Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 1: Đế vương xuất hiện trên đất bị phương Bắc trấn yểm Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 11: Phú Xuân – Vùng đất xưng vương (26/12/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 10: Câu chuyện về đất Kim Long cát tường của chúa Nguyễn (25/12/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 9: Ba lần chọn đất lập đô của Quang Trung (24/12/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 8: Trời giao ấn kiếm cho người Tây Sơn (23/12/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 7: Ngọn đồi thiêng của nhà Nguyễn (23/12/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 6: Trạng Trình với những sấm truyền lịch sử (20/11/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 5: Một cuộc đất làm nghiêng thiên hạ (20/11/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 4: Lam Sơn tụ khí, Cao Bằng ẩn long (20/11/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 3: Thành nhà Hồ: sông phù, núi khuyết biết làm sao (09/11/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 2: Đất phát vương của nhà Trần (08/11/2014) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 12: Vua Gia Long với phong thủy kinh thành Huế Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 13: Lăng Thiên Thọ và những “ẩn số vàng” ở cửa Ngọ Môn
Bài 15: Tự Đức với nỗi niềm“vạn niên đại cát” (08/01) ▪ Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 14: Vua Thiệu Trị với Thế đất Xương Lăng (08/01) ▪ Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 16: Tân Sở – Cuộc đất phi thời (08/01) ▪ Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 17: Điện Hòn Chén – Những ngày vang bóng (08/01) ▪ Bài 18: Huyền bí Hải Vân Sơn (08/01) ▪ Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 19: An Lăng – Những tình cờ lịch sử (08/01) ▪ Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 20: Khải Định với những bí quyết phong thủy thời Nguyễn (08/01) ▪ Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 21: “Gò đất kết” Sơn Quy với chuyện hai bà hoàng (08/01)
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 23: Đà Lạt, thủ phủ của “Hoàng triều cương thổ” (04/11/2013) Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 22: Cung An Định và nỗi lòng hoàng hậu Nam Phương (01/11/2013) http://motthegioi.vn/ly-dich/bai-24-dat-phuong-nam-chuyen-hai-cu-phu-sai-gon-6537.html Bài 25: Từ thành Bát Quái đến ma trận Đại Thế Giới Bài 26: Lăng Ông Lê Văn Duyệt và vụ án Huỳnh Công Lý Bài 27: Sài Gòn – Con phượng hoàng trong biển lửa Bài 28: Nguyễn Hữu Cảnh với sông nước miền Nam
Bài 29: Sài Gòn: “Con rồng đỏ” lên ngôi
http://www.baomoi.com/Bai-29-Sai-Gon-Con-rong-do-len-ngoi/119/14135715.epi http://khamphahue.com.vn/vanhoa-dulich-Hue/l-3/C1D436B5-C476-4D26-92C386473C9723C5/14769-gia-thiet-phong-thuy-ve-su-phat-tich-13-doi-vua-nhanguyen.aspx#.VUs8KfA7OSo
http://khamphahue.com.vn/vanhoa-dulich-Hue/l-3/C1D436B5-C476-4D26-92C386473C9723C5/lich-su.aspx
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 1: Đế vương xuất hiện trên đất bị phương Bắc trấn yểm Nguồn: Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam
Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long Thực hư Cao Biền trấn yểm thành Đại La Theo tư liệu lịch sử và phong thủy, Cao Biền khi sang xâm lấn nước ta đã tiến chiếm thành Đại La và cho đắp lớn thành này cao đến 2 trượng 6 thước, chu vi hơn 1982 trượng, trên thành xây 55 vọng gác, với nhiều điểm phòng vệ quân sự. Để làm rào chắn cho thành Đại La, Cao Biền đã tập trung các hộ ở vây quanh với bốn vạn căn nhà. Là người giỏi về thuật phong thủy, xem địa lý, đoán cát hung, nên Cao Biền đã dò xét rất kỹ vị trí để xây thành Đại La (mà sau này vua Lý Thái Tổ khi dời đô về Thăng Long đã cho xây mới lại) và dò tìm đầu mối long mạch nước ta. Nhắc đến vua Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn), nhắc đến thành Đại La và kinh đô Thăng Long, vì đều liên quan đến việc Cao Biền sử dụng những thuật lạ của phong thủy để trấn yểm và tiêu hủy khí tượng đế vương ở nước ta thời ấy theo lệnh của vua Đường Ý tông (860 – 873). Tài liệu ghi, khi Đường Ý tông quyết định cử Cao Biền sang nước ta, đã ngầm bảo: “Trẫm nghe An Nam có nhiều ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thâm về địa lý, nên hết sức yểm đi và vẽ hình thế đất ấy đem về cho trẫm xem”. Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả. Riêng núi Tản Viên là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được. Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương của trời Nam. Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm.
Giếng nước thời Đại La La Quý nối chỗ đứt long mạch Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan. Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ. Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai. Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn: “Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn. Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa". "Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo. Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”. Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch sử Việt Nam... Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa. Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến nay. Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao.
Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung biên dịch, đại ý nêu hai mạch: Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất.
Bệ trang trí vũ công thời Lý Đại cương là vậy, về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như lưng con ong; Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý. Đất kết có hai loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt. Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước ta: Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô. Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”.
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 2: Đất phát vương của nhà Trần Nguồn: Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam
Nền móng hoàng thành Thăng Long nơi phát hiện dấu tích xây dựng thời Trần
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 1: Đế vương xuất hiện trên đất bị phương Bắc trấn yểm
Một cuộc “tầm long” Mãi đến đầu thế kỷ 18, sau gần 900 năm xảy ra sự kiện Cao Biền trấn yểm long mạch nước ta, một tài liệu của Trung Quốc với tựa đề Cao Biền di cảo (cùng một số cuốn khác trước kia như An Nam cửu long kinh chẳng hạn), nhắc việc Cao Biền sau khi đem 5.000 quân vượt biển tiến về hướng Nam năm 865 (được chi viện thêm 7.000 quân nữa vào năm sau 866) đã đánh chiếm nước ta và lập bàn đồng giữa trời, dùng thuật phong thủy lẫn những phương pháp thần bí để “tầm long” ráo riết. Vậy “tầm long” là gì? Tầm long là phép tìm kiếm long mạch ngoài đất trống, như cụ Tả Ao chỉ rõ: “Chẳng qua ra đến ngoài đồng/ Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường” và được học giả Cao Trung qua hằng chục năm nghiên cứu sách địa lý của Tả Ao giải thích rõ đại ý dưới đây: Long mạch là mạch đất bên trong có chứa khí mạch, giống như trong cành cây có chứa nhựa cây, nó có thể chạy qua những dãy đồi núi cao, cũng có thể đi rất thấp, luồn qua sông qua suối, thậm chí qua biển, rồi đột ngột nhô lên với những thớ đất lắm khi uốn lượn sà sà trên mặt ruộng như hình con rồng đang cuộn mình vươn tới để ôm chầu vào một huyệt đất nào đó (gọi là long nhập thủ). Nơi đó có thể hạ huyệt chôn cất, hoặc cải táng mồ mả cha ông để con cháu đời sau phát vương, phát tướng, phát trạng, phát tài lộc phú quý. Trước huyệt kết có đất nổi lên cao che chắn (gọi là án), hoặc có gò bao quanh kết hình ấn kiếm, ngựa voi, chiêng trống (gọi là sa).
“Tả Ao địa lý toàn thư” ghi rõ muốn tầm long cần phải biết: Thái tổ sơn của toàn thể các cuộc đất xuất phát từ dãy Himalaya, phải biết Minh đường là nơi nước tụ trước huyệt để nuôi khí lành, biết Thanh long là thớ đất bên trái huyệt và Bạch hổ là thớ đất bên phải huyệt, cả hai ôm chầu vào huyệt kết, biết về long sinh (mạch sống động như mãng xà vương đang phóng tới), long tử (mạch nằm ngay đơ như chiếc đũa tre), long cường (mạch nổi to như sóng lớn), long nhược (mạch lặng lờ như sóng nhỏ lăn tăn). Những điều trên chắc hẳn Cao Biền đã ứng dụng trong cuộc “tầm long” trên toàn cõi nước ta để trấn yểm, nhưng đất phát vương của 12 đời vua Trần (chưa kể thêm đời hậu Trần) đã tồn tại vượt lên ý đồ của Cao Biền. Đó là vùng đất ở nguồn sông Phổ Đà, tức sông Luộc, nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay). Phát vương trên đất kết Đến với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ Lưu, gồm: Lưu Khánh Đàm, Lưu Ba, Lưu Lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó Lưu Khánh Đàm được vua Lý Nhân Tông trọng dụng (khi vua sắp mất vào tháng chạp năm Đinh Mùi 1127 đã cho gọi Đàm vào nhận di chiếu để cùng Lê Bá Ngọc đưa hoàng thái tử là Lý Thần Tông lên ngôi trước linh cữu). Tên tuổi của Lưu Khánh Đàm (và Lưu Ba) đều được Ngô Sĩ Liên nhắc đến trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.
Những tòa tháp ở Yên Tử nơi vua Trần Nhân Tông khởi phát thiền phài Trúc Lâm Đó là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy ở nguồn sông Luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ Tô chuyên buôn tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ Lưu và họ Tô cũng chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà phải đợi đến họ Trần xuất hiện thì “đất kết” mới ứng lên một dòng vương giả mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương Tức Mặc, xứ Hải Thanh, đó là Trần Hấp.
Trần Hấp sinh được 2 con trai là Trần Lý (lý là cá chép) và Trần Thiện. Trần Lý lớn lên kết hôn với Tô Thị Hiền 15 tuổi, thế là hai họ Trần và Tô kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần Lý có người bạn họ Phùng rất giỏi về khoa địa lý, được dân chúng kính nể, thường gọi là “thầy Phùng”. Ông là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” ở thôn Lưu Gia, mà tiến sĩ Đinh Công Vĩ đã ghi lại trong cuốn “Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam” khá thuyết phục như sau: “Ba mũi nhọn chồng lên nhau này là núi Tam Đảo với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đấy là Tổ sơn, long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác. Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường, kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là Tam thai, phía sau có bảy gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”. Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải táng mộ ông bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không thể dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy khác, người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng đúng mệnh số nữa. Thầy Phùng biết họ Trần sắp phát và đã kể lại chi tiết bí mật liên quan đến câu chuyện phong thủy ở gò Sao cho con mình là Phùng Tá Chu (cũng là một nhân vật lịch sử) được biết: Vào ngày lập thu, mộ hiển thủy tổ khảo ở Tức Mặc và hiển thủy tổ tỷ ở Lưu Gia của dòng họ Trần đã dời chuyển đến gò Sao song táng, công việc hoàn tất đúng giờ chính Hợi. Những người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng biết chuyện. Xong việc, bên trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết.
Cây hoa đại 700 tuổi ở Yên Tử do vua Trần Nhân Tông cho trồng
Sau cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông sau này) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia đã tình cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của Trần Lý là Trần Thị Dung, lúc ấy mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với Trần Thủ Độ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố tiếp đó để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần.
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 3: Thành nhà Hồ: sông phù, núi khuyết biết làm sao Tác giả: Giao Hưởng Nguồn: Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam Thành nhà Hồ được xây vào cuối thế kỷ 14 còn gọi là động An Tôn tọa lạc ở làng Tây Giai, huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa) trên cuộc đất có thế phong thủy “còn non” mà các nhà nghiên cứu địa lý xem tựa như “con rồng đang cuộn mình nhưng chưa đủ sức bay lên”…
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 1: Đế vương xuất hiện trên đất bị phương Bắc trấn yểm Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 2: Đất phát vương của nhà Trần
Nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật năm nay đã hơn 80 tuổi, có ngót nửa thế kỷ tìm hiểu và khai quật khảo cổ học, đã dày công nghiên cứu về thành nhà Hồ và phong thủy của thành này trong hơn 40 năm qua. Dưới đây là nội dung của buổi tiếp cận và hỏi chuyện cụ Đỗ Đình Truật về cuộc đất thành Hồ nói trên.
- Thưa ông, thành nhà Hồ ra đời trong bối cảnh lịch sử như thế nào? Thành nhà Hồ có diện tích 10.000m2, xây bằng đá “cự thạch” nghĩa là loại “đá lớn” nặng từ nửa tấn đến 4 – 5 tấn. Thành có 4 cổng: Đông, Tây, Nam, Bắc và đều có lầu để quan sát. Đại môn thành là cửa mở vào chính Đông Nam. Cửa thành gồm có 3 hình cong, rộng 12m, cao hơn 3m. Ở trên có lầu, có hỏa hồi, có cờ hiệu, có các viên quan túc trực thành. Ngôi thành xây bằng đá lớn như vậy là một di sản văn hóa thành lũy cổ hiếm có của Việt Nam và cả Đông Nam Á nữa. Về hoàn cảnh ra đời của thành nhà Hồ, còn gọi thành Tây Giai, trước hết ai cũng biết chủ nhân của ngôi cổ thành nầy là vua Hồ Quý Ly. Ông là phò mã của nhà Trần, đã được Trần Nghệ Tông giao việc nhiếp chính, vì lúc này nhà vua đã già, trong nước suy yếu, bên ngoài giặc Minh dòm ngó toan xâm lược Việt Nam. Lúc ấy, sứ giả nhà Minh liên tục đến Thăng Long yêu sách hết việc này đến việc khác, như thúc ép vua tôi nhà Trần phải cung cấp lương thực, dân phu, gái đẹp, kể cả phải cung cấp thầy chùa, sư sãi, đến sừng tê, ngà voi, chim trĩ và bao nhiêu cũng không vừa lòng chúng. Đứng trước tình thế đó Hồ Quý Ly biết rằng đường nào cũng phải đánh giặc Minh, nên quyết định canh tân đất nước, mà việc đầu tiên là phải xây dựng thành Tây Giai tại động An Tôn để thủ hiểm. Vì vùng này nhiều núi non hang động cách xa Thăng Long hơn một ngày đi ngựa, nằm sau lưng dãy núi Hòa Bình, đường đi lại hiểm trở. Thành xây trong vòng 3 năm thì hoàn thành (1397 – 1400) do Hồ Hán Thương phụ trách và Đỗ Tĩnh làm kiến trúc sư kiêm việc định hướng địa lý và chọn thế phong thủy để thực hiện. - Vậy quan điểm phong thủy của Đỗ Tĩnh như thế nào về cuộc đất của thành nhà Hồ? Quan điểm của Đỗ Tĩnh có khác với Hồ Hán Thương – con ruột của Hồ Quý Ly. Đỗ Tĩnh là người trực tiếp trông coi công việc xây thành có hỏi Hồ Hán Thương rằng: “Cuộc đất ở động An Tôn còn non, tôi xem xây thành thì sự nghiệp không được bền vững, có thể tìm nơi khác không?”. Hồ Hán Thương đáp: “Tôi cũng biết điều đó, nhưng việc quá gấp vì nếu ta chậm trễ mà giặc Minh kéo đến sớm, ta biết chạy ẩn núp ở đâu? Hiện nay tiềm lực ta chưa đủ mạnh để bảo đảm phòng vệ được Thăng Long khỏi cuộc tấn công của giặc”. Nghe vậy Đỗ Tĩnh ngậm ngùi than: “Rồng ở vực sâu khó bay cao?/ Sông phù, núi khuyết biết làm sao?/ Sông cứ hướng đông mà chảy mãi / Núi ngoảnh về sau tỏ phụ phàng / Không duyên khó gặp Thiên địa hội / Trời đã biểu vậy, biết làm sao”. Tạm dịch và dẫn giải: “Sông cứ hướng đông mà chảy mãi, nghĩa là dòng sông Mã mà hợp lưu với sông Chu, nếu gặp nhau sớm ở đoạn trên huyện Cẩm Thủy chứ không chảy mãi một mình về hướng Đông thì tốt quá không việc gì phải bàn. Đằng này sự hợp giang đó muộn quá (còn non) cho nên cơ hội tốt mất đi – đó là cái nghĩa sông phù (âm phù) theo thuyết phong thủy”. Còn “Núi khuyết” nghĩa là: núi ở động An Tôn không tách ra về phía bên kia sông ở bên huyện Thiệu Dương như núi tròn núi trĩnh, thì núi bên phía đông An Tôn không khuyết – nghĩa là được dương trợ. Hai nghĩa này trong học thuyết phong thủy coi một cuộc đất nào có âm phù dương trợ là đất đắc địa. Vậy nên sông cứ hướng Đông mà chảy mãi, núi cứ hướng Nam mà ngoảnh nhìn… có nghĩa là cả sông lẫn núi mạch khí trái ngược nhau, do đó sinh ra cái họa sau này mà Đỗ Tĩnh ám chỉ là quẻ “Thiên địa bỉ”. - Quẻ Thiên địa bỉ liên quan gì đến cuộc đất xây thành của Hồ Quý Ly? Quẻ Thiên địa bỉ nghĩa là 3 gạch dương ở trên ≡ là quẻ càn với 3 gạch âm ở dưới là quẻ khôn ≡ ≡ vậy ta đem để quẻ càn ở trên, quẻ khôn ở dưới là: ≡ càn trên ≡ ≡ khôn dưới Thành ra quẻ Thiên địa bỉ, nghĩa của quẻ là khí trời cứ đi lên, khí đất cứ đi xuống, hai khí âm và dương không gặp nhau, nên là bỉ là xấu, không có gì phát triển được của vạn vật. Vì thế,
ám chỉ cuộc đất xây thành không có duyên hội ngộ của trời đất là vậy! Một điểm khác về địa mộc, là ngôi thành nhà Hồ tọa lạc trên địa vực cả hai dòng sông: sông Chu và sông Mã. Nhưng cửa Đồ Sơn mở ra biển thì lại quá hẹp, quá cạn, không đáp ứng cho địa cuộc thông thoáng và sinh khí quanh thành! Điểm này Quách Phát đã nói “Người to mà cuống họng nhỏ thì làm sao nói là một cơ thể tốt được”. Điểm qua bấy nhiêu ta thấy rõ ràng là phong thủy ở thành Tây Giai “còn non” và nhiều mạch khí phát triển không tốt. “Đất có mà khí ít” chính là vùng nầy, muốn xây dựng cơ đồ, xây thành lớn phải chờ một thời gian lâu nữa (già) mới phát triển, như Hoàng Phúc tướng nhà Minh đã nói: “Có thể vùng đất miền trong (ám chỉ miền trung nước ta hiện nay) qua thiên niên kỷ III thì phát triển mà Bắc triều ta (Trung Quốc) khó khống chế”. - Hoàng Phúc là người cũng từng mưu trấn yểm các cuộc đất tốt của nước ta vào thế kỷ 15? Đúng vậy, Hoàng Phúc là tướng nhà Minh sau khi xâm lược nước ta đã quyết tâm đi yểm trừ khí sông núi khắp nơi trong đó có vùng Thanh Hóa. Đặt chân đến khu vực thành Hồ, Hoàng Phúc bảo rằng ở ven biển của vùng nầy có nhiều huyệt đạo tốt, ý Phúc muốn chỉ vùng đất từ Nga Sơn đến Vinh cần phải yểm nốt. Nhưng không may cho Phúc chưa làm được mưu thâm độc đó thì bị Lê Lợi bắt sống, phải chịu phục mạng và xếp khăn gói về nước. Trở lại chuyện phong thủy thành nhà Hồ, ở đây ta lại gặp cụm từ “vì đất còn non, nên thành Tây Giai chỉ tồn tại có 7 năm” sao lại trùng hợp với thuyết về cuộc đất “con sư tử còn ngủ ở sông Côn” (Bình Định) nơi anh em nhà Nguyễn Nhạc khởi binh…
Ngôi thành nhà Hồ tọa lạc trên địa vực cả hai dòng sông: sông Chu và sông Mã. Nhưng cửa Đồ Sơn mở ra biển thì lại quá hẹp, quá cạn. “Người to mà cuống họng nhỏ thì làm sao nói là một cơ thể tốt được”. Theo Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Quang Minh
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 4: Lam Sơn tụ khí, Cao Bằng ẩn long Nguồn: Duyên Dáng Việt Nam Vùng đất của 2 vua Đất Thanh Hóa đã sinh cho đất nước hai vị hoàng đế anh hùng: Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đánh thắng quân xâm lược Tống vào cuối thế kỷ 10 và Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đánh thắng quân Minh vào đầu thế kỷ 15. Ở đây, chúng tôi đề cập đến một địa danh đã đi vào lịch sử là Lam Sơn, thuộc huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), là nơi các nhà sử học, phong thủy học, thường nhắc đến với những chiêm nghiệm về địa lý, về nguyên khí hun đúc nên vùng địa linh nhân kiệt này, để lại những ghi chép đáng để chúng ta ngày nay suy ngẫm.
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 1: Đế vương xuất hiện trên đất bị phương Bắc trấn yểm Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 2: Đất phát vương của nhà Trần Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 3: Thành nhà Hồ: sông phù, núi khuyết biết làm sao
Di tích thành nhà Mạc ở Cao Bằng Chẳng hạn, sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn nhìn quang cảnh quanh đó và chợt thấy có đàn chim đông đúc đang ríu rít bay lượn quanh chân núi như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim đàn về tổ, bèn nói: “đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định “dời nhà đến ở đấy”. Những ghi chép trên của Ngô Sĩ Liên tuy khá vắn tắt, song cũng đã thông tin về một trong các yếu tố liên quan đến phong thủy của vùng đất phát vương. Tức vùng đất không thuộc về nơi “sơn cùng thủy tận”, cũng không phải nơi “tuyệt địa” vắng vẻ. Mà là nơi “chim tụ hội thành đàn” đông vui, ríu rít, là đất “tụ khí tàng phong” khác hẳn với những miền hung địa. Hung địa theo thuật ngữ phong thủy là đất chu tước bi khốc (chim cất tiếng kêu sầu), hoặc đất bạch hổ hàm thi (con hổ đang ngậm xác chết trong miệng), hoặc xương long vô túc (rồng không có chân, rồng bị tật nguyền)… Như thế, Lam Sơn là đất cát tường, đất tụ nghĩa, đất xưng vương, mà người đứng lên đảm đương việc mở đầu nghiệp đế của nhà Lê là Lê Lợi.
Thật vậy, khi tổ nhà Lê là cụ Hối dời về ở Lam Sơn thì chỉ sau 3 năm đã gây thành sản nghiệp lớn và từ đó trở đi họ Lê làm quân trưởng một phương, trong nhà lúc nào cũng có tới hơn 1.000 tôi tớ, trải các đời sau sinh ra Lê Lợi với “thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có nốt ruồi son, tiếng nói như chuông,
dáng đi tựa rồng, bước tới như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi thường” (Đại Việt sử ký toàn thư). Theo truyền thuyết, nhà họ Lê được các thầy địa lý và các nhà sư thượng thừa về khoa phong thủy chỉ dẫn và báo mộng cho biết một huyệt đất phát vương (ở động Chiêu Nghi). Theo cụ Tả Ao, đất phát vương phải là đất hợp đủ các điều kiện được cụ diễn ca qua mấy câu lục bát sau đây: Ngũ tinh cách tú triều nguyên / Kim, mộc, thủy, hỏa bốn bên loan hoàn / Thổ tinh kết huyệt trung ương / Ấy đất sinh thánh sinh vương đời đời. Muốn hiểu các câu lục bát của cụ Tả Ao về đất phát vương nêu trên hẳn phải chú trọng, quan sát hình dáng của cuộc đất (theo ngũ hành) gồm: hình tròn thuộc kim tinh (con Kim), hình doi thuộc mộc tinh (con Mộc), hình vuông thuộc thổ tinh (con Thổ), hình nhọn thuộc hỏa tinh (con Hỏa), hình sóng thuộc thủy tinh (con Thủy). Theo đó con Thổ phải ở vị trí chính giữa (kết huyệt trung ương) và các con Kim, Mộc, Hỏa, Thủy sẽ tuần tự vây quanh.
Thực hư về đất phát vương ở Chiêu Nghi như thế nào chưa bàn tới. Chỉ căn cứ trên chính sử, thì năm Lê Lợi lên 33 tuổi (Mậu tuất 1418) đã dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, trong khoảng 10 năm sau đó đuổi sạch quân Minh xâm lược, bắt sống tướng tá và 10 vạn viện binh của nhà Minh đều tha cả, không giết, đại định thiên hạ, lên ngôi hoàng đế vào ngày rằm tháng tư (Mậu Thân 1428) và lập tức xuống chiếu tha thuế cho dân chúng cả nước: “các thứ thuế như tô ruộng, vàng bạc, đầm phá, bãi dâu trong cả nước đều tha (không thu thuế) trong 2 năm”. Và ban bố nhiều điều lợi ích cho dân chúng. Đó là cách tích đức của bậc đế vương, vừa tỏ lòng thương dân, vừa thuận ý trời (thuận thiên), vừa để phúc cho con cháu đời sau. Điều đó phù hợp hoàn toàn với lời giáo huấn lưu truyền từ
lâu đời trong truyền thống nhân nghĩa và trong đời sống tinh thần của các thầy địa lý và các nhà phong thủy là “Tiên tích đức, hậu tầm long” – đại ý có nghĩa trước hết cần phải chứa đức, rồi sau đó hãy tìm long mạch… Phải chăng việc tích đức của Lê Lợi đã dẫn đến kết quả tốt đẹp là sự tồn tại của nhà Lê kéo dài từ thời Lê sơ với 10 đời, gồm 100 năm (1428 – 1527), đến thời Lê trung hưng với 16 đời, gồm 265 năm nữa (1533 – 1789) qua các triều Mạc, chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Đất ẩn náu của bậc đế vương Trong khoảng thời gian đó, Mạc Đăng Dung ép vua Lê phải nhường ngôi cho mình, lập nên nhà Mạc từ năm 1527 đến 1592 thì sụp đổ. Trước khi sụp đổ, vua Mạc thứ năm là Mạc Mậu Hợp đã sai người đem lễ vật đến thăm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và xin hỏi về thế cuộc. Trạng Trình chỉ đáp một câu ngắn gọn: “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể” – nghĩa là đất Cao Bằng tuy là chật hẹp nhưng có thể giữ được về sau… Quả đúng như lời Trạng Trình nói, sau này khi nhà Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi thành Thăng Long và bị truy đuổi tứ tán, thì con cháu nhà Mạc nghe theo lời chỉ dẫn của Trạng Trình đã chạy về cố thủ ở đất Cao Bằng và tồn tại thêm 96 năm nữa mới bị thôn tính, mất hẳn. Theo các nhà phong thủy, những bậc thầy về địa lý, thì Cao Bằng là đất dung thân hiểm yếu, ẩn náu của bậc đế vương, nơi xuất phát của những cơn sấm sét về xuôi. Chính vì thế, từ thời Đường Ý Tông (Trung Quốc) khi Cao Biền xâm lăng nước ta đã cho xây thành Đại La (ở Thăng Long – Hà Nội) và thành Nà Lữ (ở Cao Bằng). Về sau thành Nà Lữ được người Việt trấn giữ, trừ bùa yểm của Cao Biền. Đến nay di tích thành Nà Lữ vẫn còn ở làng Nà Lữ, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, có hình chữ nhật dài 800m, rộng 600m, xây bằng gạch và bằng đá tảng với 4 gò đất nổi mang tên: Long, Ly, Quy, Phượng. Gò Phượng nằm ở trung tâm. Khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng đã chiếm thành Nà Lữ để đóng đô và xây thành đá trên núi để phòng ngự.
Cần ghi nhận thêm, đến thời hiện đại, Cao Bằng vẫn là mảnh đất “huyền thoại” về hai phương diện lịch sử và địa lý phong thủy. Vì Cao Bằng có hang Pắc Bó là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm căn cứ lãnh đạo cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 – 1945, có rừng Trần Hưng Đạo ở xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, là nơi đại tướng Võ Nguyên Giáp tuyên bố thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ngày 22.12.1944 – là tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay. Xem thế từ Cao Biền, đến thời Lê – Mạc, cho tới nay đất Cao Bằng vẫn là nơi “tụ khí tàng phong” hết sức cát tường theo cách nhìn phong
thủy.
Theo Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Lưu Quang Phổ
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 5: Một cuộc đất làm nghiêng thiên hạ Tác giả: Giao Hưởng Nguồn: Duyên Dáng Việt Nam
Sơ đồ Hoàng thành Thăng Long
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 1: Đế vương xuất hiện trên đất bị phương Bắc trấn yểm Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 2: Đất phát vương của nhà Trần Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 3: Thành nhà Hồ: sông phù, núi khuyết biết làm sao Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 4: Lam Sơn tụ khí, Cao Bằng ẩn long
NGÔI MỘ TRỜI CHO Đó là cuộc đất gắn liền với câu chuyện lịch sử liên quan đến người mở đầu cơ nghiệp của các đời chúa Trịnh là thái sư Trịnh Kiểm. Ông người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa (có sách chép ông sinh ngày 24 tháng 8 năm Quý Hợi 1503 tại thôn Hổ, gần sông Mã, thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay) vốn mồ côi cha từ nhỏ, ăn ở rất có hiếu với mẹ, hàng ngày đi chăn trâu và tập trận “cờ lau” như vua Đinh thời trước. Lớn lên, ông là một tay kỵ mã tài giỏi nên tướng nhà Mạc là Ninh Bang hầu thâu nhận, giao chăm sóc huấn luyện đàn ngựa chiến hay nhất của mình ở sách Thọ Liêu. Được ít lâu, có người khuyên Trịnh Kiểm không nên cộng tác với tướng nhà Mạc nữa, vì nhà Mạc phi nghĩa (Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê năm 1527) mà hãy tìm đến Nguyễn Kim (là tướng của nhà Lê) để cùng chống Mạc. Trịnh Kiểm nghe theo, nửa đêm bỏ Ninh Bang hầu trốn đi, mang theo con ngựa chiến đầu đàn. Ninh Bang hầu hay được, rất tức giận, bắt mẹ của Trịnh Kiểm nhốt vào một cái củi tre, lấy đá lớn cột lại, thả xuống vực nước sâu. Khi chiếc củi chìm xuống đáy, thì đêm ấy lạ thay nước sông như sôi lên, sấm chớp cùng mưa nguồn cuồn cuộn đổ về, nước chảy mạnh như muốn xô trôi cả hai bờ sông cũ. Sáng ra ngừng mưa, người quanh vùng hết sức kinh ngạc khi thấy nơi vực xoáy nhận chìm mẹ Trịnh Kiểm chiều hôm trước bỗng nổi lên một gò đất mới sạch sẽ, sáng sủa, trông như một ngôi mộ “trời cho” đang ôm chôn thi hài của bà mẹ Trịnh. Tin đồn lan nhanh, một vài thầy địa lý đã tìm đến tận nơi xem xét địa thế của gò đất rồi đoán định rằng con cháu họ Trịnh từ đây sẽ bắt đầu phát đạt lớn. Cũng từ đó truyền đi câu tiên tri: “phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, tộ truyền bát đại, tiêu tường khởi họa”. Câu ấy có nghĩa: con cháu họ Trịnh tuy không phải là “đế”, cũng không phải là “bá” (phi đế phi bá), nhưng quyền thế sẽ rất lớn có thể làm nghiêng cả thiên hạ (quyền khuynh thiên hạ) và sẽ truyền đến đời thứ 8 (bát đại) thì cạn phước và họa sẽ từ trong nhà khởi ra. Quả là sau này Trịnh Kiểm nắm hết quyền dưới thời Lê trung hưng và truyền được 8 đời. Một số nhà sử học như Trần Trọng Kim đã tổng luận: “họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lên, rồi giữ lấy quyền chính, lập ra nghiệp chúa, lưu truyền từ Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) đến Trịnh Khải được 216 năm (1570 – 1786) là hết”. Mầm mống suy tàn bắt nguồn từ đời thứ 8 là Trịnh Sâm với hai sai lầm lớn của ông. Một là đối với nhà Lê, ông đã phế hoàng tử Lê Duy Vĩ rồi sai giết đi. Hai là đối với nội tình phủ chúa, ông đã truất con lớn (là Trịnh Khải) để lập đứa con nhỏ do ái phi của ông là Đặng Thị Huệ sinh ra (Trịnh Cán) làm thế tử, gây bất bình, khiến kiêu binh nổi dậy, phế bỏ Trịnh Cán, đưa Trịnh Khải lên. Nhưng Trịnh Khải lên chưa bao lâu lại bị quân Tây Sơn từ phía Nam tấn công ra Thăng Long. Mặc dầu Trịnh Khải rất dũng cảm, lên voi chiến xông trận, nhưng thất thế phải chạy lánh lên Sơn Tây rồi bị bắt, đã dùng gươm tự sát. Hay tin đó Nguyễn Huệ lệnh quân Tây Sơn tống táng Trịnh Khải đúng theo vương lễ. Trịnh Khải mất, Trịnh Bồng kế nghiệp chúa nhưng đã bỏ đi tu trong những ngôi chùa hẻo lánh trên vùng núi phía Bắc (người ta cho Hải Đạt thiền sư chính là Trịnh Bồng), tương truyền đã để lại mấy câu: Hai trăm năm đó đủ điều. Cơ đồ tựa tiếng chuông chiều vừa tan…
Tượng Bình An Vương Trịnh Tùng mặc triểu phục có bổ tử chạm hình kỳ lân UY QUYỀN NHƯ “NƯỚC CHẢY VÀO CHỖ TRŨNG” Trở lại chuyện phong thủy liên quan đến sự xuất hiện của các đời chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam qua hơn hai thế kỷ, một số các thầy địa lý và các nhà nghiên cứu phong thủy cho rằng, gò đất nơi chôn vùi mẹ Trịnh Kiểm không tách rời với dòng lưu chuyển của “thủy”. Mà “thủy” (nước) theo cụ Tả Ao chỉ rõ: Nước phân chữ bát phân minh. Hai bên chảy thuận, loan hình tống long. Cửa trời trên đã mở thông. Thượng phần là đấy chính long thực vào… Đại ý cho biết khi nước chảy từ Tổ sơn phân ra “chữ bát” thì nguồn nước đó đang trổ cửa cho long mạch chạy tới trước. Hễ long mạch chạy tới chỗ nào, nước sẽ theo đến chỗ ấy, khi gần khi xa, khi chia nhánh này, nhánh nọ, nhưng cuối cùng cũng đến chỗ nước tụ, tức là chỗ kết huyệt tốt (nước tống giao, hạ hợp). Cũng có những thế nước chảy không tốt, bất lợi, như chỗ nước gầm réo kêu thương (thủy khấp khốc) là nơi có huyệt xấu. Chỗ nào có Đào hoa thủy là sẽ có người đa tình, đa dâm. Chỗ nào nước chảy tràn lan như rèm cuốn (nội đường chi thủy, quyển liêm) là tiền tài sẽ tiêu tán. Chỗ nào nước chảy xuyên qua thành xoay quanh cuộc đất (thủy phản lộ, xuyên thành) là trước sau sẽ bị hại. Chỗ nào nước chảy cắt chân núi (thủy tà sơn túc) sẽ dẫn đến hao của, hại người… Suy ra chỗ gò đất ôm thi hài của mẹ Trịnh Kiểm nổi lên đột ngột giữa vực kia không nằm trong các thế nước chảy bất lợi nêu trên. Mà trái lại, như các thầy địa lý nói, nó báo trước sự hưng thịnh của tương lai Trịnh Kiểm, bắt đầu từ việc Trịnh Kiểm chạy đến thôn Cổ Lũng sau ngày mẹ chết thảm, để vào giúp việc dưới trướng Nguyễn Kim (ông tổ khai nghiệp các đời chúa Nguyễn).
Đồ sứ kí kiểu Việt Nam thời Lê – Trịnh (1533 – 1788) Nguyễn Kim vốn là Điện tiền tướng quân của nhà Lê đã thâu nạp, trọng dụng Trịnh Kiểm và đem con gái của mình là Nguyễn Thị Ngọc Bảo gả cho. Cuộc hôn nhân này là bệ phóng đưa Trịnh Kiểm lên đỉnh cao quyền lực. Vì khi Nguyễn Kim mất (bị hàng tướng nhà Mạc đầu độc) toàn bộ binh quyền chuyển qua tay Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm năm ấy 42 tuổi, quyền uy rất lớn, lập hành điện ở Thanh Hóa cho vua Lê ở, chiêu tập hào kiệt làm chủ giang sơn phía Nam từ Thanh Hóa trở vào (gọi Nam triều) để chống lại nhà Mạc bấy giờ vốn đang làm chủ vùng đất từ Sơn Nam trở ra (gọi Bắc triều). Khi cuộc chiến Nam – Bắc triều còn đang tiếp diễn thì vua Lê Trang Tông mất, vua Trung Tông lên thay được 8 năm cũng mất, chưa có ai kế vị. Trong tình cảnh ấy, Trịnh Kiểm có ý muốn xưng làm vua nhưng còn lưỡng lự, chưa dám, mới sai sứ giả bí mật ra Hải Dương xin ý kiến cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình lặng im một lúc không nói gì, rồi đột nhiên gọi người giúp việc trong nhà ra lớn tiếng bảo: “năm nay mất mùa, thóc giống không được tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo”. Xong lại sang bên chùa bảo mấy chú tiểu: “Hãy giữ chùa thờ Phật thì sẽ được ăn oản”. Hai câu nói ấy hàm ý rằng: hãy tìm con cháu vua Lê (tìm giống cũ) và hãy giữ ngôi nhà Lê (giữ chùa thờ Phật) sẽ được mưa móc, ngọt ngào (ăn oản). Trịnh Kiểm hiểu ý Trạng Trình, mới đi tìm cháu ruột của Lê Lợi là Lê Duy Bang đưa lên ngôi, còn mình vẫn giữ vị trí làm chúa, song thực quyền vẫn nằm hết trong tay như “nước chảy vào chỗ trũng”…. Theo Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Tư liệu Trần Đình Sơn
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 6: Trạng Trình với những sấm truyền lịch sử
Tác giả: Giao Hưởng Nguồn: Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam Cho đến nay ở Việt Nam chưa có ai sánh được danh tiếng về tài tiên tri và những sấm ký lưu truyền theo dòng lịch sử của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 1: Đế vương xuất hiện trên đất bị phương Bắc trấn yểm Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 2: Đất phát vương của nhà Trần Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 3: Thành nhà Hồ: sông phù, núi khuyết biết làm sao Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 4: Lam Sơn tụ khí, Cao Bằng ẩn long Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 5: Một cuộc đất làm nghiêng thiên hạ
Ông giúp đỡ không chỉ riêng chúa Nguyễn dựng nghiệp lớn với 9 đời chúa, 13 đời vua, mà vạch đường cho chúa Trịnh biết cách “thờ Phật ăn oản”, cho nhà Mạc chạy về “ẩn tại Cao Bằng”. Từ đâu Trạng Trình tiên đoán về thế sự và các vùng đất “ẩn long” hoặc sẽ “vạn đại dung thân” chính xác như thế?
Dâng quả cầu mùa cúng Phật tại một làng Đàng Trong Nhà tiên tri bên sông Tuyết Hàn Có thể nói, ngoài tài năng thiên phú “bất khả tư nghì” ra, ông còn được “đề dẫn” từ lúc trẻ bởi hai nhân vật lớn trong đời ông: người mẹ và người thầy của ông. Về người mẹ, thân mẫu của Trạng là bà Nhữ Thị Thục (con gái của quan thượng thư Nhữ Văn Lan) là người tinh thông về khoa chiêm tinh và dịch lý, đã tự chấm lấy lá số tương lai và biết mình sẽ sinh quý tử. Nhưng muốn vậy, bà cần phải kết duyên với một người nào đó có cung mệnh tương ứng nên đợi chờ mãi đến ngưỡng cửa của tuổi 30 vẫn chưa lấy ai.
Cuối cùng bà quyết định tự tìm đến ông đồ nho nhà nghèo Nguyễn Văn Định để kết duyên, vì bà đã nhìn ra nơi ông đồ ở chốn thôn dã này là người sẽ cùng bà sinh ra một nhân tài. Tương truyền trong đêm hợp hôn có trăng sáng, bà ra ngoài trời lấy một cây trúc cắm giữa sân và dặn ông Văn Định khi nào ánh trăng chiếu xuống không còn thấy bóng dưới gốc trúc nữa mới được vào phòng hoa chúc. Nhưng ông Văn Định không đợi được, đã vội vào ăn nằm với bà khi dưới gốc trúc vẫn còn một chút bóng soi, nên bà trách chồng và bảo nôn nóng như thế chỉ sinh được người con đỗ Trạng, chứ không gầy nên nghiệp đế. Người con đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, đỗ Trạng nguyên năm 1535 thời Mạc, làm quan đến Thượng thư Bộ Lại, Thái phó, là thầy dạy học của thái tử Mạc Phúc Hải, được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình Quốc công, nên người đời thường gọi Trạng Trình và những tiên tri của ông được tập hợp với tựa: Trình Quốc công sấm ký… Về người thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học với Bảng nhãn Lương Đắc Bằng – là một vị quan lớn thanh liêm, chính trực, từ quan rời kinh đô Thăng Long về quê nhà Thanh Hóa mở trường dạy học, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng theo thầy về xứ Thanh. Thầy Lương Đắc Bằng nắm giữ bộ Thái ất thần kinh và đã truyền cho Nguyễn Bỉnh Khiêm yếu chỉ của bộ sách đó, cùng những ứng dụng trong lĩnh vực chiêm tinh và tiên đoán liên quan đến khoa địa lý và phong thủy. Sau này, khi biết trước sự nhiễu nhương của thời cuộc bên ngoài và đầu mối suy sụp trong nội tình nhà Mạc, Trạng Trình đã dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng hành nhưng vua Mạc không chấp thuận, ông treo mũ từ quan về quê, dựng am Bạch Vân bên bờ sông Tuyết Hàn. Chính ở đó, về sau các vua Mạc, chúa Trịnh và cả chúa Nguyễn đều lần lượt phái sứ giả đến yết kiến để xin cố vấn về các giải pháp trước mắt, hoặc tiên tri chỉ dẫn về những điều hệ trọng liên quan đến sự sống còn của họ trong tương lai…
Cảnh sinh hoạt của một nhóm người Đàng Trong Vùng đất vương gia như sấm truyền Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim. Nguyễn Kim là người có công lớn đã tập hợp quân tướng khởi nghĩa chống nhà Mạc cướp ngôi và giúp nhà Lê giành được đất Thanh Hóa, Nghệ An – lập nên triều Lê trung hưng.
Sau Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc đầu độc chết, quyền hành về tay con rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm lo sợ các con trai của Nguyễn Kim (là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng) tranh mất quyền của mình nên đã tìm cách ám hại Nguyễn Uông trước. Thấy vậy Nguyễn Hoàng rất lo sợ, xem mình như chim cá trong lồng son, có ngày sẽ bị ám hại như anh mình (Nguyễn Uông). Vì thế Nguyễn Hoàng đã bí mật sai sứ giả tìm cách lặn lội ra ngoài Bắc, đến yết kiến Trạng Trình xin sấm giải. Trạng Trình dạy: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Vâng theo lời ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin với Trịnh Kiểm cho mình vượt Hoành sơn vào trấn thủ vùng Thuận Hóa để tránh xa “dao thớt” của người anh rể họTrịnh. Được Trịnh Kiểm đồng ý và vua Lê cho phép, Nguyễn Hoàng đem gia quyến rời Thanh Hóa năm 34 tuổi (Mậu Ngọ 1558) và cùng tùy tướng của mình chỉ huy hàng nghìn quân bản bộ vượt biển để lại dải Hoành sơn phía sau, tiến về phương Nam ở phía trước, vào thẳng cửa Yên Việt, đóng dinh ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị ngày nay. Những thập niên đầu trên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng ra sức khai hoang lập ấp, ổn định dân tình, giữ quan hệ thuận thảo với vua Lê, chúa Trịnh ngoài Bắc, được vua Lê sắc phong làm Thái phó và giao toàn quyền quyết định mọi việc ở vùng Thuận Hóa, định lệ nộp thuế 400 cân vàng bạc và 500 tấn lúa hằng năm. Nguyễn Hoàng mất năm Quý Sửu 1613, thọ 89 tuổi, trấn thủ đất Thuận Hóa – Quảng Nam trong 56 năm (được truy tôn: Thái tổ Gia dụ hoàng đế), có 10 người con trai, trước khi mất dặn lại con cháu phải hết sức giữ gìn đất Thuận Quảng. Vì đó là nơi phía Bắc có Hoành Sơn với thế núi chắn ngang che chở, phía Nam có Hải Vân hùng vĩ là yết hầu đưa sinh khí vào Lính Đàng Trong “vùng đất vương gia” (tức kinh thành Phú Xuân- Huế sau này). Có giữ vững Thuận Quảng mới mong dựng nên cơ nghiệp muôn đời như sấm ký của Trạng Trình truyền lại “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Theo các nhà viết sử có uy tín như Trần Trọng Kim “núi Hoành sơn tức núi Đèo Ngang ở Quảng Bình” vốn là một nhánh của dãy Trường Sơn đột nhiên kéo đâm ra sát biển. Đứng từ đỉnh cao nhất của Hoành Sơn (khoảng 250m) nhìn bao quát sẽ thấy hiện lên dưới tầm mắt màu xanh ngút ngàn của rừng núi phía Tây, biển rộng mênh mông trải dài như tấm thảm xanh về phía Đông, thấp thoáng những hòn đảo nhỏ nhô lên mặt nước như đang chầu về “sơn lâm”. Con đường xuyên Đèo Ngang thời trước nằm trên đường thiên lý, cách Đồng Hới khoảng 80 cây số, chạy ngoằn ngoèo qua các sườn đồi cheo leo, men theo vực sâu, đưa người hành trình theo chiều dọc từ hướng Bắc vào Nam. Nhìn dưới góc độ phong thủy, Hoành Sơn đi vào các tài liệu nghiên cứu về địa lý xưa và cả thời nay.
Ngay các tác giả người nước ngoài như học giả Léopold Cadière, chủ bút tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hue, khi luận về các chi tiết phong thủy ứng dụng xây kinh thành Huế đã nhắc đến “Hoành Sơn che chở” từ xa đối với nhà Nguyễn. Những nhà sử học, địa lý học khi viết đến lịch sử triều Nguyễn đều nhắc “Hoành Sơn” thời khởi nghiệp.
Cảnh sinh hoạt vui chơi ( đá cầu) tại một làng Đàng Trong Nhà phong thủy học Cao Trung khi luận về long mạch trong Tả Ao địa lý toàn thư đã đưa “Hoành Sơn” vào nội dung phân tích và nêu rõ hai phần trong khoa địa lý gồm: Loan đầu và Lý khí. Phần Loan đầu là những gì mắt ta nhìn thấy trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết, hoặc một dòng nước thuận nghịch, một thế núi quanh co. Nếu cơ nghiệp chúa Trịnh mở đầu với mối liên hệ về một cuộc đất thuộc vùng “thủy” (nước), thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mở đầu với mối liên hệ thuộc vùng “sơn” (núi). Nói về “sơn”, cụ Tả Ao diễn giải nếu thấy núi hình thành theo dạng “một vòng bọc lại” (nhất trùng bão khóa) rồi “một vòng mở ra” (nhất trùng khai) thì ở đó có đất công hầu. Nếu lại thấy một dạng núi “vòng ôm” (nhất sơn loan bão) rồi “ngoảnh lại” (nhất sơn cố) là ở đó có đất công khanh. Trong tập Địa lý gia truyền, cụ Tả Ao cũng chỉ rõ nếu thấy núi cao bao quanh một vùng thì hãy tìm huyệt ở chỗ thấp (chúng sơn cao tầm đê) – còn chung quanh đều thấp thì hãy tầm huyệt ở chỗ cao (chúng sơn đê tầm cao). Đối chiếu và liên tưởng tới trường hợp “Hoành Sơn”, những chỉ dẫn phong thủy và địa lý nêu tổng quát ở trên cũng cho ta thấy qua phần “loan đầu” (có thể nhìn trực tiếp bằng mắt để đoán định), sau đó đến phần “lý khí” (liên quan đến lý học, thiên văn) chắc hẳn những gì nêu trong Thái ất thần kinh đã được vận dụng bởi nhà văn hóa, nhà tiên tri lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhờ vậy, cộng với khả năng thiên phú, Trạng Trình đã chỉ đúng con đường phải đi cho chúa Nguyễn. Nguồn: Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam - Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Tư liệu Trần Đình Sơn
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 7: Ngọn đồi thiêng của nhà Nguyễn
Đó là đồi Hà Khê nổi danh về phương diện phong thủy với thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” (long bàn hổ cứ) từng chiếm vị trí đặc biệt tôn nghiêm trong tâm thức và ký ức của các vua chúa nhà Nguyễn… Đó là đồi Hà Khê nổi danh về phương diện phong thủy với thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” (long bàn hổ cứ) từng chiếm vị trí đặc biệt tôn nghiêm trong tâm thức và ký ức của các vua chúa nhà Nguyễn…
Chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê Nơi dồn tụ linh khí Sau ngày dẫn quân bản bộ vượt biển vào đất Quảng Trị để gầy dựng một giang sơn riêng nằm về phía Nam của dải Hoành Sơn, chúa Nguyễn Hoàng đã mở cuộc dò tìm địa thế, đi xem xét hình thể núi sông vùng tả ngạn sông Hương và phát hiện: “Giữa đồng bằng xã Hà Khê (cách trung tâm TP. Huế hiện nay khoảng 5-6 cây số về hướng Tây) nổi lên một gò cao (đồi Hà Khê) có hình tựa như đầu một con rồng đang ngoảnh lại, phía trước đồi có con sông lớn uốn khúc bọc quanh, phía sau có hồ nước lớn, tạo thành phong cảnh tốt tươi. Nhân đó, chúa thượng hỏi chuyện người địa phương, họ đều nói rằng gò nầy rất thiêng, tục truyền một đêm kia bỗng có một bà già mặc áo đỏ quần xanh hiện ra trên đỉnh gò nói rằng: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến xây chùa trên gò này để kết tụ khí thiêng và giữ bền long mạch”. Nói xong liền biến mất, người trong vùng gọi bà là Thiên Mụ – tức bà già ở cõi trời xuống. Chúa (Nguyễn Hoàng) cho nơi ấy có linh khí, mới dựng chùa, gọi là chùa Thiên Mụ” (theo Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam thực lục). Những học giả phương Tây như A. Bonhomme cũng đề cập tới việc Nguyễn Hoàng đi dò long mạch “không một hòn núi nào mà ngài không đặt chân đến – không một dòng sông nào mà ngài chẳng lưu tâm” để rồi tìm ra thế đất tốt của đồi Hà Khê và lập chùa Thiên Mụ trên ấy, dẫn đến những câu chuyện được dân gian thần bí hóa như: “khi chùa xây xong chưa bao lâu thì có một con rùa khá lớn từ dưới sông Hương bò lên đồi Hà Khê để vào khuôn viên chùa cư trú và mỗi lần khát nước rùa lại bò về hướng hồ nước sau chùa để uống, dần dà rùa đã làm đổ hàng rào (La thành cao 2,30m) phía sau chùa. Con rùa kỳ quặc trên đã bị sét đánh trong một cơn giông hãi hùng và bị hóa đá tại chỗ, đến nay vẫn nằm đó” (tạp chí BAVH-1915). Cạnh những câu chuyện dân gian tương tự như đã nêu, thực tế lịch sử cho thấy đồi Hà Khê và ngôi Quốc tự Thiên Mụ được rạng rỡ hoặc bị điêu tàn cũng tùy theo thịnh suy của từng thời.
Chùa Thiên Mụ
Rạng rỡ nhất là thời Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu với hàng chục công trình kiến trúc mới, cho đúc đại hồng chung, tức quả chuông lớn nhất thời ấy (1710) nặng đến 2.052kg, cao 2,50m, đường kính ở miệng rộng 1,34m. Tiếng đại hồng chung này đã đi vào ca dao: Gió đưa cành trúc la đà/ Hồi chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương và vang vào hồn thơ của vua Thiệu Trị sau này để nhà vua viết bài thơ Thiên Mụ chung thanh (Tiếng chuông Thiên Mụ) với mấy câu mở đầu: “Thiên Mụ tự, Đình độc trừ tinh. Sơn xuyên Linh sàng. Long bàn hồ thủ đao củng kinh thành. Hổ khiếu cao tôn phủ lâm Hương phái”. Nghĩa là chùa Thiên Mụ là nơi kết tụ linh khí của trời đất và núi sông, nơi rồng uốn khúc nhìn lại chốn kinh thành (long bàn hồi thủ) và nơi cọp ngồi trên cao cất tiếng rống vang động cả dòng sông bên dưới (hổ khiếu cao tôn). Rõ ràng nhà vua đã nói đến thế đất “long bàn hổ cứ” của đồi Hà Khê. Nếu không có đồi Hà Khê chắc chắn sẽ không có chùa Thiên Mụ như ta đã thấy. Chùa được trùng tu năm 1665 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, năm 1738 – 1744 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát nữa. Các tác giả biên soạn tập Thần Kinh nhị thập cảnh – thơ vua Thiệu Trị (NXB Thuận Hóa 1997) cho biết chùa tọa lạc trên đồi Hà Khê là “một ngọn đồi chạy theo hướng Bắc Nam, có bề mặt gần như hình chữ nhật, kích thước 313m x 76m (…) địa thế của chùa đúng là “sơn triều thủy tụ” hết sức hữu tình. Từ xa nhìn lại, đồi Hà Khê tựa như hình dáng một con rùa khổng lồ, cõng trên lưng ngôi chùa cổ kính đang cúi đầu xuống để uống nước sông Hương”. Một tác giả khác ghi rõ: “trong viễn tượng địa lý phong thủy xưa thì chùa Thiên Mụ tọa ở phương vị “Cấn” (Tây – Bắc) để hướng về phương vị “Tốn” (Đông – Nam) đúng với hướng của kinh thành Phú Xuân”.
Sông Hương nhìn từ đồi Hà Khê Điêu tàn nhất là thời quân Trịnh từ phía Bắc tràn vào chiếm Phú Xuân (1774) và thời Tây Sơn tiếp đó (1786 – 1801) đã đẩy cơ nghiệp gầy dựng hơn 200 năm sụp đổ khiến chúa Nguyễn phải chạy về phía Nam, để lại đồi Hà Khê hoang vắng và cảnh chùa Thiên Mụ tàn tạ trong binh lửa. Trọng thần của nhà Tây Sơn là Phan Huy Ích khi đến đó đã ngậm ngùi ghi nhận những đổ nát, nền chùa bị san bằng để làm đàn tế lễ.
Khi vua Gia Long khôi phục Phú Xuân và lên ngôi (1802) đã cho tôn tạo lại chùa Thiên Mụ (1815) và nói với quần thần đại ý rằng: “đây là nơi linh thiêng của tiên đế ta đã chọn”. Vua Minh Mạng tiếp tục công trình (1831) và các đời Thiệu Trị, Thành Thái, Khải Định đều có dựng bia ở chùa, nay vẫn còn. Nơi "Sơn triều thủy tụ" Khoa phong thủy ngày nay được hỗ trợ và soi sáng thêm bởi một số ngành khoa học như địa chất học và khảo cổ học. Về địa chất học, tài liệu của Hà Xuân Dương cho biết đồi Hà Khê là một khối đá hoa cương nằm trong dãy núi đá vôi vùng Long Thọ – Lại Bằng. Dưới chân đồi có một vực nước rất sâu với dải đá nhọn lởm chởm dưới đáy. Đó là kết quả của quá trình cấu tạo địa chất trong khu vực đồi Hà Khê. Cụ thể, dòng nước ngầm dưới đáy sông Hương chảy qua hàng thiên niên kỷ đã bào mòn lớp đá vôi để lộ ra phần đá hoa cương cứng cáp. Vì thế, khi sông Hương chảy đến đó không thể băng qua được, nên phải lượn vòng trước mặt đồi, góp nước từ xa đổ về vực sâu, tạo thành thế “thủy tụ”. Từ đỉnh đồi nhìn xuống, chỗ “thủy tụ” như một thế giới huyền ảo vào những ngày đầu thu sương giáng và long lanh ánh nguyệt vào những đêm rằm, mà có lẽ nhạc sĩ Văn Cao từng giong thuyền đến đó nên đã viết: Một đêm đàn lạnh trên sông Huế – Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh… Từ đỉnh đồi nhìn lên, thấy xa xa hiện rõ dãy núi “trấn sơn” Kim Phụng: “dãy núi này rất cao,ở về phía Tây Nam. Nó cùng chạy với Trường Sơn hùng vĩ, nhưng vào đến sơn phận của huyện Phong Điền thì một ngọn đồi tách khỏi dãy Trường Sơn để chạy xuyên theo hướng Đông Nam vào đến tận sơn phận của làng Cổ Bi”. Từ đó, trên đường đi, sơn mạch của dãy núi ấy có đoạn nổi lên (thành rú Lại Bằng), có đoạn lại chìm xuống dưới các cánh đồng, rồi nổi lên lần nữa thành gò, thành đồi – cứ thế kéo dài ra trông như một con rồng đang uốn lượn lên xuống qua nhiều núi, nhiều rừng (như Phụ Ô, Bồn Trì, Bồn Phổ) cho đến “xã Hà Khê thì đột khởi thành đồi Hà Khê (…) mà người ta thường cho là “đầu rồng nhìn ngoảnh lại” tức là thế đất “long hồi cố tổ” trong khoa địa lý phong thủy” (Hà Xuân Dương – Kiến trúc chùa Thiên Mụ).
Bên trong chùa Thiên Mụ
Hậu viện chùa Thiên Mụ Đến cuối thế kỷ 20, chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê là một trong các di tích quan trọng đã góp phần cùng thành quách, cung điện, lăng tẩm tạo nên diện mạo và giá trị của Quần thể di tích Huế – một quần thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào năm 1993. Đó không chỉ là danh lam thắng cảnh tuyệt vời của đất nước, mà theo nhiều nhà nghiên cứu đã ảnh hưởng sâu đậm “đến cả cuộc tồn vong của một nền văn hóa” và “đã gắn liền đời sống tâm linh của dòng họ Nguyễn từ vị chúa đầu tiên cho đến vị vua cuối cùng” (Phan Thuận An). Hoặc như nhận định của Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm trong công trình biên soạn về Phật giáo xứ Huế: “Sở dĩ chùa Thiên Mụ càng ngày càng có ảnh hưởng lớn là vì ngọn đồi Hà Khê – nơi có sơn triều thủy tụ, có long mạch phát đế vương cho dòng họ chúa Nguyễn và triều Nguyễn kể từ 1558 (năm Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa) cho đến 1945 (năm vua Bảo Đại thoái vị)” – theo đó tính ra, họ Nguyễn có ngót 387 năm đăng quang, thăng trầm và tồn tại trong lịch sử vương quyền Việt Nam. Nguồn: Tạp chí Duyên dáng Việt Nam - Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Gia Tiến, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 8: Trời giao ấn kiếm cho người Tây Sơn
Bước đầu dấy nghiệp của nhà Tây Sơn gắn liền với nhiều câu chuyện phong thủy rất sống động về địa thế của vùng đất có núi non trùng điệp ở hai bờ sông Côn và luôn tồn tại song song với câu sấm truyền lịch sử vào thuở ấy: “Tây khởi nghĩa – Bắc thu công”… Có một “Hoành Sơn” ở phương Nam
Thường mỗi khi nhắc hai tiếng “Hoành Sơn” ở phía Bắc (tỉnh Quảng Bình) người ta liên tưởng đến cơ nghiệp nhà Nguyễn. Song cũng có một “Hoành Sơn” khác nữa nằm sâu ở phía Nam (tỉnh Bình Định) vốn là nơi huyệt kết phát vượng của anh em nhà Tây Sơn. Núi Hoành Sơn chạy dài và tỏa rộng về phía đường quốc lộ với hai dòng suối (Đồng Tre và Chi Lưu) đưa nước uốn quanh dưới chân (thủy tụ). Mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc – song thân của Tây Sơn tam kiệt tức ba anh em: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ - nằm trên đó. Song không ai biết chính xác mộ ở vị trí nào trong núi. Đến nay, nơi huyệt tang ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn là điều bí ẩn.
Ấn vua Quang Trung (sắc lệnh chi bảo) Chuyện thứ hai cho rằng, thầy địa lý người Trung Hoa khi đến vùng Tây Sơn để dò tìm long mạch và chỗ huyệt kết đã ở tại nhà của Nguyễn Nhạc. Hằng ngày, thầy đi lùng kiếm khắp vùng, đem theo chiếc la bàn, tấm vải điều màu đỏ và một chiếc gậy đẽo từ gỗ của một cây đại thọ trăm năm. Hết chỗ này đến chỗ khác thầy vẫn không vừa ý, cuối cùng thầy địa lý để tâm đến hòn Hoành Sơn. Nguyễn Nhạc dò biết nên âm thầm kín đáo theo sau thầy địa lý và phát hiện được nơi huyệt kết. Khi thầy địa lý về lại Trung Hoa để hốt cốt thân sinh của mình đem đến chỗ huyệt kết để chôn, bấy giờ Nguyễn Nhạc tìm cách đánh đổi: “Đến ngày đã chọn, thầy Tàu lén đem chiếc tráp (có hài cốt) cùng địa bàn đi lên Hoành Sơn, vừa đến chân núi thì một con cọp tàu cau to lớn ở trong bụi, gầm một tiếng, nhảy ra vồ. Thầy Tàu hết hồn, quăng tráp và địa bàn (dùng dò hướng đất theo thuật phong thủy) mà chạy. Hồi lâu không thấy cọp đuổi theo, liền quay lại chỗ cũ. Thấy chiếc tráp và địa bàn còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại, vội trực chỉ lên nơi long huyệt đã tìm ra. Chôn cất xong xuôi, thầy hớn hở trở về Trung Quốc, không ngờ rằng chiếc tráp thầy chôn vốn đựng di hài Nguyễn Phi Phúc và con cọp kia chỉ (là cọp giả) có lớp ngoài mà thôi”. Đó là đoạn văn kể về sự tích phong thủy Hoành Sơn của nhà thơ Quách Tấn (1910-1992) trong một tài liệu viết về di tích và truyền thuyết nhà Tây Sơn với kết luận rằng hai câu chuyện trên tuy có vài chi tiết không giống nhau, song “đều đồng một điểm chính là cho biết mộ Nguyễn Phi Phúc chôn ở Hoành Sơn”. Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang, cao hơn 360 thước, có núi Ông Bình làm hậu tẩm, núi Ông Đốc với hình dạng “giống như một con hổ phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Núi Ông Đốc không cao và tuy giống hình cọp, song ngó bộ hiền lành như con cọp tu hành lâu đời. Nơi triền phía bắc hiện có một ngôi chùa thờ Phật. Đó là điềm “hổ cứ”. Còn “long bàn” là hai nhánh của con sông Côn, một từ phía tây chảy xuống, một từ phía tây nam chảy ra, hợp nhau tại địa đầu thôn Phú Phong, trông như hai cánh tay ôm choàng lấy cuộc đất của Hoành Sơn vậy”.
Một vùng núi bút non nghiên… Hoành Sơn là nơi được các thầy địa lý của Trung Hoa cũng như của Việt Nam công nhận là đại địa “vì có, nào bút nào nghiên, nào ấn nào kiếm, nào cổ (trống) nào chung (chuông), ở bên tả bên hữu… trước mặt trên ba nổng gò, đã mọc giăng hàng giống như những toán quân đứng chầu về. Và xa xa có hổ phục long bàn”. Bằng những phân tích địa thế phong thủy, Quách Tấn chứng minh những điều nêu trên là xác thực, vì: - Bút đó là hòn Trung Sơn ở bên Phú Lạc, xa trông phảng phất như ngòi bút chép mây. - Nghiên đó là hòn Hội Sơn tục gọi là hòn Dũng, trong địa phận Trinh Tường về phía Nam, đứng đối trí cùng hòn Trung Sơn ở phía Bắc.
Vua Quang Trung do Càn Long sai thợ vẽ ( thật ra đây là Phạm Công Trị – Người đóng già vua Quang Trung đi sứ lúc đó ) Hòn Hội Sơn cao hơn 490m nhưng trông đầy vẻ uy nghiêm “trên núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Người địa phương lên đó vỡ đất làm ruộng, đất tốt không kém dưới đồng bằng (nhờ nước đầy đủ). Vì núi có vũng nước nên đám bình dân gọi núi là hòn Vũng (thay vì hòn Dũng). Còn đám hàn mặc (nho sinh) thì coi vũng nước là nghiên mực của trời nên đặt cho núi một tên nữa là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên vậy, hòn Nghiên và hòn Bút nằm bên hữu bên tả hòn Hoành Sơn trông cân đối”, phù hợp với câu ca: Một vùng núi Bút non Nghiên Trời giao ấn kiếm cho miền Tây Sơn. Cuộc đất tốt như vậy kết hợp lời sấm truyền do thầy dạy học của ba anh em nhà Tây Sơn là cụ giáo Hiến thông báo, rằng: “Tây khởi nghĩa – Bắc thu công”, đã tạo sức mạnh tâm linh thúc giục Tây Sơn tam kiệt khởi binh. Tây khởi nghĩa tức là dựng cờ nổi dậy ở vùng núi hướng tây – vùng Tây Sơn. Bắc thu công là thành công lớn ở hướng bắc, lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân (Huế bây giờ) năm 1788 và tiến ra Bắc đánh thắng quân Thanh xâm lược năm 1789…
Trong bài này chúng tôi chọn trích dẫn phong thủy nhà Tây Sơn chủ yếu theo tài liệu của Quách Tấn là vì trước hết gia đình ông đã trải qua chín đời ở ấp Tây Sơn hạ, ông viết: “Tây Sơn là dãy núi phía Tây tỉnh Bình Định thuộc hệ thống Trường Sơn (…) vì núi mệnh danh là Tây Sơn nên các vùng sơn cước bình nguyên ở chung quanh cũng gọi là vùng Tây Sơn. Trước kia gọi là ấp Tây Sơn với ba phần: Tây Sơn thượng, Tây Sơn trung và Tây Sơn hạ”. Những gì ông viết ra về địa lý, phong thủy của vùng đất Tây Sơn cũng như những câu chuyện truyền khẩu liên quan đều do chính ông nghe nội tổ và song thân cùng các vị phụ lão ở quê ông kể lại, giới thiệu qua cuốn tài liệu “Quang Trung – Nguyễn Huệ”, nhiều tác giả, do NXB Văn hóa Sài Gòn kết hợp Tạp chí Xưa và Nay ấn hành 2008, nêu rõ trong khu vực Hoành Sơn “sát chân núi ngay phía đông, khoảng Tượng vua Quang Trung ở Quy Nhơn giữa nổi lên một trảng đất. Trong khoảng này, dáng núi lại hơi cong cong. Đứng phía trước trông vào thì giống một chiếc ghế bành vĩ đại, mà lưng và tay dựa vào núi, mặt ghế là trảng đất. Trên trảng nằm song song hai nấm mộ bằng đá, hình chữ nhật. Vua Gia Long ngờ rằng đó là phần mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc, song thân của vua Tây Sơn, nên truyền quan địa phương khai quật. Nhưng khi đào lên hài cốt không thấy đâu cả, mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong chóng đương cháy”. Như vậy, đến nay dấu tích về mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn còn mờ mịt. Những ngọn đèn dầu phụng đã bị nhà Nguyễn (Gia Long) thổi tắt, nhưng sự nghiệp của nhà Tây Sơn vẫn cháy đỏ trong lịch sử Việt Nam. Nếu tính từ lúc dấy nghiệp vào năm Mậu Tuất 1778 là năm Nguyễn Nhạc xưng đế hiệu (niên hiệu Thái Đức), gọi thành Đồ Bàn là Hoàng đế thành, đến lúc suy vong vào năm Nhâm tuất 1802, thì nhà Tây Sơn tồn tại 24 năm. Nếu tính từ năm vua Quang Trung lên ngôi thì chỉ kéo dài có 14 năm (1788-1802). Dầu ngắn ngủi nhưng nhà Tây Sơn đã để lại một dấu ấn sâu đậm qua chiến công của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đánh thắng hai mươi vạn quân Thanh xâm lược vang dội đến nay – ứng đúng câu sấm truyền Tây khởi nghĩa – Bắc thu công…
Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 9: Ba lần chọn đất lập đô của Quang Trung
Vua Quang Trung rất coi trọng việc chọn đất cát tường để lập kinh đô mới nên đã nhiều lần tha thiết nhờ đến cụ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là danh sĩ giỏi về dịch lý phong thủy đương thời tìm kiếm thế đất tốt tại Nghệ An.
Ba lần chọn đất lập đô Lần đầu vào tháng 4 năm Mậu Thân 1788, khi Nguyễn Huệ kéo kỵ binh thần tốc ra Bắc để trừng phạt Vũ Văn Nhậm, đã dừng quân để nhờ La Sơn phu tử “giúp coi địa lý để định lập đô ở đất quê quán mình là xứ Nghệ An”. Nhưng một tháng sau, khi xong việc, Nguyễn Huệ từ Thăng Long quay về vẫn chưa thấy La Sơn phu tử xem đất cho, nên Nguyễn Huệ đã tự tay viết một bức thư bằng mực son tàu, trách: “Trước đây đã nhờ Phu tử về Nghệ An để coi đất đóng đô, sao tới nay ta quay về thấy việc đó chưa làm? Vì thế ta phải thẳng về Phú Xuân để binh sĩ dưỡng sức và viết chiếu này ban xuống để Phu tử hãy cùng với quan trấn thủ Thận bàn bạc, xem xét đất đai để đóng đô tại Phù Thạch (trên bờ sông Lam, dưới chân núi Nghĩa Liệt). Hành cung hãy dựng dựa lưng vào sát núi. Cuộc đất được chọn tùy nơi Phu tử dùng con mắt tinh tường mà sớm định. Hãy mau mau chọn gấp, giao cho trấn thủ Thận xây dựng cung điện thật nhanh sao cho trong vòng 3 tháng phải xong”. Nhận thư, La Sơn phu tử viện dẫn địa thế ở Phù Thạch vừa hẹp, vừa không hợp phong thủy.
Tượng vua Quang Trung tại núi Bân, TP. Huế Nguyễn Huệ lại có chiếu gởi trả lời đại ý tiếp nhận những ý kiến của La Sơn phu tử, không lấy Phù Thạch làm đất đóng đô nữa, nhưng vẫn giữ ý định dứt khoát chọn đặt kinh đô tại Nghệ An và nhờ La Sơn phu tử chọn đất khác: “Nay kinh thành Phú Xuân địa thế cách trở, lại ở xa Bắc Hà nên rất khó xử lý công việc. Chính vì thế, các đình thần có quyết nghị rằng đóng đô ở Nghệ An thì sẽ khống chế được thế lực trong Nam ngoài Bắc, vả lại người trong bốn phương có việc gì cần kíp kêu kiện cũng tiện việc đi lại (…) nhiều lần ta đã nhờ tiên sinh xem đất tìm những chỗ núi non kết phát ở đất Nghệ An mà tiên sinh đã từng chú tâm xem xét địa thế. Nhưng lâu nay vẫn chưa thấy trả lời (…) ta đã từng mở xem địa đồ hình thế vùng Nghệ An thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường, đất đai rộng rãi, thông thoáng, khí sắc tươi nhuần, xem ra có thể chọn làm nơi xây kinh đô mới(…) tiên sinh gắng suy nghĩ giúp cho việc ấy”. Đó là chiếu ngày 3.9 năm Mậu Thân 1788, tỏ rõ mong muốn được La Sơn phu tử coi đất lập đô, nhưng La Sơn phu tử vẫn tìm cách trì hoãn. Đó là lần thứ hai La Sơn phu tử ngầm ý từ chối cuộc đất mà Nguyễn Huệ đề nghị xây kinh đô.
Điện thờ vua Quang Trung ở núi Quyết, Nghệ An Nhưng đến lần thứ ba, thì La Sơn phu tử đồng ý với địa điểm mới là Phượng Hoàng: “Ngày nay, khoảng giữa núi Quyết và núi Mèo, còn thấy dấu tích một thành cũ hình gần tam giác. Dấu thành và hào đương còn rõ, nhất là trong bức ảnh chụp từ cao. Cửa tiền ở phía Nam. Núi Mèo (núi Kỳ Lân) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chắp vào núi ấy. Mặt Đông Bắc lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành. Ở giữa thành, còn dấu thành trong và nền nhà. Nhấtlà có nền cao ba bậc ở phần Bắc, mà ngày sau đời Nguyễn dùng làm nền xã tắc. Chắc đó là chỗ Quang Trung, ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An. Tuy gọi là Trung Đô, nhưng thành Phượng Hoàng nhỏ, thành Nam chỉ dài chừng 300 mét, bức thành Tây dài 450 mét, và cái nền cao thì ngang dọc cũng chỉ có chừng 20 mét mà thôi. Ấy vì Quang Trung mất sớm, chưa kịp đổi hành cung ra cung điện. Về sau kinh đô của Quang Toản vẫn ở Phú Xuân”.
Những trích dẫn trên đây nằm trong cuốn sách giá trị: La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp của GS. Hoàng Xuân Hãn với lời tóm lược về ba lần chọn chỗ đóng đô: Lần đầu ở núi Lam Thành Sơn, lần thứ hai ở Yên Trường (cách Lam Thành Sơn chừng mười cây số ở phía Bắc), lần thứ ba ở Dũng Quyết (cách Yên Trường chừng hai cây số ở phía Đông Nam và cách Lam Thành Sơn chừng tám cây số). Phong thủy Phượng Hoàng Trung Đô
Cuối năm 2011 hội thảo về Phượng Hoàng trung đô mở tại thành phố Vinh (Nghệ An), nhà khảo cổ học và nghiên cứu phong thủy lão thành Đỗ Đình Truật được mời từ TP. HCM ra Vinh để tham dự và ông đã viết một tham luận đề cập đến phong thủy của Phượng Hoàng trung đô trích dưới đây: “Thị trấn Thanh Nghệ xưa kia chỉ là một cuộc đất từ sông Mã chạy xuống Nam đến hết sông Lam, là cuộc đất rất thịnh dễ sinh ra những vị anh hùng cho đất nước. Căn cứ vào tấu thư của Cao Biền đời Đường và “Hoàng Phúc cố chuyện” của thời Minh thì hai nhân vật này tuy sống ở thời đại khác nhau nhưng cùng chung một ý đồ đi yểm trời đất sông núi Việt Nam. May thay Lê Lợi đã bắt được tướng Nhà nghiên cứu phong thùy quá cố Đỗ Đình Truật Hoàng Phúc, thấy trong hành trang của Hoàng Phúc có cả bản đồ của đất Nghệ Tĩnh và tài liệu về việc Hoàng Phúc đã dựng 5 ngọn cờ ở đất Hà Tĩnh cách núi Quyết độ 10km để yểm trừ vùng đất thiêng này – gọi là “cờ 5 yểm”. Và Hoàng Phúc dự kiến đến khoảng thiên niên kỷ III thì vùng này sẽ là trung tâm chống Bắc Triều. Nguyễn Thiếp giỏi về dịch học và khoa phong thủy đã dày công đọc hết những tài liệu đó và đi thăm dò thực hư. Quả nhiên là Tổ Sơn của vùng này xuất phát từ (khe Bò Đái) nằm trong 99 ngọn núi Hồng Lĩnh sơn và được mạch khí chạy lòng vòng xuống núi Quyết rồi quay lại về Tổ Sơn; làm cho núi Quyết trở thành âm phù dương trợ, quần phong tụ khí, nên vô cùng đắc địa. Do đó mới có tên là núi Phượng Hoàng, vì ta đứng bên dòng sông Lam quay mặt ra bể thì ta thấy bên tả Thanh Long: là con Rồng Xanh (sông Lam), bên hữu là Bạch Hổ (có dãy núi của Hà Tĩnh) cũng đưa khí về núi Quyết. Còn ở mặt trước phía Đông núi Quyết là Chu Tước – vật báo hiệu Minh Đường rất phát triển và phía sau là Huyền Vũ (sao của người giữ nhà, giữ cửa, giữ nước) làm hậu phương. Sau khi có chiếu chỉ của vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp đã đi rà soát lại thì thấy Phượng Hoàng trung đô là nơi đắc địa hiếm có trong trời đất. Điểm này ông hoàn toàn nhất trí với tướng Hoàng Phúc (nhà Minh bạo tàn). Vì vậy ông và Trần Quang Diệu quyết tâm để lăng mộ của chủ tướng mình ở đây là hợp lý và việc xây cất trở thành việc làm vô cùng bí mật. Đứng bên ngoài mà nhìn là việc xây thành đắp lũy, bên trong thì ngấm ngầm làm việc trọng đại ấy. Tôi cũng đi rà soát lại lần nữa với hai đồng nghiệp là nhà nghiên cứu Nguyễn Thiện Đức và nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tâm thì thấy Nguyễn Thiếp miêu tả cảnh quan phong thủy của cuộc đất Phượng Hoàng như thế là rất đúng, nên đều nhất trí là di mộ của vua Quang Trung có khả năng để ở đây”.
Thành phố Vinh ngày nay Qua phân tích và nhận định của GS. Hoàng Xuân Hãn, cụ Đỗ Đình Truật và các tài liệu lịch sử khác như: Đại Nam chính biên liệt truyện, Hoàng Lê nhất thống chí cho chúng ta biết Phượng Hoàng trung đô đã được bắt tay xây dựng ở khoảng giữa núi Mèo và núi Quyết với lầu gác ba tầng có bố trí đồn binh bảo vệ vòng quanh đó. Xa xa về phía núi có kho lúa dự trữ. Dấu tích của thành và các đường hào đến thế kỷ 20 vẫn còn khá rõ. Các nhà nghiên cứu kết luận địa thế của thành rất dễ giữ, vì phía trước có con Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết, vốn là hào và thành thiên nhiên kề cận để che chắn bảo bọc. Tiếc rằng vua Quang Trung mất sớm nên việc xây dựng cung điện nguy nga để định đô ở Nghệ An chưa kịp hoàn thành. Vậy là, cuộc đất tuy đại lợi về mặt phong thủy nhưng giống như con phượng hoàng đang bất ngờ lâm bệnh nên không đủ sức khỏe để cất cánh bay cao khỏi số mệnh nghiệt ngã của mình. Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Nguyên Trương, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 10: Câu chuyện về đất Kim Long cát tường của chúa Nguyễn
Là một cuộc đất cát tường về mặt phong thủy, Kim Long được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong suốt nửa thế kỷ. Là một cuộc đất “sơn thủy hữu tình”, Kim Long còn nổi tiếng có nhiều mỹ nhân, mà đến nay hãy còn để lại câu ca: “Kim Long có gái mỹ miều – Trẫm thương trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi”…50.
Phong thủy vùng Kim Long Quốc sử quán triều Nguyễn chép: vào năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan (tức chúa Thượng) thấy đất Kim Long là nơi “có địa hình tốt đẹp” nên đã dời dinh đến đó và Kim Long trở thành thủ phủ đầu tiên đóng bên bờ tả ngạn sông Hương. Nhìn qua bên kia hữu ngạn thấy đồi Long Thọ hiện lên với thế núi đặc thù “khóa giữ thượng lưu sông Hương và được các nhà địa lý gọi là kiểu đồi “thiên quan địa trục” – nghĩa là trổ cửa lên trời và là trục xoay của các vùng đất (Đại Nam nhất thống chí). Địa thế phong thủy ấy cũng được học giả Cadière ghi nhận khi ông đứng từ kinh thành Huế nhìn xa xa tới đường chân trời phía nguồn sông Hương thấy những ngọn đồi và đỉnh núi dãy này nối tiếp dãy kia trùng điệp vắt ngang tầm mắt, màu sắc thay đổi theo từng ngày nắng, ngày mưa, khi thì nâu nhạt, lúc xanh thẫm, tựa hồ bức tranh bốn mùa sinh động. Giữa bức tranh cẩm tú mênh mang ấy là một con sông chạy đến gần đất Huế, trải mình ra giữa hai ngọn đồi: “một bên là ngọn đồi Thiên Mụ (Hà Khê) với tháp Phước Duyên, bảy tầng ngất ngưỡng như chọc thủng trời xanh để đưa xuống những nguồn phúc lộc, và bên kia hữu ngạn là mô đất Long Thọ – trường sinh bất tử. Mô đất này cũng có những đặc tính nhiệm màu kỳ lạ mà sau này các thầy địa lý của triều đình Việt Nam cũng công nhận. Vì nó án ngữ nguồn chảy của sông Hương, tưởng như nó đang gối đầu lên dòng nước và nghiêng nghiêng đối diện với đồi Thiên Mụ tạo thành một thế phong thủy gọi là cánh cửa thông thiên và trục xe địa phủ” (Đỗ Trinh Huệ dịch).
Sơ đồ thủ phủ Kim Long, Huế Như vậy, đồi Long Thọ (hữu ngạn) cùng đồi Hà Khê (tả ngạn) nhô lên khỏi đất bằng để ôm lấy dòng nước sông Hương đang êm đềm đổ xuống, tạo nên cảnh trí thơ mộng cho các vùng đất hai bờ, trong đó có Kim Long. Xét sách địa lý gia truyền của cụ Tả Ao, thì: có núi mà không có nước sẽ thành cảnh “cô sơn” – ngược lại có nước mà không có núi sẽ thành “cô thủy” (Hữu sơn vô thủy, vị chi cô sơn – Hữu thủy vô sơn, vị chi cô thủy). Tốt nhất vừa có núi vừa có sông nước liền nhau để núi nghênh thủy (sơn cố thủy) và thủy in bóng núi (thủy cố sơn) mới thật là đất tốt (dung kết chi địa dã). Vậy Kim Long có đủ yếu tố “sơn thủy” như cụ Tả Ao nêu. Mà thủy ở đây với thế “tĩnh” và “tụ” nên sinh ra người trong vùng thanh lịch, giàu có (thủy tĩnh nhân tú - thủy tụ nhân phú) khác với chỗ nước xoáy xô bồ ào ạt, hoặc nước chảy rì rào như tiếng khóc tỉ tê suốt ngày sẽ sinh ra kẻ bần tiện, đói nghèo (thủy trọc nhân mê – thủy khứ nhân bần). Thật vậy, cuộc đất Kim Long từ khi trở thành thủ phủ. Sau này, khi thủ phủ dời về Phú Xuân (cũng nằm bên tả ngạn sông Hương), Kim Long vẫn để lại các tên đất gợi nhớ thời lập phủ như: Thượng Dinh, Trung Dinh, Hạ Dinh, Cồn Kho, Mô Súng, vườn Nghênh Hôn … Và vua Thành Thái đã đến đó góp một trang “tình sử”.
Mối tình của vua Thành Thái Vua Thành Thái là một ông vua yêu nước bị thực dân Pháp quản thúc ở Vũng Tàu (từ 1907), đày sang đảo Réunion 31 năm (từ 1916 – 1947). Ngày còn tại vị, vào những năm 1889-1907, nhà vua rất gần gũi dân chúng, hay cải dạng thành thường dân để rời hoàng cung ra ngoài thành. Có lần dạo qua vùng Kim Long, vua bước xuống bến sông gọi đò về, chợt thấy cô lái đò là một cô gái má hồng như màu cánh sen, dáng bộ tha thướt dẫu ở chốn bình dân mà xem có bề quý phái, ngay lập
tức “tiếng sét” vô thanh đã đánh trúng trái tim của hoàng đế. Rồi trong bộ dạng của một “thanh niên bình thường”, vua Thành Thái đến bên thiếu nữ hỏi: “O kia, có ưng làm quý phi không?”. Sau giây phút thẹn thùng và ngỡ ngàng trước câu hỏi lạ, cô bỗng mạnh dạn trả lời : “Ưng !” (đồng ý). Cô ngỡ trả lời bâng quơ như thế cho có, cho xong, ai ngờ chàng “thanh niên” liền đến đầu mũi thuyền giành lấy mái chèo nói: “Hãy để trẫm chèo đưa quý phi đi”. Rồi vua chèo đò xuôi dòng nước đến đậu trước Phu Văn Lâu, lên bến Nghinh Lương, đưa cô vào hoàng cung, đến vườn thượng uyển, khiến cô bàng hoàng như đang “mộng dưới hoa”…
Chân dung vua Thành Thái
Cạnh đó những cuộc tình dân gian ở Kim Long cũng đã đi vào ca dao với bao lời da diết: “Nước đầu cầu khúc sâu khúc cạn. Chèo qua Ngọc Trản đến vạn Kim Long. Sương sa gió thổi lạnh lùng. Sóng xao trăng lặn, chạnh lòng nhớ thương”. Hoặc: “Kim Luông dãy dọc tòa ngang. Em chèo một chiếc thuyền nan về Sình. Đôi lứa mình lỡ hẹn ba sinh. Có mần răng đi nữa cũng hãy trọn tình với nhau”. Mấy tiếng “dãy dọc tòa ngang” nhắc nhớ đến vùng đất xưa lúc Kim Long là thủ phủ của chúa Nguyễn. Alexandre De Rhodes với thủ phủ Kim Long Địa thế phong thủy cùng tài năng chúa Nguyễn đã đưa Kim Long thành trung tâm hành chính, quân sự của đất Nam Hà một thời. Để tìm hiểu điều ấy, thiết tưởng chúng ta hãy xem qua những ghi chép khách quan của người châu Âu đương thời từng đến đó. Chúng tôi muốn nhắc đến học giả, nhà truyền giáo dòng tên (Jésuite): Alexandre de Rhodes – đã có mặt tại Kim Long khoảng những năm 1640 – 1645 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Lan. Ông là tác giả cuốn Từ điển Việt – Bồ – La, biên soạn sau ngày đến Kim Long, chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa của người Việt thế kỷ 17. Chính ở Kim Long, Alexandre de Rhodes yết kiến chúa Nguyễn Phúc Lan và tận mắt nhìn thấy sinh hoạt trong phủ chúa cũng như ngoài dân chúng và kể lại trong một cuốn sách xuất bản tại châu Âu. Trong tác phẩm đó, ông mô tả quang cảnh Kim Long như một “thành phố lớn” (cette grande ville) với đông đúc dân cư, nhà cửa, phố xá, chợ búa, bến nước và buổi lễ đón tiếp những người Tây Ban Nha, những nữ tu và ông vào buổi chiều tháng 2.1645 bên bờ sông Hương: “Chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) và phu nhân trong trang phục quý phái, lộng lẫy cùng đông đảo các vị quan lớn trong phủ Kim Long có mặt tại buổi đón tiếp. Có ngót 4000 lính chia làm 4 đội sắp hàng chỉnh tề, khéo léo, không che khuất chỗ chúa Thượng và phu nhân đang đứng. Những đội cận vệ đứng sát để bảo vệ chúa, ai nấy đều cầm trong tay một thanh đao có gắn chuôi bằng bạc và mặc áo bằng nhung màu tím có thắt đai vàng ngang bụng, đứng nghiêm chỉnh và im phăng phắc. Khi đoàn Tây Ban Nha đến, chúa cho phép hết thảy binh lính của mình ngồi xuống đất, xếp bằng lại để buổi lễ bắt đầu. Chúa sai mang đến cho mỗi người một phần trà đựng trên các khay sơn son thếp vàng bóng loáng”.
Chúa Thượng cũng mời Alexandre de Rhodes và những người trong đoàn bữa tiệc theo cung cách cung đình với rất nhiều món ăn sang trọng. Yến tiệc được bày ra với các vũ nữ Kim Long vây quanh biểu diễn các điệu múa điêu luyện khiến những người Tây Ban Nha có mặt phải trầm trồ khen ngợi. Mãi đến khi trời sập tối, chúa ra lệnh thắp đuốc sáng rực khắp dinh. Các dịp tiếp theo, chúa Thượng đã cho diễu binh trên bộ với khoảng 6000 binh lính và dân chúng tham gia đi rợp cả “thành phố lớn” Kim Long. Cùng lúc dưới nước chúa cho tập trận với 20 chiến thuyền lướt như bay trên mặt sông Hương.
Một ngôi nhà cổ ở Kim Long, Huế Sau này vị trí của thủ phủ Kim Long mà Alexandre de Rhodes ghi lại được nhiều nhà nghiên cứu định vị, chẳng hạn: “có lẽ thủ phủ của chúa Nguyễn lúc ấy tọa lạc tại vùng đất từ chợ Kim Long lên đến gần làng Xuân Hòa (…) đã được sông ngòi bao bọc cả 4 bề: trước mặt là sông Hương, bên trái là sông Kim Long, bên phải và phía sau là sông Bạch Yến” (Phan Thuận An). Một tác giả khác, nhà nghiên cứu Phan Thanh Hải, trong tài liệu về “Thủ phủ Kim Long và diện mạo của Huế trước 1687” in trong tuyển tập Cố đô Huế xưa và nay (NXB Thuận Hóa 2005) nhắc đến 4 lần chúa Nguyễn dời dựng, thay đổi vị trí thủ phủ trước khi chuyển đến Kim Long, đó là Ái Tử (1558 – 1570), Trà Bát (1570 – 1600), Dinh Cát (1600 – 1626), Phước Yên (1626 – 1636) và nhận định:
“Địa danh Kim Long mà chúng tôi nói ở đây là làng Kim Long (chứ không phải phường Kim Long) có diện tích tổng cộng chừng 130ha, nằm ở tả ngạn sông Hương, một vùng đất trù phú màu mỡ, vị trí thuận lợi, cảnh sắc trữ tình. Căn cứ vào các nguồn tư liệu, nhất là gia phả của các dòng họ lâu đời ở Kim Long, thì làng đã được thành lập cách đây trên dưới 400 năm và là kết quả của việc mở rộng và tách ra từ làng Hà Khê (nơi có chùa Thiên Mụ và long mạch nhà Nguyễn) (…) Trong địa phận của làng Kim Long, ngoài sông Hương ở phía Nam còn có sông Kim Long (tức sông lấp) ngăn cách làng Phú Xuân và Vạn Xuân, và sông Bạch Yến chảy ngang qua giữa làng. Cả hai con sông này đều là các chi lưu của sông Hương, chúng vừa tạo nên vẻ đẹp trữ tình của vùng đất này, vừa tạo nên địa thế rất “đắc lợi” của Kim Long là “tứ thủy triều quy”… Nghĩa là bốn dòng nước tụ về dưới chân những trái núi quanh cuộc đất Kim Long phù hợp với điều cụ Tả Ao giảng giải về thế sơn thủy: sơn là chồng, thủy là vợ, khi chồng xướng xuất việc gì thì vợ sẽ phụ theo (sơn vi phu, thủy vi phụ, phu xướng phụ tùy), cùng nghĩa ấy: núi là “trống”,nước là “mái” – núi chạy đến đâu thì nước theo đến đó (sơn vi hùng, thủy vi thư – hệ sơn tắc thủy tòng). Mà sơn mạch chạy từ dãy Trường Sơn hùng vĩ tách nhánh ra đến đất Kim Long được dòng sông Hương, sông Bạch Yến theo về “hợp hôn” – sinh ra một vùng nước xanh thơ mộng – thủ phủ của Nam Hà, cũng là thủ phủ của tình yêu một thuở. Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Gia Tiến, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 11: Phú Xuân – Vùng đất xưng vương
Một trong các nguyên do mang đậm yếu tố phong thủy trong việc thiết lập thủ phủ Phú Xuân là sự hiện diện của núi Ngự Bình với vai trò “tiền án” nhằm che chắn bảo vệ mặt trước cho vùng đất xưng vương này…
Ngự Bình và những ngọn núi của hoàng gia Sau 52 năm tồn tại, Kim Long chấm dứt vai trò thủ phủ của mình vào 1687 dưới thời chúa Nguyễn Phước Thái. Sự kiện trên được một số tác gia thời trước như Bảng trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm – người đã gắn bó suốt đời với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong – ghi nhận trong Nam triều công nghiệp diễn chí: “lệnh lấy phủ cũ (Kim Long) làm nơi thờ phụng tiên vương, chọn đất làm phủ mới ở đầu nguồn sông cách phủ cũ hơn năm trăm trượng, lấy núi Ban Sơn (tức núi Ngự Bình) làm án, lại đắp đê ở cánh phải để ngăn nước lũ xói bờ. Thế là quân lính, dân phu, thợ giỏi vâng lệnh hưng công xây dựng cung phủ mới” (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch và chú thích). Cung phủ mới cũng nằm bên tả ngạn sông Hương và chỉ cách Kim Long khoảng hơn 4 cây số về hướng đông nam, ở đó có núi Ngự Bình cao chỉ độ 104m, song có vị trí hết sức đặc biệt vì nổi vọt lên giữa quãng đất bằng như bức bình phong được chọn làm tiền án để đào hào, đắp tường, xây dựng cung điện trên vùng đất Phú Xuân.
Hình núi Ngự Bình vẽ trong Ngự đề danh thắng đồ hội thi tập (vua Thiệu Trị) Đặc điểm của địa cuộc Phú Xuân được Lê Quý Đôn mô tả “rộng khoảng hơn 10 dặm với thế đất bằng phẳng như lòng bàn tay, chính dinh được xây ở giữa, bốn bên đều thấp hơn, tức là xây ở chỗ nổi bật giữa đất bằng, ở vị trí Càn (tây bắc) trông về hướng Tốn (đông nam) dựa ngang sống đất, mặt chính của dinh trông xuống bến sông, đằng trước là quần sơn chầu về la liệt” (Phủ biên tạp lục). Vua Thiệu Trị trong một bài thơ cũng viết về núi Ngự Bình với địa thế “quần phong triều củng”(non núi chầu về): “Xuất bình địa chi giao cao khởi, quần phong triều củng. Tráng thùy thiên chi thế đoan lâm, dương khuyết thiên bình”, đại ý: giữa đất bằng nổi lên một ngọn cao để các dãy núi từ xa trùng trùng hướng tới chầu về, là nơi tạo bức bình phong ngang trời. Vậy trong dãy “quần sơn” và “quần phong triều củng” mà vua Thiệu Trị và Lê Quý Đôn nhắc đến có thể kể tên những ngọn núi ấn tượng mà Quốc sử quán triều Nguyễn đã ghi lại như ngọn Ngọc Trản (tức Hòn Chén): “Ở cách huyện Hương Trà 11 dặm về phía nam, có tên nữa là núi Hương Uyển. Mạch núi do các núi ở phía tây bắc trùng trùng điệp điệp, như rồng đi hổ phục, chạy dài chênh chếch về phía nam, đến phía tây sông Hương thì dừng lại, nổi vọt lên một ngọn vừa tròn vừa đẹp như hình cái chén, nên gọi tên ấy. Sườn núi có đền thiêng. Chân núi kề vực sông, nước rất trong ngọt, người ta phải gọi là nước Ngọc Trản, thường lấy dâng ngự dụng”. Về thế phong thủy của Ngọc Trản, một số nhà nghiên cứu cho đó chỉ là “thế nổi” của sơn mạch. Còn “thế chìm” lại luồn qua dưới đáy nước sông Hương (để dòng nước chảy bên trên) rồi lại tiếp tục “trồi lên bờ” ở phía nam, chạy về hướng Nam Giao đến đồng bằng Phước Quả mới đột ngột nhô cao thành núi Ngự Bình. Các núi khác có thể kể thêm gồm: Núi Thụ (vua Gia Long đổi tên là Thiên Thụ) nằm phía nam huyện Hương Trà, có đền thờ thần núi, hai bên tả hữu có núi Thanh và núi Bạch, với 34 ngọn núi khác bao quanh chầu về, như núi Diên, núi Bính, núi An, núi Hưng, núi Hòa, núi Xuân, núi Hoa, núi Hương,
núi Bão, núi Cẩm, núi Quý, núi Đoài, núi Bút: “Lại có núi Đại Tượng, núi Ất, núi Thạch Bàn, núi Ngọc Đường, núi Thịnh, núi Kim, núi Lẫm và núi Thành. Những tên núi được phong từ đời vua Gia Long đều là đất lăng tẩm, trọng địa, ngàn ngọn muôn khe chầu về bao bọc, hai ngành Tả trạch và Hữu trạch nước chảy vòng quanh, cao lớn vững vàng, thật là phúc địa, chung đúc khí tinh anh vậy…” (Đại Nam nhất thống chí – Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính).
Đình làng Phú Xuân được giữ lại trong kinh thành Phú Xuân – di tích lịch sử quốc gia Có nhà nghiên cứu cho rằng, trong loạt núi trên có riêng núi Ngự Bình là tiền án của Phú Xuân, ngoài công dụng che chắn uế khí còn có tác dụng lưu giữ gió tốt, nguồn khí tốt cho vùng đất trên (tàng cát phong). Để giải thích nội dung liên quan đến “khí” trong thuật địa lý phong thủy thiết tưởng cần nêu ra đây một số phân tích của dịch giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Tôn Nhan trong công trình biên soạnBách khoa thư văn hóa cổ điển Trung Quốc (NXB Văn hóa thông tin 2002), như sau: “Phép coi phong thủy, hơn hết là đắc thủy, kế đó là giữ gió. Như thế có thể biết trong thuật coi đất thời cổ có hai yếu tố lớn. Trọng tâm của nó là sự tiến hành tuyển chọn và xử lý đối với nơi cư trú của loài người (…)chia ra hai loại là Dương trạch (nhà ở khi sống) và Âm trạch (nhà ở khi chết). Nghiên cứu phong thủy, từ cơ bản là để đáp ứng nhu cầu tìm tốt tránh xấu của loài người. Một khi nhu cầu ấy tồn tại là quan niệm về phong thủy còn tồn tại. Trong phạm vi liên quan đến Địa lý phong thủy, chúng tôi chỉ giải thích một số khái niệm căn bản như Khí là khái niệm thường được nhắc đến và được nhấn mạnh. Trong đông y và khí công, khí được hiểu như một dạng năng lực lưu thông trong cơ thể theo 12 kinh và 8 mạch. Nếu dòng khí này luân lưu điều hòa thông suốt thì cơ thể khỏe mạnh. Trái lại, có nghĩa là dòng khí trong cơ thể bị bế tắc hay thiếu hụt. Trong môn địa lý, nguồn năng lượng nằm trong lòng đất (địa khí) được đặc biệt khai thác bằng một số kỹ thuật nhằm tập trung hay điều hòa dòng khí lưu chảy trong lòng đất kết vào căn nhà (hoặc công trình kiến trúc, kinh thành, thủ phủ) nhằm đem lại cuộc sống hài hòa may mắn cho chủ nhân. Ngày nay, với sự tiến bộ của ngành vật lý lượng tử và nhiều ngành khoa học khác, khái niệm về vật chất và năng lượng được xem như một dạng của sự chuyển hóa. Vật chất chuyển hóa thành năng lượng và năng lượng chuyển hóa thành vật chất. Mọi vật thể
trong vũ trụ đều tương quan tương tác mật thiết với nhau. Môn địa lý đã vận dụng những điều này trong việc tạo nên một lý luận về kiến trúc xây dựng”. Chúng tôi hy vọng nội dung trên phần nào có thể gợi mở tìm hiểu thêm về thuật phong thủy trong việc định thủ phủ, định đô đề cập đến trong loạt bài này. Bây giờ xin trở lại với những ghi chép sát sườn về núi Ngự Bình và đất Phú Xuân…
Những dấu ấn lịch sử Nhà văn, học giả Phạm Quỳnh trong một bút ký về Huế đăng trên tạp chí Nam Phong, số 10 tháng 4.1918, đã viết: “Thường cẩn đọc trong sách Đại nam nhất thống chí, thiên Kinh sư, có tả địa thế cùng lược lịch sử nơi kinh thành Huế (đất Phú Xuân xưa) như sau: “Chốn Kinh sư gồm cả núi bể trong nước mà ở vào giữa khoảng Bắc Nam, khí hậu hòa bình, sơn thủy kỳ tú. Đường bể thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền làm hiểm, đường lục bể thì có ải Quảng Bình, ải Hải Vân làm trở. Sông nhớn bao mặt trước, núi cao chắn mặt sau. Ba nguồn Bồ Trạch bọc bên tả bên hữu. Đầm Tam Giang, đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung làm then làm chốt. Thực là một nơi hổ chồm rồng cuốn, địa thắng hình cường; đất hiểm yếu của giời đất, làm thượng đô cho đế vương”. T Tôi tin những nơi sơn thủy kỳ tú có ảnh hưởng đến vận mệnh một nước. Người ta đối với cái ngoại cảnh không phải là không có quan hệ. Người đồng bằng biệt ra tính cách đất đồng bằng, người rừng núi biệt ra tính cách nơi rừng núi; thói ăn cách ở, đường sinh kế, lối tư tưởng, không gì là không tùy theo cái ngoại cảnh mà khác nhau. Huống chi là những bậc đế vương mở đất dựng nước, những nơi sông núi xinh đẹp lại không có quan hệ với cái lòng hoài bão nhớn nhao hay sao? Đã có sông Hương lại có núi Ngự nữa, cái cảnh mới thực là toàn xinh”.
Hình ảnh “Ngự Bình” đúc nổi trên Cửu Đỉnh
Từ cuộc đất “đại cát”, Phú Xuân trở thành nơi xưng vương và chuyển mình phát triển thành kinh đô của nước Việt Nam thống nhất (Huế) với 3 sự kiện lớn trong lịch sử sau đây:
1. Phú Xuân là nơi chúa Nguyễn Phước Khoát xưng vương (Võ Vương) năm Giáp tý (1744) lập chế độ và định triều nghi, chính thức tạo riêng một cõi Đàng Trong độc lập với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Đây là thời kỳ hoàn thành cuộc Nam tiến của dân tộc. 2. Phú Xuân là nơi vua Quang Trung lập đền tế lễ để lên ngôi hoàng đế tại địa điểm được nêu rõ trong cuốn Địa danh du lịch Việt Nam do Nguyễn Thị Thu Hiền biên soạn, NXB Từ điển bách khoa 2007: “Núi Bân là một ngọn đồi trọc, cấu tạo bằng sa phiến thạch, có độ cao 41m, diện tích 80.000m2, nằm ở thôn Tứ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế, cách núi Ngự Bình 620m về phía tây, cách thành phố Phú Xuân thời Tây Sơn hơn 3km về phía Nam. Đàn tế trời của Quang Trung – Nguyễn Huệ được xây dựng thành ba tầng đồng tâm tạo thành 3 khối núi nón cụt chồng lên theo chiều cao. Hơn 200 năm đã trôi qua, với bao lần mưa san, gió tạt, mặt núi đã bị xói mòn nhiều, nhưng hiện nay vẫn còn thấy rõ được 3 tầng nền của đàn tế”. Tài liệu trên còn cho biết các tầng nối với nhau bằng bốn con đường dốc thoai thoải để lên xuống và xưa kia hàng vạn binh sĩ cùng nhiều voi ngựa và đại pháo có thể tập trung ở đây trước giờ ra trận. 3. Phú Xuân là nơi vua Gia Long làm lễ tế trời đất và lên ngôi năm 1802, đổi Thăng Long làm Bắc thành và chọn Phú Xuân làm kinh đô. Dấu ấn mạnh nhất trong lịch sử kiến trúc Việt Nam ở đây là vua Gia Long đã khởi công xây dựng kinh thành Huế trên vùng đất Phú Xuân bằng sự kết hợp các yếu tố phong thủy có sẵn trong thiên nhiên với nghệ thuật kiến trúc do con người thực hiện để tạo nên những giá trị văn hóa tuyệt vời.
Chiều trên sông Hương
Đất Phú Xuân ngoài núi Ngự, còn có sông Hương được chọn làm “minh đường” của Phú Xuân – Huế. Mà theo cụ Tả Ao, minh đường phải trũng và đáng yêu như bàn tay để ngửa, cho nước chảy vào và thành nơi “chứa ngọc” (tích thủy vị chi tích ngọc). Sông Hương minh đường ấy hòa hợp với núi Ngự tạo nên “bốn mùa trân quý, ngọc ngà” (tứ thời sơn thủy, tứ thời trân), đã âm vang vào tâm thức của người dân xứ Huế: Đi mô cũng nhớ quê mình – Hương giang gió mát, Ngự Bình trăng thanh, cũng như tồn tại trong hồn thơ vang bóng của Bùi – đại – ca thi sĩ: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ – Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”… Theo tạp chí Duyên Dáng Việt Nam; Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Gia Tiến, Trương Vững, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 12: Vua Gia Long với phong thủy kinh thành Huế
Sau ngày lên ngôi, vua Gia Long đích thân nghiên cứu tìm hướng tốt và cuộc đất thuận tiện xây dựng kinh thành Huế với đề án di dời 8 ngôi làng để lấy mặt bằng thực hiện…
Đáp ứng lòng người trước khi định đô Dân cư của 8 làng phải di dời đi nơi khác gồm: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, Thế Lại, An Bửu, trong đó đất làng Phú Xuân hầu hết đều nằm gọn trong phạm vi kinh thành sẽ xây. Vì thế, vua Gia Long đã cấp 30 mẫu ruộng, 3 khoảng đất để dựng nhà và 1000 quan để giúp dân Phú Xuân – 7 làng còn lại theo tài liệu của Tả tham tri Bộ binh Võ Liêm mỗi nhà “được cấp 3 lạng và mỗi ngôi mộ dời đi được cấp 2 lạng”. Nhà vua nghĩ rằng việc đền bù nhà cửa, ruộng vườn cần phải chu đáo, giữ yên lòng dân để bắt tay xây dựng trên tổng diện tích 520ha và chu vi 9.889m. Huỳnh Đình Kết nhận định đây là đợt giải tỏa lớn, triệt để và khẩn trương, tiến hành trong vòng 2 năm, riêng phần mộ vắng chủ quy tập về nghĩa trang Ba Đòn có đến 10.000 ngôi.
Ngọ môn Huế Di dời xong, Gia Long chọn ngày tốt vào tháng tư âm lịch, nhầm 9.5.1804 dương lịch để bắt tay xây dựng vòng trong thành (vòng trong của Đại Nội) với tổng chu vi 4 cạnh là 307 trượng, 3 thước 4 tấc (1.229m), thành bằng gạch cao 9 thước 2 tấc (3m68) và dày 1 thước 8 tấc (0m72) – theo Võ Liêm. Sau đó, công việc tiếp tục qua nhiều giai đoạn, song nhìn toàn cục kinh thành Huế quay mặt về hướng Đông nam (Tốn) thay vì hướng chính Nam như các vua chúa thường chọn theo thuật phong thủy để xây cung điện của mình. Vì sao vua Gia Long lại quyết định chọn hướng như thế? Nguyễn Đăng Khoa đề cập đến trong Kỷ yếu Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam, số 7 1991 rằng, những công trình kiến trúc của kinh thành Huế được tiến hành theo một hệ thống các quy tắc hết sức nghiêm ngặt của các hình thế núi sông, long mạch “mặt bằng và độ cao thấp của địa hình được người xưa quan niệm đó là văn của đất, có cao, thấp, là có sông, suối, đầm, núi, tạo ra những nhịp điệu riêng của từng vùng – những nhịp điệu lớn chung của nhiều vùng nhỏ tạo ra những đại cuộc đất”. Cụ thể hơn, Trần Đức Anh Sơn qua tài liệu về tư tưởng quy hoạch kinh thành Huế thời Gia Long giới thiệu trên tập Cố đô Huế xưa và nay do Hội Khoa học lịc sử Thừa Thiên – Huế và NXB Thuận Hóa ấn hành 2005, đã cho biết nội dung cuộc trao đổi với một người trong hoàng tộc uyên thâm về dịch học, lý số, phong thủy là học giả Vĩnh Cao theo 4 ý chính, nguyên văn: 1. Kinh đô, theo quan niệm phong thủy ngày xưa đều hướng về Nam nhưng ngay tại vùng Thừa Thiên, mạch núi Trường Sơn, đặc biệt là quần sơn kề cận kinh đô cho đến dãy Bạch Mã đều chạy theo hướng Tây bắc – Đông nam. Dựa vào thế đất ấy, kinh thành nhìn về hướng Đông Nam là tốt nhất. 2. Theo thuật phong thủy thì bất cứ một ngôi nhà hay cung điện gì thì ở phía trước gọi làchu tước (chim sẻ đỏ) thuộc hướng Nam, hành hỏa. Phía trái (từ ngoài nhìn vào) gọi là bạch hổ (hổ trắng) thuộc hướng Tây, hành kim. Phía phải gọi là thanh long (rồng xanh) thuộc hướng Đông, hành mộc. Phía sau gọi là huyền vũ (rùa đen) thuộc hướng Bắc, hành thủy. Đặt kinh thành dựa theo hướng thiên nhiên, dùng ngũ hành mà sinh khắc chế hóa để sửa đổi, tạo thế quân bình, rồi dùng ngũ hành mà tạo lục thân để đoán vị và quy hoạch, bố tri cung điện. 3. Phong thủy cũng quan niệm rằng: phía Tây thuộc về chủ; phía Đông thuộc về thê thiếp, bạn bè ti bộc, vật giá, châu báu, kho đụn, vật loại… tức là những thứ mà chủ sai khiến, sử dụng; phía sau thuộc về tử tôn, môn sinh, trung thần, lương tướng. Từ đó, việc bố trí các cung điện,
dinh thự… trong Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành cũng dựa vào nguyên tắc này mà phân bổ chức năng. 4. Kinh thành Huế xây dựng ở vùng đất có nước phủ bốn bề, theo phong thủy là nơi tụ thủy, đất phát tài. Nhưng phía Tây kinh thành lại có khí núi xung sát, sông Hương uốn khúc vì thế hành kim rất vượng. Điều này sẽ có hại cho phía Đông, chủ hành mộc (kim khắc mộc). Mộc yếu sẽ dẫn đến sự hạn chế về của cải, dân chúng, thương mại…, kim động sẽ gây hại cho dương trạch nên dễ sinh tật bệnh, tổn hại gia đạo. Vì thế phải xây chúa miếu ở phía Tây để trấn. Đó là lý do ra đời Văn Miếu, chùa Thiên Mụ ở phía Tây kinh thành Huế.
Sơ đồ kinh thành Huế Vận dụng dịch lý và thuật phong thủy bên bờ sông Hương Bốn điều do học giả Vĩnh Cao lưu ý trên đây, theo nhận định của Trần Đức Anh Sơn đều xuất phát từ sự vận dụng dịch lý và thuật phong thủy vào địa hình cụ thể của Huế. Trước hết, hướng của kinh
thành Huế quay mặt về Đông nam là do địa hình chi phối, vì nếu quay về hướng chính Nam như thường thấy Huế sẽ “lập với con sông Hương chảy theo hướng Tây nam – Đông bắc, ngang qua kinh thành một góc ước khoảng 45 độ, các yếu tố phong thủy như Minh đường, Thanh long, Bạch hổ… sẽ không còn giá trị. Trong khi đó, quay mặt về hướng Đông nam, kinh thành Huế sẽ có con sông Hương làm yếu tố Minh đường và hưởng được tính chất tốt của hai hòn đảo nhỏ tức Cồn Hến và Dã Viên. Thật vậy, theo GS. Nguyễn Thiệu Lâu, đảo Thanh Long và đảo Bạch Hổ cùng quay đầu về kinh thành để các luồng âm và dương thổi qua bảo vệ”. Nói rõ hơn, Nguyễn Đăng Khoa qua tài liệu đã dẫn, nhận xét: “Sông Hương theo cách nhìn địa lý cổ, là một dòng sông chảy ngược từ phía Nam lên phía Bắc. Theo quan niệm trong Kinh dịch thì gốc của thủy phải ở phía Bắc và chảy về Nam (khởi từ Khảm và tụ về Ly). Tất nhiên, ở Huế, dòng chảy của sông Hương do địa hình quy định, phía Nam sông Hương là vùng đồi núi cao, hợp lưu của hai nhánh sông Tả và Hữu trạch. Hai dòng nước này hợp lại ở thượng nguồn sông Hương, giữa 3 khu núi cao là Kim Phụng, Thiên Thọ và núi Vưng. Nhìn rộng ra thì cả khu vực đồi núi này bắt nguồn từ Trường Sơn, tạt ngang ra biển, tạo nên một đại cuộc đất là Hoành Long. Dòng sông Hương trong lặng tỏa rộng về phía Bắc ra cảng Thuận An. Dòng nước uốn lượn nhiều lần qua đồi Vọng Cảnh, chảy về phía Nguyệt Biều, rồi lật trở lại chảy qua mặt thành. Theo sách Địa đạo diễn ca của Tả Ao thì long mạch uốn lượn gấp khúc càng nhiều thì càng chứng tỏ đất có nhiểu sinh khí. Mặt đất nhược dần về phía kinh thành tạo ra một vài thế đất kết tụ gọi là Thủy Hử (phần đất được sông đổi hướng chảy ôm lấy tạo thành). Những loại mạch sơn cước như vậy khi xuống thấp thấy hiền hòa hơn, chính là nơi tạo ra những huyệt địa kết phát. Vua Gia Long đã chọn được khu vực tốt cho việc xây thành, lập kinh đô. Thành có án, có tả thanh long, hữa bạch hổ triều củng, có “thủy đáo điện tiền” và đoạn sông trước thành đồng thời đóng vai trò minh đường cho thành”.
Bờ thành kinh thành Huế
Dãy súng đại bác trước Ngọ môn Đến đây, thiết tưởng chúng ta cần tham khảo thêm tài liệu của một học giả uy tín người Pháp qua cuốn Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả L.Cadiere, bản dịch của Đỗ Trinh Huệ, tài liệu này đưa ra giả thuyết vua Gia Long “khi bắt đầu xây dựng Hoàng thành và Tử cấm thành ngày 9.5.1804, ngày “Kỷ Vị” thì vào ngày 1.5.1803, ngày “Ất Vị”, ông ta đã phân định La thành, ngày “Quý Vị” 28.5.1805, nhà vua cho dựng lên thành lũy, ban đầu bằng đất rồi dần dần bằng gạch. Bằng những việc làm trên, có lẽ Gia Long đã hết sức củng cố thêm những phòng thủ ma thuật thiên nhiên mà tiên chúa Ngãi Vương đã dùng tới…Các cung điện của kinh thành đều có ghi rõ ràn các can chi, ngày khởi công xây dựng. Các bảng ghi ngày tháng xây dựng đều có ghi ngày tốt giờ tốt. Hẳn rằng, Gia Long khi cho xây dựng đều cho tuân thủ các tập tục này: họ chọn ngày tốt và ngày hôm đó họ cũng thực hiện một thao tác quan trọng bậc nhất, đó là việc thượng lương. Trước hôm đó, họ cho chuẩn bị kỹ lưỡng: ban đất, chuẩn bị nền móng, trụ cột, bào đẽo các cột kèo…. Cũng như ở Tây phương, người ta tổ chức long trọng lễ đặt viên đá đầu tiên, nhưng ngày hôm đó không chính xác là ngày khởi công. Vì thế nên hiểu ý nghĩa của ngày tháng được nêu trong văn bản về các việc xây dựng kinh thành Huế”. Công trình kiến trúc kinh thành được tiếp tục vào thời vua Minh Mạng ra sao?
Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Gia Tiến, Trương Vững, Thanh Tùng
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam Bài 13: Lăng Thiên Thọ và những bí ẩn ở cửa Ngọ Môn
Nếu lăng Thiên Thọ là “ngôi nhà vĩnh cửu” đã chôn cất nhục thân của vua Gia Long, thì cửa Ngọ Môn là kiến trúc mỹ thuật đặc sắc vừa đánh thức tên tuổi của vua Minh Mạng – vì cả hai nằm trong quần thể di tích đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới và trong quá khứ đều được thiết kế thi công nghiêm ngặt theo phương hướng của dịch học và phong thủy học phương Đông dưới triều Nguyễn…
Nhà địa lý Lê Duy Thanh dò tìm long mạch Huế ra sao? Lê Duy Thanh (con trai của nhà bác học Lê Quý Đôn) là nhà nghiên cứu dịch lý và địa lý học nổi danh đầu thế kỷ 19, được vua Gia Long chỉ định tìm một cuộc đất tốt để làm chỗ xây lăng sau này cho nhà vua. Nhận mệnh lệnh, Lê Duy Thanh phóng tầm nhìn ra xa khỏi kinh thành Huế, đi thực địa và đã 7 lần gieo quẻ, cuối cùng tìm được một vị trí tốt nhất là vùng núi Thọ Sơn có 5 triền uốn khúc như rồng cuộn từ dưới vươn lên, có 34 ngọn núi cao thấp chầu về, rải đều hai bên với 14 ngọn bên phải, 14 ngọn bên trái và 6 ngọn che chở hầu cận đằng sau. Nghe tường trình như thế, Gia Long đích thân cưỡi voi đến tận nơi xem xét và được Lê Duy Thanh chỉ địa điểm chính thức để xây lăng mộ, Gia Long nhìn bao quát toàn cảnh, ngẫm nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nói đây không phải nơi thích đáng mà phải tìm chỗ đất khác. Và sau đó chính nhà vua chọn cho mình một huyệt địa nằm cách đó không xa, cũng trong vùng núi Thọ Sơn, rồi cùng Lê Duy Thanh gieo quẻ. Quẻ gieo xong, nhà vua quay nhìn thẳng Lê Duy Thanh, nghiêm mặt trách, đại ý:
- Xét về long mạch và cuộc đất cát tường thuận theo cung mệnh đế vương thì nơi đây mới hợp, chẳng lẽ nào khanh không biết mà lại chọn cho trẫm một nơi không thuận hợp như
trước kia. Hay là khanh đã biết mà muốn dành để cải táng hài cốt của cha ông mình vào đó?
Lăng vua Gia Long Bị quở trách, Lê Duy Thanh sợ hãi sụp lạy hồi lâu, Gia Long tha cho, không nói gì nữa và sai thái tử Đảm tức vua Minh Mạng sau này, bói quẻ bằng mu rùa lần nữa, để biết thêm về thế đất phong thủy trên. Quẻ được giao Thượng thư bộ Lễ là Nguyễn Hữu Thân giải đoán với kết quả là “cuộc đất rất tốt và thuận hợp” nhất để xây lăng mộ vào ngày 22.3 âm lịch nhằm 11.5.1814 (trước khi vua Gia Long qua đời 6 năm). Khoảng 300 quân Sanh thiết và 274 nhân công thuộc đạo Thủy quân được điều động để xây lăng ở núi Thiên Thọ ấy. Chung quanh núi có nhiều ngọn đồi được mang các tên cát tường do nhà vua ban cho tương ứng với địa thế và thuật ngữ phong thủy. Trong vùng có 2 con suối chính đưa nước từ cao xuống. Theo mô tả của học giả Cadière cách đây gần một thế kỷ thì con suối thứ nhất tập hợp các dòng nước chảy xuống phía bên trái của lăng, vòng qua trước mộ và trước điện Minh Thành rồi chảy ngược lại trước mộ Gia Long để “tiếp tục chảy cho đến chiếc hồ vuông nằm trước mộ mẹ Gia Long, chảy tiếp trước mộ tháp của người chị và như thế con suối liên kết hết các thành viên của gia tộc trước khi đổ đến Môi Khê nhập lại với con suối thứ hai. Nó được gọi là Hồ Dài”. Con suối thứ hai có tên Trường Phong dẫn nước từ núi Nhuệ về Thiên Thọ, chảy dọc theo mộ Trường Phong thành hình vòng cung, nhập với Hồ Dài để “cả hai con suối đều không chảy thẳng trực diện đến mộ, mà lại thoải mái chảy vòng vòng tạo thành những hình cát triệu – chúng kéo đi xa những ảnh hưởng xấu có thể phương hại đến sự yên tĩnh của những người quá cố”(Đỗ Trinh Huệ dịch).
Thế Tổ Cao Hoàng Đế Gia Long (1729 – 1820) Những điều trên cho thấy vị vua đầu triều Nguyễn không chỉ quan tâm đến vai trò địa lý, dịch học và phong thủy học trong việc tìm đất và định hướng cho các công trình kiến trúc của kinh thành Huế mà còn hết sức cẩn thận coi trọng việc xây cất lăng mộ cho mình trước khi qua đời vào ngày 3.2.1820 tại điện Trung Hòa, thọ 59 tuổi. Ông là vị hoàng đế ứng dụng phong thủy để quyết định xây kinh thành Huế xoay mặt về hướng Đông nam, đồng thời bắt tay thực hiện nhiều công trình kiến trúc đầu tiên của đất thần kinh (kinh thành tuyệt diệu) như Thái Miếu, Triệu Miếu, Hoàng Khảo Miếu, các điện Cần Chánh, Thái Hòa, Quang Minh, Trinh Minh, Trung Hòa (Càn Thành), Hoàng Nhân (Phụng Tiên), các cung Trường Thọ (Diên Thọ), Khôn Đức (Khôn Thái) và Viện Thái y… Nối ngôi Gia Long là vua Minh Mạng với 20 năm trị vì (1820 – 1840) đã tiếp tục hoàn chỉnh công cuộc quy hoạch, bố trí hợp lý hơn nữa khu vực Hoàng thành và Tử cấm thành, xây cung Trường Ninh (Trường Sanh), Thế Miếu, Hiển Lâm các, đúc Cửu đỉnh… Một trong các công trình do vua Minh Mạng xây được xem là tiêu biểu cho kiến trúc mỹ thuật Huế xưa và trở thành một biểu tượng của Huế là cửa Ngọ Môn.
Giải mã những “ẩn số vàng” Trước ngày xây Ngọ Môn, vua Minh Mạng hỏi Bang tá bộ Công là Nguyễn Trung Mậu về việc chọn hướng. Nguyễn Trung Mậu tâu các kinh đô của bậc vua chúa từ xưa đều phải hướng đến phía Tây bắc – Đông nam (và Đông bắc – bắc và Tây nam – nam). Các học giả phương Tây khi đề cập nội dung liên quan đã dẫn chứng bản đồ của Ban địa lý đầu thế kỷ 20 tỷ lệ 1/25.000 để chứng minh các điện chính của kinh thành Huế đều có trục hướng về một trong các đường Càn – Tốn, chếch gần hướng Tây bắc – Đông Nam, là một trong các hướng thích hợp theo truyền thống dịch lý học và phong thủy học phương Đông. Ngoài ra, việc chọn ngày khởi công cũng rất kỹ lưỡng. Theo sử sách triều Nguyễn ghi lại , ngày bắt đầu xây cất cửa Ngọ Môn nhằm 9.3.1833.
Lăng vua Minh Mạng Đây không phải là một cửa ra vào thông thường, mà được sử dụng như một lễ đài uy nghiêm vào bậc nhất triều Nguyễn, mang tổng thể kiến trúc mỹ thuật có thể chia làm hai phần. Phần trên với lầu Ngũ Phụng là nơi đọc tên các tiến sĩ đỗ đạt thời trước, nơi diễn ra các đại lễ thường niên, nơi triều đình ban lịch vào mỗi năm mới, nơi nhà vua hiện diện trong các cuộc duyệt binh và chính nơi đây cựu hoàng Bảo Đại đọc chiếu thoái vị tại lễ trao ấn kiếm cho chính quyền cách mạng vào tháng 8.1945. Phần dưới được xây trên một nền đài vững chắc, cao gần 5m, bằng đá Thanh và gạch vồ, đáy dài gần 58m và rộng hơn 27m. Đến nay điều nhiều người vẫn muốn biết: hai chữ “Ngọ Môn” nghĩa là gì? Có giải thích cho chữ “Ngọ” nhằm chỉ lúc mặt trời đứng bóng giữa trưa (thời gian). Nhưng nhà nghiên cứu Phan Thuận An bác bỏ ý đó, để cho rằng hai chữ “Ngọ Môn” mang nội hàm khác về phương
hướng (không gian), vì khi xây kinh thành Huế các nhà kiến trúc thời Nguyễn đã đặt hệ thống thành quách cũng như cung điện ở vị thế “tọa càn hướng tốn” (Tây bắc – Đông nam), hướng này cũng như hướng bắc – nam.
Chân dung vua Minh Mạng in trong cuốn sách của John Crawfurd (17831868), xuất bản tại Luân Đôn 1828 Từ đó “đối với ngai vàng trong điện Thái Hòa được xem như vị trí trung tâm của mặt bằng tổng thể, Ngọ Môn nằm ở phía nam của nó – căn cứ trên la kinh (la bàn) của khoa địa lý phong thủy Đông phương, phía nam thuộc hướng “ngọ” nên trục “tý – ngọ” (nghĩa là bắc – nam – do đó cái cổng mới xây ở mặt trước Hoàng thành được đặt tên là Ngọ Môn”. Đồng thời Phan Thuận An nêu ra những con số liên quan đến kiến trúc Ngọ Môn đã được các kiến trúc sư và các nhà dịch học, phong thủy học triều Nguyễn ứng dụng, tiêu biểu như con số 5 tượng trưng cho Ngũ hành hiện diện ở đây qua 5 lối đi gồm: một cửa dành cho vua đi ở giữa, hai cửa hai bên dành cho các quan văn võ, hai cửa tả dịch môn và hữu dịch môn dành cho binh lính với ngựa voi theo hầu. Con số 9 ở hào Cửu ngũ ở Kinh dịch thể hiện ở 9 nóc lầu Ngũ Phụng. Con số 100 thể hiện ở 100 cây cột nhà ứng với số cộng của Hà đồ và Lạc thư: “Số của Hà đồ là 55 (do các số từ 1 đến 10 cộng lại: 1+2+3+4+5+6+ 7+8+9+10); số của Lạc thư là 45 (do các số từ 1 đến 9 cộng lại: 1+2+3+4+5+6+7+8+9). Như vậy, số thành của Hà đồ và Lạc thư cộng lại (55+45) là 100. Và nói đến Dịch học là phải nói đến âm dương, vì “Nhất âm nhất dương chi vị Đạo”. Số dương của Hà đồ là 25 (do các số lẻ từ 1 đến 10 cộng lại: 1+3+5+7+9); số âm của Hà đồ là 30 (do các số chẵn từ 1 đến 10 cộng lại: 2+4+6+8+10). Và, số dương của Lạc thư là 25 (do các số lẻ từ 1 đến 9 cộng lại: 1+3+5+7+9); số âm của Lạc thư là 20 (do các số chẵn từ 1 đến 9 cộng lại: 2+4+6+8 ). Hai số dương của Hà đồ và Lạc thư cộng lại là 50 (tức là 25+25); hai số âm cộng lại cũng là 50 (tức là 30+20). Thành ra âm và dương của Dịch là bằng nhau, đều 50. Nghĩa là: (25+25) + (20+30) = 100”. Trên thực địa, nếu dùng đường trục chính của Hoàng thành là Dũng đạo để chia mặt bằng lầu Ngũ Phụng ra làm hai phần thì chúng ta thấy mỗi bên có 50 cột đối xứng nhau. Đạo Âm dương Ngũ hành của nền triết học Đông phương đã biểu hiện thật cụ thể trên kiến trúc Ngọ Môn. Cho hay, trong các công trình kiến trúc cổ của ta, người xưa đã gửi gắm nhiều ẩn số, ẩn ngữ, ẩn ý rất sâu xa. Ngọ môn xứng đáng được liệt vào hàng những công trình kiến trúc nghệ thuật xuất sắc nhất của triều Nguyễn nói riêng và của nền kiến trúc cổ Việt Nam nói chung” (Quần thể di tích Huế, NXB Trẻ 2007).
Tượng voi đá trong lăng vua Minh Mạng Nhiều năm trước ngày xây Ngọ Môn rất lâu, vào 1826, vua Minh Mạng đã nghĩ đến cái chết của mình nên triệu tập những thầy địa lý cùng các quan giỏi về phong thủy học đương thời để tỏa ra đi coi đất tìm nơi xây lăng thích hợp cho mình. Nhưng mãi đến 14 năm sau, khi Ngọ Môn đã tượng hình, vị quan giỏi về dịch lý phong thủy là Lê Văn Đức mới tìm ra được cuộc đất cát tường vào tháng 4.1840 và trình lên. Vua Minh Mạng đích thân đến xem cuộc đất ấy ở vùng núi Cẩm Kê (Hiếu Sơn) rất vừa ý nên đã thăng cho thầy Lê Văn Đức lên hai cấp và sai các đại thần Trương Đăng Quế và Bùi Công Huyên tiến hành khảo sát địa thế, vẽ sơ đồ chi tiết về sơn thủy, đo đạc đất đai để huy động hơn 3.000 thợ thầy xây vòng đai của lăng mộ vào mùa thu 1840. Công việc đang tiến hành hợp với quy củ của tiến trình kiết giới và an bình địa cuộc thì vua Minh Mạng qua đời ngày 20.1.1841 giữa tuổi 50, để lại tất cả thân quyến với hoàng hậu, các phi tần mỹ nữ và 142 người con chính thức gồm 78 hoàng tử và 64 nàng công chúa…
Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Gia Tiến, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam - Bài 14: Vua Thiệu Trị với Thế đất phong thủy Xương Lăng
Vua Thiệu Trị (tức hoàng thái tử Miên Tông) lên ngôi tháng Giêng năm Tân Sửu 1841 và mất 6 năm sau đó (vào 1847) – chưa kịp tự tìm cho mình một cuộc đất tốt để xây lăng…
Đối chứng với địa lý gia truyền của cụ Tả Ao
Vua Thiệu Trị Định mệnh đã đem tới những điều không vui cho vua Thiệu Trị vào hai thời điểm lớn trong đời: lúc sinh ra và khi mất đi. Ông sinh ngày 11.5 Đinh Mão (nhằm 16.6.1807) ở nhà ông ngoại của mình là Hồ Văn Bôi nằm phía đông kinh thành – chỉ 13 ngày sau đó, mẹ ông là bà Hồ Thị Hoa qua đời ở độ tuổi 17. Sau này ông đã cho xây ngôi quốc tự Diệu Đế tọa lạc tại địa điểm đầy nỗi niềm trên. Ông là con trưởng đứng đầu trong số 78 hoàng tử của vua Minh Mạng và là vị vua thuần hòa, yêu chuộng văn chương và dùng nhiều thuật ngữ địa lý phong thủy trong các sáng tác của mình. Như bài tựa cuốn “Ngự đề đồ họa thi tập” ông viết đại ý: “Nhìn lên trời cao để xem thiên văn, ngó xuống đất rộng để xét địa cuộc, ngẫm về thế đất cát hung và cảnh chim muông tụ tán, lấy chứng cứ gần gũi nơi mình cũng như đưa tầm mắt để quán sát vạn vật từ xa, thấy rõ trăm dòng sông cuộn chảy như lụa là và núi đồi trùng điệp vươn cao như ngàn xanh đúc sẵn. Đất ấy, trời ấy, vật ấy, sông ấy, núi ấy vốn từ một nguyên khí tản mác, có duyên tụ lại nơi ngòi bút để thành đồ họa dưới tay người”. Ông nhắc đến vùng đất xưng vương của họ Nguyễn với linh mạch trào lên thành dòng nước ấm ở huyện Hương Trà bên nguồn tả trạch (doanh doanh linh mạch triều phiên nhất hoằng ôn thủy),ca ngợi đồi Hà Khê có thế rồng quay đầu nhìn lại (long bàn hồi thủ) và hổ rống trên cao (hổ khiếu cao tôn) cũng như núi Ngự Bình làm nơi chầu về của muôn núi (quần phong triều củng)hoặc sông Hương với trăm dòng đổ về (bách xuyên hợp phái)… Lúc vua cha mất, ông điều động cả vạn dân binh để tiếp tục hoàn tất lăng Minh Mạng theo đề án để lại. Nhưng đến lượt ông, thì ngay cả việc tự tìm một cuộc đất cát tường vừa ý mình để xây lăng cũng không kịp.
Ông lâm bệnh mất lúc mới 41 tuổi, để lại hơn 30 người vợ, với 64 người con gồm 29 hoàng tử và 35 hoàng nữ. Giờ hấp hối, ông gọi hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm (bấy giờ mới 19 tuổi, tức vua Tự Đức sau này) đến dặn dò việc xây lăng cho ông. Tự Đức lập tức triệu tập các thầy địa lý đi khảo sát quanh vùng Phú Xuân tìm ra một cuộc đất tốt cách kinh thành không xa lắm, thuộc địa bàn làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, trên một vùng núi thấp (Thuận Đạo). Đến đây, để tìm hiểu thêm về địa thế phong thủy nơi các lăng vua Nguyễn, trong đó có lăng Thiệu Trị (gọi Xương Lăng), được xây ở các vùng đồi núi ngoài kinh thành, thiết tưởng cần tham khảo Địa lý gia truyền nổi danh của cụ Tả Ao. Theo đó, trên núi đá thường không có huyệt(phàm thạch sơn bản vô huyệt), song nếu phát hiện thấy núi đá nào có những vụng đất mềm tức chỗ ấy có thể được (nhược kiến oa hình, thổ nhuận nghi điểm chi, giác thư vi quý). Còn nếu trên núi đá không thấy có khí mạch lưu thông hãy tìm xuống phía dưới, thấy chỗ nào có đất mềm mới điểm (nhược vô thạch mạch tụ, tựu hạ ư thổ xứ điểm chi).
Lăng vua Thiệu Trị, thuộc huyện Hương Thủy, thành phố Huế Cụ Tả Ao bảo núi đá cũng như xương người, phàm thô cứng không có huyệt, song nếu thấy hai bên tả hữu, phía trước hoặc phía sau núi đều phân minh và có khí lành chung tụ, thì có thể xem kỹ để chọn. Nếu thấy trước mặt toàn là đá mà không có đất ắt phải cẩn thận không nên dùng búa hoặc các vật dụng cứng như đinh, như đục để đào khoét xuống sâu làm huyệt, vì như thế sẽ không tốt. Mà phải dùng phép đặt quan tài trên mặt đá, xong lấy đất chỗ khác chở về đắp cao độ năm thước ta, như thế có thể biến nơi ấy thành phúc địa (Bất nghi phủ đinh quật chi – kỳ pháp, trí quan ư thạch thượng, dĩ khách thổ bồi chi – cao hậu ngũ xích diệc phát phúc dã). Đến lúc điểm huyệt, cụ Tả Ao nhắc nhở: “long bản quý khí tại tỵ – Nghi điểm chỉ Quy bản huyệt tại kiên, vật dụng ư sát dã – long điểm ư thần, tận khí dã”, được nhà nghiên cứu địa lý và phong thủy học Cao Trung luận: “Rồng vốn quý ở nơi mũi (chỗ thở ra thở vào tức là nơi khí chung tụ) nên phải điểm vào mũi, chứ đừng điểm thấp xuống miệng rồng (là chỗ tận khí, không tốt). Rùa, nếu huyệt ở vai hãy nên điểm vào vai, chứ đừng điểm cao lên chỗ mai rùa (là chỗ không tốt)”…
Đưa quan tài đến Xương Lăng
Chọn đất xong, vua Tự Đức sai đại thần Vũ Văn Giải đôn đốc dân binh bắt tay xây gấp lăng Thiệu Trị vào giữa tháng 2.1848. Đến đầu tháng 5 năm ấy, một số công trình chủ yếu trong lăng đã xong và không xây La thành bọc ngoài (như lăng Minh Mạng) mà lấy những dãy đồi nhấp nhô quanh vùng làm thế vây bọc tự nhiên. Mặt trước nhìn ra một vùng đất rộng thoáng đãng về hướng Tây Bắc, xa xa đồi Vọng Cảnh hiện lên phía hữu và núi Ngọc Trản nằm phía tả – hình thành thế “tả long hữu hổ” hộ lăng. Mặt sau dựa vào núi Thuận Đạo. Trong lăng đào các hồ Nhuận Trạch, hồ Ngưng Thúy, hồ Điện, trổ dòng nước chảy thông ra ngoài bằng những đường cống ngầm dưới đất, xây lầu Đức Hinh, điện Biểu Đức, cầu Chánh Trung, cầu Đông Hòa, cầu Tây Định bên trên… Xem xét cuộc đất và thế phong thủy của lăng Thiệu Trị, các nhà nghiên cứu nhận định lăng này ở vào vị thế “sơn chỉ thủy giao” với ngọn núi Chằm làm tiền án nhô lên cách đó chưa đầy 10 cây số, núi Kim Ngọc từ xa và mô đất lớn được đắp đàng sau làm hậu chẩm.
Cảnh quan trong lăng vua Thiệu Trị Vì đợi xây lăng xong mới đưa đi an táng nên quan tài của vua Thiệu Trị phải quàn tại điện Long An (cung Bảo Định) ròng rã trong 8 tháng trời, tức hơn 200 ngày kể từ khi mất (vào 4.11.1847 đến 21.6.1848). Theo tài liệu của R. Orband trên tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué số ra năm 1916, Đặng Như Tùng dịch, thì chương trình thọ tang và chôn cất do quan Thiên giám triều Nguyễn chọn các ngày tốt để làm đám, dân chúng không được làm lễ cưới, lễ hỏi và không được mặc áo đỏ trong suốt thời hạn tang lễ. Đúng 10 giờ sáng (giờ Tỵ) ngày 21.6 làm lễ cúng đầu tiên (khải điện).
Đến giờ Ngọ (mặt trời đứng bóng) dâng lễ lên các tiên vương tức lễ cúng các hoàng đế nhà Nguyễn đã qua đời gồm 5 trâu, 5 dê, 5 lợn, 5 mâm nếp, 5 mâm thức ăn, 1 mâm cơm, 1 mâm bánh, 10 mâm hoa quả, 15 bầu rượu gạo, hương, đèn, vàng bạc giấy, trầu, trà… Ngày 22.6 vào 6 giờ sáng (giờ Dần) bắt đầu lễ rước quan tài (thiên tử cung), xế chiều đưa xuống thuyền rồng Long Châu để theo sông Hương di chuyển chầm chậm trong 3 ngày mới đến Xương Lăng. Một tài liệu cho biết đoàn thuyền tổng cộng có đến hơn 30 chiếc lớn với nhiều đò nhỏ hộ tống. Có chiếc chở tượng Phật A-di-đà và tượng Địa tạng vương Bồ tát, chiếc chở mô hình điện Cần Chánh, chiếc chở mũ áo thêu rồng và mũ áo tế lễ Nam Giao, cùng sách vàng ấn ngọc, kiệu và xe song mã của vua… Đến chỗ huyệt chôn (huyền cung), người ta làm lễ chuyển quan vào giờ tý ngày 24.6. Mãi 4 giờ chiều hôm sau 25.6, mới hạ huyệt (an huyền cung). Nhà truyền giáo Pellerin, đang có mặt tại miền Trung lúc bấy giờ, tường thuật theo lời kể của những người Huế tận mắt chứng kiến tang lễ rằng thuyền chở quan tài của vua được che kín, không thể nhìn thấy bên trong. Ngót mấy chục chiếc thuyền khác đi theo, có chiếc chở các nhà sư tụng kinh vãng sanh, chiếc chở đoàn người rước linh với gương mặt sơn đủ màu xanh, đỏ, vàng, đen, luôn nhảy múa với tay cầm kiếm hoặc chùy bằng gỗ, một số cầm đuốc quơ lên thành các vòng lửa xua đuổi ma quỷ và tà khí để chúng không đến gần quấy nhiễu. Đến gần lăng, từ dưới sông thoáng thấy một ngôi nhà khá xinh hiện ra trong tầm mắt ở lưng chừng núi làm nơi trú ngụ của những người giữ mộ và cúng cơm hàng ngày cho linh hồn nhà vua. Ở vị trí quanh ngôi nhà đó người ta đào một cái hầm chạy ngầm dưới mặt đất đến chỗ đặt quan tài vua Thiệu Trị. Rời thuyền lên bờ, con đường dẫn tới Xương Lăng được lót sẵn chiếu hoa để đón đám tang đi qua. Tang lễ kết thúc, chiếc thuyền sơn son thếp vàng vua Thiệu Trị đã dùng khi còn sống cũng như một chiếc thuyền khác dùng để chở quan tài nhà vua được đem đốt cháy phừng phực dưới sông. Ngọn lửa bừng lên, những vệ sĩ hộ tang lại một lần nữa múa kiếm gỗ và thắp đuốc đỏ rực trời. Lửa tàn, vua Tự Đức cùng các quan cận thần quay về kinh thành, còn một số cung phi mỹ nữ và những người được giao trách nhiệm hộ lăng phải ở lại trên ngọn đồi giữa lúc chiều vơi…
Theo – Ảnh: Gia Tiến, Tư liệu
Bài 15: Vua Tự Đức với nỗi niềm“vạn niên đại cát”
Sau nhiều biến động thời cuộc bất lợi cho đất nước và triều Nguyễn, vua Tự Đức nghĩ đến “nơi an nghỉ cuối cùng” của mình nên đã sai các quan chuyên trách về dịch lý phong thủy dò tìm một cuộc đất “vạn niên đại cát” để xây lăng sẵn…
“Vạn niên đại cát” với nước nguồn thủy ngọc Vua Tự Đức sinh giữa mùa thu, ngày 25.8 năm Kỷ Sửu (22.9.1829), thể chất vốn yếu ớt, lại hay ốm đau từ nhỏ, lớn lên không thể có con được, nhà vua buồn bã nghĩ đến lẽ tử sinh của đời người như chính vua nêu trong phần mở đầu của một bài ký dài, đại ý: - Mây bay trên trời không có hình tướng cố định nhưng tồn tại mãi. Còn những thứ có tướng trạng rõ ràng, to lớn như mặt trời mặt trăng, cứng chắc như núi cao rừng thẳm, hoặc vàng đá đất đai, song tất cả đều phải chịu cảnh sáng – tối, tròn – khuyết, lành – vỡ, huống chi con người “sống nay chết mai” chẳng biết khi nào. Sống thì mỗi người mỗi khác nhưng chết thì đều giống nhau ở chỗ tấm thân mục rữa, nên cần chôn cất tươm tất, vừa khác với loài vật ở chỗ có lễ, lại vừa do cái tình mà nên như thế. Hãy ngẫm lại từ xưa các vị hoàng đế sau thời đăng quang đã sai đóng trước quan tài cho mình. Rồi cứ mỗi
năm một lần đem quan tài ấy ra sơn mới lại, tự nhắc nhở mình trong 100 năm của đời người thì có 1 năm “đã chết” – đã trôi qua mất. Nay ta không thể trái lệ xưa của các tiên vương được. Vả lại những người cường tráng sức khỏe dồi dào còn phải lo lúc qua đời đột ngột, huống là ta thể trạng vốn không khỏe khoắn gì mà lại dám hờ hững xem thường chuyện ấy sao?
Sơ đồ Lăng Tự Đức Vì lẽ đó, Tự Đức muốn xây lăng mộ cho mình và tìm được một nơi có mạch nước tự nhiên từ trong lòng đất chảy ra (hữu thủy tự địa trung lưu xuất). Nước chảy khoan thai, từ tốn, êm đềm, nhỏ nhẹ, tránh được điều tối kỵ theo thuật “sơn thủy pháp” mà cụ Tả Ao cảnh báo: núi gồ ghề chứa ác khí là không tốt – nước chảy bộc phát rộn ràng thành tiếng kêu như khóc là rất xấu (Sơn tha nga, ác khí, bất cát – Thủy bộc lộ, khấp khốc, tối hung). Màu nước nơi đó lại trong xanh như thủy ngọc, ứng với phép địa lý: nước chảy dạt dào mà trong suốt (thủy dương dương nhi triều cực thanh). Chảy như vậy ngày đêm chẳng lúc nào ngừng (nhật dạ bất đình) có thể ví như một “thủy khẩu” đưa nước từ trên bờ đá đổ xuống khoảng ruộng trũng nằm trên địa bàn làng Dương Xuân Thượng (sau thuộc xã Thủy Xuân – TP. Huế). Dựa vào thế tự nhiên sẵn có ấy, các nhà địa lý và ứng dụng phong thủy cho đào sâu xuống thành một cái hồ giữ nước rất rộng, xem tựa như chỗ “thủy tụ”. Đào đến nửa chừng bỗng đâu có nhiều đàn cá đến quần tụ sinh sống, chưa cần tay người thả nuôi, vua cho là một trong các điềm lành của “thủy hồ” nên sai tiếp tục đào sâu hơn.
Hồ được tạo dáng khác với mực thước vuông hoặc tròn thường thấy ở các công trình trước đó, mà phá thể trông tựa như hình trái tim với các cuống tim và động mạch chủ từ phía bên phải đang vươn về phía bên trái để ôm lấy khu lăng mộ xây bằng gạch đá trên bờ. Nhìn bao quát, mặt nước không bị đóng khung thẳng tắp theo các cạnh hình chữ nhật của các hồ thường thấy, mà chảy uốn khúc khiến người ta liên tưởng đến dạng “thủy lưu” theo phép địa lý: “nước chảy uốn khúc quanh co mà đến là chỗ đất quý” (thủy quý kỳ khuất khúc nhi chi).
Sung Khiêm Tạ, nơi thư giãn của vua Tự Đức Đào xong, vua Tự Đức đặt tên là hồ Lưu Khiêm, bên hồ dựng hai nhà mát Sung Khiêm và Dũ Khiêm, đắp hòn đảo lớn Tịnh Khiêm giữa hồ, bắc ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm, Do Khiêm và trồng sen hồng trong hồ. Trên bờ, ở khu lăng mộ cho xây các công trình để đời như: Minh Khiêm đường được xem là nhà hát xưa nhất Việt Nam tồn tại khá nguyên vẹn đến nay, Hòa Khiêm điện như một bảo tàng cung đình chứa đồ ngự dụng cùng một số tác phẩm tạo hình mỹ thuật thời Nguyễn. Ngoài khu vực lăng, long mạch được các núi đưa từ xa đến gần địa cuộc, mỗi ngọn núi được đặt tên riêng như Long Khiêm, Dần Khiêm, Lao Khiêm, Đạo Khiêm, Cư Khiêm, Lý Khiêm. Ngọn núi nằm phía bên phải có mở một cửa thông thoáng gọi Khiêm Cung môn. Nằm phía sau để làm chỗ tạm dừng chân nghỉ ngơi những lúc du ngoạn gọi Lương Khiêm. Nhà để các đồ dùng của vua khi đi dạo ghé qua, nằm về phía Tây gọi Ôn Khiêm. Lại có bốn nhà khác để các quan cũng như thợ thầy trú ngụ gọi Công Khiêm, Cung Khiêm, Lễ Khiêm, Pháp Khiêm. Lại lập bốn viện để phi tần mỹ nữ tháp tùng theo nhà vua có nơi ăn ngủ gọi Tùng Khiêm, Dụng Khiêm, Y Khiêm, Trì Khiêm. Dựng một căn lầu ở vị trí cao để có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn cảnh vật quanh vùng gọi Ích Khiêm. Lại có nơi để hương khói cho các cung nữ đã qua đời gọi Chí Khiêm…
Bi đình, với tấm bia bằng đá thanh, nặng 20 tấn, có khắc bài Khiêm Cung Ký do vua soạn thảo Gần 50 chữ “Khiêm” cho một cuộc đất Trên cuộc đất rộng khoảng 12 hecta của lăng Tự Đức có gần 50 công trình kiến trúc và tạo dáng phong thủy bao gồm mấy chục tòa nhà lớn nhỏ hợp thành một hệ thống cung điện và khu lăng mộ đều được đặt tên có chữ “Khiêm”, vì sao vậy? Chuyện liên quan đến những chuyển biến của thời thế xảy đến khi nhà vua lên ngôi được khoảng hơn 10 năm như: Đà Nẵng bị thực dân Pháp tấn công (năm 1858), đánh chiếm Gia Định (1859), lấn tới các tỉnh Nam Kỳ (1862). Ông mệt mỏi và cho bắt tay xây lăng tháng 10.1864, dự tính trong 6 năm sẽ xong và giao biện lý Nguyễn Văn Chất, thống chế Lê Văn Xa cùng trông coi. Cả hai vị ấy muốn rút gọn thời gian xây lăng khoảng 3 năm là xong. Vì gấp gáp như thế, nên 3.000 lính thợ ở công trường Vạn niên bị thúc bách, dẫn đến cuộc nổi dậy do Đoàn Trưng và Đoàn Trực lãnh đạo, tiến đánh hoàng cung nhưng bị chặn đứng và dập tắt (1866). Vua Tự Đức thoát hiểm, song uy tín của triều đình vốn bị mất mát nhiều sau những tổn thất trước thực dân Pháp thì bấy giờ lại xuống thấp hơn nữa. Vua thừa nhận:“Quân nổi loạn đã tìm cách lôi kéo dân binh dám xâm phạm tới cửa ngõ hoàng cung, ấy là do ta không có tài, không có đức, nên mới bị trời trách và người oán, vì thế ta phải khiêm thôi” và đổi tên công trình trên đất “Vạn niên đại cát” là Khiêm cung (sau gọi Khiêm lăng) cũng như các kiến trúc trực thuộc của lăng đều lấy chữ“Khiêm” để đặt tên với giải thích của vua, hàm nghĩa: “Khiêm” là khiêm nhường, kính cẩn, có địa vị cao hơn kẻ khác mà không lấy đó làm điều, chỉ muốn tự đặt mình khiêm tốn ở dưới vị thế của người mà thôi.
Cá chép hóa rồng trên mái ngói của Sung Khiêm Tạ Khiêm lăng hoàn tất tháng 8.1867, ngày nay đã cùng các lăng vua Nguyễn khác trở thành một phần sống động trong quần thể di tích Huế thuộc Di sản văn hóa thế giới đầu tiên của Việt Nam. Địa cuộc phong thủy và yếu tố nhân văn ở những nơi ấy được các tác giả nước ngoài như Henri Guibier nhận xét: “Các lăng tẩm ở Huế thường nép mình dưới các bóng cây cổ thụ, hoặc được bao quanh bởi sắc hoa và màu cỏ mượt trên các đồi núi xa xa, tất cả đã trở thành chứng tích không những thuộc quá khứ mà còn tác động đến hiện tại, chứa đựng trong đó sức mạnh siêu nhiên và bí ẩn từng ảnh hưởng sâu đậm đến con người và cảnh vật nơi đây” (BAVH 1916). Hai năm sau, nhà văn học giả Phạm Quỳnh khi đến thăm lăng các vua Nguyễn đã viết: “Không những mấy nơi đó là những thắng tích đệ nhất của nước ta, mà lại có thể liệt vào
bậc những nơi thắng tích của cả thế giới nữa” (Tạp chí Nam Phong số 10, tháng 4.1918). Đến cuối thế kỷ 20, nguyên Tổng giám đốc UNESCO Amadou Mahtar M’Bow đã phát biểu: “Giữa lòng Huế, Thành Nội lịch sử là mẫu mực về cấu trúc cân đối, mà sự hài hòa rất tự nhiên đến nỗi người ta quên bàn tay con người đã sáng tạo ra nó. Phía Nam, các lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn, rải ra dọc hai bờ sông Hương. Là tác phẩm của những người dân lao động và những thợ thủ công khéo tay nhất trong nước, những hệ thống kiến trúc ấy biểu hiện những biến tấu độc đáo trên một chủ đề thống nhất. Mỗi một lăng vua, với tính cách riêng biệt của nó, là một thành tựu tuyệt mỹ của nền kiến trúc cảnh vật hóa; và mỗi lăng tẩm khêu gợi trong cảm xúc của khách tham quan một âm vang đặc biệt. Lăng Gia Long giữa một khu rừng thiên nhiên bao la gợi lên một ấn tượng hùng tráng và thanh thản; lăng Minh Mạng đầy vẻ trang nghiêm; và lăng Tự Đức gợi cho khách du ngoạn hồn êm thơ mộng” (bản dịch của văn phòng Việt Nam cạnh UNESCO). Đúng vậy, lăng Tự Đức mang “hồn êm thơ mộng” như chính tâm hồn đa cảm của nhà vua, vốn là tác giả của hơn 4000 bài thơ chữ Hán, 100 bài thơ chữ Nôm với bài “Khóc Bằng phi” nổi tiếng trong đó có hai câu: “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/ Xếp tàn y lại để dành hơi” sau này còn âm hưởng trong ca từ của tình ca vượt thời gian như “đập gương xưa tìm bóng” (Gửi gió cho mây ngàn bay) và thống thiết ở hai câu cuối: “Mối tình muốn dứt càng thêm bận. Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi” nhắc nhớ một Nỗi lòng: “Yêu ai yêu cả một đời”. Thơ văn của ông không chỉ thể hiện nỗi buồn và bi kịch của một hoàng đế đương quyền bị sa sút, mà còn của một nhà văn hóa, một trí thức thất vọng trước mọi dự tính và mưu sự không thành. Ông nhận lỗi của mình qua các bài như: Sầu ngâm nhị thủ, Muộn tác nhị thủ, Bệnh nhị thủ, Tự vấn, Hư sinh…
Tượng voi đá, ngựa đá trong sân lăng
Ngày nay, văn hóa tâm linh và nhu cầu tìm hiểu phong thủy khiến chúng tôi đứng trước sơ đồ lăng Tự Đức không khỏi suy ngẫm đến những chỉ dẫn của cụ Tả Ao với lời bàn của nhà nghiên cứu dịch lý và phong thủy học Cao Trung sau đây: “Nơi nước tụ trước huyệt thì chỗ ấy gọi là Minh Đường… điều đáng kỵ là mùa thu mà Minh Đường cạn nước… Thực ra thì nước chảy theo chiều Tây Bắc, Đông Nam nên huyệt quay về hướng Tây Bắc, đã thu được tất cả thủy từ cao xa về lòng rồi. Tuy nhiên phương Đông Nam thiệt có thủy tụ, nhưng nếu sâu quá cũng đáng kỵ, mà thông thoáng rộng lớn, chảy xuôi cũng đáng kỵ”. Cũng cần nhắc lại, trong bài Khiêm cung ký dài gần 5.000 chữ do vua Tự Đức viết và sai khắc vào tấm bia đá nặng khoảng 20 tấn dựng ở Bi đình của lăng có đề cập đến hồ Lưu Khiêm mùa Hè không cạn, mùa thu không tràn bờ, do nước được dẫn thông ra bên ngoài bằng các ống cống nằm dưới những con đường lót đá thanh. Bọc quanh khu vực lăng có vòng la thành được xây chạy dài thuận theo thế núi ở đó vạn niên đại cát. Lại có thêm vòng “la thành tự nhiên” khác gồm những ngọn núi nhấp nhô tựa hồ như rồng lượn xa xa để che chắn bảo vệ cho lăng Khiêm. Vua Tự Đức qua đời ở tuổi 54, sau 35 năm ở ngôi (1848 - 1883) với nhiều nỗi sầu muộn chưa tan… Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Gia Tiến, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 16: Tân Sở – Cuộc đất phi thời
Đã có nhiều phân tích về các ưu điểm khi vận dụng dịch lý và thuật phong thủy để xây kinh thành Huế, ở đây chúng tôi muốn nhắc đến khía cạnh khác mà các nhà nghiên cứu đã nêu ra về vài sự khiếm khuyết tất nhiên của một cuộc đất đúng với lẽ “bất toàn” vốn có trong mọi sự trên đời.
Hoàng đế bị chết đói và điềm lành trên mộ đêm mưa
Tọa lạc trên một cuộc đất “sơn triều” và “thủy tụ” chung quanh đều được nước bao bọc là điều rất tốt cho kinh thành Huế, song “phía tây kinh thành lại có khí núi xung sát, sông Hương uốn khúc vì thế hành Kim rất vượng. Điều này sẽ có hại cho phía đông, chủ hành Mộc (Kim khắc Mộc). Mộc yếu sẽ dẫn đến sự hạn chế về của cải, dân chúng, thương mại…; Kim động sẽ gây hại cho dương trạch nên dễ sinh tật bệnh, tổn hại gia đạo” (Vĩnh Cao). Về “dễ sinh bệnh tật” ta có thể liên tưởng đến căn bệnh “không thể có con” của vua Tự Đức khiến nhà vua phải nhận ba người cháu là con của các anh ruột mình làm con nuôi: Ưng Chân, Ưng Kỷ và Ưng Đăng. Chính từ đây đầu mối “tổn hại gia đạo” trong dòng Nguyễn hiện hành. Nguyên trước khi Tự Đức mất (Quý Mùi 1883) đã gọi đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào căn dặn việc truyền ngôi theo di chúc:
“Trẫm nuôi sẵn ba con, Ưng Chân cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu, nhưng mặt hơi có tật, giống kín không rõ ràng, sợ sau không sáng, tính lại hiếu dâm, cũng rất không tốt chưa chắc đương nổi việc lớn cuộc đất phi thời. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này không dùng hắn thì dùng ai” (tài liệu của Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng). Trần Trọng Kim cũng viết: “Khi ngài (Tự Đức) sắp mất, có để di chiếu nói rằng: đức tính ông Dục Đức (tức Ưng Chân) không đáng làm vua, mà ý ngài muốn lập ông Dưỡng Thiện nhưng vì ông ấy còn bé, mà việc nước cần phải có vua lớn tuổi cho nên phải lập con trưởng (là Ưng Chân lên ngôi)”. Tại lễ đăng quang, Dục Đức không muốn đọc đoạn nhận xét về mình trong di chiếu nên đến đoạn ấy đại thần Trần Tiến Thành đọc nhỏ lại để không ai nghe rõ. Hai hôm sau, Nguyễn Văn Tường đọc tuyên cáo phế truất Dục Đức vì tội dám che giấu một đoạn di chiếu của vua cha và các tội khác như không mặc áo tang (màu trắng) mà lại mặc áo thường (màu xanh) khi cử hành lễ tang vua cha, hoặc thông dâm với các cung nữ của cha mình, rồi đưa Dục Đức vào biệt giam trong một phòng riêng tối tăm, bỏ đói nhiều ngày. Thỉnh thoảng một người hầu cũ của Dục Đức liều chết tìm cách đưa cho vua nắm cơm với một manh áo có nhúng nước để vắt uống. Đâu khoảng non một tháng sau, Dục Đức kiệt sức chết đói, xác bị cuốn trong manh chiếu cột lại để hai người lính cáng ra khỏi kinh thành lúc nửa khuya trời đang mưa. Họ định sẽ âm thầm đem lên chùa Tường Quang ở vùng An Cựu phía bên kia hữu ngạn sông Hương là ngôi chùa do người họ hàng bên vợ của vua Dục Đức (bà Từ Minh) dựng lên chừng 7 – 8 năm trước đó. Tương truyền, khiêng thi hài của vua đến gần chùa ấy bỗng có tiếng sấm vang kèm theo một lằn chớp ngoằn ngoèo lóe lên ở phía tây làm người lính đi đầu giật mình đứng khựng lại. Liền đó sợi dây bó manh chiếu bị đứt, khiến thi hài của vua lăn xuống một vũng nước lớn ướt đẫm. Quá sợ, hai người lính kia vội chạy vào chùa cấp báo và nhờ xử trí giùm. Nhà chùa có người rành việc cát hung về địa lý phong thủy và mộng triệu lành dữ mới quyết đoán rằng: - Đây là điềm tốt, hợp với phép “thiên táng” nghĩa là trời giúp chỉ cho biết nơi chôn cất. Cũng là theo lẽ “nhân định” tức ý muốn của vua tự chọn huyệt cho mình trong cuộc đất phi thời. Xét như thế thì hãy cứ để vua an nằm ở nơi ngã xuống đó, lấp đất lại làm mồ cho vua, sau này biết đâu sẽ ứng tới việc phát đạt không chừng… Vậy là Dục Đức làm vua chỉ được ba ngày, cũng là vị vua đầu tiên và duy nhất của triều Nguyễn bị chết đói trong nhà giam, được chôn cất một cách vội vàng như thường dân trong đêm mưa ở một địa điểm đầy giai thoại như kể trên. Chừng 6 năm sau (1889), trải nhiều biến cố dồn dập và phức tạp, triều đình đưa con ruột của vua Dục Đức là Nguyễn Phúc Bửu Lân lên ngôi, tức vua Thành Thái, đã cho xây mộ vua cha khang trang thành An Lăng, xây thêm điện Long Ân để thờ cúng, lập các dãy nhà quanh đó để các vợ thứ của vua Dục Đức trú ngụ lo hương khói quanh năm. “Nhất giang lưỡng quốc” và cuộc đất Tân Sở Để kiểm soát mọi việc, ngay thời vua Tự Đức người Pháp đã buộc triều đình Huế phải nhường một khu đất rộng khoảng 40.000m2 để họ xây cơ sở “bảo hộ” đầu tiên với tên gọi Tòa sứ (L’hôtel de la Légation) hoàn thành giữa năm 1878, sau xây thêm nhiều công trình
kiến trúc khác và gọi là Tòa Khâm sứ (La Résidence Supérieure de l’Annam) – hoặc Tòa Khâm.
Sơ đồ thành Tân Sở
Về vị trí, Tòa Khâm (của Pháp) nằm bên hữu ngạn sông Hương, đối diện với kinh thành Huế (của Việt Nam) nằm bên tả ngạn. Khoảng giữa của hai cơ sở quyền lực (Việt – Pháp) là con sông Hương – dòng sông với vị thế là một “minh đường” tốt đẹp theo địa cuộc phong thủy của kinh thành ngày trước, đến đó đã phai dần thời vàng son để trở thành một dòng chảy đầy vơi chua xót qua câu đối lưu truyền: “Nhất giang lưỡng quốc” nan phân thuyết Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường Hai câu trên đại ý nói: Một dòng sông (Hương) có hai quốc gia đóng đối mặt nhau trên hai bờ (nhất giang lưỡng quốc) thật chẳng nói nên lời! Bốn tháng trôi qua (từ tháng 7 đến tháng 10 Quý Mùi) mà có đến ba vua (tứ nguyệt tam vương) thay nhau lên ngôi rồi chết đi (Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc) đúng là điều chẳng lành (triệu bất tường). Điều “bất tường” xảy đến ngay sau ngày vua Hàm Nghi lên ngôi (kế vị Kiến Phúc) lúc 12 tuổi mà không thống báo trước cho Tòa Khâm biết theo yêu cầu trước đó của Khâm sứ Rheinart nên Rheinart rất bực tức. Đợi đến khi Thống tướng De Courcy đem thêm quân Pháp vào Huế ngày 19.5.1885 cho đòi hai quan phụ chính là Tường và Thuyết sang dinh Khâm sứ để hạch sách lấy cớ gặp nhau bàn việc “yết kiến vua Hàm Nghi”. De Courcy buộc phải mở cửa chính để quan quân của Pháp cùng vào. Triều đình cho là trái với quốc lễ nên chỉ đồng ý để De Courcy vào cửa chính Ngọ Môn còn quan lính khác phải theo cửa phụ ở hai bên mà vào. Thống thướng không chịu cuộc đất phi thời. Hai bên căng thẳng nhau. Đến trưa 22.5, Cơ mật viên phái người qua dinh Khâm sứ để bàn lại việc ấy nhưng De Courcy không tiếp. Bà thái hậu Từ Dũ sai mang lễ vật sang dinh tặng thống tướng nhưng De Courcy từ chối không nhận.
Vua Hàm Nghi lúc trẻ Trước đòi hỏi vô lễ và nhiều điều ép uổng khác, Tôn Thất Thuyết quyết định khai chiến, nửa đêm 22.5 nổ súng nả sang dinh Khâm Sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá. Mờ sáng
23.5, Pháp phản công mạnh, quân ta thất thế rút chạy, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Tân Sở… Người ta đã nhắc đến Tân Sở trong khá nhiều tài liệu lịch sử. Để bạn đọc tìm hiểu về cuộc đất Tân Sở mà từ thời Tự Đức đã được bắt tay xây dựng theo hướng một “kinh đô mới”. Nơi đó vua Hàm Nghi chỉ ở lại chóng vánh trong vài ngày song đã trở thành một trong các sự kiện khó quên. Chúng tôi chọn để trích giới thiệu với bạn đọc một đoạn ngắn phù hợp với việc suy ngẫm về địa lý và cuộc đất Tân Sở qua tài liệu của một người Pháp là H. De Pirey đăng cách đây đã gần 100 năm trên tạp chí BAVH 1914. Tác giả đã đến Tân Sở để thu thập tài liệu và tận mắt mô tả những điều trông thấy: “Kinh thành Tân Sở (tân: mới, sở: nơi cư ngụ) bắt đầu xây như người ta kể cho tôi vào năm Quý Vị tức là 1883, và trước khi vua Tự Đức băng hà. Kinh thành ấy ở cách 10 hay 15km phía Tây Nam huyện Cam Lộ, trên cao nguyên độ khoảng 101m cao và giáp phía Bắc – Tây Bắc làng Bảng Sơn, phía Nam – Tây Nam làng Việt Yên và phía đông làng Mai Đàn. Hình dáng là vuông có cạnh là 180m và có hai lớp thành chính. Đường đi ngày nay từ Cam Lộ đến Mai Lãnh đâm suốt qua kinh thành chênh chênh theo hướng Bắc Nam. Vòng thành thứ nhất gồm có một dãy cọc đóng sâu vào đất đường kính từ 20 đến 25cm, cao cách mặt đất đến 4m và có cột lại bằng mây. Bốn hàng tre trồng song song và ở giữa có một cái hào sâu và rộng 10m. Các lũy tre này đều được trồng từng cụm do quân lính đảm nhiệm trồng trọt và đào trong các làng của phủ Triệu Phong và phủ Cam Lộ. Phía trong lớp thành này có bốn giếng nước ở bốn góc và miệng giếng vòng quanh đến 7,8m. Các giếng ấy sâu đến 150 thước (như vậy bằng 20m) do các phạm nhân (tù nhân) ở Ải Lao đào và ông Nguyễn Văn Tường ra lệnh đào rộng để làm giếng công cộng. Khi xuống giếng phải đi con đường vòng quanh rất chật hẹp nguy hiểm và mặc dù đã làm công phu nhưng không bao giờ có thể có nước uống được, các tù nhân lại phải đi đến tận làng Bảng Sơn để múc nước dùng hàng ngày để đủ nước cung cấp cho dân trong kinh thành” (Đặng Như Tùng dịch, Bửu Ý hiệu đính). Theo thuật phong thủy và cả sinh hoạt đời sống bình thường, việc xây thành ở vị trí thiếu nước như thế rất không tốt.
Chúng tôi hy vọng đoạn mô tả vị trí và đặc điểm địa cuộc Tân Sở của H. De Pirey trên đây sẽ cung cấp đến bạn đọc thêm một tài liệu để nhận định về thế đất phi thời, nơi vua Hàm Nghi đến ở ngắn ngày sau đêm kinh đô quật khởi, cũng là nơi Pirey và các dịch giả gọi là một “thủ đô phù du” của triều Nguyễn.
Để rồi sau đó, từ Tân Sở, vua Hàm Nghi phải lánh xa hơn về phía Bắc cùng lúc với lời hiệu triệu Cần Vương cứu nước. Nhưng không lâu, vua bị thực dân Pháp bắt đày sang Alger. Cuộc sống lưu đày của ông được Mathilde Tuyết Trần viết đến với nhiều hình ảnh vừa công bố cuối năm 2011. Chúng ta sẽ trở lại với đề tài phong thủy về Tân Sở, cũng như các cuộc đất khác của các vua triều Nguyễn trong những kỳ tiếp theo… Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 17: Điện Hòn Chén – Những ngày vang bóng
Điện Hòn Chén nằm trên vực nước sâu nhất của dòng sông Hương, ở một vị trí khá đặc biệt về địa cuộc phong thủy, nơi tương truyền có một nữ thần hiển linh thường hiện về đó hằng năm khi mùa thu tới…
Một ngọn núi xuất thần Núi Hòn Chén được tạo hóa sinh ra giữa cảnh sắc mơ màng của sông Hương – nơi dừng chân của một dãy non ngàn xuất phát từ hướng tây bắc của Trường Sơn chạy lại. Đại Nam nhất thống chí mô tả “dãy non ngàn” ấy có dáng dấp “trùng trùng điệp điệp như rồng đi hổ phục” về phía kinh thành Huế, đến tả ngạn sông Hương thuộc làng Hải Cát, huyện Hương Trà đột ngột “nhô cao lên thành một ngọn núi đẹp và tròn như hình cái chén (Hòn Chén) gọi là núi Ngọc Trản (núi Chén Ngọc)”.
Đối chiếu sách địa lý toàn thư của cụ Tả Ao, chúng ta sẽ có những liên tưởng gần gũi với sơn thủy quanh vùng đó. Chẳng hạn cụ Tả Ao chỉ rõ: nếu long mạch chạy từ dãy núi lớn ra, nhấp nhô mềm mại suốt đường đi của mình thì khi kết lại nơi đâu, ở đó sẽ xuất hiện những con người thanh lịch tuấn tú (mạch lai duyên giang duyên khê, ủy đà khuất khúc, tử tôn thanh tú); Cao Trung giải: “Nếu nhìn chung long mạch đi uyển chuyển ven sông, ven suối với dáng thướt tha, khuất khúc (dịu dàng đẹp mắt) cho ta biết nếu có đất kết thì sẽ sinh người thanh tú, không thô kệch”. Ngược lại, long mạch đi thẳng tuột như con lươn nằm chết, như que củi cứng đơ, hoặc như con cá khô phơi dưới nắng bất động, nếu kết ở đâu ắt nơi đó sẽ thiếu sinh khí (tử thiện tử ngư tối hung). Vậy long mạch phải sống động như “rồng đang uốn lượn, rắn đang phóng mình tới trước” tựa thế trườn đi của dãy Uyển Sơn khi ẩn khi hiện, về tới bờ bắc sông Hương vọt lên thành ngọn Hòn Chén một cách xuất thần hiếm thấy.
Núi Hòn Chén Ngọn núi cũng tiềm ẩn ý nghĩa “âm dương hợp nhất”, viên mãn vẹn tròn (nhất thể) và không hai (bất nhị) ngay trong hai tên gọi về mình. Được gọi Ngọc Trản (theo Quốc sử quán triều Nguyễn) vì trên đỉnh có sẵn khoảng đất trũng xuống trông như hình một cái chén ngửa ra giữa trời, với miệng rộng chừng vài mét đường kính, vào những ngày mưa lớn nước đọng lại trong xanh như ngọc. Được gọi Hòn Chén (theo dân gian) vì thấy xa xa “ngọn núi đẹp và tròn” hiện lên như cái chén úp lưng trời.
Hai cách gọi trên gợi hình ảnh về một cái “chén úp” (đỉnh tròn) và một cái “chén ngửa” (trũng nước trong) của cùng một địa cuộc. Tuy là hai (tên gọi) nhưng dùng để chỉ một thực thể (núi) với tướng trạng hiện hình theo thế “úp” và “ngửa” khác nhau, dẫn đến suy ngẫm về sự tương tác của những cặp đôi khác như: âm và dương, sơn và thủy, sáng và tối, hữu và vô – vốn là những thuộc tính của một “vùng đất sống”: Hòn Chén. Ở đó, ngoài cảnh vật nên thơ còn bao phủ vẻ huyền bí bởi các truyền thuyết và bởi ngôi đền cổ dựng bên sườn núi cheo leo để thờ vị thần tối cao của người Chăm mà Dương Văn An nhắc đến trong Ô châu cận lục giữa thế kỷ 16. Đến đầu thế kỷ 19, vua Gia Long sắc phong nữ thần thờ ở đền là: “Hồng Nhân Phổ Tế linh ứng thượng đẳng thần”. Vua Minh Mạng tu sửa đền khang trang thêm. Vua Tự Đức phong “Thượng đẳng tối linh thần” và thượng thư bộ Lễ đương thời là Phan Thanh Giản ghi lại nguồn gốc, quê quán và hành trạng của nữ thần Thiên Y A Na (thờ ở Hòn Chén) bằng chữ Hán trên tấm bia đá khắc năm 1856 (hiện còn dựng ở tháp Bà – Nha Trang): “Thiên Y tiên nữ ban đầu giáng linh ở núi Đại An, nay là xã Đại An tỉnh Khánh Hòa. Đất này gần thì giáp với cù lao Huân, ngoài xa thông với biển cả, bao bọc núi non, biển biếc, động thiên, đúng là chốn di tích của các bậc tiên linh xưa vậy (…) Có hai vợ chồng ông lão không con, dựng nhà bên triền núi. Hễ ruộng dưa trái vừa chín là bị người hái trộm. Ông lấy làm lạ rình xem thì thấy một bé gái độ mươi mười tuổi ôm dưa chơi ở dưới ánh trăng, bèn đến gần hỏi tới ngọn nguồn. Vì thương bé ít tuổi mà sớm côi cút nên mang về nuôi nấng như con ruột… Một hôm lũ núi, mưa nguồn ập tới, nàng chợt nhớ cảnh cũ Bồng Lai…” (Lý Việt Dũng dịch, Thông tin Khoa học và công nghệ, số 2, Huế 2000). Nhớ Bồng Lai vì cô gái ấy là tiên nữ giáng trần, đã từ núi Đại An nhập vào khúc gỗ kỳ nam trôi ngược ra Bắc. Ngày kia, một hoàng tử vớt được đem về, thấy có cô gái đẹp bước ra từ thân gỗ kỳ nam với những nét buồn bí ẩn. Hoàng tử không hề biết trước mặt mình là một tiên nữ mà thức ăn hằng ngày thích nhất của nàng là âm nhạc và hương thơm của các loài hoa mới nở. Thế nhưng nay xuống làm người, nên tiên cũng đồng ý ngồi vào tiệc cưới, kết hôn với hoàng tử theo lời đã ngõ. Ăn ở với nhau có hai mặt con, tiên nữ nhớ nhà về lại phương Nam, đến cù lao Huân tìm cha mẹ nuôi nhưng hai cụ đều qua đời. Tiên nữ ở lại dạy dân làm nghề, khai khẩn ruộng vườn rồi “giữa ban ngày cưỡi chim loan bay lên cõi tiên”. Hoàng tử nhớ vợ, dẫn đội thủy binh vượt biển đi tìm, khi đến nơi binh lính phía Bắc của hoàng tử tỏ ra hung bạo ngược đãi dân làng, không tôn kính tượng nữ thần để lại, nên đã bị trừng phạt “từ đó bà hết sức hiển linh, thường qua lại nơi đảo Yến, đỉnh Cù cứu nhân độ thế. Ai cầu gì ứng nấy, dân chúng tôn bà là thần, gần xa nhất nhất lập thần chủ cầu cúng… Người xưa gọi bà là Thiên Y A Na Diễn Phi, Chúa Ngọc Thánh Phi” (tài liệu đã dẫn).
Đường lên điện Hòn Chén Sau văn bia trên của Phan Thanh Giản, nhiều tác giả khác như các vị Thái Văn Kiểm, Bửu Kế, Trần Văn Toàn, Nguyễn Thế Anh, Quách Tấn, Hoàng Trọng Miên… bàn đến sự tích Thiên Y A Na phần đông cho đó là dị bản của dạng hình truyền thuyết về nữ thần Poh Nagar – vị thần Sáng tạo, bà Mẹ xứ sở của người Chăm – được tiếp nhận vào hệ thống các thần của người Việt để “hóa thân” thành nữ thần Thiên Y A Na. Bà thường đứng trên đám mây trắng nõn như lụa hiện lên giữa nền trời cuối thu, hoặc theo bóng cầu vồng ngũ sắc xuống lưng chừng núi, hoặc ngồi trên lưng con bạch tượng mang theo hương thơm của kỳ nam từ rừng sâu đi ra. Không chỉ dân chúng thờ kính, mà cả loài vật cũng vậy, cứ hàng năm vào một ngày đặc biệt bỗng có “nhiều loài thú rừng kéo đến, cùng các loài cá ngoài khơi bơi vào, tất cả nằm chầu yên lặng trước đền thờ của nữ thần như chừng chúng rủ nhau đến dự ngày kỵ giỗ bà theo cách của chúng” (Đào Thái Hanh – BAVH 1914). Một trong những nơi bà xuất hiện là làng Hải Cát với đền thờ dựng trên núi Ngọc Trản, phía trước có “một cái vực sâu hoắm, dưới đáy vực ấy tương truyền là hang của thủy tộc, và có một con rùa to lớn cỡ bằng chiếc tấm chiếu, mỗi lần nó trồi lên mặt nước là gây nên sóng to gió lớn mà người ta cho đó là sứ giả của Hà Bá phái lên” (ĐNNTC).
Chánh điện Vua Đồng Khánh với âm vang của cuộc đất thiêng Theo chỉ dẫn của khoa địa lý gia truyền ở Việt Nam, có thể xét hình thế những ngọn núi hoặc điệu chảy các dòng sông để rút ra nhận định về một cuộc đất tốt hay xấu dưới góc độ phong thủy. Như nhìn ngọn núi có đầu tròn như cái hốt mà các vị quan thường cầm khi đứng chầu vua, hoặc thấy một dãy đồi nhấp nhô kết liền nhau như một xâu chuỗi bằng đá quý, hoặc ngọn núi có hình như nửa mặt trăng với thanh khí sáng sủa bao quanh, thì biết nơi ấy sẽ sinh nên những người con gái đẹp vào hạng cung phi (châm hốt hoặc liên châu, bán nguyệt, nữ xuất cung phi). Hoặc trong ngọn núi giống như đầu một con người có cái búi tó đằng sau, tức là đỉnh có hai gò, một gò cao lên tựa đỉnh đầu, một gò thấp hơn nằm kề bên, trông xa như người có búi tóc kết lại, thì nơi ấy sẽ sinh nên trạng nguyên, phò mã (hoặc như cáo trục, trạng nguyên, phò mã)… Những điều cụ Tả Ao nêu trên giúp chúng tôi một cách nhìn về Hòn Chén với vùng phụ cận trải dài đến gò Hà Khê (nơi chùa Thiên Mụ tọa lạc) để bắt gặp trong ký ức những hình ảnh vàng son của dinh trấn Phú Xuân, những phủ đệ oai nghiêm với các nhà vườn đặc trưng, cùng những mỹ nhân Kim Long đã đi vào giai thoại. Nhưng giờ đây, hãy trở về với điện Hòn Chén, nơi nhà Nguyễn sửa sang tôn kính kế tiếp nhau suốt hơn trăm năm, như thời vua Duy Tân đầu thế kỷ 20 sắc phong: “Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi tối cao đẳng thần”.
Vua Đồng Khánh (1886-1889) Song, qua các vua đời Nguyễn, vận hội mới huy hoàng nhất đến với núi Ngọc Trản và điện Hòn Chén là vào thời vua Đồng Khánh (1886 – 1889). Vua đã nghe kể về một số linh ứng của nữ thần, như chuyện hoàng phi của vua Thiệu Trị vô ý đánh rơi chiếc ống nhổ bằng vàng xuống vực sâu trước điện Hòn Chén bèn van vái thánh mẫu Thiên Y A Na giúp mình. Ngay đó điều kỳ diệu xảy đến: chiếc ống nhổ bằng vàng bị chìm dưới đáy sông đã trồi lên mặt nước. Nhưng tác động mạnh nhất vào niềm tin của vua Đồng Khánh đối với nữ thần là việc mẹ ông (bà Kiên Thái Vương) đến cầu đảo xin mách bảo việc con bà có được lên ngôi vua hay không và nữ thần cho biết ông sẽ làm vua nay mai.
Sự việc xảy đến đúng như thế nên sau ngày lên ngôi (năm 1886), Đồng Khánh đã nâng “đền Hòn Chén” lên thành “điện Huệ Nam” (ân huệ cho nước Nam), cho xây cả chục công trình với Đệ nhất cung Minh Kính cao đài để thờ thánh mẫu Thiên Y A Na (sau năm 1954 thờ thêm thánh mẫu Vân Hương tức Liễu Hạnh công chúa), mỗi năm tế lễ hai kỳ vào mùa xuân và mùa thu. Có nhận định cho rằng nữ thần Thiên Y A Na được đồng hóa với sơn thần Ngọc Trản (vốn có trước đó trong thần tích địa phương) như: “Sự xuất hiện của nữ thần Thiên Y A Na trong hệ thần ở điện Huệ Nam (Hòn Chén) có liên hệ đến sự ra đời của ngôi làng Hải Cát bên cạnh. Theo truyền thuyết, Thiên Y A Na là thần đỡ đầu của làng Hải Cát. Chính vì muốn có một ngôi đền lớn trên núi Ngọc Trản nằm ở bìa làng, cho nên nữ thần quyết định mỗi năm trở về một lần vào mùa thu với những đám rước nhộn nhịp bằng đường bộ và đường thủy” (Nguyễn Hữu Thông – Thông tin Khoa học và công nghệ số 4, Huế 1995). Những kỳ tế lễ như thế được vua Đồng Khánh nâng lên hàng quốc lễ do đại diện của triều đình làm chủ lễ. Về cuộc rước Nghinh thần vào mùa thu những tác giả trong và ngoài nước như ông H. Délétie cùng ông Nguyễn Đình Hòe đều có bài tường thuật khá sinh động trên BAVH 1915, đại ý ghi nhận những đêm trăng lên đồng ở điện Hòn Chén đã “tỏa sáng một góc trời tâm linh để chúng ta có thể nhìn thấy một chút gì bí ẩn vẫn giữ kín lâu nay ở cõi xa vời vợi”. Sau ngày tôn tạo “đền” (Hòn Chén) thành “điện” (Huệ Nam) khoảng hơn hai năm, vua Đồng Khánh qua đời vào 27 tháng chạp Mậu Tý (28.1.1889) lúc mới 25 tuổi, ở ngôi 3 năm. Con của vua có 6 hoàng nam và 4 hoàng nữ, trong đó con trai trưởng sau này lên ngôi là vua Khải Định (1916 – 1925). Ảnh của vua thờ ở Đệ nhất cung Minh Kính cao đài. Tên của vua lấy đặt cho một trường nữ trung học ở Huế và trường này trở nên nổi danh khắp miền Nam giữa thế kỷ 20. Nhất là những năm của thập niên 1960 – 1970, nữ sinh Đồng Khánh nổi bật trong phong trào đấu tranh yêu nước ở đô thị với những đêm không ngủ vì quê hương, những cuộc bãi khóa, xuống đường nóng bỏng, mà khói lửa và bạo lực không đốt cháy được hình ảnh của những chiếc nón nghiêng, của tà áo trắng để vẫn dịu dàng đi vào thơ Trần Quang Long: “sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón” và cả trong âm nhạc nữa, với câu hát lãng mạn nhẹ nhàng một thuở về “cô nữ sinh Đồng Khánh kia ơi – cô đi về đâu sau buổi học này”… Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Trương Vững, Gia Tiến, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua
Bài 18: Huyền bí hoa ngải ở đèo Hải Vân
Vào cuối mỗi mùa xuân, từ trên vùng núi Hải Vân cao ngất, gió thổi rụng xuống mặt biển một loại hoa ngải thần bí mà loài cá nào ăn lá ấy sẽ được hóa thành rồng…
Nhắc đến “Hải Vân sơn” người ta có thể mường tượng không chỉ “một ngọn” (Cao An Lĩnh) mà là cả “một dải” núi cao (Ngãi Lĩnh), trùng trùng lừng lựng đứng bên bờ biển Đông, trên đoạn đường thiên lý từ kinh đô Huế vào Đà Nẵng ngày xưa. Ở đó thể hiện rõ nét nhất sự kết hợp tiêu biểu của 3 yếu tố sống động: phong + thủy + sơn của duyên hải miền Trung… Một loài cá mang “bào thai” như người Cũng ở đó, khi đến xứ Đàng Trong vào thế kỷ 17 theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu (Hiển tông hoàng đế), hòa thượng Thích Đại Sán đã đi thuyền ngang qua và ghi lại một chi tiết mà đến nay các nhà nghiên cứu vẫn thường nhắc: “Từ Thuận Hóa vào Hội An đường bộ tất do Ngãi Lãnh (đèo Hải Vân).Sách Dư ký bảo rằng: Khoảng tháng hai, tháng ba, hoa ngãi thần bí nở, trôi ra biển, cá ăn hoa ấy hóa rồng – tức là hoa ngải núi này vậy” (1). Nhưng theo các bô lão, không hẳn bất cứ loài cá nào “ăn hoa ngải” cũng hóa rồng. Vậy loài nào có đủ sức cảm ứng và hóa thân để bay lên khỏi sóng thần? Để tìm hiểu, chúng tôi thử điểm lại một số loài cá sinh sống ở sông biển nước ta ghi trong Đại Nam nhất thống chí qua bản dịch của Phạm Trọng Điềm – do Đào Duy Anh hiệu đính – như cá gáy (lý ngư) là loại cá quý với 36 chiếc vẩy chạy thành một đường dài dọc theo xương sống, trên mỗi chiếc vẩy lại có điểm một chấm đen nhỏ. Hoặc cá chình (man lễ ngư) uốn éo như con rắn dài và có bốn mắt thì không được bắt ăn, vì nếu ăn thịt nó sẽ trúng độc chết. Lại có loại cá sấu (ngạc ngư) với “mồm rồng, móng hổ, mắt cua, vẩy kỳ đà, đuôi dài vài ba thước, to như lá cờ, có gai như móc câu, lặn dưới nước, thấy người hoặc súc vật đi qua, thì vung đuôi lên chụp bắt cũng như loài voi dùng vòi (cuốn lấy) vậy”. Cá ông voi hiền lành hay cứu người, có loại Bạch ngư dài 20 trượng, loại Hải thu phun nước lên trời “gió bay đi như mưa”, đầu đời Minh Mạng ban tên là Nhân ngư – đến đời Tự Đức ban tên Đức ngư. Cá lờn bơn (điệp ngư) thân mình gồm hai mảnh, khi bơi phải ghép hai mảnh ấy vào nhau mới bơi được, miệng ở gần dưới bụng.
Cá nóc (giang đồn) thường nhởn nhơ làm dáng, ra vẻ ham chơi, lấy mỡ của nó để thắp đèn “khi chiếu vào chỗ cờ bạc thì sáng, chiếu vào chỗ đọc sách thì tối”… Cả mấy chục loài cá được nêu, chưa biết loài nào có linh tánh để “ăn hoa hóa rồng”? Chỉ nghe kể chuyện cá giao ngư gần với câu trả lời như dưới đây. Giao ngư vốn là một loài cá lớn nhất trong hệ cá hải sa (cá nhám – vì trên da lưng có cát) to lớn dị thường và dài tới vài trượng “mắt đỏ, miệng to, tính nanh ác, hay ăn thịt người”.Khi chúng giao hợp nhau sinh con bằng bào thai (thai sinh) chứ không phải bằng trứng (noãn sinh) như các loài cá khác (chúng cũng có loài hung dữ tên là Hải đầu sa có thể hóa thành hổ). Một con giao ngư như vậy đã sinh ra một con thủy quái lớn nhanh như thổi. Thủy quái chiếm một hang đá làm sào huyệt dưới chân núi để tìm ăn những bông hoa lạ từ rừng rơi xuống. Loài hoa này cũng thuộc loại “kỳ hoa” theo gió rụng xuống các dòng suối để trôi ra sông biển. Ăn hoa xong, con thủy quái biến thành một quái vật đầu rồng, miệng lúc nào cũng há rộng với hai chiếc nanh nhọn. Từ đó nó tu luyện thêm, hóa thành người và bay lên đỉnh núi, đằng sau dãy núi cao ngất kia có một “nữ vương Chăm-pa” đang trị vì xứ sở nhỏ bé thanh bình của mình. Nó bay đến đó với đoàn tùy tùng mang sính lễ theo sau để ép nữ vương làm vợ. Từ cõi trời, thần hộ mạng của nữ vương được Shiva cho phép đã giương cung bắn những mũi tên với đầu lửa Agni sáng rực đốt cháy bùa phép của quân ma khiến chúng hiện nguyên hình những con cá sấu, cá gáy, cá chình, xà ngư, rùa và cả mãng xà, trăn đốm nữa. Ngay thủy quái tóc cũng dựng đứng chạy dọc sống lưng thành một cái bờm dài, với những chiếc vẩy cứng sắp lớp và…biến mất!
Tượng thuỷ quái Makara tại Bảo tàng điêu khắc Chăm – Đà Nẵng
Về hình tượng, thủy quái “ăn hoa ngãi thần bí” hóa rồng trong chuyện trên giống với “thủy quái Makara” trong nghệ thuật điêu khắc Chăm mô tả qua một tượng thế kỷ 12 (trưng bày ở Bảo tàng Chăm – Đà Nẵng): Makara “hóa thành rồng” với “mình và chân sư tử, đuôi của rắn Naga” và với “lòng hai bàn chân trước mở ra như tay người, hai chân sau giấu dưới bụng – đầu Makara có bờm tóc cứng (…) miệng có hai răng nanh dài nhọn chìa ra ngoài (…), hai hàm răng nhiều chiếc nhô ra, miệng có lưỡi uốn cong lên phía trên hàm, hai tai thể hiện thành hình chiếc lá mềm mại – Makara là loài thủy quái, nguyên thủy đó là một con cá sấu Ấn Độ to lớn nhưng sau lại là một con cá heo Hy Lạp” (2). Về nội dung, chuyện nữ vương Chăm-pa trên từa tựa như một truyện cổ khác được kể ở vùng núi cách rất xa Hải Vân sơn về hướng Tây Bắc, giáp Lào, xưa có “một con thuồng luồng sống trăm ngàn mùa lũ, nó biết nhiều phép, đã hóa ra 100 mâm vàng bạc, 100 mâm ngọc trai, ngà voi, da báo đem đến hỏi cưới nữ vương làm vợ” nhưng bị từ chối nên đã tức giận dâng nước ngập kinh thành, rồi kéo “bao nhiêu quân ma tướng quỷ đến tàn phá xóm làng”. Giữa lúc nguy ngập bỗng một chàng trai xứ Việt mặc áo choàng xanh xuất hiện đánh bại Quỷ vương rồi lặng lẽ biến đi mất: “Thần dân thành Mahuân tưởng nhớ công ơn dựng đầu núi đất Mường một pho tượng người trai mặc áo choàng rách bươm vì trận chiến ác liệt – nữ vương suốt ngày đêm ngóng chờ, thương cảm vô cùng, nước mắt tuôn thành suối, chảy uốn quanh chân núi, dồn đọng vào văng Ca Phúc (vực Anh Phúc). Đến nay dân tộc Lào Ngam vẫn được các mỏ lăm (tức thầy hát dạo) kể chuyện về sự tích mỏm đá Áo Rách với vực Anh Phúc là tượng trưng tình nghĩa Việt – Lào. Hai di tích huyền thoại này ở mường Sê-pôn đang là điểm du lịch kỳ thú của tỉnh Savanakhet – Trung Lào” (3). So sánh chuyện “Nữ vương Chăm-pa” nghe được ở vùng Hải Vân với chuyện ở Mường Sêpôn trên, chúng tôi thử hỏi phải chăng có một “mạch” văn hóa Việt – Chăm – Lào ứng theo thế núi “từ các núi Đại Tu Nông, Tiểu Tu Nông, núi Tía và núi Kiền Kiền ở phía biên giới Ai Lao về phía tây, từng đợt kéo đến ngọn núi trùng điệp, cao vót tầng mây thẳng đến sát biển” (ĐNNTC). Thiên hạ đệ nhất hùng quan Nằm ở phía đông nam huyện Phú Lộc, vùng núi Hải Vân với nửa đèo phía bắc thuộc địa phận Thừa Thiên – nửa đèo phía nam thuộc Quảng Nam: “phía tây (núi Hải Vân) là núi Bà Sơn, phía bắc là núi Hải Sơn; ba ngọn núi ấy liên tiếp xen nhau, trên cao vót đến tầng mây, dưới chạy giăng đến bờ biển, đường đi chín khúc vòng mới vượt qua đèo, hai bên cây lớn um tùm, người đi như vượn leo chim vượt, thật là hiểm trở” (ĐNNTC).
Đèo Hải Vân Trường hợp ba ngọn núi cận kề và “liên tiếp xen nhau” như vậy, theo các nhà dịch lý và phong thủy học Việt Nam cần được xem xét theo các bối cảnh khác nhau.Nếu ba ngọn nằm dưới vùng đồng bằng có hình tam thai hoặc hình chữ phẩm đều quý vì “như hình tam thai, phẩm tự, vị chi thượng thư”, Cao Trung giải thích: “Ba trái núi nhọn đầu, ngọn giữa cao, ngọn hai bên thấp, là hình tam thai – còn ba trái núi tròn đầu là hình chữ phẩm – nơi ấy (sẽ có người) làm tới thượng thư”.Nếu núi có hình như chiếc mão, đứng tựa, đất kết nơi ấy sẽ có người làm tới đông cung thị giảng, dạy các hoàng tử trong cung vua “hình như tịch mạo, ỷ lập đông cung thị giảng“.Nếu núi có hình như tòa lâu đài, ngọc bộ, sẽ sản sinh người làm chức ngự sử đảm nhận quyền can gián vua “hình như lâu đài, ngọc bộ, chức cư ngự sử“. Nếu núi rời rạc, tán loạn, gia đình sẽ chia lìa, cha con phân ly “hình như tán loạn phụ tử phân ly“… Nhưng ở đây là cả một dải núi liên hoàn dồn tụ nên khí lực phong thủy không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ đến một hai số phận mà chung cho cả cộng đồng (gọi là cộng nghiệp) Từ đặc điểm ấy, trong lịch sử, vùng Thuận Hóa với dải Hải Vân là “đất phên giậu” của nước ta một thời.Hải Vân cũng là danh sơn được viết đến bởi nhiều tác gia Việt Nam như Dương Văn An (1555), Lê Quý Đôn (1776)…
Thiên hạ đệ nhất hùng quan Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu tuần du qua núi Hải Vân có thơ ngự đề với câu mở đầu “Việt Nam hiểm ải thử sơn điên” (Núi này ải hiểm đất Việt Nam) và Quốc sử quán triều Nguyễn chép: “về phía bắc chân núi kề bãi biển có hang Dơi, có bãi Cháy, tương truyền xưa có sóng thần, thuyền đi qua đây hay bị đắm nên dân gian có câu ca rằng “đi bộ thì sợ Hải Vân – đi thủy thì sợ sóng thần hang Dơi” là chỉ chỗ này”. Vua Minh Mạng cũng sai xây cửa Hải Vân năm 1826, cửa hướng về phía kinh đô Huế đề 6 chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” và cửa hướng về phía Quảng Nam đề 3 chữ “Hải Vân quan” – bằng đá thanh – và cho khắc nổi hình Hải Vân sơn và Hải Vân quan vào Cửu đỉnh (Dụ đỉnh).Vua Minh Mạng cũng sai lập đền thờ thần núi Hải Vân trên đất xã An Cư (Phú Lộc) là một trong các đền thờ sơn thần lớn nhất với điển lệ cúng tế riêng (4). Đặt núi Hải Vân (cùng Bạch Mã và Đèo Ngang) trong bối cảnh chung của các vùng văn hóa trên toàn quốc để xem xét: “từ bắc tới nam ta thấy nơi đây có nhiều mạch núi ăn ra tận chân sóng biển (…) Ngô Thì Trí trong bài văn Đăng Hải Vân quan phú đã mô tả cảnh sắc hùng vĩ của Hải Vân: Ngọn núi này khí át sông Ngân, thế nuốt bờ biển, tầng đá trập trùng khó vịn, cây cối xum xuê rợp bóng, sóng vỗ ầm ầm như tiếng sấm vang trời, suối chảy rào rào như mưa từ lưng trời đổ xuống”. Kỹ sư Nguyễn Hữu Đính trong một tờ trình năm 1962 đã ghép Hải Vân với Bạch Mã vào tên gọi “Lâm viên quốc gia Bạch Mã – Hải Vân”.Ở độ cao 1.000 – 1.444 m, Bạch Mã có một quần thể kiến trúc gồm 139 biệt thự nghỉ mát được xây từ nửa đầu TK 20, mỗi biệt thự có một dáng riêng về tạo hình mỹ thuật, tạo thành một góc phố núi nhỏ nhắn êm đềm bên dải Hải Vân hùng vĩ.Nhưng rất tiếc, khu biệt thự trên bị triệt phá bỏ hoang trong thời chiến và Bạch Mã trở thành “nàng công chúa ngủ trong rừng” nằm mơ màng cô độc ở cuối dãy Trường Sơn bắc… (1) Hải ngoại ký sự – Viện Ðại học Huế, Ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1963
(2) Huỳnh Thị Ðược – Ðiêu khắc Chăm và thần thoại Ấn Ðộ, NXB Ðà Nẵng 2005 (3) Nguyễn Việt Phương – Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh huyền thoại, NXB Trẻ (4) Xem Nguyễn Văn Ðăng – Hải Vân sơn trong sử sách triều Nguyễn, Tập san TT Khoa học và công nghệ, Huế số 2 (28) – 2000 Giao Hưởng - Ảnh: Gia Tiến, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 19: An Lăng – Những tình cờ lịch sử
An Lăng là nơi an nghỉ cuối cùng của cả ba nhà vua: Dục Đức – Thành Thái – Duy Tân và là một cuộc đất chứa đựng những tình cờ lịch sử vượt khỏi tầm nhìn của các nhà dịch lý và phong thủy học cung đình.
Vua Duy Tân với “Đệ nhất giai phi” Mai Thị Vàng Cuộc đất An Lăng nằm khiêm tốn và yên ắng về phía hữu ngạn sông Hương bỗng trở mình sống động từ ngày có sự biến kinh thành (1884) và một khu lăng mộ được dựng lên ngoài dự tính của hoàng gia (1889). Những điều “ngoài dự kiến” tiếp đó có thể bắt đầu từ chuyện hôn nhân của hoàng tử Vĩnh San.
Hoàng tử Vĩnh San tức vua Duy Tân (ở ngôi từ 1907-1916) là con vua Thành Thái (ở ngôi từ 1889-1907) – hai cha con nhà vua mỗi vị đều có một mối nhân duyên ở Kim Long ngoài dự định ban đầu của hoàng gia. Về vua Thành Thái đã biết đến trong các số DDVN trước. Về vua Duy Tân, cuộc hôn nhân của nhà vua với “đệ nhất giai phi” Mai Thị Vàng – con gái của thầy dạy học Mai Khắc Đôn – đã thành giai thoại trong pho “tình sử” Kim Long. Theo tài liệu của cụ Phạm Khắc Hòe được một số tác giả như nhà văn Nguyễn Đắc Xuân tham khảo và kể lại qua cuốn Chuyện nội cung các vua (NXB Thuận Hóa 1999), thì vào cuối năm 1915 khi vua Duy Tân sắp lên 16 tuổi, mẹ của vua là bà Nguyễn Thị Định muốn “nạp phi” (cưới vợ cho vua) nên các thái giám đã lập một danh sách chừng 25 mỹ nữ con nhà danh giá kèm theo ảnh dâng lên để vua lựa chọn.
Vua Duy Tân lúc nhỏ Nhưng Duy Tân tìm cách hoãn đi hoãn lại chưa muốn chọn ai. Bị mẹ thúc hối, nhà vua mỉm cười thưa: “Con đã có người ưng ý rồi!”. Hỏi người “ưng ý” ấy hiện ở đâu. Vua đáp ở Cửa Tùng. Mẹ vua sai sắm sửa thuyền rồng cùng con ra Cửa Tùng cốt để nhìn mặt cô dâu An Lăng trong phong thủy. Song đến đó suốt năm ngày liền vẫn chẳng thấy ai ra mắt cả. Mẹ vua có vẻ thất vọng hỏi thị vệ thì được nghe đáp: “Không hiểu sao mấy hôm nay mỗi lần ra bãi tắm, vua rất say mê việc đào bới cát, có khi đào rất sâu (…) ngài bảo: ta đang đãi cát tìm vàng đây!”. Nghe vậy mẹ vua càng băn khoăn, không hiểu thực hư thế nào, mới hỏi nữa, vua đáp mình đào bới cát chính là để tìm người ưng ý đã nói . Mẹ quở vua điên rồi à. Vua nói không, thật đó, nếu ở đây không tìm được vàng thì về kinh thành Huế sẽ tìm được thôi. Rồi lần lần vua hé lộ tâm tư với hoàng mẫu, bà mừng nói: “Rứa thì ả hiểu rồi. Người yêu của con là Mai Thị Vàng con gái quan phụ đạo Mai Khắc Đôn chứ gì?”. Vua thưa đúng thế. Và sau đó lễ nạp phi được tiến hành gấp gáp và trọng thể tại bộ Lễ vào 12 tháng chạp Ất Mão nhằm 16.1.1916 (có tài liệu ghi 26 tháng chạp Bính Thìn, nhằm 30.1.1916). Cưới nhau chưa bao lâu, vua Duy Tân tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội do Thái
Phiên và Trần Cao Vân tổ chức nhưng thất bại và bị Pháp bắt đày sang đảo Réunion. Lúc bấy giờ bà quý phi Mai Thị Vàng đã có thai ba tháng cùng đi với vua Duy Tân sang Réunion.
Vua Duy Tân năm 30 tuổi Mẹ vua và em ruột nhà vua mới 12 tuổi (Mệ Cưởi) cũng đi theo. Hai năm sau, cả ba người không hợp khí hậu và thủy thổ nên đã chia tay nhà vua để về lại kinh thành Huế. Từ đó quý phi Mai Thị Vàng mặc dầu được vua Duy Tân viết thư xin Hội đồng gia tộc chứng nhận và cho phép bà Mai Thị Vàng được đi bước nữa nhưng “bà hoàng quý phi cương quyết giữ tiết với chồng, bà thường ngâm câu: Gìn vàng giữ ngọc cho hay – Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời. Đến năm 1929, cựu hoàng Duy Tân lấy vợ (…) nhiều người khuyên bà Vàng nên lấy chồng (bà mới 30 tuổi) nhưng bà vẫn không nghe, thường nói: Đá dù nát – Vàng chẳng phai, Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh” (Nguyễn Viết Kế). Một ngoại lệ về phong thuỷ thời Nguyễn
Các vua nhà Nguyễn hết sức cẩn trọng trong việc tìm đất để xây lăng, vì thế các quan chuyên trách về địa lý phải tuân thủ những yêu cầu nghiêm ngặt về phong thủy để chọn lựa. Đại để một cuộc đất cát tường phải hội đủ các điều cốt yếu sau. Phải có Tiền án: tức một ngọn đồi hoặc ngọn núi nằm xa xa về phía trước để ngăn chặn tà khí, cũng như tránh các thế lực ma quỷ dòm ngó. Phải có Minh đường là khoảng đất rộng thoáng trước khu lăng mộ để mọi người đủ chỗ đến chiêm bái đông đúc và để tầm nhìn của nhà vua có thể phóng vào không gian rộng mở. Phải có Hậu chẩm là núi đồi nhô cao phía sau để làm chỗ gối đầu cho vua yên nghỉ. Phải có Thủy tụ là nơi nước tụ về biểu hiện của quyền lực và phú quý đời đời sẽ thuộc về dòng dõi của hoàng đế đương triều một cách đương nhiên như các dòng nước ngày đêm vẫn không ngừng “chảy vào chỗ trũng”. Phải có một không gian bao trùm toàn thể khu lăng mộ theo dáng Rồng cuộn hổ ngồi với các dãy núi xa xa chạy lại ôm lấy cuộc đất để biểu lộ “cái tâm” của tự nhiên sẵn sàng phục tùng chầu bái. Cứ theo các điều kiện đó mà nhà vua sai các quan chuyên trách và các thầy giỏi về dịch lý phong thủy học dò tìm đất xây lăng. Nhưng riêng lăng Dục Đức – nơi cải táng vua Thành Thái và Duy Tân – thì lại nằm ngoài ý định và quy trình chọn đất, mà khá tình cờ, không có những khởi động ban đầu cần thiết. Đó là do lăng Dục Đức được xây nên từ một tình cảnh lịch sử hết sức bề bộn. Nguyên vua Dục Đức (ông nội vua Duy Tân) sau 3 ngày lên ngôi đã bị truất phế và giam đói trong ngục cho đến chết. Thi hài của ông được cuốn vội vàng trong một chiếc chiếu dùng làm quan tài để đưa đi chôn vào một đêm mưa gió, khi khiêng gần đến chùa Tường Quang thì dây chằng bị đứt khiến “quan tài” rớt xuống đất và lăn vào một vũng nước. Người ta cho rằng đó là nơi “thiên táng” (trời chỉ cho chỗ chôn) nên giữa đêm khuya đã lấp đất lại, đắp thành một ngôi mộ như đã trình bày trong kỳ trước. Về sau, năm 1889 con ruột của vua Dục Đức lên ngôi là vua Thành Thái đã xây nơi ấy thành một khu lăng mộ và dựng điện Long Ân để thờ cha mình.
Lăng Dục Đức Theo mô tả của Trần Ngọc Bảo trong cuốn Từ điển ngôn ngữ – văn hóa du lịch Huế xưa, NXB Thuận Hóa 2005, điện Long Ân xây theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc – gồm 5 gian 2 chái sơn son thếp vàng, chạm trổ công phu”. Mộ vua Dục Đức và hoàng hậu Từ Minh đặt song song nhau “theo kiểu càn khôn hiệp đức hay song táng”. Nằm giữa mộ vua và hoàng hậu có một tòa nhà hình vuông mỗi cạnh 8 mét (nhà Huỳnh Ốc) trên mái lợp ngói hoàng lưu ly (màu
vàng) và có “một bệ đá dùng làm nơi bày lễ cúng”. Và trong khu vực lăng có mộ vua Thành Thái (lên ngôi năm 1889) là người đã “canh tân đất nước, lập trường Quốc Học, dưới thời Thành Thái đã xây cầu Trường Tiền, lập chợ Đông Ba, mở đường Nam Giao tàn lộ, thành lập thị xã Huế”. Vì chống Pháp ông bị Pháp đưa đi an trí tại Vũng Tàu năm 1909, sau đó đưa sang đảo Réunion, đến năm 1947 vua Thành Thái “được về nước và đã sống ở Sài Gòn đến khi mất vào năm 1954, mộ vua giống như mộ dân thường không lớn như lăng mộ các vua đời trước”. Còn vua Duy Tân tử nạn máy bay tại Trung Phi năm 1945, an táng tại nghĩa trang Baiki và cải táng về An Lăng trong phong thủy năm 1987. Một ghi nhận khác cho biết lúc đầu khu vực lăng “chỉ là một ngôi mộ đất nhỏ bình thường (1883-1888) nếu không nói là tầm thường, chẳng được mấy ai hương khói”. Nhưng về sau nơi đó “có đầy đủ quy cách kiến trúc của lăng tẩm một ông vua (…) rộng 56.144m2 với 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ; chia ra hai khu vực lăng và tẩm nằm cách nhau khoảng 100m” (1) với la thành bao bọc. Riêng khu lăng mộ rộng 3.445m2 có hai mộ của vua Dục Đức và hoàng hậu Từ Minh xây bằng đá Thanh được “thiết trí theo nguyên tắc nam tả nữ hữu – những hình ảnh tam sư hý cầu và song phượng đắp nổi ở hai bình phong sau hai ngôi mộ cho thấy rõ hơn về nguyên tắc đó (…). Đáng lưu ý nhất là trên mặt tấm bình phong xây trước mộ nhà vua, có đắp nổi hai chữ “hỷ” ghép lại với nhau, đọc thành “song hỷ”; và đối xứng với nó là hình ảnh chữ “thọ” cách điệu hoa lá thành hình tròn viên mãn được đắp nổi ở tấm bình phong trước ngôi mộ bên kia. Hỷ là vui mừng. Thọ là sống lâu. Ở chỗ chôn người chết mà lại vui mừng và sống lâu, đó không phải là một điều lạ sao. Nó bắt nguồn từ quan niệm sống gởi thác về của người Đông phương thuở trước” (2).
Lăng Dục Đức
Ngày nay, lăng Dục Đức cùng hệ thống lăng tẩm nhà Nguyễn nằm trong quần thể di tích Huế đã trở thành di sản thế giới với nhiều tài liệu minh chứng, đánh giá và tôn vinh có từ ngót gần cả trăm năm trước An Lăng trong phong thủy. Chẳng hạn Toàn quyền Albert Sarraut trong một lần diễn thuyết tại Paris ở Đại học đường Nữ giới (Université des Annales) vào tháng 12.1916, đã nhấn mạnh: “Muốn hiểu tâm hồn người Việt Nam, muốn biết sức mạnh cổ điển trong nước lấy việc phụng sự tổ tiên làm gốc, muốn thấu được tôn chỉ cao thượng của tư tưởng người nước Nam, muốn tưởng tượng được cái vẻ rực rỡ trong lịch sử văn minh dân ấy, thì tất phải hằng giờ đi dạo chơi thơ thẩn trong mấy chốn bồng lai tiên cảnh là những lăng tẩm của các vị đế vương nước ấy…” (3).Vậy là trong giá trị lăng tẩm mà Albert Sarraut đề cập tới trên, lăng Dục Đức đã gắn liền với những tình cờ lịch sử để vượt qua khỏi giai đoạn dò tìm cuộc đất phong thủy đắc địa và tự khẳng định cho mình một vẻ đẹp riêng. (1) và (2): Phan Thuận An – Quần thể di tích Huế, NXB Trẻ 2007. (3) Phạm Quỳnh dịch – Thượng Chi văn tập, NXB Văn học 2006. Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 20: Vua Khải Định với những bí quyết phong thủy thời Nguyễn
Mặc dù đã sẵn sàng tiếp nhận phong cách kiến trúc mỹ thuật mới mẻ đến từ phương Tây nhưng vua Khải Định vẫn giữ gìn và tuân thủ truyền thống, ứng dụng dịch lý và phong thủy vào việc xây lăng cho mình, như các đời vua trước đã làm…
Điều đó thể hiện rất rõ qua việc vua Khải Định sai các thầy địa lý cùng các quan chuyên trách đương thời khảo sát kỹ lưỡng địa thế và đặc điểm sơn thủy ở nhiều nơi trong vùng Nam sông Hương (hữu ngạn). Và họ đã tìm được một thế đất nằm cách kinh thành Huế khoảng 10km về phía tây nam, trên một sườn núi có độ dốc vừa phải dường như “sinh ra để làm nơi ngả lưng cho một linh hồn quyền quý”… Thế núi Châu Chữ với lăng Khải Định (Ứng Lăng) Núi có tên Châu Chữ mà theo Đại Nam nhất thống chí nằm về phía tây bắc của huyện Hương Thủy, có một con suối kề cận từ phía nam chảy về, đó là suối Châu Ê. Núi không cao lắm song nằm giữa khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng, có dòng nước uốn mình qua chân núi, có các dãy đồi nhấp nhô xa xa dưới tầm nhìn và một rừng cây xanh bao bọc.
Vua Khải Định Như vậy, yếu tố nước (thủy) và núi (sơn) kết hợp cùng các chi tiết cát tường về mặt phong thủy khiến nhà vua hài lòng, chấp thuận và ra lệnh huy động hàng ngàn nhân công lên vùng núi Châu Chữ vào mùa thu năm 1920 để phát quang mở đường, làm lộ ra dưới ánh nắng một cuộc đất nằm nghiêng theo sườn núi, mà sau này lăng Khải Định tọa lạc ở đó với diện tích khoảng 111m bề dài và 49m bề ngang. Diện tích đó tuy nhỏ so với lăng của các vua tiền nhiệm song lại phải tốn thời gian xây dựng lâu nhất: liên tục trong 11 năm. Các lăng vua Nguyễn xây trước đó không kéo dài bằng như lăng Gia Long xây trong 6 năm, lăng Minh Mạng trong 4 năm và lăng Tự Đức 3 năm. Đi từ hướng suối Châu Ê chảy trước mặt lăng vào núi Châu Chữ sẽ thấy lăng Khải Định hiện ra với các bậc cấp đầu tiên dẫn lên điện thờ (tả hữu tùng tự) và một sân chầu có đặt nhiều tượng quan văn võ và tượng ngựa voi (bái đình), nhà bia (bia đình) với trụ biểu rất cao thuộc
dạng Stupa dựng hai bên. Tiếp đến là nhiều bậc cấp khác nối lên chỗ cao nhất (cung Thiên Định) có nơi đặt án thờ vua (điện Khải Thành) và nơi đặt thi hài vua (điện Chính Tâm) cùng Tả hữu trực phòng xây ở hai bên các điện trên. Từ dưới lên đến chỗ cao nhất của lăng có tất cả 127 bậc cấp với 5 tầng sân.
Lăng Khải Định Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao về nghệ thuật trang trí nội thất, tạo hình mỹ thuật tại công trình kiến trúc chính của lăng là cung Thiên Định. Ở đây, các nghệ sĩ ngày trước đã thể hiện qua các họa phẩm vẽ trên trần cũng như trên tường bằng những nét sinh động về cảnh trí thiên nhiên với hoa lá, chim muông, mai trúc, hạc rùa. Những bức họa chiếm hàng chục mét vuông có giá trị mỹ thuật cao. Nghệ nhân thời ấy cũng đã sử dụng hàng vạn mẫu sành sứ và thủy tinh nhiều màu để đắp nổi hàng ngàn hình ảnh về cảnh vật trong cung đình lẫn ngoài dân gian Việt Nam, cùng những bức tranh tứ thời, bát bửu… Điều đặc biệt khiến nhiều tác giả nhắc tới là lăng này có một pho tượng bằng đồng tạc hình vua Khải Định đang ngồi trên ngai vàng tạo tác tại Paris năm 1920 bởi hai người Pháp là P. Ducuing và F. Barbedienne. Tượng được chở về Việt Nam và được mạ vàng tại kinh đô Huế, đặt giữa cung Thiên Định (ở điện Chính Tâm). Phía trên ngai vàng vua đang ngồi có che một bửu tán bằng xi măng “nặng cả nghìn cân” được gia công kỹ thuật khéo léo đến nỗi trông y hệt một chiếc lọng lớn bằng lụa gấm vậy. Sau lưng tượng có chạm hình “mặt trời lặn”, bên dưới ngai vàng là nơi đặt thi hài vua Khải
Định – qua đời năm 1925 sau 9 năm ở ngôi, thọ 40 tuổi. Lúc ấy lăng xây đã 5 năm nhưng chưa xong và phải tốn thêm 6 năm nữa mới hoàn thành dưới thời vua Bảo Đại (vào 1931).
Tượng vua Khải Định trong lăng Nhìn tổng quát, lăng Khải Định có dạng như một lâu đài cổ của châu Âu được xây bằng nhiều vật liệu mới lúc ấy như ngói ardois, gạch vuông, cùng những hình ảnh lạ mắt đối với thời bấy giờ như chiếc đèn dầu hỏa, cột thu lôi, cửa sắt…. Qua đó cho thấy vua Khải Định muốn có những kiểu cách đa dạng trong bày trí mỹ thuật, trang trí lăng tẩm. Nhà vua đã “đặt làm đồ sứ phục vụ yến tiệc kiểu Pháp tại lò sứ Sèvres ngày 14.8.1922, toàn bộ gồm 694 món phủ men xanh thẩm giống men pháp lam Huế (Prussian blue) nổi bật hoa văn màu vàng rực rỡ” (Trần Đình Sơn). Đến nay nhiều nhà sưu tập cổ vật vẫn nhắc đến đồ sứ ký kiểu có nền sứ men tím thẫm sang trọng thời đó. Trở lại với lăng Khải Định, điều đáng ghi nhận là các nghệ nhân Huế xưa đã kết hợp sáng tạo giữa chất liệu mới từ Pháp đưa sang với mỹ nghệ truyền thống Việt Nam
trong các công trình của mình, họ dùng màu xanh sẫm “vẽ lên mặt xi măng láng làm cho các bức tường trông giống như xây bằng đá cẩm thạch” (Trần Ngọc Bảo). Nhiều nhà nghiên cứu kết luận, lăng Khải Định là bằng chứng sống động về giai đoạn đầu của sự tiếp nhận kiến trúc Tây phương trên nền tảng của truyền thống tâm linh Đông phương vì “tất cả núi đồi khe suối của một vùng rộng lớn quanh lăng đều đã được dùng làm các yếu tố phong thủy gồm tiền án, hậu chẫm, hổ phục, rồng chầu, minh đường, thủy tụ – tạo ra được cho lăng Khải Định một ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ và tráng lệ” (Phan Thuận An). Bí quyết phong thủy trong việc chọn hướng dựng nhà và xây vưởn ở kinh thành Huế Tính đến thời vua Khải Định, kinh thành Huế đã qua hơn 110 năm xây dựng. Cạnh các công trình kiến trúc thành quách, cung điện và lăng tẩm, thì hệ thống nhà vườn của Huế cũng đã thật sự hình thành trong thời gian ấy đủ để Huế xứng đáng với biệt danh “thành phố nhà vườn” mang đậm yếu tố phong thủy. Đó là điều khẳng định của nhiều tác giả – như GS.TS. Ngô Đức Thịnh và GS. Lê Văn Hảo chẳng hạn: “Kiểu kiến trúc khuôn viên nhà – vườn tạo nên kiểu thành phố vườn”. Hoặc GS. Trần Quốc Vượng gọi Huế là “một thành phố nhà vườn”. Nhà vườn Huế khác với các đô thị khác trong nước bởi vẻ đẹp có phần huyền bí do các đặc điểm phong thủy tạo nên. Để bạn đọc rõ hơn về nét đặc biệt này dưới thời các vua Nguyễn, chúng tôi trích dẫn một vài nét chính trong tài liệu khá chi tiết của hai ông Vĩnh Cao và Phan Thanh Hải về “Phong thủy trong vườn Huế” giới thiệu trên Tạp chí Nghiên cứu và phát triển -Sở Khoa học và công nghệ Thừa Thiên Huế số xuân Bính Tuất 2005 dưới đây: Việc đầu tiên trong các động thái quy hoạch phong thủy là phải xác định hướng cho một khu vườn: “Người Huế quan niệm, sơn hướng hay địa thế, là vị trí của cả cuộc đất mà trên đó sẽ dựng cơ nghiệp lâu dài nên nhất thiết phải xem sông ngòi, đường sá, để biết thủy tụ nơi nào, hướng gió lợi hại ra sao”. Sơn hướng gồm 24 phần và phải dùng thiên can, địa chi và bát quái để xác định. Các nhà phong thủy học lưu ý cần phải phối hợp với cửu cung để biết sự xoay chuyển của vận khí và phù hợp với bản mệnh của chủ nhà. Tiếp theo là xác định vị trí của ngôi nhà, được nhắm tùy theo từng cách lý giải khác nhau. Như người thì chọn trạch chủ, người thì lấy từ trung tâm ngôi nhà tính ra theo cách hình học. Người lấy hiên nhà làm chính dựa vào câu “khai môn phóng thủy” trong khoa địa lý. Và có ngươi dựa vào mục tiêu của chủ nhân để “đưa nhà sang trái hay phải, lấn về trước hay lùi về sau – đây là phép tắc dựa vào địa thế và ngũ hành”. Nói chung người ta có xu hướng thích quay mặt nhà về hướng nam: “lấy vợ hiền hòa làm nhà hướng nam”.
Lăng vua Khải Định và kinh thành Huế xứng đáng với biệt danh “thành phố nhà vườn” mang đậm yếu tố bí quyết phong thủy Giai đoạn thứ ba trong quy hoạch phong thủy là cần xác định những cấu trúc phụ xung quanh ngôi nhà như bình phong, non bộ, hồ nước mà các nhà chuyên môn cho rằng sẽ ngăn chặn những điều bất lợi có thể đến với chủ nhân cùng gia quyến: “Như bức bình phong, người thì quan niệm sử dụng để tránh lối đi thẳng vào nhà (nhất là nhà thờ vì như vậy không đúng lễ ngày xưa), người thì cho rằng tránh được trực xạ vào nhà, người thì bảo tránh dẫn hỏa vào nhà, người dùng ngũ hành lại nghĩ rằng đó là cách tạo một hành trung gian để tùy cơ mà điều tiết (như cần làm vượng hỏa lên thì làm bằng hàng cây – thuộc mộc – để kích hỏa lên; cần làm giảm bớt hỏa khí thì bình phong làm bằng đất đá – thuộc thổ – để khắc bớt hỏa )… Các thầy địa lý còn hướng dẫn để chủ nhân xem xét nơi đào hoặc đặt hồ nước để “tụ thủy tích phúc” – mà nhiều người quan niệm phải đặt trước nhà làm nơi ngăn cản luồng “hỏa khí” nóng bức không tốt từ ngoài có thể xâm nhập vào nhà. Một số các yếu tố bí quyết phong thủy khác thường được chú ý, trong đó có việc đặt các tảng đá lớn, các hòn giả sơn, hoặc hòn non bộ sao cho hợp lý. Việc đặt các dạng đá như vậy là nhằm tạo sự cân bằng cho ngôi nhà mình sẽ ở “như nhà nặng về mặt đông thì cần có những non bộ hoặc đá tảng lớn ở mặt tây để tạo cân bằng”. Nhưng cũng có người cho mục đích đặt đá nhằm ngăn chặn những tương khắc tồn tại quanh nhà “để cản những vật bên ngoài như góc nhà người khác, trụ điện, cây to… bắn khí vào nhà”. Việc chọn đúng vị trí để đặt các cấu trúc nói trên còn có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến các phần của ngôi nhà, vì “tác động vào chúng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến chủ nhân và các thành viên trong gia đình. Sách địa lý có câu: “Phá tiền đường hại gia trưởng”. Mà đứng đầu phần đất ra vào tiền đường là chiếc cổng chính của vườn – có ảnh hưởng quan trọng nhất đến khu nhà vườn. Vì thế các thầy địa lý đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định vị trí cho chiếc cổng. Chẳng hạn cổng trổ theo cung hợp với mệnh của
chủ nhân, như chủ hợp với cung Ly thì trổ cửa về hướng nam. Hoặc dựa vào ngũ hành để điều tiết vị trí dẫn khí vào nhà. Hoặc “phối hợp giữa môn (cổng) hoặc hộ (cửa) theo câu “Môn đăng hộ đối” – đây là quan điểm phổ biến nhất”. Nếu chủ nhân của ngôi nhà nào khó sửa được hướng cố định nhưng hướng nhìn ra sông, ra đường “cần sửa cửa để làm lệch hướng cổng- lại có thể chuyển cửa lên tầng gác nếu tầng dưới không sử dụng để sinh sống”. Ngoài cổng chính, theo các nhà phong thủy cũng cần mở cổng hậu phía sau để “lấy khí từ mặt sau nhà hoặc để thủy khí có nơi thoát”. Mặt khác người ta quan niệm phần sau nhà là “biểu tượng cho con cháu (tử tôn) nên vị trí của cổng hậu cũng phải theo hướng phù hợp chủ nhân, hoặc phù hợp ngũ hành – trong dân gian vùng Huế cũng thường có quan niệm làm nhà cho có phần hậu”. Còn nhiều điều khác như chọn loại cây trồng, chọn cách kết cấu nhà và phương pháp đo đạc các bộ phận kiến trúc nữa liên quan đến bí quyết “phong thủy nhà vườn Huế”vốn có nền móng tạo tác dưới thời các vua chúa nhà Nguyễn với mốc cuối cùng vào thời Khải Định và Bảo Đại sẽ viết rõ phần sau. Giao Hưởng – Ảnh: TyArt, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 21: “Gò đất kết” Sơn Quy với chuyện hai bà hoàng
Thật thiếu sót nếu không nhắc đến phong thủy ở vùng đất Gò Công – nơi sinh ra hai người đẹp nổi danh nhất của vương triều Nguyễn là hoàng thái hậu Từ Dụ và hoàng hậu Nam Phương – với câu chuyện còn lưu truyền đến nay về “gò đất kết” Sơn Quy…
Sơn Quy là tên do nhà Nguyễn đặt cho một cái gò có hình dạng như chiếc mai con rùa nổi lên trên đất Gò Công thuở xưa, ở địa phận huyện Tân Hòa, nay thuộc tỉnh Tiền Giang. Dân chúng quen gọi cuộc đất Sơn Quy ấy bằng hai tiếng bình dị dễ nhớ là Gò Rùa. Điểm lành tuôn nước ngọt ngào Gò này gắn liền với câu chuyện phong thủy liên quan đến gia thế và cuộc sống đức độ của một bậc mẫu nghi thiên hạ là hoàng thái hậu Từ Dụ (vợ vua Thiệu Trị và là mẹ của vua Tự Đức). Tương truyền sau ngày bà ra đời vào năm Gia Long thứ 8 (1810) nước ở Gò Rùa bỗng trở nên ngọt hơn so với nước thường bị mặn quanh vùng. Dân chúng đồn đãi rồi rủ nhau đến đó múc gánh về dùng và lấy làm lạ về thứ nước ngày càng ngọt, uống vào thấy khỏe ra. Cây cỏ quanh gò cũng trở nên tươi tốt hơn lên và đơm hoa trổ trái bất thường. Vì cớ đó đã truyền đi trong dân gian câu ca: Điềm lành tuôn nước ngọt ngào – Lại thêm phước đức vun cao Gò Rùa (Lệ thủy trình tường thoại – Quy khâu trúc phước cơ). Vậy đó là điềm gì? Và phước đức của ai? Người quanh vùng để tâm hỏi han như trên và được các kỳ lão giải thích đại khái mỗi lần vùng đất nào có đổi thay về khí sắc nước nôi như vậy ắt đã có một nhân vật kỳ đặc nào đấy vừa xuất sinh ở đó. Mà ở Gò Rùa thì nhà danh giá phải kể đến vợ chồng cụ thượng thư Phạm Đăng Hưng gò đất kết. Theo một số tài liệu, dòng họ Phạm Đăng ở Gò Công vốn từ ngoài Trung đã theo dòng người Việt đổ về phía Nam khai phá vào khoảng thế kỷ 17. Trong những vị đi tiên phong đến vùng đất mới có cụ Phạm Đăng Xương – một nhà nho uy tín đương thời – người gốc ở vùng Phú Xuân, huyện Hương Trà (Thừa Thiên – Huế ngày nay) đã “dẫn cả gia đình vào định cư ở Gò Rùa (giồng Sơn Quy – Gò Công), tại đây cụ chiêu mộ dân chúng khai phá đất hoang, mở mang sản xuất, khiến nơi này ngày càng thịnh vượng” (1).
Lăng mộ cụ Phạm Đăng Hưng nằmg trong di tích quốc gia Lăng Hoàng Gia Song song với việc ổn định cuộc sống ban đầu ấy, cụ Phạm Đăng Xương đã thâu nhận rất nhiều môn sinh trong vùng để dạy học tạo nên thế hệ trí thức đầu tiên quanh “đất kết” Gò Rùa. Mọi người tôn kính gọi cụ là “Kiến Hòa tiên sinh”. Con trai của cụ là Phạm Đăng Long nối bước làm nghề dạy học. Từ đó trải nhiều đời về sau, họ Phạm Đăng trở thành dòng họ kỳ cựu trên đất Gò Công, với những ngôi mộ cổ táng ở Gò Rùa mà các thầy địa lý thời ấy đã chỉ. Trong số các ngôi mộ đó có một ngôi đặc biệt đã được chôn ở vị trí đại cát và thoáng đãng nhất trên gò. Đến đời thượng thư Phạm Đăng Hưng (ông ngoại vua Tự Đức), đã nhờ các thầy địa lý đến gò Sơn Quy để thẩm định một lần nữa thế đất phong thủy mà các đời trước đã chọn để chôn cất người quá vãng gò đất kết. Các thầy địa lý quả quyết gò Sơn Quy là một gò đất tốt, sẽ mang lại hưng vượng cho con cháu của những người nằm dưới mộ. Tuy nhiên phía sau gò Sơn Quy bị trống trải, không có được một dãy đồi ôm che, thiếu hậu chẩm. Thêm nữa bên phải và bên trái cuộc đất Sơn Quy thiếu các dãy đồi từ xa “triều về” nên cái thế “tả hữu phú chi” không có. Nghĩa là sự hưng vượng chỉ phát lên mạnh mẽ một đời rồi ngưng lại chứ không “truyền đời” cho các chi nhánh về sau được. Một điều nữa, theo các thầy địa lý đương thời đã dựa theo cuộc đất ở gò Sơn Quy thì họ Phạm phát mạnh về phái nữ (âm thịnh) và chỉ thịnh thời trẻ đến trung niên mà thôi, hậu vận sẽ gặp phải không ít trắc trở và buồn lo. Điều đó ứng vào người con gái cụ thượng thư Phạm Đăng Hưng tức cô Phạm Thị Hằng (hoàng thái hậu Từ Dụ) ra sao, chúng ta có thể tham khảo và kiểm chứng qua vài nét chính đã xảy ra trong đời của bà dưới đây.
Đức Quốc Công Tự Gò Công nằm trong di tích Lăng Hoàng Gia Hoàng hậu duy nhất sống quan 10 đời vua Theo đoán định về thế đất Gò Rùa như trên, thì hoàng thái hậu Từ Dụ sẽ lên đến tuyệt đỉnh phú quý vào thời thanh xuân. Từ năm 12 tuổi bà đã nổi tiếng là người con có hiếu. Khi mẹ bà bệnh nặng bà đã kề cận bên giường săn sóc từng miếng cơm hớp nước, đến phút cuối khi mẹ qua đời bà đã kêu khóc ngày đêm không dứt. Nghe tiếng bà là người con hiếu để và đoan trang hiền thục nên lúc bà 14 tuổi đã được Thuận Thiên Cao hoàng hậu (vợ vua Gia Long) tuyển bà rời Gò Công ra kinh thành Huế để vào cung hầu hoàng trưởng tử Miên Tông (tức vua Thiệu Trị về sau). Vua Thiệu Trị lên ngôi được 3 năm đã tấn phong bà làm Quý phi (1846). Năm sau (1847) trước khi qua đời, vua Thiệu Trị bảo các quan trong triều rằng Quý phi (Phạm Thị Hằng) là người vợ đầu của vua (nguyên phối) đã có công “giúp trẫm suốt 7 năm trong công việc nội chính, vì thế trẫm đã có ý muốn lập Quý phi làm hoàng hậu nhưng tiếc thay không còn kịp nữa”. Thiệu Trị mất, vua Tự Đức nối ngôi (1848) liền sai triều thần bưng kim sách và kim bảo đến dâng bà để tôn hiệu Hoàng thái hậu. Bà là người nhân từ, ai có lỗi bà ôn tồn chỉ bảo, thậm chí nhận thay lỗi cho người ấy. Sử sách triều Nguyễn và các tài liệu liên quan đều ca ngợi đức độ của bà: “Sống trong lầu vàng điện ngọc nhưng bà Từ Dụ rất cần kiệm – thấy vua Tự Đức (con của mình) trần thiết (bày biện) những đồ vật quý giá trong cung Diên Thọ cho mình, bà không bằng lòng bảo vua: những thứ này đều do trăm họ dâng nộp, mình không làm đặng sự chi lợi ích cho nước thì thôi, sao dám vọng phi (lạm dụng)?. Vua Tự Đức phải đem cất hết những đồ đạc quý giá ấy vào kho” (2).
Sống trên đỉnh cao nhất của quyền quý nhưng rốt cuộc bà lại không được vui vì con trai duy nhất của bà (là vua Tự Đức) đã chết trước bà – mà lại không có người nối dõi. Tiếp đó là quân Pháp tràn vào với một loạt bi kịch trong nội bộ hoàng tộc, kẻ bị giam đói chết, người bị lưu đày xa xứ. Tuy vẫn còn ngồi trên ngôi cao nhưng thực chất quyền hành đều nằm trong vòng chi phối của ngoại bang. Trong giai đoạn chua xót đó của lịch sử nước nhà, cũng là những tháng ngày cay đắng suy tàn dần của vương triều Nguyễn, thì ở xa xa về phía Nam cây cối ở Gò Rùa đang xanh tươi đột nhiên héo tàn dần rất rõ nét vào năm 1859 (Kỷ Mùi). Lạ thay, nước giếng ngọt ngày nào năm đó bỗng trở mặn liên tiếp trong gần một tuần. Và rồi trong tuổi về già, với biết bao biến cố buồn thương dồn dập, hoàng thái hậu Từ Dụ mắt bị mờ và tai bị điếc. Bà qua đời năm 1901, thọ 92 tuổi, để lại một tấm gương sáng về lòng từ ái thương người và mẫu mực đức độ nên tên của bà ngày nay đã được dùng để đặt tên cho một bệnh viện phụ sản nổi danh ở Việt Nam là Bệnh viện Từ Dũ tại TP. Hồ Chí Minh. Như vậy, bà Từ Dụ là hoàng hậu duy nhất trong lịch sử vương triều Việt Nam đã sống qua 10 đời vua, kể từ lúc bà sinh ra thời vua Gia Long, vào cung thời vua Minh Mạng, làm vợ vua Thiệu Trị, là mẹ vua Tự Đức, trở thành hoàng thái hậu chứng kiến bi kịch triền miên của các triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh và Thành Thái. Bà sống thời thanh xuân rực nắng và thời trung niên cũng như về già hiu hắt phai màu như cỏ cây úa vàng dần trên “gò đất kết” Sơn Quy thuở nào.
Cũng tương tự như bà, sau này hoàng hậu Nam Phương – vợ vua Bảo Đại, cũng sinh ra tại đất “địa linh nhân kiệt” Gò Công – Tiền Giang, cũng sống thời huy hoàng lúc trưởng thành, để rồi rơi vào cảnh cô đơn lúc cuối đời. Điều đó rất rõ ràng khi ta liên tưởng đến đám cưới của hoàng hậu Nam Phương rộn rịp thuở nào trái hẳn với cảnh Nam Phương sống một mình nơi xứ người và phải nhận những tin tức về mối giao du của cựu hoàng Bảo Đại với những người tình mới nhất của ngài mà chúng tôi sẽ đề cập ở kỳ sau.
Nam Phương Hoàng Hậu (1) Nguyễn Phúc Nghiệp – Nam Bộ xưa và nay (nhiều tác giả), Tạp chí Xưa và Nay, NXB TP. HCM, 1998, trang 340. (2) Nguyễn Viết Kế – Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn, NXB Đà Nẵng 2001. Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 22: Cung An Định và nỗi lòng hoàng hậu Nam Phương
Cung An Định xây năm 1902 bên bờ sông An Cựu – một con sông chứa nhiều “cổ tích buồn” trong chuyện đời của hoàng hậu Nam Phương…
Phong thủy với màu nước sông Hương và sông An Cựu Sông An Cựu dài hơn 30km, là một chi lưu nổi danh của sông Hương, đã mang theo dòng chảy của mình những tố chất “di truyền” về tâm cảnh lẫn màu nước từ dòng sông mẹ. Vì thế cần nói về sông Hương trước. Tính từ nguồn ra biển, sông Hương chỉ dài khoảng 100km, nhưng “kích thước lịch sử” của con sông này lại lớn hơn rất nhiều lần con số ấy – bởi các biến cố trọng đại xảy ra ở đôi bờ. Về vị trí phong thủy, sông Hương được chọn làm Minh đường của kinh thành Huế, là nơi “trăm dòng hợp phái, vạn nhánh qui về” (bách xuyên hợp phái – vạn hác triều tông) như vua Thiệu Trị ca ngợi. Có thể tham khảo thêm sách địa lý Tả Ao: “Trường thủy sở dẫn, trường sơn sở tòng, chân thị đại quý chi địa” (nước dài dẫn lối, núi dài chạy theo, thực là đất đại quý). Cao Trung luận:
“Khi nước chảy chiều nào thì sơn mạch đi chiều đó nên gọi là nước dài dẫn lối. Đó là điều kiện nước tốt. Nếu có “dãy núi dài dài” đi theo “nước dài” nữa là điều kiện tốt thứ hai. Nếu huyệt kết ở “núi dài” theo “sông dài” và “sông dài dẫn núi dài” thì chắc là cho huyệt kết lớn. Trái lại chỉ có một dòng nước nhỏ dẫn lối và một chi sơn nhỏ đi theo thì chỉ là tiểu địa”. Đã có những cuộc đất “đại quý” được các nhà địa lý chọn xây lăng mộ cho các vua Nguyễn. Cũng có ngọn đồi thiêng của vương triều như đồi Hà Khê, hoặc núi Ngọc Trản bên dòng (đã viết ở các kỳ trước). Ngay cả màu nước sông Hương cũng được Quốc sử quán triều Nguyễn chép đến: “Hồi đầu quốc triều ta, nước sông Hương đã chuyển sang màu đỏ và đục ngầu trong biến cố năm Giáp Ngọ 1774” – là năm tướng Hoàng Ngũ Phúc từ phía Bắc kéo quân Trịnh tràn vào đánh chiếm Thuận Hóa, đẩy chúa Nguyễn chạy lánh về đất phương Nam. Rồi cũng dòng Hương giang ấy lại xanh trong tuyệt vời vào “mùa hè năm Tân Dậu 1801 lúc đại binh (của chúa Nguyễn Phước Ánh) tái chiếm lại thành đô – thiên hạ đều cho nước sông đổi màu là điềm thái bình vậy” (Đại Nam nhất thống chí).
Sông Hương Trên đoạn chảy qua khu vực kinh thành về phía hữu ngạn (bờ nam sông Hương) có sông An Cựu, được hình thành sau những chuyến vua Gia Long xa giá đến vùng Thanh Thủy xem xét địa thế, đoán định về phong thủy và triệu các vị phụ lão địa phương đến hỏi việc lợi hại khi đào sông mới. Ai nấy đều đồng tình. Vua sai đào sông dẫn nước tưới cho hàng ngàn vạn mẫu ruộng đất bị ngập mặn năm 1814 (Gia Long thứ 13) và làm đập ngăn nước mặn ở cửa Thần Phù. Nhờ đấy vùng đất nam sông Hương khởi sắc, thuận lợi cho việc gieo cấy, trồng trọt. Chính vì kết quả lợi lạc ấy nên sau này vua Minh Mạng đặt tên sông là Lợi Nông và sai khắc hình ảnh
của sông vào Cửu đỉnh (Chương đỉnh). Tuy vậy dân chúng kinh thành Huế vẫn quen gọi tên cũ của sông là An Cựu. Cung An Định nằm bên bờ sông An Cựu ấy – một con “sông con” của Hương Giang với màu nước có “một chút gì trúc trắc”, tựa những mối tình chợt đổi màu theo nắng mưa, mà ca dao ghi lại: núi Ngự Bình trước tròn sau méo – Sông An Cựu nắng đục mưa trong – Vì thầy mẹ bên anh lắng đục tìm trong – Nên duyên chàng nợ thiếp cứ long đong rứa hoài… Được xây bên một dòng sông như thế, nên cung An Định dường như cũng “đẫm buồn” theo – và là nơi hoàng hậu Nam Phương đã rơi nhiều nước mắt. Nước mắt của hoàng hậu Nam Phương Người chứng kiến những giọt lệ đầu tiên của Nam Phương ở đó là ông Phạm Khắc Hòe (1) lược kể dưới đây. Nguyên sau ngày đọc Chiếu thoái vị vào trưa 30.8.1945, cựu hoàng Bảo Đại nhận được công điện từ Hà Nội gởi vào mời ông làm cố vấn tối cao cho chính phủ của cụ Hồ Chí Minh, ông nhận lời và sắp xếp ra Hà Nội. Vào 6 giờ sáng 2.9, ông Phạm Khắc Hòe cùng Bộ trưởng Lê Văn Hiến đến cung An Định “xe chúng tôi đã vào đậu ngay trước phòng khách mà trong cung vẫn tối mò mò, im phăng phắc – chỉ nghe có tiếng gõ mõ niệm Phật từ trên lầu vọng xuống”. Lát sau hoàng hậu Nam Phương trong sắc phục màu xanh da trời, từ trong nhà đi ra cùng con trai là Bảo Long và ba con gái là Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung, cựu hoàng Bảo Đại “tới hôn vợ, hôn các con với những lời âu yếm bằng tiếng Pháp, đây là lần đầu tiên trong đời mình, ông Vĩnh Thụy đi xa mà không ai tiễn đưa ngoài vợ con”. Nam Phương với sắc mặt buồn “đưa tay trái lên cổ sửa lại sợi dây vàng đeo thánh giá lấp trong áo, tay phải cầm mùi xoa lau nước mắt” trong tiếng mõ tụng kinh của bà Từ Cung (mẹ Bảo Đại) từ “trên lầu vọng xuống đều đều buồn bã”. Cựu hoàng “khóe mắt hơi ướt, nhưng miệng vẫn mỉm cười, bế Phương Dung lên hôn một lần nữa, rồi bỗng nói to: Thôi đi!”. Bà Nam Phương mở to mắt “nhìn theo như muốn níu ông chồng lại, nhưng ông này không quay lại”…
Nam Phương hoàng hậu Ra đến Hà Nội, cựu hoàng ở tại biệt thự dành riêng cho cố vấn chính phủ số 51 đại lộ Gambetta, tức số 51 Trần Hưng Đạo sau này. Chính ở đó, khoảng 10 ngày sau, khi ông Phạm Khắc Hòe đến thăm vào một đêm trăng đẹp, bỗng thấy “trên đầu cầu thang có một người đàn bà đang bước rất nhanh”. Ông chạy theo, nhưng lên đến gác thì “chỉ còn phảng phất mùi nước hoa” của vũ nữ Lý Lệ Hà. Những lần sau cũng vậy, mỗi khi ghé lại biệt thự của cựu hoàng, lần nào ông Hòe cũng gặp những người hào nhoáng đi ra đi vào trong phòng khách và từ trong đó vọng ra “tiếng mạt chược lọc cọc, tiếng cười nói ầm ĩ, có cả tiếng đàn bà” nữa. Vào một buổi trời vừa sập tối, bất ngờ Bảo Đại tự lái xe đến chỗ ở của ông Hòe nói: “Hôm ra đi, tui chỉ mang theo có một nghìn bạc, nay tiêu hết cả rồi. Tui muốn nhờ ông về Huế đưa cái thư này cho “ngài hoàng” (tức hoàng hậu Nam Phương) lấy một ít tiền đưa ra cho tui”. Cầm thư về Huế, ông Hòe đến trước cung An Định vào 8 giờ rưỡi sáng mà “tòa nhà này vẫn
không có một cánh cửa nào mở, sân ngập lá rụng, tường mốc rêu xanh, tôi bấm chuông và lên tiếng gọi mấy lần, trong nhà vẫn im phăng phắc, không ai trả lời”. Định quay về, ông chợt thấy hoàng hậu Nam Phương từ phía Bến Ngự xuống…Vào phòng khách, bà Nam Phương mở bức thư viết bằng chữ Pháp trên ba trang giấy màu xanh ra xem. Xong, bà ngẩng đầu lên “nhìn tôi với hai giọt nước trong suốt trong đôi mắt – môi bà run run như muốn nói một điều gì (…) bà đứng vụt dậy trào nước mắt ra”… Chiều hôm sau, ông Hòe quay lại cung An Định lúc 16 giờ, bà Nam Phương đã có mặt chờ sẵn ở phòng khách với “bộ mặt buồn thiu, nhưng vẫn cố làm ra vẻ bình tĩnh” – để rồi vào câu chuyện ngay sau đôi lời hỏi han: “Tôi muốn ông cho biết tất cả sự thật về việc ông Vĩnh Thụy mê con Lý”. Ông Hòe trả lời rất tiếc là mình không biết rõ chuyện ấy, chỉ nghe người ta nói cựu hoàng “có mèo tên là cô Lý”. Bà Nam Phương chăm chú hỏi: “Ông có biết con Lý nhiều không? Và con ấy người như thế nào?”. Ông Hòe đáp chưa thấy mặt bao giờ, song nghe đồn cô ấy đẹp. Tiếng “đẹp” làm hoàng hậu “đỏ mặt lên ngay”. Qua các lần gặp gỡ ấy, ông Hòe nhận định: “tôi thấy bà biết rất rõ mọi mặt sinh hoạt của ông Vĩnh Thụy (cựu hoàng) ở Hà Nội – điều ấy bà Vĩnh Thụy (Nam Phương) chỉ có thể đạt được qua một mạng lưới săn tin và thông tin thành thạo và trung thành với bà ta. Tất nhiên, những tin tức càng cụ thể bao nhiêu, càng làm cho bà ta đau khổ, uất ức bấy nhiêu”. Trong lần gặp tiếp theo, Nam Phương đã rút hai tờ bạc ngân hàng Đông Dương loại 500 đồng giơ lên cho ông Hòe thấy rồi “bỏ trở lại vào giữa những tờ giấy màu hồng đặc sệt chữ Pháp dán lại” đưa cho ông Hòe. Chẳng biết hoàng hậu viết gì trong thư ấy. Thư đến tay cựu hoàng, thì ngày 16.3.1946 (khoảng 6 tháng sau khi ra Hà Nội), cựu hoàng sang Trung Quốc, sau đó qua Hồng Kông cùng người đẹp Lý Lệ Hà – để lại hoàng hậu Nam Phương với nỗi lòng chua xót ở cung An Định xa vời…
Hoàng hậu Nam Phương, hoàng tử Bảo Long, Đức Từ Cung thái hậu, vua Bảo Đại Biết rõ mối quan hệ thắm thiết của chồng mình với cô Lý, hoàng hậu với tư thế của một “người chị” đã viết một bức thư gởi “em Hà” mà hơn 50 năm sau Lý Lệ Hà vẫn còn giữ, như sau: “Em Lý Lệ Hà thân quý. Chị ở xa đức cựu hoàng hàng mấy vạn dặm trùng dương, nhưng chị biết rằng em đang hết lòng hết sức chăm sóc cựu hoàng ở Hồng Kông. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông rơi cựu hoàng, còn gặp lại nhau. Đức Từ Cung thái hậu và chị trọn kiếp nhớ ơn em. Chị Nam Phương”. Bức thư trên được nhà văn Lý Nhân Phan Thứ Lang (Phan Kim Thịnh) trích dẫn từ hồi ức của Ngọc Giao (2) và in lại trong cuốn Bảo Đại – vua cuối cùng triều Nguyễn (NXB Đà Nẵng 2004). Còn Lý Lệ Hà đã nói gì về mối tình của mình với Cựu hoàng? Không một ông vua nào có tiền trong túi Lý Lệ Hà kể: “Lão ta rất buồn (Lệ Hà lúc nào cũng gọi cựu hoàng Bảo Đại là “lão ta”). Lão ta chỉ thở dài, không nói năng gì hết. Ăn uống, cho gì nhận cả không hề kêu ca, nhăn nhó. Ngày ấy là 30 tết âm lịch. Lão ta, càng lì lợm, ra bao lơn (của biệt thự 51 Trần Hưng Đạo – Hà Nội) đứng nhìn xuống phố. Lão khẽ vỗ vai tôi: “Buồn lắm Hà ơi! Biết làm sao được bây giờ?” (…) Rồi Lý Lệ Hà kéo cựu hoàng đến đền Ngọc Sơn làm lễ giao thừa. Qua cầu Thê Húc chật nức người, vào tới trấn Ba Đình, cựu hoàng bảo Hà vào đốt một nắm hương đem ra, rồi trịnh trọng quay mặt về hướng Nam khấn lạy. Đến chân Bút Tháp thấy có ông thầy bói, chẳng biết mù thật hay mù giả, bảo hãy xem “cho lão”:
“Lão vua không chịu đưa bàn tay ra, sợ bẩn – mình phải nài ép, kéo bàn tay lão đặt vào tay ông thầy – ông mù này, vừa nắm bàn tay mềm nhũn như bông (của Cựu hoàng), giọng ông thều thào rất nhỏ: “Ngài là quý nhân – tôi không muốn nói gì hơn – chỉ xin thưa rằng ngài sắp đi xa, xa lắm”. Không lâu sau đó, cựu hoàng cùng Lý Lệ Hà đi xa thật, tới đất Hồng Kông giàu có mà hoàn cảnh lúc đó của hai người thật quá bi đát: “bởi không có nhiều tiền nên lão và mình thuê một khách sạn tồi tàn (…) có một đôi lần thấy lão quá buồn mình dắt lão vào cái bar nho nhỏ, loay hoay tìm một cái bàn tối tăm, kín đáo. Thế mà, chưa kịp ngồi, làm sao mà ban nhạc bar nhận ra cái bộ mặt rầu rĩ của ông vua xa nước. Tức thì một bài “valse royale” (bài nhảy nghênh giá, theo phong tục phương Tây). Ban nhạc sống vô cùng trang trọng chơi bài đó, đồng thời ông chủ khách sạn bước ra cúi rạp đầu, cung nghinh vị phế vương (…) ngồi mấy phút, mình kéo lão rời phòng nhảy ra đường, mình toát mồ hôi lạnh, sốt ruột vì món tiền vừa phải xổ ra trả giá chai sâm banh thượng hạng và tiền thừa trên dĩa “đức Vua” rộng thưởng cho ban nhạc. Đói quá, trong túi mình không còn lấy một xu, lão thì chẳng bao giờ có một tí tiền. Thì vào thời xưa cũng vậy, chưa có một ông vua nào có tiền trong túi. Nhưng khủng khiếp nhất là phải nhịn đói, đội rét, bò được về tầng thứ 13 của khách sạn…” (3).
Cung An Định Khi đó, hoàng hậu Nam Phương vẫn sống âm thầm ở cung An Định mà theo người đời tên gọi ấy thời mới khánh thành mang một ý nghĩa tốt đẹp, an vui, đại định – nhưng về sau người ta nhắc đến với ý nghĩa khác, thành nơi “an bài” theo “định mệnh” của hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn. Kể cả sau ngày ra nước ngoài, định mệnh vẫn buộc bà phải chứng kiến mối
tình mới của chồng mình với một vũ nữ xinh đẹp – còn sâu đậm hơn cả Lý Lệ Hà năm xưa nữa… Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Trương Vững, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 23: Đà Lạt, thủ phủ của “Hoàng triều cương thổ”
Thành phố Đà Lạt có lịch sử 120 năm phát hiện và phát triển (1893 – 2013) đã từng là thủ phủ của Hoàng triều cương thổ (1950 – 1954) – nơi còn in đậm những kỷ niệm hồi hương của cựu hoàng Bảo Đại.
Yếu tố ” núi” và “nước” trong mưa tuyết Đà Lạt Nhà Nguyễn phóng tầm nhìn đến Đà Lạt để xây một hành cung của mình trên đó. Chứng cứ được ghi lại qua việc triều đình phái đại thần Đoàn Đình Duyệt, Thượng thư bộ Công, Cơ mật đại thần, kiêm Quản đốc Đô sát viện lên đường đến Đà Lạt giữa tháng 7 năm 1918. Đường sá đi lại hồi đó không thuận tiện như bây giờ. Khởi hành từ Huế bằng xe lửa, Đoàn Đình Duyệt xuống ga Đà Nẵng, đi bằng đường thủy về phương Nam đến Qui Nhơn, cảng Ba Ngòi, Phan Rang, rẽ hướng lên cao nguyên Lâm Viên, vượt qua “đỉnh Eo Gió (Bellevue) ở độ cao 1.045 thước tây” và mô tả “hai bên đường cây cối rậm rạp tuyệt nhiên không có dân cư (…) chốn rừng rú u tịch, đường đá gồ ghề khó đi – khiêng kiệu phải dùng người Thượng mới đi được”, từ đó đi thêm theo “đường bộ dài 61km” lên tới Đà Lạt lúc “trời vào tiết đầu
thu (…) xem khí hậu thấy giống như đầu xuân – theo lời quý quan trú ở đây thì vùng đất này tới mùa đông hàn thử biểu có lúc xuống một, hai độ, giống như khí hậu miền Nam châu Âu – đôi khi cũng có mưa tuyết – quả là điều kỳ lạ trên đất nước Lĩnh Nam vậy” (1). Hai ngày sau trời mưa liên tục, đến ngày thứ ba ông mới bắt đầu dạo quanh, thấy dinh thự, khách sạn cho đến nhà ở của dân “thảy đều xây cất trên đồi núi với cảnh đẹp giống như tranh vẽ”. Cuối cùng ông cũng tìm được một cuộc đất có thế địa lý ưng ý để chọn làm nơi xây hành cung cho nhà vua trên ngọn núi có “đỉnh bằng phẳng rộng chừng trên 10 mẫu nằm gần ngọn núi xây cất Phủ toàn quyền, hiện đang có những cây thông già xanh tốt (mọc tự nhiên) mỗi cây cao 6, 7 thước tây, mọc thành hàng như do người trồng, cảnh trí rất tự nhiên (…) một dòng suối lượn quanh bao bọc từ bên phải ra đến phía sau núi. Thật là một địa điểm cao ráo quang đãng” phù hợp với yêu cầu về phong thủy cho một hành cung tọa lạc. Luôn tiện ông cũng mô tả suối Cam Ly “chảy quanh co như một con sông, đến chỗ Cẩm Lệ (Cam Ly) thì có một khối đá lớn chắn ngang, dưới chân khối đá có một cái hồ lớn, từ mép hồ lên tới đầu khối đá cao độ 30 thước tây. Mặt khối đá có hai khe hở, nước từ khe hở chảy vọt xuống như hai cầu vồng dài. Giữa hồ nhô lên một cái gò như bãi trâu tắm” – trên gò có xây lầu bát giác, đứng ở lầu nhìn ra bốn phía thấy nước chảy vòng quanh, trăm hoa vây bọc “quả là chốn bồng lai tiên cảnh”(2). Những mô tả trực quan của đại thần Đoàn Đình Duyệt gợi đến những chỉ dẫn của khoa địa lý phong thủy với hai phần: loan đầu và lý khí. Trong đó phần loan đầu là những gì một thầy địa lý có thể dùng mắt để trực tiếp quan sát được từ hình thể bao quát của một cuộc đất. Phần lý khí gồm những ứng dụng của lý học phương Đông vào việc xem xét chỗ đất kết. Ở đây Đoàn Đình Duyệt dùng kỹ năng sẵn có để thực hiện giai đoạn loan đầu rồi ghi vào bản trình tấu bằng chữ Hán lên vua Khải Định được dịch ra tiếng Việt đăng trên Tạp chí Nam Phong số tháng 3 và 4 năm 1918 (3).
Dinh thự, khách sạn, nhà dân ở Đà Lạt đều xây cất trên đồi núi với cảnh đẹp như tranh vẽ Đến nay phong thủy học được kết hợp bởi địa chất học để tham cứu thêm về một cuộc đất nào đó. Riêng Đà Lạt, theo Võ Đình Ngộ: “các khối nham biến tính lẫn hoa cương đều bị các mạch thạch anh, thạch bích cắt ngang” (4). Các mạch thạch anh này chạy song song dưới các ngọn đồi hoa cương ẩn hiện quanh thành phố, theo thế nghiêng, hoặc thẳng đứng, hoặc cắt nhau “một vài nơi như ở ngọn đồi Pin Thouard, trên đường Đà Lạt – Suối Vàng và ngọn đồi ở Trường Adran (ấp Xuân An) các mạch thạch anh lớn và chằng chịt” (…) một vài dữ liệu quan trọng có thể viết lại lịch sử của vùng này” trong đó có kết quả nghiên cứu khoa học về các lớp sa thạch và diệp thạch đã bị gấp nếp (plissement) theo “hướng chính là Đông bắc – Tây nam, hoặc Đông – Đông bắc, Tây – Tây nam – hoặc từ Bắc chí Nam. Như vậy, hướng gấp nếp này không giống hướng gấp nếp của Trường Sơn mà thuộc về Nam Sơn (…)”. Gần đây việc định tuổi tuyệt đối của hoa cương Đà Lạt là 191 triệu năm (theo Géochronologie du Vietnam méridional – Faure, Cl., et Fontaine, H., 1969). Quá trình xâm thực đã làm hình dạng của mặt đất thay đổi mà “yếu tố quan trọng nhất là dòng nước (…) để lại vô số thung lũng và đường đỉnh nằm song song với nhau”. Đến nguyên đại cận sinh (cénozoêque) về sau, chuyển động Hymalayen tạo nên những đường toạc, đưa loại dung nham khác trào lên đã nâng cao địa thế của vùng này thêm một lần nữa khiến“các đỉnh núi bị mài mòn hoặc bị phá hủy, làm cho hình thể mặt đất, càng lúc theo thời gian, càng bị san bằng để tạo thành một bán bình nguyên như ngày nay”. Trên “bán bình nguyên” ấy mây mù bao phủ, che kín bầu trời từ 5/8 đến 6/8 vào mỗi mùa mưa. Về mùa đông đôi khi ẩm độ xuống quá 10% lúc trời sập tối. Sáng ra, không khí ẩm tăng lên do “sự tăng động của gió mùa Tây Nam trên triền núi”. Còn sương mù Đà Lạt thuộc loại “sương mù bức xạ do sự hóa lạnh ban đêm của mặt đất”. Phần lớn “các dãy núi cao đều vây quanh thành phố Đà Lạt và chính những núi cao này đã làm tăng thêm vẻ quyến rũ của miền đất này”. Về nguồn nước, phía Tây bắc Đà Lạt có thác Suối Vàng đưa nước chảy trên nền đá hoa cương. Phía Tây có thác Cam Ly. Phía Nam có thác Datanla và tháp Prenn danh tiếng đưa nước chảy trên nền nham huyền vũ. Về hướng Nam trên đường đi Sài Gòn có thác Liên Khàng nằm cách Đà Lạt 30km. Do ở độ cao hàng nghìn mét nên nước của Đà Lạt không thể “thủy tụ” mà luôn có xu hướng đổ về xuôi, tức là “chảy xuống”. Cả những nơi “thủy tụ” như hồ Than Thở vẫn có không gian chứa đựng những huyền thoại tình yêu buồn man mác…
Hồ Than Thở, nơi chứa đựng những huyền thoại tình yêu buồn man mác Đến Đà Lạt, hoàng đế cũng mộng mơ ! Bảo Đại “có duyên” với “thành phố mộng mơ” ngay từ hồi chưa thoái vị. Ông đã “mơ mộng” có ngày lên đó làm ăn (như dân thường). Nên chưa đầy 24 giờ trước ngày rời khỏi ngai vàng vào cuối tháng 8.1945, ông đã gọi Ngự tiền văn phòng tổng lý của mình là Phạm Khắc Hòe vào tâm sự. Ông muốn sau khi trao ấn kiếm cho chính quyền, hai người sẽ rời kinh thành Huế lên đường “làm ăn chung” trên cao nguyên. Hoàng đế muốn làm gì ? Làm thợ săn ! Vì dạo ấy ông và hoàng hậu Nam Phương vừa tậu sẵn một đồn điền trồng chè ở Blao nằm trên quốc lộ 20 đường Đà Lạt – Sài Gòn. Ở đó ông lại sẵn có hai chiếc xe cam-nhông còn khá mới: - “Ông nói sẽ cho tôi (Phạm Khắc Hòe) thuê một chiếc để tôi đóng lại làm nghề chạy xe đò sinh sống, vì trước kia trong những năm 1927 – 1928 tôi cũng đã từng làm giám đốc một xí nghiệp chạy xe đò và sửa chữa ô-tô tại Quy Nhơn. Còn nghề săn bắn của Bảo Đại thì không những ngày nào ông ta cũng sẽ có thịt gà rừng, heo rừng, nai, thỏ v.v… để ăn và đem ra chợ bán, mà ít ra mỗi tháng còn có thể kiếm được vài con hổ nữa…”. Nhắc đến hổ, ông Phạm Khắc Hòe kể thêm trong hồi ký : Nếu Bảo Đại săn được hổ thì da hổ, thịt hổ, răng hổ, móng chân hổ đều là những món hàng hái ra tiền cả. Nhất là xương hổ Bảo Đại sẽ giao cho ông Hòe để “cho tôi nấu cao hổ cốt bán chia lời” (vì gia đình ông Hòe sành nghề nấu cao hổ nổi tiếng thời ấy mà thành phẩm của họ được dùng để chữa nhiều bệnh). Bao nhiêu chuyện đời nói như đùa nhưng “đều có cơ sở thực tế khiến Bảo Đại rất vui trong khi một không khí buồn tẻ lạnh lùng bao trùm lên cả Đại Nội” trước ngày thoái vị.
Dinh Bảo Đại Nhưng chỉ là “giấc mơ thôi”. Vì rời ngai vàng song cựu hoàng vẫn là đối tượng tranh thủ của người Pháp, của các chính khách trên chính trường đương thời, trong đó có hai nhân vật “cự phách” là Lưu Đức Trung và Lưu Bá Đạt tung tiền bao bọc để cựu hoàng sống với người đẹp Hoàng Tiểu Lan (người Hoa lai Pháp với tên: Jenny Woong) tại Hương Cảng với giá 15 đô la ở khách sạn mỗi ngày, thêm món tiền khác để cựu hoàng ném vào các sòng bạc, hoặc đến vũ trường với Lan. Giới tai mắt nhận định những món tiền không nhỏ kia do trùm mật thám Pháp Cousseau đứng sau lưng chi trả. Mục đích của Cousseau nhằm giữ cựu hoàng trong tay để dùng khi cần thiết. Dịp tốt đã đến, Cousseau đóng vai trò không nhỏ trong việc khôn khéo tác động để có cuộc gặp mặt chính thức giữa cựu hoàng và Tổng thống Pháp Vincent Auriol vào giờ ngọ 8.3.1949 tại điện Elysée của thủ đô Paris. Tiếp sau là một loạt sự kiện dẫn đến việc Pháp đưa cựu hoàng về nước với tư cách Quốc trưởng và thành lập Hoàng triều cương thổ “gồm những vùng cao nguyên có các sắc dân thiểu số từ Trung ra Bắc, là xứ bảo hộ cũ, mệnh danh là Hoàng triều cương thổ, để riêng cho con cháu nhà Nguyễn, xứ Thái Lai Châu và miền Tây Kỳ là đất dành cho Cựu hoàng. Thủ đô của Hoàng triều cương thổ là Đà Lạt và bất cứ ai đặt chân tới lãnh thổ này, kể cả dân Việt Nam đều phải xin phép của Nha Công an Hoàng triều cương thổ thuộc văn phòng Quốc trưởng ở Hà Nội và Sài Gòn, đặt dưới quyền cố vấn của Công an Pháp. Đà Lạt trở thành một kinh đô của những kẻ giàu sang quyền quý, ăn chơi. Phòng trà, tiệm nhảy, nhà ngủ, sòng bạc, đua nhau mọc lên. Cảnh rừng đồi thơ mộng cao nguyên với thông xanh, hoa anh đào đỏ ửng, biến ra làm nơi hò hẹn của những chính khách, bộ trưởng tương lai, hí trường mua chức bán tước hồi toàn thịnh của Bảo Đại. Cựu hoàng đã phải thốt lên: Tôi cần có một chục ngàn ghế bộ trưởng mới đủ ban cho bao nhiêu người tỏ dạ trung thành” (5).
Bà Mộng Điệp ( áo đen bên phải) và cựu hoàng Bảo Đại Từ Đà Lạt, cựu hoàng mở những bữa tiệc linh đình, những cuộc đi săn cọp trên lưng voi, những buổi đi câu cá có người Thượng xua mồi, có ngự lâm quân đi trước, có những người đẹp làm chiêu đãi viên dâng rượu thịt. Những lúc cao hứng, cựu hoàng tự mình lái xe jeep từ Buôn mê thuột băng rừng về Đà Lạt giữa đêm khuya. Nhưng nơi mà cựu hoàng thích lui tới vào ban đêm nhất là biệt thự Myrba của vũ nữ Mộng Điệp. Được cựu hoàng quyến luyến, Mộng Điệp tự xem mình như là đệ nhất phu nhân ở thủ đô Hoàng triều cương thổ (…) vào ngay văn phòng Quốc trưởng gọi đích danh viên bí thư và đại úy Nguyễn Chánh võ phòng ra mà chửi mắng: “Chém cha đồ khốn nạn! Chúng bây có biết vì ai mà chúng bây có cơm ăn, có áo khoác vào người, có biệt thự để ở, có xe hơi để đi không? Chúng bây không biết ơn thì chớ, chúng bây lại lên mặt với anh bà! Để rồi Bà tống cổ chúng bây ra khỏi đây cho biết tay bà!. Mộng Điệp một tay chống nạnh, một tay xỉa xói vào mặt hai nhân viên cao cấp văn phòng Quốc trưởng đang cúi gầm, im lặng chịu đựng cơn thịnh nộ của “cục cưng” cựu hoàng”. Ở Đà Lạt, cựu hoàng biến biệt điện của mình “trở thành một thứ A Phòng cung tân thời, với các mỹ nữ đủ màu da, Bảo Đại nghiễm nhiên sống trong thế giới khoái lạc của một hoàng đế giữa bao nhiêu cung nữ một thời. (…)Thủ hiến Trung phần Phan Văn Giáo đứng ra phụ trách công việc cung cấp gái cho cựu hoàng, đưa các thiếu nữ Trung Hoa từ Hồng Kông đến, các cô gái Huế từ đất cựu đế đô lên, các cô đầm từ Paris qua … và nhiều người đẹp khắp các phương trời” (6). Cựu hoàng dành biệt thự khang trang trên cảnh đồi thơ mộng ở Ban Mê Thuột cho người đẹp Mộng Điệp ở – rồi dành riêng một chuyến máy bay thời ấy để chở 2000 con vịt trắng phau
chọn mua ở Chợ Lớn đưa về thả từng đôi từng đôi trên mặt hồ trước biệt thự ấy cho thêm phần lãng mạn… Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 24: Đất Phương Nam & Chuyện hai cự phú Sài Gòn
Từ năm vua Gia Long lên ngôi (1802) đến Bảo Đại thoái vị (1945) tính ra nhà Nguyễn tồn tại 143 năm và đã gắn bó với vùng đất phương Nam sâu đậm hơn hẳn các triều đại trước đó – cả về phương diện nghiên cứu những đặc điểm địa lý lẫn việc ứng dụng phong thủy khi xây thành đắp lũy ở vùng này…
“Núi này là xương của đất, nước là máu của đất” – xương máu hòa nhịp tương thông làm nên đất đai phương Nam, sinh ra anh hùng hào kiệt, trung thần liệt nữ, danh sơn thắng địa, ngọc ngà cùng kỳ hoa dị thảo và linh vật trời Nam. Cách nhìn “sơn thủy” với tấm lòng trân quý thiết tha trên được ghi trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức là “tác phẩm nổi tiếng đương thời và đến nay vẫn còn nguyên giá trị”, biên soạn thời vua Gia Long. Hai chữ “Gia Định” trong Gia định thành thông chí dùng chỉ chung cả Nam Bộ, được định vị: “thuộc về quẻ Ly (…) hỏa thịnh nên kim suy – cuối mùa thu còn nóng, khí kim không thể đọng lại thành giọt được”. Và “Gia Định về phương Ly, âm ít dương nhiều (…)thường có nhiều mây đỏ đều do khí Hỏa ở phương Ly phát ra – lại tự có mây trong đất bốc lên, cơn đen
mù mịt (…) ẩn hiện thấy như hình đầu rồng, đuôi rồng, gió cuộn nước duềnh… từ dưới lên, bỗng mưa lai láng, tục gọi là: rồng lấy nước” (1). Những ngọn núi huyền bí Núi Thần Quy với đỉnh nhọn nổi vọt lên cao vút, rồi tỏa xuống giăng ra một mạch núi chạy dài tới biển. Núi này nằm cách trấn lỵ Biên Hòa 445 dặm về phía tây, ở vị trí phong thủy thuộc Hợi long (có nghĩa: long mạch ở về ngôi Hợi, tức là góc phương tây bắc – Đào Duy Anh giải thích). Đầu nguồn của núi này có một khối đá lớn chặn ngang dòng suối đang tuôn ra – hình dạng trông như một con rùa với chân tròn và cái đầu to có thể thay đổi xê dịch hướng nhìn. Hễ năm nào đầu rùa quay về phía tây (ngược với dòng suối chảy) mực nước năm ấy sẽ ở mức bình thường, nhu hòa. Nhưng nếu nó nhìn về hướng đông (thuận theo dòng suối) năm ấy nước lũ sẽ dâng cao, có lụt lớn. Vì thế hàng năm dân chúng quanh vùng để ý quan sát xem rùa đá nhìn về hướng nào sẽ theo đó đoán biết mức lũ lụt cao hoặc thấp để lo liệu phòng bị trước. Do những dự báo linh nghiệm của “khối đá rùa” nên người ta lấy đó đặt tên núi là Thần Quy. Đến thời Tự Đức, Đại Nam nhất thống chí cũng chép núi Thần Quy nằm ở cực giới phía tây tỉnh Biên Hòa nối với sơn mạch từ “Tổ sơn phía chính bắc kéo đến” (2). Cao Trung giải thích Tổ sơn là nơi xuất phát của long mạch – và khi long mạch từ xa chạy tới một vùng nào muốn làm đất kết thì nổi lên một ngọn khác thường, cũng được gọi Tổ sơn, nhưng đó chỉ là “Tổ tôn sơn của một khu chứ không phải là thủy tổ của các ngôi đất kết trong toàn vùng (…) ví dụ như núi Gia Rai ở Long Khánh” (3). Trên Tổ sơn là Thái tổ sơn và “Thái tổ sơn của tất cả các cuộc đất trên thế giới là núi Hy Mã Lạp Sơn – Hymalaya” (4). Còn núi Thần Quy là “Thái tổ sơn của một phương” (5). Núi phương Nam từ cực giới phía Tây tỉnh Biên Hòa xưa lớp lớp kéo dài thành những dãy trùng điệp. Có ngọn “làm án viễn triều” cho thành Gia Định (Mỗi Xoài). Có ngọn như rồng xanh uốn lượn ven biển, để cuối núi “làm bình phong cửa Cần Giờ từ ngoài xa” (Ghềnh Rái). Có ngọn đứng từ thành Gia Định thấy “như hạt ngọc đang phô bày vẻ đẹp” (Bà Vãi). Có ngọn xây chùa ẩn hiện với “động đá và giếng đá”(Chứa Chan)… Lại có ngọn nổi tiếng như núi Bà Đen với hồ lớn, tục truyền xưa kia người ta thấy từ dưới hồ có chiêng vàng và khánh vàng nổi lên mặt nước và hai cự phú Sài Gòn, hoặc những đêm trời trăng mây tạnh chợt thấy thuyền rồng hiện ra trên hồ với bóng người xiêm y lã lướt đang múa hát theo dòng “đó là vì khí thiêng chung đúc, không phải là quái gở đâu” (6).
Dãy Thất Sơn huyền bí giữa đồng bằng An Giang Xa hơn về phía Nam có dãy Thất Sơn huyền bí gồm những ngọn núi nổi lên giữa đồng bằng An Giang, còn lưu truyền nhiều câu chuyện kỳ bí về vị giáo chủ Bửu Sơn Kỳ Hương là Phật Thầy Tây An chữa bệnh cứu người và giải trừ những mưu hại phong thủy cho vùng này. Ngài phái các vị trong 12 đại đệ tử của mình (thập nhị hiền thủ) đến những nơi bị “ếm” để hóa giải, lớn tuổi nhất là Đức Quản cơ Trần Văn Thành được giao“đi cắm 4 thẻ quanh vùng núi Thất Sơn theo hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và một thẻ (ở vị trí) trung ương”. Về hướng bờ sông Vĩnh Tế, ngài giao La Hồng tiên sinh đi “lấy (hủy trừ) một lá ếm (yểm) của người Tàu tại Bãi Bài (…) vì tục truyền đó là vì người Tàu đã bí mật trấn ếm long mạch của Việt Nam” (Lê Hồng Quang, Thân thế sự nghiệp Phật Thầy Tây An – tài liệu nghiên cứu Kim Cổ Kỳ Quan, xuất bản số 123-TTT/PK1 Sài Gòn 1957). Và sau này “đức Bổn sư ở núi Tượng (tức ngài Ngô Lợi) cũng lấy một lá “ếm” của người Tàu tại Núi Nước (Thủy Đài sơn) ở xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn” (Tài liệu đã dẫn). Phật Thầy Tây An là vị giáo chủ yêu nước và đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do ngài sáng lập là “đạo Phật Việt Nam, đạo của người Việt Nam”, được xem là “tông phái mở đầu phong trào tôn giáo cứu thế bản địa ở miền Nam với giáo thuyết tứ ân, lấy ân đất nước làm trọng – xưa gọi ân quốc vương thủy thổ” (Nguyễn Hữu Hiệp). Tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đứng lên chống Pháp với cuộc khởi nghĩa vang dội của Quản cơ Trần Văn Thành ở rừng Bãi Thưa. Hoặc những hoạt động yêu nước chống thực dân của Đức Bổn sư Ngô Lợi ở núi Tượng đã tiếp tục giữ gìn và bồi đắp hồn thiêng của thắng địa Thất Sơn…
Tượng Phật Di Lặc trên núi Cấm, An Giang Chuyện hai cự phú và vùng đất “đại cát” ở Sài Gòn Cuối triều Nguyễn, hồi Pháp đã qua mở cửa làm ăn rộn rịp, hai cự phú Sài Gòn có đại phú gia Quách Đàm dám đứng ra mua đứt nhà máy đường Hiệp Hòa của Pháp đang hồi thua lỗ để mong vực nó dậy khỏi cơn nguy ngập như một “hiệp sĩ” kinh tế. Ông còn mua tàu thủy để chở khách đường biển, cạnh tranh cả với các chủ hãng vận tải người Âu, lại mở rộng kinh doanh đủ mặt hàng mà “đụng đâu thắng đó”, trở thành một trong các đại gia đáng nể trên thương trường Đông Dương, được chính phủ Pháp trao tặng Bắc đẩu bội tinh đệ ngũ đẳng, danh tiếng vang khắp Nam Kỳ. Tất cả thành đạt với hào quang ấy được Quách Đàm khởi nghiệp từ hai giỏ tre trên vai, thường ngày đi mua ve chai trên đường phố. Dành dụm khá lên một chút, Quách Đàm chuyển sang buôn da trâu bò, mua bán vi cá, bong bóng cá và tìm đến một ông thầy địa lý có danh ở đất Sài Gòn- Gia Định để xin chỉ cho mình nơi đặt cửa hiệu có thế phong thủy đại cát. Thầy chỉ cho Quách Đàm một cuộc đất nằm bên con kênh thông nước ở Quai de Gaudot vùng Chợ Lớn. Sau này con kênh trên bị lấp để làm đường Khổng Tử (nay là đường Hải Thượng Lãn Ông quận 5, TP. HCM – còn đường Khổng Tử hiện ở làng đại học Thủ Đức). Quách Đàm nghe theo, dựng cửa hiệu nhà buôn Thông Hiệp của mình ở đó, về sau công việc làm ăn phát đạt hẳn lên, tiến đến nhập khẩu đường cát và xuất khẩu lúa gạo ra nước ngoài, giàu sụ khá nhanh, ứng với “cái mộng phong thủy đầu rồng” do thầy địa lý chỉ bảo. Chuyện này cụ Vương Hồng Sển kể trong Sài Gòn năm xưa đại ý:
Tượng Quách Đàm trong chợ Bình Tây, Q5 Khi đến thời cực thịnh, Quách Đàm được cả “Thống đốc Nam Kỳ Cognacq, làm cao không ai có, thế mà cũng hạ mình cầu thân với Đàm”. Được thời, ông phóng tay kinh doanh địa ốc, cất chợ Bình Tây và “đứng bảo lãnh (avaliser) cho con nợ nhà băng Đông Dương ngân hàng” để chỉ nằm “hút nha phiến đêm ngày đèn không tắt” mà tiền hoa hồng từ bên ngoài đưa vào xài không hết. Nhưng dứt thịnh thì tới suy, gặp giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới, Quách Đàm bị ảnh hưởng nặng bởi phố xá không ai thuê và nợ vay ngân hàng chồng chất dẫn đến nguy cơ phá sản. Nhưng ông không đổ lỗi cho thầy địa lý, vì ông nghiệm lời thầy nói đúng, mà “chỉ căm thù ai kia đã lấp con kinh trước nhà làm hư phong thủy. Đàm đinh ninh tin tưởng vào lời thầy địa lý năm xưa, dạy rằng chỗ Đàm đóng đô là “đầu một con rồng”, khúc đuôi rồng nằm tại biển cả ! Dặn coi chừng đừng cho lấp kinh, tức lấp mạch rồng, và nếu một mai mạch rồng khô cạn, nguy cơ cho cơ nghiệp họ Quách”. Ngày Quách Đàm chết đám ma cực lớn với đủ thứ nhạc Tây, nhạc Tàu, nhạc Ta và nhạc Miên nữa, khách đi đường “miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa, hay la ve và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy “ngẫu” (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón”. Cụ Vương kết luận, là một phú gia giàu sang bậc ấy thế mà lúc cụ đến gần chùa Giác Lâm trong Chợ Lớn hồi viết cuốn Sài Gòn năm xưa thấy “một bầy bò sữa đứng ăn cỏ trên một ngôi mộ có vẻ hùng tráng nhưng trơ trọi điêu tàn. Cạnh bên là một đám ruộng khô chứa một đống rác to bằng đống lúa chưa vô bồ, ruồi muỗi lằn xanh bay vù vù như một đám nhạc hỗn độn. Địa thế “hữu bạch hổ” không còn, “tả thanh long” và ruộng nọ đang lấp, còn chăng là bầy bò nhơi cỏ gần đống rác và mớ ruồi lằn, ấy là hiện trạng ngày nay của mộ phần “phong thủy” ông Thông Hiệp”.
Một trường hợp khác về đất đại cát vùng hai cự phú Sài Gòn do nhà văn Sơn Nam ghi nhận, là vùng địa đạo Phú Thọ Hòa, nay thuộc quận Tân Phú, ngày trước vùng đất này khá cao ráo “được xem là tốt về phong thủy” nên tay cự phú Lý Tường Quang (tức Bá hộ Xường) chọn làm nơi chôn cất “trước mộ tạc hai tượng đá (gia nhân cầm ấn, nữ tỳ dâng chén trà)”. Bá hộ Xường là một trong bốn nhà giàu gộc: “nhứt Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định” – xuất thân từ nghề thông ngôn rồi chuyển hướng lãnh thầu và lần hồi trở thành cự phú. Bá hộ Xường cũng chọn thế đất tốt để cất dãy nhà 5 căn trên đường Khổng Tử theo kiểu xưa pha kiến trúc mới và cũng lại nằm quay mặt ra con kênh có đường nước chảy qua hợp thế phong thủy. Những cự phú chọn đất dựng cơ ngơi và lập mộ là thế. Còn thường dân ở cùng trời cuối đất của phương Nam thì khác, bởi theo Sơn Nam đất phù sa có ranh giới mơ hồ giữa bờ và biển nên khó phân biệt đâu là đất, đâu là nước, vì vậy “không có (lựa chọn đất) phong thủy vì thiếu gò nổng, núi cao (…) chết mà được chôn ở bờ đất khô ráo, nấm mộ lè tè nhô lên vào mùa mưa là có phước rồi”. Được vậy “còn hơn phía khu Tứ Giác bao la trời biển (…) nhà chòi ngập nước rủi chết thì bó chiếu mà chôn, dằn thêm cái cối xay, cối đá cho xác đừng trôi nổi”. Hoặc đóng đỡ “4 cây cọc như chữ X, gọi “giá tréo” để treo xác người chết nhô lên mặt nước, diều quạ kêu ỏm tỏi, lượn lên đáp xuống, trông thảm thương” (7). Vậy ở vùng đất “biên địa” như trên tuyệt đối không thể ứng dụng phong thủy hay sao? Chúng tôi sẽ chuyển câu trả lời của các nhà nghiên cứu đến bạn đọc trong những kỳ sau. Quách Đàm có nguy cơ phá sản, nhưng ông không đổ lỗi cho thầy địa lý, vì ông nghiệm lời thầy nói đúng, mà “chỉ căm thù ai kia đã lấp con kinh trước nhà làm hư phong thủy. Thầy địa lý năm xưa dạy rằng chỗ Đàm đóng đô là “đầu một con rồng”, khúc đuôi rồng nằm tại biển cả ! Dặn coi chừng đừng cho lấp kinh, tức lấp mạch rồng, và nếu một mai mạch rồng khô cạn, nguy cơ cho cơ nghiệp họ Quách”. (1) Và (6) Xem Gia Định thành thông chí (trấn Biên Hòa). Đỗ Mộng Khương và Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Viện Sử học xuất bản, Hà Nội 1964. Bản dịch khác của Nguyễn Tạo, Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn 1972. (2) và (5) Đại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB KHXH 1970-1971. (3) và (4): Tả Ao địa lý toàn thư, NXB Văn hóa Sài Gòn 2008. (7) Sơn Nam – Sài Gòn xưa, Ấn tượng 300 năm và Tiếp cận với đồng bằng sông Cửu Long, NXB Trẻ 2008, trang 349. Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Nguyên Trương, Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 25: Từ thành Bát Quái đến ma trận Đại Thế Giới
Sài Gòn ngày trước từng tồn tại một tòa thành bát quái đồ sộ (thành Quy) được xây trên một gò đất cao khá rộng ở thôn Tân Khai cũ, nay thuộc khu vực trung tâm TP.HCM khoảng gần dinh Độc Lập, hồ Con Rùa xuống sát chợ Bến Thành, vòng lên Thảo Cầm Viên và vùng kề cận…
Sài Gòn – Miền đất hưng long… Thành này do Nguyễn Ánh ra lệnh xây năm 1790 – sau 15 năm bôn ba và quần nhau với quân Tây Sơn để giành đi giật lại Sài Gòn. Trong những năm đó, ông đã 4 lần bị Nguyễn Huệ đánh bật ra khỏi mảnh đất này. Lần thứ nhất vào năm 1777, Nguyễn Huệ đuổi bắt giết chết Thái-thượng-vương và Tân-chính-vương, Nguyễn Ánh chạy thoát. Lần thứ hai năm 1782, Tây Sơn kéo hơn 100 chiến thuyền chiếm cửa Cần Giờ, Nguyễn Ánh phải bỏ Sài Gòn chạy về đất Ba Giồng (Tiền Giang) rồi ra lánh ở đảo Phú Quốc. Trận này, tướng Phạm Ngạn của Tây Sơn rơi vào ổ phục kích do cánh quân Hòa Nghĩa của người Hoa vây đánh và bị giết chết ở cầu Tham Lương. Nguyễn Nhạc tức giận ra lệnh tàn sát hơn một vạn người Hoa, quăng xác xuống sông: “số binh sĩ và thường dân Tàu bị chết đâm, chết lụi kể con số muôn, thậm chí thây ma lớp nằm chật đất, ngổn ngang từ vàm Bến Nghé đến tận kinh Chợ Lớn, lớp khác bị chuồi xuống nước (…) lềnh một khúc sông, làm cho ngót ba bốn tháng trường dân gian nghe nhắc mà ớn xương sống không dám rờ đến miếng thịt tôm, thịt cá!” (1)
Sơ đồ thành Bái Quái Lần thứ ba và thứ tư (1783 và 1785), Nguyễn Ánh bị đuổi chạy ra tận các đảo nhỏ heo hút ngoài vịnh Thái Lan. Nhưng cuối cùng, ông cũng đã quay lại được bờ Nam, tái chiếm đất Sài Gòn xưa – nơi ông chính thức xưng vương từ năm 1780 (lúc mới 18 tuổi) – và đôn đốc xây tòa thành kiên cố đầu tiên của mình trên đất phương Nam với hình hoa sen 8 cạnh, mở ra 8 cửa, tương ứng với 8 quẻ (bát quái) trong dịch lý phương Đông nên gọi: Từ thành Bát Quái. Gia Định thành thông chí chép, thành này có 8 con đường ngang dọc từ đông sang tây dài 131 trượng 2 thước (khoảng 648m), từ Nam đến Bắc cũng có chiều dài giống như thế. Về bề cao là 13 thước (6,3m), dưới chân phình ra 7 trượng 5 thước (36,5m). Bảo vệ quanh thành Bát Quái là hệ thống hào lũy dài 794 trượng (3820m). Nhìn bao quát cả tòa thành Từ thành Bát Quái hiện lên trên đất Sài Gòn xưa “kiên cố và tráng lệ” như Trịnh Hoài Đức mô tả thời đó. Ngày nay “vị trí thành Quy nằm giữa 4 đường mang tên Đinh Tiên Hoàng (Đông), Nam Kỳ khởi nghĩa (Tây), Lê Thánh Tôn (Nam), Nguyễn Đình Chiểu (Bắc). Mặt tiền thành Quy hướng về phía Đông Nam. thành do Nguyễn Ánh chỉ đạo xây dựng khi thấy có thể đứng vững lâu dài trên đất Gia Định làm bàn đạp tiến ra Trung, Bắc đánh bại Tây Sơn. Hai kỹ sư Pháp là Théodore Lebrun và Olivier de Puymanel cùng Trần Văn Học thiết kế và đôn đốc thi công xây dựng thành Quy theo kiểu Vauban –nguyên soái Pháp, tác giả nhiều thành lũy Pháp cuối thế kỷ XVII – (…) như vậy là Dịch kinh phương Đông kết hợp với kỹ thuật quân sự phương Tây nhằm cố ý đem lại uy vũ cho Nguyễn Ánh đối với nhân dân Gia Định lúc bấy giờ (…) trong thành, xẻ 4 đường ngang dọc, trung tâm là đền vua (vị trí ngã tư đường Lê Duẩn và
Hai Bà Trưng ngày nay), phía sau và hai bên đền vua là các cung điện, dinh thự, thái miếu.,.. xây dựng với gỗ quý, ngói tốt vùng Gia Định” (2). Bọc quanh thành còn có các đường hào rộng 15 trượng 2 thước (648m), sâu 14 thước (6,8m) có cầu bắc ngang để đi, đã được một tác giả người Mỹ là John White đến Sài Gòn năm 1819 viết đến rất cụ thể: “vòng thành là hào sâu và trong các thôn xóm khi qua lại phải dùng một chiếc cầu khỉ”. Chi tiết ấy cũng được Thái Văn Kiểm nêu ra trong cuốn Đất Việt trời Nam trích đoạn của John White: “vượt hào vào thành, thấy nơi đây là một chiến lũy đồ sộ và tường cao chừng 7 thước vây quanh một khoảng đất rộng 5 cây số, mỗi bề 1.200m, đó là dinh thự của ông Tổng trấn và các võ quan cao cấp, doanh trại có thể chứa được chừng 5 vạn lính (…) phía cửa Tây là nghĩa địa các quan theo kiểu Tàu, bia đá dựng làm mộ khắc chạm một cách thô sơ (…) về phía Bắc của thành là một nghĩa địa rộng lớn có nhiều mồ mả”. John White kể những điều thấy được phía ngoài Từ thành Bát Quái liên quan đến niềm tin phong thủy của dân Sài Gòn xưa: “Phía Tây tỉnh thành Gia Định, có một vùng mộ địa, mả đất xen với lăng vôi; tuy không có quy mô, thiếu vẻ mỹ thuật, lại vì dân tin theo địa lý, xác người chôn theo phương hướng, nên không thẳng lối ngay hàng: song có tính cách bình dân bất phân giai cấp” (3) Thành Bát Quái còn gọi thành Quy vì có hình dạng giống con Rùa, được xây trên thế đất phong thủy như dạng “gối đầu rồng” nằm chủ yếu trên phần đất quận 1, TP. HCM, với mặt bằng bọc từ phía hồ Con Rùa và dinh Độc Lập chạy ra gần bờ sông khoảng đường Lê Thánh Tôn ôm lên khu vực Thảo Cầm Viên hiện nay, mà: “ở lối đường Mạc Đỉnh Chi và Trần Cao Vân (Massiges và Larclauze cũ), khoảng 1924 – 1925 là nơi đất trống (…) đêm đêm thường nghe nhiều tiếng hú lạ lùng (…) từng rởn ốc những đêm mưa dai gió rít, nặng nề những oan hồn ma lạnh hào thành xưa” (4)
Dinh Độc Lập nằm trong phạm vi thành Bát Quái xưa Sở dĩ có “oan hồn ma lạnh” như cụ Vương viết là do những trận đánh máu lửa giằng co suốt 3 năm giữa quân triều đình vây chặt bên ngoài với quân tử thủ của Lê Văn Khôi trong thành Quy. Nguyên sau ngày Nguyễn Ánh (vua Gia Long) mất, mâu thuẫn trong nội tình của những vị “khai quốc công thần” như tổng trấn Lê Văn Duyệt với các đại thần đương thời đã bùng nổ dưới thời Minh Mạng. Và cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi quyết liệt nhất. Khi Khôi chết vì bệnh và Từ thành Bát Quái bị hạ (tháng 7.1835) dẫn đến cuộc trừng phạt khắc nghiệt: “Mặc dầu Khôi chết rồi cũng bị quật mồ lên lấy thủ cấp bỏ vô củi đem về Kinh bêu ngoài chợ 3 ngày rồi nghiền xương đổ xuống sông. Còn vợ con của Khôi và vợ con các tướng nghịch đều bị chém rồi cắt tai đem về triều. Theo sử chép thì trong vụ này, quân giặc và vợ con bị giết tại trận hết 554 người, còn bị bắt hết cả là 1.278 người. Trừ 6 người bị giải về Kinh, còn bao nhiêu bị chém cả rồi kéo thây đổ xuống một cái hầm to, dập đất lại, tục kêu là mả Ngụy (ở Plaine des Tombeaux) trên có dựng bia đề rằng: “nghịch tặc biền tru xử”. Mả Ngụy ở gần trường đua cũ, làng Chí Hòa, tại góc đường Thuận Kiều, kêu là đường Verdun (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), và đường Général Lizé (nay là đường 3/2). Đến mấy năm sau mà đất ở đó vẫn còn sình lên sụp xuống. Nấm mồ nay trài ra bằng mặt đất” (5). Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược viết: “ông J.Silvestre chép truyện Lê Văn Khôi khởi loạn ở Gia Định nói rằng trong 6 người thủ phạm phải đóng cũi giải về Huế, có một ông linh mục người nước Pháp tên là Marchand (bấy giờ gọi là cố Du), một người khách tên là Mạch Tấn Giai và một đứa con của Khôi, mới lên 7 tuổi (…). Đến khi về đến Huế thì ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng trì. Thiết tưởng dẫu thế nào mặc lòng, đem một đứa con vô tội và hai người ngoại quốc ra làm cái tội thảm hình ấy, thì thật gớm ghê quá. Tục Á Đông ta trước hay dùng những nhục hình như là tội lăng trì (tùng xẻo), tội ngựa xé, tội voi dày… thì thật là dã man vô cùng, ngày nay ai nghĩ đến cũng phải ghê mình”. Như vậy, thành Bát Quái tồn tại được 45 năm (1790 – 1835) đánh dấu sự hưng long của nhà Nguyễn trên đất Sài Gòn xưa. Sài Gòn với sòng bạc Đại Thế Giới Sài Gòn xuất hiện sòng bạc Đại Thế Giới vào cuối đời Nguyễn, vô hình chung trở thành hình ảnh tương phản đầy nghiệt ngã so với quá khứ vang bóng của thành Quy vào thời kỳ khởi nghiệp của triều đại này. Đó là nơi diễn ra những canh bạc nhà giàu mà Phó thủ tướng Nam kỳ quy định: “chỉ những người chịu thua 100.000 đồng trở lên vào mỗi đêm mới được cho phép ngồi vào sòng bạc này” (giá mỗi chuyến xe từ Rạch Giá lên Cần Thơ thời ấy chỉ có một đồng hai mỗi người khách).
Sòng bạc Đại Thế Giới ngày trước Sòng bạc này lớn nhất Đông Dương do hai người Hoa là Mạnh Xường ở Campuchia và Mạc Xây Cầu ở Sóc Trăng hợp tác lập nên và bắt đầu hoạt động từ năm 1937 với sự bảo trợ của Cao ủy Pháp ở Đông Dương trong thời kỳ đầu. Đến năm 1950, cựu hoàng Bảo Đại hồi hương với tư cách Quốc trưởng đã từ thủ phủ Đà Lạt xuống Sài Gòn lui tới sòng bạc này. Lúc đó tướng Bình Xuyên là Bảy Viễn rời hàng ngũ kháng chiến về đầu hàng Pháp đã được giao quản lý trung tâm cờ bạc, hút sách, mại dâm công khai này. Theo tài liệu để lại, Đại thế giới có một khoảng đất rộng hơn 30.000m2 (nằm tại địa điểm của Nhà văn hóa Q.5 TP.HCM, số 105 Trần Hưng Đạo B hiện nay). Hằng đêm khoảng 9 – 10g tối đã có hàng ngàn người tụ về sát phạt nhau quanh hàng trăm sòng bạc của Đại thế giới với đủ loại: sòng đánh ru-lót, đánh me, đánh ba quan, đông nhất là những bàn đánh tài xỉu đặt trong những nhà căng bạt giữa trời.
Tướng Bảy Viễn Càng về khuya, sòng bạc Đại thế giới càng rộn ràng bởi tiếng cười, tiếng hát từ các phòng ẩm thực đặc sản, các phòng rượu sang trọng, các phòng hút thuốc phiện công khai… tạo thành một âm thanh quái đản, bên cạnh mùi nước hoa và khói thuốc quyến rũ. Quanh sòng bạc các nhân viên đặc vụ đi đi lại lại với súng ngắn giấu trong người sẵn sàng nhã đạn vào bất cứ ai cản trở cuộc chơi. Khi được báo động, trạm cảnh sát đặc biệt của Đại thế giới sẽ phát lệnh cho những tay súng chuyên nghiệp lập lại trật tự. Khi cần thiết, trạm phát điện riêng của Đại
thế giới sẽ hoạt động để bảo đảm nguồn điện sáng suốt đêm. Nếu đôi vợ chồng nào đó muốn vui chơi thoải mái trên sòng bạc sẽ có thể gởi các cháu bé của mình vào một khu vực riêng.
Vị trí của sòng bạc ngày trước, nay là Trung Tâm Văn Hóa Quận 5 Nhân sự xuất hiện và bị triệt hạ của thành Bát Quái với sự kiện: đời trước xây (Gia Long), đời sau đập bỏ (Minh Mạng), gọi là: Gia Định phế thành – cũng như việc mở khu ăn chơi Đại Thế Giới về hướng Tây của thành này trong thời kỳ suy sụp của nhà Nguyễn, cụ Đỗ Đình Truật đã nhận định trong một báo cáo khoa học: “Ngô Nhân Tịnh từng cho đất Gia Định là đất của trăm lộc, trù phú, nhưng nó chỉ giúp ta phồn vinh một thuở mà thôi, xem ra không lâu bền như vùng đất Thuận Quảng của Hoàng Tổ (chỉ Nguyễn Hoàng lập cơ nghiệp ngoài Trung). Đất Gia Định chưa bao giờ giữ ngôi hoàng đế được lâu, xem ra từ các vua chúa Chân Lạp đến nay thì rõ. Vì vùng đất Gia Định là “khuyết Kim”nên không thịnh cho vua chúa, mà chỉ thịnh về kinh tế, giàu có mà thôi”. Tuy vậy, Sài Gòn – Gia Định nhìn chung, nhất là đất Đồng Nai về mặt phong thủy mà xét, là đất “Rồng còn nằm dưới đất (sẽ bay lên) và Phụng còn ấp trứng trên cây (về sau sẽ nở)”… Chú thích: (1) và (4): Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn 1961. (2): Nguyễn Hữu Thái – Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng chủ biên, NXB TP. HCM 1989. (3): Ưng Trình, Việt Nam ngoại giao sử cận đại, Văn Đàn xuất bản, Sài Gòn 1970. (5): Đào Văn Hội, Nam Kỳ danh nhân, nhà in Lý Công Quan 1943.
Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Nguyên Trương , Tư liệu
Bài 26: Lăng Ông Lê Văn Duyệt và vụ án Huỳnh Công Lý
Lăng Ông Lê Văn Duyệt không chỉ nằm trên khu đất tốt về phong thủy của vùng Gia Định xưa mà còn ghi dấu và nhắc nhớ những sự kiện bi tráng một thời trong lịch sử 315 năm hình thành và phát triển của Sài Gòn – TP. HCM (1698 – 2013)…
Mộ Lê Văn Duyệt: “Tiên tích đức, hậu tầm long”… Mộ Tả quân Lê Văn Duyệt gối đầu lên một gò cao có thế đất chạy thoai thoải từ hướng Bắc xuôi về phía Nam đến giáp cầu Bông (Q.Bình Thạnh) hiện nay. Thời ngôi mộ mới được lập cách đây hơn 180 năm (vào 1832), đó là gò đất “hình lưng Rùa” vắng vẻ thuộc làng Bình Hòa, tỉnh Gia Định, mà “theo khoa địa lý phương Đông, thuật phong thủy, đây là vị thế nằm ngay “long mạch” hợp với địa linh nhân kiệt, tài lộc đời đời và sẽ có ảnh hưởng tốt cho sự an lạc của cư dân trong vùng” (Một số cơ sở tín ngưỡng dân gian, nhiều tác giả, Sở VHTT TP. HCM ấn hành 2001). Nhiều tài liệu khác cũng ghi nhận cuộc đất trên với địa thế phong thủy tương tự, chẳng hạn Sơn Nam gọi: gò Kim Quy – nơi hội tụ tinh khí.
Ngày nay, chúng ta có thể tìm hiểu những điều nêu trên theo cách giải thích mới hơn về “long mạch”. Đại để long mạch là luồng “địa khí” (năng lượng trong lòng đất) có thể chạy ngầm từ xa đến và tụ lại để trào lên ở một nơi nào đó. Nơi ấy những nhà ứng dụng thuật phong thủy cần có những động thái chuyên môn để xác định. Trước hết họ phải dò “dấu vết và đường đi của địa long (long mạch)”, sau đó tìm “điểm ngưng tụ năng lượng” thường được gọi là chỗ “đầu rồng” để xây lăng mộ như trường hợp Lăng Ông Lê Văn Duyệt chẳng hạn. Và nếu gọi năng lượng của địa khí bằng hình tượng “rồng” thì “nơi địa khí ngưng lại sẽ có linh khí ngưng tụ – chỗ đó chính là bộ phận đầu rồng – với đường kính của long huyệt khoảng từ 1 đến 2 mét – nơi có linh khí mạnh nhất đường kính cũng chỉ khoảng 20 đến 30 mét” (Nguyễn Hà – Chọn hướng nhà và bố cục nội thất theo thuật phong thủy, NXB Xây dựng – Hà nội 1996). Nhìn bao quát, “long huyệt” không được rộng. Tuy vậy, nếu năng lượng trào ra từ long huyệt “gặp được những điều kiện chung quanh tương đối (tốt) thì năng lượng đó sẽ khuếch tán” ra rộng hơn để đem lại lợi lạc cho những người sinh sống trong khu vực như người dân Bình Hòa trước kia đã từng tin tưởng Lăng Ông đem lại cho họ cuộc sống bình an. Song, không chỉ tìm ra long huyệt là đủ, là có thể muốn an táng ai xuống nơi ấy cũng được. Kinh nghiệm cho thấy cần có đủ mối duyên lớn nhất do người xưa truyền lại gọn gàng trong 6 chữ: “Tiên tích đức, hậu tầm long” mới được – nghĩa là trước hết phải lo tu tạo phước đức, tích tụ điều lành, rồi sau mới ứng với long mạch. Theo hướng đó má xét, chúng ta thử nhắc lại vài điều liên quan đến đức độ của Tả quân Lê Văn Duyệt. Sinh thời, ông làm Tổng trấn Gia Định hai lần từ 1812 đến 1815 và từ 1820 cho đến năm qua đời trên đất Sài Gòn năm 1832. Trong 15 năm đó, ông thực hiện những chủ trương đúng đắn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ở Sài Gòn – Gia Định và vùng Nam bộ, củng cố an ninh quốc phòng phía Nam và mang đến cuộc sống sung túc yên ổn cho dân chúng.
Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng nhận định: “Lê Văn Duyệt có công, bằng chứng là nhân gian ngưỡng mộ và kính trọng ông (…) Chúng ta đều biết, ở Nam bộ, trong khoảng thời gian dài và có lẽ cũng còn sót lại cho đến tận hôm nay một câu thề độc: “nếu tôi gian dối thì xin thề trước Lăng Ông tôi sẽ bị vặn họng như con gà tôi mang đến cúng Tả quân”(…) chúng ta nhận thức rằng sự tôn trọng kia liên quan chủ yếu đến công lao của ông đối với vùng đất mà ông trấn nhậm”. Mỗi đêm Giao thừa, hoặc đến ngày giỗ Ông vào 30.7 âm lịch hằng năm, ngót hàng vạn người khắp nơi trong nước, trong đó có rất nhiều bà con người Hoa đến cúng bái và xin xăm ở lăng. Người Hoa rất quý trọng Lê Văn Duyệt vì ông đã mở ra cho họ một cánh cửa rộng trong giao thương buôn bán tại Sài Gòn xưa, tiếp nhận cả người gốc Hoa vào hàng thân tộc của mình: “xu thế xâm nhập vào tầng lớp quan lại như trường hợp thương nhân gốc Hải Nam Lưu Hằng Tín chủ động tới xin làm con nuôi Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt “Dinh tiền cúi lạy thưa lên – Xin làm nghị tử gá tình minh linh” (Bổn Bang thơ) rồi trở thành nhân viên trong Ty Hành nhân Gia Định thành còn cho thấy hệ thống hoạt động thương nghiệp của người Hoa đã thấm sâu hơn vào các thiết chế, quan hệ và hoạt động của xã hội Việt Nam ở địa phương, lan cả vào hệ thống sản xuất tinh thần lẫn hệ thống quản lý xã hội” (Cao Tự Thanh – Hoạt động thương nghiệp của người Hoa trong tiến trình lịch sử ở Nam Bộ trước 1862 - xem: Nam bộ đất và người, nhiều tác giả – NXB Trẻ 2005). Đối với người Âu Mỹ, ông có thái độ ngoại giao cởi mở, thông thoáng trong giao thương. John Crawfurd cầm đầu phái bộ Anh gồm 33 người đến thành Gia Định năm 1822 thuật lại trong nhật ký của mình về Tổng trấn Lê Văn Duyệt: “Ông có phong cách linh lợi và thông minh. Thân mình hơi thấp chứ không cao, song ông tỏ ra hoạt động và không có khuyết tật gì (…) các quan lại khác đều mặc đồ gấm hoa sang trọng, trái lại ông Tổng trấn tỏ ra ít quan tâm và coi thường việc ăn mặc, ông chỉ mặc một áo dài bằng nhiễu đen trơn màu và chiếc khăn đồng màu” (Nguyễn Đình Đầu dịch). Khi ông qua đời, vua Minh Mạng lập đàn tế cúng rất lớn, nhưng vì sao 4 năm sau (1836) cũng chính Minh Mạng đã ghép ông vào nhiều tội và sai thi hành bản án khắc nghiệt, san bằng nấm mồ và lấy xích sắt xiềng long huyệt của ông?
Cổng tam quan trước năm 1975 Vụ án Huỳnh Công Lý với công luận xưa và nay Huỳnh Công Lý là cha ruột một người thiếp của vua Minh Mạng. Khi Lê Văn Duyệt được cử làm Tổng trấn Gia Định lần thứ hai vào năm 1820, thì Huỳnh Công Lý làm Phó tổng trấn bị tố cáo hơn 10 việc tham nhũng mà chính Minh Mạng cũng thừa nhận: “Huỳnh Công Lý làm Phó tổng trấn Gia Định đã bóc lột của dân đến trên 3 vạn” và nêu rõ tội trạng: “Gia Định là nơi đất rộng, dân đông, cha ta (Gia Long) mưu tính… khôi phục cơ đồ… từ trước tới nay vẫn thận trọng lựa chọn những trọng thần công lao danh vọng sai trấn thủ cho muôn dân yên ổn. Không may có Huỳnh Công Lý lấy tư cách đê hèn, tham bạo, ăn trái pháp luật đến muôn vạn, bắt người làm việc riêng tốn hàng nghìn, mọt dân hại nước đến thế là cùng… Hồi Huỳnh Công Lý làm Tả thống chế (cấm binh)… ngày ngày bắt quân sĩ xây dựng nhà riêng trên bờ sông Hương, nay việc phát giác, hạ lệnh trị giá bán nhà ấy lấy tiền cho cấm binh”. Những lời trên của Minh Mạng được ghi trong Đại Nam thực lục do Nguyễn Đình Đầu dẫn qua một bài viết về vụ án Huỳnh Công Lý. Tuy vậy, trong lòng vua Minh Mạng vẫn còn dành cho Huỳnh Công Lý một cách xử lý tương xứng với vị trí tình cảm là “cha vợ” của mình chăng? Điều ấy cụ Vương Hồng Sển từng giải thích: “ông vua này có ý bênh vực cha vợ nên hạ chỉ giải Công Lý ra kinh đặng dễ bề tha tội. Tả quân biết trước, sẵn có trong tay Thượng phương kiếm được quyền “tiền trảm hậu tấu”, bèn chém đầu Huỳnh Công Lý, sai quân đóng thùng (…) gởi thủ cấp về kinh, trên nắp thùng viết mấy chữ: “Phụng thừa Thánh chỉ, xử trảm tội nhơn”. Minh Mạng thấy sự đã rồi, trong lòng căm giận nhưng không làm gì được Lê công. Sau (ngày Lê Văn Duyệt mất) Bố chánh Bạch Xuân Nguyên đem chuyện này ra kết tội khi quân cho Lê công và vu thêm nhiều tội lớn nữa.
Vì vậy mới có giặc Phó vệ úy Khôi làm phản, giết Bạch Xuân Nguyên, chiếm cứ thành Sài Gòn cố thủ được ba năm” (Sài Gòn năm xưa)…
Vở diễn Tả quân Lê Văn Duyệt tại Lăng Ông Bà Chiểu Một tác giả khác, Trương Vĩnh Ký qua tác phẩm bằng tiếng Pháp: Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận, ấn bản năm 1885, Nguyễn Đình Đầu dịch 1997, đã viết đại ý Lê Văn Duyệt là người có linh cảm thiên ứng, Minh Mạng rất e ngại ông nhưng “không dám làm gì chống đối một quân nhân trung thành và can trường, từng là kẻ thừa hành di chiếu của vua cha, là người đỡ đầu và thầy dạy mình. Công lao vĩ đại đã làm ông trở thành hầu như bất khả xâm phạm. Minh Mạng vẫn giữ mối hận thù thầm kín và chưa bao giờ dám làm gì chống lại Lê Văn Duyệt khi ông còn sống, ông chết rồi – nhà vua hạ nhục bằng cách cho xiềng và đánh trên mộ 100 trượng”. Trần Trọng Kim cũng ghi trong Việt Nam sử lược về lời luận tội của Minh Mạng đối với Lê Văn Duyệt qua một tờ dụ: “tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, không bõ gia hình. Vậy nay cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ: “chỗ này là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp” để chính tội danh”. Từ đó, quanh khu mộ có nhiều điều linh dị được dân chúng Sài Gòn truyền miệng, Sơn Nam viết: “nơi phần mộ của Lê Văn Duyệt bị nhục mạ, trong dân gian đồn đãi rằng đêm đêm nghe tiếng quân kêu khóc, quỷ giận thần hờn, lạc ngựa reo vang”. Khi Minh Mạng mất, vị vua kế vị là Thiệu Trị đã cho tháo gỡ xiềng xích trên đất mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt và vụ án Huỳnh Công Lý. Đến đời Tự Đức đã phục hồi danh dự, chức
tước và cho đắp lại mộ như cũ. Dần dần mộ được xây vòng thành khá rộng và phần đất quanh vùng mộ ở làng Bình Hòa dành làm tự điền, thu hoạch lấy tiền cúng tế hàng năm. Đến nay, Lăng Ông Lê Văn Duyệt tọa lạc tại số 126 đường Đinh Tiên Hoàng, P.1, Q.Bình Thạnh, TP.HCM, giữa giao điểm của các đường: Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức, Vũ Tùng, rộng 18.500m2, với cổng Tam Quan một thời từng là biểu tượng văn hóa của Sài Gòn. Dân gian vẫn thờ cúng và tế lễ ông theo nghi thức thờ thần và tế thần vì từ lâu dân Sài Gòn – Gia Định đã xem ông như một vị thần. Điều ấy ứng với linh huyệt phong thủy “tài lộc đời đời” nơi ông yên nghỉ, dầu đã có những tháng năm bẽ bàng, hương tàn khói lạnh trên gò đất ấy… Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Nguyên Trương, Tư liệu
Bài 27: Sài Gòn – Con phượng hoàng trong biển lửa
Thành Phụng do vua Minh Mạng sai xây năm 1836 nằm cách xa khu vực hồ Con Rùa và dinh Độc Lập hiện nay rất nhiều so với thành Quy (đã bị san bằng) và được người Pháp nhắc đến với tên gọi: Citadelle de Saigon, hoặc Plateau de la Citadelle hiểu nôm na là Đồi thành, hoặc thành xây trên Đồi…
Đất “tứ phách” thành phụng
Tuy kế thừa thế đất phong thủy cát tường sẵn có của thành Quy (nằm phía Đông Bắc của thành ấy), nhưng do những biến động lịch sử nên thành Phụng lại “yểu mệnh” hơn nhiều, chỉ tồn tại trong 23 năm. Song nếu xét về mặt “địa lợi”, có thể tham khảo phần “yếu luận về địa thế” của Đào Duy Từ (1572 – 1634) – người được chúa Sãi (Nguyễn Phước Nguyên) phong tước hầu, giao coi việc quân cơ, dựng lũy Thầy… Đào Duy Từ nhắc đến bốn kiểu đất xấu gồm: Đất thiên khảo với bốn bề đồng bằng, giữa có thung lũng, không nên đóng dinh vì “sợ giặc đánh bốn mặt mà không có lối tiến lui” – chỗ đất chung quanh đều rộng mà bên trong có một núi, một thung lũng (song thiên kháo) thì “kiêng đầu núi, chớ đóng dinh, sợ giặc tự đàng sau qua núi mà ta mất chỗ hiểm, tiến lui đều khó, sẽ bị giặc bắt”. Đất tử trụ là chỗ bốn bên bằng phẳng bỗng ở giữa nổi lên “một gò cao hình như cái chậu úp” là chỗ không nên đóng đại doanh vì “một là sợ bốn phương sương gió, hai là sợ bốn mặt bị giặc (vây)”. Đất tử ngục là chỗ “bốn bề đều có gò núi, ở giữa bằng phẳng hình như cái chậu ngữa”, thì không nên đóng dinh lập trại ở đó vì có thể bị địch dựa thế từ núi cao đánh xuống. Đất tử phách là “chỗ tha ma mộ địa (…) sĩ tốt ban đêm hay hoảng hốt, rồi sinh bệnh tật, đó là âm cảm sinh ra” (1).
Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công thành Phụng Những kiểu đất xấu nêu trên không chỉ ứng dụng nhất thời cho việc lập dinh dựng trại mà còn khiến ta liên tưởng đến việc chọn đất xây thành kiên cố lâu dài. Phải chăng thành Phụng nằm một trong bốn kiểu đất xấu còn đọng nhiều “âm khí” chưa tan? Vì thành Phụng được xây trên nền cũ đổ nát của thành Bát quái vừa mới diễn ra cảnh giao tranh khốc liệt kéo dài suốt 3 năm, kẻ chết tha hương, người bị chặt đầu xẻo tai không ít, nên tuy không hẳn là đất “tha ma mộ địa” nhưng không thiếu oan hồn xiêu dạt, chưa siêu thoát, còn mang âm khí quẩn quanh dật dờ kiểu như “đất tử phách”. Nên dầu là đất phong thủy cát tường (được chọn xây thành Quy cũ) nhưng vẫn không khỏi bị “động” và “chuyển” thành thế bất tường (khi
xây thành mới) trùng hợp số mệnh ngắn ngủi của thành Phụng. Thành có 4 cạnh (mỗi cạnh khoảng 490m, chu vi 1.960m) nằm gọn trong 4 con đường tương ứng với các địa điểm nhìn thấy trên bản đồ hiện hành (đầu thế kỷ 21): Nguyễn Du (mặt trước), Nguyễn Đình Chiểu (mặt sau), Nguyễn Bỉnh Khiêm (bên trái) và Mạc Đỉnh Chi (bên phải). Quanh những con đường ấy hồi đó có một hào nước liên hoàn bọc quanh (thành Phụng) rộng hơn 52m, sâu gần 3,2m… Đó là thành Phụng. Bây giờ nói đến Sài Gòn xưa, nếu nhìn lên bản đồ Trần Văn Học (1815), chúng ta thấy hình thể Sài Gòn xưa từa tựa như hình con “phượng hoàng” gầy gò nhỏ nhắn đang giang đôi cánh mỏng, trải từ Tổng Bình Trị Thượng (hướng Gò Vấp – xã Hanh Thông) đến Tổng Long Hưng Thượng (hướng Phú Thọ – Bình Trị Đông). Xin tạm gọi một cách hình tượng rằng, trung tâm đầu não, trái tim của “phượng hoàng Sài Gòn” chính là thành Phụng – nơi nhà Nguyễn đóng “đại bản doanh” (tham khảo thêm sơ đồ do trung úy Lacrclause vẽ 3.1859, bản đồ Charles Lemyre 1884). Trái tim ấy đã ngừng đập lúc 13 giờ 17.2.1859 (nhằm rằm tháng giêng Kỷ Mùi) – là ngày liên quân Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm thành Phụng, hộ đốc Vũ Duy Ninh thắt cổ chết – trở thành vị tướng cao cấp đầu tiên của Việt Nam tuẩn tiết tại miền Nam dưới thời Pháp. Khoảng 20 ngày sau, vào 8.3.1859 (4.2 Kỷ Mùi, nhằm ngày Hỏa, theo Ngũ hành), tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha là Rigault de Genouilly ra lệnh đặt 35 ổ mìn giật nổ cùng một lúc phá tan tành dinh thự, pháo đài và các công trình kiên cố bên trong thành Phụng.
Gia Định thành chiến Cuộc hỏa thiêu làm bốc lên ngọn lửa khủng khiếp cháy suốt đêm ngày, kéo dài hàng tháng, thiêu hủy vô số binh khí và đồ quân dụng của người Việt gồm ngót 85.000 kg thuốc súng, với 20.000 cây súng đủ loại (trong đó có 200 đại bác), cả núi gươm giáo, cùng các hầm chứa hỏa pháo, tiêu thạch, diêm sanh, chì và một kho tiền khá lớn ước khoảng 130.000 Francs thời ấy. Đau xót nhất là kho lúa dự trữ lớn tới nỗi đủ cung cấp để nuôi khoảng 8.000 nhân khẩu ăn
trong một năm! Trước khi bị thiêu hủy, một nhóm Hoa kiều lúc bấy giờ đã liên hệ với Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp xin mua lại kho lúa trị giá 3.000.000 Francs ấy với giá cao hơn gần gấp 3 lần, tức 8.000.000 Francs. Nhưng tướng Rigault de Genouilly không chịu bán vì sợ số lúa trên sẽ lại lọt vào tay người Việt. Cụ Vương Hồng Sển đã dẫn lời thuật của ông Charles Lemyre kể lại vào ngày 27.1.1862, Lemyre đến tận nơi “thử thọc cây gậy cầm tay vào đống tro tàn (của thành Phụng), khi rút gậy ra thì (gậy) đã cháy thành than”, chứng tỏ “trận lửa đốt lúa còn ngún ngấm ngầm”. Dư luận Pháp “tỏ ra hối tiếc hành động hủy hoại vô ích của Thủy sư đề đốc Rigault de Genouilly nhưng đã muộn”. Cụ Vương hạ bút: “Cho hay làm tướng đi chinh phục nước khác, có hạng còn chút lương tâm, hạng khác chỉ biết giết chóc, đốt phá, sát hại” và cho biết thêm ngày trước người Pháp dựng tượng đồng của viên tướng ấy ở công trường Mê Linh “tương truyền những đêm mưa bão có bóng lão hình đồng (Rigault de Genouilly) hiện hình gọi đò qua sông. Trời đánh nhiều lần, lão không hầy hấn, tưởng như vậy mà bền gan cùng tuế nguyệt, không ngờ kịp năm đảo chính 1945 – 1946, thanh niên lôi lão, hạ bệ lão xuống, nấu chảy ra biến thành bì súng bắn trả hận năm xưa” (Sài gòn năm xưa).
Bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815 có hình dáng như chim Phượng Hoàng (cụ Nguyễn Đình Đầu ghi địa danh đầu thế ki 19) Léopold Pallu với tường thuật đau lòng về chiến trường Sài Gòn Một tác giả người Pháp đã tham gia cuộc viễn chinh là Léopold Pallu lúc ấy với chức vụ trung úy hải quân đã kể lại trong cuốn “Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ” (Histoire de L’expédition de Cochinchine en 1861), Hoàng Phong dịch, NXB Phương Đông 2008, có đoạn: “Nhà cửa bên trong thành đều đổ nát. Bụi trắng tạo thành hai lằn dài trắng xóa, ở giữa là lối đi. Đó là gạo bị đốt cháy từ năm 1859 mà đến nay (1862) vẫn còn cháy. Lửa âm ỉ
24 tháng mà vẫn chưa tắt. Các hạt gạo, ở một vài chỗ vẫn còn giữ nguyên hình dáng; nhưng thật ra đã hóa thành tro; gió thổi hoặc chỉ chạm nhẹ sẽ làm tan ra thành bụi. Truyền thuyết cho rằng một kho tàng rất lớn còn nằm trong đống lửa lớn đó” (Sđd tr. 42). Hai năm sau, quân viễn chinh Pháp mở rộng “vòng lửa”, tiến đánh đại đồn Kỳ Hòa ngày 25.2.1861, Léopold Pallu ghi nhận cảnh tượng tang thương khi lính thủy Pháp và bộ binh Tây Ban Nha hạ được thành và tiến vào, trông thấy: “Những người bị thương còn mang trên ngực một thẻ vàng màu đỏ đặc biệt của quân lính An Nam, họ nằm rải rác dọc theo chân tường thành bên trong; vài người nằm nghiêng một bên, vài người khác thì thở hổn hển, mũi cắm vào đất, cát thấm đầy máu (…) Chúng tôi tiến sâu hơn; sau đó được gọi tập hợp lại và phân phối nơi trú ngụ, các đạo quân liền chiếm các căn nhà mà vừa mới đây kẻ chiến bại còn trú ngụ trong đó. Cơm nấu cho ngày hôm ấy còn để trên kệ, nắm lại thành những nắm lớn thật chặt, gạo màu vàng (…). Lính Pháp gõ vào các cột tre, cột gỗ hiếm hoi còn sót lại, hoặc lùng tìm dưới mặt đất chẳng thấy vàng bạc châu báu gì liền “quay ra đuổi bắt heo sữa và gà mái chạy tản mát trong vòng thành – đến tối, các nồi nấu ăn của ta đều đầy ắp; tiếc thay chỉ thiếu có rượu vang”. (Sđd tr. 334).
Quân Pháp dàn trận đánh đại đồn Kì Hoà ngày 25-2-1861 Phía sau thành Kỳ Hòa là “một ngôi làng nghèo nàn, đại đội của chúng tôi tạm trú tại đây. Gian phòng được phân phát dính đầy máu vì trước đây những tên lính bị thương ở thành Kioa (Kỳ Hòa) đã lưu ngụ. Vách tường còn bê bết máu cục đã hóa đen và dính đầy tóc. Một quả đại pháo trước đây đã rơi trúng nóc nhà và làm sập xuống một nửa. Phía sau căn nhà nhỏ thê thảm này là một mảnh vườn rau với vài cây thuốc lá (…). Mọi người tiến lên bằng những bước thật ngắn: Giày mang ở chân trở nên nặng như chì. Cuộc hành quân này là một trong những thử thách cam go nhất của chiến dịch Nam Kỳ. Có người ngã lăn chết thẳng cẳng vì bầu trời ác nghiệt; có người thì bất thần phát điên. Một người lớn tuổi cấp bậc hạ sĩ trên chiến hạm Monge, đang cầm cờ cho một đại đội thủy quân, bỗng quỳ xuống vệ đường nói ngọng lắp bắp như một đứa trẻ lên ba. Nhìn ông ta cười một cách thật ngớ ngẩn, thấy thật là hết sức đau lòng. Một giờ sau thì ông ta chết (…). Một người lính thủy chuyên viên cập bến cho tàu, trông thật đáng thương, dính bê bết đất vì trán ướt sũng mồ hôi, đang nằm dài, đầu cắm xuống đất, dây buộc móc câu và dây đeo của cái bao súng lục đang quấn chặt anh ta giống như một con vật sắp bị đưa vào lò thịt, đấy là chưa kể đến sức nặng của một quả lựu đạn đeo ở bụng trong một cái túi vải thô may bằng buồm tàu. Có ai còn nhìn ra anh
ta không?. Hai ngày trước đây dưới lửa đạn xối xả, anh xông lên như một con sư tử, phá sập lớp cửa tường thành thứ hai của Kỳ Hòa” (Sđd 337). Theo Hoàng Phong, những bài báo của Léopold Pallu đăng tải trước khi in thành sách đã “mô tả kỹ hơn khi vào thành Kỳ Hòa sau cuộc chiến. Ông kể xác quân An Nam rải rác trong thành, máu miệng trào ra thấm khô trên cát, quần áo rách tả tơi, những phần cơm nắm nấu bằng gạo màu vàng, những đĩa cá mắm hôi thối… chưa kịp ăn. Đoạn khác ông kể những người lính viễn chinh trong đoàn quân của ông ngã xuống chết ngay tức khắc vì trời nóng, có người phát điên nói lảm nhảm nhiều giờ sau mới chết (những chi tiết này rất đúng vì đó là triệu chứng của những người mất nước trong cơ thể” (Sđd tr. 332). Qua những ghi chép trên của Léopold Pallu về những người lính viễn chinh Pháp đột nhiên phát cuồng một cách khó hiểu trên đường hành quân la hét rồi ngã bệnh chết đi. Phải chăng quân Pháp mắc phải thời khí và bệnh “ngoại tà” theo như Gia Định thành thông chí nói đến : “Gia Định là chỗ chứa khí dương trái mùa, vẫn còn nhiều thứ gió bất chính, dễ bị ngoại tà cảm nhiễm”, là đất nằm sát tới biển “hơi nóng của dương khí thường tiết ra, hơi ẩm hoặc âm khí thường xông lên”… Vượt qua những vệt máu của thành Phụng, của đại đồn Kỳ Hòa và những cảnh giao tranh bi tráng khác tiếp đó, Sài Gòn đã vượt lên để được mệnh danh “hòn ngọc Viễn Đông” (la Perle de l’Êxtrême Orient). Đến ngày nay, theo các tác giả biên soạn Từ điển Sài Gòn – TP.HCM (2) diện tích đã lên đến 2.093km2 và không còn là “phượng hoàng ốm” nữa mà có “hình dáng như con chim đại bàng đang vươn sải cánh về phía đông” xòe rộng 102km (tính từ bắc Củ Chi đến nam Cần Giờ) và thân mình 47km (tính từ đông Thủ Đức đến tây Bình Chánh). Khó mà tưởng tượng trong quá khứ, cách đây hơn 150 năm, con “đại bàng” ấy đã ôm trong lòng nó một con “phượng hoàng” bị kẻ thù lạ mặt đưa lên dàn hỏa.. Và ngày nay đi trên đường phố rộng lớn của TP. HCM nào ai nhớ tới mình đang bước trên mảnh đất Sài Gòn xưa từng thấm nhiều lệ máu… (1) Thập nhị binh thư, phần Hổ trướng khu cơ – Lê Xuân Mai, Nguyễn Ngọc Tĩnh, Đỗ Mộng Khương dịch, NXB Thời Đại 2010, trang 729. (2) Thạch Phương và Lê Trung Hoa chủ biên, NXB Trẻ 2008. Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng -Ảnh: Tư liệu
Phong thủy qua các đời vua Việt Nam
Bài 28: Nguyễn Hữu Cảnh với sông nước miền Nam
Chảy sâu vào đất liền khoảng 80km, sông Sài Gòn cùng gió biển đã tỏa vào thành phố hơi khí lộng thoáng (phong) và trút nước mát tràn trề cho các lòng kênh (thủy), để trải mình ôm địa cuộc hưng long (đất cát tường) và mở ra cảng Sài Gòn thông thương với vùng Đông Nam Á…
Sông Sài Gòn: Dòng sông luân lưu… Xóa sổ thành Phụng (thành Gia Định) xong, Đề đốc Rigault de Genouilly – Tư lệnh quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha – đã có văn thư gửi Chính phủ Pháp nhận định: “Nếu sông Sài Gòn được khai trương để thuyền bè từ các nước châu Âu đến mua bán sẽ giúp Sài Gòn hình thành một trung tâm thương mại quan trọng. Phương này rất giàu sản vật, gạo, bông, đường, thuốc lá, cảnh trí lại rất đẹp nữa. Huống gì sông Sài Gòn có các nhánh ăn sâu vào bên trong đất liền nên nhờ đó có thể đưa nguồn hàng ra cảng để xuất đi nước ngoài bao nhiêu cũng được”. Văn thư viết ngày 14.3.1859. Chưa đầy một năm sau, vào ngày 2.2.1860, Chuẩn thủy sư đề đốc Page tuyên bố chính thức khai trương hoạt động của cảng Sài Gòn. Một tài liệu khác của Léopold Pallu cho biết thương cảng Sài Gòn mở cửa ngày 22.2.1860 và gần như ngay lập tức đã có sức cuốn hút nhiều tàu bè châu Âu cũng như Trung Hoa cập bến mua bán: “70 tàu và 100 ghe thuyền chỉ chuyên chở trong vòng bốn tháng 60.000 tấn gạo cho thị trường Hồng Kông và Singapore, đem đến một số lời khổng lồ cho ta (người Pháp)”(1). Từ đó về sau, cảng Sài Gòn ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giao thương quốc nội và quốc tế.
Sông Sài Gòn Về vai trò lịch sử, vị trí sông Sài Gòn và các sông liên đới được chép trong thư tịch Hán Nam cổ: “Ở ngã ba Tam Giang trên sông Nhà Bè là một giao thủy, phía Nam có nước ngọt sông Phước Long (tên gọi của sông Đồng Nai) và phía Bắc có nước lạt sông Tân Bình, tục danh là song Bến Nghé – dòng sông dài từ giao thủy Tam Giang ấy chảy đến tận nguồn Bương Đàm (Tây Ninh): dòng sông và những nhánh của nó đã đưa những lưu dân đến những vùng đất mới của xứ Gia Định – Sài Gòn khẩn hoang lập nghiệp; và theo thời gian, dòng sông này đã đưa các luồng giao lưu văn hóa từ bên ngoài vào cũng như lan tỏa ra các vùng đất xa xôi hơn, nhất là khi cái bến dưới sông đầy sấu lội này trở thành Bến Thành và các đoạn sông đào đã nối nó với Sài Gòn phố thị (Chợ Lớn) xuống tới đồng bằng sông Cửu Long: Làm trai cho đáng nên trai – Phú Xuân đã trải Đồng Nai cũng từng” (2) Cùng sông Sài Gòn, những dòng sông ở Nam bộ đã chảy vào lòng người nhiều truyền thuyết và giai thoại lịch sử về sự có mặt của vua chúa nhà Nguyễn trên đường lập nghiệp – nhất là vị vua đầu triều: Gia Long (Nguyễn Ánh) – đã xuống thuyền vào mùa xuân Ất Mùi 1775, ngày 12.2, để “vượt biển về phía Nam, ngày 25 đến phủ Gia Định, đóng ở Bến Nghé” – theo Gia Định thành thông chí. Ông đã gắn bó đất phương Nam sâu đậm nhất với 25 năm trôi dạt và dựng nghiệp ở đó (1775 – 1801) dài hơn cả số năm ngồi trên ngai vàng (17 năm, từ 1802 – 1820). Khi thất thế, chạy ra Phú Quốc nhờ dân ở đó che chở, cung ứng vật dụng, nên khi lên ngôi nhà vua đã gia ân miễn thuế thân, thuyền đánh cá và thuyền buôn cũng được miễn như vậy. Năm Quý Mão 1783, Nguyễn Huệ đánh chiếm Gia Định lần thứ tư (nếu kể thêm lần tiến quân của Nguyễn Lữ vào 1776, thì Tây Sơn đã 5 lần tiến đánh Sài Gòn – Gia Định) – đẩy
Nguyễn Ánh trôi dạt trên biển, bấy giờ “nước ngọt hết cả, quân bị khát đã bảy ngày. Thế rồi bờ biển quang mù, trước thuyền sóng lặng, trông thấy trước mặt nước sắc xanh sắc trắng chia dòng, nước trong chảy ra, thử nếm thấy vị ngọt, quân nhờ thế được an toàn, bèn chạy về đảo Phú Quốc” – theo Gia Định thành thông chí. Xuất hiện trên sóng nước để “cứu giá” còn có loài vật nữa. Như sự tích Nguyễn Ánh chạy ra Hòn Rái, may nhờ hai con Rái cá chạy ra khỏa lấp dấu chân, do đó khi thắng lợi nhà Nguyễn phong tặng mỹ tự: Dũng Mẫu Nghiêm Dực Hằng Nghị Trừng Trạm chi thần. Người trên bờ cũng giúp phương tiện vượt sông nước miền Nam cho Nguyễn Ánh. Tương truyền có một bà lão khá giả nhờ mua bán lúa gạo đã dâng những cuộn tơ tằm quý giá để làm quai chèo (khác với quai chèo thắt bằng gai, bằng đay) – có sức dẻo dai bền bỉ không thể đứt, giúp đủ sức vượt biển. “Ngũ hổ long thần” trấn mạch ở phương Nam Nhắc đến lịch sử Sài Gòn TP.HCM luôn phải nhắc đến sự hiện diện đầy “định mệnh” của Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh. Ông đã theo lệnh của chúa Nguyễn Phúc Chu vào kinh lược đất phương Nam và lần đầu tiên đứng ra hoạch định địa giới hành chính và cơ chế quản lý vùng này, lấy đất Nông Nại đặt phủ Gia Định, lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Sự kiện ấy (1698) được lấy làm năm khai sinh để tính tuổi Sài Gòn xưa, TP.HCM ngày nay (2013), là 315 năm hình thành và phát triển. Ông là vị tướng có tài, biệt danh Hắc Hổ (sinh năm Canh Dần 1650), từng dẫn quân chinh phạt Chiêm thành bắt sống vua Bà Tranh. Đến tháng 11 năm Kỷ Mão 1699, ông lại cầm quân tiến đánh Nam Vang vì vua Chân Lạp là Nặc Ông Thu muốn quấy động. Khoảng 4 tháng sau (tháng 3 Canh Thìn 1700), ông đứng trên mũi thuyền phát súng lệnh và đốc thúc binh sĩ tiến lên, khiến quân Cao Miên khiếp sợ tan vỡ, vua Nặc Ông Thu bỏ chạy. Nhưng chưa đầy một tháng sau Nặc Ông Thu ra hàng, xin chịu tội. Ông an ủi, tha cho về La Bích để chiêu tập lưu dân. Rồi đó, ông kéo quân về bãi Cây Sao (tức Ông Chưởng bây giờ) để đóng quân, báo tin thắng trận và đợi mệnh lệnh mới.
Tượng Nguyễn Hữu Cảnh tại đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Cù lao phố, Biên Hoà Đến nửa đêm 26.4 năm ấy, trời bỗng dưng nổi cuồng phong dữ dội, mưa trút điên cuồng, chốc đã làm sụt lở nặng nề một vạt lớn của bãi Ông Chưởng kèm theo tiếng vỡ to như sấm. Lúc ấy ông nằm ngủ trong thuyền mộng thấy một thần nhân râu dài bạc trắng, thân hình vạm vỡ, mặc áo gấm đến báo ông rằng: “đừng nấn ná ở hung địa này nữa, hãy mau sớm về!”. Khi tỉnh dậy, ông không được vui, vì việc chưa xong nên còn tạm nán lại, rồi bị cảm gió, ốm nặng, liền rút quân về, nhưng đến ngang Rạch Gầm thì qua đời ngày 14.4 năm ấy, thọ 51 tuổi. Như vậy ông mất trên dòng sông Cửu Long và sông nước miền Nam, chở quan tài về đến dinh Trấn Biên lập miếu thờ, sau đó chuyển về an táng tại vùng đất phong thủy ở nơi ông sinh ra (tỉnh Quảng Bình). Vùng đất này nhà văn Sơn Nam lúc sinh thời đã đến tham quan, thắp hương lễ bái và ghi nhận như sau: “Dòng họ Nguyễn Hữu Cảnh đã chọn cuộc đất phong thủy “thượng An Mã, hạ Đùng Đùng” mộ phía trên day về núi An Mã, phía dưới giáp phá Hạc Hải (nôm na là phá Đùng Đùng). Nhớ lại ở Nam bộ, đặc biệt phía đồng bằng “chung sống với lũ” làm sao tìm ra núi đồi để làm chuẩn cho chọn huyệt mã? Mạc Cửu may ra gặp được núi Bình Sơn, ven biển, đặt mộ phần cho dòng họ. Phía Biên Hòa, có sông núi, gia đình của Hui Bon Hoa chọn vùng đất an nghỉ phía sông Đồng Nai, sẵn núi Châu Thới hoặc Bửu Long. Ngoài ra, hễ gặp gò đất cao thì tạm gọi là núi. Lăng lê Văn Duyệt đặt ở gò Kim Qui. Gặp đất giồng cao ráo, hơn mặt biển chừng năm ba mét thì đặt tên làng tên đất là Sơn, như gò Cây Mai là Mai Sơn. Phía Phú Thọ, tuy chôn ở đất thấp, người Hoa thường đặt hai trụ đá bên cạnh mộ, ghi “Thanh Sơn, Tú thủy” để tượng trưng. Vậy là đủ. Phía đồng bằng sông Cửu Long, phong thủy tốt nhất – nơi khoâng đồi núi – là chốn “thông lưu quán khái”, gọi nôm na “sông sâu nước chảy”; nước chảy lưu thông, không tù đọng, giao lưu dễ dàng với các vùng lân cận để trao đổi hàng hóa…. Vùng nước lụt, khu Tứ Giác Long Xuyên hoặc vùng Đồng Tháp Mười, đất quá thấp, chỗ nào đất cao tương đối thì là phong thủy tốt” (…) Vùng Hạc Hải nhiều lát (cây cói) nằm trong vị trí phong thủy phần mộ Nguyễn Hữu Cảnh. Hỏi “thượng An Mã, hạ Đùng Đùng, một bô lão bảo núi An Mã là yên con ngựa, còn Đùng Đùng có lẽ là thứ cây tạp, cỏ dại”(3).
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Cù lao phố, Biên Hoà Mộ ông an táng ở đất phong thủy vùng Quảng Bình và cũng được thờ ở nhiều ngôi đình tại Nam bộ như đình Phú Lạc (Bình Chánh, TP.HCM), đình Bình Kính và Bình Thành (Biên Hòa), đình An Hòa và Vĩnh Kim (Mỹ Tho) và nhiều nơi ở Châu Đốc cũng như ở Nam Vang. Người Hoa gốc Minh Hương xem ông là Tiền hiền và Phúc thần của họ, thờ tại đình Minh Hương Gia Thạnh ở quận 5 TP.HCM. Nhân đây cũng cần nhắc đến đặc điểm các ngôi đình Nam bộ với nhiều đối tượng thờ tự – trong đó có Thượng đẳng thần Nguyễn Hữu Cảnh – gắn liền với niềm tin phong thủy của dân gian về các vị thần trấn địa gọi là “ngũ thổ long thần” gồm (tóm lược): 1. Thổ Công: là “vị thần long mạch khu vực nền nhà” thường được thờ bên hông đình với câu khẩu truyền: “trong vườn có Thổ chủ, ngoài miến có Thổ công, ở dưới sông có Hà bá”. 2. Thổ Địa: thần long mạch ở cửa cái là vị thần “bảo hộ cho cả dân làng” cũng được thờ trên án bên vách hông của đình. Ở đất phương Nam thần Thổ Địa được nhân cách hóa thành hình tượng và được thờ song song với thần tài (môn khẩu Thổ Địa tiếp dẫn Tài thần). Cũng ở Nam Bộ, nhiều ngôi đình có “thờ bài vị Thổ Địa” và “được tùng tự một bên thần Thành hoàng”. 3. Thổ Thần hay Thổ Chủ là “thần long mạch ở khu thổ cư”. Thổ thần là “tín ngưỡng đặc biệt của những người làm vườn” được thờ phổ biến vùng Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ và được “thờ trước sân đình” phổ biến vùng Biên Hòa. 4. Thổ Phủ là thần long mạch khu vực chợ búa được “thờ trong một ngôi miếu gần chợ” 5. Thổ Kỳ hay Địa Kỳ , Hậu Thổ là “thần long mạch của toàn cõi đất”.
Còn thờ Thanh long (Rồng xanh) và Bạch hổ (Cọp trắng) hai bên tả hữu ngôi đình theo cách tả Thanh long, hữu Bạch hổ và “nguyên thủy đây là ý niệm của phong thủy”(4). Hai tiếng “Phong” và “Thủy” trên, ứng rộng ra, sẽ bao quát cả mối luân chuyển không ngừng của sông nước miền Nam, và các dòng sông Nam bộ, cùng đình miếu dựng lên trên đất địa đôi bờ, đã ẩn hiện phần nào qua câu hơ truyền khẩu: Gió thổi tung cao cờ hiển thánh (Phong/ Nước còn muôn thuở với thiên thanh (Thủy) Chú thích: (1) Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861 (Histoire de l’Expédition de Cochinchine en 1861) Hoàng Phong dịch, NXB Phương Nam 2008, tr. 45. (2) Huỳnh Ngọc Trảng, Bến Nghé – Sài Gòn dòng sông thời gian, xem Nam bộ – Đất và người, NXB Trẻ 2002, tr. 69. (3) Sơn Nam, Sài Gòn xưa – ấn tượng 300 năm, NXB Trẻ 2008, tr. 113 (4) Xem Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường – Đình Nam bộ xưa và nay, NXB Đồng Nai 1999, tr. 118-119. Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Nguyên Trương, Tư liệu
Bài 29: Sài Gòn: “Con rồng đỏ” lên ngôi
Các nhà nghiên cứu phong thủy, địa lý – lịch sử và cả một số nhà văn nữa đã khẳng định Sài Gòn là vùng đất hưng long của triều Nguyễn, mà một trang “ngoại sử” về “hoàng đế” Phan Xích Long (con rồng đỏ) vẫn còn tươi rói…
Phan Xích Long (Phan Phát Sanh 1893 – 1916) sinh tại Chợ Lớn, tự xưng là Đông cung thái tử – con vua Hàm Nghi – lên ngôi ban yến và rải truyền đơn khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Bình Tây kêu gọi dân chúng nổi dậy đánh Pháp. Lá cờ lịnh của Phan Xích Long được dựng lên với dòng chữ “Nam Kỳ, Chánh nguyên soái, Phục quốc”. Đoàn quân của “hoàng đế đỏ” mang theo các lá cờ khác nhỏ hơn ghi: “Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, Lục nhâm, Lục giáp, Lục đinh, Ngũ quỷ, Thất sắc, Bát quái, Cửu thiên, Thập phương”. Dưới đây chúng tôi giới thiệu một số tài liệu để bạn đọc tham khảo về một nhân vật lừng lẫy trên miền đất hưng long này, đã chiêu mộ dưới trướng những tay anh chị trong giới giang hồ mã thượng để chống Pháp chấn động một thời… Phan Xích Long là “Hoàng Đế thống trị Trung Hoa”? Nguyễn Thanh Tiến, trong bài “Góp thêm ý kiến về hội kín Phan Xích Long”, (Tạp chí Xưa và Nay, số 282 IV-2007), viết: “Bên cạnh tư tưởng thần bí, hội kín Phan Xích Long còn thể hiện tư tưởng tôn quân. Phan Xích Long tự xưng là thái tử, con của vua Hàm Nghi và luôn mang bên mình chiếc khánh có chữ “Đông cung”. Sau đó, Phan được người trong hội kín tôn lên làm hoàng đế với đầy đủ áo, mão, gươm, ấn…. Cây gươm của Phan có khắc dòng chữ “Tiên đả hôn quân, hậu trảm loạn thần” (trước đánh hôn quân, sau chém loạn thần). Cái ấn có hình đầu rồng trên cái ngù, phía dưới khắc dòng chữ “Đại Minh quốc, Phan Xích Long hoàng đế, thiên tứ ngọc tỉ” (Nước Đại Minh, hoàng đế Phan Xích Long, ấn ngọc trời ban). Ngoài ra, Phan còn có cái khánh khắc tên Phan Xích Long (Xích Long nghĩa là con rồng đỏ) và cái xuyến đeo tay. Ở phía ngoài chiếc xuyến có dòng chữ “Đại Minh quốc, Phan Xích Long hoàng đế thống trị Trung Hoa”. Tất cả những món đồ này đều làm bằng vàng, trị giá đến “ba bốn ngàn đồng bạc lớn”. Chính Hai Trí và hương sư Tài đã đặt cho hai người thợ bạc là Võ Văn Giàu và Năm Kiểu làm các món đồ vàng ấy. Để tăng phần oai nghiêm cho hoàng đế, những người chủ chốt trong hội còn bày ra việc cúng lễ. Chỗ Phan Xích Long ngồi được họ trang trí đèn hoa rực rỡ. Khi mọi người vào lạy thấy Phan ngự trên ngai vàng “hào quang sáng loáng, sánh dường một vị trời sai xuống đánh cùng người Lang Sa mà lấy lại nước cho trăm họ được nhờ”. Rõ ràng, “hoàng đế” Phan Xích Long đã được thần thánh hóa nhằm mục đích động viên người dân tham gia hoạt động cứu nước.
Phan Xích Long mặc hoàng bào Ở đây có một điều đáng lưu ý là tại sao cái ấn và xuyến đeo tay của Phan Xích Long lại khắc dòng chữ “Đại Minh quốc…” và “Phan Xích Long hoàng đế thống trị Trung Hoa”? Chúng ta nhớ rằng, Phan đã xưng mình thuộc dòng dõi Hàm Nghi – một vị vua yêu nước của Việt Nam. Vậy tại sao chữ trên ấn không phải là “Đại Nam quốc” hay “Việt Nam quốc”? Ba chữ “Đại Minh quốc” khiến ta dễ liên tưởng đến Thiên Địa hội của người Hoa với tôn chỉ “Phản Thanh phục Minh”. Bản thân Phan Xích Long cũng có lúc nhận mình thuộc dòng dõi của vị vua lập nên triều Minh. Phải chăng đây là cách che dấu mục đích thật sự của hội kín trước chính quyền thực dân? Hay do được tổ chức theo kiểu Thiên Địa hội Trung Quốc nên hội kín Phan Xích Long đã dùng luôn khẩu hiệu “Phản Thanh phục Minh” để làm lớp vỏ ngụy trang?” Sơn Nam với tài liệu về Phan Xích Long và Thiên Địa Hội
Sơn Nam trong cuốn biên khảo “Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam – Miền Nam đầu thế kỷ 20 – Thiên địa hội và cuộc Minh Tân” (NXB Trẻ 2003, trang 140-141) kể: “Đêm 23, rạng 24 tháng 3 dương lịch 1913, nhà cầm quyền Pháp phát giác 8 quả bom, bốn quả gài ở Sài Gòn, bốn quả gài ở Chợ Lớn, nhưng không trái nào nổ cả. Bốn ngày sau, nhiều toán nông dân ước lượng là 600 người (theo G. Coulet) mặc đồng phục mang bùa tìm cách đột nhập vào Chợ Lớn từng toán nhỏ để chờ hoàng đế Phan Xích Long xuất thế nhưng âm mưu nầy thất bại. Phan Xích Long bị bắt ở Phan Thiết, giam vào Khám Lớn Sài Gòn.
Khám Lớn Sài Gòn, nơi các hội viên hội kín tổ chức tấn công giải cứu Phan Xích Long, năm 1916 Đêm 14 rạng ngày 15 tháng 2 dương lịch 1916, cuộc khởi nghĩa bùng nổ tại chợ Sài Gòn, với qui mô khá to, sau nầy được gọi là cuộc phá Khám Lớn Sài Gòn để giải cứu cho hoàng đế Phan Xích Long (bị bắt từ 1913). Ghe xuồng phía Chợ Lớn (tỉnh Chợ Lớn) kéo đến Sài Gòn từ hồi 3 giờ khuya, đổ bộ khoảng giữa cầu Ông Lãnh và cột cờ Thủ Ngữ, chừng 300 người mặc đồng phục quần trắng áo đen, khăn bịt đầu, mang gươm giáo với ý định phá Khám Lớn, đánh chiếm dinh quan Thống đốc Nam kỳ, phá nhà đèn, chiếm kho đạn, giết người Pháp. G. Coulet đã ghi ra một số tên người, tên địa phương do chánh quyền thực dân Pháp đã phát giác ra cho rằng liên quan đến Thiên Địa hội”. Ở một đoạn khác, Sơn Nam cho biết khi xông trận, những người thuộc Thiên Địa hội “mang theo trong mình và ngậm hai lá bùa ghi chữ Lục đinh và Lục giáp. Lục giáp tại tả (bên trái) tiêu biểu cho Dương, Lục đinh tại hữu (bên mặt) tiêu biểu cho Âm. Gặp cơn nguy, hội viên thỉnh Lục đinh và Lục giáp tới tiếp cứu, tức thời đá bay cát chạy, hóa ra cảnh tối tăm khiến cho đối phương không thấy đường. Lục đinh và Lục giáp là bùa để bảo thân (xuất quân bảo thân phù).
Gặp lúc an lạc, làm chủ tình hình không sợ nhà cầm quyền theo dõi thì hội sở trang hoàng khá xinh đẹp, nào tranh vẽ bát tiên, nào là câu đối. Người “đại ca” ung dung hút thuốc phiện với hầu thiếp, uống trà rượu; trên vách dán câu đối biểu lộ phong độ chủ nhân: Phước địa hữu trần, phong tự tảo / Đức môn vô sự nhựt thường khai. Nơi đất phước, nếu có bụi thì gió quét bụi, nhà có đức thì không bao giờ xảy ra chuyện phiền muộn, ánh nắng chiếu vào sáng sủa. Đúng là phong vị Lão – Trang”. Vương Hồng Sển với những trang về “Con rồng đỏ” Cụ Vương Hồng Sển trong “Sài Gòn năm xưa” cũng viết: “Phan Xích Long bị cò Tây bắt tại Phan Thiết, còng giải về Sài Gòn. Đồng đảng, cả thảy bị bắt một trăm mười một người, đem ra Tòa Áo Đỏ xử tử mồng năm đến mười hai tháng mười một dương lịch 1913, tha bổng năm mươi bốn ngườu, kêu án năm mươi bảy người: Phan Xích Long, Nguyên Tri và Nguyễn Hiệp, án hiện diện, còn ba người Nguyễn Màng, Trương Phước và Nguyễn Ngọ trốn thoát không bắt được, bị án khiếm diện. Ba người này bị giam Khám Lớn Sài Gòn, làm chấn động giới giang hồ mã thượng. Qua năm Bính Thìn (1916), giữa trận Âu châu đại chiến 1914-1918 bên trời tây, Tây thua xiểng liểng thì đêm mười hai tháng giêng âm lịch, đảng kín “Thiên địa hội” tổ chức cuộc phá khám định cứu các “đại ca” ra khỏi vòng lao lý. Ban đầu rất nhiều thuyền ghe nhỏ tứ xứ đến đậu chen nhau dưới gầm cầu móng Khánh Hội, đến ba giờ khuya là khởi sự. Dưới khẩu hiệu “đại ca”, các đồng đảng thảy đều uống bùa, cổ mang phù chú, tay cầm gươm mác, kéo lên phá Khám Lớn Sài Gòn (…). Ba mươi tám người bị xử tử tại Đông tập trận và bắn ngày hai mươi tháng hai năm 1916, mười ba người bị xử bắn ngày mười sáu tháng ba năm 1916, kể luôn hai người đêm phá khám tử chiến tại trận tiền và bốn người bị hạ sát tại Xóm Dầu, thì cuộc phá khám 1916 đã khiến năm mươi bảy vị “anh hùng” tên ghi vào sử nhưng thây thì bị chôn vùi “Đất Thánh Chà” đường Hiền Vương (Võ Thị Sáu), cho đến mới đây nghĩa địa nầy bị ban phá ra bình địa xây xóm nhà anh em lao động tài xế, đô thành, mồ mả xiêu lạc mất tích luôn, nhưng danh thơm còn mãi trong trí óc người yêu nước”.
Đường Phan Xích Long hiện nay Hiện ở TP. HCM có một con đường mang tên Phan Xích Long chạy dài qua vùng đất của các phường 1, 2, 3 thuộc quận Phú Nhuận, dài 490m kéo từ đường Nguyễn Đình Chiểu (không phải đường Nguyễn Đình Chiểu ở quận 3 và quận 1) tới đường Vạn Kiếp. Nguyên con đường này là đường đất lúc mới lập vào cuối thời Pháp, gọi là đường Hương Mão. Từ thập niên 1940, sau đổi thành đường Thái Lập Thành từ thời Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống miền Nam, đường mang tên Phan Xích Long được gọi từ sau năm 1975 với lộ giới mở rộng đến hơn 35m. Người qua lại tấp nập hàng ngày chắc hẳn còn nhớ cuộc nổi dậy của “hoàng đế đỏ” vang dội năm nào… Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Nguyên Trương, Tư liệu