một đêm thứ bảy mai thảo
một đêm thứ bảy mai thảo bìa: pinterest.com trình bày: Muon Phuong nguồn: Thuvienpdf Copyright © 1988 by Mai Thao Muôn phương góp lại, trả về muôn phương
một đêm thứ bảy mai thảo
Một đêm thứ bảy | 7 MAI THẢO (1927-1998) Tiểu sử Tên thật: Nguyễn Đăng Quý, bút hiệu khác: Nguyễn Đăng; là một nhà văn hiện đại Việt Nam. Mai Thảo sinh ngày 8 tháng 6 năm 1927 tại chợ Cồn, thị trấn Cồn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định trong gia đình giàu có nhờ buôn bán và làm ruộng. Tuy nhiên, nguyên quán của ông thì ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh), nay là phường Cự Khối, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.Thuở nhỏ, Mai Thảo học tiểu học ở trường làng, học trung học ở Nam Định rồi lên Hà Nội tiếp tục học ở trường Đỗ Hữu Vị (sau đổi tên là trường Chu Văn An).Năm 1945, ông theo nhà trường sơ tán lên Hưng Yên. Khi chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ năm 1946, ông theo gia đình từ Hà Nội tản cư về quê là chợ Cồn (Nam Định). Sau đó, ông rời nhà vào Thanh
8 |
Mai Thảo Hóa tham gia kháng chiến. Ông viết báo, rồi theo các đoàn văn nghệ đi khắp nơi từ Liên khu III, Liên khu IV đến chiến khu Việt Bắc. Thời kỳ này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương ông. Năm 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến về thành đi buôn. Năm 1954, ông di cư vào Nam, gia nhập làng báo. Ông viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt... Trước kia, Mai Thảo làm nhiều bài thơ (có cả kịch thơ) từ năm 16, 17 tuổi, khi vào đây ông chuyên viết văn, không còn làm thơ nữa. Năm 1956, ông chủ trương báo Sáng Tạo, gây được tiếng vang. Năm 1956, ông chủ trương báo Nghệ Thuật, và từ 1974, ông trông nom tạp chí Văn Ngoài. ra, ông còn tham gia chương trình văn học nghệ thuật của Đài phát thanh Sài Gòn từ 1960 đến 1975.Ngày 4 tháng 12 năm 1977, Mai Thảo vượt biển. Sau nhiều ngày đêm trên biển, thuyền tới Pulau Besar, Mã Lai. Đầu năm 1978, được người em bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Ít lâu sau, ông cộng tác với tờ Đất mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại.
Một đêm thứ bảy | 9 Tháng 7 năm 1982, ông tái bản tạp chí Văn, làm Chủ biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Ông có bài đăng trên tạp chí Làng Văn và sách do Làng Văn xuất bản (Ngọn Hải Đăng Mù). Nhà văn Mai Thảo mất tại Santa Ana, California – Hoa Kỳ ngày 10 tháng 01 năm 1998. o O o Trong tập truyện này, Một Đêm Thứ Bảy, chúng ta sẽ đọc được những câu chuyện đời với tất cả những nghịch lý, oái oăm, trớ trêu của nó nhưng cũng với tất cả cái đáng yêu và nhất là cái thật của nó.
10 | Mai Thảo
Một đêm thứ bảy | 11 NGƯỜI BẾP PHỤ Ở CABRAMATTA Tiệm ăn nằm ở một vị trí thất thế. Tận cuối đáy con đường, nơi quang cảnh đã tiều tụy, sự đi lại thưa vắng, không bãi đậu xe, còn ở trên một tầng lầu dưới đường không hay biết nếu không có một tấm bảng tiệm và một mũi tên chỉ lối đi vào là một cầu thang xi-măng nhỏ chật tối tăm giữa hai vỉ tường trần trụi. Trọn một buổi sáng đi dạo trong khu Cabramatta náo nhiệt, tôi mới tới Úc châu và Sidney lần đầu, chân đã mỏi và bụng đã đói, tôi vào đại không muốn tìm kiếm một nhà hàng nào khác nữa. Cũng không đến nỗi. Còn khá hay. Tửu lầu không khang trang nhưng bên trong sạch sẽ ngăn nắp, người chủ tiệm Trung Hoa tiếp khách niềm nở. Và điều làm tôi bất ngờ, bữa ăn trưa nhẹ nhàng, một đĩa tôm xào và một tô canh rau người chủ đích thân bưng từ trong bếp ra là của một người đầu bếp biết nấuTôiăn.ăn uống ngon lành trong bầu không khí buổi trưa yên tĩnh vắng lặng, rất hài lòng với chính mình đã gặp được một tiệm ăn có hạng vì không bận tâm gì đến cái bề ngoài xập xệ của nó, tôi đã có chút
12 | Mai Thảo đỉnh kinh nghiệm về nhà hàng, có những cửa tiệm thật choáng lộn mà bếp nước lại chẳng ra làm sao. Người chủ tiệm bưng tới một bình trà cúc khi thấy tôi buông đũa, nói là nhà hàng mới. Tôi cám ơn ông ta và gật đầu khen: – Đồ ăn rất ngon. Người chủ gầy guộc, đã đứng tuổi, hỏi bằng một giọng mừng rỡ, ý chừng ít khi ông ta được khách hàng ngợi khen như thế: - Thật không, thưa ông? - Thật, ông thấy rồi đó, tôi đã ăn hết. Chỉ ngạc nhiên tiệm ta nấu nướng ngon lành, món nào ra món ấy, sao khách không đông. Tại địa điểm chăng? - Địa điểm? Vâng, có đúng thế một phần. Khúc cuối đường này đuổi hẳn so với khúc sầm uất ở đầu trên. Tôi mới mở được nửa năm. Vì không quen nghề, mấy tháng đầu lại không may mướn nhầm phải một người đầu bếp nói là từ Hong Kong sang và không được một điểm nào đúng với lời ca tụng của người trung gian giới thiệu. Cho hắn ta nghỉ, chưa tìm được người thay thế, tôi đành để tạm anh bếp phụ trẻ làm thay. Không ngờ anh ta lại nấu được hơn bếp chính. – Thế là trong cái không may lại có cái may rồi đó ông.
Một đêm thứ bảy | 13 – Vâng, tôi đặt hết hy vọng vào anh bếp phụ này. Anh ta người Chợ Lớn. Nhưng tiệm đã bị mất tiếng từ lúc đầu chắc phải một thời gian nữa mới khá được hơn. Ông dùng bữa hài lòng, xin giới thiệu với bạn bè Ngườicho…chủ chào tôi, trở lại với đám sổ sách ở sau quầy. Và tôi uống xong ly trà cúc vừa toan đứng lên tính tiền thì nhìn thấy Woòng từ trong bếp đi ra và tiến thẳng tới bàn tôi. Thoạt đầu, tôi không nhận được ra Woòng, cũng sẽ chẳng bao giờ nhận được ra, ngoài một khuôn mặt quen quen đã gặp, rất lâu, ở một nơi nào đó, nếu Woòng không tức khắc giới thiệu, bằng cái giọng lơ lớ đặc biệt của một người Việt gốc Hoa ra đời ở Chợ Lớn:- Ông Năm! Tôi là Woòng đây. Woòng đã ở cùng trại tạm trú Pulau Besar với ông. Ông còn nhớ tôi không?Pulau Besar. Đất trời Mã Lai Á. Trạm dừng chân nơi nửa chừng đường trôi dạt của cuộc hành trình vượt biển. Những bãi cát Pulau Besar dưới nắng đảo dữ dội. Những rừng dừa Pulau Besar chạy dài tới bất tận. Ngày tháng sống ở Pulau Besar, dưới một mái lều vải chờ ngày được bảo lãnh tới Mỹ. Những
14 | Mai Thảo thuyền nhân như tôi, cùng vượt biển như tôi, cùng sống với tôi suốt thời gian sáu tháng tôi ở Pulau Besar. Và Woòng là một trong những người ấy. Pulau Besar. Điều gì tôi có thể quên. Nhưng Pulau Besar thì mãi mãi và trọn đời còn nhớ. Từng khuôn mặt. Từng tên người. Chỉ cần cái tên Pulau Besar được nhắc lại. Woòng đã nhắc tôi và tôi nhớ lại Woòng liền. Tận cùng. Hoàn toàn. Như không phải tôi vừa tình cờ gặp lại Woòng trong một tiệm ăn ở Úc Châu tôi mới tới lần đầu, sau ngót mười năm xa cách. Mà như tôi vẫn đang cùng xuống bãi biển với nhau ở Pulau Besar vậy. Tôi vội vã đứng lên. Và nắm chặt lấy tay Woòng mừng rỡ: – Trời, anh Woòng. Tôi nhớ anh rời trại trước tôi. Còn nhớ cái trường hợp đặc biệt của anh là không xin qua Mỹ, chỉ một mực tới Úc. Nhưng đâu có ngờ gặp anh ở tiệm ăn này. Tôi nhìn Woòng kỹ hơn: – Anh nhắc lại Pulau Besar là quá hay. Không nhắc, thú thật cũng khó mà nhận ra đấy nhé! Gần mười năm rồi còn gì, Woòng. Woòng gật đầu, nhìn xuống mình với nụ cười thiểu não: - Ông không nhận ra được cũng phải. Chính tôi còn không nhận ra tôi. Tôi chẳng còn một chút gì của tôi xưa, tôi thân tàn ma dại quá chừng rồi, đến
Một đêm thứ bảy | 15 cái mức ông không thể nào tưởng tượng được, phải vậyThânkhông?tàn ma dại. Chẳng còn một chút gì của tôi xưa. Về mình, quả là Woòng vừa nói với tôi một sự thật, một sự thật buồn phiền và tàn nhẫn. Đồng bào cùng sống với tôi ở Pulau Besar, tôi gặp lại khá nhiều sau ngày rời trại. Ở Mỹ. Ở Âu châu. Nhiều nơi khác nữa. Trên đường phố. Trên một chuyến xe bus. Trong một tiệm ăn. Với hầu hết, chỉ ngơ ngờ một chút rồi nhận được ra ngay và mừng rỡ la lớn, mặc dầu ở người nào cũng có những dấu tích của thời gian và của đổi thay. Nhưng ở Woòng thì là những dấu vết thê thảm của một đổi thay tận cùng và thê thảm. Như Woòng không còn là Woòng. Không. Mà đã là một người khác. Thời gian ở Pulau Besar, Woòng là một thanh niên mạnh mẽ, tráng kiện, rất bảnh bao, rất hào hoa phong nhã, tôi nhớ được nguyên vẹn về Woòng như vậy. Một thứ thuyền nhân con nhà giàu, một thứ tỵ nạn công tử. Vượt biển, nhưng là một chủ tàu, Woòng đã tới Pulau Besar trên một con tầu mới tinh, với những thực phẩm một khoang đầy ắp mang theo mới dùng hết một phần, còn cả một thùng cô nhắc mười ngày lênh đênh chưa uống hết.
Vào Pulau Besar, Woòng thảy liền ra hai lạng vàng, mua lại ngay căn lều khang trang nhất ở khu
16 | Mai Thảo A là khu đắt tiền nhất, đối diện với hội trường trại. Quần áo lúc nào cũng thẳng nếp, mái tóc đường ngôi thẳng tắp, Woòng được tiếng là người ăn diện nhất trại. Và chứng tỏ cho tiếng khen này là một cung cách tiêu xài rất đế vương. Có như trước ngày đóng tàu vượt biển, cậu Lý Dình Woòng, con trai lớn của một đại xì thẩu triệu phú ở Chợ Lớn tiêu xài, ăn tiêu ngất trời thế nào, thì một trại tạm trú ngang đường trên đất Mã, Woòng vẫn tiếp tục được một lối sống phong lưu huy hoàng như vậy. Tôi còn nhớ những lần Woòng sang lều, cho tôi rượu, cà phê, thuốc lá và những vật dụng cần thiết như quần áo, mùng, đệm thứ nào cũng rất mới và thật sang đối với một thuyền nhân vượt biển. Cho tôi mượn tiền nữa, nói là chừng nào người thân gửi ông trả lại tôi. Nhất là những lần Woòng dúi tiền cho bọn cảnh sát Mã tham nhũng, lấy cả xấp giấy phép rời trại, mượn hai chiếc taxi, rủ cả bọn tôi cùng đi ăn nhậu và tìm giải trí ở thành phố thủ phủ Trenganu từ sáng sớm tới chiều tối mới trở về. Những lần đại náo thành phố Trenganu ấy, với cái dãy dài toa đen không tiền không bạc chúng tôi mắc vào cái đầu tầu trên tiền trên bạc Lý Dinh Woòng, là những ngày hội lớn. Tiền giờ trả thêm cho hai người tài xế Trung Hoa, tiền ăn sáng ăn trưa, vé vào cửa coi phim chưởng, coi tuồng Tàu, Woòng đều bao trọn hết. Cười cười. Như không. Những nơi chốn ăn chơi
Một đêm thứ bảy | 17 và giải trí cầu kỳ sang trọng nhất của Trenganu, đám thuyền nhân trần trụi chúng tôi không bao giờ dám mơ tưởng tới, nếu Woòng biết là “đi đi” và kéo theo cả bọn chúng tôi tới liền. Như cái lần Woòng dám đãi chúng tôi cả một bữa ăn trưa vương giả ở một ngọn đồi, và sang trọng đến độ vị lãnh sự Pháp ở Trenganu chỉ họa hoằn mới dám tới, khi có thương khách và thượng cấp từ Paris sang. Như một lần có một đoàn vũ Tây Phương tới Mã Lai trình diễn, đêm đó hai giờ sáng chúng tôi mới về tới trại, giá vé chợ đen cắt cổ Woòng vẫn ung dung bỏ tiền mua đủ, còn hách dịch đòi chủ rạp lúc xếp chỗ phải xếp thuyền nhân vượt biển Việt Nam ngồi ở hàng đầu. Tóm tắt là công tử chịu chơi, trăm ngàn đổ một trận cười như không, đó là anh chàng Tầu lai Lý Dình Woòng tôi đã sống cùng ở trại tạm trú Pulau Besar ngót mười năm về trước. Ngày tiễn Woòng lên đường đi Úc Châu, chúng tôi đã góp tiền đãi Woòng một bữa tiệc lớn, giết đến hai con dê làm món nhậu, rượu uống thả dàn đến sáng. Trước đất Úc xa xôi, với cái sức xài tiền như nước của Woòng, tôi đã tiên đoán ngay từ Pulau Besar cho Woòng những ngày tháng khó khăn sắp tới. Nhưng đâu có ngờ Woòng tới Úc, đã rớt xuống tới đáy, tới cũng như anh phụ bếp Woòng đang đứng trước mặt tôi. Mái tóc bóng nhảy ngày trước chỉ còn
18 | Mai Thảo là một mái tóc bù rối. Cặp mắt tinh anh ngày trước chỉ còn là một cặp mắt sâu trũng, mệt mỏi, chung quanh đầy những nếp nhăn chán chường. Một biến hình, biến tướng hoàn toàn. Trên chiều hướng tang thương nhất của biến hình biến tướng. Tôi hỏi: – Ngồi với tôi ít phút được không? Woòng gật đầu: - Chưa có khách, không sao. Tôi khen: - Phục anh có trí nhớ thật tốt. Ngần ấy năm trời, nhận ngay lại được tôi. Woàng cười buồn: - Tôi cũng phải nhìn đi nhìn lại ông từ sau khung kính nhà bếp mới chắc chắn là không nhìn lầm. Ông không thay đổi mấy, chỉ già đi chút đỉnh. Thoạt đầu tôi không muốn ra. Như đã từ lâu, chẳng còn muốn gặp lại những người quen biết cũ. Nhưng ông đã ở Pulau Besar với tôi, ông khác, không thể nào không ra chào ông một tiếng được. Ông tới Sidney làm gì? Còn chơi lâu không?
– Anh đã làm rất phải, anh Woòng. Tôi thật mừng được gặp lại anh ở đây. Tôi đi theo một đoàn trình diễn. Chúng tôi đã ở Melbourne một tuần, Brisbane
Một đêm thứ bảy | 19 một tuần nữa. Sidney là chặng diễn chót. Tôi còn ở đây được hai ngày nữa thôi. Ngày mốt lại cùng anh em trong đoàn trở về Mỹ. Không sao, trước khi về phải nhậu với anh một trận túy lúy. Ngày trước ở Pulau Besar anh đãi bọn tôi quá trời. Giờ anh phải để tôi mời lại anh ít nhất cũng một lần. Woòng đồng ý. Cho tôi biết anh rảnh buổi chiều ngày hôm sau, có thể thu xếp việc bếp nước của tiệm ăn tới 6 giờ là xong, sau đó có thể đi với tôi tới khuya. Tôi sửa soạn rời tiệm. Chỉ mấy dĩa đồ ăn ăn hết:– Ngày trước tôi chỉ biết anh là một thực khác lừng danh của các nhà hàng. Đâu ngờ anh còn làm chủ một nghệ thuật nấu ăn thượng thặng nữa. Dấu tài nghề kỹ quá. Woòng cười, nụ cười héo hắt: - Tôi đâu biết làm ăn gì. Chỉ biết ham mê chơi bời nên bây giờ khánh tận cũng đáng lắm. Sang tới đây, thất thế, đầu gối phải bò đấy thôi. Ông đừng cười tôi. Woòng đưa tôi ra cầu thang, tiễn chân tôi xuống đường. Lúc bắt tay tạm biệt Woòng và hẹn ngày mai sẽ tới tiệm đón, tôi mới hỏi điều đã muốn hỏi ngay từ đầu:–Anh vẫn ở với Lệ Hoa đấy chứ?
20 | Mai Thảo Tôi hỏi rồi hối hận liền đã hỏi. Vết thương kín thầm vì câu hỏi đã được khơi dậy. Cặp mắt Woòng mờ hẳn đi, như có một làn sương khói phủ qua. Thở dài não ruột, cúi nhìn xuống đất, Woòng lắc đầu nói nhỏ:– Nó bỏ tôi từ ba năm rồi, nói là sang Mỹ ở. Ông chưa gặp nó lần nào sao? Sự đau đớn rõ rệt không che dấu khiến tôi bùi ngùi:-Chưa, tôi đâu có ngờ và rất ân hận cho anh. Woòng đưa tay lên bóp trán, làm nổi hình những đường nhăn tuyệt vọng trong mắt u uất: - Cũng tại tôi cả. Tôi mù quáng nên không còn hiểu biết gì nữa. Nhớ ở Pulau Besar, ông đã xa gần cảnh tỉnh nhưng đâu tôi có chịu nghe. Cũng là cái số tôi nó thế. Thôi, để mai gặp nói chuyện. Không chừng tôi phải nhờ vả ông một việc khi ông về Mỹ. Rồi Woòng lủi thủi đi trở vào cái cầu thang hẹp tối. Cái số. Cái số khốn nạn. Cái nợ. Cái nợ tiền kiếp. Định mệnh. Như một vì sao xấu. Chỉ biết giải thích như thế cho Woòng, bởi chẳng có một giải thích nào hơn. Điều rất lạ lùng là Lệ Hoa sự bất hạnh một đời
Một đêm thứ bảy | 21 ấy của Woòng lại không phải là một ác phụ như thông thường phải là như thế. Tôi không quen nhưng gặp Lệ Hoa đã nhiều lần ở Sài Gòn. Lúc đó, cộng sản vừa chiếm nốt được miền Nam và Sài Gòn phơi bày một cảnh tượng sống cực kỳ hỗn loạn. Một vùng hỗn loạn trong vùng hỗn loạn rộng lớn ấy là những quán cà phê lộ thiên mọc lên như nấm trên các vỉa hè, đông đặc nhất ở các vỉa hè quận Nhất. Và cùng với những quán vỉa hè này, những “cô hàng chè xanh” như trong một ca khúc của nhạc sỹ Canh Thân, giữa đổi đời đã kéo hết ra vỉa hè bán cà phê bởi không biết làm gì khác hơn lúc đó. Lệ Hoa là một cô hàng của đổi đời như vừa nói. Một cô hàng xinh đẹp, duyên dáng cho nên cái quán cà phê nhỏ của nàng ở khúc vỉa hè nằm trên ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt lúc nào cũng đông đặc khách. Khách, cố nhiên phần lớn là thanh niên, đến không phải vì cà phê mà để chiêm ngưỡng cái nhan sắc chim sa cá lặn của cô chủ quán và thả lời ong bướm. Một vài buổi chiều đi ngang qua, tôi cũng đã dừng lại ở quán lộ thiên này. Nhìn Lệ Hoa tươi cười trước những lời tỏ tình, những chọc ghẹo, thầm công nhận ở người con gái một sức hấp dẫn đặc biệt. Hàng trăm chàng trẻ tuổi của Saigon vô công rồi nghề đã xao xuyến trước sức hấp dẫn ấy, và
22 | Mai Thảo người bị chấn động nhất, bị Lệ Hoa làm cho mê mẩn nhất là cậu công tử Chợ Lớn Lý Dình Woòng. Ấy là sau này tới Pulau Besar, Woòng đã tỏ lộ hết tâm sự với tôi như vậy. Tôi mê nó đến mất ăn mất ngủ, Woòng nói. Ngày nào cũng phải từ trong Chợ Lớn mò ra, không ra không chịu được, Woòng nói thêm. Ngồi từ lúc Lệ Hoa mở hàng. Ngồi tới lúc Lệ Hoa dọn quán về. Biến cái xe đắt tiền của Woòng thành cái xe chở mọi thứ đồ đạc và dụng cụ bán hàng cho Lệ Hoa, mỗi ngày, mỗi ngày. Theo đuổi Lệ Hoa như theo đuổi của Woòng đã là một theo đuổi tới cùng và bằng tất cả sức mạnh của một đam mê thả buông không kìm giữ. Đến mù lòa. Đến mất trí. Bấy giờ Woòng đã có vợ. Một đứa con nhỏ nữa. Nhưng gã đàn ông si tình đã bỏ hết, bỏ hết để lao đầu đi trên cái dốc đam mê. Quyết tâm tranh cướp Lệ Hoa bằng được, bằng bất cứ giá nào, cuối cùng Woòng đã đạt được mục đích. Mọi chàng trai khác bị đánh dạt hết ra. Biết gã Tầu lai chết mê chết mệt vì mình, lại trên tiền trên bạc và tiêu xài như rác, Lệ Hoa cũng xiêu lòng. Bằng lòng dẹp quán. Về sống với Woòng. Với một điều kiện. Khúc này của cuộc tình chính Lệ Hoa thuật lại với tôi, một buổi chiều đi dạo với tôi trên bãi biển Pulau Besar: – Lúc đó, Saigon đâu đâu cũng chỉ có chuyện đóng tàu vượt biển chạy ra nước ngoài. Mấy con bạn
Một đêm thứ bảy | 23 thân đi được, viết thư về tả đời sống mới tự do, sung sướng của chúng nó ở Mỹ, ở Âu Châu khiến cháu ham quá, đầu óc lúc nào cũng chỉ cầu mong một ngày vượt biển. Nhưng cháu tứ cố vô thân, chỉ có một đứa em gái với mình, không tiền bạc cũng không tìm ra manh mối thì làm sao đi được. Rồi cháu gặp Woòng. Cháu nghĩ gã Tầu lai này yêu mình thật tình, nó lại có tiền, mình cũng chẳng cành vàng lá ngọc gì, thôi ở với nó cũng được, chỉ ghét một điều là nó ghen tuông quá trời quá đất. Cuối cùng cháu bằng lòng lấy với hai điều kiện: một là Woòng phải mua tầu, đóng tầu đưa cháu vượt biển ra nước ngoài sống. Hai là Woòng phải đưa cả con Xuân em cháu cùng đi. Hai điều điện tiên quyết ấy của Lệ Hoa, cố nhiên Woòng đã phải nghe theo, mặc dầu những người Trung Hoa ở Chợ Lớn thời gian đó chưa bị đàn áp, chưa bị đe dọa. Bỏ ra một khoản tiền lớn, đâu tới hai ba trăm lượng vàng gì đó, Woòng xuống Rạch Giá mua được một con tầu. Chuẩn bị dầu mỡ, lương thực, cho thêm một số người quen biết cùng đi, rồi một đêm tối trời ở một khúc bãi Rạch Giá vắng khuất Woòng đưa hai chị em Lệ Hoa cùng mình vượt biển. Và Lệ Hoa đã thực hiện được giấc mộng lớn nhất của đời nàng, cuộc đời của một đứa con gái nhà nghèo, một đứa con gái bán quán. Chuyến đi bình yên. Họ tới được Pulau Besar.
24 | Mai Thảo Thời gian thảnh thơi, sung sướng của Woòng ở Pulau Besar rất ngắn. Chỉ được một hai tháng đầu. Đó là thời gian Lệ Hoa còn nguyên hình một thuyền nhân vượt biển, sống đơn giản và đúng đắn với Woòng. Sáng sáng đi xuống bãi tắm, đi lấy lượng thực. Với Woòng. Chiều chiều ngồi học lớp tiếng Anh cạnh Woòng. Sang lều tôi chơi, mượn sách báo đọc, lâu lâu xuất trại, đi chơi Trenganu, chiều về, tất cả cùng với Woòng. Làm bếp, mời tôi sang lều ăn cơm, bàn tính và hỏi ý kiến tôi nên xin tới đệ tam quốc gia nào, đều cùng bàn tính với Woòng. Cả hai đều thích tới Mỹ. Với Lệ Hoa đó là lục địa rộng lớn của một đời sống an toàn tươi tắn, chắc chắn còn thân thuộc vì số người tỵ nạn cao nhất, còn được sự vui mừng gặp lại đám bạn gái ngày xưa. Woòng cũng thích sang sống ở Mỹ, vì nghe có những khu Chinatown sầm uất ở Nữu Ước, ở Cựu Kim Sơn, những nơi Woòng hy vọng cũng mở được một cửa tiệm như cửa tiệm ở đường Tổng Đốc Phương Chợ Lớn. Thành ra thấy tôi lập hồ sơ xin tới Mỹ, Lệ Hoa và Woòng cũng vội vã làm theo. Còn hẹn với tôi cùng về tiểu bang California. Để lại sống gần nhau như ở đảo. Sóng gió nổi dậy, hạnh phúc lung lay khi người con gái Saigon bán quán lẳng lơ từng một thời gian có cả bầy người trẻ tuổi theo đuổi ở Lệ Hoa thức dậy. Pulau Besar cũng có những bầy người trẻ tuổi rung động trước nhan sắc của Lệ Hoa như thế. Họ đụng
Một đêm thứ bảy | 25 đầu hàng ngày ở bãi tiếp tế lương thực, trên đường Lệ Hoa xuống bãi tắm nắng, buổi chiều trong những quán cà phê vây quanh khu hội trường, đùa cợt, tán tỉnh, chọc ghẹo, bất chấp sự có mặt của Woòng ở cạnh. Lệ Hoa rất yêu thích cái không khí trẻ trung ấy và chỉ hơn một tháng sau kể từ ngày cùng Woòng tới đảo nàng đã có hàng chục bạn trai. Tôi thấy chuyện cũng thường. Dễ hiểu nữa. Sau một chuyến vượt biển sinh tử cộng với những ngày tháng tù hãm ở quê nhà dưới chế độ mới, một người con gái nào cùng lứa tuổi với Lệ Hoa cũng muốn tức khắc lao mình vào những cuộc vui, tận hưởng những lạc thú ở đời do đời sống tự do đem lại. Lệ Hoa lại đã có hôn thú chính thức với Woòng. Cùng lập hồ sơ xin được tiếp nhận tới Mỹ với Woòng thì Woòng ở đâu cũng phải ở đó thôi. Họ sẽ rời Pulau Besar một ngày và sẽ chẳng còn gã con trai nào theo đuổi Lệ Hoa được nữa.Nhưng là một người ghen tuông ghê gớm, Woòng đâu có chịu hiểu như thế. Mỗi lần thấy Lệ Hoa rời lều xuống bãi tắm với một bầy con trai vây bọc ở chung quanh, mỗi lần Lệ Hoa ngồi trong một quán cà phê giữa một bầy người trẻ tuổi, kẻ nắm tay, kẻ ôm vai, là Woòng xám xanh mặt mũi và muốn phát điên lên. Woòng la lối, cấm đoán, dọa nạt nhiều lần nhưng Lệ Hoa đã lăn mình vào những cuộc vui rồi thì trời đất
26 | Mai Thảo cũng chẳng thể nào cản ngăn được nữa. Sự khổ sở của Woòng khiến tôi ái ngại. Một hôm tôi hỏi: - Có chuyện gì thế Woòng? Woòng giơ cả hai tay lên trời: – Ông không thấy sao? Con vợ tôi với mấy thằng khốn nạn. – Thì cũng là cô ấy ham vui thôi, có chuyện gì đâu.Woòng nghiến răng: – Tôi không chấp nhận được. Tôi đã tiêu tan một đời vì nó. Càng ngày nó càng quá thể. Đêm qua đi tới hai giờ sáng mới về. Gần như đêm nào cũng vậy. Bọn chúng coi thường tôi quá chừng. Nhất là thằng trưởng trại. Còn riễu cợt tôi nữa. Tôi sẽ giết chết nó. Tôi hết lời khuyên can Woòng. Nói thời gian ở đảo, chuyện gì cũng phải chịu đựng, kiên nhẫn, tuyệt đối không được gây rối, không được hành hung người, nếu không hồ sơ sẽ bị hủy bỏ, có khi còn bị cảnh sát Mã bắt giữ. Woòng cũng biết sợ, không dám làm dữ. Và tôi thì thầm cầu mong gã Tầu lai đáng thương được tuyên thệ sớm ngày nào hay ngày ấy, để gã đưa Lệ Hoa đi, đi xa hẳn bầy người trẻ tuổi ở Pulau Besar.
Không may cho Woòng, cho cả tôi nữa, là nhịp nhận người tới Mỹ thời gian ngày này chậm hắn lại. Gần như ngưng đọng. Cả tháng không thấy phái đoàn Mỹ tới. Chỉ có phái đoàn Pháp, phái đoàn Úc mỗi tuần một xuống Kuala Lumpur. Trong khi chờ đợi đám bạn trai của Lệ Hoa ngày một đông hơn, đêm đêm Lệ Hoa trở về lều khuya hơn, có lần đi khiêu vũ với
gã trưởng trại Tre ngang tới sáng hôm sau mới về trại. Thấy con nhỏ có phần quá đáng, một buổi chiều tôi rủ xuống bãi tắm đi dạo và khuyên can không nên có một lối sống quá buông thả như vậy. Lệ Hoa hỏi: – Woòng nhờ ông? – Không, đây là tự ý tôi. Vì thấy Woòng là một người chồng tốt rất đáng được cô nể trọng. – Cháu vẫn nể trọng. Biết ơn nữa. Không có ảnh làm sao chị em rời khỏi được Việt Nam. - Biết được như thế là rất tốt, tôi nói. - Nhưng ảnh ghen tuông quá trời. Cháu đi Trenganu, đi ngồi quán, đi tắm cùng với họ là ham vui thôi, không làm chuyện gì bậy bạ. - Cho Woòng biết rõ như thế. – Ảnh đâu chịu nghe. Cháu không muốn về lều nữa vì đêm nào cũng bị nghe chửi mắng tới sáng.
Một đêm thứ bảy | 27
28 | Mai Thảo Còn đánh cháu, đánh cả em cháu đến thâm tím mặt mũi. Sống với ảnh bây giờ còn khổ hơn hồi còn ở nhà. Như địa ngục vậy. Ảnh còn tiếp tục thế này chắc cháu không ở được đâu. Lệ Hoa nói thành thật. Lời trần tình hợp lý. Đúng là đứa con gái chỉ ham vui chứ chưa làm điều gì đến không thể bỏ qua không thể tha thứ. Trong khi đó Woòng thay đổi ý định. Không xin đi Mỹ nữa. Và đem chuyện này nói với tôi. Nói, buồn bã, đau đớn: – Chắc tôi không xin đi Mỹ nữa. Tháng này, mọi người đang được đón vào Úc thả dàn. Tôi cũng xin đi Úc cho xong. Quyết định của Woòng khiến tôi kinh ngạc. Trước hết, hủy bỏ hồ sơ đã lập tới một nước, xin đổi tới một nước khác, thủ tục rất phiền phức vì phải làm lại từ đầu. Sau nữa, Woòng không hề có ý muốn tới Úc bao giờ. Còn chê bai đủ điều cái quốc gia đệ tam kia là Úc Châu xa thẳm qua những điều người ta nói về Úc không bao giờ được lựa chọn chỗ ở, không bao giờ được sống ở những thành phố lớn như Sidney, Melbourne. Chẳng hạn như xuống tới phi trường là bị đưa tuốt luốt thật xa thật sâu vào nội địa Úc, nơi chỉ có đồng hoang sa mạc, nắng cháy sống trong những trang trại mới lập cho người di cư, đốt rẫy, làm đồng, khẩn hoang trong những điều kiện tối tăm khổ cực. Chỉ nghe đã thấy thối chí. Nhất là đối với những anh
Một đêm thứ bảy | 29 chàng con nhà giàu thành phố suốt đời ăn trắng mặc trơn như chú Tầu lai Chợ Lớn Lý Dinh Woòng. Sau này những đồn đại ấy về Úc Châu với người tỵ nạn, tôi mới biết là không đúng. Nhưng ở Pulau Besar, như Woòng tôi cũng tin những đồn đại ấy là sự thực. Úc Châu chỉ thích hợp với dân cày, với lớp người lao động mà thôi. Và xin đi Úc Châu chỉ những ai không có hy vọng được tiếp nhận tới một quốc gia nào khác. Hoặc muốn rời ngay Pulau Besar. Lý do sau chính là lý do của Woòng. Gã giải thích: – Chỉ nói riêng với ông, tôi đổi ý kiến xin đi Úc, và xin đi là được đi ngay vì tôi thì không muốn ở đây thêm một ngày nào nữa. Con vợ tôi đêm qua lại đi Trenganu với thằng trưởng trại mới về. Tôi muốn đâm chết nó quá chừng rồi. Mau mau rời trại thôi, tới đâu cũng mặc. Có bị đưa tới sống ở vùng đồng quê hẻo lánh cũng là điều hay. Nó sẽ phải ở với tôi, tôi sẽ không mất nó. Người đàn bà chung thủy hoặc thay lòng đổi dạ thì ở đâu cũng vẫn chung thủy hoặc vẫn thay lòng đổi dạ. Nhưng Woòng tính toán vậy cũng có cái lý của Woòng và tôi không ngăn cản nữa. Thời gian ấy ở Pulau Besar, đi Úc dễ dàng và mau chóng thật. Chỉ hai tuần sau, chúng tôi đã góp tiền làm tiệc lớn đãi Woòng trước ngày Woòng lên đường và rời trại. Lệ Hoa không chịu đi Úc, khóc lóc, la lối, phản đối dữ
30 | Mai Thảo dội. Nhưng Woòng nhất quyết, hồ sơ đã làm, cô ả sợ bị kẹt cũng không có gan ở lại, đành phải đi theo. Đúng hẹn tôi đến đón Woòng ở tiệm ăn. Trên một chiếc hơi cũ, Woòng đưa tôi đi thăm một số danh lam thắng cảnh của Sidney. Buổi tối, chúng tôi ngừng lại ở một tiệm ăn gần bờ biển. Trên xe, trong tiệm, nói chuyện nhiều. Chuyện Pulau Besar. Chuyện tám năm qua. Chuyện tôi ở Mỹ. Chuyện Woòng tới Úc, mọi sự đều không được như ý muốn, mọi sự đều trái ngược với ý muốn của lòng người. Woòng uống nhiều rượu. Ngà say. Cặp mắt đục đỏ, buồn bã. Câu chuyện cuối cùng trở về với Lệ Hoa: – Trớ trêu cho tôi là xuống tới phi trường Sidney, chúng tôi không bị đưa ngay tới một vùng nội địa hẻo lánh hoang vu nào hết. Mà được làm thủ tục và mướn phòng cho ở ngay giữa Sidney, trong một khu rất đông đồng bào tới trước, rất nhộn nhịp, đầy hàng quán, vũ trường và hộp đêm. Ông thấy chết tôi rồi chứ! Tôi buồn phiền trong bụng thế nào thì con vợ tôi mừng rỡ như thế. Đúng là đất sống của nó. Chép miệng, nhẫn nhục, uống một hơi liền mấy ngụm rượu lớn rồi Woòng kể tiếp: – Những chuyện khiến tôi đau lòng ở Pulau Besar lại xảy ra, chỉ mấy tuần sau. Còn tệ hại hơn. Nó không ở nhà, cũng chẳng chịu tìm việc, làm ăn gì hết. Nó may mặc, ăn diện, đòi mua xe hơi mới, tiêu
Một đêm thứ bảy | 31 xài như rác và tôi phải bán dần những lượng vàng cuối cùng. Lạ lùng cho tôi là tôi chịu đựng vẫn cứ chịu đựng. Trước sau chỉ sợ nó bỏ. Như nó có một quyền uy ghê gớm nào vậy. Nó đi chơi tối ngày, hết với thằng này thằng khác. Tiền bạc, tôi đã hết sạch, phải đi làm ca đêm cho một tiệm bánh mì. Đi làm từ chiều tới hai giờ sáng mới về. Được thể nó càng đi dữ. Cho tới cách đây ba năm nó gặp một người Úc gốc người Ăng Lê. Y đứng tuổi nhưng rất giàu có và mê con vợ tôi như điếu đổ. Y có công việc kinh doanh lớn ở Luân Đôn, ở Ba Lê, đi về Âu Châu như đi chợ. Lần nào về cũng hẹn gặp vợ tôi, biếu con nhỏ nữ trang, quần áo toàn những thứ đắt tiền. Cho tiền nữa. Cuối cùng là thằng chả chuyển cơ sở chính về Luân Đôn, dụ dỗ con vợ tôi đi theo và con nhỏ đã đi theo.-Anh không ngăn được? Tôi hỏi. - Ngăn thế nào, ông Năm. Ở Pulau Besar ông đã biết nó quá rồi mà. Nó cũng đánh lừa tôi nữa. Một mực thề thốt nói thằng già với nó không có chuyện gì, nó ao ước muốn biết Âu Châu một lần, thằng chả tặng vé máy bay thì lợi dụng cơ hội đi cùng thôi. Nó đi lâu nhất là từ một đến hai tháng rồi trở về cùng tôi ở nhà, làm ăn không chơi bời đàng điếm nữa. Thế là nó đi. Thoạt đầu cũng có viết thư về. Nói Âu Châu rất vui xin ở thêm vài tuần nữa, và có thể trên đường về sẽ ghé qua Mỹ ít ngày gặp lại mấy con bạn cũ.
dài
32 | Mai
ra biển rất ngoạn mục và nhà hàng sang trọng, trang hoàng tráng lệ. Chỉ phải món ăn đắt tiền, cầu kỳ và dở ẹc. Tôi nhăn mặt,
đĩa đồ ăn ra xa và Woòng cũng gật đầu tán
WoòngThảothở não ruột: - Sau không có thư từ nữa và nó xa tôi đã ba năm. - Có thể Lệ Hoa gặp chuyện gì chăng? - Dám lắm. Làm sao tôi biết được. Tôi vẫn đợi chờ nó trở về. Ba năm. Thế giới mênh mông rộng lớn và sự thay lòng đổi dạ của người bỏ đi đã ba năm không trở về, không một liên lạc, không một lá thư, đã khiến cho mọi đợi chờ son sắt chung thủy chỉ là không tưởng chỉ là ảo vọng. Nhưng tôi không dám có ý kiến gì. Chuyện riêng của Woòng. Nó còn là lẽ phải là đời sống của Woòng thì để cho Woòng sống với ảo tưởng. Biết đâu đấy. Cũng có thể một ngày Lệ Hoa hồi tâm, Lệ Hoa trở về. Như một con thuyền đã chán sóng nước, chán lênh đênh trở về với một bến đậu tối tăm, nhưng bình yên và chắc chắn. Tôi thầm cầu mong phép lạ ấy xảy đến cho Woòng. Cả hai chúng tôi cùng sống sót với vượt biển, chẳng phải là một phép lạ đã xảy ra đó sao? Tiệm ăn chúng tôi chọn là một tiệm Ý. Chỗ ngồi có một cái nhìn đẩy đồng.
Thêm một tiệm rượu nữa. Tôi cười: - Cơm nhà ngon hơn nhiều.
Một đêm thứ bảy | 33 Woòng ngơ ngác: - Cơm nhà nào? – Tiệm anh làm đó. Woòng bật cười theo, tiếng cười thứ nhất của người bếp phụ ở Cabramatta từ khi tôi gặp lại: - Ông mở tiệm đi, tôi nấu ăn cho. Câu chuyện ngưng lại. Nhà hàng đem giấy tính tiền tới nói đã tới giờ đóng cửa. Cũng đã khuya và chúng tôi là hai thực khách cuối cùng. Chờ tôi trả tiền xong, Woòng mới rút ở túi áo ra một bì thư dán kín và nghiêm trọng đặt nó trước mặt tôi. Tôi nhìn. Mặt bì thơ không có địa chỉ, chỉ có giòng chữ: Gửi em Lệ Hoa. Woòng nói, giọng ngượng ngập: - Hôm qua tôi nói có việc phải nhờ ông. Việc này đây. - Anh nhờ tôi chuyển thơ này cho cô Hoa?
–TôiVâng.ngạc nhiên: - Chúng ta cùng không biết Lệ Hoa ở đâu. Làm sao tôi chuyển được. – Ban nãy ông nói chuyện năm nào cũng sang Âu Châu. Đi Luân Đôn thường nữa. Ông cứ nhận dùm cho. Tôi không có cách nào ra khỏi Úc Châu, nên vô phương. Nhưng ông, nếu may mắn cho tôi, có thể có một ngày ông gặp nó và nó sẽ đọc lá thơ này và tôi
34 | Mai Thảo tin nó sẽ trở về. Chuyện tôi nhờ ông quá ư là hàm hồ, mong ông đừng cười, đây là hy vọng cuối cùng của tôi. Một chút đỉnh hy vọng nhưng cũng là hy vọng. Ông giữ lá thư trong hai năm. Nếu không thấy ông hãy hủy thư đi. Quả tình tôi muốn bật cười thật nhưng không dám cười. Vì nét mặt Woòng vừa khẩn khoản vừa trầm trọng. Nhặt cái bì thư, cất vào túi áo, tôi gật đầu:– Cầu may tôi sẽ gặp Lệ Hoa ở đâu đó cho anh và sẽ trao tay được thư anh. Cũng có lý. Đừng bao giờ tuyệt vọng. Tôi sẽ để ý thăm hỏi dùm anh nữa. Biết đâu đấy. Quả đất tròn mà, phải không Woòng? Tôi ghi địa chỉ của Woòng. Nói có tin tức gì về Lệ Hoa, sẽ viết thư hoặc đánh điện cho Woòng biết ngay. Rồi chúng tôi rời tiệm ăn. Woòng đưa tôi về khách sạn. Lúc từ giã, nhìn thẳng vào mắt tôi, nắm tay tôi rất lâu, buồn rầu và lưu luyến. Phút ấy, tôi chưa từng thấy một thân thể người nào lại có thể trơ trọi như vậy được. Cũng không thấy một lưới tình nào dầy đặc đến như thế, một hệ lụy tình ái nào oan khiên đến như thế. Hôm sau, tôi rời Sidney. Không cần phải hai năm tìm kiếm. Cũng chẳng phải sang Âu Châu tới Luân Đôn. Mà tôi đụng đầu với Lệ Hoa ngay ở Hoa Kỳ ngay gần vùng tôi ở và
Một đêm thứ bảy | 35 chỉ hơn một tháng sau khi từ Úc trở về. Sáng đó, tôi vào một tiệm ăn, vừa gọi điểm tâm xong thì Lệ Hoa đẩy cửa tiệm bước vào. Xa cách đã gần mười năm, nhưng khác với lúc thấy Woòng, tôi nhận ra Lệ Hoa liền. Không phải là ở người đàn bà không có những thay đổi. Mười năm, nhan sắc lộng lẫy nào cũng không tránh thoát được những dấu vết của tàn phai, nhan sắc Lệ Hoa cũng vậy. Người con gái vượt biển ở Pulau Besar, tôi nhớ là một vóc dáng mảnh mai thiếu nữ, một mái tóc dài bay tung trong gió biển và một lối phục sức của phụ nữ Saigon. Lệ Hoa vừa vào tiệm đẩy hơn, già hơn, mái tóc cắt ngắn, với bộ quần áo trắng toát, rộng lòng thùng, đã là một Lệ Hoa Mỹ hóa hoàn toàn, từ đầu đến chân. Vắn tắt là đứa con gái trại đảo ngày nào ở nàng đã chết, không còn mảy may dấu vết. Tôi nhận được ra ngay là nàng có một lối đi rất đặc biệt, siêu siêu, bay bổng, ít thấy ở một người đàn bà nào khác, và vẫn cái lối đi lâng lâng ấy đi tới và ngồi xuống một bàn đối diện với bàn tôi. Nhớ liền tới sự nhờ vả khẩn khoản của Woòng, tôi lật đật mở ví ra coi và mừng rỡ thấy có lá thư gập đôi của Woòng trong đó. Hắn đã nhờ, mình cứ phải đưa, tôi nghĩ thầm. Đúng lúc tôi vừa định đứng lên cầm lá thư sang bàn Lệ Hoa, thì người đàn bà đưa tay lên vẫy một người đàn ông hiện ra trên thành cửa. Đó là một người Mỹ, rất to lớn, mái tóc hung
36 | Mai Thảo đỏ, râu quai nón, còn rất trẻ phục sức tề chỉnh và bồng trên tay một đứa trẻ con. Đứa nhỏ mắt xanh biếc, trắng hồng, bụ bẫm, giòng máu lai trong cơ thể nó, nếu có, chỉ có một tỏ hiện duy nhất là một mái tóc tơ đen nhánh, khác hẳn với mầu râu tóc của người bồng nó trên tay. Đứa nhỏ mừng rỡ trước sự vẫy gọi và người đàn ông Mỹ tươi cười đi tới. Hắn cúi xuống hôn Lệ Hoa, trao đứa nhỏ cho nàng, ngồi xuống và vòng tay ôm lấy ngang lưng nàng. Cặp vợ chồng vừa có với nhau một cử chỉ thân mật âu yếm chừng như không thèm để ý gì tới chung quanh, cùng chụm đầu trên tờ thực đơn. Thật là một cảnh tượng hạnh phúc. Một hạnh phúc trình diễn ngay giữa một tiệm ăn, công khai, đàng hoàng, không che dấu. Nhớ đến Woòng, tôi muốn nghĩ khác, nhưng không sao nghĩ khác được. Đứa con gái ngày nào ở Pulau Besar, người đàn ông Mỹ râu quai nón và đứa con nhỏ lai giòng máu nhảy nhảy trên đùi mẹ nó là hình ảnh một hạnh phúc hoàn toàn. Tôi ngồi yên. Quan sát thêm một lúc nữa. Món ăn được bưng ra, mấy món ăn Việt Nam. Người đàn ông Mỹ cầm đôi đũa còn vụng về chưa thành thạo khiến Lệ Hoa bật cười. Nàng gọi nhà hàng lấy một cái ghế cao cho trẻ nhỏ. Cho đứa nhỏ ăn. Gắp đồ ăn vào bát cho chồng. Họ ăn uống rất ngon lành, vừa ăn vừa trò chuyện. Khi tôi rời tiệm và đi qua, họ không ngửng đầu lên,
không nhìn thấy tôi. Hạnh phúc là vậy. Nó không nhìn thấy gì. Ngoài chính nó. Anh Woòng, tôi đã không làm được việc anh giao phó. Lá thư anh nhờ chuyển, tôi đã xé ra thành nhiều mảnh nhỏ, liệng nó vào một thùng rác trước của một tiệm ăn. Anh không cần biết gì thêm. Những ngày lênh đênh trên biển, thời gian ở Pulau Besar, chữ ký của anh dưới một tờ hôn thú, ở một hồ sơ xin tới một quốc gia đệ tam, những năm tháng đầu của anh ở Úc Châu, tất cả đã thuộc về quá khứ và quá khứ ấy đã đứt lìa, đã mất tích, không còn một mảy may dấu vết, không còn hy vọng nào thấy lại, dù chỉ là một tia hy vọng mong manh. Đó là cuộc đời. Đó là đổi đời. Và chúng ta còn độc sự lãng quên để sống. Tôi tin sớm muộn anh cũng có được cho tâm hồn anh sự lãng quên cần thiết ấy. Để vết thương chí tử nào rồi cũng một ngày lành. Để con đường hầm dằng dặc nào rồi cũng có một điểm sáng ở đầu kia. Để tôi có thể hình dung ra đời sống hiện giờ của anh ở Sidney xa thẳm như tôi muốn hình dung thấy. Như thế này. Nhờ tài nấu bếp ngày một tuyệt vời của anh, cái nhà hàng vắng khách cuối khu Cabramatta sẽ đông khách, sẽ lừng tiếng. Từ bếp phụ anh trở thành bếp chính. Người chủ tử tế biết ơn anh, cho anh có phần hùn. Anh cũng trở thành chủ, đứng trông coi một tiệm thứ hai. Rồi người chủ gả người con gái lớn
Một đêm thứ bảy | 37
38 | Mai Thảo cho anh, một người đàn bà rất chung thủy. Rồi anh mua được nhà riêng. Có nhiều con. Và không bao giờ còn nhớ tới nữa một lá thư Sidney anh nhờ tôi tìm chuyển cho một người với anh chỉ còn là một hình ảnh đã ở ngoài trí nhớ.
Một đêm thứ bảy | 39 NGƯỜI SỢ MẤT TRÍ NHỚ Từ những biệt thự tỷ phú tráng lệ có hồ tắm và sân quần vợt riêng trên những sườn đồi Monterey Park ngó xuống thung lũng Monterey chạy dài một hình cánh cung óng ả phía dưới, khu đường cụt Velnut nơi có ngót hai chục gia đình Việt Nam cư ngụ, mặc dầu bị che phủ hoàn toàn dưới những tàn lá đại thụ dầy đặc, vẫn dễ dàng quy định được vị trí nhờ những đám khói xanh lam chiều chiều từ nơi đó bay Nhữnglên.đợt khói thoát khỏi những tàng lá không ngăn giữ nổi chúng. Vươn khỏi những đỉnh cây. Ngưng đọng không khắc trong trời chiều Monterey tàn nắng như kiếm tìm một phương hướng, rồi theo chiều gió tản bay hoặc về phía núi hoặc về cuối đáy thung lũng nơi có những xa lộ chằng chịt đêm ngày đông đặc những đoàn xe chạy về thị trấn Los Angeles. Những đám khói Việt Nam mỗi chiều bay lên không gian Hoa Kỳ, bây giờ những người Mỹ trong vùng đã quen lắm rồi không để ý tới nữa. Nhưng đám khói thứ nhất trong buổi chiều thứ nhất chín năm về trước đã gây nên một náo động kinh hoàng
40 | Mai Thảo mà mỗi lần nhớ lại Hảo còn bật cười một mình và vẫn thấy đó là kỷ niệm ngộ nghĩnh tức cười nhất từ ngày nàng tới Mỹ. Nhớ hôm đó là một buổi chiều mùa hè rất đẹp. Trời nắng. Không khí trong suốt, dẫy biệt thự tỷ phú trên sườn đồi Monterey in hình lên nền trời xanh biếc, bao la. Khu đường cụt Velnut gió thổi dịu dàng qua những hàng cây, là một vùng yên tĩnh hoàn toàn không một tiếng động. Hảo ở nhà một mình, Quân đi làm chưa về, hai vợ chồng mới lấy nhau hai tháng trước biến cố vượt biển, bé Loan chưa ra đời. Hảo ngủ trưa thức dậy, ngồi viết một lá thư về Sài Gòn cho mẹ trong một tâm trạng hắt hiu buồn bã. Đoạn nàng đi ra hiên sau, xếp thau, đốt củi, nhen lửa trên cái lò nướng Nhà Thờ tặng, sửa soạn cho món bún chả kiểu Bắc là món nàng biết chồng yêu thích nhất. Cái lò chưa quen dùng. Than củi ẩm ướt. Hảo đốt gần hết hộp diêm vẫn chưa nhen nổi ngọn lửa, khói bốc xanh um kín trùm đầu tóc, Hảo bật ho sặc sụa và đám khói mỗi phút một lớn bốc lên từ hiên sau nhà nàng đã làm kinh hoàng Martha, một bà già Mỹ 70 tuổi và tàn phế bên làng dưỡng lão kế bên liền với khu đường cụt Velnut, chỉ ngăn cách bởi một tấm biển cấm vào và một hàng rào gỗ thấp. Ngồi ở ngoài hiên ngó mông ra trời chiều yên tĩnh, bà Martha thình lình thấy đám khói cuồn cuộn. Hoảng hồn,
Một đêm thứ bảy | 41 bà lão vội vàng đẩy lùi xe lăn vào phòng, hấp tấp quay số điện thoại cấp cứu. Thế là chỉ năm phút sau, xe chữa cháy Mỹ đã tới. Xe cảnh sát mở hết tốc lực, còi hụ inh ỏi, theo sau là chiếc xe cứu hỏa dàn đồng bóng loáng màu sơn đỏ chói với đoàn người chữa cháy cao lớn đội nón sắt cùng nhất tề nhảy xuống. Hảo chưa kịp hiểu biết chuyện gì, cánh cửa nhà nàng đã bị đạp tung đoàn lính ào vào, nước tuôn xối xả và chỉ trong thoáng mắt lò nướng đáng thương của nàng và cái khay thịt nàng mất công thái, tẩm ướp cả buổi chiều đã bị nước dội lênh láng ướt sũng. Bấy giờ Hảo mới tới, đầu óc còn dày đặc những hình ảnh trại đảo vừa rời khỏi. Thổ ngơi Mỹ còn là một mới lạ hoàn toàn. Một câu tiếng Anh thông thường Hảo cũng chưa nói được. Nàng chỉ biết đứng ngẩn, bàng hoàng, rồi đưa tay bưng lấy mặt trước toán cứu hỏa cũng ngẩn người theo trước người đàn bà Á Châu vụt nức nở khóc. Nhớ chiều đó, thật lâu khi đoàn xe cứu hỏa đã bỏ đi, trả lại yên tĩnh cho khu đường cụt, Hảo ngồi lặng trên thềm hiên chờ Quân về, hai gò má còn dàn dụa nước mắt. Buổi chiều thẳm. Bóng tối đọng dần trong bóng cành. Ngôi nhà tan hoang vắng lặng sau sự đột nhập thình lình thô bạo. Nước chữa lửa còn lênh lánh cùng khắp tạo cho Hảo một cảm giác buốt lạnh toàn thân và trơ trọi hãi hùng chưa bao giờ
42 | Mai Thảo trong đời cảm thấy. Từ ngày lấy nhau, cuộc hôn nhân đầy trở lực, kế đó là Sài Gòn đêm tan vỡ, là con tàu đông kín, bến Bạch Đằng hỗn loạn, ra đi trong đêm tối, giông bão ngoài biển Đông, cướp biển ở vịnh Thái, xua đuổi ở Mã Lai, trôi dạt tới Nam Dương, kế đó là những tháng ngày khổ cực ở trại đảo tạm trú, Hảo đều bình tĩnh nhẫn nại chịu đựng và vẫn được Quân khen là vững vàng can đảm. Nhưng buổi chiều Velnut đó, nàng chẳng thấy nàng can đảm chút nào hết. Chỉ thấy yếu đuối. Chỉ thấy trơ trọi. Chỉ thấy tủi thân. Chỉ thấy muốn khóc. Chiều đó, ngồi run rẩy trên bực thềm, Hảo đã oán hận Quân dụ nàng vượt biển biết bao nhiêu. Nàng đã nhớ thương cái đời sống cũ cái đời sống thiếu nữ hồn nhiên lấp lánh giữa anh em, giữa gia đình nàng ở ngôi nhà Phan Đình Phùng biết ngần nào. Thời gian là liều thuốc thần diệu. Nó hóa giải, xóa bỏ hết. Quân thường nói với nàng như vậy. Những cuốn tiểu thuyết nàng thuê ở một tiệm sách khu Chinatown Los Angeles mỗi lần đi chợ Việt Nam cũng nói với nàng như vậy. Hiệu lực đó của thời gian với Hảo, đúng với thuở còn thiếu nữ, ngày còn ở nhà, lại không đúng chút nào nữa, từ cái đêm ở bến Bạch Đằng lên tàu cùng Quân ra khơi. Ở đời sống của Hảo chưa có cái ngăn kéo sâu thẳm ấy của trí nhớ.
Sau lưng nàng chỉ là một mở kỷ niệm tuổi thơ nhẹ
Một đêm thứ bảy | 43 nhàng như một đàn bướm bay về bờ bên kia một ngọn suối sớm. Ngôi nhà của gia đình ở đường Phan Đình Phùng cũng vậy, ngôi nhà không có trí nhớ. Nó chỉ là một địa chỉ sáng láng đựng đầy một hiện tại, làm bằng những tháng ngày vui tươi không cùng như một bình minh vĩnh viễn. Trí nhớ của một đời Hảo từ đêm đó là cặp mắt nàng nhìn trở lại, tiếng nước chảy dạt dào theo hai mạn tàu, ngôi nhà Phan Đình Phùng đã biền biệt khuất lấp. Trí nhớ chính là sự mất mát không đo lường được, trí nhớ chính là cái không bao giờ nữa, trí nhớ chính là mọi điều ở xa, xa cách thăm thẳm, xa cách nghìn trùng, chẳng bao giờ còn thấy lại. Với Hảo, vậy từ một đêm vượt biển cái ngăn kéo không đáy mang tên là trí nhớ đã mở ra và Hảo tự đó đã sống với nó, là nó từng phút từng giờ. Những ngày tan hoang cuối cùng. Chỗ ngồi sau chiếc Vespa của Quân, nhà của phố xá thoang thoáng lùi ngược. Những ngã ba hiu quạnh, mọi người trong khu chừng như đi hết. Những ngã sáu biển người tràn lan, như một bầy kiến vỡ tổ lênh láng tan tác không biết đi đâu về đâu. Ngôi trường Gia Long, cổng sắt đóng kín, những hàng cây chết đứng ngó xuống một sân chơi không một bóng người, khoảng sân vắng lặng thật lâu còn đuổi theo cái nhìn của Hảo rưng rưng vĩnh biệt. Hảo bỏ trường từ tình yêu, từ đính
44 | Mai Thảo hôn. Trí nhớ của Hảo lồng lộng gió nắng, hàng hiện ngày mưa, lớp học buổi sáng, trí nhớ dầy đặc những tà áo, những vành nón, những mái tóc, rầm rập rừng guốc cả bầy xuống thang, điệp điệp rừng chân cả bầy tan Rồitrường.trínhở sang sông và xuống thuyền như trong một câu thơ Nguyễn Bính. Đám cưới. Chiếc nhẫn. Giọt lệ ngày rực rỡ. Những tấm hình liên tiếp chụp, ánh flash sáng lóa trước hàng mi e thẹn hạ thấp, những bông hồng và những lời chúc tụng ồn ào, cái cảm giác huyền hoặc gần như không có thực từng phút cùng Quân cầm tay nhau đích thực đi vào đời sống. Hai tháng trời trong sự huyền ảo ấy. Tuần trăng mật. Đà Lạt. Căn phòng của một khách sạn trên đồi, bữa điểm tâm ở phòng ăn nắng sớm lấp lánh trên những thảm cỏ bên ngoài, đêm đi chơi trở về, rừng thông lả lay mịt mùng và mặt hồ Xuân Hương cứng lạnh dưới cơn mưa phùn thả giọt. Đâu có ngờ một ngày phải ra đi, phải xa cách hết. Đâu có ngờ mặt hồ xưa, con đường cũ, cây hoàng lan đầu cổng, bóng phượng vĩ cuối phố, chỗ đứng trú mưa dưới một hàng hiện Nguyễn Huệ, những bậc thềm đi vào rạp Rex, một ngày phải bỏ hết, xa hết, trong cái tâm trạng mọi vật thể đều là sự thật, duy chỉ có đổi dời là chiêm bao.
Một đêm thứ bảy | 45 Quả là một giấc mơ. Một giấc mơ lạ lùng với những âm thanh và những ảnh hình trôi chảy hư vô mơ hồ trước thần trí bàng hoàng tê liệt. Đêm. Tất cả trời đất là đêm. Đêm là tất cả nhân loại, tất cả cuộc đời. Con tầu trôi, lau sậy bạt ngàn gợi nghĩ đến tiền sử không ánh sáng, cặp mắt nhìn trở lại, vùng đèn lửa lấp lánh của Sài Gòn như đã là của một tinh cầu nào. Cánh tay của Quân ôm chặt vai nàng suốt dọc hành trình từ đất liền ra biển khơi, cánh tay vợ chồng, cánh tay gối chăn thân mật vô ngần đó, đêm đó Hảo thấy nó lúc nặng chĩu lúc nhẹ hẫng, cánh tay Quân đếm đó cũng là một vật thể vô tri xa lạ, chính Hảo cũng thế, nàng là một vật thể vô tri và xa lạ với chính nàng, trong một rời đứt tận cùng với hết thảy ở xung quanh. Một đêm ở Rạch Hào. Hai đêm một ngày ở Rừng Sát. Mùi bùn đất phả tới từ tối thẳm. Kinh rạch chằng chịt. Rừng đước kín đặc, dữ dội nuốt chửng vào nó và xóa bỏ mau chóng không còn dấu tích. Rồi là đoạn sông cuối trước khi cửa biển thình lình mở ra, mênh mông. Rồi là con tàu, cái khối đen kỳ dị với tiếng máy gầm rú, tiếng sóng gào thét, tiếng khóc thất thanh của trẻ nít, tiếng cầu kinh, tiếng niệm Phật lẫn với những tiếng chửi thề tục tằn từ bên trên boong tàu ném xuống phút Quân dùng tận lực ném nàng như một xác chết từ dưới ghe lên.
46 | Mai Thảo Rồi là bảy ngày bảy đêm giữa vũ trụ, ngoài nghìn trùng, lúc rớt xuống cuối đáy một con sóng vô tình lúc dềnh lên trên cái đầu ngọn ngất trời của nó. Cái trạng thái lãng đãng của một giấc mơ vô tận còn kéo dài nhiều tuần sau khi tới đảo. Quân, anh với em cùng chết rồi, mọi người cũng vậy, cùng chết hết rồi như chúng ta. Buổi chiều đi thẩn thơ trên bãi biển vắng, đi ngược mãi lên về hướng núi. Buổi sáng ngồi trên một thân gỗ mục, cạnh những xác tàu ngổn ngang nửa thân chôn vùi dưới cát. Buổi trưa, lang thang trong rừng dừa. Nghiêng mình nhìn xuống một lòng giếng, thấy khuôn mặt lặng lờ của mình in xuống một nền trời sâu có những giải mây trắng nõn trôi qua. Quân, anh với em cùng chết rồi. Mọi người cũng vậy, cùng chết rồi. Như anh với em. Bao nhiêu ngày, Hảo chỉ thấy với mình cái tâm thức ấy, cái ý nghĩ ấy, cái sự thật ấy. Rồi trí nhớ cứu được Hảo. Trí nhớ như từng hạt lân tinh sáng dần, sáng dần tự một lòng biển thẳm. Trí nhở như những vang núi rõ dần, rõ dần từ một dội đập lại. Trí nhớ như một ánh nắng, ấm dần, ấm dần từ một lạnh buốt. Trí nhở cứu được Hảo, đem được cái tử thi của Hảo cuối cùng hồi sinh trở lại với đời sống vào lúc nào Hảo cũng không rõ nữa. Nàng chỉ muốn nghĩ lúc đó là cái buổi sáng Quân ra bãi tiếp tế lãnh lương thực, nàng ở lều một mình. Căn
Một đêm thứ bảy | 47 lều vắng lặng, mọi người đều đã bỏ đi hết. Nàng ngồi bó gối, tầm mắt lướt đi chậm chậm trên dãy giường vải chăn gối xếp đặt ngay ngắn, những tấm mùng nhà binh mầu xanh thẩm đã được vắt cao lên. Từ hội trường, tiếng loa gọi người rời trại vọng tới. Nàng lắng nghe một lúc, đợi chờ tiếng loa kêu tên Quân, tên nàng nhưng không thấy và không nghe tiếp nữa. Trống không một lát, thật lâu. Rồi nhìn trở lại cái giường vải thấp trũng của Quân ở cạnh giường nàng, tầm mắt nàng ngưng lại với một cây viết. Cây viết đặt trên một xấp giấy. Bỏ chỗ ngồi, sang giường Quân, ngồi xuống, tần ngần, rồi cầm lấy cây bút và xấp giấy trắng lên tay. Sau này nhớ lại, Hảo nghĩ có lẽ đúng là lúc đó, là buổi sáng đó, trên mặt giường đó, dưới mái lều đó, trí nhớ đã thật sự là một hình thể một trái tim vừa đập lại nhịp đầu tiên trong lồng ngực, và trí nhớ đã cứu nàng, đã đem lại cho nàng một ý muốn đầu tiên, cái ý muốn viết và gửi đi từ chỗ nàng ngồi một lá thư. Thư ấy, Hảo viết cho ngôi nhà Phan Đình Phùng. Gửi về ngôi nhà Phan Đình Phùng. Kể rằng nàng đã cùng Quân ra đi, ở hai ngày một đêm trong Rừng Sát, lênh đênh bảy ngày bảy đêm trên mặt biển, bão ở ngang vịnh Thái Lan, rồi nàng tới đảo, đã hai tuần ở đảo, lúc này nàng ở lều một mình, Quân ra bãi tiếp tế chưa về. Kể hết. Nói hết. Nhớ lại hết. Sống lại hết. Với ngôi nhà Phan Đình Phùng.
48 | Mai Thảo Lá thư đầu cho mẹ cho em, cho ngôi nhà Phan Đình Phùng, Hảo viết thoạt đầu chậm chạp, ngập ngừng rồi cuống quýt miên man, vừa viết vừa khóc vừa muốn la lớn mừng rỡ, là trong nàng đã nguy nga một khối trí nhớ rực rỡ, và nàng sống lại, vừa sống lại thật rồi. Quân về, nàng ôm ghì lấy chồng, nồng nàn, dẫu tròng mắt vẫn còn ngấn lệ, khiến Quân đỡ người kinh ngạc. Nàng đi bỏ lá thư, lần đầu tiên kêu đói bụng và đòi Quân đưa ăn quán. Từ hôm đó, đời sống ở đảo của Hảo cũng thay đổi hoàn toàn. Nàng không thơ thẩn một mình ở những khúc bãi vắng nữa. Cũng thôi một mình lang thang trong những cánh rừng dừa. Mà thức sớm, cùng Quân ra giếng lấy nước, cùng mấy gia đình Việt gốc Hoa ở chung lều đi liền mấy buổi thật sâu vào rừng, đẳn gỗ kéo về làm thêm một căn bếp và một nhà tắm ở khoảng đất trống trước lều. Một tuần sau lá thơ, Hảo yêu cầu Quân đưa nàng lên hội trường gặp trưởng trại và các phái đoàn phụ trách tỵ nạn xin được gia nhập vào các công tác xã hội ở đảo. Cả đảo, gồm năm khu và lúc vượt biển đông nhất lên tới con số gần sáu ngàn người, từ đó là khuôn mặt thanh thoát của Hảo cùng khắp. Cuốn sổ vàng trên tay cùng gia đình Phật tử đi quyên tiền dựng chùa. Cùng bạn tiếp tế sáng chiều mang lương thực và quần áo xuống bãi tiếp cứu những tàu thuyền
Một đêm thứ bảy | 49 vừa tới. Ngồi ở bàn thông dịch với các phái đoàn Pháp mỗi thứ năm trong ban phát thư. Mỗi thứ bảy, trong ban trật tự đi làm những công tác vệ sinh toàn trại. Và mỗi tuần ba lần, như một kỷ luật không bao giờ thay đổi cho tới ngày rời đảo đi Kuala Lumpur trên đường sang Mỹ, những lá thư trong lều về Phan ĐìnhTríPhùng.nhớsống lại. Nhưng trí nhớ cũng làm chảy ra thật nhiều nước mắt. Và sự sống đem lại một nguồn can đảm nhưng sự sống cũng đem lại thật nhiều những giây phút hoang mang. Như buổi chiều Velnut đó, đám khói từ hiên nhà và đoàn xe cứu hỏa ào tới.Hôm đó, Quân về, chạy vào, thấy chuyện gì vừa xảy ra, đã ôm chặt lấy nàng. Cánh tay chàng bây giờ che chở, thân yêu, chẳng còn là cái vật thể xa lạ trên bờ vai nàng như đêm vượt biển nữa. Nhưng vùi đầu vào ngực chồng mà Hảo còn thổn thức mãi. Và chiều đó, nàng nhớ nàng đã thì thầm với Quân nhiều lần, một câu nói, một đòi hỏi, nàng biết hết sức vô lý, hết sức chẳng thể thực hiện được: đưa em về Việt Nam, đưa ngay em về Việt Nam. Đưa em về Việt Nam, đưa em trở về Việt Nam. Câu nói, nói với chồng cùng nước mắt, không bao giờ Hảo nói nữa. Và từ lần nói ấy tới giờ đã ngót
50 | Mai Thảo mười năm. Cuộc sống, mạnh hơn hết thảy, mạnh hơn nghìn lần sự chết, đẩy Hảo đi tới, dần dần ghép được cái thân cành đứt rời gốc cũ ở Hảo vào gốc mới là đời sống chung quanh, là cái thế giới thu nhỏ của hai mươi gia đình Việt Nam cư ngụ trong khu đường cụt Velnut. Thấm thoát đã mười năm trôi qua. Mau thật, Hảo nghĩ thầm: Và đời sống mỗi ngày đem tới một thay đổi. Như trên một mặt biển, hết lớp sóng này tới lớp sóng kia. Mỗi tuần một lần, Hảo vẫn viết thư về bên nhà. Ngồi viết một mình. Trong vắng lặng. Và vẫn trong một tâm trạng hắt hiu buồn bã. Nhưng không còn được viết cho mẹ nữa, chỉ còn được cho bầy em. Ba năm trước, bà cụ đã nằm xuống. Điện tín báo tin dữ từ Sài Gòn đánh sang. Hảo đọc rồi bưng mặt khóc. Quân an ủi nàng: “Mẹ sống tới ngoài tám mươi. Tuổi thọ như vậy là hết rồi. Hãy nhìn cái chết đến với mẹ như một giải thoát.” Hảo nghe, nín khóc, mặc đại tạng làm lễ cầu siêu cho mẹ ở chùa, gửi gấp một khoản tiền về nhà cho đám em lo việc chôn cất mẹ. Thư gần đây cũng không gửi về địa chỉ Phan Đình Phùng nữa. Ngôi nhà có hàng hiên mát đằm ở phía trước, có những dàn hoa leo trên lối vào, đánh dấu cho một thời thiếu nữ thanh bình và mơ mộng đã bị phường khóm tịch thu, biến nó thành một trụ sở Ủy ban và đám em Hảo bây giờ phải sống ở một căn nhà
Một đêm thứ bảy | 51 gỗ tiều tụy vùng ngoại ô Bình Thạnh. Thỉnh thoảng, cùng thư kể khổ, chúng gửi sang mấy tấm hình đen trắng. Bầy em nhếch nhác, tiều tụy, đen đúa, có đứa nhìn kỹ mới nhận ra. Nhìn hình, Hảo thở dài: “Thay đổi hết cả rồi.” Cũng đã thay đổi, cái thế giới hàng ngày phẳng lặng, êm ả như một mặt hồ không gió là khu đường cụt Velnut, nằm ẩn dưới những tàng đại thụ đậm đặc, trong lòng thung lũng Monterey với những biệt thự tỷ phú có bồn tắm và sân quần vợt riêng ở những sườn đồi tráng lệ trên cao. Thay đổi ở người đi. Thay đổi ở người đến. Ở những cổ xe U Haul chở đồ với khẩu hiệu Phiêu Lưu Trong Chuyển Dịch chạy vào đường cụt, từ đường cụt chạy ra. Đời sống Mỹ chuyển động không ngừng và sự chuyển động cũng đã đến với cái mặt hồ thu Velnut. Hai chị em cô Thoa, cô Dung ở căn đối diện với nhà Hảo, thường băng đường đi sang trò chuyện với nàng ngoài hiên và cùng làm việc ở một tiệm làm đầu ở Los, đều đã lên xe hoa và đã bỏ đi. Cô chị lấy một người Đại Hàn, cô em lấy Mỹ. Khiến Quân đưa Hảo đến dự tiệc cưới họ đã phải nói đùa: “Cứ đi làm tóc cho đàn ông là dễ bắt chồng ngoại quốc nhất.” Câu nói đùa mà là sự thật. Gia đình cụ Chính ở đầu lối vào, với bầy con trai tồng ngồng tới khuya còn mở nhạc inh ỏi làm phiền lòng hàng xóm đều đã dọn hết về tiểu bang
52 | Mai Louisiana.ThảoTrước khi họ đi, Quân và Hảo có sang phụ khiêng đồ ra xe và chào từ biệt. Mấy thằng con trai tôi về Louisiana đánh cá với người chú họ nó, có tầu, cụ Chính nói. Ở đây, chẳng nghề ngỗng gì, chỉ tối ngày phá làng phá xóm, cụ Chính nói tiếp và lặng lẽ ra xe sau khi đã tặng lại Hảo một số đồ dùng nấu bếp không thể mang theo. Ông Bình, người những buổi sáng lạnh như cắt thịt cũng ra đường chạy bộ, vừa chạy vừa thở hồng hộc và có đứa con gái duy nhất tử nạn trên xa lộ nữa. Sau cái tang đau đớn, ông ta bỏ đi, mất tích, nói không thể nào còn sống ở căn nhà dầy đặc những kỷ niệm của người con. Bà cụ Lành, chiều chiều quét lá rụng ngoài vườn nữa, tiếng lá rào rào vọng sang nhà Hảo, cũng đã được con cái đưa tới một tiểu bang xa. Thay đổi. Nơi những người mới tới. Như một thay thế vào khoảng trống bỏ lại của những người đã rời đi. Vợ chồng ông Kim, sang từ New York. Nói đời sống miền Đông cũng dễ chịu, con cái đều có công ăn việc làm đàng hoàng ở đó, chỉ không được là thời tiết quá giá lạnh, những mùa đông quá dài khiến tuổi già không kham nổi phải đi tìm một vùng trời ấm áp hơn. Bà Kim sang chào Hảo. Làm quen. Nói muốn kết bạn cho ngày tháng quê người đỡ buồn. Bà bếp nước thật giỏi. Dạy Hảo cách nấu nướng sao cho thật đúng một vài món ăn Bắc thuần túy. Bà Kim
Một đêm thứ bảy | 53 nói: “Cứ mùa lạnh là ông nhà tôi đau. Sang đây, thấy bớt hẳn. Các cháu hứa mỗi năm sẽ sang thăm chúng tôi một lần. Không sang được, sẽ gửi vé máy bay đón chúng tôi về chơi với chúng nó.” Khuôn mặt mới tới nhất Đạt. Một thanh niên quả cảm, tự lập cầu tiến. Hảo rất yêu mến và mỗi cuối tuần Martha. Bà lão không biết cầm đũa, lúng túng, thận trọng nếm thử chén nước chấm, ăn từng miếng chậm chạp, vừa ăn vừa nghĩ, như e dè trước một khẩu vị lạ hoắc có thể gây phiền hà cho tiêu hóa mình. Nhưng rồi bà lão gật đầu, gật đầu liên hồi và xuýt xoa ngợi khen món thịt nướng Việt Nam tuyệt trần hơn hết mọi món nướng Mỹ. Từ đó Hảo sang vấn an bà Martha mỗi tuần. Lâu lâu bưng theo một mẹt bún chả. Đẩy xe lăn cho bà lão đi dạo buổi chiều trong làng cao niên, mừng rỡ thấy nàng nói tiếng Anh tiến bộ mau chóng nhờ trò chuyện với bà lão và được bà chỉ dẫn cho những sai lầm. Điều Hảo không ngờ là bà lão dáng vẻ thô kệch quê mùa lại là một phụ nữ trí thức. Bà lão cho Hảo biết ngày trước bà đã dạy ở một đại học San Francisco, và Hảo đã ngắm nhìn với tất cả lòng nể trọng căn phòng nhỏ chật của người ngồi xe lăn đầy đặc những cuốn sách viết, về những nền văn minh và những giọng văn chương thế giới. Bà Martha không còn. Nhưng bà vẫn có mặt trong đời sống Hảo, hàng ngày. Nơi mấy chục cuốn sách dễ đọc bà
54 | Mai Thảo cho Hảo, nàng trân trọng xếp trong cái kệ sách nhỏ Quân đóng cho nàng từ ngày nàng biết yêu những cuốn sách, qua bà giáo sư đại học... Thay đổi. Ở chính Hảo nữa. Quá khứ trước là Việt Nam nghìn dặm. Ở bên kia biển rộng. Ở đáy cùng trí nhớ. Quá khứ đó còn thêm một quá khứ mới. Là mười năm trong khu đường cụt Velnut. Là mười năm dưới những tàng đại thụ Velnut, trong lòng thung lũng Monterey Park với những biệt thự tỷ phú hai phía ngó xuống từ trên những sườn đồi Monterey tráng lệ ở trên cao. Thay đổi, nơi bé Loan đã ra đời, giờ đã 6 tuổi, sáng sáng Hảo làm điểm tâm cho con rồi Quân đưa tới lớp Mẫu giáo trên đường tới sở. Nơi nàng lại đang mang thai nữa, lý do khiến nàng đã chuẩn bị đi làm rồi lại phải thôi để chờ ngày sanh. Nhờ bà Martha nàng đã nói được tiếng Anh tươm tất, nàng viết được nữa, tàm tạm. Mỗi lần xử dụng tiếng Anh tươm tất, nàng lại nhớ tới bà lão và cái xe lăn. Hảo cũng bạo dạn hơn. Đã lái được xe hơi, một mình đi lại ung dung khắp vùng Monterey Park, tới Los nữa, một lần vội về còn vùn vụt vượt tốc lực, bị cảnh sát Mỹ chặn lại trên xa lộ. Với riêng cái thế giới thu nhỏ là hai mươi gia đình Việt Nam quây quần trong khu đường cụt Velnut, Hảo, sống lâu lên lão làng, đã quen biết hết, từ những gia đình tới Velnut sớm nhất như vợ chồng nàng tới Đạt, cậu
Một đêm thứ bảy | 55 sinh viên sắp ra trường, mới tới hồi gần đây. Quen biết. Còn hiểu biết từng người, từng gia cảnh, mặc dầu Hảo chẳng bao giờ tò mò vào đời tư người khác. Velnut tạo nên sự gắn bó ở điểm đó. Ở điểm đã thân thuộc, đã lâu ngày. Velnut đem lại sự bình yên ở đó. Ở điểm nó chìm chìm, nó riêng riêng, như Hảo vẫn giữ được cho đời sống nàng như vậy. Nàng còn đau buồn vì phải rời khỏi Việt Nam? Còn. Nguyên vẹn. Nguyên khối. Trọn vẹn một tâm trạng, cái tâm trạng mười năm. Nàng sợ mất trí nhớ. Vẫn còn giữ được nó. Ngôi nhà ở Phan Đình Phùng. Hàng hiên mát đằm phía trước. Những chùm hoa leo trên lối vào. Mái tóc nữ sinh trong gió phố thuở nào. Chiếc xe đạp từ cổng trường đi ra, những chiếc nan hoa óng ánh như tuổi, như hồi thuở ấy. Bài hát ấy, nàng vẫn hát một mình, những buổi trưa Quân đi làm, ngôi nhà vắng lặng. Bài về một đất nước chiến tranh. Về những tiền đồn mưa bay, người đi ra tuyến đầu chưa trở về, cuộc chiến không cùng, cuộc chiến bất tận, và lời hát bay trong chia cách, và lời hát bay vào chia ly. Mười năm. Hảo không thấy đó là thấm thoát một giấc mộng. Như nhiều người nghĩ vậy. Hảo chỉ thấy đó là đời sống. Đời sống ở Quân. Ở nàng. Ở khắp nơi, như trong khu đường cụt Velnut. Và trí nhớ vẫn ở cùng nàng, thời gian mới tới trại đảo đã giúp nàng hồi sinh, trí nhớ ấy vẫn là một gốc nguồn không rời
56 | Mai Thảo đứt. Có điều là nó đã thôi quẫy động, thôi chảy máu. Nó yên lắng dần dần. Nhập lặn dần dần. Thành một vùng trời, một thế giới ở bên trong. Những người Mỹ tắm nắng bên thành bể bơi, chơi quần vợt, uống rượu khai vị ở những biệt thự tráng lệ trên sườn đồi Monterey nhìn xuống khu đường cụt Velnut bị che phủ hoàn toàn dưới những tàng đại thụ đậm đặc, chiều nay lại thấy một đám khói từ dưới những tảng đại thụ thoát bay lên trời chiều Monterey Park tàn nắng. Đám khói vươn cao trên những đình cây, ngưng lại khoảnh khắc như kiếm tìm một hướng đi của gió rồi tản bay trên thung lũng, về hướng núi. Đám khói đã mười năm. Không còn làm cho một người Mỹ nào ngạc nhiên nữa. Họ tiếp tục tắm nắng, chơi quần vợt, uống khai vị. Và ở dưới thấp, cũng không còn một bà già Mỹ nào lật đật gọi điện thoại cấp cứu, cũng không còn một đoàn xe cứu hỏa nào ào ào ập vào khu đường cụt. Chiều nay, cuối tuần. Lại nhằm đúng ngày Hảo theo Quân vượt biển. Em, đánh dấu cái ngày không quên ấy. Kỷ niệm nó. Mấy người bạn Mỹ cùng sở đòi hoài đến nhà thưởng thức món ăn Việt Nam. Anh sẽ mời họ tới. Ừ, cái đêm vượt biển, giữa đất giữa trời, giữa sống giữa chết, đáng một đời ghi nhớ. Tại sao không kỷ niệm nó. Hảo nghe lời, buổi sáng tới chợ
Một đêm thứ bảy | 57
Tầu, mua đầy đủ các đồ gia vị. Buổi trưa, nàng ngồi ở hiên sau rửa rau, thái thịt, chế nước chấm theo đúng công thức học được của bà Kim. Gần chiều, món bún chả danh tiếng khu đường cụt Velnut đã sẵn sàng đãi khách. Hảo gọi điện thoại cho Đạt, bảo sang nhà ăn cơm tối, đoạn đi tắm gội, trang điểm, thay quần áo. Nàng chọn mặc một cái áo dài Việt Nam. Đứng nhìn mình trong gương, kiếm tìm trên vầng trán, ở khóe mắt, ở gò má một đổi thay do thời gian đem lại, nàng thấy mười năm ở nàng quả có những dấu vết của thời gian để lại. Cả những dấu vết của trí nhớ. Không hẳn là những tàn phá. Nhưng cũng là một tuổi trẻ đã xa như đất nước đã xa và những con sóng vỗ đập rì rào ở một bến bờ quá khứ xa khuất lại vang ngân trong nàng như một khúc hát buồn, lời hát trầm, về phân ly, về chiến tranh Hảo vẫn thầm hát một mình trong căn nhà vắng lặng. Đây là lần đầu tiên vợ chồng Quân mời ăn tối đãi khách. Đám bạn Mỹ cùng sở với Quân mang tặng phẩm tới. Cả một bó hoa hồng mười bông đỏ thắm họ nói là chào mừng mười năm vợ chồng Quân tới Hoa Kỳ. Rồi tiệc bún chả đánh dấu ngày ra biển bắt đầu, ồn ào. Ai cũng khen ngon. Nói xin được ăn lại nữa. Và Quân vui chuyện đã kể lại cho những người bạn Mỹ về bà Martha ở bên kia làng cao niên. Về vụ cứu hỏa tức cười mười năm trước.
58 | Mai Thảo Khi mọi người đã ra về hết và Hảo thu dọn xong thì đêm đã khuya. Nàng theo Quân ra ngồi ở đầu thềm. Nhìn lên, qua những vòm cây, những ngôi biệt thự tỷ phú ở xa xa, trên sườn đồi Monterey đã chìm nhòa vào nền đêm thăm thẳm. Chỉ còn những điểm đèn lác đác lung linh. Tự bao giờ, cả một vùng thung lũng Monterey Park đã bị tràn chiếm bởi một biển sương mù trắng xóa. Và sương đang lan dần, lan dần vào khu đường ngõ cụt Velnut. Tới những gốc cây. Lên dần, tới thân tới cành. Hảo tựa đầu vào vai chồng. Cảm thấy một mệt mỏi thư thái. Yên lặng một lát. “Mai em phải đi Los, gửi thùng quà về nhà. Tới kỳ rồi.” Quân gật: “Nhớ tới kỳ là gửi. Đừng để ở nhà phải chờ đợi.” Cặp vợ chồng không nói với nhau gì thêm nữa. Cho đến khi Quân dìu Hảo đứng lên, trở vào nhà. Một lát sau, những ngọn đèn tắt đi. Ngôi nhà tối đen. Tối đen trên một khúc hát thầm thầm. Về một cuộc chiến đã tàn. Về một đất nước rất xa.
Chàng sẽ không bao giờ băng qua đường, ở ngã tư và trước đèn đỏ một cách ẩu tả và thiếu tinh thần công dân như thế, nếu người đàn bà đi trước chàng không khơi khơi băng qua và chàng đã làm theo không nghĩ ngợi. Chàng đã đi sau nàng một quãng đường, khúc vỉa hè rất nhộn nhịp, từ sau lưng ngắm nhìn một thân hình nữ phái thanh tú nổi bật giữa đám đông, bờ vai óng ả lồng nắng, mái tóc suối chảy lộng gió, cái áo dài Việt Nam may khéo, hai tà áo múa bay theo bước chân nàng thoăn thoắt là một từ trường kiều diễm hút chặt tầm nhìn và những bước chân chàng đã líu ríu theo sau. Tai họa tới ngay ở bên kia đường. Đầu bãi đậu xe. Trước một siêu thị. Chiếc mô tô cảnh sát dữ dằn ập tới. Người cảnh sát đeo găng tay và đi ủng da khệnh khạng bước xuống. Nhị vị
băng qua đường trước đèn đỏ. Giấy tờ. Phạt. Người đàn bà vừa bình tĩnh mở sắc tay vừa đưa mắt nhìn chàng, cái nhìn thoáng một vẻ trêu nghịch riễu cợt: - Tưởng mình tôi, ông nữa. Đã mười năm ở Mỹ, hiểu xứ sở này là một xã hội của trăm ngàn luật lệ, với những bầy cảnh sát Mỹ
Một đêm thứ bảy | 59 TỪ MỘT NGÃ TƯ
60 | Mai Thảo như quỷ ma chờ rình ở khắp mọi nẻo đường, chàng đi đứng cảnh giác, tới lui đúng phép, chưa từng có chuyện với biên phạt và tuần cảnh một lần nào. Đây là lần đầu, cố tình và lãng xẹt. Lúng túng móc ví lấy giấy tờ ra, chàng cằn nhằn, không nên được bực tức. - Xúi quẩy thật. Tại cô hết. Nàng trao tấm thẻ tùy thân bọc nhựa cho người cảnh sát, tròn mắt: - Tại tôi? Sao lạ vậy? Chàng dậm chân, lớn tiếng: - Chứ còn gì nữa? Đâu có ngờ cô đi đứng ẩu tả liều lĩnh như vậy và tôi đã ngu ngốc làm theo. Người đàn bà quay đầu nhìn lại chỗ ngã tư tội lỗi nàng vừa băng qua. Rồi nghiêng đầu nhìn chàng trong lúc người cảnh sát ghếch một chân lên mô tô hý hoáy biên phạt: – Tôi đi ấu thật. Vì đang vội. Nhưng ông cũng đi ẩu là tại ông ẩu, sao lại gây chuyện với tôi? Ông phải nhận thêm hai giấy phạt nữa mới đúng. Chàng quắc mắt: - Hai giấy phạt nữa? Cô ăn nói gì bừa bãi vậy? Nàng ung dung cất tờ giấy phạt vào sắc, gật đầu với người cảnh sát chào nàng đoạn nhìn chàng cau có ký tờ giấy phạt, thản nhiên:
Một đêm thứ bảy | 61 - Cái giấy phạt thứ hai về tội đổ thừa vừa rất trẻ con vừa rất vô lý. Giấy phạt thứ ba về tội thiếu lịch sự với đàn bà ở ngoài đường. Ông thường gắt gỏng khó chịu với phụ nữ chúng tôi như vậy sao? Chàng đờ người, cứng họng không còn biết đối đáp lại thế nào cho phải. Rồi cảm thấy mình thật sự trẻ con, thật sự vô lý, thật sự xứng đáng lãnh thêm hai tờ giấy phạt nữa, như nàng nói. Cơn tức giận tan biến, chàng ngượng ngập vuốt tóc và lúng túng xin lỗi: - Tôi bậy thật. Nhưng cô đi đâu mà vội vàng quá vậy?Nàng mỉm cười, có vẻ bằng lòng khi thấy thái độ chàng không còn đáng ghét nữa: – Đi chợ. Mua một số thực phẩm Việt Nam vùng tôi không có, tôi đã hứa mua về cho mấy người bạn. Rồi ăn mau một chút gì để kịp giờ ra phi trường. Chàng nghe cái giọng nói ấm áp, nhìn cái khuôn mặt trẻ trung tươi tắn của người đàn bà tới từ một địa phương xa, chàng chưa từng gặp mặt một lần nào trong đời. Và cảm thấy ở trong chàng một chấn động mạnh. Rất mạnh: – Cô đang vội lắm ư? Tôi lại rất rảnh rỗi. Cho tôi chuộc lỗi. Tôi giúp được gì cô không?
62 | Mai Thảo Nàng mỉm cười và bằng lòng cho chàng được chuộc lỗi khi chàng rảo bước tới tháo một xe chở đồ trong dãy xe sắp hàng trước cửa siêu thị và đứng chờ nàng để đẩy xe đi theo. Mười năm trên đất Mỹ, làm kỹ sư ở một công ty điện toán, độc thân, sống chia phòng với gia đình một người bạn, mọi chuyện ăn ở gia đình bạn lo toan cho hết, chàng chưa phải đẩy xe đi chợ một lần nào. Càng chưa một lần nào đẩy xe đi theo một người đàn bà xa lạ. Và cái cảm giác lần đầu ở chàng là một mới mẻ, một ngỡ ngàng rất lạ lùng chưa từng thấy. Trong nửa giờ đồng hồ, giữa một siêu thị bát ngát những quầy thực phẩm chất cao tới trần và ngăn cách nhau bởi những lối đi thẳng tắp, chàng đẩy chiếc xe ngay ngắn và đi theo nàng từng bước, không bỏ sót một cử chỉ nào của nàng, cử chỉ nào cũng thật đẹp, thật đáng yêu, khi nàng nghiêng đầu, kiễng chân, đảo mắt tìm kiếm, nhặt từng gói nhỏ, bưng từng gói lớn, và ném rào rào xuống xe. Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Qua khu hàng này, qua khu hàng khác. Cho tới lúc lòng xe đầy ắp. Chàng kể chỗ ở chàng rất gần, ngay sau khu thương mại này, hôm nay được nghỉ sở, lúc chàng đi sau nàng trên khúc hè đường nhộn nhịp và cùng nàng băng đèn đỏ là thấy trời đẹp, muốn đi dạo một chút chờ giờ về ăn cơm. Nàng bật cười khi chàng nhắc
Một đêm thứ bảy | 63 tới người cảnh sát và tờ giấy phạt, chàng vẫn còn hết sức ngạc nhiên không hiểu hắn chờ mình ở đâu chàng và nàng cùng không hề nhìn thấy mà có thể chặn bắt tức thì như thế được. Nàng bật cười nữa khi chàng kể tiếp tới vợ người bạn ở chung nhà, bà ta luôn luôn lớn tiếng la lối chồng, nhưng đảm đang việc nhà, bếp núc một tay một mình tươm tất, khiến người chồng và chàng chưa bao giờ phải đẩy xe cho một người đàn bà đi chợ. Về nàng, chàng biết nàng ở một thành phố nhỏ, yên tĩnh nhiều hồ và rừng cây, những con đường vắng lặng như những con đường làng, không có đèn đỏ, không có cảnh sát, thuộc tiểu bang Minnesota. Làm việc ở một xưởng may cắt y phục, nàng xin nghỉ năm ngày sang Cali, để dự đám cưới một người em họ ở Westminster, đã được người em đưa đi vùng Hollywood, khu Disneyland và chuyến bay đưa nàng trở về sẽ cất cánh ở phi trường John Wayne trong hai giờ nữa. Chàng đẩy chiếc xe thực phẩm đầy ắp của nàng ra quầy. Chờ nàng trả tiền. Đưa nàng ra ngoài. Chàng giữ nàng đứng lại ở bãi đậu xe, sau đó mấy điều chàng đề nghị, vẫn trong tinh thần chuộc lỗi, đều được nàng lắng nghe và gật đầu ưng thuận. Như nhận tờ giấy phạt, đi nộp phạt cho nàng. Như chàng có xe, về lấy không đầy năm phút, nàng không cần phải kêu taxi tới đón, chàng sẽ đưa nàng ra phi trường.
64 | Mai Thảo Như còn thì giờ, chàng không muốn về nhà ăn cơm nữa và mời nàng sang một tiệm cơm Việt Nam ngay trong khu siêu thị. Họ lấy được một bàn ăn sát cửa. Có thể vừa ăn vừa coi chiếc xe đồ bên ngoài. Nàng nhận lời chàng cùng uống với chàng một ly rượu chát, gọi là đánh dấu cho một quen biết tình cờ do một ngọn đèn đỏ và một tấm giấy phạt tạo nên, men rượu làm ửng hồng hai gò má nàng, nàng cầm đũa tay trái, ăn uống ngon lành, tự nhiên và cái tiểu bang xa lạ chưa từng đặt chân trong phút chốc với chàng đã trở thành vùng trời thân thiết. Tên nàng là Kim Loan. Chàng biết thêm vậy. Cũng chỉ vậy mà thôi. Nàng không tiết lộ gì nhiều về cuộc đời nàng và giữ gìn, chàng cũng không dám tò mò tìm hiểu. Hai người không ngồi được với nhau lâu, đã tới giờ đưa nàng ra phi trường và chàng không tìm được cách gì giữ nàng ở lại. Trước lúc máy bay cất cánh, chàng khẩn khoản mãi nàng mới chịu cho chàng số điện thoại của nàng ở Minnesota. Đoạn, nghiêm trang cúi đầu chào và theo đoàn người ra phi đạo. Khoảng trên dưới một năm sau, họ lấy nhau. Nhớ lại sự đổi thay lớn lao xảy đến cho đời mình, sự chấm dứt đột ngột không ngờ của cuộc sống độc
Một đêm thứ bảy | 65 thân chàng tưởng đã là một lựa chọn tốt đẹp và sẽ kéo dài mãi mãi, tất cả từ một tấm giấy phạt cảnh sát công lộ Mỹ, chàng không rõ có phải một tiếng sét ái tình đã đánh xuống đúng cái đích thực là trong tình cảm chàng đã có một ngọn đèn đỏ rực. Từ phi trường trở về, chàng đi nộp tiền cho hai tờ giấy phạt. Rồi ngày ngày đi làm, sống lại cuộc đời độc thân như cũ. Chàng nghĩ sự rung động của chàng trước Kim Loan trong lần gặp gỡ ngắn ngủi chỉ là một ảo giác của rung động. Nửa giờ đẩy xe cho nàng trong siêu thị, bữa ăn, đoạn đường đưa tiễn nàng ra phi trường cũng vậy. Mấy khoảnh khắc lãng mạn hời hợt thôi, như một trò đùa thời niên thiếu cũ, không nên phóng lớn, không nên lầm tưởng. Nhưng rồi những buổi chiều ở sở về, đi dạo trên khúc đường cũ, chàng bỗng cảm thấy nhớ một thân hình nữ phái trước mặt. Và ngừng lại trước những đèn đỏ, chờ chúng tắt để băng qua đường, chàng thấy đích thực và một cách lo lắng ở trong chàng có một ngọn đèn đỏ khác, kỳ lạ, một ngọn đèn đỏ không bao giờ chịu tắt, nó chặn đứng hết mọi giao thông của đời sống chàng lại, không làm sao vượt sang một hè đường nào khác ở bên kia. Vật lộn với mình suốt mấy tuần liền, cuối cùng chàng chịu thua. Và hồi hộp quay một con số điện thoại viễn liên ở Minnesota. Nàng nói chuyện với
66 | Mai Thảo chàng. Cười, nói tưởng chàng đã quên. Cười, nói số lượng thực phẩm mua về, nấu ăn hết rồi và lại đang thèm đồ ăn Việt Nam vô tả. Nàng thuận để chàng gọi điện thoại lúc nào chàng muốn chỉ dặn chàng lưu ý tới giờ giấc vì giờ Minnesota và giờ California sai biệt nhau hai tiếng. Ba tháng sau. Tình cảm vượt qua một đèn đỏ nữa. Chàng xin phép đi Minnesota và giờ California sai biệt nhau hai tiếng. Ba tháng sau. Tình cảm vượt qua một đèn đỏ nữa. Chàng xin phép đi Minnesota thăm nàng. Lần điện thoại này trầm trọng. Cả hai đều không cười. Biết không còn là trò đùa. Im lặng một lát, thật lâu, rồi nàng hỏi: “Anh đã nghĩ kỹ chưa? Minnesota buồn lắm, không như ở Cali đâu.” Chàng nói chàng đã nghĩ kỹ, chưa từng bao giờ phải suy nghĩ kỹ và nhiều như vậy. Và bay sang Minnesota ngay buổi chiều hôm ấy. Đêm Minnesota lạnh. Gió thổi trùng trùng trên những tầng cao. Trời đất cùng một mầu với những rừng cây và những mặt hồ tối thảm. Nàng đứng đón chàng ở phi trường, không tươi cười như chàng đã hình dung ra vậy trên suốt chuyến bay mà khuôn mặt nhợt nhạt, bất động, cặp mắt mở lớn nhìn chàng đăm đăm, như muốn khóc. Một khía cạnh của con người nàng, cái khía cạnh trang nghiêm dịu dàng, khác biệt hẳn với cái khía cạnh ung dung đùa nghịch của lần gặp trước khiến chàng chấn động. Sự
Một đêm thứ bảy | 67 chấn động gấp nghìn lần sự chấn động trước. Nàng lái một chiếc xe hơi cũ, mắt nhìn thẳng, im lặng, chỉ vắn tắt trả lời những điều chàng hỏi. Chàng nhắc lại ngọn đèn đỏ ở ngã tư, người cảnh sát và hai tờ giấy phạt để nàng cười. Nhưng nàng không cười. Như thế suốt dọc đường về tới chỗ ở của nàng. Chàng đi theo nàng trên một cầu thang tối, dưới cơn mưa bụi lất phất. Nàng mở cửa đưa chàng vào một căn phòng khách chật chội, cũ kỹ tuy rất sạch sẽ ngăn nắp. Nàng kêu mấy đứa em nhỏ trong một phòng ngủ ra chào chàng. Đưa chàng vào một căn phòng ngủ khác chào mẹ nàng, bà cụ đã nhiều tuổi, vẻ người quê mùa, nói xin lỗi vì bị chứng tê thấp không ra với chàng ở phòng khách được. Nàng nói nhà cửa chật chội thiếu tiện nghi như chàng đã nhìn thấy nên đưa chàng ra khách sạn chứ không dám giữ chàng ở lại trong đêm. Hai người đi ra. Xuống thang. Mưa lớn hơn. Trước khi vào xe, nàng cúi đầu xuống nói nhỏ: “Ngày mai anh đã muốn trở về Cali chưa?” Chưa. Ngọn đèn đỏ vẫn đỏ rực. Và tôi không còn một lối đi nào khác. Chàng tới gần. Và từ lúc tới, vẫn chỉ muốn được nghe lại tiếng cười tuyệt diệu của nàng, bằng một lời nói đùa: “Bộ tưởng đuổi tôi về dễ vậy sao? Cô cũng đáng lãnh thêm một giấy phạt nữa của cảnh sát như tôi bữa đó. Về tội thiếu lịch sự với một người đàn ông ở xa tới thăm.” Nàng vẫn không sao
68 | Mai Thảo cười nổi. Chỉ ngước mặt nhìn chàng, một khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Rồi tình yêu bằn bật hôn nhau giữa trời mưa. o O o Sáu năm sau chàng mới đưa được nàng từ Minnesota về thăm lại vùng Nam California. Trong thời gian này chàng đã trở lại Minnesota nhiều lần. Trước lễ cưới, một lần vào mùa thu, tiểu bang còn có mỹ danh là Vạn Hồ vàng rực những rừng dương màu trắng, chàng đi bên cạnh nàng giữa những thắng cảnh trầm mặc tịch lặng, tình yêu cầm tay nhau không nói, sự im lặng của nàng là một cái nhìn cẩn trọng khiến chàng cũng phải e dè, vào một cửa ngõ mới của đời sống cả hai người cùng không ngờ đã có với nhau. Một lần nữa, giữa mùa đông, nàng điện thoại khuyên chàng dời lại chuyến đi vì khắp vùng nàng ở đang mịt mùng mưa tuyết nhưng chàng cứ ra phi trường, chuyến bay chậm mất bốn tiếng đồng hồ, hai người đi ăn tối ở một nhà hàng Ý Đại Lợi trên bờ một mặt hồ đông giá, một nghìn hoa tuyết phất phới bên ngoài khung kính, những khối than đỏ rực trong lò sưởi nhà hàng hắt những ánh lửa vờn múa trên vầng trán bình yên của nàng, chàng ngắm nhìn nàng với một lo âu mơ hồ bất chợt, như trên hai bờ vai vừa có một khối trách nhiệm một đời đè nặng. Nhưng rồi mọi chuyện trôi chảy tốt đẹp,
Một đêm thứ bảy | 69 không có sự mai phục của một bẫy ngầm nào. Đám cưới được cử hành vào tháng tư, mùa tuyết tan. Cặp vợ chồng bạn cho chàng ở chia phòng cùng đáp máy bay với chàng đi Minnesota, suốt chuyến bay người vợ vừa trêu cợt chàng vừa la lối chồng hết chuyện này đến chuyện khác. Cặp vợ chồng ở tạm một căn phòng khách sạn, nàng xin nghỉ ở sở may hai tháng không ăn lương, ngày ngày về nhà chăm sóc mẹ và đàn em cho đến khi bà mẹ từ trần bốn tháng sau ngày cưới. Đây là thời kỳ hai người cùng vất vả. Chàng đã bỏ sở làm ở Westminster, số tiền để dành ở ngân hàng lấy ra hết để chi tiêu cho đám tang mẹ nàng, nàng lại đau, phải vào nằm bệnh viện mất hai tuần lễ. Mọi chuyện êm đẹp trở lại với ngày nàng xuất viện, chứng ung thư chỉ là một báo động giả, cùng với ngày chàng tìm được việc làm ở thành phố St Paul, bên kia giòng sông Mississippi. Việc làm lương thấp, nàng lại có thai sau đó phải nghỉ hẳn việc ở nhà, hai người phải sống rất cần kiệm và giới hạn mới đủ tiền cho mấy đứa em nàng tiếp tục việc học. Rồi đứa con ra đời, ở một bệnh viện trên đồi, giữa những đại thụ rất thơ mộng. Chàng vào thăm nàng, cúi xuống với nàng, tươi cười nhưng mệt mỏi giữa đám chăn đệm trắng toát. Đoạn sang phòng hài nhi lồng kính từ ngoài nhìn vào đứa con gái Á Châu tóc đen sánh, mặt mũi nhăn nhúm la khóc giữa bầy trẻ
70 | Mai Thảo Mỹ hồng hào bụ bẫm hơn và bằn bặt ngủ say. Nàng ở lại bệnh viện ba ngày. Buổi tối sau cùng, bệnh viện đãi hai vợ chồng một bữa tiệc có món tôm hùm, hoa trên mặt bàn và nến thắp ở giữa. Sau đó chàng bồng con đưa nàng trở về nhà và cuộc sống lại đều đều nhịp cũ. Sáu năm. Những buổi sáng tới sở. Những buổi chiều trở về. Căn nhà yên tĩnh giữa một vùng đất trời mênh mông yên tĩnh đã đưa chàng đi thật xa phần đời cũ, phần đời độc thân đầy tiếng động chừng như đã cách khuất hẳn, ở bên kia những cánh rừng, ở bên kia những triền núi. Đôi lúc nghĩ ngợi, chàng thấy đó như một chôn vùi. Cho chàng. Cả với cho nàng nữa. Và cảm thấy một ân hận một ngậm ngùi nào đó. Đôi lúc chàng lại thấy cuộc đời như đương nhiên phải vậy và chàng với nàng cũng như trăm ngàn cặp vợ chồng khác mà thôi và một hạnh phúc êm đềm là hạnh phúc người đời không bao giờ biếtÝtới.nghĩ sau cùng xem chừng đúng với chuyến về thăm vùng Nam Cali náo nhiệt ồn ào nơi chàng đã sống, đã gặp nàng ở đó và đã bỏ đi. Khoản tiền dành dụm được đủ cho hai vé máy bay khứ hồi. Ngày lên đường được chọn, khá lãng mạn, cùng ngày với ngày sau năm trước, chàng và nàng cùng ẩu tả băng qua ngã tư trước đèn đỏ và cùng lãnh mỗi người một tờ giấy phạt. Xếp quần áo vào vali, chàng nói đùa với
Một đêm thứ bảy | 71 nàng: “Anh đưa em đi hưởng tuần trăng mật. Tuần trăng mật rất muộn màng của chúng ta”. o O o Sáu năm. Không riêng chàng thay đổi. Không riêng nàng nữa. Cũng đã đổi khác hẳn, cái khu đã có một tên gọi mới là Tiểu Saigon nằm giữa bốn con đường Bolsa, Brookhurst, Magnolia và Westminster hợp lại. Sáu năm trước mấy con đường này chỉ lác đác năm mười cửa tiệm, vài ba siêu thị. Giờ là những khu thương xá mới xây cất nối liền vào nhau bằng hàng trăm hàng ngàn cửa tiệm ngày trước không có, và sự nhộn nhịp ngày trước cũng chỉ là một phần thật nhỏ so với sự náo nhiệt ồn động của bây giờ. Cặp vợ chồng bạn trước cho chàng ở chia phòng đã đi tiểu bang khác, chàng phải đi ở khách sạn. Đám bạn hữu cũ cũng không tìm ra ai. Chàng bồng con, cùng nàng đi vào cái siêu thị chàng đã đẩy xe cho nàng mua đồ như một hành động chuộc lỗi. Người chủ cũ là Việt Nam. Chủ mới là một Tầu Chợ Lớn. Tiệm ăn sáu năm hai người ngồi ăn trước khi chàng đưa nàng ra phi trường cũng vậy. Cũng đã đổi chủ. Đổi cả trang trí. Đổi cả thực đơn. Hết thảy đều xa lạ. Chẳng một ai còn chú ý đến chàng. Cuối cùng, cặp vợ chồng cùng ngừng lại ở cái ngã tư chàng đã theo nàng băng ẩu qua, cái ngã tư đèn đỏ đưa tới tình duyên và ăn đời ở kiếp. Chàng nhìn xuống chỗ
72 | Mai Thảo hai người đứng, hỏi nàng xúc động: “Em còn nhớ cái ngã tư này?” Nàng gật. Chàng hỏi tiếp: “Và ngọn đèn đỏ kia?” Nàng gật. Thật là một kỷ niệm. Một kỷ niệm lạ lùng. Thật là một tình cờ. Một tình cờ lạ lùng. Thốt nhiên chàng muốn đùa nghịch. Muốn được bị cảnh sát chặn lại. Muốn được bị phạt một lần nữa. Muốn sống lại một cảm giác cũ. Nàng la lên thất thanh khi chàng lừng lững băng qua đường trước ngọn đèn đỏ chưa chuyển sang đèn xanh. Nhiều tiếng la lối tiếp theo. Những hồi còi xe inh ỏi. Sang tới bên kia đường, chàng đứng lại, cười lớn, nhìn nàng bồng con đi sang. Nhưng rồi chàng thất vọng. Chẳng có một xe cảnh sát nào ào tới. Hạnh phúc đích thực là hạnh phúc ở trong sự lãng quên của người đời, chàng nghĩ thầm, nửa vui nửa buồn. Đúng vậy, chàng đã bị người đời bỏ quên, hoàn toàn. Kể cả những ngọn đèn đỏ, không thèm nhìn. Kể cả những người cảnh sát, không thèm tới. Hôm sau họ trở về cái thế giới riêng tây khuất cách với đời của họ ở tiểu bang Minnesota.
Một đêm thứ bảy | 73 CỦA MỘT THỜI ĐÃ MẤT Tiệm làm đầu ấy nằm ở cái địa điểm lý tưởng nhất của một tiệm làm đầu. Những năm tháng Sài Gòn phồn vinh đang ở trên đỉnh một sinh hoạt đầy ắp, chiến tranh ở đâu không biết, chỉ biết trong thành phố không giới nghiêm, người đàn bà làm chủ, thời trang là mối quan tâm hàng đầu, do vậy mà những mái tóc và những chiếc áo dài của các nàng là ưu tiên số một. Giữa nhà sách Khai Trí và rạp chiếu bóng Rex, tiệm là căn cuối đáy của một hành lang ngắn, hai bên lối vào là mấy tiệm kim hoàn vàng bạc sáng choang lấp lánh trong những ô kính nền nhung. Vàng bạc. Kim cương. Ôi những giấc mơ đời đời của người đàn bà thành phố. Sát cạnh đó, thêm một từ trường mạnh mẽ không thể chống cự là một tiệm may áo dài đang hồi danh tiếng nhất. Thì trách nào những thược dược và những hải đường của Sài Gòn không ngày ngày đổ tới đó như một giòng suối hoa tấp nập không ngừng. - Trong cái giòng suối này, có hai niềm hạnh phúc, cũng là hai bất hạnh của Định suốt một thời gian. Một niềm là áo mang tên Thu, một niềm là tóc mang tên Bích. Hai niềm với Định đồng đều trên
Nhưng thắm thiết gắn bó nhất là ở với tóc. Cái mái
74 | Mai Thảo hai đầu cân tình cảm, Định lạ lùng với chính lòng chàng những năm tháng đó là hải đường và thược dược chàng đều yêu mến ngang bằng như nhau, trong một thời kỳ sống khá liều lĩnh của chàng vì đã dám có hai người tình trong cùng một lúc. Bích có một mái tóc tuyệt đẹp. Nghìn sợi lụa mềm. Thành một giòng suối. Nghìn sợi tơ vàng. Thành một giải mây. Cho nên, biết có của báu trời cho, đi trên hè đường trăm mắt đàn ông đều quay nhìn lại, Bích chăm sóc cho mái tóc diễm lệ của nàng bằng một chăm sóc nâng niu Định chưa từng thấy ở một người đàn bà nào khác. Như mái tóc nàng là linh hồn nàng vậy. Như mái tóc là bản mệnh vậy. Những đêm đi chơi cuối tuần với Định, trở về căn phòng nàng ở đường Thành Thái, khuya mấy thì khuya, mái tóc cũng bật đèn sáng choang, mái tóc cũng tới trước bàn phấn, mái tóc cũng soi mình trong gương. Và nghi lễ cho tóc thả buông, cho tóc đi nằm là hàng trăm nhát lượt chải tới chải lui, chải luôn từng sợi. Những phút ân ái nồng nàn với Định nhất nàng quên hết đất trời, nhưng mái tóc thì không. Anh, tóc em, nàng thầm. Khiến một lần Định cụt hứng nổi đóa: “Mái tóc em hơn cả anh sao?” Và người đàn bà tủm tỉm cười: “Có thể là vậy đó.” Bích ở với đời. Ở với Sài Gòn. Ở với tuổi trẻ nàng. Ở với Định nữa, đầy đặn.
tóc châu báu của nàng. Buổi sáng thức dậy, nàng đã gương. Cái bàn chải một tay, cái lược tay kia, khởi sự một đầu ngày cùng tóc. Buổi trưa nữa, buổi chiều nữa, bất cứ lúc nào. Những ngón tay cong lùa nhẹ vào tóc. Hất qua hất lại. Đẩy về sau lưng. Thả xuống dưới trán. Nâng từng sợi trước mũi, ngửi ngửi. Kéo từng nhánh trước mắt, nhìn nhìn. Cười: “Đàn ông các anh không có chuyện này. Có lại thấy ghét. Nhưng đàn bà chúng em mái tóc như bầu bạn, đùa nghịch với nó lúc buồn lúc vui.” Hạnh phúc ấy của tóc ở Bích, Định thấy là phiền hà quá thể nhưng lâu dần chàng quen, thấy cũng là một cái gì ngồ ngộ hay hay. Nhưng bất hạnh tóc ít ngày lại xảy đến cho chàng khi Bích đòi chàng đưa đến cái tiệm làm đầu của chú Sếnh ở cạnh tiệm sách Khai Trí, và đòi chàng ở luôn đó với nàng tới khi mái tóc làm xong. Bất hạnh. Không thể dùng một danh từ nào khác. Bởi ghét của nào trời trao của đó, nhẫn nại không phải là đức tính của Định, điều chàng ngán ngẩm nhất là phải chờ đợi, và những lần phải đưa Bích đi tiệm làm đầu thì là một đợi chờ muốn la lớn, muốn thở hắt ra. Nhưng Định không sao chối từ. Bích đòi, bao giờ cũng thật nũng nịu thật âu yếm. Định cũng hiểu tại sao Bích cứ muốn có chàng ở cạnh. Nàng yêu chàng. Rất hãnh diện về chàng. Nên hạnh phúc,
Một đêm thứ bảy | 75
trước
76 | Mai Thảo thích trình diễn nó một chút cùng với đám bạn gái xa gần cùng làm tóc ở chung quanh. Nhưng bực thì Định vẫn bực vì Bích chỉ chịu để “chú Sếnh” làm đầu không chịu một thợ nào khác. Chú Sếnh. Đó là một gã Tầu lai nhỏ nhắn, làn da mịn màng trắng xanh như da dẻ đàn bà, dáng dấp lại cái, thằng oắt con được nhiều khách tranh giành lại rất phách lối, nhận tiền “tip” một cách lạnh lùng, không thèm nói một lời cám ơn, nó cũng không bao giờ chào hỏi Định. Một lần chàng hậm hực: “Thằng lỏi vô lễ. Sao bà nào cũng vồ lấy nó vậy? Cả em nữa. Anh chỉ muốn đấm vỡ cái bản mặt câng câng của nó”. Và Bích thì đã lập tức nghiêm mặt: “Cấm thật anh không được tỏ vẻ khó chịu với chú Sếnh. Chú Sếnh số một. Thợ giỏi Hồng Kông sang còn thua đó.” Bích chỉ sợ chú Sếnh mếch lòng không làm đầu cho nàng. Chú Sếnh. Một điều chú Sếnh, hai điều chú Sếnh. Thằng nhỏ chải tóc kiểu kể cũng điệu nghệ thật. Từ mấy lọn tóc mai đến cái đường ngôi. Hai bàn tay nó vờn múa trên từng mái tóc đàn bà như trình tấu, như khiêu vũ. Nó tới tới lui lui, ngó ngó nghiêng nghiêng, đôi lúc đứng lại, nhíu mày. Như suy nghĩ trầm tư cùng tóc. Như đang tìm kiếm cho mái tóc này, khuôn mặt kia một hoàn chỉnh thẩm mỹ và đúng thời trang nhất. Và kết quả là khi nó đặt nhẹ bàn tay lên đầu Bích ra dấu mái tóc đã làm xong,
Một đêm thứ bảy | 77 Bích hớn hở như vừa trúng số, và Định cũng thấy nàng với mái đầu và kiểu tóc mới, xinh đẹp và trẻ trungTrướchơn.sau khổ hình là ở cái tiệm thường làm đầu đường Lê Lợi ấy, với gã làm đầu tên là chủ Sếnh ấy Bích thường phải chờ và kéo Định phải chờ theo. Một buổi làm tóc từ hai đến ba giờ là ngắn nhất. Phải đợi tới lượt bốn đến năm giờ là thường. Nhưng đó là hạnh phúc của Bích và Định thì thế là những giờ phút lê thê của đợi chờ ở một tiệm làm đầu trên đường Lê Lợi. Sau này, Bích ra khỏi đời chàng. Chàng buồn rầu một thời kỳ. Rồi cũng quên dần được nàng. Nhưng mỗi lần trên một hè phố Los Angeles, giữa một ngã tư Paris, nhìn thấy một mái tóc đàn bà Tây Phương ở trên đỉnh thời trang và diễm lệ như một công trình mỹ thuật tuyệt vời chàng lại bồi hồi nhớ đến Bích. Đến mái tóc nàng. Đến sự nâng niu chàng chưa từng thấy một người đàn bà nào dành cho mái tóc vô giá của mình. Trong khung cảnh ồn ào của tiệm làm đầu ở giữa đường Lê Lợi kia. Với gã thợ nhất Tầu lai tên là Chú Sếnh.oO o Thời gian ấy ở Sài Gòn mình làm gì? Cũng phải mưu sinh, cũng có công việc mà! Đúng vậy. Có công việc. Bộn bề là đằng khác. Vậy sao còn
78 | Mai Thảo nhiều thời giờ dành cho đợi chờ bên cạnh một mái tóc đàn bà như vậy? Đó là Định bây giờ hồi tưởng lại vẫn lạ lùng tự hỏi. Còn thêm Thu. Còn thêm thời giờ dành cho cuộc tình với Thu, cho đợi chờ những chiếc áo dài của Thu nữa. Lạ lùng thật. Thời gian. Lạ lùng thật, sự chờ đợi. Hai người đàn bà cùng tuổi với nhau, nhưng Thu vào đời bằng một cửa ngõ tối tăm hơn của Bích. Cả hai cùng nguyên quán ở miền Bắc, nhưng Bích sinh trưởng ở Hà nội, trong một gia đình khá giả, còn Thu ở một vùng quê hắt hiu và gia cảnh rất nghèo nàn. Mồ côi từ sớm, vào Nam, Thu ở với người chị đã có chồng. Người chị ngược đãi nàng, em gái mà coi như con hầu đầy tớ và những chiếc áo dài bỗng trở thành một mơ tưởng, một giấc mộng của Thu từ cảnh ngộ đau buồn ấy. Nàng lấy từ tủ áo ra một chiếc áo kim tuyến lộng lẫy, nhìn nó, ướm nó vào người, kể với Định chuyện đau buồn cũ: – Năm ấy em mười sáu tuổi. Giáng Sinh, Nguyên Đán sắp tới. Em thầm mong ước chị Tám đưa em đi tiệm may, may cho một cái áo dài. Một thôi. Một cái áo dài màu hồng hoặc mầu vàng tươi mặc trong ngày mùng một. Chờ hoài, chẳng thấy. Tới sát Giao Thừa cũng không. Buổi chiều cuối năm ấy vợ chồng chị Tám đi chợ Tết mua hoa, em vào phòng riêng chị ấy, đứng mê mẩn trước cái tủ áo dài ba bốn chục
Một đêm thứ bảy | 79 cái của chị ấy, như bị thôi miên. Anh thấy không, chị một tủ áo dài, em không có một cái. Chị ấy lại vừa lấy về ba cái áo mới, trong có một cái áo kim tuyến mầu huyết dụ, lộng lẫy không thể nào tả được. Em đánh bạo, mở tủ lấy ra cái áo tới đứng trước gương, ướm thử vào người. Bất đồ chị ấy về bắt gặp, lồng lộn lên, giật phắt lấy cái áo và tát cho em mấy cái nên thân. Em bỏ nhà ra đi ngay đêm Giao Thừa với lời thề nguyền rằng em sẽ làm bất cứ nghề gì để có thật nhiều tiền. Khi đó em sẽ tạo cho chính em một tủ áo dài gấp mười lần tủ áo chị Tám. Lời thề nguyền như một trả thù số phận ấy, Thu đã thực hiện được, khi đi học nhẩy, vào nghề, và nhờ một báu vật trời cho, trở thành một ngôi sao vũ nữ của những vũ trường Sài Gòn - Chợ Lớn. Vật báu trời cho ở Thu, như vật báu trời cho ở Bích là mái tóc, là thân hình nàng. Cũng lạ lùng. Ra đời ở một nơi chốn nghèo hèn, đã phải làm những công việc lam lũ cho người chị độc ác từ thời nhỏ dại, Thu lúc Định gặp nàng đã hai mươi mốt tuổi, có một thân hình cân đối và nảy nở chỉ thấy ở những hoa hậu, những minh tinh màn bạc. Một cân đối dịu dàng, một nẩy nở vừa vặn, và tuyệt mỹ trong một cái áo dài Việt Nam. Chiếc áo dài, đúng Thu là sứ giả của nó. Chiếc áo dài, đúng nó chỉ phô diễn được hết mọi vẻ đẹp óng ả trên cái thân hình cẩm thạch của bà
80 | Mai Thảo hoàng chân đất ấy là Thu. Và cái áo dài với Thu, như mái tóc với Bích đã trở thành tình yêu lớn nhất. Sinh nhật, Giáng Sinh của Thu, mỗi năm Định hỏi nàng muốn có tặng phẩm thế nào, nàng nói liền ngay là áo. Cho em áo. Vậy thôi, một điệp khúc. Cho em áo. Vậy thôi, một vui mừng duy nhất. Hái ra tiền một thời ở những sàn nhẩy, Thu tiêu gần hết tiền bạc cho gấm Thượng Hải, cho lụa Paris, cho nhung Hồng Kông. Hàng về đợt đầu giá đắt cắt cổ cũng mua. Mua và may liền. Để có được sự thích chí đặc biệt là hàng áo mới, được mặc trước hết mọi người. Lâu dần, Thu trở thành một thẩm quyền xuất sắc của Sài Gòn ăn chơi, về áo. Về những chiếc áo dài. Mùa này là hàng lụa, hoa lớn nền tím. Mùa kia là hàng gấm, chữ bạc, nền xanh lam. Đã thông thạo về vải lụa từng mùa, Thu còn biết chỉ dẫn cho tiệm may may sao cho những chiếc áo dài của nàng khi nàng mặc lên người, như vừa tìm thấy một người mẫu tuyệt vời và lý tưởng nhất. Đến chơi Thu, đã quen thuộc lắm nhưng lần nào Định cũng vẫn hoa mắt về dẫy tủ áo lồng kính kê kín ba phía tường phòng ngủ của nàng. Mấy trăm chiếc vậy. Cái nọ liền sát cái kia, thành một cánh rừng, thành một triển lãm. Chưa kể hàng trăm áo, chỉ mặc vài lần Thu không thích nữa, gọi bạn gái tới cho, lấy chỗ trong tủ cho những chiếc áo mới sắp
Một đêm thứ bảy | 81 đem ở tiệm về. Áo dài, phải nói đến con Thu, không thua gì áo của bà tổng trưởng này, bà giám đốc nọ, đám bạn gái của Thu thường trầm trồ như vậy. “Mà quái lạ, họ nói tiếp, chỉ nó mặc áo dài mới đẹp thôi.” Lời khen này làm Thu hớn hở nhất. Một hôm, nàng vừa mặc một chiếc áo lụa Thái Lan mới để đi chơi với chàng, Thu cười, nói với Định: – Anh biết tại sao không? Tại vì em thích nên để tâm nghiên cứu cho những chiếc áo dài của em. Sao cho có dáng. Sao cho thật vừa thật đẹp. Anh thường khen em có cặp mông của Marilyn Monroe. Thế là anh có máu ba mươi lăm. Thực ra nó tròn đầy quá, hỗn quá. Và em tìm ra cách là bảo may phần giữa áo hơi rộng chút đỉnh, áo không bị cắt khúc cứng đơ ở bụng, do vậy làm chìm bớt được đường cong hỗn hào của mông không lồ lộ hết ra. Cái thú may áo, tiêu tiền cho áo, làm cho mình luôn luôn lộng lẫy sáng chói vì áo, cái thú như một trả thù đã xong xuôi người chị độc ác và những năm tháng nghèo khổ thuở nào không trở thành bất hạnh cho Định. Nếu Thu không có một định tâm của Bích, chỉ chịu độc một tiệm làm đầu ấy ở đường Lê Lợi và chỉ chịu độc một gã thợ Tầu lại là “chú Sếnh” làm đầu. Với Thu thì là một chiếc áo mới ấy lại thường là những áo vừa đem may, vải lụa còn nằm ở tiệm. Nhưng Thu đã định. Không thể là khác. Chiều
82 | Mai Thảo nay phải là chiếc áo ấy nàng mặc xuống đường. Câu chuyện lấy áo và đi chơi thường đại khái là: – Em hàng trăm áo mới. Mặc bất cứ một cái nào cũng rất đẹp, không được sao? Vắn tắt: - Không. –Em đưa may từ ngày nào? - Hai ngày rồi. Định la lên: – Mới có hai ngày. Làm sao họ may cho kịp. – Phải kịp. Mà chưa xong thì anh chờ ở đó lấy về bằng được cho em. Nàng dơ tay tủm tỉm cười, vừa đe dọa vừa âu yếm: – Không có mỡ bò đem về là em khỏi đi ăn chim quay Chợ Lớn tối nay với anh. Chưa đến nỗi có lần nào những buổi đi chơi của Thu và chàng phải hủy bỏ vì một chiếc áo mới không kịp đem về như thế. Nhưng Định nhớ mấy lần khi Thu đành phải mặc một cái áo khác thay thế, nàng buồn phiền, thường đòi về sớm và buổi tối mất vui hẳn đi. Và Định lại đụng đầu với điều chàng ngán ngẩm nhất. Là sự chờ đợi, như với Bích ở một tiệm làm đầu. Và với Thu là ở một tiệm may áo dài phụ nữ. Chàng đi lấy áo, đợi áo ở cửa tiệm cho Thu đã cả trăm lần. Những lần áo vừa kịp may xong, bà chủ cho áo vào bao, cười cười trêu nghịch: “Ông Định lần này hên lắm nhé!” Định thấy chàng hên thật và nhẹ hẳn người đi. Nhưng còn những lần phải đợi. Ôi thôi, những lần đợi áo. Chàng phải nằn nì với bà chủ
Một đêm thứ bảy | 83 và cho cô thợ giỏi cắt may mau lẹ nhất. Chàng phải tới hẳn cạnh bàn may chờ áo may xong. Đợi chờ có khi kéo dài cả 3, 4 tiếng đồng hồ. Từ trưa tới xẩm tối. Nhưng đó là chứng tật vừa đáng yêu vừa đáng ghét và không sao bỏ được của Thu. Đó là niềm vui, là hạnh phúc tột đỉnh của nàng. Và Định thì không muốn những buổi tối của chàng với Thu mất vui. Và như vậy, một thời gian mấy năm liền, gần như tuần nào Định cũng có một buổi đợi chờ điên đầu ở một tiệm may phụ nữ, cũng ở giữa con đường Lê Lợi. o O o Về sau, như Bích, Thu cũng ra khỏi đời sống của chàng. Định buồn bã mất một thời kỳ. Rồi cũng quên được. Nhưng mỗi lần nhìn thấy một chiếc áo dài Việt Nam hai tà áo múa bay trong nắng, đâu đó ở một góc phố quê nhà, trên một hè đường quê người, một chiếc áo dài Việt Nam đẹp trên một thân hình nữ phái cân đối chàng lại nhớ đến Thu.
tóc. Bây giờ Định chẳng còn bao giờ được có những đợi chờ như vậy nữa. Hoặc là chỉ còn những đợi chờ vô nghĩa và buồn bã gấp nghìn lần. Hồi gần đây, Định được biết cả Bích và Thu đều đang sống ở Mỹ. Và cả hai đã là mẹ của một đàn con.
Một nỗi nhớ ngậm ngùi, bâng khuâng, mang hình ảnh một tà áo dài bay tuyệt vời trên một nền phố xá Sài Gòn. Nghĩ lại, đợi chờ đâu phải là một bất hạnh. Một hạnh phúc
84 | Mai Thảo Đâu như Thu sống ở Dallas. Không khá. Đời sống âm thầm vất vả. Nàng làm thợ may trong một xưởng quần áo người Ý làm chủ. Quần áo sản xuất đủ loại nhưng không sản xuất áo dài Việt Nam. Thu mặc đồng phục màu xanh của thợ. Ca đêm. Lương thấp, bị cho nghỉ việc nhiều lần. Bích cũng vất vả như vậy. Công nhân hạng dưới của một hãng điện tử ở Silicon Valley. Ngày ngày mắt nhắm mắt mở ra khỏi nhà đi làm từ năm giờ sáng. Và cái mái tóc trời cho ngày nào, mỗi khi ra đường bắt hàng trăm cặp mắt đàn ông đều phải quay đầu nhìn lại, mái tóc đấy đã bị buộc túm lại trong cái mũ vải thô kệch của người công nhân điện tử. Mưu sinh đến mệt lả, đến đứt hơi, Bích đâu còn thì giờ nào để chăm sóc, để bầu bạn với mái tóc tuyệt đẹp của nàng được nữa. Nó đã hết đẹp. Từ lâu. Chắc vậy. Và bây giờ, thay cho mỗi ngày xưa một cái áo dài lộng lẫy, cái áo Thu mặc mỗi ngày bây giờ là một đồng phục công nhân ở một xưởng may kia. Và áo đẹp và tóc đẹp một thời với Định chỉ còn là kỷ niệm.
– Biết ngay mà! Đồ mặt dầy. Đêm nào cũng vậy. Thoắt là biến mất. Căn phòng im phắc. Không một tiếng trả lời. Nàng càng tức giận thêm. Tiến lên hai bước, ngón son dài vút của của nàng điểm thẳng từng mặt:
Những thước không khí của căn phòng nhỏ chật và dầy đặc khói thuốc bị xô dạt thình lình cùng hai cánh cửa phòng từ ngoài bị đẩy tung ra. Như một con lốc, nàng sấm sét tiến vào. Mắt phượng tròn xoe, mày ngài dựng ngược - nàng xinh đẹp vô chừng nếu không đang tức giận hung dữ đến ghê hồn như vậy và ném vỡ tan cái gương cầm theo trên tay, dậm chân lớn tiếng chửi mắng:
- Thằng kia, thằng kia, một bầy khốn nạn quyến rũ chồng bà. Bà kêu cảnh sát tới liền lập tức. Vẫn im phắc. Vẫn không một tiếng trả lời. Nàng càng nổi đóa, văng luôn một tràng dài tiếng Đức, văn chương nàng dùng khủng khiếp khó bề thuật lại. Sự im lặng dị thường không mảy may phản ứng khiến nàng ngẩn người kinh ngạc. Và từ từ đi tới.
Một đêm thứ bảy | 85
VÁN BÀI
86 | Mai Thảo Hắn ngồi quay lưng lại, bất động, và hầu như không hay biết trận cuồng phong ngất trời là nàng đã tới. Bốn người đàn ông kia cũng vậy. Một thế giới kỳ dị, ngừng đứng và im bặt. Nàng ngạc nhiên tới sát lưng chồng. Nhíu mày. Nhìn qua đầu chồng xuống mặt thảm. Trước mặt chồng nàng là bốn cây bài gối đầu lên nhau, ngay ngắn. Hai đôi. Một đôi tây, một đôi xập. Mắt phượng ngó sang mấy phần bài khác. Những con bài số lệch, đã bỏ cuộc. Mắt phượng ném tiếp tới xa hơn, tới phần bài ngay ngắn phía bên kia bàn của người đàn ông đứng tuổi, ngồi đối diện với chồng nàng. Không đổi. Một cây ách, một cây bồi, một cây đầm và một cây xập. Nàng thì thầm trong đầu hai tiếng “suốt thượng” và nhìn lên khuôn mặt người đàn ông đối thủ với chồng nàng, không chớp. Bài hắn mặt suốt thật. Và đống tiền cao ngất của hắn đã đẩy ra giữa bàn, sát cạnh đống tiền đã có. Hắn đã tố tiền, đã tapy. Nhiều phút im bặt nữa trôi qua và nàng, như chồng nàng, như bốn người đàn ông, cũng đã biến thành một pho tượng đứng, im sững. Cuối cùng, chồng nàng lắc đầu chán nản, và từ từ đưa tay ra để hủy bỏ phần bài không bắt.
Đúng lúc đó, nàng vụt nhoài người về phía trước. Cặp nhũ hoa căng phình dưới áo đè nặng lên vai chồng. Và bằng hai động tác nhanh không được, một tay ngọc của nàng đẩy mạnh đống tiền của chồng ra giữa, tay ngà kia ném vút tới mênh mông, tới tận phần bàn bên kia, lật ngửa lên cây tẩy kẻ thù, cặp môi son đồng thời ném xuống một tiếng oanh vàng sát thủ: Người“Bắt”.đàn ông đứng tuổi lặng người, đưa tay lên gãi má. Trưng Triệu đã bắt được Mã Viện. Tại trận. Cây tẩy lật ngửa nhục nhã thảm hại dưới đèn không phải là một cây Tây. Cười tươi như hoa, lúc này nàng đích thực đáng yêu và xinh đẹp lạ thường, nàng đẩy chồng tránh ra, nhặt hết đống bạc, từng tờ, cuộn thành một cuộn thật lớn trong tay. Và dìu chồng đứng lên. Người chồng rất trẻ, thở ra một hơi dài không nói, lẳng lặng nghe theo. Rất yểu điệu, nàng khoác tay chồng đi ra. Dáng đi của nàng, nhìn từ phía sau, như sóng lượn. Tới cửa, người chồng của sóng chậm bước lại. Giơ cao tay, vẫy vẫy lại bốn cặp mắt sau lưng cùng im lặng nhìn theo. Như một lời xin lỗi không lời, cho sóng.
Một đêm thứ bảy | 87
88 | Mai Thảo
Một đêm thứ bảy | 89 BỐN NGÀY Ở TÂN TÂY LAN Khi chiếc phản lực xuyên đại dương đã lìa khỏi phi đạo, cất bổng mình bay lên không gian, thành phố Los Angeles chỉ còn là một điểm nhỏ xíu nào đó của mặt đất, mất tích dưới những tầng mây trắng xóa, đèn cấm hút thuốc tắt, chúng tôi bắt đầu trò chuyện ồn ào, bầu Huỳnh mới moi túi lấy xấp vé máy bay ra, trả lại chúng tôi về ai người ấy giữ.-Sao ở phi trường không chịu đưa ngay, ông nội? Bầu Huỳnh tủm tỉm: – Đưa sợ các bạn không chịu đi quá. Mọi người ngẩn người. Nhìn kỹ tấm vé. Cùng kêu lớn một tiếng hoảng hốt. Vé ghi lộ trình không từ Los tới Sidney, Úc Châu như chúng tôi đinh ninh là vậy. Mà tới một nơi khác bầu Huỳnh chưa bao giờ đề cập tới, thành phố Auckland, Tân Tây Lan. Hung dữ nhất bạn và cũng là ngôi sao sáng nhất của đoàn lưu diễn, Diễm Thúy chồm ngay qua người tôi, củng bầu Huỳnh mấy cái liền vào đầu đau điếng, tròn mắt quát mắng: – Thằng trời đánh thánh vật kia, mày đánh lừa chị em tao, phải không? Thế này là thế nào nói mau, nói mau.
90 | Mai Thảo Bầu Huỳnh rụt cổ vì đau. Nhưng vẫn tủm tỉm cười, nụ cười tôi thấy là trơ trẽn, lỳ lợm và khả ố hết chỗ–nói:Các bồ đều biết chúng ta không thể có kịp visa tới Úc trước mấy xuất diễn. May có người quen mách kế là xin đi Tân Tây Lan. Xin đi Tân Tây Lan ba ngày đã có visa. Tới đó, xin sang Úc sau. Họ nói “Auckland xin sang Sidney rất dễ dàng, vài ngày là được. Vậy chúng ta hãy cứ tới Tân Tây Lan. Rồi tính sau. Họ nói. Rồi liệu sau. Vậy thôi, không có một bằng chứng chắc chắn nào hết. Thế này là bầu Huỳnh coi trời bằng vung, đem con bỏ chợ đây. Phản ứng bằng tay chân của Diễm Thúy hơi quá đáng. Nhưng cũng là đúng thôi. Tôi cũng muốn bớp tai bầu Huỳnh mấy cái cho đã cơn tức giận. Bầu Huỳnh. Gọi vậy cũng tội cho Huỳnh. Hắn chỉ là một ông bầu tài tử, bất đắc dĩ. Muốn sang Úc Châu thăm con bồ nhí nào đó thì nhân dịp tổ chức cuộc lưu diễn và thân thiết, muốn đưa chị em chúng tôi cùng đi kinh lý đất Úc xa lạ một lần, với hắn. Chứ vụ lưu diễn không vì một vấn đề thương mại, một mục đích kiếm tiền nào hết. Trong bọn, bầu Huỳnh thua hết tuổi chúng tôi. Chỉ như một người em út. Nhưng tâm địa tốt, ra đời sớm, biết người biết của, trong giao du từ trước nay chưa khiến ai phải phiền trách điều gì. Chỉ phải cái tội liều. Nhắm mắt làm bừa, to gan lớn mật. Như cái chuyến lưu diễn Úc Châu
Không còn làm sao được nữa, chúng tôi đành nuốt giận, bàn với bầu Huỳnh chuyện tới Tân Tây Lan. Ai nấy đều phân vân lo lắng. Cái tên Auckland lạ hoắc, chưa ai nghe nói đến lần nào. Cái quốc gia nào đó tên là Tân Tây Lan cũng vậy. Lục tìm trí nhở,
Một đêm thứ bảy | 91 này là một bằng chứng. Về sự liều lĩnh quá thể của bầu Huỳnh tôi chỉ thấy ở những người trẻ tuổi, như Huỳnh. Lẽ ra, một ông bầu gánh đưa đoàn viễn du, phải nắm vững trước mọi vấn đề giấy tờ, thủ tục. Rồi mới định được chuyện khác. Đằng này không. Chưa gì, Huỳnh đã định ngày cho ba xuất diễn, rất gần, rồi bảo người có phần hùn bên Úc in bích chương, vé bán, giấy mời và quảng cáo ngày diễn tùm lum trên báo chí ta ở Úc. Đến khi cả bọn kéo tới Lãnh sự Úc ở Los làm thủ tục nhập cảnh, chúng tôi chưa một ai có quốc tịch Hoa Kỳ, mới té ngửa ra là xin tới Úc không thể chỉ một vài tuần là được. Mà ba tháng. Ba tháng là tối thiểu. Chuyến đi như vậy lẽ phải hủy bỏ. Hoặc mấy đêm diễn, dời ngày lại. Nhưng như vậy thì làm gì có chuyện. Và cũng chẳng hiểu biết gì hết về sự liều lĩnh to gan lớn mật của bầu Huỳnh. Hắn đã nghe theo lời xui, xin đi chệch đường tới Tân Tây Lan. Và sợ chị em chúng tôi không chịu nhập vào chuyến đi đầy bất trắc và phiêu lưu như thế, hắn giữ chặt mọi giấy tờ, vé máy bay, chờ lên máy bay bay rồi mới trả lại mọi người. Đặt chúng tôi trước một sự việc đã rồi.
92 | Mai Thảo không một ai trong chúng tôi có bà con thân thuộc hoặc bạn bè nào ở Auckland hết. Làm thế nào bây giờ?Diễm Thúy đã lưu diễn khắp cùng thế giới. Tôi cũng vậy. Từng đã lỡ tầu, lỡ xe. Từng đã lạc đường, lạc lối. Nhưng chưa bao giờ một điểm tới lại hiện ra xa lạ, mịt mùng như lần này. Chúng tôi lại xúm vào xỉ vả bầu Huỳnh. Nhưng hắn đâu còn nghe. Sau một câu ngắn cộc: “Tới đó rồi tính sau,” hắn đã nghẻo đầu sang một bên và ngủ lăn ra. o O o Mười sáu giờ sau, mười sáu giờ dài lâu bằng một thế kỷ, và sau một chuyến bay dài làm cho mọi người mệt lả, chuyện phiền phức quả nhiên đã xảy đến với chúng tôi ngay khi đáp xuống phi trường Auckland.BầuHuỳnh trấn an chúng tôi là tới đây sẽ tức khắc gọi điện thoại viễn liên cho người hùn tổ chức ở Sidney. Để người đó bay sang đón, thu xếp mọi chuyện ăn ở mấy ngày chờ xin nhập cảnh ở Tân Tây Lan. Hoặc sẽ gửi ngay tiền sang cho chúng tôi chi dùng trong mấy ngày tạm ghé. Không may cho tất cả. Điện thoại hai ba lần, lần nào bầu Huỳnh cũng đặt máy xuống, mặt mũi buồn thiu. Bầy con nhỏ của người có phần hùn trả lời cho chúng đi vắng, dặn một vài ngày mới về, và cũng không biết là đi đâu hết.
Một đêm thứ bảy | 93 Nhiều giờ trôi qua ở phi cảng. To gan lớn mật mà bầu Huỳnh cũng đã tỏ ra bối rối. Chờ liên lạc được với người hùn ư? Chờ tới bao giờ? Vị ông bầu trời đánh của chúng tôi lại không có tiền bạc gì nhiều nhặn trong người. Chương mục hữu hạn của hắn đã cạn kiệt vì trả tiền mấy cái vé máy bay. Cho nên hắn đã nín thinh, không dám gọi taxi vào thành phố, bảo đưa tới một khách sạn nào. Vì chắc chắn không có đủ tiền. Diễm Thúy mệt lả, không buồn xỉ vả nữa, nằm lăn ra mặt sàn phi cảng. Tôi cũng làm theo. Bầu Huỳnh đi đứng bồn chồn. Một lát sau bỏ đi. Lát sau nữa trở lại, reo lên: “Có người ra đón chúng ta rồi!” Thì ra vô kế khả thi, hắn đã lục tìm trong cuốn điện thoại dầy cộm, ở vần Nguyễn. Chọn bừa một địa chỉ ở vần ấy. Trình bầy trường hợp lỡ độ đường của đám nghệ sĩ từ Hoa Kỳ tới. Và may mắn thay, ở đầu giây bên kia, sáng chói một tấm lòng Việt Nam xa nhà đối với Việt Nam trôi dạt, một người họ Nguyễn nào đó chưa từng quen biết, nhận lời đem xe ra phi trường đón chúng tôi. o O o Mười lăm phút sau, anh ta tới. Anh ta, vì còn rất trẻ. Khoảng 24, 25 gì đó, cùng một trạc tuổi với bầu Huỳnh. Tầm thước, mái tóc cắt ngắn, phục sức đơn giản, hình ảnh của một người trẻ tuổi tỵ nạn sống lương thiện, chững chạc trên đất nước người, đi học hoặc đã phải đi làm để nuôi thân, không rơi ngã vào
94 | Mai Thảo chơi bời đàng điếm, anh ta lễ phép xưng tên là Toàn và được bầu Huỳnh trịnh trọng giới thiệu với từng người chúng tôi. Tới tôi, đây là chị Thùy Miên, Toàn nhìn tôi không chớp, cặp mắt nghiêm trang bắt gặp cái nhìn thân mật của tôi, cặp mắt ấy chợt thoáng dấy một vẻ gì xao xuyến, như một chạm đụng bàng hoàng. Một thoáng thôi. Khoảng khắc. Nhưng thấy, rõ. Và tôi thấy. Tranh lấy cái va-ly trình diễn nặng chĩu của tôi, Toàn đưa tất cả ra xe. Chúng tôi nhẹ hẳn người, cùng líu ríu đi theo. Bằng lối chạy xe bên trái như ở mọi quốc gia thuộc khối liên hiệp Anh, Toàn đưa chúng tôi vào thành phố Auckland. Đây là lần đầu trong đời, tôi nhìn thấy đất trời và cảnh thổ Tân Tây Lan. Rất thanh bình. Rất cẩm tú. Con đường lên, xuống, lượn vòng qua những đồi cỏ óng mướt, những cánh rừng xanh ngắt, dưới những thung lũng, trên những sườn đồi, và dọc hai bờ những dòng sông nhỏ hiền hòa là những biệt thự xinh xắn đoán thấy tất cả sự ngăn nắp, sáng láng ở bên trong. Toàn nói qua cho chúng tôi biết về Tân Tây Lan. Lớn bằng Việt Nam. Ba triệu rưởi dân. Về Auckland, thành phố lớn thứ nhì, cũng là thành phố duy nhất của Tân Tây Lan có phi trường quốc tế, cách Sidney khoảng ba tiếng đồng hồ đường chim bay. Về mình, khi chúng tôi hỏi, Toàn nói vượt biển với một người em trai tới Úc cuối năm 1977, hai anh em hiện đang
Một đêm thứ bảy | 95 hùn với một người bạn mở một lò làm bánh ngọt, khấm khá thì sẽ tách ra mở một lò riêng. Xe chạy xuyên qua trung tâm Auckland. Buổi trưa, một cảnh tượng di chuyển tấp nập. Rồi những tòa nhà chọc trời bỏ lại sau lưng, cảnh vật bất chợt quang đãng và lồng lộng gió thổi. Thì ra Toàn đưa chúng tôi ra vùng bờ biển và nơi này mới là danh lam thắng cảnh hàng đầu của Auckland, Trước mặt chúng tôi là đại dương xanh ngắt, đường chân trời thẳng tắp, cắt đứt từng quãng bởi những ngọn núi đủ hình thù nằm im lìm, Toàn cắt nghĩa đó là những núi lửa từ bao năm rồi đã nguội lạnh, nhiều ngọn đã trở thành những địa điểm thăm viếng cho du khách, nhiều ngọn đã biến thành công viên cho học sinh tới cắm trại những vụ hè. Xe ngừng. Chúng tôi cùng xuống xe, đi tản bộ và để cho bầu Huỳnh chụp những tấm hình kỷ niệm một lần ghé Tân Tây Lan trên khúc đường chạy dọc theo bãi cát trên đầu đầy bóng mát. Lúc Diễm Thúy tỏ ý muốn được nằm nghỉ một lát vì đường xa mỏi mệt, Toàn mới nói rõ về nơi chốn Toàn sắp đưa chúng tôi tới. – Chỗ ở của anh em tôi chật chội, vậy xin mời anh chị tới một chỗ ở khác, rộng rãi và đầy đủ tiện nghi hơn. Trước khi ra phi trường, tôi đã nói với chủ nhà. Chú Bảy và thím Bảy đã vui vẻ bằng lòng. Cũng gần đây thôi. Chú thím Bảy là thân sinh ra Ỷ Lan, một
96 | Mai Thảo người bạn gái của tôi. Anh chị có thể ở đó đến khi nào rời khỏi Tân Tây Lan. – Có phiền phức gì không? – Không. Chú thím Bảy và cả Ý Lan nữa, rất mừng rỡ sắp được đón những nghệ sĩ danh tiếng từ Mỹ ghé qua. Auckland chưa một lần nào được đón nghệ sĩ trình diễn từ xa tới. Đây là lần đầu. Anh chị cứ tới ở, không có gì phiền phức hết. o O o Xe Toàn tới. Chú Bảy, thím Bảy chờ đón chúng tôi ở đầu thềm. Người con gái đứng khép nép ở phía sau được Toàn nói nhỏ là cô bạn gái Ý Lan. Cô ta có một đôi mắt mở lớn, đôi mắt đặc biệt của những nhút nhát dễ e thẹn, một mái tóc thề thả dài như một dòng suối và một thân hình nhỏ nhắn không có những vùng núi đồi sỗ sàng như thân hình bọn trình diễn chúng tôi. Chú Bảy luôn miệng hân hạnh, hân hạnh. Nói đã thấy hình chị em tôi trên báo chí từ Mỹ gửi qua. Nói chúng tôi cứ tự nhiên ở nhà chú cho tới khi rời khỏi Auckland. Tự nhiên, chẳng phải đợi chú Bảy nói, Diễm Thúy đã phăng phăng xách va-ly đi vào một phòng ngủ, đóng sập cửa lại. Toàn gia chú Bảy, nhường chỗ cho khách viễn phương ập tới, xuống hết basement. Bầu Huỳnh mời chú Bảy ra phòng khách nói chuyện, ý chừng hỏi thăm về cách thức xin visa từ Auckland đi Sidney. Chuyến đi đã
Một đêm thứ bảy | 97 làm tôi mệt đừ. Vừa toan theo Diễm Thúy đi nằm ngả lưng một chút, bỗng thấy Toàn tới gần. Tôi hỏi: – Anh Toàn phải trở về tiệm bánh chưa? Toàn không trả lời câu hỏi của tôi, mà nói: – Mong Thùy Miên ở lại đây lâu. Tôi ngạc nhiên. Và bật cười: – Anh mong cho như thế là chết chúng tôi rồi còn gì. Làm sao chỉ phải ngừng lại đây càng ngắn ngày bao nhiêu càng tốt. Còn phải sang Úc cho kịp ngày trình diễn chứ. Điều tối ư quan trọng là chúng tôi phải tới được trước một vài ngày. Để nghỉ ngơi. Để tập dượt với dàn nhạc địa phương trước khi ra sân khấu.Toàn đứng tần ngần. Xem chừng chưa muốn rời nhà chú Bảy. Xem chừng muốn kéo dài câu chuyện: – Thùy Miên ở Úc bao nhiêu lâu? – Nếu chương trình không có gì đổi thay, ba tuần. - Sau đó Thùy Miên về thẳng Mỹ? Hay lượt về cũng ghé Auckland ? Tôi nhíu mày ngó Toàn. Khiến anh chàng bối rối. Bầu Huỳnh khơi khơi đưa chúng tôi tới Tân Tây Lan một lần là đủ, quá đủ. Cũng là hắn cùng đường, làm liều. Lượt về chúng tôi lại ghé Auckland để làm gì mới được chứ. Thật là một câu hỏi kỳ cục. Nói chuyện với Diễm Thúy cách này chỉ có nước chết.
98 | Mai Thảo Tôi không nỡ. Vẫn nhớ không có Toàn, chúng tôi không biết về đâu, ở đâu. Đáp, vắn tắt: – Không. Về thẳng Mỹ thôi anh. Nhìn về phía sau lưng Toàn, Ỷ Lan như đang lắng nghe chúng tôi. Tôi bèn chấm dứt: “Gặp lại Toàn sau”. Và đi vào phòng ngủ. Diễm Thúy ngủ vùi bằn bặt. Nằm cạnh tôi nghĩ đến chàng trẻ tuổi vừa gặp gỡ tình cờ trên đường lưu diễn. Nghĩ rộng hơn nữa, đến những người trẻ tuổi, như Toàn. Tôi đã thấy họ, hàng trăm, hàng ngàn, tôi từ trên sân khấu nhìn xuống, họ ngồi kín phía dưới, những lần lưu diễn qua các tiểu bang Hoa Kỳ, ở Âu Châu, ở Nhật. Tôi đã chứng kiến những phản ứng và những tỏ hiện của họ. Tán thưởng hay không tán thưởng, không bao giờ vừa tầm, đúng mức. Mà bao giờ cũng quá khích quá đà. Chừng như trong họ có một đầy ắp nghẹn ứ nào cần phải thả băng thành thác lũ. Chừng như trong mỗi tuổi trẻ ấy, có một sức sống nào bị kìm giữ lại, ngày đêm bồn chồn và chỉ chờ dịp để nổ tung lên. Vắn tắt, trong mỗi tâm hồn, một trái mìn nổ chậm, một ngọn núi lửa âm ỷ. Của một trạng thái đam mê khi gặp đối tượng là một trận bão rừng dữ dội thổi qua. Một lần ở Nhật, đã có một anh chàng, như Toàn, đứng suốt một đêm chờ tôi ngoài tuyết lạnh. Tội nghiệp, đêm đó tôi không về khách sạn. Ở Paris, một anh chàng khác, chỉ đón được tôi từ sân khấu xuống cùng đi ăn đêm, đã
Một đêm thứ bảy | 99
nằng nặc đòi bỏ hết vợ con theo tôi sang Mỹ. Điều lạ lùng là tôi chẳng chim sa cá lặn gì. Nhiều điểm về nhan sắc còn thua Diễm Thúy. Nhưng ít anh chàng nào dám theo đuổi Diễm Thúy. Nó dữ quá, đốp chát quá. Tôi không vậy. Tôi hiểu tuổi trẻ, lớp người tuổi trẻ ở đây, bây giờ, xa nhà và thất lạc, thất lạc vì không điểm nương tựa, không người thân yêu, quá khứ không có và tương lai mịt mùng không nhìn thấy. Thành ra họ dễ xúc động, dễ đam mê, và tuy trên một ý nghĩa khác, không phải là sự liều lĩnh của bầu Huỳnh, cũng là sống liều lĩnh, điên cuồng, không tự chủ. Nửa đường ghé xuống Tân Tây Lan, tôi đâu có ngờ người trẻ tuổi tên Toàn lúc tới phi trường trầm tĩnh vậy, cũng đã có một ngọn lửa đam mê vừa bốc cháy. Và như vậy chỉ cần từ một cái nhìn, từ một lời nói. Đàn bà thường được ngợi khen về cái giác quan thứ sáu. Chưa thấy đã cảm thấy. Từ xa đã nhìn ra. Tôi có cái giác quan thứ sáu ấy. Bén nhọn, lấp lánh. Tôi biết Toàn thoạt gặp đã mê tôi, đầu óc dầy đặc hình ảnh tôi, tôi, tôi, như một huyền hoặc bất ngờ và không thể nào cưỡng chống lại. Chừng hai tiếng đồng hồ sau, Diễm Thúy thức giấc. Ngơ ngác: – Bọn mình đang ở đâu đây? – Nhà Chú Bảy. Diễm Thúy dần dần nhớ ra lại lớn tiếng thóa
100 | Mai Thảo mạ bầu Huỳnh đem con bỏ chợ. Hai đứa cùng nghe ngóng. Ngôi nhà yên tĩnh, không một tiếng động nhỏ:– Đâu cả rồi? Diễm Thúy hỏi. – Không biết. Chắc mọi người đều đã đi khỏi. – Vị cứu tinh Toàn của bọn mình đâu. – Chắc cũng về rồi. Diễm Thúy cười, bấu tôi một cái:– Bùa ngải gì mà tung ra nhanh thế. Kép độc mê lên mê xuống rồi đó, thấy chưa? Tôi cãi: – Làm gì có chuyện đó. – Đừng vờ. Bộ chưa thấy sao. Anh Hai Auckland chỉ còn nhìn thấy Thùy Miên, chẳng cần biết đất biết trời là gì nữa. Diễm Thúy tinh mắt thật. Người đàn bà nào cũng có một giác quan thứ sáu hay sao? Tôi nhún vai: – Ăn nhằm gì. Coi như chuyện vui đùa thôi, nếu có. Diễm Thúy gật đầu tán đồng: – Cũng được. Ở cái chốn sơn cùng thủy tận này, biết làm gì cho hết ngày. Bồ khoái đùa cợt với ái tình lắm, từ lâu tôi đã biết. Nhưng chớ đùa dai, tội nghiệp cho con cái nhà người ta.
Một đêm thứ bảy | 101 Đùa với ái tình. Sao không? Đời tôi đang mùa khô, đang sa mạc. Rất nhiều người theo đuổi, cuối cùng tôi vẫn chẳng có ai hết. Có như vùng trời đời sống bao la, con chim uyên ở tôi vẫn chưa gặp được con chim ương của nó. Có như những chạm đụng chỉ hờ hững, những gặp gỡ chỉ qua đường, lắm mối tối nằm không. Mặt khác, ở tôi cũng đang dấy lên một chút tình cảm rất ngọt ngào với Toàn nữa. Thì đùa, để có một kỷ niệm đem về Tân Tây Lan. Trong ý nghĩa này, buổi chiều gặp lại ở nhà chú Bảy, tôi nhận lời đi chơi một mình với Toàn buổi sáng hôm sau.
Trò đùa đã bắt đầu. Nhưng hậu quả của trò đùa thế nào thì lại là điều tôi không ngờ tới. Tám giờ sáng hôm sau, Toàn đã tới. Không có vấn đề gì khi tôi theo Toàn ra khỏi nhà chú Bảy. Mọi người còn đang ngủ. Những cửa phòng đóng kín. Ngôi nhà không tiếng động. Như hôm trước, chiếc xe hơi của Toàn đưa hai chúng tôi qua thành phố Auckland những khu thương mại còn im lìm chưa hoạt động. Rồi chạy từ từ trở lại con đường dọc biển chiều hôm trước. Rồi đi xa khỏi thành phố hơn nữa, vẫn dọc biển, tới một khúc bãi lượn vòng qua một cánh rừng xanh lam. Toàn nói đây là khúc bờ biển đẹp nhất của Auckland. Đẹp thật. Song song với mặt cát phẳng tắp, con đường lúc vươn lên tới những đỉnh đồi lồng lộng gió biển làm tung bay mái tóc, lúc từ trên những sườn đồi đổ xuống, như muốn ra
102 | Mai Thảo thẳng với đại dương, trước khung kính xe là mặt biển lấp lánh lùa nắng. Xe ngừng ở một khúc quanh có những luống hoa tươi thắm dẫn vào một tiệm ăn sang trọng. Toàn mở cửa xe cho tôi. Mở cửa vào tiệm cho tôi. Chọn một bàn ăn gần cửa sổ, kéo ghế cho tôi ngồi. Tất cả trong một cuống quýt sung sướng. Tất cả với một hấp tấp xúc động làm lúng túng tay chân. Tôi để mặc. Trò đùa đã bắt đầu mà! Tôi vẫn thích được đàn ông săn đón chiều chuộng như vậy. Suốt chuyến đi, bầu Huỳnh lấy nên đã quá thân thiết, để mặc tôi mở cửa xe, để mặc tôi kéo ghế ngồi, để mặc tôi ỳ ạch với cái va ly nặng chĩu. Giờ có Toàn rồi. Và tôi là một bà hoàng. Đẩy xa trò đùa hơn nữa, tôi đòi uống rượu. Rượu vào, hai gò má tôi bừng bừng, cặp mắt long lanh, cái nhìn tình tứ. Lúc nào bồ có chút men rượu là lúc đàn ông say ngây ngất hết, Diễm Thúy vẫn đùa tôi như thế. Trước mặt tôi, Toàn ngây người, Toàn đang say ngất thật. Tôi lại mặc một bộ đồ lụa rất mỏng, làm nổi bật hết mọi đường cong khêu gợi của thân hình. Và Toàn thì đang rạo rực trông thấy về sự khêu ấy. Xét cũng hơi ác. Nhưng mặc. Một gặp gỡ ngắn. Một gặp gỡ bèo nước. Một gặp gỡ giữa đường. Mai xa nhau, bằn bặt chẳng bao giờ gặp lại, anh lại đường anh, tôi lại đường tôi, có chết ai đâu. Ở tiệm ăn ra, Toàn đề nghị đưa tôi tới thăm một làng quen của Auckland. Nói du khách ngoại quốc
tới Auckland ai cũng phải tới, kỳ quan là một hãnh diện cho dân chúng trong vùng. Đó là một nhà triển lãm về biển, về mọi sinh vật của biển. Cũng khá đặc biệt, đáng mặt kỳ quan. Tòa nhà thấp, kiến trúc đào sâu xuống lòng đất. Những thác nước, suối nước, những cây cầu cùng khắp, ánh sáng huyền huyền ảo ảo. Du khách nối đuôi nhau đi trên một con đường cất nổi quanh co như một đường hầm trong một lòng đá núi, hai bên là những hồ kính rất lớn và đầy nước chạy dài suốt hai vách, và trong những hồ kính vĩ đại này là cá, rùa, bạch tuộc, rắn biển hàng ngàn loại hình thù kỳ lạ bơi lội tung tăng. Toàn đi sau tôi. Người đi chen chúc. Có những lúc Toàn đụng vào người tôi, hơi thở phà vào gáy tôi nóng hổi. Có những lúc, ở những khúc tối đèn, nói là để tôi khỏi té ngã, Toàn nắm lấy tay tôi, bàn tay nắm chặt như không muốn buông rời ra nữa. Tôi để mặc. Bằng lòng cho trò đùa tiếp tục. Lên khỏi nhà triển lãm, về đời sống dưới đáy biển, đã quá trưa. Toàn còn muốn đi nữa. Nhưng tôi nói hay về qua nhà chú Bảy đã. Xem bầu Huỳnh xin giấy tờ sang Úc tới đâu. Toàn đành đưa tôi về sau khi tôi bằng lòng buổi tối để Toàn trở lại đón đi nghe nhạc và biết thêm Auckland về đêm. Trên đường về, một lúc nào đó câu chuyện đụng tới gia đình chú Bảy. Tôi hỏi Toàn về cô bạn gái Ý Lan. Bạn gái thế nào. Toàn nói thân tình sơ sơ vậy thôi. Coi Ỷ Lan như
Một đêm thứ bảy | 103
104 | Mai Thảo một người em gái. Và lui tới nhà chú thím Bảy vì cùng ở trại đảo tạm trú trước khi tới Úc. Toàn không nói dối. Quả thực chỉ muốn coi Ý Lan như một bạn gái, một em gái. Nhưng đó chỉ là từ phút gặp tôi. o O o Trở về nhà chú Bảy, bầu Huỳnh vui mừng cho biết đã tới tòa lãnh sự Úc ở Auckland. Tân Tây Lan và Úc là hai quốc gia láng giềng biên thùy hai phía cùng mở ngỏ, đi lại dễ dàng nên người xa tới xin nhập cảnh vào Úc cũng được dễ dàng theo. Tuy vậy, bầu Huỳnh cho biết thêm là thủ tục cũng phải kéo dài hơn ba ngày mới có. Chúng tôi cùng tính ngày. Thế là sang tới Sidney khoảng đêm thứ sáu. Thôi cũng được. Nghỉ ngơi, tập dượt buổi sáng thứ bảy, buổi chiều ra sân khấu cũng vừa vặn thời giờ. Vợ chồng chú Bảy đãi chúng tôi bữa ăn chiều. Mọi người ngồi chen chúc quanh bàn ăn trong bếp. Thấy thiếu Ý Lan, tôi hỏi. Thím bảy nói con gái kêu đau, nằm trong phòng và bỏ bữa ăn. Không ai bận tâm gì về Ỷ LanBuổinữa. tối, chưa tới giờ hẹn, Toàn đã có mặt. Ăn diện rất bảnh bao. Bộ quần áo ba mảnh mới toanh, sơ mi trắng toát, cà vạt đỏ chói. Thấy cái sự đi chơi riêng với Toàn cũng hơi kỳ cục, tôi rủ bầu Huỳnh và Diễm Thúy cùng đi. Cả hai đều từ chối. Diễm Thúy nói đang thời kỳ không có sức khỏe tốt, phải ngủ sớm cho mấy ngày diễn xuất sắp tới ở Sidney.
Bầu Huỳnh thì ôm lấy cái điện thoại, liên lạc không ngừng với người có phần hùn Úc. Thành ra lại cả một buổi tối tay đôi giữa tôi và Toàn. Ban đêm làm cho mọi chuyện nồng nàn, tình tứ hơn. Trong đêm, ngọn lửa đam mê cũng đỏ rực hơn. Tôi đến một phòng trà nghe nhạc với Toàn. Sau đó, một hộp đêm cho khách du lịch có khiêu vũ. Với ban đêm và lần đi đi chơi thứ nhì, tình cảm của Toàn đối với tôi đã gần như công khai tỏ hiện không che dấu. Những ý định nữa. Toàn nói đã thu xếp tạm ổn với đứa em trai về trông coi lò bánh, đã giữ trước chuyến bay để cùng đi sang Úc với đoàn trình diễn. Toàn mời tôi nhảy. Hết bản này tới bản khác. Thoạt đầu chỉ dám ôm hờ rồi sau ôm thật chặt. Về bàn, Toàn còn cho tôi biết là đã chán Tân Tây Lan, thế nào cũng tìm đủ cách bỏ Auckland sang Mỹ ở.
Một đêm thứ bảy | 105
- Việc riêng của anh thôi, tôi cười và trả lời. Làm
sao có chuyện Thùy Miên bằng lòng hay không bằng lòngSựđược.tỏtình rõ hơn, quyết tâm theo đuổi cũng vậy. - Chừng nào sang được Mỹ, tôi sẽ tìm ở gần Thùy Miên. Để được gặp luôn. Mỗi tuần mời Thùy Miên đi ăn, đi khiêu vũ. Tôi cười để mặc Toàn muốn xây mộng thế nào
- Thùy Miên bằng lòng tôi sang Mỹ không? Toàn nhìn tôi đăm đăm và hỏi.
106 | Mai Thảo thì xây mộng. Mấy ngày nữa, chúng tôi rời Auckland rồi. Toàn có theo sang Úc cũng vậy thôi. Và khi tôi đã về Mỹ, thì chẳng còn gì giữa tôi và Toàn được nữa. Ngày thứ hai ở Auckland với Diễm Thúy vẫn là sự khan tiếng khiến chị ả rất lo lắng, lúc nào cũng có miếng cam thảo ngậm trong miệng và ăn uống xong là vào giường nằm. Với bầu Huỳnh là một ngày hai buổi tới Lãnh sự quán Úc, vì những con dấu nhập cảnh sinh tử cho cả đoàn trình diễn. Gia đình chú Bảy ở hết dưới basement và cô con gái lớn Ý Lan của họ thì gần như tôi không nhìn thấy nữa. Chẳng biết làm gì cho hết ngày, Toàn đem xe tới đón là tôi lại đi theo. Cũng muốn biết thêm Tân Tây Lan. Cũng muốn thêm Auckland, một lần cho biết. Thật là đúng với lòng mong muốn của oToàn.Oo Chuyện không ngờ xảy đến ngày Tân Tây Lan thứ ba. Buổi chiều. Sau gần trọn một ngày đi chơi biển bằng xuồng máy suốt dọc lòng vịnh Auckland xanh biếc, sang bên quần đảo đối diện với lòng vịnh nữa, đi dưới chân những trái núi lửa từ lâu đã nguội, tôi đòi về. Toàn đưa tôi đến đầu ngõ nhưng không vào nhà chú Bảy mà quay xe đi luôn. Diễm Thúy đứng ở đầu thềm chờ tôi. Lối tuốt vào phòng ngủ, trợn mắt: – Bồ biết gì chưa?
Một đêm thứ bảy | 107 Tôi ngơ ngác: – Biết là biết gì? – Du dương với anh chàng lò bánh quá trớn rồi bồ, thành chuyện rồi bồ. Đây nè con nhỏ Ỷ Lan bỏ nhà đi biệt từ sáng sớm giờ chưa thấy về. Nó không đi như thế bao giờ. Chú thím Bảy lo cuống lên, đã mỗi người một khu ra khỏi nhà tìm kiếm. Họ còn tính kêu cảnh sát cấp cứu nữa. Không biết làm sao nữa đây. Tại bồ mà ra hết. Chúng ta lại đang tá túc ở nhà họ, thế mới phiền ơi là phiền. - Sao lại tôi được? Tôi hỏi. Diễm Thúy tới cái bàn phấn ở đầu giường, nhặt lên ở đó một bao thư mầu hồng, liệng mạnh bao thư vào người tôi. Tôi nhặt lấy. Trông như một kiểu bao thư báo hỷ. Quả vậy. Bên trong là một tấm thiệp, cũng mầu hồng báo tin một lễ thành hôn. Tôi đọc. Đó là lễ đính hôn của cậu Trương Toàn với cô Huỳnh Ý Lan ở Auckland. Tôi ngẩn người ra. Chết thật. Đâu có ngờ. Thề với trời đất, tôi hay chơi trò đùa cợt ái tình với những người trẻ tuổi gặp trên đường lưu diễn. Nhưng phá hoại hạnh phúc của một cặp vợ chồng sắp cưới thì chưa, chưa từng một lần nào. Ý Lan lại là trưởng nữ trong một gia đình chúng tôi đang chịu ơn ăn ở nữa. Cái anh chàng Toàn bậy bạ thật. Cũng biết dối trá như ranh. Tôi cũng cảm thấy phần lỗi ở mình rất lớn. Đã khiến như cho gia đình chú Bảy
108 | Mai Thảo kinh động. Đã khiến cho Ý Lan phải đau buồn và bỏ đi. Tôi hỏi Diễm Thúy: – Tấm thiệp đính hôn bồ lấy ở đâu ra thế? – Thím Bảy cho coi. – Chắc thím chửi tôi dữ lắm. – Không. Chỉ thở dài thôi. Diễm Thúy thuật lại những lời thở than của thím Bảy với Thúy. Thì ra ngày nào Toàn cũng phải đưa xe tới đón vị hôn thê tới trường, buổi chiều đón về. Gặp tôi, bỏ hết đưa đón, khiến Ý Lan phải lủi thủi đi học bằng bus. Và chuyện này mới là chuyện tày đình, giọt nước tràn bờ: Đêm qua Toàn dám khơi khơi điện thoại nói chuyện với thím Bảy. Xin dời ngày loan báo lễ đính hôn. Còn nói Toàn và Ỷ Lan chưa đủ hiểu nhau, xin cho một thời gian để xét lại vấn đề chung sống. Tôi ngồi thừ người. Xét lại, thấy chẳng có tình ý lén lút gì với Toàn. Chỉ để anh chàng tới đón đi chơi tay đôi hơi nhiều mà thôi. Tôi nói với Diễm Thúy: - Còn phải ở thêm một ngày ở đây. Nhưng chấm dứt, không cho Toàn gặp nữa. – Đương nhiên bồ phải chấm dứt rồi. Vấn đề là Ỷ Lan bỏ nhà ra đi từ sáng sớm chưa về kia. Và chú thím Bảy đang phải đi tìm kiếm. Bên ngoài, buổi chiều Auckland xuống dần.
Một đêm thứ bảy | 109
Những sườn đồi, những rừng cây ở xa xa thẫm mầu, rồi đêm xuống, rồi bóng tối. Khoảng 8 giờ, bầu Huỳnh về. Cho hay những thông hành của chúng tôi đã có chữ ký cho vào Úc, thời gian ở Úc một tháng. Bầu Huỳnh cũng đã giữ được chuyến bay. Chúng tôi sẽ khởi hành từ Auckland sang Sidney chiều hôm sau. Thế là chuyện tới Úc tạm yên và sự liều lĩnh của bầu Huỳnh, riêng lần này, là một liều lĩnh tốt. Chỉ còn đứa con gái bỏ nhà ra đi. Khoảng 9 giờ tối, chú thím Bảy trở về. Tay không. Tôi nghe thấy chân họ ở đầu thềm, ngoài phòng khách. Diễm Thúy đi ra hỏi thăm, một lát trở vào nói chú thím Bảy đã tới hết mọi chỗ Ý Lan thường lui tới, nhưng không nơi nào có dấu vết Ý Lan hết. Đành chờ thôi, nếu hết đêm nay Ý Lan không về, sớm mai chú thím Bảy sẽ phải đi trình cảnh sát. o O o Ý Lan trở về. Gần mười hai giờ đêm, trời Auckland đã lạnh buốt, Ý Lan mới trở về. Nằm trong phòng, tôi nghe thấy tiếng một cánh cửa mở, tiếng kêu mừng rỡ của thím Bảy, và cảm thấy sự lo lắng đè nặng từ buổi chiều với nhẹ hẳn đi. Diễm Thúy ra, trở vào nói cô gái về, đầu tóc bù rối, mặt mũi nhợt nhạt, cặp mắt đăm đăm như người mất hồn, bố mẹ hỏi gì cũng nín thinh không trả lời và đi thẳng vào phòng riêng. Thôi cũng xong, thế là yên, tôi nghĩ thầm, rồi ngày mai khi chúng tôi sang Úc rồi mọi chuyện sẽ
Mai Thảo trở lại bình thường với gia đình chú Bảy như khi chúng tôi chưa tới. Tôi lầm. Khoảng 4 giờ sáng, căn nhà đang yên tĩnh hoàn toàn bỗng náo loạn vì những tiếng khóc lóc, la thét thất thanh của thím Bảy: – Trời ơi, con tôi, sao con làm vậy con?” Mọi ngọn đèn bật sáng. Chúng tôi cùng vùng dậy, chạy hết xuống basement. Đây là một căn phòng khá lớn, chăn gối bừa bãi trên nền nhà. Cuối phòng là một căn nhỏ, chỗ ngủ của Ý Lan. Cửa phòng mở toang. Thím Bảy xây lưng lại, hai chân quỳ cạnh một mép giường, hai tay vừa lay mạnh trên một mặt đệm, vừa lớn tiếng kêu gọi. Chúng tôi cùng chạy vào. Nhìn thấy, qua vai thím Bảy, một Ỷ Lan nằm sóng sượt, hai mắt nhắm ghiền. Bên cạnh là một ống thuốc ngủ mở nắp và không còn một viên thuốc nào ở bên trong. Bầu Huỳnh đẩy bắn thím Bảy đi, cúi xuống, đặt tại vào sát ngực Ý Lan, nghe ngóng: “Tim và mạch còn đập, nhưng rất yếu. Xe hơi để đâu, phải đưa gấp vào nhàBầuthương.”Huỳnh lái xe. Chú thím Bảy líu ríu đi theo cùng chạy ra khỏi nhà. Diễm Thúy và tôi ngồi thừ ở phòng khách, cảnh tượng ghê rợn vừa chứng kiến làm hai đứa cùng thở không ra, cùng xanh xám mặt mũi. Thì ra, trong một giây phút tuyệt vọng, tuyệt vọng đến mất trí, vì một tấm thiệp đính hôn bị hủy bỏ, cô gái đáng thương đã uống hết một ống thuốc
110 |
Một đêm thứ bảy | 111 ngủ tự tử. Thật là may là thím Bảy đã sinh nghi từ lúc Ý Lan về, lẳng lặng vào phòng riêng. Nửa đêm thím Bảy vào, gọi không thấy tiếng thưa, bèn vội vã bật đèn và phát giác kịp. Tôi cúi đầu xuống, lủi thủi cùng Diễm Thúy trở vào phòng ngủ sau khi Diễm Thúy đã nghe xong cú điện thoại bầu Huỳnh gọi từ bệnh viện cấp cứu về. Cũng may, bệnh viện gần nhà. Bác sỹ đã cho rửa ruột. Ý Lan đã qua khỏi. Nhưng cô gái còn lúc mê lúc tỉnh, bệnh viện thấy cần phải giữ lại hai ngày nữa mới được trả về nhà. o O o Như mọi hành lang bệnh viện, cũng một hành lang trắng toát. Như mọi không khí bệnh viện, cũng một không khí phảng phất mùi bông băng, mùi thuốc sát trùng. Như mọi đời sống bệnh viện, cũng những ánh đèn sáng choang, những người y tá mặc đồng phục trắng, đi lại lặng lẽ. Tôi được chỉ cho là căn phòng Ý Lan nằm ở cuối dãy, sau buổi sáng, cô gái đã tỉnh táo hẳn và tôi có thể gặp. Chỉ còn hai giờ nữa mọi người phải ra phi trường. Diễm Thúy và bầu Huỳnh cùng can ngăn, nhưng tôi đã nhất định phải gặp riêng Ý Lan trước khi rời khỏi Auckland và tôi đã gọi taxi một mình tới bệnh viện. Ý Lan nằm ngay ngắn trên mặt đệm, cặp mắt mở lớn nhìn trần đăm đăm. Nhưng nghe tiếng của mở
112 | Mai Thảo và nhìn thấy tôi bước vào thì xoay người đi, nằm nghiêng và nhìn đi hướng khác. Đứa con gái tìm kiếm cái chết, bị cõi chết gửi trả về, tôi lặng nhìn và bỗng thấy đời người có một vẻ gì thật bất trắc, thật mong manh. Ở Auckland. Ở Tân Tây Lan. Ở đâu cũng vậy. Tôi đi tới, ngồi ghé xuống mép giường: – Lan, chị thay mặt cho chị Thúy, anh Huỳnh tới từ biệt em trước khi ra phi trường sang Sidney. Ý Lan nghe và nín thinh. Tôi dịu dàng nói tiếp: - Mọi người cùng chịu ơn ba, má thật nhiều và rời khỏi Auckland với những kỷ niệm không bao giờ quên về mấy ngày ở nhà Lan. Nếu chị có gây nên một ngộ nhận nào khiến Lan phải đau buồn thì đó là vô tình, chị rất ân hận. Giữa chị và Toàn không có gì hết. Nhắc lại với Lan, không có gì hết. Chỉ là nhờ Toàn đưa đi đây đó để xem phong cảnh, để biết Auckland một lần ghé qua và không bao giờ trở lại. Chị không biết em sắp có tin mừng lớn, sắp có hạnh phúc, mãi tối qua, thấy tấm thiệp đính hôn mới biết. Biết trước, không bao giờ đi chơi một mình với Toàn đâu. Em đừng hận chị. Cũng chẳng bao giờ mất Toàn. Lễ thành hôn, gửi thiệp sang cho chị nhé! Chị sẽ gửi quà sang mừng Lan. Tôi đặt mẫu giấy có địa chỉ của tôi ở California xuống mặt đệm. Ngồi nán thêm một phút nữa. Muốn trò chuyện với Ý Lan thêm một chút nữa. Nhưng Ý
Lan vẫn nằm xây lưng lại, bất động và không trả lời tôi một lời nào. Tôi đứng lên và đi ra.
Một đêm thứ bảy | 113
Chừng năm sau, tôi nhận được thư Auckland. Thư không do Ý Lan gửi. Chắc vẫn còn hận tôi. Mà của thím Bảy. Thư nói cám ơn đã nhận được cuốn tự điển Anh Việt tôi gửi biếu thím, vì thím đang học tiếng Anh và cuốn tự điển ở Auckland không có bán. Thư nói lễ cưới của Ý Lan với Toàn đã tiến hành như đã định, Ý Lan đã đi ở riêng, ngày ngày trông coi lò bánh cho chồng. Bốn ngày ở Tân Tây Lan cuối cùng vẫn là một kỷ niệm êm đềm của lưu diễn. Như một tạm ghé. Như một dừng chân. Dẫu đã có một người con gái hiền lành ở đó suýt bỏ mình vì một liều thuốc ngủ tuyệt vọng. Đời sống của tôi lại đều
Chuyến lưu diễn ba tuần của chúng tôi ở Sidney, Melbourne thành công tốt đẹp. Trên đường trở về, máy bay có ngừng lại một giờ ở Auckland. Nhưng chúng tôi đều đồng ý là không gọi điện thoại cho chú thím Bảy. Chẳng để làm gì. Họ quên chúng tôi đi là hơn. Lúc ra phi trường, chú Bảy chừng giận bọn tôi tới nhà gây nên sóng gió, lánh mặt ở dưới basement không lên. Chỉ có thím Bảy, tình cảm, trung hậu, đã tiễn chúng tôi ra tận đầu ngõ. Khi tôi tới chào từ biệt, thím nắm lấy tay tôi: “Đừng nghĩ ngợi gì. Ngày mai con cháu trở về nhà. Mọi chuyện đâu còn đó cả.” Đâu còn đó. Thật là một ngắm nhìn đầy đặn và bao dung về đời sống. Và quả nhiên đâu vẫn còn đó.
114 | Mai Thảo đều nhịp cũ. Đứng trước dàn nhạc mỗi cuối tuần. Lâu lâu lưu diễn xa. Chỉ có điều thay đổi là sau chuyến đi Úc Châu và ghé Tân Tây Lan, tôi không còn để cho một chàng trẻ tuổi nào đưa rước nữa. Hát xong là về thẳng khách sạn. Đùa cợt với ái tình, thôi, thôi. Chẳng để làm gì và đó là một trò đùa tối ư nguy hiểm.
Một đêm thứ bảy | 115 GIÓ NGƯỢC Mẩu giấy đặt ngay ngắn trên nắp dương cầm, rõ ràng muốn cho Oanh thấy liền, khi nàng về và trước hết mọi người trong nhà. Kẻ đặt giấy biết rõ mỗi buổi chiều trở về từ tiệm bán mỹ phẩm của nàng ở Newport Beach, từ cửa vào là nàng đến thắng đó, mở cái nắp đậy đen bóng, nhấn năm đầu ngón xuống mặt phím, cúi đầu lắng nghe những tiếng đàn từ phím vang lên, một vài nốt nhạc hờ hững dịu dàng chừng như vẫn có hiệu lực trút bỏ khỏi nàng sự mỏi mệt của một ngày làm việc không ngừng, và như vậy đã trở thành một thói quen. Những phím đàn lần này không được đụng tới. Nắp đàn không mở. Oanh nhặt lên mẩu giấy, nhíu mày, chăm chú đọc mấy dòng chữ, nét viết vụng dại: “Con không ở căn nhà này nữa. Con bỏ đi xa, rất xa, mẹ đừng tìm kiếm vô ích. Chừng nào con thấy không thể sống xa mẹ, con sẽ trở về. Kim”. Mắt Oanh hoa lên. Toàn thân run bắn. Nàng đọc lại mẩu giấy vĩnh biệt một lần nữa. Buổi chiều tối xầm, căn phòng khách yên tĩnh chợt biến thành một vòng tròn xoay tít, lảo đảo, chóng mặt, Oanh la lên một tiếng hãi hùng: “Kim, Kim, trời ơi con, trời ơi, con tội” và ngã xuống mặt thảm.
116 | Mai Thảo Đã hơn ba tuần lễ trôi qua, kể từ cái buổi chiều khủng khiếp, khi Oanh từ cửa tiệm mỹ phẩm trở về ngôi nhà gần biển nàng đã ở từ ngày tới Mỹ, không thấy viên kim cương vô giá ấy, cái tình yêu sâu xa không bến bờ ấy là đứa con gái duy nhất của nàng, nó đã bỏ đi lúc nào, chỉ còn mẩu giấy lạ lùng để lại. Khởi đầu, ở Oanh là những vật vã, la khóc, kêu trời kêu đất, đến điên dại, đến mất trí, đến nỗi những hàng xóm Mỹ chạy sang, có người gọi cảnh sát tới. Khiến Chính phải giảng giải với hết người này, phân trần với người kia, xin lỗi cảnh sát vì đã làm phiền bận tới họ nữa. Về đứa con gái Việt Nam mười bốn tuổi bỏ nhà ra đi, nhưng rồi Chính nói, nó sẽ nhớ nhà và trở về. Khóc hết nước mắt, lăn lộn, vật vã đến mệt lả rồi Oanh đau, nằm liệt giường liệt chiếu suốt mấy ngày liền. Đó là mấy ngày điêu đứng nhất của Chính. Tiệm mỹ phẩm của Oanh, không tìm được ai trông coi dùm, phải tạm đóng cửa. Chính cũng phải xin nghỉ sở cả một tuần lễ. Chàng mời bác sĩ tới chữa trị cho Oanh, gọi điện thoại tới hết mọi chỗ quen biết xa gần với Oanh, với chàng, cả những gia đình người Mỹ có con là bạn học cùng lớp với đứa con riêng của Oanh nữa. Hàng trăm cú điện thoại. Gọi trong phòng ngủ. Ngay đầu giường, sát chỗ Oanh nằm, cho Oanh nghe thấy. Để Oanh biết Chính cũng chia sẻ với
Một đêm thứ bảy | 117 nàng, cũng bận tâm. Nhưng không có một chỗ quen biết nào, trong vùng cũng như ở các tiểu bang xa nói có thấy đứa nhỏ, sau ngày nó bỏ đi. Cũng không ai có được một ý niệm mơ hồ nào về nơi chốn đứa nhỏ tới. Vắn tắt, nếu bỏ đi là để mọi người vô phương tìm kiếm, không để lại một dấu vết, thì đứa con gái Việt Nam mười bốn tuổi, phục phịch, kính cận thị dầy cộm, lầm lỳ ít nói, đã thực hiện được cho nó một thoát ly gia đình tuyệt hảo trên đất Mỹ mênh mông rộng lớn, tuyệt hảo hơn cả đám trai gái vị thành niên Mỹ lìa bỏ mái ấm gia đình, đi vào bụi đời mỗi năm cả ngàn, cả trăm ngàn và đã thành một hiện tượng đặc thù của gia đình Mỹ, của xã hội Mỹ. Cái tủ áo gần như còn nguyên vẹn, nó chỉ lấy theo vài bộ đồ thay đổi và một cái sắc đi trại mỗi vụ nghỉ hè, đứa con gái Việt Nam tên Kim mất tích vào tạo vật, vào hư vô, như một tan biến hoàn toàn. Và như vậy, đã hơn ba tuần trôi qua. Cuối cùng, Chính phải đi làm trở lại. Rất buồn rầu. Ngôi nhà trở thành một nấm mồ. Từ thảm kịch xảy ra, Oanh như hờn giận chàng, cho đứa con cưng của nàng bỏ nhà ra đi một phần trách nhiệm là ở Chính, và không chịu nói với chàng một lời nào. Phần Oanh, nàng cũng buộc phải mở lại cửa hàng, gắng gượng hàng ngày tới tiệm. Cuộc tìm kiếm tuyệt vọng ở nàng tuy vậy vẫn tiếp tục, một mình, không nhờ đến Chính nữa.
118 | Mai Thảo Cho tới một ngày, khoảng nửa năm sau, cùng với niềm lo âu âm thầm mất ăn mất ngủ rằng, đổ xuống sông xuống biển, đứa con gái châu ngọc của nàng mất tích đã bấy lâu, có thể đã bỏ mình ở một bờ bụi nào, Oanh được một khách hàng quen người Mỹ giới thiệu cho một hãng thám tử tư ở Los Angeles. Hãng này chuyên tìm người mất tích, đặc biệt là lớp tuổi vị thành niên. Oanh hỏi, ứa nước mắt: – Hy vọng gì không? Người khách hàng Mỹ nhún vai: – Biết đâu đấy. Bà đâu có gì để mất? Chỉ mất một khoản tiền thôi. Nhiều đấy. Nếu họ tìm được con bà. Oanh nghe theo. Tới hãng điều tra tư. Đem theo một số hình chụp của Kim. Thuật lại ngày giờ con nàng bỏ đi. Trả lời một số điều hãng điều tra muốn biết về tính tình đứa nhỏ, trường hợp nàng rời khỏi Việt Nam trong biến cố 1975, cuộc chung sống hiện giờ giữa nàng và Chính. Khi người thám tử hỏi con gái nàng có một bạn trai nào không, Oanh giận dữ trả lời Kim chỉ có một số bạn học cùng lớp, nó mới có mười bốn tuổi và chưa từng biết chuyện trai gái là gì. Mọi chuyện đều có thể xảy ra tuổi trẻ bây giờ rất lạ lùng, nghề nghiệp chúng tôi là phải nghiên cứu hết mọi khía cạnh của vấn đề, người thám tử
Mỹ lạnh lùng nói. Cuộc tìm kiếm được định giá là hai ngàn Mỹ kim. Oanh bằng lòng. Giá nào nàng cũng bằng lòng. Nàng phải đặt trước năm trăm. Tìm ra con nàng, hãng điều tra mới lấy nốt khoản tiền còn lại. Trong thảm kịch, phần đời trước, cuộc tình cũ, tưởng như phai mờ theo thời gian, sống lại não nùng và mãnh liệt ở Oanh. Nó cắt nghĩa tại sao đứa con riêng tư của nàng bỏ nhà ra đi có thể là một tan nát một đau lòng cho Oanh đến thế. Đầu đuôi là nàng vẫn chưa mất hẳn hy vọng gặp lại Đức. Còn thầm ước. Còn cầu nguyện. Mặc dầu niềm sắt son chung thủy này, đã sống với Chính, nàng thấy là không phải, như một lãng mạn trái mùa và chẳng hiểu tâm hồn mình ra sao nữa. Trong những cuốn tiểu thuyết nàng đã đọc, nhiều cuốn viết về ma lực của mối tình thứ nhất, sự lạ lùng của nghìn mối tình về sau cũng không sao lãng quên được mối tình đầu. Phải vậy không? Không rõ. Chỉ biết Đức là người đàn ông thứ nhất. Hai người đã xa nhau bằng một tầm xa bằn bặt nửa đường trái đất, và Đức vẫn ở trong hồn nàng, trong ý nghĩ nàng, trong đời sống nàng, như một hiện hữu ma quỷ không thể nào trục xuất được ra. Họ gặp nhau ở Đà Lạt. Một Giáng Sinh. Nhớ năm đó Đà Lạt lạnh hơn mọi năm nhiều, và điều làm Oanh bất ngờ, bất ngờ đến bàng hoàng, là trong bầu
Một đêm thứ bảy | 119
120 | Mai Thảo không khí buốt lạnh ấy của một thành phố trên cao lại là nơi chốn cho một ngọn lửa đam mê bùng cháy.
Oanh lên chơi mấy ngày Giáng Sinh ở Đà Lạt, do lời mời của Thục, một người bạn gái cùng lớp. Lời mời có một dụng ý. Thục, một người có một người anh ruột tên là Phong, bấy giờ đang theo học khóa sĩ quan trừ bị, và Thục dụng tâm tạo cơ hội cho Oanh và anh nàng gặp nhau, với niềm mong ước Oanh sẽ trở thành người chị dâu sau này của mình. Sắp xếp cũng là tốt đẹp thôi. Phong là con lớn của một gia đình Đà Lạt giàu có, có biệt thự tráng lệ nhìn xuống hồ Xuân Hương. Học giỏi, bảnh trai, tâm tính lành hiền, Phong có đủ đức tính của một người chồng lý tưởng, và có dư điều kiện đem lại cho Oanh một đời sống êm đềm, sung sướng. Hai người được giới thiệu với nhau. Sáng hôm sau, đưa Oanh ra phố chợ điểm tâm, Thục hỏi liền: “Mày thấy anh tao thế nào?” Oanh cười: “Hỏi làm chi vậy?” Thục: “Ông anh tao xem chừng chịu mày lắm rồi. Mày cũng ưng thì sẽ làm chị dâu tao.” Oanh ở nhà Thục bốn ngày. Giữa một gia đình hiền hòa, có không khí dễ chịu như không khí Đà Lạt. Trái tim nàng chưa đập mạnh nhưng trong lòng đã có ít nhiều cảm tình với người anh ruột bạn lúc nào cũng lịch sự nghiêm trang. Chuyện bất ngờ xảy đến vào buổi tối cuối cùng trước ngày Oanh trở về Sài Gòn. Mọi người cùng tới
Một đêm thứ bảy | 121 dự một buổi dạ vũ Giáng Sinh do sinh viên Võ Bị tổ chức. Và Oanh gặp Đức ở dạ vũ ấy. Đen đủi, gầy guộc, cặp mắt dữ dằn xếch ngược, cử chỉ cục cằn thô lỗ, Đức là một mẫu người trái ngược hẳn với Phong. Thấy Oanh, hắn ngó trừng trừng, cái nhìn sỗ sàng như muốn lột trần Oanh ra khiến nàng đỏ mặt. Nhạc nổi, hắn tới liền, miệng mời, tay nắm luôn lấy Oanh lôi tuột nàng ra sàn nhảy. Hắn ôm nàng chặt cứng, hơi thở sát gần sặc sụa men rượu và toàn thân Oanh nóng ran trước sự đụng chạm thô bạo, trước một ham muốn xác thịt bừng bừng ở gã con trai. Trong khi nhảy, lợi dụng một lúc ánh đèn tối đi, hắn còn hôn bừa vào cổ Oanh vào tai Oanh nữa. Bản nhạc chưa dứt, Oanh gỡ mạnh ra giận dữ, trở về chỗ cũ. Thế nhưng đêm đó, nằm cạnh Thục, Oanh kinh ngạc thấy nàng nghĩ hoài, nghĩ hoài đến gã con trai xa lạ. Đến một đụng chạm xác thịt táo tợn, nó đánh thức ở nàng, ở thân thể nàng những rung động ngây ngất chưa từng cảm thấy. Phần Đức, hắn đã nhất tâm theo đuổi Oanh. Nhất tâm chiếm đoạt. Cuối tuần sau Giáng Sinh, hắn về Sài Gòn, dò tìm được địa chỉ Oanh, ngồi rình chờ ở một quán hàng trước cửa cho đến khi Oanh có việc phải ra khỏi nhà. Hắn theo sát. Tới một khúc đường vắng, vượt lên chặn Oanh lại. Thấy hắn, cái cảm giác rạo rực bừng bừng lại cháy bùng trong Oanh. Nàng bỏ chạy. Gã con trai ôm nghiền lấy, hôn
122 | Mai Thảo thẳng vào miệng nàng một cái hôn ngấu nghiến làm
Oanh nghẹt thở. Lúc hắn buông ra, Oanh òa khóc, dậm chân chửi mắng, nhưng sự chiếm đoạt đã là. Và sau một đêm hoan lạc quên đất quên trời, đoạn tuyệt với sự trong trắng của nàng. o O o Với Đức, đời sống Oanh thay đổi hẳn. Từ sự bình lặng, nàng rớt xuống một vũng lầy, nàng trôi theo một giòng thác. Thục từ Đà Lạt viết thư về, hỏi có bằng lòng tiến tới hôn nhân với Phong không, Oanh xé nhỏ lá thư không trả lời. Đức đã tới và chẳng còn Phong nào nữa. Mãn khóa, Đức được phái tới một đơn vị heo hút dưới chân Đèo Cả. Oanh lìa bỏ gia đình đi theo, sức mạnh vô địch của tình yêu đầu đời làm tiêu tan sự sợ hãi phải sống với Đức ở một tuyến đầu nguy hiểm, sự ngần ngại nơi người nữ sinh phường phố và đài các ở nàng phải chia sẻ với Đức một cảnh đời khác hẳn, rất tầm thường, của một trại gia binh. Tầm thường thật, và tối tăm và dãi dầu nữa. Lần đầu tiên Oanh hiểu thế nào là một đời sống thiếu thốn hết thảy, thêm cái không khí đầy bất trắc của chiến trường bốn phía, như một vòng vây trùng trùng. Thêm những loạt pháo kích, những ánh hỏa châu, từng đêm, từng đêm.
Một đêm thứ bảy | 123 Tới lúc, mặc dầu sự gắn bó với Đức còn nguyên vẹn, Oanh chịu đựng hết nổi, vì lam lũ cơ cực, vì thần kinh căng thẳng, muốn trở về Sài Gòn thì nàng có thai. Sự ràng buộc tình cảm cột thêm một vòng dây trói buộc nữa. Với tấm lòng người mẹ ở Oanh đã thức dậy dạt dào như một ngọn triều dâng. Đứa con gái ra đời ở trại gia binh. Oanh đặt tên cho nó là Kim. Kim, như lẽ sống của đời nàng. Kim, như một châu báu hiếm quý và nâng niu nhất. Rồi chiến trường bốc cháy, rồi đụng độ dữ dội. Rồi địch tấn công vào khắp mọi cứ điểm phòng ngự trong vùng Đèo Cả.
Oanh bắt buộc phải bồng con về lánh nạn ở Sài Gòn. Sau đó là căn cứ đóng quân của Đức bị tràn ngập, nàng đứt hẳn liên lạc với Đức, không biết Đức sống chết thế nào. Cuối cùng là biến động 30 tháng tư. Một thân một mình, nàng bồng con theo đoàn người tháo chạy bằng đường biển ra Đệ Thất Hạm Đội. Tới Mỹ, nàng gặp Chính. Đức vẫn bặt vô âm tín. Người ta không thể sống với một đợi chờ vô vọng suốt một đời người, Oanh đau đớn nghĩ thầm. Thấy Chính chín chắn, cuối cùng nàng bằng lòng về với Chính, Với một điều kiện là Chính phải để mẹ con nàng được vĩnh viễn gần onhau.Oo
Oanh không hiểu được. Nước Mỹ là của một chuyện lạ lùng mới nữa. Khi công việc tìm kiếm tưởng như đã vô hiệu và ngừng đứng, khi Oanh đã coi như tuyệt vọng hoàn toàn, hãng điều tra tư báo tin họ đã tìm thấy Kim. Oanh như người chết sống lại vậy. Nàng la lên một tiếng mừng rỡ và đòi Chính đưa ngay tới hãng. Tiếp Oanh là viên thám tử đã tìm ra Kim. Thoạt nhìn, hắn phảng phất giống tài tử Humphrey Bogart. Tư phục tới dáng điệu tới cách bật lửa đốt một điếu thuốc. Nhưng nhìn kỹ thì là một vẻ tầm thường và hiểm độc nào đó không thấy ở Bogart.
124 | Mai Thảo Nước Mỹ mãi mãi là của những chuyện lạ lùng
Hắn nói cộc lốc, vắn tắt, lạnh lùng, như không muốn cuộc tiếp xúc kéo dài. Hãng chúng tôi đã tìm thấy Kim, con gái bà. Hiện sống ở một vùng quê Texas. Với một đứa con trai Mỹ, hơn con gái bà hai tuổi. Hai đứa không học cùng trường, thằng nhỏ cũng không sinh trưởng ở vùng này, chỉ từ Texas tới đây ở chơi với một người cô họ. Hai đứa quen biết nhau trong trường hợp không rõ, chỉ biết con gái bà rời nhà đã cùng với thằng nhỏ lấy ngay Greyhound đi luôn hai đêm hai ngày về một trang trại đổ nát vùng quê Texas là nơi bố mẹ thằng nhỏ đang sống. Viên thám tử nhìn thẳng vào mắt Oanh, nói tiếp: – Có chuyện bất ngờ này, bà chuẩn bị tinh thần đi. Con gái bà đã có con.
Một đêm thứ bảy | 125 Đang hồi hộp nghe, Oanh giật bắn người và choáng váng la lớn: – Có con? Cháu mới 14 tuổi. Ông giỡn với tôi sao? Viên thám tử nhếch mép: – Hai mươi năm lành nghề, tôi chưa từng nói giỡn với thân chủ một lời nào. Hắn lấy ở hồ sơ ra một tờ giấy, đẩy nó tới trước mặt–Oanh:Đây,địa chỉ và bản đồ chỉ dẫn tới trang trại đó. Theo kinh nghiệm, chúng tôi đề nghị trước hết bà nên thương lượng, điều đình. Với bố mẹ thằng nhỏ, với cả thằng nhỏ nữa. Như thế cho êm đẹp mọi chuyện và đỡ phải kiện cáo lôi thôi. Không được mới phải nhờ đến pháp luật. Mục đích của bà chỉ là tìm ra con để nó trở lại với bà. Phải vậy không?
Oanh gật đầu, chết lặng người đi trước sự quái gỡ khó tin là đứa con gái mới có 14 tuổi đầu của nàng đã bỏ nhà, đã đi theo một thằng con trai Mỹ xa lạ, về sống với nó ở tận một vùng quê xa Texas xa thẳm, còn có ngay với thằng nhỏ một đứa con.
Viễn thám tử đứng lên. Hắn nói chúc bà may mắn. Và để mặc Oanh ngồi chết lặng cạnh Chính, hắn đẩy ghế đi ra.
o O o
126 | Mai Thảo Có những lúc đời sống đang quang đãng, đang bình thường, bỗng vì một chấn động thình lình nào đó, biến đổi hẳn và hiện hình với một hình tượng khác. Chấn động đó triệt để, vì ở ngoài mọi tưởng tượng. Nó tận cùng nữa, vì làm tê liệt hết mọi phản ứng ở trong ta. Dải mây đang nhìn thấy bầu trời, khoảnh khắc dải mây không còn nữa. Dải mây là một hư ảnh. Con đường bước chân đang đi, khoảnh khắc con đường biến mất, bước chân vẫn đi nhưng là đi bồng bềnh giữa một khoảng không. Đó là cái trạng thái mơ mơ hồ hồ của một giấc mơ, đầu óc vẫn tỉnh thức sáng suốt nhưng không tài nào ra khỏi. Và đó là cái trạng thái tinh thần của Oanh, từ văn phòng hãng điều tra tư đi ra. Nàng trở về nhà, làm cơm chiều, cùng ăn với Chính, nhai, nuốt như một cái máy. Một lúc nào đó, Chính đứng lên, bốc điện thoại gọi cho một hãng máy bay, giữ hai chỗ trên chuyến máy bay từ Los Angeles về Houston buổi trưa hôm sau. Tiếng nói của Chính, ề à, tiếng chuông điện thoại, tiếng Chính trở lại bàn: “mai anh đưa em đi”, nàng nghe xa xa, gần gần, hư hư thực thực. Đêm tới, vào giường, cạnh Chính, nàng nằm bất động, cặp mắt mở lớn trong tối, cố gắng tập trung hết mọi ý nghĩ vào đứa con gái yêu quý của nàng, vào sự lạ lùng đã xảy đến cho
Một đêm thứ bảy | 127 cái tuổi mười bốn của nó. Nhưng mở ý nghĩ mông lung không thành hình, tụ lại rồi tản đi. Tảng sáng, nàng ngồi lên, làm một cái valy chung cho nàng và Chính, hai tay gấp cái quần này xếp cái áo kia, như một cái máy. Chính pha cà phê. Nàng đỡ lấy tách cà phê nhìn ra dải nắng rực rỡ trên thảm cỏ căn vườn sau nhà, những bông hoa sớm khoe màu dưới nắng, cái nhìn lơ đãng, xa vắng. Tám giờ sáng Chính nói: “Anh phải tới sở xin nghỉ mấy ngày”. Nàng gật. Chính hỏi: “Em phải tới tiệm không?” Nàng lắc và yên lặng nhìn Chính đi. Ra phi trường, ba giờ bay từ Los về Houston, mướn xe hơi, về khách sạn, trạng thái bồng bềnh của một giấc mơ kéo dài giữa thức tỉnh tê liệt vẫn chưa chấm dứt. Chỉ tới khi ngồi trong xe, Chính lấy tờ giấy người thám tử Mỹ đưa cho, coi lại địa chỉ và họa đồ dẫn tới cái trang trại đổ nát giữa đồng, giấc mơ mới tan dần, và sự hồi hộp trở lại với Oanh bằng nhịp tim đập mau trong lồng ngực. Đang giữa mùa hè, Texas bát ngát một biển nắng hòa chói. Không khí chín nẫu trong cái nắng dữ dội choáng váng. Xe ra khỏi trung tâm thành phố Houston, đi sâu vào vùng đồng quê phía Tây. Oanh chưa tới Texas lần nào. Đây là lần đầu. Tất cả đều vô cùng lạ mắt. Những con đường đồng, mầu đất đỏ khé, hai bờ cỏ dại tràn lan, xe lăn tới đâu, tiếng cỏ động lạt sạt tới đó. Những bầy ngựa gầy trong
128 | Mai Thảo những tàu ngựa xiêu đổ. Những trang trại hoang phế, lăn lóc, không một tiếng động, không một bóng người. Những cỗ máy khoan dầu trên từng khoảng cách đều đặn, cỗ im phắc, bất động, cỗ kéo lên, thả xuống, đều nhịp, cùng in hình lên một nền trời bao la mênh mông. Tất cả, giữa một biển nắng ngút mắt.
Khoảng hai tiếng đồng hồ, qua những con lạch khô, những đồng cỏ cháy, mới tới vùng của cái trang trại đổ nát. Bản chỉ dẫn của người thám tử Mỹ rất chính xác. Của một tay nghề. Chính nhất nhất theo đúng. Qua một khúc quanh, tới sát một hàng cây, Chính ngừng xe lại. Trước mắt Oanh và Chính cái trang trại đổ nát đột ngột hiện ra. Trang trại đứng một mình, giữa một cánh đồng hoang, và đúng như sự miêu tả của người thám tử Mỹ, nó thật xập xệ, thật đổ nát. Hai căn nhà phụ, chừng để chứa đồ và trữ cỏ đều đã tróc mái, đã bỏ phế. Cái tầu ngựa cũng vậy. Không một bóng ngựa. Chỉ có căn chính, với một hàng hiên rộng phía trước còn nguyên vẹn, nhưng mấy bực thềm lên xuống đã long lở, và ở những cửa sổ, những tấm rèm rách tưa. Chính tắt máy. Xuống xe, cùng với Oanh đứng nấp sau một thân cây, cùng nhìn tới chỗ đứa con riêng của Oanh bỏ nhà theo trai đang sống. Vắng lặng, không một dấu vết đời sống. Một thời gian trôi qua. Rồi một cánh cửa từ từ mở, và một gã trẻ tuổi Mỹ đi ra.
Một đêm thứ bảy | 129
gái tới ngồi xuống bậc thềm, cạnh thằng nhỏ Mỹ. Cả
cùng ngước mắt nhìn trời và cùng im
Oanh không tài nào tự chủ được nữa. Nàng bật khóc thành tiếng. Đoạn la lớn: “Kim, Kim, mẹ đây, mẹ đây!” Nàng rời bỏ chỗ ẩn sau thân cây, dẫm bừa lên những bụi cỏ
Nó hơi thọt, chân thấp chân cao. Thằng nhỏ tóc hung đỏ, mặc một cái quần jeans và một cái áo sơ mi đỏ, kẻ ô vuông, chiếc áo không gài khuy, lõng thõng. Nó bước mấy bước tập tễnh, rồi ngồi xuống bậc thềm. Một phút sau, một đứa con gái, tóc đen, khổ người phục phịch, kính cận thị dầy cộm và bồng trên tay một hài nhi mới sinh, theo ra. Đứa con hai lặng. hoang, chạy lao tới chỗ hai đứa nhỏ vừa ngồi xuống. Cuộc tiếp xúc để cướp lại đứa con gái dại khờ đi theo một thằng nhỏ Mỹ cũng dại khờ như nó, Oanh tưởng sẽ khóc lóc, sẽ lớn tiếng, sẽ chật vật. Trái lại. Và điều này làm Oanh rất đỗi bất ngờ và kinh ngạc, nó đã diễn ra nhẹ nhõm và chóng vánh. Chính đưa Oanh vào trong nhà gặp bố mẹ thằng nhỏ. Một cặp vợ chồng già. Ông lão cao gầy, dáng người tráng kiện, cái nhìn tinh tường, hai bàn tay đồng áng một đời nổi gồ những đường gân lực lưỡng. Bà lão yếu mỏi hơn, thân thể ý chừng đã bị tê liệt một phần, phải ngồi trên một chiếc xe lăn. Cả hai cùng trầm lặng, chỉ thỉnh thoảng đưa mắt nhìn nhau và hà tiện
o O o
130 | Mai Thảo từng cử chỉ, từng lời nói. Chính chào hỏi xã giao rồi giới thiệu Oanh với họ. Chính trình bày với vợ chồng ông lão sự đau đớn không bờ bến của Oanh khi nàng về nhà, đứa con gái 14 tuổi của nàng đã trốn đi, sự kiếm tìm tuyệt vọng trong nửa năm trời, cuối cùng phải nhờ một hãng thám tử tư và hãng đó đã tìm ra Kim. Ông lão đốt một tẩu thuốc, chăm chú nghe, đôi lúc gật đầu: “Tôi hiểu, tôi hiểu”. Một lúc nào đó, ông ta nhìn Oanh nhún vai: “Bọn trẻ bây giờ điên khùng hết, như của một tinh cầu khác. Thằng Ted nhà tôi cũng vậy. Đứa con gái của bà cũng vậy.” Thằng nhỏ tên là Ted, Oanh nghĩ thầm và đưa mất nhìn nó, ngồi gục đầu, thiểu não, ở một góc xa tối nhất của căn phòng trần trụi. Suốt cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông, Oanh nghẹn ngào không góp được một tiếng nào. Nàng chỉ nhìn đứa con gái tìm thấy ngồi cạnh đứa nhỏ vừa sinh nó bồng một cách nặng nề vụng dại trên tay. Đứa nhỏ của hai giòng máu là con gái. Khuôn mặt kháu khỉnh, mái tóc vàng ánh. Mặc mọi ồn động chung quanh, nó vẫn bằn bặt ngủ say. Kim thì gầy sút trông thấy, bơ phờ trông thấy. Cuộc phiêu lưu điên cuồng đã in khắc trên nó những dấu vết mỏi mệt rã rời, cũng mỏi mệt rã rời như chuyến đi hai ngày hai đêm liền với thằng người tình trẻ dại từ một vùng biển California về tận một đáy cùng của
Một đêm thứ bảy | 131 vùng đồng quê Texas hoang vu. Thấy mẹ tới, con nhỏ vốn phản ứng chậm chạp, chỉ biết hoảng hốt đứng lên. Một lát rồi nó ngước cặp kính cận thị: “Con xin lỗi mẹ”. Vậy thôi, không khóc lóc cũng không nói gì thêm.Mọi chuyện được giải quyết và kết thúc với ông lão đứng lên, ý chứng không muốn kéo dài thêm nữa cuộc tiếp xúc. Ông ta nói với Oanh, chậm rãi: - Tôi rất ân hận vì sự điên rồ của đứa con trai trời đánh của tôi mà bà phải lặn lội tới đây. Tôi hiểu thấu tấm lòng một người mẹ Hoa Kỳ cũng như một ngời mẹ Việt Nam. Bà tìm thấy con có thêm một đứa cháu nữa, cũng là bề trên định vậy. Bà có thể đưa cả về sau lúc này. Chúng tôi già rồi, có muốn giữ cái hài nhi kia cũng chẳng thể vì không cách gì nuôi dưỡng. Oanh mừng rỡ kéo tay con gái đứng lên. Nàng đưa mắt nhìn về góc phòng nơi thằng nhỏ vẫn ngồi gụcÔngđầu.lão hiểu ý giơ tay gạt phắt đi. Ông nói tiếp với Oanh, giọng trở nên giận dữ: – Không có vấn đề gì hết, với nó. Nó bậy bạ ở đâu thì đành chịu, nhưng ở dưới mái nhà này, quyền là ở tôi. Nó đã gây rắc rối cho chúng ta quá nhiều rồi. Vì sinh ra đã tật nguyền tôi thương tình mà chưa trừng phạt đó thôi.
132 | Mai Thảo Phút mủi lòng xảy ra lúc Oanh và Chính cáo từ cặp vợ chồng già, đưa Kim ra khỏi ngôi nhà và tới chỗ đậu xe. Phía sau, cánh cửa thình lình mở bật ra và thằng nhỏ bước thấp bước cao chạy theo, Nửa đường nó vấp, ngã chúi xuống. Lại đứng lên chạy theo nữa, tới trước đứa con gái. Hai đứa trẻ nhìn nhau đăm đăm, cả hai đứa cùng không nói nổi với nhau một lời nào. Oanh hiểu, ngậm ngùi. Sự điên cuồng của tuổi trẻ đã chấm dứt. Nhưng sự điên ấy vẫn còn để lại một hạt ngọc cuối cùng, hạt ngọc lưu luyến. Nàng đặt tay lên đầu con nàng: “Con có thể gặp lại Ted, nếu con muốn. Nhưng sau này, khi con đã tới tuổi trưởng thành”. Nàng cũng nói với đứa nhỏ Mỹ một câu như vậy. Bằng tiếng Mỹ. Xem chừng thằng nhỏ hiểu. Nó quay gót lại và lủi thủi trở về nhà. o O o Ba tháng sau chuyến đi về xa thẳm, một trang trại đổ nát vùng quê Texas, tìm thấy đứa con gái, đưa nó trở về với đứa nhỏ mới sinh của nó nữa, Oanh quyết định chấm dứt cuộc chung sống bảy năm với Chính. Nàng chưa nghĩ ngay tới sự chấm dứt này. Trở về, còn phải mở lại của tiệm. Còn phải hòa nhập
lại với nếp sống bình thường, sau những dồn dập lo âu và sau một khủng hoảng tâm hồn ghê gớm. Còn phải tới hãng điều tra tư, báo đã tìm thấy Kim, trả nốt số tiền thiếu. Còn phải tới trường Kim học, nói dối Kim tới chơi một gia đình trong họ một tiểu bang xa, giờ đã về, xin được tuần sau đi học tiếp. Và còn cái sự việc mới mẻ, như một xáo trộn mới, đầy ngộ nghĩnh và đã lấy của Oanh rất nhiều thì giờ. Đó là đứa cháu gái lai Mỹ, đứa cháu ngoại của hai giòng máu. Oanh đặt tên cho nó là Nga, lấy tên người bạn học gái thân nhất còn kẹt ở Sài Gòn. Mấy cuối tuần liền, Oanh đi shopping liên miên. Mua giường, mua tã lót, quần áo cho cháu ngoại. Cả một sợi dây vàng nữa, khắc chữ N. và đeo vào cổ chân cháu. Rồi tìm một nhà giữ trẻ gần tiệm. Đưa gửi, trên đường tới cửa tiệm. Tới đón, ở cửa tiệm về. Khi mọi chuyện đã tạm yên với Kim đã trở lại trường, Oanh mới nghĩ đến nàng, tâm hồn nàng và chợt thấy không muốn sống cùng với Chính nữa. Quyết định chấm dứt không được đọc bởi một lý do cụ thể nào. Chính vẫn yêu nàng. Cũng không tỏ vẻ khó chịu gì vì trong nhà có thêm một đứa nhỏ lai. Chấm dứt, vì cảm thấy không muốn nữa. Thế thôi. Vì bỗng thấy sống riêng, sống trở lại một mình đúng và phải hơn là chung sống bấy lâu với Chính. Chia
Một đêm thứ bảy | 133
134 | Mai Thảo lìa mà không có lý do chia lìa nào hết. Sự lạ lùng này ở Oanh gần như làm Chính muốn phát điên lên. Tức giận, Chính đi Las Vegas đánh bạc giải sầu. Nhưng Oanh đã định. Và Chính chẳng còn làm sao được nữa. Nàng tìm đến một luật sư quen. Nhờ làm giấy tờ bán ngay ngôi nhà gần biển tên nàng, tiền mua cũng là tiền của nàng, chia một nửa cho Chính. Đoạn dọn liền đến một chung cư gần tiệm. Để có thể đi làm muộn hơn, về nhà sớm hơn. Để có nhiều thời giờ ở cạnh đứa con gái và đứa cháu ngoại của nàng hơn.Phòng
Oanh ở nhìn sang một công viên. Ghế đá từng quãng. Thảm cỏ bao la, xanh mướt. Buổi chiều, đón cháu trên đường từ cửa tiệm về, Oanh thường bồng nó ra ngồi ở đầu thềm, đợi con gái từ trường về, về qua ngỏ đó. Kim về tới, liệng cái cặp da đi, ngồi xuống cạnh mẹ. Vẫn cặp mắt kính dầy cộm. Vẫn cái nhìn khờ dại sau kính. Chỉ khác là không còn hốc hác, rã rời như lúc ở cái trang trại Texas đổ nát nữa. Mà mập mạp, nặng nề trở lại. Oanh mừng thầm. Mừng nữa là chừng như đứa con gái đã quên, quên được quên hẳn. Kín đáo theo dõi con gái một thời gian Oanh ngoan ngoãn đi học. Chiều chiều ngoan ngoãn trở về. Cuộc phiêu lưu điên cuồng tới lúc không còn một dấu vết, một ám ảnh. Gã con trai
Một đêm thứ bảy | 135
Mỹ tên Ted cũng không còn một lần nào được nhắc tới. Mặt khác, Kim không quấn quýt gì lắm đứa con gái nó sinh ra. Mọi chuyện để mặc Oanh hết. Thỉnh thoảng nó cũng bồng bế, cũng đùa nghịch với con nó một lúc. Vậy thôi. Mãi rồi Oanh hiểu. Con gái nàng đã có tình, đã đẻ con, đã là mẹ. Nhưng đó là chốc lát. Như một nghịch lý. Nó chưa phải là một người mẹ hoàn toàn, như nàng. Nó vẫn là một đứa trẻ con, hoànĐôitoàn.khi, nhớ lại sự trốn đi của Kim, mẩu giấy nhỏ và mấy hàng chữ vĩnh biệt vụng dại của nó để lại trên nắp dương cầm, Oanh lại hồi tưởng đến cuộc tình đầu đời điên cuồng và liều lĩnh của mình. Đến cái đêm dạ vũ Giáng Sinh ngày nào ở Đà Lạt. Đến bản nhảy đầu tiên với Đức. Đến những ngày tháng cơ cực sống với Đức ở cái trại gia binh dưới chân Đèo Cả. Nghĩ rồi chép miệng. Rồi bật cười một mình: “Ngày trước mình cũng vậy mà. Đúng là mẹ nào con nấy”. Trong tiếng cười, đứa cháu lại trên tay, trước một công viên buổi chiều tàn nắng, có một yên tâm, một khoan thai, một độc lập tâm hồn nào đó. Một hy vọng nữa. Rất nhỏ. Như một ngờ vực. Nhưng cũng là một ước mơ thầm. Là một ngày nào, người đàn ông mất tích trong tràn ngập
136 | Mai Thảo của kẻ thù ở một cứ điểm phòng ngự dưới chân Đèo Cả sẽ tới được đây. Với nàng. Còn sống. Tới được đây với nàng. Trên bực thềm này, cùng ngắm nhìn với nàng cái cảnh tượng thật đẹp của một công viên tàn nắng.
Một đêm thứ bảy | 137 MỘT ĐÊM THỨ BẢY Trước hàng chữ nê-ông đỏ rực từ trên cao mặt tiền tòa nhà nhuộm thẫm cả một bãi đậu xe bát ngát gần như không còn một chỗ trống, Nhuận đứng lại, châm một điếu thuốc hút. Cảm thấy trở lại trong chàng tất cả sự ngần ngại miễn cưỡng nửa giờ trước đó khi theo người bạn từ nhà ra đi. Trong cánh rừng bằng hữu thưa vắng hiện giờ khiến Nhuận có cảm giác trống lạnh như cánh rừng đã trăm cây đổ gục chỉ còn vài gốc lẻ loi. Trình, người bạn còn náo nức với những cuộc vui cuối tuần có nhiều mặt về con người khá tốt đẹp. Nhưng Nhuận vẫn thầm chê Trình một điểm đã có từ những thời gian xa thẳm ở Sài Gòn là còn ham hố, còn tiếc của trời. Và của trời tối nay của Trình là hai cái vé mời vào cửa miễn phí của một vũ trường mới đêm khai trương.Buổi chiều, cơm nước xong với gia đình người em ruột đi trước bảo lãnh cho chàng vượt biển tới sau, Nhuận đã hình dung xong cho chàng một buổi tối thứ bảy ở nhà. Bằng pha thêm một ly rượu. Đem về phòng riêng. Sửa soạn cho giấc ngủ muốn tới sớm bằng một ngọn đèn đầu giường, đọc tiếp cuốn tiểu
138 | Mai Thảo thuyết gián điệp dầy cộm của John Le Carré mới đọc hết chương đầu sách. Thời gian gần đây, Le Carré với cái thế giới điệp viên kỳ lạ đầy bí mật và đầy bóng tối đa là liều thuốc ngủ thần diệu nhất với những buổi tối một mình và ở nhà của Nhuận. Với tuổi, đôi mắt Nhuận đã mỏi. Chỉ đọc vài chục trang mí mắt đã xụp xuống, những hàng chữ mờ dần và giấc ngủ tới. Lần này, không may cho Nhuận và Le Carré bị gián đoạn. Điện thoại reo. Và Trình. Và hai cái vé mời của một vũ trường mới. Và đừng bỏ phí của trời. Và mụ vợ tôi đi chơi Paris chưa về, tôi không chịu đi một mình, tôi đến đón ông vua vũ trường một thời cùng đi đây.Vũ trường. Ông vua một thời. Rất ghét ai đánh thức lại nơi chàng phần đời cũ Nhuận coi như đã lìa đứt hẳn với phần đời âm thầm còn lại, Nhuận đã toan chửi thề trong ống nói. Rồi lại bật cười. Vì lời nhắc của bạn không sự thật. Nhớ lại, sao có một thời kỳ Nhuận chìm đắm với sàn nhẩy và vũ trường một cách tận cùng như thế. Một tuần bảy lần. Một tháng ba mươi đêm. Trong hàng chục năm liên tục. Buổi chiều Sài Gòn vừa tàn nắng, đôi giầy bóng nhẫy, quần áo chải chuốt, Nhuận đã tề chỉnh cho những bước chân lui tới du dương nhịp nhàng theo điệu nhạc, cho ôm hờ, cho ghì chặt những vòng lưng vũ nữ thon mềm ở trong tay. Cái không khí nhộn nhịp
Một đêm thứ bảy | 139 ở vũ trường, Nhuận đã ghiền nó. Thật nặng. Đến độ không tài nào thiếu vắng được, dù một ngày một buổi. Cứ như thế, cùng với một đám bạn hữu ồn ào, chàng miệt mài ở các vũ trường từ đêm xuống tới bốn năm giờ sáng, chiếc xe hơi của chàng chạy không ngừng trên mấy con đường Hàm Nghi, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo là để chở chàng và một bầy vũ nữ phá phách hết vũ trường này đến vũ trường kia. Tới khắp Sài Gòn ăn chơi. Tới khắp Chợ Lớn đời sống ban đêm. Chưa hết, ban ngày chàng thường xuyên lui tới những căn phòng khách sạn có vũ nữ ở nữa. Trò chuyện, đánh bài, đi phố, đi ăn trưa triền miên với họ. Một thời kỳ Nhuận còn sống hẳn với Thúy, một vũ nữ trẻ đẹp, cũng rượu, thuốc lá, đủ thứ như chàng. Cuộc chung sống cũng kéo dài được hơn ba năm, đôi khi Nhuận ngậm ngùi nhớ lại thấy đó cũng gọi được là một thời kỳ hạnh phúc, dầu một hạnh phúc đầy bất trắc và không có ngày mai. Ở với Thúy, chàng không còn lui tới thường xuyên các vũ trường nữa. Chỉ chừng một hai lần một tuần. Còn thì chỉ đưa Thúy tới, đón Thúy về, hoặc nằm nhà chờ nàng về, hai người vào Chợ Lớn hoặc ra chợ Cũ ăn đêm. Cho tới khi bác sỹ khám phá thấy ở Thúy chứng ung thư máu. Chiều chiều Nhuận vào bệnh viện thăm Thúy, ngồi với nàng hàng giờ ở bên giường, chảy nước mắt nhìn người tình tới dần lòng
140 | Mai Thảo huyệt. Khi Thúy trút hơi thở cuối cùng trong tay chàng, nàng mất vào buổi tối, giờ các vũ trường sắp đồng loạt mở cửa, chàng như có một lời nguyền với chính chàng là không bao giờ còn trở lại những nơi chốn ăn chơi có ánh đèn mầu và khiêu vũ nữa. Lời nguyền ấy gần như Nhuận đã giữ được. Rồi sang tới Mỹ, chấm dứt hẳn mọi hình thức ăn chơi phóng đãng, chàng cho là không thuận hợp nữa với tuổi tác của chàng, cái thế giới vũ trường đã ở rất xa, xa hẳn, với đời sống âm thầm của Nhuận. Thằng an ninh Mỹ đen, to lớn như một ông hộ pháp, nét mặt dữ dằn, ra lệnh cho Nhuận đứng xây lưng vào tường, hai tay giơ cao trên tầm đầu, để nó nắn vuốt khắp người chàng từ vai tới chân làm gia tăng sự khó chịu của Nhuận thành một bực tức thật sự. Chàng cằn nhằn: – Thế này mà cũng gọi là giải trí à? Chẳng còn ra cái thể thống gì nữa. Đứng sau lưng Nhuận, Trình bụm miệng cười: – Nếm mùi vũ trường ở Mỹ một lần cho biết. An ninh Mỹ Nhuậnnữa.quát lớn: – Lần này là lần chót, nhớ chưa? Trình rụt cổ:
Một đêm thứ bảy | 141 – Xin nhớ. Thôi đã tới, vào chơi một lát, sẽ đưa vua vũ trường về sớm. Ngược lại với điều Nhuận hình dung từ bên ngoài khi thấy tòa nhà trần trụi chỉ là bốn phía tường thô kệch kín mít, vũ trường ở bên trong rất khang trang tráng lệ, và có một không khí ồn ào rất tươi vui. Một quầy rượu sáng choang, với hàng trăm chai rượu đủ loại kề vai trước những tấm kính lớn hình lục lăng rực rỡ phản chiếu nhiều giòng ánh sáng đủ mầu vùn vụt chuyển động từ hai trái cầu dạ quang xoay tít giữa sàn nhảy và ở trên cao. Đối diện với quầy rượu, và ở bên kia một sàn nhảy bóng loáng, mênh mông, là dàn nhạc, đã trình tấu, và người nhạc sỹ tóc bạc chơi tây ban cầm là Bảo, một người bạn học cũ những đêm vũ trường xưa của Nhuận ở Sài Gòn. Đêm khai trương, đám dân chơi tiếc của trời như Trình là tấm vé mời vào cửa miễn phí tới khá đông. Và còn đang nườm nượp kéo vào. Phần lớn là lớp người trẻ tuổi, không đến nỗi nào là côn đồ du đãng, nhưng xô đẩy và phục sức lố lăng nhất là đám con gái, nhiều đứa áo quần phong phanh hở hang như áo quần đi dạo mùa hè ngoài bãi biển. o O o Để mặc cho Trình chạy lăng xăng hết bàn quen này tới bàn quen khác, Nhuận chọn một chỗ ngồi
142 | Mai Thảo thật xa khuất ở một góc phòng, gọi cho chàng một lần liền ba ly rượu mạnh. Và vừa uống vừa hút thuốc lá, ngắm nhìn cái cảnh tượng dửng dưng xa lạ bằng một ngắm nhìn lơ đãng. Những người trẻ tuổi kia, nhiều gã chắc không còn nói được tiếng Việt đang quay cuồng dưới vùng ánh sáng xanh đỏ hỗn độn kia đã là một thế hệ mới, Nhuận bâng khuâng nghĩ thầm. Và giữa cái thế giới của những người trẻ tuổi ấy với chàng, Nhuận nghĩ tiếp, đã là một cách biệt, một chặt đứt hoàn toàn. Như một bến bờ này với một bến bờ kia. Như một ly dị. Như một đoạn tuyệt. Trạng thái ấy tạo nên một khoảng trống mênh mông trong tâm hồn Nhuận. Và trên khoảng trống này, dĩ vãng chàng tưởng đã chôn vùi, đang từng mảnh, từng chiến trở về. Như những tờ rời của một cuốn sách cũ. Như những cánh lá vàng bay ngược lại đường bay trí nhớ bay về từ một mùa thu đã mất đã xa.
Dòng ý nghĩ mù sương lãng đãng trong đầu, trận mưa dĩ vãng rì rào trong hồn, cùng những ngụm rượu uống dần vào cơ thể tạo dần một cơn say nghiêng nghiêng, đẩy Nhuận tách rời dần với mọi vật thể, mọi chuyển động ở chung quanh. Tiếng nhạc lúc chát chúa bổng trầm dìu dặt Nhuận vẫn nghe thấy, những bờ vai, những mái tóc thoang thoáng dưới vòng đèn sặc sỡ xoay tít, Nhuận vẫn nhìn thấy. Nhưng như cuốn tiểu thuyết gián điệp của John Le
Một đêm thứ bảy | 143 Carré sau vài chục trang đọc làm cho mỏi mắt, làm cho chập chờn, cả căn phòng vũ trường đông đặc hình ảnh và tiếng động vây bọc, như nới dần vòng vây, thả Nhuận trôi từ từ mơ màng thiêm thiếp. Một bàn tay đập nhẹ lên vai Nhuận, cùng một tiếng cười và một câu hỏi đột ngột đẩy Nhuận ra khỏi dòng mơ màng: – Anh Nhuận, còn nhớ em không? Nhuận ngồi thẳng lại, bỡ ngỡ trước người đàn bà tới đứng trước mặt lúc nào chàng không hay. Cao dong dỏng, hơi gầy, trong bộ đồ lụa mỏng hở vai hở tay màu tím nhạt, người đàn bà đã đứng tuổi, mùi phấn son nồng gắt, thân mật cúi xuống. – Nhận ra em chưa nào? Nhận ra. Đời sống. Những khoảng cách. Những thời gian. Trí nhớ Nhuận lại đã rất tồi tệ. Khiến chàng thật ngán ngẫm cái trường hợp một người quen xưa thình lình đụng đầu cứ thử thách cải trí nhớ mịt mùng của chàng bằng gặng hỏi đã nhận ra chưa. Trường hợp bối rối ấy đã đến với Nhuận nhiều lần. Đêm nay, thêm người đàn bà này nữa, Nhuận nhìn kỹ. Khuôn mặt trái soan đã thấp thoáng những vết tàn phá của thời gian mặc dầu vẫn còn những đường nét rất ưa nhìn, Nhuận chỉ thấy quen quen phảng phất. Chàng cười gượng gật đầu:
144 | Mai Thảo Có chớ. Nhớ. – Nhớ cái khỉ mốc. Mặt anh thộn ra thế kia. Dung đây. Bạn thân của Thúy đây. Ngày đưa đám nó em đi cạnh anh, em khóc hết nước mắt, anh tệ quá, đã quên rồi sao? Thúy. Sáu tháng ở bệnh viện. Chứng ung thư máu. Cái chết thương tâm của Thúy. Đám bạn gái của Thúy và sau đó chàng không bao giờ còn trở lại vũ trường. Nhuận nhớ ra rồi. Nhớ ra để thấy ở Dung không ngờ là một cuộc đổi thay như chàng đang nhìnChàngthấy. gật đầu xin lỗi: – Thật tình là em không nhắc tới Thúy thì anh chịu. Nhớ ra rồi, em ngồi xuống đây. Dung sịu mặt: – Em biết. Tàn tạ đến độ anh cũng chẳng còn nhớ được.–Không phải vậy, chỉ là đã lâu quá và trí nhớ của anh bây giờ rất khốn nạn. Em đi với ai? Sao thấy anh?Dung chỉ tay về một bàn cạnh sàn nhảy: – Với mấy thằng nhỏ ở bàn kia. Em ngờ ngợ phải sang tận nơi mới biết đúng là anh đấy. Em hơi ngạc nhiên thấy anh ở nơi chốn này. Tưởng đoạn tuyệt
với vũ trường từ sau cái chết của Thúy cơ mà?
– Đúng vậy. Nhưng hôm nay có một người bạn rủ, nể quá. Đang sắp muốn gà gật và định về sớm đây.–
Một đêm thứ bảy | 145
Dung nhắc đến Thúy khiến Nhuận ngậm ngùi xúc động. Không muốn có một thái độ lạnh lùng tàn nhẫn với nàng, chàng ngọt ngào: – Nhớ. Không muốn trở lại bàn kia nữa thì ngồi đây uống rượu với anh. Dung giật tay áo Nhuận: – Đến lúc tan nhé? – Đồng ý. – Sau đây đi chơi nữa. Tới thật khuya nhé? Cũng đồng ý. Người đàn bà reo lớn mừng rỡ: – Đêm nay em hên quá trời là hên. Nhưng rồi đi đâu anh?
Chết. Đâu được. Bao nhiêu năm tình cờ mới gặp lại anh. Đi chơi với mấy thằng nhỏ kia không hợp, đang chán đời quá. Chúng cũng chẳng thích gì em. Vậy cùng bỏ rơi nhau luôn. Cho em ngồi với anh. Bao nhiêu chuyện muốn nói. Chẳng bao giờ em quên được Thúy. Anh còn nhớ nó không?
–
146 | Mai Thảo – Ăn khuya. Đồ biển. Nghe nhạc. Nếu em thích vậy.– Làm sao không thích được. Xa không, anh? – Gần, và gần biển. Đó là nhà hàng có nhạc mở cửa khuya nhất vùng này. - Nhất. Dung nói. Rồi nhìn xuống cái áo mỏng, bờ vai trần và cánh tay trần của nàng: – Nhưng đêm khuya và gần biển chắc lạnh. Em mặc phong phanh thế này đâu được. Lỡ đau thì khổ. Nhà em cũng gần đây. Đi xa lộ chừng 20 phút. Ở đây ra, anh chịu khó cho em về qua nhà, em mặc thêm cho thật ấm rồi chúng mình đi nhé! Nhuận gật đầu bằng lòng và gọi rượu cho Dung. Đám bạn gái vũ trường của Thúy, Dung là người thân nhất. Mặc dầu tâm tính và lối sống của hai người đàn bà hoàn toàn trái ngược nhau, Thúy sống cũng cực kỳ buông thả, nhưng bản chất dịu dàng thùy mị. Chung thủy nữa. Ba năm chung sống với chàng, Thúy không có thêm một người tình nào khác. Đời sống do vậy tương đối phẳng lặng. Dung khác hẳn. Nổ tung như một cây pháo bông. Quay cuồng như một cơn bão lốc. Một lối sống kệ ngày mai. Nhờ nhảy giỏi, chuyện trò hay, Dung một thời nổi tiếng là người vũ nữ bùa ngải và đằm thắm nhất của các vũ trường Sài Gòn - Chợ Lớn và có hàng chục người
Một đêm thứ bảy | 147 tình trong đám tay chơi lẫy lừng và giàu có nhất. Có điều là chính vì thế mà Dung không lâu bền được với một người nào. Thân với Thúy là do nơi Dung rất yêu mến tính tình dịu dàng thùy mị của Thúy. Tấm lòng chung thủy của Thúy nữa, mà Dung không có. Nhìn Dung gặp lại, tàn tạ, gầy guộc, không còn một phần nào vẻ lộng lẫy huy hoàng của một bà hoàng ban đêm ngày trước, Nhuận nhớ lại những lần Dung diện ngất trời mời chàng và Thúy vào Chợ Lớn ăn chơi. Dung đòi vào những nhà hàng sang trọng nhất. Tranh trả tiền bằng được. Cười nói tưng bừng. Rồi một lúc xịu mặt và những lúc ấy thường nói: – Thúy sẽ lên thiên đàng, còn em xuống địa ngục. Em biết mà. Em chẳng còn làm sao được và cũng chẳng người nào làm được gì cho em. Đợi cho Dung uống thêm ly rượu nữa, nhảy với nàng một bản, trong lúc nhảy nàng gập người xuống, ôm lấy ngực họ rũ rượi từng hồi, rồi Nhuận đi kiếm Trình. Chàng thu xếp với bạn. Mượn được xe của Trình. Và rời vũ trường, đưa Dung trở lại nhà nàng lấy thêm áo ấm. Đêm California thăm thẳm. Trên trời. Dưới đất. Nơi những lùm cây. Trong những bóng cành. Ở những con đường hiu quạnh bên trong. Ngoài xa lộ lộng gió. Nơi Nhuận, lái xe từ từ. Nơi Dung ngồi
148 | Mai Thảo sát vào chàng, run rẩy trong hơi đêm thấm lạnh dần dần. Nhuận gợi chuyện, để chống lại với giấc ngủ xâm chiếm: – Dung sống một mình hay với ai? – Với một người. Mà thôi, nói chuyện khác vui hơn. Đừng hỏi chuyện đời em bây giờ nữa, chẳng ra sao cả và chỉ tổ làm cho em thêm nhở tiếc những ngày vui cũ. Ngày trước, em cười đùa tối ngày, anh có thấy em khóc bao giờ đâu, giờ em tủi thân, em khóc hoài khóc hủy. Thế là anh đủ hiểu… Xe lượn vòng lên một khúc quanh. Dung la lớn: - Trời, khúc đường này giống khúc lên đèo Đà Lạt quá, anh nhỉ? Nhuận gật nhưng chỉ thấy người đàn bà quá giầu tưởng tượng. Khúc đường trơ trụi, hai bên là những ngôi nhà Mỹ im ngủ, chàng chẳng thấy nó giống với khúc đường đèo Đà Lạt chút nào hết. Xe vượt qua một cây cầu. Dung lại reo lên nói cây cầu hệt như cây cầu đường về Mỹ Tho, lối vào Củ Chi. Rồi xe chạy tới, cứ quãng quãng Dung lại đem cái nhìn đầy tưởng tượng lãng mạn của nàng ra để la lên hàng cây giống quá với một hàng cây nào đó ở Nhà Bè, cánh đồng kia làm tưởng lầm là một cánh đồng Gia Định. Nhuận bật cười trước sự thức dậy ở Dung một người đàn bà trẻ con, cũng là người đàn bà chàng
Một đêm thứ bảy | 149 đã thấy ở Thúy và đó cũng là nét đáng yêu nhất của đôi bạn gái một thời đi đâu cũng có nhau. Nhưng đến khi rẽ vào exit Dung nói đã sắp tới nhà nàng và lại reo lên khúc đường đang đi hết như khúc đường vừa qua khỏi Lái Thiêu lên Thủ Đức. Ở vũ trường ra, lần nào được cho lựa chọn Thúy thường đòi chàng đưa đi ăn đêm ở hè chợ Thủ Đức. Nơi chốn rất bình dân tầm thường. Nhớp nhúa nữa là khác. Món ăn đêm cũng chẳng ngon lành gì. Củ kiệu, tôm khô, những tô bánh canh nguội lạnh dưới ánh đèn câu tù mù vàng vọt. Vậy mà Nhuận chẳng hiểu tại sao Thúy luôn luôn muốn tới. Những đêm đi quá khuya tới sáng, Thúy phấn son rực rỡ còn len lách giữa phiên chợ sớm mua hoa trái rau cỏ lễ mễ đem về Sài Gòn, mặc dầu chẳng rẻ được bao nhiêu. Mãi sau rồi một đêm Thúy mới kể là tuổi ấu thơ, khi đó mẹ nàng chưa mất, nàng thường lẫm chẫm đòi đi theo mẹ ở một chợ làng cũng có một đầu quán và một phiên chợ họp từ tối đất như chợ Thủ Đức. “Tới đây là em lại nhớ tới mẹ, tới một tuổi nhỏ buồn thảm”. Thúy nói và khóc khiến Nhuận phải dỗ dành mãi. Thúy cũng đã mất, Nhuận buồn bã nghĩ thầm và trong đầu óc chàng lại hiện lên những đêm đi chơi Thủ Đức tới sáng, dãy quán hàng bình dân và những phiên chợ sớm Thủ Đức. o O o
150 | Mai Thảo Theo chỉ dẫn của Dung, Nhuận lái xe qua một bãi đất trống rồi rẽ vào một đường phố nhỏ chỉ nhìn thoáng những dãy nhà cửa hai bên thì đã thấy ngay là một khu dân cư tầm thường nghèo khổ. Căn nhà Dung nằm ở cuối dãy, tiều tụy hơn mọi căn khác. Dung thì thầm: - Anh ngưng đây. Thế, xa xa một chút. Chờ em vào lấy cái áo là ra liền. Rồi chợt nhận thấy trong nhà còn sáng đèn, nàng kêu lên, giọng lo lắng:
– Thằng quỷ, bộ còn thức. Mọi tối uống say là tắt đèn đi ngủ liền mà! - Có sao không? Dung ngần ngữ rồi tắc lưỡi: – Có thể nó quên tắt đèn. Chờ em nhé. Dung mở cửa xe bước xuống, đóng lại rất nhẹ nhàng, quay lại gượng cười với Nhuận rồi rón rén đi tới căn nhà. Rõ ràng là người đàn bà không muốn gây nên một tiếng động nào. Ngồi lại trong xe, Nhuận hạ kính, đốt một điếu thuốc, chờ đợi. Chàng chợt nhớ như sống lại với một cái gì rất xa xưa rất quen thuộc: Ngày trước, những đêm chàng chờ Thúy và Dung ở một cửa vũ trường. Chàng nhìn thấy Dung bước lên thềm, vẫn những bước chân không gây tiếng động,
Một đêm thứ bảy | 151 cúi mình xuống tra chìa khóa vào ổ. Cánh cửa mở ra. Dung lách người bước vào và khép cửa hờ lại. Bỗng Nhuận giật mình. Điều lo lắng của người đàn bà đã trở thành sự thực. Thằng đàn ông nào đó trong nhà chưa ngủ, còn thức. Một tiếng quát lớn, đầy vẻ cục cằn giận dữ từ trong đó vang lên, nghe rõ mồn một giữa đêm khuya yên lặng: – Về tới nhà là thấy mất mặt. Mày đi đâu? Chừng như Dung chưa tìm được câu trả lời. Thằng đàn ông lại quát, lớn hơn: – Con khốn nạn, tao hỏi mày đi đâu? Nhuận la thầm trong đầu: tội nghiệp, có chuyện rồi. Và lắng tai nghe tiếp. Tiếng Dung ôn tồn: – Tôi đã ở nhà như con tù. Tối thứ bảy anh cho tôi đi chơi một chút chứ! Tiếng một cái ly ném mạnh vỡ tan trên nền nhà. Tiếng một câu chửi thề tục tằn: - Tao không cho đi là không được đi. Không thứ bảy, không chủ nhật gì hết. Mày đi với ai?
Tiếng Dung: – Nghe nhạc thôi chứ đi đâu, Đi với mấy cậu con ông Ba ở đầu đường chứ với ai! Tao đã cấm mày không được giao du với mấy
–
152 | Mai Thảo thằng xì ke ma túy đó. A con này muốn chết, dám cưỡng lại lời tao. A, trận đòn tuần trước mày vẫn chưaTiếngtớn. Dung nghẹn ngào: – Anh không được quyền đánh tôi, đánh nữa tôi kêu cảnh Thằngsát.đàn ông cười gằn, tiếng cười vọng ra ghê rợn:– Tao thách. Mày bốc điện thoại kêu cảnh sát tới liềnRồiđi. chừng như nhìn thấy cái áo len trên tay Dung, nó lại quát lớn, bất chấp sự kinh động của những căn nhà hàng xóm. – Mày còn toan đi ngủ với thằng nào, đồ con đĩ dại Nhuậnkia. thấy được trọn vẹn sự ê chề tủi nhục của Dung. Không phải vì sự chửi rủa tục tằn của người chồng hạ cấp. Hẳn Dung đã phải chịu trận nhiều lần như thế. Nhưng đêm nay thì sự ê chề tủi nhục tăng lên gấp nghìn lần. Bởi nàng đã để Nhuận thấy, nghe thấy, nhìn thấy sự xuống dốc thê thảm của nàng so với đời sống của nàng ngày trước. Chắc Dung đang hối hận vô chừng đã bảo Nhuận đưa nàng về nhà lấy thêm cái áo. Tiếng Dung:
Một đêm thứ bảy | 153
Tôi vừa gặp người anh từ Sài Gòn sang. Tôi có nhiều chuyện cần nói với anh tôi. Chừng như Dung vừa nói vừa mở cửa đi ra. Chừng như thằng đàn ông đã cản lại bằng một cản ngăn hung dữ nhất. Nhuận nghe thấy tiếng những bàn ghế bị xô đẩy tan hoang cùng với tiếng đấm đá huỳnh huych và tiếng Dung thất thanh la lớn. Tiếng la xa dần, nhỏ dần với Nhuận. Thở ra một hơi dài buồn bã, Nhuận lặng lẽ lùi xe ra ngoài đầu đường. Tiếng la thất thanh của người đàn bà chàng không nghe thấy nữa. Nhìn trở lại, căn nhà cuối đường cũng đã khuất lấp khỏi tầm mắt. Nhuận ngừng xe lại, châm một điếu thuốc, thả khói vào sự im lặng mênh mông của đêm khuya. Đêm. Đêm không một bóng người. Thúy. Chứng ung thư máu. Thúy đã chết. Đêm. Đêm không một tiếng động. Ngoại trừ tiếng bàn ghế đổ ngã, tiếng đánh đập tàn bạo, tiếng la thét thất thanh của người đàn bà trong căn nhà địa ngục, vì đã thất thế, đã hết thời, đã tàn tạ, đành chịu chết ở cùng địa ngục vì trên đời không còn một nơi nào khác để dung thân. Và Dung cũng đã chết. Như Thúy ngày nào. Dung không còn một con đường nào giống với con đường đi lên Thủ Đức của em nữa. Dung, không còn một dòng sông nào giống với dòng sông em đã đi qua
154 | Mai Thảo ngày xưa ở Mỹ Tho, ở Bà Điểm. Những cuộc vui xưa mở đầu một ngày cuối tuần. Những buổi chiều thứ bảy không còn. Những tiếng cười đã tắt. Với Thúy, với em, với tất cả chúng ta. Và Dung, em trở về nhà lấy thêm áo ấm làm gì, đời sống rất lạnh buồn và em chẳng còn một áo ấm nào nữa. Rồi Nhuận nhớ đến cuốn tiểu thuyết gián điệp đang đọc ở nhà của chàng. Cuốn sách mới đọc hết chương đầu mà như đã đọc tới trang cuối. Trang cuối của người điệp viên cuối cùng. Hắn cũng đã ngã xuống trước phát đạn chí tử kẻ thù bắn tới. Bắn tới từ một đêm Thứ Bảy cuối cùng. Hắn lảo đảo nhiều vòng và ngã xấp xuống trên một bãi hoang. Giữa một thảm cỏ đẫm sương, giữa đêm mênh mông, không một bóng người, không một tiếng động. Như cái bãi hoang cạnh đường Nhuận vừa ngừng xe lại. Chàng ném điếu thuốc ra bên ngoài. Nhìn cái tàn lửa rớt xuống cho đến lúc cái tàn tắt hẳn trong cỏ. Rồi mở máy, từ từ lái xe đi.
T
Một đêm thứ bảy | 155 MỘT TRUYỆN RẤT NGẮN
hành phố về khuya, đèn đường ném ánh sáng hắt ngược, lọt qua những tấm rèm lay động của căn phòng ngủ tối mờ trên một tầng cao, ở đó, giữa một đống chăn gối ngổn ngang, cái thân hình rung rung của người đàn bà một mình nằm khóc.Tiếng khóc não nuột, mùi mẫn, buồn đau, lớn nhỏ từng hồi. Tiếng khóc khóc cho sự một mình, trống lạnh mênh mông, vì người tình đã bỏ đi, cho sự tan vỡ như từng giọt pha lê thảm sầu mất hút vào trời đêm không cùng, cho một mùa đông bằng tuyết bắt đầu, cho tâm hồn từ thương, cho nỗi cô đơn, cho niệm tuyệt vong. Thật lâu. Trong tối. Rồi khóc một mình, khóc ngồi lên, khóc xuống giường, khóc chân đất đi ra. Ngọn đèn ngoài phòng khách, rồi ngọn đèn trong bếp của căn lầu vắng lặng hoàn toàn ngoài tiếng khóc nức nở soi tỏ một khuôn mặt tan nát và đầm đìa nước mắt.Dáng nàng chừng 30 tuổi. Kimono Nhật. Dáng thanh. My dài. Rất trẻ. Rất đẹp. Mặc dầu là vẻ đẹp não nùng của một đóa hải đường đang nát nhẫu
156 | Mai Thảo từng cánh trong mưa. Nàng đứng giữa căn bếp, tiếng khóc vẫn thổn thức, dòng lệ vẫn chan chứa. Nàng tới trước cái tủ lạnh, khóc rũ. Đoạn vẫn khóc, mở tủ, nhìn vào, lấy ra một đĩa bì ướp thính thái nhỏ nàng để đó từ chiều, một lẵng mấy đựng đầy đủ mấy loại rau thơm và một chén nước chấm đã pha sẵn. Bưng tất cả những thứ đó đặt lên một mặt bàn nhỏ, nàng đưa cánh tay thon dài óng ả lên mở một cánh tủ trên đầu, lấy xuống một xấp mỏng bánh tráng. Nàng tới bồn. Vặn nước. Những tờ bánh tráng thấm ướt trở thành trong suốt. Nàng đưa chúng trở lại bàn. Kéo ghế. Ngồi xuống. Hai bàn tay trắng muốt của nàng, ngón út cong lên, khởi sự cuốn dần những cuốn bì tròn trĩnh. Xong. Nàng nhặt từng cuốn, nhúng vào nước chấm. Và bắt đầu ăn. Nàng ăn, đói bụng, đẹp mắt, ngon lành, phúng phính, đầy miệng. Và vừa ăn vừa khóc tiếp.
Một đêm thứ bảy | 157 ĐIỂM HẸN Tới tận bây giờ, mười năm sau, nhớ lại vụ vượt biển của mình, tôi vẫn không hiểu vì lý do nào, anh Ba, người cầm đầu tổ chức cứu tôi khỏi lao tù cộng sản và đưa tôi đi thoát, anh Ba hiện giờ ở New Orleans lại chọn chỗ cho hai lần đi của tôi hai điểm hẹn “bí mật” trớ trêu ấy, cả hai cũng chẳng bí mật gì ráo trọi và cùng nằm trong vùng khuôn viên rất lộ liễu và rất quang đãng của một giáo đường. Điểm hẹn đón người vượt biển, bấy giờ Sài Gòn đã kín khắp một màng lưới công an kẻ thù dăng ra dầy đặc, trong suy diễn của tôi phải là những nơi chốn khác, kín khuất và an toàn hơn. Một bãi hoang. Một gầm cầu. Hoặc có xem thường, cũng phải một vùng ngoại ô hoang vu, một đáy ngõ tối thẳm nào đó. Anh Ba, thời gian đó đã nổi tiếng là một tay tổ về tổ chức vượt tuyến, đã đưa cả ngàn người ra biển, những điều kiện ấy của một điểm hẹn tốt, anh tất phải hiểu. Hiểu hơn ai hết. Hóa nên tôi đã sững người sau bao ngày bồn chồn chờ đợi, mẩu giấy căn dặn anh Ba cho một chú liên lạc mang tới chỗ tôi nằm ẩn lại có hai giòng rất vắn tắt như sau: “Ngày X. Tám giờ tối. Trước Vương Cung Thánh Đường. Đợi sẵn. Tay phải. Ghế đá đầu tiên.”
158 | Mai Thảo Đọc kỹ mẩu giấy, thuộc lòng rồi đốt đi, tôi la thầm trong đầu: “Trời đất, Vương Cung Thánh Đường. Người viết cho mình mẩu giấy này điên, chắc định hại mình đây. Bộ không tìm được một điểm hẹn nào kín đáo hơn sao?” Khu vực Vương Cung Thánh Đường từ đường Pasteur xuôi xuống một bên là Nhà Bưu Điện với cái mặt đồng hồ danh tiếng, một bên là Bộ Canh Nông hay Điền Địa gì đó, trước mặt là công trường Kennedy với pho tượng Đức Bà trắng muốt nhìn suốt dọc con đường Tự Do tới bến Bạch Đằng, tôi đã biết rõ nó như chính nhà mình vậy. Đã cả ngàn lần qua lại. Đã cả ngàn lần dừng chân. Vào Bưu Điện bỏ thư, đánh điện tín, gọi điện thoại cần. Ngừng xe ăn một khúc bánh mì đã lừng lẫy nổi danh là bánh mì Bưu Điện. Hằng ngày. Những buổi chiều tàn nắng, những buổi tối thoáng mát còn tháp tùng bạn gái tới đó dung dăng dung dẻ, ngồi trò chuyện trên ghế đá công viên. Luôn luôn. Cả trăm ngàn người Sàigòn chắc cũng như tôi. Còn những lễ Giáng Sinh nữa. Không một năm nào trước vô thần tới, tôi không đi tới đó, giữa biển người tràn ngập chung quanh thánh đường, đi theo dòng người thác lũ vào trong giáo đường, nhìn cái cảnh tượng rực rỡ một nghìn nến cháy, hòa tâm hồn vào những khúc thánh ca bổng trầm cao vút vang vong ra ngoài từ những vòm cửa mênh mông. Sau quốc nan, tuy cảnh tượng đổi khác,
Một đêm thứ bảy | 159 thánh đường tạm đóng cửa, những buổi lễ đình chỉ, nhưng công trường Đức Bà im lặng dưới ánh sáng những ngọn điện đường xanh lạnh và thưa vắng người qua lại, lại nghìn lần quang đãng, phơi bày và trống trải hơn. Vậy mà quái lạ, mẩu giấy của anh Ba lại viết rõ tôi phải tới đó, mới 8 giờ tối, đêm chưa về khuya, ngồi một mình, đơn độc trên một ghế đá trắng toát không một bóng là một vòm cây che phủ, sừng sững giữa một khoảng trống và sáng, thêm cái túi cát đựng quần áo là thứ túi đi đường công an đỏ đã biết rõ là người vượt biển thường dùng. Thành thật, nếu có một triển vọng nào khác, tôi đã từ chối cái điểm hẹn lộ liễu, nghịch lý và đầy bất trắc. Đã không tới. Đã lờ đi. Hoặc là đòi hỏi một điểm hẹn khác, an toàn và vững mạnh hơn. Nhưng tôi không có một lựa chọn nào. Nằm ẩn đã hai năm, tôi không có một đồng một cắc trong tay, cũng chẳng quen biết gì trước anh Ba, chỉ tình cờ nhờ một người quen kể cho anh Ba về cảnh ngộ cùng đường và anh Ba đã vui lòng giúp tôi ra khỏi Việt Nam miễn phí. Cơ hội vậy là hy hữu, may mắn là nghìn vàng rồi. Tôi cũng đã hiểu rõ cái quy luật của vượt tuyến. Phải nhắm mắt tuân theo chỉ dẫn của người dẫn đường, người tổ chức. Không là không thôi. Và thế nhắm mắt phó mặc cho may rủi, dù rầu rĩ và miễn cưỡng đến cùng cực ở trong lòng, buổi tối
160 | Mai Thảo ngày X, hôm đó, tôi đã rời chỗ ẩn. Đã xách cái túi cát. Đã âm thầm đi bộ theo những hàng cây, men những bóng tường. Đã tới giữa vùng ánh sáng xanh lạnh và phơi dãi trần trụi đến tận cùng ấy của điểm hẹn quái ác. Đã đi vòng pho tượng Đức Bà. Đã tới trước cái ghế đá thứ nhất phía tay phải, từ cửa Thánh Đường nhìn ra. Đã ngồi xuống cái ghế đá trắng toát. Với một câu nói lớn trong đầu tuy không nói ra: “Họ chọn cho tao cái điểm hẹn trời đánh như thế này đây. Đến bắt tao đi.” Tôi chỉ phải đợi chừng 10 phút thôi. Nhưng 10 phút cứng người, căng thẳng, đứng tim ấy đã dài lâu bằng một thế kỷ. Cuối cùng, một chiếc xe gắn máy vun vút phóng lên từ dưới đường Tự Do. Tới ngang tầm Nhà Bưu Điện, chiếc xe lượn gắt một vòng, ngừng khựng lại sau lưng ghế đá. Tôi chạy rảo tới xe, cái túi cát trong tay, nhảy đại lên chỗ ngồi ở phía sau. Nhớ là chiếc xe đã rời khỏi khu Vương Cung Thánh Đường một quãng thật xa rồi tôi mới trấn tĩnh lại được. Và thở hắt ra. “ Những bản thánh ca đầy ý nghĩa nhân từ thánh thiện tôi đã nghe những Giáng Sinh năm nào, vang ngân đã thả xuống cái ghế đá được chọn làm điểm hẹn vượt tuyến. Đã đưa tôi lên đường. Ra khỏi Sài Gòn. Tới được cửa biển. Nhưng lần ấy thánh ca tắt ở nửa chừng đường. Thánh ca chỉ đưa kẻ cùng đường tới đó. Bãi đáp bị động. Kẻ thù tuần tiểu. Thêm bão lớn ngoài hải phận. Anh Ba ra lệnh hủy bỏ chuyến đi,
Một đêm thứ bảy | 161 cho tổ chức đưa tôi trở lại Sài Gòn. Anh đón tôi về. An ủi về chuyến đi bất thành. Nói tôi phải tìm được một chỗ ẩn mới, kiên nhẫn nằm đợi, vài tuần nữa lại có nhiều hy vọng ra khơi. Tôi cám ơn anh Ba. Trước khi chia tay, chợt nhớ tới cái điểm hẹn lộ liễu và 10 phút đứng tim trên cái ghế đá trước Vương Cung Thánh Đường, tôi ngập ngừng: “Muốn nói với anh Ba về cái điểm hẹn.” Anh hỏi: “Điểm hẹn, sao?” Tôi nhăn nhó: “Chỗ đó trống trải quá, dễ lộ quá”. Anh Ba nhìn tôi cười: “Cũng đúng. Anh ngán phải không? Yên chí. Lần tới sẽ là một điểm hẹn khác. Tôi cũng không hẹn một ai một điểm hẹn tới lần thứ hai bao giờ. Vì vượt biên, đó là điều tối kỵ”. o O o Hai mươi ngày sau trận bão đã tan hẳn ở ngoài hải phận. Công an thôi chờ rình ở bãi đáp. Ra khơi được bật lại đèn xanh. Và như lần trước, một mẩu giấy chỉ dẫn ngày giờ và một điểm hẹn lại được một chú nhỏ liên lạc của anh Ba đưa tới chỗ nằm ẩn của tôi. Giữ đúng lời hứa, điểm hẹn của anh Ba lần này là điểm hẹn mới. Hai lần cùng một điểm, tối kỵ mà như anh đã nói. Nhưng rồi tôi đọc kỹ mảnh giấy, lại sững người ra. Và lần này, tôi không la thầm trong đầu, mà la lớn, thành tiếng. Mẫu giấy cũng rõ ràng và vắn tắt như mẫu giấy trước: Ngày X. Tám giờ tối. Sau nhà thờ Huyện Sĩ. Đợi sẵn. Ngay trước cửa hang đá.” Tôi đọc kỹ, tôi không đọc lầm rồi tôi la lớn là
162 | Mai Thảo quá đáng. Lại đá. Ghế đá rồi hang đá. Giáo đường rồi giáo đường. Nhà thờ cũng là một thánh đường chứ gì. Thế là từ một lộ liễu này tới một lộ liễu khác. Giống nhau. Có vậy thôi. Hai điểm hẹn giống nhau như một. Thế này đúng là tránh vỏ dưa gặp phải vỏ dừa, còn quỷ gì nữa. Như lần trước, tôi học thuộc lòng lời dặn rồi đốt nó đi. Chỉ khác lần trước, mặc dầu lòng biết ơn vẫn nguyên vẹn, tôi không còn nghi anh Ba điên, mà nghi đích thực lần này anh chơi ác tôi. Là vì tôi cũng biết rõ nhà thờ Huyện Sỹ. Khu vực bao quanh nhà thờ này nữa. Như khu vực nhà thờ Đức Bà vậy. Thoạt di cư từ Bắc vào Nam đã biết. Lý do là một người bạn chí thân, nhà văn danh tiếng, với gia đình đã sống nhiều năm ở Đại học xá Sinh viên di cư và Đại học xá ở sát cạnh nhà thờ Huyện Sỹ. Quen biết nhau từ Hà Nội, vào Nam thân thiết hơn, bọn chúng tôi hồi đó tuần nào cũng tới chơi với người viết văn danh tiếng ấy. Đi ăn trưa ở căng tin Học Xá. Ra khỏi Học Xá, băng qua con đường Nguyễn Trãi nhỏ chật, sang khu nhà thờ Huyện Sỹ, ngồi hút thuốc lá, bàn chuyện trời đất dưới những bóng lá mát đằm trên những lối đi bao quanh khu vực nhà thờ. Sau tháng 4, 1985, nhà thờ này cũng đóng cửa như Vương Cung Thánh Đường. Chỉ khác là bãi đất trống phía sau nhà thờ và trước mặt hang đá đã biến thành một địa điểm sinh hoạt về đêm rất nhem
Một đêm thứ bảy | 163 nhuốc của Sài Gòn thất thế, là nơi mua bán trao đổi lén lút những món hàng bất hợp pháp. Tôi đã đi qua nơi này nhiều lần. Thấy rõ thế nào. Thấy cũng rất bất trắc, bất thuận lợi cho một điểm hẹn cần tuyệt đối bí mật, bởi vì đầy người đi lại ở chung quanh, còn có thêm những tên an ninh áo vàng nhiều đêm thình lình ập tới. o O o Thế nhưng y hệt lần trước, tôi cũng chẳng còn một lựa chọn nào khác. Chỗ ẩn cũng đã bị lộ, không thể nằm thêm, dù chỉ một ngày. Và vẫn với cái túi cát như lần đi trước, nhắm mắt phó mặc cho may rủi, tôi đã tới trước cửa nhà thờ Huyện Sỹ, lầm lũi đi vòng về phía sau, tới đứng đối diện với hang đá Hài Đồng, cái hang cao ngang tầm người, bao giờ cũng có một ngọn nến cháy ở bên trong và ngăn cách bởi hàng rào sắt. Lần này anh Ba để cho tôi đợi lâu hơn. Dễ đến gần nửa tiếng đồng hồ. Cho tới bồn chồn lòng dạ, tới ngứa ngáy chân tay. Và đương nhiên, trong một khoảng thời gian khá dài không thể không có chuyện phiền phức xảy đến. Trước hết là với mấy chú “mánh mung” luôn luôn ở chung quanh. Một chú tới sát, nhìn cái túi cát tôi cầm, thì thầm: “Có gì không bác?” Chẳng hiểu có gì là thế nào. Tôi sẵng giọng: “Chẳng có gì hết”. Và quay đi. Một lát. Một chú khác tới. Vẫn cái giọng nhỏ to lén lút: “Cần gì không bồ? Có đủ mặt hàng
164 | Mai Thảo đấy. Mặt nào cũng số dách. Cứ cho biết đi.” Mặt hàng. Thằng lỏi đề nghị với tôi những thứ gì quỷ quái gì vậy? Lúc khác tôi đã nổi dóa ngay, đã la mắng ầm lên. Nhưng đâu tôi có dám la chỉ sợ lôi kéo sự chú ý của mọi người về sự có mặt của mình và quay lưng lại. Chưa hết. Hai thằng mánh mung bỏ đi, thì từ bên kia đường mấy ả giang hồ tà tà đi sang. Bọn này sỗ sàng và trơ trẽn hết chỗ nói. Một ả giật phăng cái túi cát. Tôi thất thanh la lớn “Trả lại tôi ngay”. Trước sự hốt hoảng của tôi, mấy con trời đánh thánh vật gập người xuống cười rũ, và mấy gã dân chợ trời đứng gần đó, ngắm nhìn tôi bị trêu ghẹo cũng cười rộ lên theo. Thật không còn ra cái thể thống gì nữa. Lúc đó tôi nghĩ đến anh Ba và càng thấy giận anh vô tả. Nhưng tôi không dám bỏ đi vì anh Ba đã dặn kỹ, phải đứng chờ ở đó, trước mặt hang đá. Mấy ả bán vui đẩy thêm sự chọc ghẹo sỗ sàng tới một mức sỗ sàng hơn nữa. Ả cướp giật cái túi cát mở phăng miệng túi, lôi ra bộ quần áo cũ và cái chăn dù tôi mang theo, đưa lên nhìn tôi la lớn:”A cha này vượt biên chúng mày ơi”, tôi chỉ còn thiếu nước điên lên. Nguy hiểm nữa, phía đầu nhà thờ đã thấp thoáng mấy cái bóng áo vàng đi đi lại lại. Đành ôn tồn nói nhỏ: “Chị đừng nói bậy. Cho tôi xin lại cái túi.” Tôi còn đang bối rối chưa biết gỡ thoát thế nào, thì một chiếc xe gắn máy từ ngoài đường phóng vào. May quá, anh Ba đã tới. Anh vẫn mặc bộ quần áo thợ
Một đêm thứ bảy | 165 máy, như lần trước để tôi nhận ra anh. Anh ngừng xe, vẫn để cho máy nổ, cướp lại ở tay ả giang hồ cái túi cát, trao cái túi lại cho tôi và quát lớn: “Đi chỗ khác, kẻo chết toi cả lũ bây giờ”. Mấy ả đứng đường biết gặp phải tay anh chị, không dám đùa giỡn nữa mà bỏ đi ngay. Và tôi leo lên đằng sau chiếc xe và chiếc xe ra khỏi khu nhà thờ Huyện Sỹ, phóng nhanh về phía cầu chữ Y. Nơi một chiếc ghe nhỏ của anh Ba đã chờ sẵn. o O o Lần thứ hai đi từ điểm khởi hành trước hang đá Hài Đồng phía sau nhà thờ Huyện Sỹ tới xuống cái ghe nhỏ an toàn, sau khi anh Ba bắt tay từ biệt và chúc tôi lên đường may mắn hơn lần đi trước. May mắn hơn thật. Trên chiếc ghe nhỏ, tôi ra khỏi địa phận Sài Gòn, an toàn. Trên một chiếc ghe máy khác, lớn hơn, tới Rừng Sát, tới cửa biển an toàn. Lên tàu lớn, ra khỏi hải phận an toàn. Và bảy ngày sau dạt được vào một bờ đất Mã Lai, ở đó từ một cảnh ngộ cùng đường, đời sống lại khai thông cho tôi một chân trời mới.
Tới nay đã ngót mười năm. Đôi lúc tôi vẫn nhớ lại hai lần vượt biển của mình. Nhớ lại hai năm bị truy lùng. Nhớ lại cái thân thế điêu linh trong ẩn lánh cùng đường. Khoảng thời gian bị thảm, tuyệt vọng, tối đặc như ở dưới đáy cùng một vực thẳm sâu hút. Rồi anh Ba tới. Như một ánh lửa ở cuối một đường
166 | Mai Thảo hầm. Rồi chuyến đi đưa ra khỏi vùng địa ngục. Vượt biển và tới bến, sự may mắn lạ lùng ấy, nhất là ở cái trường hợp coi như đã tuyệt vọng hoàn toàn ấy là trường hợp tôi, mãi mãi còn chiếu sáng cho tâm thức tôi từ đó cái ánh sáng quý báu của một bài học. Bài học mà tôi mãi trân trọng. Như một giác ngộ, một thức tỉnh về bản thân mình, với người, với đời. Trước nguy cơ, trước lâm nạn, tôi đã sống gần trọn đời mình với một ý nghĩ bất biến. Nâng cái ý nghĩ bất biến này lên thành một khái niệm sống. Và đã sống từ trưởng thành, tự vào đời như thế. Đó là tôi chỉ cần sống sao cho sòng phẳng với đời. Không vay, không trả. Không trả, không vay, thế là được. Thế là đủ, thế là xong. Với chuyến vượt biên, với anh Ba như một ân nhân xa lạ tình cờ, chưa kể tới bao nhiêu ân nhân khác, không nề hà nguy hiểm đã cho tôi tới ẩn suốt hai năm trời ẩn lánh, cái quan niệm sống chỉ cần sòng phẳng, cái cung cách sống không vay, không trả và cho như vậy là lẽ phải ở rồi ở tôi đổ xập xuống. Như một sai lầm, một mù lòa đổ xập. Lâm nguy, tôi đã cần đến sự cấp cứu của người, nhiều người. Kể cả các cháu nhỏ trong những gia đình tôi nằm ẩn. Cùng đường, tôi tồn tại, tôi vượt thoát, tôi sống còn được hoàn toàn không do nơi tôi mà do những bàn tay ân nhân đã nắm lấy, đã vớt lên, như vớt lên một kẻ chết đuối. Nếu không tôi đã cáo chung, đã tiêu tùng từ mười hai năm trước. Thế đâu còn phải là không vay,
Một đêm thứ bảy | 167 không trả. Thế đâu còn phải là chỉ cần sòng phẳng là xong. Mà là nhận được, là chịu ơn, cái khối ơn nghĩa lớn lao mỗi lần tôi nghĩ tới còn làm cho tôi bồi hồi vì biết không bao giờ trả được. Cuối cùng, về cuộc vượt biên, chỉ còn lại hai cái điểm hẹn rất nghịch lý ấy, và cùng ở cạnh một giáo đường là tôi vẫn không giải thích được. Năm ngoái anh Ba, ân nhân tôi, từ New Orleans lên vùng tôi chơi. Tôi đón anh, đưa anh đi chơi gần trọn một buổi chiều. Nhắc lại chuyện cũ. Nói với anh lòng biết ơn của tôi, mãi mãi. Tới một lúc nào đó của câu chuyện, tôi hỏi anh về hai cái điểm hẹn chết người này. Anh Ba cười:–Lâu quá rồi. Ừ, anh khó hiểu là đúng. Chính tôi cũng chẳng hiểu tại sao. Đâu phải tôi thiếu những điểm hẹn trăm lần kín khuất hơn. Như một ngõ hẻm, khuất khúc. Như một gầm cầu, một bãi hoang tối thui. Chỉ lạ lùng là khi đã có chuyến đi, nghĩ tới điểm hẹn cho riêng anh, và phải đích thân tôi tới đón chứ không thể giao cho anh em nào trong tổ chức, đầu óc tôi hiện lên ngay cái ghế đá ấy trước Vương Cung Thánh Đường, lần đi đầu, và cái hàng rào sắt ấy, trước hang đá nhà thờ Huyện Sỹ lần đi sau của anh. Tôi biết hai điểm hẹn ấy là đầy bất trắc.
Biết lắm chứ. Nhưng tôi vẫn chọn, không cân nhắc với một điểm hẹn nào khác nữa, nghĩ hai điểm ấy lại là tốt nhất cho anh, cho riêng anh, không có điểm
rất ngộ
168 | Mai Thảo nào hơn. Đúng là cho riêng anh ở đó. Những người khác đều ở những điểm khác.
Anh Ba hỏi tôi: – Anh đạo nào? – Đạo Phật. Anh cười lớn, như vui thú trước một điều thấy nghĩnh: – Thế mà hai lần tử sinh đều từ một thước đất giáo đường. Cứ cho là tôi đã chọn cho anh hai điểm hẹn ấy bằng linh cảm đi. Và linh cảm tôi đã rất đúng, đúng ở sự nghịch lý. Chính vì nó nghịch lý, trường hợp anh đã chẳng là một nghịch lý sao. Bạn bè anh đều bị bắt hết, chỉ riêng mình anh thoát. Sự nghịch lý vậy lại là rất tốt lành với riêng anh. Tôi bật cười theo dù chẳng biết mấy lời giải thích của anh Ba về hai điểm hẹn lạ lùng là nói đùa hay nói thật. Chỉ biết anh đã chọn đúng và tôi đã đi thoát. Cả hai lần đi đều từ một bóng giáo đường in hình lên nền trời Sài Gòn đêm.
Một đêm thứ bảy | 169 CHO MỘT MÙA ĐÔNG TỚI Cuộc chung sống bao nhiêu năm tốt đẹp bất ngờ đi tới tan vỡ giữa Đằng và Xuân, mặc dầu ở xa họ, tôi được biết ngay từ lúc tan vỡ vừa xảy ra, ở trường hợp Đằng và Xuân như ở mọi trường hợp, thường là cái lúc điêu đứng tai tiếng nhất cho người trong cuộc, vì dư luận ngồi lê đôi mách vừa chụp bắt được và hớn hở rao truyền cùng khắp. Nguyên nhân nào khiến cái bình pha lê đặt trên một tầm cao thình lình rớt xuống và vỡ tan trên nền đất, tôi cũng biết nữa. Ngay. Vẫn qua những đài khí tượng ăn không ngồi rồi và xía vô chuyện người ngày càng mọc thêm cành nhánh trong tập thể tỵ nạn ở khắp nơi và cũng thật nhiều ở địa phương tôi sống. Nhưng bị đẩy tới đóng một vai trò trong thảm kịch của vợ chồng Đằng thì là điều tôi thật không ngờ và rất bực mình nó đã xảy đến cho tôi. Đầu đuôi chỉ là tôi có việc phải từ miền Đông sang San Francisco, đã vô tình để cho Xuân bắt gặp ở một tiệm ăn Việt trên đường Larkin nơi mỗi lần tới San Fran. Tôi thường tới ăn trưa với cặp vợ chồng khi bầu trời chung sống của họ chưa có một dải mây đen nào kéo tới. Xuân vào tiệm sau tôi, dắt theo hai đứa con nhỏ. Thấy tôi, nàng sững người, la lớn, chạy tới và túm chặt lấy:
170 | Mai Thảo – Anh. Anh tới hồi nào mà không cho em biết? Tôi tới đã hai ngày. Công việc đã xong xuôi. Định sáng mai trở về miền Đông. Đành nói dối: – Mới từ phi trường về tới đây. – Thật không? –NhiềuThật. tuần đã trôi qua sau giông bão nhưng thảm kịch và sự tàn phá độc hại của nó còn hiện hình ở Xuân, nguyên vẹn. Mái tóc bù rối, khuôn mặt nhợt nhạt để mặc không son phấn, quầng mắt sâu trũng, bộ quần áo mặc trên người xô lệch, nhầu nát là những điều tôi chưa từng một lần nào nhìn thấy ở Xuân, nổi tiếng chải chuốt và đỏm dáng từ thuở còn là một nữ sinh Trưng Vương con nhà giàu tới lúc thôi học lấy Đằng và tới bây giờ đã có với Đằng hai con cũng vậy. Người đàn bà ngó tôi đăm đăm, rồi xịu –mặt:Em nghĩ anh nói gạt em quá. Anh đã biết chuyện giữa em và Đằng. Tôi gật: - Biết đại khái, và rất buồn cho vợ chồng cô. – Đằng đã kể cho anh hay? – Không. Nghe dư luận đồn từ đây đồn đi thôi. Xuân thở dài:
Hôm nay thấy tội hai cháu mới ráng ngồi dậy đưa chúng đi ăn đó. Nhưng anh thì em đang muốn gặp. Nhiều lần đã tính điện thoại. Bao nhiêu điều muốn nói cho anh biết. Chỉ riêng mình anh. Thấy tôi nín thinh, Xuân đã nước mắt vòng quanh, giọng thổn thức: – Em biết anh rất ghét chuyện đàn bà. Nhưng
Một đêm thứ bảy | 171 – Thế là cả nước biết rồi còn gì. Riêng anh, lần nào sang đây, anh cũng điện thoại trước, để em hoặc Đằng ra phi trường đón. Lần này không. Vậy là anh lánh mặt, không muốn gặp. Như Đằng, anh cũng khinh em lắm rồi phải không? Tôi lắc đầu ôn tồn: – Xuân đừng nói thế. Anh vẫn coi cô như một người em gái, rất thân và không có một đổi thay nào trong ý nghĩ về cô hết. Quả là lần này không gọi điện thoại trước cũng không tính tới nhà thật. Nghĩ cô và Đằng cũng đang cần được yên lặng, một mình, không muốn gặp ai. Không phải vậy sao? Xuân gật, rơm rớm nước mắt: – Đúng vậy. Từ lúc Đằng bỏ đi, em đóng chặt cửa nằm nhà, không muốn liên lạc với bất cứ một người nào. Mẹ em ở dưới San Diego gọi điện thoại nói lên ở cùng em cho đỡ buồn bà cụ chỉ sợ em tự tử, em cũng xin cụ đừng tới. Nhà cửa để cho tan hoang muốn ra sao thì ra. Cơm nước cũng không ngó ngàng tới nữa.
172 | Mai Thảo Đằng bỏ em rồi, anh đừng bỏ em luôn, tội nghiệp. Mẹ em sợ là đúng. Mấy tuần nay, cái ý định tự tử đã đến với em cả chục lần. Chỉ vì hai cháu mà không chết nổi đó thôi. Ở đây nói chuyện không tiện. Mời anh về nhà. Cho em xin hai tiếng đồng hồ. Em hứa không dám giữ anh ở lâu hơn nữa. Sự khẩn khoản đã đến vậy làm sao từ chối được. Cũng thấy xúc động, cũng thấy tội nghiệp. Người đàn bà ở trong một thế sống tốt tươi và yên tĩnh là một bông hoa ngàn cánh dưới mặt trời. Khi vấp ngã, bông hoa ngàn cánh tức khắc biến thành một xác hoa thảm hại héo rũ, như vậy chỉ sau một buổi chiều vật vã, chỉ sau một đêm dài khóc lóc. Và Xuân đang là cái xác hoa thảm hại héo rũ ấy trước mặt tôi, trong cái tiệm ăn ồn ào đông đặc, khiến tôi không thể nhẫn tâm, mặc dầu giận thì vẫn giận Xuân vô tả, vì đã biết rõ mọi điều không nên không phải điều ở nơi nàng. Chờ Xuân trả tiền mấy gói đồ ăn mua về, nàng bỏ ý định cho con ăn ở tiệm, rồi tôi theo Xuân từ tiệm ăn đi ra. Thành phố Springfield, thuộc tiểu bang Virginia, nơi tôi đang sống với Thúy và cháu Ngọc, đứa con gái đầu lòng của chúng tôi, năm nay cháu bốn tuổi, không lớn đẹp, đông vui tấp nập bằng San Francisco. Nó không những danh lam thắng cảnh lẫy lừng để làn sóng người du lịch từ khắp nơi kéo tới. Cũng không những hồ vịnh Cẩm Tú, những cây cầu kỳ ảo,
Một đêm thứ bảy | 173 những tòa nhà chọc trời nguy nga tráng lệ như ở San Francisco. Nhưng tôi yêu, yêu lắm Springfield, trong sự khác biệt hẳn của nó với San Francisco, trong sự êm đềm và tịch mịch lạ lùng của nó, nhất là khu rừng tôi ở. Đến Mỹ, tôi ở ngay Springfield, gia đình người bảo lãnh ở đó. Ít lâu sau người bảo lãnh dời về làm việc cho một công ty dầu lửa ở Texas. Ông ta rủ vợ chồng tôi đi cùng, Thúy tỏ ý tán đồng, nàng chê Springfield buồn nhưng tôi không nghe theo và đã ở lại. Tôi mướn phòng ở. Đi làm công ở một siêu thị trong vùng. Sau kiếm được việc làm như một quản thủ thư viện, có đồng lương tươm tất hơn, dành dụm mua được ngôi nhà là nơi tôi đang ở. Ngôi nhà nhỏ, cổ cũ nữa, nhưng có vườn rộng và điều làm tôi thích nhất là ở cạnh một giòng suối nhỏ, giữa một cánh rừng thưa, rất xa đường lớn. Một ngôi nhà thôn dã, giữa một cảnh trí thôn dã. Nó nằm tròn giữa khí hậu và thiên nhiên trữ tình có đủ bốn mùa tôi ưng chịu hơn hết mọi vùng đã đi qua trên đất Mỹ. Mùa hè ở Springfield ấm áp, nắng lấp lánh trên những sườn đồi xanh ngát. Mùa thu, cái nắng hắt hiu và lộng lẫy hơn, như một ngây ngất dịu dàng cùng với tiếng gió rào rào thật cao trong những lùm cây. Mùa đông, những giải mây xám đẩy bầu trời xuống thấp, con suối cạnh nhà đông lạnh lại, rồi là hàn thử biểu hạ xuống tới không độ, chỉ sau một đêm thức giấc nhìn
174 | Mai Thảo ra, biển tuyết đã trắng xóa một vùng. Rồi xuân tới. Rồi tuyết tan. Rồi những thảm cỏ lại hiện ra xanh non và hoa nở cùng khắp ở những lối đi, ở những chânĐờitường.sống tôi luân lưu theo giòng luân lưu ấy. Tùy mùa, tôi trồng hoa tưới cỏ, quét lá, đẳn gỗ, bổ củi, phơi củi cho lò sưởi mùa đông, xúc tuyết trước cửa nhà, dọn dẹp ngoài đầu ngõ. Thú vui mỗi cuối tuần, lúc được rảnh rỗi là đi dọc con suối, ngắm nhìn nhữnghòn sỏi trắng muốt trong lòng suối, những cánh bướm lượn lờ trên mặt nước róc rách, ngồi nghỉ chân trên một tảng đá, cảm thấy trong sự trơ trọi, một hòa mình mênh mông vào tạo vật và thiên nhiên, trong một cõi riêng ngăn cách với đời, tâm thái lắng đọng ấy làm nguôi vơi được những điều đau đớn mang từ quê nhà tới quê người, những điều đau đớn đã trở thành một thành phần của bản thân và trí nhớ. Tôi nói đến những buổi đi dạo trơ trọi, một mình, vì Thúy ít khi chịu chia sẻ với tôi cái thú vui đơn giản ấy, trên một con đường nhỏ, giữa những hàng cây. Không phải Thúy không có những thú vui riêng của nàng. Có, rất nhiều là đằng khác. Nhưng là những thú vui trái ngược hẳn. Chẳng hạn, nàng chỉ thích buổi sáng trang điểm, diện ngất lái xe tới điểm tâm ở những quán hàng đông khách nhất và không dấu được sung sướng khi hàng trăm cặp mắt đều mở lớn trước vẻ đẹp kiêu sa và lộng lẫy của
Một đêm thứ bảy | 175 nàng. Chẳng hạn như mỗi buổi sáng chủ nhật nào nàng cũng mở truyền hình đọc báo, theo dõi giá cả nữ trang, quần áo của những cửa tiệm nổi tiếng ở Washington DC và muốn tôi tháp tùng nàng trong những shopping kéo dài cả buổi, điều đó với tôi lại là một cực hình. Vắn tắt, Thúy là một người đàn bà thích đua đòi, thích những chốn ăn chơi trưởng giả, thích nhập vào cái không khí sinh hoạt thời thượng là nếp sống điển hình của một số người phong lưu giàu có, có chương mục riêng trong những ngân hàng ngoại quốc từ trước khi đi ra khỏi nước, ở miền Đông. Cũng chẳng tội lỗi gì. Chỉ là cái lối sống xa hoa, phù phiếm ấy không có tôi. Riết rồi, mỗi cuối tuần chồng đằng chồng, vợ đằng vợ, mỗi người một nơi. Tôi ở nhà. Nàng ra khỏi nhà. Tôi đọc sách, chăm sóc nhà cửa. Nàng đến những nơi chốn đầy người, đầy tiếng động, đầy ánh sáng. Tình trạng chung sống trở nên tệ hại hơn khi Thúy kết giao với một đám người và nếp sống vô luân xem thường dư luận đã trở thành tại tiếng. Đầu đàn đám người là Giáo. Tôi đã được nghe nói về hắn. Xuất thân cũng tầm thường, nhưng ở nhà nhờ chiến tranh, nhờ xoay xở, trúng liền một năm mấy món thầu lớn với quân đội Mỹ ở Cam Ranh, ở Long Bình, Giáo mau chóng trở thành triệu phú lẫy lừng trong giới ăn chơi Chợ Lớn, Sài Gòn. Biến cố 1975. Giáo nhẫn tâm bỏ vợ con lại tháo chạy một
176 | Mai Thảo mình ra Đệ Thất Hạm Đội. Tới Mỹ, y ở New York một thời kỳ rồi về Virginia mua liền một biệt thự trên đồi khoảng nửa triệu bạc. Dư luận ồn ào từ khi có Giáo. Y bỏ thêm ra một khoản tiền nữa, trang bị ngôi biệt thự tới tiện nghi tối đa, từ bể bơi đến sân quần vợt, từ quầy rượu đến phòng riêng để làm tình tập thể, đánh bạc, và lớn tiếng tuyên bố ngôi biệt thự là một hội quán kiểu Thụy Điển đêm ngày mở rộng cửa cho bè bạn vào muốn tận hưởng hết mọi lạc thú được phép và không được phép ở đời. Qua lời “hiệu triệu” của Giáo, đám đàn ông ăn không ngồi rồi lũ lượt kéo tới, vây chung quanh Giáo thành một đảng ăn chơi. Đám phụ nữ thích sống buông thả tới tận cùng nữa, cũng ùn ùn kéo tới. Trong số, buồn thay, có cả Thúy. Người ta nói đến tai tôi. Làm ngơ không được, cũng cảm thấy một nguy cơ đích thực đang đe dọa vùng trời hạnh phúc bé nhỏ của mình, một hôm tôi đặt vấn đề với Thúy. Ôn tồn. Dịu dàng. Tôi nói tôi biết nàng thường tới chỗ Giáo ở. Đánh bài, chơi quần vợt, tắm spa ở đó. Còn nhiều lần hoặc đi cùng cả đảng Giáo, hoặc đi riêng với Giáo lên New York nữa. Nói không trong tinh thần ghen tuông, mặc dầu trong lòng đau buồn, một khuyên nhủ ân cần thôi: – Đó là nếp sống của những kẻ trên tiền trên bạc. Chúng mình không được trong hoàn cảnh ấy. Em nên nghĩ lại. Đua đòi với bọn họ không lại đâu. Hổ thẹn, Thúy đỏ mặt. Rồi vì hổ thẹn nàng nổi sùng, la lối:
Một đêm thứ bảy | 177 – Tôi có một đời sống riêng và anh luôn luôn cản ngăn nó. Anh không có quyền cấm đoán tự do của tôi. Tự do. Khi một người đàn bà có chồng đem hai chữ tự do thảm hại để bào chữa cho sự phóng đãng của mình, thì là thế nào? Thì là hỏng rồi. Tôi thở dài. Lần khuyên nhủ ấy cũng là lần duy nhất. Mọi khuyên can đều vô ích. Đều đã muộn. Cũng lỗi ở tôi một phần. Tôi sống được với tôi, với tôi thôi. Nhưng quá tầm thường, quá bết bát đối với Thúy, người đàn ông trong cái nhìn của nàng phải văn minh, bặt thiệp, nhiều tham vọng và tôi đã không đáp lại được sự chờ đợi ấy của nàng. Thế là còn chung sống mà đã như ở xa, Thúy đã đi trên một con đường riêng. Đứa con gái của chúng tôi ra đời không thay đổi được gì hết. Thúy là một người đàn bà, không phải là một người mẹ. Với nếp sống buông thả của nàng, đứa con không còn là một nguồn yêu thương, chỉ còn là một vướng bận bực bội. o O o Ngôi nhà giữa rừng, giòng suối nhỏ, Thúy, cháu Ngọc, những buổi sáng và những buổi chiều Springfield yên tĩnh trở về trong ý nghĩ tôi suốt dọc đoạn đường về chổ ở Xuân, Xuân lái xe yên lặng. Ý chừng đang sắp đặt những điều muốn trong đầu, chờ về nhà mới nói. Tôi tựa lưng vào thành ghế, châm thuốc lá hút, nhìn San Francisco trên một tầm nhìn lúc
178 | Mai Thảo cao lúc thấp lúc lượn vòng lúc đổ dốc, lúc cửa vịnh hiện ra bát ngát, lúc cây cầu Golden Gate sừng sững trước mắt, thầm khen ngợi: Thành phố này vẫn là một trong những thành phố đẹp nhất thế giới. Có điều là nó bỗng có một vẻ gì xa lạ bất động, như một cảnh tượng cách biệt, là điều lần đầu tiên tôi cảm thấy. Nghĩ kỹ, thấy được nguyên nhân. Tấm lòng người không vui, danh lam thắng cảnh nào cũng chẳng còn ý nghĩa. Xuân và tôi, mỗi người một cách đều đang có chuyện buồn. Chúng tôi đang nhìn vào chuyện buồn của mình. Không nhìn, không thấy San Francisco.Nửagiờ sau về tới nhà Xuân. Theo Xuân và hai đứa con nàng bước vào phòng khách, tôi thấy liền cái cảnh tượng tan hoang của một hạnh phúc vừa tan vỡ, nơi những mảnh vụn của hạnh phúc rơi đổ còn lăn lóc ngổn ngang nơi cùng khắp trên mặt thảm ở khắp căn phòng. Cái bình hoa để nghiêng trên mặt bàn. Những bông hoa héo rũ. Những mặt đệm xô lệch, giầy dép, quần áo quăng liệng tùm lum tà la. Tôi ngồi xuống một cái ghế. Đợi Xuân cho hai con ăn. Rồi nàng đưa chúng vào phòng ngủ. Trở ra. Tới ngồi trước mặt tôi. Và điều tôi đã e ngại ngay từ lúc mới gặp, cũng là lý do tôi muốn tránh gặp nàng. – Anh tìm Đằng giùm em. – Để làm gì?
Một đêm thứ bảy | 179 Tôi nhăn mặt. Xuân nắm chặt lấy tay tôi, nhìn thẳng vào mặt tôi, khẩn khoản: – Người duy nhất được Đằng nể trọng trước sau vẫn là anh. Anh cứu em. Gặp Đằng, nói dùm cho em một lời: Là em biết tội, hết sức hối hận, để Đằng trở về với và các cháu. Anh đừng từ chối. Ơn anh, không bao giờ em dám quên. Xuân bưng mặt khóc. Toàn thân run rẩy. Sự khổ đau thành thật. Sự tuyệt vọng tận cùng. – Thì để từ từ coi sao. Biết Đằng ở đâu bây giờ mà tìm Xuângặp?ngưng khóc chạy liền vào phòng ngủ, trở ra với một cuốn sổ mở rộng: – Đằng đang ở nhà bà chị ruột. Em biết rõ vậy. Trước khi bỏ đi em nghe thấy Đằng nói chuyện với bà ta bằng điện thoại. Địa chỉ đây. Tôi đón lấy cuốn số địa chỉ. Nếu đúng là Đằng bỏ nhà và đang ở nhà bà chị ruột thì đó là Portland, tiểu bang Oregon, thành phố của những lòng đường nhỏ hẹp, của hoa hồng và những cây cầu tôi đã đi qua một lần, và đã yêu thích sự cổ vũ và tĩnh mịch của–nó.Gần thì đi. Tận Portland, không được, tôi nói. Lát nữa anh phải trở về Springfield rồi. Xuân mừng rỡ trước sự từ chối:
180 | Mai Thảo – Thế là anh đã nhận giúp em rồi. Đâu có xa. Anh chỉ ở thêm vùng bên này thêm một ngày. Em gọi điện thoại tới hãng máy bay ngay bây giờ. Đổi lại vé cho anh. Anh đi Portland trưa nay, ở lại với Đằng một đêm. Còn thì giờ anh trở về đây. Không thì từ Portland trở về Springfield cũng được. Chỉ cần anh nhận lời đi và nói dùm cho em một lời là em yên tâm. Miệng nói, Xuân giật phắt lấy cái cặp da ở tay tôi, mở ra, tìm thấy cái vé máy bay và chạy luôn tới máy điện thoại. Nhấc ống nói. Hủy chuyến bay trở về từ San Francisco, lấy thêm chuyến đi lên Portland, từ đó về thẳng Springfield, cái lộ trình trở về của tôi đã bị Xuân thay đổi hoàn toàn trong một phút và tôi đờ người ra trước sự đã rồi. Thấy sợ đàn bà vô cùng. Thấy mình mềm yếu lạ lùng, Và đành để Xuân nửa giờ sau đưa ra phi trường đi Portland. o O o Một chuyến bay. Portland. Thành phố của những lòng đường nhỏ hẹp, của hoa hồng và những cây cầu. Đằng và căn nhà người chị ruột của Đằng. Cô ấy biết tôi rất ân hận, thề không bao giờ dám tái phạm nữa, xin được bỏ qua, được tha thứ, tụi nhỏ đang cần có bố chúng, Đằng, người đàn ông rộng lượng nghĩ đi còn biết nghĩ lại. Đằng, bỏ đi không giải quyết được
Một đêm thứ bảy | 181 gì hết, nên hồi tâm và nên trở về. Vắn tắt là tôi đã tới Portland gặp Đằng, ăn tối với Đằng ở một quán ăn cạnh sông, đóng đúng vai trò khuyên giải, thuyết khách Xuân nhờ tôi đóng. Chẳng biết có kết quả gì không. Đằng chỉ nghe và im lặng. Rồi ngày hôm sau tôi từ Portland về thẳng Springfield. Mấy ngày đi xa, nóng ruột muốn về, tưởng chừng như đã thật lâu, điều làm tôi thất vọng cảm thấy buồn buồn là đón tôi trở về là một ngôi nhà vắng lặng. Giòng suối lặng lẽ. Rừng cây tịch mịch. Mọi cửa lớn cửa nhỏ đều đóng kín. Thúy rời khỏi căn nhà đem cháu Ngọc theo từ bao giờ và đi đâu, tôi không có được một mảy may ý niệm. Đã từ lâu như thế. Nàng có nhà lúc nào tôi biết lúc đó. Nàng đi đâu không bao giờ thèm cho tôi hay. Tôi mở khóa, vào nhà kéo những tấm rèm. Mở ra những cửa sổ. Ngán ngẩm đứng nhìn từ phòng khách đến nhà bếp, xó góc nào cũng phơi bày cái cảnh tượng một ngôi nhà bỏ hoang. Quả là Thúy chẳng còn bận tâm gì tới đời sống lứa đôi của chúng tôi nữa, tôi đau đớn nghĩ thầm. Cuộc đời. Lòng người. Làm thế nào. Tôi bỏ trọn một buổi trưa để thu dọn hết thảy. Tắm xong, đang pha một bình trà uống, thì tiếng xe hơi đậu lại cửa trước. Tiếng giày cao gót trong một nhịp nện dữ dằn. Rồi lôi xềnh xệch cháu Ngọc theo sau, Thúy hùng hổ bước vào. Thấy tôi nàng phủ đầu liền. La lớn:
182 | Mai Thảo – Anh hẹn đi có hai ngày tới bốn ngày mới về. Đi đâu? Đi với con nào? Đúng là cái lối vừa đánh trống vừa ăn cướp. Tôi ôn tồn:–Tưởng chỉ đi San Francisco, có chuyện bất ngờ phải đi Oregon thêm hai ngày nữa. Anh đã gọi điện thoại về không lần nào có em ở nhà. Thế là Thúy vừa dậm chân bình bịch trên nền nhà vừa bù lu bù loa. Nào là nàng đâu phải thứ con hầu đầy tớ, chủ đi xa phải đóng cửa nằm nhà chờ chủ điện thoại về. Nào là tôi không còn đoái hoài gì tới mẹ con nàng, đời sống gia đình từ bao lâu đã trở thành địa ngục và nàng không thể chấp nhận sống vĩnh viễn với địa ngục, nàng phải có tự do riêng và cuộc đời riêng. Bao nhiều điều không hay không phải trút hết cho tôi. Bao nhiêu chuyện không tốt không đẹp đổ hết cho tôi. Tôi nhẫn nhục ngồi im, biết phân giải gì cũng là vô ích. Suốt một tiếng đồng hồ Thúy la lối, làm dữ như thế trước một cháu Ngọc kinh hãi đến xám xanh mặt mũi. Thật tội nghiệp, tôi ôm cháu vào lòng, để mặc Thúy muốn nói gì thì nói. Nghe thấy trong đầu một tiếng thủy tinh rơi. Cái bình hạnh phúc lăn tới mép bàn đã rớt xuống đất, tan vỡ. Sau cùng Thúy mở sắc tay lạnh lùng: – Tôi đã mướn phòng riêng ở. Điều tôi đã nói với anh mấy tháng trước, tôi nói lại. Sống với nhau
– Anh có ký không? Ký. Cái chữ ký quái gở. Tôi cũng đang cầm trong tay một tờ giấy quái gở.
Một đêm thứ bảy | 183 không được nữa, anh trả tự do cho tôi. Luật sư của tôi nói anh không chịu cũng không được. Đây là giấy tờ thỏa thuận ly dị. Anh ký tên ở dưới và gởi đến luật sư của tôi. Mọi chuyện về tài sản về con Ngọc sẽ thu xếp sau. Tôi bằng lòng để anh giữ nó nếu anh đòi Tờgiữ.giấy từ trong cái sắc tay liệng bay xuống mặt bàn. Như một nhát chém quyết liệt. Nhìn tờ giấy tôi ngẩn người. Mấy tháng trước, trong một vụ gây gổ, Thúy có đặt ra với tôi vấn đề ly dị thật. Nhưng tôi tưởng đó chỉ là một tỏ hiện quá khích của một cơn tức giận không kìm giữ. Đâu ngờ ở Thúy đã là một định tâm. Hơn nữa, một quyết tâm. Tôi nhặt lấy tờ giấy và nhìn nàng đăm đăm. Trong cái nhìn đứt ruột, thấy dần được hai sự thật. Một là người đàn bà khi đã thay lòng đổi dạ, sự thay lòng đổi dạ ấy thật tàn nhẫn, thật ghê gớm. Điều thứ hai là Thúy đằng đằng sát khí đứng trước mặt tôi, mà nhìn nàng, tôi vừa không còn nhìn thấy Thúy như tôi muốn nhìn thấy, người tôi đã thương yêu với tất cả sức mạnh của tâm hồn mình. Thúy, người đã sống cùng tôi bấy nhiêu năm, đã có với tôi một đứa con. Thúy ấy không còn. Thúy ấy đã chết. Thúy ngày trước đã bị Thúy của bây giờ giết chết.
184 | Mai Thảo – Em nên nghĩ lại. Chúng mình vẫn còn... Thúy nóng nảy gạt phăng đi: – Tôi đã nghĩ kỹ. Chừng như nàng đưa con trở về nhà kiếm tôi chỉ vì tờ giấy, chỉ vì cái chữ ký tuyệt nhiên không có chuyện gì khác. Và đang có một hẹn hò nào đó phải đi ngay. Cầm lấy chiếc sắc tay, nàng vừa quay gót đi ra vừa nói với trở lại: – Anh không chịu ký, không sao. Anh sẽ phải gặp luật sư của tôi. Thấy mẹ nó đùng đùng bỏ đi, cháu Ngọc thất thần la lớn. Thoát khỏi tay tôi xuống đất nó lẫm chẫm chạy theo, vừa chạy vừa khóc, vừa túm lấy vạt áo Thúy: “Mẹ, mẹ!” Và tôi nhìn thấy người đàn bà sự nhẫn tâm ngoài sức tưởng tượng, sự nhẫn tâm khủng khiếp đến tận cùng. Thúy gạt phăng con ra. Cái gạt thẳng tay. Cháu Ngọc té xấp xuống mặt đất, gào khóc vì khiếp hãi, Thúy bước thẳng xuống thềm. Một phút sau, tiếng xe rú máy, tiếng bánh nghiền rít trên mặt có nhàu nát. Thúy đã phóng vút xe đi.
Nhìn đứa con té nằm trên mặt đất, tôi biết tôi chẳng còn một lý do gì để mong Thúy hồi tâm, một ngày kia sẽ trở về. Nàng đã thôi là một người vợ. Nàng còn hết cả là một người mẹ. Tôi tới bồng cháu Ngọc lên. Ôm nó chặt trong tay. Ngọt ngào dỗ dành. Mãi rồi cháu mới nín khóc. Và chỉ tay ra phía cổng, thổn thức nói:
Một đêm thứ bảy | 185 – Mẹ đi rồi bố? Tôi buồn rầu: – Ừ, mẹ đi rồi. Mẹ đã đi rất xa và chắc không bao giờ còn trở về với bố con ta. Tôi bồng cháu lại bàn ăn, ngồi xuống, nhìn xuống tờ giấy Thúy để lại. Trên đầu tờ giấy ghi tên tuổi và địa chỉ văn phòng của một luật sư Hoa Kỳ ở Springfield. Bản văn đồng ý ly dị vợ đúng là của một luật sư chuyên nghiệp thảo. Minh bạch, ngắn gọn. Chặt chẽ. Tôi nhìn lên tấm hình bán thân của Thúy treo chính giữa vì tường chính. Người đàn bà có một khuôn mặt đẹp đẽ như thế kia, một cặp mắt trong sáng như thế kia, một nụ cười tươi tắn như thế kia. Và đời sống, cái đời sống quái đản bây giờ làm sao có thể làm đổi thay lòng người một cách dễ dàng như vậy được? Tôi không tìm được câu trả lời. Chỉ còn biết lấy cây bút, lặng lẽ ký tên mình xuống cuối tờ giấy. Cháu Ngọc đã ngủ thiếp lúc nào trên vai tôi.
Tôi đặt cháu nằm xuống đi văng. Lấy một tấm chăn đắp lên người nó. Trở lại với tờ giấy đã ký tên, tôi lấy một bì thơ, dán tem, đề tên tuổi và địa chỉ văn phòng người luật sư Hoa Kỳ của Thúy. Gấp tờ giấy cho vào bì thơ, dán lại. Và cầm bao thơ đi ra, để vào hộp thơ đầu ngõ cho người phát thơ tới lấy.
Trên đầu tôi và bên trên những tảng lá xào xạc đã thấp thoáng những lá vàng rớt xuống, bầu trời
186 | Mai SpringfieldThảoxám ngắt và lộng gió. Đã cuối thu. Đã sắp đông. Sáng sáng, chiều chiều những tàng lá của những cánh rừng thưa ở Springfield sẽ rụng tới chiếc lá cuối cùng. Tới trơ hết những thân cây. Tới đầy ngập một mộ lá. Rồi những luồng gió Springfield sẽ trở thành buốt lạnh. Rồi sẽ mưa xuống. Tầm tã. Rồi một đêm, chỉ sau một đêm, tuyết đã rơi xuống, bất tận, trắng xóa, một con suối nhỏ sẽ đông cứng lại, sẽ Springfield mùa đông. Sẽ nhiều tháng dài của một mùa đông lạnh buồn và ảm đạm như thế. Sau đó rồi tuyết sẽ lại tan, những mầm hạt sẽ lại nhú lên từ mặt đất hồi sinh, những bầy chim én sẽ bay đầy bầu trời Springfield trong vắt, hoa sẽ nở cùng khắp, con suối cạnh nhà lại cái tiếng nước thủy tinh róc rách, và mùa xuân rực rỡ, mùa hè chói nắng của Springfield sẽ lại trở về. Như đời sống phải vậy, đời sống là một tuần hoàn. Như bốn mùa là vậy, bốn mùa là chu kỳ của một phục sinh. Ngồi bên bờ suối, nhìn xuống mặt nước đoán thấy đã lạnh buốt, giữa cánh rừng Springfield rì rào như một lời than van êm đềm, tôi nghĩ lan man về thời tiết, về bốn mùa, về Springfield. Như thế, một lúc khá lâu. Nỗi đau còn dữ dội trong lòng, nhưng nghe kỹ, chừng như đang lắng xuống, lắng xuống. Thúy, vĩnh biệt. Thở ra một hơi dài, tôi đứng lên và trở vào nhà. Cháu Ngọc đã thức, hai gò má hồng hào.
Tôi đặt con ngồi trên đùi, nói chuyện với nó như nói với một người lớn:
Một đêm thứ bảy | 187 – Mai bố phải xin nghỉ sở một ngày. Để làm gì, biết–không?Làmgì bố? – Tìm một chỗ giữ trẻ gần nhà, nhờ giữ con một thời gian. Đi làm về, bố tới đón. Tạm vậy. Rồi tính sau.Cháu im lặng nghe. Tôi mừng thầm không thấy cháu hỏi gì về mẹ nó và nói tiếp: – Suốt tuần này bố sẽ phải đẳn nhiều cây bổ thành củi, phơi khô và chứa sẵn trong nhà chứa xe. – Để làm gì bố? – Mùa đông sắp tới rồi. Một mùa đông sẽ dài và bố con ta sẽ rất lạnh. Để có củi khô sưởi ấm cho con suốt mùa đông. Câu chuyện giữa hai bố con bị cắt đứt. Chuông điện thoại reo. Tôi nhấc ống nói. Điện thoại gọi sang từ San Francisco. Người gọi là Xuân. Giọng mừng rỡ, cuống quýt. Đại ý là Xuân cho biết Đằng đã gọi điện thoại từ Oregon về. Nói đã gặp tôi. Nói nhớ con. Nói ở thêm với người chị ruột mấy ngày nữa rồi sẽ trở về. – Anh ơi, em khóc, em xin, em thề, và chừng như Đằng đã nghĩ lại cho em. Em báo ngay tin mừng này của em với anh. Tất cả là nhờ anh. Không bao giờ em quên anh. À, Thúy đâu anh?
188 | Mai Thảo Tôi đáp cho xong: “Không có nhà” và gác ống nói. Chuyến đi San Francisco, vụ đụng đầu với Xuân ở tiệm ăn, chuyến đi Oregon, bữa ăn tối với Đằng ở cạnh sông, vai trò thuyết khách, rồi đoạn đường trở về Springfield, Thủy, tờ giấy ly dị, cái chữ ký của tôi ở dưới, ngần ấy sự việc vui buồn hỗn độn, cùng một lúc, cùng trở về trong đầu. Khiến tôi ngẩn người ra. Và cuối cùng, lắc đầu, bật thành một tiếng cười chua chát. Tiếng con tôi đầy ngạc nhiên: – Bố cười gì thế? Tôi quay sang, bật cười một lần nữa, và xoa đầu con–tôi:Bố cười bố. Cười bố ngốc nghếch, chẳng ra làm sao hết. Việc của người thì giải quyết tốt. Mà cũng việc ấy của mình thì lại dở ẹc và hỏng bét, đúng là chẳng ra làm sao.
Một đêm thứ bảy | 189 NGƯỜI BẠN CŨ Bạn bè thân thiết cũ, từng đã học cùng Diễn một lớp học, sau đó bạc-đà trên vai cùng một lứa tuổi đi vào trường kỳ kháng chiến, mấy chục năm sau và với Sài Gòn vừa mất, khi Diễn được tin họ kẻ trước người sau sắp từ Hà Nội lũ lượt vào Nam và thế nào cũng tìm gặp lại chàng, chàng đã quyết định là sẽ tránh mặt hết không để cho một ai được gặp. Ngoại trừ một người và người đó là Bân. Chặt đứt mọi liên lạc không cho nối lại với lớp người đã chia sẻ với chàng mọi vui buồn của thời niên thiếu, sau đó đã mất tích nhau vì chiến tranh tương tàn đã dựng hai miền thành hai chiến tuyến, với Diễn không phải là một tàn nhẫn tâm hồn, một lạnh lùng tình cảm nào. Mà chỉ là một hợp lý Diễn thấy cho chính chàng và cả cho đám bằng hữu cũ. Để làm gì nữa, Diễn nhủ thầm. Không thù địch thì cũng chẳng còn như trước. Gặp lại nhau, kẻ thắng người bại, thêm ngượng ngập, đã mỗi người một phía, đã mỗi kẻ một đường đi, một lựa chọn, thì cứ để nguyên là vậy cho xong. Nghĩ sao, Diễn đã làm đúng thế. Chàng đã dặn mấy đứa cháu ở cùng. Người ngoài Bắc vào tới gõ cửa, đều nói là chàng từ lâu đã dời đi chỗ khác, và không biết là đi đâu. Thế nhưng
Diễn gật đầu, công nhận: - Cũng gần như thế. Nhưng bạn khác. Vào đây bao nhiêu ngày? Quyền uy có nghiêng trời lệch đất? Nếu không có thân thuộc nào khác, bạn có thể ở đây cho tới khi trở về ngoài ấy.
190 | Mai Thảo rồi nguyên tắc bị vi phạm bởi một ngoại lệ. Khi buổi trưa hôm đó, nằm ở phòng trong, nghe tiếng gõ cửa, một đứa cháu chạy ra, rồi một tiếng nói trong trẻo: “Đây phải là nhà ông Diễn không? Tôi là Bân, bạn cũ của ông Diễn mới từ Hà Nội vào đây”, Diễn đã chạy ra, đẩy đứa cháu sang một bên và mở cửa cho Bân vào. Mở cửa đón vào, vì đám bạn bè của một quá khứ đã mịt mùng, quả Bân là một ngoại lệ. o O o Cũng không biết Bân có phải là người bạn cũ thân nhất trong những người thân nhất không? Làm sao biết. Chẳng gì đo lường được. Nhưng Bân, ở trên tất cả, quả đã có với Diễn nhiều kỷ niệm thật đặc biệt. Khiến khuôn mặt Bân từ xa tắp quá khứ và chia cách hiện về, vẫn dưới một ánh sáng riêng. Mối liên hệ tình cảm cũng vậy. Ý nghĩa của tình bằng hữu cũng vậy, một ý nghĩa khác hẳn. Gặp Diễn, Bân mừng rỡ: – Tìm nhưng không hy vọng gặp. Mấy tên chúng nó vào trước tôi về nói đến kiếm ông ở địa chỉ này nhưng người nhà đều nói đã dời đi nơi khác. Lánh mặt? Không muốn gặp lại anh em nữa sao?
Một đêm thứ bảy | 191 Sau bao nhiêu năm, Bân đã già. Một sự già nua không tỏ hiệu bằng những nếp nhăn hay bằng những sợi tóc bạc mà bằng sự héo quắt của một thân hình Diễn nhớ ngày xưa tầm thước, sự héo quắt ấy cũng là sự héo quắt đặc biệt hầu hết ở những người miền Bắc, vì không đủ dinh dưỡng, vì một cơ cực trường kỳ. Diễn giữ bạn ở lại. Bân không mong gì hơn. Chàng lấy quần áo cho Bân mặc. Bảo đám cháu làm cơm thết đãi người vào từ Hà Nội. Đưa Bân đi chơi tới khuya, đôi bạn nằm nói chuyện với nhau tới sáng. Chuyện cũ. Những kỷ niệm về năm năm cùng đi trong tiêu thổ kháng chiến, nắng mưa dãi dầu trên khắp mọi ngã đường đất nước, những lần quân Pháp tràn tới phải chạy ẩn vào những đám rừng sâu. Chuyện chia tay nhau. Diễn bỏ về cùng quốc gia, Bân đi thêm một bước dài nữa với chủ nghĩa, và đã ở lại. Chuyện gần hơn. Hai mươi năm của Bân ở ngoài Bắc. Chuyện ngần ấy thời gian của Diễn ở miền Nam. Một lúc nào đó, trong dòng trò chuyện triền miên, Bân hỏi: - Sao không đi? Một người như ông ở lại, không phải là an ninh được hoàn toàn bảo đảm đâu, ông phải biết như vậy. Diễn đáp, vắn tắt: - Biết. Nhưng không đi được. Mặc, muốn ra sao thì ra.-Tôi làm được gì cho ông không?
192 | Mai Thảo - Chắc không. Một lần hỏi, rồi thôi. Chắc Bân biết cũng chẳng làm được gì cho Diễn, mặc dầu đã ngót 40 tuổi đảng và đang có một chức vụ quan trọng trong quân đội với hàm trung tá. Phần kỷ niệm được gợi lại làm Diễn ngậm ngùi xúc động nhất là khi Bân nhắc tới Huệ, người em gái, bây giờ đã là mẹ của một đàn con, sống trơ trọi và rất cùng quẫn ở một vùng quê Phủ Lý, người chồng đã bỏ mình vào khoảng giữa cuộc chiến, ở Việt Bắc. Huệ. Một hình ảnh xinh đẹp dịu dàng hiện về. Một thân yêu thuở nào. Gia đình Bân ở Hà Đông. Nhớ lại những ngày nghỉ học, Diễn thường tới nhà Bân, và ở đó tới chiều chủ nhật. Bà mẹ Bân, hiền hậu coi Diễn như con và Diễn nhận được ở Huệ những săn sóc dịu dàng dành cho một anh lớn. Những đêm sáng trắng, Diễn rủ Huệ đi dạo bên bờ Nhuệ Giang, chàng và người em gái của bạn sánh vai trên thành cầu nhìn xuống mặt sông long lanh ánh sáng. Buổi chiều chủ nhật ra tầu điện trở về Hà Nội bao giờ Diễn cũng có một gói đồ ăn mang về do chính tay Huệ làm với cặp mắt đầy lưu luyến của người thiếu nữ lúc chia tay. Sự thân thiết vượt thêm một giới hạn. Tới một trạng thái tình cảm mới, thắm thiết hơn nhưng cũng thầm kín hơn, mặc dầu Diễn chưa một lần tỏ tình, bởi thời kỳ ấy Diễn còn quá trẻ, đang đi học và còn muốn kéo dài mối liên hệ dịu dàng với Huệ như đối với một người em gái. Đời
sống trôi chảy bình thường, chàng ra trường vào đời, mỗi cuối tuần vẫn từ Hà Nội vào Hà Đông, chắc chàng và Huệ sẽ đi tới trở thành vợ chồng vì chàng cũng không có một tình yêu nào khác. Cuộc chiến bùng nổ, những thành phố đổ xập xuống với tiêu thổ toàn diện, Diễn rời khỏi vùng Hà Đông, Hà Nội với sóng người thiên đô và không bao giờ còn gặp lại Huệ nữa. Rồi ở xa chàng được tin Huệ lấy chồng, một người đàn ông nàng không yêu, cuộc hôn nhân Diễn hình dung thấy buồn bã âm thầm như đời sống người đàn bà trong chiến thời gió bão. Bao nhiêu năm, gặp lại bạn mới lại có tin về em gái bạn. Diễn hỏi: – Chắc Huệ quên tôi rồi? - Đâu có. Vẫn nhớ, vẫn nhắc đấy. Con em tôi quên ai chứ không bao giờ quên ông. Có điều là vào Nam thì chắc còn lâu mới tính chuyện đó được. Không nằm trong diện những người được vào ngay vì công tác như Côngtôi.tác của Bân là gì Diễn không biết và cũng thấy cũng chẳng cần phải tìm hiểu. Chỉ thấy ở Bân một đổi thay lớn. Ngày trước Bân yêu đời, vui tính và có một lối sống rất công tử Hà Nội. Bà mẹ Bân có nhà đất ở vùng Hà Đông, gia đình phong lưu, Bân lại là con trai duy nhất nên bà cụ nuông chiều, mỗi lần Bân về nhà rồi trở ra Hà Nội là có một khoản tiền mẹ
Một đêm thứ bảy | 193
194 | Mai Thảo cho mang theo. Với bạn, Bân tiêu xài rộng rãi, đi coi chiếu bóng, thể thao, đi ăn tiệm bao giờ cũng tranh trả tiền trước mọi người. Được bạn bè khen sành ăn, sành mặc, còn ở tuổi học trò đã nổi tiếng ăn chơi là sự ngợi khen làm Bân khoái chí nhất. Một tuần lễ trùng phùng trôi qua và Diễn càng thấy ở Bân sự mất tích mọi dấu vết của con người Bân ngày trước. Đi chơi phố với Diễn, Bân đeo một cặp kính thuốc lớn không nhận ra. Trong trò chuyện, cũng hết sức thay đổi. Ngày trước, Bân được tiếng là mạnh miệng, thăng bằng, nghĩ sao nói vậy, luôn luôn cười lớn từng hồi. Giờ ngược hẳn. Tiếng cười giả tạo, gượng gạo, lối ăn nói rào sau đón trước, nói câu nào cũng nhìn tới, cũng quay đầu lại, như sợ lời nói lạc vào tại một kẻ thứ ba. Điều làm Diễn ngạc nhiên, thất vọng nữa vì không như chàng tưởng, thành phố Sài Gòn với những cao ốc đồ sộ, những đại lộ rộng thẳng và cái biển người sáng chiều tấp nập không gây được hào hứng gì lắm ở Bân, tuy mỗi lần cùng đi dạo phố, từ Quận Nhất đến khu chợ Bến Thành, vào Chợ Lớn, Bân luôn miệng trầm trồ là lộng lẫy khang trang gấp nghìn lần Hà Nội. Ăn uống, Bân cũng luôn miệng khen ngon nhưng lại cũng luôn luôn phàn nàn là tốn tiền chừng như muốn cản ngăn Diễn không nên tiêu xài vì Bân quá nhiều như vậy. Chàng trẻ tuổi hào hoa Hà Nội thuở nào ở Bân đã chết và đã cùng chết theo
Một đêm thứ bảy | 195 với Bân mọi lạc thú ở đời, Diễn nghĩ thầm. Diễn đã lầm. Sự thật nơi người bạn cũ từ Hà Nội vào và sau hai mươi năm xa cách tới mấy ngày trước khi thời gian công tác chấm dứt Bân phải trở về Hà Nội mới tỏ hiện ra. o O o Buổi sáng hôm đó, thức dậy, làm bộ suýt xoa trước một cái lạnh tưởng tượng, Bân đằng hắng rồi đi vào vấn đề muốn nói: – Đầu tháng chạp rồi. Ngoài tôi đã lạnh lắm. – Ừ, tháng chạp. Bạn nhắc làm tôi nhớ tới những mùa lạnh ngày trước của bọn mình: Lạnh thật, buổi sáng đi học mặc thế nào cũng buốt giá căm căm. – Bốn ngày nữa tôi về. Lần ra đi đường biển, tàu Thống Nhất. – Đi đường bộ như lúc bạn vào có ngắn ngày hơn không?–Đi đường bộ nhanh nhưng không mang xách được gì nhiều. Tôi dự trù phải mang một ít áo quần và vật dụng ở trong này về. Trước khi tôi đi, vợ con đã dặn đi dặn lại có vào thì không được trở về tay không. Mấy chục năm nay gia đình tôi thật chưa biết đến cái Tết Nguyên Đán là gì. Một manh áo mới cho con, một cái bánh chưng đặt lên bàn thờ tổ tiên cũng không có. Sự thật là thế, rất ê chề, rất thê thảm. Năm
196 | Mai Thảo nay tôi muốn có một chút đỉnh tốt nhất cho vợ con, và ngượng lắm nên hôm nay mới dám nói, để nhờ ông vì thằng bạn nghèo mà giúp cho. Thì ra thế, chuyển vào Nam thăm bạn của Bân. Thì ra vậy, cái điều khó nói khiến lúc nào Bân cũng lúng túng, thiếu tự nhiên. Thì ra vậy, cái mục đích của một lần mượn cớ tham quan, công tác của một người Hà Nội từng được nổi tiếng là hào hoa phong nhã trong quá khứ, giờ chỉ còn là một kẻ đành lòng dẹp bỏ hết nhân cách và tự ái để hy vọng mang về được một ít tiền bạc và đồ dùng cho vợ con, nói là chưa từng có một Nguyên Đán nào đã mấy chục năm nay. Diễn ôn tồn trả lời Bân rằng chàng chẳng giầu có gì. Rằng rất đáng tiếc là Bân đã gặp lại chàng quá muộn, sau cả một cuộc chiến, sau cả một cuộc đổi đời. Rằng Hà Nội vào, người miền Nam trong đó có chàng đã mất hết công ăn việc làm, mất hết đời sống, chẳng bao lâu nữa cũng sẽ rớt xuống cái đáy cùng khổ cực như người miền Bắc. Nhưng được, Diễn nói tiếp, thế nào cũng nhiều ít có quà cho Bân trở về, trước hết là những quần áo và vật dụng trong căn nhà chàng đang ở Bân thích gì cứ việc lấy tự nhiên. Buổi sáng cuối cùng Bân dậy từ ba giờ sáng. Trời còn tối mò. Diễn phải dậy theo. Quà tặng đã sẵn sàng ở một góc phòng khách. Bân tất tả ra đi và trở về với một xe gắn máy. Mấy bộ quần áo lạnh của chàng,
Một đêm thứ bảy | 197 cái quạt máy, cái máy phát thanh, bát đĩa, những đồ dùng để nấu bếp, mấy cái sắc tay cho đàn bà, cả cái tủ lạnh nhỏ trong phòng riêng của Diễn, chàng cũng cho Bân hết và giúp bạn một tay, khiêng hết đống đồ đạc linh kinh ấy ra xe. Chiếc xe đã cao có ngọn từ mặt đệm xuống sàn xe mà đồ tặng cho người Hà Nội vẫn không chất hết. Phải mất cả nửa giờ đồng hồ nữa, chàng mới đeo, buộc được những món đồ còn lại bên người Bân. Rồi để cho Bân khỏi ê chề, sau khi đưa hai chỉ vàng cho Bân nhờ về tặng cho Huệ, người em gái bạn chàng vẫn lưu giữ một hình ảnh dịu dàng trong trí nhớ, Diễn ra khỏi nhà, đưa Bân ra tận bến tầu. Đêm Sài Gòn đã nghiêng dần về sáng. Nhưng bóng tối còn cùng khắp trong những ngôi nhà im lặng đóng kín. Từng quãng, những ngọn điện đường xanh lạnh. Và một lúc nào, một trận mưa phùn cuối năm đã dấy lên, mưa bay không tiếng từ năm trời tối thẳm trên đầu thả xuống những mặt đường dần dần ướt loáng. Đôi bạn chí thân của một tuổi học trò, của một thời niên thiếu, của những chùm phượng vĩ trước cửa đền Trấn Võ, của những ánh trăng rằm trên Trúc Bạch, trên Tây, của những mộng tưởng vào đời bằng song loan, của những biển khơi muốn tới, những chân trời muốn gặp, đi im lặng bên nhau. Không còn gì để nói nữa. Đời sống chẳng còn gì để sống. Cho cả hai phía. Cho cả hai miền. Cùng khắp.
198 | Mai Thảo Diễn đứng lại trước lối ra bến tàu. Trận mưa nặng hạt hơn. Con tầu nhìn thấp thoáng ở xa xa, sau màn mưa, thành tầu cao ngất. Bân đưa cả hai tay ra nắm lấy tay Diễn: “Còn được gặp lại nhau. Nhờ ông, vợ con tôi năm nay có Tết rồi. Cám ơn ông nhiều lắm.” Diễn gật, không nói gì, im lặng nhìn theo người bạn thân của một đất trời nào đã mất, còng lưng dưới mang nặng, đẩy cái xe máy dầu xa dần trong mưa. Chàng quay gót, lững thững trở về và muốn hình dung lại khuôn mặt, cặp mắt, mái tóc của Huệ, người thiếu nữ của một tuổi lãng mạn mà thời thế và lửa đạn đã đẩy vào xa cách. Nhưng hình ảnh của Huệ cũng đã nhòa nhạt, không còn hiện lên. Chỉ còn trận mưa đang bay nghiêng trong một đêm cuối năm đang nghiêng dần về sáng.
Một đêm thứ bảy | 199 DRIVE IN Khung chiếu cong cong như đường chân trời, kích thước đại vĩ tuyến bát ngát, những cột sắt chống dựng nó đã chìm nhòe vào bóng tối, tạo một cảm giác chơi vơi, treo lưng giữa nền trời. Gió miên man tràn đầy từ những khoảng trống rộng bốn phía cùng thổi tới cái khung lả lay ngất ngưởng lúc nào cũng như muốn cất bổng mình bay lên không gian, cuốn theo đi những hình ảnh đang tắt lịm từng hồi trên nó. Đầu tuần. Drive-in chiếu một phim đen trắng. Cũ rích. Loại phim sản xuất từ thời Erol Flyn còn trẻ măng, Robert Taylor con trai tơ, Hollywood còn lộng lẫy vàng son, chưa Đại Lộ Hoàng Hôn như bây giờ. Phải chú mục theo dõi những hình thể nhập nhòa đã bị mài nhẵn bởi hàng ngàn xuất chiếu, những hình thể cũng mờ đục như nền vải chiếu mờ mờ đục đục, mới phân nhận được cảnh đang chiếu là một màn ái ân. Cụp lạc. Mùi mẫn. Loại nghìn lẻ một đêm, kiểu thâm cung bí sử. Vị nữ hoàng sa ngã vì ẩn ức sinh lý nằm ngửa trong long sàng. Xiêm áo xô lệch. Da thịt nhễ nhại. Cặp mắt cửu trùng đã nhắm nghiền vì hoan lạc ngây ngất, nàng thả buông xác thịt, để mặc cho gã thuộc hạ trẻ tuổi táo tợn làm ẩu đã úp sấp
Tự cúi xuống, âu yếm: Tưởng em ngủ?
–
200 | Mai Thảo lên nửa người nàng, nó vùi đầu vào cái cổ vương giả trắng ngần ở đó chói lòa một xâu chuỗi kim cương. Rồi thình lình cánh cửa phòng bật tung. Ông vua già mọc sừng, râu tóc bạc phơ, theo sau là một bầy vệ sĩ giáo gươm tuốt trần, hoảng hốt tiến vào. Tự bật cười thành một tiếng ngắn, ném liên tưởng về xa tắp Sài Gòn bên kia trái đất, tới một vở tuồng hương xưa, La Mã nào đó, chàng chiều Hảo đã đưa nàng đi coi một Nguyên Đán năm nào, đâu như đoàn Thanh Minh Thanh Nga, đâu như đoàn Trăng Mùa Thu. Chàng lục túi quần, lấy ra gói thuốc. Cẩn thận vuốt lại một điếu đã nhầu nát. Bật quẹt hút. Đoạn tựa hẳn lưng vào thành ghế, thở ra một hơi khói dài, chuyển cái nhìn tới những vệt đèn xe loang loáng của những khán giả tới từ cổng drive-in tiến vào, không coi tiếp cuốn phim nữa. – Anh cười gì vậy, anh Tự? Tiếng nói cất lên từ mặt đệm. Thân mật. Gần sát. Trong vùng lắng đọng mờ tối của lòng xe đóng kín. Đó là một tiếng nói rất trẻ. Tuyệt diệu. Ấm và trong vắt. Thứ tiếng nói lồng lộng trong nó ánh sáng, chuyên chở trong nó âm nhạc, thường bất chợt nghe thấy vang ra từ một cửa rừng, lúc ban mai. Cái tiếng nói nhảy nhót và thánh thót của một dòng suối.
Một đêm thứ bảy | 201 – Em có vừa chợp đi. Anh cười làm em thức dậy. Anh cười gì vậy, anh Tự? Bàn tay Tự đặt nhẹ lên một gò má, một gò má tròn đầy, đoán thấy một mầu da bao nhiêu măm trời vẫn thanh xuân, trắng hồng, phơn phớt. Những ngón tay Tự lần ngược lên, lùa nhẹ vào một mái tóc, những sợi tóc óng ả mềm mại ủ kín trong chúng một hơi ấm thân mật chừng như cũng vừa ngủ thiếp đi trên đùi chàng, rồi vừa bị sự đụng chạm nhẹ nhàng làm cho thức dậy. Cười cô nhỏ Việt Nam trọn một ngày làm náo động khắp vùng Los Angeles bây giờ đòi vào một drive-in nằm ngủ. – Em không còn là một cô nhỏ, anh Tự. Im lặng một lát: – Năm nay em đã ba mươi hai tuổi, anh Tự... Tự cười, gõ gõ ngón tay lên một vùng trán lờ mờ trong bóng tối: – Tuổi tác không thay đổi gì hết. Tiếng cười chàng. Đã mười mấy năm, kể từ cái buổi chiều Đà Lạt sương mù năm đó, tôi mới lại nghe tiếng cười chàng.Chàng có lối cười như vậy. Thật vui, cũng chỉ một tiếng ngắn. Năm đó tôi là một nữ sinh, tôi mới mười sáu tuổi. Trời Đà Lạt đã lạnh buốt. Mùa đông
202 | Mai Thảo tới sớm. Căn phòng nội trú nằm trên một sườn đồi cao, cửa sổ phòng ngó xuống một con đường đất đỏ đi lên từ bờ cỏ um tùm, một mặt hồ dưới thấp. Những lúc ở lớp về, những ngày nghỉ cuối tuần, tôi thường ngồi hàng giờ sau khung cửa đó. Chống tay lên cằm. Im lặng. Mơ mộng. Thả trí tưởng lãng mạn bay qua những cánh rừng thông, những ngọn đồi, những ngọn nắng bốn mùa, tới những chuyển luận khác, với tôi còn chứa đầy bí mật của đời sống, đời sống với người thiếu nữ nội trú tinh khiết ở tôi còn là một cánh cửa dầy nặng đóng kín nhưng tôi đã mơ hồ nghe thấy từ phía ấy những âm động dữ dội của đam mê, của hạnh phúc, của tình yêu. Những âm động dữ dội ấy có như là những đợt sóng gầm của một trùng khơi còn khuất lấp bên kia một triền núi, một ngoài trời đã ngày lên rực rỡ mà căn phòng tôi rèm buông kín, còn giam cầm tôi ở giữa tối đen. Thế giới nội trú là một thế giới âm thầm, buốt lạnh, không ánh sáng. Thế giới nội trú của tôi trên một ngọn đồi Đà Lạt heo hút và lộng gió cũng vậy. Ở đây mùa xuân không tới, mùa hạ đi qua, mùa thu buồn phiền, mùa đông dài thẳm. Ở đây những hành lang hun hút, những vì tường câm nín, những ánh đèn xanh xao, những sách vở lạnh lùng. Ở đây, tuổi trẻ là hai hàng mi hạ thấp, những buổi chiều u uất, những ban đêm nhà mồ, những xao động cất dấu. o O o
Một đêm thứ bảy | 203 Và tôi chỉ còn khung cửa ấy. Nhớ hôm đó, ngay sau bữa cơm trưa, tôi đã tới ngồi sau khung cửa. Nhìn đăm đăm xuống con đường đất đỏ đi lên từ mặt hồ dưới thấp. Hồi hộp. Chờ đợi. Anh Tường sắp từ Sài Gòn lên. Anh sẽ đến đón tôi, xin phép cho tôi được ra khỏi nội trú một ngày. Trong lá thư nhận được ba ngày trước, lá thư làm tôi chảy nước mắt, anh Tường đã hứa với tôi như vậy. Thư còn nói rõ anh sẽ đưa tôi đi chơi ở khu phố chợ, coi chiếu bóng, ăn cơm tiệm, nửa khuya tới nghe hát thánh ca ở nhà thờ. Thư anh Tường, nhà hàng triệu lá thư viết bởi những người đàn ông lúc đó là một lá thư chiến trường. Thư bay về từ mặt trận Kontum. Chúng tôi cùng mồ côi cha mẹ. Chỉ còn hai anh em trơ trọi giữa đời.Tôi càng trơ trọi hơn ngày anh Tường bị động viên. Anh dành cả tuần lễ cuối cùng lo cho tôi vào nội trú. Sau đó là những ngày tháng ở quân trường của anh. Là những thời gian ngoài mặt trận của anh. Những thời gian biền biệt, triền miên, hết mặt trận này tới mặt trận khác. Nhận được một thư nào của tôi mới biết anh còn sống. Thư nào cũng mang những địa danh khốc liệt. Tân Cảnh, Charlie. Phú Bổn. Khe Sanh. Thư nào cũng nói anh mạnh khỏe, bình yên, chiến trường yên tĩnh. Cho tôi yên tâm. Nhưng tôi đã biết suy nghĩ. Tôi đã có trí óc. Tôi đã biết đọc những sự thật nằm ẩn giữa những hàng chữ, tôi hiểu người
204 | Mai Thảo anh ruột tội, sự che chở duy nhất ấy của đời tôi đang phải ngày đêm vật lộn với kẻ thù. Chiến tranh càng khốc liệt vào những ngày tháng cuối cùng chấm dứt cuộc chiến, càng đẩy anh em tôi vào sâu thẳm trong xa cách. Anh Tường hẹn hoài xin nghỉ phép ít ngày lên nội trú thăm tôi. Rồi chẳng lần nào anh xin được phép hết. Giáng Sinh năm trước, từ Tân Cảnh, anh cũng hẹn về. Khiến tôi đã tới ngồi sau lưng khung cửa, nhìn xuống con đường đất đỏ, hồi hộp chờ anh cả một buổi chiều. Chiều hết. Đêm xuống. Con đường hiu quạnh, không một bóng người cho đến lúc nó chìm nhòa vào đêm tối. Anh Tường vẫn không về được. Thêm một năm nữa. Tôi đóng cánh cửa lại. Nghe gió đêm trùng trùng trong những cánh rừng thông. Và bưng mặt, tôi đã khóc, khóc hết nước mắt. Giáng Sinh năm sau, tôi mới lại nhận được thư anh Tường. Anh đã được chuyển về gần Sài Gòn hơn. Ở mặt trận Đồng Xoài. Thư anh lại hẹn thế nào cũng lên đón tôi ra khỏi nội trú, như Giáng Sinh năm trước. Và tôi lại tới ngồi sau lưng khung cửa. Lại nhìn đăm đăm xuống con đường đất đỏ. Lại hồi hộp chờ đợi. Năm đó, tôi được đón ra khỏi nội trú thật. Nhưng người đón không phải anh Tường. Mà là người đàn ông mười mấy năm sau tôi mới lại nghe thấy tiếng cười, đang đặt bàn tay lên vầng trán tôi.
Một đêm thứ bảy | 205 Chả là Giáng Sinh năm ấy, anh Tường bị thương trong một cuộc chạm súng với địch. Được đưa về một quân y viện Sài Gòn. Không đi Đà Lạt thăm tôi được, nhưng không nỡ làm thất vọng thêm một lần nữa, đứa em gái trơ trọi tội nghiệp, anh đã nhờ một người bạn thay anh lên Đà Lạt thăm tôi. Người bạn thân đó của anh Tường là Tự. - Anh còn nhớ cái buổi chiều anh tới nội trú thăm em? Nhớ. Nhớ. Quá khứ. Sự thức động của những hình bóng cũ. Kỷ niệm ngày trước. Hồn ma thuở nào. Những hạt lân tinh ngoi bồng lên từ một đáy biển chết. Còn nhớ lại được gì? Còn sống lại được gì? Và như vậy để làm gì? Nguyên Đán năm đó. Chiếc áo dài này mầu huyết dụ của Hảo. Mái tóc nàng với ánh đèn từ sân khấu chiếu xuống, ánh mắt nàng lấp lánh vui thích trước một cảnh gay cấn ngộ nghĩnh nào đó của vở tuồng năm xưa không còn nhớ tên, đêm khuya đưa nàng trở về dưới những bóng lá thấp thoáng của con đường Hồng Thập Tự, chứng ung thư khốc liệt, định mệnh cướp nàng đi ngay mùa xuân năm đó, nàng nói em muốn sống với anh, muốn sống với anh không biết chừng nào, cái chết trong hồn người còn sống từ bệnh viện đi ra, sự ngờ vực, sự tuyệt vọng trong hồn người còn sống trước lung linh ánh nến linh cữu, hết thảy trở thành vô nghĩa, hết thảy tối thậm vô lý, từ đó, từ đó, còn sống được gì, còn nhớ được gì, và hết thảy, còn để làm gì? Tôi cố gắng
206 | Mai Thảo chuyển giao lòng tôi từ đó khôn ngừng, khôn ngừng cho những người đàn bà khác. Tôi chỉ còn cách ấy. Sự xảo trá thảm hại. Tại ảo giác nàng vẫn còn. Một phần nào. Một cách nào. Ở những người đàn bà khác. – Chiều hôm đó mưa. – Đúng vậy. Anh mặc một cái áo tơi mưa mầu sám, cổ áo kéo cao. Anh đội một cái mũ dạ đen, vành mũ kéo thấp không nhìn rõ mặt. Lúc anh mở cửa xe bước ra, em còn tưởng anh là anh Tường chứ? Cười. Lại tiếng cười của chàng. Tiếng cười đặc biệt. Ngắn. Đứt. Như một làm vừa lòng hơn là một niềm vui thật sự. o O o Một lần tới nội trú. Rồi một lần nữa. Rồi một lần khác nữa. Không nhất định, khoảng vài ba tuần, một tháng một lần. Và anh Tự đã trở thành một người anh thứ hai của tôi, thay thế cho người anh ruột đang tại ngũ, trong chiến tranh lâu dài, phải luân chuyển hết mặt trận này tới mặt trận khác. Anh. Gọi Tự là một người anh tinh thần được không? Không rõ. Tôi đã thầm hỏi mình có trăm lần vẫn không xác định được thế nào là vị trí tình cảm của người đàn ông trong tâm hồn tôi. Một trạng thái tình cảm rất khó nói, từ đầu và chỉ riêng một phía, cứ thế kéo dài theo thời gian và qua những lần anhTự tới nội trú thăm tôi. Anh là hạnh phúc của tôi. Sự tôi chờ đợi
Một đêm thứ bảy | 207 mỗi tuần. Sự tôi nhớ tới từng lúc. Trong bầu không khí lạnh khuất của một thành phố ở trên cao. Sợ làm mất thời giờ của anh, một lần tôi hỏi: – Em có làm phiền anh nhiều không? Anh xua tay, bảo không. Nói anh có phần hùn với một công ty gỗ ở trại Hầm, tuần nào cũng phải lên Đà Lạt.Người ta thường nói tới một sự có mặt rực rỡ nào đó có hiệu lực đổi thay hết thảy. Như mặt trời lên, làm tan biến bóng tối. Như mùa xuân về làm nở hết muôn hoa. Những lần viếng thăm tôi của anh Tự cũng có hiệu lực với tôi như thế. Con dốc hiu quạnh. Những cỏ cây buồn rầu. Chỉ cần anh Tự hiện ra ở đầu dốc và lững thững đi lên, dáng đi vừa mạnh mẽ vừa khoan thai, con dốc và cỏ cây hai bờ chợt như tươi sáng hẳn. Cái chỗ tôi ngồi đợi anh sau khung cửa cũng vừa như có nắng ấm chiếu vào. Và tôi lại được rời khỏi cái thế giới của nội trú lạnh buốt để ra ngoài cùng thiên nhiên. Khởi đầu, anh đưa tôi tới khu Phố Chợ. Vào một cửa tiệm ăn sáng. Thường anh không ăn, chỉ lấy một ly cà phê thật đặc và một điếu thuốc lá trên tay. Anh kể cho tôi nghe chuyện Sài Gòn. Những chuyến đi ra ngoại quốc của anh, những kinh thành thế giới anh đã đặt chân tới và khi so sánh Đà Lạt với những danh lam thắng cảnh hoàn vũ, anh nói Đà Lạt cũng là một thành phố cao nguyên tuyệt đẹp nếu được thanh bình nếu không
208 | Mai Thảo có cái không khí chiến tranh đe dọa từ những vùng rừng núi chung quanh. Tôi sống ở Đà Lạt đã mấy năm. Nhưng tối ngày chỉ những hành lang nội trú âm thầm, chỉ những căn phòng nội trú lạnh lẽo, đâu có biết gì về Đà Lạt. Nhờ anh Tự, tôi biết. Như một khám phá mới lạ. Anh mướn xe đưa tôi đi chơi suối, chơi thác. Ngày nắng ấm, anh dẫn tôi đi một vòng hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hoặc tản bộ xuyên qua những đồi thông lúc nào cũng vi vu tiếng gió trên đầu. Thích nhất là được đi cùng anh những buổi chiều có mưa bụi lất phất trên những con đường đầy ngập xác lá của mùa thu. Mưa nhỏ bay nghiêng trên mái tóc, cổ áo tơi mưa kéo cao, tôi đi bên cạnh anh, thấy qua những hạt mưa mỏng và nhẹ như tơ liễu, Đà Lạt mới thật là Đà Lạt, Đà Lạt mới hiện hết vẻ nên thơ của những mặt hồ và những cánh rừng. Thấy mình bé nhỏ nữa. Thấy được che chở nữa. Và song song với một khám phá đầy thơ mộng về đất trời Đà Lạt, về cảnh thổ Đà Lạt, là một khám phá nữa về trái tim tôi, về tấm lòng tôi, cái thế giới tình cảm kín thầm ở trong tôi. Huyền thoại nàng công chúa ngủ giấc ngủ trăm năm trong rừng thẳm, bỗng mở mắt, bỗng ngồi lên trước một bóng hoàng tử trên một con ngựa trắng, huyền thoại ấy cũng là huyền thoại tôi, sự thật tôi.
Không dám tự thú, càng không bao giờ dám tỏ hiện, tôi đã yêu anh Tự. Bằng tất cả sức mạnh của
Một đêm thứ bảy | 209 tình yêu lần đầu. Tình yêu anh Tự. Bằng tất cả sức mạnh của tình yêu lần đầu. Tình yêu ấy khiến từng đêm nội trú, bài vở đã xong, tôi còn thức thật khuya, gửi nỗi lòng xuống hết trang nhật ký này đến trang nhật ký khác, cuốn nhật ký tôi dấu kín ở một đáy ngăn, vẫn dấu kín như thế đến tận bây giờ. Cuốn nhật ký, đã từ lâu tôi không viết gì thêm nữa. Ngưng, trên một ảo tưởng sau cùng tôi biết chỉ là ảo tưởng. Ngưng, từ ra khỏi nội trú, rời khỏi Đà Lạt chẳng bao giờ trở lại, và cuộc đời làm cho xa cách, tôi ít gặp anh Tự hẳn đi. Chừng như anh cũng đi xa đâu đó, một thời gian dài, qua một lá thư anh viết cho tôi từ một địa chỉ ở Âu Châu, nói chuyến đi ngoại quốc này của anh có thể là chuyến đi dài nhất. Nhật ký ngưng hẳn, dứt khoát, sau lần anh Tường lên Đà Lạt đón tôi về Sài Gòn, tôi đã thi đậu và rời khỏi nội trú. Hôm đó, tôi hỏi anh Tường, lòng nôn nóng muốn biết: – Anh Tự bây giờ ở đâu? Anh Tường: – Anh cũng không rõ. Thường thường tháng này anh ấy về Hóc Môn. Bà mẹ và mấy người em nhỏ của chị Hảo ở đó. – Hảo nào vậy? – Bộ cô không biết gì sao? – Anh Tự không bao giờ nói chuyện về đời sống anh ấy.
210 | Mai Thảo – Đúng vậy. Rất im lặng, rất kín đáo. Thân thiết như với anh là cùng, cũng chưa một lần nói ra. Đây cũng là anh nghe người khác kể lại mà thôi. Hảo là tên người đàn bà nếu còn sống sẽ là bà Tự. – Hảo, cái tên thật đẹp. Chị ấy mất rồi? – Phải. Đã lâu và vì chứng ung thư. Anh Tự đêm ngày ở cạnh giường bệnh nhưng cũng không sao cứu được người đàn bà khỏi chứng bệnh hiểm nghèo. Tuy vậy Tự coi như đã có một đời vợ, không còn muốn có một người đàn bà nào khác nữa. Gia đình chị Hảo rất nghèo và mọi chuyện sau đó được Tự lo toan chăm sóc hết. Cũng là một trường hợp tình cảm rất kỳ lạ. Nhất là với người đàn ông đã có một thời ăn chơi lừng lẫy. Chung thủy đến như sự chung thủy của Tự đối với người tình đã mất là cùng rồi, không thể có một người thứ hai. Thì ra thế. Thì ra tất cả là thế. Sự tiết lộ của anh Tường về một chuyện đau lòng xảy ra trong quá khứ như một vết thương không bao giờ lành ở anh Tự giải thích được tại sao tình yêu tôi chỉ riêng một phía, không bao giờ được đáp lại. Bởi nó tới sau. Bởi nó đã muộn. Và không còn một chỗ đứng nào trong trái tim đã khép chặt lại của Tự. Có một câu thơ Pháp, tôi không nhớ được của ai, đại ý: khóc lóc và đập tay liên hồi vào một cánh cửa đóng kín. Tuyệt vọng. Vô ích. Một cánh cửa đóng kín. Đó là trường hợp tôi. Trường hợp một tình yêu đầu đời, yêu sai
Một đêm thứ bảy | 211 duyên và mến chẳng nhằm người. Tôi đã khóc. Thật nhiều. Cho mối tình xấu số. Cho những trang nhật ký chỉ là nhật ký không bao giờ được trở thành sự thật.Rồi thời gian giúp tôi. Làm ngưng lại một giòng lệ thảm. Làm lành dần một vết thương. Tôi vẫn yêu anh Tự. Thầm kín và mãnh liệt. Lãng mạn và nồng nàn. Nhưng không đòi anh phải là của tôi, hoàn toàn nữa. Chỉ đôi khi vẫn hờn giận người đàn bà mất sớm vì chứng ung thư máu. Mất sớm mà riêng Hảo mới đích thực là tốt số, đích thực có hạnh phúc. Mất rồi mà hạnh phúc vẫn đi theo xuống lòng huyệt. Mất rồi mà chẳng một ai thay thế nổi. Mất rồi mà vẫn sống trong một tấm lòng không đổi thay. Như thế không phải là tốt số, là may mắn sao? Thôi, hãy nhận anh Tự như một bóng mát trên đầu, một cánh tay che chở. Và đôi khi gặp lại anh. Đi chơi với anh. Như buổi tối hôm nay. o O o Tiếng anh là giữa drive-in bát ngát và tối thẳm: – Liên, em nói mười giờ phải về. – Vâng, đúng vậy. Đi đón các cháu. – Mười giờ rồi. Tôi ngồi lên. Thực tại kéo tôi trở về thực tại. Những hành lang nội trú, con dốc từ dưới hồ Xuân
–
Tự lái xe từ từ ra khỏi drive-in. Lúc này tôi mới nhìn thấy những chiếc xe im lìm, bất động trên hai lối đi. Và bên trong những khung kính những bóng người mờ mờ. Mỗi xe một cặp. Không có xe nào có một người. Mà từng cặp, từng cặp. Thì ra những cặp tình nhân đưa nhau vào drive-in không phải để coi phim. Mà để gần nhau, ôm ấp nhau, như tôi đang nhìn thấy những mái tóc lẫn vào nhau, những vòng tay ôm chặt, những trao hôn bằn bặt. Thành ra nếu tôi và anh Tự cũng là một cặp tình nhân đưa nhau vào drive-in, chúng tôi là một cặp tình nhân tinh khiết nhất, đứng đắn nhất thế giới. Ý nghĩ này làm tôi bật cười thành tiếng. Cảnh tượng trong những lòng xe hơi hai bên lối đi, anh Tự cũng đã nhìn thấy. Và bật cười theo.
212 | Mai Thảo Hương, Đà Lạt với những cánh rừng thông ngút ngàn, những mùa thu lá vàng, những buổi chiều mưa phùn vừa trở về trong hồi tưởng tôi, lại chỉ còn là một chân trời dĩ vãng xa thẳm.
–
– Anh với em vào đây để làm gì nhỉ? Vào. Vậy thôi. Chúng ta đã không nghĩ ra một nơi chốn nào khác. Cũng hay. Cũng là một lần vào drive-in coi phim. Không có một nơi chốn nào khác. Anh Tự vừa nói. Chừng vậy. Thế giới bát ngát, trăm ngàn nơi chốn. Nhưng có những con người
Một đêm thứ bảy | 213 chẳng còn một địa chỉ tình cảm nào suốt cuộc đời anh, cái địa chỉ duy nhất đã ngủ giấc ngủ đời đời trong đất. Tôi cũng chẳng còn có cho tôi một địa chỉ hạnh phúc nào. Hạnh phúc chỉ là ảo tưởng và ảo tưởng đã chết cùng quá khứ, ở một thành phố trên cao, trong một nội trú. o O o Đã ra khỏi drive-in một quãng thật xa. Đã sang một thành phố khác. Tôi chỉ đường cho anh Tự. Khuôn mặt anh trông nghiêng, vừa cách biệt vô chừng, vừa thêm gần vô chừng, in lên nền trời Los Angeles không một ánh sao. Đêm rộng rãi buồn. Gió lạnh không thổi đến từ một hướng nào. Gió lạnh dấy lên từ bốn hướng. Ngay ở chỗ tôi ngồi. Ngay trong tôi. Chia tay đến nơi rồi. Tôi chỉ còn ít phút với anh Tự:– Thế là mai anh lại trở về Âu Châu? – Đúng vậy, Liên. Chuyến bay sớm. Trong một chuyến đi, không bao giờ người ta có đủ thời giờ. Nhưng lần này tìm ra địa chỉ Liên, hai anh em đi chơi gần trọn một buổi chiều, thì cái việc đang làm nhất đã làm được. Anh cười. Vẫn tiếng cười ngắn. Chỉ như để làm người khác vui. – Lại nhớ những cuối tuần Đà Lạt tới nội trú đón Liên.
Tôi cười theo mà phải bằng một cố gắng phi thường mới cầm giữ được nước mắt. Tôi muốn tôi can đảm. Tôi biết anh Tự muốn thấy tôi can đảm. Xe chạy vào một con đường lớn. Những tiệm ăn còn mở cửa, còn rực rỡ ánh đèn. Đây rồi anh. – Đúng không? Tôi gật đầu, nói nhỏ: Vâng, chồng em và các cháu hẹn chờ em ở đây. Anh Tự ngừng xe lại. Quay sang tôi: - Em đã có gia đình, có một đời sống riêng. Giữ gìn em cẩn thận. Tôi vùng ôm lấy anh Tự, thật chặt. Và bật khóc trước từ biệt. Anh dịu dàng đặt tay lên mái tóc tôi,
214 | Mai Thảo – Đó là một thời gian đã mất, anh Tự. – Nhưng kỷ niệm của nó vẫn còn có với chúng ta ở trong lòng. – Bao giờ anh lại sang? – Không biết được. Cuối năm. Vài năm không chừng. Khi đó lại liên lạc, lại đi chơi một buổi chiều với nhau, không có gì thay đổi. Anh Tự lại cười nữa: – Nhưng lần sau phải tìm một ngọn đồi, những cánh rừng thông nữa. Chứ không phải một drive-in.
Một đêm thứ bảy | 215 nói nhỏ: “Liên thôi Liên.” Một lát. Rồi anh đẩy nhẹ tôi ra và tôi ra khỏi xe anh. Khi tôi đã lau khô được nước mắt rồi, thở ra một hơi dài và chậm chậm đi vào tiệm ăn thì chiếc xe hơi của anh Tự đã mất hút ở đầu đường. Và một nội trú ở một thành phố trên cao chỉ còn là sự dài hút của những hành lang vắng lặng.
216 | Mai Thảo Mục lục Người bếp phụ ở Cabramatta trang 11 Người sợ mất trí nhớ trang 39 Từ một ngã tư trang 59 Của một thời đã mất trang 73 Ván bài trang 85 Bốn ngày ở Tây Tây Lan trang 89 Gió ngược trang 115 Một đêm thứ bảy trang 137 Một truyện rất ngắn trang 155 Điểm hẹn trang 157 Cho một mùa đông tới trang 169 Người bạn cũ trang 189 Drive-in trang 199
Một đêm thứ bảy | 217 MỘT ĐÊM THỨ BẢY, tập truyện của Mai Thảo, ấn hành lần đầu ở hải ngoại, tháng 3 - 1988, do Tổ-Hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ gồm HỘI VĂN HÓA VIỆT NAM TẠI BẮC MỸ và TỦ SÁCH CẢNH NAM bảo trợ xuất bản. TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
218 | Mai Thảo Tác phẩm Mai Thảo đã xuất bản Tập truyện đêm giã từ hà nội • tháng giêng cỏ non • bầy thỏ ngày sinh nhật • bản chúc thư • trên ngọn đỉnh trời • chuyến tàu trên sông hồng • ngọn hải đăng mù • mưa núi • giòng sông rực rỡ • người thầy học cũ • một đêm thứ bảy Truyện dài mái tóc dĩ vắng • khi mùa mưa tới • để tưởng nhớ mùi hương • viên đạn đồng chữ nổi • lưng chừng vực thẳm • trong như hồ thu • bẫy ngầm • mang xuống tuyền đài • lối đi dưới lá • sau khi bão tới cũng đủ lãng quên đời • giữa một tuần trắng • tình yêu màu khói nhat • hạnh phúc đến về đêm • sống chỉ một lần • những người tình tuổi song ngư • gần mười bảy tuổi • ngón tay đeo nhẫn • một đời còn tưởng nhớ • ôm đàn tới giữa đời • thời thượng • mười đêm ngà ngọc • sau giờ giới nghiêm • ánh lửa cuối đường hầm • con đường một chiều • đêm kỳ diệu • tới một tuổi nào • cùng đi một đường • lối đi của lá một ngày của nhã • bên lề giấc mộng • sống như hình bóng. Tùy bút căn nhà vùng nước mặn • tùy bút tập một