
43. NHẨY Ô ĐẦM * Địa điểm – Đối tượng:
“Trò chơi này các em gái rất thích (tuổi từ 6 đến 15), thậm chí nữ thanh niên vẫn còn chơi bởi nó phù hợp với tính cách trẻ em gái: nhẹ nhàng, uyển chuyển, duyên dáng, dáng dấp một bộ môn nghệ thuật…Rất tiếc hiện nay trò này bị mai một, phần nhiều do nông thôn, đường xá bê tông hóa, địa điểm không phù hợp với trò chơi. Nhẩy lò cò trên bê tông nóng, khó vẽ thêm nhà khi bán, khi mua… các bé gái nếu bỏ trò chơi này là một điều đáng tiếc” Số người chơi ít nhất là hai em, nhưng không đông quá 5 (vì có thể chia hai đám hơi được) Vẽ trên mặt sân, mặt đường, mặt bãi đất…một khung chữ nhật rộng khoang 1m20, dài khoảng 2m. Vạch một đường chia khung này thành hai theo chiều dọc và 4 đường theo chiều ngang, chia đều thành 10 ô nhỏ (0,40 x 0,60) trong lòng khung lớn. Giữa điểm gặp nhau của đường dọc giữa và đường ngang trên đầu khung vẽ một nửa hình tròn nhỏ khoảng 0m30 để làm thủ. Mỗi em chơi tìm một hòn cái bằng mảnh ngói, mảnh sàng, trôn bát vỡ…(hình tròn, đường kính khoảng 0m05) Khảo cái : Các em chơi đứng phía cuối khung, cách đường ngang, ném hòn cái của mình sao cho đúng và nằm yên trong Thủ. Em nào gần đỉnh Thủ là hơn, sẽ đi trước các em có hòn cái xa Thủ. *Cách chơi : Em có lượt đi, ngoài khung, phía cuối bên trái, thả hòn cái của mình vào ô thứ 1, nhẩy lò cò từng bước qua lần lượt từ ô 10 lên ô thứ 6, bỏ chân xuống nghỉ, bước qua ô thứ 5, lại bắt đầu nhẩy lò cò từng ô xuống tới ô 1, dùng đầu bàn chân đứng trụ trên mặt đất hất hòn cái của mình ra ngoài khung, xong nhẩy lò cò ra. Thế là xong một đợt. Chú ý trong khi nhẩy lò cò mỗi lần phải nhẩy sang một ô, chân không được dẫm vào các vạch kẻ ngang dọc, bàn chân co lên để lò cò không được chạm đất suốt đợt, trừ lúc nghỉ ở hai ô thủ. Hòn cái phải được hất ra ngoài khung phía cuối (nằm lại ngang khung cũng hỏng) Trót lọt đi ô 1 đến ô 2, ô 3….. đến các ô thủ (5,6) xuống đến ô 10 là xong một ván, được làm Bộ. Làm bộ, phải đứng đúng giữa cuối khung ngoài đường ngang, tung hòn cái qua đầu. Hòn cái trúng ô số nào phải nhẩy lò cò liên tục không nghỉ vòng quanh các ô (10) trong khung từng ấy vòng. Đến hết vòng cuối thì nhẩy ra ngoài. Lưu ý, khi làm bộ, hòn cái rơi ra ngoài các ô thì mình phải chuyển lượt sang bạn chơi kế tiếp, đợi đến lượt mình lại làm lại, nếu hòn cái rơi nằm trong và dính vào vạch Thủ là mất hết, nghĩa là phải bắt đầu đi từ ô 1 khi đến lượt mới. Cần nhớ khi đi các ô từ 6 – 10 phải nhẩy lò cò từ ô 1. Khi đã nhẩy lò cò đủ vòng bộ, làng phải chọn ban cho một ô làm của riêng gọi là nhà. Nhà được đánh dấu bằng một gạch chéo để các bạn chơi khác phải nhẩy qua (vẫn lò cò) và hất hòn cái qua. Còn chủ nhà khi đi đến nhà được bỏ chân đứng nghĩ một “tí” rồi mới 209
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
phải nhẩy lò cò tiếp và hòn cái của mình có bị hất vào cũng không sao, được hất ra tiếp khi rời nhà. Khi bán nhà cho những em được, các ô thủ phải dành lại sau cùng. Nếu đã bán hai ba nhà liền nhau, các chủ nhà phải vẽ dành cho các bạn chơi một cái ngõ trong nhà mình để các bạn nhẩy đi bằng một vạch. Em nào được nhiều nhà là thắng. Hết ô để bán và đi thì bầy ván khác.
210
8 / 2019
44. LẶC CÒ CÒ
* Địa điểm – Đối tượng: Sân trường, sân đình đêm trăng hoặc khu đất trống. Trẻ
em nam hoặc nữ tuổi nhi đồng hoặc thiếu niên
* Lời bài đồng dao: Lặc cò cò
Mò cuốc cuốc
Cò chân bước
Cuốc chân vàng
Sang đây chơi
Ngồi đây hát
Mỏ dính cát
Thì xuống sông
Bùn dính lông
Thì đi rửa
Chân giẫm lúa
Thì phải treo
Cù kheo à ập
* Cách chơi:
Mỗi nhóm có thể từ 5 – 6 trẻ, cân sức từng đôi một. Hai nhóm sắp hàng ngang
đứng đối diện trước một vạch mốc, cách nhau khoảng 3 mét.
Mỗi nhóm cử 1 người lặc cò cò (nhảy một chân, còn một chân co lên) sang hàng
bạn rồi trở về hàng của nhóm mình (khi nhảy không được đổi chân, không nhảy cả 2 chân)
Trong khi hai bạn của 2 nhóm lặc cò cò thì tất cả trẻ của hai nhóm đồng thanh
hát, hát hết bài mà 2 bạn lặc cò cò không về kịp hàng của nhóm mình là thua, đứng ngoài hàng của nhóm mình nhưng vẫn được hát. Trò chơi người thua thì chịu phạt. Cả nhóm chạy quanh hàng của nhóm bạn một lần. 1.(350)
211
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
212
8 / 2019
44. LẶC CÒ CÒ
* Địa điểm – Đối tượng: Sân trường, sân đình đêm trăng hoặc khu đất trống. Trẻ
em nam hoặc nữ tuổi nhi đồng hoặc thiếu niên
* Lời bài đồng dao: Lặc cò cò
Mò cuốc cuốc
Cò chân bước
Cuốc chân vàng
Sang đây chơi
Ngồi đây hát
Mỏ dính cát
Thì xuống sông
Bùn dính lông
Thì đi rửa
Chân giẫm lúa
Thì phải treo
Cù kheo à ập
* Cách chơi:
Mỗi nhóm có thể từ 5 – 6 trẻ, cân sức từng đôi một. Hai nhóm sắp hàng ngang
đứng đối diện trước một vạch mốc, cách nhau khoảng 3 mét.
Mỗi nhóm cử 1 người lặc cò cò (nhảy một chân, còn một chân co lên) sang hàng
bạn rồi trở về hàng của nhóm mình (khi nhảy không được đổi chân, không nhảy cả 2 chân)
Trong khi hai bạn của 2 nhóm lặc cò cò thì tất cả trẻ của hai nhóm đồng thanh
hát, hát hết bài mà 2 bạn lặc cò cò không về kịp hàng của nhóm mình là thua, đứng ngoài hàng của nhóm mình nhưng vẫn được hát. Trò chơi người thua thì chịu phạt. Cả nhóm chạy quanh hàng của nhóm bạn một lần. 1.(350)
213
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
214
8 / 2019
CHUYỀN THẺ
Hỏi trò chơi: Truyền thẻ với bất kỳ một người phụ nữ Việt Nam nào, hiếm khi ta nhận được câu trả lời là không biết Một em bé gái cầm trong tay mười que tre vót tròn nhẫn (dài, to gần bằng chiếc đũa) gọi là 10 thẻ và 1 hòn sỏi, trái bưởi nhỏ, trái bóng nhỏ… Em đi tìm vài ba bạn gái nữa, rủ nhau ngồi xuống, bắt đầu trò chơi rất thú vị - mà không bao giờ các em biết chán, gọi là chuyền thẻ. Trò chơi phải vượt qua 14 chặng, có 24 bài hát đi kèm. Hát tới đâu thì tung sỏi và nhặt thẻ tới đó. Hai tay thay phiên nhau rải thẻ, nhặt thẻ, nắm thẻ, tung sỏi, giữ sỏi tùy theo cách chơi đã quy định theo từng chặng, từng bàn của bài hát. 45. CÁCH CHƠI THỨ NHẤT CHUYỀN THẺ
1/ Chặng thứ nhất : Gồm 10 bàn
Bàn 1: Rải 10 thẻ xuống đất. Tay phải cầm sỏi và tung sỏi, bắt sỏi, tay trái nhặt
thẻ, theo lời hát:
Cái mốt (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Cái mai (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Con trai (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Cái hến (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Con nhện (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Vương tơ (nhặt I thẻ, bắt sỏi)
Quả mơ (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Quả mít (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Chuột chít (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Lên bàn đôi (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Bàn 2: Sỏi và thẻ như mở đầu bàn 1, Sang bàn này, mỗi câu hát xong tay trái
phải nhặt 2 thẻ, Hát:
Đôi tôi (nhặt 2 thẻ, bắt sỏi)
Đôi chị (nhặt 2 thẻ, bắt sỏi)
Đôi cành thị (nhặt 2 thẻ, bắt sỏi)
Đôi cành na (nhặt 2 thẻ, bắt sỏi)
Đôi lên ba (nhặt 2 thẻ, bắt sỏi)
Bàn 3: Rải thẻ như các bàn trên. Tung sỏi, hát:
Ba đi ra (nhặt 3 thẻ, bắt sỏi)
Ba đi vào (nhặt 3 thẻ, bắt sỏi)
Ba cành đào (nhặt 3 thẻ, bắt sỏi) 215
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Một lên tư (nhặt nốt 1 thẻ, bắt sỏi)
Bàn 4: Rải thẻ như các bàn trên. Tung sỏi, hát:
Tư ông sư (nhặt 4 thẻ, bắt sỏi)
Tư bà vãi (nhặt 4 thẻ, bắt sỏi)
Hai lên năm (nhặt 2 thẻ, bắt sỏi)
Bàn 5 : Rải thẻ như trên. Tung sỏi, hát
Năm con tằm (nhặt 5 thẻ, bắt sỏi)
Năm lên sáu (nhặt 5 thẻ, bắt sỏi)
Bàn 6 : Rải thẻ như trên. Tung sỏi, hát
Sáu củ ấu (nhặt 6 thẻ, bắt sỏi)
Bốn lên bảy (nhặt 4 thẻ, bắt sỏi)
Bàn 7 : Rải thẻ như trên. Tung sỏi, hát
Bảy lá đa (nhặt 7 thẻ, bắt sỏi)
Ba lên tám (nhặt 3 thẻ nốt, bắt sỏi)
Bàn 8 : Rải thẻ như trên. Tung sỏi, hát:
Tám quả trám (nhặt 8 thẻ, bắt sỏi)
Hai lên chín (nhặt nốt 2 thẻ, bắt sỏi)
Bàn 9 : Rải thẻ như trên. Tung sỏi, hát:
Chín cái cột (nhặt 9, bắt sỏi)
Một lên mười (nhặt 1 thẻ, bắt sỏi)
Bàn 10 : Hát : Ngả năm mươi (Tay phải tung sỏi, tay trái rải thẻ)
Mười quả đấm (Tay phải bắt sỏi, tay trái thu gom và nắm cả 10 thẻ lên tay)
Hai câu chuyển tiếp sang chặng II: Tung sỏi, đồng thời chuyển từ tay này sang
tay kia 10 thẻ và hứng bắt sỏi.
Chấm tay vỏ
Bỏ tay chuyền
II/ Chặng thứ hai : Gồm 5 bàn
Mỗi bàn 2 câu hát, đồng thời tay phải chuyển cả năm thẻ sang nhau:
Bàn 1: Chuyền chuyền một
Một đôi
(Tay phải tung sỏi, tay trái chuyển nắm thẻ sang tay phải rồi lại chuyền trả lại tay
trái, đọc lời đúng 1 vòng, sao cho tay phải vẫn kịp đỡ sỏi rơi xuống)
Bàn 2 : Chuyền chuyền khoai
Hai đôi
(Tung sỏi và chuyền thẻ như trên, nhưng phải chuyền 2 vòng rồi mới bắt sỏi)
Bàn 3 : Chuyền chuyền cà
Ba đôi 216
8 / 2019
(Tung sỏi và chuyền thẻ như trên, như trên, nhưng phải chuyền 3 vòng rồi mới
bắt sỏi)
Bàn 4 : Chuyền chuyền từ
Tư đôi
(Tung sỏi và chuyền thẻ như trên, nhưng phải chuyền 4 vòng rồi mới bắt sỏi)
Bàn 5 : Chuyền chuyền tằm
(Tung sỏi và chuyền thẻ như trên, nhưng phải chuyền 5 vòng rồi mới bắt sỏi)
Câu dẫn, chuyển sang chặng III
Sang bàn chống
III/ Chặng thứ ba : Chống: Gồm 5 bàn
Năm đôi
Mỗi bàn 2 câu. Cuối cùng có 1 câu dẫn, chuyển chặng. Nắm trọn cả bó thẻ
trong tay phải và chống xuống đất. Tay trái cầm sỏi. Cứ hát câu 1 của từng bàn thì lại vừa tung sỏi vừa chống nắm thẻ xuống đất 1 lần và bắt sỏi cho tới bàn năm.
Bàn 1 : Chống cột
Bàn 2 : Chống khoai
Bàn 3 : Chống cà
Bàn 4 : Chống từ
Bàn 5 : Chống tằm
Câu chuyển : Sang bàn quét
IV/ Chặng thứ tư : Quét: gồm 5 bàn
Mỗi bàn 2 câu, cuối cùng thêm câu chuyển chặng. Cầm cả bó thẻ trong tay
Một đôi Hai đôi Ba đôi Tư đôi Năm đôi
phải. Tay trái cầm sỏi, Cứ hát câu 1 của từng bàn thì vừa tung sỏi (tay trái), vừa cầm nắm thẻ quét đi quét lại trên mặt đất hợp với thời gian sỏi tung và bắt được sỏi. Cứ thế cho tới bàn năm. Bàn 1: Quét cột
Một đôi
Bàn 2: Quét khoai
Hai đôi
Bàn 3 : Quét cà
Ba đôi
Bàn 4 : Quét từ 217
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Tư đôi
Bàn 5 : Quét tằm
Năm đôi
Câu chuyển : Sang bàn đập V/ Chặng thứ năm : Đập: gồm 5 bàn. Mỗi bàn 2 câu, cuối cùng thêm 1 câu chuyển chặng. Nắm trọn cả bó thẻ đập xuống đất và cứ lần lượt đập theo nhịp tung bắt sỏi của từng bàn cho tới hết có đọc lời kèm Bàn 1: Đập cột
Một đôi
Bàn 2: Đập khoai
Hai đôi
Bàn 3 : Đập cà
Ba đôi
Bàn 4 : Đập từ
Tư đôi
Bàn 5 : Đập tằm
Năm đôi
Câu chuyển : Sang bàn chải VI/ Chặng thứ sáu : Chải: gồm 5 bàn Khác với mấy chặng trên, người chơi chuyền cả 10 que thẻ sang bàn tay trái và nắm chặt. Tay phải cầm sỏi, và khi tung sỏi lên rồi thì đọc lời và tay phải chải đi chải lại trên bó thẻ đó (như lấy tay chải tóc) rồi hứng bắt sỏi, khi hát hết 2 câu của từng bàn. Bàn 1: Chải cột
Một đôi
Bàn 2: Chải khoai
Hai đôi
Bàn 3 : Chải cà
Ba đôi
Bàn 4 : Chải từ
Tư đôi
Bàn 5 : Chải tằm
Năm đôi
Câu chuyển : Sang bàn vuốt VII/ Chặng thứ bảy : Vuốt: gồm 5 bàn 218
8 / 2019
Cũng giống chặng chải, tay trái nắm bó thẻ. Tay phải khi tung sỏi lên rồi thì đọc lời và vuốt lên bó thẻ theo nhịp hát và theo kịp tốc độc rơi của sỏi, nắm bắt đúng. Bàn 1: Vuốt cột
Một đôi
Bàn 2: Vuốt khoai
Hai đôi
Bàn 3 : Vuốt cà
Ba đôi
Bàn 4 : Vuốt từ
Tư đôi
Bàn 5 : Vuốt tằm
Năm đôi
Câu chuyển : Sang bàn thấm VIII/ Chặng thứ tám : Thấm: gồm 5 bàn Bỏ thẻ như chặng bảy. Tay phải khi tung sỏi rồi đọc lời thì lại thấm (đặt kẽ tay) 1 cái lên 10 que thẻ, rồi ngửa tay hứng bắt sỏi. Bàn 1: Thấm cột
Một đôi
Bàn 2: Thấm khoai
Hai đôi
Bàn 3 : Thấm cà
Ba đôi
Bàn 4 : Thấm từ
Tư đôi
Bàn 5 : Thấm tằm
Năm đôi
Câu chuyển : Sang bàn Xuế IX/ Chặng thứ chín : Xuế: gồm 5 bàn Như chặng thấm. cái khác là : Khi tung sỏi rồi, đọc lời thì mấy đầu ngón tay phải xoa lên bó thẻ như xóa đi một cái gì, rồi bắt sỏi. Bàn 1: Xuế cột
Một đôi
Bàn 2: Xuế khoai
Hai đôi
Bàn 3 : Xuế cà
Ba đôi 219
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Bàn 4 : Xuế từ
Tư đôi
Bàn 5 : Xuế tằm
Năm đôi
Câu chuyển : Sang bàn giã
X/ Chặng thứ mười : Giã: gồm 5 bàn Chơi như chặng chống (chặng thứ III), chỉ khác là không chống thẻ xuống đất, mà chống vào lòng bàn tay trái. Bó thẻ làm chày giã, lòng tay trái làm cối giã. Bài hát gồm 2 đoạn. Đoạn 1, hát không., Đoạn 2 gồm 5 bàn và 1 câu chuyển chặng, lối giã cũng như lối chống ở chặng ba. Bài hát không : Giã giò Con cò Mày đã Có con Mày ra Bờ suối Mày mò Tép ăn, Tung cò Bàn 1 : Có cột
Một đôi
Bàn 2: Có khoai
Hai đôi
Bàn 3 : Có cà
Ba đôi
Bàn 4 : Có từ
Tư đôi
Bàn 5 : Có tằm
Năm đôi
Câu chuyển : Sang tỉa một XI/ Chặng thứ mười một : Tỉa một, đặt một: gồm 10 bàn Chặng này chơi vừa chuyển vừa tỉa thẻ đặt xuống đất. Khi hát “Tỉa một” thì tay phải tung 220
8 / 2019
sỏi, tay trái chuyển bó thẻ sang tay phải rồi lại chuyển trở về tay trái, tay phải hứng bắt sỏi. Đến câu “Đặt một” thì khi sỏi tung lên tay trái tách 1 que thẻ ra đặt xuống đất. Cứ đều như thế cho đến “ Tỉa mười, đặt mười” là cả bó thẻ nằm đủ trên đất rồi. Khi hát 3 câu cuối để chuyển chặng thì lại thu bó thẻ lên và lại chuyển. Bài hát : Tỉa một (tung sỏi, đọc lời, chuyển bó thẻ từ tay trái sang tay phải và trở lại, hứng sỏi tay phải) Đặt một (tung sỏi – tay phải, tay trái, tách 1 thẻ xuống đất, bắt sỏi) Tỉa hai Đặt hai (đặt 1 thẻ, thành 2) Tỉa ba Đặt 4 Tỉa năm Đặt 5 Tỉa sáu Đặt 6 Tỉa bảy Đặt 7 Tỉa tám Đặt 8 Tỉa chín Đặt 9 Tỉa mười Đặt mười (Que thứ 10 đặt xuống đất, hết thẻ) Câu chuyển : Mười vơ cả
Ngã xuống đất
Cất tỉa đôi
(Tay phải tung sỏi, tay trái thu cả bó thẻ lên tay, đọc lời, bắt sỏi) XII/ Chặng thứ mười hai : Tỉa một, đặt hai: gồm 10 bàn Chơi tương tự chặng trên. Chỗ khác là khi hát xong từng 2 câu lại tách 2 que, đặt xuống đất. Tỉa một (tung sỏi, đặt 2 que xuống đất, đọc lời, bắt sỏi) Đặt đôi Tỉa đôi (đặt tiếp 2 que nữa, là 4) Đặt bốn Đặt 4 Tỉa ba 221
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Đặt sáu Tỉa bốn
Đặt tám Tỉa năm (đặt hết 10 thẻ xuống đất) Đặt mười Câu chuyển : Mười vơ cả
Ngã xuống đất
Cất lên xuống
Tung sỏi, đọc lời, vơ cả 10 thẻ, bắt sỏi XIII/ Chặng thứ mười ba : Lên xuống: gồm 7 bàn Chặng này chơi hơi khó. Tay phải cầm sỏi, tung sỏi và hứng bắt sỏi. Tay trái cầm thẻ, đặt thẻ và lấy thẻ theo các câu hát như sau : Hát : Lên xuống : Đặt bó thẻ xuống dất. Tung, bắt sỏi Xuống ruộng : Ngón tay trỏ tách bó thẻ làm 2 phần Bằng nhau, Tung, bắt sỏi
Hái rau : Nhặt 1 thẻ, Tung, bắt sỏi
Xin bắc cầu : nhặt 1 thẻ, Tung, bắt sỏi
Bắc cầu ngang : Đặt 2 que thẻ vừa nhặt ngang giữa 2
Phần thẻ vừa tách (như chữ H)
Tung, bắt sỏi
Sang cầu đọc : đặt dọc 2 que thẻ trên dọc bó thẻ
Tung, bắt sỏi
Chắp đôi bên : thu 2 phần thẻ lại. Tung, bắt sỏi
XIV/ Chặng mười bốn (cuối cùng) : Chuyền
Vừa hát vừa chơi y như chặng hai
Tung, bắt sỏi
222
8 / 2019
46. CÁCH CHƠI THỨ HAI CHUYỀN THẺ
Ở một số nơi khác, các em gọi trò này là chơi chuyền. Thẻ gọi là “con chất” Lối chơi tương tự, đơn giản hơn, có 6 chặng, mỗi chặng cũng có bài hát riêng, Thường từ 2 tới 5 em gái chơi là vừa. I/ Chặng một : Nhặt: gồm 10 bàn Tay trái cầm con chắt . Tay phải cầm sỏi, tung và bắt, đọc hoặc hát
Cách chơi
Giồng luống cải : Tung sỏi, chuyền bó hất từ tay trái sang tay phải kịp bắt sỏi. Tay phải kịp bắt sỏi Rải con chắt : Tung sỏi, rải cả bó con chắt xuống đất, bắt sỏi Một dẻo dang : Tung sỏi, tay trái nhặt 2 con chắt lên, bắt sỏi Hai sang đò : Tung sỏi, nhặt tiếp 2 con chắt (là 4) bắt sỏi Ba cò kếu : Tung sỏi, nhặt tiếp 2 con chắt Bốn nghêu ngao : Tung sỏi, nhặt tiếp 2 con chắt ( là 8) bắt sỏi Năm dao thớt : Tung sỏi, nhặt 2 con chắt, cuối cùng (là 10) bắt sỏi Đặt xuống đất : Tung sỏi, Đặt cả bó chắt xuống đất, bắt sỏi Cất lên tay : Tung sỏi, Vơ cả nắm chắt lên tay, bắt sỏi II/ Chặng thứ hai : Chộp: Gồm 9 bàn Mỗi bàn 3 câu. Chắt và sỏi đều cầm ở tay phải. Tay trái chỉ giữ chắt của tay phải nhặt được chuyển sang. Hát hoặc đọc. Cách chơi Bàn 1 : Rải xuống chân: Tay phải tung sỏi xong thì rải cả bó chắt xuống, kê 1 đầu chắt vào cẳng chân , 1 đầu chắt xuống đất. Rải xong lại hứng bắt ngay sỏi. Nưng lấy một : Tay phải tung sỏi, nhặt 1 con chắt lên, rồi bắt sỏi Chộp lấy đôi : - Tay phải tung sỏi, vẫn cầm 1 con chắt, lại chộp tiếp 1 con chắt nữa (là 2) rồi bắt sỏi Xong lại thu cả bó chắt và sỏi lên tay phải, chơi sang bàn 2. Bàn 2 : Rải xuống chân : - Tay phải tung sỏi, rải chắt xuống chân, rồi bắt sỏi. Nưng lấy một : - Tay phải tung sỏi, nhặt 1con chắt lên, rồi bắt sỏi Chộp lấy ba : - Tay phải vẫn giữ 1 con chắt, tung sỏi, chộp 2 con chắt (là 3) rồi bắt sỏi Xong lại thu cả bó chắt và sỏi lên tay phải chơi sang bàn 3. Cứ thế cho tới bàn 9. Cái khác là cứ mỗi bàn, ở câu 2 chộp số chắt tăng dần lên, cho tới bàn 9 thì chộp cả 9 chắt là 10 trong tay phải, và thế là xong chặng hai. Bàn 3 : - Rải xuống chân
Nưng lấy một
Chộp lấy bốn 223
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Bàn 4 : Rải xuống chân
Nưng lấy một
Chộp lấy năm
Bàn 5 : - Rải xuống chân
Nưng lấy một
Chộp lấy sáu
Bàn 6 : Rải xuống chân
Nưng lấy một
Chộp lấy bẩy
Bàn 7 : Rải xuống chân
Nưng lấy một
Chộp lấy tám
Bàn 8 : Rải xuống chân
Nưng lấy một
Chộp lấy chín
Bàn 9 : Rải xuống chân
Nưng lấy một
Chộp lấy mười
III/ Chặng ba : Chống: gồm 14 bàn Cần nắm chắt và sỏi vào tay phải Hát hoặc đọc: Rải xuống đất
- Tay phải tung sỏi rồi rải chắt xuống đất, bắt sỏi
Cất lên tay : - Tung sỏi, vơ cả nắm chắt lên tay phải Sang tay qua : - Tung sỏi, chuyền nắm chắt sang
tay trái rồi lại về tay phải, bắt sỏi,
Ra tay chống: - Tung sỏi, chuyền nắm chắt
sang tay trái, rồi bắt sỏi
Chống chống một : Từ câu này tới câu “ Chống chống mười” chơi giống nhau, tay phải tung và bắt sỏi, trong lúc tay trái chống cả nắm chắt xuống đất.
Chống chống hai
Chống chống ba
Chống chống bốn
Chống chống năm
Chống chống sáu
Chống chống bảy
Chống chống tám
Chống chống chín 224
8 / 2019
Chống chống mười
IV/ Chặng bốn : Quét: gồm 14 bàn Bốn câu đầu chơi y như chặng ba . Từ cầu 5 tới hết thì cầm cả nắm chắt ở tay trái. Mỗi lần tay phải tung sỏi, tay trái quét đi quét lại nắm chắt rồi tay phải bắt sỏi.
Rải xuống đất
Cất lên tay
Sang tay qua
Ra tay quét
Quét quét một
Quét quét hai
Quét quét ba
Quét quét bốn
Quét quét năm
Quét quét sáu
Quét quét bẩy
Quét quét tám
Quét quét chín
Quét quét mươi
V/ Chặng năm : Chuyền: gồm 14 bàn Cũng gồm 14 câu như 2 chặng ba và bốn Bốn câu đầu chơi giống chặng ba và bốn Từ câu năm tới hết thì chuyển chắt (cả nắm) từ tay nọ sang tay kia rồi trở về (trái – phải – trái). Tay phải vẫn tung và bắt sỏi.
Rải xuống đất
Cất lên tay
Sang tay qua
Ra tay chuyền
Chuyền chuyền một
Chuyền chuyền hai
Chuyền chuyền ba
Chuyền chuyền bốn
Chuyền chuyền năm
Chuyền chuyền sáu
Chuyền chuyền bảy
Chuyền chuyền tám
Chuyền chuyền chín
Chuyền chuyền mười 225
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
VI/ Chặng sáu : Ngậm Người chơi hết chặng năm thì đứng dậy chơi chặng sáu. Bài hát gồm 6 câu: Đầu quạ - Tay phải tung sỏi. Tay trái cầm nắm chắt. Tay phải lấy 1 con chắt ngậm ngang mồm, rồi bắt sỏi. Quá giang : - Tay phải tung sỏi, rồi nhấc chắt từ mồm ra, lại đặt vào mồm, ngậm lại, bắt sỏi. Như thế tới câu cuối, không rơi sỏi là chơi hết và thắng cuộc.
Sang đò
Trồng cây
Ăn quả
Nhả hột
Thưởng – phạt
Cũng còn gọi là trò chơi tung sỏi, nhanh mắt bắt chắt. Ai qua được 6 chặng trước nhất là được cuộc và nghỉ đợi người chậm (nếu từ 3 em chơi trở lên) Người qua trước là người được cuộc Người qua 6 chặng cuối cùng là người thua cuộc Người thua cuộc phải úp bàn tay trái cho người được cuộc cầm cả bó chắt đập vào mu bàn tay trái 5 lần. Mỗi lần tay trái bị đập thì đồng thời người thua cuộc lại phải chú ý bắt sỏi của người thắng cuộc vừa đập chất vào tay mình lại vừa tung sỏi để mình – tức người thua- phải bắt được sỏi. Người thua mà không bắt được sỏi thì lại bị đập chắt vào tay tiếp. Mỗi lần bắt được sỏi thì được trừ 1, cho tới khi bắt được cả 5 lần là hết phạt.
226
8 / 2019
47. DẤU TÌM * Đối tượng – Địa điểm:
Trò chơi này lấy khoảng sân đất làm nơi hoạt động, hoặc có thể chơi trên bãi cát khi đi tắm biển. Có thể hai hay ba trẻ (thường chỉ chơi hai người một), những trẻ còn lại mời làm người làm chứng, hay khan giả… * Cách chơi: Mỗi em khoanh một vòng tròn trên một khoảng sân nhỏ làm nhà minh, cho nhau biết vật mình giấu, rồi ngồi quay lưng lại nhau, không được nhìn trộm. Mỗi bên lấy một cái mảnh vỏ con trai hay vỏ con trùng trục làm dụng cụ đào chỗ dấu. Làm sao giấu vât của mình rồi thì trên mặt nhà mình không lộ ra một vết tích gì để đối phương nhận được ra. Sau khi giấu xong, hai bên cho nhau sang tìm kiếm, thường thì việc tìm kiếm tiến hành ở từng bên một, bên trước bên sau. Người sang tìm chỉ được đào tìm ba lần hoặc chỉ vào chỗ mình nghi là có vật chôn ba lần. Nếu không chỉ đúng hoặc đào đúng thì bảo là chịu, người giấu vật sẽ đào vật mình giấu lên cho biết. Rồi cả hai lại kéo sang bên kia. Người chơi thứ hai, sang bên nhà bạn cũng phải làm như vậy, nếu tìm được vật giấu là được. Nếu quá ba lần không trúng chỗ thì cũng phải chịu để bạn chỉ cho chỗ. Mỗi lần như thế là một ván. Cuộc chơi giấu tìm cứ thế tiếp tục vào ván mới. Ở trò này việc ngụy trang nơi giấu tài tình khéo léo là yếu tốt quyết định thắng bại. Nhưng cũng cần lưu ý tới việc tạo nhiều dấu vết giả để đánh lừa đối phương qua ba lần quyết định chỉ ra nơi giấu.
1.(416)
227
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
48. BỎ GIẺ
* Địa điểm – Đối tượng: Sân trường, sân đình dưới ánh trăng sau giờ sinh hoạt đội…không hạn chế tuổi. *Cách chơi: Trò chơi từng nhóm từ 10 – 12 trẻ, ngồi xổm thành vòng tròn, chọn một trẻ làm người đi bỏ giẻ (một miếng vải, khăn mùi xoa..) Người bỏ giẻ đi đằng sau xung quanh vòng tròn, giấu kín giẻ để không ai nhìn thấy, rồi bỏ giẻ sau lưng một bạn nào đó. Nếu bạn bị bỏ giẻ không biết thì người bỏ giẻ đi hết một vòng đến chỗ bạn đi bỏ giẻ, cầm giẻ lên đập nhẹ vào vai bạn, bạn đó phải đứng dậy chạy một vòng và người bỏ giẻ chạy đuổi theo, đến khi bạn bị bỏ giẻ về được chỗ cũ, người bỏ giẻ lại phải tiếp tục đi bỏ giẻ. Nếu người bỏ giẻ đuổi kịp đập vào người bị bỏ giẻ, người bị bỏ giẻ thua và phải đi bỏ giẻ. - Nếu người bị bỏ giẻ biết, đứng lên đuổi bạn bỏ giẻ, bạn bỏ giẻ phải chạy thật nhanh một vòng về chỗ củ bạn bị giẻ. Nếu người bị bỏ giẻ mà đập vào người bỏ giẻ thì người bị bỏ giẻ lại tiếp tục đi bỏ giẻ. - Trong quá trình chơi tất cả cùng hát những bài đồng dao quen thuộc…
Tốp 10 trò chơi dân gian vừa vui vừa bổ ích dành cho lứa tuổi mầm non – tác giả: Người Mỹ gốc Việt
228
8 / 2019
49. ĐỌC CÂU ( Đọc nhái ) * Địa điểm – Đối tượng: Chỉ cần 1 khu đất trống là tổ chức được cuộc chơi cho 20 – 3 - em nam nữ *Những câu để đọc lại: Các em đố nhau đọc thật nhanh Có những câu dễ đọc như :
Bà ba béo
Bán bánh bèo
Bị bắt bỏ bóp
Ba bốn bận
Bởi bướng bỉnh
Hay :
Mượn cái xanh
Nấu bát canh
Cho hành cho hẹ
Hay :
Lý lũy lên lò lấy lòng lợn
Có những câu khó nói nhanh mà không lầm như
Tháng năm nắng lắm (Đọc nhanh có thể lầm thành “Tháng ba năm nắng nắm”
Búa bổ đầu búa
Rất có thể đọc nhanh sẽ nhíu thành ‘Búa bổ đầu bố” Hai câu dưới đây cũng rất khó nói nhanh
Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch?
*Cách chơi: Quản trò ngồi cùng các trẻ đọc những câu trên nhanh dần. Đám trẻ đọc tập thể, đọc theo cá nhân, nếu đọc sai cả bọn phá lên cười hoặc bị một phạt theo 1 hình thức đã qui ước. Trò chơi này đơn giản, nhưng vui, (tiện lợi về địa điểm, ánh sáng, số lượng người…) 1.(436)
229
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
50. MA BĂT
Dưới ánh trăng tại sân đình, sân nhà, đám đông trong xóm tụ tập nhau nghe kể
chuyện ma…
Ma bắt là trò chơi tập thể. Người làm ma là người bị thua sấp ngửa. Tất cả những
người còn lại đều đứng khít vào nhau, cầm chặt tay nhau và đồng thanh đọc câu vè:
Tui đi chợ xa
Gặp phải con ma
Nó ngồi trong hóc
Nó khóc hu hu
Kiến đậu ruồi bu
Thúi ình thúi ịt…
Tới đây ma sẽ hỏi
Đồng thanh trả lời
-Tui đây
Tên gì?
-Đậu gì?
Xanh gì?
-Xanh lè
Lè gì?
- Lè lưỡi
Lưỡi gì?
- Lưỡi mèo
Mèo gì
- Mèo mun
Khi đọc tới chữ mèo mun thì tất cả nhanh tay ôm chặt lấy nhau. Con ma xáng
Ai đó?
tới dùng hai tay gỡ bất kỳ người nào ra khỏi vòng ôm. Nếu gỡ ra bất kỳ ai thì người đó sẽ thế chỗ, nếu không sẽ phải tiếp tục làm nữa. 3.(105)
230
8 / 2019
51. KẸP BÓNG
* Số người chơi:
Không giới hạn, trẻ mầm non, nhi đồng hoặc thiếu nhi.
*Chuẩn bị:
Bóng bay, hoặc bóng nhựa (mỗi trẻ một quả, riêng bóng bay có thể nhiều hơn
tùy số lượng lượt chơi)
* Địa điểm:
Trên sân, hoặc bãi đất rộng, bằng phẳng
* Cách chơi:
Cách chơi rất đơn giản, các em xếp thành hàng ngang tại vạch xuất phát và
phải kẹp 1 quả bóng bay hay bóng nhựa vào giữa 2 chân của mình. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, các em sẽ phải giữ chắc bóng ở giữa 2 chân và nhảy về vạch đích. Giữa chừng bóng bay bị nổ, đồng đội có thể tiếp sức bằng những quả bóng hơi khác và tiếp tục. Ai về đích đầu tiên sẽ là người thắng cuộc. ( lượt chơi phải cùng một loại bóng ) Tốp 10 trò chơi dân gian vừa vui vừa bổ ích dành cho lứa tuổi mầm non – tác giả: Người Mỹ gốc Việt
231
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
52. ĐI CHỢ
Trò chơi đi chợ, nhiều nơi gọi khác là “Chồng bông búp, bông nở, trồng nụ trồng
hoa” do có liên quan giữa các động tác và bài đồng dao. Trò này con gái thường hay chơi nhiều nhất. Thông thường chỉ cần 3 người là đủ để chơi trò chơi này.
* Nguyên tắc và cách chơi:
Hai người ngồi bệt xuống đất, duỗi hai chân cho các bàn chân chạm vào nhau, người thứ 3 sẽ có nhiệm vụ đi chợ và gồm các bước.
1/ Người thứ ba từ bên này bước qua chân hai người kia thì miệng đọc to : đi chợ.
Bước ngược trở lại, đọc : về chợ
2/ Một bàn chân người này chồng lên bàn chân người kia để người thứ 3 bước
qua và miệng đọc : đi canh một
3/ Chồng tiếp cả hai bàn chân lên. Người thứ 3 bước qua, miệng đọc : đi canh
hai. Rồi bước ngược trở lại, đọc : về canh hai 4/ Mỗi người chồng thêm bàn tay mình lên trong tư thế của bàn tay nắm để người thứ 3 bước qua và đọc : đi canh ba. Bước trở lại : về canh ba 5/ Chồng tiếp hai bàn tay còn lại, cũng trong tư thế năm. Người thứ ba bước qua, đọc : đi canh ta, và quay lại về canh tư. 6/ Nắm tay trên cùng xòe thẳng ngón cái ra. Bây giờ đã khá cao, không thể bước qua một cách bình thường được nữa mà phải lấy đà nhảy qua, miệng đọc : đi canh (bông ) búp. Nhảy ngược trở lại : Về canh (bông) búp 7/ Bàn tay trên cùng xòe hết cả năm ngón tay thẳng, cao. Người nhảy qua đọc : đi canh (bông) nở. Lại nhảy về vị trí cũ : về canh (bông) nở 8/ Mở bung hết bàn tay trên cùng ra. Người nhảy qua, đọc: đi canh (bông) tàn. Nhảy trở lại : về canh (bông) tàn. Trong cả 8 bước đi chợ về chợ này, nếu chẳng may người đi chợ đụng vào chân tay của hai người ngồi dưới đất bất kỳ ở canh nào, thì phải ngồi xuống thế một trong hai chỗ kia. Và trò chơi bắt đầu lại như cũ. Trong câu đồng dao đi kèm với trò chơi này, ở một số địa phương thay vì đọc : đi canh một về canh một…. về canh tàn thì lại đọc khác hơn : Ông đi qua. Bà đi lại từ bước một cho đến khi chồng cả hai tay hai chân. Sau đó là . Nhãn bánh hồng. Chồng bông lên : bắt đầu chồng bông. Các câu còn lại y như dẫn trên : Đi bông búp, về bông búp.. Đi bông tàn, về bông tàn. 3.(24)
232
8 / 2019
51. KẸP BÓNG
* Số người chơi:
Không giới hạn, trẻ mầm non, nhi đồng hoặc thiếu nhi.
*Chuẩn bị:
Bóng bay, hoặc bóng nhựa (mỗi trẻ một quả, riêng bóng bay có thể nhiều hơn
tùy số lượng lượt chơi)
* Địa điểm:
Trên sân, hoặc bãi đất rộng, bằng phẳng
* Cách chơi:
Cách chơi rất đơn giản, các em xếp thành hàng ngang tại vạch xuất phát và
phải kẹp 1 quả bóng bay hay bóng nhựa vào giữa 2 chân của mình. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, các em sẽ phải giữ chắc bóng ở giữa 2 chân và nhảy về vạch đích. Giữa chừng bóng bay bị nổ, đồng đội có thể tiếp sức bằng những quả bóng hơi khác và tiếp tục. Ai về đích đầu tiên sẽ là người thắng cuộc. ( lượt chơi phải cùng một loại bóng ) Tốp 10 trò chơi dân gian vừa vui vừa bổ ích dành cho lứa tuổi mầm non – tác giả: Người Mỹ gốc Việt
233
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
234
8 / 2019
53. LÙA VỊT
* Địa điểm – Đối tượng:
Khoảng 20 em, học sinh tiểu học nam nữ chơi riêng, sân trường…
Số lượng người ngồi mỗi bên đều nhau, ngồi chồm hổm thành hàng dọc. Trước
mặt cách chừng mười lăm, hai chục mét vẽ một vạch dài và đặt tại đó hai cành cây hay hai hòn đá, dép… Phía sau có hai người cầm cây giả làm người chăn vịt. Khi nghe hiệu lệnh cả bầy vịt đều đưa tay ôm eo ếch của vịt ngồi trước mình và tiến về đích trong tư thế đi chồm hổm. Bên nào có một con vịt bị rời tay khỏi eo ếch của vịt trước thì bị thua. Bên nào vẫn giữ nguyên tư thế đó lên đích trước giựt cành cây rồi quay lui về vị trí ban đầu thì thắng cuộc. Trong khi tiến lên, tất cả đều đồng thanh hát:
Cạp cạp cạp Con nào mớ mả
Vịt lội dưới ao Lộn trật ra sau
Vịt xào vịt xới Con nào lau nhau
Vịt bới tôm cua Chạy mau phía trước
Đi lùa về nhốt Tao cầm cái thước
Tay hốt một chòi Tao cầm cây sào
Tay moi lá quế Ngán cổ ngán dao
Bồng bế củ gừng Bỏ vào nồi sáo.
Đem thưng một trã
3.(48)
235
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
54. ĐẬP OM
Trò chơi đập om thường được tổ chức trong các buổi hội làng, lễ hội đình làng,
lễ hội Tiền hiền, kỳ an, kỳ phước của làng. Hoặc thời nay thường tổ chức trong các kỳ hội trại của thanh thiếu niên nhân những ngày kỷ niệm.
* Đối tượng chơi: thanh niên nam nữ, thiếu niên trong độ tuổi 10 đến 15 đều tham
gia được trò chơi này. Có thể mỗi em là một phe độc lập, có thể chia thành phe nhóm để chơi với nhau.
* Địa điểm: tại các sân đình, chùa, miễu làng vào những dịp hội làng.
* Cách chơi: để cuộc chơi hào hứng và vui nhộn, có thể có từ 2 đến nhiều đội
tham gia. Các thành viên trong đội chơi đều phải dùng một miếng vải điều bịt hai mắt lại, tay cầm thanh tre đứng thành một hàng dài tại nơi quy định. Phía trước cách vài mét là một hàng om được cho vào chiếc gióng nhỏ, treo lủng lẳng trên một cây sào dài cột ngang qua cành bàng, cành đa, hoặc một giàn bằng tre thiết kế nên dùng để treo om. Om treo vừa tầm mắt không thấp cũng không cao quá. Trong om, ban tổ chức cuộc chơi có đặt kẹo, bánh… các loại. Trò chơi đập om được tính theo thời gian. Sau khi toàn đội đã sẵn sàng, ban tổ chức dùng hiệu lệnh bằng tiếng trống, tiếng còi ra hiệu cho các đội đập om. Thành viên của mỗi đội đều đập cùng một lượt. Do bị bịt mắt nên tay nắm thanh tre phán đoán vị trí treo chiếc om để đập, sao cho trúng, om vỡ. Hết thời gian, đội nào đập được nhiều om, đội đó thắng cuộc. Phần thưởng là các loại bánh kẹo được đặt sẵn trong om. Theo tài liệu của nhà nghiên cứu VNDG Võ Văn Hòe
236
8 / 2019
55. ĐÁNH CỤM
Chơi cụm phổ biến không chỉ tại huyện Hoà Vang mà các quận huyện khác trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam xưa kia đa số trẻ em cũng tổ chức chơi với nhau trong những giờ nhàn rỗi, nhiều hơn cả là những lúc giữ em, chăn trâu bò, hoặc ở nhà trông coi nhà cửa cho cha mẹ đi làm. Trò chơi cụm đơn giản chỉ cần tìm được 5 viên sỏi, gạch…là được.
* Chuẩn bị: chọn 5 hòn sỏi, gạch,… nhỏ trông vừa bằng viên bi ve hoặc hột mít
là được. (Đôi khi dùng hột mít làm cụm để chơi, nếu nơi tổ chức chơi không tìm ra được sỏi, đá nhỏ). Sỏi có thể có góc cạnh nhưng tốt nhất có dạng hình tròn hoặc hình thuẩn là chơi tốt, thuận lợ khi rãi cụm trên nền đất cạn, làm cho cuộc chơi tăng phần hào hứng. Sỏi lớn hay nhỏ còn tuỳ theo nắm tay của đối tượng chơi mà chọn. Trẻ nhỏ chọn loại sỏi nhỏ hơn, vừa trong nắm tay.
* Quy định luật chơi: trẻ em vùng Hoà Vang tổ chức trò chơi cụm không phải đi
qua các ván mà chơi biền , lấy biền làm chuẩn tính thắng thua. Một biền có rất nhiều lần rải để tính biền. Luật chơi thế nào là tuỳ thuộc vào nhóm trẻ tự đặt ra ngay tại nơi diễn ra trò chơi. Thế nên có thể biết được cùng trong một làng nhưng trẻ em xóm dưới có luật chơi khác trẻ xóm trên và cũng khác với trẻ em làng khác. Tuy nhiên, đây là trò chơi phổ thông nên dù luật đặt ra thế nào, trẻ trong hay ngoài làng vẫn hiểu và nhập cuộc được ngay. Có thể đặt ra cho mỗi cuộc chơi đủ 80, 100 biền hay hơn nữa để cuộc chơi kéo dài. Bởi nếu chơi theo phe nhóm thì biền phải nhiều mới hấp dẫn thắng cuộc. Có thể ra luật chỉ đủ 10 – 15 biền thì thắng cuộc nếu chơi tay đôi, hoặc chơi mỗi phe 2 trẻ. Tuy nhiều biền nhưng khi nhập cuộc chơi, trẻ em chơi hấp dẫn và rất nhanh tay lẹ mắt, do đó, chơi rãi tuy rằng khó, song các em gái vượt qua dễ dàng để ghi biền.
*Đối tượng chơi: trẻ em trong độ tuổi 10 đến 13 hoặc có thể đến 14, 15 cũng có
thể tham gia trò chơi này. Đôi khi thanh niên 18, 20 trong giờ ngơi tay khi giê lúa, phơi rơm rạ, phơi lúa…vẫn còn duy trì thú vui chơi đánh cụm với nhau nhưng chỉ trong những lúc thật nhàn rỗi và thích thú mới tổ chức chơi.
*Địa điểm chơi: trò chơi cụm của trẻ em diễn ra bất cứ thời điểm nào trong ngày,
chỉ cần đủ chỗ để ngồi bệt trên nền đất, nền gạch hoặc xi măng… là được. Sân chơi nhỏ thì chơi đôi, sân lớn tổ chức chơi theo phe nhóm nhiều trẻ cùng một lúc vẫn được. Thường, trẻ chơi cụm trong lúc giữ bò, giữ trâu ngoài đồng, hoặc giữ em, thường tụm lại để chơi. Khi trâu, bò đang thong dong gặm cỏ trên đồng, hoặc trên các sườn đồi, cỏ… những lúc như thế, trẻ em chăn trâu không biết làm gì để tìm vui, nên tìm đến các trò chơi dân gian và qua các trò chơi trẻ em trổ tài nhanh tay, lẹ mắt và đôi khi có trò chơi phải vận dụng sự suy nghĩ tìm kế đối phó, liên quan đến không gian…nữa. Hoặc chơi cụm trong những giờ giải lao giữ buổi học vẫn được. Trẻ em, nhất là trẻ em nữ đến tuổi 10 – 13 237
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
thường mang theo bộ cụm bỏ trong cặp, đến giờ chơi lại mang ra chơi cùng chúng bạn. Các trẻ vui thú với các loại trò chơi dân gian như nhảy dây, chơi u, bắn bi, chơi cù, ông làng, đá lon, chơi ba lá xà, chơi trốn tìm…trong đó chơi cụm là một loại trò chơi rất được ưa thích, nhất là các em nữ. Cuộc chơi có thể diễn ra ngay trên đường làng, dưới cây đa rợp bóng sân đình, hoặc dưới gốc cây trên nương rẫy; chơi trong nhà, trong sân… đều có thể tổ chức được.
Chơi biền: trước khi đạt số biền theo quy định để giành thắng cuộc, chơi biền
cũng phải đi canh như các trò chơi dân gian thường thấy như chơi đi tàu bay, chơi nẻ, chơi đi chợ về chợ…(…), Người thắng đi trước sau jhi oẳn tù tì
- Đi canh 1:
Trẻ em dùng tay thuận (trái hoặc phải) rãi cụm ra trên nền đất can , xong dùng
tay bốc một viên sỏi ném lên không, đoạn dùng tay đó bắt một viên sỏi bất kỳ ở nền đất, rồi nhanh tay chụp viên sỏi vừa ném lên đang xuống vào tay có viên sỏi vừa bắt được. Xong canh 1.
- Đi canh 2:
Như đi canh 1 nhưng phai bắt bắt hai viên sỏi dưới nền đất.
- Đi canh 3, như canh 1 phải bắt 3 viên sỏi tương ứng với canh đang chơi.
- Đi canh 4 (tức canh cụm): trẻ em đi xong 3 canh, dùng một tay cụm 5 viên sỏi
lại trên nền đất, xong nhẹ nhàng nhặt lấy 1 viên sỏi bất kỳ ra khỏi cụm sao cho viên được nhặt không va chạm với 4 viên còn lại là hợp lệ. Nếu va chạm sẽ mất quyền chơi tiếp. Đoạn ném viên sỏi vừa nhặt được lên cao, nhanh tay hốt cụm, sau đó chụp lấy viên sỏi trên không đang rơi xuống vào tay sao cho không có viên nào rơi ra là hợp lệ. Nếu có viên sỏi nào đó rơi ra cũng xem là không hợp lệ. Chính vì chơi canh cụm khó nên trẻ em thay vì cụm có thể rãi 5 viên sỏi sao cho có 1 viên đứng cách ra ngoài để có thể thực hiện hốt cụm được dễ dàng.
- Đi canh rải (tức canh 5):
Dùng tay thuận, rải cụm trên nền đất (rải vừa phải, không mạnh tay), chờ cho
đối thủ quan sát thấy không phạm luật, đối thủ tự chọn và bắt ra 1 viên sỏi thu giữ. Trẻ chơi quan sát, tính xem nên đi cách nào cho đạt thắng lợi mà không chạm ngón tay vào viên sỏi khi ra dấu gạch giữa hai viên sỏi. Sau khi quan sát chọn thuận lợi, trẻ chơi dùng ngón tay út gạch (giả định) ngang giữa hai viên sỏi, xong dùng ngón tay cái, hoặc ngón nào cũng được, búng viên sỏi sao cho viên sỏi ấy chạy đến chạm vào viên sỏi bên kia đường gạch mà không va chạm với viên nào khác (chỉ hai viên sỏi đụng nhau) là được. Nếu trong khi sử dụng thao tác búng mà một trong 5 ngón tay va chạm vào một trong 4 viên sỏi, xem như mất quyền chơi tiếp. Sau khi thực hiện xong 2 lần búng như thế sẽ đạt được một biền.
Để cuộc chơi đạt được biền thì phải chơi qua 5 canh. Canh cụm chính là canh 238
4. Khi đi canh rải (canh 5) để đạt được biền, có 3 cách chơi rải:
8 / 2019
- Cách 1:
Cách chơi như đã khảo tả trên.
- Cách 2:
Dùng tay nắm 5 viên sỏi tung lên cao và nhanh chóng sấp bàn tay lại đưa má
ngoài bàn tay đón lấy 5 viên sỏi đang rơi xuống nằm trên mặt ngoài của bàn tay. Đoạn, lần nữa giữ nguyên vị trí như vậy, tung 5 viên sỏi lên, nhanh chóng ngửa bàn tay lại như cũ bắt lấy 5 viên sỏi sao cho không rơi ra khỏi tay viên nào. Bắt được như thế là đạt được 5 biền. Nếu trong lúc thực hiện hai lần tung sấp, ngửa 5 viên sỏi mà có một viên hoặc hai viên rơi ra ngoài thì chỉ tính biền cho những viên còn nằm lại trên tay mà thôi, những viên rơi xuống đất không được tính biền. Tuy nhiên, khi có một hoặc hai viên rơi ra ngoài tay thì sẽ mất quyền chơi tiếp khi thực hiện lại lần thứ hai mà lần thứ hai này sỏi vẫn rơi ra khỏi tay, không được tính biền. Mất quyền chơi, nhường cho đối thủ. (Cách chơi hứng sấp ngửa được cho chơi hai lần, lần thứ nhất đạt được, được quyền chơi tiếp, nếu lần thứ nhất bị hỏng, đối thủ cho chơi lại lần thứ hai, nếu lần thứ hai cũng hỏng, tung hứng không đạt. Mất quyền chơi và không được tính biền nào cả).
- Cách 3:
Dùng tay nắm 5 viên sỏi tung lên cao và nhanh chóng sấp bàn tay lại đón lấy 5
viên sỏi đang rơi xuống trên mặt ngoài của bàn tay. Đoạn, giữ nguyên động tác đó, tung 5 viên sỏi lên lần nữa. Lần này thì khó hơn bởi khi 5 viên sỏi đang rơi xuống, trẻ chơi dùng tay chụp lấy 5 viên sỏi gọi là động tác đại bàng đớp mồi sao cho không có viên sỏi nào rơi ra khỏi tay. Thực hiện xong động tác đại bàng đớp mồi được tính 5 biền, 5 biền này được nhân đôi lên thành 10 biền do đây là cách chơi khó nhất. Cao trào cuộc chơi thường tập trung vào rải tính biền. Cuộc chơi được chuyển qua, chuyển lại giữa hai bên, đôi khi không có phe nhóm nào ghi biền do chơi không đạt. Tuy nhiên nếu chỉ hứng được 4 viên sỏi và đớp được 3 viên thì được tính 3 biền nhân đôi thành 6 biền mà thôi. Đại bàng đớp mồi chỉ nhường quyền cho đối thủ khi đớp lần thứ 2 vẫn bị rơi 1 viên đến nhiều viên sỏi ra khỏi tay đớp.
Cuộc chơi như thế được thay phiên nhau tiếp tục đẩy lên cao đến chừng nào
phe, hoặc em nào đạt được số biền như quy định từ trước khi tổ chức cuộc chơi thì phe, hoặc em đó thắng cuộc.
239
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
GÓC NHÌN CỦA MỘT SỐ NHÀ NGHIÊN CỨU VĂN NGHỆ DÂN GIAN VỀ TRÒ CHƠI CHO TRẺ EM VIỆT NAM CÁI DỄ THƯƠNG CỦA ĐỒNG DAO ĐẤT QUẢNG Nhạc sĩ Trương Đình Quang Ngày xua có ba anh em vua Hùng đi tìm đất qua thôn Phú Đức (nay thuộc xã Kim Đức, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ) dừng lại nghỉ trưa ở một khu rừng gần thôn. Từ trong khu rừng, một vị nhìn ra bãi cỏ trước mặt, thấy có đám trẻ chăn trâu vừa hát vừa chơi các trò đánh vật, kéo co. Thấy vậy đức vua cả, liền bảo những người đi theo, đem một số điệu hát mà họ biết, dạy thêm cho các em. Để ghi nhớ công ơn của vua Hùng, về sau, hằng năm, cứ đến ngày 30 tháng chạp âm lịch, dân làng ở đây có tục làm bánh nẳn và thịt bò (là những thức ăn mà trước đây dân làng đã chiêu đãi vua để cúng ở miếu Lãi Lèn – nơi thờ vua Hùng). Tới mồng 2, mồng 3 tháng giêng âm lịch thì dân làng mở hội cầu, trong hội, họ diễn lại cảnh hát xướng, đánh vật, kéo co ở bãi cỏ gần miếu thờ. Câu chuyện trên nhắc nhở chúng ta về truyền thống ca hát dân gian, với nhiều hình thức và thể tài phong phú, đã đi sâu vào tâm hồn mỗi con người Việt Nam từ bao đời nay mà đồng dao là một thể tài quen thuộc. Trên đường vào Nam, tổ tiên chúng ta đã mang theo bài hát, trò chơi, trò diễn… Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 – 7 tuổi đến 11 – 12 tuổi, vẫn gắn bó với chào con rắn, ma gia đuổi bắt, đánh nẻ, đập chuồn chuồn, gọi nhé, cù cưa cù kít. Dừng chân ở Quảng Nam, người lớn sáng tác cho con nít. Con nít thay đổi, thêm bớt làm giàu có thêm cái kho tàng chơi – hát – học – vui cho mình. Đồng dao là thể loại ca hát bình dị, mà em bé nào cũng biết và yêu thích. Đồng dao với những trò chơi ngộ nghĩnh, những cảm xúc non tơ làm cho tâm hồn các em thêm tươi, thêm đẹp. Mỗi người chúng ta, khi nhớ lại tuổi thơ của mình, chắc không ai quên được kỷ niệm về những câu hát ấy. Ngày ấy, ta thường mượn câu hát, câu vè để diễn đạt suy nghĩ của mình. Tại sao lại như vậy nhỉ? Có lẽ vì những câu hát ấy thật dễ hiểu, thật ngộ nghĩnh đối với tuổi thơ. Có những cô bé rủ nhau đi học cùng đường, ai cũng muốn cho là đi đường mình thì tốt hơn. Thế là có câu hát để dọa nhau: Ta đi ngõ ni Có hương có hoa Mi đi ngõ nớ 240
8 / 2019
Có ma đón đường Có bạn kia chẳng chịu thua kém, khi trả lời lại: Ta đi ngõ ni Có bụi bùm lùm Mi đi ngõ nớ Có hùm chụp mi.
Hai đứa đi hai ngả, chẳng đứa nào gặp ma, gặp hùm. Nhưng, nếu lần sau có diễn lại cảnh này, thì những câu hát trên vẫn được lặp lại một cách hào hứng như chưa từng hát bao giờ. Có lẽ đây cũng chính là đặc điểm của thể loại. Các em có thể hát đi hát lại hằng trăm lần chỉ một câu đó mà không thấy nhàm chán. Cách ví von, lối nói có vần điệu đã gây được hứng thú khi các em hát câu ấy. Các em đứng vòng quanh, chơi – hát trò phủi tóc bạn: Đầu đứa mô có rơm có rác Kêu tau bằng bác tau phủi xuống cho Kêu tau bằng o tau cho cái này. Vừa vỗ tay, vừa nhảy tưng tung theo câu hát, hát đi hát lại nhiều lần. Và, sau “tau cho mi cái này”, có nghĩa là cho một quả thụi đáng yêu thật sự vào mạng sườn hoặc lưng bạn. Đôi khi, muốn hát – chơi bài này, mà em nào đó đã có ý kín đáo cho một cọng rơm hoặc một chiếc lá lên đầu tóc bạn mình, để cả nhóm nhảy vòng quay bạn vô ý đó như một trò chơi thú vị. Vào mùa hè, nghe thấy khu nào lắm ve ve, tối đến các em rủ nhau đi bắt ve ve rang ăn. Đợi thiệt tối, các em nhóm một đống lá khô, châm lửa, xúm xít ngồi chồm hỗm quay hình vòng tròn, vỗ tay vào miệng thành tiếng oa oa òa òa, rồi hát nói ầm ĩ. Các em dùng vòm miệng như một hộp cộng hưởng. Những tiếng oa oa òa òa, tiếng hát rung lên dập dồn, lung linh – âm điệu và màu âm là lạ, mơ hồ, ánh sáng lôi cuốn, hấp dẫn: Oa oa òa òa Oa oa òa òa Hu hu ve ve Xuống đây mà nghe Ăn xôi, ăn chè, ăn mít, ăn me Không xuống, không nghe Tau đánh mi què Tau ví chạy re Oa oa òa òa Oa oa òa òa Phố cổ Hội An về đêm, con nít quây quần quanh trụ đèn điện đường (để nhờ ánh sang) cạnh những cây keo ta, hát: 241
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Họa bù rầy đùng
Họa bù đầy đùng Trống đánh thùng thùng La rụng gió thổi Gió nổi lên đi Cho mi rớt xuống Ta bắt cho thầy Làm cái cối xay Mi quay quay tít Họa bù rầy đồng Họa bù rầy đồng. Từng đôi một ngồi bệt xuống đất. Tay nắm tay, bàn chân chỏi vào nhau, các em hát – chơi:
Cù cưa cút kít
Con nít rúc ra Ông già rúc vô Cù cưa cút kít Con nít may ra Bà già may vô Cù cưa cút kít Ăn ít no lâu Ăn nhiều tức bụng Cù cưa cút kít Con nít nhà ai Thì về nhà nấy. Nhưng chưa ai về nhà nấy được. Có bạn nào đó, do bụng bị ép vào đẩy ra, đã té tùm. Một em vừa hát vừa chỉ vào từng bạn: Xù xì xù xịt Ốc mít lùi cho Ăn no té tủm Ba ông quan chánh Xúm đánh phèng la Biểu phải chỉ ra Đứa mô té tủm? Đứa mô té tủm? Ngoài hát – chơi, đồng dao Quảng Nam còn hát đố: 242
8 / 2019
Hội An có bốn nàng tiên Hai nàng tuổi tuất hai nàng tuổi thân (Về hai con khỉ và hai con chó trong Chùa Cầu) Câu hát chế nhạo “ Mặc áo lơmuya”: Đi giầy cao gót Xách bot-tơ-phơi (cái ví, cái bóp) Đội dù cán dơi Ăn hai xu cháo Không tiền, trở tráo Lột áo lowmuya (áo dài)
Ở chốn thôn quê, trẻ em yêu thương con nghé, làng quê nào cũng có câu hát gọi nghé. Trẻ em Quảng Nam có cách gọi nghé như sau: Huê…huê Huê con nghé nhỏ Lạc đàn theo chó Lạc ngõ theo trâu Nghe mẹ rống đâu Đâm đầu mà nhảy Huê…huê… Huê…huê… Huê con nghé nhỏ Ham chơi (xa đàn) lạc mẹ Huê…huê… Chơi – hát là niềm vui của trẻ em ở chốn đồng quê. Còn gì thú vị bằng một buổi sáng đẹp trời, các em vắt vẻo trên lưng trâu, dong chúng ra đồng. Đàn trâu được thả trên một bãi cỏ xanh mượt, mải mê gặm cỏ. Còn các em, lúc này hoàn toàn thảnh thơi, tụ tập nhau lại một góc bãi cỏ, chơi trò chưng cộ. Trò này như sau: Một lớp ngồi dưới cầm tay nhau xếp thành vòng tròn, rồi nhiều lớp nữa cùng cầm tay nhau, ngồi chồng lên vai lớp dưới, cùng hô “dố dậy” tất cả cùng đứng lên trụ cao, vừa đi vòng tròn, vừa hát. Đồng dao này có 2 khúc, một khúc thiết thực nói về trẻ chăn trâu với mùa màng, một khúc kể về vật thường thức ở nông thôn. Khúc1: Dố dậy, dố dậy! Cây gậy bốn phương Ra đường mạnh mẽ Bầy trẻ chăn trâu Bay lâu thẳng cánh Nó mạnh như sên 243
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Đi trên mặt nước
Đi trước đón rồng Ông đi có cồng Bà đi có mõ Trên trời nghe rõ Làm gió làm mưa Làm mùa bát ngoạt Đó dây, dố dậy! Khúc 2: Trời mưa lâm dâm Cây trâm có trái Con gái có duyên Đồng tiền có lỗ Bánh tổ thì ngon Bánh hòn thì béo Cái kéo thợ may Cái cày làm ruộng Cái xuổng đắp bờ Cái lờ thả cá Cái ná bắn chim Cái kim may áo Cái giáo đi săn Cái khăn bịt đầu. Hát hết khúc này, trở lại đoạn đầu, bắt vào câu: bầy trẻ chăn trâu cứ thế mà hát quay tít vòng tròn cho đến khi nào cột đổ. Đồng dao được đưa vào sàn diễn hát bộ. Nghệ sĩ Nhân dân Ngô Thị Liễu (1908 – 1984) thể hiện xuất sắc các vai đào chiến, cũng rất nổi tiếng với vai kép con, trong một vở diễn, trong vai em bé, hát đố các bạn: Tau đố bay Chớ cái gì mà ở trong cái hộp Chớ cái gì mà đem nộp cho quan Chớ cái gì mà ăn loang lổ giấy Tau đố bay đấy Đứa nào nói trúng thì tau khen thay. Các em đáp: Chúng tau đã biết, chúng tau đã hay Rứa là mi đố thế này Trầu là trầu ở trong cái hộp 244
8 / 2019
Tiền là tiền đem nộp cho quan Mực là mực ăn loang tờ giấy Chúng bay đã hay Tau đố chúng bay Một câu này nữa.
Hát bộ với các nhân vật lịch sử đời xưa…với bao cái lạ, cái kỳ, cái thiện, cái ác, cái trung, cái nịnh…quyến rũ các em. Và đến lượt mình, những nhân vật của sân khấu hát bộ lại đi vào thế giới đồng dao, biết rõ hát bộ diễn về cái gì, chuyện gì: Vua băng, nịnh tiếm Tứ chiến phò vua Tướng xưa quân lùng Kép rừng cứu viện Diệt nịnh diệt đô Rủ nhau đóng tuồng hát bộ: Con nit, con nit Chúng ta ý là con nít Đội mũ lá mít Cưỡi ngựa tàu cau Đứa trước đưa sau Rủ nhau một lũ Học rồi thì chơi Xuống nước tập bơi Lên bờ đấm đá Miệng thổi kèn lá Tó tít tít tít tò tít Tay phất cờ tre Miệng reo hè, hè Giả đò giết giết. Sinh hoạt vui chơi là môi trường của trẻ em. Trong dạng sinh hoạt chơi – hát – học – vui, đồng dao luôn gắn với các trò chơi, các lối chơi. Chỉ thông qua trò chơi, đồng dao mới có điều kiện phổ biến và lưu truyền. Nhưng ngay trong sinh hoạt vui chơi ấy của các em, chúng ta vẫn thấy hiện lên cái bản chất xã hội của nó. Nói một cách khác, mỗi đồng dao “bài hát – trò chơi” của các em để nhằm mục đích rèn luyện và giáo dục các em trở thành những thành viên xã hội thực sự trong tương lai. Chon ngõ, phủi tóc ban, xù xì xù xịt – thể hiện ngợi ca tình bạn. Hu hu ve ve, họa bù rẩy đùng – là trò chơi có ích, ông trùm dê ơi, đố tuổi – rèn luyện tính nhanh nhẹn, nâng cao thể lực. Tau đố bay, ăn cháo quỵt – phê phán, chế nhạo cái chướng tai 245
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
gai mắt. Hò nghé ngơ, người và trâu ở đợ, dỗ sáo ăn mồi – giáo dục lòng yêu thương con vật gắn bó với cuộc sống của thế giới tuổi thơ: con nghé, con trâu…là thể hiện lòng nhân ái trong con người Việt Nam. Qua cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam, chúng ta nhận ra, trong chơi – hát – học – vui cho con nít, cha ông ta đã dành một khoảng lớn cho sự tự sáng tạo của con nít, sáng tạo theo suy nghĩ, nhận thức và phương pháp của chúng. Chúng ta thấy con nít thích thú những bài, câu, đoạn, mà theo logic của chúng ta là linh tinh, hay chí ít, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng, chính những bài có khi theo logic nhảy cóc như vậy lại đáp ứng nhu cầu tập cho dẻo miệng như kiểu “tròng trà tròng trành, trâu trèo trâu trợt” đáp ứng yêu cầu “đặt vè bẻ vần”, “bẻ làn gắn điệu” của các em. Đồng dao cổ truyền bao giờ cũng chuyển tải một cơ chế âm nhạc đậm đà màu sắc và tính chất dân tộc. Con nít tiếp nhận và hát – múa – chơi – học đồng dao là một bộ mã di truyền của dân tộc. Cơ chế âm nhạc này lại được đưa vào kết cấu phức hợp với các yếu tố cũng mang bản sắc dân tộc, như trò chơi, điệu nhảy, trò vui, đố học, khiến con nít rất thích thú, và lại còn dành cơ hội cho trẻ em, kích thích chúng sáng tạo thêm. Trong xã hội xưa, đồng dao là bài học vỡ lòng về âm nhạc, vỡ lòng về ý nghĩa là những bài học đầu tiên trong cuộc đời, nhưng cũng là những bài tập âm nhạc đầu tiên. Từ buổi sơ sinh đến lúc lên 3 lên 5, con nít chỉ được tiếp thụ âm nhạc dân tộc một cách thụ động qua hát ru của người lớn. Chỉ với đồng dao, trẻ em mới tự mình ca hát, nhảy múa, chơi, học và sáng tạo. Nên hiểu rằng , khái niệm “âm nhạc cho trẻ em” bao gồm cả hai thể loại bài hát là hát ru và hát trẻ em. Từ lâu, chúng tôi mong muốn đưa cái dễ thương của đồng dao cổ truyền dân tộc vào trong sinh hoạt văn nghệ, trò chơi trẻ em. Một nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng: “Mỗi dân tộc mang vào trò chơi những đặc tính trong cách suy nghĩ mà dân tộc đó vốn có, có biết bao nhiêu trò chơi mà con người đã nghĩ ra, đếm không xuể. Cũng như dân ca, truyện cổ tích, chúng rất nhiều, rất nhiều. Các trò chơi, cũng như con người, sống, yêu, và chết. Rồi chúng tái sinh”. Dạy đồng dao cho trẻ là dạy các em chơi – hát – múa – học, dạy tiếng Việt cho trẻ. Riêng vốn từ, trẻ em có dịp nắm vững những từ thuần Việt, nghĩa là, những từ làm nên bộ phận nòng cốt của tiếng Việt, chúng vốn có từ lâu đời, và có sức sống mãnh liệt, cho nên, dù đời sống hôm nay đổi mới thế nào, con cháu chúng ta cũng cần biết. Đã có nhiều Hội thảo toàn quốc về Folklo, hát ru, cồng chiêng, hát hò…Thỉnh thoảng có tổ chức thi hát đồng dao, song do việc sưu tầm được quá ít đồng dao, do không hiểu đúng tính chất và các yếu tố cấu tạo chơi – hát – hoc – vui của trẻ em, nên không đạt được kết quả mong muốn. Việc bảo tồn vốn đồng dao và khai thác, phát huy thể loại này trong sáng tác cũng như tổ chức các loại hình sinh hoạt thiếu nhi, đòi hỏi nỗ lực của mọi người nhằm tạo cho tuổi 246
8 / 2019
thơ có “sân chơi bổ ích”.
247
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
TRÒ CHƠI CÓ HÁT VÀ TRÒ CHƠI KHÔNG HÁT CHO TRẺ EM Nhạc sĩ Trần Hồng Các em nhỏ sinh ra ở nông thôn thường rủ nhau bày trò vui chơi nơi ruộng đồng, gò rộng, mảnh sân, đồi núi, khi các em lùa bò trâu ra đồng, hoặc thả ăn trong rừng núi. Khi chiều xuống chờ trâu bò ra núi để về chuồng là lúc chúng tôi chơi các trò chơi rất vui. Có những trò chơi không cá hát và những trò chơi vừa chơi vừa hát gọi là hát đồng dao.
1/ Các trò chơi không hát :
Nam nữ lứa tuổi từ 10,13,15 tuổi là những trẻ em chăn trâu bò ở nông thôn và
các em học sinh nhỏ tuổi cùng chơi với nhau trong những đêm trăng sáng ở những sân rộng hoặc bãi đất bằng ngoài đồng, rẫy rộng dưới chân núi làm nơi tập trung để chơi. Các trò chơi chung cả nam, nữ, hoặc chia ra hai phe nam riêng, nữ riêng. Các trò chơi do các em bày ra rất sinh động, vui và có tính giáo dục, nhân văn cao, dễ tiếp thu thủ tục và đề ra ‘Luật chơi” được bạn trẻ thực hiện đầy đủ luật chơi có thưởng có phạt như: Búng tai, người thua phải cõng người thắng hoặc cỡi ngựa 2 bành, 3 bành từ đích về điểm xuất phát, xong lại chơi tiếp các trò chơi khác:
Đánh khăng, đánh trống, đánh cù, vật tay, vật chân, đá kiện, đánh vật, đẩy gậy,
thi bơi, thi nhảy lò cò, thi chạy, đánh ô, nhảy dây, đánh ruộng, đánh nhựt, đánh đáo, đánh trái vụ, đá gà (hoa cỏ), bắn bi, chơi đu, đố lá, thi cõng, kéo dây, trèo cây cau, xây lồng đèn, nhảy tháp, thi câu cá, thi mò bắt cá, đá banh chuối hay trái bòng.
Các trò chơi của trẻ em ở Bắc bộ, Trung bộ và Nam Bộ đều có những trò chơi
gần giống nhau, đã có sự giao lưu phổ biến sâu rộng, có các em nhỏ theo cha mẹ từ Bắc di cư vào các tỉnh vùng đất mới ở Nam Bộ đến tận đất Mũi Cà Mau. 2/ Các trò chơi có hát :
Các trò chơi có hát, bài hát do các em vận dụng các làn điệu dân ca, hò, vè của
làng quê để bẻ vần, nắm điệu, lời ca mộc mạc, dễ hát, dễ thuộc, áp dụng phù hợp với các trò chơi mà các em đặt ra để vừa hát vừa chơi vui vẻ gọi là “ Hát đồng dao”
“Đồng dao là bài văn vần ngắn truyền miệng của trẻ em, luôn luôn kèm theo trò
chơi”. Bài hát đồng dao về phần âm nhạc có tiết tấu nhịp nhàng, hợp với các động tác đơn giản. Phù hợp với các trò chơi được rộn ràng, đồng đều. Đồng thời là bài học vỡ lòng âm nhạc dân tộc, là bài học thực hành đầu tiên trong đời mà các em đã tiếp thu qua câu hát ru của mẹ, các điệu hò, điệu lý, hò giã gạo, hò lao động… của ông, bà, cha mẹ, anh chị trong các buổi nghe hát bên cối gạo hay ngoài đồng ruộng… Các em đã tiếp thu một cách thụ động thuộc lòng để bắt vần: Ngâm ngợi dựa theo câu vè, ca dao để “Sáng tác” nghệ thuật và thực hành hát đồng dao đều có trong các trò chơi. Qua đó, các em học 248
8 / 2019
nói, học làm văn nghệ ‘Cùng hát cùng chơi” học cả những kiến thức tự nhiên của xã hội, là cái nền cơ bản của trí thức rất cơ bản để đào tạo con người lớn lên đóng góp tài năng cho đất nước.
- Trẻ em ngoài bắc có : - Nu na nu nống hoặc dung dăng dung dẻ và nhiều trò
chơi khác.
- Trẻ em Miền Nam có : Còn Miền Nam có cùm nụm cùm nịu, Bắc kim thang…
Ở các tỉnh Miền Trung các em vừa hát vừa chơi có :
Tập tầm vông, gọi nghé, vuốt nổ, đúc cây dừa, đúc cây bông, con chim se sẻ,
u tù, vè con nít, chào ông rắn đi đâu?, Bắc chưng thang v.v..
Các bài hát đồng dao thường là ngắn gọn như nói và có vần điệu hoặc không có
vần, câu 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ có lúc xen nhau theo nội dung câu hát phù hợp với trò chơi, hoặc không ăn khớp với trò chơi.
1/ Tập tầm vông
2/ Đúc cây dừa
3/ Đúc cây bông
Chị có chồng
Chừa cây mận
Trồng cây hoa
Em ở vá
Cây lần khẩn
Đỗ trắng, đỗ đen
Chị ăn cá
Em mút xương
Cây nào cao
Chị nằm giường
Cây nào thấp
Em nằm đất
(…)
Các lời hát đồng dao, giai điệu rất giản dị, mộc mạc gần với nói vè do các em
Cây bí đao
Ống thụt
Ổng thậm
Lồng
đèn
sáng tạo ra để phụ họa cho các trò chơi có nội dung dễ hát, dễ nhớ, có nhịp điệu gắn với động tác rộn ràng, nhộn nhịp, vui tươi, hấp dẫn với lời ca thường là câu 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ có xen nhau để thay đổi nhịp điệu và giai điệu. Nhưng các em thường dùng các câu hát đồng dao phần nhiều là câu có 4 chữ.
Ví dụ 1: Nu na nu nống
2-
Dung dăng dung dẻ
Cái cống nằm trong
Giắt trẻ đi chơi
Con ong nằm ngoài
Đến sập mặt trời
Củ khoai chấm mật
Lạy cậu lạy mợ
3- Vuốt nổ, vuốt nổ
4-
Tay vỗ vào tay
Nó đẻ mái tranh
Nghe rộn ràng thay
Tôi lấy hòn sành
Tuế ta tuế tác
Tôi lia chết giẫy…
5- Con nít con nít
6-
Đúc hột, đúc hạt
Cái đầu nhỏ xịt
Cơm sôi cá nhỏ
249
Con chim se sẻ
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
Đội mũ lá mít
Cá đỏ hồng đơn
Cỡi ngựa tàu cau
Cá sơn, cá diếc
Cá
liệt,
cá
chình…
Hát đồng dao và các trò chơi ở các vùng nông thôn từ miền Bắc, miền Trung và
miền Nam từ những thập niên trước cách mạng tháng tám 1945, các trẻ em ở các vùng nông thôn, sông nước, biển cả cho đến các vùng trung du, miền núi, ở cả 3 miền, các em đều có sáng tạo ra các trò chơi vui.(…) Các trò chơi ngày xưa ấy còn trong ký ức của các em đó, nay nhiều người đã qua đời, những người còn sống, cũng đã 80, 90 tuổi, nhưng khi nhắc lại các trò chơi hát đồng dao ngày xưa, các cụ đều nhớ lại các trò chơi từ thủa nhỏ ấy, kể lại và bày cho con cháu chơi rất say sưa như hồi trẻ thơ.
Hiện nay, các em mục đồng, vùng nông thôn cả 3 miền Bắc Trung Nam việc làm
ăn cải cách nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, không còn cảnh làm ăn cầy cấy như xưa mà dùng dụng cụ, máy móc để canh tác, rất ít trẻ em mục đồng, tập họp để cùng hát cùng chơi như xưa nữa.
Cho nên chúng ta cần phải nghiên cứu, phục hồi, bảo vệ vốn văn nghệ dân
gian, giáo dục cho được trẻ hiểu và ham thích dân ca, ca hát đồng dao kèm theo các trò chơi là việc làm lâu dài.Trong thời kỳ điện khí hóa, hiện đại hóa với tiết tấu sôi động của công nghiệp hóa từ thành thị đến nông thôn cuộc sống, sinh hoạt gần như nhau. Các em nghe đài, xem ti vi, chơi game vào nhiều trò chơi điện tử, điện thoại di động… đã lôi kéo các em từ mẫu giáo, các trường trung học, đại học đều lao vào các trò chơi, mất cả thời giờ học hành có khi còn tai hại không lường. Phải có chủ trương và kế hoạch cụ thể của các cấp chính quyền, đoàn thể dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm giáo dục hớp trẻ tham gia các hoạt động lành mạnh, tổ chức các sân chơi trò chơi hấp dẫn. Thu hút lớp trẻ tham gia các trò chơi phải có sáng tạo cho phù hợp, có hấp dẫn, trí tuệ, khoa học, nâng cao các trò chơi được các em tiếp nhận, thích thú vào cuộc chơi. Đó là công việc làm tốt mà cũng là trách nhiệm của chúng ta.
250
8 / 2019
251
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
GIÁ TRỊ NHÂN BẢN CỦA TRÒ CHƠI DÂN GIAN ĐOÀN VIỆT HÙNG
A.Ngôn ngữ của trò chơi
Mỗi trò chơi đều có tiếng nói, hơi thở, phong cách riêng. Chẳng có trò chơi nào
giống trò chơi nào. Nếu có sự tương tự, na ná là do biến thể từ trò chơi này sang trò chơi khác, xuất phát từ nhu cầu đa dạng hóa các trò chơi để thêm phần phong phú, hào hứng trong sinh hoạt vui chơi tập thể, làm giảm đi sự nhàm chán do lặp đi lặp lại cùng một trò chơi. Ngoại trừ một số trò chơi chỉ đơn thuần là các thao tác chân tay, vận dụng trí óc để suy nghĩ, còn lại hầu hết các trò chơi đều kèm theo những câu hát đồng dao, để minh họa, diễn tả lại trò chơi dưới nhiều hình thức khác nhau; đôi khi là trêu ghẹo chọc tức đối phương hay dọa cho đối phương sợ sệt. Những trò chơi có các câu hát đồng dao đi kèm thường bao giờ cũng sinh động hơn, vui nhộn hơn, gây tâm lý phấn khích cho các đối tượng tham gia cuộc chơi.
Trong thế giới vui chơi này hoàn toàn không có sự can thiệp của người lớn. Vì
vậy, ngôn ngữ trò chơi luôn là ngôn của tuổi thơ, lấy tên các sự vật xếp đặt sao cho có vần điệu để dễ nhớ, dễ thuộc, rất mộc mạc, đơn giản chứ không hề có sự trau chuốt, bóng bảy như ca dao hay văn chương bác học. Đó là thế giới của ngôn ngữ rất thật, rất hồn nhiên, chúng thấy sao, nghĩ sao thì gọi tên ra như thế. Trong trò chơi giấu hòn giấu hột, nếu các em chỉ ngồi vòng tròn chuyền tay nhau một vật nhỏ không thôi, thì hẳn nhiên trò chơi này sẽ rất đơn điệu, gây nhàm chán. Nhưng nếu như vừa chuyền tay nhau, vùa đồng thanh đọc hay hát câu ca dao: Giấu hòn giấu hột Cơm sốt cơm nhão Cá đảo hoàn đơn Cá sơn cá diếc…
thì trò chơi sẽ vui hơn, hứng thú hơn nhiều.
Và trong những trường hợp như vậy, chúng ta lại gặp trong các bài đồng dao đi kèm với trò chơi có nhiều câu diễn tả một sự việc đang diễn ra không phù hợp, phản lại thực tế đang xảy ra. Ví dụ như trong trò chơi cá sấu lên bờ, có câu:
(…) Để lờ tao bắt
(…)
Tao banh hàm rang
Thò chưn mày gãi
thì không thể nào xảy ra trong thực tế cuộc sống được. Hay như trong trò chơi
mèo bắt chuột, lại có câu:
(…) Con mèo đuổi chuột 252
8 / 2019
Cầm đuốc soi đường
Cầm gương soi mặt
để cuối cùng chuột chạy mất, gây hậu quả: mèo đói kêu la v.v…
Những câu phản ngược với thực tế như vậy không phải là trẻ em không biết đến
sự dữ tợn, nguy hiểm của con cá sấu, cũng không ai dại dột đến độ đưa chân vào hàm răng cá sấu bao giờ. Nhưng khi trẻ em nói vậy là hàm ý chọc tức đối tượng trong cuộc chơi bị làm cá sấu. Rồi mèo đi bắt chuột mà lại cầm đuốc, cầm gương thì cũng như bài ca dao:
Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm, mua muối giỗ cha con mèo.
Tuy vậy cũng có rất nhiều câu đồng dao mang đậm tính chất của ngôn ngữ nói,
đề cập tới sự việc đang xảy ra rất hiện thực. Ví dụ như trong bài bỏ lá, bỏ khăn:
(…) Nhắm mắt làm thinh
Thấy sao hay vậy
Không được nói bậy
Không được nói ra
Lỡ mà nẫu biết
Lá kia không biết
Rớt trúng đầu ai
Lá đã nằm dài
ở đằng sau đít.
Có không ít các bài đồng dao, mới thoạt nghe, chúng ta có thể lầm tưởng là
dung tục, là rơi vào dạng thức văn hóa phồn thực, như trong trò chặt dừa có câu: cặc lõ chín đen. Kỳ thực đó là trái của một loại dây leo khi chín có màu đen (…) Trong số các trò chơi có câu đồng dao thì ở trò lô tô mang dáng dấp của một sự nhanh trí, sáng tạo thực sự. Bởi trong trò chơi này, không phải lúc nào cũng có những câu có sẵn để mang ra sử dụng ngay, mà thường là ứng tác thật nhanh cho phù hợp với diễn biến của cuộc chơi. Vì vây, ở đây không thể gọi là câu đồng dao được. Thực chất là những bài vè, là sự ghép nối các từ cho có vần điệu để ứng phó với câu của đối phương vừa đưa ra, sát với thực tế. Càng không thể gọi đó là những câu ca dao, mà chỉ là sự khởi đầu của một loại hình “thơ thẩn” của tuổi thơ, có tác dụng giúp trẻ sắp xếp từ ngữ cho khéo, ứng đối nhanh lẹ, mà nhà văn Võ Hồng gọi là trò chơi làm thơ. Có lẽ hoàn chỉnh nhất giữa ngôn ngữ và động tác trong trò chơi phải kể tới đánh bài chòi, một trò chơi của trí tuệ tập thể bình dân. Nó là sự tái hiện cuộc sống về các mặt của cộng đồng chỉ trong một cuộc chơi. 253
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
B. Những tác động của trò chơi Chúng ta không ngần ngại khẳng định ngay rằng, trò chơi có tác động rất tích cực về mặt phát triển thể lực, phát triển tư duy, về sự khéo léo chân tay…đối với lứa tuổi thiếu niên. Ngay khi vừa biết lẫy, biết bò, cha mẹ đã mua cho con những đồ chơi như quả bóng, con búp bê, hình vẽ trên giấy với nhiều màu sắc sặc sỡ. Nhà nghèo thì ra vườn hái những chùm bông dại kết lại, đôi khi là mớ tua vải nhiều màu…để trẻ con bước đầu cảm nhận và phân biệt được màu sắc. Trên tay chúng, trái banh nhựa tròn lăn đi để chúng tự biết về sự chuỷên dịch của đồ vật. Những tác động ấy luôn làm cho trẻ thích thú, gây cảm giác hứng khởi về sự khám phá mới lạ với thế giới gần gũi chung quanh chúng. Càng lớn, sự hiểu biết về thế giới chung quanh càng phong phú hơn. Trẻ thích tìm tòi và luôn đặt câu hỏi tại sao khi tiếp xúc với các đồ vật, hiện tượng mà chúng nhìn thấy, sờ mó được. Và cho tới khi hệ thống thần kinh và các cơ bắp bắt đầu phát triển thì mọi nhu cầu cho cơ thể cũng tăng theo, trong đó nhu cầu tìm hiểu, vui chơi là đương nhiên với tất cả các trẻ phát triển bình thường. Trong sinh hoạt hằng ngày, hiếm khi các em tự giác tập thể dục vào buổi sáng hay giữa buổi để tăng sức khỏe cho cơ thể. Mặc dù cha mẹ, người lớn không khuyến khích, nhưng với các trò chơi chạy nhảy, níu kéo thì các trẻ em không bao giờ quên. Có điều kiện và thời gian là chúng chơi ngay. Tất cả các trò chơi thiên về thể lực như u quạ, đá gà, vật tay,vật chân đến giặt chiếu, đi chợ…đều có tác dụng tích cực đến việc vận động, phát triển cơ bắp. Các trò chơi về cờ ô vuông bắt đầu giúp trẻ phát triển về mặt trí tuệ, hay những trò chơi giúp cho chân tay nhanh nhẹn, chính xác và khéo léo hơn. Như vây, một đời người, khi còn ở giai đoạn trẻ con, không ai là không chơi một vài trò chơi, nhất là đối với trẻ con nông thôn có điều kiện chơi nhiều hơn, và vì thế, trò chơi là một trong những hình thức khởi đầu của môn thể dục, thể thao còn ở dạng thô thấp. Liên hệ một số trò chơi của trẻ con với một số môn thể thao ngày nay, chúng ta thấy có nhiều điểm rất giống nhau về nội dung. Ví dụ môn kéo co trong thi đấu và trò kéo co đẩy gậy của trẻ con; trò bắn bi và môn thể thao billard của người lớn; trò đá kiện, đá cầu đến môn thể thao cầu mây hiện nay; đánh quạ; đánh trổng đến môn hốc cây…Khác nhau chăng là hình thức, là luật lệ nghiêm ngặt cần phải tuân thủ của thể thao và sự tùy hứng, thay đổi theo qui ước ban đầu mỗi cuộc chơi của trẻ em. Rổi một số trò chơi tưởng chừng như vô bổ như thảy lỗ, tán xu, đâm nia…về mặt nào đó cũng rất cần thiết cho sự phát triển cơ thể dẻo dai, chính xác trong các công việc lao động bằng sức lực và trí óc sau này. Rõ ràng, các trò chơi dân gian đã giúp ích rất nhiều cho trẻ. Nó không chỉ là nhu cầu tự nhiên ở một giai đoạn phát triển, mà hơn hết còn là những bài học đầu đời của con người, để sau này khi lớn lên tự giúp ích cho bản thân và xã hội. Một thân thể khỏe mạnh, cường 254
8 / 2019
tráng; một trí óc minh mẫn kèm với sự nhanh nhẹn khéo léo sẽ không thừa cho mỗi người, mà điểm xuất phát ban đầu là các trò chơi (…)
255
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
BẢO TỒN DI SẢN TRÒ CHƠI DÂN GIAN Tác giả : Cao Đức Hải
Trò chơi dân gian là một bộ phận quan trọng và độc đáo trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam. Nó phản ánh quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, chứa đựng những ý tưởng thẩm mỹ mang đậm dấu ấn, sắc thái của quá trình lịch sử tộc người, địa phương, vùng văn hóa. Không chỉ thăng hoa lên tầng ý nghĩa nhân văn, trò chơi dân gian còn thiết thực với đời sống tinh thần, thể chất của mỗi con người, mỗi cộng đồng trong chu trình sinh sống đời thường. Xưa kia, trò chơi dân gian có ở hầu khắp các không gian và môi trường sinh sống của cư dân. Nó dành cho tất cả mọi người, từ con trẻ cho đến tuổi già, cho cả người no đủ lẫn người thiếu đói. Họ chơi trong lúc nông nhàn theo vụ, chơi cả trong các nghi thức được tin là linh thiêng, chơi hàng ngày trong nhà và ngoài sân, chơi cả nơi chợ phiên và lúc tránh nắng ngoài đồng. Cùng với các yếu tố văn hóa truyền thống khác, trò chơi dân gian đã từng là trang ký ức đậm nét về quê hương làng xóm trong mỗi tâm hồn, góp phần tạo nên lòng yêu nước, hun đúc thành ý thức rõ ràng về dân tộc như một nét tính cách không thay đổi của người dân nước Việt. Đáng tiếc, vai trò của trò chơi dân gian nay không còn như xưa. Trong bối cảnh mới, các cấu trúc xã hội nông thôn truyền thống (môi trường tự nhiên, xã hội, văn hóa của trò chơi dân gian) đang bị phân rã và dần được thay thế bởi các quan hệ kiểu đô thị. Sở thích và cách thức giải trí cũng thay đổi. Nhiều trò chơi dân gian đang đứng trước nguy cơ bị lãng quên. Thực tế ấy khiến chúng ta nghĩ tới việc phục hồi, bảo tồn và phát huy các giá trị của trò chơi dân gian vừa với tư cách một di sản văn hóa phi vật thể vừa như một giải pháp cân bằng đời sống văn hóa giải trí theo hướng lành mạnh, bền vững và cho mọi người. Để làm được việc này, cần thống nhất một số quan điểm và nguyên tắc. 1. Vừa bảo tồn nguyên bản vừa cách tân Tính nguyên bản của trò chơi dân gian được hiểu như những dạng thức trò chơi được hình thành bởi trí tuệ dân gian, trở thành một truyền thống của cộng đồng sở hữu nó. Tính nguyên bản được nhận ra bằng sự công nhận của cộng đồng chủ nhân sở hữu trò chơi dựa trên trí nhớ dân gian và các thực hành của họ. Mặt khác cũng có thể căn cứ vào các ghi chép trong quá khứ xa hay gần. Sự làm “sai lệch” cần được hiểu như những hành vi vô trách nhiệm, bóp méo, thêm bớt cố ý trong miêu tả, thực hành, truyền bá hay lưu trữ nhưng lại với danh nghĩa của tính nguyên bản. Sự “sai lệch” xảy ra sẽ làm cho xã hội dễ ngộ nhận về giá trị của di sản. Bản thân di sản sẽ mất đi vĩnh viễn chân giá trị lịch sử và 256
8 / 2019
văn hóa của nó. Do vậy, việc phục hồi và bảo tồn trò chơi dân gian trước hết cần coi trọng nguyên tắc tính nguyên bản với tư cách một di sản văn hóa phi vật thể thuộc truyền thống dân tộc được pháp luật bảo vệ. Cần thống nhất rằng việc bảo tồn với nguyên tắc bảo vệ tính nguyên bản, tránh làm “sai lệch” di sản, sẽ có ý nghĩa khác với các trường hợp sau: Thứ nhất: tính sáng tạo liên tục của văn hóa dân gian như một tiếp tục của dòng chảy truyền thống. Khác với các di sản vật thể ổn định và có thể định lượng rõ ràng, những di sản phi vật thể được lưu giữ bởi trí nhớ dân gian và truyền miệng hay truyền tay, rất khó xác định tính nguyên bản đến từng yếu tố. Hơn nữa, quá trình của những sáng tạo dân gian không chỉ dừng lại ở thời xưa mà vẫn đang diễn ra bởi sự bổ sung thêm bớt những chi tiết từ đương đại. Khi đánh giá di sản, cần lường trước chi tiết mà dân gian đang tiếp tục sáng tạo để phân biệt với cái được gọi là làm “sai lệch”. Tuy nhiên, sáng tạo dân gian thường dựa trên cơ sở của một “khung” truyền thống nhất định đã được xác lập trước đó. Tính nguyên bản lúc này có thể coi như cái “khung” mà truyền thống đã xác lập. Thứ hai: khai thác tinh hoa từ truyền thống văn hóa làm tốt đẹp hơn cuộc sống đương đại như một nhu cầu xã hội, phù hợp với luật pháp hiện hành. Bên cạnh việc bảo tồn tính nguyên bản thì việc cách tân, khai thác những yếu tố tinh hoa để xây dựng các giá trị mới mang cốt cách truyền thống là lối ứng xử mang tính quy luật, đúng đắn và trân trọng đối với di sản văn hóa phi vật thể. Tính nguyên bản sẽ được gìn giữ và bảo vệ với tư cách bảo tồn. Sự can thiệp gạn lọc từ nguyên bản những tinh chất sẽ là cách để giá trị của di sản được phát huy trong thực tiễn đời sống xã hội đương đại. Điều này khác về bản chất với làm “sai lệch” di sản. 2. Phát triển mang tính cạnh tranh mà không áp đặt Nhiều nhà khoa học đã cảnh báo rằng: không thể sử dụng sức mạnh hay ý chí để áp đặt văn hóa. Trong giai đoạn lịch sử nhất định (ví dụ như trong chiến tranh), có thể một kiểu lối sống, nếp sống được đặt ra cho toàn xã hội và được duy trì bởi ý chí với tư cách một phương tiện nhằm đạt mục tiêu của vận động xã hội đó. Tuy nhiên, khi giai đoạn lịch sử đó qua đi, tự bên trong xã hội sẽ khước từ kiểu lối sống, nếp sống bị áp đặt đó để trở về với cái muôn thủa của trật tự được lựa chọn do mưu cầu hạnh phúc trong những điều kiện và mong muốn của từng con người, từng nhóm và xã hội cụ thể. Khi ấy lối sống, nếp sống, nhu cầu, sở thích như là hệ quả của thực tiễn sống mà không phụ thuộc vào sức ép và khuôn mẫu nào. Nước ta đang trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, quyền con người ngày càng được tôn trọng. Người dân nay đều có quyền tự do lựa chọn những gì mà luật pháp không cấm để thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mình. Với tốc độ phát triển của thị trường hiện nay, người ta có nhu cầu gì sẽ có cái để đáp ứng ngay nhu cầu đó. Thậm chí có quá nhiều sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh lẫn nhau, khiến người tiêu dùng không phải đi tìm 257
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
mua sản phẩm hay dịch vụ mà bị đẩy vào thế băn khoăn trước sự lựa chọn trong điều kiện cho phép của hoàn cảnh. Đời sống văn hóa, giải trí và thị trường giải trí không đứng ngoài bầu không khí này. Trong bối cảnh đó, không thể áp đặt đưa trò chơi dân gian tái hội nhập vào đời sống văn hóa, giải trí đương đại theo cách duy ý chí. Không ai có thể bắt người khác chơi theo sở thích của mình. Để làm sống lại và phát triển trò chơi dân gian, vấn đề cốt yếu là làm sao cho các sản phẩm trò chơi dân gian có sức cạnh tranh trong đời sống văn hóa giải trí ngày nay. Lợi thế cạnh tranh của hoạt động chơi bằng trò chơi dân gian chính là những tiện ích mà nó đem đến cho người tham dự như: tính hấp dẫn, tính đa dạng, rẻ tiền, ai cũng có thể tham gia, đơn giản về cách chơi, đồ chơi, thích hợp với cả các cuộc chơi cộng đồng cũng như nhóm hay cá nhân... 3. Kế thừa những đặc điểm phù hợp nhu cầu xã hội Sự gần gũi và thân thiện tự nhiên của sân chơi: Trò chơi dân gian chủ yếu được hình thành trong không gian tự nhiên, luôn thân thiện với môi trường. Đặc điểm này của trò chơi dân gian đến nay vẫn còn có ý nghĩa lớn. Nó dẫn đến những nguyên tắc khi lựa chọn và chuẩn bị không gian, sân chơi cho trò chơi dân gian như: sân chơi cần phải phù hợp với loại trò, hoặc loại trò được lựa chọn phải phù hợp với sân chơi. Nếu nguyên tắc này không được tôn trọng, nhất là môi trường sân chơi ở các đô thị, sẽ dẫn đến làm sai lệch ý nghĩa văn hóa của trò chơi và làm hỏng cuộc chơi. Trường hợp thả đèn trời gây cháy nhà ở Hà Nội, vào dịp hội xuân 1990, làm hoảng loạn cả khu dân cư là một ví dụ. Nguyên tắc kế thừa đặc điểm gần gũi thiên nhiên và thân thiện môi trường còn có thể sử dụng để phát triển tiện ích và thương hiệu cho những trò chơi dân gian như: Trò chơi thân thiện môi trường. Tính dành cho mọi người và do mọi người: Trò chơi dân gian nói chung do người dân sáng tạo để phục vụ cho chính họ. Không có trò chơi dân gian dành cho người giàu và trò chơi dân gian dành cho người nghèo mà chỉ có những trò chơi phù hợp với lứa tuổi hay văn cảnh cuộc chơi. Đây là một yếu tố tạo nên tính đại chúng và tính cộng đồng của trò chơi dân gian. Đặc điểm này dẫn tới nguyên tắc: khi tổ chức hoạt động chơi trò chơi dân gian tại một sân chơi nào đó cần lựa chọn những trò chơi phù hợp với mọi người ở sân chơi ấy. Việc đó sẽ tạo ra khả năng rộng rãi cho sự tham dự của cộng đồng. Mặt khác trò chơi dân gian xưa đều do người chơi tự tổ chức cho nên họ cảm thấy nó là cái của mình. Đó là một trong các yếu tố gây hào hứng với trò chơi. Kế thừa đặc điểm này để đưa ra nguyên tắc: người chơi vừa là người tổ chức vừa là người tham dự. Tính sáng tạo thích ứng về qui tắc chơi: Quy tắc cho cuộc chơi mềm, thích ứng và đầy yếu tố ngẫu hứng trong cả tạo cảnh và luật lệ. Đặc điểm này sẽ kích thích tính chủ động và sáng tạo của người tham dự. Nó cũng tạo điều kiện sáng tạo những quy tắc phù hợp 258
8 / 2019
với sở thích và mục tiêu tổ chức cuộc chơi cũng như điều kiện kinh tế xã hội của cộng
đồng tham dự trò chơi. Khai thác đặc điểm này như một lợi thế cho phổ biến rộng rãi trò chơi dân gian ở các sân chơi với điều kiện khác nhau theo nguyên tắc: không cứng nhắc về quy tắc trò chơi - cuộc chơi và luôn tôn trọng những sáng tạo thích ứng về cách chơi hay quy tắc chơi. Ví dụ với trò kéo song, có thể đào hố tựa, cũng có thể làm gờ, và cũng có thể không cần cả hố tựa lẫn gờ mà sử dụng một hỗ trợ bất kỳ nào phù hợp văn cảnh cuộc chơi. Tính giản dị dễ làm, không tốn kém của đồ chơi, dụng cụ chơi của trò chơi. Trò chơi dân gian được tạo ra bởi tất cả những gì có thể ở xung quanh. Cũng có trò chơi mà vật chơi được tạo ra theo cách hết sức cầu kỳ và tinh xảo như cây cảnh, non bộ… tuy nhiên phần lớn trò chơi dân gian có đặc điểm sử dụng ngay hoặc tạo tác một cách đơn giản từ vật liệu có sẵn trong môi trường sống. Có thể kế thừa đặc điểm này trở thành một nguyên tắc: trên những “khung” trò đã có, hãy biết vận dụng tất cả những gì có thể để thiết kế hoạt động chơi phù hợp. Nguyên tắc này là cần thiết và có ý nghĩa trong quản lý hoạt động giải trí tại sân chơi của những người lao động có thu nhập thấp cũng như ở nông thôn. Tinh thần chơi đầy hứng khởi trong không khí hội hè. Nhiều trò chơi dân gian truyền thống là những yếu tố chính thu hút người tham dự và tạo nên không khí của ngày hội. Đặc điểm này có thể khai thác để tạo nên trên những sân chơi cộng đồng những cuộc vui chơi có tính chất và không khí hội hè trong các chu kỳ điểm nhấn của cuộc sống đương đại như ngày lễ kỷ niệm sự kiện lịch sử, thành lập đơn vị hay tổ chức, tết tiết lịch, tổng kết cuối năm, khai trương, khánh thành… nhất là những kỳ dịp đã được xác lập thành truyền thống mang ý nghĩa dân tộc, địa phương, tộc người… Trong trường hợp này, trò chơi dân gian sẽ là một ưu tiên trong việc lựa chọn và khai thác nguồn lực có tính nguyên liệu cho quản lý sự kiện một cách hiệu quả. Tính chưng cất từ thực tiễn sống và phản ánh đời sống. Trò chơi dân gian là cách người ta chơi phỏng theo những gì đáng quan tâm trong thực tiễn sống theo hướng lý tưởng hóa. Nó vừa giúp cảm nhận chiều cạnh khác nhau của cuộc sống, vừa phản ánh chính cuộc sống ấy. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng giúp tư duy sáng tạo những trò chơi dựa trên truyền thống dân gian mà vẫn đáp ứng nhu cầu đương đại. Ví dụ: kế thừa cách tạo trò từ trò thi dệt vải trong hội làng Bắc Bộ xưa ở một công ty giầy dép hiện đại nào đó có thể phát triển thành hoạt động chơi dưới hình thức cuộc thi kỹ năng (tay nghề) các công đoạn của quá trình sản xuất hay thành phẩm của sản xuất… Chắc chắn sự kiện ấy sẽ được công nhân tham dự như một hoạt động văn hóa và công ty sẽ đạt lợi ích kép. 4. Cách tân phải phù hợp sở thích và thẩm mỹ đương đại Không thể làm sống lại hoạt động chơi trò chơi dân gian trong đời sống văn hóa ngày nay nếu không cho nó một sức sống mới hay tính cạnh tranh, trong bối cảnh hết sức đa dạng của nhu cầu – sở thích và sự sôi động của thị trường giải trí. Do vậy, cần nêu việc đáp ứng 259
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
thị hiếu và xu hướng thẩm mỹ về hoạt động giải trí, nhất là cho giới trẻ, thành một nguyên tắc cho các dự án quản lý phát triển hoạt động chơi trò chơi dân gian. Thứ nhất, cải tiến về hình thức như sử dụng những nguyên vật liệu mới đẹp hơn, bền hơn, tiện dụng hơn cho việc tạo dụng cụ hay đồ chơi. Ví dụ, thay vì diều sáo khung tre, người ta đã sử dụng hợp kim nhôm trong việc chế tạo khung diều nhằm đáp ứng nhu cầu về qui mô kích cỡ và sự hoành tráng ngoạn mục của thẩm mỹ đương thời. Thứ hai, tạo cảnh mới cho cuộc chơi như thay đổi mục tiêu cuộc chơi, cải tiến qui tắc trò chơi… phù hợp với động cơ tham gia cuộc chơi và thói quen giải trí của người tham dự. Ví dụ: xưa trong các trò tranh đua, chiến thắng và thành tích cá nhân không phải là mục tiêu của trò chơi và cuộc chơi, nhưng ngày nay người ta có xu hướng muốn khẳng định cá nhân và nhóm của họ nhiều hơn, nên có thể đặt mục tiêu cuộc chơi giành phần thắng cho cá nhân hay nhóm lên hàng đầu. Hoặc như, sở thích trải nghiệm cuộc sống và văn hóa địa phương trong du lịch sinh thái đang kích thích sự thức tỉnh của nhiều truyền thống văn hóa tại các cộng đồng có hoạt động du lịch sinh thái. Đây như một cơ hội làm sống lại trò chơi dân gian theo cách tạo cảnh mới cho sự chơi trong hoạt động du lịch, đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho cộng đồng địa phương.
260
8 / 2019
SỬ DỤNG TRÒ CHƠI DÂN GIAN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO TRẺ MẦM NON Trần Tuyết Xoan Trò chơi dân gian đã được sử dụng nhiều trong các hoạt động vui chơi của trẻ ở trường mầm non, đặc biệt là hoạt động học có chủ đích của giáo viên cho trẻ ở trường mầm
non. Việc kết hợp trò chơi dân gian trong các hoạt động học có chủ đích tai trường mầm non mang ý nghĩa to lớn trong việc: rèn luyện thể lực, sự khéo léo, nhịp nhàng, rèn luyện trí tuệ, sự nhanh trí, óc phán đoán, gợi xúc cảm thẩm mỹ, khả năng hoạt động nhóm, tập thể, sự gắn kết của tình bạn... và đặc biệt nó góp phần xây dựng nhân cách mang đậm văn hóa dân tộc Việt Nam cho trẻ ngay từ khi chúng còn nhỏ. Trẻ em những năm đầu của cuộc sống còn rất non nớt, rất cần sự chăm sóc của mọi người, đó là sự chăm sóc không chỉ là vật chất mà cả về tinh thần. Từ khi sinh ra đến 6 tuổi trẻ luôn thích hoạt động, vận động tích cực. Vận động là sự chuyển động của cơ thể con người, trong đó có sự tham gia của hệ xương, hệ cơ và sự điều khiển của hệ thần kinh. Khi trẻ vận động, gân, cơ, khớp cùng phối hợp vận động và phát triển. Vì vậy vận động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển thể chất của trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo, bởi vui chơi đã gây ra những biến đổi về chất, có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nhân cách trẻ và là tiền đề cho hoạt động học tập ở lứa tuổi tiếp theo. Phương châm: “Học mà chơi, chơi mà học” luôn được quán triệt trong công tác chăm sóc, giáo dục mầm non trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Trong hoạt động vui chơi, có rất nhiều trò chơi học tập và một bộ phận không thể không nhắc đến đó là các trò chơi dân gian – đây là một loại trò chơi được trẻ mẫu giáo yêu thích. Để giúp trẻ phát triển thể lực được tốt, có cơ thể khỏe mạnh hài hòa, cân đối là một trong những nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non. Trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ, phát triển thể lực cho trẻ được thông qua nhiều nội dung: Chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển vận động. Đó là những nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến viếc nâng cao chất lượng của quá trình giáo dục thể chất cho trẻ. Giáo dục thể chất là một trong những nội dung quan trọng của nhà trường nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức. *Lựa chọn, sưu tầm các trò chơi dân gian phù hợp với chủ đề và lứa tuổi của trẻ Các trò chơi dân gian rất phong phú về thể loại, nội dung, hình thức…Vì vậy muốn đưa vào dạy trẻ, tổ chức cho trẻ chơi, người giáo viên phải nghiên cứu lựa chọn, sưu tầm cho phù hợp với nội dung, hình thức giảng dạy của trẻ ở lớp mình, để trẻ yêu thích và tham gia tích cực vào các trò chơi dân gian, các bài đồng dao, hò , vè để góp phần nâng cao 261
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
hiệu quả tổ chức các hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ. Nhiệm vụ của trò chơi dân gian đối với trẻ mầm non rất đa dạng, để giải quyết được nhiệm vụ của trò chơi đối với trẻ, phải dựa vào vốn kinh nghiệm về các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống, trẻ phải biết phân tích, biết tổng hợp, biết liên hệ các hiện tượng để thực hiện trò chơi của mình. Các hành động chơi của trẻ mầm non đòi hỏi phải có tính liên tục và tuần tự. Nhiều trò chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ trước khi thực hiện động tác chơi. Đây là cơ sở để phát triển tư duy logic cho trẻ Trẻ mầm non đã dần nắm được ngôn ngữ cảnh và ngôn ngữ mạch lạc, do vậy trẻ rất thích các trò chơi dân gian, các bài đồng dao, hò, vè. Trong trò chơi trẻ vừa được hát, đọc những bài đồng dao mà chúng thích và thưc hiện những hành động chơi, do vậy trò chơi dân gian càng hấp dẫn so với trẻ. Bên canh đó, vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh ngày càng phong phú, nên trẻ rất thích thú với những nguyên liệu chơi, thích tìm kiếm các vật liệu khác nhau để làm đồ chơi phục vụ cho đồ chơi của mình. * Tổ chức thực hiện trò chơi Chuẩn bị trước khi chơi - Lập kế hoạch tổ chức trò chơi dân gian + Xác định mực đích yêu cầu (kết quả mong đợi) + Phát triển khả năng suy đoán, suy luận. + Rèn luyện ngôn ngữ + Rèn kỹ năng lắp ghép, phát triển óc tư duy, sáng tạo + Rèn luyện sư khéo léo, nhanh nhẹn, tính kiên trì + Tạo không khí vui vẻ, hứng khởi cho trẻ + Dạy trẻ biết trao đổi, bàn bạc với nhau, lựa chọn con đường, cách thức thực hiện nhiệm vụ. + Giáo dục tính nhanh nhạy, biết phối hợp với nhau hoạt động + Giáo dục trẻ có thái độ thân thiện, biết thương lượng với nhau khi có mâu thuẫn xảy ra trong khi chơi. + Lựa chọn các trò chơi dân gian: kéo co, nu na nu nống… + Xác định hình thức chơi: Chơi theo nhóm, chơi theo tập thể + Lựa chọn phương pháp hoạt động của cô và trẻ cho phù hợp + Tạo các góc chơi, bầu không khí thuận lợi để thúc đẩy trẻ tích cực chơi + Sử dụng các câu hỏi, lời gợi ý, nhận xét, bổ sung câu trả lời của trẻ trong khi chơi cùng nhau. + Tạo cơ hội để các trẻ đều được thực hành, trải nghiệm. + tạo cơ hội để trẻ đươch tổ chức các trò chơi dân gian quen thuộc, đơn giản. - Chuẩn bị phương tiện chơi: + Xây dựng môi trường chơi cho trẻ như địa điểm chơi: Sử dụng các góc chơi của trẻ, 262
8 / 2019
chơi trong lớp học, ngoài sân bãi hay chuẩn bị các đồ dùng, nguyên liệu cho trò chơi. * Tổ chức chơi
- Tạo hứng thú: Đưa ra những gợi ý, những câu hỏi ngắn gọn, câu đố, vè, bài đồng dao, tạo ra các tình huống, trò chuyện cùng trẻ…làm cho trẻ nhớ lại các trò chơi cũ hay giới thiệu trò chơi mới, dẫn dắt trẻ vào cuộc chơi. - Cô cùng trẻ thảo luận, bàn bạc và triển khai các góc chơi và cho trẻ tự kiếm đồ chơi, nguyên liệu chơi cho từng nhóm ( nếu có) mà cô chuẩn bị sẵn. - Cô hướng dẫn, làm mẫu, đàm thoại với trẻ và tổ chức cho trẻ chơi * Tích hợp trò chơi dân gian trong các hoạt động của trẻ Thời điểm để trẻ chơi trò chơi dân gian rất ít, chỉ khi có các hoạt động hay sự kiện liên quan như: Các hội thi, hội khỏe, các ngày lễ,...thì trẻ mới được chơi với thời gian và số lượng các trò chơi là không nhiều. Những thời điểm còn lại, phần lớn trẻ tự chơi ít sự chỉ dẫn chu đáo của cô nên trò chơi có thể bị sai lệch, kém hứng thú. Phần lớn giáo viên đều thấy được sự cần thiết của trò chơi dân gian trong quá trình giáo dục trẻ mầm non. Theo họ trò chơi dân gian tác động mạnh mẽ đến trẻ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách toàn diện. Họ nhận thấy rằng trò chơi dân gian có thể vận dụng linh hoạt vào các hoạt động và tổ chức ở mọi thời điểm khác nhau trong ngày. Giáo viên thường sử dụng những biện pháp như lập kế hoạch, dùng lời nói, trực quan...để tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ. Phát triển thể chất cho trẻ không chỉ là thông qua thể dục sáng, thể dục giờ học mà các trò chơi dân gian đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển thể chất cho trẻ. Trò chơi dân gian không chỉ là những trò chơi vận động như: nhảy lò cò, bịt mắt bắt dê, mèo đuổi chuột...mà còn nhiều trò chơi đòi hỏi sự khéo léo, nhanh nhẹn như: nặn tò he, ô ăn quan...Vì thế cần lựa chọ trò chơi dân gian phù hợp với tính chất của từng hoạt động. * Hoạt động góc Với hoạt động góc nên tổ chức cho trẻ chơi theo nhiều nhóm nhỏ trong không gian hẹp. Có thể chọn một số trò chơi như: Ô ăn quan, nặn tò he, kéo cưa lừa xẻ... * Hoạt động học, hoạt động chiều Giáo viên có thể chọn những trò chơi nhẹ nhàng để phát triển nhận thức cho trẻ và để lồng ghép,chuyển tiếp từ hoạt động này sang hoạt động khác để gây hứng thú cho trẻ như: Nu na nu nống, chi chi chành chành, tập tầm vông,... Không những giúp trẻ phát triển nhận thức mà còn giúp trẻ phat triển các cơ nhỏ: Ngón tay, bàn tay... * Tuyên truyền, kết hợp với phụ huynh về việc hướng dẫn trẻ chơi trò chơi dân gian. Ngày nay nhiều bậc phụ huynh ít quan tâm, quên mất tầm quan trọng của các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca, câu hò, vè... Khi đón trẻ về nhà, phụ huỳnh thường cho trẻ xem ti vi, băng đĩa hoạt hình, siêu nhân...vô tình đã lãng quên đi các trò dân gian, nếu nói 263
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
rộng ra sẽ mất dần bản sắc dân tộc. Gia đình và nhà trường là nhân tố quan trọng quyết định đên việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Vì vậy việc giáo dục trẻ phải kết hợp với gia đình mới đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy cần phải tuyên truyền và kết hợp với phụ huynh: - Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của các trò chơi dân gian với việc phát triển phát triển thể chất của trẻ, trao đổi các trò chơi đã tổ chức cho trẻ với phụ huynh để họ có thể tổ chức cho trẻ chơi ở nhà. - Đưa cho phụ huynh các bài đồng dao, hò, vè, các trò chơi để phụ huynh tham khảo và bày cho trẻ chơi. - Hướng dẫn cho phụ huynh sưu tầm các trò chơi, các nguyên liệu chơi để tổ chức cho trẻ chơi. Qua khảo sát cho thấy việc sử dụng trò chơi dân gian trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ còn rất ít, chưa mang lại hiệu quả cao. Số trò chơi vận động chiếm tỷ lệ cao, số trò chơi dân gian được sử dụng chiếm tỷ lệ thấp. Qua khảo sát thực trạng, tôi đã tìm và sưu tầm ra một số trò chơi dân gian theo các chủ đề cho trẻ: kéo co, bịt mắt bắt dê, kéo cưa lừa xẻ, nặn tò he, nu na nu nống, lộn cầu vồng, ném còn... để sử dụng trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ. Từ kết quả trên cho thấy việc sử dụng trò chơi dân gian nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất đối với trẻ là vô cùng cần thiết. Tại trường Mầm non, các giáo viên đã sử dụng trò chơi trong giáo dục trẻ. Tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa cao. Vì vậy cần phải có các biện pháp sử dụng trò chơi dân gian một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ.
264
TRẺ EM CẦN BIẾT ĐẾN TRÒ CHƠI DÂN GIAN
8 / 2019
Phạm Hiền
Đó là khẳng định của chuyên gia Phạm Hiền. Hiện nay tình trạng trẻ em luôn
gắn liền với các thiết bị thông minh như iphone, ipad, máy tính… là điều không hề xa lạ. Chúng dường như chỉ sống trong thế giới ảo mà không hề biết đến các trò chơi dân gian. Vậy trò chơi dân gian có ảnh hưởng như thế nào tới trẻ em.
Các trường học nên đưa trò chơi dân gian vào
Trong xã hội hiện đại ngày nay việc gắn liền với các thiết bị thông minh, thời gian
cha mẹ dành cho con không có nhiều và thiếu không gian vui chơi đã khiến trẻ em, đặc biệt là trẻ em thành thị không biết đến các trò chơi dân gian. Trò chơi dân gian có thể nói là loại hình trò chơi có tính tương tác cao và phân chia thành các nhóm: - Loại trò chơi vận động giúp tăng cường sức khỏe, thể chất - Loại trò chơi học tập giúp phát triển trí tuệ, khả năng biết quan sát, tính toán - Loại trò chơi sáng tạo là tự trẻ có thể làm nên bằng các cây cối, vật dụng tự nhiên - Loại trò chơi mô phỏng Những hiệu quả tích cực Điểm đặc biệt của trò chơi dân gian đó chính là sự gắn kết với môi trường thiên nhiên. Chính điều này làm cho trẻ gắn mình với thiên nhiên hơn, hiểu và có ý thức bảo vệ thiên nhiên hơn. Ví dụ trò chơi “Chong chóng”, “chơi sáo diều” giúp cho trẻ luyện cách khéo léo, tận dụng những que tre, giấy báo cũ để làm thành con diều chắc chắn, nhiều kiểu dáng, những chong chóng nhiều màu sắc. Chúng tận dụng được sức gió làm chong chóng quay, làm diều bay cao đầy thích thú. Chỉ với những hòn đất nhiều màu sắc, trẻ có thể rèn sự khéo tay, khả năng sáng tạo màu sắc về các con vật, hoa quả…trong cuộc sống thường ngày. Trò chơi này có tác dụng dạy trẻ các kiến thức về động thực vật nhanh chóng. Ngoài việc tạo sân chơi bổ ích, vui vẻ qua trò chơi, trò chơi dân gian còn giúp các em rèn luyện kỹ năng trong cuộc sống. Khi các em chơi phải biết nhường nhịn nhau, không quá ăn thua để đánh mất tình bạn. Khi trẻ em ngồi quá lâu trước tivi chúng sẽ tiếp nhận thông tin một cách thụ động mà không hề có tư duy. Việc lười vận động gây ra tình trạng béo phì, vẹo cột sống, cận thị… ngày càng gia tăng ở trẻ thành phố. Vì vậy trò chơi dân gian giúp cho các em rèn luyện thể chất, sự khéo léo, trở nên nhanh nhẹn hoạt bát, tạo sự hoà đồng, thân thiện, đoàn kết... Những phút vui chơi thoải mái, lành mạnh sẽ giúp các em thêm hào hứng để học tập và sống hồn nhiên hơn. Hơn nữa, việc vui chơi lành mạnh còn tạo ra nhiều đức tính tốt 265
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
đẹp, hạn chế những tật xấu, đồng thời rèn luyện thể chất và tâm hồn các em theo chiều hướng tốt hơn. Việc chơi các trò chơi dân gian không chỉ giúp trẻ yêu dân tộc, hiểu các giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc mà còn cho trẻ thấm hơn các tình yêu thương, việc bảo vệ môi trường sống xung quanh mình. Làm thế nào để các em yêu thích trò chơi dân gian? Việc tổ chức và đưa các trò chơi dân gian vào không hề khó, không quá tốn kém về mặt chi phí nhưng cần phải tổ chức sao cho hấp dẫn. Bản thân trò chơi dân gian rất hay và có nhiều ý nghĩa nhưng không phải đứa trẻ nào cũng có thể hiểu hết được. Do đó, cần phải có cách dẫn dắt, tổ chức khéo léo thì trẻ mới tham gia hào hứng được. Theo đó, các nhà trường cần tổ chức trò chơi dân gian theo độ tuổi, văn hóa vùng miền phù hợp với học sinh. Một ưu thế của trò chơi dân gian chính là ở chỗ nó có thể dung nạp tất cả những ai muốn chơi. Không bao giờ trò chơi dân gian quy định số người chơi nhất định. Vì vậy phải thường xuyên khuyến khích, động viên tất cả các em tham gia chơi càng đông càng vui. Những điều cần lưu ý: Các trò chơi dân gian vô cùng đa dạng và nhiều ý nghĩa tuy nhiên không thể đưa vào một cách tràn lan mà cần có sự chọn lọc trong việc đảm bảo an toàn, vệ sinh, văn hóa. Ví dụ, trò chơi leo cột mỡ mang đậm tính dân gian nhưng không phù hợp với trường học, nhất là ở cấp tiểu học. Trò chơi đánh khăng, chọi gụ không an toàn vì dễ gây chấn thương... Tốt nhất nên lựa chọn các trò chơi mang tính tập thể, có bài đồng dao khiến trẻ hào hứng. Bên cạnh đó trẻ nâng cao tính tập thể hơn, nâng cao khả năng văn học dân gian hơn. Có thể nói kho tàng trò chơi dân gian vô cùng phong phú, đa dạng cần được bảo tồn và phát huy. Trên thực tế, kho tàng này mang lại cho trẻ những sự nhận thức nhanh chóng, có định hướng mà đôi khi chúng không thể có khi tiếp xúc với các trò chơi hiện đại. Không chỉ ở nhà trường mà ngay tại nhà các phụ huynh có thể áp dụng trò chơi dân gian cho con. Hãy để trẻ phát triển một cách
266
8 / 2019
KẾT LUẬN
“Trò chơi trẻ em là những trò vui có lời (bài hát) hoặc không có lời, những trò chơi này cũng mang những tính chất của sáng tác dân gian: tính tập thể, tính dị bản…” Không có trò buồn. Đúng vậy! trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em Việt Nam không có trò chơi nào mang ‘màu sắc’ buồn cả. Nếu có buồn chút xíu là sau khi chơi, trẻ bị thua cuộc. Một cái buồn cần thiết làm động lực quyết tâm cho lần sau. Thật vui nếu tập sách này đã có vị trí ở các Nhà sách, vui hơn khi có nó trên kệ sách của quí phụ huynh học sinh. Hy vọng sẽ có trong căp sách của học trò, bởi một trăm mười chin trò chơi trên tay quí độc giả chỉ có ‘vui’, không có buồn. Chúng tôi tạm thời phân chia các trò chơi vào ba nhóm. Nhóm thiên về Vận động gồm ba mươi sáu trò. Nhóm thiên về Trí tuệ gồm hai mươi tám trò. Nhóm thiên về Khéo léo gồm năm mươi lăm trò. Sự chênh lệch về số lượng ở các nhóm trong tập sách này không có nghĩa là trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em Việt Nam ít về trí tuệ (hai mươi tám trò). Xin thưa lại rằng: đây là những trò chơi tương đối quen thuộc với trẻ em Việt Nam, nên được ưu tiên biên tập trước. Chúng tôi mong muốn đủ điều kiện để tiếp tục tuyển chọn, sưu tầm hàng ngàn ngàn trò chơi khác để xuất bản tiếp theo. Như đã trình bày ở phần mở đầu, có rất nhiều tài liệu, trang mạng chuyển tải nội dung các trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em. “Trò chơi cho trẻ em ở Việt Nam cũng đang khởi sắc”. Tâm lý người đọc muốn được tiếp cận những trang viết về trò chơi: đơn giản nhưng phong phú, chi tiết nhưng ngắn gọn, vận động mạnh nhưng an toàn, dễ hiểu vì lối hành văn sư phạm…Người phụ trách, quản trò, tổ chức, các bậc phụ huynh cần nắm rõ các tình huống có thể xảy ra khi trẻ vào cuộc chơi, nên rất cần những góp ý, giải thích chân tình. Đã có những trường hợp xảy ra đáng tiếc khi các em chơi như đuối nước, chuột rút do không khởi đông trước khi chơi, Cãi lộn, đánh nhau khi quá cay cú được thua. Hơn thế nữa, trẻ em trước khi vào cuộc chơi cũng rất cần cái vỗ vai, những lời khuyên nhủ tâm tình, bởi bản tính của trẻ em rất hiếu động, dễ tự ái. Nhưng người lớn cũng đừng can thiệp quá sâu để làm mất cái hồn nhiên, cái vô tư của các em. Hãy lấy trò chơi Hò dô ta làm ví dụ (về việc không cần áp đặt nội dung chơi, để các em thể hiện cái hồn nhiên, hiếu động, phát huy trí tư duy độc lập…), Cách chơi : Nội dung Hò theo quản trò và làm động tác chèo thuyền: Quản trò hò “Đèo cao”/ người chơi: “ dô ta” /Quản trò “ Nhưng đèo quá cao” /Người chơi “ Thì ta đi vòng nào /Người chơi “ Dô hò là hò dô ta Nếu trước khi chơi quản trò cho người chơi học thuộc lòng bài hò thì kết quả chỉ được một phần mục đích của trò chơi. Đó là hô đồng đều, náo nhiệt. Nhưng thiếu sự tư duy vận động trí não của người chơi (ở trò này ta đang cần phát huy trí thông minh, lanh lợi, nhạy bén) bởi, nếu trước khi chơi, quản trò chỉ nêu yêu cầu của nội dung, người chơi tự ứng khẩu đối đáp khi quản trò hò. Quản trò: Đường xa / lúc này người chơi có nhiều phương 267
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
án lựa chọn: Thì mặc đường xa, hoặc: cố gắng vượt qua, hoặc: không quản đường xa… vui, cười, náo nhiệt hơn, hiệu quả hơn. Đó là một phần tiêu chí được đặt ra ở tập sách này! Song song với việc giới thiệu chi tiết một trăm mười chín trò chơi, các em còn được tiếp cận với sáu mươi (phần nhiều là những khúc đồng dao) được phổ nhạc, ghi âm, ký âm theo tiết điệu của trò chơi, hoặc “thanh bằng thanh chắc” của lời đồng dao tiếng Việt. (Do vậy một số ca khúc sáng tác không theo khúc thức quen thuộc). Mong rằng cuộc chơi sẽ náo nhiệt, vui hơn khi các em được vừa chơi vừa hát, vừa đọc, vừa uốn éo theo tiết tấu, mà vẫn đảm bảo yêu cầu “nguyên bản” của trò chơi. Bên cạnh đó chúng tôi giới thiệu hơn một chục trò chơi được “tái hiện” trên sân khấu và truyền hình. Một hình thức quảng bá trò chơi dân gian, đồng dao cho trẻ em có hiệu lực rất cao. Nhân đây cũng xin lưu ý các nhà sản xuất, biên đạo, đạo diễn…đừng SÂN KHẤU HÓA các trò chơi, nặng phong cách biểu diễn, thời trang, quảng cáo mà quên cái chất DÂN GIAN – DÂN DÃ rất mộc mạc, chân chất của cha ông ta từ ngàn xưa để lại. Để cùng tham khảo, xoay quanh những vấn đề trên, trong tập sách còn có mục : trò chơi cho trẻ em Việt Nam dưới con mắt của các nhà nghiên cứu VNDG, trân trọng được giới thiệu. Tham vọng thì nhiều, khả năng thì có hạn. Chúng tôi sẽ cố gắng điền dã, sưu tầm tiếp các trò chơi dân gian, đồng dao của đồng bào các dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây nguyên và vùng núi phía Bắc. Năm 2008 trong chương trình Liên hoan Dân ca – Dân vũ tại Đà Lạt, tác giả tập sách này cùng với NSND biên đạo múa YBROM, và một số Nghệ sĩ ở Lâm đồng được chứng kiến một số trò chơi đồng dao của trẻ em dân tộc Lạch, dân tộc EĐê, dân tộc BaNa rất đặc sắc nhưng còn quá ít so với vốn có ở vùng đất này. Trong số gần hai mươi tập phim giới thiệu sinh hoạt, tập quán…của trẻ em dân tộc BaNa cùng với cố Nhạc sĩ, Hội viên Hội VNDGVN Phạm Cao Đạt (Biên tập – Đạo diến: Bạch Liên. Chỉ đạo sx: Trịnh Tuấn Khanh), rất tiếc số lượng các trò đồng dao, ghi âm phần hát cho các trò đồng dao còn nhiều hạn chế. Bù lại “Có một điều đặc biệt là người lớn dân tộc thiểu số ở Tây nguyên rất hay chơi các trò đồng dao với nhau, với trẻ con và gần như là máu thịt của họ” . Đây là một tiềm năng rất lớn đề nghị các cấp có thẩm quyền quan tâm, mau chóng có kế hoạch gìn giữ vốn quí của đất nước Việt Nam. Hoàn thành tập sách này có sự giúp đỡ rất tận tình của các vị “cao niên” trong “làng” Văn nghệ Dân gian, anh em, bạn bè, các tư liệu biên tập tôi không có cơ hội trực tiếp xin phép các tác giả, xin cảm ơn và mong các vị thứ lỗi. Đặc biệt cảm ơn sự giúp đỡ chân tình, vô tư của Nhà nghiên cứu Lịch sử - VNDG - Chủ tịch Liên hiệp Các Hội VHNT thành phố Đà Nẵng Bùi Văn Tiếng… Nhạc sĩ TRỊNH TUẤN KHANH
268
8 / 2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1.
Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt - Nguyễn Thúy Loan - Đặng Diệu Trang
- Nguyễn Huy Hồng - Trần Hoàng. Nxb Văn hóa - Thông tin 1997 2.
Trò chơi dân gian Việt Nam - Trang tin điện tử Phòng Giáo dục Huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam 3.
Trò chơi Dân gian vùng nông thôn Phú Yên - Đoàn Việt Hùng, Nxb Văn hóa –
Thông tin 2003.
269
119 Trò Chơi Đồng Dao Việt Nam
270