Giữa khi mưa lưu hoàng đổ

Page 1


Giữa khi mưa lưu hoàng đổ

1


2


Sinh năm 1943 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Có nhiều người bạn thân ở nhiều nơi. Tác phẩm:  Trên đồng bằng (thơ, in ronéo 1972)  Thư về Hà Nội  Vào một thời im bóng (thơ, in ronéo 1974)  Viết dưới bóng quê nhà (2008)  Thơ Lê Văn Ngăn (NXB Thuận Hóa, 2015)  Giữa khi mưa lưu hoàng đổ (NXB Thuận Hóa, 2019)

tù và vang thúc hồn xe ngựa tiếng chân anh lẫn tiếng cổ thành ôi giấc hoàng thu càng nặng nợ dù xa người yếm trắng thủy thanh Bên hồ Thủy Ngữ

3


4


Khúc dạo đầu  Vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, tại Trường Quốc học Huế đã xuất hiện nhóm Thi ca Hoa Thời Gian với các tên tuổi: - Nguyễn An với biệt hiệu Nguyễn Phú Yên, sau này là nhạc sỹ tiêu biểu cho phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” ở Huế. - Lê Văn Ngăn lấy biệt hiệu Ngân Đàn Hạnh - Nguyễn Lương Ba với biệt hiệu Nguyễn Phán Ngã - Trần Văn Hòa lấy biệt hiệu Trần Hiển Linh - Ngô Nam Trân với biệt hiệu Yên Thi - Hồ Đắc Biên lấy biệt hiệu Cung Cát Sương Lê Văn Ngăn cùng với nhóm Hoa Thời Gian hoạt động kết hợp với tờ Đỉnh Triều – Đại học Sư phạm Huế (1966). Về sau, nhóm cho ra đời tạp chí văn học nghệ thuật Hành Động xuất bản bất định kỳ, thường giới thiệu trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn. Từ đó, thơ Lê Văn Ngăn được biết nhiều trên toàn miền Nam. Là một nhà thơ dấn thân - và anh thường bị săn lùng và truy đuổi. Càng bị trấn áp, thơ Lê Văn Ngăn càng bùng nổ với khát khao hòa bình, khát khao một thế giới không còn khủng bố, không còn xâm lược. Anh vỗ về yêu thương những mẹ già chơi vơi gánh gồng tần tảo nuôi con. Anh xót xa những người cha còng lưng quay những vòng xe lên đỉnh

5


dốc… Anh tin vào những ước mơ thật giản dị nhưng mơ ước vẫn cứ bay xa. Thơ anh cũng như cuộc đời là một dòng chảy bất tận đã hẹn ước trăm năm. Anh thường hát thơ chứ không ngâm thơ bởi thơ Lê Văn Ngăn là âm nhạc với những cung bậc đã rung lên theo những tần số địa cầu. Tagore đã chỉ ra: “Các nhà thơ thực sự, cũng là những nhà tiên tri, tìm cách biểu tượng vũ trụ bằng âm nhạc. Tiếng hát vũ trụ không bao giờ phân ly với người hát… Đó là trái tim vĩ đại mà tiếng đập làm rung động bầu trời”. Cả cuộc đời anh đã trao hết cho quê nhà, cho bạn bè và cho nhân gian. Chỉ còn một nỗi thủy chung tình yêu anh còn khất lại với người vợ chung thủy đã đồng hành từ những ngày khởi thủy cuộc đời của một nhà thơ. Mùa thu 2019 Nhạc sỹ Tôn Thất Lập

6


Chân thành tri ân gia đình nhạc sỹ Tôn Thất Lập, PGS Bửu Nam (nhà thơ Trần Hoàng Phố) cùng những người bạn tri kỷ của Ba Lê Văn Ngăn đã hết lòng giúp đỡ cho tập sách này!

Thay mặt gia đình Trưởng nam Lê Hồ Ngạn 

Lời gia đình  Với mong muốn gìn giữ những tác phẩm và những kỷ niệm trên hành trình của thi sĩ Lê Văn Ngăn, tập sách này sưu tập lại một số bài viết đã bị thất lạc và chưa xuất bản trong hai tập Viết dưới bóng quê nhà & Thơ Lê Văn Ngăn 2015. Gia đình chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý thân hữu, bạn bè… của thi sĩ Lê Văn Ngăn đã giúp đỡ tìm lại những tác phẩm đã thất lạc và đóng góp ý kiến, động viên về tinh thần… để hoàn thành tập sách này một cách hoàn chỉnh nhất. Sài Gòn, tháng 12/2019 Trân trọng

7


8


Nhà thơ Lê Văn Ngăn và vợ (Hạnh Phước) - Ảnh chụp trước 1975

9


10


Ảnh chụp tại Quy Nhơn năm 1966

11


Ảnh chụp tại Trường Sư phạm Quy Nhơn năm 1966

12


Người phu xe

cha đã lăn cho con những vòng xe mồ hôi chảy xuống lấp lánh mặt trời đọ sức với thiên nhiên cha nghĩ gì về cuộc sống sao mà chằng nếp nhăn sao mà khuôn mặt héo

1


đêm đêm cha về ngủ bằng mồ hôi vàng con tưởng tới người cần lao… và người cần lao ở giữa đời cha nằm đó thịt xương gần rã mục con thường dặn mình con người ở sau những chướng ngại vật của thân xác chưa quen nhưng thương yêu thì lỡ dịp đêm xa nhà đốt điếu thuốc ngoài hiên một căn nhà dở tiếng trẻ con khóc ơn sinh thành linh diệu con tiên tri định mệnh bằng điểm khởi hành cha vào đời và hư vô ở đó những bánh xe quay chậm dần. Báo Phụ nữ Thứ bảy - Sài Gòn & Thi Ca Miền Trung 01/1969

2


Em và Hòa Bình Khi nhìn những tầng lá lao xao nắng hanh tung bay trước gió trước bờ sông xanh khi nhìn những bờ lau nở bông tím nhạt phơ phất cành mềm Khi muốn tắm mình trong nỗi mát tươi của một bờ hồ nở hoa rau muống nõn tôi chợt thức vì sao lời tự do hiện hữu vì sao em hồng ở má và anh cười sáng lên trong đôi mắt những ngôi sao Bấy giờ tôi muốn hôn những dấu chân em đã đi trên lá lung linh giọt nắng ngọt ngào cũng không xa lắm khúc đại hòa ca trên dòng sông trung nguyên môi cười em nở ra bong bóng Hỡi em người con gái trắng trong mây trời mùa hạ em là bài thánh ca không ghi chép cho người đời đọc hằng cảm thông cho dòng máu nhận ra nhau: Những địch thù ôm nhau mà khóc

3


Mỗi lần nhìn em hát khúc tình ca tôi nghe Á, Âu, Phi, Mỹ hồi sinh và chiến tranh chấm dứt tôi nghe sông Seine choàng vòng tay huynh đệ lên tây phương dỗ dành Cho nàng thiếu nữ hồng đẩy nắng vàng trên sóng bước chân cát tím ngủ yên mặt trời thẹn thùng mang áo lụa và rừng hoa ôn đới mở đám cưới thiên thần Mỗi lần nhìn mắt em dỗi hờn ngon hơn chiếc bánh tôi nghe trong hồn đại dương lời người dân đen cúi hái chè đồi chè ấy có mặt khắp bốn phương trời Á Phi nghèo khó lời hát Jazz kêu đòi Thượng Đế về thân phận hẩm hiu nỗi niềm tự do bưng kín trên mảnh đất thầm

4


mỗi lần em nói về Hà Nội, Hải Phòng tôi nghe quê hương rơi nước mắt bàn tay mẹ hiền Việt Nam ôm từng đứa con mà khóc con ơi vết thương bốn mươi thế kỷ đã nhiều bao giờ hết những ngả đường trong lòng mẹ bắt đầu lưu máu huyết tôi sẽ bắt em về miền đất cũ xa xăm - chưa một lần biết bấy giờ nụ cười em gió cuốn vào trời và thiên nhiên đón chào thánh thể. Đặc san Đỉnh Triều 1965 của Hội Hồng Sơn - tiền thân Nhóm Việt ĐHSP Huế với bút danh Lê Hạ Lan

5


Viết cho bác năm, làm phu ở Qui Nhơn những ngày tháng ba mưa quất vào áo mỏng bác cúi đầu đi tìm việc ở bến tàu bến tàu có biển xanh bờ đá những máy câu hàng mờ trong sương lam chiều tháng ba trò chuyện ở công trường bác thuận lòng cho tôi về ở trọ lần đầu tiên đi qua xóm nhỏ râu bác bay mừng vùng vùng cỏ lau lần đầu tiên tôi ngồi hút thuốc ngoài hiên thuốc nội hóa một đồng ba điếu khói thơm dắt tôi về vùng nam ngãi trị thiên người dân việt viết chúc thư trên đồng ruộng cháy thế rồi tôi là cậu của em là người bà con của gia đình bác sau những giờ kiếm cơm ở trường học bến tàu chúng ta gặp nhau dưới cây đèn bão từng bát cơm cay chan với mồ hôi nét trán hắt hiu một đời nhẫn nhục chiều rảnh rang tôi đến ở bến tàu thấy quạ kêu rong trong khu hàng hóa năm 1965

6


chúng ta gặp nhau dưới cây đèn bão bên máy truyền thanh tỏa ánh sáng mờ chúng ta nhìn nhau lạnh đôi quầng mắt phía ngoại thành súng nổ buồn tênh tôi sợ người về báo tin trong mộng ngày nữa năm tôi từ biệt ra đi em nhìn trong mắt anh hai hàng lửa đỏ bác cầm trong tay tôi niềm nhẫn nhục bến tàu trong cỏ cây có lời định mệnh. Bài thơ được ghi lại từ thủ bút 1967 của thi sĩ Lê Văn Ngăn viết tặng nhà thơ Cái Trọng Ty - người bạn đồng môn tại Sư phạm Quy Nhơn. Nhà thơ Cái Trọng Ty đã gìn giữ và cung cấp lại bản chụp cho gia đình.

7


8


9


Thủ bút của thi sĩ Lê Văn Ngăn năm 1967

10


Thư gởi bạn - Nhà giáo Hoàng Hòa(Trần Văn Hòa). Bản gốc do nhà giáo Hoàng Hòa lưu giữ và chụp lại gởi gia đình.

11


12


Bạn bè và những vì sao nếu mai kia tôi chết đi trong nhà giam anh cũng còn đi bên trời nào khác chẳng hạn một tiếng còi trầm trên cầu sang sông nhà máy cà rem buổi sáng chúng ta kết hợp với nhau từ một tình cờ sau đó những luyến lưu và nhìn nhận tôi không muốn nhắc đến những dấu tích đã vẽ hình bóng chúng ta lên trần gian những dấu tích mà mỗi khi sống trong niềm vui sống trong bất hạnh tôi thấy quá khứ và tương lai tôi thấy cô đơn và liên đới với nhau là tiếc bao người bạn đã chết đi chết đi bên đời chúng ta đang tiến triển em còn nhớ căn phòng nâu đó không mùa xuân ấy những dây leo đã lớn mùa xuân ấy là hồn thần tiên tiếng sao hoan ca tiếng hồng pháo nổ làm thế nào để có được phút giây chúng ta trải lòng mình thành mặt đất nơi thiên nhiên làm nền ca hát chúng ta không thể nào quên được nhau cũng không thể nào nhớ mãi

13


chỉ biết khi tôi hát một câu nhạc buồn thì chúng ta trở về một ngày nào đó một ngày nào đó trên sân khấu xanh anh điều khiển đêm về tình tự một ngày nào đó bên mé tường hồng ăn bánh mì và tìm chỗ ngủ tôi biết ai mà không thèm của cải nhưng của cải của chúng ta là gì là gì một trái tim xanh một lần không nô lệ là gì những tìm kiếm vô hình đuổi bắt đời người qua cơn tàn phá nếu mai kia tôi chết đi trong nhà giam tôi xin anh một dòng bia đá rằng nơi đây là hạnh phúc cuối cùng của một người đã nghĩ và đã làm như vậy tôi cũng nghĩ đến những kẻ ăn mày sống trọn đời không lựa chọn nhưng tôi phải làm sao khi em đã giao cho tôi đặc ân khi anh đã cùng tôi nụ cười mời tôi vào hợp xướng và rồi máu tôi là dòng sông tim tôi là bạn bè đất đai là sự sống. Thi Ca Miền Trung 01/1969

14


Tôi nằm mơ Tôi nằm mơ tôi nằm mơ thấy cả hai miền Nam Bắc dân Việt Nam đồng loạt trả lời Chiều nay tôi lên đứng ở đồi cao còn nghe âm hưởng tôi đã thấy những nóc nhà những vườn cây tôi đã thấy biên giới của một xứ sở cùng những vết tích thù hận Có trong ấy bao nhiêu điều giả trá bao nhiêu biện minh bao nhiêu sự thật Tôi đã nghe người bổ vào lòng đất nhát cuốc mới trong lồng ngực ấy căng đầy mùi cỏ cay âu là mùi chủ nghĩa

15


Tôi đã nghe bước lao xao chân người đi bộ chập chùng những con đường mòn rộn ràng những con đường lớn và giữa đất trời là thiên nhiên chẳng có một cuộc phân chia người thành từng khối Trong tấm lòng chúng tôi giản dị đã chiếm hết một mầu xanh mầu xanh của ước mơ của đồng ruộng của nền trời mầu xanh chắc chắn không phải là mầu máu Chỉ có trong mầu xanh đôi mắt nhìn ra sự thật sự thật của số phận làm người sự thật sáng trong lòng nhau linh cảm Chiều nay tôi lên đứng ở đồi cao thấy rõ hình dáng của một thời đại và tôi nhủ thầm chưa thể sống rộng lượng

Chưa thể xem mọi người trên thế giới như anh em khi người mạnh còn ý muốn chinh phục người yếu kém 16


và tôi tự nhủ chưa thể sống rộng lượng chẳng phải chúng tôi hững hờ với đại dương reo hò dậy sóng chẳng phải lòng chúng tôi xa không bằng địa cầu nhưng chúng tôi thấy rõ chúng tôi thấy rõ nơi đây, Việt Nam nơi chúng tôi có một chỗ đứng và trước hết là một chỗ đứng Tôi nằm mơ thấy hằng triệu người cùng ôm một tiếng hòa bình tôi cũng nằm mơ thấy kẻ quyền hành cầm trong tay một lưỡi hái Rất nhiều đêm tôi tỉnh dậy đìu hiu một mình với trời lặng yên hỡi tự do chẳng lẽ đã đến lúc bạo lực đóng xong các cánh cửa chẳng lẽ chiến tranh đã chiến thắng hòa bình. Huế, 10/1969 Tạp chí Đất Nước số 15, tháng 11/1969

17


Nhật ký của cha vinh Gởi Thái Ngọc San

cha ơi, nhớ lời cha ghi trên vách đá, nên trước cuộc săn đuổi con đã lánh mình từ thành nầy qua thành khác con đã lê thân giáp vòng nhưng giữa đám bụi hồng chưa có bóng người xuất hiện con nào quên con chồn con cáo có hang con chim có tổ nhưng con người không có chỗ để gối đầu thế mà những đêm như đêm nay những đêm mà tiếng reo hò của quỷ dữ lớn hơn tiếng cha con không thể nào ngăn bớt cơn gió chướng thổi qua lòng con nào dám để lơi niềm tin nhưng thiên đàng, quê nhà ấy cha đã mang trên những bước gập ghềnh từ Jerusalem tới Capharnaum vậy hẳn cha vững chãi còn con, một kẻ không quá khứ nên niềm tin ở trong xác thịt

18


thật khốn khổ cho con vì xác thịt sẽ cất tiếng kêu than vì xác thịt có nước mắt sợ hãi vì xác thịt có mầm mống cát bụi thật khốn khổ cho con khi mãi gọi thầm vinh danh cha ở trên mặt đất vinh danh cha, kẻ đã đi trên mặt đất vinh danh cha, kẻ đã đi từ Jerusalem tới Capharnaum chính những kẻ giả hình đã cất cha khỏi mặt đất liền rảnh tay làm mọi chuyện ở cõi người xin cha mở miệng con ra con sẽ hết lòng ca ngợi vinh danh cha ở trên mặt đất nên con đã dọn mình làm con ngựa chở cha đi nên miệng non chỉ mở vì sự thật ngày lại ngày con ngóng đợi tiếng người xôn xao ngoài đường cái ngóng đợi nhà hội sẽ sáng danh cha và cầu nguyện nhưng đám giả hình vẫn dùng ly nước thánh để rửa sạch bàn tay ô uế vẫn dùng danh cha làm mảnh đá mài, mài vũ khí cho thêm nhọn

19


lạy cha, xin thương xót con xin nói cho con biết cánh cửa nầy không phải là cánh cửa cuối nên con gõ hoài cửa chẳng mở lạy cha, xin thương xót con xin thương xót con đã đi qua nhiều con đường chật đã ép mình qua nhiều cánh cửa hẹp. Tạp chí Ý Thức số 12 tháng 4/1971 - Những bài thơ dưới thời xuân thu

20


Những hình ảnh & ký ức

Ngô Yên Thi, Hoàng Hòa, Nguyễn Quang Hà, Trần Phá Nhạc, Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên… Trang màu

21


Nhạc sĩ Tôn Thất Lập, Thái Ngọc San, Hoàng Thị Thọ, Nguyễn Duy Hiền…

22


Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Ngô Yên Thi, nhà văn-dịch giả Bửu Ý, PGS. TS Bửu Nam, nhà thơ Văn Hữu Tứ, Nguyễn Xuân Hoa, Hà Thúc Quyết…

23


PGS. TS Phạm Thị Anh Nga, nhà văn-dịch giả Bửu Ý, PGS Bửu Nam, nhà thơ Phạm Tấn Hầu, HS Đặng Mậu Tựu

Ảnh chụp với nhà thơ Võ Quê ở cà phê Trương Định-Huế năm 2012

24


Những người cùng làm việc mỗi ngày chúng ta thức dậy lúc bảy giờ vội vã tới nơi làm việc dù trên đường đi không hiếm những buổi mai xanh nhưng ta cố dấu niềm vui lại là tiếng còi xe ở một ngã ba nắng vàng công trường nắng thổi qua tiệm sách chúng ta tưởng tới một người vợ hiền mang thêm chiếc nơ hồng gởi người yêu dấu bên kia tiếng động của một ngày ồn ào có quê hương ta lặng lẽ sưởi ấm cho kẻ xa nhà mỗi ngày chúng ta đứng bên nhau vài phút ở mái hiên khen người bạn có chiếc áo đẹp mỗi ngày chúng ta chia nhau từng điếu thuốc hay ghé lại ăn nhờ một bữa cơm nhưng có gì cấm được lòng ta vui trên một tờ báo vừa ráo mực những dòng chữ mới như bàn tay ta lần đầu tiên mới như đôi giờ rỗi rảnh. Số đặc biệt kỷ niệm 12 năm tạp chí Bách Khoa – Số 289 tháng 01/1969

25


Hoa cúc vàng Nhà văn Trần Hoài Thư: Trên tuần báo Tinh Hoa số 21 năm 1969 có bài thơ của Lê Văn Ngăn mà có lẽ là chưa có ai được biết sau 1975. Tôi xin đăng lại, hy vọng thân nhân của nhà thơ sẽ có thêm một sáng tác giá trị của ông, người bạn của một thời nhiễu nhương. Ngày 18/02/2019

Hoa cúc vàng hoa cúc nhà ta đã vàng chưa em mấy năm rồi tôi không trở lại hay em cứ xem tôi như người biệt tích dù có một thuở nào em đã thường đem tới cho tôi những gói thuốc lá hay dành dụm được ít tiền để rủ tôi đi ăn sáng dù thuở ấy đời chúng ta thật buồn yêu tôi em chỉ có những lúc gần tối gót nhỏ trời mưa em vội vã đi qua hai dãy phố thấp đóng cửa sớm dù thuở ấy súng nổ bập bùng bên lòng ta đìu hiu và tôi nghe dưới những mái hiên người thì thầm sắp tới ngày đình chiến

26


thế nào em cũng già đi và em sẽ lấy chồng một người chồng không phải là tôi không phải là tôi với căn phòng ổ chuột những đêm bão rớt tôi về ướt tay thắp cây đèn ám khói không phải là tôi với những buổi mai tôi nằm bệnh và chờ em tới những giọt mưa ấy cứ lăn dài sau mặt kính tôi đoán thầm đời mình rất buồn bã thế nào em cũng già đi và em sẽ lấy chồng sẽ có những đứa con em sẽ dắt chúng ra phi trường như hôm nào em khóc trên vai tôi hương ướt áo rồi những đêm gió lạnh vi vu ở ngoài vườn em sẽ mang cho chúng những chiếc áo ấm chiếc áo ấm đến bây giờ tôi vẫn còn giữ nhưng mùi đằm thắm xưa hình như đã nhạt lúc ấy, em nghĩ gì đến thuở chúng ta chung sống

27


có thể em rùng mình cho một ngày u ám nay đã hết hay em chỉ thoáng buồn bởi vì hôm nay đời em đã được thu xếp nhưng riêng tôi một mình vẫn giấu kín nỗi êm đềm mà bây giờ em không dự phần nữa nhưng riêng tôi một mình vẫn giấu kín nỗi đau xót nỗi đau xót bên những hoa cúc đã vàng vàng héo hồn anh phiêu bạt. Tuần báo Tinh Hoa số 21 năm 1969 – Nguồn: Blog nhà văn Trần Hoài Thư

28


Chúng ta xây hầm cát Nhà chúng ta đã xây xong hầm cát nhưng vẫn còn lo sợ đạn bom có con chim nào đến hót trên cửa hầm bỗng cất cánh bay vội vã Sáng mai em ra vườn cầm trên tay quyển sách những lời nói không thể nghe không thể bằng lòng không thể nào tin tưởng Tôi vẫn đứng nhìn những ngã tư đêm đêm người ôm súng gác chiếc tuần xa lẻng kẻng qua hiên hiu hắt con đường dài chạy thẳng con đường của chúng ta đã vắng người chỉ còn một kẻ mù lòa về chậm giật mình nghe tiếng chuông reo nghĩ ra lòng phố thẳm

29


Thì anh vẫn viết những lá thư hỏi han gia đình đói kém mỗi ngày mẹ chờ cơm chính phủ cho buồn lòng nhìn đàn con đông đúc những chiều nơi trại tạm cư mưa chảy xuống làn da nhăn nếp Chúng ta đã xây xong hầm cát sáng mai lại tiếp tục lên đường trời tháng năm gió nồm thổi mạnh quét suốt đời hoang vu sau cuộc tai ương chúng ta còn lại những mái hiên người nằm những thềm cấp rạn vỡ những công viên ghi dấu hố mìn

30


Những căn nhà làm bộ chỉ huy không phải nay mai xây lại được con quạ đen tối đến bay về đập cánh lên đầu cửa đổ thôi em bé của anh hãy ngủ đi em sáng mai lại cắp sách đến trường lớp đôi khi vắng thầy dạy học thôi em bé của anh hãy ngủ đi em những nét chữ không sánh như trời sau lưng làm rối con đường trước mặt Vẫn tiếng chó sủa chập chờn gió không ngưng mang về tai họa. Huế 1968 Tạp chí Đất Nước – Số 17 Xuân Canh Tuất tháng 01/1970

31


Bên kia phía đêm dài - Nhạc Tôn Thất Lập

32


33


Mùa xuân bay đi - Nhạc Tôn Thất Lập

34


35


Bức tường cũ Sau nhiều ngày sống lầm lũi và quên bẵng, tôi trở về thành thị cũ. Vẫn chừng ấy, bao quanh vẻ thầm lặng, cây vẫn vi vu điệu nghìn trùng, sông vẫn chảy dưới cầu lịch sử. Vẫn chừng ấy, vẫn người thợ vá giầy ngồi bên bức tường cũ, từ bóng chiều đổ qua sáng mai, người thợ cứ khâu đi khâu lại những vết rạn vỡ. Mà trong đời sống chúng ta, biết bao nhiêu vết rạn vỡ chưa thể khâu lại. Ngoài ra, biết bao nhiêu man trá, bao nhiêu khoa ngôn, bao nhiêu giả tưởng, những bóc lột, áp bức không cần phải khâu lại, nhưng phải đạp phăng đi. Nhưng cá nhân tôi thì bé nhỏ, tập thể thân hữu lại sống xa nhau, kẻ kiếm tìm phương xa, kẻ làm lính, nên không thể nào ngồi chung để nói chuyện. Nói chuyện gì, có phải trên bức tường của thành thị cũ ấy đã vẽ lên bao nhiêu thứ chuyện, những thứ chuyện nhằm che lấp sự thật của một dân tộc đang muốn hòa bình, đang muốn tự do. Tôi muốn xé hết tất cả những tấm bích chương, những dòng biểu ngữ. Tôi muốn dán lên khắp bức

36


tường những tấm bích chương mới, những dòng biểu ngữ mới, những gì không nhằm đánh lạc hướng ý nghĩ và mong mỏi của tôi, của những người tôi biết. Tôi còn muốn làm một tên thợ sơn chân thật nữa, sẽ sơn lại những màu hồng ngụy trá của những tên thợ sơn không chân thật. Tôi muốn sơn nấm mộ trong công viên bằng màu buồn bã, sơn xác chết bằng màu uất ức, sơn cái chân què bằng màu chán nản, sơn vành khăn tang bằng màu trắng buốt, sơn tự do bằng màu xám, sơn lý tưởng bằng màu đen. Tạp chí Ý Thức số 4 tháng 11/1970

37


Quanh quẩn trong một quán café

nơi ấy ngày ngày chúng ta từ phía nhiễu nhương mà tới ngồi gần nhau lần biết rõ từng người tuy nhiên có một điều gì vô tận rơi hờ hững bên lòng rơi từ khung cửa sắt từ những cành lá lay động bởi vì quanh ta đêm phong tỏa bốn phía trên cánh đồng thu ai dẫn một ngọn đèn bởi vì quanh tiếng vỗ tay còn có đoàn người tòng phạm vội vã đi tắt qua bóng đêm giữa cuộc âm vang của thời đại chúng ta có trái tim và bộ óc chia lìa chúng ta có lẽ phải ở xa và ghế bàn ly tách ở gần chiều hôm qua hí trường xưa mở cửa lại những đám giả hình biểu dương đó đây từng nhóm người học tiếng nói mới nhưng rất xa ở ngoài bìa đồ thị trắng trôi hoài một dòng sông cách biệt

38


nơi ấy ngày ngày gió thổi trơn qua đường tĩnh mạch khiến ta ngờ vẻ bình yên ở bên ngoài còn bao nhiêu công trường chờ vất vưởng bao nhiêu nhà thờ thư viện sân banh cùng trang sách dưới mái hoàng hôn đóng bụi trên con đường nghìn năm chúng ta hát bài ca mất tổ quốc mắt thường khi nhắm lại hồ nghi mặt trời đã đắm mình vào đêm tối trên con đường nghìn năm chúng ta nghe tiếng hú loài vật vắng vẻ giọng người nơi ấy ngày ngày chúng ta chết đi và sống lại nên dù có nhìn nhau qua mầu xanh cũ thấy bầu trời cao mắt vẫn trôi xa cuối lòng vô tận. Tuần báo Khởi hành &Tạp chí Đối Diện – Số 19 tháng 01/1971

39


Chẳng phải là điều nhục nhã rất nhiều đêm, lẫn trong tiếng chuông của một chiếc đồng hồ có tiếng người gọi kêu từ vực thẳm có trong tiếng gió của thời tự do xưa, tiếng gió đầy ám hiệu có một phát súng nổ và câu hỏi vì sao, vì sao một người cầm súng ở miền nam không bắn vào kẻ thù câu hỏi ấy, bạo lực đã dìm xuống im lặng im lặng như những đêm nay  đêm nay, giữa tiếng động cơ rì rầm liên tục từ ban ngày tôi hiểu sự lựa chọn của một người, sự cô thế trước cuộc bủa vây nhắm mắt lại, vĩnh viễn, chẳng giải quyết được gì nhưng sống không tự do chết đi, chẳng phải là điều nhục nhã giờ đây, trên cánh đồng ấy, cánh đồng lui tới những đứa con bất khuất những đứa con chịu ngược đãi trên cánh đồng ấy, có một người được tự do nằm chết cánh đồng im bóng hoa tiềm mai vận chuyển từng chuyến tàu chiều mà những tia lửa xẹt, những khói than lồng dưới rặng khổ dương thấp thoáng lời tổ quốc, bóng hy vọng và tuyệt vọng

40


giờ đây, tổ quốc đang vắng vẻ, tẻ lạnh những nhà tù, rộn ràng yến tiệc của kẻ cúi lòn nhưng ở mộ bia kia bạo lực không thể nào dẫm tới  tự kết thúc đời mình, chẳng giải quyết được gì, nhưng ít nhất chối từ đem thân làm tấm lá lót đường cho kẻ thống trị chối từ làm một bức tường nơi đó bạo lực dán lên mãi những bích chương dấu che sự thật sự thật là có những kẻ vũ khí trong tay, nhảy múa và uống rượu trên đầu đám dân nô lệ sự thật là những kẻ áo xiêm khua động tình nguyện làm ống phóng thanh cho cuộc đánh lừa vĩ đại dưới vòm trời vắng ngắt những vì sao tôi đã bước đi, bên những người nô lệ khác tôi đã bước đi, nghiến chặt hai hàm răng, nhìn mãi mầu đất đen tối tôi đã bước đi, tự nhủ, có thể đến một ngày trái tim tôi nổ thành chất công phá hay chút kiên trì còn sót lại sẽ hao dần  bão cát vừa mới mang những tiếng va chạm, tiếng chảy xiết, lời kêu than

41


mang xuống bên kia đồi nhưng bên tai tôi, bên khóm nhà tập trung dân, bên con dốc đầy ánh trăng vẫn còn những bước chân dồn dập những bước chân của kẻ săn người, móng vuốt của đàn chó vượt tới trước những bước chân của những con mồi những con mồi chỉ còn con đường độc nhất dẫn vào trường giác đấu rất nhiều đêm, bão cát không che nổi những tiếng vỗ tay nhưng tay tôi, trong bóng đêm, nắm chặt lại không, những kẻ đang hò reo trên khán đài kia những kẻ lạ mặt những kẻ từ bên ngoài tới những kẻ dấu con dao dưới chiếc găng tay những kẻ bịt mắt chúng tôi, tước đoạt quyền làm người không, cuộc giác đấu kia phải ngừng lại, bởi nơi giống nòi này chẳng có ai gọi là kẻ thù chỉ có những kẻ lạ mặt, những kẻ xâm chiếm chỉ có những người yêu nhau, mắt lấp lánh ánh me bay. Trời mùa hạ chỉ có những nhịp điệu của thời tiết, sương mù rừng phượng đỏ, những mái trường nhớ nhung chỉ có những dòng sông dấu kín dưới đáy lòng

42


chiếc khăn len thời trẻ tuổi, những nụ cười trong mưa, những ngọn lá bàng vàng úa, những người thanh niên bỗng một hôm tự nhủ tổ quốc, trong lòng tổ quốc đang hiu hắt lời bất ổn  không có lúc nào như lúc này lúc mà người lương thiện bị ép buộc gọi những kẻ những kẻ đã sống hết sự sống, áp bức ta nhận lấy sự trừu tượng những kẻ muốn biến ta thành bánh xe quay những kẻ chia rẻ tình duyên, tàn sát, hãm hiếp những kẻ kéo màn đen trước đôi mắt trẻ thơ những kẻ đào huyệt mỗi người bị ép buộc gọi những kẻ ấy là bạn  không lúc nào mà gió lạnh thừa những tấm lòng đói kém thổi rong rong từng buổi mai không lúc nào áo cơm như một ám ảnh tự do như một món hàng ngoại nhập đắt tiền đã có những người ngẩng đầu lên nhìn màn trời, rồi một lần chết đã có con đường ven sông, đầu thu, nước se lại đã có những người không tìm được một chỗ ngồi trong lòng xe buýt

43


đã có những chiếc áo lụa phai mầu trên sợi dây phơi đã có tiếng trẻ con khóc, những người phụ nữ gầy mòn đã có những người điên đưa tay lật đổ trật tự cũ đã có những người dừng chân mãi ở bước đường cùng đã có bóng ngày mai, im lìm, không đổi khác đã có một phát súng nổ  nhắm mắt lại, vĩnh viễn, chẳng giải quyết được gì nhưng sống không tự do chết đi, chẳng phải là điều nhục nhã. Tạp chí Trình Bầy - Số 36&37 tháng 02/1971

44


Bằng tiếng thoảng qua

Anh có đôi lời hương phấn mỏng cài tóc đi này kẻ mắt đi mai kia bóng xế không còn thấy hãy nhớ là anh đã nói gì đã nói gì trong ngọn cờ bay nhớ qua tiếng guốc cuối ban ngày và em soi lại tình yêu cũ chợt thấy ngang lòng một dấu mây đường qua sông hay qua đô thị đường vào hồn riêng chén rượu cay áo em ướt cả mầu tâm sự thì có vai anh sưởi áo này cùng có đôi lời hương phấn mỏng chẳng qua như một buổi mai hồng em nghe chim hót ngang đầu gió khăn lại quàng đò đẩy ra sông

45


ngồi lại gần những trang tình hứa quàng vai thêm một chút vội vàng không nghe trong cõi êm đềm ấy những giọt mưa ngờ rụng vỡ tan Em có thương dáng chiều ngọn cỏ thì đời anh mấy thoáng phù trầm em có thương giữa mùa lạnh buốt thì chân này mấy phía long đong. Tạp chí Tư Tưởng - Số 06 tháng 08/1971

46


Im hơi nào mà anh không biết Chiều hôm qua có một người về nói đã gặp anh trên viễn địa tôi nghĩ thầm và băng lộ chiều nay thấy ở đằng xa khu gió chiếm Mười mấy năm quên hẳn đời nhau bỗng một lúc trời mưa trắng xuống tôi co ro ở mái hiên người gặp một mùa đông ấm lửa Có ai đi lá mới bờ sông phượng qua đêm sáng nay đổi khác rẽ sương mù vì thấy lòng trong nước xuôi xuôi nghìn vạn thuở Chiều hôm nay có một người già lặng lẽ múc từng gầu nước lạnh tôi nhìn lên nửa dáng trời tây tay buồn dần khi tháng chạp Sống hắt hiu cho quên chờ đợi sáng mai lên hay chiều chưa xong cành lá xanh ngang tầm cửa sổ đến khuya im lìm hóa ra vàng

47


Tôi mở rương tìm áo lạnh ngờ mình không để ý nghìn năm tôi soi gương thấy tóc im từng sợi trắng nên chống thêm chiếc gậy đến quán cơm Ôi tình em ở bên sông núi và tình anh ở tận đâu rồi bể dâu gì cho thêm mù mịt bao ngày gió bão đã nghìn hơi Đây sáng mùa thu tôi ngồi dậy bông hoa kia trắng hết cửa trời tôi ra ngó cây sầu đông trước ngõ cũng thấy hoa kia nở hết cả rồi Tôi liền tới bên thành mỹ cũ nghe nơi đây chẳng có đổi dời tôi đi ngược mấy tầng xa mã thấy mình bằng một tiếng vang thôi. Đặc san Đầu Gió 1974

48


Xuyến và vĩnh biệt Gởi Bửu Ý

giờ gặp lại nhau chắc Xuyến sẽ không nhìn ra tôi nữa mười năm con đom đóm nơi khu vườn xưa đã tắt hết ánh sáng và người đàn ông đứng bên Xuyến trong đêm mưa cuối năm đang ở xa mùi trầm hương đang ở gần cõi chết phải bắt đầu từ quãng đường nào để gặp đôi mắt Xuyến đôi mắt mở to đôi mắt lay động đôi mắt những vì sao trời lạnh sớm hồn áo rét mùa sương đông phải bắt đầu lại từ quãng đường nào để gặp chiếc khăn quàng của Xuyến chiếc khăn quàng tóc hương thời thiếu nữ chiếc khăn quàng lướt qua đời ban mai như giải đèn đêm quét ngang lòng tôi bờ lưu vực

49


giờ gặp lại nhau chắc Xuyến sẽ không nhìn ra tôi nữa chiến tranh đã vạch lên trái tim tôi nhiều dấu đổ nát đến nỗi mắt tôi không còn nhìn ra vẻ đẹp như Xuyến sẽ không nhìn ra tôi giờ gặp lại nhau chắc Xuyến sẽ không nhìn ra tôi nữa con đường đi qua cầu nửa khuya bao giờ cũng gần nhưng con đường đi qua dấu lửa binh sẽ xa vời như nước mắt như lời Xuyến nói trong gió như bước chân Xuyến vũng nước mưa trên sân trường như đôi guốc quai nhung đỏ như tiếng thì thầm vĩnh biệt… Tập san Văn – Số 06 tháng 07/1974

50


Sau chiến tranh Sau chiến tranh những bàn tay thờ thẩn bắt tay nhau những tiệm nước người ngồi im lặng những con đường mờ mịt gió nồm những tủ kính hắt lên nền trời tháng giêng ánh quá khứ không vui cười Sau chiến tranh có một người ốm yếu đạp xe đi khuất cuối nhịp cầu đôi khi ngỡ ngày vui xưa còn đứng đợi bên kia sông kêu lên một tiếng cuối cùng đôi khi ngỡ hằng trăm người khuất mặt về dưới mưa sa Sau chiến tranh bỗng nhiên trên những khán đài của thời đại cờ xí biến thành khăn tang trắng kẻ bại trận và kẻ chiến thắng chưa rời cuộc diễn đàn chỉ có sự thật nằm tàn úa như tấm bích chương buồn khắp nơi ồn ào những câu trả lời về con người và khắp nơi không có một câu trả lời nào hết

51


Sau chiến tranh thấp thoáng trên nền mống đổ nát những bóng người đào xới kỷ niệm đêm đêm trong các khóm cây lửa đốt giấy vàng bạc cháy lên như thể muốn cuộc đời này đẹp hơn cần phải thiêu hủy cuộc đời này Sau chiến tranh tôi trở lại quê nhà khóc quạnh hiu dưới lòng phố thẳm. Tạp chí Nhà Văn-Tháng 03/1975

52


Thư về Hà Nội Hà Nội, đêm mưa phùn năm nao tôi trải nỗi cô đơn tâm hồn tôi dưới rặng cây những ngọn đèn đường và Hà Nội tặng kẻ cô đơn vài cánh hoa, vài khoảng ánh sáng và tôi đi theo dấu vết của hoa, ánh sáng và nước trước khi gặp những khung cửa sổ những mái nhà những người bạn mới và tôi tin con người có thể tìm ra những dược liệu để chữa lành nỗi cô đơn để nối liền các biên giới giữa lòng người và tôi con người có thể tìm ra mẫu số chung hy vọng cho tất cả mọi người người khổ đau cũng như người sung sướng Hà Nội xa xôi, Hà Nội những đêm chuyển gió mùa đông bắc Hà Nội chưa bao giờ nhận nơi tôi chiếc khăn len hay viên thuốc hạ sốt nhưng Hà Nội vẫn có trong trái tim tôi đập nhịp ba Huế-Hà Nội-Sài Gòn. Đăng trước 1975 & Báo Văn Nghệ ngày 15/05/1993

53


Sử ký về một làng chài lưới

Năm 1966, lánh chó sói và lưỡi lê ông K đã đến nơi nầy, làng chài lưới quạnh hiu xa vời bên bể nước như ông K, giữa thời bạo lực âm vang nhiều đêm bão cát làng chài lưới bắt đầu quay lưng với thành phố làng chài lưới thu sức mạnh vào bên trong và nở ra bên ngoài những vẻ đẹp. năm 1966, chiều hôm đón ông K với một ít nắng vàng trải từ đường cái đến khóm liễu dương là người vô sản, tới đây ông K mang theo bên mình một trái tim và đôi mắt đôi mắt mở ra màn bụi nước buông ở đằng xa bụi nước vỡ trên tay như tiếng suy tàn giấc mộng cũ như tiếng cựa mình của giấc mộng mới chiều hôm ấy trái tim vắng vẻ của ông K bỗng tràn khắp bờ thời đại những đợt thủy triều. 54


năm 1966, ông K và làng chài lưới giao ước một mối khước từ khước từ chó sói khước từ lưỡi lê sự khước từ có tiếng đồng tình đáp lại: lúc hoàng hôn trẻ con chào đời khóc đầu thôn xóm những đứa bé một hôm bỗng trở thành người thanh niên cô thiếu nữ cười răng san hô trong chuyến lao động lần đầu sự khước từ có tiếng đồng tình đáp lại: lúc hoàng hôn chất muối lách tách những thân thuyền im lặng chất muối kết tinh tình yêu ông K thành nỗi nhớ quê hương quê hương quê hương chất muối đưa vào cửa sổ độ mặn bằng nước mắt và chó sói và lưỡi lê rẽ đường cái đi vào khu vực khước từ năm 1966, người đồng chí ấy bị dẫn đi giữa hai ngọn súng người đồng chí ấy theo chuyện kể, đã chết trên máy chém của bạo quyền đã chết với một lá cờ đỏ ngậm trong miệng lá cờ đỏ như cái lưỡi trung thực

55


năm 1966, lánh chó sói và lưỡi lê ông K khởi sự lìa nơi đây, làng chài lưới quạnh hiu xa vời bên bể nước cúi đầu đi qua bãi cát, vượt đầm bông súng chưa ra bông ông K tới ga quận lỵ với trái tim lấm tấm mưa đầu mùa tiễn ông K rời nơi thân yêu cây xương rồng nhiều gai như đến ngày quyết liệt nở duy nhất một đóa hoa tiễn ông K rời nơi thân yêu, mẹ già và trẻ em đứng vẫy tay cuối bờ nước những cái vẫy tay như dấu hỏi và ngày nọ giữa trại tập trung ông K nhủ thầm nếu mẹ già khuất núi trẻ em sẽ lớn lên và trẻ em nào có cái lưỡi hồng như ngọn cờ cái lưỡi chuyền đi tiếng nói không có gì quý hơn độc lập tự do. Tạp chí Đứng Dậy số 74

56


Người phu xe, từ biệt từ biệt cha, người phu xe từ biệt người còn mang trên mình những lằn roi của thời cũ trong lằn roi ấy chưa phai hình bóng những người khách đã bước lên xe những quan lại, ả giang hồ, tu sĩ chưa phai hình bóng người phu xe đứng vào chỗ con ngựa kéo xe rướn mình về phía trước quay tròn hai bánh xe quay tròn quay tròn quay tròn, ngày tháng quay tròn quay đến lúc những câu hỏi bắt đầu xuất hiện hỏi về vẻ tốt tươi của người này làm bằng vẻ tàn tạ của người khác tất nhiên, trên những con đường của thời cha, xe ô tô chưa đến nhưng mồ hôi đổi lấy một giá quá rẻ cộng thêm những lời nhục mạ chẳng phải là chuyện tất nhiên chẳng phải là chuyện tất nhiên, nếu có kẻ chỉ ngồi giữa cung điện để người khác lạy quỳ vẫn được quyền tiêu xài cả đất nước

57


chẳng phải là chuyện tất nhiên, nếu người đem sức lương thiện kiếm lấy bát cơm được ghi tên vào lớp người hèn hạ như thế, hỡi người phu xe! chung quanh người, kẻ cướp mồ hôi đang choàng vai với thần thánh và quyền uy đang lúc chia chung mâm rượu nhưng trước khi công bằng bước đến cầm lấy mâm rượu, trả lại cho những người đã làm nên mâm rượu người phu xe còn phải chạy tiếp những bước lưu đày còn phải đứng vào chỗ con ngựa rướn mình về phía trước quay tròn hai bánh xe quay tròn quay tròn quay tròn, nắng đốt cháy nền trời mùa hạ và dinh thự nằm yên tĩnh dưới rặng cây quay trong gió bấc quay xa dần những bóng người bên lò sưởi quay tròn quay tròn, quay trở lại mái tranh khó đứng yên trong cơn bão khuôn mặt người vợ đã từ lâu vắng vẻ nụ cười đôi mắt những đứa con mù lòa trước dòng chữ quay tròn quay tròn và người phu xe còn mất thêm nhiều thứ mất cả trí nhớ về những ngày đã sinh ra từ lòng mẹ những ngày đã được làm người. từ biệt cha, từ biệt nỗi khổ

58


nếu nước mắt chỉ làm nhòe sự thật, con sẽ mở to đôi mắt nhìn rõ đời cha nhìn rõ trong chén cơm từ bàn tay cha mang đến cho những người thân yêu có vị tình thương có lẫn mùi cam chịu như thế, từ biệt cha có nghĩa là từ biệt cả lòng tin vào số mệnh từ biệt cả thời đã tạo nên cha bao nhiêu năm, số mệnh đã cản bàn tay người muốn hất kẻ cướp khỏi lưng người bao nhiêu năm, số mệnh chỉ là mảnh giáp bao che kẻ cướp. xin cha yên lòng nằm nghỉ hai bánh xe đã thôi quay tròn đã thôi săn đuổi và nếu giọt máu chưa hoen ố của cha còn sống trong cơ thể con, còn sống tiếp giữa thời công bằng đang bắt đầu sự chết đôi khi chưa phải là điều thảm kịch. Tạp chí Sông Hương số 3 tháng 10/1983

59


Từ những tư liệu

60


Mẫu giới thiệu Tạp chí Hành Động và tập Phố Ca của nhạc sỹ Tôn Thất Lập trên Bách Khoa số 286 tháng 12/1968

61


Em và Hòa bình trong Tạp chí Hành động số 1 năm 1967 với bút danh Lê Hạ Lan

62


Mẫu giới thiệu Tạp chí Mở Đường do nhà văn Trần Hoài Thư (Trần Quí Sách), Lê Văn Ngăn và bạn bè chủ trương đăng trên tạp chí Văn số 78 năm 1968.

63


Tạp chí Hành Động số 1 tháng 12/1967 (Ronéo). Tư liệu được nhà thơ Nguyễn Lương Ba (Nguyễn Phán Ngã) cung cấp

64


65


Thủ bút của thi sĩ Lê Văn Ngăn năm 1971 - gia đình còn lưu giữ

66


Đêm hợp xướng trên Tuần báo Khởi Hành

67


68


Hạnh Phước, người nữ của thành nhiễu nhương trên Tuần báo Khởi Hành

69


70


Hạnh Phước - Ảnh chụp trước 1975

71


Tranh Thanh minh tảo mộ Kiều của Họa sỹ Vĩnh Phối tặng thi sĩ Lê Văn Ngăn vào ngày 20/08/99 tại Quy Nhơn

72


Vẫn còn tin vào con người dù đi hết con đường đời mình tôi cũng không thể nào gặp lại đêm mùa thu ấy đắm mình dưới mái tóc em ngược chiều gió tôi ngỡ cuộc đời chỉ duy nhất một mùa hoa bưởi độc ác và những ánh mắt lạnh lẽo có lúc đã trở thành những quá khứ xa vời làm sao tôi có thể xem thường tình yêu khi em đã cho tôi nhiều hơn những gì em có em cho tôi nỗi nhớ nhung để biết đâu đó trên mặt đất này, ít ra vẫn còn một con người xinh đẹp đang bước đi em cho tôi nỗi đau đớn để biết hạnh phúc cần thiết đến chừng nào em cho tôi niềm tin cậy và tấm thân em tựa vào tôi như thể cuộc đời này chẳng còn cạm bẫy em còn cho tôi biết hai bàn tay yêu thương khi đã nắm lấy nhau mạch điện của thế giới sẽ được nối liền và ánh sáng sẽ bừng lên dưới nền trời những rặng cây bóng tối

73


Phương ơi Phương ơi, tôi không còn sợ hãi thời gian thời gian thường muốn xóa tất cả dấu vết trên chặng đường vừa qua nhưng không thể nào xóa trong ký ức tôi một niềm tin vào con người phải, giữa tiếng ồn ào của man trá tôi vẫn còn tin vào con người. Tập san Huế tháng 11/1988

74


Nhật ký

Có những người làm thơ thường tự nhủ Bài thơ ấy, tôi sẽ viết xong vào một ngày gần đây nhưng trong những câu nói của bạn tôi, người nông dân ít tìm thấy dấu hiệu của lòng trì hoãn mạ non đã nhổ lên, không thể không cấy vào lúc sáng mai không thể dời chén cơm của ngày hôm nay sang một ngày khác. Giá rét vẫn thổi về bên ngoài khoảng cửa khép kín và người thầy giáo làng quê choàng thêm vào mình chiếc áo dạ dưới ánh đèn, trong âm vang những tiếng mưa khuya Các dòng chữ bắt đầu hiện ra trên trang giấy sạch nhưng bạn tôi, người nông dân anh không thể ngồi trong căn phòng để làm cỏ lúa anh không thể mang tất len vào bàn chân sẽ dẫm xuống nước và bùn

75


Tôi ơi, tôi ơi, nếu tôi muốn làm người đừng bao giờ quên sự khác nhau ấy dù tất cả những người chung quanh đang cùng nhau vượt qua những chặng đường khó đến một ngày mai chắc chắn đẹp hơn đừng bao giờ quên người này có lúc giá rét hơn người khác ít niềm vui hơn người khác. Tạp chí Sông Hương số 18, tháng 04/1986

76


Khóm hoa và thủy chung

Khóm hoa hướng dương ấy và góc phố ấy, anh đã qua lại hằng ngày những năm trẻ tuổi. Mấy mươi năm sau anh trở về, cảnh cũ những góc phố mới, nhưng khóm hoa xưa vẫn còn nở dưới ánh đèn. Giữa nền trời khuya, anh tự nhủ: Hỡi những người tôi chỉ gặp một lần dọc đường đời, các anh bây giờ đang ở nơi đâu, các anh đang sống trong khổ đau hay hạnh phúc. Giờ đây, tôi chỉ còn một khóm hoa làm người chung thủy. Nhưng tôi biết cuộc thủy chung này sẽ không thể kéo dài. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ mất hút dưới lòng đất và trên trần gian xa xôi, khóm hoa chỉ một mình nở muộn.

77


Dọc những con đường Đà Lạt Đi dọc những con đường Đà Lạt nơi đâu cũng gặp nhiều hoa nở như thể hoa là con cái của những người trồng su cải dưới trời giá rét Đi dọc theo những con đường Đà Lạt nơi đâu cũng nhìn thấy những đôi mắt dịu dàng nhìn sâu vào đôi mắt em chợt nhận ra những vết thương Đi dọc theo những con đường Đà Lạt nơi đâu cũng gặp những ngọn đèn chiều sáng mặt hồ nước trong đêm rồi tắt trước lúc bình minh về nơi đâu cũng gặp dấu vết những người đã hy sinh cả cuộc đời mình. Đi dọc những con đường Đà Lạt Đi và biết tâm hồn mỗi người gần giống với tâm hồn đất nước. Tuyển tập văn học 30 năm báo Nhân dân 1989-2019

78


Trong toa tàu đêm Khi ngồi bên em trong toa tàu này tôi đã đi qua khỏi thời trẻ tuổi Em, người thiếu nữ như hoa phượng hồng mùa hạ. Còn tôi, mái tóc đã hoa râm Những vết nhăn quanh đôi mắt. Trong tiểu thuyết, mọi lời nói đều có thể dễ dàng ngay cả lời anh yêu em nhưng trong đời thực, kẻ xế chiều như tôi sẽ rơi vào chuyện buồn cười khi nói bằng ngôn ngữ của người hai mươi tuổi. Thôi vậy, con tàu cứ lao mình trong đêm mênh mông Em cứ ngủ như một vì sao sáng Và tôi cứ lặng yên trong thế giới riêng của mình. Đây là thế giới của những người đã đem cả thời trẻ tuổi để góp sức lau bóng tối khổ đau trên khuôn mặt quê nhà để dưới nền trời rộng rãi của ngày mai, con người không còn bóc lột con người để lát nữa, em sẽ cười vui bước xuống sân ga và tôi sẽ ghé vào chiếc quán bên dòng đời, hoài công đợi chờ vài người bạn thân đã chết

79


Thôi vậy, con tàu cứ lao mình trong đêm mênh mông Em cứ ngủ như một vì sao sáng và tôi cứ lặng yên trong thế giới của riêng mình. Mai sau, lúc tôi đã lìa đời và em còn bước đi dưới nền trời quang đãng tôi tin em sẽ nhủ thầm “đấy là một người không tầm thường”. Tạp chí Văn tháng 07/2000

80


Lời tạm biệt của những người lái tàu Thưa quý vị hành khách lát nữa, đoàn tàu sẽ đến ga phải đến và bởi vì đã đi chung một chặng đường, chúng ta không thể không nói với nhau vài lời trước lúc tạm biệt Trên chặng đường vừa qua người sống không thể không nhìn đến sự sống sự sống, với những bóng dáng và khuôn mặt, đã lần lượt hiện ra ngoài khung cửa sự sống còn mang trên vai dấu vết những năm chiến tranh những ngày tai họa sự sống cắm cúi đóng những cột mốc cho tuyến đường mới sự sống bắt nhịp cầu nối từ vực bất công qua bờ bến của công bằng sự sống lau khuôn mặt đẫm ướt mưa đẫm ướt mồ hôi sự sống cột lại chiếc khẩu trang để bước vào màng bụi xi măng, lửa và khói sự sống đứng giữa bùn lầy, gieo hạt giống của mùa thịnh vượng sự sống phơi ánh sáng và màu áo mới trên những mái nhà

81


sự sống cười nụ cười của đôi tình nhân ngồi cách xa tiếng ồn ào sự sống cựa mình trong các em bé vừa lọt lòng mẹ sự sống nẩy mầm trong những nạn nhân mới thoát khỏi bàn tay của nỗi bất hạnh sự sống đưa mắt nhìn những người áo rách và nhủ thầm: còn nhiều việc phải làm tất nhiên, sự sống không có mặt trong những gì đã chết. Chúng tôi tiếc đoàn tàu đã không dừng lâu ở các cửa hàng cà phê và rượu để biết ly đắng cay nào cũng chứa trong mình một chút niềm vui mong quý vị hiểu chúng tôi cần thì giờ để vượt nhanh hơn đêm tối chúng tôi còn tiếc thêm một điều nữa: kẻ móc túi và kẻ bịp bợm vẫn chưa chịu rời khỏi toa tàu mong quí vị hiểu chúng tôi đã không ngừng lưu ý đến những kẻ sẵn sàng đặt bàn tay bất an vào nỗi bình an những kẻ đã đến từ phía ngược lại của đoàn tàu những kẻ đã chạy tắt từ biên giới của một thời xa lắc

82


những kẻ đã từ lâu, ngồi xen giữa những người lương thiện, ẩn mình dưới lớp áo sạch. Cuối cùng, xin quý vị quên chúng tôi với khuôn mặt thường cau có khuôn mặt những người đang lúc bận rộn khuôn mặt những người đang siết lại các cơ phận sắp rời khuôn mặt những người không ngừng nhìn vào chiếc kim phương hướng những dấu hiệu của cơn bão những ngọn đèn và những tiếng còi khuôn mặt chỉ trở lại bình yên vào lúc trời đã đầy sao nhưng lúc ấy, quý vị đã êm đềm trong giấc ngủ. Xin chào tạm biệt hy vọng những hành trình mới… Tạp chí Sông Hương số 12 tháng 04/1985

83


Ghi ở một nhà hộ sinh đây là đứa bé mới ra đời từ cuộc hôn phối không tình yêu bao nhiêu năm bao nhiêu nỗi buồn nơi người mẹ đã in bóng vào khuôn mặt đứa con con ơi, con ơi tình yêu chưa tắt trong mẹ sẽ là chiếc khăn dịu dàng lau sạch khuôn mặt con hết bóng tối và mẹ sẽ soi đời mình vào khuôn mặt con thấy lại chút hơi ấm đã từ lâu vắng vẻ con ơi con ơi, nh yêu mới ra đời ơi liều thuốc chữa nỗi đau ơi phần thưởng dành cho nỗi đau ơi mẹ tin: ngay cả những người bất hạnh nhất cũng sẽ có ngày sung sướng. Tạp chí Sông Hương số 20 tháng 08/1986

84


Về nơi yêu dấu Quê hương của những mùa đông kéo dài người ít hiện ra trên các ngã đường im lặng mái nhà, lửa và áo len không đủ cho hơi ấm để sưởi cần phải có hơi ấm trong đôi mắt người yêu trong bàn tay người bạn quê hương đã cho tôi một trái tim giá rét và nồng nàn Quê hương của những sự thật, câu hỏi và câu trả lời hôm nào, tôi đi ngược dòng thời gian về nơi lác đác những rặng hoa sứ trắng những thành quách mái ngói sẫm màu nơi ấy, tôi đập vỡ vài chiếc ngai vàng và nhận ra ngai vàng làm bằng chất liệu chiến công và bất nhân và nhận ra những kẻ bất nhân thường chết dưới lưỡi gươm hay chiếc máy chém của mình Quê hương của vô số khuôn mặt đẹp và vô danh và trang sử ký thì chật chội không đủ chỗ cho tất cả những điều tốt lành vì thế, tôi thường đạp xe về cuộc sống bình thường sống giữa những người bình thường

85


trong sáng trên các rặng cây một nền trời không nhiễm bệnh quyền uy địa vị giờ đây, tuổi trẻ đã qua rồi nhưng tuổi trẻ còn để lại trong tôi vài thoáng hương thơm những năm đời còn hai mươi tuổi hương thơm của hoa phượng hoa muối và những loài hoa chưa được đặt tên bao nhiêu năm, những mùi hương ấy đã giúp tôi rửa sạch lớp bụi xám phủ lên đôi mắt mình phải, tôi đã thấy những ngọn lửa oán thù đốt cháy sự sống thành một nắm tro tàn bé nhỏ. Tạp chí Sông Hương số 41 tháng 2&3/1990

86


Xa Ðà Lạt không có tôi, Ðà Lạt vẫn sống vẫn mỗi ngày tự thu xếp một cảnh đời riêng để sống dưới nền trời giá rét không có tôi, Ðà Lạt vẫn sống vẫn đêm đêm thắp sáng những ngọn đèn những ngọn đèn trên những con đường dốc những ngọn đèn dưới thung sâu vẫn những bông hoa, dù không lời cổ vũ ồn ào bông hoa vẫn nở vẫn còn rất nhiều người nghèo khó không đủ thì giờ để nói lên tiếng nói vẫn còn rất nhiều sự thực nằm yên lặng trên cánh đồng su cải và hoa hồng vẫn cuộc rượu bẩn ngồi quanh những kẻ lái buôn người vẫn tiếng nói em dịu dàng gọi tôi đầu phố gió năm nào nhắc tôi tránh xa bước đường tuyệt vọng không có tôi, Ðà Lạt vẫn sống như thể mối tình tôi lẻ loi không một chút làm bận lòng Ðà Lạt Báo Văn Nghệ 1991

87


Một đêm ở Hà Nội Riêng tặng Ngô Thế Oanh

Hà Nội, phố Hàng Đường cuối thế kỷ 20 có một mái nhà mở ra nhiều cửa sổ Nền trời bên ngoài, dù mênh mông, vẫn không thể nào soi rõ tâm hồn một người chồng tóc bạc một người vợ chưa qua hết tuổi thanh xuân một đứa con ra đời sau kháng chiến Đêm khuya nào còn nhớ không tiếng mưa đều lẫn trong tiếng chuông đồng hồ đã điểm và người chồng chậm rãi nói Mình ạ, đời tôi còn quá ít thời gian và con cái chúng ta còn quá bé Chẳng bao lâu nữa, kỳ hạn của một đời người sẽ kết thúc, tôi sẽ nằm xuống chỉ còn một mình em nuôi con và làm việc Đêm khuya nào còn nhớ không nước mắt chảy trong bóng tối và người vợ im lặng rất lâu trước khi khẽ đáp

88


Trước ngày chúng ta gặp nhau mẹ cha chúng ta cũng như chúng ta bây giờ cũng nối tiếp vẻ đẹp qua các vực thẳm chết Phải, em tin vẻ đẹp, mãi cho đến khi đời con cái chúng ta vẫn không bao giờ gián đoạn Rồi sẽ đến một ngày mình ạ em phải sống một lúc cho cả ba cuộc đời Hạnh phúc lớn lao này em tin em gánh nổi.

89


Sài Gòn, đôi ngày tạm trú Sài Gòn với những trạm điện thoại khắp nơi đã giúp người xóa bớt nỗi cô đơn dưới nền trời công nghiệp Đêm nào, lúc mới đặt chân đến nơi đây tôi đã gởi vào không gian vài tín hiệu và bỗng nhiên, từ cõi xa xăm có tiếng bạn bè tôi đáp lại Sài Gòn tặng tôi một chỗ ngồi trong chiếc quán ven đường ngồi chờ bạn bè vượt qua các thị trường ồn ào mua bán Đằng sau cuộc mua bán ồn ào này hình như vẫn còn một tiếng chuyển động khác tiếng chuyển động của ngày mai yên tĩnh Sài Gòn tặng tôi một đêm mưa đầu mùa để tôi lại ngồi bên những ngọn đèn khuya bên trang sách những chặng đường lịch sử Chúng tôi, những người bình dân chúng tôi vừa trải qua một quá khứ ít niềm vui lắm nỗi buồn Chúng tôi đã thấy những kẻ vua quan biến hằng triệu người thành con ngựa kéo Chúng tôi đã thấy những kẻ xâm lược xây biệt thự và trồng hoa bằng máu xương người

90


Sài Gòn với vận tốc, những vầng trán nếp nhăn, áo cơm sách vở đã tặng tôi một sự thật về chuyện làm người văn chương, dù thanh cao vẫn chỉ là sản phẩm phụ so với sự sống, khổ đau, hạnh phúc Từ đó, tôi dành niềm tin cho các nhà thơ không bao giờ lớn tiếng Vì sao Sài Gòn lại dành cho tôi quá nhiều tặng vật trong khi tâm hồn tôi chỉ đủ chỗ cho vài điều mơ mộng và ngôi sao trên rặng cây ngoài cửa sổ Hay Sài Gòn đã dự cảm về một mối tình quê hương đã chớm nở trong tôi qua đôi ngày tạm trú.

91


Thư gởi Hoàng Hòa Quy Nhơn 6.3.1997 Hòa thân, Đêm ngồi viết vài dòng gởi Hòa, chẳng hiểu vì sao ký ức của mình lại hiện ra một chặng đường dài lịch sử trong đó hình bóng của Hòa cứ thấp thoáng mãi: con đò dưới bến Gia Hội, mùi khói, căn nhà dưới lũy tre, thư viện sau 68, đèo PT, tô mì xào giòn ăn đầu đời, phác lác, rồi khăn tang ở căn nhà cũ, Thăng, Nguyễn Du căn nhà trọ …. và hôm mới đây. Tóm lại là thế này: chúng ta, dù có lúc nếm đắng cay, vẫn là Hòa của hơn 30 năm trước, vẫn là Ngăn ba mươi năm trước. Từ đây đến lúc nằm xuống, chắc vẫn vậy mà thôi. Thế mà mình chưa viết được gì về bạn bè. Hay là, vì bản chất của nghệ thuật, điều đó chỉ ra đời khi bạn bè đã qua đời? Nhưng mình rất sợ ngày ấy, ngày một phần đời của người sống cũng bị chôn vùi theo người thân yêu đã chết. Mình biết điều đó mỗi năm, 21.9 âm lịch kỵ Oanh. Mình muốn tặng Hòa một mùa hoa phượng hồng còn trong trí nhớ của mình. Vô ích chăng? Nhưng lại là tất cả.

92


Người xưa nói: “kể không sao xiết”, mình cũng đành nói lại vậy. Người xưa lại nói: “ bằng hữu là tấm gương soi cho bản thân mình”, mình cũng muốn nói như thế khi nghĩ đến Hòa. Cuối thư mình nghĩ đến bệnh tension của Hòa đây. Thân và nhớ. Lê Văn Ngăn

Thủ bút của nhà thơ Lê Văn Ngăn gởi bạn – nhà giáo Hoàng Hòa

93


Thư về quê hương Riêng gởi N.Y.T

Quê hương của những đứa con còn mang dấu vết người đã sinh ra mình. Và tôi cũng thế, tôi được sinh ra từ khổ đau và hy vọng, từ mái nhà nghèo nàn và những trang sách sang trọng, từ nỗi chia lìa và nhịp cầu nối kết hai bờ một dòng sông lớn, từ những mùa đông xám mầu giá rét và những mùa hè rực rỡ phượng hồng. Quê hương của những đứa con thường thức dậy dưới nền trời sao khuya để bắt đầu lo một ngày sinh sống, nhưng chưa bao giờ đặt đôla, vàng và lừa đảo vào vị trí của con người. Nơi đây, ngay từ thuở còn mẹ cầm tay dắt qua những chặng đường đạn bom, tôi đã được vỡ lòng về thước đo giá trị. Dọc theo chiều dài lịch sử, tôi đo lòng nhân đạo của người lao động, đo thói nhỏ nhen của những kẻ chỉ biết vun vén cho riêng mình, đo hơi ấm trong bàn tay bạn bè, ánh mắt dịu dàng trong đôi mắt người yêu dấu. Cần phải đo thời gian để đi đến một ngày mai công bằng hơn đang gọi kêu phía trước. Quê hương của những đứa con chưa bao giờ biết hết sự chết. Khi thân xác nằm trong lòng đất, con người lại hóa thân trong sự sống khác. Trong trái tim người còn sống, trong tiếng mưa đêm, trong hạt gạo, trong cành hoa, trong đợt gió rét thổi ngang nền trời cao báo tin mùa Xuân sắp đến. Có ai còn viết trong một tờ tạp chí: “Con tôi là cuộc đời thứ hai của tôi”. Quê hương là như thế, nên tôi vinh dự được làm đứa con của quê hương mình. Tạp chí Văn TPHCM – Số 84 tháng 10/1998

94


Bài học vỡ lòng Quê hương đã đặt vào tâm hồn tôi một kỷ niệm về những ngày gió rét thổi và ngọn lửa sưởi ấm dưới mái nhà. Giờ đây, dù lưu lạc nơi đâu, tôi cũng không thể nói trái với sự thật này: Con người luôn luôn tìm ra cách thu xếp một cảnh đời đẹp hơn. Quê hương đã hướng tầm mắt tôi về phía rặng hoa sứ trắng bên ngoài cửa sổ. Dưới nền trời xám suốt mùa thuđông, rặng cây trơ cành ngỡ như đã chết, bỗng bừng nở bông hoa lúc khởi đầu mùa hạ. Và tôi tin: Có những vẻ đẹp, dù đôi khi vắng bóng, vẫn không thể nào hủy diệt. Quê hương đã dẫn tôi vào lòng đời qua nhiều chặng đường không bằng phẳng. Nơi đó, tôi đã gặp những người chưa bao giờ cầm trong tay trang giấy ngòi bút, nhưng biết nhường một chỗ ngủ, một bữa cơm cho người nhân từ gặp thời xâm lược. Và tôi thường tự hỏi: Trí thức phải chăng không chỉ đến từ ngưỡng cửa bằng cấp? Quê hương thân yêu ơi, bài học vỡ lòng về chân thiện mỹ mà Người đã dành cho tôi từ thuở ấu thơ, đến nay tôi vẫn chưa thể nào thuộc hết. Dù vậy, tôi sẽ không bỏ dở việc học hành vốn đem lại niềm vui ngay cả khi sự chết thỉnh thoảng đã cất tiếng gọi tôi từ lòng đất. Tạp chí Văn TPHCM – Số 84 tháng 10/1998

95


Về một người đã qua đời Riêng gởi Đoàn Đại Oanh

Đêm đêm, anh vẫn ngồi bên trang bản thảo, góp đời mình xây đắp một con đường không ô nhiễm giữa cuộc mua bán ồn ào. Vài năm sau, khi tôi trở về, anh không còn ngồi như thế nữa. Công trình còn dở dang dưới ngọn đèn ánh sáng trắng, khu vườn đêm những vì sao lẻ loi nhưng tác giả công trình đã nằm vào lòng đất im lặng. Có lẽ không cần phải nói thêm về anh, một đời người vô danh trong hàng triệu người vô danh khác. Ngay cả vành khăn tang cũng đã được thu xếp lại từ lâu dưới đáy vali. Trước cuộc đời mênh mông, anh chỉ là tiếng mưa đêm lặng lẽ. Nhưng vì sao tiếng mưa đêm cứ thánh thót ngoài hiên, thánh thót trong lòng bạn bè? Cứ như thế cho đến lúc một sự thật xuất hiện: Vì anh muốn tìm hạnh phúc trong khi chia sẻ hạnh phúc, nên một đời người vô danh như anh vẫn là hạt mầm của cuộc đời rộng lớn. Và tôi nhận ra: Bạn bè anh đã nuốt nước mắt vào bên trong để nuôi sống hạt mầm đời anh đang lớn dậy.

Tạp chí Văn TPHCM – Số 84 tháng 10/1998

96


Ghi lại lời nói của một người anh

Thuở mẹ cha còn sống, anh em chúng ta cùng ở một mái nhà chung, cùng ngồi quanh bữa cơm chung. Rồi chúng ta lớn lên, mỗi người mỗi mái nhà riêng, mỗi bữa cơm riêng, như thể chưa bao giờ chúng ta cùng sinh ra từ một cha, một mẹ. Nhưng có phải con người chẳng ai tránh khỏi hành trình sum họp ly tán này chăng? Chỉ có điều, đừng quên chúng ta đã đến đây từ một nguồn gốc thân yêu. Các em ơi, còn một mái nhà cũ, hãy ngồi xuống đây, phân chia cho đồng đều, đừng gây gổ. Đừng để thịt đánh thịt, đừng để máu đánh máu. Tạp chí Văn TPHCM – Số 84 tháng 10/1998

97


Chiếc cầu thang và một lối đi Chiếc cầu thang mầu gỗ cũ ấy thường dẫn tôi bước lên căn gác em trọ học Nơi đây, giữa đêm tối mênh mông tôi gặp một khung cửa ánh sáng cả một thời thanh xuân trong đôi mắt em dịu dàng Nơi đây, mọi sự vật kể cả chiếc áo cánh, sách vở và bông hoa chưa nhuốm mầu thảm kịch. Chiếc cầu thang mầu gỗ cũ ấy đã dẫn tôi rời khỏi thế giới êm đềm bước trở lại con đường đời không ngừng biến động Bao nhiêu năm, bao nhiêu nước mắt nụ cười vẫn không thể xóa nhòa trong tôi hình bóng một lối đi về tình em và vẻ đẹp. Lối đi về tình em và vẻ đẹp tôi đã đi và sẽ còn đi tiếp ở ngày mai Nếu không, làm sao tôi tránh khỏi rơi vào vực thẳm. Báo Thanh Niên tháng 11/2008

98


Gặp lại người bạn cũ Thị xã của một quá khứ khai hoang trong gió rét, đất đỏ lật lên như máu và thịt của những người tạo ra những cánh đồng hoa với niềm hy vọng Hy vọng vẻ đẹp sẽ đem lại đồng tiền và những gì cao hơn đồng tiền Nơi ấy, trong những năm đến tạm trú tôi đọc thấy một điểm chung giữa tâm hồn tôi và tâm hồn người. Thị xã của ngày tôi trở về sau nhiều năm đi xa mùa xuân sáng lên trên đôi mắt người bạn cũ Trong quán cà phê ven hồ nước, anh bảo anh đã thoát ra khỏi vòng vây cơm áo nhưng trước mắt, chân trời kiến thức còn ở phía xa như một hy vọng xa vời Làm sao đến đó để tìm ra hạnh phúc? Nếu con đường kiến thức sẽ đem lại hạnh phúc, xin anh cứ tiếp tục tiếp tục ngồi giữa đêm khuya trước ánh sáng màn hình vi tính Còn tôi, vì còn quá ít thời gian đời người tôi sẽ đi theo lối khác để đến với hạnh phúc. Báo Thanh Niên tháng 12/2008

99


Tâm hồn Tặng Trần Hữu Lục

Phố mùa đông – Tranh Đinh Cường

Căn nhà người bạn năm nào ở Đà Lạt Lối đi rợp tiếng thông reo, hoa quỳ vàng Tâm hồn người được tạo bằng màu trời và hy vọng L. ơi L. ơi! Tiếng kêu ấy vẫn bao nhiêu năm Kêu ngoài khung cửa sắp mở rộng Kêu trong ký ức Nếu hy vọng, sau bao năm chiến tranh và thị trường ồn ào chịu cảnh lấm lem Chúng ta sẽ biến tâm hồn mình thành chiếc khăn tay lau sạch bụi bặm.

100


Đất và nước Quê và nhà Nguồn gốc gian nan ấy sao lại có những người con Không nguôi lòng yêu mến Chúng ta nhận lấy vinh dự là những người con của đất và nước của quê và nhà L. ơi L. ơi! Tâm hồn những người con ấy dài hơn khoảng cách bảy trăm cây số. Quy Nhơn - 2009 Tập thơ Lãng Du - Trần Hữu Lục 2013

101


Ghi chép trong một chuyến tàu

Vì sao cùng chung toa tàu gần hết cuộc hành trình anh vẫn không thể tìm ra một lời để nói với người bên cạnh mình Không thể tìm ra lúc lặng lẽ nhai phần cơm hộp dưới ánh đèn mờ lúc choàng lên người tấm chăn đơn trước gió lạnh lúc uống rượu một mình với nền trời sao lặng yên ngoài khung cửa kính. Vì sao như thế, anh thầm hỏi và nhìn lại quanh mình Cuộc phô trương ồn ào của những kẻ học đòi các kiểu cách trưởng giả vẫn chưa kết thúc như thể muốn che giấu mình là con của một người mẹ nghèo khó.

102


Vì sao như thế, anh thầm hỏi nhưng ở cuối toa tàu đã vọng lên tiếng nói của một người đồng hành: Khác với cảnh đời giàu có, kiểu cách trưởng giả chỉ là những phế liệu bên dòng thời gian chỉ đem lại những món hàng cũ kỹ sau khi tái chế. Mai sau, tôi có thể trở nên người giàu có nhưng chẳng bao giờ quên nguồn gốc nghèo khó của mình. Chẳng bao giờ, anh đồng tình tự nhủ và bước xuống sân ga Bên những ngọn đèn khuya, quê hương còn đứng đợi. Báo Xuân Thanh Niên Đinh Hợi 2007

103


Mẹ tôi và em

Mẹ tôi và em, hai người dường như chẳng khác gì nhau Hai người cùng cho tôi những bữa cơm suốt chặng đường đời Mẹ trong thời ấu thơ Em trong những tháng năm còn lại. Mà em và tôi không cùng sinh ra từ một lòng mẹ Tôi lớn lên dưới nền trời phương Bắc, em xuôi ngược ở phương Nam Chỉ vì những bước đổi thay đã xích chúng ta gần lại đã đặt lên vai em thêm nỗi nhọc nhằn.

104


Đêm mùa xuân nào, em ngồi nhìn ra những cánh hoa thắm tươi trong gió rét thầm hỏi vì sao nỗi nhọc nhằn đã có lúc chuyển thành niềm vui. Ý nghĩ của em, tự do của em Tôi không thể nào ngăn cản. Thế nào rồi cũng đến ngày em sửa soạn cho tôi bữa cơm cuối cùng Và tôi không thể nói đôi lời vĩnh biệt Mai sau, dù mênh mông trong vũ trụ mênh mông Tôi cũng nương theo hương vị của dưỡng chất để đi tìm em như đã tìm ở quê nhà mặt đất. Báo Xuân Thanh Niên Kỷ Sửu 2009

105


Trở về Thị trấn bên dòng sông ngày tôi trở về hoa vàng tươi khắp nơi nhưng em đã chuyển nhà đến nơi nào không rõ Lẫn trong tiếng mưa phùn dường như có tiếng rạn vỡ của một gạch nối gạch nối giữa tôi và những người đang xuôi ngược trên đường. Từ đây, với vết rạn nứt này tôi không còn nhịp cầu nào để đến với cuộc sống với một tâm hồn nghèo nàn vẻ đẹp, làm sao tôi giữ được tình em? Hay tôi phải mở một cánh cửa cho ký ức tôi về phía hiện tại để thấy căn gác em trọ học năm nào vẫn còn thấp thoáng dưới nền trời chiều nay để biết ngọn đèn khuya năm nào vẫn còn soi rõ cho chúng ta một sự thật Thảm kịch sẽ diễn ra khi đồng tiền lên ngôi thứ nhất. Có phải vậy không, xin em hãy trả lời tôi để tôi được bình tâm đi tiếp chặng đường đời còn lại. Báo Xuân Thanh Niên Canh Dần 2010

106


Về một nhà thơ mới qua đời Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, Nhà thơ Văn Hữu Tứ - Bửu Chỉ ký họa “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt. Các tập thơ đó đồng thời cũng là tự sự về một phần đời anh như Văn Hữu Tứ đã suy nghĩ trước khi xuất bản. Suy nghĩ của anh làm nhớ lại những năm Văn Hữu Tứ còn bước đi dưới nền trời của tuổi thanh niên. Trước năm 1972, thầy giáo Văn Hữu Tứ đã từng thể hiện lòng yêu nước yêu người trong những bài thơ được lưu truyền trong một số người bạn. Tập thơ “Dưới bóng cờ cách mạng” của Văn Hữu Tứ và Nhất Huy đã ra đời trong bối cảnh đó mà sau này, tập “1000 năm thương nhớ” nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long trích đăng lại một bài thơ trong đó của anh.

107


Giờ đây Văn Hữu Tứ nằm lặng im sau khi đã ngược xuôi trên những chặng đường đời, lặng im như cõi vĩnh hằng. Sắp tới, mỗi khi nhớ lại chút hơi ấm trong bàn tay Văn Hữu Tứ với những cái bắt tay thường nồng nhiệt, những người bạn của anh có lẽ không còn cách nào khác ngoài việc lật lại những trang thơ của một người đã qua đời. Nơi đó, Văn Hữu Tứ đã hóa thân trong những dòng chữ của ngọn đèn khuya, gian nan và vinh hiển. 1h khuya, 14.7.2011 Lê Văn Ngăn Sông Hương, tháng 08/2011

108


Ảnh kỷ niệm thi sĩ Lê Văn Ngăn với nhà thơ Văn Hữu Tứ bên dòng sông Hương vào thập niên 90

109


Thủ bút của nhà thơ Văn Hữu Tứ viết tặng thi sĩ Lê Văn Ngăn vào những năm 80 (gia đình thi sĩ Lê Văn Ngăn Lưu giữ thủ bút này và tặng lại cho Văn Quốc Thắng - con trai của nhà thơ Văn Hữu Tứ để làm kỷ niệm)

110


111


112


VẼ LẠI BỨC TRANH CŨ gởi Tôn Thất Lập có những ngọn lửa trên đường tôi đi đã lặng lẽ tắt không dấu vết có những tiếng động trên mặt dòng sông sau buổi chiều biệt tăm rồi bao hình bóng đêm nay tôi trở về nghe âm vang dưới đáy lòng sâu nghe âm vang tiếng chân trên chặng đường khấp khểnh tôi thầm nói thế nào cũng hết bóng đêm vì có một người cùng tôi chờ đợi hãy gió lại trên các phi đạo hãy gió xa hơn các mái nhà tôi nằm nghe tiếng chim kêu đầu bờ ruộng mía tiếng chim bay giữa khoảng đồng không dù những ngọn cờ đêm nay dưới lòng sương rũ dù bóng im che khuất mái hiên nhưng tiếng vang qua trời thịnh vượng là tiếng reo quanh các bến bờ những ánh bóng của một ngày nào ngờ đã chìm sâu dưới nền móng mới 113


nhưng hôm nay tôi trở lại một mình nghe những bánh xe với dấu hiệu khác với hy vọng khác không ngừng chuyển động hôm nay chỉ một mình tôi hát khúc tình ca mà dưới bóng tối của quãng đời lánh nạn anh chẳng còn dịp hôm nay chỉ còn mình tôi ghé lại chiếc quán dọc đường ngồi nhìn ra mấy con đường rẽ cùng nhìn thấy nhau trong lớp bụi mịt mờ hôm nay chỉ còn mình tôi uống vơi dần ly rượu đắng. Tạp chí Ý Thức số 12 tháng 4/1971 - Những bài thơ dưới thời xuân thu: Gồm ba bài thơ viết tặng người em ruột Lê Văn Kịch bài “Giữa khi mưa lưu hoàng đổ”, Nhạc sĩ Tôn Thất Lập bài “Vẽ lại bức tranh cũ”, Thái Ngọc San bài “Nhật ký của cha vinh”

114


Một người mẹ

Mỗi năm, con trở về mái nhà cũ chỉ một vài lần Đôi ngày sum họp, dù ngắn ngủi Cũng đủ thắp sáng ngọn đèn niềm vui đã tắt ngấm trăm ngày giữa lòng người. Tháng giêng, hoa nở trắng cả vườn khuya Nhưng hoa không phải bóng dáng con thường đứng lặng yên bên khung cửa Hoa không phải tiếng con chợt gọi cuối đêm dài. Tiếng gọi của người thân yêu Sẽ đánh thức sự sống đã ngủ yên trong mẹ. Năm nay, mẹ lại ngồi đợi con về Chợt thấy kẻ nghèo khó cũng biết chờ hạnh phúc đến từ một con đường khác với con đường cơm áo. Báo Xuân Thanh Niên Tân Mão 2011

115


Nền trời sao và nền trời sao của em Riêng gửi Hạnh Phước

Nền trời sao trên mái nhà em những năm hai mươi tuổi đã đi cùng tôi qua những chặng đường đời đi qua những năm đầy tiếng nổ chiến tranh đi qua những năm hòa bình khó nhọc. Nền trời sao trên mái nhà em những năm hai mươi tuổi chợt lấp lánh trên cao khi tôi dừng chân bên bờ tuyệt vọng Vẻ đẹp của một thế giới xa xăm, biến ảnh của đôi mắt em đã kéo tôi ra khỏi vực thẳm của nỗi tuyệt vọng này. Nền trời sao trên mái nhà em những năm hai mươi tuổi vẫn thì thầm nhắc lại bên tôi lời em nói hôm nào Em muốn sống một cảnh đời hạnh phúc nhưng chẳng bao giờ vỗ tay cho đồng tiền lên ngôi thứ nhất. Nền trời sao, nền trời sao mênh mông bền lâu cho đời người chúng ta ngắn ngủi. Báo Xuân Thanh Niên Nhâm Thìn 2012

116


Luôn luôn còn vẻ đẹp

Thị xã hoa vàng ngày tôi trở về em đã dọn nhà đi nơi khác Cuộc đời đang ngược xuôi hàng vạn người trên các con đường nhưng cuộc đời vẫn thiếu một người. Qua bao nhiêu thời gian, bao nhiêu cuộc đổi thay có thể chúng ta không nhận ra nhau nếu tình cờ gặp lại Hay sự sống chỉ xích chúng ta gần gũi đôi ngày và sau đó, để chúng ta mãi tìm nhau trong ký ức Khuôn mặt em dịu dàng trong ký ức không thuộc hẳn vào quá khứ Khuôn mặt em dịu dàng trong ký ức thường gửi về chút âu yếm để tôi đủ sức bước tiếp chặng đường hiện tại. để tôi vững tin trong cuộc thế không ngừng chuyển động này luôn luôn còn vẻ đẹp. Báo Thanh Niên Chủ Nhật số 293 tháng 10/2013

117


Hà Nội, năm nào… Tặng Trần Lê Tuấn

Năm nào, Hà Nội trời rét. Lá lóng lánh mưa dưới ánh đèn có ai gọi mình ở Thụy Khê mắt kính, nụ cười và bạn Chất đắng ngọt ly cà phê uống ba năm trước ba năm sau còn nhớ vị ngọt chúng ta đã xích lại gần nhau vì thế, vì chất đắng ngọt Muốn vẽ lên nền trời đêm một vì sao không phải của thiên nhiên nhưng của con người Muốn vẽ thêm một hình ảnh của vô hình lên những gì cầm nắm được bông hoa trên mặt bàn còn thấp thoáng một điều gì khác Muốn một ngày mai mọi người đều là bạn Ngày mai… dù ngày mai xa hơn cả đời mình… Tạp chí Thơ, số 09/2014

118


Quy Nhơn Gửi bạn tôi

Gửi bạn tôi một chiều nơi lữ quán xa xôi Thiếu người bạn thân, ly cà phê tẻ nhạt Vài đóa hoa lạnh lẽo cuối phòng. Gửi bạn tôi khung cửa sổ nền trời sao ngọn đèn khuya những dòng chữ mới Vì nỗi buồn không thể xích hai người lại gần nhau trong trí nhớ, nên mỗi ngày, ở hai nơi cách xa mỗi chúng ta đều níu đời vào công việc. Công việc của những đời người còn quá ít thời gian có lúc đặt chúng ta trước cuộc lựa chọn Đôi khi, tiếng khóc của một đứa bé mới ra đời giúp chúng tay cầm lấy tao nôi như cầm lấy một lý do để sống. Cuối cùng, gửi bạn tôi một cành hoa sứ cành hoa ngỡ đã chết dưới nền trời giá rét bỗng nở hoa trong mùa hạ đang về. Tạp chí Thơ, số 09/2014

119


Kỷ niệm

Có thật không hả Phượng có thật hay không mối tình chúng ta mấy mươi năm trước. Có phải thuở ấy, vì muốn thoát khỏi bóng tối của thời vua quanchúng ta đã tìm đến nhau tặng tôi chút ánh sáng mỏng manh của thơ và mộng xây đắp một nơi trú ẩn êm đềm. Thương xót cho chúng ta đã không thể trú ẩn lâu trong thế giới ảo ảnh này Ngày ngày, bên ngoài khung cửa sổ đám lái buôn và kẻ xâm lược vẫn nới rộng thị trường xương máu Cuối cùng, trước những lay động của sự thật ảo ảnh đã rơi khỏi tâm hồn chúng ta như lớp vôi trên bức tường cũ

120


Giờ đây, sau mấy mươi năm xa cách Phượng đang sống nơi đâu? Dẫu sao, cũng xin cảm ơn Phượng đã giúp nhau đi những bước đầu đời Không xẩy chân rơi vào vực thẳm Xa xôi, mong Phượng tìm ra một mái gia đình một lối đi về hạnh phúc và dĩ nhiên, chúng ta đã quá nhiều đắng cay để nhận ra hạnh phúc không thể khởi đầu từ ảo ảnh. Tạp chí Thơ, số 09/2014

121


Quà tặng lớn nhất

Cha đã biến tất cả sức lực của mình thành quà tặng cho con làm hành trang bước lên đường đời cho con áo cơm, ngọn đèn, trang sách, những vì sao ngoài cửa sổ. Với những hành trang đầu tiên nầy con rời mái nhà cũ, đi về phía chân trời xa, gặp thêm con người. Dọc theo dòng thời gian, trong tiếng chuyển động của lịch sử con được nhận thêm quà tặng khác con được ngồi lại gần những người trung thực bước xa những kẻ ngụy tín Ly rượu những chiều hôm nơi quán trọ thường lấp lánh mồ hôi không phải của con.

122


Cha còn cho con một đôi mắt, một tiếng nói để nhìn thấy và diễn đạt chiều dài của niềm hy vọng Đôi khi con phải hy vọng về một ngày mai xa hơn kỳ hạn một đời người để có lý do sống qua những ngày khó nhọc, mưa nghiêng và gió rét thổi. Cha, một người bình thường như nhiều người bình thường khác vì sao cha biết vạch cho con một lối đi giữa bông hoa và vực thẳm Câu hỏi nầy Con chỉ biết lấy tình thương lớn lao nơi cha để tìm ra lời giải đáp. Tạp chí Văn Nghệ, Xuân Nhâm Thìn 2012

123


Thư cuối năm gởi mẹ

Từ nơi xa, con gởi về tặng mẹ vài trăm nghìn để mẹ ra khu chợ ven sông mua chiếc áo mới, chiếc khăn quàng mới Đi dưới cơn mưa phùn mẹ sẽ nhớ lại mình đã có một thời thiếu nữ Những chàng trai từng tán tỉnh mẹ đẹp hơn những bông hoa bây giờ sống chết ở phương nào. Con gởi mẹ vài ngọn lửa con gặp dọc đường đi xa mẹ Xin mẹ đặt trái tim mình gần ngọn lửa để biết trái tim cuộc sống luôn giữ độ nồng nàn. Con gởi mẹ một miền ký ức để mẹ nhìn lại lối đi khúc khuỷa của mùa xuân Trước lúc hoa nở trên đời là tiếng thở dài trong đêm vắng.

124


Cuối cùng, con gởi mẹ niềm vinh dự về đứa con mình Sinh ra từ một mái nhà nghèo khó, nhưng tâm hồn con không nghèo khó Qua tâm hồn không nghèo khó này, con đã nhìn ra bóng dáng con người Bất cứ ai, dù mới bước lên đường đời hay đã ở cuối đời vẫn giấu kín trong lòng niềm hy vọng về một ngày mai đẹp hơn. Tạp chí Thơ, số 09/2014

125


Một buổi chiều mùa hạ Hoa phượng những năm chúng ta còn trẻ tuổi và hoa phượng buổi chiều nay vẫn nguyên một màu thắm tươi dưới nền trời mùa hạ Hoa không đổi thay như thể để chứng kiến người qua lại trên đường không ngừng thay đổi. Cả em và tôi, chúng ta đã không ngừng thay đổi Mới hôm nào còn thanh niên giờ đây đã rời xa thời trẻ tuổi Bao nhiêu sức sống trong người cứ tan dần vào sự lớn lên của quê nhà những năm chiến tranh những năm yên ổn Cuộc chuyển hóa nào cũng vậy, kể cả cuộc chuyển hóa vì tình yêu cũng kèm theo niềm hân hoan lẫn tiếng thở dài vọng về trong gió. Trăm năm sau, mùa hạ có lẽ vẫn niềm hân hoan và tiếng thở dài như thế Trăm năm sau, chúng ta sẽ không có mặt giữa người qua lại trên đường chỉ thấp thoáng vài dấu vết trong màu hoa không thay đổi. Báo Thanh Niên 06/2005

126


Những cánh hoa màu trắng Nơi ấy, mái nhà hai vợ chồng người bạn cùng những đứa con nơi các vật dụng thường ngày được thu xếp gọn gàng đằng sau cánh màn và phòng khách mỗi ngày vẫn sáng tươi những cánh hoa màu trắng. Đêm nào, người chồng trở về từ tòa soạn báo mệt nhọc khẽ cười: vì đã trải qua những năm tháng nghèo nàn nên giờ đây chúng ta muốn sống một cảnh đời tươi sáng. Dưới ngọn đèn đêm cảnh đời sáng tươi trong hoa, trong mâm cơm thanh đạm trong viễn cảnh những đứa con sẽ lớn lên với ý nghĩ và tâm hồn ngay thẳng. Chúng ta nhìn thấy vẻ đẹp trong cảnh đời sáng tươi Còn những kẻ biển lận, chỉ thấy vẻ đẹp trong đồng tiền bẩn. Nơi ấy, tôi thường trở về tạm trú đôi ngày để được sống êm đềm bên vẻ đẹp để biết số đông trong cuộc đời là người lương thiện. Báo Thanh Niên 10/2005

127


Một đêm gió rét

Gió rét không ngừng thổi dưới nền trời đêm và nơi thị xã nhiều hoa dã quỳ này, tôi chỉ còn một người bạn Tôi sẽ đi thêm vài chặng đường trước khi gặp ánh sáng mái nhà và hơi ấm. Hơi ấm từ những năm cùng chung nghèo khó gian nan chung lời khẳng định ngày mai chỉ đẹp hơn khi không còn những kẻ trọc phú Hơi ấm từ chiếc áo len người bạn sẽ lấy ra từ đáy rương xưa từ ly rượu của mấy mươi năm biết nhau còn sống sót. Gió rét không ngừng thổi dưới nền trời đêm lạnh lẽo trong tôi một nỗi sợ hãi Theo dòng thời gian, khi những người bạn thân đã lần lượt qua đời tôi biết tìm nơi đâu để sưởi ấm tâm hồn. Báo Thanh Niên 03/2006

128


Tình muộn

Ngày tôi trở về bên dòng sông Hương tuổi không còn trẻ nữa thầm nghĩ nếu tình cờ gặp lại em có lẽ chúng ta sẽ không nhìn nhau bằng ánh mắt ngày trước không nói với nhau những lời như ngày trước. Ký ức tình yêu cứ sáng lên trong niềm hư ảo riêng còn trong đời thực, chúng ta chỉ sống với chuyện bình thường Có lẽ chúng ta sẽ nói về chuyện mái nhà cuộc sống hằng ngày và con cái chẳng hạn, đứa bé lên cơn sốt giữa đêm khuya, nhiệt kế lấp lánh mầu sợ hãi ngày gió bấc sắp về chiếc khăn len cần mua sắm. Có phải trong những chuyện bình thường này vẫn thấp thoáng một điều gì gần như vẻ đẹp gần như nước mắt lẫn nụ cười.

129


Cuối cùng, có lẽ chúng ta sẽ hỏi nhau về hạnh phúc để em lặng im trong gió như thời hai mươi tuổi thay cho câu trả lời. Thôi vậy, đến một tuổi nào đó chúng ta biết tìm ra niềm vui khi biết sống vì người khác biết giấu tiếng thở dài của riêng mình. Chúng ta còn biết: với thời gian đời người còn quá ít kể từ đây chúng ta khó lòng gặp lại nhau thêm lần nữa. Báo Bình Định tháng 4/2003

130


Từ biệt

Trái tim tôi đã đầy ắp những nỗi lo lắng về đồng tiền dù em rất đáng yêu, nhưng tôi không thể nói yêu em tôi sợ cuộc sống chung dưới mái nhà thiếu thốn tình yêu sẽ biến thành thảm kịch Bông hoa và giấc mộng vàng sẽ biến thành lời cãi vã chúng ta nên dừng lại ở buổi chiều đi bên nhau lần cuối cùng này dư âm ngày vui qua chưa đến giờ tàn úa nếu chúng ta bước thêm một bước qua khỏi lằn ranh có thể hạnh phúc và tuyệt vọng sẽ mở ra cùng một lần Chúng ta nên dừng lại bên ly cà phê cuối cùng này đằng xa, một cảnh đời dịu dàng như mắt em đang đợi chờ em còn tôi sẽ những đêm khuya một mình và nhớ lại. Các nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20

131


Nhớ về một người nhạc sĩ đã qua đời

Anh được tặng những vòng hoa lúc chết và thuở sinh thời, anh sống giữa những ánh mắt nghi ngờ Người nầy nghi ngờ anh khuynh tả Người khác nghi ngờ anh khuynh hữu Giữa hai đối cực nầy, anh tìm đến những người bạn ở đường Hàng Me hay trước cửa Hiển Nhơn như tìm đến một nơi trú ẩn êm đềm. Những đêm khuya nào trên căn gác nhỏ anh nằm lắng nghe những tiếng động từ lịch sử vọng về hướng lòng mình về quê hương đang ngẹt thở dưới bàn tay kẻ xâm lược Dường như có tiếng ai kêu cứu có tiếng ai nguyện cầu có tiếng ai hy vọng. Và anh đã đặt niềm hy vọng nầy vào tác phẩm hy vọng một ngày mai, tự do sẽ đến bẻ gãy xích xiềng hy vọng vết thương giữa lòng người sẽ mau lành lặn.

132


Giờ đây, mầu ảm đạm của nghi ngờ có lẽ đã tan biến nhưng anh đã đi vào cõi khác, rất gần và cũng rất xa miền quê cũ Trong tiếng hát những bài hát của anh, dường như có cả vị nồng nàn của hơi ấm Hơi ấm này Có lẽ sẽ sưởi ấm tâm hồn anh đã có lúc lạnh lẽo. Sài Gòn, tháng 08/2014

133


Như tiếng thì thầm vĩnh biệt Khi hay tin Lê Văn Ngăn mất

Họa sĩ Đinh Cường vẽ nhà thơ Lê Văn Ngăn

Và người thi sĩ ấy đã rời xa bếp lửa bếp lửa ngày xưa của mẹ như Nguyễn Xuân Thiệp cũng luôn nhắc đến bếp lửa ở Vỹ Dạ thời thơ ấu và Vương Phủ người thi sĩ ấy đã ra đi. tới phương trời nào ôi những phương trời xưa Huế, Đà Lạt đầy sương mù chúng ta đã có một thời gặp nhau để nghe người thi sĩ ấy đọc những câu thơ như văn xuôi của mình

134


giờ gặp lại nhau chắc Xuyến sẽ không nhìn ra tôi nữa con đường đi qua cầu nửa khuya bao giờ cũng gần nhưng con đường đi qua dấu lửa binh sẽ xa vời như nước mắt như lời Xuyến nói trong gió như bước chân Xuyến vũng nước mưa trên sân trường như đôi guốc quai nhung đỏ như tiếng thì thầm vĩnh biệt… (1) với giọng Huế trầm buồn rất Lê Văn Ngăn dạo đó chàng hay mặc chiếc áo ka ki vàng khuôn mặt luôn tư lự. dưới lớp da ngăm đen cả những tháng ngày lang thang Đà Lạt cùng Hoàng Đăng Nhuận. Nhuận vẽ Những người đi mua không khí khi chiều xuống Nhuận bán cà phê trên mấy bậc cấp rạp xi-nê Hòa Bình người thi sĩ luôn đứng về phía những người nghèo khó luôn làm những bài thơ Viết dưới bóng quê nhà đã ra đi tại Quy Nhơn. Quy Nhơn thành phố mang nhiều kỷ niệm của những bạn bè. Quy Nhơn và mây núi bay xuống thấp. và sóng biển ru chàng ngủ. người thi sĩ ấy đã rời xa chúng ta để đi đến những con đường trong các xứ sở lạ mặt (2) Đinh Cường - Virginia, February 3, 2015

135


-----------------(1) Xuyến Và Vĩnh Biệt - Lê Văn Ngăn, trích trong Thơ Tự Do Miền Nam Thư Ấn Quán 2008, trang 231. (2) Câu Bửu Ý trích của Rilke – Lê Văn Ngăn “Viết dưới bóng quê nhà” Ngày tháng thênh thang - Nhà xuất bản Văn Học 2011, trang 263. * Nhà thơ Lê Văn Ngăn sinh ngày 15/1/1944 tại Quảng Điền - Thừa Thiên mất ngày 27/2/2015 tại Quy Nhơn. Những tập thơ đã in:

 Vào Một Thời Im Bóng (1974)  Viết Dưới Bóng Quê Nhà (2008)  Thơ Lê Văn Ngăn (2015) Tạp chí Sông Hương 03/2015

136


Viết dưới bóng quê nhà Nguyễn Xuân Thiệp

Trong bài tản văn Từ Một Bếp Lửa, hồi tưởng lại thời thơ ấu, mình đã viết những dòng sau đây: “Có thể nói không gì ấm cúng, thân yêu bằng bếp lửa của mẹ. Nó là hình ảnh của ấu thời tôi, và có lẽ cả ấu thời các bạn nữa. Và phải chăng mỗi khi cảm thấy chới với trên đường đời, ta lại tìm về bếp lửa ngày xưa ấy. Tìm về để được thấy an ủi, tin tưởng hơn, hầu cất bước đi tiếp trên con đường chông chênh của kiếp người”. Đúng vậy, có một người cũng khởi đi từ một bếp lửa như thế. Đó là nhà thơ Lê Văn Ngăn (bạn một thời của Nguyễn vừa mới ra đi. Ôi, Ngăn ơi!). Bửu Ý cũng viết: "Lê Văn Ngăn ra đi từ "bếp lửa", cái đốm lửa hồng là điểm giàu giữa một bức tranh từng nuôi nấng anh, luôn đeo đẳng anh suốt dặm đường dài và nhắn nhủ anh sớm sớm quay về." Quả có thế, Lê Văn Ngăn suốt cuộc đời mình đã đi lại nhiều lần trên những con đường quen thuộc, và anh đã chọn Viết Dưới Bóng Quê Nhà. Anh lưu luyến bên bếp lửa của mẹ, bếp lửa của quán cà phê chị Sáu ở Đà Lạt, ánh đèn trên khung cửa sổ của nhà người yêu, hay cơn mưa khuya trên đường vắng, hay bóng ngày trên ngọn bạc hà cao. Như trên có nói, Lê Văn Ngăn là bạn một thời của Nguyễn. Thuở ấy, những năm tháng ở Đà Lạt, có nhiều đêm cùng Ngăn đi lang thang ở khu Hòa Bình, ghé vào quán cà

137


phê hoặc quán rượu, mãi tận khuya mới trở về căn nhà của Nguyễn trên đường Nguyễn Trường Tộ. Vừa đi, vừa đọc thơ. Có đêm, không biết Lê Văn Ngăn hái từ đâu một cành dạ lý hương đem về phòng. Tới khuya, mùi dạ lý tỏa nồng nặc, chịu không nổi, mình phải trỗi dậy, ném cành hoa ra ngoài cửa sổ. Lần khác, Nguyễn từ những con đường đất đỏ đầy gió của Pleiku, Kontum trở về, mang theo mười bài thơ vừa làm. Một đêm ở nhà Nguyễn Quang Tuyến, lúc mọi người trong nhà đã đi ngủ, Nguyễn đọc cho Lê Văn Ngăn nghe mấy bài, trong đó có Tôi cùng gió mùa dài trên trăm câu. Nghe xong, Lê Văn Ngăn kéo mình nhảy rào (vì cổng nhà Tuyến đã khóa) ra phố lang thang. Trên đường đi, Ngăn chỉ nói một câu: Một bài thơ lớn không thể chỉ gồm có bốn câu hay tám câu. Thuở ấy, Nguyễn từng yêu những bài thơ phiêu lãng của Ngăn: Ví dụ một vẻ tàn phai, Bên hồ Thủy Ngữ, Đường hoa khế, Mái nhà... Ở những năm tháng thanh xuân ấy, thơ Ngăn mạnh mẽ, bềnh bồng. Đôi người bạn ở sau vườn dưỡng khí Ngày thanh niên hoa khế rụng bên đời Ngồi nhớ lại con đường không giới hạn Nắng lòng tôi em đem áo ra phơi Tôi về đây đốt điếu thuốc nghiêng nghiêng chiều lửa đỏ ngày trên cao reo mấy ngọn bạc hà

138


Giờ đây, như mình đọc thấy trong Viết Dưới Bóng Quê Nhà, thơ Lê Văn Ngăn như đằm xuống, lắng sâu hơn vào những hình ảnh bình thường của đời sống. Ít nhiều, Ngăn đã tìm thấy ở đó sự an ủi và yên phận. Một thứ hạnh phúc buồn. Nhắc đến Lê Văn Ngăn mình vẫn còn một điều không yên trong lòng. Ấy là cách đây hơn nửa năm, Lê Thị Huệ của trang Gió-o nhắn cho biết Lê Văn Ngăn muốn xin địa chỉ của mình để liên lạc. Do bận việc và bản tính thờ ơ biếng nhác, mình cứ chần chừ cho tới một hôm đọc Thanh Niên Online thấy tin Lê Văn Ngăn bệnh nặng phải nhập viện. Mọi sự như vậy là đã trễ chỉ còn đọc lại trang thơ của bạn nói về một mùa hè và màu hoa phượng. Hoa phượng những năm chúng ta còn trẻ tuổi và hoa phượng buổi chiều nay vẫn nguyên một màu thắm tươi dưới nền trời mùa hạ Hoa không đổi thay như thể để chứng kiến người qua lại trên đường không ngừng thay đổi. Cả em và tôi, chúng ta đã không ngừng thay đổi …. Trăm năm sau, chúng ta sẽ không có mặt giữa người qua lại trên đường chỉ thấp thoáng vài dấu vết trong màu hoa không thay đổi. Hôm nay, giữa khi thunderstorm kéo qua bầu trời, hoa hải đào như phượng nở đỏ ở thành phố Garland, Nguyễn xin gởi đến cái bóng của bạn mình ngày xưa những

139


tình cảm quý mến của người ở xa. Có bao giờ, Ngăn và Dao Ca về ngồi lại trên bờ biển Quy Nhơn, trong đêm mơ hồ những ánh lửa cô đơn, đọc lại những câu thơ ngày nào. Và tưởng tượng... gió mùa gió mùa thổi qua thổi qua thổi qua những biên thùy rào cản những ước định của người những tấm lòng phân chia biên giới những màu da những dòng nước mắt gió mùa gió mùa thổi qua thổi qua Nguyễn Xuân Thiệp Tháng 08/2015

140


Sau chiến tranh - Nhạc Phan Ni Tấn

141


142


143


Nhớ Lê Văn Ngăn cách đây 42 năm

P

Hôm ấy, sau giờ tan sở, tôi chạy thẳng xuống nhà Thế Vũ (tác giả Những Vòng Hoa Ngụy Tín) dưới xóm Rọc, Nha Trang nói mai tôi đi Đà Lạt có chút việc, ông muốn nhắn gì với nhà thơ Lê Văn Ngăn không. Vũ mau miệng “chờ chút” rồi lẹ làng ngồi xuống bàn hí hoáy vài dòng, xong với tay lên kệ sách rút ra cuốn album cũ mèm lấy một tấm hình Vũ chụp trên cầu Xóm Bóng nhét vào túi áo nhà binh (treilli) của tôi nói nhờ ông đưa giùm cho Ngăn. Lúc ra về Thế Vũ hỏi chừng nào về lại, tôi đáp tuần sau. Vũ nhắc: “Tới nhà Ngăn nếu không gặp thì ông cứ tự nhiên mở cửa vô chờ Ngăn về. Nhà không khóa cửa. Nhớ nghe”. Xế chiều hôm sau lên tới Đà Lạt, tôi đón xe ôm chạy thẳng tới nhà Lê Văn Ngăn. Nói là nhà cho oai chớ thật ra chỉ là căn phòng cho thuê nhỏ đến mức khiêm nhường. Bề ngoài căn nhà coi cũ kỷ nhưng khá lớn, bên trong được ngăn thành nhiều phòng nhỏ để cho thuê. Đúng như Thế Vũ nói, phòng của nhà thơ không khóa cửa. Lúc tôi tới anh không có nhà. Nghe lời Vũ dặn, tôi tỉnh bơ như người nhà mở cửa bước vô. Việc đầu tiên là tôi đưa mắt dòm quanh quất “xem tướng nhà”, thấy trên tường treo một tấm chân dung phong trần mà lịch lãm của bạn tôi, nhà thơ Lê Văn Ngăn. Tôi nhếch mép cười thầm lâu quá anh em không gặp chắc anh sẽ giựt

144


mình khi nhận ra tôi. Coi nào. Phòng tuy nằm ở mặt ngoài nhưng không có cửa sổ. Bốn năm đã xỉn màu. Vách bếp thì ám khói đen kịn, nức nẻ đường dọc đường ngang. Giường ngủ trải chiếu coi bộ cũng ọp ẹp như căn phòng. Cái bàn bằng gỗ tạp, cũ mèm, nhỏ rít, vừa đủ cho một người ngồi, trên để vài cuốn sách ngoại ngữ của Léon Tolstoi, Nietzche, André Gide, Sigmond Freud, Erich Maria Remarque và tập thơ Vào Một Thời Im Bóng của Lê Văn Ngăn mới in bằng kỹ thuật khá tân kỳ multilic trên giấy trắng ngà, bóng láng, chữ rất sắc và đẹp. Tôi thầm nghĩ đồ đạc trong phòng chẳng có chi quý giá, cửa nẻo lại sơ sài, không khóa cũng phải. Tôi thở dài ngồi xuống lấy tập thơ mới in của nhà thơ đất Thần Kinh ra lật lật, ngắm nghía. Đọc chưa tới nửa bài thì Lê Văn Ngăn về. Gặp nhau, lúc đầu anh nhìn tôi còn ngờ ngợ. Tôi xưng tên thì nhà thơ xứ Huế đứng thẳng người, dợm bước tới tay bắt mặt mừng. Ngót mười năm cách biệt rồi còn gì. Tôi đưa thư từ của nhà văn Thế Vũ cho Lê Văn Ngăn, anh lặng lẽ lấy ra xem hình, đọc thư xong từ tốn hỏi tôi về tình cảnh an ninh của Thế Vũ, về sức sáng tác của Thế Vũ so với độ trước ra sao, về những chuyện buồn vui với anh em văn nghệ sĩ Nha thành như thế nào, hỏi thăm Trần Vạn Giã ở Bãi Giếng v.v… Cứ thế chúng tôi đi dần vào câu chuyện văn thơ, lan man về tình hình đất nước. Buổi tối đi ăn đi uống về cũng đã khuya. Ở Đà Lạt, đêm xuống trời rất lạnh, ít thấy bóng người lạng quạng ở ngoài đường. Cái giường gỗ xấu xí kia lâu nay là chỗ ngã lưng của nhà thơ, nay lại thêm thằng bạn thơ nhà binh, nên mạnh ai nấy nằm trở đầu cố dỗ giấc ngủ qua đêm. Tôi nhớ hoài, mỗi lần cục cựa là nghe tiếng giường cằn nhằn, cọt kẹt,

145


rên lên. Ngủ coi bộ chật chội như rứa, ngày hôm sau anh Lê Văn Ngăn đưa tôi tới nhà của nhà thơ Phong Vũ (Lê Xuân Lợi) ở… cho biết tay. Khác biền biệt với căn nhà bình dân của Lê Văn Ngăn dưới xóm lao động, ngôi biệt thự bề thế của nhà thơ Phong Vũ nằm khuất trong những hàng thông xanh thẳm, trên một sườn đồi thoai thoải cỏ xanh. Bước vô nhà, việc đầu tiên tôi nhìn thấy là bức tranh sơn dầu Hội Nghị Diên Hồng của họa sĩ Vị Ý vẽ tặng lúc ăn tân gia, như gia chủ cho biết. Bức tranh rộng chừng 6 thước, ngang cỡ 2 thước, treo trịnh trọng trên vách tường, ánh sáng phía trên mờ mờ, ảo ảo hắt xuống tăng thêm giá trị của bức tranh. Ngoài tranh của Vị Ý, quanh nhà còn có tranh sơn dầu của Trần Hoài, Thân Trọng Minh… Nhà lớn, phòng ốc lớn, giường chõng thênh thang, ban đêm đặt lưng xuống, anh Lê Văn Ngăn và tôi chia nhau hai giường đánh một giấc thẳng cẳng tới sáng bét. Buổi sáng uống cà phê nghe chim hót trên những hàng cây lòng thanh thản lạ thường. Buổi trưa Phong Vũ lái xe chở hai anh em chúng tôi xuống chợ Hoà Bình ăn trưa, ghé cà phê Tùng chưa đã cử, lại tạt ngang Thủy Tạ làm thêm cử thứ hai rồi chạy đi ngoạn cảnh. Đà Lạt và tôi quen nhau từ thuở ấu thời. Tiếng chuông chùa Linh Sơn đêm đêm trôi trong không gian tĩnh mịch cho tới lúc bạc đầu vẫn còn ngân nga trong hồn tôi. Cái Mả Thánh chập chùng bia mộ ở Cây Số Bốn đến nay vẫn cứ lấp loáng trong con mắt già này. Và tiếng thông rì rào dưới Thung Lũng Tình Yêu vẫn không thèm lắng xuống, cứ reo hoài trong cánh gió thời gian. Mỗi lần có dịp ghé lên xứ hoa đào, buổi sáng kéo ra chợ Hòa Bình, cái mùi cà phê nồng nàn

146


đầy quyến rũ cứ len lỏi trong khứu giác chúng tôi. Cà phê Tùng tuy ngon, Thủy Tạ tuy nhàn hạ, nhưng tảng sáng chúng tôi thích la cà quanh các sạp cà phê lộ thiên ngoài chợ Hòa Bình; vừa lom khom thổi hơi nóng vừa rung đùi chiếp từng chiếp cà phê mặc cho những giọt mưa lành lạnh thỉnh thoảng gió đưa lạc trên lưng mình. Sống vài ngày với hai ông nhà thơ xứ Huế, cái máu lính chộn rộn, lấc cấc trong tôi cũng ngoan ngoãn dịu xuống xuôi theo những cử chỉ trầm tĩnh, điềm đạm, chín chắn và chững chạc trên bước đời cũng như trên đường thơ của họ. Lê Văn Ngăn nghèo sơ thì không nói gì; còn Phong Vũ, giàu sang, phú quý như anh lại coi bạc tiền, danh lợi, công danh, sự nghiệp như gió thoảng mây trôi; chỉ có tình bạn, tình thơ là món quà mà người nghệ sĩ chân chính nào như anh cũng luôn trân trọng. Lúc giã từ Đà Lạt trở về đơn vị ở Cam Ranh Bay, tôi mang theo tập thơ Vào Một Thời Im Bóng anh ký tặng tôi như là một hành trang kỷ niệm khó quên. Đó là lần cuối cùng tôi gặp nhà thơ hiền lành này. Lê Văn Ngăn là một thi sĩ có thực tài, nên ngôn ngữ trong thi tứ của anh rất chân thực và bình dị, nhưng thắm đẫm chiều sâu văn hóa của một người có tri thức. Chính cái phong độ chín chắn, mực thước, cái trầm tư, mặc tưởng, cả cái uất ức, éo le…, những cái đó đã đẩy anh vào thế giới thơ với những suy tưởng triền miên. Có thể nói thơ Lê Văn Ngăn là thơ được anh múc ra từ đáy sâu đầy khổ lụy của cuộc đời. Rồi cơn bão thời thế tràn qua đất nước, tất cả anh em văn nghệ sĩ chúng tôi từ ngoài Trung vô tới trong Nam đều như chim vỡ tổ, tan tác mỗi người một phương. Năm

147


1980 ra tới hải ngoại được vài năm tôi được tin nhà văn Thế Vũ mất vì bạo bệnh tại Nha Trang. Từ đó, bạn bè tôi, trong ngoài nước cũng lần lượt trở thành người thiên cổ. Từ nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan, Chu Trầm Nguyên Minh tới nhà văn Mai Thảo, Nguyễn Mộng Giác, nhà thơ Vương Đức Lệ,Thanh Tâm Tuyền, nhạc sĩ Lê Uyên Phương, Nguyễn Đức Quang, tới nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, nhà báo Lê Thiệp, nay được tin của nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên tôi mới biết nhà thơ Lê Văn Ngăn đã ra đi. Lê Văn Ngăn sinh ngày 15.01.1943 (khai sinh 1944) tại Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Lấy tên thật làm bút hiệu. Học trường Quốc Học Huế từ 1961-1964 và học Trường Sư phạm Quy Nhơn từ 1964-1966. Sau khi ra trường dạy học tại Phan Rang một năm thì bỏ dạy, chỉ chăm chú làm thơ. Chính trong thời gian này, anh đã cho ra mắt tập thơ “Trên Đồng Bằng” do một số thân hữu thực hiện, in ronéo vào năm 1972. Sau đó một tập thơ nữa cũng được in tại Đà Lạt, đó là tập “Vào Một Thời Im Bóng” (1974). Sau năm 1975, anh công tác ở Đài phát thanh Huế, sau đó theo gia đình vào Quy Nhơn. Trước khi về hưu anh công tác ở Hội VHNT tỉnh Bình Định. Tập thơ Viết Dưới Bóng Quê Nhà của anh được Hội Nhà Văn xuất bản năm 2008. Cuối cùng là thi tập Thơ Lê Văn Ngăn do NXB Thuận Hóa ấn hành năm 2015. Sau gần hai năm chống chọi với bạo bệnh, nhà thơ Lê Văn Ngăn đã từ trần ngày 27.02.2015 tại Quy Nhơn, hưởng thọ 73 tuổi. Phan Ni Tấn Tháng 03/2015

148


Những kẻ bị săn đuổi – Nhạc Phan Ni Tấn

149


150


151


Vài kỷ niệm với Lê Văn Ngăn Lê Ký Thương

Trước 75, trong giới văn nghệ miền Nam, từ vĩ tuyến 17 đến Mũi Cà Mau, những người mà tôi được biết, hầu hết đều xem như “anh em một nhà”. Chỉ cần một truyện ngắn, một bài thơ đăng trên tờ báo hay tạp chí có uy tín phát hành tại Sài Gòn là được coi như tấm “vé thông hành” mặc sức lang bạt kỳ hồ mà không sợ không có chỗ ăn ngủ. Nhờ thế mà tôi “quen” thơ anh từ giữa thập niên 60 của thế kỷ trước cho đến cuối thập niên, những năm 69-70, tôi mới “biết” anh khi hai chúng tôi gặp nhau ở Đà Lạt. Ai cũng biết Đà Lạt là thành phố nghỉ mát lý tưởng nhất miền Nam, vì thế có một số anh em văn nghệ ở các nơi tụ về đây, hoặc làm khách vãng lai, hoặc dần dần xanh cây bén rễ… Thú thật, ấn tượng đầu tiên của tôi khi gặp là anh có vẻ như một “mệ”, giọng Huế rặt, chậm rãi, rõ ràng… Tôi thấy trong những lần bạn bè văn nghệ bù khú với nhau ở Đà Lạt hoặc Phan Rang, khi hơi men bắt đầu thấm, yêu cầu anh ngâm bài Bên hồ Thủy Ngữ do anh sáng tác và bài Hồ Trường (1) thì anh cất giọng ngâm rất sang trọng, hào sảng, phóng khoáng, và rất mùi. Anh rất mê đánh cờ tướng. Khi tôi còn ở Phan Rang, mỗi lần anh được nghỉ phép từ Đà Lạt đi thẳng về Quy Nhơn thăm người yêu, bận về ghé thăm tôi trọ trên căn gác xép của anh Nguyên Minh. Mỗi lần như thế, anh luôn luôn mang nem chả do nhà người yêu của anh làm để làm quà tặng bạn

152


bè. Sẵn mồi, chúng tôi mua một vài chai bia và bày bàn cờ tướng ra chơi. Anh luôn luôn thắng tôi và lúc nào anh cũng nói một câu như để an ủi người thua: “Ăn thua là sức bền chớ không phải tính nhứt thời”. Nhưng anh thừa biết ngay cả sức bền - tính kiên trì - tôi cũng không có. Tết năm 1976, tôi có dịp ra Huế, anh đưa tôi đến nhà chơi. Tôi nhớ mang máng gia đình anh sống trong một xóm nghèo. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là chiếc xe thồ hàng hóa do sức người kéo đẩy nằm chổng gọng trên một góc sân dưới cơn mưa dầm thúi đất năm đó. Tôi liên tưởng đến một bài thơ anh làm cho Cha. NGƯỜI PHU XE cha đã lăn cho con những vòng xe mồ hôi chảy xuống lấp lánh mặt trời đọ sức với thiên nhiên cha nghĩ gì về cuộc sống sao mà chằn nếp nhăn sao mà khuôn mặt héo đêm đêm cha về ngủ bằng mồ hôi vàng con tưởng tới người cần lao... nhưng thương yêu thì lỡ dịp đêm xa nhà đốt điếu thuốc ngoài hiên một căn nhà dở tiếng trẻ con khóc ơn sinh thành linh diệu con tiên tri định mệnh bằng điểm khởi hành cha vào đời và hư vô ở đó những bánh xe quay chậm dần. *** 153


Sau này, tôi có một vài dịp gặp lại anh ở quán bên đầm Thị Nại do nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng đèo anh đến bằng honda. (Anh chỉ biết đi xe đạp giống như nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn, người bạn cùng thời và cũng có thời gian sống ở Quy Nhơn). Và một dịp đặc biệt là đám cưới con trai anh chị, cháu Lê Hồ Ngạn, được tổ chức tại Sài Gòn. Lúc đó, tôi mới biết mặt vợ anh, chị “Hạnh Phước, người nữ của thành nhiễu nhương”(2): Nhớ không Hạnh Phước, em đã giúp anh chịu đựng Thị trấn tiêu điều ấy Con đường liên tỉnh ấy Những chiến xa mịt mù bụi đỏ Cũng có khi trời u ám Hàng cây muối trổ bông Và ở tấm màn che hiện em bước ra Chiều mới lại sau giấc ngủ Nhớ không Hạnh Phước em không còn đi trên đô thị ấy … Hôm nào em khóc tức tưởi trên con dốc Lòng anh đây như đồng cỏ mùa xuân Thổi dạt một chiều bất tận Nhớ không Hạnh Phước Chúng ta hẹn cưới nhau sau khi hết chiến tranh Mà lời âm vang theo hàng cây muối còn đưa tới hôm nay Giờ đây tuy tay anh sắp phải dính máu Mắt anh sắp phải dò chừng Nhưng bên kia biên cương thù hận Em đang giữ tấm lòng anh trong suốt …. 154


Đây là một bài trong những bài thơ hay nói lên tâm trạng của thế hệ chúng tôi trong thời tao loạn. ***

Năm 2015, tôi có dịp trở lại Quy Nhơn cùng với nhà thơ Vũ Trọng Quang và nhà thơ Nguyễn Thái Dương - nơi “sóng vẫn đập vào eo biển” như trong tựa một bài thơ của anh, nhưng anh vừa đi chơi xa và chỉ còn thơ “Vào một thời im bóng”(3) là để lại cho đời. Đứng trước di ảnh của anh, chúng tôi thành tâm khấn nguyện hương linh anh sớm vãng sanh cực lạc. Lê Ký Thương Sài Gòn, tháng 9 năm 2019 (1) Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác dịch bài thơ của Trung Quốc (2) Tên một bài thơ của LVN. (3) “Vào một thời im bóng” là tên một tập thơ ấn hành tại Đà Lạt năm 1974 của Lê Văn Ngăn, phổ biến hạn chế trong thân hữu.

155


Nhà thơ Lê Văn Ngăn - Người anh lớn của tôi Võ Quê

Mùa thu năm 1968, tôi được chuyển từ trường Nguyễn Hoàng, Quảng Trị vào Huế học lớp đệ nhất C trường Quốc Học. Từ một tỉnh lẻ vùng giới tuyến, nay được tới đất Cố đô tôi không khỏi có những băn khoăn, bỡ ngỡ, lúng túng lúc ban sơ. Tôi xem đây như một bước ngoặc đầu đời sau mười năm trở lại Huế. Theo tháng năm, tôi thích nghi dần với đời sống Huế, không khí văn chương nghệ thuật Huế đã cuốn hút tôi, và từ đây tôi may mắn được làm quen với nhiều văn nghệ sĩ của thành phố Huế. Thời gian đầu chưa có nơi tá túc, tôi được các anh trong nhóm Việt: Trần Duy Phiên, Trần Minh Thảo, Đông Trình, Tần Hoài Dạ Vũ, Ngô Văn Ban… cho ở chung phòng tại tầng 2 thư viện Đại học Huế, nay là Trung tâm học liệu Đại học Huế trên đường Lê Lợi. 156


Căn phòng này vừa là nơi làm việc của nhóm Việt, vừa là nơi gặp gỡ giới hoạt động trên lĩnh vực văn chương nghệ thuật Huế mà anh Thái Ngọc San, anh Lê Văn Ngăn là hai người thường có mặt trong mỗi lần hai anh về Huế. Và chính nơi đây tôi hân hạnh được gặp mặt nhà thơ Lê Văn Ngăn - người anh lớn của tôi. Quý mến con người anh với những thăng trầm, trải nghiệm gió sương trong cuộc sống, tôi càng yêu thơ anh bởi cái chất phóng khoáng, khinh khoái cùng những trăn trở sâu sắc về người, về đời, về xã hội, về cuộc chiến… được anh thể hiện rõ nét trong tập thơ Vào một thời im bóng ấn hành năm 1974 khi anh 30 tuổi. Sau đó, do hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, tôi không còn dịp được bên anh trong một thời gian dài cho đến sau năm 1975 mới gặp lại anh tại Huế. Với tôi, nhà thơ Lê Văn Ngăn còn là một nghệ sĩ tài hoa trong lĩnh vực diễn xướng thơ ca, âm nhạc. Tôi ấn tượng nhất khi nghe anh đọc những bài thơ do anh sáng tác. Giọng anh khinh khoái, có chiều sâu, rất truyền cảm. Anh đã chuyển tải vào hình thức thể hiện những nội dung hàm súc, sâu sắc giúp người nghe cảm nhận hết thần thái những bài thơ anh đọc. Qua việc đọc thơ của anh tôi đã học phần nào những kỹ thuật cần thiết khi trình bày một bài thơ. Lúc bấy giờ tôi cũng là một trong những người thường tham gia các buổi đọc thơ tại Tổng Hội Sinh Viên Huế, số 22 Trương Định, nay là trụ sở Thành Đoàn Huế.

157


Bên cạnh việc đọc thơ, nhà thơ Lê Văn Ngăn còn hát nữa. Anh hát rất hay! Giọng hát của anh đầy nội lực, khả năng xử lý từng nốt nhạc tinh tế, tự tin như một người ca sĩ chuyên nghiệp. Tôi đã rất chí thú khi nghe anh hát bài Tình ca của nhạc sỹ Phạm Duy. Ca khúc này giai điệu âm nhạc hay, ca từ đẹp, nội dung trữ tình nên rất phù hợp với chất giọng của nhà thơ Lê Văn Ngăn. Nhờ nghe anh hát Tình ca mà tôi cứ nhớ hoài đoạn nhạc có hình ảnh ba dòng sông lớn của nước mình khi nhạc sĩ Phạm Duy rất tài hoa để khái quát đặc điểm, tính chất của ba miền Bắc Trung Nam: “…biết ái tình ở dòng sông Hương, sống no đầy là nhờ Cửu Long, máu sông Hồng đỏ vì chờ mong…”. Khi tuổi đã lớn nhà thơ Lê Văn Ngăn không còn chí thú với chuyện đọc thơ, hát ca khúc nữa nên cũng thiệt thòi cho một số anh chị em quen biết với anh sau này. Những chuyến công tác ở Quy Nhơn, tôi cũng thường ghé nhà thăm anh và chị Hạnh Phước rồi sau đó hai anh em tìm một quán cà phê hàn huyên, tâm sự. Qua những câu chuyện kể, tôi hiểu nỗi lòng đau đáu với Huế quê nhà luôn thường trực trong anh. Một thời niên thiếu hàn vi trong mái ấm gia đình, một thời thanh xuân gắn kết với tuổi trẻ học đường đô thị, một thời phiêu bạt tang bồng trong thời chiến, rồi một thời phải sống xa quê hương sau khi thống nhất đất nước. Và với anh, thời nào thì tình cảm về nơi chốn sinh ra, lớn lên của anh cũng là nỗi nhớ thương vô hạn, sâu nặng nghĩa tình. Tập thơ Viết dưới bóng

158


quê nhà của anh chính là tiếng lòng anh đan kết lại sau nhiều năm tháng. Từ sau những năm 2000, khi anh Lê Văn Ngăn có những dịp từ Quy Nhơn ra Huế tôi may mắn gặp anh nhiều lần. Trước đây, khi nhà thơ Văn Hữu Tứ còn tại thế, làm việc tại nhà hàng nổi Sông Hương, mỗi lần về Huế anh và anh Văn Hữu Tứ thường ngồi với nhau chơi cờ tướng bên dòng sông Hương. Hình ảnh đôi bạn tâm giao ấy giờ vẫn như đang sinh động trước mắt tôi. Và khi nhà thơ Văn Hữu Tứ không còn nữa, mỗi sáng nhà thơ Lê Văn Ngăn ra ngồi cà phê vỉa hè Trương Định cùng chúng tôi. Những câu chuyện kể qua giọng nói chậm rãi khoan thai của anh thu hút nhiều sự chú ý của mọi người bởi nội dung chuyện kể của anh bao giờ cũng thâm trầm, sâu sắc pha chút hài hước rất duyên. Bây giờ người anh lớn của tôi không còn nữa, nhưng tôi hiểu nhân cách và thơ anh vẫn sống mãi trong tâm thức tôi và của nhiều người vốn quý trọng, yêu thương anh và thơ anh. Xin cảm ơn Lê Hồ Ngạn, một hiếu tử luôn chăm chút những trang viết để đời của cha mình! Nhờ con trai, thơ Lê Văn Ngăn đang được lan truyền trên khắp thế gian này từ nay tới muôn sau… Võ Quê

Huế, 5.11.2019

159


Những con chim lửa hoàng hôn Trần Hoàng Phố Tặng thi sĩ Lê Văn Ngăn

Sóng vẫn đập vào eo biển nỗi buồn Mưa lưu hoàng đổ xuống mùa cây trái Bên hồ thủy ngữ hồn xưa trong vắt Con ngựa hí nỗi cô đơn bóng cổ thành Sóng vẫn vỗ vào eo biển thời gian Trên bánh xe quay đều cuộc đời Mùa hoa cúc vàng dĩ vãng Bóng của thời đại bụi khói chiến chinh Sóng vẫn vỗ vào eo biển sự sống Trên cái lưỡi hư không một quê hương cháy Và những thành phố lãng quên Bên cái xác thời gian lặng im trong bóng tối ký ức Sóng vẫn đập vào eo biển các thế kỷ Trên những đỉnh tháp hoang vu Những con chim lửa hoàng hôn chở những giấc mơ Bay vào bầu trời những cây xương rồng Nhả xuống những hạt kinh cổ tự Và những lời ngụ ngôn hư không của gió.

160


Tình nhớ về một thi sĩ-nghệ sĩ Nguyễn Tường Văn

Vào một buổi chiều của năm 1970, anh Đoàn Đại Oanh chạy chiếc honda dame cũ chở theo người thanh niên đến chỗ tôi ở số 2A đường Hải Thượng, thành phố Đà Lạt (lúc ấy thuộc tỉnh Tuyên Đức). Sau khi anh Oanh giới thiệu đôi bên và gợi ý cho anh ta lưu trú lại đây, nhìn diện mạo người thanh niên vui vẻ dáng thư sinh hiền lành nhưng ẩn chứa nét phong trần rắn rỏi, lại tin tưởng chỗ anh bạn Đoàn Đại Oanh đưa đến, không một chút do dự tôi đồng ý ngay. Vậy là tôi kết bạn với thi sĩ Lê Văn Ngăn từ hôm đó. Phòng trọ 2A nơi đầu đường Hải Thượng do gia đình thuê cho tôi và cô em út dưới Phú Yên lên trọ học. Tôi học trường Đại học Văn khoa còn người em học ở Trung học bán công Quang Trung. Giờ có thêm anh Lê Văn Ngăn nữa nên gian phòng chưa tới 15 mét vuông, nếp sinh hoạt trở nên rộn rã. Từ ngày anh đến ở chung, phòng tôi không bao giờ vắng khách. Lúc thì người em ruột Lê Văn Kịch lặn lội từ quê nhà lên thăm trước khi bị bắt lính đẩy ra chiến trận và chết sau đó không lâu, khi thì một người em của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn từ Sài Gòn đánh xe lên nhờ anh Lê Văn Ngăn tìm giúp ông anh Trịnh Công Sơn (vì bấy giờ nhạc sĩ đang ẩn ở Đà Lạt), lúc lại Nguyễn Lệ Tuân của tạp chí Ý Thức (Nam miền Trung) lên ghé qua đêm, rồi anh Ngô Thế Lý (Chủ tịch Sinh

161


viên Phật tử Đà Lạt) tới đặt bài viết cho tập san Tin Tưởng, thêm nhóm bạn sinh viên sắp tốt nghiệp Trần Xuân Phong, Đỗ Văn Nghĩa, Lê Văn Nhất đến bàn bạc rôm rả chuyện sinh hoạt văn nghệ ở Trường Đại học, có khi anh Trần Hữu Lục dạy ở nữ trung học Bùi Thị Xuân, anh Nguyễn Diệp dạy ở trung học Trần Hưng Đạo đưa vài anh em đồng hương Huế đến gặp. Những lúc rảnh rỗi anh Nguyễn Nguyên Phương thường mang rượu đến chuyện trò văn chương nghệ thuật thâu đêm. Và nhiều anh chị em văn nghệ sĩ đó đây biết anh Ngăn đang ở thành phố cao nguyên này cũng tìm lên thăm chơi, bù khú… Thời gian này chúng tôi đều khó khăn, anh Ngăn biết hoàn cảnh vậy nên cùng chia sẻ đạm bạc với nhau. Hàng ngày công việc chỗ đơn vị trở về, trong khi chờ em gái tôi làm cơm anh thường vơ cây guitar gỗ trên tường, lúc không có đàn thì lấy chén, muỗng, đũa làm bộ gõ hát chầu văn, rồi ngâm thơ, có khi cao hứng hát luôn những bài trong tập "Hát cho dân tôi nghe", "Hát cho đồng bào tôi nghe" của phong trào sinh viên tranh đấu, khi thì hát nhạc tiền chiến, nhạc Trịnh làm cho những người có mặt cũng bị lôi cuốn theo. Công tâm mà nói, anh hát quá hay! Bạn tôi, anh Đặng Thái Vân quê Tuy Hòa, sinh viên ban Sử Địa đại học Đà Lạt (sau này là Trưởng khoa Xã hội trường Cao đẳng Sư phạm Phú Yên) xin tôn anh Ngăn làm sư phụ để theo học hát nhưng không thành. Đến tận bây giờ đã nửa thế kỷ trôi qua tôi được nghe nhiều người thể hiện ca khúc "Thuyền em đi trong đêm" của Nguyễn Phú Yên, nhưng chưa ai vượt qua giọng hát của anh Lê Văn Ngăn hồi ấy.

162


Còn về thơ thì giọng anh ngâm tuyệt vời. Những bài như: “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Tây Tiến” của Quang Dũng, “Tống biệt hành” của Thâm Tâm, “Hồ Trường” của Nguyễn Bá Trạc, “Nhà tôi” của Yên Thao, “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan cùng vô số bài thơ khác nữa, hầu như anh chinh phục người nghe một cách tuyệt đối! Có lần vợ chồng nhà văn Thái Lãng và nữ họa sĩ Quỳ chỗ trường Bùi Thị Xuân mời đến nhà dự tiệc, khi tới cao trào thơ phú, thi sĩ họ Lê cất giọng trình bày luôn mấy bài liền. Trong cuộc tiệc nghe anh ngâm ai nấy đều rợn người. Rượu uống theo không khí điệu thơ quá cảm giác, anh dằn cốc men vỗ mạnh xuống bàn, cốc vỡ mẻ chém làm tay bị thương mà không hay mãi khuya về mới thấy đau nhức. Riêng thơ anh sáng tác, tác giả tự đọc rất có hồn. Tôi vô cùng mê thích khi anh ngâm đi ngâm lại mấy sáng tác của anh: Bằng tiếng thoảng qua, Những vẻ vô tăm và nhất là bài Bên hồ Thủy Ngữ, lúc anh thả điệu Hành vân, Lưu thủy tôi chỉ biết "đứng hình" ôm đầu nín lặng thưởng thức trọn vẹn bài thơ rồi thốt lên "quá đã!". Nhờ cạnh nhau và nghe thơ anh nhiều lần nên tôi thuộc luôn mấy bài này. Ở Phú Yên hồi ấy cũng có những giọng ngâm thơ hay, kỹ thuật điêu luyện như: Phạm Cao Hoàng, anh em nhà Nguyễn Đình Quảng; sau này có Ngọc Hà, Vân Phi và một vài nghệ sĩ chuyên nghiệp; nhưng ngâm để người nghe sướng rân phải thốt lên "quá đã" thì chưa. Chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho biết đã từng nổi da gà khi nghe Lê Văn Ngăn đọc thơ trong một chiều mưa ở Đà Lạt! Lớn hơn 5 tuổi anh coi tôi như người em, đi đâu cũng rủ. Nhiều khi chủ nhật trời mưa, chúng tôi đội chung tấm

163


poncho leo dốc đến quầy cà phê bình dân chị Sáu Đô-mi-nô sau khu Hòa Bình nhâm nhi trò chuyện, đánh cờ. Khoản cà phê cũng khó ai vượt qua anh. Ngày có thể uống 6-7 cữ ở chỗ này đến chỗ khác. Hôm nào hết tiền ngồi ở phòng trọ trông ra bầu trời nghe anh kể chuyện quê nhà, về gia đình, về bạn bè, về tình yêu, về nếp sinh hoạt địa phương... Tôi thấy thêm anh Ngăn ngoài tài hát và ngâm thơ hay, giờ kể chuyện cũng hay, rất sinh động. Chỉ mỗi chuyện đốt đồng vào chiều tà sau vụ gặt ở miền quê thời niên thiếu của anh mà khói đốt đồng ấy như còn bảng lảng đâu đây vương qua lòng tôi. Rồi chuyện các món ăn quê hương, như: cơm hến, bún bò... Anh kể trong lúc cạn gạo, cạn tiền chợ làm cho các hạch nước miếng không kềm chế được. Nhưng rồi món nào sau đó anh cũng tìm cách cho tôi "thực hành". Đó là hôm hai anh em bám xe đò về Bảo Lộc xuống thăm vợ chồng nhà văn Ngụy Ngữ. Chẳng biết anh Ngăn có thầm thì gì không mà anh chị Ngụy Ngữ nhiệt tình mời trưa quay lại dùng bữa cơm hến với gia đình. Rồi anh đưa tôi tới thăm nhà văn Nguyễn Đức Sơn (còn có bút hiệu thơ là Sao Trên Rừng thời cuối thập niên 50 thế kỷ trước). Nguyễn Đức Sơn mở quán cơm chay tại nhà. Quán cơm chay được quảng cáo trên vài tạp chí lúc ấy, nhưng rồi thực khách hầu hết là mấy người thân quen và số học sinh Trường trung học Nông Lâm Súc gần đó yêu quý nhà văn bằng đồng tiền học trò nghèo nên... cũng ế ẩm! Hôm đến nhằm chủ nhật vắng vẻ, anh Sơn cử vợ xuống Nhà xuất bản Lá Bối (Sài Gòn) lấy nhuận bút cuốn tiểu thuyết "Cái Chuồng Khỉ" của anh để về đắp qua quán cơm chay. Gặp lại thi sĩ Lê Văn Ngăn, anh Sơn mừng

164


lắm. Anh vừa ru nôi đứa con đỏ hỏn chừng đôi ba tháng đang khóc vừa phập phồng tiếp chúng tôi nơi góc khuất của quán. Hóa ra đối diện bên kia đường là đồn quân cảnh mà nhà văn Nguyễn Đức Sơn thì đang trốn lính. Trưa hôm ấy quay lại nhà Ngụy Ngữ dùng bữa cơm hến rất đúng kiểu Huế nhưng các anh đều thở dài cho tình cảnh Nguyễn Đức Sơn. Rồi có lần nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dịch giả Bửu Ý, ca sĩ Hà Thanh lên Đà Lạt chơi, rủ ăn bún bò Huế. Anh Ngăn làm hướng dẫn viên đưa nhau lên tận cây số 4 tìm cho được quán bún Huế nguyên mẫu của xứ thần kinh mang vào. Từ miếng thịt, sợi bún, độ nóng nước lèo đến rau, ruốc, ớt cùng các gia vị khác. Biết tôi dân xứ "nẫu" có thể chưa sành món ẩm thực này nhiều, anh bày tôi phải bưng tô dùng đũa lua, ớt sừng xanh tươi sắp chín nguyên trái cầm cắn. Nhờ vậy sau này có việc tôi qua sống ở ấp Ánh Sáng (làng người Huế gần bến xe bờ hồ Xuân Hương) rất mau "hội nhập". Thỉnh thoảng anh nhờ em tôi giặt giũ quần áo, ngược lại anh giúp cô nhỏ giải các bài toán khó của trường đem về một cách rạch ròi thấu đáo. Hỏi ra mới biết thi sĩ từng là học sinh ban B trường danh tiếng Quốc Học Huế, đỗ Tú tài toàn phần. Anh cũng siêng mượn sách về đọc. Chỗ anh nằm thường có mấy quyển nguyên tác Pháp văn, như Nhật ký Anna Frank, Bác sĩ Jivago... Trong sáng tác tôi thấy anh thích nghi mọi điều kiện. Có cảm xúc là viết ngay. Ở nhà thì ngồi vào bàn, trong quán anh kê sổ tay tại góc bàn nước, đi dã ngoại ngoài trời anh đặt giấy lên đùi ghi chép. Có khi viết đầy trang giấy đọc qua

165


thấy chưa ưng ý anh vò lọn ném vào thùng rác, đoạn lấy tờ khác viết mới. Thời gian sau chợt nhớ điều gì anh đi mò tìm sục sạo trong sọt rác tờ bị vò nhàu hôm trước ra vuốt thẳng thớm trầm ngâm đọc lại, gật gù... Nhớ lần anh bảo tôi, anh em mình có cùng địa chỉ ở đây, cậu đưa bài cho tôi bỏ chung phong bì gửi vào tòa soạn Trình bầy đỡ tốn thêm lần tem thư. Đợt ấy bài hai anh em đều được đăng trên Trình bầy số 17. Vui lắm! Mấy năm sau tôi vội vã xa Đà Lạt. Từ ấy không gặp lại anh. Mãi đến đầu thập niên những năm 90 thế kỷ trước, anh Đào Viết Bửu - Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Bình Định vào Phú Yên tìm trao tận tay tôi bức thư anh Lê Văn Ngăn và căn dặn phải chụp tấm hình tôi mang về cho anh thấy mới tin Nguyễn Tường Văn còn sống! Đọc xong bức thư, tôi đứng để Bửu chụp ảnh mà lòng bàng hoàng bởi mấy lời sâu đậm nghĩa tình anh nhắn gửi. Lần sau cùng trước khi mất, nghe tin anh bạo bệnh khó qua khỏi, tôi ra Quy Nhơn đến Bệnh viện đa khoa Bình Định thăm anh. Trên giường bệnh nhận ra tôi, mừng quá anh gượng ngồi, anh em ôm nhau nửa mừng nửa tủi. Vẫn nụ cười thi sĩ-nghệ sĩ trên gương mặt ngày xưa nhưng đôi mắt "nghìn khơi không đổi hướng"đã ngấn lệ. Tôi lặng lẽ nhìn về hướng đông thành phố thầm nói như mộng du: "Sóng vẫn đập vào eo biển" anh Ngăn ơi! Nguyễn Tường Văn Tuy Hòa, 09/2019

166


Nhớ nhà thơ Lê Văn Ngăn Trần Vạn Giã

Trước năm 1975, số nhà 2B đường Cổ Loa, Nha Trang là địa chỉ nhà họa sĩ Thanh Hồ. Anh em văn nghệ có người nói đây là địa chỉ đỏ, có anh nói là địa chỉ xanh nhưng đúng nghĩa là nơi hội tụ anh em văn nghệ từ Sài Gòn, Phan Thiết...ra; Đà Lạt, Buôn Mê Thuộc... xuống và các tỉnh dọc miền Trung từ Huế đến Phú Yên vào. Họ là nhà giáo, làm báo, làm thơ, viết văn … Tình bạn văn nghệ lúc ấy thật đằm thắm và dung hòa, vui vẻ. Phòng vẽ họa sĩ Thanh Hồ là một căn phòng hẹp. Tại căn phòng này đã có những cuộc gặp gỡ anh em. Người đến, kẻ đi… và quây quần thâu đêm bên tách cà phê đen, bên ly rượu nồng, nói với nhau những mơ ước hoà bình, đọc cho nhau nghe bài thơ, truyện ngắn đã đăng trên các tạp chí Sài Gòn gởi xe đò ra Nha Trang còn thơm mùi mực in, trao đổi với nhau về những trang viết sắp tới hoặc bức tranh sẽ vẽ, viết bài cho tờ báo “lậu” Nhân Sinh sắp làm, kể cho nhau nghe những trận đánh ác liệt ở chiến trường Tây Nguyên, căn cứ Boston phía Tây nam Huế... Thời đó mỗi người tự chọn lý tưởng riêng của mình. Nhưng điều kỳ lạ đó là yêu thương, tôn trọng lẫn nhau do có lẽ đồng cảm với nhau về số phận của mình: Bị chiến tranh vây bủa, lính tráng, tù tội, nay sống, mai chết và tình văn chương cao cả. Tại căn phòng vẽ của họa sĩ Thanh Hồ, tôi còn nhớ anh em văn nghệ đã hội tụ như: Lớp cao niên đã thành danh trên văn đàn có cụ nhà thơ Quách Tấn, nhà văn Võ Hồng, 167


nhà thơ Duy Năng, nhà văn Thế Nguyên chủ trương tạp chí Trình Bày và nhật báo Làm Dân. Thế hệ trẻ có các anh Trần Hoài Thư, Nguyễn Hoàng Thu, Nguyễn Âu Hồng, Thế Vũ , Lưu Vân, Chu Trầm Nguyên Minh, Y Uyên, Lê Văn Thiện, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn... Nhạc có nhạc sĩ du ca Nguyễn Quyết Thắng, nhạc sĩ nhà thơ Phan Ni Tấn... Họa có hoạ sĩ Đinh Cường, Phạm Kim Khải, Nguyễn Cao Thâm, Lê Ký Thương... Người ở lâu nhất là nhà văn Thế Vũ. Anh từng ăn khoai lang luộc thay cơm trong thời kỳ anh đói khổ, truy đuổi nhưng hầu hết những trang viết của anh đã viết ở căn phòng này. Trong số những anh em văn nghệ nói trên, còn có nhà thơ Lê Văn Ngăn. Nhà thơ Lê Văn Ngăn là người đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong bạn bè, anh em Nha Trang rất quí anh vì lý do: Anh có kiến thức rộng, thơ và ngâm thơ rất hay, ngoài ra tính nết anh thâm trầm, không trịch thượng, với giọng Huế nhỏ nhẹ. Những năm 1971-1975 anh từ Đà Lạt xuống, Quy Nhơn vô và sau 1975 anh cũng đã ghé Nha Trang hai lần để gặp lại bạn bè. Mỗi lần anh có mặt ở Nha Trang, họa sĩ Thanh Hồ chịu khó đi thông báo cho từng anh em là có Ngăn về vì không có điện thoại như hiện nay. Nhớ lại và rất thương họa sĩ Thanh Hồ, vợ chồng họa sĩ Thanh Hồ rất tốt với bạn bè, ít có người như thế trên cõi đời này. Có lần vợ tôi đang sinh ở nhà hộ sinh, biết Ngăn về, tôi vội vã đến và ở thâu đêm với Ngăn, mãi mê văn chương, bạn bè mà quên vợ mình đang sinh. Nhà thơ Lê Văn Ngăn thích uống cà phê đen nhưng nếu cần anh vẫn uống rượu, càng uống càng ngâm thơ rất hay những bài thơ anh thường ngâm: Đôi mắt người Sơn Tây (Quang Dũng), Bên hồ Thuỷ Ngữ (Lê Văn Ngăn), Nhà tôi của Yên Thao (Bài thơ này được nhạc sỹ Anh Bằng phổ nhạc 168


lấy tên là Chuyện giàn Thiên Lý) và có cả thơ của Trần Hoài Thư mà tôi quên tên, chỉ còn nhớ hai câu: “Cô hàng có chiếc quần đen muốt, tôi ở trên rừng để tóc để râu”. Tôi cũng đã biết có thời gian nhà thơ Lê Văn Ngăn và nhà văn Trần Hoài Thư gặp nhau ở Qui Nhơn. Tôi nhớ năm 1973, tôi quá giang xe của một người bạn làm quân cảnh đi Đà Lạt và đến nơi an toàn lúc qua trạm kiểm soát. Tôi đã ở lại với anh một đêm. Nơi ở của anh là căn phòng trọ bình dân trong khu lao động nằm dưới một con dốc ngắn. Đà Lạt lạnh. Hai anh em đắp chung chăn và nói chuyện thâu đêm. Sáng hôm sau, tôi vội vã ra đi, anh nắm tay tôi, hiền từ chia tay với niềm tin mà tôi và anh hằng mong ước. Sau năm 1975, tôi đưa con đi thi Đại học Sư phạm Qui Nhơn và gặp anh Ngăn ở Qui Nhơn, hai anh em ngồi bên nhau uống rượu ở quán cóc bên đường. Và cũng được biết anh có bài thơ “Nhật ký của cha vinh” đã đăng trên Ý Thức, trong đó đề tặng người bạn thân Thái Ngọc San. Dòng đời cứ chảy. Mỗi bạn bè có mỗi số phận sau chiến tranh. Chiến tranh đã kết thúc gần 50 năm qua, kẻ mất, người còn, kẻ ở lại trong nước, người xa quê hương lưu lạc ở nước ngoài… Đất Sét nơi đây từng là vùng kinh tế mới đang mưa sau mùa đại hạn. Gió rừng đang thổi trong mưa, ngồi đây nhớ Ngăn và bạn bè vô cùng. Nhà thơ Lê Văn Ngăn ơi, hẹn gặp nhau nơi cõi vĩnh hằng! Trần Vạn Giã Nha Trang, tháng 09/2019

169


Lê Văn Ngăn - Cuộc đời và thơ ca Vương Kiều

Thế hệ của thi sĩ Lê Văn Ngăn lớn lên từ khúc đoạn trường của dân tộc, khi Hiệp định Genève một lần nữa chia cắt dòng sinh mệnh của đất nước làm hai, bên kia bờ Bắc dòng sông Bến Hải và bên nầy bờ Nam. Dân Việt trong sinh mệnh tồn tại đã một lần chia cắt tới 40 năm vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Anh em chúng ta đang cùng hơi thở trong thời đại nầy, chắc hẳn những lúc lắng lòng phải tự hỏi do đâu và vì đâu? Vũ trụ không có gì vô cố cả, mọi duyên nghiệp tất nhiên đều hiện hữu do nhân trước quả sau. A. Ryunosoke đã nói rằng: “Số phận không ngẫu nhiên mà là tất nhiên, nó giấu trong tính cách của bạn”. Tôi khởi đầu bài viết này về “Cuộc Đời Và Thơ Ca Của Lê Văn Ngăn” trong dòng chảy văn học miền Nam trước 1975 và sau này bằng những thác từ trên để nhìn về nỗi đau và lòng khát vọng mà chúng tôi cùng thế hệ đã bật ra tiếng lời, để thành những bài thơ của mọi con tim trong giai đoạn tan thương của đất nước. Văn học miền Nam trước 1975 đã phân định rõ hai dòng chảy khát vọng về bến bờ thi ca… hai dòng chảy ấy cho dù không hòa nhập với nhau nhưng vẫn tôn trọng con đường sáng tác của nhau.Họ sinh ra, lớn lên bên nầy bờ Nam Bến Hải và ước mơ của mỗi con người tài hoa ấy vẫn có cùng một hướng.Hướng ấy là sáng tạo “Cái Đẹp” theo tinh thần Dostoievsky đã nói rằng “Cái đẹp sẽ cứu vớt thế giới”.

170


Quách Thoại, thi sĩ của “Đất Thần Kinh” người khát vọng nguồn sáng tạo ở miền Nam. Quách Thoại, cuộc đời ông ngắn ngủi (1930-1957), ông tại thế 27 năm như Hàn Mặc Tử, ông là người thèm khát tự do mà thế hệ sau nầy khát vọng từ anh hoa của ông để đi trên con đường sáng tạo, trong ấy có thi sĩ Lê Văn Ngăn. Thi ca trước 1975 có những vì sao mà lòng người không quên được với những tên tuổi mà thế hệ chúng ta và mai sau mãi mãi là cảm xúc khi đi vào thế giới đam mê, khắc khoải, khát vọng của họ, đó là những tài nhân biểu hiện như: Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Phạm Công Thiện, Hoàng Trúc Ly… và bao nhiêu vì sao hòa nhập tạo thành nguồn suối thi ca chảy về non xứ cảm xúc của “Cái Đẹp”. Trong dòng sinh mệnh bi thương của dân tộc, tôi muốn nói về dòng văn học yêu nước. Lê Văn Ngăn là một trong những đại biểu của dòng thơ yêu nước ấy. Sinh thời khi còn niên thiếu, áo trắng quần xanh, sớm chiều cắp sách đến trường Quốc Học Huế, ông đã tỏ lộ tài hoa với những bài thơ xao xuyến lòng người, thời ấy ông đã xuất hiện trên những tạp chí văn chương miền Nam Việt Nam khi tuổi đời còn phong phanh non trẻ. Tài hoa của Lê Văn Ngăn phát tiết khi ông bước qua tuổi hai mươi với những bài thơ thắm đượm hồn sử ca:

171


Ở nước Vệ đêm dài nghe thánh thót những giọt mưa và những giọt lầm than kêu một tiếng bỗng trăm lời đáp lại bằng giáo gươm bằng gươm giáo dọc ngang. … thôi ta chết giữa lời không nói được ngậm trái tim trong miệng để phi tang nầy nương tử có chi mà khóc lóc đời đắng cay nhưng đất vốn dịu dàng. Đất nhiễu nhương

Bốn câu sau tôi nhớ mãi hình ảnh lão họa sĩ Trần Hoài, người chủ nhà sách Văn Hóa ở đường Phan Bội ChâuĐà Lạt. Mỗi lần tôi gặp ông bên ly bia, tôi nhắc đến thi sĩ Lê Văn Ngăn, ông đều cảm khái đọc thật to cho anh em nghe bốn câu của người thi sĩ này. Lê Văn Ngăn còn thể hiện tài hoa của mình bằng ngôn ngữ tu từ cuốn hút về “Cái Đẹp”: Gió đưa tình ta sang xa nhau thời xuân thu gió thổi ngang đầu quyến luyến mùi hương anh mang áo dạ bóng đổ tường nghiêng một ngọn đèn dầu … vang hưởng từ khi em cười nói là quanh đời tiếp tiếp truyền đi lãng du đưa đẩy chân dừng lại nỗi vui thầm mấy lá biệt ly

172


Bên hồ Thủy Ngữ (1962) là bài thơ kinh điển trong thể thất ngôn, sự rung động qua từng câu biến thành hình ảnh, Lê Văn Ngăn đã cảm xúc tới bờ trong bài thơ này để còn mãi là thi sĩ Lê Văn Ngăn trong lòng những người yêu thơ, con người tài hoa của Huế bên cạnh những vì sao của non nước Thần Kinh và cũng là bạn hữu của ông với những kỷ niệm mà ông không bao giờ quên: Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Thái Ngọc San, Bửu Ý, Bửu Chỉ, Đinh Cường… Sinh ra từ làng “Cại Lừ” (Niêm Phò), Quảng Điền Thừa Thiên Huế trong một gia đình sống dưới đáy xã hội, cha ông là người phu xe, mẹ ông là một thiếu nữ duyên dáng bán bún bò gánh, ông lớn lên bằng những giọt mồ hôi của cha mẹ tuôn đổ hằng ngày giữa một xã hội nhiễu nhương, chiến tranh như ngọn lửa táp cháy từ miền quê cho đến thị thành, ông đã bật lên tiếng kêu thương của mình bằng những dòng thơ hiện thực: Mẹ tôi sinh tôi ra dưới đáy xã hội nuôi tôi lớn lên dưới đáy xã hội Bao nhiêu năm, qua bao nhiêu chiều nắng tắt, bao nhiêu mùa phượng hồng mẹ vẫn lấy chữ nghĩa trộn với mồ hôi của mình bện thành một chiếc thang vượt thoát … Giờ đây tôi đã leo lên bờ vực tối, sống ngang hàng giữa mọi người nhưng ở dưới xa, mẹ tôi vẫn một mình nằm lại…

173


Lê Văn Ngăn trong những bài thơ nhớ về mẹ ông không hề dùng chữ “Vú” nhưng tôi biết suốt đời tha phương lưu lạc của ông, mỗi lần ông về Huế thăm mẹ ở trong căn nhà nhỏ nằm ở lối vào ngõ hẻm An Cựu, mỗi lần ông về mẹ ông mừng rỡ, nghẹn ngào nói: “Con về đó à…”. Ông đáp: “Thưa Vú con mới về…” Suốt đời ông từ khi chào đời…cho đến khi từ giã trần gian điên khùng, ông vẫn uống sữa mẹ từ núm vú khai sinh ra mình: Trong đêm người mẹ khẽ hỏi mỗi bài thơ con kiếm được bao nhiêu tiền? và người con trai trả lời tiền chỉ đến với con sau mỗi bài thơ hay … Trong đêm người mẹ khẽ hỏi mỗi ngày con làm được bao nhiêu bài thơ hay? và người con ngồi lặng im mãi bên ngọn đèn dầu cuối cùng anh ngập ngừng đáp có lẽ cả một đời mẹ ạ Trong đêm người mẹ thở dài thế thì con của mẹ sống bằng gì chẳng lẽ con của mẹ chỉ sống bằng niềm vui của người khác Trong đêm

174


Phụ mẫu mãi mãi là hình ảnh ông khắc khoải suốt đời ông, ông ước mơ vượt qua cuộc sống lầm lội áo cơm của cha mẹ để hướng về một tương lai sáng sủa mong ngày báo hiếu, nghĩ về hình ảnh người cha ông bật lên nỗi lòng: Có một người phu xe cuộc đời cứ quay tròn theo hai bánh xe quay tròn Quay tròn quay tròn quay cho đủ số vòng quay đau khổ … Hôm nào trước giờ vĩnh biệt, người cha bảo: Con ơi, chúng ta từ lâu không cần dùng đến nước mắt thương cha con hãy cố công bước xa con đường cha đã bước… Tả thực

Lê Văn Ngăn sinh trưởng trong gia đình lao động nghèo, trải qua nhiều bi kịch áo cơm và lắm nỗi đau trong gia đình vì phận số của người em. Bão lửa chiến tranh đã cuốn hồn thơ dung dị tài hoa của Lê Văn Ngăn cũng như bao thế hệ thanh niên phải lưu lạc đọa đày khắp miền Nam Việt Nam theo từng số phận của mỗi người, khi đứa em ruột của ông là Lê Văn Kịch cầm súng bên nầy chiến tuyến. Khi nghe tin người em thân thương của mình chết ở đồi Baston-Huế, ông đã đau khổ và xót xa cho số phận của người em-người bạn bạc mệnh: chiến tranh đã trục xuất anh ra khỏi quê nhà bắt tay với phường bán huyết kề ly với kẻ xâm mình 175


… có đêm anh đi ngược lên con dốc nghe ào ào ngọn gió trung đông mắt em dịu dàng trong bóng tối nhưng con đường ở đằng kia còn lờ mờ bên vực thẳm … chiến tranh đã đưa anh tới nơi này ngồi đánh cờ với những tay cuồng sĩ quàng vai đi với kẻ điên khùng … Giữa khi mưa lưu hoàng đổ

Số phận ông lưu linh giữa cuộc chiến, khói lửa chiến tranh mịt mùng bốn phía, là tuổi trẻ ông phải tìm ra lý tưởng sống, thơ ông thời thanh niên man mác vẻ đẹp tình yêu, ông đã yêu, đã si tình nên hồn thơ ông để lại nhiều bài ý lời thật lạ: đôi người bạn ở sau vườn dưỡng khí ngày thanh niên hoa khế rụng bên đời ngồi nghe thấy con đường không giới hạn nắng lòng tôi em lấy áo ra phơi con chim trắng tìm hiền nhân mà hót mở song song năm cánh cửa vô thường … hỏi người em xuống đò sang hữu ngạn hỏi trái tim trong suốt đã cho ai gõ một tiếng lên trường thành ý hệ đời im hơi sao có tiếng thở dài Đường hoa khế - 1972

176


Thơ tình yêu của Lê Văn Ngăn mang hồn người hào hiệp yêu mến cái đẹp, trong nguồn suối tình ca, Lê Văn Ngăn giữ một cõi riêng, vượt qua ý niệm ngôn ngữ của tình yêu, ông hòa quyện giữa lẽ sống của cuộc đời với bóng hình người ông yêu bằng những dòng thơ cảm khái khát vọng về đời cùng nhau đi tìm hạnh phúc chung của con người. Tấm lòng và tinh thần yêu nước của thi sĩ Lê Văn Ngăn mà tổ tiên linh hồn Việt đã để lại di sản ấy từ thời dựng nước và giữ nước được thể hiện và khẳng định qua Đất của những người bất phục 1972: tôi đang đặt chân lại trên mảnh đất này mặt đất mà ba mươi năm qua đời sống không ngừng đặt trước mặt tôi những ly rượu đắng có trong ly rượu ấy những đôi mắt buồn rầu … nhưng nhất định nhất định những kẻ vỗ tay cho những nhân danh giả hiệu nhất định những kẻ giẫm chân lên những cuộc tình duyên nhất định những kẻ đặt tay vào đứa em tôi một khẩu súng thay vì một quyển vở không bao giờ là điều tự nhiên. Từ thực tế bi kịch của đất nước, ông đã để lại những bài thơ chân thành, tôi tin, những ai kia vong thân trong

177


danh vị và quyền lực đọc thơ ông sẽ hổ thẹn và tỉnh ngộ để tìm về Hồn Việt: vâng, điều ấy khi bạo lực còn bắt tay nhau khi bạo lực còn dẫn quân đi nhục mạ quyền làm người … quê hương chẳng phải điều trừu tượng điều ấy tôi giữ bên lòng và đi xa em. Sóng vẫn đập vào eo biển. Sóng vẫn đập vào eo biển - 1974

Sau 1975, Lê Văn Ngăn vẫn giữ hồn thơ dung dị, yêu mến cuộc đời trong những góc bé nhỏ sinh tồn, thơ ông lặng lẽ như dòng sông chảy qua cuộc đời với buồn vui của cuộc nhân sinh: Đêm đêm, vào lúc thành phố bắt đầu giấc ngủ chị lại cầm chổi bước ra khỏi nhà đi quét dọn những chặng đường đã định … Một nhà thơ miền tả ngạn, trước lúc qua đời còn để lại trong tâm hồn chị vài câu nói đẹp lòng chẳng hạn, dù nhà thơ làm việc trong ánh sáng và chị làm việc ngoài bóng đêm nhưng cả hai vẫn là tác giả của khuôn mặt cuộc đời quang đãng… Gặp một người bình thường

178


Ông thành thạo tiếng Pháp, yêu Jacques Prévert, Paul Eluard, Albert Camus, Aragon, yêu văn học Pháp trong thế kỷ 20 mà ông đã hòa quyện vào những dòng thơ cảm xúc tự nhiên của ông, đã góp phần tạo nên cuộc đời và thi ca Lê Văn Ngăn. Ông sống chân tình với bạn hữu, với những miền đất ông từng gắn bó giữa cuộc thế bể dâu, ông mê Đà Lạt như yêu Huế, những năm sau này mỗi lần ông vào Sài Gòn thăm con cháu thì ông đều lên Đà Lạt để cảm xúc lại thiên nhiên một thời ông đã sống và đã khai sinh tập thơ đầu tay “Vào Một Thời Im Bóng - 1974”, ông tìm thăm bạn bè một thời buồn vui với ông ở đất hoa… Thi sĩ Lê Văn Ngăn đã vĩnh biệt cõi đời vào lúc 10g40 ngày 27/2/2015, bạn bè khắp nơi cùng nhau về Quy Nhơn tiễn biệt ông, đã đưa ông về hạnh ngộ bên những cuộc vui với Ngô Kha, Thái Ngọc San, Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn…ở cõi trên, những người bạn chí tình của ông đã cùng ông tạo nên cái đẹp của Huế bên cạnh vẻ đẹp mà trời đất ban tặng cho non nước thần kinh. Vương Kiều Sài Gòn, tháng 10/2019

179


180


Những kỷ niệm với nhà thơ Vương Kiều (Trần Vĩnh Tựu)

181


182


Với nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng tại Đà Lạt

Với Hoàng Tuấn bên bến My Lăng

183


Thơ viết tặng con trai năm 1997

184


Những kỷ niệm với nhà thơ Lê Văn Ngăn Bùi Thị Xuân Mai

Nhà thơ Lê Văn Ngăn là người kiệm lời. Anh sống rất dung dị, trầm tĩnh trên nền trí tuệ hiểu biết sâu rộng, được nhiều anh em bè bạn quý mến. Tôi gần gũi, quý trọng và có nhiều kỷ niệm với nhà thơ của “Sóng vẫn đập vào eo biển” cũng vì lẽ đó. Những kỷ niệm cùng nhà thơ thật êm ả và nhẹ nhàng như dòng sông quê hương. Trong một dịp Hội thảo về Văn học Miền Trung tại Sầm Sơn-Thanh Hóa, mấy anh em chúng tôi đã có một cuộc gặp gỡ rất vui. Khi về, trong lúc chờ tàu, hai anh em có nhiều chuyện để hàn huyên bên quán cóc vỉa hè với những chiếc bánh gai ngon ngọt của đất Thanh và cốc nước chè Thái Nguyên thơm hương nóng hổi... Đó là một trong những kỷ niệm đơn sơ, ấm áp và không thể nào quên. Với những người đã từng có dịp tiếp xúc anh đều có những cảm nhận chung về anh với giọng nói chậm rãi, khoan thai…, cách nhìn nhận cởi mở, nhân hậu trong cách sống và trách nhiệm trong công việc. Anh là người rất sâu sắc, giản dị, tinh tế và rất nhân văn!

185


Những ngày trước phút lâm chung, nhà thơ Lê Văn Ngăn đã có một thời gian dài chống chọi với căn bệnh. Sáng mồng 4 tết năm 2013, vợ chồng tôi đến nhà thăm anh. Lúc này anh đã không còn nhận biết ai được nữa. Tôi mua bó hoa cát tường để chị Phước cắm trong căn phòng anh nằm. Mắt anh nhắm nghiền cùng hơi thở mệt nhọc, đứt quãng. Sáng mồng 9 tết tôi lại đến thăm anh và nấn ná không muốn về dù đã đứng bên anh khá lâu… Một lúc tôi thấy anh thở dốc. Chị Hạnh Phước vội đến đỡ đầu anh, ôm anh vào lòng và gọi “Anh Ngăn ơi, anh Ngăn ơi” rất nhiều lần. Phải đến mươi, mười lăm phút trong thời khắc im lặng nặng nề… hình như đã nghe tiếng chị Phước gọi, mắt anh đang nhắm bỗng hé mở to vài phút như là để nhìn vợ con , bạn bè lần cuối rồi sau đó cũng từ từ nhắm nghiền lại, giã biệt mãi mãi… Anh nằm bình yên trong vòng tay yêu thương của chị Phước trước sự tiếc thương đau đớn của những người con và sự yêu quý xúc động của bạn bè. Chúng tôi không khóc mà nước mắt cứ tuôn trào… Sự ra đi mãi mãi đầy cảm động của anh làm tôi nhớ da diết đến câu thơ: “Vì sao mùa xuân đi mùa xuân đến theo đúng hạn kỳ nhưng những người thân yêu cứ đi một lần rồi đi mãi” 

186


Dưới bóng quê nhà Tặng nhà thơ Lê Văn Ngăn

“Sóng vẫn đập vào eo biển” Sóng vẫn đập Cùng những đêm không ngủ Thời gian cũng đập vào anh Từ ngọn đèn dầu hạt đỗ Từ mái tranh nghèo Từ những vòng quay xe của người cha lao lực Từ tiếng thở dài của mẹ nặng nhọc Và dưới nấm mồ đôi mắt người em…

Chắt lời chân thật Những con chữ khiêm nhường trầm tĩnh Khắc hình bóng quê nhà Lặng lẽ ngân bài ca. Bùi Thị Xuân Mai Quy Nhơn, tháng 08/2019

187


…Chia lìa nhau nhưng lòng đầy tín hiệu Đoàn Hồng Nhật

Tháng 08/1991 tôi có việc ghé Quy Nhơn, qua thư giới thiệu của một người anh tôi gặp anh Lê Văn Nhu. Và qua anh Nhu tôi được gặp anh Lê Văn Ngăn. Trước đó, do khoảng cách tuổi tác, tôi có biết các anh nhưng chưa bao giờ được gặp. Lần gặp đầu tiên đó cho đến mãi bây giờ, giữa chúng tôi đã hình thành một tình cảm anh em thân thiết. Nhiều năm sau đó tôi thường ra Quy Nhơn, lần nào cũng vậy, ba anh em chúng tôi luôn gặp nhau, bên ly cà phê sáng, bên ly bia chiều. Bạn bè thân thiết tôi ở Quy Nhơn, mỗi lần tổ chức gặp mặt tôi, như một thông lệ đều dành hai chổ ngồi trang trọng cho hai anh của tôi. Có một đêm khuya khi cuộc rượu đã gần tàn, bên quán cóc góc phố Quy Nhơn, anh Ngăn nhìn tôi từ tốn nói như một lời nhắn nhủ tâm tình: "Nhật này, nếu như thời gian có quay lại, thì mình cũng sống như thời trước đó thôi!". Tôi nhìn anh lòng đầy cảm khái, tôi biết “thời trước” đó của các anh, là một thời kỳ đầy biến động, bất trắc, trăn trở cho một chọn lựa của những con người có tấm lòng với quê hương, đất nước... Và các anh đã sống trọn vẹn qua thời kỳ đó, để giờ này để lại cho những người trẻ tuổi như tôi, sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ.

188


Những lần anh Ngăn vào Sài Gòn, anh em chúng tôi luôn ngồi với nhau bên một quán ven sông, đọc thơ và hát cho nhau nghe. Tôi đọc thơ anh với nhiều sai sót từ ngữ, bạn bè thuộc thơ anh chỉnh sửa cho tôi, nhưng anh Ngăn nói “Có hề chi! Nhật đọc rứa mà làm thơ mình hay hơn đó...!!!". Anh hát Tình ca, Bà Mẹ Gio Linh, Quê nghèo...tôi hát Người về, Ngày trở về...cũng là nhạc của Bác Phạm Duy. “Rứa Nhật có biết bài ni không?”. Và anh hát “Về những đường em đã đi qua...”. Bài hát hay, lạ và qua cách “xử lý” của anh đã gây cho tôi cảm xúc và ấn tượng rất mạnh. Mấy ngày sau,tôi lẳng lặng ra Quy Nhơn chỉ với một mục đích tìm đến căn gác nhà anh ghi nhận lại giọng đọc “Bên hồ Thủy Ngữ” và tiếng hát “Bằng tên một loài hoa” thơ HPNT, nhạc Tôn Thất Lập, ghi nhận để về tập hát và cũng để biết rằng không bao giờ theo kịp tiếng hát của anh. Nhiều đêm khuya ở Sài Gòn khi ngồi với bạn bè, tôi “bắt cầu truyền thanh” đọc thơ anh cho anh nghe, lúc nào cũng kết thúc “thơ như rứa mới là thơ, anh hí”. Những ngày anh chữa bệnh ở Sài Gòn, tôi luôn đến với anh. Khi anh về Quy Nhơn tiếp tục chữa bệnh, tôi ra thăm anh khi biết bệnh trở nặng. Lúc trở về, ngồi buồn ở phòng chờ phi trường Phù Cát, anh điện thoại cho tôi: “Thôi Nhật về hí”. Đó là những lời sau cùng tôi được nghe anh nói. Tôi ra viếng đám tang và 2 năm giỗ đầu tôi ra thắp hương cho anh. Sau khi anh mất, tôi với anh LHN - con trai đầu của anh

189


thường ngồi với nhau. Lúc nào cũng có ly bia của anh trước mặt. Chúng tôi đốt cho anh những điếu thuốc lập lòe trong đêm và chúng tôi cảm nhận anh vẫn hiện hữu bên mình. Tôi thường chia sẻ với LHN: “Ông và tôi phải gắng sống như thế nào, để đừng làm Cha mình buồn, vì các vị ấy đã sống một cuộc đời đầy khó nhọc, để khi mất đi vẫn để lại sự quý trọng và thương mến của nhiều người”. Tôi có người bạn dễ thương ở Quy Nhơn, dù mới gặp nhau sau này nhưng chúng tôi nhanh chóng thân thiết với nhau, vì một lẻ chúng tôi đồng cảm về những gì dành cho ông anh của mình. Đó là một người anh với nhân cách lớn, tài hoa, có phong cách sống dung dị nhưng đầy chân tình với anh em, bè bạn. Mỗi lần tạm biệt sau khi gặp nhau ở Quy Nhơn hay Sài Gòn, tôi và anh L.H.T đều nhắn tin cho nhau “Chúng tôi chia lìa nhau nhưng lòng đầy tín hiệu”. Tôi tin rằng, những tín hiệu đó không chỉ thu, phát từ những người còn sống mà ngay cả người còn sống với người đã mất. Đoàn Hồng Nhật Sài Gòn, tháng 09/2019

190


Nhà thơ Lê Văn Ngăn và những ký ức Nguyễn Thanh Mừng

Tôi còn nhớ, quãng thời gian sau 1980, ngồi với nhau cùng mấy trái cóc xanh và rượu gạo ở 138 Hai Bà Trưng, TP Quy Nhơn - ngôi nhà từng là một trong những địa điểm tụ họp của bạn bè anh em, anh Ngăn hay dùng chiếc bật lửa Zippo cổ để đốt thuốc, món quà đám cưới ngày nào, trên có dòng chữ khắc đề tặng của nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Cái dòng chữ này nối kết những ai từng học dưới mái trường Cường Để cũ, trong đó có chị Phước vợ anh và có tôi. GS. Nguyễn Mộng Giác từng là Hiệu trưởng trường. Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, nhà văn Nguyễn Mộng Giác và sử gia Tạ Chí Đại Trường thỉnh thoảng từ Mỹ về, tái bản tác phẩm trong nước, ghé thăm và tặng sách chúng tôi, tôi và anh Ngăn có dịp ôn lại những đường nét Quy Nhơn thời tao loạn. Thường thường, anh Ngăn lúc trầm ngâm hay nhắc tới những đụn cát, những mái tôn, tàn cây trứng cá, mùi nước mía và bã đậu trộn rau sống, thuở hàn vi anh từ Huế vào học Sư phạm Quy Nhơn... Nhà thơ Lê Văn Ngăn sinh năm 1943 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế và sống ở Quy Nhơn từ thở hoa niên cho đến cuối đời. Anh có câu chuyện vui rằng khi đưa con trai lúc còn bé về miền sông Hương núi Ngự, nó hồn nhiên hỏi: “Bao giờ mình về quê hả ba”, anh bảo: “Quê mình là đây chứ đâu nữa”, nhưng cũng thầm nghĩ trong tâm thức non nớt chúng nó lại hiểu quê

191


chúng nó là là khung trời phố biển nơi chúng ra đời và lớn lên dưới mái nhà ba mẹ ở Quy Nhơn. Có lẽ sự thiên di đã cho anh tâm sự: Giờ đây, tôi muốn bắt đầu níu thời gian vào cuộc đời Kết tinh thời gian trong vài sự vật chẳng hạn, tôi muốn trồng vài bông hoa nhỏ bé gửi lại nơi tôi đã lọt lòng mẹ và sống giữa mọi người Nếu tính lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với anh cho đến khi anh vĩnh viễn đi xa, khoảng chừng bốn chục năm có lẻ. Cái “Quy Nhơn, Quy Nhơn đồng ruộng mía ở phía tây phấp phới vườn bông gòn - Quy Nhơn, Quy Nhơn trên thảm nước xanh rờn của thuyền đánh cá và chim én - Buổi sáng hay chiều hôm từng chuyến phi cơ - Tìm lòng em đáp xuống” của anh và của những người từng sinh sống thời ấy dường như vẫn nồng nàn trong gió sương ký ức. Bởi vậy, những ly cà phê, những chén rượu, những món ăn quê nhà như mắm ruột cà dĩa, chả cá, bánh xèo… với tác giả Nỗi băn khoăn của Kim Dung, Đường một chiều, Tiếng chim vườn cũ, Sông Côn mùa lũ… và tác giả Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771-1802, Thần người và đất Việt… dường như đầm ấm ơn, thơm tho hơn khi họ trở lại nơi chôn nhau cắt rốn sau nhiều năm xa cách. Anh Ngăn và tôi cũng chia sẻ nỗi băn khoăn của nhà văn Nguyễn Mộng Giác và sử gia Tạ Chí Đại Trường về lớp độc giả Âu Mỹ, chỉ đến thế hệ thứ hai của họ là còn lưu luyến, đến thế hệ sau nữa là khó tìm người sành tiếng Việt.

192


Có với nhau nhiều kỷ niệm, nói mãi cũng không hết. Những lúc ấy, mọi phù du mà đời sống con người thường mang theo nhường chỗ cho những ly đong đầy. Những kỷ niệm được thưởng thức những món dân dã cùng Cát Hùng, Trần Lê Tuấn, Trần Nhã Thụy... Gặp nhau trong những chặng đường ngọt bùi cay đắng trong đời, lúc vĩnh biệt nhau mới biết rằng nói thế nào cũng còn quá ít. Dù từ thời bao cấp khó khăn cho đến lúc rủng rỉnh bia bọt, kéo nhau tụ bạ nơi đâu, nhiều anh em thân hữu cứ bảo có anh Lê Văn Ngăn mới là vui! Hồi những năm tám mươi, nhà anh Ngăn và nhà tôi ở cách nhau vài trăm mét. Thỉnh thoảng, chúng tôi có gặp nhau bên ly cà phê buổi sáng hoặc khi tìm được xị rượu ngon vốn hiếm hoi trong thời bao cấp. Nhiều năm sau nữa, lúc tôi và anh cùng phụ trách công việc Hội Văn nghệ và Tạp chí Văn nghệ Bình Định, tình cảm ấy vẫn nồng nàn. Thỉnh thoảng anh có ra Hoài Ân thăm ba má tôi và mỗi lần ra Huế, tôi đều ghé thăm người mẹ anh (anh gọi bằng vú) ở An Cựu. Khi tôi ra tập thơ lục bát và được giải thưởng, anh nồng nhiệt viết bài giới thiệu. Khi viết về tôi, có mấy chi tiết về đời sống như việc thấy tôi sáng sáng tất bật đi mua thức ăn cho những đứa con nhỏ. Anh nói nho nhỏ với tôi rằng, con cái là cuộc đời thứ hai của mình, Mừng ạ! Mấy chục năm miệt mài xem công danh là công việc phụ, đến khi các con anh rồi tiếp tới các con tôi bước chân vào các trường đại học ở Sài Gòn, rồi đứa nọ đứa kia ra trường với học lực cơ bản, anh và tôi thỉnh

193


thoảng cùng rủ vào thăm, ngồi bên nhau, nâng ly mà nước mắt mờ đi vì những ước ao thầm lặng đã thành hiện thực, theo ngôn ngữ Lê Văn Ngăn: “Chúng nó đã biết kiếm miếng cơm bằng giọt mồ hôi của trí tuệ rồi”. Anh hay ám ảnh về cuộc đời cần lao của cha mẹ anh, vất vả nuôi anh ăn học, niềm thương cảm ấy theo anh trong thơ, niềm thơ mở lòng với các đời cần lao khác, sâu nặng khôn cùng. Là nhà thơ hiện đại chỉ viết bằng bút giấy truyền thống và “tham gia giao thông” bằng chiếc xe đạp cũ, không rành hoặc không màng các phương tiện tối tân, bao nhiêu đócũng đẻ ra bấy nhiêu giai thoại trong thân hữu quý mến, trân trọng. Bài thơ Cũng chẳng cần bàn phím in Tạp chí Thơ - Xuân Quý Tỵ, tặng tác giả Sóng vẫn đập vào eo biển là niềm xúc động khi một hôm anh về Huế, bỏ công chép tay các tư liệu nghiên cứu mà tôi cần: “Bạn tôi về Huế thăm quêGhé thư viện Huế chép về tặng tôi…”. Lê Văn Ngăn có mấy cách chiều chuộng anh em thân hữu, để bù vào cái việc bắt anh phải đọc thơ chính anh. Một là, anh sẽ chiều chuộng bằng đọc “Paris về đêm” của Jacques Prévert bằng tiếng Pháp, thứ tiếng mà anh thông thạo. Nấc chiều chuộng thứ hai với bạn bè, là hát Tình ca của Phạm Duy. Nấc chiều chuộng thứ ba, là cũng đồng hành leo núi Đá Bia 706 mét, lên xuống tám tiếng đồng hồ, ở tuổi… thiếu ba chục nữa đủ một trăm! Anh Ngăn từng nói với chúng tôi: “Yêu thì 706 mét cùng nhau lên đỉnh Đá Bia cũng là chuyện nhỏ, còn ghét thì nửa bước mình cũng không đi”.

194


Thực ra, chuyện trèo núi Đá Bia là chuyện “điển hình” vì nhiều anh em chụp hình và viết báo, ngồi đâu cũng hay kể nên nhiều người biết, chứ về mặt leo núi, anh và tôi lâu lâu rủ nhau trèo núi Phương Phi hay Chánh Oai. Có lần, nhà thơ Ngô Thế Oanh từ Hà Nội vào, cũng đã tham dự chuyến leo núi ấn tượng lên hang tổ Linh Phong cùng chúng tôi. Anh Oanh bảo rằng Lê Văn Ngăn là một trong những nhà thơ có nhiều nhà thơ khác làm thơ tặng nhất. Tết năm 2015, Trần Lê Tuấn từ Hà Nội vào cùng tôi đến thăm anh, lúc này anh đã rất yếu nhưng còn gắng ngồi dậy ký tặng lên tập thơ mới nhất trao cho chúng tôi. Tôi còn đùa với anh, mau khỏe ghé Hoàng Thị nâng ly, anh nhé! Cái quán Hoàng Thị mộc mạc ấy là nơi tôi và anh gắn bó nhều năm với bao nhiêu tao nhân mặc khách bốn phương trời! Mới đây, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng ra Quy Nhơn, trên đường từ sân bay vào có gọi tôi và họa sĩ Phạm Cao Viết Hiền, và anh bảo dứt khoát phải đến quán Hoàng Thị. Quán này xưa hồi anh ra sáng tác tượng đài Quang Trung, anh hay ngồi với tôi và anh Ngăn. Anh lấy chai bia riêng, mở nắp mời người đã đi vào thiên cổ. Tôi luôn trân trọng và hiểu rằng bao lâu nay Lê Văn Ngăn cất giấu những mật khẩu thơ ca trong mái nhà trầm lặng, trong những những cuộc rượu bình dị với anh em thân thiết, trong những chuyến đi chủ định hoặc ngẫu hứng, phía đằng sau lớp áo tuyềnh toàng, tóc râu trễ nãi với hình ảnh đậm chất thi sỹ, hòa lẫn giữa những bạn bè dù cao sang quyền quý hay những người lao động,… Tôi hạnh phúc đã từng cùng làm việc và cùng rong chơi, những

195


ngả đường Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt, Lạng Sơn, Huế… với thi sỹ tài hoa ấy. Với thơ, mới ngày nào anh cũng nói thật nghiêm trang với nhóm bạn chúng tôi, nghe còn mang mang thiên cổ: “Làm sao có thể vạch được chiều âm trên dòng thời gian để ngược đường tìm lại những ký ức và làm phong phú hiện tại của cuộc đời bằng những ký ức ấy? Có phải văn nghệ sĩ là người đối nghịch với sự tàn phá của thời gian? Là người lưu trữ những di sản của con người?”. Có lẽ câu trả lời nằm trong Trên đồng bằng (thơ, 1967), Vào một thời im bóng (thơ, 1974), Viết dưới bóng quê nhà (thơ, 2008); Thơ Lê Văn Ngăn (2015) và bao nhiêu bài thơ anh chép tay hiện hữu đâu đó mà gia đình, bạn bè hãy còn lưu giữ như kỷ vật… Nguyễn Thanh Mừng Quy Nhơn, tháng 10/2019

196


Tôi tin dưới tuyền đài Lê Văn Ngăn ngậm cười vì con hiếu thảo Trần Dzạ Lữ

Từ thập niên 60, tôi và Lê Văn Ngăn đã biết nhau vì là người viết cùng thời. Chỉ gặp nhau vài lần không thân thiết lắm. Nhưng tôi rất quý anh vì anh là người Huế có một giọng thơ rất riêng và dễ truyền cảm hứng của mình đến người đọc - phần nhiều anh viết theo thể tự do. Tự do nhưng đọc lên nghe có điệu vần và thanh thoát. Đó là điều khó đối với người sáng tác mà Lê Văn Ngăn đã làm được. Tôi quý anh vì những trang viết đều là tim óc, máu huyết chân thành. Và lớp người chúng tôi làm văn nghệ trước 75 phần đông không thích chiến tranh và yêu xứ sở mình đến đến da diết, tình văn nghệ là vô biên, trên hết. Bởi văn nghệ không hề có biên giới và chẳng ngăn cách như con người thường tình. Tuy vậy, số phận những người làm thơ luôn long đong, lận đận. Sau 75, Lê Văn Ngăn cũng rời Huế vào Quy Nhơn sinh sống và anh vẫn tiếp tục làm thơ. Đó là tiếng kêu trầm thống về phận người và mong ước nhân văn...không ngớt! Ở nơi ấy, Lê Văn Ngăn cũng lẻ loi mỗi chiều sau giờ làm việc và hay lang thang với chiếc xe đạp vào quán cóc cà phê hay uống vài ly bia một mình. Năm 2015, anh bị bệnh hiểm nghèo và qua đời. Trước đó, trong gia đình và con trai đã làm cho anh tập Thơ Lê Văn Ngăn. Trước khi từ giã cõi tạm, anh đã kịp nhìn thấy sản phẩm tinh thần của mình! Hằng tin

197


rằng dưới tuyền đài Lê Văn Ngăn sẽ vui vì có đứa con hiếu thảo và thấu hiểu tâm ý người lúc xa đời… Và tập thơ Lê Văn Ngăn do con trai thi sĩ Lê Văn Ngăn tặng là món quà vô giá và ý nghĩa nhất. DỰ CẢM Cuộc đời anh rồi cũng như nước ở dòng sông quê nhà Nước trôi qua những đô thị những cánh đồng và cuối cùng hòa tan vào biển. … Cuộc đời anh rồi cũng ngắn ngủi như lời khẳng định khẳng định quê nhà đã cho anh mọi điều, ngay cả những dòng chữ đã theo anh từ thuở thanh niên đến buổi xế chiều. NHÀ CŨ Chuyến tàu thường đến sân ga dưới nền trời sao khuya lúc thành phố quê hương anh nằm ngủ dưới ánh đèn yên lặng Anh mang nỗi cô đơn của đứa con lâu ngày xa cách một mình đi tiếp chặng đường dài. … Mẹ ơi, Mẹ ơi anh sợ sẽ đến ngày anh gọi to như thế nhưng dưới lòng đất, mẹ anh không thể nào đáp lại.

198


Bấy giờ, xin quê hương thân yêu đừng quên đưa tay choàng lấy một người con để trái tim anh bớt phần lạnh lẽo.

BÊN HỒ THỦY NGỮ gió đưa tình ta sang xa nhau thời xuân thu gió thổi ngang đầu quyến luyến mùi hương anh mang áo dạ bóng đổ tường nghiêng một ngọn đèn dầu … tù và vang thúc lòng xe ngựa tiếng chân anh lẫn tiếng cổ thành ôi, giấc hoàng thu càng nặng nợ dù xa người yếm trắng thủy thanh. Không chỉ ba bài thơ này, mà còn gần 70 bài thơ của người xa xứ hướng vọng quê nhà - Lê Văn Ngăn đã khiến tôi rưng rưng khi đọc hết tập thơ do con trai anh (Lê Hồ Ngạn) tuyển chọn. Muốn hiểu thấu đáo trái tim thi sĩ gửi gắm điều gì và khát vọng ra sao, xin mời bạn đọc bước tới cõi thi ca của chàng, một người rất Huế. Trần Dzạ Lữ Sài Gòn, tháng 10/2019

199


Lê Văn Ngăn-Thơ như chiếc bóng cuối chân trời Phạm Phú Phong

Mỗi khi có cố gắng về phong cách là có công việc làm thơ. Mallarmé Một trong những người cách tân thơ Việt tài danh là nhà thơ Lê Đạt đã có tập thơ khá nổi tiếng thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình là Bóng chữ (1994), và từng nêu rằng: “Nói rõ chữ nếu không có nghĩa đơn thuần là âm thanh và chữ không có cảm xúc là chữ chết, song trái lại, cảm xúc mà chữ bất cập thì cũng không phải là thơ”. Lê Văn Ngăn (1943-2015) không lý luận, giải thích mà bằng thực tiễn sáng tạo, cũng cùng khuynh hướng sáng tạo thế giới hình tượng nghệ thuật thông qua cái bóng đặc sắc của nó. Hầu như sự nghiệp thơ ca của anh, ngoài một số thơ in báo, anh chỉ có hai tập thơ đều có nhan đề xoay quanh cái bóng đó: Vào một thời im bóng (1974) và Viết dưới bóng quê nhà (2008). Thông thường, người ta lấy một bài thơ tâm đắc nhất, thể hiện tập trung chủ đề để làm nhan đề cho cả tập. Nhưng với Lê Văn Ngăn, cả hai tập thơ đều không có bài nào có nhan đề như thế, thậm chí, đọc lại cả tập thơ tinh tuyển vào những ngày cuối cùng của anh trên giường bệnh, chỉ có năm mươi bài, đã có gần bốn mươi lần anh nhắc đi nhắc lại từ này như luôn có sự hiển hiện khả thị: bóng hình, bóng dáng, bóng người, bóng ngày, bóng đêm, bóng thời gian… mà nhiều nhất là bóng tối. Đọc thơ, có thể nhận ra, hầu hết thơ

200


anh được viết ra trong đêm vắng, cho dù đó là những đêm đi về trong ngõ vắng của căn nhà trọ, những đêm chong đèn thức đợi, những đêm bị săn đuổi, bắt bớ, tù đày: chúng tôi, những kẻ bị săn đuổi trên quê hương mình ăn những bát cơm trong bóng tối ly rượu đắng ngày lại ngày chúng tôi thay phiên nhau uống cho cạn đô thị, một số anh em chúng tôi đã bán mất linh hồn tự đem thân chèo thuyền cho chúng hát ca tự đem thân làm trò múa rối đô thị, nơi những dải khăn sô bay dưới trời phất phới nơi những nấm mồ khuya bốc lửa lưu huỳnh nơi ấy, chúng tôi không còn khí trời mà thở chúng tôi, những kẻ bị săn đuổi trên quê hương mình đang đi tìm lời văng vẳng cất lên từ đồng trống. Những kẻ bị săn đuổi

Trưởng thành từ phong trào đấu tranh đô thị, Lê Văn Ngăn từng là thành viên của nhóm Việt, một tổ chức văn nghệ yêu nước của sinh viên Huế thành lập từ năm 1968, mà tiền thân của nó là Hội Hồng Sơn đã ra đời từ năm 1965, từng có thơ in trên tạp chí Việt (số đầu tiên ra vào tháng 8.1968), tờ báo chủ trương “Vận động văn học nghệ thuật về nguồn”. Thơ tranh đấu là thơ xuống đường, thường là những lời hô hào, những tiếng nói lớn, nhưng thơ Lê Văn Ngăn thì không hẳn thế, anh chọn cách giãi bày, phân tích, thuyết phục, anh sợ rằng “nay lại ồn ào nói tiếng nói ồn ào / và từ đó, thơ buồn tênh và trống trải” (Đêm khuya và những đêm khuya). Ngay cả khi cần khẳng định truyền thống đấu 201


tranh của quê hương, coi đây là Đất của những người bất phục, anh cũng lập luận có tính chất thuyết giáo như một bậc chân tu: mặt đất mà trước sự chết, tôi thường tự nhủ yêu nhau là điều tự nhiên làm việc là điều tự nhiên bất phục tùng kẻ nào tước đoạt tự do của người khác cũng là điều tự nhiên nhưng nhất định nhất định những kẻ vỗ tay cho những nhân danh giả hiệu nhất định những kẻ giẫm chân lên những cuộc tình duyên nhất định những kẻ đặt tay vào đứa em tôi một khẩu súng thay vì một quyển vở không bao giờ là điều tự nhiên. Xuyên suốt hai giai đoạn trong quá trình sáng tác của Lê Văn Ngăn, từ thời tham gia phong trào tranh đấu cho đến những năm hậu chiến, anh đều dành trọn vẹn hồn thơ cho tầng lớp cần lao. Thơ anh, tỏa bóng những con người, ít có những câu, những đoạn tả cảnh, tả tình, mà hầu hết đều thấp thoáng những bóng người, những người lao lực như người phu quét đường, người kéo xe ba gác, người trồng lúa, trồng rau, trồng hoa, những người bán hàng rong, người y tá, người nấu bếp trong nhà hàng, những chị Ba bán bánh mì ở Phan Rang, chị Sáu bán cà phê ở Đà Lạt… có thể nói những người cần lao ướt đẫm mồ hôi, hiền lành như hạt lúa củ khoai, lem lam như ánh sáng những ngọn đèn dầu tù mù, về đứng chật tâm hồn anh, tạo

202


sức sống cho thơ anh vượt qua thử thách của thời gian, khác với điều anh từng thừa nhận một cách khiêm tốn: “tôi biết những bài thơ tôi chỉ sống đôi ngày / chỉ đem lại vài niềm vui mau chóng phai tàn” (Đôi điều thanh thản). Anh tìm thấy trong chân dung những người bình thường, trong đông đảo của thế giới cần lao, đậm đặc những phẩm chất người, những tâm hồn trong xanh như ngọc, lung linh, lay động, tỏa bóng xuống trang thơ: bây giờ chị còn sống không chị Ba bao nhiêu năm, dù chưa trở lại mái nhà xưa tôi vẫn nhìn thấy chị mỗi ngày qua những người lao động bình thường những người lao động bình thường ấy không bao giờ tầm thường trong đôi mắt nhìn đời Thơ tặng chị Ba ở Phan Rang

Tất nhiên, cũng như nhiều nhà thơ của xứ Huế, anh viết nhiều về quê hương. Dù đi đâu, ở đâu, trên bước đường tha hương, Lê Văn Ngăn vẫn có hai cột neo giữ như hai đầu của chiếc võng tâm hồn là quê hương và phong trào đô thị, bởi lẽ hai nơi ấy không chỉ sinh thành tấm thân vật chất của anh mà còn tạo dựng nhân cách và thế giới tâm hồn của thi nhân. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực trong tâm hồn, nhà thơ ví như là Sóng vẫn đập vào eo biển, là tình yêu thiêng liêng, đằm thắm, “quê hương quê hương, nơi trái tim tôi rung động dưới bầu trời sao / nơi tôi muốn được nhắm mắt dưới lòng đất quen thuộc / chết cho tình yêu / đấy là việc của con người”. Quê hương là dòng sông, chiếc cầu, con đường, là mái nhà, là người mẹ vào ra… Điều này còn trở đi 203


trở lại nhiều lần, lay động tâm hồn anh như một tứ thơ liên hoàn, anh giải bày không dứt: Nơi tôi có một mái nhà từ quá khứ người mẹ đêm đêm thức dậy dưới nền trời sao, nhen lên bếp lửa đầu ngày nơi anh em, dù lưu lạc nơi đâu, vẫn chờ tiết lập xuân tìm về chốn cũ nơi mở ra những ngả đường dẫn về người bạn người yêu nơi sự sống sự chết vẫn nối kết nhau trong dòng đời bất tận nơi tâm hồn mỗi con người không chỉ giới hạn trong mỗi con người nơi ấy, dưới vầng sáng của một mối tình lớn lao tôi thầm gọi quê hương yêu dấu Thư về quê hương

Một lý tưởng thẩm mỹ sáng rõ, bao giờ cũng đưa đến một cảm quan nghệ thuật lành mạnh, một quan niệm nghệ thuật xác tín. Như đã nói, cũng như nhiều nhà thơ khác, Lê Văn Ngăn không có những tuyên ngôn, không phải là nhà lập thuyết mà chỉ là người sáng tạo, thông qua thực tiễn sáng tạo, nhà thơ đã thể hiện được quan niệm nghệ thuật của mình, rằng thơ là công việc lao động đẫm mồ hôi, là miếng cơm manh áo, là cuộc sống đích thực của những người lao khổ luôn can dự vào, “xa xôi, tôi vẫn tựa vào quá khứ / để sống cho ra con người / để biết những người chưa bao giờ viết một dòng thơ / vẫn tham dự vào những gì tôi viết”. Trở lại với vấn đề cách tân thơ Việt, có thể dễ nhận ra trong phong trào đô thị Huế, có ba giọng điệu thi ca lạ, tiêu 204


biểu, gần gũi nhau nhưng mỗi người độc đáo mỗi kiểu không ai giống ai: Ngô Kha, Trần Vàng Sao và Lê Văn Ngăn. Ngô Kha viết theo truyền thống nhưng nội dung mỹ cảm cách tân theo trường phái siêu thực, Trần Vàng Sao và Lê Văn Ngăn viết theo dòng tự sự. Có lần, Trần Vàng Sao đã thừa nhận: đọc Lê Văn Ngăn tôi thấy mình có chút gì trong đó. Nhưng đọc thơ Trần Vàng Sao dẫu sao còn có vần, còn thế giới bóng chữ - bóng thơ của Lê Văn Ngăn hầu hết đều là thơ không vần, thơ văn xuôi. Nhịp điệu và vần điệu phá cách được thi nhân tổ chức sắp xếp theo một qui luật riêng, ngữ điệu riêng, thoát khỏi những niêm luật truyền thông, chậm rãi như rót vào tâm hồn con người những tín hiệu thẩm mỹ giản dị, bình thường mà lắng đọng bền lâu: Trong đêm, người mẹ khẽ hỏi mỗi bài thơ con kiếm được bao nhiêu tiền và người con trai trả lời tiền chỉ đến với con sau mỗi bài thơ hay sau khi đã ghi lại nước mắt nụ cười và niềm hy vọng của quê nhà Trong đêm, người mẹ khẽ hỏi mỗi ngày con làm được bao nhiêu bài thơ hay và người con ngồi lặng im mãi bên ngọn đèn và cuối cùng anh ngập ngừng đáp có lẽ cả một đời mẹ ạ. Trong đêm

Thơ anh là thơ tự sự. Giọng thơ như giọng điệu nói chuyện, kể chuyện, bình thường như ngôn ngữ giao tiếp đời thường, tuy dân dã, nhẹ nhàng nhưng vẫn không thiếu chất thanh cao, quí phái của một tâm hồn Huế. Là đàn em, chơi

205


thân với anh trong nhiều năm của thuở hàn vi, nhất là những năm anh còn làm phóng viên Đài Truyền thanh Huế, rồi nay có dịp đọc toàn bộ thơ anh, tôi bỗng nhận ra, hình như trong đời, Lê Văn Ngăn khó nặng lời với ai, nếu có chút phật lòng cũng không giận ai lâu. Ngay cả những vấn đề xã hội nhức nhối một thời, được anh phơi bày trong thơ, cũng bằng một thái độ chấp nhận, chịu đựng cho riêng mình: thời đại đang thi đua nói láo có hệ thống và thù ghét những tiếng nói thật thời đại của những điều kín đáo nhất được bày biện trên vỉa hè như những món hàng trong một tiệm tạp hóa tôi sẽ cố gắng sống qua thời đại này không một lời than thở vẻ đẹp của đời người, nếu không ai chia sẻ với, thì tôi sẽ giữ kín bên trong cho đến ngày không còn tôi nữa. Hoàng hôn

Anh Ngăn ơi! Không biết anh còn giữ kín bao điều chưa nói. Nhưng những điều anh nói ra, gần nửa thế kỷ qua vẫn chưa hết tính thời sự, sẽ còn được người đọc nhắc hoài. Nhớ về anh, xin viết những dòng này, vừa san sẽ nỗi niềm với anh, vừa thay một nén tâm nhang trong ngày giỗ đầu. Phạm Phú Phong Huế, tháng 03/2016

206


Lê Văn Ngăn - Cà phê đen và khói thuốc BASTOS xanh bên HỒ THỦY NGỮ Trần Phá Nhạc “mai kia bóng xế không còn thấy hãy nhớ rằng anh đã nói gì…” (Lê Văn Ngăn – Bằng tiếng thoảng qua tạp chí Tư Tưởng số 6, Đại học Vạn Hạnh – SG 8.1971) Gặp Lê Hồ Ngạn, con trai của nhà thơ Lê Văn Ngăn, trong một quán cà phê vỉa hè trên đường Sương Nguyệt Anh, Sài Gòn - Ngạn hỏi hồi trước ba Ngăn của cháu chắc là hay uống cà phê với chú lắm - Hẳn nhiên rồi, tôi đáp, mà nhớ hoài là những lần uống với ảnh ở quán “Sữa ông Thọ” nằm trước cửa Hiển Nhơn, bên kia đường Huế vắng… 1. Hồi đó, khoảng năm 1976, cách cửa ấy khoảng hơn trăm thước có cái quán nhỏ lợp tôn, rợp mát nhờ bóng hai cây trứng cá tỏa rộng. Quán bày năm bảy cái bàn nhỏ từ trong nhà ra ngoài vỉa đường đang còn lổn ngổn gạch đá. Chủ quán là một ông già dáng dấp từa tựa hình chủ quán, dán trên lon sữa đặc có đường, được cái ngọt ngào ở chỗ ông không nhắc nhở chi, hoặc lộ vẻ cau có khó chịu gì nếu anh Ngăn và tôi lỡ uống thiếu dài ngày, chậm trả. “Ông Thọ” lại rất điệu, mỗi lần khách uống thiếu thường chỉ đứng lên im lặng quay về phía ông gật đầu chào trước lúc ra về và ông cười đáp lại, là xong. Nhiều bữa tôi với anh Ngăn ngồi ở đó, 207


dưới bóng của tàng cây trứng cá cũng quá già như chủ quán, để nói lan man hết chuyện này đến chuyện khác. Một bữa trời Huế buồn buồn muốn mưa, cả hai chúng tôi ngồi im lặng nhìn vào cửa Hiển Nhơn hồi lâu, đột nhiên Ngăn gọi, làm như tôi đang ở đâu xa lắm: - Nhạc! Nhạc! Lâm Truy từ thuở uyên bay! Tôi ngớ người, chưa hiểu Ngăn muốn nói chi, anh chỉ tay vào cửa Hiển Nhơn bảo: - Thấy con nghê đá ngồi chơ quơ đó không? - Thấy - Hồi xưa lắm rồi đâu phải chỉ có một con như mình đang thấy mà có đến hai con lận, hai con đặt ngồi đối diện nhau, nhìn nhau ngày đêm không rời, cứ như đôi chim uyên ương, nay một con “bay” đi mất, để lại một con lẻ loi. Mà nì đố Nhạc con bay mất là con đực hay con cái? - Hỏi chi lạ, đá mà cũng có đực có cái à? - Thì mình coi hai con nghê đá là đôi uyên ương đi, mà “uyên” là con đực còn “ương” là con cái như người ta thường gọi, như cái câu hát của ông Tô Hải buồn cho dòng nước mờ xóa bóng chim uyên… Ngăn nói chim uyên ở đây là anh chàng nghệ sĩ đi xa khỏi dãy Kim Bôi, còn con chim ương ở lại là nàng sơn nữ có chiếc thắt lưng xanh. Ngăn muốn gọi con nghê đá bị ai lấy dời đi mất là con đực: “chàng uyên!”.

208


Khi chúng tôi rời Huế (cuối thập niên 1970) con nghê đá trước cửa Hiển Nhơn vẫn ngồi lại một mình; nghe nói về sau người ta đã đem về đó một “chàng uyên” mới, cho có đôi.Chắc rằng nàng nghê đá kia vẫn nhớ “chàng uyên” cũ, như thơ Ngăn viết: “… những người thân yêu cứ đi một lần rồi đi mãi”? Giờ đây, chỗ chúng tôi ngồi dưới tàng cây trứng cá đã không còn, quang cảnh cửa Hiển Nhơn thay đổi hết, hàng quán mọc lên thay cho những cây trứng cá và những cây phượng già bị đốn ngã, nhưng câu chuyện của chàng uyên cứ làm tôi nhớ “chàng” hoài. À quên, chiều năm ấy tôi nói với anh Ngăn thôi hãy để cái cửa Hiển Nhơn với đôi nghê đá “uyên ương” của anh lại đó để nói chuyện công việc cái đã: là phải soạn đề cương cho chuyên mục tìm hiểu về hoàng thành Huế để làm chương trình truyền thanh và lên sóng phát thanh nay mai theo yêu cầu bên tuyên huấn(bấy giờ do nhạc sỹ Trần Hoàn đảm trách). Tôi hỏi anh Ngăn nên chọn tác giả nào có uy tín của Huế để tham vấn cho nhanh, anh trả lời ngay: - Phan Thuận An! Tiếc hồi đó, chúng tôi tìm anh Phan Thuận An ở Huế không thấy, may nhờ anh Lý Văn Nghiên cho mượn cuốn “Phòng thành Huế” quay ronéo do anh Phan Thuận An biên soạn. Ngăn nói: “Mình thích làm thơ hơn, Nhạc soạn đề cương ấy đi”. Nhờ tham khảo cuốn sách của Phan Thuận An và một số tài liệu khác ở Thư viện Huế (lúc bấy giờ do anh Lê Văn Hảo quản lý), chúng tôi viết xong đưa cho ngành văn hóa nhưng mãi sau không thấy sử dụng, biến luôn, tôi không vui lắm, nhưng Ngăn nói: “Kệ!”. 209


Đó là khoảng những năm sau 1975 trở đi, lúc tôi và Ngăn làm việc chung một chỗ ở Đài truyền thanh Huế số 17 đường Đặng Dung, Thành nội. Hằng ngày, chúng tôi cùng các anh chị khác như: nhà văn Ngụy Ngữ, hai bạn thơ Trần Đình Sơn Cước và Phạm Tấn Hầu, có thêm các phóng viên hoặc phát thanh viên như Nguyễn Thị Tỵ (em gái Nguyễn Đắc Xuân), Nguyễn Ngọc Như, Nguyễn Công Thắng, Nguyễn Mộng Hoa (hiện ở Mỹ), Nguyễn Thị Tường Vy (người bạn đời của họa sỹ Bửu Chỉ)… đã bàn bạc công việc truyền thanh với Ban Kỹ thuật của Đài từ sớm, vào 7 giờ rưỡi sáng đều đặn dầu mưa hay nắng, sau đó tỏa đi các nơi khắp Huế đến trưa chiều thường hay về tụ ở các quán cà phê quanh Đài. Thỉnh thoảng, có Nguyễn Đính (Trần Vàng Sao), Thái Ngọc San, Văn Hữu Tứ, Hải Bằng, Ngô Minh, Quế Lâm, Nguyễn Đông Nhật, Nguyễn Quang Hà, Phạm Hữu Thu ghé qua chơi, rủ nhau ra quán bác Thanh ở gần Đài uống, nói chuyện Huế xưa Huế nay, chuyện cơm áo gạo tiền mắc mỏ, chuyện mưa ướt đất lẫn chuyện thơ ca trên chín tầng mây, cao hứng đọc thơ ngay ở quán, mọi người vui vẻ chứ không thấy ai phiền trách gì. Anh Hải Bằng đọc nhiều nhất và to nhất. Ngược lại, anh Ngăn đọc nhỏ và rất ít khi đọc ngoài quán. Thế mà, bữa nọ một anh bạn quen với tôi đang làm việc ở Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế rỉ tai tôi; “Hai ba bữa trước, ông nhà thơ Lê Văn Ngăn đọc thơ đế quốc Mỹ chi rứa?”. Lạ chi hồi đó, mới sau 1975, ai nghe đài BBC, đài VOA hoặc đọc truyện của “đế quốc Mỹ” là thuộc về “đối tượng cần được theo dõi”. Tôi ngẩn người một lát rồi chợt nhớ ra, hôm ấy anh Ngăn nhắc đến thơ Pablo Neruda, không hiểu thế nào lại dẫn tới thơ Baudelaire. Ngăn nói thích thơ Jacques Prévert, Arthur 210


Rimbaud hơn Baudelaire vì Baudelaire có phần “bí hiểm”, song cũng có bài dễ đọc như La Rancon viết đại ý rằng ơn trên đã cho loài người hai cánh đồng màu mỡ để cày bừa, gieo giống, rồi anh đọc: “… L’un est l’Art, et l’autre l’Amour…” với nghĩa: người đời có được hai cánh đồng bát ngát để sinh tồn với tên gọi: NGHỆ THUẬT (L’ART) và TÌNH YÊU (L’AMOUR). Ngăn đọc tiếng Pháp mà người ta không hiểu, cứ ngỡ nhầm tiếng Mỹ nên suy diễn rằng “thơ đế quốc”, phải đâu! Tôi nói điều đó để anh bạn tốt của tôi rõ và về Đài kể Ngăn nghe. Ngăn cười rất hiền và nói lâu lâu đọc thơ “bí hiểm” của Baudelaire mà cũng bị nhà nước nhắc nhở! Tôi nói “quả báo nhãn tiền” bởi anh có bài thơ hay nhưng bí hiểm - bài “Bên hồ Thủy Ngữ” được nhiều người thích và thuộc – song hồ Thủy Ngữ ở đâu, nó đẹp ra sao, thì chính anh cũng… không biết! Thơ mà! Và anh vui vẻ: “Khi sáng tác bài đó, mình hút gần một bao Bastos xanh, khói thuốc là khói sương của hồ Thủy Ngữ đó, Nhạc à!”. 2. Trước nay đã có một số tác giả viết về vị trí của nhà thơ Lê Văn Ngăn trong văn học cũng như các nội dung liên quan đến chỗ đứng của anh trong dòng thơ tự do theo nhiều cách nhìn nhận riêng. Để góp vào đó, lần này chúng tôi gửi đến quý thân hữu một góc nhìn khác, từ trong “bàn thờ Phật” của nhà anh nhìn ra. Có lẽ bạn sẽ hỏi tôi: nghĩa là sao? Thì đây: Vào những năm 1970 – 1971, em ruột của Ngăn là Lê Văn Kịch hay ghé lại trụ sở Tổng hội Sinh viên Huế số 22 211


đường Trương Định để uống cà phê, nói chuyện thơ văn chơi. Kịch dáng người ốm và cao hơn anh Ngăn, chữ viết của Kịch cũng nhỏ và đều đặn như Ngăn, cũng làm thơ và siêng đi “bụi” như tôi. Tội lắm, nhiều đêm Kịch không còn một xu dính túi, nói ngủ lại với tôi (và anh Thái Ngọc San) ở trụ sở Tổng hội, tôi ừ, rồi để Kịch tự xếp vài ba cái bàn của quán cà phê Tổng hội (chị Giang chủ quán) làm cái “giường” để ngã lưng. Một đêm trời vừa tạnh mưa, Kịch đến rủ tôi “về nhà mình chơi”, hai đứa đi bộ qua đường phố đèn vàng bên hữu ngạn sông Hương, nhưng không đi thẳng mà cứ đi lòng vòng qua đại học Luật, ra rìa sông rẽ trái xa lắc mới tới nhà. Bước vào, tôi thấy ngay cái bàn thờ đặt chính giữa nhà với hai miếng vải in bông rũ xuống đã phai màu, gió lật lên từng chập khi cửa vừa mới mở. Trên bàn thờ Phật và thờ vong linh ông bà quá cố đặt một ngọn đèn hột vịt thắp bằng dầu lửa, cạnh một nải chuối mốc đã chín vàng ngả màu đen lốm đốm ngoài vỏ. Kịch bảo tôi đợi chút rồi Kịch vào rút một cây hương ra thắp lên bàn thờ, vái vái xong bưng nải chuối xuống, đãi tôi ăn cơm với chuối ấy và xì dầu ớt đỏ. Ba mẹ Kịch đã ngủ, trong nhà yên lặng lắm, đến quá nửa khuya trời mưa lớn lạnh không ngủ được, tôi nghe có tiếng nồi chảo va nhẹ nhau và thấy Kịch ngồi dậy khỏi chiếc giường tre. Không ngủ được tôi cũng dậy theo thấy Kịch bước xuống bếp cùng với mẹ nhóm củi lửa nấu gì đó mà sau này tôi biết là nấu bún và cháo lòng để gánh ra chợ bán. Đến nay có thể quang cảnh của ngôi nhà đã đổi khác nhiều, nhưng với tôi bàn thờ Phật và ngọn đèn dầu thuở ấy sao mà khó quên quá, đã chiếu sáng buồn buồn lên nhiều 212


trang thơ của Ngăn, có một bài với tựa “Mẹ, con và ngọn đèn dầu” viết: Bóng đêm còn dày đặc chung quanh mái nhà người con trai thắp lên ngọn đèn dầu và gọi mẹ ơi Mẹ ơi, thức dậy đi mẹ nồi nước bún con đã nấu sôi xong (…) Trong đêm, người mẹ gánh hàng qua xóm nhỏ và người con trai cầm ngọn đèn đi trước dẫn đường (…) Dưới mưa phùn, người mẹ mỉm cười nhưng người con trai chợt rưng rưng nước mắt Chẳng bao lâu nữa mẹ sẽ qua đời và anh sẽ không còn cầm ngọn đèn dẫn mẹ gánh gồng kiếm sống Bấy giờ, trong vũ trụ mênh mông anh biết tìm mẹ ở nơi nào. Bấy giờ, ngọn đèn đã từng soi đường cho người sống sẽ được đặt lên phía trên mái đầu người chết. Đoạn thơ trên nói về cái duyên “sanh tử hợp tan” giữa nhà thơ Lê Văn Ngăn với mẹ. Còn giữa anh với những người thân thương khác thì sao? Trên tạp chí Tư Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh (Saigon, 8.1971) có đăng bài “Bằng tiếng thoảng qua” của anh nghe như tiếng thở dài của một người đang gánh “nghiệp yêu đương” với một bạn tình nào đó: 213


ngồi lại gần những trang tình hứa quàng vai thêm một chút vội vàng không nghe trong cõi êm đềm ấy những giọt mưa ngờ rụng vỡ tan Trong bốn câu trích từ bài trên ta thấy: Câu thứ nhất: “ngồi lại” là “hợp” Câu thứ tư: “mưa ngờ” là “tan” Không chỉ tình yêu “êm đềm ấy” hễ còn đủ duyên thì “hợp”, hết duyên là “tan”, mà theo nhà Phật tất cả mọi chuyện trên đời này cũng hợp và tan tùy theo duyên đến hoặc đi. Biết như vậy nên giữa lúc “còn duyên” nhà thơ đã nói với “người thơ” của mình về một ngày nào đó mong manh: anh có đôi lời hương phấn mỏng cài tóc đi này, kẻ mắt đi mai kia bóng xế không còn thấy hãy nhớ rằng anh đã nói gì Mấy chữ “bóng xế không còn thấy” nghe nỗi gì gần với “hư vô” như trong khá nhiều bài thơ khác của Ngăn, kể cả một trong những bài đầu tiên của anh được đông đảo bạn đọc yêu thơ nhắc đến, bài “Người phu xe” đã viết: Con tiên tri định mệnh ở điểm khởi hành cha vào đời và hư vô ở đó…

214


Cho đến về sau này, “hư vô” tiếp tục có mặt trong thơ Lê Văn Ngăn qua “thời gian” nghiệt ngã: Trăm năm sau, chúng ta sẽ không có mặt giữa những người qua lại trên đường Chỉ thấp thoáng vài dấu vết trong màu hoa không thay đổi (Một buổi chiều mùa hạ) Thế nào rồi cũng đến ngày em sửa soạn cho tôi bữa cơm cuối cùng Và tôi không thể nói đôi lời vĩnh biệt (Mẹ tôi và em) Chiều hôm nay có một người già Lặng lẽ múc từng gàu nước lạnh (Im hơi nào mà anh không biết) Những trích dẫn trên đây nghe rất gần với những gì Ngăn đã viết trên Tạp chí Tư Tưởng của Đại học Phật giáo (ĐH Vạn Hạnh) thuở nào. Khi anh rời Huế vào Quy Nhơn (1978) bẵng đi khoảng mười mấy năm sau, tôi mới gặp lại anh tại Sài Gòn trong tang lễ của anh Đoàn Đại Oanh (mà anh Ngăn đã từ Quy Nhơn vào dự). Sau ngày đưa anh Oanh ra nghĩa trang Gò Dưa (Thủ Đức) yên nghỉ, tôi với anh Ngăn có dịp ngồi lại trong quán cà phê bên đường Sư Vạn Hạnh nằm sát cư xá Bắc Hải, anh nói: - Bữa ni ra nghĩa trang mình thấy mấy đám tang đốt giấy tiền vàng mã nhà lầu xe hơi bằng giấy một cách vô tội 215


vạ uổng phí tiền của quá trời, có đám lại bưng đầu heo quay thịt thà hoa quả đút lót hô hoán địa tạng âm binh ma quỷ chiếu cố, Phật giáo không phải như vậy. Tôi can: - Thôi uống cà phê đi anh, tự nhiên mà nổi nóng với Phật giáo chi rứa. Tưởng nói vậy anh sẽ bớt bực dọc (mà lâu nay tôi chưa thấy anh lộ vẻ hậm hực bao giờ, lúc nào cũng hiền lành nhỏ nhẹ, chỉ có hôm đó là khác) ai ngờ anh tiếp luôn: - Mình đã bảo Phật giáo không phải là tôn giáo theo kiểu nhập nhằng với mê tìn dị đoan như rứa. Phật giáo là giáo dục, là văn hóa, là kho tàng những giáo huấn có lợi cho người đời xưa cũng như người đời nay. Tôi hơi ngạc nhiên về mấy chữ “Phật giáo là giáo dục” của anh Ngăn nói, nhưng lúc ấy tôi im lặng không hỏi tới vì nghĩ anh nói vậy chẳng qua trong lúc bực dọc nhất thời. Đến mãi sau này tôi mới biết một vị cao nhân ở Đài Loan là Âu Dương Cánh Vô đã thuyết giảng tại các trường đại học bên đó rằng Phật giáo không phải là tôn giáo, Phật giáo là nền giáo dục cần có cho cõi nhân sinh này theo hướng thiện lành an vui. Mà nào ở đâu xa, theo như anh Ngăn chỉ ra, tôi đã tìm đến với luận án tiến sĩ Phật học của hòa thượng Thích Chơn Thiện (du học tại Hoa Kỳ 1969-1972, Đại học Ohio – du học Ấn Độ 1992-1996, Đại học Delhi • Trụ trì Tổ đình Tường Vân, Huế) với nội dung (viết bằng tiếng Anh) chỉ rõ Phật giáo là con đường giáo dục, đoạn cuối như sau: “Tác giả nhận

216


thức rõ các khó khăn trong việc trình bày giáo lý Phật giáo như một con đường sống và con đường giáo dục cho người đời, và các khó khăn trong việc thuyết phục tha nhân chấp nhận con đường sống và giáo dục ấy. Nhưng, khó khăn không có nghĩa là không thể, thế nên tác giả tự thuyết phục mình tiến hành công trình biên khảo với niềm tin có thể. Hãy để công trình được thử thách, tác giả thiển nghĩ. Cái gì phải đến sẽ đến” (he realizes the difficulties in presenting Buddhist doctrine as a way of life and education for worldly people, and the difficulties in persuading others to accept that way. But, difficulty does not mean impossibility, so he comes to persuade himself to proceed with this research work by his belief in the condition of possibility. Let the work be tested, he thinks. What should come will come). Vậy là, theo tôi, nhà thơ Lê Văn Ngăn đã sống từ bé trong ngôi nhà có bàn thờ Phật đơn sơ ấy, có “người phu xe” ruột thịt, có bếp lửa của mẹ với tro tàn đêm đông, có người em trai đã mất, có người yêu lần đầu đến thăm nhà mùa phượng ra hoa - để khi lớn lên Ngăn đã mang vào thế giới thơ của anh hết thảy, hoặc ở bài này hoặc ở câu kia theo một rung động nhất quán: “Một là Tất cả - Tất cả là Một”, vì vậy tôi không ngạc nhiên khi đọc bài thơ bay bổng với tựa “Thư về quê hương” của anh viết năm 1998, có câu: “Khi thân xác nằm trong lòng đất, con người lại hóa thân trong sự sống khác. Trong trái tim người còn sống, trong tiếng mưa đêm, trong hạt gạo, trong cành hoa, 217


trong đợt gió rét thổi ngang nền trời cao báo tin mùa Xuân sắp đến…” 3. Trong bài thơ tặng Phạm Tấn Hầu “Nơi tạm trú và quê hương” Lê Văn Ngăn đã viết về Đà Lạt từ những ngày đầu mới đến: Buổi chiều năm ấy lúc tôi mới đến thành phố này lẻ loi một mình giữa gió rét, những người xa lạ, những cánh đồng hoa, những con đường dốc. Những ngày tạm trú rồi sẽ ra sao? Tài sản quý giá nhất trong túi hành trang của tôi chiều hôm ấy chỉ là câu nói của một nhà hiền triết: kẻ nào tin vào con người kẻ ấy sẽ được tin Những người bạn Đà Lạt đã mở cho anh một cánh cửa để “đi vào tâm hồn thành phố” (như anh viết) – đến lượt anh trở thành một trong “những khuôn mặt của Đà Lạt”, như ghi nhận của nhà văn Ngụy Ngữ: “Buổi chiều 16/11/1974 tại Hội quán Thanh Niên, nhóm Kịch Thụ Nhân diễn vở La Malentendu của Camus. Mưa nhỏ hạt. Lạnh mênh mang. Thứ thời tiết quen thuộc của Đà Lạt(…) theo anh chủ trương nhóm kịch, thành quả đạt được tốt đẹp lạ lùng, từ trước tới giờ chưa bao giờ ở lượng người tham dự đông đảo và say sưa nồng nhiệt. Tại 218


đây, trong khoảng sân Hội quán, chúng tôi còn gặp các anh Lữ Kiều, Lê Văn Ngăn, Trần Hữu Lục, Hoàng Khởi Phong, Lê Ký Thương và đôi vợ chồng Lê Uyên Phương – những khuôn mặt của Đalat”. Bài viết đăng trên Nhà Văn – một tập san do Nguyên Sa và Trần Dạ Từ chủ trương - cho thấy Lê Văn Ngăn cùng những bạn bè văn nghệ của anh đã góp mặt đông đảo trong các sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật ở thành phố cao nguyên dạo ấy: “Đalat, đất hoa, nơi sum vầy lý tưởng của những bước chân phiêu bạt từ bao nhiêu nơi chốn khác dọc đời. Hôm qua (15/11/1974), buổi triển lãm tranh Lê Ký Thương tại Trung tâm Văn hóa Pháp vừa hết, kế trước đó là cuộc triển lãm của Hoàng Đăng Nhuận, phát hành thơ của Lê Văn Ngăn, Lê Ký Thương, Hoàng Khởi Phong, và đêm nay (16/11/1974), ngay sau buổi kịch (nói trên) là đêm trình diễn ca nhạc của vợ chồng Lê Uyên Phương tại quán Lục Huyền Cầm, quán của hai vợ chồng Lê Uyên Phương lập sau khi rời Saigon tìm lên trong năm ngoái, và chương trình ca nhạc do chính họ đảm trách thực hiện với sự đóng góp của một số thân hữu. Tại đây, hầu hết những ca khúc được trình diễn là những ca khúc do chính họ sáng tác hoặc đã được phổ biến rộng rãi từ trước, hay vừa mới được viết xong, một ít trong số được phổ từ thơ Lê Văn Ngăn, Hoàng Khởi Phong”, (Ngụy Ngữ - Những sinh hoạt tại Đalat, đất hoa, tập san Nhà Văn, Sài Gòn 1.1975).

219


Nằm trong sinh hoạt trên, Nguyễn Xuân Thiệp viết đại ý để chuẩn bị chương trình “Đêm đọc thơ và hát thơ” tại quán Lục Huyền Cầm: “Lê Uyên Phương đã miệt mài suốt ngày đêm phổ xong một số bài như: Bên đồi lau xanh của Thái Tú Hạp, Máu biếc xanh và ngực tối của Huy Tưởng, Để lại cho em của Hoàng Khởi Phong… riêng Lê Văn Ngăn đã đưa Lê Uyên Phương bài Bên hồ Thủy Ngữ. Hai ngày sau, Lê Uyên Phương nói với Nguyễn (Xuân Thiệp) là khi phổ nhạc bài này anh cứ bị ám ảnh bởi giọng ngâm thơ của Lê Văn Ngăn nên không làm được, yêu cầu Ngăn gởi cho bài khác. Đó là bài Về dưới mái nhà. Như vậy, tất cả 5 ca khúc do Lê Uyên Phương phổ nhạc từ các bài thơ của Huy Tưởng, Thái Tú Hạp, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Xuân Thiệp và Lê Văn Ngăn “đều được chính tay Lê Uyên Phương chép lại tất cả lời lẫn nhạc. Xong đưa cho Hoàng Trọng Bản vẽ bìa và minh họa thật đẹp, rồi đem in offset (khoảng 100 bản) ở nhà in tại Trường Việt Anh của Lê Phi. Tới đêm trình diễn thì thiếu Huy Tưởng vì anh còn ở lại Nha Trang, lên không kịp. “Đêm đọc thơ và hát thơ” đã thành công và còn tiếng vang tới bây giờ”. Cũng tại Đà Lạt, cuối tháng 9/1974, Lê Văn Ngăn đến dự triển lãm chung của Hoàng Đăng Nhuận (Thủy Thái Họa) và Trần Hoài (sơn dầu) ghi lại một loạt các ý kiến của giới văn nghệ thời bấy giờ như: Hoàng Khởi Phong, Phong Vũ, Trần Hữu Lục, Thái Lãng và Cẩm Quỳ, Lữ Kiều, Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Mộng Giác, Lê Uyên Phương, Hoàng Ngọc Tuấn, Lữ Quỳnh, Châu Văn Thuận… và đã viết, đã đăng

220


những ý kiến ấy trên tạp chí Thời Tập do Viên Linh chủ trương (số X, Sài Gòn 10.1974, tr.84-87), có đoạn: “Khi bày biện ra những điều tốt đẹp trước đám đông, họa sĩ chẳng khác chi đứa trẻ khoe món đồ chơi ưa thích của mình. Tuy nhiên, có những người già hàng chục thế kỷ, chẳng hạn nhà thơ nào đó đã thiêu hủy và cất giấu hết tác phẩm của mình, vâng có những người già nhưng xem ra chẳng phải là người lớn như họ tưởng (và người lớn hình như là người nói: dù cuộc hôn phối của tôi và cuộc đời có bất hòa, tôi vẫn cố gắng sống không ly dị - lời của một người xem tranh mà người ghi nghe được). Có nên nói rằng nghệ sĩ là kẻ can đảm, can đảm như nhà văn nào đã viết: ‘Aie le courage de se tromper et de rêver, phải có can đảm để mơ mộng và tự đánh lừa mình’, can đảm như Nhuận nói: ‘Sau một tuần, con bướm sẽ rời ánh sáng và phấn hương của nó rạng rỡ trong bóng đêm’”. Sở dĩ trích dài một chút nhằm để qua đó, thấy phần nào cách viết của Lê Văn Ngăn cách đây hơn 45 năm đã rất phóng khoáng, bay bướm. Đoạn khác, Ngăn trích lời một họa sĩ khi chưa bán được bức tranh nào: “Thì nói như Albert Camus, là con người tôi còn quá yếu đuối để khước từ vinh dự. Nhưng mà nếu vinh dự ấy tùy thuộc hoàn toàn vào sự phán xét của người ngoài, chẳng khác chi tôi luôn luôn kêu to ngoài đường cái: Hãy xem đây, hãy xem tôi đang sống đây!” (Lê Văn Ngăn, tlđd). Riêng ý kiến của chính người ghi, thì sao? Thế nầy:

221


“Người ghi [Lê Văn Ngăn] nếu có thể có ý kiến, hắn chỉ thèm được nói một mình: nên cố gắng bình tĩnh, đừng loại trừ, đừng oán ghét và cô lập”. Qua bài viết về phòng tranh Hoàng Đăng Nhuận và Trần Hoài, Lê Văn Ngăn đã nhân đó nói lên (và nói rất rõ) quan điểm sống của mình (cách đây gần nửa thế kỷ) qua một câu trong đoạn kết trên, một câu (xin được nhấn mạnh), rằng: “ĐỪNG LOẠI TRỪ ĐỪNG OÁN GHÉT VÀ CÔ LẬP” Đó là tiếng nói của một nhà thơ hiền lành, bước ra từ mái nhà xơ xác của “người phu xe”, đã đặt chân đến và đã mô tả vẻ thăng hoa của một “hồ Thủy Ngữ” lãng mạn tới bây giờ. Để, ngay giữa hành trình của mình, anh đã viết: “Tôi đi ngược mấy tầng xa mã/ thấy mình bằng một tiếng vang thôi”… Trần Phá Nhạc SG, tháng 11/2019

222


Mục lục

Khúc dạo đầu............................................................................... 5 Lời gia đình ................................................................................. 7 Người phu xe ............................................................................... 1 Em và Hòa Bình............................................................................ 3 Viết cho bác năm, làm phu ở Qui Nhơn ........................................ 6 Bạn bè và những vì sao .............................................................. 13 Tôi nằm mơ ............................................................................... 15 Nhật ký của cha vinh .................................................................. 18 Những hình ảnh & ký ức ............................................................ 21 Những người cùng làm việc ....................................................... 25 Hoa cúc vàng ............................................................................. 26 Chúng ta xây hầm cát ................................................................ 29 Bên kia phía đêm dài - Nhạc Tôn Thất Lập.................................. 32 Mùa xuân bay đi - Nhạc Tôn Thất Lập ........................................ 34 Bức tường cũ ............................................................................. 36 Quanh quẩn trong một quán café .............................................. 38 Chẳng phải là điều nhục nhã ...................................................... 40 Bằng tiếng thoảng qua .............................................................. 45 Im hơi nào mà anh không biết ................................................... 47 Xuyến và vĩnh biệt ...................................................................... 49

223


Sau chiến tranh .......................................................................... 51 Thư về Hà Nội ............................................................................ 53 Sử ký về một làng chài lưới ........................................................ 54 Người phu xe, từ biệt ................................................................. 57 Từ những tư liệu ........................................................................ 60 Vẫn còn tin vào con người ......................................................... 73 Nhật ký ...................................................................................... 75 Khóm hoa và thủy chung............................................................ 77 Dọc những con đường Đà Lạt .................................................... 78 Trong toa tàu đêm ..................................................................... 79 Lời tạm biệt của những người lái tàu ........................................ 81 Ghi ở một nhà hộ sinh ................................................................ 84 Về nơi yêu dấu ........................................................................... 85 Xa Ðà Lạt ................................................................................... 87 Một đêm ở Hà Nội ..................................................................... 88 Sài Gòn, đôi ngày tạm trú .......................................................... 90 Thư gởi Hoàng Hòa.................................................................... 92 Thư về quê hương...................................................................... 94 Bài học vỡ lòng .......................................................................... 95 Về một người đã qua đời ........................................................... 96 Ghi lại lời nói của một người anh ............................................... 97 Chiếc cầu thang và một lối đi ..................................................... 98

224


Gặp lại người bạn cũ.................................................................. 99 Tâm hồn .................................................................................. 100 Ghi chép trong một chuyến tàu ................................................ 102 Mẹ tôi và em............................................................................ 104 Trở về ...................................................................................... 106 Về một nhà thơ mới qua đời .................................................... 107 Vẽ lại bức tranh cũ ................................................................... 113 Một người mẹ.......................................................................... 113 Nền trời sao và nền trời sao của em ......................................... 116 Luôn luôn còn vẻ đẹp ............................................................... 117 Hà Nội, năm nào… ................................................................... 118 Quy Nhơn ................................................................................ 119 Kỷ niệm.................................................................................... 120 Quà tặng lớn nhất ................................................................... 122 Thư cuối năm gởi mẹ ............................................................... 124 Một buổi chiều mùa hạ ............................................................ 126 Những cánh hoa màu trắng ..................................................... 127 Một đêm gió rét....................................................................... 128 Tình muộn ............................................................................... 129 Từ biệt ..................................................................................... 131 Nhớ về một người nhạc sĩ đã qua đời ...................................... 132 Như tiếng thì thầm vĩnh biệt .................................................... 134

225


Viết dưới bóng quê nhà............................................................ 137 Sau chiến tranh - Nhạc Phan Ni Tấn ......................................... 141 Nhớ Lê Văn Ngăn cách đây 42 năm.......................................... 144 Những kẻ bị săn đuổi – Nhạc Phan Ni Tấn ................................ 149 Vài kỷ niệm với Lê Văn Ngăn .................................................... 152 Nhà thơ Lê Văn Ngăn - Người anh lớn của tôi .......................... 156 Những con chim lửa hoàng hôn ............................................... 160 Tình nhớ về một thi sĩ - nghệ sĩ ................................................. 161 Nhớ nhà thơ Lê Văn Ngăn ........................................................ 167 Lê Văn Ngăn - Cuộc đời và thơ ca............................................. 170 Những kỷ niệm với nhà thơ Lê Văn Ngăn ................................. 185 …Chia lìa nhau nhưng lòng đầy tín hiệu ................................... 188 Nhà thơ Lê Văn Ngăn và những ký ức ...................................... 191 Tôi tin dưới tuyền đài Lê Văn Ngăn ngậm cười vì con hiếu thảo.... 197 Lê Văn Ngăn - Thơ như chiếc bóng cuối chân trời ..................... 200 Lê Văn Ngăn - Cà phê đen và khói thuốc BASTOS xanh bên HỒ THỦY NGỮ ............................................................................... 207

226


227


NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA 33 Chu Văn An - Huế ĐT: 0234.3823847 - 3821228 Fax: 0234.3848345 Email: nxbthuanhoa@yahoo.com.vn Chịu trách nhiệm xuất bản: TS. NGUYỄN DUY TỜ Biên tập: NGUYỄN THỊ THỂ Bìa và trình bày: LÊ HỒ NGẠN VĂN QUỐC THẮNG Sửa bản in: LÊ HỒ NGẠN Tranh bìa 4: Sông Hương, Huế (1914) - Họa sỹ GUSTAVE MARTINIEN SALGÉ -----------------------------------------------------------------------

In 200 cuốn, khổ 14.5x20.5cm tại Công ty Cổ phần in Thuận Phát, 22 Tố Hữu - TP. Huế. Số xác nhận ĐKXB: 4020-2019/CXBIPH/5125/ThuH. Quyết định xuất bản số: 204/QĐ-NXBTH, cấp ngày 16 tháng 12 năm 2019. In xong và nộp lưu chiểu tháng 12 năm 2019. Mã số ISBN: 978-604-959-492-2 228



Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.