Tam menh thong hoi q12

Page 1

Tam Mệnh Thông Hội Quyển 12 Chân Bảo phú (Binh bộ Thượng Thư Vạn Kỳ thời Minh biên soạn –Vạn Dân Anh tiên sinh hiệu là Dục Ngô sơn nhân chú giải) Quan tinh đới Nhận không khắc phá, nắm đại quyền binh hình; Tài Ấn giúp nhau không có hình xung, quý đăng Hoàng các Tam Công. ( Chính Quan cách. Dương Nhận ở cùng Tài Ấn giúp nhau, có Thương quan thì khắc, có hình xung thì phạm. Không Ấn, không Nhận, chỉ có Tài tinh giúp nhau, cũng cát. Tuế cũng vậy. ) Tài Quan sinh vượng phùng Ấn thụ, bái hoạch viên hiến phủ chi tôn; tam hợp Ấn Tài hội cục toàn, quý đăng Chư Hầu Ngũ Mã. ( Tài Quan sinh vượng cách. Trụ có Thiên, Chính Ấn, lại có tam hợp Ấn cục, hoặc Tài cục, là cát. ) Thương quan phùng Kiếp Nhận, kiêm lẫn nhau lộ ở giờ; Nếu Ấn thụ tương phù, đăng Long môn lúc tuổi trẻ. ( Thương Quan cách. Thân nhược hỷ Nhận Ấn giúp đỡ nhau, thì cát. ) Thương quan đắc Thực thần phụ trợ nặng, nói lấy bức tranh lầu tía Ngụy tướng công; tuế vận kị chế phục hình xung, lại tiếp tục có Thương quan mà họa đến. ( Thương quan gặp Thực thần trùng điệp phù nhau, cát. Chỗ kị hình xung cùng chế phục thái quá. Phục hành vận Thương quan, họa đến bất trắc. Trong trụ không có Quan, hỷ hành lúc Quan vận; không có Ấn, hỷ hành vận Ấn thụ, chủ dời quan. Tuế vận giống vậy. ) Tài giúp Thất Sát, uy quyền độc áp vạn người; nếu Ấn tương phù, đoán định quan cư cực phẩm. ( Thất Sát cách. Hỷ Tài sinh trợ, lại được Ấn hóa, rất tốt. Duy chỉ có Sát, cho nên có chủ quyền; được Ấn, cho nên làm quan cực phẩm. ) Tháng đã hội cùng Sát Nhận, tên tuổi sánh Hoắc Quang thời nhà hán; Năm giờ lại mang Tài Ấn. Địa vị cao xếp hàng Đặng Võ Trung hưng. ( Thất Sát, Kiếp Nhận cùng ở nguyệt lệnh, năm và giờ có Tài, có Ấn, là tối quý. Nghĩa giống đoạn văn ở trên, nhưng chỗ này lại kiêm nói Nhận vậy. ) Sát thất thời mà Ấn vô khí, thêm chủ vượng mà đảm nhận thường lưu. ( Thất Sát, Ấn thụ, nếu không đương lệnh nắm quyền, còn nhật can tự vượng, dụng thần rất bé, chỉ có chức hư thanh lãnh đạm. Tuế vận hành Tài Sát, thì cát. ) Ấn nắm lệnh mà Sát tương phù, lại thấy Tài làm quan Hàn Uyển. (Ấn thụ cách. Phải nắm quyền nguyệt lệnh, chi ngày lại đắc trọng sinh khí vượng, không thấy hình xung phá hại. Chỉ được một Tài, một Sát là hay, không nên thái quá. Tài Ấn lưỡng đình chỉ là


thường lưu vậy. 《 Phú 》 lại nói: Ấn thụ trọng phùng, Quan cư Hàn Uyển là vậy. ) Thiên Tài thời thượng kiến Quan, sớm đăng tên bảng vàng; lại được Thực thần phụ giúp, thiếu niên gần với thượng giới. ( Thời thượng Thiên Tài cách. Năm tháng có Quan tinh, lại có Thực trợ giúp, câu trên rất chuẩn. Kị Tỉ Kiếp, phùng Tỉ, thì trăm không toại một. ) Phúc Đức kiến Tài mà ẩn Quan, quan cư cực phẩm; trụ vận phùng Ấn mà không có thổ, chỗ đến dưới cô hình. ( Phúc đức. Ví dụ như ngày Nhâm Quý, sinh ở 3 tháng mùa đông. Hỷ Tài Quan trợ giúp nhau, can chi tác hợp, hoặc đắc hỏa cục, cùng Thìn Tuất Sửu Mùi, nhưng chỉ có một chữ mới tốt. Nếu không có Tài Quan, mà gặp Ấn thụ, không hành Tài Quan, mà hành Ấn thụ cùng vận bắc phương, là hình thê khắc tử, là mệnh cô quả bần tiện vậy. ) Lục Nhâm xu Cấn, thấu Tài Ấn là tuyệt diệu; Quan Sát tương xâm, lại bần cùng mà còn hạ tiện. ( Ngày Lục Nhâm gặp giờ Nhâm Dần, là Xu Cấn cách vậy. Năm tháng lại thấy Dần, thiên can thấu Đinh Tân là vi diệu, phú quý song toàn. Tối kị Quan Sát, hoặc thấy ở hành vận, cốt nhục lục thân phân tán, là người bần bạc nô tỳ vậy. ) Lục Giáp xu Càn, hỷ Tài Ấn mà vị trọng danh cao; tuế vận xung hình, cùng Sát Quan mà tai hưng họa đến. ( Ngày Giáp gặp giờ Ất Hợi, là Xu Càn cách vậy. Năm tháng lại thấy Hợi, lại gặp Tài tinh, trùng gặp Ấn thụ sinh thân, Chính Quan tự nhiên xuất hiện, lại hành đất Tài vượng, là cát. Kị chữ Tị hình xung, Quan Sát khắc phá, Giáp Ất Kiếp đoạt. Tuế vận cũng vậy. ) Tài túc điệp phùng đắc Ấn sinh, thiếu niên thụ phúc. (Tức là trước Tài sau Ấn, trái lại thành phúc, không thể thấy Tài phá Ấn là sợ. ) Đảo xung đới Ấn gặp Tài Thực, tuổi trẻ thành danh. ( Đảo xung Lộc Mã cách. Chính là các ngày Bính Ngọ, Đinh Tị, Tân Hợi, Quý Hợi, trụ có Thiên Ấn, lại hành vận Tài Thực, là quý. Kị điền thực, Quan Sát không tốt. 《 Phú 》 nói: "Đảo xung đới Ấn, tuổi trẻ thành danh, Tài Thực phụ nhau, thân gần thềm son" là vậy. ) Tuế Đức phù can, hỷ Tài tinh mà sợ chế phục; ở vận Ấn tinh, hội Dương Nhận mà nắm binh hình. ( Can năm Thất Sát gọi là Tuế Đức, không nên thấy trùng, tối hỷ Tài tinh cùng Ấn thụ, Dương Nhận không thể chế phục, tuế vận giống vậy. Như Giáp Thân, Kỷ Tị, Mậu Tý, Quý Hợi, Tuế Đức không có chế, giờ có Thất Sát đắc dụng, có Ấn hóa Sát trợ thân, có Nhận hợp Sát phù thân, cho nên đại quý. ) Nhị Đức phối Quan, Vương Lăng làm tường nhà Hán. ( Như ngày Tân sinh tháng 9, lấy Bính là Thiên, Nguyệt nhị Đức, lại là Chính Quan, hỷ Tài tinh trợ giúp, kị Thương quan khắc chế. 《 Phú 》 lại nói: "Bình bang quốc, Thống lục sư, dựa vào Quan biến thành Nhị Đức" là vậy. Như Ất Hợi, Bính Tuất, Tân Sửu, Mậu Tý là hợp cách. Quan lại biến thành Đức, chỗ làm quan là vô họa; Tài biến thành Đức, đắc thiện trung tài bạch; Ấn biến Đức, chủ nhận tài sản của tổ phụ để lại mà vô họa; nhật can biến Đức, thì chủ bản thân. )


Tài tinh Tú Đức, Tạ An lập đại công nhà Tấn. ( Như Mậu Kỷ, lấy Giáp Ất làm Quan, Nhâm Quý làm Tài, Nhị Đức thấu can, là thần Tú Đức. Không có Canh Tân chế phục, không bị Tỉ Kiếp tranh đoạt, là đại quý. Lại như, ví dụ ngày Ất lấy Canh làm Quan, sinh tháng Tị Dậu Sửu. Bính Đinh dụng Canh Tân là Tài, sinh tháng Tị Dậu Sửu. 《Phú》 lại nói: "Vua Thương phù Hán, bởi vì Tài Quan mà thành vinh Tú Đức" là vậy. Hoặc lấy Tú Đức làm Phúc Đức tú khí, lại thêm Tài Quan càng hay. ) Thương quan nhiều mà kiến Quan, đá ngu sinh ngọc; vốn có Quan mà thấy tiếp tục, tai họa liên miên. ( Thương quan cách, yêu cầu trong trụ thấy trùng Thương quan, như có một vị Chính Quan, là quý. Không có Quan hỷ hành Quan vận. Thương quan như đá, Chính Quan như vương, nếu có Quan, tiếp hành Quan vận, thì họa. ) Thương quan như mang Sát Nhận, xuất tướng làm tướng vào Công Hầu. ( Thương quan làm chủ, trụ mang Sát Nhận, lại được Ấn thụ, đương thời đắc lệnh, có tình lợi ích cho nhau, không bị hình xung, là cách cực đỉnh. 《 Phú 》 lại nói: "Thương quan đới Nhận, có Ấn đầy đủ, là đảm nhận một binh phù" là vậy. ) Đức tú nếu trợ Thương quan, nắm binh quyền mà phục trọng hình. ( Chỗ này lại kiêm nói Đức Tú, đều lấy Thương quan cách làm chủ. ). Địa chi đủ Tý Ngọ Mão Dậu, thành đại cách mà văn võ kinh bang. ( Có đủ Tứ Trọng, phải xem thiên can thế nào, phải thành đại cách mới tốt. ) Trụ đủ Tị Hợi Dần Thân, thêm kỳ nghi mà chấn chủ uy quyền. ( Trụ đủ Tứ Mạnh, phải xem thiên can thế nào, lại được kỳ nghi là vi diệu. ) Mộc sinh tháng Mão, giờ hội Ngọ mà chấn động ly minh; vận đến tây nam, làm quan cực phẩm. ( Chỗ này là Mộc Hỏa thông minh cách vậy. ) Thực gặp Ấn nhiều lại thấy cướp xung, tuổi thọ tất yểu. ( Đây là chỗ kỵ của Thực cách. ) Trụ thịnh Thực thần vận Tài hương, công danh có chuẩn. ( Chỗ này là chỗ hỷ của Thực cách. ) Triều dương đới Ấn Tư Mã túc, thanh tỏa hoàng môn; trụ không Tài Ấn, chức cư dân mục. Tuế vận rất sợ điền thực. ( Lục Âm triều Dương cách. Hỷ Ấn thụ, Tài tinh, nhập cách ở trong năm tháng, mà không có Tài Ấn thì giảm nửa phần. Vận hành Tài Ấn, quan cư chuyển vận, kị xung hình điền thực. Lại nói: Triều Dương mang Ấn, thanh triều đạt sĩ; Tài tinh trợ giúp, vinh không nhỏ, tức nhận quốc phong. Trụ không có Ấn Tài, phần đa là cư mục, chức thủ Tri Châu. ) Thử Quý đới Thực tư Ấn diệu, vi viên phiên tỉnh; trụ có Quan Sát, bần cùng hạ tiện, vận đồ không hỷ hình xung.


( Lục Ất Thử Quý cách. Hỷ Thực thần trọng kiến, cùng Ấn thụ là cát. Kị Quan Sát xung hình hại. ) Tý Sửu diêu hợp Tị cung, trụ Ấn Tài mà làm cực bảo; tuế vận nếu không có phụ tá, đăng ti chức mà tọa hàn chiên. ( Hai cách Tý Sửu Diêu Tị. Yêu cầu trụ có Tài Ấn, tất quý. Không có thì không phải. Vận gặp Tài Ấn, cũng phát. 《 Phú 》 lại nói: "Tý Sửu diêu hợp Tị cung, được Tài Ấn mà thành chí bảo" là vậy. ) Luận đạo thụ bang, hỷ Tài Quan tự lộc mà tự vượng. ( Ví dụ như ngày Giáp lấy Tân làm Quan, được Dậu là Kiến Lộc, Kỷ thổ là Tài, trường sinh ở Dậu. Nhập tượng, là đại quý. Kị hình xung Thương quan vận, tuế cũng vậy. Như Ngô Nhạc Thượng thư: Giáp Tý, Quý Dậu, Giáp Thìn, Giáp Tý. Là hợp cách, mất năm Canh Ngọ, cuộc đời chính khí quân tử. ) Điều nguyên tán hóa, bởi vì Tam Kỳ tự vượng mà tự sinh. ( Chính Quan, Chính Ấn, Chính Tài là Tam Kỳ. Ngày Ất lấy Canh làm Chính Quan, được chữ Tị trường sinh; Nhâm là Chính Ấn, sinh ở Thân; Mậu là Chính Tài, sinh ở Thân, là nhập tượng, đại quý. Như Đàm Luận Thượng thư: Canh Thìn, Giáp Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ, Tài Quan Ấn đều vượng. Hồ Tông Hiến Thượng thư: Nhâm Thân, Tân Hợi, Đinh Dậu, Nhâm Dần, Tài Quan kiến Lộc Ấn trường sinh, Đinh hỏa tự sinh ở Dậu, là đất quý thần, lại thành tượng hóa mộc. Cho nên uy chế tứ tỉnh, quan cư nhất phẩm. ) Lan Xoa đắc Ấn lộc tương trợ, quan cư phụ bật a hành; hỏa kiếp kiêm tuế vận bất hòa, lại lấy bần cùng mà hạ tiện. ( Cách này trong trụ có Lộc thần, Thiên, Chính Ấn, thiên can được Tài Ấn là vi diệu. Nếu thấy hỏa thần, Kiếp Nhận thái trọng, tuế vận bất hòa, là bần tiện. ) Lộc phùng Tài Ấn, thanh niên cập đệ đăng khoa; tuế vận hình xung, gặp Quan Sát là không hay. ( Quy Lộc cách. Trong năm tháng giờ có Ấn, có Tài, địa chi tam hợp là vi diệu. Vận hành đất Tài Ấn, cát. Kị hình xung, phá hại, Quan Sát phá cách. ) Kim thủy thanh trong bị thương, văn chương hiển đạt mà tuổi thọ khó dài. ( Trong trụ có kim cục Tị Dậu Sửu, thủy cục Thân Tý Thìn, đủ hai cục, viết là Kim bạch Thủy thanh. Nhưng bị thiên can Bính Đinh Mậu Kỷ hỗn khắc, thì tốt mà không thọ. 《 Phú 》 nói: "Kim thủy thanh trong bị thương, Nhan Tử tú mà không thực" là vậy. ) Mộc hỏa suy thịnh không bình, công danh thặng đặng mà yểu chiết là không sai. ( Ngày Ất sinh mùa hạ, trong trụ nhiều Bính Đinh Ngọ Tị hỏa, là công danh thặng đặng, văn danh là Khí tán. Trụ không có Tài Ấn, thì tan thành tro bụi, khắc tử thương thê, hoặc là tàn tật . Được Kiếp Nhận bang trợ, Nhâm Quý sinh phù, Mậu Kỷ giúp ích, công danh tuy có, cũng nhỏ mà thôi. ) Vân Long phong Hổ nếu theo nhau, định làm đại khí thánh triều. ( Vân Long phong Hổ, như Giáp Ất sinh 3 tháng mùa xuân, hoặc tháng Hợi Mão Mùi, là sao Thanh Long, thiên can phải có Nhâm Quý thủy, gọi là Vân Long tương tòng. Hoặc Canh Thân, Tân Dậu, nếu gặp một chữ, là thần Bạch Hổ tây phương, thích gặp Hợi Mão Mùi gặp hợp chữ Tị là Tốn phong, thì quý. Nếu thấy điền thực, lại không có vân vũ (mây mưa), gọi là Hạn Long; có dương mà không có âm, là có vua mà không có thần, cương nhu không cứu nhau, trái lại là kẻ tầm thường vậy.


Hoặc lấy Thìn là Long, Dần là Hổ, Nhâm là Vân, Tị là Phong, cục đủ Dần Thìn Tị Nhâm, là đại quý. ) Phi Lộc Đảo xung kiêm Ấn thụ, tất là danh công chiêu đại. ( Phi thiên Lộc Mã Đảo Xung cách, hỷ Ấn Tài. Kị Chính Quan, Thất Sát xung hình, điền thực. Nếu hành Ấn Tài cùng đất tam hợp, cũng cát. ) Thân tuy vượng mà Quan lộc là khinh, Mã là giảng kinh nghệ ở thao trướng. (Như ngày Giáp Dần, dụng Tân làm Quan cùng sinh 3 tháng mùa đông, hoặc tháng 4, 5, dụng thần đã cạn, lại không có Tài tinh trợ giúp, là mệnh dừng đức sư. Như sinh mùa hạ, mà Tài tinh trợ giúp, danh tựa Đào Chu. Nếu khắc được chế phục, hỏa trọng thì không phải.) Cách không thanh mà dụng thần hưu phế, Tiêu Tào khởi đao bút ở tây Tần. ( Nghĩa giống như trên. ) Giáp Ất nếu nhập Càn cung, hội mặt Thìn Long. Tất quý. ( Hai chữ Giáp Ất thấu nhiều ở can đầu, địa chi thấy Hợi, lại được chữ Thìn. Danh là Lục Giáp xu Càn cách, cát. Như tứ trụ nhập tượng, chủ đại quý. ) Kim Thần như phùng Nhâm Quý, đắc Tị Ngọ là tốt. ( Người sinh ngày Giáp Ất, được Nhâm Quý Ấn sinh phù, chi mang Tị Ngọ. Là Thủy Hỏa ký tế, tượng Rồng được bay cao, nói thi công làm mưa.) Canh gặp Nhâm Quý tọa Sát Án, mà Chu Du vị trọng. ( Sinh ngày Lục Canh, trong trụ nhiều Nhâm Quý, thân tọa Thất Sát, Ấn thụ, chủ đại quý. Như Hà Thượng thư: Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Ngọ, Bính Tý. Mệnh của tôi (tức mệnh của Vạn Dân Anh cư sĩ hiệu Dục Ngô sơn nhân thời nhà Minh) là: Nhâm Ngọ, Quý Sửu, Canh Dần, Bính Tuất (tức sinh ngày 14/1/1763 DL, giờ Tuất nhằm ngày 1 tháng 12 năm Nhâm Ngọ âm lịch). Đều hợp cách này). Quy Xà trì kiếm kiêm Kim Nhận, nhi cổ phục danh cao. ( Sinh ngày Nhâm Quý, trong trụ nhiều Bính hỏa, hoặc là nhị cục Dần Ngọ Tuất, Thân Tý Thìn. Thủy thuộc Quy, Hỏa thuộc Xà, tượng danh là Quy xà Trì Kiếm. Trụ không có kim, thì không ra thanh kiếm. ) Canh Tân trọng mà giờ thấy Tị Hợi, là Hổ khiếu sinh phong. Được Mậu Kỷ theo giúp, quan cư cực phẩm. (Nhật chủ Canh Tân, lại thấy can Canh Tân, trong năm tháng giờ gặp một Tị là Tốn phong; hoặc được Hợi cũng được. Hỉ Giáp Ất Hợi Mão Mùi, vận hành đông nam, quyền cao lộc trọng. Hành bắc phương, phú. Nhập tây, họa khó lường. ) Nhất khí tương sinh, xưng Ngũ hành thuận Thực, địa vị gần Tam Thai. (1. Sao Thai: Tam Thai 三台 sao Tam-Thai. Sách thiên văn nói sao ấy như ngôi Tam-Công 三公, cho nên trong thư từ tôn ai cũng gọi là Thai. Như gọi quan trên là Hiến Thai 憲台, gọi Quan Phủ huyện là Phụ Thai 父台, gọi các người trên là Thai Tiền 台前 đều là theo cái nghĩa đó. 2. Thai Cát 台吉 tên tước quan, bên Mông-cổ chia ra bốn thứ để phong các con em nhà vua.)


( Nhất Khí tương sinh, tức Giáp sinh Bính, Bính sinh Mậu, Mậu sinh Canh, là ngũ hành thuận thực. Thêm địa chi hỗ ích, đại quý. Hoặc lấy Thiên Nguyên nhất khí giải thích, là không phải. ) Kim Thần đới Nhận, gặp hỏa địa sáng rực, quan cư Nội Các. ( Kim Thần cách. Trong trụ có Dương Nhận, lại hành hỏa hương, đại quý. ) Thời thượng Thiên Quan, hỷ Kiếp Nhận Ấn Tài, mà ở năm tháng. ( Thời thượng Thiên Quan cách. Trong năm tháng giờ, có Tài giúp Ấn hóa, Nhận phù thân cường, chủ quyền Phong Hiến. ) Phụ truyền tử đạo kiêm văn võ, tương tương nhi hiển triều đình. ( Sinh ngày Ất, phùng giờ Nhâm Ngọ, là đúng. Ất thuộc đông phương thần Thanh Đế, Ngọ thuộc nam phương thần Đại Đế. Ất là cha, Ngọ là con, gặp trên can Nhâm thủy, lại sinh Ất mộc, là nhà cha truyền đạo cho con, Thanh Xích nối tiếp nhau là vi diệu. Nhập cách này, một đời cao công, áp đảo nghìn quan. Không hợp thủy thịnh, Ất mộc bị phù phiếm. Trước có nói Mộc sinh tháng Mão, hội giờ Ngọ là Chấn động Ly minh, vận đến tây nam làm quan cư cực phẩm vậy. ) Thương quan thấu còn Chính Quan ẩn, gặp Sát Ấn mà vị trọng quyền cao. ( Thương quan thấu ở can năm tháng giờ, Chính Quan ẩn ở bên trong trụ địa chi, có đủ Tài Ấn Thất Sát, là đại quý. ) Địa thiên giao mà cảm âm dương, đắc Mậu Kỷ là Tam Thai Bát Tọa. ( Ngày giờ được Hợi là Càn thiên, năm tháng được Thân là Khôn địa, mà can thấu Mậu Kỷ là Địa ở trên Thiên, ý có âm dương giao cảm, trong dương ngoài âm, thấy thuận tượng. Nhập cách này, là đại quý. ) Mộc thịnh kim phồn, đắc ly minh mà công trung chính trực. ( Mộc dựa kim gọt, phồn thì kim quá nhiều, cần có hỏa chế kim. Công trung chính tại, là nói bởi vì kim mộc vậy. ) Kim bạch thủy thanh, gặp trường sinh mà thông minh xuất chúng. ( Ngày Canh Tân, sinh ở tháng Thân Tý Thìn, địa chi tọa Tị, trụ có Nhâm Quý, không có hỏa thổ bác tạp, chủ thông minh có văn học. ) Hỏa minh mộc tú, phùng thổ hiện nhi tảo cổ ngao đầu. ( Sinh ngày Giáp Ất, trong trụ có Tị ở chữ Bính Đinh Dần Tuất, đặc biệt sinh ở mùa xuân. Nếu địa chi có Ngọ Tuất Hợi Mão Mùi, đều được một chữ, cũng được, không câu nệ phải sinh ngày Giáp Ất. ) Thủy mộc sinh ở mùa xuân, gặp thổ kim mà lấy địa vị Công Hầu. ( Thủy kiến thổ, mộc kiến kim, là Quan. Thủy kiến Kim Ấn, Mùi kiến thổ Tài, mùa xuân thì mộc vượng thủy hưu, Tài giúp qua lại, cho nên quý. ) Kim phùng hỏa luyện, tuổi trẻ làm quan; Mộc được kim cắt, tuổi trẻ thành danh. ( Lời nói này là Ngũ hành cứu giúp lẫn nhau vậy. )


Kim đa thất hỏa, tính địa hung ngoan; Mộc thịnh vô kim, oán công danh không thành. Thổ trọng mà không có mộc khai thông, khốn khổ bôn ba; Thủy thịnh mà không có thổ chế phục, người phá gia dâm đãng. Hỏa thịnh mà không có thủy cứu, là bạo phu chết mà không hối hận. Mộc suy hỏa thịnh thành bụi bay, công danh chậm mà khó tránh chết yểu; Kim bạch thủy thanh bị Kiêu hại, văn chương tú mà tuổi thọ không dài. ( Ở đây nói chung ngũ hành, thiên đảng không có chế hóa, đều không cát. ) Kim bạch thủy thanh, thoát Kiêu thần mà văn chương ích hiển. ( Cùng ở trước nói: "Kim bạch thủy thanh, gặp trường sinh mà thông minh xuất chúng" xem lẫn nhau. ) Sát Quan lưỡng lộ, gặp Nhị Đức mà tước vị sùng cao. ( Nhị Đức, là Thiên, Nguyệt nhị đức vậy. Sát Quan lưỡng lộ cho nên hỗn tạp, được chỗ này giải trừ, cho nên quý. ) Tài tư Thất Sát, tử nghi ti tương cầm quyền cao. ( Trong trụ Tài vượng Thất Sát, Sát sinh Ấn, lại đắc địa trường sinh, nhật can vượng, cách cục thuần, đại quý. ) Kim Thần đới Sát, khấu đại khí chuẩn thiện Miếu đường. ( Kim Thần trọng phạm, năm tháng giờ lại gặp Thất Sát, đại quý. Kị hình xung. ) Tuế Đức phùng Tài Sát Tài căn, sớm đăng hiển sĩ; lại thêm Ấn Nhận không có đố hợp, đến dự cao khoa. ( Cùng trước đây có nói: "Tuế Đức phù Can, hỷ Tài tinh mà sợ chế phục; Ấn tinh ở vận hội Dương Nhận, mà nắm binh hình." Nghĩa là giống nhau. ) Tuế Đức phùng Tài, thiếu niên thỉnh mời; Tuế Đức đới Nhận, tuổi trẻ thành danh. ( Tuế Đức là Sát trọng, cho nên nhiều lần nói. Thỉnh mời, trẻ mà thành danh, sớm đạt cao khoa mà đăng hiển sĩ. Lấy năm quản tuổi trẻ, là do Sát chủ uy phong vậy. Giả như ngày Giáp thấy năm Canh gọi là Tuế Đức, trong trụ phải có Mậu Kỷ giúp Sát, Tị Dậu Sửu là Sát căn mang Nhận, hỷ hành Ấn thụ, kị Chính Quan là thần đố hợp. ) Tháng Thất Sát mà năm giờ mang Thực, hiệu là Hiến phủ phong sương. ( Thực thần chế Sát, lý là tất nhiên vậy. ) Tháng Sát Ấn mà giờ Thương quan, nhận hậu sủng Phượng các Long lâu. ( Nguyệt lệnh có Sát, Ấn, can chi năm được chỗ này là cực diệu. Nếu giờ thấu Thương quan, là vợ của Ấn, lấy Sát chế, cho nên chủ đại quý. ) Ngày Bính hỏa mà giờ nhập Hợi cung, đẹp tựa mặt trời mà văn minh tứ hải. ( Ngày Lục Bính, mà giờ được Kỷ Hợi, Hợi thuộc Can là thiên, hỏa ở trên trời, không có chỗ nào là không chiếu sáng. Mệnh có tượng này, từ nhỏ đến già, vị cao đại hiển, đảm nhận nắm binh hình. Trên phò thiên tử, dưới thuận tứ thời, ngoại phủ tứ di. Chỗ kị hình xung, phá hại, có cứu là cát.


《 Phú 》 nói: "Dương hỏa giờ phùng cung Hợi, văn minh quang chiếu khắp tứ hải" là vậy. ) Can dương huỳnh mà giờ gặp Kỷ Sửu, xuất hồ địa mà chiếu diệu sơn xuyên. ( Ngày Bính gặp giờ Kỷ Sửu, là tượng mặt trời hiện ra trên mặt đất. Thuận mà dựa vào ở thiên, đứa đại minh. Như an quốc khang hầu, được ban cho nhiều, mệnh gặp chỗ này, là cánh tay đắc lực giúp nước an dân. Như mệnh Diêu Lai Trạng nguyên: Mậu Thân, Mậu Ngọ, Bính Thìn, Kỷ Sửu, là hợp cách. 《 Phú 》 lại nói: "Lục Bính giờ lâm Kỷ Sửu, mặt trời ở trên mặt đất là cực hiển" đúng vậy. ) Giờ Tân Hợi mà ngày phùng Đinh, là giờ Tam Kỳ mà sớm được khoa danh. ( Ngày Lục Đinh thấy giờ Tân Hợi, Tân là Thiên Tài, trong Hợi có Giáp mộc Chính Ấn, Nhâm thủy Chính Quan, gọi là Thời thượng Tam Kỳ. Tất chủ thiếu niên đăng khoa. Phú quý trường cửu. 《 Phú 》 lại nói: "Âm hỏa giờ Hợi, phú quý du du" là đúng vậy. ) Tháng kiến Thân mà năm giờ gặp Tý, là Khôn Khảm thuận mà tương tương khả kỳ. ( Muốn biết phú quý, trước tiên xem Nguyệt lệnh, là Đề cương. Tháng là Thân thuộc Khôn là Địa, chi năm là Tý cư Khảm là thủy, là quẻ Địa Thủy Sư, thủy không ở ngoài địa, binh không ở ngoài dân. Được tượng này, là đại quý. Giờ Tý cũng vậy, chi ngày Tý thì không phải. ) Giờ Ly năm Tốn ngày âm kim, thấu Giáp Ất là địa vị Tam Thai. ( Người sinh giờ Ngọ, chi năm gặp chữ Tị, ngày được Tân kim làm chủ, kim dụng cùng mộc là Tài, Ly hỏa là Quan, tượng danh viết là Nội được kỳ thuận mà Ngoại được cao minh. Nhu tiến mà đi lên, đắc trung mà ứng hồ cương. Nếu Tốn cư nguyệt lệnh, thi không phải, nhập cách là đại quý. ) Mộc tú hỏa minh xuân nắm lệnh, nhập tượng này đoạt khôi bảng nhãn. ( Trọng sinh ở mùa xuân. Trước đây có nói nghĩa: "Hỏa minh mộc tú, phùng thổ hiện mà sớm chiêm ngao đầu". ) Thực thần đới Nhận kết cục, mà địa vị đến Tam Công. (Là ba chức quan cao nhất thời phong kiến gồm: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo) ( Như ngày Giáp Thực là Bính, cần hỏa cục; ngày Kỷ Thực là Tân, cần kim cục. Chỉ được một chữ, lại thêm có Nhận trợ giúp, là đại quý. ) Thực thần đới Nhận tọa Quan, mà huân cao nhất phẩm. ( Nhật chủ tọa dưới Quan tinh, trong năm tháng giờ có Nhận Thực xuất hiện, là đại quý. Chỗ sợ có Thiên Ấn xung hình, nếu hành hai vận Tài Quan, đột nhiên bỗng phát. ) Quan tinh đới Nhận, Ban Siêu vạn lý phong hầu; năm tháng được giờ, Chu Bột đặc nhiên làm tướng. ( Cách chính tinh, dụng thần phải nắm thời. Trụ có Kiếp Nhận là Chính Quan Thê Tài, là cương nhu cứu nhau, lại được Tài tinh là quý. Quan tinh, Kiếp Nhận cùng hiện ở trên thiên can, càng quý. 《 Phú 》 lại nói: "Quan tinh đới Nhận, quý không thể nói. Năm tháng thấu lộ, Chu Bột đặc nhiên nhập tướng" là đúng vậy. Đắc thời, là lấy Quan tinh thừa vượng mà nói; Đới Nhận, là nói lấy can chi không câu nệ; Thấu lộ, là nói nhằm thẳng chỗ trọng vậy. Nhận là hung sát, mang Quan Thực, đều lấy quyền quý xem. Như Lý Bang Trân Đô hiến: Quý Dậu, Kỷ Mùi, Nhâm Tý, Canh Tý, là hợp cách. ) Tài Quan song mỹ, thấu Tài Ấn, mà tôn cư Thai Tỉnh; đến vận Tỉ kiên, thêm hình xung, quyết ôm


giữ gốc cây. ( Ngày Quý Tị, tọa hướng tháng 4; ngày Nhâm Ngọ, tọa hướng tháng Ngọ, thiên can thấu Tài Ấn, là quý. Không hợp ở vận bắc phương, lại sợ hình xung. Nên cân nhắc. ) Tài Quan sinh vượng, thiên can thấu lộ là vi kỳ, mà đến đai thắt lưng vàng. ( Tứ trụ có Tài tinh vượng, bất tất Chính Quan thấu, Tài tự sinh Quan, tuyệt kỳ. Hoặc Tài Quan lưỡng thấu, cư đất sinh vượng, đều là đại quý. ) Tài vượng sinh Quan, Ấn Nhận tương phù vi diệu, là Tam Thai Bát Tọa. (Trong trụ có Tài tinh vượng đắc lệnh, lại có Ấn Kiếp phù trì, đại quý. Chớ nên tiếp hành vận Tài tinh). Can Thực thần ma giờ cưỡi Lộc Mã, tuổi trẻ đề vinh danh Hổ bảng. ( Ngày Canh kiến giờ Nhâm Ngọ, ngày Tân kiến giờ Quý Tị, là đúng. ) Thấu Ấn thụ mà cách được Tài Quan, tuổi trẻ đảm nhận trấn thủ biên cương. ( Tài Quan cách, cần năm và giờ thấu Ấn là vi diệu. ) Nhật can kiện vượng, mà Ấn Nhận tương phù, Cung Thắng tử tiết tận nhà Hán. (《 Phú 》 lại nói: Sát vượng mà được Ấn Nhận phù trợ, Cung Thắng tử tiết ở Tây Hán, là tứ trụ thuần Sát. Hoặc là Quan tinh tòng Sát, được Ấn Nhận thấu xuất thiên can, chính là lương thần trung tiết vậy. Trước có nói Nhật can vượng mà Ấn Nhận thấu tương phù thì thái quá, chỗ này được xứ tốt sao? Lúc này lấy hậu là chính. Suy xét Cung Thắng, quân chỗ nhà Hán mà có thể tử tiết, hẳn phải là do ngũ hành thái quá mà tổn thương chăng?) Quan tinh đới Nhận, còn Ấn thụ đới Sát, là Doanh Châu Huyền linh Bộ Đại Đường.Đảm nhận Tam Công, ở Sát Nhận nắm quyền, đều gặp trường sinh, lại được Tài giúp, hàng cực quý. ( Như Giáp dụng Canh là Sát, Ất dụng Tân là Sát, trụ có Tý Tị, thì Sát ở trường sinh. Giáp kiến Ất, Ất kiến Giáp là Nhận, trụ có Hợi Ngọ là Nhận trường sinh. Lại được Tài giúp, Sát Ấn hóa Nhận, là cực quý. ) Ti yếu xu, đứng đầu Nhung Chính, vì Kiếp đới Ấn để giúp Quan. ( Nguyệt lệnh thời thượng Chính Quan, cần Dương Nhận giúp. Như Giáp dụng Tân là Quan, có chữ Ất giúp Quan là đáng vậy. ) Duỗi, cong hay bị đè áp, lý oan khiên, là vì Tài sinh Sát mà trợ Ấn. ( Tứ trụ có Thất Sát trùng điệp, lại được Tài Quan trợ giúp, thì Sát đắc thế, phục sinh ở Ấn vậy. ) Tiến nói thẳng, mà xu kim khuyết, là vì Sát Nhận lưỡng lộ ở thiên can. ( Đây là Sát cách. Mà Sát Nhận cùng hiện ở trong năm tháng giờ. ) Cư Hàn Uyển mà nắm đại quyền, là Chính Quan quy Lộc ở tứ trụ. ( Quy Lộc, là Chính Quan. Như Bính dụng Quý là Quan, có chữ Tý, thì Quý cư Tý Lộc, sinh ở 3 tháng mùa đông, là vi diệu.《 Phú 》lại nói: "Mệnh nắm ti luân, chức đến Ngọc Dường, là do Quý Lộc mà được thanh kỳ, là vậy. )


Năm Chính Ấn mà tháng Chính Quan, đàm nhận cư ở Quốc giám Hàn Lâm. ( Chính Quan hỷ hiện ở trong Nguyệt lệnh, Chính Ấn cần lộ ở trên tuế nguyên (năm). Không thấy thần xung khắc, đoạn văn trên là chuẩn. ) Cách thanh kỳ mà giờ đắc lệnh, xướng danh Hồng lư Ngọc điện. ( Cách cục thuần hòa không tạp, dụng thần đắc lệnh có khí, không có hình xung, phá hại, là tạo đại quý. 《 Phú 》 lại nói: "Cách thanh cục chính, là Ngọc điện lưu truyền" vậy. ) Bình Bang quốc, Thống Lục sư, dựa Quan tinh biến thành Thiên Đức. (Đã giải thích ở trước.) Lý âm dương, đăng Tể phụ, bởi vì Lộc Mã lại kem theo Trường sinh. ( Chính Tài, Chính Quan, đều có Trường sinh. Được Nhận sinh Thực, Thực sinh Tài, Tài sinh Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, hay là có chu lưu không dừng, tất chủ đại quý. 《 Phú 》 lại nói: Tài Quan có căn, nắm quyền điều hòa điều lý. Có bang trợ, là Trường sinh vậy. Tài Quan trường sinh lại có quý trường sinh, là nói chỗ cư đất trường sinh, không cần giải thích Nhận Thực tương sinh. ) Cách cục thuần hòa, mà Nhật can tự nhược, lãm tuyền thạch mà hảo u tê. ( Dụng thần tuy đắc thời, nhật chủ suy không thắng, là một người ở ẩn. Gặp vận phù thân, cũng phát. ) Cách cục bạc nhược mà dụng thần nhỏ bé, dẫu có tư sinh, vẫn chỉ là chức nhỏ. ( Nếu như chỗ dụng thần, không đắc thời lệnh, dẫu có được chữ giúp ích, bất quá cũng là quan nhỏ. So với cách cục thuần hòa ở trên là khác nhau. Thổ trọng mà chi thần tải dày, sợ Nguyên Vũ mà hỷ Thanh Long) Cách cục cẩu phùng, tất ưng đại quý. (Như ngày Mậu Kỷ, trong trụ lại trùng chữ Mậu Kỷ, hoặc được một chữ Thân ở địa chi, là đạo thuần nhu thuận. Phú hình có phương định, đại đức hợp không có cương khôn vậy. Gặp tượng này, đại quý. Kị Nhâm Quý, hỷ Giáp Ất. Vận cũng giống như vậy.) Mộc thịnh mà thổ dày phùng huỳnh, thuận đông phương mà hành Khôn địa; Trụ vận thuận hòa, định hiển công danh. ( Thiên ở nhất khí Giáp Ất, địa chi trùng điệp Mậu Kỷ, lại được một chữ Dần Ngọ Tuất, thuận đông phương, là mộc đắc địa vậy; Hành Khôn địa, là thổ đắc vị vậy. Như vậy, thì mộc càng thịnh mà thổ càng dày vậy. Ứng trên dưới 49 tuổi. ) Thổ đa mà cư trên Khôn Cấn, thì thiên đạo cứu dưới mà quang minh. ( Can Mậu Kỷ cư ở năm tháng, giờ, địa chi lại có căn, được đề cương ở Dần. Thổ là Khôn, là Địa, Dần là Cấn, là Sơn, chỉ có ở trong mà thuận ở ngoài, nghĩa là nhún nhường vậy; núi chí cao mà địa chí thấp, là khuất mà dừng ở dưới. Chỉ tượng này là phú quý hanh thông. ) Nhận phùng Lộc Mã Tam Kỳ, đắc lệnh thấu Tài, là quý Công Hầu nhất phẩm. Trụ hội hai cục thủy hỏa, lộ kim tàng thổ, là tượng Quy Xà trì Kiếm.


( Ở trước có nói tượng "Quy Xà trì kiếm kiêm kim đao, nhi cống phục danh cao" vậy.) Tài tinh biến Đức mà tọa Sát, Lý Tịnh kiêm văn võ toàn tài. ( Như ngày Bính Thân lấy Tân kim là Chính Tài, cần sinh ở trong tháng 4, tự tọa Thân trong có Nhâm thủy là Sát. Kỷ Mão lấy Nhâm thủy là Chính Tài, cần sinh tháng Thân Tý Thìn, là loại Thiên, Nguyệt nhị Đức. Cả hai đều biến thành Đức Tú, lại thêm Tài tinh biến Đức gặp sinh vượng, không có Kiếp đoạt. Võ thì diệt trừ cường bạo, Văn thì tạc thổ phân cỏ. 《 Phú 》 còn nói: "Tài tinh biến Đức, đăng cao trở thành cánh tay đắc lực giúp nước vậy). Sát Nhận được Ấn để giúp nhau, hiểu biết mà giúp cho triều đình. ( Sát sinh Ấn, Nhận hợp Sát, đủ là đại quý. ) Thương đới Tài Ấn, kiêm sinh vượng, mà làm rường cột. ( Nghĩa là Thương quan, dụng Tài, dụng Ấn vậy. Cần Tài Ấn sinh vượng, mới vi diệu.) Trụ đều hỏa thổ, phùng mộc khí mà vì nước vì dân. ( Hỏa sinh thổ là Thực Thương, mộc là Ấn của hỏa, là Quan của thổ, cho nên nói vậy). Vương Tăng khôi chúng sĩ, bởi vì Quan Ấn đới Thực lấy tương phù. Diệp Chính chiếm ngao đầu, là nhờ Ấn tinh tự Quan mà tự lộc. Thân vượng không có Tài Quan phụ trợ, không nghệ thuật cũng là tăng đạo. Nữ nhân phạm thuần Nhị Đức, được nhận ân sủng triều đình. (Tôi xem bài《 Phú 》này, không ngoài Tử Bình, nhưng nặng về Thất Sát, Dương Nhận, Thương quan, Thực thần, mà Tài Quan, Ấn thụ phụ giúp cùng thủ. Thành cách, hợp cục, tác đảng, chế hóa, biến Đức, đều lấy đại quyền đại quý, Vạn Công tai nghe mắt thấy, cho nên lấy phép Tử Bình mà phổ biến. Vạn Công cũng là kẻ sĩ hiểu biết vậy. ) Nguyên Lý phú (Từ Đại Thăng sáng tác - Vạn Dục Ngô giải thích) Nguyên Nhất khí, sinh Ngũ hành, thống lĩnh Tam Tài, tất cả vạn vật. Phát Càn Khôn diệu dụng, mấu chốt phân tách âm dương. Phát triển ở bốn phương, phân kỳ quý tiện, trong đó có đạo bát tự. Nhất định vinh khô, là lấy hiểu rõ sinh khắc chế hóa, thanh trọc quý tiện, thọ yểu hiền ngu. (Chỗ này là nguyên thủy của tạo hóa. ) Kim dựa thổ sinh, thổ đa kim mai. Thổ dựa hỏa sinh. Hỏa đa thổ khét. Hỏa dựa mộc sinh, mộc đa hỏa đốt. Mộc dựa thủy sinh, thủy đa mộc phiêu. Thủy dựa kim sinh, kim đa thủy trọc. Kim có thể sinh thủy, thủy đa kim trầm. Thủy có thể sinh mộc, mộc thịnh thủy rút lại. Mộc có thể sinh hỏa, hỏa đa mộc chát. Hỏa có thể sinh thổ, thổ đa mờ hỏa. Thổ có thể sinh kim, kim đa thổ biến. Kim có thể khắc mộc, mộc kiên kim khuyết. Mộc có thể khắc thổ, thổ nặng mộc gãy. Thổ có thể khắc thủy, thủy đa thổ lưu. Thủy có thể khắc hỏa, hỏa viêm thủy nhiệt. Hỏa có thể khắc kim, kim đa hỏa tắt. Kim suy gặp hỏa, tất thấy nung chảy. Hỏa nhược phùng thủy, tất là dập tắt Thủy nhược gặp thổ, tất là bế tắc. Thổ suy gặp mộc, tất gặp khuynh hãm. Mộc nhược phùng kim, tất là bị chặt gãy. (Bên trên là thái quá cùng bất cập, đều có hại. Như ngũ hành tứ trụ thấy chỗ này, phải có trung hòa vậy. )


Cường kim đắc thủy, phương giảm sắc bén. Cường thủy đắc mộc, phương tiết khí thế. Cường mộc đắc hỏa, phương hóa ngu đần. Cường hỏa đắc thổ, phương ngọn lửa dừng. Cường thổ đắc kim, phương chế kỳ hại. (Bên trên là nói ngũ hành khắc chế, phải được trung hòa, còn thái quá hay bất cập, sẽ biến đổi vậy. ) Lý quán nhân hòa hay là ở kỳ ẩn tàng, khảo sát kỳ hiển lộ vậy. Kỳ là thể vậy, thâm khắc có thể biến thông. Nghiên cứu nguyên kỳ tinh vi thì kỳ là dụng vậy. Luận kỳ khinh trọng, vốn có vốn không, hợp đến lẽ trời, cát hung động tĩnh. Phân định cuộc đời, xấu tốt tròn khuyết. (Bên trên là thông luận can chi, âm dương trong sinh khắc chế hóa, thể ẩn dụng hiển, khinh trọng hữu vô, mà cát hung động tĩnh, không ở chỗ tròn hay khuyết, đều sinh từ chỗ này vậy. Hay là ở chỗ biết biến thông, nguyên cứu tỉ mĩ, từ hiển mà ẩn, nên để ý chỗ này, sẽ nói rõ ở phía dưới. ) Sát không có Nhận không có uy, Nhận không có Sát không hiển. (Sát là vật khắc Ta, Nhận là Kiếp của Ta, trong mệnh là tối hung. Nói lấy Sát Nhận, là biết chỗ trọng yếu vậy. 《 Phú 》 nói: Nhận là binh khí, không có Sát khó bảo tồn. Sát là quân lệnh, không có Nhận thì không tuân theo. Nhận Sát cùng hiển, uy trấn Càn Khôn là vậy. Từ Đại Thăng lấy căn cứ ở hai chương 《 Hỉ Kỵ 》(Kế Thiện 》, nhân mệnh không đủ để hết tận. Cho nên lại soạn ra bài phú này, là để bổ túc cái chưa đủ vậy. ) Sát Nhận song hiển quân đình, địa vị đến Vương Hầu. Nhận Sát khinh trọng, không có chế thân là quan nhỏ. (Nói Sát Nhận ngang nhau, là cực quý. Không cân bằng nhau, là cực tiện. Nhận Sát ngang nhau hay không, mà quý tiện lẫn nhau là như vậy. ) Cả đời phú mà còn quý, là Sát trọng Thân nhu. Nửa đường bỗng chết hoặc nguy, vận phù can vượng. (Sát Nhận đã không bằng nhau, không bằng Tòng Sát. Có tòng, tất là Sát trọng thân nhu, sau đó có thể tòng. Nếu không, thì không thể tòng vậy. Đã Tòng Sát, chỉ lấy Sát luận, không thể lại gặp thân vượng đối địch nhau, đối địch thì lại sinh họa mà thôi. ) Chỗ thân thủ tăng đạo, dụng Sát lại khinh. Chức bị gián trừ, Thiên Quan đắc địa. (Thất Sát là Cực tinh, lại còn là Cô tinh. Thân Sát lưỡng cường, Thất Sát có chế, thân nhược tòng Sát, thì đều quý. Sát nhiều là can gián quan. Nếu thân vượng Sát khinh, thêm nhập thanh kỳ, tất thủ làm tăng đạo mà thôi. ) Sao biết đại quý, dụng Tài mà không dụng Quan. Nắm quyền, là dụng Sát mà không dụng Ấn. Ấn dựa vào Sát sinh, Quan nhờ Tài vượng. (Dụng Tài không dụng Quan, là Tài sinh Quan vậy. Dụng Sát không dụng Ấn, là Sát sinh Ấn vậy. Cho nên nói Ấn dựa Sát sinh, Quan nhờ Tài vượng, không phải là không dụng Ấn dụng Quan, mà chuyên dụng Tài Sát. Là Quan Ấn ở trong đó vậy. Ấn dựa vào hai câu, vốn là nối tiếp 4 câu ở trên, tự sáng chế. ) Ngũ hành tiêu tức, có thể biết nguyên lý; hiểu rõ tứ trụ, có thể thấy dụng thần. Thực cư trước, Sát cư sau, công danh lưỡng toàn. Dậu phá Mão, Mão phá Ngọ, Tài Quan song mỹ. (Bát tự con người, hoàn toàn xem vào dụng thần. Như ở trên dụng Sát, dụng Nhận, dụng Tài, mà không dụng Quan, dụng Ấn, là lý lẽ rất sâu xa, là thông tin ở con người mà thôi. Luận Sát nên mời


Nhận, không có Nhận thì cần có chế, Sát cường có chế, đều là phương luận. Sát chủ danh, Thực chủ lợi, cho nên viết là Công danh lưỡng toàn. Dậu phá Mão, Mão phá Ngọ, cũng là ý Thực trước Sát sau. Dậu lấy Mão là Tài, Ngọ là Sát. Tài Sát đều có, cho nên là Tài Quan song mỹ. Chỗ Sát lấy phá nhau, là lấy tương khắc vậy, tất là tứ chính phá nhau. ) Hưởng phúc, ngũ hành quy lộc; mi thọ, bát tự tương đình. (Nói ra chỗ này ở trong mệnh là rất trọng yếu. Muốn quy lộc, muốn tương đình, không thể cùng bè đảng thiên về tử tuyệt. Hưởng phúc thuộc quy lộc, mi thọ thuộc tương đình, nghĩa đều có chỗ lấy vậy. ) Hối hỏa vô quang ở Giá Sắc, đạo mộc đa khốn ở Bính Đinh. (Chỗ này trở xuống, chính là nói không quy lộc, không tương đình, cho nên không được hưởng phúc, thọ. Thổ yểm hỏa quang, thổ dựa mộc làm khai thông, mộc vốn sinh hỏa. Hỏa nhiều thì trái lại cướp khí, gặp không trung hòa. ) Hỏa hư hữu diễm. (Hỏa sợ mờ tối, hư thì có ngọn lửa không mờ. ) Kim thực vô thanh. (Kim cần hỏa, không có hỏa luyện thì không thành khí. Thực, làm sao mà phát thanh? ) Thủy phiếm mộc phù là Hoạt mộc, Thổ trọng kim mai là Dương kim. Thủy thịnh thì nguy, hỏa minh thì diệt. (Chổ này lại nói tỉ mĩ về ngũ hành không cân bằng, mà có gặp khác âm dương. Ngũ hành không thể thái quá, như thủy phiếm thì mộc phù, ở Ất mộc thì sợ, còn Giáp mộc thì không. Thổ trọng kim mai, ở Canh kim thì sợ, Tân kim thì không. Lấy Ất mộc tử ở Hợi, Giáp mộc sinh ở Hợi. Canh kim là kim xuất thổ, cho nên sinh ở Tị. Tân kim là kim mang thủy, cho nên sinh ở Tý. Thủy thịnh thì phiếm lạm, cho nên nguy. Hỏa minh thì hết căn, cho nên tắt. ) Dương kim đắc luyện thái quá, biến cách bôn ba. Âm mộc quy viên thất lệnh, cuối cùng là thân nhược. (Kim thực không thanh, luyện quá thì biến cách; Quy Lộc hưởng phúc, thất lệnh thân nhược, cần phải trung hòa. Dương kim, thổ trọng thì chôn vùi, sợ nung luyện quá đáng, là không có thổ vậy. Âm mộc, thất lệnh là suy nhược, cho dù là quy viên, cũng tổn thọ vậy. Chỗ này nói câu trên Hoạt mộc, còn nói dương kim, lại không thể không có thủy thổ sinh dưỡng vậy. ) Thổ hậu mà che lửa không phát sáng, thủy thịnh thì mộc phiêu vô định. (Ngũ hành bất khả thái thịnh, bát tự cần phải trung hòa. Thổ hậu, tức ý là làm mờ ánh sáng ngọn lửa; thủy thịnh, tức là nói thủy phiếm mộc phù. Hai câu ngũ hành, cho nên đã tổng kết, đều quy về chỗ trung hòa mà thôi. ) Thổ ngăn thủy chảy toàn phúc thọ, thủy không thổ ngăn tất thương tàn. (Dưới đây nói ngũ hành mất trung hòa, mà ngũ hành có cứu, cũng lấy cát luận; không có cứu trợ thì hung. Như thủy chảy mà có thổ ngăn, thì lộc thọ lưỡng toàn. Còn lại cứ suy ra từ chỗ này. ) Mộc thịnh nhiều Nhân, thổ bạc ít Tín. (Thủy vượng cư viên phải có Trí, kim Kiên chủ Nghĩa lại có tài. Kim thủy thông minh mà háo sắc, thủy thổ hỗn tạp tất đa ngu. Chỗ này nói tính khí ngũ hành thái quá, giữa cũng đều có chỗ thịnh,


thiên lệch là hại vậy. Ngũ hành phân chia bốn mùa, ngũ thường phối với ngũ hành, là lý tự nhiên vậy. Hoặc thịnh, hoặc suy, hoặc vượng, hoặc nhiều, hoặc hỗn tạp. Còn Nhân Nghĩa Trí Tín, thông minh ngu dốt, cũng đều theo như vậy mà thôi. ) Sống thọ được ở trung hòa, yểu thọ tang ma ở thiên khô. (Chỗ này nói nhân mệnh phải chịu trung hòa, tức là nghĩa trước đã nói bát tự đình quân mi thọ. Nếu thái quá bất cập, mất ở thiên khô, làm sao mà hưởng thọ chứ? ) Thìn Tuất khắc chế cùng xung, tất phạm hình danh. Tý Mão tương hình môn hộ, hoàn toàn không có lễ đức. (Từ đây trở xuống bắt đầu nói đến địa chi tương xung, tương hình. Thìn Tuất là Khôi Cương cùng xung, tất phải hung; Tý Mão là mẫu tử tương hình, tất loạn. Xung hình là rất quan trọng. Còn lại đều nhẹ. Dần Thân Tị Hợi là cục Tứ Sinh, dẫu có khắc chế, hình xung cũng không có hại lớn. ) Bỏ Ấn tựu Tài phân Thiên Chính. (Là nói trước đây, đại quý, là dụng Tài mà không dụng Ấn. Tài có Thiên Chính, Ấn cũng có Thiên Chính. Chính Ấn thấy Tài là có họa, Thiên Tài thấy Ấn thì không ngại. Chính Tài không thích thấy Ấn, Thiên Tài không kỵ thấy Ấn. Lý lẽ đều giống nhau vậy. ) Bỏ can Tòng Sát luận cương nhu. (Trước có nói, nắm quyền, là dụng Sát mà không dụng Ấn. Sát có cương nhu, bỏ thiên can mà theo địa chi. Dương cương âm nhu, kim thủy thổ có thể tòng, còn mộc hỏa thì không thể tòng. Rõ lý lẽ có thể tòng hoặc không thể tòng, thì sau đó biết Ấn có thể dụng hay không thể dụng vậy. ) Thương quan không Tài có thể dựa, tuy xảo tất bần. Thực thần chế Sát phùng Kiêu, khôg bần thì yểu. (Thương quan, Thực thần là đồng loại, Thương quan thì bác quan, trong mệnh là tối kỵ. Có Tài cũng tốt, là do lấy Thương sinh Tài, Tài sinh Quan vậy. Vô thời thì lấy bần đoán. Thực thần chế Sát, trong mệnh rất sợ phùng Kiêu, lấy Kiêu đoạt Thực, Sát không có chế thì khắc thân cho nên yểu. ) Nam đa Dương Nhận tất trọng hôn, nữ phạm Thương quan nên tái giá. (Dương Nhận phùng Sát tương đình, chò nên là chủ quý, nhiều thì thương khắc vợ. Nam lấy Tài làm vợ, Nhận là khắc chế, cho nên nói trọng hôn. Thương quan có Tài có thể dựa vào, cho nên là chủ quý, nữ thì thương hại chồng. Nữ lấy Quan làm chồng, Thương là khắc chế, cho nên nói tái giá. ) Bần tiện, đều bởi vì xứ Quan gặp Thương. Cô quả, là bởi vì Tài thần bị Kiếp. (Quan là Lộc, có Lộc sao lo bần tiện? Thân vượng được quan bé, lại hành vận Thương quan, gọi là Bối Lộc thì không có Quan vậy. Bình an không bần tiện? Tài là vợ, có vợ sao lo cô độc? Tài ít gặp thân vượng, lại hành vận Kiếp Tài, gọi là Bại Mã, thì không có vợ, nên sẽ cô quả. Tài Quan, trong nhân mệnh là tối trọng yếu vậy! ) Tài lâm vượng địa nhân đa phúc, Quan ngộ trường sinh mệnh tất vinh. (Trước có nói, Thực Thương sinh Tài là vượng, ở đây thì nói thẳng Tài lâm vượng địa. Như Giáp dụng Mậu Kỷ là Tài, cư đất Tị Ngọ là vượng. Trước có nói Tài vượng sinh Quan, ở đây thì nói thẳng Quan ngộ Trường sinh. Như Giáp dụng Canh Tân là Quan, cư đất Tị Tý là trường sinh. Cả hai tất phải cần thân vượng, mới là có phúc vinh quý. )


Khử Sát lưu Quan mới luận phúc, khử Quan lưu Sát không là hèn. (Nhân mệnh rất sợ Quan Sát hỗn tạp, dụng Quan chỉ dụng Quan, dụng Sát chỉ dụng Sát. Cho nên có khử lưu, mới có thể nói quý. Như Thương quan, Dương Nhận, nhân mệnh gặp nhiều là không cát. Dụng khử Quan lưu Sát, khử Sát lưu Quan, đều lấy phúc luận. ) Sao biết gặp Chính Quan, lại hết bổng lộc. Phùng Thất Sát, lại có thanh danh. (Chính Quan Thất Sát, là phân ra quân tử tiểu nhân vậy. Quân tử sao không bằng tiểu nhân? Chính Quan tuy được thuần túy, Thất Sát một khi có chế phục, liền phát quý có thanh danh. Nếu Chính Quan thuần túy, phát phúc lâu bền, sao so với Thất Sát? Chỗ này là nói thiên trọng vậy. ) Phùng Thương quan mà lại thấy chồng, là Tài mệnh có khí. Gặp Kiêu thần mà tang con, phúc khí không có chỗ dựa. (Nữ mệnh rất sợ Thương quan, có thì hại chồng, lý cũng dễ hiểu. Trong có Thương mà lại thấy chồng, chính là Tài mệnh có khí, bởi vì Thương quan sinh Tài, Tài sinh Quan tinh, là chồng vậy. Nữ mệnh lấy Thực thần làm con, gặp Kiêu đoạt Thực, tuy sinh con mà không tồn tại. Nữ dựa vào con mà lấy phúc, đã không có con, thì làm sao mà nói có phúc? Nữ mệnh xem trọng hai sao Phu và Tử tinh, cho nên nói là Thương quan, Thực thần làm con. ) Thiên can Sát hiển, không có chế là tiện. Địa chi ẩn Tài, là ám sinh. (Nhân mệnh lấy Sát làm trọng, trước đây có nói chuyên lấy Sát, phải hợp với Nhận, phải có Thực chế, phải tòng Sát. Như không có hợp, không chế, không tòng, thiên can hiển lộ Sát thì thành ra vô tình, cho nên là bần tiện. Nhân mệnh lấy Tài là phúc, trước có nói chuyên về Tài, cần có Thương sinh, cần xung phá, cần có Thực vượng. Nhưng Tài không thích lộ mà cần phải tàng ở trong địa chi, có ám vật để sinh, thì chủ phong hậu, cho nên là rất đặc biệt. ) Ba Tuất xung Thìn họa không nhẹ. (Khôi Cương rất sợ tương xung, là không cát. Nếu khố Tài Quan là cùng chỗ, thì không kỵ. Như 3 Tuất 1 Thìn, nhật chủ là Giáp Thìn là tham tài mà sinh họa, lấy Địa Võng xung Thiên La, cho nên nói kỵ. ) Lưỡng Can bất tạp lợi danh tề. (Lưỡng can khó mà không tạp, cho nên chủ lợi danh đều có, nhưng không thể liền nói quý. Hoặc là Tài Sát, hoặc là Quan Ấn, hoặc là Sát Nhận, hoặc là ngũ hành thành tượng, thêm nhập cách cục, mới lấy quý luận. ) Bính Tý Tân Mão tương hình, hoang dâm cổn lãng. (Bính Tân hợp, Tý Mão hình, là can hợp chi hình. Bính Tân tượng thủy, Tý Mão tượng vô lễ. Cho nên chủ hoang dâm cổn lãng, nên nói là cực dâm vậy. Nữ mệnh càng kỵ. ) Tý Ngọ Mão Dậu toàn bị, hôn mê tửu sắc. (Ở trên nói Tý Mão, ở đây cùng luận Ngọ Dậu, là cục Tứ Bại, gọi là Biến Dã Đào hoa Sát. Tứ trụ có đủ là nhiều quý, nhưng chủ hôn mê tửu sắc. Nữ mệnh càng kỵ. ) Vì Tài rước họa, tham thực mang tật. Cháu nam làm con cháu, nghĩa nữ làm vợ. (Ở trên có nói Tài cần phải phục tàng mới tốt, nhưng Tài là chỗ nhiều tranh đoạt, cho nên có Dương Nhận Kiếp Tài, sẽ vì tài mà rước họa, thấy Tài không thể chuyên nhất vậy. Đoạn trên nói Thực thần chế Sát là rất hay, nhưng mà Thực là chỗ người tham lam, cho nên có Kiêu thần đoạt Thực, thì người do ham ăn mà sinh bệnh tật, là thấy miếng ăn không thể chia vậy. Nam lấy Quan Sát làm con,


như Dương Nhận Kiếp tài Quan Sát là đối phương dụng, là anh em có con còn ta thì không có con, cho nên lấy cháu nam làm dụng. Lấy Thiên Chính Tài làm vợ, như trong trụ không có Tài chính vị, mà sống nhờ cung khác, là cưới chỗ con gái nuôi người khác, cho nên lấy nghĩa nữ làm vợ. ) Ngày giờ tương xung Mão Dậu, mới sinh tất chỗ di dời. Tạo hóa vì gặp Tuất Hợi, cả đời chỉ kính tin thần thánh. (Chỗ này lại đưa ra Mão Dậu ở trong địa chi, cửa ra vào của Nhật Nguyệt, nếu ngày giờ gặp, chủ di dời bất định. Tuất Hợi là Thiên Môn, Nhật Nguyệt di chuyển, phần đa là chỉ kính tin thần thánh, hoặc là tăng đạo vậy. ) Âm khắc âm, dương khắc dương, tài thần hữu dụng. Quan vô quan, quỷ vô quỷ, thái vượng khuynh nguy. (Nhân mệnh lấy Tài Quan làm trọng, cho nên lại đưa ra nói. Người đều biết Chính Tài là dụng, mà không biết âm có thể khắc âm, dương có thể khắc dương. Thiên Tài thắng hơn Chính Tài, tạo hóa lại là đắc dụng. Quan không thể không có, Quan nhiều lại thành không quan, là không cát. Sát không thể có, Sát nhiều phải theo quỷ, trái lại không là hại. Đều là vì thái vượng, thân suy không thể đối địch, là đạo khuynh nguy vậy. ) Đắc cục thất viên, bình sinh bất toại. Quy viên đắc cục, tuổi trẻ hiên ngang. (Đắc cục, là tam hợp cục vậy. Quy viên, là can quy lộc vậy. Chỗ này nói, nhân mệnh phải thành cục sinh vượng, là xu thế phúc. Nếu đắc cục thất viên, tuy là thiên can loại tượng mà địa chi tam hợp, lại là đất nhật can hưu tù tử tuyệt, cả đời cũng không thành. Nếu đắc cục, lại còn quy viên, như ngũ tinh thăng điện nhập viên, là vị trí đắc địa đắc thời vậy. Quyết là tuổi trẻ phát phúc. Các cách Khúc Trực Nhuận Hạ, gọi là Đắc cục Quy viên. ) Mệnh gặp Kiêu thần, mà cùng kinh doanh giàu có. Long tàng Hợi Mão, kinh thương lợi lộ nhung tơ. Tài Quan đều bại là tử, Thực thần phùng Kiêu là hung. (Kiêu thần vốn là ghê tởm, tiểu nhân được hữu dụng, gọi là cùng kinh doanh giàu có. Như Giáp dụng Bính hỏa là Thực, Bính có thể sinh Mậu thổ là Tài của Giáp, Nhâm thủy lại là Kiêu thần của Giáp mộc, bị Mậu ép buộc, Bính hỏa dựa vào Giáp mộc, đổi lại tương sinh, cho nên là đạo Chủ Khách vậy. Cũng tự có làm thương nhân kinh doanh, gọi là Long tàng Hợi Mão. Dần là Thanh Long, Tị là Thái Thường, Hợi Mão Mùi mộc cục. Bát tự Long tàng Hợi Mão Mùi là dụng thần hoặc là dụng Tài, đều chủ lợi về kinh thương tơ tằm. Tài Quan là Lộc Mã, là khẩn yếu nhất của con người. Nếu đều ở đất bại tuyệt, hoặc hành vận lại đến bại tuyệt, dụng thần tổn khí, sao yên mà không chết? Thực thần, là Tước tinh con người, sinh Tài chế Sát, là khẩn yếu ở trong mệnh. Phùng Kiêu đoạt Thực, Sát không có chỗ chế, Tài không có chỗ sinh, sao yên mà không hung? ) Mệnh gặp Đinh Tị Cô Loan, thông minh thi nữ; ngày phạm lỏa hình mộc dục, là trọc lạm hoang dâm. (Chỗ này luận nữ mệnh, nam cũng như vậy. Cô Loan là các ngày Giáp Dần, Đinh Tị, Mậu Thân, Tân Hợi, tọa đất Tứ Sinh cho nên đa số là thông minh. Lỏa hình mộc dục, tức là đất Tứ Bại Tý Ngọ Mão Dậu vậy. Tháng giờ phạm không ngại, chỉ sợ nhật can tự tọa. Như các ngày Giáp Tý, Canh Ngọ, Đinh Mão, Quý Dậu. Thân tọa Đào Hoa sát, lại gặp kèm theo hợp, cho nên là Trọc lạm Hoang dâm. ) Đinh phùng ngày Mão gặp Kỷ thổ, là người tham ăn. Hợi là Tướng thần gặp Dậu kim, là Khách tửu thực. (Can Đinh sinh Mão mộc là Kiêu, nếu gặp Kỷ là Thực, cho nên là tham thực, hoặc vì tham ăn sinh


bệnh họa. Hợi là Đăng Minh, Dậu thêm thủy là Tửu, người sinh ngày Dậu gặp Hợi, tất chủ thích uống rượu. Lại mang hình xung, chủ lạc phách hoặc chết vì rượu. ) Quy lộc đắc tài nhi hoạch phúc, vô tài quy lộc tất tu bần. (Thân vượng Quy lộc, cho nên dụng Tài, không có Tài mà chuyên lộc, Quy lộc là vô dụng. Được Thương quan, Thực thần sinh tháng Tài, là cát. Lại sợ thấy Quan Sát, là cướp khí Tài. ) Tài Ấn hỗn tạp, cuối cùng thụ khốn; Thiên Chính thác loạn, tất dẫn đến tổn thương thân. (Tham Tài phôi Ấn, cho nên kỵ hỗn tạp. Nếu Tài trước Ấn sau, trái lại là thành phúc, không luận chỗ này. Quan Nhận hỗn tạp, có khử lưu, cũng cát. Nếu thác loạn, thì tổn thương thân thành hung. Nữ có Thiên Chính thác loạn, thì rất không cát. Chọn vợ cần phải biết chỗ này. Hoặc viết: Thiên Chính, là Thiên Chính Tài, nói Thiên Chính Ấn, chỉ ở thương thân khó thông. ) Thái tuế kỵ phùng chiến đấu, Dương Nhận không hỉ hình xung. (Chỗ này luận nhật can cùng Tuế quân tương phạm họa phúc. Nếu ngày phạm Tuế quân, lấy tuế là dụng thần thì không có lỗi. Như ngày Lục Nhâm, lấy Bính Đinh là Tài, trong trụ vốn có căn, tuy phạm Thái tuế, nhưng lại là cát. Thân vượng là hung, nhược thì không ngại. Ngày cùng vận đều phạm, phương chủ đại hung. Ngũ hành có cứu, cũng giảm nửa phần. Rất sợ thiên xung địa kích, nên xét tính tình âm dương, chân lý nguyên vật. Ví như người Lục Ất, tuế vận thấu Kỷ, Hoạt mộc khắc Hoạt thổ, lại có sinh ý, tài nguyên có gấp bội. Người sinh Lục Giáp, phùng tuế vận Mậu thổ, là Tử mộc khắc Tử thổ, thì không cát, nặng thì tang thân. Dương Nhận cách, không hỉ tuế vận hình xung, không thể phạm tiểu nhân. Như bát tự đã có Dương Nhận, nhiều Sát chế phục, hành tuế vận Dương Nhận, cũng hung. Gốc có Tài, càng nặng. Kèm theo Thương xung hình chiến đấu, chủ họa xảy ra bất trắc. 《 Kinh 》 nói: Dương Nhận xung hợp Tuế quân, bột sát gây họa, là vậy. Độc cử chiến đấu Thái tuế, độc cử hình xung Dương Nhận, là lời nói chỉ ra tối trọng vậy. ) Canh phùng Bính nhiễu, đa hữu bất nhân. Quý tòng Mậu hợp, già trẻ vô tình. (Chỗ này nói tính tình con người, lòng người. Kim hỏa tương hình, cho nên có bệnh này, mà còn chủ người cương bạo. Quý là Thiếu âm, Mậu là Lão dương, Quý Mậu tuy hợp hóa là hợp vô tình, cho nên nói đến già trẻ. Nam mệnh có ngày Mậu thấy Quý, nên cưới vợ thiếu niên. Nữ có ngày Quý thấy Mậu, tất lấy chồng già. ) Không tòng không hóa, làm quan trì trệ. Đắc hóa đắc tòng, làm quan hiển đạt công danh. (Không thông khí tháng, giờ không co chỗ quay về, lại phạm Cô Thần, là không tòng không hóa vậy. Nếu thông khí tháng, giờ có chỗ về, thì lấy tòng hóa luận. Phu vượng, tòng phu hóa, thê vượng, tòng thê hóa. Hành tàng con người không chỉ khởi một chuyện mà lập, cả đời không đổi, cho nên thành cách tòng hóa thì có đủ phú quý vậy. Trước luận tòng hóa, sau luận Tài Quan. Tòng, lấy thiên can tòng địa chi, như ngày Ất sinh tháng 8, địa chi trọng kim, thì là lấy kim luận vậy. ) Hóa hành lộc vượng là Sinh, hóa quy lộc tuyệt là Tử. (Chỗ này nói đến Đắc hóa, Đắc tòng, phải được lộc vượng, không nên tử tuyệt. Bởi vì tạo hóa hóa thành, bản cục hành lộc vượng. Như Đinh Nhâm hóa mộc, nguyệt lệnh là mùa xuân, hoặc phương vận đông nam là Sinh. Hành đất kim, hoặc giờ gặp đất Thân Dậu, là Tử. ) Sinh địa tương phùng, tráng niên bất lộc. Thời quy bại địa, lão hậu vô chung. (Sinh địa tương phùng, là mệnh có lấy trường sinh, lâm quan, lại gặp ở hành vận. Như Canh Tân lâm quan, đế vượng ở Thân Dậu, dụng Bính Đinh là Quan, dụng Giáp Ất là Tài. Hỏa đến vận Thân Dậu, là bệnh tử, là Canh Tân không có quan vậy. Mộc đến vận Thân Dậu, là tử tuyệt, là Canh Tân


không có Tài vậy. Tài Quan đều bại, dụng thần phá thương, dù thanh niên cũng mất lộc. Giờ là kết quả, Giờ người sinh, tuyệt đối không thể sinh ở đất ngũ hành bại địa. Kim bại ở Ngọ, mộc bại ở Tý, thủy thổ bại ở Dậu, hỏa bại ở Mão. Giờ là cuối đời, nếu ở đất bại địa, chủ về già trì trệ, phá bại không có kết quả. ) Đinh tọa Dậu kim, gặp Bính Tân là tuyệt tự; Tài lâm Sát vị, cha chết không quay về nhà. (Bính dụng Nhâm làm con, Nhâm bại ở Dậu, Tân dụng Bính là con, mà tử ở Dậu. Giờ là Tử tức cung, vừa bại còn tử, sao hữu dụng chứ? Như hữu dụng, thì cha tất mất lộc. Nhân mệnh lấy Tài làm cha, Tài Sát cùng Quan, thì làm khó cha. Như Canh Tân dụng Giáp là cha, năm tháng giờ thấy Giáp Thân, tọa Sát cung, tuế vận Sát vượng, chủ cha chết tha hương. Hoặc nói Sát, Kiếp sát. Tài tọa Kiếp Sát thêm chỗ của cha,《 Phú 》 nghĩa chuẩn cũng thông. ) Bát tự can chi đồng loại, tuế vận hội Sát đa hung. (Can chi đồng loại, như là Giáp Dần, Ất Mão, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tý, Quý Sửu, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Sửu vậy. Hành vận hội Sát, tất chủ mất lộc. Là lấy cường, cùng Sát tương tranh, là do Sát cạnh tranh khắc thân vậy. ) Nếu có thể nhìn kĩ nói chơi, quý tiện vạn lần không mất một. (Tôi thấy chú thích xưa, phân tích rách nát, có mất ý nghĩa của《 Phú 》. Cho nên sơ lược chú thích ở dưới, để rõ ý nói của tác giả. ) Nguyên Cơ phú

Thái Cực phán thành thiên địa, nhất khí phân chia âm dương. Nhật can là chủ, chuyên luận Tài Quan. Chi tháng thủ cách, là phân quý tiện. Có cách không chính là bại, không có cách có dụng là thành. Có Quan chớ tìm cách cục, hcó cách không thích Quan tinh. Quan Ấn Tài Thực, không phá thì cao thanh. Sát Thương Kiêu Nhận, dụng là tối cát. Thiện Ác tương giao, hỉ khử ác mà sùng thiện. Cát hung hỗn tạp, kỵ hại cát mà hướng hung. Có Quan có Sát, cần thân vượng chế Sát là diệu kỳ. Có Sát có Ấn, sợ Tài hưng trợ Sát làm họa. Thân cường Sát thiển, vận Sát không ngại. Sát trọng thân khinh, đất có chế là phúc. Thân vượng Ấn nhiều, hỉ hành Tài địa. Tài đa thân nhược, sợ nhập Tài hương. Nam phùng Tỉ Kiếp Thương quan, khắc thê hại tử. Nữ phạm Thương quan Thiên Ấn, tang tử hình phu. Nhỏ mất song thân, vì Tài tinh thái trọng. Là người cô khắc, thân vượng vô y. Năm xung nguyệt lệnh, ly tổ thành gia. Ngày bị Đề xung, là lấy vợ kế. Ngày giờ đối xung, thương thê khắc tử. Ngày thông khí tháng, được tổ an thân. Là lấy: Mộc quy Xuân trường gặp Canh Tân, trái lại thành quyền. Hỏa cư mùa hạ thấy Nhâm Quý, có là phúc hậu. Thổ phùng Thìn Tuất Sửu Mùi, mộc trọng thành danh. Kim sinh Thân Dậu Tị Sửu, đất hỏa phát phúc. Thủy cư Hợi Tý, Mậu Kỷ khó xâm. Thân tọa hưu tù, cả đời vô cứu. Thân vượng hỉ hành Lộc Mã, thân nhược kỵ thấy Tài Quan. Đắc thời đều lấy vượng luận, thất lệnh lại lấy suy xem. Tứ trụ vô căn, đắc thời là vượng. Nhật can vô khí, gặp Kiếp là cường. Thân nhược hỉ Ấn, chủ vượng cần Quan. Giáp Ất sinh thu kim thấu lộ, thủy mộc hỏa vận vinh xương. Bính Đinh đông giáng thủy chảy tràn, hỏa thổ mộc phương quý hiển. Mậu Kỷ sinh xuân, tây nam phương có cứu. Canh Tân sinh mùa hạ, thủy thổ vận không ngại. Nhâm Quý phùng ở thổ vượng, gặp vận kim mộc là vinh. Thân nhược có Ấn, Sát vượng không ngại.


Thân cường Sát thiển, dụng Tài cũng được. Thân cường dụng Tài nên có Sát, thân nhược dụng Ấn nên khử Tài. Thương quan thân nhược không có Ấn, chỗ dựa ở đâu? Thân vượng vô Tài, làm sao phát phúc? Thân vượng là dụng Tài, thân nhược là dụng Ấn. Dụng Tài khử Ấn, dụng Ấn khử Tài, mới là phát phúc. Chính là chỗ nói Hỉ là tồn, Tăng là khử vậy. Tài đa thân nhược, vận thân vượng là lấy vinh. Thân vượng Tài suy, đất Tài vượng mà phát phúc. Trọng phạm Quan tinh, chỉ nên chế phục. Thực thần trùng điệp, phải kỵ đất Quan. Ngu kim không hỏa, đại dụng bất thành. Cường mộc không kim, thanh danh khó lấy. Mộc đa gặp thổ Tài bạch dày. Hỏa diễm phùng thủy Quan tước vinh. Có Quan có Ấn, không phá là vinh. Không Ấn không Quan, có cách thủ quý. Dương Nhận không sợ Thiên Quan, Kim Thần rất cần chế phục. Tạp khí Tài Quan, hình xung thì phát. Quan Tài thái thịnh, xứ vượng tất khuynh. Thân thái vượng, hỉ kiến Tài Quan. Chủ thái nhu, không nên thấy Lộc Mã. Vượng Quan vượng Ấn cùng vượng Tài, nhập mộ là có họa. Thương quan Thực thần hợp thân vượng, gặp Khố hưng tai. Vận quý thủ ở chi, tuế trọng hướng tìm ở can. Ấn nhiều, hành Tài là phát, Tài vượng gặp Tỉ không ngại. Cách thanh cục chính, phú quý vinh hoa. Ấn vượng Quan sáng, thanh danh đặc đạt. Hợp Quan không lấy là quý, hợp Sát chớ lấy hung suy. Đào Hoa mang Sát hỉ dâm bôn, Hoa Cái trọng phùng nhiều khắc bạc. Cả đời không phát, do bát tự hưu tù. Cả đời không có quyền, thân suy gặp Quỷ. Thân vượng thì nên tiết nên thương, thân suy thì hỉ phù hỉ trợ. Nói bẩm khí trung hòa, chớ nên thái quá bất cập. Nếu theo phép này mà suy, họa phúc nghiệm như thần. Kim Thanh Ngọc Chấn phú (Huyền Hư đạo nhân sáng tác – Vạn Dân Anh tiên sinh chú giải) Nhận mệnh là khác nhau, giống như nhận hình dạng. Trắc lý khó mà tinh thông, hơn đo trắc biển cả. Âm cực dương sinh, hiểu biết nắm chắc thực hư; trời cao đất thấp, đỉnh cao che chở vô biên. Hoặc thăng cao thành dãi Ngân Hà, mà không phải có chỗ riêng tư. Hoặc rơi xuống thành vực sâu, mà không phải có chỗ xấu. Khí số định ở Thái sơ, bồi đắp ví như các loài cây cỏ. Diệu quyết không quyết ở nhiều lời, đến như con người sự việc ở chỗ tốt xấu. Ví như các loại tòng hóa, cách phán vượng suy, chiếu phục củng diêu, cục phân minh ám. (Thấy Loại thuộc phải vượng, Tòng Hóa phải suy. Hai chỗ Chiếu Phục, đều thủ cục ở Minh (rõ). Hai chỗ Diêu Củng, là thủ cục ở không thấy hình, cho nên gọi là Ám (ẩn). ) Luận dụng thần, luận nhật chủ, đều có chỗ thích hợp. Thủ Địa mạch, thủ Thiên nguyên, đều là một đạo. (Chỗ này đưa ra đàm luận tạo hóa không phải đồng nhất vậy. Hoặc viết: 6 câu này, ý là nói rõ lấy bát cách. Nghĩa lý cũng thông. ) Du tâm ở Khử Lưu Thư Phối, ý quyết ở hỉ kỵ yêu ghét. (Chỗ này quy ước thuật tạo hóa không có nhiều vậy. Bên trong diệu lý, thì không thể một lúc nói hết. Như luận dụng thần, dụng nhật can, thủ địa mạch, thủ thiên nguyên, hỉ kỵ yêu ghét, vạn lần khác nhau. Nếu không khử lưu thư phối, sao thành tạo hóa mà phân chia quý tiện, đàm luận tính mệnh mà quyết sinh tử? Cho nên cần phải xét rõ, chuyên khảo sát ý quyết vậy. )


Cũng có nguyên trọc mà lưu thanh, sao không có căn ngọt mà đời sau khổ. (Như thủy, sinh ở tháng thổ, nguyên bản là trọc. Vận hành tây bắc, thổ hóa kim, kim hóa thủy, lưu cũng không thanh sao? Như chỗ này, trước chủ hung, sau chủ cát. 《 Hồng Phạm 》 viết: Giá Sắc lấy ngọt, Viêm Thượng lấy đắng, mộc sinh tháng thổ, hành nam phương, căn ngọt ngọn đắng. Nói vậy, tuy Thương quan có thể sinh Tài, nhưng mộc không chạy hướng nam, làm sao đảm nhận? Hoặc âm điệu hai câu nói này nói chung hiểu rõ ngũ hành vận mệnh, không chỉ chuyên nói thủy, hỏa. Cũng thông. Lạc Lục Tử có nói đầu hung sau cát, đầu cát cuối hung, chỉ là ví dụ. Chỗ này lý là nói thẳng mà thôi. ) Uyên ương liền cánh thấy khắp nơi, tất cả đời thành công. (Như Bính Tuất, Tân Sửu, Đinh Tị, Nhâm Dần. Bính Tân hợp, Đinh Nhâm hợp, Dần Tuất hợp, Sửu Tị hợp, như đôi uyên ương liền cánh cùng bay vậy. Nhâm thủy ở trụ, Bính Tân lại hóa thủy, tượng là giang hồ, tình có thể trụ lại lâu dài vậy. Hoặc viết: Uyên ương liền cánh, chỉ thủ cả hai tương hợp, tức là Đức hợp Song Ương cách vậy. ) Hồ Điệp song phi phùng viên hữu, mới là đúng chỗ. (Như Tân Mùi, Mậu Tuất, Tân Mùi, Mậu Tuất, Mùi là mộc khố, Mậu Tuất nạp âm lại là Bình Địa mộc, đúng chỗ gọi là Viên, cho nên hợp cách mà quý. Nếu không có một điểm thủy khí, sao người không phải là hư danh ứng lợi chứ? ) Hái tinh kim ở cát thanh Hoàng Thích, chớ lợi khí ở sai tiết bàn căn. (Ngày Giáp Ngọ thấy giờ Kỷ Tị, ngày Ất Mùi thấy giờ Mậu Dần. Bởi vì Giáp Ngọ Ất Mùi nạp âm là Sa Trung kim, mà Mậu Dần là Thanh Sa, Kỷ Tị là Hoàng Thích vậy. Giáp Ất lúc sinh tháng Mão là mộc vượng, trụ mang Nhâm Thân Quý Dậu là Kiếm Phong kim, đúng hợp cách này. Kim khác thì không phải. ) Ta sinh, sao nếu sinh ta là an. Khắc ta, cũng như ta khắc là hiển. (Chỗ này nói Thương quan không bằng Ấn thụ, dụng Sát không bằng dụng Tài vậy. Bởi vì Thương quan, Thất sát, tuy có đại quý, như có nhiều thì thành họa, chẳng như thuần dụng Tài Ấn, là hưởng phúc tự nhiên vậy. Hoặc nói dụng Tài thì tự dừng ở phú, không nói Tài vượng sinh Quan sao? Cho nên dụng Tài là ức chế người, dụng Quan Sát là bị người ức chế. ) Như phùng Ký tế Vị tế, Hưu nên hợp xung. Hưu là chỗ không nương tựa. (Như Nhâm Tý, Bính Ngọ, Nhâm Tý, Bính Ngọ, là cách Ký tế vậy. Như Đinh Mão, Bính Ngọ, Bính Tuất, Giáp Ngọ, là cách Vị tế vậy. Cả hai đều đại quý. Như lấy mắt tục mà xem, thì trước một mệnh ngại ở xung hợp, sau một mệnh sợ chỗ không có nương tựa vậy. Hoặc lấy Vị tế, lấy hỏa ở trên thủy ở dưới, trong trụ thái vượng là giải, tức là cách tụ hội tinh thần vậy. ) Bên trong có ba chính ba thiên, bất tất sinh phù, bất tất thấu lộ. (Lục Nhâm sinh tháng 4, trong Tị có Mậu là Thiên Quan, Bính là Thiên Tài, kim trường sinh là Thiên Ấn, cho nên gọi là 3 thiên. Quý sinh tháng Tị thì là Chính Quan Chính Tài, Chính Ấn, là 3 chính vậy. Thủy tuy tuyệt ở Tị, kim trường sinh thì thủy không chung tuyệt, bất tất phải lấy sinh phù vậy. Hấp tụ thì khí chuyên, phát tán, bất tất phải lấy thấu lộ vậy. Hoặc lấy sinh phù là chỉ nói Tài Quan Ấn, nếu nhật can suy nhược, thì không thể không sinh phù vậy. ) Con đường chạy đi mà mất mạng, bởi vì tú khí nhiều loạn. Ngồi tù mà mất mạng, chỉ vì Tỉ kiên tranh đấu. (Như 1 Giáp 3 Dần, 1 Bính 3 Tuất, 1 Tân 3 Bính, Lộc Khố Quan tinh quá nhiều, không có tú khí.


Như 3 Nhâm 1 Hợi, 3 Canh 1 Sửu, 3 Kỷ 1 Ngọ, tú khí chịu không nỗi phân đoạt vậy. Còn lại cứ loại suy từ chỗ này. ) Nhận trọng Quan khinh, nghiệp đồ tể ở phố phường. Mã bì Ấn phá, lộng đao bút ở công đường. (Quan tinh mang Nhận, vốn là cát. Quan Sát thất thời, mà Nhận dụng sự, cho nên chỗ này là tiện vậy. Phàm gặp cách này, đoán là mua bán giết mổ không sai. Như Dần Ngọ Tuất Mã cư ở Thân, có hình xung phá hại thì gọi là Mã bì. Giáp mộc lấy Nhâm Quý là Ấn, không có Canh Tân sinh, mà có Mậu Kỷ phá hư, là quan nhỏ vậy. Hoặc nói: Mã là chỉ Tài; Bì, là bệnh vậy; Tài lâm bệnh địa, gọi là Mã bì. Khảo sát Lạc Lục Tử chú thích Mã bì, Vương Đình Quang đã nói ở trước là đúng. ) Tam Kỳ tái phạm Tuất Thìn, là thợ gọt đẽo may vá. (Địa Tam Kỳ: Giáp Mậu Canh. Thiên Tam Kỳ: Ất Bính Đinh. Nhân Tam Kỳ: Tân Nhâm Quý. Được can Tam Kỳ, địa chi có Thìn Tuất tương xung, là tạo quý lại thành tiện. Gặp chỗ này, có thể đoán là thợ mộc, cùng thợ cắt quần áo vậy. Gặp Dần Thìn thì không phải, hoặc có Tuất hợp, có Thìn hợp, đều phân ra hai cục. Là Thủy Hỏa ký tế, cũng không phải vậy. ) Tứ trụ ưu tiên vị trí quy lộc, người cảnh phúc hưởng thọ. (Như Bính Dần, Giáp Ngọ, Ất Tị, Kỷ Mão. Bính lộc cư ở Tị, Giáp lộc cư Dần, Ất lộc cư Mão, Kỷ lộc cư Ngọ, thiên can đều có chỗ quy lộc, người này cả đời phú mà còn thọ. Ý nói ở trong 《 Tiêu Tức phú 》"Hưởng phúc ngũ hành quy lộc, mi thọ bát tự quân đình". ) Mộc suy hỏa vượng phục hành tây, tuổi thọ yểu chiết. (Như ngày Giáp Ngọ, sinh tháng 4, tháng 5, mộc không chạy hướng nam, lại thấy kim khảm phạt, là chết yểu. Hành vận đông bắc thì không phải. ) Thủy lạnh kim hàn kiêm củng bắc, thân thế phù trầm. (Kim thủy Thương Quan, chỉ có hợp vận hành đông nam, cát. Giáp mùa xuân Ất mùa thu, thiên lệch thích hợp Quan Sát trùng điệp. (Giáp sinh mùa xuân, mộc vượng nhờ có kim đẽo gọt, mới thành khí. Ất sinh mùa thu, hoặc hóa hoặc sát, đều cát. Là lấy thích hợp nhiều Sát. Giả như Giáp sinh mùa thu mà thụ khắc nặng, tất chủ đại hung. Ất sinh mùa xuân mà nhiều Sát, cũng không thích hợp. ) Bính hỏa tháng Mão, khó giúp Ấn thụ sinh phù. (Thấp mộc không sinh không hỏa sáng, lý là tất nhiên vậy. Ất Mão Quý Mão càng nặng, Đinh Mão là thứ. ) Thủy nhiều mà không chế, sinh bệnh ở bàng quang. Kim nhiều mà không hóa, tật ở chỗ lời nói. (Thủy thuộc tinh, thủy mất đê phòng mà không có thổ chế, thì người dâm, thủy nhiều thì phù phiếm vậy. Kim thuộc thanh, kim quá kiên cương mà không có hỏa hóa, thì người khàn giọng, kim thực không thanh vậy. ) Tài Quan song mỹ, thấu lộ cực vinh [ có nói khác là gặp Ấn cực vinh ]; hỏa mộc thông minh, thấy thổ là quý. (Tài Quan song mỹ, là sinh các tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, hoặc các ngày Nhâm Ngọ Quý Tị. Cho nên thích hợp Tài Quan, thấu thiên can là vi diệu. Mộc hỏa thông minh, cần sinh mùa xuân là tối cát. Là do thổ nhờ hỏa bồi mộc, cho nên cần thấy mới quý. )


Nhâm xu Cấn, Giáp xu Càn, cần lấy Tài Ấn trợ phúc. Tý diêu Tị, Sửu diêu Tị, cũng lấy Tài Ấn mới thành. (Bốn cách trên, đều nhờ Tài Ấn phụ tá, mới đại quý. Không nên kiến Quan Sát. ) Tam Kỳ phục dưới chi Tuế, còn trẻ vào Hàn Lâm. Tam Kỳ ở giữa vị trí giờ, về già về chốn Đài các. (Như nhật chủ Lục Giáp, thấy năm Kỷ Sửu là đúng, Tân kim, Quý thủy, Kỷ thổ ở trong Kỷ Sửu là tam kỳ Tài Quan Ấn vậy. Như ngày Lục Đinh, thấy giờ Tân Hợi, Nhâm thủy ở trong Hợi là Quan, Giáp mộc là Ấn, Tân kim lại là Tài vậy, gặp thì chẳng phải cư ở cực phẩm sao? Nói Tam Kỳ là nhất vậy. Mà quý có chỉa ra già trẻ, lấy năm là trẻ giờ là lúc về già, năm là gần giờ là chậm vậy. ) Quan tinh đắc lệnh, chế phục chư hung. Quý nhân phù thân; giải thoát bách ách. (Lời nói này là trong mệnh có Quan tinh quý thần, không kỵ hung thần ác sát, là do tà không thắng chính vậy. Cần đắc lệnh phù thân, mới chuẩn câu 《 phú 》 . Nếu Quan thất lệnh thụ thương, quý nhân tán mạn sinh giận, thì không phải. ) Sát Nhận lưỡng hiện can đầu, định nhận gửi trách nhiệm. Một khi gặp hình xung tuế vận, e rằng gặp nguy bất trắc. (Sát Nhận, là Quyền tinh, tối kỵ hình xung. ) Bính lâm Tý Thân, Mậu đương đầu mà quý như Vương Tạ. Tân kỵ Dương Thỏ, Ất thấu xuất mà phú sánh Đào Chu. (Quý, là nói Thực thần sinh vượng. Phú, là nói Tài tinh Lộc Khố. ) Tháng 8 Quan tinh thấy Tý Thìn, đến hợp ám Sát. (Giả như: Giáp sinh tháng Dậu là Chính Quan, dưới chi năm và giờ có Tý Thìn thì sẽ xuất thân kim, là vì Quan Sát hỗn tạp vậy. ) Tam xuân Bính hỏa phùng Hầu Thử, hóa làm Chính Quan. (Bính hỏa Thìn thổ, vốn là Thực thần, có Tý Thân hội thành thủy cục, không là Quan sao? Hai câu này, gọi là Bất kiến chi Hình. ) Kim thủy là thông minh, có thổ lại thành ngu hèn. (Thổ có thể làm thủy đục, chôn kim vậy. ) Kiêu Thực tuy bần yểu, đắc Tài bỗng biến hanh thông. (Thực thần chính là Tài nguyên, còn gọi là Thọ tinh, có Kiêu Ấn phá, là bần yểu không sai. Một khi hành Tài địa, từng bước khử Kiêu thần, trong hung lại cát. Mệnh này, đa số đi theo người khác mà làm giàu. ) Lục Ất Thử quý, thích thấy Thực thần. Lục Âm triều Dương, ngại gì Kiên Kiếp. Kim thần mang Sát nhập Đài các, Thiên Quan mang Nhận cư phủ Hiến. (Kim Thần Dương Nhận đều là Ác tinh, hỉ Quan Sát chế phục, nhân mệnh gặp, là tượng trừ gian khử ác, cho nên đoán cư ở chức này. ) Mậu thổ điệp lâm cung Dần, thiện Tài mà không hỉ Ấn.


(Mậu Dần tuy tọa Sát, đất Thực trường sinh vậy, thấy hỏa chớ chấp Sát Ấn, vì hỏa chưng cất cháy thổ. Hỉ Tài, vì Tài sinh Thiên Quan, thì quan có khí vậy. ) Nhâm thủy tọa dưới dương thổ, thấu Sát chớ thấu Quan. (Thủy nhiều nhờ thổ ngăn, cũng xấu hỗn tạp vậy. ) Thiên Tài kiến Quan kiêm Thực thần, vinh hoa có chuẩn. Thân chủ dụng thần hoặc nhập mộ, tiến thủ vô duyên. Mộc hỏa tương chiếu, trong lòng vạn hộc châu ngọc. Kim thủy tương hàm, bút hạ thiên thiên cẩm tú. (Cách này thấy ở trước, lại đưa ra, rõ ràng là tài hoa trác việt. ) Tam hình mất hợp, phá tướng thương thân. Lục hại gặp nhiều, cô ân phụ nghĩa. (Phàm tam hình, nếu có hợp thì không thành hình. Như người tranh đấu mà có hòa giải, nếu không khó tránh hoạ này. Mang nhiều lục hại, là người lấy ân làm oán. Là kẻ vong ân phụ nghĩa. ) Không Vong lại tổn ở thê tử, Cách Giác làm khó ở huynh đệ. (Không Vong, như trong tuần Giáp Tý không có Tuất Hợi. Cách Giác, như Sửu Dần, là phương vị Cách Giác vậy, ngày giờ thấy là nặng. ) Nhâm kỵ Long bối mang Nhận, loại ô hoạch Mạnh bí. Canh tọa Tuất nhiều hỏa, là Hình Hầu Ung tử. (Thìn có được Long, là vật dương cương vậy. Lại gặp Dương Nhận, lữ lực hơn người vậy. Kinh nói: Thìn nhiều là háo đấu. Tuất là hỏa khố, tọa dưới ngày Canh, lại trải qua hỏa nung luyện thái quá, là rất vô tình vậy. Huống chi trong đó có tàng lâu kim cẩu, chỗ này là vật có đủ gian xảo. Kinh nói: Tuất nhiều thích kiện tụng. Hình Hầu Ung tử, ở thời Xuân Thu, tranh giành lấy ruộng đất vậy.) Mùi thơm đầy đường, phú mà hay lễ. (Thiên can năm, tháng, ngày, giờ, thấy bốn vị địa chi là chỉ trích con người vậy. Như Nhâm Thân, Tân Hợi, Kỷ Tị, Bính Dần. Nhâm lấy Tị là quý, Tân lấy Dần là quý, Kỷ lấy Thân là quý, Bính lấy Hợi là quý vậy. ) Một câu hòa khí, lấy vui quên lo. (Tổng cộng năm tháng ngày giờ đều ở trong một tuần, như Giáp Tý, Nhâm Thân, Kỷ Tị, Quý Dậu, đều ở trong một tuần Giáp Tý vậy. ) Quy Lộc thích Tài tinh, kiến Quan thì tổn thọ. (Tài là nguồn dưỡng mệnh, Quy Lộc cách, thân vượng rất thích Tài. Trực kỵ Quan tinh, là do cướp Tài khí vậy. ) Chính Quan đắc thời lệnh, có Ấn không bằng Tài. (Quan Ấn kiên cố hay là ở lưỡng toàn, nếu không có Tài tinh, thì Quan mất sức sống, Ấn cũng có lợi gì? ) Tòng cách phục xuất ở Tam Kỳ, tâm huyết mãi đến nghìn năm vẫn không mờ. (Nhật can Canh Tân, địa chi Tị Dậu Sửu, hoặc đủ Thân Dậu Tuất, là tượng Tòng Cách. Ngày Canh


can đầu lại có Giáp Mậu, ngày Tân can đầu lại có Nhâm Quý, thân chết lúc thờ miếng ăn có muôn đời vậy. Sao lại nói vậy chứ? Nói kim là dụng cũng Cương, cũng vừa là chất kiên cố. Cương, là phát sinh nghĩa khí, Cố là đạo có lâu bền. Người nắm chính nghĩa, lúc sống là trung thần, chết thì tất là minh thần vậy. Lý này cũng luận là người có trí thức vĩ đại vậy. ) Khúc Trực kiêm giúp ở Ấn thụ, tiếng nhân truyền mãi không dừng. (Khúc Trực, là tượng mộc vậy. Nhật chủ Giáp Ất, nếu địa chi thấy Dần Mão Thìn, hoặc đủ Hợi Mão Mùi là đúng. Lại gặp Ấn thụ tương sinh, là người tất có lòng nhân tâm nhân văn vậy. Lấy lý suy, là nhân ái, tâm của trời đất sinh vạn vật, ở mùa xuân, ngũ hành là mộc. là mộc, là vật có sức sống. Mà người nhân ái, đức thật hiếu sinh. Lại gặp Ấn thụ, thì sinh sinh mà không ngừng vậy. Được chỗ này, như đầm được quần sinh, bố ân thứ dân. Cho nên viết tiếng nhân truyền mãi không dừng. ) Địa thiên thái cố, tư nhân đĩnh sinh; vân lôi tụ thì kinh luân hiển thiết. (Chỗ này chỉ hai cách ở trên của con người, Sinh cũng vừa có chỗ tự mà không hư sinh; Xuất cũng tất có chỗ làm mà không có cẩu thả xuất vậy. Hoặc nói: Địa Thiên thái, chính là Mậu Thân thấy Tân Hợi. Vân Lôi tụ, là Nhâm Tý thấy Ất Mão. Tức là hai cách trong Diệu Tuyển: Địa Thiên giao thái, Lôi Vũ nghênh xuân.) Kim Đỉnh Thần Bí phú Tác giả: Vạn Dân Anh Người sinh có mệnh, được mất bỗng nhiên mất; Phú quý bần tiện, vậy có thể thành một khối. Ánh hồng đầy nhà, ngũ hành đều tụ ở đất quý; khí tốt đầy nhà, tứ trụ cùng hội tụ ở đất phúc. Trước nghèo sau giàu, giờ sinh gặp Lộc Mã đồng hương; Đầu cát cuối hung, ngày giờ phạm đất Không, phá. Cả đời nhấp nhô, nền mỏng mỏng, cùng hung vận giao tạp; cả đời vinh hoa, mệnh cao lại gặp vận tốt tới liên tục. Cường kim gặp hỏa mới thành khí, quyết định là siêu quần; Vượng hỏa được thủy gọi là Ký tế, tất nhiên là xuất chúng. Mộc cần kim mà không dày đặc, thủy dựa vào thổ mà không tán. Mậu Kỷ thấy Dần Mão, đắc vị ở Câu Trần; Nhâm Quý tọa Tị Ngọ, nắm quyền ở Nguyên Vũ. Quý thần nhập mệnh gặp Kỳ Nghi, tất là công khanh; Hoa Cái lâm giờ gặp Cô Quả, định là Tăng đạo. Bái tướng Ngọc Đường, hoả viêm viêm tú ở cung Ly; Kim khuyết triều nguyên, thủy dương dương đức ở cung Khảm. Trùng gặp vị trí thủy, đoán là thần tiên sông nước; Tái phạm thuần dương, định làm đệ tử cửa Phật. Gặp trường sinh mà thông minh trí tuệ, gặp tử bại mà ngu xuẩn đần độn. Khó nhờ cha mẹ, năm tháng đều hãm Không Vong; vợ con dễ phụ, ngày giờ cùng lâm Cô Quả. Mão Dậu sinh gặp khắc chiến, bại cửa nhà mà gặp nhiều họa; Tý Ngọ hoàn toàn ở tử mộ, làm khách ở tha hương. Tý Ngọ rất sợ Tị Hợi, Mão Dậu rất kị Dần Thân. Trạch Mộ bị Sát, phá nhiều cửa nhà. Giờ lạc Thiên Trung ít con, can đầu gặp hợp là nhiều vợ. Trong năm vô khí, lúc nhỏ thất lạc nguồn cội; trong tháng gặp Không, cửa nhà tiêu xơ không tồn tại. Ngày lâm vị trí tuyệt, dù vợ khỏe mạnh cũng gặp nhiều ly tan; giờ ở trong mộ, con cháu có lúc cũng bất thuận. Hợp đất tú quý, được thiên thời là vinh. Ngũ hành vô khí là bần, tứ trụ có Thương là tiện. Âm dương thuần nhất là cô đơn, can chi hình hại là bệnh tật. Dụng thần hưu tù, khó cầu phú quý; Tú khí thiển bạc, đa số là nghệ thuật. Hình khắc hỗ kiến, thân vượng định làm quân đội; Thìn Tuất cộng thêm có giảm, đoán là quan cai ngục. Kim thủy nhàn rỗi, người tinh thần sa sút thanh bần; Dịch Mã xung kích, là khách lao nhanh vào con đường hồng trần. Khôi Cương trọng phạm, sinh ở gia đình làm nghề đồ tể; Dậu Tuất trọng phùng, thân làm kẻ nô bộc. Trong trụ Tý Ngọ vây quanh, địa vị nơi tỉnh thành; Can chi trong mệnh nhất khí, quý đến vương hầu. Một khối thuần dương độc khắc mệnh, không chết cũng tổn thương; Cục đầy Ấn thụ đều sinh


thân, không quý cũng phú. Năm tháng cùng Thương, cha mẹ vợ con khó thành; năm giờ cùng Thương, xưa nói khó giữ được con thừa tự. Năm xung ngày thì cha mẹ vượng, thê thiếp khó tồn tại; giờ xung năm thì con cháu vượng, cha mẹ tổn hại. Phá mệnh, thiếu mất cha mẹ; Phá tháng, trưởng khắc anh em; Phá ngày, một thân cô độc; Phá giờ, về già không có hậu; Phá Thai, là mẹ cô độc. Chỗ này thì luận sơ lược, cần phải suy xét tinh tế. Trước nói Quan quý, khác hẳn thường lưu. Giáp Mậu Canh dẫn đến Sửu Mùi, Quý thần có khí; Ất Bính Đinh xuất từ Dậu Hợi, là Thiên Ất gia lâm. Kỷ gặp cung Khảm, Ất đến cung Khôn. Lục Tân hỉ ở Dần Ngọ. Nhâm Quý hợp ở Tị Mão, chỗ này gọi là Ám trung đắc quý. Lại xem Quan Ấn nhược cường. Giáp phùng nơi Dậu, Ất đến phương Thân. Bính được cung Tý tất hiển, Đinh gia trên Hợi là vinh xương. Mậu thấy Mão mà có thể tú, Kỷ lâm Cấn mà dương thanh. đã gần tốt mà còn vang danh. Canh đến cung Ly đắc khí, Tân lâm cung Tốn là an nhiên. Đầu Nhâm ở trên Ngọ là Ký tế, Quý hướng Tị trong có Tài Quan. Đây là Chính Quan, Chính Ấn. Xem thêm Lộc Mã triều nguyên, nếu không có hình xung, khắc phá, tất lấy cái đỉnh, là thần tiên. Thứ luận Tài phú nguồn dưỡng mệnh. Trước tiên xem Tài mệnh hữu khí, thứ xem Lộc Mã không bần. Mộc lâm tứ quý, hướng lộc tự nhiên sung túc; thủy đến trên Ngọ Tài vượng, tất định hưng phong. Thổ phùng Nhuận Hạ, kim gặp Khúc Trực, hỏa gặp Kim cục. Tam hợp phùng Lộc Khố, Thực thần, ngũ hành gặp Thiên Trù Tài khí. Tứ trụ không có tổn thương, ngày giờ đắc địa. Thân vượng hữu khí, phùng Tài hóa làm Quan tinh; thân suy thất thời, Tài đa trở thành bần bạc. Nếu cư Sát địa, đa số là hung đồ. Người có 4 loại nghiệp khác nhau, đó là: Công chức, Quân đội, kinh thương, nghệ thuật, đều có chỗ làm căn cứ. + Mệnh làm Công chức: Đa số mang khắc hình, đông tây chiến đấu, nam bắc xung kích. Trường sinh xứ phá, tử tuyệt xứ sinh khởi. Ngũ hành thác tạp, tượng không thuần nhất. Đảo Thực phùng Tài, giáp quý gặp phá. Tài Ấn tương hình, dẫn dụng vô khí. Tú gặp mang Quỷ, quý khí tổn thương. Can chi trọng hội Đề Võng, Huyền Châm, mệnh loại này thì không tách rời công môn. Đến như mang Quan lộc mà có thể nhận phúc, gặp quý thần mà có thể tiến bộ, thì lại có xuất quan hiển đạt vậy. + Mệnh làm Quân đội: Cùng giống như quan lại. Trong cục Sát trọng mà can chi không giống nhau, trong tượng quý khinh mà chủ bản phá thương. Giáp thấy Mão, Bính lâm 3 Đinh; Tân hướng Hợi địa, Nhâm cư xứ 2 Quý. Ất Đinh phùng Xà, Mậu Kỷ bôn Mã. Đây chính là Huyền Châm Dương Nhận, lại phạm khắc phá hình xung. Lại mang phúc khí, trong hung có cát. Huyền Châm gặp cát Sát tương phù, Dương Nhận có quý thần tương trợ. Do từ binh nghiệp mà có quyền lộc, từ binh sĩ mà nhận chức quyền cao. Nhưng lấy Sát là trọng, thì không thể vu khống chỗ này vậy. + Xem mệnh kinh thương: Dựa vào chỗ nào? Ngày giờ cùng Tý Ngọ, tam nguyên đều là Dần Thân. Trước Mã không có bí, trên Kiếp phùng Tài. Hoặc Thiên Tài mà thân vượng, lại hành Tài vận. Hoặc có lục hợp hội Tài, lại tọa đất Mã. Người Nhâm vận nam, người Bính vận bắc, là người mua bán kinh doanh; người Giáp hành tây, người Canh hành đông, có đẳng cấp kinh doanh hay không. Giáp Ất cư Khảm phạm Nhâm Quý, khó tránh bèo dạt phương xa; Nguyên Vũ gặp Hợi không có Mậu Kỷ, tất là rong rũi bên ngoài. Về phần đắc lợi hay không đắc lợi, thì chuyên luận Tài có vượng hay không vượng mà quyết vậy. + Xem mệnh làm nghề nghệ thuật: Lại không phải nghề kinh thương. Mệnh gặp Đức Tú phạm hình xung, đường nhỏ đáng xem; giờ phùng Học Đường thấy Không Vong, đa số là đê tiện. Ất Canh hóa kim ở Khảm Cấn, Đinh Nhâm hóa mộc ở Đoài Càn. Tân Bính lâm ở tháng tứ quý, Mậu Quý cư ở cung Khảm. Đây chính là tú mà không tú, hóa mà không thành; cách cục phá tổn, Lộc Mã bất toàn. Nguyên nói đến thiên phú thông minh, đa số người sinh ra gặp Học Đường. Về phần thành tựu đạm bạc, chính là mệnh không có căn cơ (Nghĩa là, như người thủy không có kim, người hỏa không có mộc). Nếu tứ trụ không chiếu cố lẫn nhau, ngũ hành lại tải tượng vô khí, Thiên Ất nhàn mạn, Hoa Cái điệp phùng, không làm kẻ phiêu bồng tìm chỗ ở ẩn, tất là người nghệ nghiệp cửu lưu ( Cửu lưu: là 9 học phái từ Tiên Tần đến Hán Sơ, Trung quốc). (Thiên Ất nhàn mạn, như Giáp Mậu Canh, Nửa năm đầu lấy Mùi là Quý nhân không nhàn. Nửa năm cuối là lấy Sửu là Quý nhân không nhàn, xem thêm ở môn Lục Nhâm).


+ Xem mệnh làm Tăng đạo: Lại không phải là người làm nghệ thuật. Ngũ hành ở đất vô khí, thập can lâm đất tử mộ. Năm tháng tận phùng Cô Quả, ngày giờ toàn thấy Nguyên thần. Phạm nhiều Không Vong, trọng bồi Hoa Cái. Thê tử suy tuyệt, là Thân vượng vô y. Hỏa thịnh mà thân tâm thiền định, thủy nhiều mà tự do an nhàn. Nếu mệnh hợp quý cách mà tử tuyệt, tâm vui với hư thanh; mệnh không có quý khí nhi sinh vượng, tính thích thiền môn. Trên tháng ngũ hành điềm hòa, đạo hạnh cao khiết mà giáo môn tăng trọng; ngũ hành trụ giờ an tĩnh, phụ trợ hành quả. Mà số chúng đồ nhiều. Trụ tháng có được phúc thần trợ giúp, thì giỏi cùng pháp niệm mà khen ngợi đồng y. Trụ ngày hình xung mang Sát, thì cầu hoá vô duyên, mà lại đi phiêu lưu bốn phương. Thấy Sát Ấn, thì nắm quyền phục chúng, gặp Tang Điếu thì khổ hạnh tổn thân. Hoa Cái, kẹp quý cùng Tam Kỳ, tuy nói là Cát Sát; tự tử, tự tuyệt, tự sinh vượng, thì không có cát trợ. Nếu sinh vượng thái quá mà kiêm mang can quỷ, thì tâm không quên danh lợi; gặp khắc hại quá mức, mà lại gặp hung sát, thì khó miễn lễ phàm tục. Hàm Trì là sao tửu sắc, phạm thì đam mê không kiểm soát; Dương Nhận là vật hung ác, gặp thì là đồ tài lợi. Tuế vận thấy Tang Điếu phản phục, ở người phàm tục thì hung, còn tăng đạo thì cát. Nguyên mệnh gặp Cô Quả, Vong Kiếp, ở thường nhân thì có trở ngại, còn tăng đạo thì vô hại. Cổ ca nói: Hai loại phụ mẫu thấy Cô tinh, bốn mùa lộc cũng không có. Thìn Tuất Sửu Mùi được gia lâm, đa số là đạo sĩ cùng tăng đồ. Lại nói: Tam hợp sinh giờ Thìn Tuất, định là tăng đạo không sai. Nếu có Hoa Cái cùng lâm mô, áo túi to lớn định tử y. Phàm luận tăng đạo, lại lấy chỗ này là đúng chất vậy. Lại có trước bần sau phú, trước phú sau bần, cả hai cách biệt, hoàn toàn xem ở tháng, ngày. Ngày giờ sinh vượng là tụ phúc, về già vinh hoa; nguyệt lệnh có khí tích trữ Tài, tuổi trẻ phú quý. Nếu tháng cát mà dẫn dụng nhiều khinh, trước phú sau bần; nhật cường mà bản căn bất lợi, trước bần sau phú. Sinh ra thụ ấm, năm tháng ở xứ Tài phú; cuối chủ cô hàn, ngày giờ phạm đất Không phá. Năm tháng phùng Tài vô khí, lúc trẻ khốn cùng; ngày giờ gặp tự có khí, về già hân hoan. Tứ trụ suy vi, cả đời bất toại; Bối Lộc trục Mã, cả đời thê lương. Nếu nói can đầu lộ Tài, trong chi không tàng, đất Thương Kiếp Thực, Lộc Mã hư phù. Thân vượng Ấn trợ, cả đời phá bại không tụ tài. Tài đa thân nhược, bên ngoài thì có dư còn bên trong thì không đủ. Hoặc tứ trụ vốn không có Tài Quan, gặp tuế vận bỗng nhiên phát tài. Mệnh chỗ này, là hữu danh vô thực. Lại có mệnh bỏ đất xa quê. Đóng cửa rời nhà: Chính là năm khắc tháng cùng nhau chế phục, ngày xung giờ ở nơi Tý Ngọ. Tứ Sát nếu xung thân mệnh, định phải ly biệt tha hương; Tam hạn lại dụng tử tuyệt, khó tránh phiêu bạc xứ ngoài. Trùng trùng quỷ hại, nhiều lần hình Không. Vận xấu thời trái nghịch, ly biệt hàng xóm mà bôn ba đường trình. Mệnh kém ngày suy, từ biệt thân thích mà lui tới trên đường. Lại luận huynh đệ cùng với thê tử. Như mệnh mộc xuân giáng đến Dần Hợi Mão, tất nhiều anh em; nếu sinh tây nam, tất ít. Mệnh kim sinh mùa thu lâm Tị Thân Dậu, anh em tràn đầy; nếu gặp đất đông, không có chỗ nương tựa. Thuỷ cư Nhuận Hạ gặp Càn Khảm, đồng khí đa vinh. Thìn Tuất qua lại thì phóng khoáng. Hỏa hướng viêm thượng cư cung Ly Tốn, là liền cành cộng mỹ. Đến ở Dậu Hợi, là điêu tàn. Thổ lâm tứ quý, chú bác thành hàng. Nếu luận đắc lực hay không đắc lực, tam nguyên không lạc Không Vong, tứ trụ không phạm Cô Quả. Thanh Long tác tử, đừng cưới vợ Bạch Hổ; Hỏa Đức thành nam, chớ cưới vợ Hợi Tý. Thủy sinh con cháu, mẫu kị trung ương. Năm hợp ngày giờ phạm Mậu Quý, quyết chủ 3 vợ; Giáp phùng 2 Kỷ đến Tị Ngọ, không chỉ hai vợ. Bính phùng trọng Tân cư Dậu Tý, đa số là thương yêu thiếp; Canh cùng Ất hợp sinh Mão Ngọ, định có vợ bé; Nhâm phùng trọng Đinh ở Tị Dậu, trùng hôn chia phòng. Dương hợp Âm thịnh lập hai vợ, Dương hợp Âm suy vợ tái giá. Lại có con nhiều mà vinh quý, cũng có con ít mà ngu đần. Lý nói là sao? Phải luận thật kĩ. Kim cư cung Ly phùng viêm hỏa, con cháu đầy nhà; hỏa lâm cung Khảm gặp thuận dưới, đời sau hưng vượng. Mộc phùng Canh Tân đến Tị Thân, thổ sinh Giáp Ất kiến Dần Mão. Thủy lâm tứ quý, hỷ kiến Mậu Kỷ. Ngày giờ sinh phùng không có khắc chế, tử tôn nhiều vinh; Quan Sát trọng phùng kiến Tài sinh, con cháu tất quý. Nếu nói ngày lâm suy mộ tử bại, nam nữ phải tổn thương; giờ phạm Không Vong có khắc, con cháu tất ít. Mộc là đời sau, kị phùng phương Thân Ngọ; hỏa nếu là trai, chớ gặp đất Dậu Hợi. Kim là vị trí con, sợ thấy Khảm Dần; thủy làm trai quan, kị thấy Mão Tị;


thổ là con cháu, sợ lâm Chấn Đông. Nam thủ chỗ khắc là con, nữ thủ can sinh làm con. Tứ trụ quy về nơi bại tuyệt, ngũ hành đều ở Thương quan. Tuy có can chi ám hợp, cũng phải lấy con nuôi làm con kế thừa. Dù có thiên xuất, cũng khó định họ. Xưa có nói nhờ vợ an con, lý này rất sâu sắc. Mộc mà thấy Quỷ, được bắc phương, Khảm thì tồn tại nữ nhiều. Thủy tử gặp Sát, dựa vào tây phương Đoài vợ có nuôi dưỡng; thủy chế hỏa là nam, nhờ Thanh Long làm nhũ mẫu; Mộc tổn thổ Nhi, tìm Chu Tước làm mẹ kế. Ngũ hành có tổn, phải nhờ tương sinh. Tứ trụ tuy khắc, phần đa cũng vô hại. Nếu không tiếc mẫu an Tử. Sao có thể con cháu không thiếu? Về phần luận nữ mệnh, rất sợ hình phu. Ngày sinh mộc xà, khó thành hôn phối; Kỷ dụng kim kê, định là phụ nữ mất chồng. Thổ là vị hôn phu, Dần Mão có nhiều ít. Mộc làm hôn kỳ, cung Ly phải hại. Tái phạm Cô Loan càng nặng, lại phạm Bát Chuyên nói thế nào? Về phần làm phụ nữ thanh khiết, sinh mà không phạm hợp quý;nếu muốn tính cách kiên trinh, trường mà không gặp Sát Thương. Đinh Nhâm vô khí, tất phạm xướng dâm; Mậu Quý hưu tù, phần đa là trọc loạn. Tứ trụ hợp Lộc, tam nguyên thuần nhất. Ngày giờ có hợp, có chồng mà không bỏ tư tình; Đào Hoa Kiếp Sát, ngũ hành cư Mộ. Tài lộc mộc dục, nghịch chồng mà trở thành ám ước. Âm gặp can dương nhiều hợp, không làm xướng cũng là kỹ; Tỉ Kiếp phân tranh thân nhược, không làm thiếp cũng làm nô tỳ. Lại có ngũ hành thất vị, tứ trụ hưu tù. Thập can trên dưới giao chiến, vận hành vô khí Không Vong, Tam Nguyên ở trong mộc dục, ngũ hành cư xứ tử mộ, sinh làm nô tỳ, đem ai oán thán? Lúc có mệnh phạm Đảo Thực mà không có Thực, có thể cùng người khác làm phúc; Thiên Tài gặp Tỉ mà thân vượng, ngọt thì làm giàu còn khô thì làm hầu tớ. Đàn ông bỏ nhà, gửi rễ khác họ: Kim cư kim vị gặp Mão Dần, mộc đếu xứ mộc gặp Sửu Mùi. Ngày giờ phạm gặp Nguyệt Quỷ phá môn. Bính Dần biệt tổ tông nhập mộ. Khôi Cương lâm mệnh kiến Hoa Cái, cả đời nhờ vợ mà sống; Sửu Mùi trọng phạm, gặp Quả Tú, nửa đời theo vợ vào nhà. Tứ trụ qua lại hữu tình, dắt nhau thành hôn. Tam nguyên trọng phạm âm hợp, không môi giới mà làm vợ. Dương suy âm vượng, nữ thì lấy con trai khác họ làm con. Mệnh phối thành hôn, trước xem hưu bại khắc trệ, sau xem tương sinh, đa số là gọi rễ về nhà. Chi nhiều khắc trệ, định biết người mạo hiểm trên dưới vô sinh, một cửa sao có thể giữ vững? Thân như hiển hóa tự vô khí, bản tính hoàn toàn suy nhược; nếu là Giả hợp thành tượng khác, là cô nhi dị tính, cả đời khốn khó, sao có thể được của tổ tông? Nếu như hưng vượng, vì cầm khác nhà cha mẹ. Lạc Dịch phú Tham khảo cơ không có tạo hóa, trắc diệu lý ngũ hành. Phán đoán nhân mệnh được mất, quyết một đời vinh khô. Phép là thủ ở nhật can, luận hưng suy ở chi tháng. Giáp Ất thuộc mộc, tối hỉ sinh mùa xuân. Nhâm Quý thuộc thủy, thiên vượng ở mùa đông. Bính Đinh hỏa sáng tỏ ở mùa hạ, Canh Tân kim sắc nhọn ở mùa thu. Mậu Kỷ hai can thổ, vượng ở thời kỳ tứ quý. Ngày là bản thân, phải xét cường nhược. Năm là chủ bản, nên suy xét tường tận. Can năm là cha chi là mẹ, nhật can là bản thân còn chi là vợ. Can tháng là huynh còn chilà đệ, chi giờ là con gái còn can là con trai. Sát sau khắc năm, cha mẹ sớm mất. Trước Sát sau khắc, tử tức tất suy. Mã nhập cung Thê, tất được vợ có tài năng trong gia đình. Sát lâm cung Tử tức, tất con trai gây ra bội nghịch. Lộc nhập cung Thê, ăn lộc vợ. Ấn lâm Tử tức cung, nhận vinh con cái. Kiêu cư Tổ vị, là cơ phá tổ. Tháng Tài Quan vượng, được của cải của cha. Chỗ kỵ Tài thương Lộc bạc, tối sợ Quỷ vượng thân suy. Thấy Thực thần chiếm, người vật béo phì. Kiêu Ấn trọng sinh, của cải Tổ tiên phiêu đãng. Hàm Trì Tài lộ chủ dâm túng xa xỉ. Hung sát hợp năm đề phòng Tỉ Nhận. Đào Hoa trọng mang hợp thần, loại hạng ăn chơi. Dịch Mã nếu gặp vật xung, chiều ở Sở sáng ở Tần. Kim hỏa giao tranh, đoán không lễ nghĩa. Ấn Tài đều mất, thiếu tổn cha mẹ. Đào Hoa hội Lộc, tửu sắc vong thân. Tài vượng Kiêu suy, vì Tài tang mệnh. Thân lâm năm mộc dục, e gặp thủy ách. Chủ nhập đất tranh đấu, tất gặp hỏa thương. Tài sinh Quan, dùng của cầu quan. Tài phôi Ấn, tham tài mất chức. Tài vượng sinh Quan, tự thân vinh hiển. Tài sinh Sát đảng, tuổi trẻ chết yểu.


Độc Sát xung phá phế người nhàn rỗi, chư Sát phùng chu đường hung ngoan. Thiên can nhiều Sát, gặp can năm phải chết yểu. Địa chi nhiều Quỷ, gặp chi năm tất kiến hung tai. Tài sinh Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, phú quý song toàn. Thương đảng Tài, Tài đảng Sát, Sát khắc thân, hung cùng lưỡng bức. Dậu Dần hình hại, kế hại hôn nhân. Tị Mão phong lôi, quá nóng tính. Sát Quan hỗn gặp, là cửu lưu kỹ nghệ. Tài Lộc tọa Mã, là khách kinh thương. Mã lạc Không Vong, dời nhà phiêu bạc. Lộc gặp xung phá, cánh bèo ly hương. Âm nhiều lợi ở nữ nhân, dương thịnh lợi cho nam tử. Âm thịnh hơn dương, nữ chủ hưng gia. Dương thịnh hơn âm, nam đang xây phủ. Thuần dương nam tất cô quả, thuần âm nữ tất khốn cùng. Năm sinh Quan quý, hóa hung sát mà uy danh vạn cổ. Bào Thai lâm ngày, gặp Ấn thụ mà lộc hưởng ngàn chung. Nhất khí là căn, biểu thị tú xuất quần anh. Lưỡng can không tạp, người tài đức nỗi danh xuất chúng. Mộc tú hỏa minh, thông minh tuấn tú. Thủy thâm thổ dầy, làm tàu bè lớn vượt sông. Mệnh nguyên sinh Sát phùng thân vượng, tất chủ gia quyền. Lâm quan tuế gặp quý nhân, ăn bổng lộc trọng. Thương quan rất cẩn khử quan tận, chế Sát không bằng hóa Sát cao. Nếu như hóa thần nhược, chế thần cường, thi ân không đủ mà có oán. Hóa thần vượng, chế thần suy, tài năng lâm sự không quyết đoán. Có Sát không có Ấn khiếm khuyết văn chương, có Ấn không có Sát thiếu uy phong. Sát Ấn lưỡng toàn, văn võ đều kiêm. Vận suy phát mà vận vượng dừng, vận vượng phát mà vận suy chết. Chỗ này là Xuân Thu luân phiên, thiên vận hồi quyển, lý lẻ muôn đời là không đổi vậy. Kim Ngọc phú Sưu tầm bát tự, chuyên luận Tài Quan. Thứ nghiên cứu ngũ hành, phải tìm khí hậu. Luận Tài Quan hướng bối trọng khinh, khảo sát khí hậu thiển thâm sinh tử. Nó đến khắc ta là Quan Quỷ, thân vượng tất có quyền. Ta đi khắc nói là Thê Tài, can cường thì phú. Năm tổn thương Nhật chủ, là cha và con bất hoà. Giờ khắc Nhật thần, là mệnh con không tuân ở cha. Năm khắc ngày, là trên có thể phạm dưới. Ngày khắc năm, dưới đi phạm trên. Nếu được có vật chế nhật can, thì có thể hóa ác thành cát. Bản Chủ lại cần phùng Hỉ thần, thì biến hung thành cát. Hỉ thần khánh hội, nên biết tài sản hưng long. Tứ trụ vô tình, định kiến họa đoan cùng lấy. Hoặc thấy Bản Chủ tương xung, tam hình trùng điệp. Tuế Vận khinh xâm, tất gây ra tai hoạ. Ngũ hành thuần túy nhập cách, phong thanh đài các. Thân cường lại gặp Thất Sát, trấn thủ đô thành. Không có Tài Quan mà có cách cục, là Thanh vân đắc lộ. Không có cách cục mà có Tài Quan, hoàng giáp thành danh. Tài Quan cách Cục đều tổn, không bần hàn thì công danh cũng gian truân. Nhật can cùng nguyệt lệnh đều cường, không vì nghèo tất là người ẩn dật. Bính Đinh tọa Nam Ly mà không có chế, là bất tuân lễ pháp, kẻ hung bạo. Nhâm Quý gặp Mậu Kỷ tương ứng, là ôm lấy tài đức, người thông tuệ. Tân phùng Ất mộc ở mộ Nam, tuy phú mà bất nhân. Bính phùng Tân kim trấn ở bắc, tuy bần mà có đức. Năm tháng giờ có Thiên Ấn, cát hung không này sinh. Đại vận Tuế quân phùng Thọ tinh, tai ương lập tức đến. Lúc nhỏ mất sữa, Thực thần phùng cung hình khắc. Thanh niên tranh vanh, vị trí Tài Quan cư thuần túy. Ngày dương Thực thần đắc địa không có xung tổn, là ám hợp Quan tinh. Ngày âm Thực thần không có phá suy cần phải phù hợp, thì thân cận Ấn thụ. Thiên Tài có thể lợi ích là sống thọ. Dương Nhận thiện đoạt Tài hóa Quỷ. Tài tinh có phá, phá tổ mà đi tha hương. Ấn thụ bị thương, mất tổ nghiệp xa rời đất tổ. Nhân mệnh lấy Quý thần là phúc, gặp khắc hãm thì hung họa không cát tường, ngũ hành hội sao hung là hoạ, hỉ hợp Sát cùng Thực thần là quý.


Mệnh suy Sát vượng, gặp Thiên Xá nhị Đức là cát tường. Thân nhược Tài phong, hỉ Dương Nhận Huynh đệ để trợ. Nguyệt lệnh gặp Thực thần kiện vượng, thích ẩm thực mà tư chất sung túc. Tứ trụ có cát tinh tương phù, mang kim tích ngọc. Ngũ hành không có hung sát xâm phạm, thanh danh hiển dương. Dần Thân Tị Hợi trùng điệp phạm, có tâm thông minh phát sinh. Tý Ngọ Mão Dậu trọng phùng, dẫn đến đam mê hoang dâm tửu sắc. Đào Hoa mang Sát, tâm ý xương cuồng. Nhị Đức phùng Ấn, đức tính nhân từ. Thực thần nhiều, mà thích tham ăn ẩm thực. Chính Quan vượng, mà tiếp nhận mưu lược. Kiêu thần hưng thịnh, tuổi trẻ chết yểu. Tước tinh vượng, lão thọ di cao. Muốn biết nữ mệnh khó kết hôn, vận nhập vị trí bối phu. Muốn biết nam nhi cưới sớm, định là vận hợp đất Tài. Tử khắc trùng trùng, Sát không có Quan suy Thương Thực trọng. Thương thê trùng điệp, Tài khinh thân vượng Tỉ Kiếp nhiều. Nếu không như vậy, định là hình xung vị trí thê thiếp. Ám hội Tài tinh, nhiều thê thiếp. Hư hướng Tài vị, chủ nhiều vợ. Tài tinh nhập mộ, tất định hình thê. Chi dưới phục Tài, thương yêu thiếp hơn vợ. Thê tinh rõ ràng, muốn cầu kiều mộc. Đại vận lưu niên, tam hợp đất Tài, tất chủ cát triệu hồng loan. Hoặc Quan lâm Tài bại, tài sản suy tàn, thương thê tổn thiếp, hôn phối khó thành. Thê tinh nói vị trí ở cung nào, yêu cầu đích xác. Quan Lộc cư vị trí Thiên Trù, phải xét căn nguyên. Cách cục có thuần túy, bỗng gặp ác vật tương xung, cũng chủ tử vong. Có Tài Lộc suy bạc, hoặc phùng tuế vận vượng tướng, cũng bỗng nhiên phát. Nhật cầu thăng hợp, Thực thần vượng xứ Kiếp tài nhiều, sinh ra bần yểu, Tài Thực đắc địa Kiêu Ấn trọng. Quan nhược Sát cường, không có chế thì yểu. Nhật suy Tài trọng, đảng Sát là nghèo. Lại xem tuế vận, hung ở đâu cát ở đâu. Dần Thân Tị Hợi dựa vào lẫn nhau, không di chuyển tất phải tha hương. Càn Khôn Cấn Tốn gặp qua lại lẫn nhau, cùng đuổi nhau tâm không chủ định. Trong trụ nếu phùng Hoa Cái, gặp Nhị Đức là người thanh quý. Quan tinh Thất Sát hoặc lạc Không Vong, ở cửu lưu nhậm chức hư nhàn. Ngũ hành khắc chiến, không hại nhật chủ thì không có hoạ. Tuế vận cùng lâm, nếu tổn dụng thần tất có họa. Tài tinh nhập mộ, một chút hình xung tất phát. Thương quan thương tận, hoặc thấy Quan tinh thì hung. Có 18 cách, nên theo Thiện Ác mà suy tìm. Nói chung hệ ngũ hành, đều thủ suy vượng tiêu tức. Thân vượng sao nhọc Ấn thụ, can suy không hỉ Tài Quan. Trung hòa là phúc, thiên đảng là họa. Nếu thấy Quý thần triều củng, Lộc Mã phi thiên, Diêu hợp hư cách. Không được hình xung gặp hợp, đều kỵ Thất Sát Quan tinh, đều sợ hợp trói, Điền thực là hung. Bỗng nhiên đến vận Quan hương, nên thoái thân mà né tránh chức vị. Mã Bì phá Quan, khốn thủ đường cùng. Lộc vượng Tài phong, làm quan cao ngất. Như lâm xứ hỉ lấy phải họa, là do tam hợp còn ẩn hung tinh. Hoặc phùng xứ hung mà lại cát tường, chính là Cửu cung mà lộ cát diệu. Muốn biết chức phẩm cao thấp, phải tìm vận thần hướng bối. Thanh kỳ trắc tuổi trẻ thành danh, khuyết tì thì về già đắc địa. Đường mới hanh thông, quyền cao tước hiển. Đồ trình trục trặc, là lộc bạc quan thấp. Suy tìm vị trí tử tức, trước xem Thê cung. Tử tuyệt thì đa số khó tồn. Thái vượng là tìm kiếm cửa khác. Tử tinh hiển lộ, tử tức tất nhiều. Hình hại Tử tức cung, nam nữ khó được. Nếu hỏi huynh đệ nhiều ít, tinh tế chọn can chi tứ trụ. Nguyệt lệnh tuy cường, lại xem vận thần hướng bối. Tử tuyệt hình thương, anh em mất thứ tự. Tương sinh khánh hội, anh em kết vinh. Huynh đệ thân vượng, phụ mẫu có suy. Tài bạch nhiều cung, sớm có tang mẹ. Nếu thấy Quan Quỷ xuất ra, mẹ lại có thọ. Như phùng thoát khí xếp nối tiếp, cha vẫn có thọ. Nhâm lâm ở Ngọ, Quý tọa


Tị. Nắm trung hòa là Lộc Mã đồng hương, thoái hưu tù cũng là Thai Nguyên tuyệt địa. Bính lâm ở Thân, Canh tọa ở Dần, Kỷ nhập Tốn Càn, Ất lâm Song Nữ. Kim ngồi hỏa vị, Giáp tọa Khôn cung, danh viết hưu tù, rất sợ khắc chế. Thất Sát kỵ phùng nói tang ma hồn phách, Thọ tinh vui gặp viết là Hoàn Hồn. Thiên mệnh có thi hành, trí lực khó xuất; bộ phận tiếp nối tạo hóa, âm đức có thể đoạt. Bần hàn hết tận, có thể khiến cho nhà nghèo xuất công khanh. Xa xỉ thái quá, vẫn khiến giàu sang sinh nghèo đói. Gia sản hao phí, định sinh con trai chẳng ra gì. Kết hôn tự hình, tất cưới thê thiếp không thọ. Tứ cung bối lộc, không thể vọng cầu. Quan tướng không thành, lúc Tài gặp phí. Bát tự không có Tài, cần phải an phận. Vượt ngoài nếu tham, tất gậy ra hung sự. Y! Cam bần nuôi vụng, vốn không có Tài cung hiến. Vổ bụng thổi tiêu, sao Ngũ Viên tỏa chí! Chẳng lẽ là mệnh vậy, chỉ cần thuận mà thôi. Kinh Thần luận

Ngũ hành sinh vượng, là người vinh quý trong triều đình. Tứ trụ hưu tù, là khách ở ẩn thanh tu. Quỷ vượng thân suy, thiếu niên khó mà vinh hoa. Lộc phá Thân hình, tuổi trẻ không nơi nương tựa. Nam ít nữ nhiều, chỉ vì Âm thần thái trọng. Nam nhiều nữ ít, định là có lệch Thuần Dương. Nghịch khắc Huyền Châm, là thế hệ bị tù tội, khắc mặt đánh sắt. Khôi Cương Sát Nhận, thân dễ bước vào đường quân ngũ. Quan gặp Vong Kiếp kiêm Thất Sát, là đảm nhận võ tướng. Quý điền Tài Ấn gặp Nhị Đức, xứng làm trung thần. Tài xung Lộc phá, mua bán giết mổ gia súc. Lộc vượng thân cường, khách quý nhà giàu có. Cô thần gặp Hoa Cái, đạo sĩ tăng ni. Kiếp Sát gặp Khôi Cương, thầy mo thuật sĩ. Hàm Trì tọa vượng mang Nhận, vì sắc vong thân. Dịch Mã lâm hình mang Lộc, vì môi giới làm giàu. Mệnh trường phú quý, bởi vì Thiên Đức gặp Trường Sinh. Y thực sung túc, chính là Tài tinh không có khắc phá. Nhật cư chuyên lộc, chắc chắn là địa chi hoàn toàn hội quý. Chi là Nhận can là Quan, tháng giờ thấy Quan tất hiển danh. Mậu Ngọ, Mậu Ngọ, quý nhân hóa Nhận sinh thân. Củng Lộc, củng Quý, họa là lúc Tuế đến Điền Thực. Tài đa hiển lộ, có bại có thành. Tài thiếu ám tàng, tiền nát quán mục. Tuổi trẻ không con, đều là do ngày giờ hình thân. Về già thêm con, vì biết giờ được Nhật Quý. Bính ở Thân, Canh ở Dần, Giáp ở Tị, là chân quý nhân. Giáp Tý, Kỷ Tị, Nhâm Thìn, chuyên nghề y bốc. Ngày phùng Nhận Sát, vợ tất chết khi sinh đẻ. Giờ gặp Cô Hư, sinh con không ra gì. Trong chi Tý Mão phùng một quý, phú mà không bần. Can chi hình hợp mang Hàm Trì, làm ca kĩ đón khách trước cửa. Trụ giờ Thiên Quan có chế, về sau con cái anh kỳ. Trong trụ có Tài vượng sinh Quan, tuổi trẻ làm quan. Hàm Trì, Hoa Cái, tháng giờ phạm nhau là chủ mồ côi.


Điếu Khách, Tang Môn, tuế vận cùng lâm phương tang phục. Thủy nhiều thì thế hệ phiếm lạm, lâm chuyện không thành. Thổ nhiều là kẻ ngu trọc, hóa sinh lấy phúc. Mã nhiều thì quanh năm bôn tẩu. Lộc nhiều thì công việc khó ngừng. Hình nhiều thì chung thân có tàn tật. Phá nhiều thì cả đời khổ hận. Mã nhiều Lộc ít, là thề hệ bôn ba quỷ trá. Tài vượng thân cường, lè kẻ sĩ trung lương hiển hách. Hàm Trì mang hợp gặp Quỷ tặc, tán gia hại người. Kiếp Vong Sát Nhận hội Thương quan, hung ngoan rước họa. Thiên Tài thân vượng, người truy cầu làm con buôn. Lục hợp hội Tài, thế hệ kinh doanh hưng thịnh. Củng Ấn củng Quý, là khách chốn tam đảo ngọc giai kim điện. Củng Lộc củng Tài, vạn khoảnh tang điền sánh Chu Lý. Có Ấn không có Quan, mệnh kiến hưởng thành thanh cao. Kim thần thông thủy, là kẻ bần hàn mang tật. Ngu si vô tri, đều là do tiết khí hại thân. Biết võ biết văn, Thiên Đức quý nhân sinh Ấn. Phong lưu phá đãng, Ấn nhiều can nhược tọa Hàm Trì. Áo dài khăn đóng, do hai sao Cô Quả lâm Hoa Cái. Đầy bàn Dương Nhận, quyết định phân thây. Ngày giờ đều có Không, vợ con bất lực. Can chi trọng phạm còn thêm Quan, cố tật triền thân. Một chữ Thiên Ất gặp Trường sinh, lợi danh đều có. Lưng gù chân thọt, chỉ vì Sát thần gặp Khúc Cước. Nho Chu tàn tật, bởi vì Quỷ vượng ngày suy nhược. Chi vượng can suy nhà kiên cố, Chi suy can vượng ngoài hư hoa. Tứ trụ liên châu, Quan Ấn trợ tôn cư nhất phẩm. Ngũ hành liền nhau, Tài Lộc hưởng giàu nghìn chung. Thân nếu cương cường, không sợ quỷ đến khắc ta. Nhật can nhu nhược, hỉ phùng Tỉ Kiếp tương phù. Thân nhược Thực nhiều là yểu thọ. Kim thần mang hỏa thì quý. Khảng khái là Thiên Tài, Kiếp Nhận. Keo kiệt là Chính Quan, Chính Tài. Thất Sát không có chế, chính là kẻ hung ác. Thương quan Hàm Trì, định làm khách trên đường. Phàm thấy nhật can thái nhược, trong có chỗ nhược phục sinh. Nếu thấy vượng tướng tương sinh, cũng có khắc phá ở trong vượng. Tinh Vi luận Phàm xem nhân mệnh, chuyên luận lục cách. Phùng Quan xem Tài, kiến Tài là phú quý. Phùng Sát xem Ấn, gặp Ấn lấy vinh hoa. Phùng Ấn xem Quan mà gặp Quan, 10 có 7 phần quý. Phùng Tài kỵ Sát mà có Sát, 10 có 9 phần là bần. Quan hỉ lộ, lộ thì thanh cao. Tài nên ẩn tàng, tàng thì phong hậu. Quan Sát hỗn tạp, thân nhược thì bần. Quan Sát tương đình, hợp Sát là quý.


Năm tháng có Quan tinh, tuổi trẻ làm quan. Ngày giờ có Chính Quý, về già thành danh. Bào Thai phùng Ấn thụ, Lộc hưởng nghìn chung. Tài khí phùng Trường Sinh, điền phì vạn khoảnh. Thu Đông Quan tinh phòng Nhận Thương, hoàn toàn thấy Nguyên Vũ (Huyền Vũ là giữ hướng bắc, còn gọi là Nguyên Vũ) quý không sai. Tháng chạp âm lịch có Thương quan hỉ kiến Quan, phá Ấn thương trọng họa mà chết. Tài vượng sinh Quan, là quý ít mà nhiều phú. Thương quan kiến Tài, Quan vừa cao mà Tài sung túc. Không có tổn thương thì không quý, có bệnh mới là quý. Tuy đầu là dụng, nhưng cuối khử đi thì mới phúc. Lý kỳ diệu ở chỗ này, không cần tìm bên ngoài. Như hỏa viêm thủy thiếu gặp Canh Tân, đừng lấy thân vượng Quan khinh mà thủ. Hoặc thổ trọng mộc tuyệt phùng Nhâm Quý, khó lấy Quan vượng thân khinh mà quyết. Tài khinh chớ gặp Kiếp địa, Ấn nhiều tối diệu Tài hương. Tài vượng sinh Quan, vì hối lộ lấy quan. Sát tinh chế Nhận, cướp báu vật ghi danh. Thân vượng có thể thủ Thiên Tài, tất được tài phú. Chủ kiện Chính Tài bị Kiếp, lần lượt thấy thê tai. Kiếp tài Dương Nhận nhập Quan Sát, làm thần đài các. Quy Lộc xung Thực phùng Nhận Thương, quý nơi Lang Miếu. Thân vượng có Sát phùng Ấn thụ, đoán là quan quyền. Chủ nhược phùng Ấn kiến Tài tinh, làm kẻ tầm thường. Dương Nhận, có Thiên Quan chế, xứng chức nắm binh hình. Chính Quan, Chính Ấn không tổn thương, thủ lệnh làm quan quản dân. Tài vượng giá sắc, làm quan cấp lương. Phi Lộc triều Dương, chức vị cận vua. Càn Khôn vốn là thanh khí, vinh quan kiến quốc. Tý Ngọ là cực tôn, làm quan hoàng môn. Ngày Quý giờ Quý kiêm Sửu Hợi, khôi danh cập đệ nhập Hàn Lâm. Ngày Nhâm giờ Nhâm gặp Dần Thìn, cao tước thừa ân đăng Ngự Các. Nhật Đức kiến Khôi Cương, dù là cát cũng chỉ là kẻ sĩ bần hàn. Khôi Cương gặp Tài Quan, người đảm nhận y lộc đắc địa. Thương quan kiến Quan, diệu là gặp đất Tài Ấn. Tài tinh phá Ấn, quý hành đất Tỉ Kiếp. Mệnh trọng Tài, vận phùng Sát, rất cát tường. Mệnh trọng Sát, vận phùng Tài, hung có thể quyết. Giáp Ất nhập vận tây phương, thân vượng thì có thể hứa lấy công danh. Nhâm Quý kinh lộ ở đất nam, chủ kiến có đường Tài Lộc. Kiếp Sát không nên hành đất vượng, Thực thần tối diệu đất Thiên Tài. Nữ mệnh Thương quan, được Quy Lộc là cực cát. Nam tạo Dương Nhận, thân nhược gặp là tối kỳ. Kim thần, Kiến Lộc, Lan Xoa, nữ mệnh gặp là tối kỵ. Dương Nhận, Thương quan, Thất Sát, nam tử gặp là được quyền. Kim thần nhập hỏa phùng Sát Nhận, quý là không sai. Sát trọng có Ấn phùng Thực Thương, vinh là có chuẩn. Chính Quan, Chính Ấn, quan cư không hiển. Dương Nhận, Thất Sát, làm quan nắm hiển danh. Thân vượng vô y, làm kẻ tăng đạo. Đào Hoa cổn lãng, làm kẻ xướng tỳ. Kim nhược hỏa cường, giống như thổ mộc tiêu dong. Thổ nhiều thủy ít, làm công may vá. Mây nhiễu Ngũ Hồ, đầu vinh sau nhục tất thân bần.


Biến dã Đào Hoa, cả đời phong lưu tửu sắc. Vong thần, Củng Sát, làm tặc đạo. Tú khí thất thời, làm kẻ sĩ thanh bần. Ấn vượng thân cường đa số thích tửu, Đinh Nhâm đố hóa phạm dâm ngoa. Thân Ấn đều vượng, cả đời ít bệnh. Thiên Nguyệt Đức trợ, xử thế không có tai. Thực thần sinh vượng, tự thắng Tài Quan, quý hơn Tài Sát. Có bỏ mệnh tựu Tài, tựu Sát, tựu Quan là có dư phú quý. Vô y chuyên vượng tuyệt Thực, tuyệt Tài, tuyệt Quan là bần cùng vô hạn . Thân nhược bỏ mệnh phải không có căn, làm quan đồ tể. Can suy thân hóa được thời kỳ, địa vị cận thiên đình. Nam mệnh loại thuộc Tòng Hóa, Chiếu phản Quỷ phục, nên suy xét cho tinh tường. Nữ mệnh thuần hòa thanh quý, trọc lạm xướng dâm, nên xét cho kĩ vậy. Nguyên Diệu luận

Thường nghe phân Nhị Khí để định Tam Tài, truyền bốn mùa mà thành vạn vật. Nhân mệnh: Vinh khô được mất, đều ở hết trong ngũ hành sinh khắc. Phú quý vinh hoa, không vượt ra ngoài bát tự trung hòa. Trước tiên xem Tiết khí thiển thâm (nông sâu). Thứ xem Tài Quan hướng bối. Phàm trong nhân mệnh, thực ra khó mà có đủ Tài Quan, còn lại xem trong cách, chỉ cần Hư Yêu Lộc Mã. Tiên hiền đó lấy thành công thức, hậu học phải biết biến thông. Thái quá mà không có khắc chế, là bần tiện. Bất cập mà mất sinh phù, là hình yểu. Nên hướng mà vận bối, quyết là bần tiện. Nên bối mà vận hướng, định là khốn cùng. Hỉ sinh mà phùng sinh, quý có thể biết. Thích khắc mà được khắc, cát không thể nói. Mộc thịnh phùng kim, đoán làm trụ cột tài năng. Thủy nhiều gặp thổ, diệu là có công thành đê ngăn. Hỏa luyện thu kim, nung luyện thành khí kiếm sắc nhọn. Mộc khai thông thổ, bồi thành mùa giá sắc. Hỏa viêm có thủy, danh đều là Ký tế. Thủy ít kim nhiều, hào viết tượng Thể Toàn. Hợi Mão Mùi phùng ở Giáp Ất, phú quý không sai. Dần Ngọ Tuất phùng ở Bính Đinh, vinh hoa có chuẩn. Canh Tân cục toàn Tị Dậu Sửu, vị trọng quyền cao. Nhâm Quý cách được Thân Tý Thìn, Lộc cao Tài dư. Mậu Kỷ cục toàn tứ quý, vinh quan Chư Tào. Lại gặp Đức Tú Tam Kỳ, danh dương tứ nhạc. Phương mộc có đủ Dần Mão Thìn, tự có công danh. Kim được đất Thân Dậu Tuất, phú quý không sai. Thủy quy nguyên Hợi Tý Sửu, lợi danh đều có; hỏa lâm đất Tị Ngọ Mùi, người hiển đạt. Mộc vượng cần hỏa cùng chiếu sáng, vây thu có thí nghiệm. Kim kiên thích thủy bao hàm, văn học kham khoa. Dụng hỏa sầu thủy, dụng mộc sợ kim. Xuân mộc trùng trùng, là dừng nơi thái vượng vô y. Hạ hỏa viêm viêm, chớ lấy có áp chế thái táo. Thu kim bén nhọn là tối kỳ. Đông thủy uông dương chuyên khả mỹ. Sinh ta phù ta là kỵ, có công khắc ta chế ta. Ngũ hành có phối, viết là Hóa, viết là Trì, nhật hòa. Tứ trụ vô tình, là loạn, là thương, là họa. Trong Hợp phùng xung chiến, như an ninh mà gặp loạn lạc. Tử địa phùng sinh, nếu phủ cực lại lấy thế thịnh. Một trì một loạn, trong trụ cổn lãng hình xung. Chợt vượng chợt suy, mệnh lý giao hoành phá hại. Lưu Trách không đỗ giáp, chỉ vì năm văn học suy. Lý Quảng không làm quan, bởi vì người cường Mã bại. Muốn biết cả đời quý tiện, nên suy tinh Khoa Giáp. Muốn hỏi chức phận cao thấpp, xem xét vị trí Tài Quan. Cầu quan không thành, xung thương mệnh quý liền đăng khoa. Công danh đã thành, phúc không thể lâm thương lấy phá. Khôi thắng Quan, thì chung thân không đậu quan. Quan thắng Ấn, mà nhổ nước miếng thành danh. Mộc tướng hỏa minh, thế hệ này cần đăng giáp đệ. Kim hàn thủy lạnh, cuối cùng là bần hàn. Thai Nguyên Nhật chủ, Đề cương Ấn vượng đoạt khôi


nguyên. Tụ quý ở năm, cao tọa Ngọc Đường vinh Hàn Uyển. Bệnh là Khôi tinh, khử bệnh mới có thể thành tựu. Văn là giáp thủ, Quan đến mới thấy thăng quan. Nguyên Vũ cách mà nhiều Tỉ Kiếp, Thái Ất Ngọc Đường chân giáp đệ. Chu Tước phú mà Thực thần vượng, năm Quan tuế Ấn định đăng khoa. Tỉ kiên nhiều thấy Quan Sát, Ấn là Khôi tinh, hợp tuế xung quan cập đệ. Quan Sát trọng gặp Ấn Thương, chính là có khoa giáp, năm Thực tuế Ấn là đề danh. Mộc khôi nếu lâm năm tháng vượng, chính là Trạng nguyên. Hỏa tú như gặp can Tuế viêm, thuộc loại giáp bảng Trạng Nguyên. Số khoa bất cập, chỉ vì Tài phá Văn thư. Nhất cử thành danh, chính là Khôi tinh mang giáp. Ngũ hành tiêu trưởng, đều vì quỷ lấy thành công. Tứ trụ hưng long, nếu không có bệnh là không quý. Tuy dụng là Quỷ bệnh, cuối cùng được khử là phúc. Lại tìm năm tam hợp Lộc Mã, phải xem năm Thiên Ất Ngọc đường. Bính Đinh sinh ở mùa đông, quý ở Mậu Kỷ trên đầu. Canh Tân sinh ở mùa hạ, diệu ở Nhâm Quý đắc cục. Giáp Ất sinh mùa thu, quý cần Nguyên Vũ. Canh Tân sinh mùa hạ, diệu dụng ở Câu Trần. Bính Đinh thủy nhiều sợ bắc địa, phùng Mậu Kỷ lại lấy quý suy. Canh Tân hỏa thịnh sợ nam phương, gặp Mậu Kỷ là lấy quý đoán. Giáp Ất sinh mùa thu thấu Bính Đinh, chớ lấy Thương xem. Mậu Kỷ sinh mùa hạ lộ Canh Tân, nến lấy quý luận. Hỏa mang nhiều thủy, quý hành mộc vận. Thổ phùng mộc vượng, vinh nhập hỏa hương. Canh phùng thủy trọng, thủy lạnh kim hàn, tối hỉ viêm nhiệt. Mậu gặp Dậu nhiều, thân suy khí thoát, rất thích Huỳnh Hoàng (hoả). Bất cập cần sinh phù, thái quá cần cướp khắc. Thanh Long toàn tòng cách kim, vừa bần vừa tiện. Bạch Hổ bị thuỷ Nhuận Hạ, viết phú viết vinh. Xuân nhiều mộc mà ít thủy, bổ nạp làm tăng. Hạ hỏa viêm mà kim suy, nói trâm cài trên nón. Câu Trần cục toàn Nhuận Hạ, làm kẻ bôn ba. Chu Tước tam hợp Nguyên Vũ, kẻ khốn nhược. Kim kiên hỏa nhược, người hành thương mua bán. Thổ bại thủy ngưng, khách tha hương phá tổ. Kim sinh mùa thu thổ trùng điệp, bần không có tấc sắt. Hỏa sinh mùa hạ thiên kim trùng điệp, phú có nghìn chung. Xuân mộc chuyên gặp nhiều thủy, làm kẻ bần tiện. Đông thủy độc phùng kim thịnh, thế hệ hàn nhược. Thìn Tuất Sửu Mùi gặp hình xung, không có người nào là không phát. Tý Ngọ Mão Dậu mang hình hợp, phạm đa dâm. Hạ kim điệp hỏa, thu thủy trọng kim, quá thiên đảng thì không bần cũng tiện. Xuân kim nhiều hỏa, đông thủy thịnh kim, không có chế phục thì không yểu cũng bần. Thu mộc vô căn tòng phúc vợ, lộc quý sùng cao. Hạ kim thất địa phối phu vinh, công danh hiển đạt. Hỏa hướng xuân lâm phùng mộc vượng, nên đi cầu danh. Thổ lâm quý địa thấy nhiều kim, có kham làm quan. Giáp Ất mùa hạ vinh thổ tinh hậu, nửa công danh hỉ đủ điền trang. Bính Đinh đông thịnh thủy nguyên thanh, tước lộc toàn hân vinh cẩm tú. Chuyên Lộc mang Thực Thương, cầm quyền ngoài song cửa. Dương Nhận nhập Quan Sát, uy trấn biên cương. Củng Lộc, củng Quý, Giáp Khâu, tước lộc phong dụ. Đảo xung, Diêu Hợp, Lan Xoa, công danh hiển đạt. Nhâm xu Cấn và Giáp xu Càn, là quan thanh danh. Tân triều Dương cùng Ất Thử quý, làm quan văn học. Cục toàn Phong (Tị là phong) Hổ (Dần là Hổ), đấng tài lương. Trụ gặp Vân Long, đức đại nhân. Tứ khố toàn bị Long (Long là Thìn) biến hóa, phùng Đại Hải là tôn đấng Cửu Ngũ. Tam Kỳ cục tú Phượng đằng vân, gặp Thiên Môn ( là Hợi) làm quan đài các. Vượng Tài Quan phú quý, Ám Lộc Mã lấy vinh hoa. Nhập cách là lấy quý mà suy, phá cục là đoán không có quý. Nghiên cứu một lý mà xét trăm đường, rõ vài câu nói mà thông vạn loại. Hậu học quân tử, nên xét chỗ này. Minh Tân tiên sinh Cốt Tủy ca

Muốn biết ngũ hành sinh tử quyết,


Dễ dàng sao nói cùng phàm. Ngũ tinh chỉ dựa ở là hạn, Tử Bình chuyên lấy trong vận quyết. Sinh biết phú quý hỏi tiền trình, Giờ chết không tường làm sao đoán? Cách cục chỉ lấy dụng thần suy, Dụng không thụ thương người bất diệt. Vận hành trước phân 12 cung, Xem ở cung nào chịu tiết nào. Tài Quan Ấn thụ cùng Thực thần, Phải biết khinh trọng thẩm phân minh. Quan tinh sợ hành Thất Sát vận, Thiên Quan càng sợ Chính Quan lâm. Quan Sát hỗn hành phải suy xét, Khử Sát lưu Quan tử tế bình. Lưu Quan khử Sát chớ phùng Sát, Lưu Sát hội Quan Quan chớ gặp. Quan Sát thụ thương người tuyệt tự, Lại xem Tài cách định tiền trình. Ngày giờ Thiên Chính hỏi Tài đâu, Lại sợ can đầu mang Sát đến. Sát vận trọng phùng người thọ yểu, Nào ngờ Thiên Chính đúng là tai? Tự chuyên Thiên Chính đều là phúc, Huynh đệ cùng chia là mối họa. Vận đến Chính Tài tất cạnh tranh, Đều cần Thiên Chính lưỡng phân suy. Có Tài Quan vận là vinh phát, Quan vận Tài hương là phúc thai. Chỉ sợ nhật nguyên nơi tự nhược, Tài đa sinh Quỷ cản thân suy. Tài đa thân nhược hành Tài vận, Xứ này mới biết nhập tuyền đài. Quan không thụ thương Tài không động, Thọ sơn cao Tủng sao có sụp? Đệ nhất khó suy đất Ấn thụ, Vận hành thân vượng tất vinh xương. Quan hương hội hợp phùng Quan chức, Tử địa nên biết là tai ương. Nếu như phùng Tài đến hại Ấn, Treo cổ rơi sông chết trong ác. Quan cư đảm nhận ở đất tử, Trù tính gặp đây ở bên đường. Ấn không phùng Tài người bất tử, Từng cái như trước suy tế tường. Tài Quan Ấn thụ phân rõ nói, Lại có Thực thần không dễ quyết.


Thực thần hữu khí thắng Tài Quan, Chỉ sợ tàn thương trước sau tiệt. Đảo Thực vận gặp lại hại năm, Phải biết sớm gặp ở tuyền đài. Cách trước dạy người nói đoản trường, Cách sau lại cũng tiệt trước lộ. Lại phân khinh trọng tử tế suy, Rất sợ Tài Quan lâm tử tuyệt. Thương quan vận mệnh lại phùng Quan, Là đoán lưu dời họa bách đoan. Nhật quý Nhật đức phùng xung chiến, Mệnh này nguy vong có lập xem. Phi thiên Củng Lộc sợ Điền thực, Lại xem trói thần đến phạm can. Nếu theo chương Hỉ Kỵ mà đoán, Cách cục phùng Thương lấy yểu xem. Cách sau sinh tử điềm không khác, Đệ nhất Tài Quan là yếu khẩn. Vận hành nếu không gặp Tài Quan, Đã gặp Tài Quan trẻ yểu thọ. Hỏi thọ phải biết hỏi Dụng thần, Dụng thần thụ chế định khắc thân. Thụ thương chớ lấy liền là họa, Phải dạy khinh trọng nhận lấy chân. Dụng thần kiện vượng định không ngại, Vận nếu gặp Thương Thực trì trệ. Từ chức lui quan cứ thế nói, Vong gia bại nghiệp tổn cháu con. Lục thân quyến thuộc còn liên luỵ, Lễ phục thân tang bách sự lâm. Dựa cái gì biết là có thọ? Nhìn thẳng trên vận tử tế suy. Nhật can cùng vận như phùng Sát, Phùng Sát phùng hình họa đến xâm. Ngoại địch vẫn còn phòng nội địch, Ngoài ra chia cung tìm bên ngoài. Nội phùng ngoại địch là tai trọng, Ngoại phùng nội địch là họa xâm. Mậu Kỷ thổ cần phân tứ quý, Tạp khí trung gian khó lại dễ. Cận niên phân định gặp số phân, Thụ chế thụ thương theo khí Tuế. Chỉ định cát hung trong vận này, Năm nào tháng nào tai ương đến. Tý vận tuế phùng Thìn Tý quý, Khắc ứng Thái tuế cùng nơi tháng. Dần vận Bính Thân gặp giống năm,


Tị Bính cùng nhau loại họa phúc. Mão vận Ất mộc sợ tương phùng, Trong Tị Mậu Canh Bính tạp hội. Ngọ vận đến năm Ngọ Mậu hung, Gặp năm Sửu Mùi là phải sợ. Thân cung Canh Hợi chớ tương phùng, Dậu phùng Tân Sửu đều là kỵ. Hợi vận Nhâm Giáp sợ Thân Quan, Chỉ là 8 cung bao tứ quý. Tứ quý từ đầu hỗn bát cung, Nói chung xoay tròn như chỉ thị. Không biết chỗ nào là vô cùng, Can chi phối hợp cùng một vị. Liền phân khinh trọng định hung tai, Vận trọng Tuế khinh cùng hợp luận. Cát hung đồng nhất tuế theo vận, Đây là thiên kim bí không truyền. Tôi vì tế thế viết kính tặng, Nói người chớ có mà khinh khi. Sưu Tủy ca

Tạo hóa trước tiên xem Nhật chủ, Sau nắm Đề cương phân thứ tự. Tứ trụ chuyên nhất luận Tài Quan, Thân vượng Tài Quan nhiều phú quý. Như còn thân vượng Tài Quan tổn, Chỉ là sớm cầu chiều kiếm con. Tài Quan vượng khi Nhật chủ vượng, Áo bào đeo vàng có ngờ đâu? Tài Quan vượng mà Nhật chủ nhược, Vận hành thân vượng là hàng đầu. Nhật chủ vượng mà Tài Quan nhược, Vận nhập Tài Quan giữ lợi danh. Nhật chủ tọa dưới có Tài Quan, Nguyệt lệnh tương phùng quý không khó. Nói chung Tài Quan là khẩn yếu, Tuổi trẻ phú quý lộc trèo cao. Tài Quan suy bạc thân thái vượng, Thái vượng vô y chịu cô hàn. Lại có Ấn đến Tỉ Kiếp trợ, Thương thê khắc tử có thể xem.


Quan Sát thái trọng thân lại cường, Vừa gặp chế phục là hiền lương. Sát Quan củng Ấn quý không nhỏ, Uy danh hiển hách định chấn dương. Sinh cư mùa hạ nhiều hỏa thổ, Lợi phùng thủy cứu quý trung hòa. Thủy hỏa nguyên lai cần Ký tế, Quản giáo lợi danh trấn sơn hà. Hỏa nhiệt viêm viêm như không thủy, Vận hành đất thủy cũng là hay. Thế thủy thao thao nếu không thổ, Vận nhập đất thổ thật đáng vui. Đông phương nhiều mộc cần tây vận, Tây phương kim vượng thích đông hành. Ngũ hành cứu nhau thành tạo hóa, Nhân mệnh gặp đây phúc không khinh. Tam Khâu Ngũ Mộ sợ kiến trọng, Cốt nhục tham thương tổn lục thân. Đề cương hình xung khắc phụ mẫu, Ngày giờ đối xung thê tử khó. Tỉ Kiếp Thương quan nếu tái vượng, Không những thương thê lại tổn nhi. Dẫu có một con cũng bất hiếu, Hoặc là xin nuôi cũng không nghi. Thân vượng Tỉ kiên tọa Dịch Mã, Huynh đệ phiêu bồng tự nhiên tốt. Bát tự Dịch Mã cùng tranh chạy, Thân vinh lao khổ khắp đông tây. Nếu được thân nhàn tâm bất định, Động thì phong lưu Tĩnh thì sầu. Nếu là Tài tinh tọa Dịch Mã, Thê hiền không có không ung dung. Tài tinh nhập khố chủ tụ tài, Cẩn thủ giữ của không làm người. Vợ con bủn xỉn thường không trợ, Chỉ sợ ám tàng Dương Nhận giận.


Quan Sát trùng trùng không mang Tài, Vợ có hỗ trợ không hài hòa. Vô lễ bất kính cha mẹ chồng, Tước đoạt quyền chồng bài trong mệnh. Quan tinh nếu cũng phùng sinh vượng, Lại được trường sinh vượng ở giờ. Con cái thông minh lại tuấn tú, Từng người con cháu được áo quan. Nhật chủ Thất Sát mang Kiêu Thực, Thê chủ hư thai hoặc đẻ non. Kinh mạch không điều thành huyết tật, Lại xem hành vận như thế nào. Nam tử Kiêu Thực trùng trùng thấy, Thân nhược đa số ứng bệnh lao. Nữ nhân Kiêu Thực là không cát, Đẻ khó kinh người bệnh cũng nguy. Nữ mệnh Quan vượng kiêm Tài vượng, Vẫy gọi hiền phu lại có lợi. Nếu như Tài Quan đều bị tổn, Thương phu khắc tử có ngờ gì. Ấn thụ sinh thân thân càng vượng, Là người hình khắc chủ bần cô. Nếu gặp Quan hiển Tài lại hiển, Cũng là vượt bước quý nhân phù. Nữ mệnh nếu cũng Thương quan vượng, Tọa dưới Thương quan sẽ mắng chống. Sớm tối thì thào miệng không dứt, Cuối cùng trăm năm hình vẫn khô. Ất Tị Tân Mùi cùng Canh Ngọ, Nhật can mang theo là rất cát. Lại xem tứ trụ như thế nào, Định chủ chồng hiền mình cũng quý. Bính Đinh Tý Sửu thành tình xuân, Người sinh ngày này định bất đồng. Giáp Ngọ Giáp Thân cùng Ất Dậu, Tọa dưới Tài Quan phú quý vinh. Đinh Hợi Mậu Tý cùng Canh Dần,


Nhật chủ gặp đây phúc không khinh. Tân Mão BÍNH thân cùng Đinh Dậu, Tài Quan nội ẩn hiển thanh danh. Kỷ Hợi Giáp Thân kiến Canh Tuất, Ấn thụ Tài Quan ám lý tàng. Lại gặp Bính Thìn đến Nhâm Tuất, Tứ trụ phù Ấn không tầm thường. Giáp Tý Bính Dần cùng Đinh Mão, Kỷ Tị Nhâm Thìn cùng Quý Tị. Nếu là thân cùng nguyệt lệnh cường, Hư danh hư lợi lại phiêu bồng. Tân Hợi Canh Thân cùng Kỷ Sửu, Tọa dưới Tài Quan cũng không có. Thê cung Tử nữ là hư hoa, Đông tây nam bắc là cửa nhà. Giáp Dần Mậu Tuất cùng Canh Tý, Nữ khắc trượng phu nam khắc con. Kỷ Tị Bính Ngọ cùng Đinh Mùi, Trùng trùng Nhâm Tý chủ cô cùng. Tân Dậu Ất Mão cùng Mậu Ngọ, Can chi đồng loại vợ không đủ. Kỷ Mùi Canh Thân cùng Quý Hợi, Nguyệt lệnh lại vượng thành họa hại. Nhật chủ Tài Quan Ấn thụ đủ, Tháng giờ phù hợp phúc triền miên. Can chi đồng loại cùng thân vượng, Khắc tử hình thê phá tổ điền. Cùng đem tứ trụ phân cường nhược, Chớ nắm âm dương chỉ một lời. Đây là ngũ hành chân diệu quyết, Không gặp kẻ hiền chớ có truyền.

Chú giải 《 Thiên Nguyên phú 》 Tam tài tức định, ngũ khí hỗn đồng, phân chi nghịch thuận, hiền giả giai thông. Chú thích: Tam Tài là thiên can, địa chi và tàng can. Ngũ khí là khí kim mộc thủy hỏa thổ. Hỗn đồng ở trong, là lấy dương thuận âm nghịch mà phân, cuối cùng là có thể luận mệnh.


Giáp đắc Quý nhi tư vinh, y thực tự nhiên phong túc. Chú thích: Giáp dương mộc vô căn, nếu không có thủy thì khô mục vậy. Quý thủy, là âm thủy vậy. Là giống như mạch nước chảy ở trong khe đá mà ra, không trôi không nổi. Giáp mộc dựa vào để sinh thân, mới được tươi tốt. Quý thủy là mẹ Giáp mộc, là mẫu tử cùng nương tựa nhau, thì ăn mặc tất nhiên sẽ dồi dào. Như Giáp mộc sinh ở mùa Xuân, tất nhiên là nhận vượng, sinh ở mùa Đông, thì Quý thủy vượng có thể sinh thân, cho nên nói là phúc vậy. Ất bạn Nhâm nhi hoạch phúc, thiên tứ lộc vị cao sùng. Chú thích: Ất âm mộc có căn, dựa vào Nhâm thủy để nuôi dưỡng. Nhâm thủy, là dương thủy vậy. Ví như thủy ở Giang Hải ( sông lớn), gốc không thể tổn hại căn. Tuy nhiều nhưng không chìm ngập, không thể chảy bềnh bồng, giống như cây cối được mưa liên tục, cho nên viết là Thiên tứ lộc vị cao sùng (trời ban bổng lộc và chức quyền). Bính Ất giao hội, bình sinh phúc thọ siêu quần, xuất thế thâm thành tài nghiệp. Chú thích: Bính, là dương hỏa vậy. Ất, là âm mộc vậy. Âm mộc sinh dương hỏa, là tương sinh vậy. Ất là mẹ Bính. Bính là tượng Thái Dương, ở trên trời mà mặt trời, ở đạo làm người là vua, là cha, là chồng, chủ cương nghị bất khuất, có dạng văn minh. Lại được Ất mộc sinh, thì gọi là Giao hội(gặp nhau). Đạt được ánh sáng rực rỡ, cho nên được tượng Siêu quần (ưu việt) , mà sống thọ. Mậu Ấn Đinh hề, tự Hổ cư sơn cốc chi uy. Chú thích: Mậu là dương thổ, dựa vào Đinh hỏa để sinh. Đinh tức là mẹ Mậu, mẹ là Ấn thụ, mà thổ không có chính vị, ký sinh ở hỏa, nhận khí vượng ở bốn mùa, phương Thìn Tuất Sửu Mùi. Cho nên lấy thổ là Sơn cốc, nếu Hổ ở giữa sơn cốc, tất nhiên là có uy. Kỷ giao Bính hề, tượng long đắc phong vân chi thế. Chú thích: Dương hỏa sinh âm thổ, giống như tượng cha sinh con gái. Bính là cha Kỷ, là nói ví như được sự che chỡ của cha mẹ, giống như Rồng được thế lực của gió mây, tự nhiên đảm nhận vậy, là phú quý vậy. Canh phùng Kỷ thổ, quan lộc hữu dư. Chú thích: Canh kim lấy Kỷ thổ làm mẹ. Người sinh kim, gặp hỏa địa, thì thân bại vậy. Phải có thổ để sinh, thì là phúc vậy. Nếu đến vận thổ cũng được, nhưng nếu thổ quá nhiều, thì chôn kim vậy, là không có phúc. Ngũ hành lấy trung hòa là chủ. Tân đáo Mậu hương, y thực tự túc. Chú thích: Tân kim gặp đất Mậu thổ, là được cha mẹ trợ giúp, là chỗ được. Mà kim dựa vào thổ sinh, giống như ngày Tân gặp đất Mậu, mệnh cục gốc không có Ấn thụ, bỗng nhiên gặp đất Ấn, như gặp được cha mẹ, thì khoan khoái vậy, là chủ có cơm áo đầy đủ. Nhưng nếu tứ trụ nhiều thổ, thì không nên lại hành đến thổ vận, gọi là Thổ đa kim mai (tức là thổ nhiều thì kim bị chôn vùi vậy). Nhâm thủy đắc hội, phúc thọ vô cương. Chú thích: Nhâm thủy dựa vào Tân kim là mẹ, nghĩa là được sinh sinh bất tuyệt, giống như Nhâm thủy sinh vào mùa Hạ, thì không có căn vậy. Nếu gặp Tân sinh, gọi là phúc thọ vô cương. Quý Canh tương phùng, thiên nhiêu phó mã. Chú thích: Quý thủy lấy Canh kim làm mẹ, như lấy can ngày là Quý, tứ trụ có Canh kim là Ấn.


Như không có Bính hỏa khắc thương, thì chủ là ngườiphó mã phú hậu (giàu có nhiều ngựa và nô tỳ). Trong trụ không có Ấn Canh kim, mà gặp phương Ấn thụ Canh vận, cũng có thể lấy vinh vậy. Thanh cao phù ấn, tu tri quan miện dĩ thừa hiên. Chú thích: Phù ấn, là sao Quan Ấn, thì gọi là sao Đường Phù, Quốc Ấn, sinh mệnh mà gặp, chủ có địa vị mũ quan xe đón. Không phải là vua, thì là địa vị vương hầu. Lấy can năm khởi cung Lộc, đếm thuận tám vị gọi là Đường Phù, chín vị gọi là Quốc Ấn. Như người sinh Bính Mậu, Bính Mậu lộc ở vị trí "Tị", từ vị trí "Tị" đếm thuận đến tám vị là "Tý" gọi là Đường Phù; đến đến chín vị là "Sửu" gọi là Quốc Ấn, chỗ hai sao này gọi là Quý. Như biểu dưới đây:

THẦN SÁT

CAN NĂM

GIÁP

ẤT

BÍN H

ĐIN H

MẬ U

KỶ

CAN H

TÂ N

Đường Phù

Dậu

Tuất

Sửu

Sửu

Mão Thìn

Ng ọ

Quốc Ấn

Tuất

Hợi

Sửu

Dần

Sửu

Dần

Thì n

Mùi Thân

NHÂ M

Tị

QUÝ Mùi

Xung phá lộc tinh, ứng hiển uy quyền nhi giải thụ. Chú thích: Lộc tinh, là Quan lộc vậy. Dụng là Quan, không thể xung. Dụng là Lộc, không thể phá. Phá và xung, cả hai đều là hại, dù có uy quyền, gặp thì bản thân nên né tránh địa vị vậy. Như Giáp dụng Tân là Quan, Quan bị Đinh hỏa khắc phá, thì gọi là hại quan. Dương mộc Giáp phùng Canh bại, chi sao bất đắc vô thương. Chú thích: Giáp là dương mộc, gặp Canh kim, thị bị khắc gọt, thân không thể tránh bị tổn thương, tức là Canh kim khắc Giáp mộc, lấy thân mệnh làm ví dụ, chủ gân cốt bị bệnh đau nhức, khó mà nhận phúc. Chỉ có hành vận đất hỏa chế Canh, có thể nói là vận may vậy. Âm mộc, Ất ngộ Tân kim, hành diệp tự nhiên hữu tổn. Chú thích: Tân kim, là kim ở cát bùn, chỉ có thể tổn thương cành là mà thôi, không thể hại thân thể vậy. Chính là do âm khắc âm, như Ất mộc chủ có khí, tọa ở vượng địa, thì không có sợ vậy. Viêm viêm Bính hỏa, ngộ Nhâm nhi hách hách vô quang. Chú thích: Bính hỏa, là dương hỏa. Tượng là mặt trời, tượng treo lơ lững ở trên trời, chiếu sáng thật rõ ràng. Nhâm thủy, là dương thủy, là Giang hải ( sông biển). Bính hỏa gặp hội cục ( tam hợp, tam hội ) thì có tổn hại. Nếu không hội cục, thì vô hại vậy. Thước thước âm Đinh, phùng Quý nhi minh huy tự ám. Chú thích: Âm hỏa gặp âm thủy, Đinh hỏa là thước thước tinh quang (sao sáng nhấp nháy), tượng lơ lững ở trên trời, Quý thủy ở dưới đất gọi làTuyền thủy ( nước khe suối). Thủy hỏa tương khắc, chủ con mắt, có bệnh trong tim.


Mậu cư Giáp vị, duy lại Canh phương năng cát. Chú thích: Mậu thổ gặp Giáp mộc khắc, chủ bệnh tỳ vị. Mậu, là dương thổ, là đất ở tường thành, là bờ đê phòng, gặp Giáp dương mộc khắc, thì có họa sụp đổ. Như được Canh dương kim chế Giáp mộc, thì có thể cứu nguy, nói là cát vậy. Kỷ tọa Ất hương, tri thị can đầu hữu quỷ. Chú thích: Âm can khắc âm can, gọi là Quỷ vậ. Như nhật chủ Kỷ thổ, lâm vị trí Mão, chính là Quỷ tọa ở dưới. Lại hành vận Dần Mão, lại gặp Giáp Ất, đất tương khắc, thân vượng thì gặp Quan là phúc; thân nhược thì gặp Quỷ là họa, là tổn thất hoặc là bần. Canh Phùng bính chiến, thế tự khuynh nguy, Tân bị Đinh xâm, khắc phạt thành hại. Chú thích: Canh kim gặp Bính hỏa khắc, chủ bệnh gân, phổi. Canh Tân kim, bị Bính Đinh hỏa khắc, thì không thể là phúc, cần được Nhâm Quý thủy, chế Bính Đinh hỏa, giúp cho quân bình, có thể thành phú quý. Nhâm ưu Mậu chí, kiển khí nan thông, Quý phạ Kỷ lâm, trì hối kinh hoàng. Chú thích: Nhâm Quý là thủy, rất ưa nhuận hạ, như gặp Mậu Kỷ thổ là trì trệ không thông, chủ không thể nhận phúc. Thổ nếu quá nhiều, thì là bần tiện. Còn nấu thủy quá nhiều, thì là chảy bừa bãi tràn lan. Duy thủy không có thổ, thì chảy mà không dừng lại, dựa vào thổ ngăn mà phòng thủ. Thổ ngăn thủy chảy, hoàn toàn phúc thọ. Can quỷ đới lộc vượng, phù trì cánh phá. Chú thích: Thân nhược, nhật can thụ khắc, gọi là Can quỷ. Nếu gặp lộc vượng, thì có thể phù trì. Nếu có phá bại, là phúc thì ít, là họa càng nhiều. Chủ hoặc là phú hoặc là bần, là mệnh tiến thoái vô thường. Chi thần vô cát thần, họa giai nan miễn. Chú thích: Chi thần, là Nhân nguyên vậy. Tức là thần tàng can địa chi, cần có cát thần tương trợ, có thể thành phúc. Nếu thần tàng chi tương khắc, gặp họa hoạn thì khó tránh vậy. Như Giáp mộc sinh ở tháng Tý, cung Tý tàng Quý thủy là Ấn, thì là tốt vậy. Nếu như trong trụ năm ngày giờ có Kỷ thổ, vượng khắc Quý thủy, thì là cát thần bị tổn, thì họa khó miễn. Thực đường phúc thọ sùng cao, giai ngôn giáp đáo Bính hương. Chú thích: Thực Đường chủ người giàu có phúc hậu. Giáp đến Bính, là đất Thực thần. Giáp mộc sinh Bính hỏa, Bính là con của Giáp vậy, Giáp giống như cha của Bính. Giáp lộc Thực Bính, giống như con cái nuôi dưỡng cha, cho nên viết nhật can Giáp gặp Bính, là phúc thọ sùng cao. Triều tỉnh văn quý ưu thăng, cái vi Ất cư Đinh xá. Chú thích: Ất mộc sinh Đinh hỏa, Ất đến đất Đinh, cũng là chỗ ở của Thực thần, giống như cha nuôi cho con ăn, là cát vậy. Quan lộc tịnh điệp, Bính thực Mậu nhi thành công. Chú thích: Bính hỏa sinh Mậu thổ, cũng là đất Thực thần, nói Bính hỏa nuôi Thực Mậu thổ, là cát. Cốc mạch doanh thương, Đinh đạm Kỷ nhi hữu vượng.


Chú thích: Đinh hỏa là lộc Thực Kỷ, chủ cát. Yếu đắc phong túc, vô quá Mậu đắc phùng Canh. Chú thích: Mậu thổ là lộc Thực Canh kim. Dục vấn cao thiên, toàn lại Kỷ gia Tân địa. Chú thích: Kỷ thổ là lộc Thực Tân kim vậy. Mãn đường kim ngọc, Canh lộc hữu Nhâm. Quảng trí điền viên, Tân năng thực Quý. Chú thích: Canh kim là lộc Thực Nhâm thủy, Tân kim là lộc Thực quý thủy, đều là nói nuôi dưỡng cho con ăn vậy. Nhâm Thực Giáp nhi hữu vượng, chúng phúc như ma. Quý hướng Ất nhi sinh thành, nhập thực liệt đỉnh. Chú thích: Nhâm thủy là lộc Thực Giáp mộc, Quý thủy là lộc Thực Ất mộc, đều là lộc can can sinh thành. Can chi kiến Thực thần, như phụ đắc tử chi dưỡng, tất nhiên hưởng phúc an thọ, nhi vô sở hại dã. Ngũ hành ký phế, đắc cứu trợ dĩ tai khinh. Chú thích: Tứ trụ ngũ hành, gặp đất hưu tù tử tuyệt, như nếu trong trụ có một phương ở trường sinh, đế vượng, thì có phần tương trợ, có họa thì cũng nhẹ vậy. Tứ trụ Quan Ấn, vô tổn hoại nhi lộc trọng. Chú thích: Can đầu tứ trụ có Quan tinh, Ấn tinh, không có khắc, chủ người cả đời lộc trọng, nhưng chỉ sợ gặp vận khắc hại. Phạm tiểu vận, lưu niên khắc phá, chủ một năm gặp bất lợi, thì không lâu dài vậy. Giáp phùng Đinh nhi thành diễm, tư tài luy tuế đa hủ. Ất ngộ Bính nhi hóa hôi, kim ngọc tự tiêu nan tụ. Chú thích: Giáp mộc sinh Đinh hỏa, Ất mộc sinh Bính hỏa, luận là Thương quan cướp khí. Thương quan, là ta sinh con vậy. Là người kiêu ngạo, không tuân theo quy củ, làm tiêu hao tài vật của cha mẹ, nhìn người không bằng mình. Thương hỷ Quan Tài, thì vinh; không có Tài thì bần. Thiên nguyên chính bại, Bính kiến Kỷ nhi thương tàn. Can lộc toàn khinh, Đinh trị Mậu nhi suy nhược. Chú thích: Bính hỏa thấy Kỷ thổ, Đinh hỏa thấy Mậu thổ, gọi là Hỏa thổ Thương quan là hại. Mậu nhược phùng Tân, tu trượng cát sát dĩ phù trì. Kỷ nghi thâu Canh, thực lại ngũ hành chi cứu trợ. Chú thích: Mậu thổ gặp Tân kim, Kỷ thổ thấy Canh kim, gọi là Thổ kim Thương quan. Thổ kim đều thấy cả hai thì trái lại là thành hỉ, dựa vào Tài Ấn để trợ thì là phúc, kị có Quan. Canh trung kiến Quý, đãng tán tư tài. Chú thích: Canh kim sinh Quý thủy, thì có họa làm sạch tiền tài. Cần được thổ để ngăn, mới là phát phúc; không có thổ ngăn, thì thành tản mạn. Chủ người lưu đãng dâm dục phá gia đình.


Tân lộc ngộ Nhâm, dong tiêu phúc lộc. Chú thích: Tân kim sinh Nhâm thủy, gọi là Thương quan, là Kim thủy Thương quan. Chủ người thanh tú yêu thích ca nhạc, cực kỳ thông minh nhưng dâm dật vô độ. Gặp thổ ngăn thì thành phúc; không có thổ ngăn, là hạ cách. Niên thiếu phùng tai, Nhâm Thương Ất vận. Chú thích: Nhâm thủy sinh Ất mộc, là Thương quan. Lại hành vận Thương quan, chủ có họa. Tổ tài tùy phế, Quý bị Giáp xâm. Chú thích: Quý thủy sinh Giáp mộc, là Thương quan. Trong trụ có chế thì cát, không có chế thì hung. Y thực nan cầu, ấu tuế thường phùng ngũ quỷ. Chú thích: Nhật can nhược, thấy Thất Sát, gọi là Quỷ. Gọi là Âm Quỷ hại thân, là âm thầm không ngờ. Nếu là thân vượng, thì hóa Quỷ thành Quan, thì có thể sinh thân thành phúc. Gặp Ngũ Quỷ, là Âm Sát vậy, hại người không ít. Tuần muộn hưu tường, trường niên nguyên trị tam hình. Chú thích: Tam Hình: Dần Tị Thân, Tuất Sửu Mùi, Tý Mão chi hình. Địa nguyên nếu gặp, là bất lợi vậy. Họa lai nan miễn, lộc bản phùng suy. Nhược ngộ bại thần, tư sinh hưu cữu. Chú thích: Quan là gốc Lộc, có Quan mà không có Lộc, thì gọi là Giả Quan, dù có vinh mà không quý. Có Lộc mà không có Quan, thì không có chỗ thi hành. Quan Lộc nếu hành đến đất suy tuyệt, khó miễn họa không rời vậy. Bại thần, là thần phá bại. Trong mệnh nếu gặp, chủ cả đời gặp bất lợi. Huống phu Giáp tăng Ất hướng, phùng chi tự kỷ đa tai. Ất bị Giáp lâm, phản dữ nhân vi trợ. Chú thích: Giáp thấy Ất, gọi là Bại tài, Dương Nhận, chủ khắc cha và vợ. Có gia sản, thì anh em tranh giành mà phân chia. Không có gia sản, thì khởi mầm tai họa, anh em không nhìn nhau. Ất thấy Giáp là anh trai, gọi là Kiếp tài, Trục Mã, khắc vợ, thân nhược thì trợ thân, gặp Tài mà cướp. Tức là can dương thấy chi âm cùng một ngũ hành, gọi là Bại tài; can âm thấy chi dương cùng một ngũ hành, gọi là Kiếp tài. Nhâm hành Quý ách, Bính tối thâu Đinh, Tân kị Canh phương, Đinh hiềm ám nội. Chú thích: Chỗ này đều là họa Bại tài, Kiếp tài vậy. Mậu đồng Kỷ hề, đa sinh tỳ vị chi tật. Chú thích: Mậu Kỷ thổ, ở trên thân thể con người là tỳ vị, nếu mà gặp mộc khắc, thì có bệnh tổn thương tỳ vị. Kỷ cộng Mậu hề, phản hữu bôn ba chi sự. Chú thích: Kỷ là đệ, Mậu là huynh, mỗi người tự lập, thì không tổn thương hòa khí. Nếu như anh em cùng chỗ, tất có biến bên trong, trái lại là chủ bôn ba lao khổ, yên ổn mà có được vui mừng chăng?


Nhu năng chế cương, đa nhân Tân dữ Canh kỳ, đại trọng chi dư, nãi thị Tân cư Canh địa. Chú thích: Canh dương là kim cương, Tân âm là kim nhu vậy. Canh dương kim, là khí thanh kiếm, cho nên nói là Cương, có thể sát hại vạn vật. Tân là âm kim, là chất trang sức giống như vòng đeo tay, dây chuyền, cho nên nói là Nhu, vật dùng làm mỹ quan. Dương cương mà âm nhu, được hỗ tương giúp nhau, là phúc, tương chế là lộc. Quý trung ẩn Bính, Nhâm Ngọ ngộ chi đa thương. Chú thích: Quý lấy Bính là Tài, chỗ được sử dụng, nếu gặp Nhâm Ngọ, lại tổn thương Bính. Nhâm là anh trai của Quý, lại cướp Bính Tài, cho nên viết là Đa thương (nhiều tổn thương). Trong Ngọ cũng có Bính, huống chi Can lại có Nhâm, gặp Nhâm lại tổn Bính, cũng là cướp Bính Tài. Lấy ngày Quý làm chủ, tứ trụ có Bính, lại gặp Nhâm Ngọ, thì chủ gặp nhiều tổn hại. Nhâm nội tàng Đinh, Quý thủy phiên nhiên tự bại. Chú thích: Đinh và Nhâm hợp, có tình nghĩa vợ chồng. Nhâm là anh trai, Quý là em trai, như gặp Quý thủy khắc Đinh hỏa, chính là em trai đoạt vợ, thì là thương bại vậy, trái lại là thành đại họa. Dương giả nhược vi ám tổn, bình sinh duy ác khinh sinh. Chú thích: Dương là cương vậy, có lòng quả cảm cương nghị. Nếu gặp ám tổn, còn có lá ở trên thân sao? Âm vị tức viết Bại thần, xứ thế vưu tiện ức tắc. Chú thích: Âm là nhu vậy. Là vật nữ nhân yêu thích. Nếu mệnh nam mà thuần âm, cũng thiếu cương trợ. Thế bị bao vây, cũng là chí khí bị ứ tắc. Nếu được ngũ âm tụ cục, có thể nói là phú quý. Giáp kiến Tân nhi hóa Quan, cương nhu tương tể. Chú thích: Giáp lấy Tân là Quan, Giáp cương Tân nhu, là âm dương tương tế, mà không phải là tương khắc. Ất kiến Canh nhi vi phúc, huynh đệ đồng hương. Chú thích: Ất thấy Canh hợp, Canh kim khắc Ất mộc, là Chính Quan, mà thành có phúc, giống như cùng là anh em, mà hòa thuận vậy. Thủy hỏa ký tế, khước ngôn bính đối quý hương. Chú thích: Quý thủy khắc Bính hỏa. Bính là Thái Dương, ở trên trời, Quý thủy ở dưới đất, trên dưới cách xa nhau, sao có thể là tương khắc? Còn Tý Ngọ đối xung nhau, chính là được tượng Ký Tế, cuối cùng là dấu hiệu cát. Ý khí tương thừa, nãi thị Đinh quy Nhâm xá. Chú thích: Đinh và Nhâm vốn là tương hợp, dương thủy không thể khắc âm hỏa vậy. Cho nên cùng ở một nhà, hợp nhau mà vui vậy. Mậu lâm Ất vị, đắc mộc nhi sinh thành. Chú thích: Mộc dựa vào thổ để dưỡng vậy, lại được tượng thành rừng; thổ dựa vào mộc để tiết thổ khí, cả hai đều được mà sinh thành. Mậu thổ lâm Ất mộc, thành tương sinh vậy.


Kỷ hướng Giáp hương, âm ngộ dương nhi khả quý. Chú thích: Giáp là dương mộc, Kỷ là âm thổ, âm dương tương phối, Giáp Kỷ hợp, Giáp lấy Kỷ là Tài, lấy thê tài mà hưởng thụ, là quý vậy. Bạch Hổ thông đạo, Canh gia Đinh lâm, Thái Âm đắc lộ, Tân quy Bính xá. Chú thích: Canh Tân kim gọi là Bạch Hổ, cộng thêm Đinh hỏa khắc Canh kim, được phối đạo âm dương. Lấy nhu mà tế cương, không có tương hại vậy. Tân là Thái Âm, gặp Bính hợp, thì gọi là chính nghĩa. Nhâm vu Kỷ hề, viễn phiếm hồng ba. Chú thích: Nhâm là thủy Giang Hải ( nước ở biển, sông), Kỷ là thổ Bình địa ( đất đồng bằng), Nhâm thủy ở trên Kỷ âm thổ, thì thành hồng ba viễn phiếm (sóng lớn tràn lan), không có chỗ dừng lại, cần có Mậu dương thổ để ngăn lại, liền bít dòng chảy. Quý hỷ Mậu hề, trừng lan phiêu miểu. Chú thích: Quý và Mậu hợp được thành chính nghĩa, là phúc vậy. Không có sóng to chảy tràn lan, cho nên Quý hỷ Mậu vậy. Dương ngộ âm nhi hóa hợp, âm đắc dương nhi thành khí. Chú thích: Tòng hóa, là âm dương tương hợp tương đắc. Hựu hữu Giáp Kỷ tương phùng, hóa thổ vi phúc, tắc phu phụ hà xương. Chú thích: Giáp Kỷ hợp hóa thổ, nhật can Giáp lấy Kỷ thổ là Tài, giống như con người lấy thân Tài để theo vợ, có thể là phúc, hoàn toàn được đạo vợ chồng. Ất Canh các hợp, thành kim đắc vị, tắc đông tây loại hóa. Chú thích: Ất Canh hợp hóa thành kim. Đắc vị, vị trí ở tháng Thân Dậu, hoặc địa chi hoàn toàn có đủ Thân Dậu Tuất, hoặc Tị Dậu Sửu Tuất, tháng Tị. Bính Tân hóa thủy, trí hiển tắc tất chủ văn chương. Chú thích: Bính Tân hợp hóa thủy, chủ trí tuệ hiển lộ nhiều tài năng. Đinh Nhâm vi mộc, thông minh tắc cận thiện đa nhân. Chú thích: Đinh Nhâm hợp hóa mộc, chi tháng là Dần Mão, hoặc địa chi Hợi Mão Mùi, hoặc Hợi Dần Mão Thìn, Mùi, tháng Thìn, có thể hóa. Chủ thông minh, vui vẽ, hiền lành, là người giàu lòng nhân ái. Mậu Quý đắc hóa, lộc vị sùng cao, nhị giả tương phùng, tam tài khả lập. Chú thích: Mậu Quý hợp hóa hỏa, sinh sinh bất tuyệt, hóa hóa vô cùng, là bổng lộc và chức quyền cao quý. Dương ngộ dương nhi hóa quan, đáo vượng phương quan sùng vị hiển. Chú thích: Nói một âm một dương hợp hóa là hỷ thần, ở vượng địa thì là quý vậy, là quan cao vinh hiển.


Dương đắc âm nhi thành phối, lâm hữu khí tài vượng thê hiền. Chú thích: Dương là nam. Âm là nữ. Âm dương tương hợp, gọi là tình vợ chồng. Nếu có khí, chủ tài vượng, vợ hiền. Nếu gặp đất hưu tù tử tuyệt, chủ tán tài thương thê. Thị dĩ bình sinh bất túc, Giáp vi Nhâm thương, xứ thế đa trì, Ất nhân Quý khắc. Chú thích: Giáp mộc dựa vào thủy để sinh. Nhưng Giáp là dương mộc, là trụ cột vậy, không phải rễ của cây cỏ. Nhâm, là dương thủy. Thủy đa mộc phù, e sợ có bị trôi dạt mất, cho nên viết Bình sinh bất túc (cả đời không đủ). Ất là âm mộc, là rễ cây cỏ, chỉ cần ở dương địa, không thích hợp ở xứ âm, Quý là âm thủy, cho nên viết Xứ thế đa nghịch ( xử thế nhiều phản nghịch). Dương tự bại hề, Bính vi Giáp thương. Âm bất minh hề, Dậu duyên Ất chế. Chú thích: Chỗ này là nói mẹ bị chế ở người, thì không thể giúp cho con cái. Bính hỏa dựa vào Giáp mộc sinh, để thành quang minh chiếu vật. Thế nhưng Giáp mộc bị chế do Canh kim khắc, thì không thể sinh hỏa. Đồng lý, Ất mộc bị chế bởi Tân kim, thì không thể trợ lực cho Đinh. Thượng chi lăng hạ hề, Mậu tao Bính thực. Ti khủng khi tôn hề, Kỷ thương Đinh viêm. Chú thích: Mậu gặp Bính, gọi là Thiên Ấn. Kỷ gặp Đinh, cũng gọi là Thiên Ấn. Không có chế, gọi là Đảo Thực. Dương lộc liệu lệ hề, Mậu thổ hối chi. Tân lộc ti bạc hề, Kỷ âm phá chi. Chú thích: Chỗ này là nói chất Canh Tân là kim, bởi vì Mậu Kỷ thổ nhiều, mà chôn vùi chất đẹp, không thể hiển đạt vậy. Thất chi vu trí, giai nhân Canh họa vu Nhâm. Tang chi vu quyền, mỗi phùng Tân thương vu Quý. Chú thích: Chỗ này nói thủy Nhâm Quý, vị bị chỗ Canh Tân quấy nhiễu, giống như một mẹ mà nhiều người, chăm sóc một con thì trái lại là hại. Cho nên quyền trí mất không còn, không được chuyên nhất. Giáp Ất thường hãn Mậu Kỷ, nãi vi sinh Bính chi tài. Bính Đinh vưu hỷ Canh Tân, Thực thị sinh Mậu chi phúc. Chú thích: Giáp Ất mộc, lấy Mậu Kỷ thổ là Tài. Bính Đinh hỏa, lấy Canh Tân kim là Tài. Chính là lý lẽ sinh thành, cho nên an hưởng vậy. Câu Trần đắc địa, Mậu quy Nhâm hương. Âm thổ phùng Tài, Kỷ gia Quý vị. Chú thích: Câu Trần, là Mậu Kỷ thổ vậy, lấy Thìn Tuất Sửu Mùi mà đắc địa. Mậu là dương thổ, lấy Nhâm dương thủy là Thiên Tài. Kỷ là âm thổ, lấy Quý thủy là Thiên Tài. Canh Tân Dần Mão, diệc nhiên nhi phúc thọ. Chú thích: Dần Mão, là đất mộc vượng. Canh Tân lấy Giáp Ất là Tài, tất nhiên là phúc thọ. Nhâm Quý Bính Đinh, hỷ vĩnh dĩ vô ngu. Chú thích: Nhâm Quý thủy, lấy Bính Đinh hỏa là Tài. Tất nhiên cũng được sử dụng, sao mà lo lắng chứ?


Đương tri ngã hại bỉ cát, bỉ hại ngã hung. Tự thâm dĩ trực nhi ngôn chi, tiêu tường vi khả hĩ. Chú thích: Ta khắc là Tài địa. Nó khắc ta, gọi là Sát vậy. Riêng 2 bài Tứ Ngôn độc bộ, các bạn tham khảo ở link dưới: http://tubinhdieudung.net/showthread...=6408#post6408 Và bài Ngũ ngôn độc bộ, các bạn xem link dưới: http://tubinhdieudung.net/showthread...=6428#post6428 Vì trong tác phẩm TMTH không có chú giải kĩ càng để hiểu, cho nên mượn các bài trên do Hoàng Đại Lục bình chú để các bạn tham khảo khỏi tốn thời gian viết lại.

( HẾT)


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.