Dai diec toan bo

Page 1

Bài số 1 - BẢN TÌM TUỔI Coi theo đây để biết bao nhiêu tuổi và tuổi gì. Lấy năm Đinh Dậu 1957, tuổi Dương lịch trừ ra nhỏ thua Âm lịch một tuổi mới đúng. - 001 tuổi sanh 1957: Đinh Dậu. - 002 tuổi sanh 1956: Bính Thân. - 003 tuổi sanh 1955: Ất Mùi. - 004 tuổi sanh 1954: Giáp Ngọ. - 005 tuổi sanh 1954: Quý Tỵ. - 006 tuổi sanh 1952: Nhâm Thìn. - 007 tuổi sanh 1951: Tân Mẹo. - 008 tuổi sanh 1950: Canh Dần - 009 tuổi sanh 1949: Kỷ Sửu. - 010 tuổi sanh 1948: Mậu Tý. - 011 tuổi sanh 1947: Đinh Hợi. - 012 tuổi sanh 1946: Bính Tuất. - 013 tuổi sanh 1945: Ất Dậu. - 014 tuổi sanh 1944: Giáp Thân. - 015 tuổi sanh 1943: Quý Mùi. - 016 tuổi sanh 1942: Nhâm Ngọ. - 017 tuổi sanh 1941: Tân Tỵ - 018 tuổi sanh 1940: Canh Thìn. - 019 tuổi sanh 1939: Kỷ Mẹo. - 020 tuổi sanh 1938: Mậu Dần. - 021 tuổi sanh 1937: Đinh Sửu. - 022 tuổi sanh 1936: Bính Tý. - 023 tuổi sanh 1935: Ất Hợi. - 024 tuổi sanh 1934: Giáp Tuất. - 025 tuổi sanh 1933: Quý Dậu. - 026 tuổi sanh 1932: Nhâm Thân. - 027 tuổi sanh 1931: Tân Mùi. - 028 tuổi sanh 1930: Canh Ngọ. - 029 tuổi sanh 1929: Kỷ Tỵ. - 030 tuổi sanh 1928: Mậu Thìn. - 031 tuổi sanh 1927: Đinh Mẹo. - 032 tuổi sanh 1926: Bính Dần. - 033 tuổi sanh 1925: Ất Sửu. - 034 tuổi sanh 1924: Giáp Tý. - 035 tuổi sanh 1923: Quý Hợi. - 036 tuổi sanh 1922: Nhâm Tuất. - 037 tuổi sanh 1921: Tân Dậu. - 038 tuổi sanh 1920: Canh Thân. - 039 tuổi sanh 1919: Kỷ Mùi. - 040 tuổi sanh 1918: Mậu Ngọ. - 041 tuổi sanh 1917: Đinh Tỵ. - 042 tuổi sanh 1916: Bính Thìn. - 043 tuổi sanh 1915: Ất Mẹo. - 044 tuổi sanh 1914: Giáp Dần. - 045 tuổi sanh 1913: Quý Sửu. - 046 tuổi sanh 1912: Nhâm Tý. - 047 tuổi sanh 1911: Tân Hợi. - 048 tuổi sanh 1910: Canh Tuất. - 049 tuổi sanh 1909: Kỷ Dậu. - 050 tuổi sanh 1908: Mậu Thân. - 051 tuổi sanh 1907: Đinh Mùi - 052 tuổi sanh 1906: Bính Ngọ. - 053 tuổi sanh 1905: Ất Tỵ. - 054 tuổi sanh 1904: Giáp Thìn. - 055 tuổi sanh 1903: Quý Mẹo. - 056 tuổi sanh 1902: Nhâm Dần. - 057 tuổi sanh 1901: Tân Sửu. - 058 tuổi sanh 1990: Canh Tý.


- 059 tuổi sanh 1899: Kỷ Hợi. - 060 tuổi sanh 1898: Mậu Tuất - 061 tuổi sanh 1897: Đinh Dậu. - 062 tuổi sanh 1896: Bính Thân. - 062 tuổi sanh 1895: Ất Mùi. - 064 tuổi sanh 1894: Giáp Ngọ. - 065 tuổi sanh 1893: Quý Tỵ. - 066 tuổi sanh 1892: Nhâm Thìn. - 067 tuổi sanh 1891: Tân Mẹo. - 068 tuổi sanh 1890: Canh Dần. - 069 tuổi sanh 1889: Kỷ Sửu. - 070 tuổi sanh 1888: Mậu Tý. - 071 tuổi sanh 1887: Đinh Hợi. - 072 tuổi sanh 1886: Bính Tuất. - 073 tuổi sanh 1885: Ất Dậu. - 074 tuổi sanh 1884: Giáp Thân. - 075 tuổi sanh 1883: Quý Mùi. - 076 tuổi sanh 1882: Nhâm Ngọ. - 077 tuổi sanh 1881: Tân Tỵ. - 078 tuổi sanh 1880: Canh Thìn. - 079 tuổi sanh 1879: Kỷ Mẹo. - 080 tuổi sanh 1878: Mậu Dần. - 081 tuổi sanh 1877: Đinh Sửu. - 082 tuổi sanh 1876: Bính Tý. - 083 tuổi sanh 1875: Ất Hợi. - 084 tuổi sanh 1874: Giáp Tuất. - 085 tuổi sanh 1873: Quý Dậu. - 086 tuổi sanh 1872: Nhâm Thân. - 087 tuổi sanh 1871: Tân Mùi. - 088 tuổi sanh 1870: Canh Ngọ. - 089 tuổi sanh 1869: Kỷ Tỵ. - 090 tuổi sanh 1868: Mậu Thìn. - 091 tuổi sanh 1867: Đinh Mẹo. - 092 tuổi sanh 1866: Bính Dần. - 093 tuổi sanh 1865: Ất Sửu. - 094 tuổi sanh 1864: Giáp Tý. - 095 tuổi sanh 1863: Quý Hợi. - 096 tuổi sanh 1862: Nhâm Tuất. - 097 tuổi sanh 1861: Tân Dậu. - 098 tuổi sanh 1860: Canh Thân. - 099 tuổi sanh 1859: Kỷ Mùi. - 100 tuổi sanh 1858: Mậu Ngọ. Bài số 2 - SANH TẠI HUỲNH ĐẾ, TỬ TẠI HUỲNH LONG Anh chị em ai tuổi gì, coi hình ông Huỳnh Đế (không đăng hình vì không cần thiết), tuổi ở tại đâu để cho biết để cho biết xấu tốt, sang hèn thế nào. Chữ A ở đầu, chữ B ở vai, chữ C ở ngực, chữ D ở hai bên cánh tay, chữ E ở bụng, chữ F ở đầu gối, chữ G ở hai bàn chân. Mỗi chỗ có bài thơ giải rõ. Bài này bốn ông Huỳnh Đế mỗi ông một mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. 1.- SANH MÙA XUÂN: - Tuổi Tý ở đầu (chữ A). - Tuổi Mẹo, Dậu ở vai (chữ B). - Tuổi Sửu, Hợi ở ngực (chữ C). - Tuổi Tỵ, Mùi ở hai bên cánh tay (chữ D). - Tuổi Ngọ ở bụng (chữ E). - Tuổi Thìn, Tuất ở đầu gối (chữ F). - Tuổi Thân, Dậu ở hai bàn chân (chữ G). 2.- SANH MÙA HẠ: - Tuổi Ngọ ở đầu (chữ A). - Tuổi Mẹo, Dậu ở vai (chữ B). - Tuổi Mùi, Hợi ở ngực (chữ C). - Tuổi Tỵ, Sửu ở hai bên cánh tay (chữ D). - Tuổi Tý ở bụng (chữ E).


- Tuổi Thìn, Tuất ở đầu gối (chữ F). - Tuổi Dần, Thân ở hai bàn chân (chữ G). 3.- SANH MÙA THU: - Tuổi Hợi ở đầu (chữ A). - Tuổi Tý, Ngọ ở vai (chữ B). - Tuổi Mẹo, Thìn ở ngực (chữ C). - Tuổi Tỵ, Sửu ở hai bên cánh tay (chữ D). - Tuổi Thân ở bụng (chữ E). - Tuổi Tuất, Thìn ở đầu gối (chữ F). - Tuổi Dần, Dậu ở hai bàn chân (chữ G). 4.- SANH MÙA ĐÔNG: - Tuổi Tỵ ở đầu (chữ A). - Tuổi Dậu, Mẹo ở vai (chữ B). - Tuổi Dần, Thân ở ngực (chữ C). - Tuổi Hợi, Ngọ ở hai bên cánh tay (chữ D). - Tuổi Tý ở bụng (chữ E). - Tuổi Sửu, Mùi ở đầu gối (chữ F). - Tuổi Thìn, Tuất ở hai bàn chân (chữ G). CHỮ A Tuổi sanh Huỳnh Đế ở đầu: Siêng năng lo học,công hầu thưởng ban. Nam tử gặp đặng giàu sang, Nữ nhân đài các thanh nhàn khỏi lo. Tiểu nhân phú quí ấm no, Tu nhân tích đức trời cho lâu dài. Ở đầu Huỳnh Đế ít ai, Ăn ở ác đức khổ hoài cực thân. CHỮ B Tuổi sanh đặng ở trên vai: Trung niên tài lộc có hoài đủ ăn. Đầu tiên lao khổ khó khăn, Hậu vận mới khá làm ăn vững vàng. Anh em đông đúc chẳng màng, Của ai nấy hưởng khó toan cậy rày. Tuổi muộn tiền bạc có hoài, Ruộng vườn mua sắm tự tay mình làm. CHỮ C Tuổi ở ngang ngực sanh ra: Phong lưu đài các ai mà dám đương. Quới nhân nhiều kẻ người thương, Họ hàng thân thích vô phương cậy nhờ. Sanh đặng thuận số ngày giờ, Thê vinh tử ấm phụng thờ hậu lai. Bạc tiền dư dã đủ xài, Sanh ra lỗi số vác cày lùa trâu. CHỮ D Tuổi sanh ở hai cánh tay: Trước làm có của khiến rày cũng tan. Ở xa tổ quán đặng an, Thân kẻ quyền quới hộ ban giúp mình. Lỗi sanh vất vả linh đinh, Đi cùng khắp xứ gia đình nhiều nơi. Nam nữ hậu vận thảnh thơi, Ở tay cực nhọc khổ đời thanh niên. CHỮ E


Tuổi sanh ở bụng khỏi lo: Đám tiệc cúng kiến kẻ cho người mời. Thích ưa hát múa xem chơi, Võ văn tập luyện hưởng thời công danh. Ở bụng Huỳnh Đế đã đành, Kẻ sướng người cực lỗi sanh trật giờ. Lỗi sanh vất vả bơ vơ, Đặng sanh chứa đức hưởng nhờ phước dư. CHỮ F Tuổi ở đầu gối sanh ra: Gia đình tạo lập vậy mà nhiều nơi. Trung niên ăn bận thảnh thơi, Làm ra có của có thời cũng tan. Tới đâu thân kẻ giàu sang, Thông minh trí sáng khôn ngoan ai bì. Lão nhân lớn tuổi hết nguy, Sanh bị lỗi số cũng thì cực thân. CHỮ G Tuổi sanh Huỳnh Đế ở chân: Tu hành đặng phước khổ hơn nhiều người. Ly hương tổ quán thảnh thơi, Nam đa thê thiếp, nữ thời lưỡng phu. Đặng sanh sung sướng ngao du, Lỗi sanh phải chịu dốt ngu đọa đày. Người dưng giúp đỡ bằng ngày, Bà con có của ta nay không nhờ. Bài số 3 THẬP NHỊ HUỲNH LONG Nhớ tuổi ai thác năm nào để coi cho biết tốt xấu, trúng lắm không sai. Thí dụ: - Tuổi Thân, Tý, Thìn, ba tuổi này thác năm Thìn, Tuất, coi số I chữ Thần Giác, thác năm Tỵ, Hợi coi số II chữ Tề Nhĩ; thác năm Tỵ Ngọ coi số III chữ Mục Yêu, thác năm Sửu Mùi coi số IV chữ Vĩ Túc; thác năm Dần, Thân coi số V chữ Tản Tỷ, thác năm Mẹo, Dậu coi số VI chữ Phúc Trường. Mỗi chữ có bốn câu thi cho biết tốt xấu. - Tuổi Dần, Ngọ, Tuất, ba tuổi này thác năm Tuất, Thìn, coi số I chữ Thần Giác; thác năm Hợi, Tỵ coi số II chữ Tề Nhĩ; thác năm Tý, Ngọ coi số III chữ Mục Yêu, thác năm Sửu, Mùi coi số IV chữ Vĩ Túc; thác năm Dần, Thân coi số V chữ Tản Tỷ, thác năm Mẹo Dậu coi số VI chữ Phúc Trường. - Tuổi Hợi, Mẹo, Mùi, ba tuổi này thác năm Sửu, Mùi, coi số I chữ Thần Giác; thác năm Thân, Dần coi số II chữ Tề Nhĩ; thác năm Dậu, Mẹo coi số III chữ Mục Yêu, thác năm Tuất, Thìn coi số IV chữ Vĩ Túc; thác năm Hợi, Tỵ coi số V chữ Tản Tỷ, thác năm Tý, Ngọ coi số VI chữ Phúc Trường. - Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu, ba tuổi này thác năm Sửu, Mùi coi số I chữ Thần Giác; thác năm Dần, Thân coi số II chữ Tề Nhĩ; thác năm Mẹo, Dậu coi số III chữ Mục Yêu, thác năm Thìn, Tuất coi số IV chữ Vĩ Túc; thác năm Tỵ, Hợi coi số V chữ Tản Tỷ, thác năm Ngọ, Tý coi số VI chữ Phúc Trường. SỐ I.- SỪNG, MÔI Thần Giác tam niên sự bất tường, Ba năm con cháu khổ tai ương. Gia tài thổ sản kiện thưa mãi, Anh em thân tộc cũng chẳng nhường. SỐ II.- RÚN, LỖ TAI Tề Nhĩ tất định chủ hầu hương, Cháu con hòa thuận vẫn yêu đương. Làm ăn tấn phát gia quờn tước, Tài lộc công danh có như thường.


SỐ III.- CON MẮT và LƯNG Mục Yêu gia phá thấy rõ ràng, Cháu con dâm loạn khiến tham gian. Đổ bác tài khí đều chẳng tốt, Phá tan sự nghiệp phải nghèo nàn. SỐ IV.- BÀN CHÂN, BẮP ĐÙI Vĩ Túc ca vụ cổ lại phường, Thác gặp hai chữ vị tổn thương. Cháu con ly tán phải nghèo khổ, Lụy ứa gian nan chịu đoạn trường. SỐ V.- LỖ MŨI và TRÁN Tản Tỷ tổ phụ hồn quê nương, Huynh đệ vang danh rạng bốn phương. Thác gặp hai chữ thật là tốt, Ngày sau con cháu đặng phú cường. SỐ VI.- BỤNG và RUỘT Phúc trường nhất kiến ngộ quân vương, Chớ co bi ai, chớ lo lường. Phú quí công danh sau cũng có, Cháu con sang trọng hưởng trào đường. BÀI SỐ 4 DÙNG TUỔI MẸ ĐỐI CHIẾU VỚI TUỔI CON, ĐỂ TÌM CHO BIẾT TUỔI CON DỄ NUÔI HAY KHÓ NUÔI, NGÀY SAU LÀM NGHỀ GÌ CHO THUẬN - Mẹ tuổi Tý, Ngọ, sanh con cũng tuổi Tý, Ngọ, coi số I, con tuổi Sửu, Mùi, coi số II; con tuổi Dần, Thân, coi số III, con tuổi Mẹo Dậu, coi số IV; con tuổi Thìn Tuất, coi số V, con tuổi Tỵ, Hợi, coi số VI. - Mẹ tuổi Sửu, Mùi, sanh con cũng tuổi Sửu, Mùi, coi số I, con tuổi Dần, Thân, coi số II; con tuổi Mẹo, Dậu, coi số III, con tuổi Thìn Tuất, coi số IV; con tuổi Tỵ, Hợi, coi số V, con tuổi Tý, Ngọ, coi số VI. - Mẹ tuổi Dần, Thân, sanh con cũng tuổi Dần, Thân, coi số I, con tuổi Mẹo Dậu, coi số II; con tuổi Thìn, Tuất, coi số III, con tuổi Tỵ Hợi, coi số IV; con tuổi Tý, Ngọ, coi số V, con tuổi Sửu, Mùi, coi số VI. - Mẹ tuổi Mẹo, Dậu, sanh con cũng tuổi Mẹo, Dậu, coi số I, con tuổi Thìn, Tuất, coi số II; con tuổi Tỵ, Hợi, coi số III, con tuổi Tý, Ngọ, coi số IV; con tuổi Sửu, Mùi, coi số V, con tuổi Dần, Thân, coi số VI. - Mẹ tuổi Thìn, Tuất, sanh con cũng tuổi Thìn, Tuất, coi số I, con tuổi Tỵ, Hợi, coi số II; con tuổi Tý, Ngọ, coi số III, con tuổi Sửu, Mùi, coi số IV; con tuổi Dần, Thân, coi số V, con tuổi Mẹo, Dậu, coi số VI. - Mẹ tuổi Tỵ, Hợi, sanh con cũng tuổi Tỵ, Hợi, coi số I, con tuổi Tý, Ngọ, coi số II; con tuổi Sửu, Mùi, coi số III, con tuổi Dần, Thân, coi số IV; con tuổi Mẹo, Dậu, coi số V, con tuổi Thìn, Tuất, coi số VI. Đứa con tuổi gì, trúng số mấy, coi biết tốt xấu. SỐ I Con Phật dễ nuôi an hòa, Thuận nghề nông nghiệp sau mà đủ no. Làm nghề ruộng rẫy trời cho, Làm các nghề khác của kho không còn. SỐ II Số hai con Trời dễ nuôi, Gặp chữ vinh hiển đặng vui thanh nhàn.


Học chữ thi đậu danh vang, Thuận nghề giáo huấn không quan cũng thầy. SỐ III Tuổi đặng con Người sanh ra, Thuận nghề thương mãi sau mà mới nên. Nông nghiệp, thầy thợ chẳng bền, Dầu làm có của, như tên mây hồng. SỐ IV Sanh gặp con Ta dễ nuôi, Đặng chữ lợi khẩu nói người hay tin. Khôn ngoan, trí huệ thông minh, Nhiều nghề biết đặng thiệt tình chẳng sai. SỐ V Con Ma khó nuôi nhưng là, Đặng tay phục dược hốt mà thuốc thang. Gặp người đau ốm than van, Bày chỉ thuốc uống bệnh an mạnh liền. SỐ VI Tuổi gặp con Quỉ sanh ra, Nuôi nấng nó báo mẹ cha nghèo nàn. Sau lớn làm thầy đặng an, Thầy chùa, thầy sãi chay đàn pháp sư. Bài số 5 BÀI NÀY COI SANH CON NĂM THÁNG, NGÀY, GIỜ KỴ - Sanh con năm Thân, Tý, Thìn, kỵ tháng Hai ngày Mẹo, giờ Mẹo; tháng Ba ngày Thìn, giờ Thìn; tháng Tư ngày Tỵ, giờ Tỵ, kỵ gắt. - Sanh con năm Dần, Ngọ, Tuất, kỵ tháng Tám ngày Dậu, giờ Dậu; tháng Chín ngày Tuất, giờ Tuất; tháng Mười ngày Hợi, giờ Hợi, kỵ gắt. - Sanh con năm Hợi, Mẹo, Mùi, kỵ tháng Năm ngày Ngọ, giờ Ngọ; tháng Sáu ngày Mùi, giờ Mùi; tháng Bảy ngày Thân, giờ Thân, kỵ gắt. - Sanh con năm Tỵ, Dậu Sửu, kỵ tháng Mười Một ngày Tý, giờ Tý; tháng Chạp ngày Sửu, giờ Sửu; tháng Giêng ngày Dần, giờ Dần, kỵ gắt. Bài số 6 TRÙNG TANG LIÊN TÁNG Thác chôn rồi, trong thân tộc có thác nữa, chôn liệm ngày giờ kỵ gắt phải tránh, mau thời trong ba ngày, lâu cũng ba tháng, lâu nữa là mãn tang ba năm mới hết trùng tang. Thí dụ: Ông bà, cha mẹ hay anh em, con cháu cũng vậy, thác chôn liệm nhằm ngày giờ đó. - Tuổi Thân, Tý, Thìn thác năm tháng, ngày giờ Tỵ là trùng tang liên táng, là ngày giờ cướp sát. - Tuổi Dần, Ngọ, Tuất thác năm tháng, ngày giờ Hợi là trùng tang liên táng, là ngày giờ cướp sát. - Tuổi Hợi, Mẹo, Dậu thác năm tháng, ngày giờ Thân là trùng tang liên táng, là ngày giờ cướp sát. - Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu thác năm tháng, ngày giờ Dần là trùng tang liên táng, là ngày giờ cướp sát. Còn liệm chôn cũng tránh mấy giờ đó.


Đó là nói đúng tuổi; còn trong 12 tuổi, thác năm tháng nào cũng kỵ bốn ngày Dần Thân Tỵ Hợi, liệm chôn ngày giờ và cải táng cũng phải tránh ngày giờ trùng nhựt, trùng thời. Anh chị em nên mua lịch để coi ngày giờ liệm chôn, dở lịch ra coi trúng ngày giờ đó phải tránh, khỏi rước thầy. Có ba tuổi kỵ liệm chôn phải tránh, thí dụ như: con trai trưởng nam tuổi Dần, dâu trưởng nam tuổi Mẹo, cháu trưởng nam tuổi Thìn, kỵ giờ Dần Mẹo Thìn, ba giờ kỵ liệm chôn có hại. Giờ Ngọ, Mùi, Dậu chon tốt; như người thác đó không có con, dâu, cháu thì tránh anh trưởng và tuổi cha mẹ mà thôi và tránh bốn giờ trùng Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Bài số 7 ĐOÁN SỐ MẠNG THEO CÂN LƯỢNG Cho biết tốt xấu, giàu nghèo của đời người ra sao. Làm cha mẹ lúc sanh con ra nên ghi rõ sanh năm nào, tháng mấy, ngày gì, giờ nào để dễ tính bao nhiêu lượng. Thí dụ: sanh đứa nhỏ năm Bính Thân, tháng sáu, ngày 28, hồi 3 giờ rưỡi. Cách tính như vầy: - Ngày Bính Thân: 05 chỉ. - Tháng 6 ......: 16 chỉ. - Ngày 28 ......: 08 chỉ. - Giờ Sửu .......: 06 chỉ. - Cộng ...........: 35 chỉ. Kiếm bài giải số 35 chỉ mà coi thì trúng. NĂM SANH CÓ MẤY LƯỢNG, MẤY CHỈ - Tuổi Giáp Tý: 1 lượng 2 chỉ; Bính Tý: 16; Mậu Tý: 15; Canh Tý: 7; Nhâm Tý: 5 chỉ. - Tuổi Ất Sửu: 9 chỉ; Đinh Sửu: 8; Kỷ Sửu: 7; Tân Sửu: 7; Quý Sửu: 7 chỉ. - Tuổi Giáp Dần: 12 chỉ; Bính Dần: 6; Mậu Dần: 8; Canh Dần: 9; Nhâm Dần: 9 chỉ. - Tuổi Ất Mẹo: 9 chỉ; Đinh Mẹo: 7; Kỷ Mẹo: 19; Tân Mẹo: 12; Quý Mẹo: 12 chỉ. - Tuổi Giáp Thìn: 8 chỉ; Bính Thìn: 8; Mậu Thìn: 12; Canh Thìn: 12; Nhâm Thìn: 10 chỉ. - Tuổi Ất Tỵ: 7 chỉ; Đinh Tỵ: 6; Kỷ Tỵ: 5; Tân Tỵ: 6; Quý Tỵ: 7 chỉ. - Tuổi Giáp Ngọ: 15 chỉ; Bính Ngọ: 13; Mậu Ngọ: 19; Canh Ngọ: 9; Nhâm Ngọ: 8 chỉ. - Tuổi Ất Mùi: 6 chỉ; Đinh Mùi: 5; Kỷ Mùi: 6; Tân mÙi: 8; Quý Mùi: 7 chỉ. - Giáp Thân: 5 chỉ; Bính Thân: 5; Mậu Thân: 14; Canh Thân: 8; Nhâm Thân: 7 chỉ. - Ất Dậu: 15 chỉ; Dinh Dậu: 14; Kỷ Dậu: 5; Tân Dậu: 16; Quý Dậu: 7 chỉ. - Tuổi Giáp Tuất: 15 chỉ; Bính Tuất 6; Mậu Tuất 14; Canh Tuất: 9; Nhâm Tuất: 10 chỉ. - Tuổi Ất Hợi: 9 chỉ; Đinh Hợi: 16; Kỷ Hợi: 9; Tân Hợi: 17: Quý Hợi: 6 chỉ. THÁNG SANH CÓ MẤY LƯỢNG, MẤY CHỈ Tháng giêng: 6 chỉ; tháng hai: 7 chỉ; tháng ba: 18 chỉ; tháng tư: 9 chỉ; tháng năm: 5 chỉ; tháng sáu: 16 chỉ; tháng bảy: 9 chỉ; tháng tám: 15 chỉ; tháng chín: 18 chỉ; tháng mười: 8 chỉ; tháng mười một: 9 chỉ; tháng chạp: 5 chỉ. NGÀY SANH CÓ MẤY LƯỢNG, MẤY CHỈ Mùng một: 5 chỉ, mùng hai: 10, mùng ba: 8, mùng bốn: 15, mùng năm: 16, mùng sáu: 15, mùng bảy: 8, mùng tám: 16, mùng chín: 8, mùng mười: 16, mười một: 9, mười hai: 17, mười ba: 8, mười bốn: 17, mười lăm: 10, mười sáu: 8, mười bảy: 9, mười tám: 18, mười chín: 5, hai mươi: 15, hăm mốt: 10, hăm hai: 9, hăm ba: 8, hăm bốn :9, hăm lăm: 15, hăm sáu: 18, hăm bảy: 7, hăm tám: 8, hăm chín: 16, ba mươi: 6 chỉ. GIỜ SANH CÓ MẤY LƯỢNG, MẤY CHỈ


Giờ Tý: 16 chỉ, Sửu: 6, Dần: 7, Mẹo: 10. Thìn: 6, Tỵ: 16, Ngọ: 10, Mùi: 8, Thân: 8, Dậu: 9, Tuất: 9, Hợi: 6 chỉ. Cha mẹ lúc sanh con nhớ biên năm, tháng, ngày, giờ cho đủ, cộng lại coi đặng bao nhiêu, từ 22 chỉ cho tới 71 chỉ, số nào gặp cực hay sướng, giàu nghèo, quyền quới, tước lộc thế nao; người lớn hay con nít, lấy số cộng coi theo sau đây thì đúng. SỐ 22 CHỈ Sanh ra bệnh tật khổ linh đình, Ăn ở nhiều nơi quán chợ đình. Áo quần tiền bạc người dưng giúp, Thân thích không nhờ nhứt đệ huynh. SỐ 23 CHỈ Số mình vận mạng khổ gian nan, Lo lắng nhiều mưu chẳng đặng nhàn. Cốt nhục đệ huynh gần chẳng tốt, Biệt xứ tha phương mới ở an. SỐ 24 CHỈ Số sanh trung vận phước lộc đa, Gia đình tạo tác nhiều lớp nhà. Thân tộc đệ huynh không nhờ đỡ, Lưu lạc tha phương an tuổi già. SỐ 25 CHỈ Số sanh được hưởng của ông cha, Gia đình sự nghiệp có cho ta. Anh em cốt nhục thường tranh đấu, Đợi người cần kiệm nên cửa nhà. SỐ 26 CHỈ Làm ra nhiều của cũng phải tan, Tài trí mưu mô dư chẳng an. Ly hương tổ quán sanh nhiều kế, Tuổi muộn có lúc cũng đặng nhàn. SỐ 27 CHỈ Người sanh ở thế biết văn chương, Nối nghiệp tổ phụ mình chủ trương. Hưởng đặng quới quyền thật là tốt, Cha mẹ dân dã cũng như thương. SỐ 28 CHỈ Sanh ra thuở nhỏ khó vô cùng, Tưởng lìa phụ mẫu giấc mộng trung. Cải đổi tên họ mới đặng tốt, Sống lâu vinh hiển đáng anh hùng. SỐ 29 CHỈ Tuổi nhỏ vận mạng như chỉ mành, Lớn lên công nghiệp mới đặng thành. Bốn mưoi sắp đến tài lộc có, Di cư cải tánh đắc trường sanh. SỐ 30 CHỈ


Lao đao, lận đận trời phú cho, Đông bôn, Tây tẩu thể chiếc đò. Chung thân lo lắng bề cần kiệm, Lão lai tài tận cũng còn lo. SỐ 31 CHỈ Sanh ra nuôi khó cha mẹ rầu, Chạy thầy lo thuốc vái khẩn cầu Ly hương tổ quán lập gia thất, Trung niên hậu vận tài lộc thâu. SỐ 32 CHỈ Tuổi nhỏ bạc tiền giữ chẳng an, Có của cho đầy cũng phải tan. Hậu vận trung niên cơm áo đủ, Công danh tài lợi tiếng đồn vang. SỐ 33 CHỈ Sanh con mắc phải nợ oan gia, Lớn lên phá sản báo mẹ cha. Trung niên có của đều phá hết, Hậu vận tài lộc hưởng lúc già. SỐ 34 CHỈ Số sanh tụng niệm phước chí gia, Tăng, đạo, thầy sãi mặc áo dà. Ly tổ an cư nơi chùa thất, Đêm khuya thanh vắng tụng Di Đà. SỐ 35 CHỈ Bình sanh làm có giữ chẳng an, Thừa hưởng tổ phụ của đặng toàn. Kinh dinh sự nghiệp ta nắm giữ, Thời lai y lập số đặng nhàn. SỐ 36 CHỈ Bình sanh không hưởng của ông cha, Một mình tạo lập nên cửa nhà. Nhờ có ơn trên thường chiếu mạng, Làm quan trấn nhậm đổi phương xa. SỐ 37 CHỈ Số sanh vận mạng khổ đã đành, Xung khắc đệ huynh gây đấu tranh, Ông cha để của tài lộc có, Rốt cuộc ngày sau cũng chẳng thành. SỐ 38 CHỈ Bình sanh cơm áo có chẳng sai, Vận mạng gian truân lo lắng hoài. Cực nhọc trời cho ta đã thấy, Tiện tặn có của không dám xài. SỐ 39 CHỈ Sanh ra mạng số chẳng dặng an, Lận đận lao đao chớ thở than.


Cần kiệm siêng năng thành gia thất, Tuổi muộn về sau mới đặng nhàn. SỐ 40 CHỈ Bình sanh ăn mặc gấm nhiễu thường, Muốn tính việc chi tự chủ trương. Háo thắng ỷ mình nên làm họa, Tuổi muộn kiên nhẫn đặng an khương. SỐ 41 CHỈ Số sanh vận mạng phải lương khương, Anh em thân tộc chẳng cậy nương. Nhờ người xa xứ quới nhân giúp, Tuổi lớn tật bệnh khổ đoạn trường. SỐ 42 CHỈ Tuổi sanh trưởng thành rất thảo ngay, Siêng năng lo lắng chẳng hở tay Trung niên gia thất tài lộc có, Tuổi muộn hậu lai đẹp mặt mày. SỐ 43 CHỈ Sanh ra tâm tánh đặng thông minh, Ít kẻ so đo giỏi hơn mình. Khôn ngoan khéo léo nhiều nghề biết, Tuổi muộn thanh nhàn đặng an ninh. SỐ 44 CHỈ Sanh nhằm vận mạng phải lo âu, Thiên số định xong chớ khẩn cầu. Làm nhiều tài lợi đặng giàu có, Cũng không sung sướng khổ điên đầu. SỐ 45 CHỈ Tiền vận lợi danh khó cho ta, làm nhiều tìen của khiến cũng ra. Lọt lòng nuôi khó nam cùng nữ, Ly hương tổ quán cách ông bà. SỐ 46 CHỈ Đông Nam Tây Bắc lìa xứ xa, Anh em xung khắc chẳng đặng hòa. Cải tên đổi họ sau phải có, Tài lợi đặng hưởng trở về già. SỐ 47 CHỈ Tuổi sanh vận mạng gặp được may, Thê vinh tử ấm hưởng chẳng sai. Bình sanh có tánh hay làm phước, Tài lộc đa số hưởng lâu dài. SỐ 48 CHỈ Tuổi đầu lao khổ chịu gian nan, Làm ăn có của giữ chẳng an. anh em thân thích không nhờ đỡ, Ngày sau tuổi muộn đặng thanh nhàn.


SỐ 49 CHỈ Tuổi sanh sáng suố t đặng thông minh, Tự tay ta lập nên gia đình. Phú quới vinh hoa tài lộc có, Gia tướng trung nghĩa ở thiệt tình. SỐ 50 CHỈ Vì lợi vì danh trọn khổ lo, Ba mươi phước lộc trời giúp cho. Tuổi muộn khiến người tài lộc có, Chẳng cần ai giúp cũng ấm no. SỐ 51 CHỈ Trọn đời vinh hiển gia đạo xương, Khỏi lo cực nhọc, chẳng lo lường. Cốt nhục anh en, đông con cháu, Quyền tước công danh đặng như thường. SỐ 52 CHỈ Đời người thong thả sướng quá tay, Khỏi lo thiếu hụt, có ăn hoài. Ông bà chứa đức, ta gặp phước, Sự nghiệp phong dinh hưởng lâu dài. SỐ 53 CHỈ Sanh ra sống sót đặng là may, Gia dình tạo lập chẳng cậy ai. Đời người ăn mặc đủ no ấm, Tuổi muộn ngày sau hưởng lâu dài. SỐ 54 CHỈ Số sanh có phước đặng hiển vinh, Thi thơ đọc thuộc, tánh thông minh. Công danh phú quới gia quyền tước, Tuổi lớn ngày sau hưởng trào đình. SỐ 55 CHỈ Gắng công mài sắt đặng lợi danh, Tuổi nhỏ siêng năng chí khôn lanh. Học hành thi đậu gia quyền tước, Phú quí vinh hoa sự nghiệp thành. SỐ 56 CHỈ Tuổi sanh lễ nghĩa đặng khôn ngoan, Phước lộc giàu có mới ở an. Cực nhọc hay lo, trời phú tánh, Của chất đầy kho cũng chẳng nhàn. SỐ 57 CHỈ Phước lộc phong vinh vạn sự an, Sanh đặng phú quí tại do thiên. Công danh tài lộc sau phải có, Trọn đời sung sướng tợ như tiên. SỐ 58 CHỈ


Bình sanh y thực tự nhiên lai, Danh lợi song toàn ít mấy ai. Hưởng lộc trào đình mang ngọc đái, Áo thêu rồng phụng, chân mang hài. SỐ 59 CHỈ Tuổi sanh thông thái đặng khôn lanh, Tài cao tất định lập nghiệp thành. Học hành thi đậu gia quyền tước, Cỡi ngựa về làng đặng oai danh. SỐ 60 CHỈ Vào trường chiếm bảng đặng nổi danh, Vinh hiển mẹ cha chí nghiệp thành. Áo cơm no ấm không lo thiếu, Sự nghiệp tài sản nhờ học hành. SỐ 61 CHỈ Tuổi sanh khôn lớn tiếng đồn vang, Học hành sáng suốt chiếm bảng vàng. Phú quí vinh hoa tài lộc có, Tuổi muộn ngày sau đặng hưởng an. SỐ 62 CHỈ Vận mạng sanh ra phước vô cùng, Học hành tất định hiển tông môn. Ngọc đái, áo mzão phong khanh tướng, Phú quí vinh hoa đặng tiếng đồn. SỐ 63 CHỈ Tuổi sanh quan tước có như thường, Phú quí vinh hoa đặng kiết xương. Học hành thông thái tên đè bảng, Áo mão rạng danh hưởng trào đường. SỐ 64 CHỈ Mạng người phú quí đặng an khương, Thông hiểu võ văn chốn trào đường. Oai danh lừng lẫy ít ai sánh, Tuổi muộn tài lộc có như thường. SỐ 65 CHỈ Tuy mạng phước đức phụ mẫu sanh, Học hành bền chí sau đặng thành. An bang tổ quốc gia quyền tước, Oai phong hiển đạt chí thanh danh SỐ 66 CHỈ Học hành bền chí mới đặng thành, An bang tá quốc hiển oai danh. Nhờ lộc trời ban nhiều quyền tước, Ít ai dám sánh sự lợi danh. SỐ 67 CHỈ Ly hương tổ quán xa ông bà,


Xứ người lập nghiệơ ở nơi xa. Bình sanh y lộc tiền tài có, Hậu vạn trời cho hưởng phước già. SỐ 68 CHỈ Phú quí do thiên chẳng khổ cầu, Khôn ngoan mưu kế có chẳng lâu. Thập nên đăng hỏa nên sự nghiệp, Đêm lắng ngày lo khổ điên đầu. SỐ 69 CHỈ Tiền vận tài lộc khổ linh đinh, Cốt nhục khó nhờ nhứt đệ huynh. Phú quí vinh hoa do thiên định. Tuổi muộn sau hưởng phước gia đình. SỐ 70 CHỈ Tuổi sanh cực nhọc thiên gian nan, Lao tâm khổ trí có mới an. Sự nghiệp gia tài do thiên định, Đời người an hhưởng chẳng đặng nhàn. SỐ 71 CHỈ Tuổi sanh sau đặng tiếng đồn vang, Công hầu quan tước hưởng đặng an. Tổ phụ trước dư nhiều nhơn đức, Ngày nay mới đặng hưởng tước ban. Bài số 8 SAO LA HẦU THÁNG NÀO CÙNG CŨNG ĐẶNG La Hầu sao ấy nặng thay, Tháng Giêng, tháng Bảy kỵ ngay chẳng hiền. Môn trung đổ bác hao tiền, Tửu sắc, tài khí đảo điên những là. Đàn ông nặng hơn đàn bà, Nữ nhân khẩu thiệt sanh mà giận nhau. Hao tài tốn của ốm đau, Sanh ra ẩu đả lao đao chẳng hiền. Đàn ông bổn mạng chẳng yên, Tai nạn phản phúc của tiền tốn hao. Ăn ở ngay thẳng không sao, Rủi bị nguy hiểm ốm đau nhẹ nhàng. Sao La Hầu mỗi tháng cúng ngày mùng 8, giờ Tý, dùng 9 ngọn đèn, lạy về hướng Bắc, bài vị giấy vàng. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. SAO THỔ TÚ THÁNG NÀO CÚNG CŨNG ĐẶNG Thổ Tú sao ấy phải lo, Tuy là ít nặng giữ cho vẹn toàn. Tháng Tư, tháng Tám chẳng an, Kỵ hai tháng đó thiếp chàng bi ai. Làm ăn thì cũng có tài, Khiến cho đau ốm khỏi rày ốm đau. Mang lời chịu tiếng biết bao, Bán buôn phải giữ kẻo hao mất đồ. Tham tài, dục lợi của vô, Đưa ra thì bị hung đồ đoạt đi. Tin người ngon ngọt phải nguy, Thi ân tích đức việc gì cũng qua.


Sao Thổ Tú cúng ngày 19, giờ Thân, dùng 5 ngọn đèn, lạy về hướng Bắc, bài vị giấy vàng. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. SAO THỦY DIỆU THÁNG NÀO CÚNG CŨNG ĐƯỢC Thủy Diệu thuộc về Thủy Tinh, Trong năm nhịn nhục, chống kình hiểm nguy. Đạo tặc phản phúc có khi, Huyền Võ chiếu mạng lâm thì tà gian. Nam nữ vận mạng chẳng an, Tháng Tư, tháng Tám lụy tràn bi ai. Văn thơ khẩu thiệt có hoài, Nói hành dụm miệng lo bày kế mưu. Tang khó chẳng khỏi sầu ưu, Mất đồ hao của phiêu lưu giữ gìn. Gặp người quen lạ chớ tin, Bạc tiền mượn hỏi chớ khinh mà lầm. Sao Thủy Diệu mỗi tháng cúng ngày 21, giờ Dần, dùng 7 ngọn đèn, bài vị giấy vàng, lạy về hướng Bắc. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. SAO THÁI BẠCH THÁNG NÀO CÚNG CŨNG ĐƯỢC Thái Bạch sao ấy nặng thay, Nam nữ máu huyết kỵ rày gươm đao. Kim Tinh, Bạch Hổ vì sao, Cử mặc đồ trắng chiếu vào Tây phương. Cưới gả tạo lập gia đường, Tháng Năm kỵ lắm, tổn thương chẳng hiền. Bi ai tang khó hao tiền, Không tai cũng bệnh trung niên khỏi nào. Có người cũng nhẹ không sao, Có kẻ bị vướng tù lao giam cầm. Cũng nên tích đức thiện tâm, Quới nhân đỡ gạc ai đâm đặng mình. Sao Thái Bạch mỗi tháng cúng ngày rằm (15), giờ Tuất, dùng 8 ngọn đèn, lạy về hướng Tây, bài vị giấy trắng. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. SAO VÂN HỚN THÁNG NÀO CÚNG CŨNG ĐẶNG Vân Hớn cũng nhẹ không sao, Mãn năm khẩu thiệt lao đao sơ sài. Đầu năm đổ bác bạc bài, Thua nhiều, ăn ít hao tài chẳng an. Văn thơ khẩu thiệt đa đoan, Mang lời chịu tiếng bị quan quở hành. Hỏa Đức chiếu mạng chẳng lành, Dằn tánh nóng nảy tụng tranh chẳng hiền. Tháng Tư, tháng Tám phải kiên, Kỵ trong hai tháng chẳng yên gia đình. Gặp ai gây dữ làm thinh, Nhịn nhục qua khỏi thì mình không sao. Sao Vân Hớn mỗi tháng cúng ngày 29, giờ Tỵ, dùng 15 ngọn đèn, lạy về hướng Nam, bài vị giấy đỏ. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. SAO THÁI DƯƠNG THÁNG NÀO CÚNG CŨNG ĐẶNG Thái Dương chiếu mạng tuổi ta, Tháng Mười, tháng Sáu có mà tiền vô. Cầu trời, lạy Phật nam mô, Sao tốt ở phải cây khô ra chồi. Sao tốt vận xấu than ôi,


Thái Dương, Thái Bạch đi đôi khác gì. Hạn nặng phải tránh kẻo nguy, Chớ ỷ sao tốt mắc thì họa lây. Thái Dương thuộc Mộc là cây, Mùa thu bị khắc họa lây đến mình. Ăn ở ngay thẳng thật tình, Làm ăn tấn phát quang minh đắc tài. Sao Thái Dương mỗi tháng cúng ngày 17, giờ Thìn, dùng 12 ngọn đèn, lạy về hướng Đông, bài vị giấy xanh. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. SAO KẾ ĐÔ THÁNG NÀO CÚNG CŨNG ĐẶNG Kế Đô chiếu mạng năm nay, Tháng Ba, tháng Chín bi ai khóc ròng. Đàn bà vận mạng long đong, Ốm đau hao tán nặng trong năm này. Như trời u ám kéo mây, Đàn ông tuy nhẹ cũng lây như nàng. Phước lớn qua khỏi đặng an, Không thì tai họa vướng mang có ngày. Phòng ngừa lâm vấp rủi may, Thi ân bố đức thẳng ngay nhẹ nhàng. Tham tài, dục lợi chẳng an, Thương người phải mắc, chớ than chớ buồn. Sao Kế Đô cúng ngày 18, giờ Ngọ, dùng 20 ngọn đèn, lạy về hướng Tây, bài vị giấy vàng. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. SAO THÁI ÂM THÁNG NÀO CÚNG CŨNG ĐẶNG Thái Âm chiếu mạng năm nay, Khỏi bị đau mắt, trặc tay, trẹo giò. Đàn ông ít nặng nhẹ lo, Đàn bà khẩu thiệt đôi co rầy rà. Thân nhân lân cận chẳng hòa, Nói hành, nói lén vậy mà sau lưng. Ốm đau qua khỏi thì mừng, Hao tài, tổn sức ta đừng có than. Bổn mạng chẳng vững không an, Phòng người phản phúc vu oan cho mình. Đất bằng sóng dậy thình lình, Câu Trận chiếu mạng chống kình chẳng nên. Sao Thái Âm mỗi tháng cúng ngày 26, giờ Mùi, dùng 7 ngọn đèn, lạy về hướng Tây, bài vị giấy vàng. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. SAO MỘC ĐỨC THÁNG NÀO CÚNG CŨNG ĐẶNG Mộc Đức nhằm tuổi năm nay, Tháng Mười, tháng Chạp đặng hay tin mừng. Có kẻ trợ giúp không chừng, Bạc tiền vay hỏi đem dưng lẹ làng. Thanh Long chiếu mạng vững vàng, Có người rủ biểu chỉ đàng làm ăn. Cũng như trời tối gặp trăng, Cá kia gặp nước làm ăn có đường. Sao tốt Mộc Đức, Thái Dương, Nếu gặp hạn nặng khinh thường chẳng nên. Sao Mộc Đức mỗi tháng cúng ngày 25, giờ Ngọ, dùng 20 ngọn đèn, lạy về hướng Đông, bài vị giấy xanh. Cúng Hạn dùng 2 ngọn đèn. Bài số 9


COI HẠN GÌ, TỐT XẤU, NẶNG NHẸ CHO BIẾT

CÁCH ĐÁNH HẠN TRÊN BÀN TAY TÍNH HẠN Đánh Hạn đọc: Huỳnh Tuyền, Tam Kheo, Ngũ Mộ, Thiên Tinh, Tán Tận, Thiên La, Địa Võng, Diêm Vương. - Nam đánh thuận như vầy: Nam khởi Huỳnh Tuyền đếm mười tại Khảm, hai mươi tại Cấn thuận hành, đại tiểu số liên tiết. - Nữ khởi mười Tán Tận tại Ly, nghịch hành. Thí dụ: Nam 32 tuổi, đếm 10 Huỳnh Tuyền tại Khảm, 20 tại Cấn, 30 tại Chấn, 31 tại Tốn, 32 tại Ly là trúng hạn Tán Tận, gọi là cách đánh thuận hành. Nữ 33 tuổi, đếm 10 tại Tán Tận tại Ly, 20 tại Tốn, 30 tại Chấn, 31 tại Cấn, 32 tại Khảm, 33 tại Càn là trúng hạn Diêm Vương, gọi là cách đánh nghịch hành. Huỳnh Tuyền hạn ấy nặng thay, Dầu khỏi tai nạn khiến rày ốm đau. Tam Kheo hạn nhẹ không sao, Ngũ Mộ đau ốm lao đao chẳng hiền. Thiên Tinh là hạn trung bình, Mang lời chịu tiếng thình lình chẳng may. Tán Tận họa gởi tai bay, Văn thơ khẩu thiệt tản tài ốm đau. Thiên La hạn phải lao đao, Dầu khỏi tật bệnh, họa trao phải phòng.


Địa Võng hạn cũng không xong, Như cá mắc lưới giữa dòng chẳng may. Diêm Vương thưa kiện kỵ ngay, Phải phòng mà giữ động rày văn thơ. Bài số 10 - BỐN MÙA SANH Từ Giáp Tý đến Quý Hợi, xin lưu ý coi mạng, tánh tình người, mạng gì, được mùa sanh hay lỗi mùa sanh, sướng cực thế nào, bốn mùa kể ra sau đây: Mùa Xuân: - Tháng Giêng (Dần), tháng Hai (Mẹo) thuộc Mộc, tháng Ba (Thìn) thuộc Thổ. - Mộc vượng, Hỏa tướng, Thổ tử, Kim Tù, Thủy hưu. Mùa Hạ: - Tháng Tư (Tỵ), tháng Năm (Ngọ) thuộc Hỏa, tháng Sáu (Mùi) thuộc Thổ. - Hỏa vượng, Thổ tướng, Kim tử, Thủy tù, Mộc hưu. Mùa Thu: - Tháng Bảy (Thân), tháng Tám (Dậu) thuộc Kim, tháng Chín (Tuất) thuộc Thổ. - Kim vượng, Thủy tướng, Mộc tử, Hỏa tù, Thổ hưu. Mùa Đông: - Tháng Mười (Hợi), tháng Mười Một (Tý) thuộc Thủy), tháng Chạp (Sửu) thuộc Thổ. - Thủy vượng, Mộc tướng, Hỏa tử, Thổ tù, Kim hưu. Vượng, Tướng là tốt, Tử xấu nhất, Tù xấu nhì, Hưu thứ ba.


Bài số 11 - ĐOÁN VẬN MẠNG Tuổi Giáp Tý sanh 1864 và 1924 Giáp Tý cung Chấn, mạng Kim, Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1924, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Đoài. Giáp Tý cung Chấn, mạng Kim, Vàng ở giữa biển thiên niên vững bền. Sanh đặng mùa Thu mới nên, Thánh ba, tháng sáu vững bền an thân. Tháng chạp mạng ta có phần, Sanh đặng thuận số công thần chức ban.. Sanh mấy tháng khác chẳng an, Lỗi sanh phải khổ gian nan tư bề. Số ta biết đặng nhiều nghề, Duyên đầu lỡ dở thiếp thể đổi đời. Anh em bạn hữu phản thời, Giúp đỡ cho họ ăn rồi phụ ơn. Có hỏi sanh giận sanh hờn, Ăn rồi quẹt mỏ phủi ơn như gà. Ly hương tổ quán xứ xa, Anh em cô bác thời ta không nhờ. Lỗi sanh phải chịu bơ vơ, Cực nhọc lo lắng tại giờ sanh ra. Số ta chết hụt đôi ba,


Lỗi sanh không đức, phải sa ngục hình. Tu nhân tích đức hiển vinh, Rủi bị oan ức thiên đình độ cho. Số tuổi hậu vận ấm no, Tiền vận làm có của kho không còn. Tuổi Ất Sửu sanh 1865 và 1925 Ất Sửu cung Tốn, mạng Kim, Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1925, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn. Ất Sửu cung Tốn, mạng Kim, Vàng ở giữa biển tự nhiên an hòa. Tháng bảy, tháng tám sanh ra, Tháng sáu, tháng chạp, tháng ba đặng mùa. Như cây gặp tuyết nở đua, Sanh mấy tháng khác như vua sa lầy. Đặng sanh như rồng lên mây, Lỗi sanh có của cho đầy cực thân. Anh em xung khắc chẳng gần, Người dưng giúp đỡ, thích thân không nhờ. Vợ chồng kết nghĩa tóc tơ, Duyên đầu lỡ dở hẩn hờ đôi ba. Tuổi ta chân chất thật thà, Làm ơn cho bạn sau mà phản ngay. Bạc tiền trợ giúp hỏi vay, Ăn rồi lấy giáo trở tay đâm mình. Bụng người cũng có tánh linh, Nghi ai thì có thiệt tình chẳng sai. Số phải tu niệm ăn chay, Không thì khổ não bị nay giam cầm. Nhiều lúc tai nạn âm thầm, Cũng điều qua khỏi hung trung gặp hiền. Đặng sanh sau có đất điền, Lỗi sanh vất vả chẳng yên thân này. Tuổi Bính Dần sanh 1866 và 1926 Bính Dần cung Khảm, mạng Hỏa, Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1926, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn. Bính Dần cung Khảm, lửa lò, Tuổi sanh Xuân, Hạ ấm no thanh nhàn. Thu Đông sanh gái là nàng, Lỗi sanh cực nhọc, sanh chàng lo âu. Lỗi sanh mang giỏ hái dâu, Cực xác mệt trí điên đầu tằm tơ. Đặng sanh ăn gnủ có giờ, Bồi bếp hầu hạ đợi chờ khiến sai. Bính Dần bất luận gái trai, Khôn ngoan mưu trí ít ai thiệt thà. Tuổi Dần lâm vô đàn bà, Giúp chồng mạng lớn ở mà mới an. Giận ai muốn tới ăn gan, Ai quấy biết lỗi, than van dịu liền. Anh em xung khắc chẳng yên, Ở chung xích mích đảo điên rày rà. Xa quê tổ quán ông bà, Lập nên cơ nghiệp cửa nhà vinh sang. Có quyền có tước mới an,


Dốt nát phải chịu gian nan thua người. Hậu vận tuổi trên bốn mươi, Có của mới tụ, trước thì rả tan. Thấy ai nghèo khổ thở than, Bạc tiền giúp đỡ sau toan phản liền. Tuổi Đinh Mẹo sanh 1867 và 1927 Đinh Mẹo cung Càn, mạng Hỏa, Trực Chấp để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1927, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn. Đinh Mẹo mạng Hỏa cung Càn, Lư nhang là lửa mau tàn nguội ngay. Giận ai nóng nảy không day, Ít bửa dịu ngọt hỏi tiền cũng đưa. Vợ chồng lỡ dở duyên xưa, Không thời sau gặp duyên thừa mới nên. Tới đâu thân kẻ bề trên, Làm bạn phản phúc, họ quên ơn liền. Thương ai giúp của dùm tiền, Ăn rồi lấy giáo đâm liền theo tay. Có tiền vinh mặt vác mày, Gặp không muốn hỏi, đi ngay ẩn mình. Bụng người cũng có tánh linh, Nghi tưởng thì có như đinh đóng vào. Đặng sanh quyền tước sang giàu, Lỗi sanh có của tiền hao không còn. Hậu vận nhờ đặng cháu con, Tiền vận lao khổ những còn sầu bi. Tai nạn nhiều lúc hỉem nguy, Cũng đều qua khỏi nhờ thì ơn trên. Thần quan tả hữu hai bên, Độ mang qua khỏi mới nên vững vàng. Tuổi Mậu Thìn sanh 1868 và 1928 Mậu Thìn cung Đoài, mạng Mộc, Trực Thâu để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1928, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn. Mậu Thìn cung Đoài, Mộc lâm, Cây lớn rừng núi trăm năm to tàng. Đông Xuân sanh đặng thời sang, Mùa Xuân vượng Mộc cũng an đặng mùa. Xuân vượng cây trái nở đua, Sanh Thu Mộc khắc như cua gãy càng. Mùa Hạ Hưu, Tù chẳng an, Dẫu làm có của muôn ngàn cực thân. Anh em cô bác chẳng gần, Người dưng giúp đỡ ân cần độ ta. Mậu Thìn lâm vô đàn bà, Gặp chồng mạng lớn phải mà nhịn ngay. Buổi đầu chồng vợ đổi thay, Nhiều chỗ nói cưới, ta nay không màng. Đôi dòng ba thứ mới an, Một đời phải chịu gian nan tư bề. Tuổi sanh biết đặng nhiều nghề, Phiêu lưu xứ khác xa quê ông bà. Lòng ở nhân đức hải hà, Ai mà than thở thì ta giúp liền. Ăn rồi phản phúc tự nhiên,


Thấy ai ngọt dịu có tiền cũng đưa. Đặng sanh sau có đất điền, Ruộng vườn mua sắm, của tiền làm ra. Tuổi Kỷ Tỵ sanh 1869 và 1929 Kỷ Tỵ cung Cấn, mạng Mộc, Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1929, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài. Kỷ Tỵ cung Cấn tốt thay, Mạng Mộc cây lớn mọc ngay giữa rừng. Sanh đặng Đông Xuân thì mừng, Có kẻ tưới nước vun chưn lâu tàn. Hạ, Thu sanh gái là nàng, Lỗi sanh cực nhọc, sanh chàng khổ thân. Số ta chết hụt mấy lần, Quới nhân độ mạng có phần khỏi nguy. Thợ thầy, quan tước hiệp nghi, Không thôi vất vả chịu thì linh đinh. Tuổi ta sáng láng thông minh, Thấy thì làm đặng thiệt tình chẳng sai. Chơi bạn thì bạn phản hoài, Anh em xung khắc gặp hay rầy rà. Giận ai nói rồi bỏ qua, Không lòng cố chấp, giận mà không lâu. Ai mà túng thiếu khẩn cầu, Bạc tiền trợ giúp ta đâu chối từ. Tiền vận chưa biết nên hư, Hậu vận mới khá của dư có xài. Lòng ở ngay thẳng mới hay, Phật Trời dòm ngó có ngày làm nên. Thần quan tả hữu hai bên, Ai ở ác đức biên tên nạp liền. Tuổi Canh Ngọ sanh 1870 và 1930 Canh Ngọ cung Ly, mạng Thổ, Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1930, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn. Canh Ngọ cung Ly rõ ràng, Đất ở đường lộ muôn ngàn người đi. Tuổi sanh mùa Hạ lo chi, Tháng chạp, tháng chín cùng thì tháng ba. Đặng sanh sáu tháng an hòa, Tổ phụ tích đức sau ta sang giàu. Thu, Đông phải chịu lao lao, Mùa Xuân Dần, Mẹo biết bao khổ rày. Sanh kỵ tháng Giêng, tháng Hai, Nặng hơn mấy tháng khổ rày cực thân. Vợ chồng không phải một lần, Duyên đầu lỡ dở tơ hồng xe lơi. Vợ chồng đôi thứ ba đời, Canh Ngọ sang số ít thời một nơi. Tuổi ta nhờ phước Phật Trời, Không thời chết hụt rồi đời đã xong. Sanh ra thuở nhỏ long đong, Hai tên, hai thứ, hai dòng mới an. Ai nói thiết yếu thở than, Bạc tiền trợ giúp họ toan phản liền. Đặng sanh tạo mãi đất điền,


Lỗi sanh khổ não như thuyền linh đinh. Tuổi ta sáng dạ thông minh, Quyền tước, thầy thợ, trào đình chẳng sai. Tuổi Tân Mùi sanh 1871 và 1931 Tân Mùi cung Khảm, mạng Thổ, Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1931, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly. Tân Mùi cung Khảm, Bắc phương, Đất ở đường lộ thường thường người đi. Sanh đặng mùa Hạ lo chi, Tháng chạp, tháng chín không thì tháng ba. Thổ vượng tứ quí nhưng là, Sanh đặng sáu tháng ai mà dám đương. Tân Mùi tâm tánh hiền lương, Giận ai làm dữ, nghĩ thương lại người. Tháng giêng, tháng hai lỗi thời, Bị Mộc khắc Thổ cực đời số ta. Anh em xung khắc chẳng hòa, Ở gàn gây gổ, đi xa nhớ liền. Làm bạn họ phản tự nhiên, Đã biết phản phúc có tiền cũng đưa. Tình duyên trắc trở chẳng vừa, Lần đầu sơ khơi kén lừa đôi ba. Số tuổi cách trở mẹ cha, Ly hương tổ quán sau mà mới nên. Trước khi có của chẳng bền Ngày sau mới khá trở nên vững vàng. Thầy thợ, quyền tước mới an, Binh lính, thượng hạ sĩ quan văn thần. Đặng sanh sang cả tấm thân, Lỗi sanh bồi bếp dọn bàn nấu ăn. Tuổi Nhâm Thân sanh 1872 và 1932 Nhâm Thân cung Khôn, mạng Kim, Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1932, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm. Nhâm Thân cung Khôn, mạng Kim, Vàng ở cây kiếm ít người tìm ra. Tháng chạp, tháng sáu, tháng ba, Mùa Thu tươi tốt sanh ta đặng mùa. Đặng sanh có kẻ rước đưa, Ăn trên ngồi trước, bẩm thưa đón chào. Lỗi sanh cực khổ biết bao, Tay bùn, chân lấm, mắt hòa mồ hôi. Duyên tình trước cũng lôi thôi, Nhiều chỗ gắm ghé than ôi lỡ làng. Có kẻ phu quới giàu sang, Nhiều người vất vả lang thang thiếu gì. Anh em xung khắc nhiều khi, Nói ra gây gổ, giận thì long đong. Cha mẹ, anh em hai dòng, Không thì duyên nợ lòng thòng đôi ba. Ly hương tổ quán ông bà, Số phải học tập ở xa nước ngoài. Ba mươi bạo phát lợi tài, Khỏi bị tan rả, họa tai chẳng hiền. Số tuổi sau có đất điền,


Ruộng vườn mua sắm ,của tiền làm ra. Lập nghiệp ở nơi xứ xa, Thành thị chẳng tốt, ở mà thôn quê. Tuổi Quí Dậu sanh 1873 và 1933 Quý Dậu cung Chấn, mạng Kim, Trực Thành để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1933, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn. Quý Dậu cung Chấn, mạng Kim, Vàng trong cây kiếm ráng tìm giàu sang. Bất luận nam nữ gái trai, Mùa Thu sanh đẻ đố ai dám bì. Tháng tư, tháng năm phải nguy, Kim bị Hỏa khắc, cực thì khổ thân. Đặng sanh sáng suốt tinh thần, Lốianh tật bệnh mười phần chẳng an. Nhân đức như thể Lưu Bang, Tàn bạo như Hạng, Ô giang bỏ mình. Quí Dậu nhiều kẻ hiền lành, Ít ai ở dữ, gian manh bạo tàn. Hậu vạn có của mới an, Tiền vận làm có, rả tan chẳng còn. Hai dòng cha mẹ mới an, Không thì chồng vợ khó toan một đời. Trung niên nay đổi mai dời, Ai mà có chí khỏi thời long đong. Sanh ra đặng gái đầu lòng, Làm ăn mới khá tại trong tuổi này. Anh em xung khắc hay rầy, Cô bác có của, ta đây không màng. Có lúc phải chịu hàm oan, Ở mà nhân đức tai nàn cũng qua. Tuổi Giáp Tuất sanh 1874 và 1934 Giáp Tuất cung Càn, mạng Hỏa, Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1934, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn. Giáp Tuất mạng Hỏa, cung Càn, Lửa ở đầu núi rõ ràng sáng trưng. Xuân Hạ đặng sanh thời mừng, Lao khổ gặp lúc ta đừng có than. Có phước thi đặng làm quan, Giàu nghèo cũng sướng thanh nhàn có khi. Sanh gặp Thu Đông phải nguy, Giàu có cũng cực, nghèo thì bơ vơ. Lỗi sanh ác đức, trật giờ, Ngao du thành thị đợi chờ khách sang. Tuổi sanh thuở nhỏ chẳng an, Tật bệnh đau ốm khó toan nuôi rày. Tâm tánh sáng dạ rất hay, Thấy thì làm đặng ít ai dám bì. Vợ chồng lỡ dở trước khi, Nhiều nơi gấm ghé vậy thì bỏ qua. Số người cách trở mẹ cha, Nội ngoại không thấy, ông bà đôi bên. Giáp Tuất có chí làm nên, Quyền tước, thầy thợ vững bền an thân. Anh em xung khắc chẳng gần, Nói ra gây gổ nhiều lần chẳng an.


Ở đặng chứa đức giàu sang, Ở không ngay thẳng, đưa sang ngục hình. Tuổi Ất Hợi sanh 1875 và 1935 Ất Hợi cung Đoài, mạng Hỏa, Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1935, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn. Ất Hợi mạng Hỏa, cung Đoài, Lửa ở đầu núi sáng bay đỏ trời. Tuổi sanh Xuân Hạ gặp thời, Giàu nghèo cũng sướng an nơi thanh nhàn. Thu Đông sanh gái là nàng, Sanh trai cũng lỗi lỡ làng chẳng yên. Ất Hợi nhiều kẻ lòng hiền, Ai mà ở dữ, mang xiềng khổ thân. Anh em xung khắc chẳng gần, Nói ra gây gổ, sượng sần mắng ta. Lớn lên cách trở xứ xa, Học tập nghề nghiệp sau mà mới nên. Đầu tiên cầm của chẳng bền, Làm có hao tán như tên mây hồng. Tuổi muộn giàu có an thân, Sớm lập gia thất nhiều lần chẳng nên. Kết làm bạn hữu chẳng bền, Ăn rồi phản phúc họ quên ơn liền. Vợ chồng đôi thứ mới yên, Duyên tình lỡ dở tự nhiên lần đầu. Tuổi ta nóng nảy không lâu, Giận ai nói dữ lần đầu sau êm. Bốn mươi sắp tới trở lên, Làm ăn có của vững bền đặng lâu. Tuổi Bính Tý sanh 1876 và 1936 Bính Tý cung Cấn, mạng Thủy, Trực Thành để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1936, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn. Bính Tý cung Cấn sanh ra, Mạng Thủy là nước giang hà sông Ngân. Tuổi sanh đặng mùa Thu Đông, Có kẻ tưới nước vun trồng cho ta. Tuổi nhỏ chớ khá bôn ba, Sanh đặng Vượng Tướng thời ta có phần. Xuân Hạ lỗi số cực thân, Hai mùa sanh đẻ phong trần lao đao. Tánh ở rộng rãi biết bao, Có tiền ai hỏi cũng trao đưa liền. Ăn rồi phản phúc tự nhiên, Đòi thời không trả, mắng liền tới ta. Anh em xung khắc chẳng hòa, Đi xa thương nhớ, gần mà chẳng an. Bính Tý nam nữ cũng sang, Duyên tình lỡ dở chẳng an một đời. Đầu tiên trắc trở lôi thôi, Coi nói nhiều chỗ, lần hồi bỏ qua. Cách trở phụ mẫu ông bà, Ly hương tổ quán học mà mới nên. Chức quyền, thầy thợ vững bền, Văn võ quan tước có tên sau này.


Lỗi sanh có của cho đầy, Thân nhàn tâm khổ lo ngày lo đêm. Tuổi Đinh Sửu sanh 1877 và 1937 Đinh Sửu cung Ly, mạng Thủy, Trực Thâu để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1937, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn. Đinh Sửu mạng Thủy, cung Ly, Giang hà nước chảy li bì giao thông. Nam nữ sanh đặng Thu Đông, Giàu nghèo cũng sướng ở không chơi hoài. Sanh nhằm Xuân Hạ lỗi ngay, Đầu đội, tay xách, vác cày lùa trâu. Có kẻ đặng ở nhà lầu. Có người mạt kiếp đứng hầu người sang. Kiếp trước ở ác chớ than, Biết khổ ở phải, thanh nhàn có khi. Sanh ra nhiều lúc hiểm nguy, Tưởng chết thuở nhỏ hồi thì mới sanh. Thợ thầy, quyền tước công danh, Không thì binh lính mới đành số ta. Tuổi người tánh nết thiệt thà, Giận ai thách đố, ta mà khó dung. Anh em cha mẹ hai dòng, Không thì chồng vợ lòng thòng đôi ba. Đầu tiên làm có của ra, Đôi ba lần khá hiệp mà cũng tan. Hậu vận cầm của mới an, Lập nên nhà cửa thanh nhàn tấm thân. Số ta chết hụt mấy lần, Trước có, sau khỏi, mười phần chẳng sai. Tuổi Mậu Dần sanh 1878 và 1938 Mậu Dần cung Khảm, mạng Thổ, Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1938, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài. Mậu Dần cung Khảm đã đành, Mạng Thổ đất ở đầu thành đền vua. Thổ Vượng tứ quí bốn mùa, Mùa Hạ sanh đặng không thua tiên, rồng. Nam nữ sanh ra cũng đồng, Mùa Xuân lỗi số chớ trông thanh nhàn. Vợ chồng lỡ dở chẳng an, Nhiều chỗ gắm ghé lỡ làng nợ duyên. Anh em xung khắc chẳng yên, Nói ra gây gổ tự nhiên rầy hoài. Mậu Dần sang số quá tay, Trai đòi ba vợ, gái thay đổi chồng. Ít ai ở đặng một đời, Gặp chồng mạng lớn phải thời nhịn ngay. Chức quyền, thầy thợ mới hay, Ly hương tổ quán cách nay ông bà. Thấy ai năn nỉ xót xa, Bạc tiền trợ giúp sau mà phản ngay. Làm ăn tiền bạc có hoài, Tuổi nhỏ chưa tụ, khiến rày phải tan. Tuổi muộn cầm của mới an, Lập nên cơ nghiệp giàu sang lo gì.


Ở có nhân đức lo chi, Ở mà tàn ác sau thì khổ thân. Tuổi Kỷ Mẹo sanh 1879 và 1939 Kỷ Mẹo cung Khôn, mạng Thổ, Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1939, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn. Kỷ Mẹo mạng Thổ, cung Khôn, Đầu thành đất ở họ đồn khô khan. Sanh đặng mùa Hạ an nhàn, Có kẻ hầu hạ, xóm làng rước đưa. Đặng sanh tiếp đãi dạ thưa, Hiển vinh một cách có thừa chẳng sai. Mùa Xuân lỗi số đắng cay, Mồ hôi nước mắt chảy ngay ròng ròng. Hai mùa Thu Đông chẳng xong, Sanh ra cũng lỗi long đong cực hoài. Tuổi ta sáng láng quá tay, Không học là uổng, ít ai dám bì. Vợ chồng lỡ dỡ trước khi, Nhiều chỗ gắm ghé cũng thì không xong. Anh em cha mẹ hai dòng, Không thì chồng vợ đèo bồng đôi ba. Thấy ai năn nỉ xót xa, Bạc tiền sẵn có móc ra đưa liền. Ăn rồi phản phúc nhãn tiền, Ơn đâu không thấy, oán liền theo ta. Tiền vận tiền bạc có hoài, Nhiều lần đặng khá khiến rày rả tan. Hậu vận có của mới an, Lập nên nhà cửa vững vàng qui mô. Tuổi Canh Thìn sanh 1880 và 1940 Canh Thìn cung Chấn, mạng Kim, Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1940, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly Canh Thìn cung Chấn, mạng Kim, Vàng trắng trong sáp đi tìm khó ra. Mùa Thu sanh đặng tuổi ta, Tháng sáu, tháng chạp, tháng ba đặng mùa. Đông Xuân cũng chẳng ăn thua, Tỵ Ngọ Hỏa khắc như cua gãy càng. Lỗi sanh học đặng làm quan, Lo nhà, lo nước chẳng an đêm ngày. Nghèo thì cực khổ quá tay, Cơm không no bụng, gặp ai xá liền. Anh em xung khắc chẳng yên, Nói ra gây dữ, tự nhiên chẳng hòa. Tuổi lớn lập nghiệp xứ xa, Cô bác có của thì ta không nhờ. Chữ Canh, chữ Mậu bơ vơ, Tại sanh lỗi số trật giờ khổ thân. Đặng sanh sung sướng mười phần, Lòng ở ngay thẳng, thánh thần độ cho. Ba mươi làm có của kho, Giữ cũng chẳng đặng, khiến cho rả rời. Bốn mươi sắp tới an nơi, Lập nên nhà cửa ở thời an thân.


Lòng ở có đức có nhân, Để sau con cháu hưởng phần hậu lai. Tuổi Tân Tỵ sanh 1881 1941 Tân Tỵ cung Tốn, mạng Kim, Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1941, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm. Tân Tỵ cung Tốn, mạng Kim, Vàng ở trong sáp rán tìm có ngay. Mùa Thu mà đặng sanh thai, Thổ Vượng tứ quí ít ai dám bì. Lâm nạn có người giải nguy, Giàu nghèo cũng sướng sau thì an thân. Mùa Hạ sanh ra khổ bần, Đông Xuân cũng lỗi chịu phần gian nan. Đặng sanh trúng tuổi là chàng, Hiền lương quân tử sanh nàng tiểu thơ. Tuổi sanh lỗi số sai giờ, Vét mương, phát cỏ, đắp bờ, nám da. Lỗi mùa sanh ra đàn bà, Vai mang, tay xách, heo gà réo kêu. Ở cho biết phải biết điều, Lòng ngay, dạ thẳng ít nhiều có ăn. Duyên tình lỡ dở líu lăng, Đôi nơi gắm ghé nói năng lỡ làng. Nghề nghiệp quyền tước mới an, Giáo sư, cai tổng, không quan cũng thầy. Chết hụt té nước, té cây, Phật Trời độ mạng bỏ thây đã rồi. Tiền vận có của lôi thôi, Hậu vận dăng khá an nơi cửa nhà. Tuổi Nhâm Ngọ sanh 1882 và 1942 Nhâm Ngọ cung Ly, mạng Mộc, Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1942, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn. Nhâm Ngọ mạng Mộc, cung Ly, Là cây dương liễu ai thì dám đương, Đông Xuân sanh ta có đường, Trai đặng quan tước, gái dường tiểu thơ. Mùa Thu bị khắc bơ vơ, Mùa Hạ cũng lỗi trật giờ khổ thân. Anh em xung khắc chẳng gần, Đi xa thương nhớ, lại gần chẳng an. Sanh ra thuở nhỏ gian nan, Tưởng đâu chết hụt, chết oan đã rồi. Cây khô mà đặng mọc chồi, Tưởng đâu âm phủ đòi rồi chẳng sai. Rán học thi đậu Tú tài, Ai mà biếng nhác vác cày lùa trâu. Siêng năng sau đặng công hầu. Nam Nhâm, nữ Quí đứng đầu Thiên can. Tuổi ta lanh lợi khôn ngoan, Ít kẻ ngu dốt cơ hàn linh đinh. Bụng người cũng có tánh linh, Nghi gì thì có thiệt tình chẳng sai. Trung niên làm có đủ xài Nhiều lần đặng khá, khiến rày cũng tan.


Tuổi muộn có của mới an, Lập nên sự nghiệp thanh nhàn đủ no. Tuổi Quý Mùi sanh 1883 và 1943 Quý Mùi cung Càn, mạng Mộc, Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1943, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn. Quý Mùi mạng Mộc, cung Càn, Là cây dương liễu ra tàng chỉ thiên. Sanh đặng tháng hai, tháng giêng, Mùa Đông cũng tốt, tự nhiên thanh nhàn. Hạ Thu sanh gái là nàng, Lỗi sanh khổ não, sanh chàng cực thân. Anh em xung khắc chẳng gần, Nói ra gây gổ nhiều lần chẳng an. Đặng sanh sung sướng giàu sang, Lỗi sanh có của rả tan lo hoài. Tuổi ta lòng dạ thẳng ngay, Nhỏ thời gian xảo, lớn rày không tham. Anh em cha mẹ hai dòng, Không thì chồng vợ lòng thòng đôi ba. Ly hương tổ quán ông bà, Xứ xa lập nghiệp cửa nhà làm nên. Trung niên có của chẳng bền, Đôi ba lần khá như tên mây hồng. Tuổi ta có tánh lạc lòng, Bạc tiền giúp họ, hễ xong phản liền. Số tuổi sau có đất điền, Ruộng vườn mua sắm của tiền làm ra. Tuổi nhỏ chớ khá bôn ba, Mua cất nhiều lớp cửa nhà chẳng nên. Tuổi Giáp Thân sanh 1884 và 1944 Giáp Thân cung Khôn, mạng Thủy, Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1944, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn. Giáp Thân mạng Thủy, cung Khôn, Nước ở giữa suối họ đồn chẳng sai. Thu, Đông nam nữ gái trai, Giàu nghèo cũng sướng sanh thai đặng mùa. Xuân, Hạ sanh ra lỗi mùa, Như cây rụng lá, như cua gãy càng. Lỗi sanh vất vả bần hàn, Không ai nương dựa ngó ngàng đến ta. Anh em xung khắc chẳng hòa, Ở gần gây dữ, đi xa nhớ hoài. Lỗi sanh ăn ở thẳng ngay, Phật Trời phò hộ có ngày đặng an. Tuổi sanh thuở nhỏ gian nan, Tưởng đâu chết hụt, chết oan đã rồi. Cây khô mà đặng ra chồi, Tướng mạng lớn lắm không thời đã xong. Anh em cha mẹ hai dòng, Không thời chồng vợ lòng thòng đôi nơi. Tuổi ta có lúc thảnh thơi, Mệt về tâm trí khỏi thời cực thân. Tiền bạc làm vô nhiều lần, Nếu mà giữ đặng có phần giàu sang. Trung vận có của rả tan,


Hậu vận cầm đặng ở an lâu dài. Tuổi Ất Dậu sanh 1885 và 1945 Ất Dậu cung Chấn, mạng Thủy, Trực Chấp để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1945, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn. Ất Dậu cung Chấn, Đông phương, Mạng Thủy nước suối chảy thường liên miên. Thu, Đông sanh đặng thời yên, Nam nữ cũng sướng như tiên hạ trần. Xuân, Hạ lỗi số cực thân, Có phước làm đặng công thần chẳng an. Trung niên có của rả tan, Lo lắng bươn chãi chẳng nhàn đặng đâu. Lập nên nhà cửa, bò trâu, Cũng không giữ đặng bao lâu rả rời. Hậu vận mới đặng thảnh thơi, Gia tài sự nghiệp có thời mới nên. Tới đâu thân kẻ bề trên, Kết làm bạn hữu chẳng bền phản ngay. Bạc tiền đưa ra cho ai, Đòi họ không trả, mắng nay mà trừ. Ai hỏi ta có tiền dư, Hồi đầu từ chối, sau ừ cũng đưa. Tánh người thiên hạ biết thừa, Tới hỏi năn nỉ cũng đưa mượn hoài. Số tuổi tu niệm ăn chay, Lòng ở rộng rãi ít ai dám bì. Nhiều lúc tai nạn hiểm nguy. Cũng đều qua khỏi vậy thì không sau. Tuổi Bính Tuất sanh 1886 và 1946 Bính Tuất cung Tốn, mạng Thổ, Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1946, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn. Bính Tuất cung Tốn sanh ra, Mạng Thổ là đất nóc nhà ở an. Sanh gặp mùa Hạ đặng sang, Nam nữ cũng tốt thanh nhàn lo chi. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi khỏi nguy. Sanh bốn tháng đó sau thì an thân. Mùa Xuân sanh bị khổ bần, Thu, Đông cũng lỗi mười phần gian nan. Lỗi sanh cực nhọc thở than, Đặng sanh phú quới vinh vang như người. Luận qua tâm tánh ở đời, Thấy ai nghèo khó hỏi thời giúp cho. Ăn rồi mà chẳng biết lo, Ơn nghĩa không thấy, trả cho oán thù. Lòng dạ không phải dốt ngu, Thương người phải chịu, không thù giận ai. Số tuổi lòng dạ thẳng ngay, Rủi gặp tai nạn cũng may khỏi liền. Vợ chồng trước phải lỡ duyên, Đôi chỗ nói cưới đầu tiên bất thành. Chữ Giáp, chữ Mậu, chữ Canh, Nam nhân chữ Bính, công danh tước quyền. Nữ nhân gặp tuổi chẳng hiền,


Gặp chồng mạng nhỏ nói liền nghe theo. Tuổi Đinh Hợi sanh 1887 và 1947 Đinh Hợi cung Cấn, mạng Thổ, Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1947, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài. Đinh Hợi cung Cấn tốt thay, Đất ở dưới thấp bò ngay nóc nhà. Số tuổi mùa Hạ sanh ra, Sau đặng sung sướng người ta kính vì. Thổ Vượng tứ quí lo chi, Tháng chín, tháng chạp cùng thì tháng ba. Mùa Xuân, Mộc khắc sanh ra, Thu, Đông cũng lỗi số ta cực hoài. Đinh Hợi nam nữ gái trai, Hiền lành ngay thẳng ít ai bạo tàn. Số phải chết hụt, chết oan, Không thì tật bệnh chẳng an sau này. Nghề nghiệp quyền tước, thợ thầy, Lòng dạ linh tánh nghi gì chẳng sai. Làm ơn cho bạn phản ngay, Biết người đó xảo, hỏi hoài cũng đưa. Vợ chồng lỡ dở duyên xưa, Không thời sau gặp duyên thừa mới nên. Cậu, dì, cô, bác đôi bên, Thấy ta lui tới, xuống lên ẩn liền. Thấy nghèo sợ tới mượn tiền, Phải chi giàu có rước liền mời ngay. Số tuổi hậu vận khá rày, Lập nên gia thất tự tay mình làm. Tuổi Mậu Tý sanh 1888 và 1948 Mậu Tý cung Càn, mạng Hỏa, Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1948, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn. Mậu Tý mạng Hỏa, cung Càn, Lửa trời chớp nhoáng có đàng sáng trưng. Sanh nhằm hai mùa Hạ, Xuân, Cha mẹ vui vẻ đặng mừng cho con. Thu, Đông bị khắc hao mòn, Lo thầy chạy thuốc sanh con lỗi mùa. Sống đây phước lớn chẳng vừa, Nhờ ơn Trời Phật sống thừa là may. Số phải tu niệm ăn chay, Ở mà ác đức sa ngay ngục hình. Luận qua chồng vợ duyên tình, Đầu tiên lỡ dở bất bình nhiều nơi. Đặng sanh sung sướng hơn người, Lỗi sanh vất vả vậy thời linh đinh. Bụng người cũng có tánh linh, Nghi ai thời có thiệt tình chẳng sai. Tưởng mình lòng dạ như ai, Bạc tiền trợ giúp sau ngày phản ta. Ăn rồi quẹt mỏ như gà, Đòi thì không trả, gây mà giựt luôn. Tiền vận làm có bạc muôn, Giữ cũng chẳng đặng luông tuồng quá tay. Số tuổi hậu vận khá ngay,


Lập nên gia thất ở nay lâu dài. Tuổi Kỷ Sửu sanh 1889 và 1949 Kỷ Sửu cung Đoài, mạng Hỏa, Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1949, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn. Kỷ Sửu mạng Hỏa cung Đoài, Lửa trời chớp nhoáng sáng rày cũng tan. Sanh nhằm Xuân, Hạ mới sang, Nghèo giàu cũng sướng an nhàn tấm thân. Thu, Đông làm đặng công thần, Lo nhà, lo nước, lo dân đêm ngày. Tuổi ta có tánh thày lay, Ai tới cậy mượn hỏi vay cho người. Lấy đặng hỉ hả vui tươi, Sau đòi không trả, giận thời tới ta. Anh em nghịch ý chẳng hòa, Lại gần gây gổ, đi xa nhớ rày. Lòng dạ ăn ở thẳng ngay, Nhiều lúc tai nạn khiến may khỏi liền. Số tuổi sau có đất điền, Ruộng vườn mua sắm của tiền làm ra. Thân tộc rân rác phú gia, Cô bác giàu có hỏi mà đặng đâu. Làm ăn người dưng đỡ đầu, Thân tộc vay hỏi ta đâu có màng. Đầu tiên nhiều lúc gian nan, Làm ăn có của, rả tan hết liền. Hậu vận làm có ở yên, Lập nên cơ nghiệp có tiền của dư. Tuổi Canh Dần sanh 1890 và 1950 Canh Dần cung Cấn, mạng Mộc, Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1950, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm. Canh Dần cung Cấn quí thay, Mạng Mộc tòng bá ít ai dám bì. Đông, Xuân sanh đặng lo chi, Tuổi gặp sung sướng ít khi khổ nghèo. Hạ, Thu lỗi số cheo leo, Kẻ giàu mệt trí, người nghèo khổ thân. Nam nữ sanh tuổi cũng đồng, Canh Dần sang số vợ chồng đôi ba. Thiên đình cứu mạng dung tha, Tưởng đâu âm phủ đòi ta đi rồi. Đặng sanh sang trọng vô hồi, Có người sai khiến, có bồi nấu ăn. Lỗi sanh như thể nhện giăng, Miệng thì ói chỉ, tay phăng cẳng đùa. Anh em xung khắc chẳng ưa, Nói ra gây dữ mắng bừa tới ta. Tuổi này lâm vô đàn bà, Gặp chồng mạng nhỏ phải mà nhịn ngay. Tánh tình ăn ở chẳng ngay, Ỷ mạnh hiếp yếu ta nay binh liền. Gặp ai thách đố chẳng kiên, Giận quá mất trí như điên sợ gì. Trung niên nhiều lúc hàn vi,


Tuổi muộn đặng khá nói y như lời. Tuổi Tân Mẹo sanh 1891 và 1951 Tân Mẹo cung Ly, mạng Mộc, Trực Thành để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1951, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn. Tân Mẹo mạng Mộc, cung Ly, Là cây tòng bá ai bì mạng ta. Đông, Xuân hai mùa sanh ra, Cây trái đua nở mẹ cha vui mừng. Hạ, Thu lo lắng quá chừng, Hưu Tù xung khắc vị chưng lỗi mùa. Lỗi sanh mà đặng làm vua, Bị giặc vây khổn chịu thua hàng đầu. Đặng sanh như ở nhà lầu, Lỗi sanh như thể cây cầu bắc ngang. Giận ai muốn tới ăn gan, Gặp người biết lỗi than van dịu liền. Tuổi Mẹo nam nữ cũng hiền, Thấy ai ngọt dịu có tiền cũng đưa. Vợ chồng lỡ dở duyên xưa, Nhiều chỗ nói cưới chẳng vừa ý ta. Anh em xung khắc chẳng hòa, Ở gần gây lộn, đi xa nhớ rày. Số tuổi chết hụt có ngày, Nhờ Trời Phật độ ngày nay mới còn. Nhân nghĩa phước đức giữ tròn, Tham tài ở ác hao mòn chẳng sai. Số ta hậu vận khá rày, Tiền vận làm có phủi tay hết liền. Tuổi Nhâm Thìn sanh 1892 và 1952 Nhâm Thìn cung Khảm, mạng Thủy, Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1952, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn. Nhâm Thân cung Khảm tốt thay, Trường lưu mạng Thủy chảy hoài luôn luôn. Xuân, Hạ lỗi sanh phải buồn, Giàu có mệt trí thức luôn đêm ngày. Thu, Đông ta đặng sanh thai, Như rồng đùa giỡn nhướng mày phun châu. Nam nhân chữ Nhâm đứng đầu, Nữ nhân là gái chẳng hầu nhịn ai. Số tuổi quyền tước chẳng sai, Có chí sau đặng có ngày làm nên. Tới đâu thân kẻ bề trên, Anh em xung khắc chẳng nên ở gần. Vợ chồng không phải một lần, Đôi dòng ba thứ tại phần số ta. Ly hương tổ quán ông bà, Xứ xa lập nghiệp cửa nhà đặng an. Số ta chết hụt, chết oan, Nhờ Trời Phật độ mới toàn thây thi. Nhiều lúc tai nạn hiểm nguy, Cũng đều qua khỏi vậy thì không sao. Giận ai nói dữ hùng hào, Nóng như lửa cháy đổ vào dầu hôi. Biết quấy năn nỉ thì thôi,


Giận thì nói dữ hết rồi bỏ qua. Tuổi Quý Tỵ sanh 1893 và 1953 Quý Tỵ cung Khôn, mạng Thủy, Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1953, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn. Quý Tỵ cung Khôn Tây Nam, Mạng Thủy nước chảy ra vàm tiền giang. Thu, Đông sanh đặng thời sang, Giàu nghèo cũng sướng thanh nhàn tấm thân. Xuân, Hạ sanh ra khổ bần, Hai mùa cũng lỗi tảo tần gian nan. Số phải chết hụt, chết oan, Không thì bị bắt họ toan giam cầm. Luận qua đoán số vợ chồng, Duyên đầu lỡ dở tơ hồng xe lơi. Lỗi số vận mạng đổi dời, Ly hương tổ quán ở thời mới an. Cô bác nhiều kẻ giàu sang, Ta nghèo phải chịu khó toan cậy nhờ. Một mình quạnh quẻ bơ vơ, Như cây rụng lá đứng trơ giữa đồng. Anh em cha mẹ hai dòng, Không chồng thì vợ lòng thòng đôi ba. Đầu tiên có của làm ra, Nhiều lúc đặng khá hiệp mà cũng tan. Kết làm bạn hữu chẳng an, Nhiều kẻ phản phúc họ toan hại mình. Hậu vận lập nên gia đình. Thanh nhàn giàu có thiệt tình chẳng sai. Tuổi Giáp Ngọ sanh 1894 và 1954 Giáp Ngọ cung Ly, mạng Kim, Trực Chấp để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1894, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn Sanh 1954, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn. Giáp Ngọ cung Ly, mạng Kim, Vàng ở trong cát rán tìm giàu sang. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sanh thai, Thân, Dậu, tháng sáu ít ai dám bì. Xuân, Hạ sanh ra phải nguy, Tỵ, Ngọ hai tháng khắc thì gian nan. Lỗi sanh cực nhọc bần hàn, Đặng sanh sung sướng như nàng tiên nga. Mấy lần chết hụt đặng qua, Tưởng đâu diêm chúa đòi ta đi rồi. Bạc tiền không có thì thôi, Có thì ai hỏi cũng lôi đưa liền. Ăn rồi phản phúc tự nhiên, Ơn đâu không thấy oán liền theo tay. Có tánh nóng giận chẳng hay, Gặp ai thách đố làm oai đánh liền. Mạnh yếu ta cũng chẳng kiên, Ai cản chẳng dặng như điên biết gì. Vợ chồng lỡ dở trước khi, Nhiều chỗ nói cưới không thì đẹp duyên. Đàn ông Giáp Ngọ chẳng hiền, Đàn bà mạng lớn chẳng kiên sợ chồng. Nhiều kẻ đôi thứ ba dòng,


Ít ai ở đặng một chồng mới ngoan. Tuổi Ất Mùi sanh 1895 và 1955 Ất Mùi cung Khảm, mạng Kim, Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1895, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly Sanh 1955, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn. Ất Mùi cung Khảm, mạng Kim, Vàng ở trong cát đi tìm dễ thay. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sanh thai, Mùa Thu cũng tốt gái trai thanh nhàn. Xuân, Hạ sanh gái là nàng, Sanh trai cũng lỗi thiếp chàng lương khương. Giàu có cũng cực như thường, Đốn cây, phát cỏ, vét mương tối ngày. Đặng sanh thong thả quá tay, Nghèo thì cũng sướng guốc giày nhổn nhan. Biếng nhác cũng đặng thanh nhàn, Dạo chơi thành thị kẻ sang giúp rày. Tuổi ta có tánh thày lay, Của nhà không có hỏi vay cho người. Lấy đặng hỉ hả vui cười, Sau đòi không trả để lời cho ta. Ất Mùi đàn ông đàn bà, Ít kẻ hung dữ thiệt là hiền lương. Ai nói hung dữ ta nhường, Nhiều người thấy vậy họ thương tánh tình. Trung niên đặng lập gia đình, Mấy lần làm khá thình lình rả tan. Hậu vận có của mới an, Lập nên gia thất vững vàng qui mô. Tuổi Bính Thân sanh 1896 và 1956 Bính Thân cung Khôn, mạng Hỏa, Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1896, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm Sanh 1956, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài. Bính Thân cung Khôn rõ ràng, Lửa ở dưới núi cháy lan đỏ trời. Tuổi sanh Xuân, Hạ gặp thời, Giàu nghèo cũng đặng an nơi thanh nhàn. Thu, Đông lỗi số chẳng an, Có của cũng cực, lưng mang quần đùi. Tay chân bùn lấm hút hui, Tới bữa cơm dọn lui cui làm hoài. Lỗi số cực khổ quá tay, Đặng sanh thong thả guốc giày nhổn nhan. Duyên tình lỡ dở chẳng an, Gặp nhau xa tổng khác làng mới nên. Thuở đầu cầm của chẳng bền, Nhà cửa nhiều lớp chẳng nên bất thành. Vợ chồng xung khắc chẳng lành, Nói ra gây dữ tụng tranh bất hòa. Thương người đói khó nhưng là, Tiền bạc trợ giúp sau mà phản ta. Ăn rồi quẹt mỏ như gà, Hết giận hỏi nữa, thì ta giúp dùm. Tánh nóng như hổ như hùm,


Không làm độc ác hại cùng người ngay. Quới nhân độ mạng ta rày, Không thời chết hụt sẩy tay nhiều lần. Tuổi Đinh Dậu sanh 1897 và 1957 Đinh Dậu cung Chấn, mạng Hỏa, Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1897, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn Sanh 1957, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn. Đinh Dậu cung Chấn tuổi ta, Lửa ở dưới núi sáng lòa ngày đêm. Xuân, Hạ sanh ra vững bền, Đặng sanh sung sướng làm nên chức quyền. Thu, Đông lỗi số tự nhiên, Hỏa bị Thủy khắc đảo điên cực hoài. Tuổi sanh nam nữ gái trai, Hiền lành tánh nhác ít ai hung sùng. Số tuổi tai nạn hãi hùng, Tưởng đâu bỏ xác âm cung đã rồi. Duyên tình trước phải lôi thôi, Nhiều chỗ nói cưới, hỏi rồi bỏ qua. Trung vận lặn lội bôn ba, Khá rồi tan rả khiến ta chưa cầm. Hậu vận mới đặng an tâm, Dư ăn dư để của cầm khỏi rơi. Căn số vận mạng đổi dời, Tổ phụ xa cách ở thời mới an. Tánh linh biết trước rõ ràng, Nghi ai thì có luận bàn chẳng sai. Số tuổi lòng dạ thẳng ngay, Nhỏ thời gian xảo, lớn rày không tham. Ai mà dùm giúp không ham, Tiền bạc lo trả người làm mới ưng. Tuổi Mậu Tuất sanh 1898 và 1958 Mậu Tuất cung Tốn, mạng Mộc, Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1898, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn Sanh 1958, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly. Mậu Tuất cung Tốn tuổi này, Mạng Mộc bình địa là cây đất bằng. Hạ, Thu sanh đẻ khó khăn, Hai mùa lỗi số lăng xăng cực hoài. Đông, Xuân tuổi gặp sanh thai, Thanh nhàn sung sướng ít ai dám bì. Nhiều lúc tai nạn hiểm nguy, Tưởng đâu bỏ xác hồn đi chầu Trời. Buổi đầu vận mạng lôi thôi, Nhà cửa nhiều lớp có thời cũng tan. Vợ chồng xung khắc chẳng an, Xáp lại gây gổ, vắng thời nhớ thương. Nữ nhân ít kẻ hiền lương, Gặp chồng mạng nhỏ phải nhường nhịn ngay. Dằn bớt tâm tánh mới hay, Ra ngoài đường chẳng thua ai bao giờ. Có tánh hời hợt hẩn hờ, Đồ đạc, tiền của họ quơ mất hoài. Tuổi ta làm bạn với ai,


Thương người giúp đỡ khỏi tay phản liền. Giận ai nóng nảy tự nhiên, Gặp kẻ thách đố chẳng kiên nhảy vào. Tuổi già từ thiện quản bao, Trung niên khẳng khái tù lao sợ gì. Tuổi Kỷ Hợi sanh 1899 và 1959 Kỷ Hợi cung Cấn, mạng Mộc, Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1899, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn Sanh 1959, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm. Kỷ Hợi cung Cấn thị danh, Mạng Mộc bình địa cây sanh trái hoằn. Đông, Xuân sanh ra ai bằng, Hai mùa thuận số có ăn thanh nhàn. Hạ, Thu sanh gái là nàng, Sanh trai cũng lỗi thiếp chàng cực thân. Lỗi sanh làm đặng công thần, Lo nhà, lo nước, lo dân đêm ngày. Đặng sanh sung sướng quá tay, Nghèo cũng thong thả guốc giày nhổn nhan. Vợ chồng trắc trở đôi phang, Tình duyên lỡ dở chớ than buổi đầu. Nhiều lúc nguy hiểm buồn rầu, Tưởng đâu bỏ xác đã chầu diêm vương, Nam nữ gặp buổi hiền lương, Thấy ai ngọt dịu thì thương giúp liền. Giúp công, giúp của, giúp tiền, Ăn cho ngập mặt phản liền theo tay. Số tuổi tu niệm ăn chay, Lòng ở nhân đức có ngày làm nên. Ra đàng thân kẻ bề trên, Chức quyền, thầy thợ kẻ trên giúp mình. Tâm tánh sáng suốt thông minh, Nghi gì thì có, thiệt tình chẳng sai. Tuổi Canh Tý sanh 1900 và 1960 Canh Canh Tý cung Càn, mạng Thổ, Trực Thành để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1900, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn Sanh 1960, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn. Canh Tý mạng Thổ cung Càn, Đất ở đầu vách khô khan cứng rày. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sanh thai. Mùa Hạ bốn tháng đặng rày mùa sanh. Mùa Xuân, Mộc khắc chẳng lành, Cha mẹ lo lắng vì sanh lỗi mùa. Lớn khôn mà đặng làm vua, Đem binh chinh chiến đánh thua bế thành. Nữ nhân chấp chưởng quyền hành, Gặp chồng mạng nhỏ phải đành nhịn ngay. Tuổi này lâm vào chàng trai, Oai quyền sang trọng ai ai cũng nhường. Có tánh khẳng khái đảm đương, Thấy mạnh hiếp yếu thì thương nhảy vào. Bạc tiền như thể chiêm bao, Buổi đầu làm khá, sớm vào tối ra. Tạo lập nhiều lớp cửa nhà,


Mua cất rồi bán sau mà mới an. Thấy ai năn nỉ thở than, Bạc tiền trợ giúp họ toan phản liền. Nghề nghiệp thầy thợ, chức quyền, Không thì hương xã mới yên số này. Vợ chồng xung khắc hay rầy, Nói ra chẳng nhịn hay gây lẽ thường. Tuổi Tân Sửu sanh 1901 và 1961 Tân Sửu cung Đoài, mạng Thổ, Trực Thâu để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1901, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn Sanh 1961, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn. Tân Sửu mạng Thổ cung Đoài, Đất ở trên vách ít ai cuốc đào. Tháng giêng, tháng hai lao đao, Thu, Đông cũng cực tránh sao khỏi rày. Mùa Hạ mà đặng sanh thai, Thanh nhàn thong thả ít ai dám bì. Số tuổi chết hụt nhiều khi, Phước đức qua khỏi, không thì mạng vong. Anh em cha mẹ hai dòng, Không thì chồng vợ lòng thòng đôi ba. Anh em xung khắc chẳng hòa, Ở xa thương nhớ, về nhà khắc xung. Giận ai nói dữ làm hung, Cũng như Quan Đế Huê Dung tha Tào. Trung niên nhiều lúc lao đao, Dời đổi xa xứ biết bao nhiêu lần. Người dưng giúp đỡ ân cần, Cô, dì, chú, bác, thích thân không nhờ. Phật, Trời tin thưởng phụng thờ, Không lòng độc ác bao giờ hại ai. Số tuổi có tánh thày lay, Của nhà không có hỏi vay cho người. Lấy đặng hỉ hả vui cười, Sau đòi không trả, trốn rồi giựt luôn. Tuổi Nhâm Dần sanh 1902 và 1962 Nhâm Dần cung Cấn, mạng Kim, Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1902, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài Sanh 1962, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn. Nhâm Dần cung Cấn, mạng Kim, Là vàng tây trắng dễ tìm được ngay. Mùa Thu mà đặng sanh thai, Sửu, Mùi, Thìn, Tuất sanh nay đặng mùa. Đông, Xuân cũng chẳng ăn thua, Sanh gặp mùa Hạ, ba mùa lỗi sanh. Tuổi nhỏ như thể chỉ mành, Ốm đau tật bệnh đã đành khó nuôi. Tánh tình ăn nói bãi buôi, Khôn ngoan mềm mỏng hay vui, hay cười. Nữ nhân sang số hơn người, Gặp chồng hiền đức phải thời nhịn ngay. Nam nhân sang số mới hay, Đôi dòng ba thứ vợ ngoài,vợ trong. Số ta chết hụt phải phòng,


Tướng mạng lớn lắm, khó mong sống rày. Làm ơn cho bạn chẳng nài, Bạc tiền trợ giúp có ngày hại ta. Anh em, cô bác chẳng hòa, Giàu có muôn hộ thì ta chẳng màng. Đầu tiên cầm của chẳng an, Nhà đôi ba lớp rả tan đổi dời, Hậu vận mới đặng thảnh thơi, Lập nên gia thất của thời làm ra. Tuổi Quý Mẹo sanh 1903 và 1963 Quý Mẹo cung Ly, mạng Kim, Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1903 , cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn Sanh 1963, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn. Quý Mẹo mạng Kim cung Ly, Là vàng tây trắng đặng thì giàu ngay. Mùa Thu mà đặng sanh thai, Như tiên giáng thế xuống rày trần gian. Mùa Hạ, Hỏa khắc chẳng an, Như cây mọc ở đầu làng gió lay. Gặp tuổi nam nữ gái trai, Hiền lành nhiều kẻ ít ai hung sùng. Giận ai nói dữ làm hung. Gặp kẻ lấn thế ta dùng lời êm. Ăn nói ngọt dịu mỏng mềm, Ít ai ghen ghét bề trên thương mình. Bụng người cũng có tánh linh, Nghi ai thì có thiệt tình chẳng sai. Làm ơn cho bạn phản hoài, Tiền bạc mượn hỏi khỏi tay phản liền. Buổi đầu trắc trở tình duyên, Nhiều chỗ gắm ghé chẳng yên nơi nào. Số ta mạng vận lao đao, Nhiều lần có của tốn hao rả rời. Hậu vận mới đặng thảnh thơi, Gia đình tạo lập ta thời làm ra. Anh em thân thích chẳng hòa, Giàu có rân rác thì ta khó nhờ. Tuổi Giáp Thìn sanh 1904 và 1964 Giáp Thìn cung Tốn, mạng Hỏa, Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1904, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly Sanh 1964, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn. Giáp Thìn cung Tốn thai sanh, Mạng Hỏa là lửa ở quanh ngọn đèn. Thu, Đông sanh đặng khổ hèn, Xuân, Hạ sanh đặng như đèn sáng trưng. Đặng sanh sung sướng vui mừng, Lỗi sanh cực nhọc vì chưng sái mùa. Ví như cờ bạc đánh thua, Về nhà lo lắng như cua gãy càng. Giáp Thìn sanh gái là nàng, Gặp chồng mạng nhỏ chịu hàng đầu ngay. Tuổi này lâm vào chàng trai, Quan tước, thầy thợ ai ai cũng vì. Duyên tình lỡ dở trước khi, Nhiều nơi muốn nói, thương thì bỏ qua.


Vợ chồng dời đổi đôi ba, Ít ai giữ trọn số ta một đời. Số tuổi chết hụt chơi vơi, Không thời mang tật ở nơi thân mình. Bụng người cũng có tánh linh, Nghi gì thì có thjêt tình chẳng sai. Làm ơn cho bạn phản hoài, Ăn rồi lấy giáo đâm rày lại ta. Hậu vận lập nên thất gia, Tiền vận làm mấy lớp nhà cũng tan. Tuổi Ất Tỵ sanh 1905 và 1965 Ất Tỵ cung Đoài, mạng Hỏa, Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1905, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm Sanh 1965, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài. Ất Tỵ mạng Hỏa, cung Đoài, Là lửa cháy sáng ở rày tọa đăng. Thu, Đông cực nhọc khó khăn, Hai mùa sanh lỗi có ăn lo hoài. Xuân, Hạ mà đặng sanh thai, Có kẻ hầu hạ, có đầy tớ sai. Hiền lành ăn ở thẳng ngay, Nhỏ thời gian xảo, lớn rày không tham. Thân tộc giàu có không ham, Nghèo thì ta chịu ăn làm nấy ăn. Anh em xung khắc khó khăn, Ở gần nghịch ý, nói năng chẳng hòa. Đầu tiên nhiều lớp cửa nhà, Giữ không bền vững, sau mà mới nên. Kết thân bạn hữu chẳng bền, Ăn rồi phản phúc họ quên ơn liền. Số phải trắc trở tình duyên, Vợ chồng lỡ dở chẳng yên một đời. Mạng ta phước lớn nhờ trời, Khỏi bị chết hụt cũng thời cầm giam. Trung nghĩa phước đức nên làm, Tham tài ác đức chớ ham làm gì. Có tay cầm của lo chi, Tuổi muộn lập nghiệp có thì của dư. Tuổi Bính Ngọ sanh 1906 và 1966 Bính Ngọ cung Càn, mạng Thủy, Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1906, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn Sanh 1966, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn. Bính Ngọ mạng Thủy, cung Càn, Mạng ta là nước ở sông Giang Hà, Thu, Đông sanh nhằm tuổi ta, Đặng mùa Vượng Tướng số ta thanh nhàn. Xuân, Hạ sanh thiếp với chàng, Lỗi sanh cực nhọc cơ hàn gian nan. Nhiều lúc nguy hiểm chẳng an, Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi. Duyên tình lỡ dở lôi thôi. Đôi nơi nói cưới, tính rồi bỏ qua. Anh em xung khắc chẳng hòa, Đi xa thương nhớ, về nhà chẳng yên.


Làm ơn cho bạn phản liền, Số tuổi bạc phận kết nguyền đệ huynh. Tuổi ta lại có tánh linh, Nghi ai thì trúng, thiệt tình chẳng sai. Nữ nhân tướng mạng lớn thay, Quyền hành chấp chưởng, lo nay gia đình. Gặp kẻ ăn nói bất bình, Giận người lỗ mãng thiệt tình khó dung. Tướng mạng khẳng khái anh hùng, Ai mà biết lỗi thì dung tha liền. Hậu vận cầm đặng của tiền, Lập nên gia thất, đất điền có ngay. Tuổi Đinh Mùi sanh 1907 và 1967 Đinh Mùi cung Đoài, mạng Thủy, Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1907, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn Sanh 1967, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly. Đinh Mùi mạng Thủy, cung Đoài, Nước Thiên hà thủy nhỏ hoài như mưa. Thu, Đông sanh đặng mới vừa, Giỗ quảy, đám tiệc rước đưa mời hoài. Xuân, Hạ lỗi sanh chẳng may, Ăn sau, bưng dọn, họ sai liền liền. Số mạng tưởng đã quy thiên, Nhiều lúc nguy hiểm đảo điên gặp hoài. Không phần làm bạn với ai, Bạc tiền trợ giúp phản rày lại ta. Ăn rồi quẹt mỏ như gà, Khỏi miệng phản phúc họ đà quên ơn. Buổi đầu cách trở nợ dươn, Một đời cố gắng giận hờn khắc xung. Anh em hội hiệp chung cùng, Gần nhau xích mích ở chung đặng nào. Tiền bạc như thể chiêm bao, Nhiều lúc làm khá tốn hao chẳng cầm. Nhiều khi trách trộm buồn thầm, Người sao một tuổi họ cầm bạc muôn. Có tay thương mãi bán buôn, Giữ cho cần kiệm có thường đủ ăn. Người đời như thể mặt trăng, Hết lờ tới tỏ tại căn số phần. Tuổi Mậu Thân sanh 1908 và 1968 Mậu Thân cung Cấn, mạng Thổ, Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1908, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn Sanh 1968, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm. Mậu Thân cung Cấn tuổi này, Mạng Thổ là đất bùn lầy chẳng sai. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sanh thai, Tỵ, Ngọ sáu tháng dặng nay thanh nhàn. Thu, Đông sanh gái là nàng, Mùa Xuân cũng lỗi sanh chàng cực thân. Tuổi phải chết hụt đôi lần, Không thì tật bệnh khổ thân sau này. Số ta quyền tước, thợ thầy, Tình duyên chồng vợ đổi xây đôi lần.


Anh em thân tộc chẳng gần, Ai làm nấy hưởng thích thân không màng, Đầu tiên có của chẳng an, Nhà cửa nhiều lớp rả tan đổi đời. Vợ chồng xung khắc chẳng đời, Nói ra gây gổ chịu thời đắng cay, Nữ nhân sang số quá tay, Gặp chồng hiền đức đặng nay cầm quyền. Gặp chồng mạng lớn phải kiên, Ít ai ở đặng cho yên trọn đời. Hậu vạn nhà cửa an nơi, Dạ ở nhân đức sau thời an thân. Đừng ở hung dữ như Tần, Đày mẹ đốt sách, hại dân chôn người. Tuổi Kỷ Dậu 1909 và 1969 Kỷ Dậu cung Ly, mạng Thổ, Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1909, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn Sanh 1969, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn. Kỷ Dậu mạng Thổ, cung Ly, Đại trạch là đất ở thì sa nê. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi chẳng chê, Tý, Ngọ sáu tháng đặng bề an thân. Thu, Đông hưu tù phân vân, Hai mùa làm đặng công thần cũng lo. Đầu tiên làm có của kho, Giữ cũng chẳng được đâu cho đặng toàn. Nhà cửa nhiều lớp rả tan, Lặn lội đi đủ xa đàng khắp nơi. Số ta nhờ phước Phật Trời. Tưởng đâu chết hụt xa thời dương gian. Anh em xung khắc chẳng an, Cô bác có của khó toan cậy nhờ. Thấy mặt giả điếc làm lơ, Người dưng giúp đỡ không nhờ thích thân. Số tuổi vô phước xấu phần, Chơi bạn không tốt nhiều lần phản ta. Ăn rồi quẹt mỏ như gà, Bạc tiền trợ giúp sau mà phản ngay. Vợ chồng cắn đắng thường ngày, Vắng mặt thương nhớ, gần rày chẳng yên. Hậu vận cầm đặng của tiền, Lập nên gia thất mới yên tuổi già. Tuổi Canh Tuất sanh 1910 cà 1970 Canh Tuất cung Khảm, mạng Kim, Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1910, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn Sanh 1970, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn. Canh Tuất cung Khảm rõ ràng, Mạng Kim xoa xuyến là vàng đeo tay. Mùa Thu mà đặng sanh thai, Như tiên giáng thế đặng nay thanh nhàn. Mùa Hạ, Hỏa khắc chẳng an, Đông, Xuân cũng lỗi thiếp chàng cực thân. Thầy thợ, chức tước, công thần, Lỗi sanh vất vả mười phần chẳng yên.


Nữ nhân tướng mạng chẳng hiền, Gặp chồng mạng nhỏ phải kiên dạ liền. Ít kẻ một đời ở yên, Chữ Canh, chữ Mậu đảo điên nhiều chồng. Trai thời đôi thứ ba dòng, Không thì xung khắc long đong chẳng hòa. Đầu tiên nhiều lớp cửa nhà, Làm ăn có của ở mà chẳng yên. Làm ơn cho bạn phản liền, Ơn đâu không thấy, làm phiền cho ta. Nhiều lần chết hụt đoán ra, Bị kẻ vu cáo, vu oan chẳng nhầm. Lỗi sanh tiền bạc khó cầm, Hết rồi có nữa nhiều lần chẳng sai, Thân thích cũng không nhờ ai, Lập nên gia thất tự tay mình làm. Tuổi Tân Hợi sanh 1911 và 1971 Tân Hợi cung Khôn, mạng Kim, Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1911, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài Sanh 1971, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn. Tân Hợi cung Khôn phải rồi, Mạng Kim xoa xuyến vàng đôi rõ ràng. Mùa Thu sanh ra thiếp chàng, Đều đặng sung sướng thanh nhàn lo chi. Mùa Hạ bị khắc hàn vi, Đông, Xuân cũng lỗi giàu thì cực thân. Anh em xích mích nhiều lần, Ở xa thương nhớ, lại gần khắc xung. Giận ai nói dữ làm hung, Không lòng đọc ác hại cùng người ta. Tuổi sanh nam nữ thật thà, Ít khi gây sự vậy thì với ai. Thấy người lỡ bước trái tay. Bạc tiền giúp đỡ sau này quên ơn. Số tuổi cách trở tình dươn, Vợ chồng lỡ dở giận hờn thôi đi. Nhiều lúc tai nạn hiểm nguy, Tưởng đâu âm phủ đòi đi đã rồi. Gặp chuyện rắc rối lôi thôi. Ngay gian cũng bị kéo lôi giam cầm. Hậu vận mới đặng an tâm, Trước khi có của nhiều lần ra tan. Anh em cô bác giàu sang, Người dưng giúp đỡ không màng thích thân. Tuổi Nhâm Tý sanh 1912 và 1972 Nhâm Tý cung Chấn, mạng Mộc, Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1912, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn Sanh 1972, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn. Nhâm Tý cung Chấn chẳng lầm, Tang Đố mạng Mộc nuôi tằm cây dâu. Mùa Thu bi khắc buồn rầu, Mùa Hạ cũng lỗi lo âu đêm ngày. Đông, Xuân gặp đặng sanh thai, Vượng Tướng thong thả ít ai dám bì.


Duyên tình trắc trở trước khi, Nhiều chỗ nói cưới sau thì bỏ qua. Gặp tuổi đàn ông, đàn bà, Cũng đều sang số tuổi ta như vầy. Quyền tước, nghề nghiệp thợ thầy, Vợ chồng xung khắc đổi xây đôi đời. Phải phòng tù tội chẳng chơi, Khỏi bị chết hụt sa nơi giam cầm. Anh em bạn hữu phản tâm. Ăn rồi lấy giáo trở đâm lại mình. Bụng người cũng có tánh linh, Hồ nghi thì có thiệt tình chẳng sai. Đầu tiên làm có của hoài, Cũng đều tan ra đổi thay gia đình. Lòng dạ sáng suốt thông minh, Ai tính mưu kế thì mình biết ngay. Có tánh nóng nảy chẳng hay, Gặp người thách đố ta nay không vì. Tuổi Quý Sửu sanh 1913 và 1973 Quý Sửu cung Tốn, mạng Mộc, Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1913, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly Sanh 1973, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn. Quý Sửu số tuổi Tốn cung, Tang Đố mạng Mộc để dùng tằm ăn. Mùa Thu sanh lỗi khó khăn, Vận mạng dời đổi có ăn lo hoài. Mùa Xuân mà đặng sanh thai. Thanh nhàn sung sướng guốc giày nhổn nhan. Sanh ra thuở nhỏ gian nan, Tưởng đâu thế giới đòi sang đi rồi. Lòng dạ chẳng chịu đổi dời, Nhỏ thì gian xảo, lớn thời không ham. Anh em nghèo khổ bao hàm, Lộc tài lo giúp của đem cho hoài. Ăn rồi khỏi miệng phản ngay, Khi ta có việc cậy ai đặng nào. Giận ai nói dữ hùng hào, Tánh nóng như lửa đổ vào dầu hôi. Biết quấy năn nỉ thì thôi, Giận thì la lối hết rồi bỏ qua. Đầu tiên nhiều lớp cửa nhà, Làm có tiền của khiến mà rả tan. Thích thân giàu có chẳng màng, Người dưng giúp đỡ xóm làng cậy nương. Số mạng phải chịu tai tương, Khỏi lâm tù tội cũng vương giam cầm. Tuổi Giáp Dần sanh 1914 và 1974 Giáp Dần cung Cấn, mạng Thủy, Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1914, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm Sanh 1974, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài. Giáp Dần cung Cấn khôn ngoan, Đại Khê mạng Thủy nước sang chảy hoài. Thu, Đông mà đặng sanh thai, Thanh nhàn thong thả hằng ngày sướng thân. Xuân, Hạ sanh bị khổ bần,


Đêm ngày lo lắng mười phần chẳng an. Tuổi sanh vận mạng gian nan, Tưởng đâu âm phủ đòi sang đã rồi, Duyên tình trắc trở lôi thôi, Vợ chồng dời đổi vậy thì đôi ba. Anh em, cha mẹ chẳng hòa, Ở gần xung khắc đi xa nhớ rày. Vô phần chơi bạn hôm nay. Nhiều người phản phúc ít ai thiệt tình. Bụng người cũng có tánh linh, Nghi ai thì trúng, thiệt tình chẳng sai. Nữ nhân chấp chưởng gia tài, Quyền hành nắm giữ trong ngoài lo âu. Nam nhân quyền tước công hầu, Không thầy cũng thợ tóm thâu nhiều nghề. Lỗi sanh lao khổ tư bề, Nhà cửa dời đổi xa quê họ hàng. Tiểu vận làm có rả tan, Hậu vận tụ của gia đàng ấm no. Tuổi Ất Mẹo sanh 1915 và 1975 Ất Mẹo cung Ly, mạng Thủy, Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1915, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn Sanh 1975, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn. Ất Mẹo mạng Thủy cung Ly, Đại Khê là nước chảy thì thiên nhiên. Thu, Đông sanh đặng mới yên, Thanh nhàn sung sướng như tiên hạ trần. Xuân, Hạ bị lỗi cực thân, Giàu có làm đặng công thần cũng lo. Tánh tình ngoan cố khó dò, Giận ai nói dữ xui cò nhát gan. Tai nạn có lúc chẳng an, Khỏi nơi tù tội, bị oan giam cầm. Tin người, thương bạn phải lầm, Ăn rồi lấy giáo trở đâm lại mình. Có tánh sáng dạ thông minh, Bụng nghi thì có thiệt tình chẳng sai. Làm ăn tiền bạc có hoài, Ba chìm bảy nổi đổi thay gia đình. Anh em chung lộn bất bình, Ở gần xích mích, trọng khinh chẳng hòa. Hai dòng anh em, mẹ cha. Không thì chồng vợ đôi ba đổi dời. Biết điều phải quấy ở đời, Ít ai giận ghét, nhiều người thương ta. Tâm tánh lòng dạ hải hà, Anh em thiếu sức thì ta giúp liền. Tuổi Bính Thìn sanh 1916 và 1976 Bính Thìn cung Khảm, mạng Thổ, Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1916, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn Sanh 1976, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly. Bính Thìn cung Khảm sanh ra, Mạng Thổ cát trắng thiệt là tốt thay. Mùa Hạ mà đặng sanh thai, Giàu nghèo cũng sướng, guốc giày nhổn nhan.


Mùa Xuân sanh tuổi thiếp chàng, Trai thì cực nhọc, gái càng khổ thân. Anh em thiếu sức ân cần, Thấy nghèo giúp đỡ nhiều lần phụ ơn. Tuổi đầu cách trở tình dương, Nhiều nơi nói cưới như đờn đứt dây. Không thời chồng vợ đổi xây, Anh em, cha mẹ ta nay hai dòng. Số mạng tật bệnh đề phòng, Lỗi sanh bệnh có ở trong thân hình. Người ngay phải mắc oan tình, Giam cầm là nhẹ nghi mình lòng gian. Phước đức lớn lắm mới an, Không thời chết hụt chết oan đã rồi. Giận ai nói dữ một hồi, Không lòng độc ác giận rồi bỏ qua. Anh em cha mẹ chẳng hòa, Cô bác có của thì ta không màng. Nhiều lớp nhà cửa chẳng an. Trung niên có của ra tan mấy lần. Hậu vận mới đặng an thân, Lập nên gia thất hưởng phần về sau. Tuổi Đinh Tỵ sanh 1917 và 1977 Đinh Tỵ cung Khôn, mạng Thổ, Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1917, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn Sanh 1977, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm. Đinh Tỵ mạng Thổ cung Khôn, Là đất cát trắng họ đồn chẳng sai. Mùa Hạ mà đặng sanh thai, Như tiên giáng thế xuống rày nhân gian. Thu, Đông Hưu Tù chẳng an, Mùa Xuân, Mộc khắc thiếp chàng cực thân. Lỗi sanh cha mẹ chẳng gần, Ly hương tổ quán tại phần số ta. Vợ chồng gặp gỡ xứ xa, Tánh tình ăn nói ai mà chẳng thương. Thấy ai thất nghiệp lỡ đường, Tới mà than vãn thì thương giúp liền. Nhiều lúc làm có của tiền, Cũng bị tan rả chẳng yên đặng cầm. Tai nạn nguy hiểm âm thầm, Khỏi bị chết hụt giam cầm bắt đi. Ở cho ngay thẳng lo chi, Rủi bị tai nạn khỏi thì không sao. Tiền vận số phải lao đao, Hậu vận tọa hưởng sang giàu an thân. Anh em thiếu sức ân cần, Bạc tiền trợ giúp nhiều lần chẳng sai. Đặng rồi phản phúc theo tay, Khi ta có việc không ai giúp dùm. Tuổi Mậu Ngọ sanh 1918 và 1978 Mậu Ngọ cung Chấn, mạng Hỏa, Thành để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1918, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn Sanh 1978, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn. Mậu Ngọ mạng Hỏa, Chấn cung,


Lửa trời sáng chói soi cùng khắp nơi. Xuân, Hạ sanh đặng gặp thời, Thong thả sung sướng an nơi thanh nhàn. Thu, Đông sanh gái là nàng, Gia đình lo lắng sanh chàng cực thân. Anh em xa cách ân cần, Vắng mặt thương nhớ, ở gần chẳng yên. Nữ nhân tướng mạng chẳng hiền, Gặp chồng mạng nhỏ cầm quyền ngoài trong. Anh em, cha mẹ hai dòng, Không thì chồng vợ lòng thòng đôi ba. Thấy ai nghèo khổ xót xa, Bạc tiền giúp đỡ sau mà phản ngay. Làm ăn tiền bạc có hoài, Không đặng giàu lớn cũng rày bậc trung. Giận ai nói dữ làm hung, Cũng như Quan Đế Huê Dung tha Tào. Tánh người trí thức rất cao, Hồ nghi thì có ai sao biết liền. Số tuổi sau có đất điền, Ruộng vườn mua sắm của tiền làm ra. Tuổi muộn sau trở về già, Lập nên gia thất cửa nhà ở an. Tuổi Kỷ Mùi sanh 1919 và 1979 Kỷ Mùi cung Tốn, mạng Hỏa, Trực Thâu để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1919, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn Sanh 1979, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn. Kỷ Mùi cung Tốn tuổi ta, Mạng Hỏa là lửa ở mà thượng thiên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Xuân, Hạ sanh đặng như tiên xuống trần. Thu, Đông lỗi số cực thân, Nghèo giàu cũng khổ tảo tần lo âu. Tình duyên lỡ dở lần đầu, Nhiều chỗ nói cười, ngỏ bầu bỏ qua. Vợ chồng gặp gở xứ xa, Cách nơi thôn xã mới là an thân. Anh em, quyến thuộc hương lân, Tánh tình ăn ở xa gần cũng thương. Số này lòng dạ hiền lương, Ít ai bạo ngược Sở vương với Tần. Mạng phải chết hụt mấy lần, Nhẹ thì bị bắt giam cầm chẳng an. Tiền bạc làm có rả tan, Nhà cửa dời đổi lang thang mấy lần. Tuổi muộn số mới an thân, Trung niên lo tảo, chạy tần chưa nên. Ra dàng thân kẻ bề trên, Chơi cùng bạn hữu chẳng bền phản ngay. Làm ăn tiền bạc có hoài, Nhiều nghề biết đặng ít ai dám bì. Tuổi Canh Thân sanh 1920 và 1980 Canh Thân cung Khôn, mạng Mộc, Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1920, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài Sanh 1980, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn.


Canh Thân cung Khôn tuổi chàng, Mạng Mộc cây lựu rõ ràng đá xanh. Hạ, Thu lỗi số bất thành, Nữ nhân tướng mạng quyền hành gia trung. Nam nhân sanh đặng Đông, Xuân, Hai mùa Vượng Tướng thung dung thanh nhàn. Số tuổi chết hụt chết oan, Không thì tật bệnh vương mang giam cầm. Rán ở ngay thẳng tu tâm, Chớ ở gian xảo thánh thần ghét ta. Canh Thân tuổi gặp đàn bà, Có chồng mạng nhỏ thì ta cầm quyền. Nam nữ sang số chẳng hiền, Vợ chồng cũng thế, nợ duyên đổi dời. Ít kẻ chồng vợ một đời, Nếu mà ở đặng, chịu thời đắng cay. Tiền vận nhà cửa đổi thay, Nhiều lúc làm khá khiến rày cũng tan. Hậu vạn tuổi mới đặng an, Gia đình bền vững chớ than, chớ phiền. Giận ai nói dữ lòng hiền, Biết ý năn nỉ có tiền cũng đưa. Ai mà dịu ngọt thì ưa, Vật thực chia sớt, đem đưa cho người. Tuổi Tân Dậu sanh 1921 và 1981 Tân Dậu cung Càn, mạng Mộc, Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1921, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn Sanh 1981, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn. Tân Dậu mạng Mộc, cung Càn, Cây lựu kẻ đá mọc tàng chẳng sai. Đông, Xuân mà đặng sanh thai, Trọn đời thong thả đặng nay thanh nhàn. Hạ, Thu sanh thiếp với chàng, Giàu nghèo có của muôn ngàn cũng lo. Anh em thiếu sức hay lo, Bạc tiền trợ giúp đem cho ăn hoài. Khỏi miệng phản phúc theo tay, Làm ơn măc oán kể ai ra gì. Thiếu nợ hỏi tới sân si, Hết giận năn nỉ có thì cũng đưa. Vợ chồng lỡ dở duyên xưa, Nhiều chỗ coi nói, chẳng vừa bỏ qua. Tân Dậu tâm tánh thật thà, Gặp ai nói dữ thì ta nhịn liền. Nhiều lúc làm có của tiền, Cũng đều tan ra chẳng yên khó cầm. Phải phòng tai nạn âm thầm, Có lúc té nặng, thân lâm tật nguyền. Tiền vận nhà cửa chẳng yên, Cất sửa dời đổi hao tiền chẳng an. Hậu vận đặng hưởng giàu sang, Gia đình tạo lập ở an lâu dài. Tuổi Nhâm Tuất sanh 1922 và 1982 Nhâm Tuất cung Đoài, mạng Thủy, Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1922, cung phi: Nam cung, Càn Nữ cung Ly Sanh 1982, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn.


Nhâm Tuất mạng Thủy cung Đoài, Nước ở biển lớn chảy hoài mênh mông. Tuổi sanh gặp mùa Thu, Đông, Mạng đặng sung sướng ở không chơi hoài. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi khắc ngay, Dần, Mẹo sáu tháng đắng cay vô hồi. Tưởng đâu chết hụt đã rồi, Nhờ Trời Phật độ thuở hồi ấu niên, Lớn lên phải giữ, phải kiên, Số ta té nặng tật nguyền chẳng sai. Vô phần chơi bạn lâu dài, Thương người giúp đỡ kể ai ra gì. Có lúc ta bị lâm nguy, Thấy thời lánh mặt giả thì ngó lơ. Nữ nhân duyên nợ ước mơ, Nằm trong phòng vắng đợi chờ đôi ba. Nam nhân ít kẻ thật thà, Nhiều người sang số, tuổi ta hai dòng. Quyền tước, thầy thợ mới xong, Nhiều nghề khéo léo ở trong thân mình, Tiền vận phải chịu linh đinh, Nhà cửa nhiều lớp kinh dinh đổi dời. Hậu vận mới đặng an nơi, Lập nên cơ nghiệp ở thời bền lâu. Tuổi Quý Hợi sanh 1923 và 1983 Quý Hợi cung Cấn, mạng Thủy. Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay, Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng, Sanh 1923, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm Sanh 1983, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài. Quý Hợi cung Cấn rõ ràng, Mạng Thủy nước biển chảy tràn vào sông. Tuổi sanh gặp mùa Thu, Đông. Thanh nhàn thong thả gái đồng như trai. Xuân, Hạ mà bị sanh thai, Nghèo giàu mệt trí, ít ai thanh nhàn. Tưởng đâu chết hụt, thác oan, Mạng lớn qua khỏi vương mang tật nguyền. Vợ chồng xung khắc chẳng yên, Có rồi muốn nữa, lưỡng biên gia đình. Anh em xung khắc bất bình, Thấy nghèo giúp đỡ thiệt tình thương nhau. Ở gần ai có ốm đau, Nghe tin nguy cấp mau mau tới liền. Miệng nói dữ nhưng lòng hiền, Biết người phản phúc có tiền cũng đưa. Trung niên tài lộc có thừa, Như thể nước đá bị mưa tan lần. Lắm lúc buôn tảo, bán tần. Nhà cửa dời đổi nhiều lần chẳng an. Nhiều nghề biết đặng vẹn toàn. Tánh tình vui vẻ xóm làng mến thương. Thi ân tích đức cho thường, Phật Trời dòm ngó gia đường sẽ nên. Bài số 12 CẮT NGHĨA VỀ TRỰC Xin anh em lưu ý: Trực là để dùng gác dong thả đòn tay, thí dụ như tuổi người Trực đó làm chủ cây đòn dong, thuộc Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ; thì thả mấy cây đòn tay cũng thuộc Ngũ hành như vậy. Thí dụ như tuổi


Giáp Thìn cung Tốn là cung sanh mạng Hỏa, Trực Phá thuộc Hỏa, cung Phi là cung Càn. Trực Phá thuộc Hỏa thả tám cây đòn tay, gặp Trực Thành, ai cũng nói rằng tốt mà không tốt đâu, vì Trực Thành thuộc Kim, gặp Hỏa khắc Kim là đòn dong khắc đòn tay không tốt vợ và con cháu phải bị ốm đau, tật bệnh èo uột, khỏi bị chết là may, làm ăn có của khó tụ đặng. Còn đòn tay khắc đòn dong là phạm thượng cũng xấu lắm. Trực người làm chủ cây đòn dong đó, cũng bị đau ốm tật bệnh là nhẹ, chết hoặc không ở đặng, có tiền của cũng bị hao tán không cầm dặng, dưới trên không thuận nói ra cãi lẫy. Có người bị khắc, cất rồi không ở đặng, hệ trọng lắm chớ khinh thường. Còn cung Phi là cung Càn thuộc Kim, day nhà ngó hướng Nam là thuộc Ly, là Hỏa phải khắc Kim, bị Tuyệt Mạng, còn hướng Đông là hướng Chấn thuộc Ngũ Quỉ cũng xấu, day qua hướng Bắc thuộc Khảm bị Lục Sát cũng xấu, day hướng Đông Nam là hướng Tốn bị Họa Hại cũng xấu. Tuyệt mạng, Ngũ Quỉ là nặng nhất, khỏi chết cũng bị tật bệnh đau ốm hoài; còn hướng Họa Hại, Lục Sát xấu thứ nhì, súc vật con cháu khó nuôi cũng bị đau ốm, trên dưới chẳng thuận hay gây gổ nhau cũng bị xấu. Day nhà dặng hướng Sanh Khí, Diên Niên, Thiên Y, Phục Vì là tốt. Như cô bác, anh em muốn xem cho kỹ Trực thả đòn dong và cung Phi day hướng nhà, xin mua quyển Tam Ngươn Đại Lược, Tam Ngươn Tiểu Lược. Tam Ngươn Đồ Hình, có chỉ đầy đủ không thiếu. Ba quyển này đã in trước rồi, các nơi đều có bán. Bài số 13.- LUẬN VỀ QUẺ DIỆC Ai muốn học phải thuộc lòng, bài nào tôi dặn phải đọc thuộc như gõ mõ vậy, thời trang quẻ, gắn quẻ mới đặng, phải nhìn coi tám cung dưới đây cho nhớ:

Bấm vào đây để xem hình ở khổ nguyên thủy

Bài số 14.- LỤC THÂN (Đọc thuộc lòng) - Nội Càn: Tý, Dần, Thìn. - Ngoại Càn: Ngọ, Thân Tuất. - Nội Khảm: Dần, Thìn, Ngọ. - Ngoại Khảm: Thân, Tuất, Tý. - Nội Cấn:Thìn, Ngọ, Thân. - Ngoại Cấn: Tuất, Tý, Dần. - Nội Chấn: Tý, Dần, Thìn. - Ngoại Chấn: Ngọ, Thân, Tuất. - Nội Tốn: Sửu, Hợi, Dậu. - Ngoại Tốn: Mùi, Tỵ, Mẹo. - Nội Ly: Mẹo, Sửu, Hợi. - Ngoại Ly: Dậu, Mùi, Tỵ. - Nội Khôn: Mùi, Tỵ, Mẹo. - Ngoại Khôn: Sửu, Hợi, Dậu. - Nội Đoài: Tỵ, Mẹo, Sửu. - Ngoại Đoài: Hợi, Dậu, Mùi. Bài số 15.- LỤC THẦN (Đọc thuộc lòng)


- Càn Đoài Kim huynh Thổ phụ truyền, Mộc tài Hỏa quỉ Thủy tử nhiên. - Khôn Cấn Thổ huynh Hỏa vi phụ, Mộc quỉ Thủy tài Kim tử lộ. - Chấn Tốn Mộc huynh Thủy phụ mẫu, Kim quỉ Hỏa tử Tài thị Thổ. - Khảm cung Thủy huynh Hỏa vi tài, Thổ quỉ Kim phụ Mộc tử lai. - Ly cung Hỏa huynh Thủy vi quỉ, Thổ tử Mộc phụ Kim tài trợ. Bài số 16.- TÊN SÁU MƯƠI BỐN QUẺ (Đọc thuộc lòng) - Càn vi Thiên, Thiên phong cấu, Thiên sơn độn, Thiên địa bỉ, Phong địa quan, Sơn địa bát, Hỏa địa tấn, Hỏa thiên đại hữu. - Khảm vi Thủy, Thủy trạch tuyết, Thủy lôi chuân, Thủy hỏa ký tế, Trạch hỏa cách, Lôi hỏa phong, Địa hỏa minh vi, Địa thủy sư. - Cấn vi Sơn, Sơn hỏa bí, Sơn thiên đại súc, Sơn trạch tổn, Hỏa trạch khuê, Thiên trạch lý, Phong trạch trung phu, Phong sơn tiệm. - Chấn vi Lôi, Lôi dịa dự, Lôi thủy giải, Lôi phong hằng, Địa phong thăng, Thủy phong tỉnh, Trạch phong đại quá, Trạch lôi tùy. - Tốn vi Phong, Phong thiên tiểu súc, Phong hỏa gia nhơn, Phong lôi ích, Thiên lôi vô vọng, Hỏa lôi thệ hạp, Sơn lôi hi, Sơn phong cổ. - Ly vi Hỏa, Hỏa sơn lữ, Hỏa phong đảnh, Hỏa thủy vị tế, Sơn thủy mông, Phong thủy hoán, Thiên thủy tụng, Thiên hỏa đồng nhơn. - Khôn vi Địa, Địa lôi phục, Địa trạch lâm, Địa thiên thới, Lôi thiên đại tráng, Trạch thiên hoại, Thủy thiên nhu, Thủy địa tùy. - Đoài vi Trạch, Trạch thủy khổn, Trạch địa tụy, Trạch sơn hàm, Thủy sơn kiển, Địa sơn khiêm, Lôi sơn tiểu quá, Lôi trạch qui muội. Bài số 17.- TÌM QUẺ GÀI THẾ ỨNG Chữ Quái là quẻ, sơ là đầu, nhị là hai, tam là ba, tứ là bốn, ngũ là năm, lục là sáu. Phép gieo quẻ bắt dưới chấm lên. Quái sơ thế sơ ứng tứ; quái nhị thế nhị ứng ngũ; quái tam thế tam ứng lục; quái tứ thế tứ ứng sơ; quái ngũ thế ngũ ứng nhị; thất viết du hồn thế tứ ứng sơ; bát viết qui hồn thế tam ứng lục; bát thuần thế lục ứng tam; mỗi tượng là tám quẻ. Thế vi kỷ, ứng vi nhơn. Thế là mình, ứng là người trong tám tượng mỗi tượng tám quẻ, đọc tượng nào cũng gài thế ứng như vậy, kiếm cho biết quẻ gì ở trong tượng nào. Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, coi bài số 16 có tên quẻ ở về tượng nào. Thí dụ như ta gieo quẻ, cầm ba đồng tiền bỏ vô dĩa, vô tô hay là mu rùa tự ý, gieo ba lần làm Nội quái, bỏ vô tô ba đồng tiền, coi thấy một đồng tiền sấp thì hô: nhất bối vi dương là một vạch ngang dài ( ___ ); lần thứ nhì thấy hai đồng sấp thì hô: nhị bối vi sách là thuộc âm hai vạch ngang ngắn ( _ _ ); lần thứ ba cũng hai đồng sấp nhị bối vi sách là âm cũng hai vạch ngang ngắn ( _ _ ), lần đầu bắt dưới chấm lên là được ba lần. Coi tám cung trên bài số 14 thì hô là Nội Chấn. Gieo lần thứ tư coi hai đồng sấp ( _ _ ); lần thứ năm cũng hai đồng sấp ( _ _ ); lần thứ sáu một đồng sấp, hô nhất bối vi dương một vạch ngang dài ( ___ ) là Ngoại quái thuộc Ngoại Cấn (coi bài số 14). Nội Chấn biên Tý, Dần, Thìn, bắt dưới viết lên cho đủ ba hào. Ngoại quái thuộc Cấn biên Tuất, Tý, Dần, biên ba hào là đủ sáu hào vô một quẻ, rồi hô Nội Chấn vi Lôi, ngoại Cấn vi Sơn, lấy Ngoại hô trước là Sơn lôi hi, rồi đọc bài số 16 tên quẻ, nó ở trong tượng Chấn: đọc Chấn vi Lôi là quẻ đầu thuộc quẻ bát thuần Chấn, hô Chấn vi Lôi, bỏ đi, Lôi địa dự, thế sơ ứng tứ, coi bài số 17 tìm Thế Ứng, Lôi phong hằng, thế tam ứng lục, Địa phong thăng, thế tứ ứng sơ; Thủy phong tỉnh, thế ngũ ứng nhị; thất viết du hồn thế tứ ứng sơ. Tốn: hô Tốn vi Phong là quẻ đầu bỏ đi, coi bài số 16 tìm quẻ tìm thế ứng: Phong thiên tiểu súc, thế sơ ứng tứ, Phong hỏa gia nhơn, thế nhị ứng ngũ, Phong lôi ích, thế tam ứng lục, Thiên lôi vô vọng, thế tứ ứng sơ, Hỏa lôi thệ hạp, thế ngũ ứng nhị; sơn lôi hi, thế tứ ứng sơ; thất viết du hồn là quẻ thứ bảy tức là quẻ Sơn lôi hi, thế tứ ứng sơ, rồi coi qua bài số 15 (Lục Thần), nó ở về tượng Tốn thì hô Chấn Tốn Mộc huynh Thủy phụ mẫu, Kim quỉ Hỏa tử Tài thị Thổ. Tý hào biên Phụ, Dần Mộc biên Huynh, Thìn Thổ biên Tài, Tuất Thổ lâm Tài, Tý Thủy biên Phụ, Dần Mộc biên Huynh cho đủ sáu hào thành quẻ "Sơn lôi hi", Thế tứ ở hào tư, Tuất Thổ lâm tài, Ứng sơ hào ở Tý Thủy lâm Phụ là Thế lai khắc Ứng là Tài khắc Phụ. Anh em ai hâm mộ sáng dạ, gieo tiền chấm quẻ coi trên tôi nói đó ráp quẻ đặng chẳng sai; còn ai tối dạ suy nghĩ mãi làm hoài không được, xin gởi thơ cho tôi, hay đi tới nhà chỉ chừng năm ba bữa thì biết.


Bài 18.- TẬP GIEO TIỀN CHẤM QUẺ (Đọc thuộc lòng) Vái tổ rồi cầm ba đồng tiền bỏ vô mu rùa hay trong tô, mân mê bỏ rớt xuống keng, keng, keng... coi thử mấy sấp mấy ngữa. Như một đồng sấp là hô: "nhất bối vi dương", là một vạch dài ( ___ ); thấy hai đồng sấp hô "nhị bối vi sách" là hai vạch ngắn ( _ _ ); thấy ba đồng sách thì hô "tam bối vi trùng" là khoanh tròn như chữ ( O ); thấy ba đồng ngữa thì hô "tam tự vi giao", giống như chữ ( X ), gặp quẻ giao trùng thì động, giao kể là âm, âm là sách ( _ _ ); trùng là dương ( ___ ). Trang quẻ rồi, coi dưới là Nội quái, trên là Ngoại quái, tìm tượng gì cho biết quẻ gì. Trong tám tượng có sáu mươi bốn quẻ đó ở trong bài số 16 quái danh, biên thế ứng, ta chấm quẻ rồi nhìn coi tám cung là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Nội quái thuộc về cung gì, Ngoại quái thuộc về cung gì, biên bài số 15 (Lục Thân) trước, trong quẻ đó kiếm biết nó ở về tượng nào, coi bài số 15 (Lục Thần). Thí dụ như quẻ đó ở trong tượng Khôn, thì hô: Khôn Cấn Thổ huynh Hỏa vi phụ, Mộc quỉ Thủy tài Kim tử lộ, như vậy là đúng. Đọc thuộc: nhất bối vi dương, nhị bối vi sách, tam bối vi trùng, tam tự vi giao. Giao biến một, Trùng biến hai. Giao thuộc âm biến một về dương, Trùng thuộc dương biến hai là âm; phép quẻ Diệc bắt từ dưới chấm lên: sơ hào, nhị hào, tam hào, tứ hào, ngũ hào, lục hào là sáu hào. Giao trùng là động, có động mới biến. Tịnh như tọa như ngọa, nghĩa là như nằm như ngồi; Động như hành như tẩu, nghĩa là như đi như chạy vậy. Hào Tịnh thì ngồi đó không đi sanh, đi khắc mấy hào khác đặng, còn hào Động thì đi sanh, đi khắc, đi hiệp, đi xung. Sách Nho kêu là "Động tịnh âm dương phản phúc thiên biến". Nó biến hào này ra hào khác, quẻ này thành quẻ khác; thấy quẻ xấu mà đoán ra tốt, thấy quẻ tốt mà đoán ra xấu, người Bài số 19.- LỤC THÚ (Sáu con thú) (Đọc thuộc lòng) Thanh Long thuộc Mộc, Châu Tước thuộc Hỏa, Câu Trận, Đằng Xà thuộc Thổ, Bạch Hổ thuộc Kim, Huyền Võ thuộc Thủy. Đọc như vầy: Giáp Ất Thanh Long, Bính Đinh Châu Tước, Mồ Câu Trận, Kỷ Đằng Xà, Canh Tân Bạch Hổ, Nhâm Quý Huyền Võ. Trang quẻ xong rồi như ngày hôm nay gặp ngày Giáp hay là ngày Ất thì biên Thanh Long tại sơ hào, Châu Tước nhị hào, Câu Trận tam hào, Đằng Xà tứ hào, Bạch Hổ ngũ hào, Huyền Võ lục hào là đủ sáu hào. Thí dụ ngày Mậu Thìn, coi quẻ biên: Câu Trận tại hào sơ, Đằng Xà hào nhị, đánh tới lục hào nhằm Châu Tước, đánh thử thì trúng, kể từ bài số 14 đến 23 đọc thuộc lòng trong 10 bài trước sau cho nhuần nhã như thầy chùa tụng kinh gõ mõ thì gieo tiền trang quẻ mới đặng. Còn phú đoán quẻ sau đọc cũng đặng không gấp gì, nghề nó dạy nghề, mua đặng quyển sách để dành cũng như có ông thầy trong nhà vậy. Anh chị em ái mộ muốn học, dù tối dạ hay sáng dạ rán đọc cũng phải thuộc lòng. Quẻ Diệc gốc của ông Châu Văn Vương bày ra coi quẻ thật rất linh hiển trúng lắm, hay vô cùng. Trong sách Nho có nói: "Vô diệc bất thành y", ai làm thầy thuốc cũng nên học quí lắm, chín bệnh biết chết sống chẳng sai, người đau coi biết lâu mạnh hay mau mạnh dám kỳ quyết, coi cầu tài có tài hay không có, coi cầu quan thi cử trấn nhậm, kiện thưa biết đắc thất, coi học đọc cho thuộc rồi có tôi giúp chỉ chừng mười bữa trở lại thì biết liền. Bài 20.- BÁT QUÁI THUỘC NGŨ HÀNH - Càn Đoài thuộc kim; Chấn Tốn thuộc MỘc; Khôn Cấn thuộc Thổ; Khảm cung thuộc Thủy, Ly cung thuộc Hỏa. Thiên Can Thuộc Ngũ Hành - Giáp Ất thuộc Mộc ở về Đông phương; Bính Đinh thuộc Hỏa ở về Nam phương; Mồ Kỷ thuộc Thổ ở về Trung ương; Canh Tân thuộc Kim ở về Tây phương; Nhâm Quý thuộc Thủy ở về Bắc phương. Bài số 21.- Địa Chi Thuộc Ngũ Hành (Đọc thuộc lòng để biên Huynh, Tử, Tài, Quỉ, Phụ) - Hợi Tý thuộc Thủy; Dần Mẹo thuộc Mộc; Tỵ Ngọ thuộc Hỏa; Thân Dậu thuộc Kim; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thuộc Thổ. Năm, tháng, ngày, giờ cũng thuộc như vậy. Thí dụ: Quẻ Bát thuần Càn. Nội Càn: Tý Dần Thìn; Ngoại Càn: Ngọ Thân Tuất. Như hào quẻ: sơ hào Tý, nhị hào Dần, tam hào Thìn, tứ hào Ngọ, ngũ hào Thân, lục hào Tuất, rồi hô: Càn Đoài Kim huynh Thổ phụ truyền, Mộc tài Hỏa quỉ, Thủy tử nhiên, thì ta nhìn mấy hào quẻ thuộc về gì, Kim hay Mộc cứ vậy biên vô, đó là hào quẻ thuộc Ngũ Hành vậy. Bài số 22.- Ngũ Hành Tương Sanh, Tương Khắc (Đọc thuộc lòng) Ngũ Hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Bấm vào đây để xem hình ở khổ nguyên thủy


* Tương sanh đặng tốt: - Kim sanh Thủy. - Thủy sanh Mộc. - Mộc sanh Hỏa. - Hỏa sanh Thổ. - Thổ sanh Kim.

Bấm vào đây để xem hình ở khổ nguyên thủy

* Tương khắc là xấu: - Kim khắc Mộc. - Mộc khắc Thổ. - Thổ khắc Thủy.


- Thủy khắc Hỏa. - Hỏa khắc Kim. Ngũ Thần là hào Dụng Thần: Huynh sanh Tử, Tử sanh Tài, Tài sanh Quỉ, Quỉ sanh Phụ, Phụ sanh Huynh là tốt. Ngũ Thần khắc: Huynh khắc Tài, Tài khắc Phụ, Phụ khắc Tử, Tử khắc Quỉ, Quỉ khắc Huynh là xấu. Ngũ Thần: Cừu Thần, Kỵ Thần, Nguyên Thần, Dụng Thần, Tiết Thần. (Đọc thuộc lòng) Bài số 23.- Địa Chi Xung Hiệp - Lục hiệp: Tý Sửu hiệp; Dần Hợi hiệp; Mẹo Tuất hiệp; Thìn Dậu hiệp; Tỵ Thân hiệp; Ngọ Mùi hiệp. - Lục xung: Tý xung Ngọ; Sửu xung Mùi; Dần xung Thân; Mẹo xung Dậu; Thìn xung Tuất; Tỵ xung Hợi, là xấu. - Tam hiệp: Thân Tý Thìn hiệp thành Thủy cuộc. Dần Ngọ Tuất hiệp thành hiệp thành Hỏa cuộc. Hợi Mẹo Mùi hiệp thành Mộc cuộc Tỵ Dậu Sửu hiệp thành Kim cuộc. - Tam hình: Dần Tỵ Thân tam hình - Sửu Tuất Mùi tam hình. - Nhị hình: Tý hình Mẹo - Mẹo hình Tỵ. - Tứ hình: Thìn Ngọ Dậu Hợi. - Lục hại: Tý hại Mùi; Sửu hại Ngọ; Dần hại Tỵ; Mẹo hại Thìn; Thân hại Hợi; Dậu hại Tuất. Còn tam hiệp hội cuộc, như Thân Tý Thìn hiệp thành Thủy cuộc, nó lâm vô Kỵ Thần là hào Tý khắc hào Hỏa là hào Dụng Thần; xấu, nặng lắm. Bài số 24.- TRƯỜNG SANH (Đọc thuộc lòng) - Kim trường sanh tại Ty. - Mộc trường sanh tại Hợi. - Hỏa trường sanh tại Dần. - Thủy, Thổ trường sanh tại Thân. Đọc là: Trường sanh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. Bài số 25.- QUỚI NHÂN, LỘC MÃ (Đọc thuộc lòng) - Thân Tý Thìn, mã đáo Dần. - Dần Ngọ Tuất mã cư Thân. - Hợi Mẹo Mùi mã tại Tỵ - Tỵ Dậu Sửu mã tại Hợi. - Quới nhân đăng điện: Giáp lộc tại Dần; Ất tại Mẹo; Bính Mồ tại Tỵ; Đinh Kỷ tại Ngọ; Canh tại Thân; Tân tại Dậu; Nhâm tại Hợi; Quý tại Tý. - Quới nhân phương: Giáp Mồ khiêm ngưu dương; Ất Kỷ thử hầu hương; Bính Đinh trư kê vị; Nhâm quý thố xà tàng; Canh Tân phùng mã hổ. Bài số 26.- HÀM TRÌ SÁT - Chánh: Ngũ cửu Mão hàm trì cho thông. - Nhì: Lục thập ngoạt Tý cung. - Tam: Thất thập nhất mới dùng đến kê (Dậu). - Tứ: Bát thập nhị ngoạt ngựa (Ngọ) về đến nơi. * Hào cướp sát: - Thân Tý Thìn cướp sát tại Tỵ. - Tỵ Dậu Sửu cướp sát tại Dần. - Dần Ngọ Tuất cướp sát tạo Hợi. - Hợi Mẹo Mùi cướp sát tại Thân. Trước nói về ngày, sau nói về hào. Nên để ý: Trước nói về tháng, sau nói hào là quẻ Hàm Trì. Bài số 27.- TUẦN TRUNG, KHÔNG VONG VÀ CHƠN KHÔNG (Đọc thuộc lòng)


- Giáp Tý tuần trung Tuất Hợi không. - Giáp Tuất tuần trung Thân Dậu không. - Giáp Thân tuần trung Ngọ Mùi không. - Giáp Ngọ tuần trung Thìn Tỵ không. - Giáp Thìn tuần trung Dần Mẹo không. - Giáp Dần tuần trung Tý Sửu không. Như ngày đó chiếm quẻ, gặp trong tuần Giáp Tý tới Quý Dậu trong mười ngày đó bất kỳ ngày nào, thì hào Tuất, hào Hợi lâm tuần không là xấu. Chơn không là mùa: Mùa Xuân vô Thổ, Hạ vô Kim, Thu vô Mộc, Đông vô Hỏa, như chiếm quẻ gặp mùa đó, tháng đó là hào quẻ phải chơn không, xấu lắm. Bài số 28.- BỐN MÙA: Vượng, Tướng, Tử, Tù, Hưu - Mùa Xuân: Mộc vượng, Hỏa tướng, Thổ tử, Kim tù, Thủy hưu. - Mùa Hạ: Hỏa vượng, Thổ tướng, Kim tử, Thủy tù, Mộc hưu. - Mùa Thu: Kim vượng, Thủy tướng, Mộc tử, Hỏa tù, Thổ hưu. - Mùa Đông: Thủy vượng, Mộc tướng, Hỏa tử, Thổ tù, Kim hưu. - Mùa Xuân: Tháng giêng, hai, ba thì tháng giêng, hai thuộc Mộc, tháng ba thuộc Thổ. - Mùa Hạ: Tháng tư, năm, sáu thì tháng tư, năm thuộc Hỏa, tháng sáu thuộc Thổ. - Mùa Thu: Tháng bảy, tám, chín thì tháng bảy, tám thuộc Kim, tháng chín thuộc Thổ. - Mùa Đông: Tháng mười, mười một, chạp thì tháng mười, mười một thuộc Thủy, tháng chạp thuộc Thổ. Kể tháng giêng là Dần; tháng hai là Mẹo; tháng ba Thìn; tháng tư là Tỵ, tháng năm là Ngọ; tháng sáu là Mùi; tháng bảy là Thân, tháng tám là Dậu, tháng chín là Tuất, tháng mười là Hợi, tháng mười một là Tý, tháng chạp là Sửu (bài này đọc thuộc lòng). Bài số 29.- TÁM CUNG PHƯƠNG HƯỚNG (Đọc thuộc lòng) - Càn tam liên: Tây Bắc Tuất Hợi là tháng chín, tháng mười. - Khảm trung mãn: Chánh Bắc đương Tý là tháng mười một. - Cấn phúc quản: Đông Bắc Sửu Dần là tháng Chạp, tháng giêng. - Chấn: ngưỡng bồn chánh Đông đương Mẹo là tháng hai. - Tốn hạ đoạn: Đông Nam Thìn Tỵ là tháng ba, tháng tư. - Ly trung hư: Chánh Nam đương Ngọ là tháng năm. - Khôn lục đoạn: Tây Nam Mùi Thân là tháng sáu, tháng bảy. - Đoài thượng khuyết: Chánh Tây đương Dậu là tháng tám. Bài số 30.- AN NGUYỆT QUÁI VÀ THẾ THÂN (Đọc thuộc lòng) - Dương thế tùng Tý nhựt khởi. Âm thế tùng Ngọ ngoạt sanh. - Tý Ngọ trì thế, thân cư sơ. Sửu Mùi trì thế, thân cư nhị. - Dần Thân trì thế, thấn cư tam. Mẹo Dậu trì thế, thân cư tứ. - Thì, Tuất trì thế, thân cư ngũ. Tỵ Hợi trì thế, thân cư lục. Bài số 31.- PHÚ QẺ CHIẾM BỆNH (Đọc thuộc lòng) Luận xem hào sát mộ môn. Giáp Ất, Kim động bệnh khôn chẳng lành. Bính Đinh thì kỵ Thủy thần, Mồ Kỷ kỵ Mộc, Canh Tân Hỏa hào. Nhâm Quý là Thổ động vào, Mộ môn hào ấy bệnh nào cho qua. Hào Tán Xa Luận: Xuân kê, Hạ thử, tán xa lai, Thu thố, Đông mã an bài bệnh nhân. Hiểu tử mãi quan tài, Đại quá, Tiểu quá chánh hành tai. Ký tế, Vị tế khốc bi ai, Vọng ích, Đồng nhân khôn làm quái. Dịp một bát quái đã bày,


Xuân, nhu, mông, mộ, Hạ rày cổ quan. Thu mà bát tiết chẳng an, Đông mà lâm tử, bệnh nàng phải âu. Thập tử mười quẻ thêm sầu, Minh di, quán bí, nhu lâm. Thiết kỵ thế thân nhập mộ, Càn súc, phong đầu cổ quái, Nhược phùng tài quỉ cu hưng. Quách quan lâm đến mùa Xuân, Xem thấy Khôn Cấn dữ thay mựa nài. Mùa Hạ thì kỵ Càn Đoài, Mùa Thu Chấn Tốn động rày chẳng qua. Mùa Đông tượng Ly chẳng tha, Quách quan quẻ ấy học mà cho thông. Bài số 32.- PHÚ BỆNH (Đọc thuộc lòng) Biết chứng bệnh, người đau bệnh gì, chiếm bệnh hài chứng. Mộc quỉ phúc thống, phong cuồng Hỏa nảy, Thương đầu Càn thống, Kim vi cất tuyết thương đàm, Thổ thị lao tâm Càn ấu. Thủy vi thuẩn tả liên miên, Thổ nảy tỳ vị chi chứng. Bạch hổ động, nữ nhân tắc huyết, băng huyết vận, nam nhân tắc âm chứng âm hư. Mộc động tay chân phong lãnh cuồng, Thủy động khát nước ê trong bụng. Ngoài thì nóng nảy đòi phương, chẳng chi nhúc nhích một đường chân tay. Hỏa động đau mắt đau mày, Thượng thống ngày rày đau đầu chẳng tha. Thổ động sang độc đó là, Đau sưng thủng tuyết cùng là xưa nay. Chứng bệnh đau ốm bấy chầy, Càn đầu, Khảm nhĩ thiệt nay trong lòng. Cấn Chấn huyết khí tương vong, Tứ chi chuyển động khi trọng khi khinh. Tốn Ly lưỡng nhãn bất minh, Mệt run hết cả trong mình chẳng an. Khôn Đoài phiền muộn tâm can, Thủy điều khá giả xuyên ban cực nghèo. Dầu có linh dược đem theo, Lưỡng Thổ nan trị hôn diêu đó là. Bài số 33.- PHÚ CHIẾM BỆNH BIẾT SỐNG CHẾT (Đọc thuộc lòng) Luận xem chứng bệnh dữ lành, Thế là người chiếm, Ứng rày bệnh nhân. Ứng mà khắc Thế bệnh yên, Thế mà khắng Ứng, bệnh liền khốn thay. Quái vô Quan quỉ thiệt hung, Mới đau gặp quẻ lục xung may lành. Lục xung đau lâu bất thành, Chấn Tốn quan quách đã đành chẳng an. Du hồn cướp sát lâm quan, Ác là phu thác, lâm tài thê vong. Quỉ phùng bổn mạng xấu song, Bổn mạng nhập mộ, không vong chẳng tiền. Mộc thượng, Thổ hạ đặng yên, Thổ thượng, Mộc hạ bệnh liền khốn thay. Tử tôn trì Thế an ninh, Quan quỉ trì Thế trọng khinh chẳng cần. Tam hiệp, lục hiệp dụng hào, Dụng thần Hỏa vượng đau lâu nhiều bề. Lại thêm biến chứng đa đoan, Vô tài nội quái ẩm thực bất thường. Tài động khấp khốc phải thương, Xà động chủ tử, Hổ động chủ tang. Quái vô Quan quỉ chẳng an, Tài quỉ phát động bệnh toan xuống mồ. Cầu Trời lạy Phật nam mô. Vái cúng không khỏi mua đồ cắt may. Bài số 34.- PHÚ TRÌ THẾ ĐOÁN BỔN MẠNG (Đọc thuộc lòng) - Huynh đệ trì Thế khắc thê tài, Ưng quan vị liễu bất hoàn lai. Quỉ vượng chánh đáng phòng khẩu thiệt, Thân trường đắc bệnh tổn kỳ tài. - Tử tôn trì Thế sự vô ưu, Quan quỉ tùng lai liễu tiện hưu. Tài vật thử thời ưng dĩ đắc, Thanh minh đắc sự, hữu lai du.


- Tài hào trì Thế ích tài vinh, Nhược vấn cầu tài sự xứng tình. Cầu quan đắc vị đặng thăng chức, Ông bà tổ phụ bệnh thình lình. - Quan quỉ trì Thế mạng gian nan, Chiếm thân tật bệnh dã tao quan. Huynh đệ xa cách đều chẳng tốt, Gia đạo phụ mẫu đắc thọ tràng. - Phụ mẫu trì Thế huynh đệ hòa, Cháu con xa cách tật bệnh đa. Cầu quan ứng cử đều đặng tốt, Tử tôn dâm loạn phải lìa xa. PHÚ GIA ĐẠO NGŨ HÀNH ĐỘNG (Đọc thuộc lòng) Bài số 35 - Kim động Kim động nhà có đồ đồng, Lau rồi chẳng đổi để mà làm chi. Sanh ra quái hiện một khi, Tiểu nhi tật bệnh vậy thì chẳng an. Tây phương hào loạn mồ oan, Súc vật nuôi khó, sái đàng người đi. Khẩu thiệt phản phúc bất kỳ, Giúp người, người phản vậy thì hại ta. Bài số 36 - Mộc động Mộc động nhà cửa chẳng an, Gia đạo tạo lập sửa sang đổi dời. Cột kèo chấp nối động thời, Mối đùn làm ổ ở nơi trong nhà. Sanh ra đạo tặc gian tà, Táo quân lủng nứt sái mà đường đi. Sanh ra quái hiện một khi, Chiêm bao hay thấy vậy thì chẳng an. Bài số 37 - Thủy động Thủy động hang hố vũng bàu, Có ao, có vũng gần kề gia trung. Một lợi, một hại chẳng cùng, Hai là sanh khí đường đi vũng bàu. Táo quân sai hướng cũng đau, Súc vật nan dưỡng tiêu hao của tiền. Gia đạo xào xáo chẳng yên, Văn thơ khẩu thiệt tự nhiên có hoài. Bài số 38 - Hỏa động Hỏa động phòng lửa có khi, Táo quân mẻ sứt vậy thì sao đây. Súc vật nuôi chết li bì, Con nít tật bệnh vậy thì chẳng an. Thủy mà khắc Hỏa gian nan, Làm có tiền bạc cũng tan gia đình. Động mà khắc Thế hại mình, Không tai cũng bệnh thiệt tình chẳng sai. Bài số 39 - Thổ động Thổ động đắp nên vũng bàu, Hai nền hai xác thấp cao chẳng bằng. Mối đùn có đường chỉ giăng, Dời đổi cất sửa ở ăn thuận hòa. Thổ động khắc Thế hại ta, Tật bệnh, đau ốm vậy mà chẳng sai. Động mà sanh Thế tốt thay, Có kẻ đem của giúp rày cho ta. Lưỡng tài tử phụ huynh đa, Anh em thê thiếp mẹ cha hai dòng. Bài số 40 - Quỉ động


Quỉ động hóa tài, thời trai có vợ, Tài động hóa quỉ, gái nọ có chồng. Quỉ tài mộ, tuyệt lâm không, Loan phòng chờ đợi, vợ chồng cách xa. Tử động hóa tài, tài vượng chẳng sai, Tài động hóa tử, sanh thai có nghén. Tài lộc hưng vượng, hôm nay tốt lành, Tài động khắc phụ, cha mẹ bất thành. Tật bệnh đau ốm phải đành mồ côi. Bài số 41.- DỤNG THẦN THỨ TỰ Dụng thần tất khán Nguyên thần, Tam hiệp hội cuộc Dụng thần gặp tắc kiết, Dụng lâm lộc mã tối lương, hào động vi thỷ dã, luận Không vong, lục xung chủ hình khắc, cụ chủ thương, Thế Ứng phát động tất nhiên có đổi. Long động gia hữu hỷ, Hổ động chủ hữu tang. Câu Trận, Châu Tước điền thổ hưng văn chương. Tài động ưu tôn trưởng, Phụ động tổn nhi lang. Tử động nam nhân trệ, Huynh động nữ nhân ương. Xuất hành nghi Thế động, Qui hồn bất xuất ngoại. Dụng động cụ tam hiệp hành nhân lập hồi trang, chiếm trạch tài long vương hào phú nhứt hương. Phụ mẫu hào hưng vượng, vi quan chí, Hầu vương phước thần. Nhược trì thế quan tụng định vô phòng, Câu Trận khắc Huyền Võ tu vong. Phụ bệnh hiềm tai sát, Tài hưng phu mẫu bất trường. Vô Quỷ bệnh nan thuyên, Quỷ vượng chủ phát cuồng. Tu khán hữu Quỷ vô động đắc an khương. Chín hôn hiềm khắc Dụng, chín sản khán âm dương. Nhược yếu môn phong thủy, Tam tứ thế kiết xương. Trường sanh mộ tuyệt khuyết, quái yếu phiên tường. Bài số 42.- LỤC THẦN PHÚ Tử động sanh Tài bất nghi phụ bại; Huynh động khắc Tài, Tử động năng giải; Tài động sanh Quỷ, thiết kỵ Huynh diêu; Tử động khắc Quỷ, Tài động năng tiêu. Phụ động sanh Huynh, kỵ Tài tương khắc; Quỷ động khắc Huynh, Phụ động năng giải. Quỷ động sanh Phụ, kỵ Tử giao trùng; Tài động khắc Phụ; Quỷ động năng trung. Huynh động sanh Tử, kỵ Quỷ giao trùng; Phụ động khắc Tử, Huynh động vô phòng. Tử hưng khắc Quỷ, Phụ động vô phong; Nhược nhiên Tử động, Quỷ tất tao thương. Tài hưng khắc Phụ, Huynh động khỏi lo; Nhược nhiên Tử động, Phụ mạng nan hưu. Phụ hưng khắc Tử, Tài động vô sự; Nhược thị Quỷ hưng, kỳ Tử tất tử. Quỷ hưng khắc Huynh, Tử động khả cứu; Tài Phụ giao trùng, Huynh đệ bất cửu. Huynh động khắc Tài, Quỷ hưng vô phòng; Nhược nhi Phụ động, Tài tao khắc hại. Giải nghĩa do sanh khắc chế hóa nhứt chi lý, dĩ minh hào hung trung tàng kiết, kiết nội tàng hung. Thí dụ như Kim động sanh Thủy là tốt, mà gặp Hỏa động khắc Kim, Kim bị thương làm sao đi sanh Thủy đặng. Như Hỏa động khắc Kim, đặng Thủy động khắc Hỏa thì Hỏa chẳng đi khắc Kim được, như Kim gặp một mình Hỏa động thì chịu khắc vậy, đặng Thổ động tắc Hỏa tham sanh ư Thổ, không đi khắc Kim đâu, đó là tham sanh kỵ khắc. Kim lại đặng tốt vậy. Như Hỏa động khắc Kim, mà Thổ an tịnh lại thêm Mộc động giúp Hỏa khắc Kim tất bị hung dã. Bài số 43.- PHÚ HUỲNH KIM (Đọc thuộc làu thì đoán quẻ mới cao) Động tịnh âm dương phản phúc thiên biến; Tuy vạn tượng chi phân vân tư nhất, lý nhi dung hội. Thái quá giả tổn chi tư thành. Bất cập giả ích chi tắc lợi. Sanh phò cũng hiệp thời vô tư miêu. Khắc Hại Hình Xung thu sương sát thảo. Trường sanh Đế vượng tranh như kim cốc vi tiên, Tử Mộ Tuyệt Không mãi thị nê lê chi địa. Nhựt thần lục hào chi chủ tể, hỷ kỳ diệt Hạng dĩ an Lưu. Nguyệt kiên nãi vạn bốc chi đề cương, khởi khả trợ Kiệt nhi vi ngược. Tối ác giả tuế quân nghi tịnh bất nhi động, Tối yếu giả nhân vị hỷ phò bất hỷ thương. Thế vi kỷ, Ứng vi nhơn đại nghi khiết hiệp, động vi thỷ biến vi chung tối phạ giao tranh. Ứng vị tao thương bất lợi tha nhân chi sự, Thế hào thọ chế khởi nghi tự kỷ chi mưu. Thế Ứng cụ không nhơn vô chuẩn thiệt. Nội ngoại cạnh phát sự tất phiên đằng. Thế hoặc giao trùng lưỡng mục cốc chiêm ư mã thủ, Ứng như phát động nhứt tâm tợ thác ư viên phan. Dụng thần hữu khí vô tha cố, sở tác giai thành. Chủ tượng đồ tồn cánh bị thương, phàm mưu bất toại. Hữu thương tu cứu, vô cố vật không. Không phùng xung nhi hữu dụng, Hiệp tao dĩ phá vô công. Tư không hóa không tất thành hung cựu. Hình hiệp khắc hiệp chung kiến quai dâm. Động trực hiệp như bạn trú. Tịnh đắc xung nhi ám hưng. Nhập mộ nan khắc đới vượng phỷ không, Hữu trợ hữu phò suy nhược hưu tù diệt kiết. Tham sanh tham hiệp hình xung khắc hại đại vong. Biệt suy vượng dĩ minh khắc hiệp, biện động tịnh dĩ định hình xung. Tinh bất tinh, xung bất xung, nhơn đa tự nhãn. Hình phi hình, hiệp phi hiệp vi thiểu chi thần. Hào ngộ lịnh tinh vật nan ngã hại, Phục cư không địa, sự dữ tâm di. Phục vô đề bạt chung đồ nhĩ phi bất suy khai diệt uổng nhiên. Không hạ phục thần dị ư dẫn bạt, Chế trung nhược chủ nan dĩ duy trì. Nhựt thương hào chơn la kỳ họa, hào thương nhựt đồ thọ kỳ danh. Mộ trung nhơn bất xung bất phát, Thân thương Quỷ bất khứ bất an. Đức nhập quái nhi vô mưu bất toại, kỵ lâm thân nhi đa trở vô thành. Quái ngộ hung tinh tỵ nhi tắc kiết, Hào phùng kỵ sát địch chi vô thương.


Chủ tượng Hưu Tù phạ kiến Hình xung khắc hại. Dụng hào biến động kỳ phùng Tử Mộ Tuyệt Không. Dụng hóa Dụng, hữu Dụng vô dụng, Không hóa Không tuy Không bất không. Dưỡng chủ cô nghi mộ đa ám muội. Hóa bệnh hề thương tổn, hóa thai hề câu liên. Hung hóa trường sanh xí nhi vị táng. Kiết liên Mộc Dục bại nhi bất thành. Giới hồi đầu chi khắc ngã, vật phản dức dĩ phò nhơn. Ác diệu cô hàng phạ nhật chi tinh khởi. Dụng hào trùng điệp hỷ mộ khố chi thâu tàn. Sự cách trở hề giang phát tâm, thối hối hề thế không. Quái hào phát động, tu khán giao trùng, Động biến tỳ hòa dương minh tấn thối. Sát sanh thân mạc tương kiết đoán, dụng khắc thế vật tất hung khán, cái sanh trung hữu hình hại. Chi lưỡng phòng nhi hiệp xứ, hữu khắc thương chi nhất lự. Hình hại bất nghi lâm dụng tử tuyệt khởi khả trì thân. Động phùng xung nhi sự táng, Tuyệt phùng sanh nhi sự thành. Như phùng hiệp trú tu xung phá dĩ thành công, nhược ngộ Hưu Tù tất sanh vượng nhi thành sự. Tốc tắc động nhi khắc thế, hưởn tắc tịnh nhi sanh thân. Phụ vong nhi vô đầu tự, Phước ẩn nhi sự bất xứng tình. Quỷ tuy họa tai phục vu vô khí. Tử tuy phước đức đa phản vô công. Cừu phụ mẫu suy vi thể thống, luận quan Quỷ đoán tác họa ương. Tài nãi lộc thần tử tôn vi phước đức. Huynh đệ giao trùng tất chi mưu vi đa trở trệ. Quái thân trùng điệp tu trì sự thể lưỡng giao quan. Hổ hưng nhi ngộ kiết thần bất hại kỳ vi kiết. Long động phùng hung diệu nan yểm kỳ vi hung. Huyền Võ chủ đạo tặc chi sự diệc tất quan hào, Châu Tước bổn khẩu thiệt chi thần, nhiên tu huynh đệ, tật bệnh đại nghi thiên hỷ. Nhược lâm hung sát tất sanh bi. Xuất hành tối phạ vảng vong, như hệ kiết thần chung hộ thị cố kiết. Hung thần sát chi đa đoan, hà như sanh khắc chế hóa chi nhứt lý. Đọc phú này cho thuộc lòng thì đoán quẻ Diệc mới giỏi mới cao, quẻ tốt mà thầy đoán thấp nói quẻ xấu, còn thấy quẻ xấu là có kinh nghiệm thì đoán thành ra tốt. Phải biết năm tháng ngày giờ ứng lâu hay mau mới thành sự đặng. Người khách coi quẻ thấy kết quả lâu mau thành sự mới giỏi. Thí dụ Hình hiệp, khắc hiệp là sao? Hình phi hình, hiệp phi hiệp là sao? Tứ tuyệt phùng sanh, khắc xứ phùng sanh là sao? Xung trung phùng hiệp, Hiệp xứ phùng xung là sao? Phục ngâm phản ngâm hào quái là sao? Phục thần bất hiện quái là sao? Tam truyền sanh khắc dụng thần là sao? Ngũ thần bất thượng quái là sao? Mộc thượng Thổ hạ bệnh yên; Thổ thượng Mộc hạ bệnh liền khốn thay, phải chết là sao? Nguyên thần bất sanh Dụng thần có bảy điều không sanh là sao? Kỵ thần có bảy điều không khắc Dụng thần là sao? Phải cho biết mới được. Đã có công học quẻ Diệc mà không tìm tới một chút nữa thì uổng lắm. Tôi xin lỗi quẻ Diệc cũng có kẻ thấp người cao vậy, cũng có người giỏi hơn tôi phần nào đó là ít, anh em ai có học quẻ rồi mà chưa đặng giỏi nên rán học hỏi thêm, có ích lắm; không phải tôi tự xưng là giỏi đâu, có thầy dạy cho anh em mà họ dấu nghề cũng có vậy. Còn có người học chưa tới cũng có vậy, nên mua sách này để dành coi, như học đặng thì học cho biết cũng có ích, như mắc công việc học không đặng, để lại sau cho anh em con cháu, chớ sau qua đời tôi rồi thì không có nữa uổng lắm. Tôi lấy tâm lực rán soạn ra quyển sách Đại Diệc Toàn Bộ, để lại cho anh em hiểu đời sau để dành coi đọc, học hoài thuộc rồi tôi ra công chỷ chừng năm hay mười ngày là biết đặng. Như đọc thuộc rồi có thầy nào giỏi về quẻ Diệc thì mượn dạy cũng được. Thuở trước tôi học, tôi phải về Trung phần mà học thì thầy đòi cúng Tổ một con heo và 50 đồng mới chịu dạy. Tôi phải theo thầy năm sáu tháng mới nên. Anh em nên đọc thuộc lòng phú Huỳnh Kim, còn phú Hà Trì cũng nên coi cho thường thì đoán mới trúng, mới biết rõ trong gia đình. Bài số 44.- PHÚ HÀ TRÌ Hà trì nhơn gia phu mẫu tật, Bạch Hổ động hào hiềm hình khắc. Sao biết nhà người phụ mẫu ương, Tài hào phát động sát thần thương. Sao biết nhà người có cháu con, Thanh long phước đức hào trung luân. Sao biết nhà người nhà người không cháu con, Lục hào chẳng thấy phước thần lâm. Sao biết nhà người con cháu bệnh, Phụ mẫu hào động lai tương khắc. Sao biết nhà người tử tôn tai, Bạch hổ đương lâm phước đức lai. Sao biết nhà người con nít chết, Tử tôn không vong gia Bạch hổ. Sao biết nhà người anh em mất, Dụng lạc không vong Bạch hổ thương. Sao biết nhà người vợ có tai, Hổ lâm huynh đệ động thương thay. Sao biết nhà người vợ có nghén, Thanh long lâm tài thiên hỷ thần. Sao biết nhà người có thê thiếp, Nội ngoại lưỡng tài vượng tướng lâm. Sao biết nhà người tổn thê phòng, Tài hào đới Quỷ lạc không vong. Sao biết nhà người kiện thưa an, Không vong quan Quỷ lại hưu tù. Sao biết nhà người kiện thưa mãi, Tước hổ trì thế Quỷ lai phò. Sao biết nhà người vượng lục đinh, Lục thân hữu khí phước thần lâm.


Sao biết nhà người tấn nhân khẩu, Thanh long đắc vị lâm tài thủ. Sao biết nhà người đại hào phú, Tài hào vượng tướng hựu cự khố. Sao biết nhà người điền địa táng, Câu trận nhập Thổ tử tôn lâm. Sao biết nhà người tấn sản nghiệp, Thanh long lâm tài vượng tướng thiết. Sao biết nhà người tấn ngoại tài, Ngoại quái lâm long tái phước lai. Sao biết nhà người hỷ sự lâm, Thanh long phước đức tại môn đình. Sao biết nhà người phú quới xương, Cưỡng tài vượng phước Thanh long thượng. Sao biết nhà người đa bần tiện, Tài hào đới hao hưu tù kiến. Sao biết nhà người táo phá tổn, Huyền võ đới Quỷ nhì hào lâm. Sao biết nhà người ốc võ tản, Phụ nhập Thanh long vượng tướng chân. Sao biết nhà người ốc võ bại, Phụ nhập Bạch hổ hưu tù ngoại. Sao biết nhà người mộ hữu phong, Bạch hổ không vong tốn tỵ công. Sao biết nhà người mộ hữu thủy, Bạch hổ không vong lâm Hợi Tý. Sao biết nhà người vô hương Hỏa, Quái trung lục hào bất biến Hỏa. Sao biết nhà người vô phong Thủy, Quái trung lục hào bất biến Thủy. Sao biết nhà người bất cúng Phật, Kim Quỷ hào lạc không vong khuyết. Sao biết hai họ cùng ốc cư, Lưỡng Quỷ vượng tướng quái trung suy. Sao biết nhà người có hai họ, Lưỡng trùng phụ mẫu quái trung lâm. Sao biết nhà người gà gáy loạn, Đằng xà nhập Dậu bất tu nghì. Sao biết nhà người chó sủa tru, Đằng xà nhập Tuất hựu phùng Quỷ. Sao biết nhà người có khẩu thiệt, Châu tước trì thế Quỷ lai lâm. Sao biết nhà người khẩu thiệt đến, Châu tước lâm huynh lại phát động. Sao biết nhà người đa tranh đấu, Châu Tước huynh đệ lâm thế ứng. Sao biết nhà người tiểu nhân sanh, Huyền võ quan Quỷ động lâm thân. Sao biết nhà người gặp tật đồ, Huyền võ lâm tài Quỷ vượng phò. Sao biết nhà người tai họa đến, Quỷ lâm ứng hài lại khắc thế. Sao biết nhà người đậu chẩn bệnh, Đằng xà hào bị Hỏa thiên định. Sao biết nhà người bịnh yếu tử, Dụng thần vô cứu hựu nhập mộ. Sao biết nhà người hay mộng trạng, Đằng xà đới Quỷ lai trì thế. Sao biết nhà người xuất Quỷ quái, Đằng xà, Bạch hổ lâm môn tại. Sao biết nhà người hiếu phục lai, Giao trùng Bạch hổ lâm Quỷ bày. Sao biết nhà người tiến thất thoát, Huyền võ đới Quỷ ứng hào phát. Sao biết nhà người thất y đản, Câu trận, Huyền Võ nhập tài lang. Sao biết nhà người tổn lục súc, Bạch hổ đới Quỷ lâm sở thuộc. Sao biết nhà người thất đinh ngưu, Ngũ hào Thổ Quỷ lạc không sầu. Sao biết nhà người thất đinh kê, Sơ hào đới Quỷ Huyền võ lâm. Sao biết nhà người không ngưu trư, Sửu Hợi không vong hưởng vị hư Sao biết nhà người vô kê khuyển, Dậu Tuất hai hào không vong quyện. Sao biết nhà người nhân bất lai, Thế ứng cụ lạc không vong bài. Sao biết nhà người trạch bất ninh, Lục hào cụ động loạn phân vân. Tiên nhân tạo xuất hà trì chưởng, Lưu dữ hậu nhân tác phạn nhương. Họa phước kiết hung chơn hữu nghiệm, Thời sư cú cú tế suy tường. Bài số 45.- VÁI THỈNH TỔ COI QUẺ VÀ BÀI DỤNG THẦN THỨ TỰ Nam mô tam khấu linh qui, Phục Hi, Văn Vương, Châu Công, Khổng Tử, Thất thập nhị hiền, Bát bộ thần thiên, ông Viên Thủ Thành, Quỉ Cốc tiên sinh, đồng lai chứng chiếu (vái tên họ, chỗ ở làng, tổng, tỉnh, chiếm coi sự chi, thì coi một việc đó, lấy hào Dụng Thần tổ cho biết đắc thất thành bại). Các bài Dụng Thần thứ tự, Phu quỉ huynh tài, phân biệt hào Dụng thần, như chiếm coi cho ông bà cha mẹ, thầy, chủ nhà, chú bác, cậu dì, cô thím, dữ ngã phụ mẫu đồng loại, cha mẹ thân hữu, thổ sanh, thành phố, nhà cửa, quán xá, xe cộ, ghe thuyền, quần áo, cầu mưa, vải bô, hàng hóa, đơn sớ, thi cử văn chương, đình chùa, quán thất, lấy hào phụ mà Dụng thần. Phàm coi công danh quan phủ,sấm chớp, trượng phu, phu chi huynh đệ, phu chi tương dữ bằng hữu, loạn thần đạo tặc, tà sùng ưu nghi bệnh chứng loạn thần y thủ nghịch phong, đều lấy quan quỉ hào Dụng thần. Phàm chiếm coi huynh đệ tỷ muội, tỷ muội chi thê cập chi giao bằng hữu, đều lấy huynh đệ hào chi Dụng thần. Phàm chiếm coi chị dâu cùng em dâu, em vợ chị vợ thê thiếp cùng vợ, anh em bạn hữu, gia tướng nô bộc, vật giá tiền tài châu báu, kim ngân thương khố, tiền lượng, thập vật khí huyết, cập vấn thiên thời thanh minh dĩ tài hào


Dụng thần. Phàm chiếm coi nhi nữ tôn diệt, nữ tế môn sinh, tử tôn trung thần lương tướng, y dược thuốc uống, tăng đạo thầy chùa sãi, lục súc cầm điểu, thuận phong giải ưu tỵ họa cập vấn thiên thời thiên tử, nhựt nguyện tinh đẩu cùng súc vật dĩ tử tôn hào Dụng thần. Luận thế hào ứng Dụng thần, Thế ứng hai hào khác nhau. Thế là mình, Ứng là người khác, thế ứng tương sanh tương hiệp thì tốt, thế ứng tương khắc tương xung đều thấy lưỡng tình chẳng tốt. Phàm chiếm mình tới coi quẻ tật bệnh hoặc hỏi vận mạng tốt xấu, cùng hỏi thọ số lâu mau, hoặc hỏi xuất hành kiết hung chư phàm tổn ích tự đi coi dĩ thế hào Dụng thần. Phàm chiếm coi cho người không thân tộc bà con hoặc cho anh em bạn hữu, cửu lưu, vệ sĩ, cừu nhân địch quốc, hoặc chỉ thiệt mổ xứ địa đầu, hoặc chỉ thử sơn thử thủy, thử nền đăng loại cụ dĩ ứng hào vi Dụng thần. Như chiếm cho mình có một đám đất tạo nền bỉ tắc thế vi huyệt trường, ứng vi phong án, thư tương mãi tha nhân chi địa, mà muốn tạo nền hỏi thử đất nhược tán ích lợi ngã gia bỉ dĩ ứng hào làm huyệt trường thiệt là nhà ta vậy Dụng thần vấn đáp, tớ chiêm cho chủ nhà dĩ phụ mẫu hào Dụng thần, chủ nhân coi cho tôi tớ, bất dĩ tử tôn hào Dụng thần. Sao vậy? Trả lời: Không nuôi tỳ độ ngã thân giả dĩ phụ hào vi Dụng thần, tức như thành phố, trạch xá, đơn xa, y phục đẳng loại thị dã, kim ngân vật giá nô bộc đăng; nhứt thiết sử chi loại dĩ tài hào vi Dụng thần thiệt vậy. Như coi cho tôi tớ lấy tài hào mà Dụng thần là phải hơn, đừng lấy hào tử tôn thì phải bị sai vậy. Bài số 46.- LUẬN VỀ NGŨ HÀNH ĐẠI ĐỘN Thí dụ: Mười ngày kể vô một tuần, từ ngày Giáp Tý tới ngày Quí Dậu là mười ngày; trong mười ngày đó, nhằm ngày nào ta coi quẻ mà quẻ thuộc về giờ Giáp Tuất, Ất Hợi bị lâm tuần Không, xấu. Tuy Không mà cũng chẳng không, Vượng cũng chẳng Không, Động chẳng Không, là gặp tháng chín là tháng Tuất, giờ Tuất nó ở trong tháng, là Vượng chẳng Không, qua khỏi mười ngày đó thì dùng đặng quẻ tốt. Còn Động bất vi Không, là gặp ngày Thìn, giờ Thìn xung hào Tuất là động chẳng Không, giờ Hợi mà đặng ngày Tỵ, tháng Tỵ thuộc Hỏa sanh Thổ cũng chẳng Không, còn gặp tháng ngày Dần Mẹo thuộc Mộc, khắc Thổ thì bị Không luôn, xấu lắm. Quẻ Giáp Tuất thuộc Dương, Ất Hợi thuộc Âm là quẻ số 6, vì sao mà lấy giờ Tuất, không lấy giờ Hợi, là gặp đồng tiền chót thứ năm và nằm ngửa thuộc Dương, do nơi một hàng năm đồng tiền. Anh em nên để ý, kể đồng tiền ở đầu dưới đầu hàng khác cũng vậy, sấp là kể âm, ngửa phải kể dương, đó là nói hào Tuất. Còn hào Hợi thuộc Thủy, cũng lâm tuần không, mà tháng ngày giờ sanh khắc thì khác, thuộc Kim là sanh nó, còn Tỵ là xung nó là giờ Hợi; tháng ngày giờ Hợi Tý, thì vượng nó; tháng ngày giờ thuộc Thổ, thì Hợi phải bị khắc. Quẻ này sanh khắc chế hóa, không thua gì quẻ Diệc bao nhiêu. Tra xét trong quẻ đoán mới giỏi mới cao, quẻ tuy gặp xấu mà đoán thành tốt; tốt không biết đoán thành xấu. Như ai không học biết ngũ hành xung khắc, sanh hiệp, tuần Không, nguyệt phá thì ông tổ và thần nhơn cũng không chấp đâu. Như coi quẻ làm ăn sự chi, ta nên thành tâm vài tổ, gieo năm đồng tiền xin một quẻ, tốt xấu đã có giảng nghĩa mùa tháng ngày giờ ở trong quẻ rồi. Thí dụ: Tháng ngày giờ ta coi quẻ đó, trong ngày đó mùa tháng ngày giờ gặp coi nói kỵ ở trong quẻ mới là xấu, thì chúng ta phải giữ cẩn thận đến ngày giờ năm đó; lâu thì ứng năm tháng, mau thì ứng ngày giờ phải bị xui xẻo tai nạn. Còn ta coi quẻ nhằm tháng ngày giờ, bữa ta coi đó ở trong quẻ nói tốt là quẻ đặng tốt, mau thì ngày giờ giống trong quẻ đó gặp tốt, lâu thì năm tháng cũng gặp tốt vậy. Anh em nên mua sách này rán học quẻ Diệc và quẻ Ngũ Hành Đại Độn, tôi có xuất bản trước ba quuyển sách Tam Ngươn đại lược, Tam Ngươn tiểu lược và Tam ngươn đồ hình, xuất bản tại nhà in Tín Đức Thư Xã, 25-27 đường Tạ Thu Thâu và có gởi bán các tiệm sách ở lục tỉnh. Bài số 47.- THIÊN CAN NGŨ HÀNH ĐẠI ĐỘN QUẺ Thiên Can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mồ, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Nên để ý: Ngày Giáp, ngày Kỷ gia giờ Giáp Tý đánh tới tìm quẻ; ngày Ất Canh, giờ Bính Tý; ngày Bính Thân, giờ Mậu Tý; ngày Đinh Nhâm, giờ Canh Tý; ngày Mồ Quý, giờ Nhâm Tý, cách đánh tới giờ Quý Sửu, giờ Giáp Dần, Ất Mẹo, Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Như khách tới coi quẻ đúng giờ nào cho nhớ, thầy phải coi ngày đó là ngày gì, Giáp hay Kỷ, cứ bắt giờ Tý đánh tới trúng giờ khách lại coi đó là quẻ đó, phải thuộc lòng Thiên Can Địa Chi mới độn ra quẻ được. Thiên Can là Giáp Kỷ, Ất Canh, Bính Tân, Đinh Nhâm, Mồ Quý. Cách coi quẻ như vầy: Như năm Mậu Tuất, tháng giêng là tháng Giáp Dần, ngày Đinh Ngọ mùng Hai Tết, có người tới nhà ta coi quẻ. Ta ngó đồng hồ thấy 7 giờ sáng thì biết là giờ Mẹo. Cách tìm quẻ như vầy: Ngày Đinh Nhâm, giờ Canh Tý đánh tới giờ Mẹ là giờ Quý Mẹo, âm thuộc Mộc, số quẻ 20 là quẻ tốt nhất, mùa Xuân, tháng giêng, Mộc vượng, làm ăn năm nay đặng khá, mạnh giỏi như thường, đi trễ qua ngày mùng tám gặp ngày Quý Dậu xung khắc phải chịu quẻ xấu. Tuy xấu mà không sao, mùa Xuân Mộc vượng cũng nhẹ. Phải chi cô đi trễ tới 8 giờ Giáp Thìn gặp quẻ thuộc dương xấu lắm. Mùa Xuân Thổ tử lâm chơn không; vận mạng năm nay phải chịu xấu. Đi gặp 10 giờ


trưa thì gặp quẻ Ất Tỵ Mộc sanh Hỏa cũng đặng tốt. Giáp Thìn dương, Ất Tỵ âm thuộc Thổ Hỏa, quẻ số 21. Tuy vậy giờ Giáp Thìn, Ất Tỵ chung một quẻ, ngày giờ tháng thuộc Mộc, là Thìn phải xấu, Tỵ đặng tốt. Đoán quẻ phải xét cho cao mới rõ biết tốt xấu, còn bài giải trong quẻ thì nói mùa Xuân đặng tốt, gặp tháng ba, tháng tư thì Thìn Tỵ tốt đặng. Còn gặp hai ba người đi tới coi một lượt, thì người trước độn giờ kiếm quẻ, người thứ hai bảo viết chữ đếm nét, người thứ ba bẻ nhành lá ngắt ngọn bỏ đi rồi đếm lá hay là hốt tiền, hốt đũa cũng đếm vậy. Tính 1 là Tý, 2 là Sửu, 3 là Dần, 4 là Mẹo, 5 là Thìn, 6 là Tỵ, 7 là Ngọ, 8 là Mùi, 9 là Thân, 10 là Dậu, 11 là Tuất, 12 là Hợi. Như gặp con số lớn hơn, từ 13 sấp lên thì phải trừ cho 12, nếu con số lớn hơn 12 thì trừ nữa, chừng nào bằng hay nhỏ hơn 12 thì thôi, lại rồi cũng tính 1 là Tý mà tính tới hết con số còn lại đặng lấy giờ tìm ra quẻ. Người thứ nhì bẻ nhánh lá rồi ngắt ngọn bỏ, như thấy đếm đặng 14 là cũng trừ 12 lấy 2 là giờ Sửu, cũng ngày mùng hai là ngày Đinh Mẹo, hô Đinh Nhâm thuộc giờ Canh Tý hai lá thuộc giờ Tân Sửu, đặng quẻ số 19 phải xấu, bị Sửu thuộc Thổ tử. Người thứ ba hốt đũa đặng 13 chiếc, cũng kể giờ Canh Tý, cùng một quẻ đó thuộc Thủy bị hưu cũng không lấy gì xấu lắm. Quẻ độn không kể đồng tiền chót sấp ngữa kể là âm dương, không coi chỉ trong năm đồng tiền đó, độn tới giờ nào thì lấy theo giờ đó đoán quẻ biết tốt xấu, giờ quẻ cũng như hào quẻ. Anh em nên để ý, một quẻ Tý với Sửu chung, người coi Tý thuộc Thủy, bị hào Sửu Thổ cũng bị khắc vậy, may nhờ tháng ngày thuộc Dần Mẹo Mộc Thổ lâm chơn không, Thổ tử không khắc quẻ Tý Thủy ta đặng, kêu là hữu thương tu cứu là vậy đó, nó bị thương chết rồi làm sao đánh ta đặng. Ai không muốn học quẻ Diệc sợ khó học thì nên học quẻ Ngũ hành Đại Độn rất dễ lắm, coi ngày độn ra quẻ thiệt là dễ. Bài số 48.- BẢN TÌM QUẺ Độn quẻ rồi dở ra coi chi biết quẻ số mấy Giờ Tý - Giờ Sửu: - Giáp Tý, Ất Sửu: quẻ số 1. - Bính Tý, Đinh Sửu quẻ số 7. - Mậu Tý, Kỷ Sửu quẻ số 13. - Canh Tý, Tân Sửu quẻ số 19. - Nhâm Tý, Quý Sửu quẻ số 25. Giờ Dần - Giờ Mẹo: - Giáp Dần, Ất Mẹo quẻ số 26. - Bính Dần, Đinh Mẹo quẻ số 2. - Mậu Dần, Kỷ Mẹo quẻ số 8. - Canh Dần, Đinh Mẹo quẻ số 14. - Nhâm Dần, Quí Mẹo quẻ số 20. Giờ Thìn - Giờ Tỵ: - Giáp Thìn, Ất Tỵ quẻ số 21. - Bính Thìin, Đinh Tỵ quẻ số 27. - Mậu Thìn, Kỷ Tỵ quẻ số 3. - Canh Thìn, Tân Tỵ quẻ số 9. - Nhâm Thìn, Quý Tỵ quẻ số 15. Giờ Ngọ - Giờ Mùi: - Giáp Ngọ, Ất Mùi quẻ số 16. - Bính Ngọ, Đinh Mùi quẻ số 22. - Mậu Ngọ, Kỷ Mùi quẻ số 28. - Canh Ngọ, Tân Mùi quẻ số 4. - Nhâm Ngọ, Quý Mùi quẻ số 10. Giờ Thân - Giờ Dậu: - Giáp Thân, Ất Dậu quẻ số 11. - Bính Thân, Đinh Dậu quẻ số 17. - Mậu Thân, Kỷ Dậu quẻ số 23. - Canh Thân, Tân Dậu quẻ số 29. - Nhâm Thân, Quý Dậu quẻ số 5. Giờ Tuất - Giờ Hợi:


- Giáp Tuất, Ất Hợi quẻ số 6. - Bính Tuất, Đinh Hợi quẻ số 12. - Mậu Tuất, Kỷ Hợi quẻ số 18. - Canh Tuất, Tân Hợi quẻ số 24. - Nhâm Tuất, Quý Hợi quẻ số 30. Thí dụ: Như khách tới coi quẻ, bảo người viết năm con số trong một hàng dễ hơn, thầy coi lại mà tính mới đúng hơn là hốt tiền hay bẻ nhánh cây. Người khách viết năm con số một hàng như: 9-9-9-6-8, thầy cộng lại thành 41, thì kể nó là giờ Thìn (4+1=5), ngày mùng hai là ngày Đinh Mẹo, hô: Đinh Nhâm nhằm giờ Canh Tý, đếm Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mẹo, Giáp Thìn. Số 41 cộng lại tính đặng quẻ Giáp Thìn, chớ hồi trước cộng số 41 biết là giờ Thìn, nhưng không biết thứ gì Thìn là nhờ ngày Đinh Nhâm đánh tới mới biết đặng Giáp Thìn, phải coi bài số 48 Bản Tìm Quẻ thì biết là quẻ số mấy. Chỗ Giáp Thìn, Ất Tỵ là quẻ số 21, thì lấy quẻ Giáp Thìn thôi, không cần đoán Ất Tỵ; tuy vậy Ất Tỵ nó cũng thuộc Hỏa sanh Thổ, Tuất và Thìn nó cũng đặng vượng. Coi nhằm mùa Xuân, tháng giêng, ngày Đinh Mẹo, tháng ngày thuộc Mộc, khắc quẻ Thìn Thổ, Tỵ Hỏa sanh cũng nói là lâm chơn không, năm nay bổn mạng không vững; kỵ tháng ba, tháng chín chịu đau ốm tai nạn, qua tháng ba bị xe đụng té lỗ đầu khỏi chết là may; tháng chín bị đánh lộn kiện thưa, nhờ Ất Tỵ Hỏa sanh, Thìn là Thổ, là quẻ kêu rằng "khắc xứ phùng sanh", còn quẻ ứng về lâu thì năm Thìn, năm Tuất, tháng Thìn, tháng Tuất, còn mau thì ngày Thìn, ngày Tuất, giờ Thìn, giờ Tuất phải bị xấu. Bài số 49.- NGŨ LÃO ĐẾ QUÂN QUÁI Cũng gọi là Ngũ Hành Đại Độn Bài vái coi gieo quẻ: Nam mô Đông Ba Đế Quân, Tây Ba Đế Quân, Nam Ba Đế Quân, Bắc Ba Đế Quân, Trung Ba Đế Quân, Thiên Can, Địa Chi, Ngũ Hành chư vị năm ông chứng chiếu (rồi vái tên họ của mình mấy mươi tuổi, làng, tổng, tỉnh làm ăn hay là cầu sự chi về các việc, ta phải thành tâm van vái). Quẻ Thiên Can, Ngũ Hành đại độn cầm năm đồng tiền, hay là năm cắc bạc, kể bạc cắc phía đầu hình là ngửa thuộc Dương, bề không hình thuộc âm là sấp, nên để ý coi đồng tiền thứ năm mỗi hàng ở chót, thấy ngửa kể dương, thấy sấp kể âm, mỗi quẻ có hai giờ âm dương, chữ D là dương, chữ A là âm, cầm năm đồng tiền bỏ năm lần, năm đồng mỗi lần phải lấy sắp ra cho đủ năm đồng một hàng, sắp từ trên xuống dưới, coi đồng chót sấp là quẻ âm, ngửa là quẻ dương. Ai làm biếng không đọc thuộc lòng thì coi lịch biết ngày Giáp hay là ngày gì để tìm ra quẻ. Bài số 50.- CÁCH TÌM NGÀY GIỜ ĐƯỢC DỄ DÀNG Dùng Ngày để tìm Giờ Ngày Giáp, ngày Kỷ: Lấy giờ Giáp Tý đánh tới Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mẹo, Mậu Thìn, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhân Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi. Ngày Ất, Canh: Giờ Bính Tý đánh tới Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mẹo, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi. Ngày Bính, Tân: Giờ Mậu Tý đánh tới Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mẹo, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi. Ngày Đinh Nhâm: Giờ Canh Tý đánh tới Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mẹo, GiápT hìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi. Ngày Mồ (Mậu) Quý: Giờ Nhâm Tý đánh tới Quý Sửu, Giáp Dần, Ất Mẹo, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Dùng giờ đông hồ để tìm giờ Âm lịch. Tháng giêng, tháng chín: - 03 giờ 30 tới 5 giờ 30, hết Dần. - 07 giờ 30 hết Mẹo. - 09 giờ 30 hết Thìn. - 11 giờ 30 hết Tỵ. - 13 giờ 30 hết Ngọ. - 15 giờ 30 hết Mùi. - 17 giờ 30 hết Thân. - 19 giờ 30 hết Dậu. - 21 giờ 30 hết Tuất. - 23 giờ 30 hết Hợi. - 01 giờ 30 khuya hết Tý. - 03 giờ 30 hết Sửu.


Còn mấy tháng khác coi theo dưới đây có để giờ Dần bắt đầu từ mấy giờ (theo đồng hồ) rồi căn cứ theo đó mà tính tới như hai tháng trên đây. Nên nhớ là giờ âm lịch bằng hai giờ dương lịch (đồng hồ). Biết được giờ âm lịch rồi mới có thể độn quẻ theo Ngũ Hành được. Tháng hai, tháng tám: 03 giờ 30 tới 5 giờ 40 hết Dần (Hết Dần là tảng sáng). Tháng ba, tháng bảy: 03 giờ 50 tới 5 giờ 50 hết Dần. Tháng tư, tháng sáu: 04 giờ tới 06 giờ hết Dần. Tháng năm: 04 giờ 10 tới 06 giờ 10 hết Dần. Tháng mười một: 03 giờ 10 tới 05 giờ 10 hết Dần. Tháng mười, tháng chạp: 03 giờ 20 tới 05 giờ 20 hết Dần. Nên để ý coi tháng nào, dòm vô đồng hồ thấy mấy giờ thì biết là giờ gì, coi ngày độn quẻ mới đúng, như tháng năm, tháng 10 nó sai chạy một giờ đồng hồ. Tháng năm chưa nằm đà sáng, tháng mười chưa cười đà tối. Bài số 51.- BẢN ĐỒ 32 QUẺ THUỘC ÂM DƯƠNG của Ngũ Lão Đế Quân Quái, cũng gọi là Ngũ Hành Đại Độn.

Bài số 52.- DÙNG NGÀY VÀ GIỜ ĐỂ BIẾT QUẺ SỐ MẤY:


Ngày Giáp Kỷ: - Giờ Giáp Tý, Ất Sửu quẻ số 1. - Giờ Bính Dần, Đinh Mẹo quẻ số 2. - Giờ Mậu Thìn, Kỷ Tỵ quẻ số 3. - Giờ Canh Ngọ, Tân Mùi quẻ số 4. - Giờ Nhân Thân, Quý Dậu quẻ số 5. - Giờ Giáp Tuất, Ất Hợi quẻ số 6. Ngày Ất Canh: - Giờ Bính Tý, Đinh Sửu quẻ số 7. - Giờ Mậu Dần, Kỷ Mẹo quẻ số 8. - Giờ Canh Thìn, Tân Tỵ quẻ số 9. - Giờ Nhâm Ngọ, Quý Mùi quẻ số 10. - Giờ Giáp Thân, Ất Dậu quẻ số 11. - Giờ Bình Tuất, Đinh Hợi quẻ số 12. Ngày Bính Tân: - Giờ Mậu Tý, Kỷ Sửu quẻ số 13. - Giờ Canh Dần, Tân Mẹo quẻ số 14. - Giờ Nhâm Thìn, Quý Tỵ quẻ số 15. - Giờ Giáp Ngọ, Ất Mùi quẻ số 16. - Giờ Bính Thân, Đinh Dậu quẻ số 17. - Giờ Mậu Tuất, Kỷ Hợi quẻ số 18. Ngày Đinh Nhâm: - Giờ Canh Tý, Tân Sửu quẻ số 19. - Giờ Nhâm Dần, Quý Mẹo quẻ số 20. - Giờ Giáp Thìn, Ất Tỵ quẻ số 21. - Giờ Bình Ngọ, Đinh Mùi quẻ số 22. - Giờ Mậu Thân, Kỷ Dậu quẻ số 23. - Giờ Canh Tuất, Tân Hợi quẻ số 24. Ngày Mồ (Mậu) Quý: - Giờ Nhâm Tý, Quý Sửu quẻ số 25. - Giờ Giáp Dần, Ất Mẹo quẻ số 26. - Giờ Bính Thìn, Đinh Tỵ quẻ số 27. - Giờ Mậu Ngọ, Kỷ Mùi quẻ số 28. - Giờ Canh Thìn, Tân Dậu quẻ số 29. - Giờ Nhâm Tuất, Quý Hợi quẻ số 30. Còn hai quẻ số 31 và 32 ở Ngoại Càn Khôn, có nói rõ ở sau bài giải số 32. Nên lưu ý: - Bất luận ngày nay là ngày gì, dở lịch ra coi nhằm ngày Bính Thìn, thiếu 5 là hai giờ chiều là giờ Mùi. Kiếm trên hàng Bính, Tân, giờ Ất Mùi trúng quẻ số 16. Họ tới coi bảo viết năm con số, giả tỷ họ viết: 69539 thì đem các số đó cộng lại thành 32, cũng giờ Mùi ngày Ất Tỵ, kiếm hàng Ất Canh gặp quẻ Nhâm Ngọ, Quý Mùi là trúng quẻ số 10. - Thiên Can: Giáp, Bính, Mồ Canh, Nhâm thuộc dương. Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý thuộc âm. - Địa chi: Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất thuộc dương. Hợi, Mẹo, Nùi, Tỵ, Dậu, Sửu thuộc Âm Bài số 53.- BÀI GIẢI ĐOÁN QUẺ QUẺ SỐ 1 Giờ Giáp Tý Dương - Ất Sửu Âm (Thuộc Thủy, Thổ) Quẻ này bổn mạng vững bền, Tháng ngày Thủy Thổ đặng an mười phần. Làm ăn có kẻ xa gần, Hứa mà dùm giúp ân cần rủ ta. Tháng chạp cho chí tháng ba,


Tháng sáu, tháng chín cầu mà được ngay. Tháng ngày xung khắc hao tài, Phòng kẻ phản phúc chẳng ngay hại mình. Mùa Hja xung khắc chẳng lành, Tai nạn đau ốn, gian manh phá tài. Sửu Thổ vượng tướng đặng ngay, Kiện thưa thi cử tự nay nên cầu. QUẺ SỐ 2 Giờ Bính Dần Dương - Đinh Mẹo Âm (Thuộc Mộc) Đông chí thuộc Mộc tốt thay, Các việc đều đặng người rày giúp ta. Hôn nhân gả cưới hiệp hòa, Công danh tư dụng cất nhà cũng nên. Đông Xuân hai mùa vững bền, Làm ăn có của chẳng nên tin người. Mùa Thu xung khắc rả rời, Khỏi bị đau ốm chịu thời tiếng oan. Tháng ngày sanh hiệp đặng an, Dầu ai mưu sự khó toan hại mình. Bán buôn tạo lập gia đình, Cầutài có lợi, xuất hành cũng nên. QUẺ SỐ 3 Giờ Mậu Thìn Dương - Kỷ Tỵ Âm (Thuộc Thổ, Hỏa) Hỏa Thổ thuận mùa quẻ này, Xuân Hạ đặng tốt như cây ra chồi. Bán buôn vật dụng có lời, Làm ăn có kẻ rủ thời giúp ta. Kiện thưa gả cưới an hòa, Công danh thi cử sau mà cũng nên. Tuất Hợi xung khắc chẳng bền, Kẻ tốt người xấu chẳng nên nghe lời. Giúp người như tiền bỏ rơi, Tham tài dục lợi sau thời khổ tâm. Cháng chín, tháng mười Thu Đông, Dầu khỏi đau ốm tảo tần gian nan. QUẺ SỐ 4 Giờ Canh Ngọ Dương - Tân Mùi Âm (Thuộc Hỏa Thổ) Quẻ này Hỏa Thổ đặng an, Mùa Hạ vượng tướng, Đông Xuân khắc rày. Làm ăn có của hao tài, Phải phòng kẻ dữ mang tai chẳng hiền. Mười mọt, tháng chạp, tháng giêng, Bị Mộc khắc Thổ đảo điên chẳng lành. Tháng ngày sanh hiệp đặng thành. Tháng ba sắp tới công danh, lợi tài. Xuất hành buôn bán đựng may, Có kẻ kêu rủ hẹn rày với ta. Công danh thi cử tại gia, Tật bệnh đau ốm vái mà đặng an. QUẺ SỐ 5 Giờ Nhâm Thân Dương - Quí Dậu Âm (Thuộc Kim) Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tốt hơn, Công danh thi cử quới nhân phò trì. Thánh ba, tháng chín hiệp nghi, Tháng sáu, tháng chạp làm gì cũng nên. Bốn tháng thuộc Thổ vững bền, Tý, Ngọ, Dần, Mẹo chẳng nên làm gì.


Giêng, hai, tư, năm kỵ thì, Các việc chẳng tốt phòng khi hao tài. Qua khỏi tai nạn là may, Không thì tranh tụng khiến rày ốm đau. Xuất hành đi gần không sao, Đi xa phải giữ tổn hao vật tài. QUẺ SỐ 6 Giờ Giáp Tuất Dương - Ất Hợi Âm (Thuộc Thổ Thủy) Thổ Thủy khắc nhau chẳng hay, Làm ăn buôn bán có tài như không. Quẻ kỵ hai mùa Thu, Đông, Bước đầu tháng chạp ta trông có đường. Làm ăn cưới gả, mãi thương, Các việc đều đặng noi gương tháng ngày. Thổ mà khắc Thủy chẳng hay, Phòng kẻ phản phúc, tin ai khổ mình. Coi chừng kế cận gia đình, Mang lời chịu tiếng thình lình cho ta. Cẩn thận đi ra đường xa, Phòng khi tai nạn, gian tà rủi ro. QUẺ SỐ 7 Giờ Bính Tý Dương - Đinh Sửu Âm (Thuộc Thủy Thổ) Âm dương xung khắc chẳng hòa, Hình hiệp, khắc hiệp người ta phản mình. Làm ăn các việc giữ gìn, Phải phòng cẩn thận chớ tin mà lầm. Quẻ kỵ tháng sáu, tháng năm, Văn thơ khẩu thiệt hại thầm chẳng hay. Ốm đau qua khỏi hao tài, Gần tới tháng chạp quẻ nay vượng lần. Làm ăn buôn bán xa gần, Có kẻ hứa hẹn ân cần rủ ta. Các việc đều đặn thuận hòa, Buôn bán, cưới gả, cất nhà cũng nên. QUẺ SỐ 8 Giờ Mậu Dần Dương - Kỷ Mẹo Âm (Thuộc Mộc) Quẻ này thuộc Mộc thủy lâm, Đông Xuân đặng tốt, cây trồng gặp mưa. Mùa Hạ bị khắc chẳng ưa, Làm ăn thất bại phải chừa tránh ngay. Tháng bảy, tám, chín bi ai. Làm ăn có lợi khiến rày cũng tan. Đạo tặc phản phúc tà gian, Văn thơ khẩu thiệt người toan phản rày. Mùa Xuân tháng giêng, tháng hai, Làm ăn có kẻ ép nài rủ ta. Xuất hành, thương mãi đường xa, Các việc đều đặng chớ mà hồ nghi. QUẺ SỐ 9 Giờ Canh Thìn Dương - Tân Tỵ Âm (Thuộc Thổ Hỏa) Quẻ này Thổ Hỏa tương sanh, Làm ăn thuận lợi công danh dễ dàng. Tuổi Hợi xung khắc chẳng an, Phòng người phản phúc mưu toan xầm xì. Chớ có tranh tụng hiểm nguy, Nhịn nhục qua khỏi nhẹ thì cho ta. Xuân, Hạ tháng giêng, hai, ba,


Thổ Thìn Mộc khắc, Hỏa ta có đường. Làm ăn phải giữ lo lường, Tin người phải mắc, vì thương phải lầm. Công danh, tư tụng thắng phần, Làm ăn các việc ân cần vái van. QUẺ SỐ 10 Giờ Nhân Ngọ Dương - Quý Mùi Âm (Thuộc Hỏa Thổ) Quẻ đặng lục hiệp tương sanh, Bán buôn cưới gả, công danh nên cầu. Làm ăn có người đỡ đầu, Kêu rủ, dùm giúp lo âu với mình. Xuân, Hạ thì mới thấy tin, Thu, Đông xung khắc giữ gìn kẻo hao. Dần, Mẹo khắc Thổ lao đao, Mười một, tháng chạp xung vào khắc ngay. Mang lời chịu tiếng đắng cay, Không nhịn, gây dữ họa tai chẳng hiền. Tháng ngày sanh vượng đặng yên, Dầu gặp tai nạn đảo điên không sờn. QUẺ SỐ 11 Giờ Giáp Thân Dương - Ất Dậu Âm (Thuộc Kim) Gặp quẻ Thân, Dậu thuộc Kim, Xuân tù, Hạ tử phải kiêng tháng ngày. Phước thì họa khỏi, tai bay, Cũng bị đau ốm, vật tài tổn hao. Chiếm gặp quẻ vượng không sao. Tháng ngày thuộc Thổ lâm vào đặng vui. Bốn tháng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Thân Dậu Kim vượng tới lui khởi hành. Nóng giận gây sự chiến tranh, Lưỡng Kim tranh đấu chẳng lành cho ta. Làm ăn thương mãi đường xa, Mùa Hạ phải giữ kẻo mà lâm nguy. QUẺ SỐ 12 Giờ Bính Tuất Dương - Đinh Hợi Âm (Thuộc Thổ Thủy) Quẻ lâm Thủy Thổ khắc nhau, Làm ăn có của tổn hao chẳng toàn. Phải phòng có kẻ tà gian, Bày mưu tính kế chẳng an gia đình. Tháng ba, tháng tư Tỵ Thìn, Tháng ngày phải nhớ chớ khinh mà lầm. Phước thì qua khỏi an tâm, Quới nhân độ mạng cũng không hại gì. Đông, Xuân sắp tới lo chi, Có kẻ kêu rủ chỉ thì làm ăn. Mùa Xuân Tuất Thổ khó khăn, Thu, Đông Hợi Thủy khởi đăng việc lành. QUẺ SỐ 13 Giờ Mậu Tý Dương - Kỷ Sửu Âm (Thuộc Thủy Thổ) Quẻ này khắc hiệp chẳng an, Vợ chồng gia đạo, tà gian chẳng hiền. Làm ăn cũng có của tiền, Bán buôn có lợi chẳng yên bất thành. Văn thơ khẩu thiệt tụng tranh, Trước mặt không dám, nói hành sau lưng. Tháng năm, tháng sáu kỵ xung, Cuối Đông quẻ vượng, qua Xuân có đường.


Làm ăn buôn bán tha phương, Làm chi cũng đặng, sự mừng đến ngay. Các việc thảy đều đặng may, Hôn nhân bất lợi chẳng sai sau này. QUẺ SỐ 14 Giờ Canh Dần Dương - Tân Mẹo Âm (Thuộc Mộc) Đông, Xuân cây trái nở đua, Làm ăn các việc thuận mùa tốt thay. Có người hứa hẹn cho hay, Kêu rủ dùm giúp hỏi vay dễ dàng. Mùa Thu tháng Dậu, tháng Thân, Tháng ngày xung khắc chẳng cần làm chi. Cãi thì phải chịu lâm nguy, Qua khỏi tật bệnh phòng khi hao tài. Làm chi các việc chẳng hay, Không mắc lưới thỏ, vướng rày bẫy cheo. QUẺ SỐ 15 Giờ Canh Thìn Dương - Quý Tỵ Âm (Thuộc Thổ Hỏa) Quẻ gặp Thổ Hỏa tương sanh, Làm ăn các việc công danh nên cầu. Mùa Hạ bền vững đặng lâu, Ba mùa làm có, giữ đâu đặng toàn. Phòng kẻ gian xảo chẳng ăn, Tin người phải mắc, đoạt sang bạc tiền. Tháng chín, tháng mười chẳng yên, Hai tháng xung khắc đảo điên phiền hà. Hôn nhân chồng vợ chẳng hòa, Gia đạo xào xáo gây mà chẳng êm. lòng dạ ngay thẳng vững bền, Dầu gặp quẻ xấu chẳng nên lo rầu. QUẺ SỐ 16 Giờ Giáp Ngọ Dương - Ất Mùi Âm (Thuộc Hỏa Thổ) Quẻ này Hỏa Thổ tương sanh, Gặp mùa Xuân, Hạ lợi danh nên cầu. Làm ăn có kẻ đỡ đầu, Bạc tiền trợ giúp bao thầu cho ta. Xuất hành thương mãi gần xa, Kiện thưa đắc thắng thuận hòa hôn nhơn. Ai dầu phản phúc chẳng sờn, Quới nhân độ mạng, phung đơn cũng lành. Mười một, tháng chạp bất thành, Hai tháng xung khắc đã đành chẳng an. Dần, Mẹo Thổ bị tai nàn, Phải phòng mà giữ họa mang vào mình. QUẺ SỐ 17 Giờ Bính Thân Dương - Đinh Dậu Âm (Thuộc Kim) Ngày giờ chẳng nên xuất hành, Đi xa dường thể chỉ mành treo chuông. Mãi thương xa xứ bán buôn, Cẩn thận mà giữ luôn luôn đề phòng. Làm ăn các việc đặng xong, Sửu, Mùi, Thìn, Tuất lâm trong tháng ngày. Quẻ kỵ tháng giêng, tháng hai, Ngày giờ xung khắc chẳng hay việc gì. Dần, Mẹo, Tỵ, Ngọ hiểm nguy, Lâm vô ngày tháng bị thì khắc xung, Tháng ngày sanh đặng ta dùng,


Thân, Dậu, Thìn, Tuất kể chung Sửu, Mùi. QUẺ SỐ 18 Giờ Giáp Tuất Dương - Ất Hợi Âm (Thuộc Thổ Thủy) Quẻ kỵ Thổ Thủy khắc nhau, Làm ăn có của tổn hao bất thành. Mang lời chịu tiếng nói hành. Nhịn nhục qua khỏi tụng tranh phá tài. Tháng ba, tháng tư giờ ngày, Thìn, Tỵ gặp phải chẳng hay việc gì. Có phước qua khỏi tai nguy. Làm ăn buôn bán có thì cũng hao. Tán tài thì khỏi ốm đau, Tin người gạt gẫm, của trao giựt liền. Họ nói ngon ngọt tự nhiên, Thương người phải chịu, chớ phiền trách ai. QUẺ SỐ 19 Giờ Canh Tý Dương - Tấn Sửu Âm (Thuộc Thủy Thổ) Gặp quẻ khắc hiệp chẳng an, Trước tốt, sau xấu rả tan chẳng đồng. Gia đạo anh em vợ chồng, Vắng mặt thương nhớ, gặp nhau rầy rà. Việc chi trước đặng an hòa, Sau lại xích mích thiệt là chẳng an. Làm ăn có lợi bạc ngàn, Trước nhiều sau ít tiêu tan lần lần. Hùn hạp buôn bán xa gần, Phòng kẻ chẳng tốt phản tâm với mình. Trước nói ngon ngọt thiệt tình, Sau lại giả dối chẳng linh chút nào. QUẺ SỐ 20 Giờ Nhâm Dần Dương - Quý Mẹo Âm (Thuộc Mộc) Gặp quẻ thuộc Mộc tốt thay, Làm ăn thiếu hụt người nay giúp mình. Đông chí cho tới Thanh minh, Mãi thương, thi cử, công danh nên cầu. Mùa Thu xung khắc lo âu, Thân, Dậu ngày tháng chịu sầu gian nan. Phòng người phản phúc chẳng an, Nói hành, nói lén, mưu toan thầm thì. Ngày tháng sanh hiệp lo chi, Có kẻ kêu rủ giúp thì làm ăn. Ví như trời tối gặp trăng, Cây trái gặp tuyết, làm ăn gặp thời. QUẺ SỐ 21 Giờ Giáp Thìn Dương - Ất Tỵ Âm (Thuộc Thổ Hỏa) Người coi gặp quẻ tương sanh, Cầu chi cũng tốt lợi danh tắng phần. Làm ăn buôn bán xa gần, Có kẻ hứa hẹn ân cần rủ ta. Gặp mùa Xuân, Hạ sang qua, Tháng sáu, tháng chạp, tháng ba có đường. Quẻ Tỵ Thu, Đông tổn thương, Tháng mười, tháng chín kỵ vương ngày giờ. Làm ăn chớ khá ơ hờ, Tiền tài, vật dụng ho quơ mất liền. Cẩn thận gìn giữ mới yên, Tốn hao chút ít chẳng phiền hà chi.


QUẺ SỐ 22 Giờ Bính Ngọ Dương - Đinh Mùi Âm (Thuộc Hỏa Thổ) Gặp quẻ sanh hiệp có đường, làm ăn các việc mãi thương có phần. Xuân, Hạ tháng Mẹo, tháng Dần, Sửu, Mùi, Thìn, Tuất ân cần tốt thay. Làm ăn tiền bạc hỏi vay, Có kẻ kêu rủ giúp nay cho mình. Ngày giờ Tý Sửu chớ khinh, Giữ gìn cẩn thận hớ hinh nguy liền. Tháng ngày xung khắc tự nhiên, Biết mà không tránh đảo điên phiền hà. Nói nghe tử tế thật thà, Bạc tiền trợ giúp đưa ra giựt liền. QUẺ SỐ 23 Giờ Mậu Thân Dương - Kỷ Dậu Âm (Thuộc Kim) Ngày Thân chẳng nên xuất hành, Làm ăn các việc lợi danh an hòa. Tháng chạp, tháng sáu, tháng ba, Làm chi cũng tốt người ta giúp mình. Dần, Mẹo, Tỵ, Ngọ chớ khinh, Ngày giờ xung khắc thiệt tình xấu ngay. Gặp thời họa gởi, tai bay, Khỏi bệnh cũng bị hao tài tổn thương. Làm ăn chớ khá phô trương, Tin người phải mắc, phải vương gian tà. Nói hành, nói lén như ma, Trước mặt tử tế, hại mà sau lưng. QUẺ SỐ 24 Giờ Canh Tuất Dương - Tân Hợi Âm (Thuộc Thổ Thủy) Gặp quẻ Thổ Thủy khắc nhau, Gia đạo chẳng thuận, ốm đau rầy rà. Quẻ kỵ tháng tư, tháng ba, Ngày giờ Thìn Tỵ, kỵ mà khắc xung. Thân, Dậu ngày tháng nên dùng, Tý Sửu cũng tốt hung trung gặp hiền. Thìn, Tỵ mộ tuyệt đảo điên, Ngày giờ nên tránh tự nhiên an hòa. Làm ăn thương mãi gần xa, Gặp hai tháng đó chớ mà nên đi. Miễn cưỡng thì bị tai nguy, Khỏi nơi lưới thỏ, mắc thì bẫy cheo. QUẺ SỐ 25 Giờ Nhân Tý Dương - Quý Sửu Âm (Thuộc Thủy Thổ) Trước tốt sau xấu chẳng an, Các việc làm đặng sau toan rõ ràng. Bán buôn phải tránh tà gian, Làm ăn có của họ toan gạt lường. Vợ chồng vắng mặt nhớ thương, Gặp mặt sanh chuyện ghen tương rầy rà. Anh em gia đạo chẳng hòa, Ăn ở chẳng thuận gây mà với nhau. Các việc chẳng tốt quẻ này, Tin người mắc phải tà tây chẳng hiền. Miệng nói như sớt của tiền, Ngày sau phản phúc, tự nhiên hại mình.


QUẺ SỐ 26 Giờ Giáp Dần Dương - Ất Mẹo Âm (Thuộc Mộc) Đông, Xuân cây trái tốt tươi, Làm ăn các việc nhiều người rủ ta. Hôn nhân cưới gả an hòa, Cầu mà danh lợi người ta giúp mình. Đông chí cho tới Thanh minh, Làm chi cũng đặng thiệt tình chẳng sai. Bán buôn thì đặng lợi tài, Công danh, thi cử có ngày ắt nên. Mùa Thu Thân, Dậu chẳng bền, Tháng ngày xung khắc chớ nên làm gì. Thân, Dậu bị tử lâm nguy, Xuất hành cũng kỵ đi thì chẳng nên. QUẺ SỐ 27 Giờ Bình Thìn Dương - Đinh Tỵ Âm (Thuộc Thổ Hỏa) Quẻ lâm Hỏa Thổ tương sanh, Hôn nhân, danh lợi tụng tranh thắng phần. Làm ăn các việc xa gần, Có người kêu rủ ân cần giúp ta. Dần, Mẹo, Tỵ, Ngọ kể ra, Sửu, Mùi, Thìn, Tuất thì ta nên dùng. Tháng ngày Tuất Hợi khổ chung. Tránh hai ngày đó chẳng dùng làm chi. Cãi thì phải chịu lâm nguy, Không tai, cũng bệnh chớ thì đi xa. Tránh quỉ thì cũng gặp ma, Tài hao, vật tổn, người ta phản mình. QUẺ SỐ 28 Giờ Mậu Ngọ Dương - Kỷ Mùi Âm (Thuộc Hỏa Thổ) Tương sanh, tương hiệp tốt thay, Có người kêu rủ tiền tài giúp cho. Xuân, Hạ ta đặng ấm no, Các việc đều tốt chớ lo làm gì. Làm ăn cưới gả hiệp nghi, Nếu cầu danh lợi nên đi đặng hiền. Có kẻ hứa giúp bạc tiền, Nhớ ngày sanh hiệp đặng liền theo tay. Đi gặp Tý, Sửu không hay, Hỏi ráo nước miếng họ hay nghi ngờ. Lựa ngày sanh hiệp củng phò, Hả miệng vừa hỏi lần mò mở rương. QUẺ SỐ 28 Giờ Canh Thân Dương - Tân Dậu Âm (Thuộc Kim) Thân, Dậu là quẻ thuộc Kim, Làm ăn các việc kiếm tìm đặng ngay. Sửu, Mùi, Thìn, Tất tháng ngày, Bán buôn có lợi có tài chớ lo. Có người rủ biểu giúp cho, Thân, Dậu đặng tốt gặp đò đưa sang. Dần, Mẹo ngày giờ chẳng an, Bán buôn phải giữ, tà gian có ngày. Tháng tư, tháng năm chẳng hay, Bi ai phiền muộn, tản tài ốm đau. Tỵ Thân xuất hành lao đao, Hai ngày ly tán, tốn hao hãi hùng.


QUẺ SỐ 30 Giờ Nhâm Tuất Dương - Quý Hợi Âm (Thuộc Thổ Thủy) Tuất Hợi, Thổ Thủy khắc nhau, Làm ăn có lợi, tốn hao chẳng toàn. Thìn, Tỵ mộ tuyệt chẳng an, Quẻ xấu gặp xấu gian nan tư bề. Vợ chồng gia đạo phu thê, Ốm đau tật bệnh ủ ê bất thành. Lại thêm gây gổ tụng tranh. Đi xa không tốt, xuất hành không nên. Làm sui hiệp bạn chẳng bền, Sau bị phản phúc họ quên ơn rày. Mười người đôi ba gặp may, Ngày tháng đặng vượng phước rày cho ta. QUẺ SỐ 31 Càn vi Thiên thuộc Kim (Ở ngoại Càn Khôn) Chiếm quẻ gặp đặng Càn Kim, Làm ăn các việc họ tìm giúp ta. Bán buôn, cưới gả, làm nhà, Cầu quan, thi cử gặp mà đặng nên. Phật Trời ủng hộ đôi bên, Chiếm bệnh đặng mạnh kẻ trên phò trì. Lâm nạn có người giải nguy, Làm ăn thiếu hụt có người giúp ta. Xuất hành, thương mãi đường xa, Đắc tài có lợi bán mà đặng mau. Lòng ở ngay thẳng không sao, Quẻ tốt gian xảo ốm đau không cùng. QUẺ SỐ 32 Quẻ Khôn vi Địa, thuộc Thổ (Ở Ngoại Càn Khôn) Gặp quẻ ở ngoại Càn Khôn, Làm ăn tấn phát tiếng đồn chẳng sai. Các việc đều tốt hôm nay, Thân nhân ủng hộ người ngay vững vàng. Ở mà gian xảo chẳng an, Dầu gặp quẻ tốt, tai nàn vấn vương. Làm ăn các việc như thường, Công danh, thi cử, mãi thương đặng rày. Thổ vượng bốn mùa tốt thay. Quẻ kỵ Dần, Mẹo tháng ngày, giờ năm. Tháng ba, tháng tư, tháng năm, Tháng sáu, tháng chạp tốt trong quẻ này. Như ai gieo quẻ bằng năm đồng tiền thì mới có trúng vô quẻ Càn, Khôn là số 31 và số 32, hai quẻ đều tốt, còn độn Ngũ Hành viết số thì không có hai quẻ đó, bởi hai quẻ đó ở Ngoại Càn Khôn, nó cũng tính năm tháng ngày giờ sanh khắc như vậy, quẻ Càn thuộc Kim, quẻ Khôn thuộc Thổ. Thí dụ: Như chiếm quẻ gặp tháng ngày nói trên sanh hiệp đặng tốt, xung khắc là xấu, lâu ứng năm với tháng, mau ứng ngày và giờ, tốt ứng theo tốt, xấu ứng theo xấu. Bài số 54.- LUẬN VỀ NGUYÊN KỴ CỪU THẦN Phàm chiếu quái yếu tri nguyên thần, tiên khán dụng thần, hà hào sanh dụng thần chi hào, tức thị nguyên thần giả, như dụng thần tuần không, nguyệt phá suy nhược hoặc phục tàn bất hiện, đắc nguyên thần động lai sanh khắc chi, hoặc nhựt thần, nguyệt kiên tác nguyên thần sanh chi, tất đãi dụng hào xuất tuần, xuất phá đắc bệnh trực nhựt sở cầu bất toại hỉ, như dụng thần vượng tướng, nguyên thần hưu tù bất động, hoặc động nhi biến mộ tuyệt, biến khắc, biến phá, biến thối, hoặc bị nhựt thần, nguyệt kiên khắc chế giai bất năng sanh dụng thần, thị nguyên thần căn đới bị thương hỉ, thị bất vi vô ích nhi thản hữu tổn giả. Bài số 55.- YẾU TRI KỴ THẦN, TIÊN KHÁN DỤNG THẦN


Phàm chiếm quẻ yếu tri Kỵ thần, xem tiên khán dụng thần, khắc dụng thần chi hào, tức thị kỵ thần giả, như kỵ thần động lai khắc dụng, nhi dụng hào xuất hiện bất không tắc thọ khắc giả, thoản quái trung hựu động xuất nhứt hào nguyên thần sanh dụng, tắc kỵ thần phản sanh nguyên thần thị danh, tham sanh khắc kỵ tắc dụng thần căn đới thâm cố hỉ kỳ kiết cánh hội giả, như kỵ thần độc phát nhi dụng thần tuần không vị chi tỵ không, như phục tàn bất hiện, vị chi tỵ hung, như nguyệt kiên, nhựt thần sanh dụng thần vị chi đắc cứu, như thị đẳng nãi vi kiết đào, việt hà hiềm nghi, hoặc như kỵ thần biến hồi đầu chi khắc, hoặc nhựt thần, nguyệt kiên khắc xung chi, hoặc động hào khắc chế kỵ thần vị chi tặc dục hại ngã, thì tắc tiên thọ hại giả ngã, hựu hà hào thương khắc như nhựt thần, nguyệt kiên sanh phò kỵ thần, hoặc kỵ thần trùng điệp khắc dụng, tức sử dụng thần tỵ không phục tàn giả chí xuất không xuất thấu thời cánh thọ kỳ độc, nam miễn kỳ tai giả. Phàm chiếm quái yếu tri cừu thần tiên khán khắc chế, nguyên thần sanh phò kỵ thần giả, tức thị cựu thần giả, như quái trung cừu thần phát động tắc nguyên thần bị thương, dụng thần vô căn, kỵ thần bội lực kỳ họa khả thắng hữu hại giả. Bài số 56.- PHÚ GIAO HÔN DỤNG (Coi quẻ gả cưới) Nam chiếm nữ dĩ Tài vị Dụng, Nữ chiếm nam dĩ Quỉ vi tiên. Nam chiếm vô Tài nằm không quạnh vắng, Nữ chiếm vô Quỉ nằm đợi phòng không. Thế hào sanh Ứng giao loan, Nam nhơn cầu nữ muôn phần yêu đang (đương). Ứng mà sanh Thế ghe đàng, Nữ nhân ắt có cầu nam đây mà. Hàm Trì hào ấy gian tà, Nữ nhân thương lén kẻ xa chẳng lầm. Quỉ động Huyền Võ gia lâm, Nam nhân hai chốn tơ tầm (tình) đáng nghi. Luận xem hào sát Hàm Trì, Chánh ngũ, cửu Mảo Hàm trì cho thông. Nhì lục thập ngoạt Tý cung, Tam thất thập nhất mới dùng đến Kê. Chàng trai lén lút đa thê, Tứ thập bát nhị Ngựa về đảo điên. Hàm, Hằng, Tuyết, Thới hiệp duyên, Ắt là phu phụ đặng yên vợ chồng. Giải, Ly, Khuê, Cách, giữ song, Phu thê tương đồng bất đắc giao ca. Thế dương Ứng sách đó là, Có Tài, có Quỉ thiệt là tốt thay. Thí dụ: Hào Hàm Trì là tháng giêng, tháng nam, tháng chín, ba tháng đó động hào Mẹo là hào hàm Trì, hào đó dâm tà chẳng tốt. Tháng hai, tháng sáu, tháng mười thì động hào Tý; tháng ba tháng bảy, tháng mười một là hào Dậu động; tháng tư, tháng Tám, tháng chạp là hào Ngọ động; còn ở trên câu: "Hàm, Hằng, Tuyết, Thới hiệp duyên. Giải, Ly, Khuê, Cách giữ song" là bốn quẻ tốt: Trạch Sơn Hàm, Hằng, Thủy Trạch Tuyết, Địa Thiên Thới, tốt; còn bốn quẻ xấu là Lôi Thủy Giải, Bát thuần Ly, Hỏa Trạch Khuê, Trạch Hỏa Cách. Bài số 57.- MUỐN CHIẾM QUẺ PHẢI COI HÀO ĐỘNG Phàm chiếm quẻ phải xét suy coi hào động. Động biến quái xung khắc, chiếm việc gì phải lấy hào đó mà dụng thần; trước phải coi hào nguyên thần, cừu thần, bốn mùa vượng, tướng, hưu, tù, mộ, tuyệt sanh khắc xung hiệp, cập tuần không nguyệt phá vậy. Thí dụ: Như chiếm công danh đặng quan hào vượng trì thế, hoặc nhựt nguyệt tác động quan hào lai sanh thế hiệp thế hào tắc hảo; tử tôn hào động ư quái trung, hoặc tử hào trí thế bất hảo. Như chiếm tài khí đắc tài hào trì thế, hoặc nhựt nguyệt động tác tử tôn sanh hiệp thế hào, hoặc quan hào trì thế, tài hào động sanh chi, hoặc phụ hào trì thế, tài động khắc thế, cầu tài rất dễ. Khổ huynh hào trì thế, huynh hào động ư quỉ trung, hoặc thế lâm tuần không nguyệt phá giả vô tài, như chiếm trong một năm, tức là lưu niên, hiện nhậm quan nghi quan tinh trì thế, tài động sanh chi, biến động chi tài, dữ thế hào tương sanh giả kiết. Khổ nhựt nguyệt tác tử tôn động hào xung khắc thế hào, hoặc tác hào xung khắc thế hào, hoặc thế hào không phá, hoặc quan hào không phá, hoặc thế hào hồi đầu hóa khắc, hoặc tử tôn trì thế giai vi hung đào.


Sĩ dân chiếm nguyệt lịnh lưu niên, trong một năm, tối hỉ tài hào cập tử tôn trì thế, quân hứa nhứt tế hanh thông, nhược ngộ quan hào trì thế, đắc ngộ nhựt nguyệt tác tài tinh, động hào sanh hiệp thế hào giả, chủ kiết xương; nhược vô tài động sanh hiệp thế hào, như quỉ hào trì thế, tất chủ tai ương, thoản thế không thế phá, cập quỉ hào động khắc thế giả, đa kiến hung tai; huynh động khắc thế giả, chủ khẩu thiệt phá tài. Như quan dân chiêm lưu niên hiệp thế chi nguyệt tắc kiết, khắc thế chi nguyệt tắc hung, bất nghi thế hào đông hóa quỉ, hóa khắc thấy chủ nguy vong, hựu bất nghi tài động hóa phụ, phụ động hóa tài, quỉ động hóa phụ, tất kiến hữu trưởng thượng nguy tai. Huynh động hóa quỉ, quỉ động hóa huynh, phòng thủ chi nguy; tài hóa quỉ, quỉ hóa tài; tài hóa huynh, huynh hóa tài, chủ thương khắc thê thiếp đơn bộc. Tử hóa quỉ, quỉ hóa tử; phụ hóa tử, tử hóa phụ, là chủ tiểu khẩu hữu thương, là hào con cháu phải bị tai ương. Bài số 58.- THANH LONG THIÊN HỈ Thanh long, Thiên hỉ trì thế chủ hữu hỉ; Hổ quỉ, chủ hiếu phục; Xà, Tước lâm huynh, lâm quỉ động khắc thế phòng khẩu thiệt tai ương. Huyền Võ lâm huynh, quỉ động nhi khắc thế, chủ phòng đạo tặc. Phàm chiếm sự chi tử tôn trì thế, cập tử tôn hào đông sanh ư quái trung, hoặc thế động hóa xuất tử tôn, hoặc động hồi đầu hóa sanh, hoặc quan quỉ động sanh thế tức sử thân lạc hổ khẩu quản hứa an như thái sơn. Di kỵ quan quỉ trì thế hoặc khắc thế, tai họa tất xâm, thế động hóa quỉ hoặc hóa khắc giả, họa dĩ nghiệm Thân Tỵ chi bất cập, thế hào không giả vô ưu, phá giả bất lợi. Bài số 59.- CHIẾM BỆNH NHƯ TỰ KỶ Chiếm bệnh như tự kỷ, chiếm bệnh nhược đắc thế hào vượng tướng, hoặc nhựt nguyệt động hào sanh hiệp thế, hoặc tử tôn trì thế, hoặc tử tôn động ư hào trung bất câu cửu bệnh, tân bệnh, lập bảo an khương, cận bệnh nhi thế gặp tuần không, hoặc thế hóa không, hoặc quái trung phùng lục xung, quái biến lục xung, bất tu phục dược túc khả an khương (là mau mạnh). Bài số 60.- LUẬN VỀ CỬU BỆNH (Là bệnh lâu) Cửu bệnh giả, quái ngộ quan quỉ trì thế hoặc nhựt nguyệt động hào khắc thế, hoặc tuần không, nguyệt phá thế động hóa không, hóa phá, hoặc quái trung lục xung, hoặc động hóa quỉ cập hóa hồi đầu khắc giả tốc nghi y trị, trì tắc vô cứu. Chiếm phụ bệnh dĩ phụ hào dụng thần, nhược đắc phụ hào vượng tướng hoặc nhựt nguyệt động hào sanh phụ, hoặc phụ động hóa vượng, bất câu cửu bệnh, tân bệnh, cầu thần phục dược, lập kiến an khương; tân bệnh giả phụ hào trực tuần không, phụ động hóa không hoặc quái trung phùng lục xung, bất khả dược như dủ (chẳng uống thuốc mà mạnh), cửu bệnh giả phụ hào trực tuần không, nguyệt phá, hoặc phụ hào hóa không phá, phụ hóa tài, tài hóa phụ, hoặc quái phùng lục xung, quái biến lục xung, hoặc phụ hào hưu tù, hoặc bị nhựt nguyệt động xung khắc, bệnh tất hiểm nguy, tốc cầu y trị. Bài số 61.- BÀI CHIẾM TỬ BỆNH Bài chiếm tử bệnh, dĩ tử tôn hào dụng thần; thoản ngộ tử tôn hào vượng tướng, hoặc nhựt nguyệt lâm chi, cập nhựt nguyệt động hào sanh hiệp, hoặc tử tôn hóa sanh vượng, bất câu cửu bệnh, tân bịnh túc vũ. Tân bệnh giả, tử tôn hào tức tuần không động nhi hóa không, quái phùng lục xung, quái biến lục xung giả, bất khả phục dược nhi dủ; xuất đậu giả bất nghi lục xung bị hiểm nguy; cửu bệnh giả tử tôn trực tuần không, nguyệt phá cập hóa không hóa phá, quái phùng lục xung, quái biến lục xung, tử tôn động hóa quỉ hóa phụ, phụ hóa tử, tử hóa phụ, cập nhựt nguyệt đông hào xung khắc, tốc nghi y trị, trì tắc nan trị giả; như chiếm huynh, chiếm tài, chiếm quỉ chứng bệnh cũng vậy. Bài số 62.- CHIẾM BỆNH BẤT KHÁN DỤNG THẦN THÂN MẠNG Chiếm bệnh bất khán dụng thần thân mạng, là chẳng coi làm chi, khán quái tượng giả: Địa hỏa minh di, Phong địa quan, Sơn lôi hi, Thủy thiên nhu, Địa trạch lâm, Sơn thiên đại súc, Lôi hỏa phong, Sơn phong cổ, Trạch thiên quại, Thiên hỏa đồng nhơn, Trạch phong đại quá, Lôi sơn tiểu quá, Thủy hỏa ký tế, Hỏa thủy vị tế, Thiên lôi vô vọng, Phong lôi ích, là mười sáu quẻ đó, đoán chi tắc tử, xà động chủ tử, hổ động chủ tang. Bài số 63.- CHIẾM BỆNH TRI YẾU DỤNG THẦN Chiếm bệnh tri yếu dụng thần, dĩ quái biến lục xung giả, quái ngộ lục xung, bất khán dụng thần nhi đoán sanh tử, vấn cửu bệnh quái phùng lục xung, quái biến lục xung, bất luận dụng thần chi suy vượng nãi bất trị chi chứng giả; cận bệnh phùng xung, hựu khả bất dược nhi dủ là chẳng uống thuốc đặng mạnh. Sỡ dĩ chiếm bệnh, trước phải hỏi bệnh đau lâu hay là mới đau. Mới đau là mười ngày trở lại, đau lâu là mười một ngày sắp lên mấy tháng, luận đoán phương năng ứng nghiệm, tân bệnh ngộ quái hóa tử, hóa khắc, diệt chủ nguy vong; quái lục xung nhi biến lục xung,


nhơn hồi đầu hóa khắc, tân bệnh diệt nguy. Nhi Tốn Mộc biến Càn Kim tượng, Khôn, Cấn hóa Chấn Tốn, giai dĩ chi hồi đầu hóa tượng khắc, chẳng phải mộ tuyệt, diệt chủ nguy vong; nhử hóa tỳ hóa, hóa khắc khứ, hóa tương sanh, cận bệnh cao thuyên, cửu bịnh hung, lục xung cố giả, trừ xung khắc tất khán dụng thần, như vậy mới đúng. Bài số 64.- DỤNG THẦN TRỰC TUẦN KHÔNG Dụng thần trực tuần không, cập hóa không giả, nhược vô nhựt nguyệt động hào xung khắc, xung không thiệt chi nhựt khả dủ (là trong ngày đó đặng mạnh), nhược phùng xung khắc bệnh dủ trọng nhi bất tử, nhược tuần không, nguyệt phá tu khán dụng thần chi suy vượng tắc dủ là thời mạnh ư thiệt phá chi nhựt, cập xuất nguyệt chi dủ, suy biến tất chủ nguy. Cửu bệnh dụng thần không nguyệt phá giả, tức sử dụng vượng tướng diệt nan y trị cận bệnh trực không, tuần không phùng tam hiệp, lục hiệp tất thành cửu bệnh (là bệnh đau lâu) dụng hóa quỉ, quỉ hóa dụng, chơn phòng bất trắc, kỵ hóa dụng, dụng hóa kỵ, tối y điều trị; quan quỉ hào nãi phụ mẫu chi nguyên thần là quỉ sanh phụ, phụ hóa quỉ, nãi hóa sanh, khinh bệnh tức dủ; cửu bệnh giả, quỉ hóa phụ, phụ hóa quỉ, giai chủ nguy vong. Bài số 65.- DỤNG THẦN ỨNG CHI CHO BIẾT VÀ CHỪNG NÀO ỨNG Như dụng hầu xuất thấu chi nhựt ứng sự kiết hung, dụng an tịnh hầu xung tịnh chi nhựt ứng chi. Như dụng tuần không an tịnh, hầu xuất tuần phùng xung chi nhựt ứng chi. Như dụng hào tịnh không phùng xung vị chi xung khởi hầu xuất tuần phùng hiệp chi nhựt ứng sự. Như dụng tịnh không phụng hiệp hầu xuất tuần phùng xung chi nhựt ứng sự, nhi dụng hào phát động nhị vô tha cố giả hầu phùng hiệp chi nhựt ứng sự. Như dụng tuần không phát động phùng xung vị chi xung thiệt bổn nhựt ứng chi. Như dụng hào phát động phùng hiệp, động không phùng hiệp cập tịnh nhi phùng hiệp giả, hầu xung nhựt ứng sự. Như dụng hào nhập mộ chi nhựt, hầu xung dụng chi nhựt ứng sự. Như dụng động hóa nhập mộ giả, hầu xung khai mộ khố ứng sự. Như dụng bị bàn hào lai hiệp, hoặc tự tác hóa hiệp, hầu xung hiệp khai hiệp ngã chi hào chi nhựt ứng sự. Như dụng bị nguyệt phá hầu xuất nguyệt trực nhựt, hoặc phùng hiệp chi nhựt ứng sự. Như dụng hào tuyệt vu nhựt hoặc hóa tuyệt vu hào hầu trường sanh chi nhựt ứng sự. Như nguyên, kỵ hội cuộc lai khắc dụng phục tàn hầu xuất thấu chi nhựt ứng sự. Như tuần không hầu xuất tuần chi nhựt ứng sự, cố viết hiệp đãi xung, xung đãi hiệp, tuyệt đãi trường sanh, mộ đãi khai phá bổ, không đãi xuất tuần, suy đãi vượng, đẳng pháp viễn tắc niên ngoạt, cận tắc nhựt thời,sự chủ thành tâm đoán vô sai hỉ. Bài số 66.- THÍ DỤ HAI HÀO DỤNG THẦN Thí dụ: Như hai hào dụng thần là hai hào tài, cũng thuộc về Dần Mẹo Mộc,dùng hào nào mới trúng. Chữ "xá" là bờ, đọc như vầy: "Xá bất phá nhị dụng nguyệt phá; xá bất không, nhi dụng tuần không; xá tịnh nhi dụng động; xá nhàn hào nhi dụng nhựt nguyệt; xá hưu tù nhi dụng vượng tướng", là hai hào bỏ bớt một hào vậy. Nguyên thần có bảy điều không sanh đặng fụng thần; Kỵ thần có bảy điều không khắc đặng dụng thần, là như vầy: Nguyệt kiên khắc phá nguyên thần là một; nhựt thần khắc nguyên thần là hai; nguyên thần động hóa Khắc là ba; hóa Mộ là bốn, hóa Tuyệt là năm, hóa Thối là sáu, hóa Không là bảy. Kỵ thần vị nguyệt kiên xung Khắc là một; bị nhựt thần Khắc là hai; Kỵ thần động hóa Không là ba; hóa Thối là bốn; hóa Mộ là năm; hóa Tuyệt là sáu; hóa Xung là bảy. Bài số 67.- CHIẾM BỆNH ĐỘNG TÀ MA QUỈ THẦN (Phải cúng rồi mới đọc) Quẻ động: sơ động thổ thần, Nhì động táo quân. Tam vi yểu tử, nam thương. Tứ vi thổ chủ về đường kiện pha. Ngũ động Phật tự nội gia, Lục động vậy mà khử mã vong ông. Quan lâm nhựt nguyệt tân vong, Quỉ động cựu chồng, tài động vợ xưa. Tử động con thác mất mồ, Phụ động cha mẹ, ông bà chẳng an. Huynh động thì anh em ta, Huynh đệ trì thế thiệt là anh em. Hồ ly tinh quỉ động Kim vong, Mắc phải đao kiếm lạc thây chiêu hồn. Mộc động lôi giáng mộ phần, Té cây, thắt cổ Mộc thần Đông phương. Quỉ Mộc động hào nam thương, Động vong trầm nịch tỉnh giang thủy thần. Lại xem quỉ thủy mà phân, quỉ sơ Thủy phủ, quỉ nhì Thủy tinh. Quỉ tam khao binh, Quỉ tứ hành khiển. Quỉ ngũ Phạm Nhan, quỉ lục Hà bá. Lại xem hóa quỉ thiêu phần. Hóa nhì Táo quân, hóa tam bị vong hùm tha. Lại xem lục thần quỉ ma, Long thế Hà Bá giang hà thủy quan. Long lâm Hỏa Thổ động ra ông bà, Long Thủy trú trớ thành hoàng. Long Kim đao kiếm oan hồn, Long Mộc thắt cổ trong vòng lân hương. Tước thế động ra già lam, Có hứa Phật đàng người làm bệnh đau. Tước lâm Kim Mộc bằng nay, Tư mạng ngũ đạo động ra thiên thần. Tước động lâm Thủy bằng nay. Thủy long Hà Bá bắt rày chẳng sai. Tước động lâm Hỏa, Hỏa tinh nhưng là.


Tước lâm huynh đệ chẳng hòa, Khẩu thiệt van vái động mà chẳng an. Tước lâm hào Thổ bằng nay, Thổ thần, Thổ táo động rày tà tinh. (Câu) Trận thế ôn tị vậy hòa, Trận lâm Kim Mộc động ra lễ thần. Xà Mộc động hào giáng tinh, Đăng sơn mắc phải nên mình chẳng an. Tý vi ông, Sửu vi bà, Dần là cố tổ, Mẹo là bà cô. Thìn là thúc bá khao binh, Vì chưng hành khiển thủy thần hành tai. Tỵ là mãnh tướng chẳng sai, Vong cô có kẻ sảy tai lâm nàn. Ngọ là ông táo kẻ sang, Mùi là Thổ chủ thần hoàng đại vương. Hào Thân mắc phải Mộc ương, Cũng vì hành khiển ngũ ôn người làm. Dậu là Thổ địa thần linh, Trong nhà ắt có tà tinh phá rầy. Tuất là Quách Cảnh đại vương, Anh em có kẻ đao thương nạp đầu. Hợi là Phật tự khẩn cầu, Trong họ trầm thủy thác lâu về đường. Cõi trù thập điện diêm vương, Chết đuối trầm nịch nên vương bệnh nầy. Thí dụ: Như xem quẻ bệnh cho ai đau, phải vái quỉ thần tà ma xin một quẻ bệnh động ra mới đoán, hào nào động thời thầy phải xem xét biên trong mấy vị động đó, cho người đặt bàn vái. Bài số 68.- CHIẾM Y SANH, Y DƯỢC Phàm chiếm y dược là thuốc, dĩ tử tôn hao dược, dĩ ứng hào y sanh. Như tử tôn hào thọ thương, hoặc mộ tuyệt, hoặc quan hào sanh vượng thị dược bất đối chứng tất bất năng khứ bệnh. Như ứng hào tuần không xuất bất lai y sanh, phi tha dụng dược vô hiệu, chiếm dược yêu quỉ hào an tịnh, vô khí nhược ngộ phát động tuy hữu diệu dược thời nan dĩ thủ hiệu, đãi quan quỉ mộ tuyệt nhựt dụng dược phương năng hữu công; quỉ đới nhựt thần động xuất quái trung giả, tất thị mục hạ bạo bệnh giả, nhựt thần tuy quan hào bất hiện quái trung tắc bất nhiên khả ngôn kỳ bệnh nhãn hạ chánh xí tất tu quá thử phương khả dụng dược. Ứng trì thái tuế tất thị thế y đãi nhựt nguyệt tất quan y đắc nhựt nguyệt lâm tử tôn dượng dược thần hiệu. Ứng lâm tử tôn nãi chuyên môn y sĩ khả trá chi, thế hạ quỉ phục tự chiếm bệnh quỉ phúc thế hạ hoặc chiếm cho tha nhân bệnh ngộ quỉ phục dụng hào hạ kỳ bệnh bất năng đoán căn, nhựt hậu khủng tái phát giả, chủ tượng nhược hưu tù mộ tuyệt, hoặc biến nhập mộ tuyệt tái hữu khắc thương giả, tuy lương y bất năng cứu giả, phụ hào phát động tử tôn thọ thương dược bất tất hiệu, nhược đắc tử tôn hữu khí nhựt thần động hào khắc phu tất tu đa phục dược hữu công. Bài số 69.- PHÚ MẤT ĐỒ TẦM VẬT BIẾT HÌNH DẠNG NGƯỜI Luận xem thấy vật bằng nay, Tử thế từ động tài rày đặng song. Huyền Võ quỉ tịnh không vong, Của ta không mất mà mong la rầy. Phụ động kẻ tin ta đây, Có người nói lại sau này với ta. Quỉ sơ lâm người trong nhà, Quỉ nhì lân lý trộm ta của này. Quỉ Kim người ở chánh Tây, Quỉ Thủy chánh Bắc, Hỏa rày chánh Nam. Quỉ Mộc người ở chánh Đông, Phải tìm thân thích kẻo thâm mất tài. Quỉ Dương ấy rày con trai, Quỉ Âm con gái chẳng sai quẻ này. Quỉ Mộc người cao gầy gầy, Quỉ Thổ người này béo thấp có ngang. Quỉ Hỏa tóc đỏ râu vàng, Rổ hoa, lộ mắt, lớn đầu không sai. Quỉ Kim người ấy ngộ thay, Trắng mặt xanh mày liến xảo khôn ngoan. Quỷ Thủy mặt đen có ngang. Ở gần quen biết hoang mang đổ tường. Vô quỉ không tổn lo lường, Nếu mà thiệt mất vô phương kiếm tầm. Mộc động đem về hướng Đông, Có kẻ chỉ biểu cũng đồng gian tham. Hỏa động đem đi phương Nam, Người ấy để ý ngó dòm sao đây. Kim động lấy đi hướng Tây, Nếu ta khéo léo tìm ngay gặp liền. Thủy động người lấy của này, Đem về hướng Bắc cách đây cũng gần.


Phải mau tìm kiếm ân càn, Để lâu phải mất họ lần đem đi. Bài số 70.- BÀI LỤC GIÁP VÀ CUNG MẠNG (Đọc cho thuộc lòng để biết cung mạng) - Giáp Tý, Chấn - Ất Sửu, Tốn: Hải Trung Kim. - Bính Dần, Khảm - Đinh Mẹo, Càn: Lư Trung Hỏa. - Mậu Thìn, Đoài - Kỷ Tỵ, Cấn: Đại Lâm Mộc. - Canh Ngọ, Ly - Tân Mùi, Khảm: Lộ Bàng Thổ. - Nhâm Thân, Khôn - Quý Dậu, Chấn: Kiếm Phong Kim. - Giáp Tuất, Càn - Ất Hợi, Đoài: Sơn Đầu Hỏa. - Bính Tý, Cấn - Đinh Sửu, Ly: Giang Hà Thủy. - Mậu Dần, Khảm - Kỷ Mẹo, Khôn: Thành Đầu Thổ. - Canh Thìn, Chấn - Tân Tỵ, Tốn: Bạch Lạp Kim. - Nhâm Ngọ, Ly - Quí Mùi, Càn: Dương Liễu Mộc.. - Giáp Thân, Khôn - Ất Dậu, Chấn: Tuyền Trung Thủy. - Bính Tuất, Tốn - Đinh Hợi, Cấn: Ốc Thượng Thổ. - Mậu Tý, Càn - Kỷ Sửu, Đoài: Thích Lịch Hỏa. - Canh Dần, Cấn - Tân Mẹo, Ly: Tòng Bá Mộc. - Nhâm Thìn, Khảm - Quý Tỵ, Khôn: Trường Lưu Thủy. - Giáp Ngọ, Ly - Ất Mùi, Khảm: Sa Trung Kim. - Bính Thân, Khôn - Đinh Dậu, Chấn: Sơn Hạ Hỏa. - Mậu Tuất, Tốn - Kỷ Hợi, Cấn: Bình Địa Mộc. - Canh Tý, Càn - Tân Sửu, Đoài: Bích Thượng Thổ. - Nhâm Dần, Cấn - Quý Mẹo, Ly: Kim Bạc Kim. - Giáp Thìn, Tốn - Ất Tỵ, Đoài: Phúc Đăng Hỏa. - Bính Ngọ, Càn - Đinh Mùi, Đoài: Thiên Hà Thủy. - Mậu Thân, Cấn - Kỷ Dậu, Ly: Đại Trạch Thổ. - Canh Tuất, Khảm - Tân Hợi, Khôn: Xoa Xuyến Kim. - Nhâm Tý, Chấn - Quý Sửu, Tốn: Tang Đố Mộc. - Giáp Dần, Cấn - Quý Mẹo, Ly: Đại Khê Thủy. - Bính Thìn, Khảm - Đinh Tỵ, Khôn: Sa Trung Thổ. - Mậu Ngọ, Chấn - Kỷ Mùi, Tốn: Thiên Thượng Hỏa. - Canh Thân, Khôn - Tân Dậu, Càn: Thạch Lựu Mộc. - Nhâm Tuất, Đoài - Quý Hợi, Cấn: Đại Hải Thủy. Bài số 71.- CÁCH ĐÁNH BÀN TAY TÍNH SAO Nam khởi La Hầu tại Dần, Thổ Tú tại Mẹo, Thủy Diệu tại Thìn, Thái Bạch tại Tỵ, Thái Dương tại Ngọ, Vân Hớn tại Mùi, Kế Đô tại Thân, Thái Âm tại Dậu, Mộc Đức tại Tuất. Một mươi đánh tại đốt Dần thuận hành, hai mưi tại Mẹo, đạit iểu số liên tiết (đọc thuộc . - Nữ khởi Kế Đô tại Dần, Vân Hớn tại Mẹo, Mộc Đức tại Thìn, Thái Âm tại Tỵ, Thổ Tú tại Ngọ, La Hầu tại Mùi, Thái Dương tại Thân, Thái Bạch tại Dậu, Thủy Diệu tại Tuất (bỏ ba đốt Hợi Tý Sửu không đánh). Bài số 72.- THIÊN CAN SÁT MẠNG, KỴ CƯỚI GẢ (Hai tuổi gặp nhau xấu lắm) Hùm mong bắt Rắn chẳng dặng về, (Tuổi Dần, tuổi Tỵ kỵ) Mèo mong bắt Chuột chỉn rất ghê. (Tuổi Tý, tuổi Mẹo kỵ) Rồng bay hướng Bắc, Mùi hương nực, (Tuổi Thìn, tuổi Mùi kỵ) Ngựa chạy đường dài, Gá gáy khuya. (Tuổi Ngọ, tuổi Dậu kỵ) Khỉ nọ bồng con chờ Lợn đến, (Tuổi Thân, tuổi Hợi kỵ) Chó kia cậy mạnh đuổi Trâu về. (Tổi Tuất, tuổi Sửu kỵ) Bài số 73.- BÁT SAN TUYỆT MẠNG (Kỵ hai tuổi gả cưới) Ông Đoài đi Chấn cá sa, (Cung Đoài, cung Chấn kỵ) Bà Khảm không bán thiệt là nên Khôn. (Cung Khảm, cung Khôn kỵ) Bà Càn đi chợ phù Ly, (Cung Càn, cung Ly kỵ) Mua con cá Cấn làm chi Tốn tiền. (Cung Cấn, cung Tốn kỵ) Bài số 74.- BÁT SAN GIAO CHIẾN (Hai tuổi kỵ, rầy rà hay tranh đấu)


Càn Chấn hai cung chẳng lành, Vợ chồng gây gổ tụng tranh có hoài. Khảm Cấn gặp cũng xấu thay, Kẻ chàng, người đục xáp rày chẳng nên. Tốn Khôn cưới gả chẳng hiền, Vắng mặt thương nhớ, gặp mà muôn gây. Ly Đoài kẻ Đông người Tây, Gặp nhằm ngũ quỉ hay gây chẳng nhường. Xung khắc, hình hiệp, ngũ hành tương sanh, tương khắc, tam hiệp, lục hiệp, lục hại vợ chồng có ở đặng không, xin xem bài số 22 và 23.

- HẾT Sao y bản chánh sau khi đã sửa chữa. - Đánh máy và trình bày kỹ thuật: Thanh Tùng. - Sửa lỗi chánh tả: Thầy Cò Lãn công tử. - Lưu trữ và tái xuất bản: Thư Viện Toàn Cầu (tvvn.org) - Địa chỉ: 11770 Warner Ave, Suite 204 Fountain Valley CA 92708 Tác phẩm này không giữ bản quyền, mọi người tùy nghi sao chép để xử dụng. Xin hồi hướng công đức này đến gia đình cụ Lê Văn Nhàn, cư ngụ trong và ngoài nước.

Phụ Lục Hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú trực giải • ÂM DƯƠNG ĐỘNG TĨNH PHẢN PHÚC THIÊN BIẾN (Âm dương động tĩnh thay đổi, đổi thay) Động là hào giao (tréo) ký hiệu là X, trùng ký hiệu là O, tĩnh là hào đơn, chiết (Bốc Phệ Chính Tông gọi là sách). Giao và chiết thuộc âm, trùng và đơn thuộc dương. Hào đơn chiết thì an tĩnh, an tĩnh thì chẳng biến hóa, hào giao trùng thì phát động, phát động rồi thì sẽ biến. Như giao-giaogiao vốn là quẻ khôn thuộc âm vì động mà biến thành. Đơn-đơn-đơn là quẻ càn thuộc dương. Đại phàm vật động sẽ biến, vì sao giao biến đơn, trùng biến chiết, đều do từ y chữ động chữ cực. Người xưa bảo: vật cực tất biến, khí mãn tất huynh, giá như khí trời quá nóng tất sẽ mưa, gió. Quá mưa thì sẽ ngưng, do đó người xưa chú rằng: Lúc giã thành gạo, gạo nấu thành cơm, nếu chưa giã gạo, không nấu cơm tức chưa động thì lúc còn nguyên lúa, mà không động thì không biến. Trong sự phát động có lúc biến tốt, có lục biến xấu, dương cực biến âm, âm cựa biến dương đó là ý động tĩnh âm dương phản phúc thiên biến. • TUY VẠN TƯỢNG CHI PHÂN VÂN TU NHẤT LÝ NHI DUNG QUÁN (Tuy ngổn ngang nhiều tượng nhưng chỉ 1 lý là tỏ thông) Câu này chỉ giảng về chữ lý. Chữ tượng dù có ngổn ngang ra sao lúc giải thích chỉ có 1 lý trung dung. Trong 1 quẻ, hình xung, phục, hợp, động tĩnh, chế hóa, sinh khắc, mà trong đầu chỉ có 1 điều không đổi là cái lý bình luận trung dung đến nơi chốn, thành ra dù có ngổn ngang quanh co cũng chỉ có 1 lý là thông suốt. • PHÙ NHÂN HỮU HIỀN, BẤT HIẾU CHI THÙ. QUÁI HỮU QUÁ BẤT CẬP CHI DI. THÁI QUÁ GIẢ TÔN CHI TƯ THÀNH, BẤT CẬP GIẢ ÍCH CHI TẮC LỢI. (Người đời có hiền có hư khác nhau, quẻ có bất cập thái quá khác nhau, thái quá thì bớt sẽ thành, bất cập thì thêm vào sẽ lợi) Người sinh ra ở đời có hiền, hư khác nhau, quẻ thì khác nhau ở thái quá và bất cập. Người lấy đức trung dung mà đến, quẻ lấy tượng-trung hòa làm đẹp. Đức đến trung-dung chẳng có gì chẳng đẹp (thiện), tượng đến trung hòa thì cầu gì mà không được. Cho nên động tĩnh, sinh khắc, hợp xung, không phá, mộ, suy, vượng, tuyệt trong quẻ đều có lý thái quá, bất cập. Phàm lý trong quẻ chỉ luận được đạo trung hòa. Giả loạn động cần tìm tĩnh hào, an tĩnh cần gặp ngày xung, nguyệt phá cần xuất phá, điền hợp. Tuần thì lục xuất tuần; động thì đợi hợp, tĩnh thì đợi xung; Đó là những phép thái quá cần bớt để thành, bất cập cần thêm để lợi ích. Ngày xưa chú dụng thần hiện


nhiều là thái quá, dụng thần chỉ hiện 1 chỗ không vượng, không được mùa, vô khí là bất cập, thì ý đó là quá cạn mà không biết trong quẻ có thái quá, bất cập, động tĩnh, sinh khắc, hợp xung, nguyệt phá, tuần không, vượng tướng, suy, mộ, tuyệt, phục tàng, xuất hiện, mỗi loại đều có thái quá, bất cập. Đấy là tự bên trong có vẻ huyền diệu, linh động, học giả nên tham gia ý kiến. • SINH PHÙ CỦNG HỢP LỢI THỜI VŨ TƯƠNG MIÊU (Sinh phù củng hợp như mưa đúng lúc làm nẩy mầm, tốt lúa). Ta sinh dụng hào gọi là sinh, phò ta dụng hào gọi là phò, củng ta dụng hào gọi củng, hạp ta dụng hào gọi là hạp. Sinh là kim sinh thủy, loại ngũ hành tương sinh. Phò tức là hợi phò tý, sửu phò thìn, dần phò mão, thìn phò mùi, tỵ phò ngọ, mùi phò tuất, thân phò dậu. Củng tức tý củng hợi, mão củng dần, thìn củng sửu, ngọ củng tỵ, mùi củng thìn, dậu củng thân, tuất củng mùi. Hạp có nhị hạp, tam hạp, lục hạp. Nhị hạp là loại tý và sửu hạp, tam hạp là loại hợi mẹo, mùi hạp thành mộc cuộc, lục hạp là quẻ được quẻ lục hạp phỏng như hào suy nhược xung phá, được sinh phò củng hiệp, cũng như lúa bị nắng gặp mưa, thì nổi dậy liền. • KHẮC HẠI HÌNH XUNG, THU SƯƠNG SÁT THẢO (Khắc hại hình xung, cũng như sương mùa thu giết cỏ) Khắc là tương khắc, tức là loại kim khắc mộc, hại là lục hại, tức là tý hại mùi, sửu hại ngọ, dần hại tuất. Hình: các loại dần tỵ thân. Xung: các loại tý ngọ tương xung. Câu này cũng dựa theo câu trước mà nói phỏng như dụng thần: bại nhược, đều không sinh phò củng hiệp, mà ngược lại bị khắc hại hình xung, cho nên ví như sương mùa thu giết cỏ. Đại phàm hàm xung khắc ba cái ấy trong quẻ thương nghiệm, lục hại đều không ứng nghiệm, càng nên biện kỹ. • TRƯỜNG SINH, ĐẾ VƯỢNG TRANH NHƯ KIM CỐC CHI VIỆN: (Trường sinh đế vượng hệt như vườn có lúa vàng) Trường sinh giống như hỏa trường sinh ở dần, đế vượng như hỏa có địa vượng ở ngọ. Dụng thần nếu gặp thì suy nhược cũng gọi là có khí, nên ví như kim cốc. Câu này luận về dụng thần có trường sinh, đế vượng tại nhật thần, không nói trường sinh, đế vượng ở biến hào. Nếu bảo biến hào nói đế vượng là lầm. Giả như ngọ hỏa hóa ngọ là phục ngâm có gì là tốt mà ví như kim cốc. Đại phàm dụng thần có đế vượng ở nhật thần chủ nhanh, trường sinh ở nhật thần chủ chậm. Trường sinh giống như người mới nuôi lớn dần lúc mới sinh. Đế vượng thì giống như người đã trưởng thành mạnh mẽ mà luận, nên trường sinh chậm, đế vượng nhanh. • TỬ MỘ TUYỆT KHÔNG, NÃI THỊ NÊ LÊ CHI ĐỊA: (Tử, mộ, tuyệt không là đất địa ngục, chẳng khác đất cày bùn lấm) Tử, mộ, tuyệt đều theo trường sinh mà khởi, không là tuần không. Tử là chết, giống như người bệnh mà chết. Mộ là che lấp, giống như chết chôn ở mộ. Tuyệt là áp tuyệt giống như chết mà gốc rễ dứt hết. Không là hư không nơi vực sâu, băng gía, người ta không thể đặt chân đến. Nãi lê là tên địa ngục ý nói là hung vậy. Bốn điều trên cùng với khắc hại hình xung cũng có ý tưởng phỏng theo ý bất cập, thái quá. Nếu dụng thần không được sinh phù củng hợp mà ngược lại gặp tử, mộ, tuyệt, không nên ví dụ là nãi lê. Đại phàm trong quẻ hào tượng chỉ dùng được tràng sinh, mộ, tuyệt, rồi dựa vào nhật thần, coi hào biến, nếu hóa xuất thì lại dùng khắc, xung, hợp tiến thoái thần, phản ngâm, phục ngâm mà luận. • NHẬT THẦN VI LỤC HÀO CHI CHỦ TỂ, HỈ KỲ DIỆT HẠNG DĨ AN LƯU (Nhật thần là chúa tể của sáu hào gặp thời diệt Hạng Vũ để họ Lưu an nghiệp) Nhật thần là chủ trong Bốc phệ, không xem nhật thần tức không định cát hung nặng nhẹ trong quẻ. Vả lại nhật thần có thể xung khởi, xung thực, xung tán. Hào tượng là không tĩnh, vượng có thể nhờ đó mà hợp, điềm lấp, hào nào nguyệt phá suy nhược có thể nhờ đó để được phù trợ, giúp đỡ. Gặp cường vượng nhật thần có thể chế phục, gặp phát động cũng có thể chế, gặp phục tùng có thể đề bạt, có thể thành việc, có thể hư việc cho nên nhật thần là chúa tể của sáu hào. Như kỵ thần vọng động, dụng thần hưu tù, nếu được nhật thần khắc chế kỵ thần này để sinh phù cho dụng thần thì mọi việc chuyển hung thành cát, nên ví như diệt Hạng an Lưu. • NGUYỆT KIẾN NÃI VẠN QUÁI CHI ĐỂ CƯƠNG, KHỞI KHẢ TRỢ KIỆT NHI VI NGƯỢC (Nguyệt kiến là giềng mối của vạn quẻ há đi giúp Kiệt làm bạo ngược sao) Nguyệt kiến là cương lĩnh của bốc-phệ, có thể cứu việc, phá việc cho nên bảo là đề cương của vạn quẻ. Nếu trong quẻ có kỵ thần phát động, khắc thương dụng thần, nếu được nguyệt kiến sinh phù kỵ thần là giúp Kiệt làm càn. Nếu kỵ thần khắc dụng thần như gặp nguyệt kiến khắc chế kỵ


thần sinh phù dụng thần đấy là cứu việc. Phàm xem nguyệt kiến sinh khắc cũng giống như nhật thần, họa phúc do nguyệt kiến chỉ nội trong tháng, chẳng ảnh hưởng từ đầu đến cuối của mọi việc, mà nhật thần thì chẳng luận lâu dài, thành ra có ảnh hưởng là tràng sinh, mộc dục quan đới, mười hai thần này với nhật thần vốn có quan hệ, với nguyệt kiến trên chẳng qua chỉ dựa vào để luận nguyệt phá, hưu tù, vượng tướng, sinh, khắc. Nay có người bảo suy, bệnh, tử, mộ tại nguyệt kiến là không tốt, tràng sinh, đế vượng tại nguyệt kiến là tốt, cái đó truyền lại lầm lẫn chẳng đáng tin được. • TỐI ÁC GIẢ, TUẾ QUÂN NGHI TỊNH BẤT NGHI ĐỘNG: (Hết sức ác, Tuế quân nên tĩnh chẳng nên động) Tức thái tuế của năm gọi là tuế quân, tượng thiên tử. Đã là tối ác há không tối thiện sao. Đã là an tĩnh há không nên phát động sao, nếu thái tuế lâm hào phát động khắc, xung thế, thân, dụng, tượng chủ tai ách không lợi trong năm đó, thường gặp nhiều lộn xộn cho nên gọl là tối ác thì nên an tĩnh. Câu này bảo nếu tuế quân lâm kỵ thần thì nên tĩnh không nên động, nếu thái tuế ở hào động thì sinh hợp thế thân tương chủ địa vị trong một năm gia tăng hỉ khánh, cho nên cũng bảo là tối thiện thì nên phát động. Nếu dụng thần lâm đấy thì việc liên quan đến triều đình, nếu nhật thần động hào xung tất phạm thượng. Mỗi khi luận việc công tư đều nên thận trọng. • TỐI YẾU GIẢ THÂN VỊ, HỈ PHÒ BẤT HỈ THƯƠNG: (Quan trọng nhất là thân vị, thích phò không thích bị thương) Thân tức là nguyệt quái thân vậy. Nếu thế dương tức khởi từ tháng tí, thế âm tức khởi từ tháng ngọ, đó là phép an thân. Sau khi quẻ đã lập xong, xem quái thân hiện hay không và với nhật thần, nguyệt kiến, động hào có can thiệp hay không thì biết được cát hung. Bói việc thì đó là sự thể, bói người thì đó là nhân thân chỉ mừng có sinh phò, củng, hợp không nên khắc, hại, hình xung. Phàm xem quẻ, lấy quái thân làm chủ việc xem cho nên gọi tối yếu vậy.

Hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú trực giải • THẾ VI KỶ, ỨNG VI NHÂN ĐẠI NGHI KHẾ HỢP ĐỘNG VI THỦY, BIẾN VI CHUNG TỐI PHẠ GIAO TRANH (Thế là ta, ứng là người nên rất hợp; Động là đầu, biến là cuối nên rất sợ giao tranh) Giao trùng là động, động tất âm biến dương, dương biến âm. Trong quẻ gặp vậy thì dùng động hào làm khởi đầu việc, biến hào làm cuối việc, hào phát động biến xung biến khắc là giao tranh. Phàm thế ứng nên sinh hợp, dụng thần sơ biến khắc xung. • ỨNG VỊ TAO THƯƠNG BẤT LỢI THA NHÂN CHI SỰ THẾ HÀO THỤ CHẾ KHỞI NGHI TỰ KỶ CHI MƯU (Ứng vị bị thương không lợi việc cho kẻ khác Thế hào bị chế há nên tự mưu sự) Vị trí của ứng cũng dựa vào dụng thần để giải rõ. Xem cho người phải phân rõ dụng thần, với người giao thiệp sơ và không định rõ thứ bậc thì dùng ứng chỉ người khác, nêu xem cho cha mẹ bạn, gia chủ, thầy, thì dùng hào phụ-mẫu làm dụng thần, bạn bè của con cháu thì dùng hào tử-tôn là dụng thần, bạn bè của cha, của con cháu, tuy là người khác không thể lấy chung vị trí của ứng mà phải phân biệt già trẻ, xưng hô danh phận, để đoán khỏi lầm. Như bói xem lợi hại cho mình lấy thế làm dụng thần, thế hào bị thụ chế há mình dám mưu sự sao! • THẾ ỨNG CÂU KHÔNG NHÂN VÔ CHUẨN THỰC: (Thế ứng đều không, người không chuẩn thực) Câu này cũng nói về thế và ứng. Phàm xem sự thế phải nhớ người, thế không tức mình không thực, ứng không tức mình không thực, nếu thế ứng đều không thì ta và người đều không thực, mưu sự chẳng thuận, hoặc thế ứng không hợp thì hư ước mà không thành tín. Như nhờ người trên mưu sự mà được, hào phụ mẫu sinh hợp thế hào thì tự nhiên có ích, nếu ứng gặp không dù có được sức người trên một bên không thực thì khó thành được việc. • NỘI NGOẠI CẠNH PHÁT SỰ TẤT PHIÊN ĐẰNG: (Trong ngoài tranh nhau phát động, thì việc loạn động).


Cạnh tức xung khắc vật, phát là phát động. Phàm xem quẻ mà nội ngoại loạn động, loạn xung, loạn kích khắp nơi thì thân tình không thường, tất chủ sự phản phúc, lật qua lật lại. • THẾ HOẶC GIAO TRÙNG LƯỠNG MỤC CÔ CHIÊM Ư MÃ THỦ; ỨNG NHƯ PHÁT ĐỘNG NHẤT TÂM TỰ THỦ Ư VIÊN PHAN (Thế giao hoặc trùng hai mắt quay nhìn như đầu ngựa; Ứng như phát động được trong lòng tựa như vượn leo). Mã thủ là nhìn đông, nhìn tây. Như viên phan là tâm chẳng tịnh. Thế là chỉ mình nói, ứng là người nói. Sách có nói: Ứng động sợ người có biến, thế động thì mình trì nghi, cũng nói là biến thiên thay đổi. Câu này cũng dựa theo câu trước về ý thế ứng là ta và người, lại dẫn ý giao trùng có tráo trở mà nói sự việc ư cát hung không ngoài sinh phù cũng hợp, khắc hại, hình xung phá vậy. • DỤNG THẦN HỮU KHÍ VÔ THA CỐ, SỞ TÁC GIAI THÀNH. CHỦ TƯỢNG ĐỒ TỒN CÁNH BỊ THUƠNG, PHÀM MƯU BẤT TOẠI: (Dụng thần có khí không bị đồ khắc thì việc làm đều thành, chủ tượng cũng là dụng thần vô ích mà bị thương mưu cũng bất lợi). Dụng thần là loại như xem văn thư, trưởng quái thì dùng hào phụ-mẫu làm dụng thần vậy. Chủ tượng cũng chỉ dụng thần cho nên có chữ bệnh thì có chữ giải. Bị bệnh thì ra sao? Phàm dụng thần gặp hình, xung khắc hại gọi là bệnh, như trong quẻ dụng thần vượng tướng mà gặp bệnh, đợi lúc hết bệnh, cũng có thể thành việc. Nếu dụng thần vượng tướng mà chẳng bị các bệnh hình xung khắc hại thì những điều mong muốn đều thành, Nếu dụng thần suy nhược vô khí mà gặp nguyệt kiến, nhật thần, hình, xung, khắc, hại giống như con người bản chất ốm yếu chẳng kham nổi lại gia thêm bệnh, cho nên hào suy nhược mà bị hình, xung, khắc, hại mưu sự cũng uổng phí sức lực tâm tư cuối cùng cũng chẳng thành, dụng hào này tuy có xuất hiện, chẳng sinh trợ mà trong quẻ không có nguyên thần, nếu có thì lại bị không, phá, hoại, gọi là chủ tượng, đồ tôn. Đồ tồn có nghĩa gắng sức cũng vô ích, mưu sự không toại ý. • HỮU THƯƠNG TU CỨU (Có bị thương nên cứu) Thương là thương khắc dụng thần, nếu thân kim là dụng thần mà bị ngọ hào khác động tức hào thân bị thương, nếu lại được nhật thần là tý hoặc động hào là tý, tý xung khắc ngọ hỏa, tức ngọ hỏa bị chế mà thân kim được cứu. Nếu nguyệt kiến xung khắc dụng thần được nhật thần sinh hợp dụng thần, hoặc nhật thần khắc dụng thần mà trong quẻ xuất một hào sinh dụng , đó là bị thương được cứu, mọi sự trước khó sau dễ, trước hung sau tốt, dụng thần được cứu thành hữu dụng. • VÔ CỐ VẬT KHÔNG (Không thụ thương chớ cớ không vong) – không thụ thương (vô cố) chẳng Không Cố là thụ thương, vật là nên khác là không. Đại phàm hào có tuần không an tĩnh gặp nguyệt kiến, nhật thần khắc chế tức là bị không thái quá khiến gặp ngày ra khỏi tuần cũng không thể tốt mà hung. Cái dạng tuần không này cuối cùng cũng vô dụng vậy. Nếu hào có tuần không phát động hoặc được nguyệt kiến, nhật thần sinh phù củng hợp, hoặc nhật thần xung khởi nó, hoặc động hào sinh hợp đó là không chẳng bị thụ thương, đợi lúc xuất tuần, gặp ngày, được Túc (xuất tuần trị nhật) thì lại được việc, cho nên nói: Vô cố chi không thì chớ xem hào ấy là không vậy? Tuy đang bị tuần không mà chẳng chịu nguyệt kiến, nhật thần, khắc thương thì chẳng luận đó là “thực không”. Lại như dụng thần hóa hồi đầu khắc, lại thấy hợp cục cũng khắc, khắc quá nhiều hóa chẳng bị thụ thương sao, nếu nhật nguyệt không thương nó và dụng thân có không tất chẳng chịu khắc cũng gọi là chẳng thụ thương (vô cố). Xưa có nói về tránh hung cũng gần với lý vô cố này, mà chú lầm rằng hào không bị thương khắc đừng có bị không, nhật, nguyệt kiến, khắc hào đó lại nên có không thì mất diệu chỉ của lý tiên thiên, lại mất cả văn lý nữa. • KHÔNG PHÙNG XUNG NHI HỮU DỤNG: (Tuần không gặp xung mà hữu dụng) Phàm quái nào gặp tuần không, xưa nay không cần biết cát hung đều đoán là vô dụng, mà riêng chẳng biết gặp nhật thần xung chắc có chỗ khả dụng – cũng có chỗ nên dùng , Xung Không tất Thực. Vả lại xung tất động, động thì chẳng không do đó không gặp xung mà hữu dụng là vậy. • HỢP TAO PHÁ DĨ VÔ CÔNG: (Hợp gặp phá thì chẳng được gì, vô công)


Câu này độc nhất nói về hợp xứ phùng xung. Hào quái gặp hợp như đồng tâm, hợp lực mà bị khắc phàm hữu sự mong thành mà gặp thế tất không toại. Nếu hợp mà gặp xung, hình, phá, khắc, sợ gian trá, tiểu nhân, hai bên phá, nói tất sinh nghi, có tâm nghi kỵ. Như dần với hợi hợp vốn hào hợp nếu gặp ngày thân hoặc hào thân động xung khắc dần mộc tất hại hợi thủy vậy, cho nên bảo: hợp gặp phá thì vô công. Hợp là thành, ý hòa hảo, phá có nghĩa tan, ý là xung khai. Phàm muốn thành việc mà gặp hợp xứ phùng xung quái, thì việc sắp thành lại tan. Phàm việc muốn tan mà gặp quẻ hợp xứ phùng xung thì tất toại ý. Xung trung phùng hợp là ngược lại ý này. • TỰ KHÔNG, HÓA KHÔNG TẤT THÀNH HUNG CỬU: (Tự không, hóa không thì xấu) Tự không là hào có tuần không, hóa không là nói dụng hào hóa gặp tuần không. Hung cửu là nói không thể thành việc. Câu này cũng dựa vào trước mà nói về việc mưu vong. Phàm mưu vong ai cũng muốn thành việc. Nếu dụng hào gặp không hay dụng hào hóa gặp tuần không, tức động biến thành không, tất nghi hoặc, việc tất chẳng thành, cho nên bảo là hung cửu vậy. • HÌNH HỢP, KHẮC HỢP CHUNG KIẾN QUÁI DÂM: (Hình hợp, khắc hợp kết quả ngang trái) Hợp là hòa hợp, xem quẻ mà thấy thì lúc nào cũng có cát lợi. Nhưng phải biết trong hợp có hình, có khắc, hợp có khắc cuối cùng chẳng hòa; Hợp có hình cuối cùng ngang trái. Ví như dụng thần ở tài hào mùi, ngọ là phúc hào, ngọ và mùi hợp, nhưng ngọ có mang tự hình do đó có hình hợp. Lại như tí là tài hào, tí và sửu hợp mà sửu thổ khắc tí thuỷ vị cho là khắc hợp. Như xem thê thiếp lúc đầu hài hòa nhưng sau lại lộn xộn, mọi việc kết quả đều ngang trái. • ĐỘNG TRỰC HỢP NHI BẠN TRỤ: (Động mà có hợp là ràng buộc) Phàm hào động không gặp hợp, mới làm động đi sinh đi khắc, bằng động mà có hợp tất có ràng buộc mà không thể động vậy. Đã không động thì không thể khắc vật, sinh vật. Như nhật thần hợp hào này nên đợi ngày xung hào đó ứng việc cát hung, Như hào bệnh động mà hợp thì phải đợi đến ngày xung với hào bệnh đến, việc cát hung mới ứng nghiệm. Giả như dụng thần là sửu thổ là tài hào, và ngày tí hợp sửu, thì phải đợi ngày mùi việc mới ứng. Nếu hào tí động hợp thì phải đợi ngày ngọ mới ứng việc. Lại như hào tử tôn động mà được nhật thần hợp, thì không thể sinh tài, phải đợi đến ngày xung hào tử tôn này mới có tài. Còn cứ phỏng thế mà luận. • TỊNH ĐẮC XUNG NHI ÁM HUNG (Tịnh được xung là được Ám động) Phàm cái hào không phát động, không nên nói an tịnh, bằng bị nhật thần xung nó, thì tuy tịnh cũng động, gọi là ám động, cũng như vào chỗ tối, mà bị người ta kêu gọi, thì không yên được trong giấc ngủ. Đã là hào phát động trong quẻ, hay xung được hào an tĩnh, tịnh như nằm như ngồi vậy, động như đi như chạy vậy.và hào gặp ám động cũng như người ở chỗ riêng làm việc. Hào ám động sinh phò ta, hoặc khắc hại ta, lý nó sâu nghiệm, ứng sự tại nơi ngày hạp. • NHẬP MỘ NAN KHẮC, ĐỚI VƯỢNG PHI KHÔNG: (Nhập mộ khó khắc, mang vượng chẳng phải không) Nhập mộ khó khắc ý nói động hào nhập mộ không thể khắc hào khác vậy. Lại bảo những hào khác nhập mộ thì chẳng chịu động hào khác. Giả như dần mộc vốn khắc thổ, nếu xem quẻ gặp ngày mùi thì mộc này nhập mộ ở ngày mùi, hay hóa ra mùi thì nhập mộ ở hào mùi, thì chẳng thể khắc thổ vậy. Giả như dần động khắc thổ mà thổ hào gặp ngày thìn tức nhập mộ ở ngày này, hoặc hóa thìn thì nhập mộ biến hào này, đều chẳng chịu dần mộc khắc. Cho nên bảo: NHẬP MỘ KHÓ KHẮC. Vượng tướng thì như xuân lệnh, mộc vượng, hỏa tướng; hỏa lệnh, hỏa vượng, thổ tướng. Xưa bảo sinh là vượng tướng, những hào này vượng tướng lâm không vong thì chẳng luận không. Lại nói: hào vượng tướng gặp tuần qua tuần thì hữu dụng cho nên bảo là phi không.

Hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú trực giải • HỮU TRỢ, HỮU PHÙ, SUY NHƯỢC, HƯU TÙ DIỆC CÁT: (Có trợ có phò, suy nhược hưu tù cũng cát)


Câu này chỉ nói độc về dụng thần. Như mùa xuân xem quẻ dụng hào thuộc thổ, là suy nhược, hưu tù chẳng đẹp, nếu được nhật thần sinh phù, củng hợp, tuy vô khí nhưng không luận vậy, ví như người nghèo được quý nhân đề bạt, do đó kỵ thần dù vô khí cũng chẳng nên được phù trợ. • THAM SINH, THAM HỢP, HÌNH XUNG, KHẮC HẠI GIAI VONG: (Tham sinh, tham hợp đều quên hình xung khắc hại) Câu này chỉ nói về dụng thần, nếu dụng thần gặp hình xung khắc hại đều chẳng đẹp, nếu chẳng được hào sinh hợp hào xung khắc đó, tất hào này tham sinh hợp chẳng đáng lo, nên gọi là quên xung quên khắc. Giả như trong quẻ có dần động, dụng thần là tỵ, dần vốn hình tỵ nhưng dần mộc có thể sinh cho tỵ hỏa cho nên tỵ hỏa tham sinh mà quên hình vậy. Lại như trong quẻ có hào hợi động xung khắc tỵ hỏa, lại có hào động mão, tức là hợi tham sinh mão mà quên khắc hợi, như dần động tức hợi thủy tham hợp mà quên xung tỵ vậy. Ấy là tham hợp, tham sinh, quên khắc, quên xung, quên hình. Ngoài ra cứ thế mà luận. • BIỆN SUY VƯỢNG DĨ MINH KHẮC HỢP BIỆN ĐỘNG TĨNH DĨ ĐỊNH HÌNH XUNG: (Phân suy vượng để rõ khắc hợp, biện động tĩnh để định hình xung) Câu này phân biệt động tỉnh chế hóa âm dương, nếu chỉ nói suy vượng mà không biến động tĩnh tất lầm cách dùng vậy. Như hào vượng vốn khắc được hào suy, nhưng an tĩnh thì không khắc được hào suy. Hào suy không khắc được hào vượng, nhưng nếu phát động thì vẫn khắc được hào vượng. Động ví như người ngồi dậy, tĩnh như người nằm, tuy vượng tướng chẳng qua một thời vượng, tuy suy nhược trước mắt chẳng qua một thời suy thôi. Hào suy mà không được nhật thần cứu giúp thì không chịu khắc được trong ngày ấy, nếu có nguyệt kiến ở trong quẻ thì động hào đó có thể khắc được. như vậy tức lý về suy vượng, động tĩnh đã rõ. • TỊNH BẤT TỊNH, XUNG BẤT XUNG, NHÂN ĐA TỰ NHÃN: (Tĩnh chẳng tĩnh được, xung chẳng xung được, nhân nhiều tự nhãn) Tịnh là hào trong quẻ mà nhật thần lâm. Xung là hào trong quẻ mà nhật thần xung.Trong câu nói hào tịnh không thể tịnh, hào xung không thể xung. Sao lại bảo không thể tịnh? Giả như ngày tí xem quẻ trong quẻ có hào tí làm dụng thần như vậy gọi là tịnh, nếu hào tí suy nhược mà có nhật thần thì luận vượng, nhưng không thể nếu hào tí này hóa tuyệt, hóa mộ, hóa khắc, đó là nhật thần biến hoại, không thể nói là thiện mà ngược lại hung tại ngày này vậy, cho nên nói tịnh mà không thể tịnh. Sao lại bảo xung không thể xung? Như ngày tí xem quẻ, trong quẻ thấy chữ ngọ làm dụng thần, nhật thần xung nó, nếu hào tí ở trong quẻ động xung khắc hào ngọ. Nếu được hào tí hóa mộ, hóa tuyệt, hóa khắc, đó là nhật thần hóa hoại, không thể hại được hào ngọ, thì ngược lại ngày này lại tốt. Cho nên xung mà không phải xung. Đó là 2 điều xem quẻ nhân ngày tí mà trong quẻ nhiều hào tí biến hoại như vậy. Ngoài ra cứ phỏng theo như vậy. • HÌNH PHI HÌNH, HỢP PHI HỢP VI THIỂU CHI THẦN: (Hình không phải hình, hợp không hợp vì thiếu chi thần) Hình là tam hình, hợp là hợp cục, Như dần tỵ thân là tam hình, sửu tuất mùi là tam hình, tí mão là nhị hình, thìn ngọ dậu hợi là tự hình. Giả như trong quẻ có 2 chữ dần tị mà không có thân, 2 chữ dần thân mà không có tỵ, có 2 chữ tỵ thân mà không có dần là thiếu 1 chữ là không thành hình. Như tam hợp là hợi – mão – mùi, dần - ngọ - tuất, tỵ - dậu - sửu, thân – tí – thìn, giả như có hợi mão mà không có mùi, hợi mùi mà không có mão, mùi mão mà không có hợi, là thiếu 1 chữ mà chẳng thành hợp vậy. Phép tam hình, tam hợp tất thấy toàn thể có 2 hào động tất hình hợp với 1 hào khác, 1 hào động tất không hình hợp được với 2 hào khác. Như trong quẻ có đủ hình hợp nếu an tĩnh cả thì cũng chẳng hình hợp. Như vậy chiêm nghiệm sẽ rõ ràng thông suốt. • HÀO NGỘ LỆNH TINH, VẬT NGÃ NAN HẠI: (Hào có nguyệt kiến dù động, khó hại ta) Lệnh tinh là thần nguyệt kiến, vật chỉ động hào trong quẻ, nếu dụng thần là thần nguyệt kiến mạnh vượng, tức được lệnh tinh dù có thương khắc cũng không đáng sợ, cho nên bảo vật khó hại ta vậy. • PHỤC CƯ KHÔNG ĐỊA, SỰ DỮ TÂM VI: (Phục ở đất Không, việc trái với lòng)


Phục là phục thần, trong 6 hào của quẻ mà thiếu dụng thần thì căn cứ vào quái đầu của cung xem dụng thần phục ở hào nào trong 6 hào, hào đó là phi thần. Phi thần là hiện rõ, phục thần là ẩn. Nếu trong 6 hào không có dụng thần, mà phục thần lại gặp Tuần không, nếu chẳng đề bạt, mưu sự khó thành tựu, cho nên đã là việc trái nghịch với tâm. • PHỤC VÔ ĐỀ BẠT CHUNG ĐỒ NHĨ PHI BẤT SUY KHAI DIỆC CUỔNG NHIÊN (Phục không đề bạt cuối cùng cũng vô ích - Phi không suy khai cũng uổng công) Cũng theo y câu trước, phục là nơi dụng thần chẳng xuất hiện mà ẩn phục nếu chẳng được nhật thần, động hào sinh phù, củng hợp vị chi là phục chẳng được nâng đỡ. Phi là hào tại đó nơi dụng thần phục, là hiển lộ thần, suy là xung, tức bảo xung khắc phi thần thì phục thần có thể xuất hiện. • KHÔNG HẠ PHỤC THẦN DỊ Ư DẪN BẠT: (Phục tại không có dẫn bạt đề xuất ra) Phục thần ở tại hào phi đương lâm tuần không, hào phi gặp không giống như nhà không chủ, phục thần đến ở không bị ràng buộc, tức phục thần dễ được dẫn bạt mà xuất ra. Dẫn là củng, phù; tính, bạt là sinh, phù, củng, hợp, ý là phi xung phi dẫn phục. • CHẾ TRUNG NHƯỢC CHỦ, NAN DĨ DUY TRÌ: (Suy nhược mà bị chế khó duy trì) Chế y là nhật thần nguyệt kiến chế khắc, nhược là hào suy nhược. Như vậy dụng thần suy nhược lại bị nhật nguyệt kiến chế khắc, nếu được động hào sinh cũng chẳng giúp gì được. Hào suy nhược nếu gặp nhật nguyệt kiến chế khắc ví như cây cỏ khô hư nát dù có mưa cũng chẳng thể mọc đựơc ví khó mà mọc rễ mới, đó là nói về dụng thần xuất hiện, như là phục thần mà gặp thế dù được tính, dẫn cũng vô dụng mà thôi. • NHẬT THƯƠNG HÀO, CHÂN LA KỲ HỌA HÀO THƯƠNG NHẬT, ĐỒ THỌ KỲ DANH (Nhật thần thương khắc hào mới thật là họa, hào thương khắc nhật chỉ là mang danh mà thôi) Nhật thần là chúa tể của 6 hào, coi tổng quát mọi việc. Sáu hào chỉ là bề tôi của nhật thần phân chia coi mọi việc cho nên nhật thần khắc hại hình xung với 6 hào, chứ 6 hào không thể hình xung khắc hại với nhật thần được. Nguyệt kiến với 6 hào cũng thế. • MỘ TRUNG NHÂN BẤT XUNG BẤT PHÁT: (Người trong mộ không xung không phát) Đại để dụng hào nhập mộ không xung không thể tốt đẹp, vì gặp nhiều trở ngại mọi việc khó thành, chỉ phí sức mà thôi, đợi nhật thần xung, động hào xung hoặc xung khắc mộ hào mới thành công hữu dụng. Sách xưa có nói: XUNG KHÔNG TẤT KHỞI, PHÁ MỘ TẤT THÀNH • THÂN THƯỢNG QUỶ BẤT KHỬ BẤT AN: (Quỉ trên Thân chẳng khử thì chẳng yên) Thân dựa vào dụng mà nói tất là thế vậy, nhưng phàm Quan quỷ trì thế hào là nói tới mình, nhưng nếu không phải là người quan chức thì quan quỷ là thần ưu nghi trở trệ nên được nhật thần động hào xung khắc thì mới an nhiên được. Hoặc kỵ thần lâm thế cũng vậy, nhưng không thể khắc thái quá, sợ rằng ta cũng bị hại. Thánh nhân có nói: "Người mà bất nhân, bệnh đã quá loạn duy quý ở chữ trung hòa mà thôi".(Người mà bất nhân, nếu ghét nó lắm thì nó làm loạn, duy quý được trung hoà thì hay hơn) • ĐỨC NHẬP QUÁI NHỊ VÔ MƯU BẤT TOẠI KỴ LÂM THÂN ĐA TRỞ VÔ THÀNH: (Đức trong quẻ không mưu chẳng toại. kỵ lâm thân nhiều trở ngại khó thành) Đức là hợp vậy. Trong hợp có ân tình đức nghĩa, do đó phàm mưu sự mà dụng thần động hợp thế, hoặc dụng thần hóa được sinh hợp, hoặc nhật thần lâm dụng hợp thế, hoặc nhật thần có trường sinh hợp dụng hoà đều là đức vào trong quẻ mà vô mưu nên chẳng toại ý vậy. Nhưng hợp xứ phùng xung lại sợ có biến, nếu kỵ thần như vậy thì việc nhiều trở ngại khó thành. • QUÁI NGỘ HUNG TINH TỴ CHI TẮC CÁT: (Quẻ gặp hung tinh, tránh được tất tốt) Hung tinh là kỵ thần, phàm dụng hào bị nguyệt kiến nhật thần thương khắc, bất luận không phục thủy chung vẫn chịu khắc không thể tránh, Nếu chẳng bị nguyêt kiến nhật thần thương khắc chỉ


độc gặp trong quẻ kỵ thần phát động lại thương dụng, nếu dụng hào có tuần không phục tàng không chịu khắc, vị chi là tránh, đợi ngày xung khắc với kỵ thần thì hung có thể tan. Như dụng hào xuất hiện không có không thì chịu độc khó tránh được thương vậy do đó bảo là tránh đi thì tốt.

Hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú trực giải • HÀO PHÙNG KỲ SÁT ĐỊCH CHI VÔ THƯƠNG: (Hào gặp kỵ sát cứu được khỏi bị thương) Giữa thù, ngang nhau, chống cự, đối địch. Hào tức dụng hào, như cầu tài lấy tài hào làm dụng thần vậy. Ví như cầu tài, trong quẻ hào thuộc mộc nếu có hào kim động mà khắc tài thì hung vậy. Nếu được hào hỏa phát động khắc kim tất hào kim phải tự cứu không rành mà khắc mộc nên không lo vậy, do đấy nói: Địch chi thì không bị thương. • CHỦ TƯỢNG HƯU TÙ PHẠ KIẾN HÌNH XUNG KHẮC HẠI DỤNG HÀO BIẾN ĐỘNG KỴ PHÙNG TỬ MỘ TUYỆT KHÔNG: (Dụng thần tù sợ hình xung khắc hại, dụng hào biến động kỵ gặp tử mộ tuyệt không). Chủ tượng cũng để chỉ dụng thần, nếu bị tử đã chẳng được việc rồi huống chi lại bị thêm hình khắc. Dụng hào phát động giống người mạnh mẽ tiến tới trước đâu lại có thể để hóa mộ tuyệt. • DỤNG HÓA DỤNG, HỮU DỤNG VÔ DỤNG KHÔNG HÓA KHÔNG TUY KHÔNG BẤT KHÔNG (Dụng hóa dụng có loại hữu dụng, loại vô dụng; không hóa không tuy không mà chẳng không) Dụng thần hóa dụng thần có loại dụng thần hữu dụng và dụng thần vô dụng. Hữu dụng là dụng thần hóa Tiến thần, vô dụng là dụng thần hóa Thoái thần, cùng phục ngâm quái vậy. Cho nên mới phân biệt hữu dụng và vô dụng vậy. Hào không an tĩnh tất không thể hóa không, phát động thì có thể hóa được mà đã phát động thì chẳng phải không vậy. Hóa ra không cũng vì động mà hóa. Phàm hào động gặp không hoặc động hào biến không đều không phải là không chân thật, khi xuất thần thì lại hữu dụng vậy. • DƯỠNG CHỦ HỒ NGHI. MỘ ĐA ÁM MUỘI HÓA BỆNH HỀ THƯƠNG TỔN, HÓA THAI HỀ CÂU LIÊN: (Dưỡng chủ nghi ngờ, mộ nhiều ám muội, hóa bệnh nhiều tổn hại, hóa thai khó khăn) Trong 12 thần tràng sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng thì tại quẻ chuẩn đích là tràng sinh, mộ, tuyệt , mỗi quẻ nên xem, mỗi hào nên kiếm, Còn mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng. suy, bệnh, tử, thai, dưỡng mỗi một đều có sinh, khắc, xung hợp, tiến thần, thoái thần, phục ngâm là luận ngược lại, không nên quá câu chấp ỡ dưỡng là chữ nghi ngờ, bệnh chủ thương tổn, thai chủ khó khăn. Trong thập bát luận đã nói rõ, học giả nên tự luận lấy cho rõ. • HUNG HÓA TRƯỜNG SINH SÍ NHI VỊ TÁN: (Hung hóa tràng sinh mạnh mẽ thực tan) Dụng hào hóa nhập ở tràng sinh là cát, nếu hung thần hóa nhập tràng sinh tức họa đã manh nha, càng ngày càng lớn, tất đợi ngày mộ tuyệt mới có thể diệt được. • CÁT LIÊN MỘC DỤC BẠI NHI BẤT THÀNH: (Cát hợp mộc dục bại mà chẳng thành) Mộc dục gọi là Bại thần, lại gọi là mộc dục sát hay vô liêm vô sỉ thần, tính dâm bại, nhưng có phân biệt nặng nhẹ, Như kim bại ở ngọ trong bại kim khắc, dần mộc bại ở tí trong bại kim hình, thủy bại ở dậu trong bại kim sinh, thổ bại ở dậu trong bại kim tiết khí, hỏa bại ở mão trong bại kim sinh. Duy xem hôn nhân hết sức kỵ, nếu chồng chọn vợ mà tài hào hóa mộc dục kim sinh tất bại nhà bại cửa, kim khắc vì gian dâm sát thân. Như ở mọi quẻ nếu thế hào hóa mộc dục kèm sinh thì vì sắc hoại danh, khắc thì vi sắc sát thân, nếu có cứu thì trong chỗ hiểm có đường sống, cho nên bảo rằng cát thần không nên hóa mộc dục. • GIỚI HỒI ĐẦU CHI KHẮC, NGÃ BẠI PHẢN ĐỨC DĨ PHÙ NHÂN: (Phòng hồi đầu khắc ta, chớ phản đức để giúp người)


Hóa hồi đầu khắc là dụng thần tự hóa kỵ thần, như hào hỏa hóa thủy chẳng hạn. Nếu xem quẻ mà thế hào, thân hào, dụng hào gặp thế không tốt. Phàm dụng thần phát động không sinh hợp thế thân, mà ngược lại sinh hợp ứng hào cùng bằng hào, đều nói là phản đức giúp người. Nếu bói găp thế, điều cầu mong chẳng dễ mà tượng hại ta lợi người vậy (tổn kỷ lợi nhân). • ÁC DIỆU CÔ HÀN PHU NHẬT CHI TỊNH KHỞI: (Ác diệu cô hàn chỉ sợ có nhật thần lâm) Ác diệu chỉ kỵ thần, cô là cô độc, không được sinh, phù, củng hợp. Hàn là suy nhược vô khí, phàm xem bói gặp kỵ thần cô hàn tất vĩnh viễn chẳng tổn hại cho ta. Chỉ sợ có nhật thần lâm đấy thì cô hàn lại được thế, khó tránh được hại, như gặp nguyệt kiến cũng thật đáng sợ. • DỤNG HÀO TRÙNG ĐIỆP HỈ MỘ KHỐ CHI THỤ TÀNG: (Dụng hào trùng điệp mừng được mộ khố che dấu) Như trong quẻ dụng hào trùng điệp thái quá, thích (rất mừng) mộ của dụng thần trì lâm thân thế, vị chi là theo ta mà che dấu. • SỰ TRỞ CÁCH HỀ GIAN PHÁT - TÂM THOÁI HỒI HỀ THI KHÔNG: (Việc cách trở do gián hào, có thể không tâm thoái hồi) Gián hào là hào ở giữa thế và ứng, 2 hào này ở giữa thế và ứng là đường ngăn cách này kia, động tất có người cách trở, muốn biết người nào ngăn trở dùng lục thần mà suy, nếu phụ mẫu động tức bậc tôn trưởng. Phàm thế hào tuần không thì người này biếng nhác, tâm không dũng mãnh tiến mà thành việc, cho nên nói tâm thoái hồi vì thế không. • QUÁI HÀO PHÁT ĐỘNG TU KHÁN GIAO TRÙNG ĐỘNG BIÊN TỴ HÒA ĐƯƠNG MINH TIẾN THOÁI: (Quái hào phát động, nên xem giao trùng; động biến tỵ hòa, nên xem tiến thoái) Phàm quái hào phát động, nên khán xem giao trùng. Giao chủ tương lai, trùng chủ dĩ vãng. Như xem đào vong thấy phụ mẫu có chu tước phát động, nếu hào là giao thì có người lại báo tin, như nếu trùng hào là tin đã biết trước, ngoài ra cứ phỏng như vậy. Động biến tỵ hòa chỉ nói về nhị thần tiến thoái. Như dần mộc hóa mão là tiến thần, mão biến dần là thoái thần. Ở thập bát luận có nói rõ tiến chủ tiến trước, thoái chủ lui sau. • SÁT SINH THÂN MẠC TƯƠNG CÁT ĐOÁN DỤNG KHẮC THẾ VẬT TÁC HUNG KHÔN CÁI SINH TRUNG HỮU HÌNH HẠI CHI LƯỠNG PHÒNG NHI HỢP XỨ HỮU KHẮC THƯƠNG CHI NHẬT LỰ (Sát sinh thân ở chỗ đoán tốt, dụng khắc thế chớ lấy làm xấu, và sinh trong có phải phòng 2 mặt hình hại, trong hợp có khắc phải lo toan) Sát là kỵ thần, sinh là sinh hợp. Thân thì như tự coi cho mình thì dùng thế mà nói. Như trong quẻ kỵ thần thì kỵ thần phát động thì dụng thần bị thương vậy, thì sinh hợp chẳng có ích gì, huống trong sinh hợp có hình hại, có khắc có hư, kỵ thần sinh thế kiêm có hình khắc, không những mưu sự chẳng thành; điều cầu mong chẳng được vì mưu sự mà thành xấu. Như một người đi thi hương ở tháng thìn, ngày quý dậu, bói được quẻ tiết ra quẻ khảm, thế hào tỵ hỏa hóa thành dần mộc, kỵ thần trong sinh có hình lại mão mộc kỵ thần ám động sinh thế, sau đến lâm bệnh mà bỏ. Đó là kỵ sinh thân vậy, trong sinh có hình, giống vậy nếu có hại, còn khắc thì nặng hơn. Lại như dụng thần động khắc thế thì vật đến tìm ta, thì mưu dễ thành tựu chớ bảo vì khắc ta là hung. Dụng thần khắc thế vốn tốt, không nên đi sinh hợp ứng hào, vì hậu ở kẻ khác mà bạc ở ta. Tuy dụng khắc thế cũng có lúc hung vậy, xem phần sau phải biết. • HÌNH HẠI BẤT NGHI LÂM DỤNG, TỬ TUYỆT KHỞI KHẢ TRÌ THÂN: (Hình hại không nên ở dụng, tử tuyệt há có thể ở thân) Phàm dụng thần, thân, thế, gặp nhật thần tương hình ắt chủ bất lợi. Xem gặp thế thì việc bất thành, xem vật thì chẳng tốt, xem bệnh thì trầm trọng, xem người thì người bệnh, xem vợ thì vợ bất trinh, xem văn hài thì sơ hở, xem kiện tụng thì bị hình tội; Với hào bị hại thì không quá tệ, đại khái cũng mô phỏng như vậy, hóa thì cũng thế, nên dùng suy, vượng, sinh, khắc mà phân cho rõ. Tử, tuyệt ở hào nhật thần lâm thế thân, dụng thần mọi việc coi đều chẳng lợi, biến động hóa nhập cũng thế, nhưng có tuyệt xứ phùng sinh để luận, học giả nên biết.


• ĐỘNG PHÙNG XUNG NHI SỰ TÁN: (Động gặp xung thì việc tan) Hào xung này không thể suy giống nhau. Như hào gặp tuần không an tĩnh gặp xung gọi là khởi. Hào có tuần không phát động gặp xung gọi là thực an tĩnh. Hào không có tuần gặp xung gọi là ám động. Phát động mà không có tuần gặp xung gọi là tán, còn gọi là xung thoát. Động mà gặp xung tán thoát, cát chẳng cát, hung chẳng thành hung. • TUYỆT PHÙNG SINH NHI SỰ THÀNH: (Tuyệt gặp sinh sự việc thành) Đại phàm dụng thần lâm và tuyệt địa, không thể định tuyệt ở nhật thần mà luận dụng thần hóa tuyệt. • NHƯ PHÙNG HỢP TRỤ TU XUNG PHÁ DĨ THÀNH CÔNG: (Nếu gặp hợp trụ thì đợi xung phá mới thanh công) Trong quẻ như dụng thần, kỵ thần gặp nhật thần hợp hoặc tự hóa hợp, hoặc có động hào hợp không kể cát hung đều không kiến hiệu, nên đợi ngày xung phá thì việc cát hung mới ứng. Giả như dụng hào động sinh thế thì việc dễ thành, nếu gặp hợp trụ việc trở trệ nên đợi ngày xung phá mới thành. Về sau phép đoán nhật kỳ cũng theo vậy.

Hoàng kim sách tổng đoạn thiên kim phú trực giải • NHƯỢC NGỘ HƯU TÙ TỐT SINH VƯỢNG NHI THÀNH SỰ: (Nếu gặp hưu tù tất sinh vượng mới được việc) Phép đoán nhật kỳ không thể cùng nhắc phải linh hoạt mới khỏi sai lầm. - Như dụng, hào hợp trú thì dùng ngày xung mà đoán - Dụng thần hưu tù tất đợi lúc sinh vượng mới thành cho nên vô khí thì đợi ngày tháng vượng tướng mà đoán. - Dụng hào vượng tướng bất động tức dùng ngày tháng xung động mà đoán. - Nếu dụng hào có phát động tất dùng ngày hợp mà đoán, động mà sinh hợp thế thân tất dùng ngày đó mà đoán. - Dụng hào thụ chế tất dùng ngày tháng chế sát mà đoán - Nếu dụng hào được thời vượng động, mà ngược lại được sinh phù tất quá vượng, thì dùng ngày tháng mộ khí mà đoán. - Dụng hào vô khí phát động mà gặp sinh phù tất dùng ngày tháng sinh phù mà đoán. - Dụng hào nhập mộ, dùng ngày tháng xung mộ, xung dụng mà đoán. - Dụng hào có tuần không an tĩnh tất dùng khắc xuất tuần gặp xung mà đoán. - Dụng hào gặo tuần không mà phát động, tức dùng ngày đó khi xuất tuần mà đoán. - Dụng hào phát động gặp tuần không có hào tất dùng ngày xuất tuần mà xung để đoán. - Dụng hào tuần không an tĩnh bị xung tất dùng ngày xuất tuần hợp để đoán. - Dụng hào tuần không phát động bị xung ấy là xung thực tức dùng ngày đó mà đoán, Đó là phép tóm tắt rất quan trọng trong lý rất linh diệu, học giả cần linh hoạt phân nặng nhẹ, phân dụng, kỵ mới chẳng sai. • TỐC TẮC ĐỘNG NHI KHẮC THÊ, HOÃN TẮC TĨNH NHI SINH THÂN: (Nhanh tất động mà khắc thế, chậm tất tĩnh mà sinh thân) Đây cũng là phép đoán nhật thần để xem định kỳ nhanh chậm. - Nếu dụng thần động mà khắc thế thì rất nhanh, như động mà sinh thế thì chậm, - Tĩnh mà sinh thế thì chậm. - Lại nên dùng suy, vượng, động, tĩnh, suy nghiệm thì chẳng bao giờ sai. Như suy thần phát động khắc thế ấy là vượng tướng động khắc vậy thì chậm. Ngoài ra ứng phỏng vậy. • PHỤ VONG NHI SỰ VÔ ĐẦU TỰ - PHÚC ẨN NHI SỰ BẤT XỨNG TINH: (Hào phụ gặp không xong việc chẳng có đầu mối, hào tử ẩn thì việc chẳng hài lòng) Câu này chỉ nói việc công, xem văn thư, văn thư tất hào phụ mẫu vậy. Phòng xem việc tư nên khán phúc đức, phúc đức tức hào tử tôn. Phàm xem công danh, công môn, công sư, dùng hào phụ mẫu làm đầu mối về văn thư, sau mới đến quan quỷ. Nếu văn thư hào gặp không vong sợ


việc chưa đích xác. Cho nên nói: Phụ gặp không vong việc không đầu mối. Xem việc riêng dùng hào tử tôn làm thần giải ưu, vui vẻ, lại dùng căn nguyên của tiền, há phục mà không hiện sao. Cho nên nói: phúc ẩn nhi tự bất xứng tình. • QUỶ TỤY HỌA TAI, PHỤC DO VÔ KHÍ: (Quỷ tuy tai họa, phục thì vô khí) Hào quan tuy nói là thần tai họa, nhưng ở trong 6 hào cũng không nên xuất hiện an tĩnh, không nên tàng phục. Tàng phục thì trong quẻ vô khí, huống chi hào quan mọi việc đều phải có chỗ nhờ cậy cho nên quan trọng. Như cầu danh lấy hào quan là dụng, xem văn thư lấy hào quan làm nguyên thần, xem kiện lấy hào quan làm quan, xem bệnh lấy hào quan là bệnh, xem đạo tặc lấy hào quan làm đạo tặc, xem quái dị lấy hào quan làm quái dị, xem tiền bạc mà không hào quan sợ hào huynh dùng quyền khó tránh hao tổn. • TỬ TUY PHÚC ĐỨC ĐA PHẢN VÔ CÔNG: (Tử là phúc đức xuất hiện nhiều chịu khắc thì vô công) Đa là hiện nhiều, phản là chịu khắc chỉ có xem công danh tử tôn là ác sát, ngoài ra hào tử tôn là phúc đức. Xem thuốc lấy hào tử tôn làm dụng thần, nếu hiện nhiều trong quẻ tất uống thuốc tạp loạn, rồi cũng chẳng được gì. Nếu cầu tài gặp tử tôn hào bị thương chẳng những vô lợi mà sợ cả hao vốn nữa. • CỨU PHỤ MẪU SUY VI THẾ THỐNG, LUẬN QUAN QUỶ ĐOÁN TÁC HỌA ƯƠNG. TÀI NÃI LỘC THẦN. TỬ VI PHÚC ĐỨC, HUYNH ĐỆ GIAO TRÙNG TẤT CHI MƯU VI ĐA TRỞ TRỆ: (Xem phụ mẫu suy kỹ chung thân, luận quan quỷ đoán tai họa; tài là lộc thần, tử là phúc đức, huynh đệ giao trùng thì mưu sự việc nhiều trở trệ). Câu này nói tổng quát về ngũ loại (lục thân) nhưng cũng phân biệt các dùng hào phụ mẫu để luận xuất thân, như làm quí nhân có khí thì hậu duệ của nhà làm quan, như lâm hình hại vô khí là con nhà bần tiện, như xem họa ương nên xem quan quỷ mang, lâm con thú nào hoặc trị huyền vũ tức họa đạo tặc, tài là người lâm quan (nhân chi thực lộc) cho nên bảo là lộc thần, Tử tôn có thể giải ưu khắc quỷ cho nên gọi là phúc đức, huynh đệ là động bọn ép tài. Động tất khắc tài, tranh đoạt, cho nên bảo: mưu nhiều trở ngại vậy. • QUÁI THÂN TRÙNG ĐIỆP TU TRI SỰ THỂ LƯỠNG GIAO QUAN: (Quái thân trùng điệp biết sự việc có liên hệ) Quái thân tức nguyệt quái thân vậy, theo phép thế dương thì khởi từ tháng tí thế âm thì khởi từ tháng ngọ, câu này mở rõ sự còn u tối cần phải luận rõ. Phàm hào quái thân là thể của việc xem vậy. Nếu trong lục hào có hai hào xuất hiện tức là uyên ương cầu việc hoặc việc liên quan ở hai nơi. Nếu tại huynh đệ tất với người đồng mưu, huynh đệ khắc thế hoặc lâm quan quỷ phát động tất có người tranh mưu. Quái thân chẳng xuất hiện việc chưa định hướng xuất hiện mà sinh thế, trì thế, hợp thế việc đã định, nên xuất hiện chứ không nên động, động nên phòng có biến, nếu biến hoại thì việc cũng biến hoại, nếu trì thế thì việc này tự mình có thể điều động, nếu lâm ứng thì biết việc do quyền ở người khác. Hoặc động hào khác để biến thành thì biết người đó cũng thuộc vào việc này, nếu tử tôn là tăng đạo, bọn cháu chắt nếu phục tại hào nào cũng y như vậy mà suy. Nếu có 6 hào phi biến phục đều không có quái thân thì căn do của việc chưa đích. Không vong mộ tuyệt thì việc khó thành, đại để quái thân tác động vào việc. Xem vào đó thì lâm như ứng vào nhân thân mà xem thì tướng mạo người xem đẹp ác đều dùng quái thân mà xem là có thể biết. Phàm quái thân khắc thế tức việc tìm ta tốt, thế khắc thân thì hung. Nếu thân hào sinh hợp thế hào cũng tốt. • HỔ HUNG NHI NGỘ CÁT THẦN BẤT HẠI KỲ VI CÁT. LONG ĐỘNG NHI PHÙNG HUNG DIỆU NAN YỂM KỲ VI HUNG. HUYỀN VŨ CHỦ ĐẠO TẶC CHI SỰ DIỆU TẤT QUAN HÀO. CHU TƯỚC BẢN KHẨU THIỆT CHI THẦN. NHIÊN TU HUYNH ĐỆ TẤT BỆNH ĐẠI NGHI THIÊN HỈ, NHƯỢC LÂM HUNG CÁT TẤT SINH BI. XUẤT HÀNH TÔI PHẠ VÃNG VONG NHỦ HỆ CÁT THẦN CHUNG HOẠCH LỢI THI CÔ CÁT HUNG THẦN SÁT CHI ĐA ĐOAN HÀ NHƯ SINH KHẮC CHẾ HÓA CHI LÝ: (Bạch hổ nếu gặp cát thần chẳng hại mà tốt. Thanh long động mà gặp sao hung khó ngăn được hung, Huyền vũ chủ việc đạo tặc cũng nên ở quan hào. Chu tước vốn khẩu thiệt nhưng nên ở


huynh đệ, tất bệnh rất nên có thiên hỉ, nếu gặp hung sát tất sinh đau khổ. Xuất hành rất sợ vãng vong, nếu có cát thần rồi cũng thu lợi. Vì thế thần cát hung sát rất nhiều rắc rối sao như lý lẽ sinh khắc chế hóa) Đại để bốc-dịch nắm ngũ hành lục thân, không thể lộn xộn mà dùng thần sát ở thần sát đoán loạn. Sách xưa bị đến thời Kinh Phùng tiên sinh làm loạn Dịch lưu tại cát hung tinh mê hoặc người sau như thiên hỉ, vãng vong, đại sát, đại bạch hổ, đại huyền vũ chẳng hạn làm người ngày nay theo đó, mà thật chẳng có gì đáng tin. Nhưng thần sát qua nhiều há có thể dung hợp mà dùng sao? Phép dùng lục thú chẳng phải thấy thanh long là tốt, bạch hổ là hung, chu tước là khẩu thiệt, huyền vũ là đạo tặc chẳng phân biệt lâm trì, dụng thần nguyên thần, kỵ thần, câu thần, phép đoán đại để như vậy, thì mất kỳ diệu lẽ tiên thiên. Chẳng lẽ bạch hổ động mà hung, nếu lầm vào hào sinh phù, củng, hợp, thế thân tất chẳng hại gì ở ta, cho nên bảo hung mà chẳng hại, mà tốt. Thanh long động vốn tốt, nếu lâm vào hào kỵ hình xung khắc hại dụng thần tất chẳng ích gì, cho nên cát mà khó ngăn chận được hung. Chu tước tuy khẩu thiệt nhưng lâm huynh đệ chẳng thành khẩu thiệt. Huyền vũ tuy chủ đạo tặc nếu chẳng lâm quan hào thì chẳng phải là đạo tặc. Lục thú dựa vào ngũ hành, lục thân sinh khắc vậy. Như Cát tinh thiên hỉ, xem bệnh mà gặp nếu đại tượng hung cũng đoán chẳng chết, nếu lâm vào kỵ thần thì ta lấy làm xấu, mà chẳng lấy làm mừng. Xuất hành gặp vãng vong hung sát tuy đại tượng cát lợi mà đoán hung chết. Nếu lâm vào hào hỉ mình động sinh phù cảng hợp thế thân dụng hào, ta sẽ lấy làm lợi mà chẳng lấy làm hại. Cho nên quyền của thần sát nhẹ mà quyền của ngũ hành nặng. Do đó mà xem gặp cát tất cát, gặp hung tất hung, liên hệ ở đây mà không liên hệ ở kia, nghiệm ở lý mà không nghiệm ở sát, hà tất dùng huyền mà nói vậy, dùng ngổn ngang trăm mối mà hại lý mà loạn người làm sao nhất nhất tránh được. Thần sát này không thể dựa vào đó để đoán chư lý sinh khắc, chế hóa, vì làm quá nhiều ngõ ngách thông cho thỏa sáng tỏ các lý, đủ lẽ biến động. Lục thân là gốc, lục thú là ngọn, còn như hung cát thần, thiên hỉ, vãng vong, thiên y… là nhâm hữu gốc ngọn. Muốn dùng chỉ cần lục thú, phải nên trọng ở gốc mà nhẹ ở ngọn, với lục thú có thể suy tính tĩnh, hình dáng và cát hung dù sinh khắc ở lục thân lâm chủ. Học giả dựa và đó thì đẩy đủ gốc và ngọn, thì mấy điều lý đều thông suốt được cả. • Ô HÔ BỐC DỊCH GIẢ, TRI ĐIỀN BỐC DỊCH: (Than ôi! Kẻ bói Dịch biết pháp trước thì dễ) Người đời đều nệ, cổ pháp phải biến thông mới tốt, cho nên có long hổ suy buồn, vui, thủy hỏa đoán mưa, tạnh, không vong là hung, nguyệt phá tất vô dụng; thân vị định chi nhân thân, ứng hào để thay thế, Phàm bói thế khó định hơn người. Lưu Bá Ôn tiên sinh viết sách lấy cái lý bài bác cái nghĩa ngắn, để tỏ rõ cái tâm của thời cổ mà nay đã mất. Người đời chấp nệ ở phép cổ mà chẳng có chi điều giải; thuật giả có thể nói rõ những điều thông biến ở Dịch như thế nào. • CẦU CHIÊM GIẢ GIÁM HẬU TẮC LINH: (Cầu coi sau tất linh) Người đoán bói dùng sự thông biến mà cầu, người coi cũng không thể không biết đạo cầu bói mà thành tâm vậy. • PHỆ TỐI THÀNH TÂM: (Bói tất thành tâm) Thánh nhân làm dịch để tán thần minh, đạo này hợp trời đất vậy do đó bói dịch cần chân thành kính cẩn có lòng cầu tất cát hung, họa phúc luôn luôn nghiệm. Nay có người bói mà cử chỉ chẳng nghiêm trang, ăn mặc bê bối, thậm chí thắp hương chẳng rửa tay nên có nghiệm phú quý cũng sai; Hoặc sai gia nhân bói hộ hoặc thân hữu bói giúp, tuy long thành tâm mà người thay thế còn chẳng tin thì cầu cảm với thần minh sao có được, há chẳng trân trọng ư? • HÀ PHƯƠNG TÍ NHẬT: (Ngày tí có hại gì đâu) Trong sách âm dương lịch có ngày tí không bói, nên người đời này kỵ, Lưu Quốc Sư có nói: việc ứng của cát hung đều cảm thần minh, không phải thần minh lai vãng có giờ nên lúc cảm lúc không, mà cảm cách thì lúc nào cũng nghiệm. Cho nên bói Dịch chỉ tại lòng thành mà không ở tại ngày tý hay không tý.


Ở trên là toàn thiên nói về phép Tổng đoán, Dịch là chương thông suốt đại chỉ, không như thế mọi việc khó quyết, người có chí như vậy trước nên học thiên này thì có thể hiểu điều che khuất dấu kín. Ai đọc lý này đã rõ tất từ việc đến vật đều có thể phân giải rõ ràng.


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.