Tạp chí Life Balance | No.6 | OSHE Magazine - Hội chứng Guillain-Barré liên quan đến ZIKV

Page 1

Occupatonal Safety, Health, and Environment

www.iirr.vn Lưu hành nội bộ

NHIỄM ZIKA

Hội chứng Guillain-Barré liên quan đến ZIKV Kính hiển vi đóng băng electron - Giải Nobel Hóa học 2017 giúp 'mục sở thị' virus Zika


Thư ngỏ Quý độc giả thân mến!

Đóng góp phát triển kính hiển vi đóng băng eletron để nghiên cứu giải pháp cấu trúc phân tử bằng hình ảnh phân giải cao của ba nhà khoa học Jacques Dubochet, Joachim Frank và Richard Henderson đã đoạt Nobel Hóa học 2017. Công trình này được cho là sẽ có ứng dụng cực kỳ rộng lớn, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Một trong số đó là 'mục sở thị' cách hoạt động của virus Zika.

Bằng chứng khoa học đã giúp chúng ta hiểu rõ về lây truyền virus Zika. Song nhiệm vụ của mỗi quốc gia và từng cá thể đó là tiếp tục giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn để đảm bảo dễ dàng phát hiện sớm nguy cơ tiềm ẩn virus Zika sẽ quay trở lại. Bất cứ ai cũng có thể nhiễm virus, bệnh đặc biệt nguy hiểm đối với phụ nữ mang thai, nhất là trong 3 tháng đầu thai kỳ thì virus có thể gây ra dị tật bẩm sinh đầu nhỏ cho trẻ. Chính vì vậy, ban biên tập chúng tôi muốn chia sẻ những nghiên cứu chuyên sâu của các nhà khoa học thế giới để bạn đọc có thể trang bị thêm cho mình những kiến thức bổ ích, vì một mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho mình và cộng đồng.

NGUYỄN HOÀNG THANH VIỆN PHÓ VIỆN IIRR


CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP NGUYỄN HỒNG MINH NGUYỄN QUANG HUY TS. NGUYỄN DANH HẢI NGUYỄN HOÀNG THANH TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH HOA TS. NGUYỄN THỊ ANH THƯ PHAN THỊ HOÀI TRANG NGUYỄN BÍCH SƠN

TỔNG BIÊN TẬP NGUYỄN TẤT HỒNG DƯƠNG

PHÓ TỔNG BIÊN TẬP

NGUYỄN HOÀNG THANH

BIÊN TẬP & THIẾT KẾ

PHÒNG PHÁT TRIỂN VÀ CỘNG ĐỒNG

www.iirr.vn

www.facebook.com/iirr.vn


06 ZIKA, TÌNH DỤC VÀ MUỖI OLYMPIC - NHỮNG VẤN ĐỀ CHỒNG CHÉO Virus Zika vẫn đang lan nhanh trên toàn cầu. Trong bối cảnh đó, tranh cãi nổ ra về Thế vận hội Olympic ở Brazil, với một số lời kêu gọi di chuyển hoặc hoãn Thế vận hôi - nhưng điều đó có thực sự hợp lý?

12 NHIỄM VIRUS ZIKA - SAU ĐẠI DỊCH Khả năng ZIKV gây ra các khuyết tật bẩm sinh ở thai nhi và trẻ sơ sinh, như đã được thấy ở dịch ZIKV tại Brazil là một đặc điểm chưa từng có của các loại virus lây lan do muỗi.


KẾT QUẢ THAI KỲ CỦA CÁC CA NHIỄM ZIKV VÙNG NÓI TIẾNG PHÁP Ở CHÂU MỸ Dị tật bẩm sinh có thể liên quan đến ZIKV chiếm 7% ở thai nhi và trẻ sơ sinh. Dị tật xuất hiện thường xuyên hơn ở thai nhi và trẻ sơ sinh có mẹ bị nhiễm virus sớm trong thai kỳ.

54

36

GIẢI NOBEL HÓA HỌC NĂM 2017: GHI LẠI HÌNH ẢNH PHÂN TỬ SỐNG Ba nhà khoa học đã phát triển phương pháp tạo ra hình ảnh ba chiều của các phân tử có trong sinh vật sống. Chính công thức này đã đưa lĩnh vực hóa sinh bước vào một kỳ nguyên mới!


GOING NET

Zika, tình và muỗi: DỊCH TỄdục HỌC

OLYMPIC

Những vấn đề chồng chéo

“ Tại sao lại là Zika? Virus Zika vẫn đang lan nhanh trên toàn cầu. Trong bối cảnh đó, tranh cãi nổ ra về Thế vận hội Olympic ở Brazil, với một số lời kêu gọi di chuyển hoặc hoãn Thế vận hội nhưng điều đó có thực sự hợp lý? Zika đã lây lan vượt ra ngoài Brazil ở mức độ nghiêm trọng.

06

Tại sao lại là bây giờ? Và, nếu ai đã có dự đinh tham gia Thế vận hội Olympic nên làm gì?

Ảnh: Skyline of Salvador, Brazil by Hentzer. CC BY-SA 3.0 via Wikimedia Commons.


TOÀN CẦU

Cần nói rõ là đại dịch Zika là rất nghiêm trọng. Sự lây truyền từ muỗi của loại virus mà trước đó vẫn còn chưa được hiểu rõ và có vẻ vô hại đang lây truyền qua hơn 60 quốc gia, và đã để lại những di chứng về thần kinh và phát triển có thể gây khó khăn cho các gia đình và toàn xã hội trong hàng thập kỉ.

Đây là một loại virus đầy bất ngờ. Một loại virus có thể lây lan qua muỗi và cả tình dục! Điều này hầu như chưa từng có �ền lệ, và không ai biết điều gì có thể xảy ra �ếp theo.

Tăng trưởng đô thị ồ ạt vẫn liên tục xảy ra, đặc biệt là ở khu vực thu nhập thấp, vĩ độ thấp, những nơi nóng và nghèo. Tăng trưởng bùng nổ trong lĩnh vực vận chuyển quốc tế đã kết nối các trung tâm đô thị nhiệt đới lớn có mật độ dân số cao, khí hậu nóng với các khu ổ chuột nằm sát nhau ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Các vecto muỗi có khả năng lây truyền nhiều loại virus gây bệnh cho con người, có thể di chuyển khắp nơi thông qua đường thương mại (VD: ở trong lốp xe cũ và cây cối). Các chương trình kiểm soát vecto truyền nhiễm đã thất bại vì nhiều lý do, bao gồm thiếu sự hỗ trợ, cơ sở hạ tầng kém và kháng thuốc diệt côn trùng của muỗi. Người bị nhiễm bệnh trên các chuyến bay quốc tế vận chuyển virus trong máu và các mô khác trong cơ thể. Nhiệt độ ấm hơn có thể làm tăng nhanh tốc độ lây lan ở một số khu vực. Chính chúng ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho virus Zika di chuyển và thành lập.

07


GOING NET

Các giả thuyết khác về lý do virus Zika lây lan nhanh chóng bao gồm đột biến virus, tạo điều kiện cho muỗi nhân lên ở cấp độ cao hơn, dẫn đến lan truyền lan nhanh hơn, trở nên độc hại hơn và tấn công các mô thần kinh.

Dịch bệnh Zika đã xuất hiện ở những khu vực dịch bệnh sốt xuất huyết hoành hành từ lâu. Có phải nhiễm trùng trước đó (hoặc nhiều nhiễm trùng trước) với virus sốt xuất huyết - một loại lavi có liên quan, dẫn đến tăng cường phụ thuộc kháng thể? Trong những trường hợp này, việc nhiễm virus có liên quan trước đó, thay vì bảo vệ chủ thể, ngược lại sẽ làm tăng tốc độ nhân lên của virus và làm cho bệnh nặng thêm. Những câu hỏi này và những câu hỏi quan trọng khác sẽ được trả lời bởi các nghiên cứu đang được tiến hành, nhưng chúng ta đã học được rất nhiều về virus này. Zika có thể được truyền qua tinh dịch khi quan hệ tình dục. Zika cũng có trong nước bọt, nước tiểu và sữa mẹ, nhưng cho đến nay việc truyền virus qua các chất dịch cơ thể này vẫn chưa được ghi nhận. Virus đã được tìm thấy trong quần thể hoang dã Aedes aegypti và Aedes albopictus (muỗi vằn) ở châu Mỹ. Dựa trên số lượng và sự phân bổ, Aedes aegypti được cho là vecto truyền bệnh quan trọng nhất ở châu Mỹ. Tin xấu!

08


TOÀN CẦU

ዑ ኾ ዠ ü × ዇ ǡ ¯዁ ዉ ዒ ¯ዏ ¯Ø ዋ × ኼ ¯ዒ ዎ ǡ ኿ ኶ ዛ ዟ ዒ ¯ዏ Ø × ዏ ዛዔ × ዆ ኷ Ǥ ዎ ዉ ዇ ዑ ኾ ñ ዄ ï ዇ ዉ ወ î ዛ ዎ ኸ ዅ Ǥ

ዑ ኾ × ዏ ዎ ዝ ዉ ¯ዛዘ ¿ ኸ ዖ ዠ ዉ ¯ዔ ኼ ዉ ¯ዔ ² ዅ ዔ Ǥ ዑ ኾ À ዠ ዎ ዔ Ø ዛዕ ¯Ø ዋ ዉ ¯኶ Ǥ × × ዇ ኷ ኻ ዛዔ ው ȋ î ዠ ǡ ኽ ǡ ዎ ¯ ዞ ዙ Ȍǡ ¯ዎ ǡ ዎ ȋ × ዇ ¿ ኸ Ö À ǡ ዛዔ ኹ ዛዕ Ȍǡ À ዛዕ × ዇ ¯ዎ ዆ ዛዕ ዅ ¿ ¯ዎ ዋ ¯ ኶ Ǥ ዑ ኾ × ኷ £ ዆ ዆ ኶ ǡ ዏ ዎ ኸ ዅ ǡ ዎ Ǥ 0 ዆ × Â ኸ ü ዠ × ዆ ዎ ኸ ዅ ȋ ዅ ኹ ዒ ዞ ዎ ኹ Ȍ ñ × ዓ ዆ Ǥ ² ኸ Ǩ

09


GOING NET

May mắn là Thế vận hội Olympic sẽ diễn ra trong những tháng lạnh và khô hơn ở Rio de Janeiro, thời điểm có mật độ muỗi thấp và khả năng truyền bệnh sốt xuất huyết thấp. Các can thiệp kiểm soát vecto truyền bệnh ở Rio cũng đã được mở rộng để chuẩn bị cho Thế vận hội Olympic. Một số trận bóng đá sẽ diễn ra tại các địa điểm khác, như Manaus và Salvador, nơi điều kiện có thể thuận lợi hơn Rio cho muỗi vào tháng Tám.

Số lượng muỗi ở Rio có thể thấp trong Thế vận hội, nhưng quá trình lây truyền qua đường tình dục của Zika không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và lượng mưa. Những người tham dự Thế vận hội Olympic có thể bị nhiễm bệnh thông qua quan hệ tình dục với những người tham dự khác đến từ các khu vực Zika đang lây nhiễm. Người tham dự Thế vận hội nên tự bảo vệ mình bằng cách sử dụng thuốc chống muỗi nhưng họ cũng nên tự bảo vệ mình khỏi lây truyền qua đường tình dục bằng cách sử dụng bao cao su. Lây truyền qua đường tình dục từ nam sang nữ và nam sang nam đã được ghi nhận, ngoài ra Zika có khả năng lây truyền từ nữ sang nam. Một người đàn ông bị nhiễm zika có khả năng truyền bệnh theo hai cách: thông qua vật trung gian truyền nhiễm là muỗi trong thời gian virus tồn tại trong máu (vài ngày) và qua tinh dịch, có thể chứa virus trong một tháng hoặc lâu hơn khi quan hệ tình dục. Một báo cáo tìm thấy RNA của virus trong tinh dịch 62 ngày sau khi nhiễm bệnh. Virus cũng đã được tìm thấy trong đường sinh dục nữ.

Do phần lớn các trường hợp nhiễm Zika là không có triệu chứng, nên có biện pháp phòng ngừa khi quan hệ tình dục với bất kỳ ai đến từ vùng dịch hoặc gần đây đã đến khu vực có dịch Zika đang diễn ra. Khi sử dụng biện pháp bảo vệ, cần tính đến khả năng tồn tại lâu dài của virus trong tinh dịch (dài hơn một tháng).

10


Những người đi đến Thế vận hội Olympic có thể chuẩn bị bằng cách tìm hiểu cơ chế lây truyền, dùng thuốc chống côn trùng và bao cao su trong thời gian Thế vận hội. Sau Thế vận hội, họ cũng nên hiểu làm thế nào để ngăn chặn sự lây lan Zika nếu họ sống trong khu vực có muỗi truyền bệnh hoặc có hoạt động tình dục thường xuyên (nam giới).

Từ những điều kể trên, các bằng chứng đã được thu thập cho thấy nguy cơ bùng phát Zika trong Thế vận hội Olympic ở Rio là thấp. Zika đã mang tới nhiều bất ngờ. Có lý do để tin rằng Thế vận hội Olympic sẽ không mang lại một bất ngờ nữa.

Nguồn: https://blog.oup.com/2016/07/zika-sex-mosquitoes-olympics/

11


COVER STORY

NHIỄM VIRUS ZIKA SAU

ĐẠI DỊCH Virus Zika (ZIKV) được phát hiện tại Châu Phi vào năm 1947 và được tìm thấy tại Châu Á vào năm 1966, tuy nhiên những tác động tiềm ẩn của nó đối với sức khỏe cộng đồng chưa được công nhận cho tới khi nó bùng phát ở vùng Biển Thái Bình Dương từ 2007 tới 2015 và bắt đầu lan ra khắp châu Mỹ vào năm 2015. Khả năng ZIKV gây ra các khuyết tật bẩm sinh ở thai nhi và trẻ sơ sinh, như đã được thấy ở dịch ZIKV tại Brazil, là một đặc điểm chưa từng có của các loài virus lay lan do muỗi.

12


TIÊU ĐIỂM

Mặc dù sự lây nhiễm virus ZIKV đã giảm ở Châu Mỹ, sự bùng phát và các ổ dịch ZIKV vẫn tiếp tục xảy ra ở một số khu vực, như Ấn Độ và Đông Nam Á, nơi có nhiều phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là những người dễ bị nhiễm virus.

Chúng tôi xem xét các thông tin thu được trong thời gian xảy ra đại dịch và thảo luận về xu hướng dịch tễ học, hiểu biết hiện tại về lây truyền và lịch sử tự nhiên của ZIKV cũng như các di chứng của nó, đồng thời nghiên cứu các nguyên tắc chẩn đoán và quản lý lâm sàng.

Ễ T H

C Ọ H

ỊD C

ZIKV là một loại virus ARN sợi đơn dương có trong họ Flaviviridae. Họ virus này cũng bao gồm virus sốt xuất huyết (DENV), West Nile, sốt vàng da và virus viêm não Nhật Bản. ZIKV được phân lập lần đầu tiên vào năm 1947 tại Rừng Zika ở Uganda, nơi việc lây truyền của tổ tiên châu Phi của ZIKV vẫn bị giới hạn trong linh trưởng không phải người và muỗi aylvatic aedes, với số ca nhiễm sang người rất hạn chế.

C Ặ Đ

IĐ ỂM

13


Khi ZIKV di cư sang châu Á, dòng virus ZIKV châu Á xuất hiện, có khả năng lây truyền qua muỗi aedes có khả năng thích nghi với con người (ví dụ Aedes aegypti). Kết quả huyết thanh học và điều tra về côn trùng cho thấy ZIKV có sự phân bố rộng khắp ở Châu Phi và Châu Á từ trước 2007. Tuy nhiên, chỉ có ít hơn 20 trường hợp bị nhiễm ở người được báo cáo trước 2007, và tất cả đều có các biểu hiện lâm sàng nhẹ và tự hết.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC

COVER STORY

ZIKA

Dấu hiệu đầu tiên về sự thay đổi trong dịch tễ học của ZIKV là sự bùng phát dịch ở Thái Bình Dương tại Quần đảo Yap, Micronesia, năm 2007 và Polynesia vào năm 2013 và 2014, sau đó là sự lây lan của đại dịch sang Châu Mỹ, Caribê và Châu Phi vào năm 2015. ZIKV có thể đã được đưa vào Brazil vào đầu năm 2013 - hơn 1 năm trước khi phát hiện ổ dịch ban đầu ở Châu Mỹ. Đại dịch ZIKV là một ví dụ về một “cơn bão hoàn hảo”, trong đó một biến thể mới của ZIKV (chủng phân lập ở châu Mỹ) phát triển từ dòng ZIKV có nguồn gốc châu Á và tiếp cận bộ phận dân số chưa từng tiếp xúc với ZIKV trước đây. Đại dịch nhấn mạnh khả năng virus có thể được truyền đi một cách nhanh chóng tại các môi trường có nhiều muỗi aedes và lây lan qua các vùng lãnh thổ thông qua sự di chuyển của người và thông qua du lịch.

20


TIÊU ĐIỂM

Một đặc điểm nổi bật khác của đại dịch là sự xuất hiện của các biến chứng nặng nề. Hội chứng Guillain Chuẩn Barré lần đầu tiên được xác định trong thời gian dịch ở Polynesia và sau đó ở Châu Mỹ. Ở Brazil, sự gia tăng mạnh mẽ của bệnh đầu nhỏ ở trẻ sơ sinh dẫn đến tuyên bố của Tổ chức Y tế thế giới vào tháng 2 năm 2016 về tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu và để xác định mối liên hệ giữa ZIKV và các dị tật bẩm sinh.

Tính đến tháng 1/2018, hơn 3700 trường hợp dị tật bẩm sinh liên quan đến virus ZIKV đã được báo cáo ở Châu Mỹ.

Tuy nhiên, ước tính chính xác về hậu quả của hội chứng Guillain Barré và các dị tật bẩm sinh do nhiễm ZIKV bị cản trở bởi thiếu sự giám sát có hệ thống của hội chứng này trước và trong đại dịch. Báo cáo ban đầu ước tính quá cao số ca mắc bệnh đầu nhỏ ở Brazil vì một định nghĩa khá nhạy cảm và chưa cụ thể đã được sử dụng trước khi Các tiêu chuẩn dựa trên tham chiếu INTERGROWTH-21 được áp dụng.

21


COVER STORY

Hơn nữa, để xác nhận chính xác bệnh đầu nhỏ đòi hỏi nhiều xét nghiệm sau sinh, như một cuộc điều tra ở Paraíba, Brazil đã xác nhận bệnh đầu nhỏ chỉ có trong 55% số trẻ sơ sinh được báo cáo ban đầu là bị bệnh.

01

Hiện nay, dị tật bẩm sinh chỉ xuất hiện trong các trường hợp bị nhiễm chủng ZIKV có nguồn gốc từ châu Á, bao gồm những người được xác nhận là mắc bệnh trong một đợt dịch bùng phát năm 2016 ở Angola.

Tỷ lệ nhiễm cao trong cộng đồng là một nhân tố đóng góp chính cho việc phát hiện các biến chứng liên quan đến ZIKV và các bệnh liên quan tới những biến chứng này trong đại dịch. Trong cộng đồng tại tâm chấn của bệnh đầu nhỏ ở phía đông bắc Brazil, hơn 60% dân số bị phơi nhiễm sau đó đã bị nhiễm. Tuy nhiên, phạm vi xuất hiện ZIKV và nguy cơ biến chứng thay đổi theo thời gian và vị trí. Ví dụ, tình trạng gia tăng hội chứng Guillain Barré được ghi nhận khi virus ZIKV

22

lây lan ở Brazil vào năm 2015 và 2016, trong khi đó dị tật bẩm sinh gia tăng chủ yếu trong năm 2015. Mặc dù đại dịch mang lại một lượng lớn thông tin về ZIKV nhưng các khoảng trống về kiến thức quan trọng vẫn tồn tại. Vẫn chưa biết là các biến chứng liên quan đến ZIKV là những hiện tượng mới xuất hiện - do virus tăng cường về độc lực, khả năng truyền nhiễm hoặc mức độ nghiêm trọng của bệnh gây nên - hay đã xảy ra trước đây nhưng không bị phát hiện vì hạn chế trong việc giám sát hoặc lây truyền không thường xuyên.


TIÊU ĐIỂM

Dữ liệu từ các nghiên cứu trong ống nghiệm và thử nghiệm trên động vật cho thấy đột biến ZIKV có thể làm tăng khả năng lây nhiễm của virus qua vecto A. aegypti và nguy cơ mắc bệnh đầu nhỏ ở thai nhi. Tuy nhiên, dị tật bẩm sinh được cho là gây ra bởi các chủng virus không chứa đột biến này, đồng thời các dấu hiệu dự đoán nguy cơ dị tật bẩm sinh vẫn chưa được xác định. Do đó, các chủng virus ZIKV không chứa đột biến không thể được coi là gây ra rủi ro thấp, như được đề xuất bởi cơ quan y tế trong đợt bùng phát dịch năm 2018 tại Ấn Độ.

02

Virus ZIKV và DENV có sự tương đồng về kháng nguyên và có sự phân bố địa lý trùng lặp nhau. Hiệu quả của hệ miễn dịch chống lại họ virus �lavi có tác động lên sự truyền nhiễm ZIKV - cho dù khả năng miễn dịch tới từ việc đã bị lây nhiễm trước đó hay do vắc-xin. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đưa ra những phát hiện mâu thuẫn lẫn nhau liên quan đến việc liệu sự lây nhiễm DENV có tạo ra phản ứng miễn dịch bảo vệ chống lại ZIKV hay làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh thông qua sự tăng cường phụ thuộc vào kháng thể.

Các nghiên cứu tiến cứu ở người cho thấy sốt xuất huyết và các kháng thể chống lại DENV tồn tại trước đó làm giảm hơn là tăng nguy cơ lây nhiễm ZIKV. Cần điều tra kỹ hơn để xác định những phát hiện này có thể áp dụng trên các khu vực mà ZIKV đã xuất hiện

hay không, liệu chúng có đúng trong trường hợp các bệnh nghiêm trọng liên quan đến ZIKV như hội chứng Guillain Barré và dị tật bẩm sinh, và liệu số lượng hoặc loại kháng thể sốt xuất huyết khác nhau có ảnh hưởng đến sự cân bằng giữa việc bảo vệ và gia tăng khả năng lây nhiễm ZIKV. Sự lây truyền ZIKV bản địa đã được báo cáo ở 87 quốc gia và vùng lãnh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới cũng như cận nhiệt đới, như sự lây lan của ZIKV tới Florida và Texas. Sự lây truyền của virus ZIKV đã giảm rõ rệt ở châu Mỹ kể từ cuối năm 2016; Ít hơn 30.000 trường hợp được báo cáo trong năm 2018, so với hơn 500.000 trường hợp được báo cáo ở đỉnh điểm của đại dịch năm 2016. Sự miễn dịch chung của cộng đồng sau khi bị nhiễm bệnh một cách tự nhiên có thể đã diệt trừ virus ZIKV ở nhiều khu vực.

23


COVER STORY

24

Tuy nhiên, sự không đồng nhất trong tỷ lệ nhiễm ZIKV tại các khu vực khác nhau có thể đã tạo ra các nhóm dân số dễ mắc bệnh hơn và điều này sẽ duy trì khả năng lây truyền trong tương lai. Trên thực tế, các trung tâm với dân số lớn, như thành phố São Paulo, không bị ảnh hưởng bởi đại dịch và các trường hợp nhiễm ZIKV vẫn tiếp tục được phát hiện ở châu Mỹ. Hơn nữa, sự lây truyền của ZIKV có thể xảy ra mà không gây ra sự bùng phát đáng chú ý, vì phần lớn các bệnh nhiễm trùng không có triệu chứng. Một đợt bùng phát dịch lớn đã không được báo cáo ở Cuba vào năm 2017, cùng với đó là các trường hợp mới được xác định vào năm 2018, đã cho thấy ZIKV vẫn có thể lan truyền âm thầm ở châu Mỹ. Hiện tại, không có bằng chứng về một loài động vật nào khác ngoài linh trưởng có mang virus ZIKV. Tuy nhiên, một mối quan tâm khác sau khi phát hiện RNA của ZIKV ở khỉ Brazil sống gần con người, là khả năng ZIKV sẽ tạo nên một chu kỳ lây truyền qua động vật ở châu Mỹ. Điều này sẽ giống như những gì đã xảy ra với sốt vàng da ở châu Mỹ vào thế kỷ 17 và sẽ là một điểm đáng lưu tâm về sự lây nhiễm của ZIKV sang người trong tương lai. Việc xác định sự bùng phát ZIKV ở Đông Nam Á và Nam Á là một mối quan tâm y tế công cộng mới và quan trọng. Những đợt bùng phát xảy ra do sự tự lây truyền trong phạm vi châu Á thay vì do chủng biến thể của Mỹ, đã được báo cáo là gây ra dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh tại các trung tâm dân số lớn ở Singapore, Thái Lan, Việt Nam và Ấn Độ.


TIÊU ĐIỂM Muỗi albopictus, có sự phân bố lớn ở vùng khí hậu ôn đới, là một vecto lây truyền có khả năng cao nhưng dường như lại không đóng vai trò quan trọng trong sự lây truyền ZIKV. Các mô hình dự đoán cho thấy rằng A. aegypti sẽ tiếp tục mở rộng phạm vi sinh trưởng của chúng do sự tăng trưởng và di chuyển dân số, xu hướng đô thị hóa. và biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, ZIKV có thể được lây truyền tới con người theo cơ chế không vecto, chẳng hạn như qua lây truyền máu, và ZIKV cũng là virus duy nhất trong số virus arbo có thể lây truyền qua quan hệ tình dục và có thể gây ra dị tật ở thai nhi do lây nhiễm virus từ mẹ. Ở người, sự lây truyền ZIKV qua đường tình dục từ nam sang nữ có thể xảy ra dù các đối tác nam nhiễm ZIKV có thể có triệu chứng hoặc không và được ghi nhận thường xuyên hơn lây truyền từ nữ sang nam và từ nam sang nam.

Lây truyền qua muỗi là cơ chế lây truyền chính của đại dịch. A. aegypti là vecto chính lây truyền ngang của ZIKV từ người sang người.

SỰ LÂY TRUYỀN

03

Mặc dù khó đánh giá ảnh hưởng của sự lây truyền qua đường tình dục trong khu vực mà virus đang lan truyền, ước tính 1% số ca nhiễm ZIKV ở châu Âu và Hoa Kỳ đã mắc phải qua lây truyền qua đường tình dục. RNA của ZIKV đã được phát hiện trong tinh dịch bằng xét nghiệm phiên mã ngược qua phản ứng chuỗi polymerase 370 ngày sau khi phát bệnh, nhưng việc phát hiện virus gây ra sự truyền nhiễm là rất hiếm sau 30 ngày kể từ khi phát bệnh. Mặc dù sự thay đổi trong tinh dịch và chất lượng tinh trùng đã được quan sát thấy ở những người đàn ông bị nhiễm ZIKV, tác dụng phụ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nam giới thì vẫn chưa được xác định.

25


COVER STORY Lây truyền ZIKV từ mẹ sang thai nhi có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn của thai kỳ, cho dù người mẹ có triệu chứng hay không. Sự lây truyền dọc ước tính xảy ra ở 26% thai nhi có người mẹ nhiễm ZIKV ở Guiana thuộc Pháp, tỷ lệ phần trăm này tương tự tỷ lệ lây truyền đã được quan sát đối với các bệnh nhiễm trùng bẩm sinh khác.

Trong số các thai nhi đã tiếp xúc với ZIKV do sự lây truyền dọc, 14% bị xảy thai và 21% xảy ra các biến chứng nặng. Ngoài ra, 45% thai nhi nhiễm ZIKV do lây truyền dọc không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của hội chứng Zika bẩm sinh ở tuần đầu tiên khi ra đời. Phần lớn các báo cáo về thai nhi và trẻ sơ sinh liên quan đến ZIKV không khẳng định sự nhiễm trùng của thai nhi là do lây truyền dọc.

Hình trên tóm tắt tỷ lệ sảy thai và Hội chứng Zika bẩm sinh xảy ra ở thai nhi của những phụ nữ bị nhiễm ZIKV trong khi mang thai. Mặc dù virus ZIKV đã được phát hiện trong sữa mẹ, việc lây truyền qua sữa mẹ không được xác nhận là một phương thức lây truyền. Hiện tại, WHO khuyến nghị rằng các bà mẹ bị nhiễm ZIKV vẫn có thể tiếp tục cho con bú.

26


TIÊU ĐIỂM

Phần lớn (từ 50 - 80%) các ca nhiễm ZIKV không có triệu chứng. Những ca nhiễm ZIKV có triệu chứng sẽ có thời gian ủ bệnh từ 3 -14 ngày và dưới hình thức bệnh nhẹ, có thể kéo dài tới 1 tuần. Biểu hiện bệnh là phát ban, sốt nhẹ, đau khớp, đau cơ và viêm kết mạc. Biến chứng xảy ra không thường xuyên, nhưng khi đã xảy ra thì có thể trở nên nghiêm trọng và dẫn tới tử vong.

Các biểu hiện ZIKV cấp tính là tương tự nhau ở các nhóm tuổi, trong cả hai giới và đối với phụ nữ mang thai. ZIKV cho thấy hướng di động lớn của tế bào nhiễm virus, Và một đặc điểm lâm sàng nổi bật là các biến chứng về thần kinh xuất phát từ phản ứng miễn dịch sau khi nhiễm bệnh hoặc virus chuyển hướng trực tiếp tới hệ thần kinh.

04

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

27


COVER STORY

Hội chứng Guillain-Barré liên quan đến ZIKV Tỷ lệ mắc bệnh Guillain-Barré liên quan đến ZIKV ước tính là từ 2 đến 3 trường hợp/10.000 ca nhiễm ZIKV, tương tự như tỷ lệ nhiễm trùng vi khuẩn campylo. Khoảng thời gian giữa bệnh đã mắc từ trước và sự khởi phát của hội chứng Guillain-Barré là 5-10 ngày, dẫn đến các suy đoán về quá trình truyền nhiễm có thể xảy ra.

Một loạt ca nhiễm bệnh cho thấy tiên lượng về hội chứng Guillain-Barré gây ra do ZIKV là tương tự như hội chứng Guillain-Barré gây ra do các bệnh truyền nhiễm hoặc không truyền nhiễm khác. Tuy nhiên, những phát hiện từ một nghiên cứu bệnh chứng cho thấy hội chứng Guillain-Barré có liên quan tới ZIKV dẫn đến tỷ lệ tử vong và mắc bệnh thần kinh sọ lớn hơn. Các rối loạn ở hệ tự miễn dịch như xuất huyết giảm tiểu cầu cũng có liên quan tới ZIKV.

28

Viêm cấp tính đa dây thần kinh, bệnh lý thần kinh cấp tính liên quan tới sợi trục vận động và hội chứng Miller-Miller Fisher (một tập hợp con của hội chứng Guillain- Barré biểu hiện bởi bệnh nhãn khoa, sự mất cân bằng trong cơ thể và chứng mất phản xạ) đã được quan sát với các trường hợp mắc hội chứng Guillain- Barré liên quan tới ZIKV, nhưng tỷ lệ của các nhóm bệnh này chênh lệch giữa các nghiên cứu và các khu vực khác nhau.


TIÊU ĐIỂM Hội chứng Zika bẩm sinh Tương tự như bệnh đầu nhỏ, ZIKV gây ra một loạt các dị tật bẩm sinh ở thai nhi và khác biệt với các bệnh nhiễm trùng bẩm sinh khác vì các biểu hiện bệnh lý của nó bị hạn chế chủ yếu ở hệ thần kinh trung ương. Mặc dù những biểu hiện bất thường này cũng được phát hiện trong các bệnh nhiễm trùng bẩm sinh khác, chúng dường như vẫn liên quan đến hội chứng Zika nhiều hơn.

Trẻ sơ sinh từ các bà mẹ bị nhiễm ZIKV trong quá trình mang thai có nguy cơ mắc hội chứng Zika bẩm sinh từ 5 đến 14% và nguy cơ mắc bệnh đầu nhỏ liên quan tới ZIKV từ 4 đến 6%.

Đặc điểm nổi bật của hội chứng Zika bẩm sinh bao gồm sự gián đoạn trình tự phát triển não của thai nhi, tình trạng do sự gián đoạn trong phát triển não tại thời kỳ mang thai gây nên, theo sau đó là biến thể của hộp sọ thai nhi gây ra bởi sự suy giảm áp lực thủy tĩnh nội sọ; vôi hóa bán cấp; dấu hiệu ở tế bào thần kinh chóp và ngoại chóp; tổn thương ở mắt, teo xương sống, gây ra sắc tố lốm đốm ở võng mạc và co thắt bẩm sinh có khả năng do rối loạn hệ thần kinh gây nên.

29


COVER STORY Một nghiên cứu trong phụ nữ mang thai ở Rio de Janeiro đã sử dụng một định nghĩa khái quát hơn về các hậu quả gây ra do ZIKV và xác định được các kết quả bất lợi đã xảy ra ở 42% thai nhi và trẻ sơ sinh bị nhiễm virus. Mặc dù nhiễm ZIKV trong bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ cũng có thể gây ra hội chứng Zika bẩm sinh, nguy cơ sẽ là lớn nhất nếu sự lây nhiễm xảy ra trong ba tháng đầu tiên. Phơi nhiễm với thuốc trừ sâu, các loại độc tố, thuốc và tiêm chủng trong quá trình mang thai không phải là yếu tố tăng nguy cơ lây nhiễm.

30

Tỷ lệ tử vong sơ sinh trong tuần đầu tiên đối với trẻ sơ sinh mắc hội chứng Zika bẩm sinh có thể lên tới từ 4 đến 7%; các ước tính tốt hơn về tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh trong tuần đầu tiên sẽ là cần thiết. Việc không có dấu hiệu bât thường về lâm sàng và X-quang liên quan tới hội chứng Zika bẩm sinh khi trẻ mới sinh không loại trừ các nguy cơ bất thường như mắc các chứng co giật, khó nuốt, mất thính giác, suy giảm thị lực và chậm phát triển sau này. Trong số trẻ ở Mỹ không có dị tật bẩm sinh sinh ra từ các bà mẹ bị nhiễm ZIKV khi mang thai, 9% có ít nhất một triệu chứng bất thường về thần kinh trước khi đạt 2 tuổi. Phát hiện này cho thấy sự cần thiết của việc giám sát lâu dài đối với trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị nhiễm ZIKV.

Việc sử dụng các định nghĩa khác nhau cho các trường hợp và các biến chứng, đặc biệt là trong trường hợp của bệnh đầu nhỏ, cũng như việc bao gồm các trường hợp đang còn nghi ngờ nhưng chưa được xác nhận và sai số trong các báo cáo trường hợp có thể đã góp phần dẫn tới những khác biệt giữa các nghiên cứu về sự lây truyền và hậu quả của ZIKV. Sự khác biệt đó cũng có thể phản ánh sự khác nhau giữa các khu vực trong việc lây truyền và mức độ nghiêm trọng của các biến chứng. Hình ảnh đầy đủ cũng như nguy cơ mắc hội chứng Zika bẩm sinh do đó vẫn chưa được phân định một cách hoàn thiện.


TIÊU ĐIỂM

CHẨN ĐOÁN Việc chẩn đoán virus ZIKV ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh đặt ra một số thách thức. RNA ZIKV thường chỉ được phát hiện nhất thời mặc dù quan sát thấy virus tồn tại trong máu kéo dài trong suốt quá trình mang thai.

31


COVER STORY

ARN của ZIKV có thể được phát hiện trong nước ối, nhưng kết quả âm tính không thể loại trừ và cần phải chẩn đoán thêm. Do vậy chọc ối không được khuyến cáo thực hiện thường xuyên và chỉ nên sử dụng chủ yếu để loại trừ các chẩn đoán khác ở thai nhi với kết quả trước sinh phù hợp với hội chứng ZIKV bẩm sinh.

Mục đích của chẩn đoán là xác định thời điểm nhiễm không có triệu chứng cũng như thời điểm có triệu chứng, vì cả hai đều có thể là nguy cơ dẫn đến lây truyền dọc. Tuy nhiên, xét nghiệm huyết thanh bị cản trở bởi sự tồn tại của ZIKV IgM trong khoảng 12 tuần sau khi phát bệnh vì PRNT không thể phân biệt giữa sự lây nhiễm mới xảy ra và sự lây nhiễm đã xảy ra trong quá khứ.

Xét nghiệm khẳng định ZIKV bẩm sinh ở trẻ sơ sinh không có độ nhạy cao. Khi hội chứng Zika bẩm sinh chưa được xác nhận thì các nguyên nhân khác gây dị tật ở thai nhi (nhiễm trùng, TORCHS [bệnh nhiễm ký sinh trùng toxoplasma, bệnh sởi rubella, nhiễm CMV, bệnh herpes, và giang mai], và các rối loạn chuyển hóa,) cũng cần được xem xét. Ở những khu vực đang có hoặc đã từng có virus ZIKV, cần giám sát chặt chẽ sự phát triển và các mốc phát triển của trẻ sơ sinh, vì rất nhiều trẻ sơ sinh có thể đã bị phơi nhiễm ZIKV trong tử cung dù không có ghi chép về sự phơi nhiễm virus của người mẹ.

Hình ảnh cộng hưởng của thai nhi có thể góp phần cho việc đánh giá

“ 32

Do hạn chế của chẩn oán trong phòng thí nghiệm, việc siêu âm theo dõi thai nhi sẽ là chìa khóa quyết ịnh, nhưng hiệu quả của nó còn phụ thuộc vào khả năng tiếp cận với thai nhi qua siêu âm và kinh nghiệm của các bác sỹ siêu âm..


TIÊU ĐIỂM

Gia đình và các dịch vụ hỗ trợ là yếu tố quan trọng trong việc chăm sóc trẻ nhỏ bị nhiễm ZIKV.

Khuyến cáo chung cho người dân về phòng tránh muỗi đốt và các chiến lược kiểm soát lây nhiễm nhằm ngăn ngừa ZIKV cũng tương tự như các khuyến cáo chống lại các loại virus lây truyền qua aedes khác. Phòng tránh lây truyền qua đường tình dục phụ thuộc vào các biện pháp đảm bảo an toàn tình dục. Sau khi nghi ngờ lây nhiễm cần theo dõi trong khoảng 2 tháng nếu người bị nghi nhiễm là nữ và 3 tháng nếu là nam.

ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNG

Trẻ sơ sinh với hội chứng ZIKV bẩm sinh cần phải được một đội ngũ đa ngành chăm sóc để có thể theo dõi các biến chứng. Vì sự phát triển của trẻ có thể bị chậm lại nên cần có chuyên gia về sự phát triển ở trẻ để cung cấp can thiệp hợp lý và kịp thời.

33


COVER STORY

KẾT LUẬN BÀI HỌC TỪ ĐẠI DỊCH Cộng đồng y tế công cộng đã không được chuẩn bị cho sự xuất hiện của virus ZIKV cũng như những hậu quả nghiêm trọng và bất ngờ của ZIKV đối với thai nhi. Tuy nhiên, phản ứng của cộng đồng quốc tế với cuộc khủng hoảng Zika, bao gồm tuyên bố của WHO về ZIKV là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu, là rất đáng kể, thể hiện qua việc xác định thành công mối liên hệ giữa ZIKV và các dị tật bẩm sinh, hơn 6000 ấn phẩm khoa học về ZIKV, sự phê duyệt các phương thức chẩn đoán mới và sự phát triển các vắc-xin đã bước vào giai đoạn thử nghiệm lâm sàng tất cả đều thực hiện trong vòng 3 năm vừa qua.

34

Hơn nữa, đại dịch ZIKV gia tăng sự nhận thức tích cực về các vấn đề quan trọng như công bằng xã hội, sự kỳ thị và cô lập gia đình của những trẻ sơ sinh mắc hội chứng ZIKV bẩm sinh, quyền sinh sản của phụ nữ và quyền tiếp cận với phá thai và các biện pháp tránh thai an toàn ở Mỹ Latinh. Đáng lưu ý là mặc dù chính sách phá thai chưa thay đổi ở nhiều quốc gia nhưng dịch ZIKV ở Brazil có liên quan đến việc giảm hơn 100.000 ca sinh trong thời gian từ giữa tháng 9 năm 2015 và tháng 12 năm 2016. Con số này có thể xuất phát từ việc hoãn mang thai và sự gia tăng tỷ lệ phá thai lén lút.


7, 8 ®,ē0

ዉ ኷ ¯኶ ዋ ¯ ዐ ኼ ዅ × ዌ ዠ ዇ ዅ ዚ ï ዆ ኷ ዉ ዆ ኷ Ø ዛዔ ኻ × ዇ ዙ ǡ ¯዁ ዉ ዖ ዛዔ ኼ ኸ ¿ Ǥ

0኶ ዋ ዜ ዠ ኸ ኶ ዚ ዛዓ ¿ ዇ ዛዔ ወ ኶ ዠ × ዎ ¯ዒ ¯Ø ዋ × ዠ ዅ ዎ ዟ î ዆ ዄ ï ¯ኺ ዠ ዋ ዉ Ǥ ² ǡ ዛዓ ዇ ዛዔ ወ ዔ ዛ ዑ ዅ ¯ዐ ǡ ዑ ኺ ዎ ዉ ዑ ዠ ² ዉ ኻ ¯ ¯ዛዘ ± Ǥ

዁ î ዉ ኶ ï ዛ × Ø ዙ ¯዇ ዠ ¯ ዓ ¯ዘ ዋ ዔ ዅ ዄ ኷ ዛ ዎ ዛዘ ዔ ዛዕ × ኷ £ ኽ ዉ ዎ ኶ î ዆ ዄ £ ኷ £ ኸ ዉ ዚ Ǥ ዛ ኼ ǡ ï ኹ ¯ዒ ዠ ዑ ዘ £ ዠ ዖ ዎ ኼ ኸ ¿ ¯዇ ዜ × ዔ ዋ ዛዓ ñ ዛ ዔ ኹ ዉ × ዇ ኸ ዉ ዅ Ǥ

Những thử nghiệm chẩn đoán hiện tại vẫn chưa phải là tối ưu trong việc phát hiện các ca nhiễm ZIKV bẩm sinh, từ đó gây cản trở tới việc thực hiện quản lý lâm sàng. Đại dịch ZIKV ã suy yếu, nhưng virus ZIKV vẫn là mối e dọa ối với sức khỏe cộng ồng như minh chứng qua các báo cáo về dịch ZIKV ở châu Á, Ấn Độ và châu Phi.

Nguồn: https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMra1808246?query=featured_zika

35


COVER STORY

Microcephaly

Microcephaly

Microcephaly

KẾT QUẢ THAI KỲ CỦA CÁC CA NHIỄM ZIKV VÙNG NÓI TIẾNG PHÁP Ở CHÂU MỸ “Theo nhiều báo cáo, nguy cơ mắc các bệnh bẩm sinh liên quan tới hệ thần kinh gây ra do virus ZIKV rơi vào khoảng từ 6 tới 42%.” - Dịch từ bài nghiên cứu

của The NEW ENGLAND JOURNAL of MEDICINE

36

Microcephaly


TIÊU ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP Mục đích của nghiên cứu này nhằm ước tính nguy cơ đối với phụ nữ mang thai có triệu chứng của ZIKV đang sinh sống ở các vùng nói tiếng Pháp ở châu Mỹ.

KẾT QUẢ Trong số 555 thai nhi và trẻ sơ sinh trong tổng số 546 trường hợp mang thai được nghiên cứu, 28 (5,0%) không được sinh ra hoặc chết lưu, 527 còn lại được sinh ra. Các khuyết tật về thần kinh và mắt có thể liên quan đến ZIKV đã được phát hiện ở 39 thai nhi và trẻ sơ sinh (7,0%; khoảng tin cậy 95%, 5,0 đến 9,5); trong số này, 10 trẻ không được sinh ra vì chấm dứt thai kỳ với lý do y tế, 1 trẻ chết lưu và 28 trẻ được sinh ra. Bệnh đầu nhỏ (được định nghĩa là khi chu vi vòng đầu dưới 2 độ lệch chuẩn (2 SD) so với vòng đầu trung bình theo giới tính và tuổi thai) được phát hiện ở 32 thai nhi và trẻ sơ sinh (5,8%), trong đó 9 trẻ (1,6%) bị bệnh đầu nhỏ nghiêm trọng (dưới 3 độ lệch chuẩn (3 SD) so với mức trung bình).

Thần kinh và các tật về mắt phổ biến hơn khi sự lây nhiễm ZIKV xảy ra trong 3 tháng đầu thai kỳ (24/189 thai nhi và trẻ sơ sinh [12,7%]) so với khi xảy ra trong 3 tháng giữa (9/252 [3,6%]) hoặc 3 tháng cuối thai kỳ (6/114 [5,3%]) (P=0,001).

Được thực hiện từ 3/2016 - 11/2016, nghiên cứu thuần tập tương lai được thực hiện trên phụ nữ mang thai bị nhiễm ZIKV có triệu chứng đã được khẳng định bằng xét nghiệm phản ứng chuỗi (PCR). Phân tích này sử dụng tất cả dữ liệu được thu thập tính đến ngày 27/4/2017, ngày cuối cùng của báo cáo thuần tập.

37


COVER STORY

KẾT LUẬN Trong số những phụ nữ mang thai có triệu chứng, nhiễm ZIKV được khẳng bằng PCR, dị tật bẩm sinh có thể liên quan tới ZIKV chiếm 7 % ở thai nhi và trẻ sơ sinh. Dị tật xuất hiện thường xuyên hơn ở thai nhi và trẻ sơ sinh có mẹ bị nhiễm virus sớm trong thai kỳ. Sự theo dõi dài hạn đối với trẻ sơ sinh là cần thiết để đánh giá những biểu hiện chưa được phát hiện khi mới sinh. Gần đây đã ghi nhận, nhiễm virus Zika (ZIKV) trong quá trình mang thai có thể gây ra dị tật bẩm sinh nghiêm trọng, bao gồm bệnh đầu nhỏ, các khuyết tật về não khác và hội chứng Zika bẩm sinh. Tuy nhiên, mức độ của những nguy cơ này không được xác định rõ ràng và được ước tính là cao hơn 40% trong một nghiên cứu quan sát tiến cứu tại Brazil với những phụ nữ bị nhiễm ZIKV đã có triệu chứng trong thai kỳ.

Theo Cơ quan thống kê trường hợp thai phụ nhiễm ZIKV của Hoa Kỳ, con số ước tính là 6% trên tổng thể và 11% khi phơi nhiễm ZIKV trong ba tháng đầu tiên. Ước tính sau này đã được cập nhật lên 15%.

38

Dịch ZIKV ở các vùng nói tiếng Pháp ở Châu Mỹ bắt đầu vào đầu năm 2016, mang lại một cơ hội khác để đánh giá nguy cơ dị tật thần kinh bẩm sinh do ZIKV đối với phụ nữ mang thai sống ở khu vực xảy ra dịch ZIKV. Các cơ sở chăm sóc bà mẹ trước sinh và sau sinh tập trung cho phép tăng cường giám sát tất cả các trường hợp mang thai trong đại dịch ZIKV. Chúng tôi trình bày ở đây kết quả sinh đẻ trong theo dõi thuần tập nhóm phụ nữ sống ở các vùng nói tiếng Pháp ở Châu Mỹ (Guiana, Guadeloupe và Martinique) có triệu chứng nhiễm ZIKV trong thai kỳ.

ZIKA-DFA-FE là một nghiên cứu thuần tập sử dụng bốn phương pháp tuyển chọn mẫu khác nhau để tập hợp tất cả phụ nữ mang thai trong thời kỳ dịch ZIKV ở các vùng nói tiếng Pháp ở Châu Mỹ.


TIÊU ĐIỂM

TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu nhận được phê duyệt đạo đức nghiên cứu từ Ủy ban bảo vệ những người nước ngoài (Comité de Protection des Personnes Sud-Ouest et Outre Mer III). Tất cả những người tham gia đều có sự đồng ý bằng văn bản. Quy trình nghiên cứu đã được chuẩn bị với sự trợ giúp của mạng lưới nghiên cứu và hành động nhắm tới nhứng bệnh truyền nhiễm đang mới nổi (REACTing).

39


COVER STORY

Một yếu tố quan trọng của nghiên cứu về ZIKV là các theo dõi tương lai, tới tận cuối thai kỳ, đối với những phụ nữ có dấu hiệu lâm sàng của nhiễm ZIKV trong thai kỳ.

Theo như những hướng dẫn của Hội đồng Y tế Công Cộng Pháp và Trường Đại học Quốc gia Pháp về Sản phụ khoa được phát hành vào ngày 28/7/2015 và ngày 5/2/2016, bất cứ khi nào một phụ nữ mang thai đến phòng khám ngoại trú hoặc khoa cấp cứu của một trung tâm với các triệu chứng giống với nhiễm ZIKV cấp tính, người đó cần được kiểm tra lâm sàng và lấy mẫu máu và nước tiểu để khẳng định nhiễm virus ZIKV. Phụ nữ mang thai đủ tiêu chuẩn nghiên cứu nghi ngờ nhiễm ZIKV sẽ được chuyển đến trung tâm chẩn đoán trước sinh ở mỗi địa phương để xét nghiệm virus ZIKV và được mời tham gia nghiên cứu.

40


TIÊU ĐIỂM

Phụ nữ được tham gia nghiên cứu nếu họ đáp ứng tất cả các tiêu chí sau: + Đang mang thai trong bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ; + Triệu chứng lâm sàng phù hợp với nhiễm ZIKV cấp tính, có ít nhất một triệu chứng phát ban, ngứa, sốt, tăng kết mạc, đau khớp hoặc đau cơ; + Xét nghiệm khẳng định nhiễm ZIKV, kết quả dương tính với xét nghiệm phản ứng sao chép chuỗi polymerase ngược (RT-PCR) được thực hiện trên mẫu máu, nước tiểu hoặc cả hai.

=> Ngày nhiễm ZIKV được coi là ngày khởi

phát triệu chứng liên quan đến virus ZIKV đầu tiên.

41


COVER STORY

Phụ nữ tham gia vào nghiên cứu được khám lâm sàng và siêu âm hàng tháng cho đến khi sinh. Trong các lần tái khám này, bác sĩ lâm sàng sẽ hỏi về các vấn đề có thể xảy ra đối với bệnh nhân (ví dụ: các biến chứng khi mang thai hoặc các phương pháp điều trị đang tiếp nhận) kể từ lần khám trước. Nếu bất thường ở thai nhi được phát hiện khi siêu âm, sẽ làm thêm chụp cộng hưởng từ (MRI) thai nhi, và phụ nữ mang thai được theo dõi xét nghiệm và siêu âm hàng tháng. Thời điểm cuối đối với mỗi phụ nữ tham gia vào nghiên cứu là khi sinh con xong: trẻ sinh ra còn sống có hoặc không có dị tật bẩm sinh, sảy thai, chấm dứt thai kỳ vì lý do y tế hoặc thai chết lưu.

THEO DÕI TUẦN TẬP &

THỜI ĐIỂM KẾT THÚC

42


TIÊU ĐIỂM

THU THẬP SỰ LIỆU VÀ LẤY MÁU TỪ THAI PHỤ Trong lần thăm khám, các dữ liệu xã hội học sẽ được thu thập với mỗi phụ nữ. Thông tin bao gồm tuổi, dân tộc, nơi cư trú, trình độ học vấn, nghề nghiệp và các yếu tố liên quan tới lối sống. Thông tin lâm sàng - bao gồm số lần mang thai trước trẻ đẻ ra còn sống, tiền sử thai kỳ bất lợi, tiền sử bệnh, chỉ số BMI cơ thể, triệu chứng nhiễm ZIKV, tuổi thai của thai nhi, và bất kỳ hoạt động y tế nào liên quan đến thai kỳ - đã được ghi lại trong lần thăm khám ban đầu này, mẫu máu và nước tiểu cũng được lấy làm xét nghiệm.

Các xét nghiệm bao gồm RT-PCR để phát hiện ZIKV (Realstar Zika Virus RT-PCR Kit 1.0, Altona) trong máu, nước tiểu hoặc cả hai ở tất cả phụ nữ lúc ban đầu tham gia nghiên cứu và khi kết thúc thai kỳ trong trường hợp thai nhi chết, phá thai, hoặc thai chết lưu.

Ngoài ra, kết quả xét nghiệm huyết thanh TORCH (toxoplasmosis - T, các bệnh khác – O [giang mai, thủy đậu, nhiễm parvovirus, nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người], sởi rubella - R, cytomegalovirus - C và virus herpes - H), thường được thực hiện định kỳ trong thời kỳ mang thai trong khu vực người nói tiếng Pháp tại châu Mỹ đều được ghi lại. Xét nghiệm huyết thanh để xác định cytomegalovirus chỉ được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, khi phát hiện có bất thường ở thai nhi.

43


COVER STORY

THU THẬP DỮ LIỆU TỪ TRẺ SƠ SINH Đối với những đứa trẻ còn sống sau khi được sinh ra, mẫu máu của bà mẹ và máu ở dây rốn được lấy ngay sau khi sinh cùng với mẫu huyết thanh được làm đông lạnh. Các thông tin về những trẻ này cũng được ghi lại vào ngày sinh: tuổi thai, chiều dài, cân nặng, chu vi đầu, điểm Apgar 5 phút sau sinh và kết quả khám lâm sàng theo tiêu chuẩn.

KẾT QUẢ CỦA THAI KỲ

“ Kết quả của thai kỳ bao gồm việc

trẻ sinh ra còn sống (có hoặc không có dị tật), sảy thai, phá thai hoặc thai chết lưu. ”

44

Để tiện cho việc so sánh với các nghiên cứu khác, trường hợp sảy thai sẽ được xác định là thai nhi tử vong trong tử cung trước tuổi thai 20 tuần tuổi. Thai chết lưu được xác định là thai nhi tử vong trong tử cung xảy ra ở hoặc sau tuổi thai 20 tuần hoặc tử vong trong khi sinh. Tương tự như vậy, để so sánh với các nghiên cứu khác, chúng tôi đã tóm tắt dữ liệu theo hai cách loại trừ lẫn nhau: dị tật bẩm sinh có thể liên quan đến nhiễm ZIKV (bất thường về não có hoặc không có bệnh đầu nhỏ bất kể sự hiện diện của dị tật bẩm sinh nào khác); và khuyết tật về hệ thần kinh và các dị tật trong não khác (ví dụ, chứng loạn thần, chứng thiếu sọ bẩm sinh, thoát vị não, holoprosencephaly hoặc tật không mũi), bất thường về mắt và các hậu quả của rối loạn chức năng về hệ thần kinh trung ương ở thai nhi và trẻ sơ sinh.

Hậu quả của rối loạn chức năng hệ thần kinh trung ương bao gồm các bệnh như viêm khớp, chân khoèo, loạn sản xương hông bẩm sinh và điếc bẩm sinh. Trong trường hợp thai nhi còn sống, bệnh đầu nhỏ được định nghĩa là khi chu vi vòng đầu nằm trong khoảng từ 3SD đến 2SD dưới mức trung bình và nghiêm trọng khi chu vi vòng đầu thấp hơn 3SD so với trung bình (trên cơ sở tiêu chuẩn INTERGGROWTH-21 theo giới tính và tuổi thai). Bệnh đầu nhỏ cấp độ vừa được định nghĩa là tỷ lệ tương xứng của hoặc không tương xứng nếu trẻ sơ sinh nhỏ so với tuổi thai và không tương xứng nếu trẻ sơ sinh không nhỏ so với tuổi thai. Thai nhi nhỏ so với tuổi thai được định nghĩa là cân nặng dưới 1,28 SD so với mức trung bình theo tiêu chuẩn INTERGROWTH-21, xét theo giới tính và tuổi thai.


TIÊU ĐIỂM

Trong trường hợp sảy thai hoặc phá thai vì lý do y tế, khám nghiệm tử thi và kết quả siêu âm cuối cùng sẽ được sử dụng để đánh giá. Khi kết quả siêu âm được sử dụng thay cho khám nghiệm tử thi, bệnh đầu nhỏ được định nghĩa là chu vi vòng đầu dưới 3SD so với mức trung bình. Ngoài ra, chúng tôi đã xác định số lượng thai nhi và trẻ sơ sinh có bất kỳ dị tật bẩm sinh về thần kinh nghiêm trọng nào được duyệt vào hội chứng Zika bẩm sinh: bệnh đầu nhỏ nặng (chu vi đầu dưới 3SD so với mức trung bình), bất thường về não với tổn thương cụ thể (ví dụ: vôi hóa, tâm thất hoặc dị tật vỏ não), tổn thương ở phía sau mắt, các khớp có phạm vi chuyển động hạn chế (ví dụ như chân khoèo) hoặc hạn chế chuyển động cơ thể (viêm khớp).

Phân tích này bao gồm các dữ liệu dược thu thập tới ngày 27 tháng 4 năm 2017, ngày có ca sinh cuối cùng trong nhóm thuần tập. Tỷ lệ thai nhi và trẻ sơ sinh bị dị tật bẩm sinh có thể liên quan đến ZIKV được ước tính theo khoảng ba tháng một của thai kỳ và chúng tôi đã so sánh các giá trị này trong ba nhóm, sử dụng thử nghiệm chính xác của Fisher. Dữ liệu được phân tích với việc sử dụng phần mềm Stata, phiên bản 13 (StataCorp).

PHÂN TÍCH THỐNG KÊ

45


COVER STORY

CÁC KẾT QUẢ

108 NGƯỜI KHÔNG THAM GIA VÀO NGHIÊN CỨU, BAO GỒM:

8 16

SỐNG BÊN NGOÀI VÙNG NÓI TIẾNG PHÁP Ở CHÂU MỸ

458

25

ÂM TÍNH VỚI ZIKV RT-PCR

KHÔNG CÓ TRIỆU CHỨNG ĐỦ THAM GIA

TRẺ HƠN 18 TUỔI

36

TỪ CHỐI THAM GIA

48

MẤT THEO DÕI TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA

Do đó, 561 phụ nữ có triệu chứng, khẳng định PCR là có nhiễm ZIKV được đưa vào phân tích trong nghiên cứu này. Trong số này, 6 phụ nữ (1,1%) đã bị loại trừ sau khi xác định rằng họ không đáp ứng các tiêu chí đủ điều kiện cụ thể về lâm sàng hoặc kết quả PCR, và 9 phụ nữ (1,6%) bị mất theo dõi. Trong số 9 phụ nữ này, kết quả siêu âm cuối cùng có được từ 5 người ở ở ba tháng cuối và 4 người ở ba tháng giữa; những siêu âm thai này đều là bình thường.

46

Từ ngày 2/3/2016 đến ngày 24/11/2016, tổng cộng 1152 phụ nữ mang thai đã được kiểm tra tại các trung tâm chẩn đoán trước khi sinh về khả năng lây nhiễm ZIKV cấp tính.

Trong số 546 phụ nữ có thông tin về có kết quả mang thai, có 9 trường hợp sinh đôi. Do đó, chúng tôi có thể mô tả kết quả ở 555 thai nhi và trẻ sơ sinh (Hình 1). 9 song thai có kết quả là 17 ca sinh sống và 1 thai nhi bị sảy. Không có bất thường được phát hiện ở bất kỳ trẻ sơ sinh nào từ những thai đôi. Một trường hợp song thai có kết quả là 1 thai nhi sống và 1 thai nhi bị sảy, người mẹ đã bị nhiễm ZIKV trong tuần thứ sáu của thai kỳ; mất 1 thai xảy ra khi 10 tuần tuổi thai, và thai nhi còn lại được sinh ra khỏe mạnh ở tuần 41 tuần, không có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào.


TIÊU ĐIỂM

KẾT QUẢ THAI KỲ

Trong số 546 phụ nữ đã biết kết quả sinh đẻ: 185 (33,9%) bị nhiễm ZIKV trong ba tháng đầu của thai kỳ, 249 (45,6%) trong ba tháng giữa 112 (20,5%) trong ba tháng cuối.

Nhìn chung, số lần kiểm tra siêu âm trung bình của thai nhi được thực hiện từ ngày nhiễm ZIKV tới ngày sinh là 3,5 lần khi nhiễm ZIKV xảy ra trong ba tháng đầu và là 2,2 lần khi xảy ra trong ba tháng giữa. Tổng cộng có 28 thai nhi (5,0%) bị bỏ thai hoặc chết lưu; đã có 11 ca sảy thai, 10 trường hợp chấm dứt thai kỳ vì lý do y tế, 6 ca chết lưu và 1 ca phá thai tự nguyện.

Trong số 527 trẻ sinh ra còn sống: 69 trẻ sơ sinh (13,1%) nhỏ so với tuổi thai 75 trẻ (14,2%) được sinh qua mổ lấy thai khẩn cấp. Tổng cộng có 31 trẻ sơ sinh (5,9%) được nhập viện ngay sau khi sinh và 7 trong số những trẻ này (1,3%) được đưa vào đơn vị chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh. Tổng cộng có 8 trẻ sơ sinh (1,5%) có điểm Apgar dưới 7 sau khi sinh. Các tỷ lệ này không khác nhau giữa hai nhóm nhiễm bệnh vào giai đoạn khác nhau của thai kỳ.

47


COVER STORY

Các bất thường về thần kinh và mắt có thể liên quan tới nhiễm ZIKV đã được quan sát thấy ở 39 thai nhi và trẻ sơ sinh (7,0%; khoảng tin cậy [CI] 95%, 5,0 đến 9,5): 28 trẻ sơ sinh còn sống, 10 thai nhi không được sinh ra vì chấm dứt mang thai với lý do y tế, 1 trẻ chết lưu. Bệnh đầu nhỏ được phát hiện ở 32 thai nhi và trẻ sơ sinh (5,8%): 9 trường hợp (1,6%) là nghiêm trọng, 9 (1,6%) thuộc dạng không cân xứng trung bình và 14 (2,5%) có tỷ lệ cân xứng.

Các khiếm khuyết khác đã được quan sát thấy chỉ ở 1 trong số 23 trẻ sơ sinh bị bệnh đầu nhỏ trung bình - một trường hợp liên quan đến chấm dứt thai kỳ trong đó thai nhi có bệnh đầu nhỏ không cân xứng ở mức trung bình.

Bệnh đầu nhỏ nghiêm trọng hoặc các bất thường về não khác bao gồm trong định nghĩa hiện tại của hội chứng Zika bẩm sinh đã được phát hiện ở 17 thai nhi và trẻ sơ sinh (3,1%). Trong 3 trong số 527 trẻ được sinh ra còn sống (0,6%), các bất thường lâm sàng khác với bệnh đầu nhỏ đã được phát hiện ngay khi sinh.

48


TIÊU ĐIỂM

>> Tại Guiana thuộc Pháp, nơi số lượng

>> Những bất thường về thần kinh và mắt

thường gặp hơn khi việc lây nhiễm ZIKV xảy ra trong ba tháng đầu (24/189 thai nhi và trẻ sơ sinh [12,7%]) so với khi xảy ra trong ba tháng giữa (9 trong số 252 [3,6%]) hoặc ba tháng cuối (6 trong số 114 [5,3%]) (P = 0,001).

>> Điều tương tự cũng đúng với bệnh đầu

nhỏ nặng (lần lượt là 3,7%, 0,8% và 0,0%; P = 0,02) và hội chứng Zika bẩm sinh (lần lượt là 6,9%, 1,2% và 0,9%; P = 0,002).

>> Nguy cơ dị tật bẩm sinh có thể liên

quan đến ZIKV là tương đồng ở Guadeloupe và Martinique (7,2% và 7,5%). Nguy cơ dị tật bẩm sinh theo như định nghĩa hiện tại của hội chứng Zika bẩm sinh cũng tương tự ở hai vùng (3,6% và 2,8%).

người tham gia còn ít (24), không có dị tật bẩm sinh nào liên quan đến ZIKV được phát hiện. Không có mối liên quan đáng kể giữa phơi nhiễm với các chất độc hại (thuốc diệt muỗi, thuốc chống côn trùng, rượu, thuốc lá hoặc thuốc bất hợp pháp) và các dị tật bẩm sinh.

>> Không quan sát thấy bất thường thai

nhi hoặc dị tật bẩm sinh nào ở những phụ nữ đồng nhiễm giang mai (4 người), virus gây suy giảm miễn dịch ở người (2), nhiễm toxoplasmosis (3) hoặc cytomegalovirus (1).

>> Tổng cộng có 31 phụ nữ trải qua chọc

ối trong quá trình mang thai, với 27 trường hợp xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ (karyotyping) và 20 xét nghiệm ZIKV RT-PCR. Tất cả các karyotypes đều bình thường ngoại trừ một lần đảo ngược của nhiễm sắc thể 2 và RT-PCR đối với ZIKV trong một mẫu ối, được xác nhận dương tính trong 7 trường hợp.

>> Ngoài ra, 6 khuyết tật bẩm sinh không

liên quan tới thần kinh (trong 1,1% thai nhi hoặc trẻ sơ sinh) đã được phát hiện trong nhóm thuần tập này.

49


COVER STORY

THẢO LUẬN

50%

Những phát hiện chính của nghiên cứu thuần tập này có hai mặt. Đầu tiên, chúng tôi nhận thấy nguy cơ khiếm khuyết về thần kinh và mắt có liên quan tới ZIKV là 7,0% trong số phụ nữ ở các khu vực nói tiếng Pháp tại châu Mỹ có triệu chứng nhiễm XIKV cấp tính và được khẳng định bằng PCR trong quá trình thai nghén. Nguy cơ chung của dị tật bẩm sinh theo như định nghĩa hiện tại của hội chứng Zika bẩm sinh là 3,1%, và nguy cơ tổng thể của bệnh đầu nhỏ nghiêm trọng là 1,6%.

50

Tiếp theo, mặc dù dị tật bẩm sinh có thể được quan sát do hậu quả của nhiềm ZIKV trong bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ, dữ liệu của chúng tôi cho thấy nguy cơ dị tật bẩm sinh và nguy cơ mắc hội chứng Zika bẩm sinh cao hơn khi người mẹ mắc ZIKV trong giái đoạn sớm của thai kỳ - một kết quả tương thích với các báo cáo trước đó. Nguy cơ dị tật bẩm sinh là 12,7% khi thai phụ nhiễm ZIKV trong ba tháng đầu, 3,6% khi xảy ra trong ba tháng giữa và 5,3% trong ba tháng cuối. Nguy cơ hội chứng Zika bẩm sinh lần lượt trong ba giai đoạn là là 6,9%, 1,2% và 0,9%.


TIÊU ĐIỂM

Ngoài ra, việc sử dụng rộng rãi MRI trong nghiên cứu ở Brazil có thể dẫn đến kết quả hình ảnh bất thường không được quan sát thấy trong các nghiên cứu khác ít sử dụng MRI hơn. Ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện hình ảnh này ở Brazil vẫn chưa được tìm ra và sẽ chỉ được xác định thông qua theo dõi lâu dài ở trẻ sơ sinh. Những điểm mạnh của nghiên cứu chúng tôi thực hiện bao gồm tính đồng nhất của nhóm phụ nữ mang thai sống tại khu vực xảy ra một đợt bùng phát ZIKV và được theo dõi từ khi các triệu chứng cấp tính phát triển và sự lây nhiễm ZIKV đã được khẳng định bằng PCR cho đến khi sinh.

Chẩn đoán lây nhiễm ZIKV được thực hiện trên cơ sở xét nghiệm PCR qua mẫu máu hoặc nước tiểu hoặc cả hai, và ngày nhiễm bệnh có thể được xác định do ngày khởi phát triệu chứng gần với ngày xét nghiệm PCR ZIKV. Nghiên cứu được thực hiện tại các khu vực địa lý được xác định rõ ràng, và các tiêu chuẩn chăm sóc cao luôn sẵn sàng cho tất cả phụ nữ mang thai sống ở những vùng lãnh thổ này.

Liên kết để chăm sóc phụ nữ mang thai bị nhiễm ZIKV là có hiệu quả, với tỷ lệ mất theo dõi trong quá trình thấp (1,6%). Ngoài ra, kết quả là thống nhất tại hai khu vực nơi có số lượng phụ nữ được tuyển dụng vào nghiên cứu lớn nhất (Martinique và Guadeloupe). Chúng tôi thừa nhận rằng nghiên cứu của chúng tôi có những hạn chế. Đầu tiên, nó chỉ tập trung vào những phụ nữ mang thai bị nhiễm ZIKV cấp tính đã có triệu chứng. Mặc dù tỷ lệ biến chứng sẽ cao hơn ở những phụ nữ bị nhiễm có triệu chứng so với những người không có triệu chứng, một nghiên cứu quan sát liên quan đến phụ nữ Hoa Kỳ cho thấy sự khác biệt không đáng kể về tỷ lệ dị tật bẩm sinh giữa con của những phụ nữ bị nhiễm ZIKV có triệu chứng và con của những phụ nữ bị nhiễm ZIKV không có triệu chứng.

51


COVER STORY

Một nghiên cứu gần đây cũng cho thấy không có mối liên quan đáng kể nào giữa mức độ nghiêm trọng của bệnh hoặc tải lượng virus và kết quả mang thai bất lợi. Thứ hai, chúng tôi không thể đánh giá đầy đủ sự xuất hiện của dị tật bẩm sinh liên quan đến ZIKV trong 11 trường hợp sảy thai, 2 trong số 6 thai chết lưu và 1 trường hợp phá thai tự nguyện, cũng như trong 96 trẻ sơ sinh (18,2% trong số 527 trẻ sinh ra còn sống) không được siêu âm trước khi sinh sau khi mẹ đã nhiễm ZIKV. Mặc dù việc thiếu dữ liệu siêu âm có thể dẫn đến thiếu sót trong chẩn đoán các dị tật bẩm sinh liên quan đến ZIKV, nhưng cần lưu ý rằng trong nhóm thuần tập của chúng tôi, chỉ có 1 trẻ sinh ra có bất thường não cô lập (ventriculomegaly), được phát hiện bằng chụp MRI, ngoài ra không có bất thường lâm sàng, sau khi trẻ bị nhiễm bệnh trong ba tháng giữa của thai kỳ.

Tất cả các em bé sinh ra khác có khuyết tật liên quan đến ZIKV đều có ít nhất một bất thường có thể đã phát hiện được nếu trẻ được khám lâm sàng khi sinh ra (ví dụ, bệnh đầu nhỏ, chân khoèo hoặc khuyết tật ống thần kinh như nứt đốt sống). Ngoài ra, phần lớn các dữ liệu siêu âm bị thiếu đều liên quan đến thai kỳ của những người mẹ nhiễm bệnh trong ba tháng cuối, và hậu quả của nhiễm bệnh trong thời gian này được phát hiện là khá hạn chế ở những trẻ khác trong cùng nhóm thuần tập.

Thứ ba, thời điểm kết thúc nghiên cứu của chúng tôi dựa trên kết quả siêu âm thai nhi và kiểm tra lâm sàng sơ sinh, không bao gồm siêu âm sau sinh hoặc kiểm tra nghe chuyên khoa và nhãn khoa. Chúng tôi tin rằng khía cạnh này của nghiên cứu được thiết kế có ít ảnh hưởng đến tỷ lệ dị tật bẩm sinh có thể được xác định nếu tất cả trẻ sơ sinh đều trải qua chụp ảnh não ngay sau khi sinh.

52


TIÊU ĐIỂM Ngoài ra, phần lớn các dữ liệu siêu âm bị thiếu đều liên quan đến thai kỳ của những người mẹ nhiễm bệnh trong ba tháng cuối, và hậu quả của nhiễm bệnh trong thời gian này được phát hiện là khá hạn chế ở những trẻ khác trong cùng nhóm thuần tập. Thứ ba, thời điểm kết thúc nghiên cứu dựa trên kết quả siêu âm thai nhi và kiểm tra lâm sàng sơ sinh, không bao gồm siêu âm sau sinh hoặc kiểm tra nghe chuyên khoa và nhãn khoa. Chúng tôi tin rằng khía cạnh này của nghiên cứu được thiết kế có ít ảnh hưởng đến tỷ lệ dị tật bẩm sinh có thể được xác định nếu tất cả trẻ sơ sinh đều trải qua chụp ảnh não ngay sau khi sinh. Thật vậy, đã có báo cáo cho rằng khi sự lây nhiễm ZIKV xảy ra trong ba tháng đầu hoặc giai đoạn đầu của ba giữa thì tất cả các bất thường về não có thể được phát hiện bằng siêu âm trước 28 tuần thai. Một nghiên cứu khác cho thấy không trẻ nào trong số 103 trẻ có kết quả siêu âm trước sinh bình thường và phát hiện kiểm tra lâm sàng ổn định thì khi sinh lại

có bất thường do ZIKV khi đầu của trẻ được kiểm tra bằng MRI sau khi sinh. Tuy nhiên, sự vắng mặt của bệnh đầu nhỏ khi trẻ mới sinh không loại trừ khả năng bệnh chỉ đang chậm phát triển hoặc các bệnh về não khác liên quan đến ZIKV cũng như các bất thường khác. Thông tin này hiện đang được thu thập như một phần của nghiên cứu thuần tập trẻ sơ sinh (số ClinicalTrials.gov, NCT02810210); nghiên cứu bao gồm kiểm tra lâm sàng thường xuyên với xét nghiệm chuyên khoa và kiểm tra nhãn khoa. Chỉ có sự theo dõi lâu dài các trẻ em được sinh ra từ những phụ nữ trong nghiên cứu hiện tại mới giúp xác định toàn bộ các biến chứng liên quan đến ZIKV. Tóm lại, trong số những phụ nữ được khẳng định nhiễm Zika bằng PCR và có biểu hiện triệu chứng, dị tật bẩm sinh có 7% khả năng xuất hiện ở thai nhi và trẻ sơ sinh. Dị tật phổ biến hơn ở những thai nhi và trẻ sơ sinh có mẹ bị nhiễm ZIKV trong giai đoạn đầu của thai kỳ.

53


RISK MANAGEMENT

GIẢI NOBEL HÓA HỌC NĂM 2017

Ghi lại hình ảnh phân tử sống

54

Jacques Dubochet, Joachim Frank và Richard Henderson được trao giải thưởng Nobel Hóa học năm 2017 vì đã phát triển phương pháp tạo ra hình ảnh ba chiều của các phân tử có trong sinh vật sống. Các nhà nghiên cứu có thể làm đông lạnh các phân tử sinh học giữa chừng chuyển động và mô tả chúng ở độ phân giải nguyên tử bằng kính hiển vi điện tử cryo-electron microscopy. Và chính công nghệ này đã đưa lĩnh vực hóa sinh bước vào một kỷ nguyên mới!


QUẢN LÝ RỦI RO

Trong những năm gần đây, rất nhiều cấu trúc kĩ thuật của phân tử sống đáng chú ý được đưa ra trong các tài liệu khoa học (hình 1): kim tiêm Salmonella để tấn công các tế bào; protein có khả năng kháng lại hóa trị và kháng sinh; phức hợp phân tử điều khiển nhịp độ sinh học; phức hợp cảm ứng ánh sáng để quang hợp và phức hợp cảm biến áp suất giúp chúng ta nghe. Và đây chỉ là một vài ứng dụng trong số hàng trăm phân tử sinh học hiện đang được chụp bằng kính hiển vi điện tử (cryo-EM)

Hình 1. Trong vài năm qua, các nhà nghiên cứu đã công bố cấu trúc phân tử của nhiều loại phức hợp protein phức tạp. a. Một phức hợp protein điều khiển nhịp độ sinh học. b. Một phức hợp cảm biến áp suất trong tai, nhờ đó mà chúng ta nghe được. c. Vi rút Zika

Khi các nhà khoa học bắt đầu nghi ngờ vi rút Zika đang gây ra dịch bệnh cho trẻ sơ sinh bị tổn thương não ở Brazil, họ đã dùng cryo-EM để mô phỏng vi rút này. Vài tháng sau, hình ảnh không gian ba chiều 3D của virus ở độ phân giải nguyên tử được tạo ra, giúp các nhà khoa học có thể bắt đầu tìm các mục tiêu tiềm năng cho dược phẩm. Jacques Dubochet, Joachim Frank và Richard Henderson đã có những khám phá đột phá cho phép phát triển cryo-EM. Phương pháp này đã đưa hóa sinh vào một kỷ nguyên mới, giúp việc chụp ảnh các phân tử sinh học trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.

55


RISK MANAGEMENT

Trong nửa đầu thế kỷ XX, các phân tử sinh học - protein, DNA và RNA - là một bí ẩn trong lĩnh vực hóa sinh. Dù biết chúng có vai trò cơ bản trong tế bào nhưng các nhà khoa học lại không biết chúng có hình dạng như thế nào. Chỉ đến những năm 1950, khi bắt đầu chiếu vào các tinh thể protein bằng chùm tia X, thì các nhà nghiên cứu tại Cambridge mới có thể mô phỏng được cấu trúc lượn sóng và xoắn ốc của chúng. Đầu những năm 1980, việc sử dụng tinh thể học tia X đã được bổ sung bằng việc sử dụng phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) để nghiên cứu protein ở trạng thái rắn và trong dung dịch. Kỹ thuật này không chỉ hiển thị cấu trúc của protein, mà còn nghiên cứu cách chúng di chuyển và tương tác với các phân tử khác.

HÌNH ẢNH - CHÌA KHÓA CỦA KIẾN THỨC

56

Nhờ hai phương pháp này, chúng ta có thể sử dụng cơ sở dữ liệu của hàng ngàn mô hình phân tử sinh học trong mọi lĩnh vực, từ nghiên cứu cơ bản đến phát triển dược phẩm. Tuy nhiên, cả hai phương pháp đều có những hạn chế cơ bản. NMR trong dung dịch chỉ hoạt động đối với các protein tương đối nhỏ. Tinh thể học tia X yêu cầu các phân tử tạo thành các tinh thể được tổ chức tốt, chẳng hạn như khi nước đóng băng. Các hình ảnh được tạo ra trông giống như bức ảnh đen trắng từ các máy ảnh cổ - tư thế cứng nhắc này của chúng gần như không tiết lộ gì nhiều về động lực học protein.

Ngoài ra, nhiều phân tử không tự sắp xếp thành tinh thể, do đó, vào những năm 1970, Richard Henderson đã từ bỏ phương pháp tinh thể học tia X - và đây là lúc câu chuyện về Giải thưởng Nobel Hóa học 2017 được bắt đầu.


QUẢN LÝ RỦI RO

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TINH THỂ KHIẾN HENDERSON ĐỔI HƯỚNG NGHIÊN CỨU

Richard Henderson nhận bằng tiến sĩ đầu ngành tinh thể học tia X, Đại Học Cambridge, Vương quốc Anh. Ông đã sử dụng phương pháp này để chụp ảnh protein, nhưng trục trặc đã xảy ra khi ông cố gắng kết tinh một loại protein được nhúng tự nhiên vào màng tế bào. Protein màng rất khó để nắm bắt. Khi bị loại bỏ khỏi môi trường tự nhiên, chúng thường co lại thành một khối vô dụng. Protein màng đầu tiên mà Richard Henderson quan sát rất khó để sản xuất với số lượng đầy đủ; protein màng thứ hai lại không kết tinh. Sau nhiều năm thất vọng, ông chuyển sang một lựa chọn duy nhất còn lại: kính hiển vi điện tử. Tại thời điểm đó, rất khó nói kính hiển vi điện tử là phương pháp hiệu quả. Kính hiển vi điện tử hoạt động ít nhiều giống với kính hiển vi thông thường về kĩ thuật, nhưng thay vì chiếu ánh sáng qua mẫu vật, chúng dùng các chùm electron. Bước sóng của electron ngắn hơn ánh sáng rất nhiều, vì vậy kính hiển vi điện tử có thể nhìn thấy các cấu trúc rất nhỏ, thậm chí là vị trí của các nguyên tử riêng lẻ.

Về lý thuyết, độ phân giải của kính hiển vi điện tử đủ để giúp Henderson có được cấu trúc nguyên tử của protein màng, nhưng trên thực tế, dự án này gần như không khả thi. Khi kính hiển vi điện tử được phát minh vào những năm 1930, các nhà khoa học nghĩ rằng nó chỉ phù hợp để nghiên cứu vật chất chết. Chùm electron có cường độ cao cần thiết để thu được hình ảnh rõ nét sẽ đốt cháy mẫu vật và nếu chùm tia bị suy yếu, hình ảnh sẽ mất độ tương phản và trở nên mờ. Ngoài ra, kính hiển vi điện tử phải hoạt động trong môi trường chân không, khi đó các phân tử sinh học sẽ bị ảnh hưởng vì nước sẽ bị bay hơi. Khi bị khô, các phân tử sinh học sụp đổ và mất cấu trúc tự nhiên, khiến cho hình ảnh trở nên vô dụng.

Khi mọi thứ chỉ ra rằng Richard Henderson sẽ thất bại, ông đã chọn một loại protein đặc biệt: Bacteriorhodopsin. Chính loại protein này đã cứu lấy dự án.

57


RISK MANAGEMENT

Bacteriorhodopsin là một protein có màu tím có trong màng của bộ phận quang hợp, nơi hấp thụ năng lượng từ ánh sáng mặt trời. Thay vì loại bỏ protein nhạy cảm của màng, như Richard Henderson thử nghiệm trước đây, ông và cộng sự đã giữ nguyên màng tím hoàn chỉnh và đặt nó dưới kính hiển vi điện tử. Khi protein vẫn được bao quanh bởi màng, cấu trúc của chúng vẫn được đảm bảo; Richard và cộng sự phủ lên bề mặt mẫu vật bằng một dung dịch glucose giúp nó không bị mất nước trong môi trường chân không.

KẾT QUẢ TỐT NHẤT HIỆN TẠI KHÔNG ĐỦ TỐT VỚI HENDERSON

Các chùm electron khắc nghiệt là một vấn đề lớn, nhưng các nhà nghiên cứu đã sử dụng cách mà các phân tử bacteriorhodopsin được gói gọn trong màng tế bào. Từ đó, họ có chùm tia yếu hơn xuyên qua mẫu thay vì phá hủy nó với lượng electron ban đầu. Điều này khiến độ tương phản hình ảnh kém đi và việc quan sát các phân tử tách biệt trở nên khó khăn, nhưng họ dựa vào thực tế là các protein thường được gói gọn và hướng theo cùng một hướng. Khi tất cả các protein làm giảm các chùm electron theo cách gần giống nhau, họ đã có thể chuẩn đoán một hình ảnh chi tiết hơn dựa trên mô hình nhiễu xạ - một phương pháp toán học tương tự như phương pháp được sử dụng trong tinh thể học tia X. Ở giai đoạn tiếp theo, các nhà nghiên cứu đã đặt màng tế bào dưới kính hiển vi điện tử, chụp ảnh từ nhiều góc độ khác nhau. Bằng cách này, vào năm 1975, họ đã có thể tạo ra một mô hình 3D thô mô phỏng Cấu trúc bacteriorhodopsin (hình 2), cho thấy cách mà các chuỗi protein ngọ nguậy qua màng bảy lần.

58

Hình 2: Sơ đồ thô đầu tiên của bacteriorhodopsin được công bố vào năm 1975. Ảnh lấy từ Nature 257:28-32


QUẢN LÝ RỦI RO

HENDERSON CÔNG BỐ BỨC ẢNH ĐẦU TIÊN CÓ ĐỘ PHÂN GIẢI NGUYÊN TỬ

Những năm về sau, kính hiển vi điện tử dần được cải thiện. Các ống kính trở nên tốt hơn và công nghệ siêu lạnh được phát triển (chúng ta sẽ quay lại vấn đề này sau), trong đó các mẫu vật được làm lạnh bằng nitơ lỏng trong các thí nghiệm, giúp chúng không bị phá hủy bởi tia electron. Richard Henderson cải thiện chi tiết cho mô hình của bacteriorhodopsin. Để có được những hình ảnh sắc nét nhất, ông đã tìm đến các kính hiển vi điện tử tốt nhất trên thế giới. Tuy đều có điểm yếu nhất định nhưng các kính hiển vi này lại bổ sung cho nhau. Vào năm 1990, 15 năm sau khi công bố mô hình đầu tiên, Henderson đã đạt được mục tiêu của mình và đã có thể trình bày cấu trúc của bacteriorhodopsin ở độ phân giải nguyên tử (hình 3).

Đó là hình ảnh tốt nhất về protein từng được tạo ra bằng kính hiển vi điện tử. Độ phân giải nhận được vô cùng ấn tượng, là 7 Ångström (0,0000007 mm), nhưng với Richard Henderson, điều này không đủ. Mục tiêu của ông là đạt được kết quả tương tự với tinh thể học tia X, khoảng 3 Atrngström, và ông tin chắc rằng kính hiển vi điện tử có rất nhiều tiềm năng để khai thác.

Hình 3: Vào năm 1990, Henderson công bố mô hình cấu trúc của bacteriorhodopsin ở độ phân giải nguyên tử.

59


RISK MANAGEMENT

Henderson đã chứng minh rằng cryo-EM có thể cung cấp hình ảnh chi tiết như những hình ảnh được tạo ra bằng phương pháp tinh thể học tia X. Điều này đã đánh dấu một mốc quan trọng trong lĩnh vực hóa sinh học. Tuy nhiên, phương pháp này lại dựa trên một trường hợp ngoại lệ: Protein gói gọn tự nhiên trong màng. Cũng có vài protein khác gói gọn theo phương thức này.

60

Câu hỏi đặt ra là liệu phương pháp có thể được khái quát hóa không: Liệu có thể sử dụng kính hiển vi điện tử để mô phỏng hình ảnh 3D có độ phân giải cao của protein phân tán ngẫu nhiên trong mẫu và định hướng theo các hướng khác nhau được hay không? Richard Henderson tin rằng điều này là khả thi, trong khi những người khác nghĩ rằng đây là một điều không tưởng.

Ở phía bên kia Đại Tây Dương, tại Sở Y tế New York, Joachim Frank từ lâu đã làm việc để đưa ra giải pháp cho vấn đề đó. Năm 1975, ông đã trình bày một chiến lược chỉ ra Hình ảnh hai chiều tối giản được tìm thấy trong kính hiển vi điện tử có thể được hợp nhất để tạo ra một tổng thể ba chiều có độ phân giải cao. Phải mất hơn 10 năm ông mới tìm ra điều này.


QUẢN LÝ RỦI RO

FRANK CẢI THIỆN DỮ LIỆU HÌNH ẢNH Chiến lược của Joachim Frank (hình 4) được phát triển dựa trên khả năng phân biệt của máy tính khi so sánh các đặc điểm của protein ngẫu nhiên và nền của chúng trong hình ảnh lờ mờ của kính hiển vi điện tử. Ông đã lập trình một thuật toán cho phép máy tính xác định các khối khác nhau lặp lại trong hình ảnh. Sau đó, máy tính đã sắp xếp các khối tương tự vào cùng một nhóm và hợp nhất thông tin trong tập hình ảnh này để tạo ra hình ảnh tổng thể, sắc nét hơn. Bằng cách này, ông đã thu được một số hình ảnh hai chiều có độ phân giải cao của một loại protein nhưng từ các góc khác nhau. Và các thuật toán này đã được hoàn thiện vào năm 1981.

⫸ ⫸ ⫸ ⫸

Tia electron chiếu vào các protein định hướng ngẫu nhiên để lại dấu vết trên mặt phim. Máy tính phân biệt giữa dấu vết và nền, sắp xếp những hình tương đồng vào cùng một nhóm

Sử dụng hàng ngàn dấu vết tương đồng, máy tính tạo ra hình ảnh 2D có độ phân giải cao

Máy tính sẽ tính phân tích sự liên hệ giữa các hình ảnh 2D từ đó tạo ra mô hình 3D có độ phân giải cao

Bước tiếp theo là tính toán sự liên hệ và khác biệt giữa các hình ảnh hai chiều và dựa vào đó tạo ra một hình ảnh 3D. Frank đã công bố bước này trong phương pháp phân tích hình ảnh vào giữa những năm 1980 và sử dụng nó để mô phỏng bề mặt của ribosome, một đại phân tử tạo ra protein trong tế bào. Phương pháp xử lý hình ảnh Joachim Frank đã đặt nền móng cho sự phát triển của cryo-EM. Quay ngược thời gian lại, năm 1978, trong khi Frank đang hoàn thiện các chương trình máy tính của mình, Jacques Dubochet đã được tuyển vào Phòng thí nghiệm sinh học phân tử châu Âu tại Heidelberg để giải quyết một vấn đề cơ bản khác của kính hiển vi điện tử: làm thế nào để mẫu sinh học không bị khô và hỏng khi tiếp xúc với môi trường chân không.

61


RISK MANAGEMENT

DUBOCHET ĐÃ TẠO RA LỚP KÍNH TỪ NƯỚC Năm 1975, Henderson đã dùng dung dịch glucose để tránh việc màng tế bào mất nước, nhưng phương pháp này không hiệu quả đối với các phân tử sinh học trong nước. Các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng làm lạnh các mẫu vì băng bay hơi chậm hơn nước, nhưng các tinh thể băng ảnh hưởng nghiêm trọng tới các chùm electron đến nỗi khiến hình ảnh cho ra đều vô dụng. Việc nước bốc hơi là một vấn đề khó giải quyết. Tuy nhiên, Jacques Dubochet đã tìm ra một giải pháp tiềm năng: làm mát nước nhanh đến mức nước hóa rắn tạo ra thủy tinh thay vì tinh thể. Khối thủy tinh này dường như là một vật liệu rắn, nhưng thực sự là một vật liệu mờ vì nó có các phân tử bị rối loạn.

Dubochet nhận ra rằng nếu mình có thể dùng nước để tạo thành thủy tinh - còn được gọi là thủy tinh hóa - thì chùm tia electron sẽ hội tụ đều và tạo ra một nền đồng nhất trên hình ảnh.

Ban đầu, nhóm nghiên cứu đã thử đông lạnh những giọt nước nhỏ vào nitơ lỏng ở nhiệt độ -196°C, nhưng họ chỉ thành công khi họ thay thế nitơ lỏng bằng ethane được làm mát bằng nitơ lỏng. Dưới kính hiển vi, họ thấy một giọt nước chưa từng thấy trước đây. Họ cho rằng đó là ethane, nhưng khi giọt nước ấm lên một chút, các

62

phân tử đột nhiên tự sắp xếp lại và tạo thành cấu trúc quen thuộc của một tinh thể băng. Đây là một thành công rực rỡ - đặc biệt là khi một số nhà nghiên cứu từng tuyên bố rằng ta không thể thủy tinh hóa giọt nước. Ngày nay, chúng ta đều tin rằng nước thủy tinh là một trạng thái nước phổ biến nhất trong vũ trụ.


QUẢN LÝ RỦI RO

KỸ THUẬT ĐƠN GIẢN ĐỂ CẢI THIỆN ĐỘ TƯƠNG PHẢN Sau bước đột phá trong năm 1982, nhóm nghiên cứu của Dubochet nhanh chóng phát triển kỹ thuật cơ bản vẫn được sử dụng trong cryo-EM (hình 5). Họ đã hòa tan các dạng khác nhau ban đầu của vi rút vào trong nước. Dung dịch sau đó được trải trên một lưới kim loại mịn như một miếng phim mỏng. Sử dụng một công trình giống như cây cung, họ bắn lưới vào ethane lỏng để thủy tinh hóa lớp phim mỏng.

1 Mẫu vật được chuyển hóa thành

dạng lưới kim loại và loại bỏ vật liệu dư thừa. 2 Mẫu vật hình thành một lớp màng mỏng giữa các lỗ trên lưới khi nó được bắn vào ethane ở khoảng -190°C. 3 Các thủy tinh nước xung quanh mẫu, được làm mát bằng nitơ lỏng trong quá trình đo trong kính hiển vi điện tử.

Năm 1984, Jacques Dubochet đã công bố những hình ảnh đầu tiên của một số loại vi rút khác nhau, có hình dạng tròn và lục giác, được thể hiện tương phản rõ nét với nền của nước thủy tinh. Lúc này, vật liệu sinh học có thể được chuẩn bị tương đối dễ dàng cho điện tử kính hiển vi và các nhà nghiên cứu đã sớm gõ cửa Dubochet cửa để học hỏi các kỹ thuật mới.

63


RISK MANAGEMENT

TỪ BLOBOLOGY ĐẾN CÁCH MẠNG KHOA HỌC

Hình 6. Độ phân giải của kính hiển vi điện tử đã được cải thiện triệt để trong vài năm qua, từ chỗ chỉ hiển thị các đốm sáng cho đến hiển thị các protein ở độ phân giải nguyên tử như ngày nay. Hình: Martin Högbom

64

Từ đó, các phần quan trọng nhất của kính hiển vi điện tử đã được thiết lập, nhưng hình ảnh vẫn có độ phân giải kém. Đến năm 1991, khi Joachim Frank tiến hành quan sát ribosome bằng phương pháp thủy tinh hóa Dubochet, và phân tích các hình ảnh bằng phần mềm của mình, ông đã thu được cấu trúc 3D có độ phân giải là 40 Å. Đó là một bước tiến đáng kinh ngạc đối với kính hiển vi điện tử, nhưng hình ảnh chỉ cho thấy các đường viền ribosome. Thành thật mà nói, nó trông giống như một đốm màu và hình ảnh thậm chí không gần với độ phân giải nguyên tử của tinh thể học tia X. Vì cryo-EM khó có thể mô phỏng những mẫu vật nếu chúng có bề mặt tròn trịa, nên phương pháp này đôi khi được gọi là blobology. Tuy nhiên, mọi chi tiết của kính hiển vi điện tử dần dần được tối ưu hóa, nhờ vào sự kiên quyết của Richard Henderson khi bảo vệ quan điểm của mình rằng kính hiển vi điện tử một ngày nào đó sẽ là phương pháp quan sát từng nguyên tử hàng ngày. Độ phân giải đã được cải thiện, từng Ångström một, và rào cản kỹ thuật cuối cùng đã được khắc phục vào năm 2013, khi một loại máy dò điện tử mới được sử dụng (hình 6)


QUẢN LÝ RỦI RO

MỌI NGÓC NGÁCH CỦA

TẾ BÀO

ĐỀU ĐƯỢC QUAN SÁT

Giấc mơ giờ đã được hiện thực hóa và chúng ta đang bước vào thời kì bùng nổ của ngành hóa sinh.

Có một số lợi ích khiến cryo-EM mang tính cách mạng: phương pháp thủy tinh hóa Dubochet tương đối dễ sử dụng và yêu cầu kích thước mẫu tối thiểu. Do quá trình làm lạnh nhanh, các phân tử sinh học có thể bị đóng băng giữa hành động và các nhà nghiên cứu có thể chụp liên tục các phần khác nhau của một quá trình. Bằng cách này, họ tạo ra những thước phim quay lại cách thức protein di chuyển và tương tác với các phân tử khác. Sử dụng cryo-EM, việc mô tả các protein màng-loại protein dùng để nghiên cứu dược phẩm và các phức hợp phân tử trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, kính hiển vi điện tử lại không thể quan sát các protein nhỏ, nhưng chúng có thể hiển thị bằng cách sử dụng quang phổ NMR hoặc tinh thể học tia X.

Sau khi Joachim Frank công bố mục tiêu cho phương pháp xử lý ảnh tổng thể của mình vào năm 1975, một nhà nghiên cứu đã viết: Nếu những phương pháp đó được hoàn thiện thì tiềm năng là không hạn định.

Bây giờ chúng ta ở đó - không có giới hạn nào. Jacques Dubochet, Joachim Frank và Richard Henderson, thông qua nghiên cứu của họ, đã mang lại những lợi ích lớn nhất cho nhân loại. Mỗi góc của tế bào có thể được ghi lại chi tiết ở cấp độ nguyên tử, qua đó mở ra một tương lai tươi sáng cho ngành hóa sinh. Nguồn: https://www.nobelprize.org/uploads/2018/06/popular-chemistryprize2017.pdf

65


SAFETY TIPS

ZIKA

HƯỚNG DẪN CDC

CHO DU KHÁCH

Virus Zika (Zika) lây lan qua đường muỗi đốt và quan hệ tình dục. Zika có thể gây bệnh nhẹ (sốt, phát ban, nhức đầu, đau khớp, đau mắt đỏ và đau cơ) kéo dài khoảng một tuần. Nhiều người bị mắc Zika không có triệu chứng.

Phụ nữ mang thai không nên đi du lịch đến các khu vực có dịch Zika. Mắc Zika khi mang thai có thể gây dị tật bẩm sinh.

DIỆT CÔN TRÙNG. CHỐNG MUỖI ĐỐT

DIỆT CÔN TRÙNG CHỐNG MUỖI ĐỐT

Muỗi lây truyền Zika sống ở bất kì chỗ nào xung quanh bạn. Chúng có thể đốt bạn bất kì lúc nào. Sử dụng thuốc chống côn trùng đã đăng ký với EPA chứa DEET, picaridin, IR3535, dầu bạch đàn chanh, para-menthane-diol hoặc 2-undecanone.

Lời khuyên: Thoa kem chống nắng trước, sau đó mới thoa thuốc chống côn trùng.

66

Mặc quần dài và áo sơ mi dài tay. Ở trong phòng có máy lạnh hoặc phòng có cửa sổ và cửa ra vào. Tiếp tục bảo vệ chống muỗi đốt trong 3 tuần sau khi bạn về nhà. Kể cả khi không cảm thấy ốm, bạn vẫn có nguy cơ mắc Zika. Muỗi có thể đốt bạn và lây truyền Zika từ bạn sang người khác.


LỜI KHUYÊN AN TOÀN NGĂN NGỪA VIRUS ZIKA LÂY TRUYỀN QUA ĐƯỜNG TÌNH DỤC Sau khi đi đến một khu vực có nguy cơ mắc Zika: Sử dụng bao cao su (hoặc không quan hệ nh dục) trong ít nhất 3 tháng nếu bạn là đàn ông hoặc ít nhất 2 tháng nếu bạn là phụ nữ. Nếu cả hai cùng đi du lịch, hãy sử dụng bao cao su trong ít nhất 3 tháng sau khi bạn trở về. Zika có thể tồn tại trong nh dịch của một người đàn ông lâu hơn so với các chất dịch cơ thể khác và có thể lây truyền cho các đối tác của họ trong thời gian đó. Đó là lý do tại sao đàn ông nên sử dụng bao cao su lâu hơn sau khi đi du lịch. THAY ĐỔI LỘ TRÌNH BẢO VỆ THAI KỲ

LUÔN SỬ DỤNG BAO CAO SU BẢO VỆ ĐỐI TÁC QUAN HỆ TÌNH DỤC CỦA BẠN

Một người đàn ông hoặc phụ nữ bị nhiễm bệnh có thể lây truyền Zika qua quan hệ nh dục, ngay cả khi người đó không có triệu chứng.

NGĂN NGỪA LÂY NHIỄM ZIKA KHI MANG THAI

Để có thai kỳ khỏe mạnh

Zika có thể tồn tại trong nh dịch nhiều tháng và có thể lây qua quan hệ nh dục. Nếu một phụ nữ mang thai và bị nhiễm Zika, virus này có thể gây ra dị tật bẩm sinh nghiêm trọng. Nếu bạn và vợ đang nh đến việc mang thai: Nói chuyện với bác sĩ trước khi đi đến khu vực có nguy cơ mắc Zika. Nếu bạn đi du lịch, hãy trì hoãn việc mang thai.

Zika có thể truyền từ phụ nữ mang thai sang con. Nếu bạn đang mang thai: Không đi du lịch đến các khu vực có dịch Zika bùng phát. Nếu phải đi đến vùng có dịch Zika, hãy nói chuyện với bác sĩ trước khi đi và tuân thủ nghiêm ngặt các bước để ngăn ngừa Zika. Nếu vợ hoặc chồng của bạn đi du lịch, hãy sử dụng bao cao su trong suốt những tuần còn lại của thai kỳ để tránh lây truyền Zika qua quan hệ nh dục. Nếu vợ của bạn đang mang thai: Tuân thủ nghiêm ngặt các bước để ngăn ngừa Zika trong và sau khi đi du lịch, bao gồm cả việc ngăn muỗi đốt và sử dụng bao cao su. Sử dụng bao cao su hoặc không quan hệ nh dục trong thời gian còn lại của thai kỳ để bảo vệ con bạn chống lại dị tật bẩm sinh do Zika gây nên.

DU LỊCH THÔNG MINH. PHÒNG NGỪA ZIKA

+

Theo dõi chúng tôi để biết thêm lời khuyên về cách bảo vệ bản thân và những người khác trong và sau khi đi du lịch.

Tải xuống ứng dụng CDC TravWell để biết thông n cụ thể về điểm đến và nhiều lời khuyên về sức khỏe du lịch.

Chúng ta nên chờ đợi bao lâu để mang thai? Ai đã đi du lịch? Cần chờ đợi khoảng

Chỉ phụ nữ Ít nhất 2 tháng

Chỉ đàn ông Ít nhất 3 tháng

Cả phụ nữ và đàn ông Ít nhất 3 tháng

Kiểm tra hướng dẫn CDC tại: cdc.gov/travel

67


PHỤ CHƯƠNG

Làn sóng thứ hai của dịch cúm Tây Ban Nha xảy ra ở Mỹ vào ba tháng cuối năm 1918, với số ca nhiễm khiến bệnh viện và nhân viên y tế khắp nước quá tải, và số người chết không kịp chôn.

LÀN SÓNG THỨ HAI CỦA DỊCH BỆNH: LỜI NHẮC NHỞ TỪ TRĂM NĂM TRƯỚC

Bài viết của Yên Lam - Báo Tuổi trẻ cuối tuần t8.2020


PHỤ CHƯƠNG “Vào thời điểm kết thúc tháng 8 bước sang tháng 9/1918, không ai nghĩ rằng sắp có một đợt cúm chết người quét khắp Texas và phần còn lại của nước Mỹ với tốc độ và sự chết chóc của một cơn bão” - tác giả David Tarrant viết trên The Dallas Morning News ngày 3-7.

Bằng cách lục lại tư liệu lưu trữ từ báo chí lúc bấy giờ, Tarrant dựng lại cách mà làn sóng thứ hai của dịch cúm Tây Ban Nha xảy ra: làn sóng thứ nhất kết thúc sớm và không đáng kể dẫn đến chủ quan, giới chức y tế phớt lờ, thậm chí coi thường dịch bệnh và thái độ phản kháng với các biện pháp phòng bệnh của người dân.

LÀN SÓNG THỨ NHẤT “NHẸ NHÀNG ”

Các chuyên gia tin rằng đại dịch năm 1918 xuất phát từ hạt Haskell (bang Kansas) và nhanh chóng lan sang trại Funston, một trung tâm huấn luyện dành cho lính quân dịch mới tuyển để tham gia Chiến tranh thế giới lần I. Mùa xuân năm ấy, thanh niên khắp nước phải vào các trại như vậy, nơi họ cùng ăn, cùng ngủ, cùng luyện tập trong các khu khép kín. Các binh sĩ mang theo virus trong người khi di chuyển từ căn cứ này sang căn cứ khác, và lên tàu sang châu Âu chiến đấu. Virus làm bùng phát dịch ở hàng chục điểm khắp nước Mỹ, lan sang cuộc chiến ở châu Âu, làm giảm quân số cả hai phe tham chiến. Nhiều sử gia tin rằng bệnh cúm đã buộc cuộc chiến kết thúc sớm hơn.

Bệnh dịch vào mùa xuân lúc đó là một phiên bản nhẹ hơn so với làn sóng thứ hai, chủ yếu ảnh hưởng đến binh sĩ. Thường dân nhìn chung không bị “phơi nhiễm” và vì thế có ít, nếu không muốn nói là không hề có miễn dịch với virus này. John Barry, tác giả quyển The Great In�luenza: The Story of the Deadliest Plague in History, cho rằng trận cúm ảnh hưởng khoảng một nửa các doanh trại quân đội ở Mỹ, trong khi có rất ít ca ghi nhận ở các khu vực dân sự. Điều này sẽ thay đổi chóng mặt khi bước sang mùa thu năm 1918.


PHỤ CHƯƠNG Mùa hè 1918, dịch bệnh, lúc này đã được gọi tên là cúm Tây Ban Nha, gần như hoàn toàn bị quên lãng. Đến cuối tháng 9, làn sóng thứ hai của bệnh cúm, lần này chết chóc hơn, quét khắp nước Mỹ, với Dallas và nhiều thành phố lớn khác bị ảnh hưởng nặng nề.

LÀN SÓNG THỨ HAI “KHÔNG ĐỠ KỊP”

Các quan chức y tế Dallas dường như không lo lắng gì trước dịch bệnh tái bùng phát. Người đứng đầu ngành y tế Dallas lúc bấy giờ, A. W. Carnes, cho rằng dịch bệnh đang lan nhanh kia chẳng hơn gì bệnh cảm thông thường. Vào cuối tháng 9, tờ The News có bài “Nỗi sợ bệnh cúm đang suy giảm”, vì chỉ có “một vài ca nhiễm cá biệt” được báo cáo với bệnh viện cấp cứu thành phố. Chính quyền Dallas còn cho phép tổ chức một sự kiện đông người, cuộc tuần hành Liberty Loan, thổi bùng mồi lửa thảm họa vốn sẵn chực chờ. Khi chiến tranh xảy ra ở châu Âu, người Mỹ được vận động đóng góp bằng cách mua trái phiếu chiến tranh, một cách để công chúng cho chính phủ vay tiền để chi trả cho cuộc chiến.

Các thành phố ở Mỹ tổ chức các cuộc diễu hành và tuần hành Liberty Loan để vận động người dân mua trái phiếu. Sáng 28-9-1918, hàng ngàn người đổ về khu trung tâm để chứng kiến 5.000 thường dân và 2.500 quân nhân diễu hành. Đó là một sự kiện đông vui hiếm thấy ở Dallas với những tiếng reo hò, ca hát, vỗ tay.

Kết quả là gì khi náo nhiệt đã qua? Các ca nhiễm cúm tăng vọt, theo bài viết ngày 4-10-1918 của The News. Tổng cộng 76 ca mới được ghi nhận trong ngày 3-10, gấp đôi con số trong hai ngày trước đó. The News cũng đưa tin thành phố có ca tử vong đầu tiên cũng trong ngày 3-10. Nạn nhân Pierpont Balderson, 15 tuổi, bị cúm và chết tại bệnh viện vì viêm phổi.


PHỤ CHƯƠNG

Làn sóng thứ hai gây ra nhiều ca tử vong nhất trong đại dịch đó - khoảng 50-100 triệu người toàn thế giới, theo ước tính của các chuyên gia. Ở Mỹ, 675.000 người chết vì virus cúm Tây Ban Nha. Riêng trong tháng 10-1918, gần 200.000 người Mỹ đã chết. Cuộc tuần hành Liberty Loan hóa ra lại “gieo rắc thảm họa ở bất cứ nơi nào mà nó được tổ chức” - tiến sĩ Peggy Redshaw, giáo sư Đại học Austin, nói. Bất chấp lãnh đạo thành phố thúc giục và thực tế rằng các trại lính gần đó đều đã cách ly binh sĩ bị bệnh, ông Carnes vẫn chưa muốn áp lệnh phong tỏa. Ngày 12-10, thị trưởng Dallas Joseph Lawther phải tự mình hành động: yêu cầu tạm dừng mọi việc tụ tập đông người, đóng cửa trường học và nhà thờ. Trong ngày hôm đó, bệnh viện cấp cứu thành phố ghi nhận 725 ca nhiễm; tổng số ca lúc đó đã là 3.444, gấp gần 20 lần so với 185 ca cách đó có 9 ngày. Quân đội cũng ghi nhận gần 2.000 ca nhiễm và 4 ca tử vong trong ngày 6-10. Bệnh dịch tấn công cả người giàu lẫn người nghèo, bác sĩ y tá cũng không thoát. Có nhiều gia đình mà cả nhà nhiễm bệnh. Virus tiếp tục gây chết chóc cho đến tháng 12. Sau đó còn xảy ra một làn sóng thứ ba, dù ngắn ngủi, và dịch bệnh chính thức suy yếu vào mùa xuân năm 1919.

THIỆT HẠI NẶNG NỀ

Các chuyên gia tin rằng có rất nhiều ca tử vong không được ghi nhận chính thức, do lẽ “việc thu thập dữ liệu rất tệ”, theo lời chuyên gia Redshaw của Đại học Austin. “Người ta không thể theo dõi được các con số. Số người chết nhiều đến choáng ngợp. Nhiều ca tử vong ở vùng nông thôn không hề được tính đến” - Redshaw nói. Theo lịch sử cơ quan y tế Dallas, viết năm 1941, nhiều người chết hơn số được sinh ra trong giai đoạn từ tháng 10 đến tháng 12-1918, một điều chưa hề có tiền lệ.


PHỤ CHƯƠNG

Cũng như cách đây hơn 100 năm, thế giới hiện tại đang chật vật đương đầu với một chủng virus chưa có vaccine. Tính đến hết tuần qua (26-7), toàn thế giới đã có hơn 16,2 triệu ca nhiễm và gần 650.000 người chết vì COVID-19.

Vì dịch cúm năm 1918 chóng tàn sau mùa xuân và chỉ bùng phát trở lại vào mùa thu, người ta từng nghĩ nhiệt độ nóng vào mùa hè có tác động lên virus. Trên thực tế, Barry tin rằng tính dễ mắc bệnh (susceptibility) của dân số quan trọng hơn yếu tố mùa.

Theo chuyên gia này, việc tiếp xúc với virus trong làn sóng thứ nhất sẽ phần nào được bảo vệ trước làn sóng thứ hai, với nguy cơ mắc bệnh giảm gần 90%. Người dân Mỹ đã không có được sự bảo vệ đó, “bởi nếu thế thì ta có lẽ đã có một làn sóng thứ hai ít nguy hiểm hơn”.

Logic của Barry: dịch bệnh đã không lây lan nhiều trong làn sóng thứ nhất, dẫn đến số người dễ mắc bệnh rất lớn, và nhiều trong số đó đã trở thành nạn nhân của làn sóng thứ hai. “Tôi cho rằng có sự tương đồng giữa dịch năm 1918 và ngày nay: trong cả hai trường hợp, ta đều có tỉ lệ dân số dễ mắc bệnh rất lớn” - ông nói.

Với đại dịch của năm 2020, Barry cho rằng các nơi như Florida, Arizona, Texas và Brazil đều có số ca nhiễm tăng mạnh, ngay cả khi nhiệt độ tăng. “Nhiệt độ là một yếu tố, nhưng tính dễ mắc bệnh lại quan trọng hơn nhiều” - ông giải thích.

Một yếu tố tương đồng khác là cách công chúng phản ứng với các mệnh lệnh y tế. Năm 1918 cũng có hiện tượng chống đối yêu cầu mang khẩu trang và lệnh giới hạn thực hành tôn giáo nơi công cộng y như ngày nay.

“Đã có rất nhiều phản kháng, đặc biệt là khi một thành phố dỡ bỏ các lệnh giới hạn, rồi lại tái áp đặt chúng - Barry nói - Ở San Francisco, có người thậm chí còn gửi bom đến cơ quan y tế sau khi họ ban hành trở lại lệnh mang khẩu trang”.

Virus của đại dịch 2020 cũng đang lây lan nhanh gần như virus cúm năm 1918. Và vì chưa có vaccine lẫn miễn dịch cộng đồng rộng khắp, virus chắc chắn sẽ tiếp tục lây lan, gieo rắc sự chết chóc. “Cuối cùng thì lý do các đại dịch cúm đến theo từng làn sóng là vì chúng luôn tìm đến nơi mới, với những người dễ tổn thương mới - Redshaw nói - Nó sẽ còn trở lại mãi cho đến khi nào hết người dễ lây mới thôi”. █


www.iirr.vn


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.