hôikynguyênsa
hồi ký.nguyên sa
hồi ký.nguyên sa
bìa: Midway Press trình bày: Midway Press, hình bìa tư liệu nguồn: vietmessenger ấn hành: Anywhere
Copyright © 1998 by nancy nga tran
hồi ký nguyên sa
Tiểu sử Nguyên SaTrần Bích (1932-1998)Lan
Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan sinh ngày 1-31932 tại Hà Nội. Thân phụ ông là một nhà kinh doanh lớn tên Trần Văn Chi. Thân mẫu khuê danh là Đoàn Thị Xuân. Tổ tiên nguyên gốc ở Thuận Hóa (Huế). Ông cố là Thượng Thư Trần Trạm, giữ chức Hiệp Tá Đại học sĩ trong triều đình Huế (triều Tự Đức). Đến đời ông nội mới ra lập nghiệp ở Hà Nội. Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông cùng gia đình tản cư ra Vân Đình (Hà Đông). Nơi đây, ông bị bắt giam (15 tuổi) và trải qua nhiều ngày tháng trong lao tù. Hồi cư về Hà Nội, gia đình cho ông qua Pháp du học vào năm 1949. Năm 1953, ông đậu Tú Tài Pháp và rời Provins lên Paris ghi danh học ngành Triết học ở Sorbonne. Năm 1955 ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris và đầu năm 1956 thì hai ông bà trở về nước. Ông dạy môn Triết tại trường trung học Chu Văn An và mở những lớp riêng dạy Triết học cho học sinh chuẩn bị
hồi ký | 7
8 | nguyên sa thi bằng Tú Tài 2. Ông cũng có dạy Pháp văn nhưng rồi bỏ dạy môn ngoại ngữ này để chỉ dạy Triết học. Sau đó, do lời mời của Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Khoa trưởng trường Đại học Văn Khoa Việt Nam, ông có nhận dạy môn Triết tại trường Đại học Văn Khoa. Ngoài hai trường nhà là Văn Học, Văn Khôi, ông còn cộng tác với nhiều trường tư thục lớn ở Sàigòn: Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền. Cũng trong thời gian này, ông gia nhập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam và Tổng Hội Giáo Giới Việt Nam với chức vụ Phó Chủ Tịch. Vào đầu thập niên 1960, ông chủ trương tạp chí Hiện Đại là một trong ba tạp chí sáng tác hàng đầu của văn học miền Nam lúc bấy giờ. Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ 20. Nhập ngũ năm 1966, ông tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (khóa 24) và phục vụ tại trường Quốc Gia Nghĩa Tử liên tục từ năm 1967 cho đến ngày bỏ nước ra đi (19 7 5). Thoạt tiên, ông cùng gia đình định cư ở Pháp (1975) nhưng ba năm sau thì gia đình rời Pháp qua Hoa Kỳ và định cư ở California từ đó cho đến nay. Thời gian ở Pháp, ông cùng với nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh và nhà văn Trần Tam Tiệp vận động thành công việc thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, hội viên chính thức của Hội Văn Bút Quốc Tế. Qua Hoa Kỳ, ông tiếp tục những hoạt động văn học: chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Đời , Phụ Nữ Việt Nam và tuần báo Dân Chúng . Ông cũng làm thơ trở lại, sáng tác rất đều đã ấn hành nhiều tác phẩm đáng kể nhất là: Thơ Nguyên Sa tập 2, Thơ Nguyên Sa tập 3 . Nằm trên giường bệnh, ông đang chuẩn bị cho in Thơ Nguyên Sa tập 4 thì hồi 2g25 ngày 18-4-1998, ông đã rời bỏ cõi tạm này để đi vào miền vĩnh hằng, hưởng thọ 67 tuổi.
hồi ký
Bút hiệu Nguyên Sa, ông sử dụng từ hồi ở Pháp và theo lời ông thì bút hiệu đó “ không c ó ý g ì sâu sắc cả. Thành thực, lúc nào tôi cũng cho tôi là một số không, tôi không lớn, nên tôi tự cho mình vốn dĩ chỉ là hạt cát. ” Ngày hôm nay, “hạt cát trở về v ới cát bụi” tuy nhiên trong hạt cát đó có thể có đủ cả thành quách lâu đài và hai vầng nhật nguyệt cũng như trong: “Cuộc đời đâu có phù vân thì
ở trong mây nổi, có phần thiên thu” như lời thi sĩ Nguyên Sa diễn tả.
Lưu Trung Khảo ghi 22-4-1998
| 9
10 | nguyên sa
Thay lời giới thiệu. Nguyên Sa, thơ tình không tuổi tác
Người làm thơ [tình] may mắn hơn chúng ta, ông không biết tới sự già nua, ông luôn luôn trẻ. Nhà văn Huỳnh Phan Anh trong một bài viết trên tạp chí Văn, số Thương Nhớ Đinh Hùng cách nay trên 40 năm [1 tháng Mười, 1967] đã viết như thế. Tôi muốn mượn lại ý trên của ông để nói về Nguyên Sa, tác giả những bài thơ tình đã làm thành kỷ niệm cho mỗi chúng ta, nhờ nó chúng ta nhận ra cuộc sống đáng sống biết bao. Vâng, thơ Nguyên Sa không tuổi. Thơ ông trẻ trung, tươi mát hồn nhiên. Thấp thoáng đằng sau những dòng lục bát, hay những dòng chữ tự do, người đọc nhìn ra thơ tình của ông lấp lánh những nụ cười. Người ta không thấy nước mắt trong những lời tình tự của thơ ông. Một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa: Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm Như con mèo ngái ngủ trên tay...
hồi ký | 11
đã đánh dấu mốc trong lịch sử thi ca của văn học Việt Nam, và những người yêu thơ chúng ta chắc sẽ có lúc bật cười trước một so sánh hoàn toàn mới lạ trong ý nghĩ của một người làm thơ rất hiện đại.
Thế giới có bao nhiêu người làm thơ tình, liệu có mấy người viết được những dòng thơ trác tuyệt như Nguyên Sa.
Đã hết rồi đôi mắt bồ câu, suối tóc dài tha thướt,… hết luôn những nàng thiếu nữ đẹp như trăng, mắt xanh lả bóng dừa hoang dại, âu yếm nhìn tôi không nói năng. Còn đâu nữa cái thời thơ thì mộng như suốt đời mộng ảo, tình thì buồn như tất cả chia ly…
Người làm thơ ngày nay làm gì còn chuyện em là gái trong khung cửa và anh là trai khắp bốn phương trời… Nếu người tình trong thơ Đinh Hùng mang vẻ đẹp của một người nữ ma quái, siêu nhiên và thoát tục, như kiểu: Cả con đường sao mọc lúc ta đi Cả chiều sương mây phủ lối ta về Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ thì trong thơ Nguyên Sa, người ta thấy người nữ của ông cụ thể và gần gũi với chúng ta biết là bao. Đó là những con người trần tục, hiện thực và đời thường, như trong bài lục bát mang tên Đầu Gối Cao :
Em nằm coi bộ phim Tàu Đĩa cơm nằm kế bên đầu gối cao, Ăn xong hút thuốc phì phào Trên chăn dưới gối chỗ nào cũng hôi. Sớm mai em bỏ về rồi, Anh châm điếu thuốc anh mồi bài thơ.
12 | nguyên sa
hồi
Bằng những chữ rất “đời thường” xây trên những hình ảnh “bình dị” thơ Nguyên Sa nhắc cho người đọc nhớ rằng người tình của chúng ta trước hết là một con người bình thường như mọi con người bình thường trên thế gian: cũng ăn, uống, nói năng, cũng đi đứng và hít thở và sinh hoạt như chúng ta.
Hãy đọc lại một bài lục bát mang tựa là Âm Nhạc của ông:
Em thơm mùi bưởi da vàng
Ngồi trên đĩa nhạc âm toàn Viễn Tây,
Quần jeans một miếng thịt đầy
Anh ăn nhạc sống mấy ngày hoang mang
Sáng ra nụ cải bông vàng
Nhớ em thay áo trên giường đầy hoa.
Thơ Nguyên Sa hiện đại hơn nhiều bài thơ “bùa chú” đang được mùa ở đâu đó hiện nay rất nhiều. Có người tưởng rằng hễ cứ vẽ rồng vẽ rắn, giọt nước mắt rơi rơi theo từng dòng, mũi tên bay cắm phập vào tim, chữ chạy vòng theo hình ly cà phê cộng với một thứ chữ nghĩa tối tăm là bài thơ nhanh chóng trở thành tối tân, siêu thực và hiện đại.
Phải chăng cái mới trong thơ hôm nay chỉ còn là vấn đề kỹ thuật?Đừnglàm thơ theo lối mòn xưa nữa, phải xóa bỏ những khuôn thước cũ, phải làm mới thơ, phải biết đứng dậy và nói bằng một ngôn ngữ thơ khác, một kiến trúc thơ khác. Nhưng để tìm cho thơ một ngôn ngữ mới để nói, một cấu trúc mới để thể hiện, có vẻ như giờ đây người ta đang lập lại những cái không mới! Có phải nói theo thời thượng đó là “nỗi buồn trong thơ hôm nay”?
ký | 13
Chữ nghĩa trong thơ Nguyên Sa càng về sau càng đơn giản, hình ảnh trong thơ ông càng về sau càng tân kỳ. Sự giản dị của chữ nghĩa, cách ngắt câu những bài tự do hay cách chuyển dòng những câu lục bát của thơ Nguyên Sa cho thấy ông không hề đi trên con đường mòn cũ. Thơ ông về sau càng sâu sắc.
Hình như những bài thơ đơn giản nhất bao giờ cũng là những bài thơ khó viết nhất, và kỳ lạ thay đó thường là những bài thơ tới nhất, hay nhất, dễ đi vào trái tim và trí nhớ chúng ta nhất.
Cũng dễ hiểu thôi, luật bù trừ đôi lúc vẫn còn giá trị khi cần giải thích một vài hiện tượng xã hội và văn học.
Có nhiều điều để nói về thi sĩ Nguyên Sa và thơ Nguyên Sa. Xin cho phép tôi được phát biểu một suy nghĩ nhỏ và rất chủ quan về thơ không tuổi của ông.
• Nguyễn-Xuân Hoàng
14 | nguyên sa
hồi ký | 15 Phần Một
Hư Trúc
Trong mọi trường hợp, những bài ký tên Hư Trúc trên nhật báo Sống không vị nghệ thuật. Hư Trúc không phải là một nhà tu hành nghiêm túc như các bậc sư phụ. Tu sĩ này, trong tác phẩm của Kim Dung, có hai bản ngã, một bản ngã ban ngày và một bản ngã ban đêm, hay, nói đúng hơn, một bản ngã vô thức, một bản ngã trong đời sống thực tại và một bản ngã vô thức trong đời sống của những giấc mơ. Một người có thể có hai bản ngã hay hơn nữa, cái tôi ở trường văn trận bút không phải là cái tôi khoác áo mô phạm, tôi nghề nghiệp khác biệt với bản ngã trong khuôn khổ gia đình hay trong tình ái. Người đàn bà có trong vòng tay ân ái người tình dịu hiền, ngoan ngoãn và cả khuất phục không thể ngờ rằng người đàn ông đó là ông tướng hét ra lửa trong chốn ba quân. Những bản ngã của một người dù khác biệt vẫn nhận ra nhau, ông tướng anh hùng trên bục chỉ huy ý thức được rằng người
16 | nguyên sa
hồi ký | 17 tình quỳ gối khuất phục kia chính là mình. Khi những bản ngã của cùng một cá nhân không còn nhận ra nhau nữa, người đó lâm vào tình trạng bệnh tâm lý thường được gọi là nhị trùng bản ngã. Nhưng dù đa ngã trong tình trạng bình thường hay tình trạng bất bình thường, tất cả đều được nhìn ngắm trên căn bản của đời sống tâm lý ý thức. Không có chuyện một bản ngã của đời sống ý thức và một bản ngã của những giấc mơ, vốn vô thức. Giấc mơ, hiểu theo nghĩa sinh hoạt tâm lý khi ngủ, có những đặc tính của nó như không luận lý, có những kích thước phóng lớn, không tôn trọng những khung thời gian và không gian, đang ở chỗ này, lại xuất hiện ở chỗ khác, hình ảnh thời tuổi nhỏ pha trộn với những hình ảnh của tuổi trưởng thành và cả những hình ảnh vị lai. Tổng hợp hình ảnh của giấc mơ là tổng hợp thường rối loạn, đầu ngô mình sở, không biết tới cả khoa học lẫn luận lý. Nhưng đặc tính lớn của những giấc mơ là sự gián đoạn. Giấc mơ đêm qua, không trở lại trong đêm nay, dù cho làm cách gì đi nữa, cũng không thể có giấc mơ “tiếp theo kỳ trước”. Chiếc giường ngủ, ngọn đèn đêm, chiếc cửa sổ mở ngỏ bán phần, gian phòng, của thời gian trước khi đi vào giấc mơ ta lại tìm thấy được sau khi tỉnh giấc. Nhưng gian phòng trong giấc mơ, ngay trong cùng một đêm, ngay như chỉ thức dậy năm mười phút rồi lại ngủ trở lại ngay, giấc mơ có trở lại, nhưng đó là giấc mơ khác, không những gian phòng khác biệt, mà biển trở thành núi non, người đẹp Liêu Trai, giấc Vu Sơn trở thành trận mạc, tù đày, hay những cuộc phiêu lưu bay trên mây nổi... Nhân vật Hư Trúc trong tiểu thuyết của Kim Dung có hai cuộc đời,
18 | nguyên sa cuộc đời ý thức có liên tục tính, và cuộc đời trong giấc mơ cũng tiếp nối liên tục. Người tu hành này trong cuộc đời ý thức sống cuộc đời tu hành nghiêm chỉnh, giữ vững đạo hạnh, Hư Trúc của những giấc mơ trở thành kẻ đãng tử. Những chuyện tình ái, truy hoan của Hư Trúc trong giấc mơ liên tục, tiếp nối qua thời gian. Mỗi tối Hư Trúc đi vào giấc ngủ, tìm lại được người tình trong giấc mơ đêm hôm qua, dĩ nhiên là thích thú. Nghề dạy học đòi hỏi nhà mô phạm phải khép mình vào khuôn khổ, vào kỷ luật đạo đức học đường chi phối vô thức làm tôi bị lôi cuốn bởi phần đời vô thức của Hư Trúc? Tôi muốn khiêm tốn nói lên tôi cũng không đạo đức gì hơn, nhà mô phạm này cũng là kẻ đãng tử, ít nhất trong phân nửa đời người? Ở Sống thì Hư Trúc và Nguyên Sa hiện ra ngay là một. Anh hùng hảo hớn của tờ nhật báo của Chu Tử gọi tôi bằng cả tên Nguyên Sa và tên Hư Trúc, tên làm thơ và tên viết báo cũng được bằng hữu dùng chung với cả tên thầy giáo. Tên nào được nhắc tới cũng bằng giọng vui tươi, hào hứng. Anh em rủ nhau xuống phố ăn phở hào hứng, hào hứng đưa bài cho báo, hào hứng nhìn người đẹp chị em ta đến tìm Chu Tử. Người đẹp, một cách khách quan, trông có nét, nhất định đòi lên gặp Chu Tử, khẳng định anh Chu Tử “đi ” với em nguyên đêm hôm qua, anh ấy dặn sáng nay tới báo Sống anh ấy có quà cho em và hẹn cho em đi ăn cơm. Người đẹp lên lầu, nơi làm việc của Chu Tử, hỏi lớn “anh Chu Tử ngồi đâu?” Câu hỏi có được nhắc lại thêm một lần, Chu Tử ngẩng đầu, điều chỉnh lại mục kỉnh, nói chậm: - Tôi đây? Cô cần gì? Người đẹp giẫy nẫy, không phải, ông đâu phải là Chu Tử, anh Chu Tử trẻ và đẹp trai, ông này già... đâu phải là
hồi ký
Chu Tử! Tay chơi nào đã xuống xóm với tên của tác giả tiểu thuyết Yêu ? Cuộc đời có nhiều ngộ nhận. Nhưng ngộ nhận này vui. Làm không khí hào hứng có phần Lương Sơn Bạc, rất thế thiên hành đạo của Sống có thêm trọng lượng cười. Cười thật nhiều, hào hứng kinh khủng khi những anh em làm thường trực viết thay vài kỳ cho Nguyễn Thụy Long. Chỉ mấy ngày thôi, Loan Mắt Nhung xuất hiện ngay, chửi um sùm, hỏi thằng nào viết, thằng nào hại tao, câu trả lời mày không đưa bài tới thì phải có thằng viết thay, chứ làm sao chờ mày được, Nguyễn Thụy Long vò đầu viết thay thì viết thay chứ sao nó lại cho nhân vật chính của tao chết hết cả. Sống có hào hứng Nguyễn Thụy Long, có hào hứng Tú Kếu, có nồi niêu Đằng Giao, xoong chảo Trần Dạ Từ, có Ngọc Thứ Lang, Anh văn ch i bảo, người dịch Bố Già, cũng có tên là Trần Ngọc Tú, bạn học với tôi hồi tiểu học. Lê Tất Điều, Tú Kếu, Hồ Hữu Tường, Tô Văn đầu sói nhăn mà Chu Tử gọi thân thương là “đầu mông Thẩm Thúy Hằng ”, có hai phóng viên trẻ Huyền Anh và Nguyễn Hoàng Đoan, Duyên Anh trang Búp bê, bình luận gia Nguyễn Hữu Đông nghiêm chỉnh, bác sĩ Phát bằng hữu. Chu Tử trầm ngâm, bất ngờ, các phóng viên mang tin về nói nổ nổ. Không khí trận mạc bao phủ quanh tôi, trận mạc làm thầm thì, làm lo âu, nó có tịch thu không, làm cười hô hố, làm vui kinh khủng. Không khí trận mạc, bài ca từ trái tim trừ gian diệt bạo, thế thiên hành đạo bao quanh tôi, cuốn lấy tâm hồn tôi. Tôi cất tiếng ca với bằng hữu. Tôn giáo nào cũng vậy, hãy quỳ xuống và cầu nguyện, niềm tin sẽ tới. Tôi cất tiếng đồng ca với bằng hữu, ngọn gió hào hứng liền thổi tới. Trong một thời gian, tôi trở thành Hư Trúc.
| 19
Dĩ nhiên, phê bình văn học không phải là phủ tổng thống, không phải là những quân khu. Các người cầm bút được gọi là nhà phê bình văn học không phải là những ông tướng hét ra lửa, tiền hô hậu ủng. Họ cũng không phải là bọn chó nhảy bàn độc, bọn ngụy quân tử mà Chu Tử cho vào Ao Thả Vịt. Những người cầm bút làm công việc phê bình văn học ở Việt Nam trong những thập niên năm mươi, sáu mươi không xấu hơn ai, cũng không tốt hơn ai, họ chỉ buồn cười. Diễn thuyết hăng say trong gian phòng không còn khán giả, ngồi xuống không ngần ngại khi chiếc ghế đã bị đổi chỗ đều có tác dụng trào phúng. Cuộc tranh luận giữa hai phe cũ và mới trong văn chương Pháp ngay từ thế kỷ 17, la querelle des Anciens et des Moderne s, hiện ra trong chiều dài của lịch sử văn học như một khởi đầu của một phủ nhận lớn trong lịch sử phê bình văn học. Phủ nhận lớn mau chóng trở thành khởi hành mới. Những nhà phê bình phái cũ nói thể loại văn chương có tên là kịch thì phải tuân theo những quy tắc của kịch. Kịch tác gia phải áp dụng đúng đắn luật ba đơn vị. Kịch phải được diễn tiến ở một nơi, chỉ trong một ngà y và chỉ có một chuyện. Đơn vị không gian, đơn vị thời gian và đơn vị nội dung làm thành vở kịch hay, tác phẩm kịch tôn trọng règle des trois unités là tác phẩm hay, tác phẩm không tôn trọng luật ba đơn vị là tác phẩm dở. Kịch Le Cid của Corneille không tuân thủ triệt để luật ba đơn vị, các nhà phê bình cổ điển bác bỏ ngay, xổ toẹt cuốn sách, phán xét quyết liệt kịch này không những không hay, mà còn không được coi là kịch vì vi phạm những luật lệ căn bản của kịch để lại từ thời Hy La. Luật lệ văn chương cổ điển
20 | nguyên sa
hồi ký | 21 để lại từ thời Hy La minh định kịch là phải tuân theo luật ba đơn vị, kịch nào không tuân theo luật tắc này không được coi là kịch, đương nhiên không hay, không có giá trị văn chương. Văn chương có phân chia những thể loại, bi kịch mới được coi là kịch chính danh, hài kịch là một phó sản, một thể loại văn chương hạng nhì, bi-hài, nửa dơi nửa chuột không phải là một thể loại văn chương. Những luật lệ văn học này có từ thời Thượng Cổ, Antiques . Các nhà văn học thời kỳ văn học Hy La đó đã tìm là được bản chất của Cái Hay, Cái Đẹp, đã hình thành được những tác phẩm hay và xác định được yếu tính của tác phẩm hay. Cái Hay, Cái Đẹp tìm thấy bởi các các nhà văn học và tư tưởng thời cổ là Cái Tuyệt Đối, chúng ta không có cách nào làm được tác phẩm hay hơn Cái Hay, không thể làm được tác phẩm đẹp hơn Cái Đẹp, chúng ta chỉ việc tuân theo những định luật văn chương đã được thành hình. Tác phẩm đi ra ngoài những luật tắc văn học khuôn vàng thước ngọc đương nhiên dở, phải bị loại bỏ. Kịch đi ra ngoài luật lệ của kịch không phải là kịch. Thơ đi ra ngoại luật lệ của thơ không phải là thơ. Văn chương không tuân theo những luật tắc của văn chương Hy La thời cổ không phải là văn chương. Nhà phê bình văn học là vị thẩm phán, là ông trọng tài, nhân danh những luật lệ văn chương bất biến và tuyệt đối phán xét tác phẩm. Phê bình ngự sử. Phê bình trọng tài. Phê bình quan liêu. Phê bình giáo điều. Những người làm công việc phê bình văn học trong những thập niên năm mươi sáu mươi ở Việt Nam, miền Nam phần lớn có khuynh hướng phê bình ngự sử, ph ê bình trọng tài. Thế kỷ hai mươi gọi đó là mandarin,
là Orthodoxe, là quan liêu và giáo điều. Những quan thẩm phán mới trong văn chương thời đại tôi có bộ luật thẩm mỹ của họ. Bộ luật có phần đơn giản: tác phẩm của những người viết nào ở trong phe nhóm của ta là tác phẩm hay, tác phẩm của những ai kia đứng một mình hay thuộc về những phe nhóm khác đương nhiên là tác phẩm vô giá trị. Luật có phần đơn giản, nhưng các nhà phê bình thấy không sao, luật nào cũng là luật, và luật là luật.
22 | nguyên sa
Trịnh Viết Thành
Thầy Reims chia học sinh lớp 11 trường trung học Rambouillet ra làm hai nhóm, mỗi nhóm tám người vừa đủ sĩ số lớp học. Trịnh Viết Thành và tô i, thoạt đầu, ở hai nhóm riêng biệt nhưng tôi xin với thầy Reims cho hoán đổi sang cùng nhóm với Trịnh Viết Thành, thầy Reims có hỏi vì sao, có thắc mắc phải chăng như thế thuận tiện hơn cho vấn đề pháp văn, tôi trả lời cũng một phần, phần chính là vì tôi không cảm thấy hạp với nhóm cổ điển. Nhóm cổ điển, Trịnh Viết Thành trề môi. Mày phải gọi nó là “nhóm quan lại”, “nhóm giáo điều”, chỉ có một bên là quan lại một bên là dân chúng, một bên là giáo điều, một bên là đổi mới, là sáng tạo, không có cổ điển với cải cách gì cả. Trong những cuộc thảo luận trong lớp, hai nhóm “ancien s” và “moderne s” chống đối lẫn nhau, Trịnh Viết Thành trong cơn hùng biện không ngần ngại lên giọng bỉ thử những bạn học thuộc nhóm đối lập “vous, les
hồi ký | 23
mandarins...”, “ vous, les doctes, vous sav ez ...”. Thầy Reims có phương pháp giáo khoa thần sầu, làm cho người theo học bằng sự tìm tòi của chính mình, bằng sự tham gia vào cuộc thảo luận, tự tìm hiểu trực tiếp và tìm hiểu qua va chạm những lý thuyết phê bình văn học của văn học Pháp. Thế kỷ mười bảy lớp học chia làm hai nhóm cổ điển và đổi mới. Học sinh này phải làm Boileau, học sinh kia làm La Fontaine, người thứ ba làm La Bruyère... Học sinh nhóm classique s tự phân chia những ai làm Boileau, những ai làm La Fontaine... Boileau này vấp váp, Boileau kia đứng dậy tiếp tay đọc lên và bênh vực lập trường của Art Poétique. Những người trong nhóm đối lập chia nhau làm Molière, làm Charles Perrault... Charles Perrault Trịnh Viết Thành, từ những ngày nghỉ cuối tuần, tập dõng dạc đọc Le Siècle de Louis le Grand, có cả vung tay cho giống như Charles Perrault trong đại sảnh của Hàn Lâm Viện Pháp, bài lý thuyết phê bình bằng văn vần, mở đầu cho trận đánh lớn trực diện với những Boileau, La Bruyère, La Fontaine. Trịnh Việt Thành vừa tập luyện đọc thơ trong Hàn Lâm Viện giả tưởng vừa làm món thịt bò xào hành. Tôi đứng kế bên, tránh né những giọt mỡ bắn vung lên, làm nóng thật rát, một mặt cầm sách nhắc tuồng cho Thành đọc bài thơ của Charles Perrault nói về thế kỷ lớn Louis le Grand. Thế kỷ của vua Louis Thập tứ cũng có những tác phẩm tuyệt hay chứ đâu phải chỉ thời cổ điển Hy La. Trịnh Việt Thành có biệt tài làm thịt bò x ào hành, một tuần Thành ch ỉ nấu cơm ở nhà một lần. Hai chúng tôi học cùng trường, cùng lớp và ở trọ trong cùng một gian nhà với nhau. Năm trước, năm đầu tiên theo học lớp 11 một trường trung học Pháp,
24 | nguyên sa
hồi ký | 25 tôi ở Coulommiers, thật đông vui. Có Lê Trọng Việt, Lê Uy, Tạ Văn Phi Phụng, Lâm Ngọc Huỳnh, Lê Tiết Lễ, Hồ Xích Tú... Anh Huỳnh học lớp Tú tài 2, Hồ Xích Tú học lớp đệ tứ, chị Lễ, Lê Trọng Việt và tôi lớp mười một. Tôi thi rớt Tú Tài 1, học lại lớp première ở Coulommiers thì cũng được nhưng không cảm thấy thoải mái, gặp Trịnh Viết Thành quen nhau từ Hà Nội, Thành ở phố Hàng Giấy, chúng tôi rủ nhau về Rambouillet, cách Paris chừng bốn chục cây số, một thành phố nổi danh vì có lâu đài “ château de Rambouillet” nơi nghỉ mát của Tổng thống Pháp. Rambouillet có ít học sinh Việt Nam. Lớp première chỉ có Thành và tôi. Thành mang lại cho tôi không khí đam mê của những cuộc thảo luận về phê bình văn học. Tôi tham dự vào cuộc thảo luận một phần, tham dự trong theo dõi những hăng say của Trịnh Viết Thành, trong tập luyện, chuẩn bị và lúc đụng trận, nhiều phần hơn. Thành bùng nổ trông thật mạnh mẽ. Thành chỉ tay vào nhóm cổ điển nói tôi muốn gọi các anh là bọn quan lại. Hơn thế, tôi muốn gọi các anh là bọn giáo điều. Nếu các anh làm chính trị các anh sẽ trở thành những nhà độc tài đáng ngại. Các anh nói rằng luật tắc thẩm mỹ đã được đặt ra từ thời Thượng Cổ, trong văn chương Hy La, đã nói lên được cái Hay tuyệt đối, cái Đẹp tuyệt đối và rằng chúng ta chỉ việc tuân theo, thực hiện những tác phẩm theo đúng những luật lệ văn chương đã trở thành những nguyên tắc văn chương bất biến đó. Nhưng tôi xin phép được nhìn thẳng vào những nguyên tắc và luật lệ văn chương thẩm mỹ đó, đối chiếu những nguyên tắc và luật lệ đó với thực tại của đời sống và thực tại văn chương để nhìn xem những khẳng định đó
là chân lý hay chỉ là những khẳng định. Các anh bảo rằng kịch phải có những biên giới. Bi kịch là kịch chính thống, kịch sang cả, kịch tinh túy. Hài kịch chỉ là kịch thứ yếu, công dân hạng nhì. Bi hài thì không thể chấp nhận được, đó chỉ là một thứ văn chương đầu và thân mình không thuộc cùng loại động vật, không đáng gọi là văn chương. Nhưng các anh nhìn coi, đời sống hàng ngày của chúng ta, ở trong ngưỡng cửa gia đình cũng như ở ngoài đời sống, không phải ngày nào cũng chỉ có bị kịch, cũng không phải bị kịch ngày chẵn, hài kịch ngày lẻ. Đời sống là sự pha trộn giữa những giọt nước mắt và nụ cười. Bi hài kịch phản ảnh đời sống đó, sự thật đó, tại sao nó không phải là văn chương? Thành nói, giống như Charles Perrault, căn cứ vào Le Siècle de Louis Le Grand, cộng thêm những bài dẫn giải văn học của các sách giáo khoa Pháp, tôi đồng ý kịch bi kịch của Racine tuân theo những quy luật của Cổ điển và đó là những bi kịch bậc thầy. Nhưng hài kịch của Molière, nhất là L’école des Femmes, chắc chắn đứng bên cạnh Phèdre, của Racine, mà không hổ thẹn. Thành có nhếch mép khi nhắc tới L’école des Femmes, tác phẩm từ đó Molière có phóng ra những mũi nhọn về phía Cổ Điển. Thành có liếc mắt nhìn tôi khi nói tới Phèdre. Trước đó chúng tôi có bàn cãi nhau về Phèdre. Tôi nói Phèdre không phải là vở kịch lớn duy nhất của Racine. Thành nói bạn tôi thích nhất Phèdre . Tại sao? Người con trai yêu bà vợ kế của cha mình rồi mắc kẹt trong chiếc lưới oan nghiệt của bị kịch. Thành nói mối tình đó không vô luân. Tôi không nêu lên câu hỏi nào, bạn tôi nói bạn tôi thích, sự thích thú một mình nó vừa là chọn lựa vừa là giải thích. Thành lướt qua
26 | nguyên sa
hồi ký | 27 Phèdre, đi thẳng vào luật ba đơn vị. Quý vị nh â n danh hào quang cổ điển, tôi nhâ n danh hơi thở của sự sống. Tôi hỏi qu ý vị đời sống có bao nhiêu bi kịch chỉ xảy ra trong một ngày, bao nhiêu bi kịch chỉ xảy ra một nơi, và bi kịch nào chỉ có một câu chuyện. Bi kịch trong đời sống là bị kịch trải dài nhiều tháng, nhiều năm, có khi cả đời người, lên rừng xuống biển, đi từ thị trấn này đến thị trấn khác, đâu phải đóng kín trong một gian phòng và như những mắt lưới, chuyện đời mắt lưới nọ móc vào mắt lưới kia, bi kịch nào cũng có đủ thứ chuyện, không bao giờ có một chuyện như trong óc tưởng tượng có những chấn song nhà tù lập ra bởi những bàn tay quan lại, bàn tay giáo điều, bàn tay độc tài. Thầy Reims có nhăn mặt khi nghe những từ ngữ nổ của Thành. Tôi nhìn thấy những nét nhíu mày của thầy Reims. Ông cũng không ngần ngại khi tổng kết quan niệm của hai bên, ghi nhận những học sinh nào trong nhóm cổ điển phản ánh đúng qua cuộc tranh luận trong lớp học, cái quan niệm ph ê bình cổ điển và những học sinh nào trong nhóm đổi mới làm sống lại được lập trường đổi mới. Thầy Reims khen Trịnh Viết Thành không những trình bày đúng lý thuyết văn học của nhóm modernes , còn làm sống lại được phần nào cái không khí của Hàn Lâm Viện Pháp ngày 27 tháng Giêng năm 1687, ngày bùng nổ cuộc tranh luận anciens và modernes trong đại sảnh của toà nhà cao quý này. Thầy Reims nói tuy nhiên những từ ngữ giáo điều, quan lại, độc tài của Trịnh Viết Thành thuộc về thế kỷ hai mươi nhiều hơn của Charles Perrault và các bạn của ông ta. Thầy Reims vừa dứt lời, chúng tôi ùa lại, cả phe cổ điển lẫn phe đổi mới, bắt tay Trịnh Việt Thành, cùng
nhau túa ra sân chơi banh đập, môn thể thao của người cors e, chơi cặp đôi hay cặp bốn đánh banh quần vợt đập vào vách tường.
Năm học chỉ có ba tam cá nguyệt, niên độ của cuộc đời có bốn lần ba tháng, nhưng năm học cũng như năm đời có hai lục cá nguyệt dù cho kích thước không đồng đều. Thầy Reims cho tổ chức tranh luận sống hai lần, lần đầu thuộc đệ nhất lục cá nguyệt, thời gian tháng 11 và lần hai cuối tháng ba cho kỳ đệ lục thứ hai. Lần thực tập tranh luận kỳ sau không chia nhóm, chỉ có những anh chị em tự nguyện đóng vai Mme de Staël, vai Sainte- Bœuve , vai Renan, vai Taine. Những người khác đóng vai cử toạ, lắng nghe và đưa ra những câu hỏi. Bà de Sta ë l đã nhìn thấy xa rồi thời kỳ khẳng định có một cái đẹp tuyệt đối, cái Đẹp viết bằng chữ hoa, cái Đẹp vượt không gian và thời gian. Bà Staël tìm thấy trong cùng một lúc cả sự khiêm tốn và sự khẳng định của nhà phê bình văn học và một cái Đẹp Tương Đối. Không phải chỉ có một cái đẹp, mà có những cái đẹp. Đẹp biến đổi theo không gian và thời gian. Nhà phê bình không còn là trọng tài, không phải là ngự sử hay thẩm phán đề xét xử tác phẩm có phù hợp với những tiêu chuẩn của tác phẩm tuyệt đối hay không. Việc phê bình văn học trở thành tìm hiểu tác phẩm văn học, trong những mối tương quan đa diện của nó, như tư ơ ng quan, với de Sta ë l, giữa tác phẩm và thời đại, giòng giòng, v.v. Sainte-B œ uve đi xa hơn Sta ë l, khước từ luôn vai trò thẩm phán hay trọng tài của nhà phê bình. Chỉ có thể phán xét được sau khi hiểu. Tri thức là căn bản của phán đoán mà không có, việc làm phán đoán này chỉ còn là cuộc phiêu
28 | nguyên sa
hồi ký | 29 lưu không lương thiện. Hẳn nhiên sau khi hiểu rõ tác phẩm rồi, muốn phán đoán tác phẩm hay hay dở, đẹp hay xấu, phải có những tiêu chuẩn. Vị thẩm phán xét xử một bị cáo căn cứ vào những bộ luật thành văn, không do cảm tưởng cá nhân. Trọng tài bắt lỗi tay chơi thể thao nhân danh luật chơi có được soạn thảo rõ ràng. Nhà phê bình nhân danh luật thẩm mỹ nào một khi cái Đẹp Tuyệt Đối đã bị khai tử, Đẹp chỉ còn là những cái Đẹp, cũng như chân lý ở bên này và bên kia rặng núi Pyrénées mà Pascal đã đề cập tới, biến đổi theo không gian và thời gian. Và dù cho có một bộ luật thẩm mỹ làm nền tảng cho phê bình văn học, cũng còn phải hiểu những ý nghĩa đích thực, những ý nghĩa mà tác giả muốn mang lại cho tác phẩm chứ không phải những ý nghĩa thâu nhận qua chủ quan của nhà phê bình. Sainte-B œ uve nhà phê bình lãng mạn của thế kỷ văn chương lãng mạn chân thành nhận thức cả trái núi tiêu chuẩn và trái núi nhận thức đều không thể vượt qua được đã dứt khoát từ bỏ vai trò nhà phê bình. Tìm hiểu người văn nghệ, tìm hiểu tác phẩm của người sáng tạo đó, chỉ thế thôi, không phán xét gì hết, Sainte-Bœ uve viết những chân dung nghệ s ĩ . Chân dung nghệ sĩ sẽ soi sáng cho thấy chân dung tác phẩm, “cây nào trái nấy”, đến cả quan niệm phê bình văn học hết sức khiêm tốn, chủ trương tìm hiểu tác phẩm, cảm thông tác phẩm vượt trên mọi phán xét, cũng mau chóng hiện ra như không chấp nhận được. Chateaubriand tố giác trong những Portraits Littéraires, Portraits Contemporains của những Sainte-Bœ uve, những Taine, những nhà “phê bình không phán xét” của trường phái Port-Royal, giấu chứa một thuyết định mệnh cơ giới,
một determinisme bóp chết mọi hơi thở tự do. Cây nào hoa nấy, không thể khác được, thành ra không có chỗ nào cho chọn lựa tự do cả. Nhưng người viết, người vẽ, người làm nhạc không phải là cái cây. Nhà sáng tạo có đời sống cực kỳ phóng đãng kia vẫn có thể có tác phẩm luân lý nghiêm túc. Nhà văn hiền hoà có thể viết những dòng chữ nổi loạn. Tìm hiểu chân dung tác giả để hiểu được tác phẩm, một áp dụng thảo mộc học vào văn học, Chateaubriand nói, không trúng cách. Lịch sử phê bình, từ những lớp học, những giảng đường, và thư viện, những cuộc hội thảo của Paris, hiện ra với Hư Trúc khi nhà sư còn đam mê tục lụy khi anh ta, từ Sống , tiến vào thế giới phê bình văn học ở Việt Nam những năm sáu mươi, như lịch sử của khẳng định và phủ nhận của cả nguyên tắc và định luật và những khẳng định, phủ nhận của cả tinh thần khiêm tốn mỗi lúc được đẩy đi xa hơn cho tới giấc mơ tận cùng không bao giờ tới được. Không phải chỉ khẳng định thẩm phán, trọng tài, ngự sử, mới là những khẳng định hãnh tiến, ngay cả cố gắng tìm hiểu đã chứa giấu những chọn lựa chứa giấu những khuôn khổ trói buộc. Tác phẩm rập theo đúng nhất khuôn mẫu Antiques là tác phẩm hay, tác phẩm lãng mạn ướt đẫm tình cảm là tác phẩm hay, tác phẩm tượng trưng là tác phẩm hay, tác phẩm là tấm hình chụp chung thủy thực tại là tác phẩm hay, tác phẩm đề cao giai cấp đấu tranh bênh vực tô hồng công nông, bôi đen trí phú địa hào là tác phẩm hay... Có những người sáng tạo theo khuôn mẫu cổ điển mang lại những tác phẩm tuyệt vời, như Racine tuyệt vời trong khuôn khổ luật ba đơn vị để lại từ văn học Hy La, những người khác Lamartine, Musset,
30 | nguyên sa
hồi ký | 31
Vigny, Hugo với những tác phẩm ngàn đời những dâng tràn cảm xúc, Baudelaire, Verlaine, Rimbaud mang lại những tác phẩm mà vẻ đẹp có tên là tượng trưng... Những nhà phê bình từ những tác phẩm lớn rút tỉa ra định luật, đòi hỏi những người sáng tạo khác, những tác phẩm khác phải theo đúng những tiêu chuẩn đó, đều lần lượt bị đào thải. Không cần những nhà biên khảo văn học, những tay ph ê bình chống phê bình đã cất tiếng. Chỉ một tác phẩm hay ra đời khác với tác phẩm hào quang, khác với những tiêu chuẩn mà nhà phê bình đưa ra, là tất cả lý thuyết phê bình của nhà thẩm phán một ngày hiện ra như những lâu đài xây trên cát. Chỉ cần Le Cid của Corneille, một hài kịch của Molière, một bài thơ Le Lac của Lamartine làm sụp đổ ngay toà lâu đài phê bình văn học “phải tuân theo những kiểu mẫu cổ điển mới được coi là tác phẩm có giá tri.” Les Fleurs du Mal của Baudelaire , Le Bateau Ivre, Une Saison en Enfer của Rimbaud, Romances Sans Parole s của Verlaine tuyệt vời và không ở trong khuôn khổ của định luật cái đẹp đầy ắp cảm xúc, dâng tràn tình cảm. Nhà văn nhà thơ không cần phải là chiếc máy chụp hình tốt mới làm được tác phẩm hay, tác phẩm ca ngợi giai cấp công nông thường chỉ là những bản văn tuyên truyền vụng về, khẩu hiệu không phải là văn chương, quân nhạc khó lòng có vẻ đẹp của âm nhạc. Tác phẩm vượt quá tiêu chuẩn đạp vỡ tiêu chuẩn, mở ra những tiêu chuẩn mới. Tiêu chuẩn về cái hay, cái đẹp, về nghệ thuật đến sau phủ nhận và đào thải tiêu chuẩn của một thời đại trước, để rồi, tới phiên nó, lại bị vật ngã bởi tác phẩm sáng tạo sau đó. Khoảng thời gian cuối thập niên bốn mươi, đi học ở Rambouillet
với Trịnh Viết Thành, tôi thấy không có nhiều những nhà phê bình muốn mua vui cho thức giả bằng cách nhận mình là thẩm phán, hay ngự sử văn đàn, hay trọng tài. Người ta, còn nhận ra rằng những tiêu chuẩn có thể tin cậy được để tìm hiểu tác phẩm thôi cũng lần lượt hiện ra không tuyệt đối đúng, không duy nhất, không tồn tại vĩnh viễn với thời gian. Tìm hiểu tác phẩm qua cuộc đời của tác giả, qua môi trường một thời, một thời cho những tìm hiểu tác phẩm và tác giả, một thời tìm hiểu tác phẩm ý thức và những yếu tố vô thức chi phối người viết, tìm hiểu văn chương qua ánh sáng của phân tâm học. Một thời cho tìm hiểu tác phẩm không chỉ căn cứ vào một yếu tố, mà phải có cái nhìn tác phẩm dưới lăng kính cơ cấu. ..
Đỗ Long Vân hỏi tôi:
- Cậu có đọc Bachelard chưa? Tôi cười rồi nhìn bạn tôi yêu quý. Đỗ Long Vân cười khoái trá, gục gặc cái đầu, sửa lại mục kỉnh:
- Cậu phải đọc Bachelard...
Tôi tới căn nhà ở bìa rừng Boulogne, đánh thức Đỗ Long V â n dậy, chiên hột gà cho Vân, pha hai ly cà phê và ngồi nghe bạn tôi nói về phê bình văn học của Bachelard...
32 | nguyên sa
H ư Trúc xách kiếm xuống núi phải đi qua một trăm lẻ tám pho tượng La Hán và mau chóng nhận thức được, khi đã ở chân núi, không còn nữa trong cuộc đời trước mặt những pho tượng của thế giới võ nghệ chân truyền, Hư Trúc nhớ rõ lịch sử phê bình văn nghệ một mặt là lịch sử của những chiếc thước bị gẫy, biết rõ từng loại vật dụng đo lường văn học nghệ thuật và nguyên nhân vì sao mỗi cái bị gẫy đổ, mặt khác là lịch sử của những tìm hiểu khiêm tốn mà định mệnh là không bao giờ tới được một cách tuyệt đối và sự thay thể lẫn nhau không thể tránh được, bởi đối tượng sáng tạo không những bao la, còn không ngừng đổi mới. Hư Trúc cũng biết trong thế giới phê bình văn học có những nhân vật kỳ dị, những người không biết vì thất bại trong công việc sáng tạo, hay chỉ vì bị nung nấu sôi sục bởi một mặc cảm tự tôn tìm thấy thích thú trong việc tàn sát tác phẩm sáng tạo. Những kẻ cuồng dâm căm thù nhan
Phê bình trên đầu ngọn súng
hồi ký | 33
Nhưng cuộc đời không phải chỉ đơn giản như thế. Khi Hư Trúc tới đó, không có nhà phê bình theo khuynh hướng cổ điển, mà Trinh Viết Thành gọi là bọn quan liêu, hay giáo điều nào. Không có nhà phê bình nào nhìn ngắm tác phẩm theo tiêu chuẩn lãng mạn, tượng trưng, tả chân, siêu thực hay cơ cấu. Họa ch ă ng có những tên “sa đích” khóac đủ thứ áo, từ cổ điển tới cơ cấu. Càng không có những người bỏ thì giờ và công khó đi tìm hiểu những mối tương quan không dễ tìm thấy giữa tác phẩm và cuộc đời người làm tác phẩm, giữa tác phẩm và thời đại, giữa chữ viết, như hoa, như trái, như động vật tuyệt vời và khu rừng chằng chịt vô thức. Chỉ thấy vài anh vênh váo tay cầm búa, cầm dao, cầm vồ, cầm cào, dụng cụ nào cũng khắc chữ “thẩm phán”, chữ “trọng tài”, chữ “ngự sử”. Thoạt đầu, chỉ thấy có bấy nhiêu. Nhưng rất mau chóng, hiện ra những tập hợp, chỗ này lố nhố năm bảy người, chỗ kia xì xào một tá, haiĐúngchục. vậy, tôi kinh ngạc nhìn thấy trước mặt không phải những anh phê bình văn nghệ sa đích lẻ loi, mà còn
34 | nguyên sa sắc, tìm cách hãm hại, đâm chém người đàn bà đẹp xong chưa đủ còn tàn phá nhan sắc của người có hạnh phúc và bất hạnh là có nhan sắc, rồi hãm hiếp tử thi của nhan sắc bị bầm dập tan tành. Người đàn bà đẹp trong thế giới văn chương là tác phẩm, tên sát nhân cuồng dâm là nhà phê bình văn nghệ “sa đích.” Các nhà tâm lý học gọi tên cuồng dâm hủy hoại cả đời sống và nhan sắc của người đẹp rồi thỏa mãn thú tính là tên “sa đích”. Hư Trúc biết những kẻ chỉ tìm tấy sự hoan lạc trong việc đánh phá tan tành những tác phẩm văn nghệ có tên là “sa đích văn nghệ.”
hồi ký | 35 nhìn thấy hiện tượng s a đích tập thể, hiện tượng Đông Phương Bất Bại, hiện tượng phê bình “lính gác giặc”, phê bình “tiên đồn”, hiện tượng “nhà phê bình nhà”, những hiện tượng thoạt nhìn thấy buồn cười, muốn góp ý, góp lời để sửa chữa, nhưng nhìn kỹ thấy ngao ngán. Những anh em văn nghệ thiếu niềm tin vào khả năng của mình, vào sức mạnh của tác phẩm, kết bè lập nhóm tưởng rằng những đụn cát tập hợp lại có thể làm thành ngọn núi cao, tưởng rằng số đông có thể làm thành Cái Đẹp, chuyện này không mới lạ. Thời đại tôi, người ta rủ nhau vào những tập hợp quy mô hơn. Người ta đẩy nhẹ bằng mơn trớn vuốt ve một người viết thiếu tự tin vào con đường phê bình văn học. Tôi thấy cậu mà phê bình thì rất đúng. Bạn chúng ta có ngòi bút rất ngự sử đúng không anh. Đẩy một anh em trong nhóm làm công việc phê bình văn học được một đoạn đường, khi thấy có phần nào kết quả, anh em trong nhóm xúm vào mạ kền đánh bóng cho nhà phê bình văn học của nhóm. Có nét. Sâu sắc. Phê bình mà rất văn nghệ. Rất thơ. Phê bình mà sáng tạo. Phê bình mang lại cho tác phẩm những kích thước mới mà chính tác giả không biết. Uyên bác. Uyên bác. Uyên bác. Khen nhặng xị. Khen vung tàn tán. Phải công kênh nhà phê bình lên chứ. Phải vẽ lên mặt nhà phê bình những nét b ùa , khóac lên vai nhà phê bình tấm áo da thú, nhét vào tay chiếc búa. Quàng quanh cổ nhà phê bình của nhóm đủ thứ giây nhợ, vẽ lên mặt nhà phê bình đủ thứ râu ria để cho tiếng nói của nhà phê bình có trọng lượng của thần chú. Tiếng nói của nhà phê bình trong nhóm có gang có thép thì anh em trong nhóm mới có lời, mới chiến thắng và những người viết ở ngoài
Từ diễn đàn Sống , tôi tiến tới, trực diện với những tờ báo, những tập hợp lấy số đô ng làm sáng tạo, những “nhà phê bình nhà” đang vung búa lung tung tương đối không khó khăn. Tôi biết vóc dáng của nhà phê bình nhà chỉ cồng kềnh chứ không to lớn. Anh ta được cấu tạo bằng chất dẻo b ơ m hơi đứng trên vùng đất lún, hoan hô và đả đảo của anh chỉ là những chữ. Cũng như mọi thầy bùa của thời đại xa xưa, “nhà phê bình nhà” nói vài câu lại hô lên những tiếng kỳ bí, ở đây là viện dẫn những tác giả Tây phương nói về những cuốn sách không được đọc từ nguyên bản, sử dụng tam đoạn luận đại tiền đề và tiểu tiền đề đều sai, ngay cả kết luận cũng không ăn khớp với tiền đề. Còn suy luận loại suy, quy nạp phóng đại được coi như những con
36 | nguyên sa nhóm phải chết. Mau chóng nhà phê bình nhảy những vũ điệu nghiêm trọng, vũ điệu thầy bùa trọng tài, vũ điệu pháp sư ngự sử, thực chất là vũ điệu “nhà phê bình nhà”, anh em trong nhóm, thầy choàng những vòng hoa, thầy ca lên bài Đông Phương Bất Bại, hoan hô thánh chúa, giang hồ muôn năm trường trị, những ngòi bút độc lập hay thuộc những nhóm khác xổ toẹt, bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu, không thèm nhắc nhở tới, tựu chung, trực tiếp hay gián tiếp, xoá bỏ. Những người viết văn làm thơ thiếu tự tin quần tụ lại, chế tạo ra một nhà phê bình của nhóm để làm nhiệm vụ “nhà phê bình nhà” là sản phẩm đáng buồn của một thời kỳ văn nghệ thập niên năm mươi sáu mươi bị ô nhiễm bởi chiến tranh và chính trị làm cho người ta lầm tưởng thủ đoạn có thể thay thế được cảm hứng, những hò reo hoan hô đả đảo làm được công việc của người sáng tạo cô đơn đối diện với tờ giấy trắng và tâm hồn mình.
hồi ký | 37 đường đưa tới chân lý trong việc phán xét nghệ thuật thì đoạn văn nào cũng có. Tôi thọc vào những sơ hở dễ nhìn thấy đó. Tôi nghe thấy những tiếng la hoảng. Tôi nhìn thấy những khuôn mặt chống đối. Tôi cảm thấy bầu không khí nóng rát của chiến tranh dù cho chỉ là chiến tranh trên giấy bằng giấy. Cho đến khi tôi nhìn thấy ở phía xa đã xuất hiện những nhóm người, không đi lố nhố, mà tập hợp thành đội ngũ, tiến bước theo đội hình, họ hoan hô đả đảo bằng cả ngôn ngữ phát ra từ thanh quản và ngôn ngữ phát ra từ vũ khí, đ ô i khi gắn bộ phận hãm thanh. Đó là những tay “nhà phê súng.”
Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lương được đưa tới gặp Hoàng Hà, người phụ trách Tuyên Nghiên Huấn của Thành đoàn Thanh Niên Cộng sản Sài Gòn Chợ Lớn. Nguyễn Ngọc Lương là một đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam được phái khiển vào Nam, đi theo chân đoàn người di cư vào Sài Gòn mai phục. Nguyễn Ngọc Lương có nhiệm vụ bám sát những sinh hoạt của giới văn học nghệ thuật. Viên cán bộ văn hóa của Cộng sản này không có nhiệm vụ viết văn viết báo, đánh phá, gây chia rẽ, Lương chỉ làm nhiệm vụ tiền sát. Ghi nhận, phân tích người và việc của văn học nghệ thuật miền Nam. Ghi nhận những điểm chiến lược trong mặt trận văn hóa cần bắn cho tan tành cùng những tọa độ của những điểm chiến lược đó cho xạ thủ tiện việc hành sự chính xác.
Hàng chục năm Lương la cà trong giới văn học nghệ thuật, có mặt trong nhiều cuộc họp mặt trong làng, nhất là những bữa họp mặt “hạ cờ Tây.” Nguyễn Ngọc Lương đóng trọn vẹn vai trò của một bợm nhậu trong
- Tất cả!
Xóa bỏ tất cả. Không có ngoại lệ. Những nhà văn nhà thơ sáng tác trong vùng đất kiểm soát bởi Mỹ Ngụy đều là tay sai của Mỹ Ngụy. Không có ngoại lệ. Văn học thành hình ở Miền Nam đương nhiên là xấu, kém, văn học nghệ thuật thành hình ở miền Bắc là hay, tốt. Văn học nghệ thuật Miền Nam là đồi trụy, vô luân, văn học nghệ thuật miền Bắc là anh hùng, là cách mạng, là dân tộc. Từ đại tiên đề “Văn học Miền Nam xấu kém vì đồi trụy” Vũ Hạnh và Lữ Phương đưa từng hàng loạt những tên tuổi
38 | nguyên sa làng văn nghệ. Buổi tối đi ăn đi chơi. Buổi chiều bơi ở cercle. Ngày N của nhóm mai phục Lương, Hạnh, Phương là khoảng thời gian sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963. Cán bộ giao liên đưa Nguyễn Ngọc Lương, Vũ Hạnh và Lữ Phương đi gặp Tuyên Nghiên Huấn Thành ủy Hoàng Hà, một trong những phụ tá đắc lực của Trần Bạch Đằng. Nhận lệnh. Lệnh của Hoàng Hà cho Lữ Phương và Vũ Hạnh là viết những bài phê bình văn học đánh phá văn hóa miền Nam. Lệnh cho Nguyễn Ngọc Lương là thành hình cơ sở bàn đạp. Lưong phải thành hình một tờ báo làm phương tiện cho Vũ Hạnh và Lữ Phương đánh phá. Nguyễn Ngọc Lương, trong lúc tướng tá của Quân Lực Việt Nam Cộng H òa còn bận đảo chính chỉnh lý, cho ra mắt tờ báo trông rất hiền hoà có tên là Tin Văn. Lệnh của Hoàng Hà rõ rệt: Tin Văn là bàn đạp để cho Vũ Hạnh và Lữ Phương đánh phá văn học nghệ thuật Miền Nam. Vũ Hạnh phải bằng những phương tiện hữu hiệu nhất x óa bỏ văn học Miền Nam. Vũ Hạnh hỏi cho rõ về đối tượng. Hoàng Hà khẳng định:
hồi ký | 39 của văn học Miền Nam ra đấu tố. “Lê Xuyên là một nhà văn miền Nam”, “Tác phẩm của Lê Xuyên là tác phẩm đồi trụy, xấu, kém.”
Rồi
“Vănthì:học nghệ thuật Miền Nam là văn học nghệ thuật đồi trụy, xấu kém.
Lê Tất Điều là người làm văn học nghệ thuật Miền Nam. Vậy tác phẩm của Lê Tất Điều là tác phẩm đồi trụy, xấu,
“VănRồikém.”thì:học
nghệ thuật Miền Nam là văn học nghệ thuật đồi trụy, xấu, kém.
Chu Tử là một người làm văn học nghệ thuật Miền Nam. Tác phẩm của Chu Tử là tác phẩm đồi trụy, xấu kém”.
Bất kể trời trăng, gạt bỏ phăng ph ă ng những sự kiện, các tay phê bình của hiện thực xã hội chủ nghĩa, những “nhà phê bình nhà” của đảng ta, lấy râu ông nọ cắm bừa vào những vị trí tương tự trên khuôn mặt đàn bà, gọi chủ nghĩa hiện sinh là “yêu cuồng sống vội”, nhầm những lý thuyết về mối tương quan giữa hiện sinh và yếu tính của thế kỷ hai mươi và chủ nghĩa khoái lạc hồi thế kỷ thứ năm trước Tây Lịch. Vũ Hạnh, Lữ Phương theo lệnh Hoàng Hà bôi đen văn học Miền Nam gọi chủ nghĩa hiện sinh là yêu cuồng sống vội, gọi tiểu thuyết có khuynh hướng đồng quê Miền Nam của Lê Xuyên thành “yêu cuồng sống vội”, và Lê Xuyên, dưới những cái nhìn phê bình văn học của đ ảng, trở thành... nhà văn hiện sinh. Lê Tất Đ iều cũng hiện sinh. Chu Tử cũng hiện sinh. Nhà văn nào của Miền Nam cũng yêu cuồng sống vội, cũng hiện sinh, văn học
Chém! Chém! Chém! Giữa những tiếng hô sắt máu của tờ Tin Văn của bộ ba Lương, Phương, Hạnh, phối kiểm bởi Hoàng Hà, như một bộ phận trong một guồng máy to lớn hơn gồm những tổ chức gọi là nhân dân như Hội thảo, như Ủy ban, như Lực Lượng. Lực Lượng Văn Hóa Dân tộc. Bảo vệ Văn hóa Dân tộc. Phong trào chống Văn hóa Đồi Trụy. Giữa thế thừa thắng xông lên của văn học cách mạng, tiếng nói của Chu Tử được dõng dạc cất lên hãy từ từ, hãy cho tôi nói. Tác giả tiểu thuyết Yêu , dõng dạc nói xin quý vị nhìn lại cho kỹ. Văn học nghệ thuật Miền Nam không đương nhiên kém, xấu, không phải là đồi trụy như ai kia khẳng định. Tiểu thuyết Yêu không đồi trụy, cũng không hiện sinh, đó chỉ là một chuyện tình. Lãng mạn? Có. Nhưng đồi trụy thì không thể nói như thế được. Dù cho người phê bình đứng trên lập trường hiện thực xã hội cũng không thể muốn gọi cuốn sách nào là đồi trụy cuốn sách ấy đương nhiên trở thành đồi trụy. Không phải chỉ có những mối tình của giai cấp công nông mới là những mối tình đẹp, không phải mối tình của những thành phần tiểu tư sản đương nhiên yêu cuồng sống vội, đồi trụy, hiện sinh. Cũng như không phải cứ tác phẩm đề cao giai cấp công nông, ngợi ca căm thù giai cấp, tung hô vô sản chuyên chính, giang hồ trường trị
40 | nguyên sa nghệ thuật Miền Nam là nền văn học nghệ thuật đồi trụy, từ chiếc mũ tổ bố đóng vai trò đại tiền đề phủ xuống, cái đầu văn nghệ nào cũng bị trùm kín, và đao phủ thủ họ Vũ, họ Lữ hét lên những tiếng hô sắt máu trong một buổi chém treo ngành tàn bạo bội phần. Chém! Chém! Chém! Văn hóa đồi trụy! Chém! Yêu cuồng sống vội! Chém! Chủ nghĩa hiện sinh! Chém!
hồi ký | 41 đương nhiên là tác phẩm có giá trị và những văn những thơ khác đều là đồ bỏ. Tiếng nói của Chu Tử trong mục Ao Thả Vịt của báo Sống , về cách thế phê bình văn học của Vũ Hạnh, con người Vũ Hạnh, gốc gác của nhà phê bình xã hội không làm cho Vũ Hạnh vui. Lữ Phương không vui. Nguyễn Ngọc Lương không vui. Hoàng Hà nhận báo cáo của bộ ba Lương, Phương, Hạnh, càng không vui. Hoàng Hà trình lên thành ủy không thể chấp nhận được. Thái độ phản động của Chu Tử không thể tha thứ được. Phê bình văn học mà nó dám cãi. Ngoan cố. Phản động. Chu Tử là cái gậy thọc vào bánh của chiếc xe cách mạng đang di chuyển trong tiến trình đập tan văn hóa Miền Nam đồi trụy, tôn xưng văn hóa Miền Bắc dân tộc, cách mạng, anh hùng, một tiến trình nằm trong khuôn khổ của một tiến trình lớn hơn nhằm làm băng hoại niềm tin của người dân Miền Nam, khuôn khổ của một cuộc tiền pháo mở đầu cho một cuộc tiến chiếm bằng bạo lực toàn bộ Miền Nam. “Thượng Cấp” đồng ý với đề nghị của Hoàng Hà, bắt nguồn từ những báo cáo của bộ ba Lương, Phương, Hạnh, chọn lựa hành động, chuyển lệnh hành động sang cho nhóm Đặc Công Quyết Tử Thành Đoàn. Lệnh ngắn gọn: Bắn chết Chu Tử để trả thù cho Vũ Hạnh. Ô , trả thù cái gì? Anh chửi bới, tàn sát, x óa bỏ người ta, người làm văn học nghệ thuật, người sáng tạo có quyền cất tiếng biện minh cho tác phẩm của mình. Toà án nào mà không cho kẻ bị buộc tội nói lên vài tiếng? Nói qua, phải có nói lại, ngôn ngữ trao đổi có những mảnh vụn, anh làm chính trị, anh phải lãnh nhận hậu quả, khi may, khi rủi. Làm sao trả lời một bài phê bình lại bị mang ra trả thù? Trọng tài gì mà sắt
máu? Trên sân banh, cầu thủ cãi lại trọng tài bị mang ra trả thù, bị bắn p àng pàng, ghê quá. Thẩm phán nghe xong lời biện hộ của bị cáo cho ám sát đoàn ra tay ngay, phải sợ. Chu Tử trả lời một bài phê bình của Vũ Hạnh bị bắn bốn phát tàn nhẫn.
Đội quyết tử nhận lệnh bắn Chu Tử để trả thù cho Vũ Hạnh lên đường tức khắc, hành sự vào buổi sáng. Chu Tử ra khỏi nhà, lên đường đi làm, bị kẻ ám sát bắn gục ngay trước cửa nhà. Người thợ sắp chữ của nhật báo Sống chạy tới trường học của tôi, ở đường Phan Thanh Giản báo tin dữ. Tôi đang dạy ở lớp đệ nhất A1 ở lầu một. Tôi nhìn thấy người thợ sắp chữ hỏi han người giám thị để tìm gặp tôi, anh ta nhìn thấy tôi đi ra ngoài bao lơn, hét lớn:
- Ông Chu Tử bị bắn!
Tôi hỏi lớn:
NgườiSao? thợ chữ, tôi nhớ tên anh ta là Mười, chạy lên lầu. Mười thở hổn hển, giọng đầy xúc động:
- Ông Chu Tư bị tụi nó bắn?
- Chết?
- Em không biết!
- Ai?
- Em không biết.
Vừa lúc Trần Tứ xuất hiện nói “anh Chu Tử bị tụi nó bắn rồi anh ơi”.
Tôi nhờ người giám thị trông gi ùm lớp học, cùng với Mười chạy như bay xuống tầng dưới, băng ra vỉa hè, cùng với Trần T ứ leo lên chiếc xe xích lô máy. Mười đi xe gắn máy, chúng tôi bằng những phương tiện khác biệt đ i tới
42 | nguyên sa
hồi ký | 43
nhà Chu Tử cùng lúc. Tiếng ồn ào của học sinh vang vọng ở phía sau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy những tiếng xao động tương tự. Tiếng gọi thầy. Tiếng hỏi thầy Lan đi đâu đó? Có chuyện gì đó thầy Lan? Tiếng gọi nhau chúng mình lấy xe đi hộ vệ cho thầy Lan. Tôi chưa bao giờ nghe thấy những tiếng xao động tương tự. Đó là lần đầu tiên tôi bỏ lớp học mà t ô i phụ trách giữa giờ học.
Luật phản thanh
T ôi không nhớ gì nhiều về những ngày tháng sau đó. Hình như báo Sống còn sống thêm một thời gian. Tôi nhớ sau đó có tờ Sóng Thần, tôi không biết gì nhiều về Sóng Thần , có một số anh em Sống về Sóng Thần , nhưng tôi thì không tới đó. Suốt từ ngày Chu Tử bị bắn cho tới tháng tư năm 1975 là thời kỳ buồn, thời kỳ đi qua sa mạc, tôi không làm được bài thơ nào cả. Tôi vẫn có thói quen viết văn xuôi, đọc sách và tìm hiểu về thơ trong những ngày tháng khô cạn. Sa mạc thơ kéo dài cả năm, cả nhiều năm. Thời kỳ 1961-1966, cả sáu năm không có thơ. Không phải là không có tuyệt đối, có thật nhiều bài làm xong vứt bỏ đi, có một hai bài lẻ loi được giữ lại, không có thơ sông, thơ biển. Tôi muốn viết văn xuôi cùng với tiếp tục làm những bài thơ để xé bỏ sau đó, tôi vẫn tin trí tuệ cũng như thân xác có những ngày cho xa hơn, nhanh hơn, cao hơn, cũng có những ngày cho tập luyện. Suy nghĩ về
44 | nguyên sa
hồi ký | 45 thơ không đương nhiên làm bật ra thơ, cánh cửa của trí tuệ không đương nhiên là cánh cửa của cảm hứng thần thánh. Nhưng suy nghĩ về thơ làm quyết liệt rời bỏ những con đường đã đi qua, khởi điểm của sáng tạo. Suy nghĩ về thơ không làm tìm ra con đường sáng tạo mới lạ, nhưng làm nhìn thấy rõ con đường đã đi qua tránh được đi trở lại những khuôn mòn mà không biết, lập lại chính mình mà tưởng rằng sáng tạo. Từ đó, khởi điểm.
Tôi thích suy nghĩ về vần, về kỹ thuật dụng ảnh, vai trò của liên tự trong việc sáng tạo hình ảnh mới lạ, sự sán g tạo ngôn ngữ, triết học và thơ, bản chất thơ, kỹ thuật khác biệt của mỗi loại thơ...
Thời kỳ sa mạc đầu thập niên bảy mươi vần và hình ảnh vẫn là những vấn đề làm tôi bị thu hút. Khi hai anh Vũ Bằng và Thượng Sỹ cùng với chủ nhiệm Văn Học Phan Kim Thịnh đến tìm tôi để trò chuyện về thơ, trong mục đích ra một số Văn Học đặc biệt về Nguyên Sa, tôi nói nhiều về vần và hình ảnh của thơ mà tôi quan tâm đặc biệt. Tôi nhớ tôi nói không đủ rõ. Tôi nhớ điều tôi tin tưởng là vần của thơ không phải chỉ là vần của hai chữ vị trí cố định. Vần thơ là một hiện tượng cơ cấu, là sự phối âm của toàn thể chữ trong đoạn thơ hay bài thơ. Cơ cấu âm thanh phối hợp làm cho những chữ bắt vần với nhau có những âm hưởng mới lạ, làm cho vần chính xác bỗng nhiên sâu lắng hơn, làm cho những vần lơi trở thành êm ái. Vẻ đẹp của giáo đường không phải là sự cộng lại của những viên gạch. Kiến trúc của giáo đường mang lại vẻ đẹp cho mỗi viên gạch. Thơ tám chữ cũng gọi là thơ mới loại vần ôm, sử dụng cả vần bằng và vần trắc, đều ở cuối câu, chân thứ tám. Câu hai và
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một v ài bông hoa...
Hoa rất gần với trời và vài, không cùng loại, nhưng rất gần làm ngắn lại khoảng cách âm thanh giữa trời v à vài. Tôi dùng vẫn trắc để làm cho vần bằng của hai câu vần ôm bằng trong thơ tám chữ gần lại, vẫn lơi lỏng dựng trên một nền âm thanh có âm trắc chặt chẽ làm cho gần gũi. Hai chữ vần bằng chặt chẽ có thể trở nên nặng và cứng trên một nền âm thanh đã có những chữ trắc được kiến trúc gắn
Tôibó.nhiều
khi cũng thêm một chữ trắc ở một chỗ nào đó trong câu hai để cho nền âm thanh có kiến trúc đủ chặt chẽ để cho những âm bằng có đủ hỗ trợ bay lượn trong những không gian của riêng làm thành phối hợp khác lạ, nếu như thiếu nền âm thanh chặt chẽ đó sẽ dễ bị gãy đổ.
Nhà thơ Đoàn Phú Tứ, lúc sinh thời, vẫn hay giảng ở trường Văn Lang Hà Nội thời gian thập niên bốn mươi về
46 | nguyên sa câu ba vần bằng bắt với nhau, câu bốn và câu năm vần trắc bắt với nhau. Tôi thấy hai câu vần trắc và hai câu vần bằng bắt với nhau cho chặt chẽ đều trúng cách. Những vần thơ có khi chặt chẽ, có lúc lơi lỏng. Chữ phương vần vớ i đường là chính xác. Chữ trời v à chữ vài có phần xa xôi, lơi lỏng. Những phương vần với đương hay đườn g không phải bao giờ cũng làm thành câu thơ hay, lại nữa, vần chính xác bị mòn, dùng nhiều rồi, cái làm thành sức mạnh của câu thơ có thể trở thành sự suy yếu. Trời và vài thì xa xôi nhưng khi được những chữ khác của hai câu sáu tám bắt vào nhau thành một nền âm thanh có phối hợp làm cho câu thơ sáng lên, vần của hai câu sáu tám cũng là sự tổng hợp mới, hiếm có hay chưa từng có.
hồi ký | 47 một luật phản thanh. Âm nhạc hiện đại càng ngày càng sử dụng nền âm thanh trong viễn tượng cái đứng sau làm nền là cái làm cho nhạc cụ tiến ra tiền trường, trở thành tiền trường, đến cả âm thanh của giọng ca cũng được sử dụng làm nền cho giọng ca chính có khi làm nền cho kèn, cho sáo bứt lên.
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
A nh vẫn yêu màu áo ấ y vô cùng
Thơ của anh vẫn nguyên màu lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non Và đôi mắt ngất ngây toàn chất rượu... Đông và cùng được áo vọng âm mát làm cho gần lại, ngắn tiếp nối chặt chẽ trắng lại được tăng cường bởi lắm làm cho khoảng cách giữa quanh và dung, vẫn không bị mòn, được khỏa lấp , chung và dung còn làm thành vần phụ vượt khuôn khổ niêm luật, khoảng cách giữa quanh và dung càng được gần hơn cửa được bắt với hai chữ bữa, hồn và non tương đối không xa, không làm cho một chữ nào ở giữa câu bắt vần với câu trên hiện ra như một nhu cầu, sự phối âm đã chặt chẽ.
Kịch tác gia Đoàn Phú Tứ thuyết giảng hào hứng về “luật phản thanh” khi ông được môn sinh hỏi về vần điệu trong bài thơ Màu Thời Gian mà ông là tác giả. Sự phối hợp âm thanh trong bài thơ theo luật phản thanh cũng làm cho những chữ, những câu đứng bên nhau trở thành êm ái chứ không phải chỉ có vần của những chữ ở cuối câu mới làm được công việc này. Những trang sách của André Cresson nhấn mạnh về sự sáng tạo vần trong thơ, sáng tạo thơ không phải chỉ là sáng tạo chủ đề, sáng tạo hình ảnh. Nó, thơ, là sáng tạo chủ đề, sáng tạo hình ảnh, sáng tạo ngôn ngữ, sáng tạo kiến trúc, và cũng là sáng tạo vần. Chiếc lá rơi xuống trên bề mặt của ý thức chìm xuống sâu thẳm vô thức có khi chỉ còn là những hạt bụi hoà tan trong nước, có khi nằm im trong đáy sâu trong trạng thái xương lá khô, những chiếc lá kịch tác gia Đoàn Phú Tứ, nhà khảo cứu văn học André Cresson thả xuống tâm hồn đã bắt đầu nghe nghe thấy những tiếng réo gọi khác lạ của tôi trở thành những con thuyền di động trong đáy sâu vô thức làm thành những hải lưu, làm thành sóng, làm thành biển khác với biển.
Khi trở lại Việt Nam đầu năm 1956, hơn một năm sau, thời gian tháng Năm năm 1957, mới có Áo Lụa Hà Đô ng , với những vần ôm, rất thông, có khi có phần cưỡng, không lạc nhưng không luôn luôn chỉnh. Vần thơ có vần chỉnh, vần thông, vần cưỡng áp và lạc vận. Vần chỉnh không cần sự hỗ trợ, không cần sự phối âm, nhưng sự sử dụng những nền âm thanh khác biệt có khả năng làm cho vần thông trở thành vần chỉnh, vần cưỡng và ngay cả vần lạc cũng được nắm tay giữ được trong khoảng không gian giữa trời, giữa đất mênh mông.
48 | nguyên sa
hồi ký | 49
Năm năm trước, khi cả bọn chúng tôi, có Thoa, An, em tôi, H òa , Bộ Liên, Việt, Thái, Nga, thường trực, Thẩm Võ Hoàng, Thẩm Đôn Thư tới chơi, ý nghĩ trở về Việt Nam nhen nhúm. Con người vẫn khởi đầu đi vào đời sống với niềm tin không ý thức không có tận thế, không có tử thần nào đứng chờ ở mỗi góc phố, sự trở về quê hương đủ xa vời để không bao giờ bị đặt thành vấn đề. Năm 1952, vấn đề, với riêng tôi được đặt ra. Bạn bè tôi đi mua được, tôi không biết bằng cách nào, tôi chúi đầu vào một góc tối, khóc nấc, những miếng vải xô. Nga cắt vải xô thành từng miếng khăn, chít lên đầu mọi người. Các em tôi, tìm được tấm hình của Bố, Việt mua về nhang và đèn cầy. Anh em chúng tôi, với sự giúp sức của bằng hữu trong căn nhà ở Versailles làm lễ phát tang. Thân phụ tôi từ trần khi ông còn rất trẻ, chỉ bốn mư ơ i hai tuổi, vì một căn bệnh rất dễ chữa là bệnh ruột dư. Bác sĩ chẩn bệnh sai, cho thuốc chống đau, thay vì mang vào bệnh viện để giải phẫu, khi mang vào tới nơi thì đã quá trễ, chỗ đau nhức làm thành mủ và đã bị bể, lan tràn... Tin dữ làm thành biệt ly lớn, qua không gian, chẳng thấy mặt nhau, làm thành những ý tưởng biệt ly khác, biệt ly lớn đã tới, làm quặn đau, làm vùi đầu trong chăn khóc đến thiếp ngủ, vùi đầu lại trong chăn khóc nấc lúc bình minh. Hoàng hôn của chết chóc bỗng nhiên hiện ra như một hoàng hôn khác, bình minh tử biệt sinh ly là bình minh khác. Biệt ly nhỏ từ biệt ly lớn mơ hồ hiện có cảm xúc của biệt ly lớn, có bất ngờ của chưa từng có làm nhức nhối. Chưa bao giờ trong thời gian du học từ 1948, tôi có ý tưởng sẽ có lúc phải dứt áo ra đi. Năm 1952 là năm của những ý tưởng biệt ly. Tôi không trở về Việt
Nam ngay. Ý tưởng trở về nhen nhúm rồi chìm lắng. Có lúc bùng lên thật mạnh, như năm 1954, chia đôi đất nước, mẹ tôi mang các em tôi vào Nam, nhu cầu một cánh tay hiện ra ở phía trước. Thẩm Đôn Thư về Việt Nam trước tiên trong nhóm anh em chúng tôi. Tôi bị chấn động thật lớn trong chuyến đi lần đầu của bằng hữu. Tôi thấy chính mình đang lên đường. Chúng tôi đưa Đôn Thư ra Orly. Tôi thấy đâu đó có cuộc tiễn đưa cho chính mình. Thẩm Đôn Thư về quê hương. Trần Quý Thịnh lên đường. Vũ Huy Chúc lên đường. Tôi thấy tôi và những tôi cầm tay bạn bè bịn rịn, tôi thấy tôi và những tôi từ trên thang cao của máy bay vẫy tay lần cuối, tôi thấy ngọn đèn đêm của Eiffel quét những đường sáng dài vẫy tay. Những Tiễn Biệt, những Paris Có Gì Lạ Không Em từ bóng đêm của vô thức và sương mù dắt tay sông Seine đi tới.
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim...
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine Anh về giữa một dòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em...
Em có đứng ở bên bờ s ông
Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo dòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng...
50 | nguyên sa
hồi ký | 51
Ngoan với em vần ép, sông và trăn g thì lạc vẫn không còn gì để nghi ngờ. Tôi chấp nhận. Tôi nghĩ nếu có trách cứ về những vần cưỡng ép và vần lạc thì cũng đúng thôi. Tôi không có gì để biện minh. Tôi chọn lựa nền âm thanh, chọn lựa sự xuất hiện của hàng loạt những tiếng đồng âm, tạo thành một nền âm thanh, để cho những vần chỉ có từ thông vận đến lạc vận, bay nhảy.
Trong đoạn đầu có tới ba tiếng em , vần ngoan, xa xôi với em, chim câu bốn gần với em câu một hơn, giúp cho ngoan bớt xa cách, nhưng chính yếu là ba chữ em liên tiếp ở câu một, hai và bốn, tạo thành nền âm thanh cho em v à ngoan. Đoạn hai, cả câu một và câu bốn đều vần em , nền âm thanh của những tiếng đồng âm trải từ đoạn một qua đọan hai, với những vị trí càng lúc càng quan trọng hơn còn nắm giữ vai trò tiếp nối của hai đoạn thơ, sự tiếp nối thuần túy âm thanh. S ông và trăn g hoàn toàn lạc vận, em trở lại hai lần, trăng vần với trăng điệp âm, điệp vận, chỉ một vi phạm luật lệ thi ca tày đình như thế đủ làm cho bài thơ bị loại bỏ nếu nhìn từ quan niệm thi ca cổ điển và đương thời. Tôi vẫn nghĩ là tôi có nhiều may mắn. Tôi không thấy người đọc nào than trách về những sử dụng vần điệu vượt ra ngoài khuôn khổ của vần điệu, hoàn toàn xây dựng trên sự mơ ước sáng tạo, sự phối hợp âm thanh của cả đoạn, của nhiều đoạn, của toàn bài.
Chỗ dung thân của thơ phải chăng là sự bao dung có tên là tình yêu?
Hình ảnh bậc hai
Paris mang cho tôi cảm xúc biệt ly, đó là cảm xúc hay tình cảm, có thể là đam mê không? Không tình cảm bình thường được, vì biệt ly làm xốn xang, day dứt, giao động hơn tình cảm buồn khi lá thư chờ đợi không tới, khi những tia nắng cuối cùng của buổi chiều nhẹ nhàng bay đi, cảm xúc bùng nổ, tình cảm giản đơn không đương nhiên có những chấn động như thế. Biệt ly không phải đam mê, hẳn nhiên đam mê lớn có đối tượng tình ái, nhưng đam mê không phải chỉ có đam mê tình ái, đam mê cờ bạc, đam mê chính trị, đam m ê tôn giáo, biệt ly có chiều dài lớn hơn cơn giận dữ, nhưng không dài lâu như đam mê, dù cho đam mê nhắm tới đối tượng nào. Sự mạnh mẽ của biệt ly có khi cũng bùng nổ chấn động như cơn giận, có nức nở, nước mắt, sức công phá của nó, biệt ly, có khi còn đáng ngại hơn cảm xúc, sự mạnh mẽ đó và yếu tố thời gian làm cho biệt ly đứng bên bờ cảm xúc. Tôi biết ngay, khi
52 | nguyên sa
hồi ký | 53 vấn đề trở về quê hương được mơ hồ đặt ra khi thân phụ tôi từ trần, rõ rệt đặt ra khi Hiệp định Genève được ký kết, biệt ly không phải là hiện tượng tâm lý của người bị mang từ vị trí này sang vị trí khác. Tôi đang ở phố Hàng Đậu bị mang về phố Quan Thánh, đang ở Quan Thánh bị mang đi Hà Đông, không có biệt ly. Không. Tôi không cảm thấy những buồn, những hoang vu, những chuyển động đau xé ngay từ khi chuyển động chưa thật sự tới, cũng như khi nó đã tới. Lần dọn nhà đầu tiên, từ Hàng Đậu về Quan Thánh tôi có ngơ ngác, luyến nhớ, từ Quan Thánh về Hà Đông không có sự xúc động nào cả. Thời gian ở Hàng Đậu tương đối dài hơn làm thành những thói quen, những ràng buộc sâu đậm? Thời gian ở Quan Thánh, lần đầu, không những ngắn, sự di chuyển còn có sức đẩy của biến cố, cả lần tôi theo thân phụ lên Sơn Tây, và lần cả gia đình về Hà Đông sự ngạc nhiên trước thời sự lớn mang tới chuyển đổi làm mờ đi cảm xúc cá nhân? Đi Hà Đông, từ Hà Đông trở về Hà nội khi cuộc đổi thay năm 1945, rời bỏ Quan Thánh lần ba đi di cư về Hải Dương, cuộc đi bộ tản cư từ Nam Sách, Hải Dương, bă ng qua Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây về Hà Đông, đi từ Quảng Tá i, Hà Đông, hai tay bị trói lên Chi Nê, Hòa Bình, từ Hòa Bình giải về Cải Hối Thất Sơn Tây, từ Quế Sơn, xuống thuyền ban đêm về Hà Nội, chuyển động không đương nhiên biệt ly, thay đổi vị trí không có tình cảm biệt ly nào cả. Bị bắt, chạy giặc, di cư, dọn nhà bị bứng ra khỏi một vị trí bị mang sang một vị trí khác, thảo mộc bị bứng đi từ một mảnh đất này mang qua một mảnh khác, lần nào cũng bất ngờ, cũng biến động, bị chấn động ra sao? Tôi có bị chấn động tâm lý đến tình trạng bệnh
lý không? Tôi thì tôi ý thức được khi rời bỏ Paris tôi thật sự khám phá ra tình cảm biệt ly. Những lần rời Paris đi về sinh sống ở những vùng phụ cận, ở Coulommiers, ở Rambouillet, ở Provins, một năm hai năm, nhen nhóm những tình cảm biệt ly nhỏ, những đốm lửa của đ ê m cắm trại, những vết phỏng của đèn cầy, không phải là khu rừng bốc lửa lột da những ngày chuẩn bị rời bỏ và trong những ngày rời bỏ Paris. Lấy ra khỏi một vùng đất, bứng ra, lấy đi, không phải là biệt ly. Bị bắt mang vào nhà cải hối, di động đầu ngẩng cao, tai lắng nghe tiếng động cơ máy bay, không có biệt ly. Ngay cả ngày rời bỏ Hà Nội lên đường đi Pháp năm 1948, không khí biệt ly có được thắp lên, nh ư ng ngọn đèn không phải là buổi bình minh hay hoàng hôn. Chuyến đi có mong muốn, có mơ ước rạo rực, có hân hoan đi tới vùng đất mơ ước. Người giang hồ của Nguyễn Tuân đam mê những bến bờ xa lạ có biệt ly không? Biệt ly đi du học không có kích thước của những ngày tháng rời bỏ trường học, hè phố, bờ sông và những quán sách, rời bỏ bằng hữu, tình yêu, nhạc ja zz , những mẩu bánh chia nhau ở Saint Maur, những bữa mì chay ở gare de Lyon. Tôi không muốn đi, tôi muốn ở lại, tôi gọi trở về quê hương là đ i , tôi gọi tới Paris là về . Tình yêu của tô i ở đó, phần đời có trọng lượng của toàn thể của tôi ở đó. Cảm xúc lớn lao, dao động cực mạnh mang lại hàng loạt những bài thơ về biệt ly. Paris Có Gì Lạ Không Em?, Tiễn Biệt, Paris. Tôi khởi sự thơ với chủ đề ly biệt. Tôi bắt đầu cùng lúc những bài tình ái và những bài biệt ly. Cũng có thể nói được như thế. Thơ chủ đề biệt ly và thơ chủ đề tình yêu đến gần như trong cùng một thời gian. Xen kẽ. Hỗ trợ. Trong thơ tình có khắc khoải chia xa.
54 | nguyên sa
hồi ký | 55
Trong Tiễn Biệt, Paris Có Gì Lạ Không Em, Paris có gục đầu trên vai nhau. Nga đầy ắp Paris là bài thơ tình đầu tiên, sau đó là Tuổi Mười Ba, của thời kỳ Paris gục đầu trên vai nhau, Paris tiễn nhau ở gare de Lyon , ở phi trường Orly, Á o Lụa Hà Đông, Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết của Sài Gòn 1956 và những năm kế tiếp, Nga 1955 , Tiễn Biệt đầu tiên, 1953, hai bài Paris 54 và 55. Thơ tình của những ngày tháng hôn nhân, đến trước thơ tình của tuổi học trò. Áo Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba, Tháng Sáu Trời Mưa , trình làng ở Sáng Tạo , khi đã trở về Việt Nam, làm khoảng thời gian 56-6 7. Nga in trên tờ thiệp báo hỷ, bài thơ tương đối dài làm cho người bạn ấn loát in tặng phải chọn lựa tờ giấy lớn hơn thiệp báo hỷ rồi gấp lại làm ba. Từ thiệp báo hỷ của tôi in trên khổ giấy năm rưỡi, tám rưỡi, giấy bảy chục gam, loại láng, in chữ nghiêng, tới chữ O của “môi em tròn như chữ O”, câu thơ in nghiêng, anh bạn ấn công thích thú chỉ cho tôi thấy chữ O anh đã chọn kiểu chữ thẳng, rất tượng hình thơ. Tôi cám ơn
Ngayanh.lập
tức, Paris gục đầu trên vai nhau, Paris kiểng mình trong đêm, Paris mặc áo sương mù, Paris của chữ P hoa, như tên một người con gái, có hơi thở của âm thanh phối hợp và toàn diện, có trái tim hình ảnh, và có đôi mắt tình yêu trò chuyện. Toàn thể Paris Có Gì Lạ Không Em liên tự như được thay thế bởi liên tự l à khi hình ảnh ở trong bậc một, bắt qua hình ảnh bậc hai, ảnh bậc một có khi được duy trì, có khi bị cắt đứt luôn, cùng với nó cả vật muốn mô tả, ảnh ký hiệu của sự vật đối tượng và liên tự nối ảnh và vật. Là thay thế cho như có kinh nghiệm Lưu Trọng Lư, có
bài học triết lý tương tự và đồng nhất. Tôi học trường Văn Lang của thầy Ngô Duy Cầu hai lần khác biệt, lần đầu khi Văn Lang tản cư về Hà Đông để tránh bom thời gian 19401945. Trước đó tôi theo học Puginier, vừa qua năm với sư huynh Leonard lên học với sư huynh Denis, lớp học hào hứng sáng thứ sáu nào frère Denis cũng kể truyện thánh, chuyện hai người bạn bị tai nạn xe hơi, người thứ nhất không đọc kinh kệ bao giờ, người thứ hai tối nào cũng đọc, dù mệt mỏi đến đâu cũng ráng đọc ba kinh Kính Mừng, kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Lời ở cùng Bà, Bà có phép lạ... Người không đọc kinh chết bất đắc kỳ tử khi gặp tai nạn không được giải tội trong những giờ khắc cuối cùng, bị đầy xuống địa ngục đời đời, người đọc kinh Kính Mừng được Đức Mẹ Maria cứu cho thoát chết, có cơ may dọn tâm hồn khi chết được lên nước Chúa. Sư huynh Denis là một nhân vật lạ, có phần kỳ bí trong trí óc trẻ thơ của lũ học sinh lớp nhất. Khi nào có báo động máy bay đồng minh tới, ông cũng biết trước, sư huynh cho lệnh chúng tôi xếp sách vở lại chuẩn bị xếp hàng ra tranchée , hầm trú ẩn, vừa lúc còi báo động nổi lên. Dù vậy, không có triệu chứng nào cho thấy sư huynh biết bom của phi cơ đồng minh sẽ ném vào chỗ nào. Bom của phi cơ đồng minh ném vào Chợ Hàng Da, nơi có nhà thờ Tin Lành hàng tuần tôi vẫn đi lễ cùng với hai cô Lan Tây và Lan Nam. Những trái bom Chợ Hàng Da thổi bay lớp học của sư huynh Denis, thổi bay ngôi giáo đường của Lan Tây và Lan Nam, thổi tôi bay tuốt về Hà Đông, về trường Văn Lang. Tôi học ở Văn Lang chạy bom, tôi học Văn Lang Hà Nội mùa thu 45 vài tháng, năm 48, trước ngày đi du học, vài tháng. Các tài
56 | nguyên sa
hồi ký | 57 liệu và sách vở Việt Văn ở nhà trường đều cho tôi thấy như mới tốt, là không tốt . Là nằm trong bộ ba thì là mà, tối kỵ trong thơ, bộ ba thấp, lảm nhảm bị coi là bộ ba cấm kỵ. Dùng thì là mà câu thơ hỏng ngay, không chịu chọn lựa chữ cho sang, cho đúng, cho đẹp lại thì là mà thơ bị đánh giá thấp là đúng. Tôi không dám hỏi thầy thêm về những khuyết điểm của thì là mà, càng không có ý định bài bác quan niệm thi ca về những từ ngữ này. Không biết từ bao giờ Lưu Trọng Lư, trong tôi, cất lên tiếng nói hoài nghi.
Mắt em là một dòng sông
Hồn anh bơi lặng trong dòng mắt em...
Khi thầy Reims giảng về hình ảnh bậc hai trong thơ, mắt em là một dòng sông hồn anh bơi lặng trong dòng mắt em trở lại ngay. Thầy Reims viện dẫn Lamartine, Victor Hugo và thơ alexandrin khi nói về kỹ thuật hình ảnh bậc hai, image du second degré. Tôi, do sức đẩy của bài giảng, trôi vào ngay dòng lục bát. Tôi đi tới ngày mắt em là một dòng sôn g, hình ảnh bậc một, mắt là sự vật muốn mô tả, là là liên tự, dòng sôn g là hình ảnh. Hình ảnh bậc một. Hình ảnh bậc một đó trở thành một sự vật, một đối tượng được mô tả đưa tới một hình ảnh bậc hai. Con sông không còn là sản phẩm của tưởng tượng, đã hoá thân thành sự vật có thật có khả năng tiếp nhận những con thuyền, những vật, bằng cách này hay cách khác trôi nổi, trong số có hồn anh bơi lặng trong dòng mắt em... Khi giáo sư triết học của tôi ở Provins thầy Dudier, học sinh, nhất là Jean Oyono, về sau trở thành tác giả tiểu thuyết La Vie d’un Boy, gọi thân thương là Ducoudu đề cập những tương đồng và dị biệt giữa tương đồn g và đồng nhất, dòng sông của Lưu Trọng Lư cũng trở
58 | nguyên sa lại với tôi. Đôi mắt của người đàn bà trong thơ Lưu Trọng Lư và dòng sông cùng nhau trở lại. Tôi thấy rõ ràng mắt em không phải là giống như một dòng sông. Không phải là tương đồng với dòng sông. Mắt em là một dòng sông. Đôi mắt và dòng sông chỉ là một. Mắt là dòng sông . Đồng nhất. Tương đồng giả thuyết sự hiện hữu của sự vật khác nó, cái khác nó. Một vật không giống nó, trong cùng thời gian dĩ nhiên, cũng như một vật không thể chiếm hai vị trí không gian trong cùng một thời gian. Một vật trong cùng thời gian là nó. Nó giống hay khác với cái khác nó. Trạng thái tâm hồn của tôi chiều nay không giống với chính nó. Nó giống với trạng thái tâm hồn của tha nhân, giống với trạng thái tâm hồn của tôi chiều hôm qua, khác với trạng thái tâm hồn của tôi sáng ngày mai. Tương đồng không phải là đồng nhất, vì rằng một vật chỉ có thể đồng nhất với chính nó, tuơng đồng với cái khác nó hay chính nó thuộc về một thời gian khác, nó tựu chung đã khác nó. Thơ vẫn dành ưu thế cho như, cho tương đồng. Mặt nàng đẹp như hoa, hoa tưởng dung. Và những tóc như mây, những mắt như trăng như sao... Lưu Trọng Lư không viết Mắt em như một dòng sông ... Nhà thơ viết Mắt em là một dòng sôn g. Không tương tự. Nhà thơ khẳng định sự đồng nhất. Của mắt và s ôn g. Một vật, trái với nguyên tắc của cả luận lý học lẫn vật lý học đã trở thành cái khác nó. Mắt chỉ có thể giống như dòng sông , không thể là dòng sông được, mắt là hiện tượng sinh lý học, sông là hiện tượng địa lý. Nhà thơ khẳng định sự kiện sinh vật học và sự kiện địa lý đồng nhất. Mắt em không giống như một dòng sông. Mắt em l à một dòng sông. Dòng sông không phải là ảnh, nó trở thành sự vật, trở thành hiện hữu
hồi ký | 59 làm cho hồn người có thể lặng lẽ bơi trong dòng sông đó. Tôi nghe thấy mơ hồ, ngay từ những ngày tháng khởi đầu, băng qua những giới hạn của nguyên tắc đồng nhất là tiến vào một thế giới tưởng tượng phong phú hơn, tới mức, cái tưởng tượng, hay hư cấu, trở thành cái thực tại. Thay thế như bằng là không sợ hãi, bỏ luôn cả như và là , lấy ngay cái tưởng tượng làm thực tại càng tốt. Tôi lao mình tới, đi thẳng vào hình ảnh bị “sự vật hoá”, vào hình ảnh bậc hai, rồi bậc ba, hình ảnh bậc một nổi, hình ảnh bậc hai nổi, hình ảnh bậc một chìm, hình ảnh bậc hai chìm...
Anh sẽ thở trong hơi sương khuya
Mỗi lần tan một chút sương sa
Bao gi ờ sáng một trời sao sáng
Là mắt em nhìn trong gió đưa...
Âm thanh đệm tan, âm sương nhắc lại, âm s áng hai lần, làm cho nhữn g khuya, sa và sươn g, thật xa nhau gần lại. Không cần mắt em giống như một vì sao sáng, cũng không “cần mắt em là một vì sao sáng”, khi màn sương khuya từng chút từng chút tan đi trong hơi thở, Bao giờ sáng một trời sao sáng, Là mắt em nhìn trong gió đưa... Mắt cũng không chỉ là sao, mắt đã nhìn trong gió đưa. Thơ vượt trên nguyên tắc đồng nhất không dừng lại ở sự đồng nhất hoá vật và ảnh.
Hình ảnh nổi, hình ảnh chìm, hình ảnh bậc một, bậc hai, bậc ba, hình ảnh đa cấp của Paris Có Gì Lạ Không Em và hình ảnh liên tiếp hay liên chi của Nga làm thành bàn đạp giúp tôi phóng tới phía trước, kỹ thuật vần, kỹ thuật hình ảnh chưa ý thức rõ còn như chiếc áo may bằng chất vải không làm cảm thấy cọ xát, không làm nhìn thấy màu sắc, không làm ngửi thấy hương thơm có tên là vô thức mặc lấy thân thể thơ làm di động thoải mái. Nga làm tôi bay lên. Đám cưới tổ chức theo cách riêng, tự nó đã có tác dụng phi trọng lực. Chúng tôi kết hôn ngày 17 tháng 12 năm 1955, sau sinh nhật Nga 7 ngày. Chỉ còn một ít ngày nữa, trước khi lễ Giáng Sinh tới, là chúng tôi phải xuống tàu về nước. Phải làm đám cưới để cho việc cùng nhau hồi hương thuận tiện hơn, đám cưới mà chúng tôi không có tiền để thực hiện, thao thức càng làm chúng tôi nhìn ngắm nó như một công thức xã hội, một khuôn
60 | nguyên sa
hồi ký | 61 khổ bảo thủ. Chiếc áo mỏng nhiều tầng màu trắng có voile trắng che mặt, bộ đồ ba mảnh đàn ông với chiếc nơ bướm, tiếng chuông nhà thờ mừng vui đổ xuống, chiếc nhẫn tay này khoác vào tay kia, tay kia khoác vào tay này, người hỏi, những câu đã được hỏi một ngàn lần, những câu trả lời chung của hằng hà vô số người, tôi đồng ý, tôi chấp nhận, J’accepte, I do. Người cất tiếng hỏi chúng tôi là viên chức hành chánh quận 15. Nhiều cặp tân lang và tân giai nhân chuẩn bị và gia đình họ ngồi kín đại sảnh của tòa hành chánh quận. Paris thời đó có hai mươi quận, ngoài tòa hành chánh thành phố, tức là thị xã, mỗi quận có tòa hành chánh riêng có đảm nhận một số phần hành trong đó có lễ cưới. Những chú rể mặc đồ lớn, những cô dâu trong những lớp voile nhiều màu, từng cặp bước lên trước mặt quận trưởng lắng nghe câu hỏi nghi lễ thông lệ, trả lời J’accepte giọng đầy xúc động, hỏi anh có bằng lòng lấy cô này làm vợ không, cô có bằng lòng lấy anh này làm chồng không, tôi chấp nhận, tôi chấp nhận, hai người hãy sống cùng nhau trọn đời trong hạnh phúc và khổ đau, chồng phải..., vợ phải..., nhân danh thẩm quyền thị trưởng, quận trưởng, chủ tịch hành chánh tôi tuyên bố hai người là vợ chồng, ôm hôn, ôm hôn, những tràng pháo tay, những lời chúc tụng... Đám cưới của tôi có ông quận trưởng cử hành hôn lễ cả, tôi vẫn chỉ mặc chiếc quần jeans hàng ngày, tôi cũng có vài cái quần nỉ, may đã lâu, dùng cũng nhiều lần không làm thành hình ảnh tốt cho nghi lễ, bộ đồ complet may ở Guy Taylor, tiệm may thời đó nổi danh trong đám sinh viên thích nhảy ở hầm S aint Germain, còn tốt những màu sắc hộp đêm không phải là màu sắc của ngày lễ lớn,
vả ch ă ng kệch cỡm vì quá hạn. Nga mặc bộ đồ suite mới, món quà đám cưới duy nhất mà chúng tôi đi nhiều ngày, mũi dán vào cửa kính, làm tính cộng trừ nhân chia mệt nghỉ mới mua được, không phải voile, chỉ đồ bộ mà tìm mãi trong đáy túi. Người thư ký phụ trách các vụ kết hôn đã cho chúng tôi câu hỏi và đã có câu trả lời. Có làm lễ riêng ở đại sảnh với sự hiện diện của ông quận trưởng hay người đại diện không? Nếu không, nếu chỉ làm đám cưới tập thể thì miễn phí. Làm lễ cưới ở đại sảnh có nhiều loại, nghi lễ hạng nhất, nghi lễ hạng nhì, nghi lễ hạng ba, nghi lễ hạng nhất có sự hiện diện của ông quận trưởng và chỉ một cặp hiện diện, có tiệc trà sau đó, là nghi lễ hạng nhất, sử dụng tới hai đại sảnh, đại sảnh hành lễ và đại sảnh tiếp tân, nghi lễ hạng nhì có nghi lễ dành riêng, không có tiếp tân, nghi lễ hạng ba, quận trưởng làm lễ cưới tập thể, nhân danh quận trưởng tôi tuyên bố quý vị là vợ chồng không phải chung cho mấy chục cặp, mỗi cặp một lần lên, nhưng mấy chục cặp có cùng nhau ngồi trên những hàng ghế chờ trong đại sảnh. Từng cặp được mời lên, nghi lễ ngắn dành cho mỗi cặp trong vòng năm ba phút. Người thư ký hành chánh nhận ghi danh đám cưới hỏi chúng tôi có muốn làm đám cưới hạng nhất không, cho chúng tôi giá tiền, chúng tôi nhìn nhau, cùng nhau lắc đầu, tôi trả lời người nhân viên hành chánh, không cho đám cưới hạng nhất, không cho đám cưới hạng nhì, có cho đám cưới hạng ba, người công chức hiền hòa, không lộ cảm xúc khác biệt nào trên khuôn mặt, tôi nói gì anh ta cũng nói anh có lý, cũng nhẹ nhàng nói với chúng tôi có thể chọn ngày nào để kết hôn, không tốn phí khoản nào cả, còn nếu muốn những nghi
62 | nguyên sa
hồi ký | 63 lễ kia thì phải nạp lệ phí và phải chờ phòng từ bốn tuần đến ba tháng. Người đại diện hành chánh thay mặt quận trưởng mặc đồ lễ nghi, choàng chiếc băng màu cờ Pháp quanh người, ông ta đọc lên những câu nghiêm trọng, gọi tôi là monsieur khi đọc tới tên tôi, gọi Nga là mademoiselle. Ông đọc mademoiselle có nhấn, ông chỉ đọc có nhấn hai lần, lần mademoiselle lúc mở đầu, lần madame , sau khi nghi lễ xong, ông ta bắt tay chúc mừng chúng tôi. Ông đưa tay bắt mau lẹ chúc mừng diễn ra cấp tốc, những người xếp hàng chờ trên những hàng ghế đại sảnh lần lượt tiến lên. Nga và tôi rời bỏ đại sảnh ngay, gió lạnh của Paris tháng 12, mang lại sự dễ chịu, thoải mái, thổi tan ngay không khí nghi ê m trọng và khép kín của gian phòng. Hai đứa chúng tôi và bạn bè cười vang, Lê Trọng Việt đã cất tiếng. Tiếng reo vui xong rồi của Việt lớn bằng tiếng chúc mừng của Thái. Anh em bao quanh, Tuấn, Liên,... cất lên những tiếng hào hứng, hướng dẫn chúng tôi sang tiệm café đối diện với tòa hành chánh có tên là Bistro de la Quinzième. Chúng tôi uống cà phê, không có chiếc bánh cưới nào cả, mỗi người móc tiền trả, những bàn tay đưa lên về phía chúng tôi những tiếng nói “ç a va”, “ ç a va”, mọi người chung nhau trả phần nước của chúng tôi, chỉ có cà phê và croissant , không có chiếc bánh cưới nào cả. Bài-tho-thay-thiệp-báohỉ được đưa lên, được chăm chú đọc, vui tươi đọc, tiếng cười, tiếng cậu Lan, tiếng cậu làm tôi ngạc nhiên, tiếng mais Qui, rồi pas mal. Thái nói cậu có lý. Mais tu as raison, mon vieu x, tôi có lý, tôi có lý phải không, tình yêu đâu có nghĩa là bó buộc phải có hôn nhân, đúng không, mais qui, je suis d’accord avec toi, tiếng nói của Việt, Việt đồng ý với
64 | nguyên sa tôi, tình yêu mới là cái chính yếu, hôn nhân chỉ là yếu tố phụ thuộc, nó, hôn nhân, không làm thành tình yêu, nó cũng không phải là biểu tượng của tình yêu. Tình yêu mới là chính, những nụ hôn trao cho nhau mới là chính, những chiếc nhẫn gắn vào tay chỉ là phong tục xã hội, tay đâu, đưa tay lên coi, Nga đưa tay lên, tôi đưa tay lên, mỗi đứa đưa lên cả hai tay, bạn bè cười thân thương, chúng tôi cười hạnh phúc, không có chiếc nhẫn nào trên tay cả, Lan, Nga, tụi moi đồng ý với các cậu, Thái vỗ mạnh vai tôi, tu as raison, mon vie ux. Nga khóc nhẹ nhàng. Như nhiều ngày trước. Không. Như nhiều tuần trước. Trở về Việt Nam đã làm phải khóc. Hôn nhân mà chúng tôi quan niệm như một tình yêu hình thức, không biểu tượng gì cho tình yêu, để chuẩn bị cho một chuyến biệt ly lớn làm cho phải khóc mạnh mẽ. Đám cưới không có nhẫn, không có tiệc, không có bánh chỉ làm cho khóc nhẹ nhàng, những hình thức nhỏ của một hình thức lớn mà chúng tôi phủ nhận, những giọt nước mắt tan mau đã có bóng dáng hạnh phúc rồi nhường chỗ cho những nụ cười rạng rỡ hạnh phúc. Những ý tưởng về một đám cưới vội vàng, một đám cưới mang tới biệt ly, mở ra cuộc trở về quê hương như một cuộc phiêu lưu bất định, đám cưới không có khả năng nghi lễ nào cả, những ngày tháng trước, mang lại những tiếng khóc nức nở. Gia đình tôi đã di cư vào Nam, tôi trở về với gia đình tôi, Nga về Sài gòn với tôi không phải chỉ là vẫy tay chào sông Seine, chào tháp Eiffel, chào Paris, mà còn vĩnh biệt gia đình ở lại Hà Nội. Trên ly nước đã đầy ắp buồn đau lại thêm những giọt nước bất hạnh, không có tiền để mua nhẫn, không có tiền để mua bánh cưới, không có tiền cho áo cưới làm bật
hồi ký | 65 khóc, làm bật lên những dỗ dành đầy phẫn nộ, những âu yếm có nổi loạn, tại sao phải làm đám cưới, tại sao phải đeo nhẫn, làm thành thiệp cưới bằng thơ. Cảm xúc đủ loại dồn dập, thơ dồn dập, hình ảnh liên chi.
Bằn g mang lại một loạt hình ảnh, cười mang lại những hình ảnh dồn dập khác, như đổ xuống ào ạt thời gian và đường tàu, lá tre khô và những nóc nhà thờ không có tuổi. Ảnh của như, ảnh của đừng , ảnh của không , ảnh của tại sao, tiếp theo nhữn g là , những bằng , được mang tới dồn dập. Một ảnh cho một sự vật không đủ, một từ ngữ cho một sự vật không đủ, một vật cũng không đủ cho chính nó và thế giới hình ảnh bay tới ào ạt, những ảnh bất ngờ, bất ngờ cả trong xuất hiện liên chi và trong xuất hiện. Con chó ốm, con mèo ngái ngủ, con cá ươn của Nga buồn, chiếc thước kẻ cong của bước chân, con đường gần hơn đường cong, con đường gần hơn đường thẳng, Đỗ Long Vân cất tiếng đọc “Lại bên anh đi- bằng một lối rõ thật gần, Bằng một lối gần hơn con đường cong, Bằng một lối gần hơn con đường thẳng, Bằng đôi má hồng non , bằng mắt nhìn trinh trắng , Bằng những lời yêu mến tan trên đôi môi... ” Liên tự như nối tiếp bằng, xuất hiện liên tiếp “Em sợ thời gian buồn như mọt nhấm từng câu thơ, Em sợ thời gian ác như lửa thiêu từng thanh củi. ..”, rồi mở ra vướng, “Em đừng cười như ngọn bấc gần hao, Những nụ cười vướng trên đôi gò má xanh xao, Những nụ cười vướng trên mắt nhìn trắng đục”, những nụ cười giống như những giọt nước mắt, chảy xuống, chảy xuống những gò má xanh xao... Ảnh bật ra từ sự vật cụ thể, con chó ốm, nóc nhà thờ không có tuổi, lá tre khô, từ chữ “những giọt mưa không đan thành mắt áo len”, từ “những chiều đi học về, Em đố anh Paris
có bao nhiêu đèn xanh đèn đỏ, Và anh đố em: Em có nhớ, Mỗi ngày có bao nhiêu lần anh hôn em?...” Từ những liên tự đổi thay sử dụng từng chuỗi, hình ảnh bất ngờ trong xuất hiện, bất ngờ trong sự dồn dập liên chi làm thành tấm thiệp báo hỉ, bài thơ và cuộc đời mà tôi cực kỳ yêu mến...
Thơ tám chữ phá thể có sức mạnh của thơ tự do bước tới tự nó là địa bàn tốt cho ảnh liên chi, thi nhãn và liên tự trộn lẫn vào nhau, sử dụng đa nhiệm, vừa để dẫn thơ đi, vừa để làm liên tự, vừa góp sức vào mạch luận lý của hình ảnh. Kinh nghiệm thi nhãn, liên tự và hình ảnh trong Nga còn là kinh nghiệm về sự gắn bó giữa thể loại và hình ảnh. Những bài tám chữ khác tôn trọng khuôn khổ, nhất là tám chữ đoạn bốn câu, hình ảnh liên chi, thi nhãn và liên tự dồn dập không có không gian cần thiết để tung hoành. Liên tự được sử dụng như một mệnh đề ít nhất có chủ từ và động từ có tác dụng mang lại ảnh diễn tiến chậm, một phần nhờ mệnh đề khuyết xen vào giữa vật và ảnh thay thế cho một liên tự chìm, phần khác sự so sánh vốn tức khắc bị trì hoãn. Ảnh diễn tiến nhanh, với liên tự hoặc thi nhãn dồn dập, ảnh diễn tiến chậm với mệnh đề làm công việc của liên tự, đẩy vật và ảnh với liên tự chìm xa nhau làm diễn tiến chậm lại đều là những khu vườn tuyệt vời, khi thơ là thiên nhiên, những chiếc áo lộng lẫy khi thơ là thân thể tình ái. “Á o nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, Á o nàng xanh tôi mến lá sân trường, Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương, Tôi thay mực cho vừa màu áo tím...” Áo nàng vàng giống như hoa cúc, hoa cúc giống như áo vàng, áo vàng làm cho hoa cúc phải hờn ghen, hoa cúc thua áo vàng, màu áo vàng đó chính l à màu hoa cúc, những liên tự như, là, ghen, thua,
66 | nguyên sa
hồi ký | 67 chìm xuống mà vẫn còn đó, màu áo của nàng mà tôi nhìn thấy ở trường học, như màu hoa cúc, khi trở về, tôi đã yêu nàng, đã yêu màu áo đó, và yêu hoa cúc. Tôi về làm cho sự so sánh áo vàng và hoa cúc thành sự so sánh chìm vì liên tự nối liền vật và ảnh bị xoá bỏ. Hình ảnh và sự vật bị chia cắt bởi mệnh đề khuyết tôi về, hoa cúc ảnh và áo vàng, sự vật, bị xa cách, xuất hiện với một khoảng cách trong ngôn ngữ và một khoảng cách trong thời gian, đưa tới một khoảng cách trong ý thức tiếp nhận, hình ảnh hoa cúc trong ý thức tiếp nhận bị xen kẽ bởi mệnh đề khuyết, rồi, hoa cúc trở thành túc từ của tôi về, làm cho mệnh đề trọn vẹn thì ảnh hoa cúc của áo nàng vàng bị khuyết, hoa cúc trong ý thức gắn bó với áo nàng vàng, chậm rãi trở về, tôi về trở thành mệnh đề khuyết. Hình ảnh bị ngăn cản bởi khoảng cách mệnh đề, khoảng cách thời gian, đóng những vai trò khác biệt biến đổi tùy theo sự nhận thức về mệnh đề xuất hiện với một tốc độ giảm bớt trong ý thức. Hình ảnh diễn tiến chậm, như s low motion, quay chậm, của điện ảnh, cũng như hình ảnh diễn tiến nhanh, tôi rất thích, so với hình ảnh diễn tiến nhanh khi liên tự hoặc thi nhãn được sử dụng dồn dập, hình ảnh chậm có nhiều kỹ thuật hơn, hình ảnh dồn dập đòi hỏi cảm xúc cực mạnh.
Orphée Noire
V ăn chương thế giới, hàng đầu là văn chương Pháp, được du nhập vào Việt Nam chậm trễ, và không đều đặn. Chậm trễ từ một hay hai thập niên đến một hay nhiều thế kỷ. Những nhà phê bình, những người làm tin thời sự văn học, các nhà sáng tạo có quan tâm đến văn học nước ngoài có nhiều hy vọng tiếp nhận tác phẩm với một khoảng cách thời gian tương đối ngắn và với một mức độ tương đối đều đặn. Sự tiếp nhận của người đọc thuộc những loại tuổi khác nhau, sự tiếp nhận văn chương nơi trường học đã có khoảng cách thời gian và mức độ liên tục tùy thuộc vào chương trình giáo dục, ảnh hưởng xã hội và sở thích cá nhân. Có nghĩa là không gần gũi và không liên tục trong thời gian. Tôi tìm thấy Le Diable au corp s của Raymond Radiguet một quầy sách bên bờ sông Seine, mua với giá 10 quan cũ lúc đầu thập niên năm mươi. Từ nhiều tuần trước, bạn bè cùng lớp hỏi han nhau anh đọc
68 | nguyên sa
hồi ký | 69
Radiguet chưa, anh phải đọc Le Diable Au Corps. Thầy giáo khuyến khích đọc cuốn sách, cuốn sách hiện ra hiện đại, hiện ra thời sự ngay tức khắc. Tên sách gợi cảm, nội dung chuyện một thanh niên trẻ yêu đam mê một phụ nữ lớn tuổi hơn có chồng đi lính ở tiền đồn. Tình yêu giữa với một người đàn bà lớn tuổi hơn mình bao giờ cũng là một trong những tình yêu lôi cuốn của tuổi học trò. Cuốn sách mang về được ngắm nghía, trầm trồ, rồi được cả bọn chuyền tay nhau đọc. Những ngày đầu cuốn sách được mang về, người nào trong nhóm anh em chúng tôi cùng tá túc trong căn nhà ở số 207 đườn g Saint Maur của Trần Đình Hòa chui vào giường nằm trước là y như rằng có thủ cuốn truyện trong tay đọc lặng lẽ trong chăn trùm tới cổ. Chúng tôi vẫn có thói quen sử dụng chung nhiều thứ. Buổi sáng người thức dậy trễ nhất phải chấp nhận không tìm thấy đ ô i vớ, hồi đó còn gọi là bít tất, mà mình cởi ra tối hôm qua, chiếc sơ mi vắt trên thành ghế, chiếc áo len cao cổ ở dưới chân giường. Có khi quần áo được bạn bè thức dậy trước lấy mặc được tìm thấy vào buổi tối, thu hồi lại ngay, có khi nhiều tháng sau người bạn ở nội trú một trường trung học xa xôi mới ghé về Saint Maur ngày lễ lớn hay ngày hè với chiếc áo len cao cổ biệt tăm đã chìm vào lãng quên. Tôi đinh ninh Le Diable au corp s là một chuyện tình thời chiến của những năm 1939-1945. Thời điểm những năm cuối của thập niên bốn mươi, nói đến chiến tranh là người ta nói tới cuộc chiến đó. Tôi đã nhầm một cuộc chiến tranh. Le Diable Au Corps là cuốn sách nói về chuyện tình thời chiến thật, có một học sinh rất trẻ và người chinh phụ héo hon, nhưng cuộc chiến của cuộc tình này và này là đệ
nhất thế chiến. Thời đại của Raymond Radiguet là thời đại của Jean Cocteau, của André Gide, George Duhamel, của Paul Valéry, Paul Claudel, Guillaume Apollinaire, André Malraux. Thập niên hai mươi, André Malaux mới 18 tuổi đi những bước đầu đời trong văn chương, Valéry và Claudel đã khởi nghiệp từ một đến hai thập niên trước, những ngày tháng cuối thế kỷ 19, Paul Valéry đã đăng thơ. La Symphonie Pastorale, tác phẩm lớn của André Gide, tác phẩm đã đưa ông lên chỗ cao của văn học trình làng năm 1919, lúc cuối thập niên mười và Les Faux Monnayeurs , 1926, thập niên hai mươi. Paul Claudel in L’ A nnonce Faite à Marie từ 1912, Jean Cocteau tung ra Thomas L’Imposteur, Les Enfants Terribles, cũng như Raymond Radiguet cho in Le Diable Au Corps, đều trong thập niên hai mươi. Chúng tôi đọc, rủ nhau đọc, thầy Reims nói tới La Symphonie Pastorale, thầy nói các anh phải đọc Symphonie , học sinh chạy nhào vào thư viện mượn tác phẩm của Gide, thầy Reims nói Les Enfants Terribles của Cocteau tuyệt vời, không đọc cuốn nào của Cocteau thì còn được, không đọc Les Enfants Terribles thì không được, học sinh đi bách bộ ngoài sân trường chờ giờ cơm cầm trên tay tác phẩm của Cocteau. Nhiều anh đọc to Calligramme s của Guillaume Apollinaire khi ngồi một mình trong lớp học đã vãn. Đó là tuần lễ giảng dạy về thơ của thế kỷ hai mươi. Văn chương của thập niên hai mươi thế kỷ này đến với tôi trong khoảng thời gian cuối thập niên bốn mươi, nằm trong khoảng thời gian lục cá nguyệt thứ nhì của niên khoá, lục cá nguyệt thứ nhất dành cho văn chương thế kỷ mười bảy, mười tám và mười chín. Chương trình Trung học Pháp
70 | nguyên sa
hồi ký | 71 có phần chênh lệch, dồn thật nhiều cho năm học lớp mười một, văn chương thời trung cổ và thế kỷ mười sáu của lớp mười. Thế kỷ mười bảy, mười tám và mười chín thâu nhận rõ ràng, phân chia khúc chiết, về thời điểm, nhưng thế kỷ hai mươi, dồn dập những thập niên khác biệt, làm nhầm lẫn lung tung. Học về văn chương thế kỷ mười bảy, không cần phải ghi nhận từng thập niên. Nhưng thế kỷ hai mươi, những thập niên mười, hai mươi, ba mươi, dồn dập quá. Chúng tôi mở ra những cuộc đố nhau. Với các bạn trong lớp, đố nhau trong những giờ ngồi tự học, sau những buổi học thường lệ. Tôi với Trịnh Viết Thành đố nhau khi đi bộ trong khu rừng Rambouillet, hay những buổi chiều tối canh nồi cơm, Thành lo món bò x ào hành. Chúng tôi xôn xao với những tác phẩm đủ mặt của Jean Cocteau, tranh Jean Cocteau, kịch Jean Cocteau, phim Jean Cocteau, chúng tôi thấy như thiên tài này thuộc về những ngày tháng này, đang chói sáng ở tiền trường. Chúng tôi tập ghi nhận cho đúng, Cocteau và Les Enfants Terrible s đã có mặt từ hai thập niên trước. Chúng tôi đố nhau về Camus, về Sartre, về André Malraux.
- Ai viết bộ trường thiên tiểu thuyết dài nhất?
Tôi đinh ninh Les Chemins De La Liberté của Sartre. Thành kéo tôi ra góc thư viện đếm những cuốn sách của bộ trường thiên của Jules Romain, Les Hommes De Bonne Volonté , hai mươi bảy cuốn. Cả hai cuốn truyện dài này tôi đều chưa đọc khi tôi ở với Thành ở Rambouillet. Năm ở Provins, cùng với Lê Trọng Việt, với Oyono, tôi lại gần Sartre nhiều hơn. Lớp mười hai của tôi có thật nhiều Malraux, thật nhiều Saint Exupery, có cả Vercors, Henri
Bergson... Những ngòi bút lớn tôi mường tượng đang còn trẻ, đang bay nhảy, đang phơi phới, những tác phẩm tôi thấy rõ ràng đang trình làng, những tìm kiếm cho những bài luận văn, những ngày thuyết trình mau chóng cho tôi thấy những khoảng thời gian khác. André Malraux viết La Condition Humaine từ 1930 hai năm sau Les Conquérants, 1928. Vol de Nuit, tác phẩm đầu tay của Saint Exupery cuối thập niên ba mươi, Le Silence de la Mer , Niềm Im lặng của Biển Cả, của Vercors, nhà xuất bản Nửa Đêm, Minuit, trong thời Đức chiếm đóng của cuộc chiến tranh đệ nhị. Cả Le Petit Prince và Pilote de guerre của Saint Ex. đều thuộc về thập niên bốn mươi.
Từ những ngày tháng cuối thập niên sáu mươi, tôi thấy rõ, như thế Sartre đã tới với tôi ba chập, lần đầu những năm tháng ở Provins, ở Paris, chạy dài từ cuối thập niên bốn mươi, đầu thập niên năm mươi, lần hai những ngày tháng Sáng Tạo lúc giữa thập niên năm mươi, và bây giờ, những năm sáu mươi đã trôi qua, thập niên bảy mươi đang bước
Thờitới.điểm cuối sáu mươi đầu bảy mươi tôi ngần ngại nhìn trong tủ sách những La Nausée, Le Mur, Les Chemins de la liberté, ngần ngại nhìn cả những kịch bản như Le Diable et le Bon Dieu mà hồi ở Paris tôi bớt mọi chi phí để dành tiền mua vé đi coi trình diễn. Tôi cũng ngại ngần nhìn L’être et Le Néant... Tôi có mở lại Hữu Thể và Hư vô nhiều lần nhưng chỉ để tham khảo lại cho việc soạn bài giảng, triết lý mà tôi say mê thuở đầu đời cùng với tác phẩm lớn của Sartre đã hiện ra thật xa. Tôi chọn lấy thật nhiều lần cuốn sách thuộc bộ Situations , hồi đó có bốn
72 | nguyên sa
hồi ký | 73 cuốn, của Sartre để đọc lại Orphée Noire. Kỷ niệm về ngày tháng xuất hiện thực sự của các tác phẩm và các dòng văn học thế giới, kỷ niệm kiếm tìm chính xác ngày tháng xuất hiện của từng việc, từng người, từng biến cố văn chương trở lại. Tôi bỗng nhiên thèm muốn có bạn hữu để cùng tranh nhau đố nhau, tranh nhau trả lời về những ngày tháng và những chập, những đợt văn chương thế giới đến với văn chương nước tôi. Sartre là nhà văn lớn của văn chương Pháp, những tác phẩm đầu tay và lừng lẫy xuất hiện ngay từ cuối thập niên ba mươi, La Nausée năm 1938, Le Mur, 1939, thời kỳ lừng lẫy nhất của Sartre là thập niên bốn mươi, những tác phẩm tiểu thuyết dài hơi và triết lý của ông đều đã làm xong trong thập niên này, L’Etre et Le Néant, 1943, Les Chemins de la Liberté , 1945-1949. Ở quê hương tôi, văn chương của Sartre được đón nhận nhiều lúc thập niên sáu mươi. Tất cả thời tiền chiến, ào ạt tới Việt Nam là văn chương Pháp của những thế kỷ 17, 18, 19. Cổ điển, lãng mạn, thi sơn, tượng trưng, hiện thực, siêu thực, kịch của Corneille, Racine, Molière, Lettres Persanes, L›Esprit des Lois của Montesquieu đến cùng lúc với thơ lãng mạn của Lamartine, Victor Hugo, Alfred de Vigny, Alfred Musset, thơ thi sơn của Leconte de Lisle, thơ tượng trưng Baudelaire. Đến cùng một chập, thật nhiều, ào ạt. Nhưng thập niên hai mươi, ba mươi và cả bốn mươi, năm mươi thì gián đoạn, từng phần. Gide có được nói tới ít nhiều bởi các tác giả tiền chiến, Claudel, Valéry ít hơn, Apollinaire chút ít mãi tận thập niên năm mươi, sáu mươi, nhà thơ của thập niên hai mươi mới tới phảng phất, Sartre, Camus, của thập niên bốn mươi đến Việt Nam hai
74 | nguyên sa thập niên sau. L’Etranger, Le Mythe de Sisyphe cùng năm 1942, được đọc và yêu mến nhiều ở Việt Nam trong thập niên sáu mươi. Tôi rủ Trịnh Viết Thành, Thành trợn mắt nhìn tôi rồi nhún vai. Đỗ Long Vân cười sằng sặc nói mày điên, mày điên. Tôi trở lại với Orphée Noire một mình. Tôi đọc Orphée Noire cũng một mình, không có ai dành sách của tôi chui vào trong chăn nằm đọc trước, tôi đọc một mình, mà cũng trễ tràng và gián đoạn. Bài văn đọc không dễ, nó cũng không có vẻ đã xong, không đứng thẳng vững chắc như những tháp đài triết học của Sartre, những chúng ta bị kết án tự do, hiện sinh có trước hữu thể, những chúng ta phải chịu trách nhiệm về tất cả, tất cả mọi người, tất cả mọi việc. Orphée Noire nói về một nhà thơ da đen. Và Sartre, từ thơ của một người đi tới bản chất của thi ca. Yếu tính của thi ca, với Sartre, là chữ-sự v ật . Chữ bởi bản chất là dấu chỉ. Nó phản ánh sự vật, không phải là sự vật. Cuốn sách nằm trên mặt bàn này là một sự vật. Danh từ “cuốn sách” là dấu chỉ, “tôi cầm lấy cuốn sách trên mặt bàn”, từ ngữ cuốn sách là dấu chỉ, là phản ảnh đồ vật trên mặt bàn mà tôi vừa cầm lấy. Ngôn ngữ văn xuôi, với Sartre, là một hệ thống dấu chỉ được nói lên nhắm phản ảnh những sự vật và những tương quan giữa chúng trong một thế giới sự vật. Nhưng ngôn ngữ thơ không phải là thế giới dấu chỉ, từ ngữ trong thơ không đương nhiên là cái phản ánh sự vật. Nó cũng là sự vật. Chữ của thơ là cái mà Sartre gọi là chữ-sự vật . Bông hoa là một dấu chỉ. “Tôi cầm lấy bông hoa” là một chuỗi dấu chỉ phản ảnh thế giới sự vật, mô tả một chủ thể đưa tay ra cầm lấy một đồ vật thảo mộc. “Em cười đẹp như hoa”, là những chữ dấu chỉ. Chữ phản ảnh
hồi ký | 75 sự vật, chữ chỉ là dấu chỉ phản ánh sự vật, những chữ đó không phải là sự vật. “Em nói rất đoan trang” là một chuỗi chữ dấu chỉ khác. Không phải là sự vật. Chỉ phản ảnh sự vật. Câu thơ hoa cười ngọc thốt đoan trang thì khác, không phải là dấu chỉ phản ánh sự vật. Hoa cười ngọc thốt đoan trang là những chữ-sự- v ật. “Hoa” trong văn xuôi là dấu chỉ phản ánh sự vật thảo mộc thuộc một thành phần nào đó vào một thời điểm nào đó của thảo mộc đó. Hoa của hoa cười không phản ảnh thảo mộc nào cả, trong thiên nhiên chỉ có hoa, có hoa nở, hoa tàn, không có hoa cười, không có văn xuôi nào, dù trong ngôn ngữ nói hàng ngày hay ngôn ngữ viết có hoa cười phản ánh sự vật thảo mộc thảo cười vì sự vật thảo mộc hoa cười này không hiện hữu, chỉ có hoa nở, hoa tàn, hoa hé nhụy, không có hoa cười cũng như chỉ có những tiếng nói được cất lên, không có viên ngọc nào cất tiến g nói, ngọc không có tiếng nói vì nó chỉ là khoáng vật, không thể có ngọc thốt. Hoa cười và ngọc thốt không phải là dấu chỉ, không phải là thành phần nằm trong một hệ thống dấu chỉ được quy ước hóa, hoa cười v à ngọc thốt có một đời riêng, độc lập với sự vật, không phải là dấu chỉ của sự vật, dấu chỉ phản ánh sự vật. Chúng nó là chữ mà không phản ánh sự vật vì chúng là chữ-sự-vật. Chữ trở thành sự vật, hay đúng hơn, chữ là chữ mà không còn là chữ, nó đã là sự vật mà không thuần túy nằm trong thế giới sự vật, chữ của thơ trở thành một loại sự vật có tên là “ chữ-sự-vật”. Mot-Chose . Thơ là những bài viết có vần, điệu. Thơ là ngôn ngữ hình ảnh. Thơ là ngôn ngữ âm nhạc. Thơ là vũ điệu. Thơ là mũi nhọn tiến quân của xã hội chủ nghĩa... Định nghĩa thơ bằng mục tiêu của nó, không
có cứu cánh nào cả, chỉ là một vũ điệu, có cứu cánh, để phục vụ cho một xã hội tương lai, định nghĩa bằng chất liệu hình ảnh, định nghĩa bằng khuôn khổ, vần và điệu, Sartre biết rằng những định nghĩa thơ này không đủ. Định nghĩa thơ bằng t í nh hình thức vần điệu là chiếc áo không vừa khi thân thể thi ca có đôi cánh có cả những sợi lông vũ vần điệu và những sợi lông vũ bay lượn tự do. Hình ảnh không phải là tất cả thơ. Cũng như những dâng tràn của tình cảm, những bùng nổ của cảm xúc chủ quan, những khả năng cô đọng, những ý nghĩa tượng trưng, những vượt thoát siêu thực. Định nghĩa thơ từ căn bản lý thuyết văn học lãng mạn, thi sơn hay tượng trưng vẽ ra một phần thân thể thơ trong một thời điểm. Sartre muốn vượt lên, muốn đi thẳng vào bản chất của ngôn ngữ, từ đó tìm đến bản chất của ngôn ngữ thơ. Chữ-sự-vật. Mot-chose . Nhưng thơ không độc lập với người. Có người làm thơ. Có thi sĩ. Người làm ra thơ đó, thiên tài đó là tác phẩm mà nó làm ra. Thiên tài là hiện sinh, là những hiện sinh không tận tuyệt, còn khả hữu, không phải là hữu thể với những yếu tính cố định, đã xong. Làm sao thơ lại định khuôn vĩ nh viễn được trong chữ-sự vật?
76 | nguyên sa
Người mặc áo “mông ta guy”
Thơ không phải là một ngôi nhà và những suy nghĩ về thơ không phải là khu vườn sau nhà. Không phải ngôi nhà, phải bảo tàng viện, lâu đài, giáo đường hay lăng miếu. Công trình kiến trúc nào cũng có những cánh cửa vị trí và kích thước khác biệt, với người giữ chiếc chìa khoá, việc xuất nhập chỉ còn tùy thuộc vào ước muốn của chủ thể. Thơ có thể ra dễ dàng, nhưng không thể vào tùy tiện được. Không có ai là gia chủ, quản thủ hay giáo chủ của nó. Thơ là một ân sủng. Nó cất tiếng gọi, nhớ đừng chậm trễ, phải mở, thật lớn mọi cánh cửa để nghênh đón nó. Tôi nói rõ: mọi cánh của, cánh cửa của lý trí, cánh cửa của trái tim, cánh cửa đam mê, cánh cửa cảm xúc, mở hết, để tùy cho ân sủng muốn bước vào từ vị trí nào, dừng lại ở nơi đâu. Tùy ý. Đừng nói chuyện công việc đa đoan, việc học, việc thi, việc đòi, việc chợ, việc tiền bạc, việc lợi danh. Ân sủng đến thì khó, không thể biết trước
hồi ký | 77
được ngày giờ, tháng năm, nhưng nó bỏ đi thì dễ quá. Chỉ sơ xuất trong việc nghênh đón, lơ đãng trong khoảnh khắc là thơ bỏ đi ngay, không biết hờn hay giận nhưng sự bỏ đi thấy được rõ ràng, khoảng trống lớn bao giờ cũng dễ thấy, bỏ đi nhiều khi ngay tức khắc, tìm lại có khi nhiều ngày, nhiều lúc phải kể tới năm tháng, bất hạnh phải chịu mất mát một đời, Tôi vẫn nhắc nhở chính mình những chân lý đơn giản này. Tôi thường hay cảnh giác những nhận định chủ quan: bận quá không có thì giờ làm thơ, nhưng không sao, lúc nào làm lại là xong ngay, lúc nào làm lại chả được. Tôi đã mất nhiều ngày, nhiều đêm, cả nhiều tháng, nhiều năm, làm lại mà không xong gì cả, mỗi khi nhầm lẫn. Nhưng những suy nghĩ về thơ là những kiến trúc rất dễ thương, những công trình kiến trúc có khi có vẻ dáng của những giáo đường với những vòm trần cao, những cửa sổ có cả lộng lẫy của mặt trời và trang nghiêm điêu khắc, có khi là những ngôi nhà hiền hoà trong kỷ niệm và những điên rồ phóng tới ước mơ. Tôi có những khoảng thời gian trở về những ngôi nhà thân thương đó, sống cả nhiều tuần trong ngôi nhà này, ngủ lại một hai đêm trong ngôi nhà ở giữa bình nguyên, nhiều ngôi nhà đã trần thiết huy hoàng, nhiều ngôi nhà ở trong giai đoạn đầu của thời kỳ kiến tạo. Tôi trở lại với Orphée Noire, nhưng không thăm viếng trở lại La nausée, Le Mur của Sartre vào thời điểm những năm sáu mươi bỏ đi, những năm bảy mươi bước tới đó. Có vẫy tay chào ngôi nhà với những gian phòng đã mở lớn trước mặt tôi cuộc đời khác với cuộc đời mà cũng chính là cuộc đời, làm thành, với tôi, những cuộc đời nhập một bất khả phân, của Malraux, của Sartre, của Saint Exupery, của
78 | nguyên sa
hồi ký | 79
Camus từ thập niên ba mươi qua thập niên bốn mươi. Tôi nhớ những năm cuối thập niên bốn mươi đó, Sartre đã lên tới đỉnh chót vót, nhưng khi những năm năm mươi mở ra, Sartre vẫn còn là tiếng nói trí thức được kính trọng, nhưng sấm ký đã mất đi sự vang vọng. Tiếng nói của lương tâm chúng ta phải trách nhiệm về tất cả mọi người v à tất cả mọi việc, chúng ta bị kết án tự do, thiên tài là tổng số tác phẩm, không bẩm sinh, đời ta là những hành động mà ta thể hiện, không ở trong vì sao nào cả, tựu chung là những tiếng nói lạc quan. Tiếng nói có hơi thở bi thiết, nhưng lồng ngực từ đó tiếng nói cất lên có những phế nang tên là lạc quan. Vẫy tay chào. Đứng dậy trong chiến tranh, ngẩng đầu trước những họng súng quốc xã, Sartre thuộc thế hệ những người tôi làm ra đời tôi, viết là một cách thế hành động, hành động tôi là định mệnh tôi. Mỗi mệnh đề viết ra là một ưỡn ngực, mỗi khẳng định là một tuyên ngôn. Vẫy tay chào, vẫy tay chào. Thập niên năm mươi không còn nữa những hào hùng của đêm phục kích vật ngã đoàn xe tăng Đức, những mê sảng đất nước khôi phục, rừng cờ, rừng người, De Gaulle và những người đồng hành kháng chiến đi bộ trên đại lộ Champs Elysées, rừng người, rừng cờ. Thập niên năm mươi là những năm tháng của chiến tranh lạnh đã làm thành đồn lũy, vùng trời có những đám mây hình nấm, vùng biển là tàu tiềm thủy vô âm, những chiếc cầu đã bị cắt đứt ở nhiều nơi trên trái đất, những tiếng súng dưới biển, trên trời, trên mặt đất ở Cao Ly, tất cả vẽ ra hình dáng của lo ngại, của định mệnh, khác biệt và muôn đời. Một phần đáng kể của đất đai văn học Pháp và thế giới trong dừng lại của hiện sinh đã rõ nét những tiến tới của
những người khác. Alain Robbe-Grillet với Les Gommes, 1953, Le Voyeur, 1955 , Pour un Nouveau Roman, 1963, Nathalie Sarraute , L’ère du Soupçon, Tropisme, trong cùng chiều dài thời gian, Michel Butor, chưa ba mươi tuổi, lúc thập niên năm mươi, bên tiểu thuyết, Ionesco và Beckett bên kịch, thời gian khởi đầu của Tiểu Thuyết Mới là thời gian tôi trở về quê hương. Áo Lụa Hà Đông, tạp chí Sáng Tạo, tạp chí Hiện Đại, nhật báo Sống, trường Chu Văn An, trường Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, rồi Thủ Khoa, Văn Học đã mang tôi đi tới những dòng sông khác. Tôi không có gì để tiếc nuối. Đời sống hừng hực, ân sủng réo gọi. Đời sống đột nhiên dừng lại, ân sủng bỏ đi lúc giữa hai thập niên sáu và bảy, như bao giờ, vẫn không báo trước, làm tôi khựng lại. Tôi hoảng hốt. Tôi trở về những ngôi nhà xưa. Gõ cửa. Tìm thấy một mảng cánh của Orphée Noire. Gõ của ngôi nhà phối âm, gõ cửa ngôi nhà liên tự, ngôi nhà hình ảnh đa cấp, ngôi nhà hình ảnh diễn tiến nhanh, hình ảnh diễn tiến chậm. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy ngôi nhà Tiểu Thuyết Mới với những lý thuyết về “truyện không có chuyện” của Nathale Sarraute, Alain Robbe-Grillet, Michel Butor chỉ có hình dáng của xây cất khởi đầu, nhà chưa có mái, chưa có vách tường, chưa có phòng, chưa có cửa. Vào thời điểm năm chót của thập niên sáu mươi đó, Françoise Sagan còn mang lại Một Chút Mặt Trời Trong Nước Lạnh, đã rất xa với Sagan ngày tháng khởi đầu Bonjour Tristess e , 1954, Sagan có ngôi nhà riêng biệt, nhìn xuống bãi biển riêng, trong khu nhà của những người bạn phương xa xây cất trong văn học Việt Nam. Với Sartre, với Camus, với Malraux, có sự chậm trễ từ gần hai đến trên hai thập niên. Sagan, có
80 | nguyên sa
hồi ký | 81 nhiều may mắn, chỉ chậm trễ một vài năm. Tiểu Thuyết Mới, không có cái may mắn ấy. Hai mươi năm sau, trong tôi, và trên quê hương văn học của tôi, trường phái văn học Pháp rực sáng trong những thập niên vừa trôi qua, vẫn chỉ là những khung, những sườn trơ trụi. Tôi mơ hồ cảm thấy ngôi nhà này không có cơ hội xây cất xong. Vẫy tay chào. Vẫy tay chào những thành tựu và những dang dở. Vẫy tay chào những gặp gỡ và lãng quên, tình yêu và sự đổ vỡ. Tôi mơ hồ cảm thấy những đám mây đen bay tới từ lúc nào, đã nặng trĩu trên bầu trời đang càng lúc càng hạ thấp xuống. Tôi không cất tiếng gọi ân sủng. Tôi đã có kinh nghiệm. Tôi biết thơ lúc nào tới là tới, tôi biết cách chuẩn bị nghênh đón, không để ân sủng bỏ đi ngay một khi đã tới, nhưng tôi biết đã không tới thì phải chịu thua thôi. Thơ còn ở phương xa, tôi muốn dừng lại thật lâu ở những ngôi nhà mà tôi đang tới thăm viếng. Tôi cũng mơ hồ cảm thấy tôi không dừng ở đó được lâu. Những đám mây đen đã thật sự hiện ra đầy và nặng.
Một đám mây đen có răng vàng. Chiếc răng vàng to bản, ở ngay phía trước, nơi răng cửa, hàm trên. Mây đen nhìn thẳng vào mặt tôi cười, khi tôi sang quán Sáu Lèo ăn điểm tâm. Nhìn thấy tôi đứng ở đầu ngõ mây đen răng và ng cũng cười. Mây đen mặc áo Montagu tóc bồng bềnh có vóc dáng trưởng toán. Một dọc, tôi đếm thấy sáu mây đen tùy theo ngày, đêm không dễ, mây đen nào cũng có cưỡi xe gắn máy và cũng mang kính đen. Sự hiện diện của đủ sáu người chỉ có vào giờ đổi toán canh. Ban ngày kính đen hiện diện ba người, ban đêm cũng đúng ba. Tôi
không biết toán công an đến canh trước cửa trường học bắt đầu từ bao giờ. Tôi nghĩ chắc không lâu. Nhiều lắm là hôm qua, không thể có từ lâu, tuần trước tôi không thấy có sự hiện diện khác lạ này. Công an thì chắc rồi. Tôi hỏi Vũ Ngọc Đại, Tổng Giám Thị. Đại nói:
- Thì chắc mấy ổng rồi chứ còn gì nữa?
Đại lấy chứng cớ gì mà đoan chắc rằng những người đàn ông đứng bên kia đường là công an?
- Thì thầy nhìn coi, mặt có ngầu thế kia, không là công an còn là gì?
“Mặt có ngầu”, mắt đưa nhanh đều đặn quan sát một thị trường trung bình một trăm tám chục độ, dáng điệu thoăn thoắt khi lên và xuống xe gắn máy, dưới áo bỏ ngoài quần sự hiện diện cồm cộm vật cứng có tên là khẩu súng. Tôi không nghi ngờ lâu, tôi không phải giả thuyết qua những khuôn mặt, điệu bộ, phục sức, khẩu súng kín hở, tôi biết chắc những người đứng bên kia đường, trước cửa quán phở Sáu Lèo, đối diện trường Văn Học số 322 đường Phan Thanh Giản là công an, và biết rõ không kém, họ đứng đó để canh chừng tôi. Tôi lên xe Volkswagen lúc 11 giờ ba mươi lái lên Bưu Điện đón con, xe vừa ra khỏi hẻm, đâm vào Phan Thanh Giản, công an mặc áo Montagu đã ra lệnh cho một trong số những người mặt có ngầu, kính đen ngòm, súng cồm cộm nhảy nhóc lên xe, phóng theo. Tôi nhìn thấy ngay, những người canh chừng tôi cũng không giấu giếm. Những lần đầu, còn lệnh lạc, còn vội vàng. Những ngày sau, người nào có nhiệm vụ bám sát, ngồi sẵn trên xe gắn máy trong tư thế sẵn sàng, xe chuyển bánh ngay khi tôi vừa quẹo vào đường Phan Thanh Giản. Các
82 | nguyên sa
hồi ký | 83 thầy giáo trong trường không biết ghi nhận sự hiện diện của công an canh gác bên đường trước của trường từ bao giờ nhưng những tiếng nói thắc mắc có phần dè dặt được mau chóng cất lên.
- Có chuyện gì mà mấy ổng canh phòng dữ quá!
- Lại sắp có biểu tình, xuống đường gì đây!...
Tôi kín đáo, từ lầu ba, nhìn xuống đường, giờ tan học, xem những nhân viên an ninh kia có đi theo giáo sư nào không. Tuyệt nhiên không. Giáo sư Khánh, cụ Chấn Sử Địa, không, GS Kỷ Cương, GS Trần Thế Hiển, Toán Lý H óa , không, không những không đi theo các giáo sư, những người canh phòng còn tỏ vẻ không quan tâm rõ rệt. Họ chơi đánh đáo trên vỉa hè, học sinh chờ xe bu lại coi, trò chơi đánh đáo nhiều ngày bắt đầu từ sau giờ chơi, kéo dài đến giờ tan học. Không thấy có sự quan tâm nào đối với giáo sư và học sinh nào hết. Nhưng tôi vừa ra khỏi ngõ , dù lái xe, dù leo lên xích lô, tắc xi hay xe gắn máy, là người có nhiệm vụ theo dõi bám sát ngay. Thời gian đầu, người công an theo dõi tôi làm nhiệm vụ này từ lúc tôi đi đến khi trở về nhà. Thời gian sau, người theo dõi chỉ phóng xe đi theo tới ngang cây xăng cổng xe lửa ở ngã ban đầu đường, phất tay làm hiệu, người cưỡi xe gắn máy khác từ cây xăng phóng ra, bám sát tôi, thay thế cho người theo dõi lúc đầu vòng xe trở lại.
Tôi cố gắng chứng minh cho chính mình những người công an kia canh chừng học sinh biểu tình chứ không phải canh chừng tôi. Những người công an canh chừng một giáo sư nào đó trong trường không phải canh chừng tôi. Tôi lên đường ra đi, công an phóng xe bám sát. Canh phòng
quy mô, theo dõi quy mô, không phải chỉ có ở trước của trường. Có toán canh trước của trường, có toán canh ở cây xăng đường xe lửa, công an theo d õi tiếp liên để cho người bị theo dõi không biết. Tôi nhận biết được mau chóng người công an ở cây s ă ng thay thế người công an đi theo khi tôi bắt đầu đi. Những tối đầu tiên, tôi vẫn muốn tin rằng công an canh chừng trường học hay ai đó, khi những lớp học tối ra về, ông Bàng, người lao công ngủ ngay trong trường, đóng cửa ngõ xong, tôi làm bộ đi coi lại các phòng ốc, leo lên tới lầu ba ra ngoài sân thượng tối thui, gió lồng lộng, ở đó, hôm Tết Mậu Thân, nhìn về phía Ngã Bảy, thấy rõ những cột khói cao bốc lên, bây giờ, nhìn xuống, toán công an canh phòng vẫn còn nguyên, toán ba người, ba người ban ngày đi, ba người toán đêm thay thế. Tôi hiểu họ canh chừng tôi chứ không còn ai hết. Tôi đứng trên sân của lầu ba trường học nhìn xuống không phải một đêm một lần. Bao giờ cũng có lần mười giờ tối. Mười một giờ, trước khi lên giường, tôi ra sân thượng trường học thêm một lần. Thật khuya, khi cả nhà đã ngủ say, tôi lại lê n gác sân nhà, trong đêm cả mấy lần, đi theo hành lang lộ thiên trên gác sân, qua những phòng lớp học, tới sân thượng trường học. Trường học ở phía trước, nhà tôi ở ngay phía sau. Sân nhà được dùng làm bãi để xe phụ của trường học. Ngay trên lầu ba của nhà tôi ở, có một lầu xây thêm cũng được dùng làm lớp học. Tôi lên sân thượng nhà, mở cửa vào lớp này, tôi từ lớp học này băng qua những lớp khác ra tới sân thượng trường trông xuống đường. Lần mười giờ tôi còn cảm thấy thoải mái, những lần về sau đầu tôi hâm hấp nóng. Khi nằm trằn trọc trên giường, mồ hôi chảy ra,
84 | nguyên sa
hồi ký | 85 khi lâm dâm, khi vã ra ướt cả áo. Ra đến sân thượng gió lồng lộng, mồ hơi khô ngay, nhưng cảm giác nóng hâm hấp còn nguyên. Những người công an vẫn có mặt ở đó, đầy đủ. Có khi họ ngồi dựa lưng vào tường, dưới hiên tiệm phở, hút thuốc. Có khi họ tiếp tục lầm lũi đánh đáo. Đánh đáo lỗ. Mặt lề đường tráng xi măng, phấn vẽ thành hình tròn màu trắng. Một buổi sáng tôi vừa bước vào văn phòng, người công an mặc áo “mông ta guy” bước vào. Anh ta nói gì với cô thư ký. Cô Hảo làm theo lời yêu cầu của người công an. Khi anh ta đã đi ra, cô Hảo cho tôi hay anh ta xin một cục phấn trắng, Cô Hảo đã thỏa mãn lời yêu cầu. Tôi nói cô làm đúng. Tôi muốn hỏi cô Hảo theo cô người này có phải là công an không? Toán người ở lề đường bên kia có phải là công an không? Cô ngồi văn phòng tiếp xúc nhiều, có nghe nói họ canh phòng ai không? Vào xin cục phấn phải chăng là cái cớ che khuất một mục đích nào khác? Xông tận vào trong trường, với cái cớ xin phấn, phải chăng đã tới giờ khởi sự?
Kinh nghiệm về sự sợ hãi
Sợ hãi là một cảm xúc hay một đam mê? Cáu giận và sợ hãi được các nhà tâm lý học xếp vào loại tình cảm có tên là cảm xúc, tình yêu, sự thờ phượng tôn giáo, thú vui cờ bạc thuộc về đam mê. Đam mê là tình cảm mãnh liệt và lâu bền, tình yêu mạnh mẽ được xếp loại đam mê, không thể chỉ kéo dài vài giờ, phải nói chuyện nhiều tháng, nhiều năm. Người đam mê tôn giáo thờ phượng đấng thiêng liêng một đời. Tay chơi cờ bạc đốt cháy, cùng với tiền bạc, những thời gian đo bằng thập niên. Đam mê tình ái có cả những thành ngữ kiếp sau. Cáu giận không thể kéo dài hàng năm hay hàng tháng. Nghĩ cũng phải, cáu giận có trước đó, có kèm theo và có sau đó những phản ứng sinh lý. Nhịp đập của trái tim gia tăng, hệ thống tuần hoàn hoạt động dồn dập, có khi rối loạn làm cho cả giọng nói cũng đổi khác, tiếng hét thay thế cho tiếng nói, tiếng chửi được dùng làm ngôn
86 | nguyên sa
hồi ký | 87 ngữ, ngôn ngữ nói chung thiếu chọn lọc, mắt trợn, tay nắm, thân thể có những động tác tấn công. Kéo dài trong một thời gian giới hạn, cáu giận đã đủ làm chết người, cáu triền miên cả năm chịu gì thấu. Hẳn nhiên, đó là một cách nói. Thực tế là thói quen, sự suy yếu của những phản ứng sinh lý trong thời gian làm cho cáu giận bùng lên rồi tan đi. Cảm xúc đó, cũng như cảm xúc nói chung, có định nghĩa cổ điển là tình cảm mãnh liệt và chóng tàn. Sợ hãi cũng được coi là tình cảm mãnh liệt và chóng tàn. Sự sợ hãi đến với tôi, ôm lấy tôi, chụp lấy tôi và bao phủ tôi không hiện ra chóng tàn. Không những sợ hãi có khả năng kéo dài trong thời gian mà còn có khả năng đi rồi trở lại, xuất hiện từng chập, tiếp nối và liên kết. Không thể coi sợ hãi là đam mê, nhưng nó cũng không chóng tàn như cáu giận. Sợ hãi kéo đến từng chập đến nỗi khi nó đã hết nó vẫn có khả năng trở lại, không thể biết chắc bao giờ mới hết luôn. Sợ hãi mà người công an mặc áo Mông Ta Guy và những đồng nghiệp của anh, mắt mang kính đen ngòm, mặt ngầu mang tới là những đám mây đen, từ một bầu trời dầy đ ặc mây đen mênh mông chụp xuống tôi trong nhiều chục năm, b ầu trời mây đen mênh mông tưởng đã tan rồi vẫn còn đó. Một ngày trước, bên quán Sáu Lèo có thầy giáo, quân nhân, công chức, công nhân, học sinh vào ăn phở rồi đi, có những người dừng lại vài phút nơi trước cửa trò chuyện rồi chia tay, không có ai đứng đó một giờ, không có ai đứng đó nguyên ngày, càng không có ai đứng đó nguyên đêm, khi tiệm phở đã đóng kín. Đứng ở đó, vẽ xuống vỉa hè một đường ph ấn ngang, vẽ một lỗ tròn ở giữa phía bên trên đường phấn ngang, rồi
Giáo sư Khánh thì thầm:
- Nó canh ông !
Tôi cãi:
- Canh học trò chứ canh gì tôi.
- Không, canh ông.
- Sao ông biết?
- Tôi biết!
Bạn tôi khẳng định, tôi chống đỡ, rồi tôi trốn tránh cuộc đối thoại, tôi biết bạn tôi nói lên sự thật. Không cần kiểm chứng tôi cũng biết. Những con thú có cảm thấy sự hiện diện của người thợ săn không? Tôi trực giác được ngay sự tìm kiếm, sự theo dõi, sự săn đuổi và chiếc lưới chụp xuống. Sợ hãi bóng đêm, sợ hãi con ma tưởng tượng là những cảm xúc chóng tàn. Nhưng sợ hãi muông thú, sợ hãi bị bủa vây, bị chụp bắt, là những đám mây dữ đã kéo tới từ nhiều khoảng thời gian trước của đời người, và hơn thế, tôi muốn nghĩ đến sự truyền kiếp. Con chuột vị bủa vây, chạy lung tung, bung từ vách tường này sang vách tường
88 | nguyên sa chơi đáo lỗ với cái lỗ không có chiều sâu, có ăn có thua, có móc tiền trả qua trả lại, vừa chơi vừa mắt đảo vòng nhanh như chớp quan sát là một cảnh tượng có phần siêu thực. Nhưng tôi nhìn thấy, tôi hiểu ngay. Tôi bất hạnh thấy ngay thực tại trong siêu thực, tôi bất hạnh không được bay lượn trong siêu thực lâu dài. Tôi biết ngay những đám mây dầy và đen, những đám mây có bàn tay biết siết chặt lấy cổ họng tôi đã trở lại. Tôi kiểm chứng tôi càng thấy rõ. Những người công an này canh phòng tôi. Tôi đi họ đi theo. Những người đi xe hơi vào chơi nhà tôi họ nhìn và họ hí hoáy biên chép số xe .
hồi ký | 89 kia, phản xạ hoảng hốt khi nằm gọn trong lưới, sợ hãi nơi muông thú có truyền kiếp không? Tôi nghe thấy tiếng chân sợ hãi ập vào trong đối thoại, tôi nghe thấy tiếng tim đập mạnh hẳn lên, tôi trốn tránh cuộc đối thoại. Từ lớp học lầu hai hay lầu ba nhìn ra đường, tôi thấy những người đánh đáo lỗ, tim tôi đập mạnh hẳn lên, tôi quay vào giữa lớp, tôi không muốn nhìn thấy cảnh tượng, muông thú có quay đầu lại đối tượng hiểm nguy để tưởng rằng vượt thoát hay không, bằng động tác này, tôi mong muốn, động tác khác lại hiện ra nhắc nhở, nhịp tim không giảm bớt, có lúc tim đập, hơi thở và bài giảng trong ít phút rơi vào tình trạng hỗn loạn. Buổi tối đứng trên sân thượng trường học nhìn xuống, ánh đèn lấp loáng, hơn một lần tôi thấy cả những người đánh đáo lỗ, đường phố, xe chạy đều chao đảo. Lúc người mặc áo “mông ta guy” ngửa cổ thở hơi khói, tôi ngồi thụp xuống, rồi ngồi hẳn xuống mặt đất. Đứng lên ngồi xuống vài lần, tim dồn đ ập từng chập, tôi nằm ngả người trên mặt sàn xi măng, mồ hôi râm ran trên trán, trên cổ trên ngực, trên lưng. Cảm giác ẩm ướt có cả ở bụng dưới, trên bắp đùi trong. Tôi ngủ thiếp đi, lúc choàng tỉnh dậy, tôi vùng đứng lên, nhìn xuống phía dưới, trò chơi đáo lỗ vẫn tiếp diễn. Bên kia đường có đêm ván đáo lỗ có khi đủ bốn người chơi, có khi còn hai, những người bỏ ra ngoài đứng hút thuốc, ngồi tựa lưng vào vách tường nghe đài phát thanh, ngồi trên xe gắn máy nhún nhẩy. Kinh nghiệm bắt bớ, tù đầy, với những người làm chính trị là kinh nghiệm lẩn trốn, chịu đựng, chống trả. Kinh nghiệm những lần bị bắt với tôi là kinh nghiệm về sự sợ hãi. Kinh nghiệm tình yêu là những dấu vết để lại
trong tâm hồn ngăn cản ta tìm lại được những xúc động lần đầu. Tình yêu trôi qua mà vẫn còn. Tình yêu vẫn còn khi đã hết làm ta không còn tìm thấy nó nữa. Không bao giờ ta tìm lại được xúc động đầu đời, lá thư tình đầu tiên, cuộc hò hẹn thứ nhất. Kinh nghiệm của tình yêu là kinh nghiệm mất mát nằm trong cái kén tồn tại. Sự tồn tại của những cơn sợ hãi cũ, nơi tôi không làm cho cơn sợ hãi mới giảm cường độ, mà trái lại, đám mây đen của bầu trời xưa nhập một với đám mây đen của bầu trời hôm nay làm thành trọng lượng kinh khủng. Mây đen sợ hãi đè lên đầu, đè lên ngực, cuốn lấy chân tay. Cho nặng thêm, ngột ngạt hơn, mây đen chồng lên mây đen, ngay lập tức, dù cho tôi muốn hay không muốn. Hình ảnh gian đại sảnh của ngôi đình có những chiếc cột cỡ một vòng tay ôm không kín, trên đó, tôi bị trói giật cánh khuỷu dường như ở Vân Đình, hình ảnh những người bị cùm chân nằm song song nơi sân sau của trụ sở Biệt kích đội 4, toán công an đặc biệt của Tổng thống Diệm ở Sài gòn, hiện ra đè lên hình ảnh những người công an đang chơi đáo lỗ kia, hình ảnh chồng lên nhau, hình ảnh trở thành rối loạn, hình ảnh này sáng rõ, hình ảnh kia nhạt nhoà, hình ảnh kia tiến ra tiền trường của ý thức, hình này nhạt phai, lùi vào phía sau, hỗ trợ. Thằng nhỏ sửa xe ở Quảng Tái, ngôi làng phía nam Vân Đình, hiện ra, bước nhanh vào nhà anh Phi, vào tận nhà hỏi tôi. Tôi không biết nó có hỏi tôi ở bên nhà tôi trước không mà nó tìm ra chỗ tôi ngồi học. Đó là thời điểm buổi sáng, tôi ngồi ở căn nhà tản cư của anh Trịnh Đình Phi cách nhà tôi tản cư ba bốn că n. Anh Phi con bác Kim làm Tổng trưởng dưới thời cụ Trần Trọng Kim, anh Phi giỏi
90 | nguyên sa
hồi ký | 91
Anh Văn, tôi học Anh Văn, cuốn lớp 6, dưới sự hướng dẫn của anh Phi vừa học được mấy ngày, mới xong những đoạn người thợ may thì giàu có, anh thợ may không nghèo, gần đâu đó, anh Phi đọc lên câu Anh ngữ, tôi nhắc lại, anh Phi sửa giọng tôi điều chỉnh, anh Phi đọc câu tiếng Việt, tôi nhắc lại, người nhà bước lên tam cấp, thằng nhỏ sửa xe hiện ra, đột ngột. Nó nói ngay. Tôi không nhận ra nó. Giọng nói của nó khác lạ:
- Hai người bán xe mà cậu có hẹn mang xe tới.
Tôi kinh ngạc:
- Hai người bán xe?
Tôi nhắc lại sự ngạc nhiên dưới một câu khác:
- Tôi có hẹn ai đâu?
Thằng nhỏ vừa bỏ đi vừa lầm bầm các ông ấy nói có hẹn, anh Phi trở lại với người thợ may, tôi trở lại với người thợ may, giọng đọc chưa ngon trớn hai người đi nhanh b ă ng qua sân tới chỗ chúng tôi ngồi, chồm tới, chụp lấy tôi, nhấc bổng mang xuống sân buông tôi xuống và lôi đi. Con chuột bị săn đuổi chụp xuống vùng chạy, b ă ng từ góc này sang góc khác, còn đưa chân lên tấn công, nhe ra những chiếc răng nhọn nhỏ xíu chống trả, khi đã bị siết chặt. Mối liên hệ giữa sợ hãi và phản xạ trốn chạy, chống trả nơi muông thú nhỏ xíu có tên là loài chuột dường như tích cực và tinh vi hơn phản xạ của tôi hơn một bực. Nếu như sợ hãi và những phản ứng liên hệ của nó có tính cách truyền kiếp, những khác biệt giữa sợ hãi của tôi và của loài chuột nói lên sự khác biệt của những sợ hãi và mức độ đàn áp của ngàn xưa. Tôi bị tê liệt, tôi không có phản ứng gì cả. Chân tôi như khuỵu xuống. Tôi không vùng
92 | nguyên sa chạy, không giằng co để thoát ra khỏi những cánh tay và những bàn tay của hai người công an chụp xuống, không thoi nắm đấm, không đá vào chân người công an để vượt thoát, cũng không nhe ra những chiếc răng hăm dọa hoặc cắn bừa vào những bàn tay nắm lấy tôi. Hai người công an lôi tôi đi. Phản ứng của tôi là chùn người xuống, bám chặt lấy mặt đất. Một trong hai người công an rút súng ra chĩa vào đầu tôi sau khi chìa vào mặt. Khẩu súng ngắn tôi biết, tôi nhìn thấy súng ngắn nhiều lần, người trưởng toán của đoàn Nhi Đồng Cứu Quốc khu Quan Thánh có đưa cho tôi và những bạn trong toán coi. Công an trong khu phố có súng ngắn. Chú Hồng ở Nam Sách cho tôi coi nhiều loại súng ngắn. Chú chỉ cho tôi thấy thế ưu việt của súng “Pạc Hoọc” của Đức và súng Chiêu H òa của Nhật so với các loại súng ngắn khác. Những khẩu súng ngắn, tôi tả cặn kẽ trong Giấc Mơ là súng của chú Hồng. Nhưng tôi không nghĩ tới chú Hồng, tôi phản ứng bằng sự kinh hoàng, tôi la lớn, tôi gọi mẹ tôi, tôi la lên tôi có làm gì đâu mà bắt tôi. Tiếng la kinh hoàng của sự sợ hãi đã làm tê liệt trở thành gào thét rối loạn cả trong âm thanh và ý nghĩa khi hai người công an lôi tôi đi qua căn nhà mà gia đình tôi tản cư về đó, tiếng la lớn hỏi han, những bóng người loáng thoáng từ bên phía nhà anh Phi chạy vút sang nhà tôi, tiếng mẹ tôi kêu to hốt hoảng, mẹ tôi vụt tới níu những người công an lại những câu hỏi vang lên thất thanh sao bắt con tôi, con tôi đâu có làm gì mà bắt nó, những dằng kéo, những thương thảo mang lại kết quả là mẹ tôi được đi cùng. Hai người công an, mẹ tôi và tôi có dừng lại ăn phở ở một khu có sự buôn bán tấp nập, tôi
hồi ký | 93
không biết Vân Đình hay một vùng phụ cận? Đồng Quan, Chợ Đại? Tôi có đi ngang Vâ n Đình khi đi từ Hải Dương về Sơn Tây trong năm 1946 này. Có ra đó vài lần, nhưng không nhận ra tiệm phở này có phải ở đó không, Đồng Quan và Chợ Đại tôi chưa đi ngang bao giờ, cũng không biết ở đâu. Khi chúng tôi tiếp tục đi, trời bắt đầu xẩm tối. Hai người công an dừng lại nói với mẹ tôi phải dừng lại nơi đây, phải quay trở lại, họ phải bảo toàn bí mật. Đồng ruộng mênh mông không một bóng người, bóng đêm thì đã có mặt, từng mảnh, không phải là trợ lực cho mẹ tôi. Dù vậy, bà vẫn đứng nhìn người công an lấy vải đen buộc lên mắt tôi, cõng tôi chạy nhanh về phía trước. Hình ảnh mẹ tôi cách xa đi, tôi đã có kinh nghiệm này nhiều lần. Lần nào cũng tuyệt vời. Sáng nào tôi cũng ngoái đầu nhìn mẹ tôi khi chiếc xe đưa tôi đi học ở trường Puginier lăn bánh. Hình ảnh mẹ tôi rời nhà để đi chợ Đồng Xuân, tôi nhìn thấy bóng mẹ tôi nhỏ dần dọc theo con đường Hàng Đậu rồi rẽ sang bên trái mất hút ở phố Hàng Giấy, thẳng đường đến chợ Đồng Xuân. Tôi cũng nhìn thấy bóng mẹ tôi nhỏ dần xa tắp trên con đường cái dắt từ làng Nghĩa Lư tới phủ Nam Sách. Tôi chưa bao giờ thấy hình ảnh mẹ tôi vụt một cái biến mất, tôi thấy những giọt nước mắt lăn trên mặt mẹ tôi, khuôn mặt nước da trắng tuyệt đẹp, những giọt nước mắt cùng với khuôn mặt vụt một cái biến mất khi mảnh vải đen chụp lấy mặt tôi. Người công an bốc tôi lên lưng c õ ng và chạy về phía trước. Tiếng người công an kia hô lớn đi mau, đi mau, dường như cho người cõng tôi, đứng yên không tôi bắn, đứng yên, dường như cho mẹ tôi. Người Công an thứ nhì đó dường như đang uy hiếp mẹ tôi không
Có phải Moutet không? Tôi có nghe thấy tên người công an ở phòng giam. Tôi không nhìn thấy những người bị
94 | nguyên sa cho đi theo. Tôi không biết gì nữa những gì đang xảy ra ở phía sau, những gì đang xảy ra cho mẹ tôi. Người Công an cõng tôi thỉnh thoảng lại dừng lại xoay tròn dường như để nghĩ là để làm cho tôi thất lạc phương hướng rồi lại tiếp tục đi, khi chạy nhanh, khi tốc độ bình thường cho tới lúc tôi nghe thấy những tiếng người lao xao, tiếng chào hỏi, tiếng nói hay, hay, tiếng báo cáo đồng chí. Cơn sợ hãi đột ngột bùng lên ở Quảng T á i, ở nhà anh Phi, bùng lên mạnh hơn trong những giằng co ở trước nhà tôi tản cư, chìm xuống phần nào trên đường đi, chìm xuống trong tiệm phở, có chìm lắng dù cho không có sự thế chỗ của bình an, những sợ hãi chìm lắng trở thành lo âu lại bùng lên thành sợ hãi khi người công an buộc bă ng đen vào mắt tôi. Tôi được đưa ngay xuống nhà giam, tôi đoán như thế, có người kéo tôi vào tư thế nằm, tôi ngủ thiếp. Tôi nhìn thấy gian phòng hỏi cung trước khi nhìn thấy phòng giam. Những người công an làm việc trong phòng thẩm vấn cởi ra chiếc băng đen bịt mắt tôi sau khi cột tôi chặt chẽ vào chiếc cột, có phần quá chặt, tôi cảm thấy đau nhói ở bắp tay và bả vai. Tôi nhận ra tôi bị trói vào một chiếc cột đình, tôi không nhìn thấy chiếc cột ở sau lưng tôi, nhưng tôi nhìn thấy chiếc cột kế bên, phía trái, có trói từ trước một người đàn ông thanh niên vạm vỡ và chiếc cột phía bên phải một người đàn ông trung niên. Tôi không nhìn được nhiều hơn, không quan sát được lâu, sự hiện diện của người công an ngồi sau chiếc bàn kê ở giữa phòng, nhìn thẳng vào mặt tôi làm tôi cảm thấy e ngại. Người đàn ông mắt to, lông mi dài, lỗ mũi cao, nước da trắng.
hồi ký | 95
giam cùng phòng với tôi, không biết có bao nhiêu người, nhưng tôi nghe thấy những tiếng thì thầm. Tiếng nói săn sóc. Tiếng nằm im tôi xoa dầu cho. Tiếng nói chấp nhận. Tiếng nói có phẫn nộ được nhận chìm xuống. Tiếng hỏi gặp ai. Tiếng trả lời thều thào:
- Mu Tiếngtê!nói khác nặng dấy, tiếng hỏi:
- Mu tê ha?
Tiếng trả lời yếu ớt:
- Vâng.
- Mu tê?
- Mu Tê!
- Mu Tê?
MuVâng!tê, Mu tê, ai hả, Mu tê, nặng tay, Mu tê mà. Mu tê, Mu tê, những nhà giam trong Giấc Mơ có một phần thực tại, có một phần tưởng tượng, nhưng nhân vật Mu tê mỗi khi nhắc tới là một nhân vật thật. Tôi cũng viết trong Giấc Mơ tiếng Pháp Moutet. Tôi biết Moutet là viên Tổng trưởng Bộ Thuộc địa của chính phủ Pháp vào năm 1945, tôi đoán biết tên Mu Tê của viên Công an Cộng sản là một hỗn danh đến từ tên thật của Bộ trưởng Pháp. Tôi biết tên Moutet qua báo chí, qua những cuộc trò chuyện của người lớn trong nhà. Chuyện người đối thoại với Hồ chí Minh và phái đoàn Việt nam là Bộ trưởng Thuộc địa Mou tet. Tiếng người phẫn nộ nhục quá, nhục quá. Tiếng đồng ý, nhục thật, nó đâu có thè m cho Tổng trưởng Ngoại giao nói chuyện với mình. Tiếng nói khác tôi như thế tôi bỏ về ngay, nhục quốc thể. Tôi có cố gắng nhớ lại tên nhỏ của Moutet, tôi không tìm thấy. Đó là những ngày nằm dưới
phòng giam, tối thui, mắt bị bịt chặt. Trong phòng hỏi cung, tôi không có thì giờ để làm công việc này. Tôi cũng không suy nghĩ người đàn ông trông như người lai ngồi trước mặt tôi kia có phải là Mu Tê mà các người bị giam cứu hàng ngày nhắc tới. Tôi chỉ cảm thấy ngay người này đúng là Moutet rồi. Mu Tê đúng là tiếng phiên âm của Mu Tê, người đàn ông đã rời khỏi chỗ ngồi, tiến về phía những người bị trói ở cột đình, người tôi run lên, Mu Tê tay cầm chiếc ma trắc hai màu xanh trắng đánh mạnh vào không gian.
96 | nguyên sa
M ày cho nó nhịn, a, mày cho nhịn, tao cho mày nhịn, tao cho mày nhịn. Tao dạy mày tao cho mày nhịn. Câ u tao cho mày nhịn được lập lại nhiều lần như một nền âm thanh cho tiếng roi vút xuống tiếng ối ối dư âm. Mang nó xuống, cho nó nhịn bảy ngày. Mày dạy nó bằng cách cho nó nhịn, tao cho mày nhịn. Xem mày có nhận tội không. Mày nói sao thằng này, mày cày cuốc, những thằng loại cày cuốc này mới gan lì. Tao dạy cho mày hết gan lì. Tạo dạy cho mày hết gan lì. Gan lì. Gan lì. Gan lì. Âm thanh đệm có thay đổi, khi có tiếng răng nghiến, khi không có, bài ca vẫn là những tiếng roi vút xuống, tiếng em lạy ông, em lạy ông, tiếng em lạy đồng chí, tiếng quát ai là đồng chí của mày, tiếng hự, tiếng ối, tiếng hự thường phát ra trước. Tôi hiểu một phần nào những cảnh tượng ghê gớm đang diễn ra. Ba người được trói giật cánh khuỷu vào cột đình. Ông bác mặc quần vàng bó ống phía bên trái
hồi ký | 97
- Còn mày làm nghề gì?
Tôi ngơ ngác:
- Em nghề gì?
Chiếc ma trắc vút xuống tốc độ khủng khiếp, tôi vừa nhìn thấy Mu Tê đưa nó lên đã thấy vút xuống, vai trái tôi oằn xuống, tôi nhận ra rõ rệt vai tôi đau quắn, oằn hẳn xuống, tôi không hiểu cái cây bằng cao su mà sao quất đau ghê gớm như thế, tôi chưa biết ma trắc là một cây bằng sắt bọc cao su. Tôi không có thì giờ để nghĩ ngợi lâu lắc tiếng hét của Mu Tê dồn dập tao hỏi mày nghề gì, tao hỏi mày nghề gì, em còn đi học, đi học, đi học, a đi học, vút, vút, đi học như mày mới mưu mẹo, vút, vút. Đau qu ắn như chất nổ bùng lên, bùng lên đầu gối bên trái, tôi oằn người, bung người lên, chiếc d ây thừng ghì chặt, siết người tôi lại, đau quặn bùng lên vai trái, người tôi quẫy oằn oại, bật ngửa
98 | nguyên sa tôi, anh thanh niên lực lưỡng bên phía mặt. Mu Tê hỏi ông bác quần màu vàng bó ống về nghề nghiệp, mày làm xiếc, a mày làm xiếc, có dạy cọp không, có, có mày dạy cọp mày đánh nó như thế nào, thưa đồng chí tôi cho nó nhịn ăn, nó làm đúng tôi cho ăn, a mày cho nó nhịn ăn, tao cho mày nhịn ăn, tạo cho mày nhịn, tạo cho mày nhịn, thưa ông em làm nghề nông phu, em là dân cày cuốc, a, cày cuốc mới gan lì, tạo dạy cho mày hết gan lì đây, tao dạy cho mày hết gan lì đây. Những tiếng roi, tiếng hự tiếng ối, tiếng gan lì vừa hết im lặng lớn sừng sững chụp xuống tôi. Tôi cảm thấy sự ngột ngạt chụp xuống. Tôi nhìn thấy Mu Tê đúng trước mặt. Viên công an đưa rơi ướm lên vai tôi, dường như để ước lượng khoảng cách, rồi gõ nhẹ đầu ma trắc lên vai, hất hàm:
hồi ký | 99 ra phía trước, dây siết ghì chặt lại, đau nhói bùng lên đầu gối bên mặt, đau nhói vừa bùng lên lần chỗ nào đó trên vai mặt, tiếng kêu từ phía sau lưng Mu Tê vang lên. Thôi. Thôi. Tiếng Hả. Tiếng cười. Tôi không còn nghe thấy tiếng gì nữa. Tôi không nghe thấy những âm thanh tiếp theo. Mu Tê và những công an trong phòng hỏi cung còn nói những gì với nhau, có nói những gì về tôi không, tôi hoàn toàn không biết. Khi tôi tỉnh dậy, tôi thấy màn đen đã bao phủ trở lại. Tôi cảm thấy ướt át ở phía dưới, phía đùi trong, tôi sờ tay, quần tôi mặc còn ẩm ướt. Tôi mơ hồ hiểu rằng tôi bị ngất đi trong khi tra tấn, dường như có phóng uế, phản xạ này đi theo sự sợ hãi đã cứu tinh. Dù vậy, người ta không quên bịt mắt tôi khi mang tôi xuống nhà giam. Tôi không biết tôi bị bịt mắt như thế đã bao nhiêu lâu, tính từ ngày tôi bị bắt. Khái niệm thời gian là sự va chạm giữa bàn tay và khẩu phần. Người đưa đồ ăn cho tôi đẩy khẩu phần sát vào tay tôi, tôi biết ban ngày, khoảng thời gian giữa hai lần khẩu phần được dí sát vào tay là khoảng thời gian giữa bữa cơm trưa và bữa cơm tối. Chiếc khăn đen có một chiều d à y đủ làm ngăn mọi tia sáng làm cho tôi không phân định được ngày và đêm bằng thị giác hay mắt tôi nhắm nghiền sau mảnh vải đen, mở ra đau vướng vì mảnh vải buộc rất chặt? Chắc cả hai lý do. Sự sợ hãi hay thế giới không có ngày đêm rõ rệt là nguyên nhân của chấn động tâm lý? Chấn động tâm lý làm thành sự la hét, điên rồ, có những hiện tượng tâm lý loại này. Chấn động tâm lý nơi tôi là sự lãng quên, sự chặt lìa, sự trôi nổi, mơ hồ mặt nước nào như mênh mông, sương mù dày dặc. Tôi không nghĩ gì đến ngôi nhà ở làng Quảng Tái, hình ảnh mẹ
100 | nguyên sa tôi đứng ngơ ngác gọi con trên cánh đồng mênh mông lúc hoàng hôn, tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi, tôi không còn nhìn thấy lâu hơn khuôn mặt thất thần, mảnh vải đen đã siết chặt ngang mắt tôi. Tôi không nhớ gì đến bài học Anh ngữ. Những cuốn sách tôi đọc về sau kinh nghiệm giam cầm của những nhà cách mạng cho tôi thấy nằm ở nơi giam cứu kẻ địch đáng ngại là sự hoạt động của ký ức, phối hợp với liên tưởng và tưởng tượng. Tưởng nghĩ miên man đến nhà cũ làng xưa, đến vợ con, cha mẹ, luyến nhớ làm bùng lên lo âu, khắc khoải. Nhà văn Hồ Hữu Tường trong tạp chí Esprit thập niên năm mươi có viết về kinh nghiệm của ông về tù đầy, những ngày tháng ông nằm trong phòng giam của tử tù có ghi nhận ở trong nhà giam mà cứ liên tưởng tới gia đình, bạn bè, những ngày tháng tự do chan hòa ánh sáng cũ thì mau chết. Phải coi nơi giam cứu không phải là địa ngục, phải sinh hoạt bình thường với những phương tiện có trong tay, tập thể thao, làm thơ, vẽ tranh bằng ngón tay không màu trên mặt đất. Hồ Hữu Tường trau luyện cả Hán văn và Toán học trong phòng giam tử tù. Tôi nghĩ ông phải có một nghị lực ghê gớm, một óc tổ chức tinh vi, khả năng thích ứng ý thức đời sống bản thân và ngoại giới, và biết gìn giữ một kỷ luật nghiêm chỉnh cho cả tâm hồn và thể xác. Tôi thì tôi không phải làm một cố gắng nào cả để thích ứng mình vào hoàn cảnh mới, cắt lìa những mối giây liên lạc giữa ký ức, liên tưởng và tưởng tượng bắt từ hiện tại về dĩ vãng. Tôi quên hẳn thế giới tuổi thơ ở Hà nội, thế giới chạy bom ở Hà đông, thế giới tản cư ở Hải Dương, con đường đi từ Hải Dương băng qua Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, về Vân Đình. Tôi không nhớ tới khuôn mặt của
hồi ký | 101 bà tôi, bố tôi, mẹ tôi, khuôn mặt các em tôi. Tôi không luyến tiếc vì không một lần nào hoài niệm những lớp học cũ những ngôi trường xưa trở lại. Miếng vải đen bịt chặt và kín bưng trên mắt mang tôi sang một thế giới khác ngay, đánh bạt đi, cắt lìa hẳn dĩ vãng. Tôi quờ quang trong bóng tối triền miên, tập nhận thức về thế giới khác lạ toàn một màu đen bao quanh tôi bằng cách tri giác âm thanh. Thị giác hoàn toàn tê liệt. Khứu giác không cho biết nhiều về thế giới bao quanh. Vị giác có tầm tri giác giới hạn. Tôi có thể dùng tay để tri giác ngoại giới, nhưng tôi rất e ngại. Tôi chỉ đập tay nhẹ và gián đoạn lên nền đất chỗ tôi nằm. Tôi sợ hành động đưa tay ra làm cho những cặp mắt quan sát có thể có chung quanh phán xét tôi một cách nghiêm khắc. Tôi chỉ còn đô i tai làm nhịp cầu với ngoại giới. Ngoại giới không bất động, mà đột biến bứng tôi ra khỏi mọi gốc rễ dĩ vãng, thu hút tôi, bắt tôi phải chú ý riêng vào nó. Chỉ bằng thính giác. Đời sống tuyệt đối hiện tại, tuyệt đối giới hạn trở thành một đời sống không biết có cao hơn thảo mộc không, nhưng chắc chắn thấp hơn đời sống của động vật. Động vật cao cấp, con chó, con cọp, con chim tri giác ngoại giới bằng hơn một giác quan. Động vật loại này có giác quan hàng đầu là thị giác. Tôi chỉ có một giác quan, cũng không phải là thị giác. Ngày và đêm không có phân cách, màu đen triền miên làm ngủ thức từng chập. Cho đến khi khứu giác, rồi xúc giác đột nhiên mang tới cho tôi những kích thước khác của thế giới màu đen. Hơi thở có hương thơm phà xuống bên tai tôi, chiếc mũi cọ xát vào má tôi, một cánh tay lùa xuống dưới cổ tôi, cánh tay kia ghì chặt lấy người tôi lúc đó là ban ngày hay ban đêm? Tôi
102 | nguyên sa
không biết. Tôi biết chắc chắn người đàn bà nào đã nằm bên tôi, tôi nghĩ ngay là đàn bà, vì hương thơm, vì cảm giác bắt được từ cọ xát. Ai đó đang úp sát người vào chiều dài của thân thể tô i và thở những làn hơi ấm áp và thơm tho vào mặt, vào tai, vào cổ tôi. Tôi nghe thấy những tiếng nói:
- Tội nghiệp quá!
- Tội nghiệp quá!
Tiếng nói của cùng một người. Những tiếng nói kế tiếp cũng của người đó là em có đói không, xen lẫn với tội nghiệp, tiếng nói chị cho em ăn quả trứng, tô i lắc đầu, đầu chao qua lại trên nền đất, tiếng người đàn bà nói:
- Phải ăn!
- Phải ăn! Một phần quả trứng luộc được bỏ vào mồm tôi, bằng một tay, không biết tay phải hay tay trái, người đàn bà, hay thiếu nữ làm động tác mở hai vành môi tôi ra, trứng luộc được bỏ vào mau chóng. Tôi nhai và nuốt, tôi không nhớ tất cả mấy lần, quả trứng dường như được bẻ ra làm mấy miếng, nhưng tôi nhớ khi ăn được hai miếng, người đàn bà có nâng đầu tôi dậy cho uống nước. Khi phần trứng cuối cùng được bỏ vào miệng tôi, người đàn bà nằm xuống sát bên người tôi, không thấy cho thêm vào mồm tôi miếng nào nữa, tôi cất tiếng:
- Cho em xin ngụm nước. Người đàn bà cười, ngồi dậy, nâng đầu tôi lên. Nàng có hỏi nữa thôi trước khi buông đầu tôi xuống và nằm trở xuống bên tôi. Hơi thở ấm và thơm trở lại phà lên mặt, tai và cổ. Tiếng nói thật dịu dàng lùa vào tai tôi giục gi ã nhẹ nhàng nằm im, tiếng nói tội nghiệp, mới bằng tí tuổi đầu mà phải khổ sở quá. Tôi không nói tiếng nào. Tiếng
hồi ký | 103 nói có làm cho thế giới toàn một màu đen của tôi trở nên bớt khắt khe. Tôi có cảm giác thoải mái nhẹ. Em phải nhớ lời chị dặn thì qua khỏi hết. Em có nhớ không. Đầu tôi có cục cựa. Tôi nói có. Cảm giác thoải mái không chỉ giới hạn trên phần đầu mà đã lan xuống phía dưới thân thể từ bao giờ. Tôi thấy phần dưới cơ thể tôi nóng râm ran. Bàn tay người đàn bà lùa xuống ngực, xuống bụng tôi. Tiếng nói vang lại như không biết từ thế giới nào. Hễ chị gật đầu thì em nói có. Nghe không. Chị gật đầu thì em nói gì. Có. Giỏi. Tôi cảm thấy thân thể người đàn bà áp chặt vào phía bụng dưới. Tôi lùi người lại, nhường chỗ. Một chân của người đàn bà quắp lên người tôi, ghì chặt tôi và ngăn cản mọi động tác di chuyển phần dưới cơ thể, sức ép chặt úp chặt vào nhau gia tăng. Chị gật đầu thì em nói có. Nhớ không. Nhớ. Chị lắc đầu thì em nói không. Nhớ không? Em nhớ. Chị lắc đầu thì em nói gì? Em nói không. Chị gật đầu thì em nói gì? Em nói có. Giỏi. Em làm theo lời chị em sẽ khỏi bị đánh đập. Đằng nào cũng phải trả lời như vậy, chị dạy cho em làm sớm cho đỡ khổ cái thân em. Bàn tay người đàn bà trở lại trên phần bụng dưới. Chân nàng quặp thật chặt, nàng ấn sát người vào chân, vào mạng sườn tôi, hơi thở phà bên tai mạnh hơn, ấm hơn. Tôi không biết sự thoải mái đang phủ lên cơ thể, trong thế giới có ánh sáng, có tên là gì. Tiếng giục gi ã ngủ đi, ngủ đi, tôi lơ lửng, tiếng giục gi ã có hiệu lực. Tôi cảm thấy thật thoải mái, lâng lâng và ngủ Ngaythiếp.khitôi thức dậy, cảm giác trống trải, tôi đưa tay sang bên cạnh tìm kiếm, tôi nhận thấy cùng lúc người đàn bà không còn nằm bên tôi nữa, tôi nhận thấy tôi bị lay
động cho thức dậy, tiếng giục gi ã ngồi dậy, đứng lên đến với thính giác tôi cùng lúc xúc giác cảm nhận những mũi già y đá vào mạng sườn. Tôi lồm cồm bò dậy. Cảm nghĩ trái ngược cũng vụt lên, người đàn bà nào cho tôi ăn trứng không biết có thật không, nhưng người công an nào đang đánh thức và giục giã tôi là một thực tại. Tôi vừa ngồi dậy, hai cánh tay đã xốc tôi lên đẩy tôi đi về phía trước. Tôi vừa đi quờ quạng vừa thè lưỡi liếm môi, nhấm nháp, có vị khác lạ còn đâu đó, có vị trứng, tri giác vội vã không tồn tại lâu, người công an giục đi lẹ, giọng hăm dọa làm trở lại ngay hình ảnh chiếc ma trắc cao su hai màu xanh trắng, trông mềm mại mà quất xuống làm đau đớn kinh khủng bùng lên. Người công an ấn tay lên vai tôi. Tôi không hiểu thủ hiệu. Tôi chờ đợi anh ta kéo tay tôi quát về phía sau trói lên cột đình. Không có gò kéo chỉ có thủ hiệu nhấn tay vào vai được lập lại cùng với khẩu lệnh:
- Ngồi xuống!
Tôi làm động tác khởi đầu chuyển từ tư thế đứng vào tư thế ngồi, khuỵu đầu gối xuống, sự chuyển động đúng chiều cho việc chuyển động từ tư thế đúng vào tư thế ngồi mà chỗ ngồi ở tuốt dưới thấp. Chiếc ghế được đẩy vào bắp chân trái của tôi làm cho tôi hiểu, một cách tương đối chậm trễ, là vị trí ngồi ở phía sau, trên chiếc ghế, không phải là mặt đất. Chuyển động sang tư thế quỳ không còn cần thiết. Tiếng nói từ phía trước đã vang lên: - Cởi khăn ra cho nó! Tôi nhận ra ngay đó là tiếng của viên công an có hỗn danh là Mu Tê. Cơn sợ hãi ùa vào tôi ngay khi tiếng nói của Mu Tê được cất lên, tôi càng sợ khi mở mắt ra. Nhưng một giây ngắn cảm tưởng yên ổn hiện
104 | nguyên sa
hồi ký | 105
ra xen kẽ với cảm xúc sợ hãi. Nhìn trộm khuôn mặt của Mu Tê, nhìn xuống chiếc ma trắc hai màu trắng xanh thì kinh hoàng, những tia nhìn len lén phóng qua vai Mu Tê, phóng về ph ía sau tình cảm yên tâm nhẹ nhàng đậu xuống. Người đàn bà nhìn thẳng vào mắt tôi mỉm cười. Người đàn bà cho tôi ăn trứng? Người đàn bà ôm chặt lấy người tôi, gác đùi lên quặp chặt lấy thân thể tôi? Đúng rồi. Có phải không? Đúng. Đúng. Không biết có đúng không. Người đàn bà vẫn giữ nguyên nụ cười. Chị gật đầu. Tôi há miệng tính nói lên “có”, nhưng ngưng lại kịp thời. Mu T ê chưa hỏi han gì, chị ấy gật đầu chắc là làm hiệu cho tôi biết đúng là chị, không phải ám hiệu trả lời có. Mu Tê đã cất tiếng hỏi gì đâu. Mu Tê chưa cất tiếng thật, nhưng viên công an không để cho ai chờ đợi lâu.
- Tên em là Phúc? Tôi ngỡ ngàng. Không phải ngỡ ngàng vì tên Phúc. Mà ngỡ ngàng vì tiếng em. Tình cảm ngỡ ngàng không đúng tại chỗ. Người đàn bà đã gật đầu. Chị không cười, khuôn mặt nhất là đôi mắt có phần lo âu. Tôi lãnh nhận thủ hiệu. Tôi trả lời:
MuVâng!Têgật đầu hài lòng. Nụ cười hiện ra trên môi người phụ nữ ngồi phía sau người hỏi cung, mắt chị tươi vui thấy rõ. Tôi đã biết trả lời “có” đúng theo thủ hiệu, lại còn biết uyển chuyển sửa lại là “vâng”.
-Trần Văn Phúc?
Gật đầu.
TôiVâng.muốn nói với người công an là tên thật của tôi là Trần Bích Lan, tên khai sinh là Trần Bích Lan, tên Trần
Văn Phúc chỉ là tên gọi trong nhà. Tôi và các em tôi có tên khai sinh khác, tên gọi trong nhà khác. Tôi tên là Lan, trong nhà gọi là Phúc, em gái kế tôi tên khai sinh là Trần Thị Kim Thoa, trong nhà gọi là Bảo, em kế nữa khai sinh và tên gọi trong nhà chỉ là một, em thứ ba này là Trần Thị An, em thứ t ư là Trần Thị Khang, một tên, em thứ tư lại có hai tên, Trần Thị Hậu, gọi trong nhà, Trần Thị Kim Anh, khai sinh, em trai út cùng mẹ Trần Văn Chang cả trong khai sinh và trong gia đình. Tôi không biết tại sao, tôi cũng không có ý định kể lể dài dòng nhưng tôi cũng không có cả thì giờ để đưa ra những đính chính về tên họ. Mu Tê đã hỏi liên tiếp, tốc độ càng lúc càng gia tăng.
- Mười bốn tuổi?
Gật đầu.
- Vâng!
- Có bị tù bao giờ không?
Lắc đầu.
- Không có. Gật đầu.
Gật-LắcCó.đầu:Không!đầu. Gật đầu. Gật đầu. Lắc đầu. Không. Gật đầu. Có... Em làm tay sai cho Pháp. Em bị bác Sử móc nối. Bác Sử là đầu bếp cũ. Ba tháng em nhận lệnh của Sử một lần. Em làm việc chung với thằng Tý. Gật đầu. Gật đầu. Gật đầu. Tôi có khựng lại, muốn nói tôi không gặp bác Sử lần nào kể từ khi tản cư, và cả từ khi Cách Mạng thành công. Người phụ nữ đã gật đầu. Mu Tê nhắc lại câu hỏi:
106 | nguyên sa
hồi ký | 107
- Em có gặp tên Sử ba tháng một lần không? Người phụ nữ đua tay vuốt lên những sợi tóc x òa xuống, gậtTôiđầu.vội vã:
- Có.
- Công tác của em là khi phi cơ Pháp tới em trèo lên cây, có không? Gật đầu.
- Có.
- Em chiếu gương làm hiệu, có không? Gật đầu.
PhiCó.cơ oanh tạc ở Vân Đình, tôi chiếu gương. Phi cơ Pháp ném bom dọc đường số Năm, tôi chiếu gương. Có không. Gật đầu. Có. Có không. Gật đầu. Có. Có. Có. Có. Càng lúc Mu Tê càng tỏ ra vui vẻ. Khi bản cung khai hoàn tất, người phụ nữ không còn ngồi chiếc ghế phía sau lưng Mu Tê, nàng đã đứng dậy tiến lên đứng ngang cạnh Mu Tê, nàng tỳ một tay lên vai viên công an. Mu T ê bảo tôi ký tên. Tôi còn tìm kiếm, nàng đã tiến sát về phía tôi, chỉ một ngón tay lên tờ giấy, nàng bảo tôi viết lại ba chữ Trần Văn Phúc và ký tên bên dưới. Mấy ngày sau người công an liên lạc trở lại phòng giam gọi tôi lên tôi tự đứng dậy, đi theo anh ta, không cần đến sự dắt tay, xốc vai, chính người phụ nữ đã nói với người công an này khi anh ta mang tôi trở lại phòng giam sau buổi hỏi cung là không cần bịt mắt nữa. Cảm tưởng lo sợ ùa tới ngay khi nghe thấy người công an này gọi tôi. Phòng hỏi cung mang lại cho tôi một ngạc nhiênHiệnkhác.diện có Mu Tê, người phụ nữ ngồi ở một đầu bàn,
trước mặt Mu Tê không có cái ma trắc hai màu xanh trắng, trước mặt người đàn bà có chiếc máy chụp hình. Tôi không nhìn thấy ngay chiếc máy này, chỉ thấy khi nàng đưa cho Mu Tê. Mu Tê gi ơ lên cho tôi thấy, hỏi lớn:
- Tôi mở máy ảnh này ra, nếu trong đó có ảnh của em đang chiếu kính lên cho máy bay Tây, thì em phải bị xử bắn có đồng ý không?
Chú Ấm nhìn tôi chằm chặp. Tôi nghĩ ông muốn nói với tôi điều gì nhưng không nói lên được. Đúng vậy, người ngồi bên đầu bàn kia là chú Ấm. Chú Ấm tên thật là Trần Châu Khang, sinh sống với gia đình tôi từ nhiều năm, chú đến đây làm gì? Người phụ nữ đã đưa chiếc máy chụp ảnh cho Mu Tê . Mu Tê đã nói lên rõ rệt, tôi làm Việt gian, chiếu gương cho phi cơ Pháp oanh tạc ở Vân Đình hồi năm ngoái, chú Ấm phản đối nói năm ngoái nó còn ở Hải Dương, chính tôi sang mang nó về, làm sao nó chiếu gương ở Vân Đình cho máy bay Tây được, Mu Tê không quan tâm đến tiếng nói của chú Ấm, tiếp tục nhấn mạnh, nếu tôi mở máy ảnh ra có hình của em đang chiếu gương, thì em bị tử hình, còn nếu nhận tội, không cần mở máy ảnh ra nhận tội ngay, là không ngoan cố, là biết hối cải thì đi học tập một thời gian rồi cho về.
- Có muốn tôi mở máy ảnh ra không?
Tiếng hỏi nhắc lại:
- Có muốn tôi mở máy ảnh ra không?
Tôi nhìn mặt chú Ấm thấy khuôn mặt thảng thốt. Chú muốn nói gì với tôi. Tôi nhìn người đàn bà. Người đàn bà lắc đầu. Có muốn tôi mở máy chụp hình ra không? Lắc đầu. Không.
108 | nguyên sa
hồi ký | 109
- Có muốn tôi mở máy chụp hình ra không? Lắc đầu.
MuKhông.Têphất tay cho lệnh viên công an đứng ở góc phòng giải tôi xuống nhà giam. Tôi còn nhìn thấy khuôn mặt chú Ấm buồn khổ trong thoáng vội. Phải chăng chú muốn nói với tôi mày ngu quá, máy ảnh mà mở ra là phim cháy tiêu, làm gì có tấm ảnh nào chạy ra. Ngay ngày hôm sau, người ta áp giải tôi cùng một số người khác mà họ gọi chung là phạm nhân, xếp hàng một, tay trói dài vào nhau. Đoàn người rời ngôi đình được dùng làm trụ sở công an, Mu Tê và người đàn bà đứng trên tam cấp. Người đàn bà đứng ngay bên trái Mu Tê, khuôn mặt vui tươi, rạng rỡ.
Món súp rồng
S ợ hãi khi bị bứng ra khỏi nhà lớn hơn hay sợ hãi khi hình ảnh của mẹ đứng chơ vơ giữa đồng ruộng mênh mông, mặt trời hoàng hôn đã gần chìm hẳn, bỗng nhiên bị chia cắt, chặt đứt, sợ hãi nào lớn lao hơn? Sợ hãi khi những chiếc ma trắc, cao su lõi sắt, của Mu Tê giáng xuống lớn lao hơn hay sợ hãi màu đen triền miên mang đời sống xuống cấp động vật có khả năng di chuyển giới hạn và không có thị giác? Sợ hãi những hòn đá ném tới tứ tung, những tiếng đả đảo, những tiếng chửi rủa vang lên, sợ hãi lau sậy và tiếng súng chỉ thiên lúc trời tối sập xuống, sợ hãi những nhát báng súng đánh xuống từ một vị trí cao, những con giun trong ống bơ đầy nước, những con rận chạy túa ra, những ngày giây trói ba người làm một, súng chĩa vào đầu trên trời vần vũ tiếng máy bay, sợ hãi nào kinh hoàng hơn? Trước hết, những sợ hãi đó khác biệt. Sợ hãi khi bị ném đá bị đả đảo chửi rủa tùm lum
110 | nguyên sa
hồi ký | 111 làm chấn động. Đoàn người có cả đàn ông, đàn bà, người già, trẻ em đứng đó từ bao giờ, làm sao họ biết chúng tôi được dẫn giải qua đó, tôi nhìn thấy họ từ xa, đoàn tù còn đi trên con đường dắt tới cổng làng, không biết chuyện gì xảy ra, đám đông đã ùa tới, lố nhố. Tiếng một người đàn ông hô lên “ Đả đảo Việt Gian” là hàng chục tiếng hô “ Đả Đảo Việt Gian ” vang lên ào ạt, những tiếng hô cũng bất ngờ và ào ạt như những hòn đá được phóng tới. Những người lính có nhiệm vụ dẫn giải đoàn từ thời đó người ta gọi là phạm nhân tiến tới nói năng gì, người lãnh đạo của đám người ném đá nói năng gì, ném đá dừng hẳn lại, những tiếng đả đảo còn được hô lên, những yếu ớt hơn. Đó là Trầm. Sơn Tây không mang lại sự kinh hoàng nào lần đi. Một người lính chỉ khu đất mênh mông toàn gạch vụn cho biết đó là cải hối thất trung ương Sơn Tây đã tiêu thổ kháng chiến. Người lính đưa tôi và một người bạn tù ra suối lấy nước khi mọi người đã lên đường vào rừng đốn củi không giải thích gì hết. Anh ta nh ảy xổ tới dừng lại một tảng đá giáng xuống những báng súng. Tôi ú ớ không tiên liệu được phản ứng của anh ta, nhưng hiểu được lý do. Tôi cũng muốn giữ lấy thăng bằng, tôi biết nguy rồi khi người tôi chao đi, chiếc nồi ba mươi trống không trên đường xuống suối hai người gánh nhẹ nhàng, trở thành nặng oằn người khi đã có đầy nước, chao đi rồi đòn gánh bật ra khỏi vai tôi, nồi tuột ra khỏi đòn gánh lăn xuống những tảng đá lớn. Hình ảnh chiếc nồi ba mười lăn trên những tảng đá, những báng súng giáng xuống cùng với đôi mắt quắc lên những nhát ma trắc của Mu Tê giáng xuống trở về cùng với những hòn đá, những tiếng đả đảo Việt gian.
Mu Tê đánh chỉ ở hai vị trí là hai vai và hai đầu gối. Đánh có kỹ thuật, có chuyên nghiệp, vai và đầu gối sưng vù lên chỉ một lúc sau. Người lính đánh xuống những báng súng không chọn mục tiêu chính xác. Không thể nói những hình ảnh nào làm tôi choàng tỉnh dậy nhiều hơn. Từ trên sân thượng của trường Văn Học nhìn xuống người mặc áo Mông Ta Guy và những người công an cùng với anh chơi đáo lỗ vòng bằng phấn trắng ban đêm, tôi xoay người, tựa vào thành ban công ngồi tụt xuống, nằm trên mặt đất ngủ thiếp. Chiếc roi ma trắc đập xuống kèm theo những lời hăm doạ học sinh như mày mới mưu cơ, học sinh như mày mới mưu cơ, làm tôi giật bắn người, tỉnh dậy. Những hòn đá vun vút tới, những báng súng giáng xuống, giáng xuống, vút tới, vút tới làm tôi choàng dậy. Nhưng con rận mới đầu chỉ to hơn đầu tăm, thân mình nửa nâu, nửa gụ, máu căng phồng làm cho rận sang màu gụ càng lúc càng to lớn bội phần. Con rận to bằng con chó nhào tới, một con, rồi nhiều con, rồi đ ô ng cơ man, vô số kể, con nhảy vào cắn dưới nách tôi, con thọc chiếc vòi to bằng bắp tay ở bẹn tôi, trên gáy ba bốn con tranh nhau phần da thịt màu mỡ, con ở cổ trước đi đi lại lại, từng chập cúi đầu nhe răng cười và cắn xen kẽ nhau. Tôi choàng tỉnh dậy. Hình ảnh ông Tạ Duy Hiển cười giục gi ã hiện ra:
- Lăn đi! Lăn nhanh lên !
-Lăn, lăn l ă n!
- Tốt! Khá! Khá!
Tôi không còn bị ra gánh nước ở suối nữa. Tôi được ở trong trại phụ tá cho ông Tạ Duy Hiển lo việc vệ sinh. Tôi có nhìn thấy ông Tạ Duy Hiển dạy cọp, không thấy mặt,
112 | nguyên sa
hồi ký | 113 không nhớ mặt ông, chỉ thấy và nhớ chiếc quần bó sát ống chân, bộ quần áo có những cầu vai và khuy vàng ối trong những đêm hát xiệc ở Hà nội. Tôi có nhìn thấy ông trong phòng hỏi cung của Mu Tê, không thấy mặt, thấy loáng thoáng chiếc quần bó ống. Không thấy chiếc áo có những cầu vai màu vàng có gắn rèm tua, không thấy những khuy vàng lóng lánh. Có phải ông là ông Tạ Duy Hiển quất roi vun vút, hai con cọp riu ríu nhảy qua vòng lửa? Ông được đưa lên Chi N ê trước tôi, những người trong cùng trại giam gọi ông là ông Tạ Duy Hiển, tôi nhìn thấy ông cười hiền hòa chiếc quần bó ống thân quen, tôi gọi ông là cụ Tạ Duy Hiển. Ông cười nói cháu gọi bác là cụ là bác phải chết ở đất Chi Nê này rồi. Ông bảo tôi gọi ông là bác. Tôi gọi ông là bác. Làm xong công tác quét sân trại, dọn xong khu vực vệ sinh, mỗi ngày bác Hiển bảo tôi cởi chiếc áo len cụt tay màu xanh ra, áo len trước, áo sơ mi sau, áo sơ mi không có gì nhiều, nhưng áo len thì phải nhanh tay, phải lăn ngay cái chai trên mặt đất, những vòng đầu lăn dễ dàng, lăn mạnh tay và chậm rãi. Nhưng khi đám rận túa ra ào ào thì phải lăn thật nhanh mà vẫn không được quên giữ nguyên sức ép đè xuống mạnh mẽ.
- Đè chặt tay! Đè chặt tay!
- Nhanh! Nhanh nữa! Nhanh, nhanh!...
Tôi không hề biết trong chiếc áo len của tôi có nhiều rận đến như thế. Tôi không thể nói được trong mỗi mắt áo len có một con rận. Nhưng có nhiều mắt áo len, khi tôi biết nhìn kỹ, có cả mấy con rúc chung cùng một chỗ. Chiếc áo len được trải trên mặt đất, bác Hiển chỉ cho tôi chỗ mặt đất bằng phẳng, có nắng chiếu xuống chan h òa . Áo
len phơi căng ra trên mặt đất có nắng làm cho những con rận bò ra. Lồm cồm những con khởi đầu bò ra cũng chậm rãi. Bác Hiển đẩy ngón tay lên bàn tay tôi . Tôi đang để tay lên cái chai rỗng bác Hiển đưa cho, một tay đè lên cổ chai, một tay trên đáy chai. Bác Hiển vừa đẩy ngón tay, vừa thúc giục lăn lăn, tôi lă n chiếc chai, thoạt đầu sự nhấn xuống một trọng lượng và việc đẩy cái chai lăn tới lăn lại chưa được phối hợp, hai động tác có phần dẫm chân nhau, nhưng mau chóng những động tác được phối hợp vừa lúc rận bò ra nhiều hơn và mau lẹ hơn. Cái gì làm cho đám rận chạy túa ra? Sức nóng của mặt trời trên chiếc áo len gia tăng với thời gian? Sự lôi cuốn của hoạt động tập thể động vật. Tôi thì tôi chới với. Nhiều sơ hở trong động tác lăn chiếc chai để giết những con rận từng chùm đang túa ra chạy tung về bốn phía. Đúng thế, tôi lăn chai trong hai chiều trước sau không giết được những con rận chạy về hai ph ía tả hữu, ngoài tầm của chai l ă n. Tôi xoay chai, đổi chiều, nhát lăn chưa thích ứng vào chiều di chuyển mới trở thành nhẹ hẫng, có đè xuống những con rận, nhưng không cán dập nát. Con rận bị cán dập nát văng ra những tia máu lẫn lộn, có con tia máu phọt ra nâu đậm lẫn lộn đen, có con màu đỏ tươi. Lăn chai hai chiều tả hữu không dễ vì phải đổi cả thế ngồi vòng tay lăn mới thuận thảo, lăn theo đường chéo không cần đổi vị trí, nhưng muốn thật ngọt cũng phải xoay người. Anh Tính nằm kế bên tôi một thời gian được nằm lại trong trại vì anh bị đau nặng ra ngồi ngay vị trí này để kiểm chút nắng, anh là người Nam Bộ, anh không nói tý nắng, anh nói chút nắng, anh không nói tìm, anh nói kiếm. Anh nằm ngay kế bên tôi trong phòng
114 | nguyên sa
hồi ký | 115 giam, ở phía bên trái, anh đắp chung chiếu với tô i. Phạm nhân được cấp phát một chiếc chiếu nhưng hai người một rủ nhau đ ắp chung cho ấm hơn, phần vì hai chiếc chiếu d à y hơn một chiếc, và nằm co quắp vào nhau có thêm hơi ấm. Trại giam không có cửa, không có tường, phía trong có liếp, hai phía ngang cũng chỉ có những tấm liếp, nhưng phía trước hoàn toàn trống vắng. Ban đêm trại có chút lửa đốt bằng những khúc vụn củi phạm nhân đi rừng mang về. Trước giờ ngủ, bác Hiển giục tô i đổ nước vào chiếc lon, bác gọi là ống bơ, tôi cũng gọi là ống bơ, bỏ vào đây những con giun bác lấy lên từ nhát cuốc sâu xuống những mảnh đất trong ven trại. Lon canh giun được nấu một lúc lâu, bác Hiển lấy cây que hất những xác giun vào đống lửa, thổi phù phù, bác đưa cho tôi uống trước, tôi uống, đưa lại lon canh giun cho bác, bác gọi là súp giun, anh Tính gọi là canh giun, một lần bác gọi là súp rồng anh Tính suỵt, bác cười điều chỉnh lại súp giun, bác nói thầm vào tai tôi gọi là súp rồng thì mắc tội phong kiến, bác nhìn tôi uống chưa đủ phần, đưa lon trả lại tôi giục, thêm ngụm nữa, tôi uống hết phân nửa, bác Hiển uống phần còn lại. Anh Tính xin một ngụm, bác Hiển đưa cho anh Tính. Bác nói anh Tính uống trễ rồi, bây giờ thì trễ rồi, món súp giun này chỉ hiệu nghiệm khi chưa có bệnh. Anh Tính bị sốt rét nặng, uống súp giun, giun sống trong đất, giúp mình thích ứng được với thủy thổ. Tại sao giun lại giúp thích ứng với thủy thổ làm ngăn chận được bệnh sốt rét? Trại giam tháng ba mươi ngày chỉ có cơm với canh rau cần nấu với muối, không bao giờ có thịt, trừ ngày mùng một tết, súp giun giúp cho việc bồi dưỡng do đó gián tiếp giúp chống bệnh? Tôi không
bị sốt rét vì nhờ uống súp giun hay vì những viên thuốc kỷ ninh mà cô Phương trao cho tôi? Tôi không tìm được cho mình câu trả lời nào, cũng không nêu lên thắc mắc nào cho bác Hiển. Cô Phương là con cụ Nghiêm, bác Hiển đâu có biết cô là ai đâu? Tôi làm đúng y những điều bác Hiển nói tôi làm. Bác bảo tôi cho thêm nước cho anh Tính cùng uống, tôi cho thêm nước. Bác bảo tôi không cần cho đầy nước, anh Tính không dậy nổi đâu. Tôi cho nước vừa phải vào cái lon, ngoài Bắc gọi là ống bơ, ống bơ giun. Sau khi uống súp giun, tôi chui vào chỗ nằm thật nhẹ nhàng, tôi thấy tiếng súp rồng hay hơn súp giun, nhưng bác Hiển không nhắc tới súp rồng nữa, tôi cũng không nói lên hai tiếng đó, tôi không hiểu tại sao gọi là súp rồng thì lại mắc tội phong kiến, tội phong kiến có nặng hơn tội Việt gian không, tôi cũng không hỏi ai trong hai người gần gụi tôi nhất trong tại giam là bác Hiển và anh Tính. Anh Tính bệnh tình trầm trọng hơn, tôi chui vào nằm đắp chiếu là phải nhẹ nhàng, chiếu đắp ngang theo chiều gấp của chiếu, chiếu không phải là vải gấp chiều nào cũng được, đắp dọc chiếu chênh vênh làm sao được, đắp phải ngang và phải co chân lên nằm thẳng cẳng chân thòi ra ngoài chiếu lạnh lắm, hai người đắp chung chiếu phải cựa quậy nhẹ nhàng nếu không chiếu sẽ tụt về một bên, một người phải bị lạnh. Anh Tính chỉ cho tôi nằm úp thìa. Anh nằm xoay lưng vào tôi. Tôi nằm úp sát vào lưng anh Tính, hai đầu gối của tôi gập vào đúng hai khoeo chân của anh Tính. Ban đêm chỉ trở mình một lần, nằm nghiêng một bên thì phải mỏi, nhưng mỏi bao nhiêu cũng phải nằm im úp thìa đúng chiều đã ăn ý. Đêm chỉ đổi chiều nằm một lần, người
116 | nguyên sa
hồi ký | 117 ứ, người ừ trong đêm, hai người cùng xoay. Tôi đổi từ tư thế nằm nghiêng bên trái sang tư thế nghiêng bên phải, anh Tính cũng chuyển đổi từ thế nằm cùng chiều, anh đút hai đầu gối gấp lại vào khoeo chân tôi. Có tối hai anh em nằm quay sang phía trái trước, có tối hai anh em quay sang phía mặt trước. Đêm quay sang phía mặt trước thật ghê gớm. Vật nhọn đâm vào cánh tay tôi, phía bắp trên. Câu hỏi ngơ ngác trong tiềm thức: Sao lại có cái gì nhọn ở đây? Hòn đá? Sao lại có hòn đá ở đây? Tiềm thức mờ đi, tôi mơ hồ, rồi rõ rệt nhận thấy phía dưới vai phải của tôi không phải là mặt đất trong trại giam, đây là các sân thượng trường học. Tôi nhỏm người lên nhìn những người công an chơi đáo lỗ thêm một lần rồi lần theo hành lang lầu ba trường học về phòng ngủ. Tôi nằm quay về phía trái. Chỉ một giây ngắn, tôi choàng dậy xoay người sang phía mặt. Lúc tờ mờ sáng, tiếng kẻng vang lên, tôi nằm quay sang phía trái, tôi không thấy anh Tính cục cựa. Bao giờ có tiếng kẻng buổi sáng anh cũng xoay từ phía trái sang tư thế nằm ngửa và vuôn vai trong tư thế nằm, sáng nay anh nằm im. Tôi đưa ngón tay khều khều. Anh Tính nằm im. Tư thế úp thìa. Tôi xoay người sang tư thế nằm ngửa để ngồi dậy, đầu gối trong chuyển động chạm vào khoeo chân anh Tình, tôi có cảm giác va chạm cứng hơn. Tôi sờ tay vào người anh, anh không phản ứng. Tôi nhận ra đầu gối tôi, đùi tôi ép vào người anh Tính lạnh như có băng giá. Tôi kêu lên ô. Tôi không phải kêu to hơn, bác Hiển đã tiến lại gần, sờ tay lên mắt anh Tính. Bác nói gì với mấy anh, mấy chú phạm nhân kia, tiếng người nói lao xao, tiếng chân bước rầm rập ở ngoài sân, tiếng báo cáo cán bộ, báo cáo, tiếng mang đi
Tiếng một người hỏi:
- Chiếc chiếu nào của em.
Tôi chưa gấp chiếu lại kịp theo đúng lề luật của trại giam. Tôi hơi hoảng, ngồi dậy là phải gấp chiếu ngay, đó là điều lệ. Bao nhiêu biến cố dồn dập làm tôi đâu còn đầu óc nào. Câu hỏi đơn giản và bình thường cũng làm tôi hốt hoảng. Tôi trả lời chiếu dưới. Phải rồi, bao giờ chiếc chiếu của anh Tính cũng được phủ lên trên chiếu tôi. Có ai hỏi có cần báo tin cho gia đình có biết không hay chôn ngay. Tiếng trả lời chôn ngay, lạnh băng. Hai người bạn tù không nói một tiếng, một anh lấy cái chiếu trên gi ũ mạnh, đắp lên người anh Tính, xoay người anh Tính một vòng, chiếu bọc quanh thân xác, hai người hò nhau cột hai đầu chiếu lại, hô to “lên, lên” chiếc chiếu bó lấy xác anh Tính được xốc lên chiếc cáng đã được mang vào từ bao giờ. Họ lên đường ngay, hai người lính cộng sản đứng ngoài sân súng cầm trên tay, một người đi trước, một người đi sau, hai người tù khênh xác người bạn tù bó chiếu đi ở giữa, lầm lũi.
118 | nguyên sa ngay, tiếng chôn sáng nay, vâng chôn sáng nay. Hai người bạn tù một người giữ chặt thân người anh Tí nh, người kia kéo anh thẳng ra, kéo mấy lần, sau dùng sức nhấn lên đầu gối anh, tiếng rắc rắc, anh Tính đã nằm trở lại vị trí nằm ngửa được, hai chân duỗi thẳng.
Sợ hãi, vô thức và dục tình
Sợ hãi đến trước, rồi mới sinh ra những phản ứng sinh lý như tái mặt, run, răng đánh vào nhau lập cập, nổi da gà, đứng không vững, chân khuỵu xuống hay chính những phản ứng sinh lý là nguyên nhân của sợ hãi? Những nhà t â m lý học cổ điển khẳng định t â m lý có trước sinh lý, phải sợ rồi mới run, những nhà tâm sinh lý cho rằng run rồi mới sợ, sinh lý có trước tâm lý. Hãy quỳ xuống, niềm tin sẽ tới. Kinh nghiệm về sự sợ hãi của tôi, ngoài những tương quan tâm sinh lý quen thuộc, thiết yếu là kinh nghiệm về những giấc mơ trong mối tương quan giữa nó và sự sợ hãi. Tôi kinh nghiệm về sự sợ hãi như một sân khấu có nhiều nhân vật lớn nhỏ, mỗi nhân vật có tiền trường trong những thời điểm riêng của nó. Một số nhân vật chỉ trở lại một vài lần, nhiều nhân vật trở lại với những h óa trang mới, mờ nhạt hơn. Toàn thể hoạt động theo hình dáng vận hành của trái tuyết lăn. Nhưng giấc mơ là
hồi ký | 119
120 | nguyên sa nhân vật lớn của sợ hãi chiếm tiền trường thật nhiều lần, trở lại có lúc liên tục, có lúc định kỳ, có khi trong thời gian sợ hãi đang xảy ra trong đời sống ý thức, có khi xuất hiện ngay trong thời gian sống thoải mái, không có sợ hãi nào cả trong ý thức, hiện ra không do chọn lựa của ý chí, như tiếng sét đột nhiên vang động giữa lúc trời không gợn một bóng mây. Hình ảnh của giấc mơ có đổi dạng, không đương nhiên suy yếu trong bất cứ thời điểm nào. Cơ cấu của giấc mơ là sự không liên tục, sự phi lý, sự cường điệu, giấc mơ về sự sợ hãi, ngoài những yếu tố đó, còn là sự gia tăng cảm xúc từng bậc đi lên cho tới tột đỉnh là kinh hoàng, mồ hôi vã ra như tắm tiếp theo là sự bừng tỉnh, giải thoát, giống như màn khép lại, đèn bật sáng choang, những tiếng vỗ tay vô â m trong ý thức làm thoải mái có lúc tới mừng rỡ. Giấc mơ với những cơn sợ hãi nơi tôi có sự liên tục trong bất liên tục, liên tục trong những nội dung khác biệt, liên tục trong hình ảnh bất ngờ, cũng như trong cơ cấu vận hành của nó cường độ gia tăng cho tới kinh hoàng tận tận cùng là bừng tỉnh giải thoát. Ác mộng về săn đuổi, tra tấn, tù đầy và hãm hại có ảnh hưởng tới những ác mộng về những bất hạnh xảy ra cho những người thân yêu như thế nào? Những người thích phân tâm có thể giải thích tình yêu mạnh mẽ tiềm ẩn cùng với tâm thức xao xuyến, lo âu trong vô thức hay tiềm thức là sức đẩy của những giấc mơ toát mồ hôi lạnh này. Tôi cũng thường có những giấc mơ dục tình gọi là mộng tinh. Giấc mơ có tính chất dục tình đến với tôi cả trong thời tuổi trẻ và tuổi già, đến thật nhiều và mang lại thật nhiều hạnh phúc. Phải chăng đời sống ý thức đứng giữa, một đầu là ác mộng, một
hồi ký | 121 đầu là những giấc mơ tràn trề hạnh phúc của kiếp người? Các động vật khác có mộng tinh không và có đủ hai loại mộng tinh những mộng tinh tràn trề tục lụy và những mộng tinh thoát tục hay không? Hạnh phúc trong giấc mơ loại này, trông thì khoảnh khắc, thật ra, nhìn trong toàn diện thời gian, lâu dài không thua quá xa hạnh phúc của đời sống ý thức, nó còn đến sớm hơn, ở với ta lâu hơn, dư vị của nó còn có sự đậm đà riêng, không bị chi phối bởi những mùi vị của thực tế. Trong mộng tinh không có người đàn bà lạnh lùng, không có người đàn bà miễn cưỡng. Sự hợp tác toàn hảo. Tìm kiếm khoái lạc dục tình trong đời sống ý thức thường phức tạp, phải đi qua những thủ tục của đời sống, có khi tới nơi, có khi vấp ngã đóng sâu xuống những chiếc đinh tình cảm và mặc cảm về sự mất mát, sự bất toàn. Trong giấc mơ khoái lạc dục tình vượt trên đấu trường đời sống, đẩy mạnh bởi những khát khao vạm vỡ chạy như bay tới mục tiêu, với sự trợ lực của ký ức và trí tưởng tượng hoạt động trong vô thức. Khi đã vào vùng đất của tuổi cao, sinh hoạt sinh lý trong đời sống ý thức bị đứng lại, giấc mơ vẫn còn hạnh phúc riêng. Cơ cấu của giấc mơ dục tình hôm nay và khi hai mươi tuổi có khác biệt. Tuổi trẻ là chủ thể lao mình tới đối tượng, khoái lạc dâng tràn, vang vọng tiếng cảnh giác, lời gọi hạnh phúc chậm lại, coi chừng bùng nổ, coi chừng giai đoạn say của thăng hoa là hư vô nh ư ng cảnh giác không bao giờ kịp được, hạnh phúc trong cơn say tiềm thức, như định mệnh, phóng tới và vỡ tung. Những giấc mơ dục tình trong những ngày tháng của tuổi già là hình ảnh một chủ thể thụ động. Hình ảnh những người nữ bay lượn, vờn bắt một chủ thể
chấp nhận mà hạnh phúc tận cùng là những khoảng không. Là sự săn sóc tình thương, là sự vỗ về mẫu tử, là nằm xuống đây tâm sự, là ngồi dậy uống trà, hoa quỳnh hiện ra nở trong đêm trăng. Đối tượng của hạnh phúc đột nhiên xếp lại xiêm y, từ biệt vội vã, để lại hạnh phúc nhẹ nhàng, bay lượn trên vùng cao. Những giấc mơ dục tình trở lại trong suốt đời người mang lại hạnh phúc có hình ảnh và cường độ đổi thay có liên hệ rõ ràng với tình trạng sinh lý của cơ thể. Tôi có kinh nghiệm này. Kinh nghiệm sâu sắc tới mức có cả những nghi ngờ về khả hữu tính của vô thức. Có đúng là có vô thức với những sinh hoạt có tên là dồn ép, siêu ngã hay những lý thuyết của S. Freud chỉ là giai đoạn của lịch sử tâm lý học thời gian sự tìm hiểu những nguyên nhân sinh lý, những tế bào óc não, hệ thống thần kinh, sinh hoạt của các tuyến với những liên hệ chằng chịt chưa được đẩy sâu tới tận cùng mang lại những hiểu biết thấu đáo về những giấc mơ có tên là mộng tinh? Sự thay đổi hình thức và cường độ của mộng tinh có thật. Những kinh nghiệm về những giấc mộng về sự sợ hãi rượt bắt, bạo hành, tù đầy thì khác biệt. Cường độ của những giấc mơ này nơi tôi, không đổi thay, không suy yếu với thời gian. Vượt ra khỏi những đoạn đời mà sự sợ hãi là một thành phần của sự sống, những giấc mơ kinh hoàng về sự rượt bắt, bạo hành, tù đầy đến với tôi ít hơn, Thời kỳ đi học ở Pháp, những năm cuối thập niên bốn mươi, nửa đầu thập niên năm mươi những giấc mơ bị săn đuổi, bắt giữ, tra tấn, xiềng xích rất thưa thớt, mơ không tạo thành yếu tố chi phối đời sống ý thức. Cả phần còn lại của thập niên năm mươi, trở về Việt Nam, kể từ đầu năm 1956, là thời
122 | nguyên sa
hồi ký | 123 gian của những “giấc mộng hiền.” Đời sống nhẹ tênh. Ngay sau khi bị công an đệ nhất cộng h òa bắt giữ cuối năm 1960, thời gian bắt giữ ngắn, không bị tra tấn, khổ cực thân xác không đáng kể, những giấc mơ đầy kinh hoàng lập tức trở lại. Thời gian nhập ngũ lại là thời gian hạnh phúc ban đêm. Cái bóng lớn của quân phục mang lại cho tôi tình cảm an toàn. Người mặc áo Mông Ta Guy vào năm cuối của thập niên sáu mươi và đầu thập niên bảy mươi và những đồng bạn của anh ta mang trở lại cả thực tế kinh hoàng lẫn những giấc mơ thập phần khủng khiếp. Trái tuyết sợ hãi trong giấc mơ lăn mỗi lúc một lớn và đổ sập xuống. Giấc mơ tình dục cũng có yếu tính gia tăng của trái tuyết không bị cản trở bởi những ma sát của đời sống thực tế làm cho hạnh phúc dục tình của giấc mơ có cường độ thật mạnh mẽ chỉ hình ảnh cũng làm thành sự xuất tinh mà không cần tới sự cọ x át và những cố gắng khác của cơ thể. Trái tuyết của ác mộng màu đen, trái tuyết của giấc mơ dục tình màu trắng. Tôi nằm mơ về những cuộc rượt bắt nhiều hơn mơ thấy những nhà tù. Đời sống giam cứu dài thẳm, rượt bắt là sự khủng hoảng cực độ? Chiếc xe taxi đeo dính xe tôi đột nhiên hiện ra ở phía sau lưng. Tôi lái vô đường Phan Đình Phùng, chiếc taxi con cóc bám sát. Người lái t axi còn bóp kèn thật to, nhắm vào những người bị hành hay làm cho tôi hoảng sợ hơn? Họ phải theo dõi kín đáo mới đúng chứ. Họ nói với nhau trong xe của họ mà tôi nghe rõ. Thằng này đừng hòng chạy thoát. Thằng này mang về cho nó nếm mùi nguyên đêm nay. Đập chết cha nó. Mút mùa lệ thủy con ơi. Tiếng còi trở thành liên tục khi tôi tới góc Phan Thanh Giản chợ Vườn Chuối. Người
124 | nguyên sa lái xe của tôi rời bỏ chiếc xe từ bao giờ? Tôi thò đầu ra ngoài mui xe nhìn những người rượt bắt và bị mắc kẹt, không thụt đầu xuống được nữa, nếu lấy tay bánh trong tư thế trớ trêu, xe lao vút vào Phan Thanh Giản, tiếng còi vang lên càng khủng khiếp, không phải chỉ có tiếng còi của chiếc xe công an, mà còi dồn dập, đến từ bốn phía, tôi đã chạy vào Phan Thanh Giản ngược chiều, công an từ chiếc xe con cóc đã nhảy xuống, kẻ chĩa súng vào cửa xe tôi, trong bọn họ tôi thấy có cả anh Tư tài xế của tôi nhe răng vung vẩy khẩu súng, anh hét lên thắng lại, những người công an khác đều nhất loạt hét thắng lại, tôi đạp, tôi đạp không tới đâu, chân thắng ai đã mang sang để ở bên chân ghế bên kia, tôi càng đạp mạnh càng sâu hút vào không gian mênh mông, mồ hôi đầm đìa, tôi choàng tỉnh dậy. Tôi nhận thấy mồ hôi trong người, trên trán tôi vã ra. Tôi nằm thẳng người, thoải mái nhẹ nhàng trở lại, thoải mái ghi nhận không có cuộc rượt đuổi nào cả trên đường Phan Đình Phùng, Vườn Chuối hay Phan Thanh Giản đã đến với tôi trong những ngày vừa qua. Cuộc rượt đuổi có xảy ra nhưng cũng trên dưới mười năm rồi, nhưng rượt đuổi không lâu, tôi ra khỏi nhà ở đường Pasteur, trước bộ Công Chánh, chạy vừa tới gần Chùa Chà chiếc taxi đã vọt lên trước rồi bật sang ch ận mũi xe tôi. Tôi lái xe có một mình. Thứ Bảy, hôm đó là thứ bảy, anh Tư nghỉ việc. Những người công an rượt tôi trên con đường dốc mặc đồng phục Mông Ta Guy. Thoạt đầu tôi không để ý đến họ. Những con dốc ở Tam Đảo tuyệt đẹp. Chị Jane đưa cho tôi một chùm sim. Chị Jane hai chục tuổi, tôi mới mười một, mười hai, chị thật tốt, chị chiên khoai cho tôi ăn, những miếng khoai nhỏ và dài, chị bảo tôi khoai allumette đấy.
hồi ký | 125
Tôi hỏi:
- Khoai mà là allumette?
Chị cười:
- Thì que diêm này!
Chị chỉ ngón tay vào những miếng khoai cắt nhỏ xíu và dài. Chị Jane nói:
- Allumette là que diêm mà!
Chị Jane đang cười vui tươi bỗng hoảng hốt hét lên. Tôi ngẩng đầu. Lố nhố những người công an mặc đồng phục Mông Ta Guy đã vào trong nhà từ lúc nào, nhanh chóng họ tiến về phía tôi, nhanh chóng khuôn mặt họ đổi thay kỳ lạ, thân mình to lớn lên khác thường, người nào cũng gi ơ ra những chiếc chân khổng lồ, khuôn mặt họ phồng lên thành những con rận khổng lồ kềnh càng bò về phía tôi, tôi lùi, tôi lùi, công an con rận khổng lồ bò tới, đưa chân khều vào ngực tôi, chân khác chộp lấy những miếng khoai cắt hình que diêm nhai nhồm nhoàm, tôi lùi, tô i lùi, tôi hét lên khoai của tôi, khoai của tôi, phía sau chỉ có tường ngăn chận, không có cửa thoát ra nào, toán công an đầu rận ấn tôi vào sát tường, tôi ngã xuống, bằng những chiếc chân khổng lồ họ dẫm lên người tôi, tôi hét lên, tiếng hét cũng bị tắc nghẽn trong cổ họng, và sự ngộp thở tăng cường tới mức không thể chịu nổi, tiếng hát allunette, allunette v ang vọng â m điệu của bài alouette, alouette.. . của toán công an đang bung ra bỗng nhiên mờ đi rồi vụt tắt. Tôi nhận ra không phải, vui mừng nhận ra không phải. Chỉ ác mộng thôi. Tôi ghi nhận mồ hôi trên người, trên trán, lặn người tới gần chỗ chiếc quạt máy những giọt mồ hôi mau chóng bay đi. Ch ỉ ác mộng thôi. Không có toán
công an người rận bao giờ cả. Có những con rận chạy túa ra từ chiếc áo len cụt tay màu xanh. Hồi đó. Có chị Jane, tên Việt Nam của chị là Dung, chị Dung chứ không phải là chị Liên, Liên là người Tàu, tên Tàu của chị Liên là Lình. Không phải c ô Tây. Cô Lan Tây ở cùng khu nhà với cụ Nghiêm, nhà hộ sinh Rồng Vàng, tôi vẫn đưa cô Lan Tây và em cô là Lan Nam đi nhà thờ Tin Lành ở chợ Hàng Da. Lan Tây chạy bom Nhật về Hà Đông, tôi và Trịnh Viết Thành cũng chạy bom về Hà Đông, hai thằng chơi nổi bơi qua cái ao lớn vào nhà Lan Tây từ phía sau, Lan Tây cười thân thương nhìn khuôn mặt tôi xanh lè vì uống nước ao nhiều, lấy khăn bông cho tôi lau mặt và lấy chè đậu đen cho tôi ăn. Tôi không bị té, chỉ bị uống nước. Tôi chỉ bị té nặng hôm đạp xe tới thăm Lình ở Ngã Tư Sở. Ba chị Lình là đại úy thông ngôn trong quân đội Lữ Hán, mấy năm trước tôi còn nhớ tên ông, bây giờ quên mất. L ì nh ra tận cổng trang trại ở Ngã Tư Sở chờ tôi, tôi phóng xe thật nhanh lao về phía Lình, thắng lại, hồi đó gọi là phanh, phanh lại bất ngờ cho xe quay ngang trăm tám chục độ cho Lì nh phục, chiếc xe có quay một đường vòng cung, nhưng thăng bằng cũng sang vòng cung khác, tôi té nằm só ng soài. Lình cho tôi uống nước chè, lấy khăn ướt lau những vết bùn trên quần áo, tay và mặt tôi. Chị Jane có cắt khoai allumette chiên xong mang ra máng nước suối cùng nhau ăn. Không có công an Mông Ta Guy nào ăn khoai của tôi. Nhà chị Jane không có vách tường kín mít chân tôi, làm tôi tuyệt lộ phía sau. Cánh liếp lớn, trong ngôi nhà ở Tam Đảo, mở lên, chống lên một cây g ậy cho nhìn thấy ngay máng nước suối, ống máng tre bổ đôi theo chiều dọc, mang nước từ
126 | nguyên sa
hồi ký | 127 suối vào thẳng mỗi căn nhà. Ngay chiều hôm qua Mu Tê làm tôi điên người. Tôi đã được giải từ cải hối thất Chi Nê về cải hối thất Sơn Tây, bác Tạ Duy Hiển gói hộp thuốc ký ninh của tôi bỏ vào trong túi sơ mi trong chiếc áo len cụt tay màu xanh cho tôi. Cải hối thất trung ương Sơn Tây đã bị tiêu thổ kháng chiến, phạm nhân được phân tán vào những ngôi nhà của thường dân trong những ngôi làng trong vùng, tôi cùng với những người bị giam giữ ngồi trên sân gạch Bát Tràng mênh mông nghe đọc báo Cứu Quốc, cán bộ chính trị hôm thì giảng về giai cấp đấu tranh, hôm thì giảng về tư bản giẫy chết, về cách mạng tháng Mười, dậy hát Quốc tế ca. Ngay chiều hôm qua, cán bộ giảng về hủy thể của hủy thể. Tôi nghe mù mờ, vừa chợp mắt, tiếng hét inh tai vang lên. Thằng nhóc này ngủ gật. Ngủ gật là tính tiểu tư sản. Phản động! Phản động! Tao dạy cho mày chừa tội phản động tiểu tư sản ngủ gật. Tôi hoảng hốt nhìn lên, người cán bộ chính trị không là ai khác hơn Mu Tê. Mu Tê, đúng rồi. Chiếc ma trắc hai màu xanh trắng vung lên nhưng không đập xuống, được thu hồi lại ngay. Mu Tê quặp ma trắc dưới nách, tay kia móc ra lọ gì, lọ gì, lọ thuốc ký ninh của cô Phương cho tôi. Làm sao Mu Tê lấy được lọ k ý ninh của tôi. Bác Hiển đã bỏ vào túi áo sơ mi trong áo len rồi mà. Tôi đưa tay lên sờ ngực áo, lọ ký ninh đã biến mất thật. Mu Tê đã mở nắp lọ ký ninh, lấy ra một viên ném lên không trung rồi quay lưng chạy về phía trước mặt. Tôi vùng dậy đuổi theo, vừa chạy vừa kêu trả tôi lọ ký ninh, trả tôi lọ k ý ninh. Mu Tê chạy tài tình, tôi chạy chậm viên công an chạy chậm, tôi chạy nhanh, nó chạy nhanh, vừa chạy vừa ném những viên ký ninh lên không trung, tôi
ngửa đầu nhìn theo, cong người tìm kiếm viên thuốc rớt xuống, đoàn chim đông vô số kể, toàn là vành khuy ê n đáp xuống ào ào, Sơn Tây nhiều vành khuyên lắm, tranh nhau mổ những viên thuốc k ý ninh rơi lung tung trong đồng ruộng mênh mông. Tôi vừa đưa tay chộp viên thuốc nào là chim mổ ngay viên đó. Chim sà xuống mổ nhanh kinh khủng. Tiếng cười đắc trí của Mu Tê vang lên. Tôi nhìn thấy người đàn bà trong trại giam năm xưa, tôi nhìn chị ta cầu cứu. Chị ta cười giễu cợt, tay tỳ lên vai Mu Tê, tôi nhào tới phía chị, nắm lấy tay chị, chị giằng tay ra, chạy về phía trước, người bay lên, bay lên, tôi chạy theo nhảy lên hụt hẫng, té xuống vực thẳm mở ra ở phía dưới từ bao giờ, tôi rơi xuống hun hút, không thấy tận cùng và choàng tỉnh dậy. Tôi có được giải về cải huấn thất trung ương Sơn Tây phân tán trước khi được trả tự do. Mu Tê và người đàn bà ở trại công an đâu đó gần Vân Đình không lên gặp tôi ở Sơn Tây bao giờ cả. Không ai lấy thuốc ký ninh của tôi. Ở cải hối thất Sơn Tây vài tháng tôi được cùng với những tù nhân bạn giải ra sông cho tắm một lần, ba người trói tay vào nhau. Khi máy bay Pháp thả nhảy dù xuống chúng tôi cũng được những người bộ đội giải ra khỏi trại giam, cũng trói tay ba người một, người bộ đội chĩa súng vào những người tù nằm úp mặt xuống đất, có lệnh thanh toán nếu Pháp nhảy dù xuống vùng này. Quân Pháp có nhẩy dù xuống, nhưng ở vùng nào khác đâu đó. Tôi thấy quân Pháp nhảy xuống nhiều lần. Tiếng những người bộ đội hô to “bắn, bắn” Có lần tôi vừa xoay người nằm xấp là lãnh đạn. Có lần tôi vùng dậy chạy như bay về phía trước mặt, cả chục bộ đội mang mặt nạ nhảy ra trước mặt tôi, cười khoái
128 | nguyên sa
hồi ký | 129 trá, bỏ mặt nạ ra, cười khoái trá. Tôi hết hồn. Cả bọn toàn là Mu T ê , mặt giống y chang, nhất loạt bọn Mu tê nhắm vào tôi nhả đạn. Tôi nhìn thấy viên đạn trúng ngực, xuyên qua ngực, viên thứ nhì vào vai, viên thứ ba, thứ tư ghim vào ngực. Người tô i lỗ chỗ, máu phun ra như mưa, tôi lấy tay bịt những lỗ thủng ngăn chận những vòi máu, bịt lỗ này thì lỗ kia phun mạnh hơn.Tôi choàng tỉnh dậy. Người tôi không có lỗ thủng nào. Tôi có bị dẫn giải phân tán đi tránh máy bay, và khuôn mặt những người bộ đội thực sự nghiêm trọng. Những người bạn tù thì thầm Tây nhảy xuống đây là bọn mình bị bắn chết. Những khẩu súng chĩa thẳng vào những người tù nằm trên đồng ruộng có tiếng máy bay rạo rực. Nhưng không có Mu Tê nào trong bọn họ. H ẳn nhiên, trong thế giới ác mộng có cả Mu Tê đánh đáo lỗ trước của tiệm Sáu Lèo bên kia đường, đối diện trường Văn Học, có cả những viên công an mặc áo Mông Ta Guy ở trại giam Sơn Tây. Tối hôm qua, người rượt đuổi tôi không phải là Mu T ê hay người mặc áo Mông Ta Guy. Chính chủ Ấm móc ra từ túi áo cánh màu đen của chú khẩu súng ngắn chĩa vào ngực tôi. Tôi chạy ngay. Tôi nghĩ chú Ấm béo thế này, mình chạy ông ấy khôn g đuổi kịp đâu. Chú Ấm vừa rượt theo vừa la lối tau bắn mi chết, tau bắn mi chết, ch ú Ấm người Huế, con quan, tôi quý chú lắm, tôi không biết tôi làm gì mà chú đòi bắn tôi, tôi vừa chạy vừa lạy chú tha cho con, chú vừa mắng nhiếc vừa kể tội, tau bảo ăn một bát chè đậu đen mà mi dám ăn hai bát, tôi lạy chú, con xin chừa. Tôi có ăn hai bát chè đậu đen đặc thật. Ra khỏi cải hối thất Sơn Tây tôi đã xin chú cho ăn một bát chè đậu đen đặc. Chú bảo tôi đi xa xa rồi ăn. Tôi
130 | nguyên sa
hiểu chú không muốn dừng lại trong những ngôi làng gần trại giam này. Chú bảo tôi ăn một bát chè thôi. Đừng có ăn hai bát, bọn bán quán này “ăng ten” nhiều lắm, ăn hai bát là nó báo cáo tầm bậy mình chết. Tôi ăn thêm bát nữa khi chú rủ cô bán chè vào một góc quán ôm ngang lưng. Chú Ấm đuổi tôi không kịp, tôi quay đầu lại làm những cử chỉ trêu chọc chú, chú nhắm vào tôi bắn thật sự, không trúng phát nào, tôi cười khoái trá, chú hét lên mi biết tay tau, móc ra tờ giấy chứng minh tôi được phóng thích, xé vụn, s ô ng đột nhiên hiện ra, sông Nhuệ, tôi biết khúc sông này, con đường hai chú cháu tôi đạp xe đi ngang đây ngày xưa, làng Cự Đà đường có lát gạch, làng Khúc Thủy đất trơn đây này, tôi còn nhớ, tôi dụi mắt nhìn cho rõ, đúng chú Ấm, chú Ấm ngồi chèo thuyền trên sông, chung quanh thuyền những mẩu giấy xé vụn sóng ào ạt tới, cuốn đi ào ạt những mảnh vụn của tờ chứng minh thư của tôi. Ông xé hồi nào, lên thuyền ở giữa sông kia hồi nào nhanh quá. Ông xé tan chứng minh thư của tôi rồi. Mu Tê nó lại bắt tôi tới nơi. Tôi gọi, tôi gọi, chú Ấm nói đi chơi một lúc rồi quay lại, chú rút vào trong khoang thuyền tay ôm ngang lưng người đàn bà bán chè đậu đen. Tôi ngồi dậy, rồi đứng hẳn lên. Những người công an canh gác bên kia đường tiếp tục đánh đáo lỗ. Tôi lần theo hành lang lầu ba trường học đi trở về phòng ngủ. Tôi có được cấp phát một tờ chứng minh thư khi được trả tự do. Người trông nom trại giam, trong một căn nhà khác, không xa căn nhà giam cứu, nói em đừng buồn, em hãy coi như những ngày tháng em bị bắt nhầm là em đã đóng góp cho cách mạng.
- Em có chấp nhận đóng góp cho cách mạng không?
Tôi trả lời có.
hồi ký | 131
Chú Ấm ngồi lầm lì. Người ta giao tôi, với tờ chứng minh thư trên tay cho chú Ấm. Chú Ấm vừa đi vừa lẩm bẩm đóng góp cho cách mạng, đóng góp cho cách mạng. Tôi có hỏi chú tôi có sai không hôm chú vô thăm tôi ở trại giam của Mu Tê không? Tôi hỏi thăm bác bếp Sử, anh Thọ có bị bắt không? Chú nói không. Không có ai bị bắt hết, có một mình mi. Tôi tính nói cho ông hay là trong tờ cung khai của tôi, bác Sử, anh Thọ là cấp chỉ huy của tôi. Chú Ấm chỉ có mình mi bị bắt. Nó mang mi đi vì sợ cha mi “dinh t ê ”. Tôi không hiểu tại sao sợ bố tô i “dinh tê ” mà lại bắt tôi. Tôi không nêu lên câu hỏi nào, tôi ăn hết bát chè đậu đen thứ nhì, bát đầu tiên tôi húp một hơi, chè đậu đen đặc trôi tuồn tuột trong cổ, bát thứ nhì tôi ăn chậm rãi hơn, nhai kỹ những hột đậu trong dòng chè đặc quánh. Chú Ấm nhìn tôi ăn cười hiền hoà và chửi tôi:
- Cha mi!
Tôi cười. Bàn tay ông và đầu tôi, ông chửi thêm một lần:
- Cha mi!
Tới giờ sang trường học, tôi còn phân định rõ rệt từ Sơn Tây chúng tôi về Trầm rồi Hà Đông, chúng tôi có dừng lại ở Vân Đình chú Ấm cho tôi ăn xôi lạp xưởng và chè sen, quán hàng sang trọng hơn hẳn những quán lá trên dọc đường và những bờ đê, cô bán quán trắng muốt nhìn chú cười quen thuộc, chú chỉ tôi nói:
- Con anh Chi! Cô chủ quán nói với tôi những lời thân thiện, dường như cô có biết vụ chủ Ấm đi đón tôi về. Khi cô đã quay đi chú Ấm nói với tôi, giọng hạ thấp:
- Dì mi!
Tôi mơ hồ hiểu bố tôi có thêm một người vợ mới. Có thể chú Ấm nói lên một sự thật, có thể chú đùa giỡn. Quán
132 | nguyên sa
bán xôi lạp x ư ởng và ch è thật bình an. Đây đúng là Vân Đình chứ không phải sông Nhuệ. Tôi sang trường khít khao giờ vào học, Tổng giám thị Đại dúi vào tay tôi mấy viên phấn, tôi vào lớp ngay. Chín giờ ba mươi sáng, hết hai giờ, tôi vừa bước vào văn phòng nghỉ giải lao, tiếng Tổng Giám Thị Đại gọi theo từ cửa văn phòng:
Tôi-Thầy!-Thầy!có
nghe thấy chưa kịp quay đầu ra, cô quản lý Hảo, từ chỗ ngồi của cô ở Văn Phòng đã tiến lại gần bên, chạm tay vào vai tôi, cũng nói thầy thầy. Tôi quay lại, mặt cô Hảo xanh lè. Hảo chỉ ngón tay ra phía cửa sổ:
- Có ông này muốn gặp thầy!
Tôi nhìn ra, tá hoả tam tinh. Người công an mặc áo Mông Ta Guy hiện ra trong khung cửa sổ. Tôi hỏi có phải anh ta muốn gặp tôi. Người công an mặc Mông Ta Guy cười khác lạ nói vững chắc: - Đúng, tôi muốn gặp ông thầy.
Hiện ra trong khung cửa sổ và trước cửa ra vào kế cận lố nhố những khuôn mặt khác, những người công an trong toán của anh Mông Ta Guy. Trán tôi lấm tấm mồ hô i. Tôi nhìn về phía sau, không có cánh cửa nào để tháo chạy.
Tôi phải cám ơn người công an mặc áo Mông Ta Guy. Anh ta có thể tiến vào văn phòng, tay để lên khẩu súng cồm cộm bên hông, nhìn tôi bằng cặp mắt chuyên nghiệp quen thuộc, không cần phải nói một tiếng tôi cũng đủ chết khiếp. Tôi sợ run bắn, tôi tựa lưng vào vách tường hay tỳ tay vào bàn để đứng cho vững, hay trong sự sợ hãi cùng cực, phản ứng tự vệ và tự ái bật lên giúp tôi đứng thẳng chống trả? Tôi trở thành con chuột chúi đầu vào những góc tường tìm kiếm lối thoát? Dù cho phản ứng như thế nào, trái tuyết sợ hãi chỉ có một chiều để chuyển động. Nó lăn từ đỉnh cao xuống chân núi, càng lúc càng quyện thêm tuyết, càng lúc càng to lớn. Những quan sát chính xác, những suy luận khách quan, những nhận định hợp lý không có một cơ may nào tìm được một chỗ đứng trong ý thức, vừa xuất hiện liền bị những “quan sát-sợ hãi”, “suy luận-sợ hãi” đánh bạt đi. Tôi có thể ghi nhận và
hồi ký | 133
134 | nguyên sa
lý luận người công an mặc áo Mông Ta Guy này vào hắn văn phòng công khai tìm tôi như thế là lành nhiều dữ ít. Công an bắt người không vào hẳn văn phòng trường học lôi một ông thầy giáo đi giữa hàng chục cặp mắt bất bình của những thầy giáo, trước hàng trăm cặp mắt và trái tim phẫn nộ của học sinh. Kỹ thuật bắt con mồi của công an là bất ngờ và kín đáo. Chờ ở ngoài cửa từ chiều, nhưng đêm mới xong vô nhà. Bưng đi nhẹ nhàng. Chộp ở đầu ngõ, con mồi đang nhìn đường định hướng, khẩu súng dí vào ngang hàng từ phía sau kèm theo mệnh lệnh nhẹ nhàng “đi lên ” vừa lúc chiếc tắc xi trờ tới. Vào bắt người ngay giữa văn phòng giáo sư có thể đưa tới đối kháng, rồi huyên náo bùng lên từ sự bất mãn của đám đông, làm cho con mồi được sự che chở của hoàn cảnh có thể vuột chạy mất. Những ghi nhận và lý luận bênh vực cho thực tế khách quan là không có nguy cơ gì hết chỉ vừa xuất hiện trong ý thức là bị những ghi nhận và lý luận sợ hãi hiện ra đánh bạt. Quan sát và lý luận sợ hãi chiếm trọn vẹn ý thức, làm bùng lên những phản ứng cơ thể, những phản ứng này là hậu quả, nhanh chóng trở thành nguyên nhân làm cho trái tuyết sợ hãi vừa lăn đi, vừa tăng trưởng kích thước, trọng lượng và tốc độ. Đam mê có những cánh tay mang hào quang đặt lên đầu đối tượng, mang hoàng bào khoác lên vai, dâng lên thanh gươm quyền uy vào tay đối tượng đam mê. Cánh tay lớn này là thần thánh hóa đối tượng đam mê, cánh tay lớn kia là suy luận đam mê, suy luận không đi từ tiền để đến kết luận, suy luận đã chấp nhận kết luận từ trước, mọi vận hành của nó chỉ là tìm kiếm, bằng mọi giá, những tiền đề thích ứng với kết luận, bê nh vực cho con đường đi, cho
hồi ký | 135 hình tròn của trái ấu, b ê nh vực cho kết luận đã chấp nhận từ trước. Tôi nghĩ cảm xúc sợ hãi lên tới mức chấn động có cánh tay “suy luận cảm xúc” của nó mà yếu tính là làm tê liệt mọi suy luận khách quan. Cơ cấu của sự sợ hãi khởi đi trong tôi tức khắc và mạnh mẽ bắt nguồn từ ghi nhận và suy luận bị bóp méo. Người công an mặc áo Mông Ta Guy không bước vào văn phòng, chỉ đứng bậc cửa.
Cô Hảo nói:
- Mời ông vào!
Người đàn ông đứng yên ở bậc cửa. Anh ta cười vui tươi. Nụ cười sáng lên trên khuôn mặt nắng gió sạm đen không làm bay đi hết những nét dữ dằn. “Suy luận cảm xúc” còn ồ ạt tới một lần chót. Nghi binh, coi chừng nghi binh. Nó làm bộ vui vẻ dụ mình ra ngoài rồi chộp. Bọn công an ở Quảng Tái cho thằng bé sửa xe ở đầu làng vào nhà anh Phi rủ mình ra coi xe có cặp vành “đuya ra” muốn bán. Coi chừng, bọn họ đâu có ngu mà vào bắt người ngay ở giữa văn phòng giáo sư, họ cười vui tươi điệu hổ ly sơn. Tôi nhìn thấy anh Mông Ta Guy cười, tôi nhìn thấy những người công an đứng ở cửa sổ đều cười, cô Hảo cười theo, họ nói điều gì, cô Hảo bật cười nhẹ. Anh Đại, Tổng Giám Thị, đã tiến lại gần những người công an hồi nào, hai bên nói bông đùa và có cả tiếng cười vang động. Người mặc áo Mông Ta Guy mang lại cho tất cả cảnh tượng, âm thanh và không khí vui tươi, lời giải thích lớn. Anh em chúng tôi tạt vào đây để chào từ biệt ông thầy giáo và cũng để cáo lỗi nếu có làm điều gì phiền lòng ông thầy giáo, chúng tôi đã xong nhiệm vụ, xin chào... Tiếng Đại nói lên có làm gì chứ còn gì nữa, không làm phiền chỉ làm ớn xương sống, cô Hảo nói à
136 | nguyên sa
ra vậy, tiếng người công an nào nói đúng thế, chỉ có thế, cô Hảo cười trách sao mấy ông không nói trước. Anh Mông Ta Guy giải thích chúng tôi không thể nói trước được. Anh Mông Ta Guy và đồng nghiệp của anh không thể nói ra được từ trước công tác của họ. Bây giờ nói, sau khi mọi việc đã xong, và ngay như nói một phần khi công việc đã xong đã là một việc làm không thông thường. Như ng công tác đã xong, ở đây hơn một năm, làm cho mọi người kinh hoàng, nhất là ông thầy giáo này, những lời chót được coi như một hành động tâm lý. Công tác xong hồi tám giờ sáng. Công an dã chiến và công an mặc thường phục tới nơi dưới sự hướng dẫn của toán Mông Ta Guy thường trực ở đây. Họ không bấm chuông, nhảy ào ào ngay vào căn nhà số 326. Những mẩu nhỏ của người này kể lại được bổ khuyết, điều chỉnh hay tăng cường bởi những nghe thấy, nhìn thấy của những người khác. Ngôi nhà 326 là nhà của ông Phạm Sanh, chủ ngân hàng. Nhà chủ ngân hàng Phạm Sanh rộng lớn bằng cả hai căn 322 Phan Thanh Giản, trường Văn Học và 324 nhà in Quốc Ân cộng lại. Công an canh Phạm Sanh hơn một năm làm ra vẻ canh trường Văn Học. Họ chọn tôi làm mục tiêu giả dạng hỏa mù. Tôi đi ra là công an đi theo, chỉ đi theo một quãng là bỏ, nhưng những lớp lang, người đi theo chàng này, người tiếp liên chặng kia làm thành cảm tưởng triền miên, ai vào nhà biên số xe, xì xào thầm thì chỉ tay hất đầu khi tôi bước ra cửa trường. Bây giờ chúng tôi đã đạt được mục tiêu, chúng tôi đã bắt được người mà chúng tôi muốn bắt giữ, chúng tôi chào từ biệt ông thầy giáo, chúng tôi mong ông đừng phiền lòng vì chúng tôi đã làm ông cảm thấy không vui
hồi ký | 137
trong suốt mười bốn tháng trời. Tại sao phải canh chừng Phạm Sanh lâu lắt như thế?
Tại sao bắt Phạm Sanh? Có người nói ông chủ ngân hàng này có thù oán gì với ông Thiệu. Tôi không biết. Tôi đi ra ăn phở từ sáng tinh mơ. Tôi vẫn dậy sớm, tôi ra ăn phở tiệm Sáu Lèo từ sáng tinh mơ. Tôi không muốn ăn lúc gần giờ vào học, càng không muốn ăn lúc giờ chơi, tiệm phở đông đảo bạn đồng nghiệp và học sinh đầy nhóc. Ă n phở lúc sáng tinh mơ, nhiều hôm tiệm chỉ có một vài người, thường thì không có ai quen trong trường học thật thoải mái. Từ hơn một năm tôi không ra ăn phở lúc sáng sớm. Nhóm Mông Ta Guy đã có mặt. Triền miên có mặt. Họ làm bộ ngưng cuộc chơi đáo lỗ, nghe đài, tản ra, chuẩn bị. Tôi triền miên cảm thấy chỉ đi ba bước họ sẽ nhào tới còng tay tôi, đ ẩy tôi lên chiếc taxi . Tôi ăn mà nghẹn họng. Nuốt không được, không đau đớn gì trong người nhưng trên ức như cứng lại, cổ họng như có ai bóp thắt. Cảm tưởng thắt lại cũng có ở trong ngực và trong bụng. Tôi trở lại với thói quen ăn phở sớm, hè phố trống trơn đã được trả lại cho sự bình thản. Cửa sắt sơn màu đen hai cánh lớn của nhà số 326 được mở ra mỗi sáng, người giúp việc của ngôi nhà này sang tiệm phở mua phở mang về. Chị ta luôn luôn mang theo cái tô đựng phở, cái khay, lúc tới tiệm cầm tô và khay trên hai tay. Lúc trở về, bư ng khay trên có tô phở khói bay tỏa lên. Những người công an thật sự rời bỏ khu phố. Những con chim dữ đã bay đi. Đám mây đen đè trĩu nặng bầu trời của tôi không còn nữa. Bầu trời của tôi bắt kịp hình dáng, màu sắc của bầu trời thiên nhiên ở nơi đây. Nhưng không lâu. Bầu trời nơi đây không thay đổi.
Mây đen chỉ kéo đến trong mùa mưa. Nhưng trên bầu trời của tôi tiếp nối những đám mây đen khác kéo đến. Mẹ tôi từ trần năm bảy ba, đúng ngày rằm tháng bảy âm lịch. Hôm đám tang mẹ tôi từ chùa Xá Lợi tới nghĩa trang
Mạc Đĩnh Chi trời mưa. Đám mây đen phủ lên bầu trời và có đám mây đen trên bầu trời và trùng điệp những mây đen khác phủ lên tôi. Tôi không còn nhìn thấy đường, tôi khóc trẻ thơ, tôi gọi mẹ tôi, người ta dìu tôi đi, tôi nghe thấy mơ hồ tiếng nhắc nhở về những bước chân chuyển động. Mắt tôi nhạt nhoà vì mưa, vì nước mắt, vì cảm xúc nức nở có lúc triền miên, có lúc từng cơn. Cháu Triết con trai đầu lòng của tôi, là cháu đích tôn của mẹ tôi, ngồi trên chiếc xích lô đi mở đầu tang lễ. Triết, ở nhà quàn, trong nghĩa trang, vỗ lên vai tôi, đưa cho tôi những chiếc khăn tay thay thế. Những đám mây đen lớn và nhỏ liên tiếp kéo tới. Em tôi, hơn một năm sau khi cháu Triết đi du học, sau đó Thơ, cháu gái, cũng qua Pháp với Triết, cho hay Ana Fallaci, nữ ký giả quốc tế đã đến đây nhiều lần mới trở lại. Chúng tôi bàn bạc lo âu lại đảo chánh chỉnh lý? Em tôi nói có hỏi, Ana nói lần này không có đảo chính hay chỉnh lý. Người nữ ký giả nói “lần này là bàn giao.” Tôi nói tôi phải đi, Ana nói anh là thầy giáo, anh có gì mà sợ. Ana chưa biết quê hương tôi. Ký giả quốc tế biết những anh hề múa may trên sân khấu chính trị, nhưng không biết chiếc ma trắc của Mu Tê ở Vân Đình, không biết món súp rồng. Họ chưa biết quê hương tôi, không phải không có tội gì là có quyền sống ở ngoài cánh cửa nhà tù. Họ càng không biết không có tội cũng là một tội. Họ không nghe thấy những người tù ngơ ngác tập hát Quốc tế ca trong nhà tù vô sản. Hỡi những
138 | nguyên sa
hồi ký | 139
anh em v ô sản trên thẻ gian này... International sẽ là xã hội tương lai. Tôi không trả lời Ana, không trả lời ai, không cắt nghĩa gì cho ai, mây đen bắt đầu kéo tới, những đám mây khác, những đám mây phủ kín bầu trời triền miên, không còn gì để nói nữa, có một thời cho nói năng, có một thời cho lặng lẽ. Cộng sản đánh Ban Mê Thuột, ngay tháng Giêng âm lịch, chỉ thời gian ngắn sau Tết, tôi chuẩn bị lên đường. Tôi tìm đường đi. Tôi thu thập tin tức. Tôi nghe thấy những tin cho biết Ban M ê Thuột không được phòng vệ đúng mức. Tôi nghe thấy câu hỏi: tại sao bức tử thị trấn miền cao? Bạn bè tôi trong quân đội chia sẻ cho tôi sự kinh ngạc về cuộc rút lui khỏi Pleiku. Những bài báo của ký giả Nguyễn Tú trên Chính Luận mang lại cho tôi những hình ảnh kinh hoàng. Thơ tiên tri trên đầu phóng sự chiến trường. Nếu phải chia ta y v à nếu là mãi mãi. Thêm một lần xin mãi mãi chia ta y. Tôi suy tính tìm được đường là đi ngay. Tôi thấy ngay ngôi trường học của tôi là một tảng đá lớn làm cho người nhảy xuống nước bơi đi phải bị chìm. Đi chiều hôm nay là sáng mai học sinh tới không thấy Hiệu trưởng Nga đâu, không thấy thầy Lan đâ u, học sinh nhớn nhác, thầy giáo hoang mang, nhâ n viên văn phòng hoảng hốt, chuông reo sẽ chẳng có ai vào lớp, công an, nhân viên phường khóm sẽ vào cùng với những người của trường học đã tụ tập đầy sân trường. Công an, quân cảnh, an ninh quân đội sẽ nhanh chóng chận bắt được người đào thoát. Tôi chọn lựa quyết định ấn định ngày nghỉ hè là 15 tháng t ư năm 1975. Cho nghỉ hè ngay trong tháng ba này thì sớm quá. Nghỉ hè cuối tháng năm thì có thể trễ quá. Trường tư ở Sài gòn, những tháng cuối năm có thói quen
140 | nguyên sa thu học phí hai tháng liền cho hai tháng chót là tháng tư và tháng năm. Hai tháng đó người ta vừa thanh toán chương trình vừa cho học sinh thi đệ nhị lục cá nguyệt. Học phí đã trả hai tháng liền, nhu cầu thi lục cá nguyệt, giữ học sinh không bỏ lớp vào tháng cuối. Tôi quyết định không thu học phí hai tháng liền, chỉ thu cho tháng ba và nửa tháng tư, cho thi lục cá nguyệt từ cuối tháng ba, mười lăm tháng tư đã bắt đầu trả học bạ cho học sinh. Hết tuần lễ thứ hai của tháng tư, trả học bạ cho học sinh, thanh toán xong xuôi mọi công nợ. Nghỉ hè chính thức. Buổi tối tôi ngủ nhà em tôi. Sáng tôi trở về Phan Thanh Giản, ăn phở nhìn sang trường học vắng hoe. Trước cửa tiệm Sáu Lèo không có người nào mặc áo Mông Ta Guy ngồi nghe đài, đứng hút thuốc hay đánh đáo lỗ. Tôi chậm rãi vào trường, đi lên lầu ba, nằm dài trên sàn xi măng sân thượng. Đám mây Mông Ta Guy bay đi hẳn thật rồi. Bầu trời trên cao đã đầy ắp những đám mây đen khác kéo tới bằng một tốc độ đáng ngại. Đám mây Pleiku, đám mây Huế, đám mây Đà Nẵng. Ban Mê Thuột thất thủ. Bỏ Huế. Bỏ Đà Nẵng. Sáng 24 tháng 4 tôi ăn phở Hiền Vương g ặp Thanh Nam đi ăn cùng với Dương Nghiễm Mậu. Trưa ngày 24 tôi vào D.A.O, một cơ quan của bộ Quốc Phòng Mỹ trực thuộc t òa Đại Sứ Mỹ, gặp anh Bùi Xuân Bào vào đó trước một ngày, bỏ đi ra, Phạm Cao Dương cùng đứng chờ gọi lên đường. Tôi đi cùng với Lưu Trung Khảo, Bộ Đại Kỳ, Cò Dzu, Thành Cao, các em, các cháu, con, trong cùng một danh sách. Ở Guam, trại Asan, mỗi ngày tôi dò tìm bảng danh sách những người tỵ nạn ở những nơi khác nhau. Tôi đọc thấy tên Trần Đại Việt, tên Thanh Nam, không đọc thấy tên
hồi ký | 141
Phí Ích Nghiêm, tên Dương Nghiễm Mậu. Đài phát thanh Mỹ loan tin tướng Minh đầu hàng vào buổi xế trưa, lúc tôi đang tắm. Nhà tắm rộng mênh mông, có cả trăm vòi hoa sen, những người tắm chung nhau không có vách tường ngăn cách nào cả, người nghe đài, người hát nghêu ngao, tiếng đài phát thanh đang vang vang, những tiếng người hét lên bằng tiếng Việt to hơn. Hàng rồi. Hàng rồi. Cái gì? Hàng rồi. Giỡn mặt. Gì mà giỡn mặt. Đụ má hàng rồi thiệt mà. Đụ má. Đụ má. Tiếng than van. Tiếng bất bình. Tiếng chửi thề. Rồi lặng im. Tiếng đài phát thanh Mỹ tắt ngúm. Có ai đó đã vặn nút tắt. Cả tiếng nước từ những vòi hoa sen cũng tắt hết. Không đồng loạt. Nhưng kế tiếp và liên tiếp. Tôi cảm thấy những giọt nước chảy trên đầu, trên mặt, trên môi tôi giảm đi. Vị ngọt của những giọt nước còn tiếp tục chảy xuống môi cũng giảm đi, có vị mặn xen kẻ, rồi hoàn toàn mặn. Tôi đưa môi liếm những giọt nước mắt đang chảy xuống, đưa tay chùi mắt. Thị giác trở nên tinh tế hơn, nhưng không đủ để nhìn rõ khuôn mặt của từng người đứng trước mặt. Hơi nóng của những vòi nước làm thành một màn sương mù. Vòi nước đã ngưng chảy, nhưng hơi nước sương mù còn tồn đọng. Những bóng người đứng dài dài trước mặt, bên mặt, bên trái, sau lưng tôi trần truồng ẩn hiện trong hơi nước sương mù. Cùng lúc, hơi nước tan đi, tôi càng nhìn rõ hơn, tôi nhìn những người tỵ nạn đứng trước mặt, tôi nhìn xuống thân thể tôi, càng lúc càng rõ hơn. Trần truồng. Hoàn toàn trần truồng.
Liên tưởng là cô bạn gái láng giềng
Tưởng tượng là người đàn bà đẹp, kiêu sa, liên tưởng là cô bạn gái láng giềng. Tìm gặp tưởng tượng sáng tạo không dễ, người đàn bà đẹp không để lại địa chỉ, không cho số điện thoại, lúc nào người đàn bà đẹp kiêu sa đó muốn tới là tới. Nghênh đón không đủ nồng nhiệt là tưởng tượng bỏ đi, tìm lại không thấy nữa, đúng hơn, không bao giờ thấy nữa. Một ý thơ vừa nhen nhúm, chuông điện thoại reo lên, người phát thư gõ cửa, sự hoạt động của tưởng tượng sáng tạo bị gián đoạn tìm lại không dễ dàng. Một ngày sau, một tháng sau, có khi cả năm sau, người đẹp kiêu sa có trở lại cũng mặc chiếc áo khác. Vẫn lộng lẫy, nhưng l ộng lẫy tìm thấy ngày mai không phải là lộng lẫy đánh mất hôm nay. Dòng liên tưởng đơn giản hơn, trong đó có cả nối tiếp những gián đoạn. Tôi không có gì phiền muộn về những khác biệt này. Tưởng tượng sáng tạo đòi hỏi những phân tách thật sâu xa và
142 | nguyên sa
hồi ký | 143 những tổng hợp hoàn toàn mới, phân tích thật lâu, tổng hợp mới hiện ra, như xum họp tiền kiếp, như khoái lạc dục vọng cực điểm, như mơ. Bất ngờ và hiếm quý là những đường nét của thân thể tưởng tượng sáng tạo. Nhưng cô gái láng giềng liên tưởng thì khác. Nhìn ra cửa sổ, tờ lá chao đảo ở trước mặt đã mang lại kỷ niệm về mùa lá rụng năm xưa. Cơn mưa tháng sáu năm nay làm liên tưởng đến nhữn g cơn mưa tháng sáu của nhiều năm trước. Liên tưởng có khi vì tương tự, mưa làm nghĩ đến mưa, đôi mắt đen to này làm hiện ra trong tâm tưởng đôi mắt đen to mặc áo lụa Hà đông những ngày tháng đầu đời. Liên tưởng vì tương phản ngày mưa nhớ tới ngày nắng, giờ lạnh buốt của biệt ly đánh thức những ngày tháng ấm áp đoàn tụ. Những gian phòng lớp học tuyệt đối vắng lặng của trường Đại Học Khoa học Montpellier đánh thức dậy ngay trong tôi trùng điệp những gian phòng lớp học. Đó là liên tưởng vì tương phản. Đó cũng là liên tưởng vì tương tự. Trường học mở ra trường học, tương tự, nhưng sự vắng lặng tuyệt đối của ngôi trường này không mở ra sự vắng lặng ở bất cứ nơi đâu. Chỗ nào buổi tối cũng có sự vắng lặng. Nhưng yên lặng của sự nghỉ ngơi không phải là sự yên lặng không giới hạn. Ngôi trường đại học mà tôi đến ngồi học mỗi ngày, hôm nay mở ra Coulommier, Rambouillet, Provins, mở ra Paris, mở ra Quốc học Huế, mở ra Mỹ Tho, mở ra Sài Gòn... Ở đâu cũng có âm thanh, có âm thanh của âm nhạc, âm thanh của tiếng cười, âm thanh của “mùi cửa mới sơn”, âm thanh của chiếc thước kẻ gõ trên mặt bàn, âm thanh của những ngòi bút chạy trên mặt giấy, âm thanh của “ đào nguyên ”, và cả âm thanh của im lặng lớn
144 | nguyên sa lao bằng hiện diện. Coulommier, nơi tôi học Tú Tài 1, và thi rớt, là âm thanh của nhạc Nam Mỹ, tiếng cười trẻ thơ của Hồ Xích Tú, là tiếng nói của Lê Trọng Việt, những bước chân dịu dàng của Lê Tiết Lễ. Rambouillet là những tiếng chân xào xạc trên lá. Trịnh Viết Thành, Nguyễn Văn Kỳ, Michèle Moy hỏi nhau khu rừng bao quanh lâu đài vùng đất Chateaubriand đi dạo mỗi ngày có nhiều lá vàng hơn hay khu rừng bao quanh lâu đài Rambouillet có nhiều lá vàng hơn? Tôi thi đậu Tú tài 1 sau năm học ở Rambouillet di chuyển sang Provins học phần hai. Cũng phải hai năm mới xong, nhạc jazz , tiếng hát và tiếng kèn của Louis Amstrong, cuốn tôi trôi đi. Đó không phải là một lời bào chữa. Tôi không có gì hối tiếc. Tôi vẫn muốn trở lại những caves đó, Saint Germain ở Saint Germain des Prés, La Huchette ở Saint Michel. Tôi vẫn là đứa học trò dốt. Tôi vẫn học hành với thật nhiều gián đoạn. Từ Montpellier, mỗi lần lên Paris, Lê Trọng Việt đưa tôi đi thăm trở lại những ngôi trường thời tuổi trẻ. Trường của Nga, học Math Sup. và Math Spe., La Fontaine ở quận 16, Sorbonne nơi tôi học được mấy chứng chỉ propédeutique, logique và m étaphysique. Tôi trở về Montpellier, trong gian phòng học lặng lẽ, không có một bóng người của Đại Học Khoa Học Montpellier, ngôi trường xây cất trên nhu cầu, có thật nhiều phòng trống vắng, sự vắng lặng làm liên tưởng tới những ngôi trường cũ đông đảo vui, đông đảo âm thanh, đông đảo sự sống hiện ra nổi bật. Liên tưởng có những khúc quanh đột xuất. Những âm thanh của trường học, những tiếng gọi nhau trong sân trường bắt lấy những tiếng gọi nhau, những thăm hỏi còn mới tinh, vang động,
hồi ký | 145 vừa tới, tôi đi ra bến tàu, đi xích lô, thấy phà là leo lên, là đi, anh bạn đạp xe xích lô của tôi nói cậu cho cháu đi cùng, thế là cũng đi theo luôn, Lê Duy Chương, Anh văn chi bảo của trường Văn học, chỉ tay vào người thanh niên nằm trên ghế bố kế bên trong căn lều trại 4, Tô Văn đang kể chuyện một chuyến đi khác, chuyến đi của anh cho những người bạn. Tô Văn cũng ở khu trại 4, Trần Tam Tiệp, bác Sung trại 1 trại 2. Tiếng người ta kể chuyện về chuyến đi đổi đời, tiếng bằng hữu loan báo người này tới rồi, người kia được chuyển từ Guam đi Arizona, đi Fort Chaffee, không về Pendleton này. Phạm Duy có đi được không? Có. Tôi gặp anh ở ngay Guam. Chiếc xe bus của marines chở anh từ cổng trại Asan qua con đường tôi gọi là Đại Lộ Tha Hương, tôi chạy theo xe, chiếc xe di chuyển chậm, Phạm Duy đưa tay ra cửa sổ xoè ra mất mát, mấy thằng con moa lạc hết rồi toa ạ, không đi được, kẹt rồi, lạc, không biết ở đâu, tiếng kêu, những tiếng kêu đầy cảm xúc của Du Tử Lê, Trần Tam Tiệp, Nguyễn Thừa Dzu, Bồ Đ ại Kỳ, Lưu Trung Khảo... gọi tên anh em, gọi tên những người vừa được những chuyến xe bu s đổ xuống tìm kiếm ngơ ngác trong đêm. Tôi hỏi Lê, Châu có đi được không? Lê, những mảng bóng tôi đã đổ dài xuống một phần mặt, một nửa khuôn mặt, Lê nói không sầu thảm. Tôi hỏi Châu, âm thanh vang vọng trong tôi là Huỳnh Lê Brigitte, trong tôi mỗi năm vẫn bay nhảy hình ảnh cô nữ sinh chỉ ngón tay lên bảng danh sách những người thi đậu. Năm nào trường Văn Học cũng kẻ đầy đủ danh sách những học sinh thi đậu Tú Tài 2. Năm nào đứng nhìn tấm bảng đã kẻ xong được đưa lên hình ảnh của Brigitte nhảy nhót, đòi thưởng, hãnh
146 | nguyên sa diện bình thứ thầy thấy không, thầy thưởng đi, những năm sau hình ảnh Brigitte hạnh phúc trường học có mở ra hình ảnh Brigitte lấy chồng, Brigitte khổ đau, Brigitte trách cứ lỗi tại thầy, lỗi tại thầy. Tiếng nói buồn phiền xoáy sâu, tại sao lại lỗi tại tôi? Cũng có thể lỗi tại tôi. Sự nghi ngờ tội lỗi nào chả có dấu vết của tội lỗi? Xoáy sâu. Xoáy sâu, Xe bus ở Guam đổ xuống từng chập, xe bus ở Pendleton đổ xuống từng chập. Đổ xuống những ngơ ngác, đổ xuống những tìm kiếm, đổ xuống những mừng rỡ thoát hiểm lẫn trong lạc lõng lưu vong. Tôi học từng chập. Liên tưởng từng chập. Dần dần liên tưởng giống như những lớp sóng mỗi lúc một thưa vắng trả lại biển bình an lúc buổi sáng. Sự sống mạnh hơn những sự trở lại. Những bài học kế toán đã làm thành những lớp sóng khác đưa tôi vào những bãi biển khác. Tích sản và tiêu sản, kế toán tổng quát và kế toán chuyên biệt, kế toán vi tích tìm kiếm giá thành của mỗi đơn vị hàng hoá không phải là kế toán vật liệu, hàng vào, hàng ra, first in first out, hàng vào trước nhất ra trước nhất, kế toán sản phẩm điện ảnh không phải là kế toán da thú mùa đông, hàng chỉ bán ra nhiều khi mùa đông tới làm cho kế toán giống như thời tiết, có hai mùa, mùa săn bắn tiêu sản tăng, tiền ra, mùa đông bán hàng, tiền vô, tích sản tăng, những chương mục tiền tươi, tiền ngân hàng, tiền khách nợ, xuống trong những ngày tháng chưa tới mùa đông, lên mạnh mẽ trong mùa đông. Trong khi hàng tồn kho của nghề buôn áo lông mùa hạ tăng lên, mùa đông vớ ơ xuống. Mùa đông của những sản phẩm điện ảnh là những năm những tháng sau khi cuốn phim được phát hành. Tỷ lệ thu xuống gia tốc, phim vừa ra thu
hồi ký | 147 ào ạt, rồi, phim này với tuần, phim kia với tháng, xuống hai mươi lãm, rồi năm mươi, rồi tám chín chục phần trăm những tuần, những tháng, những năm sau. Cuộc đời của sản phẩm điện ảnh, trong cuốn sổ kế toán, là cuộc đời một chiều, từ đỉnh cao đi xuống. Ngành nghề xuất bản cũng có đổi thay kế toán giống như phim ảnh. Chợ, chạp ph ô , bách hoá kế toán vật liệu nặng, kỹ thuật tính tồn kho, mức an toàn, mức báo động và sự luân chuyển hàng hoá, mức độ và thời gian tiếp liệu của hàng tươi không giống đồ khô, bàn chải đánh răng, càng khác biệt với sản phẩm lâu bền như tủ lạnh, máy giặt. Tôi khám phá ra kế toán không phải là một ngành học khô khan. Cân bằng tích sản và tiêu sản luôn luôn là một sự kích thích. Kế toán tổng quát không phải chỉ mở ra kế toán v i tích và kế toán chuyên biệt, còn mở ra luật, dân luật, luật thương mại, luật thuế vụ. Còn liên hệ với quản trị, với những cái thật lớn như ngân sách của một quốc gia và những cái cực nhỏ như ngân sách của một gia đình. Tôi học kế toán và học nấu bếp trong cùng một thời gian. Tôi học cả hai thứ cùng với Nga. Tôi chưa bao giờ kinh nghiệm hạnh phúc này. Những ngày có giờ dân luật hai đứa leo lên xe bus đi sang bên trường Luật. Từ nhà tôi ở, căn apartment ba phòng ngủ tầng trệt, đi bộ sang Đại Học Khoa Học thì gần, đi lên trường Luật thì có phần xa, tuần mua thẻ đi xe bus một lần, vé tuần rẻ hơn vé lẻ, chúng tôi nhìn nhau, chúng tôi liếc mắt, chúng tôi cười với nhau, cười với những thực tế mới tinh, hôn nhân cũng là một giao kèo, đúng thế, các bạn cười à, không những h ô n nhân là một giao kèo, giao kèo hôn nhân còn có nhiều loại, mua chiếc vé máy bay là một giao kèo, đi khám bác sĩ
là một giao kèo, à , đó là một giao kèo đặc biệt, trong đó có sự cam kết về phương tiện, không có cam kết về cứu cánh.
B ác sĩ khi chữa bệnh cho các bạn có cam kết chữa khỏi không? Những tiếng reo vui bay lên có, có, có. Có cả tiếng không. Ông thầy giáo lắc đầu, làm dấu không bằng ngón tay. Reo vui bay lên, bốc lên, ùa lên, tiếng nào đúng, điều chắc chắn là đã từ lâu lắm tôi không được reo vui như thế. Tôi đứng ở bên này lằn ranh, đứng sau chiếc bàn của nhà ảo thuật. Tôi làm chao đảo chiếc mũ, làm con chim từ đó bay ra. Tôi thích thú, không phải cười thích thú vì con chim trong chiếc mũ bay ra, chỉ thích thú vì nhìn những khuôn mặt trẻ thơ ở phía trước cười khoái trá. Bây giờ tôi reo vui, tôi nhìn Nga, chúng tôi nhìn nhau, cùng nhau cười vui. Ông thầy giáo dân luật nói không, nhấn mạnh đúng thế, chỉ có trách nhiệm về phương tiện, không có trách nhiệm về cứu cánh, ông thầy thuốc chỉ cam kết khi chữa bệnh cho bạn là làm công việc này thật nghiêm chỉnh, mang ra những phương tiện và khả năng tốt nhất theo luật định để làm công việc này, không cam kết cứu cánh, không cam kết chữa khỏi. Nếu ông thầy thuốc đang chữa bệnh lại để bệnh nhân đang bị mổ nằm chờ đi coi chiếu bóng rồi mới về mô tiếp, ông t a vi phạm cam kết về phương tiện, ô ng ta đã làm việc không cẩn trọng. Chuyên môn về mắt, lại đỡ đẻ là không làm đúng kh ả n ă ng. Có giao k è o là cam kết về khả năng, có giao kèo là c am kết về cứu cánh. Hai đứa lên xe bus đ i về, đố nhau vé xe bus là giao kèo kh ả n ă ng hay cứu cá nh, bán tiệm ăn có cam kết món ă n ngon không, chúng tôi dừng lại ở épicerie nhỏ góc đường đầu khu Cité des Pins mua thêm mấy thứ, cất sang một bê n d â n luật,
148 | nguyên sa
hồi ký | 149 luật thư ơ ng mại, luật thuế vụ, toán tổng quát, kế toá n vi tích lao vào c ă n bếp nhỏ x í u ba thước dọc hai thước rưỡi ngang. Nga vẫn là đầu bếp chánh. Tôi dần dần cũng đã biết làm nhiều thứ. Những giờ rảnh rỗi tôi vẫn sang nhà em tôi, em Thoa, chị Vĩnh, chị bà con, chuyện trò về cách nấu bếp, về những ngày còn ở bên trại, những ngày ở Việt Nam, chuyện trò về nấu bếp tươi vui hơn chuyện trò về những ngày còn ở bên trại, chuyện trò về những ngày còn ở bên trại là m ù a thu lá bay, chuyện trò về những ngày tháng còn ở quê hương là mùa đông buồn bã. Bức màn sắt đã khép xuống. Tưởng như một đời. Tưởng như vĩnh viễn. Tôi học của em tôi cách làm chả giò, cách pha bột cho món tôm chiên bột. Anh cuộn chả giò có vấn đề là bánh vỡ, bánh nó khô thì nó phải vỡ ra đúng không? Đúng. Mà này, lúc khác muốn vỡ bao nhiêu thì vỡ, lúc này vỡ bậy là hỏng ăn đấy. Bánh tráng bây giờ hiếm quý. Thanh Bình và Orient ở Paris họ trúng mấy tàu bánh tráng mua từ trước, tàu ra khỏi Sài G òn thì mất Sài G òn, bánh tráng sang tới Marseille người ta trả giá mua nguyên tàu gấp ba ngay. Có bán không? Không. Đời nào. Người ta mang về bán lẻ chứ. Đúng rồi. Anh vắt nước như thế là đúng. Không bao giờ nhúng từng chiếc bánh tráng vào nước, nó sẽ mủn ra bỏ nhâ n vào là vỡ tung, bỏ vào chảo mỡ là bánh đi một đàng, nhân nổi lều bều chỗ khác còn gì là chả giò. Lấy nước vẫy trên bánh tráng cũng không được, những chỗ còn khô cuộn vào là vỡ lung tung, chỗ có giọt nước thì ướt quá, chỗ khô vỡ cũng làm thành lỗ hồng, chỗ có giọt n ướ c to cũng lủng, lủng nhiều nhân phọt ra, lủng ít mở vào đầy trong nhân bánh ăn mỡ quá. Phải lấy ra mười cái, mười hai cái,
aucune importance, không quan hệ gì, em tôi vẫn dùng thêm những thành ngữ Pháp trong việc giải thích, em tôi nói mười cái khăn, mười hai cái không quan trọng gì, en tout cas, mười cái trở lên nhúng vào nước rồi vắt nước, khăn không kiệt khô, không ướt sũng, còn ẩm ướt. Em tôi vừa nói vừa lấy xấp khăn bông nhỏ, tôi vừa vắt nước, trải ra mặt bàn bếp, lấy ra một chiếc, để bánh tráng lên đó, lấy chiếc khăn thứ nhì để lên chiếc khăn đã có bánh tráng, để lên miếng bánh tráng khác, khi xong mười cái lật ngược toàn bộ lại, bắt đầu cho nhân nhị vào miếng bánh tráng đầu tiên, nằm ở dưới cùng, thẩm thấu được sự ẩm ướt đầy đủ nhất, nay được lật ngược toàn bộ, trở thành vị trí trên cao nhất, theo đúng nguyên tắc nhập kho và xuất kho, first in first out , bánh có độ ẩm ướt đủ, anh thấy không, nó âm ẩm, không ướt sũng, không khô cứng, không chỗ ướt chỗ khô, mình trải nhân lên đó rồi cuộn, nhân dính vào nhau không tơi tả, phải có hai quả trứng gà, anh nhớ hai cái hột gà cho vào khi nhào lộn nhân cho đều nhau, không có nhân không dính, nó tơi ra hết. Củ đậu, anh nói sao, có củ đậu. Có củ đậu nó mới d òn đậm, chả giò không có củ đậu nó khô mà ch ỉ dòn vỏ không dò n nhân. Tôi làm chả giò cho Nga coi, tôi làm chả giò cho các con tôi coi, làm chả giò một mình, không còn ai chú ý, làm chả giò với những âm thanh vô thức bỏ hành vào thịt, bỏ củ đậu vào thịt và hành, đập hai quả hột gà, có miến tàu, mắm muối, trải bánh lên chiếc khăn ướt, trải nhân lên bánh, những âm thanh trở thành đều đặn, mờ nhạt từ lúc nào nhường chỗ cho những âm thanh khác, cho người đàn ông rót cà phê vào chén, chàng rót sữa vào chén cà phê, chàng cho đường
150 | nguyên sa
hồi ký | 151
thêm vào cà phê sữa , 1 tôi nhìn thấy Paroles , ngay tuần đầu cuốn thơ được tung ra, cô bạn gái học cùng lớp, ngồi kế bên trong chuyến tàu từ Provins về Paris, chuyến tàu có mang theo đội banh Troyes từ thị trấn này về Paris giao đấu, chúng tôi cùng nhau đọc chàng cho đường thêm, vào cà phê sữa, bằng chiếc muỗng nhỏ, chàng khuấy đều lên...
Tôi chỉ trôi theo dòng liên tưởng, tôi không hay biết thơ sắp trở lại, với một chữ T hoa đã tới đâu đó, tôi không biết kế toán tổng quát, kế toán vi tích, kế toán vật liệu, bài học chả giò sẽ có mặt đầy đủ trong tiểu thuyết Giấc M ơ .
1 thơ Prévert, dịch: Bàng Bá Lân
Tôi nói tôi thấy hai đèn. Tôi thấy đèn ở phía bên trái. Đèn bên trái rõ ràng rồi đúng không. Thịnh nói đồng ý. Thịnh cũng đồng ý có đèn chiếu trên mái tóc. Bạn tôi nhấn mạnh đèn không chiếu từ trên xuống, trên mặt, trên vai và trên ngực áo không có dấu vết nào của ánh sáng chiếu từ vị trí cao. Lớp ánh sáng bay nhảy trên mái tóc, đúng hơn trên những sợi tóc trên đỉnh đầu là đèn chiếu theo chiều ngang ở tầm cao, chạy phớt qua, lớp ánh sáng hết sức mỏng, mắt đến đóng trois quart , tôi nói ba phần tư, Thịnh nói hơn thế, neuf dixième . Chín phần mười và có chiếc quạt máy chạy, cậu đồng ý không, tôi đồng ý, tôi có ghi nhận có gió thôi, ánh sáng và những ngọn tóc nhảy nhót. Nhanh chóng chiếc máy di chuyển từ trên xuống, không đi xuống nhiều, nhưng những sợi tóc bay nhảy và lớp ánh sáng của nó biến mất, bàn tay cầm điếu thuốc hiện ra ở phía dưới, ở tuốt sâu dưới đáy màn ảnh, bàn tay mặt
152 | nguyên sa
hồi ký | 153
có điếu thuốc, bàn tay trái mang nhẫn, ánh sáng không đồng đều trên hai tay, khói thuốc lung linh, chiếc nhẫn mờ nhạt trong bóng tối, đèn che chín phần mười, đúng, máy di chuyển hình vòng cung nhỏ, di chuyển đơn thuần đầu máy, không, di chuyển cả chân, di chuyển trên đường rầy ba chục độ, ba chục, không bốn mươi lăm độ, mặt ba phần tư bây giờ một trăm phần trăm. Mặt chuyển từ profil trois quart, sang face , tài tử không quay đầu, máy quay chứ không phải tài tử chuyển động, những vật phía sau, cửa vào, thành giường, chiếc hình treo trên tường đã ở những vị trí khác. Chiếc nắm cửa, tấm hình, thành giường đều ở vị trí trên écran cao hơn. Chúng tôi không nói to, ngay khi bất đồng ý kiến, cũng không cất cao giọng. Chúng tôi đã quen đời sống trong những khách sạn Paris lúc đêm khuya. Cất lên tiếng nói với một cường độ âm thanh vừa phải thôi ở những khách sạn yên tĩnh là cũng lập tức vách tường bên trái có tiếng gõ, vách tường bên phải có tiếng gõ và giọng nói cao hơn chút nữa là tiếng gõ thình thình ở tầng trên dọng xuống. Ba lần về Paris thi, ba lần Việt đưa tôi đi lòng vòng Saint Michel, ba lần tôi quẹo vào con hẻm nhỏ nằm song song với một khúc Saint Michel này, chỗ St Michel đụng với Racine. Việt phản đối vào đây làm gì, đường Champo có gì lạ đâu mà coi, Việt phản đối rồi chấp thuận, Việt bao giờ cũng thương yêu bạn bè, bao giờ cũng nhường nhịn. Tôi nhìn con đường nhỏ tù túng, tôi nhìn rạp chiếu bóng, Việt cười vui tươi, mẹ kiếp ngày xưa tuần nào chúng mình cũng đi rạp này, tôi nhìn khách sạn Hotel Champolion đối diện rạp chiếu bóng. Việt như chợt nhớ ra chỉ ngón tay lên bảng hiệu màu nâu lở lói những mảng trắng đục, Việt huých cùi chỏ.
- Cậu nhớ không?
- Nhớ chứ!
Việt nói:
- Thằng Thịnh trước ở đây đây này.
Việt chửi thề:
- Mẹ kiếp!
Bạn tôi nói tội nghiệp thằng Thịnh. Bạn tôi nói thằng Thịnh chết rồi. Việt hỏi cậu biết không? Tôi gật đầu nói Thịnh chết rồi. Thịnh ở ngay khách sạn Champo này. Tôi vẫn lên đây ngủ chung với nó. Thành bảo tôi thằng Thịnh ho lao mày cứ ngủ chung phòng với nó, mày đi Chamonix chữa lao là cái chắc. Thịnh có hay ho, nhưng Thịnh không ho lao. Tôi cũng không ngủ nguyên đêm với Thịnh nhiều. Có đêm ba bốn giờ sáng chúng tôi mới ngủ. Hai thằng nằm xoay lưng vào nhau. Những đêm mùa hạ Thịnh nằm dưới sàn, nhường giường cho tôi. Tảng sáng tôi dậy, Thịnh mới leo lên giường. Những đêm hai thằng làm việc với nhau tới khuya, tới cả tảng sáng, tôi không ngủ, cởi chiếc robe de chambre của Thịnh ra trả lại khổ chủ tôi xuống café Dupont ngay trên đường Saint Michel, đối diện với tiệm sách Gilbert, ăn sáng rồi đi học luôn. Lần nào đến tôi cũng nói lớn robe de chambre của Balzac đâu? Thịnh cười, cằm Thịnh vểnh lên, râu lởm chởm, đi lấy áo cho tôi, những buổi tối nó đang mặc áo robe de chambre Balzac, Thịnh cởi áo đưa cho tôi ngay. Tôi bỏ áo veston, mặc robe de chambre có tên là Balzac vào cười thích thú, Thịnh hăm dọa mày mặc robe de chambre Balzac là mày phải có hứng, đêm nay phải thanh toán, không xong mai tao bỏ giặt không cho mày mặc robe de chambre Balzac nữa. Chúng
154 | nguyên sa
hồi ký | 155 tôi đóng kịch chiếc áo ngủ mang lại cảm hứng.” Cuốn sách có thật hay tưởng tượng nào đã nói cho Thịnh hay tiểu thuyết gia Balzac có chiếc áo ngủ thần thoại. Mỗi khi ông viết văn, ông đều mặc vào chiếc áo ngủ thần thoại đó. Trong suốt một đời. Chiếc áo ngủ không bao giờ được mang đi bỏ giặt vì nhà văn đã có kinh nghiệm không tìm thấy chiếc áo ngủ để mặc vào, cảm hứng sẽ không tới. Tuổi huyền thoại chúng tôi thêm mắm thêm muối, thằng này nói Balzac đã mặc chiếc áo ngủ thần thoại đó vào là mặc luôn viết luôn một mạch xong cuốn tiểu thuyết mới thôi, mới cởi áo ra leo lên giường ngủ. Hôm sau nhà văn mang bản thảo trao cho nhà xuất bản, trả cho món tiền đã vay từ trước, cầm lấy món tiền ứng trước mới, đi may bộ đồ lớn mới tinh, tậu chiếc ba toong mới tinh, lên xe song mã đi tới những sòng bài, những nơi có ánh đèn hoa hè hội. Ông đã may đồ mới một trăm lần, mua một trăm cây ba toong, mặc vào chiếc áo ngủ thần thoại một trăm lần trong suốt một đời người. Balzac đã hoàn thành một trăm tác phẩm không hơn không kém. Tôi hỏi không giặt bao giờ.
- Không một lần?
Thịnh gật đầu, đoạn chắc:
- Không một lần!
Đêm hỏi han, đêm trò chuyện, đêm vẽ lại bối cảnh, vẽ lại vị trí của tài tử, vị trí và cường độ đèn, hai đứa cười hích hích vừa làm việc vừa nói chuyện ông Balzac có cả chuyện thực và chuyện tưởng tượng, có một thời cho thực tế, có một thời cho tưởng tượng, có một thời cho tưởng tượng và thực tế lẫn lộn bất khả phân và cũng không cần thiết cách phân. Tôi vặn hỏi bạn tôi cậu mới giặt robe de chambre phải
156 | nguyên sa không. Bạn tôi gật đầu, khuôn mặt tội lỗi. Tôi hăm tao mà không có hứng không làm xong bài là mặc kệ mày. Đêm đó tôi cởi chiếc robe de chambre của Thịnh ra hai lần, Thịnh đồng ý phải phối kiểm, hai đứa chạy xuống nhà, mụ quản lý hét lên:
- La Chúngclé!tôi lao đi.
Mụ quản lý hét lớn hơn:
- La clé, s’il vous pla î t!
Tôi ng ư ng mở cửa. Thịnh quay người lại vểnh chiếc cằm râu ria, ném chiếc chìa khoá phòng lên mặt quầy, cười và nói lịch sự.
- Excusez moi!...
Chúng tôi vào rạp Champo, coi lại phim, chạy ra lên phòng làm việc, chạy xuống, vô rạp Champo lần nữa rồi lại trở lên phòng. Mỗi lần đều không phải trả thêm tiền, đầu tuần Thịnh đã thương thảo với người chủ rạp, cũng là láng giềng trước cửa, cho hai anh em chúng tôi trả tiền một lần, ra vô không hạn định số lần vì nhu cầu học vấn. Sự cảm thông được thành hình giữa hai người láng giềng và hai người ít nhiều có liên hệ nghề nghiệp. Phim Ba Mười Sáu Bậc Thềm , chúng tôi coi nhiều nhất. Ra vô cả chục lần. Rashomon . Le Voleur de Bicyclette . Phim câm của Charlie Chaplin. Ánh sáng lung linh trên những ngọn cây của Rashomon Thịnh nói phải để lentille. Thịnh cho tô i con số của lăng kính. Tôi không cãi lại. Thịnh đi học trường điện ảnh chứ không phải tôi. Tôi chỉ đi coi phim classique cùng với Thịnh r ồi về phòng Thịnh cùng với bạn tôi, phụ một tay với bạn tôi, viết lại từng cảnh, viết lại vị trí của máy
hồi ký | 157 quay phim, vị trí và cường độ của đèn. Tôi giúp cho Thịnh không nhiều. Tôi có mặt để bạn tôi có bạn. Cần người phụ máy cho người thợ máy khỏi ngủ gật trong đêm khuya. Thịnh đưa tôi vào cả một thế giới huyền hoặc. Thịnh nói chiếc bánh xe đạp trong Le voleur de bicyclette phải quay gần. Không phải từ xa “dum” lại. Phải mang máy lại gần, chĩa vào bánh xe quay très gros plan, máy đặt trên xe đi trên một con đường thấp hơn đường xe đạp đi, không quay từ trên cao xuống, không từ dưới lên, quay trực diện và ngang tầm thì đường xe hơi di chuyển có để máy trên đó phải thấp hơn, và phải di chuyển cùng tốc độ. Đó cậu thấy không, bánh xe quay thế này có phải là paranomique không, không , para quay cảnh tượng cả một khu vực lớn, có phải plan général không, chỉ có một mình nó, đâu có nguyên chiếc xe và người đạp xe, không phải plan général , không phải g ros plan, très gros plan đấy. Thịnh giảng cho tới khi trên màn ảnh chỉ có bàn tay có chiếc nhẫn của người s amourai cầm chuỗi thanh gươm, nhẫn lấp lánh, chuôi thanh gươm thành bối cảnh, quay chỉ một chiếc nhẫn là quay chi tiết, phải hai máy ít nhất là hai máy, thường thì nhiều máy hơn hai, máy quay toàn bộ cảnh, máy quay nhiều người, máy quay mặt nhân vật chính, máy quay mặt nhân vật phụ, ngoài ra chắc chắn có máy riêng quay détail, quay chiếc nhẫn của bàn tay cầm gươm, nhẫn là đối tượng, bàn tay là bối cảnh một, chuôi thanh gươm là bối cảnh hai. Thịnh chỉ cho tôi cách đọc ngược, nhìn ảnh, đọc lên vị trí máy, vị trí đèn, giống như người nghe bản đàn viết lại được những ký âm trong chính tả âm nhạc. Thịnh nói trong nhạc chính tả âm nhạc dictée musicale, đây là dictée
cinématographique. Tôi đóng vai trò bộ nhớ giúp ích Thịnh phần nào, thời đó chưa có video bật lên coi lại từng đoạn, phải vào rạp coi, vừa coi vừa viết, chạy về nhà viết kỹ càng hơn, chạy sang coi lại bổ túc, hai trí nhớ thì hơn một trí nhớ dù cho chỉ có một trí nhớ có chuyên môn. Thịnh nói “dum” đó, cậu thấy không? “Dum” tôi biết. Thịnh cũng đã nói cho tôi hay “dum” vào, mang ảnh lại gần, làm cho ảnh lớn lên, “dum” ra làm cho ảnh xa đi.
- Tốc độ?
Ảnh chạy lại gần vùn vụt. Tôi trả lời:
- Tối Thịnhđa!lắc
đầu. Thịnh nói accord đấy, thấy không. Máy một “dum” rồi ngưng. Máy hai tiếp tục từ vị trí gần, “dum” nhẹ nhàng. Thịnh nói “dum” ào ào rối “ couper” cho trường hợp diễn tả một xúc động, một bất ngờ, thì được, trường hợp này có diễn tả sự dịu dàng, cần “dum” tiếp nối “dum”. “Dum” lần đầu không phải chỉ sử dụng đơn thuần khả năng “dum” của máy. Máy chỉ mang lại một độ gần giới hạn, và chỉ có một tốc độ “dum” giới hạn. Khi thời gian “dum” dài, tốc độ cao hơn khả năng của máy, phải cho máy chạy tới chứ còn gì nữa. Cậu hiểu không. Hiểu. Máy di chuyển trên đường r ày. Tôi nói. Thịnh khoát tay. Bất cứ. Trên đường rày. Trên xe phóng tới. Trên máy bay lao xuống. Chúng tôi thì thầm trong gian phòng ngủ. Thì thầm bàn cãi trong Champo.
- Hitchcock đó.
- Đâu?
- Đó.
- Cha mập đứng bán bong bóng đó!
158 | nguyên sa
hồi ký | 159
Hitchcock bao giờ cũng xuất hiện trong phim của mình một lần. Thịnh đã nói với tôi điều này. Không phải xuất hiện như một vai phụ. Chỉ thoáng hiện. Người phu quét đường lẫn trong bối cảnh thật xa xôi kia. Người ngồi đọc báo trên ghế đá công viên khi nhân vật chính đi qua. Thoáng hiện. Thịnh nói rất thoáng hiện, rất bối cảnh, máy không dừng lại ở Hithclock, không tìm cách gây ra sự chú ý nào nơi khán giả. Như chữ ký của một danh họa mờ nhạt dưới tác phẩm, lẫn dưới cỏ, lẫn trong hoa dại, lẫn trong sóng biển mênh mông. Những nhánh lúa của đồng lúa vàng, nhánh nào không có chữ ký của Van Gogh, ngón chân vũ điệu nào không có chữ ký của Degas, vó ngựa nào không có chữ ký của Toulouse Lautrec, cành cây gập mình trong bão tố nhìn thấy là thấy chữ ký của Gauguin rồi.
- Cậu đồng ý nhìn cành cây gập mình trong gió bão là thấy Vlaminck rồi không?
- Tôi đồng ý!
- Không thể có ai có những đồng lúa chín vàng như Van Gogh...
- Chữ ký rồi...
- Chữ ký rồi...
Việt nói tội nghiệp thằng Thịnh. Hai lần đầu về Conservatoire des Arts et Métiers đi thi vấn đáp, lần trước chứng chỉ Kế toán Cao đẳng, lần hai Kế Toán và Thuế Vụ, tôi đều nhờ Việt đưa tôi đi chơi ở Saint Michel rồi rủ bạn tôi cho tôi rẽ vào Champo. Lần nào Việt cũng nói tội nghiệp thằng Thịnh. Tôi cũng nói tội nghiệp thằng Thịnh. Việt hẳn nhiên không biết, tôi cũng không biết, Thịnh trở về, cùng với những ngọn đèn đóng trois quart , đóng neuf
dixième , những chiếc máy quay phim phóng tới, những ông Hitchcock mờ nhạt, những lớp ánh sáng mỏng, phớt qua, lung linh trên tóc. Tôi không biết Thịnh và điện ảnh sẽ vào đầy ắp Giấc Mơ, đầy ắp trong tri giác sự vật ngoại giới trong Thơ Nguyên Sa 2, Thơ Nguyên Sa 3 , và những bài còn đây. Trong rừng núi có rừng cây, ở đuôi con mắt có ngày tháng xưa. Trong ngày tháng của người ta, Có còn tiếng vạc bay qua lạc loài, Tiếng kêu trên núi dưới trời, ở trong tiếng vạc ngậm ngùi tiếng thơ. Thịnh đã về quê hương năm 1955, Thịnh đã vĩnh viễn bỏ đi. Anh không biết anh đã để lại đâu đó cho tôi những bài học điện ảnh rời. Cả những mảnh nhỏ của chiếc robe de chambre thời tuổi trẻ.
160 | nguyên sa
Phần Hai
hồi ký | 161
Hải dương học
T hực tại là đối tượng, trí tuệ của người sáng tạo là chiếc máy chụp hình và tác phẩm là tấm hình, quan niệm nghệ thuật của thế kỷ mười chín không phải là quan niệm nghệ thuật của thế kỷ hai mươi, dù cho với hội hoạ, âm nhạc, tiểu thuyết hay thi ca. Thực tại là lúa mì được nhà sáng tạo biến chế thành bột, cộng thêm những chất đường, muối, bơ, sữa, kem, nho khô... nhào nặn và làm thành chiếc bánh có tên là tác phẩm. Quan niệm về sự sáng tạo này cũng quá đơn giản. Ngay cái gọi là chất bột, một mình nó, đã là cả một tổng hợp. Tổng hợp của trí tuệ có cả những yếu tố yếu tố ý thức và vô thức, trong đó có cả những yếu tố mà chính người sáng tạo cũng không nhận thấy. Nhân vật chính của Vài Ng ày là Trung úy Lan. Tôi tên là Lan, nhưng chỉ mang cấp bậc Thiếu Úy cho đến ngày bỏ nước ra đi. Trung úy Lan họ Đoàn, tôi họ Trần. Mẹ tôi họ Đoàn. Thân mẫu tôi tên là Đoàn Thị Xuân,
162 | nguyên sa
hồi ký | 163 từ trần năm 1973 đúng ngày rằm tháng bảy. Vu Lan đưa mẹ về trời, bài thơ tiễn mẹ tôi có thử làm, không bao giờ xong. Cảm xúc là động lực đưa tới thơ, cảm xúc quá lớn lao lại là biển mênh mông phủ lên tất cả, dù cho tiến trình sáng tạo. Thân phụ tôi có hai bà đều họ Đoàn, mẹ tôi là Đoàn Thị Xuân, dì tôi là Đoàn Thị Lý, hai bà không có liên hệ ruột thịt. Trong một số bài viết tôi có ký những tên hiệu mang họ Đoàn. Một số lần Đoàn Văn. Một số lần Hư Trúc. Những bút hiệu này dùng rất ít, chỉ ở trong những bài báo, và chỉ trong thời kỳ còn ở trong nước. Tôi không dùng lại những bút hiệu này ở hải ngoại bao giờ. Nhưng Đoàn Văn, tại sao lại Đoàn Văn? Tại sao lại Đoàn Lan? Tình yêu ý thức hướng về mẹ pha trộn với mặc cảm Œ dipe ? Trong đáy sâu tôi vẫn thấy Đoàn Lan gần gũi, thân thương. Đoàn Lan trong Vài Ng à y làm cho tôi cảm thấy vừa là tôi, vừa không phải là tôi và tôi yêu quý. Đoàn Lan không thể là tôi được vì chúng tôi mang những tên họ khác nhau, Đoàn Lan có người yêu tên là Hải, tôi ngoài tên Lan còn có tên Phúc và không có người yêu nào tên là Hải. Hải chết bất đắc kỳ tử, đạp nhằm mìn, tôi không có người yêu nào gặp cảnh ngộ này. Tên Phúc là tên gia đình vẫn dùng để gọi tôi, từ nhỏ, cho tới khi tôi rời khỏi quê hương đi du học Pháp quốc năm 1949, khi tôi trở về Việt Nam cuối năm 1955, đầu 1956, tên khai sinh được sử dụng trong mọi liên hệ xã hội, dần dà lan vào gia đình, tên Phúc phai mờ, mẹ tôi gọi tôi là Phúc thời gian đầu, rồi cũng dùng tên Lan, dì tôi khi gặp trong những năm năm mươi, phần cuối, vẫn hỏi “anh Phúc hồi này có khoẻ không?” Dì tôi và các em tôi, em Mai, Oanh, Thu, Đồng, Ngà dần dần thay thế tên Lan
164 | nguyên sa cho tên Phúc trong việc xưng hô. Thời gian sống ở Mỹ, từ năm 19 7 5, thỉnh thoảng lắm mới có người gọi tôi là Phúc. Có anh Sinh, anh em bà con, cũng ba chục năm không gặp vồn vã trong lần gặp lại “cậu Phúc lúc này ra sao?” Anh Ngọc, nhà tử vi, chiêm tinh lừng danh, là người cuối cùng tính cho tới nay gọi tên Phúc khi chúng tôi gặp nhau. Tôi nghĩ chúng tôi quen nhau lâu lắm, có thể từ thập niên bốn mươi, đầu thập niên bốn mươi, khi tôi chạy bom đồng minh lánh nạn về Hà Đông. Những bạn bè thời đó gọi tôi bằng tên gia đình dùng để gọi tôi. Tôi vẫn muốn có cơ hội trò chuyện lâu hơn với anh Ngọc nhờ anh giúp tôi tìm lại những kỷ niệm xa xưa. Phúc không có trong ký ức của Đoàn Lan, không hiện ra như một thành phần xương thịt của nhân vật tiểu thuyết này. Còn Hải, người yêu, người vợ sắp cưới của Đoàn Lan, người đã mang trong cơ thể đứa con của tình yêu, cũng như những bạn đọc V ài Ngà y, tôi chỉ gặp Hải trong thế giới tiểu thuyết. Hẳn nhiên tôi có gặp Hải trước người đọc Vài Ngày một vài thời gian trước đó. Thật lâu, ở tuốt đầu đời, tôi có quen chị Hải, con gái bác Hàm, chị Hải rất đẹp, mắt to và đen lánh, răng khểnh, má lúm đồng tiền. Tôi không nghĩ là hình ảnh của Hải trong đời sống thực tế có một liên hệ nào với việc cấu tạo ý thức nhân vật. Vô thức, tôi không biết. Có thể. Nhưng, ý thức, nhân vật Hải được chọn lựa trong phòng giáo sư trường Văn Học, gian phòng nhỏ xíu có hai cửa sổ, một cửa vào, kế cửa sổ bên mặt của người bước vào cửa ra vào có bàn của cô Hảo lo việc thâu ngân, chiếc bàn kế bên cửa sổ phía trái có ấm nước trà ly tách cho các thầy giải khát trong giờ giải lao, sau giờ tan học hay trước giờ vào
hồi ký | 165 học, bàn hiệu trưởng đối diện của số thứ nhì này, sâu nơi cuối phòng. Tôi nhìn thấy cuốn sách của giáo sư Trần Thế Hiển để trên bàn có bày biện bình nước trà và ly tách. Tôi hỏi anh, anh gật đầu. Đúng là cuốn sách của anh. Tôi ngỏ ý muốn đọc, tôi hỏi, anh Hiển gật đầu. Giáo sư Trần Thế Hiển dạy môn vật lý, anh là một trong những Vật Lý Chi Bảo của Trung học Sài Gòn. Nguyễn Xuân Nghiên, Trần Thế Hiển, Vũ Văn Tiên, Lê Văn Lâm, Nguyễn Bích Như... là những cái tên sáng chói của trường phái vật lý công lập và tư thục của thủ đô Việt Nam Cộng Hòa từ cuối thập niên năm mươi. Các anh Nghiên, Hiển, Lâm, Như và Tiên đều là những người bạn tôi rất yêu mến từ những ngày đầu làm nghề dạy học, đầu năm 1956, ở Chu Văn An. Tôi hỏi, anh Hiển cho hay anh có dạy mấy giờ cho chứng chỉ Hải Dương Học. Anh Hiển có dạy ở Đại Học Khoa học, điều này tôi có biết. Anh Nghiên, anh Lâm và anh Tiên cũng như tôi gốc Chu Văn An. Anh Hiển gốc Đại học Khoa học, gia nhập Chu Văn An và các tư thục cùng với chúng tôi. Tôi vẫn tưởng anh chuyên trị Vật Lý. Cuốn sách có tựa đề Hải Dương Học và những lời giải thích của anh Hiển cho tôi biết anh có dạy cả chứng chỉ Hải Dương Học. Tôi không nghe anh giải thích về chứng chỉ khoa học này, tôi đợi anh nói xong đưa ra đề nghị, ý tưởng mới xuất hiện trong tôi, đã trở thành thôi thúc. Tôi xin anh Hiền cho tôi mượn cuốn Hải Dương Học. Tôi không cầm giữ được ước muốn mượn bạn tôi cuốn sách này. Tôi đã lật mấy trang, đọc thấy hải âm, hải lưu, hải vọn g... Tôi đã mơ hồ thấy hình dáng, tôi đã mơ hồ thấy nhân vật của Vài Ngà y tên là Hải. Cuốn sách mượn được được đọc say mê, hết các danh từ
Những ngày kế tiếp, mỗi khi có giờ giải lao trùng hợp, Hiển và tôi rút vào một góc nói chuyện hải dương học. Bạn tôi giảng cho tôi những đặc tính của sóng thân mỏng, cách sử dụng thủy ba kế và thủy lưu kế, máy đo lưu lượng, nhiệt độ, tốc độ dòng chảy của những con sông trong lòng biển, anh đố tôi màu sắc của biển, tôi có đọc sách Hải Dương Học , tôi biết võ vẽ, tôi phóng ra:
- Màu xanh lam nhạt!...
- Gì nữa? -Màu xanh lam thẫm!
- Gì Hiểnnữa?hỏi dồn dập.
Tôi ngập ngừng, anh nhắc nhở:
- Màu trắng...
- A phải rồi, màu trắng đục như sữa! Tôi được trớn, nói luôn:
- Nước biển màu vàng...
Cả hai chúng tôi cười khoái trá cùng nhau đọc lên:
166 | nguyên sa bắt đầu bằng chữ hải, hải âm, hải vọng, hải đảo, hải lưu, tới các loại khác biệt của mỗi loại, hải lưu ở Bắc Băng Dương khác biệt với hải lưu ở Nam Băng Dương, hải lưu ở cực không giống hải lưu nơi biển gần đường xích đạo, hải lưu rồi hải băng, hải băng mùa đông không phải là hải băng ở cực hải băng ngàn năm không phải hải băng kết tụ lại rồi tan đi từng mùa, biển và những loại thủy triều, triều bán nhật, triều toàn nhật, triều hỗn hợp, triều dâng, triều rút, triều trễ, các loại triều và các loại sóng, sóng đàn cừu, sóng mao dẫn, sóng thân mỏng, sóng hấp lực... các loại sóng rồi các dụng cụ đo lường biển khơi, thủy lưu kế, thủy ba kế, máy triều ký...
hồi ký | 167
- Nước biển màu đỏ!
- Nước biển màu đỏ!
- Nước biển màu nâu!
- Nước biển màu nâu!... Tôi giữ cuốn Hải Dương Học của bạn tôi như thế cũng cả năm. Khi tôi trả lại, anh Hiển cười nói “tôi có cuốn khác rồi.” Anh Hiển nói tặng tôi cuốn sách về Hải Dương học đó. Tôi không từ chối cám ơn bạn tôi và giữ lấy cuốn sách quý giá. Tôi đã viết xong Vài ngày được hơn tháng, nhưng tôi biết rõ mình chưa đọc hết Hải Dương Học, có những đoạn tôi đọc thoáng qua, chỉ đọc cho nhu cầu xây dựng nhân vật, đọc lại vẫn thấy mới, có những danh từ tôi đọc kỹ nhưng không cảm thấy hiểu thấu đáo, như sự khác biệt của sóng tiệm tiến và sóng nội tại, yếu tính của hải lưu ở Nam Băng Dương và Cực Đông Tây... Sách quý giá vì mông mênh mà còn thân thương như người bạn đường, không những nó mang lại xương thịt cho nhân vật, nó còn mở ra những sinh hoạt của nhân vật. Trí tưởng tượng cấu tạo ra nhân vật Hải tìm thấy một phần cảm hứng do những gợi ý của sách đồng hành. Tôi không có cơ hội giải thích cho các bạn đồng nghiệp chứng kiến những cuộc trò chuyện giữa tôi và GS Hiển về Hải Dương Học. Tôi nhớ anh Nguyễn Bích Như, vật lý, cười tủm tỉm. Tôi nhớ anh Nguyễn Văn Khánh nhìn tôi thật lâu với cuốn Hải Dương Học trên tay. Tôi nhớ tôi chỉ cười cười, tôi không nói với ai về những nguyên nhân việc tìm hiểu và nhờ Trần Thế Hiển giúp đỡ tìm hiểu về Hải Dương Học. Tôi cũng không nói lần nào với anh Hiển về những những nguyên nhân đó. Tôi không biết bạn tôi có cơ hội đọc Vài Ng ày lần nào không, truyện bị tịch thu
ngay khi phát hành, nếu có thì hẳn nhiên anh nhìn thấy ngay vì sao tôi đã làm khổ anh với Hải Dương Học. Anh Hiển kẹt lại Việt Nam, anh Lâm, anh Như tôi không biết rõ có đi được không, anh Khánh bên Úc, anh Nghiên đã từ trần ở Việt Nam từ cuối thập niên bẩy mươi, chị Nghiên và các cháu sang Pháp ở cùng trong tỉnh Montpellier với tôi, nơi tôi định cư lần đầu. Lúc sau chị mở dược phòng ở Paris, các cháu đã lớn và thành đạt. Trong mọi trường hợp, dù cho anh Hiển có đọc những dòng chữ mà Trung úy Lan viết trên những vách tường bỏ hoang những danh từ hải dương học, những thủy ba kế, thủy lưu kế, máy triều ký, anh không ngờ anh đã giúp tôi nhiều việc sáng tác khác vượt ra khỏi khuôn khổ của Vài Ngày Làm Việc ở Chung Sự Vụ . Hải Dương Học đã trở về với thơ trong những ngày tháng tỵ nạn chính trị tại Mỹ. Có mặt trong Hoa Đào và Hoa Sen. Trong Tháng Tám Riêng. Trong Hải Âm.
Hoa Đào và Hoa Sen
Em vào tắm dưới hoa sen
Những khe nước chảy những miền hải lưu, Những thuyền lạc dưới trời sao
Hỏi em hay hỏi hoa đào của anh, Chỗ đào có lá sen xanh
Bờ xa cỏ thấp nghiêng mình dáng sông, Tuyệt vời giữa một dòng trong Đầu sông tóc ướt, lưng vòng biển khơi...
Hải Lưu trong sách khoa học, hải lưu thời tuổi nhỏ, nhập một với những dòng hải lưu của những vùng biển nơi quê người thành hải lưu thơ. Thơ Nguyên Sa bỗng nhiên đầy biển. Những con sóng tưởng vào đó rồi đi ra,
168 | nguyên sa
hồi ký | 169
đã ở lại, kết tinh, hải băng tưởng có mùa đã trở thành hải bằng miên viễn. Bài thơ tôi mới làm tuần trước, đọc lại, thấy biển, thấy hải lưu, hải âm, hải vọng, dưới một hình dạng khác biệt, cất lên những tiếng hát của riêng.
Món Quà Buổi Sáng
Anh nằm ngó biển ngó mây, Trông lên thấy bóng hao gầy đi ngang,
Anh xin chút áo lụa vàng, Với cây kẹp tóc, anh làm mồi câu... Sáng mai trời đất bảy màu Chiếu lên lóng lánh trên đầu kình ngư, Em nhìn coi biển bao la Gửi em, với tiếng thở qua đêm dài.
Tôi có phân vân giữa bóng và một, giữa chiếu và châm. “Trông lên thấy một hao gầy đi ngang” và “Châm lên lóng lánh trên đầu kình ngư”. Thơ có yếu tính xây dựng trên phi thực, thực tại trở thành thực tại từ một ảnh về thực tại. Cùng với xoá bỏ liên tự. Có thể nói đầu k ì nh ngư lóng lánh như một biển thu gọn, tiếng thở thao thức một đêm bao la như tiếng biển, cũng không thể nói như thế, toàn thể có liên tự là một toàn thể, toàn thể không có liên tự là một toàn thể khác. Tuyệt đối.
Đường Lý Thái Tổ
T hỉnh thoảng có bạn văn nào về thăm Việt Nam, nhất là những người cũ của nhóm Trình Bày, khi trở qua, có cơ may gặp gỡ, tôi thường hỏi thăm về ngôi nhà ở đường Lý Thái Tổ. Từ nơi tôi cư ngụ từ năm 1963, trong căn nhà phía sau lưng trường Văn Học, tới tòa báo Trình Bày , đường Lý Thái Tổ tôi từ từ đi ra đầu ngõ, leo lên chiếc xích lô, thường là xích lô đạp, ít khi xích lô máy hay tắc xi, vì quãng đường tương đối gần, vì sau giờ dạy học, di chuyển bằng xích lô đạp thoải mái hơn. Xe chạy từ Phan Thanh Giản, ngược lên ngã Bảy, thời đó đường Phan Thanh Giản chưa chạy một chiều, xe đụng ngã Bảy quẹo mặt đi một khúc là thấy tòa báo Trình Bày nằm ở phía trái, bên kia đường, đối diện Bệnh Viện Nhi Đồng. Những ngày tôi có hai giờ dạy học buổi sáng, sáng nào tôi cũng có giờ dạy học, khi thì bốn giờ liền, từ bảy giờ ba mươi đến mười một giờ ba mươi, khi thì ba tiếng chấm dứt lúc mười giờ
170 | nguyên sa
hồi ký | 171 ba mươi, thời khắc biểu của trường bao giờ cũng dành cho tôi giờ đầu bảy r ưỡi tám rưỡi vì trường học bao giờ cũng muốn buổi sáng vào học là phải có đủ giáo sư ngay, trường hoạt động trật tự, sáng vào học mà có một hai lớp không có thầy vì kẹt xe, hay vì một lý do nào khác học sinh chờ trong lớp lâu quá ùa ra hành lang, chạy sang lớp bên cạnh đứng ngoài cửa sổ đùa giỡn, toán khác đứng trên balcon chọi phấn xuống người bộ hành rồi reo hò khoái trá thì khổ. Giáo sư trường Văn Học có ba loại, các vị thích đi sớm, cùng nhau ăn quà sáng ở tiệm phở Sáu Lèo bánh cuốn nóng bên kia đường, hay ngồi trò chuyện trong phòng giáo sư, các vị đến đúng giờ, đúng boong, hễ chuông vang lên là thầy tới, loại ba là các vị nhẹ nhàng là năm ba phút, có khi cả nửa giờ hay hơn. Lúc còn dạy học ở Chu Văn An, Cao Thắng, ở Văn Lang, Nguyễn Văn Khuê... có những khoảng thời gian tôi thuộc thành phần không đúng giờ. Mỗi trường có biện pháp riêng để giải quyết. Chu Văn An là sự hiện diện nghiêm khắc của Hiệu trưởng. Cụ Vũ Ngô Xán ra cửa văn phòng đích thân đón thầy giáo trẻ “mới ở bên Pháp về” đưa ph ấn cho tôi và giục mau lên, mau lên, ông phải lên ngay đi, trễ cả mười lăm phút rồi. Cụ Vũ mỗi khi cho tôi những lời hướng dẫn có khuôn mặt nghiêm khắc, hơi nhăn nhó mà có vẻ dáng của một vị từ phụ nhiều hơn là một cấp chỉ huy. Ngay những ngày đầu vào nghề gõ đầu trẻ, cụ Vũ đã gọi tôi vào phòng Hiệu trưởng. Ông không thắt cà vạt thì cũng được, nhưng ông phải bỏ áo vào trong quần, ông phải, ông phải..., ông không được, ông không được, ông phải..., vài tuần một lần, cụ Vũ cho tôi những bài học về tác phong của một thầy giáo, ông không được ra
đá bóng với học trò trong giờ chơi, ông phải ở trong phòng giáo sư, ông không được ăn thịt bò khô với học trò trước giờ vào học, giờ chơi thầy giáo phải xuống phòng giáo sư, không được ngồi trong lớp chơi cờ ca rô với học sinh... Cụ Phạm Xuân Độ, Hiệu trưởng trường Cao Thắng sang tận nhà tôi ở đường Pasteur, gần trường Cao Thắng, nhà tôi ở đối diện mặt tiền Bộ Công Chánh, trường Cao Thắng ở phía ngang Bộ, lên lầu, ngồi bên giường sờ tay vào đầu xem tôi bệnh thật hay giả, có ốm đau gì không hay lười trốn giờ dạy học đây. Cụ Ngô Duy Cầu, Hiệu trưởng trường Văn Lang, cụ Nguyễn Văn Khuê, Hiệu trưởng trường Nguyễn Văn Khuê cho xe xích lô đến tận nhà hay trường mà tôi dạy giờ trước để câu tôi về trường nhà cho chắc ăn. Cụ Cầu cho câu tôi bằng xích lô máy, tôi ra khỏi Nguyễn Văn Khuê sớm năm phút, xích lô máy phóng như bay đưa tôi về Cô Giang, tôi còn đủ thì giờ ăn bánh cuốn Thanh Trì chả lụa ở phòng giáo sư, rồi vào lớp khi chuông vừa reo, thoải mái. Thời gian dạy trường Văn Học, tôi đã trở thành một thầy giáo biết tôn trọng giờ khắc của trường học, biết giữ khoảng cách với học sinh, không cùng nhau đá bóng, đánh cờ hay ăn thịt bò khô... Các vị Hiệu trưởng mà tôi có cơ may làm việc cùng đã lấy ra gi ùm tôi chiếc áo thư sinh mang về từ trời Tây. Dường như cụ Vũ, cụ Ngô, cụ Nguyễn, cụ nào cũng rộng lượng với tôi, cụ nào cũng nhìn tôi bằng cặp mắt ông này còn trẻ, ông này mới ở bên Tây về, ông này dạy Triết đương nhiên lơ mơ. Tôi đã được rèn luyện bởi nghề nghiệp cho đúng với khuôn mẫu của nghề nghiệp, lại nữa tôi ở ngay kế bên trường, tôi là giáo sư nhà, xếp tôi mỗi ngày vào giờ đầu là chắc ăn. Những con tính không sai,
172 | nguyên sa
hồi ký | 173
Hiệu trưởng và nhân viên phụ trách thời khắc biểu Văn Học biết rõ tôi có mặt luôn luôn đúng giờ nhưng không biết khi tôi hết giờ dạy tôi không còn rẽ vào phòng giáo sư nữa, tôi ra ngay cửa trường lên xe xích lô đi đâu. Buổi sáng nào có bốn giờ liền dạy xong tôi về nhà nằm khoèo. Những buổi sáng nào chỉ có hai giờ, chuông ra chơi chín giờ rưỡi là tôi nhẹ nhàng lên xích lô. Tới bệnh viện Nhi Đồng, tôi không nói cho người xích lô tắp sang phía trái ngay mà đi thêm một khúc ngắn, tới Phở Tàu Bay mới băng qua. Phở Tàu Bay thịt chín nạc thái to bản, hành chần ngọt và cay nồng, ăn xong sang quán nước hẻm kế bên ăn bánh rán và uống cà phê, rồi thả bộ xuống tòa soạn Trình Bày. Những hôm dạy học luôn bốn giờ, buổi chiều không có giờ hay ít giờ hơn, bốn năm giờ tôi trực chỉ tòa soạn Trình Bày , không ghé ngang tiệm phở, không dừng lại uống cà phê ăn bánh rán, không tà tà ghé thăm người bạn này ở nhà thờ Bắc Hà, người bạn thân thương kia trong những con hẻm gần nơi đó. Tôi biết thật rõ những con hẻm của đường Lý Thái Tổ khu nhà thờ Bắc Hà. Tôi biết thật rõ tòa soạn Trình Bày. Tôi biết thật rõ chủ nhiệm Trình Bày là bạn Thế Nguyên, tác giả cuốn truyện tôi rất thích là cuốn Hồi Chuông Tắt Lửa. Buổi chiều phía trước tòa soạn Trình Bày mát, căn nhà hướng Đông, chúng tôi ngồi uống la de. Thế Nguyên chiều nào cũng có la de và đậu phọng hay thịt bò khô cho tôi. Tôi tới là Thế Nguyên mang đồ nhậu ra. Tôi uống vui vẻ, Thế Nguyên nhìn tôi cười hồn nhiên. Tôi nói thôi, nói mới uống rồi, Thế Nguyên cũng mở chai, đẩy d ĩa đậu phọng tới. Tôi vẫn cảm thấy quý mến những người cho tôi đồ ăn. Tôi cảm thấy như giữa chúng tôi được thiết lập vô hình một liên hệ thịt da.
Không có nhiều người cho tôi đồ ăn. Có Mai Thảo. Tôi nhớ mãi con vịt Tứ Xuyên. Tôi nhớ mãi món trứng bọc giò lụa chiên ở tiệm cơm tây gần đường Calmette. Croissant và café crème buổi sáng ở La Pagode, món cá bống chiên tiệm đồ biển góc đường Trần Hưng Đạo trông sang Bùng Binh. Cao Thế Dung và tô phở dưới mưa trong Trung Tâm Nhập Ngũ Ba. Trần Hoàng Ngọc cho tôi bánh chưng ở đường Santa Ana ngày Tết đầu đời lưu lạc. Tôi nhớ Lê Bá Chư chỉ cho tôi rút xương con gà làm món gà nhồi rút xương một ngày Lễ Tạ Ơn đầu thập niên tám mươi. Tại sao? Kỷ niệm những ngày đói ở nhà giam Chi Nê, ở cải hối thất Sơn Tây di tản? Khuynh hướng thích được săn sóc, yêu mến, đối xử dịu dàng? Buổi sáng, ngôi nhà ở đường Lý Thái Tổ này nắng chói chang, phòng ngoài hầm hập, chúng tôi rút vào căn phòng trong, ngay kế bên khu thợ in sắp chữ làm việc ngồi trò chuyện. Thế Nguyên vẫn đẩy chai bia và món nhậu. Thế Nguyên là nhà văn đứng về phía tả, nhưng tôi vẫn thấy anh đứng về phía hữu. Tôi không thấy tác giả Hồi Chuông Tắt Lửa là chính ủy, tôi thấy anh là tu sĩ. Tôi thấy Thế Nguyên là một kẻ giang hồ. Tôi thấy anh muốn thế thiên hành đạo. Tóc cắt ngắn, gầy, cao, ră ng hơi hô , hô đều hai hàm, mắt hiền hoà những khi đối đầu bật ra những tia quyết liệt của người chọn lựa đứng yên tại chỗ, dù bị quật ngã, không lùi. Tôi nhìn thấy Thế Nguyên đầu ngẩng cao, người đứng thẳng, những tia mắt quyết liệt khi đối đầu, nhưng cho tôi, bao giờ cũng chỉ có một Thế Nguyên hiền hoà, thân tình, ân cần và rộng lượng. Có khi Thế Nguyên đến nhà tôi buổi tối để cùng nhau bàn cãi về sự khác biệt giữa Sartre và Camus, dấn thân của Sartre
174 | nguyên sa
hồi ký | 175 và những nhà văn trong trường phái hiện sinh khác biệt với những người viết tả chân xã hội như thế nào? Tôi nói với Thế Nguyên tôi đồng ý với Sartre trong phân biệt ý hướng của văn xuôi và ý hướng của văn vần. Thơ vượt lên trên những câu hỏi “Viết Cho Ai”, “Viết Để Làm Gì”. Nên văn chương dấn thân dù to lớn đến đâu vẫn không có “thơ dấn thân”. Chúng tôi bàn cãi về Vài Ngày Làm Việc ở Chung Sự Vụ. Thời điểm đó nhiều người viết quan tâm đến thể loại tiểu thuyết được gọi là “truyện không có chuyện” hay “tiểu thuyết mới”. Tôi bàn cãi với Thế Nguyên những chọn lựa của tôi khi đi vào Vài Ng ày, không phải là “truyện không có chuyện” mà trái lại “truyện có nhiều chuyện.” Đời sống có nhiều chuyện, có một cuộc đời dạy học, có một cuộc đời viết văn, có một cuộc đời tình ái, mỗi cuộc đời tiến ra tiền trường ý thức vào thời điểm của nó, chỉ viết ra một chuyện trong một truyện là giản lược cái phức tạp vào cái đơn thuần, là trừu tượng hoá cái cụ thể. Trung úy Lan có bi kịch nơi sở làm, có bi kịch trong đời riêng, trong cuộc tình lãng mạn với Hải. Chúng tôi cũng bàn nhau về những đổi thay của tiểu thuyết hiện đại và sự phát triển của tâm lý học ngôi ba. Mối liên hệ giữa tôi và Thế Nguyên không dừng lại ở trong thế giới văn chương. Những ngày cuối tháng, Thế Nguyên nói với tôi những khó khăn về tài chính. Người đứng đầu tạp chí Trình Bày chạy đôn chạy đáo để thay dàn chữ mới, chữ hồi Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, Trình Bày in, mòn tong mòn teo. Chữ hồi Descartes, Nhìn Từ Phương Đông , tôi cũng vẫn đưa cho Trình Bày, chữ mới toanh, cả những chữ romain 6 cho chú thích cũng rõ từng nét sắc, ngay khi mo rát đã thấy rõ ràng
không một nét nhoè. Ngày Tết chúng tôi cùng nhau đánh x ì phé, trên căn gác xép của tòa soạn Trình Bày, cũng là nơi cư ngụ của gia đình Thế Nguyên. Tôi không nhớ thật chính xác những người đã gặp gỡ vui xuân. Luôn luôn có Thế Nguyên, rất hữu. Hình như một năm có Nguyễn Đình Toàn. Tôi không nhớ chắc. Năm khác có kịch tác gia Trần Lê Nguyễn. Tôi nhớ rõ. Thường thì tôi thua. Năm “đụng ” Trần Lê Nguyễn tôi thua liểng xiểng. Năm nào tôi cũng có thơ cho Trình Bày, trước khi có V ài Ngày. Nhìn Em, Nhìn Thành Phố, Nhìn Quê Hương, Thư Cho B ạn ở T ù , Sân Bắn, Tắm, Cắt Tóc Ăn Tết, Thằng Sỹ Chết, Cầu Siêu cho Nguyễn Quang Đại Chết Ở Khe Sanh... Tôi không nhớ có lần nào trò chuyện sâu xa với Thế Nguyên về thơ. Thế Nguyên biết Đám Tang Nguyễn Duy Diễn viết sau cái chết của một người bạn và Nguyễn Duy Diễn có thật. Nguyễn Quang Đại cũng có thật, “những suốt dù thênh thang bọc gió” mang dấu vết của quân nhu, từ ngữ chính xác quân trang dụng, dù có nhiều suốt, dù bọc gió là dù mở, là sự sống, không bọc là sự chết. Nhưng không có lần nào tôi đi sâu vào kỹ thuật thơ trong những trò chuyện với Thế Nguyên, ngay cả trong những buổi tối Thế Nguyên ghé tôi. Những buổi tối thập giữa thập niên sáu mươi, cả cuối sáu mươi và đầu bảy mươi, tôi trò chuyện về thơ với Trần Dạ Từ. Chúng tôi bàn nhau về chữ “và” trong Nhìn Em, Nhìn Thành Phố, Nhìn Quê Hương. Buổi sáng thức dậy, anh cởi bộ quần áo ban đêm và cơn ác mộng. Bộ quần áo ban đêm giống như cơn ác mộng? Không phải. Bộ quần áo ban đêm như cơn ác mộng. Không phải. Và. Bộ quần áo ban đêm và cơn ác mộng. Buổi sáng thức dậy, anh cởi bộ quần áo ban đêm và
176 | nguyên sa
hồi ký | 177 cơn ác mộng. Chữ và ở với tôi tính ra cũng ba mươi năm, cũng như thảo mộc, chim muông, nó lớn lên, thay hình đổi dạng. Nó cũng như thiên nhiên có mùa lá xanh, có mùa hoa nở. Tôi thấy mình mỗi tuổi một già, mỗi tuổi một suy yếu. Chữ “và” cũng như thiên nhiên dường như không đi cùng trên một con đường thời gian với kiếp người. Như là con sông, và là cây cầu bắc ngang thế giới thực tại và thế giới phi thực. Tôi nhớ mơ hồ một bài thơ nói về sinh nhật của Trần Dạ Từ gợi ý cho tôi về chữ và. Tôi vẫn tin rằng mọi vật đều có nguyên nhân. Tuần trước tôi hỏi Trần Dạ Từ có bài thơ nào nói về sinh nhật và có bài thơ nào hay chính bài sinh nhật đó Từ đã sử dụng chữ và hay một chữ nào đó gợi ý cho tôi tìm thấy chữ và. Từ nói không nhớ. Từ nhớ thật nhiều chuyện. Nhớ những ngày tháng hạnh phúc của chúng tôi. Món thịt trừu ở Thiên Nam. Những buổi chiều đón tôi ở cửa trường Chu Văn An, hai anh em chở nhau, tôi chở Từ trên xe gắn máy Capri hai màu trắng đỏ, đi ăn tối. Nhưng Từ không nhớ gì về Sinh Nhật và “và”. Những người làm thơ không nhớ thơ mình là chuyện quen thuộc. Từ nói hôm nào có thì giờ bỏ ra một tuần thì tìm thấy. Tôi vẫn mong Trần Dạ Từ tìm thấy một tuần. Trong mọi trường hợp, những ngày tháng của hào hứng lớn bắt đầu từ ngày bước vào cuộc đời quân ngũ đó là những ngày tháng hạnh phúc. Những ngày tháng kế tiếp, dạy học trường nhà, dưới sự điều khiển của Hiệu trưởng nhà và hai cô phụ tá Chu Thị Hảo và Chị Ba, hôm nay cùng với Thế Nguyên tìm hiểu văn chương thì phải dấn thân hay phải viễn mơ, ngày mai phân tích kỹ thuật thi ca với Trần Dạ Từ, là những ngày tháng hạnh phúc tuyệt vời.
Thơ xuân
N gay khi trở lại được với thơ ở hải ngoại, “ và ” trở lại. Thơ Xuân cũng trở lại. Thơ Xuân cũng khởi đầu từ những ngày tháng đó. Tháng Giêng và anh vươn vai và mở cửa Trời trên cao, em cũng ở trên cao, Tháng Giêng cho anh một nụ hoa đào Anh gởi cho em một trời mộng tưởng.. Tôi không có thói quen làm Thơ Xuân. Tôi không nhớ suốt thời kỳ những năm năm mươi có làm bài Thơ Xuân nào không. Một năm trước khi tôi đi nhập ngũ, anh Nguyễn Đình Vượng, chủ nhiệm tạp chí Văn có tới gặp tôi ở văn phòng trường Văn Học. Nguyễn Đình Vượng tới trễ, sau mười một giờ ba mươi, học sinh đã về hết, chỉ còn một lớp học giờ thứ năm trên lầu hai, nhân viên văn phòng cũng ra về, trường chỉ còn một giám thị coi chừng lớp học còn lại và tôi tiếp Nguyễn Đình Vượng ở
178 | nguyên sa
hồi ký | 179 văn phòng ở tầng trệt. Anh Vượng có điện thoại trước nói muốn gặp, tôi nhận lời ngay và hẹn anh giờ khắc thuận tiện này. Trường học lúc nào cũng có người, hẹn sau mười một giờ rưỡi là tốt nhất, sau mười hai giờ rưỡi thì càng vắng vẻ hơn, nhưng có phần trễ tràng cho bữa cơm trưa. Anh Vượng điện thoại nói muốn gặp, tôi có hỏi anh lý do, anh nói thì để khi gặp nhau sẽ nói. Nguyễn Đình Vượng là một khuôn mặt độc đáo của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam. Mai Thảo một lần có viết 38 Phạm Ngũ Lão, bài báo nói về nơi họp mặt văn chương đó, về nhà in Nguyễn Đình Vượng như một trung tâm sinh hoạt văn chương, báo chí văn nghệ, chủ nhân là người có tâm hồn, có tình cảm. Nhà in Nguyễn Đình Vượng ở trong một căn phố, mặt ngoài, nhỏ xíu, văn phòng có bàn của anh Vượng, ghế cho khách, hai ghế, từ sau tấm vách ngăn cách phòng ngoài và phòng trong, là hai chiếc máy in, dàn thợ chữ ở trên gác lửng. Giấy in còn mới tinh, những khuôn đã in xong, những cuốn sách đã hoàn thành việc in ấn chỉ còn chờ đóng xén chiếm phần lớn các khoảng trống còn lại, còn bị chồng chất lên nhau những ngày có những toán thợ nữ tới làm công việc gấp đóng chỉ, quết hồ, vô bìa. Tôi đến nhà in Nguyễn Đình Vượng nhiều lần thời gian mấy năm gần cuối thập niên năm mươi, Mai Thảo đưa tôi tới Nguyễn Đình Vượng, tôi sửa mo rát những bài viết của tôi cho Sáng Tạo , những lần sửa mo rát đầu đời, những chữ Romain đầu đời, buổi sáng mà giống như đêm canh thức, sửa chữ báo Xuân mà như trông nồi bánh chưng lúc gần sáng. Bẵng đi c ũ ng năm sáu năm không có liên lạc gì với Nguyễn Đình Vượng. Anh Vượng tới tôi có việc gì? Sự hiện
diện của Nguyễn Đình Vượng có sắc thái trang nghiêm, người khách quý và chủ nhà thăm hỏi lẫn nhau, khách đáp ứng những thúc giục của chủ nhà vào đề. Anh Vượng đưa tặng tôi một tờ Văn . Tôi cầm tờ báo khổ hai mươi hai rưỡi, mười bốn rưỡi, kích thước căn theo hệ thống đo lường Pháp, lúc này, nơi đây, với hệ thống đo lường Mỹ được gọi là 5 rưỡi 8 rưỡi, chúng tôi cùng cười hân hoan, anh Vượng hân hoan và hãnh diện, tôi có thêm cảm xúc của người tiếp nhận. Nguyễn Đình Vượng nói tôi muốn Nguyên Sa cho Văn một bài thơ, tôi hỏi thơ hay văn xuôi, anh Vượng nói rõ thơ, tôi ngập ngừng rồi nêu lên câu hỏi:
- Thơ NguyễnXuân?Đình Vượng gật đầu vững chắc:
- Thơ Xuân.
Anh chỉ khẳng định chính xác như thế trong một giây ngắn, anh mau chóng đưa ra chọn lựa thoải mái hơn:
- Thơ Xuân... Hay thơ gì cũng được...
Tôi vui vẻ nhận lời, mấy hôm sau tôi mang tới toà soạn Văn bài Tám Phố Sài Gòn.
...
S ài Gòn ngồi thư viện rất nghiêm
Tờ hoa trong sách cũng nằm im Đầu thư và cuối cùng trang giấy Những chữ y dài trông rất ngoan...
Một bài bảy chữ, thơ tình, không có Xuân gì cả. Bài thơ làm trước khi có lời yêu cầu của Nguyễn Đình Vượng. Tôi không có thói quen làm thơ thúc đẩy bởi sự giục bài của báo chí anh em. Thời điểm của Báo Xuân mang lại thật nhiều giục giã. Tôi nộp cho anh em, bằng hữu, người
180 | nguyên sa
hồi ký | 181 này cái truyện ngắn, người kia bài biên khảo. Biên khảo viết lúc nào cũng được, truyện ngắn gay hơn, cũng còn có thể viết theo sự đòi hỏi. Nhưng thơ, thơ mình muốn không được, phải nó cũng muốn, nó có tới mới được. Còn Thơ có chủ đề Xuân thì vô phương. Tôi nghĩ là tôi không làm được. Tôi chưa làm thơ Xuân bao giờ. Tôi lại được đọc những bài thơ Xuân hay tuyệt của các nhà thơ đàn anh, thơ Xuân của Đông Hồ, thơ Xuân của Vũ Hoàng Chương. Những tác phẩm về văn vần có chủ đề Xuân của hai nhà thơ lớn này có trọng lượng lớn, có sự hiện diện lớn, thơ Xuân của Đông Hồ và Vũ Hoàng Chương trùm kín bầu trời Thơ Xuân một thời. Tôi đưa ngay Cắt Tóc Ăn Tết cho Thế Nguyên, bài thơ Xuân đầu tiên, bốn năm sau, mau chóng bài thơ được đọc trong anh em Trình Bày từ trước khi Xuân Trình Bày in xong. Động lực nào làm tôi tới được với Thơ Xuân, cơn gió kỳ lạ nào đã đưa thơ Xuân tới với tôi? Nguyễn Ngọc Lan trước giờ vẫn nhìn tôi nghi ngờ. Nhà thơ phe hữu này đến đây làm gì? Tôi có tất cả những yếu tố hữu, cả từ đời sống đến tác phẩm. Tôi làm thơ tình, chỉ thơ tình, có cả thơ tình và tình cờ, có cả thơ tình vì đời sống, có cả thơ tình như chọn lựa. Tôi cũng nói với Thế Nguyên tôi không thích loại thơ thời cuộc. Ngôn ngữ thơ tự nó là một thế giới, nó không là ký hiệu, là dấu chỉ cho một thế giới nào khác. Văn xuôi là dấu chỉ biểu hiện những sự vật. Thơ tự nó là sự vật. Làm sao nó có thể dấn thân? Nhóm Trình Bày có nhiều bằng hữu thật trong sáng. Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Văn Trung, những khuôn mặt hàng đầu của nhóm văn nghệ này không hiện ra thu hút với tôi. Tôi có giao thiệp nhiều với Nguyễn Văn Trung, nhưng
Trung là người của biên khảo, tôi có viết biên khảo, nhưng vẫn chỉ cảm thấy gắn bó với thi ca. Nguyễn Ngọc Lan xa lạ. Nhưng Nguyễn Quốc Thái ngây thơ và tình tự, Diễm Châu sâu thẳm đa dạng, Hoàng Ngọc Biên hào hứng, Mai Vi Phúc hiền hòa... Những cuộc trò chuyện với Thế Nguyên về giá tiền sắm bộ chữ Romain mới, với Diễm Châu về Malcolm X, với Nguyễn Quốc Thái về Sư đoàn 18 và thị trấn Tây Ninh, về thơ tự do, tất cả kết hợp lại thành chuyến xe chạy trên những con lộ thênh thang có hơi thở của núi non và biển cả. Hơi thở của những đêm hội thoại về tác phẩm L’homme revolté của Albert Camus mới phát hành, về kịch Le Diable et le bon Dieu của Sartre đang trình diễn, về những ngày tháng ở Paris, đột nhiên trở lại trong một bối cảnh khác, bối cảnh của những tiền hô hậu ủng, những đảo chính chỉnh lý, bối cảnh của chiến tranh kéo dài hiện ra như vô tận. Cái gì đã làm cho Thơ Xuân đột nhiên tới? Không khí ở Trình Bày? Hoài niệm của những ngày tháng Paris? Đời sống làm phải cất lên tiếng nói? Tôi không biết... Tôi không nghĩ rằng sự suy nghĩ về cuộc đời đã làm cho th ơ gần gũi với đời. Cảm xúc. Tôi nghĩ rằng có sự xúc động đến từ sự sống do bằng hữu, do hoài niệm, do va chạm đau đớn. Có cảm xúc như thế đó. Có rung động như thế đó. Tôi đưa Cắt Tóc Ăn Tết cho Thế Nguyên.
Cắt cho ta, hãy cắt cho ta.
Cắt cho ta sợi dài,
Cắt cho ta sợi ngắn.
Cắt cái sợi ăn gian,
Cắt cái sợi nói dối,
Sợi ăn cắp trên đầu,
182 | nguyên sa
hồi ký
S ợi vu oan dưới gá y,
Sợi bè phái đâm ngang,
Sợi ghen tuông đứng dọc, Sợi xích chiến xa, sợi giây thòng lọng,
S ợi hưu chiến mỏng manh, sợi hận thù buộc chặt, Sợi nấp trong hầm,
S ợi ngồi trong hố,
Sợi đau xót như dây dù chẳng mở
Sợi treo cổ tình yêu, sợi trói tay hy v ọng, Cắt cho ta... ...
Cả tôi và Thế Nguyên, tôi nghĩ, đều không biết rằng bài thơ Xuân đó mười năm sau trở thành bài thơ Xuân đầu tiên. Tháng Giêng và Anh, Âm bản, Thơ Xuân Áo Xanh, Thơ Xuân Áo Vàng là những bài kế tiếp. Tự Thọ là bài mới nhất, của Xuân Bính Tý.
Tự Thọ
Sáu tư tuổi, sáu tư tròn, Niềm vui tâm cảm không còn của riêng, Những phần Thượng Đế cho thêm, Ta mang chia lại, chợ trên đỉnh trời. Mang theo một xấp giấy mời, Mời em, mời nói, mời cười, mời quen Mời thơ khai bút mừng em, Mời thân bước xuống từ trên má đào. Tôi không có lý do nào để chọn má đào hơn là má hồng.
| 183
Báo “Sống”
Tất cả thơ Xuân là giả. Bối cảnh: giả. Thời gian: giả. Cảm xúc: giả. Làm sao có thể làm được một bài Xuân thật? Thời đại chúng tôi không còn nữa những ngày tháng thưởng xuân, lấy giấy bút thảo mấy vần thơ mừng năm mới vào thời điểm sáng mùng một Tết. Thơ Xuân của thế hệ chúng tôi là thơ Xuân đăng báo, động lực thúc đẩy làm một bài thơ xuân là nhu cầu báo Xuân. Nhu cầu hiện ra từ một đến hai tháng trước khi mùa Xuân tới. Ở trong nước cũng như ở hải ngoại. B áo Xuân chu ẩn bị trong khoảng thời gian trên dưới hai tháng trước khi báo mang đi in, cũng phải một hai tuần sau mới in xong và khi báo in xong phát hành cũng còn một thời gian nữa mới tới Nguyên Đán. Ở hải ngoại, báo Xuân phát hành một tháng trước ngày Xuân là thường, có tờ như Văn và Hồn Việt nhiều năm vừa Tết Dương Lịch là phát hành số đặc biệt Xuân Âm Lịch rồi. Không gian là một lý do thúc đẩy báo Xuân ra
184 | nguyên sa
hồi ký | 185 sớm, sự khắc nghiệt của thị trường là một lý do khác. Báo Văn in xong ở quận Cam, Cali, phải gói gửi đi Hoa Thịnh Đốn, đi Houston, sang Paris, sang Berlin, nếu một tuần trước Tết mới in xong gửi đi báo tới nơi sau ngày Tết thì chỉ tiệm sách còn nước gởi lại nhà báo. Không ai mua báo Xuân sau khi ba ngày Tết đã trôi qua. Cầm lên đọc cũng không còn thích thú gì. Có nhiều độc giả đọc thơ Xuân trên báo Tết trước Tết và có cả những người đọc thơ Xuân ngay đúng ngày Tết. Nhưng người làm báo in báo Xuân trong đó có thơ Xuân phải in nhiều tuần trước Tết, người làm thơ Xuân đăng báo Tết làm thơ Xuân nhiều tháng trước Tết. Thời kỳ tôi còn ở trong nước, báo Xuân tung ra ngày 23 tháng chạp, tức là một tuần trước Tết. Tôi chưa bao giờ tìm thấy cảm hứng làm thơ Xuân vào đúng ngày mùng một Tết. Tôi không một lần nào khai bút làm thơ đầu năm. Cắc Tóc Ăn Tết làm trước Tết trên hai tháng. Anh em Trình Bày đọc Cắt tóc xong lâu rồi thơ mới mang ra sắp chữ. Tự Thọ Xuân Bính Tý, tháng hai năm 1996, được làm từ ba tháng trước, một tháng trước thời gian Giáng Sinh 1995, tôi đã đọc Tự Thọ cho Ngô Tịnh Yên, đưa một bản cho cháu Sông Văn. Thơ Xuân Áo V à ng làm trên chuyến xe đi từ Irvine tới nhà in A.N. Printing của Lê Ngọc Ngoạn. Lượt đi, lúc vừa ra khỏi xa lộ, xe chạy vào đường Katella thơ bật ra. Mùa Xuân em mặc áo v àng. Ở trong thơ cổ chim hoàng hạc bay... Tôi cũng nhận ra những nét thân thương của bắt gặp, những thân thương tưởng bỏ đi, nhưng vẫn còn trong vô thức, còn đó, bao bọc bởi những mơ ước gặp lại, mà chẳng biết làm sao gặp, chẳng biết làm sao tìm.
Anh nhớ em ngồi áo trắng thon
Ngàn năm còn mãi phút gần quen
Em gầy như liễu trong thơ cổ
Anh bỏ trường thi lúc Thịnh Đường...
Hình ảnh người con gái mặc áo bà ba màu trắng thắp sáng trong mộng tưởng và những cảm xúc của những ngày tháng mở ra gặp gỡ mang tới ngay Anh nhớ em ngôi áo trắng thon.. . Hai câu thơ đầu chỉ mở ra, chỉ hành lang đưa tới tiền trường, ánh sáng của tiền trường ý thức mang tới cận ảnh e m gầy... “Gầy như liễu” là một hình ảnh quen thuộc trong ngôn ngữ Việt, cả thi ca và đời sống. Tôi chới với khi bắt được tất cả đối tượng và hình ảnh trong tư thế đối tượng của một hình ảnh khác. Tôi rất bằng lòng. Tôi nói một mình đúng rồi, em gầy như liễu trong thơ cổ, đúng rồi, sự mong manh của em không phải chỉ là như liễu, sự mong manh như liễu đó giống như sự mong manh của hình ảnh liễu mà các nhà thơ thời xưa thường hằng nói tới. Thơ cổ mang tới thơ cổ, sự liên tưởng có thể chỉ mang lại lối mòn, tâm lý học cổ điển đặt liên tưởng ở vị trí thấp hơn tưởng tượng sáng tạo, nhưng khi gắn bó với tưởng tượng sáng tạo, khi được sử dụng như một trợ lực của tưởng tượng sáng tạo, liên tưởng có thể làm được việc tốt. Sự làm việc đó vô thức. Từ những sáng tạo đã hình thành nhìn lại, tôi mơ hồ cảm thấy chính thơ cổ làm vô thức liên tưởng tới thơ cổ khác. Ở đây dường như có bóng dáng của Cao Bá Quát, có bóng dáng Văn như Siêu Quát vô tiền Hán. Thơ đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường . Thịnh Đường không phải là từ ngữ do Cao Chu Thần tạo ra. Nhưng có làm hằn sâu. Văn học Việt nam, th ơ dịch Tản đà, thơ dịch Trần Trọng
186 | nguyên sa
hồi ký | 187
San bay nhảy Thơ Đường và những chú gi ải về những ngày tháng thịnh trị của một triều đ ại. Thơ cổ làm liên tưởng vô thức tới thơ Cao Bá Quát, tới thơ thời Thịnh Đường châm ngòi cho tưởng tượng sáng tạo thắp sáng một trường thi của riêng. Biến đổi một hình ảnh thành một đối tượng, một sự vật, mở ra hình ảnh khác làm khóai trá như khi từ đối tượng tìm thấy hình ảnh lúc thơ đầu. Chóang váng. Ngơ ngác. Bất ngờ. Cảm hứng là một bầu không khí có thể cần thời gian làm nóng, cảm hứng cực điểm làm bật ra là tiếng sét, làm bàng hoàng. Tôi mừng rỡ cực mạnh trước Mùa xuân em mặc áo vàng, Ở trong thơ cổ chim hoàng hạc ba y. Tôi càng bằng lòng thấy liên tự như không có mặt, hắn nhiên tôi không có dụng ý, nhưng tôi cũng không làm một cố gắng nào để đưa nó trở lại dù dưới thể dạng động từ nhân các hạ, hay một thể dùng nào khác. Không có như, không có thua , không có nhường , không có về , hay mế n , hay thay mực. .. Nếu như chim hoàng hạc bay trong thơ có là một hình ảnh đóng thêm vai hình ảnh thành một hình ảnh qua hình ảnh của em mặc áo vàn g thì tốt, còn nếu như tất cả “hình ảnh của hình ảnh” hiện ra như một sinh hoạt ở một thế giới khác không có liên hệ gì với á o vàn g thì càng tốt. Thơ vừa là thế giới hình ảnh, những cấu trúc so sánh, những liên hệ rõ nét và mờ nhạt, vừa là những thế giới khác biệt, không có liên hệ gì với nhau. Càng xa vũ trụ của những liên hệ, vũ trụ của luận lý càng nhiều thơ. Tôi dừng lại ở nhà in của Lê Ngọc Ngoạn thời gian ngắn, bỏ đi ngay trước sự ngạc nhiên của chủ tiệm. Tôi còn h ơ i hối hận là đã dừng lại chỗ dự định đi tới đó. Tôi vội vã trở ra ngay trở lại ngay với chim hoàng hạc ở trong thơ cổ. Ngay lúc khởi
Nỗi buồn phiền về chiến tranh không phải lúc nào cũng là cảm xúc đau khổ cực kỳ to lớn. Nỗi buồn phiền về chiến tranh trong cuộc đời thường nhật với sự trôi chảy của dòng đời là ý tưởng về sự khổ đau nhiều hơn là chính nó. Cảm xúc là một trạng thái tâm hồn sống động, cụ thể, ý tưởng về cảm xúc là trạng thái trí thức của tâm hồn, không lạnh b ă ng, nhưng cũng không sục sôi. Cảm xúc chiếm đoạt, bao trùm, làm chủ toàn diện tâm hồn trong khoảng thời gian của nó. Ý tưởng cho phép sự tồn tại của những ý tưởng khác, có khi trái ngược. Cho nên “khi chân lý ở bên mặt, chúng tôi đứng ở phía mặt, khi chân lý ở phía
188 | nguyên sa đầu chặng đường về, thơ bật ra mạnh mẽ. Tôi tắp xe vào bãi đậu của một khu thương xá phía tay mặt đường Katella loay hoay ghi chép, sửa chữa. Truyền thống làm thơ Xuân cho báo Tết có phần giả tạo. Kỷ luật thời gian, kỷ luật sáng tạo giam giữ thơ. Phải có một động lực cực mạnh bẻ gã y được những khuôn mòn đó thơ mới có thể cất cánh bay lên. Lòng yêu mến thiên nhiên, sự sảng khóai của tâm hồn khi thiên nhiên đổi mới, sự hòa nhập kỳ diệu giữa tâm hồn người thơ và đất trời dường như đã làm thành cảm hứng của những nhà thơ lớp trước. Sự xúc động có tên là khổ đau của tâm hồn trước số phận của dân tộc trong chiến tranh triền miên bốc lên với ngọn gió xuân tới sớm trong tâm tưởng giúp tôi có Cắt Tóc. Thời đó. Bây giờ là niềm mong nhớ quê hương lại có thêm ý thức về thời gian trôi chảy, ý thức về tuổi già, hân hoan xuân thắp sáng bởi những mâ u thuẫn xuân làm cho áo vàng thành thơ xuân áo vàng, xem ảnh xuân thành âm bản xuân, tự thọ là xuân tự thọ.
hồi ký | 189 trái, chúng tôi đứng ở phía trái”, nói theo một thành ngữ được chọn làm phương châm của anh em nhóm Sống . Khi chiến tranh chiếm lấy suy tư, khi thân phận con người làm suy nghĩ lung lao tôi viết cho Trình Bày . Khi tâm hồn căng phồng cơn gió văn nghệ vui chơi, đánh phá, thế thiên hành đạo, tôi đến đường Gia Long ăn phở. Đến với anh em báo Sống . Ăn sáng với anh em ở phở xe mang tên con đường trụ sở báo Sống . Phở Gia Long ở bên lề đường bên kia, đi từ phía Võ T á nh đi lên đường Tự Do, báo Sống ở bên phía trái, phở Gia Long ở bên mặt. Trước khi đến phở Gia Long mới tới góc đường, mà quẹo tay mặt là Thủ Khoa Huân. Tôi và Nga đi tới Thủ Khoa Huân, Nga thăm bà Thu và bà Mai, tiệm Mai Thu, trò chuyện thân hữu hoặc cùng nhau làm những dịch vụ thương mại, tôi rút sang phở Gia Long. Tôi cũng có một người bạn thân là anh Minh ngay trước cửa báo Sống , Nga vào trong nhà thăm anh chị Minh, tôi dừng lại ở xe phở. Tôi thích ngồi dưới đường nhìn lên báo Sống ở trên lầu hơn là lên trên. Ngồi ăn phở, uống cà phê, thoải mái. Lên trên lầu căng thẳng lắm. Chu Tử mắt lờ đờ sau mục kỉnh tìm một... con vịt thả vào chiếc ao, con vịt có hình dáng động vật biết bơi mà thịt xương và lông vũ là h óa chất của một trái bom nặng ký. Đằng Giao và Trần Dạ Từ chúi đầu vào tờ giấy trải rộng. Nguyễn Hoàng Đoan và Huyền Anh từ Quốc Hội, từ Biệt khu Thủ Đô về chúi đầu viết bài, Anh Quân, Duyên Anh, Tú Kếu, Cao Thế Dung chợt hiện, chợt biến. Có hoài những người lạ mặt đến kéo một biên tập viên của tờ báo ra ngoài xì xào một hồi, người khác ngồi cùng bàn với ký giả cười nói vui tươi. Chu Tử khi viết khi trả lời điện thoại, nhiều lúc có nữ kịch sĩ Kim
Cương đối diện, mất nhiều thì giờ hơn cho những người lạ mặt đến nhỏ to những tin mật, những đánh phá, những tổ chuồn chuồn, những ông to bà lớn. Chỗ chiếc bàn có tờ giấy trải rộng của Trần Dạ Từ và Đằng Giao nhiều lần có mặt của xếp ty pô. Hai người viết và trình bày của tờ báo bàn nhau về tin tám cột, tin bốn cột, tin sáu cột. Xếp ty pô Ba Đủ với sự phụ tá Bảy Que hỏi lại cho chắc, tin sáu cột mà lại mang xuống dưới, nằm gần hết chiều ngang mặt tờ báo, ở dưới cả tin ba cột vượt bỏ thông lệ tám, sáu, bốn, ba, cột nhiều bên trên, ít cột nằm dưới. Ba Đủ hỏi, Đằng Giao và Trần Dạ Từ khẳng định. Đúng. Cái sáu cột nằm chỗ này? Bảy Què hỏi. Trần Dạ Từ vững vàng chỗ này. Tôi đến tờ báo Sống thoải mái. Tôi quen thân với mọi người. Ở Trình Bày, giữa Thế Nguyên và tôi có sự cảm thông sâu xa. Với nhiều anh em, tình cảm văn nghệ lớn dậy theo ngày tháng. Nhưng với một số các bạn khác như Nguyễn Ngọc Lan sự tương kính có nhiều hơn sự thân thương. Ở Sống , thì vui toàn diện. Liên hệ giữa tôi và anh em Sống bắt nguồn từ liên hệ với chính tờ báo. Trần Dạ Từ ở tù về nói chuyện muốn cùng Chu Tử ra báo. Báo gì? Báo Sống . Tên cụt ngủn. Có một chữ: Sống. Có liên lạc với Thông Tin chưa? Có liên lạc nhưng liên lạc là một chuyện, giấy phép báo lại là một chuyện khác. Từ hỏi tôi anh có cách nào không? Tôi cũng không biết là tôi có cách nào không. Buổi tối ghé sang chùa Từ Quang thăm Thượng tọa Thích Tâm Châu. Tôi muốn chuyển câu hỏi của Trần Dạ Từ tới nhà lãnh đạo tôn giáo đang có ảnh hưởng lớn trên nhiều lĩnh vực. Và tôi làm công việc đó. Tôi chờ đợi ở Thượng tọa Tâm Châu sự khước từ, nếu như vị Chủ tịch Ủy Ban Liên
190 | nguyên sa
hồi ký | 191
Phái từ chối thì đó cũng là chuyện bình thường, nếu như câu trả lời là để rồi tính thì lại càng bình thường. Nhưng Thượng tọa Tâm Châu trả lời:
- Giáo sư muốn xin giấy phép nhật báo?
Tôi xác
Thượngnhận.tọaTâm Châu cười hồn nhiên.
- Giấy phép báo, được, được. Thượng tọa Tâm Châu thường dành cho tôi những đặc ân. Mỗi khi tôi tìm một cánh tay, nhà lãnh đạo tôn giáo luôn luôn nhìn tôi bằng cặp mắt quảng đại cùng lúc với cánh tay đưa ra. Tôi không biết tại sao. Thượng toạ Tâm Châu cởi mở. Tôi cảm thấy day dứt, lạm dụng. Tôi hỏi chân thành có phiền Thượng tọa nhiều không, thực hiện có khó không, TT Tâm Châu không trả lời khó hay dễ, chỉ nói để tôi thử xem. Tôi hỏi bằng cách nào, TT nói thì t ô i a l ô , a l ô .
Tôi không phải là một phật tử đấu tranh góp nhiều công sức trong những ngày tháng Phật Giáo đ ứng dậy thời kỳ Ủy Ban Liên Phái. Không, tôi không có khả năng tranh đấu và cũng không có ngọn lửa can đảm của một tín hữu quyết tâm. Tôi ở đường Phan Thanh Giản, chùa Từ Quang ở trên cùng một con đường, khúc đường gần gũi mang lại nhiều gặp gỡ chỉ có tính cách tôn giáo, triết lý và văn chương. Tôi không biết tại sao TT Tâm Châu lại đặt ở nơi tôi nhiều tín nhiệm và tình cảm.
TT Tâm Châu trả lời tôi xong, cầm ngay máy điện thoại, quay số và a lô a lô. Tôi không biết Thượng Toạ gọi điện thoại cho ai, đôi bên nói chuyện những gì, máy điện thoại đặt xuống, Thượng toạ gật đầu nói được rồi. Tôi muốn nêu lên những câu hỏi Thượng Toạ nói chuyện với ai đó,
câu chuyện diễn tiến như thế nào, chi tiết ra sao, những người khách đến viếng thăm nhà lãnh đạo đã tới đầy nhà, Đại Đức Giác Đạo đã vào thông báo, Thượng toạ Tâm Châu gật đầu, tôi hiểu và đứng dậy. Thượng tọa bảo tôi thôi giáo sư về nhé, xong rồi, được rồi, yên chí. Tôi thông báo cho nhóm anh em muốn làm tờ Sống là xong rồi, tìm gặp giới chức liên hệ làm thủ tục. Tờ Sống được giấy phép thật. Xuất quân. Xuất quân. Xuất quân. Không khí hồ hởi kinh khủng. Sống chào đời, ra số 1. Không bao giờ có Sống số 2 của lần chào đời lớn đó. Sống ra được số một xong là bị đình bản. Sống sống được đúng có một số thì bị rút giấy phép vô hạn định.
192 | nguyên sa
Tạp chí “Sáng Tạo”
Nhóm Sống có nhiều kiện tướng. Có Chu Tử, thủ quân, Đằng Giao, Trần Dạ Từ bắt bóng. Hàng tiền đạo Tủ Kếu, Huyền Anh, Nguyễn Hoàng Đoàn, đi biên hai cánh tả hữu, đoàn quân trung phong ào ạt có Tô Văn, h ỗn danh “Mô ng Thẩm Thúy Hằng” từ hồi đó. Nguyễn Ngọc Tú, hỗn danh Tú Lác, người dịch văn tài hoa, mang lại cho chúng ta Bố Già , Trần Cẩm vua dịch tin, Nguyễn Hữu Đông bình luận gia, Nguyễn Thụy Long tức Loan Mắt Nhung, Duyên Anh trang Búp Bê, Hồ Hữu Tường học giả, Cao Thế Dung, phê bình văn học...
Nói theo ngôn ngữ của nhà báo kỳ cựu Vũ Bằng tôi muốn ghi nhận “toàn những kiện tướng...” Thời gian đến vui chơi với anh em Sống ở đường Gia Long, cũng như trong hội trường, nhìn thấy toàn những khuôn mặt thân thương, với mỗi người là những gắn bó riêng tư, những tình cảm sâu sắc, những gần gũi tình người. Tội
hồi ký | 193
cộng tác với nhiều cơ quan ngôn luận khác biệt. Tờ Gió Mới của Đinh Từ Thức, tờ Sáng Tạo của Mai Thảo, tờ Văn Học Pham Kim Thịnh, tờ Hiện Đại với Phạm Thái Thủy, Thanh Nam, Trịnh Viết Thành, Đinh Hùng, Mặc Đỗ... Tất cả đều là những tạp chí, chỉ có Sống là nhật báo. Tạp chí là trà thất, nhật báo là sân banh, tiếng “vô vô vô” làm rạo rực khi ngồi coi, khi cảm xúc chuyển thành âm thanh, càng hò reo càng một ngàn lần rạo rực, còn khi cùng những hảo thủ tung hoành trên sân cỏ chân chạy tai lắng nghe thì khỏi nói. Ai nói những người viết báo dắt nhau đi ăn nhậu, rủ nhau ngồi trước quán phở lề đường, hồ hởi trong những trận mạc, cười đau khóc hận những ngày tháng đình bản, tịch thâu trông giống như những học sinh có cặp mắt sáng của tâm sự, có mái tóc bay trong gió tương lai, có vầng trán mênh mông của những giấc mơ, những người nhận xét đó không sai. Ai nhìn thấy những người viết báo là những kẻ giang hồ hảo hớn, những đãng tử mà lại nuôi giấc mộng thế thiên hành đạo, những kẻ văn nhược lại muốn chọc trời khuấy nước, những quan sát viên này ghi nhận được nhiều sự thật. Bạn muốn nói người làm báo ở nước ta là những kẻ được tuyển chọn bởi định mệnh, những kẻ lọt vào mắt xanh của oan nghiệt, những tên cao bồi già, những tay bụi đời miên viễn, bạn đã nắm được thật nhiều sự thật khác. Trà thất không có sự náo nhiệt của xuất quân, không có hồ hởi của giác đấu, không có tiếng gi à y ủng gõ trên sân ga vắng, tay hờm trên báng súng khi con tàu thổi lên ba tiếng còi... Mỗi lần tới Gió Mới khi còn ở đường Cống Quỳnh, về sau lên Đại lộ Thống Nhất, chỗ nào tôi cũng chỉ gặp một mình Đinh Từ Thức hay Đinh Từ Thức với những
194 | nguyên sa
hồi ký | 195 nhà mô phạm. Nơi trà thất này chúng tôi trò chuyện với nhau về những đề tài giáo dục nhiều hơn văn chương. Tôi không nhớ có tòa soạn nào của Văn Học . Phan Kim Thịnh chạy tới lấy bài, Phan Kim Thịnh chạy đi mất. Sáng Tạo có giúp tôi được gặp một số khuôn mặt văn chương. Gặp Thanh Tâm Tuyền, gặp Doãn Quốc Sỹ, gặp Ngọc Dũng, Duy Thanh, gặp cả Thế Phong đến đó chơi, Đặng Lê Kim ngồi đó lo việc phát hành cho tờ báo. Nhưng những gặp gỡ trầm lắng của những cuộc trà đàm không có reo vui, không có đổ mồ hôi, hay hơn nữa để máu, không có chia sẻ hồ hởi của những số báo làm thử. Không có xì xào bị dò xét, bị bao vây, bị đe dọa sinh mạng, không có cơn say của những tiếng hò reo trên sân cỏ. Tôi gặp Thanh Tâm Tuyền vài lần. Doãn Quốc Sỹ vài lần. Tương kính. Giao tình văn chương gần gũi và xa cách bởi cùng một không gian có tên là tương kính. Thời kỳ cộng tác với Sáng Tạo , chỉ có sự gần gũi tình bạn đến mức với Mai Thảo. Tôi nhớ giữa tôi và Trần Thanh Hiệp có cả những sự mâu thuẫn, khác biệt, bất đồng. Hơn một lần khi tôi viết cho Sáng Tạo một bài văn có tính chất văn học hay triết học, Trần Thanh Hiệp có bài biên khảo khác đưa ra những ý kiến khác về cùng một vấn đề. Chúng tôi không có sự gần gũi của tình bạn và cũng không có sự xa cách của đối chọi. Dù vậy, có một khoảng cách. Khoảng cách của ngộ nhận. Một trái núi hiểu lầm đã vô tình được dựng lên giữa Nguyên Sa và các bạn vẫn trong Sáng Tạo , trông thì chỉ như giả sơn, mà vượt qua không được. Hạnh phúc và bất hạnh của tôi trong những ngày tháng đầu tiên về nước, đầu năm 1956 là được Hồ Nam phỏng vấn cho một chương trình văn nghệ gì đó trên
đài phát thanh. Từ Paris, từ những cuộc thảo luận thâu đêm canh thức, từ không khí hừng hực văn chương và triết học của tả ngạn sông Seine, đúng như Thanh Tâm Tuyền đã viết Nguyên Sa mang về cùng với thơ, không khí tự do mà chúng ta mong nhớ. Nhưng người làm thơ từ Paris trở về là con trừu non trước những câu hỏi cáo già của Hồ Nam. Tôi nói. Hồ Nam hỏi và tôi trả lời. Tôi nói về luật bằng trắc, về vai trò của âm thanh trong thi ca. Tôi không biết dừng lại ở những vấn đề tổng quát, không biết phân biệt việc và người. Tôi không biết phân biệt tả ngạn sông Seine và Sài Gòn trong văn chương còn phủ những nho phong. Hồ Nam thọc sâu những mũi kích. Tôi nói về thơ Thanh Tâm Tuyền. Tôi nói về những người chỉ trích thơ tự do. Những lời nói trong bối cảnh của một Paris hiện ra bằng hữu, hiện ra luơng tâm trí thức, trong khuôn khổ của văn học miền Nam thời đó được nhìn ngắm như những lời công kích không thân hữu. Tôi không nhận ra ngay những sự nhìn ngắm nghiêm khắc này. Dần dần tôi mới nhận ra. Mai Thảo những lần khác biệt bất ngờ nói với tôi Thanh Tâm Tuyền q uý anh lắm. Thanh Tâm Tuyền viết những lời chào mừng Nguyên Sa tuyệt đẹp trên tờ tuần báo văn nghệ. Tôi cũng không hiểu rõ vì sao giữa những câu chuyện có những xen kẽ bất ngờ. Không giống như trách cứ. Có một chút vẻ đáng tiếc nuối điều gì. Nguyên Sa đã đi quá xa trong ngôn ngữ? Phải chi không có chuyện đó. Dần dần khuôn mặt vui tươi của Hồ Nam hiện ra rõ nét. Hồ Nam có hỏi lại tôi về những câu trả lời. Tôi giữ lấy niềm tin được phát biểu. Hồ Nam không có nhiệm vụ cho tôi những chỉ dẫn về thế giới văn chương Việt Nam trước
196 | nguyên sa
hồi ký | 197 mặt, cũng không có nhiệm vụ cảnh giác người được phỏng vấn về hậu quả của những động vật vô hình có khả năng chạy nhanh hơn tuấn mã một khi đã được tung ra. Càng lúc tôi càng cảm thấy gần gũi Mai Thảo. Càng lúc tôi càng cảm thấy rõ hơn cuộc đời có nhiều loại núi non trong đó có ngộ nhận, càng lúc tôi càng cảm thấy vượt qua ngọn núi vô hình cũng khó khăn như vượt qua ngọn núi hữu hình hay hơn thế. Thái độ vẫn lịch sự, tương kính, nhưng gặp gỡ thưa vắng, cả trên báo chí và trong đời sống. Nhóm Sáng Tạo , trong tôi, dần dần thu gọn lại trong tương quan với chủ nhiệm Sáng Tạo . Thỉnh thoảng, thời gian đó, thời gian sau đó, và cả những ngày gần đây, có những người hỏi tôi có phải là thành phần trong nhóm Sáng Tạo không? Có người cho tôi biết rằng tôi ở trong nhóm Sáng Tạo. Người khác khẳng định
Nguyên Sa không phải là thành phần của nhóm Sáng Tạo. Tôi không thích chống trả những ngộ nhận. Tôi vẫn nghĩ Albert Camus có lý khi nhấn mạnh ngộ nhận không phải chỉ là chỉ là một kinh nghiệm của con người, ngộ nhận điều kiện nhân sinh, là yếu tính của kiếp người. Ngôn ngữ không phải là tư tưởng, lời nói không bao giờ nói hết được nội tâm, ngôn ngữ cảm xúc không phải bao giờ cũng là trợ lực của ngôn ngữ nói, bối cảnh xã hội mang lại những ý nghĩa khác cho những đối thoại của vở kịch. Tôi thích sự nhẹ nhàng, tôi thích tìm cách chiều chuộng tối đa những người thân thương, khi gặp những mũi nhọn có tên là thù hận, mâu thuẫn, cả lãnh đạm, cả ngộ nhận, như thủy triều khi vầng trăng vắng mặt, tôi rút ra thật xa. Thái độ tiêu cực dường như có ảnh hưởng đến những phản ứng sôi
động xuất hiện bất ngờ. Tôi không thuộc nhóm Sáng Tạo. Tôi có ở trong nhóm văn nghệ này chớ. Mỗi khi gặp Mai
Thảo, thời đó, nghĩ đến Mai Thảo, những thời gian sau, tôi nghĩ tôi ở trong nhóm Sáng Tạo. Tôi có ở trong nhóm Sáng Tạo chứ. Trước khi Sáng Tạo chào đời, Mai Thảo và tôi vẫn cùng nhau đi chơi lung tung ở Sài gòn. Khi Sáng Tạo trong thời kỳ chuẩn bị, tôi nhiệt tình bàn tính với Mai Thảo. Phải ra chứ. Làm chứ sợ gì. Mai Thảo chở tôi trên chiếc xe hơi Austin đi chơi lung tung, tôi lái chiếc xe hào hứng tới rủ Nguyễn Văn Trung về viết cho Sáng Tạo, rủ cả linh mục Trần Văn Hiến Minh cùng đi chuyến xe. Nhà tôi, trong những ngày tháng khởi đầu đó, ở khu Sáu Lèo, trong con hẻm kế chợ Thái Bình, một đầu là Phạm Ngũ Lão, một đầu là đường Bùi Viện, ở khúc gần Bùi Viện. Ra khỏi con hẻm đầu Phạm Ngũ Lão nếu quẹo tay mặt là lên khu phố báo chí, hiểu theo nghĩa có nhiều báo đặt văn phòng trên con đường Phạm Ngũ Lão, khúc ngang hông ga xe lửa. Nếu quẹo tay trái là thấy ngay chợ Thái Bình, không cần quẹo cũng thấy mùi chả kẹp nướng thơm phức, đi qua mặt chỉ là tới rạp hát bóng Thanh Bình. Mẹt bún chả mà Michael Tụ ăn với Liên Hạ ở chợ Thái Bình là hình ảnh của mẹt bún chả tôi đã ăn thật nhiều lần ở đó. Cuốn phim Les Canons de Navaronne tôi coi ở Thanh Bình. Nhưng nếu không quẹo tay mặt, hay tay trái, mà bă ng qua con lộ, sang bên kia đường Phạm Ngũ Lão là đúng ngay ch óc căn phố mang số 38, nhà in Nguyễn Đình Vượng. Tờ báo in không phải một ngày là xong. Máy của anh Vượng chạy khổ 8 trang, một chiếc, chiếc kia 16 trang, máy ở Việt Nam thời đó, không có trang bị hệ thống chân vịt. Người thợ chạy máy
198 | nguyên sa
hồi ký | 199 phải nâng lên từng tờ giấy, rung nhẹ cho giấy được thong thả không dính chùm, khi rung tay động tác rung tay đã có kèm theo động tác đẩy tới rất nhẹ lấy đà, khi động tác rung tay vừa xong, động tác đẩy tới chủ yếu, tờ giấy được đưa vào miệng máy, nhíp kẹp giấy, giấy được thu hút lấy ngay bởi trục cuốn, trục này đẩy qua trục khác, cho tới vị trí bàn chữ, trục cán lên làm thành khuôn giấy có chữ in. Chiếc máy A.B. Dick 360 của Vũ Văn Niên ở đường Euclid có chân vịt. Chín chân vịt, hút giấy lên, đá nhẹ chuyển giấy vào nhíp, Vũ Văn Niên không phải nhấc lên từng tờ giấy, nâng lên, rung nhẹ và đẩy tờ sang cho nhíp. Máy A.B. Dick chạy ngon lành, chúng tôi ngồi nghe nhạc. Khi máy chạy ồn ào chúng tôi nghe rõ tiếng hát Thái Thanh, Niên có bă ng Thái Thanh ca bản ngày xưa có gã từ quan. Tôi hỏi, Niên cho tôi tên bài hát, những chi tiết thơ của Phạm Thiên Thư, ông không biết sao, không, ông Phạm Duy phổ nhạc đấy, không có câu hỏi ông không biết sao, Niên bao giờ cũng tế nhị, nhẹ nhàng tuyệt đối, không để cho câu hỏi nhắc lại có thể làm phiền lòng. Khi máy ngưng chúng tôi nghe tiếng hát Thái Thanh mơ hồ xa xôi, chúng tôi bận mang xấp giấy đã in xong ra khỏi máy, bận rộn thay thế bảng mới, châm giấy, châm mực, nhồi mực, không còn nghe thấy gì nữa khi máy trục trặc. Niên kêu lên chết, kêu lên rối giấy rồi, kêu khổ, khổ... Buổi trưa Niên giục tôi vào phòng nằm nghỉ. Buổi sáng Niên hỏi tôi ông ăn quà sáng chưa? Ông ăn chưa? Tôi hỏi lại. Niên thân thương tôi chờ ông chứ. Vũ Văn Niên bỏ máy, phóng như bay từ đường Euclid, khúc Garden Grove, lên đường Bush, Anaheim không quên mang theo cái mắc áo bằng kẽm để hí hoáy
200 | nguyên sa
mở cửa xe cho tôi, tôi đóng cửa xe, có gài khóa, chìa ở trong xe. Vũ Văn Niên lái xe đưa tôi đi, hỏi đi đâu, trả lời đi lung tung cho ông khỏi buồn, tại sao Niên biết tôi buồn, kể cho tôi nghe những chuyện về bùa mê, cháo lú, những xâm, những thư, những nước hoa ái tình, những tiếng cười hồ ly mà tôi rất thích thú. Mai Thảo cũng chở tôi đi lung tung. Mai Thảo lái xe Austin bay bướm. Ban đêm đường Trần Hưng Đạo không có nhiều xe. Mai Thảo có khi giữ tay mặt, có khi chạy ở phía mặt của chiếc xe chiều bên kia, có khi đang ở bên mặt đích thực lượn một đường cong vèo sang phía đường bên kia bay đi một khúc dài rồi làm vòng cong mới trở về bên phía mặt đích thực. Tuần trước, g ặp một người trung niên nói biết nhiều về Mai Thảo. Người trung niên nói đã nhậu nhiều lần với Mai Thảo. Anh nói có đọc Tháng Giêng Cỏ Non, có đọc Đêm Giã Từ Hà Nội. Anh tự hào biết rõ Mai Thảo, cả trong văn chương lẫn trong đời sống. Tôi lắng nghe. Lẽ ra tôi phải hỏi:
- Anh biết rõ Mai Thảo?
Nếu anh ta trả lời khẳng định, tôi phải hỏi:
- Anh có biết cái xe Austin của Mai Thảo không?
- Anh có được Mai Thảo chở đi chơi ban đêm trên chiếc Austin khôn g ?
- Anh có biết Mai Thảo lái xe bay bướm như thế nào không?Tôimuốn nói lên niềm tin anh không đi trên chiếc xe Austin đó, anh không cùng với tay chơi Mai Thảo cười ngất trên chiếc xe lượn vòng bất chấp luật lưu thông trên đường phố Sài Gòn ban đêm, anh không biết gì về Mai Thảo cả.
Vũ nữ Cẩm Nhung
Trong niên khóa 1955-56 tôi dạy học môn Triết ở Chu Văn An, với tư cách giáo sư dạy giờ, hiểu nôm na là tháng dạy bao nhiêu giờ được trả lương bấy nhiêu giờ, cũng có thể hiểu công việc làm này có tính cách bán thời gian. Tôi bắt đầu làm việc ở Chu Văn An vào đầu năm Dương Lịch, tức là giữa niên khóa. Niên khóa 1957-1958, tôi cũng vẫn phục vụ tại trường Trung Học này với tư cách giáo sư dạy giờ, trường học vẫn do cụ Vũ Ngô Xán làm Hiệu trưởng, tuy gọi là dạy triết, nhưng tôi chỉ dạy có hai môn luận lý học và đạo đức học trong hai niên khóa đầu tiên đó. Tổng số giờ của tô i ở Chu Văn An, năm đầu chỉ có 6 giờ một tuần, năm sau số giờ được tăng lên 12 giờ. Tuy nhiên tôi phải làm việc, kể từ năm thứ hai này, mỗi lúc một nhiều giờ hơn vì dạy học thêm ở các tư thục và mở lớp riêng về triết, dạy ba môn luận lý học, đạo đức học và tâm lý học, luận lý và đạo đức chung cho hai ban A và B lớp T ú Tài 2,
hồi ký | 201
tức là ban Khoa học thực nghiệm và ban Toán, Tâm lý cho riêng ban A, không có Siêu hình học vì môn này chỉ có ban văn chương mới học và sĩ số của ban này thường thưa vắng, không đủ để mở lớp. Các trường Pasteur và Đông Tây Học Đường do cụ Cấn Văn Tố làm Hiệu trưởng, trường Văn Lang của cụ Ngô Duy Cầu, trường Nguyễn Bá Tòng do linh mục Nguyễn Quang Lãm làm Hiệu trưởng, mỗi nơi tôi dạy những môn khác biệt, khi thì Pháp Văn, khi thì Việt văn, không có dạy Triết, vì những tư thục thời điểm cuối thập niên năm mươi chưa có lớp 12, học sinh thi đậu tú tài 1, cả thi viết lẫn vấn đáp, đều đương nhiên được nhận vào trường công. Càng lúc công việc càng bận bịu hơn nhưng thời gian giờ dạy ít hay thời gian dạy nhiều hơn, ra khỏi lớp học là tôi chạy về gặp Mai Thảo. Những ngày có nửa buổi trống chúng tôi gặp nhau nửa buổi. Những ngày trong nguyên ngày, tôi đến đường Ký Con từ sáng sớm, đập rầm rầm vào cửa sắt đánh thức Mai Thảo dậy. Bạn tôi giọng ngái ngủ nói Nguyên Sa, biết rồi, biết rồi nói đây đây để ngăn chân tôi tiếp tục thi triển khả năng làm thành những tiếng động trên khung cửa sắt kéo, đóng chặt và có khóa kỹ. Có buổi sáng, tôi đập cửa, Mai Thảo giọng vẫn còn ngái ngủ nói tôi dậy rồi ông ơi, cửa mở ông vào đi, tôi vào Mai Thảo tìm kiếm lung lao, rồi cười khà khà nói xong rồi, thấy rồi, mất cái bài này thì hỏng hết. Chủ nhiệm Sáng Tạo giấy tờ bài bản không phải lúc nào cũng được xếp trật tự, tảng sáng tỉnh giấc nhớ đến truyện ngắn đầu tay của Thảo Trường gởi tới, mấy hôm trước đọc thấy hay quá, nhưng không biết để đâu. Chúng tôi ra La Pagode, Mai Thảo đưa cho tôi đọc truyện ngắn
202 | nguyên sa
hồi ký | 203 đầu tay của Thảo Trường, tôi vừa đọc vừa nghe Mai Thảo hỏi “ được không, được không?” Khám phá được ngòi bút mới lấp lánh là niềm vui lớn của chủ nhiệm Mai Thảo. Và anh có để nhiều công khó trong công việc làm quan trọng này, những công việc đã mang tới được cho độc giả những ngòi bút tài ba buổi đầu đời, những Thảo Trường, Dương Nghiễm Mậu, Nguỵ Ngữ, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, vv. Buổi chiều, tan trường, không có lớp tối, tôi bay về Sáng Tạo ngay, là đương nhiên. Trên chiếc xe Fiat, hiệu Austin, chúng tôi bay lượn vòng vèo. Ở Nguyễn Huệ. Ở Trần Hưng Đạo. Những đại lộ. Mai Thảo cũng không quên lượn vòng khi xe tới ngôi nhà gần bờ sông Sài G òn. Anh lái cho xe đi quá mục tiêu rồi mới vòng đầu xe dừng lại ở trước ngôi nhà. Chúng tôi ngồi trong gian phòng khách nhỏ, người thiếu nữ khuôn mặt đã trang điểm, đôi mắt rất đen và rất to, phấn nền và phấn hồng đều mỏng, nói với tôi chào anh, nói với Mai Thảo chờ em. Mai Thảo giới thiệu, người thiếu nữ và tôi có thêm cơ hội làm những cử chỉ lịch sự, nàng mau chóng đi ra phía sau bức bình phong, không phải là bức tứ bình có những khoảng không gian ngăn cách mai lan trúc cúc, chỉ là bình phong hình chữ nhật chiều ngang lớn hơn chiều cao, phía ngang kín bưng, ngoại trừ hai ph ía đầu và chân không được che kín. Người thiếu nữ đã đứng vào sau bình phong cười với chúng tôi. Thân mình nàng được che khuất, phía trên ngang tầm vai, phía dưới tới đầu gối. Nàng cũng khởi đầu nói những câu chuyện thông thường với Mai Thảo, em tưởng anh quên, tay chơi cười nhếch mép nói quên thế nào được, thiếu nữ nói tiếp, Mai Thảo chỉ nhếch mép. Thiếu nữ nghiêng
đầu nhìn xuống phía dưới. Tôi nhìn theo đường nhìn của nàng, tôi nhìn thấy hai ống chân của thiếu nữ, thấy nàng làm động tác chân đá đá đẩy ra chiếc quần đã rớt xuống. Nàng có di chuyển thế đứng một bước nhỏ, để cho chiếc quần đi ra khỏi vướng víu. Chiếc quần dài rớt xuống trước, trước quần ngắn hơn nhiều, màu sắc cũng nổi bật hơn nhiều rớt xuống sau. Thiếu nữ nhìn tôi cười có nét e thẹn, tôi cười đáp lại, có phần ngượng ngùng. Mai Thảo dường như không chú ý, anh tiếp tục hút thuốc nhìn khói bay lên chậm và tan loãng còn chậm hơn trong gian phòng nhỏ đóng kín. Khi bàn tay của người con gái để lên trên bình phong tôi ghi nhận ngay trên đó đã có để sẵn quần áo, có một chiếc quần dài, màu đen trông loang loáng, chắc sa tanh, càng lấp lánh khi phản chiếu ánh đèn, một chiếc quần ngắn hơn, màu sắc tươi mát hơn, và chiếc áo dài lụa màu nâu gụ có thêu bông. Người con gái lấy xuống chiếc quần ngắn trước, rồi quần dài, đoạn cởi ra chiếc áo cánh, lấy chiếc áo dài nâu thêu bông. Chúng tôi đi, thiếu nữ ngồi kế bên Mai Thảo trên băng trên, lần đó, nhiều lần khác nàng ngồi băng sau, tôi ngồi kế bên Mai Thảo. Câu hỏi mình đi đâu của tôi khi được nêu lên mỗi lần có những câu trả lời khác nhau. Tôi không hỏi đi đâu từ trước, đi đâu thì đi, lên xe hỏi han thế thôi, không có định kiến. Câu trả lời thường đến từ phiá người con gái.
- Cho em vào Arc en Ciel!
- Cho em đi đâu cũng được!
- Hỏi bác tài!
Vào Arc en Ciel những hôm nàng đi làm, em đi chơi với chúng mình là câu trả lời đến từ Mai Thảo những lần khởi
204 | nguyên sa
hồi ký | 205 hành khác. Mai Thảo lái xe chừng mực hơn mỗi khi có phụ nữ. Anh chỉ bay bướm nhẹ nhàng khi xe đề pa và khi dừng
Nhữnglại. lần chót tôi gặp lại người phụ nữ ấy, Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, tắp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích. Tôi không hỏi, xuống theo ngay, linh cảm có chuyện gì khác lạ. Chúng tôi băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút. Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm, tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm, dị dạng, hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn. Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất, dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, sự va chạm của bàn tay vào những tờ giấy bạc cho nàng biết ngay là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế, nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”, Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói an ủi bằng xúc giác, không có âm thanh nào được phát lên. Tôi muốn nói lên tên người đàn bà hành khất. Tôi chưa kịp nói Mai Thảo kéo tôi băng qua đường. Tôi ngồi vào trong xe, nói lên ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung. Tên người vũ nữ thay quần áo sau tấm bình phong mỗi lần Mai Thảo và tôi tới đón nàng đi làm hay đi ăn, đi ra Pointe des Blagueurs hóng mát. Cẩm Nhung bị tạt át xít trong một
206 | nguyên sa
trận đòn ghen có sức mạnh của tiền hộ hậu ủng, có sự tàn bạo mới của thế kỷ khoa học.
Tôi nhìn bạn tôi ngậm ngùi:
- Cẩm Nhung!
Mai Thảo nhìn về phía trước mặt, như nói một mình, rất khẽ:
- Nhung đấy!
Thời kỳ Tiền-Cúc
Những nhà phê bình văn học sẽ tìm hiểu về Mai Thảo nhà văn, Mai Thảo người đứng đầu của một nhóm văn học. Tôi không phải là người làm công việc này, tôi chỉ có cơ may sống trong thời gian Đêm Giã Từ Hà Nội ra đời, nhìn thấy Tháng Giêng Cỏ Non từ trong trứng nước. Tôi là nhân chứng của sự hình thành tạp chí Sáng Tạo , nhìn thấy ít nhất một phần những yếu tố đã làm cho Mai Thảo trở thành con chim đầu đàn của nhóm văn chương lừng lẫy của thời kỳ văn học chạy dài suốt từ một chín năm tư đến một chín bảy l ă m. Danh từ “nhóm” trong văn chương Việt Nam hiện đại thật lạ. Nhóm chỉ có nghĩa là một tập hợp không có sẵn trang điểm ngôn ngữ nào có vóc dáng quý tộc hay sang cả. Bên ngoài lãnh vực văn chương, nhóm còn thường hơn cả hội, đoàn. đảng ... Nhưng trong văn chương khi mà nhóm không phải là tập hợp những cây viết tài tử như nhóm Vàng Khuyên, nhóm
hồi ký | 207
Măng Non, mà là tập hợp những ngòi bút nghiêm chỉnh, bỗng nhiên nhóm trở thành một đối tượng làm cho người ta phải chú ý. Bởi vì nhóm đã trở thành trường phái. Có một chủ trương văn học nghệ thuật. Có những tác phẩm có tầm vóc. Chủ trương, tác phẩm khác biệt hay chống lại những chủ trương, tác phẩm đã có. Nhóm lãng mạn, trong văn chương Pháp, là một trường phái không chấp nhận trường phái cổ điển. Chateaubriand đi đầu tiên trên con đường khác biệt với Corneille, Racine, Molière... Nhóm Thi Sơn (Parnasse) không còn chấp nhận nữa nền văn chương đầy cảm xúc, nặng trĩu chủ quan của các nhà văn nhà thơ dù cho đó là Chateaubiand, Victor Hugo, Lamartine hay Alfred de Musset, Alfred de Vigny... Emile Zola và những người của trường phái tả chân đánh phá lãng mạn, rồi chính tả chân, trở thành mục tiêu nhắm tới của cả siêu thực, tả chân xã hội và hiện sinh. Mỗi thời có thể có nhiều nhóm văn chương khác biệt, nhưng thường chỉ có một nhóm hiện ra trỗi bật. Thế kỷ 17, trường phái cổ điển sáng chói, trường phái lãng mạn tr ỗi bật trong văn chương Pháp thế kỷ 19. Ở nước ta, thời kỳ tiền chiến có hơn một nhóm văn chương, Tự Lực Văn Đoàn vượt trội. Thời kỳ văn học từ 1954 đến 1975, Sáng Tạo lừng lẫy. Nếu tôi phải chọn hai nhóm văn chương của thời kỳ này tôi sẽ chọn Sáng Tạo và Trình Bày. Nhưng Sáng Tạo thì vang dội hơn Mai Thảo có một lý thuyết văn học mở rộng. Nhà văn đứng đầu nhóm văn học này biết rõ là anh không thích những cái gì, muốn làm cái gì, bác bỏ quan niệm văn học nào, tìm kiếm những tác phẩm nào, nhắm tới những sáng tạo nào. Sáng Tạo muốn làm khác với Tự Lực Văn Đoàn,
208 | nguyên sa
hồi ký | 209 nhắm tiến tới “cái mới”. Đứng về phía cái mới là tiêu đề của một số bài văn có tính chất lý thuyết của Mai Thảo. Tờ báo của anh đăng nhiều bài nói về văn chương hiện sinh. Những cuộc thảo luận của một số những cộng tác viên của Sáng Tạo đi tìm thơ, tìm truyện. Mai Thảo khẳng định văn chương là viễn mơ. Anh đứng về phía nghệ thuật vị nghệ thuật, trái ngược với Thế Nguyên, và anh em nhóm Trình Bày, tiến bước không ngần ngại vào con đường nghệ thuật vị nhân sinh có tên mới là văn chương dấn thân.
Lý thuyết văn chương dẫn đạo của nhóm Sáng Tạo, trong mọi trường hợp không phải là chất xi măng gắn liền những ngòi bút khác biệt cộng tác với tạp chí Sáng Tạo . Phần tiêu cực trong lý thuyết văn học của Sáng Tạo thì rõ ràng, không còn chấp nhận văn chương Tự Lực nữa, nhưng đứng về phía cái mới, đứng về phía cái mới, không có hình dạng chính xác có thể nói chưa có hình dáng rõ nét của một lý thuyết văn chương, cũng có thể nói không lý thuyết giáo điều. Lý thuyết văn chương của Mai Thảo không phải là lý thuyết thuần lý, nó là lý thuyết của tâm hồn. Lý thuyết mở rộng. Đứng về phía cái mới là một chân trời, không phải là khuôn thước. Mai Thảo không phải là một nhà lập thuyết. Anh là văn nghệ đến tận chân tơ kẽ tóc. Là sáng tạo đến tận cùng. Lý thuyết lớn của Mai Thảo chính là tâm hồn của anh. Mai Thảo trở thành người đứng đầu của một nhóm văn chương vì anh có tâm hồn của một người đứng đầu một nhóm văn học. Mai Thảo biết yêu mến tác phẩm, biết quý trọng những người sáng tạo, Mai Thảo đọc thơ Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền hay Nguyên Sa... đọc truyện của Thảo Trường,
Dương Nghiễm Mậu... với cùng một tình yêu và lòng qu ý mến đó. Mỗi người viết tìm thấy một Mai Thảo của riêng, một gắn bó, một thân tình, một bằng hữu. Nhóm Sáng Tạo, với một số anh em, là một nhóm nhỏ. Sáng Tạo với Mai Thảo, là tất cả những người đã cộng tác với anh. Sáng Tạo với tôi, với nhiều anh em khác, tôi nghĩ, là Mai Thảo. Mà tôi, mà chúng tôi, gắn bó và yêu mến.
Nếu tôi làm công việc thực hiện cuốn sử văn học, tôi không chia Mai Thảo ra thành những Mai Thảo, Mai Thảo nhà văn, Mai Thảo người đứng đầu một nhóm văn học, Mai Thảo tùy bút, Mai Thảo truyện ngắn, Mai Thảo truyện dài. Tôi là người làm thơ, làm việc gì cũng thích làm với cung cách của người thích những miếng võ tuyệt kỹ, đẽo gọt những nét kỳ thú cá nhân. Mai Thảo, với tôi, có ba thời kỳ, thời kỳ Tiên-Cúc, thời kỳ Cúc-Mãn-Khai và thời kỳ Hậu-Cúc. Mai Thảo thời kỳ Hậu-Cúc sinh sống ra làm sao? Tôi không có ý niệm nào rõ rệt, tôi cũng không biết vì sao cũng chẳng bao giờ tìm hiểu vì sao Thảo và Cúc xa nhau, khi tôi chia tay với Mai Thảo là thời kỳ Cúc-MãnKhai. Cúc nhanh nhẹn, tôi muốn nói nhảy nhót. Màu trắng da thịt của cánh tay trần nhảy nhót trong ánh sáng chan h òa của những buổi chiều Sài gòn, màu trắng của khuôn mặt đã pha những mảnh đêm màu xanh nhảy nhót trong ánh đèn ban đêm ở đường Tôn Thất Đạm. Đêm nào Mai Thảo cũng gọi tên tôi. Nguyên Sa. Nguyên Sa đâu. Nguyên Sa dậy đi. Xuống ăn phở Nguyên Sa ơi. Sau thời gian ở xóm Sáu Lèo, khu này bị hỏa hoạn, tôi dọn nhà lên Tôn Thất Đạm, ngay khúc đầu đường gần bộ Công Chánh. Người đi
210 | nguyên sa
hồi ký | 211 chơi đêm ăn phở đêm gọi khúc đường Tôn Thất Đạm này là khu phở Tôn Thất Đạm. Mai Thảo, Hoài Bắc, Cúc, Mỹ là những người khách trung thành của khu phở đêm này. Khi tới gánh phở đê m này, Mai Thảo đã say chưa? Tôi không nghĩ là bạn tôi say. Thời đó Mai Thảo chỉ uống bia thôi. Thời Tiền-Cúc và thời Cúc-Mãn-Khai chỉ có la de. Thời kỳ hải ngoại này toàn rượu mạnh. Thứ năm tuần trước, cùng với Du Tử Lê và Tuyền ghé gian phòng Mai Thảo trong khu cư xá Song Long trên đường Bolsa. Lê và Tuyền đến trước. Tôi tới sau, tôi không biết vị trí của gian phòng của Mai Thảo, lần trước tôi tới Mai Thảo còn trên lầu, từ mấy tháng nay Mai Thảo đã dọn xuống dưới thuận tiện hơn cho sức khoẻ của anh, mới sinh nhật lần thứ 70. Tôi đi qua từng gian phòng, cư xá có hai khu, mỗi khu hơn mười căn apartment một phòng không có bếp, qua mỗi căn tôi cất tiếng gọi. Tôi gọi vừa phải. Không thể quá nhỏ không ai nghe thấy gọi làm gì. Nhưng không gọi quá lớn làm người đang ngủ phải thức dây. Gọi vừa đủ chỉ người đang thức nghe thấy. Mai Thảo đợi tôi giờ này, tôi có hẹn trước, gọi vừa phải được rồi. Mai Thảo. Mai Thảo. Ông Mai Thảo ơi. Mai Thảo có ở phòng này không. Tôi gọi Mai Thảo. Tôi gọi Mai Thảo ơi. Tiếng vang ở trong tôi ném lại Nguyên Sa. Nguyên Sa ơi. Nguyên Sa xuống đây ăn phở. Tôi bật cười gọi lớn hơn. Mai Thảo. Mai Thảo. Tiếng vang vọng càng lớn. Du Tử Lê nghe thấy tiếng gọi hay tiếng vang vọng nào, không biết, nhưng Du Tử Lê đã nhanh nhẹn chạy vọt ra, nói lớn đây đây, anh Nguyên Sa, phòng anh Mai Thảo đây. Trong phòng Mai Thảo hai mươi bốn chai Martel đứng sừng sững trên mặt thảm. Mai Thảo chưa
212 | nguyên sa điểm tâm, lát sau thì có ly đá lạnh được mang tới. Nhưng những đêm đó thì chỉ có ly đá lạnh la de sủi bọt trước kia bát phở được bưng ra. Tôi thường xuống trước khi tô phở được bưng ra. Tôi có nghiêng đầu ra cửa sổ trước đó vẫy tay cho Mai Thảo biết tôi đã nghe thấy rồi, tôi xuống ngay đây. Cúc đưa tay làm thủ hiệu nhẹ chào hỏi, khuôn mặt màu da trắng có những mảnh xanh nhảy nhót trong đêm. Cúc cười nhẹ nhàng, miệng cười nhẹ nhàng, mắt cười nhẹ nhàng, phải rồi, Cúc có đôi mắt biết cười, đôi mắt cười ngó lên lầu nhìn tôi, đôi mắt cười khi tôi xuống tới ngồi trên một chiếc ghế gấp của gánh phở đêm, cười anh Mai Thảo gọi to quá, anh bị thức dậy phải không, cười khi Cúc từ căn gác lửng của toà soạn Sáng Tạo bước xuống khi tôi tới đập cửa buổi sáng sớm, cười khi hai người đi xe Austin ngoài phố gặp Nguyên Sa bóp còi inh ỏi. Thời kỳ Hậu-Cúc, tôi không biết, thời kỳ Cúc-Mãn-Khai chiếc xe Austin khi thì chở ba chúng tôi cùng đi, nhưng chiếc xe chở hai người tình nhân đó đi riêng rẽ nhiều hơn, thay thế cho hai người bạn đập phá suốt một thời kỳ Tiền-Cúc. Thời kỳ TiềnCúc, suốt đoạn đầu đời là thời kỳ Tiền-Austin chất ngất Đêm Giã Từ. Tôi ở Pháp về, không sống trong không khí chia đôi nước, không khí hai triệu người di cư. Biến cố Năm Tư có ảnh hưởng trực tiếp với anh em tôi một cách khác. Tôi và hai em là Thoa và An du học tại Pháp từ cuối 1948. Trận đánh Điện Biên Phủ ở Paris là những hàng người dài xếp hàng trước những xạp báo từ sáng tinh mơ để mua những số Le Monde , những France-Soir , ấn bản buổi sáng, xếp hàng dưới ánh đèn đã lung linh cho những ấn bản buổi chiều, là những người lính lê dương hay lính
hồi ký | 213 nhảy dù say và tỉnh lùng đánh những người Việt Nam trên hè phố hay dưới những miệng hầm metro. Mẹ tôi ngừng gửi cho chúng tôi những chi phiếu qua bưu điện sau khi di cư vào Nam. Nhưng tôi không biết những giây phút khắc khoải, những cảm xúc lớn lao của những người nhìn Hồ Gươm lần chót, nhìn tháp Rùa lần cuối cùng, nhìn Ô Quan Chưởng, nhìn Cửa Bắc, Cổ Ngư thêm một lần rồi dứt áo ra đi. Đêm Giã Từ Hà Nội thời gian Tiền-Cúc là một biến cố văn chương tự bản thân tác phẩm là những rung động mới, những dòng văn khác lạ của một giã từ chung lần đầu của hằng hằng những tâm hồn cho một thành phố thịt xương. Cuốn sách làm cho tôi gần gũi Mai Thảo ngay. Mai Thảo cho xuất bản Đêm Giã từ Hà Nội cũng hai năm sau năm 1954, cũng thời gian tôi rời bỏ Paris. Tôi cũng có nỗi đau x ót chất ngất không bao giờ gặp lại. Năm 1975, tôi trở thành người tỵ nạn, tôi trở lại Paris, tôi tưởng rằng tôi gặp lại Paris, tôi khám phá ra tôi có gặp lại Paris, nhưng không bao giờ gặp lại Paris có chữ P hoa đó nữa.
Nồi niêu soong chảo
T ôi đang bị lôi cuốn, tôi bị hút chặt, hút chặt bởi mo rát, bởi rô manh, bởi co uýt, có đít, bị lôi cuốn bởi con vịt Tứ Xuyên ở Arc en Ciel, bị bốc khói với café crème ở La Pagode, bay lượn với âm nhạc ở vũ trường, thơm ngát với phở đêm, bị tốc độ và sự bay lượn cuốn chặt vào trục quay, vào vòng chuyển động của những đối tượng cơ giới, hình thể, hương vị và âm thanh đó. Đột biến xảy ra vào buổi sáng, tôi đã dọn nhà từ đường Tôn Thất Đạm sang đường Pasteur, tôi ngồi gần bên cửa sổ nhìn ra đường, Duy Thanh nhà gần nhà tôi, đi qua, ném cho một cuốn Sáng Tạo hỏi có chưa, tôi nói chưa, nói cám ơn, Duy Thanh không dừng lại, cũng không nói đi đâu. Chỉ một phút sau tôi nhận thấy sự bỏ đi của Duy Thanh đã làm thành một vùng thiếu, tôi muốn hỏi Duy Thanh cái gì đây, gì mà tuyên ngôn cùng là lên tiếng thế này, lên tiếng về vấn đề gì đây, những người ký tên ở dưới bản lên tiếng với danh
214 | nguyên sa
hồi ký | 215 hiệu chung là “nhóm Sáng Tạo”, nhóm Sáng Tạo lập ra từ hồi nào, có một nhóm Sáng Tạo sao, sao không thấy Mai Thảo nói với tôi điều gì, có nhóm Sáng Tạo sao không cho tôi hay biết, thế này là Sáng Tạo hay Sáng Tạo trong Sáng Tạo, tôi cảm thấy mong mỏi sự có mặt vừa chợt biến mất của Duy Thanh, mơ hồ cảm thấy nếu có người họa sĩ rất chân thật, rất bằng hữu này đứng ở đó, mọi sự đã đổi khác, tôi có cơ hội nêu lên câu hỏi, những thắc mắc nếu không bay đi cũng có hy vọng trở thành nhẹ nhàng, Duy Thanh, có tên ở dưới bản lên tiếng h ẳn nhiên biết mọi chuyện sẽ cho tôi giải thích, trọng lượng còn lại của thắc mắc sẽ được làm cho nhẹ hơn, mỏng hơn. Duy Thanh đã bỏ đi, tôi không có cơ may hỏi bạn tôi một câu nào. Tôi ngồi lặng yên ở đó. Tôi ngồi lặng yên bên cửa sổ thật lâu, tờ Sáng Tạo đã được gấp lại, tôi không đọc lại bản lên tiếng, cũng không đọc thêm một bài nào của tờ báo, những thắc mắc ở lại một mình đã mang những hình dạng khác, dày lên những trọng lượng mới. Tôi không bao giờ mở lại tờ báo đã gấp lại đó, không bao giờ tìm gặp Duy Thanh để hỏi han. Tôi không đến đường Ký Con nữa. Tôi không tìm gặp Mai Thảo. Nhiều buổi sáng không có giờ dạy học, tôi mặc quần áo giống như những ngày sáng chạy xuống Ký Con cùng nhau đi điểm tâm La Pagode, những bộ quần áo được mặc vào lại được cởi ra. Tôi không tìm Mai Thảo để cùng nhau rong chơi lượn vòng trên chiếc xe đầy ắp tiếng cười của tuổi trẻ và văn nghệ. Buổi chiều tôi đi tản bộ một mình coi sách ở dọc đường Bonard. Tôi không bao giờ đi lại trên chiếc xe đó cùng với bạn tôi. Tôi không bao giờ trở lại ăn sáng La Pagode dù với Mai Thảo hay không có Mai Thảo.
Tôi không trở lại vũ trường Arc en Ciel một lần nào. Tôi đi ở phía dưới, tiếng nhạc của phòng trà H òa Bình xế cửa chợ Bến thành bay toả ra mời gọi ở bên trên. Tôi không một lần nào bước lên nghe nhạc ở đó nữa. Hờn dỗi. Tôi là một người hờn dỗi? Hắn đi rồi. Hờn dỗi, không phải căm giận. Không, không giận, không có giận, không có thù, chỉ hờn dỗi. Không có quảng đại, cũng không có thù căm. Không có biển lớn, cũng không có hầm hố mìn chông. Tình yêu vẫn còn nhưng bị phủ kín bởi lớp sương mù đó. Trong khoảng thời gian này, tôi có tự hỏi, nếu như Mai Thảo giải thích cho tôi, nói cho tôi biết cái hoàn cảnh nào, cái tại sao của mọi việc, những lời giải thích đó có sức mạnh của những cơn gió thổi tan được sự hờn dỗi hay không? Thật lâu về sau đôi lúc tôi có cảm thấy giận mình đã không làm thật đúng, không chạy lại gặp Mai Thảo hỏi sao, chuyện này là thế nào, nói thẳng cho nhau nghe những uẩn ức. Nhưng thực tế là cái gì đã xảy ra đã tới. Lớp sương mù hờn dỗi phủ trên tình yêu, trên tình bạn, dầy hơn tôi tưởng, nó giống như bàn tay mềm mại và kiên trì xóa đi hết, tháo gỡ hết, không hỏi han một lời, không trách cứ một tiếng, chỉ lặng lẽ tháo gỡ, tháo gỡ từ chiếc xe Austin đến ly cafécrème dậy hương, từ mùi nước hoa của cô vũ nữ đến bài jazz đứt ruột đó. Mai Thảo bảo tôi ra nhảy. Người vũ nữ tôi không nhớ tên, hình như tên là Dung, được tài pán dắt tới, cất tiếng nói:
- Anh đi với em bản này.
Tôi ngượng ngùng:
- Bản gì, tango à?
Dung cười cảm thông:
- Không phải, r umba!
216 | nguyên sa
hồi ký | 217
Dung nhìn Mai Thảo. Bạn tôi nhìn người vũ nữ. Hai người muốn hỏi nhau anh này không biết nhảy, không biết cả phân biệt rumba v à tango. Sao bảo người này từ Pháp về. Tôi mau chóng mang lại cho những người đối diện lời giải thích khác, tôi có biết nhảy chứ, nhưng tôi chỉ biết nhảy với nhạc j az z, nhạc blue thì tốt, swing cũng thích lắm , be bop cũng chấp nhận được... Thời điểm đó chưa có rock , chưa có disco , khi tôi bỏ Paris trở về nước, những cav es dù ở Saint Germain hay Saint Michel đều bắt đầu chơi be bop, chưa có disc o hay rock. Dung ghé vào tai tôi hỏi tôi có ý kiến về một bài jazz nào không?
- Em muốn một tên bài?
- Vâng.
- Blue hay Sw ing?
- Cái gì cũng được.
- Blue cho nhẹ nhàng nhé.
TôiVâng.đưa ra tên bản nhạc ngay. Saint Louis Blue. Âm giai của bài nhạc trở lại với tôi trước khi bài rumba chấm dứt, rồi thì tiếng sáo mở đầu bài blue cất lên nỉ non kế tiếp là tiếng trunpet gào x é . Trumpet tôi nhớ chứ. Tiếng trunpet gào xé, trunpet mà âm thanh vỡ ra từng nức nở, giống y chang như như giọng ca của người chơi kèn kiêm ca sĩ thần sầu với những tiếng ca giọng bể mà cực kỳ lôi cuốn hơn suối nước trong veo, giọng ca bể của Louis Amstrong là một thẩm mỹ khác lạ của thế kỷ. Tôi nhớ đêm ở Saint Michel, Louis Amstrong chơi với Sydney Bechet, Sydney chơi clarinette, Louis trumpet, bạn bè tôi đẩy tôi ra piste , những tiếng vỗ tay bao quanh nhạc, quyện lấy những đôi chân bay lượn, những đôi tay đẩy ra, bắt lại, những
figur es mới tinh, lần đầu, tung và bắt. Tôi biết trumpet và clarinette, cả saxo của Arc en Ciel, đêm đó không phải là âm nhạc của hầm St Michel, tài nghệ nhả y blue của Dung không phải của những nữ sinh viên bên tả ngạn. Tôi đi nhẹ nhàng, tung và bắt nhẹ nhàng, xoáy một vòng, không ba cũng không hai, cũng không tung và bắt có độ cao, không thể ba hay hai, cũng không thể tung và bắt vút cao cho người không cùng nhau tập dượt. Tôi chỉ nh ảy ở Arc en Ciel trong đêm đi với bạn tôi có một lần trong suốt khoảng thời gian từ 1956-1975 tôi sống ở quê hương tôi. Tôi không trở ra sàn nhảy một lần nào. Không có Mai Thảo đi cùng, tôi không còn trở lại sàn nhảy một lần nào nữa. Tôi không đi trở lại vũ trường một lần nào. Tôi không trở lại bất cứ nơi chốn nào làm gợi nhớ. Không có Hải Biên. Không có Mai Thảo. La Pagode làm gì? Không có Mai Thảo. Không có Catinat, Bonard, đại lộ Trần Hưng Đạo, mỏm Pointe des Blagueurs. Không có Mai Thảo. Tôi không trở lại bất cứ nơi chốn nào làm gợi nhớ. Hờn dỗi. Có. Tôi cũng không ngờ làn sương mù dày dặc đến như thế. Lặng lẽ. Dấu kín. Bao trùm hết. X óa hết. Làn sương mù dày đặc phủ lên tất cả, x óa bỏ tất cả, mang tôi đi thật xa, như một cô lập toàn diện đã từ một kiếp khác tới đây phong tỏa rồi chiếm đóng, làm chủ. Không thể chống cưỡng nổi. Gió bốc lên và sương mù phủ xuống khác biệt. Buổi ban mai bằng hữu hào hứng, hoàng hôn chiều buồn chia cách khác biệt. Nhưng những buổi sáng phơi phới và những làn sương buổi chiều trong tôi đều được chuyên chở tới từ cùng một chiếc xe kiếp khác. Tiền kiếp. Đúng vậy, tiền kiếp. Những ngày Sáng Tạo có tiền kiếp. Thời
218 | nguyên sa
hồi ký | 219 gian bỏ đi có tiền kiếp của nó. Những ngày ở Sống với Chu tử là một tiền kiếp khác, xôn xao Lương Sơn Bạc. Tờ Sống ra được có một số thì bị đình bản, anh em nhóm Sống với Đằng Giao, Tú Kếu, Trần Dạ Từ nhóm ký giả trẻ gọi là “nồi niêu soong chảo” lếch thếch nồi soong ra đi đầu quân, khi thì ở Tiền Tiến với ông chủ nhiệm Đỗ Công Dụng, khi thì Hoà Bình với linh mục Trần Du, khi khác là Tranh Đ ấu của chủ nhiệm Ngô Đức Mão, một đệ tử của cụ Nguyễn Thế Truyền, Mai Châu bỏ tiền. Báo chỗ nào cũng có ba đầu, người ta dễ tưởng rằng báo có hai đầu chủ nhiệm có tiền và nhóm ký giả chuyên nghiệp hợp tác với nhau trong một cuộc hôn nhân vì lý trí, rất ít, nếu không phải không có chút nào cả cái gọi là tình yêu. Không phải, cuộc hôn nhân báo chí không phải chỉ có hai đầu, nó có ba đầu, cuộc tình tay ba, ông chủ nhiệm có giấy phép ra báo không có nghề và cũng không đương nhiên có tiền, người bỏ tiền không phải là người làm tờ báo, theo nghĩa biên tập, và nhóm thợ nấu. Ôi, thợ nấu, thợ đ ấu, thợ thọc, thợ chọc, bút sắt, bút lông, bút nguyên tử... Tờ Tranh Đ ấu có chủ nhiệm Ngô Đức Mão, có người bỏ tiền và nhóm nồi niêu soong chảo do Hoàng Anh Tuấn đóng vai đầu đàn với chức vụ Tổng thư ký. Chủ nhiệm muốn có tờ báo có dấu vết của chủ nhiệm, người bỏ tiền muốn tờ báo ăn tiền mà lại không muốn nổ, những người viết muốn nói lên những điều đáng được nói lên và chưa được nói lên, sống chết cũng huề. Tôi vẫn lui tới chơi với anh em ở những bảng hiệu khác nhau. Nhưng không đều đặn. Đều không hẹn trước như buổi Trần Dạ Từ đến tìm tôi nói anh phải cứu bọn em, cái anh bỏ tiền ép quá, bọn em không thở nổi. Cứu bọn em ở đây có nghĩa
220 | nguyên sa
là nắm lấy tờ báo, đóng vai người bỏ tiền ra làm tờ báo. Tôi không hiểu nhật báo này lời lỗ ra sao, không bao giờ có ý muốn làm báo, nhật báo với tôi là một thế giới khác, tôi mơ hồ hiểu là với chủ nhiệm thì không có vấn đề gì, chủ nhiệm vẫn chấp nhận cho thuê “măng sết”. Nhưng giữa nhóm ký giả mà Trần Dạ Từ là một trong những động lực chính và người bỏ tiền có sự tranh chấp gay go. Nhà thơ muốn tôi tới đó, làm cái công việc bỏ tiền ra, giúp cho anh em qua khỏi thế kẹt. Cuộc tranh chấp giữa nhóm nồi niêu soong chảo và anh bạn bỏ tiền đã tới chỗ không gặp nhau được nữa. Anh bạn bỏ tiền này không tới nhà in cũng là t òa soạn nữa ở đường Hồ Xuân Hương. Tôi hoàn toàn không biết dính vô vụ này ăn hay thua, phải bỏ ra bao nhiêu tiền, cũng không có giấc mơ “mưa máu gió tanh” nào, tôi hiểu đơn giản là công việc cũng dễ thôi, tôi chỉ việc tới đó, nói với chủ nhà in là tôi chịu trách nhiệm tài chính, in xong tôi trả tiền, chỉ nhận thế thôi, vì theo Từ tôi nhận thì nhà in họ tin, và tôi không có gì lo lắng cả, báo in xong đưa cho phát hành là có tiền “a văng” dùng để trả nhà in ngay. Nếu như tôi có phải gồng thì cũng một vài kỳ, guồng máy chạy đều là đâu vào đó. Tôi không biết vấn đề có đơn giản như thế hay không, tôi chậc lưỡi và theo Trần Dạ Từ đi. Tôi cũng có hỏi vì sao người ta lại có thể tin anh, Trần Dạ Từ nói vì anh là “ ông đội mũ ”. Người ta có tin tôi hay không, hậu xét, tại chỗ tôi tin những giải thích không giải thích gì cả của Trần Dạ Từ, t ô i vẫn có thói quen tin theo và làm theo những lời giải thích của nhà thơ. Tôi là ông đội mũ? Trần Dạ Từ gọi tôi bằng tên này. Cũng có lý thôi, từ ngày đi Thủ Đức về tôi đội mũ triền miên thật. Tại sao người ta lại tin ông đội mũ, tôi không đưa ra câu
hồi ký | 221 hỏi này, cho cả Trần Dạ Từ và tôi, chỉ lặng lẽ làm những gì người bạn trẻ, người em, muốn tôi làm. Trần Dạ Từ là một tiền kiếp khác. Phải rồi, Trần Dạ Từ là tiền kiếp. Tiền kiếp đẩy tôi tới nhà in, tôi vẫn đội mũ nguyên trên đầu, Trần Dạ Từ dắt tới trước mặt tôi chủ nhân của nhà in nói đây là ông anh của tôi, liệt kê các loại võ nghệ tài chính và xã hội, kể từ hôm nay ông anh sẽ lo mọi vấn đề tiền bạc. Tôi gật đầu bảo chứng người em tiền kiếp, tôi nói tôi trả tiền, cứ in, ngày nào thanh toán ngày đó, không cần để tới sáng ngày mai. Viên quản lý vui vẻ ngay, máy in đang chờ, thợ in đang chờ, có người lãnh nhận việc trả tiền là bật đèn xanh. Người của nhà in hỏi tôi:
- Xin ông cho biết in bao nhiêu?
Tôi chới với. Trần Dạ Từ không cho tôi biết chi tiết này, tôi không có câu trả lời nào cả. Nhưng tôi cũng không quay đầu hỏi Trần Dạ Từ, tôi thấy không sao, tiền kiếp là lãnh nhận cuộc chơi, tiến vào trận đấu, định mệnh sẽ khu xử. Tôi trả lời ngay:
- In năm chục ngàn!
Tôi không biết, khi dõng dạc nói, con số năm chục ngàn có nhiều quá hay ít quá làm phiền gì cho Trần Dạ Từ hay không nhưng tôi biết ngay những điều này sau khi câu trả lời được đưa ra. Trần Dạ Từ muốn nói điều gì, viên quản lý há miệng.-Năm chục ngàn? Người của nhà in không ngần ngại cho biết ý kiến của anh ta. Năm chục ngàn nhiều quá, phát hành đâu có nhận tới con số đó, xưa nay in có mười lăm ngàn, báo in tới năm chục ngàn dư nhiều quá chất vào đâu? Tôi có ngay câu trả lời thản nhiên:
- Cất vào trong ga ra.
In năm chục ngàn số báo không để phát hành mà chỉ để cất vào ga ra có tác dụng như thế nào với người nghe, báo in bao nhiêu cũng được, in ít trả tiền ít, in nhiều trả tiền nhiều, người làm báo bán được ít mà in lố là người vụng tính, người in thật nhiều với tiêu lệnh in xong cất vào ga ra, là thằng cha “đờ mi tốc, đờ mi phu”, là tên rửng của, là công tử Bạc Liêu, là ông Ba Giai Tứ Xuất bỡn cợt gì đây? Tôi không biết. Tôi không là người nào trong những người đó. Tôi là “ ông đội mũ ”. Ông đội mũ của nồi niêu soong chảo Trần Dạ Từ. Tôi bỏ mũ xuống, hút với anh em nồi niêu điếu thuốc rồi lại đội mũ lên đầu lừng lững ra về. Mơ hồ cảm thấy mình sai nặng rồi. Chỉ tới chập tối, Trần Dạ Từ chạy tới nói với tôi là xong rồi.
- Xong rồi anh! Tôi chới với. In xong rồi. Xùy tiền ra trả nhà in đây. Tôi chưa biết nên đưa tiền cho Trần Dạ Từ mang về trả lấy, hay tự mình mang tiền đến trả để tận mắt nhìn thấy cảnh b á o chất cao như núi trong ga ra. Tôi hỏi nhà thơ Tỏ Tình Trong Đêm lúc nãy tôi nói in năm chục ngàn như thế có hơi nhiều không hay là quá ít. Từ nói hơi nhiều. Nhà báo nồi niêu soong chảo cho tôi hay Tranh Đấu , tên tờ báo, in mỗi ngày có mười lăm ngàn, đúng như chủ nhà in nói, nhưng không sao. Vấn đề này xong rồi. Tôi chới với, số lượng in có mười lăm ngàn mà tôi dõng dạc ra lệnh in năm chục lại còn bố láo nói báo in d ư cứ việc cất vào ga ra. Vấn đề bây giờ là phải xùy tiền ra trả, có sao chứ sao, coi như không sao cũng được, nhưng Trần Dạ Từ lại nói là không sao. Tôi hỏi. Trần Dạ Từ nói lại không sao, nói vấn đề giải quyết rồi. Tôi mơ hồ mong ước Trần Dạ Từ và nhóm anh em Sống cũ lang bạt sang Tranh Đấu , tìm nơi
222 | nguyên sa
hồi ký | 223 đây làm “mảnh đất cắm dùi” đã điều chỉnh lại được kịp thời quyết định bốc đ ồng của tôi. Trần Dạ Từ cũng bắt đầu tìm ra khởi điểm cho câu chuyện. Từ cho tôi hay việc anh cho lệnh in năm chục ngàn số báo làm họ chới với. Nhà in xanh mặt. Họ thông báo cho anh bạn vẫn bỏ tiền ra in báo hay là tờ báo đã vào tay một ông đội mũ tiền nhiều lắm đòi in ngay năm chục ngàn, phát hành mười lăm ngàn còn ba mươi lăm ngàn cất vào ga ra chơi. Hai vợ chồng người bỏ tiền biết là canh xì phé này đòi một số láng mà họ không có đủ mà đối thủ là tay chơi không biết có thá u cáy hay không, đã đến toà báo nói với Từ và nhóm anh em làm ơn nói giùm với ông đội mũ đứng ra chỗ khác chơi, trả lại cho họ cái công việc tài trợ cho tờ báo, để cho họ tiếp tục việc kinh doanh. Họ thỏa mãn anh em về mọi đòi hỏi. Trần Dạ Từ chuyển lời yêu cầu cho tôi và cũng cho tôi biết không còn phải phiền tới anh nữa, bọn họ hết dám chơi ép bọn em rồi, anh em muốn tôi cùng với anh em trả lại quyền quản lý tờ báo cho người bỏ tiền cũ. Tôi bằng lòng quá. Tôi can thiệp vào một công việc mà tôi không biết. Tôi đưa ra những quyết định không chính xác, nếu không muốn nói là sai nặng, sau đó lại được ra về thơ thới. Tôi hỏi Trần Dạ Từ thêm một lần:
- Liệu họ có còn ăn hiếp anh em không?
Trần Dạ Từ cho tôi hay:
- Đâu có dám nữa !...
La condition humaine
Tờ Sống tục bản, tôi không biết Chu Tử đã tìm được đường giây nào, để vực tờ báo sống dậy, tôi cũng không đoán biết trước được việc Sống sống lại. Không thể đoán biết được điều gì với Chu Tử. Tác giả tiểu thuyết Yêu là hiện thân của định mệnh, hiểu theo nghĩa mỗi giọt nước có long lanh hình ảnh lớn của đại dương. Chỉ riêng việc giao tiếp với đời, giọt nước Chu Tử trong đại dương Định Mệnh đã có hàng chục bàn tay, tay tung tay hứng. Mỗi lần nhìn Chu Tử ngồi bên bàn viết của anh, tìm hứng cho Ao Thả Vịt, tiếp người khách mang kính đen ngòm tới đó với một dàn vệ sĩ, lắng nghe tâm sự của nữ kịch sĩ Kim Cương, của người đẹp Kiều Mộng Thu, trả lời điện thoại triền miên, tôi đều thấy mơ hồ hiện ra những ngày tháng Thượng Hải của tác phẩm lớn của André Malraux. Cuốn truyện hàng đầu của văn chương Pháp thế kỷ hai mươi được mang lên sân khấu kịch nghệ hội đầu thập niên năm mươi. Nga nhặt
224 | nguyên sa
hồi ký | 225 nhạnh từng xu cho chúng tôi có đủ mỗi lần hai vé, hai vé cho Le Diable et le Bon Dieu, của Sartre, hai vé cho Opéra de Pékin, hai vé cho La Condition Humaine... Sân khấu, khi mang lại khuôn mặt của định mệnh, bằng ánh sáng, được chia hai. Nửa sân khấu bên trái được thắp sáng, nửa sân khấu bên mặt tối thui. Nửa sân khấu bên mặt hiện ra, nửa sân khấu còn lại chìm trong bóng tối. Những công nhân của Thượng Hải đứng dậy ở sân khấu bên trái chờ lương thực, chờ vũ khí, chờ tiếp viện mọi mặt quằn quại trong vây khổn. Những người mơ ước một Ba Lê Công Xã này lùi vào trong bóng tối, ánh sáng bật lên ở phía bên kia đưa ra tiền trường những tấm thảm xanh, những ly champagne sủi bọt, những người đàn bà đẹp cười nghiêng ngả. Người đi mua vũ khí bốc hơi trong khói thuốc, trong dục tình, trong đỏ đen. Tôi bị thu hút cực mạnh trong trình bày sân khấu có tới hai tiền trường, tiền trường và hậu trường chỉ bị ngăn cách bằng ánh sáng, không gian của tiểu thuyết được thu ngắn lại, thời gian của tiểu thuyết được đặt gần kề, khoảng cách không gian cũng như thời gian chỉ còn một đường chỉ cho phép cực tả mối liên hệ giữa định mệnh và cuộc đời, cho thấy mỗi người mỗi vật mỗi đổi thay dù nhân sinh hay vật lý, đến cả thảo mộc đều là tác nhân của định mệnh. Một ly rượu uống thêm, một cặp môi mời gọi cúi xuống và ngay cả quân bài đỏ đen được ném ra trên thảm xanh là định mệnh của những người ngồi trong hố cá nhân, trong khu phố nổi loạn, trong xưởng thợ chiếm đóng. Những nhân vật ở nửa phần sân khấu bên trái, kẻ đổ rượu vào miệng Chu Tử, người đắp lên trán anh những chiếc khăn tay bông thơm phức có hấp nóng. Kẻ khác
226 | nguyên sa thọc sâu vào mạng sườn anh những mũi nhọn, đánh lên đầu anh những nhát búa. Họ là định mệnh và cũng là tác nhân của định mệnh, của một định mệnh khác ở nửa phần sân khấu bên kia. Nửa phần sân khấu bên kia có ông đại sứ Maxwell Taylor, ông đại sứ Martin, ông tướng Dương Văn Minh, có ông tướng Mai Hữu Xuân, có nhà hành chánh Nguyễn Ngọc Thơ, ông Phật giáo, ông Công giáo... Có tiếng định mệnh hỏi ai xin cho tờ Sống ra, tiếng đóng cửa nó ngay, ngay hôm nay, nó mới ra có một số, thâ y kệ, đóng cửa, tiếng khác Chu Tử bây giờ khác rồi, Chu Tử tôi nói được, tình hình bây giờ đã đổi khác, không được, được, không được, không được, được Chu Tử, dù muốn dù không, là đồng minh khách quan của mình. Tiếng ông Kỳ, tiếng ông Loan, tiếng Thượng tọa Trí Quang, Thượng tọa Thiện Minh... Ai? Ai đã đóng cửa tờ Sống? Người đàn ông mang kính đen tiền hộ hậu ủng? Người đàn ông vóc dáng thư sinh mỗi lần đến là một lần cùng với Chu Tử đi đâu thật lâu? Ai đã vươn cách tay dài, mở ra những cánh cửa, không biết thiên đường hay địa ngục và đẩy Chu Tử tiến tới. Tôi không biết Hội đồng Quân nhân cách mạng, cơ cấu cầm quyền sau khi TT Diệm bị lật đổ và bị giết chết, hình thành một chế độ “Diệm không Diệm” đã có những dao động nào khi tờ Sống ra đời, chiếu bạc định mệnh đã có những quân bài nào được ném xuống sân khấu bên trái bật lên với những tiếng kêu thất thanh, những tiếng kêu ngậm ngùi, đèn tối thui, trong lặng lẽ. Tôi không biết sân khấu bên mặt có thật nhiều tiếng thì thầm, tôi chưa nghe kịp, sân khấu bên trái đã bật lên. Bài trí của sân khấu bên trái đổi thay, lần này, những chiếc bàn trên lầu của tòa
hồi ký | 227 báo đường Gia Long, tòa soạn trên, ngay dưới chỗ gác lửng là dàn chữ của Ba Đủ của Bảy Què, lần khác, những chiếc bàn ghế dã chiến của gánh phở xe, lần khác nữa là gian phòng khách màu nâu nhạt, trên tường có bức tranh ngựa của Nguyễn Cao Uyên. Chu Tử đến gian phòng này hơn một lần. Anh đến nhà tôi, có khi đi với một hay vài cộng tác viên, có khi đi một mình, hai anh em cùng bàn cãi số báo thứ nhất của lần xuất bản đầu tiên. Anh mang lại tờ báo in thử của lần đầu cũng như lần hai, hai anh em cùng đưa ra ý kiến. Anh đến một đôi lần khi tờ báo bị tịch thu, nguồn tiền về không còn đủ để cân bằng với những khoản chi. Hai anh em tìm thuốc. Thời điểm Vũ Hạnh tấn công ào ạt nhắm vào đối tượng là tiểu thuyết Yêu , Chu Tử ngồi trong gian phòng khách của nhà tôi, số nhà 322 đường Phan Thanh Giản. Anh tới để ti ễn tôi đi trình diện nhập ngũ Thủ Đức chúng tôi nói chuyện về người ẩn danh viết bài gọi là “phê bình” cuốn Yêu , mà mục tiêu là x óa bỏ, đập đổ. Trong mọi trường hợp, câu chuyện giữa chúng tôi, và mấy anh em đi cùng với Chu Tử, mau chóng bỏ qua những đục bỏ của bộ Thông Tin, vấn đề ông Thiệu, ông Kỳ, hướng đến vấn đề phê bình của Vũ Hạnh. Tôi đọc bài văn, ký tên lạ hoắc, từ trước rồi, biết người viết là ai rồi, khi Chu Tử đưa cho tôi coi, tôi nói tôi đọc rồi, tôi nói Vũ Hạnh. Tôi đọc văn tôi biết là Vũ Hạnh. Thế Nguyên cho tôi biết người viết những bài văn loại này là Vũ Hạnh. Tôi đã đọc một số bài cùng loại, của cùng một người viết, phê bình tác phẩm văn học theo kiểu hiện thực xã hội thô sơ, dựa trên những lý luận duy vật biện chứng đơn giản. Sách phải hướng đến giai cấp công nông mới là sách tốt, phải là
- Anh thấy sao?
Tôi nói:
- Vũ ĐằngHạnh.saucặp
mục k ỉnh d à y cộm, Chu Tử mở tròn mắt. Đôi mắt Chu Từ khi mở ra kinh ngạc sau cặp mắt
228 | nguyên sa phương tiện để phục vụ thế giới đại đồng mới là sách hay. Nhân vật công nông trong bối cảnh tiền cách mạng thì phải vùng lên, phải đưa cao ngọn cờ đỏ ngày thợ thuyền đình công, phải chiếm lấy xưởng máy, biến nơi làm việc thành Ba Lê Công Xã, thời kỳ cách mạng thành công phải tận diệt trí phú địa hào, phải ngợi ca vô sản chuyên chính, cùng khắp trong d òng, trong chữ và cả giữa những dòng chữ vang vang “vùng lên những ai đau khổ trên thế gian này”, vang vang quốc tế ca. Tình yêu là đồi trụy, là tiểu tư sản, là phản động, tôn giáo là thuốc phiện. Vũ Hạnh liệt kê tác phẩm của Lê Tất Điều là tiểu tư sản, là phản động. X óa bỏ cuốn sách, xóa bỏ người viết nó. Lê Tất Điều là đối tượng đánh phá đầu tiên của Vũ Hạnh. Phê bình gì mà kỳ cục, tôi nói với Thế Nguyên, phê bình hiện thực xã hội của L’Humanit é là cộng sản ở tả ngạn sông Seine, mà không có thơ, không còn tình tự, chỉ có mùi khói xưởng thợ ở Saint Denis, phê bình hiện thực xã hội của Vũ Hạnh là cộng sản trong hình thức thô bạo và bán khai nhất, kiểu văn nào thơ nào không đúng với đường lối là tiểu tư sản, là phản động, là “văn hoá Bolsa”, là cánh cửa Lý Bá Sơ đã hé mở. Đọc tới bài đánh phá tiểu thuyết Yêu của Chu Tử bởi tay phê bình quản giáo tôi quyết định không bao giờ đọc phê bình của Vũ Hạnh nữa. Lời trào phúng nghe lại cũng chán, diễu dở không thể nghe nhiều lần được. Chu Tử hỏi tôi:
hồi ký | 229 kính có hình dạng thật tròn, có những nét ngây dại, bất động trong mở lớn ngây dại thật lâu, có cả câu hỏi có đúng như thế không, sự việc khốn nạn như thế sao, phũ phàng quá, bất nhân không thể chấp nhận, đời buồn quá. Tôi nói với Chu Tử những suy nghĩ của tôi về phê bình văn học. Phê bình không được phe phái, làm công việc trọng tài, nó không được chọn chỗ. Phê bình phe phái là trọng tài trở thành cầu thủ thứ mười hai của cuộc chơi mà mỗi bên chỉ có quyền có mười một cầu thủ. Phê bình được xây dựng trên ý đồ đề cao cá nhân mình, đề cao những người của phe phái mình, báo mình, nhóm mình, đoàn mình, đảng mình đánh phá những người không trong phe nhóm, không hợp nhãn, đánh phá bằng mọi hình thức gồm cả gạt bỏ sang một bên, ném bùn, b ô i đen, đều làm cho người làm công việc này trở thành cầu thủ thứ mười hai. Tôi gọi những người phê bình này là “sa đích văn nghệ”, sa đích là tên bị bệnh cuồng dâm, biết mình yếu kém, bất tài vô tướng, không được nhan sắc chiếu cố trở thành những tên thù hận nhan sắc, giết chết người đẹp, băm vằm khuôn mặt giai nhân rồi hãm hiếp, để tìm thấy trong hành động man rợ cả quyền uy lẫn thỏa mãn dục tình. Phê bình hiện thực xã hội là đỉnh cao của phê bình “sa đích” văn nghệ. Tôi nói với Chu Tử, anh lặng lẽ nghe, Chu Tử bao giờ cũng lắng nghe lặng lẽ, anh lắng nghe gì, lắng nghe người đối thoại, hay lắng nghe định mệnh vang vọng tới từ phần sân khấu bên kia, anh châm thuốc, nhả khói, điếu thuốc tiếp nối điếu thuốc khi tay anh còn khoẻ cũng như khi tay anh có những ngón, có cả bàn tay run giật. Tôi nói với Chu Tử về mặt lý thuyết, phê bình của Vũ Hạnh không có trọng
lượng nào, không đáng cho chúng mình quan tâm, về mặt con người, Vũ Hạnh chỉ làm công việc mà anh ta phải làm, là một cán bộ cộng sản hoạt động trong ngành giáo dục và văn nghệ, nhiệm vụ của anh ta là đánh phá, là bô i đen những tác phẩm không đi theo đường lối văn chương hiện thực như một dọn đường cho cái gọi là “cách mạng”. Những chi tiết về Vũ Hạnh vừa bật ra làm Chu Tử đưa tay ngăn tôi lại. Tác giả tiểu thuyết Yêu hỏi tôi:
- Anh nói Vũ Hạnh đã bị bắt về tình nghi là cán bộ cộng
Tôisản?trả
lời bạn tôi hồ sơ của Vũ Hạnh nói như thế. Những cơ quan an ninh bắt giữ giáo viên tên Dũng, một cán bộ cộng sản, muốn tha sau một thời gian giam giữ, cần đến một Hội đoàn trong ngành giáo dục đứng ra đóng vai trò bảo lãnh. Bạn tôi, giáo sư Nguyễn Hữu Chỉnh và giáo sư Nguyễn Văn Khánh phụ trách công việc này, đưa hồ sơ này cho tôi coi và tham khảo ý kiến. Những thầy giáo hiền hòa chọn lựa từ trước khi đọc hồ sơ. Người ta muốn mình bảo lãnh để tha ông thầy giáo này ra thì mình bảo lãnh, dù sao cũng là dân cầm phấn. Tổng Hội Giáo Giới đã đề nghị tha, và nhận bảo lãnh giáo viên tên Dũng có bút hiệu là Vũ Hạnh. Rồi tôi quên hẳn chuyện Vũ Hạnh cho tới thời kỳ Đệ nhị Cộng Hoà, thời kỳ hỗn quân hỗn quan, thời kỳ đảo chính chỉnh lý của những năm sáu mươi, tên Vũ Hạnh xuất hiện nhiều, những bài đánh phá văn học nghệ thuật miền Nam của Vũ Hạnh dưới những bút hiệu khác nhiều hơn, đánh thăm dò rồi đánh lớn, ngang nhiên, tôi tìm hiểu và khi biết rõ ai là ai, thì không thấy còn đáng quan tâm nữa. Tôi không ghi nhận Chu Tử có đổi thay nào trên diện mạo
230 | nguyên sa
hồi ký | 231 khi tôi nói, khi tôi tường thuật những sự kiện cũng như khi đưa ra những ý kiến chủ quan. Trong phần sân khấu của anh, cặp mắt anh mở lớn, tròn vo, bất động, phảng phất những nét chán nản. Chúng tôi chia tay. Sáng hôm sau, tôi lên đường đi trình diện nhập ngũ, anh Trần Đắc Trân, lúc đó là Thiếu Tá, phục vụ ở Tổng Hành Dinh, Tổng Tham Mưu, đưa tôi đi trình diện, anh Trâ n là em ruột của phu nhân của Đại Tướng Cao Văn Viên, Thiếu tá Tr â n về sau lên Trung Tá làm Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, Trân là người rất văn nghệ, có am hiểu sâu xa về cổ nhạc, là người anh em kết nghĩa của tôi. Thời gian ở Trung Tâm Nhập Ngũ, ở Quang Trung, khoảng hai tuần, trôi qua mau, tôi được đưa đi khám sức khoẻ, tái khám, được phê ĐSK, tức là Đủ Sức Khoẻ. Tôi được chở tới Thủ Đức, ngay trong ngày hôm sau, sau khi cắt tóc dài không quá ba phân xong, một người bạn đồng khoá kéo tôi ra một góc. Anh đã đứng đây một chập, nhìn tôi khi cắt tóc. Chúng tôi ngồi xuống trên một bậc thềm, anh bạn đưa tôi tờ báo Sống , tôi nhìn tờ báo không cầm lấy, tôi cười, anh bạn cười gượng gạo, anh mở lớn tờ báo, chỉ ngón tay vào mục Ao Thả Vịt. Anh nói:
- Đọc đi!
Tôi nói ông Ao Thả Vịt này thì lại nổ đây, nhưng mình vào đây rồi, nổ hay không nổ cũng vậy thôi. Anh bạn không trả lời tôi, anh chỉ nhắc lại:
- Đọc đi!
Tôi đọc. Bài Ao Thả Vịt của Chu Tử nổ thật. Quả bom cỡ nặng. Ngòi nổ của quả bom là chính tôi. Ao Thả Vịt nói Vũ Hạnh là một cán bộ cộng sản đang phung phá văn học
nghệ thuật miền Nam Việt Nam. Nhân chứng được viện dẫn là Nguyên Sa, người đã biết rõ hồ sơ cộng sản của Vũ Hạnh, Nguyên Sa khẳng định Vũ Hạnh tên thật là Dũng, cán bộ Dũng đã bị an ninh của Đệ Nhất Cộng Hoà bắt giữ, tình hình chính trị đổi thay, Dũng với tên Vũ Hạnh và nhiều biệt hiệu khác vùng lên tung ra những tác phẩm hiện thực xã hội, căn bản là chủ nghĩa Mác xít Lê nin nít, với chiếc xe chuyên chở duy vật biện chứng, đánh phá những nhà văn không thực hiện tác phẩm theo đường lối hiện thực xã hội. Tôi cảm thấy ngất ngư, thấy người nóng ran, thấy có nhiều mồ hôi trên đầu tóc mới cắt và trên trán trên cổ mồ hội lẫn với những sợi tóc con. Người bạn đồng ngũ nói:
- Chu Tử kỳ quá hả?
Tôi nói:
NgườiKhông!bạn hỏi tôi có nói những điều này với Chu Tử không.-Anh có nói không?
Tôi khẳng định:
- Có.
- Nói riêng hay là kể cho Chu Tử viết?
- Nói Ngườiriêng.bạnmới hỏi: Chu Tử có hỏi anh hay cho anh hay khiNgười-Tôiviết...nói:Không.bạn mới:
- Vậy tại sao Chu Tử lại viết ra?
232 | nguyên sa
hồi ký | 233
Tôi gấp tờ báo lại trả cho người bạn. Tôi nói:
- Định mệnh !...
Hai chúng tôi cùng cười. Tôi muốn nói với người bạn đồng ngũ có lòng tốt Chu Tử viết ra như thế là đúng, ném ra một mồi nổ xem phần bên kia sân khấu Định Mệnh đánh ra những tiếng bạc nào…
Tôi không nói cho người bạn mới biết tôi và Chu Tử có một mật ước.
Cho đỡ buồn
Mật ước giữa chúng tôi giữa chúng tôi là ba tiếng “cho đỡ buồn”. “Cho đỡ buồn”, triết lý hành động của Chu Tử, cũng là mật ước giữa những ký giả thuộc nhóm có tên là “nồi niêu soong chảo” và người đầu bếp báo Sống , tác giả tiểu thuyết Yêu . “Cho đỡ buồn” giải thích những chọn lựa, cắt nghĩa những hành động, vừa là nguyên nhân, vừa là cứu cánh mở ra những trận đánh lớn, nhỏ, khi thì tàn phá, khi thì xây dựng. Chu Tử và bằng hữu kéo nhau về một trang trại ở ngoại ô Sài Gòn kéo lên ngọn cờ có bốn chữ “Thế Thiên Hành Đạo”, cho đỡ buồn. Chu Tử mở ra trận đánh nhắm vào Quế Tướng Công. “cho đỡ buồn” , anh và anh em “nồi niêu” “lăn hòn đá ù lì Hồ Hữu Tường vào Quốc Hội” “ cho đỡ buồn” . Đâu có lý do nào khác? Học giả Hồ Hữu Tường không có ý định ứng cử dân biểu, Chu Tử và nhóm Sống “lăn hòn đá ù lì” ra sân chơi chính trị, tác giả Phi Lạc Sang Tàu nhất định không xuất hiện trước công chúng, không in bích chương, không phát
234 | nguyên sa
hồi ký | 235 bươm bướm, không lạc quyên, không vận động. Nhóm Sống làm công việc này bằng cách đập lên nồi niêu, khua động những soong chảo để lăn “hòn đá ù lì vào toà nhà quốc hội.” Vận động bầu cử cho một cá nhân để làm gì? Dân biểu của một tôn giáo, đảng phái hay một nhóm tài phiệt đưa ra có ích lợi cho những nhóm này, nói lên tiếng nói của đoàn thể, bảo vệ quyền lợi của đoàn thể khi cần, có khi nhiều hơn cả cần thiết, vì nhiều người làm đại diện dân bỏ quên vai trò đại diện nước, chỉ còn là đại diện làng. Nhóm Sống và Hồ Hữu Tường không có liên hệ quyền lợi nào cả. Hồ Hữu Tường trở thành dân biểu không phải để bênh vực cái nhóm có cái tên khác lạ là “nồi niêu soong chảo.” Chu Tử và anh em báo Sống tìm hết cách vận động tranh cử cho Hồ Hữu Tường, và đã thành công, Hồ Hữu Tường, người ứng cử dân biểu nhất định không nhấc lên một ngón tay để vận động, đã trúng cử. Chu Tử và nhóm nồi niêu không nhắm tới một mục địch vụ lợi nào. Tại sao lại vận động? Tại sao lại “l ă n hòn đá ù lì vào toà nhà Quốc Hội”? Câu trả lời vẫn là câu trả lời đó: “cho đỡ buồn”. Từ nhiều tháng trước khi nhập ngũ, nhân danh mật ước “cho đỡ buồn” tôi mang lại cho Chu Tử một quả bom. Tôi tới khi Chu Tử đang ngồi viết. Tôi đưa cho Chu Tử quả bom. Quả bom là một chiếc phong bì màu trắng bên trong có một bài viết có đánh máy, bỏ dấu bằng tay, và một tờ bản sao của một văn thư của Bộ Giáo Dục. Tôi đưa cho Chu Tử phong bì có hai tờ giấy mà lúc đó tôi gọi một cách đầy cảm xúc là “quả bom”. Chu Tử cầm lấy “quả bom”, không mở ra, đưa cho một phụ tá bảo mang xuống phòng chữ. Tôi chận Chu Tử. Tôi nói: - Tôi muốn anh lọc trước.
Chu Tử vẫn tiếp tục viết, không ngẩng đầu nhìn tôi, anh không rời khỏi thế giới cảm hứng và anh chỉ, từ thế giới xa xôi đó, hỏi vọng về:
- Sao vậy?
Tôi nói cái này nổ, vừa nói vừa lấy lại quả bom, đẩy bài viết và tài liệu về phía Chu Tử, Chu Tử đẩy tất cả về phía người phụ tá, nói không sao, không sao, cho sắp chữ đi, tôi tha thiết quả này có thể làm phiền hà cho tờ báo, Chu Tử tiếp tục cắm cú i viết, tiếp tục nói cho sắp chữ đi, nói không sao.
Tôi nói:
- Bài này có thể gây rắc rối...
- Không sao...
- Báo có thể bị tịch thu...
- Không sao...
Báo tịch thu có sao chứ sao lại không sao. Một kỳ in hai trăm ngàn s ố, tịch thu riết, nước chảy đá mòn là phải sập tiệm, có sao chứ sao lại không sao. Tôi phóng ra một trọng lượng lớn hơn:
- Báo có thể bị đóng cửa...
Chu Tử tiếp tục nói không sao, tôi nhắc lại báo có thể bị đóng cửa, nhắc lại lớn hơn, có phần quyết liệt hơn, Chu Tử ngừng viết, ngẩng đầu nhìn tôi, đôi mắt anh sau mục kỉnh như sau một làn sương mù, trông như ngơ ngác, trông như anh mới khởi hành đi về nơi đây, nhưng chỉ mới khởi hành thôi, chưa tới nơi. Anh hỏi tôi:
- Anh nói sao?
Tôi trả lời:
- Tôi muốn anh đọc bài của tôi trước khi cho đăng vì bài này nổ...
236 | nguyên sa
hồi ký | 237
Chu Tử về tới nơi. Anh cười vui tươi :
- Thì lại càng nên cho sắp chữ ngay...
Tôi hỏi, Chu Tử giải thích chính vì lý do đó, lý do mà tôi vừa nêu lên đó, lý do bài này nổ cho nên cần mang sắp chữ ngay, đọc làm gì. Tại sao nó lại không cần đọc. Càng nổ bài viết càng đáng ngại, có thể làm cho báo bị tịch thu, tệ hơn, bị đóng cửa, tại sao đọc làm gì. Tôi nói lên ý kiến của tôi với thật nhiều thắc mắc. Tôi nói:
- Tại sao bài nó có thể làm báo đóng cửa lại cho đăng khôngChuđọc?Từcười vui tươi:
- Cho đỡ buồn...
Tới phiên anh cất tiếng hỏi:
- Anh biết là bài nổ, đầy nguy hiểm, anh viết làm gì?
Niềm vui hồn nhiên, sự thích thú trẻ thơ ùa vào tâm hồn tôi:
- Cho đỡ buồn!
Hai chúng tôi cùng cả cười, đầy khoái trá. Chu Tử đọc. Vừa đọc vừa nói. Tôi nhìn Chu Tử đọc. Vừa nhìn vừa nói.
- Bùi Tường Huân!
- Đúng, Bùi Tường Huân!
- Huân Giáo dục!
- Tổng trưởng Giáo dục!
- Quả bom!
- Anh nói sao?
Chu Tử gật gù:
- Tôi nói quả bom thật!
Chu Tử đưa lên tờ phóng ảnh một văn thư của Bộ Giáo Dục hỏi:
- Làm sao anh có cái này?
Tôi nói người ta cho. Có giải thích thêm:
- Giang hồ!
Người cho thích thì cho, người nhận thích thì nhận. Không lập bè kết nhóm, không phe, không đảng. Giang hồ
thôi.Chu
Tử không hỏi thêm. Anh cầm bút, hí hoáy viết. Tôi đọc dòng chữ của anh, anh viết được trên phân nửa, tới chữ “c” tôi đã đoán biết. “Tám Cột”.
Tôi hỏi cho rõ:
- Bài này anh tính đi tám cột?
Chu Tử gật đầu, không nói có, không nói không. Chủ nhiệm báo Sóng cười nói:
- Cho đỡ buồn!...
Chu Tử vẫn thế, nhiều khi cười mắt trông cũng vẫn buồn. Khi anh ngẩng đầu lên, sau khi viết hai chữ “tám cột”, tôi vẫn thấy làn sương mù, buồn nản và xa xăm. Báo ra anh cho người tìm tôi lên t òa soạn, thấy t ô i anh đã cười, mắt anh thật lạ, có lóng lánh sự vui tươi. Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Tú Kếu nhìn tôi cười tủm tỉm, khuôn mặt người nào cũng có lẫn lộn những nét nghiêm trọng và sự thích thú. Chu Tử thầm thì quả bom của ông nổ to. Anh cho hay hai trăm ngàn số báo tung ra bộ Giáo dục chấn động đã đành, còn làm chấn động cùng khắp, cả tướng Khánh... Bài báo làm Bộ Giáo Dục phải rung lên, tôi không lạ, tôi cân đo từng chất lượng hóa học, tôi sấy khô ngòi nổ, tôi nhồi thuốc, tôi đặt kim đồng hồ, chơi chất nổ tôi biết nguyên tắc một của trò chơi này là không bao giờ được sai lầm và mỗi người chỉ có cơ may sai lầm có một lần. Đương nhiên tôi biết nguyên tắc số hai liên quan đến sức công phá của chất nổ. Ông Bộ
238 | nguyên sa
hồi ký | 239
trưởng Bùi Tường Huân từ khi lên chức không ngớt lớn tiếng hô hào cách mạng. Bộ trưởng Huân phất cao ngọn cờ chống văn hóa ngoại bang, chống chương trình Pháp, đề cao văn hóa dân tộc. Chính phủ của ông Nguyễn Ngọc Thơ có phần chìm, không ca lên những bài thời thượng, thành ra sớm trở thành một ban hợp ca “Diệm không Diệm.” Rút tỉa kinh nghiệm của chính phủ “Diệm không Diệm” Nguyễn Ngọc Thơ, chính phủ của tướng Khánh ca mạnh mẽ những bài cách mạng, bài dân tộc, bài diệt Cần Lao, bài chống văn hóa ngoại bang... Tổng trưởng Huân tựu chung cũng chỉ làm công việc của một giọng ca trong một ban hợp ca. Cũng chỉ đúng thôi. Nhưng Bộ Giáo dục của ông Huân đã có cái lầm là viết một lá thư chính thức cho Đại sứ Pháp để xin ông này can thiệp với trường Trung học Bác Ái, dạy chương trình Pháp, xin trường này cho con của một thân nhân của ông Bùi Tường Huân được đặc biệt nhận vào trường này. Đó là nội dung của phóng ảnh đăng trên nhật báo Sống . Sinh viên đang biểu tình rần rần chống văn hóa ngoại bang, chống chương trình Pháp. Tổng trưởng giáo dục đọc diễn văn lên án văn hóa ngoại bang, ngợi ca văn hóa dân tộc. Chính Bộ Giáo Dục cách mạng lại gửi văn thư xin Đại sứ Pháp can thiệp cho con em của thân nhân ông Tổng trưởng, cháu ruột của ông Tổng trưởng, vào học trường dạy chương trình văn hóa ngoại bang. Bài viết không quên phân tích những vi phạm về mặt giáo dục, về mặt luân lý nói khác làm khác, về mặt thể thống quốc gia, Tổng trưởng Giáo dục mà phải viết thư đi xin học nơi đại sứ ngoại quốc, và cả về phương diện hành chánh và kinh nghiệm thông thường. Xin cho một em nhỏ
vào trường Bác Ái thì một ông Thanh tra Tư Thục điện thoại hay gặp riêng một giới chức của trường Bác Á i được rồi cần gì nhiêu khê tới mức Tổng trưởng, Đổng lý... Lá thư có nhiều hy vọng làm đại sứ Pháp cười bò, làm cho ngoại giao đoàn ở Sài Gòn kẻ cười bò, người cười tủm tỉm...
Anh em chúng tôi cười khoái trá, kéo nhau xuống phở xe Gia
ChúngLong.tôi
có bàn tính ông Huân là người của Thượng tọa Trí Quang, ông nói hay hầu cờ Thượng tọa, tờ báo, người chơi chất nổ cho đỡ buồn có thể bị ông Tổng trưởng Giáo Dục trả đũa, có thể bị Thượng tọa Trí Quang quan tâm, hơn thế, có thể bị tướng Khánh vì bị Thượng tọa Trí Quang thúc đẩy hoặc vì tinh thần đoàn kết với một thuộc cấp mà phải ra chiêu?... Chúng tôi lo âu quá đáng. Không thấy Thượng tọa Trí Quang làm việc gì để tiếp nội lực cho ông Tổng trưởng Huân, cũng không thấy ông Khánh ưu ái ông Huân nhiều hơn Thượng Tọa. Chỉ thấy mấy tháng sau tướng Nguyễn Khánh bổ nhậm luật sư Phan Tấn Chức vào chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thay thế ông Bùi TườngChuHuân.Tửtrong suốt thời gian đó hay dặn tôi:
Anh phải cẩn thận! Ngay cả thời gian trước khi tôi đi thụ huấn ở Thủ Đức, bạn tôi cũng vẫn dặn dò:
- Anh phải cẩn thận.
240 | nguyên sa
Phải cẩn thận! Có, tôi cẩn thận lắm chứ. Chu Tử dặn dò tôi, tôi cám ơn anh. Tôi vẫn nhớ tôi phải cẩn thận. Nhưng, cẩn thận là một chuyện, định mệnh lại là một chuyện khác. Tổng trưởng Bùi Tường Huân lên nhậm chức được một tuần, buổi sáng thứ hai đầu tuần sau, vừa tới trường Chu Văn An, lúc đó đã dọn về địa điểm mới, cụ Hiệu trưởng Trần Văn Việt xuống phòng giáo sư ghé vào tai tôi nói khẽ: - Ông cho tôi nhờ chút! Cụ Hiệu trưởng Trần Văn Việt vẫn gọi tôi là ông, tôi gọi ông Hiệu trưởng là c ụ, cũng như cụ Vũ Ngô Xán vị tiền nhiệm của cụ Trần Văn Việt và cụ Nguyễn Hữu Văn, người tiếp tục cụ Việt, trong thời gian cụ Việt làm Hiệu trưởng, cụ Văn làm Giám Học, các huynh trưởng của tôi đều gọi tôi là ông , tôi gọi các vị là cụ. Mức độ tình thân giữa những vị huynh trưởng ở Chu Văn An và tôi tới chỗ mang cho ông
hồi ký | 241
Nơi phụ nữ đẹp nhất Việt Nam
242 | nguyên sa chiếc áo người con, người em , và c ụ rất gần gũi với hàng cha chú. Những từ ngữ thân thương này ở với tôi suốt đời trong những xưng hô quen thuộc. Tôi đứng dậy ngay, cụ Hiệu trưởng đi trước, tôi theo sau, tới cửa phòng hiệu trưởng cụ Trần Văn Việt dừng lại nhường cho tôi vào trước, tôi nhìn thấy cụ Giám Học Nguyễn Hữu Văn đứng ở đầu hành lang đưa tay làm dấu hiệu thân ái, dường như muốn hỗ trợ tinh thần. Tôi gạt bỏ ý nghĩ này ngay, có gì mà phải hỗ trợ tinh thần. Có gì hay không có gì, cụ Trần Văn Việt cho tôi biết ngay khi chúng tôi đã cùng nhau ngồi xuống.
Cụ Hiệu trưởng Chu Văn An giọng nghiêm chỉnh, cất tiếng:
- Ông có quen ông Tổng trưởng Bùi Tường Huân không?
Tôi lắc đầu, nói lên không ngần ngại là tôi không quen ô ng Bùi Tường Huân. Tôi chưa gặp ông Bùi Tường Huân bao giờ, chớ đừng nói đến quen biết, tôi chỉ biết mơ hồ tin ông mới lên làm Tổng trưởng Giáo dục thay thế ông Nguyễn Văn Trường, tôi cũng có nghe ông Huân làm giáo sư ở trường Luật, Huế, tôi biết điều này cùng với tin ông lên Tổng trưởng Giáo dục, trước đó thì không biết tên ông bao giờ, giới trường Luật tôi không biết nhiều, có nghe tên các bậc thầy của ngành nghề này như các giáo sư Vũ Quốc Thúc, Vũ Quốc Thông, Nguyễn Cao Hách, nhưng ông Huân thì tôi hoàn toàn không biết...
Cụ Hiệu trưởng Việt dường như không quan tâm đến những chi tiết, cụ tiếp tục nêu lên những câu hỏi và chờ đợi những câu trả lời có hay không, chính xác và ngắn gọn.
- Ông không quen biết ông Tổng trưởng Bùi Tường Huân?
- Thưa cụ Hiệu trưởng không?
hồi ký
- Ông có gặp ông Huân lần nào không?
- Thưa cụ không!
- Ông có thù oán gì với ông Huân không?
- Thưa cụ không?
- Có điều gì đụng chạm mà không biết?
- Tôi không nghĩ...
Cụ Hiệu trưởng trường Chu Văn An cầm lấy tờ giấy đã để sẵn trên mặt bàn, đưa cho tôi. Tôi đọc nhảy cóc, thấy ngay những hàng chữ làm rung động, thấy Chợ Mới, thấy An Giang, thấy tên tôi, thầy giáo sư đệ nhị cấp, thấy tên giáo sư Lưu Trung Khảo, em rể tôi, thấy Long An... Tôi choáng váng. Nói là choáng váng thì văn vẻ, nhưng từ ngữ đúng hơn phải là tá hoả tam tinh.
Tôi chỉ tờ giấy há hốc mồm, mắt ngơ ngác hỏi vị Hiệu trưởng. Cụ Việt nhìn tôi đầy ái ngại, đầu gật gật.
Khi tôi vượt khỏi ngôn ngữ của diện mạo, nhãn quan, và động tác, những ngôn ngữ cảm xúc, tái lập ngôn ngữ tiếng nói, vấn đề có hiện ra chính xác hơn, nhưng không khác biệt. Tổng trưởng Bùi Tường Huân lên nhậm chức chỉ một tuần đã cho lệnh thuyên chuyển tôi đi An Giang. GS Lưu Trung Khảo đi Long An. Sự vụ lệnh thuyên chuyển tôi và Lưu Trung Khảo là sự vụ lệnh đầu tiên của triều đại Bùi Tường Huân. Tôi ý thức được ngay việc thuyên chuyển tôi mau lẹ như thế có nhiều hy vọng phản ảnh một quyết tâm có từ trước, thù hận có suy tư, sâu xa và quyết liệt. Tôi có thù oán gì với ông Bùi Tường Huân không? Không, tôi chưa gặp ông Huân bao giờ, tôi không quen, cũng không biết gì về ông, ông dạy Luật, tuốt ngoài Huế, tô i dạy Triết ở Trung học Chu Văn An, không có gì đụng chạm, không
| 243
có gì có thể đụng chạm được. Sao ông vừa lên đã đánh tôi một búa trời giáng. Tôi có lỗi gì? Hay là tôi có lỗi gì chăng?
Tôi hỏi cụ Việt:
- Tôi có lỗi gì?
Cụ Hiệu trưởng lắc đầu.
Tôi hỏi:
- Biện pháp kỷ luật?
Bậc huynh trưởng vẫn lắc đầu. Ngón tay cụ chỉ lên dòng chữ trên sự vụ lệnh: nhu cầu công v ụ.
Nhu cầu công vụ. Tôi đưa tờ sự vụ lệnh lên cao đọc lại tên nhiệm sở mới mà ông Huân muốn tôi đi tới đó vì có nhu cầu công vụ. Trường Trung Học Chợ Mới, An Giang. Có nhu cầu công vụ gì ở An Giang. Trường có thêm nhiều lớp mười hai? Trường Chợ Mới cần thêm giáo sư Triết? Tôi hỏi, câu hỏi nào cụ Việt cũng có một câu trả lời cho tôi. Không, Trường Chợ Mới không có lớp mười hai, trường cũng không có nhu cầu gì về giáo s ư Triết cả? Cụ cũng có cả những câu trả lời cần thiết cho những chọn lựa của tôi.
Cụ Giám Học cũng vào phòng Hiệu trưởng từ bao giờ. Hai cụ cùng nhau cho tôi những dữ kiện quý giá. Tôi không phải là giáo sư dạy giờ, cũng không phải là giáo sư chính ngạch. Ngành giáo sư Trung học thời đó, về mặt hành chánh, có ba loại thầy giáo, các thầy dạy giờ, dạy giờ nào ăn tiền giờ đó, chính phủ muốn mượn lúc nào thì mượn, muốn gi ãn lúc nào cũng được. Giáo sư khế ước ký giao kèo năm một, có lương nghỉ hè và ngày lễ, đủ mười hai tháng, nhưng giao kèo ch ỉ năm một, mỗi năm mỗi ký. Giáo sư chính ngạch, coi như giao kèo dài hạn, phục vụ cho tới khi hưu trí ngoại trừ những trường hợp đặc biệt. Tôi là giáo sư
244 | nguyên sa
hồi ký | 245 khế ước. Giáo sư dạy giờ bị thuyên chuyên ngang xương là có quyền nghỉ ngay. Giáo sư chính ngạch bị thuyên chuyên là phải chấp hành sự vụ lệnh, chống cưỡng lại đương nhiên bị xử phạt về hành chánh. Giáo sư khế ước có phần ít nặng nề hơn. Bị thuyên chuyển không đi là coi như gián đoạn khế ước. Bộ Giáo dục có thể giải thích không tuân lệnh thuyên chuyển là gián đoạn khế ước đơn phương bị khép tội kỷ luật. Người thầy giáo cũng có thể cho là không di chuyển bị cúp khế ước là hết, không có tội vạ gì cả. Vấn đề thật ra gai góc, nhưng chúng tôi không nói mà cùng đồng ý là vấn đề quan trọng mà không quan trọng. Trong những lúc bình thời thì vấn đề này có gai góc thật, vả chăng vấn đề nào cũng có gai góc của nó, nhưng trong thời gian này vấn đề quan trọng ở chỗ khác. Không nhận lệnh thuyên chuyển là chấm dứt khế ước, dù cho Bộ Giáo Dục không làm gì, tôi tự chấm dứt quy chế công chức là đời tôi tàn. Bộ Giáo Dục đánh ra lá bài biết rõ người nhận sự vụ lệnh bị đặt vào cửa tử. Chọn con đường nào cũng là tử lộ. Chịu chấp nhận lệnh thuyên chuyển không mở ra trước mặt một chân trời tươi sáng nào. Thầy giáo dạy lớp mười hai, môn triết, ở Thủ đ ô , bị đá về tỉnh nhỏ, trường nhỏ, không có lớp mười hai, sẽ hiện ra trước mắt ông Hiệu trưởng địa phương, ông quận trưởng, ông tỉnh trưởng, ông cảnh sát trưởng như một thành phần bị trừng phạt kỷ luật cần phải được săn sóc, phải cảnh giác, và phải chiếu cố tận tình nếu cần, nếu có lời “gửi gấm” của bộ. Riêng với tôi đi Chợ Mới, tư thục Văn Học do Nga làm Hiệu trưởng, tôi là một cột trụ sẽ sụp đổ ngay trong một sớm một chiều.
Nhưng không đi, lệnh động viên sẽ tới không phải một sớm một chiều nào đó mà có thể là sáng ngày mai. Cụ Việt:
- Ông sinh năm 1932!
Tôi xác nhận. Cụ Văn cũng xác nhận thêm cho tôi:
- Ông Lan sinh trente deu x...
Tôi không để cho hai vị huynh trưởng phải lo lắng cho mình lâu hơn, tôi viết lên tờ giấy của Bộ Giáo dục một dòng chữ ký tên phía dưới và đẩy tờ sự vụ lệnh về phía cụ Hiệu trưởng. Cụ Việt thân thương:
- Ông nhất định?
Cụ Văn đầy tình cảm:
- Ông có muốn lấy thêm thì giờ, suy nghĩ thêm không?
Tôi lắc đầu, đây tờ giấy đi tới, đứng dậy, nói lên đúng từng chữ của dòng chữ viết: “Tôi không nhận sự vụ lệnh này.” Tôi không nhận lệnh thuyên chuyển của ông Huân. Tôi chấp nhận đi lính. Trên đường về, và cả những ngày sau đó, tôi vẫn nghĩ ông Huân không có ân oán gì với tôi. Tôi biết đàng sau ông Huân có “đại ca thủ lãnh”. Tôi biết đại ca thủ lãnh đã đẩy ông Huân xuống đao, đưa tôi vào con đường tử, chấp nhận lệnh thuyên chuyển là chết, không nhận lệnh thuyên chuyển cũng chết. Tôi vẫn nhớ tôi với ông Huân không có ân không có oán. Tôi có cảm thấy đau, nhưng không cảm thấy oán hận ông Huân. Tôi biết chiêu pháp của đại ca thủ lãnh. Trong mọi trường hợp, tôi cũng không có thì giờ để nghĩ đến chuyện thù oán hay giận hờn, mà có muốn nghĩ tới cũng chả làm gì được ai. Tôi chỉ là một phó thường dân, một thầy giáo trung học bị đá văng xi lô, làm gì được ai, tôi còn phải đối phó với lệnh động viên tới không chậm trễ. Một mặt tôi nhờ các giáo sư Trần
246 | nguyên sa
hồi ký | 247
Đức An, Trần Đỗ Dũng. Nguyễn Xuân Hoàng, Vĩnh Để... và nhất là giáo sư linh mục Trần Văn Hiến Minh đảm nhận các giờ triết học của trường Văn Học. Mặt khác, tôi nhờ Hoà Thượng Thích Tâm Châu, lúc đó là Thượng tọa Viện Trưởng Viện H óa Đạo, Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Đại tướng Cao Văn Viên vớt. Thượng tọa Viện trưởng Viện Hóa đạo vớt tôi được một thời gian, Trung tướng Nguyễn Bảo Trị vớt tôi được thêm một thời gian, tướng Trị bậc đàn anh cùng vui đùa với nhau từ thời tiểu học ở Hà nội. Tôi gọi ông là Trị Chả Cá, người anh hào hùng, với lòng ngưỡng mộ trẻ thơ. Tôi chỉ hỏi ông có một câu, khi đó ông làm Tổng Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị kiêm Tổng tưởng Thông Tin. Tôi nói vắn tắt:
- Ông Có đánh rát quá, Thiếu tướng [lúc đó ông là Thiếu tướng] vớt tôi một thời gian... Tướng Trị không nói một lời về điều tôi hỏi han, ông gọi tôi bằng tên, hỏi thăm gia đình, hỏi Lan có khỏe không, toa phải dạy học nhiều không, và ông nói gì với người phụ tá, người này lui vào, mau chóng mang ra tờ giấy, tướng Trị ký tên, đưa cho tôi, ông bổ tôi làm bí thư cho ông. Sau đó ông làm thủ tục hoãn dịch cho tôi. Đại tướng Cao Văn Viên lên gặp ông Thiệu ông Kỳ xin cho tôi làm sĩ quan đồng h óa . Ông Thiệu ông Kỳ chỉ cho Trung sĩ đồng hóa. Đại tướng Viên hỏi ý kiến, cả hai chúng tôi đều đồng ý không nhận. Ngày nhập ngũ khóa 24 tới nơi. Từ nhiều khóa trước đó tướng Có hỏi tướn g Trị:
- Anh muốn xin hoãn dịch cho người này bao nhiêu lâu?
Tướng Trị hỏi tôi, tôi tính nhẩm tới khóa 24 là đủ thu xếp xong mọi việc trường, việc nhà, tới khoá 24, giấy gọi
Hỏi Bạn
Tạp chí Tiếng Nói , trang mười tám, số hai, một nhà thơ nói ở Hậu Giang, phía bên kia châu thành Long Xuyên, trên con đường khập khểnh đi về quận Chợ Mới, đó là nơi phụ nữ đẹp nhất Việt Nam.
Ta chợt nhớ một anh Bộ trưởng ngu ngơ ký sự vụ lệnh đổi ta về
Tađólấy làm ức không đi Bây giờ nghĩ lại ta biết ta đã lầm
Ta biết rằng đó là nơi ta phải tới
248 | nguyên sa tới nơi, tôi lên đường đi nhập ngũ lòng thơ thới. Tôi không còn nhớ gì đến Tổng trưởng Huân, lúc đó đã mất chức. Không còn oán hận gì. Khi đánh lớn trên tờ Sống cũng chả có thù oán gì. Tôi vớ được “quả bom” do người anh em giang hồ làm việc trên bộ, phòng văn thư đưa cho, thì đánh “cho đỡ buồn”. Tôi cũng mơ hồ nghĩ đánh thử xem vừa đỡ buồn, nếu như “đại ca thủ lãnh” có xuất hiện và xuất chiêu thì ta lại tính, cũng vui thôi. Đại ca không xuất hiện, ông Huân cũng không đi tới, sự vụ lệnh thuyên chuyển GS Khảo được thu hồi, tôi có được liên lạc xem có muốn xin trở về GS khế ước không, tôi khước từ, hồ sơ liên quan đến sở Thanh Niên Học Đường với những chương trình trại hè GS Khảo có biết, tôi có biết, tài liệu thu thập như một sự phòng thân, “đại ca thủ lãnh” ra chiêu ta cũng có thuốc, bom này cho nó cũng vang động, nhưng chúng tôi đã ném hòn đá xuống ao. Đi Thủ Đức về, không những không còn thù hận nào, cũng chẳng có buồn phiền với bất cứ ai, chỉ có sự vui tươi phơi phới, thơ phơi phới, trong số có Hỏi Bạn, đăng trên tạp chí Tiếng Nói của Tủ Kếu.
hồi
Đó chính là nơi ta phải sinh ra Đó chính là nơi con cái ta nên sinh ra
Đó chính là nơi ta phải sống
Đó chính là nơi ta làm thơ Đó chính là quê hương ta Và ta lấy làm tiếc.
Ta lấy làm tiếc là rất lấy làm tiếc Lấy làm tiếc và lấy làm lo ngại
Tình hình miệt ấy bây giờ ra làm sao
Mặt trận miệt ấy bâ y giờ ra làm sao Bom đạt miệt ấy bây giờ ra làm sao Ngày đại bác bây giờ ra làm sao Đêm công đồn bây giờ ra làm sao Giữa tất cả những cái x ấu xa đó Đàn bà đẹp của quê hương ta ra làm sao?
Đàn bà đẹp của quê hương ta bây giờ ra làm sao Máy bay B năm mươi hai đã bay qua đây chưa Con đường khấp khểnh đã bị gài mìn và đắp ụ chưa Thu thuế ban đêm đã bắt đầu khai diễn chưa Đồ hộp phế thải đã bắt đầu bày bán chưa Người Mỹ đã đi qua đó chưa Cộng sản đã đi qua đó chưa Giữa tất cả những cái xấu xa đó Đàn bà đẹp của quê hương ta ra làm sao?
ký | 249
C húng tôi lại tiếp tục đánh phá bọn cường hào ác bá, bọn tiền hô hậu ủng, bọn chó nhảy bàn độc, bọn Đông phương bất bại, bọn ngụy quân tử... Cho đỡ buồn! Bởi vì đời quả thực quá buồn. Những niềm vui đến sau khi hoàn thành một công việc thường nhật, niềm vui thoát khỏi một hiểm nguy, cũng như mục tiêu tiền bạc, danh vọng đã hiện ra với chúng tôi như những ánh đèn của con tàu chạy trên một đại dương giông bão, những ngọn đèn bị thổi tắt từng chiếc một, con tàu của đời người dù cho chạy về hướng nào, rút cục cũng chìm sâu trong đại dương đêm đen và giông tố của thời gian. Tư tưởng đời sống buồn không phải đợi cho tới những năm khởi đầu của hậu bán thế kỷ hai mươi mới xuất hiện nơi con người và trong văn chương thế giới và Việt Nam. Từ nửa trên của thế kỷ, Xuân Diệu cũng như René trong tác phẩm của Chateaubriand, người tiên phong của trường phái
250 | nguyên sa
hồi ký | 251 lãng mạn Pháp đã “buồn vô cớ”, “tristesse sans cause”. Tôi buồn chả biết vì sao tôi buồn. Nỗi buồn lớn phủ kín lên những hành động, những ước mơ, những ngày, những đêm, phủ lên cả những thất bại và thành công của những năm tháng của những năm năm mươi và sáu mươi không phải là “buồn vô cớ.” Nỗi buồn của chúng tôi là nỗi buồn có lý do, buồn vì đời phi lý . Phi lý quá. Con người sinh ra có những ước mơ. Mỗi người, bằng những gian khổ, những cố gắng bản thân, những đam mê, làm được những thành tựu lớn hay nhỏ. Anh làm thơ, viết văn, anh hình thành được những tác phẩm văn vần hay văn xuôi. Người sáng tạo đó, trong nhiều thế kỷ có niềm tin ý thức là chết không phải là chấm hết. Cuộc đời có tận cùng, những tác phẩm văn tác phẩm thơ đó còn lại với thời gian. Con tàu chạy trong đêm thời gian mênh mông có những ngọn đèn thắp sáng. Nhưng những ngọn đèn đó thắp sáng được bao lâu? Một thế kỷ? “Tam bách dư niên hậu”? Mười, mười lăm thế kỷ? Nhiều lắm hai mươi, hai mươi lăm, không còn ai biết nhiều về những văn nhân thi sĩ của những thế kỷ trước thế kỷ thứ năm của Tây Lịch. Loài người không khởi đầu từ thế kỷ thứ năm trước Tây Lịch, nhưng những ngọn đèn của thời gian tiền-Socrat e hiện ra mù mờ ở vị trí tiếp cận, không còn dấu vết nào của ánh sáng ở những vị trí thời gian xa hơn. Mà năm thế kỷ, mười thế kỷ, ngay cả hai mươi lăm, ba mươi thế kỷ, cho tới ba thiên niên, năm, mười thiên niên rút lại cũng chỉ là những vô cực nhỏ đối chiếu với vô cực lớn của thời gian. Vô cực nhỏ cộng một, vô cực nhỏ cộng hai, cộng ba, cộng hai mươi, cộng ba mươi, cũng chỉ là vô cực nhỏ trong vô cực lớn của thời gian, thắp sáng nào
252 | nguyên sa cũng chỉ là hư vô thắp sáng trong thời gian lớn đêm đen, nơi đó, mọi ngọn đèn hư vô thắp lên rút cục cũng chỉ là hư vô. Thắng: hư vô. Bại: hư vô. Ước vọng: hư vô. Thực tại: hư vô. Thượng đế, kể từ Niet z che, đã chết. Kiếp người, sinh ra để chết. Thiện ác cũng thế thôi trong sự vắng thiếu của vị thẩm phán tuyệt đối. Tận cùng của hữu thể là hư vô. Từ đó vang động câu hỏi ghê gớm: kiếp nhân sinh chi để chết, để chấm hết, để chìm vĩnh viễn trong đại dương thời gian, để tan vào hư vô thì sinh ra làm gì? Cuộc đời để làm gì? Một cuộc đời mà mọi cứu cánh đạt tới được rút cục chỉ hư vô hiện ra như một phi lý khủng khiếp. Hữu thể rút lại chỉ là “hữu thể của hư vô”. Tư tưởng về sự phi lý của kiếp người mau chóng trở thành con sâu đo nằm trong trái táo của sự sống. Tác phẩm lạc quan cũng phảng phất hơi thở phi lý. Bàn tay người tình nằm trong tay đã có những đường gân thời gian trôi chảy, thấp thoáng cái chết biệt ly, trong cái có nào cũng có một cái không, có rút lại chỉ là không. Tôi không biết Chu Tử bắt gặp triết học hiện sinh từ thời điểm nào, tác phẩm và sinh hoạt báo chí của anh chỗ nào cũng có sự chán chường đó. Không ai thấy anh sửa văn sửa lời của người cộng tác nào, dù cho bài văn chứa đầy bất trắc, dường như anh thấy rõ bất trắc nào rồi cũng vậy mà thôi. Chắc chắn và bất trắc cũng vậy, cũng hư vô. Anh thích nghe tôi kể cho anh về những kỷ niệm của tôi và triết lý hiện sinh. Tôi cũng kể chuyện, bằng chữ viết, ở đây, ở đó, ở Sáng Tạo ngay những ngày đầu về triết lý hiện sinh. Có lần tôi kể chuyện, trên Sáng Tạo , về “những triết học hiện sinh”, tôi trao gởi lại, những bài học đã hấp thụ từ Jean Wahl, triết sử gia của triết lý hiện sinh, bậc thầy ngồi ở ghế
hồi ký | 253
Siêu hình học ở Sorbonne đầu thập niên năm mươi. Jean Wahl, trong những bài giảng ở đại giảng đường Descartes, trong những tác phẩm của ông, từ Traité de Métaphysique, cho tới “Les Philosophies de l’existence ” thường nhấn mạnh, hiện sinh hay hiện hữu, không phải là một triết thuyết, vì tư tưởng hiện sinh là sự trái ngược với tư tưởng hệ thống, cho nên không có một triết thuyết hiện sinh, chỉ có những triết học hiện sinh, les philosophies de l’ existence . Triết sử gia đi sâu vào Heidegger, vào Sartre, Merleau Ponty, Gabriel Marcel, Jaspers, một phần tương đối ít hơn về Trần Đức Thảo và Albert Camus. Camus dưới mắt triết sử gia thuộc về văn học. Trần Đức Thảo được Jean Wahl trang trọng giảng dạy như một triết gia hết sức chuyên môn có tham vọng tìm ra một con đường vượt trên duy vật biện chứng và hiện tượng luận. Tôi được nghe thấy, được nhìn thấy những hình ảnh đầy cảm xúc, của Albert Camus, của Trần Đức Thảo từ khi còn ở bậc Trung Học. Anh Tư, người lính thợ làm hầu bàn độ nhật ở tiệm ăn La Baie d’Along ở bên tả ngạn, Rue des Écoles, mỗi chiều thứ bảy rủ anh em sinh viên về gian phòng độc thân của anh để bàn cãi về những tác phẩm mới xuất bản, đang “rất nóng” trong giới trí thức Pháp. Anh nói về L’Eranger, về Le Mythe de S i s yphe, về Le Malentendu, L’Homme Révolté của Camus, về La Nausée, Le Diable et le Bon Dieu. L’Etre et le Néant của Sartre... Từ trước khi, bằng đọc sách, hiểu được Le Mythe de Sisyphe, tôi đã được anh Tư kể cho nghe chuyện chàng Sisyphe vác tảng đá lớn lên đỉnh núi, từ tảng sáng cho tới hoàng hôn mới xong, buổi tối Sisyphe trở về chân núi, tảng đá đã từ đỉnh núi rơi xuống chân núi từ trước khi nhân vật
254 | nguyên sa thần thoại Hy lạp tới nơi. Sáng hôm sau anh lại gian khổ vác tảng đá lên đỉnh núi để lại nhìn thấy nó ở chân núi lúc buổi chiều. Chúng ta chính là những chàng Sisyphe mỗi ngày hì hục vác lên núi cao tảng đá đời, những tảng đá mỗi sáng vác lên, mỗi chiều rớt xuống, những tảng đá phi lý, đời phi lý, những vận chuyển phi lý, kiếp sống và những hành động phi lý. Anh Tư thích kể cho đám học sinh và sinh viên chúng tôi nghe về thời gian Hồ Chí Minh, mà anh gọi là “ ông Hồ ” sang Paris đi dự Hội nghị Fontainebleau, những nhà trí thức đã theo chân “ ông Hồ ” về Việt Nam như Trần Đại Nghĩa, kỹ sư tốt nghiệp Polytechnique, tác giả của súng không giật SKZ. Anh Tư cho những người trẻ coi bài báo Le Monde mà anh viết, một tuần trước khi Hồ Chí Minh tới nơi, bài báo vạch rõ những sai lầm của Hồ Chí Minh, sai lầm là một tiếng êm ái, bài báo dùng từ ngữ “trahison” . Hồ Chí Minh đã phản bội những người tranh đấu cho nền độc lập Việt Nam qua hành động chấp nhận thương thuyết với thực dân, chấp nhận khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Từ Le Mythe de S i sy phe , anh lính thợ có tên là Tư thuyết trình cho anh em sinh viên “bên nhà mới qua” về ý nghĩa của L’Homme Revolté. Anh thích kể chuyện về Trần Đức Thảo. Anh cho rằng trong cuộc đối thoại giữa Trần Đức Thảo và Jean-Paul Sartre, Sartre đã thua, đó là lý do Sartre từ chối không cho ấn hành cuốn sách về cuộc hội thảo này như ấn định. Anh thích nhấn mạnh đệ tử ruột của triết gia Heidegger, ông tổ của triết học hiện sinh là Trần Đức Thảo chứ không phải là Jean-Paul Sartre. Chính Trần Đức Thảo đã mang triết học hiện sinh vào Pháp, là người đầu tiên phiên dịch những bản thảo của Heidegger
hồi ký | 255
sang Pháp ngữ. Ngay khi còn đi học, cuộc chạy đua giữa Trần Đức Thảo và Jean Paul Sartre đã làm chấn động. Hai nhà tư tưởng lớn của thế kỷ hai mươi đều xuất thân từ đường d’Ulm.
Tôi hỏi Nguyễn Văn Tư: - Đường d’Ulm?
Lời giải thích cho hay Ecole Nationale Normale Supérieure của Pháp trụ sở ở đường d’Ulm. Những người học triết cũng như các bộ môn khác, phải trải qua một cuộc thi tuyển trước khi vào trường Sư Phạm quốc gia. Những trường sư phạm không có kèm theo từ ngữ nationale cũng đào tạo thầy giáo, ở một cấp thấp hơn, chỉ có Sư Phạm ở đường d’Ulm đào tạo những giáo sư thạc sĩ. Vào “Normale Sup.” phải thi tuyển, kỳ thi thạc sĩ cũng là một cuộc thi tuyển. Sartre và Trần học cùng lớp, thi cùng khoá. Kỳ thi thạc sĩ triết học, hai người cùng đậu thủ khoa, bảng vàng treo lên làm bùng nổ cuộc đấu tranh của những sinh viên da màu. Tên của Jean-Paul Sartre được đặt lên trên, giòng thứ nhất, tên của Trần Đức Thảo, cũng đậu thủ khoa đồng hạng lại ở dòng thứ nhì. Cuộc tranh đấu của sinh viên da màu phản đối sự kỳ thị màu da của ban giám khảo Sorbonne đã làm cho tờ niêm yết kết quả kỳ thi thạc sĩ đã được niêm yết bị lấy xuống thay thế bằng một tờ kết quả khác. Sorbonne vẫn có thói quen gắn tờ niêm yết lên những tấm bảng hình chữ nhật có lót nỉ xanh dọc theo hành lang của những đại giảng đường. Tờ niêm yết mới có tên Trần Đức Thảo và Jean-Paul Sartre ở trên cùng một dòng chỉ mang lại một cuộc tranh đấu mới. Những sinh viên da màu cất tiếng hỏi tại sao lại để tên Sartre ở phía bên
- Anh có họ hàng gì với Trần Đức Thảo không?
- Không. Khi trở ra, mang cho tôi cuốn sách tôi muốn mượn đọc, người làm việc của thư viện cho tôi hay trước kia Trần Đức Thảo vẫn tới đây. Tôi hỏi:
- Anh biết Trần Đức Thảo nhiều?
- Ở đây ai cũng biết Thảo.
Những sinh viên học cùng lớp với tôi nhắc đến Trần Đức Thảo mà họ đã đọc. Jean Wahl, bậc thầy, nhấn mạnh người mang triết học hiện sinh của Heidegger vào Pháp là Thảo. Jean Wahl nhấn mạnh nếu có một người Á châu nào xứng đáng với danh hiệu triết gia, hiểu theo nghĩa Tây phương, người đó phải là Trần Đức Thảo. Anh Tư cho tôi biết tin Trần Đức Thảo về nước khi tôi theo ông Carl Bách, người bảo trợ của tôi ở Paris đến ăn trưa ở nhà hàng Bale d’Along. Ông Bách và anh Tư dường như quen nhau thân
256 | nguyên sa trái, tức là trước tên Trần Đức Thảo. Nhưng để tên Thảo trước sẽ gặp sự đối kháng của sinh viên da trắng. Sau chót, người ta tìm ra giải đáp cho cuộc “chiến tranh khoa bảng này”. Có hai tờ niêm yết được gắn lên bảng nỉ xanh, một tờ với tên Jean-Paul Sartre ở bên trái, trước, tờ kia tên Trần Đức Thảo được đặt ở phía trái, trước tên Sartre. Khi tôi vào học năm thứ nhất ở trường Sorbonne, Trần Đức Thảo đã đi khỏi trường học đó, đi khỏi cả những sinh hoạt triết học ở Paris, nhưng ở thư viện nào, ở đại giảng đường nào tôi cũng nhìn thấy bóng dáng của tác giả “Triết học là gì?” và “Matérialisme dialectique et Ph énoménologie” . Những người lo việc cho mượn sách thư viện Sainte Geneviè ve, thư viện Sorbonne, hỏi:
hồi ký | 257
thiết. Anh Tư đưa cuốn Người Mẹ của Dostoevsky, bản Việt ngữ cho ông Bách mang về cho tôi đọc. Anh Tư nói với ông Bách thì đúng hơn là nói với tôi.
- Thảo về bên nhà rồi!
- Tại sao vậy?
- Thì vẫn cái thư viết tay của ông Hồ...
Hồ Chí Minh viết thư riêng cho Trần Đức Thảo, thư đại loại giống y chang những bức thư cho những nhà trí thức khoa bảng của Ba Lê, bác nghe tin chú đã thành tài, bác và nhân dân mong đợi chú trở về quê hương giúp nước... Ba Lê, thời gian cuối thập niên bốn mươi, đầu thập niên năm mươi có nhiều tổ chức hội luận triết học, văn chương, chính trị. Những hội luận có tầm vóc diễn ra ở Maubert Mutualité, quận 5, tập hợp từ vài trăm đến cả ngàn người. Những nhóm nhỏ họp ở những cà phê, như nhóm của Nguyễn Chính Tường ở Café Raspail, nhóm của anh Tư Baie d’Along ở trong căn phòng studio của anh ở đường Racine gần bên Métro Odéon. Trịnh Viết Thành hồi đầu cũng hay đến họp mặt ở rue Racine. Mau chóng người sinh viên “ở bên nhà mới qua” nhận ra nhóm này của anh em lính thợ đệ tứ quốc tế, nhóm kia của đệ tam. Tôi tới chỗ anh Tư, đệ tứ, thời gian trước khi đi tỉnh học thi Tú Tài. Khi tôi trở lại Paris sau khi học xong bậc Trung học, triết học hiện sinh không còn tới với tôi dưới khuôn mặt khắc khổ của những cuộc hội thảo. Tôi muốn tìm đến triết học đúng nghĩa, triết học chuyên môn hơn, không thấy thích hợp với những hội thảo, rút lại, có một nền tảng chính trị, triết lý, văn học, nghệ thuật chỉ là chiếc áo khoác.
Dù vậy, tư tưởng hiện sinh thuở đầu đời, đơn giản và
mơ hồ cũng để lại chút ít dấu vết không kém phần mơ hồ và giản đơn trong thơ thuở đầu đời. Chúng tôi trót ngẩng đầu nhìn trước mặt Trán mênh mông va chạm cửa chân trời Ngoảnh mặt lại đột nhiên thơ mầu nhiệm Tiếng hát buồn đè xuống nặng đôi vai...
258 | nguyên sa
Triết học của Trần Đức Thảo, qua những tác phẩm bằng Việt ngữ như Triết học là gì? và Pháp ngữ như Matérialisme dialectique et Phénoménologie, đều ít phổ biến ở Việt Nam, dù cho được biết đến và ca ngợi thật nhiều trong thế giới triết học quốc tế. Ngay từ đầu thập niên sáu mươi, trong những sách giáo khoa Pháp dành cho lớp Tú Tài 2, những phần trích văn bên cạnh những extrait s của Platon, Aristote, Descartes, Hegel, Marx, Nietzche, Sartre... có những trang sách của Trần Đức Thảo. Những ngòi bút khác nhau của triết học Pháp, như Jean Wahl gọi Thảo là “người tiếp tục của Heidegger”, “triết gia người Á duy nhất, triết gia hiểu theo nghĩa tây phương, của thế kỷ hai mươi”, người khác coi “Duy vật biện chứng và Hiện tượng luận” của Thảo như một khởi đầu, một cố gắng “vượt Marx”. Sartre gọi Trần Đức Thảo là “triết gia lớn”, viết những bài nồng nhiệt về người bạn học cùng lớp cũ thời
hồi ký | 259
gian nhà triết học họ Trần bị vây khốn và đàn áp trong vụ nhân văn giai phẩm. Không ít những người quan tâm đến triết lý nghĩ rằng nếu như Trần Đức Thảo không về Việt Nam, nếu ông định cư lâu dài ở Thủ Đô Ánh Sáng, nếu như ông không nhận được lá thư oan nghiệt của Hồ Chí Minh, có nhiều hy vọng tên tuổi của Trần Đức Thảo và tên tuổi của Jean Paul Sartre, hai người đã cùng nhau chói sáng trong thế giới khoa bảng, sẽ cùng nhau rạng rỡ trong thế giới sáng tạo triết học. Tác phẩm triết học của Trần Đức Thảo không được biết đến nhiều ở Việt Nam vì tính chất chuyên môn của sách nhiều hơn vì những giới hạn của khuôn khổ địa phương. Khi tôi bắt đầu học triết lý, tôi có đọc “Triết lý là gì?” do nhà Minh Tân xuất bản ở Pháp và thời gian sau đọc Materialisme Dialectique et Ph é nom é nologie . Tôi không có cảm tưởng hiểu rõ ràng những ý nghĩa của những dòng chữ, dù cho mỗi trang đọc nhiều lần, đọc xong mỗi chương có đọc lại. Phải mấy năm sau, sau nhiều lần đọc lại tôi mới có cảm tưởng có một hiểu biết nào đó về nội dung của những cuốn sách. Tác phẩm triết học L’Être et le Néant của Sartre có nhiều đoạn khó, nhưng có nhiều đoạn cuốn hút người đọc. Sartre, ngay trong tác phẩm thuần túy triết học này của ông có những dòng chữ liên hệ đến đời sống và những trang triết học thuần túy chiếu rọi và soi sáng cho nhau. Sách triết học của Trần Đức Thảo là một tập hợp hết sức cô đọng, và, trong phạm vi ngôn ngữ cũng như trong phạm vi tư tưởng, ông gần gũi với những triết gia người Đức nhiều hơn triết gia Pháp. Triết học hiện sinh dưới hình thức thuần túy triết học cũng không có nhiều may mắn hơn tư tưởng của Trần
260 | nguyên sa
hồi ký | 261 Đức Thảo ở Việt Nam. Những triết học hiện sinh dưới hình thức phổ biến ảnh hưởng một cách đáng kể trong văn học nghệ thuật Việt Nam thời gian 1954-1975. Những tác phẩm thuần túy triết học của Sartre như L’Être et le Néant, có được nhắc tới, nhưng không được đào sâu. Những chương sách nói về “hiện sinh có trước yếu tính” của L’Être et le Néant được thảo luận ở Sáng Tạo và một vài tạp chí khác. Sáng Tạo trước, rồi sau đó Văn, Văn học , và cả Bách Khoa đều có những bài nói tới existence và e ss ence. Triết học cổ điển, từ thời kỳ tiền-Socrate, thời kỳ Socrate, triết học Descatres, triết học Hegel, đều khẳng định yếu tính có trước hiện sinh. Người ta hình dung ra con dao trước khi chế tạo con dao. Yếu tính dao, tính sắc bén, hai phần lưỡi cán, chất liệu kim loại phần trên, một phần dưới, v.v. có trước rồi mới làm ra con dao. Sartre cho rằng với thế giới đồ vật thì yếu tính có trước hiện sinh, nhưng với con người thì hiện sinh có truớc. Chính hiện sinh, như một chuỗi hành động, tạo thành yếu tính của hữu thể nhân sinh. Không có chuyện tôi sinh ra như một thiên tài. Thiên tài không phải là yếu tính của Nguyễn Du ngay từ khi thi sĩ sinh ra. Chính tác phẩm của Nguyễn Du làm thành thiên tài Nguyễn Du. Hành động sáng tạo tác phẩm Đoạn trường Tân thanh làm thành thiên tài Nguyễn Du. Không có kẻ thiện người ác bẩm sinh. Không có chuyện anh này thiện vì trời sinh ra anh ta thiện, anh ta có yếu tí nh bẩm sinh thiện. Không có người yếu tính thiện cũng không có người yếu tính ác. Không có anh hùng bẩm sinh, không có kẻ phản bội bẩm sinh. Bằng những hành động của chính mình, bằng hiện sinh hữu thể được hình thành, không có
262 | nguyên sa yếu tính ti ê n nghiệm , a priori, quyết định bản chất của hữu thể. Một phần, từng đoạn, vài chương của L’Être et le Néant được phổ biến trong các sách và báo của Việt Nam những thập niên năm mươi, sáu mươi và đầu bảy mươi, một cách tương đối đơn giản. Những phần tư trưởng triết học phổ biến của ông, và những ngòi bút hiện sinh văn chương khác, nhiều nhất là Albert Camus, thì được dịch, dẫn giải, bình luận sâu rộng. Từ tưởng hiện sinh phổ biến được đón nhận trong văn chương Việt Nam thời kỳ 54-75 này dường như cũng đáng kể như văn chương cổ điển Pháp, từ classique của thế kỷ 17 cho tới romantique của thế kỷ 19, được đón nhận trong giới văn học nghệ thuật Việt Nam thời kỳ tiền chiến. Ba tác giả được du nhập vào văn học Việt Nam nhiều nhất có thể là Jean-Paul Sartre, Albert Camus, và Françoise Sagan, hai tác giả trên có cả tác phẩm luận thuyết và sáng tác, tác giả thứ ba thuần túy tiểu thuyết. Bonjour Tristesse, của Sagan, bản dịch mang tên Buồn ơi chào mi, có cả những vang động vào thế giới âm nhạc. Có một bài hát mang tên Buồn ơi chào mi! Camus là một nhà văn hơn là một triết gia. Những bài văn thiên về tư tưởng của ông như Le Mythe de Sisyphe, L’Homme Révolté là những tác phẩm khảo luận có tính chất triết lý nhiều hơn là tác phẩm thuần túy triết học, tác phẩm triết học chuyên nghiệp. Ngay từ khi giao tiếp với những dòng triết học hiện sinh, khi còn đi học, cho tới những ngày tháng viết cho Sáng Tạo , viết những dòng chữ khởi đầu, dẫn nhập, nhữn g dòng tư tưởng lừng lẫy một thời của phương Tây, tôi không cảm thấy gắn bó sâu xa với triết học hiện sinh dù cho đồng ý về nhiều điểm. Tôi bị chuyên
hồi ký | 263 chở đi thật xa, bị mang vào những chuyến viễn du làm ngất ngư của con tàu chạy trong đêm đen đại dương thời gian những ngọn đèn yếu kém và lẻ loi tắt ngúm từng chiếc một cho đến tận cùng, tôi thấy hiện sinh có trước yếu tính mang lại cho con người nhiều tự do hơn mà căn bản là tự do quyết định, bằng hiện sinh, hữu thể của chính mình. Tổng hợp hành động của hiện sinh làm thành yếu tính của hữu thể làm cho cuộc đời có ý nghĩa hơn là yếu tính của hữu thể đã được quyết định từ khi sinh ra. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy ngộ nhận là căn phần của kiếp người, nó cũng phi lý như sự phi lý của chính cuộc sống, cuộc sống mang những tảng đá lên núi cao buổi sáng, buổi chiều tảng đá to lại rơi về chân núi. Tư tưởng về tương quan giữa hiện sinh và yếu tính của Sartre và tư tưởng về sự phi lý của kiếp người của Camus không phải lúc nào cũng ăn khớp với nhau, nhiều lúc cũng khác biệt như tình bạn đổ vỡ của hai nhà tư tưởng. Tôi không tiếp nhận những tư tưởng triết lý tây phương này trong một tinh thần hệ thống, cũng không thuần túy triết học, một phần vì sự am hiểu triết học của tôi có một giới hạn, phần khác vì những xu hướng văn chương, rõ rệt hơn thi ca, mạnh mẽ. Những bài “Tại sao viết? ”, “V iết cho ai?” ... của Sartre làm cho tôi chú ý cực mạnh nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Tôi không bị thuyết phục. Tôi không nhìn thấy chỉ có văn chươn g dấn thân là nền văn chương xứng đáng duy nhất. Đặt lại câu hỏi nghệ thuật nên vị nghệ thuật hay phải vị nhân sinh dưới một hình thức triết học rốt ráo hơn, văn nghệ dấn thân, trong thời đại của tôi, dưới ngòi bút của Sartre, hiện ra cực kỳ lôi cuốn. Tôi
không thấy nên công kích văn nghệ dấn thân vì tôi thấy nó có lý của nó. Tôi cũng thấy không nên công kích nghệ thuật vị nghệ thuật, hay “văn nghệ v iễn mơ” , nói theo một thành ngữ của Mai Thảo, Rabelais thì nói “ thi ca là vũ điệu” , vì đi đâu một vòng tôi lại trở về quê hương mà tôi mến yêu nhất là vùng đất của thi ca tình ái. Áo Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba, Paris Có Gì Lạ Không Em... chắc chắn không phải là văn nghệ dấn thân. Ngược lại, Nhìn Em, Nhìn Thành Phố, Nhìn Quê Hương, Cầu Siêu Cho Nguyễn Quang Đại Chết Ở Khe Sanh, Thằng Sỹ Chết... có nhiều phần vị nhân sinh. Văn xuôi Vài Ngày Làm Việc ở Chung Sự vụ , văn xuôi Giấc Mơ không phải là những tác phẩm viễn mơ. Nhưng Song S inh có phần nào một thử định nghĩa thi ca của riêng mình, một phác họa chân dung của người và thơ tách rời khỏi mọi liên hệ thực dụng với đời sống.
Song Sinh
Người em song sinh
Lạc từ hồi nhỏ, nới gặp lại Hỏi tôi làm nghề gì
Tôi nói nghề làm thơ. Nó Khôngcười,nói một tiếng. Nó lấy ra từng chùm bong bóng Thả lên không trung, Bong bóng hình thiếu nữ áo vàng, Bong bóng kỳ hoa, Bong bóng thuyền đi trên biển, Chiếc áo vàng, bông hoa lạ, cánh buồm xa, Lên tuốt trời mây.
264 | nguyên sa
hồi ký | 265
Người anh em song sinh vẫy tay, Vẫy RồiCười,tay,móc súng, Bắn vào đầu, Không nói một tiếng. Khi tôi đưa Nhìn Em, Nhìn Thành Phố, Nhìn Quê Hương , cho Thế Nguyên, số Trình Bày Xuân đã gấp rút, chỉ còn mấy tuần là Tết. Tôi trở lại sửa bản vỗ, một ngày sau. Đọc bản vỗ bài viết của mình, gọi là “ mo rát” , tức là tờ giấy lăn trên bát chữ đã sắp xong, chưa in, lấy ra những dòng chữ đậm nhạt không đồng đều, có phần cong queo, tờ giấy có phần ẩm ướt, vì trục lăn bằng cao su đặc đè lên bát chữ, có tờ giấy nằm ở giữa, tờ giấy bị đè xuống bởi trọng lượng chuyển động và những nét sắc của chữ cấu tạo bằng chì, dễ bị rách, và khó được ép sát, nếu ở trong tình trạng khô cứng, bao giờ cũng làm tôi ngất ngây. Người thợ lăn tờ “mo rát” biết nghề không quên phun lên giấy lă n làn nước mỏng. Mỗi lần cầm tờ “mo rát” ẩm ướt, đã có ở trên những nét bút nguyên tử vòng lên những chữ sắp sai, bắn ra những mũi tên vào chữ đúng cần phải được thay thế, mùi giấy và mùi mực thơm còn hơn là lúc in xong trên máy, tôi hết sức thích thú nếu tìm thấy còn một lỗi mà người nhân viên sửa lỗi cho một bản vỗ gọi là thầy cò còn để sót lại. Em... ngủ đi, ngủ cho ngoan, thành phố, dưới kia, đã thức giấc có quan hệ gì
thành phố trống rỗng
thành phố nào đầy chiến xa đại bác đầy nón sắt dây thép đầy mìn chông mà không trống vắng
đám đông nào buồn bã mà không cô đơn...
Sự thích thú đến từ một khuynh hướng soi gương, hay vì mùi mực thơm, mùi giấy ẩm ướt, hay cả hai? Tôi ghi nhận trong số báo Xuân năm đó có bài viết về văn chương dấn thân. Bài báo có những đoạn nói lên sự bất đồng ý kiến với bài văn nói về văn chương viễn mơ của Mai Thảo. Tôi mơ hồ cảm thấy bài văn nhắm vào tôi. Tôi mơ hồ cảm thấy không bao giờ tôi là người cầm bút dấn thân đích thực. Tôi cũng nhớ, ngay lúc đó, khi đọc bài văn nói về văn chương viễn mơ của Mai Thảo, một năm trước, tôi thấy văn chương viễn mơ không phải là mục tiêu mà tôi nhắm tới, văn chương viễn mơ không phải là tôi. Tôi mơ hồ cảm thấy làm thơ mà cứ phải dấn thân triền miên thì... mệt quá! Nhưng tôi cũng không muốn sống, trong cuộc đời, cũng như trong tác phẩm, cắt lìa khỏi, một cách thường hằng, mọi đam mê của đời sống. Tôi mơ hồ cảm thấy những lý luận thuần lý, những triết học nhất quán, những lô gích chặt chẽ và thơ có một khoảng cách. Dường như, càng xa lý thuyết thơ càng nhiều thơ, càng cột chặt hồn mình vào lô gích, thơ càng ít thơ hơn. Tôi đọc, tôi đọc. Tôi sửa lại một chữ, rồi một chữ khác. Tôi mơ hồ cảm thấy tôi không muốn trở thành một nhà thơ dấn thân. Tôi cũng mơ hồ cảm thấy tôi không phải là một đệ tử trung thành của nghệ thuật vị nghệ thuật. Tôi là người làm thơ thơ tình mà vẫn xúc động trước những khổ đau của quê hương, dân tộc tôi.
266 | nguyên sa
hồi ký | 267 Phần Ba
Bác sĩ Tuyến [1]
Cách đây hai tuần, em gái tôi từ bên Pháp qua chơi cho hay em mới gặp bác sĩ Tuyến. Tôi hỏi gặp ở đâu? Em tôi nói gặp ở Paris, nói bác sĩ Trần Kim Tuyến sang Pháp để lo việc đám tang cho bác sĩ Lý Trung Dung. Em tôi cũng không quên ghi nhận ông Tuyến hồi này trông khỏe lắm. Ông trông già, dĩ nhiên, nh ư ng khỏe mạnh lắm. Ông đi thoăn thoắt. Em tôi cũng nói chắc ông cũng sắp gặp anh đấy. Ông nói ông đang thu xếp năm nay cùng lắm là năm tới sẽ sang Mỹ chơi thăm bạn bè thế nào anh cũng có cơ hội gặp ông ấy. Tôi đồng ý với em tôi. Chúng tôi đều biết bác sĩ Tuyến trong những năm qua chăm sóc cho chị Tuyến bị bán thân bất tọai nên không đi đâu được, chị Tuyến trong thời gian qua đã được Chúa gọi về. Tôi có thắc mắc sao bác sĩ Tuyến không đi sớm cho khuây khoả, còn chờ đợi gì?
Em t ô i cho hay không được anh, ông Tuyến còn kẹt bà
268 | nguyên sa
hồi ký | 269 cụ. Ông đích thân săn sóc bà cụ. Các cháu nhỏ ở xa còn ai đâu.Chính
em tôi, tối hôm qua, lúc 10 giờ 30 tối điện thoại cho tôi hay tin dữ. Bác sĩ Tuyến mất rồi. Em ngỡ ngàng. Đúng hơn, em bàng hoàng. Em mới gặp ông mà. Em đã nói anh rồi đấy. Đúng em có nói. Em nói anh là ông Tuyển rất mạnh khỏe, già, có già đi, đương nhiên rồi, nhưng ông khỏe, khỏe lắm, đi thoăn thoắt, còn hơn tụi mình, còn khỏe hơn anh và em. Em không ngờ. Em thật sự không ngờ. Em tôi cho tôi hay được tin dữ chú Kỳ cho hay. Chú Kỳ, là Cựu Trung tá Không quân Bồ Đại Kỳ, được cựu Trung tướng Nguyễn Bảo Trị cho hay. Tiếng em tôi vẫn còn vang động những âm thanh, vang động những cảm xúc, vang động những bàng hoàng. Tôi dự tính mai sáng vào giờ khắc sớm nhất sẽ điện thoại cho chú Kỳ và anh Nguyễn bảo Trị. Tôi biết tin dữ này là một tin thật. Nhưng nó thuộc loại sự thật không muốn tin là có thật, sự thật đã được xác nhận rồi vẫn muốn tái xác nhận. Tôi chưa kịp điện thoại cho ai cả, lúc nửa khuya điện thoại reo vang. Bạn tôi giáo sư Nguyễn Văn Khánh dạy Sử Địa tại Sài Gòn năm xưa bên Úc gọi sang. Bác Khánh hỏi Lan hả, tôi nói tôi đây, cậu hả. Khánh nói ừ, Khánh nói cậu biết rồi, tôi nói tôi biết rồi, Khánh nói mình gọi cho cậu cũng để báo tin đó, Khánh nói không biết tụi nhỏ xoay sở ra sao, không biết rồi ai sẽ lo cho bà cụ, Khánh tìm thấy niềm an ủi, nhưng chắc cũng không sao, các cháu cũng lớn, cháu lớn Thăng Long hơn ba chục tuổi rồi. Tôi cho bạn tôi hay cũng may lúc này ở nhà có cháu Chi Lăng về sống chung với bác sĩ Tuyến phụ ông lo các việc nhà và săn sóc bà ngoại. Giọng nói có thật nhiều
âm thanh thảm thiết của Khánh chưa kịp tan đi, buổi sáng đã tới với tôi cùng với bản tin của Vĩnh Phúc, BBC. Vĩnh Phúc, của BBC, loan tin bác sĩ Trần Kim Tuyến từ trần. Anh Vĩnh Phúc, tôi vẫn nhớ, anh có ghé t ô i kỳ thăm Mỹ quốc lần trước, hai anh em nói chuyện về về văn nghệ, về Việt nam, về bác sĩ Tuyến. Anh Phúc nói BS Tuyến ở gần nơi anh và anh có gặp nhiều lần. Anh Phúc hỏi tôi nghĩ gì về BS Tuyến, tôi nói ông là người yêu nước, người có khả năng chọc trời khuấy nước và là người bạn tuyệt vời.
Bác sĩ Tuyến hơn tôi mười tuổi. Ông thuộc về một thế hệ đàn anh, khi ông thi Tú Tài Pháp toàn phần, năm 1942, tôi còn là học sinh tiểu học ở trường Puginier rồi rời trường về Hà Đông tránh bom của phi cơ oanh tạc đồng minh. Khi ông đã trở thành một king maker, ông là nhân vật số ba của Đệ nhất Cộng hoà, đề bạt lên cố TT Diệm những quận trưởng, tỉnh trưởng, bộ trưởng, trung đoàn trưởng, s ư đoàn trường, giám đốc cảnh sát, v.v. tôi còn là một bạch diện thư sinh. Bác sĩ Tuyến với tôi là một người bạn lớn, là một ân nhân nhiều hơn là người bạn, là bạn lớn vì vừa thuộc một thế hệ đi trước, vừa là bạn vừa là ân nhân. Năm 1960, tờ Hiện Đại ra đến số 7 tôi bị công an của TT Diệm chặn đường bắt mang đi. Toán Công an bắt giữ tôi gồm ba người đi trên một chiếc tắc xi con c óc rất quen thuộc của Sài gòn thời đó, một người lái xe, một người ngồi băng trên và một người ngồi băng dưới. Chiếc tắc xi của toán hành động này được yểm trợ bởi ít nhất hai tay lái xe gắn máy. Những người công an này làm việc trong cơ quan có tên là Biệt kích đội 4, dưới sự chỉ huy của một sĩ quan cảnh
270 | nguyên sa
hồi ký | 271
sát người thấp, tròn tên là Khưu Văn Hai. Từ ngày hôm trước tôi đã nghe tin Công an sắp bắt tôi. Tôi cũng được người học trò làm công việc lấy tin cho công an cho hay tin dữ và cũng cho biết nguyên nhân. Giáo sư Nguyễn Văn Phố dạy Việt văn ông hay bốc, giảng bài rất đam mê muốn mang lại cho môn sinh hào khí của thơ Cao Bá Quát, giọng khinh mạn của Tú Xương. Ông chửi hôn quân bạo chúa. Ông ngợi ca anh hùng hào kiệt. Trong số học trò của ông có một anh bị bắt về tội tình nghi rải truyền đơn. Cơ quan bắt người học sinh này là Biệt Kích Đội 4. Người học sinh bị bắt này bị tra tấn và khai là ở trong tổ chức chống chính phủ của giáo sư Phố. Thời điểm 60 đó, bên Đại Hàn mới có cuộc đảo chánh TT Lý Thừa Vãn làm cho các cơ quan an ninh bên Việt Nam ráo riết đề cao cảnh giác. Người ta lo ngại một cuộc rối loạn có thể xảy ra bắt nguồn từ giới học sinh sinh viên. Việc bắt giữ được anh học sinh tình nghi rải truyền đơn có sự chỉ huy của một ông giáo sư được Biệt Kích Đội 4 đánh giá cao. Không biết Biệt Kích Đội 4 làm việc ra sao mà đàng sau giáo sư Phố “chống chính phủ” lòi ra cả một danh sách những giáo sư chống TT Diệm trong khuôn khổ của một đảng chính trị là đảng Dân Chủ Mới, trong số có giáo sư Nguyễn Văn Phú, đệ nhất cao thủ Toán Tú Tài 2, GS Nguyễn Xuân Nghiên, Lý H óa Chi Bảo, và GS Trần Bích Lan đệ nhất kiếm lớp Triết Tú Tài 2. Khi chúng tôi được tha ra, các bạn đồng nghiệp hỏi thăm còn vui đùa thân yêu, “ba anh rủ nhau vào đó mở lớp toán lý h óa triết.” Trong ba người chúng tôi, tôi là người bị bắt đầu tiên. Sáng hôm đó, thứ bảy, trước khi vào lớp, tôi được người học trò thương thầy đi ngang nói “hôm nay tụi nó bắt thầy.”
Chúng tôi bị nhốt trong khu sân sau của ngôi biệt thự được dùng làm trụ sở của toán công an có tên là Biệt Kích Đội 4, nhà trên dùng làm văn phòng hỏi cung, dãy nhà ngang bên dưới dùng làm phòng ngủ cho các công an làm việc canh gác nhà giam. Vọng gác cao gần ngang tầm mái nhà, một lính canh ngồi trên, gõ những tiếng kiểng vang động trong đêm khuya, mỗi giờ một lần, tay ôm khẩu tiểu liên, mắt vừa quan sát lối cổng đi vào, vừa quan sát những người bị giam giữ nằm trên khu đất ngắn cách giữa nhà trên và nhà dưới, có mái tôn che và giây thép gai bọc kín. Chúng tôi đều nghĩ là sự giam giữ này có cơ kéo dài nhiều ngày nếu không phải là cả tháng. Riêng tôi thì tôi nghĩ là “mút mùa Lệ Thủy.” Tôi bị bắt hôm sáng thứ bẩy, tới tối thứ Ba Thiếu tướng Nguyễn Văn Là tới coi mặt tôi. Tôi được đưa lên văn phòng của chỉ huy trưởng Khưu Văn Hai, đội trưởng Biệt Kích Đội 4, tướng Nguyễn Văn Là đã ngồi đó trên chiếc ghế cỡ lớn. Ông Là mặc áo blouson da, Khưu Văn Hai đứng sau lưng ông, ông Là mắng nhiếc tôi sao dám âm mưu nổi loạn chống Tổng thống, ông nói ông biết đây là phong trào sinh viên học sinh làm loạn bắt chước bên Đại Hàn đây. Mỗi khi tôi mấp máy môi muốn nói lên một vài điều thì Khưu Văn Hai đứng phía sau, bên trái của tướng Là sờ tay vào bao súng, có lần còn xốc cao bao súng lên dường như muốn nói với tôi im mồm nếu không khi ông tướng về rồi thì sẽ biết tay. Việc ông Thiếu tướng Tư lệnh Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia xuống tận nơi coi mặt một tên “phản loạn” cho tôi thấy người tù được đánh giá cao, ông Tướng trúng mối lớn và sự giam cầm có nhiều hy vọng là phải lâu dài đo bằng kích thước những mùa Lệ Thủy.
272 | nguyên sa
hồi ký | 273
Nhưng mùa Lệ Thủy của tôi rất may mắn chỉ có bốn ngày. Cả ba anh em chúng tôi, GS Phú, nay ở Canada, GS Nghiên, đã từ trần và tôi, được gọi lên văn phòng lúc buổi sáng có lời dặn kèm theo mang theo đồ đạc. Người bạn tù nằm kế bên tôi, ngày đi sửa xe, tối về nằm tù, nói khẽ “coi chừng thủ tiêu”. Anh bạn tù khác lãnh nhận chiếc chìa khóa tiến tới mở còng chân cho tôi và anh Nghiên, hai chúng tôi bị còng, anh Phú chân to quá còng không vừa. Anh bạn này cũng là người cho tôi miếng giấy bản khi tôi đi tới phòng vệ sinh hôm đầu tiên. Khi tôi ra khỏi phòng vệ sinh, còn hồi hộp quá vì phòng vệ sinh có chiếc thùng “phuy” to, trên để hai miếng ván, người tù phải phóng người lên hai chân trên hai miếng ván đó, nếu hụt hay nếu mất thăng bằng rớt xuống thì phải lãnh đủ những hậu quả về mặt hương vị, anh bạn cho tôi giấy bản nhìn thấy tôi đã xài hết nói ngắn gọn “một tờ bảy ngày”. Khi mở khóa cho tôi anh cũng nói ngắn gọn: “Sang Tổng Nha.” Tôi thật sự không dám đoan chắc “thủ tiêu” hay “Tổng Nha”, thì khi lãnh giây lưng và đồng hồ xong, người công an chận bắt tôi và ngồi bằng sau với tôi trong chiếc xe con cóc nói với tôi bằng tiếng Pháp: “Peut être, la liberté”. Có lẽ tự do. Hai chiếc xe con cóc chạy nối đuôi nhau đưa ba anh em chúng tôi ra khỏi Biệt kích đội 4 đường Ngô Quyền. Ra khỏi trại giam tim tôi đập thật mạnh, con đường Ngô Quyền khúc gần bờ sông này với tôi khá quen thuộc. Tôi biết ở đầu đường Ngô Quyền khúc bờ sông có căn nhà cửa sơn đỏ, có treo tòng teng hai chiếc đèn lồng là ngôi nhà Nhất Dạ Đế Vương, nơi các bằng hữu có đưa tôi tới du hí. Xe chạy về hướng bờ sông, lành ít dữ nhiều, thủ tiêu có
274 | nguyên sa phần đúng hơn là tự do hay tổng nha. Nhưng khi tới bờ sông, đoàn xe hai chiếc chạy vòng trở lại, sự hồi hộp lo âu trong tôi có phần giảm nhẹ, khi xe tới Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia tôi có hoàn toàn lấy lại sự bình tĩnh. Địa ngục đúng thế có nhiều tầng. Vào tầng công an cảnh sát người được chuyên chở thẳng tới đó từ dương thế có thể bị chấn động. Nhưng từ tầng Biệt Kích 4 Ngô Quyền tới đây thì cảm xúc nhẹ nhàng còn pha chút mừng vui hòa tan trong sự yên tâm nhất là khi nhận thấy giả thuyết mang đi thủ tiêu ở một bờ sông nào đó trong hiện tại đã lùi xa. Hai chiếc xe băng qua cổng tổng nha, vượt qua nhiều khu văn phòng, dừng lại ở một trước một Cổng rất lớn, đóng kín, trùng điệp giây thép gai, canh phòng cẩn mật, có lính công an canh trên vọng gác cao, có hai người canh phía dưới. Bên ngoài, không xa cánh cửa lớn, có một d ã y văn phòng. Chúng tôi được đưa vào đó, không phải để thẩm vấn như tôi thoạt nghĩ mà chỉ để chụp hình, lấy lý lịch và dấu tay. Công việc vừa khởi đầu là tôi hiểu ngay. Đây là lần thứ nhì tôi tôi biết trò chơi gọi là “lục hình” này. Lần này không ai dùng chữ “lục hình”, nhưng lần trước, thì có. Tại trại giam có tên là cải hối thất Sơn Tây, tôi được giải tới đây từ trại giam Chi Nê, năm 1947 tôi làm thủ tục này lần đầu tiê n, người cán bộ gọi tôi từ phòng giam lên phòng làm việc này gọi to tên tôi và nói “đi lục hình.” Phòng giam là căn nhà ngang của một căn nhà, trại giam gồm nhiều căn nhà của một ngôi làng, sống lẫn với thường dân, trại giam Sơn Tây với những bức tường bằng gạch nâu cao vút đã bị đập nát trong chiến dịch tiêu thổ kháng chiến. Lục Hình ở Tổng Nha Công An của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
hồi ký | 275 năm 1960 giống y chang lục hình ở cải hối thất Sơn Tây của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Có đủ các món đo, cân, lăn tay, khai lý lịch, lần nào tôi cũng khai sai sự thực điểm nào mà tôi tin rằng họ không biết được cảm thấy thích thú vì chiến thắng nhỏ bé. Tổng Nha thì chụp hình nhiều hơn. Những công việc lỉnh kỉnh này làm cho hai bạn tôi lo âu thấy rõ, tôi thì cảm thấy vững tin. Vì rằng khi bị cộng sản giam ở Sơn Tây, làm “công tác lục hình” xong ít ngày tôi được trả tự do. Lục hình lần này làm tôi cảm thấy mơ hồ lành ít dữ nhiều. Khi mọi việc xong xuôi, người công an biết tiếng Pháp bắt tay từ biệt những người công an của chiếc xe kia rồi tiến về phía tôi nói. Giọng anh ta vẫn hạ thấp, nghiêm trọng. Và vẫn nói tiếng Pháp:
- Docteur Tuyến a sauvé votre vie !...
Bác sĩ Tuyến đã cứu mạng anh !...
Anh không nói cho tôi hay nhờ đâu tôi đã được bác sĩ Tuyến cứu mạng. Cứu mạng là một từ ngữ chính xác. Tôi hiểu được rằng nếu như không có sự can thiệp nào cả thì cuộc đời tôi coi như tàn trong lao lý. Còn khốn nạn hơn là tàn trong ngõ hẻm, nói theo một nhà thơ lớn, nhiều bội phần. Trong mọi trường hợp, người ta ra lệnh cho chúng tôi lên đường. Xe kia về Ngô Quyền. Xe này có vẻ không phải của Ngô Quyền đưa chúng tôi đi nơi khác. Tôi nhận thấy anh lái xe có vẻ hiền h òa , cởi mở với chúng tôi. Anh không có người nào đi cùng xe, chiếc xe con cóc chở bốn người là anh Phú, Anh Nghiên, tôi và người công an lái xe có vẻ nhàn tản hơn là áp tải nếu như không có xe gắn máy đi hộ tống. Xe gắn máy đi theo chỉ có một chiếc. Dù sao cũng giảm đi nhiều cái không khí giải tù, những mối lo âu
276 | nguyên sa tan biến đi trong khoảnh khắc lại trở lại mau chóng. Chở nhau đi đâu đây? Tưởng là tha mà sao lại đi lòng vòng thế này? Xe chạy từ Võ Tánh, quẹo trái đi vào Lê Văn Duyệt, trông như đi ra phía ngoại ô, nhưng không, trước khi tới hẻm 291 nổi tiếng, xe quẹo vào cổng chính của trại Lê Văn Duyệt, chạy lòng vòng rồi băng vào một khu doanh trại biệt lập, một doanh trại có không khí dân chính giữa một khu dân sự. Tôi được cho biết đã vào trại của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung. Người đàn ông trung niên vóc dáng gầy gò, khuôn mặt có phần xanh xao, nước da trắng có phần xanh tái ngồi dựa lưng vào chiếc ghế bành chỉ tay cho tôi ngồi xuống chiếc ghế phía trước mặt. Phong cách của người đàn ông trung niên này không phải là trâu bò, không phải là dân đánh đấm, có vẻ dáng như một người trí thức. Anh ta nói với tôi về sự xâm nhập của cộng sản, về sự cần thiết của mạng lưới an ninh chống cộng, về sự hoạt động của đối phương trong lãnh vực báo chí, văn nghệ và giáo dục. Xen kẽ giữa những lời thuyết trình là những chỉ dẫn ngắn và những câu hỏi cũng gọn gàng. Người đàn ông trung niên cho tôi hay tên anh là Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung. Anh ta không phải là nhân viên của bác sĩ Tuyến, việc này anh chỉ làm giúp bác sĩ Tuyến. Tôi không hiểu “l àm giúp ” là làm cái gì và như thế nào. Trong những câu hỏi mà anh đưa ra cho tôi có câu “anh quen bác sĩ Tuyến như thế nào?” Tôi mang lại trả lời đầy đủ, tôi chỉ biết ông, trong ngành giáo dục có tổ chức mang tên Tổng Hội Giáo Giới do GS Trương Văn Chôm làm chủ tịch và GS Nguyễn Hữu Chỉnh làm Tổng thư ký, anh Chính có liên hệ mật thiết với BS Tuyến,
hồi ký | 277 dường như là bà con hay người Thanh Hóa với nhau, tôi là hội viên của tổ chức giáo giới này. Người trưởng đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, mà về sau tôi được hiểu là một tổ chức mật vụ của ông Ngô Đình Cẩn, cơ sở Lê Văn Duyệt là một cơ sở biệt phái từ miền Trung vào Sài gòn, không có vẻ quan tâm đến những câu trả lời của tôi, hoặc không quan tâm, hoặc đã biết rõ ai là ai rồi, không căn vặn, cũng không cho ý kiến. Dương Văn Hiếu khi nói tới bác sĩ Tuyến luôn luôn dùng đủ ba tiếng “bác sĩ Tuyến” không có vẻ kính cẩn, nhưng lễ phép và không quên minh định “tôi không phải là nhân viên của bác sĩ Tuyến”. Hiếu cũng nhắc lại “tôi chỉ giúp bác sĩ Tuyến việc này”. Khi nói tới câu “tôi chỉ giúp bác sĩ Tuyến” lần thứ nhì, người trưởng đoàn Công tác Đặc Biệt Miền Trung có nói thêm: “Bác Sĩ Tuyến cứu mạng anh.”
Bác sĩ Tuyến cứu mạng tôi thật. Tôi về tới nhà đã thấy đầy người. Sau hai ngày bị giữ ở Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung tôi được trả tự do. Nhà đầy người, đầy tiếng cười reo vui đoàn tụ, reo vui tự do, reo vui thoát hiểm và hơn thế, reo vui hồi sinh. Bác Khánh, bác Thức, bác Khánh là GS Nguyễn Văn Khánh, bác Thức là GS Đinh Từ Thức về sau thành nhà báo lừng danh Sức Mấy tíu tít kể chuyện các bác lên giục bác Chỉnh là GS Nguyễn Hữu Chỉnh, Tổng thư ký Tổng Hội Giáo giới, phải rồi, lên giục giã, bênh vực, biện minh. Hẳn nhiên lời biện minh phải vững chắc, lời giục giã phải thành khẩn làm cho bác Ch ỉnh phải đứng dậy, phải đi lên gặp bác sĩ Tuyến. GS Nguyễn Hữu Chỉnh mang lên cùng với ông niềm tin và tình bạn mạnh mẽ của các anh
Nguyễn Văn Khánh và Đinh Từ Thức. Người này là một ông thầy giáo, là một nhà thơ, ai làm chính trị thì còn có thể hình dung được, tưởng tượng được, người này, Nguyên Sa, làm chính trị thì không thể có được. Bác sĩ Tuyến lắng nghe những lời can thiệp bênh vực cho một người bị bắt bớ sai lầm. Ông lắng nghe và trước khi chọn lựa một quyết định ông tìm hiểu. Ông vẫn có thói quen thu thập dữ kiện, phân tích những dữ kiện có trong tay rồi rút tỉa ra một kết luận tổng hợp. Bác sĩ Tuyến đọc bản cung khai của tôi ở Biệt Kích Đội 4, tìm hiểu về gia đình tới cả dòng họ gia đình tôi. Ông tìm thấy những sự thật mà tôi không biết và sự thật mà tôi chỉ biết mơ hồ. Bác sĩ Tuyến trình lên Tổng Thống Diệm người thầy giáo có tên là Trần Bích Lan, bút hiệu là Nguyên Sa thuộc về một gia đình mà Tổng thống có biết. Ông trình lên Tổng thống Diệm tên của những người trong gia đình tôi. Ông trình lên TT Diệm bản phân tích những điều phi lý trong bản cung khai của tôi. Trong tuần lễ, cùng với GS Phú và GS Nghiên, ba anh em chúng tôi được đưa lên trình diện Tổng Thống Diệm. TT Diệm tiếp ba anh em chúng tôi tại vườn trước của Dinh Độc Lập trông ra đường Thống Nhất. Dinh TT lúc đó còn là ngôi nhà xây kiểu thuộc địa do người Pháp xây cất để lại, không phải là Dinh Dộc lập xây lại thời ông Thiệu, màu trắng, kiến trúc tân tiến. Vườn, trước của Dinh Độc Lập thời TT Diệm đó có cả những thú vật như hươu nai. Tôi nhìn thấy hươu nai chạy ở một khoảng cách tương đối gần, cho đến khi xẩm tối, câu chuyện còn kéo dài, những hươu nai chạy chung quanh là những vệt sáng loang loáng di động, những con thú mang ánh đèn trên lưng chuyển động, TT
278 | nguyên sa
hồi ký | 279
Diệm ngồi trước mặt tôi khuôn mặt sáng lên từng chập mỗi khi ông rít một hơi thuốc lá, trưởng đoàn công tác đặc biệt đứng sau ghế Tổng thống khuôn mặt có phần nôn nóng vì cuộc tiếp xúc kéo ra quá lâu hiện ra trong lớp ánh sáng buổi chiều chưa tàn hẳn, đến khi bóng tối không còn là những mảng mà đã là chiếc màn lớn trùm kín cùng khắp tôi chỉ còn nhìn thấy hình dáng mơ hồ của ông không còn thấy rõ những nét mặt. Đại tá Nguyễn Khánh đứng ở phía sau khá xa dường như chờ đợi được TT Diệm tiếp kiến, tôi nhìn thấy thấp thoáng hồi chiều lúc cuộc tiếp xúc đã diễn ra được chừng một tiếng này không còn nhìn thấy được gì nữa. Tổng thống Diệm nhìn về phía tôi. Cặp mắt của ông Diệm giống y chang cặp mắt ông Ngô Đình Cẩn mà tôi có dịp nhìn thấy khi ra chấm thi ở Huế, 1957, chuyến đi có GS Nguyễn Ngọc Cư, GS Phạm Đình Ái, GS Nguyễn Văn Phú... Kỳ thi Tú Tài toàn phần năm đó là kỳ thi Tú tài toàn phần Việt Nam đầu tiên được tổ chức ở Cố đô, phái đoàn giáo chức từ Sài Gòn vào chấm trường được ông Nguyễn Văn Hai lúc đó là Hiệu trưởng trường Quốc Học, về sau trở thành Giám đốc Học chính miền Trung, ra đón tận phi trường. Linh mục Cao Văn Luận, Thái sơn Bắc đẩu của ngành giáo dục Việt Nam, cũng là nhà soạn sách giáo khoa Triết học đầu tiên, giúp ích cho các thầy giáo triết trong những ngày tháng giữa thập niên năm mươi đó không ít, không có mặt ở Huế khi chúng tôi tới nơi. Giáo sư Nguyễn Ngọc Cư vị đàn anh bậc thầy khả kính của nhiều anh em chúng tôi hỏi thăm GS Hai về cha Luận, buổi tối ông cho tôi hay Cha Luận giữ ý đã đi vắng nhường việc chấm thi Tú Tài 2 lần đầu tiên tại Huế cho tôi, nhất là chấm Tú
Tài 2 ban C, những học sinh do linh mục trực tiếp đào luyện. Thí sinh Tú Tài 2 ban C năm đó chỉ có 18 người, GS Nguyễn Ngọc Cư cho tôi chỉ thị double corrections, GS Nguyễn Ngọc Cư chấm 9 bản, tôi chấm 9 bản rồi đổi lại, điểm ghi trong phiếu riêng có đánh mật mã, sau đó cộng lại rồi mới ghi vào quyển. Hàng ngày chúng tôi đi bộ đi ăn cơm ở tiệm Thái Bình, uống nước dừa, buổi chiều đi coi đánh tennis, GS Nguyễn Ngọc Cư, từ Sài Gòn vào, hai GS Phạm Đình Ái, hồi 1946 tôi đã nghe tên như nhà khoa học chế tạo được l ư u đạn đầu tiên của Việt Nam, dạy vật lý ở Quốc học, và GS Ngô Đốc Khánh, Pháp văn Chi bảo vùng đất Sông Hương Núi Ngự, vừa coi vừa đố nhau các danh từ tiếng Pháp liên quan đến quần vợt, từ dụng cụ, sân chơi, những người và vật, những đấu pháp, những đường banh, tôi thầy giáo trẻ “ở bên Pháp mới về” lắng tai nghe như vịt nghe sấm. Tôi học được ở các giáo sư bậc thầy những bài học về danh từ tennis và những bài học vỡ lòng về nhiệm vụ, lý tưởng, tác phong của một thầy giáo, cách thế xử kỷ tiếp vật. GS Nguyễn Ngọc Cư được GS Nguyễn Văn Hai tiếp xúc riêng nhiều lần, sau chót chính cụ và GS Hai loan báo cho chúng tôi là phái đoàn giáo chức kỳ thi Tú Tài toàn phần Việt ngữ này được Ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn tiếp kiến tại tư dinh của ông Cố Vấn Miền Trung và sau đó được mời dùng bữa, buổi tối, tại cửa Thuận. Chính trong buổi tiếp kiến tại tư dinh của Ông Cẩn tôi có dịp quan sát đôi mắt của ông. Quan sát là một từ không chính xác vì tôi bị thu hút mạnh mẽ bởi đôi mắt đó. Tôi không còn chú ý đến tiếng chim hót, ngôi nhà của ông Cẩn chỗ nào cũng có lồng chim, không còn chú ý đến những
280 | nguyên sa
hồi ký | 281 thống, những lọ, những tứ bình, cũng không lắng nghe những cuộc đối thoại giữa các vị giáo sư huynh trưởng và nhân vật chính trị hàng đầu của Miền Trung nước Việt. Tôi gọi với riêng mình đôi mắt của ông Cẩn là “mắt con cọp ngủ.” Mắt cúp xuống thì mu khép xuống sâu, phủ kín, không biết còn để lại cho mắt khung nhìn bao lớn, nhưng với người đối diện thì chỉ thấy như đôi mắt đó đã khép lại hẳn, che khuất kín toàn diện trong mắt. Con cọp đã ngủ dù cho vẫn còn thức, vẫn quan sát đều đặn. Khi đôi mắt con cọp ngủ mở lên động tác của hai mu mắt từ từ kéo lên theo một đường vòng cung để lộ ra tr ò ng mắt lớn, mu mắt càng lên cao theo hướng địa không, tròng mắt càng trồi ra dữ tợn. Mắt ông Cẩn những lần mu mắt mở lên nhanh, những tia phóng ra sắc và nhọn, chiếu thẳng đến đối tượng, sắc và nhọn hơn những lần mu mắt cuốn lên chậm rãi. Nhưng những lần mu mắt mở lên chậm rãi, tia mắt phóng tới dừng lại ở đối tượng lâu hơn. Tia mắt đó muốn làm cho đối tượng bị khiếp sợ, bị tê liệt rồi di chuyển, đi từ đối tượng này sang đối tượng khác. Cái nhìn của TT Diệm không di chuyển. Ông nhìn bất động về phía trước nhắm vào khoảng không nhiều hơn nhắm vào bất cứ đối tượng nào. Đôi mắt của ông Diệm cũng là đôi mắt con cọp ngủ, mu mắt phủ xuống và cuốn lên chậm rãi trên một vòng công lớn lồi, nhưng không đổi chỗ và cũng không nhìn thẳng vào đối tượng trong mục đích quan sát gắt gao hay mưu đồ thống trị. Ông Tổng thống của Đệ Nhất Cộng Hòa nhìn vào khoảng không, hút thuốc lá liên hồi, nói không ngừng nghỉ, dường như ông càng nói hăng say thì càng hút nhiều, hút và nói trong khi đôi mắt nhìn vào khoảng
282 | nguyên sa không, có phần mơ hồ, như bị lôi cuốn bởi một không gian và thời gian nào xa và vắng. Trước sau, ông chỉ nhìn thẳng vào phía tôi có mấy phút. Ngay lập tức sau khi Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung, ông Hiếu có mặt trong suốt buổi gặp gỡ, đứng khoanh tay ở ngay phía sau ghế TT Diệm, kế bên sĩ quan tùy viên của TT, ngay lập tức sau khi ông Hiếu giới thiệu ba giáo chức, ông Diệm quay đầu về phía tôi nhìn thẳng vào tôi, cái nhìn không có vẻ dáng dữ dằn gì. TT Diệm giữ nguyên cái nhìn trực tiếp và cất tiếng hỏi. Câu hỏi dành cho tôi. Tôi chờ đợi ông hỏi về vụ bắt giữ, về tình hình trong ngành giáo dục. Tôi chờ đợi một câu hỏi ngắn và tự nhủ không nên nói dài. Câu hỏi có ngắn và tôi cũng không có khả năng trả lời dài. Tổng thống Diệm cất tiếng hỏi:
- Ông thầy giáo có biết cụ Thượng Trần Trạm?
Thượng thư Trần Trạm, tôi có biết chứ. Nhưng người tôi nóng ran, cảm giác ẩm ướt trên trán, trên lưng. Tôi ý thức được những bài học đã coi lại cho kỳ vấn đáp sinh tử này tôi học trật lất. Ông Diệm hỏi tôi về một chương sách đời mà tôi biết ít nhất. May cho tôi, mấy tháng trước đó, giáo sư Sử Địa Trịnh Chuyết có hỏi tôi cùng một câu hỏi, GS Chuyết sưu tầm tài liệu cho một cuốn Danh Nhân Việt Nam, tôi phải hỏi thăm những người trong họ để có thể trả lời cho câu hỏi của anh liên quan đến Thượng thư Trần Trạm. Chính nhờ những tình cờ có khả năng tiếp xúc này, tôi vững tin, tôi nói với chính tôi Thượng thư Trần Trạm tôi biết chứ. Và tôi trả lời:
- Thưa Tổng thống tôi có biết!
Tổng thống Diệm gật đầu như có vẻ hài lòng. Gật
hồi ký | 283 đầu và bằng một giọng hiền hòa nếu không phải là thân thương, ông Diệm cất tiếng:
- Ông thầy giáo có liên hệ với Ông Thượng Thư ra sao?
Tôi trả lời không ngập ngừng:
- Thưa Tổng thống tôi là cháu...
Tôi nói rõ hơn tôi là cháu, cụ Trần Trạm là cụ của tôi, chứ không phải là ông. Tôi muốn nói thêm vài chi tiết nhưng không kịp, TT Diệm đã phóng ra câu hỏi khác:
- Ông có biết ông Trần Ngọc Châu?
- Thưa Tổng thống có.
- Ông Châu là thế nào?
- Ông Trần Ngọc Châu là hàng chú của tôi. Tôi chưa bao giờ gặp ông Trần Ngọc Châu trong đời sống cho đến thời gian đó cũng không biết Thượng Thư Trần Trạm giữ bộ gì, trong cuộc đời làm quan cụ đã đáo nhậm những vùng đất nào và giữ những nhiệm vụ nào trong triều Nguyễn. Tôi thật sự lo sợ ông Tổng thống có cặp mắt con cọp ngủ nhìn vào khoảng không giống như con cọp ngủ mở mắt hay con cọp mộng mơ sẽ đưa ra thêm những câu hỏi khác. Tôi sẽ phải thua không có cách nào gỡ.
Thí sinh vào vấn đáp trật tủ, trả lời với số kiến thức giới hạn mà giám khảo không vặn hỏi, không đào sâu, không moi móc mà lại lấy làm vui ngay, chấp nhận và hoan hỉ, đó cũng là một hình ảnh mô tả được phần nào cuộc gặp gỡ Tổng thống Diệm và tôi. Tôi không biết sự sánh này có phản ảnh được thực tế không, nhưng thực tế là tôi nhận thấy ngay ông Diệm vui tươi hẳn lên. Cả nơi cửa miệng và trong cặp mắt của ông Tổng thống tôi đều nhìn nhìn thấy những nét vui tươi, nếu không là Tổng thống chắc ông đã
TT Diệm không còn là giám khảo mà công việc là lắng nghe và vặn hỏi, ông đã trở thành thí sinh, một người thí sinh mang trong nội tâm thật nhiều niêm u uẩn, gặp người quen cũ thuở xa xưa, cất lên những lời tâm sự. Tôi không tính toán, chỉ nương theo không khí cởi mở đưa ra mấy câu hỏi. Hai bạn tôi còn đang ngần ngại chính đáng, TT Diệm nói lên thêm một lần những lời thúc giục:
- Có ai muốn hỏi gì không?
Tôi lên tiếng:
- Chúng tôi xin phép nêu lên với TT ba câu hỏi...
Tại sao lại ba câu hỏi? Vì con số ba trong một cuộc tiếp xúc có chiếc áo âm thanh long trọng? Vì thật sự tôi có ba vấn đề thắc mắc cần được giải đáp? Trong mọi trường hợp những câu hỏi của tôi làm cho Dương Văn Hiếu, trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung có những cử động cho thấy ông ta cực kỳ chú ý. Trong chủ quan, tôi nhìn thấy Dương Văn Hiếu ngạc nhiên, dường như có nhăn mặt.
Tôi hỏi:
- Thưa Tổng Thống tại sao Cảnh Sát Công An hay bắt nhầm người ta?
- Thưa Tổng Thống sao chiến tranh cứ kéo dài nhì nhằng, sao ta không cất quân tổng tấn công tiêu diệt cho hết quân Cộng sản một lần cho xong đi?
- Thưa Tổng Thống tại sao Chính phủ trả lương cho lính tráng quá ít? Lương của một binh nhì chỉ trên dưới hai ngàn đồng?...
Khi chúng tôi trở ra, chúng tôi không ghé vào văn phòng của bác sĩ Tuyến. Trước sau, tôi chỉ tới văn phòng
284 | nguyên sa cười khoái trá. Ông bắt đầu nói. Ông nói liên tục. Tôi có cảm tưởng trong cuộc thi đời này, vai trò đã đảo ngược.
hồi ký | 285 của ông Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị có một lần. Trước khi vào yết kiến Tổng thống Diệm, ba anh em chúng tôi được bác sĩ Tuyến tiếp trong phòng làm việc của ông, không thấy ông dặn phải nói năng với TT Diệm ra sao, cũng không thấy ông hỏi han gì, chỉ thấy ông vui tươi mừng những người tại qua nạn khỏi. Phòng làm việc của bác sĩ Tuyến ở phía sau Dinh Độc Lập kiểu cũ, nằm trong một dãy nhà ngang, là một gian phòng có kích thước trung bình không to hơn gian phòng của một sĩ quan lo việc chỉ huy phòng vệ phủ Tổng thống. Dù có gắn máy lạnh, phòng làm việc của bác sĩ Tuyến vẫn là gian phòng của dãy nhà ngang, không thể so sánh với phòng tiếp khách sang trọng của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ khi ông làm Thủ Tướng và văn phòng của Đại Tướng Cao Văn Viên ở Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi tới nơi làm việc của tướng Kỳ cùng với nhóm anh em sinh năm 1932, như Đoàn Minh Quan, Nguyễn Bá Nhẫn,... để khiếu nại về việc động viên chúng tôi mặc dù đã quá 33 tuổi. Tướng Kỳ trả lời “thi hành trước khiếu nại sau.” Tôi tới văn phòng của Đại tướng Viên để cám ơn sau khi đã tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức kh óa 24, đại tá Nguyễn Hữu Bầu, sau cầm Tổng Cục Tiếp Vận, lúc đó là Chánh Văn Phòng của Đại Tướng, đưa tôi vào, gian phòng mênh mông vẫn để lại cho ấn tượng rộng lớn dù thời gian đã trôi qua thật lâu. Tôi không trở lại văn phòng của bác sĩ Tuyến một lần nào. Tôi có gặp lại ông nhiều tuần sau đó ở tư gia đường Ng uyễn Đình Chiểu, đối diện nhà của Đệ nhất Tham vụ tòa đại sứ Mỹ, tôi kể chuyện cho ông Tuyến nghe về cuộc đối thoại với ông Diệm, tôi kể ra những câu hỏi, chưa kể tới những câu trả lời của TT Diệm, bác sĩ Tuyến đã trả lời “mình biết”, và ông cười thành tiếng nhỏ.
Sau khi nêu những câu hỏi với ông Diệm tôi đã cảm thấy ngay mình đã đi hơi xa, có thể là quá xa. Không có đoàn ngựa nào có thể đuổi theo để thâu hồi lại được nữa rồi. TT Diệm trả lời không buồn phiền làm tôi vững tâm. Nhưng khi gặp lại BS Tuyến, mối lo âu trở lại. Thời điểm đó tôi chỉ biết là mình hay lo, mà thật ra lúc đó tôi đã bắt đầu lâm vào tình trạng bệnh tâm thần có tên là “bệnh sợ hãi vô cớ”, phobia. Tôi hỏi:
- Tổng thống có nói gì không? Tôi không biết ông Dương Văn Hiếu hay TT Diệm đã kể lại cho BS Tuyến nghe, tôi cũng không biết đích thực cảm nghĩ của ông Diệm cũng như của BS Tuyến, câu trả lời mà tôi nhận được của BS Tuyến là:
- Ông cụ bảo cậu lãng mạ n!... Ông nói thêm:
- Lãng mạn quá!...
- Ông Tổng thống có nói gì khác không ? Bác sĩ Tuyến nói không. Tôi kể lại cho linh mục Nguyễn
Quang Lãm nghe câu chuyên gồm cả những cảm nghĩ của bác sĩ Tuyến khi tôi đưa cho cha Lãm bài báo nói về cuộc tiếp xúc với TT Diệm. Đó là thời điểm sau 1963, ở Sài G òn, Nguyễn Quang Lãm xuất trận, nói theo thành ngữ của Vũ Bằng, “oai phuô ng giữa chốn mưa máu gió tanh”. TT Diệm chết đã một năm những người ủng hộ TT Diệm bắt đầu nhẹ nhàng tổ chức lễ giỗ đầu. Tôi không bao giờ cảm thấy mình là một người ủng hộ ông Diệm, cũng không có cảm thấy mình có tâm hồn và ý chí của một người chống Diệm. Bài báo kể lại chuyện tôi bị bắt, bác sĩ Tuyến cứu tôi, TT Diệm cho yết kiến và tôi nêu lên ba câu hỏi. Linh
286 | nguyên sa
hồi ký | 287 mục chủ nhiệm nhật báo Xây Dựng, người bạn thâm niên và thương mến đọc và hỏi:
- Câu hỏi ông Diệm tại sao Công an hay bắt nhầm người ta?
Tôi trả lời:
ChủĐúng.nhiệm Xây Dựng đọc xong hỏi:
- Ông Cụ trả lời cậu như thế này.
Tôi nói:
LinhĐúng.mục Lãm rít một hơi thuốc lào thật dài, chiêu ngụm nước vối đặc, nước vối của cha Lãm đặc vẫn để cho t ô i kỷ niệm về một hương vị đặc quánh, và khi đọc xong bài báo có ba câu hỏi và ba câu trả lời, cha Lãm đứng dậy bỏ đồ ăn cho mấy con hoàng yến và những con cá vàng, lồng chim và chậu cá đều ở trong phòng khách của ngôi nhà trệt nơi ông ở thời điểm đó, ngay trước cửa trường trung học Nguyễn Bá Tòng, nơi ông làm Hiệu trưởng chỉ có một năm, sau vì một bài báo đả kích bà Ngô Đình Nhu nên bị bộ Giáo dục rút giấy phép, ra văn th ư cấm linh mục Lãm làm Hiệu trưởng. Ông cho chim và cá ăn chậm rãi. Ông mua thì giờ. Rồi ông cha văn nghệ cất tiếng hỏi tôi rất bấtLinhngờ.mục
Lãm hỏi tôi cậu có định làm chính trị không? Tôi trả lời không? Tôi hỏi chủ nhiệm Xây Dựng:
- Cha có làm chính trị không?
Cha Lãm cười thích thú nói tớ làm sao làm chính trị được cậu. Tớ là một ông cha mà. Cha Lãm không làm chính trị thật. Những tờ báo có dấu vết của Cha mỗi ngày
TTdiện.Diệu nói công an cảnh sát bắt bớ sai lầm có c ả vô tình lẫn hữu ý vì công an cảnh sát hiện nay là ai? Là những
288 | nguyên sa mang lại cho thực tế chính trị Việt Nam thời đó một cái nhìn khác, một tiếng nói khác, một hơi thở khác, một niềm tin khác. Tr ô ng như chính trị mà không phải chính trị. Trước sau ông cha làm báo vẫn sáng chói trong hình ảnh của một abbé Pierre của Paris cuối bốn mươi đầu năm mươi. Cha Lãm cảnh giác tôi tớ biết cậu không làm chính trị, cậu là người làm thơ, không làm chính trị, cũng như tớ là ông cha không làm chính trị, nhưng những bài báo kiểu này sẽ mang lại nhiều ngô nhận. Cha nói ngộ nhận, tôi trả lời định mệnh. Chúng tôi cùng nhắc lại Albert Camus hồi còn đi học trước khi đi sâu vào nội dung của bản văn, đăng trên Xây Dựng , bản văn ghi lại được lời, không ghi lại được ý, bản văn ghi lại được một phần ý, không ghi được cả khung cảnh toàn cục buổi tối đó, những thao thức trước đó và những phóng tới viễn kiến của một người làm chính trị. Tôi nghĩ ông Ngô Đình Diệm là một người cô đơn, tôi nói lên những cảm nghĩ đó cho linh mục Nguyễn Quang Lã m. Ông Diệm nói, ông mồi thêm một điếu thu ốc, ông tiếp tục nói, không có chuyện thuyết giảng, cũng không có cả kể lể tâm sự, ông nói giọng không cất cao, đều đặn, có lúc hơi nhỏ, giọng Huế có phần hơi khó nhận thức được cho những người không có thói quen lại còn nói nhỏ. Ông Diệm không tâm sự với ai cả, ông nói một mình. Tôi không biết ông có ý định này không, nhưng cảm tưởng của ng ười nghe là mau chóng c ảm thấy m ì nh bị đặt ở bên ngoài câu chuyện, dù cho đôi lúc TT Diệm có nhắc đến những người đối
hồi ký | 289 người để lại b ởi phòng nhì của Pháp, bởi Bảy Viễn Bình Xuyên. Những người có học thức như quý vị, những nhà khoa bảng cử nhân tiến sĩ đi làm nghề khác, đâu có ai chịu vô làm công an cảnh sát. TT Diệm nói về những trường hợp cụ thể nói lên sự yếu kém của ngành an ninh quốc gia. Ông nói còn chuyện đánh giặc kéo dài, thì có kéo dài mà không phải là dài đâu. Lịch sử nước ta khi nào cũng có giặc giã. Giặc Cờ Đen, Giặc Cờ Vàng, có những trận giặc dài hai ba chục năm hay hơn nữa, cả trăm năm. Trận giặc này nó cò cưa như thế đó. Nó là chiến tranh du kích. Không sao đâu. Nếu như mình cất đại quân đánh những trận thật lớn thì bên kia họ cũng tăng cường lực lượng. Đánh cò cưa như thế này tuần nào cũng có chết nhưng chỉ chết mỗi bên năm bảy người, đôi ba chục người, nếu đánh lớn, bên này tiến lên lớn, bên kia cũng tiến lên lớn, mỗi tuần chết cả trăm, cả ngàn có khi nhiều trăm, nhiều ngàn, mà không hết vẫn là không hết. Lươ ng lính cũng vậy, hai ngàn trả cho binh nhì không nhiều, họ không có được đời sống xa hoa, nhưng có đủ sống. Nhưng nếu tăng lên cho họ hai chục ngàn thì họ sẽ không đủ chi tiêu đâ u.
Tôi không thấy TT Diệm đưa ra những giải thích nào cho những khẳng định của ông. Câu hỏi thứ nhất có hỏi, trả lời và một vài lời giải thích, tuy không làm thoả mãn nhưng cũng còn có. Câu hai và ba chỉ có những khẳng định. Đánh nhỏ nhì nhằng, cò cưa. Đánh lớn thì chiến tranh phải hết mau hơn chứ. Tiền lương hai ngàn một tháng qu á ít làm cho đời sống của người binh nh ì phải khó khăn, hai chục ngàn phải mang lại sự thoải mái chứ tại sao lại còn làm cho thiếu thốn hơn? Hai ngàn là một
290 | nguyên sa
đơn vị, hai chục ngàn là mười lần của đơn vị. TT Diệm đã đưa ra những khẳng định trái với toán học. Ông đã ngụy biện. Tôi muốn nói với hai bạn tôi cảm nghĩ của tôi ông Diệm ngụy biện, nhưng tôi giữ cho riêng tôi cảm nghĩ này. Tôi có kể cho bác Chỉnh, bác Khánh, bác Thức, chưa kể cho bác sĩ Tuyến.
Tôi nghĩ tôi sẽ không ngần ngại bênh vực cho cảm tưởng của tôi, nếu có ai hỏi tôi lúc đó, một cảm tưởng không bị thuyết phục về những lời nói của ông Diệm liên quan đến ngành cảnh sát công an, đến chiến tranh du kích, đến lương bổng của binh sĩ. Những đêm gặp Cha Lãm thời kỳ nhật báo Xây Dựng ông Diệm đã chết, chiến tranh đã được mở rộng, quân đội đồng minh đã đổ bộ vào Việt Nam, thực tế chính trị, như một ngọn lửa, đã làm nung chảy những ngọn đèn cầy cảm tưởng của tôi. Tôi đã suy nghĩ nhiều lần và không tìm thấy giải đáp tại sao TT Diệm không chấp nhận cho quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam? Tôi thực sự không biết chắc có phải vì không chịu cho quân đội Mỹ đổ bộ vào Việt Nam đã đưa tới cái chết của ông. Nhưng thực sự thì ông đã từ chối. Vì một quan niệm về chủ quyền quốc gia? Vì người Mỹ không ký với ông một bản hiệp ước quân sự. Một ngôi nhà muốn vô phải ký kết một số giấy tờ, nếu không muốn vô lúc nào, ra lúc nào cũng được thì không được. Không có hiệp ước minh định cung cấp chiếc dù quân sự cho VNCH, muốn vô lúc nào thì vô, muốn ra lúc nào thì ra, thì kẹt. Chiến tranh đã mở lớn, gia tăng nhiều chục nếu không phải là nhiều trăm lần sau khi ông Diệm chết. Bên này tăng, bên kia tăng theo. Tiếng nói của họng súng cũng như tiếng nói
hồi ký | 291 của chính trị chuyên nghiệp ai cũng nói cùng lúc. Cùng với sự hiện diện của quân đội Mỹ và đồng minh, là sự lạm phát. Cũng như mọi người phó thường dân khác tôi không biết gì về những ngõ ngách của đời sống kinh tế. Tôi tưởng người Mỹ vào, xài tiền đô la như mưa, đời sống kinh tế Việt Nam sẽ đi lên. Thực tế của đời sống là trái cây tăng giá, gạo tăng giá, mọi thực phẩm khác từ thịt thà cho tới rau cỏ đều lên giá. Nhà cửa, xăng nhớt tăng giá. Đồng đô la ăn 7 5 đồng thời ông Diệm đã lên trăm tám, rồi hai trăm rưỡi, ba trăm hai... Lương người lính không chạy theo kịp vật giá, giá trị số học của đồng lương tăng lên, nhưng giá trị của đồng bạc giảm sút theo đường thẳng đứng. Trả lương người lính hai ngàn thì họ có đủ ăn, nhưng trả hai chục ngàn thì họ không có đủ ăn. TT Diệm không phải là ông thầy giáo, ông không mang lại cho tôi một giải thích nào về cái nhìn kinh tế của nhà cai trị, cũng không mang lại cho tôi giải thích nào về quan niệm quân sự và an ninh của ông. Ông đã bị một thầy giáo sách vở, một nhà thơ mộng mơ nhìn ông như nhà cai trị nguy biện. Tôi nói với cha Lãm:
- Ông Diệm không ngụy biện.
Tôi nói ngắn. Những lời sám hối thường ngắn. Cha Lãm, thành phần chống Diệm thời Diệm, ông Hiệu trưởng đầu tiên của trường Nguyễn Bá Tòng bị cấm mở trường sau một năm làm Hiệu trưởng, còn nói ngắn hơn. Ông Cha nói:
ThờiKhông!...điểm 1960-1963, tính từ ngày tôi bị bắt và được bác sĩ Tuyến can thiệp được tha ra cho tới ngày chế độ Đệ nhất Cộng hòa sụp đổ tôi không có cơ hội gặp bác sĩ Tuyến
292 | nguyên sa nhiều. Tôi không có việc gì để gặp ông và ông cũng quá bận. Tôi được tha ra ít tháng là xảy ra cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi. Trong khi cuộc đảo chánh diễn ra, dường như ông phải mất nhiều công khó trong việc vận động đưa những đạo quân, như sư đoàn của Đại tá Trần Thiện Khiêm, một người thân của ông, về cứu TT Diệm, sau cuộc đảo chánh ông lâm vào thể trận không được hòa hợp với bà Ngô Đình Nhu. Khi cuộc tranh đấu Phật giáo chống TT Diệm bùng nổ, tôi có cơ hội gặp ông nhiều hơn vì BS Tuyến đã bị thất sủng. Ông kể cho tôi nghe vụ tôi bị bắt, lấy ra không dễ dù cho biết rằng tôi không có tội gì. Cơ quan bắt tôi là Biệt kích đội 4, trực thuộc Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia do tướng Nguyễn Văn Là chỉ huy. Tướng Là với tư cách Tổng Giám Đốc cảnh sát quốc gia thống thuộc Bộ Nội Vụ, có khi trình việc lên thẳng TT Diệm, nhưng không qua bác sĩ Tuyến. Ông Tuyến không có quyền hạ lệnh cho ông Là tha ra người này hay người nọ, nhất là khi ông Là tin rằng những người đó có tội chống đối TT Diệm. Ông Tuyển muốn lấy tôi ra chỉ có cách trình lên TT Diệm về sự sai lầm của việc bắt bớ. Ông Tuyến một mặt làm tờ trình về những lời khai mâu thuẫn đến vô lý của bản cũng đã được gởi lên TT Diệm mà ông Diệm đã đưa cho BS Tuyến đọc và làm tờ trình. Tướng Là đã bắt giữ trên nửa tá giáo chức và học sinh, sẽ phải bắt thêm vài chục người khác trong giới giáo sư trung học và đại học. Bác sĩ Tuyến cho tôi hay ông đã nói với “ông cụ” là không thể bắt giữ những người này được và những người đã bị bắt rồi nên được tha ra. Trong số những người này, có nhiều người không quen biết nhau, tuy cùng thuộc giáo
hồi ký | 293 dục nhưng họ không có cơ hội làm việc với nhau vì thuộc những ngành khác nhau, lại nữa có nhiều người xưa n ay còn k ình chống nhau. Buổi họp theo cung từ diễn ra ở phòng trà Hòa Bình và vũ trường Arc en Ciel là chuyện lố bịch, nhất là họp để thành lập một cái gọi là đảng chính trị có tên là Dân Chủ Mới Đảng. Bác sĩ Tuyến trình với TT Diệm cái tên nửa Nôm nửa Hán làm buồn cười. Một đảng Tân Dân Chủ có nét chính trị, một Dân Chủ Mới lại kèm theo chữ đảng thành Dân Chủ Mới Đảng chỉ có thể là kết quả của sự khai thác mạnh mẽ của Công an của ông Là. Bác sĩ Tuyến cười nhẹ nhàng nói mấy lại cậu biết “ ông cụ ” trước kia làm quan, ông dễ có cảm tình với những người có liên hệ gia đình thuộc giới quan lại. Nhất là ông quan đó lại là cụ Trần Trạm, thượng cấp cũ của “ ông cụ ” được rất nhiều cảm tình và sự kính trọng của “ ông cụ ”. Bác sĩ Tuyến cho tôi hay việc TT Diệm tiếp kiến ba anh em chúng tôi là ý kiến của chính ông chứ không phải là do BS Tuyến đề nghị. Ông Diệm muốn nhìn mặt nhà giáo con cháu của một người bạn cũ. BS Tuyến nói mình biết rằng “ ông cụ ” có cảm tình với gia đình những bạn đồng liêu cũ nên mình trình lên để cho bản phân tích dễ thuyết phục ông hơn. Khi TT Diệm đã được thuyết phục, BS Tuyến không hạ lệnh cho tướng Là tha anh em chúng tôi ra, ông không có thẩm quyền làm việc này, và ông cũng không muốn làm công việc này. Tôi mơ hồ hiểu trò chơi quyền lực. Để không làm tướng Là mất vui quá nhiều, BS Tuyến nhờ ông Dương Văn Hiếu trưởng Đoàn công tác đặc biệt miền Trung, tức là một bộ phận mật vụ của ông Ngô Đình Cẩn biệt ph á i vào hoạt động ngay ở “tiền phương” Sài
Gòn. Ông Hiếu yêu cầu ông Là giải giao ba người tù chính trị để khai thác thêm, với tư cách một cơ quan an ninh hàng ngang, hẳn nhiên trong lời yêu cầu ông Hiếu phải nhân danh một quyền lực lớn. Nhân danh ai? Nhân danh “ ông cụ, hay “ ông cậu ”, tôi không biết. Nhưng sự kiện là ông Hiếu đã lấy được chúng tôi về trại Lê Văn Duyệt nơi có cơ sở của Đoàn công tác Đặc biệt Miền Trung, nằm lọt thỏm trong một căn cứ quân sự. Tôi muốn hỏi BS Tuyến cho rõ hơn về những tương quan quyền lực, về những chi tiết của những vận động của ông giúp cho tôi và các bạn tôi trong thời gian tôi có cơ hội gặp ông nhiều sau khi ông bị thất sủng. Nhưng tôi không có cơ hội. Lần tôi hỏi sao ông biết những mối liên hệ gia đình của tôi. Ông Tuyến trả lời mơ hồ thì mình hỏi thăm mấy người ở An Cựu. Một lần khác sắp cất tiếng, nhìn khuôn mặt của bác sĩ Tuyến tôi lại khựng lại. Bác sĩ Tuyến người thấp, nhỏ, khuôn mặt trắng xanh, luôn luôn có nụ cười tươi vui và cởi mở vào thời điểm đó thường hay nhăn nhó than trời. Ông than khổ quá , ông nói thế này thì chết, thế này thì làm sao gỡ nổi khi chính phủ đưa nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam ra tòa, khi bà Nhu nói nặng lời về các vị tu sĩ Phật giáo, một số báo chí thân chính phủ nói lên những lời gay gắt có khi mạ lỵ. Tôi nhớ khi báo chí và một phát ngôn viên của chính phủ tấn công Thượng tọa Thích Thiện Minh là có vợ, Bác sĩ Tuyến lắc đầu than còn dàn xếp làm sao được nữa. Tôi không biết Thượng tọa Thiện Minh là ai. Tên của các Thượng tọa như Thượng tọa Thích Tâm Châu, chủ tịch Ủy ban Liên Phái, Thượng tọa Thích Trí Quang, trốn trong cơ sở thuộc tòa đại sứ Mỹ thân quen với tôi hơn. BS
294 | nguyên sa
hồi ký | 295
Tuyến giải thích cho tôi TT Thiện Minh là một nhân vật có thế lực trong Phật giáo. Ông có nhiều tu sĩ là đệ tử nắm giữ các chùa chiền các nơi và trước kia ông lo việc đào luyện tăng tài. “Mạ lỵ người ta như thế làm sao thương thuyết được.” Tôi có cảm tưởng mơ hồ là bác sĩ Tuyến có nhiều hiểu biết về nhiều người, nhiều việc, có liên lạc thân hữu xây trên sự tương kính lẫn nhau. Tôi hiểu mơ hồ là dường như BS Tuyến đã không bàn giao được cho TT Diệm hay ông Nhu hồ sơ của Sở Nghiên Cứu Chính Trị mà ông làm Giám đốc. Sở này cũng không có ai kế vị chức vụ của ông Tuyến. Bàn giao càng khó khăn vì “hồ sơ” mà BS Tuyến nắm giữ không phải là những tờ giấy báo cáo, không phải là những bản nghiên cứu và giải tích bằng chữ viết. Tất cả chỉ là những đường gi â y liên hệ chằng chịt, những mối quen biết kín đáo, những cảm tình riêng bất thành văn...
Mối liên lạc giữa BS Tuyến có phần gần gũi trong những ngày tháng mà ông thất thế đó kéo dài không lâu. BS Tuyến được bổ đi làm đặc sứ ở Ai cập. Bác sĩ Tuyến nói với tôi “mình không đi.” Nhưng rút cục ông phải lên đường. Ông trở về Việt Nam ngày 4 tháng 11. Và bị bắt giữ ngay khi về tới nhà.
Bác sĩ Tuyến [2].
Bài thơ gởi Chu Tử
Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyển tại sao lại về ngay chỉ ba ngày sau cuộc đảo chánh. Tình hình còn rối ren quá. Người thì bảo cặp bài trùng Dương Văn Minh-Nguyễn Ngọc Thơ nắm cái. Người khác lại cho rằng chưa có gì là chắc, cho ra rằng việc ông Minh chọn ô ng Thơ làm Thủ tướng là thiết lập “một chế độ Diệm không Diệm.” Tôi hỏi các bạn tôi ở Tổng Hội Giáo Giới, các bác Ch ỉnh, bác Khánh, bác Thức, câu hỏi tại sao ông Tuyến lại về gấp gáp vậy? Có đúng không? Các bạn tôi cho tôi hay không sao đâu, bác sĩ Tuyến được Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm mời về. Ông sẽ tới Sài Gòn từ Hong Kong? Tôi hỏi tại sao Hong Kong? Ông Tuyến đi đặc sứ Ai Cập? Tôi còn nhớ ông cắt nghĩa cho tôi là họ cho mình đi đầy. Chức vụ cũng là chức vụ của một kẻ đi đầy, không phải là lãnh sự cũng không phải là đại sứ mà gọi mơ hồ là đặc sứ. Nhiệm sở không biết đã có những gì, đã thiết lập tới đâu, mà cũng
296 | nguyên sa
hồi ký | 297 không biết có chưa? Mối liên lạc ngoại giao giữa Việt Nam Cộng Hòa và các quốc gia Ả rập không có gì là chặt chẽ. Ả rập cũng như các quốc gia thuộc khối thế giới thứ ba vào thời điểm đó nhìn Việt Nam Cộng Hòa bằng cặp mắt nghi ngại, có phần dè bỉu. Tôi nhớ năm 1961 tôi tới Do Thái dự Hội nghị Giáo chức và sống một thời gian ngắn trong một nông trại của Do Thái gọi là Kibutz, tô i trúng tiếng sét ái tình, sáng thức dậy Salom, chiều từ biệt nhau Salom hòa bình với cô nữ sinh viên ban Triết Do Thái dắt tôi đi thăm những bảo tàng viện có mô hình những trại giam người Do thái trong thời kỳ đệ nhị thế chiến, Chào Hòa Bình người hướng dẫn đi thăm Biển Chết, Chào Hòa Bình người bạn đồng nghiệp tiếp đón ở trong khuôn viên mỏ vàng của vua Salomon, Chào Hòa Bình, Chào Hòa Bình, Salom, những chức sắc trong một ngôi làng Do Thái giáp ranh với Liban trao cho những người khách đến từ phương xa đã giúp trồng cây thông nhỏ như một đóng góp lập thành hàng rào thảo mộc chống quân xâm lăng A rập. Tôi cực kỳ xúc động trong chuyến viếng thăm Do Thái năm 1961. Cô sinh viên dặn tôi khi v ề nhớ vận động cho một cuộc thiết lập bang giao Do Thái và Việt Nam. Giới chức bộ Giáo Dục Do Thái nói với tôi, nhân viên Bộ Ngoại Giao Do Thái nói với tôi mối quan tâm của họ về việc bang giao với Việt Nam. Tôi đã kể lại việc này cho bác sĩ Tuyến, ông đã trả lời tôi, tôi vẫn nhớ, việc này không làm được trong lúc này. Lập trường của Việt Nam là không bang giao với Do Thái trong lúc này vì rằng nếu bang giao với Do Thái là khối Ả rập cho là k ì nh chống lại tất cả khối Ả rập có cả chục quốc gia. Mình bắt tay với Do
Thái là Khối Ả rập bỏ mình ra ngay. Ông cũng cho tôi hay dù nhân nhượng đến như thế mối liên hệ giữa Việt Nam
và Ả Rập còn rất lỏng lẻo. Không thù nghịch, nhưng cũng chưa thể gọi là thân hữu, nhiều quốc gia Ả Rập không có liên hệ ngoại giao nào dù cho văn phòng đại diện, lãnh sự hay đại sứ. Đi Ai Cập làm đặc sứ là đi đầy. Tôi cảm thông nỗi phiền muộn của bác sĩ Tuyến ngày ông rời Việt Nam. Nhưng cảm thông phần nào thôi. Tôi không đo được chính xác sự phiền muộn của ông vì tôi không biết được sự lưu luyến quê hương của ông mạnh mẽ đến như thế. Các bạn tôi nói bác sĩ Tuyến ngày mai sẽ từ ứvề Việt Nam. Tôi kinh ngạc. Trước hết tôi ngạc nhiên ông Tuyến về làm gì. Luôn luôn lo sợ những bất trắc, những bắt lầm, tôi thấy ở Ai cập tốt quá. Đã đành đặc sứ ở Ai cập không phải là đại sứ ở Pháp, ở Anh hay Mỹ, cũng không phải là Lãnh sự ở Thụy Sĩ, ở Hong Kong, nhưng Ai Cập còn hơn Sài Gòn đang lộn xộn như thế này. Ông Tuyến về làm gì? Lại nữa, tại sao về từ Hong Kong? Ông ở bên Ai Cập mà, ở bên Le Caire chứ sao lại Hong Kong. Một bạn tôi trong Tổng Hội Giáo Giới cho là ông về từ Bangkok, liền bị các bạn khác bác bỏ, cho hay không phải Bangkok, Hong Kong chứ không phải Bangkok, gia đình bác sĩ Tuyến đã xác nhận như thế. Một bạn còn nói từ ngày đi bác sĩ Tuyến vẫn lẩn quẩn đâu đây ở những quốc gia gần gũi với Việt Nam chứ không chịu ngồi yên ở Le Caire. Rồi thì người nói rằng bác sĩ Tuyến sang trình ủy nhiệm thư ở Le Caire xong liền bay về Bangkok ngay. Và rồi thì khi thì ô ng ở Bangkok, khi ông bay sang Hong Kong quanh quẩn ở những vùng đất kế cận với Sài Gòn. Người khác còn cho rằng ông cũng chưa hề
298 | nguyên sa
hồi ký | 299
trình ủy nhiệm thư, ông chỉ ra khỏi Việt Nam trực chỉ Le Caire, nhưng nhà ngoại giao bất đắc dĩ đã dừng lại ngay ở
Bangkok là trạm nghỉ đầu tiên của chuyến bay Air France khi ra khỏi Sài Gòn. Các bạn tôi cho tôi hay bác sĩ Tuyến trở về Việt Nam do lời mời của Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm. Bác Khánh nói: Thiếu tướng Khiêm là người của bác sĩ Tuyến mà. Bạn tôi nhắc lại cho tôi nghe chuyện đảo chánh của Đại tá Nguyễn Chánh Thi, chính bác sĩ Tuyến liên lạc với đại tá Trần Thiện Khiêm lúc đó cầm Sư đoàn 7 Mỹ Tho, kêu đại tá Khiêm mang quân về chống đảo chánh. Chính sự tham dự chống đảo chánh của Đại tướng Khiêm, lúc đó là Đại Tá đã làm nghiêng lệch cán cân. Mối liên hệ giữa bác sĩ Tuyến và Đại tướng Trần Thiện Khiêm như thế nào? Vụ liên hệ giữa ông Tuyến và ông Khiêm, sự liên kết của hai người trong việc cứu nguy ông Diệm tôi có mơ hồ ghi nhận. Nhưng thời điểm đầu tháng 11 này, ông Khiêm mời ông Tuyến về như thế nào? Bác Chỉnh nói ông Khiêm có bảo đảm cho bác sĩ Tuyến ông mới về. Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyến có vụ ông Khiêm mời về không? Có lời bảo đảm không? Bảo đảm sao còn bắt? Tin tức tôi được biết ông Khiêm thì bênh vực nhưng tướng Nguyễn Chánh Thi, tướng Mai Hữu Xuân muốn bắt, Tuớng Khiêm b ê nh mà không được. Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyến có đúng như thếBáckhông?sĩTuyến
ở trong tù gởi thơ ra hỏi thăm nhà báo Chu Tử khi chủ nhiệm Sống bị bắn vào cổ và hàm. Thơ làm nhái theo thơ Nguyễn Khuyến. Nhà thờ họ Nguyễn hỏi thăm ông Tổng Cóc:
Tôi nghe kẻ cướp hỏi thăm ông
Nó lại mang ông đến giữa đồng
Cuớp của đánh người quân tệ nhỉ
Xương già da cóc có đau không?...
Thơ của bác sĩ Tuyến từ Chí Hòa gởi ra cho Chu Tử:
Tôi nghe bọn xấu nó mần ông
Nhả đạn ba viên tạch tạch đùng
Bôi mặt bắn người quân tệ nhỉ
X ương già da báo có đau không...
Nhà thơ hỏi thăm “da cóc” của ông Tổng Cóc, nhà chính trị thất thể hỏi thăm “da báo” của ông chủ báo.
Làng báo và độc giả thời đó có sôi động lớn về vụ Chu Tử bị bắn và sôi động nhỏ về bài thơ của BS Tuyến gởi tặng Chu Tử có ký tên rõ ràng và bài họa của chủ nhiệm Sống. Tôi nghe nói sau khi bài thơ được gởi ra tới nơi và được đăng lên báo, tướng Nguyễn Chánh Thi có vào tận Chí Hòa để hỏi bác sĩ Tuyến. Tôi không biết tin này có đúng không. Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyến có chuyện đó không? Tôi cũng muốn hỏi ông có nhớ đủ tám câu của bài thơ và tám câu của bài họa của Chu Tử không? Tôi muốn hỏi ông làm sao ông đưa được bài thơ Hỏi Thăm Chu Tử từ nhà tù ra? Tôi muốn hỏi ông nhiều thứ. Như vai trò của ông trong việc phá vỡ hệ thống nghiệp đoàn tả phái của Nhật Bản? Ông tham dự như thế nào trong việc lật đổ Tổng thống Soekarno của Nam Dương?
300 | nguyên sa
Bác sĩ Tuyến [3] người biết quá nhiều
ó là buổi tối tàu Maddox hải pháo. Sự kiện chiến chinh này xảy ra ban ngày, buổi tối các bạn tôi đến trường học nơi tôi d ạy lớp tối chờ tôi tan ra rủ lên xe “ đi một vòng”. Những cuộc đi chơi buổi tối ở Sài Gòn bao giờ cũng tuyệt vời. Đi ra bến Bạch Đằng. Hóng gió thôi. Đi ăn chè. Đi ra Pointe des Blagueurs đấu láo. Như để bàn xem chữ blagueur dịch từ chữ người đấu láo hay chữ người đấu láo dịch từ blagueur trong khi không có chữ nào dịch từ chữ nào hết. Các bạn tôi chỉ lái xe đi vòng vòng thôi. Xe có bác Khánh, bác Chỉnh, có chị Tuyến. Tôi nhớ đêm đó trăng thật sáng. Nhiều lần tôi nhìn lên trời cao như thể để tìm kiếm xem có thấy gì khác lạ trên bầu trời không. Tôi nói lên cái nhìn mơ hồ của tôi. Nó bắn vào tàu Mỹ là Mỹ phải trả đũa như chúng ta đã biết, đúng rồi. Người Mỹ luôn luôn coi chiến thuyền của họ là lãnh thổ. Bất cứ ai nổ súng vào lãnh thổ nổi trội đó của Mỹ quốc là
Đ
hồi ký | 301
302 | nguyên sa phải chấp nhận cái giá phải trả. Mỹ đã tức khắc hải pháo vào miền Bắc Việt Nam. Có cả không tập. Hà Nội, tôi trong cơn hăng say lý luận, cho rằng Hà Nội sẽ kéo quân qua Bến Hải, hoặc sẽ tung phi cơ bay vào oanh tạc miền Nam. Tôi không biết các bạn tôi có chấp nhận “cái nhìn” rất “chiến tranh trong thi ca” của tôi hay không, có người, từ cửa kính chiếc xe vẫn chạy vòng vòng, nhìn lên bầu trời, có người nhìn về phía trước mặt, nhưng trong mọi trường hợp là không ai nói năng gì cả. Tới lúc xe đi vào những con đường gần khám Chí Hoà, các bạn tôi bỏ sang một bên chuyện tàu Maddox, bàn cãi về ông Đại Tá Đức. Đại Tá Đức sẽ là Chánh Thẩm phiên tòa án quân sự xử bác sĩ Tuyến. Bác sĩ Tuyến đã viết xong biện minh trạng. Tôi không biết đó là một bài biện minh mà bị cáo sẽ đọc lên vào một thời điểm nào đó của phiên tòa hay những phiên tòa hay đó là những tài liệu mà bị cáo sẽ cung cấp cho luật sư biện hộ để vị này có cơ sở biện minh. Nhưng tôi biết bản văn gọi là biện minh trạng đó được sao thành nhiều bản, một bản phải đệ nạp cho Chánh thẩm tòa án quân sự là Đại Tá Đức, một bản trao cho luật sư và một bản đã được chuyển ra ngoài cho một người nào đó cất giữ, người đó có nhiệm vụ là sẽ đưa cho báo chí quốc tế nếu như những người bắt giữ bác sĩ Tuyển sát hại ông. Ai có ý đồ giết bác sĩ Tuyến trong tù? Tôi không nêu lên câu hỏi này cho các bạn tôi. Các bạn tôi thì dường như biết có những mưu đồ ghê gớm này, biết cả những kẻ chủ mưu nhưng không nói ra bằng những danh từ riêng chính xác. Tôi có hỏi về phiên tòa án quân sự sẽ xét xử bác sĩ Tuyến. Các bạn tôi xác nhận ngay là có. Các bạn tô i nói xử thì cũng khó. Xử thì tùm lum hết.
hồi ký | 303
Biện minh trạng có đủ hết tên những vị quân nhân cũng như dân chính gồm cả nhiều vị trong Hội đồng quân nhân cách mạng đã cộng tác, đã nhận lãnh những ơn huệ của Sở Nghiên Cứu Chính Trị do bác sĩ Tuyến làm Giám đốc, đã, một cách nào đó, là “người của bác sĩ Tuyến.” Những tên tuổi mà mọi người kể ra có những quân nhân cấp tướng, có cả những vị cấp tá thôi nhưng đang nắm những vị trí trọng yếu trong guồng máy quân sự. Nhân vật dân chính được nhắc tới nhiều không thua nhân vật quân sự. Những tên tuổi làm tôi chú ý và làm tôi cảm thấy tôi đã đúng trong việc chọn lựa không tham dự vào thế giới chính trị, nơi có quá nhiều chuyện, nhiều người, trông vậy mà không phải vậy. Nhưng tôi mau chóng được đưa sang một thế giới còn làm tôi e ngại hơn cả thế giới chính trị. Đó là thế giới gián điệp. Bạn tôi nói tới vụ lôi thôi gì đó ở bên Nhật. Bác sĩ Tuyến đã can thiệp bằng cách nào đó, bằng đường dây riêng của ông, theo lời yêu cầu của một cơ quan tình báo trung ương bạn, làm thiệt hại cho nghiệp đoàn tả khuynh Nhật Bản. Ông Tuyến cũng, bằng những đường giây của ông, vẫn theo lời yêu cầu của tình báo nước bạn, can thiệp vào việc lật đổ nhà độc tài Nam Dương Soekarno. Các bạn tôi cho rằng không thể có vụ xử Bác Sĩ Tuyến. Tin xử và cả những việc sắp xếp như thiết lập tòa án quân sự, đã bổ nhậm cả chính thẩm, chỉ là dàn cảnh. Một là có một phe làm ra vẻ sắp xử để làm vừa lòng những kẻ thù của bác sĩ Tuyến. Hai là người ta thật sự muốn đưa ông Tuyến ra xử nhưng rồi thì rút cục không có xử gì hết vì quá nhiều người có chức quyền liên hệ. Và hơn thế, người Mỹ sẽ không thể để cho xử một vụ án như thế. Xử thì “bể “hết. Bao nhiêu bí
304 | nguyên sa mật tình báo bị tiết lộ. Có thể đưa tới cả những lủng củng ngoại giao. Tôi muốn hỏi các bạn tôi những chi tiết. Bác sĩ Tuyến có những hoạt động ở nước ngoài thật hay sao? Mối liên hệ giữa ông và CIA Mỹ ra sao? Với CIO Đài loan ra sao? Với M5 của Anh Cát Lợi ra sao? Ông có những “ đường d ây ” như thế nào ở nước ngoài, đặc biệt ở Nhật và Nam Dương để cho tình báo nước bạn đồng minh phải nhờ đến trong một công tác phối hợp tình báo. Tôi muốn hỏi và cũng không muốn. Tò mò thì muốn, tính cả sợ thì không. Dù muốn dù không, rút cục tôi không nêu lên câu hỏi nào để tìm biết thêm chi tiết. Dù vậy, buổi tối tôi cảm thấy hơi ớn khi nhớ tới cuốn phim trinh thám mà tôi đã coi là phim L’Homme Qui En S avait Trop, Người Biết Quá Nhiều.
Bác sĩ Tuyến [4] chưa bật đèn xanh
Tôi có một lô câu hỏi mà tôi dự tính nêu lên cho bác sĩ Tuyến ngày ông được trả tự do khoảng thời gian trước Tết Mậu Thân. Dĩ nhiên tôi sẽ hỏi ông vụ “cầm chân” lãnh tụ nghiệp đoàn tả khuynh bên Nhật Bản và vụ đảo chánh Tổng thống Soekarno bên Nam Dương. Tôi vốn mâu thuẫn, một mặt nhát hơn thỏ, thấy ông to con mặt ngầu đi xe gắn máy mang kính đen đứng trước cửa nhà là đổ mồ hôi hột, mặt khác thích đặt những câu hỏi loại “nổ” mỗi khi có cơ hội. Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyến chuyện Nhật Bản và Nam Dương đó là chuyện có thật hay chuyện ông viết ra trong bản biện minh trạng để hù mấy ông Tướng đang tiền hô hậu ủng đó thôi? Tôi có phần nghiêng về giả thuyết chuyện thật, vì rằng những chuyện động trời như thế này dễ gì đặt ra để hù doạ nhau. Ông Đại tá Đức Chính thẩm Tòa án Quân sự mà có trong tay bản văn này thì mấy ông Tướng đang cầm quyền phải có,
hồi ký | 305
306 | nguyên sa giới chức cầm đầu ngành an ninh Việt Nam phải có, giới chức an ninh địa phương có thì các trùm tình báo ngoại quốc phải có, sĩ quan phòng nhì Pháp làm việc ở tòa đại sứ Pháp và viên tùy viên quân sự của tòa đại sứ này cũng như những đồng liêu của họ bên tòa đại sứ Mỹ và hẳn nhiên trú sứ của Trung Ương Tình Báo Mỹ phải có, đó là chưa kể, nội vụ có thể được đưa lên tới cấp bậc đại sứ. Biện minh trạng hiện ra với tôi như một mũi tên nhắm tới hai mũi con thỏ. Nói đến các tướng lãnh và các báo chí cũng như các nhân vật sinh viên, chính khách đã nhận sự trợ giúp hiện kim, hiện vật, quyền lực, chức vị và ân huệ đủ loại của bác sĩ Tuyến là làm cho mũi nhọn của cây kim ở trong bọc thò ra. Những tiếng kinh ngạc “thật sao?”, nhưng lại reo vui “ à thế ra...!” được cất lên sẽ là những ngòi được châm lên của một trái nổ. Tôi nghĩ bác sĩ Tuyến đã đánh một tiếng bạc có thể thua. Một số đáng kể những người được ông đề cập tới là những người có quyền khuynh thiên hạ. Một trong những người đó có thể nảy ra sự mong muốn “nhổ đi cái gai.” Nhắm tới loại chim này, phải chăng bác sĩ Tuyến đã thiếu thận trọng? Hay phải chăng ông tin tưởng rằng con chim kia quá lớn, nó sẽ không để cho bầy chim nhỏ động thủ. Nó biết rằng nếu các tướng lãnh của đệ nhị Cộng h òa sát hại bác sĩ Tuyến, ông này là người biết việc, ông không dại gì không chuyền ra ngoài hoặc để bên ngoài từ trước tài liệu đầy đủ. Tài liệu được chuyển từ nhà tù Chí H òa ra ngoài có thể cũng chỉ là một phần. Từ ngoại quốc về sau ngày 1 tháng 11, bác sĩ Tuyên phải hiểu rằng ông cần phải thủ, phải để lại tài liệu ở một chỗ nào đó cho một ai đó để tung ra khi tình thế đòi hỏi sự bật mí những sự
hồi ký | 307 thật không nên nói ra. Khi khẩu súng được đưa lên chĩa vào màng tang, khi con dao kề cổ người tù khác lạ, bàn tay lông lá dù muốn dù không cũng phải vươn ra giữ lấy con dao, cầm lại khẩu súng. Nội vụ đổ bể không phải chỉ là sự tiết lộ một số hành động gián điệp phạm vi chiến thuật mà là chiến lược, là chuyện lật đổ cả một chế độ của một nước theo khối thế giới đệ tam, can thiệp vào sinh hoạt nghiệp đoàn của nước hàng đầu châu Á. Đó sẽ là quả bom cỡ lớn các nước trong khối cộng sản sẽ không ngần ngại khai thác thổi phồng đẩy các quốc gia đệ tam như Ấn độ, Nam Dương, Algeria, Tunisia đến những cơn bão chống Mỹ khủng khiếp, quả bom đương nhiên sẽ làm nổ tung những điệp viên cấp trú sứ mà còn làm cho những chiếc ghế của ông Đại sứ, ông Trùm phải lung lay. Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyến nội vụ có những chi tiết ra sao? Có phải chỉ có bấy nhiêu hay còn nhiều uẩn khúc? Tôi muốn hỏi ông thực sự trong thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa ông làm chức vụ gì? Trên danh nghĩa sở của ông là Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Tôi có biết những cơ quan tình báo thế giới thường có những cái tên vu vơ. Một trong những cơ quan tình báo của Pháp có tên là “Sở Nghiên Cứu Sử Học”. Sở Nghiên Cứu Chính Trị của bác sĩ Tuyến được dư luận biết tới như một cơ quan Mật Vụ. Danh từ Mật Vụ có những ý nghĩa khác nhau tùy không gian và thời gian. Mật vụ KGB của Nga là một cơ quan sắt máu không thua Mật vụ Gestapo của Đức Quốc xã. Đó là guồng máy để nghiền nát những đối thủ chính trị của các ông Vua Chữ Thập ngoặc hay Vua Búa Liềm. Nhưng Mật Vụ ở Mỹ gồm cả những nhân viên Trung Ương Tình Báo và cả những người có nhiệm vụ bảo
- Tôi muốn đi thăm bác sĩ Tuyến.
Bác Khánh kể cho bác Thức và bác Chỉnh lời yêu cầu của tôi, người nào gặp tôi cũng cười hề hề nói cậu nhát
308 | nguyên sa vệ tổng thống. Tôi biết cách xác định tầm vóc của một cơ quan công quyền. Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyến vì sao sở mà ông cầm đầu lại có tên là Sở Nghiên Cứu Chính Trị? Sở có bao nhiêu nhân viên ? Nhiều người biết tổng quát các phụ tá của bác sĩ Tuyến nhưng ít nghe thấy ai cho hay các phụ tá này làm công việc gì? Sở có những phòng nào? Ngân sách hàng năm là bao nhiêu? Hoạt động trong những mục tiêu nào? Những phạm vi nào? Mối liên hệ giữa Sở và các cơ quan an ninh như An Ninh Quân Đội, như Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, như Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung ra sao? Được gọi là Mật Vụ, Sở Nghiên Cứu Chính Trị có làm công việc bắt bớ và tra tấn người ta không? Nhà giam của Nha An Ninh Quân Đội nằm ở những địa điểm nào ở Sài Gòn và các tỉnh, nhà giam của Cảnh sát Công an cũng có trên cùng khắp lãnh thổ, nhà giam của Sở Nghiên Cứu Chính Trị có ở Sài Gòn không, có ở các tỉnh không? Nằm ở địa điểm nào? Bác sĩ Tuyến đứng đầu một cơ quan có hoạt động tình báo thì đó là tình báo quốc nội hay tình báo quốc ngoại? Hoạt động ở hải ngoại là hoạt động như thế nào, làm sao có được tầm vóc để nhận lãnh những công tác ở Nam Dương và Nhật Bản? Người của ông hoạt động ở hải ngoại đã hoạt động một cách độc lập, có cơ cấu riêng hay chỉ là một phân bộ của tổ chức tình báo nước bạn đồng minh lớn? Đúng thế, tôi có nhiều câu hỏi cho bác sĩ Tuyến chớ. Cho nên khi tin ông được tha đã được xác nhận, tôi nói với bác Khánh:
như thỏ, để thủng thẳng rồi thăm gấp gáp gì. Tôi nhắc lại lời yêu cầu một cách thành khẩn. Bác Khánh nói:
- Chưa bật đèn xanh!...
hồi ký | 309
N ghề nào cũng phải có broker. Người trung gian trong việc mua bán nhà cửa là broker địa ốc. Người trung gian trong việc mua bán chứng khoán, cổ phiếu, công và trái phiếu là broker của thị trường chứng khoán. Broker trong các ngành nghề có khi có danh xưng khác nhau nhưng công việc tương tự. Đó là công việc đứng giữa. Và khỏi nói, ai cũng biết những broker lừng lẫy của mỗi ngành nghề nhiều khi không còn chỉ là trung gian trong ngành mà còn trở thành vua trong ngành nghề riêng biệt đó. Warren Buffet một broker của thị trường chứng khoán trở thành ông một ông vua trong ngành nghề này, tài sản trong suốt ba năm nay khi thì số 1, khi thì số 2 trong bảng danh sách những người có tài sản lớn lao nhất thế Nhữnggiới.agent s tức là brokers của ngành nghề điện ảnh là những người có chiếc chìa khoá mạng lưới quen biết mở
Bác sĩ Tuyến [5] trung gian quyền lực
310 | nguyên sa
hồi ký | 311 ra được cánh cửa của Hồ Ly Vọng mang lại tiền bạc và hào quang cho từ những mầm non cho tới những tài tử đã lừng danh. Trong thế giới chính trị người trung gian là những broker quyền lực. Mang lại quyền hành cho một cá nhân, dàn xếp dung hoà quyền lực giữa các nhóm thế lực. Thời xa xưa, có những người ấp ủ mộng nuôi vua. Nhìn thấy chân mạng đế vương nơi người hàn sĩ, nhà trung gian quyền lực thời xa xưa đó đầu tư vào ngôi sao chính trị. Thời hiện đại, có những ông vua tự tìm lấy những cộng tác viên. Nhưng nhiều nguyên thủ cần đến sự cố vấn, phụ giúp của một trung gian trong việc chọn người. Cần lắm. Một ông tướng cầm quyền có nhiều hy vọng chọn lựa tương đối dễ dàng một Tổng trưởng Quốc Phòng, nhưng sẽ phải suy nghĩ nhiều trong việc chọn cho đúng một khuôn mặt chính trị vào chức Tổng trưởng Ngoại Giao, Tổng Trường Kinh Tế hay Giáo Dục. Người trung gian quyền lực, “powerbroker” trong trường hợp này là một “kingmaker”. Dưới thời của TT Ngô Đình Diệm, bác sĩ Tuyến chính là người trung gian quyền lực, là người kingmaker đó. Tôi nghĩ có hơn một nhân vật trong chế độ Đệ nhất Cộng H òa đóng vai trò trung gian quyền lực. Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục là một trung gian quyền lực nặng ký. Hơn một nhân vật trở thành Bộ Trưởng, Tổng Trưởng hay Tổng Giám Đốc, Tỉnh Trưởng, v.v. do sự giới thiệu của Đức Cha Thục. Ông Ngô Đình Cẩn bị hai ông anh của ông là ông Diệm và ông Nhu đánh giá thấp trong công việc này, vai trò trung gian quyền lực của ông tương đối giới hạn. Ông có ý kiến trong việc chọn lựa Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, đương nhiên, có ý kiến trong việc
chọn Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, Giám đốc Công an Thừa Thiên, có thể vươn cánh tay của ông ra tới Quy Nhơn, tới Đà Nẵng, nhưng không nghe nói ông đề nghị Tổng trưởng Ngoại Giao hay Giáo Dục lên Tổng Thống Diệm. Thống Tướng Lê Văn Tỵ cũng là một kingmaker . Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ cũng là một kingmaker khác mà ít người để ý tới. TT Diệm vẫn có biệt nhỡn với hai người cộng sự viên hàng đầu này, mà ông gọi là “ngài”, luôn luôn hỏi ý kiến trong việc chọn người trong lãnh vực liên hệ. Các tướng Đôn, Xuân, Kim, Đính cũng như Minh, Vỹ, v.v. đều biết rằng những chức vụ mà họ đảm nhận cũng như lon mang trên vai đều có tiếng nói của Thống Tướng Lê Văn Tỵ, người mà họ gọi là “papa”. Nhưng người trung gian quyền lực quan trọng nhất của Đệ Nhất Cộng Hoà là bác sĩ Trần Kim Tuyến. Dưới thời TT Diệm có trước sau ba ông Tổng Trưởng Giáo Dục, tôi có dịp nhìn thấy, nghe thấy khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp, bác sĩ Tuyến đóng vai trò trung gian quyền lực cho hai ông. Tổng trưởng Giáo Dục đầu tiên của Đệ Nhất Cộng Hòa là ông Nguyễn Dương Đôn. Giáo sư Đôn là Tiến sĩ Quốc gia Pháp, làm Tổng trưởng Giáo dục từ khi tôi chưa trở về quê hương. Đầu năm 1956, tôi về nước và nhận nhiệm vụ ở trường Chu Văn An, giáo sư Đôn đã ngồi ở đường Lê Thánh Tôn từ lâu rồi. Tôi không biết gì liên hệ đến việc ông lãnh nhận chức vụ này. Bộ Giáo dục với tôi, vào thời điểm đó, là cụ Nguyễn Ngọc Cư và cụ Trần Bá Chức. Theo lẽ phải về nước trong kỳ hè 1955, về nước đầu năm dương lịch lỡ cỡ, nhưng tôi cứ nấn ná mãi, “mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn, Paris sẽ nhìn theo. Nhưng nhìn thì nhìn đời trăm nghìn góc phố, Con đường dài thẳng
312 | nguyên sa
hồi ký | 313 mãi có bao nhiêu. ..”, tới cuối tháng 12 năm 1955 mới cập bến Sài Gòn. Thời điểm đó, tôi thường ngồi ở công trường trước toà Đô chính để nghỉ ngơi sau những cuốc xe đạp đi tìm việc. Tôi nhấc chiếc mũ trắng kiểu Tây thuộc địa để lên đùi ngồi xích lại nhường chỗ cho vị tiền bối đang tìm chỗ. Chúng tôi trò chuyện, tôi kể chuyện của tôi, tôi học Triết, chưa có việc làm, vị tiền bối bất ngờ cho tôi hay tôi có chỗ dạy học cho ông. Vị tiền bối đó là GS Nguyễn Ngọc Cư, cụ đang dạy Triết ở trường Chu Văn An, cụ nói công việc của cụ quá nhiều cụ vẫn mong có người thay thế cho cụ ở Chu Văn An. Cụ Nguyễn Ngọc Cư cho tôi ngày và nơi hẹn ở đường Lê Văn Duyệt, nơi cụ làm Giám đốc Nha Học Chính Bắc Việt Di cư. Trường Trung Học Chu Văn An buổi đầu đời di cư đó thống thuộc Nha Học Chính Bắc Việt Di cư. Cụ Nguyễn Ngọc Cư hướng dẫn tôi tận tình, giúp đỡ tận tình trong việc làm thủ tục.
Trong vòng một tuần tôi được gọi lên trình diện cụ Trần Bá Chức, một nhà giáo lừng danh của Miền Nam. Cụ Trần là Tổng Giám Đốc Học Chánh, cụ ký sự vụ lệnh cho tôi và cho anh Vũ Văn Tiến, giáo sư Vật Lý, hai anh em chúng tôi lãnh sự vụ lệnh cùng một ngày, về trình diện cụ Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán, Chu Văn An, cùng một ngày. Chúng tôi có tên chung nhau trong cùng một tờ Sự Vụ Lệnh. Cụ Nguyễn, cụ Trần, cụ Vũ, những khuôn mặt khuôn mẫu của ngành giáo dục Việt Nam, khuôn mẫu cho học sinh, khuôn mẫu cho cả những thanh niên bước vào nghề giáo dục như chúng tôi thời đó. Tôi học lấy mọi cách tiến thoái, lề lối mô phạm nơi các vị trưởng thượng. Cụ Cư còn ân cần dặn tôi xin gặp cụ Nguyễn Khắc Kham để
nhờ GS Nguyễn Khắc Kham giảng cho về kinh nghiệm sư phạm cũng như về danh từ triết học. Tôi đã làm công việc này, đã tới nhà cụ Kham ở một con đường nhỏ từ Võ Tánh, khúc gần trước cửa Phở 79 đi vào. Khi tôi nghe tin Tổng Trưởng Nguyễn Dương Đôn bị thay thế, tôi ngỡ ngàng, không tìm thấy lý do nào cho công việc này. Thế giới Giáo Dục của tôi thật êm đềm, trường học vui tươi, kỷ cương, giờ dạy học tôi dạy học, giờ chơi tôi ra sân đá banh với học sinh, nghỉ mệt ăn thịt bò khô, cụ Vũ bảo tôi giờ chơi ngồi trong phòng giáo sư thôi đừng ra đá bóng cùng là ăn thịt bò khô, tôi thấy cụ nói đúng, không ra sân cỏ nữa, khôn g phiền muộn gì. Cuối tuần thỉnh thoảng Trần Dạ Từ, lúc đó còn rất trẻ tới đón tôi, hai anh em chở nhau trên xe gắn máy Capri sơn hai màu trắng đỏ đi ăn phở. Tổng trưởng Giáo dục Nguyễn Dương Đôn xa tuốt trên cao, không thấy ông làm gì có tác dụng gây phiền muộn cho đời sống giáo chức của tôi, không thấy có nhu cầu thay đổi ông Đôn làm gì. Những tin đồn Tổng trưởng Nguyễn Dương Đôn bị thay thế càng lúc càng lớn. Ở Chu Văn An có người nói ông Đôn mệt mỏi xin nghỉ, ông muốn trở về Pháp, không biết có đúng không. Nhưng ở Tổng Hội Giáo Giới thì tin ông Đôn đi không phải chỉ hiện ra như một tin đồn. Người ta bàn cãi sôi nổi về việc ông Đôn đi, và càng sôi nổi hơn nữa về nhân vật thay thế Tổng trưởng Nguyễn Dương Đôn.
GS Trương Văn Chôm, chủ tịch Tổng Hội Giáo Giới, Khoa trưởng Đại học Dược Khoa, hỏi tôi:
- Trần Hữu Thế được không?
GS Nguyễn Hữu Chỉnh, Tổng thư ký Tổng Hội Giá o Giới hỏi tôi:
314 | nguyên sa
hồi ký | 315
- Trần Hữu Thế được không?
Ông Trần Hữu Thế lên thay thế ông Nguyễn Dương
Đôn trong chức vụ Tổng Trưởng Giáo Dục có được không?
Các bạn Trương Văn Chôm, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Văn Khánh dường như hỗ trợ mạnh cho “lá bài” Trần Hữu Thế. Bác Sức Mấy Đinh Từ Thức thì dè dặt hơn. Các bạn có lòng tin ở GS Trần Hữu Thế cho tôi biết là ông Thế là
Tiến sĩ Quốc Gia. Tôi hỏi:
- Docteur d’Université hay Docteur d’Etat?
Câu trả lời tới ngay:
- Docteur d’Etat! Nước ta, dưới thời TT Diệm, Tổng trưởng giáo dục phải có nhiều điều kiện, và điều kiện đầu tiên và tiên quyết là phải có bằng Tiến Sĩ, và bằng Tiến Sĩ này phải là Tiến Sĩ Pháp, tiến sĩ Bỉ hay Thụy sĩ là không được, là gây ra sự bất phục trong ngành giáo ngay lập tức. Tiến sĩ Mỹ lúc đó chưa ai đặt ra, coi như không được kể đến. Phải Tiến Sĩ Pháp mới hoàn tất điều kiện ắt có. Mà Tiến sĩ Pháp phải là Docteur d’Etat, chứ Docteur d’Université hay Tiến sĩ Đệ Tam Cấp, docteur du 3ème cycle cũng không trúng cách. Giáo sư Trần Hữu Thế hiện ra với các bạn tôi là một ứng viên có tất cả các điều kiện. Ông Trần Hữu Thế là Tiến Sĩ Quốc Gia Pháp, đề án của ông tôi cũng được cho biết là một đề án Hóa học liên quan đến việc Thuộc Da Bò. Giáo sư Thế là giáo sư Đại Học ông lại có tinh thần xã hội, ông lập ra Hội Khuyến Học và tổ chức các lớp học tối mang tên Khuyến Học cho các học viên lớn tuổi và hiếu học. Giáo sư Thế lại là người Nam. Một bạn tôi nhấn mạnh: - Người Nam!
Tôi hỏi:
- Người Nam?
Bạn tôi xác nhận:
- Người Nam!
Bạn tôi giải thích yếu tố người Nam quan trọng lắm. Cũng ngang với yếu tố Tiến Sĩ Quốc Gia. Đó là hai điều kiện tiên quyết mà TT Diệm đòi hỏi.
316 | nguyên sa
Bác sĩ Tuyến [6]
lộ trình bác sĩ Tuyến
Tổng trưởng Trần Hữu Thế khác biệt thật nhiều với Tổng trưởng Nguyễn Dương Đôn. Ông Đôn hiền h òa , trầm lặng, Bộ Giáo dục dưới thời của ông như con sông Hương trôi chảy êm đềm. Bộ giáo dục dưới thời ông Thế hiện ra như con sông chảy cuồn cuộn. Nói là quả núi lửa hay địa chấn cũng không sai vì rung rinh ghê quá lại có cả những hậu địa chấn. Ông Thế cho tổ chức Đại Hội Giáo Dục cũng gọi là Đại Hội Chương Trình, tập hợp đủ mặt anh hùng Hoa Sơn Luận Kiếm, để thực hiện một chương trình Trung học thích hợp với thời đại, một chương trình hợp lý hóa , gọi là “khoa học, nhân bản và khai phóng”. Trong toán học có thêm tân toán học, trong triết, phần tâm lý, ngoài tâm lý học ngôi thứ nhất, có thêm tâm lý học ngôi thứ hai và tâm lý học ngôi thứ ba. Ông Thế xây một tháp đài chương trình Trung học mới, sôi động, ông ban hành hàng loạt sự vụ lệnh thuyên chuyển giáo
hồi ký | 317
Ông Th ế không phải chỉ là người tạo ra giông bão trong ngành giáo dục mà còn làm ồn ào dư luận tổng quát. Ông càng lúc càng hiện ra như một ngôi sao lớn mạnh mẽ trên bầu trời chính trị Miền Nam. Tháng này dư luận chú ý mạnh mẽ đến tin ông rửa tội theo đạo Công giáo. Rửa tội là công việc thuộc về thế giới của niềm tin và là việc làm
318 | nguyên sa chức, càng sôi động hơn. Các thầy giáo Bắc Kỳ thuộc loại Sài Gòn chi bảo như Doãn Quốc Sĩ bị thuyên chuyển đi Hà Tiên, Bùi Đình Tấn, Sử Địa, bay xuống Long An, Nguyễn Đình Phú vì thuộc lớp trước, tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, lớn tuổi nên thường được giáo chức gọi là cụ Phú, hay thân yêu hơn, “cụ Phú đen” bị đẩy đi xuống tới Kiến H òa , Lưu Trung Khảo đi Kiến Phong... Những trường Trung học của Thủ đô Sài Gòn ồn lên chuyện ông Thế “ đánh Bắc Kỳ ”. Giới thân cận ông Thế giải thích ông chỉ muốn thống nhất các trường, không muốn có trường học mang màu sắc Bắc Nam, không muốn trong vùng biển trường học miền Nam nổi lên những ốc đảo “trường di cư”. Các cao thủ Bắc kỳ di cư không chấp nhận những giải thích của nhóm ông Thế cho rằng đồng hoá có nhiều cách, có thể đưa giáo sư Chu Văn An sang Pétrus Ký và ngược lại, mang giáo sư Gia Long về Chu Văn An, đưa GS bên Hồ Ngọc Cẩn sang bên Gia Long... là có những người có công hãn mã như Nguyễn Đình Phú, Phó Tổng thư ký dưới thời ông Đôn bị văng đi tuốt xuống Kiến Hòa, Doãn Quốc Sĩ hiền hòa Việt vă n chi bảo bị đày xuống Hà Tiên... Những biện pháp thuyên chuyến đi xa trong truyền thống giáo dục vẫn được nhìn ngắm như những biện pháp có tính cách trừng phạt.
hồi ký | 319 tự nó đáng ca ngợi. Nhưng khi một nhân vật chính trị chịu phép rửa tội dưới thời một ông Tổng thống Công giáo, người tín đồ mới dễ bị nhìn ngắm với những ý nghĩ khác lạ có thể không chính đáng. Ông Thế được chú ý mạnh và ông cũng đóng góp vào ngọn lửa dư luận bằng những nhiên liệu của ông. Không những ông rửa tội, mà còn rửa tội với Đức Cha Ngô Đình Thục, bào huynh của TT Ngô Đình Diệm. Với dư luận, ông Tổng trưởng Giáo dục Trần Hữu Th ế trở thành “con nuôi Đức Cha Thục.” Ông hiện ra như một nhân vật chính trị rất mạnh, ông vừa là “người của bác sĩ Tuyến”, vừa là “con nuôi của Đức Cha”. Sân khấu chính trị thời cuối thập niên năm mươi, đầu thập niên sáu mươi đó, nhân vật chính trị “người của bác sĩ Tuyến” khó lòng tiến tới gần Đức Cha. Người của Đức Cha bị nhìn ngắm một cách nghi ngờ bởi “Ông Cậu”. Người của “ Ông Cậu ” bị người của bác sĩ Tuyến e ngại. Làm sao có thể “đi hai chân”, làm sao có thể đứng được ở cả hai phía trong cùng một thời gian? Làm sao Tổng trưởng Trần Hữu Thế vừa là “con nuôi của Đức Cha” vừa là “người của bác sĩ Tuyến”? Những người bị đầy đi xa còn thắc mắc ông Thế do bác sĩ Tuyến đưa lên, ông Tuyến là người Bắc, sao ông lại cho người của ông “ đánh Bắc Kỳ ” tơi bời hoa lá? Ông Thế “ đánh Bắc Kỳ ” hay ông chỉ muốn trường học có sự hài hòa Nam Bắc là một câu hỏi có nhiều trả lời cho nhiều người, nhưng cho Bác sĩ Tuyến chỉ có một câu trả lời. GS Nguyễn Hữu Chỉnh, Tổng thư ký Tổng Hội Giáo Giới đã bước vào ngôi nhà ở đường Lê Thánh Tôn gần như cùng một ngày với Tổng trưởng Trần Hữu Thế. Ông Chỉnh giới thiệu ông Thế với bác sĩ Tuyến. Tổng thống Diệm bổ
Tổng trưởng Thế ngày hôm trước, Tổng trưởng Thế bổ GS Chỉnh vào chức vụ Đổng Lý Văn Phòng ngay hôm Bộ được bàn giao. Đại Hội Giáo dục cải tổ chương trình Trung học dưới thời Trần Hữu Thế, được coi như công việc đứng đắn, đáp ứng được đúng nhu cầu giáo dục, là một tác phẩm của GS Chỉnh. Nhiều giáo sư trung học công và tư, GS Chỉnh mời lên Tổng Hội Giáo Giới nhiều lần để đón góp ý kiến về một cuộc cải tổ giáo dục từ nhiều tháng trước khi ông Thế lên Bộ trưởng. Cặp bài trùng Thế-Chỉnh hoạt động hăng
Đùngsay.một cái, cùng lúc với “trận đánh Bắc Kỳ”, ông Bộ trưởng Trần Hữu Thế và ông Đổng Lý Văn Phòng Nguyễn Hữu Chỉnh, chỉ sáu tháng sau khi nhậm chức, ở trong tư thế cừu địch. Bộ trưởng Thế chính thức hạ lệnh cho các sở, các phòng, các viện phải nạp mọi báo cáo, phúc trình trực tiếp lên Tổng trưởng không đi qua văn phòng Đổng Lý như thủ tục hành chánh. Một cách đơn giản Đổng lý Nguyễn Hữu Chỉnh không những bị đặt vào tình trạng ngồi chơi x ơi nước mà còn bị công khai làm cho mất mặt. Tôi còn nhớ hồi đó người ta nhắc nhở nhiều đến GS Nguyễn Khắc Kham. Cụ Kham, nhà ngôn ngữ học hàng đầu, thầy giáo của các bậc thầy mà tôi có dịp gặp gỡ tại tư thất của cụ ở trong khu cư xá trên đường Võ Tánh, đối diện phở 79. Cụ Cư sau khi tuyển chọn tôi vào dạy Triết ở trường Chu Văn An niên khoá 1955-1956, đã dặn tôi nhớ tới xin gặp cụ Kham để xin cụ Kham chỉ giáo. Cụ Kham đã chỉ vẽ cho tôi những bước đầu quý giá. Suốt một buổi tối cụ cho tôi những danh từ triết học cần thiết cho những bài giảng về Luận Lý Học. Syllogisme là Tam đoạn luận,
320 | nguyên sa
hồi ký | 321 déduction là diễn dịch pháp, induction là quy nạp pháp, déduction formelle là diễn dịch hình thức hay tam đoạn luận, induction formelle là quy nạp hình thức, induction amplifiante là quy nạp phóng đại... Cụ Nguyễn Khắc Kham là nhà mô phạm có chức vụ hàng giám đốc vào thời Bộ trưởng Thế đã tìm ra cách thể hành xử trong việc phúc trình vừa đúng theo lệnh của Bộ trưởng vừa cư xử với Đổng lý theo đúng tình người và tinh thần kẻ sĩ. Cụ Nguyễn Khắc Kham được dư luận ngành giáo dục cực kỳ thán phục vì cụ gửi những tờ trình, những báo cáo lên cho Tổng trưởng không qua Đổng lý đúng theo lệnh, nhưng cụ luôn luôn gửi một bản sao cho Đổng lý với hàng chữ “ để kính tường. ”
Đ ổng lý Nguyễn Hữu Chỉnh, anh của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, là một nhà trí thức có nhiều tư tưởng, có ý chí xây dựng những đổi mới trong ngành giáo dục, nhưng ông không phải là người chai đá, lỳ lợm, ông không chịu nổi những trận đòn chính trị kiêm hành chánh. Và ông đã từ chức, trở về Tổng Hội Giáo Giới.
Tổng Hội Giáo Giới là đoạn đường khởi đầu của “lộ trình Bác sĩ Tuyến” mà đầu đàng kia là các chức vụ Bộ trưởng. Tổng trưởng, Tổng Giám đốc, Tỉnh Trưởng... Trước khi tôi bị Tướng Nguyễn Văn Là bắt giữ vì tình nghi lập đảng Dân Chủ Mới âm mưu lật đổ TT Diệm, tôi là hội viên của Tổng Hội Giáo Giới. Nhưng ít tới đó. Khi tới là chỉ để gặp bác Sức Mấy Đinh Từ Thức, chủ bút Gió Mới , để bàn chuyện văn chương báo chí, đưa cho Sức Mấy một bài thơ hay một truyện ngắn. Sau khi tôi được trả tự do do sự
- Chào cụ!
- Vâng chào cụ! Hôm nay không có “cua pạc” à?
Tôi nói không. Tôi nói tôi muốn vào thăm cụ Chỉnh. Bác Trạc mời tôi vào ngay mỗi khi đường vô quang đãng. Khi đường đi bị bế tắc, đèn đỏ, tôi ngồi bù khú với bác Trạc, và khi người khách đến trước đi ra bác Trạc hạ giọng cho tôi hay:
- Trần Hữu Thế!
-Trần Hữu Thế?
Bác Trạc gật đầu:
- Trần Hữu Thế docteur...
Bác nhấn mạnh “docteur d’état” bác cũng cho tôi hay cả luận án tiến sĩ của người khách. Bác cho tôi biết:
- Sắp thay ông Đôn!
- Nguyễn Quang Trình!
- Viện trưởng...
Bác Trạc gật đầu.
- Sắp thay Trần Hữu Thế!...
- Đại tá Nguyễn Văn Y!
- Đại tá Y?
322 | nguyên sa can thiệp của bác sĩ Tuyến nhờ sự thúc đây của các anh em trong Tổng Hội Giáo Giới, tôi tới đó nhiều hơn. Thăm anh em, những người đã góp tay cứu sống mình. Tán gẫu. Khi thì tôi vào phòng bác Thức. Khi thì vào phòng bác Khánh. Khi thì vào phòng bác Chỉnh. Vào phòng bác Chính phải đi qua bác Nguyễn Văn Trạc, Tổng thư ký của bác Chỉnh để lấy đèn xanh. Bác Trạc rất dễ thương, gọi tôi bằng cụ, tôi cũng gọi bác bằng cụ. Bác Trạc cũng gọi các bạn Chỉnh, Khánh, Thức là cụ.
hồi ký | 323
Bác Trạc gật đầu:
- Sắp thay tướng Nguyễn Văn Là!...
Vị nào đi ra cũng dừng lại bắt tay từ giã bác Trạc. Một cách thắm thiết. Mọi người đều lịch sự bắt tay tôi coi như một đồng minh. Tôi có cơ hội quan sát Đại Tá Y, ông Bộ trưởng Thế, ông Bộ trưởng Nguyễn Quang Trình, ông Y rất hiền hòa, dễ thương, bình dân, ông Trình rất lịch sự...
Đại tá Y là người rất bặt thiệp. Ông vừa khéo léo, vừa hồn nhiên, luôn luôn hiện ra chân thành, vồn vã và đôn hậu. Tổng trưởng Nguyễn Quang Trình mà tôi gọi là Viện Trưởng là một gentleman Tây Phương trong những ý nghĩa tốt nhất của danh từ. Ông Trình lịch sự theo kiểu Tây Phương, cũng như Tổng trưởng Thế, Tổng trưởng Trình có bằng Tiến Sĩ Quốc Gia Pháp. Những nhân viên thân cận của ông ở Viện Đại học, không quên cho tôi hay là giáo sư Trình có chaire ở bên Pháp. Trong giới khoa bảng ở Việt Nam thời kỳ 1954-19 7 5, bảng xếp hạng các nhà khoa bảng có sự phân biệt giữa “có chaire” bên Pháp và Tiến sĩ quốc gia hay Thạc sĩ trơn, nghĩa là “không có chaire”. Giới khoa bảng giải thích cho những người chưa biết thấy rõ sự khác biệt của các thạc sĩ y khoa như ông Tâm, ông Hữu và những thạc sĩ y khoa do Tổng thống Diệm can thiệp với chính phủ Pháp cho thi thạc sĩ để cho trường Y khoa Việt Nam có ban giảng huấn có trọng lượng, những ông có thạc sĩ y khoa từ trước có “chaire” vì luật lệ của đại học y khoa Pháp là hễ cho một người đậu thạc sĩ y khoa là phải có cái “ghế” giáo sư y khoa cho người đó. Cho nên không phải học giỏi là có bằng thạc sĩ, phải có ghế giáo sư trống mới
324 | nguyên sa thi thạc sĩ để lấy ghế đó được. Giáo sư Trình có chaire tức là khi nào ông ở Việt Nam làm việc thì ông ở, khi nào ông chán là ông về Pháp, ông có chaire của ông ở đại học. Bà Nguyễn Quang Trình, người Pháp vẫn thường nói bà muốn ông ở Việt Nam để làm việc giúp nước, tuy nhiên thỉnh thoảng ông có thì giờ một vài năm về dạy ở đại học Rennes thì bà cũng sẽ rất vui vì được trở về Pháp. Bà nói với tôi khi đưa cho tôi dao và nĩa để ăn bánh chưng chiên. Ăn bánh chưng chiên bằng dao và nĩa nhà ông bà Trình là lần đầu tiên tôi có kinh nghiệm này. Bánh chưng chiên mỏng và dòn, không khô, không cháy. Tôi vẫn thích ăn ngon, tôi đánh giá bánh chưng chiên mà đẫm mỡ là không tốt. Bánh chưng chiên mà khô cứng là không tốt. Không vàng không ngon, chiên cháy không ngon. Bánh chưng không phải là phở áp chảo, cháy là không được. Bánh chưng chiê n của bà Nguyễn Quang Trình đạt được những tiêu chuẩn mà tôi tự đặt ra theo tiếng nói của khẩu vị cá nhân. Tôi không nói năng gì về những ý nghĩ riêng tư này với bạn bè tôi, không nói với bà Trình dù cho chúng tôi trò chuyện với nhau rất thân mật khi cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm về Paris. Tôi càng không nói với ông Trình vì tôi được ông mời tới gặp nhiều lần với Viện Đại học Sài Gòn để tham khảo về vấn đề giáo dục chứ không phải để cho ý kiến về một môn học chuyên biệt là môn gia chánh, mà tôi, dù cho thích ăn ngon, nhưng không có hiểu biết sự phạm nào về môn học này.Tôi gặp ông Trình ở Viện đại Học Sài Gòn nhiều lần và sự kiện này làm tói quen mồm vẫn gọi ông là Viện Trưởng khi ông đã lên Tổng Trường thay ông Thế. Tôi có xin lỗi và
hồi ký | 325
điều chỉnh lại, nhưng ông Trình nói không sao và bày tỏ ý kiến muốn chúng tôi vẫn xưng hô với nhau như trước. Ông là người lịch sự Tây Phương hay ông muốn chúng tôi cùng giữ lấy những kỷ niệm thời ông khởi đầu đi vào “lộ trình bác sĩ Tuyến”. Chắc hẳn ông tin tưởng rằng bác sĩ Tuy ến sẽ đưa ông lên được chức Tổng trưởng Giáo dục cho nên ông mới mời tới Viện Đại học những giáo chức đại học như giáo sư Trương Văn Chôm, Nguyễn Chung Tú, Nguyễn Đình Hưng và những giáo sư Trung học để tham khảo ý kiến.
Bác sĩ Tuyến đưa ông Trình lên Tổng trưởng giáo dục thật. Vang động một tiếng nổ kép vì bác sĩ Tuyến, dưới mắt dư luận chính giới cũng như giáo giới, đã làm hai việc kỳ khu: Lật đổ Tổng trưởng Trần Hữu Thế và đưa Tổng Trưởng Nguyễn Quang Trình lên. Ông đã làm như thế nào để bắn một mũi tên không phải chỉ trúng hai con chim mà là đưa một con chim bay lên và kéo con chim đang bay xuống? Khi bác sĩ Tuyến đưa ông Thể lên con đường tương đối cởi mở, ông có những điều kiện thuận lợi cho ông. Tổng thống Diệm cần một Tổng trưởng Giáo dục. Tổng trưởng Nguyễn Dương Đôn không có lỗi gì nhưng việc đảm nhận ghế Tổng trưởng không còn lôi cuốn đối với ông. Ông muốn trở về Pháp. Bác sĩ Tuyến đã tìm ứng viên làm cho TT Diệm và em của ông là ông cố vấn Nhu. Bác sĩ Tuyến đưa ra những yếu tố khách quan chứng minh tiến sĩ Trần Hữu Thế làm Tổng trưởng Giáo dục là đúng. Bây giờ ông phải một mặt chúng mình đứng đầu Bộ Giáo dục không phải là công việc thích hợp cho ông tiến sĩ Thế. Bộ Giáo dục giao cho Viện trưởng Nguyễn
Quang Trình mới là đúng. Việc không dễ, Tổng trưởng Thế là người hoạt động và tích cực. Ông biết cách tự vệ. Cùng thời gian bác sĩ Tuyến đưa lên, cùng với ông Trình, nhiều bộ trưởng khác, nhưng ngoạn mục nhất là đưa Đại tá Nguyễn Văn Y lên thay Thiếu tướng Nguyễn Văn Là trong chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh sát Quốc gia. Ông Y lên thay ông Là là một việc nổ. Bác sĩ Tuyến cũng không có vẻ làm việc theo kiểu bảo mật trong những công việc này. Tin đại tá Y sắp lên thay Thiếu tướng Là ồn ào cả mấy tháng trước. Tin ông Viện trưởng Nguyễn Quang Trình được bác sĩ Tuyến đề nghị lên thay Tổng trưởng Trần Hữu Thế không những là tin đồn mà còn được cụ thể hoá qua những phiên họp ở Viện, những cuộc tiếp tân ở nhà riêng của GS Trình.
Tất cả những tin đồn đó đều trở thành sự thật mặc dù có những hoài nghi. Bác sĩ Tuyến làm sao đưa người vào thay nổi Thiếu tướng Là ở Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia? Ông Là có hậu thuẫn Bộ Nội vụ mà ông thống thuộc. Ông cũng được lòng bên quân đội. Bác sĩ Tuyến ăn nói làm sao với ông Nhu và Tổng thống Diệm trong việc đưa ông Trình lên thay ông Thế vì chính ông là người đưa ông Thế lên? Chuyện khó có thể có thật, có phần khó tin đã là chuyện đã xảy ra thật sự. Ông Viện trưởng Trình lên nhận chức Tổng trưởng với dàn nhân viên Viện đại học. Ông Lê Văn Thận một chủ sự của Viện Đại học Sài Gòn theo chân ông Trình lên làm Tổng thư ký Bộ Giáo dục, ông Nguyễn Văn Nghĩa của Viện đại học lên Chính sự vụ kế toán, ông Trần Văn Hinh lên Chính sự vụ Thanh niên, giáo sư Nguyễn Đình Hưng, đại
326 | nguyên sa
hồi ký | 327 học khoa học, một bạn thân của Tổng trưởng Trình lên Đổng Lý. Tôi không nghĩ ông Trình phe phái cũng như không nghĩ ông Thế kỳ thị người Bắc. Người nào cũng cần có một ê kíp khi nhận lãnh một công việc chính trị. Lộ trình bác sĩ Tuyến không phải chỉ có một, mà có nhiều. Bên cạnh lộ trình dân sự, có một lộ trình quân sự. Bác sĩ Tuyến là người có nhiều xu hướng nghệ thuật. Thời trẻ ông viết kịch, làm thơ, soạn nhạc và vẽ. Tôi thấy ông có nhiều liên hệ với giới nghệ thuật, nhưng không thấy ông làm công việc này trong thời gian ông quyền khuynh thiên hạ. Cây cọ của ông nếu có được dùng tới là để tô thêm những bông mai vàng, từ một bông thành hai bông, từ hai bông thành ba bông, từ mai vàng thành mai trắng và ông không phải chỉ biết vẽ hoa còn biết vẽ cả những ngôi sao. Đại tướng Trần Thiện Khiêm là bạn thân của bác sĩ Tuyến, nhiều người nói rằng ngoài những công trận của ông Khiêm, bác sĩ Tuyến đã là một trong những động lực mang lại cho ông Khiêm ngôi sao thứ nhất. Bác sĩ Tuyến gọi tướng Khiêm mang sự đoàn 7 về cứu Tổng thống Diệm khi nhóm ông Thi đảo chánh. Ông Khiêm điều binh cứu giá đã là một trong những yếu tố làm nghiêng lệch cán cân. Ông Tuyến và ông Khi ê m gặp nhau đều dặn, đi ăn đi chơi với nhau là chuyện nhiều người đã thấy. Sau khi Đệ Nhất Cộng Hòa bị lật đổ, trong những ngày đầu của tháng 11, sự liên lạc giữa bác sĩ Tuyến và tướng Khiêm đã được thiết lập mau chóng. Bác sĩ Tuyến và tướng Khiêm điện thoại cho nhau. Ông Tuyến hỏi ông Khiêm:
- Về được không?
Tướng Khiêm khẳng định:
-
TướngĐược!Khiêm
thúc giục bác sĩ Tuyến về ngay. Ông Khiêm không phải chỉ khẳng định qua điện thoại, ông đích thân ra phi trường đón ông Tuyến. Bác sĩ Tuyến được Tướng Khiêm đưa về tới nhà thì bị quân của các tướng Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim và Tôn Thất Đính nhảy vào bắt giữ ngay. Ông Khiêm lập ra một cái bẫy sập để loại trừ ông Tuyến? Ông Khiêm thật lòng nhưng lượng giá sai phản ứng của các tướng trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng và kết quả là bị trói tay?
328 | nguyên sa
Bác sĩ tuyến [7]
đường giây tiểu đoàn
Lộ trình bác sĩ Tuyến có nhiều khởi đầu, có những lộ trình chuyên biệt, có những lộ trình không chuyên biệt. Lộ trình khởi đầu từ Tổng Hội Giáo Giới là một lộ trình không chuyên biệt. Lộ trình Lý Trung Dung, lộ trình Huỳnh Thành Vị, lộ trình Phạm Ngọc Thảo, lộ trình giáo sĩ, có lộ trình thường trực, có lộ trình không thường trục, có lộ trình chuyên biệt, có lộ trình không chuyên biệt. Bác sĩ Lý Trung Dung là một khởi đầu lộ trình bác sĩ Tuyến, một lộ trình thường trực. Bác sĩ Dung, nếu không có những trục trặc xảy ra trên con đường chính trị của ông, nếu không có vụ tai nạn cầu Thị Nghè xảy ra có nhiều hy vọng ông đã cùng với bác sĩ Tuyến hoạt động mạnh mẽ. Hội chợ Thị Nghè do bác sĩ Dung tổ chức vào giữa thập niên năm mươi có tại nạn là chiếc cầu sập làm thiệt hại nhân mạng và làm cho bác sĩ Dung chọn nếp sống khép kín, nhưng ông trở thành một trong những đầu cầu tiến
hồi ký | 329
cử những người muốn làm việc với bác sĩ Tuyến và ông Tuyến tiến cử họ với Tổng thống Diệm hay bào đệ của ông là ông Ngô Đình Nhu. Huỳnh Thành Vị chủ nhiệm nhật báo Đồng Nai , tờ báo đăng Cô Gái Đồ Long lần đầu tiên là một đầu giây của lộ trình bác sĩ Tuyến. Chủ nhiệm Huỳnh Thành Vị xuề xòa , cởi mở, có nhiều quen biết, càng có nhiều quen biết trong giới người Nam, hay đi ăn đi chơi kín đáo với bác sĩ Tuyến, nhà chủ nhiệm Huỳnh Thành Vị trở thành, nói theo chính danh từ của bác sĩ Tuyến, một “bộ chỉ huy tiền phương” để đôn đốc, chỉ huy những cánh quân kéo về Thủ đô “cứu giá” trong kỳ đảo chánh Nguyễn Chánh Thi. Phạm Ngọc Thảo đưa tới cho bác sĩ Tuyến những người thuộc thành phần kháng chiến cũ, những người thuộc giới tình báo và giới hành chánh. Bác sĩ Tuyến cần nhiều người, thật nhiều người. Đủ thành phần Bắc Trung Nam, thuộc mọi tôn giáo Công giáo, Phật Giáo, và thuộc đủ ngành chuyên môn. Chế độ Cộng sản là một nhà tù khổng lồ, chế độ Đệ nhị Cộng hòa của các tướng lãnh là một trại lính, chế độ Đệ nhất Cộng hòa của TT Ngô Đình Diệm là một Hoàng Cung khép kín, muốn sửa chữa thành một tòa nhà dân chủ, nhưng những nước sơn dân chủ không che phủ được kiến trúc lâu đài. Ông Tổng thống và bào huynh của ông trong dinh thự đó quyết định mọi việc. Hành chính quyền có một sơ đồ tổ chức có hệ thống, mỗi viên chức có những bổn phận và quyền hạn ấn định rõ rệt, nhưng trên thực tế, những viên chức đó, dù cấp cao như Bộ trưởng, Tổng trưởng, Quân đoàn trưởng, Sư đoàn trưởng đều phải biết thích ứng với quyền hành không thành văn và không giới hạn của Phủ Tổng thống,
330 | nguyên sa
hồi ký | 331 không biết làm việc với tinh thần thích ứng đó thì không có chỗ nào trong sân chơi đệ nhất cộng hòa. Ông Tổng trưởng Nội vụ có quyền bổ nhậm những thuộc viên của ông từ Đổng lý văn phòng, Chánh văn phòng, cho tới các Tổng giám đốc hàng đầu là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia và cho tới các Tỉnh trưởng. Nhưng trên thực tế Tổng thống Diệm chọn ít nhất bảy tám chục phần trăm các tỉnh trưởng. Một vài người do ông Nhu. Số nhỏ khác do ông Cẩn hay Cha Thục. Không có Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia nào không do Tổng thống Diệm chọn lựa. Nhiều Tổng giám đốc hay Giám đốc trong các bộ khác cũng do ông Diệm chọn. Nhiều chức vụ quân sự cũng được chọn lựa theo phương pháp trực tiếp đó. Nói rằng ngày nào ông cũng cần ít nhất một người để bổ sung vào guồng máy hành chính và quân sự của ông cũng có thể đúng vì có nhiều ngày TT Diệm không cần người nào và có những ngày ông cần hơn một người rất nhiều. Để tìm ra người cộng tác muốn có đó, ông Diệm, ông Nhu không lập ra một sở Nhân Viên Đặc biệt, một văn phòng Tuyển mộ. Ông Tổng thống hỏi bác sĩ Tuyến anh có biết người nào đi Tỉnh trưởng Kiến Hòa được không? Tôi muốn có một sĩ quan về lo cho sư đoàn 7. Ai ra quân đoàn 1 bây giờ được ta? Cần người cho quân đoàn 1, bác sĩ Tuyến có ngay. Cần người cho sư đoàn 7, con có biết một người. Tỉnh trưởng Kiến Hòa? Có hai người để Tổng thống chọn lựa. TT Diệm muốn có một người phụ tá cho Bộ trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa, đảm nhận chức vụ Tổng Giám đốc Điền Địa. Bác sĩ Tuyến mang vô Dinh Nguyễn Xuân Khương. Ông Khương sau khi được TT Diệm “xem tướng” xong trở thành Tổng
Giám đốc điền địa. Tổng thống muốn có tân tỉnh trưởng Kiến Hòa, năm 1958, bác sĩ Tuyến có ngay đại úy Lê Minh, có những điều kiện mà ông Diệm muốn là quân nhân cấp ủy và “có hiểu biết về hành chánh”. Ba ngày sau khi ông Tuyến đưa ra tên của đại úy Lê Minh, ông này được lên thiếu tá giả định và bổ nhậm về Kiến Hòa, thay thế cho tỉnh trưởng cũ, người của Phạm Ngọc Thảo đề nghị cho ông Tuyến và cũng chính ông Tuyến đề nghị lên TT Diệm thời gian vài năm trước đó. Như tất cả các broker biết nghề, bác sĩ Tuyến biết “tiên liệu thị trường”. Người trung gian quyền lực cũng như trung gian của mọi ngành nghề khác, địa ốc, buôn bán vũ khí, thị trường chứng khoán đều biết nhu cầu của khách hàng, đoán biết được nhu cầu của khách hàng trong tương lai gần và cả trong tương lai xa, bác sĩ Tuyến biết những “món hàng” TT Diệm muốn mua. Có khi do chính ông Diệm nói ra. Có khi tin tức thu nhận được cho ông Tuyến hay ông tỉnh trưởng này đã thất sủng, ông Tổng Giám đốc kia làm cho “ ông Cụ ” buồn phiền. Một “phòng nhì” mới được thiết lập bởi viên chức cao cấp, cú áp phe quá lộ liễu của một ông đầu tỉnh, nếp sống ồn ào của một bà vợ ông tướng mà ông TT thì thích tác phong đạo đức, muốn chặt tham nhũng, không thích sự xuất hiện ồn ào của các bà thì có quá nhiều hy vọng phải có thay vì đói ngôi, vật đổi sao rời. Bác sĩ Tuyến bằng những lộ trình đã thiết lập, bằng những đường giây từ nhiều ngả đổ về La Mã, mỗi khi TT Diệm hỏi tới đều có ngay một người để mang ra đề nghị. Nhiều trường hợp ông Tuyến đề bạt người vào chức vụ này chức vụ kia. Có những trường hợp ông chủ động trong việc đề nghị người,
332 | nguyên sa
hồi ký | 333 đề nghị người không đo lời hỏi han của ông Tổng thống, mà do sự thúc đẩy của một nhu cầu chiến lược. Bác sĩ Tuyến thiết lập một vòng đai tiểu đoàn trưởng, ông muốn kiểm soát các tiểu đoàn trong vòng đai thủ đó, nếu là tiểu đoàn trong s ư đoàn, thì ông nắm tiểu đoàn, đẩy người thân vào chức vụ tiểu đoàn, nắm luôn trung đoàn nếu đó là Trung đoàn Biệt lập. Ông Tuyến trình bày với ông Diệm là muốn ngăn chận đảo chính ai cũng nghĩ là phải nắm được các Tư lệnh của các Sư đoàn chung quanh Thủ đô, như Sư đoàn 5 ở Biên Hòa, Sư đoàn 7 ở Mỹ Tho, phải nắm những tư lệnh các Lực lượng Trừ bị, như Dù, Thủy Quân Lục chiến, Biệt động quân... Hẳn nhiên những việc này là cần, nhưng chỉ cần thôi mà không đủ. Nắm được các tư lệnh then chốt này là một sợi dây lưng an toàn, nhưng sự an toàn trong việc di chuyển chỉ cần một sợi d ây lưng, an toàn trong chính trị cần đến hai d ây lưng. Giống như người nhảy dù kia có dù tự động nhưng cũng cần một dù tự do, tức là an toàn. Khi dù tự động không mở ra, thì phải mở dù tay, dù tự do, nếu không sẽ trở thành hòn đá rơi xuống theo đường thẳng đứng với một tốc độ nhanh dần đều. Bác sĩ Tuyến thiết lập cho chế độ mà ông là công bộc một chiếc dù an toàn thứ nhì. Ông quan niệm nắm các tư lệnh là tốt, nhưng tư lệnh chỉ có năm mười người, bảo đảm có phần mong manh. Nếu như một ai kia mua chuộc được năm mười tư lệnh đó, là có khả năng làm lung lay hay sụp đổ chế độ. Cũng không cần phải mua hết mười vị tư lệnh có quân trong tay, trong những vùng chung quanh thủ đô, chỉ cần nắm lấy vài ba người, những người này trở thành lực thu hút những người còn lại đứng về phe mới
334 | nguyên sa hiện ra như có lực lượng. Bác sĩ Tuyến hiểu rằng Sư đoàn trưởng muốn thay đổi cũng không thể làm công việc đó một mình, ông phải hạ lệnh cho Trung đoàn, Trung đoàn trưởng cũng không thể điều bình trực tiếp, phải hạ lệnh cho Tiểu đoàn trưởng. Cho nên phải nắm được các tiểu đoàn trưởng của các sư đoàn và binh chủng quanh Thủ đô mới là an toàn. Khi những tiểu đoàn trưởng nhận được lệnh điều binh nhắm vào mục tiêu khó hiểu phi báo ngay cho Dinh Độc lập là mình có ngay kế hoạch ngăn chặn, và hơn thế, một khi những tiểu đoàn trưởng là người của mình, các anh em đó sẽ nhận được những phản lệnh, sư đoàn trưởng chỉ còn là vị chỉ huy chỉ có chức vụ, lực lượng các tiểu đoàn không đứng bên sự đoàn trưởng mà đứng về phía Tổng thống. Trong số các lộ trình bác sĩ Tuyến có một lộ trình đặc biệt gọi là “ đường d ây Tiểu đoàn” hay “Vòng đai Tiểu Đoàn bảo vệ Thủ đô”. Hơn một tư lệnh của các s ư đoàn như sư đoàn 5, sư đoàn 7, như tướng Nguyễn Đức Thắng nhìn thấy “bọn nhỏ” “lăng xăng” phải mất thời gian mới hiểu có một đường dây bác sĩ Tuyến.
Bác sĩ Tuyến [8] thất sủng
Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyến về những lộ trình mà tôi gọi một cách không chuyên môn là “lộ trình bác sĩ Tuyến”. Bác sĩ Tuyến đặt người ở cùng khắp, ở trong Hội đồng Nội các, ở các tòa đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa, hành chánh các cấp Tổng giám đốc, Giám đốc, Tỉnh trưởng và cả Quận trưởng. Con số 80% tỉnh trưởng do chính TT Diệm đích thân chọn lựa chứ không phải Tổng trưởng Nội vụ, Nội vụ có thể đề nghị lên, ông Cẩn có thể giới thiệu, ông Nhu đề nghị qua, Đức Giám Mục Thục gởi tên về, nhưng ông Tuyến lọc những danh sách đề nghị đó cũng như chính ông đề nghị những candidats đi qua lộ trình của mình. “Người của bác sĩ Tuyến” chiếm không dưới sáu chục phần trăm. Tôi muốn hỏi bác sĩ Tuyến sáu chục hay hơn? Bộ trưởng, Tổng trưởng đi qua “lộ trình” cộng với những bộ trưởng không đi qua lộ trình nhưng liên minh chiếm phân nửa hay ba phần nội các? Có nhiều
hồi ký | 335
hơn không nhất là vào khoảng thời gian các Bộ trưởng Nguyễn Dương Đôn, Trần Trung Dung, Lâm Lễ Trinh, v.v. đã đi rồi? Bác sĩ Tuyến có nhúng cánh tay dài của ông vào việc “bẩy” đi một lúc bốn ông Bộ trưởng như ông đã đưa ông Thế xuống hay không? Đường giây Tiểu đoàn cũng như những lộ trình dân chính đều đổ về La Mã, ở đây là Sở Nghiên Cứu Chính Trị có bao nhiêu khởi đầu? Tôi muốn nói có bao nhiêu khởi đầu lộ trình dân chính và bao nhiêu khởi đầu lộ trình quân sự? Sự phân chia “vùng hoạt động của ông Nhu và bác sĩ Tuyến là các quân nhân cấp Tướng do ông Nhu “nắm”. Nhiệm vụ liên lạc với những quân nhân cấp Tướng thuộc về ông Nhu, nhưng cấp Đại tá trở xuống thuộc phạm vi liên lạc của bác sĩ Tuyến. Đó là những đường giây 77 và đường giây 33. Tôi nghe nhiều phụ tá của bác sĩ Tuyến nói về những đường giây “bảy bảy” và “ba ba” này nhưng chưa có ai giải thích cho tôi hiểu rõ được những đường giây này. Tháng tám bác sĩ Tuyến sang Mỹ tôi sẽ hỏi ông. Những tiểu đoàn trưởng mà ông móc nối được và kết hợp thành một đường giây tiểu đoàn không bất biến. Họ có công trận, họ có thâm niên và họ phải chuyển đổi phương vị. Có nhiều đại úy ở trong đường giây tiểu đoàn của bác sĩ Tuyến đã lên Thiếu tá, nhiều Trung tá lên Đại tá, nhiều Đại tá lên Tướng. Ai? Đại tá nào là “người của bác sĩ Tuyến”? Tướng nào là “người của bác sĩ Tuyến”? Tôi biết bác sĩ Tuyến sẽ cải chính ngay, bác bỏ ngay danh từ “người của bác sĩ Tuyến”. Ông lúc nào cũng thành khẩn khẳng định không ông ấy đâu có phải là người của mình. Ông ấy ở trong quân đội, có quen biết, mình có nhờ ông ấy giúp cho vài việc, ông ấy có lòng và đã giúp đỡ,
336 | nguyên sa
hồi ký | 337 không có ai là người của ai cả. Sự thành khẩn trong việc giải thích của bác sĩ Tuyến có cả sự kiện chứng minh và sự kiện sâu xa nhất là ở chính trong tâm hồn của những người có liên lạc với nhân vật quyền khuynh thiên hạ của nền Đ ệ Nhất Cộng Hòa . Không ai có cảm tưởng bị ra lệnh, không ai có cảm tưởng kết liên, không có người nào được mời ký tên gia nhập đảng đoàn, ký tên nhận công tác, được cấp cho một mã số G27, Z28, OSS7 chỉ thấy nhân vật có tên là bác sĩ Tuyến nhẹ nhàng cầm tay, nhẹ nhàng nhờ cậy, mình mong cậu sẽ giúp mình về giữ Kiến Hòa, đó cũng là ý kiến của ông Cụ, cậu giữ Tổng Nha hộ mình trong một thời gian, tôi biết cậu không thích nhưng không còn ai, không có ai làm được việc này...
Sở Nghiên Cứu Chính Trị do bác sĩ Trần Kim Tuyến làm Giám đốc chỉ là một Sở. Người đứng đầu một Sở chỉ là một Giám đốc Sở còn kém Nha, Nha ở dưới Tổng Nha, Tổng Nha rồi mới tới Bộ. Giám đốc Sở còn là giám đốc dưới chân Giám đốc Nha. Chức vụ không lớn trong bản đồ hành chánh, văn phòng của Sở Nghiên Cứu Chính trị nhỏ xíu trong khu nhà ngang của Dinh Độc Lập. Nhưng đường giây liên lạc thì chằng chịt. Đến nỗi có quan niệm cho rằng chính vì ông Diệm, ông Nhu thay thế bác sĩ Tuyến cho nên chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa phải sụp đổ. Nếu như TT Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu không loại bỏ bác sĩ Tuyến, thì phe đảo chánh khó thắng, hay hơn nữa, phe quân nhân khó lòng kết hợp nhau để làm đảo chánh, mà có kết hợp, họ cũng bị những tiểu đoàn trong đường giây bác sĩ Tuyến làm đảo ngược thế cờ. TT Diệm có biết điều đó không? Tại sao ông chọn lựa quyết định thay thế bác sĩ Tuyến?
Mỗi bất hòa giữa bà bác sĩ Tuyến và bà cố vấn Ngô đình Nhu là nguyên nhân? Dư luận bùng lên ngay sau khi bác sĩ Tuyến bị thay thế ở sở Nghiên Cứu Chính Trị nói thật nhiều về giả thuyết này. Ông Tuyển vào thời điểm ra khỏi
Sở Nghiên Cứu Chính Trị không nói gì về giả thuyết này. Sở Nghiên cứu được bàn giao cho Trung T á Phạm Thư Đường, Chánh văn phòng của ông Ngô Đình Nhu. Những người “trong cuộc” cho rằng việc bất hòa của các bà chỉ là việc nhỏ. Việc nào có đủ sức lay động làm đưa tới những chuyển đổi to lớn này?
Thời điểm bác sĩ Tuyến được trả tự do sau khi bị bắt giam vào năm 1963, chính ông kể lại nguyên nhân của sự thất“Vàosủng.tháng 1 năm 1962, trước vụ ném bom Dinh Độc lập vào khoảng 1 tháng, bác sĩ Tuyến có một người quen bị Công an bắt giam.
Người quen ấy là ông Nguyễn Văn Lực, một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lúc ấy nội bộ của chế độ Ngô Đình Diện đang bắt đầu phân hóa và đầy rẫy ngộ nhận và mặc cảm lẫn nhau cho nên bác sĩ Tuyến không thể đơn phương can thiệp cho Nguyễn Văn Lực được trả tự do.
Song lại có cụ Nguyễn Xuân Ti ếu, lãnh tụ Đại Việt cũng bị công an bắt giam.
Bác sĩ Tuyến định tâm tìm cách nào tốt nhất để nói trực tiếp với ông Tổng thông vì biết rằng cụ Nguyễn Xuân Tiếu trong quá khứ có rất nhiều liên hệ với TT Diệm. Một hôm vào phòng TT để trình công việc, ông Diệm hỏi:
- Tình hình đang phái chính trị lúc này ra sao?
Đương sự đáp:
338 | nguyên sa
hồi ký | 339
- Cũng không có gì cả, bình thường. Thưa Cụ, thì mấy ông đảng phái nhàn rỗi không có việc gì làm thì cũng họp hành, tuyên bố lăng nhăng thế thôi. Ông Tổng thống ờ ờ, hút thuốc tỏ ý khoan khoái. Đương sự tấn công tình cảm ngay:
- Thưa Cụ có ông Nguyễn Xuân Tiếu bị công an bắt giữ...Ông Tổng thống:
- Ông Nguyễn Xuân Ti ếu, tôi biết, hắn làm sao mà bị bắtĐươnghè? sự tìm lời nói khéo:
- Ông cụ ấy có tật hay uống rượu. Uống rượu vào rồi thì cũng nói lăng xăng chống đối. Con thấy không có gì nguyÔnghiểm.Tổng thống vui vẻ gật đầu:
- Bảo thả người ta ngay! Biểu Tổng thống chỉ thị! Ông Tổng thống trầm ngâm:
- Năm 45, tôi bị Việt Minh nó bắt giam ở Thái Nguyên, Nguyễn Xuân Tiếu đối với tôi tốt lắm. Hắn tiếp tế đồ ăn cho tôi hàng ngày, tiếp tế cả thuốc lá. Sau hắn còn đưa cả tiền cho tôi để có chút ít chi phí về Hà Nội rồi vào Nam.
Ông Tổng thống không quên nhắc nhở đương sự:
- Khi nào gặp hắn bảo hắn lúc nào rảnh rỗi vào đây chơi... Nhờ có cụ Nguyễn Xuân Tiếu nên nhân chứng xin cả cho ông Nguyễn Văn Lực được trả tự do. Nhưng hơn hai mươi ngày sau con trai ông Lực là phi công Nguyễn Văn Cử cùng phi công Phạm Phú Quốc oanh tạc Dinh Độc Lập, ông Lực nhanh chân trốn thoát. Sự việc này đã làm cho bác sĩ Tuyên bắt đầu bị thất sủng vì có sự nghi ngờ. Ngay
sau khi im tiếng bom và súng, đương sự vào thăm Tổng thống thì ông rất lạnh lùng hỏi:
- Vụ này nghe như ông biết trước phải không? Đương sự lạnh cả người.
340 | nguyên sa
Nhà hàng La Cigale
Sài G òn có nhiều nơi họp mặt của các điệp viên quốc tế. Nhà hàng La Cigale là một trong những địa điểm đó. Nhiều người cho rằng La Cigale chỉ có tiếng mà không có miếng. Continental mới là hội quán của những James Bond người Mỹ, người Anh, người Pháp, có cả người Ba lan, người Trung hoa, người Ý... Một số người khác lại nghĩ nơi người ta trao đổi tin tức nhiều hơn cả là những nhà hàng Pháp ở đường Charner. Có thể tất cả những địa điểm trên đều là những nơi người ta cho nhau tin tức về đảo chính manh nha, về sự thân thiết và thù hận giữa những nhân vật chính trị địa phương, về những cuộc “ đi đêm ” giữa Mỹ và tướng lãnh, giữa Mỹ và Cộng sản, giữa ông Nhu và đại diện của Hà nội. Cũng như hầu hết những tiệm ăn được các người làm tình báo quốc tế chiếu cố nhiều, La Cigale có một chủ nhân người Corse. Số khách căn bản của La Cigale không phải là điệp viên mà chỉ là
hồi ký | 341
BànNhu.giao
không hết. Bàn giao không thể hết được, không bao giờ hết được những đường dây mà chỉ là những mối quen biết bạn bè, những sự nối kết bằng hữu. Bác sĩ Tuyến cũng không bàn giao lại được cái gọi là “ đường dây tiểu đoàn.” Ông Tuyến không có ý định giữ lại cho riêng mình những đường dây này nhắm một mục tiêu xa xôi nào. Ông cũng không nắm giữ “ đường dây tiểu đoàn” để
342 | nguyên sa những giáo chức hiền hòa, những bác sĩ mới ra trường, từ Pháp sang Việt nam làm nghĩa vụ quân sự qua những công tác dân sự. Thanh niên Pháp đến tuổi là phải nhập ngũ làm công việc s ervice militaire. Những người đang theo học dở dang được hoãn nhưng học xong là đi. Tuy nhiên những thanh niên có nghề nghiệp trí thức như bác sĩ, kỹ sư, giáo sư có thể chọn làm nghĩa vụ quân sự theo một trong hai hình thức. Một là đi thụ huấn và phục vụ quân sự. Hai là đi ngoại quốc làm công việc gọi là coopération culturelle , dạy học cho các trường Pháp, ở Việt Nam là Marie Curie và Jean Jacques Rousseau, làm việc cho bệnh viện Grall. Lẩn khuất giữa những bàn ăn thực khách phần lớn là Pháp kiều nai tơ đó có những bàn thực khách là thứ dữ. Có khi là mấy ông già nghiêm túc, nói chuyện và trầm tư. Có khi là mấy tay trông giống như nhà báo mà không phải là nhà báo. Trong mọi trường hợp La Cigale là nơi khởi sinh ra câu chuyện đưa bác sĩ Tuyến vào tình trạng thất sủng. Sau vụ ông Nguyễn Văn Lực, giữa TT Diệm và bác sĩ Tuyến đã có một tấm màn nghi vấn. Bác sĩ Tuyến được lệnh bàn giao những công tác của Sở Nghiên Cứu Chính Trị lại cho Trung tá Phạm Thư Đường Chánh văn phòng của ông Ngô Đình
hồi ký | 343 làm nư, để làm một phương tiện để trả giá với TT Diệm, cũng không làm như thế để cho “bỏ ghét”. Bác sĩ Tuyến có bàn giao lại “ đường dây tiểu đoàn” cho Trung tá Phạm Thư Đường nhưng trung tá Đường không nhận. Bác sĩ Tuyến có bàn giao lại cho ông Cao Xuân Vỹ, ông Vỹ là người bạn thân nhất của bác sĩ Tuyến, ông giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Thanh niên Cộng Hòa, ông Vỹ cũng không nhận. Ông Vỹ chỉ nhận bác sĩ Tuyến tới nhà ông tá túc sau khi bác sĩ Tuyến bị mất chức. Ông Tuyến phải tá túc nhà ông Vỹ tuy ngôi nhà ở đường Nguyễn Đình Chiểu gia đình ông vẫn ở nguyên tại chỗ. Lý do an ninh làm cho bác sĩ Tuyến phải tá túc ở nhà ông Vỹ. Ông Tuyến sợ ai giết? Những đối thủ cũ trong chính phủ? Những ân oán giang hồ? Hay sợ người Mỹ? Hay ông Diệm? Hay sợ những ông thợ đảo chính nhìn thấy con đường đi tới cách mạng thành công có một cái cọc cản đường cả những quân xa chở bộ binh lẫn những đơn vị pháo binh và thiết giáp. Người ta e ngại bác sĩ Tuyến vẫn giữ vững đường dây tiểu đoàn, ông có thể làm hỏng hết mọi việc. Bác sĩ Tuyến từ giữa năm 62 không còn ngồi trong phủ Tổng thống nữa, nhưng từ nhà ông Vỹ ông liên lạc hàng ngày với các tiểu đoàn trưởng của sư đoàn 5, sư đoàn 7 , liên lạc xa xôi đến cả vùng 4, vùng 2, liên lạc mật thiết với những tiểu đoàn Dù, Thủy quân Lục Chiến và các đơn vị truyền tin. Những quân nhân ở trong các đơn vị này hàng ngày gọi về số điện thoại mới nhà ông Vỹ để cho bác sĩ Tuyến tin tức. Bác sĩ Tuyến khi nhận được tin những đơn vị quân sự của sự đoàn 7, sư đoàn 4, của thiết giáp của Nhảy Dù trực chỉ dinh Gia long ông sẽ làm gì? Ông sẽ giữ lấy tin tức đó cho riêng ông? Ông sẽ mang ngay
344 | nguyên sa những tin tức đó vào cho ông Diệm, mối liên kết bị bẻ g ã y lại được tái thiết lập, cuộc đảo chính sẽ bị bẻ gã y một khi ông Tuyến trở lại với ông Diệm. Sự trở lại có thể xảy ra không? Người ta trả lời có chứ. Một khi mà bác sĩ Tuyển mang về Dinh Gia Long tin tức loại này, ông hiện ra như một cứu tinh của chế độ, và chỉ có ông mới có “đường dây tiểu đoàn”, chỉ có ông mới hạ lệnh được cho các sĩ quan thân hữu của ông quay súng trở lại, thay vì bắn vào Dinh Gia Long mà quay lại bảo vệ cho Tổng Thống. Phải phá đi cái chướng ngại vật Bác Sĩ Tuyến thì mới hình thành được một sự xoá bỏ một chế độ. Bác sĩ Tuyến liên lạc hàng ngày với bằng hữu trong “đường dây tiểu đoàn.” Buổi tối ông cùng với ông Cao Xuân Vỹ và ông Đặng Đức Khôi đi ăn La Cigale. Đặng Đức Khôi là một nhân vật tài ba, một cánh tay của bác sĩ Tuyến. Đặng Đức Khôi từ trần ở Hoa thịnh đến năm 19 7 8 vì bị cúm và uống thuốc overdose hay công thuốc gì đó. Bác sĩ Tuyến có hơn một cộng tác viên hàng đầu chết bất ngờ vì uống thuốc quá “ đô ”. Giáo sư Nguyễn Hữu Chỉnh một cánh tay mặt của BS Tuyến đang giữ chức Thứ trưởng Bộ Giáo Dục trong thời đệ nhị Cộng hòa, cũng chết vì uống thuốc cảm cúm ô vơ đô. Đặng Đức Khôi phụ trách tình báo Đông Nam Á cho bác sĩ Tuyến. Ông Tuy ến xuống, không thấy Đặng Đức Khô i vào làm việc cho Phạm Thư Đường, chỉ thấy Khôi tiếp tục bay qua bay lại Thái Lan, Hong Kong, Mã Lai Á rồi bay về gặp bác sĩ Tuyến và cùng với ông Tuyến, ông Vỹ đi ăn tối. Buổi tối vào thời điểm tháng Hai đó, ba người bạn độc thân ăn cơm với nhau ở La Cigale. Thời điểm tháng Hai năm 1963, Cao Xuân Vỹ còn độc thân, Đặng Đức Khôi độc thân, bác sĩ Tuyến có
hồi ký | 345 gia đình nhưng “độc thân tại chỗ” vì tá túc nhà ông Vỹ. Bất ngờ Đặng Đức Khôi mang lại cho bữa ăn hai người Mỹ. Hai nhân viên của Trung Ương Tình báo? Một giả thuyết cho hay đúng thế, hai nhân viên CIA cấp cao. Người khác nói đó là hai nhân viên của Bộ Ngoại Giao. Nguồn dư luận thứ ba cho rằng đó là tình báo của Bộ Ngoại giao Hoa kỳ. Ông Cao Xuân Vỹ bởi bản tính không quan tâm đến hai người Mỹ, không biết tên và cũng không để ý xem họ là thành phần gì. Biết họ đến bàn chuyện thời sự với bác sĩ Tuyến, thế thôi. Bác sĩ Tuyến thì phải biết. Tôi vẫn muốn hỏi ông chuyện này. Đặng Đức Khôi đương nhiên phải biết vì ông là trung gian đưa hai người Mỹ tới. Hẳn nhiên ông Khôi biết họ là ai, thuộc cơ quan nào. Nhưng ông Khôi cũng đã từ trần. Dù vậy tài liệu còn lại vẫn ghi nhận được là BS Tuyến, Đặng Đức Khôi và hai người Mỹ nói chuyện quanh chủ đề phải sửa sang như thế nào? Có nên giữ chế độ Diệm không? Nên giữ ông Diệm và đưa ông Ngô Đình Nhu và bà vợ ông Nhu ra ngoại quốc? Hay nên chọn giải đáp “table rase” bỏ luôn cả ông Diệm và ông Nhu. Trong bữa ăn, ông Vỹ không nói năng gì nhiều ngoài những câu xã giao. Bác sĩ Tuyến có nói. Đặng Đức Khôi nói nhiều nhất. Nói về nhu cầu thay thế đệ nhất cộng hòa. Nói ông bà Nhu phải ra đi thì mới yên. Ông Vỹ được nghe thấy mỗi câu nói của bác sĩ Tuyến cũng như của Đặng Đức Khôi cũng như của hai người Mỹ bí mật kia hai lần. Câu nào cũng được nghe hai lần. Lần đầu ở La Cigale. Lần sau trước mặt và cùng với TT Diệm. Buổi sáng ông Vỹ vào chào Tổng thống Diệm, ông Diệm vui cười hỏi nhỏ nhẹ sao ông Tổng giám đốc Thanh Niên hôm qua đi chơi đâu có vui không, ông Vỹ ngay tình
trả lời thẳng thắn thì thưa Tổng thống con cùng với các anh em đi ăn cơm tối vậy thôi. TT Diệm hỏi:
- Ăn ở mô?
Ông Vỹ không ngần ngại nói lên đúng vị trí:
- Trình Tổng thống ở La Cigale...
TT Diệm hỏi tiếp:
- Ăn với những ai?
Ông Vỹ trả lời có bác sĩ Tuyến, có Đặng Đức Khôi...
TT Diệm gặng hỏi:
- Còn ai nữa ?...
Ông Vỹ nói thì có ba thằng Mỹ , ông Diệm hỏi Mỹ mô rứa, ông Vỹ nói con cũng không biết bọn nó là ai. TT Diệm gặng hỏi thêm:
- CIA ?
Ông Tổng Giám đốc Thanh niên Cộng hòa chân thành trả lời ông không biết, ông Tổng thống có vẻ tin lời nói của ông Vỹ, lấy ra cuốn tape cho vào máy bật lên, những âm thanh của cuộc đối thoại trở lại thêm một lần. Bác sĩ Tuyến cũng không nói gì nhiều. Cao Xuân Vỹ không nói gì cả. Nhưng Đặng Đức Khôi thì thao thao bất tuyệt. Đặng Đức Kh ô i nói về nhu cầu thay thế ông Ngô Đình Nhu, nhu cầu tối cần thiết đây bà Nhu ra ngoại quốc... BS Tuyến thất sủng. Vì áp lực của ông bà Nhu? Vì những đám mây nghi ngại sinh ra sau vụ ông Nguyễn Văn Lực? Vì cuộc tiếp xúc ở La Cigale với hai người Mỹ do Đặng Đức Khôi nang lại? Người ta cũng có thể nghĩ sau khi chấm dứt nhiệm vụ của bác sĩ Tuyến ở Sở Nghiên Cứu Chính Trị, ông Diệm ở trong tư thế ngần ngừ. Ông không đẩy bác sĩ Tuyến đi ngoại quốc ngay. Ông biết có “đường dây
346 | nguyên sa
hồi ký | 347 tiểu đoàn” quan trọng. Ông thấy không có ai nắm được đường giây này nên vẫn để bác sĩ Tuyến làm công việc này dù cho không có một chức vụ nào trong chính phủ. Cuốn băng ghi âm cuộc nói chuyện ở nhà hàng La Cigale là giọt nước làm tràn ly. Ai thâu âm cuốn băng đó mang vào cho ông Diệm? Chủ hay một nhân viên nào đó của nhà hàng La Cigale? TT Diệm có người ở La Cigale mà bác sĩ Tuyến không biết sao? Hai người Mỹ lập kế trong mục tiêu nhổ đi cái cọc? TT Diệm hẳn nhiên biết việc này, ông cũng biết ông phải làm gì.
Hai tháng sau, bác sĩ Tuyến lên đường đi nhậm chức đặc sứ ở Ai Cập. Chuyến máy bay chở ông lên đường đi nhậm chức dừng lại ở Bangkok, nghỉ xả hơi. Ông Tuyến xuống máy bay, và người hành khách đó không trở lên khi chiếc máy bay cất cánh tiếp tục bay. Nhân viên phi hành đoàn có tìm kiếm mà không thấy. Nhân viên bộ Ngoại giao Ai Cập có chờ đợi ông Tuyến ở phi trường Le Caire sáng hôm sau, không gặp ai cả. BS Tuyến đã sang một chiếc máy bay khác đi tới một địa điểm bí mật ở Hong Kong.
348 | nguyên sa
hồi ký | 349 Phần Bốn
Hạt cườm
Thời điểm của Paris Có Gì Lạ Không Em là mùa đông năm 1954, thời điểm của những ngày tháng sau Hiệp định Paris. Đó cũng là khoảng thời gian của Tuổi Mười Ba. Của Pari s. Của Nga. Tuổi Mười Ba làm trước Áo Lụa Hà Đông ít nhất cũng ba bốn năm. Tất cả đều ở Paris, Á o Lụa ở Sài gòn. Tôi trở về Sài gòn cuối 1955 đầu 1956. Hơn một năm sau, mới có Áo Lụa Hà Đông, và sau đó là Lúc Chết, Tương Tư, Tháng Sáu Trời Mưa... Tôi không nhớ có lục bát trong những năm năm mươi. Tôi không nhớ có trò chuyện với Đỗ Long Vân, với Hoàng Anh Tuấn nhiều về lục bát. Thời gian này, với Trần Dạ Từ, Nguyễn Mạnh Trinh, thơ mỗi ngày hiện ra với chiếc áo lục bát. Những năm năm mươi, sáu mươi, ngay cả thời gian những năm bảy mươi, với lục bát, chỉ có những cuộc gặp gỡ thưa thớt và gián đoạn. Trước đó thì có. Tuốt hồi thập niên bốn mươi tràn ngập lục bát. Ở trên lầu. Ở nhà dưới. Ở trong
350 | nguyên sa
hồi ký | 351 bếp. Bên những đ ống rạ cao nghệu, ở hai đầu gầu sòng, giữa ánh trăng đêm xay lúa ở làng Nghĩa Lư, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ở căn nhà phố Hàng Đậu gần nơi đầu cầu Paul Doumer, mẹ tôi ru em tôi bằng thơ Nguyễn Bính. Trên lầu những người thanh niên trọ học, chú Hồng, cậu Thụ, cậu Thực ngày vài lần đọc vang vang “người ta pháo đỏ rượu nồng, mà trong hồn chị một vòng hoa tang, lần đầu chị bước sang ngang...” Theo dòng người tản cư ra khỏi thành phố Hà Nội khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, tôi về lánh nạn ở Nghĩa Lư, nhà của chú Hồng, cô Đào là em gái của chú Hồng, cô em gái của chú Hồng tên là Đào rất đúng, má c ô lúc nào cũng ửng hồng dù cho buổi sáng tinh khôi cô rủ tôi ra đồng cầm một đầu gầu sòng, cùng với cô tát nước, lúc cô dạy tôi cưỡi ngựa, buổi tối cùng nhau xay lúa, hai má càng đỏ hơn khi cô Đào đọc lên những câu ca dao, ném ra những câu đố, cất tiếng hát quan họ. Hoài niệm về ca dao có Đào mang lại cho tôi cũng như không khí lục bát Nguyễn Bính ở căn nhà phố Hàng Đậu chỉ còn trở về với tôi từng mảng, chỉ còn là hình ảnh của một vùng biển sương mù, không cho thấy ngọn, không cho thấy thân của con sóng, càng không cho thấy mỗi hạt nước long lanh trỗi lên và bay đi. Lục bát của mỗi đời người dường như gắn liền với lục bát của dân tộc với những vùng biển sương mù, sóng lên vun vút ấn tượng những hạt bụi nước đầy trên mặt hân hoan, không thể xác định từng cội nguồn của mỗi giọt tinh khôi. Tôi đọc cho cô Đào những câu đố khác, những câu lục bát đơn giản của một thử thách vụng về. Tôi có làm quen với lục bát nhưng khựng lại những ngày chú Hồng tử trận, c ô Đào không còn đọc ca dao và hát quan họ
352 | nguyên sa cho tôi. Chú Hồng mang du kích quân ra phủ tham dự vào một trận đánh phối hợp bộ đội chính quy và dân quân tự vệ địa phương, trận đánh cho tướng Nam Long chỉ huy. Chú Hồng phục kích trên một ngọn đồi thấp bên ngoài phủ, chú đi từ một ngày trước, ban ngày hôm sau tiếng súng từ phủ vang vọng về tuốt tận Nghĩa Lư, buổi chiều người ta mang thi hài của chú Hồng về, chú chết vì một viên đạn đại liên dường như trúng ngực. Tôi sợ, tôi không dám nhìn thi hài chú H ồng, cũng không dám hỏi han nhiều. C ô Đào lặng lẽ, càng lặng lẽ hơn khi tôi lên đường cùng gia đình bỏ Hải Dương lên Bắc Ninh, Bắc Giang r ồi băng qua Sơn Tây về Hà Đông. Nguồn gốc của dòng sông trong tôi, xa tắp, không có cơ may nào trở lại, suốt lại thời gian du học. Bạn tôi, Đỗ Long Vân ở Paris, là thơ tự do, Hoàng Anh Tuấn, ở Provins, một phần thơ tự cho thật nhiều tám chữ. Mãi cho tới năm 1966, lục bát trở lại, bất ngờ. Tôi không có dự định làm bài lục bát đó, tự nó tới, bật ra. Tô i dừng xe lại ở Bưu điện Sài Gòn, hí hoáy ghi lại S ân Bắn. Con trai tôi đã từ trong trường Taberd đi ra, trèo lên bă ng sau của chiếc Volkswagen. chờ tôi lái đi. Tôi chép cũng vừa xong. Sân Bắn được đăng trên một tạp chí ở Sài Gòn trong thời điểm đó, được in trong Thơ Nguy ên Sa Tập hai, hai mươi năm sau, năm 1988, ở quận Cam.
S â n Bắn
Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch, thấy đời lãng du.
Thấy tay dư, thấy chân thừa
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không...
Một đời phơ phất hình nhân,
hồi ký |
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau
Bia lên thấy mẹ u sầu.
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta...
Trời cao ngó xuống thịt da
Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh
Bia lên tìm chỗ ta nằm
Non cao duỗi cẳng em còn thấy đâu...
Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay...
Thời điểm 1966 tôi bị động viên theo học kh óa huấn luyện Thủ Đức 24. Những bài học h óa trang, cá nhân tác chiến, tiểu đội tác chiến, trung đội tác chiến, tùng thiết, địa hình đã mang cho tôi những xúc động nhưng không khí của sân bắn còn mang lại những ấn tượng thật đặc biệt. Có những buổi tập bắn, mục tiêu ở trước mặt cố định. Những buổi tập bắn khác đối tượng di động. Khi huấn luyện viên tác xa hộ lớn “Bia lên” , nhiều chục tấm bia từ một con đường hầm dài ở phía xa trước mặt được nhất loạt đưa lên. Người sinh viên sĩ quan thụ huấn phải bắn trúng mục tiêu dành cho mình trong thời gian ngắn trước khi tiếng h ô “hạ bia” vang lên. Bia là những tấm bìa hình đầu và thân người, không có phía dưới chân, phía trên có đầu và thân mình, nhưng không có cánh tay nào cả. Tiếng động cơ nổ đều, độ rung của chiếc xe, kỷ niệm vang vọng những tiếng hô “bia lên”, những tiếng nổ chát chúa kế tiếp, những tiếng reo vui, trúng hồng tâm, tiếng reo vui có bằng thiện xạ rồi , âm thanh nào trở thành sợi dây liên tưởng mang lại cho tôi “bia lên ta thấy thân người, thấy ta thấy địch thấy
353
đời lãng du...” Tôi không biết. Nhưng tôi biết chuyến xe từ đường Phan Thanh Giản lên Bưu Điện Sài Gòn đã mang lại những chuyển động vật lý và những rung động thơ. Bây giờ nhớ lại, tôi còn thấy đó không phải là chuyến xe duy nhất mang lại những tia điện khởi đầu thơ. Chờ Em đến với chuyến xe chạy tuốt lên Long Beach. Tôi đi lạc cả mười mấy dặm anh. Tôi biết tôi đi lạc ngay khi câu đầu của Chờ Em bất ngờ tới. Chờ em ở góc cây x ăng. Cùng với ý thức đi lạc rồi, kỷ niệm về những lần tìm thấy cảm hứng trong di động nhanh, tôi quyết định tìm kiếm những câu kể tiếp, không lái xe vòng trở lại, không tìm đường đi lại trở lại. Tới Long Beach bài thơ h oàn thành, tôi ra khỏi xa lộ, kiếm chỗ đậu xe và ghi lại bốn câu thơ vừa bắt gặp.
Chờ em ở góc câ y x ăn g
Em không thấy tới ta nằm trong xe
Nhạc buồn ta vặn thật to
S ao buồn không vỡ sao ta vẫn còn?...
Bài thơ có chiếc xe di động trong thực tế, có chiếc xe khác chuyển động trong nội tâm. Paris có gì lạ không em , bắt đầu khi cả bọn đi gặp Thẩm Võ Hoàng, Thẩm Đôn Thư. Hiệp định Ba l ê mở ra những chia tay, những biệt ly. Nhiều anh chị em trong chúng tôi di chuyển. Có người về tuốt miền Nam nước Pháp tìm việc làm để vừa làm vừa học. Gia đình đã di cư vào Nam không còn khả năng gửi tiền sang. Người khác, như Thẩm Đôn Thư, như Trần Quý Thịnh, như Lê Văn Thành, như Vũ Huy Chúc chọn trở lại Hà Nội đi làm giúp đỡ gia đình. Trong chuyến métro, tôi nhìn thấy mình bỏ đi, tôi nhìn thấy mình trở lại, tôi nhìn thấy trong trí tưởng một Paris đã khác, tôi cất tiếng hỏi,
354 | nguyên sa
hồi ký | 355 chuyến métro không dài, lại có một lúc phải đi bộ đổi trạm ở Chatelet, tôi không có đủ thời gian để hoàn thành bài thơ, những câu hỏi trong trí tưởng đã có cơ may cất lên Pari s có gì là không em, Mai Anh về giữa bến s ông Seine, Anh v ề giữa một dòng sông trắng, Là áo sương mù hay áo em?... Thơ, như thủy triều, đến từng chập, thời điểm đó, thất ngôn, lúc gần đây, lục bát như thủy triều đến từng chập. Con trăng không bao giờ giống nhau, thủy triều phải khác biệt. Cách đây ba tháng, thủy triều toàn lục bát, trong một di chuyển ngắn. Trước đó năm phút, khi cháu ngoại xin tô i mua cho bữa cơm chiều. Tôi lên đường ngay, đoạn đường từ nhà tôi ra tiệm ăn Carl’s Junior chỉ năm phút xe. Ra cửa thấy mưa lất phất, bật đèn xe lên, tôi cũng bật ngay cần gạt nước, ngay sau khi xe nổ máy, trước khi sang số. Mưa thấp thoáng trên kính xe, từng loạt long lanh trải xuống, từng loạt bị xoá bỏ thành một xoá bỏ hình cánh quạt, trong tôi bất ngờ thắp sáng những ánh đèn khác, những hạt mưa khác, tôi cuống quít không biết có nên dừng xe lại, tại tiệm bán đồ ăn trong khi chờ đợi, tôi tìm kiếm chiếc bút viết không thấy, nhưng biết rằng con đường trở về nhà không xa, tôi nhẩm đọc cho khỏi lãng quên, thơ tìm thấy trong xe di chuyển đã hơn một lần đi mất dạng, khi tôi xuống xe, lo xong công việc, nó không còn ngồi trong đó, trong xe chờ đợi. Tôi tìm kiếm thường chỉ gặp người khác, thơ khác, không gặp người đó. Mà phải người đó mới được. Thơ cũng như người, phải đúng là nó mới là nó. Lần đi mua hamburger cho cháu đó tôi nhẩm đọc nhiều lần cho chắc ăn. Đoạn đường ngắn, bài thơ cũng ngắn, về tới nhà tôi vào phòng riêng hí hoáy ghi lại ngay. Hạt Cườm
không thể bỏ đi được. Tôi đã giữ được Hạt Cườm. Khi đó tôi không biết tên của người bạn mới này. Tôi hí hoáy viết, và ngay khi xong tôi nhận ra tên của người bạn mới phải là Hạt Cườm . Không thể khác.
Hạt Cườm
Áo vẽ bông, nhận hạt cườm
Gió bay lụa mới thấy đường quanh co, Những truông, những lũng, những hồ.
Thời xưa ở đó, bây giờ ở đây, Trời huê dạng, xuống mưa bay, Hạt cườm lóng lánh đậu đầy trên môi.
356 | nguyên sa
Cảm hứng như một bí nhiệm
Cảm hứng là một bí nhiệm. Tôi có nghe thấy những người nói đại loại tôi muốn làm thơ lúc nào cũng được, sáng, trưa, chiều, tối, muốn có cảm hứng lúc nào cũng được. Tôi không biết nên tin tưởng hay nên nghi ngờ. Phần tôi, tôi không có khả năng này. Cảm hứng đến lúc nào là tùy ở nơi nó, lúc nào nó muốn tới là nó tới, nó không muốn, ngồi từ sáng đến chiều cũng chả làm được câu thơ nào ưng ý. Cảm hứng thơ, nơi tôi, khó khăn hơn cảm hứng văn xuôi. Viết văn xuôi cũng có khi bí, nhưng hôm nay không viết được, ngày mai loay hoay cũng xong, không phải chờ đến một tuần. Nhưng thơ có khi nhiều tháng, cả năm, thời kỳ 1975-1984, cũng m ười năm tôi không làm được bài thơ nào. Tôi có làm thử tìm, thử gọi, thử gõ cửa, nhưng vô phương. Thỉnh thoảng có làm được một bài, thấy không khá đành vất bỏ. Một lần làm được mấy câu lục bát đưa đăng báo Hồn Việt, tôi cũng không tìm
hồi ký | 357
lại để cho in vào Thơ Nguyên Sa Tập 2, ấn hành năm 1988, tôi cảm thấy bài thơ không làm tôi quyến luyến đến mức độ muốn gìn giữ nó, bài thơ 6 câu, dù vậy tôi chỉ nhớ hai câu, do ấn tượng vui đậm nét Khánh Ly để lại trong tôi. Bài thơ có h ại câu:
Em ngồi gò má xanh xao
Khúc xương gò má chỗ nào của anh?...
Tôi làm bài thơ này trong năm 1980, thời gian tôi đi học lớp Thợ Điện ở trường Saddleback College, khung cảnh của thị trấn Mission Viejo, những con dốc, những khu rừng cây, những con đường dưới thấp và những người bạn học cùng tuổi như Hùng, rất trẻ như Dung có đánh thức dậy trong tôi những cảm hứng. Cảm hứng không đủ mạnh không đủ đánh thức được thơ. Tháng một hai lần tôi đến thăm Khánh Ly ở ngôi nhà của ca sĩ ở Downey. Khánh Ly ngồi hút thuốc lá phì phèo, khi tôi tới đọc ngay:
Em ngồi gò má xanh xao
Khúc xươn g gò má chỗ nào của anh?
Thời gian cảm hứng không tới, trong tôi thường dài lâu. Khoảng thời gian đầu đời tỵ nạn như thế thơ biến mất luôn cũng cả mười năm, trước đó, khoảng thời gian từ 1960 đến 1967, cảm hứng thưa thớt gần như không có. Thời kỳ làm tờ Nhà Văn với Trần Dạ Từ, làm được vài bài lục bát, không có trong Nguyên Sa 2, cũng không còn nhớ. Dĩ nhiên những thời gian được coi là cảm hứng đến với nhau đều đặn cũng không phải ngày nào muốn gặp là gặp, không phải buổi tối nào hẹn tới là tới. Tôi nghĩ người làm thơ muốn gặp cảm hứng lúc nào là gặp ngay, lúc nào muốn làm thơ cũng được người thơ ấy là thiên tài thơ.
358 | nguyên sa
hồi ký | 359
Tôi không phải là một thiên tài. Cảm hứng không coi tôi là một vương tôn công tử, một người đàn ông thu hút để cho nàng phải q uỳ gối xin nâng khăn sửa túi. Tôi chỉ được người đẹp đối xử như một người tình hạng nhì, có thể là một người tình loại phòng hờ, lúc nào có việc gì muốn sai bảo thì ghé tới chơi ít giờ, ban phát cho nhau vài ân huệ, nếu muốn, rồi lại bỏ đi biền biệt. Khi tới không hẹn trước. Người tình bị ghẻ lạnh phải suy nghĩ những phương cách để trở nên hấp dẫn, tôi có suy nghĩ về những nguyên tố của cảm Chuỗihứng.nguyên tố tâm vật l ý là những yếu tố đến với tôi từng chập. Ch ỉ từng chập thôi, vì tôi không mở ra những cuộc tìm kiếm quy mô, những phân tích đến nơi đến chốn để xác định nguyên nhân của cảm hứng. Một nguyên nhân xuất hiện nhiều lần làm cho tôi nhận ra nó, tôi ghi nhận thấy chính nó đã giúp tôi thật nhiều trong việc bắt gặp được cảm hứng. Nguyên nhân khác ngăn cản sự gặp gỡ cảm xúc một lần tôi không nhận ra khuôn mặt báo tin dữ, nhưng những xuất hiện kế tiếp, tuy rải rác, xa cách trong thời gian, nhưng thường ở lại lâu lắc đủ giúp tôi nhận biết nó. Chuỗi nguyên nhân tâm vật lý tôi bắt gặp trong những bài học về triết lý. Tôi không phải là triết gia. Nhiều người rộng lượng thường gọi chung những người học triết lý, làm nghề thầy giáo triết học là triết gia. Những danh xưng có phần chung chung này đúng với ai tôi không biết, nhưng với tôi thì trật lất. Triết lý chiếm một phần quan trọng của đời tôi. Có lúc tôi cũng muốn trở thành triết gia. Nhưng tôi biết đoạn đường xa vạn dặm cho nên sau những giờ
khắc hăng say mong muốn, tôi bỏ ngay những ước vọng có phần vượt khỏi tầm tay. Một thầy giáo triết không là triết gia nhiều hơn thầy giáo toán là nhà toán học, thầy giáo việt văn là văn sĩ. Cũng như người có tác phẩm thi ca có quyền có danh hiệu thi sĩ nhiều hơn người viết những bài biên khảo về thi ca, phải có tác phẩm triết lý ở một tầm cỡ nào mới xứng đáng với danh hiệu triết gia. Tác giả Hiện Tượng Luận và Duy Vật Biện Chứng là triết gia không thể nghi ngờ. Tôi vẫn nghĩ nước ta chỉ có một người xứng đáng không thể nghi ngờ với danh hiệu triết gia là Trần Đức
TôiThảo.chỉlà người học triết hạng xoàng, làm nghề gõ đầu trẻ môn triết học có nhiều may mắn. Mỗi năm tôi soạn bài giảng một lần, năm nào trong luận lý học cũng có luận lý hình thức rồi triết lý khoa học, diễn dịch hình thức rồi diễn dịch toán học, quy nạp hình thức, quy nạp phóng đại, suy luận loại suy... Tâm lý học xong đối tượng, phương pháp tâm lý ngôi một, phương pháp tâm lý ngôi hai, tâm lý ngôi ba, ký ức, liên tưởng rồi tưởng tượng. Tưởng tượng không phải là liên tưởng, tưởng tượng là một tổng hợp sáng tạo, tưởng tượng có những yếu tố, nó không đến từ hư vô, nó không phải là sự cộng lại cơ giới những yếu tố có từ trước, nó là tổng hợp nhưng một tổng hợp sáng tạo. Năm nào cũng bản chất của tưởng tượng, yếu tố cấu tạo của tưởng tượng, yếu tố trước, bản chất sau, yếu tố tâm vật lý trước, yếu tố xã hội sau... Năm đầu tiên tôi không chú ý đến những đoạn bài giảng liên quan đến những yếu tố tâm vật lý nhiều. Nhưng ngay từ năm thứ hai tôi đã quan tâm đặc biệt đến loại nguyên tố này. Với sự giúp sức của nhà
360 | nguyên sa
hồi ký | 361 thơ Đinh Hùng, nhà thơ Vũ Hoàng Chương... Nhà văn Mai Thảo đưa tôi đến nhà anh Đinh Hùng. Mai Thảo đưa tôi đi thật nhiều nơi. Tác giả Đêm Giã Từ Hà Nội đưa tôi tới C afé La Pagode , tới sân chơi Sáng Tạo, khi tờ báo này được khai sinh. Bạn tôi, từ trước đó, đưa tôi đi vũ trường Arc en Ciel, cho tôi ăn lần đầu món Vịt Tứ Xuyên, cho tôi hộ vệ chàng, đưa đón các vũ nữ, chờ em thay quần áo, chờ em trang điểm, chiếc áo này được không anh, đưa nàng đi ăn cháo lúc đêm khuya, tôi nhớ mãi người đẹp ở gần bờ sông, lần chúng tôi tới nàng mặc quần áo bà ba, tôi nhìn thấy nụ cười của nàng tươi mát có cả lẳng lơ lẫn dục tí nh phía bên trên chiếc bình phong, những chiếc áo rồi quần, rồi quần lót bỏ xuống dưới chân khúc bình phong không che kín... Tôi ở Pháp trở về, Mai Thảo đưa tôi vào những sinh hoạt Việt Nam, mang cho tôi những bài học “vỡ lòng”, rủ tôi vào những cuộc phiêu lưu đầu đời. Bạn tôi đưa tôi đến nhà Đinh Hùng ở Tân Định (đường Trần Văn Thạch). Tôi không còn nhớ tên phố, tên phố này hồi ở Việt Nam có nhớ và nhớ thật rõ, nay thì hoàn toàn không nhớ, nhưng t ô i nhớ ngôi nhớ nhà Đinh Hùng ở trên gác. Khi Mai Thảo và tôi tới nhà thơ Vũ Hoàng Chương và nhà thơ Phạm Thái Thủy đã có mặt ở đó, Thanh Nam một lát sau tới nơi, ngọn đèn dầu lạc được thắp sáng, những cụm khói thuốc phiện bay lên dầy đặc và thơm phức. Ngay trong buổi họp mặt đó, ngay khi nhìn thấy bàn đèn được ngả xuống, ngọn đèn dầu lạc được thắp lên, tôi nhớ lại ngay những lần trước đã nhìn thấy quang cảnh hút á phiện. Chú Hồng đưa tôi đi từ Nam Sách sang Cẩm Giàng để coi mặt một nhà văn lớn. Tôi nhìn thấy ông
362 | nguyên sa
và những người bạn trung niên chập chờn trong gian phòng có những mảng tối bật lên điểm sáng của ngọn đèn dầu lạc. Tôi nhớ rõ hơn những ngày tháng ở Phủ Lý, tôi từ trại giam Chi Nê, giải về cải hối thất Sơn Tây thêm nửa năm rồi trả tự do, khi tôi về tới nhà, một ngôi nhà ở tạm mà tôi không hề biết, trước khi tôi bị bắt gia đình tôi tản cư ở Quảng Tái, không xa Vân Đình, lúc tôi trở về thì ở xa xuống phía Nam, Phủ Lý, khúc Quế Sơn, đi bộ từ nhà ra bến đò Quế chỉ khoảng mười phút. Khi tôi đi bà tôi không hút thuốc phiện. Khi tôi trở về nhà bà tôi cần đến chất ma túy để dằn xuống những cơn đau của căn bệnh ung thư. Tôi mau chóng làm công việc v ê thuốc, nhồi thuốc vào dọc tẩu, nạo xái...
Nhà thơ Đinh Hùng nói với tôi:
- Nguyên Sa chắc không chơi cái này!
Câu nói tách rời khỏi mọi bối cảnh hiện ra như một câu hỏi, nhưng thực sự là một khẳng định. Nhà thơ vừa nói vừa đưa tay mời thi sĩ Vũ Hoàng Chương cùng nằm lên chiếc sập. Vũ Hoàng Chương cũng nói một câu thân mật với bằng hữu rồi ngả người ra, Đinh Hùng đẩy chiếc gối mây cho Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Chương điều chỉnh thế gối đầu, Đinh Hùng tiêm thuốc rồi đưa dọc tẩu cho tác giả Thơ Say . Mai Thảo trò chuyện với Thanh Nam, tôi nói chuyện với Phạm Thái Thủy vài câu và mau chóng bị thu hút bởi những bức tranh sơn dầu và mực nước treo trên tường, có Sâm Thương, có Kỳ Nữ, có Tự Họa... Tôi mơ hồ cảm thấy hai nhà thơ đàn anh có dành cho Nguyên Sa một biệt nhỡn. Tôi về nước đầu năm 1956, cuối năm 1957 đã được nhà thơ đàn anh mời đến nhà chơi, nhân dịp có
Thèm ăn một chút hoa man dại
hồi ký | 363
đám giỗ, Mai Thảo nói “Nguyên Sa đây”, Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương dành cho Nguyên Sa những nắm tay, nụ cười cởi mở và sinh hoạt thân tình. Sâm Thương, Kỳ Nữ, Tự Họa, cảnh tượng một cuộc họp mặt văn nghệ khác lạ đối với tôi, hay mùi khói thuốc phiện thơm lừng làm gợi nhớ, thơ Vũ Hoàng Chương, thơ Đinh Hùng và câu hỏi mơ hồ hiện ra...
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh Biển vô tận sá gì phương hướng nữa Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh... (thơ Vũ Hoàng Chương)
Tôi có đọc trong cuốn sách phê bình của Vũ Ngọc Phan về mối liên hệ giữa thơ Vũ Hoàng Chương và nàng tiên Nâu. Tôi muốn hỏi Tác giả Thơ Say phải chăng chính nguyên nhân tâm vật lý đó, chính á phiện là xúc tác mang lại cảm hứng, mang lại thơ? Chính chất khói hít dài hơi nhập vào cơ thể, tác dụng vào máu, chuyên chở đến tận cùng của những tế bào óc não làm cho cảm hứng dâng tràn lên làm cho hiện ra cả mặc cảm phạm tội, mặc cảm “lạc loài”, mặc cảm “bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh ”, phải chăng những lớp khói cuồn cuộn từ những phế nang khơi mở bay thoát ra mở ra mở ra biển vô tận ” không phương hướng, đây con thuyền “theo gió lênh đênh”. Tôi mơ hồ cảm thấy khi hút xong có những biến chuyển ở thớ cổ, ở đầu lưỡi, làm cho người sử dụng á phiện có những cảm giác cả xúc giác ở cổ và vị giác nơi đầu lưỡi cần thiết phải chiêu một hụm trà, nhấm nháp mấy miếng chanh khô, ăn một miếng táo. Phải ch ă ng chất kích thích đó làm
364 | nguyên sa
hồi ký | 365 cho Đinh Hùng thèm “ăn một chút hoa man dại, rồi ngủ như loài muông thú kia...” Giáp mặt Phù Dung của nhà thơ thật rõ ràng, nhưng tôi còn mơ hồ cảm nhận dường như chất kích thích có là điểm khởi hành khơi mở then máy có tên là cảm hứng và bung ra cả một thế giới thi ca thần kỳ:
Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
Ta nằm trên cỏ lắng tai nghe
Thèm ăn một chút hoa man dại Rồi ngủ như loài muông thú kia... (thơ Đinh Hùng)
Anh em chúng tôi đến ăn giỗ nhà Đinh Hùng kẻ nói chuyện người coi tranh sau khi hai nhà thơ nhập cuộc một lúc kéo nhau về. Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương nằm trên giường vẫy tay tiễn biệt. Hôm đó tôi không có cơ hội nào hỏi han Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương về mối liên hệ giữa thuốc phiện và cảm hứng nói riêng, thuốc phiện và thi ca nói chung. Tôi có gặp lại Đinh Hùng nhiều lần ở nhà hàng Mai Loan, tầng dưới cùng của cao ốc Mai Loan, góc đường Nguyễn An Ninh, gặp nhà thơ Vũ Hoàng Chương nhiều lần hơn, ở nhà anh đường Vườn Chuối, trong khuôn viên trường Văn Học, ngay góc Vườn Chuối-Phan Thanh Giản, thời gian từ 1963 đến 1974 và thời gian anh ở tại tư thất của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu muội, thời gian cuối năm 74, đầu năm 19 7 5... Không có lần nào tôi nêu lên câu hỏi với hai nhà thơ, câu hỏi cũng chẳng hiện ra thôi thúc gì với tôi. Những bài giảng tâm lý của tôi có những giải đáp rập theo khuôn mẫu cổ điển. Tưởng tượng sáng tạo từ những yếu tố đã có tạo ra những tổng hợp hoàn toàn mới lạ. Nó không phải là tri giác nhận thức những đối tượng
366 | nguyên sa ngoại giới trong hiện tại, không phải là ký ức là một khả năng ghi nhận hoài niệm và khêu gợi lại hoài niệm. Hoài niệm được khêu gợi lại có thể có dấu vết của những tri giác mới, những hoài niệm đến sau, và cả tượng tượng, đến như tri giác cũng có dấu vết của tưởng tượng làm cho các nhà tâm lý học sau đệ nhị thế chiến phải nói lên “tri giác là tưởng tượng”, “khêu gợi hoài niệm đã là tưởng tượng”, những khẳng định tưởng như nghịch lý mà thật ra có lý phản ảnh cái nhìn tâm lý toàn diện phát xuất từ quan niệm triết lý hiện tượng luận. Trong riêng nó, tưởng tượng vượt trên tri giác và ký ức, cái trên tuân phục thật nhiều đối tượng hiện tại, cái dưới muốn gìn giữ, dù cho bất khả, bản sao của một hiện tại đã trôi qua, có tên là dĩ vãng. Tưởng tượng mang lại một tổng hợp sáng tạo. Để hình thành một tổng sáng tạo, nhà sáng tạo phải có một khả năng phân tích sắc bén, phân tích những cái đã có, tách rời toàn thể ra thành thành phần, phải có một óc tổng hợp để từ những yếu tố đã có, đã được phân tách tách rời ra, làm thành một tổng hợp mới chưa từng có.
Khi Miếu Đường kia phá bỏ rồi
Ta đi về những hướng sao rơi Lạc loài theo bước chân cầm thú
Từng vệt dương sa mọc khắp người
S au trái cô sơn, ngày lại ngày, Hồn kinh kỳ hiện dưới chân mây , Đôi tay vò xé loài hoang thảo, Đổ máu căm hờn trên cỏ cây... (thơ Đinh Hùng)
Khuynh hướng rời bỏ nếp sống văn minh, trở về với thiên nhiên có trong văn xuôi của J. J. Rousseau, sao rơi
hồi ký | 367
có trong thiên văn học và trong đời sống dân gian, cầm thú là một danh từ có một bậc tổng quát và trừu tượng cao hơn con cọp, con nai, nhưng không bằng lượng gián đoạn, lượng liên tục, tựu chung những cụ thể và gián đoạn đó đều là những cái đã có từ trước Đinh Hùng. Nhưng chỉ có từ Đinh Hùng cảnh tượng Miếu Đường bị phá bỏ, người thơ đi về những hướng sao rơi, bằng những bước chân cầm thú, mặc kệ những vệt dương sa mọc đầy cơ thể. Những yếu tố riêng biệt và rời xa được tổng hợp trong một sáng tạo chưa từng có.
Lý tưởng hoá đối tượng là một đặc tính của đam mê, làm cho trái ấu cũng tròn, đam mê vốn là một tình cảm mãnh liệt và dài lâu trở thành càng mãnh liệt hơn với người thơ, lý tưởng hoá đối tượng trở thành tôn thờ đối tượng. Người làm thơ dễ có khuynh hướng tôn thờ nữ sắc. Tôi cũng quen thuộc với tình yêu có sự thờ phụng. Khi còn đi học tôi đọc say mê truyện cổ Hy Lạp người nô lệ m ỗi ngày cầm chiếc gương cho công chúa soi ngắm dung nhan. Tấm gương phản chiếu khuôn mặt đẹp tuyệt vời, mỗi ngày càng đẹp hơn, có thêm lộng lẫy và quyền uy. Nàng công chúa một ngày đẹp trời xua đuổi người nô lệ. Sáng hôm sau, nàng cầm lấy gương soi chỉ còn thấy một khuôn mặt cực kỳ xấu xa, công chúa hét lên điên cuồng và chiếc gương vỡ thành ngàn mạnh vụn. Nô lệ ái tình có nhiều dạng thức, từ ông vua hiến dâng ngôi báu, người dũng sĩ phi ngựa mang về cho nàng những trái lệ chi còn nguyên “giọt lệ”, chứ không phải chỉ có nhữn g hình thức thuần túy vật chất của những tương quan “ma sô ” sinh vật lý được mô tả và phân tích bởi Sigmund Freud. Hồi còn đi học, những năm từ 1952 tới 1955, tôi thích đọc những trang sách của Hegel
nói về sự bất thăng bằng trong tình yêu. Không bao giờ có tình yêu tuyệt đối thăng bằng, không có hai kẻ yêu nhau hoàn toàn cân bằng trong dâng hiến và chiếm đoạt. Khi nào cũng có một người yêu người kia nhiều hơn là được người kia yêu lại. Tương quan bất thăng bằng mau chóng biến hai kẻ yêu nhau thành chủ nhân và người nô lệ và mối tương quan chủ nhân và nô lệ là mối tương quan hằng cửu trong tình yêu, yếu tính của tình yêu. Chuyện tình của người nô lệ Hy Lạp tươi mát hơn quan niệm về tình yêu của Hegel. Tương quan chủ-nô lệ trong Hegel hiện ra với sự phũ phàng của tất yếu, người nô lệ trong chuyện cổ Hy Lạp có sức mạnh của nó trong sự thờ phượng mà nó dâng lên, sức mạnh làm hiện hữu sự nối buộc bù trừ sự hiện hữu của chủ nhân vào sự hiện hữu của nô lệ. Trong mọi trường hợp, sự tôn thờ nữ sắc là một thực tại trong thơ Đinh Hùng. Nhà thơ trong Kỳ Nữ “Khi sùng bái ta quỳ nâng nếp áo, Nhưng cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm...”
Và:
Em đài các lòng cũng thoa son phấn, Hai bàn chân kiêu ngạo đạp lên thơ, Ôi vô lương! Trong một phút không ngờ!
Ta đã muốn trở nên người vô đạo...
Những chất kích thích màu nâu ngả sang đen mang lại thơ hay làm suy yếu khả năng phân tích và tổng hợp của sáng tạo. Nó làm mơ màng và mơ màng là một trạng thái thấp của tưởng tượng, một trạng thái yếu kém của trí tuệ, không thể tạo thành được những tổng hợp sáng tạo, làm sao tổng hợp được tâm hồn và son phấn, vẻ ngọc và trang nghiêm, bàn chân đạp lên thơ và ước mộng điên cuồng trở
368 | nguyên sa
hồi ký | 369 nên người vô đạo?... Tôi không lần nào hỏi hai nhà thơ đàn anh về mối tương quan giữa chất kích thích là á phiện vào cơ thể và từ đó mở ra cảm hứng và thơ, chuỗi liên hệ, nói cho đúng là tâm-sinh-vật-l ý chứ không chỉ đơn thuần tâm vật l ý
Ma. túy có phải là chất xúc tác của cảm hứng không? Tôi không biết. Nhưng tôi biết chuyển động nhịp độ nhanh vừa phải làm thành nhịp rung vừa phải với tôi, nhiều lần làm bật ra cảm hứng. Nhịp rung của võng đưa, nhịp rung của con thuyền trôi nổi, nhịp đập gia tăng của tim khi rượu ngấm, nhịp chuyển động của con thuyền bồng bềnh có tăng cường ánh trăng và men rượu có phải là khởi nguồn của cảm hứng? Và của cảm hứng của Lý Bạch? Tác giả Chinh Phụ Ngâm cho thấy một tương quan tâm-sinhvật-lý độc đáo. Tiếng trống vang động làm chấn động nội nhĩ, nội nhĩ mao rung chuyển ảnh hưởng tới thính giác làm gia tăng nhịp đập của trái tim làm ảnh hưởng thị giác mang lại tri giác về sự rung động của mặt trăng:
Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt Khói cam tuyền mờ mịt thức mây...
Cảm hứng bí nhiệm dường như không thích hợp cho một giải đáp đơn thuần dù khẳng định hay phủ định. Càng lúc, trong thơ, trong cảm hứng thơ, cũng như trong cuộc đời, tôi càng cảm thấy có hơn một chân lý...
Thư cho bạn ở tù
Bây giờ mày ở trong tù, Đêm nằm muỗi cắn nhớ nhà không con?
Chúng nó nói chuyện văn chương, Tao nghe nóng mặt cởi quần nhìn sông...
Sài Gòn giờ vẫn mịt mùng Thương mày tao thấy trong lòng xót xa, S ài Gòn chưa hết mùa mưa, Ở nhà tao vẫn nhớ nhà mỗi đêm. Không nói tao sợ mày phiền Nói ra với rượu tao buồn gấp hai, Em mày đi lấy chồng rồi, Gặp tao ngoài ngõ ngậm ngùi nhìn nhau, Tao nhìn tao thấy mày đau, Nó nhìn nó thấy trong tao có mày. Mẹ già phơ phất lá bay, Những ngày về phép thay mày tao thăm.
370 | nguyên sa
hồi ký | 371
Tao đi lính được bốn năm, Mày nghe chuyện lính tưởng rằng tao gân, Tưởng tao trấn thủ lưu đồn Một tay cờ kiếm anh hùng chí cao, Bốn năm thi sĩ nằm khoèo, Rượu say thơ cũng mệt nhoài tứ chi, Q uanh tao vẫn một lũ hề, Những thằng mang điếu vác cờ chạy quanh, Tao nhìn chẳng thiết nói năng, Ba thằng mặt trắng tưởng rằng tao cay...
Trong tù mày có thấy mây, Thấy tao đứng đó, gió đầy biển đông, S ao tao thấy có thấy không
Thấy còn thấy hết, thấy gần vẫn xa, Vợ chê xương thịt tạo già
Tù ra mày thấy tao đi mất rồi, Uống say ngửa mặt lên trời, Hai vai ngất ngưởng là mày có tao...
Thư cho bạn ở tù và Sân bắn làm trong cùng một khoảng thời gian. Thời gian của hào hứng lớn. Không phải ngay những ngày tháng khởi đầu của hào hứng lớn, S ân Bắn chừng ba tháng sau đó, Thư Cho Bạn ở Tù thì hơn bốn năm sau. Tôi không có nhiều lục bát cho tới khi bước vào tuổi thứ ba. Lục bát đầu đời bay theo gió phác họa thơ. Sân Bắn và Thư Cho Bạn ở Tụ đánh dấu những ngày tháng khởi đầu và những ngày tháng giã từ của hào hứng chữ H viết hoa. Ngay khi những ngày tháng của hào hứng lớn bắt đầu tôi nhận biết được nó ngay. Đó là những ngày tháng tôi đi nhập ngũ. Tôi không kể cho ai nghe những cảm tưởng phơi
372 | nguyên sa phới hiện ra càng lúc càng rõ nét trong tôi. Tôi nghĩ những cảm tưởng thấy đấy mà nghe như phi thực. Nhập ngũ thì phải cảm thấy phiền muộn chứ sao lại cảm thấy thoải mái? Buổi sáng dậy ra tiệm Phở Sáu Lèo ở ngay trước cửa trường Văn Học làm một tô tái chín nạm, tôi thích tái chín nạm, cùng với một cà phê sữa nóng, hôm nào không thích phở thì đây, ngay góc Vườn Chuối, Phan Thanh Giản, có bánh cuốn Vườn Chuối ngon tuyệt, bà bánh cuốn tráng bánh ngay kế quán nước của anh Ba Bít Tất, cà phê bọc trong bít tất thật, mà ngon kinh khủng. Ă n quà sáng như thế thoải mái. Thủ Đức không có chuyện tà tà đi kiếm tiệm phở hay bánh cuốn lúc buổi sáng. Buổi sáng quân trường Thủ Đức là buổi sáng làm giường vuông góc, buổi sáng tập họp, buổi sáng tất cả nghỉ, tất cả nghiêm, buổi sáng chạy vòng quanh Tiểu đoàn, buổi sáng vừa chạy vừa hát “đường trường xa...” Và sau đó mới là điểm tâm. Có cà phê, loãng nhách, nhưng chất đặc chỉ có bánh mì và chuối xanh. Buổi sáng Thủ Đức đó lại thoải mái hơn buổi sáng phở, bánh cuốn, cà phê Vườn Chuối sao? Những ngày không kẹt dậy học bảy giờ rưỡi, buổi sáng Sài gòn là Phở Tàu Bay Lý Thái Tổ, Phở 79 Võ Tánh, café Crème và croissant La Pagode. Quân trường Thủ Đức làm gì có những thứ đó, cái ăn không tùy thuộc nơi sự chọn lựa của mình, ngủ và thức được ấn định, quần áo tóc tai theo một kỷ luật nhất định, tân sinh viên sĩ quan gặp ai cũng phải chào, chào sĩ quan cán bộ, sĩ quan huấn luyện, chào sinh viên sĩ quan khóa đàn anh, trước khi cất lên tiếng nói để nói lên một điều gì phải chào kính, phải đọc to họ và tên, số quân tám số, vậy mà thoải mái sao? Những gò bó của kỷ luật quân trường không trói
hồi ký | 373 buộc được tôi lâu. Những người bạn đồng khóa, người là anh em và đồng nghiệp như Lưu Trung Khảo, người là đồng nghiệp như Bạch Đình Vỹ, người gặp gỡ làm thành bằng hữu như Lê Văn Kim, Trần Sơn Hà, Nguyễn Đức Năng. Giáo sư Việt văn Lưu Trung Khảo là em rể tôi, lấy Kim Anh, ở nhà gọi là Hậu, vì tưởng là em chót, nhưng sau mẹ tôi còn sinh thêm một em trai là Trần Văn Chang. Tôi là con trai lớn, kế là em Thoa, Trần thị Kim Thoa, em Trần Thị An, em Trần Thị Kim Khang sau là Kim Anh và Chang. Khảo, Kim, Vỹ ở bên Tiểu đoàn khóa sinh 2, Hà và Năng cùng với tôi ở Tiểu đoàn 1, trong cùng một đại đội 4, do Phạm Quốc Cường làm sinh viên sĩ quan đại diện. Cường hô tất cả ngồi thì chúng tôi đồng thanh “xuống”, Cường hô tất cả đứng chúng tôi đáp lại bằng tiếng vang lớn “lên”. Trần Sơn Hà gọi tôi là cụ, Nguyễn Đức Năng cũng gọi tôi là cụ, tôi gọi hai người bạn trẻ cũng là cụ. Tôi hỏi Hà gọi cụ Nă ng chưa? Hà nói không sao chúng mình cứ đi, cụ Năng sẽ tới ngay mà. Chúng tôi đi ăn ở một gia đình binh sĩ. Không đi ăn nhà bàn. Mau chóng những bạn trẻ của tôi tìm cho tôi đủ thứ thoải mái, chỗ cắt tóc, chỗ sửa gấu quần, chỗ đơm khuy áo bị sút, một binh sĩ nhân trong giờ nghỉ ghé vào lấy quần áo mang đi giặt, ủi, thẳng nếp đúng tiêu chuẩn, một binh sĩ khác lau súng giúp cho tôi, sĩ quan cán bộ cho tôi ở riêng cái chái của gian phòng ngủ của đại đội, ông thầy này ông ấy già rồi, cho ông ấy nằm riêng, tôi luôn luôn bị xếp loại già từ khi còn trẻ, khi đại diện đại đội kỹ sư Cường hô tất cả đứng dậy tôi không bao giờ đứng lên đều với anh em được, ngồi xuống cũng không đều còn muốn té ngửa về phía sau, sĩ quan cán bộ, bạn đồng khóa, ai cũng
374 | nguyên sa cười tủm tỉm, nhiều bạn trẻ cho tôi hay may mà anh già rồi chứ không là hít đất, làm hoài là phạt dã chiến hay chạy vòng quanh vũ đình trường mút mùa lệ thủy. Tới nơi ăn cơm ngày hai bữa là mười lần có Lê Văn Kim cả mười, Kim cao ráo trắng trẻo trông như người Đại Hàn, nói chuyện vừa vui vẻ vừa hiền h òa , rất văn nghệ. Anh là chồng của nữ giáo sư Chu Kim Long đồng nghiệp dạy Triết với tôi, trấn thủ bên Gia Long. Khảo, Kim, Cường, Hà, Năng và những bạn đồng khóa khác mau chóng giúp tôi vượt qua những trở ngại nhỏ, tận hưởng không khí trường học, vườn đào mà tôi tưởng như không bao giờ gặp lại nữa kể từ khi đứng sang bên này lằn ranh. Trường học bao giờ cũng tuyệt vời, cho ông thầy giáo nó vẫn đẹp, nhưng cho người đi học nó là thiên đường. Thủ Đức, với tôi, đột nhiên, có “mùi cửa sổ mới sơn” , có “lòng trai man mác” có những cuộc “tìm bạn để kết duyên” của nó. Tôi mau chóng có thật nhiều bạn. Chúng tôi không cùng nhau ngồi trong phòng giáo sư, hút thuốc lào sòng sọc, uống nước chè tươi, ưu tư đề thi dễ đề thi khó, lo ngại thanh tra tới tuần này, bàn cách trấn áp những học sinh quấy phá. Tôi đã trở lại bên này lằn ranh. Tôi mau chóng trở thành một học sinh quấy phá. Tôi gia nhập mau chóng vào những băng đảng học sinh, tinh nghịch, trốn việc, bù khú, truyền thống nhất quỷ nhì ma. Tập trận tôi được các bạn xếp cho “làm địch”, vừa nhập cuộc chơi đã bị “bên ta” bắn trúng thế là chết luôn, bên ta bao giờ cũng thắng, “địch ” chết sớm tìm chỗ nằm trong một bụi cây phì phèo thuốc lá. Đi thực tập địa hình là có ngay trong túi vị trí của toạ độ, chui vào nhà một cô giáo quen trong vùng ăn cháo, tới giờ tà tà ra vị trí... vừa tìm
hồi ký | 375 được. Những cuộc đi tập chiến thuật, di hành dã trại, thực tập tác xạ, những bao đạn của tôi đựng toàn thuốc lá, đạn nặng cụ Lan không vác nổi đâu, bọn này chia nhau mang dùm cho. Đi về Sài Gòn, do quân xa của quân trường chở đi, để mời các ca sĩ, thích thú nhất là đi mời vũ nữ Nhung vào trường nhẩy “xếch xi xô” cho một buổi trình diễn văn nghệ gì đó. Sĩ quan chỉ huy chiến tranh tâm lý của trường võ bị Thủ Đức cho giấy mời tôi lên. Người sĩ quan có cấp bậc hàng tá xua tay ngay khi tôi vừa khởi đầu chào kính, chưa kịp đọc tên họ và số quân tám số, xua tay nói thôi thôi, anh đứng dậy rời bàn làm việc tiến ra phía tôi, siết chặt tay nói anh em cả mà, anh em cả mà, anh mời tôi ngồi xuống ghế xa lông, hỏi han về sự thích ứng của tôi với quân trường, hỏi thăm việc quản trị trường Văn Học thời gian tôi đi xa này, hỏi thăm ai thay tôi trong những giờ triết, tôi kể tên các bạn đồng nghiệp Trần Đức An, Trần Đỗ Dũng, Vĩnh Để, giáo sư linh mục Trần Văn Hiến Minh, v.v. anh đưa tặng tôi tờ tạp chí nội san của Trường Võ Bị Thủ Đức. Sau chót, anh nói lên điều anh muốn.
- Chúng tôi muốn xin anh Nguyên Sa một bài thơ...
- Cho tờ tập san của trường?
- V â ng cho tờ tập san của trường...
Anh thận trọng nhấn mạnh đây là chúng tôi xin thi sĩ, không phải là một mệnh lệnh, xin anh thông cảm cho... Tôi nhận lời. Tôi vẫn được đối xử như một thi sĩ, một thầy giáo dạy Triết trong trường học rất võ mà rất văn này, nơi tôi đã trở thành một người học trò đầy hào hứng tìm lại được bản chất học trò tưởng như đánh mất đến ngàn năm. Không có miếng đỉnh chung gì cả. Nhưng q uý hơn
Giã Từ Khóa Đàn Anh
Các ngươi là đàn anh của ta Các ngươi đúng là đàn anh của ta, Đàn anh tác x ạ, Đàn anh vũ khí mìn, Đàn anh cơ bản thao diễn.
Hãy quỳ x uốn g Và hãy đứng dậy
Hãy quỳ xuống trong đêm quân trường Hãy đứng dậy trong ngày từ giã
Hãy đứng dậy khi nghe ta gọi Các ngươi là đàn anh của ta
Các ngươi là đàn anh của ta
376 | nguyên sa ngàn lần miếng đỉnh chung, những lời nói chân thành đầy tình tự anh em bằng hữu, văn nghệ, giang hồ. Tôi nhận lời. Trần Sơn Hà và Nguyễn Đức Năng thu xếp cho tôi lên nằm bệnh xá một ngày. Bác sĩ Bao trưởng khu bệnh xá của quân trường thân ái nói anh cứ lên đây. Chưa đầy một ngày tôi đã có bài thơ cho tờ tập san của trường. Bác sĩ Bao nói với tôi chừng nào anh cần, anh cứ lên đây, lúc nào cũng có chỗ cho anh. Tôi không trở lại bệnh xá của người bác sĩ quân y rất văn nghệ này lần nào. Tôi có bài thơ cho tờ tập san của trường rồi. “Giã Từ Khóa Đàn Anh ” là bài thơ đầu tiên tôi làm trong cuộc đời đổi khác, thời gian trước khi gắn alpha , thời gian từ một tháng rưỡi đến hai tháng sau khi nhập ngũ.
Đàn anh địa hình Đàn anh chiến thuật Đàn anh gác ng à y Đàn anh kích đêm Đàn anh cười Đàn anh khóc Đàn anh cắt tóc Đàn anh nhớ vợ nhớ con Đàn anh khóc trên đồng ruộng quê hương Đàn anh buông tay mẹ già tóc trắng, Đàn anh Các ngươi Hãy đứng lên Hãy nhìn về trước mặt Hãy đàng sau quay Hãy bước đi Và hãy nghe ta Trong bước đi Gọi thầm Hỡi đồng hành Đồng Tronghànhcõichết.
Bài thơ khi được in ra, tờ tập san của trường phổ biến đến các đại đội khóa sinh, Hà nói tôi không hiểu tại sao các ông ấy lại đăng bài thơ này của cụ. Kim nói không bị củ là
hồi ký | 377
may. Không tôi không bị “củ”. Cũng không bị khiển trách gì cả. Người chọn đăng bài thơ dường như hiểu tôi muốn nói gì. Dường như hiểu tôi bị xúc động trước những sự kiện, sinh hoạt, nếp sống khác lạ như một tân thế giới hiện ra trước mắt người thơ. Người làm thơ gọi khóa đàn anh là “ngươi ” không phải do sự miệt thị hay cao ngạo kịch cỡm nào cả. Từ ngữ chỉ phản ảnh không khí trang nghiệm của ngày gắn lon chuẩn úy. Sinh viên sĩ quan trong bộ quân phục số 1, quân phục lễ nghi, đứng hàng hàng lớp lớp cờ xúy cùng với đoàn người đứng nghiêm, trang trọng và uy nghi phủ kín một vũ đình trường. Tiếng loa vang lên: “ Tất cả quỳ xuống” . Những người sinh viên sĩ quan quỳ gối tăm tắp, những chiếc lon chuẩn úy được gắn lên vai, những tân sĩ quan đứng dậy theo tiếng lệnh vang vang. Họ trở thành sĩ quan khi đứng dậy, họ lên đường, họ đi bảo vệ đồng ruộng quê hương, kẻ trước người sau, những người đàn anh trong học tập quân sự thực chất là những người đồng hành với những đàn em một khóa của họ, đồng hành trong nhiều lĩnh vực, cuối cùng là đồng hành trong cõi chết. Tôi muốn mô tả, tôi muốn chia sẻ, tôi muốn yêu mến, tôi muốn nhập vào tiếng loa vang vang những khẩu lệnh, tôi muốn giãi bày những cảm nghĩ, xúc động trong đáy sâu, những khía cạnh nhân bản và nhiều khi b i thảm mà những ngăn cách khóa đàn anh, khóa đàn em không x óa bỏ đi được. Nhưng bài thơ có thể mang lại ngộ nhận. Đăng trên một tạp chí dân sự bài thơ có thể bị kiểm duyệt bỏ. “Đồng hành trong cõi chết” càng có thể bị đánh giá là tiêu cực khi được đăng trên một tạp chí tâm lý chiến trong khuôn khổ một quân trường. Gọi các bạn đồng ngũ khóa
378 | nguyên sa
hồi ký | 379
đàn anh là “ ngươi”, xưng “ ta” có thể là những ngộ nhận khác. Vị sĩ quan phụ trách tâm lý chiến ở Thủ Đức đã đăng Giã Từ, coi như chọn lựa bất trắc. Tôi nghĩ tôi có nợ anh. Tôi nghĩ nếu như gặp lại tôi phải nói với anh lời cám ơn...
Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu. Chỗ nào của trường Võ Bị Thủ Đức cũng có khẩu hiệu này. Khẩu hiệu sơn trên những vách tường của nhà bạn, nhà hội, ngay ở tấm bảng lớn gần cột cờ vũ đình trường, ở mỗi dãy nhà gọi là “ba rắc” của đại đội. Sơn trên những diện tích lớn và cứng, không dễ bị di động cho thấy tính cách thường xuyên, giá trị lâu dài của khẩu hiệu, khác biệt với những khẩu hiệu nhất thời chỉ mạnh mẽ trong thời gian của một chiến dịch được viết trên những vật nhẹ, vải, bìa khổ lớn hay nhỏ, tiện cho việc vất bỏ khi thời gian của chiến dịch đã hết. Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, khẩu hiệu đặc thù của trường học quân sự này xét ra có cái lý của nó. Ở đây không thể “dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa”, “yêu thầy như cha mẹ” hay “hữu bằng tự viễn phương lại.” Bô i mặt cho đen với nhọ nồi, cắm những hoa lá cành trên nón sắt có lưới, trên ba lô, đều khó chịu
Thao trường đổ mồ hôi
380 | nguyên sa
hồi ký | 381 lắm. Nhưng đổ mồ hôi cho bài học ngụy trang, có hy vọng mang lại thế cờ ta nhìn thấy địch, đ ịch không nhìn thấy ta, chiến trường bớt đổ máu. Thầy giáo Lan giúp tôi nhìn thấy dễ dàng ý nghĩa của mỗi bài học của trường Bộ Binh. Sự cần thiết và sự hợp lý của mỗi bài học. Học về cá nhân tác chiến, thì phải biết đào hố cá nhân, phải biết ngụy trang, phải biết sử dụng vũ khí cá nhân. Tiểu đội tác chiến cần học chiến thuật, như chiến đấu hàng ngang, chiến đấu hàng dọc, sử dụng tiểu liên. Trung đội có chiến thuật khác với tiểu đội, cả về mặt đồ hình, những chiến thuật công, thủ, cũng như chiến đấu phối hợp với các đơn vị khác, như chiến đấu chung với chiến xa, chiến đấu tùng thiết. Phải đổ mồ hôi. Cuốn truyện của nhà văn Pháp Saint Exupéry có tên là Vol De Nuit, có câu danh văn trở thành rất phổ thông “yêu nhau không phải là nhìn vào mắt nhau mà là cùng nhìn về một hướng”, có những cảnh ray rứt giữa viên phi công và bạn của anh ta là thanh tra hàng không dân sự. Người thanh tra hạ lệnh cho người phi công phải đáp xuống nhiều trăm dặm trước khi tới mục tiêu, dừng lại ở một phi trường trên dọc đường, anh nói sao, làm gì có chuyện tôi phải ngủ đêm ở ga nhỏ xíu đó. Mệnh lệnh bất chấp lời khiếu nại, gạt bỏ qua một bên tình bạn thắm thiết phải thi hành, vì rằng để cho tình bạn đứng trên mệnh lệnh cần thi hành thì cuộc chơi sẽ lấy mất cả chiếc phi cơ và mạng người. Phải thi hành, thi hành trước khiếu nại sau, thi hành không cần biết lý do, thi hành dù cho thấy rõ sự phi lý của lệnh, anh hãy đào lên chiếc hố cá nhân tác chiến, anh đã đào xong, lệnh mới là chà láng, chà láng đôi giầy, chà láng khẩu súng chứ sao lại chà láng chiếc hố tác
382 | nguyên sa chiến, phải chà láng chiếc hố, chà láng vừa xong phi lý đổ lên phi lý là mệnh lệnh lấp kín chiếc hố cá nhân tác chiến vừa đào xong và vừa chà láng xong. Tôi hiểu trường học này muốn dạy cho người tân sinh viên bài học thi hành lệnh. Chiến trường không phải là nơi tâm sự bù khú, cũng không có thì giờ để giải thích những lệnh lạc được ban ra. Anh giải thích gì cho người tiểu đội trưởng khi ra lệnh cho anh ta mang tiểu đội đánh giải vây, mở một đường máu, mười chết chỉ có một sống. Người tiểu đội trưởng phải giải thích gì cho người tiểu đội phó phải chạy ra chỗ đạn bắn như mưa để kéo vào một chiến hữu bị trúng thương? Cũng không có những cuộc bàn cãi tại sao lại tôi? Tại sao không chọn một con đường khác để tới mục tiêu? Đào hố, chà láng nó, rồi lấp bỏ, phi lý tiếp nối phi lý có cái lý của nó. Thao trường đổ mồ hôi có cái lý của nó là giới hạn sự đổ máu nơi sa trường. Quân trường hiện ra như một đe dọa với những người sắp đi vào đó. Sa trường lúc nào đọc lên cũng làm người ở trong quân trường phải chú ý. Tôi không phải chỉ chú ý. Những cảm giác khác lạ đầy ắp trong tôi mỗi khi tôi đọc thấy hai chữ sa trường. Khẩu hiệu quân trường đổ mồ hôi, sa trường bớt đổ máu làm chấp nhận, làm e ngại, làm cố gắng, làm thương yêu. Khẩu hiệu quân trường đổ mồ hôi, sa trường bớt đổ máu ở sân bắn, cũng gọi là xạ trường, được kẻ bằng chữ cỡ đại trên mái của của khán đài chỉ huy, nơi chúng tôi mỗi người tiến tới lãnh hai gắp đạn. Khẩu hiệu quân trường đổ mồ hôi này không lớn hơn khẩu hiệu cùng một nội dung ở vũ đình trường, cũng nhỏ hơn khẩu hiệu ở vách tường nhà bàn, cùng cỡ với khẩu hiệu cùng loại ở nhà hội sinh viên sĩ quan, phía
hồi ký | 383 vách tường đối diện với vách tường có vẽ sinh viên sĩ quan mặc quân phục màu trắng cưỡi con ngựa cùng màu trắng. Cho tới khi nhìn thấy khẩu hiệu “quân trường đổ mồ hôi...” ở xạ trường, khẩu hiệu của phòng hội của sinh viên sĩ quan làm tôi cảm xúc nhiều nhất. Bằng hữu cho tôi hay là anh sinh viên sĩ quan khóa 19, người họa sĩ vẽ người sinh viên sĩ quan quân phục màu trắng cưỡi con ngựa đồng màu đã chết trước khi lễ mãn khóa. Anh bị một bạn đồng đội bắn nhầm và chết ngay trong đêm đi kích vì người sinh viên sĩ quan có nhiệm vụ canh phòng ở bên ngoài cổng số chín đã không nghe thấy tiếng anh hô to chỉ thấy bóng đen, anh nẩy cò sau khi “ai đứng lại tôi bắn”. Những khóa đàn em khóac lên bức tranh rất đẹp sự uy nghi của cái chết, sự đe doạ của những huyền thoại. Người này nói lại cho người kia vẽ con ngựa trắng là thế nào cũng phải chết bất đắc kỳ tử. Bạch Mã là con ngựa của ông Quan Công, vẽ lên là chạm điều cấm kỵ. Vẽ bức tranh ngựa trắng có ông Quan Công ngồi trên thì được, Bạch Mã Đồ mà không có quan Công “tẩu mã” là không được. Tôi không tin chuyện anh em kể cho nhau nghe khóa này qua khóa khác, là nhà tắm kế bên nhà ngủ của đại đội tô i đêm khuya có tiếng xối nước. Chạy ra coi thì không thấy ai. Nhưng thấy chiếc nón sắt dùng để múc nước tắm còn chao đảo... Có thể có người nào đó ở đại đội kế bên sang đây xối vài nón sắt nước cho bớt nóng lúc đêm khuya. Tôi chỉ e ngại mơ hồ chuyện ma Thủ Đức, nhưng nhìn lên bức tranh ngựa trắng vẽ trên tường, nhìn khẩu hiệu “quân trường...” ở vách tường đối diện, nỗi e ngại của tôi lớn hơn nhiều. Cảm xúc e ngại và tôn kính khi ở trong giáo đường xâm nhập tôi. Nhưng ở
xạ trường, cảm xúc khi nhìn thấy “quân trường ...” không còn chỉ là e ngại và tôn kính. Đó đã là khởi đầu của sự bàng hoàng. Rồi toàn khối bàng hoàng đổ ập xuống.
- Tất cả theo lệnh tôi!
Tôi đã lãnh hai gắp đạn. Tôi đã đứng vào vị trí chuẩn bị tác xạ. Chưa có lệnh gắn gắp đạn vào súng. Lệnh chuẩn bị, lệnh sẵn sàng. Lệnh tiếp theo lệnh tới tấp làm sự bàng hoàng mỗi lúc một gia tăng. Tôi mơ hồ cảm thấy những tiếng h ô của máy phóng thanh mỗi lúc một lớn h ơ n.
- Mở cơ bẩm!
- Khóa an toàn?
- Đạn lên nòng!
Những mệnh lệnh được h ô cho tập dượt hai lần, lần ba là lệnh thứ thiệt. Hai lần đầu, các hạ sĩ quan dạy thực tập tác xạ, đi tới từng người để chỉnh lại vị trí của báng súng và vai người tác xạ, sự cọ xát phải gọn gàng, phải lọt thỏm, phải ngọt, để lên xương vai như thế này thì không gãy cũng dập xương vai dễ dàng, ông ơi ông tỳ súng lên ngực như thế này thì đi hết ba cái xương sườn là giá chót, chỉnh đầu xúng, hạ xuống, hạ xuống, chĩa thế này là bắn lên trời. Bàng hoàng. Bàng hoàng kế tiếp bàng hoàng. Lần thứ ba khi lệnh thật được ban ra, vẫn có những lệnh cũ được hô to, to hơn, dõng dạc hơn, kích thích hơn. Và tiếp theo là những lệnh khác lạ.
- Hầm bia chuẩn bị!
- Xạ thủ chuẩn bị!
- Mở khóa an toàn!
- Bia lên!
- Bắn!
384 | nguyên sa
hồi ký | 385
Lệnh dồn dập. Cảm xúc tiếp nối và tăng cường. Hình ảnh những tấm bia từ phía xa trước mặt, từ hầm bia dài, do những sinh viên sĩ quan khác đóng vai trò cầm bia làm công việc đưa bia lên. Lệnh bia lên tôi nghe rõ. Lệnh bắn bị che khuất một phần ít nhất những dư âm bị khoả lấp bởi những tiếng nổ chát chúa đồng loạt. Tôi chỉ nghe thấy mơ hồ lệnh “Bia xuống!” Tôi không biết có nẩy cò trễ tràng không, tôi không biết có trúng bia không, trúng bia thôi, nói cho đến chuyện tr ú ng hồng tâm. –
- Bia xuống!
- Bia lên!
- Bắn!
- Bia xuống!
- Bia Lệnhlên!dồn
dập, người xạ thủ có năng khiếu có thể quen với công việc tác xạ ngay khi lệnh bia lên và làm được ngay những động tác kế tiếp hạ súng xuống kẹp dưới nách, làm động tác mở cơ bẩm đưa viên đạn thứ nhì lên nòng, đưa súng trở lên vai, trong tư thế sẵn sàng bóp cò. Tôi thì tôi không có khả năng đó. Tôi lí nh quýnh rõ ràng. Tôi chỉ cảm thấy bớt l í nh quýnh khi còn một hai viên chót của gắp đạn. Tiếng máy phóng thanh rất lớn, tiếng nổ chát chúa, hình ảnh bia được đưa lên từ hầm bia. Tiếng một bạn đồng khóa, sau đó, hỏi tôi cụ có muốn bằng thiện xạ không, tôi trả lời tôi bắn không biết có trúng viên nào không nói gì chuyện bằng thiện xạ, người bạn tốt nói không sao dễ dàng mà, tôi bảo bọn nó “dù i”, tôi nói không không, tôi chỉ mong đủ điểm là tốt, người bạn nói:
- Xong rồi!
Không bao giờ tôi biết anh ta là ai. Tấm bia đã thành cơn lốc cuốn tôi đi. Hình ảnh tấm bia tác xạ trong nhiều phút phủ kín lấy tôi. Bia làm bằng giấy bồi, tôi không nhận ra được độ cứng của bìa bia, nhưng chất giấy cứng đó tôi nhìn biết ngay. Bia là hình đầu người và thân người. Mặt có vẽ tóc, có vẽ mắt, có cái miệng. Tôi không nhìn thấy mũi và tai, không biết có không. Tôi có thấy mắt bia nhìn thẳng vào mắt tôi. Sau khi thực tập, đứng ra ngoài cho to á n khác tiến vô thực tập, tôi có cơ hội quan sát kỹ hơn. Bia chắc chắn chỉ có đầu và thân, không có tay, chỉ dài tới ngang bụng, không có chân. Những anh em trong hầm bia có người đưa bia lên thật cao cho thấy cả cọc bia, có người chỉ đưa lên tới ngực bia hay trên ngực bia chút ít. Tôi không nghĩ gì. Tôi thật sự không tưởng nghĩ gì đến bằng thiện xạ. Những lệnh hô vang vang, những tiếng nổ chát chúa đồng loạt. Khi Sân Bắn, thơ, đến với tôi, bia cũng tới, đầu tiên, không có chân tay, cảm xúc của thơ mang cho Sân Bắn thơ thêm hình ảnh của ta, của địch, của thân phận con người, sự vong thân của bản ngã:
Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch thấy đời lãng du Thấy tay dư thấy chân thừa
Thấy tai nghễnh ngãng mắt mù óc không...
Bầu trời của Sân Bắn có bia lên, có thân người, có ta, có địch, có tay chân thừa thãi, có tác dụng của xạ trường đến nơi thính giác và cả trí tuệ. Óc, tai, hình nhân, giấy bồi, hầm bia, đạn đầu lửa bay trong những buổi thực tập tác xạ ban đêm. Tôi biết kỹ thuật thi nhãn từ trước khi thực hiện Sân Bắn, từ lâu. Cũng như nhiều người làm thơ, tôi có một thời kỳ lục bát buổi đầu đời. Thi nhãn vừa dẫn bài
386 | nguyên sa
hồi ký | 387
thơ vô, vừa dẫn từ câu này sang câu kia, từ đoạn này qua đoạn khác. Luận lý của suy luận là do đó, là cho nên, là vậy thì. Có thể là tất cả những từ đó và những từ tương tự khác cùng loại.
Tất cả mọi người đều phải chết
S ocrate là người
Socrate phải chết.
Chân lý của kết luận chứa ẩn trong những đại tiền đề.
Chân lý của tiền đề, bằng những do đó, là vậy thì, l à cho nên, đi tới kết luận. Nói rõ ra cũng tốt, không nói tới cũng tốt.
Từ ngữ hiện hay ẩn đưa tới kết luận là đưa tới chân lý tất yếu đã nằm trong những tiền đề. Thi nhãn của thơ đưa tới những kết luận khác biệt, không tiên liệu trước được, nh ảy qua trùng điệp những đồi núi, những bình nguyên rơi xuống một miền đất của riêng. Bia lên mở ra thân người, mở ra thế giới mà khoảng cách giữa ta và địch bị tiêu hủy bởi cái chết, mở ra sự thừa thãi của tay chân, sự bất lực của giác quan và trí tuệ. Trong S ân Bắn, thi nhãn hơn một lần làm nhiệm vụ của liên tự, nó cho phép nói nhiều với ít chữ hơn. Bầu trời của thơ không phải là bầu trời cuả sân bắn xạ trường. Bầu trời Sân Bắn thơ có những đám mây của nó, có vài phần vật liệu từ hơi nước bay lên, nhưng lại có nhiều phần mây có màu sắc bay tới từ thế giới nội tâm, có những đám mây màu sắc tình cảm, đám mây màu sắc suy tư, đám mây màu ngậm ngùi thân phận.
Chủ nghĩa tả chân và những anh em của nó, như tả chân xã hội, khó lòng mang lại bầu trời thơ, vì không gian của nó hạn hẹp, chỉ có mây của nước bốc hơi, không có chỗ nào cho những đám mây tuyệt vời kia.
Bầu trời chiều hôm nay
Không. Không bao giờ ta có thể tìm thấy lại bầu trời chiều hôm nay. Bạn có thể tìm lại được vị trí không gian đã dừng bước ở đó ngày hôm qua. Nhưng có gì còn nữa. Trời xanh hôm nay không phải là trời xanh hôm qua, đám mây đang bay qua kia không phải là những đám mây chiều hôm trước. Cường độ của sự phản chiếu của mặt trời có khoảng cách 24 giờ đã khác biệt, nói chi mây, mỗi giờ mỗi khắc đã khác biệt về màu sắc, về hình thể, về tốc độ chuyển động. Các nhà tâm lý học cổ điển còn nhấn mạnh ngay như bầu trời đó bất biến qua thời gian cũng không bao giờ ta tìm lại được bầu trời chiều hôm nay, vì bầu trời đã để lại dấu vết trong tâm hồn làm cho ta không thể tìm lại bầu trời chiều nay, dấu vết của bầu trời còn đó, làm sao tìm lại được bầu trời trong đó trong tâm? Dấu vết của bầu trời ngày mai thâ u lượm được in lên dấu vết của bầu trời trong tâm hồn chiều nay, làm thành trong nội
388 | nguyên sa
hồi ký | 389 tâm một bầu trời khác. Tình yêu thứ nhất không bao giờ trở lại. Nó còn nguyên vẹn trong tâm hồn. Hẳn nhiên có những vết tích tàn phá của thời gian. Nhưng tổng quát, mối tình đầu còn đó. Chính vì thế không bao giờ ta còn tìm thấy nó nữa, tình cảm nhìn ngắm lại không phải là tình cảm đang làm rung động. Tình yêu sống động có tới, ta có cơ may gặp lại nó, tình yêu đó dù cho có tất cả mọi tính chất đặc thù của tình yêu lần thứ nhất, ta vẫn không thể tìm thấy những xúc động lần đầu trong chỗ sâu thẳm của tâm hồn. Tình cảm, bởi vì in dấu vết trong tâm hồn, ta chẳng còn bao giờ tìm thấy nó, tình cảm đến sau hòa nhập với tình cảm đã có và còn đâu đó làm thành một bầu trời khác ở ngoài đó, trong nội tâm, buổi chiều nay. Tình cảm trôi chảy, còn đó mà vẫn trôi đi, còn đó mà tìm không thấy, nhìn thấy mà không bao giờ ta sống lại được tình cảm của một buổi chiều.
Bầu trời trường Võ Bị Thủ Đức mau chóng nhường chỗ cho những bầu trời khác. Bầu trời khóa đàn anh lên đường, bầu trời của những nhầm lẫn dĩ vãng, bầu trời chủ nhật ở trong quân trường.
Chủ nhật chúng mày vào thăm tao Nhớ mang cho tạo mấy miếng, Miếng ngọt miếng bùi, miếng thơm, miếng mặn, Miếng vuông tròn, miếng to nhỏ nhớ mang theo...
Sài Gòn, Sài Gòn, mang cho tao mấy miếng
Miếng ngọt đùi non, miếng các em thơm, miếng dài cổ trắng
Miếng phở đêm Hiền Vương
Miếng gót cao, miếng Bô Na, miếng quần jeans chiều thứ bảy
Miếng còn tiền anh em mình ngồi cà phê nhìn nham nhở
Miếng anh em mình hết tiền đi khơi khơi ngoài phố
Ôi
Miếngngon!văn
nghệ, ôi ngon, thơ tình lả lướt, Miếng nhà in, ôi ngon, tay thợ chữ nét romain, Miếng dạy học ôi ngon
Miếng học trò trêu tao ôi ngon.
Ôi ngon miếng bảng đen
Ôi ngon miếng phấn
Miếng mẹ tao lo cho tao ăn ít, miếng vợ tao sỉ vả tao làm biếng, miếng con tao ngồi trên bụng.
Ôi ngon...
Nhìn trên bầu trời Thủ Đức là những gắn alpha, là khóa đàn anh, là trọng lượng của khẩu garant, là then máy của tiểu liên Thompson, của trung liên Bar, là sức công phá của lựu đạn, của vũ khí mìn. Thấp thoáng, khi bay kế bên, khi chìm lắng tuốt trong sâu, trong bầu trời mây ở phía sau mây, những mới đó mà đã kỷ niệm, những nhớ nhung vừa chớm hiện tưởng như đã ngàn đời, những mến thương vừa bây giờ vừa tiền kiếp.
Cách đây mấy tháng, gặp nhạc sĩ Anh Bằng. Bạn già nói:
- Tôi thích những bài thơ trong Nguyên Sa 1, anh làm hồi ở Việt Nam...
Tôi mơ hồ đoán biết bạn tôi muốn nói gì.
Anh Bằng nói lên điều anh muốn nói, dưới hình thức một cáu hỏi:
- Bây giờ anh còn làm loại thơ đó không ?
Tôi thẳng thắn trả lời anh, có chút ngậm ngùi, nuối tiếc phần nhỏ, chấp nhận sự tất yếu của đổi thay thì nhiều.
390 | nguyên sa
hồi ký | 391
- Không.
- Kiểu như Tuổi Mười Ba?...
Tôi lắc đầu.
- Áo Lụ a Hà Đông?
Tôi cười cảm thông:
- Cũng không.
Người nhạc sĩ thuyết phục:
- Anh không muốn chứ nếu anh làm thì được chứ. Anh làm lại một bài Áo Lụa Hà Đông khác, không được mười thì được chín. Chín thôi cũng độc đáo rồi... Được chứ ?...
Tôi lắc đầu. Tôi muốn nói với người bạn già không được đâu. Bầu trời tình yêu đã đổi khác. Thời anh đưa bàn tay ra cầm lấy một bàn tay, hay ít hơn, chạm vào một ngón của bàn tay thấy như đất trời rung chuyển, thấy nhịp đập của trái tim dồn dập và vang động, mặt nóng bừng bừng, đã trôi qua. Không bao giờ anh tìm lại được tâm hồn chiều hôm đó. Làm sao tìm thấy được khi cánh tay anh đã biết vươn ra nhẹ nhàng và điêu luyện cầm lấy bàn tay của đối tượng, di chuyển lớp lang những bước chân của tình yêu thân xác. Có một thời thấy được hạnh phúc đi trong nắng Sài Gòn. Có một thời để nhìn ngắm những dòng nắng ở đây, ở đó trôi đi. Vả chă ng thơ một là tìm thấy nó, hai là không tìm thấy nó, không có chuyện tìm thấy chín phần mười nó. Trong thơ, chín phần mười là không có gì cả. Thơ khắc nghiệt? Thơ đòi hỏi? Thơ chiếm đoạt? Thơ chỉ tuyệt
Tôiđối.chỉ
làm được trước sau ba bài thơ về quân trường Thủ Đức. Cũng có thể nói trước sau tôi chỉ có ba bài thơ về đời sống quân ngũ theo thể thơ tự do và một bài duy nhất lục bát, Sản Bắc có mang theo bầu trời đó.
Những bầu trời khác đã hiện ra với những đám mây khác, với những nền trời khác, với những đám mây đàng sau trời mây khác. Tôi có tự hỏi nếu như tôi không về thụ huấn giai đoạn hai ở Quân Nhu, không phục vụ ở Quốc Gia Nghĩa Tử, mà đi một đơn vụ tác chiến, bầu trời trên đó, bầu trời trong tâm hồn sẽ đổi khác ra sao?...
392 | nguyên sa
Trường Quân Nhu
Trường Quân Nhu nằm trong khuôn viên trại Lê Văn Duyệt, ngay khu đầu tiên, bên tay mặt, tính từ ngoài đường Lê Văn Duyệt đi vào. Đứng ở trên vọng gác số một, lính gác giặc nhìn thấy con đường Lê Văn Duyệt, thấy con đường đưa vào căn cứ quân sự, tôi biết rõ khu ngoài cùng là trường Quân Nhu, bên trong có những căn cứ nào khác, hẳn nhiên phải có nhiều, nhưng tôi không biết. Tôi biết trước đó, thời trước năm 1963, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, trong khu quân sự này có cơ sở của một cơ quan tình báo có tên là Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, cũng ở phía tay mặt của con đường đưa vào từ ngoài đại lộ, nhưng ở khu nào, ở ngay chính vị trí của trường Quân Nhu thời Đ ệ nhị Cộng Hòa này, hay nhích vào bên trong một hay vài khoảng cách khác. Tôi không định chỗ được. Cảm xúc khi được dẫn giải từ Biệt Kích Đội 4, nơi bị giam cầm, về Tổng Nha Công An để lục hình
hồi ký | 393
394 | nguyên sa
và làm thủ tục xuất ra khỏi Công An, giải giao về Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, cảm xúc khi được trả tự do hai ngày sau, cảm xúc làm hoài niệm được ghi nhận sâu thẳm, định luật tâm lý này cũng có những hệ luận gần như trái ngược với định luật: Cảm xúc làm mờ nhạt hoài niệm, làm cho hoài niệm được ghi nhận mong manh, phai tàn mau chóng. Hoài niệm lung linh ánh sáng của cảm xúc được ghi nhận thẳm sâu nhờ lớp ánh sáng chói chang đó, nhưng chính vì cường độ của ánh sáng có soi chiếu thật rõ một số sự vật làm chói loà, làm không thấy rõ một số sự vật khác. Tôi nhớ những sự việc xảy ra trong mấy đêm giam giữ ở Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, không nhớ gì đến con đường đưa tôi tới đó. Trong mọi trường hợp vọng gác số một nhìn xuống con đường đó. Vọng gác số 2, ở góc bên trái của một trường giáp ranh với đường Lê Văn Duyệt, cũng nhìn xuống ngay hai bên vỉa hè và lòng con lộ. Người lính gác giặc đứng trên vọng gác số 2 còn nhìn thấy con hẻm mang tên chữ số 187 với những sinh hoạt cả ngày lẫn đêm của nó. Ban đêm thì sinh hoạt sum suê hơn, nhưng ban ngày không phải là hưu chiến toàn diện. Ban ngày có vẫy gọi, ban đêm là nắm tay, là ôm vai, là chèo kéo. Nghe thấy rõ cả những mẩu đối thoại, những cuộc trả giá, những lời tình bố vờ, tán phó mát qua đường, những bình luận về số tiền kiếm được từ chập tối của cô gái bán hoa, về số lần đi khách, tiếng gọi chồng mày về kiếm mày Thu ơi, chồng là người hôn phối, ở đây thường là người khách quen, của người tình một hay vài đêm đã cũ và nay không rủ cũng tới. Trong tiêu thuyết Giấc Mơ , có nhiều đoạn nói về đời sống của giới mãi dâm, Sáu Đồng Khởi, Tina Nguyễn Thị
hồi ký | 395
Minh Khai, Mạc La..., hẻm 187 Lê Văn Duyệt, cũng được nhắc tới, hẻm 187 ngoài đời, thời đó, là một trong những vọng quan sát đã mang lại cho tôi một phần tài liệu.
Tôi không còn phải giữ nhiệm vụ lính gác giặc khi về trường Quân Nhu, sau khi học xong giai đoạn 1 ở trường Võ Bị Thủ Đức. Ở Thủ đức, sinh viên sĩ quan phải đóng vai trò lính gác giặc, trường Quân Nhu phần vụ này dành cho những quân nhân cơ hữu phòng vệ trường. Sinh viên sĩ quan, phối hợp với một thượng sĩ, giữ vai trò chỉ huy của toán canh đêm. Tôi trèo lên vọng gác hơn một lần, cũng nhiều lần, nhưng không thể nhiều quá, người lính có nhiệm vụ canh phòng vẫn hay nghi ngờ, lần nào cũng hỏi han vui quá, Chuẩn úy thử chưa, người lính phong chức sớm cho người sinh viên sĩ quan, người sinh viên e dè, người lính tiến tới, có con Hương mới vô nghề ngon lắm, vậy hả, nhân dáng, kích thước, tiểu sử, con nhà lành, có trình độ được liệt kê, Chuẩn úy muốn thử không...
Ban ngày vọng số 1 và vọng số 2 đều không có lính gác giặc. Chỉ có canh gác ở cổng vào. Cổng vào của trường học hiền hòa, có con ngựa gỗ, không có những cuộn thép gai bố phòng nghiêm ngặt, từ các lớp học nhìn ra, thấy xe ra v ô , thấy con ngựa gỗ di chuyển mở, di chuyển đóng, thấy những tàng cây trứng cá khoả rộng trên mặt đất những bóng mát làn nền cho những bày biện trứng cà màu trắng, xen kẽ là những chiếc lá vàng, giống như những trang trí trên chiếc bánh màu nâu đất, nhiều chocolat, bên trên là những giọt crème màu trắng nhỏ li ti. Những gian phòng lớp học chạy dài nối tiếp, kế tiếp, kế toán vật liệu, kho xăng, quân trang dụng, mức an toàn, mức báo động... Môn
Tôi nhận thấy khá rõ ràng, bốn tháng rưỡi ở trường Quân nhu trôi qua mau lẹ. Ngày mãn khóa tới, tôi trong toán chuẩn bị lễ m ã n khóa. Tôi thấy hiện ra, trên sân trường, không phải chỉ có một chiếc bánh màu nâu, phủ kín bởi những hạt crème màu trắng bày biện xen kẽ những hình tượng trang trí có tên là lá vàng. Sân trường có nhiều chiếc bánh, trên mỗi chiếc bánh có một cây nến có ngọn lửa tỏa ra thành tàng xanh, những chiếc bánh bày biện không đều đặn trên mặt chiếc bàn lớn, tương đối phẳng phiu, chung quanh một cột cờ, mỗi sáng thứ hai chúng tôi dưới sự chỉ huy của Trung tá Tú, Chỉ huy trưởng, cùng
396 | nguyên sa học nào cũng có mức an toàn, mức báo động, các anh nên nhớ hàng họ xuống tới mức an toàn là phải xin tiếp liệu ngay, xin tiếp liệu ngay không có nghĩa là xin sáng chiều có, phải chờ, chứ chờ đến khi mức báo động mới xin tiếp liệu, tiếp liệu về trễ, bọn rùa nó đi hành quân nó xin tiếp liệu xăng mà trả lời không có nó bắn ba mươi ly vào kho x ăng của anh là anh ráng chịu, mức tiếp liệu và mức báo động khác biệt không phải theo ngành xăng, ngành quân trang dụng, mà còn khác biệt theo từng món. Mức tiếp liệu xăng khác với mức tiếp liệu dầu cặn, mức tiếp liệu giày bốt khác với mức tiếp liệu giầy vải đi rừng, muỗng nĩa giống nhau, nhưng ví cho nữ quân nhân, a, các anh phải biết quân trang dụng nam quân nhân khác với quân trang dụng nữ quân nhân, nữ quân nhân có ví, có băng vệ sinh, ví tiếp liệu đương nhiên phải ít hơn băng vệ sinh, băng tiếp liệu định kỳ, gạo, đường, sữa, trà, cà phê, tiếp liệu định kỳ, mùng mền, cố định, một lần thôi, ngoại trừ mất, di chuyển trại, hành quân, hoả hoạn, ngoại trừ đáo hạn thay thế...
hồi ký | 397 nhau đứng nghiêm, hát bài quốc ca, làm lễ chào cờ đầu tuần. Trung tá Tú trong những tuần đầu hỏi tôi về Đại tướng Cao Văn Viên. Những nơi tôi đi qua, cả thời gian trước và sau ngày nhập ngũ, tôi vẫn hay được hỏi thăm về bác sĩ Trần Kim Tuyến, về đại tướng Cao Văn Viên. Ngày mãn khóa quân nhu khóa 15, chúng tôi cũng đứng chào cờ, không phải lúc bảy giờ sáng như những ngày thứ Hai đầu tuần mà vào lúc chín giờ sáng. Tôi nhìn cờ lên và tung bay, tôi cùng bạn đồng khóa ngực căng phồng hát quốc ca. Tôi nhìn những chiếc bánh màu n â u rải rác trên sân, từ một tư thế khác lạ, gần kề hơn, phiến diện và to lớn hơn, trong tư thế quỳ. Tôi chỉ còn nhìn thấy chiếc bánh ở góc trái chỗ tôi một chân quỳ một chân chống, mảng kem màu trắng chỗ gần nơi tôi quỳ dày hơn mảng kem phía xa, lẫn trên nền bánh màu nâu có cả những viên kẹo, tôi thấy như đó chính là những viên kẹo nhân đậu phọng mà tôi ưa thích. Đại Tá Nguyễn Tử Đoá , chỉ huy trưởng Quân Nhu, gắn lon. Những bắt tay huynh đệ, những câu hỏi hiền hòa, có cả câu hỏi văn nghệ, phản ánh những quan tâm, tổng quát nghiêm trọng hơn buổi lễ chào cờ mỗi sáng thứ hai nhưng quân nhu hiền hòa và gắn bó, huynh đệ, trước sau vẫn huynh đệ, gắn bó và hiền hòa.
Điều nào đã làm cho bốn tháng rưỡi ở quân trường chuyên môn này đã làm cho tâm hồn tôi có những dấu ấn sâu đậm? Những chiếc bánh ở s â n trường, không khí hiền hòa, huynh đệ, nội dung những bài học quân nhu, những kho xăng, những bồn xăng, xe xăng, tàu xăng, hiện tượng xăng nở và xăng co, hơn một trăm món quân trang dụng, kỹ thuật sắp xếp một kho quân nhu, tiêu chuẩn đánh mã
398 | nguyên sa
số, kế toán tiếp liệu, cái gì đã có sức manh làm cho trường quân nhu khi nhìn lại hiện ra nh ư một thời để nhớ?
Ba năm trước đây, quân nhu đã trở lại vô thức, Koo, Michael Tụ, Liên Hạ cùng nhau trong Giấc Mơ kiểm đếm số lượng giường ngủ một người, giường ngủ hai người, khung giường, nệm giường kiểm đếm gương, bàn rửa mặt, vòi nước, bàn cầu, màn cửa. Tôi viết xong đoạn văn, câu hỏi mới bật lên. Thế giới tưởng tượng này đã khởi đi dù ít dù nhiều từ thực tại nào? Từ những bài học kế toán tại Pháp những năm khởi đầu cuộc đời lưu vong. Trường học kế toán chuyên nghiệp này có mang cho tôi kế toán tổng quát, kế toán giải tích, kế toán chuyên biệt, cũng như kế toán vật liệu. Nhưng kế toán vật liệu đã tới với tôi từ Quân nhu, trở lại trong trong đoạn văn làm thành bởi hơi thở quen thuộc, nhuần nhuyễn, thoải mái. Cũng như không phải chờ tới Giấc Mơ , Quân Nhu mới trở lại hào hứng. Quân nhu trở lại chỉ ba năm sau với Vài Ngày Làm Việc ở Chung Sự Vụ .
Cuốn truyện được khởi đăng trên Trình Bày của Thế Nguyên vào cuối thập niên sáu mươi, từng kỳ. Tôi viết xong toàn bộ đưa cho Thế Nguyên coi, tôi hỏi đăng được không, Thế Nguyên nói đăng, tôi hỏi tịch thu không. Thế Nguyên chặc lưỡi, tôi hiểu có thể, tôi cũng hiểu tịch thì tịch cần gì. Không một kỳ Chung Sự Vụ nào bị tịch thu. Nhưng khi cuốn sách đăng tải xong, tôi đưa cho Phan Kim Thịnh đă ng. Thịnh gọi là “nguyên con”, trên Văn Học , do Thịnh chủ nhiệm, thì sách bị Bộ Thông Tin tịch thu ngay. Thịnh có cho tôi hay chủ nhiệm và tác giả đồng trách nhiệm bị truy tố ra t òa án Quân sự Mặt trận. Tôi không
hồi ký | 399 thấy việc này xảy ra, chỉ thấy tịch thu suông. Chung Sự Vụ là chỉ danh của một cơ quan thuộc Quân Nhu có nhiệm vụ chôn cất những tử sĩ. Danh từ chính xác tôi học được trong khóa thụ huấn quân nhu. Cuộc chiến tranh tuy lớn, kéo dài quá nhiều năm, không có nhiều người biết cơ quan chôn người của quân đội Việt Nam Cộng Hòa có tên là Chung Sự Vụ. Trước đó tôi cũng không biết, biết hẳn nhiên có cơ quan nào đó, nhưng không biết chính xác danh xưng, không biết cả sự kiện Chung Sự Vụ trực thuộc Quân nhu. Dù vậy, tôi chỉ học về Chung Sự Vụ ở Quân nhu. Học lý thuyết, không có thực tập. Cũng như những môn quân trang dụng, xăng,... trường chỉ mang lại cho khó a sinh những bài học lý thuyết. Người nào đi đơn vị xăng sẽ thực tập và xăng. Người nào đi Chung Sự Vụ sẽ học được những kinh nghiệm thực tế ở nơi làm việc đó.
Dù vậy, danh xưng của đơn vị, một số nhiệm vụ của đơn vị được thuyết giảng mau chóng trở thành những ngòi âm ỉ trong tôi, bùng lên trong thời gian cuối thập niên sáu mươi, bốn năm sau, thành Trung úy Lan chỉ huy trưởng Đại đội Chung Sự, thành những chai dầu Nhị Thiên Đường mà những quan nhàn phục vụ tại đơn vị này phải bôi lên mũi để tránh những mùi thối bốc lên từ những tử thi, thành phòng bảo tàng di vật, thành phò ng thiết quan... Cơ sở chọn những người lính bỏ mạng nơi sa trường thì phải có ban bảo tồn di vật giữ lại những di vật của tử sĩ cho thân nhân, phải có cơ sở sản xuất quan tài, phải có tiểu đội đào thường xuyên những huyệt sâu, coi như thành phần sản xuất của đơn vị... Cơ cấu tổ chức trong Đại đội chung sự của Vài Ngày , cũng như Trung úy Lan, cũng như nhân vật
400 | nguyên sa Hải, cũng như cuộc tranh chấp tử thi của Thiếu tá Tình, là sản phẩm của tưởng tượng. Cơ cấu của Đại Đ ội Chung Sự dưới quyền chỉ huy của Trung úy Lan là một cơ cấu được cấu tạo theo tiêu chuẩn hợp lý, nhưng hoàn toàn tưởng tượng. Cái hợp lý không đương nhiên là cái có thật. Quân nhân mang tên Lan trong đời sống thực tế chỉ mang cấp bậc cao nhất là Thiếu Úy, sau 18 tháng Chuẩn Ú y, chưa được gắn lon Trung Ú y bao giờ sau 9 năm tại ngũ.
Chung Sự Vụ
Trong V à i Ngày Làm Việc ở Chung Sự Vụ , Trung úy Lan, chỉ huy trưởng Đại Đội Chung Sự, mỗi sáng đi một vòng thăm các trung đội và tiểu đội, các phòng và ban. Ở khắp nơi, nhất là trong khu Nhà Xác, người cựu giáo sư Việt Văn, đương kim chỉ huy trưởng Đại đội, phát cho các quân nhân thuộc cấp dầu Nhị Thiên Đường. Ngày nào có nhiều, cho mỗi phòng, mỗi ban một chai nhỏ. Những ngày không có nhiều, chai dầu của Trung úy Lan đưa ra được các quâ n nh â n thuộc cấp chuyền tay nhau. Tình bạn, tình đồng ngũ, ở trong Đại Đội độc đáo của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa này hiện ra trong động tác chia nhau chút mùi hương dầu gió. Giống như những nơi khác, người ta hút chung một điếu thuốc, chia nhau một khẩu phần lư ơ ng kh ô , mấy viên thuốc sốt rét. Bầu không khí Đại đội có u uẩn mùi tử khí, trong khu vực của Nhà Xác, mùi tử khí không phải chỉ u
hồi ký | 401
uẩn mà còn, những ngày oi nóng, nồng nặc vì những xác chết để lâu, dầu Nhị Thiên Đường là một nhu cầu.
Trong đời sống thực tế, Trung úy Lan không cấp phát cho thuộc cấp dầu Nhị Thiên Đường bao giờ. Không cấp phát nguyên chai, cũng không chia sẻ hương thơm. Chính bản thân Trung úy Lan cũng không dùng loại dầu gió đó bao giờ ngoại trừ những ngày đau ốm. Chung Sự Vụ có ông Thượng Sĩ Mùi uống rượu như hũ chìm, và ông không uống lén lút, không uống ngoài giờ làm việc. Ông Mùi uống tù tì ngay trong giờ làm việc, đúng ngay lúc ông thực hiện công tác đặc biệt mà ông được giao phó và mọi người trong đại đội cũng như thân nhân của những tử sĩ lặng yên nhìn ngắm ông Mùi uống rượu một cách vừa e ngại, vừa kính cẩn. Thượng sĩ Mùi ráp những thân người vào những tay chân và những đầu người đã bị chém đứt lìa ra khỏi cơ thể. Ông cần chút men, để phủ lên những xúc động ở trong chính bản thân ông. Tôi không biết trong đời sống thực tế có Đại Đội Chung Sự Vụ nào có ông Thượng Sĩ nào làm công việc nhân đạo này không. Người ta xếp hầm bà lằng những thân xác, chân tay và đầu người vào một quan tài hay sắp xếp lại cho trúng đầu nào, chân tay nào cho thân thể ấy? Tôi tự nêu lên câu hỏi và tôi tự tìm thấy câu trả lời cho Đại Đội Chung Sự của Trung Úy Lan.
Tất cả sự thật là tôi chưa làm việc ở một đại đội Chung Sự bao giờ. Tôi cũng chưa đi thực tập, hay thăm viến g, và tệ hơn nữa chưa nhìn thấy một Đại Đội Chung Sự dù chỉ một lần. Tôi cũng không có kinh nghiệm gì về việc chôn cất tử sĩ. Tôi có quen một vài bằng hữu tử trận. Tôi vẫn nhớ mãi nhà văn Song Linh có tập truyện ngắn có lòng ái
402 | nguyên sa
hồi ký | 403 mộ đưa tôi đề tựa đã đền nợ nước trên chiến trường. Tôi làm bài “Nguyễn Quan Đại chết ở Khe Sanh” sau khi nghe tin Trung Úy Nhảy Dù họ Nguyễn rất cao, rất trẻ, rất oai hùng đã bỏ đi. Đám tang của quân nhân tử trận làm tôi cực kỳ xúc động là đám tang của vị Trung Ú y Thụ, phu quân của cô Chu Thị Hảo, Quản Lý của trường Văn Học. Nhà tôi ở phía sau trường. Đó là đêm 24 tháng 12, đêm Giáng Sinh của một năm trong thập niên sáu mươi, gia đình bằng hữu cùng nhau ăn cơm khi chiếc quâ n xa chở quan tài có phủ cờ tới nơi. Người ta giao xác của người chồng tử trận cho cô Chu Thị Hảo, không tìm thấy địa chỉ tư gia, người ta tìm đến nơi làm việc. Tôi hướng dẫn những người có nhiệm vụ đưa linh cửu người chiến sĩ về cho thân nhân tới nhà Hảo. Tôi trở lại ngày hôm sau phúng viếng, nhìn thấy người sĩ quan đứng bất động bên quan tài, làm động tác chào kính khi người thăm viếng lễ vĩnh biệt người quá cố, Hảo trong tang chế màu trắng khóc thảm thiết.
Tôi không biết trong khuôn khổ của một đại đội chung sự có những phòng và ban như phòng bảo tồn di vật, ban thiết quan, ban đào huyệt hay không. Tôi tìm thấy thành ngữ “bảo tồn di vật” nhờ đọc thấy trên một tờ báo loan tin liên hệ đến những di vật của cố TT Diệm như chiếc cặp da, thanh gươm lệnh của người Tổng tư lệnh quán đội được tồn trữ ở phòng Bảo Tôn Di Vật ở Tổng Tham Mưu. Một số những di vật được trả lại cho thân nhân của cố TT Diệm, một số, như thanh gươm lệnh, được lưu giữ trong phòng Bảo Tồn Di Vật vì thuộc về tài sản quốc gia. Bài báo đó tôi đọc trước khi theo học khoa chuyên môn ở trường Quân Nhu. Tôi hỏi sĩ quan huấn luyện về phòng Bảo Tồn Di Vật
404 | nguyên sa
có phải là một phòng trực thuộc Quân Nhu không? Chung Sự Vụ là một cơ quan thuộc Quân Nhu, vậy phải chăng Bảo Tồn Di Vật cũng thuộc Quân Nhu? Bảo Tồn Di Vật là một phòng hay một sở? Trực thuộc Cục hay trực thuộc một Chung Sự Vùng? Người sĩ quan giảng viên mà tôi nêu lên câu hỏi là một chuyên viên về xăng. Anh thích nói chuyện xăng trên tàu dầu và xăng trong bồn chứa, xăng trong trời nóng và xăng trong trời lạnh. Anh dặn dò chúng tôi thật kỹ càng tàu dầu mang xăng tới không được bơm vào bồn ngay phải chờ hai mươi bốn tiếng. Vì sao? Vì rằng khi tàu di chuyển, xăng lắc lư theo con tàu đi, nhiệt độ của xăng tăng lên, xăng dãn nở, cho nên nếu bơm ngay khi tàu dầu cập bến thì đồng hồ đo cho thấy mình đã tiếp nhận 1 triệu lít mà thật ra chỉ chín trăm ngàn. Rồi thì lấy hàng họ đâu mà đền bù vào mức thiếu hụt? Anh dặn chúng tôi thùng xăng xếp lên nhau bắt buộc phải xếp theo hình kim tự tháp, thùng nằm. Không được xếp đứng vì xếp đứng xăng không đầy sát nắp thùng xăng, những miếng cao su ở nắp thùng xăng sẽ bị nắng làm khô và thùng sẽ có kẽ hở làm xăng bốc hơi. Xếp thùng nằm, nắp thùng xăng ở ngang tầm giữa, chất lỏng táp vào cao su bọc quanh nắp thùng, không sinh ra khe hở, không bị bốc hơi, thùng xếp đè lên nhau theo tư thế nằm thành hình kim tự tháp.
Tôi hỏi sĩ quan huấn luyện môn xăng về chung sự vụ, tôi hỏi sĩ quan huấn luyện kế toán về chung sự vụ, tôi hỏi sĩ quan huấn luyện về quân trang dụng về chung sự vụ. Tôi không thu được câu trả lời nào. Tính cách chu yên môn hóa của môn học, kinh nghiệm của các sĩ quan huấn luyện, không có liên hệ gì tới chung sự vụ làm cho tôi chỉ
hồi ký | 405 thu được những câu trả lời mơ hồ, thường là không có trả lời gì cả. Người này khuyên tôi khi nào học đến môn chung sự vụ anh sẽ được cấp phát tài liệu đầy đủ. Người khác cho hay sĩ quan giảng viên về môn chung sự sẽ giải đáp những thắc mắc. Tôi không bao giờ có cơ may gặp huấn luyện viên về chung sự vụ. Khoá huấn luyện của tôi tuy trong chương trình có phần học tập về chung sự vụ nhưng không biết vì lý do gì đã bị bãi bỏ. Một sĩ quan giảng viên cho tôi hay những phần nào không học trên lý thuyết sẽ được học khi đi thực tập trên thực tế. Khoá học Quân Nhu thực ra chỉ có giảng dạy về lý thuyết, không có thực tập nào trên thực tế. Không ai lấy thế làm phiền hà. Người sĩ quan tốt nghiệp được bổ đi kho xăng có cả những năm tháng dài để thực tập với thùng nằm kim tự tháp, với xăng co và xăng dãn nở. Còn Chung Sự Vụ khỏi học, khỏi thực tập không phiền gì ai vì chả có ai có khuynh hướng cảm tình riêng biệt nào với đơn vị này cả. Tôi không hề có ý định, dù mơ hồ, về một cuốn sách loại tưởng tượng hay không tưởng tượng về chung sự vụ cả. Những câu hỏi được nêu lên hoàn toàn bị thúc đẩy bởi khuynh hướng kỳ thú. Trí tò mò là một con sông có nhiều nhánh. Có nhánh trên dòng trôi kết hợp với những con lạch những chất lỏng có nhiều ô nhiễm. Có nhánh được tiếp xúc bởi những dòng tuyệt vời của những con suối trong veo. Nhánh sô ng của các nhà khoa học không giống những nhánh sô ng của các nhà thơ Edgar Poe, nhà thơ Thế Lữ. Dòng thơ trong trí tưởng của nhà thơ có nhánh tò mò, có nhánh kỳ thú, có nhánh tuyệt kỹ. Nhánh sô ng tò mò trong trí tưởng của các nhà khoa học chảy về phía tại sao , tăng cường bởi nhánh chính xác,
406 | nguyên sa người văn nghệ chân trời như thế nào hiện ra x án lạn. Tôi cũng bị lôi cuốn nhiều bởi khuynh hướng kỳ thú. Khuynh hướng kỳ thú trong Thế Lữ hiện ra cả trong tâm sự của con mãnh hổ buồn phiền lẫn trong Vàng và Máu. Bài thơ mở đầu của Lửa Thiêng , Huy Cận, cũng như tập thơ Điêu Tàn, Chế Lan Viên, có những đám mây kỳ thú. Thật nhiều trong Mê Hồn Ca của Đinh Hùng với những Bài Ca Man Rợ, Những Hướng Sao Rơi, Kỳ Nữ... Vài Ngày Làm Việc ở Chung Sự Vụ và Giấc M ơ là những cơ hội bùng lên của khuynh hướng kỳ thú. Khuynh hướng đó, những ngày tháng ở Quân Nhu, thúc đẩy tôi nêu lên những câu hỏi, thúc đẩy tôi tìm hiểu. Khuynh hướng đó thôi thúc mạnh có dấu vết sức mạnh được nuôi dưỡng bởi thực tế. Kể từ năm 1963, tôi dọn về đường Phan Thanh Giản, số nhà 322, phía sau lưng Trường Văn Học. Trường học được xây lên trên một miếng đất trống, trước kia là nơi xưởng cây của bà Đào. Tôi không nhớ họ của bà chủ sở cây này, nhưng nhớ tên bà là bà Đào. Tôi nhớ bà nói tôi trông già hơn tuổi. Trô ng tôi và Nga không ai nghĩ là hai vợ chồng. Trường xây cất dưới sự điều khiển của Nga với sự giúp sức của nhà thầu khoán Đoàn Văn Chi, thuộc về hàng cậu của tôi vì cậu Chi là em họ của mẹ tôi. Trước khi trường xây xong tôi cư ngụ ở đường Pasteur, căn nhà mang số 118, trông sang bộ Giao Thông Công Chính. Dọn về căn biệt thự ngay sau trường Văn Học rất cần thiết cho chúng tôi vì nhu cầu làm việc. Khi trường học xây cất tôi chỉ xuống coi công trường một vài lần và trong thời gian ngắn. Dọn về Phan Thanh Giản, chỉ trong vài ngày tôi “khám phá” ra những người hàng xóm kỳ thú của tôi. Đi từ ngoài đường Phan Thanh
hồi ký | 407 Giản vào, nhà đầu tiên ở phía bên trái là nhà của những ký giả ngoại quốc, có những ký giả như David Halberstam, đối diện với nhà tôi, căn b ê n mặt, tính từ ngoài đường vào. Hai căn nhà bên trong, căn kế bên nhà David Halberstam là nhà Đại tá Hổ, về sau thành tiệm ăn Đại Hàn, căn trong bên mặt, là căn nhà đòn. Xe đòn được để trong sân. Có cả xe đòn chạy bằng động cơ nổ và xe đòn do ngựa kéo. Ngày nào có khách dùng xe ngựa, người ta dắt ngựa tới đây từ sớm, tiếng chân ngựa khua trên nền đường xi măng trong con hẻm vắng, yên tĩnh, làm thành những tiếng động khác lạ trong buổi sớm. Khi chiếc xe thắng ngựa đi ra, là giờ học sinh tới trường chỉ còn nghe thấy tiếng reo vui, đùa nghịch, trêu chọc của những học sinh to hơn vui hơn khoả lấp tiếng ông Giám Thị hét lớn không được chọi phấn, không được chọi phấn.
Phải chăng hình ảnh thường nhật của những chiếc xe đòn nơi tôi đã sống làm cho Chung Sự Vụ vừa được nhắc tới như một cơ quan của Quân Nhu trong bài giảng mở đầu khoá về những cơ sở của Quân Nhu lập tức thành khối nam châm thu hút. Tôi nêu những câu hỏi. Tôi chờ đợi tới ngày có bài giảng về Chung Sự Vụ, ngày đi thực tập ở Chung Sự Vụ. Những chờ đợi của tôi không được thoả mãn. Đại Đội Chung Sự của Vài Ngày có phòng Bảo Tồn Di Vật, có có ban Thiết Quan, có Trung đội Đào Huyệt, có trực thăng tải hàng, bao phủ bởi bầu không khí có hương vị dầu Nhị Thiên Đường, có ông Thượng sĩ Mùi ráp lại những tử thi bị chặt rời, Chung Sự Vụ là một cơ quan có thật, thật sự trực thuộc Quân Nhu, nhưng Đại Đội Chung Sự của Trung úy Lan là một sản phẩm Hoàn toàn tưởng tượng.
408 | nguyên sa
hồi ký | 409 Hình Ảnh
Thi sĩ Nguyên Sa tại tỉnh Provins, Pháp, năm 1949.
410 | nguyên sa
hồi ký | 411 Thi sĩ Nguyên Sa và Giáo sư Nguyễn Hữu Chỉnh đi họp Hội nghị Giáo giới Quốc tế tại Ấn Độ, năm 1963.
412 | nguyên sa Bà Nga, Hiệu trưởng trường Văn Học, với học sinh lớp 12 A11, Sài Gòn năm 1968
Nguyên
hồi ký | 413
Sa, với lớp 12 A4, Văn Học, Sài Gòn, năm 1968.
414 | nguyên sa Thi sĩ Nguyên Sa và vợ con, đứng trước nhà, đường Phan Thanh Giản, Sài Gòn, tháng 2 năm 1975.
Thi sĩ Nguyên Sa và nhà văn Mai Thảo, tại Los Angeles, năm 1985.
Tiễn bạn Ngọn đèn chiếu xuống bức tranh Cầm lên Hà Nội thấy đình miếu xưa,
Tiễn nhau nhớ Tháng Giêng, mưa Sông Hồng nước đọng bóng chưa nhập hình
Tiễn anh linh hiển u minh Cấu vào da thịt thấy mình bỏ đi.
Nguyên Sa, Cali 2-98
hồi ký | 415
Thi sĩ Nguyên Sa và vợ tại Quận Cam, California, tháng 2, 1997.
416 | nguyên sa
Mục lục
Tiểu sử Nguyên Sa Trần Bích Lan (1932-1998) 7
Thay lời giới thiệu: Nguyên Sa, thơ tình không tuổi tác 11
Phần Một 15
Hư Trúc 16
Trịnh Viết Thành 23
Phê bình trên đầu ngọn súng 33
Luật phản thanh 44
Hình ảnh bậc hai 52
Orphée Noire 68
Người mặc áo “mông ta guy” 77
Kinh nghiệm về sự sợ hãi 86
Món súp rồng 110
Sợ hãi, vô thức và dục tình 119
Liên tưởng là cô bạn gái láng giềng 142
hồi ký | 417
Phần Hai 161
Hải dương học 162
Đường Lý Thái Tổ 170
Thơ xuân 178
Báo “Sống” 184
Tạp chí “Sáng Tạo” 193
Vũ nữ Cẩm Nhung 201
Thời kỳ Tiền-Cúc 207
Nồi niêu soong chảo 214
1La condition humaine 224
Cho đỡ buồn 234
Nơi phụ nữ đẹp nhất Việt Nam 241
Phần Ba 267
Bác sĩ Tuyến [1] 268
Bác sĩ Tuyến [2]. Bài thơ gởi Chu Tử 296
Bác sĩ Tuyến [3] người biết quá nhiều 301
Bác sĩ Tuyến [4] chưa bật đèn xanh 305
Bác sĩ Tuyến [5] trung gian quyền lực 310
Bác sĩ Tuyến [6] lộ trình bác sĩ Tuyến 317
Bác sĩ tuyến [7] đường giây tiêu đoàn 329
Bác sĩ Tuyến [8] thất sủng 335 Nhà hàng La Cigale 341
Phần Bốn 349
Hạt cườm 350
Cảm hứng như một bí nhiệm 357
Thèm ăn một chút hoa man dại 363
Thư cho bạn ở tù 370
Thao trường đổ mồ hôi 380
Bầu trời chiều hôm nay 388
418 | nguyên sa
Trường
hồi ký | 419
Quân Nhu 393 Chung Sự Vụ 401 Hình Ảnh 409
420 | nguyên sa