VAI TRÒ CỦA HELICOBACTER PYLORI (HP) VÀ CÁC XÉT NGHIỆM TÌM HP Marshall và Warren lần đầu tiên phân lập trực khuẩn HP (Helicobacter pylori).Lúc đầu nó có tên là Campylobacter pylori) vào năm 1982, kể từ đó có rất nhiều nghiên cứu về vai trò của nó trong bệnh lý dạ dày, nhất là bệnh lý loét và bệnh lý ung thư dạ dày. Nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy có tới 90% các trường hợp loét dạ dày và 95% các trường hợp loét tá tràng có sự hiện diện của HP nơi ổ loét. Bên cạnh đó, vai trò của HP đối với ung thư dạ dày đã được công nhận từ tháng 6 năm 1994, tổ chức y tế thế giới ( WHO ) dựa trên kết quả nghiên cứu dịch tễ học đã xếp HP vào nhóm I các yếu tố gây ung thư dạ dày. Chính vì vậy, làm thế nào để phát hiện có sự hiện diện của vi khuẩn HP trong dạ dày để điều trị kịp thời và hợp lý, vẫn là vấn đề có tính thời sự. HP: là gì? -HP là vi khuẩn gram(-) nuôi cấy trong môi trường gelose socolat hoặc gelose máu. Dưới ống kính hiển vi (điện tử) có dạng chữ S, dấu phẩy hoặc hình cung dài, một đầu có túm roi (3-5 roi). -Người là ký chủ thường nhất của HP, sự hiện diện của HP ở khỉ Phesus chỉ là ngoại lệ. Ở người chỉ tìm thấy HP trong niêm dịch chủ yếu vùng hang vị, nó phát triển ở niêm mạc dạ dày nhưng không bao giờ xuyên thủng niêm mạc và cũng không bao giờ vào tận tế bào. HP
hiện diện ở thực quản, hành tá tràng khi có dị sản niêm mạc dạ dày (gastricmetaplasia). Ngược lại HP không thể hiện diện ở vùng dạ dày có dị sản niêm mạc ruột (Intestina metaplasi). -HP sống được trong môi trường axit ở dạ dày vì nó là vi khuẩn trong quá trình sinh sống đòi hỏi oxy ở mức độ rất thấp; bên cạnh đó nó sản xuất ra nhiều urease, Urease sẽ chuyển Ure thành amoniac làm cho môi trường sinh sống của HP trở thành kiềm. Ngoài ra HP còn sản xuất ra catalase, protease, ngoại độc tố, các chất này gây bệnh cho niêm mạc dạ dày. -Đường lây: Lây truyền phân-miệng và miệng-miệng là con đường gieo rắc H.pylori và trẻ em là nguồn lây chính Làm thế nào để phát hiện ra chúng ta nhiễm HP. Trước khi điều trị, cần phải chẩn đoán chính xác bệnh nhân có nhiễm HP hay không. Có nhiều phuơng pháp (Test) để chẩn đoán, có thể chia ra hai nhóm: Nhóm test xâm phạm ( thông qua nội soi dạ dày ) và nhóm test không xâm phạm. Tuy không có phương pháp chẩn đoán nào là tối ưu, và nhìn chung không có sự khác biệt nhiều giữa các phương pháp xâm phạm và không xâm phạm, do đó sự lựa chọn phương pháp nào để xác định tình trạng HP là tuỳ điều kiện cụ thể của từng địa phương và từng trường hợp. Nhóm các Test xâm lấn gồm: -Test Urease trên mảnh sinh thiết (Biopsy Urease Test - BUT): Là test thông dụng nhất, có độ nhạy khá cao (89%-98%) và độ đặc hiệu rất cao (100%), cho kết quả trong thời gian ngắn (mươi phút đến vài giờ). Nếu bệnh nhân mới sử dụng kháng sinh hoặc thuốc ức chế bơm proton (PPI) thì HP có thể bị tạm thời ức chế sự phát triển và do đó làm sai lạc kết quả của test, vì vậy kết quả của BUT trong vòng 6 tháng (ít nhất là 4 tuần) sau đợt điều trị kháng sinh là không đáng tin cậy. -Mô học: H.p được chẩn đoán trực tiếp trong mô từ mảnh sinh thiết lấy qua nội soivới nhuộm Giemsa. Độ nhạy phụ thuộc vào số mảnh sinh thiết, ít nhất là 2 mẫu sinh thiết lấy từ hang vị và thân vị. Test có giá trị về HP (độ nhạy 93%, đặc hiệu 87%, độ chính xác chung 92%) Kết quả rõ hơn nếu nhuộm đặc biệt như Giemsa, WarthinStarry và Genta. Điều trị kháng sinh hoặc PPI trong thời gian gần cũng làm giảm sự chính xác của Test này.
-Nuôi cấy: về lý thuyết là Test tốt, nhưng đòi hỏi kỹ thuật cao phức tạp nên chưa phải là Test áp dụng thường quy ở lâm sàng. Tuy nhiên, trong những trường hợp điều trị HP thất bại thì cấy HP để đánh giá độ nhậy với kháng sinh là rất có lợi. -Polymerase Chain Reaction(PCR) là 1 test hiện đại rất hấp dẫn vì có độ nhạy cao (94%-100%), độ đặc hiệu rất cao (100%), sử dụng được chất liệu sinh thiết đã dùng làm Test BUT, có giá trị trong cả các trường hợp mà tỷ trọng HP thấp, và cho phép phát hiện một số gen của HP như cag A. PCR cũng thực hiện được với dịch vị. Nhược điểm là ống nội soi rửa và khử trùng không kỹ và sự hiện diện HP ở cao răng có thể làm sai lạc kết quả của PCR. Nhóm các Test không xâm lấn: - Thử nghiệm huyết thanh học: + Thử nghiệm ELISA IgG Anti H.pylori: Một trong các thử nghiệm đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới là thử nghiệm miễn dịch enzym phát hiện kháng thể IgG chống H.p. Là những xét nghiệm rẻ tiền và đáng tin cậy. Kết quả rất tốt với huyết thanh hoặc máu toàn phần, nhưng với nước bọt thì không tốt bằng. Rất có giá trị để xác định sự hiện diện của HP trước khi điều trị cũng như nghiên cứu dịch tễ. Nhược điểm là sau khi điều trị diệt HP, hàm lượng IgG chỉ giảm dần, phải 6-12 tháng sau mới hết, do đó không nên sử dụng Test huyết thanh để xác định kết quả điều trị HP. Tỉ lệ dương tính giả tăng lên theo tuổi do xác suất phơi nhiễm tăng lên theo tuổi. + Thử nghiệm miễn dịch máu toàn phần (tets nhanh): Độ nhạy thấp hơn thử nghiêm trên, nếu âm tính cần phải tiến hành làm thử nghiệm trên để khẳng định chẩn đoán -Test urea trong hơi thở (urea breath test, UBT): có độ nhạy cao (90%-100%) và đặc hiệu cao(88%-100%), dựa vào phản ứng giữa urea trong hơi thở với đồng vị của cacbon. Đầu tiên test được sử dụng với C13 nhưng giá thành khá cao nên hiện nay đang cải tiến để sử dụng với C14, cũng cho hiệu quả tương tự nhưng giá thành rẻ hơn. UBT được xem xét là test tốt nhất để xác nhận sự diệt HP 4 tuần lễ sau điều trị (độ nhạy sau điều trị là 95%, độ đặc hiệu 96%). Một số trường hợp âm tính giả có thể là do: nhiễm HP dạng cầu khuẩn (cocoid form of HP) là dạng không sàn xuất nhiều enzym urease. Hoặc có thể do uống kháng sinh, thuốc ức chế thụ thể H2, bismuth hay uống thuốc ức chế bơm proton. Hoặc mới kết thúc điều trị Bệnh
nhân được uống một dung dịch chứa chất đồng vị gắn Urea. Với hoạt động của Urease trong dạ dày tạo chất đồng vị gắn carbon dioxide được hấp thụ và sinh ra bởi hơi thở của bệnh nhân sau 30 phút và được đo bằng quang phổ kế. Độ nhạy và đặc hiệu tuyệt vời > 95%. -Phát hiện Antigen của H.pylori trong phân của bệnh nhân với kỹ thuật ELISA. +Test nhanh này dựa trên tác dụng của kháng thể đơn dòng kháng lại thành phần mô học của vk HP trong phân của bệnh nhân, có độ đặc hiệu là 98% và độ nhạy là 94% +Có tác dụng và ý nghĩa lớn trong giai đoạn đầu mới nhiễm Hp hay có tác dụng theo dõi đánh giá mức đọ loại trừ HP sau điều trị. +Là một xét nghiệm tốt nhưng còn hạn chế về giá thành. Kỹ thuật: Tiến hành một qui trình hoàn chỉnh 1-CLO - test : - Mẫu sinh thiết hang vị dạ dày được cho vào giếng đựng thuốc thử Clo - test ngay và quan sát sự đổi màu của hóa chất sau 30 phút, 1 giờ, 3 giờ, 24 giờ. Ðể bệnh phẩm và đọc kết quả tại phòng nội soi. - Kết quả: CLO - test ( + ) : màu vàng chuyển sang hồng trước 24 giờ, ( - ) : không chuyển màu. 2-MBH (Mô bệnh học): Mảnh sinh thiết hang vị dạ dày được bảo quản trong môi trường Formol 10% rồi được xử lý, sau đó đem nhuộm Giemsa và được Bác sĩ chuyên khoa đọc kết quả. 3-Nuôi cấy: - Nghiền nát mẫu mô sinh thiết trên lame vô trùng, một phần làm tiêu bản nhuộm Gram, một phần cho vào môi trường Campylobacter blood free + 5% hồng cầu + Suplement có Cefoperazole, Amphotericine B bằng phương pháp cấy vạch ba chiều rồi đem ủ ở điều kiện vi hiếu khí tạo bởi GENbox microaer ở nhiệt độ 37o 42oC. -Ðọc kết quả sau 3 đến 7 ngày, khuẩn lạc là những khúm nhỏ màu xám trong suốt, đường kính 1 - 2 mm.
-Chọn khuẩn lạc để nhuộm Gram, xem hình dạng và làm các thử nghiệm : Urease, Catalase, Oxydase để định danh vi khuẩn. Chọn các chủng H.P mọc tốt, nhiều, không bị nhiễm nấm cấy truyền để làm thử nghiệm kháng sinh đồ. Qui trình định danh H.P Kết quả: Nuôi cấy(+): vi khuẩn mọc bắt màu Gr(-), hình dạng đặc trưng ; thử nghiệm Urease (+), Oxydase (+), Catalase (+). Nuôi cấy ( - ) : khi không có vi khuẩn mọc hoặc có nhưng không thỏa điều kiện định danh trên. * Kháng sinh đồ bằng phương pháp khuếch tán trên thạch : + Sử dụng môi trường Campylobacter blood free. + Ðĩa kháng sinh : Tetracyline, Metronidazole, Amoxicilline, Erythromycine và Clarythromycine. + Ðiều kiện ủ : ở to = 370C, điều kiện vi hiếu khí và đọc kết quả. Kết luận : H.P (+) khi hai trong ba kết quả trên (+) hoặc nuôi cấy ( + ). H.P ( - ) khi không thỏa điều kiện trên./.