K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
1
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
L MỤC C 4
K H Ở I
K H Ở I N G U Y Ê N
Chương I
Sự khởi nguồn
08
L Ư Ợ C
Chương II
Dân Chúa chọn
46
Chương III
Khải huyền ca
76
LƯỢC 5
6
LỜI NÓI ĐẦU
K H Ở I
Đã bao giờ bạn tự hỏi rằng các tôn giáo tồn tại trên thế giới được hình thành ra sao, trong thời điểm nào? Và bạn có biết các tôn giáo tưởng chừng như riêng biệt lại có cùng một nguồn gốc không? Hãy cùng Khởi Nguyên Lược khám phá sự hình thành của 3 tôn giáo có cùng nguồn gốc là Hồi Giáo, Do Thái Giáo và Công Giáo.
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
7
8
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
9
C H Ư Ơ N G I
S Ự K H Ở I N G U Ồ N
10
11
K H Ở I N G U Y Ê N
T
hiên Chúa tạo ra người đàn ông từ bụi đất và người thở vào anh ta, và rồi người đàn ông thở, di chuyển, và có sự sống. Và Thiên Chúa ôn tồn nói với anh ta rằng anh ta nên làm chủ cá biển, chim trời và hơn tất cả mọi thứ sống trên trái đất. Và Chúa nói với người đàn ông rằng trái cây mọc trên cây và trên bụi cây phải là thức ăn của anh ta. Để các con vật được cho cỏ và lá của bụi cây để ăn.
L Ư Ợ C
A
DAM
EVE
VÀ
13
Thiên Chúa tạo ra người đàn ông
Thiên Chúa tạo ra người đàn ông từ bùn đất. Người thở hơi vào anh ta, và rồi người đàn ông thở, di chuyển, và có sự sống. Thiên Chúa nói chuyện tử tế với anh ta, và nói với người đàn ông rằng anh ta nên làm chủ cá biển, chim trời và hơn tất cả mọi thứ sống trên trái đất. Và Chúa nói rằng trái cây mọc trên cây và trên bụi cây là thức ăn của anh ta. Còn các loài vật khác thì ăn lá cây và cỏ dại. Thiên Chúa gọi người đàn ông ấy là Adam. Chúa đã xem xét tất cả những điều ông đã làm, và hài lòng với chúng. Và đó là ngày thứ sáu trong những ngày Thiên Chúa tạo dựng muôn vật. Chúa đã trồng một khu vườn cho người đàn ông mà Chúa đã tạo. Nó được gọi là vườn địa đàng. Trong khu vườn đó, Thiên Chúa đã trồng mọi cây xinh đẹp, và chúng cho quả tốt để ăn. Một dòng sông chảy qua khu vườn và tưới nước cho tất cả chúng. Và Thiên Chúa đưa Adam vào vườn để chăm sóc cho muôn vật. Chúa bảo anh ta có thể ăn trái của mọi cây trong vườn trừ một cây, cây đó được gọi là Cây Kiến thức về Thiện và Ác. Chúa nói anh ta không được ăn cây đó, vì nếu anh ta ăn nó, anh ta chắc chắn sẽ chết.
14
K H Ở I N G U Y Ê N
Thiên Chúa tạo ra người đàn bà
L Ư Ợ C
Chúa nói rằng thật không tốt khi người đàn ông chỉ ở một mình, do đó, Chúa đã tạo ra người phụ nữ ở bên và giúp đỡ anh ta. Người khiến Adam rơi vào một giấc ngủ sâu và trong khi anh ta đang ngủ, Chúa đã lấy ra từ người anh ta một mẩu xương, và từ xương đó Chúa đã tạo ra một người phụ nữ. Và Chúa đã mang người phụ nữ mà người đã tạo cho Adam, và cô là vợ anh. Cô có tên là Eve. Bấy giờ có một con rắn trong vườn Địa đàng và con rắn đã nói chuyện với người phụ nữ, nhưng thực chất chính là Satan, Thần xấu xa đã hoá thành con rắn và cám dỗ người phụ nữ phạm tội. Con rắn hỏi cô: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn đúng không?” Người phụ nữ trả lời con rắn rằng: “Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán: các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết”. “Bà chắc chắn sẽ không chết”, rắn nói. “Thiên Chúa bảo bà rằng bà sẽ chết để bà sợ mà đừng ăn trái đó, vì ngài biết rằng nếu bà ăn nó, mắt bà sẽ mở ra và bà sẽ khôn ngoan như các thần linh, biết cả sự tốt lẫn sự xấu”.
15
Người đàn ông. Người đàn bà. Và con rắn
Eve lại nhìn vào cây đó. Nó thật sướng mắt và trái của nó trông có vẻ ngon. Nếu đúng việc ăn trái đó sẽ làm cho mình khôn ngoan thì nó quả thực là cây đáng thèm muốn. Bà không nhận ra là mình đang bị cám dỗ hết sức tinh tế bởi một con dã thú quỷ quyệt. Bà đưa tay ra và các ngón tay của bà hái trái cây đó. Bà nếm nó, bắt đầu ăn. Con rắn bỏ đi để yên cho bà ăn. Bà đã chia sẻ với chồng toàn bộ thế giới, vậy thì bà sẽ chia sẻ với chồng điều mới lạ bà vừa khám phá. Trái cây đó hương vị thơm ngon và Adam cũng phải ăn đôi chút. Eve cho chồng mình một ít và Adam cũng ăn trái cấm đó. Đúng là họ không chết ngay, nhưng bằng việc không vâng lời đó, tự họ đã khước từ sự sống đời đời. Cũng đúng như mắt họ đã mở ra, và lúc này họ nhận ra những điều trước đây chưa bao giờ họ biết tới. Lần đầu tiên họ nhận ra mình trần truồng, và lần đầu tiên họ cảm thấy xấu hổ. Họ biết rằng mình đã làm sai, và khi không che giấu được hết sự xấu hổ và sợ hãi của mình, họ núp trong những bụi cây rậm lá. Rồi họ nghe tiếng chân của Chúa khi ngài đi dạo trong vườn lúc gió nhẹ chiều hôm, và họ rút vào sâu hơn trong các lùm cây để núp khuất mặt Ngài. “Adam, người ở đâu?”, Thiên Chúa gọi. “Tôi đây, thưa Chúa”, Adam trả lời, “Tôi nghe tiếng bước của ngài trong vườn và tôi sợ hãi vì đang trần truồng nên tôi núp mình”. “Làm sao ngươi biết ngươi trần truồng?” Chúa hỏi. “Phải chăng ngươi đã ăn trái của cây bị cấm đó khiến ngươi biết được như vậy?”. “Chính người đàn bà này,” Adam nói, “Eve đã cho tôi một ít trái đó và tôi đã ăn”. Thiên Chúa quay sang Eve: “Tại sao ngươi làm như vậy?”, Ngài xót thương hỏi Eve.“Chính con rắn”, người đàn bà nói. “Con rắn đó đã cám dỗ tôi nên tôi ăn”.
16
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
“Con rắn đó đã cám dỗ tôi nên tôi ăn”
Adam và Eve đã sai lầm không vâng lời. Chúa chỉ đòi hỏi sự vâng lời và họ không đáp ứng được yêu cầu của Ngài. Con rắn cũng đã làm sai khi lừa phỉnh Eve, và lời quở phạt đầu tiên của Chúa là dành cho con vật đó. “Vì ngươi đã làm điều này”, Thiên Chúa nói với con rắn, “ngươi bị chúc dữ trên tất cả dã thú. Từ nay ngươi sẽ lê bụng mình mà bò đi và sẽ ăn đất bụi hết thảy mọi ngày suốt đời ngươi. Ngươi và người đàn bà này, và con cháu của ngươi cùng con cháu của người đàn bà này sẽ là kẻ thù vĩnh viễn của nhau”. Từ đó, con rắn không còn đứng thẳng và tự hào nữa mà phải nằm sát mặt đất, thấp hơn mọi thú vật ở trần gian. Và nó trườn bụng bò đi bụi đất. “Còn ngươi”, Thiên Chúa nói với Eve, “sẽ có đau đớn và đau khổ và ngươi sẽ thai nghén con cái trong khổ não. Ngươi sẽ không bao giờ ngang hàng với người đàn ông vì hắn sẽ thống trị ngươi”. Và ngài nói với Adam: “Vì ngươi nghe lời vợ ngươi và ngươi đã ăn trái mà ngươi không được phép ăn, ngươi bị kết án không được ăn, đất đai không chỉ cưu mang những gì tốt lành, mà còn cưu mang gai cùng góc. Ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng, nhưng thực phẩm sẽ không phải là của ngươi để ngươi chỉ việc đưa tay ra lấy mà ăn. Kể từ nay, ngươi phải làm việc và kiếm được miếng ăn do mồ hôi đẫm lông mày, và ngươi sẽ làm như thế cho đến ngày ngươi về lại với cát bụi, vì ngươi đã được làm từ bụi đất”.
17
<<
18
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
19
<<
K H Ở I
N
OAH
VÀ CƠN
ĐẠI HỒNG THUỶ
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
S
au một thời gian dài, khi có thêm nhiều người sống trên thế giới, họ trở nên rất độc ác. Trái tim của họ chứa đầy những suy nghĩ tội lỗi và tất cả các hành vi của họ là xấu xa, vì họ không quan tâm đến việc làm hài lòng Chúa, hoặc thậm chí cố gắng vâng lời Người. Do đó, Thiên Chúa đã nổi giận với họ và nói rằng Người sẽ trừng phạt họ bằng cách gửi một trận lụt bao phủ trái đất bằng “nước sâu” và nhấn chìm tất cả mọi người, động vật, chim chóc và mọi thứ sống trên mặt đất. Đối với hầu hết tất cả mọi người trên thế giới đều rất tội lỗi nhưng không phải hoàn toàn; có một người đàn ông tốt có tên là Noah. Kinh thánh nói với chúng ta một điều rằng ông ta “là một người đàn ông chính trực, và ông ta đã đi với Chúa”.
21
Chúa truyền lệnh cho Noah đóng một chiếc thuyền. Đây là một chiếc thuyền khổng lồ, và Chúa nói với Noah rằng khi nó được hoàn thành, ông và các con trai và vợ của họ nên đi vào đó. Và Người ra lệnh cho Noah mang theo mình mọi loại thú, mọi loại chim, và mọi loại côn trùng, để giữ cho chúng sống trong khi lũ lụt trên trái đất. Noah vươn vai duỗi những cơ bắp đau mỏi của mình. Hãy hình dung ông ngồi trên cây xà gỗ to, nghỉ tay một chút và ngắm cấu trúc khổng lồ của chiếc tàu. Không khí nồng nặc mùi chai trét tàu, khắp nơi vang dội tiếng những dụng cụ làm mộc. Từ chỗ ngồi, Noah có thể nhìn thấy các con chăm chỉ làm việc ở những phần khác của khung tàu. Con trai, con dâu và người vợ yêu dấu của ông đã chung sức làm việc này trong nhiều thập niên.
22
K H Ở I
Sau khi chiếc thuyền được chế tạo, Kinh thánh nói rằng các “cửa sổ thiên đàng” đã được mở ra, khiến mưa rơi xuống không chỉ trong những giọt nhỏ, như chúng ta vẫn thấy, mà nó đến như thể trút ra khỏi những cửa sổ lớn trên bầu trời . Trời mưa bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và những con suối, những dòng sông và đại dương, tất cả bắt đầu nổi lên và tràn qua vùng đất. Sau một lúc nước đến nơi chiếc thuyền, bên dưới và xung quanh nó, nó dâng cao hơn và cao hơn cho đến khi chiếc thuyền nổi lên và được nâng lên từ nơi mà Noah đã xây dựng nó rất lâu, và mặt đất ở khắp mọi nơi bắt đầu bị che lấp bởi dòng nước.
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
Chuyện gì xảy ra với những người không vâng phục Thiên Chúa và không tin lời cảnh cáo của Noah? Trước khi cơn mưa ập đến, họ nghĩ rằng sẽ không có lũ lụt và Noah chỉ muốn làm cho họ sợ. Bây giờ lũ đã đến, và họ thấy rằng tất cả những gì ông đã nói với họ là sự thật. Họ đã leo lên những nơi cao nhất trên những ngọn đồi và ngọn núi, nhưng những ngọn đồi và ngọn núi cuối cùng đã bị che phủ, không có nơi nào khác để họ đi, và tất cả mọi người trên thế giới, ngoại trừ những người trong thuyền, đã bị chết đuối. Và mọi con thú, chim và côn trùng nhỏ, ngoại trừ những con trong thuyền, cũng bị chết đuối dưới làn nước.
23
Rồi cả trái đất bị bao phủ bởi nước. Không có đất để được nhìn thấy ở bất cứ đâu; chỉ có thể nhìn thấy chiếc thuyền trôi nổi một mình, với nước xung quanh nó và bầu trời phía trên. Noah đã ở trong tàu một trăm năm mươi ngày, nước chảy xuống rất nhiều đến nỗi hòm nằm trên đỉnh một ngọn núi gọi là Ararat. Nó đứng đó, nằm trên đỉnh núi, trong hơn hai tháng. Vào thời điểm đó, nước dần rút xuống thấp hơn, và những ngọn núi khác dần có thể được nhìn thấy từ trên mạn con thuyền.
Cố gắng tìm kiếm sự sống
Và Noah đã mở cửa sổ hòm và để một con quạ đi, và con quạ bay trên mặt nước và đậu vào ban đêm trên đỉnh núi, hoặc trên nóc tàu, nhưng không bao giờ quay trở lại với Noah nữa. Sau đó, Noah đã thả một con chim khác, đó là một con chim bồ câu. Ông thả chúng để chúng bay đi và xem thử nước trên mặt đất đã cạn hay chưa. Nhưng nước vẫn chưa cạn. Mặc dù các ngọn núi không được che phủ, nhưng phần còn lại của chúng vẫn còn chìm dưới mặt nước.
24
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
Sau đó, Noah đã đợi bảy ngày nữa và đưa con chim ngoài một lần nữa, và vào buổi tối, nó trở lại với ông như lần trước, nhưng lần này với một chiếc lá trong miệng, nhổ ra từ một cây ô liu. Khi Noah nhìn thấy chiếc lá, ông ta biết rằng nước đã rút xuống rất nhiều, nếu không chim bồ câu không thể tìm thấy nó. Chúa đã dạy chim bồ câu nhổ chiếc lá đó và mang nó đến cho Noah, để ông có thể biết mặt đất sẽ sớm khô. Và ông đợi thêm bảy ngày nữa và gửi chim bồ câu một lần nữa, nhưng nó không quay lại với ông lần này. Lúc này, không còn nghi ngờ gì nữa, khu rừng hẳn đã hiện ra để bay vào, dễ chịu hơn nhiều so với chiếc thuyền nơi nó đã đợi chờ quá lâu. Và bên cạnh, Chúa khiến chim bồ câu quay trở lại với Noah, để ông có thể chắc chắn rằng đã đến lúc ông phải ra khỏi tàu. Và Noah thấy rằng mặt đất khô ráo. Và Thiên Chúa nói chuyện với anh ta, và bảo anh ta ra khỏi tàu, và cũng mang ra ngoài vợ ông và các con trai của ông, và các động vật, chim và côn trùng, đã ở trong tàu với ông. Vì vậy, Noah bước ra và mang theo mọi sinh vật, và họ đi trên mặt đất khô ráo.
25
“Ai làm đổ máu người ta, máu nó sẽ bị người ta làm đổ lại”
26
K H Ở I N G U Y Ê N
Giao Ước với Noah
Sau khi cơn đại hồng thuỷ kết thúc, Ðức Chúa Trời ban phước cho Noah và các con trai ông. Ngài phán với họ, “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều và làm đầy khắp đất. Tất cả loài thú trên đất, loài chim trên trời, loài vật bò sát mặt đất, và mọi loài cá biển sẽ khiếp sợ và kinh hãi các ngươi, chúng sẽ bị phó vào tay các ngươi. Mọi sinh vật di động sẽ được dùng làm thực phẩm cho các ngươi. Như trước kia ta đã cho các ngươi rau trái để làm thức ăn, thì nay Ta cho các ngươi được ăn mọi thứ. Duy chỉ một điều: các ngươi không được ăn thịt với mạng sống của nó, tức với máu nó. Vì mạng sống của các ngươi, Ta bắt phải có sự đền mạng. Nếu một con thú làm người nào bị chết, con thú ấy phải đền mạng. Nếu một người làm người nào chết, người ấy phải đền mạng; kẻ nào sát nhân, kẻ ấy phải đền mạng. Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng cho mạng sống của người bị mình hại chết. Ai làm đổ máu người ta, máu nó sẽ bị người ta làm đổ lại, vì Ðức Chúa Trời đã dựng nên loài người theo hình ảnh Ngài. Về phần các ngươi, các ngươi hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều. Hãy lan tràn ra khắp đất và sinh sản cho nhiều trên đất”. Ðức Chúa Trời lại phán với Noah và các con trai ông: “Về phần Ta, Ta lập một giao ước với các ngươi và với dòng dõi các ngươi sau này, và với mọi sinh vật đang sống với các ngươi, tức với mọi loài chim, mọi loài gia súc, mọi loài thú vật đang sống trên đất với các ngươi, tức những sinh vật đã ra khỏi tàu. Ta lập giao ước Ta với các ngươi: Ta sẽ không bao giờ tiêu diệt mọi loài xác thịt bằng
nước lụt nữa và sẽ không bao giờ có một trận đại hồng thủy để hủy diệt trái đất nữa”. Ðức Chúa Trời phán: “Ðây là dấu hiệu để chỉ về giao ước Ta đã lập giữa Ta với các ngươi và với mọi sinh vật đang sống với các ngươi, cho đến muôn vàn thế hệ về sau: Ta đã đặt cầu vồng của Ta ở trong mây, để nó sẽ làm một dấu hiệu chỉ về giao ước của Ta với trái đất. Mỗi khi Ta cho mây giăng trên đất, chiếc cầu vồng sẽ xuất hiện trong mây; bấy giờ Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi và với mọi sinh vật của mọi loài xác thịt, và nước sẽ không bao giờ trở thành một cơn đại hồng thủy để tiêu diệt mọi loài xác thịt nữa. Khi chiếc cầu vồng xuất hiện trong mây, Ta sẽ trông thấy nó, và sẽ nhớ lại giao ước đời đời giữa Ðức Chúa Trời và mọi sinh vật của mọi loài xác thịt sống trên đất”. Ðức Chúa Trời phán với Noah: “Ðó là dấu hiệu của giao ước Ta đã lập giữa Ta và mọi loài xác thịt sống trên đất”.
L Ư Ợ C
27
JAPHETH
SHE
HAM
28
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
EM
Những người con trai của Noah
Noah có 3 người con trai tên là Ham, Shem và Japheth. Sau trận đại hồng thuỷ, con cháu của Noah sinh sống đông đúc trên mặt đất. 3 người con của Noah cũng tách ra và di cư tới 3 vùng đất khác nhau, hình thành nên 3 lãnh thổ khác nhau hiện nay: - Shem là tổ tiên đầu tiên của dân Israel và một số lớn dân Ả Rập. - Dòng dõi của Japheth đã di cư về phía Tây, Bắc và Đông Bắc của nơi họ sinh trưởng, tức là tới vùng Âu-châu và một phần Nam Á Châu bây giờ. Họ là tổ tiên của chủng tộc da trắng. - Dòng dõi của Cham di chuyển về hướng Tây Nam dọc theo bờ đông Địa Trung Hải để tới khu vực Bắc Phi, rồi họ tiến sâu về hướng Nam vào giữa lục địa Phi Châu. Họ là tổ tiên của chủng tộc da đen.
29
30
K H Ở I
“Ta sẽ không bao giờ tiêu diệt mọi loài xác thịt bằng nước lụt nữa”
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
31
K H Ở I N G U Y Ê N
N
hiều năm đã trôi qua, sau khi nước lũ biến mất, Chúa đã ban cho con trai của Noah được con đàn cháu đống. Họ, khi họ lớn lên, cũng có con, vì vậy sau một thời gian, có rất nhiều người trên thế giới một lần nữa Bây giờ họ đã biết hậu quả của việc xúc phạm đến Chúa. Họ biết loài người đã xúc phạm Chúa trước đây đã bị trừng phạt như thế nào, và mặc dù Chúa đã hứa sẽ không bao giờ gửi một trận lụt nữa, nhưng có nhiều cách khác để Chúa trừng phạt họ. Người có thể gửi bệnh cho họ, hoặc không cho họ ăn, và để họ chết đói; hoặc Người có thể gửi lửa từ trời xuống để đốt loài người. Nhưng họ dường như quên mất điều này, và khi trái tim họ xấu xa, họ tiếp tục như những người trước khi trận lụt xảy ra, phạm tội chống lại Thiên Chúa.
L Ư Ợ C
T
HÁP BABEL
SỰ HỖN LOẠN NGÔN NGỮ
VÀ
33
Vọng tưởng chạm tới thiên đường
Babylon là một cái tên huyền thoại đã quá đỗi quen thuộc trong văn hóa phương Tây: nó gắn liền với vườn treo Babylon, một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại; nó gắn liền với Babylon, một nơi đã từng là thành phố lớn nhất trên thế giới trước Công Nguyên; và nó cũng gắn liền với ngọn tháp Babel cùng vọng tưởng chạm tới thiên đàng – điều mà theo truyền thuyết đã khiến nhân loại không còn sử dụng chung một ngôn ngữ. Câu chuyện về Babel (hay còn gọi là Babylon) được ghi lại trong sách Sáng Thế. Theo đó, sau trận Đại hồng thủy, hậu duệ của Noah đã di cư về phía Đông và định cư tại một vùng đất có tên là Shinar. Thời bấy giờ, con người vẫn còn dùng chung một thứ tiếng. Họ dự định xây dựng nên một ngọn tháp cao lớn làm biểu tượng của loài người tên là tháp Babel, và vọng tưởng rằng thông qua đó có thể chạm tới Thiên đàng mà không cần nhờ đến ân huệ của Chúa. Và họ nói với nhau rằng hãy làm
34
gạch và xây một tòa tháp mà đỉnh của nó có thể vươn lên trời. Và họ bắt đầu xây dựng nó. Họ không nói lý do tại sao họ muốn xây dựng tòa tháp này. Nhưng Chúa, người đã nhìn thấy trái tim của họ, biết rằng đó là vì mục đích xấu xa nào đó. Có lẽ họ không tin lời hứa của Chúa, rằng Người sẽ không bao giờ gửi một trận lụt nữa trên trái đất, và nghĩ rằng, nếu Chúa trừng phạt một lần nữa bằng nước, tòa tháp này sẽ cao đến mức nước không thể tràn qua, và họ sẽ trèo lên nó và được an toàn. Hoặc có lẽ họ đã xây dựng nó như một loại đền thờ, hoặc nhà thờ, không phải để thờ phượng Chúa, mà là các biểu tượng khác.
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
Vọng tưởng rằng thông qua đó có thể chạm tới Thiên đàng 35
Sự hỗn loạn của ngôn ngữ loài người
Nhận thấy sự cuồng vọng của con người, Chúa trời đã dùng quyền năng của mình để giáng tai họa xuống. Ngài khiến cho những người công nhân xây dựng ngọn tháp bất chợt nói những ngôn ngữ khác nhau, khiến họ không còn có thể giao tiếp với nhau được nữa. Việc xây dựng ngọn tháp Babel bị đình trệ, nhân loại tản mát thành những nhóm có ngôn đó, họ đã phải ngừng xây dựng trước khi tòa tháp được hoàn ngữ riêng, và rồi cuối cùng phát triển thành xong. thành những quốc gia riêng biệt. Do Tòa tháp mà họ cố gắng xây dựng, nhưng Thiên Chúa không cho phép họ hoàn thành, được gọi là tháp Babel. Babel trong tiếng Hebrew cổ còn có nghĩa là lung tung, lộn xộn, như một mớ bòng bong vậy. Vì truyền thuyết này mà chúng mới mang tên là Babel hay Babylon.
36
K H Ở I
Babel trong tiếng Hebrew cổ còn có nghĩa là lung tung, lộn xộn, như một mớ bòng bong vậy.
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
37
K H Ở I
A
BRAHAM
CHA CỦA NIỀM TIN
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
A
braham sinh ra tại thị trấn Ur thuộc miền Mesopotamia, là con của Terah, giòng giống Shem, con trai ông Noah. Sinh ra từ 4,000 năm trước, nhưng những ảnh hưởng của Abraham tại Trung Đông vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Các đạo thờ Chúa gồm đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi đều có chung một ông tổ là Abraham.
39
Nhiều năm sau sự kiện người dân đã cố gắng xây dựng tháp Babel, sống ở vùng đất của Ur, có một người đàn ông tên là Abraham. Người dân vùng đất đó tôn thờ những hình tượng khác nhau. Và Chúa bảo Abraham rời bỏ gia đình và người thân của ông để đi đến một vùng đất hoàn toàn mới mà Chúa sẽ chỉ cho ông. Abraham lúc ấy đã bảy mươi lăm tuổi và ông đưa vợ mình, tên là Sarah, và con trai của a nh trai ông, tên là Lót, và họ bắt đầu đi đến vùng đất đất Chúa đã nói với ông.Sau một hành trình dài, Abraham đến vùng đất Canaan, và sống ở đó.
Abraham đón tiếp thiên thần Chúa
Một ngày nọ, Abraham đang ngồi tại cửa lều của mình, vào thời điểm nóng nhất trong ngày. Ông nhìn lên và thấy ba người đàn ông đứng gần anh. Sau đó, ông chạy ra gặp họ và cúi đầu trước khi họ tiến vào đất của ông. Abraham vội vã vào lều báo cho Sarah, vợ ông và bảo bà nướng bánh thật nhanh. Và anh ta chạy đến bầy gia súc và mang một con bê mềm và tốt, và làm thịt nó. Sau đó, ông lấy bơ và sữa, con bê đã được nấu chín, và đặt nó trước những người đàn ông, và họ đã ăn.
40
K H Ở I
Sau khi ăn xong, họ đứng dậy và đi về phía thành phố Sodom, và Abraham đi cùng họ. Mặc dù ông gọi họ là đàn ông, ba người này không phải là con người. Hai trong số họ, ông tin rằng là những thiên thần, và người còn lại là Chúa. Bạn có thể hỏi, đó có thể là Chúa, nhìn và nói chuyện như một người đàn ông không? Phải, vì Người có thể xuống thế giới này dưới hình dạng một người đàn ông. Sau khi được Abraham tiếp đón ân cần thì ba thiên thần báo tin: “Sang năm vào khoảng độ này, Sarah vợ ông sẽ có con,” Sarah nghe thấy thế thì liền mỉm cười. Năm Abraham 100 tuổi, Sarah sinh một con trai, ông đặt tên con là Isaac.
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
41
Con trai đầu lòng của Abraham: Ishmael
42
Việc Ishmael ra đời là do sự sắp xếp của người vợ đầu tiên và chính thức duy nhất của Abraham, tức bà Sahra. Hai vợ chồng ông Abraham và bà Sahra vẫn đang mong muốn 1 đứa con nối dõi để ứng nghiệm lời Thiên Chúa đã hứa. Tuy nhiên, dù đã 75 tuổi vẫn chưa có con, và theo tập tục thời ấy, bà hiến người hầu gái gốc gác Ai Cập là Hagar cho chồng mình. Đến năm ông Abraham được 85 tuổi thì có con đầu lòng với người hầu gái Hagar và đặt tên là Ishmael nghĩa là “Chúa nghe”. Do mình vẫn chưa có con nối dõi, Sahra đối xử hà khắc với mẹ con người hầu gái Hagar khiến 2 mẹ con bà phải bỏ trốn. Nhưng sứ thần của Chúa hiện ra với bà và khuyên bà nên quay trở về với Abraham vì lúc bấy giờ Sahra có thể có 1 đứa con trai do lời Chúa hứa. Theo đó, ông Abraham sẽ trở nên tổ phụ của 1 dân tộc đông đảo. Tuy nhiên, lời hứa ấy phải ứng nghiệm và truyền lại cho con trai của người vợ chính thức, tức là Sahra. Dù vậy, để khuyên được bà Hagar quay về, Thiên Chúa đã đặc biệt hứa cho con trai bà Ishmael cũng trở thành 1 lãnh đạo 1 quốc gia rộng lớn. Khi Ishmael 13 tuổi, Abraham khi ấy đã 99 tuổi, được Chúa hứa cho 1 người con trai với bà Sahra. Một năm sau, đứa bé ra
K H Ở I N G U Y Ê N đời và được đặt tên là Isaac, lúc ấy Sahra đã 90 tuổi. Lúc bấy giờ, Sahra nói với chồng mình nên đuổi 2 mẹ con Hagar đi để đảm bảo lời hứa của Chúa sẽ ứng nghiệm nơi con trai mình là Issac. Abraham chỉ đồng ý khi Chúa hứa với ông giao ước giữa Thiên Chúa và ông sẽ được truyền lại nơi Isaac, đồng thời, người con đầu lòng của ông là Ishmael cũng được trao 1 quốc gia khác cho nó. Năm 14 tuổi, Ishmael và mẹ rời bỏ nhà cha mình. Araham cho 2 mẹ con lương thực, nước uống và cho họ ra đi. Họ đi đến 1 vùng hoang mạc Beer-sheba, nơi Chúa đã hứa với 2 mẹ con họ rằng sẽ cho con trai bà 1 quốc gia. Sự miêu tả về con cháu của Hagar có ý nghĩa rất đặc biệt, bởi vì nhiều người Ả Rập bây giờ là dân Ishmaelites, con cháu của Ishmael mà cha họ là Abraham. Muhammad, vị sáng lập ra Hồi Giáo cũng từ Kedar mà ra, một trong 12 người con trai của Ishmael (tiếng Ả Rập là Ismail). Ngày nay 22 quốc gia ở Trung Đông và Bắc Phi là những quốc gia Ả Rập mà phần đông dân chúng theo đạo Hồi. Ngoài ra còn 35 quốc gia là thành viên của Liên Hiệp Hồi Giáo mà đa số những nước này có chính phủ Hồi Giáo nhưng dân chúng thì thuộc nhiều chi tộc khác nhau. Trước khi con cháu Ishmael đến ở vùng đất này thì chữ ARAB được dùng để chỉ những dân tộc ở bán đảo Arabia. Ngày nay người Ả Rập và ngôn ngữ của họ bao trùm cả một vùng rộng lớn. Điều này lại hiển hiện rõ nét trong lịch sử hiện đại cho tới hiện tại: Hận thù giữa những người Ả Rập với nhau, giữa nhưng người Ả Rập và những người con khác của Abraham.
L Ư Ợ C
43
Con trai thứ của Abraham: Isaac
Khi Ishmael lên 14 tuổi thì Chúa lại chúc phúc cho Abraham sẽ sinh một con trai nữa, nhưng lần nay sẽ do vợ chính là Sarah sinh đẻ. Chúa truyền đặt tên nó là Isaac, nghĩa là “tiếng cười”, bởi vì khi được tin sẽ có con vào tuổi xế chiều, hai ông bà bán tin bán nghi phát phì cười. Tuy nhiên đó cũng là niềm vui mà đứa trẻ sẽ mang lại cho hai ông bà. Đến lượt Isaac sinh ra Jacob và đặt tên là Israel là tổ phụ của dân Israel. Như vậy con cháu của Ishmael và của Isaac là anh em bà con liên quan với nhau.
Thiên Chúa thử thách Abraham
Một ngày, Thiên Chúa gọi Abraham và nói: Hãy hiến tế Isaac, con trai duy nhất của ngươi, đứa con trai mà ngươi hằng yêu quý cho ta. Phải, Abraham được truyền lệnh dâng lên Isaac trên một bàn thờ; để giết nó và thiêu cháy nó, như thể nó là một con cừu con. Làm thế nào Abraham có thể làm điều này? Làm thế nào anh ta có thể giết con trai thân yêu của mình? Tuy nhiên, vì Chúa bảo anh ta làm điều đó nên Abraham nghe lời Người. Anh ta biết rằng anh ta nên làm bất cứ điều gì Chúa nói, và anh ta cũng biết rằng ngay cả khi Isaac bị giết và đốt trên bàn thờ, để không còn gì ngoài tro cốt của anh ta, Chúa có thể lấy tro cốt đó và khiến anh ta sống lại. Vì vậy, Abraham dậy sớm vào buổi sáng và sẵn sàng hiến tế Isaac. Ông
44
K H Ở I N G U Y Ê N
bắt đầu đi đến ngọn núi mà Chúa đã nói với ông. Ông đã đi ngày hôm đó và ngày hôm sau, nhưng thể không đến nơi cần đến. Nhưng vào ngày hôm sau, ông nhìn lên và thấy nơi đó. Sau đó, anh nói với những người tuỳ tùng ở lại để chỉ ông và Isaac lên núi và thờ phượng và sẽ quay lại sau, vì ông không muốn họ thấy ông hiến tế con trai mình. Ông rời khỏi đám tuỳ tùng, mang theo Isaac và một ít gỗ. Và họ đã đến nơi mà Chúa đã nói với anh ta. Ở đó, Abraham đã làm một bàn thờ và đặt gỗ trên đó. Ông trói Isaac và đặt ông lên gỗ. Sau đó, Abraham đưa tay ra và cầm con dao để chuẩn bị giết con trai mình. Nhưng ngay lúc đó, thiên thần của Chúa kêu gọi ra từ thiên đàng và nói với ông đừng làm tổn thương Isaac, vì bây giờ Chúa biết rằng Abraham kính sợ Chúa, vì ông sẵn sàng dâng con trai duy nhất của mình khi Chúa đến ra lệnh cho ông. Abrahma nhìn thấy trong bụi rậm một con chiên con, Chúa đã gửi nó đến đó để hiến tế thay cho Isaac. Abraham bắt nó và giết nó, dâng lên bàn thờ và cùng con trai ra về. Như là phần thưởng cho lòng tuân phục, Abraham lại nhận lãnh lời hứa dòng dõi ông sẽ “nhiều như sao trên trời, đông như cát bờ biển” và hưởng lấy sự phú cường.
L Ư Ợ C
45
46
K H Ở I
dòng dõi ông sẽ “nhiều như sao trên trời, đông như cát bờ biển” và hưởng lấy sự phú cường
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
47
C H Ư Ơ N G II
D Â N C H Ú A C H Ọ N
48
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
49
50
50
K H Ở I N G U Y Ê N
S
au khi Abraham chết, Thiên Chúa rất nhân hậu với Isaac và ban phước cho ông và Người đã ban cho Isaac và vợ ông hai người con trai, tên là Jacob và Esau. Esau là người anh và Jacob là người em. Trong Hồi giáo, Jacob được tôn kính như một vị tiên tri người được Thiên Chúa chỉ lối dẫn đường. Kinh Qur’an mô tả Jacob như một nhà hướng đạo trung thành, một người tốt, người có lời cầu nguyện và phục vụ Thiên Chúa.
L Ư Ợ C
J
ACOB
KẺ CHIẾN ĐẤU VỚI THƯỢNG ĐẾ 51
Giấc mơ về nấc thang thiên đường
Khi mặt trời đã khuất, Jacob nằm chiêm bao thấy một cái thang bắc từ dưới đất, đầu đến tận trời, các thiên sứ của Đức Chúa Trời lên lên xuống xuống trên thang đó. Và Chúa hiện ra trước mặt ông và nói: “Ta là Chúa của Abraham tổ phụ ngươi và cũng là Chúa của Isaac. Ta ở cùng ngươi và gìn giữ ngươi. Nhờ ngươi mọi dân tộc trên thế gian sẽ được chúc phúc. Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, trái lại, Ta sẽ hoàn tất những gì Ta đã hứa với ngươi”. Và Jacob thức dậy khỏi giấc ngủ và sợ hãi, bởi vì Chúa đã ở đó và nói chuyện với anh ta trong giấc mơ của anh ta. Anh ta thức dậy vào sáng sớm và thờ phượng Chúa. Ông gọi tên nơi mà anh mơ thấy Chúa là Bethel, có nghĩa là, Ngôi nhà của Thiên Chúa. Và Jacob hứa rằng nếu Chúa chăm sóc anh ta, cho anh ta thức ăn và quần áo, và giữ anh ta khỏi bị tổn thương, thì anh ta sẽ vâng lời Chúa; và những của cải mà Chúa ban cho anh, anh sẽ dành một phần mười cho Chúa. Điều này không có nghĩa là Jacob có thể trao những thứ này vào tay Chúa, nhưng ông sẽ giúp đỡ người nghèo người bệnh, xây dựng bàn thờ và hiến tế cho Chúa.
52
K H Ở I
Hoàng tử của Thiên Chúa
Vào một đêm nọ, đang khi Jacob ở lại một mình thì có một người lạ mặt đến và vật lộn với ông cho đến rạng đông. Trong lúc vật lộn, người đó thấy mình không thắng nổi nên đánh vào xương hông Jacob, làm cho xương hông bị trặc. Người đó nói: “Trời đã sáng rồi, hãy để cho ta đi”. Nhưng Jacob đáp: “Tôi không cho ngài đi đâu, nếu ngài không ban phước cho tôi”. Người đó hỏi: “Ngươi tên gì?” Ông trả lời: “Tên tôi là Jacob”. Người đó bảo: “Tên ngươi sẽ không còn là Jacob nữa, nhưng là Israel, nghĩa là “Hoàng tử của Chúa”, vì ngươi đã tranh đấu với Đức Chúa Trời và với ta, và ngươi đều thắng cả”. Rồi người ấy ban phước cho Jacob tại đó. Jacob đặt tên chỗ đó là Peniel, nghĩa là “Bộ mặt của Chúa”. Khi ông đi qua Peniel thì mặt trời đã mọc, bước chân ông khập khễnh vì bị trặc xương hông. Bởi vậy, cho đến nay dân Israel không bao giờ ăn gân bắp đùi, chỗ khớp xương hông, vì người đó đã đánh vào xương hông Jacob, chỗ gân bắp đùi.
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
53
Thuật ngữ Kinh Thánh “người Israel”, còn được gọi là “mười hai chi tộc” hoặc “con cái Israel”, mang nghĩa là hậu duệ trực tiếp của tổ phụ Jacob (Israel).
54
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
55
56
K H Ở I
M
OSES
KẺ TÁCH BIỂN
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
M
oses là lãnh tụ tôn giáo, người công bố luật pháp, nhà tiên tri, nhà chỉ huy quân sự và sử gia. Ông cũng được xem là người chép kinh Torah (năm sách đầu tiên của Kinh Thánh, còn gọi là Ngũ kinh Moses). Moses cũng là một nhà tiên tri quan trọng trong Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Đạo Bahá’í, Mormon, và Phong trào Rastafari.
57
Kẻ được cứu khỏi nước
58
Có một thời gian dài dân Israel sống giao hòa với người Ai Cập khi họ được phép định cư tại xứ Goshen, phần lãnh thổ ở phía đông sông Nile. Tuy nhiên, về sau người Ai Cập trở nên thù địch với dân Israel, bắt phục họ, và biến họ thành những kẻ nô lệ. Moses chào đời khi Pharaoh (Vua Ai Cập) ra lệnh sát hại tất cả bé trai Israel bằng cách trấn nước chúng tại sông Nile. Mẹ của Moses là Jochebed, sau khi sinh hạ một con trai, đã tìm cách giấu đứa bé trong ba tháng. Khi biết không thể bảo vệ đứa bé lâu hơn nữa, Jochebed đặt đứa bé vào một cái nôi và thả trôi theo dòng sông Nile. Miriam, chị của cậu bé, dõi theo canh chừng chiếc thuyền con bé tí này cho đến khi nó trôi giạt vào nơi công chúa Thermuthis đang tắm cùng các nữ tì. Công chúa thấy đứa bé nằm trong nôi bèn ra lệnh vớt lên. Miriam tìm đến và xin công chúa nhận cô làm vú nuôi chăm sóc đứa bé. Về sau, Jochebed thay thế con gái trở thành vú nuôi của đứa bé. Khi lớn lên, Moses được đem vào cung và được công chúa nhận làm con nuôi. Công chúa đặt tên đứa bé là Moses, tiếng Do Thái nghĩa là “được cứu khỏi nước”.
K H Ở I
Tiếng gọi trong hoang địa
Khi đã trưởng thành, Moses đi ra và nhận thấy đồng bào mình đang sống lầm than trong kiếp nô lệ. Một hôm, vì cứu một người Israel mà Moses đã giết người một Ai Cập nên vội vàng lẩn trốn vào bán đảo Sinai, Moses sống ở đó trong bốn mươi năm với nghề chăn dê. Vào một ngày, khi dẫn bầy dê lên núi Sinai, Moses nhìn thấy một bụi gai đang bốc cháy nhưng không lụi tàn, vì tò mò ông đến gần để quan sát kỹ hơn. Tại đây Thiên Chúa phán bảo với Moses từ trong bụi gai cháy và mặc khải cho ông Danh của Ngài là Đấng Tự hữu Hằng hữu. Thiên Chúa phán bảo Moses trở về Ai Cập để giải cứu đồng bào của ông khỏi ách nô lệ. Khi bắt đầu cuộc hành trình, Moses gặp anh mình, Aaron, đến đón ông trở về Ai Cập. Nhờ những dấu lạ mà họ thực hiện, Moses và Aaron thuyết phục được các trưởng lão của dân Israel. Moses và Aaron đến gặp Pharaoh và bảo rằng Thiên Chúa của dân Israel muốn nhà vua cho phép dân tộc ông đi ra để cử hành tế lễ cho Chúa trong vùng hoang mạc. Pharaoh đáp rằng ông không biết Chúa nào hết và không cho phép dân Israel đi. Pharaoh quở trách hai người và buộc dân Israel phải lao dịch nặng nhọc hơn trước. Dân chúng quay sang phiền trách cứ ông Moses.
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
59
10 tai hoạ của dân Ai Cập
Moses và Aaron đến gặp Pharaoh lần nữa, Moses làm dấu lạ trước mặt Pharaoh biến cây gậy trong tay ông thành rắn. Lần thứ ba Moses và Aaron gặp Pharaoh là bên bờ sông Nile, Moses truyền cho Aaron biến dòng sông thành máu. Trong lần gặp thứ tư, Moses bảo Aaron khiến ếch từ sông Nile tràn khắp xứ Ai Cập. Pharaoh phiền lòng vì dịch ếch nhái nên yêu cầu Moses cầu xin Chúa khiến ếch nhái dang xa và hứa cho phép dân Israel ra đi tế lễ trong đồng vắng. Hôm sau, tất cả ếch nhái chết, người ta chất chúng thành đống, mùi hôi lan tỏa khắp cả xứ, nhưng Pharaoh đổi ý cầm giữ dân Israel lại. Sau đó, Pharaoh phải để người Israel ra đi sau khi người Ai Cập hứng chịu đủ mười tai họa bởi tay Thiên Chúa của Moses. Tai họa thứ ba là muỗi xuất hiện khắp nơi trên đất nước. Tai họa thứ tư là ruồi mòng. Tai họa thứ năm là dịch bệnh rất lớn giết hại các loài súc vật như ngựa, lừa, lạc đà, bò và dê. Đến tai họa thứ sáu thì người dân Ai Cập bị ghẻ chốc tác hại trên người. Cả xứ Ai Cập bị tàn phá bởi mưa đá, sấm sét và lửa cháy trên mặt đất là hậu quả của tai họa thứ bảy. Tai họa thứ tám xuất hiện khi châu chấu tràn khắp xứ tàn phá mùa màng. Rồi cả xứ bị bao phủ trong sự tối tăm dày đặc trong ba ngày liền “đến nỗi người ta rờ đụng đến được”, đó là tai họa thứ chín mà Chúa giáng xuống. Tai họa thứ mười là sự trừng phạt cuối cùng và thảm khốc hơn hết khi Chúa đã sai tử thần đến từng ngôi nhà ở Ai Cập để lấy đi mạng sống của con trưởng nam của họ, trừ những nhà trên cửa có vệt máu chiên như lời Chúa dặn trước để thoát khỏi sự chết. Sự kinh hãi bao trùm đất nước Ai Cập. Sau cùng, họ chịu để dân Israel được tự do. Sự kiện này được kỷ niệm hằng năm trong mỗi gia đình Do Thái khi họ cùng nhau dự Lễ Vượt qua, nhắc nhở rằng tai họa ấy đã “vượt qua” khỏi các gia đình Do Thái, nhưng mang sự chết chóc đến từng nhà người dân Ai Cập.
60
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
“Hết thảy con trưởng nam trong xứ Ai Cập đều chết, từ thái tử của Pharaoh ngồi trên ngai mình, cho đến con cả của người tôi đòi ở sau cối xay” 61
62
K H Ở I N G U Y Ê N
Moses rẽ nước biển Đỏ
Moses dẫn dắt dân chúng đi về hướng Đông, khởi đầu một cuộc hành trình dài tiến vào Canaan. Đoàn người di chuyển chậm chạp, và phải cắm trại hai lần trước khi vượt qua biên giới Ai Cập để đến bên bờ Biển Đỏ. Nhưng vào lúc này, Pharaoh đột nhiên đổi ý. Ông ta tập hợp binh lính để đuổi theo những kẻ nô lệ vừa được phóng thích. Mọi người khiếp đảm khi ở trước mặt họ là biển lớn, và sau lưng họ là đoàn quân Ai Cập hùng hậu. Nhưng Moses đã lại một lần nữa cho những người đi theo ông được chứng kiến tận mắt một Thần tích huy hoàng. Giương cao cây gậy của mình và cầu xin Chúa Trời hiển linh, Moses đã làm cho Biển Đỏ rẽ sang hai bên, làm cho biển bày ra khô để dân Israel đi qua như trên đất cạn. Khi đạo quân Ai Cập đuổi theo, Thiên Chúa khiến nước lấp phủ đáy biển trở lại, đạo quân với chiến xa, kỵ binh và bộ binh bị chôn vùi trong biển.
L Ư Ợ C
63
<<
<<
64
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
65
66
K H Ở I
10
ĐIỀU RĂN CỦA CHÚA
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
K
hi đến Sinai, đoàn dân hạ trại đối diện cùng núi. Moses ra lệnh đoàn dân không được chạm vào núi. Moses lên núi, nhận lãnh Mười điều răn (khi ấy chưa được khắc trên bảng chứng) và các điều luật đạo đức khác. Moses cùng Aaron, Nadab, Abihu, và bảy mươi trưởng lão lên núi chiêm ngưỡng Thiên Chúa của Israel. Sau đó, một mình Moses lên núi để nhận lãnh bảng đá, ông để lại Aaron và Hur chăm lo dân chúng. Mười điều răn là danh sách các mệnh lệnh đạo đức và tôn giáo, theo Kinh thánh, được Thiên Chúa phán truyền Môi-sê ở núi Sinai và được khắc vào hai phiến đá. Mười điều răn đóng vai trò quan trọng trong Do Thái giáo và Kitô giáo.
67
68
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
69
70
K H Ở I
3
VỊ VUA DO THÁI
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
T
rước khi thống nhất, các chi tộc Israel sống cùng nhau tạo thành 1 liên minh dưới sự lãnh đạo của các đời thẩm phán.Trong thập niên 1020 TCN, dưới sự đe dọa của ngoại bang, tất cả các chi tộc này đã hiệp nhất với nhau để hình thành vương quốc Israel thống nhất và được cai quản bởi các đời vua. Trong đó có 3 vị vua vĩ đại nổi bật nhất trong kinh thánh là vua Saul, vua David và vua Solomon.
71
Saul - Vị vua đầu tiên
72
Saul là một nông dân thuộc bộ tộc Benjamin, là bộ tộc chịu rất nhiều tổn thất do những cuộc tấn công của người Philistines. Tại thời điểm khi người Do Thái đòi hỏi cần phải có một chính quyền trung ương dưới sự cai trị của một vị vua, và sau rất nhiều lựa chọn khó khăn, Saul đã được nhà tiên tri Samuel xức dầu và trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Thống nhất Israel gồm 12 bộ tộc (1052 TCN). Saul rất hiểu hoàn cảnh lúc đó của người Do Thái, và theo Sách Samuel, Saul rất thành công trong việc chiến đấu với kẻ thù từ mọi phía – người Philistines, Edomites và Ammonites, người Gibeonites, và người du mục vùng Moabites. Trong thời gian trị vì, Saul và vị tổng chỉ huy quân đội đã xây dựng nên lực lượng quân đội chuyên nghiệp đầu tiên của Israel gồm các đơn vị dựa trên đặc điểm của các bộ tộc và lãnh thổ. Tuy nhiên, theo Sách Samuel, Saul đã đôi lần không vâng lời nhà tiên tri Samuel và cuối cùng thì Samuel đã tuyên bố rằng Thiên Chúa đã từ chối Saul trong vai trò của một vị vua. Trong một trận đánh với người Philistines tại núi Gilboa, quân đội của Saul chịu thất bại thảm hại và Saul tự vẫn (1010 TCN). Xác của Saul bị treo trên những bức tường của thành Beth She’an và được chôn ở Zelah. Con trai của Saul, IshBoshet, nối ngôi vua Israel được hai năm (1007-1005 TCN).
K H Ở I N G U Y Ê N
David - Vị vua vĩ đại nhất
David, sau này trở thành con rể của Saul, thuộc bộ tộc Judah và là một người có biệt tài ngâm thơ. David đồng thời cũng là một tài năng lớn về quân sự. Theo lời kể trong Sách Samuel, David giết chết người khổng lồ Goliath của Philistines chỉ với một hòn đá và súng cao su (1024 TCN). Trong vai trò lãnh đạo quân đội, David luôn giành thắng lợi ở trong bất cứ trận đánh nào mà Saul phái tới. Mỗi lần trở về từ các trận đánh, phụ nữ nhẩy múa và không tiếc lời ca ngợi David, tôn vinh chàng như một anh hùng quân đội vĩ đại hơn cả Saul. Điều này khiến Saul rất tức giận và ghen tuông trong nỗi lo sợ rằng David sẽ giành ngôi của mình. Lo sợ bị Saul ám hại, David phải bỏ trốn cùng với nhóm người thân tín của mình. Saul giết tất cả những ai đã che dấu David (1011 TCN). Sau cái chết của Saul, bộ tộc Judah ly khai khỏi sự cai trị của Gia đình Saul (House of Saul) bằng cách tôn vinh David làm vua của Judah (1010-1002 TCN). Chiến tranh giữa Ish-Boshet và David xảy ra sau đó với thắng lợi luôn nghiêng về phía David. Năm 1005 TCN, đội quân du kích của David đánh bại các lực lượng chính thống của Ish-Boshet. Năm 1002 TCN, David thống nhất Vương quốc Israel. Lịch sử Do Thái bước vào một giai đoạn mới dưới sự trị vì của David (1002-970 TCN). Ngôi sao sáu cánh đặc biệt của David (David Star) đã trở thành biểu tượng của dân tộc Do Thái, cùng với những bài thánh vịnh bất hủ của ông.
L Ư Ợ C
73
Solomon - Vị vua giàu nhất thế giới
Solomon là vua của Vương quốc Israel và Judah thống nhất, con trai vua David. Những người đương thời thán phục sự khôn ngoan của ông. Trở nên nổi tiếng nhờ trí tuệ sắc sảo và các phán đoán độc đáo. Theo truyền thống ông là tác giả của phần lớn các sách Châm ngôn (915 bài thơ), Giảng viên và Diễm ca. Thời kì ông trị vì được biết đến như “thời đại hoàng kim của đất nước Israel thống nhất”. Trong lịch sử Do Thái ông được xem là một vị quân vương anh hùng, hình tượng của ông ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học của hậu thế. Thời đại Solomon thịnh trị, thu phục được lòng tin của lân bang, mở rộng ngoại thương tới các xứ xa. Về mặt kinh điển, Kinh Torah được ghi thành văn bản dưới triều đại Solomon. Về mặt xây dựng đất nước, Solomon đã chia Israel thành 12 khu vực thuế và phát triển Vương quốc thành một trung tâm buôn bán hùng mạnh và thịnh vượng. Solomon đã mở rộng đất đai bằng tài đàm phán và ngoại giao của ông hơn là những người tiền nhiệm đã thực hiện bằng chiến tranh. Biên giới đế quốc của Solomon trải dài từ sông Nile đến sông Euphrates bao trùm cả những kẻ thù cũ, gồm cả Philistines. Bằng chứng về sự mở rộng của vương quốc đã được tìm thấy vào năm 1902 với việc phát hiện những di tích của Ir Ovot, một pháo đài cao nguyên ở Sa mạc Negev, miền Nam Israel. Di tích này được các nhà khảo cổ xác định là thuộc vào thế kỷ 10 trước công nguyên.
74
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
75
76
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
77
C H Ư Ơ N G III
K H Ả I H U Y Ề N C A
78
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
79
80
K H Ở I N G U Y Ê N
K
hi Adam và Eve lần đầu phạm tội trong Vườn Địa Đàng, Thiên Chúa đã hứa rằng một Đấng Cứu Rỗi sẽ đến. Các tiên tri sống trong những thời kì sau đó cũng nói với con cái của Israel rằng Người đang đến. Đấng Cứu Rỗi đang đến với dân Israel, và sẽ dạy cho họ ăn năn tội lỗi của mình và vâng lời Thiên Chúa.
L Ư Ợ C
C
HÚA
GIÁNG SINH 81
Thiên thần truyền tin cho Đức Bà Mary
Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilea, vùng Nazareth, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Joseph, thuộc chi họ David, trinh nữ ấy tên là Mary. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào với bà rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa rằng: “Mary đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Jesus. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu David, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Jacob, và triều đại Người sẽ vô tận”. Nhưng Mary thưa với Thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Elizabeth chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Mary liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và Thiên thần cáo biệt Bà. Sau đây là gốc tích Ðức Giêsu Kitô: bà Mary, mẹ
82
Người, đã thành hôn với ông Joseph. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Joseph, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Joseph, là con cháu David, đừng ngại đón bà Mary vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Jesus, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa 83
Chúa Jesus giáng sinh trong hang lừa
84
Khi Maria gần đến ngày sinh thì hoàng đế Auguste ra lệnh kiểm tra dân số, buộc người dân phải về quê quán của mình để làm giấy tờ kiểm tra. Bởi thế, ông Joseph từ thành Nazareth lên Bethlehem, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua David. Một chặng đường 150 cây số, đối với hai người, đó là một chặng đường quá sức gay go vì thời đó đường chưa lát gạch, một phần lớn vùng này ở trong lãnh thổ của Đế quốc La Mã, và phương tiện di chuyển duy nhất là dùng lừa hay lạc đà. Thêm nữa bà Mary thì gần tới ngày sinh. Khi họ đã đến Bethlehem và màn đêm buông xuống, Joseph và Mary cảm thấy mệt mỏi rã rời sau một hành trình dài. Hai người lê bước từ nhà này sang nhà khác xin tá túc qua đêm nhưng chẳng ai cho vì nhà trọ đã hết chỗ. Đi đến đâu và vào nhà nào cũng bị xua đuổi. Cuối cùng Joseph đành đưa Mary ra ngoài cánh đồng, nơi có cái hang bò lừa để trú tạm. Và trong khi họ ở đó, Thiên Chúa đã ban cho Mary đứa con trai mà thiên thần đã hứa với cô. Chính trong chuồng ngựa tại Bethlehem, Chúa Jeus đã chào đời. Và Mary, mẹ của hài nhi, quấn Người với những bộ miếng vải, hoặc băng, và đặt Người vào máng cỏ.
K H Ở I Vào đêm Chúa Jesus sinh hạ tại Bethlehem, có những người mục đồng thức đêm coi sóc đoàn gia súc ngoài đồng. Thiên thần đã đến báo cho họ tin vui Đấng Cứu thế đã sinh ra. Và họ đã đến xem và thờ lạy Người ngay trong hang bò lừa ấy.
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
85
86
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
Ba vua đi tìm Chúa
Khi Đức Jesus ra đời tại Bethlehem, thời vua Herod trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Nghe tin ấy, vua Herod bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời rằng: “Tại Bethlehem, miền Judea, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judas, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judas, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân ta sẽ ra đời”. Bấy giờ vua Herod bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn dò rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về hài nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi hài nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy hài nhi với thân mẫu là bà Mary, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herod nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
87
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm 88
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
89
90
K H Ở I N G U Y Ê N
T
heo Kinh Thánh, Jesus đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Jesus sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Jesus có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ông buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Jesus cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái giáo.
L Ư Ợ C
N
HỮNG KẺ
CHÚA CHỌN 91
12 vị Tông đồ
Mười hai Tông đồ hoặc Mười hai Thánh Tông đồ, là những người Do Thái xứ Galilee (10 vị có tên bằng tiếng Aram, 4 vị có tên bằng tiếng Hy Lạp) được tuyển chọn trong số các môn đệ, rồi được Chúa Jesus sai đi rao giảng Phúc âm cho người Do Thái và các dân tộc khác. Ngài đã đặt hết kỳ vọng vào những môn đồ đi theo Ngài. Bởi chính họ sẽ là những người tiếp tục thay Ngài rao giảng Tin Lành khắp đất. Dù rất bận rộn nhưng để đáp ứng cho nhu cầu của hàng ngàn người, Ngài vẫn dành nhiều thời gian ở riêng với các môn đồ để dạy dỗ, huấn luyện.
92
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
93
Thánh Peter
Thánh Andrew
Thánh James the Great
Thánh Andrew
Thánh Phêrô là tông đồ trưởng trong số mười hai Tông đồ của Chúa Giêsu. Thánh Phêrô được Giêsu trực tiếp trao quyền cai quản Hội Thánh.
Ông là vị tông đồ đầu tiên tử đạo để làm chứng đức tin và tình mến của mình vào Chúa vào khoảng năm 42.
94
Ông qua Hy Lạp và rao giảng ở vùng. Ông tử vì đạo tại đây và chết trên thập giá hình chữ X. Ông là Thánh bổn mạng của quốc gia Scotland.
Ông là tác giả viết nên một trong bốn cuốn Phúc Âm. Ông chết cách tự nhiên trong tuổi già, ông là người chết sau cùng trong nhóm 12 được Chúa Jesus chọn.
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
Thánh Philip
Thánh Bartholomew
Thánh Thomas
Thánh Matthew
Ông là một trong 12 Tông Đồ đã sống như ánh sáng chói lòa nhất ở Á Châu (Tiểu Á) và được chôn cất ở Hierapolis.
Đây là vị Tông Đồ bi quan nhất. Con người luôn buồn rầu, sầu thảm, và hình như không thể tin điều gì mà ông không thấy. Nhưng ông luôn tin vào Chúa.
Ông là người tiên phong trong số những tâm hồn nhạy cảm tìm gặp Thiên Chúa bằng chiêm niệm.
Ông là người thông minh, có tài và vô cùng khiêm nhường. Ông là một người viết ra sách Phúc Âm. Matthew đã chịu tử đạo ở Ethiopia thuộc Châu Phi.
95
Thánh James The Less
Thánh Thaddaeus
Thánh Simon the Zealot
Judas Iscariot
Ông là Thánh Bổn Mạng của những người không ai biết tới, của hàng triệu người vô danh đã đi theo con đường Chúa dạy, đã tin theo Đức Ki-tô.
Giả thuyết cho rằng đã chịu chết trên thập giá. Chỉ có thể mô tả ông: một người quả quyết, hăng say, dám nghĩ, dám làm trong các Tông Đồ.
96
Ông đã trung tín đến cùng, ông rao giảng về Chúa đến cùng, và rao giảng Lời Chúa hết sức nhiệt tình. Truyền thuyết cho rằng ông tử đạo ở Persia.
Là một trong mười hai tông đồ đầu tiên của Jesus. Và cũng là người đã bán Chúa Jesus với 30 đồng vàng.
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
3 năm rao giảng Tin mừng
Đức Chúa Jesus có mặt trên đất suốt chặng đường 33 năm. Trước khi bước lên thập tự giá để Ngài làm trọn chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời ấy là ban TIN LÀNH cho con người, thì trong 33 năm ấy 30 năm đầu Ngài làm trọn bổn phận của người con trong gia đình. Ba năm còn lại Chúa JÊSUS không hề mỏi mệt trong việc rao giảng Tin Lành, chữa bệnh cho kẻ đau, ban bánh cho người đói, đuổi quỉ để giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của Satan. Ngài đến với người cùng khốn, nghèo nàn để an ủi, đến với những con người tội lỗi để họ được tha thứ, biến cải. Ban ngày, Ngài có lúc quên ăn, ban đêm có lúc Ngài không ngủ để cầu nguyện. Ngài không bao giờ có thì giờ dành cho mình. Tất cả là để đáp ứng nhu cầu tâm linh và thể xác của mọi người đang cần được cứu giúp. Ngài phán: “Ta cũng phải rao Tin Lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác;Vì cốt tại việc đó mà Ta đã được sai đến”.
97
98
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
99
100
K H Ở I N G U Y Ê N
C
UỘC KHỔ NẠN
L Ư Ợ C
CỦA CHÚA JESUS
S
ự kiện đóng đinh Jesus (còn gọi là cuộc đóng đinh của Jesus, cuộc khổ hình của Giêsu, sự đóng đinh Giêsu trên thập tự giá) là sự kiện hành hình Giêsu xảy ra tại Judea vào thế kỷ thứ nhất, có lẽ vào khoảng năm 30–33 sau công nguyên, được ghi lại trong bốn sách phúc âm, và được ghi nhận trong các nguồn tài liệu cổ đại khác. Các tài liệu ngoài Kitô giáo xác định đây là một sự kiện lịch sử, cho dù giữa các nhà sử học không có sự đồng thuận về chi tiết cụ thể những gì đã thực sự diễn ra. Theo trình thuật trong các sách phúc âm, Jesus bị bắt giữ, xét xử, kết án, đánh đòn và cuối cùng bị đóng đinh trên cây thập tự. Sự thương khó và sự chết của Jesus là yếu tố cơ bản trong thần học Kitô giáo, liên quan mật thiết tới giáo lý về cứu rỗi và chuộc tội, như là điều kiện cần thiết để con người được tha thứ tội lỗi và hòa giải với Thiên Chúa. Theo Tân Ước, đến ngày thứ ba sau biến cố này, Jesus sống lại và hiện ra với các môn đệ nhiều lần và đến ngày thứ 40, ông về trời.
101
Bữa tiệc cuối cùng
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Jesus biết đã đến giờ mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha. Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Judas Iscariot, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu. Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Peter, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Peter thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Jesus bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Peter liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Jesus nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”. Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và
102
K H Ở I N G U Y Ê N
là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”. Trong bữa Tiệc Ly, khi cầm bánh và rượu nho, Chúa Jesus bảo các môn đồ: “Hãy làm điều này để nhớ đến ta”.
L Ư Ợ C
103
Kẻ phản bội Chúa
Chúa Jesus vừa cầu nguyện xong với các sứ đồ trung thành. Sau khi hát thánh ca, họ đi đến núi Olives. Họ đi về phía đông để đến một khu vườn gọi là Gethsemani, nơi Chúa Jesus thường tới. Chúa Jesus sấp mình xuống đất và cầu nguyện. Ngài cầu nguyện về điều gì trong giờ phút căng thẳng ấy? Ngài xin: “Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự; xin hãy cất chén này khỏi con, nhưng không theo ý con mà theo ý Cha”. Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Judas Iscariot, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: “Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?” Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Khi Judas dẫn đoàn người lên núi Olives, hắn biết chắc có thể tìm được Chúa Jesus ở đâu. Chúa Jesus cùng các sứ đồ cccuar mình thường dừng chân tại vườn Gethsemani. Nhưng giờ đây là ban đêm, có thể Chúa Jesus bị bóng của các cây ô-liu trong vườn che khuất. Vậy làm sao quân lính có thể nhận ra ngài dù chưa bao giờ gặp ngài? Judas sẽ cho họ một dấu hiệu, hắn nói: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Hãy bắt lấy và giải đi cho cẩn thận”. Khi dẫn đám đông vào vườn, Judas thấy Chúa Jesus và các sứ đồ. Hắn đi thẳng đến chỗ ngài và
104
K H Ở I
nói: “Chào Thầy!”, rồi hôn ngài một cách thân tình. Chúa Jesus nói với hắn: “Này anh, anh đến đây làm gì?”. Chính ngài tự trả lời: “Judas, anh phản bội Con Người bằng một cái hôn sao?”. Sau đó Chúa Jesus bước ra chỗ có ánh sáng của đuốc, đèn và hỏi: “Các người tìm ai?”. Đám đông trả lời: “Jesus người Nazareth”. Chúa Jesus can đảm nói: “Là tôi đây”.
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
105
Chúa Jesus bị hành hạ
Chúa Jesus bị trói như một tên tội phạm. Chúng chất vấn Chúa Jesus về các môn đồ ngài và sự dạy dỗ của ngài. Chúa Jesus trả lời rằng: “Tôi đã giảng công khai cho thế gian. Tôi thường dạy dỗ trong nhà hội và đền thờ, là nơi mọi người Do Thái nhóm lại. Tôi cũng không nói điều gì lén lút cả. Sao ông hỏi tôi? Hãy hỏi những người đã nghe tôi giảng”. Chúng nói: “Hắn đã phạm thượng! Chúng ta còn cần nhân chứng làm chi nữa? Đấy! Các ông đã nghe lời phạm thượng ấy rồi đó. Các ông nghĩ sao?”. Rồi Tòa Tối Cao đưa ra phán quyết bất công cho Người: “Hắn đáng chết”. Có lẽ Judas Iscarios chứng kiến Chúa Jesus bị giải đến chỗ xét xử. Khi thấy ngài bị kết án, Judas hối hận và tuyệt vọng. Tuy nhiên, thay vì quay về với Đức Chúa Trời và thành thật ăn năn thì hắn mang trả lại 30 đồng vàng. Judas nói với các trưởng tế: “Tôi có tội vì đã phản bội một người vô tội”. Nhưng hắn chỉ nhận được câu trả lời nhẫn tâm: “Liên quan gì đến chúng ta? Đó là chuyện của ngươi!”. Judas bèn quăng 30 đồng vàng vào đền thờ, rồi làm thêm một điều sai trái
106
khác là đi tự tử. Khi hắn treo cổ thì có lẽ cành cây mà hắn buộc dây vào bị gãy, nên hắn rơi xuống chỗ những tảng đá bên dưới và bụng bị vỡ ra. Các trưởng tế không biết sẽ làm gì với số bạc mà Judas đã quăng vào đền thờ. Họ nói: “Không được phép bỏ số bạc này vào kho thánh, vì đây là giá của huyết”. Thế nên, họ dùng số tiền ấy mua mảnh đất của người thợ gốm để làm nơi chôn cất khách lạ. Mảnh đất ấy được gọi là “Mảnh Đất Máu”. Mặc dù các nhà cầm quyền thấy Jesus vô tội, nhưng đám đông do bị các thầy tư tế dụ dỗ vẫn giận dữ và đồng thanh la lớn: “Đóng đinh nó đi!”. Bị các nhà lãnh đạo tôn giáo kích động, họ trở nên điên cuồng và khát máu hơn. Quan tổng đốc muốn làm hài lòng dân chúng hơn là làm điều mà ông biết là đúng. Cuối cùng đành nhượng bộ trước đám đông và ông ra lệnh lột áo Chúa Jesus và đánh đập ngài.
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
107
Sau khi đánh đập Chúa Jesus cách tàn nhẫn, quân lính giải ngài vào dinh của quan tổng đốc. Cả đội quân tập hợp lại và tiếp tục hành hạ Chúa Jesus. Họ bện một vương miện bằng gai rồi đội lên đầu ngài, và đặt vào tay phải ngài một cây sậy. Họ khoác lên mình ngài cái áo choàng đỏ, giống như màu vua chúa thường mặc, và nói với giọng mỉa mai: “Vua Dân Do Thái vạn tuế!”. Không những thế, họ còn nhổ vào Chúa Jesus, tát vào mặt ngài, rồi lấy cây sậy khỏi tay ngài và dùng nó để đánh lên đầu ngài khiến những chiếc gai sắc nhọn của “vương miện” càng đâm sâu vào đầu ngài.
108
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
109
Chúa Jesus chịu đóng đinh
Quân lính lột cái áo choàng đỏ trên người Chúa Jesus và mặc lại áo ngoài cho ngài. Khi Chúa Jesus bị dẫn đi, ngài phải vác cây thập giá của mình. Chúa Jesus đã thức suốt từ sáng sớm thứ năm và ngài phải trải qua hết đau đớn này đến đau đớn khác. Thế nên ngài bị kiệt sức khi phải vác cây cột nặng. Thấy vậy, quân lính bắt một người đi đường là Simon đến từ châu Phi để vác cây cột đến nơi hành hình. Nhiều người đi theo, một số người đấm ngực đau buồn và than khóc về những gì diễn ra. Chúa Jesus bị dẫn đến một nơi gần thành Jerusalem, là nơi mà ngài và hai tên cướp sẽ bị xử tử. Nơi ấy được gọi là Golgotha, hay Núi Sọ. Chúa Jesus và hai phạm nhân bị lột y phục. Sau đó, rượu pha với một dược và chất đắng được mang tới. Có lẽ những phụ nữ Jerusalem đã pha chế rượu này, và lính La Mã không ngăn cản những người sắp bị xử tử uống loại rượu giảm đau ấy. Nhưng sau khi nếm thử, Chúa Jesus không chịu uống. Thân thể của Chúa Jesus bị căng ra trên cây cột. Quân lính đóng đinh xuyên qua tay và chân của ngài, thấu vào thịt và gân, khiến ngài vô cùng đau đớn. Lúc cây cột được dựng lên, ngài càng đau đớn hơn khi trọng lượng cơ thể làm cho các vết thương bị rách thêm. Dù vậy, Chúa Jesus không mắng nhiếc quân lính. Ngài cầu nguyện: “Thưa
110
Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết mình đang làm gì”. Người La Mã thường gắn một tấm biển cho biết tội của phạm nhân tử hình. Lần này, Trên đầu Người có một tấm biển có dòng chữ: “Jesus người Nazareth, Vua Dân Do Thái”.Chúa Jesus kêu lớn: “Mọi việc đã hoàn tất!”. Cuối cùng, Chúa Jesus nói: “Cha ơi, con xin phó thác sự sống con nơi tay Cha”. Với lòng tin không lay chuyển nơi Đức Chúa Trời, Đấng Ki-tô gục đầu xuống và trút hơi thở cuối cùng. Ngay lúc đó xảy ra một trận động đất dữ dội làm vỡ cả đá. Trận động đất này mạnh đến mức mồ mả bên ngoài thành Jerusalem mở toang và thi thể của nhiều người văng ra. Những người qua đường thấy các hài cốt đó, họ đi vào “thành thánh” và tường thuật lại những gì mình vừa chứng kiến. Lúc này dân chúng rất sợ hãi. Viên sĩ quan giám sát việc xử tử thốt lên rằng: “Người này đúng là Con Đức Chúa Trời”.
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
111
112
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
113
114
K H Ở I
S
Ự PHỤC SINH
VƯƠNG TRIỀU MỚI
N G U Y Ê N L Ư Ợ C
S
ự phục sinh của Giêsu là đức tin trong Kitô giáo, rằng sau khi Giêsu chịu khổ nạn và chết, ông đã sống lại. Đây là nguyên lý trung tâm của thần học Kitô giáo và là một phần của Kinh tin kính Nicea: “Vào ngày thứ ba, Ngài đã sống lại theo Thánh Kinh”.
115
Chúa Jesus sống lại
Thi thể Chúa Jesus được liệm bằng vải lanh cùng với những hương liệu, theo phong tục an táng của người Do Thái. Người ta đặt thi thể của Chúa Jesus vào một ngôi mộ chưa dùng tới được đục trong đá ở gần đấy rồi lăn một tảng đá lớn chặn cửa mộ. Vào sáng sớm chủ nhật, những phụ nữ mang hương liệu đến mộ để xức lên thi thể Chúa Jesus. Họ nói với nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá khỏi cửa mộ giùm chúng ta?”. Nhưng một trận động đất đã xảy ra trước đó. Thiên sứ của Đức Chúa Trời đã lăn tảng đá khỏi cửa mộ, lính canh cũng đã đi khỏi, còn ngôi mộ thì hoàn toàn trống rỗng! Các phụ nữ ngỡ ngàng khi thấy nơi chôn Chúa Jesus trống rỗng! Một vài người đã chạy đi để báo cho các Tông đồ. Những phụ nữ khác ở mộ thấy
116
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
một thiên sứ. Và bên trong mộ có một thiên sứ khác “mặc áo trắng dài”. Một trong hai thiên sứ nói với họ: “Đừng sợ, tôi biết các chị đang tìm Chúa Jesus, người đã bị xử tử trên cây cột. Ngài không có ở đây vì đã được sống lại như ngài từng nói. Hãy xem chỗ ngài nằm, rồi nhanh chóng đi báo cho các môn đồ ngài rằng: Ngài đã được sống lại và sẽ đến Galilea trước”. Các phụ nữ “vừa sợ vừa mừng”, họ chạy đi báo tin cho các môn đồ.
117
118
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
119
Vị Giáo Hoàng đầu tiên
Thánh Peter là tông đồ trưởng trong số mười hai Tông đồ của Chúa Jesus. Thánh Peter được Jesus trực tiếp trao quyền cai quản Hội Thánh. Truyền thống Công giáo cho rằng ông là Giám mục của Rome và là vị giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội Công giáo Rome. Niên giám Tòa Thánh năm 1838 dưới triều đại của Giáo hoàng Grêgôriô XVI cho rằng ông trở thành Giám mục Rome vào năm 42 và ở ngôi trong vòng 25 năm. Niên giám Tòa Thánh năm 2003 xác định rằng thời gian bắt đầu triều đại của ông không rõ và kéo dài tới năm 64. Peter cũng là người sáng lập nên Giáo đoàn tại Antioch và là người lãnh đạo của cộng đồng tín hữu tại đây trong vòng 7 năm liền. Tháng 8 năm 64, Hoàng đế Nero bắt đầu bách hại giáo dân Kitô giáo. Theo một truyền tụng, Peter quyết định đi khỏi Rome tìm nơi trú ẩn. Nhưng trên con đường Appia, gần cửa Capena, ông đã gặp Chúa Jesus vác thập giá trên vai. Peter hỏi: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu?”. Chúa Jesus đáp: “Thầy vào thành Rome để chịu đóng đinh một lần nữa”. Peter hiểu ra ẩn ý của Chúa. Ông trở vào thành và chịu tử đạo. Sau này, người ta đã xây ngay chỗ Chúa hiện ra với Peter một Thánh đường, mang danh hiệu Quo vadis, Domine? Vào thế kỷ thứ 3, nhiều tác phẩm ra đời (thí dụ: Công vụ của Peter), bổ túc thêm các chi tiết về việc Thánh Peter gặp Chúa Jesus vác thập giá khi ông lánh nạn khỏi Rome (cảnh Quo vadis), việc bị giam ở ngục Mamertina, và bị xử bằng hình
120
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
thức đóng đinh ngược đầu vào thập giá vì thấy không đáng được chết như Thầy mình. Theo lưu truyền, Peter bị bắt và bị tống giam. Tại nhà ngục, ông đã cảm hóa hai người lính canh ngục tên là Processus và Martinianus. Cả hai được rửa tội và tử đạo. Cuối cùng vì không có quốc tịch Rome, ông bị kết án tử hình trên thập tự. Bị dẫn tới hý trường Caligula trên đồi Vatican, trông thấy thập giá, Peter cảm thấy mình không xứng đáng được chết như thầy mình, nên đã yêu cầu được đóng đinh ngược. Sau khi chết, thi hài của ông được chôn táng trong một nghĩa trang gần nơi xử, tức chỗ xây cất đền Thánh Peter ngày nay trên đồi Vatican. Năm 258, chiếu chỉ Valerianus đe dọa các nghĩa trang Kitô giáo, người ta đem xác Thánh giấu trong hang tọa đạo trên đường Appia. Khi cơn bách hại lắng dịu, giáo dân lại đưa hài cốt trở về nơi cũ.
121
122
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
123
HẾT 124
K H Ở I
K H Ở I N G U Y Ê N L Ư Ợ C
LƯỢC 125