tặng phẩm của dòng sông nhật tiến
tặng phẩm của dòng sông nhật tiến
bìa: Huyền Trân trình bày: Muon Phuong nguồn: Internet
Muôn phương góp lại, trả về muôn phương
tặng phẩm của dòng sông nhật tiến
Tặng Phẩm Của Dòng Sông
Nó mắc lại ở bờ sông. Sợi dây thừng xỏ mũi vướng phải cái cột tre. Sóng nước đưa nó đi vòng quanh cho đến lúc nó dính cứng lấy cây cột. Bây giờ thì nó nỗi lều bầu và đen thui như một cái đụn nhỏ. Đấy là xác của một con trâu. Một con trâu chết trương trong lòng nước. Một con trâu nào đó, ở vùng nào đó, đã chết trong một trận giao tranh nào đó trong cuộc chiến vốn đang kéo dài mệt mỏi này. Xác con trâu có vẻ đã trôi qua một chặng đường dài. Những cọng rác cuốn theo đã kết lại, bám ở cổ, ở bụng, ở sừng. Bùn lẫn đất phù sa bắt đầu tạo thành ngắn ở làn da bụng chỗ mấp mé mí nước.
Người ta trông thấy nó từ sáng sớm. Thoạt đầu là lão Quới đi câu tôm. Lão quan sát nó kỹ càng rồi nhún vai bỏ đi. Xác con trâu trương làm lão nhớ đến những xác người cũng trương to như thế rải rác trên cánh đồng. Mùi tanh tưởi bốc lên làm lão lợm giọng. Lão mất cả hứng đứng câu tại chỗ quen thuộc có nhiều tôm lớn. Sau đó là đám nghĩa quân của anh Bằng. Họ xúm lại quan sát con trâu bằng những cặp mắt nghi ngờ. Tụi nó vẫn thường có những cái trò để mìn trên những bè lục bình cho trôi sông. Chiếc bè tắp vô cầu và nổ tung. Con trâu cũng nổi như cái bè vậy. Nhưng trên làn da đen thui nhếch nháp bùn và máu khô của nó, không chỗ nào mang một cái vẻ đã được gài mìn. Bằng sốt ruột, hươi cây súng xả một băng nổ dài. Có những viên trượt ra ngoài rơi lõm tõm xuống nước. Có những viên ghim lên mình con trâu, xé rách toang thành từng mảnh lớn. Nước sông ùa vào thêm, xác con trâu bị xô đi táp lại rời đổi vị trí cũ. Bây giờ bốn cẳng của nó ngửa lên trời. Một mùi hôi
phẩm của dòng sông |
thối xông lên nồng nặc. Cả bọn bịt mũi nhìn nhau rồi bỏ đi. Con trâu vẫn dính cứng lấy cây cột và nằm phơi ở đó đến chiều. Chiều hôm ấy có một tốp người đến chiếu cố. Họ gồm một ông già, một thiếu phụ và một thằng con nít. Thằng nhỏ hăng hái lội xuống nước. Thiếu phụ đứng trên bờ ra vẻ ngần ngại. Còn ông già thì không nói, xăm xăm cầm sợi dây thừng chờ thằng nhỏ bơi tới con trâu là quẳng cho nó buộc. Thân mình của thằng bé ốm tong teo, bờ vai xương xẩu, làn da đen đúa, đầu tóc rối xù. Dưới làn nước đục ngầu và đầy rác rưởi, trông nó như một con chó nhỏ xấu xí, bẩn thỉu đang ngụp lội. Nó xoải tới trước cái cọc tre. Chiếc cọc bây giờ nghiêng đi vì sức nặng bấu víu của con trâu. Bàn tay nhỏ xíu của nó lần tới đầu mối của sợi thừng. Nó gỡ ra một cách nhanh nhẹn. Con trâu được giải thoát khỏi cây cọc và nằm trong tay dẫn dắt của thằng nhỏ. Thằng nhỏ rít lên một tiếng thích thú. Đã lâu
Nhật Tiến lắm nó mới được bơi dắt một con trâu trong lòng nước. Nhưng con trâu ngày xưa biết bơi, biết lội, biết ngoan ngoãn giơ lưng cho nó trèo lên và nhìn nó bằng đôi mắt hiền từ. Bây giờ con trâu lại nằm ở cái tư thế lật ngửa, bốn vó chỗng lên trời, phơi cái bụng
toang hoác những xương cùng thịt bầy hầy và xông lên mùi thối tha buốt tới tận óc. Nương theo dòng nước, thằng bé lái được con trâu vào bờ. Mọi người xúm lại giúp nó kéo lên bờ cỏ. Mình trâu nát bét những vết đạn, có chỗ bị mở banh ra, thịt cháy đen xạm, lại còn có từng mảng máu đã khô đen lại nom như những mảng nhựa đường. Tuy nhiên, nhìn cho kỹ thì cũng vẫn có vài chỗ còn xài được. Bốn cái đùi vạm vỡ, ức nở to chắc nịch, xẻ ra phải được hàng chục ký thịt. Còn hơn là ăn mãi củ mài hay đọt chuối. Cuộc chiến ở đây kéo dài cả năm nay rồi. Ông già vận sức bẫy được xác trâu vào một bờ cỏ. Thiếu phụ giỏ xách tay ra soạn
Tặng phẩm của dòng sông | 11 một mớ dao to, nhỏ. Có cả cái cưa tay tuy cùn nhưng chắc là sẽ đắc dụng. Một đùi trâu được banh ra. Thịt bên trong chưa đến nỗi ngả mầu xám xịt. Một vài gân máu còn giữ được mầu đỏ tươi. Mầu đỏ làm cho ai nấy đều !ang lên những nét hăm hở, rạng ngời. o O o
Bỗng từ xa phóng tới một bóng người.
Tiếng cười the thé lan tới, trước khi thân hình bẩn thỉu rác rưởi của gã ta xuất biện. Trông gã không ra dáng một con người. Da gã tái mét, mắt đỏ rừng rực như hai đốm lửa, hàm răng trắng nhởn, khấp khểnh như rằng bò, cái lưỡi lúc nào cũng như thè lè ra, nhễu cả rãi lẫn rớt. Gã đứng ngất ngư, hai cẳng chân đong đưa như hai ống sậy. Cánh tay phải còn lành lặn ve vẫy trước mặt, còn tay trái gẫy một nửa để phơi ra ngoài một lớp da rúm ró, trầy trợt, dính đầy bùn và đất bẩn.
Gã mở to mắt nhìn con trâu. Phẩm vật bất ngờ làm gã vui thích. Gã ré lên cười cầu tài với mọi người. Hai chân gã nhảy cẫng lên, chạy tới chạy lui, hết ngó ông già lại ngó thiếu phụ, hết ngó thiếu phụ lại xán tới gần thằng nhỏ. Thằng nhỏ liệng cho gã một mẫu da thừa. Gã cười lên thành những tiếng khẹt khẹt. Cặp mắt rực lửa, rãi rớt chảy ra lòng thòng. Cánh tay lành lặn ve vẫy rối rít. Ông già thấy vậy vội la lên: – Mày rỡn với nó thì hết ngày. Mặc nó!
Vẻ mặt đang hớn hở của gã què bỗng nhiên xịu xuống. Gã quay lại nhìn chòng chọc về phía ông già, ánh mắt thù hận. Ông già trừng mắt lên nhìn, rồi chợt hú lên hai tiếng «Bùm! Bum!”. Gã đàn ông xanh mặt vội che tay lên đầu, vừa chạy vừa la thảm thiết. Rõ ra là gã đã bị bệnh thần kinh khi nghe thấy tiếng súng. Thằng nhỏ thì lại thích chí phá lên cười. Nó còn dọa gã tiếp theo bằng một tràng súng liên thanh bắn bằng mồm nghe y như thật. “Đoàng! Đoàng!” Gã đàn ông hốt
phẩm của dòng sông
hoảng lao đầu vào một bụi cây, bàn tay còn lại của gã cào xé xuống nền đất bẩn nom như một con vật đang vội vã đi tìm một nơi trú ẩn. Sự việc xảy ra có vẻ làm cho thiếu phụ đứng đó cảm thấy bất nhẫn. Nàng hơi nhăn mặt với ông già rồi lừ mắt nhìn đứa nhỏ. Thằng bé vội vàng cúi xuống cưa nốt mảng đùi trâu đang gần đứt lìa. Đến sẫm tối thì con trâu không còn nguyên hình thù lúc trước. Một đống thịt bầy nhầy được bó lại và buộc gọn trên một cây đòn. Trên mặt đất, phần xác trâu còn lại nom toét hoét với những mảnh xương trắng hếu xen lẫn với những mảng tiết đen xì. Mùi hôi thối xông lên nhức óc. Ông già hạ lệnh:
– Rồi mai nó bốc mùi đi khắp chỗ, chịu không thấu đâu. – Vậy liệng đại nó xuống sông cho rồi!
Ba người lại hì hục một chuyến nữa. Xác của con trâu lại được trả về với dòng nước đục ngầu. Lần này nó không còn nổi được trên mặt sông. Sau một tiếng “ùm” kéo theo những bọt nước tung tóe, cái hình thù kỳ dị của nó trôi phăng đi và dần dần chìm sâu trong đáy nước.
Trên đường trở về, ba người đi một cách vội vã. Những đốm đạn lửa đỏ lừ đã thấy xuất hiện trên nền trời tím xẫm, chỗ ngang mé đồn có tháp canh cao vòi vọi. Đồng quê im ả một cách ghê rợn, tựa hồ tất cả như đang chìm trong một vùng đất chết. Không có tiếng chó sủa, không có bóng người đi, không cả dáng trâu quen thuộc đang về chuồng lúc còn thuở thanh bình. Cả ba người lầm lũi bước đi như ba cái bóng chập chờn trong ánh sáng nhá nhem của buổi chiều
Tặng phẩm của dòng sông | 15 sắp tắt. Chỉ ở phía đằng sau, cách họ một khoảng khá xa là còn có một đôi mắt đang dõi theo dấu chân của ba người. Đôi mắt rực lửa. Đôi mắt đỏ lừ. Đôi mắt của gã đàn ông mất trí sau những trận đụng độ kinh hồn hồn từng xảy ra đây đó trong vùng. Gã lủi theo ba người như một con chó ghẻ không dám chường mặt ra trước mọi người. Dẫu sao thì gã vẫn còn sợ tiếng súng phát ra từ mồm ông già, tiếng nổ ròn rã qua miệng đứa trẻ, giống hệt ngày nào cả gia đình gã bị thiêu đốt trong lửa đỏ giữa những tràng đạn nổ ở cả bốn phía, liên hồi. Gã theo riết ba người, đi qua những con đường mấp mô, băng qua từng hố bom, hố mìn sâu hoắm, những thềm nhà hoang cháy xám xịt, cả những thân dừa gẫy gục, những chum nước cạn khô và những nếp tường vôi nghiêng đổ đã lên mầu rêu xanh. Cuối cùng thì toán ba người chui xuống một căn hầm tối. Cánh liếp che bên trên được kéo lại. Thế là gã đàn ông lại chỉ còn có một mình!
Gã bực bực bội ngồi bệt lên một thân dừa nằm chắn ngang lối đi. Bóng tối bây giờ bao trùm hoàn toàn xuống cảnh vật chung quanh. Gã có cảm giác như mình đang bị chôn sống trong một khu mộ tối. Gã không còn biết mình đang ở đâu, đang làm gì và đang giữ cái vai trò gì ở cái chốn đồng quê hiu quạnh và khốn khổ này. Hình ảnh gần gũi nhất đối với gã bây giờ là hình ảnh của con trâu nằm tênh hênh trên mặt cỏ bị những lưỡi dao sáng loáng lóc từng mảng thịt. À thì ra con trâu! Hẳn nó vẫn còn nằm ở đó! Gã chợt nhảy quẫng lên khi nghĩ ra rằng, ba người kia đã chui xuống hầm thì gã sẽ được tự do làm chủ tất cả phần bỏ đi, còn lại. Thế là hai cẳng chân của quẫng lên. Gã vội
Tặng phẩm của dòng sông | 17 tiết đông xám ngoẹt vẫn còn đang bốc mùi. Nhưng con trâu không còn ở đó. Gã dụi mắt nhìn vào bóng tối để xục xạo từng bờ cây, bụi cỏ. Nhưng bốn bề quanh gã chỉ có tiếng nước vỗ óc ách vào mạn bờ, và ở phía đằng xa, rất xa, tiếng bom dây trút xuống một vùng nào nghe rền rĩ như tiếng rên la của mạch đất đang cựa mình. Tuy vậy không thể vì thế mà gã bỏ cuộc. Gã bám riết lấy ý nghĩ mình là sẽ được làm chủ gần nguyên cả một con trâu. Gã cũng sẽ lóc thịt, cũng sẽ xỏ vào một cây đòn dài, sẽ khiêng một mình vào một căn hầm tối nào đó. Mùi hôi thối quanh đây báo cho gã biết là gã không tìm nhầm chỗ. Nó đúng ở chỗ này. Nó đã nằm tênh hênh trên nệm cỏ, phơi thân hình rách toác dưới nắng xế của một buổi chiều sắp tắt. Sự tin tưởng làm gã không muốn bỏ đi. Gã ngồi xuống một mô đất nhỏ. Gã sẽ chờ đến sáng mai. Con trâu sẽ là của gã – Gã sẽ là chủ. Gã sẽ được lóc thịt, không ai có quyền đuổi gã đi như ông già đã xua đuổi gã lúc buổi chiều.
Và gã đã chờ đến tận sáng hôm sau. Ánh sáng lùa vào đôi mắt của gã như trút cả một vầng tia chói lọi. Thì ra đêm qua gã đã ngủ thiếp đi từ lúc nào. Lúc mở mắt ra, gã choàng tỉnh táo ngay vì cái mùi hôi thối đêm qua lại xộc vào đến tận phổi. Điều này làm gã nhớ ngay đến con trâu. Gã bật dậy, dáo dác đi tìm. Gã chợt réo lên to một tiếng rồi cất giọng cười. Gã đã tìm thấy con trâu! Con trâu đang nằm trương lên, xác vướng vào một cột tre làm chân cầu. Gã thấy rõ cả cái bụng phồng to lên, tím ngăn ngắt.
Gã lấm lét nhìn quanh, thấy chẳng có ai, thế là gã nhảy ùm xuống nước và bơi lại gần. Bây giờ thì bàn tay còn lại của gã đụng được hẳn vào mình con trâu. Hình như nó có vẻ khác thường. Nó không hắn là một con trâu. Trên mình nó có cả những mảnh quần áo rách bươm, ướt sũng nước. Nhưng gã cần gì! Cái xác này cũng trương to như xác một con trâu. Lại nguyên vẹn chưa có ai cầm dao lóc thịt. Lại chính là
Tặng phẩm của dòng sông | 19 của gã. Một mình gã đã tìm ra. Nó sẽ là của riêng gã. Không kẻ nào dám bắn súng «bùm bùm» để xua đuổi gã đi như thằng nhỏ và ông già kia đã làm. Gã rít lên cười thích thú. Mắt gã đỏ ngầu nhìn con mồi một cách say sưa. Gã cố gắng thò cánh tay còn lại, cánh tay độc nhất ra gỡ một đụn tóc đang vướng phải cây cột cầu tre. Và rồi, bắt chước cử chỉ của thằng bé ngày hôm qua, gã lôi được cái xác vào bờ. Gã đang nghĩ đến một chỗ nào khuất nẻo để che giấu tặng phẩm bất ngờ của mình. Một căn hầm bí mật nào đó. Một mái nhà sụp nghiêng. Một bể nước khô cạn. Hay một hố bom, hố mìn rất sẵn, nằm rải rác trên cánh đồng hiu quạnh của đồng quê tan nát, điều tàn này. Ở đó gã sẽ tìm cách mổ xẻ tặng phẩm của dòng sông như hồi chiều hôm trước đã có người làm như vậy.
Chuyến Xe Về Giữa Mùa Xuân
Theo lời bác tài thì chuyến xe này là chuyến chót. Chuyến cuối cùng của một năm sắp đi qua. Ba mươi Tết rồi còn gì. Trời xẩm tối rồi. Hành khách thở phào như vừa được ban một ân huệ may mắn. Không may sao được, khi chuyến xe chạy qua cả một đoạn đường gồ ghề, lắt léo mang đầy vết tích của những cuộc giao tranh mà không va phải một trái mìn nào!
Tất cả có bốn mạng ngồi rộng tuyênh toang trên hai hàng ghế. Một người đàn bà chít khăn tang. Một bà cụ mái tóc như sương tuyết. Một cái lồng gà trong nhốt một con chó nhỏ. Và một gã đàn ông thương tật vừa được giải ngũ. Như thế, kể cả bác tài thì chuyến xe có năm mạng sống: bốn
người và một con chó nhỏ. Con chó lông đen tuyền, mắt đen tuyền, mõm cũng đen tuyền, cả thân hình của nó là một khối đen cục mịch, lũn chũn, lâu lâu lại thấy phát ra những tiếng rít lên ư ử. Tiếng rít của nó bị át đi bởi tiếng động cơ nổ ồn ào của chiếc xe lam cũ kỹ. Đường nhiều ổ gà. Chiếc xe lồng lên. Lắc bên này. Ngả bên kia. Chồm tới. Giật lui. Đảo lên từng vòng. Bà cụ có vẻ mệt. Thiếu phụ cũng ngả đầu lim dim lên vách gỗ. Chỉ có gã đàn ông là ngồi lầm lì. Gã mơ màng nhìn ra hai bên đồng lầy. Lúa đang mọc nhưng lưa thưa. Nhiều thửa ruộng xám đen, còn ghi rõ những nét toác nứt nẻ. Một màu xám ảm đạm chạy dài hun hút tới chân trời. Trên cao, mây đục như màu chỉ đang ngả màu tím thẫm. Gió lồng lộng thỗi lùa qua khung cửa hẹp. Chiếc xe vẫn lắc lư. Hai bắp tay của bác tài xế vồng lên. Những đường gân nổi lên cuồn cuộn để chế ngự chiếc xe vật vã.
Chuyến xe này là chuyến chót... Tốc độ xe chợt vọt lên chút nữa theo sự hứng khởi của bác tài. Kim đồng hồ chỉ tốc lực tới tám cây số giờ. Đường xóc như vậy kể là nhanh. Đây là hố mìn chưa lấp. Nọ là di tích của của những chướng ngại vật. Cái xác xe đỏ cháy rụi hôm nào còn nằm tênh hênh bên lề đường. Rồi những chiếc xe bò vụn nát không còn nhận ra hình thù. Còn có cả những đám tàn than chất đen thui thành từng đụn nhỏ : Xác người, xác trâu bò hay chỉ là dấu tích của những kiện hàng ? o O o
Bỗng cái xe chợt hãm bớt đà và từ từ chậm lại. Trước mũi xe là một cái hố lớn. Dưới lòng hố là một cái thùng xe đã han gỉ. Sau cái khung xe có bóng một người bận áo đen. Bóng người áo đen bị che lấp chỉ còn một bàn tay gầy guộc giơ lên vẫy. Bác tài xế chùn tay ga, giọng sững sờ sau khi thoáng thấy có cả một họng súng đen ngòm.
– Thôi chết... mình tới số rồi!!
Bóng đen bây giờ đứng hẳn lên. Một khuôn mặt trắng bệch hiện ra sau mớ tóc bù xù. Khuôn mặt rất trẻ, chưa quá hai mươi, đáng gọi là cậu hơn là anh, là chú hay bác. Cậu ta là người «bên kia». Khẩu súng nói lên điều đó, nhưng nói một cách hiền từ chứ không dữ dằn như bất cứ lúc nào nhào lên xung kích. Mọi người đỗ dồn cả về phía đó. Sự ước lượng bây giờ chính xác hơn. Nhất định cậu này chỉ tới mười lăm. Cậu giơ khẩu súng lên ngang đầu
| Nhật Tiến
– Vậy cho tôi theo bác để rồi nằm chờ được không?
– Ý! Làm sao được. Tui có gia đình, tội nghiệp tui!
– Thì bác giữ cây súng này làm bằng. Có khi còn lãnh thưởng!
– Tui hổng ham. Tui không dính vô chuyện gì hết. Tui làm ăn chất phác mà. Cậu nhỏ sẵng giọng
– Bác không cho tôi theo thì bác ở đây với tôi luôn! Bác tài dẫy nẫy lên
– Ý! Cha nội! Chơi cửa cha con nhà người ta đó sao! Vậy là tác phong Việt Cộng, chớ hồi chánh nỗi gì!!!
Gã thương binh ngồi ở sau xe, từ nẫy vẫn theo dõi câu chuyện bây giờ mới lên tiếng: – Theo tôi về được không? Mai mốt tôi dẫn lên đồn.
Bác tài múa hai tay lên.
– Ui da! Vậy là ngon quá cỡ rồi còn gì.
Cậu cán binh rời chỗ đứng, tiến lại phía sau xe. Cậu giương cặp mắt bạc nhược lên nhìn gã đàn ông. Gã nói tiếp:
– Cậu đưa súng cho tôi. – Bác biết xài hả?
– Mấy thứ này nhằm nhò gì! Lính Quốc gia thu được dài dài...
Cậu cán binh thở phào:
– Vậy mà tôi cứ ngỡ... – Ngỡ gì?
– Ngỡ bác là người của Mặt Trận. – Thì sao?
– Thì tôi phải bắn bác trước kẻo bác bắn tôi. Gã đàn ông mỉm cười:
Nhật Tiến
– Ui! Đồng chí với nhau cả, sao nỡ tay thế!
Cậu nhỏ ấp úng: – Tại tôi « quay ». Ở trỏng, tội quay đáng bắn bỏ!
Bác tài xế chờ đợi thấy lâu, vội nói: – Thôi mời lên xe đi. Trễ rồi.
Chiếc xe lại bắt đầu chuyển động. Nó bỏ qua một mô cao rồi lũn cũn men theo một lối đi được in dấu bởi chiếc xe mười bánh băng qua những chướng ngại vật.
Cái cảnh len lỏi theo lốt bánh xe này không ai lấy làm lạ. Chuyện ấy bình thường. Như một chuyến xe bình thường trở về giữa mùa Xuân trên một giải đất vẫn đang còn triền miên trong khói lửa.
Ngày Cưới
– Nào... nào tỉnh dậy kẻo trễ rồi... con gái của mẹ...
Tiếng gọi ngọt ngào vắng qua tai Thu xa rồi thật gần. Bàn tay quen thuộc vuốt từ trán Thu xuống má. Bây giờ thì mẹ không còn cù vào cổ Thu như những năm còn bé những mơn nhẹ ở chỗ má lúm đồng tiền. Thế cũng đủ nhột lắm rồi và vì thế Thu đã thức giấc.
Nhưng Thu chưa mở mắt ra vội. Có một cái gì mù mờ chen lấn, xô đẩy trong đầu óc của Thu. Cả người Thu như đang trôi bồng bềnh. Phía dưới là vực thẳm sâu hun hút mà hình như Thu đã ngã xuống đấy và đã kêu gào thảm thiết. Phải rồi, Thu đã gào thảm thiết. Cảm giác nức nở còn như vướng
lấy cổ họng, còn như đọng trên bờ mi, còn như làm run rẩy vành môi khô héo. Nhưng thực sự cái gì đã xảy ra vậy kìa. Thu cố níu lấy một phần nào ý nghĩ để mong chụp bắt được những mảnh sống thực và mộng đã rã rời như sự rã rời mệt mỏi cùng cực đã khiến Thu không thể mở mắt ra, không thể nhấc nổi cánh tay trở dậy. À! Hình
lòa. Tấm gương của chiếc tủ phấn do anh chị Thúy mua tặng vào dịp cưới của Thu này đây. Tấm gương cao vừa đúng đầu người, đúng đầu của Thu thì phải hơn. Thu đã soi mình vào đấy. Áo cô dâu rực rỡ như cánh bướm đầu xuân. Chiếc voan choàng đầu mềm như suối tơ, nhẹ như cánh hồng dìu được tâm hồn của Thu bay bỗng lên trời cao. Vòm trời chan hòa hạnh phúc. Có Thu có anh Sơn. Anh Sơn vững chãi như một cây thông giữa trời mà Thu chỉ ví mình như một cánh bướm nhỏ xíu bám trong vòng tay của anh. Đám cưới xảy ra như một giấc mơ. Tất cả mọi người thấp thoáng ẩn hiện như đoàn người trong mộng tưởng. Không thể nhớ được. Không thể phân biệt được chuyện gì xảy ra trước, chuyện gì xảy ra sau. Kể cả cái hố sâu thẳm mà Thu đã té xuống rồi kêu gào. Nhưng tội gì mà nhớ cho đầy đủ. Hãy chỉ níu lấy giây phút làm Thu sung sướng nhất. Giây phút tưng bừng ở nhà thờ, có cha Thành trang nghiêm đọc những lời cầu chúc cho đôi lứa. Rồi anh Sơn... Ôi! Anh Sơn của
em. Có phải anh đã đeo vào ngón tay em, ngón áp út chiếc nhẫn cưới xinh xắn nhất trên đời. Chiếc nhẫn ràng buộc đời em với đời anh. Chiếc nhẫn sẽ theo em suốt đời và em cũng sẽ đi theo anh suốt cuộc đời khổ nhọc mà anh đang mang đi. Phải... em sẽ theo anh cho đến suốt cuộc đời. Khởi sự từ giây phút này đây. Giây phút mẹ kêu em ở đầu giường. Bàn tay của mẹ mơn man trên má. Chỗ có lúm đồng tiền. Hi. Đến thánh cũng không thể nhịn cười được vì nhột nhạt. Mình sẽ mở mắt ra và sẽ thấy mẹ cười. Căn phòng sáng rạng rỡ. Ở góc phòng là một tấm gương gắn trước tủ phấn. Đấy là tủ phấn của cô dâu. Dậy... con gái của mẹ... bao nhiêu là việc phải làm mà cô ngủ ưỡn ra thế này thì hỏng hết. Ngủ dậy trễ, sau chồng nó chê đó! Thế là Thu mở bừng mắt ra. Mỉm cười một nụ cười. Cơn nấc như còn vướng nghẽn trong cổ họng. Sức nặng nào vẫn còn làm nặng trĩu riềm mi. Vành môi khô héo. Nhưng việc đầu tiên là Thu nhìn vào góc phòng. Hai
chiếc tủ phấn cô dâu còn đó. Tấm gương chói lòa. Những hộp son, phấn, bàn chải, lược còn nguyên ở đó. Mình sẽ trang điểm cho kỹ càng. Bao nhiêu người ngó chớ ít sao. Bộ áo trắng cô dâu rực rỡ như cánh bướm. Chiếc voan choàng đầu mềm như suối tơ. Ta cùng Sơn bay bổng lên trời cao. Thu lại mỉm cười nhìn mẹ. Cặp mắt long lanh sáng. Sáng hơn bất cứ vì sao nào sáng nhất trên bầu trời. Mẹ nhìn Thu bỗng nước mắt ràn rụa. Mẹ quay đi thật nhanh. Ồ! Anh Sơn không có gia đình. Anh Sơn chịu ở rể mà, sao mẹ còn buồn. Mẹ vui lên đi cho ngày cưới của con được trọn vẹn. Áo của con đâu. Chiếc áo mà suốt đời người phụ nữ nào cũng mơ ước được mặc một lần. Mẹ nhoài tay lên rút xuống chiếc áo trắng. Có cả tấm voan, Thu nhảy bổ lại trước gương. Vừa mặc vừa ngắm nghĩa. Thu vui sướng quên bẵng ngay mẹ mình vừa chạy vụt ra khỏi phòng đóng cửa lại. Ở phía tường bên kia, có tiếng mẹ khóc vắng lại. Mẹ thật buồn cười. Con đi lấy chồng. Nhưng chồng
Nhật
con đi hành quân xa thỉnh thoảng mới về. Con vẫn ở với mẹ mà, sao mẹ buồn. Chiếc áo này có vừa không. Nó rộng và dài. Nhưng nó là áo cô dâu. Mình là cô dâu, choàng khăn này. Còn phải đi hài nữa chứ! Thu lăng xăng đi tìm đôi hài. Đôi hài đâu nhỉ. Thu nhớ mình đã xài và đã cất kỹ đâu đó trong một ngăn tủ. Thu lại mở tủ. Những bộ quần áo của anh Sơn xếp ngay ngắn bên cạnh những bộ quần áo của Thu. Ôi, anh Sơn. Anh mới đi không đầy năm ngày mà sao em nhớ anh quá đỗi. Hơi hướng của anh còn phảng phất đâu đây. Nhất là mùi thuốc lá đã từng ướp lên tóc của em. Mùi quen thuộc không thể quên được. Thu ngẩn ngơ với đám quần áo, mãi rồi mới nhớ ra rằng mình đang đi tìm hài. Nàng thu được đôi hài ở góc tủ, trong một chiếc hộp còn thơm mùi giấy mới. Thu đi hài. Thu lại ngắm mình trong gương. Thật đủ bộ cho một cô dâu. Áo voan trắng, đầu trùm voan trắng, chân đi hài. Bộ quần áo hơi thô
cưới
nhưng miễn mình là cô dâu. Suốt ngày hôm nay mình sẽ là cô dâu. Bao nhiêu người sẽ ngắm, bao nhiêu người sẽ trầm trồ khi mình xuất hiện. Thu lắng tai nghe. Quả nhiên ở nhà dưới đang ồn ào. Đông thật. Mẹ đâu rồi. Mẹ dẫn con xuống không thì con ngượng chết. Mẹ hiện ra ở cửa phòng. Mẹ ôm chầm lấy Thu khóc nức nở, Thu cũng sung sướng chấy cả nước mắt. Nhưng rồi Thu cười ngay. Lấy anh Sơn chứ lấy ai mà sợ. Chắc anh chàng đang sốt ruột lắm phải không. Em xuống với anh đây. Thu mở cửa phòng. Đôi mắt rực lửa. Miệng Thu mỉm cười. Thu cố gắng lấy vẻ duyên dáng. Nàng tự nhủ mình phải đi thật thẳng. Bước thật chậm. Bao nhiêu
Chỉ có chiếc voan trên đầu là sửa được. Nó sụp xuống mắt. Thu thò tay ra mé sau, kín đáo kéo cái giải xuống thêm một chút.
Chiếc voan nhích qua vầng trán rịn mồ hôi. Thu lại nhìn rõ mọi người. Tất cả là người quen thuộc đây, nhưng Thu không thể phân biệt ai với ai, đông lắm. Người nối người. Cả ngần ấy khuôn mặt đều hướng về phía Thu. Mắt Thu càng thêm sáng. Thu bước thật chậm. Ồ! Mình sẽ đi tới đầu kia. Bạn phù dâu tệ thế, không biết chạy cả đi đâu. Anh Sơn đâu? Anh Sơn đứng
A! Nhà thờ của cha Thành. Anh Sơn sẽ đeo cho mình chiếc nhẫn thật là xinh. Thu lần tay xuống ngón áp út. Chiếc nhẫn còn nguyên ở đó. Nó làm cho Thu lại nhớ đến anh Sơn. Anh Sơn ngồi xe nào kìa. Nhưng không hề gì. Ta sẽ gặp nhau lại trong nhà thờ. Dưới tượng Chúa. Trước mặt cha Thành. Mình sẽ nguyện cầu hai đứa suốt đời không xa nhau. Nhà thờ đây rồi. Cha Thành đứng trang nghiêm như tất cả mọi lần. Quyển sách nhỏ mở sẵn cha cầm trên tay. Cha bảo Thu quì xuống. Nhưng Thu hỏi còn anh Sơn. Anh Sơn đâu rồi. Chồng con đâu rồi. Thưa Cha. Cha không đáp, nhìn Thu đăm đăm. Thu nhớn nhác nhìn quanh nơi làm lễ. Vẫn đám đông quì gối ngoan ngoãn. Vẫn tiếng cầu kinh rì rào. Khung cảnh y hệt như cách đó vài hôm, đúng ra là một tuần lễ, khi Sơn đeo cho Thu chiếc nhẫn này. Bây giờ Sơn đâu. Thu muốn kêu to lên để gọi cho Sơn nghe thấy. Nhưng đây là nhà thờ. Có cả cha Thành. Hãy hỏi cha. Thưa cha, chồng con đâu. Mấy hôm trước chồng con
Nhật Tiến còn đứng đây. Sao cha không nói. Sao cha không trả lời. Còn mẹ Thu đâu. Bà đã khóc ngất đi ở chiếc quan tài. Trên có phủ quốc kỳ. Có cả những vòng hoa cườm. Thu nhảy bổ lại. Thu hét lên. Thì ra cái vực thẳm chập chờn trong giấc ngủ hôm qua ấy là đây. Nó hiện ra trong khoảnh khắc. Thật phủ phàng.
Thu như được rọi thêm đôi chút ánh sáng vào đầu óc mù mịt bỗng bềnh của mình. Nàng nhìn lại tấm áo cưới. Nàng nhìn lại tấm khăn choàng cô dâu. Thu hét lên điên cuồng. Nàng quên cả là mình đang đứng trong nhà thờ. Quên cả cha Thành đang đứng trước mặt. Chỉ còn một vật vô tri mà nàng phải cấu xé. Nàng đã cấu xé gào thét. Anh Sơn Anh Sơn. Chiếc áo đại tang và vành khăn xô đang xụp xuống đôi mắt rực lửa của nàng đã rách bươm ra tơi tả.
hẳn xuống giường. Trong óc của Hương hiện lên hình ảnh của những năm chạy giặc ngày trước. Những hình ảnh tuy không rõ lắm nhưng đủ để Hương ý thức được trọn vẹn những cảm giác đau thương, khốn khổ của những kẻ phải xa lìa mái nhà êm ấm. Bỗng nhiên đối với Hương, thời gian như thâu ngắn lại để có một sự trùng hợp
đầu xuân | 41 giữa phút giây này với cả một quãng đời ngắn ngủi hồi còn ở quê nhà. Hương thấy như mình đang dẫm chân lên nền đất đỏ. Ôi, làn đất mịn ẩm của quê hương đã gắn bó với biết bao hình ảnh quen thuộc thân yêu. Từng con lạch nhỏ, từng chiếc cầu tre, từng mái tranh cũ kỹ, tiếng chim hót trong vườn, tiếng cá quậy trong mương nước, tiếng tre già ngả nghiêng trong làn gió đưa mùi khói của rơm trong lò bếp, của rạ đốt ngoài cánh đồng, của mùi phân trâu, mùi đất ẩm, tất cả đã sắp xếp trong một trật tự hiền hòa tạo thành hình ảnh vô vàn mến thương của quê nhà yêu dấu. Bây giờ thì tất cả đã chìm sâu trong bóng tối. Bóng tối bao vây lấy Hương như một gông cùm trọn đời. Bóng tối như một vách đá dày đặc, trùng trùng, điệp điệp, ngẩng lên nhìn xuống, ngó ra chung quanh, chỗ nào bóng tối cũng hoàn toàn ngự trị. Nó đã xâm chiếm tất cả vùng ánh sáng mà Hương được thụ hưởng. Ôi, những ngày còn trông được, thấy được, sao mà ngắn ngủi. Để từ
viễn xa chị, chị đang trở thành một kẻ xa lạ trong trí nhớ của Hương. Nghĩ vậy là Hương bật lên tiếng khóc. Những giọt nước mắt ứa ra ở hai bờ mi, rơi thánh thót xuống mặt giường đem lại cho Hương cái cảm giác vừa nóng, vừa mặn. Khóc chán, Hương mở mắt thật to ngước lên đỉnh màn. Tất cả chỉ là một khoảng tối đen mù mịt. Khoảng tối rộng bao la vượt qua căn nhà nhỏ bé này và tràn lan mênh mông khắp mọi nơi
được ảnh hưởng vũ bão của tàn phá. Chị Kim may hơn vì không có mặt ở quê nhà. Chị trọ học ở nhà chú thím trên tỉnh. Chị thoát được cơn thịnh nộ của chiến tranh, chị sẽ lớn lên và rồi sẽ đẹp hơn là những điều mà mọi người đã xưng tụng. Chú thím không con cái, đem về nuôi cả hai chị em. Đấy là điều may mắn hiếm có mà Hương và chị Kim vẫn
chật hẹp với cái giường quen thuộc, cái bàn kê ở chỗ này, cái tủ ở chỗ kia, cái bàn có chân xộc xệch, cái tủ có hai vết chuột gậm, một vết nứt ở cánh cửa trái, một đinh khuy bị rớt bỏ ở cánh bên mặt. Chỗ Hương ngồi thường xuyên là ở góc tường ngay sát cửa sổ. Từ chỗ đó, Hương có thể hướng mặt ra bên ngoài để nghe được tiếng gió rì rào trong cành lá, tiếng chim nhỏ chiêm chiếp khi chuyền cảnh, và Hương ngửi được cả mùi nắng khô để biết trời sáng sớm, về trưa
hay xế chiều. Một ngày, Hương di chuyển rất ít. Từ chỗ Hương ngồi lại chai nước ở đầu tủ hết năm bước dài và một bước ngắn, lại cái núm quạt trên tường hết sáu bước đi thẳng và hai bước rẽ ngang, còn khi cần ra bể nước thì Hương có ba chặng dừng chân làm mốc định hướng: cánh cửa thông vào nhà trong, chiếc cột gỗ ở đầu hiên sau, và thân cây trúc đào cách bể nước vừa đúng tám bước. Chị Kim đi học buổi sáng. Buổi chiều, chị ngồi học bài, làm bài ở mặt bàn. Nhiều khi Hương hay hỏi vu vơ, có câu chị trả lời được, có câu chị không thể trả lời nên sinh cáu kỉnh. Chị la lối bắt Hương ngồi yên cho chị làm bài. Hương tủi thân muốn khóc. Bao giờ chị Kim cũng hối hận ngay và chị ôm Hương vào lòng để bày tỏ sự hối lỗi của mình. Chị ôn tồn nói: – Hương hỏi chị về con Sương, con Huệ, con Bích thì làm sao chị biết mà trả lời. Có thể chúng nó còn sống, có thể chúng nó đã
không còn. Đã lâu lắm rồi, chị không nghe ai nói một tin tức gì về quê nhà cả.
Hương cãi lại:
– Con Sương thì có chứ, bác Thành bảo nó nằm ở bệnh viện.
– Phải rồi, nhưng đó là ba năm về trước. Nó bị cưa một chân. Nó nằm ở y viện trên sư đoàn. Nhưng sau khi khỏi rồi thì nó phải ra chứ. Từ đó có nghe ai nói gì nữa đâu.
– Thế còn con Thu nửa. Nghe nói Thu không việc gì mà, phải không chị?
– Ba năm qua rồi, biết đâu mà nói. Chị thấy Hương toàn chỉ nghĩ đến chuyện từ bao giờ bao giờ rồi. Hương mỉm cười chua chát:
– Đối với em, mọi việc đều ngừng lại ở đấy. Em thấy khói bốc ngùn ngụt che mờ cả khu xóm nhà mình, em thấy có người ngã xấp trên bờ mương, có người trên dòng nước...
– Tại vì nhà quê rộng hơn, di chuyển dễ hơn.
– Tại sao người ta lại cứ thích đánh nhau?
Chị Kim chép miệng:
– Lại hỏi lẩn thẩn rồi, chuyện người lớn mình đâu có biết.
– Em thì biết rồi! Mỗi một bên người ta có một lý do để tự bênh vực.
– Ai bảo Hương thế?
– Không ai bảo hết nhưng em biết chỉ có như vậy thì mới có chiến tranh. Và chiến tranh sẽ kéo thật dài, thật lâu, vì ai chẳng cho mình có lý.
– Hương nói như một bà cụ non. Thôi dẹp chuyện chiến tranh đi.
– Chuyện gì chị cũng cấm em nói, vậy thì em biết nói chuyện gì bây giờ.
– Chị kể chuyện cổ tích cho Hương nghe nhé.
Hương nhếch một nụ cười nhạt nhẽo: – Chuyện cổ tích chán chết. Ngày xưa so với ngày nay hoàn toàn khác nhau xa rồi. Chuyện ngày xưa là chuyện bịa đặt, chỉ chuyện ngày nay mới là có thật mà thôi
Nói rồi Hương ngước mắt nhìn về phía chị Kim. Hương có cảm giác như chị đang chăm chú nhìn nó. Hương lại cũng có cảm giác như chị Kim đang nghĩ về Hương như một con quái vật. Nó không còn là Hương bé bỏng của chị ngày nào. Ừ. Làm sao nó còn bé bỏng được, khi mà tuổi thơ của Hương đã bị chôn vùi trong bóng tối suốt đời. Những cây gậy thần trong truyện cổ tích đã bị chôn vùi trong lửa đỏ. Các ông tiên, bà tiên cũng đã trúng đạn ngã gục trên
Dưới mắt chị, Hương vẫn là Hương bé bỏng ngày nào. Sự hòa hợp giữa chị và Hương cứ theo cái đà ấy mà xa cách dần. Hai người chỉ còn
đoán ngay nó nhỏ hơn mình ít ra là vài ba tuổi. Con bé có vẻ dễ thương vì nó hay cười. Tiếng cười của nó nghe lạ tai, Hương ví như là chuột rúc. Nó tên là Thanh, mồ côi bố, mẹ thất lạc trong biến cố bi thảm của Việt kiều ở Cao Miên.
Khi kiểm kê gia đình, không có ai nhận nó cả. Ông trưởng trại phải lãnh nó về như một thứ con nuôi. Con bé rất vô tâm. Nó sống nhởn nhơ như cây cỏ. Nó cũng không hề bận tâm gì về hoàn cảnh bơ vơ của nó hiện tại. Người lớn an ủi nó rằng sẽ có ngày mẹ nó tìm đến đón. Nó tin ngay và thản nhiên chờ đợi một ngày xum họp mà ai cũng biết là chẳng bao giờ sẽ xảy ra. Ông trưởng trại có một gia đình khá đông
Nó ăn, chơi, ngủ, nhởn nhơ lúc nào, giờ nào cũng không ai để ý. Về nhà đúng bữa thì có ăn, quá giờ quá giấc thì rán nhịn đến chiều, không ai mắng mỏ thêm. Một hai lần phải nhịn đói Thanh cũng vẫn chỉ cười toe toét, cười như chuột rúc, rồi nó lại nhảy như một con chó hoang. Niềm vui dễ dãi khiến nó quên ngay cái đói dầy vò.
Chị Kim gặp Thanh vào một hôm đi qua gò ông Định. Con bé đang lượm một chiếc vỏ hộp để nhặt lên một vài sợi mì còn sót lại. Khuôn mặt của nó vêu vao. Làn da đã đen đúa lại thêm nhếch nháp bẩn thỉu. Nó bận một cái áo khá dày và thật lớn so với tầm vóc nhỏ bé của nó.
Đó là tấm áo duy nhất trong buổi phát quà cứu trợ mà nó nhận được từ tay một người hảo tâm tình nguyện đi làm việc thiện. Cái áo Thanh vẫn mặc từ đó đến nay, mặt vải đen quánh lại vì cát và đất bẩn. Một đôi lần nó cũng đem giặt sơ sài. Nhưng ít thôi vì mỗi lần giặt thì nó phải ngồi chồm
đầu xuân
hổm trên bờ cỏ trong bóng mát để chờ hong khô. Có một lần đang ngồi như vậy, nó vùng đuổi theo một con bướm có đôi cánh vàng ối như áo bào vua giát ngọc. Nó cũng chẳng lấy gì làm mắc cỡ, vì đây đó trong đồng cỏ, dưới bờ mương bọn trẻ khác cũng tồng ngồng chạy chơi như thế. Hôm ấy chị Kim gặp Thanh đang nhấm nháp từng sợi mì đã khô queo trong những cái lon vứt lổng chổng có ruồi nhặng bu đầy. Chị vẫy Thanh lại. Nó ngẩng lên nhìn nửa rụt rè, nửa sợ hãi. Chị bèn nheo một bên mắt và cười thật tươi để lộ hai hàm răng trắng bóng. Con bé toét miệng ra cười theo. Thế là chị chinh phục được nó. Chị mua cho nó một cái bánh. Nó ăn ngấu nghiến một cách thô lỗ. Ăn xong nó giơ tay lật đi lật lại chiếc là dong gói ngoài để nhặt từng mẫu bánh còn sót lại rồi giơ tay quẹt
nó bằng chừng ấy.
Một hôm khác chị sửa lại vài cái áo cũ của Hương cho hẹp đi rồi cuộn đem cho nó một gói. Lần này tắm ở sông xong nó không còn phải ngồi chồm hổm chờ hong khô, vì cái áo cũ của nó đã bị chị Kim cho trôi theo dòng nước. Bận áo sạch sẽ vào, trông Thanh trắng hơn và xinh xắn hẳn ra. Chị Kim vui sướng như vừa làm xong công việc đem viên ngọc ra khỏi vùng tối tăm bẩn thỉu. Chị dẫn Thanh về nhà, kể cho Hương nghe về hoàn cảnh của người bạn mới. Hương quơ tay rờ rẫm lên mái tóc
Nắng đầu xuân
mặt của nó đầy vẻ tò mò. Nhưng nó không dám hỏi thêm. Và nó quên ngay khi chị Kim bày ra giường những món đồ chơi mà đến nay Hương đã phế bỏ. Thanh vồ hết món này tới món kia một cách trầm trồ. Hương tiếc không thấy được nét mặt vui sướng của nó nhưng hẳn là phải đầy vẻ rạng rỡ. Lòng Hương nhẹ nhõm hẳn đi khi thấy nó cười. Tiếng cười thoải mái dễ dãi, và Hương vẫn ví như chuột rúc. Trong các đồ chơi, Thanh thích nhất là quả bóng vừa nẩy nẩy được lại vừa gõ trên mặt sàn đá những tiếng ròn tan. Nhiều khi suốt cả buổi, Thanh mải mê chạy theo quả bóng lăn lóc cóc trên nền nhà. Hương thấy vậy chịu khó lúi húi đi lục ở trong giường ra cỗ chuyền bằng đũa tre cật mà hồi xưa Hương vẫn chơi với Sương với Huệ ở quê nhà. Hương giảng giải cho nó cách
chăm chỉ tiếp diễn đúng như vậy mà không chán, không mệt. Trước sự thích thú của nó, Hương không ngần ngại cho nó luôn cả cỗ chuyền mặc dầu đối với Hương đó là một kỷ niệm vô cùng quí giá.
Dần dà, chị Kim dàn xếp cho Hương và Thanh dẫn nhau đi ra khỏi nhà. Đã lâu lắm Hương mới được đi những quãng thật xa.
Sự dìu dắt của Thanh còn vụng về nên nhiều lần Hương xuýt vấp té nhưng con bé tuy vậy mà rất khỏe. Nó nắm bàn tay của Hương một cách vững chãi.
Hai chị em dẫn nhau đi men theo con đường đất nhỏ, băng qua một cây cầu gỗ và thường tìm chỗ ngồi trên một mô đất cao. Ở đấy bốn bề hoàn toàn êm ả với tiếng gió rì rào trong khuôn lá, tiếng chim chiêm chiếp chuyền cành, và nghe xa xa cả tiếng gà eo óc gáy buổi trưa. Bỗng nhiên Hương thấy như mình vụt sống lại những ngày vui sướng hồn nhiên
Nắng đầu xuân |
ở quê nhà. Trước mắt của Hương bỗng như đang chan hòa ánh sáng với cánh đồng xanh mướt phơi mình dưới bầu trời xanh không gọn một áng mây trôi. Xa xa là bóng dáng những con trâu đen trũi nổi bật trên mặt nước sáng lòa như những tấm gương phản chiếu. Hương thấy lòng mình trỗi dậy đầy đủ những cảm giác hồn nhiên vui sướng của những ngày quê nhà yêu dấu còn thanh bình. Hương ngửa mặt lên cao, hít những hơi thật dài. Bầu không khí trong lành tràn ngập hai buồng phổi thanh thoát và nhẹ nhõm làm Thanh thấy như đang bay bổng trên trời cao. Lòng vui sướng như mới bắt gặp lại sự hồn nhiên sau hơn ba năm vắng bóng, Hương vụt quay lại nắm chặt lấy tay Thanh rồi cất tiếng hát. Giọng hát của Hương vang lên như một chuỗi âm thanh rộn ràng, thoát đi một cách vội vã sau bao lâu bị tù túng, giam hãm. Đến khi hát xong thì Hương thấy mệt lả. Hương vừa cười vừa hỏi Thanh:
– Chị hát cỏ hay không, Thanh?
Thanh ngập ngừng rồi đáp: – Hay! – Thanh có biết hát không?
Con bé lắc đầu. Hương hỏi lại: − Thanh có biết hát không?
Con bé lại lắc đầu. Vì không thấy tiếng nó trả lời, Hương ngạc nhiên giơ bàn tay lên quờ quạng khuôn mặt của nó. Thanh hơi nhích người lùi lại, Hương vụt có cảm giác như nó đang chăm chú nhìn mình. Nguồn vui mới mọc của Hương chợt lắng xuống và một cơn gió lạnh lẽo như vừa thoáng thổi qua ý nghĩ, Hương cố dằn lòng mình lại và mỉm một nụ cười gượng gạo: – Trời ơi, chị hỏi mà Thanh lắc đầu thì làm sao chị biết. Chị mù mà! Thanh cất tiếng hỏi:
– Làm sao chị mù?
– Tại chị trúng miểng đạn.
– Trúng vào đâu?
– Vào ngay mắt. – Cho em coi được không?
Hương ngừng một giây rồi thong thả một cách hết sức thản nhiên đưa tay lên gỡ chiếc kính râm vẫn gắn liền trên mắt như hình với bóng. Rồi Hương mở to mắt lên hướng về phía Thanh không trả lời. Con bé nhăn mặt, hãi hùng ngồi lùi hẳn lại. Đôi tròng trắng khủng khiếp lồi hẳn ra những nếp gấp, nếp cuộn làm cho khuôn mặt khả ái của Hương bỗng mang một vẻ rùng rợn ma quái. Đến lúc Hương giơ bàn tay gầy guộc lên định nắm lấy tay nó thì Thanh nhổm người lùi phắt ngay lại. Cử chỉ của nó làm Hương chết điếng. Bàn tay của Hương như tê cứng
lại. Hương cố gắng mà không có cách nào rút được bàn tay của mình về. Mỗi giây phút kéo dài sự trân trối như thế, Hương càng cảm thấy mình trơ trẽn đến băng giá cả tâm hồn. Một lát lâu chợt Hương thấy bàn tay mềm mại của con bé đang chạm lên da mặt của mình. Hương biết nó đang run rẩy cố gắng đặt lại đôi kính đen trở lại chỗ cũ trên đôi mắt lộn tròng. Bỗng nhiên sự giận dữ kéo ùa đến rất nhanh và Hương gân cổ lên hét thất thanh: – Cút đi! Cút đi! Hãy mặc kệ xác tôi! Con bé hốt hoảng vì tiếng thét bất ngờ của Hương. Nó vội rút tay lại làm cặp kính rớt hờ hững ngay trên bờ mũi của Hương, Hương chồm dậy hất cái kính xuống đất, giẫm mạnh và òa lên tiếng khóc. Tiếng khóc nức nở, gào thét như tích lũy từ bao nhiêu lâu bây giờ mới có dịp bộc phát. Những cử
chỉ bất ngờ ấy làm Thanh sợ hãi đến ríu cả chân lại. Nó luống cuống không biết nên chạy lại ôm lấy chị Hương để xin lỗi hay bỏ mặc chị với nỗi hận thù đang làm cho mặt chị xám ngoét đi với hai làn môi run lên bần bật. Vừa lúc ấy có tiếng chị Kim kêu tên Hương nheo nhéo để gọi Hương trở về. Sự có mặt của chị Kim làm Thanh quyết định được mau chóng hơn. Nó bỏ mặc Hương ngồi đó rồi vùng lên chạy. Hương nghe thấy rõ tiếng chân của nó giẫm sào sạo trên mặt đất sỏi. Trong những ngày gần đây, hiển nhiên Thanh đã đem lại cho Hương nhiều phút ấm áp. Bây giờ thì không còn gì nữa rồi. Nó đã bỏ đi, như một con chim vụt xà xuống đậu rồi lại cất cánh bay bổng lên trời cao. Nghĩ thế, Hương lại oà lên khóc. Lần này Hương khóc là vì thương Thanh nhớ Thanh chứ không phải là hờn giận như mấy phút về trước.
Bẵng đi gần một tuần lễ sau, chợt một hôm tỉnh giấc ngủ trưa trở dậy Hương quờ thấy làn da mặt quen thuộc bên cạnh mình. Hương reo lên: – Thanh! Tiếng Thanh thì thào: – Em đây! Em ngồi chờ chị tỉnh dậy, từ lâu lắm rồi. Chị đeo thử cái này nhé.
Vừa nói, Thanh vừa lùa lên mặt Hương một vật lạnh lạnh. Hương giật mình ngơ ngác: – Kính! Thanh lấy cái kính này ở đâu ra thế? Thanh cười rúc lên một cách thích thú: – Cái này là em lấy của ông Trưởng Trại ba nuôi em đó. Hương hốt hoảng:
– Không bằng lòng cũng phải bằng lòng.
Từ nay không có cái gì chia rẽ được chị em mình nữa Thanh nhé, Thanh nhé.
Vẻ mặt của Hương vụt rạng lên như tia sáng le lói của một ngày đầu xuân ngợp nắng.
Người mang tin về
CHIẾC xe đang phóng mau bỗng bị thắng gấp lại, Phùng nhào cả nửa mình về phía đằng trước. Chàng vội chống hai tay lên thành ghế trước mặt. Chiếc túi đeo lưng đựng quân trang để cạnh gã cũng bị xô đi, chênh vênh như muốn rớt xuống mặt sàn. Gã tài xế thò đầu ra chửi một câu thật tục. Phùng nghển đầu ngó qua kính đằng trước. Chàng nom thấy chiếc Solex vẫn còn trước mũi xe và đang lại không thấy mặt người lái nhưng chàng đoán cô bé thật là xinh. Mái tóc thề xõa xuống ngang lưng, mảng lưng thon và dài sau lớp áo màu tím nhạt. Chiếc xe lại vượt lên. Phùng cố ngoái cổ lại nhìn. Chàng bắt gặp một khuôn mặt bầu bĩnh với cặp mắt to và đen láy đang
sắt, họng súng và đốm sáng đỏ lừ của những trái hỏa châu báo hiệu khi đụng độ. Ở đây, Sài Gòn vượt ra rất xa tầm ý nghĩ của
Sài Gòn thêm phần phong phú, cho sự sinh hoạt hàng ngày mỗi lúc một thêm vội vã, hối hả, và hàng đêm, khi những trái sáng chập chờn xuất hiện trên nền trời long lanh mấy vì sao ướt, người dân Sài Gòn không cảm thấy lòng rộn rã, hay nôn nóng. Súng nổ ở đây hay ở đó, từ xa hay lại gần, dữ dội bay nhỏ nhoi, kéo dài từ đêm đến sáng hay thoáng qua trong một giây lát, tất cả nào có làm yếu đi cái ánh sáng rực rỡ của những ngọn đèn màu, làm giảm đi những cung bậc rộn rã, say mê, cuồng dại của những điệu nhạc quay cuồng trong các tiệm trà, tiệm nhảy. Sài Gòn đặc sắc như vậy, chả thế mà lúc trực thăng cất cánh đem Phùng về nghỉ phép, tất cả đại đội của Phùng còn cố gào lên với chàng, như muốn át cả tiếng máy nổ:
khuôn mặt. Những khuôn mặt phong sương, sạm nắng, hiện thân của những chuỗi ngày dài gian khổ. Hôm nay, tất cả còn đó, đông đủ, đầm ấm và thân yêu. Nhưng ngày mai không biết trong số đó, những kẻ nào sẽ ngã xuống, những khuôn mặt nào sẽ mất đi.
Ngần ấy cánh tay, ngần ấy nụ cười, làn môi và ánh mắt, tất cả đều dễ thương như nhau, đều gắn liền vào cuộc đời của Phùng bằng tình yêu thương sâu đậm. Mỗi người một nết, mỗi người một kỷ niệm, mỗi người một dấu vết riêng biệt đã làm cho Phùng không còn thấy mình là của riêng mình. Cuộc đời của chàng đã hòa lẫn vào tất cả, từ tiếng
đã hòa nhịp theo sự vui buồn của anh em đồng đội. Chỉ có anh em đồng đội mới thực sự chia xẻ với Phùng mọi nỗi niềm hân hoan cũng như tủi nhục, đầy đủ cũng như thiếu thốn, họ đã chứng kiến cho nhau từng phút từng giây sự biến đổi trong cuộc đời của mỗi người. Phùng đau bụng đi chảy, tin ấy cũng được loan đi đầy đủ trong một trăm mười sáu người. Thiết đau. Hiền trùng gió. Quý bán đồng hồ, vợ Ký sinh con, người nào cũng nhận được ít nhất là một lời thăm hỏi của mọi người. Hoàn cảnh đã gắn bỏ họ lại như keo sơn. Mỗi lần đại đội mất đi một người ai cũng có cảm giác như chính da thịt của mình đã bị róc bỏ. Đau đớn, tiếc thương, ngậm ngùi và uất hận. Thời gian càng trôi qua, những cảm giác đó càng thêm
Những khuôn mặt thân thuộc thu nhỏ dần rồi khuất sau màu xanh của lá rừng, màu trắng đục của sương sớm. Tạm biệt tất cả những lời nói bông đùa, những nụ cười, những ánh mắt và cả khẩu đại liên thân thuộc vẫn bầu bạn với Phùng trong mọi cuộc hành quân. Chợt Phùng có cảm giác như mình là một kẻ xấu chơi, bỏ cuộc giữa đường để đi từ chốn gian nan đó về nơi êm ái của vùng an toàn. Nhưng Phùng tự hứa sẽ trở lại đúng kỳ. Khẩu đại liên còn đó. Mười lăm ngày phép sẽ không quá dài để biến Phùng thành một kẻ tình phụ. Phùng khoan khoái nghĩ đến ánh thép lạnh lẽo, họng súng lầm lì của cây súng mà chàng coi quí hơn sinh mạng. Ngón tay của chàng mấp máy. Tai Phùng như vẳng lên tiếng nổ dòn dã, đều đặn, dóng một, trong những đêm thao thức dưới ánh sáng của hỏa châu –Nó đã biến thành một nhân vật sống động, tín nhiệm, chẳng bao giờ phản bội hay giở chứng lúc nửa chừng, vào cái phút mà mọi người trông cậy vào nó nhất – Xa nó, Phùng thấy nhớ.
Nhật Tiến vào ngực, vào đùi và ống chân. Hắn đã lao thêm được vài thước nữa và ngã chúi xuống một mô đất mọc đầy cỏ gai. Thiết ở đằng sau bò lên thật nhanh và ôm ngang được vòng lưng của hắn để kéo về. Trong lúc đó, Phùng nghiến răng xả nhưng tràng đạn thật dài vào những lùm cây trước mặt. Tiếng la của Huy còn có tác động bằng cả ngàn tiếng kèn thúc quân của bất cứ một anh lính nào thổi hay nhất. Trận đánh kết thúc hơn một giờ sau đó và Phùng trở lại gặp Huy lúc hắn được đặt nằm ngay ngắn trên tấm poncho trải lên nệm cỏ ướt đẫm sương đêm. Máy bay tải thương chỉ có thể xuống vào lúc bình minh khi sương mù tan hết.
Nhưng Phùng chỉ cho Huy nhấp từng ngụm thật nhỏ, mỗi bận chỉ đủ làm ướt được cổ họng khô khan của hắn. Chàng nói: – Ráng đi, mai sáng trực thăng xuống được, cậu sẽ trở về hậu cứ. Đừng sợ hãi. Sự sợ hãi làm tiêu tan sức chịu đựng cuối cùng của mình.
Huy nhắm mắt lại và khẽ gật đầu. Bây giờ trông hắn bạc nhược và xanh như tàu lá. Máu thấm ra đỏ lừ cả những lớp bông băng ở phía ngoài. Hai bàn tay úp trên ngực hắn tóp lại, những đường gân nồi lên run rầy. Phùng khể cầm lấy, nắm thật chặt. Chàng thấy một cảm giác lạnh lẽo thấm qua gan bàn tay. Nhìn sự yếu đuối bất lực của bạn, Phùng bỗng cảm thấy lòng chua xót.
Chẳng lẽ lại thêm một Huy nữa vĩnh viễn ra đi hay sao. Đại đội này sẽ ra thế nào nếu thiếu giọng hát trầm buồn, tiếng đàn thánh thót của anh chàng trẻ tuổi, tài hoa,
Nhật Tiến
em út của Đại đội ấy. Phùng khẽ đưa bàn tay sờ soạng nhè nhẹ lên những vết băng trắng toát trên mình bạn. Bỗng Huy có vẻ đau đớn.
Hắn cố gắng cựa mình và mở mắt ra nhìn làn sương đêm mù mịt trắng xóa như tẩm khăn xô úp chụp cả vùng núi đồi trùng điệp. Bên tai hắn, tiếng đại liên nổ dòn như còn văng vẳng ở đâu đó.
Nhất là tiếng gào tuyệt vọng kinh hãi của chính hắn thốt ra bây giờ còn dội trong màng tai. Âm thanh ghê rợn đó ngắn dài và thấm mãi vào tận vùng cảm giác kinh sợ xấu xa của chính hắn. Thốt nhiên, trên cặp mắt hờ hững của Huy bỗng ứa ra hai giọt nước mắt long lanh như hai hạt thủy tinh. Huy vội vàng mỉm cười ngay để che giấu sự xúc động của mình. Hắn nói: – Những mảnh đạn gắp ra rồi, thịt sẽ được khíu lại rồi lành ngay đấy nhỉ. Cậu có biết trong vòng bao lâu không?
Phùng vội đáp:
– Chẳng lâu đầu. Một hai tuần lễ là cùng.
– Cho là ba tuần đi. Ba tuần được nằm trên đệm trắng, ăn cơm nóng và ngủ trong màn tuyn, hạnh phúc lắm đấy chứ.
– Tuyệt diệu nữa là đằng khác.
– Nhưng cũng buồn. Phùng ạ. Mình chả có ai tới thăm cả. Thế mới biết có người yêu trong lúc này thật là cần thiết.
– Vậy Huy chưa yêu ai sao? Huy mỉm cười héo hắt:
– Yêu chứ. Yêu điên cuồng nữa là đẳng khác. Người yêu của tôi là một cô hàng xóm. Tuổi độ mười lăm mười sáu thôi, cái tuổi còn đầy ước vọng tha thiết và thơ ngây...
– Thơm lắm đấy nhé.
– Thơm lừng ấy chứ lị. Làm mình tốn bao nhiêu là đêm không ngủ, đốt bao nhiêu là đèn cầy để làm thơ tỏ tình.
– Sức mấy mà ăn. Tập thơ mình gửi đi rồi, thấp thỏm ba đêm liền mới được hồi âm. Cô em có vẻ sặc mùi tiểu thuyết. Cô em chê mình ươn hèn trốn tránh nhiệm vụ làm trai thời loạn. Nói toẹt ra là cô em chê thẳng nhỏ này trốn quân dịch!...
Phùng la lên: – Ý! Thế thì hỗn thật. – Một tuần lễ sau, nghiễm nhiên tôi trở thành lính tráng thực thụ, mặc dầu còn bốn tháng nữa tôi mới bắt đầu tới tuổi đi làm nghĩa vụ công dân. Mẹ tôi, chị tôi tới khóc như mưa đến nỗi sau này được nghỉ phép tôi không dám bén mảng về nhà. Tôi sợ khuôn mặt quá cằn cỗi của mẹ già, sợ ánh mắt quá tha thiết và dịu dàng của chị tôi thường ướt đẫm những giọt lệ thương xót. – Còn cô bé?
– Sự tình nguyện của tôi đã đánh đổi được một cụ cười bố thí. Nàng cười nhưng ánh mắt của nàng hờ hững. Tôi không tìm thấy tình yêu thương ở trên khuôn mặt kiều diễm đó. Tôi đã vĩnh viễn ra đi và không bao giờ có ý định gặp lại.
Ngừng một lát, Huy tiếp: – Ồ, nhưng tình yêu năm mười tám thì kể làm gì. Dữ dội như biển mà cũng bình thản như biển, bây giờ tôi không còn vấn vương gì đến hình ảnh kiều diễm đó nữa. Những đêm ngồi gác một mình trên chòi nhỏ, tôi chỉ còn nghĩ về mẹ tôi và chị tôi, những người mà càng xa càng thấy lòng nhớ thương sâu đậm. Tôi khát quá cho tôi uống một hơi đi... Phùng lắc đầu: – Không được đâu. Nguy lắm Huy ạ. Huy rên rỉ trong đau đớn: – Đừng để cho tôi làm ma khát, tội lắm anh Phùng à.
Lần này Huy cựa mình, và máu lại ứa ra thấm ướt cả lớp băng bọc ngoài. Huy cố nghển cổ lên nhìn tấm khăn tay mầu trắng đặt trên ngực. Dưới ánh sáng vàng úa của ngọn đèn thắp bằng pin chạy máy C–10, chiếc khăn phô ra những vết ngón tay in màu máu đỏ thẫm trên làn vải nhầu nát.
Phùng ghé chiếc bi đông vào miệng hắn và nhễu xuống một ngụm thật nhỏ. Vành môi khô héo của Huy khẽ hé ra. Phùng nhìn thấy những bắp thịt quanh miệng hắn run run. Khi Phùng đậy nắp bình nước lại thì hắn lên tiếng rên nho nhỏ. Phùng bảo: – Thôi đừng nói tiếp nữa. Như thế đỡ khát hơn. Huy chép miệng, liếm môi nằm thở dài. Một lát hắn lại cất tiếng: – Đừng hy vọng gì cả, anh Phùng ạ. Tôi biết mình thế nào rồi. Ngày mai khi chôn tôi, anh nhớ lục trong bóp ở túi quần sau này hai tấm hình. Một tấm chụp tôi đang ngồi
gác ở pháo đài sau đồn Phi Mã. Còn tấm kia là ảnh của mẹ và chị tôi đó. Trong hình có thể nhận ra người, một ngày kia trời run rủi cho anh gặp lại thì nhờ anh trao cho mẹ và chị tôi tấm hình của tôi và nói rằng lúc chết tôi chỉ nghĩ đến hai người.
Một lát, Huy nhấc cái khăn tay lên: – Cả cái khăn này nữa. Để cho mẹ thấy máu mủ của con mẹ một lần cuối cùng. Bốn giờ sáng hôm ấy thì Huy tắt thở. Khuôn mặt Huy hơi nhăn nhó vì đau đớn. Nhưng miệng Huy cố nhếch một nụ cười để giữ vẻ bình thản. Mắt Huy nhắm nghiền như người đang ngủ. Mái tóc ngắn xòa xuống che khuất một nửa vầng trán phẳng. Đầu Huy hơi ngoẹo về phía bên trái. Gò má hai bên hóp lại, quầng mắt thâm đen vì thiếu ngủ. Năm nay tuổi Huy vừa đúng hai mươi hai. o O o
PHÙNG xuống xe và ôm túi quân trang
đi vào một ngõ hẻm trong vùng Phú Nhuận. Hơn một năm trời mới trở lại chốn cũ, Phùng
không thấy cảnh vật đổi khác bao nhiêu. Lòng ngõ vẫn chật chội và sình lầy.
Những mái nhà thấp như xơ xác thêm ra. Vách gỗ thêm xộc xệch vá víu và những đứa trẻ vẫn rách rưới bẩn thỉu như những con chuột mày mò trong ổ tối. Phùng dừng chân ở một căn nhà gần cuối hẻm.
Chàng thấy bà chị dâu chửa vượt mặt đang ngồi vừa cho con bú, vừa vá áo ở đầu hè. Như thể là anh Soạn sắp cho ra đời đứa con thứ bảy. Thật là quá nhiều và quá giỏi. Đối với Phùng chàng có thể có thừa can đảm bê khẩu đại liên chạy tới bất cứ
chị Soạn sản xuất đều đều và anh Soạn một mình một gánh, vẫn lo lắng đầy đủ cho gia đình, Phùng luôn luôn tỏ lòng khâm phục. Soạn là anh cùng cha khác mẹ với Phùng. Ông cụ mất sớm. Mẹ Phùng ở lại ngoài Bắc. Còn mẹ Soạn vô Nam ít lâu cũng từ trần. Họ hàng ở trong này chẳng có ai nên mỗi lần nghỉ phép, Phùng vẫn thường đi lại thăm viếng Soạn và coi như gia đình của mình. Lũ trẻ, con chị Soạn ào ra đón Phùng như một lũ ruồi. Phùng không nhớ được hết tên từng đứa, nhưng lòng thương mến của chàng tràn ngập khi thấy chúng nó quấn quít và đánh đu lấy mình ở chung quanh. Trong lúc đó, chị Soạn bỏ cái rổ đồ khâu xuống thềm nhà, nhìn Phùng vui vẻ: – Chuyến này lâu dữ chú mới trở về. Phùng thấy chị xanh hơn, gầy hơn, già hơn trước rất nhiều. Chàng đáp: – Đánh nhau dữ quá chị ơi. Xin được cái giấy phép là cả một vấn đề.
– Bao giờ chủ lại đi? – Ít ra là nửa tháng chị ạ. Còn ăn thua ở chuyện xin được máy bay trở ra nữa.
Phùng trao túi quân trang cho mấy đứa lớn rồi bế thẳng bé út lên tay đi vào trong nhà. Đầu chàng phải chúi xuống để tránh khỏi cái ngưỡng cửa thấp. Căn nhà vẫn tối om vì không có cửa sổ. Đồ đạc vẫn lủng củng, tồi tàn như ngày nào chàng ở đó ra đi. Điều đó chứng tỏ anh Soạn cũng không làm ăn khấm khá hơn chút nào, mặc dầu anh ấy cũng xoay xỏa đủ nghề. Hồi năm trước nhân chuyến ghé về nghỉ phép, Phùng biết anh đang làm báo. Ít lâu sau, chàng nhận được thư của anh nói là bây giờ anh đã đi dạy học ở mấy trường tư. Rồi ít lâu sau nữa, anh lại báo tin đã bỏ trường tư
mát, những thú vui giản dị, những thói quen cố hữu và ngay đến cả những ước vọng không cần thành sự thật mà chỉ cần mang đến cho anh đôi chút hy vọng trong đời sống, anh cũng bị cuộc đời tước đoạt đi nữa. Vì thế trông anh già sọm hẳn đi.
Buổi tối lúc anh trở về, Phùng đưa tay bắt lấy tay anh mà không khỏi giật mình. Mặt anh hốc hác, hai mắt thâm quầng, vầng trán thấp thoáng những nếp nhăn của sự lo nghĩ và mệt mỏi. Phùng nói:
– Trông anh dạo này sút hẳn đi.
Soạn mỉm cười:
– Phải vận động, xông pha như chú thì mới khỏe mạnh được. Còn tôi dạo này bết quá. Đi làm về, chỉ có ăn rồi nằm.
– Anh vẫn làm ở sở Mỹ đấy chứ?
– Thôi lâu rồi. Phùng ngạc nhiên:
– Ủa! Sao lạ vậy?
Soạn mỉm cười chua chát:
– Thì cuộc đời của tôi vẫn ratée (thất bại) như thế là thường.
Nói rồi, Soạn bế đứa con nhỏ lên cánh tay gầy guộc của mình:
– Lắm lúc tôi nghĩ rằng mình chẳng bao giờ làm nên được cơm cháo gì, ngoài cái việc nuôi lũ này lớn lên.
Phùng đáp:
– Như thế là đã giỏi quá đi rồi, chớ như em thì anh bảo em làm nên cái gì? – Ồ chú là chiến sĩ, chú có công to với tổ quốc. – Thì mỗi người một việc Anh làm nhiệm vụ gây dựng những mầm mống tiếp nối cho mai sau. Vấn đề đó mới chính là quan trọng.
– Nó quan trọng nhưng nó không phải là một nhiệm vụ. Đó là sự kiện tất yếu của đời
sống. Lấy vợ rồi đẻ con, ai mà chẳng phải qua cái cầu đó một lần.
– Bây giờ anh làm việc ở đâu?
– Tôi trở lại nghề viết báo. Nó bạc bẽo thật, nhưng tôi cho rằng nó là một phương tiện dễ dãi có thể cứu mạng mình trong khi mình không có nghề gì khác khá hơn được nữa. Phùng bật cười.
– Quan niệm làm báo của anh như thế thật đó à?
– Thật đấy chứ sao. Tôi hết lý tưởng rồi và xin nhường điều đó lại cho những kẻ còn nhiều tham vọng và nghị lực hơn tôi. Nhưng rồi tất cả sẽ đi đến đâu? Muốn có câu trả lời cho đáng hãnh diện một chút thì hãy để đến thế hệ thằng nhỏ này nó trả lời chú ạ! – Còn bây giờ thì... Soạn cười hì hì:
– Bây giờ thì... đồ nhậu nhà tôi bưng lên rồi kia kìa! Chúng mình phải say một bữa chứ nhỉ. Hai anh em ngồi quanh mâm cơm đặt trên phản gỗ. Ngọn đèn dầu lù mù được đặt sát một bên và kê cao bằng một cái hộp thiếc. Soạn mở nút chai rượu đế rót ra ly và nói: – Hồi trước, mỗi buổi chiều đi làm về mình còn được uống một chai bia. Bây giờ bia lên giá thành ra đành phải hy sinh một cái thú. Tuy vậy có rượu để mà uống là còn sung sướng chán rồi, chớ những người như chú thì có khi cả tháng không biết mùi thịt là gì phải không? – Đúng đấy. Nhưng mỗi người một hoàn cảnh. Em nghĩ rằng khi chiến đấu ngoài mặt trận, chẳng người
nhiên mà họ đã biết trước từ khi chấp nhận bước chân vào đời lính kia rồi. Chúng em nhiều khi phải nhịn đói một hai ngày liền mà nào có oán ai đâu. Vì thế đặt ra vấn đề so sánh đời sống giữa hậu phương và tiền tuyến mà không đặt cho khéo léo thì rất dễ buộc cho tụi lính tráng chúng em cái tội kể công, mà chúng em chẳng ai muốn làm chuyện đó cả. – Theo ý chú thì như thế nào là đặt vấn đề khéo léo? Phùng trầm ngâm một lát rồi nói: – Thật sự, người lính khi chiến đấu sợ cái mặc cảm mình là những đứa con bị tập thể bỏ rơi, những kẻ bị đày đọa bên cạnh sự thờ ơ của tất cả mọi người. Nếu giải tỏa được cái mặc cảm ấy thì khổ cực đến mấy họ cũng chịu đựng được một cách vui vẻ.
– Chú nói có lý. Vấn đề thuộc về tinh thần. Mà muốn có tinh thần, chúng ta cần một lý tưởng.
Phùng mỉm cười:
– Hãy chọn lấy một danh từ khác. Em sợ nhất là những lời nói đao to búa lớn.
Soạn kêu lên:
– Lại thêm một chú nữa là nạn nhân của mặc cảm. Tại làm sao chú sợ danh từ, trong khi tự nó, nó có tội tình gì đâu.
– Chẳng có tội tình gì cả nhưng... nhưng anh nghĩ mà xem, ở cái thời buổi này người ta nói quá nhiều mà trái lại không làm gì cả. Ấy là chưa kể thiên hạ còn phản bội lời nói của họ nữa là khác. Cho nên anh qui tội cho em là nạn nhân của mặc cảm, cái đó đúng lắm. Đúng nhưng không sửa chữa được.
– Vậy thì chú tìm một cánh diễn tả khác đi.
– Em thì em nghĩ là mọi hành động cần phải có... có chủ đích. Chủ đích làm đối tượng phát huy tinh thần.
– Trong đời cầm súng của chú, chú có nghĩ rằng những chủ đích của chú đã trở nên vững vàng chưa?
– Em tin là em đã nhìn thấy một cách vững vàng. Soạn tợp một ngụm rượu và khà lên một tiếng khoan khoái:
– Vậy thì thật là đáng mừng. Phải chính các người như chú tuyên bố ra thì tôi mới tin được.
– Nhưng anh cũng đừng quan trọng hóa cái lý tưởng... cái chủ đích ấy của em. Thật sự nhiều khi những vấn đề đó lại hoàn toàn thuần túy tình cảm. – Nghĩa là... – Nghĩa là đôi lúc lý trí soi đường cho hành động cầm súng của mình. Đôi lúc lại là tình cảm thôi thúc mình phải làm việc đó. Vấn đề phức tạp lắm chứ không gói ghém gọn gàng trong đôi ba danh từ thật kêu như anh tưởng.
những nỗi lầm than mà dân tộc phải gánh chịu. – Tại sao những lý do này chủ không xếp lên hàng đầu theo thứ tự quan trọng. – Đó là em thành thực với anh. Bởi vì tổ quốc, quê hương, dân tộc, lý tưởng, tự do dân chủ, tất cả đều là những vấn đề trừu tượng. Em không thể nói em sẽ chết ngay vì dân tộc được, nhưng em có thể sẵn sàng tiến lên hàng đầu khi nghĩ đến cảnh tượng một người đàn bà bị mổ bụng khi chưa kịp đóng thuế hay không còn gì để đóng thuế. Đối với bọn lính tráng chúng em, đối tượng để hành động phải gần gụi, phải đập ngay vào mắt, vào tai, thấm ngay vào trí não, con tim. Chớ những cái xa xôi, xin thú thực, vì khổ quá, cực quá, nên không có thì giờ để mà suy ngẫm đến. – Trở lại vấn đề mặc cảm chiến đấu cô đơn ngoài mặt trận, chú có nghĩ rằng chú bị cô đơn trong khi ở hậu phương người ta
sướng, đầy đủ và sa đọa trong tinh thần ích kỷ hay không?
Thú thật, nhiều khi em đọc bảo thấy có những tin tức phản ảnh tinh thần ích kỷ sa đọa ấy nhưng ở rải rác khắp mọi đô thị, ít
cũng còn thấy cả hàng chục triệu người khác lầm than, mòn mỏi trong cuộc chiến kéo dài đã hơn hai mươi năm. Em tin rằng em đã chiến đấu có lý cho những lớp người đau khổ ấy.
Chắc là chú có nhiều bội tinh.
Khá nhiều. Nhưng không bao giờ em đeo cả. Em không muốn những cái đó trở thành chứng tích của một thời đại huynh đệ tương tàn lớn lao nhất của lịch sử mà trong đó, em là một kẻ tham dự một cách đắc lực. Mà không tham dự đắc lực sao được, khi mà những người anh em ở bên kia đã được huấn luyện để trở thành những con tốt thí mạng, những đàn sói hung hăng sẵn sàng nuốt lấy mình, nếu mình để tình cảm chi phối làm cho chậm trễ tay chân.
đã sung sướng chết đi vì hình ảnh đẹp, đó là một điều may mắn ít có, chú ạ. Chả hơn để tâm hồn thao thức hoài về những điều ngang trái do thần tượng lộ ra khi đổ vỡ. Phùng lẩm bẩm:
Có lẽ thế... Có lẽ thế... Và trong ý nghĩ của Phùng, chàng thấy hiện ra hình ảnh tội nghiệp của Huy khi sắp chết. Lời nói thì thầm của Huy như còn vẳng lại bên tai: – Một ngày kia, trời run rủi cho anh gặp lại thì nhờ anh trao cho mẹ và chị tôi tấm hình của tôi và nói rằng lúc chết tôi chỉ nghĩ đến hai người...
Bỗng nhiên Phùng lại thấy lòng thổn thức như mới hôm nào đây chàng còn nắm chặt lấy bàn tay lạnh giá của Huy sau khi Huy nhắm mắt. Mái tóc xòa xuống vầng trán phẳng. Đầu Huy ngoẹo về phía bên trái. Nét mặt của Huy phảng phất vẻ đau đớn, nhưng
cô hay và nói thêm rằng Huy đã chết anh dũng và xứng đáng.
Hường nhún vai: – Khi người ta đã nằm xuống thì chẳng cái gì còn có nghĩa cả. Nhưng dầu sao thì cũng mừng cho nó. Nó đã toại nguyện! Về phần ông tôi xin cám ơn ông đã cất công đến tìm tôi và báo tin cho tôi biết...
Phùng cắt ngang: – Cô khỏi cần cảm ơn.Tôi đã nhận lời ủy thác của Huy là báo tin về cho gia đình. Tôi đã
100 | Nhật Tiến – Thưa cô! Tôi xin phiền có một lần chót. Tôi muốn được gặp bà cụ. Hường nhíu mày: – Mẹ tôi ấy hả? – Vâng! Hường lắc đầu: – Bà cụ không còn ở chung với tôi từ ngày tôi lấy chồng. Rồi nàng đổi giọng hằn học: – Chắc ông cũng hiểu cho! Ở cái xã hội này một con lấy Mỹ không có quyền nhận họ hàng anh em hay bè bạn. Mặc dù tất cả mọi người đã dùng từ bánh xà phòng của Mỹ trở đi!
Phùng nhìn vào đôi mắt thoáng một tia hẳn học của người thiếu nữ rồi lặng lẽ cúi chào, quay đi. Được mấy bước, bỗng nàng gọi giật lại:
người ta ghê tởm hơn là người ta nhìn thấy nó cặp kè với
Khỏi cần giải thích. Tôi đã thề là
cần
| Nhật Tiến ấy, Phùng thao thức về những kỷ niệm khó quên với chàng em út của Đại Đội.
o O o
CHUYẾN máy bay trở về đơn vị có sớm hơn hạn phép của Phùng một ngày. Nhưng chẳng còn gì lưu luyến được Phùng ở đây cả. Giữa đám đông ồn ào của thành phố Phùng thấy cô đơn và lạc lõng. Người ta giải thích là Phùng chưa quen nhưng rồi sẽ quen. Tuy vậy Phùng biết chắc chắn là mình không thể hòa hợp được cái ồn ào này dù chàng lưu lại đó một tháng, hay một năm. Phùng ưa chuộng nhìn mây đầu núi hơn là ngắm cảnh nhộn nhịp của phố phường. Những bát canh rau dền hái vội ở đâu đó trong bụi cỏ ăn với cơm nguội sau những cơn đói trọn ngày đem lại cho Phùng nhiều thú vị hơn là nhồi nhét cao lương mỹ vị từ sáng đến tối. Và nhất là chỉ ở đơn vị Phùng mới tìm thấy những ánh mắt, những nụ cười, những tâm hồn, thực sự dành cho chàng một vị trí tươi mát, một
104 | Nhật Tiến vẫn là đó, những đại lộ, quán ăn, rạp hát cùng hàng ngàn hàng vạn sinh hoạt quay cuồng đã lặng lẽ biến đi khỏi ý nghĩ của Phùng từ lúc nào. Quanh chàng, lúc này không khí chiến tranh đã trở lại ở khắp mọi chỗ. Những chiếc phản lực sáng lấp lánh như những con cá bạc đang vươn lên trong bầu trời. Những chiếc trực thăng như những con chuồn chuồn lên xuống tới tấp. Động cơ nổ dòn dã ở khắp mọi nơi, khắp mọi chốn tưởng chừng như liên miên bất tận. Trên những thảm cỏ xanh rờn hay bên lề những con đường tráng nhựa thấp thoáng có bóng dáng những quân nhân nai nịt quần áo trận, đầu đội nón sắt, sắp sẵn đồ lề lủng củng
Nhật
– Huy hãy giữ mãi mãi hình ảnh của mẹ Huy, chị Huy, những người còn nguyên vẹn lòng yêu thương và hạnh phúc khi họ đứng chụp bức ảnh kỷ niệm này. Đối với những ý nghĩ của Huy lúc Huy nhắm mắt chẳng có người nào thay đổi cả phải không Huy. Cầu nguyện cho linh hồn Huy sống mãi mãi với các hình ảnh đó. Lúc Phùng đứng dậy thì tấm ảnh đã được chàng xé nát thành hàng trăm mảnh. Mỗi mảnh như một cánh bướm nhỏ bị gió thổi tung lên bay phơ phất...
Năm mặt ngựa
Bốn năm tù, được ân xá trước một tháng hai mươi ba ngày, Năm Mặt Ngựa ra khỏi khám lòng không buồn mà cũng không vui. Gã đứng rất lâu ở bồn hoa ven đường tàu. Thành phố vào những ngày giáp Tết có vẻ vội vàng, hối hả hơn lên. Những chiếc xe chạy qua mặt gã nghễu nghện chở từng kiện hàng, đến nỗi các bà lái buôn phải trèo lên ngồi vắt vẻo ở trên cao, hai tay khư khư đẫn mía thật dài, vừa nhá, vừa nhai, vừa phun phì phì và nhả bã rải rác khắp mặt đường. Xe cộ chạy như trò múa rối Trong cái đám mù mịt khói và bụi ấy, thỉnh thoảng lại thấy nhô lên những cành mai cao ngất ngưởng, phô ra những nụ ốm tong teo dưới ánh nắng gay gắt buổi chiều.
Tần ngần một lát, Năm Mặt Ngựa xách túi vải đi về phía chợ. Gã sắm vài thức cần dùng: khăn mặt, bàn chải, diêm, thuốc, lại cả một con gà và một hộp bánh. Gã nghĩ, dầu sao cũng phải qua một cái tết ở nhà Sinh Út trong lúc chưa biết đi về đâu. Theo lời Sinh Út thì hắn có một vợ, hai con. Ngày còn ở khám, thỉnh thoảng gã cũng thấy hắn được gọi ra sân ngoài trong số những người có thân nhân đến nuôi cơm. Hắn rất yêu vợ. Bởi vì, mỗi lần trở lại, mặt hắn tươi tỉnh như hoa. Hắn vừa chia cho Năm Mặt Ngựa một khúc bánh mì, vài ba quả chuối, vừa luôn miệng kể cho Năm nghe những tin tức mà vợ hắn vừa kể: – Thằng nhỏ đằng em đã biết bò. – Thằng nhỏ đẳng em rầy mà khôn. Nó biết móc túi bà con lối xóm lấy tiền đi mua bánh rồi chớ.
Nhưng điều mà Sinh Út sung sướng bậc nhất là hắn thấy vợ hắn còn ở vậy với mình. Hắn thường nói:
– Mình là có phước đấy chứ. Anh Năm ngẫm coi, đằng đẵng mấy năm trời, nó hổng vô, hổng thèm đoái hoài, mình làm chi được nó. Đàn ông ngoài đó nhiều quá mà!... Riêng Năm Mặt Ngựa thì quanh năm chẳng có lấy một người tới thăm, mặc dầu đàn em của gã cũng khá nhiều. Gã thường nói: – Cấp này thì thẳng Dao Nhíp Tây bắt tụi nó tôn làm trùm. Nhưng tui không nổi sùng đâu đa. Làm ăn bây giờ khó quá mà. Nghĩ cũng tội cho tụi nó chớ! Để chứng tỏ sự chẳng bận tâm của mình, Năm cười lên vui vẻ, có khi gã mượn cây đàn măn–đô–lin ra gẩy, hoặc cũng có khi gã dạy Sinh Út đủ mọi mánh khóe của đủ mọi nghề. Có thể nói là gã biết rất nhiều, hiểu rất rộng, và mặt nào gã cũng tỏ ra là một tay sành sỏi. Ở trong khám, gã rất ít nói chuyện với ai ngoài Sinh Út. Gã cũng không hiểu tại lý do nào mà gã lại có cảm tình riêng biệt với hắn như vậy. Chỉ biết trong những ngày sống cô
| Nhật Tiến độc bên song sắt, gã đã đối xử với Sinh Út như em, và ngược lại, Sinh Út cũng quí mến gã vô cùng.
Hôm có tin mình được ân xá, Năm nói: – Tại sao tui mà lại không chú. Thằng nhỏ đằng chú kháu quá mà. Út cười gượng gạo:
– Thôi thì anh ra cũng là mừng rồi chớ. Thế nào anh cũng phải ghé đằng em ít hôm cho qua cái Tết rồi tính chi thì tính. Anh nói là em mong tụi nó quá hà.
Hôm chia tay, Sinh Út nắm lấy tay Năm Mặt Ngựa khóc ròng. Năm cũng cảm thấy xao xuyến, nhưng gã ghét những tình cảm ủy mị. Gã đẩy Út ra khỏi tầm tay của gã,
Năm mặt ngựa
dửng dưng, lạnh nhạt đến độ gã cũng không ngờ mình đã thản nhiên đến mức như vậy.
o O o
Quanh co một hồi, gã tìm đến nhà Sinh Út vào lúc xế chiều. Căn nhà tối tăm lụp xụp nằm ở tận bên kia cầu Khánh Hội. Lối vào trong ngõ chật ninh ních những người. Phần đông là trẻ con. Tất cả đang chen chúc và la lối om xòm quanh những bàn bầu, cua, cá, cọp. Bàn nào cũng có người đứng vòng trong, vòng ngoài. Càng về những ngày giáp tết, người ta càng xô vào đám bạc, đánh chác thả cửa, cảnh sát có mấy khi len vào đến tận chốn hang cùng, ngõ hẻm như vậy. Vợ Út tiếp Năm không mấy niềm nở. Trên tay chị bồng một đứa bé mới sanh. Chị nói ngay: – Con tui đó. Nhưng anh hai chớ có học lại với anh Sinh. Chờ đôi ba tháng nó cứng
Nhật Tiến cáp rồi tôi cho nó vô viện mồ côi. Của ảnh chỉ có đứa này và đứa nữa, đi quảy nước chưa về thôi.
Nói rồi chị chỉ vào một thằng bé đang nằm ngủ lăn lóc trên mặt giường. Thằng này nom giống Sinh Út như hệt.
Năm Mặt ngựa nói:
– Tui ở lại có phiền chị không? Nếu phiền cứ bảo, tôi kiếm ra chỗ mà.
Chị Sinh vội vã trả lời:
– Sao mà phiền kia chớ. Có mỗi chuyện con nhỏ này, nếu anh hai thông cảm giùm rồi thì cứ tự do. Nhà anh Sinh cũng là nhà anh hai mà.
Tối hôm ấy Năm Mặt Ngựa leo lên gác xép nằm ngủ từ lúc mới lên đèn. Gã đã uống non nửa chai rượu trong bữa cơm. Người đàn bà vừa cho con bú, vừa bón cơm cho thẳng nhỏ. Còn thẳng lớn vẫn đi đâu chưa về. Năm Mặt Ngựa bỗng thấy nhớ Sinh Út
Năm mặt ngựa |
vô cùng. Gã tưởng lại đến những buổi tối hai anh em ngồi truyền cho nhau điếu thuốc cháy giở ở đầu hè. Trước mặt là những dãy tường cao. Trăng đầu tuần le lói trên những mái nhà xám. Đâu đó từ một căn nào, có người thổi tiêu réo rắt. Tiếng tiêu làm Sinh Út nhớ gia đình đến phát khóc khiến Năm lại phải mua vui cho gã bằng một vài trò ảo thuật, hay dạo một bài đàn. Sinh Út thích nhất bài Trương Chi. Hắn thường nói « bài đó ý nghĩa sâu thiệt là sâu » mà nghe lại « mùi chết người, anh Năm ơi ». Đến mãi gần trưa hôm sau, lúc chị Sinh lên đánh thức Năm dạy, gã mới leo trở xuống đi tắm rửa. Ở ngoài ngõ, tiếng ồn ào vẫn vọng
– Phải chi nhiều vốn thì mới có mòi lấn bên bàn của bố con thẳng Huy. Đằng này mình chơi ít, nó lấy khách mất cả.
Năm Mặt Ngựa tắm xong ra ngồi ở bàn giữa. Bây giờ gã mới có dịp ngắm kỹ thẳng con lớn của Sinh Út. Nó mới mười bốn, mười lăm tuổi, nhưng khuôn mặt choắt choeo của nó nhìn kỹ thì thấy già cằn. Nó bận một cái quần đùi ngắn gần đến bẹn, cái áo sơ–mi sọc phanh ra gần nửa hàng nút để lộ cả một bộ ngực cháy nắng sạm đen lại. Đầu nó đội lệch một cái mũ bê rê, miệng nó ngậm một điếu thuốc lá phì phèo, nom nó rất ra vẻ ta đây là một tay đang hãnh diện bước vào lãnh vực của các tay anh chị làng dao búa. Năm Mặt Ngựa nói với nó để làm quen: – Chú em buôn cái gì mà phải cần nhiều vốn kia chớ?
Nhớn không đáp giơ cái bàn cua cá lên ngang mặt rồi nháy với gã. Năm Mặt Ngựa bĩu môi:
Năm mặt ngựa
– Chà, cái trò trẻ này hồi xưa tôi chơi đâu có cần vốn. Chú em cho tui coi con lúc lắc nào. Nhớn đặt điếu thuốc xuống mép giường rồi tung về phía gã ba con lúc lắc sặc sỡ in hình bầu, cua, cá, cọp. Năm đón lấy ngắm nghía từng con rồi nhún vai:
– Chơi cờ bạc mà ăn thua vào may rủi thì có lúc mạt, chú em ạ. Phải điều khiển được nó mới lừng chờ. Rồi vừa búng từng con lúc lắc một cách rất thành thạo, gã vừa nói: – Chú em có mảnh kẽm nào không. Cắt dùm qua mấy mảnh vuông vức bằng này đem lại đây coi.
Thằng Nhớn nhìn gã bằng cặp mắt hết sức tin tưởng và chạy vụt đi. Một lát nó mang về mấy mảnh kim khí ở trong tay. Năm Mặt Ngựa ngắm nghía rồi mỉm cười:
– Chú mày tinh lắm đấy chứ. Cắt to bằng vầy là vừa xinh.
Bằng một lưỡi dao cạo và mấy sợi bún, Năm Mặt Ngựa đã lùa được mấy mảnh kẽm vào mặt trong của con lúc lắc. Một lát gã bỏ cả ba con vào một cái đĩa, úp cái bát lên, lắc liên hồi rồi nói: –
Này cua này!
Cái bát được hất tung lên và ba con cua nằm chềnh ềnh ngay trong lòng bát. Thắng Nhớn chỉ còn biết há hốc mồm ra nhìn gã với tất cả sự thán phục. Gã đắc ý lại lắc lên một lần nữa và nói: – Bầu này! Ý bầu thiệt rồi!
Cái bát lại được tung ra trong chớp mắt và cả ba cái bầu rượu đỏ như son hiện ra trong lòng bát. Lần này thì thằng bé nhầy quẫng lên: – Y cha! Thế này thì bác làm trùm tụi nó rồi. Bác dạy cho cháu đi.
Năm nói: – Có gì cái trò trẻ này. Chú em thấy chớ, trong sáu mặt thì bầu là mặt có dính bùa nó sẽ nặng hơn hết thảy, mặt đối với bên bầu là bên cua. Mình đánh thiên hạ bằng hai cái mặt này là đủ vơ hết rồi. Muốn bầu cũng được, mà muốn cua cũng được, ăn thua ở cái tay lắc. Bàn tay năm ngón thì ngón cái đã tì bên trên rồi, như vậy còn bốn, thì chỉ lắc bằng ba, còn ngón út là để gẩy...
Vừa nói gã vừa chỉ từng chút cho thằng Nhớn. Chỉ trong vòng non nửa tiếng, nó cũng đã làm ra bầu được, cua được. Đến chiều, trong lúc Năm Mặt Ngựa ngồi phì phèo hút thuốc ở võng thì tin thắng trận của thằng Nhớn liên tiếp đưa về. Bọn trẻ cùng xóm thỉnh thoảng lại chọt vào la lớn: – Ý cha! Thắng Nhớn hên quá xá hên. Nó vơ hết của cả làng rồi nè!
Nhật Tiến
Chị Sinh ngồi cho con bú ở đầu hè, ngước mắt nhìn Năm mỉm cười: – Nhờ anh hai cái tết năm nay đỡ quá. Tôi đã tính tới chuyện đi cầm đồ lấy tiền xài rồi chớ. Năm không đáp mắt lim dim nhìn những sợi khói bay xanh lơ trong căn buồng. Trước mặt gã, chị Sinh với thân hình vạm vỡ nỗi bật lên giữa khung cửa chói lòa ánh nắng. Nước da của chị trắng hồng. Đứa bé nằm trong lòng chị rút tung những cái khuy của chiếc áo lụa mỏng và đưa bàn tay nhỏ bé lên sờ soạng bộ ngực no tròn nom lồ lộ như hai chiếc bình sứ trắng toát. Năm nghĩ đến Sinh Út và niềm tin tưởng mãnh liệt của hắn mỗi khi bắn bày tỏ ở trong tù:
mà chịu cảnh giường không đăng đẳng mấy năm trường, nếu chị không bỏ phứt thẳng Sinh ốm tong teo, èo ọt thì cũng là phước thiệt cho nó. Năm tưởng tượng đến cái lúc nếu Sinh bị nghe tin vợ bỏ chồng, bỏ con đi theo một tên lạ mặt nào thì chắc thắng đó treo cổ lên xà lim chết tốt rồi đó. Trời về chiều. Ánh nắng yếu dần dần trên những mái lá khô cằn. Gió mát hiu hiu thổi qua kẽ vách làm bầu không khí nóng bức trong buồng dịu hẳn đi. Chị Sinh đứng dậy, đặt đứa bé lên mặt giường, vừa cài nút áo, vừa nói vội Năm Mặt Ngựa:
– Thằng nhỏ ham thâu tiền quá chắc quên cả giờ về. Anh hai ngồi chơi để tui đi gọi nó. Rồi còn phải sửa soạn cái chi cúng giao thừa chớ. Nói rồi chị tất tưởi đi ra, cái mông ngúng nguẩy, bộ vú lúc lắc. Nhưng chỉ một lát chị đã hớt hải chạy về. Mặt chị tái xám, mái tóc rã rượi hai làn môi run rẫy. Chị nói từ ở ngoài vào:
| Nhật Tiến
– Chết cha tui rồi anh Năm ơi. Thằng Nhớn... thằng Nhớn ẵm tiền tếch đi từ hồi nào tới giờ...
Năm Mặt Ngựa ngồi bật dậy, gã ném điếu thuốc vào một góc nhà rồi nói: – Chắc chưa? Coi chừng nó chạy đi đâu chốc lát rồi trở về đó.
Chị Sinh lắc đầu quầy quậy:
– Chắc thiệt mà. Tụi nó nói thẳng mắc dịch đi với lão Suú Còm từ hồi chiều. Nó mà đi với lão thì chết cha nó rồi.
Năm giật mình hỏi: – Sún Còm nào. Có phải lão già có cục thịt ở ngay mé cổ đó hôn?
− Phải đó! Chính gã đó! Giả bịp các tê một cây mà.
– Vậy thì tui biết. Để tui đi tìm nó cho. Chỗ anh em nhà mà.
Chị Sinh nhìn Năm bằng cặp mắt kính phục. Bất giác chị tìm thấy ở gã một vẻ gì đặc biệt mà Sinh Út không có. Nói cho đúng, Năm Mặt Ngựa không đẹp trai. Mặt gã dài, da gã đen sạm, mỗi gã thâm sì, nhưng với đôi vai rộng như vai hùm, bộ ngực lực lưỡng, cặp mắt sắc như dao và nụ cười ngạo nghễ để lộ hàm răng trắng bóng, tất cả đã tạo cho gã cái vẻ hiên ngang, hùng dũng khiến cho chị Sinh không khỏi thấy lòng bối rối. Khi gã bước ra cửa, chị thân mật để bàn tay lên nẹp áo của gã và nói: – Đi về sớm nghe anh hai, kẻo giao thừa tôi trông. Năm Mặt Ngựa không đáp lại, lầm lũi đi ra ngoài. Tiếng pháo đì đụp nổ ngay ở gần chân gã. Gã nghĩ nhiều đến Sinh Út và thẳng con lớn của hắn. Trong tù, Sinh kỳ vọng ở nó biết bao nhiêu. Hắn tính toán thật nhiều cho tương lai của nó. Hắn không muốn cho nó sẽ trở nên những hạng người như bố, như mẹ như mọi kẻ sống chui rúc, thấp kém ở
Nhật Tiến chung quanh. Sinh quả quyết: – Nó phải có nghề, anh Năm ạ. Một nghề đàng hoàng, học hành cẩn thận, chớ không bá láp như anh em mình. Không có nghề, sống cực lắm, nghe anh Năm. Năm trả lời hắn bằng một cái nhìn chế riễu. Thật ra không có ai nhiều nghề bằng gã. Và chính điều đó đã khiến gã không tin rằng chỉ với một nghề nghiệp cũng đủ cho người ta sống lương thiện được trong cái xã hội này. Tuy vậy gã cũng phụ họa với Sinh Út để làm tăng phần tin tưởng trong lòng hắn. Hắn đã vạch ra nhiều chương trình làm việc với mục đích độc nhất là đưa thẳng con của hắn tới chỗ tốt đẹp hơn. Nhưng bây giờ, thực sự là nó đã hư hỏng, hơn
Năm mặt ngựa
nhà lão Sún Còm. Cánh cửa gỗ mục bên ngoài đóng kín mít nhưng ở trong vọng ra nhiều tiếng ồn ào. Gã đứng trầm ngâm một giây rồi gõ cửa. Chính là lão Sún Còm ló đầu ra tiếp. Lão ngạc nhiên khi thấy Năm Mặt Ngựa lù lù đứng ở đó. Hai người vui vẻ chào nhau. Lão nói: – Trời ơi! Anh Năm! Vậy mà tưởng ai chớ. Anh Năm về bao giờ sao không nói tụi tui đi đón. Năm mỉm cười: – Cảm ơn bác, tui đã có chỗ đàng hoàng rồi. Bây giờ có việc gấp cần nhờ bác đây. – Việc chi đó anh Năm, nếu làm được tụi tui xin hết long. Năm mời lão một điếu thuốc, châm cho mình một điếu rồi nói: – Tui đi tìm thẳng Nhớn, con trai Sinh Út đó! Nghe nói nó theo bác về đây từ hồi chiều.
Sún Còm cười ha hả
– Phải đó! Anh Năm vô trong đây. Nó đang ngồi chỗ bàn xì. Thắng oắt bữa nay đỏ ghê! Tui nói nó về sớm, nó hổng chịu. Rồi anh coi, chỉ ít phút nữa mấy đứa nó giở ngón bịp ra thì hết tiền. Nhưng không ăn thua gì tới tui đâu anh Năm. Tội nghiệp tui quá mà. Bây giờ già rồi, chỉ lấy tiền xâu thôi.
Năm Mặt Ngựa không đáp, gạt tay lão ra khỏi cánh cửa và lách mình vào. Trước mặt gã bày ra một khung cảnh thật là hỗn độn. Dưới ánh sáng vàng của ngọn đèn treo trên trần nhà, có ước đến hơn hai chục con người, cả đàn ông lẫn đàn bà quây quần quanh mấy chiếu bạc. Có chiếu đánh bài xì, có chiếu đánh tứ sắc. Trên một
Năm không đáp lời gã, quay về phía Nhớn nghiêm nghị nói:
− Ê! Chú em! Trở về đi thôi chứ. Má chú sắp khóc lên rồi kìa.
Nhớn nhún vai rất thành thạo và nói: – Kệ xác bả! Bác ngồi đây với cháu đi. Đang hồi hên mà. Năm trừng mắt: – Không được! Sắp giao thừa rồi. Chú không về không được.
Thằng bé không đáp, dúi một nắm tiền đẩy ra trước mặt: – Tui « đi » hết đó!
Cô gái ngồi bên la lên: – Thôi đi cha! Từ từ cho người ta theo với chớ! Làm tàng hoài! Nhớn không đáp, nhìn cô ta với vẻ hiu
Năm mặt ngựa | 127 hiu, tự đắc. Trong năm người, có hai người theo. Ván ấy thằng Nhớn lên ba xì và nó vơ tuốt. Được thể nó nhìn Năm Mặt Ngựa và nói: − Đó! Bác coi! Mấy khi hên như vầy! Về uổng lắm bác.
Năm Mặt Ngựa xô ngay đĩa bài và gằn giọng: – Tôi nói một lần chót! Tôi bảo chú em đi về. Mặt thằng Nhớn đanh lại. Nó quắc mắt lên nhìn Năm và vênh váo: – Bác lấy quyền gì kia chớ? Tui nói cho hay, tui không ngán ai hết đó. Mặt Năm vụt tím lại, nhưng gã là người có bản lĩnh nên gã chỉ nhìn thẳng bé mỉm cười. Gã gật đầu lia lịa: – Được! Cái đó tùy chú em! Tui không bao giờ ép ai hết mà.
Nhớn thấy gã nhún mình một cách không ngờ nên có vẻ hối, nó móc túi lấy bao thuốc chìa ra trước mặt Năm nói: – Bác ở chơi với cháu một chút đi. Cháu đã biểu hôm nay cháu hên mà! Năm rút một điếu rồi châm lửa hút. Một lát, gã nói với người đàn ông: – Chú Sửu ra tôi nhờ một chút. Sửu nói nghỉ một ván và đứng dậy. Hai người đi về phía bàn nước. Sửu rót một ly mời Năm và nghe Năm rỉ tai nhiều điều. Sửu vừa nghe vừa gật đầu lia lịa. Một lát hắn tủm tỉm cười quay về chiếu bạc tiếp tục đánh.
Nhật Tiến
– Khám! Khám gì. Tui thua đậm mà.
Nhưng Sửu không đáp, luồn ngay bàn tay sần sùi vào bộ ngực căng tròn của cô ta giả lả: – Đâu có được. Khám thì phải khám đều chớ. Cô gái tức giận giằng tay hắn ra và tát một cái lên khuôn mặt khả ố của hắn. Hắn vừa xoa má vừa cười rinh rích. Bỗng hẳn quay về phía Nhớn và nói:
– Thôi vậy, người đẹp đã nổi khùng rồi thì chú em vui lòng cho qua khám chơi. Nhớn mạnh dạn: – Khám chớ, sao không! Tui vợ hết cả làng mà. Sửu không chần chờ luồn tay vào bụng nó. Quả nhiên hắn lôi ra được một quân bài. Mọi người cùng ồ lên một tiếng trong khi thẳng Nhớn tái mặt lại. Sửu lẳng lặng không nói một câu, túm ngay lấy thân hình còm cõi
của nó và đánh đấm túi bụi. Năm Mặt Ngựa không nói, không rằng chỉ ngồi hút thuốc lá. Được gã rỉ tai cho xả ga từ trước, Sửu không tiếc tay. Năm đã nói:
Chú cứ khện cho nó một trận để sau này nó nhớ. Tôi biết tính nó mà. Cho nên, mãi đến khi tiếng kêu của
yếu đi dần dần, Năm mới giơ tay ra hiệu cho Sửu ngừng lại. Tất cả đám bài cùng xúm lại đông đảo. Mụ đàn bà và hai cô gái thì cứ lồng lên. Mụ ta nói: – Hèn chi tui thua! Chèn ơi! Nó mới nứt mắt ra, ai mà ngờ nó bịp! Năm Mặt Ngựa tiến lại gần Nhớn sốc nó lên vai. Thắng bé bị đánh đổ cả máu mồm máu mũi. Nó nằm lả trên vai Năm. Hơi thở phì phò qua hai làn môi sưng húp. Sún Còm mở cửa dẫn lối trước, còn Sửu Mõi chạy ra ngoài đường vẫy một chiếc xe. Sau khi đặt Nhớn nằm ngay ngắn trên đệm, Sửu Mõi kéo Năm Mặt Ngựa ra một chỗ và thì thào:
Nhật Tiến
– Đàn em đã nói với mấy con mẻ là chính đàn anh nhét bài vô bụng nó mà mấy con mẻ không chịu. Tụi nó đòi chia.
Mắt Năm Mặt Ngựa quắc lên nhìn Sửu làm hắn luống cuống: – Ấy, tuy vậy nhưng đàn em có nói là với đàn anh thì không thể được. Rồi... rồi... tụi nó chỉ xin lại mỗi đứa hai trăm.
Năm Mặt Ngựa không đáp lẳng lặng nhét vào túi xấp giấy bạc còn lại do Sửu đưa ra. Gã kê cái đầu của thằng Nhớn lên đùi mình. Nó vẫn rên và không ngớt miệng chửi rủa. Năm nói: – Tôi đã bảo mà chú em không nghe. Đàn đúm với tụi nó thì chỉ có thiệt vào thân. Nhưng chắc chắn là chú em không tháu cáy đó chớ?
Nhớn cố vùng dậy:
– Trời ơi! Bác mà còn không tin tui thì còn trời đất nào nữa. « Xiếc » của tụi nó để
Năm mặt ngựa
cướp lại tiền thua đó. Nhưng rồi tụi nó biết tay tui. Tui sẽ mài dao đi tìm nó. Năm Mặt Ngựa cười: – Bộ chú em hơi sức được là bao mà t1inh chuyện ăn thua với bọn nó. Nhưng chú đừng lo. Tôi đã bắt tụi nó trả hết lại cho chú rồi.
Thẳng Nhớn đang nằm bỗng bật dậy. Nó hỏi rối rít: – Chèn ơi! Thiệt không bác! Y cha! Thế này thì quả là bác số dách rồi còn gì. Năm ấn nó nằm xuống và rút trong túi ra cuộn giấy bạc để lên ngực nó. Gã nói trầm trầm: – Thôi nhé! Lần chót tôi giúp chú em đó. Cũng là tía chú nhờ cậy tôi trông nom chú em hồi còn ở trong tù. Nhớn nhìn kỹ Năm và hỏi:
134 |
Nhật Tiến
– Vậy sao! Thế mà tôi cứ tưởng bác là bồ của má tôi chớ.
Năm cười:
– Bậy nào! Tôi mới ở tù ra. Tía chú em nói là cứ về đây ăn tết rồi kiếm chỗ sau.
Nhớn nói:
– Bác nói vậy chớ, bác thì thiếu gì chỗ.
Ngưng một lát nó tiếp:
– Hồi còn ở trỏng, tía cháu có kể chuyện gia đình với bác không?
– Có chớ! Tía chú trông cậy ở chú rất nhiều. Ông muốn tôi dìu dắt chú thành người. Nhưng chắc chú hổng chịu, phải hôn?
Nhớn đáp lia lịa:
– Chịu chớ! Chịu chớ sao không. Được bác chỉ bảo thì số dách rồi. Hồi nãy vì cháu không hay nên không thèm nghe lời bác. Cháu ghét mấy gã hay là rà tới tán tỉnh má
Năm mặt ngựa | 135 cháu. Họ làm nhiều trò cháu muốn mài dao ăn thua. Năm nói: – Ôi, chuyện người lớn hơi đâu mà lo. Hãy lo cho cái thân chú. Phải chú tính sống vào cái nghề cờ bạc này hoài đó hôn?
Nhớn cãi: – Đâu có! Cực chẳng đã cháu phải làm vậy. Bác coi, vẻ vang gì. – Phải lắm, chú em nói vậy nghe được lắm. Chú nên rõ, chú còn em chú nữa. Phải cho nó noi gương chú chớ? – Vậy bây giờ bác bảo cháu phải làm sao đây?
Năm Mặt Ngựa vỗ vào vai nó, cười hiền từ: – Rồi đâu có đó. Hãy nằm nhà ít hôm cho khỏe lại. Thiếu gì!
Nói rồi Năm nhìn ra hai bên đường phố. Phố xá đã thưa thớt người. Một vài hiệu bánh, trái ế ẩm còn cố gắng ở lại vớt vát thêm một ít khách. Năm bảo ngừng xe, xuống mua sắm một vài món ăn và mấy chai rượu. Đến khi trở về thì đồng hồ đã chỉ hơn mười giờ. Hai đứa trẻ đã đi ngủ, nằm ngổn ngang trên mặt phản. Chị Sinh đang chải tóc trước một mảnh gương vỡ. Thấy hai người bước vào, mặt chị tươi rói. Chị đứng dậy nhìn Năm Mặt Ngựa bằng cặp mắt long lanh. Dưới ánh đèn sáng, nom chị còn đẹp hơn lúc ban ngày. Khuôn mặt chị bầu bĩnh, miệng chị cười rất duyên dáng, nước da ở cổ, ở gáy, ở bàn tay trắng ngần. Sau khi xếp chỗ cho thằng Nhớn nằm nghỉ, Năm kéo chị ra ngưỡng cửa ngoài kể lại câu chuyện đã qua. Chị nắm lấy cánh tay Năm lúc lắc: – Cám ơn anh Năm. Thử nghĩ không có anh Năm thì em biết làm sao đây chớ.
Nhật Tiến – Chúc chị năm nay được đoàn tụ với anh Sinh. Rồi hai người buôn bán phát tài bằng mười năm ngoái. Chị Sinh mỉm cười gượng gạo: – Tôi cũng chúc anh làm ăn cho hên, thiệt hên vào đó. Năm rót rượu và uống hết ly này đến ly khác. Chị Sinh cũng bắt chước nhấm nháp. Hơi men làm mặt chị đỏ rừ. Cặp mắt của chị thêm sáng, thân hình nảy nở của chị thêm căng ra, tràn trề nhựa sống. Bỗng thằng Nhớn cựa mình kêu khát nước. Năm Mặt Ngựa vội vàng đứng dậy. Gã cảm thấy nhẹ nhõm khi thoát khỏi vòng kiềm tỏa của những cái nhìn vô cùng khêu gợi. Gã tiến lại chỗ nằm của thẳng Nhớn, tay mang theo cho nó một ly nước lạnh. Nó uống một hơi dài rồi nói: – Bác Năm ơi! Ngày mai, ngày mốt rồi bác cũng ở đây với cháu chớ.
Năm mặt ngựa
Năm gật đầu:
– Tất nhiên rồi. Chú em cứ yên tâm đi. Rồi tôi còn dạy cho chú nhiều nghề nữa. Mà nghề thật đàng hoàng chớ không có bùa phép gì đâu kia.
Mặt Nhớn tươi lên: – Thiệt đó, nghe bác. – Thiệt chớ, sao không. Vậy chú em thích nghề gì nào? Nghề gì tôi cũng giúp chú em được. Tôi quen nhiều mà. Nhớn mỉm cười, nói trong lúc mắt nó ríu lại: – Cháu thích nghề sửa máy ra–dô. Nghề ra–dô bác cũng biết chứ?
Năm gật đầu. Vừa kéo cho nó cái chăn lên gần ngực, gã vừa nói: – Gì chớ, nghề đó dễ ợt mà. Chờ cho Nhớn ngủ hẳn, Năm mới quay
Nhật Tiến lại bàn. Sau tấm màn hoa, gã thấy chị Sinh đang thay áo. Chị kêu ca:
– Tết nhất gì mà trời nóng như thiêu. Căn nhà hầm thiệt hầm.
Một lát, chị tiến ra trong tấm áo hàng thật mỏng. Hai cánh tay mũm mĩm của chị lộ hẳn ra ngoài nom trắng toát. Mái tóc của chị xõa xuống bờ vai. Năm thấy rõ bộ ngực của chị đầy hơi thở dồn dập. Gã không dám nhìn thẳng vào mặt chị. Mắt vừa nhìn vào chiếc đồng hồ trên tay, Năm vừa nói: – Thôi khuya rồi, để chị Sinh đi nghỉ. Mai sáng còn nhiều khách tới thăm. Nói rồi, không chờ chị trả lời, gã leo lên chiếc gác xép ọp ẹp. Trong óc gã, hình ảnh của Sinh Út lẫn lộn với tấm thân khêu gợi của người đàn bà. Gã cố gắng vật lộn, nhưng thật là khó khăn. Mồ hôi lấm tấm thoát ra ở trên trán gã. Gã vội tung cái mền hôi và ẩm chùm kín lên đầu. Trong khoảng tối mù mịt, màu trắng của nước da chị Sinh lại hiện
của dòng sông | 141 ra rõ rệt. Gã cáu kỉnh vứt cái mền xuống chân và ôm đầu nằm quay lưng vào vách. Xa xa, tiếng pháo giao thừa vẫn không ngớt nổ. Một ngôi chùa gần đó cũng rung chuông đồ hồi. Ngoài mặt đường, tiếng người đi và tiếng xe chạy dồn dập. Ngọn đèn dưới nhà đã tắt đi từ lúc nào. Chỉ có tiếng thằng Nhớn ngáy đều đặn, tiếng chị Sinh cót két cựa mình và ở gian bên cạnh, người ta chúc tụng lẫn nhau ồn ào. Mắt Năm Mặt Ngựa ríu lại. Hơi men làm cơ thể gã mệt mỏi. Gã thiếp đi lúc nào không rõ. Đến lúc choàng tỉnh dậy, gã cảm thấy có hơi thở nóng hổi ở bên tai. Tay gã chạm phải một làn da mềm và mát. Gã đụng phải bộ ngực để trần của chị Sinh. Người đàn bà ôm chầm lấy gã. Gã chới với trong những ý nghĩ rời rạc, mơ hồ. Cuối cùng, gã phó thác cho tất cả những gì sẽ tới. Sáng hôm sau gã dậy muộn. Chị Sinh đã trở xuống và ngồi chải tóc ở thềm cửa. Thằng bé đang nhôi nhai cầm một bát cơm nguội. Trên mặt phản, chỗ thằng Nhớn ngủ
Nhật Tiến chỉ còn có một đống chăn đùn xuống chân giường sắp rớt xuống đất. Một lần rất hiếm có trong cuộc đời, Năm Mặt Ngựa chợt biến sắc. Gã hốt hoảng nhìn chị Sinh như dò hỏi. Lần đầu tiên kể từ ngày hôm qua, chị cúi xuống tránh cái nhìn của gã. Rồi chị thở dài: – Chắc nó thấy mình hôm qua. Sáng hôm nay nó bỏ đi từ sớm.
Nguồn sinh lực trong thân thể Năm Mặt Ngựa đột nhiên như chùng hẳn xuống. Gã không bao giờ lo ngại trước những nỗi khó khăn. Nhưng gã biết đây là một khó khăn mà không bao giờ gã còn có thể vượt qua được để làm trọn lời ủy thác của Sinh Út.
Trong đêm đen trừ tịch
ĐÊM ba mươi, bầu trời, cây cối, vườn tược, nhà cửa (nếu còn) đều quện lấy nhau trong bóng tối dầy đặc. Đứng ở bất cứ một chỗ nào đó trong cảnh vật cũng đều như lọt thỏm trong cái bao la mù mịt của trời đất, và cái cảm giác bấu víu được vào chốn quê hương yêu dấu này chỉ còn là cảm giác của hơi sương lạnh, của mùi đất ẩm, xen lẫn mùi thuốc súng phảng phất đâu đó trong đêm đen. Và hoàn toàn yên lặng. Chẳng bao giờ lại
| Nhật Tiến suốt đêm thâu hay tiếng bom rền rĩ rung chuyền cả mặt đất. Có một sự từ giã tập thể cái khung cảnh hèn mọn và nhỏ bé, hiền hòa này. Như bàn cờ khi tàn cuộc đã được xóa đi, như cảnh tan hoang đổ nát khi cuộc chơi của đàn trẻ chấm dứt. Mọi người đã ra đi. Cán bộ Giải phóng, Chiến sĩ Cộng hòa, những khuôn mặt dân làng quen thuộc, và cả những súc vật lớn nhỏ kể từ con trâu, con bò, đến những con tắc kè thường búng lưỡi trong khóm lá – Bỏ hết. Đi hết, và tất cả đã để lại một sự im lặng nặng nề, ghê rợn như sự im lặng của biển cả sau một ngày bão tố. o O o
Mãi tới gần khuya mới có một tiếng động khua lên. Tiếng kẹt cửa. Cánh cửa gỗ nghiến ken két trong bản lề rỉ sét ở một căn nhà nào đó còn sót lại. Rồi có tiếng thì thào. Tiếng con trai và con gái. Trước nhỏ, sau to dần dần, đến trở thành một câu chuyện hàn huyên trong đêm trừ tịch.
Giọng con gái: Ai thế?
Giọng con trai: Tao!
Gái: Sao về trễ vậy?
Trai: Tao qua tuốt bên kia đầm lận.
Gái: Có gặp ai không.
Trai: Không gặp ai hết.
Gái: Tao cũng vậy.
Trai: Mày đi đâu?
Gái: Tao vô vườn.
Trai: Dữ hôn!
Gái: Chi mà dữ
Trai: Hầm chông, mày không ngán à?
Gái: Có mười cái hầm, tao thuộc hết.
Trai: Thuộc hết sao có người vẫn bị.
Gái: Ai?
Nhật Tiến
Trai: Bà cụ Tư.
Gái: Bộ mày không thấy sao?
Trai: Thấy chết đứng như trời trồng.
Gái: Hầm chỗ nào vậy?
Trai: Chỗ ba cây Gòn.
Gái: Tội không. Chính bà Tư đã đào cái hầm đó.
Trai: Ừ. Mày có nhắc tao mới nhớ. Bữa đó bả kêu nhức đầu sổ mũi. Nhưng Ủy Ban
bảo vì nhu cầu phòng thủ, đồng bào hãy cố gắng lên.
Gái: Mày còn thấy ai nữa không?
Trai: Lão Bảy!
Gái: Ui chao! Lão Bảy hả?
Trai: Phải, Lão Bảy. Lão nằm co bên hố bom ngoài đồng.
Gái: Lão còn thiếu tao năm đồng đó mày.
Trai: Tiền gì vậy?
Gái: Tiền thuê tao nhặt mảnh xác vợ lão bữa đó. Trai: Ừ. Bữa đó lão cũng nói với tao mà
điều tao mắc đi gỡ dù trái sáng trong vườn.
Gái: Lão thuê tao hai chục, mà mới trả có mười lăm.
Trai: Tao thì tao làm giùm.
Gái: Dóc hôn! Thế bữa Dì Sáu cần, sao mày nói phải thuê
Trai: Dì Sáu khác. Bả đâu có chôn ai. Bả khùng mà. Gái: Ừ. Bả khùng thiệt. Ngày nào cũng bó chiếu vô đồng làm đám táng. Rồi lại ôm về.
Trai: Tại bả thương mấy đứa.
Gái: Ba đứa.
| Nhật Tiến
Trai: Có hai thôi. Còn thằng cu út nhà bả chết bệnh mà. Hai đứa kia chết lãng xẹt.
Gái: Tại tụi nó đi chơi xa quá mới kẹt vô đám bắn nhau.
Trai: Biết chừng nào là xa với gần. Các ông bắn nhau đâu có nói trước. Tao cũng có bận kẹt vô trận phục kích của hai bên, sao tao không chết.
Gái: Tại mày nhát. Chưa chi mày đã rúc xuống bùn như trạch
Trai: Nhát với bạo cái gì. Mạng sống của mình mà.
Gái: Mày sợ chết lắm hả?
Trai: Con nhỏ này kỳ cục hôn, chết mà ai không sợ.
Gái: Có người không sợ. Có người thích chết.
Trai: Ai?
trừ tịch
Gái: Chị Sớm đó!
Trai: Chị Sớm thì còn nói gì nữa. Tại chỉ muốn chết theo chồng.
Gái: Mà có chắc chồng chị chết thiệt không.
Trai: Thì có tin từ Cần Thơ về đó.
Gái: Tin thì ai mà tin. Phải chị Sớm thấy được tận mắt.
Trai: Mày nói dễ nghe hôn. Ai lại chở xác lính quốc gia vô vùng giải phóng, mà có chở được cũng hết đường thấy mặt. Tao nghe nói có người chết cái xác chỉ còn vừa lọt một cái hũ. Gái: Thì cũng như con trâu nhà bác Xã chớ gì. Chết cháy ra tro rồi còn được mấy cục tàn than đâu.
Trai: Ý! Nói đến bác Xã, tao mới gặp bác ta hồi chiều. Gái: Ở đâu?
| Nhật Tiến
Trai: Gần hố bom, chỗ thây lão Bảy.
Gái: Ui chao!
Trai: Mày biết gì mà ui chao.
Gái: Thì bác chết, tao thương.
Trai: Chết ở đâu. Tao đâu có nói bác chết.
Gái: Ủa. Sao mày biểu gặp bác ở gần hố bom.
Trai: Ừ, thì tao gặp ở gần hố bom.
Gái: Vậy là chết rồi còn gì.
Trai: Ham chưa! Bộ mày mong bác chết lắm sao mà cứ rủa người ta hoài vậy.
Gái: Vậy là không sao há.
Trai: Không sao. Mà điều tao ớn.
Gái: Sao mày ớn?
Trai: Bác nhìn tao trừng trừng. Con mắt đỏ như huyết heo.
Gái: Ghê!
Trai: Rồi bác gọi tao là Đại úy! Tao bỏ chạy. Bác vùng lên đuổi. Vừa đuổi bác vừa
la: « Đại úy ơi. Đại úy ơi. Chồng em bệnh thiệt nè. Cho chồng em cái phép vợ để bốn ngày về thăm vợ, thăm con ».
Gái: Sao mày không giả đò cho phép bác đó đi.
Trai: Tao sợ thấy bà tao đi. Để bác túm được, chắc bác cào tao chết.
Gái: Phải rồi. Tao đã bị người khùng cào một lần. Xé cả áo tao nữa.
Trai: Rồi tao chạy vô núp trong một hố cá nhân. Bác rượt qua, không thấy, đứng lảm nhảm một lát rồi đi luôn.
Gái: Bác nói gì?
Trai: Bác la: Tự Do cái con chó, Giải phóng cái con chó, trả chồng tao, con tao, nhà tao, đất tao ..
Nhật Tiến
Gái: Vậy đúng là khùng rồi còn gì.
Trai: Thì đúng là vậy. Cho nên bác bỏ đi, tao đâu dám gọi lại.
Gái: Đi đâu?
Trai: Đi tuốt vô đồng.
Gái: Lờ quớ coi chừng bị bắn lầm như bọn con nhà dì Tư.
Trai: Mày yên chí đi, bữa nay hưu chiến mà.
Gái: Hưu chiến là cái gì?
Trai: Là hai bên tạm thời không bắn nhau nữa. Tết mà.
Gái: Sao mày biết?
Trai: Tao nghe nói từ tháng trước.
Gái: Nhỡ rồi cứ bắn thì sao.
Trai: Thì sao hả... Cũng chẳng làm sao cả. Ai dám bắt thường ai. Mà điều vì danh dự chớ.
Gái: Nhỡ có kẻ cứ bắn thì sao?
Trai: Thì thế mới gọi là phải đề cao cảnh giác. Bên nào bắn thì bên kia bắn lại. Có hề hấn gì đâu. Tao thấy cả hai bên hình như vẫn hành quân ở mé bên kia Đầm Tròn.
Gái: Được cái từ qua nay im tiếng súng.
Trai: Tao nói không sai mà Hưu chiến thật đó.
Gái: Vậy mình thắp ngọn đèn cầy lên được không
Trai: Không nên. Nhỡ thấy ánh sáng họ bò vào, tưởng mình là giải phóng cũng chết mà quốc gia cũng chết.
Gái: Vậy thì rầu ghê.
Trai: Thôi ráng, mai sáng rồi tính. Tao có cái này cho mày đây.
Gái: Cái gì vậy?
Trai: Mày đoán thử coi?
Nhật Tiến
Gái: Vải dù chớ gì?
Trai: Không phải!
Gái: Đồ hộp Mỹ!
Trai: Trật nốt.
Gái: Thế thì cái gì?
Trai: Một cái đồng hồ đeo tay.
Gái: Ôi cha! Thiệt đó hả? đâu, đưa coi.
Trai: Đó, mày sờ thử coi. Có thiệt là đồng hồ không.
Gái: Ở nhỉ! Ở nhỉ! Mày lấy ở đâu thế?
Trai: Trên một cánh tay rời. Tao cho mày đó.
Gái: Tại sao mày không xài mà cho tao.
Trai: Xài không được, vì nó hư rồi. Để chơi vậy thôi. Mày thích không?
Gái: Thích. Tao thích lắm chứ. Nhưng sao mày cũng thích lại đem cho tao.
Trai: Vì tạo khoái cái này hơn.
Gái: Cái gì thế?
Trai: Mày sờ thử coi.
Gái: Đưa đây... ờ.., ờ.., cái này là quả lựu đạn chớ gì?
Trai: Quả lựu đạn còn y nguyên chưa xài đó nhé! Gái: Chết! chết! Ai biểu mày dại dột đi lượm cái đó.
Trai: Thì đã làm sao. Mày không biết, một quả này liệng xuống Đầm Tròn, cá chết nổi lên, mình no cả tuần.
Gái: Tao sợ nó nổ bất chợt.
Trai: Sợ cái gì. Bộ tưởng nổ được là dễ lắm sao. Phải rút chốt này ra nó mới nổ chớ.
Gái: Ngộ nó sút ra thì sao
Trai: Mấy khi lại có cái chuyện đó. Tao biết cách xài mà.
Gái: Tao lạy mày. Mày liệng nó đi là hơn. Tao không ưa mấy thứ đó.
Trai: Hay là tao cất đi. Chừng nào cần thì mới lấy ra xài. Gái: Mày cất ở đâu?
Trai: Dưới trạn bếp được không. Gái: Ngoài đống rơm đi.
Trai: Ừ thì ngoài đống rơm. Mày nhát hết chỗ chê. Chờ tao một lát nghe không.
Gái: Ừ, đi lẹ lẹ lên, ở đây một mình tao sợ... Này! Khoan đã. Mày có nghe thấy tiếng gì không? Trai: Tiếng gì? Gái: Đó Trai: Không có gì cả Gái: Mày điếc! Trai: Ừ! có người ngoài bụi tầm xuân.
Gái: Tiếng người rên!
Trai: Tiếng người sao lạ vậy.
Gái: Tao cũng thấy thế. Hay là ma?
Trai: Làm gì có ma.
Gái: Có ma chó. Hồi trước ngoại tao kể như vậy. Ở đây ma chó nhiều lắm.
Trai: Đúng tiếng chó rên thiệt.
Gái: Mày ơi! Tao sợ.
Trai: Để tao ra coi.
Gái: Đừng ra! Mày ra nó bắt hồn mày đi luôn.
Trai: Tao có quả lựu đạn đây rồi.
Gái: Thế thì mày đứng ở đây mà liệng ra. Ngoại tao bảo ma chó linh lắm, nó chỉ sợ có ống lệnh hay pháo ống mà thôi.
Trai: Ngộ nhỡ không phải ma thì sao. Tao chắc là một con chó bị thương. Để tao ra coi...
Nhật Tiến
Gái: Nó vờ bị thương. Nó sẽ bắt luôn hồn mày. Thôi đi. Đừng có dại dội.
Trai: Thế thì mặc kệ nó, mai tính.
Gái: Mày đuổi nó đi đi. Kẻo đêm nay ngủ quên nó vào hút máu cả hai.
Trai: Vậy tao liệng trái lựu đạn này nhé.
Gái: Ừ!
Trai: Mày nằm ép sát vào mé tường đi.
Tao nghe lựu đạn nổ ở gần rồi. Lớn lắm đó.
Gái: Tao bịt tai.
Trai: Nhớ nằm sắp xuống nghe không. Xong chưa?
Gái: Xong rồi, mày cũng phải nằm xuống cho.
Trai: Dĩ nhiên. Tao rút chốt đây này. Trái lựu đạn này sẽ làm rồi đời giống ma chó nhà chúng bay.
Một tiếng nổ long trời lở đất tung ra, âm thanh xé màn không khí dầy đặc âm vang tới tận sâu cùng của đêm đen trừ tịch.
Và như một tiếng pháo lệnh khai quả, chỉ trong chớp mắt, không biết có bao nhiêu là loại súng lớn nhỏ thi nhau rền rĩ nhả đạn ở khắp bốn mặt chung quanh. Khoảng đen dầy đặc khói im lặng lạnh lẽo nặng nề, tất cả vụt bị phá vỡ trong chớp mắt để vụt hiện ra muôn ngàn thứ tiếng động dòn dã, chát chúa nổ vang rền trong bầu trời. Trên từng cao, những ngọn hỏa châu vàng úa xuyên thủng bóng tối, rọi xuống cảnh vật một làn ánh sáng héo úa chập chờn. Đồng quê đổ nát, những mảnh vườn cháy xém, những mái tranh cháy rục, những thềm đất hoang tàn, tất cả phơi mình một cách đau thương chua xót. Qua những kẽ hở của vách gỗ ánh sáng lùa vào căn phòng chập chờn, thẳng con trai nằm úp sấp, bên cạnh đứa con gái.
Khuôn mặt cả hai đều ngả màu vàng úa màu của ánh lửa vàng vọt. Đứa con gái nói qua tiếng súng nổ ồn ào:
− Tội nghiệp bác xã giờ còn kẹt ở trong đồng. Như thế này thì đâu còn hưu chiến cái gì nữa.
Không nguôi
Đã một lần có ai nói với mụ là gia đình của mụ vẫn vẹn toàn. Hình như lúc ở dưới hầm trú ẩn. Hình như lúc trốn đạn dưới gầm cầu. Hình như trong mái lều ướt đẫm nước mưa của khu tạm trú. Dĩ vãng trong đầu mụ bây giờ mù mịt như sương khói. Sự kiện nào cũng có mặt, nhưng sự kiện nào cũng chỉ thấp thoảng ẩn hiện, cái nọ chồng chất lên cái kia, điều này lẫn lộn với điều kia, hình ảnh này chen lấn hình ảnh khác. Duy chỉ có mỗi một điều là mụ nắm được rất vững vàng. Rất chặt chẽ. Rất rõ ràng. Đó là đồng gia quyến đẳng của mụ vẫn vẹn toàn. Chắc chắn như vậy. Vì đã có ai nói với mụ điều đó một lần. Hình như ở dưới hầm trú ẩn. Hình như dưới gậm cầu.
Nhật Tiến
Hình như trong lều vải tạm trú. Và mụ đã tin tưởng như một đứa con nít ngây thơ. Thế là những năm tháng ăn ở hiền lành bây giờ đã nẩy hoa kết trái. Ông trời có mắt thực. Ông trời không đóng cửa một ai. Bởi vì gia đình mụ vẫn vẹn toàn. Mẹ thằng Cu, đứa con dâu hiếu thảo. Thằng Cu bé, nhỏ tong teo. Cái Bé, bé hơn là tuổi đích thực của nó. Còn bố lũ nhỏ thì yên tâm rồi. Nó đi lính xa, nhưng nó là lính văn phòng. Quanh văn phòng có ụ cát. Quanh ụ cát có những hàng rào kẽm gai. Quanh hàng rào kẽm gai có lô cốt. Quanh lô cốt có giao thông hào. Quanh giao thông hào có những bãi mìn. Quanh những bãi mìn là những toán lính tuần tiễu. Ôi cha! Nó còn được bảo đảm hơn là ở nhà. Vườn tược tuênh toang. Tường siêu, vách nát, mái rạ, chẳng có chỗ nào ngăn cản được những lằn đạn bắn vào từ ngoài đồng, từ quốc lộ, từ lối đi vào ấp, từ những ngõ ngách tiêu điều, và từ cả ở trên nền trời trong vắt thiếu vắng những cụm mây xám che chở.
Quả nhiên bom đạn đã úp chụp xuống trong một đêm kinh hoàng không gì chống đỡ. Mọi người tan tác như một bầy ong vỡ tổ. Trước còn rút xuống hầm, sau hầm mù mịt khói, mọi người mới chạy ra đường mương. Từ đường mương lội ra rạch nước. Từ rạch nước chui qua những thân dừa bị chém đổ để lần ra tới dốc cầu. Nằm cả đêm ở gậm cầu đến sáng thì lại bị dồn trở lại, rồi lại bật ra, tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rên la, tiếng đạn nổ trong mùi khói khét lẹt của đạn, của mìn, của từng cuộn khói đen bốc lên cao ngất chín từng mây. Trong cơn hỗn loạn tột cùng ấy, mụ không biết đã tuột khỏi bàn tay nhỏ xíu của cái Bé từ lúc nào. Đến khi nhớ lại thì tâm trí của mụ như vừa vụt bừng tỉnh một giấc mơ dài. Mụ dừng lại
thấy gã nằm sóng soài trên mặt bùn. Lưng áo của gã loang đầy máu đỏ. Rồi thì đoàn người lại xô tới. Xác gã đàn ông bị dẫm nát dưới những bàn chân. Mụ mê man không còn suy nghĩ được gì. Mụ lại tiếp tục chạy như một kẻ không hồn. Mụ cũng không còn kịp nhìn gã là ai, già hay trẻ, quen hay lạ, mặt mũi thế nào. Mụ chỉ dừng lại một lát sau khi mụ nghe thấy tiếng khóc. Đấy là tiếng khóc của một đứa nhỏ trạc tuổi cái Bé. Mụ mừng rú tưởng đã gặp lại cháu mình. Nhưng bộ quần áo của nó, thân hình còm cõi, xương xấu của nó, khiến mụ nhận ra ngay không phải là người thân. Tuy vậy, mụ cũng còn đủ ý thức để túm chặt lấy bàn tay nhỏ xíu của
nguôi |
nó mà lôi đi. Y như thể mười lăm phút trước có một gã đàn ông đã lôi mụ đi theo cách như vậy. Đứa bé chuệnh choạng chạy theo mụ. Tiếng khóc của nó to hơn nữa, chát chúa, ồn ào, nhức buốt như tiếng động ồn ào, nhức buốt đang làm rung chuyển cả bầu trời. Mụ không nhớ là mình đã lôi kéo con bé đi được bao lâu và qua được một quãng bao xa. Nhưng mụ chỉ thấy cánh tay của mình mỗi lúc một thêm nặng chĩu và con bé bây giờ không còn chạy được. Người nó ngay đơ. Mụ mím môi lôi mạnh. Nó di động sền sệt như một khúc gỗ. Cuối cùng mụ phải cúi xuống, xốc cả thân mình gầy gò ốm yếu của nó lên vai mà chạy cho dễ dàng. Mãi đến lúc trời tảng sáng, mụ mới biết chắc mình đã thoát khỏi vòng lửa đạn. Quay lại nhìn, xóm làng thân yêu đã xa tắp và chỉ còn là một vùng đang bắt lên nền trời một quầng mây đỏ hực. Tiếng súng nghe đã thấy ngớt và vọng ở thật xa. Mụ yên tâm đặt con bé xuống nệm cỏ. Nhưng con bé đã đeo cứng lấy mụ. Mụ giằng nó ra. Nó
không tỉnh dậy. Cánh tay của nó lạnh ngắt. Nó biến thành tảng băng nặng nề treo trên cổ mụ. Mụ hoảng hồn níu lấy bàn tay của nó giằng thật mạnh. Đột nhiên mụ cảm thấy sức khỏe của mình tăng gia bội phần. Mụ lăn lộn rẫy rụa. Mụ la. Mụ hét. Mụ đánh vật với cái xác vô tri Mụ nghe thấy tiếng vải rách loạt xoạt. Tiếng thớ thịt chuyển vận. Tiếng xương gẫy. Và cuối cùng đứa bé nằm trên vai mụ văng ra, úp sấp trên bờ ruộng, mái tóc bê bết bùn, quần áo tơi tả, máu loang khô từng mảng như tiết đọng. Thế là mụ òa lên khóc. Mụ có cảm tưởng như trong phút chốc mụ đã biến thành ma quỉ. Tiếng xương gẫy dòn như rợn lên dưới từng chân tóc, từng lỗ chân lông, và một luồng hơi lạnh lẽo như thấm vào từng làn da, thớ thịt của mụ, làm mụ cứng
Tất cả đều tan biến vào một lớp sa mù. Mụ không biết mình đang ở đâu, đã làm những gì và vì đâu mà cuộc đời đã dẫn mụ đi tới chỗ cô đơn một mình ở đó. Mụ cố duyệt lại trí nhớ. Nhưng không một tia sáng nào chiếu rọi được vào tâm trí mù mịt như sương khói của mụ. Chỉ vào những lúc tỉnh táo nhất, là mụ thấy nhớ thẳng Cu, cái Bé và đứa con dâu. Có ai đã nói là chúng nó đều bình yên. Mụ tin tưởng điều đó một cách vững chắc như đinh đóng cột. Chúng nó chỉ lạc lõng đi đâu đó. Có người đã nói thế. Và mọi người đều đồng thanh công nhận là thế. Điều đó làm mụ thêm tin tưởng.
Không ngày nào là mụ không sửa soạn dọn dẹp nhà cửa, bầy biện chõng tre chiếu sạch để sắp xếp chỗ ngủ cho mẹ con sấp nhỏ. Thằng Cu nằm đây. Mẹ thằng Cu nằm đó. Còn cái Bé thì ra với bà. Mụ đã xếp đặt công việc nhỏ nhoi này hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác với một lòng kiên nhẫn không có gì lay chuyển nổi. Mụ đã nhìn vành khăn trắng của tất cả
Nhật Tiến mọi người chung quanh bằng một cái nhìn khoái chí của một kẻ khỏi vòng cong đuôi. Mụ cười ngỏn ngoẻn. Tao ăn ở hiền lành. Ông trời có mắt thiệt tình. Đời nào ông để tao phải chịu cảnh tre già khóc măng. Thế nào má con lũ nhỏ cũng bồng bế nhau về. Chúng nó lạc lõng đấy thôi. Chỉ mấy lão làm trong Ban Xã Hội là không được cái tích sự gì. Này nhé, chỉ việc thông báo đi khắp các nơi, hễ có ai là người chạy lạc thì hãy đến trại tập trung. Chỉ cần vẽ lối vào trại cho thật rõ ràng là họ kiếm tới. Có thế thôi mà nhắc bao lần mấy lão cũng vẫn thờ ơ. Hỏi đến thì cái miệng tía lia « Rồi, rồi ». Tổ cha lũ xạo. Chúng nó chỉ ham nhậu nhẹt chớ có nhúc nhích cái gì đâu mà rồi rồi. Nhưng tao sẽ chờ. Sẽ chờ hoài cho đến khi nhắm mắt. Thế nào tụi nó cũng trở về. Đây. Má thắng Cu sẽ nằm ở góc này. Thắng Cu thì nằm đó. Còn cái Bé thì ra với bà. Bà sẽ ru cháu. Cháu đừng sợ bà chứ. Bà không làm đau cháu. Không bao giờ bà làm rách
Không nguôi | 169
áo quần của cháu. Không bao giờ bà bẻ gẫy
xương tay của cháu. Cháu cứ nằm ngủ yên. Trên vai bà đây. Trên vai bà đây. Nghe cháu.